Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 12-A Bài 51-100 Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác -------------------------------------------- Phúc Âm: Mt 10, 26-33: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác”.
Trong bài Tin Mừng Thánh lễ hôm nay (Mt 10,26-33), Chúa Giêsu nhắn nhủ chúng ta đừng sợ, nhưng:TN 12-A51
Trong bài Tin Mừng Thánh lễ hôm nay (Mt 10,26-33), Chúa Giêsu nhắn nhủ chúng ta đừng sợ, nhưng hãy sống như con cái Thiên Chúa. Nhiều khi chúng ta tình cờ gặp những người luôn bị cuộc sống nhọc nhằn này đè nặng. Nghịch cảnh và trở ngại hình như cứ chực giăng mắc bủa vây những khi người ta chỉ dựa vào sức riêng con ngưới để thắng vượt chúng. Chúng ta cũng cũng thường gặp những Kitô hữu hay xấu hổ khi phải nói về Chúa hay phải nói không với cái xấu và trong những lúc cần phải xưng mình là những môn đệ trung thành của Đức Kitô. Họ sợ những lời người ta nói ra nói vào, sợ luôn những nhận xét phê bình, sợ phải lội ngược dòng đời hay bị nhòm ngó để ý. Chắng lẽ giữa môi trường ngoại giáo nơi mà người ta thường đề cao những giá trị tiền tài của cải một Kitô hữu lại không thể để cho người ta chú ý đến mình hay sao?
Chúa Giêsu nói chúng ta đừng quan tâm đến phê bình chỉ trích hay vu khống. "Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết” (Mt 10 26-33). Thật là xấu hổ nếu như có ai khám phá ra chuyện chúng ta e ngại loan báo khắp năm châu bốn bể cho mọi người biết chân lý mà Thiên Chúa đã ký thác cho chúng ta! Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai thì hãy lên mái nhà rao giảng. Nhiều khi chúng ta giữ yên lặng vì đó là hành động tốt nhất phải làm, có thể là vì những lý do khôn ngoan siêu nhiên hay động cơ đức ái nhưng không bao giờ được viện cớ sợ hãi hay nhút nhát. Là những Kitô hữu, chúng ta không được làm bạn với bóng tối hay trở thành những xó xỉnh ẩn nấp; chúng ta là bạn hữu của ánh sáng, của công khai cởi mở trong ngôn từ và hành động. Thời đại chúng ta đang sống đây lại càng tới mức cần chúng ta công bố chân lý sự thật một cách rõ ràng minh bạch. Sự giả dối và ngộ nhận hiện đang dẫn đưa nhiều tâm hồn tới chỗ lầm đường lạc lối. Có vẻ là phi lý, nhưng nhiều khi ngay cả học thuyết đúng đắn, những quy tắc ưlng xử luân lý (vốn thường theo sát lương tâm người ta trong lao động và trong cuộc sống gia đình, là lẽ thường tình của lương tri) lại bị coi nhẹ kém cả học thuyết sai lầm kỳ quặc mà người ta coi là “tiên tiến” hay “tiến bộ”.
Chúng ta không nên sợ mất những uy tín hào nhoáng giả tạo, hay bị chỉ trích phê bình hay thậm chí có khi bị sát hại vì chúng ta lội ngược dòng hay đi ngược lại những gì đang được coi là thịnh hành. Chúa Giêsu quả quyết rằng: "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thằy, Đấng ngự trên trời". Người vẫn hằng ban thưởng cho chúng ta một cách trọn vẹn cho tất cả những lần chúng ta bị người đời hiểu lầm vì chúng ta đã sống dũng cảm trong cuộc đời này, trong một thế gian thường xuyên mất khả năng hiểu biết mọi điều trừ ra những giá trị vật chất. Thánh Phaolô nói rằng: "Tôi coi mọi sự khổ đau đời này không ra gì so với vinh quang đã được tỏ hiện cho chúng ta" (Rm 8,18). Vì thế, thánh Gioan Kim khẩu chú giải thêm rằng, ai mà lại không ra sức đạt được vinh quang cao cả ấy, để sống thân thiết bằng hữu với Thiên Chúa, mang lấy Đức Kitô trong mình, nhận lãnh những phần thưởng từ Thiên Chúa ban sau bao nỗi đớn đau âu lo của trần thế. Nếu những người lính chiến trần gian này vinh quang trở về cố hương sau khi đã chiến thắng quân thù, thì còn gì vinh hiển và đáng ca ngợi hơn một khi chúng ta khải hoàn trở về thiên quốc sau khi đã chế ngự được quỷ dữ...; giương cao dấu hiệu chiến thắng...; được ngồi bên hữu Thiên Chúa khi Người đến xét xử, được đồng thừa tự với Đức Kitô; được xếp hàng với các thiên thần, với các Tổ Phụ, các Tông đồ và các tiên tri; được hân hoan vui mừng vì có Nước Trời là của mình.
2) Sức mạnh của chúng ta là biết mình trở nên con cái Thiên Chúa
Dù sống hay chết cũng không sợ, nhưng luôn luôn vui tươi khi phải giáp mặt với những khó khăn trầm trọng nhất, kiên trì đương đầu với những trở ngại đòi hỏi nhiều nỗ lực hy sinh, bình thản chịu đựng bệnh tật. Yên tâm trước một tương lai bấp bênh... Thiên Chúa muốn chúng ta sống như thế đó. Những khi có thể đươc, chúng ta nên thường xuyên mỗi ngày nhớ rằng chúng ta đã là con cái Thiên Chúa, đặc biệt là kẻ hi chúng ta bị những âu lo tương lai đen tối bủa vây tấn công. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không ? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
Như thế Thiên Chúa đã tỏ rõ tình cảm vĩ đại Ngài dành cho chúng ta và cái giá trị to lớn Ngài đã đặt nơi con người. Thánh Hiêrônimô đã chú giải đoạn Tin Mừng này như sau: Nẻo những con chim sẻ rê mạt kia vẫn luôn nhờ sự Quan Phòng của Thiên Chúa mà chẳng hề con nào rơi xuống, anh chị em là những thụ tạo đã được phú ban một định mệnh vĩnh cửu nhờ có linh hồn bất tử làm sao có thể lo sợ Đấng mà anh chị em tôn kính là Cha sẽ không chăm lo săn sóc cho anh chị em cách riêng hay sao?
Việc được làm con cái Thiên Chúa sẽ củng cố tăng cường sức mạnh cho chúng ta khi những yếu đuối bản thân bủa vây tư bề và những trở ngại giăng mắc trên đường đời; khi phải đương đầu với những khó khăn giữa một môi trường luôn luôn thù nghịch với Thiên Chúa và nhiều khi đối nghịch thô bạo với những lý tưởng Kitô giáo. Trong bài đọc thứ nhất tiên tri Giêrêmia ngỏ lời với chúng ta nhưng Đức Chúa ở bên tôi như người chiến binh oai hùng. Đây chính là tiếng kêu thống thiết của tiên tri trong cảnh lẻ loi bị quân thù bao vây tư bề. Những khi nguy hiểm cận kề, hay mây mù bão tố giăng kín, chúng ta có thể lập đi lặp lại những lời tự nhủ mình như thế này Thiên Chúa, là Cha tôi, Ngài luôn ở bên tôi như người chiến sĩ oai phong. Có Chúa là ánh sáng và là ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ gì ai ? Dominus, illuminatio mea et salus mea, quem timebo? (Tv 27,1)
Và đây là điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta (1Ga 5,4), Thánh Gioan tông đồ đã tuyên bố như thế giữa lúc bao nhiêu khó khăn đang ập tới ào ạt từ một thế giới ngoại giáo. Chính trong thế giới đó người Kitô hữu, vẫn là những công dân bình thường, đã lao động trong những ngành nghề khác nhau và thực hiện sứ vụ tông đồ một cách có hiệu quả. Và nền tảng vững chắc của một đức tin không hề lay chuyển tạo đà phát triển cho một niềm tin không mơ hồ hay ngây ngô chút nào, nhưng là một niềm kiên vững hân hoan của Kitô hữu, mặc dù có nhiều giới hạn và sự xấu xa bản thân, luôn biết rằng Đức Kitô đã nhờ Cây Thập Giá và Sự Sống lại của Người mà chiến thắng vinh quang. Có Chúa là ánh sáng và là ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ gì ai ? Lạy Chúa, con còn sợ gì nữa? Con còn sợ ai nữa? Vì Chúa là ngườl canh giữ bảo vệ của cuộc đời con.
3) Can đảm và tín thác vào Thiên Chúa giữa mọi thử thách lớn nhỏ trong đời sống thường ngày
Chúa Giêsu khuyên chúng ta đừng sợ gì cả, ngoại trừ tội lỗi là nguyên nhân phá hủy tình thân hữu với Thiên Chúa và dẫn chúng ta tới chỗ bị án phạt đời đời. Khi đối diện những khó khăn, chúng ta phải tỏ ra mạnh mẽ và can đảm, như những người con đích thực Thiên Chúa. Chúa Giêsu thường bảo chúng ta đừng sợ những ai chỉ giết được thân xác anh em nhưng không thể huỷ diệt linh hồn; anh em nên sợ người có thể hủy diệt cả hồn lẫn xác anh em trong hỏa ngục. Kính sợ Thiên Chúa là một trong bẩy ơn Chúa Thánh Thần, sẽ giúp chúng ta chiến đấu một cách kiên quyết hơn với tội lỗi, với tất cả những gì có thể chia rẽ chúng ta với Thiên Chúa. Đức kính sợ ấy sẽ nhắc nhở chúng ta xa tránh những dịp tội lỗi chớ quá tự tin vào chính mình, hãy luôn nhớ rằng bản thân chúng ta có một đôi chân đất sét, mỏng dòn dễ vỡ. Những sự dữ phần xác, ngay cả cái chết, cũng không thấm tháp gì khi so sánh với những sự dữ phần hồn, với tội lỗi.
Chúng ta không nên lo lắng bất cứ chuyện gì trừ ra lo sợ đánh mất Thiên Chúa. Nỗi lo sợ canh cánh này chính là tâm tình con thảo không muốn làm mất lòng Chúa. Nhiều lúc trong cuộc đời, chúng ta có thể trải qua nhiều thử thách lớn lao. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta nhiều ơn cần thiết để chúng ta chịu đựng vượt qua và lớn lên mãi trong đời sống nội tâm. Ơn của Ta đủ cho các con, Chúa Giêsu đã bảo chúng ta như thế.
Đấng đã giúp thánh Phaolô xưa kia thì nay cũng giúp đỡ chăm sóc chúng ta những khi chúng ta chạy đến kêu cầu Thiên Chúa, khiêm tốn và tin tưởng: Lạy Chúa, xin Chúa đừng tin con. … nhưng con đây, con đặt hết lòng tin vào Chúa. Rồi khi chúng ta cảm thấy trong trái tim này cái nhìn yêu thương cảm thông và dịu dàng của Đức Kitô - vì Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta – chúng ta sẽ hiểu ra đầy đủ ý nghĩa của những lời thánh Phaolô tâm sự: ‘virtus in infirmitate perficitur’. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh. (2Cor 12,9). Nếu chúng ta có đức tin vào Chúa Giêsu, mặc dù đã bao lần chúng ta làm lỡ - hay, đúng hơn, mặc dù chúng ta có biết bao lầm lỡ - chúng ta vẫn cứ trung thành với Thiên Chúa Cha chúng ta: quyền năng thần linh của Ngài sẽ chiếu sáng trên chúng ta, và luôn nâng đỡ những yếu đuối của chúng ta.
Tuy nhiên, trong đời thường chúng ta sẽ phải sống mạnh mẽ và dũng cảm cả trong những chuyện nho nhỏ: những khi chúng ta lịch sự nhưng cương quyết từ chối một lời mời đi đến những chốn mà một Kitô hữu đàng hoàng sẽ cảm thấm bứt rứt khó chịu, những khi chúng ta phải mạnh dạn góp ý cho các giáo viên đang dậy dỗ con em chúng ta; những khi chúng ta phải cắt ngang câu chuyện nào đang đến hồi rẽ sang chuyện đáng ngờ hay những khi thấy có một cơ hội mời người bạn nào đó đi nghe hội thảo về đức tin, hay gợi chuyện dẫn tới cơ hội khéo léo khuyên nhủ ai đó đi xưng tội. Công việc tông đồ đầy tham vọng của chúng ta thường bị trì trệ hay đình đốn chỉ vì cái tính rụt rè nhút nhát trong những chuyện nho nhỏ như thế thôi. Và cũng chính nhờ những can đảm trong những việc nho nhỏ như thế mà cuộc sống chúng ta thêm nhiều hoa trái.
Trong giờ phút bị bỏ rơi bên thập giá, Đức Nữ Trinh Maria đã đứng đó bên Con mình, sẵn lòng cùng chung một số phận với con. Chúng ta hãy xua tan nỗi sợ sệt không dám sống như những Kitô hữu có trách nhiệm những lúc môi trường chúng ta đang sống không còn dễ dàng thuận lợi. Những lúc ấy Đức Maria sẽ đứng bên chúng ta, giúp đỡ chúng ta trong mọi cơn khốn khó.
Tôi vẫn còn nhớ như in trong đầu óc, ngày đăng quang của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tại Quảng:TN 12-A52
Tôi vẫn còn nhớ như in trong đầu óc, ngày đăng quang của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tại Quảng Trường Thánh Phêrô, Ngài đã lơn tiếng nói với toàn thế giới:” Đừng sợ, hãy mở cửa lòng đón Đức Kitô “.Lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II gợi lại tiếng nói đanh thép của Đức Kitô trong Tân Ước: ” Vậy anh em đừng sợ người ta…Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” ( Mt 10, 26 và 28 ).
Sợ hãi là điều làm con người nhụt chí không dám làm gì cả. Sợ hãi có thể làm tê liệt cuộc sống, hành động, suy nghĩ của con người. Đặc biệt sự sợ hãy đến từ những lời hăm dọa của kẻ khác như hăm dọa giết chết, hăm dọa bêu xấu, hăm dọa đánh bất ngờ vv…Người ta sợ ma, trẻ con sợ ông Ba Bị, sợ ông Kẹ…Tất cả những sự sợ hãi ấy đều có thể làm cho người lớn, cũng như trẻ em quên cả Thiên Chúa là Đấng đang cầm quyền sinh tử của con người.
SỢ HÃI CỦA CON NGƯỜI:
Sống trên thế gian, con người gặp đủ mọi chuyện nào thiên tai, chiến tranh, đói kém, giặc giã. Đọc báo, xem truyền hình chúng ta không khỏi sợ hãi trước những cơn sóng thần giết chết hằng vài trăm ngàn người, những trận động đất vùi dập biết bao nhiêu người và sản nghiệp của họ. Chiến tranh, giặc giã, khủng bố vẫn còn lan tràn ở nhiều nước. Sự hăm dọa cướp tài sản, bắt bớ người khác làm con tin, dọa tù đầy làm biết bao người sợ hãi. Đây là một loạt những sự sợ hãi mà Chúa Giêsu đã gián tiếp nói trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 10, 23-33 hôm nay. Chúa Giêsu nói:” Hãy coi chừng người đời…”( Mt 10, 17) Chúa Giêsu muốn con người nhớ tới vị ngôn sứ Giêrêmia. Vị ngôn sứ cao cả của Thiên Chúa đã không hề sợ gì trước những lời hăm dọa của kẻ thù. Ngài hiên ngang nói lời Thiên Chúa và anh dũng phát ngôn nhân danh Thiên Chúa. Dù bị dọa nạt giết chết, Giêrêmia đã không hề sợ hãi, Ngài đã tố cáo tội lỗi của dân tộc ông: tội chống lại, phản bội Thiên Chúa, giết chết lẫn nhau, tội dựa vào sức mạnh con người mà không dựa vào quyền năng của Thiên Chúa. Chính Giêrêmia đã bị dân bắt đầy qua Ai Cập, nhưng Ngài vẫn không hề sợ sệt, không hề nao núng, Ngài luôn tin vào sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa. Giêrêmia đã một mực trung thành với Thiên Chúa, Đấng ông tuyệt đối tin tưởng. Nhiều vị ngôn sứ khác cũng một lòng sắt son và trung tín như Giêrêmia. Họ đã luôn trung thành với sứ mạng làm phát ngôn viên cho Thiên Chúa. Trải qua cuộc hành trình đức tin, nhiều Kitô hữu đã hiên ngang tuyên xưng niềm tin, trung tin với lời Chúa và sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô phục sinh.
CHÚA NÓI ĐỪNG SỢ:
Lời Chúa luôn vang lên giữa mọi người, giữa thế giới có nhiều hận thù, tranh chấp, khó khăn. Các môn đệ theo chân Chúa trong suốt hành trình truyền giáo và hành trình đức tin đã làm gương cho nhân loại về lời của Chúa:” Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn”( Mt 10, 28 ). Các môn đệ, các tông đồ của Chúa Giêsu khi Chúa còn sống vẫn mập mờ về lời Chúa nói, họ vẫn tranh dành quyền hành, vẫn sợ kẻ thù, ngày Chúa chết, họ chạy tán loạn như gà con mất mẹ, họ đóng cửa kín vì sợ người Do Thái bắt và giết họ, nhưng khi Chúa Thánh Thần xuống vào ngày lễ Ngũ Tuần đã biến đổi họ tất cả. Họ đã hiên ngang đi khắp tứ phương thiên hạ để rao giảng, làm chứng cho Chúa phục sinh. Họ đã nhớ lời Chúa dậy:” …Anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”(Mt 10, 28 ). Các môn đệ và các tông đồ đã minh chứng cho nhân loại thấy sự can đảm, trung tín và không sợ chết của các Ngài cho lời của Chúa được tồn tại. Gần chúng ta trong những thập kỷ vừa qua ngay tại đất nước Việt Nam bao nhiêu vị anh hùng tử đạo đã kiên cường, hiến dâng mạng sống, hiến dâng cuộc đời mình để làm chứng cho Chúa tình yêu. Một Đức Tổng Giám Mục ở El Salvador, Đức Cha Oscar Romero đã ngã gục trước mũi súng của kẻ sát nhân vì Ngài bênh vực người nghèo, bênh vực cho sự công bình xã hội. Một Maximilien Maria Kolbe, một linh mục Balan đã chết thay cho một người tù có vợ và nhiều con. Một Maria Goretti đã hiên ngang chết để bảo vệ đức trinh khiết của mình để làm vinh quang Chúa. Một Mahatma Gandhi dù không phải là Kitô hữu, nhưng đã sống theo lời Chúa dậy hôm nay, sống kiên cường, không sơ bạo lực miễn giải phóng được dân tộc ông khỏi bàn tay của ngoại xâm. Mahatma Gandhi đã chết dưới nhát gươm của một kẻ quá khích ngày 30/01/1948. Lời của Chúa vẫn luôn hướng dẫn cho biết bao nhiêu người trên thế giới này can đảm, quảng đại và vững tin sống trọn con đường tình yêu của Chúa, để làm chứng cho Chúa: ” là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống “.
ÁP DỤNG VÀO CUỘC SỐNG NGƯỜI KITÔ HỮU:
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay và đặc biệt bài Tin Mừng mời gọi mỗi người Kitô hữu nhìn vào thực tế cuộc sống và phù hợp, can đảm, trung thành với ơn gọi của người môn đệ Chúa. Sống ở trần gian, mỗi người chúng ta phải đương đầu với cuộc sống, vất vả kiếm ăn, kiếm của mặc. Chúng ta phải đương đầu với trăm ngàn nghịch cảnh, với những thử thách, với những vất vả gian lao trong đời sống giữ đạo và thực hành đạo. Chúng ta được mời gọi sống theo lời của Chúa để có đủ can đảm, có đủ lòng tin để vượt thắng tất cả những điều không phù hợp với giáo lý, với đức tin, với lẽ đạo. Chúng ta những người có lòng tin phải sống thế nào để của cải vật chất quí thật nhưng không cản ngăn chúng ta tìm kiếm Nước Trời. Người môn đệ Chúa không thể hơn Thầy mình. Chúng ta luôn nhớ rằng kết hiệp với Chúa: ” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “, chúng ta sẽ vượt thắng được mọi thử thách, khó khăn và không hề sợ hãi để mở lòng ra đón Đức Kitô.
Lạy Chúa xin củng cố lòng tin cho chúng con để chúng con luôn can đảm vượt thắng mọi sự mà hăng say làm chứng nhân cho Chúa. Amen. Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Một nông dân ngồi trên chiếc ghế đu đưa trước hiên nhà, tay cầm bình trà, tay cầm điếu thuốc:TN 12-A53
Một nông dân ngồi trên chiếc ghế đu đưa trước hiên nhà, tay cầm bình trà, tay cầm điếu thuốc lá, trông có vẻ rất nhàn hạ. Một người khách qua đường hỏi thăm:
- Ruộng trồng lúa của ông năm nay có khá không?
Người nông dân trả lời:
- Tôi không trồng lúa vì sợ có nhiều cỏ dại.
Người khách hỏi tiếp:
- Vậy thì ruộng bắp của ông năm nay ra sao?
- Tôi không trồng bắp vì sợ hạn hán.
- Vậy ông có trồng khoai tây không?
- Không, tôi không trồng khoai tây vì sợ sâu rầy phá đất.
Người khách rất ngạc nhiên và lớn tiếng hỏi:
- Vậy thì ông trồng cái quái gì?
- Hổng trồng gì ráo trọi để khỏi phải sợ chi hết….
***
Bạn thân mến! Câu chuyện vui của người nông dân trên đây phản ảnh cuộc sống hằng ngày với bao nỗi sợ hãi cứ quanh quẩn bên ta: Ðứa bé sợ xa mẹ, cô gái sợ già, người già sợ chết… Nỗi sợ xuất hiện dưới muôn ngàn dáng vẻ khác nhau: Sợ cô đơn, sợ bệnh tật, sợ phụ bạc, sợ tương lai đen tối, sợ thất nghiệp, sợ nghèo đói, sợ thất học, sợ chia ly..v..v.. Nhưng sợ hãi cũng là chuyện bình thường của thân phận con người. Có ai làm người mà không một lần sợ hãi. Nỗi sợ làm người ta mất vui, mất bình an và mất tự do. Sợ hãi không phải là một tội, nhưng đừng để nỗi sợ hãi chi phối đời mình. Bởi thế, trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Ðức Giêsu khuyên các môn đệ: 'Anh em đừng sợ'.
- Ðừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn (Mt.10:28)
- Ðừng sợ vì chúng ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa (Mt.10:31)
- Đừng qúa sợ hãi, vì sẽ làm chúng ta bị tê liệt đến độ không dám làm chứng cho Đức Giêsu, không dám sống cho chân lý, sợ người đời hơn sợ Thiên Chúa … và nếu như vậy, chúng ta sẽ bị từ chối trước mặt Thiên Chúa (Mt.10:32-33). Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cũng mời gọi ta 'Hãy sợ ' cho đúng cách, đúng trật tự và đúng với thánh ý Thiên Chúa:
Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác và hồn của ta trong hoả ngục. (Mt.10:28). Đấng ấy chính là Thiên Chúa . Kính sợ Thiên Chúa là một ơn ban. Khi tiếp xúc với Chúa trong cầu nguyện và chiêm niệm, ta thấy Chúa vô cùng thánh thiện, vô cùng cao trọng, còn ta thì vô cùng tội lỗi, vô vàn bất xứng và hèn mọn. Nhận thức đó càng ngày càng sâu thì cảm thức kính sợ Chúa cũng càng ngày càng chân thực.
Điều đáng sợ là nếu chúng ta sống không ngay lành, không nghiêm chỉnh, không trong sáng nên phải che dấu, phải chùng lén! Và nếu như vậy thì đáng sợ thực, vì 'không có gì có thể che dấu được' (Mt.10:26)
Một điều đáng sợ nữa là tội lỗi, là từ chối tình yêu của Thiên Chúa, là phá vỡ công trình cứu chuộc của Ngài nơi bản thân con người của mình. Tội làm biến dạng con người của ta, làm ta trở thành xấu xa.
Và điều đáng sợ nhất, vì quan trọng nhất, là sợ xa Chúa, sợ mất Chúa đời đời. Vì Chúa là hạnh phúc và là cùng đích của đời ta.
***
'…ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi…'(Mt.10:30)
Lạy Chúa! Xin cho con biết phó thác và nương nhờ vào Chúa để con không còn phải sợ ai hết, mà chỉ kính sợ một mình Chúa mà thôi, vì chính Ngài là hạnh phúc và là cùng đích của đời con. Amen
Khi sai các tông đồ đi rao giảng, Chúa Giêsu đã xác định được tình huống cam go đối với:TN 12-A54
Khi sai các tông đồ đi rao giảng, Chúa Giêsu đã xác định được tình huống cam go đối với các ngài mà rằng: “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như chim bồ câu.” (Mt 10, 16)
Một khi nhận diện ra những thủ đoạn tinh vi giả nhân giả nghĩa của nhóm Pharisêu cùng với những lời nói ngon ngọt “có vẻ công chính trước mặt thiên hạ”, nhưng tâm địa thì “tòan là giả hình và gian ác” (Mt 23, 28), Chúa Giêsu đã thấu hiểu tận sân những lo âu sợ hãi của những người được sai đi, khi phải đương đầu với sức mạnh của giới lãnh đạo tôn giáo.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà sống âm thầm kín đáo, dậm chân tại chỗ, hoặc buông xuôi, hoặc tháo lui trước sự dữ do sự đạo đức giả của những người “Pharisêu đã bắt đầu căm giận, vặn hỏi nhằm gài bẫy để xem có bắt được Người nói gì sai chăng.” (Lc 11, 53) Nhưng Chúa Giêsu đã khích lệ và dậy bảo các môn đệ phải can đảm lên và đừng sợ trước “men Pharisêu” ấy. Lời giáo huấn của Người rất hiện thực cuộc sống và để cụ thể làm thay đổi não trạng cổ hữu của họ, theo cảm nghiệm của tôi, Chúa Giêsu đã mời gọi các tông đồ hãy tin tưởng vào tình yêu quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa là Cha và hãy can đảm dấn thân làm chứng nhân cho Ngài bằng vào sức mạnh quyền năng của Ngôi Lời, như các ngài đã chứng kiến các phép lạ khi ở và cùng đồng hành với Người.
Đối với những người bệnh hoạn tật nguyền trong thân xác, chỉ cần một lới truyền của Chúa Giêsu cũng đủ làm thay đổi hiện trạng tồi tệ trước mắt để rồi, sau đó, những người đau khổ này tiếp tục sống lành mạnh. Quả thật, những hành động đầy ắp yêu thương này của Người minh chứng cho lời xác tín thâm hậu: “Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quí giá hơn nuôn vàn chim sẻ” (Mt 10, 31). Thế thì, với những người mang mầm bệnh “men Pharisêu” trong tâm hồn ắt cũng sẽ có thể được lời của Người làm thay đổi, như Người đã khẳng định:
“Thật ra, không có gì che giấu mà không được tỏ lộ, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết.” (Mt 10, 26)
Tin vào sức mạnh quyền năng của Lời chưa đủ, mà còn phải suy đi nghĩ lại những lời Người nói khi thời gian vắng lặng, “lúc đêm hôm” để cảm nghiệm mầu nhiệm của chân lý, tức một dạng thức của cầu nguyện. Ngoài ra, các môn đệ cũng cần phải bàn bạc “rỉ tai” nhau, cùng chia sẻ trao đổi với nhau để rồi cùng nhau đòan kết ra đi loan báo Tin Mừng cho nhiều người khác, đồng nghĩa với cụm từ “lên mái nhà rao giảng”. Tâm tình này đã được tác giả thư Do Thái quả quyết chứng nghiệm:
“Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loại thọ tạo nào mà không hiện ra trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bầy trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.” (Dt 4, 12-13)
Từ cảm nghiệm những bước đi cụ thể cần phải có để ra đi rao giảng mà Chúa Giêsu giáo huấn các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay, tôi nhớ lại lời truyền dậy của thánh Phaolô với ông Timôthê. Ngài viết trong thư như sau:
“Phần anh, anh hãy giữ vững những gì anh đã học được và đã tin chắc...
Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dậy, biện bác, sửa dậy, giáo dục để trở nên người công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành....
Tôi khuyên nhủ anh: hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dậy dỗ. Thật vậy, sẽ đến thới người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảng tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường. Phần anh hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh.” (2Tm 3, 14-17; 14, 1-5)
Khi chiêm ngắm những giáo huấn của Chúa Giêsu và của Vị Tông Đồ Dân Ngoại, tôi dễ dàng nhìn ra, trong xã hội hiện nay vẫn còn có nhiều vấn nạn cần phải tin tưởng vào sức mạnh quyền năng của Lời Chúa, phải ra sức cầu nguyện, phải lắng nghe nhau và cùng nhau ra đi làm chứng nhân cho Chúa.
Trong một buổi chia sẻ của nhóm khuyết tật sau Lễ Phục Sinh, chị Cúc, một tình nguyện viên đến giúp và đồng hành với các anh chị em khuyết tật, đã chia sẻ tâm tình như một lời chứng với cộng đoàn nhỏ bé hầu giúp nhau vững tiến trong đời sống đức tin. Chị Cúc là một bổn đạo mới và chị đã mạnh dạn nói lên những thử thách rất thực của chị như sau:
- Tuần qua, tôi rất buồn bực khi phải nghe lại những chì chiết, mắng mỏ của người thân yêu trong gia đình đã nhiều đời theo đạo Phật của tôi. Mọi người nhìn xoáy vào tôi và rồi mỉa mai: “Thời văn minh hiện đại trong thế giới hội nhập toàn cầu này, làm gì có chuyện người chết sống lại cơ chứ! Thế mà cái con Cúc nhà mình, nó lại lao vào với niềm tin phục sinh hoang đường đến như thế! Chỉ có tình yêu mù quáng với cái thằng người yêu chết tiệt của nó mới làm cho nó ra nông nỗi thế này! Nếu năm nay nó vẫn chưa từ bỏ thập giá của nó, chúng ta vẫn tiếp tục coi nó như một người xa lạ và phó mặc cho đồng đạo của nó cưu mang!” ... Chị ngừng lại với nỗi chịu đựng cay đắng trên khóe mắt, rồi chị vẫn thổn thức:
- Trước những lời nói đay nghiến của gia đình, tôi chỉ còn biết về phòng đóng cửa lại và cầu nguyện. Đây là kinh nghiệm đã lâu của tôi, vì cách nay 7 năm, khi tôi đến với lớp giáo lý tân tòng được khoảng gần một năm để tìm hiểu về đạo Công Giáo, do người yêu của tôi mời gọi. Nhưng sau đó, người tình này đã bất ngờ chia tay để sống với một người con gái khác. Lúc này tôi như người điên loạn vì vừa bị phản bội, lại vừa bị cả nhà lên án. Sau hơn 3 tháng mòn mỏi như người mất hồn, cha giáo cùng anh chị em trong lớp giáo lý đã khuyên nhủ và nhất là tha thiết cầu nguyện cho tôi vượt qua được giai đoạn khủng hoảng. Mọi người trong lớp đã ân cần an ủi sẻ chia tâm tình và đã vực tôi tiếp tục đứng lên. Trước những thử thách quá lớn này, tôi đã được Chúa mở lòng để rồi tôi đã vui mừng đón nhận bí tích thánh tẩy vào mùa Phục Sinh năm ấy. ... Nói tới đây, chị đã phần nào tươi tắn hơn và nở một nụ cười hồn nhiên hơn. Chị tiếp:
- Hôm nay chia sẻ ra đây kinh nghiệm này với anh chị em để chúng ta thấy rằng hành trình đức tin của tôi cũng như của anh chị em là một chuỗi những lo âu sợ sệt từ nội tâm cho đến những phiền muộn từ gia đình, bè bạn và xã hội. Nhưng nhờ vào những lời cầu nguyện cũng như những nghĩa cử thân ái của những người đã tin vào Chúa và từ đó, đã truyền sang cho tôi sức sống mới. Đến lúc này sau nhiều năm, dù chưa lập gia đình, nhưng tôi đã sống vững tin vào Chúa nhờ chăm chuyên lắng nghe lời Phúc Âm, rồi cầu nguyện và nhất là nhờ vào cộng đòan đức tin đã nâng đỡ. Từ đó, tôi tin rằng những lời nói xiên xỏ kia của gia đình, đến một ngày nào đó, qua lới tha thiết nguyện xin của tôi, qua sự kiên trì nhẫn nại âm thầm của tôi, và nhờ sự hiệp thông của anh chị em trong nhóm, sẽ không còn tái diễn nữa, vì không có gì mà Chúa không làm được. Nguyện xin Chúa chúc lành cho chúng con!
Nhờ lắng nghe được tiếng Chúa qua Lời của Ngài, qua những giáo huấn của các thánh và qua những biến cố cuộc đời của những tín hữu chung quanh, tôi nguyện khắc ghi kinh nghiệm sống của thánh Phaolô để dâng lên Chúa lời chúc tụng:
Lạy Chúa là Cha yêu thương của chúng con,
Hành trình đức tin của chúng con luôn có những thử thách làm chúng con lo âu sợ hãi. Nhưng chúng con tin rằng “có Chúa đứng bên cạnh, Người sẽ ban sức mạnh cho chúng con”. Để nhờ vào quyền năng của Người mà việc rao giảng của chúng con mới nên hoàn thiện.
Xin giải thoát chúng con khỏi tính cao ngạo để chúng con luôn sống trong tình yêu quan phòng kỳ diệu của Người.
Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Chúa Nhật 12 TN, ngày 22/06/2008
Phêrô Vũ văn Quí CVK64
Email: peterquivu@gmail.com
Tối hôm ấy, một chiếc phi cơ cất cánh lên đường băng qua biển Đại Tây Dương, đang lúc hành:TN 12-A55
Tối hôm ấy, một chiếc phi cơ cất cánh lên đường băng qua biển Ðại Tây Dương, đang lúc hành khách dùng bữa tối và thoải mái nghe nhạc êm dịu thì bỗng dưng hệ thống truyền thông bị trục trặc, kim chỉ nam ngừng di động và không còn phải biết làm thế nào để tìm ra hướng bay được. Kỹ sư phi công đã tìm mọi cách sửa chữa nhưng vẫn vô hiệu. Làm sao có thể tiếp tục bay an toàn qua biển cả giữa đêm tối mà không có mốc điểm chỉ dẫn được? Lập tức các chiêu đãi viên được lệnh đi tìm xem trong số hành khách trên máy bay có ai là kỹ sư điện tử chăng. Sau một lúc xớn xác lo lắng, cuối cùng một hành khách đứng dậy tiến vào buồng lái của phi công. Người phi công hỏi:
- Bà có phải là kỹ sư điện tử không?
Người phụ nữ đáp:
- Không, tôi không phải là kỹ sư và tôi cũng chẳng biết gì về điện tử cả.
Phi công bực mình la lên:
- Nếu bà không phải là kỹ sư và cũng không biết gì về điện tử thì bà vào đây làm gì? Người phụ nữ vẫn bình tĩnh không chút phật lòng. Bà nói thêm:
- Xin ông cho tôi biết vấn đề khó khăn của ông lúc này là gì biết đâu tôi có thể giúp ông được. Người phi công tức giận quát lớn tiếng:
- Nếu bà không biết gì về điện tử, xin bà hãy ra khỏi đây ngay, bà không thể làm gì giúp tôi được. Một lần nữa với giọng bình tĩnh và rất lịch sự, người phụ nữ lập lại:
- Xin cho tôi biết ông cần gì, tôi hy vọng có thể giúp ông được? Người phi công vùng vằng nói:
- Bà không thấy đó ư? Hệ thống truyền thông bị hư và ngừng làm việc. Tôi không biết chúng ta đang ở đâu và đang bị thất lạc trên biển cả mênh mông nào. Người phụ nữ thản nhiên tiếp:
- Nếu vậy thì tôi có thể giúp ông được. Tôi biết có một thứ dụng cụ không bao giờ ngưng làm việc, trong quá khứ nó đã không hề sai lầm và cũng luôn chính xác mãi trong tương lai nữa.
Người phi công ngạc nhiên hỏi thêm:
- Bà muốn nói điều gì?
- Tôi muốn nói tới dụng cụ trên bầu trời, đó là những vì sao. Thật vậy, hãy nhìn xem ngôi sao kia, nó sẽ chỉ hướng cho ông. Ông hãy cho tôi xem bản đồ của phi lộ trên biển cả và đích điểm chúng ta phải tới.
Người phi công càng ngạc nhiên hơn nữa khi khám phá ra rằng người phụ nữ tầm thường trước mặt ông lại chính là một nhà thiên văn đã quá quen thuộc với những vì sao trên bầu trời mênh mông. Bà ngồi xuống bên cạnh người phi công với bản đồ mở rộng trên đầu gối và mắt bà chăm chú nhìn lên bầu trời đầy sao sáng. Với tất cả sự khôn ngoan và lão luyện của người đã từng kinh nghiệm, bà hướng dẫn phi công cầm vững tay lái. Bình minh vừa ló dạng, máy bay đã đáp xuống đích điểm được an toàn.
***
Câu chuyện trên đây cũng gợi lên tâm trí chúng ta biến cố kinh hoàng của vụ khủng bố vào tòa nhà Tháp Ðôi, Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế ở New York, ngày 11/9/2001. Ngày đó đánh dấu sự dòn mỏng của nền văn minh dựa trên khoa học, những phát triển phi thường của điện tử hoặc của trí thông minh loài người. Tất cả những tiến bộ đó hẳn không đủ và cũng không thể giải đáp được hết mọi vấn đề của đời sống con người.
Ðời sống con người từ lúc chào đời cho tới khi nhắm mắt lìa trần cũng giống như chuyến bay trên biển cả mênh mông và trong đêm tối mù mịt, nhưng chúng ta cũng không cần phải sợ hãi bị lạc đường vì luôn được những ngôi sao sáng của đức tin, niềm hy vọng cậy trông và lòng yêu mến dẫn đường cho để tiến bước an toàn tới đích điểm sau cùng là Nước Trời.
Nền văn minh của khoa học và những phát triển tinh vi của điện tử không đủ để bảo đảm sự an bình của đời sống con người và cũng không thể nào nắm vững vận mệnh cứu độ của con người được. Chúng ta cũng cần đến những người của Chúa, những dụng cụ Chúa dùng để vạch đường như kim chỉ nam nhắm thẳng tới những giá trị bất diệt. Ðể có thể vững vàng tiến bước, nhiều lúc chúng ta cũng phải dừng lại và ngẩng cao đầu lên nhìn ngắm những vì sao trên trời mà đào sâu những chân lý vô hình bên kia những sự hữu hình, tức là cần phải biết cầu nguyện. Bao lâu chúng ta còn biết ngước mắt nhìn lên trời, nhìn thẳng tới Chúa với tâm tình con thảo cầu nguyện, bấy lâu chúng ta sẽ không phải lạc đường sai lối, nhưng sẽ luôn tìm thấy những người vạch đường chỉ lối cho, để tới đích trong an bình chắc chắn.
***
Lạy Chúa Giêsu, Như tông đồ Phêrô xưa, chúng con sẽ thưa với Chúa: 'Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ theo ai. Chỉ nơi Thầy mới có sự ban đời sống đời đời mà thôi'. Xin tình yêu và Lời Chúa luôn là ánh sáng soi đường con đi trong tăm tối của cuộc đời, là như những vì sao sáng giúp con tìm lại được hướng đi cả những khi đêm tối xem như dải đất vô tận.
Đức Gioan Phaolô II đã mở đầu triều đại Giáo Hoàng của Ngài bằng việc nhắc lại lời Chúa Giêsu: TN 12-A56
Đức Gioan Phaolô II đã mở đầu triều đại Giáo Hoàng của Ngài bằng việc nhắc lại lời Chúa Giêsu đã nói với các Tông Đồ: “Đừng sợ” (Mt 10:28). Nhưng ai dám bảo là ngài không sợ! Làm người, dù là giáo hoàng cũng vẫn sợ. Mà không phải là giáo hoàng, ngay cả các Tông Đồ, những người sống cùng thời với Chúa. Ăn uống, ngủ nghỉ, và sinh hoạt chung với Ngài, chứng kiến bao phép lạ Ngài làm, thấy rõ quyền năng Ngài trong lời nói và hành động, thế mà cũng sợ. Vì nếu các ông không sợ, con người ta không sợ, tại sao Chúa lại phải trấn an. Tại sao Chúa lại phải giải thích và cắt nghĩa. Và tại sao Chúa Giêsu lại phải trách cứ các ông: “Đức tin để đâu”.
Trước hiện tượng khủng bố. Trước nguy cơ của chiến tranh diệt chủng và chiến tranh nguyên tử. Trước căn bệnh không thuốc chữa của thời đại là bệnh AIDS. Hoặc trước những băng hoại của xã hội đang bị ảnh hưởng trầm trọng do những quan niệm và lối sống buông thả, phi nhân bản, và phi đạo đức. Coi thường những hậu quả này, và không mảy may sợ hãi hoặc quan tâm đến chúng không được coi là thái độ vô tư hoặc phó thác, mà là quan niệm và lối sống của những người người liều mạng, những người có đầu óc bệnh hoạn.
Nhưng nếu cái gì cũng sợ. Sợ bệnh tật lâu ngày không ai săn sóc. Sợ thất nghiệp và mất hết gia tài. Sợ tương lai đen tối. Sợ bị kẻ xấu hãm hại. Sợ tai nạn dọc đường. Sợ tai bay, vạ gió. Những sợ hãi hão huyền ấy cũng là những thứ đến từ tâm lý bệnh hoạn. Không những thế, chúng còn ảnh hưởng đến niềm tin của con người nơi Thiên Chúa.
Vậy khi Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ và cũng là nói với tôi “đừng sợ”, là Ngài đã biết các ông cũng như chính tôi có sợ, và đôi khi những sợ hãi ấy có lúc đã làm cho các ông và tôi hoài nghi và không dám tin vào Ngài, hoang mang và bất định. Ngược lại, Ngài muốn cho các ông và tôi ra khỏi tâm lý hoang mang, sợ hãi. Ra khỏi tâm lý bệnh tật là những gì có thể làm cho một người không còn tự tin để sống một cuộc sống lành mạnh. Không còn niềm tin để có thể đến với Ngài, và sống hạnh phúc với ơn gọi làm con Ngài.
Sống ở vào thời đại mà sự dữ và sự lành, dối trá và thành thật, gian ác và hiền lành đạo đức đã trở nên lẫn lộn, rất khó phân biệt như cỏ lùng mọc chung với lúa miến. Một thời đại mà “con người đã đánh mất ý thức tội lỗi”, thì sợ hãi càng là lý do làm cho con người trở nên tuyệt vọng. Và những lúc như vậy, con người đã mở rộng lòng mình không phải là cho Chúa, mà là cho sự dữ, cho quyền lực của Satan chế ngự. Như Đức Gioan Phaolô II đã nhận xét về sinh hoạt tâm linh con người ngày nay là đang phải hít thở một bầu khí của “nền văn hóa sự chết”.
Như vậy, Đức Gioan Phaolô II, khi nhắc lại lời Chúa Giêsu “đừng sợ”, Ngài không nói đến sự sợ hãi tự nhiên, và ngài cũng không phủ nhận con người có sợ hãi, nhưng là đề cập đến một hình thức sợ hãi tâm linh. Một sự sợ hãi mà ngài đã cảm nhận được từ nguy cơ chia rẽ bên trong và bên ngoài Giáo Hội. Từ những trào lưu tục hóa và băng hoại thế giới. Những trào lưu tư tưởng, xã hội và chính trị đang làm đảo lộn thế giới. Và để khống chế sự sợ hãi này, nhân loại chỉ có một con đường duy nhất là “mở rộng cửa cho Chúa Giêsu”. Đấng đến không phải để cướp đi những gì chúng ta đang có, nhưng là ban cho dư thừa, và làm cho nó thêm phong phú như lời Đức Bênêđíctô XVI đã quảng diễn trong bài giảng khai mạc mục vụ mục tử thế giới của Ngài, theo sau Đức Gioan Phaolô II.
Thánh Mátthêu vừa sau khi nói về lòng nhân lành của Chúa Giêsu, tình thương Ngài dành cho những tội nhân, cho bọn thuê thế, ngoại tình, nghèo khổ, và bần cùng trong xã hội. Và sau khi Ngài đã để lộ lòng xót thương họ vì bơ vơ, vất vưởng đã ghi lại lời Ngài trấn an các Tông Đồ cũng là lời trấn an tôi sau này “đừng sợ”.
Những người tin theo Chúa vẫn có thể sống nghèo khổ, và bị ruồng bỏ. Đọc kinh, dự thánh lễ nhiều vẫn không châm chước cho tôi khỏi bệnh tật, và đau yếu. Tham gia sinh hoạt tông đồ cũng không phải là lý do để tôi có thể giầu có, và được người đời biết đến. Siêng năng xưng tội, rước lễ cũng không giữ tôi khỏi buồn sầu và nghĩ ngợi. Bởi vì tôi vẫn là tôi. Tôi chỉ là một con người. Như Thánh Phaolô “tôi phải làm trọn những gì còn thiếu sót nơi cuộc khổ nạn của Chúa Kitô trong tôi”. Và đó là những gì thuộc về thân phận của một con người.
Xã hội có những biến đổi. Trộm cướp, bạo loạn, khủng bố, chiến tranh và chém giết. Nhưng xã hội và văn minh nhân loại vẫn là những hoa trái tốt đẹp của nhiều bàn tay và khối óc, và là nơi con người có thể chung sống hòa bình, hạnh phúc.
Cuộc sống tuy có vất vả, lầm than, đau khổ và nước mắt, nhưng được sinh làm người, được nuôi dưỡng bởi tình thương cha mẹ và mọi người vẫn là một ân huệ lớn lao của một con người.
Tóm lại, được sinh ra làm người, được nhận biết Chúa, được bao bọc bởi tình thương, được hưởng kho tàng vô giá của thiên nhiên, và được sống trong xã hội của văn minh con người vẫn là một điều mà con người phải lấy làm hạnh phúc, và phải cảm tạ ngợi khen Thiên Chúa.
“Đừng sợ những kẻ có thể giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10:28). Cốt lõi của sứ điệp Tin Mừng hôm nay là ở chỗ không sợ những cái đến từ ngoại cảnh bên ngoài, ngay cả ác tâm con người đối với nhau, nhưng chỉ nên sợ Đấng có thể bỏ cả hồn lẫn xác ta vào hỏa ngục. Nhưng làm sao tôi có thể sợ được Đấng ấy, khi mà tình thương và quan phòng Ngài không những để ý đến tôi, mà còn cả đến những chi tiết nhỏ về cuộc đời tôi đến nỗi chính tôi cũng không tự mình làm nổi cho mình. Ngài nói: “Hai con sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi” (Mt 10:29-30). Và Ngài đã bảo tôi: “Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10:31). Như vậy, tôi không còn phải sợ, mà chỉ còn yêu mến và biết ơn.
Đâu là thân phận con người giữa trời đất ? Cao cả hay thấp hèn ? Vĩ đại hay tầm thường ? Sâu sắc: TN 12-A57
Đâu là thân phận con người giữa trời đất ? Cao cả hay thấp hèn ? Vĩ đại hay tầm thường ? Sâu sắc hay hời hợt ? Can đảm hay nhát sợ ? Tất cả chỉ tìm được câu trả lời trong Đức Giêsu Kitô.
ĐỪNG SỢ !
Có nhiều mãnh lực đang đe dọa mạng sống con người. Thiên nhiên, muông thú v.v. đều dễ dàng áp đảo con người bé nhỏ và yếu đuối. Nhưng những mãnh lực đó không đáng sợ bằng chính con người. Vì sợ hãi có người chấp nhận mọi điều kiện để bảo toàn mạng sống, dù phải bán rẻ linh hồn, danh dự v.v. Vì sợ hãi, nhiều người không dám làm gì, chỉ khoanh tay nhìn thời sự xoay vần. Đúng là hạng chết nhát ! Tệ hơn nữa, nỗi sợ còn đẩy nhiều người vào con đường gian ác, ngu xuẩn, phản bội. Trước những sợ hãi phi lý đó, Đức Giêsu trấn an: “anh em đừng sợ người ta.” (Mt 10:26) Người nhấn mạnh: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.” (Mt 10:28) Nếu có phải sợ, chỉ nên sợ một mình Thiên Chúa, vì Người là “Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10:28)
Nhưng Thiên Chúa không muốn đối xử với các tín hữu với bộ mặt ghê sợ đó. Trái lại, “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:16) Bằng chứng, “ngay tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.” (Mt 10:30) Người săn sóc từng người. Người làm bá chủ chim trời cá biển, tới mức “không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em.” (Mt 10:29) Chính Thiên Chúa đã làm cho “anh em quí giá hơn muôn vàn chim sẻ.” (Mt 10:31) Thực ra, giá trị cuộc sống không đo bằng số lượng vật chất, nhưng bằng chính niềm tin nơi Thiên Chúa.
Nếu tất cả không xảy ra ngoài thánh ý Thiên Chúa, tại sao phải sợ hãi trước các mãnh lực đe dọa con người ? Chính cái chết là đầu mối sinh ra mọi sợ hãi nơi con người. Thực vậy, “vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết.” (Rm 5:15) Nhưng “tử thần đã bị chôn vùi.” (1 Cr 15:54) “Thực vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết.” (1 Cr 15:25) Nếu tử thần không lướt thắng nổi Người, thì những người trông cậy Chúa còn phải sợ chi nữa ? Nhưng nếu không sống trong nguồn ân sủng là Thiên Chúa, con người chỉ còn sợ hãi. Chẳng có sức mạnh nào lấn át được Thiên Chúa ! Vậy mà Thiên Chúa dùng tất cả sức mạnh tình yêu nhằm bảo vệ con người. Vượt qua nỗi sợ hãi bình thường, các môn đệ sẽ can đảm dấn thân làm chứng cho Chúa trước muôn dân. Với cánh tay hùng mạnh, Thiên Chúa “đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo,” (Gr 20:13) để trở thành nguồn hi vọng độc nhất của toàn thể nhân loại.
Chỉ niềm tin mới mạc khải tất cả lý do tại sao có niềm hi vọng lớn lao. Càng tin tưởng vào Thiên Chúa càng không lo sợ. Thực vậy, “ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (Rm 5:15) Chính nguồn ân sủng lớn lao đó khiến chứng nhân can đảm leo “lên mái nhà rao giảng điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm hay điều anh em nghe rỉ tai.” (Mt 10:27) Lời giảng phải bộc lộ tất cả niềm tin sâu xa nơi Thiên Chúa. Tất cả định mệnh con người tín hữu đều tùy thuộc vào sứ mệnh rao giảng. Thực vậy, công cuộc Phúc âm hóa nhân loại hôm nay không thể hoàn thành, nếu người tín hữu không dấn thân tích cực vào việc làm chứng cho Đức Kitô. Bởi thế, Chúa mới nói: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời,” (Mt 10:32) Nhờ những tiếng nói gan dạ đó, cả nhân loại sẽ bừng tỉnh trước Tin Mừng được các chứng nhân mạnh dạn “nói ra giữa ban ngày.” (Mt 10:27)
MỘT CHỨNG TỪ CAN ĐẢM
Càng suy nghĩ càng thấy các chứng nhân Tin Mừng có đủ lý do vượt lên trên mọi sợ hãi để “rao giảng lời Chúa lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.” (2 Tm 4:2) Mỗi thách đố đều thức tỉnh Giáo Hội và làm nảy sinh những phương pháp Phúc âm hóa mới lạ, phù hợp với các biến chuyển trên thế giới. Hôm nay, cuộc rao giảng Tin Mừng đang gặp thách đố lớn tại Hoa Kỳ vì vấn đề lạm dụng tình dục của một số giáo sĩ Hoa Kỳ. Đứng trước vấn đề đó, các vị lãnh đạo Giáo Hội Hoa Kỳ có đưa ra những giải pháp hợp tình hợp lý không ? Giáo Hội đã làm gì trước sức tấn công như vũ bão của lực lượng truyền thông, mà không đánh mất nét Tin Mừng trên khuôn mặt của mình ?
Như Đức Giêsu, Giáo Hội phải thể hiện được nét nhân từ ngay khi phải chiến đấu quyết liệt. Trước hết, ĐHY Oscar Rodriguez Maradiaga giáo phận Tegucigalpa, Honduras, đã lên tiếng tố cáo giới truyền thông Hoa Kỳ và nêu đích danh ông Ted Turner, người sáng lập đài CNN, “người công khai chống Công giáo.” Các tờ báo New York Times,Washington Post, và Boston Globe đang áp dụng các chiến thuật giống như các bạo chúa Diocletian, Neron, Stalin và Hitler để bách hại Giáo Hội (CWNews 11/06/02).
Trước cơn bách hại của giới truyền thông, các vị lãnh đạo Giáo Hội Hoa Kỳ kêu gọi giáo dân cầu nguyện. Trong suốt buổi họp tại Dallas, các ngài không ngừng khẩn nài Thánh Linh trợ giúp. Kết quả những biện pháp đã được công bố để đề phòng các vụ vi phạm tính dục trẻ em. Các ngài đã chính thức xin lỗi các nạn nhân và gia đình của họ. Một chính sách cấm các giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ em thi hành công vụ, kể cả việc dâng lễ và phục vụ trong các hội từ thiện Công giáo. ĐGM Wilton Gregory nói: “Từ nay trở đi, những người bị phát giác vi phạm tính dục trẻ em sẽ không được làm việc trong Giáo Hội Công giáo Hoa Kỳ nữa.” (Zenit 14/06/02) Nhưng các giám mục quyết định các linh mục lạm dụng không tức khắc bị loại khỏi hàng ngũ linh mục như chính sách “bất khoan dung” đề ra. Các linh mục đó có thể bị đẩy về hàng ngũ giáo dân, nhưng tiến trình tùy thuộc vị giám mục chủ chăn, cùng với ban cố vấn chủ yếu là giáo dân. ĐHY Anthony Bevilacqua giáo phận Philadelphia đã trả lời Hội Nhà Báo: chính sách đó phản ánh nhu cầu tỏ bày “tấm lòng cảm thông của Đức Kitô” đối với các linh mục. (Zenit 14/06/02) Thế là giới truyền thông đã vô tình tạo cơ hội cho Tin Mừng được rao giảng qua thái độ bao dung và nhân hậu của Giáo Hội.
Phải chăng đây cũng là cơ hội cho các linh mục nhận thức rõ về chính mình như những “thừa tác viên của lòng nhân hậu” hay như “chứng nhân của lòng Thiên Chúa xót thương.” (Cipriani: Zenit 17/06/2002) ĐHY Cipriani kêu gọi các linh mục hãy phục hồi tất cả giá trị của bí tích giao hòa như tặng phẩm của lòng Thiên Chúa xót thương. Sứ mệnh và lẽ sống của linh mục “là một dụng cụ sống động của ân sủng Thiên Chúa.” (Zenit 17/06/2002) Giáo Hội là điểm qui tụ những “thừa tác viên phục vụ lòng tha thứ của Thiên Chúa.” (Cipriani: Zenit 17/06/2002) Có thể thấy rõ chứng từ ấy trong cách Giáo Hội Hoa Kỳ đối xử với các giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ em.
Chúng ta đang ở trong Bài diễn từ về Truyền giáo của Tin Mừng Mt (Mt 9,36–11,1). Toàn bài có bố:TN 12-A58
Chúng ta đang ở trong Bài diễn từ về Truyền giáo của Tin Mừng Mt (Mt 9,36–11,1). Toàn bài có bố cục như sau: 1) Dẫn nhập (9,36–10,5a): a) Các yếu tố xác định (9,36-38), b) Việc trao ban quyền và các tên gọi (10,1-5a); 2) Phần chính (10,5b-42): a) Nhiệm vụ của các tông đồ (cc. 5b-15), b) Những khó khăn và cách thức thắng vượt (10,16-42); 3) Kết (11,1). Riêng phân đoạn 10,16-42 có bố cục như sau (các đoạn in nghiêng thuộc về bài đọc phụng vụ): 1) Sự bách hại các tông đồ phải chịu (10,16-39): a) Hoàn cảnh tởng quát của các sứ giả (10,16), b) Loài người sẽ xử tệ với các ông (10,17-23), c) Số phận chung của môn đệ và thầy (10,24-25), d) Lý do khiến các ông không được nao núng (10,26-31), e) Tương quan của các ông với Đức Giêsu (10,32-39); 2) Việc tiếp đón các tông đồ (10,40-42).
2.- Bố cục Bản văn 10,26-33 có thể chia thành hai phần: 1) Lý do khiến các môn đệ không được nao núng (10,26-31); 2) Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu (10,32-33 [39]).
3.- Vài điểm chú giải
- Vậy anh em đừng sợ (26): Từ ngữ “vậy” nối cc. 26-27 với phần đi trước, nhưng không phải là để đưa tới một kết luận, mà là một lời khích lệ. Ý nghĩa không phải là” đừng sợ họ, bởi vì họ không thể làm gì anh em; nhưng là: đừng sợ họ, bởi vì anh em không được mong mình có một số phận bớt đau thương hơn Thầy (cc. 24-25). Như thế, dù vẫn sợ những người bách hại, anh em phải đảm nhận lấy nỗi sợ hãi ấy mà cứ tuyên xưng niềm tin. Anh em sợ hãi người ta là chuyện dễ hiểu (cc. 17-25), nhưng đừng vì thế mà thôi làm chứng.
- được tỏ lộ … được biết (26): Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa, có nghĩa là: Thiên Chúa tỏ lộ … Thiên Chúa thấu biết. Lý do thứ nhất khiến môn đệ không phải sợ, đó là sứ điệp vĩ đại về Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ. Dù thế nào, Tin Mừng cuối cùng sẽ tỏa rạng vinh hiển.
- những kẻ giết thân xác (28): Lý do thứ hai khiến không phải sợ, đó là sự sống chân chính của con người được bảo vệ. Những kẻ bách hại chỉ có thể “giết” (apoktenai); duy mình Thiên Chúa mới có thể “tiêu diệt” (apolesai) trọn con người (“thân xác” và “linh hồn”).
- hỏa ngục (28): Từ Hy-lạp geenna (được dịch là “hỏa ngục”) phiên âm từ Híp-ri gê-Hinnôm. Gần cổng thành phía nam Giêrusalem, có thung lũng gọi là gê’-Hinnôm hoặc gê’ben-Hinnôm (“thung lũng của con cái Hinnôm”). Ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm rằng đây là nơi mà dân Giuđa sẽ bị trừng phạt nặng nề, vì tội lỗi của họ (sát tế con cho thần Môlốc của người Ammôn) đã lên tới cực độ (Gr 7,30–8,3; 19,7; 32,35). Lúc đầu, lửa và giòi bọ là những tác nhân xử lý các tử thi, đi với nhau (Gđt 16,17; Hc 7,17) hoặc riêng rẽ (giòi bọ: G 25,5; Hc (hp) 7,17; lửa: Mt 13,42.50…), nay trở thành biểu tượng của số phận khủng khiếp của những kẻ không chịu đáp lại lời Thiên Chúa kêu gọi.
- Ngoài ý của Cha anh em (29): Lý do thứ ba khiến không phải sợ, đó là Thiên Chúa quan phòng trên toàn thể thọ tạo.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lý do khiến các môn đệ không được nao núng (26-31) Mt không kể cho biết cách nào và khi nào thì lời loan báo về số phận của các sứ giả được chứng thực. Nhưng tác giả mô tả nhiều lần các lời Đức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó (16,21; 17,22t; 20,18t) và ghi chi tiết cả diễn tiến thực hiện cuộc Thương Khó nữa (ch. 26–27). Như vậy, trước khi các môn đệ và tôi tớ rơi vào số phận này, Thầy và Chúa của họ đã phải chịu rồi.
Đoạn 10,26-31 nhắc các tông đồ nhớ lại nhiệm vụ trọng yếu của các ông là loan báo thẳng thắn và công khai sứ điệp đã nhận từ nơi Đức Giêsu (x. 10,7; 10,27). Đức Giêsu nhấn mạnh ở đấy: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (10,27) và kết thúc bằng “Vậy anh em đừng sợ” (10,31), và cả ở 10,28, Người nhắc lại “anh em đừng sợ”. Dù sợ hãi khi đứng trước những đe dọa của bạo lực loài người, các sứ giả không được để mình bị ngăn cản khiến không chu toàn được nhiệm vụ. Họ phải thắng vượt nỗi sợ hãi này và tiếp tục trung thành với nhiệm vụ. Để đạt được như thế, họ phải đừng để ý đến người ta, nhưng phải để ý đến Thiên Chúa. Quyền của Ngài là có thể “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (10,28) thì đáng sợ hơn nhiều, còn sự ân cần chăm sóc và sự quan phòng đầy tình phụ tử thì đáng họ tin tưởng hoàn toàn (10,29-31).
* Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu (32-33 [39]) Đoạn cuối cùng nhắm vào quan hệ với Đức Giêsu (10,32-39). Coi trọng Đức Giêsu hơn, duy trì bằng mọi giá sự hiệp nhất với Người, là con đường duy nhất để có sự hiệp nhất với Thiên Chúa và được sống. Ở đây vẫn là ý tưởng cần phải chọn giữa Thiên Chúa và loài người, như đã thấy ở 10,26-31. Những nhân vật liên hệ với nhau trong tương quan được mô tả ở 10,32-33, là: Cha trên trời của Đức Giêsu (ở 10,20.29: Cha anh em), Đức Giêsu, cá nhân, loài người. Cá nhân phải tự quyết định, phải chọn lấy sự hiệp thông công khai và được tuyên xưng thẳng thắn với Đức Giêsu để qua Đức Giêsu, đạt được sự hiệp thông với Thiên Chúa. Ngược lại, ai chối Đức Giêsu thì cũng tách khỏi Thiên Chúa. Một hình thái cho thấy là người ta nhìn nhận Đức Giêsu công khai, đó là loan báo không sợ hãi sứ điệp của Người (x. 10,27). Ở 10,34-39, tác giả không còn nói rõ ràng đến Thiên Chúa Cha nữa, cũng chẳng nói đến loài người cách tổng quát nữa. Tương quan được giới hạn lại với Đức Giêsu, với các thành viên của một gia đình và với từng cá nhân. Một lần nữa, lại cần phải chọn lựa rõ ràng. Đức Giêsu, sự hiệp nhất với Người, phải được coi trọng hơn mọi người, cho dù điều này tạo ra những mâu thuẫn với những thành phần của gia đình mình. Và cuối cùng, phải chọn đi theo Đức Giêsu trên con đường đưa tới thập giá; sự hiệp nhất với Đức Giêsu phải là sự hiệp nhất trọn vẹn với bản thân Người và phải được coi trọng hơn cả chính mạng sống mình. Chỉ người nào chịu mất mạng vì Đức Giêsu, thì mới tìm được mạng sống (10,39). Điều được nói ở 10,32-39 là lý do quyết định khiến người ta loan báo không sợ hãi, nhưng còn đi xa hơn, nghĩa là nó xác định rằng trong mọi trường hợp, sự hiệp nhất với Đức Giêsu phải được coi trọng hơn mọi sự và mọi người.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ can đảm loan báo sứ điệp của Người (10,27). Người cũng yêu cầu các ông phải tin tưởng hoàn toàn nơi Người (c. 32). Các ông phải chứng tỏ một cách vô điều kiện là cách ông thuộc về Người và tin vào sứ điệp của Người, mà trước tiên đây là sứ điệp của Cha trên trời. Một ngày nào đó, Đức Giêsu sẽ tuyên bố nhận hay từ khước các ông là tùy điểm này (c. 28). Một lần nữa Đức Giêsu lại tỏ cho thấy địa vị và uy quyền vô song của Người. Án xử của Thiên Chúa về chúng ta, cũng như số phận đời đời của chúng ta, tùy thuộc cách chúng ta đối xử với Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sợ loài người mà không sợ Thiên Chúa, Đấng có thể “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”, là chuyện liều lĩnh. Tác giả ghi lại đây cả những lời đe dọa (về hỏa ngục), đây là dấu cho thấy rõ ràng là chỉ đưa những lời khuyến cáo mà thôi thì vẫn không cản được các tín hữu sa sút (x. 5,22.29; 23,15.33). Phải đe dọa để họ nhớ rõ giáo huấn của Đức Giêsu: nếu họ nhận Đức Giêsu trước mặt người đời, Đức Giêsu sẽ nhận họ trước mặt Thiên Chúa; nếu họ chối Đức Giêsu trước mặt người đời, Người cũng sẽ chối họ trước mặt Thiên Chúa.
2. Người tín hữu biết chắc chắn mình ở trong tay Chúa Cha. Họ cũng ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu, Đấng Mêsia. Chính xác tín này giúp họ chấp nhận mọi sự, kể cả việc tử đạo, một cách thanh thản. Tin tưởng vào Thiên Chúa không phải là chắc chắn rằng mình sẽ được giải cứu khỏi thử thách, nhưng là biết vững vàng rằng chuyện mình bị kết án sẽ được biện minh và được đánh giá đúng mức. Ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu làm cho họ vững vàng và can đảm.
3. Nếu việc làm chứng đôi khi đưa người môn đệ đến chỗ chết, thì không phải là mặc dù được Thiên Chúa là Cha quan phòng, người ấy vẫn phải chết! Y như thể Cha có mặt lúc vị tử đạo bị giết, nhưng không thể cứu được người ấy. Mt nhấn mạnh rằng, tuy có mặt vào lúc con cái mình bị giết, Thiên Chúa vẫn không muốn tách cái chết ấy ra khỏi ý muốn của Ngài: nếu Thiên Chúa giúp đỡ vị tử đạo chính là vì cuối cùng Ngài muốn vị ấy phải chết. Quả thật Thiên Chúa không muốn có cái chết theo cách lý thuyết, bởi vì Thiên Chúa muốn con người được cứu và được sống. Nhưng chính vì Ngài muốn rằng mọi người được nghe Tin Mừng, mà Ngài muốn có các vị tử đạo làm chứng (các vị này bị chết tàn bạo, nhưng sẽ được cứu). (www.kinhthanhvn.org)
Người Ả Rập giải thích nguồn gốc của sa mạc bằng câu chuyện ngụ ngôn như sau: "Thiên: TN 12-A59
Người Ả Rập giải thích nguồn gốc của sa mạc bằng câu chuyện ngụ ngôn như sau:
"Thiên Chúa đang sáng tạo vũ trụ. Sau khi đã hoàn tất tinh tú, trái đất, biển khơi, sông ngòi, Thiên Chúa bắt tay vào việc tạo dựng con người. Ngài nặn được những thân hình thật đẹp, nhưng đó chỉ là những pho tượng, vì chưa có linh hồn".
Lúc bấy giờ, một tổng lãnh thiên thần mới đề nghị với Thiên Chúa là cần phải tạo dựng linh hồn cho con người. Thế là Thiên Chúa miệt mài giam mình trong phòng thí nghiệm để tác tạo linh hồn cho con người. Các linh hồn vừa mới ra lò còn rất mảnh khảnh và yếu ớt.
Ngài mang các linh hồn tươi tắn ấy xuống trần gian và phân phát cho loài người. Nhưng rủi thay, hôm đó trời đổ mưa, cho nên một số linh hồn chưa đủ cứng cáp đã biến dạng. Một ngày nọ, một trong những người đã lãnh nhận được linh hồn méo mó, đã buột miệng nói ra một lời dối trá. Tuy chỉ là một lời dối trá không đáng kể, nhưng đó là một lời dối trá đầu tiên xuất hiện trong lịch sử loài người.
Thiên Chúa vô cùng hối hận vì đã không ngăn ngừa được sự dối trá ấy. ngài bèn tập trung loài người lại và tuyên bố: "Từ nay, đừng có một người nào phạm thêm một điều dối trá nữa. Nếu không, cứ mỗi lần có một lời dối trá, ta sẽ cho rơi xuống mặt đất một hạt cát".
Nhiều người nghe lời đe dọa của Thiên Chúa, cười thầm trong lòng. Một hạt cát có đáng kể là bao sánh với màu xanh trùng trùng điệp điệp của cây cỏ. Thành ra, loài người đã không đếm xỉa đến lời cảnh cáo của Thiên Chúa. Người thứ hai thêm một lời nói láo mà vẫn đinh nih đó chỉ là một lời không đáng kể, cũng như thêm một hạt cát trên trái đất cũng không thay đổi được bộ mặt của nó. Cứ thế, người thứ ba, rồi người thứ tư... Người ta nói dối đến độ Thiên Chúa không còn đủ sức để cho cát rơi xuống trên mặt đất nữa... Ngài đành phải dùng đến bàn tay của các thiên thần để cho mưa cát xuống... Không mấy chốc, những đồng cỏ xanh tươi, những vườn cây um tùm biến thành sa mạc khô cằn. Thỉnh thoảng một vài ốc đảo xanh tươi mọc lên, đó là dấu hiệu sự hiện diện của một vài người còn biết tôn trọng sự thật. Nhưng dần dà, ôn dịch dối trá lan tràn khắp nơi, trái đất chỉ còn là một bãi sa mạc.
Tất cả những ai sống trong một xã hội xây dựng trên dối trá, lừa đảo, đố kỵ lẫn nhau đều biểu hiện được thế nào là sa mạc của tình người. Sa mạc nào cũng là biểu hiện của sự chết: chết của tình người, chết của lòng tin tưởng lẫn nhau, chết của hy sinh phục vụ, chết của lòng quảng đại. Tựu trung, dối trá cũng là tên gọi của ích kỷ. Người dối trá là người chỉ biết sống cho mình. Nếu ơn gọi của con người, nếu sự thật của con người là sống yêu thương, sống cho người, thì kẻ dối trá là người chối bỏ chính mình.
Chúa Giêsu đã lên án gắt gao thái độ dối trá. Ngài nói: "Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra". Kẻ dối trá, do đó, tự đặt mình dưới quyền thống trị và điều khiển của ma quỷ.
Mỗi một thái độ dối trá là một hạt cát rơi xuống trên sa mạc của tình người. Nhưng mỗi một hành động của quảng đại, của yêu thương, của phục vụ là một ốc đảo xanh tươi của Chân lý, đó là Chân lý của tình yêu.
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật trước đã giúp ta hiểu phần nào những chiều kích của tình yêu: TN 12-A60
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật trước đã giúp ta hiểu phần nào những chiều kích của tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu, Chúa bênh đỡ ta. Vì yêu, ta cảm nhận được bình an bởi có Chúa là Đấng phù trợ ta. Lời Chúa hôm nay cho ta một mẫu gương sống động tin vào tình yêu Thiên Chúa và những lời giảng dạy vô cùng thực tế của Chúa Giê-su về lòng tín thác nơi tình yêu Thiên Chúa.
1. Kinh nghiệm được tình yêu Thiên Chúa cứu giúp của ngôn sứ Giê-rê-mi-a (bài đọc Cựu Ước – Gr 20:10-13)
Ngôn sứ là những vị được Chúa sai đến để nói thay cho Người. Các ngài mang sứ điệp của Thiên Chúa đến cho dân Người. Mà thường những sứ điệp ấy lại là những lời kêu gọi họ bỏ đường tà để trở về nẻo chính. Sự thật mất lòng. Do đó các vị ngôn sứ cũng bị “vạ lây” khi các ngài thi hành sứ vụ Thiên Chúa trao. Ngôn sứ Giê-rê-mia không tránh khỏi tình huống thông thường ấy. Ngài bị ngược đãi tại A-na-thốt (Gr 11:18-23), bị mưu hại (18:18), bị bắt và bị xử (26:1-15; 37:11-21), trăm điều khốn khổ đến nỗi ngài đã phải than thân trách phận: “Con vô phúc quá, mẹ ơi, mẹ sinh con ra làm gì, để cho người ta chống đối, cho cả nước gây gổ với con. Con chẳng cho ai vay, cũng không mượn của người, thế mà vẫn cứ bị nguyền rủa” (Gr 15:10).
Tuy nhiên có một điều làm ta hết sức khâm phục vị ngôn sứ, đó là trong mỗi hoàn cảnh khó khăn như vậy, bao giờ ngài cũng hướng về Thiên Chúa, cầu khẩn Người thương che chở giữ gìn. Đáp lại, Thiên Chúa an ủi nâng đỡ ngài và thêm sức mạnh để ngài tiếp tục thi hành sứ vụ. Dùng chính những kinh nghiệm cá nhân ấy, ngôn sứ Giê-rê-mi-a mang lại một sứ điệp khích lệ ta vững lòng tin Chúa: “Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo” (Gr 20:13).
Bí tích Rửa tội cho Ki-tô hữu được tham dự vào sứ vụ ngôn sứ của Chúa Ki-tô, để làm chứng nhân cho Tin Mừng. Trong sứ vụ ấy, chắc chắn ta phải chấp nhận những thiệt thòi bách hại vì ta là môn đệ Chúa. Nhưng tình yêu của Chúa là khí giới để ta đối phó với nghịch cảnh và được can đảm để tiếp tục sống những gì Chúa Ki-tô dạy ta. Kẻ thù của ngôn sứ Giê-rê-mi-a tưởng ngài khiếp sợ trước những tấn công dồn dập của họ, nên họ gọi ngài là “lão Tứ phía kinh hoàng”. Nhưng ngôn sứ lại vững như đồng, bởi vì “Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiếbn sĩ oai hùng”. Nếu ta học được gương tín thác vào tình yêu Thiên Chúa như ngôn sứ đã tín thác, thì ta cũng sẽ được trung kiên làm chứng nhân cho Đức Ki-tô và “nức lòng phấn khởi, vì Chúa nhận lời kẻ nghèo khó, chẳng coi khinh thân hữu bị giam cầm” (Tv 68:33-34).
2. Tình yêu Thiên Chúa cứu giúp ta được thể hiện nơi Đức Ki-tô (bài đọc Tân Ước – Rm 5:12-15) Thiên Chúa bênh đỡ vị ngôn sứ của Người là Giê-rê-mi-a thế nào thì Người cũng bênh đỡ nhân loại như vậy. Giê-rê-mi-a bị kẻ thù bách hại và được Thiên Chúa cứu thoát. Nhân loại bị tội lỗi làm cho phải chết và sẽ được Thiên Chúa cứu sống. Thánh Phao-lô Tông đồ trình bày việc cứu sống ấy trong giáo lý của ngài, đặc biệt trong thư gửi tín hữu Rô-ma. Ngài dùng lối so sánh giúp ta thấy được sự tương phản giữa sự sa ngã của A-đam và ân sủng của Thiên Chúa là Đức Ki-tô, giữa hậu quả lớn lao của tội A-đam là sự chết và hiệu quả còn lớn lao hơn do cái chết của Đức Ki-tô tức là ơn cứu độ. Ngài đi tới kết luận: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20). Giáo Hội cũng theo đà suy nghĩ ấy mà gọi tội A-đam đã phạm là “tội hồng phúc” (bài công bố Tin mừng Phục Sinh, Thứ Bảy Tuần Thánh)!
Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa lớn lao như vậy, nhưng đáng tiếc có nhiều người lại không nhận biết tình yêu lớn lao ấy. Có thể tại họ không được học hỏi giáo lý tường tận. Nhưng cũng có thể vì họ được lãnh nhận ân sủng như không nên họ coi thường và không trân quý ơn cứu độ Chúa ban. Đời sống quá vật chất làm cho ta ít nghĩ đến khía cạnh cứu độ, đến đời sống đức tin. Hơn nữa ta cũng ít để ý tới vai trò quan trọng có một không hai của Đức Ki-tô và hiệu quả vô song do công nghiệp cứu độ của Người. Những điều này nếu ta không xác tín và tin vào Đức Ki-tô, thì ta chẳng khác gì những người Do-thái vẫn sống bám víu vào Lề Luật thay vì mở lòng đón nhận Ân Sủng của Thiên Chúa là Đức Ki-tô. Thánh Gio-an Tông đồ đã khẳng định vai trò cứu độ của Đức Ki-tô: “Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
So sánh với hoàn cảnh ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ta còn được may mắn hơn bội phần. Ngôn sứ được cứu giúp trong cơn bách hại bởi kẻ thù của ngài. Còn ta được cứu độ khỏi quyền lực của tội lỗi và khỏi sự chết muôn đời. Điều ấy càng giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa dành cho ta bao la biết chừng nào. Do đó, không gì tốt hơn là ta hãy cảm tạ Chúa vì “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136).
3. Vì Thiên Chúa yêu thương ta, nên ta “đừng sợ” (bài Tin Mừng – Mt 10:26-33) Chúa Giê-su được sai đến với sứ mệnh là cho ta biết Thiên Chúa yêu thương ta đến mức nào. Người tỏ cho ta biết dung mạo của Thiên Chúa đích thực, một Thiên Chúa làm người Cha thương yêu con cái. Một trong những cách Thiên Chúa biểu lộ tình yêu, đó là Người che chở gìn giữ ta trước những tấn công của kẻ thù khi ta làm chứng nhân cho Đức Ki-tô và Tin Mừng của Người.
Trong sứ mệnh làm chứng nhân, thái độ can đảm và không sợ hãi là điều kiện cần phải có. Thái độ này giúp ta bất chấp mọi nguy hiểm đe dọa để cho người khác thấy điều ta muốn làm chứng. Những giá trị Tin Mừng cần phải được sống và biểu lộ qua cuộc sống cho người ta thấy được và nhận ra những gì Chúa dạy ta phải sống. Mà việc làm chứng nhân cho Chúa Ki-tô sẽ tạo ra những bất lợi cho ta. Ta sẽ phải đối phó với những thiệt thòi, những đe dọa cho sự sống của ta nếu ta đang ở trong hoàn cảnh bị bách hại vì đức tin. Thánh Mát-thêu viết những dòng Tin Mừng này cho những anh chị em tín hữu đang bị bắt bớ khủng bố trong cơn bách hại. Ngài lập lại lời Chúa khuyên “đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn”, vì ta có Chúa là Đấng “có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Người sẽ bênh vực ta vì ta có một giá trị độc đáo đối với Người. Đến như những sinh vật nhỏ bé không giá trị như chim sẻ mà Chúa còn lo lắng cho chúng, thì đời nào Người lại bỏ rơi linh hồn ta trong khi ta có giá trị hơn chim sẻ trăm ngàn lần. Chẳng lẽ Chúa chăm sóc từng sợi tóc của ta mà lại để kẻ thù cướp mất linh hồn ta. Chính Chúa Giê-su đã sống điều Người dạy. Người không sợ rao giảng Tin Mừng. Người không sợ nói lên những sai lầm của nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư. Người không sợ những người có thể giết Người bằng cách lên án bất công và đóng đinh Người vào thập giá. Người chỉ kính sợ duy một mình Thiên Chúa Cha, Đấng có quyền trên sự sống xác hồn và cho Người được sống lại từ cõi chết.
Ta thường sợ “tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ”, tức là sợ người khác biết ta là môn đệ Chúa. Muốn làm chứng nhân cho Chúa, ta phải can đảm nhận mình là môn đệ Chúa và chứng minh điều ấy qua lối sống của ta. Một thí dụ cụ thể về việc nhận mình là môn đệ Chúa: trước khi ăn tại nhà hàng hoặc nơi có người lạ, ta làm dấu Thánh giá, cầu nguyện tạ ơn Chúa trước khi bắt đầu ăn, không sợ ai cười chê mình là người Công giáo. “Tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ” là lối nói diễn tả cách ta làm chứng mình là môn đệ Chúa và sống những giá trị Tin Mừng Chúa dạy. Như thế có không biết bao nhiêu là cách ta “tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ”. Mỗi lời nói, cử chỉ hay hành vi của ta đều phải nói lên được tinh thần của Chúa Ki-tô, nhất là tình bác ái, yêu thương và tha thứ theo mẫu gương của Người.
4. Sống Lời Chúa Tin vào tình yêu Thiên Chúa là nền tảng cho việc làm chứng nhân của Ki-tô hữu. Bản chất con người thường sợ nguy hiểm, đôi khi không dám lộ ra căn tính đích thực. Ta là Ki-tô hữu, là môn đệ Chúa Ki-tô. Muốn làm chứng nhân của Chúa, ta cần xác tín rằng bên ta luôn có Thiên Chúa hiện diện để bênh vực ta và giúp đỡ ta thi hành sứ mệnh chứng nhân. Noi gương Chúa Giê-su đã làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, ta cũng can đảm làm chứng cho những giá trị Tin Mừng bằng cách sống chính những giá trị ấy qua tư tưởng, lời nói cũng như hành động của ta trong cuộc sống thường ngày.
Suy nghĩ: Chúa nói: “Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”. Đâu là giá trị của tôi trước mặt Chúa? Những điều gì cho thấy là tôi có giá trị độc đáo đối với Người? Nếu tình yêu của Chúa đã làm cho tôi có giá trị thì tại sao tôi còn sợ hãi và sợ những gì? Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho các thánh tử đạo biết thí mạng sống mình để trọn niềm trung thành với Lời Chúa và làm chứng cho Đức Giê-su. Xin dùng quyền năng của Thánh Thần giúp chúng con biết sẵn sàng đón nhận chân lý. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, lễ kính các thánh tử đạo trong mùa Phục sinh) Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
ĐỌC LỜI CHÚA · Gr 20,10-13: (11) Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế, những kẻ từng hại con sẽ thật điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề. · Rm 5,12-15: (15) sự Sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người. · TIN MỪNG: Mt 10, 26-33 Hãy nói giữa ban ngày, đừng có sợ (26) «Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che dấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. (27) Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng. (28) «Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. (29) Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con rào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. (30) Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. (31) Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ. (32) «Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (33) Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời».
CHIA SẺ Câu hỏi gợi ý:
Cảm thấy sợ hãi khi gặp nguy hiểm là điều tốt hay xấu? Tại sao? 2. Trước hai tệ hại – cái lớn cái nhỏ: TN 12-A61
1. Cảm thấy sợ hãi khi gặp nguy hiểm là điều tốt hay xấu? Tại sao? 2. Trước hai tệ hại – cái lớn cái nhỏ – mà ta không thể tránh cả hai, thì ta nên đón nhận cái nào? Khi chịu cái hại nhỏ để tránh được cái hại lớn, thì ta nên vui lòng đón nhận hay miễn cưỡng chấp nhận? 3. Cái gì khiến cho một người mẹ xông vào đám cháy để cứu con mình? Tình yêu đối với Thiên Chúa và đồng loại có thể giúp ta thắng vượt sợ hãi không? 4. Thiên Chúa có quan tâm tới ta khi ta chấp nhận nguy hiểm vì tình yêu Ngài không?
Suy tư gợi ý:
1. Biết sợ hãi là một ơn huệ của Thiên Chúa Một trong những điều rất thông thường thuộc bản năng của con người là biết sợ hãi. Bản năng biết sợ hãi là do Thiên Chúa đặt để ngay trong bản tính con người, nhờ đó con người – và cả loài vật nữa – mới biết tự vệ và tránh được những khó khăn, bất lợi, tai nạn, đau khổ, chết chóc có thể xảy đến với mình. Bản năng biết sợ ấy là điều tốt lành: Thiên Chúa muốn con người biết sợ hãi, và có rất nhiều nỗi sợ hãi là tốt lành, đẹp lòng Thiên Chúa. Thật vậy, sau khi tạo dựng con người. Ngài đã nói với con người: «Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết» (St 2,16-17). Qua câu Thánh Kinh này, ta thấy Thiên Chúa muốn con người biết sợ chết, và việc xa tránh cái chết bằng cách vâng lời Thiên Chúa là một sự khôn ngoan. Trong một số trường hợp nào đó, người không biết sợ có thể là do thiếu trí khôn, thiếu sáng suốt, không nhận ra những nguy hiểm đang xảy đến với mình. Người ta thường dùng từ ngữ «điếc không sợ súng» để chỉ những người này.
2. Phải sợ cái đáng sợ hơn, và chấp nhận cái tệ hại nhỏ hơn Tuy nhiên giữa những điều tệ hại, có những tệ hại nhỏ hơn và có những tệ hại lớn hơn. Người khôn ngoan là người nhận định chính xác tệ hại nào lớn hơn, tệ hại nào nhỏ hơn. Khi có hai điều tệ hại mà ta không thể tránh được cả hai, thì người khôn ngoan phải biết sợ và tránh điều tệ hại lớn hơn cho dù chưa xảy đến, vì nó gây đau khổ nhiều hơn; đồng thời biết chấp nhận tệ hại nhỏ hơn cho dù nó sẽ xảy ra ngay trước mắt. Thật là ngu xuẩn năm ta tránh tệ hại nhỏ để phải chịu tệ hại lớn hơn. Tuy nhiên, người có bản lãnh, có trí tuệ, mặc dù biết sợ, nhưng luôn luôn làm chủ được bản năng biết sợ của mình để can đảm chấp nhận những tệ hại nhỏ hơn trước mắt hầu tránh được những tệ hại lớn hơn; hoặc can đảm chấp nhận những tệ hại cho cá nhân mình hầu tránh những tệ hại lớn hơn cho tập thể hay xã hội. Một khi đã nhận thức và chấp nhận điều tệ hại nhỏ hơn, thì ta không còn sợ hãi nó nữa. Người hèn nhát là người sợ khổ, sợ chết đến nỗi không dám làm theo đòi hỏi của lương tâm, sẵn sàng tránh những tệ hại nhỏ cho cá nhân mình để bắt cả xã hội hay tập thể phải gánh chịu những tệ hại lớn lao vì mình… Cũng cần phân biệt: người nhát gan vẫn có thể không hèn, mà người bạo dạn đôi khi lại rất hèn.
Đức tin giúp chúng ta nhận ra được rằng: tệ hại lớn nhất trên đời là những gì làm thiệt hại cho linh hồn mình, cho sự sống vĩnh cửu của mình đời sau. Vì thế, người có đức tin có thể chấp nhận dễ dàng những tệ hại chóng qua ở đời này hầu đạt được những lợi ích lâu dài cho đời sống vĩnh cửu mai hậu. Trong chiều hướng này, Đức Giêsu khuyên ta: «Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục (Mt 10,28). Bị giết chết thân xác là một trong những điều đáng sợ nhất ở đời này, nhưng với cái nhìn sâu xa của đức tin thì bị «tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục» còn đáng sợ hơn bội phần. Vì thế, thà bị giết thân xác mà cứu được linh hồn mình thì vẫn có lợi hơn. Nhưng than ôi, biết bao người lại sẵn sàng chấp nhận bị «tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục» để tránh khỏi cái khổ cực hay cái chết thể xác, hoặc để thân xác được hưởng những vui sướng chóng qua ở đời này. Trước mặt thế gian, họ được coi là khôn ngoan, nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ là những kẻ ngu xuẩn nhất
3. Tình yêu giải phóng khỏi sợ hãi
Tuy nhiên, chỉ biết so sánh giữa hai tệ hại để tránh tệ hại lớn và chấp nhận tệ hại nhỏ thì có vẻ tính toán quá. Thiên Chúa muốn ta hành động theo sự thúc đẩy của tình thương chứ không chỉ theo sự co cụm của sợ hãi, hay theo sự tính toán hơn thiệt. Thánh Gioan viết: «Tình yêu không biết đến sợ hãi, trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo (1Ga 4,18). Tình yêu giúp ta vượt thắng sợ hãi, để không còn sợ hãi nữa. Hình ảnh một bà mẹ yếu ớt không ngần ngại xông vào căn nhà đang cháy để cứu đứa con của mình đang bị mắc kẹt trong đó là một minh họa sống động nói lên điều ấy. Chính khi thắng được sợ hãi để thể hiện tình yêu, ta mới chứng tỏ được tình yêu ấy là lớn lao và chần thật: «Friend in need, friend indeed» (bạn lúc cùng khốn là bạn thật). Tình yêu – đối với Thiên Chúa và tha nhân – có thắng vượt được sợ hãi mới chứng tỏ là tình yêu chân thực. Thắng vượt được nỗi sợ càng lớn bao nhiêu thì tình yêu của ta càng chứng tỏ được là lớn lao bấy nhiêu.
Chính nhờ tình yêu và lòng nhiệt thành với Thiên Chúa và tha nhân mà ta dám chấp nhận tất cả. Nó giúp ta vượt được những nỗi sợ hãi mà thế gian có thể gây cho ta khi loan báo Tin Mùng, khi làm tông đồ, khi tranh đấu cho chân lý, công lý và tình thương. Càng sẵn sàng chấp nhận đau khổ, sẵn sàng «vác thánh giá» vì yêu thương, ta càng bớt sợ hãi. Tình yêu càng tăng thì sợ hãi càng giảm; do đó sở dĩ sợ hãi nhiều là do yêu thương ít.
4. Niềm tin vào sự quan phòng giúp ta bớt sợ hãi
Nhưng không phải là cứ chứng tỏ tình yêu bất chấp nguy hiểm thì chắc chắn ta sẽ gặp phải nguy hiểm và khốn khổ đâu. Vì Thiên Chúa luôn quan phòng và chở che ta. Đức Giêsu nói: loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Thiên Chúa, huống chi chúng ta là những con người quý giá hơn chim sẻ vô cùng. Chúng ta quý giá trước mặt Thiên Chúa đến nỗi Ngài đã hy sinh Con của Ngài để chúng ta «ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời» (Ga 3,16); và «đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi (Rm 5,8; x. 1Cr 15,3). Vì thế, không có gì xảy ra cho chúng ta mà không do ý muốn yêu thương của Ngài. Do đó, ta đừng sợ khi tình yêu đòi hỏi ta phải dấn thân, khi lòng nhiệt thành tông đồ thúc đẩy ta phải mạnh dạn rao giảng, khi tình yêu đối với người nghèo khổ thúc giục ta phải tranh đấu, lên tiếng cho công lý, chống lại áp bức bất công.
5. Đừng quá sợ nguy hiểm khi làm việc cho Thiên Chúa
Khi sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đã báo trước những khó khăn mà các ông sẽ gặp phải: «Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói» (Mt 10,16); «Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết» (Mt 10,17-18). Nếu Đức Giêsu đã gặp nguy hiểm và bị bách hại, chắc chắn những người tiếp tục sứ mạng của Ngài cũng phải như vậy: «Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là quỉ vương Bendêbun, huống chi là người nhà» (Mt 10,24-25). Nhưng trong bài Tin Mừng này Đức Giêsu đã lập lại 3 lần câu «đừng sợ!» (Mt 10,26.28.31). Trước nguy hiểm mà đừng sợ sao được? Chỉ có tình yêu và hạnh phúc do tình yêu ấy đem lại mới giúp ta thắng vượt sợ hãi và chấp nhận nguy hiểm: «Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế» (Mt 5,11-12). Hoạn nạn vẫn có thể xảy ra để trắc nghiệm niềm tin và lòng trung thành của ta đối với Thiên Chúa: «Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát» (Mt 10,22). Đau khổ vì Ngài, hay chết vì Ngài không bao giờ là vô ích: «Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài» (2Tm 2,11-12; x Rm 6,8; 8,17). Và «những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18).
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Cha dành cho con. Cho con biết đáp lại tình yêu ấy một cách quảng đại bằng sự dấn thân không sợ hãi cho công việc của Cha, cho việc tạo bình an và hạnh phúc cho những người chung quanh con. Xin cho con dám chấp nhận mọi đau khổ có thể xảy đến vì sự dấn thân của con. Chỉ như thế con mới chứng tỏ được tình yêu của con đối với Cha và với mọi người là chân thực.
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay thực sự là điểm quy chiếu cần thiết cho đời sống mỗi ngày trong: TN 12-A62
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay thực sự là điểm quy chiếu cần thiết cho đời sống mỗi ngày trong một thời đại mà con người hầu như đã bị lạc lõng giữa muôn vàn giá trị. Chúng ta thử mường tượng khi lần đầu tiên bước vào một siêu thị, một hình ảnh của thế giới hiện đại, chúng ta thực sự bị hoa mắt, và bối rối biết bao ?
Cuộc sống hôm nay với nền kinh tế thị trường, người ta quen dần với những khái niệm hàng hiệu, hàng nhái, hàng chất lượng cao... nhưng tất cả còn tùy thuộc khả năng tiếp thị: từ những thông tin, từ mẫu mã bao bì, từ cách tiếp cận. Nhưng vấn đề lớn hơn vẫn là sức mạnh của đồng tiền đã mở thông mọi cánh cửa cho cuộc sống, để rồi nó chế ngự mọi cách suy nghĩ, thậm chí còn là thước đo khả năng một con người, một tập thể. Nếu như còn một nhân tố đối trọng nào khác, có khả năng chi phối đồng tiền và sức mạnh của nó, thì có lẽ trong thực tế chỉ còn là bộ máy cơ cấu tổ chức xã hội. Ðó là tất cả lối sống và làm việc của con người hôm nay. Trong cuộc sống này, ai ai cũng có thể thấy rằng thị trường và bộ máy cơ cấu thực ra mãi mãi là một biến động không ngừng, và nhiều khi đi từ thái cực này qua thái cực khác. Chính vì vậy, con người luôn bị giao động bất an. Càng làm lớn, càng phải lo sợ nhiều.
"Anh em đừng sợ" Chúa Giêsu nói với các Kitô hữu như thế. Lời mời gọi kèm theo một cách nhìn khác về cuộc sống: "những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn". Theo đó "kinh tế thị trường" có thể "giết được thân xác" với những quy luật phi nhân của nó. Và "kinh tế thị trường" tuy "không giết được linh hồn", nhưng trong thực tế của con người sau tội nguyên tổ, thì nó có thể giam hãm con người trong vòng tội lụy. Thánh Phaolô đã đặc biệt có những suy nghĩ về vấn đề này trong đoạn thư Roma hôm nay "Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết..." Chúng ta có thể thấy muôn vàn hệ lụy trong xã hội hôm nay: với thời mở cửa, thì cũng là lúc những tệ nạn xã hội: tham nhũng, hối lộ, đầu cơ trục lợi, lũng đoạn thị trường với những sản phẩm nhằm khích động bạo lực, dâm ô, xì ke, ma túy...làm tan nát nền móng đạo đức xã hội là gia đình. Người ta thừa nhận là hợp pháp việc "ly dị", "hôn nhân thử", "phá thai", "ngừa thai"... Hậu qủa là xã hội bất ổn, con người càng ngày càng sống trong lo sợ hãi hùng, và nhất là giới thiếu nhi, bị khuôn đúc thành "sản phẩm phục vụ lợi ích kinh tế", không còn cơ hội đạt tới mức tự do tâm linh vốn là giá trị cao cả tối thượng của một con người. Ðứng trước tình trạng ấy, sự khủng hoảng như một định kỳ không thể tránh, đã xảy ra trong mọi xã hội, cách riêng ở những xã hội phát triển cao, gây nên những đổ vỡ không lường.
Ðức Giêsu không dừng lại ở mức độ một lời mời gọi, Ngài thúc bách môn đệ "Ðiều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng". Ðó là phương thuốc duy nhất có thể tái lập lại trật tự cho xã hội, cho nhân loại. Thánh Phaolô đã đón nhận lệnh truyền này một cách đặc biệt, mà theo Ngài thì tất cả những gì môn đệ đã nghe biết tựu trung chính là Con Người Ðức Giêsu Kitô vì "nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Ðức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người." Chính vì thế "tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ" chính là nhiệm vụ và vinh dự của người môn đệ.
Có nhiều cách để tham gia vào sứ vụ loan báo Ðức Kitô, nhưng cách thế căn bản nhất cho hết mọi người vẫn là một cuộc sống thể hiện niềm tin vào sự quan phòng yêu thương của Chúa Cha như chính Ðức Giêsu. Nếp sống ấy đã được các tiên tri đặc biệt rao giảng, nhiều khi bằng chính đời sống của các Ngài, như trường hợp của tiên tri Giêrêmia làm chứng. Và cũng vì thế truyền thống vẫn nhìn nhận Giêrêmia như là hình ảnh loan báo Ðức Kitô.
Bài đọc hôm nay lập lại bài đọc của Chúa Nhật I mùa Chay năm A, nhưng bỏ đi từ câu 16 đến 19.: TN 12-A63
Bài đọc hôm nay lập lại bài đọc của Chúa Nhật I mùa Chay năm A, nhưng bỏ đi từ câu 16 đến 19.Vậy chúng tôi mạn phép lấy lại phần suy niệm của Chúa Nhật I mùa Chay đã được viết trước đây và sẽ giải thích thêm tại sao bài đọc hôm nay chỉ lấy từ câu 12 đến 15 mà thôi.
Phần thứ hai của chương 5, thư gửi giáo đoàn Rô-ma, trình bày một so sánh giữa A-đam và Ðức Ki-tô.Trình bày này rất quan trọng đối với giáo lý của Giáo Hội về tội nguyên tổ.Mặc dù lối lý luận của thánh Phao-lô lòng vòng, nhưng điểm chính của vấn đề có thể coi như cô đọng ở câu 18:
Tóm lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống.
Một người đã sa ngã.Ðó là A-đam đã không vâng lời Thiên Chúa, ăn trái cây sự sống mà Người đã cấm trong Vườn Ðịa đàng.Hành động bất tuân của ông đã gây nên hậu quả là con cháu ông bị lên án.Nhưng một người đã thực hiện lẽ công chính:Chúa Ki-tô.Hành động công chính của A-đam mới, tức là Chúa Ki-tô, Ðấng đã vâng lời Chúa Cha suốt cuộc đời và nhất là trong Vườn Dầu, vâng lời cho đến chết trên thập giá (xem Pl 2:6-11), đã giải án và phục hồi sự sống cho mọi người. Mục đích của so sánh là để làm nổi bật lên dung mạo Chúa Ki-tô và lượng hải hà của ân sủng và tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại tội lỗi.Nơi A-đam và nơi Chúa Ki-tô có sự đối chọi giữa sự chết và sự sống, giữa Lề Luật và ân sủng, giữa tội lỗi và ơn được nên công chính.Bố cục bài đọc hôm nay rõ ràng.Phần đầu của bài đọc (cc. 12-14) đề cập tới con ngườiA-đam, hành động của ông, hậu quả của hành động ấy là sự chết và sự hiện diện của Lề Luật giúp người ta nhận ra mình yếu đuối chứ không ngăn chặn được quyền lực của tội lỗi.Phần thứ hai của bài đọc (cc. 15-19) nói về Chúa Ki-tô. Thánh Phao-lô đã khéo léo sử dụng cách song đối, nêu lên việc làm của A-đam cùng với hậu quả, rồi ngay sau đó khẳng định một thực tại đối nghịch của ân sủng Thiên Chúa.So sánh nào cũng đưa tới kết luận:ân sủng Thiên Chúa dồi dào hơn cả hậu quả tác hại do sự sa ngã của A-đam (cc. 15 và 20).
Giáo lý trên của thánh Phao-lô trình bày về tội nguyên tổ và ơn công chính hóa giúp chúng ta nhận ra điều này:tình trạng tội lỗi của mọi người trong A-đam đối nghịch với tình trạng đầy ân sủng của mọi người trong Chúa Ki-tô. Như thế, A-đam và Chúa Ki-tô là hai vị nguyên thủ của hai thứ nhân loại:nhân loại tội lỗi và nhân loại được cứu chuộc.Cuộc sống chúng ta thuộc về một trong hai thứ nhân loại ấy.Nếu chúng ta vẫn còn ở trong A-đam, tức là trong con người tội lỗi, thì chúng ta sống trong tội lỗi và sự chết, làm nô lệ cho những dục vọng và ước muốn xấu xa.Nhưng nếu chúng ta ở trong Chúa Ki-tô, chúng ta sống trong ân sủng và Thánh Thần (thánh Phao-lô dành nguyên chương 8 Thư Rô-ma để nói về đời sống này);chúng ta không còn làm nô lệ cho dục vọng và ước muốn xấu nữa, vì quyền lực của Thần Khí Chúa Ki-tô hoạt động trong chúng ta và giúp chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa.
Bài đọc Chúa Nhật I mùa Chay trích dẫn thêm từ câu 16 đến 19 là vì Phụng vụ Lời Chúa muốn nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng của ơn công chính hóa, cần thiết để chúng ta bắt đầu cho một cuộc sống tránh xa tội lỗi và hướng về Thiên Chúa (tức là chủ đề hối cải), một chủ đề cốt yếu của mùa Chay.Còn Chúa Nhật hôm nay, CN 11 quanh năm, Giáo Hội muốn chúng ta học hỏi về đề tài lịch sử cứu rỗi dựa theo giáo lý của thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma.Vì thế Phụng vụ Lời Chúa chỉ chọn phần thánh thư nói lên hai thời điểm của lịch sử cứu rỗi - tức là A-đam và Chúa Ki-tô - để trình bày cách xử lý và hậu quả của hai vị đã ảnh hưởng tới thân phận của nhân loại như thế nào, để rồi kết luận:trong lịch sử cứu rỗi, nếu A-đam là hình ảnh của tội lỗi và sự chết, thì Chúa Ki-tô chính là Ân Sủng, Sự Sống Lại và Sự Sống đời đời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
So sánh của thánh Phao-lô đã giúp tôi nhận ra vai trò của Chúa Ki-tô trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa như thế nào?
Tôi phải hiểu thế nào về lời thánh Phao-lô:"A-đam là hình ảnh Ðấng sẽ tới"?Chia sẻ sau khi đọc Cl 1:15; Rm 8:29; Rm 5:12 và 15.
Tôi đã đón nhận Ân Sủng (là Chúa Ki-tô) và hiệu quả của Ân Sủng (là sự Sống Lại và Sự Sống của Thiên Chúa) như thế nào?Ðâu là chỗ đứng của Chúa Ki-tô trong đời tôi?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài thích hợp, hoặc đọc Thánh ca "Ðức Ki-tô, tôi trung của Thiên Chúa" (Pl 2:6-11) trong Kinh Chiều I các Chúa Nhật, Các Giờ kinh Phụng Vụ.
Ðức Giê-su Ki-tô Vốn dĩ là Thiên Chúa, Mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, Mặc lấy thân nô lệ, Trở nên giống phàm nhân, Sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người Và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, Cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, Muôn vật phải bái quỳ; Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, Mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Ðức Giê-su Ki-tô là Chúa."
Trong xã hội ngày nay, có người vì sợ nghèo đói, sợ lao động mà lao vào một cuộc sống phi đạo TN 12-A64 Luong
Trong xã hội ngày nay, có người vì sợ nghèo đói, sợ lao động mà lao vào một cuộc sống phi đạo đức. Có người trái lại, vì muốn làm giàu nhanh chóng, cũng đã thẳng tay chà đạp nhân phẩm của người khác và của chính mình nữa. Cả hai loại người trên đều đánh mất giá trị làm người và đã gây ra những thiệt hại to lớn không chỉ về kinh tế, xã hội mà còn về tinh thần, đạo đức cho cộng đồng nhân loại. Trong đời sống tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng, cũng luôn có mối đe doạ rình rập giết chết lòng tin của người có đạo. Đó là nỗi sợ hãi. Sợ không kiếm được hay mất việc làm, sợ bị người đời gièm pha, chê cười, khinh khi, sợ bị xã hội kết án và loại trừ chỉ vì họ muốn sống theo những giá trị của Tin Mừng. Không thiếu những Kitô hữu đã đầu hàng, đã thoả hiệp để được yên ổn, để được vinh thân phì da, để được chức tước, địa vị xã hội. Họ sợ những người, những thế lực có thể giết hại họ phần xác.
Tuy nhiên, cũng không thiếu những Kitô hữu, có khi rất bình thường, lại thắng vượt được nỗi sợ hãi ấy, để sống chết với niềm tin vào Thiên Chúa. Họ vững tin rằng mọi sự, mọi chuyện đều nằm trong bàn tay Thiên Chúa. Họ vững tin rằng Thiên Chúa quan phòng và yêu thương mọi người. Họ tin vào lời của Thiên Chúa là Đức Kitô. Khi vượt thắng nỗi sợ hãi, họ thường phải chịu thiệt thòi cách này hay cách khác, có khi liên luỵ tới cả mạng sống, tài sản, danh dự và địa vị xã hội. Họ là những người mà ngay từ đầu, Hội Thánh đã dành cho một danh xưng đầy trân trọng: Martyrion, có nghĩa là các chứng nhân, các vị tử đạo.
Tôn giáo nào cũng có những chứng nhân đích thực của mình. Họ luôn được tôn kính và noi theo. Họ luôn là niềm vinh hạnh của cộng đồng tôn giáo. Nhìn sâu hơn nữa, chúng ta sẽ thấy được rằng: cuộc sống theo niềm tin Kitô giáo luôn là một sự chọn lựa. Trong mọi sinh hoạt như kinh tế, xã hội, văn hoá và chính trị, chúng ta đều được mời gọi sống tin vào Thiên Chúa và phó thác trong tay Ngài. Chúng ta đều được mời gọi chứng tỏ cho mọi người thấy chúng ta nhận ai, theo ai, tin ai, bằng lời nói và bằng việc làm một cách dứt khoát, không hèn nhát, không thoả hiệp, không đầu hàng.
Hơn bao giờ hết, trong lúc xã hội đang đi vào cái thế bất ổn, thì người tín hữu chúng ta nên tự kiểm điểm một cách bình tĩnh và khách quan, để thấy hết được những đòi hỏi của Tin Mừng trong cuộc sống hôm nay, hầu nhờ đó sống trung tín với những lựa chọn của mình. Có như thế, chúng ta mới không hổ thẹn với Thiên Chúa và với dân tộc như lời Ngài đã phán: “Ai xưng tụng Ta trước mặt thiên hạ thì Ta sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta”.
Hãy tin vào sự quan phòng của Chúa và không còn sợ hãi "Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào, phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ." (Mt. 10, 29-31)
* * *
Một người mù dò dẫm bước qua chiếc cầu khỉ dài bắc ngang một con sông rộng. Khi qua được nửa cầu, TN 12-A65
Một người mù dò dẫm bước qua chiếc cầu khỉ dài bắc ngang một con sông rộng. Khi qua được nửa cầu, bất thần anh bị trượt chân và rơi xuống. May thay, anh quơ tay vớ được sàn cầu và cố sức bám chặt vào đó. Thế là người anh đong đưa, lắc lư giữa chừng. Anh cố rướn mình đu người lên nhưng không đủ sức.
Hai cánh tay gầy guộc không kham nổi sức nặng của toàn thân. Anh kinh hoàng tột độ! Sợ rằng lát nữa đây, khi đôi tay không còn sức níu, toàn thân anh sẽ rơi bịch xuống và dòng nước ác nghiệt sẽ kết liễu đời anh.
Đang khi còn treo mình lơ lửng như thế, anh hình dung ra biết bao nhiêu điều khủng khiếp sẽ xảy đến với mình trong chừng mươi phút nữa. Có thể anh sẽ rơi xuống ngay những mõm đá lởm chởm giữa dòng sông và tan xương nát thịt. Rồi sau đó, thân xác anh sẽ bị cuốn theo dòng nước hung tợn và sẽ làm mồi cho tôm cá; người thân sẽ mất công tìm kiếm mà chẳng thấy xác anh đâu... Anh toát mồ hôi lạnh. Anh gào anh khóc thảm thiết, gào thật to để may ra có người nghe thấy và đến cứu mình.
Một số người đi qua thấy vậy bảo rằng: "Đừng sợ! Vì đây là mùa khô và nước sông chỉ cao chừng nửa mét. Buông tay ra đi! Không hề hấn gì đâu! Chân anh chỉ cách mặt nước có một thước thôi mà."
Nhưng anh không tin. Làm sao tin được người lạ! Biết đâu người ta lừa dối anh. Anh vẫn tiếp tục kêu gào, tiếp tục van xin người qua kẻ lại kéo anh lên.
Cuối cùng kiệt sức, anh buông mình xuống trong tuyệt vọng.
Quá bất ngờ, anh rơi xuống dòng nước hiền hoà chỉ cao ngang đầu gối, cách chỗ anh đu đưa chừng hơn một mét. Anh cười lên khanh khách như một gã điên khùng! Cười sung sướng vì tưởng đã chết mà vẫn còn được sống và nhất là cười cho sự khờ khạo, ngu xuẩn của mình.
Như người mù trên đây, cuộc đời chúng ta bị bao trùm bởi vô vàn nỗi sợ do chính mình tạo nên.
Có người đang khoẻ thì sợ những chứng bệnh nan y có thể xảy đến trong tương lai; người đang có việc làm hẳn hoi thì sợ có ngày mất việc và đói khát; người đang còn trẻ thì sợ khi già yếu không ai phụng dưỡng chăm sóc; người đang yên ổn sống trong tiện nghi thì sợ mai đây khi thất cơ lỡ vận, không còn được thoải mái như hiện giờ...
Thế là con người tự tạo ra vô vàn nỗi sợ rồi để cho chúng đe doạ và khủng bố đời mình.
* * *
Nỗi sợ bom còn giết nhiều người hơn cả chính trái bom.
Ngày 30 tháng 8 năm 2005, ngay tại thủ đô Baghdad, giữa lúc có cả triệu người Hồi giáo I-rắc thuộc hệ phái Shiite trên đường hành hương, đang chen chúc nhau băng qua cây cầu Al A'ema bắc qua sông Tigris để tiến về ngôi đền Al-Kadhimiya, bỗng có ai đó la hoảng lên rằng: "có người sắp đánh bom tự sát!".
Thế là cả triệu người hành hương hoảng loạn xô lấn chà đạp nhau nhằm thoát ra khỏi cây cầu, khiến thành cầu gảy đổ làm cho rất nhiều người rơi xuống sông hàng loạt và chết đuối chồng chất trong dòng nước lạnh ngắt; một số khác bị chết ngạt do đám đông đè lên. Con số tử vong lên đến cả 1,000 người. Một tổn thất nhân mạng lớn lao khủng khiếp chỉ vì nỗi sợ bom! Nỗi sợ bom đã sát hại nhiều nhân mạng hơn cả những trái bom có sức công phá lớn nhất!
* * *
Chính vì nỗi sợ gây nên nhiều bất hạnh cho con người như thế, nên qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su ba lần nhắn nhủ chúng ta đừng sợ vì có sự quan phòng che chở của Thiên Chúa; nếu chúng ta có ngã, có rơi thì cũng chỉ ngã, chỉ rơi trong bàn tay êm ái của Người.
"Anh em đừng sợ người đời..." (Matthêu 10, 26)
"Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. (Matthêu 10, 28)
"Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ." (Mt 10, 29-31)
Thế nhưng, như người mù ngu xuẩn kia, chúng ta không dám tin vào lời Chúa dạy, chúng ta vẫn cứ sợ, cứ lo và cứ để cho những nỗi sợ hãi đó đe doạ, khủng bố chúng ta suốt đời.
* * *
Lạy Chúa, xin cho con tin rằng Chúa là Đấng quyền năng hằng che chở gìn giữ chúng con và giúp chúng con vượt qua tất cả phong ba bão táp trên đường đời. Xin cho con tin rằng dù chúng con có vấp ngã và rơi xuống, thì có bàn tay Chúa đỡ lấy chúng con. Và mai đây, khi phải từ giã đời nầy, chúng con sẽ không phải rơi vào cõi hư vô tăm tối nhưng là rơi vào lòng bàn tay nhân ái của Chúa mà thôi.
Một trong những lời khuyên bảo của Chúa Kitô dành cho các môn đệ, trong thời gian ba năm rao TN 12-A66
Một trong những lời khuyên bảo của Chúa Kitô dành cho các môn đệ, trong thời gian ba năm rao giảng Tin Mừng lẫn sau khi từ cõi chết phục sinh, đó là “anh em đừng sợ!”. Bài Tin Mừng Chúa Nhật 12 Thường Niên A một lần nữa cho ta nghe sứ điệp này. Hẳn không là vô cớ khi Chúa Kitô thường lặp đi lặp lại sứ điệp ấy: Đừng sợ! Là con người, chúng ta khó tránh nhiều nổi sợ hãi, có nguyên nhân cũng nhiều mà vô cớ cũng không thiếu: sợ đói, sợ khát, sợ khổ, sợ thất bại, sợ thiên tai, sợ dịch bệnh, sợ gặp phải những điều xúi quẩy, không may… Phúc bất trùng lai mà họa vô đơn chí. Chính vì thế người ta thường hành xử kiểu khôn ngoan, tìm sự an toàn bằng cách không kiêng thì cũng dè. Những hình thức kiêng cử, úy kỵ trong dân gian là một minh chứng về nổi sợ hãi ít nhiều đã và đang hiển hiện. Là Kitô hữu, chúng ta có thoát ra ngoài cái vòng lẩn quẩn của sự bất an ấy không? Là Kitô hữu, hy vọng rằng ít có ai để cho nhiều nổi sợ hãi “vu vơ” khiến mình dây vào những chuyện mê tín. Tuy nhiên thử hỏi có ai dám vổ ngực xưng mình không hề sợ hãi bất cứ điều gì. Có nhiều nổi sợ như sợ đói, sợ khổ, sợ chết… mang tính tự nhiên dễ chấp nhận với kiếp nhân sinh. Tuy nhiên có những nổi sợ thiếu chính đáng cần loại bỏ. Được gợi ý từ ba bài đọc Lời Chúa ngày Chúa Nhật XII TN A, xin được chia sẽ một vài nổi sợ mà ta phải biết nói “không”hay là“ đừng sợ!”.
1. Đừng sợ sống trong sự thật: Xét về bình diện hữu thể, thì chỉ có một “sự thật” duy nhất đúng nghĩa đó là Đấng “có sao, có vậy” (Xh 3,14). Tất cả mọi sự hiện hữu khác khi chúng hiện hữu như chúng là, thì chúng chỉ tham gia hay thông phần vào “sự thật viên mãn” là chính Đấng sáng tạo. Xét về phưong diện luận lý hay tư duy thì sự thật là sự phù hợp giữa nhận thức với thực tại khách quan. Trên bình diện này thì nhận thức của “chiếc bình gốm” quả là có nhiều hạn chế về cả chính nó, đừng nói gì đến các chiếc bình khác hay đến người thợ gốm. Duy chỉ người thợ gốm mới hiểu rõ sản phẩm do mình làm nên.
Không sợ sai lầm khi khẳng định rằng duy chỉ có Thiên Chúa mới là sự thật viên mãn. Vì thế khi ở trong sự thật là ta đang ở trong Thiên Chúa, Đấng chăm sóc chúng ta từ đường đi nước bước đến cả số phận của từng sợi tóc trên đầu chúng ta (x.Mt 10,30). Xác tín được điều này thì lẽ nào ta lại sợ sống trong sự thật.
2. Đừng sợ đón nhận sự thật: Sự thật thì dễ mất lòng nhưng sự thật lại giải phóng chúng ta. Có nhiều khi ta biết sự thật nhưng không muốn đón nhận. Vì sự thật thường đòi hỏi ta phải thay đổi, thay đổi cái nhìn, thay đổi lối sống, đặc biệt khi sự thật lại đến từ những con người vai vế nhỏ hơn ta, chức vụ kém hơn ta. Hơn nữa, khi sự thật đòi hỏi ta phải từ bỏ một kiểu sống, một mối quan hệ hay một mối lợi nào đó. Có thể chần chừ, có thể lần lữa một thời gian, nhưng rồi sẽ có lúc ta phải trực diện với sự thật đó là lúc ta phải giả từ trần thế này.
Một trong những sự thật ta cần đón nhận đó là sự hiện hữu của tội và đầu mối của nó là thần dữ. Tội lỗi ở trong ta, ở giữa chúng ta. Thần dữ luôn rảo quanh ta như “sư tử rình mồi chờ cắn xé” (1P 5,8). Tuy nhiên Thánh Phaolô khẳng định: ở đâu tội lỗi càng lan tràn thì ở đó ân sủng càng chan chứa. Vì sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Đức Kitô (x. Rm 5,15). Đón nhận sự thật này thì thái độ của Kitô hữu chúng ta là sẽ không bi quan yếm thế và cũng không chểnh mảng coi thường nhưng sẽ luôn cẩn trong trong niềm hy vọng.
3. Đừng sợ công bố sự thật: “ Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không só gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10, 26-27). Khi nói lên một sự thật là ta đã mặc nhiên nhìn nhận đồng thời đón nhận sự thật ấy. Và khi đã can đảm nói lên sự thật thì ta cũng đã chấp nhận nhữung hệ quả kéo theo. Ngôn sứ Giêrêmia là một trong những ngôn sứ cảm nhận điều này. Dù được đặt cho biệt danh “ Lão tứ phía kinh hoàng”, Giêrêmia vẫn trung kiên nói lời Chúa dạy. Giêrêmia đã phải gánh bao truân chuyên khốn khó vì đã công bố sự thật. Số phận của Vị Ngôn sứ trên các ngôn sứ là Đức Kitô còn bi thảm gấp bội. “Để làm chứng cho sự thật” (x.Ga 18,37), Đức Kitô đã phải gánh lấy án hình thập giá đau thương.
Cớ sao, đôi khi, đôi lần chúng ta ngại ngần nói lên sự thật? Dĩ nhiên là phải loại bỏ việc “không được nói” những gì theo luật dạy như những sự việc mang tính bí mật an ninh quốc gia, như bí mật tòa cáo giải, bí mật chuyện lương tâm cá nhân… hay “được nói không” tức là từ chối nói sự thật khi gây phương hại đến đức ái… Tuy nhiên, cần thú nhận rằng vẫn có không ít trường hợp “nói không được”, tức là không dám nói sự thật vì những nguyên cớ thiếu trong sáng và thậm chí là mờ ám, đen tối. Chúa Kitô đã tự xưng Người chính là Sự Thật (x.Ga 14,6). Và chúng ta đừng quên Người đã minh nhiên khẳng định: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thẩy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).
Ngoại trừ Mẹ Maria, chúng ta, ai ai cũng dẫy đầy lầm lỗi với kiếp người “đa thọ đa nhục”, càng sống lâu càng nhiều tội lỗi. Một trong những chiêu bài của thần dữ và những người xấu, những thế lực đen tối, để kìm giữ con người trong sự nô lệ, đó là gieo rắc nổi sợ hãi bằng nhiều hình thức. Một vài hình thức thông dụng chúng thường dùng đó là trấn áp, lên án, kết án, loại trừ… Nếu như chúng ta tích cực cộng tác với ơn Chúa dệt xây một môi sinh ắp đầy tình khoan dung, sự tha thứ, ắp đầy tình yêu thương đón nhận nhau, thì chắc chắn ta đã giúp cho tha nhân và cả chính bản thân mình, thêm can đảm ở trong sự thật, đón nhận sự thật và loan báo sự thật. Chính lúc này vương quốc Nước Trời đang trị đến, một vương quốc không hề có bóng dáng của sự sợ hãi.
Trong giây phút đầu tiên đăng quang ngôi Giáo Hoàng, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II TN 12-A67
Trong giây phút đầu tiên đăng quang ngôi Giáo Hoàng, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã để lại lời hiệu triệu và có âm hưởng mạnh trên toàn thế giới, ngài nói: “Đừng sợ, hãy mở cửa lòng đón Đức Kitô”. Lời mời gọi này được gợi hứng từ chính lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ trong bài Tin Mừng chúng ta vưa nghe: “Vậy anh em đừng sợ người ta […] Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 26. 28).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, vững tâm, trung thành và tín thác nơi Chúa, đừng sợ hãi trước những gian nan thử thách. Ngược lại, cần có một đức tin vững mạnh và sống động, để sẵn sàng đón nhận mọi hiểm nguy và ngay cả cái chết khi loan báo Tin Mừng Nước Chúa.
Đừng sợ!
Trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy có nhắc tới 365 từ ngữ “đừng sợ”. Như vậy, hàm ý cho thấy rằng: trong một năm với 365 ngày, tương ứng với 365 từ ngữ “đừng sợ”, tức là con người ngày nào cũng phải đối diện với sự sợ hãi. Vì thế, lời trấn an “đừng sợ” của Đức Giêsu chính là lời làm cho người môn đệ được an ủi trước những sợ hãi, thử thách, đau khổ trong cuộc đời.
Trang Tin Mừng hôm nay, thánh sử Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu tiên báo trước cho các môn đệ về những đau khổ và hệ lụy xảy đến khi các ông loan báo Tin Mừng: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10, 28).
Đi thêm một bước nữa, như một lời đảm bảo, Đức Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ biết trước những công khó của các ông sẽ không bị rơi vào quên lãng, ngược lại sẽ được Thiên Chúa ghi dấu và thưởng công xứng đáng, Ngài nói: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi” (Mt 10, 29).
Tuy nhiên, như một điều kiện cần và đủ, đó là: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10, 32-33).
Khi nói như thế, Đức Giêsu đã vạch ra con đường đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang của các Tông đồ và tất cả những ai tiếp bước trên con đường sứ vụ ấy.
Đặc tính của người môn đệ
Khi tiếp nhận lệnh truyền của Đức Giêsu về sứ vụ truyền giáo, Giáo Hội đã xác định rất rõ bản chất của mình, đó là truyền giáo. Vì vậy, là Kitô hữu, chúng ta không có lý do gì để khước từ sứ mạng cao quý này.
Tuy nhiên, nếu đã cùng một sứ vụ với Đức Giêsu, thì chúng ta cũng cùng chung số phận với Thầy của mình. Nếu Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang, thì người môn đệ cũng không có con đường nào khác nếu muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong mọi hoàn cảnh.
Nếu đường của Thầy là đường của trò. Số phận của Thầy cũng là của trò. Và nếu Đức Giêsu trước kia đi đến đâu cũng có một số người ủng hộ; một số người dửng dưng; và một số người quyết giết chết Ngài cho bằng được, thì đến lượt chúng ta, con đường êm xuôi, bằng phẳng, nhưng lụa, hoa hồng chắn chắn là qua xa lạ. Ngược lại, thử thách, đau khổ, xỉ nhục, bắt bớ và giết chết lại là điều chắc chắn sẽ đến với những ai đi trên con đường ấy, bởi vì: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,24).
Đứng trước những hệ lụy đó, để được thành công với sứ vụ, người môn đệ cần có những đặc tính sau:
Trước tiên là dấn thân:
Nếu vì sợ mà không dám dấn thân thì chưa phải là môn đệ. Đã là môn đệ thì phải dấn thân, mà dấn thân đồng nghĩa với cái chết. Người đời thường nói: “Nếu sợ mà không dám vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con”; hay “ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai” (Nguyễn Bá Học).
Người môn đệ chân chính của Đức Giêsu chính là phải vượt ra khỏi sự an toàn, bảo đảm cho bản thân, để: “Như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16). Nên chúng ta chấp nhận ngay cả khi
bị tổn thương, bắt bớ, tù đầy và cái chết, để miễn sao Tin Mừng được loan báo. Thứ đến là không sợ hãi Chúng ta cũng đọc thấy đây đó những câu chuyện nói về sự gương kiên trì hay vượt khó của các vĩ nhân. Có những người chấp nhận ngay cả cái chết để bảo vệ quan điểm, lý tưởng và lẽ sống của mình.
Cũng vậy, người môn đệ của Thầy Giêsu khi đã chọn Ngài làm chân lý, sự thật, lẽ sống và cùng đích cho cuộc đời, thì lẽ đương nhiên, chúng ta phải đánh đổi và chấp nhận mọi sự, để bảo vệ và đạt được mục đích ấy.
Cảm nghiệm về vấn đề này, Giáo Phụ Tertullianô đã viết như sau:
“Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, tại vì họ đã đi cùng một đường với Chúa. Câu:”Kẻ muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng Kitô hiện hình. Hèn gì mà trên pháp trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường”.
Cuối cùng là biết cậy trông vào Chúa
Thật là mầu nhiệm! Nếu bình thường, bản tính con người ai cũng rất sợ đau khổ và chết chóc, thế nhưng tại sao những môn đệ của Đức Giêsu lại vững tâm, can trường và liều mạng đến như vậy? Thưa đơn giản, đó là vì các ngài đã “Tín thác đường đời cho Chúa và tin tưởng vào Ngài” bởi vì: “Ơn ta đủ cho con” (2 Cr 12,9); và “ hằng ở với con” (Gr 1,10) “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 26,20).
Chính bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói đến sự an bài quan phòng của Thiên Chúa trên cuộc đời của người môn đệ nếu biết cậy trông, phó thác nơi Chúa, Ngài nói: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 30) .
Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, dấn thân lên đường thi hành sứ vụ đến với muôn dân. Hãy đón nhận mọi thử thách gian khổ trong cuộc đời như một điều kiện cần để đạt được sự sống đời đời. Luôn biết phó thác và cậy trông nơi Chúa, vì chẳng lẽ chúng ta xin Chúa con cá mà Ngài lại cho con rắn, hay xin bánh lại cho đá? Không đời nào! Cũng vậy, những lúc nguy biến và khổ đau, Ngài thường vác chúng ta trên vai; hay trước những thử thách, bất trắc, thất bại trong cuộc đời, chúng ta luôn nhớ rằng: Chúa đóng của chính thì Ngài sẽ mở ra cho chúng ta cửa sổ; Chúa đóng đường chính, Ngài sẽ mở đường phụ, và biết đâu, cửa sổ hay đường phụ lại tốt đẹp hơn và an toàn hơn cho chúng ta???
Tin tưởng điều đó, chúng ta hãy can đảm làm chứng cho Chúa, nhất là trung thành với sự thật như lời Ngài đã phán: “Anh em đừng sợ người ta […]. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10, 26-27).
Như vậy, không thể vì bất cứ mối lợi gì mà đánh đổi sự thật. Mất đi sự thật, ấy là chúng ta mất đi căn tính, bởi sự thật thuộc về Thiên Chúa, còn gian dối thuộc về ma quỷ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con trung thành với sứ vụ và đón nhận mọi thử thách đau thương trong cuộc đời. Amen.
It is not death that a man should fear, but he should fear never beginning to live.” Marcus Aurelius, TN 12-A68
It is not death that a man should fear, but he should fear never beginning to live.” Marcus Aurelius, một điệp viên bị bắt và đuợc giải giao tới trước mặt một vị tướng. Ông này cho người tù do thám kia được chọn hoăc bị xử bắn hoặc phải đi qua một cửa đen. Người tù lưỡng lự một chút rồi chọn án tử hình. Khi bản án đuợc thi hành xong, vị tướng nói cùng những người hầu cận: “Người ta thường chọn những gì đã biết hơn là mạo hiểm phiêu lưu đến những gì chưa biết!” Một người liền hỏi: “Thế việc gì sẽ xảy ra sau cánh cửa đen kia?” “Tự do!” vị tướng lạnh lùng trả lời.
Đã có bao lần trong đời sống, khi phải diện đối diện với sự thật, chúng ta thường sợ. Không phải kính sợ Thiên Chúa mà là sợ hãi dư luận. Sợ người này buồn! Sợ người kia bối rối! Sợ ai đó ở gần ở xa suy nghĩ hoang mang. Và cái sợ vẫn vơ mơ hồ không tưởng ấy cứ vương vít. Cứ ám ảnh hằng hằng. Cứ xoáy vào óc. Cứ len lấn vào tim làm ngại bước chân đi. Rồi ngại không dám nhìn vào và nói lên sự thật. Cuối cùng, sự quẫn trí kia đã làm chúng ta sợ Sự Thật. Rồi lạc Đuờng. Và mất đi Sự Sống…
Thật thế, triết gia Bertrand Russell đã viết: “Sợ hãi là nguyên nhân đưa đến mê tín dị đoan và dã man tàn bạo.” Và theo Russell, “chế ngự sợ hãi là bước đầu đưa đến sự khôn ngoan.” Sợ đã làm con người cùn nhụt, bất toại về ý chí: thay vì giúp tiến bước thì kéo thụt lùi dần; chiến thắng trong tay thành chiến bại trong tim. Sợ như một vi khuẩn lan nhanh. Một người sợ thì cả nhà, cả xứ, cả xóm làng đều sợ, như Gilbert Murray nhận xét: “Nếu lao phổi là bệnh dịch trắng thì sợ hãi là bệnh dịch đen.”
Trong diễn văn nhậm chức năm 1933, Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt đã phát biểu: “Điều duy nhất mà chúng ta phải sợ chính là sự sợ hãi.” Nói một cách khác, điều mà chúng ta cần phải chế ngự là sự sợ hãi nếu không thì sự sợ hãi sẽ chế ngự chúng ta.
“Đừng Sợ!” Chúa Giêsu trấn an mỗi chúng ta khi Người đưa tay cho Phêrô run rẫy bấp bênh đi trên mặt nuớc. Và Người đã cảnh tỉnh những ai chỉ biết sợ loài nguời mà lại không mảy may sợ Đấng tạo dựng loài người, vì càng sợ hãi con người bao nhiêu, càng khinh dễ Con Người bấy nhiêu.
Như trong “Dead Man Walking” - một cuốn phim rất cảm động kể lại câu chuyện có thật về Sr Helen Prejean và công việc mục vụ cho những người chờ nhận bản án tử hình, trong đó có Matthew Poncelet. Một đoạn phim, theo tôi, có ý nghĩa nhất là mẫu đối thoại giữa hai người. Poncelet khăng khăng chối tội nhưng rồi lại nói: “Tôi biết Chúa thương và tha thứ cho tôi.” Sr Prejean liền thách thức Poncelet đối diện với sự thật: “Anh không thể cho rằng Chúa sẽ tha thứ khi anh không dám thú nhận tội mình làm!”Rõ ràng là Poncelet chỉ sợ chết chứ không một mảy may sợ Chúa. Nhưng rồi với sự can đảm kiên trì và với lòng nhân ái rất bao dung, Sr Prejean đã giúp Poncelet diện đối diện với sự thật để có thể vững bước chân trên Đường gặp Sự Thật. Và Sự Sống.
Cuốn phim chấm dứt và đã làm cho nhiều người xúc động đến rơi lệ khi Poncelet, ngay trước khi chết, đã thú nhận sự thật ghê tởm mình làm để có thể đạt đến Sự Thật một đời mong muốn. Nếu muốn bước đi trên con Đuờng để Sống và làm chứng nhân cho Sự Thật, chúng ta không nên chiều theo những thị hiếu tầm thường, những lời nói thiếu bề dày suy nghĩ và những cái nhìn thiếu chiều sâu toan tính. Chúng ta phải -ought to- luôn vững tin vào Chúa. Và vào chính chúng ta. Hãy đừng sợ người đời.
Hãy đừng ngại khó khăn. Và như Seneca đã nói, “không phải vì sự việc khó khăn mà chúng ta không dám; vì chúng ta không dám nên sự việc mới khó khăn.” Thuyền đời bé lắm nhưng đại dương thì cơ hồ như vô tận, nhưng không vì thế mà lại lỏng tay chèo vì Thần Linh Sự Thật đang thổi hơi giúp thuyền chúng ta luôn no gió căng buồm…
Đừng sợ chi cả!”. Đó là một mệnh lệnh của Thiên Chúa – đơn giản và ngắn gọn, nhưng không dễ TN 12-A69
“Đừng sợ chi cả!”. Đó là một mệnh lệnh của Thiên Chúa – đơn giản và ngắn gọn, nhưng không dễ thể hiện, đồng thời là lời Ngài động viên mỗi chúng ta. Và đó cũng là nỗi lòng không của riêng ai!
Trong ca khúc “Hát Nữa Đi Em” (Thanh Sơn – Phố Thu) có một thực tế đơn giản mà thâm thúy: “Đời ai không có những tâm sự buồn?”. Dạng câu “phủ định nghi vấn” được sử dụng để làm mạnh nghĩa cách nói xác định, nghĩa là ai cũng có những nỗi lòng thầm kín “không biết tỏ cùng ai”. Chắc chắn nhứ thế! Chỉ có Thiên Chúa biết, bởi vì Ngài thấu suốt mọi sự (1Cr 12:4-6), và vì vậy, chúng ta đừng ngần ngại tâm sự với Ngài về khúc nhôi của riêng mình.
Trình thuật Gr 20:10-13 nói về tâm sự của ngôn sứ Giêrêmia. Ông bộc bạch: “Con nghe biết bao người vu cáo: ‘Kìa, lão Tứ-Phía-Kinh-Hoàng!, hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi!’. Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã. Họ nói: “Biết đâu nó chẳng mắc lừa, rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó!”. Ông Giêrêmia bị người ta ghét và đặt cho một nickname là “Tứ Phía Kinh Hoàng”. Cái lên nghe rất “kêu”, và nó cho thấy rằng thiên hạ ghét ông đữ lắm!
Tuy vậy, ông vẫn tin tưởng: “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên”. Cây ngay không sợ chết đứng. Có ít xít ra nhiều, thậm chí người ta còn đặt điều, bịa chuyện để hại người khác. Có những người không ngại miệng “dựng đứng” câu chuyện gì đó, đúng là giết người không cần dao, cái lưỡi thật đáng sợ!
Với bản tính nhân loại, thấy mình bị người ta xa lánh thì ai cũng cảm thấy buồn, nhưng phải cố gắng vượt qua tất cả để có thể vẫn mãi là chính mình, và không thù hận kẻ đã ghét bỏ mình. Ông Giêrêmia cũng có cảm giác như vậy, nhưng ông đã chiến thắng và thành tín cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, Đấng dò xét người công chính, Đấng thấu suốt tâm can, con sẽ thấy Ngài trị tội chúng đích đáng, vì con đã giãi bày cơ sự cùng Ngài. Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo”. Giữ được niềm tin khi mọi người ủng hộ mình là điều không khó, nhưng giữ được niềm tin khi người khác ghen ghét mình là điều không dễ chút nào.
Với tâm trạng đau khổ, Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Âu cũng vì Ngài, mà con bị người đời thoá mạ, chịu nhuốc nhơ phủ lấp mặt mày. Anh em nhà kể con như người dưng nước lã, hàng máu mủ xem con bằng khách lạ mà thôi. Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân. Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu” (Tv 69:8-10). Độc ác bị hành, hiền lành bị ghét. Chẳng làm sao vừa lòng hết mọi người. Đời là thế! Chấp nhận thực tế đó để lòng mình thanh thản.
Hãy noi gương Thánh Vịnh gia tâm sự với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, phần con xin dâng Ngài lời nguyện, lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi ân. Xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày, vì Chúa vẫn trung thành ban ơn cứu độ” (Tv 69:14). Đừng lo sợ chi, bởi vì tất cả không ngoài ý Chúa: “Chính Người đánh phạt rồi lại xót thương, đẩy xuống tận âm ty trong lòng đất sâu thẳm, rồi kéo ra khỏi đại họa tiêu vong, chẳng có chi thoát khỏi tay Người” (Tb 13:2).
Thánh Vịnh gia tiếp tục cầu xin: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà đáp lại lời con; xin mở lượng hải hà mà đoái thương nhìn đến” (Tv 69:17). Ai cũng là tội nhân nên luôn cần được tha thứ. Cứ kiên tâm cầu nguyện, Chúa vẫn lắng nghe, vẫn biết nỗi lòng của chúng ta, Ngài chưa ra tay vì “giờ Ngài chưa đến” đó thôi. Sự thật mãi mãi là sự thật, không thể khác hơn, bởi vì Thiên Chúa là chân lý, là nguồn sự thật: “Những ai nghèo hèn, xem đấy mà vui lên, người tìm Thiên Chúa, hãy nức lòng phấn khởi. Vì Chúa nhận lời kẻ nghèo khó, chẳng coi khinh thân hữu bị giam cầm. Ca tụng Chúa đi, hỡi trời cao đất thấp, hỡi biển sâu cùng hải vật muôn vàn!” (Tv 69:33-35).
Thánh Phaolô đưa ra hai hình ảnh tương phản: Ông Ađam và Đức Kitô Giêsu – một vị gieo mầm tội, một vị diệt gốc tội. Hai hình ảnh tương phản nhưng vẫn cùng một tổng thể, như đầu mở và đầu khép của vòng tròn. Thật kỳ lạ, Tội Nguyên Tổ được Giáo Hội gọi là “Tội Hồng Phúc” (Felix Culpa – Happy Fault) khi công bố Tin Mừng Phục Sinh (Exultet).
Thánh Phaolô giải thích: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội. Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Ađam đến thời Môsê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Ađam đã phạm. Ađam là hình ảnh Đấng sẽ tới” (Rm 5:12-14). Vì sai lầm mà sinh ra luật. Luật như dây cương cần thiết để kiềm chế con ngựa chứng. Tất cả chúng ta đều là những con ngựa bất kham đối với Thiên Chúa, cần phải được đóng hàm thiếc và cột dây cương trên đường đua về đích là Nước Trời.
Thánh Phaolô giải thích thêm: “Sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5:15). Vẫn là hai hình ảnh tương phản – một bên sa ngã và phải chết, một bên giải thoát và cứu sinh. Kiếp phàm nhân là những chuỗi giằng co giữa thiện và ác, lành và dữ, yêu và ghét, tội và phúc,… Sự giằng co đó liên tục xảy ra mọi nơi và mọi lúc, phải can đảm và mạnh mẽ mới khả dĩ vượt qua chính mình. Đó là nỗi niềm chung của chúng ta, những người mặc xác phàm trong cuộc lữ hành trần gian này. Không hề đơn giản, nghĩa là vô cùng nhiêu khê, vì thế mà chúng ta luôn phải cầu xin Thiên Chúa ban ơn để chúng ta chiến thắng mọi mưu ma chước quỷ – trước tiên là phải chiến thắng chính mình, vì chính mình là nội gián nguy hiểm nhất. Đúng như tiền nhân dạy: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Mọi thứ phải bắt đầu từ chính mình.
Cả trình thuật Mt 10:26-33 (tương đương Lc 12:2-9) là lời động viên của Chúa Giêsu, Ngài khuyến khích chúng ta can đảm nói sự thật và nói công khai, nghĩa là không sợ chi cả. Trong đó, Ngài đưa ra ba cái “đừng” và muốn chúng ta phải cố gắng thực hiện.
Cái “đừng” thứ nhất: “Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”.
Cây kim để trong bọc lâu ngày còn bị lòi ra kia mà. Thế thì chắc chắn chẳng có gì giấu nổi, mọi bí mật sẽ được bật mí – bằng cách này hay cách nọ. Thẳng thắn thì chẳng làm gì phải sợ ai, chỉ những ai “cong queo” thì mới lén lút vì sợ người khác biết. Không sợ người ta nên mới dám ăn to nói lớn, nói công khai, nói rõ ràng, nói huỵch toẹt. Có sao nói vậy là thượng sách, bởi vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32).
Cái “đừng” thứ nhì: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Chúa Giêsu bảo “đừng sợ” những kẻ không đáng sợ, mà hãy sợ Đấng đáng sợ. Ngài giải thích rõ ràng, dẫn chứng cụ thể, so sánh thú vị. Con chim bé nhỏ có đáng chi mà Ngài còn lo cho nó sống thoải mái thì lẽ nào Ngài lại làm ngơ chúng ta, những người được tạo dựng giống hình ảnh Ngài (x. St 1:26-27) chứ? Sợi tóc mong manh còn được Ngài đếm rạch ròi trên đầu mỗi người kia mà! Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta tin tưởng và phó thác, bởi vì Thiên Chúa là Đấng quan phòng và tiền định mọi sự.
Cái “đừng” thứ ba: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Gọi là cái “đừng” thứ ba nhưng không thấy chữ “đừng”. Theo ý thì chúng ta thấy Chúa Giêsu bảo “đừng” chối Ngài. Ai không sợ thì mới không chối Ngài – tức là tuyên xưng Ngài, còn ai sợ thì chối ngay. Không hẳn là nói thẳng rằng “tôi không tin”, nhưng qua động thái có thể chứng tỏ sự chối bỏ Ngài.
Ai hèn nhát mà chối bỏ Thiên Chúa sẽ bị chết thêm lần thứ hai: “Những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ nói dối, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh cháy ngùn ngụt: đó là cái chết thứ hai” (Kh 21:8). Đó là hồ lửa được mệnh danh là “cái chết thứ hai”, nơi dành cho Tử thần và những người không có tên trong Sổ Trường Sinh (x. Kh 20:14-15).
Nỗi lòng của tín nhân luôn được Thiên Chúa lắng nghe và thấu hiểu, còn nỗi lòng của kẻ bất tín thì bị lãng quên mãi mãi!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Ngài thấu suốt nỗi lòng của con, dẫu con ngồi hay đứng, con cười hay khóc. Xin thương cứu con thoát khỏi mọi mưu ma chước quỷ, dù đêm hay ngày. Xin hướng lòng con lên tới Ngài, mọi nơi và mọi lúc. Ngài tri thức siêu phàm, con không thể hiểu nổi, nhưng xin Ngài giúp con biết đón nhận mọi thứ theo Thánh Ý Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Sống trong một thế giới có nhiều thay đổi, biến động như hôm nay, nhiều người hầu như đánh mất TN 12-A70 Dalat
Sống trong một thế giới có nhiều thay đổi, biến động như hôm nay, nhiều người hầu như đánh mất niềm tin, không còn tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa nữa, do đó, họ cố gắng giải quyết mọi sự cố, mọi công việc theo sức riêng của mình. Tuy nhiên, con người có giới hạn, có những sự việc, có những sự cố con người không thể tự mình giải quyết được…Bởi vì, Chúa đã nói:” Không có Ta các con không thể làm gì được “. Lời Chúa trong Tin Mừng của Thánh Matthêu hôm nay không chỉ dành riêng cho mười hai tông đồ, nhưng Chúa căn dặn tất cả mọi người chúng ta phải sống tín thác, phải hoàn toàn đặt trong bàn tay quan phòng của Chúa. Có Chúa chúng ta sẽ không lo âu, hồi hộp, sợ sệt:” Người ta sẽ nộp các con trước quan tòa, nơi đó tòa án sẽ xét xử, lúc ấy các con đừng lo, chính Thánh Thần Chúa sẽ soi dẫn các con “. Thánh Matthêu kết thúc đoạn Tin Mừng này xem ra dễ nhưng không dễ chút nào:” Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ở trên Trời.Ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời “. Chúa Giêsu đã căn dặn các tông đồ hãy can đảm loan truyền lời Chúa và giới thiệu Đức Kitô cho nhiều người. Vâng lệnh Chúa truyền dạy, các tông đồ đã đi khắp nơi loan báo, công bố Tin Mừng không dấu diếm bất cứ điều gì. Tất cả những gì các Ngài đã thấy, đã nghe, đã học được nơi Chúa Giêsu, các Ngài đều loan truyền cách công khai, mạnh mẽ và hết sức dạn dĩ.Các Ngài luôn tín thác, tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, đặt hoàn toàn vào sự quan phòng của Chúa. Đi đâu, và ở bất cứ nơi nào, các tông đồ cũng loan truyền lời Chúa, dạy cho người ta biết Chúa là ai, Tin Mừng là gì và Giáo lý của Chúa giúp ta những gì? Người môn đệ của Chúa phải luôn mạnh mẽ bởi vì có Chúa ơ với họ, có Chúa Thánh Thần hướng dẫn và tác động, ban sức mạnh cho họ.Lời rao giảng của môn đệ Chúa phải trung thực, phải chân chính, có thì nói có, không thì nói không. Các môn đệ phải nói về Đức Kitô Phục Sinh, làm chứng cho Ngài và chỉ cho mọi người Chúa đã chết, đã sống lại vì yêu con người, yêu nhân loại. Các môn đệ, các tông đồ của Chúa ở khắp nơi, vào mọi thời kỳ đều đã phải hy sinh nhiều. Có những nơi người ta lắng nghe lời rao giảng và tin theo, nhưng có những nơi người ta ghen ghét, hận thù và tìm cách làm hại. Gương của các thánh tử đạo ở trong Giáo Hội đã minh chứng điều đó. Ngay thời kỳ các tông đồ, hầu hết tất cả đều bị người ta ghét bỏ, hãm hại và giết chết. Tuy nhiên, máu của các tử đạo đã đổ ra để làm cho Giáo Hội vững chắc. Phêrô và các bạn của Ngài đều anh dũng, hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa, làm chứng cho sự thật, cho những điều các Ngài đã thấy, đã nghe vv…Máu của các Ngài đã đổ ra để xây dựng Giáo Hội vững mạnh. Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, máu của nhiều tín hữu tiếp tục đổ ra để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh, làm chứng cho Giáo Hội duy nhất, thánh thiện và tông truyền. Mặc dầu, máu của nhiều tín hữu hay của hàng Giáo phẩm vẫn còn tiếp tục đổ ra, nhưng tất cả đều hạnh phúc, không hận trù, không trả ân báo oán, tất cả đều vui vì các Ngài đã chết vì Sự Thật, vì Tin Mừng. Vâng, sở dĩ bài Tin Mừng hôm nay nói lên sự thật ấy, vì Tin Mừng cho hay số phận của những người theo Chúa là bị ghét bỏ. Họ bị hận thù, ghen ghét vì chính đời sống của họ, của con người họ đã được máu Chúa Giêsu nhuộm đỏ và như thế, họ khác người khác, họ đã được máu Chúa Giêsu biến đổi: cuộc sống thánh thiện, đạo đức, liêm chính, ngay thẳng, trung thực của họ vv…đã làm cho người khác ghét bỏ, nhưng Chúa nói đừng sợ, hãy tin tưởng, phó thác, tín thác vào Chúa và sẵn sàng làm chứng cho Chúa. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được can đảm, luôn biết tín thác vào Chúa vì tin rằng mọi việc chúng con làm: lời nói, hành động, cử chỉ dù âm thầm, nhỏ bé vẫn có giá trị trước mặt Chúa. Xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con không bao giờ sợ hãi làm chứng cho Chúa trong cuộc sống của chúng con.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ: 1.Tại sao Chúa nói đừng sợ ? 2.Các thánh tử đạo đã nói lên gì ? 3.Những công việc âm thầm của chúng ta thật lòng có giúp gì cho Giáo Hội, cho anh em chúng ta không ? 4.Tại sao sư thần Gabriel lại nói với Đức Mẹ:” Đừng sợ “ ? 5.Ông bà anh chị em phải làm gì để không sợ ?
Bản chất của Kitô hữu là truyền giáo. Mọi người phải trở thành sứ giả Tin Mừng. Sứ mạng thì cao quý, TN 12-A71 Ephata
Bản chất của Kitô hữu là truyền giáo. Mọi người phải trở thành sứ giả Tin Mừng. Sứ mạng thì cao quý, nhưng thực thi sứ mạng đó rất cam go, việc rao giảng đòi hỏi nơi người Tông Đồ một số đức tính mà thiếu nó thì không thành công. Dựa theo bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cho rằng muốn thành công trong việc rao giảng, người tông đồ phải có 3 đức tính sau đây:
I. NGƯỜI TÔNG ĐỒ PHẢI DẤN THÂN
Đứng trước những công việc khó khăn, ai cũng thấy ái ngại. Những khó khăn trong việc rao giảng Tin Mừng không phải là tình cờ hay do may rủi, nhưng đã được Chúa Giêsu báo trước: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” ( Mt 10, 16 ). Con chiên sẽ là mồi ngon cho bầy sói, nguy cơ bị ăn thịt luôn rình rập. Người Tông Đồ phải sống hiền lành như con chiên, sẵn sàng hy sinh tất cả cho Tin mừng.
Chúa Giêsu cũng còn cho biết: số phận của tông đồ là bị bách hại, vì nếu Chúa Giêsu mà còn bị bách hại thì làm sao họ lại tha các môn đệ ? Vì thế, Chúa đã dặn trước: “Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em; anh em chưa đi hết các thành của Israel, thì Con Người đã đến. Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” ( Mt 10, 23-24 ).
Bài đọc hôm nay cũng cho biết Ngôn Sứ Giêrêmia phải loan báo cho dân biết những hình phạt mà Thiên Chúa sẽ trút xuống dân. Những lời loan báo này chẳng hay ho gì đối với dân, lại làm cho họ bực mình, nên họ đã chống đối ông, hành hạ ông và muốn giết ông ( x. Gr 20, 10-11 ). Các Tông Đồ nhận trách nhiệm đi rao giảng lời Chúa cho muôn dân, cũng bị người ta chống đối, hành hạ và giết chết. Các ông đã phải dấn thân vào chỗ nguy hiểm. Số phận các ông cũng giống như Chúa Giêsu.
Những Kitô hữu đầu tiên rất ý thức về sự quan trọng của việc truyền bá Đức Tin. Họ mang trong lòng lời dặn dò của Chúa Giêsu trước khi về Trời là hãy rao giảng Tin mừng cho đến tận cùng trái đất. Tuy nhiên, loan báo Tin Mừng một cách công khai đã không phải là một chuyện dễ dàng, bởi vì, trong thời gian đó, nhiều cộng đoàn Kitô hữu đã bị bách hại. Giữa những người Do Thái, nhiều người xem những người chuyển sang Kitô giáo như là những kẻ phản bội, và tìm cách loại trừ. Làm chứng Đức Tin trong thời kỳ này, đôi khi là liều mạng sống. Chính vì thế mà một vài người bị cám dỗ sống âm thầm, kín đáo, không dám lên tiếng.
Thánh Phaolô là gương mẫu của sự dấn thân trong việc rao giảng Tin mừng. Ngài nói: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Vì vậy, Ngài đã lên đường truyền giáo bất chấp mọi nguy hiểm đang rình chờ. Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô ngài đã cho biết về một số nguy hiểm đã phải trải qua: 5 lần bị đánh 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tầu một ngày một đêm ( 2Cr 12, 24-25 ). Ngài phải được gọi là chiến sĩ của Tin Mừng, anh hùng của Đức Tin, của lòng nhiệt thành, bất chấp mọi gian nan thử thách, bởi vì:
Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, Anh hùng hào kiệt có hơn ai. ( Nguyễn Bá Học )
Chúa muốn cho các Tông Đồ của Ngài phải yêu mến Ngài và dấn thân trọn vẹn trên con đường rao giảng Tin Mừng. Ta thấy khi cưới nhau thì hai người nam nữ hứa hiến thân cho nhau suốt đời. Khi khấn dòng: con hứa với Chúa sống khó nghèo, vâng lời và khiết tịnh. Khi lãnh chức Linh Mục: con có muốn tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa vì phần rỗi mọi người không ? - Thưa con muốn.
Một sự dấn thân trọn vẹn: Chúng ta cùng nhau sống mãi tới già. Đó là một trong những điều cao cả của cuộc sống con người. Những kẻ ngại ngùng dấn thân trọn vẹn sẽ chỉ có một đời sống nghèo nàn ( André Sève, Sương mai, tr. 77 ).
II. NGƯỜI TÔNG ĐỒ PHẢI CAN ĐẢM: ĐỪNG SỢ
Con người không biết sợ được coi là một người can đảm. Nói theo kiểu bình dân, người ta gọi đó là người “có gan cóc tía”. Con người dám liều mạng vì lý tưởng cao cả, không gì có thể lay chuyển được chí khí của họ, không khó khăn nào có thể làm cho họ chùn bước hay bỏ cuộc. Tấm gương sán lạn của thánh Phaolô tông đồ đã chứng tỏ điều đó. Cuộc hành trình truyền giáo của Ngài đã phải trải qua những bước thăng trầm, nhưng không gì làm cho ngài chùn bước: Cũng có lúc mưa dồn sống vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong, Chí những toan xẻ núi lấp sông, Làm nên đấng phi thường đâu đấy tỏ. ( Nguyễn Công Trứ )
Nhưng bình thường, con người có nhiều nỗi lo sợ: sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thấn v.v… Cái sợ làm tê liệt con người: không có sức làm việc, không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống...
Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ: sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không có thiện cảm với Tin Mừng... Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng bảo cho các Tông Đồ: “Đừng sợ”. Ngài đã thấy trước bao nhiêu gian nan khốn khó đang chờ đón các ông khiến các ông nản lòng. Hãy can đảm lên vì đã có Chúa ở bên. Các ông hãy nhớ lại lần vượt biển bị sóng gió đánh tơi bời, tưởng chừng thuyền chìm tới nơi. Nhưng Chúa Giêsu đã can thiệp, sóng gió phải vâng lời Ngài, biển lại trở nên tĩnh lặng như tờ. Ngài khuyên bảo các ông một mặt dựa vào Chúa, một mặt cứ vững tay chèo lái con thuyền đời mình: Chớ thấy sóng cả mà lo, Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng. ( Ca dao )
Chúa Giêsu bảo: “Đừng sợ vì không có gì che giấu mà sẽ không bị tỏ lộ ra, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết”. Ý nghĩa trong câu này là chân lý sẽ thắng. Châm ngôn Latinh có câu: “Chân lý là vĩ đại và chân lý sẽ thắng”. Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II hay nhắc đến đề tài này trong các huấn dụ của ngài.
Khi vua Jacques VI hăm doạ treo cổ hoặc lưu đầy André Meville, ông khảng khái đáp: “Vua không thể treo cổ hoặc lưu đầy chân lý”. Khi Kitô hữu chịu khổ và hy sinh, thậm chí chết vì đạo, thì phải nhớ rằng một ngày kia mọi sự được phơi bầy, lúc đó quyền lực của kẻ bách hại và sự anh dũng của người theo Chúa sẽ được minh giải và mỗi người nhận đúng phần công của mình.
Người Tông Đồ nói điều mình đã nghe Chúa Giêsu và phải nói lại dù phải chuốc lấy oán ghét của người đời, thậm chí có thể toi mạng. Người đời không ưa chân lý vì “chân lý như ánh sáng chiếu vào mắt đau” ( Diogène ). Một lần giáo sĩ Latimer đang giảng, có cả vua Henri dự, ngài biết mình sắp nói một điều vua không ưa. Ở trên toà giảng ngài nói lớn như nói với chính mình: “Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có vua Henri đấy”. Kế đó, ngài ngưng, rồi nói tiếp: “Latimer, Latimer. Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có Vua của các vua đang ở đây”.
Người giảng đạo đem một sứ điệp nói cho loài người, nhưng phải nói trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi chôn John Knox, người ta nói về ông: “Đây là nơi yên nghỉ của một người kính sợ Thiên Chúa đến nỗi không bao giờ sợ hãi trước mặt loài người”.
Chứng nhân Kitô là người không biết sợ, vì biết sự phán xét đời đời sẽ điều chỉnh sự phán xét tạm thời. Người truyền giảng là người lắng nghe cách cung kính, và nói với lòng can đảm, vì xác tín rằng vô luận nghe nói đều ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa.
Các tín hữu thời sơ khai đã gặp bao nhiêu khó khăn, nhưng họ tỏ ra luôn vững tin, không nao núng trước những thử thách. Sử gia Tertullianô đã viết về họ: “Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu ( Christianus ) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, tại vì họ đã đi cùng một đường với Chúa. Câu: “Kẻ muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cũng như bị cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng Kitô hiện hình. Hèn gì mà trên tín trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường”.
Người làm Tông Đồ phải được huấn luyện, tập cho mình biết hy sinh chịu đựng mà không kêu ca phàn nàn. Người làm Tông Đồ hãy theo cách huấn luyện thanh niên ở thành Spartes: Hằng năm, một số trẻ em thành Spartes cử hành lễ Chịu Đựng, các em phải chịu đựng cho roi quất vào mình, máu chảy, thịt rách nhưng không được thối chí hay khóc lóc. Châm ngôn của họ là đau không khóc, đói không than. Ngoài ra, các em phải tự mưu sinh ở trong rừng một thời gian, chiến đấu với thú rừng để sinh tồn.
Chớ gì người Tông Đồ tỏ ra kiên trung, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để một lòng một dạ theo chân Chúa dù phải đòn vọt, gông cùm hoặc phải nhận lấy cái chết:
Chân xiềng cổ lại đeo gông, Chết anh anh chịu, anh không buông nàng. ( Ca dao )
Các vị Truyền giáo đã kể lại một nhân chứng Đức Tin như sau:
Ghèssèssén là một bé trai Ethiopie 12 tuổi, tính tình luôn vui vẻ và sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Em thuộc một gia đình quý tộc lâu đời trong tỉnh Agamie. Ba em, thủ lãnh và khô khan. Ông không bao giờ chấp nhận kẻ khác bất tuân lời ông hoặc chống lại ông.
Lớn lên em được học ở trường Công Giáo Gouala. Tâm hồn em đã bị đánh động bởi các nghi lễ, các lời giảng dạy của các vị Truyền giáo, nhất là gương sống đạo của các em Công Giáo sáng nào cũng đi dự lễ, rước lễ. Em rất thích đạo Công Giáo, ước ao được rước lễ. Nhưng các cha Thừa Sai chưa cho em nhập đạo, vì cần chờ ý kiến của ba má em.
Ngày nọ, em bị ba gọi về. Em hứa với chúng tôi sẽ trở lại ngay ngày hôm sau. Nhưng em đã không xuất hiện lại mấy ngày nay. Chúng tôi đã nghĩ người ta đã dùng vũ lực để giữ em lại. Tệ hơn người ta bắt em từ chối ý muốn theo đạo. Và đây là câu chuyện mà em đã kể cho chúng tôi:
Con đến gặp ba con, cùng đi với con có mẹ con. Ông ôm hôn con, và con hôn đầu gối ba theo như tập tục ở xứ con. Lúc ấy, ông nói với một giọng vuốt ve: "Ta và mẹ đã quyết định cưới vợ cho con, ta chỉ yêu cầu con một chữ: “Dạ”. Con đã trả lời: "Không." Cha con nói gằn giọng: "Mày nói gì ?" Con nói “Không”, vì con muốn được học ở nơi các Cha cố. "Im đi ! Ta muốn mày cưới vợ. Biết đâu mày còn muốn theo đạo Công Giáo !" Thưa cha, con đã là Công Giáo trong tâm hồn rồi.
Nghe các lời này, ông nổi cơn tam bành, hét to: "Đồ bị chúc dữ ! Mày, con của Rèdada, lại muốn trở thành Công Giáo ! Ta thích mày chết đi còn hơn !" Ông nghiến răng, nắm tay đấm. Ông dữ tợn và hung hăng như một con sư tử. Dì con và các binh lính la to: “Phải phạt nó”. Mẹ con thì im lặng. Ba con lặp lại: "Hãy bỏ tôn giáo đó đi ! Nếu không, tao giết mày như một con vật." Con không thể bỏ đạo thánh được, thà chết còn hơn. Ba là ba của thân xác con, nhưng chính Chúa là Cha của linh hồn con.
Thế là một trận đòn với biết bao lằn roi cây, roi da hà mã bủa lên thân xác con rất đau đớn do ba con và các lính của ông đánh đập. Cuối cùng, đao phủ của con thấm mệt và dừng tay. Ba con lại hỏi một lần nữa: Có bỏ đạo Công Giáo không ? Con trả lời: Không, thà chết…
Trải qua mấy ngày liền, bị đánh đập, cho ăn thiếu thốn, trói buộc. Ba con vẫn giữ vững lập trường bắt con bỏ đạo. Ông hứa hẹn, dụ dỗ, đe dọa… Nhưng tất cả đều vô ích ! Ngày 7 tháng 9 vọng lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, cậu can đảm nói với ba cậu: "Cho con đến Gouala, nhà các cha." Vị thủ lãnh Rèdada không còn biết làm gì khác. Ông đồng ý. Trời còn chưa sáng, em đã hăm hở lên đường về lại Gouala.
Một niềm vui lớn lao cho em và cho chúng tôi. Chúng tôi băng bó các vết thương cho em. Em thành khẩn lặp lại ý muốn chịu Bí Tích Thánh Tẩy và Rước lễ. Em nói: "Các cha còn sợ con trở thành kẻ chối đạo nữa sao ? Xin đừng sợ ! Con sẽ không phản bội Chúa Giêsu của con đâu ! Vì Ngài, con sẵn sàng dâng cả mạng sống con."
III. NGƯỜI TÔNG ĐỒ LUÔN TRÔNG CẬY VÀO CHÚA
Trên bước đường truyền giáo, người Tông Đồ không còn biết trông cậy vào ai, chỉ còn biết trông cậy vào sự quan phòng của Chúa. Tuy không thấy Chúa nhưng phải tin rằng lúc nào cũng có cánh tay của Chúa đang hướng dẫn và hộ phù.
Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống: “Ta hằng ở với con” ( Gr 1, 10 ) hoặc “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 26, 20 ). Người tín thác vào Chúa luôn tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không có gì xẩy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” ( bài Tin Mừng hôm nay ).
Người phó thác cho Chúa xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con. Một người cha tốt lành lo cho con tất cả, đem đến cho con những gì tốt lành nhất: “Cha chúng con trên Trời thừa biết chúng con cần gì” ( Mt 6, 32 ).
Một em bé chơi diều, thả con diều lên cao đến độ con diều trở nên như một chấm nhỏ khó có thể trông thấy được. Thấy tay em cầm đầu dây và mặt cứ ngước lên trời, một người qua đường hỏi em: "Em đang làm gì vậy ?" Em bé trả lời: "Cháu đang chơi thả diều." Người kia ngạc nhiên hỏi tiếp: "Diều đâu, tôi không thấy gì ở trên trời cả ?" Em bé thưa lại: "Bác không trông thấy, nhưng cháu chắc chắn là con diều của cháu đang ở trên đó, vì cháu còn giữ được đầu dây trong tay cháu đây mà."
Thiên Chúa cũng thế, người ta không trông thấy Ngài, nhưng có thể cầm được những mối dây, để cảm được sự hiện diện và tình yêu thương của Ngài ( Hạt giống âm thầm, tr. 196 ).
Chúng ta hãy tiếp tục khai triển lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Hãy tìm hiểu câu nói đầy ý nghĩa này: Thiên Chúa đóng kín cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ.
Đây là câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống của đạo sâu xa. Thiên Chúa đóng kín cửa chính đó là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc ta đương đầu với thử thách khó khăn. Lúc đó chúng ta nhớ rằng: Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn, và trước đó ta không ngờ những kinh nghiệm đau thương tiêu cực, mà ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa, để mời gọi ta bước ra một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị ta sẵn sàng đón nhận những hồng ân mới.
Nhìn lại cuộc sống, có thể mọi người chúng ta sẽ cảm nghiệm được những giây phút, Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta.
Khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, thì Ngài sẽ mở ra cửa sổ, chúng ta hãy nhìn trong những biến cố đau thương, tiêu cực xẩy ra trong cuộc đời, với tinh thần tích cực lạc quan và sự tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa. Chính những lúc ta gặp thử thách đen tối, là lúc ta cần tin tưởng phó thác vào Chúa nhiều hơn nữa. Hãy ngắm nhìn thấy những cánh cửa sổ Thiên Chúa mở ra cho cuộc đời mình. Mỗi người chúng ta cần sống trong sự hiện diện của Ngài, cần lưu hướng về Ngài trong việc thực hành cầu nguyện đối thoại với Ngài. Khi gặp thử thách đau thương, chúng ta không nên giảm bớt hay bỏ quên việc cầu nguyện, chạy đến tiếp xúc với Thiên Chúa. Lm. Giuse ĐINH LẬP LIỄM
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh đến bổn phận phải làm chứng, phải TN 12-A72
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh đến bổn phận phải làm chứng, phải tuyên xưng đức tin. Như chúng ta đã thấy: mỗi quốc gia đều có một lá quốc kỳ và người ta sẵn sáng hy sinh tất cả để bảo vệ màu cờ của đất nước.
Mỗi binh chủng có một lá cờ tiêu biểu cho tinh thần anh dũng của mình. Được cầu cờ đi đầu trong các trận đánh hay trong các cuộc diễn binh là một vinh dự lớn. Người ta sẵn sàng chết để nêu cao ngọn cờ, hay để cho ngọn cờ được phất phới tung bay trên phần đất thân yêu.
Một người lính chỉ chu toàn bổn phận khi hăng say chiến đấu. Trái lại, nếu gặp phải khó khăn, nguy hiểm người lính ấy liền chạy trốn, thì đó chỉ là một kẻ đào ngũ, hèn nhát mà thôi.
Chúng ta cũng thế. Trần gian này là một bãi chiến trường, ngọn cờ của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Mỗi người chúng ta là một chiến sĩ. Chúng ta không được phép đào ngũ, nghĩa là đầu hàng tội lỗi, bỏ mặc Đức Kitô để chay theo tiền bạc, danh vọng và lạc thú. Trái lại, ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta phải nêu cao ngọn cờ thập giá cho mọi người nhận biết Đức Kitô. Mỗi người chúng ta phải là một chứng nhân kiên vững và sống động của Ngài.
Trong ngày chịu phép Rửa tội, hạt giống đức tin đã được Chúa gieo vào thửa đất là linh hồn chúng ta. Hạt giống ấy cần phải nảy mầm, đâm bông và đem lại hoa trái tốt tươi.
Đức tin không giống như một trái cóc mà chúng ta vội vã ăn ngấu nghiến cho riêng mình. Đức tin không giống như một đồ vật quí giá mà chúng ta phải cất giấu kỹ càng, kẻo người khác lấy mất đi hay mượn tạm xài đỡ. Đức tin phải là một cái gì mãnh liệt, làm nền tảng cho cuộc đời chúng ta, hướng dẫn từng bước đi của chúng ta. Vì thế, học biết một số kiến thức về đạo giáo, hay nói một cách nôm Ngài là có đức tin mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải giữ đức tin, còn phải sống đức tin và còn phải làm chứng cho đức tin. Đức tin phải biến đổi cuộc đời chúng ta cũng như cuộc đời của những người chung quanh.
Giữa việc sống đức tin và việc làm chứng cho đức tin có một sự liên hệ mật thiết. Thực vậy, muốn làm chứng cho đức tin thì tiên vàn chúng ta phải sống đức tin, đồng thời khi sống đức tin thì chúng ta đã làm chứng cho đức tin rồi đó.
Một ngọn nến khi được thắp sáng, nó sẽ chiểu tỏa cho những người chung quanh, để rồi mỗi người đều được hưởng nhờ ánh sáng của nó. Một nhúm men trộn lẫn trong đấu bột, chắc chắn sẽ làm cho cả đấu bột dậy men. Một chút muối ướp vào thịt, nó sẽ làm cho thịt khỏi ươn thối.
Điều kiện quan trọng và cần thiết đầu tiên đó là chúng ta phải sống đức tin trước đã. Một khi đã sống đức tin thì chínhbản thân chúng ta cũng đã tuyên xưng đức tin và cuôc đời chúng ta đã là một chứng tá cho đức tin. Tuy nhiên, nói một cách cụ thể hơn, chúng ta phải tuyên xưng đức tin, nhưng bằng nhu cách nào?
Trước hết, đó là hãy tuyên xưng đức tin bằng lời nói. Hãy dùng miệng lưỡi để nói về Thiên Chúa, về những công việc tốt đẹp mà vì yêu thương Ngài đã thực hiện cho chúng ta, chứ đừng dùng nó để nói những lời cộc cằn, thô lỗ và xấu xa. Hãy dùng miệng lưỡi để ca tụng quyền năng và tình thương của Chúa cũng như để nhắc bảo hầu giúp nhau thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Có một câu chuyện kể lại rằng: Tuyến đường xe lửa vừa mới được hoàn thành. Sáng hôm ấy, chú bé con bác nông phu trong ấp lấy làm lạ vì thấy một chiếc xe hơi ngừng lại trước cửa nhà mình. Ông giám đốc sở hỏa xa bước xuống và bắt đầu xem xét cây cầu mới bắc. Chú bé tò mò đi theo. Một lúc sau, ông giám đốc quay lại và hỏi:
- Này em, em có biết tôi là ai không?
Chú bé trả lời:
- Chắc chắn ông là người của sở hỏa xa.
Ông giám đốc hỏi tiếp:
- Vậy em có biết tôi đang cần gì hay không?
Chú bé ngây thơ nói:
- Thưa ông, cháu nghĩ rằng ông cần phải xin Chúa tha tội, vì ông đã vi phạm ngày
Chúa nhật, ngày của Chúa hôm nay.
Sững sờ nhìn chú bé, ông giám đốc bèn hỏi:
- Ai bảo em nói thế?
Chú bé thành thật trả lời:
- Chẳng ai bảo cháu cả. Cháu mới chợt nghĩ ra mà thôi.
Ông giám đốc ôn tồn nói:
- Cám ơn cháu đã nhắc cho tôi nhớ lại bổn phận của tôi đối với Chúa.
Tuy nhên, cách tuyên xưng quan trọng hơn cả đó là tuyên xưng bằng chính đời sống gương mẫu, bằng chính những việc làm cụ thể của mình, bởi vì: lời nói bay đi, gương bày lôi kéo. Chính gương sáng mới là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn và hấp dẫn người khác đến với Chúa.
Tại một trường học ở Nagasaky bên Nhật, có tất cả 150 học sinh nội trú, thế nhưng chỉ có một em là công giáo. Trước và sau mỗi bữa ăn, em đều chắp tay cầu nguyện. Những em khác thấy thế liền chế diễu và mách với thày hiệu trưởng. Ngày kia, thày hiệu trưởng kêu em lên văn phòng và hỏi:
- Tại sao em làm như vậy? Em không sợ chúng bạn cười chê hay sao?
Em trả lời:
- Thưa thày, em là người Kitô hữu, em phải cầu nguyện với Chúa luôn. Em không được vô phép lãnh nhận thực phẩm Chúa ban mà không kêu cầu và cảm tạ Ngài. Nghe lời ấy, thày hiệu trưởng bèn úp mặt xuống lòng bàn tay và khóc lên một cách hổ thẹn:
- Trời ơi, thày đây cũng là người tin Chúa, nhưng thày lại chẳng dám tỏ ra cho ai biết. Từ đây sắp tới, nhờ ơn Chúa, thày sẽ cố gắng làm tròn bổn phận của một người Kitô hữu.
Hãy tuyên xưng Chúa bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình, như lời Chúa đã truyền dạy: Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.
Đức Yêsu hôm nay dạy các tông đồ đừng sợ gì và đừng sợ ai. Đức Yêsu không chỉ dạy bằng lời TN 12-A73
Đức Yêsu hôm nay dạy các tông đồ đừng sợ gì và đừng sợ ai. Đức Yêsu không chỉ dạy bằng lời, nhưng Ngài đã sống thái độ tự do này, Ngài không sợ gì ngay cả những người quyền thế muốn tiêu diệt Ngài. Đức Yêsu muốn Kitô-hữu có thái độ tự do của con cái Thiên Chúa như Ngài.
1. Trong cuộc sống người ta sợ nhiều điều
Sợ là một giữa những cảm xúc của con người, là một trong “thất tình”: hỉ (vui mừng), nộ (tức giận), ái (yêu thương), ố (ghét), ai (buồn sầu), dục (ham muốn), cụ (sợ).
Có người sợ sâu bọ, rắn rít, chim chuột. Có người sợ khổ, sợ nghèo, sợ vất vả, sợ chết, sợ bệnh tật. Có người sợ dư luận, sợ người ta nghĩ xấu về mình, sợ người ta chê mình dở, sợ bị tiết lộ tật xấu hay tội lỗi của mình. Có người sợ làm phiền người khác, sợ mang ơn người khác, sợ làm khổ người khác. Chưa hết, có người còn sợ bị tình phụ, sợ không còn được thương, không còn được kính trọng nữa. Có người sợ bị hiểu lầm mà mất tiếng tốt. Có những người sợ phạm tội, sợ sa hoả ngục, sợ ma qủy.
Lo sợ, cũng là chuyện “thế gian thường tình”. Tuy nhiên, có những người sợ điều này điều kia tới mức độ mất ăn mất ngủ, mất bình an, tới mức độ như thể bị tê liệt.
2. Chấp nhận sự thật giúp con người thoát sợ
Với những người sợ sâu bọ rắn rít, có thể có một lý do tâm lý nào đó. Nếu đúng như vậy, chuyên viên tâm lý có thể giúp người ta thoát khỏi điều này.
Về những người sợ ma qủy, sợ sa hoả ngục, sợ phạm tội một cách thái quá, một ý kiến cho rằng có lẽ những người này chưa biết và chưa cảm nhận sâu xa Thiên Chúa Tình Yêu. Dĩ nhiên là ma qủy uy lực hơn con người, nhưng Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng, Ngài không để ma qủy làm hại con người. “Nếu Thiên Chúa phò ta, ai còn chống lại được ta?” Một người quá sợ phạm tội và sa hoả ngục, là vì họ chưa hiểu biết và chưa tín thác vào Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng, Ngài tạo dựng con người để con người được chia sẻ hạnh phúc với Ngài. Chỉ khi con người cố tình từ chối tình yêu thương của Thiên Chúa, họ mới phải sa hoả ngục. Hoả ngục là do họ cố tình chọn. Hoả ngục không là nơi con người lầm lỡ mà Thiên Chúa đẩy con người vào đó không thương xót. Phạm tội, là hành vi tự do của mỗi người. Nếu tôi không muốn, tôi không phạm tội. Nếu do yếu đuối, thì Thiên Chúa yêu thương cũng tha thứ lỗi lầm cho con người. Nếu con người cảm nhận Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng, con người sẽ sống trong an bình.
Có những người sợ nghèo khổ, sợ bệnh tật, sợ chết, sợ bị người ta hiểu lầm hoặc nghĩ xấu cho mình, sợ phải mang ơn người khác, sợ mất người yêu. Họ như vậy, có lẽ vì họ ích kỷ, họ nghĩ đến họ quá nhiều. Họ không dám sống cho tha nhân, ngay cả khi tha nhân là những người thân yêu của họ. “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai mất mạng sống vì Đức Kitô, thì sẽ được lại sự sống”. Đây có thể là những người làm cha làm mẹ không sẵn sàng hy sinh cho con cái, nhưng lại bắt con cái hầu hạ mình; đây cũng có thể là những người chồng người vợ không biết sống vì người yêu mà bắt người kia phục vụ mình; đây cũng có thể là những người con “một mẹ nuôi được năm con, nhưng năm con không nuôi được một mẹ”.
“Không có gì kín mà không bị lộ”. Với những người lo sợ lỗi lầm của họ bị đưa ra ánh sáng, họ nên ý thức rằng dù che đậy đến thế nào, vào ngày phán xét, tất cả những gì con người làm cũng sẽ được phơi bày. “Ai trong các ngươi vô tội, hãy cầm đá mà ném chị này trước đi”. Nếu ai cảm thấy mình có tội, họ nên biết rằng, lòng thống hối thật, hàm chứa thái độ chấp nhận sự thật về chính mình, sẵn sàng chấp nhận việc đền tội “bị công khai hoá”, sẽ giúp người đó tìm được bình an. Không dám chấp nhận sự thật về con người của mình, sẽ làm người đó mất bình an, và đôi khi còn thúc đẩy người đó tội phạm lớn hơn. Thí dụ, vua David ngày xưa muốn phủ lấp tội lấy vợ của bầy tôi, và khi không thành công trong việc che đậy tội này bằng việc dụ Uria về nhà thăm vợ, David liền tìm cách giết Uria qua tay của quân thù. Chấp nhận sự thật về chính mình, là thái độ rất quan trọng để sống trong tình nghĩa với Chúa, để sống bình an và hạnh phúc với tha nhân. Trong mọi trường hợp, con người cần cảm nhận Thiên Chúa là tình yêu. Ngài tha thứ mọi lỗi lầm của con người, và giúp con người sống bình an hạnh phúc trong tình yêu của Ngài.
3. Phó thác đời mình cho Thiên Chúa Tình Yêu
Tiên tri Yêrêmia được trao sứ mạng nói cho dân Chúa biết những gì sắp xảy tới, để họ thống hối và trở về với Thiên Chúa. Dĩ nhiên điều tiên tri loan báo không phải là điều dân chúng thích nghe, vì đó là những tai họa sắp xảy tới. Tiên tri cũng lo sợ vì khi loan báo như vậy, tiên tri bị dân chúng ghét và có thể bị giết. Đã có lúc tiên tri bỏ cuộc vì sợ, nhưng Thiên Chúa vẫn trung thành mời gọi, và cuối cùng tiên tri đã phó thác tất cả đời ngài trong tay Thiên Chúa. Yêrêmia trở thành dụng cụ Thiên Chúa dùng, trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho dân. Khi một người phó thác tất cả mạng sống và tương lai mình trong tay Thiên Chúa tình yêu và toàn năng, họ được tự do và bình an. Sự tự do và bình an này không ai có thể lấy mất được.
Để thi hành sứ mạng Đức Yêsu trao phó, các tông đồ cũng phải tin tưởng và phó thác tương lai đời mình cho Thiên Chúa. Quên mình, bỏ mình, để sống cho Thiên Chúa và tha nhân, sẽ làm con người vượt thắng được mọi sợ hãi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có sợ điều gì hoặc ai không? Nếu được xin chia sẻ. 2. Sâu xa trong lòng bạn, tại sao bạn sợ điều đó hoặc người đó? 3. Làm sao để hết sợ? Làm sao để an bình và hạnh phúc? Đức Yêsu giúp gì cho bạn? 4. Niềm tin vào Thiên Chúa giúp gì cho bạn?
Một mục sư nọ có kể câu chuyện sau: hai người bộ đội chạy vào một giáo đường để trốn các cuộc TN 12-A74
Một mục sư nọ có kể câu chuyện sau: hai người bộ đội chạy vào một giáo đường để trốn các cuộc truy lùng. Khi bước vào giáo đường, họ đe doạ: “Ai không bỏ đạo sẽ bị bắn ngay tại chỗ, ai bỏ đạo đứng sang bên phải”. Có một số người đứng sang bên phải và được thả về nhà ngay. Những người còn lại vẫn hiên ngang chờ đợi cái chết. Khi những kẻ nhát đảm ra khỏi nhà thờ, hai người lính mới hạ súng xuống và ôn tồn nói: “Chúng tôi cùng là Kitô hữu, sở dĩ chúng tôi làm như thế là vì chúng tôi muốn biết ai là người thật sự sẵn sàng chết cho đức tin của mình. Vì chỉ có những người đó mới đáng tin cậy”.
Anh chị em thân mến,
Sống đức tin có nghĩa là sống cho Đức Kitô và vì Đức Kitô. Đó là đức tin được minh chứng bằng cuộc sống can đảm, không sợ tuyên xưng trước mặt người đời, như Chúa Giêsu đã nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Anh em đừng sợ người ta… Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn… Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Tin Mừng hôm nay là một phần của diễn từ về sứ vụ truyền giáo, trong đó Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ về những bách hại đang chờ đợi. Chắc chắn các ông không tránh khỏi lo âu xao xuyến. Hiểu rõ tâm trạng của các ông, Chúa Giêsu đã đưa ra những hình ảnh để các ông so sánh: hình ảnh về người Thầy, Thầy đã bị ngược đãi, thì môn đệ cũng không tránh khỏi. Bị ngược đãi sẽ làm cho môn đệ khiếp sợ, nhưng cũng khiến họ vui mừng, vì là dấu cho thấy họ được nên giống Thầy, đang bước đi trên con đường của Thầy. Cũng vì thế, chẳng có gì khiến họ không dám rao giảng công khai: “điều nghe trong bóng tối, hãy nói ra nơi ánh sáng; điều nghe rỉ tai, hãy rao trên mái nhà”. Các môn đệ không phải sợ hãi, vì công việc họ làm đang được Đấng có quyền trên cả xác lẫn hồn quan tâm. Ngài còn để ý tới chim sẻ ngoài đồng, đến sợi tóc trên đầu, huống nữa là con người đã được tạo dựng nên giống hình ảnh Ngài.
Thưa anh chị em,
Hình ảnh được trưng dẫn cho các môn đệ cũng là hình ảnh Chúa Giêsu muốn gởi đến cho các kẻ tin theo Ngài ngày hôm nay. Ba lần Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Đừng sợ!”Ngài không nói đến cái sợ chung chung. Ngài nói về một loại sợ đặc biệt mà người Kitô hữu cảm thấy khi được mời gọi nói hay làm điều gì tỏ ra mình là người tin theo Chúa Kitô. Chúng ta thường do dự nói những lời giống như Chúa Kitô, làm như Chúa Kitô, vì chúng ta sợ người khác chê cười, châm chọc, sợ bị gọi là người lên mặt đạo đức, sợ mất bạn bè, mất ghế ngồi, mất nồi cơm, thậm chí bị trù dập, bị ngược đãi. Nhìn vào hiện tình Giáo Hội, có lẽ nhiều người muốn thúc thủ an phận: bảo vệ ngọn đèn đức tin của bản thân còn khó khan, huống chi là nói đến chiếu giãi đức tin cho kẻ khác.
Sử gia Tertullianô đã viết: “Những người tin theo Chúa Kitô được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã và phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, bởi vì họ đã đi cùng một đường với Chúa Kitô. Lời Chúa nói: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Thầy”đã thấm nhập vào tâm hồn các Kitô hữu, nên mỗi khi phải đau khổ cũng như bị bách hãi, cấm cách, lời nói đó lại văng vẳng bên tai như chính Chúa Kitô hiện diện nói với họ. Vì thế, trên pháp trường, họ coi gươm giáo nhẹ như lông hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa, Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường, nếu họ chối bỏ Chúa. Họ đã hưởng ứng Lời Chúa: “Anh em đừng sợ kẻ chỉ giết chết thân xác, nhưng phải sợ Đấng có quyền giết chết cả xác lẫn hồn”.
Cái phi lý của con người ngày nay là chỉ sợ loài người mà không sợ Thiên Chúa. Người có đức tin vững mạnh có thể chấp nhận hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ chấp nhận làm điều xấu, trái ngược lương tâm, hay phạm tội ác. Họ không sợ một thân xác tàn phế, họ chỉ sợ một lương tâm hoen ố, nhơ bản. Họ không sợ loài người trả thù, họ chỉ sợ Thiên Chúa trừng phạt. Ngày nay, tuy chúng ta không có dịp hy sinh mạng sống để chứng mình lòng tin như các Thánh Tử Đạo ngày xưa. Nhưng chúng ta có hàng trăm dịp để chúng ta liều mạng, bảo vệ lòng liêm khiết, thực thi công bằng và tình bác ái yêu thương.
Ngày nay, nhiều người Kitô hữu còn bị cám dỗ chối bỏ Chúa một cách tế nhị hơn: Phải chăng là một cách chối bỏ Chúa khi im lặng sống trong một xã hội đầy bất công, tham nhũng, hưởng thụ; một xã hội muốn loại bỏ tôn giáo ra ngoài hay lợi dụng tôn giáo để bênh vực một ý thức hệ phản lại Tin Mừng? Im lặng trong những trường hợp ấy là đồng loã. Hãy can đảm hành động. Vì mệnh lệnh của Chúa Giêsu không hạn chế trong bất cứ hoàn cảnh nào và lời hứa của Ngài cũng không gì làm thay đổi. Có mạnh dạn tuyên xưng Chúa trước mặt người đời, thì mới được Ngài tuyên xưng trước mặt Cha Ngài, Đấng ngự trên trời. Bách hại làm cho những kẻ theo Chúa Giêsu phải đau kho, nhưng đó lại là những cắt tỉa cần thiết để trổ sinh nhiều hoa trái.
Anh chị em thân mến, nếu có những lúc chúng ta lo sợ không muốn đón nhận sứ mạng Chúa trao, xin cho chúng ta biết rằng có thể chúng ta trốn chạy được lúc này, nhưng không thể trốn chạy luôn mãi. Đến lúc diện kiến Chúa, chúng ta sẽ trả lời thế nào về những lần đã chối bỏ Chúa trước mặt người đời? Xin cho chúng ta nhận ra dấu chỉ quan tâm của Chúa để vững mạnh tuyên xưng Danh Thánh Ngài.
Giờ đây, chúng ta sắp được hiệp thông với Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể. Ngài là sự sống của chúng ta. Chúng ta không có gì phải sợ hãi những khó khăn và các vấn đề của cuộc sống hằng ngày. Chúa Kitô mạnh thế hơn, Ngài không bao giờ chối bỏ những kẻ nhận Ngài trước mặt người đời. Ngài cũng sẽ nhận chúng ta trước mặt Cha Ngài, Đấng ngự trên trời.
Trên đời con người có nhiều thứ bủa vây, một trong những thứ đó là cái “sợ”. Càng văn minh con TN 12-A75
Trên đời con người có nhiều thứ bủa vây, một trong những thứ đó là cái “sợ”. Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới. Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui… Nỗi sợ có vẻ gắn liền với sự mong manh của phận người. Người ta sợ nhiều thứ: sợ đau khổ, sợ thử thách, sợ bệnh hoạn, sợ thiếu thốn và nhất là sợ chết… Xem ra, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh con người và dù muốn dù không con người vẫn bị bủa vây bởi trăm ngàn mối hiểm nguy. Thấu hiều điều đó, nên khi dạy dỗ cho các môn đệ, Chúa Giêsu khuyên: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn... Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (x. Mt 10, 28-31).
Lời căn dặn “Đừng sợ” của Chúa Giêsu đã trở thành sức mạnh cho Giáo Hội. Hai mươi thế kỷ sau, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong ngày đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội đã lập lại lời Thầy Chí Thánh: “Đừng sợ”. Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã không ngừng kêu gọi toàn thể Hội Thánh và mọi người trên thế giới “Đừng sợ”:
“Anh chị em đừng sợ đón lấy Chúa Kitô và nhận lấy quyền năng của Người!”.
“Anh chị em đừng sợ! Hãy mở ra, mở toang mọi cánh cửa đón lấy Chúa Kitô! Hãy mở mọi biên giới các quốc gia, các hệ thống chính trị, những lãnh vực bao la của nền văn hóa, văn minh, phát triển cho quyền năng cứu độ của Chúa bước vào”.
“Đừng sợ! Chúa Kitô biết rõ “mọi điều trong lòng người”! Và chỉ một mình Người biết rõ” (Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng – Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô).
Thái độ “không sợ” được Thánh Giáo hoàng Đức Gioan Phaolô II nói đến vượt trên ý nghĩa thông thường là sự bất khuất, không nao núng trước bạo lực, bạo quyền. Không sợ là thái độ vượt thắng sự thủ thế, co về mình, không dám mở ra đón lấy sự cao cả, siêu việt, linh thánh của Tin Mừng Cứu độ và cũng không đủ nghị lực và sự kiên trì đưa Tin Mừng trở thành hiện thực nơi trần gian, xây dựng Nước Chúa ngay trong thực tại trần thế.
Từ “Đừng sợ” lại vang lên trong bài giảng thứ hai trên cương vị giáo hoàng, khi cử hành việc tiếp nhận ngai tòa giám mục giáo phận Rôma, ngày Chúa nhật 12-11-1978, tại nhà thờ Chánh tòa Gioan Latêranô, Đức Gioan Phaolô nói rõ thêm về lời kêu gọi “Đừng sợ”.
Đừng sợ đón lấy và thực thi lối sống Tin Mừng. Đó là sống yêu thương, không hận thù, như chính Đức Kitô yêu thương và đã tha thứ cho kẻ bách hại mình: “Tình yêu thì kiến tạo. Chỉ có tình yêu mới có thể kiến tạo được. Còn thù hận thì phá hủy. Lòng hận thù không kiến tạo được gì hết. Nó chỉ gây đổ vỡ. Nó làm tan nát đời sống xã hội. Nó chỉ có thể gây sức ép đối với những người yếu đuối và chẳng xây dựng nổi một điều gì” (Gioan Phaolô II – Bài giảng lễ nhận nhà thờ Chánh tòa Gioan Latêranô của Giám mục Rôma)
Đừng sợ sống yêu thương trong thế giới còn đầy tràn lòng thù hận. Đó là tín thư của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Một tín thư xụất phát từ sứ điệp Tin Mừng Cứu độ của Đức Kitô. Sứ điệp của niềm Hy vọng:“Hãy làm cho những Lời hằng sống của Đức Kitô đến được với mọi người để họ nghe được Lời của Chúa, sứ điệp của niềm Hy vọng” (Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng – Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô).
Tiếp nối đường hướng của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong ngày lên ngôi, Đức Bênêđictô XVI đã thắp lên lời hy vọng: “Hãy tiến lên phía trước, vì có Chúa ở cùng”. Nếu một phần tư thế kỷ trước là “Đừng sợ”, thì một phần tư thế kỷ sau lại là: “Hãy tiến lên phía trước, Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta. Mẹ Chí Thánh của Người ở ngay bên cạnh chúng ta…”. Và trong Sứ điệp nhân Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXVII, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã viết: “Các bạn trẻ thân mến, đừng sợ phải liều mạng mình cho Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Đó là phương cách tìm được bình an nội tâm và hạnh phúc đích thực”.
Đức Thánh Cha Phanxicô sau khi được bầu làm Giáo Hoàng vào ngày 13-3-2013, Ngài đã là cho nhiều lần dùng kiểu nói “đừng sợ”.
“Thật vậy, sống ở đời làm sao tránh khỏi những căng thẳng, lo âu, sợ hãi khi gặp khó khăn, nguy hiểm. Chính Chúa Giêsu cũng có những lúc bàng hoàng xao xuyến. Khi bảo “anh em đừng sợ” Chúa Giêsu muốn ta đừng để cảm xúc sợ hãi làm tê liệt đời sống chúng ta. Người bảo chúng ta: đừng sợ”. “Đừng sợ” ngay trong mọi biến động, “đừng sợ”, vì “Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ” (Gr 20,13). “Đừng sợ”, khi phải đối diện với đau khổ hay sự chết bởi vì Thiên Chúa, Đấng yêu thương quan tâm chăm sóc chúng ta, vì Ngài là Cha nhân từ, trung tín, thấu hiểu chúng ta cần gì, vì đối với Ngài, chúng ta “quý hơn muôn vàn chim sẻ” (x. Mt 10,31). Ta hãy sống như con thơ phó thác cách đơn sơ trọn vẹn cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, trong mọi công việc.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm sống thật, hành động thật và tin tưởng phó thác nơi Chúa. Đừng sợ những khó khăn thử thách trong đời sống đạo. Đón nhận con đường khổ giá như là điều kiện cần cho phần rỗi của mình. Luôn nhớ rằng khi chúng ta tin và sống đạo, hẳn chúng ta không thể thoát khỏi sự hiểu lầm, chống đối và đôi khi cả cái chết nữa. Tuy nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra ý nghĩa của đau khổ và ngang qua đó, chúng ta sẽ thấy cùng đích của cuộc đời nằm ở nơi Thiên Chúa chứ không phải những thứ mau qua, chóng hết ở đời này.
Lạy Chúa, nỗi sợ làm cho con chùn bước, rụt rè trong đời sống đức tin của con, xin cho con thêm sức mạnh để con không còn sợ hãi Chúa ơi. Amen.
Đức Giêsu đã nhiều lần báo trước về cuộc khổ nạn của Ngài với các môn đệ rằng: “Con Người phải TN 12-A76
Đức Giêsu đã nhiều lần báo trước về cuộc khổ nạn của Ngài với các môn đệ rằng: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại” (Lc 9,22).
Ngài cũng báo cho các môn đệ và những người đi theo Ngài biết rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9,23); “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,23-24); “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16)… Nhìn lại lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy những lời loan báo của Đức Giêsu đã hoàn toàn ứng nghiệm. Chính Đức Giêsu đã bị bắt, chịu khổ hình, chịu đóng đinh và chịu chết trên thập giá. Các Tông đồ cũng đồng số phận với Đức Giêsu, đã chịu chết tử vì đạo (trừ Thánh Gioan). Giáo hội sơ khai bị bách hại liên tục 300 năm. Giáo hội Việt Nam cũng vậy. Và hằng ngày đây đó trên thế giới người kitô hữu vẫn bị bách hại. Tại Ba Lan, Giáo hội vừa phong thánh cho linh mục Jerzy Popiełuszko, người bị mật vụ cộng sản giết năm 1984. Gần đây, Đức Giám Mục Jean Marie Benoît Bala, giám mục Bafia, Camerun bị sát hại một cách dã man trước khi xác Ngài bị quăng xuống sông. Lý do các Ngài chịu đau khổ, chịu chết là vì các Ngài rao giảng chân lý, rao giảng Tin mừng.
Bài đọc I hôm nay, trích sách tiên tri Giê-rê-mi-a, cũng cho chúng ta biết: Vì rao giảng sứ điệp của Thiên Chúa cho dân và vì thẳn thắng cảnh cáo dân về tội lỗi của họ sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt, mà tiên tri Giê-rê-mi-a đã bị dân chúng hãm hại. Nhưng Thiên Chúa luôn ở bên cạnh ông “như người lính chiến hùng dũng” (x. Gr 20,11). Nhờ thế, ông tin tưởng cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa. Đặc biệt, ông can đảm tiếp tục sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho ông.
Cũng thế, sỡ dĩ các Tông đồ và các thành phần trong giáo hội qua mọi thời đại vẫn can đảm chấp nhận đau khổ, tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin mừng chính là nhờ vào sức mạnh đến từ Thiên Chúa. Thật vậy, đi liền với những lời loan báo đau khổ, Đức Giêsu cũng thường trấn an các môn đệ bằng những lời lẽ hết sức thuyết phục như: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Chúa Cha nói trong anh em” (Mt 10,19-20); “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5,11-12); “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ” (Mt 10,22); “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Đặc biệt bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc nhở các môn đệ “đừng sợ” những người bách hại các con.
Tại sao Đức Giêsu bảo các môn đệ đừng sợ?
Lý do thứ nhất Ngài bảo đừng sợ: “Vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà”(Mt 10,26-27). Ý Đức Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng: dù bị bách hại, giết chết thì cuối cùng sự thật cũng sẽ thắng “sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,32). Biết bao nhiêu Kitô hữu đã bị giết chết vì Chúa, vì Tin mừng, vì sự thật…nhưng cuối cùng cũng được lịch sử ghi nhận, Giáo hội suy tôn. Vì thế, chúng ta đừng sợ khi phải dấn thân rao giảng Tin mừng, đừng sợ khi phải tranh đấu, đừng sợ khi phải lên tiếng đòi công lý cho người bị áp bực, lên án sự bất công.
Lý do thứ hai Ngài bảo đừng sợ: “Vì họ giết được thân xác chứ không giết được linh hồn”(Mt 10,28). Lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy, lời khẳng định này của Đức Giêsu đã trở thành hiện thực. Bởi vì biết bao nhiêu thời kỳ bách hại đạo đã qua, biết bao nhiêu chế độ bách hại đạo không còn, biết bao nhiêu người giết các kitô hữu đã chết. Thế mà Giáo hội vẫn tồn tại và phát triển. Giáo phụ Tertuliên nói rằng: “Máu của các vị tử đạo là hạt giống sinh ra nhiều kitô hữu.” Và đa số những người bị giết chết trong các cuộc bách hại đó đã được Giáo hội tôn vinh. Con số các vị tử đạo trong Giáo hội, trong đó Việt Nam chúng ta có 118 vị cho chúng ta thấy điều đó.
Lý do thứ ba Ngài bảo đừng sợ: Vì “các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần”(Mt 10,31). Ý Đức Giêsu muốn các môn đệ và mỗi người chúng tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài đưa ra ví dụ về con chim sẻ và sợi tóc trên đầu, mặc dầu không đáng giá gì nhưng vẫn được Thiên Chúa quan phòng chăm sóc giữ gìn: “Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 29-31).
Không những Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta “đừng sợ” mà chính Giáo hội cũng luôn mời gọi chúng ta “đừng sợ” trước những bách hại, bắt bớ của những người ghét đạo, trước những bất công của xã hội, trước những bạo lực của cường quyền. Giáo hội còn mời gọi chúng ta hãy can đảm đi ngược lại với các trào lưu, các tệ nạn của xã hội. Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi giới trẻ rằng: “Các con đừng sợ đi ngược dòng đời, khi mà các giá trị bày ra cho chúng ta là những giá trị xấu muốn cướp đi hy vọng của chúng ta.” Đi ngược dòng đời, tức là khước từ các nhu cầu ích kỷ, gọt bỏ các thói hư tật xấu…làm được như thế cũng đồng nghĩa với sống đạo hằng ngày, mà “sống đạo cũng cam go không khác gì chết vì đạo.”
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta không sợ bất cứ ai hay bất cứ điều gì. Trong cuộc sống có những cái sợ đến từ bản tính tự nhiên như sợ đói, sợ khát, sợ bệnh tật, sợ tai nạn, sợ chết, sợ ma…Những cái sợ này có thể không bao giờ đến. Còn trong đời sống đức tin, có một điều đáng sợ nhất đó là sợ phải sa hỏa ngục. Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng: “Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục”(x. Mt 10,28). Thật vậy, không sợ Chúa khi chúng ta biết tuyên xưng Ngài: “Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Đó là những khi chúng ta xưng mình là kitô hữu trước mặt mọi người bằng cả lời nói và cách sống. Đó là khi chúng ta sống đúng với giáo huấn của Tin mừng. Đó là khi chúng ta thà chết chứ không phạm tội, thà chết chứ không chối Chúa, không bước qua thập giá. Đó là khi người đời nhận ra chúng ta là người của Chúa của Giáo hội.
Còn chúng ta sợ Chúa khi cố tình từ chối Chúa trước mặt người đời: “Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời” (Mt 10, 32-33). Đó là khi chúng ta chối từ bản chất kitô hữu của mình như: không dám làm dấu thánh giá vì sợ người khác đạo, không sống đúng với giáo huấn của Tin mừng. Đó là khi chúng ta từ chối làm chứng cho Chúa cho Giáo hội…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa để trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng con vẫn không sợ, nhưng can đảm tuyên xưng và làm chứng cho Chúa. Amen.
Sợ hãi là một trong những thất tình của con người. Có lẽ trong đời người, không ai mà không phải TN 12-A77
Sợ hãi là một trong những thất tình của con người. Có lẽ trong đời người, không ai mà không phải sợ hãi trước một điều gì. Vì vậy, để vượt lên trên nỗi sợ hãi luôn là một khát vọng của ý chí con người. Thế nhưng, trong thực tế ta thấy nếu bảo rằng rèn luyện ý chí đến độ không còn biết sợ bất cứ điều gì thì lại là hành vi thái quá, có khi dẫn đến thái độ ngang tàng, kiêu ngạo. Vậy, vấn đề là người ta phải biết sợ điều gì và không nên sợ điều gì.
Trang Tin Mừng hôm nay ở trong bối cảnh sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu.
Sau khi tuyển chọn các môn đệ, Chúa sai họ đi với định hướng duy nhất là loan báo Nước Trời đã đến gần trong thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Chúa cũng tiên báo cho họ về những cuộc bách hại họ sẽ phải trải qua như bị nộp, bị thù ghét vì danh Chúa và họ sẽ đồng số phận bị loại bỏ như Chúa. Chúa biết điều đó làm cho các ông rất sợ hãi nên Chúa đã trấn an và khuyến khích: “Đừng sợ!” vì Chúa luôn hiện diện bên họ. Chúa trấn an họ: một khi đã đặt niềm tin vào Chúa, họ sẽ được yêu thương chăm sóc vì mạng sống con người còn quí hơn chim trời và hoa cỏ đồng nội.
“Đừng sợ!”, là lời Thiên Chúa đã nói hơn 365 lần trong Thánh Kinh để trấn an dân Chúa trong lịch sử cứu độ; và cũng là lời Chúa Giêsu liên tục củng cố niềm tin cho các môn đệ của Người. Vì thế, là những Kitô hữu trong ơn gọi bước theo sứ mạng của Chúa Giêsu giữa lòng thế giới đầy tràn những biến động hiện nay, chúng ta hãy tin rằng: Chúa Giêsu cũng đang nói với mỗi người chúng ta: Đừng sợ! “Lòng anh em đường xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14,1). Đây là một lời trấn an rất cần thiết và có sức nâng đỡ tuyệt vời nhất cho thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta.
Chúa Giêsu tỏ lộ cho các môn đệ thấy những khốn khó các ông sẽ phải chịu, khi kiên vững tin vào giáo huấn của Người và thực thi sứ mệnh Người trao cho. Tuy nhiên Người cũng khích lệ các ông: “anh em đừng sợ …”; Người biết rõ những điều Người rao giảng và truyền cho các ông loan báo cho mọi người là Chân lý Cứu Độ mà Chúa Cha muốn con người đón nhận để được giải thoát; do đó, Đức Giêsu cũng muốn các ông phải mạnh dạn loan báo cho dân chúng nơi các thành thị, thôn làng được biết và các ông phải can đảm đương đầu với những gian truân và bách hại do những kẻ chống đối Tin Mừng gây ra, vì đó là diễm phúc của những người đặt trọn niềm tin vào Người, và nhờ đó các ông chứng thực đức tin và lòng yêu mến Thiên Chúa của mình.
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến điểm yếu kém nhất nơi con người đó là sự sợ hãi: Sợ hãi trước quyền lực thế gian, ma quỷ và đam mê, hưởng thụ vật chất; sợ bị gian khổ, bị người đời chê cười, có người sẵn sàng đánh đổi lương tâm, đánh đổi sự công chính để chiều theo những điều độc ác, gian tà. Còn với các môn đệ, cũng có thể vì không vượt thắng được nỗi sợ hãi nên chần chừ, hoặc không dám thể hiện niềm tin của mình.
Chúa Giêsu một lần nữa nhấn mạnh đến đối tượng của đức tin nơi người môn đệ là: “Thiên Chúa”, Đấng luôn quan tâm bảo vệ, gìn giữ những kẻ Ngài yêu thương và trao ban hạnh phúc cho họ. Thiên Chúa quan phòng yêu thương những kẻ thuộc về Ngài vì Ngài nhân từ, độ lượng và hay thương xót; Ngài đòi hỏi những ai yêu mến Ngài phải hết lòng tin tưởng, cậy trông nơi quyền năng và tình thương của Ngài. Đồng thời Ngài mời gọi phải can đảm, mạnh mẽ tuyên xưng Con chí ái của Ngài là Đức Giêsu Kitô, dung mạo của lòng thương xót và thứ tha Ngài đã dành cho nhân loại.
Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Như vậy hạnh phúc Nước Trời hoàn toàn lệ thuộc vào lòng yêu mến “Con Thiên Chúa làm người” và những ai can đảm sống và thực thi giáo huấn của Người.
Hẳn mọi người con nhớ khi đăng quang trong ngôi vị giáo hoàng, cả hai Đức Thánh Cha: Gioan Phaolô II và Bênêđitô XVI đều nhận lãnh sứ vụ trong thái độ nương tựa vào lời Chúa: “Đừng sợ!”
Vâng, chính niềm xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Giáo Hội như Đầu nhiệm thể của Người, mà Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trở nên một nhân vật xây dựng hòa bình được toàn thế giới mến phục và Đức Bênêđictô XVI mới dám can đảm nhận chức Giáo Hoàng khi đã cao niên. Từ kinh nghiệm này, trong vai trò đại diện cho Chúa Kitô, các ngài lại tiếp tục trấn an các tín hữu: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô” (ĐTC GP II), và “Hãy mở rộng ra những cánh cửa cho Chúa Kitô, và các con sẽ tìm thấy sự sống thật.” (ĐTC Bênêđictô XVI).
Tâm tình này nhắc nhớ người tín hữu biết chắc chắn mình ở trong tay Chúa Cha và đừng sợ bất cứ điều gì. Người tín hữu cũng nên ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu, Đấng Mêsia. Chính xác tín này giúp họ chấp nhận mọi sự, kể cả việc tử đạo, một cách thanh thản.
Tin tưởng vào Thiên Chúa không phải là chắc chắn rằng mình sẽ được giải cứu khỏi thử thách, nhưng là biết vững vàng rằng chuyện mình bị kết án sẽ được biện minh và được đánh giá đúng mức. Ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu làm cho họ vững vàng và can đảm.
Ngày nay, người ta ít tin tưởng vào việc Chúa quan phòng, nên họ cũng không chấp nhận những giá trị và ý nghĩa của đau khổ. Họ mang tâm trạng bất mãn và muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa.
Chúa Giêsu mong muốn nơi các môn đệ trong khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, là phải mạnh dạn can đảm trước những đe dọa của người đời. Phải tin tưởng vào sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì Người hằng quan tâm săn sóc chúng ta. Chúng ta không sợ hãi, thất vọng trước những bắt bớ của người đời. Chỉ có Thiên Chúa là Ðấng chúng ta phải sợ vì Người có quyền lấy mất sự sống đời đời khỏi chúng ta. Nhưng Người cũng là người Cha đầy lòng nhân ái, thế nên chúng ta cứ an tâm.
Là những người tin và đi theo Chúa Giêsu, mỗi tín hữu chúng ta phải nối tiếp sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Cho dù cuộc sống còn nhiều khó khăn thử thách. Chúng ta hãy can đảm tin tưởng vì Chúa luôn ở bên chúng ta.
Ta cùng xin Chúa thêm ơn cho ta để ta can đảm tuyên xưng Đức Giêsu Kitô trong lời nói và trong mọi việc làm; và Loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho mọi người đang sống chung quanh ta.
(Trích trong ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm) "Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".
Suy Niệm:
Chúa nhật trước chúng ta đã thấy quá khứ, hiện tại, tương lai của Dân Chúa cũng như của từng TN 12-A78
Chúa nhật trước chúng ta đã thấy quá khứ, hiện tại, tương lai của Dân Chúa cũng như của từng người trong chúng ta được bao trùm trong lòng nhân nghĩa của Chúa. Người thương chúng ta vô vàn, đã giải thoát chúng ta trong quá khứ, đang phù trợ chúng ta trong hiện tại và sẽ làm cho tương lai chúng ta được hạnh phúc.
Nhưng đó là cái nhìn đức tin. Còn con mắt nông cạn và xác thịt có lẽ chỉ thấy đời nhiều đắng cay. Lời Chúa hôm nay muốn soi sáng chúng ta về phương diện này, để chúng ta thấy lòng nhân nghĩa Chúa bao trùm cả những nét buồn thảm bi đát trong cuộc đời chúng ta.
A. Trước Hết, Lời Chúa Chẳng Bao Giờ Che Giấu Các Ðau Khổ
Cựu Ước cũng như Tân Ước không những mô tả mà còn tìm hiểu khía cạnh cam go trong đời sống con người một cách sâu sắc.
Bài sách tiên tri Yêrêmya hôm nay tuy vắn tắt nhưng gợi lên hình ảnh của một đời người nhiều nước mắt. Vị ngôn sứ ấy đã được chọn ngay từ trước khi thành hình trong lòng mẹ để đảm nhiệm một sứ vụ gay go bạc bẽo. Yêrêmya đã muốn chối nhưng không được. Ông phải ra đi tiên báo những hoạn nạn sẽ xảy tới. Nghe ông nói nhiều, người ta đã dần dần đồng hóa ông với kẻ mang tai ương vạ gió. Người ta tránh ông như tránh dịch, Nhưng đâu được phép rút lui, ông phải theo lệnh Chúa đến phản đối thái độ bất trung của nhà cầm quyền đối với giao ước. Người ta bắt ông, nhốt ông, kết án ông là tên phản bội, bán nước. Ngay họ hàng thân thích cũng khử trừ ông. Vì ông thuộc dòng tư tế, mà muốn cải cách theo Yosyas, chủ trương hủy bỏ hết các nơi tế tự bất xứng ở địa phương để tập trung tất cả phụng vụ trang nghiêm về Yêrusalem.
Xã hội bắt bớ, họ hàng tẩy chay, ông một thân một mình chịu bao đau khổ. Những tiên tri khác còn được hạnh phúc có vợ có con, Yêrêmya được lệnh Chúa sống độc thân để tuyên sấm cho toàn dân biết: tai họa sắp giáng xuống, đừng dại gì mà dựng vợ gả chồng kẻo vợ con sẽ chết đói, chết chém và chẳng được chôn cất. Dân chưa bị chiến tranh và đi đày lê thê... nhưng vì là tiên tri của những biến cố đó, Yêrêmya đã phải sống trước ở nơi bản thân tất cả số phận cay đắng của dân bội bạc. Ông là vị ngôn sứ khổ sở, là hình ảnh của Ðấng sẽ đến gánh tội thiên hạ, là người được chọn để đi vào con đường hẹp. Ông là người đi trước chúng ta về phương diện đau khổ ở đời.
Vì đời chúng ta không phải chỉ mang theo những khổ đau như mọi người, nhưng còn có những gánh nặng khác mà ta có thể gọi chung là thánh giá. Ðó là những đau đớn vì Danh Chúa, dành cho chúng ta là những người được chọn. Ðức Kitô đã nói với các môn đệ của Người: vì Danh Thầy, thế gian sẽ ghét bỏ các con và người ta sẽ giải các con đến các tòa án. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay còn gợi lên cả nỗi lo sợ quằn quại không ngừng: tội lỗi chúng ta hằng phạm có khiến chúng ta mất tin tưởng vào hạnh phúc đời sau không? Ðây là lo sợ cuối cùng, lo sợ ở trước mặt Chúa, đang khi những tai họa và bất hạnh nói trên nằm trong tương quan đối với người khác, với gia đình và xã hội.
Thật, mọi vấn đề đau khổ ở đời đã được Sách Thánh liệt kê và nghiên cứu. Yêremya đã sống giữa cảnh thù nghịch. Ông tiên báo về con người đau khổ của Ðức Kitô; rồi Ðức Kitô lại báo trước cho chúng ta biết thân phận khổ sở của những người theo Chúa. Cuối cùng thánh Phaolô nói lên nỗi lo sợ phập phồng dày vò tâm trí những kẻ biết mình tội lỗi.
B. Nhưng Ðồng Thời Lời Chúa Cũng Dọi Sáng Trên Các Ðau Khổ
Yêrêmya bị ghét bỏ và tấn công tứ phía, nhưng không nao núng, vì như lời ông nói hôm nay: Chúa luôn luôn ở với ông như người chiến sĩ vô địch. Ông sống ở thời Cựu Ước, nên lối diễn tả niềm tin của ông chưa được tế nhị. Ông tin rằng kẻ thù của ông sẽ lao đao, thất bại; sẽ hổ ngươi và nhục nhã. Và niềm tin ấy đã biến thành lời cầu nguyện: xin cho con được thấy kẻ thù của con bị báo thù.
Ngày nay chúng ta không được cầu nguyện như thế vì Chúa Yêsu đã dạy chúng ta phải yêu mến kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ghét bỏ mình. Nhưng chúng ta phải có niềm tin chắc chắn như Yêrêmya. Giữa bao nghịch cảnh và mọi khổ đau, Chúa vẫn ở với chúng ta, không những như người chiến sĩ vô địch, nhưng hơn nữa như một người cha săn sóc đếm từng sợi tóc trên đầu người con, để không một cái tóc nào rụng xuống mà không có ý của Người. Hai con chim sẻ chỉ đáng giá một đồng xu thôi, thế mà Cha trên trời vẫn săn sóc đến chúng. Còn chúng con, chúng con đáng giá ngàn ngàn lần hơn tất cả loài chim sẻ. Nói một cách đơn sơ hơn, những đau khổ rủi ro ở đời không bao giờ được làm chúng ta quên lòng nhân nghĩa Chúa. Chúng ta phải nắm vững niềm tin đã trình bày Chúa nhật trước: quá khứ, hiện tại và tương lai chúng ta được bao bọc trong tình yêu trung tín của Cha trên trời. Yêrêmya đã thâm tín như vậy. Chúa Yêsu nhắc lại cho chúng ta nhớ. Và chân lý là ánh sáng chiếu soi vào các khổ đau mà chúng ta gặp để hiểu rõ chúng là gì.
Chúa Yêsu trong bài Tin Mừng hôm nay nói: chúng không có gì đáng sợ. Thử thách và khổ đau ở đời thoạt nhìn vào thì thấy sợ, thấy ghê. Nhưng chiếu ánh sáng của Chúa vào, và nhìn chúng bằng con mắt đức tin, chúng ta dường như sẽ thấy chúng đang dần dần tan biến. Bản chất của chúng đâu có vững bền? Cuối cùng, tức là chung cuộc thử thách chỉ là những mây mù phải tan để làm tỏ hiện bộ mặt thật của thực tại. Có gì che giấu mà không bị bại lộ; có gì thầm kín mà lại không được công bố ra? Rồi đây Ðức Kitô sẽ ở trên Thánh giá, Người sẽ chiến thắng tử thần, dọi ánh sáng phục sinh vào việc làm của mọi kẻ thù địch Ngài; thế gian sẽ bẽ bàng trong tội lỗi và kẻ tin Ngài sẽ hân hoan. Rồi đây Ðức Kitô cũng sẽ lại xuống trong vinh quang. Ánh sáng vinh hiển Người sẽ phán xét hành động và ý nghĩ thâm sâu của mọi người; thử thách và đau khổ của những kẻ được Người chọn sẽ biến mất như đêm tối tan biến trước ánh sáng mặt trời. Thế nên, nếu con cái Chúa không có gì phải sợ khi đã tin ở sự săn sóc của Cha trên trời, thì các môn đệ của Người cũng chẳng có gì phải hãi khi bị bắt bớ vì tòa án loài người cũng sẽ qua đi khi ngày chung thẩm của Chúa đến. Người ta có thể giết các môn đệ của Chúa, nhưng có nên sợ những kẻ chỉ giết được xác mà không giết được hồn không? Dĩ nhiên người môn đệ muốn được sự bình tĩnh chắc chắn trong mọi thử thách, thì phải có sự tự tin ở trong hồn mình, tức là có thể tin vào giá trị đạo đức của mình ở trước tòa Chúa sau này và bây giờ nơi lương tâm của chính mình.
Nhưng ai dám tự hào thâm tín như vậy? Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay đoán được tâm trạng của chúng ta. Người sợ chúng ta nao núng khi nghĩ đến tội lỗi của mình. Và nguời chiếu ánh sáng tin tưởng vào lương tâm lo lắng ấy khi đề ra chân lý sau đây:
Phải, tất cả chúng ta đều đã phạm tội. Từ Ađam cho tới nay, tội lỗi đã thống trị và tràn ngập. Nhưng chính sự kiện phổ quát của chế độ tội lỗi khiến chúng ta suy đến thời đại phổ quát của ân sủng. Một người đã du nhập tội lỗi vào thế gian để đến nỗi không ai không tội lỗi; thì Thiên Chúa là Ðấng nhân nghĩa và trung tín đã mở màn thời đại ân sủng phổ quát khi ban Con Một Người đến chịu chết vì tội lỗi chúng ta.
Và không thể Ðức Yêsu chỉ giống như Ađam. Người phải trổi vượt ông vô vàn. Thế thì chế độ ân sủng mà Người đã khai mạc cho thời sau hết này phải vượt xa thời kỳ tội lỗi xưa đã bắt đầu với Ađam. Chúng ta có kinh nghiệm về thời đại tội lỗi xấu xa này, thì chúng ta càng phải có lòng tin sâu xa hơn nữa về thời kỳ ân sủng do Ðức Kitô sáng lập.
Tin như vậy, không ai còn có thể nghĩ mình không được chan chứa ân sủng. Và đời sống tuy nhiều khổ đau và tội lỗi, tuy nhiên nước mắt như đại dương và đầy bất công bất hạnh, đức tin bảo chúng ta phải quả quyết ân sủng của Ðức Kitô còn mênh mông dư đầy bội phần. Và những gì chúng ta đã nói về lòng nhân nghĩa của Chúa đối với con người, vẫn còn đúng mãi, mặc dầu đời người có thể là bể khổ.
C. Thế Thì, Thái Ðộ Của Chúng Ta Phải Thế Nào?
Yêrêmya đã kết thúc bài nói về đau khổ mình gặp bằng một lời kêu gọi tin tưởng. Ông nói: hãy ca tụng Chúa; hãy ngợi khen Người vì Người sẽ cứu mạng sống kẻ khó nghèo khỏi tay kẻ cường bạo. Lòng tin tưởng của ông không phải vô điều kiện. Chúa sẽ cứu người nghèo khổ. Tin Mừng của Người sẽ chỉ được rao giảng cho những con người ấy. Nói đúng ra, chỉ hạng khó nghèo mới đón nhận Tin Mừng của Chúa và do đó mới được cứu độ. Mà khó nghèo hay nghèo khó Phúc Âm, trước hết là tin tưởng tín nhiệm hoàn toàn vào Chúa và chỉ cậy dựa trông cậy vào Người mà thôi, tức là phải lấy nhân nghĩa đáp trả nhân nghĩa.
Và lòng tín nghĩa chân thật ấy phải được chứng tỏ rõ ràng, đặc biệt khi bị thử thách. Chính Chúa Yêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã tuyên bố rõ ràng: ai xưng Ta ra trước mặt người đời thì Ta cũng xưng kẻ ấy ra trước mặt Cha Ta; còn ai chối Ta trước mặt người đời thì Ta cũng chối kẻ ấy trước mặt Cha Ta.
Ðiều kiện này có thể khiến lòng nhiều người áy náy. Thế nào là xưng Chúa ra trước mặt người đời? Ðeo ảnh, làm dấu đọc kinh trước khi ăn cơm, đi dự lễ ngày Chúa nhật, là những hành vi tuyên xưng Chúa? Bao giờ cũng phải làm? Và có khi nào được miễn không?
Ở đây, không ai có thể đưa ra một câu trả lời gãy gọn áp dụng cho hết mọi trường hợp. Muốn có câu giải đáp phổ cập này, có lẽ chúng ta phải vươn lên trên mọi vấn nạn cụ thể. Và hãy hỏi thế nào là tuyên xưng Chúa ra trước mặt người đời?
Ảnh đeo nhắc người ta nhớ đến Chúa; nhưng chưa chắc người nào đeo ảnh cũng tuyên xưng Chúa ra. Ðã có những người đeo Thánh giá vàng để trang trí và có thể có những người mang thập tự lớn để phản chứng, không phải vì Danh Chúa nhưng vì mình và vì quan niệm của riêng mình. Và chúng ta cũng có thể nói tương tự về việc làm dấu, đọc kinh, đi lễ v.v… Nói tóm, giá trị không nằm ở việc làm, nhưng ở niềm tin. Thánh Phaolô đã nói như vậy. Ðiều quan trọng là mỗi người phải tự hỏi về niềm tin của mình. Và chính niềm tin ở trong mình sẽ phán đoán các hành vi của chúng ta. Và chắc chắn người có đức tin mạnh mẽ sẽ biết cư xử đúng với sự tự do của con cái Thiên Chúa, nghĩa là luôn luôn biết phải làm gì và không cần làm gì để tuyên xưng Chúa ra trước mặt người đời.
Giờ đây cũng vậy, Thánh lễ sẽ cử hành ở giữa chúng ta. Lẽ ra mọi người sẽ tuyên xưng niềm tin một cách hết sức chân thành. Nhưng biết đâu và không ý tứ thì sẽ có những kẻ xem lễ mà không dự lễ. Vì xem lễ thì chỉ cần mắt nhìn vào, nhưng dự phần thì phải dấn thân, đem tâm hồn mình đến thông phần Mình Máu Ðức Kitô.
Ai thật sự tham dự lễ tế này mà không thấy Thiên Chúa yêu thương mình, đến nỗi ban Thịt Máu Người cho chúng ta? Và ai thật sự đáp trả tình yêu của Người lại có thể lo sợ các thử thách trong đời sống? Vì cả khi sống giữa đau khổ, người yêu Chúa vẫn cảm thấy sâu xa mình được Chúa yêu. Và với tình yêu ấy Thánh Thần đã đổ được đổ xuống trong lòng chúng ta để một sự an ủi ngọt ngào vẫn tràn ngập tâm hồn của những thân xác đang bị đau khổ. Ðó là niềm tin, là lẽ sống của chúng ta. Chúng ta hãy mạnh dạn tuyên xưng.
“Điều Thầy nói với anh em trong bóng tối thì hãy nói ra giữa ánh sáng” (Mt 10,27)
I. Dẫn vào Phụng vụ Lời Chúa
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay nhắc nhở cộng đoàn chúng ta về sứ mạng loan báo Tin Mừng TN 12-A79
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay nhắc nhở cộng đoàn chúng ta về sứ mạng loan báo Tin Mừng, tuyên xưng Đức Giêsu Kitô, bất chấp những trở ngại, bách hại và khổ đau.
1. Bài đọc 1 trích sách ngôn sứ Giêrêmia
Trước hết, trong bài đọc thứ 1 trích ngôn sứ Giêrêmia (Gr 20, 10-13), chúng ta đã nghe mô tả về cuộc đời của tiên tri Giêrêmia. Ông đã được Thiên Chúa tuyển chọn từ trong lòng mẹ để đảm nhận một sứ vụ đầy cam go, khó khăn và bạc bẽo. Mặc dù, ông không muốn, nhưng ông vẫn phải ra đi loan báo cho mọi người biết những tai ương mà Thiên Chúa sắp giáng xuống trên dân Người vì tội lỗi của họ. Vì vâng phục ý Chúa, ông đã bị mọi người ghét bỏ, bị xã hội bắt bớ, bị họ hàng tẩy chay và bị nhiều người chống đối. Họ đặt cho ông cái tên: “Lão tứ phía kinh hoàng”. Ông cảm thấy trơ trọi một mình trong đau khổ. Là tiên tri, ông sống trước nơi bản thân số phận cay đắng của dân bội bạc. Tất cả chỉ bởi một nguyên do, là trung thành với sứ vụ loan báo Lời Chúa.
Tuy bị ghét bỏ và tấn công tứ phía, nhưng Giêrêmia vẫn trung thành với sứ vụ, bởi vì như lời ông nói: “Chúa luôn ở với tôi như một trang chiến sĩ oai hùng”; hoặc bởi lý do sâu xa hơn như lời tâm sự của ông: “Tôi đã định không nghĩ đến Người nữa, không nhân danh Người mà nói nữa, nhưng Lời Ngài cứ như ngọn lửa bùng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt, khiến tôi không thể nén được”. Vì thế, sứ vụ loan báo Lời Chúa như một định mệnh phải thi hành, phải ưu tiên và Thần Khí Chúa ban bảo đảm cho việc hoàn thành.
2. Bài Tin Mừng hôm nay là diễn từ của Chúa Giêsu về Truyền giáo.
Trong Tin Mừng hôm nay (Mt 10, 26-33), Chúa Giêsu tiếp tục dạy các Tông đồ về sứ mạng rao giảng Tin Mừng: “Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, các con hãy nói ra nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy công bố trên mái nhà”. Lý do cấp thiết là hiện nay nhân loại còn nhiều dân tộc chưa được đón nhận Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa. Như trường hợp, hiện nay Tin Mừng chưa đến được với 93% dân số Việt Nam, dù rằng Tin Mừng đã được khơi động từ 500 năm rồi. Nguyên nhân phải chăng vì người Công Giáo Việt Nam còn dửng dưng không bận tâm xem việc loan báo Tin Mừng như trách nhiệm của Kitô hữu, hoặc bởi ngại ngùng, bởi họ sợ hãi, không dám thực hiện lời dạy của Chúa.
Đức Giêsu báo trước các Tông đồ sẽ bị bách hại, nhưng Ngài khuyến khích họ đừng sợ chi cả. Bởi vì khi bị bách hại là họ được vinh dự chia sẻ thân phận của Thầy mình. Lý do khiến các môn đệ không phải sợ, đó là “sứ điệp vĩ đại về Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ”. Dù thế nào, Tin Mừng cứu độ cũng sẽ được tỏ hiện vinh hiển. Hơn nữa, những kẻ bách hại cũng chỉ có thể “giết được thân xác; còn duy mình Chúa mới có thể tiêu diệt trọn con người, cả thân xác và linh hồn”.
Người Tông đồ còn được Chúa bảo vệ. Bất cứ điều xảy đến cho họ cũng nằm trong kế hoạch quan phòng khôn ngoan và yêu thương của Thiên Chúa. Nếu họ tuyệt đối tin tưởng vào Chúa, và trung thành làm chứng cho Chúa trước mặt người đời, thì Ngài cũng sẽ bênh đỡ họ trước tòa Thiên Chúa.
Từ khi đi rao giảng Tin Mừng, chính Chúa Giêsu đã dạy nhân loại: Thiên Chúa là Cha, Người luôn luôn chăm sóc và yêu thương chúng ta. Đúng vậy, Chúa quan phòng cai trị muôn loài muôn vật Chúa đã tạo nên, từ những cái vĩ đại cũng như những cái bé nhỏ. Chúa chăm sóc con người như thể người Cha nhân lành: “Nào người mẹ có thể quên con mình không? Và cho dù người mẹ có quên con mình đi nữa, Chúa cũng không quên chúng ta”; “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”; “Anh em cũng thế, sợi tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”; “Hãy xem chim trời, chúng không gieo vãi thế mà Cha anh em vẫn nuôi chúng; Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng, Chúa còn mặc cho chúng đẹp đến thế, phương chi anh em Chúa còn săn sóc hơn nhiều”.
Thế nên, thái độ của người thừa sai trong khi thi hành sứ vụ là bất khuất trước những đe dọa của người đời, và phải hoàn toàn tin tưởng nơi Ngài. Các ông phải chứng tỏ một cách vô điều kiện là các ông thuộc về Ngài, và tin vào sứ điệp của Ngài, cũng như hợp nhất với Ngài để được sự sống của Ngài.
II. Lời Chúa mời gọi người Kitô hữu sống chứng nhân Tin Mừng.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào thực tế cuộc sống và tỏ ra thái độ phù hợp với người có lòng tin. Từ chuyện phải vất vả kiếm sống đến chuyện tương lai của con cái và những khó khăn trong việc sống đạo; từ việc sợ bệnh tật, sợ mất tiếng tốt, sợ phải xa mất người thân... chúng ta được mời gọi để múc lấy ánh sáng của Tin Mừng, và chiếu dọi vào những thực tế ấy để chúng ta vừa tin tưởng và phó thác nơi tình yêu vô biên của Thiên Chúa, vừa quyết tâm chu toàn bổn phận hiện tại. Đó chính là “hành trang” cốt yếu của người Kitô hữu hôm nay.
Là môn đệ của Chúa, chúng ta luôn xác tín rằng “môn đệ không hơn Thầy, tôi tớ không hơn chủ”. Chúa Giêsu đã đi con đường của nghèo khó, thua thiệt, bách hại, thập giá, của tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ đề ra một lý tưởng, một con đường để đi theo, Ngài chính là con đường là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta sống kết hiệp với Ngài chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử thách. Chúng ta tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thân xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.
Sau nữa, dầu muốn hay không, đã là môn đệ của Chúa Giêsu, người Kitô hữu còn phải làm chứng cho Tin Mừng. Làm chứng trong nhà thờ khi dâng lễ hay khi đọc kinh vẫn chưa đủ, mà còn phải làm chứng trong cuộc sống hằng ngày, mỗi lời nói, cử chỉ, hành động phải là những lời chứng, đan cử như đeo thánh giá trên ngực, buôn bán ngoài chợ, làm việc nơi công sở, nơi xí nghiệp, bất cứ ở môi trường nào cũng thực hiện công bằng bác ái, quảng đại yêu thương: tất cả những điều ấy là những lời chứng chứ không phải chỉ việc tử đạo mới là lời chứng. Và khi chúng ta làm chứng cho Chúa thì đây hẳn là mối lợi cho chúng ta, như Chúa đã đoan hứa: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng Ngự Trên Trời”.
Kết Luận:
Lạy Chúa, xin Chúa ban ơn đức tin cho chúng con, để chúng con biết an vui cậy trông nơi Chúa, dù đời chúng con luôn gặp nhiều thử thách gian lao, để chúng con trở thành nhân chứng cho tình yêu Chúa trước mặt mọi người. Xin cho chúng con luôn trung thành yêu Chúa cho dù chúng con phải chịu nhiều thiệt thòi và hy sinh, vì chúng con biết rằng Chúa luôn đồng hành với chung con trên đường đời. Amen.
Những lời Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay thật mạnh mẽ và cương quyết. Ngài vẽ ra TN 12-A80
Những lời Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay thật mạnh mẽ và cương quyết. Ngài vẽ ra khuôn mặt của người môn đệ: phải công khai rao giảng những gì đã được nghe. Không sợ bị bách hại, nhưng tin cậy tràn đầy, vì Thiên Chúa vẫn kề cận bên chúng ta, giữ gìn mạng sống của chúng ta, và Ngài là Thiên Chúa toàn năng.
Chúng ta biết điều đó, nhưng chúng ta vẫn e sợ. Ai trong chúng ta vui mừng đi đến cái chết khốc liệt như thánh Inhaxiô Antiôkia đã vui mừng như đi vào lễ hội? Ngài mong ước được nghiền nát dưới hàm răng của thú dữ để được ở cùng Chúa Giêsu. Giáo dân muốn cứu ngài khỏi chết, nhưng ngài xin họ đừng làm gì cả, đừng ngăn cản ngài trở thành mồi cho thú dữ. Ngài chỉ mong được thành một với Chúa của ngài thôi. Đó là người môn đệ chân chính của Chúa Kitô. Còn chúng ta? Chúng ta có vui mừng chịu mọi sự khốn khổ vì Chúa không? Tại sao? Vì chúng ta không yêu mến Chúa. Yêu ai, người ta thường làm bất cứ điều gì để làm đẹp lòng người mình yêu, dù phải hi sinh, khổ cực. Nếu chúng ta thực tình yêu mến Chúa, thì chúng ta sẵn sàng chấp nhận mọi hi sinh vì Ngài. Chúng ta chưa phải là môn đệ của Chúa. Có lẽ Chúa phải hỗ thẹn vì chúng ta trước mặt Cha Ngài. Có lẽ nhiều người trong chúng ta có thiện chí nhưng không đủ can đảm.
Chúa Giêsu bảo chúng ta phải công bố trước mặt mọi người những gì anh em nghe Thầy nói lúc đêm hôm, hãy nói ra giữa ban ngày, những gì anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà mà rao giảng. Chúng ta đã làm như Chúa bảo chưa? Chúng ta đưa ra mọi lý do để thối thoát. Điều đó cũng dễ hiểu thôi, vì chúng ta muốn được bình an không có vấn đề rắc rối, chúng ta sợ người ta chê cười… Chúa cũng biết chúng ta là những con chiên ở giữa bầy sói. Nhưng Ngài vẫn bảo chúng ta đừng sợ: “Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Điều đó có nghĩa là linh hồn quan trọng, thân xác không thể so sánh với linh hồn. Hy sinh thân xác mà cứu được linh hồn thì quan trọng hơn. Chúng ta yêu thân xác đến độ không dám chịu đựng một vài cực nhọc bên ngoài: chúng ta ăn chay ngày lễ tro, chúng ta cũng ngại ngùng, rên siết, thánh lễ kéo dài một chút, chúng ta cũng phàn nàn… như thế chúng ta làm sao có thể làm chứng cho Chúa? Chúa muốn chúng ta là nhân chứng của Ngài, và chúng ta chỉ có thể làm chứng nhân cho Ngài khi chúng ta xem Ngài là tất cả, là tuyệt đối đáng yêu hơn cả bản thân chúng ta. Khi ấy, chúng ta mới có can đảm hiến dâng trọn vẹn. Rốt cùng chỉ có tình yêu chân thực, tình yêu “nguyên chất” mới có thể đưa đến sự hiến dâng trọn vẹn.
Có những sự hiến dâng để trục lợi, không có giá trị và đê hèn. Có những sự hiến dâng nửa vời, hời hợt, cũng chẳng mang lại lợi ích gì. Chúa Giêsu cho chúng ta tất cả, Chúa là Đấng tuyệt đối, Ngài đã cho đi tất cả, Ngài cũng đòi buộc tất cả. Ngài kịch liệt phản đối mấy ông Pharisêu vì họ chỉ là cái vỏ bên ngoài, những mã tô vôi. Họ làm méo mó hình ảnh của Thiên Chúa.
Chúa cũng là sự thật, Ngài không thể chấp nhận những gì là dối trá. Ngài chấp nhận tâm tình ăn năn của Maria Macđala, vì nàng thành thật. Ngài chấp nhận Phêrô sau khi chối Thầy, vì ông đã thành thật. Ngài đòi buộc chúng ta làm chứng nhân cho Ngài, thì chính chúng ta phải là bằng chứng sống động của Ngài. Ngài không hiện diện hữu hình, Ngài muốn chúng ta hiện diện cho Ngài giữa anh em chúng ta. Cái chết thảm thương của Ngài trên thập giá là một sự thật, rõ ràng, minh bạch, Ngài cũng muốn chúng ta thành sự thật hiển nhiên đó hôm nay, trong cái thế giới ích kỷ và man rợ của chúng ta. Phải dám dấn thân như Ngài, dám yêu thương như Ngài, nếu không, Ngài sẽ hổ thẹn vì chúng ta trước mặt Cha Ngài. Một lời nói nghiêm trọng chúng ta cần lưu ý.
Chúa Giêsu cũng là sự sống. Nhưng Ngài đến trong thế gian là để chết. Ngài chết vì chúng ta đã chết. Nhưng sự chết không thể thống trị Ngài, Ngài đã sống lại, chiến thắng sự chết để đưa chúng ta vào sự sống, sự sống thật, sự sống vĩnh cửu. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống hôm nay. Nếu chết là hết, thì cuộc sống này trở nên vô nghĩa. Vì thế, Chúa bảo chúng ta đừng sợ những ai chỉ giết được cái xác mà không thể giết được linh hồn. Vì chúng ta còn một cuộc sống mai sau trong hạnh phúc và vinh quang, nếu chúng ta cùng chết với Chúa Kitô thì chúng ta cũng cùng sống lại với Ngài. Và nếu sống, đối với chúng ta, là Chúa Kitô, thì cái chết phần xác này có nghĩa lý gì, mà ngược lại, nó lại là ngưỡng cửa đưa chúng ta vào hạnh phúc vĩnh cửu. Tại sao các thánh tử đạo không sợ chết? Vì các ngài tin rằng sau khổ nhục trần gian, các ngài sẽ được hạnh phúc với Đấng họ tôn thờ yêu mến.
Hơn nữa, mạng sống chúng ta vẫn quí trọng hơn mạng sống của những con chim nhỏ. Cha trên trời còn săn sóc chúng, thì chúng ta không được Cha trên trời săn sóc hay sao? Mọi sợi tóc trên đầu chúng ta, Cha trên trời đã đếm rồi. Như thế, chúng ta sợ gì? Tin cậy vào Cha và cứ vui sống hiên ngang, vì chúng ta vẫn được yêu thương. Những người dám tin thì cũng dám liều mạng. Cái chết sẽ trở nên nhẹ nhàng.
Chúa Giêsu biết chúng ta yếu đuối, mong manh. Các tông đồ xưa kia đã yếu đuối, sợ sệt, đã chạy trốn và Phêrô chối Thầy, vì thế Ngài hứa sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài không bỏ mặc đàn chiên nhỏ bé của Ngài giữa bầy sói dữ mà không lo chăm sóc. Ngài vẫn hiện diện giữa đàn chiên bé nhỏ của Ngài bằng tấm bánh hằng sống. Ngài vẫn tiếp tục nuôi dưỡng đàn chiên bằng chính thịt máu mình. Sống với Ngài là một bảo đảm, vì chính Ngài sống và hoạt động trong chúng ta nếu chúng ta không cản trở Ngài, nếu chúng ta hợp tác với Ngài. Niềm hy vọng của chúng ta không thể tàn lụi vì Ngài là Thiên Chúa, và Ngài luôn trung thành.
Theo bản năng tự nhiên, ai trong chúng ta cũng đều sợ chết, nhưng ai lại cũng phải chấp nhận cái TN 12-A81
Theo bản năng tự nhiên, ai trong chúng ta cũng đều sợ chết, nhưng ai lại cũng phải chấp nhận cái chết, mà không ai được quyền chọn cho mình cái chết vừa ý. Có nhiều cái chết khác nhau: Chết vì bệnh, chết vì tuổi già, chết vì tai nạn xe cộ, vì đắm tầu, vì bị chém đầu, vì bom đạn chiến tranh, vì dịch tễ, vì ăn no quá, vì đói khát, vì lạnh quá, vì nóng quá... Lại chết ở đâu vào bất cứ lúc nào, giờ nào, không ai biết trước được, có người đang khỏe cũng lăn ra chết, đang vui chơi cũng lăn ra chết, còn đang trẻ măng đầy sinh lực cũng lăn ra chết...
I. CHẾT PHẦN HỒN MỚI LÀ ĐÁNG SỢ
Cái chết đáng sợ thật, nhưng còn cái chết đáng sợ hơn gấp ngàn lần thì nhiều người lại không quan tâm đến. Đó là cái chết phần linh hồn, chết vì tội lỗi, vì đang ở trong tình trạng mất ơn nghĩa Chúa. Ai phạm tội trọng là chết về phần linh hồn, vì họ phản nghịch, chống đối Chúa, mất ơn nghĩa với Người. Người phạm tội trọng là giơ chân đạp Chúa, đóng đanh Chúa, tuyên án tử hình Chúa Kitô. Kẻ phản bội Chúa như thế là họ đã chết về phần hồn, họ đã trục xuất Chúa ra và đón rước Satan vào thống trị linh hồn mình, đáng Chúa trừng phạt đầy ải trong hoả ngục muôn đời.
II. CHÚA LUÔN BAN SỰ SỐNG CHO TA
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa làm phép lạ cho ông Nazarô chết 4 ngày được sống lại. Chúa đã ban lại cho ông sự sống tự nhiên, sự sống phần xác để ông làm tông đồ vinh danh Chúa. Ông được chọn làm Giám Mục, đi rao giảng danh Chúa khắp nơi, chinh phục muôn linh hồn về cho Chúa... Chúa cũng yêu thương chúng ta như ông Nazarô, Người luôn ban cho chúng ta sự sống, không phải chỉ là sự sống phần xác tự nhiên, những còn là sự sống phần hồn, sự sống chân thật và siêu nhiên, sự sống vĩnh cửu đời sau... Đó mới là sự sống chúng ta cần phải khao khát tìm kiếm và phải nỗ lực dùng mọi biện pháp để duy trì và làm phát triển thêm lên mãi. Sự sống đó chính là sự sống siêu nhiên, sự sống Chúa Kitô, sự sống ơn thánh. Sự sống đó làm cho chúng ta trở nên nghĩa thiết với Chúa, nên con ngoan thảo yêu dấu của Chúa và đáng được Chúa cho hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người trong tình yêu muôn thuở.
III. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC SỐNG THẬT
Để đáng được sự sống chân thật, sự sống siêu mhiên, chúng ta cần phải chết đi cho tội lỗi, chết cho các tính mê nết xấu và sống cho Chúa Kitô, sống trong ơn nghĩa thánh của Người, được hiệp nhất nên một với Người trong sự thánh thiện. Khi đó chúng ta thoát khỏi vòng nô lệ thú tính tự nhiên và quyền lực Satan hỏa ngục, cho chúng ta được hưởng niềm an bình hạnh phúc trong tâm hồn, là thứ hạnh phúc chân thật mà chỉ có những người con ngoan thảo của Chúa, mới được nếm hưởng ngay khi còn sống nơi trần gian này.
Chính Chúa đã phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, và kẻ nào đang sống mà tin vào Ta sẽ không phải chết đời đời". Thánh Phaolô quả quyết: "Nếu Đức Kitô ở trong anh chị em thì dù thân xác anh chị em có chết, thì linh hồn anh chị em cũng vẫn sống luôn mãi".
Kết Luận
Cuộc đời chúng ta sẽ mất ý nghĩa, mất an bình hạnh phúc, nếu lương tâm chúng ta bị dầy vò bởi tội lỗi, tâm hồn chúng ta bị nặng trĩu vì bị ràng buộc và nô lệ bởi các tính mê tật xấu, bởi tội lỗi, khiến cho đời sống chúng ta phải rối loạn, mất bình an thư thái, dù bên ngoài chúng ta có sống trong giầu sang phú quí, quyền cao chức trọng, đầy đủ tiện nghi thế nào đi nữa.
Vậy để cuộc sống có ý nghĩa, có giá trị và hạnh phúc thật, chúng ta hãy sống với lương tâm luôn trong sạch, không vấn vương tội lỗi, không nô lệ thú tính. Chúng ta sẽ được bình an hạnh phúc thật ngay cả khi chúng ta gặp bất trắc nghịch cảnh, phải nghèo nàn thiếu thốn. Vì được Chúa luôn ngự trong tâm hồn chúng ta như Thiên Đàng của Người. Khi tâm hồn chúng ta có Chúa ẩn ngự, chiếm hữu được Chúa là chúng ta được hạnh phúc, và chỉ có Chúa mới là hạnh phúc chân thật làm thỏa mãn mọi khát vọng của chúng ta.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta chỉ chuyên lo làm hài Chúa như Mẹ, luôn sống cho Chúa như Mẹ, sống vì Chúa như Mẹ, để chính Chúa nên sự sống chân thật và hạnh phúc của chúng ta.
Chúa đề ra một toàn bộ những giáo huấn mà các môn đệ phải dựa theo để đào tạo cá tính và TN 12-A82
Chúa đề ra một toàn bộ những giáo huấn mà các môn đệ phải dựa theo để đào tạo cá tính và hành động của mình: Có một lối xử sự của riêng Phúc âm. Người môn đệ cần thầm nhuần để nên giống Thày. Đàng khác gương mẫu sống động không ai ngoài chính Chúa. Vì thế như Chúa Giêsu đã gặp những chống đối, các môn đệ cũng sẽ bị chống đối nhưng họ không có gì phải sợ. Trước hết, họ hãy giữ niềm tin tưởng rằng chân lý cuối cùng sẽ tỏ rạng mặc dầu quyền lực của dối trá thống trị, họ chớ sợ tiếp nối công trình của Thày để loan truyền Tin Mừng. Chúa Giêsu nói rằng Ngài dạy trong bóng tối, điều ấy có nghĩa là Ngài trao truyền sứ điệp trong vòng các người thân tín, trong khung cảnh giới hạn và tối tăm của miền Galilêa. Ngài hành động như thế là vì thận trọng và vì muốn tôn trọng các dự định quan phòng giao phó việc rao truyền sứ điệp cho những vị khởi sự Giáo Hội. Những vị ấy sẽ phải nói trên mái nhà. Việc này nhắc đến một tập tục đặc biệt của miền Trung Đông. Buổi chiều, khi trời hạ cơn nóng, người ta hay tụ tập trên sân thượng. Nhà này nối qua nhà khác, cho nên các mái nhà làm thành một thứ công trường. Nói trên mái nhà tương đương với loan báo Tin Mừng sẽ gây ra nhiều chống đối hung bạo, Chúa dạy như thế. Từ lời cảnh cáo này, Ngài bảo các môn đệ cách thức định giá sự vật và phải đặt lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa ra sao.
1) Đừng sợ những kẻ giết được thân xác… Điều này có nghĩa là sự sống con người có những kích thước vượt quá phạm vi thể xác. Các quyền lực thế gian có thể làm hại thể xác nhưng đấy không phải là phần chính yếu của con người. Chúng không thể nào phá hủy con người trong những gì là nhân bản nhất, căn cốt nhất, những gì bất tử. Bản chất linh thiêng, nơi phát xuất những quyết định hữu trách và những khả năng chân chín hưởng nhận hạnh phục, đó mới là kho tàng đích thật của con người. Điểm thấm nhập của Phúc âm vào trong con người là linh hồn tự do, hữu trách, bất tử, được gọi tới hưởng hạnh phúc sung mãn. Người môn đệ của Đức Kitô phải biết rằng bản thể linh thiêng đáng cho ta hy sinh bản thể nhục phàm. Có thể xảy ra những trường hợp đặc biệt và các thánh tử đạo xưa và nay chứng tỏ điều ấy. Nhưng cũng có một vấn đề mà chúng ta phải nghĩ tới và có thể đặt ra bằng câu hỏi sau đây: trong cuộc sống thường ngày chúng ta có đặt vị trí ưu tiên cho các giá trị siêu nhiên không?
2) Không có một con chim sẽ nào rơi xuống ngoài ý Cha các ngươi. Các khó khăn, các cơn cám dỗ, các chướng ngại, các vấn đề, các sự trục trặc của chúng ta,… Thiên Chúa đều thấu tỏ. Giữa các khó khăn, dầu thế nào mặc lòng chúng ta luôn làm đúng khi quy hướng về Chúa Cha! Ngài canh phòng cho con cái Ngài và Ngài không để cho chúng chịu thử thách quá sức. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa cam kết sẽ can thiệp ngay trong mỗi trường hợp để giải thoát chúng ta. Chúng ta lệ thuộc vào thế giới như mắc cửi và Thiên Chúa là Đấng đã làm nên sẽ không phá bỏ đi. Nhưng chúng ta có được một phương kế phi thường: mọi khó khăn nhỏ nhặt nhất có thể làm đề tài nói chuyện riêng tư với Chúa vì Ngài biết sự khó khăn ấy. Không có gì xảy đến cho chúng ta mà Ngài không thấu tỏ. Mà Chúa Cha muốn điều tốt lành cho chúng ta. Do đó nếu chúng ta phó thác tất cả cho Thiên Chúa, mọi sự đều góp phần mưu ích cho chúng ta.
Chủ đề: Vững lòng trông cậy Chúa dù đang sống giữa khó khăn
Sợi chỉ đỏ: Các bài đọc hôm nay nêu lên ba tình huống khó khăn khác nhau: - Ngôn sứ Giêrêmia bị TN 12-A83
Sợi chỉ đỏ: Các bài đọc hôm nay nêu lên ba tình huống khó khăn khác nhau:
- Ngôn sứ Giêrêmia bị dân do thái tìm cách làm hại (Bài đọc I - Gr 20,10-13): "Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng"
- Tác giả Tv 68 bị những người thân thích bài xích (Đáp ca - Tv 68): "Chúa nghe những người cơ khổ"
- Các sứ giả Tin Mừng bị bách hại (Mt 10,26-33): "Tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi"
Những vai chính trong 3 bài đọc trên đều vững lòng trông cậy nơi Chúa, với niềm xác tín được Chúa bảo vệ và giải thoát.
- Bài đọc II (Rm 5,12-15) (Chủ đề phụ): "Do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Đức Giêsu Kitô làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần" Minh họa
"Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ" (Mt 10,31)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Cuộc sống của chúng ta trên dương thế này thường xuyên gặp phải biết bao khó khăn gian khổ. Nhưng Lời Chúa hôm nay xác quyết rằng nếu chúng ta trông cậy vào Chúa thì Ngài sẽ bảo vệ và giải thoát chúng ta.
Trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa củng cố lòng trông cậy của chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
- Nhiều khi gặp đau khổ, chúng ta đã bỏ đọc kinh cầu nguyện. - Nhiều khi vì quá khổ, chúng ta phiền trách Chúa. - Nhiều khi trong lúc khó khăn, chúng ta mê tín dị đoan.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gr 20,10-13)
Giêrêmia là một ngôn sứ phải nhận lãnh một sứ mạng rất khó khăn và cay đắng, đó là vạch tội của dân và cảnh cáo rằng Chúa sẽ trừng phạt họ. Vì thế, dân chúng thù ghét ông và nhiều lần tìm cách hãm hại ông.
Nhưng giữa những khó khăn và khổ sở đó, Giêrêmia luôn trông cậy vào Chúa. Ông tin vững vàng rằng "Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng".
2. Đáp ca (Tv 68)
Thánh vịnh này là lời cầu nguyện của một người công chính đáng bị kẻ ác hãm hại, cùng một tâm tình với ngôn sứ Giêrêmia. Giữa những lúc khó khăn như thế, tác giả vẫn ngợi khen Chúa và tin chắc rằng Ngài sẽ nhậm lời.
3. Tin Mừng (Mt 10,26-33)
Đoạn Tin Mừng này tiếp nối những lời Đức Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Ngài khuyến cáo họ rằng có thể họ sẽ gặp nhiều khó khăn và cả bách hại nữa. Nhưng Ngài bảo họ "Đừng sợ", bởi vì Chúa quan phòng luôn ở bên họ để che chở: "Tóc trên đầu chúng con đã được đếm cả rồi"
4. Bài đọc II (Rm 5,12-15) (Chủ đề phụ)
Văn mạch: Trong đoạn được trích đọc tuần trước, Phaolô đã bắt đầu luận đề người ta được công chính hóa không phải nhờ việc làm, mà là nhờ đức tin.
Trong đoạn thư hôm nay, Phaolô đưa ra lập luận thứ nhất để chứng minh luận đề ấy: - Do tội của Ađam mà tất cả loài người phải gánh hậu quả là cái chết. - Do công của Đức Giêsu Ađam mới mà tất cả loài người được ơn nghĩa dư đầy của Thiên Chúa.
Như thế, con người được ơn nghĩa của Thiên Chúa là nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô.
IV. Gợi ý giảng
1. Bàn về sự sợ
Con người có nhiều nỗi sợ: sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thân v.v.
Cái sợ làm tê liệt con người: không có sức làm việc, không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống v.v.
Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ: sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không có thiện cảm với Tin Mừng v.v. Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng. Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu bảo "đừng sợ". Ngài không chỉ cho chúng ta cách làm thế nào để khỏi sợ. Lý do duy nhất Ngài đưa ra là gương của Ngài: - Chúng ta là môn đệ của Ngài. Vì thế việc chúng ta gặp khó khăn và bách hại không có gì lạ, vì Thầy của chúng ta cũng đã từng bị như thế và còn bị năng hơn chúng ta nhiều. Vì vậy, nếu là môn đệ Đức Giêsu thì đừng tìm cách trốn tránh khó khăn và bách hại.
- Hãy noi gương Đức Giêsu mà can đảm giữ vững lập trường của mình và tiếp tục sứ mạng của mình, không phải bận tâm về bất cứ điều gì khác: a/ không cần bận tâm đến mạng sống bởi vì ngay cả mạng sống một con chim sẻ nhỏ bé mà còn do Chúa định đoạt, huống chi mạng sống con người; b/ không cần bận tâm đến sự chống đối của người đời, vì "Ai tuyền xưng Thầy trước mặt người đời thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy".
Cha Charles de Foucauld đã nói: "Cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là chúng ta không bao giờ sợ gì cả"
2. Suy nghĩ về Chúa Quan Phòng
Nhiều người có một thái độ rất đặc biệt: gặp chuyện vui hay chuyện buồn, họ cũng đều nói "Đó là ý Chúa"; thành công hay thất bại, họ cũng nói "đó là ý Chúa"; trước mọi khó khăn, nguy hiểm, họ nói "Để Chúa lo"… Phải chăng thái độ đó là quá ngây thơ: đành rằng có Chúa đó, nhưng bản thân mình cũng phải xoay trở chứ! "Hãy tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ giúp thêm"!
Nhưng suy cho cùng, thái độ tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng có những cơ sở rất vững vàng:
- Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống. Tin như thế là rất đúng, vì Thánh Kinh hằng lặp đi lặp lại biết bao lần chân lý ấy: "Ta hằng ở với con" (Gr 1,10), "Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20)…
- Người phó thác vào Chúa cũng tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không điều gì xảy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa. Tin như thế cũng rất đúng: "Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi" (bài Tin Mừng hôm nay)
- Người phó thác vào Chúa còn xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và mình là con. Một người Cha toàn năng và hết sức yêu thương con như Thiên Chúa thì chắc chắn biết cách an bài cho con cái mình những điều tốt nhất: "Cha chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì" (Mt 632).
3. Im hay nói?
Ngày nay, Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên Đức Giêsu yêu cầu ta "Hãy la lớn trên mái nhà" điều gì đã "thì thầm vào tai". Lời chúc dữ của Người: "Ai từ chối Ta trước mặt người đời, Ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời".
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc "không còn lời lẽ". Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe điều không diễn tả được.
Làm sao trẻ em và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: "Tất cả những gì che dấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì dấu diếm rồi mọi người sẽ biết". Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói "vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện" để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng viên đã nói: "Có thời để nói, có thời để im lặng". Những thời điểm này nối tiếp nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn "nói lên được điều gì nữa". Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, l61i suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt.
Mong sao kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong lòng họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ. (G. Bessière, Dieu si proche, DDB, trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 211-212).
4. Chuyện minh họa
a/ Đức Giám mục Oscar Romero
Khi mới lên làm Tổng Giám Mục giáo phận San Salvador, Đức Cha Oscar Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội, ngài đã thay đổi. Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chánh tòa tố cáo những tội ác đã diễn ra mà đa số là do các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội. Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng việc để lắng nghe.
Ngài bị đặt vào tình trạng bị đe dọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi khác an toàn hơn. Ngài nói: "Một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi". Và ngài đã bị chết dưới lằn đạn tháng ba năm 1980 đang lúc dâng Thánh Lễ.
b/ Trái tim chuột
Có một con chuột kia rất sợ mèo. Một vị thần tội nghiệp nó nên biến nó thành mèo. Thành mèo rồi nó lại sợ chó. Vị thần biến nó thành chó. Thành chó rồi nó lại sợ cọp. Vị thần cho nó thành cọp. Nhưng thành cọp rồi nó lại sợ người thợ săn. Vị thần đành chịu thua: "Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa thì cũng không giúp mi hết sợ, bởi vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột". V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Tin tưởng mãnh liệt vào sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, và hân hoan sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận, phải là quyết tâm của từng người kitô hữu. Trông cậy vào ơn Chúa trợ giúp, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Đức Thánh Cha có sứ mạng củng cố đức tin của người tín hữu trên toàn thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ân cần chăm sóc giữ gìn Người / để nhờ Người / đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắc son.
2. Ngày nay / nhiều kitô hữu / nhất là các kitô hữu trẻ / mất đức tin chỉ vì vốn liếng giáo lý không đủ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết tận dùng thời giờ Chúa ban / để học hỏi sâu rộng giáo lý của Chúa / nhờ đó đức tin của họ ngày càng vững chắc và trưởng thành hơn.
3. Nhiều tín hữu hiểu một cách đơn giản rằng / tin là giữ một số lề luật của Chúa và Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi kitô hữu hiểu rằng / tin là gắn bó cùng Chúa và dấn thân theo Người đến cùng.
4. Tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Chúa / và hiên ngang sống đức tin / phải là thái độ căn bản của mọi tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn khôn ngoan chỉ tin tưởng một mình Chúa / và mạnh dạn tuyên xưng đức tin trong đời sống thường ngày.
CT: Lạy Chúa, đức tin của chúng con còn rất yếu kém, chúng con dễ hoang mang giao động trước mọi thử th1ch trong cuộc sống. Vậy, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con. Chúng con cầu xin nhờ…
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi đọc lời "Xin tha nợ chúng con", chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta không phó thác vào sự quan phòng của Chúa.
- Sau kinh Lạy Cha: "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. Giải tán
Thánh lễ đã hết, anh chị em hãy mạnh dạn ra đi làm chứng cho Chúa giữa đời.
Trong đoạn Kinh Thánh ngắn này, ba lần Chúa Giêsu truyền bảo các môn đệ Ngài đừng sợ. Sứ TN 12-A84
Trong đoạn Kinh Thánh ngắn này, ba lần Chúa Giêsu truyền bảo các môn đệ Ngài đừng sợ. Sứ giả phải có lòng can đảm không hề sợ hãi, phải khác người thường. 1. Mệnh lệnh thứ nhất trong câu 26-27 nói lên sự không sợ trong hai phương diện:
a) Họ không phải sợ vì chẳng có gì che giấu mà sẽ không lộ ra và chẳng có gì kín mà sẽ không biết. Ý nghĩa trong câu này là chân lý sẽ chiến thắng. Châm ngôn La tinh có câu: “Chân lý vĩ đại và chân lý sẽ thắng”. Khi James VI hăm dọa treo cổ hoặc lưu đày Andrew Melville, Melville đáp: “Vua không thể treo cổ hoặc lưu đày chân lý”. Khi Kitô hữu chịu khổ và hy sinh, thậm chí tử đạo vì đức tin, ta phải nhớ rằng một ngày kia mọi sự việc được phơi bày, lúc đó quyền lực của kẻ bách hại và sự anh dũng của Kitô hữu sẽ được minh giải và mỗi người sẽ nhận lãnh đúng phần thưởng của mình.
b) Họ không sợ hãi, nhưng can đảm rao giảng sứ điệp mình đã nhận. Những gì Chúa Giêsu truyền bảo, họ phải nói lại cho loài người. Câu này đủ nói lên chức năng thật của người truyền giáo.
Trước hết chính ta phải nghe, ta phải ở riêng với Chúa Giêsu để trong những giờ phút tăm tối, Ngài có thể phán dạy, và trong nơi cô quạnh, Ngài có thể thì thầm bên tai ta. Không ai có thể nói về Chúa Giêsu trừ người đã được Ngài nói với. Không ai có thể công bố chân lý trừ phi đã được nghe vì không ai có thể nói điều mà mình không biết. Khi những ngày trọng đại của cuộc cải chính sắp thành hình, Colet mời Erasmus đến Oxford để giảng loạt bài về Môsê hay Isaia, nhưng Erasmus biết mình chưa sẵn sàng. Ông viết thư phúc đáp: “Tôi là người học để sống với chính mình nên tự biết tôi thiếu chuẩn bị, không dám nhận mình có đủ tri thức cần cho công tác lớn như vậy, tôi cũng không nghĩ mình có đủ sức mạnh để chống chọi nổi với sự ghen ghét của nhiều người khi họ cương quyết giữ lập trường. Cuộc chiến đấu không cần người mới tập tễnh mà cần một tướng lãnh lão luyện. Chắc anh cũng không cho tôi là người khiếm nhã trong việc từ chối một địa vị mà nếu tôi nhận thì trở thành người vô cùng khiếm nhã. Anh Colet ơi, như Plautus đã nói, anh đòi nước nơi đá bọt là điều không khôn ngoan. Tôi quả là liều lĩnh nếu dạy điều mình chưa từng học. Làm sao tôi có thể sưởi ấm những tấm lòng lạnh lẽo khi chính tôi còn đang rét run cầm cập?” Người nào giảng và dạy trước hết phải ở trong nơi kín nhiệm để nghe và học.
Thứ hai, người truyền giáo nói điều mình đã nghe Chúa Kitô và phải nói dù phải chuốc lấy oán ghét của người đời, thậm chí có thể mất mạng. Người đời không ưa chân lý, như Diogenes nói: “Chân lý như ánh sáng chiếu vào mắt đau”. Một lần Latimer đang giảng, có cả vua Henry dự, ông biết mình sắp nói một điều vua không ưa. Ở trên tòa giảng, ông nói lớn như nói với chính mình: “Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có vua Henry đấy”. Kế đó ông nghỉ, rồi nói tiếp: “Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có Vua của các vua đang ở đây”.
Người đem một sứ điệp nói cho loài người nhưng phải nói trong sự hiện diện của Chúa. Khi chôn John Knox, người ta nói về ông “Đây là nơi yên nghỉ của một người kính sợ Chúa đến nỗi không bao giờ sợ hãi trước mặt loài người”. Chứng nhân là người không biết sợ, vì họ biết sự phán xét đời đời sẽ điều chỉnh mọi phán xét tạm thời. Người truyền giáo là người lắng nghe cách cung kính, và nói với lòng can đảm, vì biết rằng, dù nghe hay nói thì đều ở trong sự hiện diện của Chúa.
SỨ GIẢ KHÔNG SỢ HÃI
LÒNG CAN ĐẢM CỦA NGƯỜI NGAY THẲNG
2. Mệnh lệnh thứ hai ở trong câu 28. Một cách đơn giản, điều mà Chúa Giêsu nói là không có hình phạt nào của con người có thể so sánh được với số phận tối hậu của một người phạm tội bất trung và bất tuân Chúa. Con người có thể giết chết thể xác nhưng Chúa có thể lên án chết linh hồn. Ở đây có ba điều cần lưu ý:
a) Có người tin vào sự bất tử có điều kiện. Đó là niềm tin chủ trương rằng phần thưởng của nhân đức là linh hồn người lành sẽ thăng lên, lên mãi cho đến chừng người ấy hội nhập với sự bất diệt, với phúc lành của Thiên Chúa và hình phạt cho kẻ dữ vì nó không sửa chữa đường lối mình dù Chúa đã kêu gọi, linh hồn người ấy cứ đi xuống luôn cho đến cuối cùng là tiêu tan, chấm dứt hiện hữu. Chúng ta không thể dựng nên một giáo lý chỉ dựa trên một đoạn Kinh Thánh nhưng điều Chúa Giêsu phán ở đây lại giống như vậy.
Người Do Thái biết rõ sự kinh khủng về hình phạt của Chúa: “Quả Ngài có quyền trên sự sống và sự chết, Ngài đưa xuống tận âm phủ rồi Ngài kéo lên. Còn người ta bởi lòng ác có thể giết chết, nhưng khi linh hồn xuất rồi, nó không tài nào dẫn về được cũng không giải thoát được linh hồn ra khỏi âm phủ” (Kn 16, 13-14)
Trong cuộc khởi nghĩa Macabêô, bảy anh em trong gia đình tử đạo đã khuyến khích nhau bằng cách nói rằng: “Đừng sợ kẻ tưởng có thể giết chúng ta, vì cực nhọc và đau đớn khủng khiếp của phần hồn trong khổ hình đời đời đang chờ những kẻ phạm giới luật của Chúa”.
Chúng ta nên nhớ rằng sự trừng phạt của loài người chẳng nghĩa lý gì đối với sự trừng phạt của Thiên Chúa và phần thưởng Ngài ban.
b) Điều thứ hai đoạn này dạy chúng ta là còn một chỗ trong đời sống mà chúng ta có thể gọi là sự kính sợ thánh. Người Do Thái biết rõ sự kính sợ này. Người ta kể một ngày kia rapbi Jochanan đau. Môn đệ đến thăm. Nhìn thấy họ, ông khóc. Các môn đệ thưa: “Ôi ngọn neon của Israel, trụ cột tay hữu, cái búa đại năng, tại sao người khóc?” Người đáp: “Nếu ta bị dẫn đến trước một vua trần gian là người nay còn mai mất, nếu có giận ta thì cơn giận của người ấy không phải là vĩnh viễn, nếu người ấy có bắt giam ta thì sự giam cầm cũng không phải là muôn đời, nếu có lên án tử hình thì sự chết không phải đời đời, người đó ta có thể làm nguôi cơn giận bằng lời nói hoặc bằng của hối lộ, vậy mà ta cũng còn khóc. Phương chi bây giờ được đưa đến trước Vua muôn vua, Đấng Thánh đáng chúc tụng, Đấng vẫn sống và còn mãi đến đời đời. Nếu Ngài nổi thịnh nộ cùng ta, cơn giận của Ngài là vĩnh viễn; nếu Ngài hạ ngục, sự tù đầy là vĩnh viễn; nếu Ngài lên án chết, sự chết đó là đời đời. Ngài là Đấng ta không thể làm nguôi cơn giận bằng lời nói hoặc bằng hối lộ. Hơn nữa, trước mặt ta có hai con đường, một dẫn đến thiên đàng, còn đường kia dẫn đến địa ngục, và ta không biết sẽ được dẫn đi đường nào, ta lại không khóc sao?”
Không phải tư tưởng gia Do Thái quên đi tình yêu. Tình yêu là điều trọng đại nhất. Người ta nói: “Phần thưởng cho người nào hành động vì tình yêu là gấp đôi hoặc gấp tư. Hãy hành động với lòng yêu thương, vì nơi nào có sợ hãi thì nơi đó không có tình yêu, và nơi có tình yêu thì nơi đó không có sợ hãi, ngoại trừ trong sự tương giao của Chúa”. Người Do Thái bao giờ cũng chắc chắn, trong liên hệ với Chúa, có cả yêu lẫn kính: “Kính sợ Chúa và yêu mến Ngài, luật dạy cả hai, hãy hành động với tình yêu và lòng kính sợ. Hành động bởi tình yêu, không ai yêu mà lại ghét. Hành động bởi kính sợ, vì không ai kính sợ mà dám chống nghịch”. Người Do Thái cũng không bao giờ quên sự thánh thiện của Chúa, chúng ta cũng phải vậy.
Đối với người tín hữu, vấn đề càng ràng buộc hơn, vì chúng ta không phải sợ Chúa phạt, nhưng sợ làm buồn lòng Ngài. Người Do Thái cũng như Chúa Giêsu không bao giờ phải đối diện với mối nguy tình cảm hóa tình yêu của Chúa. Thiên Chúa là tình yêu, nhưng Ngài cũng thánh thiện vì Ngài là Chúa. Trong lòng và trong tư tưởng chúng ta phải có chỗ cho tình yêu để đáp ứng tình yêu của Thiên Chúa, cho sự tôn sùng, kính sợ để đáp ứng sự thánh thiện của Ngài.
c) Hơn nữa, đoạn này cho chúng ta biết có những điều tệ hại hơn cả sự chết, mà một trong đó là sự bất trung. Nếu một người phạm tội bất trung, nếu họ dùng danh dự đánh đổi lấy sự an thân thì không còn đáng sống nữa. Người ấy không thể đối diện với loài người và với chính mình, càng không thể đối diện với Chúa. Có lúc những tiện nghi, an toàn, dễ dãi và chính đời sống khiến chúng ta phải trả giá đắt.
SỰ GIẢI THOÁT KHỎI SỢ HÃI VÌ CHÚA CHĂM SÓC
3. Mệnh lệnh thứ ba ở trong câu 31, dựa vào sự chắc chắn được Chúa chăm lo từng li từng tí. Nếu Người chăm sóc chim sẻ thì chắc chắn Ngài chăm sóc con người. Mátthêu nói rằng hai con chim sẻ bán đi để lấy 1 xu, ấy thế chẳng có con nào rơi xuống đất mà Chúa lại không biết. Luca cho ta biết lời Chúa Giêsu phán đó dưới một hình thức hơi khác: “Năm con chim sẻ há chẳng bán 2 đồng xu sao? Thế mà trước mặt Chúa không một con nào bị bỏ quên” (Lc 12,6). Điểm đáng lưu ý ở đây là: hai chim sẻ bán được 1 đồng xu (đồng xu là assarion, tức là 1/16 đơniê), nhưng người mua sẵn sàng trả 2 xu để được không phải bốn mà đến năm con chim sẻ. Con chim được thêm ở trong tình trạng mặc cả, không có giá trị gì. Cả đến con chim sẻ bị mặc cả Chúa cũng chăm sóc đến, mà theo sự tính toán của con người, nó chẳng đáng giá gì. Nhưng cả đến con chim sẻ cho thêm đó cũng đáng giá trước mặt Chúa.
“Chẳng một con chim nào rơi xuống đất mà Chúa không biết”. Theo văn mạch chữ “rơi” khiến ta tự nhiên nghĩ đến sự chết nhưng rất có thể tiếng Hy Lạp dịch từ một từ Aram có nghĩa là “đậu trên đất”. Không phải Chúa chỉ lưu ý đến con chim sẻ rơi xuống và chết, mà hơn nữa Ngài còn lưu ý mỗi lần nó đậu xuống và nhảy trên đất. Lý luận của Chúa Giêsu là nếu Thiên Chúa còn chăm lo đến một con chim sẻ như thế huống chi là chúng ta!
Người Do Thái cũng biết và hiểu rõ lời Chúa đang phán. Không một dân tộc nào có quan điểm như thế về sự chăm sóc tỉ mỉ của Chúa đối với thụ tạo của Ngài. Rapbi Chanina nói “Ở thế hệ này không ai làm tổn thương đến ngón tay mình, trừ phi Chúa đã định”. Các rapbi có câu “Chúa nuôi cả thế gian từ cái sừng trâu cho đến cái trứng của con rận”. Hillel có lời giải thích kỳ diệu về Thánh vịnh 136. Thánh vịnh ấy khởi đầu bằng câu chuyện về Chúa là Thiên Chúa sáng tạo, Chúa làm nên bầu trời, trái đất, mặt trời mặt trăng và các ngôi sao (câu 1-9), kế đến, mô tả Chúa của lịch sử và Chúa giải cứu Israel từ Ai Cập và chiến đấu cho dân này (câu 11-24), sau hết tiếp tục nói đến Chúa là Đấng ban đồ ăn cho mọi loài xác thịt (câu 25). Chúa dựng nên thế gian, Chúa kiểm soát lịch sử cũng chính là Chúa ban đồ ăn cho loài người. Bánh chúng ta ăn mỗi ngày cũng do một hành động của Chúa giống như hành động tạo thành vũ trụ và giải phóng khỏi thân phận nô lệ Ai Cập. Tình thương của Chúa không chỉ thấy trong sự toàn năng của cuộc tạo thành và trong những biến cố lớn của lịch sử, nhưng còn thấy trong việc chăm sóc thể xác con người hằng ngày. Sự can đảm của sứ giả vua dựa trên xác tín rằng dù việc gì xảy ra, sứ giả không bao giờ trôi dạt ra khỏi tình thương và sự chăm sóc của Chúa. Sứ giả biết thời giờ của mình vĩnh viễn ở trong tay Chúa, Ngài sẽ chẳng quên, chẳng bỏ con người, con người sẽ được sự chăm sóc của Ngài bao bọc. Nếu vậy, chúng ta còn sợ ai?
Mt. 10, 32-33
SỰ TRUNG TÍN VÀ BAN THƯỞNG
Đoạn Kinh Thánh này đề cập đến hai phương diện của người Kitô hữu trung thành. Nếu một người trung thành với Chúa Giêsu đời này, Ngài sẽ trung thành với người ấy ở đời sau của người ấy. Nếu một người hãnh diện nhận Chúa Giêsu là chủ, Ngài sẽ vui nhận người ấy là tôi tớ của Ngài.
Một sự kiện lịch sử rõ ràng là nếu trong Hội Thánh sơ khai không có những người khi đối diện với sự chết, khổ hình, đau đớn, đã không chịu chối bỏ Chúa Giêsu thì chắc không có Hội Thánh ngày nay. Hội Thánh ngày nay được xây dựng và thiết lập trên sự trung thành tuyệt đối của những người giữ vững lòng trung tín của họ.
Pliny, quan tổng đốc xứ Bithini viết cho hoàng đế Trajan về cách ông đối xử với người tín hữu trong tỉnh mình. Những điệp viên đã báo cáo cho ông về một số Kitô hữu. Pliny kể lại là đã cho những Kitô hữu này cơ hội để cầu khẩn các thần của Rôma, dâng hương và rượu lên ảnh tượng hoàng đế và cuối cùng là bắt buộc họ nguyền rủa danh Giêsu. Và ông thêm rằng: “Không thể bắt buộc những người thật sự là Kitô hữu làm những việc này”. Ngay cả đến các quan tổng đốc cũng thừa nhận sự bất lực của mình trong việc lay chuyển lòng trung thành của họ.
Dù vậy người ta vẫn có thể chối Chúa Giêsu:
1. Chúng ta có thể chối Chúa bằng lời nói. Người ta thuật chuyện về J. P. Mahaffy, một học giả nổi danh thế giới, xuất thân từ đại học Trinity, Dublin. Khi được hỏi ông có phải là Kitô hữu không thì ông đáp “Có, nhưng không tích cực như vậy”. Ông muốn nói rằng mình không để Kitô giáo xen vào xã hội mà ông đang giao du và những thú vui mà ông ưa thích. Đôi khi chúng ta nói với người khác rằng mình là thành viên Hội Thánh nhưng chẳng quan tâm gì đến sinh hoạt trong Hội Thánh. Chúng ta không có ý sống khác người thế gian. Chúng ta tham dự đầy đủ mọi vui chơi của thế gian, và ta lại trông mong người đời phải tôn trọng những nguyên tắc mơ hồ của chúng ta.
Người tín hữu không trốn tránh thế gian nhưng là biến đổi mình cho khác với thế gian.
2. Chúng ta có thể chối Chúa bằng sự im lặng. Một nhà văn Pháp thuật chuyện đem người vợ trẻ vào một gia đình cổ. Gia đình này không chấp nhận cuộc hôn nhân đó, dầu vậy họ rất lịch thiệp, không biểu lộ sự phản đối bằng lời nói hoặc chỉ trích. Nhưng về sau, người vợ trẻ thổ lộ rằng bà khốn khổ suốt đời vì “sự đe dọa của những cái không nói ra”.
Trong đời sống cũng có những đe dọa của những điều không được nói ra. Trong đời sống, nhiều lần chúng ta có cơ hội nói vài lời cho Chúa để phản đối điều ác, giữ lập trường và tỏ ra chúng ta ở bên nào. Trong những trường hợp đó, nhiều khi chúng ta thấy giữ im lặng dễ hơn là nói. Nhưng sự im lặng đó là sự chối bỏ Chúa. Thật vậy, rất có thể nhiều người đã chối Chúa Giêsu do sự im lặng hèn nhát của mình hơn là bởi những lời có chủ tâm.
3. Chúng ta có thể chối Chúa bằng hành động. Chúng ta có một lối sống biểu lộ một sự khước từ liên tục đức tin mà chúng ta đã xưng nhận. Có người đã tuyên thệ trung thành với Phúc Âm, mà vẫn có thể làm trái Phúc Âm. Người ta đã quyết định đi theo Thầy là Đấng bảo phải vác thập giá, lại sống cuộc đời chỉ chú ý đến tiện nghi và thoải mái: Người ta đã bước vào phục vụ Đấng tha thứ cho mình và được dạy bảo tha thứ cho anh em mình, lại vẫn sống giận dữ, cay đắng thù oán anh em mình. Người ta từng chăm nhìn lên Chúa Giêsu đã chịu chết vì tình thương nhân loại, lại vẫn có thể sống cuộc đời hoàn toàn không có chút ý niệm gì về phục vụ, tình yêu và quảng đại Chúa dạy.
Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có TN 12-A85
Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày, và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.
Ngày nay, chúng ta thấy việc truyền bá Phúc âm trong thế giới sống theo vật chất của chúng ta thật khó khăn. Vào thời của Thánh Mátthêu, điều đó cũng đã khó khăn rồi. Người ta cảm thấy trong những câu này của Đức Giêsu một ý muốn khích lệ: Anh em chớ nản chí, hãy vượt lên trên sự sợ hãi để rao giảng! Không gì có thể ngăn cản sức mạnh truyền bá chân lý. Sự thuyết giáo của Đức Giêsu tự nó là một hành động rất khiêm nhường, một "sứ điệp được che giấu... nói lúc đêm hôm... nói nhỏ vào tai". Sau nhiều thế kỷ, chúng ta thấy rằng Tin Mừng đã đi giáp vòng trái đất và vượt qua mọi chướng ngại. Lạy Chúa, xin nhắc chúng con có lòng can đảm để nói về Lời Chúa.
“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.
“Anh em đừng sợ!”
Ba lần, điệp khúc này trở lại trong miệng Đức Giêsu (Mt 10, 26.28.31). Tôi tưởng tượng Đức Giêsu ngửng cao đầu một cách hiên ngang khi nói ra những lời đó. Chính Người chưa khi nào Người sợ hãi. Người biết Người sẽ bị giết chết bởi lẽ sự thù hận của các kẻ thù dâng cao lên xung quanh Người như một con sóng đáng sợ, ngay khi Người bắt đầu đi rao giảng. Nhưng Đức Giêsu biết những “giá trị thật”.
Đối với Người, đời sống trần gian ít giá trị so với sự sống đời đời mà Người biết từ bên trong như Con của Cha. Con người có thể tấn công sự sống của thân xác. Nhưng họ không có quyền gì trên “sự sống thật" hoàn toàn thoắt khỏi ảnh hưởng của họ. Thánh Vịnh 123,7 đã nói đến linh hồn thoát khói lưới của kẻ đánh lưới chim muốn bắt lấy nó”.
Người tử đạo biết điều đó và theo bước Đức Giêsu. Người bị bách hại cao cả hơn kẻ bách hại người ấy. Người bị hành hình cao cả hơn tên đao phủ. Bề ngoài, kẻ bách hại mạnh hơn: hắn có vũ khí, có quyền lực bạo tàn. Hắn chỉ mạnh trên bình diện của sự tàn ác... mạnh một cách thú vật!
Người bị bách hại mạnh bởi một sức mạnh nội tâm không thể đánh bại. Là một gói cơ bắp lớn hơn những cơ bắp của đối thủ thì không đáng kể. Là một lih hồn mạnh mẽ" hơn, đó mới là đáng kể.
Đúng hơn anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.
Hỏa ngục, tiếng Do Thái là "Gué-H.innum" là một thung lũng ở phía Nam Giêrusalem, được coi như một hình ảnh tượng trương của Hỏa Ngục. Thung lũng đó bị chúc dữ từ những thời xa xưa vì là nơi người ta đã sát tế nhiều người. Đó là nơi bi thảm dùng để thiêu sinh trẻ con, người ta đặt chúng trên những cánh tay đã nung nóng đỏ của thần Moloch. Vào thời của Đức Giêsu thung lũng hỏa ngục tộc ác đó luôn là một bãi rác tởm lợm mênh mông của thành Giêrusalem. Người ta thường xuyên đốt rác và xác người chết ở đó. Cách nay hai năm, tôi mạo hiểm đến đó một mình, giữa những tảng đá bị lửa làm cháy nám. Đây đó, một vài cuộn khói còn bốc lên... Than ôi, truyền thống nhân loại còn ghi nhớ mãi sự tàn bạo kinh hoàng ấy, và đâu phải chi có ở Giêrusalem!
Tuy nhiên Đức Giêsu lặp lại với chúng ta: "Đừng sợ những kẻ. giết thân xác... hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt linh hồn!". Công thức này đáng kinh ngạc và cũng nghịch lý “Linh hồn" không thể giết được!. Công thức đáng sợ? Vậy "giết một linh hồn" có nghĩa là gì?
Nỗi sợ hãi duy nhất của chúng ta, Đức Kitô khẳng định, chính là đánh mất đức tin…
Nỗi sợ hãi duy nhất của chúng ta phải là sợ không đủ can đảm để "tuyên xưng và sống đức tin của chúng ta".
Không phải những kẻ bách hại làm mất Giáo hội... mà là những kẻ bỏ đạo!
Điều làm Giáo Hội phải động viên toàn bộ lực lượng chính là sự đánh mất đức tin trong các linh hồn! Khi người ta nghĩ đến những chiến dịch của dư luận để cứu lấy các hải cẩu con, hoặc cá voi, hoặc những phong cảnh cần được bảo vệ, hoặc các di tích cổ... thì thử hỏi người ta làm gì để cứu lấy các linh hồn? Người ta phải làm gì để con người không bị hư mất, không bị phá bủy từ bên trong khi đánh mất hết mọi ý nghĩa của cuộc sống? Các cộng đoàn Kitô hữu sẽ bị phán xét sau này, về những "linh hồn" mà họ để cho mất đi, Đó là hoả ngục! Đó là điều Đức Giêsu sợ! Đó là điều chúng ta phải sợ!
Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em".
Một hình ảnh không thể nào quên được. Đối với Đức Giêsu, không gì thoát được sự chăm chút lạ lùng của Chúa Cha. Biến cố nhỏ nhất đã được Thiên Chúa muốn hoặc dự kiến. Ví dụ như một con chim rời khỏi tổ. Một hiện tượng vô nghĩa chăng? Không, Thiên Chúa chăm sóc mọi tạo vật của Người. Không có gì thoát khỏi Người. Những công thức triệt để này được đánh dấu bới tâm thất Sê-mít không nên làm cho chúng ta kết luận về một thứ thuyết định mệnh phải, quả thật không có gì thoát khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa dẫn đưa các sự vật theo bản chất của chúng: những con người tự do được Thiên Chúa hướng dẫn một cách tự do... Thiên Chúa chăm chút đến những hành động tự do của chúng ta: không một hành động nào thoát khỏi Người. Nhưng Người tôn trọng chúng... và có thể nói rằng, Người muốn chúng, khi chúng ta muốn chúng! Đó chính là trách nhiệm rất lớn của tự do con người.
“Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người chúng đếm cả rồii. Vậy anh em đừng sợ: anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ".
Thay vì làm chúng ta sợ, sự chăm chút của Thiên Chúa trên mỗi hành động của chúng ta phải làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui: tôi được yêu mến... yêu mến không chút xao nhãng... không một phút giây nào lơi lỏng. Đấng yêu tôi, biết tôi đến từng chi tiết nhỏ. Người biết tôi hơn cả tôi biết chính mình.
Sự cầu nguyện của tôi trong lúc này có thể có hình thức sau đây: tôi để cho Thiên Chúa nhìn tôi! Các bạn cố gắng nhận thức một cách cụ thể rằng sức mạnh sáng thế vĩ đại trong lúc này không bị vận hành của vũ trụ và lịch sử hoàn vũ làm cạn kiệt mà còn hoàn toàn lưu tâm đến "tôi": Dưới mắt Thiên Chúa, tôi "đáng giá" hơn tất cả chim chóc của thế gian! Và trên thế gian có nhiều tổ chim chóc? Cha Cardjin, người sáng lập J.O.C. (thanh lao công) đã nói: "Linh hồn của một công nhân trẻ còn đáng giá hơn tất cả vàng bạc của thế gian!".
Vậy thì, Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự xảy đến cho con? Chúa săn sóc trên mọi sự? Chúa yêu thương con? Quả thật, làm sao con có thể sợ? Điều gì xấu có thể đến với con, nếu con vẫn ở dưới ánh mắt của Chúa. Nhưng một cách chính xác, tất cả vấn đề là ở chỗ đó.
Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
Phải vấn đề "linh hồn" vẫn luôn là điều chủ yếu. Một cách chính xác đây là sự tuyên xưng đức tin! Phải là một sự tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người... do đó không chỉ là, một. loại đức tin dưới tầng hầm mà không ai có thể xác nhận. Cũng không chỉ là tự nhủ mình là "tín hữu' khi nói ra điều đó, không gây mâu thuẫn cũng không gặp nguy hiểm nào... hoặc khi điều đó không đem lại sự cam kết nào..khi điều đó không thay đổi gì cho đời sống tôi. Vấn đề là “tuyên bố nhận Đức Giêsu”, trước một tòa án, trước một người nào đó không đồng ý, và đang cố làm cho các bạn nói điều ngược lại, trước một người nào đó sắp chế giễu các bạn, sắp hành hạ, tra khảo các bạn, hoặc gởi các bạn như một người điên đến bệnh viên tâm thần, như điều đã xảy ra trước đây ở Liên xô.
Có phải tôi tuyên bố nhận Đức Giêsu trước mặt thiên hạ không?
Có phải tôi thực hành đức tin của tôi? tôi trả giá nào cho điều đó? Tôi hy sinh điều gì? Có phải tôi phục vụ Thiên Chúa và Đức Kitô của Người? Hoặc có phải tôi chỉ dùng thời gian để phục vụ chính mình? Tôi làm gì cho Thiên Chúa?
Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
Một lần nữa, chúng ta thừa nhận rằng chính chúng ta tạo nên sự phán xét của chúng ta ngay từ bây giờ. Đức Giêsu chỉ chia ly với những người đã chia ly với Người, chỉ chối những người đã bắt đầu chối Người trước kia. Chối Đức Giêsu. Tôi nghĩ đến sự chối Chúa của Thánh Phêrô... mà Đức Giêsu đã tha thứ một cách tài tình sau ba lần tuyên xưng đức tin và tình yêu mến của Thánh Phêrô: "Phêrô, anh có yêu Thầy không?". Vậy không có sự chối Chúa nào là không tránh được. Và chung cuộc, không một tội lỗi nào, dù nặng nề nhất mà không thể tha thứ được.
Một cách chính xác là với điều kiện phải "tuyên bố nhận Đức Giêsu" và tin một cách chắc chắn rằng Đức Giêsu cứu độ và tha thứ.
Tất cả sự nghiêm túc của tự do chúng ta nằm trong khả năng mà chúng ta dùng để nói: "Tôi tin vào Chúa"...đến độ sẵn sàng chịu đổ máu nếu cần. Chúng ta chớ quên điều đó.
Đến độ chịu đổ máu! Điều này hiếm khi có hình thức của sự tử đạo. Nhưng điều đó thường mang khuôn mặt của sự trung tín anh hùng của chúng ta, của những bổn phận hàng ngày, của những can đảm trước điều xảy đến, của những thử thách…
Người có công khởi xướng công cuộc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc thiểu số vùng Cao Nguyên TN 12-A86
Người có công khởi xướng công cuộc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc thiểu số vùng Cao Nguyên Việt Nam là Ðức Cha Thể (Théodore Cuénot sinh ngày 8 tháng 2, 1802; chết rũ tù ngày 14 tháng 11,1861; và được phong Thánh ngày 19 tháng 6, 1988).
Tư tưởng loài người không phải là tư tưởng Thiên Chúa
Nhiều lần Ðức Cha Thể đã căn dặn các vị thừa sai của ngài là phải hết sức né tránh viên thủ lãnh dân tộc Bana tên Khiêm. Danh tiếng ông Khiêm lẫy lừng khắp vùng. Ði đến đâu ông cũng được người ta tôn kính. Ông nói giỏi tiếng Kinh và buôn bán lớn với người Kinh nên họ kể ông như trọng tài khi có tranh chấp với thổ dân. Ông Khiêm còn được nhà nước An Nam thừa nhận: các quan ở đồng bằng muốn lấy lòng và lợi dụng uy tín của ông nên đã vận động triều đình Huế ân thưởng ông một bằng cấp, qua đó nhìn nhận ông là thủ lãnh của tất cả các dân tộc thiểu số và phong cho ông chức đại diện của vua An Nam vùng Cao Nguyên. Tước hiệu này vuốt ve lòng tự ái ông Khiêm khiến ông trở thành nhân vật tận tâm tận lực với công việc của triều đình Huế. Như vậy dễ hiểu lý do tại sao các vị thừa sai lén lút lên vùng cao nguyên giảng đạo ngược với ý muốn của Hoàng Ðế An Nam đang bắt bớ đạo, không sợ ai cho bằng sợ ông Khiêm.
Nhưng Thiên Chúa quan phòng có đường lối riêng của Người. Người sử dụng kẻ mà mọi thừa sai đều né tránh. Khi hai vị thừa sai là Cha Cung và Cha Phan Tần (Combes và Fontaine) cùng phái đoàn vào làng Kon Phar thì người đầu tiên họ gặp chính là ông Khiêm!
Một trong số nô lệ của ông, chán cảnh tôi đòi, đã bỏ trốn và đến trú ẩn ở Kon Phar, nơi cách xa làng ông đến ba ngày đường. Ông Khiêm đã vượt khoảng cách đó đến bắt tên nô lệ trở về. Cuộc gặp gỡ bất ngờ đã làm hai vị thừa sai sững sờ! Giá mà họ hay trước được vài tiếng đồng hồ về sự hiện diện của con người đáng sợ này ở Kon Phar, chắc không khi nào họ dám tới gần đó. Nhưng hai vị chỉ biết điều ấy vào đúng lúc hai vị đứng đối diện với ông Khiêm!
Nhìn những con người da trắng kỳ lạ đến từ một con đường rất ít sử dụng, ông Khiêm tin rằng họ chỉ có thể là những nhân vật quan trọng nào đó, lìa bỏ xứ sở mình vì mắc trọng tội. Diện mạo của hai cha với làn da trắng, sóng mũi cao, râu rậm, quá khác xa những người mà ông từng thấy từ trước đến nay, đã làm ông bối rối, đoán già đoán non. Sau một lúc ngập ngừng ban đầu, ông Khiêm lấy lại bình tĩnh và tới tấp nêu câu hỏi: "Các ông là ai? Các ông từ đâu đến? Các ông có vẻ là những nhân vật quan trọng, vậy lý do nào khiến các ông thực hiện cuộc hành trình vất vả như thế này? Hai ông có phải là những người Kinh từ một tỉnh rất xa? Tôi chưa bao giờ thấy người nào có làn da trắng như các ông! Thật tôi thấy thương hại các ông trong cái xứ khốn khổ này. Hãy thành thật cho tôi hay. Tôi cảm mến các ông. Mặc dầu các ông có chuyện gì ở đồng bằng đi nữa, tại xứ Bana này các ông không phải sợ chi cả. Tôi đây như là vua của vùng này, và người Kinh cũng sẽ không làm gì được các ông đâu."
Tiến thoái lưỡng nan
Các vị thừa sai thấy ngay hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan của mình. Dầu muốn dầu không, bắt buộc các vị phải đặt mình trong vòng tay ông Khiêm! Hai vị thầm cầu nguyện rồi phó dâng bản thân theo thánh ý Thiên Chúa.
Vào dịp này cha Cung có viết cho Ðức Cha Thể rằng: "Chúng con đã gắng hết sức và làm mọi cách để tránh gặp ông Khiêm. Nhưng trong khi cố né tránh thì chúng con lại rơi vào tay ông ta. Có khi Thiên Chúa nhân lành muốn dùng ông ta để làm sáng danh Người chăng!" Mấy giòng cha Cung viết đã làm cho Ðức Cha Thể lo âu không ít. Ðọc thư xong, im lặng một lát, rồi ngài nói với Linh Mục đang ở bên ngài rằng: "Dầu sao, đó là việc của Chúa, Người biết rõ điều phải xảy ra cho vinh danh Người. Về phần cha đây, cha đã cam kết xây dựng miền truyền giáo này. Cha mới dâng Chúa một lời khấn, lời khấn ấy sẽ trói buộc cha suốt đời."
Trở lại với phản ứng của ông Khiêm. Ông nhận ra ngay nỗi lo âu của những người Kinh đối diện với ông, nhất là hai người da trắng. Ông vội vỗ về họ bằng cách lập đi lặp lại rằng: "Ðừng sợ, tôi sẽ giúp đỡ các ông. Tôi sẽ làm cho các ông tất cả những điều các ông muốn. Ðể minh chứng rằng tôi không có ý lừa dối các ông và lưỡi tôi thực sự là thông ngôn của lòng dạ tôi, tôi muốn ngay hôm nay kết nghĩa anh em với các ông, nếu các ông không thấy tôi bất xứng." Ông dùng những từ trang trọng nhất trong thổ ngữ của ông mà nói: "Hai cha lớn này, tôi xin gọi là cha của tôi, còn hai chúng ta - ông thân thiết xích lại gần thầy sáu Do cùng đi với hai cha và nói - sẽ là anh em."
Kết nghĩa anh em với lãnh tụ dân tộc
Theo thủ tục kết nghĩa anh em, hai bên giao nộp một ghè rượu và một gà mái, các chú mai mối xẻ ra làm hai đều nhau, cả tim, gan và từng cái đùi cũng phân làm hai, rồi trao vào tay mỗi người sắp kết nghĩa. Hai ống trúc cùng được cắm một trật vào một trong hai ghè rượu, và trước khi hai đương sự bắt đầu uống rượu thì một chú mai mối, với giọng trịnh trọng đọc lên những lời có tính cách công thức như sau: "Các anh hãy nhớ và đừng bao giờ quên rằng hôm nay hai người đã trở nên anh em với nhau; bạn hữu của người này là bạn hữu của người kia; bà con thân tộc của người này là bà con thân tộc của người kia. Nếu vô phúc mà một trong hai anh, phản bội người anh em của mình thì sấm sét hãy nghiền nát nó đi! Nó phải bị bắt và bị làm nô lệ! Nó phải chết khốn nạn và xác nó không được chôn cất, trở nên mồi cho cá dưới nước hay quạ trên rừng"
Từ lúc đó, lòng thành tín của ông Khiêm không bao giờ phai mờ. Ông luôn là người bạn chí thiết với các thừa sai. Ông không hề ngần ngại cả trước những trợ giúp hết sức nguy hiểm. Chính ông với phương tiện nô lệ và voi của mình, đã đảm trách việc vận chuyển qua ngã An Sơn, tất cả những gì người ta phải gởi lên cho các thừa sai từ địa phận Ðàng Trong sau này. Các quan ở đồng bằng hay tin các thừa sai trú ẩn vùng Cao Nguyên đã chỉ thị cho ông bắt giữ các vị ấy, nhưng ông Khiêm đã biết xử lý khéo léo, vừa làm hài lòng các quan, vừa không lỗi phạm tình bạn đối với các thừa sai.
Câu chuyện vừa kể cho thấy quả thật các thừa sai của Chúa tuy phải khôn ngoan như con rắn nhưng tới mức nào đó lại phải hiền lành như và đơn sơ như chim bồ câu vì phải đặt mình để tay Chúa dẫn đưa, thâm tín rằng truyền giáo chính là công trình của Thiên Chúa.
Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ
Bài Tin Mừng hôm nay là một phần của bài giảng về truyền giáo trong đó các môn đệ được dạy cho biết họ phải hành xử như thế nào đúng theo tinh thần của Ðức Giêsu (Mt 10,5-15) và họ sẽ gặp phải những khó khăn nào (16-42). Lời dạy chủ yếu là "Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà." (cc.24-25).
Vậy các môn đệ đừng trông chờ những sứ vụ dễ dàng và xuôi chảy, Ðức Giêsu có ý chuẩn bị các ông đối phó với những tình huống thù địch và chống đối.
Ðiều quan trọng là các ông không được sợ (Mt 10,26-33). Phải can đảm tuyên xưng đức tin mà không được bỏ cuộc. Ðiều các ông cần phải thâm tín là Nước Thiên Chúa chắc chắn sẽ đến và người chứng chính là Ðức Giêsu (cc.26-27): khi ấy sự giả hình của đối phương sẽ bị chính Chúa phanh phui. Các môn đệ cần phải tín thác vào Thiên Chúa (cc.28-30). Người ta chỉ có thể làm hại thân xác chứ không thể hủy hoại được linh hồn. Cuối cùng, cần phải nhắm thẳng cuộc phán xét trong ngày sau hết (cc.31-33). Giá trị tối hậu sẽ là lòng thành tín mà các ông duy trì đối với Ðức Giêsu, bởi lẽ kết quả cuộc chung thẩm sẽ dựa vào lòng thành tín đó.
Ðừng sợ, Hãy tin tưởng đối thoại
Dưới ánh sáng của Công Ðồng Vaticanô II, bổn phận truyền giáo bao hàm cuộc đối thoại trong tinh thần tôn trọng những ai chưa đón nhận Tin Mừng. Các tín hữu sẽ rút ra từ cuộc đối thoại này những lợi ích của chính họ. Họ sẽ học hỏi để "biết rõ tất cả những gì là chân lý và ân sủng có nơi các dân tộc, như nhờ một hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa." (AG 9). Nếu họ loan Tin Mừng cho những người không biết chính là để củng cố, kiện toàn, xây dựng chân lý và lòng thiện hảo được Thiên Chúa đổ tràn xuống giữa con người và giữa muôn dân, và để thanh luyện họ khỏi những lầm lạc và sự dữ "để Thiên Chúa được vinh quang, ma qủy phải xấu hổ, con người được hạnh phúc" (AG 9; xem Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 856).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ gì về việc ông Khiêm kết nghĩa anh em với thầy sáu Do và tận tình giúp đỡ và che chở các vị thừa sai: Bạn thấy khó hiểu hoặc nghi ngờ? Bạn nghĩ xem ra có sự an bài của Thiên Chúa, vì truyền giáo là việc của Chúa? Bạn có ý nghĩ khác?
2. Bạn nghĩ gì về câu Tin Mừng "Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý muốn của Cha anh em, thì đối với anh em cũng vậy. Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi" (cc.29-30). Hai câu vừa trích cho thấy Thiên Chúa quan tâm đến bạn vì bạn có giá trị trước mặt Người? Hai câu ấy còn cho thấy Chúa biết bạn hơn bạn biết chính mình, vì bạn đâu biết được số tóc bạn có trên đầu? Hai câu ấy có giúp bạn tín thác vào Chúa chăng?
Trước khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giê-su khích lệ các Tông đồ đừng sợ hãi, nhưng hãy TN 12-A87
Trước khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giê-su khích lệ các Tông đồ đừng sợ hãi, nhưng hãy mạnh dạn rao giảng Tin Mừng Nước Trời vì ba lý do như sau: Một là vì các ông đang nắm giữ chân lý; Hai là vì thế gian chỉ có thể làm hại được về phần thể xác. Ba là vì các ông có Thiên Chúa luôn an bài mọi sự. Đức Giê-su cũng hứa sẽ bênh vực những ai dám can đảm tuyên xưng Danh Người trước mặt người đời.
CHÚ THÍCH:
- C 26-27: + Anh em đừng sợ người ta: Đừng sợ là lời động viên và trấn an các môn đệ mà Đức Giê-su đã làm nhiều lần trong thời gian giảng đạo như: Khi dẹp yên sóng gió (x. Mt 8,26; Mc 4,41), khi tiên báo việc các ông sẽ bị bách hại (x. Mt 10,19-20), khi khuyên các ông vững tin vào Chúa quan phòng (x. Lc 12,22), khuyên đừng sợ trước những biến động của ngày tận thế (x. Mc 13,7), trước những thử thách về đức tin (x. Mt 10,26-33), khi đi trên mặt nước lúc đêm tối (x. Mt 14,27; Mc 6,50), khi hiện ra vào chiều ngày phục sinh (x. Ga 20,19-20). + Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ…: Chính Thiên Chúa sẽ thực hiện việc bày tỏ sự thật về Người cho loài người, mặc cho có những kẻ cố tình che giấu bưng bít. + Điều Thầy nói lúc đêm hôm…: Điều Đức Giê-su nói riêng với các ông ở Ga-li-lê giống như nói trong đêm tối, thì các ông hãy can đảm rao giảng công khai giữa thanh thiên bạch nhật. + Hãy lên mái nhà rao giảng…: Điều Đức Giê-su nói riêng với các ông như nói rỉ tai, thì hãy lên mái nhà tức là trên sân thượng giống như chiếc bục giảng, để nói to cho đám đông đứng dưới sân được nghe. Tương tự như trong thời đó, vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ Sáu hằng tuần, người có trách nhiệm sẽ phải lên trên sân thượng ngôi nhà cao nhất, thổi kèn để loan báo cho mọi người biết đã bắt đầu ngày Sa-bát là ngày người Do thái phải kiêng việc xác.
- C 28-31: + Anh em đừng sợ: Lời Đức Giê-su động viên các môn đệ khi sai họ đi truyền giáo. + Những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn: Sự sống của con người bao gồm cả thể xác lẫn linh hồn. Đừng sợ người đời vì cùng lắm họ cũng chỉ giết hại các ông về phần thể xác, chứ không thể giết hại được linh hồn vốn có đặc tính thiêng liêng bất tử. + Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục: Thiên Chúa là Cha nhân từ nhưng cũng là vị Thẩm Phán công minh uy quyền. Ngày tận thế, Người sẽ trừng phạt và tiêu diệt cả hồn lẫn xác những kẻ chống đối Người trong hỏa ngục muôn đời. + Hai con chim sẻ… Ngay đến tóc trên đầu anh em Người cũng đếm cả rồi: Không có gì xảy ra cho các Tông đồ mà nằm ngoài thánh ý Chúa Cha. Loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu, mà Chúa Cha cũng quan tâm gìn giữ không để con nào bị chết đói. Hoặc như những sợi tóc trên đầu chẳng mấy giá trị, thế mà Thiên Chúa cũng quan tâm đếm hết. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không quan tâm giúp đỡ các Tông đồ hay sao? + Anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ: Thái độ của người thừa sai, là phải tin cậy phó thác cuộc sống trong tay Thiên Chúa, Đấng đầy khôn ngoan và hằng yêu thương săn sóc họ hơn muôn ngàn con chim sẻ.
- C 32-33: + Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên ha…: Trong ngày cánh chung (x. Mt 25,31-46), thay vì xét xử, Đức Giê-su sẽ làm trạng sư bầu chữa cho các Tông đồ trước tòa Chúa Cha. + Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ…: Người môn đệ trung thành làm chứng cho Đức Giê-su trước mặt người đời như thế nào, thì sau này Người cũng sẽ bênh đỡ họ trước tòa phán xét của Thiên Chúa thế ấy. Do đó, các thừa sai cần phải can đảm trung thành làm chứng cho Chúa, dù có thể vì đó mà bị người đời thù ghét giết hại.
CÂU HỎI:
1) Trong thời gian giảng đạo Đức Giê-su đã trấn an các môn đệ là "Đừng sợ" khi nào? 2) Tại sao Đức Giê-su lại khuyên môn đệ phải leo lên mái nhà rao giảng Tin Mừng? 3) Đức Giê-su khuyên môn đệ không nên sợ những kẻ nào nhưng cần phải sợ ai? Tại sao? 4) Đức Giê-su nêu ra 2 ví dụ nào cho thấy sự quan phòng của Thiên Chúa để khuyên môn đệ hãy tín thác vào quyền năng và tình thương của Người? 5) Đức Giê-su hứa sẽ làm gì cho những ai trung thành làm chứng cho Người vào ngày phán xét sau này?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục... Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,28.32).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Trong đức tin không có chỗ cho sự sợ hãi
Một viên sĩ quan người Anh có một đức tin mạnh mẽ. Ông đang cùng vợ con đáp chuyến tàu đi sang thuộc địa Ấn Độ nhận nhiệm vụ mới. Khi tàu rời bến được hai ngày thì trời bắt đầu nổi cơn giông bão. Mọi người trên tàu đều lo sợ cuống cuồng mà vợ viên sĩ quan lại là người sợ hãi nhất. Đang khi đó, viên sĩ quan chồng bà vẫn tỏ vẻ bình thản như không có điều gì xảy ra. Thấy chồng có thái độ như thế, bà vợ khóc lóc và trách móc ông đã thờ ơ trước sự an nguy của vợ con. Bấy giờ viên sĩ quan chẳng nói chẳng rằng, đi vào phòng riêng lấy ra một thanh kiếm. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ như để đe dọa. Đầu tiên bà tái mặt đi vì sợ hãi nhưng ngay sau đó bà lại cười lên khanh khách, không tỏ vẻ gì là sợ hãi cả. Viên sĩ quan liền hỏi vợ: “Làm sao em lại có thể cười khi bị anh dí mũi kiếm vào ngực như thế?” Bà vợ trả lời: “Tại sao em phải sợ khi lưỡi kiếm ấy đang ở trong tay của người chồng rất thương yêu em?” Bấy giờ viên sĩ quan mới giải thích: “Vậy tại sao em lại muốn anh phải lo sợ khi anh xác tín rằng cơn bão này được đặt dưới quyền của Thiên Chúa, là Cha hằng thương yêu và muốn sự an lành cho con cái? Do đó, chúng ta không cần phải sợ. Ta chỉ cần làm hết sức mình, rồi phó thác vận mệnh cuộc đời ta trong tay Chúa quan phòng là đủ. Dù ta có phải chết hay được sống thì mọi sự cũng đều có ích cho phần rỗi đời đời của ta.
Vậy, mỗi lần gặp một tai nạn, hay một con bệnh hiểm nghèo, ta hãy cầu xin Thiên Chúa, noi gương Đức Giê-su trước cuộc tử nạn đã cầu xin Chúa Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Đau khổ có giá trị giúp chúng ta lập công đền tội, làm cho đức tin chúng ta thêm vững mạnh, và làm cho ta trở nên con Thiên Chúa. Chính vì ý thức được giá trị của đau khổ như thế, nên thánh nữ Béc-na-đét Sô-bi-rớt (Bernadette Soubirous) đã cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, con không xin Chúa cho con khỏi chịu đau khổ, mà chỉ xin Chúa đừng bỏ con một mình trong lúc con chịu khổ đau”.
2) Thái độ can đảm hay nhát sợ phát xuất từ trái tim:
Một câu chuyện ngụ ngôn được kể lại như sau: “Ngày xưa có một chú chuột nhắt rất sợ bị mèo vồ. Một vị thuật sĩ khi thấy thái độ sợ sệt của chú chuột liền thương hại và đã biến chú hóa thành một con mèo to lớn. Nhưng rồi chú mèo này khi thấy con chó sói tới gần lại leo vội lên cây vị sợ bị sói ăn thịt. Vị thuật sĩ thương hại nên lại biến chú mèo thành một con chó sói to lớn. Thế nhưng chú sói này khi thấy thợ săn đến gần lại sợ hãi và ba chân bốn cẳng chạy trốn. Bấy giờ, vị thuật sĩ đành chịu thua, và nói với chú sói rằng: “Ta không thể giúp gì được cho mi đâu, vì mi chỉ có trái tim của một con chuột nhắt mà thôi!”. Nói rồi vị thuật sĩ lại biến chú sói to kia trở lại thành một con chuột nhắt như cũ.
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng CN hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, vững tâm, trung thành và tín thác nơi Chúa, đừng sợ hãi trước những gian nan thử thách gặp phải. Trái lại, cần có một đức tin vững mạnh và sống động, để sẵn sàng đương đầu với mọi hiểm nguy và cả sự chết nữa trên bước đường loan báo Tin Vui Nước Trời.
- Về phạm vi đức tin, sự sợ hãi làm cho các tín hữu trở thành nhát đảm, không dám công khai đến nhà thờ dự lễ cầu nguyện, không dám nói về Chúa và có thể chối Chúa khi phải kê khai lý lịch, khi cần tuyên xưng đức tin, giống như ông Phê-rô xưa đã chối Thầy ba lần do sợ hãi (x. Mt 26,69-75).
- Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su ba lần nhắc nhở các môn đệ đừng sợ:
Đừng sợ người đời, nhưng hãy mạnh dạn nói lời Chúa cách công khai (26-27); Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà thôi (28);
Đừng sợ vì ta có Thiên Chúa là Cha đầy quyền năng, hằng thương yêu và quan phòng gìn giữ ta. Người luôn quan tâm đến từng con chim sẻ không mấy giá trị và nắm rõ có bao nhiêu sợi tóc trên đầu chúng ta (29-31).
2) Cần vượt qua nỗi sợ hãi thường tình:
- Thực ra cảm giác sợ hãi là điều tự nhiên và không xấu. Ngay Đức Giê-su tuy khuyên các môn đệ đừng xao xuyến (x. Ga 14,1), nhưng trước cuộc khổ nạn chính Người cũng có cảm giác sợ hãi (x. Ga 12,27; 13,21). Trong vườn cây Dầu, Đức Giê-su đã vô cùng xao xuyến và tâm sự với ba môn đệ thân tín như sau: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy” (Mt 28,37-38). Rồi khi bị treo trên thập giá, Đức Giê-su cũng có cảm tưởng như bị Chúa Cha bỏ rơi, nên đã sợ hãi và đã kêu lớn tiếng rằng: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”, nghĩa là “Lạy Thiên Chúa, Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46).
- Tuy nhiên, Đức Giê-su đã chiến thắng nỗi sợ hãi ấy, khi Người quyết vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu chén này không thể rời khỏi con, nhất định con phải uống, thì xin cho ý Cha được thể hiện” (Mt 26,42). Chính nhờ chiến thắng cảm giác sợ hãi và chấp nhận con đường "qua đau khổ vào trong vinh quang", mà nhân loại chúng ta mới nhận được hồng ân cứu độ. Hôm nay Chúa Giê-su Phục Sinh cũng động viên mỗi người chúng ta: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để anh em được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã chiến thắng thế gian” (Ga 16,33).
3) Hãy can đảm làm chứng cho Chúa:
- “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Anh em hãy xin chủ ruộng sai thêm thợ đến gặt lúa về”. Mỗi người chúng ta khi chịu phép rửa tội là chúng ta được tái sinh làm con Thiên Chúa. Khi đi theo làm môn đệ Chúa Giê-su, là chúng ta cũng như “Chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16), chúng ta cũng sẽ trải nghiệm các cơn thử thách, xỉ nhục, bắt bớ và giết hại giống như Thầy Giê-su, như lời Người dạy: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,24).
- Khi chịu phép Thêm Sức là chúng ta được tăng thêm sức mạnh của Thánh Thần để nên tông đồ đem Chúa đến với mọi người chung quanh. Cần cầu xin ơn Thánh Thần để đón nhận được bảy ơn Thánh Thần, như Hội Thánh cầu xin trong khi ban phép Thêm sức: “Xin ban cho họ thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức – xin ban cho những người này đầy ơn kính sợ Chúa”. Hãy nghe lời Chúa dạy: “Anh em đừng sợ” giống như Hội Thánh sơ khai đã không khiếp nhược nhưng hăng say đi rao giảng Tin Mừng.
- Cần tín thác cậy trông tín thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa: Bình thường, ai cũng sợ bị bắt bớ đánh đòn và sợ bị giết chết. Nhưng chúng ta cần tín thác vào Chúa như lời Chúa Giê-su hôm nay: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 30). Dù chúng ta đang gặp nhiều gian nguy đau khổ, nhưng chúng ta tin vững vào quyền năng và tình thương quan phòng của Thiên Chúa.
4. THẢO LUẬN:
1) Ngày nay chúng ta thường lo sợ về những điều gì? Để thắng được nỗi sợ hãi, chúng ta phải làm gì? 2) Chấp nhận theo Chúa đòi phải bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa. Vậy trong cuộc sống hôm nay, chúng ta phải từ bỏ những gì không phù hợp với đức tin và sứ mệnh làm chứng cho Chúa?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Cha từ bi nhân ái. Xin lắng nghe lời con cầu nguyện: Xin hãy ban cho con sức mạnh của ơn thánh, để con loại khỏi lòng trí những đam mê xấu xa tội lỗi. Xin hãy ban cho con sức mạnh của lòng can đảm, để con sẵn sàng chấp nhận mọi nỗi buồn vui xảy tới trong đời con. Xin hãy ban cho con sức mạnh hy sinh, để con quên mình dấn thân gánh vác thập giá đời con và những đau khổ của anh em gây ra cho con. Xin ban cho con một sức mạnh kiên cường, để con không chịu khuất phục trước cường quyền bạo lực và không làm ngơ trước gương xấu tội ác, nhưng sẵn sàng bênh vực công lý và hòa bình. Xin ban cho con một sức mạnh dẻo dai để con biết nâng cao tâm hồn khỏi những lo lắng cơm áo gạo tiền thường ngày. Và cuối cùng xin ban cho con một sức mạnh trổi vượt, để con luôn khiêm nhường, tin cậy chạy đến nép mình trong bàn tay âu yếm của Chúa, và dâng hiến cuộc đời để phụng sự Chúa và tha nhân theo thánh ý Chúa.
- Lạy Chúa. Nhiều lần chúng con đã tỏ ra khiếp nhược sợ hãi khi giao tiếp với người khác, hoặc khi gặp phải những gian nan thử thách liên tiếp xảy đến. Trong những giờ phút đen tối đó, nhiều lần chúng con đã không dám biểu lộ đức tin, đã gián tiếp chối Chúa khi không dám khai tôn giáo của mình trong bản lý lịch; Nhiều khi chúng con không dám làm dấu thánh giá ở chỗ đông người, không dám đeo dây chuyền có hình Thánh giá Chúa, không dám trưng bày bàn thờ Chúa ở nơi trang trọng nhất trong nhà, không dám mở miệng bênh vực Chúa và Hội Thánh khi nghe những kẻ vô tín phỉ báng bất công. Xin giúp con chăm chỉ học hỏi Lời Chúa để ngày một hiểu biết và yêu mến Chúa hơn. Xin cho con thêm can đảm để dám bênh vực công lý và làm chứng cho Chúa. Xin ban thêm đức tin cho con để nhìn thấy Chúa đang ở trong con, để cậy trông phó thác đời con cho Chúa. Xin cho con sự khôn ngoan, biết khi nào nên nói và nói về Chúa cách nào cho hiệu quả. Nhờ đó, con sẽ chu toàn được sứ mệnh làm tông đồ mở mang Nước Chúa, loan báo Tin Mừng giữa lòng xã hội hôm nay.
Theo Chúa Giêsu, các môn đệ vẫn chưa hiểu rõ về con người của Ngài. Thực tế, nhiều môn đệ còn: TN 12-A88
Theo Chúa Giêsu, các môn đệ vẫn chưa hiểu rõ về con người của Ngài. Thực tế, nhiều môn đệ còn mơ hồ về Thầy, họ cứ tưởng Thầy cũng chỉ là một ngôn sứ lớn hơn các ngôn sứ mà họ vẫn thường nghe chăng ? Do đó, đã có rất nhiều luồng dư luận nói về Chúa Giêsu. Tất cả các dư luận đề cập về Chúa đều không đúng ý của Chúa vì người ta chưa hiểu gì về Ngài. Hôm nay, Tin Mừng của thánh Luca 9, 18-24 cho nhân loại thấy, Chúa Giêsu bất thần hỏi các môn đệ nghĩ gì về Ngài…
Khi sống bên ai, sống bên người nào, nếu chúng ta không biết, không hiểu họ, chúng ta sẽ chẳng nhìn ra con người thực của họ. Câu chuyện về những người mù nghĩ về con voi, cho chúng ta hiểu phần nào về các luồng dư luận mà quần chúng nhân dân thời Chúa Giêsu đã nghĩ thế nào về Ngài.Các môn đệ đã báo cáo cho Chúa Giêsu: người thì bảo là Êlia. Có người nói Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả, mới bị bạo chúa Hêrôđê chặt đầu nay sống lại.Có nhiều người lơ mơ lờ mờ nói Chúa là một ngôn sứ nào đó. Như vậy, dư luận của đám đông nhân dân hiểu và biết rất mù mờ về Chúa Giêsu, họ chỉ hiểu về một khía cạnh nào đó của Chúa Giêsu mà thôi. Đối với đám dân này thì Chúa Giêsu chỉ là một ngôn sứ có thế giá, có sứ mạng lớn là dọn đường cho Chúa cứu thế đến, chứ Ngài chưa phải là Đấng Thiên sai mọi người đang trông đợi đến để cứu họ. Tuy nhiên, các môn đệ của Chúa quả thực đã làm cho Chúa mát lòng vì các Ngài coi Chúa là Đấng Kitô, Đấng Thiên Sai phải đến. Phêrô đã nhanh nhảu đại diện các môn đệ thưa với Chúa Giêsu:” Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa “( Lc 9,18-20 ). Phêrô đã trả lời câu hỏi của Chúa cách quá chính xác, khiến Chúa cảm thấy hài lòng vì công lao Ngài dạy dỗ các môn đệ. Chúa Giêsu sau khi khen Phêrô đã xác nhận ngay là Đấng Kitô đây không phải là vị vua chiến thắng theo kiểu thế gian, không phải là vị vua bá chủ muôn dân, khôi phục lại vương quyền Israen, giải phóng nô lệ Roma. Nhưng Đức Kitô của Thiên Chúa là Đấng chiến thắng ma quỷ, chiến thắng tội lỗi, chiến thắng tử thần, chinh phục, cứu vớt các linh hồn, khôi phục quyền làm con Chúa. Tuy nhiên, con đường đi tới chiến thắng là con đường hẹp, con đường đau khổ, con đường thập giá.” Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sống lại “ ( Lc 9, 22 ). Con đường đi tới vinh quang là con đường tình yêu tự hiến, tình yêu vô vị lợi, tình yêu cao vời:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). “ Khi nào Ta được giương cao lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta “. Chính vì thế, ai muốn đi theo Chúa, làm kôn đệ Chúa phải từ bỏ chính mình, vác thập mình hằng ngày mà theo ( Lc 9, 23 ). Chúa đã dùng cây thập giá: một dụng cụ người Do Thái và Roma dùng để treo, để đóng đinh những người bị lên án. Đây là một dụng cụ thô bạo, tàn nhẫn, nhưng Chúa đã biến nó thành dấu chỉ yêu thương. Chính tình yêu đã biến thập giá thành cây cứu độ, nhẹ nhàng và đau khổ biến thành hạnh phúc, niềm vui. Chúa vô tội nhưng đã vâng lời Chúa Cha chết thay cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta. Vậy là Kitô hữu chúng ta có dám chết cho chính mình, từ bỏ tội lỗi để bước theo chân Chúa ? Lời tuyên xưng của thánh Phêrô và lòng yêu thương vô bờ của Chúa có khơi lên trong lòng chúng ta niềm vui vì chúng ta là Kitô hữu, có giúp mọi người nhận ra chúng ta đang sống sự sống của Chúa, có giúp người khác nhận ra Chúa Giêsu nơi chúng ta ? Và lời của thánh phaolô tông đồ:” Tôi sống nhưng không phải tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi “ có nói lên rõ nét Chúa Giêsu đang ở trong mỗi người chúng ta không ? Chúng ta có dám hy sinh cho người khác không hay chúng ta chỉ nói ngoài môi miệng và sống ích kỷ, thiếu bác ái, thiếu quảng đại không ? Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng can đảm, nhiệt thành, quảng đại để chúng con chỉ sống cho Chúa và anh chị em đồng loại. Amen. Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Tại sao trước tiên Chúa Giêsu đã che dấu sứ điệp của người? Và ai sẽ tỏ lộ sứ điệp đó ra? 2. Chúa TN 12-A89
1. Tại sao trước tiên Chúa Giêsu đã che dấu sứ điệp của người? Và ai sẽ tỏ lộ sứ điệp đó ra?
2. Chúa Giêsu báo cho môn đồ hay họ sẽ bị bách hại đến chết (c. 8) nhưng đồng thời người lại nói chúa quan phòng cũng chăm sóc cả chim trời (c.29). Như thế không mâu thuẫn sao?
3. Các huấn lệnh này hôm nay đem đến cho ta điều gì giúp quán triệt sứ mệnh Kitô hữu?
1. Trong phần cuối diễn từ về sứ mệnh này, rõ ràng mt đã tách diễn từ khỏi bối cảnh lịch sử của nó trong cuộc đời Chúa Giêsu để làm thành một giáo huấn có tầm mức rộng lớn hơn cho mọi môn đồ người. Cơ hội cụ thể của diễn từ, được trình trong 9, 35- 10, 1 hình như đa bị quên lãng. chính kết luận soi sáng ý nghĩa toàn bộ.
Thành thử ở đây tác giả không có ý ghi lại cách chính xác việc sai phái các sứ đồ đến cùng các chiên lạc nhà israel” (10, 6), như Chúa Giêsu đã muốn để tiếp nối việc rao giảng của người bằng lời nói và hành dộng. Đúng hơn việc sai phái đó là cơ hội để tác giả giải thích cho giáo hội biết môn đồ là gì và vai trò của kẻ ấy ra sao. Do đấy mt 10 xuất hiện như là một bài học cho giáo hội và chỉ có thể hiểu được trong nhãn giới đó mà thôi.
2. Một ý tưởng nổi bật hơn hết: môn đồ là người được sai nhờ được sai đi mà người ta có địa vị môn đồ. Ở đây mt không nhắm mô tả một “hữu thể mới ” (theo kiểu của gioan) cho bằng là tiên quyết khẳng định có một ý muốn cao hơn đang ảnh hưởng trên môn đồ. Chính Chúa GGiêsu chọn lựa và tự do kêu gọi kẻ ấy, rồi sau đó sai phái ra đi. Và kẻ ấy chỉ nên môn đồ khi chấp nhận sự chọn lựa, khi lắng nghe và vâng phục lời kêu gọi trong cuộc sống mỗi ngày. Tất cả những thái độ này tương ứng với một định luật căn bản trong hành động của Thiên Chúa, mà thánh kinh mặc khải cho chúng ta từ abraham (st 12, 1- 4) đến Gioan tẩy giả (lc 1, 17; 3, 2).
3. Tuy nhiên bản văn Mt không chỉ muốn tái dựng hoàn cảnh lịch sử thời Chúa Giêsu đang thi hành sứ vụ trần thế (một công việc dầu sao cũng hơi khó thực hiện), nhưng còn cho biết hoàn cảnh mà chính tác giả đang chứng kiến trước mắt khi biên soạn diễn từ. Rõ ràng là tác giả muốn áp dụng các lời Chúa Giêsu vào hiện tại. thành thử mất nét giúp nhận ra cách chắc chắn việc áp dụng đó phải được giải thích theo hoàn cảnh được xét đến lúc bấy giờ và trong khung cảnh của thời gian đó. Cũng có thể dùng chúng như khởi điểm để giải thích hoàn cảnh hôm nay, vì chúng đã tạo nên một giai đoạn giải thích, áp dụng chính xác trong “thời của giáo hội” và như thế chúng là chiếc cầu liên kết “thời của Chúa Giêsu” với “thời của Giáo hội”.
Chú giải chi tiết
“Vậy đừng sợ chúng”: chữ “vậy” liên kết cc. 26- 27 với những gì đi trước. tuy thế nó không loan báo một kết luận đương nhiên nhưng là khai mào cho một lời khích lệ mới dựa trên điều đã nói. Ý nghĩa chẳng phải như thế này: Đừng sợ chúng vì chúng không làm gì chống lại các con được, song là: đừng sợ chúng vì các con không thể đòi hỏi một số phận ít đau khổ hơn số phận của thầy các con (cc. 24-25). các kẻ bách hại thật đáng sợ đấy nhưng phải biết khắc phục nỗi sợ hãi này và tuyên xưng niềm tin mới. Thành ra các chữ đầu tiên đây có nghĩa: ước gì nỗi sợ hãi của các con (mà người đời có thể hiểu được cc 17-25) không ngăn cản việc các con làm chứng về thầy.
“Bị bại lộ … bị thấu biết”: chủ từ không nói ra của hai động từ ở thể thụ động này là Thiên Chúa. bây giờ thiên chúa muốn cho mọi người biết mầu nhiệm Nước trời nhờ chứng tá các môn đồ. lời khuyên đừng sợ hãi lần lượt dựa trên nhiều lý do. Trước tiên đừng sợ vì sứ điệp vĩ đại của nước thiên chúa sắp được tỏ lộ… bước đầu của các điều mới” do Chúa Giêsu đem đến thật khiêm tốn vô cùng. Ai nấy đều tưởng dễ nghiền nát hạt giống nhỏ bé đó. nhưng cái hiện nay đang sống trong âm thầm và thinh lặng, ngày kia sẽ được tỏ lộ cách vinh quang. Chúa Giêsu thực hiện sự nghiệp người trong tư thế một tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa… thế nhưng người sẽ tự mặc khải như niềm hy vọng của muôn dân (12, 17- 21). Người nói trong bóng tối, nhưng đòi sứ đồ mình phải tuyên ra nơi ánh điều người rỉ bên tai, nghĩa là khuất mắt quần chúng (vì đám đônng không thể quán triệt sứ điệp người trước cuộc tử nạn Phục sinh và Hiện xuống), sứ đồ phải công khai loan báo trước mặt mọi người. Chúa Giêsu bất cần biết họ có được người chấp nhận hay không. Chính lời giảng dạy của họ sẽ luôn làm chứng về tin mừng cho người; và tin mừng cuối cùng sẽ vinh thắng và chiếu sáng rạng ngời, như mặt trời buổi bình sinh.
“Những kẻ giết được xác”: lý do đừng sợ thứ hai là sự sống đích thực của con người không thể bị xâm phạm. Các kẻ bách hại chỉ có thể giết (apokteinai) nhưng mình Thiên Chúa mới có thể diệt (apolosai) toàn thể con người. sự sống thật (xác và hồn) thoát khỏi mọi cuộc tấn công. Nó được Thiên Chúa bảo đảm dứt khoát và không thể bị người đời giảm bớt hay cướp mất đi, ngay cả bằng việc tiêu trừ sự sống thân xác.
“Ngoài ý Cha các con”: lý do đừng sợ thứ ba là: Thiên Chúa quan phòng hằng chăm súc mọi tạo vật, kể cả những thứ vô nghĩa như loài chim sẻ. nhưng sự quan phòng đó không phải là một định luật vô ngã của vũ trụ, song là sự trông coi cố tính cách hữu ngã của Thiên Chúa hằng sống, cha các con. Tuy nhiên, nếu chứng tá các môn đồ có thể đưa đến cái chết, thì đó không phải là ngoài ý muốn của Chúa quan phòng, như thể Thiên Chúa, dầu âu yếm đứng bên giờ chết của vị tử đạo, vẫn không thể cứu thoát vị ấy được, nghĩa của đoạn này hoàn toàn khác. mt muốn nhấn mạnh: Dù đang chứng kiến cái chết của vị tử đạo? Thiên Chúa cũng không muốn tách cái chết đó ra khỏi thánh ý ngài: sở dĩ thiên chúa phù giúp vị tử đạo chính là vì xét cho cùng, Ngài muốn cái chết đó. Hãy nói cho rõ hơn: ngài không chấp nhận cái chết cách chung chung, lý thuyết, vì ngài muốn con người sống và được cứu thoát; nhưng chính vì mong mọi người lắng nghe tin mừng, mà ngài muốn có những đấng tử đạo, là những kẻ ngài hứa ban trong cùng một lúc cái chết bi thảm và ơn cứu rỗi.
“Ta cũng xưng kẻ ấy ra”: điểm đáng lưu ý là ở đây Chúa Giêsu không xuất hiện như là thẩm phán ngày sau hết, nhưng như trạng sư biện hộ cho các tín hữu người trước mặt Thiên Chúa thẩm phán. cả hai vai trò đều liên kết trong bản thân người. Chúa Cha đã trao quyền xét xử cho người (25, 31tt; 7, 23), nhưng chính người lại đồng hóa với những kẻ tin tưởng cùng đi theo người đến nỗi người có thể đại diện cho họ (x. 10,40; 18,20; 25, 35tt).
Kết luận
Chúa Giêsu đã hơn một lần dùng kiểu nói đề phòng sau đây: “hãy coi chừng (7,15;10, 17…). nhưng người cũng bảo, như trong các câu này (3 lần): đáng sợ”. Cả hai chuyện đều cần thiết phải sáng suốt và khôn ngoan để nhận ra đối phương, phải khách quan lượng giá nguy hiểm đang đến; nhưng sau đó đứng vững giữa mọi cám dỗ và mọi cuộc tấn công. Đức tin xua đuổi sợ hãi và niềm ý thức rằng mình thuộc về đấng Messia, mình phải chịu đựng số phận của mình như đấng Messia sẽ giúp ta can đảm và vững lòng.
Ý hướng bài giảng
1. Trên đường Đức tin, phải biết sẵn sàng đón nhận sự chống đối, phân rẽ, công kích, tố cáo. phải biết thẳng tay loại bỏ những mộng ước dễ dãi về một công cuộc phúc âm hóa đầy may mắn và tốt đẹp. đừng sợ, nghĩa là phải chống đối, đấu tranh, kiếm tìm. Có trăm ngàn lý do để sợ: tiến bộ hay thủ cựu, khuynh hữu hay khuynh tá, bạo lực hay yếu hèn … tất cả đều hợp lực làm lu mờ chân lý. Giữa bao cảnh bạo tàn và gian manh láo khoét ấy, vang dội lời này: “các con đừng sợ chúng”.
2. Người ta có thể chất vấn mọi Kitô hữu: bạn lo sợ cho nước trời hay lo sợ cho xác thân, cho cuộc sống bạn? Nỗi lo âu của bạn là lòng nhiệt thành nung nấu hay ưu tư về chính bản thân? Sau cùng bạn quan tâm lo lắng cho tha nhân hay băn khoăn về cuộc đời của bạn? nói cách khác, bạn sợ hay tin. Vì ở đâu còn sợ, ở đấy chưa có đức tin. Ở đâu còn nghi ngờ về tương lai, ở đó còn có sự nghi ngờ triệt để này? Thiên chúa có thể cứu ta thực không? phải chăng ngài đã chết? chắc gì ngài lưu tâm đến ta? Không sợ là vững tin giữa cơn nguy hiểm rằng ngay cả tóc trên đầu ta cũng được đếm cả rồi.
3. Trong cuộc sống cụ thể mà Kitô hữu phải làm chứng về niềm tin mình mỗi ngày, thật khó phân biệt giữa sự gan dạ cần thiết với sự táo bạo nguy hiểm vô ích. Ta quá biết rằng mọi thái độ, cử chỉ đều có thể bị chỉ trích vì không gì tốt hảo hoàn toàn. Có thể đôi khi nên thinh lặng hơn là tuyên bố chẳng đúng thời đúng lúc; nhưng đừng thinh lặng vì sợ cho bản thân, vì sợ nguy hiểm cho thanh danh mình hay cho sự thoải mái bên trong. Hôm nay được gặp chúa giêsu trong phép thánh thể, ta hãy xin người giải thoát ta khỏi mọi sợ hãi và củng cố niềm tín thác cậy trông mà chỉ mình người mới có thể ban được.
4. Việc Chúa quan phòng chăm sóc ta không có nghĩa là ngài cất khỏi ta mọi khó khăn, nhưng là giúp đo ta qua mọi khó khăn gặp phải, để biến ngay cả cái chết thành một khúc ca tình yêu.
Cuộc sống xung quanh chúng ta có biết bao nỗi sợ. Từ trong nhà ra ngoài phố, chúng ta có TN 12-A90
Cuộc sống xung quanh chúng ta có biết bao nỗi sợ. Từ trong nhà ra ngoài phố, chúng ta có thể gặp nguy hiểm bất kỳ lúc nào. Nguy hiểm do thiên tai, do bạo lực, do tai nạn giao thông. Ngoài những nỗi lo cơm áo gạo tiền, con người còn phải lo sợ trước sự bon chen, mưu mô, thủ đoạn của người đời. Trước những lo sợ bủa vây tứ phía, người ta đối phó bằng nhiều cách khác nhau: có những người buông xuôi phó mặc cho dòng đời trôi dạt, hoặc thỏa hiệp với sự dữ, làm điều bất chính. Có những người can đảm vững tâm, vượt thắng mọi sợ hãi, thanh thoát giữa đời. Giữa bối cảnh đầy lo âu này, người tín hữu được Chúa Giêsu trấn an khích lệ: “Đừng sợ!”.
Ông Bà ta thường nói: “Cây ngay không sợ chết đứng”. Điều này có nghĩa là chúng ta cứ sống theo sự thật, vì sự thật sẽ giải thoát và minh oan cho chúng ta. Một cuộc sống gian dối, bao che sẽ đến lúc phơi bày ra ánh sáng. Ngôn sứ Giêrêmia là một người công chính, nhưng ông bị bách hại, đe dọa và vu khống đủ điều. Những kẻ thù ghét ông đã gọi ông là “Lão tứ phía kinh hoàng”. Tuy vậy, ông vẫn một lòng cậy trông vào Chúa. Ông tin rằng, Chúa sẽ phù trợ ông. Ngài cũng sẽ minh oan cho ông, vì ông sống ngay thẳng. Bài đọc I là lời cầu nguyện của ngôn sứ Giêrêmia trong cơn bách hại. Đó cũng là lời khuyên những ai sống công chính mà bị ghen ghét, hãy cậy trông vào Chúa và hãy sống ngay lành trong bất kỳ hoàn cảnh nào. “Đức Chúa hằng ở bên con, như một trang chiến sĩ oai hùng…”. Thiên Chúa là Đấng phán xét công minh. Ngài thấu hiểu lòng dạ con người. Ngài thương xót và cứu vớt những ai sống ngay lành thánh thiện. Những ai cậy trông Chúa, Ngài chẳng bỏ rơi bao giờ.
Chúa Giêsu tiếp nối giáo huấn của Cựu ước. Người khuyên chúng ta đừng sợ những người chỉ giết được thân xác mà không giết được tâm hồn. Chúa nhắc chúng ta, “hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Đấng ấy chính là Thiên Chúa. Tuy vậy, sự “sợ hãi” này không giống như sợ hãi trước sự đe dọa khủng bố hoặc bách hại. Sự sợ hãi mà chúng ta dành cho Chúa đi kèm với sự “kính mến”, nên chúng ta còn gọi đó là sự “kính sợ”. Sự kính sợ này không làm cho chúng ta xa cách Chúa, trái lại, giúp chúng ta vững chí cậy tin. Vì vậy, liền sau đó, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhận ra sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, đồng thời phó thác trọn vẹn cuộc sống của chúng ta nơi Ngài, để Ngài dẫn dắt và che chở chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Hai hình ảnh được Chúa Giêsu nêu để chứng minh sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, đó là con chim sẻ và sợi tóc trên đầu. Những vật xem ra là tầm thường và vô giá trị, mà cũng được Chúa quan tâm. Con người chúng ta đáng giá bội phần, vì mang trong mình hình ảnh của Thiên Chúa, có ý chí, tự do và trách nhiệm về những hành vi cử chỉ của mình.
Sự kính sợ Chúa còn dẫn chúng ta đến việc mạnh dạn tuyên xưng đức tin nơi Ngài. Người tín hữu là người tuyên xưng đức tin trong mọi lãnh vực, mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Việc mạnh mẽ can đảm tuyên xưng đức tin như một điều kiện cần thiết cho hạnh phúc đời sau. Bởi lẽ, nếu chúng ta tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu, thì chính Người sẽ “bảo lãnh” cho chúng ta trước tòa Chúa Cha. Thánh Phaolô quảng diễn điều này khi so sánh Đức Giêsu với ông Ađam. Do ông Ađam mà sự chết thống trị. Nhờ Đức Kitô mà thế gian được sống. Đức Kitô là nguồn ân sủng dồi dào của Thiên Chúa. Những ai đón nhận Người, thì được ngụp lặn trong nguồn ân sủng phong phú đó. Nhờ đó, họ không còn sợ hãi, nhưng vững lòng cậy tin (Bài đọc II).
Một vấn nạn thường được đặt ra: tại sao có nhiều người làm điều ác mà vẫn phát đạt và vẫn cứ nhởn nhơ? Người Á đông chúng ta tin vào thuyết nhân quả, “gieo gió gặt bão”; Giáo huấn của Cựu ước khẳng định “Sống làm sao, Chúa sẽ trả cho như vậy”; Chúa Giêsu dạy “đong đấu nào sẽ nhận đấu ấy”. Đây là điểm gặp gỡ chung giữa các tôn giáo và một số nền văn hóa. Mỗi chúng ta, thay vì bức xúc trước những vấn nạn trên, thì hãy chuyên tâm làm việc lành. Bởi lẽ, người làm việc lành chắc chắn được Thiên Chúa ghi nhận và ban ơn. Thực tế đã chứng minh điều ấy. Hơn nữa, người tín hữu vững tin nơi Đức Giêsu là Đấng Cứu độ trần gian. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào cho những ai tin tưởng và cậy trông nơi Người.
Giữa bao nỗi sợ của cuộc sống hằng ngày, người tín hữu sẽ tìm được nơi ẩn náu nhờ sự phó thác cậy trông vào Chúa. Nhờ ơn nâng đỡ của Ngài, chúng ta không còn sợ hãi. Nhờ phúc lành của Chúa, những lo lắng ưu sầu của cuộc sống sẽ biến thành niềm vui và hy vọng. Thực tế đã chứng minh cho chúng ta, người tin tưởng vào Chúa luôn lạc quan, vì họ xác tín rằng Chúa luôn đồng hành với họ trên mọi nẻo đường. Khi khích lệ chúng ta: Đừng sợ! Chúa cũng sai chúng ta lên đường để kể lại những điều lạ lùng Chúa đã và đang làm cho mỗi chúng ta. Như thế, chúng ta sẽ góp phần giảm thiểu những nỗi sợ hãi đang ám ảnh nhiều người trong cuộc đời.
“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ trong con, hồn lặng lẽ an vui. Cậy vào Chúa, Israel ơi! Từ nay đến mãi muôn đời muôn năm” (Tv 130,2-3).
Sống ngay lành và thánh thiện; vững vàng phó thác và cậy trông nơi Chúa quan phòng, đó chính là thông điệp mà Lời Chúa hôm nay muốn gửi đến chúng ta.
Đức Giêsu sai 12 Tông đồ đi rao Tin Mừng với những chỉ thị cụ thể rõ ràng. Nhưng rao giảng Tin TN 12-A91
Đức Giêsu sai 12 Tông đồ đi rao Tin Mừng với những chỉ thị cụ thể rõ ràng. Nhưng rao giảng Tin Mừng không phải là một sứ vụ nhẹ nhàng, dễ dàng. Đó là một sứ vụ nặng nề, đầy hiểm nguy, luôn bị chống đối và bách hại (hiểm nguy như “chiên ở giữa bầy sói”; chống đối và bách hại ngay từ trong gia đình giữa cha mẹ và con cái).
Trước những hiểm nguy đó, hôm nay Đức Giêsu bảo các Tông đồ: “Đừng sợ.”
Đừng sợ rao giảng Tin Mừng! Đừng ngại nói về Nước Trời cho những người khác. Vì chẳng có gì che giấu người ta mãi được, chẳng có gì bí mật mà người ta sẽ không biết.
Điều Chúa nói lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày. Điều Chúa rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.
Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Nhưng hãy kính sợ Thiên Chúa, Đấng có thể ném cả hồn lẫn xác vào hoả ngục. Như thế, Đức Giêsu dạy chúng ta điều không đáng sợ và điều đáng phải sợ, kẻ không đáng sợ và người đáng phải sợ
Điều không đáng sợ, đó là kẻ chỉ giết được phần xác, nhưng không giết được linh hồn. Điều đáng phải sợ, đó là chết cả phần xác lẫn phần hồn.
Kẻ không đáng sợ, đó là thế gian và người đời. Đấng đáng phải kính sợ, đó là Thiên Chúa.
Thế mà nhiều khi chúng ta sợ chết phần xác hơn sợ chết phần hồn, sợ người đời hơn kính sợ Thiên Chúa. Cụ thể như:
– Sợ bị gây phiền hà, nên không dám rao giảng và sống những đòi hỏi của Tin Mừng (công bằng, bác ái, tự do, ngay thẳng, tôn trọng phẩm giá và bảo vệ sự sống con người) giữa một thế giới tục hóa và xã hội vô thần, đầy gian dối, bất công, tham nhũng, thiếu tự do và nhân quyền.
– Sợ ốm đau bệnh tật, nên đã mua thịt về ăn trong ngày chay mà Hội Thánh buộc
– Sợ đói sợ nghèo, nên đã bỏ lễ ngày Chúa Nhật, ngày Lễ Nghỉ để đi làm.
– Sợ khó ngại khổ, nên chẳng chịu học giáo lý, đi lễ và đọc kinh sớm tối thờ phượng Chúa.
– Sợ ế vợ ế chồng, nên đã sẵn sàng bỏ Đạo, để lấy được vợ được chồng.
– Sợ mất thời gian, tốn công sức, tiền của, nên không dám tham gia hoạt động tông đồ, sinh hoạt hội đoàn, dấn thân phục vụ công ích, xây dựng Giáo Hội và xã hội.
– Sợ mất chức quyền, mất công ăn việc làm, nên đã sẵn sàng chối Chúa, không dám xưng mình là người có Đạo …v.v.
Những kẻ sống như vậy, cần phải nghe cho kỹ lời Đức Giêsu nói hôm nay: “Phàm ai chối Thày trước mặt người đời, Thày cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thày, Đấng ngự trên trời. Còn ai tuyên nhận Thày trước mặt người đời, Thày cũng sẽ tuyên nhận kẻ ấy trước mặt Cha Thày, Đấng ngự trên trời”.
Lạy Chúa Giêsu xin ban ơn thêm sức cho con để con can đảm sống và rao giảng Tin Mừng giữa lòng thế giới hôm nay. Amen.
Các bài đọc của tuần 11 mời gọi các Kitô hữu hãy trở nên sứ giả Tin mừng, đem ơn cứu rỗi của TN 12-A92
Các bài đọc của tuần 11 mời gọi các Kitô hữu hãy trở nên sứ giả Tin mừng, đem ơn cứu rỗi của Chúa đến cho mọi người. Tuần này, Chúa báo trước cho chúng ta rằng muốn làm tông đồ của Chúa phải can đảm, vững tâm, đừng sợ trước những gian nan thử thách. Nếu Chúa là Chủ và là Thầy mà người ta còn xử tàn tệ như thế, thì chúng ta, những tôi tớ, những môn đệ của Chúa cũng không tránh khỏi con đường đó. Nhưng Chúa khuyên chúng ta đừng lo âu sợ hãi vì Thiên Chúa quan phòng luôn nâng đỡ, che chở và hộ phù mọi sứ giả của Chúa. Hãy có một đức tin vững vàng và một đức cậy sáng suốt mà hành động, và phần thưởng của chúng ta đang chờ nếu biết xưng Chúa ra trước mặt thiên hạ.
Người ta thường nói: “Bất nhập hổ huyệt an đắc hổ tử”: không vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con. Muốn đem Tin mừng đến cho người khác thì người tông đồ phải biết dấn thân và dấn thân cũng gần có nghĩa như liều mạng. Thánh Phaolô là gương mẫu của sự dấn thân. Ngài không nề quản những khó khăn vất vả, những gian nan thử thách, ngay cả đến tính mạng của mình vì ngài luôn tâm niệm: “Khốn cho tôi nếu không rao giảng Tin mừng”. Các thánh Tông đồ cũng đã dấn thân rao giảng Tin mừng và kết cục là đã nhận lấy cái chết vì Chúa.
Chúa Giêsu luôn nhắc nhở cho chúng ta cái tư tưởng là “Đừng sợ”. Chúng ta có thể tìm thấy từ ngữ “đừng sợ” 365 lần trong Thánh kinh. Người Tông đồ chỉ có thể tìm được sự can đảm nếu biết tin cậy phó thác cho Chúa. Chính Ngài sẽ ban ơn đầy đủ, để chúng ta có thể hoàn thành sứ mạng đã được giao phó. Qua kinh nghiệm, thánh Phaolô đã khẳng định được tư tưởng trên khi ngài nói: “Omnia possum in eo qui me confortat”: tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Gr 20, 10-13
Tiên tri Giêrêmia là một con người đau khổ triền miên. Ông đã lãnh nhận nhiệm vụ tuyên sấm cho người Do thái, một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm: Ông phải vạch tội của dân và cảnh cáo rằng Chúa sẽ trừng phạt họ. Vì thế, dân chúng thù ghét ông và nhiều lần tìm cách hãm hại ông.
Suốt ngày, Giêrêmia bị coi là trò hề cho họ nhạo báng sỉ nhục, đến nỗi ông phải kêu lên: Ôi, hành hung, ức hiếp... nhưng Thiên Chúa đã ở với ông như tướng quân oai hùng (Gr 20, 7-8). Nhờ thế ông càng tin tưởng vững mạnh, cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa... Ông tiếp tục công bố sứ điệp vừa bằng lời nói, vừa bằng đời sống.
+ Bài đọc 2: Rm 10, 226-33
Bài đọc 2 hôm nay chỉ là chủ đề phụ, không hoàn toàn ăn khớp với bài đọc 1 và bài Tin mừng, theo đó, thánh Phaolô dạy chúng ta rằng: nếu vì liên đới với nguyên tổ Ađam mà chúng ta phải mang tội và phải chết, thì nhờ kết hợp với Đức Kitô, chúng ta sẽ được lãnh nhận ân sủng và sự sống.
Ân sủng của Thiên Chúa thì lớn lao hơn tội lỗi và sự chết là lương bổng của tội lỗi, khiến cho tội của Adam trở nên “Tội hồng phúc” (bài Exsultet) vì nhờ đó mà Ngôi Hai Thiên Chúa mới xuống thế làm người và ở cùng chúng ta.
+ Bài
Tin mừng: Mt 10, 26-33
Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng tuần trước: Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng, nhưng đồng thời Ngài cũng phải khuyến cáo họ rằng rao giảng Tin mừng không phải là một chuyện dễ dàng, phải dùng đến nội lực, phải can đảm và vững lòng trông cậy trước những khó khăn chồng chất, ngay cả khi bị hãm hại.
Đừng sợ! vì Chúa quan phòng luôn ở bên cạnh để che chở. Đừng sợ vì Cha trên trời đã lưu ý đến cả những con chim chẳng đáng giá gì, cả từng sợi tóc trên đầu từng người. Chúa đã dựng nên tất cả, săn sóc, nuôi dưỡng, bảo tồn những thứ bé nhỏ như thế, huống chi đối với các tông đồ của Chúa. Ngoài ra, Chúa còn hứa ban thưởng cho những ai dám tuyên xưng Chúa ra trước mặt thiên hạ.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Chân dung người tông đồ
Bản chất của Kitô hữu là truyền giáo. Mọi người phải trở thành sứ giả Tin mừng. Sứ mạng thì cao quý, nhưng thực thi sứ mạng đó rất cam go, việc rao giảng đòi hỏi nơi người tông đồ một số đức tính mà thiếu nó thì không thành công. Dựa theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cho rằng muốn thành công trong việc rao giảng, người tông đồ phải có 3 đức tính sau đây:
I. NGƯỜI TÔNG ĐỒ PHẢI DẤN THÂN
Đứng trước những công việc khó khăn, ai cũng thấy ái ngại. Những khó khăn trong việc rao giảng Tin mừng không phải là tình cờ hay do may rủi, nhưng đã được Chúa Giêsu báo trước: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10, 16). Con chiên sẽ là mồi ngon cho bầy sói, nguy cơ bị ăn thịt luôn rình rập. Người tông đồ phải sống hiền lành như con chiên, sẵn sàng hy sinh tất cả cho Tin mừng.
Chúa Giêsu cũng còn cho biết: số phận của tông đồ là bị bách hại, vì nếu Chúa Giêsu mà còn bị bách hại thì làm sao họ lại tha các môn đệ? Vì thế, Chúa đã dặn trước: “Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em; anh em chưa đi hết các thành của Israel, thì Con Người đã đến. Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10, 23-24).
Bài đọc hôm nay cũng cho biết tiên tri Giêrêmia phải loan báo cho dân biết những hình phạt mà Thiên Chúa sẽ trút xuống dân. Những lời loan báo này chẳng hay ho gì đối với dân, lại làm cho họ bực mình, nên họ đã chống đối ông, hành hạ ông và muốn giết ông (x. Gr 20, 10-11). Các tông đồ nhận trách nhiệm đi rao giảng lời Chúa cho muôn dân, cũng bị người ta chống đối, hành hạ và giết chết. Các ông đã phải dấn thân vào chỗ nguy hiểm. Số phận các ông cũng giống như Chúa Giêsu.
Những Kitô hữu đầu tiên rất ý thức về sự quan trọng của việc truyền bá đức tin. Họ mang trong lòng lời dặn dò của Chúa Giêsu trước khi về trời là hãy rao giảng Tin mừng cho đến tận cùng trái đất. Tuy nhiên, loan báo Tin mừng một cách công khai đã không phải là một chuyện dễ dàng, bởi vì, trong thời gian đó, nhiều cộng đoàn Kitô hữu đã bị bách hại. Giữa những người Do thái, nhiều người xem những người chuyển sang Kitô giáo như là những kẻ phản bội, và tìm cách loại trừ. Làm chứng đức tin trong thời kỳ này, đôi khi là liều mạng sống. Chính vì thế mà một vài người bị cám dỗ sống âm thầm, kín đáo, không dám lên tiếng.
Thánh Phaolô là gương mẫu của sự dấn thân trong việc rao giảng Tin mừng. Ngài nói: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Vì vậy, Ngài đã lên đường truyền giáo bất chấp mọi nguy hiểm đang rình chờ. Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô ngài đã cho biết về một số nguy hiểm đã phải trải qua: 5 lần bị đánh 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tàu một ngày một đêm (2Cr 12, 24-25). Ngài phải được gọi là chiến sĩ của Tin mừng, anh hùng của đức tin, của lòng nhiệt thành, bất chấp mọi gian nan thử thách, bởi vì:
Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, Anh hùng hào kiệt có hơn ai (Nguyễn Bá Học)
Chúa muốn cho các Tông đồ của Ngài phải yêu mến Ngài và dấn thân trọn vẹn trên con đường rao giảng Tin mừng. Ta thấy khi cưới nhau thì hai người nam nữ hứa hiến thân cho nhau suốt đời. Khi khấn dòng: con hứa với Chúa sống khó nghèo, vâng lời và khiết tịnh. Khi lãnh chức linh mục: con có muốn tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa vì phần rỗi mọi người không? - Thưa con muốn.
Một sự dấn thân trọn vẹn: Chúng ta cùng nhau sống mãi tới già. Đó là một trong những điều cao cả của cuộc sống con người. Những kẻ ngại ngùng dấn thân trọn vẹn sẽ chỉ có một đời sống nghèo nàn (André Sève, Sương mai, tr 77).
II. NGƯỜI TÔNG ĐỒ PHẢI CAN ĐẢM: ĐỪNG SỢ
Con người không biết sợ được coi là một người can đảm. Nói theo kiểu bình dân, người ta gọi đó là người “có gan cóc tía”. Con người dám liều mạng vì lý tưởng cao cả, không gì có thể lay chuyển được chí khí của họ, không khó khăn nào có thể làm cho họ chùn bước hay bỏ cuộc. Tấm gương sáng lạn của thánh Phaolô tông đồ đã chứng tỏ điều đó. Cuộc hành trình truyền giáo của Ngài đã phải trải qua những bước thăng trầm, nhưng không gì làm cho ngài chùn bước:
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ, Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong, Chí những toan xẻ núi lấp sông, Làm nên đấng phi thường đâu đấy tỏ (Nguyễn Công Trứ)
Nhưng bình thường, con người có nhiều nỗi lo sợ: sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thân v.v… Cái sợ làm tê liệt con người: không có sức làm việc, không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống... Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ: sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không có thiện cảm với Tin mừng... Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng bảo cho các tông đồ: “Đừng sợ”. Ngài đã thấy trước bao nhiêu gian nan khốn khó đang chờ đón các ông khiến các ông nản lòng. Hãy can đảm lên vì đã có Chúa ở bên. Các ông hãy nhớ lại lần vượt biển bị sóng gió đánh tơi bời, tưởng chừng thuyền chìm tới nơi. Nhưng Chúa Giêsu đã can thiệp, sóng gió phải vâng lời Ngài, biển lại trở nên tĩnh lặng như tờ. Ngài khuyên bảo các ông một mặt dựa vào Chúa, một mặt cứ vững tay chèo lái con thuyền đời mình:
Chớ thấy sóng cả mà lo, Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng (Ca dao)
Chúa Giêsu bảo: “Đừng sợ vì không có gì che giấu mà sẽ không bị tỏ lộ ra, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết”. Ý nghĩa trong câu này là chân lý sẽ thắng. Châm ngôn La tinh có câu: “Chân lý là vĩ đại và chân lý sẽ thắng”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hay nhắc đến đề tài này trong các huấn dụ của ngài.
Khi vua Giacôbê VI hăm dọa treo cổ hoặc lưu đầy André Meville, ông khảng khái đáp: “Vua không thể treo cổ hoặc lưu đầy chân lý”. Khi Kitô hữu chịu khổ và hy sinh, thậm chí chết vì đạo, thì phải nhớ rằng một ngày kia mọi sự được phơi bày, lúc đó quyền lực của kẻ bách hại và sự anh dũng của người theo Chúa sẽ được minh giải và mỗi người nhận đúng phần công của mình.
Người tông đồ nói điều mình đã nghe Chúa Giêsu và phải nói lại dù phải chuốc lấy oán ghét của người đời, thậm chí có thể toi mạng. Người đời không ưa chân lý vì “chân lý như ánh sáng chiếu vào mắt đau” (Diogène). Một lần giáo sĩ Latimer đang giảng, có cả vua Henri dự, ngài biết mình sắp nói một điều vua không ưa. Ở trên tòa giảng ngài nói lớn như nói với chính mình: “Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có vua Henri đấy”. Kế đó, ngài ngưng, rồi nói tiếp: “Latimer, Latimer. Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có Vua của các vua đang ở đây”.
Người giảng đạo đem một sứ điệp nói cho loài người, nhưng phải nói trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi chôn Gioan Knox, người ta nói về ông: “Đây là nơi yên nghỉ của một người kính sợ Thiên Chúa đến nỗi không bao giờ sợ hãi trước mặt loài người”.
Chứng nhân Kitô là người không biết sợ, vì biết sự phán xét đời đời sẽ điều chỉnh sự phán xét tạm thời. Người truyền giảng là người lắng nghe cách cung kính, và nói với lòng can đảm, vì xác tín rằng vô luận nghe nói đều ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa.
Các tín hữu thời sơ khai đã gặp bao nhiêu khó khăn, nhưng họ tỏ ra luôn vững tin, không nao núng trước những thử thách. Sử gia Tertullianô đã viết về họ:
“Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, tại vì họ đã đi cùng một đường với Chúa. Câu ‘Kẻ muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo’ đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cũng như bị cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng Kitô hiện hình. Hèn gì mà trên tín trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi chệch đường”.
Người làm tông đồ phải được huấn luyện, tập cho mình biết hy sinh chịu đựng mà không kêu ca phàn nàn. Người làm tông đồ hãy theo cách huấn luyện thanh niên ở thành Spartes: Hằng năm, một số trẻ em thành Spartes cử hành lễ CHỊU ĐỰNG, các em phải chịu đựng cho roi quất vào mình, máu chảy, thịt rách, nhưng không được thối chí hay khóc lóc. Châm ngôn của họ là đau không khóc, đói không than. Ngoài ra, các em phải tự mưu sinh ở trong rừng một thời gian, chiến đấu với thú rừng để sinh tồn.
Chớ gì người tông đồ tỏ ra kiên trung, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để một lòng một dạ theo chân Chúa dù phải đòn vọt, gông cùm hoặc phải nhận lấy cái chết:
Chân xiềng cổ lại đeo gông, Chết anh anh chịu, anh không buông nàng (Ca dao) Truyện: Gương can đảm
Các vị Truyền giáo đã kể lại một nhân chứng đức tin như sau:
Ghèssèssén là một bé trai Ethiopie 12 tuổi, tính tình luôn vui vẻ và sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Em thuộc một gia đình quí tộc lâu đời trong tỉnh Agamie. Ba em, thủ lãnh và khô khan. Ông không bao giờ chấp nhận kẻ khác bất tuân lời ông hoặc chống lại ông.
Lớn lên em được học ở trường Công giáo Gouala. Tâm hồn em đã bị đánh động bởi các nghi lễ, các lời giảng dạy của các vị Truyền giáo, nhất là gương sống đạo của các em Công giáo sáng nào cũng đi dự lễ, rước lễ. Em rất thích đạo Công giáo, ước ao được rước lễ. Nhưng các Cha Thừa Sai chưa cho em nhập đạo, vì cần chờ ý kiến của ba má em.
Ngày nọ, em bị ba gọi về. Em hứa với chúng tôi sẽ trở lại ngay ngày hôm sau. Nhưng em đã không xuất hiện lại mấy ngày nay. Chúng tôi đã nghĩ người ta đã dùng vũ lực để giữ em lại. Tệ hơn người ta bắt em từ chối ý muốn theo đạo. Và đây là câu chuyện mà em đã kể cho chúng tôi:
Con đến gặp ba con, cùng đi với con có mẹ con. Ông ôm hôn con, và con hôn đầu gối ba theo như tập tục ở xứ con. Lúc ấy, ông nói với một giọng vuốt ve:
- Ta và mẹ đã quyết định cưới vợ cho con, ta chỉ yêu cầu con một chữ: “Dạ”.
Con đã trả lời: - Không.
Cha con nói gằn giọng: - Mày nói gì?
- Con nói “Không”, vì con muốn được học ở nơi các Cha cố.
- Im đi! Ta muốn mày cưới vợ. Biết đâu mày còn muốn theo đạo Công giáo!
- Thưa cha, con đã là Công giáo trong tâm hồn rồi.
Nghe các lời này, ông nổi cơn tam bành, hét to:
- Đồ bị chúc dữ! Mày, con của Rèdada, lại muốn trở thành Công giáo! Ta thích mày chết đi còn hơn!
Ông nghiến răng, nắm tay đấm. Ông dữ tợn và hung hăng như một con sư tử. Dì con và các binh lính la to: “Phải phạt nó”.
Mẹ con thì im lặng. Ba con lặp lại:
- Hãy bỏ tôn giáo đó đi! Nếu không, tao giết mày như một con vật.
- Con không thể bỏ đạo thánh được, thà chết còn hơn. Ba là ba của thân xác con, nhưng chính Chúa là Cha của linh hồn con.
Thế là một trận đòn với biết bao lằn roi cây, roi da hà mã bủa lên thân xác con rất đau đớn do ba con và các lính của ông đánh đập. Cuối cùng, đao phủ của con thấm mệt và dừng tay.
Ba con lại hỏi một lần nữa: - Có bỏ đạo Công giáo không?
Con trả lời: - Không, thà chết…
Trải qua mấy ngày liền, bị đánh đập, cho ăn thiếu thốn, trói buộc. Ba con vẫn giữ vững lập trường bắt con bỏ đạo. Ông hứa hẹn, dụ dỗ, đe dọa… Nhưng tất cả đều vô ích!
Ngày 7/9 vọng lễ Sinh nhật Đức Mẹ, cậu can đảm nói với ba cậu: - Cho con đến Gouala, nhà các cha.
Vị thủ lãnh Rèdada không còn biết làm gì khác. Ông đồng ý. Trời còn chưa sáng, em đã hăm hở lên đường về lại Gouala. Một niềm vui lớn lao cho em và cho chúng tôi. Chúng tôi băng bó các vết thương cho em. Em thành khẩn lặp lại ý muốn chịu phép Rửa tội và Rước lễ. Em nói:
Các cha còn sợ con trở thành kẻ chối đạo nữa sao? Xin đừng sợ! Con sẽ không phản bội Chúa Giêsu của con đâu! Vì Ngài, con sẵn sàng dâng cả mạng sống con.
III. NGƯỜI TÔNG ĐỒ LUÔN TRÔNG CẬY VÀO CHÚA
Trên bước đường truyền giáo, người tông đồ không còn biết trông cậy vào ai, chỉ còn biết trông cậy vào sự quan phòng của Chúa. Tuy không thấy Chúa nhưng phải tin rằng lúc nào cũng có cánh tay của Chúa đang hướng dẫn và hộ phù.
Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống: “Ta hằng ở với con” (Gr 1, 10) hoặc “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 26, 20).
Người tín thác vào Chúa luôn tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không có gì xẩy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (bài Tin mừng hôm nay). Người phó thác cho Chúa xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con. Một người cha tốt lành lo cho con tất cả, đem đến cho con những gì tốt lành nhất: “Cha chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì” (Mt 6, 32).
Truyện: Mối dây liên lạc với Thiên Chúa
Một em bé chơi diều, thả con diều lên cao đến độ con diều trở nên như một chấm nhỏ khó có thể trông thấy được. Thấy tay em cầm đầu dây và mặt cứ ngước lên trời, một người qua đường hỏi em:
- Em đang làm gì vậy?
Em bé trả lời:
- Cháu đang chơi thả diều.
Người kia ngạc nhiên hỏi tiếp:
- Diều đâu, tôi không thấy gì ở trên trời cả.
Em bé thưa lại:
- Bác không trông thấy, nhưng cháu chắc chắn là con diều của cháu đang ở trên đó, vì cháu còn giữ được đầu dây trong tay cháu đây mà.
Thiên Chúa cũng thế, người ta không trông thấy Ngài, nhưng có thể cầm được những mối dây, để cảm được sự hiện diện và tình yêu thương của Ngài (Hạt giống âm thầm, tr 196).
Chúng ta hãy tiếp tục triển khai lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Hãy tìm hiểu câu nói đầy ý nghĩa này:
Thiên Chúa đóng kín cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ.
Đây là câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống của đạo sâu xa. Thiên Chúa đóng kín cửa chính đó là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc ta đương đầu với thử thách khó khăn. Lúc đó chúng ta nhớ rằng: Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn, và trước đó ta không ngờ những kinh nghiệm đau thương tiêu cực, mà ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa, để mời gọi ta bước ra một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị ta sẵn sàng đón nhận những hồng ân mới.
Nhìn lại cuộc sống, có thể mọi người chúng ta sẽ cảm nghiệm được những giây phút, Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta.
Khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, thì Ngài sẽ mở ra cửa sổ, chúng ta hãy nhìn trong những biến cố đau thương, tiêu cực xảy ra trong cuộc đời, với tinh thần tích cực lạc quan và sự tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa. Chính những lúc ta gặp thử thách đen tối, là lúc ta cần tin tưởng phó thác vào Chúa nhiều hơn nữa. Hãy ngắm nhìn thấy những cánh cửa sổ Thiên Chúa mở ra cho cuộc đời mình. Mỗi người chúng ta cần sống trong sự hiện diện của Ngài, cần lưu hướng về Ngài trong việc thực hành cầu nguyện đối thoại với Ngài. Khi gặp thử thách đau thương, chúng ta không nên giảm bớt hay bỏ quên việc cầu nguyện, chạy đến tiếp xúc với Thiên Chúa.
Trong thời đại tự do tôn giáo được đề cao, chưa bao giờ Kitô giáo lại bị bách hại nhiều như thời TN 12-A93
Trong thời đại tự do tôn giáo được đề cao, chưa bao giờ Kitô giáo lại bị bách hại nhiều như thời nay. Đức Phanxicô dám nói Giáo hội thời nay bị bách hại hơn thời kỳ đầu. Các Kitô hữu bị thù ghét và làm hại vì chính đức tin của họ. Có nhiều hình thức bách hại khác nhau. Có khi là đóng cửa hay tấn công, đốt phá các nhà thờ, bắt gỡ xuống những thánh giá trên cao. Có khi là làm cho người Kitô hữu không còn đất sống, bị phân biệt đối xử, đành phải trốn quê hương mà đi. Có khi Kitô giáo bị coi là sản phẩm của thực dân ngoại lai, là thành phần đe dọa an ninh của quốc gia dân tộc. Trong năm 2015, có hơn bảy ngàn Kitô hữu bị giết, và gần hai ngàn năm trăm nhà thờ bị tấn công. Tại Pháp, cha Jacques Hamel bị hai người dùng dao đâm chết khi đang dâng Thánh Lễ tại họ đạo của mình, vào tháng 7-2016. Ở nhiều nơi trên thế giới, truyền giáo giữa thanh thiên bạch nhật vẫn còn là một điều bị cấm đoán, rao giảng công khai trên mái nhà là nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng Đức Giêsu kêu gọi các Kitô hữu đừng sợ. Cứ nói to những điều mình đã được Thầy dạy dỗ trong nhà, cứ công bố những gì mình đã nghe Thầy nhỏ to chia sẻ. Sớm muộn sẽ đến ngày những điều còn ẩn khuất được lộ ra, những bí mật được vén mở cho người ta biết. Đức Giêsu còn chỉ cho ta biết ai là người mà ta phải sợ. Không phải là người chỉ lấy được mạng sống của xác thân, mà là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác, đời này và đời sau. Nhưng Đấng đáng sợ lại là Đấng đáng yêu, vì Đấng ấy là Người Cha giàu tình thương với mọi loài thụ tạo. Cả những thụ tạo bé bỏng và tầm thường như loài chim sẻ. Hai con chỉ đáng một hào, làm cả ngày mua được ba mươi hai con. Vậy mà không con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha của anh em. Trên đầu mỗi người có bao nhiêu sợi tóc, chẳng ai biết. Vậy mà Cha chúng ta biết, vì Ngài đã đếm từng sợi tóc trên đầu. Vì Cha quý những thụ tạo tầm thường bé nhỏ, nên chúng ta biết mình có chỗ đặc biệt trong trái tim Thiên Chúa, và được Cha trân quý hơn chim sẻ bội phần. Khi tin vào Người Cha ấy, chúng ta được giải phóng khỏi nỗi sợ. Cái chết đời này chẳng có nghĩa gì so với cuộc sống vĩnh cửu đời sau, nên người Kitô hữu ca hát an vui ngay giữa nơi hành hình. Nơi hành hình là nơi làm chứng trước mặt mọi người về Đức Giêsu. Có những người sợ khi phải nhận mình thuộc về Đức Giêsu. Phêrô đã chối không biết Thầy Giêsu, không thuộc nhóm của Thầy. Ông sợ những liên lụy có thể khiến ông gặp rắc rối. Nhìn nhận hay từ chối có tương quan thân thiết với Ngài, điều đó ảnh hưởng đến vận mệnh vĩnh hằng của từng người, Ai nhìn nhận Đức Giêsu sẽ được Ngài nhìn nhận trước mặt Chúa Cha, và Chúa Cha sẽ nhận người đó vào Nước của Cha trên trời. Nói chung, chẳng có ai theo Thầy Giêsu mà lại được yên ổn, vì chính đời Thầy đã kết thúc một cách rất không yên. Nhưng theo Thầy là bình yên đón nhận thân phận của Thầy. Không phải chỉ rao giảng về Thầy, mà còn phải sống lời rao giảng đó. Không phải chỉ công khai tuyên xưng Thầy trên mái nhà, mà còn để cho tinh thần của Thầy thấm vào toàn bộ cuộc sống. Mong rằng chẳng có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được ơn khôn ngoan để con biết sợ điều phải sợ. Cho con đừng sợ những đe dọa đến thân xác, tiếng tăm, nhưng biết sợ toàn bộ con người mình bị hư mất vĩnh viễn. Cho con đừng sợ những kẻ làm hại con ở đời này, nhưng biết sợ phải xa Đấng yêu con và muốn con hạnh phúc. Xin giải phóng con khỏi những nỗi sợ đã ăn sâu vào cuộc sống, những nỗi sợ ngấm ngầm mà chính con không dám thú nhận, những nỗi sợ khiến con chẳng được tự do an vui, nhờ đó con dám sống thật sự là mình, tươi tắn và hồn nhiên, nhẹ nhàng và thanh thản. Xin dạy con ngắm những bông hoa dại vệ đường để thấy chúng được điểm trang lộng lẫy. Xin dạy con ngắm chính mình mỗi ngày, để thấy vẻ đẹp nơi mình như một quà tặng của tình yêu. Xin dạy con ngắm đàn chim sẻ ríu rít buổi sáng, để biết mình chẳng nên quá lo chuyện cơm áo gạo tiền, nhưng nên phó thác như em thơ ngồi trong lòng mẹ. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đặt đời mình trong tay Cha. Xin cho con cũng đặt đời con trong tay Chúa.
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, khi những làn khói trắng tại thành Vatican Rôma bay lên, cả Rôma TN 12-A94
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, khi những làn khói trắng tại thành Vatican Rôma bay lên, cả Rôma đổ xô về đền thờ thánh Phêrô và tất cả thế giới hướng về thủ đô của Giáo hội Công giáo. Vị Giáo hoàng của Giáo hội Công giáo sau Mật Nghị Hồng y đã được bầu lên ngôi. Chuông của các Giáo đường ở Rôma vang rền chào đón một triều Giáo hoàng mới bắt đầu. Ít phút sau, tên của vị Giáo hoàng - Đức Karol Wojtyla với tước vị Gioan Phaolô II được xướng lên, vị Giáo hoàng đến từ sau bức màn sắt, đất nước Balan. Ngài đã bước ra ban công để chúc lành cho thế giới với trách nhiệm kế vị thánh Phêrô, một trong những lời mà Ngài đã ngỏ lời với thế giới: “Đừng sợ và tin vào Chúa Kitô”.
Lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II xác định rõ tinh thần của Đức Kitô: “Anh em đừng sợ” (Mt 10,26) mà trước đó Đức Kitô nói đến viễn cảnh những người tin sẽ phải đối diện với sự bách hại và thử thách niềm tin (x. Mt 10,17-25). Hãy sống với niềm tin vào Thầy, vào Cha Thầy. Niềm tin biểu lộ bằng sự vượt qua sợ hãi, sợ hãi do những cơn bách hại, sợ hãi do từng cụ thể hoàn cảnh gây cho con người bối rối lo âu...
Suy niệm
Thân phận của con người luôn đối diện với những sự việc hay hoảng hốt sợ hãi, Tin Mừng đã ghi lại một số sự việc như là tiêu biểu của sự sợ hãi của kiếp nhân sinh:
Thấy Chúa đến với mình khi đi trên mặt biển, các tông đồ hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên (Mt 14,26). Thánh Phêrô dù được Chúa cho đi trên mặt biển với Chúa, nhưng trước phong ba bão tố, ông vẫn cứ sợ và chìm dần xuống, Chúa đã có mặt và dẫn dắt ông đi trong bình an (x. Mt 14,29-33)
Các tông đồ có Chúa bên cạnh trong hành trình vượt sóng, phong ba bão tố nổi lên, các ông sợ tàu của mình sẽ bị nhấn chìm, Đức Kitô chỉ ra lệnh một tiếng: Hãy im ngay và trời đất tỏa sáng cảnh thái bình (x. Mc 4,35-41)
Các tông đồ sợ, khi Thầy bị bắt nên đã bỏ trốn đi hết (x. Mt 26,56). Ông Phêrô trước áp lực truy lùng của người Do Thái cũng đã chối Thầy… (x. Mt 26,69-75). Các tông đồ sợ hãi vì thầy đã mất, người Do Thái đang tìm các ông để thanh toán “món nợ” cũ, lại trước tin đồn “các ông lấy xác Thầy rồi loan tin sống lại” làm các ông hoảng loạn, đóng kín cổng cao tường không dám tiếp xúc với ai bên ngoài (x. Ga 20,19). Vì thế, các ông hoang mang, sợ hãi và một số đã bỏ về quê như hai môn đệ trên đường Emmaus (x. Lc 24,13-23).
Tất cả tâm tư sợ hãi nơi các môn đệ là tiêu biểu cho sự sợ hãi của kiếp con người có lẽ mang tâm tư của Isaia đã trải nghiệm: “Lòng tôi dao động, nỗi kinh hãi khiến tôi bàng hoàng. Cảnh chiều tà xưa tôi ưa thích nay trở thành mối lo sợ cho tôi” (Is 21,4).
Giữa muôn nỗi bàng hoàng, lo sợ thì Đức Kitô đã đến mang sứ điệp hy vọng “anh em đừng sợ” vì “anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”, thánh Ambrôsiô đã khẳng định: “Nếu Thiên Chúa luôn quan tâm cho cá, chim sẽ đơn giản... thì không nghi ngờ rằng: Ngài luôn nhìn với sự chăm sóc chú ý đến với người tín hữu trung tín”.
Trong cuộc sống vất vả, lo âu khó khăn đã làm chúng ta sợ, đó là niềm sợ hãi của kiếp nhân sinh mà ai ai cũng phải đối diện, làm bào mòn niềm tin của người tín hữu như Gióp đã trải nghiệm, chua xót, thở than đầy thất vọng: “Ðến bao giờ Ngài mới ngoảnh mặt đi để con yên thân nuốt trôi nước miếng ? Con phạm tội có hề chi đến Ngài, lạy Ðấng dò xét phàm nhân ? Sao Ngài cứ đặt con làm bia để bắn ? Phải chăng con đã nên gánh nặng cho Ngài ? (G 7,19-20). Hiện tại đã thế, thì tương lai lại càng mịt mù hơn, nỗi niềm sợ hãi luôn chồng chất trên sợ hãi... Nếu còn chút niềm tin, lời khấn cầu càng trở nên thống thiết: “Lạy Thiên Chúa của con, con tin tưởng nơi Ngài, xin Ngài đừng để con tủi nhục, đừng để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 25,2).
Bỗng Lời của Chúa thì thầm trong tâm hồn như Ngài đã hứa với ngôn sứ Isaia: “Đừng sợ hãi: Có Ta ở với ngươi. Đừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của ngươi. Ta cho ngươi vững mạnh, Ta lại còn trợ giúp với tay hữu toàn thắng của Ta”. Cho nên: “Trong ngày con sợ hãi, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 56,4) và vì thế, tôi sống và tiến bước mang tâm tình mà Thánh Vịnh đã xác tín: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27,13)
Mong cho tôi và bạn vững bước tiến đi giữa bao thăng trầm của cuộc sống như Lời Chúa dạy “Đừng có sợ, hãy tin vào Thầy” (Mc 4,40). Tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã xác tín.
Ý lực sống
“Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”. (Tv 37,5)
It is not death that a man should fear, but he should fear never beginning to live.”
Marcus Aurelius, một điệp viên bị bắt và đuợc giải giao tới trước mặt một vị tướng. Ông này cho TN 12-A95
Marcus Aurelius, một điệp viên bị bắt và đuợc giải giao tới trước mặt một vị tướng. Ông này cho người tù do thám kia được chọn hoăc bị xử bắn hoặc phải đi qua một cửa đen. Người tù lưỡng lự một chút rồi chọn án tử hình. Khi bản án đuợc thi hành xong, vị tướng nói cùng những người hầu cận: “Người ta thường chọn những gì đã biết hơn là mạo hiểm phiêu lưu đến những gì chưa biết!” Một người liền hỏi: “Thế việc gì sẽ xảy ra sau cánh cửa đen kia?” “Tự do!” vị tướng lạnh lùng trả lời.
Đã có bao lần trong đời sống, khi phải diện đối diện với sự thật, chúng ta thường sợ. Không phải kính sợ Thiên Chúa mà là sợ hãi dư luận. Sợ người này buồn! Sợ người kia bối rối! Sợ ai đó ở gần ở xa suy nghĩ hoang mang. Và cái sợ vẫn vơ mơ hồ không tưởng ấy cứ vương vít. Cứ ám ảnh hằng hằng. Cứ xoáy vào óc. Cứ len lấn vào tim làm ngại bước chân đi. Rồi ngại không dám nhìn vào và nói lên sự thật. Cuối cùng, sự quẫn trí kia đã làm chúng ta sợ Sự Thật. Rồi lạc Đuờng. Và mất đi Sự Sống…
Thật thế, triết gia Bertrand Russell đã viết: “Sợ hãi là nguyên nhân đưa đến mê tín dị đoan và dã man tàn bạo.” Và theo Russell, “chế ngự sợ hãi là bước đầu đưa đến sự khôn ngoan.” Sợ đã làm con người cùn nhụt, bất toại về ý chí: thay vì giúp tiến bước thì kéo thụt lùi dần; chiến thắng trong tay thành chiến bại trong tim. Sợ như một vi khuẩn lan nhanh. Một người sợ thì cả nhà, cả xứ, cả xóm làng đều sợ, như Gilbert Murray nhận xét: “Nếu lao phổi là bệnh dịch trắng thì sợ hãi là bệnh dịch đen.”
Trong diễn văn nhậm chức năm 1933, Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt đã phát biểu: “Điều duy nhất mà chúng ta phải sợ chính là sự sợ hãi.” Nói một cách khác, điều mà chúng ta cần phải chế ngự là sự sợ hãi nếu không thì sự sợ hãi sẽ chế ngự chúng ta.
“Đừng Sợ!” Chúa Giêsu trấn an mỗi chúng ta khi Người đưa tay cho Phêrô run rẫy bấp bênh đi trên mặt nuớc. Và Người đã cảnh tỉnh những ai chỉ biết sợ loài nguời mà lại không mảy may sợ Đấng tạo dựng loài người, vì càng sợ hãi con người bao nhiêu, càng khinh dễ Con Người bấy nhiêu.
Như trong “Dead Man Walking” – một cuốn phim rất cảm động kể lại câu chuyện có thật về Sr Helen Prejean và công việc mục vụ cho những người chờ nhận bản án tử hình, trong đó có Matthew Poncelet. Một đoạn phim, theo tôi, có ý nghĩa nhất là mẫu đối thoại giữa hai người. Poncelet khăng khăng chối tội nhưng rồi lại nói: “Tôi biết Chúa thương và tha thứ cho tôi.” Sr Prejean liền thách thức Poncelet đối diện với sự thật: “Anh không thể cho rằng Chúa sẽ tha thứ khi anh không dám thú nhận tội mình làm!”Rõ ràng là Poncelet chỉ sợ chết chứ không một mảy may sợ Chúa. Nhưng rồi với sự can đảm kiên trì và với lòng nhân ái rất bao dung, Sr Prejean đã giúp Poncelet diện đối diện với sự thật để có thể vững bước chân trên Đường gặp Sự Thật. Và Sự Sống.
Cuốn phim chấm dứt và đã làm cho nhiều người xúc động đến rơi lệ khi Poncelet, ngay trước khi chết, đã thú nhận sự thật ghê tởm mình làm để có thể đạt đến Sự Thật một đời mong muốn. Nếu muốn bước đi trên con Đuờng để Sống và làm chứng nhân cho Sự Thật, chúng ta không nên chiều theo những thị hiếu tầm thường, những lời nói thiếu bề dày suy nghĩ và những cái nhìn thiếu chiều sâu toan tính. Chúng ta phải -ought to- luôn vững tin vào Chúa. Và vào chính chúng ta. Hãy đừng sợ người đời.
Hãy đừng ngại khó khăn. Và như Seneca đã nói, “không phải vì sự việc khó khăn mà chúng ta không dám; vì chúng ta không dám nên sự việc mới khó khăn.” Thuyền đời bé lắm nhưng đại dương thì cơ hồ như vô tận, nhưng không vì thế mà lại lỏng tay chèo vì Thần Linh Sự Thật đang thổi hơi giúp thuyền chúng ta luôn no gió căng buồm…
Nhiều người Công giáo thắc mắc là không hiểu tại sao ngay ngày hôm nay trên thế giới vẫn có TN 12-A96
Nhiều người Công giáo thắc mắc là không hiểu tại sao ngay ngày hôm nay trên thế giới vẫn có những người có đạo bị đàn áp bởi nhà cầm quyền. Các Kitô hữu bị đàn áp không phải vì họ làm điều xấu xa mà chỉ vì họ theo một tôn giáo mà chính quyền không thích không ưa. Nếu đọc những lời cảnh báo của Chúa Giêsu trong Phúc Âm thì chúng ta sẽ hiểu rằng: Theo Chúa hay theo đạo Công giáo không phải là điều đơn giản, không phải lúc nào cũng thuận lợi mà trái lại nhiều lúc rất cam go vất vả, thậm chí nguy hiểm nữa. Cái giá phải trả có khi rất cao (bị người đời ghét bỏ, giết hại). Nhưng phần thưởng thì rất lớn, vô cùng lớn: được Chúa Giêsu tuyên bố nhận làm môn đệ trước mặt Thiên Chúa Cha.
Mừng lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta ơn can đảm và lòng trung thành sắt son với Đấng đã dựng nên và cứu độ chúng ta.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Gr 20,10-13): "Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ" Ta đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố khắp nơi: Hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó". Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: "Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức: Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Đấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù nó cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa. Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 5,12-15): "Không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu" Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Trước khi có lề luật, đã có tội trên thế gian; nhưng tội không bị bắt lỗi, khi không có lề luật. Nhưng từ Ađam cho đến Môsê, sự chết ngự trị cả trên những kẻ không phạm tội giống như sự lỗi phạm của Ađam, hình ảnh của người đến sau.
Nhưng không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu, vì nếu do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Đức Giêsu Kitô, làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 10,26-33): "Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác" Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời".
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa
- Là Thiên Chúa, Đấng đã che chở bảo vệ ngôn sứ Giêrêmia khỏi phường hung bạo.
- Là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đem lại dồi dào ân sủng cho loài người nhờ cái chết của Người.
- Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn hiện diện và nâng đỡ các tín hữu trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, nhất là trong những lúc nguy nan thử thách.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là "Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời”
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tin tưởng!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay giáo huấn của Lời Chúa hôm nay, chúng ta phải làm 2 việc sau đây:
(1°) Sống không sợ hãi trước những người và thế lực thù địch...
(2°) Dũng cảm tuyên xưng lòng tin vào Thiên Chúa và sự che chở của Người.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
51 “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân các nước, nhất là cho các dân tộc chưa biết và chưa tin theo Chúa, để họ sớm cảm nghiệm được hoạt động của Thiên Chúa trong lòng người và trong xã hội ngày hôm nay.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Kitô - nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi thành phần Dân Chúa luôn xác tín vào Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã chết cho nhân loại và Hội Thánh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, để mọi người mạnh dạn tuyên xưng Niềm Tin của mình vào Chúa Giêsu Kitô, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng việc làm cụ thể.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 “Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người yều lòng tin và sợ hãi người đời, để họ được ơn vững niềm tin và can đảm tuyên xưng niềm tin ấy.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Sàigòn ngày 21 tháng 06 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Bài Phúc âm Chúa Nhât XII Thường Niên A hôm nay (Mt 10,26-33) Chúa Giêsu không hề giấu TN 12-A97
Bài Phúc âm Chúa Nhât XII Thường Niên A hôm nay (Mt 10,26-33) Chúa Giêsu không hề giấu diếm những khó khăn mà các môn đệ Chúa sẽ gặp phải. Thậm chí Chúa Giêsu còn nhắc đến những mất mát to lớn mà các môn đệ của Chúa sẽ phải chịu. Nhưng điều Chúa nhấn mạnh với các môn đệ là lòng dũng cảm và tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa là Đấng làm chủ mọi sự.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM: Mt 10,26-33: "Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời".ànn
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 10,26-33:
3.1 Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ không có gì phải sợ người đời: Có hai loại người được Chúa Giêsu nêu lên: một là những người rình rấp trong bóng tối; hai là những người có thể giết hại các môn đệ. Về những người rình rấp trong bóng tối thì Chúa Giêsu khẳng định với các môn đệ là mọi chuyện mọi người rồi sẽ được phanh phui ra trước ánh sáng nên không có gì phải sợ. Còn về những người có thể giết hại các môn đệ thì Chúa Giêsu trấn an các môn đệ là cùng lắm những người này chỉ có thể làm hại thân xác chứ không thể làm hại linh hồn họ được. Chỉ có một mình Thiên Chúa mới là Đấng có thể (quyền) quyết định cả xác lẫn hồn của các môn đệ. Nên các môn đệ nếu có sợ thì chỉ sợ một mình Thiên Chúa mà thôi
3.2 Chúa Giêsu nêu nguyên tắc vàng cho các môn đệ hành xử: Chúa Giêsu nêu nguyên tắc vàng cho các môn đệ dựa vào đó mà hành xử: "Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời". Nguyên tắc vàng mà Chúa Giêsu đưa ra thật hợp tình hợp lý và công bằng cho hết mọi người
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 10,26-33:
4.1 Chúng ta hãy dũng cảm mà theo Chúa Giêsu: Đó là việc đầu tiên chúng ta phải làm khi bước theo Chúa khi theo Đạo. Có lòng dũng cảm chúng ta mới chấp nhận hy sinh, mất mát, mới đương đầu với khó khăn trở ngại. Chúng ta quý giá trước mắt Thiên Chúa: Chúa Giêsu Kitô luôn ở bên chúng ta. Chúa Thánh Thần luôn đồng hành và nâng đỡ chúng ta bằng sức mạnh của Ngài.
4.2 Chúng ta hãy theo nguyên tắc vàng của Chúa Giêsu mà hành xử: Việc tiếp theo chúng ta phải làm là trước mỗi khó khăn thử thách hay trở ngại chúng ta nhớ lại nguyên tắc vàng mà Chúa Giêsu đã nêu cho chúng ta: "Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời"..
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã dậy chúng con lòng dũng cảm và tin tưởng vào Thiên Chúa khi theo Đạo. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
1.- «Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho càng ngày càng có nhiều người sống dũng cảm không sợ sệt viễn vông.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ và tất cả giáo dân để mọi người có đạo dám dũng cảm sống theo Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu biết kính sợ một mình Thiên Chúa là Đấng có tòan quyền sinh tử trên mỗi người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho các Kitô hữu và những người thành tâm thiện chí để mọi người biết dựa vào nguyên tắc vàng của Chúa mà hành xử.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con; Người đã dậy chúng con lòng dũng cảm trong đời sống đức tin của người có đạo.
Chúng con xin Cha ban cho chúng con một tinh thần tỉnh táo để chúng con áp dụng nguyện tác vàng mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng con Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Sàigòn ngày 24 tháng 06 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Ðiều Ðức Giêsu mong muốn nơi các môn đệ trong khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, là phải TN 12-A98
Ðiều Ðức Giêsu mong muốn nơi các môn đệ trong khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, là phải mạnh dạn can đảm trước những đe dọa của người đời. Phải tin tưởng vào sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì Người hằng quan tâm săn sóc chúng ta. Chúng ta không sợ hãi, thất vọng trước những bắt bớ của người đời. Chỉ có Thiên Chúa là Ðấng chúng ta phải sợ vì Người có quyền lấy mất sự sống đời đời khỏi chúng ta. Nhưng Người cũng là người Cha đầy lòng nhân ái, thế nên chúng ta cứ an tâm.
Là những người tin và đi theo Chúa Giêsu, mỗi tín hữu chúng ta phải nối tiếp sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Cho dù cuộc sống còn nhiều khó khăn thử thách. Chúng ta hãy can đảm tin tưởng vì Chúa luôn ở bên chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin, sức mạnh và khôn ngoan để chúng con trở thành chứng nhân loan báo Tin Mừng tình thương của Chúa cho mọi người chung quanh chúng con, bằng cách sống tin tưởng, phó thác cho Chúa trong sự vui tươi và bình an. Amen.
Ghi nhớ: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác”.
Những kẻ giết được người khác, ai mà không sợ?! Ấy thế mà Đức Yêsu nói “đừng sợ những kẻ TN 12-A99
Những kẻ giết được người khác, ai mà không sợ?! Ấy thế mà Đức Yêsu nói “đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác” (Mt.10, 28).
Đừng sợ, vì:
- chúng ta đáng giá hơn chim trời nhiều (Mt.10, 31), - từng sợi tóc đã được đếm rồi (Mt.10, 30), - Chúa thương chúng ta vô cùng!
Nếu quá sợ, chúng ta sẽ bị tê liệt, và đến độ không dám làm chứng cho Đức Yêsu nữa. Nếu làm như vậy, chúng ta sợ người đời hơn sợ Thiên Chúa, và nếu vậy chúng ta sẽ bị chối trước mặt Thiên Chúa (Mt.10, 33).
Đáng sợ
- nếu tựa vào sức con mình, nhưng nếu tựa vào Thiên Chúa, thì không gì làm chúng ta sợ cả!
- nếu chúng ta sống không ngay lành, không nghiêm chỉnh, không trong sáng nên phải che dấu, phải chùng lén! Và nếu vậy thì đáng sợ thực, vì không có gì có thể che dấu được (Mt.10, 26).
Điều đáng sợ thực, là tội, là cố tình chống đối Thiên Chúa, từ chối tình yêu của Ngài. Tội làm biến dạng con người mình, làm mình “xấu như qủy”. Nhưng chúng ta không còn phải sợ nữa, vì Đức Yêsu đã chết vì chúng ta, và nhờ Đức Yêsu, chúng ta được thứ tha tội lỗi, được ân huệ dư đầy.
Không sợ, ngay cả khi người ta trương bẫy để hại mình, thì cũng hãy an lòng. Chúa sẽ xét xử công mình. Mạng sống chúng ta luôn ở trong tay Chúa. Nếu Chúa muốn chúng ta sống, Thiên Chúa sẽ can thiệp; còn nếu Ngài không muốn, thì điều quan trọng là Ngài sẽ cho chúng ta được sống hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài trong đời sống mai hậu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Với kinh nghiệm của bạn, điều gì đáng sợ nhất? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm đó!
2. Trong đời bạn, bạn đã hạnh phúc nhất khi nào? Nếu được, xin bạn chia sẻ kinh nghiệm đó?
Đời con người bị nhiều thứ bủa vây, đặc biệt là nỗi “sợ”. Nỗi sợ như gắn liền với sự mong manh của TN 12-A100
Đời con người bị nhiều thứ bủa vây, đặc biệt là nỗi “sợ”. Nỗi sợ như gắn liền với sự mong manh của phận người: sợ đau khổ, sợ thử thách, sợ thất bại, sợ bệnh tật, sợ thiếu thốn…, và nhất là sợ chết. Càng văn minh dường như càng có nhiều đe dọa, khiến con người càng sợ hơn. Nỗi sợ làm ta mất tự do, mất bình an, mất niềm vui… Thấu hiều điều đó nên Chúa Giêsu khuyên các môn đệ: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn... Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (x. Mt 10, 28. 31).
Khi bảo “anh em đừng sợ” Chúa Giêsu muốn chúng ta đừng để cảm xúc sợ hãi làm tê liệt đời sống mình. “Đừng sợ” ngay trong mọi biến động; “Đừng sợ” khi phải đối diện với đau khổ hay sự chết, bởi vì Thiên Chúa luôn yêu thương quan phòng và chăm sóc chúng ta, vì “ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi” (Mt 10, 29). Phần chúng ta “Hãy ký thác đường đời cho Chúa và tin tưởng vào Người.” (Tv 37, 5). Thánh Phêrô cũng mạnh mẽ khuyên bảo: “Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em.” (1Pr 5, 7).
Lời căn dặn “Đừng sợ” của Chúa Giêsu đã trở thành sức mạnh cho Giáo Hội. Hai mươi thế kỷ sau, trong giây phút đầu tiên đăng quang ngôi Giáo Hoàng, thánh Gioan Phaolô II đã lập lại lời Thầy Chí Thánh: “Đừng sợ! Hãy mở cửa lòng đón Đức Kitô”. Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, ngài đã không ngừng kêu gọi Hội Thánh và mọi người trên thế giới đừng sợ. “Đừng sợ” ở đây vượt trên ý nghĩa thông thường, đó là sự bất khuất, không nao núng trước bạo lực, bạo quyền. “Đừng sợ” là thái độ vượt thắng sự thủ thế, co lại trên chính mình, không dám mở ra đón lấy sự cao cả, siêu việt, linh thánh của Tin Mừng. Cũng đừng sợ sống yêu thương trong thế giới còn đầy thù hận, vì sự thù hận nào cũng sẽ bị vô hiệu hóa và bị cảm hóa bởi yêu thương.
Trong đại hội giới trẻ thế giới tổ chức tại Panama vào tháng 1/2019, khi suy tư về những lời của Sứ Thần Gabriel nói với Đức Maria: “Đừng sợ!”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi giới trẻ hãy nêu đích danh những nỗi sợ của các bạn. Ngài cho thấy có nhiều bạn trẻ đang vẫn tiếp tục chỉnh sửa (photoshop) hình ảnh của họ hoặc ẩn núp sau những căn tính giả tạo, trong một nỗ lực để làm cho phù hợp với những tiêu chuẩn giả tạo và không thể đạt tới được. Sự không chắc chắn của thị trường lao động, một cảm thức về sự thiếu thốn và thiếu sự an toàn về cảm xúc là những nỗi sợ đang tiêm nhiễm người trẻ.
Kinh Thánh cho ta thấy Abraham, Giacop, Môsê, Phêrô, các tông đồ và ngay cả Chúa Giêsu cũng đã kinh qua sự sợ hãi và nỗi khổ. Những người có chí khí, một khi đã chọn cho đời mình một lý tưởng để phụng sự, thì đương nhiên dám đánh đổi mọi sự, và chấp nhận mọi thứ. Đời sống thánh Phaolô đã minh chứng như thế. Ngài đã hùng hồn tuyên bố: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.” (Rm 8, 35-37).
Đức Phanxicô cho thấy, cụm từ “đừng sợ” được lặp lại 365 lần trong Kinh Thánh,“như thể nói cho chúng ta rằng, Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi sự sợ hãi mỗi ngày trong năm”.
Cuối cùng, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm sống cuộc đời mình cho Chúa (x. Mt 10, 32-33); hãy mạnh dạn dấn thân thi hành sứ vụ Kitô hữu, đồng thời đón nhận mọi thử thách trong cuộc đời, như một điều kiện cần thiết để đạt tới sự sống muôn đời.
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Con vẫn lần lữa trên đường về phía trước, muốn tiến bước nhưng lại nhiều nghi ngại, sợ phải chông gai phải nhọc nhằn, nên con vẫn thường hay né tránh, tìm cách này cách khác để đi quanh. Con đường phía trước con phải bước, nếu không bước chẳng tới được bến bờ, sẽ đau buồn khốn khổ vì dang dở, ý nghĩa gì đâu một kiếp người. Cho con tin có Chúa trong mọi lúc, bình tâm vững chí đừng lo sợ, vì chẳng lúc nào phải bơ vơ, miễn con đừng có những nghi ngờ, đừng để tim ơ hờ xa vắng Chúa. Cuộc đời là tiến bước về phía trước, không phải là chốn để nghỉ ngơi, càng không phải là nơi để hưởng thụ, hay là chỗ để tranh giành vui thú. Phía trước đang chờ con tiến bước, mang cho đời những mơ ước đẹp tươi. Con phải dựa trên chính đôi chân mình, vượt qua những đoạn đường gian khó, đừng ngồi đó để mà chờ sung rụng, hên xui may rủi rất mịt mùng. Xin cho con tin Chúa vẫn đi cùng, cho dù sẽ có những phong ba, nhưng con luôn an lòng vững dạ, hoàn tất cuộc hành trình về với Cha. Amen. (Trích sách: Lời nguyện từ trái tim, số 50)