Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14–A Bài 51-100 Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng

Thứ ba - 04/07/2017 10:25
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14–A Bài 51-100 Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14–A Bài 51-100 Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14–A Bài 51-100 Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng
-----------------------------
Phúc Âm: Mt 11, 25-30: "Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. - Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
"Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng". - Ðó là lời Chúa.
-----------------------------
TN 14-A51. THIÊN CHÚA MẠC KHẢI  CHO NHỮNG NGƯỜI BÉ MỌN.. 2
TN 14-A52. Gió và mặt trời. 7
TN 14-A53. Suy niệm của Lm. Trần Ngà. 9
TN 14-A54.  Hãy mang lấy ách của Ta. 12
TN 14-A55. Chú giải của Noel Quesson. 14
TN 14-A56. Con Xin Ngợi Khen Cha. 18
TN 14-A57. THIÊN CHÚA KHIÊM HẠ.. 20
TN 14-A58. CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN – 2002. 22
TN 14-A59. Hãy Sống Theo Thần Khí 24
TN 14-A60. HÃY KHIÊM NHƯỢNG VÀ HIỀN LÀNH.. 29
TN 14-A61. Chúa Nhật 14 mùa Thường niên. 32
TN 14-A62. Không ai biết Cha trừ ra Con. 35
TN 14-A63. CHÚA NHẬT 14 QUANH NĂM – 2002. 37
TN 14-A64. “Hãy đến cùng tôi”Chúa Nhật XIV Thường Niên. 39
TN 14-A65. VẤT VẢ và GÁNH NẶNG.. 42
TN 14-A66. Mang ách của Chúa, sẽ gặp được bình an. 45
TN 14-A67. ỨNG XỬ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG.. 47
TN 14-A68. HÃY MANG LẤY “ÁCH” VÀ “GÁNH” CỦA ĐỨC GIÊSU.. 55
TN 14-A69. Học biết với Chúa Giê-su. 57
TN 14-A70: BÊN LÒNG CHÚA.. 59
TN 14-A71: THẾ GIỚI MỚI 61
TN 14-A72: Tránh tự mãn để hiểu biết và kinh nghiệm về Thiên Chúa hơn. 64
TN 14-A73: KHIÊM NHƯỜNG.. 68
TN 14-A74: HỌC HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG NƠI CHÚA GIÊSU.. 70
TN 14-A75: HÃY MANG LẤY ÁCH CỦA CHÚA.. 71
TN 14-A76: NÉP MÌNH BÊN CHÚA.. 73
TN 14-A77: HÃY ĐẾN CÙNG TA.. 75
TN 14-A78:  SỰ KHIÊM NHƯỜNG CỦA THIÊN CHÚA.. 77
TN 14-A79: MANG LẤY ÁCH CỦA CHÚA.. 78
TN 14-A80: ỨNG XỬ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG.. 79
TN 14-A81:  DIỆU HIỀN.. 86
TN 14-A82: NGƯỜI BÉ MỌN CỦA TIN MỪNG.. 89
TN 14-A83: BÉ MỌN THÔI CHƯA ĐỦ.. 91
TN 14-A84: MỐI LIÊN LẠC GIỮA TRỜI VÀ ĐẤT.. 93
TN 14-A85: SỐNG THEO TINH THẦN.. 96
TN 14-A86:  CHA ĐÃ MẶC KHẢI CHO KẺ BÉ MỌN.. 99
TN 14-A87: CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN.. 101
TN 14-A88: Làm người bé mọn của Thiên Chúa. 105
TN 14-A89: Khiêm nhu. 107
TN 14-A90: Ở hiền gặp lành – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 108
TN 14-A91: Hãy học cùng Ta..." – PM. Cao Huy Hoàng. 110
TN 14-A92: Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà. 113
TN 14-A93: CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN.. 116
TN 14-A94: SUY NIỆM CN 14 TN A.. 117
TN 14-A95: HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG - CN 14 TN A.. 119
TN 14-A96: HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG.. 122
TN 14-A97: HỌC SỐNG HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG.. 131
TN 14-A98: Suy Niệm Chúa Nhật XIV Thường Niên – Năm A.. 134
TN 14-A99: CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN A.. 137
TN 14-A100: Ngược đời 141

---------------------------------



 

TN 14-A51. THIÊN CHÚA MẠC KHẢI  CHO NHỮNG NGƯỜI BÉ MỌN


 Lm Fx Vũ Phan Long

 (Mátthêu 11,25-30 – CN XIV - A)

1.- Ngữ cảnh

 

Vị Tẩy Giả đã sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không?” (Mt 11,3):  (Mt 11,3):TN 14-A51


Vị Tẩy Giả đã sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không?” (Mt 11,3). Các đối thủ của Đức Giêsu thì đã tìm cách hạ giá Người (x. 11,18-19). Còn các thành miền Galilê thì đã không đón nhận sứ điệp của Người (x. 11,21-24). Vậy Người là ai? Tại sao lại phải tuyệt đối lắng nghe Người? Do đâu mà Người có thể đòi buộc như thế? Bản văn chúng ta sắp tìm hiểu sẽ cung cấp câu trả lời.
Đức Giêsu xác định lập trường của Người bằng những khẳng định hết sức đậm đặc và cũng vô cùng căn bản.

2.- Bố cục

Bản văn này có thể chia thành ba phần:

1) Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (11,25-26);

2) Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (11,27);

3) Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (11,28-30).
3.- Vài điểm chú giải

- Lạy Cha (25): Trong Tin Mừng Mt, đây là lần đầu tiên Đức Giêsu thưa gửi với Thiên Chúa bằng danh xưng “Cha”, sau khi đã nhiều lần khuyến khích các môn đệ làm như thế (5,16.45.48; 6,1.4.8.14.15 …). Lời thưa này giống như câu đáp cho lời giớithiệu “Đây là Con yêu dấu của Ta” (3,17) mà Đức Giêsu đã nhận khi chịu phép rửa và chính Người sắp nhắc lại lúc này (x. 11,27).

- ngợi khen (25): Động từ Hy-lạp exomologoumai (praise) luôn mang những sắc thái ca ngợi chúc tụng, tôn kính, biết ơn, và hân hoan.

- bậc khôn ngoan thông thái … những người bé mọn (25): Trong ngữ cảnh Mt, “những bậc khôn ngoan thông thái” là các luật sĩ và Pharisêu, còn “những người bé mọn” (theo nghĩa chữ là “các em bé”) là đám đông dân chúng, các môn đệ, những đám thợ thuyền, những kẻ tội lỗi.

- những điều này (25): Đức Giêsu không nói rõ, nhưng dựa vào ngữ cảnh, có thể cho rằng “những điều này” chính là sứ mạng của Đức Giêsu, tức là mầu nhiệm bản thân Người và các hoạt động của Người.

- điều đẹp ý Cha (26): Đây là ý muốn của Chúa Cha. Ý muốn này chính là kế hoạch cứu độ.
- biết (27): Động từ Hy-lạp epigignôskein (know) dịch động từ Híp-ri yada diễn tả một quan hệ thâm sâu, một sự hiệp thông giữa hai bên; động từ này đồng nghĩa với “yêu mến”.

- trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho (27): Sự hiệp thông giữa Đức Giêsu và Chúa Cha không phải là một vòng tròn khép kín, nhưng mở ra với loài người, vì họ cũng được phép gọi Thiên Chúa là Cha (x. Mt 5,45-48).

- mang gánh nặng nề (28): Ở 23,4, Đức Giêsu trách người Pharisêu đã chất những “gánh” nặng lên vai người ta. Đây là gánh nặng vác không nổi gồm những truyền thống vị luật của các kinh sư, chứ không phải là các thử thách và vất vả của cuộc đời, hay gánh nặng tội lỗi... Truyền thống này cũng dùng công thức “mang ách”: ách của Nước Thiên Chúa, ách Luật Môsê, ách các điều buộc …

- hiền hậu và khiêm nhường(29): Hai từ ngữ này có ý nghĩa tương tự. Đây là Mối Phúc thứ hai. Đức Giêsu lại tự liên kết với những con người sầu khổ của Mối Phúc thứ ba.

- ách tôi êm ái (30): Đức Giêsu cũng đề nghị “ách” của Người, tức là các huấn lệnh của Người. Người không khẳng định rằng các huấn lệnh này ít quan trọng và ít đòi buộc hơn các điều luật của các kinh sư; trái lại Người đã cho thấy là Người đưa chúng đến để hoàn tất Luật cũ, chỉ có điều là con đường Người theo không có chuyện luật lệ chi li giáo điều phức tạp nặng nề của các kinh sư và Pharisêu. Nếu “ách” của Người “êm ái” là vì nó phát xuất từ toàn bộ Tin Mừng, tức là từ những tương quan mới mà Thiên Chúa cứu độ đã thiết lập với loài người. 

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (25-26)

Đức Giêsu đã ngỏ lời với Chúa Cha trong một lời cầu nguyện tạ ơn và chúc tụng. Người gọi Thiên Chúa là Cha và Chúa tể trời đất. Người đã mạc khải cho thấy là Cha, vị Thiên Chúa mà lâu nay người ta chỉ biết là Đấng Tạo hóa và Chúa tể toàn thế giới. Thiên Chúa là Đấng mà Đức Giêsu nhận biết là Cha, nhờ tương quan con cái mà Người có với Thiên Chúa. Do ý muốn của Thiên Chúa mà sứ điệp của Đức Giêsu được đón nhận cách khác nhau: những bậc khôn ngoan thông thái thì không hiểu gì, còn những người bé mọn thì hiểu. Phải chăng sứ điệp của Người chỉ được dành cho những em bé hoặc những người đã lớn tuổi mà vẫn còn ấu trĩ và chưa chín chắn? Phải chăng Ki-tô giáo đi ngược lại với kiến thức và khoa học và khả năng tự quyết của con người? Phải chăng Ki-tô giáo chỉ phù hợp với tình trạng thiếu khả năng tự cáng đáng bản thân và chỉ hỗ trợ tình trạng lệ thuộc trong cách xử sự? Thật ra, với những con người nghĩ rằng mình hiểu biết mọi sự, Đức Giêsu chẳng có gì để nói với họ cả. Người không thể mạc khải cho họ biết Thiên Chúa là Cha và Chúa tể, bởi vì họ không thể mà cũng không cần Thiên Chúa. Con người cứ việc tận dụng trí thông minh và tất cả sức lực, và hành động với tự do và trách nhiệm, nhưng cần nhận biết những giới hạn của mình. Nếu chúng ta lương thiện và biết nhìn nhận hoàn cảnh thực sự của mình, chúng ta đang mở ra đón nhận mạc khải của Đức Giêsu. Những người có tinh thần nghèo khó (5,3) là những người bé mọn. Họ sống lệ thuộc Thiên Chúa và qui chiếu về Người, họ nhận biết Người là Chúa tể trời đất và vui hưởng mạc khải bởi vì họ biết ký thác bản thân cho tình yêu và sự hướng dẫn của Thiên Chúa.

* Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (27)

Trung tâm của bản văn là những khẳng định của Đức Giêsu về tương quan của Người với Thiên Chúa. Giữa Người và Thiên Chúa có một quan hệ duy nhất Cha-Con: Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và Đức Giêsu là Con của Thiên Chúa. Chỉ duy có Thiên Chúa, trong tư cách là Cha, mới biết Đức Giêsu là ai, và chỉ duy Đức Giêsu, trong tư cách là Con, mới biết Thiên Chúa là ai. Hai Đấng hiểu biết lẫn nhau do có sự hiệp thông sâu xa và chan hòa sức sống. Những con người đang phê phán Đức Giêsu với tất cả sự trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng biết rõ Người, nhưng thật ra chẳng biết gì về Người cả. Chúa Cha đã giao phó tất cả, mọi quyền bính và uy quyền trên con người, cho Đức Giêsu. Duy mình Đức Giêsu có thể mạc khải Chúa Cha, giúp người ta thực sự biết Chúa Cha. Vị trí này của Người là do tương quan của Người với Chúa Cha: vì chỉ một mình Người biết Chúa Cha, do thực tại thâm sâu của Người là Con, thì cũng chỉ một mình Người có thể mạc khải Chúa Cha trong thực tại thâm sâu của Người là Cha. Do đó, loài người không thể tránh khỏi đối diện với ý muốn của Thiên Chúa, khi quan hệ với Đức Giêsu.

* Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (28-30)

Đức Giêsu mời gọi tất cả những ai mệt mỏi chán chường và vất vả với những gánh nặng hãy đến với Người. Người ngỏ lời trực tiếp với những người đang nghe Người nói. Họ đang phải “gánh” 613 điều luật buọc mà các kinh sư đã bày ra khi giải thích Cựu Ước (23,4) và họ đang vất vưởng như đàn chiên không có người chăn dắt (x. 9,36). Người hứa ban cho họ được nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Phải chăng chúng ta ngạc nhiên và thất vọng vì Người cũng mời chúng ta nhận lấy ách của Người? Từ quan điểm của Đức Giêsu, con người không “tự do” theo kiểu hoàn toàn là mình, không mắc bất cứ ràng buộc nào. Trong tư cách là tạo vật của Thiên Chúa, do chính bản tính của mình, con người luôn ở trong thế qui chiếu về với Thiên Chúa. Hỏi về sự tự do đích thực đúng ra là hỏi về mối dây ràng buộc đích thực. Chỉ khi chấp nhận được ràng buộc với vị Chúa tể đích thực, người ta mới được tự do thật, thoát khỏi ràng buộc với mọi chủ nhân khác. Vì thật sự biết Thiên Chúa nhờ hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa, Đức Giêsu có thể chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa không phải cách méo mó giới hạn, nhưng trong thực tại đúng đắn của Thiên Chúa. Và Người ra sức dẫn đưa chúng ta về với Chúa Cha, đồng thời khuyến khích chúng ta tin tưởng tuyệt đối nơi Người và ký thác trọn vẹn nơi Người. Nhận lấy ách của Người chính là đón nhận tất cả sứ điệp của Người và sống như Người vẫn sống, đó là hết lòng yêu mến Chúa Cha và dấn thân phục vụ loài người.
+ Kết luận

          Muốn học được sự khôn ngoan của Nước Trời, thì phải sống nghèo cùng với Đức Giêsu. Điều gây vấp phạm, chính là sự mạc khải của Đức Giêsu về bản thân Người: quyền năng được tỏ bày trong sự yếu đuối…

5.- Gợi ý suy niệm

1. Những kẻ phê phán Đức Giêsu cách trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng là đã biết Đức Giêsu! Thật ra, chỉ có Thiên Chúa mới biết Đức Giêsu trong tư cách là Con, trong sự qui hướng hoàn toàn về Chúa Cha trong tình yêu trọn vẹn.

2. Đọc bản văn này trong liên hệ với đoạn văn cuối cùng của Tin Mừng Mt (28,16-20), chúng ta sẽ thấy tất cả tầm mức sâu xa của các lời khẳng định của Đức Giêsu.  Sau khi sống lại, Người chính là Đấng đã được Chúa Cha ban cho toàn quyền trên trời dưới đất. Chính Người hiện diện bên các môn đệ “mọi ngày cho đến tận thế” để nâng đỡ các ông trong nỗ lực chu toàn sứ mạng.

3. Hans Urs von Balthasar, một nhà thần học Thụy Sĩ, đã nói đến một thứ “thần học bàn quì”: chúng ta chỉ thật sự hiểu biết về Thiên Chúa không phải nhờ cứ khăng khăng dùng trí tuệ mà tìm tòi suy luạn, nhưng nhờ biết quì xuống nhận biết quyền năng của Người trên chúng ta. Thánh Anselmô cũng nói: “Tôi tin để tôi có thể hiểu được Thiên Chúa”.

4. Thiên Chúa đã ban toàn quyền cho Đức Giêsu; do đó, trong khi hành động, loài người luôn phải đăt mình đối diện với ý muốn của Thiên Chúa về định mệnh của mình. Muốn cuộc đời mình đi đúng hướng, loài người phải quan tâm đến ý muốn này.

5. Chúng ta sẽ cảm thấy sứ điệp của Đức Giêsu về Chúa Cha và về ý muốn của Chúa Cha trở nên như một “cái ách”, khi các ước muốn, các tâm trạng và các ý tưởng của chúng ta đi ngược lại với sứ điệp ấy. Như thánh Âu-tinh đã nói: “Trái tim chúng con vẫn còn bồn chồn bất an, cho đến khi nó được nghỉ yên trong Chúa”, chúng ta chỉ được yên hàn, thanh thản, khi sống trong tình hiệp thông với Thiên Chúa.

---------------------------------

 

TN 14-A52. Gió và mặt trời.


(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Trong tập “Những ngụ ngôn của Ê-xốp”có một câu chuyện ngụ ngôn kể về cuộc tranh cãi giữa: TN 14-A52


Trong tập “Những ngụ ngôn của Ê-xốp”có một câu chuyện ngụ ngôn kể về cuộc tranh cãi giữa mặt trời và gió. Hai nguồn năng lượng này cãi nhau xem ai mạnh hơn ai.

Ngày nọ, một cơ hội xảy đến giúp cả hai dàn xếp được cuộc tranh cãi. Hôm đó, có một người mặc áo choàng đang đi trên một con đường quê hoang vắng. Mặt trời liền thách thức với gió: “Ai làm cho người ấy cởi bỏ chiếc áo choàng ra mau hơn thì người ấy là người thắng cuộc”. Gió ta chẳng những đồng ý mà con quyết định ra tay trước. Chàng gió bèn thổi tới tập, nhưng càng thổi thì người kia càng giữ chặt lấy chiếc áo choàng, sợ nó tung bay mất. Cuối cùng, kiệt sức, gió ta đành phải chịu thua. Lúc đó mặt trời mới ra tay. Ông mặt trời chiếu toả hết vinh quang của mình ra. Chỉ trong mấy phút, người nọ nóng quá phải cởi bỏ chiếc áo choàng ra.

Cuối câu chuyện ngụ ngôn, Ê-xốp bàn luận: “Bạn có thể thành công nhờ sự dịu hiền dễ thương hơn là nhờ bạo lực”.

Anh chị em thân mến,

Trong một thế giới mà những quy luật “mạnh được yếu thua”, “lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng”, hoặc “được làm vua thua làm giặc”, gần như là tất yếu và phổ biến, thì lời giảng dạy của Chúa Giêsu về đức hiền lành và khiêm nhường, quả thực rất khó được chấp nhận và xác tín, nếu không muốn nói là chướng tai và ngược đời.

Hôm nay, Lời Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Thầy vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Hiền lành và khiêm nhường là hai đức tính đặc biệt nhất ở nơi Chúa Giêsu. Thánh Phaolô đã nói: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Phải chăng đó là một sự khiêm nhường tột cùng của một Thiên Chúa làm người; hạ mình xuống rốt chót mọi người, lãnh nhận cái chết của tên nô lệ bị đóng đinh thập giá.

Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu còn cho biết: những người có tâm hồn bé nhỏ, khiêm nhường là những người được Chúa yêu thương đặc biệt và được Chúa tỏ ra cho biết những Mầu nhiệm Nước Trời. Vì chỉ những ai có tâm hồn bé nhỏ mới có tinh thần và trái tim rộng mở đón nhận Lời Chúa. trong lời cảm tạ Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nói: “Lạy Cha, Con ngợi khen Cha vì đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, mà lại mạc khải cho người bé mọn”.

Nhưng ai là những kẻ bé mọn?

Theo Tin Mừng Thánh Matthêu, những kẻ bé mọn là những người nghèo khổ, những người yếu thế, những kẻ đang vất vả và phải mang gánh nặng. Trong Do Thái giáo, cái ách hay là gánh nặng thường là hình ảnh của những luật lệ. Các thầy thông luật tự cho mình là khôn ngoan thông thái, thường hay bày vẽ ra đủ thứ luật lệ mà những kẻ đơn sơ, bé mọn dù cố gắng đến đâu cũng chẳng thể nào tuân giữ trọn vẹn được. Làm sao đầu óc đơn sơ chất phác của họ phân biệt nổi cái gì chính yếu, cái gì thứ yếu trong những luật lệ chi li lắt léo mà đầu óc mấy ông Pharisêu, những kẻ có tinh thần nệ luật, chỉ biết sống nô lệ, như cái máy, đã chỉ có khả năng là giăng lưới gài bẫy, khiến những kẻ đơn sơ chất phác không thể nào lọt vào được bên trong cái thế giới thánh thiêng cao cả mà họ đã dựng lên. Chúa Giêsu không thể chấp nhận một thứ vương quốc của Thiên Chúa chỉ dành riêng cho những kẻ khôn ngoan thông thái và những kẻ đạo đức giả chỉ biết cậy vào thành tích giữ luật của mình. Ngài đã đến như một người nghèo sống giữa người nghèo và loan báo Tin Mừng cho người nghèo. Nước Trời mà Ngài loan báo là một vương quốc mở ra cho những người bé mọn, nghèo hèn, nghèo về thể chất đã đành, nhưng cũng nghèo về tinh thần nữa, nghĩa là những người tội lỗi.

Nhưng Chúa Giêsu không phải là người chủ trương vô luật lệ. Ngài cũng có những đòi hỏi của Ngài. Nhưng luật lệ của Ngài là “cái ách êm ái”, “cái gánh nhẹ nhàng”. Vì ách đó, gánh đó chính là lòng yêu thương. Lòng yêu thương này Ngài mời gọi chúng ta cùng chia sẻ với Ngài. Nhưng để có thể yêu thương, con người phải biết sống hiền từ và khiêm tốn. Bởi vì kẻ kiêu ngạo không thể biết yêu thương: họ chỉ biết chiếm đoạt và thống trị. Họ cũng không thể hiền từ với tha nhân, trái lại, luôn luôn là những kẻ độc ác.

Thưa anh chị em,

Cuộc đời của Chúa Giêsu thật đơn sơ giản dị. Ngài sống giữa loài người như một người anh em nhỏ bé nghèo hèn, không thích giàu sang, chẳng muốn dùng quyền để thống trị và cũng chẳng tỏ ra khinh khi chê ghét một người nào, cho dù là kẻ tội lỗi. Trái lại Ngài đã đặc biệt ưu ái những người này, tới mức bị thiên hạ dị nghị, coi Ngài là bạn thân của những người tội lỗi. Sở dĩ như thế là vì chân lý Ngài mặc khải không phải là thứ chân lý trừu tượng cao siêu mà những bậc khôn ngoan thông thái của trần gian ưa suy luận, nhưng chân lý của Chúa là chân lý của tình thương mà tình thương là ngôn ngữ mà cả trẻ thơ măng sữa cũng hiểu được.

Nhân loại chúng ta có quá nhiều những nhà bác học, những nhà hiền triết thông hiểu những điều cao siêu huyền bí. Và trong Giáo Hội chúng ta cũng không thiếu những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng có lẽ chúng ta hơn bao giờ hết lại cần đến thứ ngôn ngữ giản dị nhất, đó là tình thương, một thứ ngôn ngữ có khả năng tuyệt vời để mặc khải chân lý của Chúa, bởi vì Thiên Chúa là tình thương và chỉ có ai yêu thương mới biết Thiên Chúa, còn ai không yêu thương thì không biết Ngài. Mà đã không biết Thiên Chúa thì làm thế nào có thể rao giảng hay làm chứng về Ngài được?

Là con cái của Chúa và là anh chị em của nhau, chúng ta hãy lấy tình thương, lòng hiền hoà mà đối xử với nhau, thay vì tàn nhẫn, xâu xé lẫn nhau. Hãy khiêm tốn phục vụ nhau, thay vì tự tôn, tự phụ mà đè đầu cỡi cổ người khác. Chính tình yêu làm cho con người trở nên đơn sơ, hiền hoà và khiêm tốn. Cũng chính tình yêu làm cho con người sẵn sàng nâng đỡ gánh nặng cho người khác, hơn làm khổ cho người mình yêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu, Đấng là hiện thân của chân lý tình thương lại sống đơn sơ, hiền từ, khiêm tốn và đã mời gọi chúng ta hãy đến học với Ngài.

Là Kitô hữu, chúng ta tin rằng sự dịu hiền của Chúa Kitô và tình yêu của Ngài cuối cùng sẽ thắng được bạo lực và áp bức.

---------------------------------

 

TN 14-A53. Suy niệm của Lm. Trần Ngà.

 

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học rất quý báu. Xét về mặt tâm: TN 14-A53


Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học rất quý báu. Xét về mặt tâm linh hay tu đức thì đây là một bài học có tác dụng giúp ta có những phẩm chất đạo đức đáng quý; xét về mặt đối nhân xử thế thì bài học nầy cống hiến cho ta bí quyết thu phục nhân tâm.

Bài học nầy được Chúa Giêsu rút ra từ kinh nghiệm cuộc sống của Ngài và truyền dạy lại cho chúng ta, đó là:

"Hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng."

Người dịu hiền khiêm nhường là người nhận ra thân phận mình vốn thấp hèn yếu đuối nên biết hạ mình xuống thấp.

Nước lúc nào cũng chảy về chỗ trũng; cũng thế, tình thương và ân sủng của Thiên Chúa cùng với tình thương và lòng quý mến của mọi người thường tuôn về với những người có đức tính dịu hiền và khiêm nhượng.

Vậy ai học được tâm tình dịu hiền và khiêm nhượng như Chúa Giêsu, người ấy sẽ được đón nhận tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa cũng như của mọi người chung quanh. Ay là người thành đạt nhất, hạnh phúc nhất.

Tôi xin mượn lại hai câu chuyện sau đây để làm sáng tỏ chân lý nầy.

Chuyện ngụ ngôn của Esop: gió và mặt trời.

Ngày nọ, thần gió gặp thần Mặt Trời và hai bên muốn so tài hơn thua. Mặt trời nói với gió:

Ai trong chúng ta lột được áo choàng của người bộ hành đang đi kia được là người chiến thắng.

Gió chấp nhận ngay cuộc so tài và đòi ra tay trước. Nó thổi tới tấp, cát bụi tung bay mịt mù, nhưng càng thổi mạnh bao nhiêu thì người bộ hành càng ghì chặt chiếc áo choàng của mình bấy nhiêu. Cuối cùng gió kiệt sức và nhường lại cho Mặt Trời thi thố tài năng.

Mặt trời từ từ chiếu dọi ánh sáng của nó xuống, cách nhẹ nhàng nhưng tạo nên sức nóng hầm hập, khiến người bộ hành không chịu nổi hơi nóng đành phải cởi áo khoác ra.

Thế là mặc dù Gió hung bạo mạnh mẽ nhưng đành thua cuộc; còn Mặt Trời dùng đường lối êm dịu nhẹ nhàng mà dành được chiến thắng.

Đó mới là chuyện ngụ ngôn tây phương, có tính cách sáng tạo để răn đời, còn đây mới là chuyện thực, vào đời chiến quốc bên Trung quốc.

Liêm Pha và Lạn Tương Như

Vua Triệu phong Lạn Tương Như làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có công hơn mà lại đứng dưới nên tức giận, hăm hễ gặp mặt Lạn Tương Như là giết.

Tương Như nghe nói thế thì tìm cách lánh mặt Liêm Pha mãi.

Một hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội bảo tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra.

Bọn xa nhân thấy thế tức giận, bèn họp nhau hỏi Tương Như:

"Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên yêu mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm tướng quân doạ ngài, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thể vậy? Chúng tôi thật lấy làm xấu hổ, vậy xin đi thôi, không ở nữa."

Tương Như nói: "Các ngươi xem Liêm tướng quân có hơn được vua Tần không?"

Bọn xa nhân thưa: "Không".

Tương Như nói: "Lấy như cái oai của vua Tần, thiên hạ không ai dám chống, Tương Như nầy một mình dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm Tướng Quân ư? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì ngại có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, tất không cùng sống. Tần mà nghe tin ấy tất thừa cơ đánh Trịêu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là nhẹ vậy thôi".

Bọn xa nhân quỳ mọp tâu rằng: "Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao độ nổi đại chí của tướng công".

Liêm Pha hay được tin nầy, cả thẹn than rằng: "Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm", bèn trần vai áo đến trước cửa Tương Như tạ tội: "Tính tôi thô bạo, đội ân tương quốc bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!"

Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết bạn sống chết có nhau.

(Trích lại của Thu Giang Nguyễn Duy Cần, trong cuốn: ‘Thuật xử thế của người xưa’)

Thế là bằng đường lối nhịn nhục, hiền lành và khiêm nhượng, Lạn Tương Như hoàn toàn chiến thắng và chinh phục được cả con người lẫn tâm hồn Liêm Pha.
Đúng như Pascal nhận xét: "Người ta chỉ thực sự vĩ đại khi biết quỳ gối xuống...."

Người tự cao tự đại cho mình là giỏi, cho mình là đúng, không cần học ai, nên không bao giờ giỏi, không bao giờ thành công trên đường đời; trái lại chỉ thu tích thêm căm ghét của người khác.

Người khiêm tốn là người thấy được mình còn nhiều mặt yếu kém, nên sẵn sàng nghe người khác chỉ giáo cho và nhờ đó sẽ trở thành người khôn ngoan và giành được thắng lợi.

Nhưng nói cho cùng, cái thắng lợi lớn nhất đời người là được mọi người chung quanh yêu thương quý mến và chỉ có những ai có tâm hồn dịu hiền khiêm nhượng mới đón nhận được diễm phúc nầy.

---------------------------------

 

TN 14-A54.  Hãy mang lấy ách của Ta


(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Quang Hiền)

 

Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mang lấy ách củaNgười trên TN 14-A54


Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mang lấy ách củaNgười trên đôi vai chúng ta. Phải chấp nhận những lao nhọc, vất vả, bệnh tật, khổ đau và tất cả những ngang trái ngoài ý muốn như là cái ách phải mang lấy trong cuộc đời.

Người Do Thái dùng thành ngữ cái ách để chỉ sự vâng phục, phục tùng. Họ nói về cái ách của lề luật, cái ách của các giới răn, cái ách của Vương Quốc và cái ách của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cụ thể này để diễn tả lời mời gọi của Người.

Ai trong chúng ta cũng phải mang nhiều cái ách trong cuộc sống của mình, dù nặng hay nhẹ đều phải vác cả. Cái ách gánh nặng của chồng, vợ, con cái, cái ách của công ăn việc làm, cái ách của nghèo khổ, của bệnh tật, của thử thách.... Có những lúc chúng ta chán chường và mệt mỏi, có những lúc chúng ta muốn bỏ hết tất cả cho yên thân vì không muốn đối diện với nó. Có những lúc chúng ta quá căng thẳng, bị stress vì áp lực của cuộc sống. Cái ách trở nên quá nặng nề, vì thế chúng ta thường trách Chúa tại sao Ngài gởi quá nhiều thánh giá, nhiều cái ách nặng nề quá sức chịu đựng cho chúng ta thế. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đến với Ngài vì ách của Ngài thì êm ái, gánh của Ngài thì nhẹ nhàng. Không phải Chúa Giêsu cất hết tất cả những cái ách nặng nề của chúng ta, mà Chúa Giêsu sẽ nâng đỡ và dạy chúng ta biết cách đón nhận và vác cái ách của chúng ta như thế nào cho nhẹ nhàng. Chúa không muốn chúng ta phải trốn tránh cái ách của mình cho dẫu nó có nặng nề và đòi hỏi chúng ta phải trả giá rất đắt. Chúa Giêsu đã làm gương trước cho mỗi người chúng ta, Ngài đã mang lấy ách của chúng ta là tội lỗi của chúng ta trên vai của Ngài và Ngài đã vác hết chặng đường khổ nạn của mình, cho đến chết trên thập giá.

Là người kitô hữu, chúng ta cũng phải mang lấy ách của mình và bước đi trên con đường thập giá mà Chúa đã đi xưa kia. Chúa Giêsu sẽ không bỏ rơi chúng ta, Ngài vác cái ách cùng đi với chúng ta, Ngài không để chúng ta vác một mình, Ngài không để chúng ta quá sức chịu đựng.

Cùng mang lấy ách và vác đi cùng với Chúa Giêsu chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và được an ủi biết chừng nào.

Cái ách sẽ trở thành nhẹ nhàng khi chúng ta vác nó với một niềm tin tưởng, phó thác vào tình yêu thương của Thiên Chúa, Ngài là người Cha luôn muốn điều tốt lành cho mỗi người chúng ta, không bao giờ muốn những điều đau khổ cho chúng ta. Cái ách và đau khổ là thước đo cho lòng mến của chúng ta đối với Chúa, cho sự kiên trung trong tình yêu mến, vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa. Cái ách cũng là cơ hội để chúng ta biết kết hiệp vào mầu nhiệm khổ nạn đang còn dở dang của Đức Kitô.

Trong tiểu sử cuộc đời thánh nữ Têrêsa Avila có kể một câu chuyện về việc ma quỉ giả dạng giống Chúa Giêsu sống lại hiện ra với thánh nữ. Vừa nhận ra sự giả dạng thánh nữ đuổi nó đi ngay. Trước khi ra đi, Satan hỏi: “Làm thế nào bà đã biết được tôi là một người mạo nhận?” Thánh nữ đáp lại: “Bởi vì mày không có những vết thương”. Trong bài suy niệm của thánh nữ về đời sống tinh thần, The Interior Castle – Lâu Đài Nội Tâm – thánh nữ Têrêsa đã nói đi nói lại về hình ảnh của Chúa Kitô chịu đau khổ đến hơn 40 lần. Thánh nữ thường xuyên đề cập đến đau khổ là vì, đối với thánh nữ, hình ảnh Chúa Kitô mang thương tích đã đến với chúng ta trong chính thương tích của chúng ta là chìa khóa để tìm hiểu cuộc hành trình thiêng liêng.
Mầu nhiệm đau khổ là mầu nhiệm mà mỗi người kitô hữu được mời gọi thông phần, suy niệm và sống trong mọi giây phút của cuộc sống mình. Cuộc đời kitô hữu của chúng ta không thể nào vắng bóng cái ách, đau khổ, thập giá... đó chính là một phần trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và là con đường dẫn chúng ta đến mầu nhiệm phục sinh. Phải qua thập giá mới đến vinh quang.

---------------------------------

 

TN 14-A55. Chú giải của Noel Quesson.


Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói…

 

Thành ngữ. "vào lúc ấy” thường là công thức về văn phong mà các sách Kinh dùng làm lễ: TN 14-A55


Thành ngữ. "vào lúc ấy” thường là công thức về văn phong mà các sách Kinh dùng làm lễ đã thêm vào để bắt đầu một đoạn Tin Mừng một cách tự nhiên hơn. Nhưng ở đây là môt ngoại lệ, nó có trong bản văn của Matthêu. Vậy trong bối cảnh nào mà lời cầu nguyện chúng ta sắp đọc được đưa vào?

“Lúc ấy" là một thời điểm bi đát. Đức Giêsu sống trong một bầu khí căng thẳng và thất bại. Ở chương 11 thánh Matthêu vừa mô tả sự "hoài nghi" của Gioan Tẩy trong nhà tù: "Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? "Đức Giêsu kế đó đã thuật lại cách thức mà những kẻ đồng thời với Người đã từ chối ông Gioan vị ẩn sĩ khổ hạnh và cả Đức Giêsu Đấng Hằng Sống nhân từ (11,16-19). Rồi Đức Giêsu lên án nghiêm khắc những thành phố bên bờ hồ Ti-bê-ri-a đã không đón nhận sứ điệp và các phép lạ của Người. Nhiều người trong hoàn cảnh thất bại này hẳn sẽ rơi vào sự thất vọng và chán nản. Vả lại, đây là một “bài ca vui mừng" trào dâng từ đôi môi Người. Vậy tâm tình thầm kín của Đức Giêsu là gì?

Lạy Cha là Chúa Tể trời đất...

Trong một vài dòng, chúng ta nghe Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là "Cha" năm lần. Chúng ta đã quá quen nên không nhận thấy rằng cách gọi Thiên Chúa này mở ra một cuộc cách mạng tôn giáo thật sự. Những nhà chú giải đã tìm trong toàn bộ Kinh Thánh và tất cả văn chương Do Thái trước Đức Giêsu chưa bao giờ từ ngữ ấy, "Cha” được dùng một cách tuyệt đối và dùng để cầu khẩn trực tiếp Thiên Chúa. Không một Thánh Vịnh nào dám gọi Thiên Chúa một cách thân mật.

Như thế, những người Do Thái, ngày nay cũng thế, bởi lòng tôn kính, không dám phát âm cái tên khôn tả của Thiên Chúa nhưng dùng mọi cách nói tránh, ví dụ như: "Đấng Hằng Hữu, xin chúc tụng..." Dường như các tông đồ không thể nghĩ ra một từ ngữ như thế, bởi họ cũng là người Do Thái, nếu như họ đã không nghe thấy trên đôi môi Đức Giêsu đang cầu nguyện. Và đàng sau từ ngữ ấy, ngày hôm nay đã trở thành thông thường, chúng ta nhận ra tiếng “Abba!" trong ngôn ngữ A-ra-men. Đây là một từ âu yếm của các con nhỏ dùng nói với cha chúng, tương đương với chữ Ba (Bố) của chúng ta..

Cha! Ba, Chúa của trời đất!

Sự đối chiếu của hai khía cạnh ấy của Thiên Chúa thật cảm động. Đây là Thiên Chúa cao cả, Tạo Hóa của toàn thể vũ trụ! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con theo gương Chúa có đủ hai thái độ cầu nguyện ấy: sự đơn sơ của tình cảm; sự tôn thờ chân chính.

Con xin ngợi khen Cha.

Động từ Hy Lạp dùng ở đây là "exomologeisthai" có nghĩa là "xưng thú”, "tuyên xưng công khai đức tin" "dâng lời ngợi khen", "cảm tạ". Như thế, giữa những thất bại trong việc rao giảng, đây là một lời cầu nguyện ngợi khen tràn ngập linh hồn; một thứ Thánh Thể ".

Và chúng ta không thể không ngạc nhiên bởi sự giống nhau đáng ngạc nhiên giữa lời Đức Giêsu cầu nguyện với bài ca ngợi khen (Magnificat) của Mẹ Người. "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng". Cả hai bài kinh này đều được cấu kết bằng những ẩn dụ trong Kinh Thánh (Cn 8,9; Xi-ra-cít 51,1-30; Kn 6,9; Đn 7,13-l4). Và cả hai ca hát niềm vui của những người nghèo khó mà Thiên Chúa ưa thích.

Vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng mạc khải cho người bé mọn.

Đức Giêsu cầu nguyện và đi từ đời sống cụ thể của Người. Người đi từ sự thất bại mà các kinh sư và các Thầy dạy Luật đã gây ra cho Người... từ sự tiếp đón mà Người đã nhận từ những người khiêm nhượng và nghèo khó. Còn tôi thì sao? Tôi có cầu nguyện từ' đời sống và những lo lắng của tôi? Tôi có dám thử tìm ra "lời để ngợi khen" giữa những hoàn cảnh bất lợi đang làm tổn thương tôi? Khi đọc lời kinh này của Đức Giêsu người ta có thể bị đụng chạm bởi cảm tưởng Thiên Chúa "giấu giếm" một điều gì đó cho một số người Và mạc khải điều đó cho những người khác! Trong toàn bộ Cựu ước, chúng ta tìm thấy ngôn ngữ Sê-mít này rất mạnh xem ra bất chấp tự do của con người. Ví dụ như, chính Thiên Chúa làm cho "lòng vua Pha-ra-on thành ra chai cứng" (Xh 9,12). Công thức này muốn diễn tả tất cả không ngoại trừ, hoàn toàn tất cả đều phụ thuộc vào Thiên Chúa, nhưng đúng là con người phải chịu trách nhiệm về những sự khước từ của mình, mà không phải là Thiên Chúa. Chính vì thế người ta tìm thấy công thức rõ ràng là trái ngược: "Vua Pha-ra-on làm cho lòng mình ra chai cứng (Xh 8,11). Dĩ nhiên ở đây vấn đề không phải là Đức Giêsu cám ơn Cha Người về việc truyền giảng thất bại và Người cũng không đổ cho Thiên Chúa sự thất bại ấy... Nhưng với sức mạnh trong ngôn ngữ mà chúng ta không còn sử dụng nhưng đã được điển hình hóa về mặt văn hóa, Người cám ơn Cha Người vì đám đông không học vấn đã tiếp đón Lời trong khi những người trí thức, than ôi lại tha hồ bị kẹt cứng trên sự chắc chắn của họ.. Chúng ta còn nhận thấy rằng đây không phải là một thứ kết án trí tuệ. Nhưng Đức Giêsu thừa nhận rằng thông thường trí tuệ quý báu của con người thực ra sẽ dẫn tới chỗ kiêu ngạo mù quáng vì tự phụ. Lý trí con người là khả năng phi thường để con người hiểu biết những sự vật của thế giới này và thiết lập những quy luật khoa học... nhưng lý trí bị giới hạn trong thế giới, và không thể nhận ra Nước Thiên Chúa bởi chỉ ánh sáng duy lý. Thánh Phaolô sẽ nói về đức tin như một thứ điên rồ": "Tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa" (1Cr 2,1). "Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ, nhưng cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người" (1Cr 1,18-30).

Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

Để giải thích sự tiếp nhận của những người bé mọn và nghèo khó, đối diện với sự khước từ của các người thông thái và tự mãn, Đức Giêsu không phân tích khuynh hướng tâm lý và đức hạnh của họ. Người lập tức cho rằng đặc quyền của- những kẻ bé mọn là "lòng nhân từ của Thiên Chúa". Họ không tốt hơn những người khác nhưng vì họ chịu thua thiệt, họ đặc biệt lôi kéo "lòng nhân hậu của Chúa Cha. Đó là một tư tưởng bền bỉ của Đức Giêsu: bạn là kẻ tội lỗi; bạn bị coi chẳng ra gì; bạn bị khinh bỉ bạn, bị đè bẹp... Cha của Đức Giêsu nhìn bạn với một tình yêu thương đặc biệt.

Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho.

Một lần nữa, phải nhận thức về lòng tự hào không chịu nổi của ông Giêsu người Na-da-rét. Người khẳng định có mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa và chính Người là một người nghèo giữa những người nghèo. Vả lại, Người dám nói rằng không một ai biết Người. Không một ai có thể thâm nhập vào căn tính sâu xa của Đức Giêsu trừ Chúa Cha! Và, ngược lại Đức Giêsu thực sự cho rằng chỉ có Người biết được Thiên Chúa!

rong những công thức ấy, người ta nhận ra những tư tưởng thường được Thánh Gioan hòa điệu: "Không ai đến Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Khi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ V định nghĩa Đức Giêsu như “Thiên Chúa thật, và người thật", khi các Công đồng ấy định nghĩa Ba Ngôi với sự bằng nhau về bản tính của Chúa Cha, Chúa Con và. Chúa Thánh Thần, thì các Công đồng ấy chỉ nói lại bằng những từ ngữ chính xác hơn điều mà các sách Tin Mừng và giáo lý tiên khởi đều đã khẳng định. Một bản văn nhân bản văn này, trong số nhiều bản văn khác, chứng tỏ rằng những giáo huấn về Chúa Giêsu đã đồng hóa "con người này" với "Đức Chúa Giavê. Phải, những người Do Thái đã gán cho con người Giêsu những câu nói chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa: "Không ai biết Tôi ngoài Thiên Chúa; và không ai biết Thiên Chúa ngoài Tôi. Vả lại, giả thuyết những người Do Thái "thần linh hóa" một người Do Thái quả là một điều không có thật.

Trong các tôn giáo khác của Đế quốc La Mã, có thể nghĩ đến những con người, ví dụ như những Hoàng đế đã được thần linh hóa. Nhưng điều này không thể nghĩ ra được trong môi trường Do Thái: họ thờ phượng một Thiên Chúa độc nhất siêu việt không thể diễn tả, mà người ta không bao giờ đám gọi tên! Kết hợp Đức Chúa Giavê với một con người, dù người này là ai là một sự phạm thánh ghê tởm.
Để đi đến điều đó, cần phải có những sự bó buộc mạnh mẽ trên bình diện các "sự kiện" và những "lời" của Đức Giêsu; tác động đến những người đã là các chứng nhân.

Phần chúng ta, sau 2000 năm, chúng ta chiêm niệm mầu nhiệm kỳ diệu ấy với nhiều sự đơn sơ và tôn thờ? Con người mà người ta thấy ăn bánh và quả ô-liu là người nông dân bé mọn ở Na-da-rét đã từng đốt lửa trên bờ hồ, là người mà người ta đã thấy lúc khóc và lúc cười, lúc tức giận và lúc đói khát. Một con người mà ban đêm người ta nghe thấy tiếng ngáy trong những lúc cắm trại ở giữa cảnh trời sao diễm ảo; người ta đã nghe Người trong lúc cầu nguyện, đã gọi Thiên Chúa "'Abba?". Và, với một vẻ bề ngoài tầm thường nhất, người khẳng định: "Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con, và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho!". Mạc khải? Thật vậy, người ta chỉ biết Thiên Chúa qua điều mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta!

Mạc khải.

Một cách hiểu biết khác với sự nhận thức duy lý Thiên Chúa không được chinh phục sau một quá trình suy luận thông thái. Thiên Chúa được tiếp đón trong một tấm lòng nghèo khó: "Thầy sẽ chỉ cho con bí mật của Thầy nếu con yêu mến Thầy Điều đã bị giấu đối với các bậc khôn ngoan và thông thái được mạc khải cho người bé mọn! Người ta không đổ đầy một cái chén đã đầy rồi phải có một tấm lòng trống trải để Thiên Chúa tìm được chỗ cho Người. Phải có một trí tuệ khiêm tốn để Thiên Chúa bày tỏ Người ra. Lạy Chúa, xin tạo ra trong chúng con sự sẵn sàng để đón nhận mạc khải.

Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi,.vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.

Đức Giêsu khẳng định rằng "ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng”. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Tin Mừng có những yêu sách rất mạnh mẽ. Điều quan trọng là không nên giản lược những yêu sách ấy. Nhưng Đức Giêsu tự giới thiệu như đầy sự hiền hậu và khiêm nhường: Người là lòng nhân hậu của Thiên Chúa nhập thể. Lúc đó có thể nói sự hoàn thành những yêu sách ấy xuất phát tự bản chất của hữu thể. Rõ ràng Người đến đề nghị một cách sống mới cho những người không thể mạng gánh nặng của Luật pháp; tức những người nghèo và những người tội lỗi.

Các ngôn sứ đã loan báo rằng Thiên Chúa từ chối viết Luật trên các bảng đá, theo cách ở bên ngoài của con người, nhưng Người sẽ viết Luật trên lòng người: đó là sự loan báo của Tân ước (Gr 32,31-34). Chúng ta nhận thấy sự nhất quán của tư tưởng ấy. Luôn luôn là vấn đề những người "nhỏ bé", hèn mọn. Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa cao cả, Con của Đức Chúa trời đất, đến chia sẻ sự đau khổ của những người nghèo, để giải thoát họ khỏi những đau khổ ấy. Người đề nghị làm nhẹ bớt những gánh nặng của chúng ta. Phải luôn suy niệm thấu đáo hình ảnh này: người nào mang gánh nặng nề; dừng lại một giây lát để đặt gánh xuống! Và đây là điều Đức Giêsu đề nghị chúng ta: "Thầy sẽ cho anh em nghỉ ngơi bồi dưỡng!".

---------------------------------

 

TN 14-A56. Con Xin Ngợi Khen Cha


Chúa Nhật XIV Thường Niên A
Mt 11:25-30: 25 Thuở ấy, Đức Yêsu cất tiếng nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu các điều ấy với hạng khôn ngoan thông thái, mà đã mạc khải ra cho những kẻ bé mọn. 26 Vâng lạy Cha, vì đó là quyết ý của Cha!
27 "Mọi sự đều đã được Cha Ta trao phó cho Ta, và không ai biết được Con trừ phi có Cha; và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con khấn mạc khải ra cho".

28 "Hãy đến với Ta, hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng". Và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức: 29 Hãy mang lấy ách của Ta vào mình, hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm thấy sự nghỉ ngơi cho tâm hồn. 30 Vì chưng ách Ta thì êm ái, và gánh Ta lại nhẹ nhàng".
 
 

Đoạn 11:25-50 là phần cuối của chương 11. Chương nầy bàn đến thái độ không tin của người: TN 14-A56


Đoạn 11:25-50 là phần cuối của chương 11. Chương nầy bàn đến thái độ không tin của người Do thái vào con người và sứ mạng của Chúa Giêsu. Đoạn 11:2-19 nói về Gioan Tẩy Giả và phản ứng chối bỏ của dân chúng đối với Chúa Giêsu và Gioan. Tiếp đến đoạn 11:20-24 là lời phán xét đối với các dân thành không chịu hoán cải trước lời rao giảng và việc làm của Chúa Giêsu. Sau cùng đoạn 11:25-30 nói đến một số người “bé nhỏ” tin vào Chúa Giêsu.

Đoạn 11:25-30 là lời của Chúa Giêsu ngỏ với Chúa Cha, gồm ba phần liên kết với nhau rất chặt chẽ: - Chúa Giêsu tạ ơn và ca ngợi Thiên Chúa (cc. 25-26); - Chúa Giêsu nói đến tương quan của Người với Thiên Chúa (c. 27); - Chúa Giêsu mời gọi mọi người đến cùng Người (cc. 28-30). Chủ đề chính của đoạn là tương quan của Chúa Giêsu với Chúa Cha. Các hạn từ chính trong đoạn: “Cha” (11:25.26.27[3x]), “Con” (11:27 [3X]), “Tôi” (11:28.29[2x].30[2x]), “các anh” (11:28.29[2x]). Trong ba câu đầu 11:25-27 nội dung liên quan đến Chúa Cha và Chúa Giêsu với tư cách là Con, và ba câu sau 11:28-30 liên quan đến Chúa Giêsu và người khó nhọc.

Chúa Giêsu tạ ơn và ca ngợi Chúa Cha (11:25-26)

Câu 25 mở đầu bằng lời của Chúa Giêsu ca ngợi Thiên Chúa, và tiếp theo mệnh đề hôti, “vì”, giải thích lý do của việc ca ngợi nầy. Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. “Pater”, hipri #abbâ# bao hàm cả sự thân mật lẫn trổi vượt. Cụm từ “Chúa cả trời đất” chỉ quyền tối cao của Thiên Chúa bởi Người tạo dựng nên trời đất (x. Cvtđ 17:24). Động từ exomologeô (x. 3:6), theo từ nguyên có nghĩa là “tuyên xưng”. Khi ca ngợi Chúa Cha, Chúa Giêsu tuyên xưng sự cao trọng của Người.

Lý do của việc ca ngợi gồm hai điều tương phản nhau: giấu điều ấy đối với hạng thông thái và khôn ngoan, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn (c. 25b). Các cặp tương phản ở đây: giấu - tỏ lộ, thông thái và khôn ngoan - bé mọn. Matthêô dùng động từ “giấu” trong các dụ ngôn nói đến Nước Trời. Nước Trời như kho tàng chôn giấu trong ruộng (13:44), như nén bạc người tôi tớ chôn dưới đất (25:18.25). Kho tàng ấy, nay được tìm thấy, và nén bạc ấy không được đem giấu đi. “Điều ấy”, tauta, chính là Chúa Giêsu. Người là mặc khải của Thiên Chúa và Nước Trời. Tính từ tạo thiên lập địa chưa ai biết đến Người, hôm nay Thiên Chúa tỏ Người ra cho con người (x. 13:44).

Nçpios, theo nghĩa đen là “trẻ nhỏ”, nghĩa bóng là “người bé mọn”, “thấp hèn”, “môn đệ”; đối lại là những người thông thái, sophos, và khôn ngoan, syniçmi. Theo văn mạch, đó là những người từ chối tin vào Chúa Giêsu (x. 11:19). Nçpios được dùng thêm một lần nữa trong trình thuật Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Các nçpios hoan hô Chúa Giêsu trong khi đó, các thượng tế và kinh sư bất bình và  phản đối (221:16). Như thế, nçpios là người nhận ra Chúa Giêsu là Đấng phải đến và tin vào Người, còn các “người thông thái và khôn ngoan” thì không. Vậy Chúa Giêsu ca ngợi Thiên Chúa vì người bé mọn được Chúa trời đất cho biết điều mà từ khi tạo dựng đến nay chưa ai biết. Đó là Chúa Giêsu, Con duy nhất của Người. Một mặc khải cao quý. Một vinh dự do Thiên Chúa ban. Tất cả hoàn toàn tùy thuộc vào ý muốn của Người.

Tương quan giữa Chúa Giêsu với Thiên Chúa (11:27)

 Câu nầy chuyển sự chú tâm vào Chúa Giêsu: tương quan hiểu biết và quyền hành của Người đối với Chúa Cha. “Người Con”, hyios, được dùng theo dạng tuyệt đối và không kèm theo một bổ nghĩa nào, ám chỉ “Con Thiên Chúa” (3:17; 14:33; 16:16; 17:5; 27:54). Mọi sự, panta, chỉ mọi quyền hành trên trời và dưới đất (x. 28:18). Thiên Chúa Cha trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì thuộc về Người như là Chúa trời đất. “Mọi điều” là sự hiểu biết duy nhất giữa Người với Chúa Cha. Chỉ mình Người biết Cha, và cũng chỉ mình Chúa Cha biết Người. Và việc biết nầy làm cho Người có thể nói về Thiên Chúa và Nước Trời cho con người. Epiginôskô, “nhận biết”, là biết người hay sự vật nhờ thấy hoặc nghe (x. 7:16.20; 14:35; 17:2). Ở câu 25, Chúa Giêsu nói đến việc Chúa Cha mặc khải, apokalyptô. Ở câu 27, Người Con mặc khải cho ai Người muốn. Đối tượng của việc Chúa Cha mặc khải là Chúa Giêsu. Còn đối tượng của việc Chúa Giêsu mặc khải (c. 27) là những điều liên quan đến Thiên Chúa và Nước Trời.

Sau khi xác định tương quan đặc biệt và duy nhất đối với Thiên Chúa, Chúa Giêsu mời gọi mọi người đến cùng Người (11:28-30), đặc biệt những người khó nhọc và gánh nặng. Họ như đàn chiên không có người chăn dắt (9:36), và còn bị chất trên vai nhiều gánh nặng không mang nổi (23:4). Chúa Giêsu hứa cho họ sự nghỉ ngơi. Điều kinh ngạc là Chúa Giêsu mời gọi họ mang lấy “ách của Người”.
Cái ách đặt lên lưng con bò để có thể điều khiển nó theo ý muốn của chủ nhân. Cái ách chỉ sự ràng buộc. Lề luật của Môsê phải được thay thế bởi giới răn mới của Chúa Giêsu. Lời hứa nghỉ ngơi không hàm ý là không có một “ràng buộc nào”. Giới răn của Chúa là sự liên kết mới, là một đòi hỏi đích thật trên tự do. Chỉ khi liên kết và mang lấy sự ràng buộc với Chúa Giêsu, con người mới thật sự tự do, và tìm thấy được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

---------------------------------

 

TN 14-A57. THIÊN CHÚA KHIÊM HẠ


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN, năm A

Mt 11, 25 – 30

 

Khiêm hạ là đức tính tối cần để thành công trong cuộc đời. Người tài giỏi mấy mà tự kiêu, tự mãn vẫn: TN 14-A57


Khiêm hạ là đức tính tối cần để thành công trong cuộc đời. Người tài giỏi mấy mà tự kiêu, tự mãn vẫn không được người khác tôn trọng. Đứng trước sự linh thiêng đặc biệt trước các vị thần, vị thánh, con người nhất nhất phải khiêm tốn cúi đầu. Đạo Công Giáo do Chúa thiết lập lại mang một sắc thái khác lạ bởi vì Con Thiên Chúa đã tự hạ mình mang kiếp người phàm để sống cùng, sống với, sống cho con người, nói một cách thiêng liêng, Con Thiên Chúa hạ mình trước dân của Ngài.

Cuộc lữ hành trần thế tiến về Quê trời, người Kitô hữu phải phấn đấu, hy sinh, từ bỏ, phải vất vả truân chuyên vượt qua biết bao gian nao thử thách để bảo toàn đức tin. Chúa Giêsu hiểu rõ những vất vả nặng nề của người Kitô hữu, Ngài đã động viên, khích lệ, kêu gọi :” Tất cả những ai đang vất vả nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng “ ( Mt 11, 28 ).

Vâng, Chúa Giêsu mời gọi tất cả những ai đang phải lao đao vất vả, những kẻ hèn mọn, những người không nhà không cửa, những kẻ thấp cổ bé họng, những kẻ neo đơn, cơ nhỡ, những người vất vưởng khắp nơi, hãy đến với Ngài để Ngài an ủi, chở che, nâng đỡ và cho nghỉ ngơi lại sức. Hãy đến với Ngài tất cả những ai tội lỗi, chán nản, u buồn, Ngài sẽ xoa dịu vỗ về, an ủi và Ngài sẽ ban cho họ sự an bình.

Chúa Giêsu còn thiết tha mời gọi con người :” Anh em hãy mang lấy ách của tôi…Vì ách của tôi êm ái, và gánh của tôi nhẹ nhàng ( Mt 11, 29-30 ). Ở đây chúng ta phải hiểu “ ách “ là một cái cây bằng gỗ nặng, nó được thiết kế, đóng để đặt lên cổ của đôi bò, để giữ chúng lại và để chúng kéo xe. Trong cuộc đời 30 năm ở Nagiarét có lẽ Chúa Giêsu đã thấy thánh Giuse và nhiều người dân làng đã đóng những cái ách như thế để ghìm bò và giữ bò để chúng kéo xe. Qua cái ách bò, Chúa Giêsu đã muốn dạy cho nhân loại biết rằng tôn giáo do Ngài thiết lập sẽ không phải là thứ tôn giáo đè cỏ đè đầu nhân dân. Do đó, Chúa Giêsu đã nói :” Ách của tôi thì êm ái và gánh của tôi thì nhẹ nhàng “.

Chúa Giêsu đã minh chứng sự khiêm hạ của Ngài như chúng ta đọc thư thánh Phaolô gửi tín hữu Philip chương 2, và đặc biệt khi Chúa rửa chân cho các môn đệ trong Nhà Tiệc Ly và cái chết của Ngài trên thập giá để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại, cho con người. Sự khiêm hạ của Chúa chúng ta không bao giờ nghĩ tới được bởi vì nếu Chúa không mặc khải sự khiêm hạ của người qua những hành động cụ thể thì không bao giờ chúng ta hiểu được Ngài. Ngài đã tự hạ qua tình yêu vô biên, tình yêu hoàn toàn vô vị lợi của Ngài :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ) hoặc “ Khi nào Ta bị đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta “.

Thánh lễ tái diễn lại việc Chúa Giêsu khi xưa trên thập giá. Nên, mỗi khi chúng ta lên rước Chúa, Linh mục sẽ giới thiệu với chúng ta Mình và Máu Thánh của Chúa, làm của nuôi thần linh nuôi sống con người chúng ta.. Chúng ta đến với Chúa Giêsu vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Chúng ta đến với Chúa, Chúa sẽ bổ dưỡng và ban cho chúng ta thanh thản bình an, đúng như lời Ngài đã nói :” ách của tôi thì êm ái và gánh của tôi thì nhẹ nhàng “.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn học nơi Chúa sự khiêm hạ của Chúa. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao Chúa lại nói :” Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng “ ?
2.Ách là gì ?

3.Gánh là gì ?

4.Chúa nói hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng nghĩa là làm sao ?

5.Đoạn Kinh Thánh nào nói lên sự khiêm hạ của Chúa Giêsu ?

---------------------------------

 

TN 14-A58. CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN – 2002

 

 Đoạn tin mừng chúng ta vừa nghe được thánh Matthêu đặt ngay sau trả lời của Chúa Giêsu : TN 14-A58


Đoạn tin mừng chúng ta vừa nghe được thánh Matthêu đặt ngay sau trả lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Gioan Tiền Hô sai đến hỏi về thân thế của Người, vì thế rõ ràng chúng ta phải hiểu "Mầu nhiệm Nước Trời" ở đây chính là những xác quyết của Đức Giêsu liên quan đến những lời nói, những việc làm mà Người đã thực hiện từ ngày Gioan làm phép rửa trên sông Giorđan đều là những bằng chứng về Mầu Nhiệm Nước Trời ở giữa nhân loại.

Và đây "Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, " Những điều ai cũng có thể thấy, ai cũng có thể nghe nhưng mấy người đã nhận ra đó là "những dấu chỉ thời đại" của Mầu Nhiệm Nước Trời ? Bởi vì nó không đáp ứng những chờ đợi, những hy vọng của họ. Đúng như Đức Giêsu đã nhận định: "Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác, và nói: "Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than." Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: "Ông ta bị quỷ ám." Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi." Những nhận định như thế vẫn còn hết sức thực tế sau 2000 năm : Cho dù lịch sử 2000 năm rao giảng Tin Mừng không bao giờ thiếu những chứng nhân kiệt xuất : chỉ nguyên triều đại Giáo Hoàng của Đức Gioan Phaolô II, Hội Thánh đã tuyên phong hơn 400 vị Thánh, Chỉ trong thế kỷ 20 này, với những vị Thánh như Têrêxa Hài Đồng, Piô X, Piô XI, Gioan XXIII, Cha Piô Năm Dấu, những Mẹ Têrêxa Calcutta đã thực sự là những ngọn hải đăng xuyên suốt hành trình nhân thế của nhân loại, thế nhưng thế giới hôm nay vốn kiêu hãnh với những thành qủa của khoa học, của văn minh, của phát triển vượt mức những điều kiện sinh hoạt vui chơi và sản xuất, họ vẫn từ khước ánh sáng Hải Đăng Tin Mừng. Tâm trạng này có ảnh hưởng sâu xa đến ngay cả những tập thể, những cộng đoàn Giáo Hội : Thậm chí, biết bao người trẻ, cách riêng nữ giới vốn là một kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa, một tặng phẩm của Tình Yêu người, thế nhưng hôm nay họ đến đây nói là đi lễ, nhưng thực sự họ đang chỉ muốn lôi kéo mọi người chú ý đến tính hấp dẫn muôn màu muôn vẻ của một thế giới không có Thiên Chúa nơi chính bản thân họ. Làm sao những lời này có thể có được ý nghĩa cứu độ cho những con người luôn thao thức và nỗ lực tiến lên những bậc thang cao hơn trong xã hội "Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường"

Nhưng đây chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha" Sự khôn ngoan đã được biện minh bằng chính cuộc sống của Đức Giê su, cuộc sống mà những Kho-ra-din, những Carphanaum, những Bết-sai-đa đã chối từ! Và Thiên Chúa kiên quyết theo đường lối ấy khi vào thời cánh chung Ngài xếp những thành trì ấy vào sự tồi tệ còn hơn cả Tia, Xơ-đôm và Xi-đôn .
Thánh Phaolô đã minh giải đường lối Thiên Chúa qua đoạn thư vắn vỏi gởi tín hữu Roma "Nếu Thánh Thần ngự trong anh em,Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thánh Thần của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới." Thánh Thần là quà tặng, là sự trao ban, là sự hiến dâng trong chính cung lòng Thiên Chúa Ba Ngôi, là chính sự hiền hậu và khiêm nhường của Thiên Chúa trong tương quan nội tại cũng như ngoại tại của Người. Và vì lẽ đó mà Thánh Thần được tuyên xưng "Là Đấng ban sự sống". Con đường hiền hậu và khiêm nhường cũng là con đường thông ban sự sống, con đường của quyền năng sáng tạo và cứu chuộc, đó là mạc khải mầu nhiệm Nước Trời mà Đức Giêsu loan báo.

Trong cái nhìn xuyên suốt mầu nhiệm ấy, tiên tri Giacaria đã dùng hình ảnh Đức Vua Sion đang đến cỡi trên lưng lừa con còn theo mẹ. Chính sự hiền hậu và khiêm nhường đã đốt cháy mọi sức mạnh cường bạo và kiêu căng, để thiết lập Vương Quốc yêu thương và an bình.

Nhưng mầu nhiệm này con người không thể thấu đạt, vì mầu nhiệm hiền hậu và khiêm nhường là mầu nhiệm tận trong cung lòng Thiên Chúa, vì thế "không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho." Và cũng vì con người ngay từ đầu trong Ađam và Evà đã khước từ khi chỉ muốn vơ vét và tích lũy cho mình mọi quyền năng và vinh dự "mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác."

Qua những gì chúng ta vừa chiêm ngưỡng, chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên khi thấy một Tê rê xa, một Padre Pio, một Gioan XXIII, những con người thực sự là những vĩ nhân trong chính thân phận bé nhỏ hiền hậu và khiêm nhường.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên    

---------------------------------

 

TN 14-A59. Hãy Sống Theo Thần Khí


Chúa Nhật 14 Thường Niên Năm A

 (Za 9,9-10; Rm 8,9.11-13; Mt 11,25-30)

Phúc Âm: Mt 11, 25-30
"Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng".

Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. - Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.

"Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".

 Suy Niệm:

Chúa Nhật XIV Thường Niên A
Za 9,9-10; Rm 8,9.11-13; Mt 11,25-30
 

Ngày Chúa Nhật, chúng ta họp nhau đông đủ để được Chúa dạy dỗ và nhất là nuôi dưỡng,: TN 14-A59


Ngày Chúa Nhật, chúng ta họp nhau đông đủ để được Chúa dạy dỗ và nhất là nuôi dưỡng, hầu mạnh sức hơn tiếp tục cuộc sống ở giữa trần gian như những người con Chúa. Hôm nay Chúa tỏ ra tha thiết. Người kêu gọi chúng ta đang gồng gánh nặng nề, hãy đến với Người để Người bổ sức, hồi sinh. Vậy, chúng ta hãy chú ý đón nhận mọi lời từ miệng Chúa phán ra để chuẩn bị rước lấy chính Thịt Máu Người hầu thánh lễ này sẽ thật sự bổ sức cho chúng ta.

Chúa bắt đầu nói với chúng ta về chính Người qua bài sách Zacarya. Rồi tựa vào gương sáng của Người, Người khuyên nhủ chúng ta đi vào đường lối Người đã đi. Và nếu chúng ta chấp nhận, Người sẽ ban Thần Linh của Người đến giúp đỡ.

 A. Trước Hết, Đây Là Khuôn Mặt Thật Của Chúa

Nhiều ngôn sứ đã được sai đến nói với loài người về Thiên Chúa chúng ta. Đặc biệt trong những giai đoạn bi thảm của lịch sử Dân Chúa. Dần dần người ta đã biết chờ mong một vị thiên sai cứu thế. Nói đúng hơn, Dân Chúa đã dần dần trông cậy Chúa là Cứu Chúa. Người sẽ cứu Dân như đã làm trong lịch sử, đặc biệt khi đưa Dân ra khỏi Aicập. Hơn nữa, lần cứu độ này sẽ có tầm mức rộng lớn. Chúa sẽ thi hành Lời Hứa với tổ phục Abraham và đưa mọi dân tộc vào hạnh phúc vô tận của dòng dõi được tuyển chọn.

Nhưng ở thời tâm lý Dân Chúa còn nặng mặt thế tục và cụ thể, người ta chỉ biết mong đợi một cuộc cứu độ trong uy quyền và võ lực. Người ta tin Chúa sẽ cứu Dân, nhưng chắc Người sẽ cứu với cánh tay mạnh mẽ của Đấng uy hùng chiến sĩ. Người ta khó hiểu được những lời ngôn sứ Zacarya hôm nay nói. Lời của ông thật rõ ràng. Chúa sẽ đến. Chắc chắn như vậy. Người sẽ đến như Đấng công chính, hay nói đúng hơn, với tư cách của Vị đến để xét xử công minh, phân biệt dứt khoát người lành-kẻ dữ. Người cũng sẽ đến như Đấng cứu chuộc, và nói đúng hơn như Vị được cứu vớt, tức là như đấng được lãnh trọn ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Bằng hai từ ngữ và danh xưng đó, Zacarya đã loan báo chính Đấng mà muôn dân đang trông đợi. Người ta đang chờ Đấng đến tái lập công chính, đem ơn cứu độ cho mọi dân. Thế mà vị Ngôn sứ lại nói Đấng công chính xét xử và cứu thế độ nhân sẽ đến. Hơn nữa, ông còn tuyên bố Người là Hoàng đế, và lời này thật hợp với tâm lý những người đang chờ mong vì họ không thể nào không tưởng tượng Cứu Chúa sẽ là Hoàng đế của Dân Người.

Nhưng Zacarya đã bắt đầu đi xa quan niệm của người ta và đi ngược với suy nghĩ của họ khi mô tả thêm: Cứu Chúa sẽ là Đấng khó nghèo và sẽ đến ngồi trên lưng lừa, một con lừa con rất nhỏ. Ai chấp nhận được những lời như thế? Nhất là người ta đang nhìn thấy một vị tân hoàng đế đi lên: một nhà vua Hylạp mà danh hiệu là A-lịch-sơn. Ông đang đánh đông dẹp tây. Đế quốc của ông không ngày nào không bao trùm thêm một số đất đai. Danh tiếng của ông nơi nào cũng biết. Ông lại còn trẻ, khoảng độ 30. Đó mới thật là hình ảnh về Vị Hoàng đế thống trị hoàn vũ. Thế mà Zacarya lại tuyên bố Cứu Chúa là con người nghèo khó, cỡi lừa chứ không ngồi trên ngựa trận, mà lại là một con lừa rất nhỏ, hiền từ nếu không phải là yếu đuối. Không, Cứu Chúa không thể như vậy, vì như vậy Người sẽ là một đứa con nít đứng cạnh hoàng đế A-lịch-sơn đại thắng. Các người nghe Zacarya đã bịt tai, đã cố quên những điều vừa nghe, để cố bám lấy hình ảnh quen thuộc về Cứu Chúa. Thế nên khi Đức Yêsu Kitô đến cứu đời, phần đa số dân chúng đã không nhận ra Người là Đấng muôn dân trông đợi. Chỉ có một lần khi Đức Yêsu vào Yêrusalem ngồi trên lừa con, những trẻ thơ ngây đã đón nhận Người như Vị Cứu Thế. Nhưng chỉ trong giây lát thôi. Và những đầu óc suy nghĩ trong Dân là kỳ mục và biệt phái vẫn phủ nhận vị tiên tri nghèo khó đến ngồi trên lưng lừa.

Thật uổng, bởi vì người ta đã không chịu nghe tiếp những lời tiên tri của Zacarya. Ông đã nói thêm: "Xe trận, Ta sẽ cất phăng khỏi Ephraim, và ngựa trận khỏi Yêrusalem. Và Ta sẽ nói lên thái bình cho chư quốc". Đó là những lời thật thích hợp về Chúa cứu dân. Mọi ngôn sứ đều loan báo và mọi người đều tin tưởng. Đấng Thiên sai cứu thế sẽ hủy bỏ chiến tranh cho cả hai miền Bắc Nam Dân Chúa, sẽ tái lập hòa bình cho Đất Nước của họ và triển khai thái hòa cho chư quốc.

Zacarya nói đúng truyền thống các tiên tri và y như Lời Chúa đã từng hứa hẹn. Ông chỉ cho thấy một điểm khác, nói đúng hơn, một điều mới: Đấng thi hành công cuộc cứu thế sẽ khó nghèo và hiền lành. Nhưng tại sao lại không có thể như thế! Đavít không là vị hoàng đế khó nghèo và hiền lành sao? Ngay cả Môsê khi được mang tên "cứu vớt" cũng chỉ là một trẻ nhỏ nằm trong một cái thúng ọp ẹp, trôi nổi trên dòng sông Nil. Người ta ít nhìn vào lịch sử Dân Chúa. Họ hay ngưỡng vọng nề nếp của các dân tộc chung quanh. Họ hy sinh lời nói của Zacarya để duy trì hình ảnh về một hoàng đế A-lịch-sơn chẳng hạn. Nhưng suy nghĩ của họ không giống như của Chúa. Ngài không chịu người ta tưởng tượng ra Ngài. Người ta muốn chấp nhận Ngài thì phải chấp nhận đúng Ngài và chính Ngài, chứ không phải là ngẫu tượng xuyên tạc bản chất của Ngài.

Và bản chất của Ngài, Zacarya hôm nay đã loan báo rõ ràng. Và Chúa Yêsu đã thực hiện như vậy. Người bảo ta hôm nay hãy đến học với Người để trở nên như Người là Đấng có lòng hiền từ và khiêm nhường. Không ý tứ, hôm nay chúng ta cũng sẽ giống như người Dothái ngày xưa. Họ đã bỏ rơi Lời Chúa. Muôn khỏi như vậy, chúng ta phải làm gì?

 B. Hội Thánh Là Môi Trường Đón Nhận Chúa

Không phải Zacarya đã không chuẩn bị tâm hồn người nghe đón nhận mạc khải của ông. Trước khi tuyên bố Đấng đem hòa bình đến cho muôn dân không cỡi ngựa trận nhưng ngồi trên lưng lừa con, ông đã muốn tạo bầu khí khi viết: "Hãy nhiệt liệt nhảy mừng, nữ tử Sion! Reo hò lên, nữ tử Yêrusalem!" Đó là những tiếng kêu mời đi vào một cuộc liên hoan thánh. Một cuộc rước phụng vụ chẳng hạn. Vì những lời ấy gợi lên hình ảnh một Đavít hôm nào nhảy múa trước Hòm Bia Thánh đang được người ta khiêng về đặt ở Sion. Nói cách khác, để đón nhận lời mạc khải về Thiên Chúa đến cứu dân trong khó nghèo và khiêm nhu, người ta phải đặt mình vào bầu khí đạo đức, phải trở nên đơn sơ vô tội để có thể thấy tất cả những gì cao cả thì đơn sơ và thanh bạch.

Trước khi kêu gọi chúng ta đến trường học hiền từ và khiêm nhu trong lòng, Chúa Yêsu cũng đã làm như thế. Người đã ngước mắt lên trời cầu nguyện. Người cho người ta thấy ở trước mắt Thiên Chúa không có những hạng thông thái và khôn ngoan kiểu thế gian, nhưng chỉ có những trẻ nhỏ. Thiên Chúa là Thượng đế nhưng lại không như các hoàng đế. Càng những hoàng đế như Nabucôđônôsor lại càng xa với Người. Vị hoàng đế này cỗ tiệc linh đình với quần thần và tài cán trong nước. Nhưng không một ai đọc được mấy chữ mà một ngón tay vừa viết ra ở trên tường. Những khối óc nổi tiếng thông thái nhất cũng tái mét mặt đi không biết đọc làm sao. Thế mà một em bé, một đứa nhỏ trong Nước Trời, tên là Đaniel đã đứng ra đọc vanh vách, rồi giải nghĩa phân minh. Quả thật, Thiên Chúa đã ban trí tuệ cho những kẻ khiêm nhường và bé mọn hiểu các mầu nhiệm của Người.

Chúa Yêsu đã ý thức rõ điều ấy, Người chắc chắn rằng chỉ những trẻ thơ ấu mới được Chúa Cha mạc khải sự thật về Thiên Chúa. Thế nên, trước khi kêu gọi chúng ta đến với Người để học biết Người, và nhận biết Người đến giải cứu chúng ta khỏi các gánh nặng tội lỗi, Người đã muốn tạo một bầu khí cầu nguyện và đạo đức. Người là như Zacarya khi muốn mạc khải con người đích thực của Cứu Chúa. Thái độ ấy cho phép chúng ta kết luận: phải sống trong bầu khí phụng vụ, phải ở trong cộng đoàn cầu nguyện, phải hiệp nhất với Hội Thánh mới đón nhận và hiểu được Thiên Chúa với đường lối cứu thế của Người. Không ra khỏi não trạng của thế gian, xác thịt, sẽ không sẵn sàng đón nhận mạc khải cứu sống của Chúa; sẽ không chấp nhận đường lối khó nghèo của Phúc Âm để được an thái trong tâm hồn.

Vậy làm thế nào để có tinh thần đơn sơ bé mọn? Bài thư Phaolô đã trả lời cho chúng ta.

 C. Anh Em Hãy Sống Theo Thần Khí

Chúng ta hết thảy đều vất vả và gánh nặng. Không nói đến những gánh nặng bên ngoài đè trên vai chúng ta, để có cuộc sống đầy đủ và an vui cho bản thân và gia đình. Những gánh nặng đó sẽ trở nên nhẹ nhõm khi trong mình có sức mạnh và vui tươi. Nhưng khốn nỗi chính trong lãnh vực của tâm linh thường khi chúng ta cũng vất vả và nặng nề. Xác thịt đè nặng trong các ham muốn của tính dục. Nhiều tật xấu nào đó kìm hãm tinh thần chúng ta. Và sức mạnh của con người cũ không chịu buông tha để chúng ta đi theo Chúa. Dùng tiếng của thánh Phaolô trong bài thư hôm nay, chúng ta dường như còn mắc nợ xác thịt, nghĩa là còn sống theo nó nhiều quá. Và như vậy, chúng ta còn sống xa Thiên Chúa, chưa đi vào đường lối khó nghèo Người vạch ra và còn cảm thấy nặng nề chưa được giải thoát.

Hôm nay Chúa Yêsu gọi chúng ta đến với Người. Người muốn cất gánh nặng đi cho chúng ta. Đúng hơn Người muốn đặt trên vai chúng ta một ách khác nhẹ nhàng thoải mái đến nỗi sẽ phục hồi con người vất vả của chúng ta. Chính Người nói: Hãy mang lấy ách của Ta vào mình, hãy thụ giáo với Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng và các ngươi sẽ tìm thấy sự nghỉ ngơi cho tâm hồn.

Chúng ta có thể lấy làm lạ vì sao Chúa lại dùng tiếng "ách". Cựu Ước đã dùng tiếng đó để nói về Lề Luật. Chúa tiếp tục dùng theo nghĩa đó. Người công nhận Luật nào cũng có khi làm cho khó chịu. Hơn nữa đối với Chúa, Luật nào cũng chỉ làm khổ con người. Luật Dothái không đem lại giải thoát. Luật lương dân cũng vậy. Không phải bản chất lề luật là làm khổ người ta. Chính lề luật vẫn tốt. Nhưng con người đã thêm thắt vào lề luật. Họ áp dụng theo dục vọng, khiến cuối cùng luật tốt lành của Thiên Chúa đã bị lãng quên vì bộ mặt rườm rà của các truyền thống loài người.

Luật Dothái ở thời Chúa Yêsu là một thí dụ điển hình. Nội dung cốt yếu của nó là lòng nhân nghĩa trong giao ước; nhưng dần dần người ta không còn nhớ các bổn phận nhân nghĩa nữa mà chỉ còn thắc mắc về việc giữ lễ lạc. Vì thế Chúa Yêsu mới thấy người ta đang vất vả dưới ách lề luật. Người kêu gọi họ đến để Người cất ách nặng ấy đi cho và thay vào ách của Người tức là Luật mới của Người. Luật của Người có lòng hiền từ và khiêm nhường. Nói đúng hơn nữa, Người sẽ đổ Thánh Thần xuống trong lòng chúng ta để chúng ta có Luật mới của Người là tình mến.

Thế nên thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy sống theo Thánh Thần. Nếu có Thánh Thần ở trong mình thì tuy thân xác còn vất vả ở đời này vì tội lỗi, tâm hồn cũng đã được sinh động và hân hoan nhờ sự sống của Thần Khí. Và như Thần Khí đã khiến Đức Kitô phục sinh thế nào, thì Người cũng làm cho chúng ta được phục hồi mạnh sức khi thân xác còn vất vả vì thân phận tội lỗi.

Chúng ta có thể nói lên kinh nghiệm về những lần có dồi dào tình mến ở trong lòng thì mọi vất vả bề ngoài trở nên nhẹ nhõm. Chúng ta hãy từ đó suy lên lời của Thánh Tông đồ và sẽ hiểu Lời Chúa khi kêu gọi chúng ta nhận lấy ách của Người để được nghỉ ngơi trong tâm hồn.

Giờ đây Chúa cũng đến với chúng ta trong Bí tích khó nghèo và khiêm cung. Tấm bánh nhỏ có là gì ở trước mắt thế gian. Nhưng đức tin nói đấy là Thần Khí Đức Kitô đến với chúng ta, để khi ở trong tâm hồn, Chúa dạy chúng ta sống hiền lành và khiêm nhường như Người là Đấng khó nghèo. Những ai cố gắng đi vào con đường đó sẽ cảm thấy nhẹ nhõm thật sự ngay cả khi đang vất vả gánh nặng. Chúng ta hãy tin, hãy đến, hãy tham dự Bí tích khó nghèo, hãy nhận lấy Thần trí của Chúa; và Thần trí của Chúa sẽ giúp chúng ta sống.
 (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

---------------------------------

 

TN 14-A60. HÃY KHIÊM NHƯỢNG VÀ HIỀN LÀNH


CHÚA NHẬT XIV THƯƠNG NIÊN,năm A

Mt 11,25-30

 

Cuộc sống của Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo về sự khiêm nhượng và hiền lành. Ngài: TN 14-A60


    Cuộc sống của Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo về sự khiêm nhượng và hiền lành. Ngài là Đấng chí tôn, chí thánh. Ngài là Đấng đầy quyền lực uy phong. Với cương vị của Ngài, đáng lẽ ra Ngài phải vênh vang, chiến thắng và không hề nhường bước. Nhưng, Đức Giêsu lại hoàn toàn trái ngược với quan niệm và cách sống của người đời. Chúa đã sống và dạy các môn đệ, cũng như mọi người phải biết tạ ơn tri ân Thiên Chúa Cha, đồng thời làm gương sống động về sự khiêm nhu và hiền lành,rồi mời gọi tất cả hãy học nơi Ngài sự khiêm nhượng và hiền lành.

KHIÊM NHƯỢNG VÀ HIỀN LÀNH : Chúa Giêsu nói :” Anh em hãy mang lấy ách của tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng “( Mt 11, 29 ). Sau lời chúc tụng, tạ ơn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha vì Cha của Ngài đã mạc khải cho những kẻ bé mọn mà không tỏ ra cho những người thông thái và học cao hiểu rộng biết về Nước Trời. Bởi vì, những người tự kiêu tự đại, những kẻ vênh váo, hiếu chiến, hiếu thắng, phô trương, cậy mình tài giỏi, khôn ngoan hơn những người khác,chẳng mấy ai ưa, chẳng mấy ai muốn làm bạn, mà chính Chúa Cha cũng khinh chê, bằng chứng nhan nhản trong Tin Mừng khi Chúa Giêsu nói tới bọn Biệt Phái, Luật Sĩ và Pharisiêu. Đây là những hạng người tự phụ cho mình là đạo đức nhưng họ chỉ là những bọn giả hình, bề ngoài thì tỏ ra bệ vệ, đạo đức nhưng bên trong chứa đầy nọc độc, bẩn thỉu, thúi tha. Những kẻ khiêm tốn, những kẻ bé mọn, những người nghèo của Thiên Chúa là những người hiền hậu, khiêm nhường nhận mình là bé nhỏ, yếu hèn, là không trước mặt Thiên Chúa, nên họ được tất cả mọi người quí mến, kính phục và Thiên Chúa yêu thương, ban cho họ Nước Trời.” Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn “ ( Mt 11, 25 ). Những kẻ tự phụ tự mãn, kiêu căng sẽ không còn chỗ cho Thiên Chúa ngự trị, chỉ có những kẻ xem mình là trống rỗng mới còn chỗ cho Thiên Chúa hiện diện. Chúa Giêsu đã sống, đã làm gương trước cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta về gương khiêm nhượng và hiền lành. Ngài là Con Thiên Chúa nhưng Ngài đã tự hạ, mặc xác phàm làm người …”( Philip 2, 7-8 ). Ngài đã thương tha thứ cho Maria Madalêna, cho người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đã cứu ông Giakêu khỏi danh vọng, tiền của trần gian, đã đồng bàn với những người tội lỗi, yếu hèn. Ngài đã tha thứ cho người con hoang đàng trở về, đã tha thứ cho Phêrô vì ông chối Ngài ba lần, đã cứu Phaolô khỏi sự hung hăng truy lùng Giáo Hội, làm cho ông trở nên tông đồ cho dân ngọai, Ngài đã chăm sóc cho từng con chiên, đến để chiên được sống dồi dào, Ngài đã tha thứ cho tất cả những ai hành hạ, xỉ nhục và giết Ngài. Tuyệt đỉnh của sự khiêm hạ và hiền lành của Ngài là Ngài không kêu ca, không la hét  khi người ta bắt điệu Ngài đem xử án và đem đi giết. Ngài im lặng vâng lời Thiên Chúa Cha:” Lạy Cha nếu được thì xin cất chén đắng này khỏi con nhưng đừng theo ý Con mà theo ý Cha”. Sự cao cả, thánh thiêng và hoàn toàn khiêm hạ ( Kénosis ) của Ngài khi bị treo trên thập giá. Ngài đã qui tụ nhân loại dưới chân thập giá :” Khi nào Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta “.

TẤT CẢ NHỮNG AI ĐANG VẤT VẢ MANG GÁNH NẶNG NỀ, HÃY ĐẾN CÙNG TÔI, TÔI SẼ CHO NGHỈ NGƠI BỒI DƯỠNG ( Mt 11, 28 ):

Chúa Giêsu sẽ không cất gánh nặng cho chúng ta, nhưng nếu chúng ta nhận mang lấy ách của Ngài, chúng ta sẽ có thể mang gánh nặng của mình. Aùch là một cái cày bằng gỗ nặng, nó được đóng để tròng vào cổ của đôi bò, để giữ bò lại và để bò kéo xe. Aùch ở đây còn có nghĩa là trò chơi chữ của Chúa, bởi vì người Do Thái thường gọi giáo lý mà học viên  phải học là “ gánh nặng “ và việc học viên phải học thuộc lòng các bài giáo lý là “ ách “. Do đó, chúng ta hiểu được thế nào là ách và gánh của Chúa. Aùch của Chúa thì êm ái và gánh của Chúa thì nhẹ nhàng. Lời mời gọi của Chúa làm chúng ta hạnh phúc và an tâm vì chúng ta luôn như thấy có Chúa đang ở bên chúng ta để an ủi, nâng đỡ, và cất đi những u sầu, nhưng thử thách trong cuộc đời của chúng ta. Chúa luôn đến với con người, đến với chúng ta như  Ngài đã đến với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi, những kẻ tật nguyền, những người phong hủi, mhững kẻ bị bỏ rơi bên lề xã hội loài người. Chúa đã đón nhận tất cả mọi người, Ngài đồng hóa với họ, với những con người bé mọn tầm thường nhất, Ngài đã nói :” Ai cho một kẻ bé mọn ăn, cho kẻ khó nghèo uống nước, dù chỉ là chén nước lã cũng là cho chính Ta “. Chúa đã mang lấy tất cả những nỗi khổ đau cho nhân loại, đã gánh tội cho nhân loại dù rằng Ngài hoàn toàn vô tội, Chúa đã bổ sức và tăng sinh lực cho chúng ta để chúng ta được sống và sống dồi dào. Theo gương Ngài chúng ta cũng hãy sống như Ngài:” Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” 

( Mt 11, 29).

ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ CUỘC ĐỜI : Chúa đã thương mọi người, đã cứu chuộc mọi người, Ngài không muốn lọai trừ ai. Cuộc đời của Chúa là cả một cuộc đời cầu nguyện. Ngài cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện không ngừng. Tình thương của Ngài thật vô biên. Do đó, Chúa Giêsu luôn kiên nhẫn và khiêm tốn, giúp chúng ta hiểu ra được lòng thương xót của Thiên trong cuộc đời của chúng ta, trong từng thử thách, từng biến cố xẩy ra trong đời sống chúng ta.

   Chúa gìn giữ và nâng đỡ, củng cố đức tin cho chúng ta. Nên, trong cuộc hành trình đức tin, chấp nhận thử thách, chấp nhận vác thập giá của mình mỗi ngày mà theo Chúa, chắc chắn con người sẽ được bình an và được Chúa yêu thương, bổ dưỡng tâm hồn.

    Tập sống như Chúa hiền lành và khiêm nhượng, chắc chắn chúng ta sẽ được những người khác quí mến.

    Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết học cùng Chúa gương khiêm nhượng và hiền lành.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

---------------------------------

 

TN 14-A61. Chúa Nhật 14 mùa Thường niên

 

Chúa Giê-su Ki-tô biểu lộ những đường nét khác nhau của dung mạo Thiên Chúa.  Người là: TN 14-A61


          Chúa Giê-su Ki-tô biểu lộ những đường nét khác nhau của dung mạo Thiên Chúa.  Người là “hình ảnh Thiên Chúa vô hình” (Cl 1:15), cho nên đón nhận Người là ta có thể nhận ra được khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa.  Các bài đọc hôm nay cho ta một số phác họa về dung mạo Chúa Ki-tô qua hình ảnh Đức Vua Bình an đến với Giê-ru-sa-lem và qua những lời Người nói về chính Người là Đấng mang lại sự an nghỉ và sự sống.  Suy niệm về việc đón nhận Chúa Ki-tô, thánh Phao-lô trình bày một phương cách tốt nhất, đó là hãy sống theo Thần Khí của Đức Ki-tô, tức là ta hãy “diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ” trong ta.

1.  Chúa Ki-tô là “Đức Vua khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con”  (bài đọc Cựu Ước – Dcr 9:9-10)

          Lúc khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem trước khi chấp nhận cuộc Thương Khó, Chúa Giê-su đã sai mấy môn đệ đi tới nhà một người bạn và xin họ cho mượn một con lừa con để Người cỡi vào thành thánh.  Điều này đã được ngôn sứ Da-ca-ri-a loan báo cuối thế kỷ 4 trước công nguyên.  Vị ngôn sứ đang nhìn thấy một gương mặt vô cùng độc đáo của Thiên Chúa đến với dân Ít-ra-en:  “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi:  Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9:9).  Đức Vua của Ít-ra-en không phải là vị anh hùng ngồi trên lưng ngựa đánh đông dẹp bắc, mà là Đấng Chính Trực và Toàn Thắng cỡi lừa vào thành thánh Giê-ru-sa-lem.  Ngựa biểu tượng cho chiến tranh và cho kiêu căng, còn lừa biểu tượng cho hòa bình và cho khiêm nhu.  Mục đích Đức Vua đến với Ít-ra-en là dẹp tan mọi thứ chiến tranh, để thiết lập một vương quốc bình an.  Sẽ không còn ngăn cách, thù địch giữa con người với con người và giữa con người với Thiên Chúa.  Mọi hậu quả ấy đều do tội lỗi gây nên và chúng sẽ bị quét sạch dần dần.  Rõ ràng là Đức Vua đang đến, mở đầu cho một cuộc chiến tay đôi giữa quyền lực của Thiên Chúa và ảnh hưởng của tội lỗi, giữa sự sống và sự chết.  Viễn tượng chiến thắng của Đức Vua là điều phải xảy đến:  “Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Dcr 9:10).

          Nhưng Đức Vua ấy là ai và Ngài đã làm gì để chiến thắng trong cuộc chiến cam go đó?  Hình ảnh Đức Vua ấy chính là Chúa Ki-tô trong cung cách khiêm tốn ngồi trên lưng lừa.  Chúa Ki-tô đã lấy chính đức khiêm nhượng và vâng phục để chiến thắng tội lỗi và sự chết.  Thánh Phao-lô đã dùng một so sánh nổi tiếng để tôn vinh chiến thắng của Chúa Ki-tô.  “Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy” (Rm 5:17).  Về sự khiêm nhượng của Chúa Ki-tô, ta đã được nghe thánh Phao-lô nói đến nhiều lần, nhất là với bài thánh thi trong thư Phi-líp-phê 2:6-11.  Sự kiêu căng và bất tuân của A-đam đã mang lại hậu quả khốc liệt cho nhân loại, thì sự khiêm nhượng và vâng phục của Chúa Ki-tô đã sinh ân phúc lớn lao là sự công chính và chiến thắng tội lỗi.  Người quả thực là “Đấng Chính Trực” và “Đấng Toàn Thắng” như lời ngôn sứ Da-ca-ri- đã báo trước.

2.  Chúa Ki-tô có lòng hiền hậu và khiêm nhường (bài Tin Mừng – Mt 11:25-30)

           Sứ mệnh của Chúa Ki-tô là được sai đến với những kẻ nghèo hèn, bệnh tật tâm hồn lẫn thể xác, bị áp bức giam cầm (Lc 4:18-19), hoặc như trong lời cầu nguyện tạ ơn của Người, là Người đến để mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho “những người bé mọn” (Mt 11:25).  Những người bé mọn là hình ảnh ám chỉ tất cả những ai mang tinh thần đơn sơ như trẻ em, hoàn toàn tín thác và đặt mình dưới sự dẫn dắt của “Mô-sê Mới” là Chúa Giê-su, để Người dẫn họ về nhà Cha.  Họ cũng là những người “đang vất vả mang gánh nặng nề” cần được nghỉ ngơi bồi dưỡng.  Những người ấy trước hết là những người Do-thái đang sống dưới ách nặng nề của Lề Luật và những giải thích nặng phần hình thức do các kinh sư và Pha-ri-sêu.  Nhưng cũng có thể là tất cả những người đang quằn quại dưới sức ép của kiếp sống con người.  Giờ đây, Chúa Giê-su đưa ra lời mời gọi và bảo đảm Người sẽ cho họ một đáp số về những “vất vả cuộc đời”:  “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28).  Lời mời gọi của Chúa thẳng thắn và chắc chắn, nói lên cốt lõi sứ mệnh của Người.  Những người vỗ ngực là “bậc khôn ngoan thông thái” của thế gian đâu cần đến Thiên Chúa và mầu nhiệm Nước Trời.  Họ tin một mình họ có đủ khả năng quyết định vận mệnh cho mình, tự giải quyết và khắc phục những khó khăn cuộc đời bằng những phương tiện khoa học, triết học và xã hội, chứ không cần đến tôn giáo hoặc đức tin.  Nhưng đối với những “kẻ nghèo hèn” (anawim) của Đức Chúa thì khác.  Họ biết mình không thể làm được gì nếu không có Thiên Chúa ở cùng.  Do đó, họ cần có một Đấng gọi là Em-ma-nu-en, Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta.  Đấng ấy đã được ngôn sứ Da-ca-ri-a báo trước và Người đã đến, đã mời gọi toàn thể nhân loại tới với Người.  Vậy ta hãy xem Người sẽ cho ta được “nghỉ ngơi bồi dưỡng” như thế nào.

          Trước hết, Chúa Giê-su dạy:  “Anh em hãy mang lấy ách của tôi”.  Kể cũng lạ đời!  Đã mang lấy ách thì làm sao nghỉ ngơi được.  Người Do-thái khổ sở vì cái “ách” của Lể Luật, đó là một thí dụ cụ thể.  Nhưng Chúa Giê-su khẳng định:  “Ách của tôi êm ái, và gánh của tôi nhẹ nhàng”.  Đúng vậy, “ách” của Chúa Giê-su là luật yêu thương, luật mến Chúa yêu người.  Nếu tình yêu đã trở nên động lực đích thực cho hành động, thì thực hiện hành động không còn gây khó chịu khổ đau cho ta.  Vì yêu thương con cái, cha mẹ dù có vất vả hy sinh cũng không thấy đó là một cái ách nặng nề nữa.  Vì yêu thương, Chúa Giê-su đã vui lòng chấp nhận cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ ta.  Do đó, ta mang lấy ách của Chúa Giê-su có nghĩa là ta sống luật yêu thương Người đã dạy và đã nêu gương.

          Tiếp đến, Chúa Giê-su mời gọi ta hãy học với Người.  Học với Chúa Giê-su chính là làm môn đệ Người.  Có biết bao điều ta có thể học nơi Chúa.  Nhưng ở đây Người nhấn mạnh đến lòng hiền hậu và khiêm nhượng.  Đó là kết quả của một tình bác ái đích thực, như thánh Phao-lô đã đề cập đến trong bài ca đức mến (1 Cr 12:31-13:13).  Chiêm ngưỡng lòng hiền hậu và khiêm nhượng của Chúa Giê-su là một đề tài vô cùng phong phú và bất tận.  Tất cả cuộc đời Chúa Giê-su biểu lộ những đức tính này qua mối quan hệ giữa Người với tha nhân và với Thiên Chúa.  Ta khó nhận ra lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua những suy luận tu đức hay thần học, nhưng ta thấy ngay được Thiên Chúa nhân hậu như thế nào qua cách đối xử của Chúa Ki-tô với mọi người, ngay cả đối với những kẻ thù của Người.  Một Ki-tô hữu đích thực không thể đối xử với anh chị em theo triết lý “người đối người khác gì loài lang sói” (homo homini lupus), nhưng phải quảng đại, tha thứ đối với anh chị em.  Chẳng lạ gì khi kết thúc bài dạy về kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su đã nhấn mạnh đến việc tha thứ cho anh em.  Đó chính là một nghĩa cử nảy sinh từ lòng hiền hậu và khiêm nhượng vậy.

3.  Noi gương sống của Chúa Giê-su, ta phải sống theo Thần Khí của Người (bài đọc Tân Ước – Rm 8:9.11-13)

          Đáp lời mời gọi hãy đến và học nơi Chúa Giê-su, tức là làm môn đệ Chúa, thánh Phao-lô cho ta một nguyên tắc hành động:  ta phải có Thần Khí của Chúa Ki-tô thì mới diệt trừ được những hành vi ích kỷ nơi ta.  Đúng vậy, Chúa Giê-su đã cho ta thấy Thần Khí hoặc Tinh Thần của Người là lòng hiền hậu và khiêm nhượng.  Nếu lòng hiền hậu và khiêm nhượng là kết quả của đức mến đích thực thì ngược lại những hành vi ích kỷ là hậu quả của lòng ghen tương ganh ghét.  Cũng vậy, đức mến đem lại sự sống, còn ghen ghét đưa đến cái chết.  Thần Khí của Chúa Ki-tô đã làm cho Người sống lại từ kẻ chết và trở thành sự sống muôn đời cho tất cả những ai sống theo Thần Khí của Người.  Nói khác đi, lòng hiền hậu và khiêm nhượng của Chúa Ki-tô đã cứu độ nhân loại và phục hồi cho họ địa vị làm con cái Chúa để được sống muôn đời.  Diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nghĩa là thay vì chỉ sống cho ta, coi ta là cái rốn vũ trụ và không màng tới những người anh chị em “đang vất vả mang gánh nặng nề”, thì ta sẽ quan tâm đến họ hơn và lo lắng chăm sóc cho họ.

          Đặc biệt trong thư gửi tín hữu Ga-lát, thánh Tông đồ đã phân tích rõ hai lối sống:  sống theo tính xác thịt và sống theo Thần Khí.  Có một danh sách dài gồm những việc do tính xác thịt (Gl 5:19-21) và danh sách những đức tính của Thần Khí mà thánh Augustinô đã gói ghém trong một câu:  Cứ yêu mến đi, rồi bạn hãy làm những điều bạn muốn.  Để kết luận, thánh Phao-lô Tông đồ chỉ cho ta một hướng đi:  “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5:25).  Và tiến bước ấy sẽ đưa ta tới sự viên mãn để được chung phần gia nghiệp với Chúa Ki-tô.

4.  Sống Lời Chúa

          Giữa cuộc sống khổ ải trần gian này, nhiều khi ta quá mệt mỏi đến độ muốn buông xuôi hoặc đi tìm những thú vui trần gian để khỏa lấp.  Nếu cứ tiếp tục như thế là ta đang đi vào con đường hư mất.  Nhưng Chúa Giê-su đã đến với ta để giúp ta nhận biết sống hiền hậu và khiêm nhường là kết quả của một tình yêu đích thực.  Ta đến với Chúa để học cách sống của Người, để rồi ta thực hành bài học ấy khi ta đối xử hiền hậu và khiêm nhường đối với anh chị em.

Suy nghĩ:  Khi đối xử với anh chị em, tôi đã thiếu lòng hiền hậu và khiêm nhường trong lời nói và việc làm như thế nào?  Một vài thí dụ cụ thể nào giúp tôi nhận ra mình ác độc và kiêu căng đối với anh chị em?  Hiền hậu và khiêm nhường có phải là đặc nét của căn tính Ki-tô hữu không?  Tại sao?

Cầu nguyện:  Lạy Chúa, nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên;  xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này:  Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, thì xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh.  Nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.  A-men.  (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 14 mùa Thường niên)

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

---------------------------------

 

TN 14-A62. Không ai biết Cha trừ ra Con


CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN, NĂM A

Dcr 9,9-10; Rm 8,9.11-13; Mt 11,25-30

 

Trong đời sống con người chúng ta phải nhìn nhận rằng: không ai hiểu và thông cảm với: TN 14-A62


Trong đời sống con người chúng ta phải nhìn nhận rằng: không ai hiểu và thông cảm với chồng bằng người vợ, và ngược lại, không ai hiểu rõ và thông cảm với vợ bằng người chồng. Trong mối tương quan giữa cha mẹ và con cái cũng vậy, không ai hiểu con cái bằng kẻ làm cha, làm mẹ. Dĩ nhiên đây không phải là một định luật tuyệt đối, bởi vì không hiểu và không thông cảm cũng là lý do của biết bao nhiêu cảnh gia đình đổ vỡ, ly tan! Con người là một tạo vật có giới hạn. Khả năng hiểu và thông cảm cũng thế. Hơn nữa, con người là tạo vật luôn biến đổi và nơi mỗi người chứa đựng cả một kho tàng bí mật mà người khác không tài nào biết hết. Những người dám vỗ ngực cho rằng mình là kẻ hiểu rõ chồng mình, vợ mình, con cái mình, ... là những kẻ thuộc hạng người tự cao tự đại, khoe khoang phét lác.

  Nơi Thiên Chúa thì không có giới hạn. Trong bài Phúc âm ngày hôm nay chúng ta nghe Đức Giêsu lên tiếng nói rằng: “ Không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con.” Đó là sự thật mà Người muốn loan báo cho con người. Chúng ta tin vào lời của Đức Giêsu bởi vì không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa. Hơn nữa, “Người chính là đường, là sự thật và là sự sống.” Người là Đấng công chính và là Đấng cứu độ mà tiên tri Giacaria đã nói. Người chính là con đường duy nhất dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Cha. Thánh Philípphê Tông đồ đã từng tha thiết nài xin Người tỏ cho ông xem thấy Chúa Cha. Lời yêu cầu ngây ngô của ông đã làm Đức Giêsu không được vui, bởi vì ai thấy Người là xem thấy Chúa Cha. Một sự việc đơn giản như thế mà ông cũng không hiểu!

  Trong bài Phúc âm Đức Giêsu còn nói: “Không ai biết Cha, trừ ra những kẻ Con muốn mạc khải cho. Con người thật diễm phúc vì được dự phần vào mối tương quan của Người với Chúa Cha. Vấn đề đặt ra là: những kẻ mà Người muốn mạc khải cho là ai đây? Phải chăng thánh Philípphê không ở trong số người đó? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong thơ của thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma: “Nếu ai không có Thánh Thần của Đức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người.” Có nghĩa là: Không ai có thể nhận biết Người là Chúa nếu không có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.

  Những người hiền triết, khôn ngoan tài trí, những người tự cho mình là gia giáo, quyền quý cao sang, đã không tìm thấy đường dẫn tới hạnh phúc vĩnh cửu, bởi vì Thánh thần không ở trong họ. Bởi vì họ thường nghĩ rằng, tất cả những gì họ đạt được đều nhờ vào tài trí và công sức của họ. Chỉ những gì họ nghĩ ra và thấu triệt mới là sự thật. Những gì họ công bố đều giống như một tín điều buộc mọi người phải tin. Họ tự suy tôn mình lên ngang hàng với thần thánh, họ tự coi mình là rốn vũ trụ, mọi người phải nhìn vào đó với ánh mắt ngưỡng mộ, thèm thuồng. Họ đã ngang nhiên đóng cánh cửa lòng mình, không để cho Chúa Thánh Thần ngự trị và tác động trong họ.

  Những người khiêm tốn bé mọn là những kẻ đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu: Hãy đến với Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta là Đấng dịu hiền và khiêm nhường trong lòng. Sự thật là thế. Người vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa nhưng trở nên giống phàm nhân (Pl 2,6t). Những người bé mọn là những người sống với tâm tình như chính Đức Giêsu và quyết tâm trở nên giống Người. Họ sẵn sàng từ bỏ tất cả mọi hình thức suy tôn thế giới và tiền tài. Họ thật diễm phúc được Đức Giêsu mạc khải cho thấy Chúa Cha ở trong Người và hành động trong Người.

  Không có thứ hạnh phúc nào lớn lao hơn khi biết rằng, tình yêu của Thiên Chúa luôn luôn bao bọc, che chở mình trong mọi bước đường của cuộc sống. Đó là thứ bình an mà Đức Giêsu đã hứa ban cho người Kitô hữu, những kẻ sống trong Thánh Thần của Người.

 Lm. Phêrô Trần Minh Đức

---------------------------------

 

TN 14-A63. CHÚA NHẬT 14 QUANH NĂM – 2002


 Thánh ca và lời nguyện mở đầu

Kinh Thánh:       Rô-ma 8: 9,11-13

 

Thư Rô-ma đi từ lý thuyết tới thực hành. Từ đầu tới hết chương 7, thánh Phao-lô trình bày phần: TN 14-A63


          Thư Rô-ma đi từ lý thuyết tới thực hành. Từ đầu tới hết chương 7, thánh Phao-lô trình bày phần giáo lý thần học về ơn được nên công chính (ơn công chính hóa) như một khúc quanh vô cùng quan trọng của lịch sử cứu độ, cho con người một tư cách mới trước mặt Thiên Chúa và một khả năng để họ có thể trở về với Người. Tới đây, ngài dẫn chúng ta sang phần thực hành, trình bày một lối sống mới cho những người đã được ơn công chính hóa, tức là sống theo Chúa Thánh Thần. Trong 5 Chúa Nhật liền, CN 14-18, Phụng vụ Lời Chúa sử dụng nguyên chương 8, mỗi lần trích dẫn một đoạn ngắn, chứng tỏ tầm quan trọng cũng như nội dung phong phú của chương này.

 a) Chúa Ki-tô là câu trả lời

          Ở chương 5, thánh Phao-lô so sánh giữa những hiệu quả của việc Đức Ki-tô vâng phục với những hậu quả của việc A-đam bất tuân. A-đam đưa nhân loại tới cái chết; còn Đức Ki-tô, A-đam Mới, đưa nhân loại qua ngưỡng cửa ơn cứu rỗi (công chính hóa) tới sự sống dồi dào (ơn cứu độ). Do đó, những ai được rửa tội trong Đức Ki-tô thì đã chết đi cho tội lỗi, nên không được làm nô lệ cho tội lỗi nữa nhưng hãy sống cho sự công chính. Nói khác đi, Ki-tô hữu phải cởi bỏ con người cũ tội lỗi và hãy mặc lấy Đức Ki-tô. Mặc lấy Đức Ki-tô diễn tả một lối sống mới, sống như là ở trong Đức Ki-to hoặc sống theo Thần Khí của Đức Ki-tô. Những tư tưởng này được lập đi lập lại nhiều lần và là chủ đề của phần còn lại thư Rô-ma.

          Ơn được nên công chính không tiêu hủy và làm biến mất đi những khuynh hướng tội lỗi nơi chúng ta, nhưng cho chúng ta khả năng để thắng vượt chúng. Do đó, mỗi người dù đã được rửa tội vẫn nhận thấy nơi mình một cuộc chiến nội tâm. "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm" (Rm 7:19). Nhận thức ấy đã khiến cho chính thánh Phao-lô phải kêu lên: "Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?" Và ngài có ngay câu trả lời: "Tạ ơn Thiên Chúa, NHỜ ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ" (7:24-25). Có tháp nhập vào Chúa Ki-tô, ở trong Người, chúng ta mới có thể thắng được tội lỗi.

 b) Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-to

          Thánh Phao-lô trưng lên hình ảnh tương phản giữa hai lớp người: những người sống theo xác thịt và những người sống theo Thần Khí. Sống theo xác thịt là vẫn liên đới với A-đam cũ, đặt tin tưởng vào những gì hoàn toàn là của loài người, vật chất, phải chết và sẽ bị hư nát. Trái lại, những người sống theo Thần Khí của Thiên Chúa liên kết mình với một nhân loại được đổi mới do sự chết và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Họ sống trong Đức Ki-tô và tin tưởng vào những gì là trường sinh và không thể bị hủy hoại. Cuộc sống của Chúa Ki-tô trên trần gian này đã biểu lộ rõ ràng Thần Khí của Thiên Chúa nơi Người. Qua sách Tin Mừng, chúng ta hình dung được một Đức Ki-tô hành động, giảng dạy, chữa lành, và cuối cùng là chết trên thập giá, tất cả đều do sức thúc đẩy và dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần Thiên Chúa.
          Chiêm ngưỡng con người và lối sống của Đức Ki-tô, thánh Phao-lô áp dụng cho Ki-tô hữu, những người "đã được dìm vào nước thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô." Nghĩa là nếu chúng ta muốn thuộc về Đức Ki-tô, thì chúng ta cũng phải "được Thần Khí chi phối" và sống trong ảnh hưởng của Thần Khí như Đức Ki-tô đã sống.

 c) Nhờ Thần Khí mà diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ

          Sống như con người ích kỷ là chỉ sống cho mình, lấy mình làm trung tâm, lúc nào cũng chỉ quy hướng về bản thân mình. Sống như thế, làm sao con người có thể "đứng thẳng lên" (jus-stare) để hướng về Thiên Chúa và hướng về tha nhân được! Khuynh hướng tội lỗi vẫn còn ở trong chúng ta, làm cho chúng ta phải cúi gập xuống để chỉ còn nhìn thấy mình là tất cả. Nhưng nếu chúng ta sống trong Đức Ki-tô, thì Thần Khí của Thiên Chúa nơi Đức Ki-tô sẽ loại trừ dần dần những hành vi ích kỷ trói buộc chúng ta. Thần Khí sẽ chặt đi những rễ cây ích kỷ đang kéo ghì chúng ta xuống, ban cho chúng ta được tự do nội tâm mà "chỗi dậy, đi về nhà Cha." Chúng ta được mời gọi hãy phục vụ cho sự công chính, tức là sống cho Thiên Chúa và cho anh chị em. Đức Ki-tô vẫn luôn là mẫu gương. Người không sống cho mình, nhưng sống chết để chu toàn sứ mệnh Chúa Cha trao phó và sống chết cho một nhân loại mà Người là "trưởng tử."

 Câu hỏi gợi ý chia sẻ

          Tôi có nhìn Bí tích Rửa tội tôi đã lãnh nhận như một biến cố vĩ đại nhất đời mình không? Tại sao vĩ đại?

          Tôi hiểu thế nào về "Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí của Đức Ki-tô"? Thánh Phao-lô muốn nói gì khi sử dụng hai lối nói khác nhau ấy để chỉ về Chúa Thánh Thần?

          Chia sẻ với nhóm một vài thí dụ cụ thể về việc "diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ."
 Cầu nguyện kết thúc

          Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc thánh ca Ê-phê-xô 1:3-10 (trong Các giờ kinh Phụng vụ, kinh chiều Thứ Hai trong tuần).

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

---------------------------------

 

TN 14-A64. “Hãy đến cùng tôi”Chúa Nhật XIV Thường Niên

 

Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 11,25-30) bắt đầu bằng ngữ đoạn “vào lúc ấy” (c.25), vốn có : TN 14-A64


Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 11,25-30) bắt đầu bằng ngữ đoạn “vào lúc ấy” (c.25), vốn có giá trị nối kết các nội dung được đề cập ở đây với những gì được tường thuật trong đoạn văn đi trước.

Trong các đoạn văn đi trước, chúng ta gặp những lời phê bình hoặc chí ít là những thái độ hoài nghi và không tín nhiệm đối với Chúa Giêsu. Đối diện với những thái độ tiêu cực đó, Chúa Giêsu đã không ngần ngại lên tiếng khiển trách những thành phố không chịu ứng đáp với lời rao giảng của Người (cc. 20-24). Vậy, “vo lc y”, tức là vào lúc xảy đến những thái độ tiêu cực đáng trách của những con người và tập thể chối từ sứ điệp của Chúa Giêsu, thì cũng xuất hiện một thái độ khác, hoàn toàn tích cực và thánh thiện: thái độ của những con người bé mọn biết đón nhận mạc khải của Thiên Chúa.

Khác với những lời khiển trách nặng nề phía trước, bây giờ Chúa Giêsu cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa. Người nói: "Ly Cha l Cha T trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giu khng cho bc khn ngoan thng thi bit những điu ny, nhưng li mc khi cho những người b mn. Vng, ly Cha, vì đó l điu đẹp  Cha” (cc.25-26). Chúa Giêsu ngợi khen Chúa Cha vì một quyết ý thánh thiện của Chúa Cha: những con người thông thái và khôn ngoan không được biết “những điều này”, còn những con người bé mọn thì lại được biết. Ngữ đoạn “những điu ny” có lẽ quy chiếu về các việc Chúa Giêsu làm (11,2), tức là những hành động Mêsia của Người (11,19). Thiên Chúa mạc khải cho những con người bé mọn biết về những hành động và công trình ấy. Mạc khải dành cho những con người bé mọn được đề cập đến ở đây cũng chính là mạc khải mà Chúa Cha ban cho ông Simon Phêrô như được đề cập ở 16,17. Đó là mạc khải rằng Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia của Đức Chúa. Vậy vấn đề không phải là thấy và/hoặc biết về những hành động Đức Giêsu thực hiện, mà là hiểu và chấp nhận ý nghĩa và giá trị Mêsia của những hành động đó.

Tất nhiên mạc khải về Đấng Mêsia hoàn toàn có thể được thực hiện theo những cách thức huy hoàng và không phải tuỳ thuộc vào bất cứ điều kiện hay khung cảnh nào của con người. Tuy vậy, Chúa Cha đã lại muốn thực hiện mạc khải đó trong một cách thức có vẻ chẳng mấy vẻ vang gì. Người muốn việc mạc khải về mầu nhiệm Mêsia phải tuỳ thuộc vào tình trạng thực tế của con người: Người “đã giu khng cho bc khn ngoan thng thi bit những điu ny, nhưng li mc khi cho những người b mn”, và đó là điều đẹp ý Người.

Theo thánh ý của Thiên Chúa, chỉ những tâm hồn thuần khiết, đơn thành, bé mọn… mới có thể nhận ra bàn tay nhiệm mầu và yêu thương của Thiên Chúa trong những hành động mà Đức Giêsu thực hiện. Những người “khôn ngoan và thông thái” không thể đón nhận mạc khải đó.

Cách nói “những người khôn ngoan và những người thông thái” được sử dụng ở đây, ám chỉ Is 29,14. Trong bản văn ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa khiển trách dân của Người vì thói giả hình của họ trong việc tôn thờ Thiên Chúa: “Dn ny chỉ đến gn Ta bng ming, tn vinh Ta bng mi, cn lng chng thì xa Ta lm” (29,13). Và vì thế, Người phán: “Sự khn ngoan ca k khn ngoan s chuc ly tht bi, v trí thng minh ca người thng minh s tan thnh my khi” (29,14). Vậy, theo gợi ý của bản văn ngôn sứ Isaia này, có thể hiểu thực tại mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây là: sở dĩ những người khôn ngoan và thông thái không thể biết được ý nghĩa các hành động của Đức Giêsu, đó là vì sự thiếu chân thành và thói giả hình đã làm cho sự khôn ngoan của họ ra thành mây khói, đồng thời ngăn cản họ tin nhận những điều mà đáng lẽ sự thông minh và trình độ văn hoá của họ sẽ phải dẫn đưa họ đến. Thiên Chúa không chê bỏ sự khôn ngoan và thông thái của con người, nhưng chính thói giả hình và sự thiếu chân thành của con người trong tương quan với Thiên Chúa đã tàn phá những giá trị cao quý của sự khôn ngoan thông thái đó, và tước mất của con người sự thành công trong việc đón nhận mạc khải của Thiên Chúa. Chính sự giả hình và thiếu chân thành trong tương quan với Thiên Chúa đã là những chướng ngại vật đáng sợ.

Những con người bé nhỏ không gặp phải những chướng ngại vật đó, và họ có thể đón nhận mạc khải của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và qua những hành động của Đức Giêsu. Thật ra, mạc khải của Đức Giêsu và ơn cứu độ do Người mang lại cho chúng ta, là mạc khải cứu độ dành cho mọi người và mọi người đều được mời gọi đón nhận. Nhưng những ai tự coi mình là công chính sẽ không nhận biết được rằng chính họ đang cần ơn cứu độ đó, và họ sẽ đóng kín tâm hồn mình lại trước lời mời gọi của Đức Giêsu.

Vậy vấn đề không phải là Thiên Chúa giấu không cho người ta biết ý nghĩa và giá trị Mêsia của những công trình Đức Giêsu thực hiện, nhưng là vì nơi con người có những chướng ngại vật ngăn cản họ đón nhận những mạc khải đó. Về phần Thiên Chúa, Người chấp nhận mạc khải của Người có thể bị từ chối bởi những con người “khôn ngoan và thông thái”, tức là Thiên Chúa chấp nhận rằng mạc khải cứu độ của Người bị điều kiện hoá và tuỳ thuộc tâm thế của con người. Người đi vào mầu nhiệm “tự huỷ” của chính mình. Đó là ý nghĩa của mệnh đề “vì đó l điu đẹp  Cha”.

Đức Giêsu đã hân hoan dâng lời ngợi khen và chúc tụng Chúa Cha vì mầu nhiệm khiêm hạ đó của chính Chúa Cha, Đấng đã trở thành “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nơi Đức Giêsu Kitô, Con yêu dấu của Người. Chính trong mối liên hệ với mầu nhiệm khiêm hạ đó, Đức Giêsu tiếp tục khẳng định: “Cha ti đã giao ph mi sự cho ti” (c.27a). Thực ra, lời khẳng định này không phải là duy nhất trong Mt. Đức Giêsu đã từng khẳng định về việc Ngài có quyền bính của Thiên Chúa từ câu chuyện Ngài chữa lành một người bị bại liệt (9,6).

Giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha có một mối tương quan thần linh thâm sâu. Vì thế, Ngài tuyên bố: “Khng ai bit r người Con, trừ Cha Cha; cng như khng ai bit r Cha Cha, trừ người Con v k m người Con mun mc khi cho” (c.27bc). Không ai có thể biết về Chúa Con cũng như về Chúa Cha, nếu người đó không được chính Chúa Cha và Chúa Con mạc khải cho, trong Thánh Thần. Nói cách khác, ở bên ngoài Chúa Giêsu Kitô, tất cả những hiểu biết của người ta về Thiên Chúa và về chương trình cứu độ của Ngài sẽ không phải là những hiểu biết chính xác và đích thực, nhưng chỉ là những thực tại bất toàn và phiến diện. Những người (tự nhận là) “thông thái và khôn ngoan” trong Do Thái giáo đã thủ đắc những hiểu biết về Thiên Chúa nhờ nghiên cứu Luật Môsê, và họ vinh vang vì những hiểu biết đó. Nhưng thực ra, vì những hiểu biết đó của họ không phải là do Chúa Con mạc khải cho (bằng chứng là họ không chấp nhận con người, đạo lý và hoạt động của Chúa Giêsu), nên nói theo ngôn ngữ của Is 29,14, sự khôn ngoan của họ sẽ chuốc lấy thất bại, và trí thông minh của họ sẽ tan thành mây khói, không có sức mạnh cứu độ. Cũng tương tự như thế là tất cả những hiểu biết về Thiên Chúa và về chương trình của Người mà không phát xuất từ Chúa Kitô và không ở trong Chúa Kitô.

Như thế, yếu tố mang tính quyết định là sự kiện người ta được thuộc về Đức Giêsu và được ở trong Ngài. Do đó, Ngài kêu gọi: "Tt c những ai đang vt v mang gnh nng n, hy đến cng ti, ti s cho nghỉ ngơi bi dưỡng. Anh em hy mang ly ch ca ti, v hy hc với ti, vì ti c lng hin hu v khim nhường " (cc.28-29a).

“Những người đang vt v mang gnh nng n”, trước tiên, là những ai đang mệt mỏi và chịu sức ép bởi giáo huấn của những con người “khôn ngoan và thông thái” đã được nói đến trên kia. Chúa Giêsu tự giới thiệu về mình như là vị Tôn Sư, nhưng khác với thói đời tầm thường và chắc chắn khác với các kinh sư đương thời, Ngài không tìm cách thống trị hay chi phối các môn đồ. Ngài đi ngược lại xu hướng kiêu ngạo của các bậc thầy trong dân Israel bấy giờ. Những ai đón nhận giáo huấn của Ngài sẽ được Ngài cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.

Chúa Giêsu kêu gọi các đồ đệ mang lấy ách của Ngài. “Mang ly ch” của Chúa Giêsu tức là chấp nhận những đòi hỏi phát xuất từ giáo huấn của Ngài. Ách của Ngài nhẹ nhàng và êm ái, hoàn toàn khác với ách của Lề Luật mà những kẻ “khôn ngoan và thông thái” bắt buộc người ta phải mang. Thay vì những luật lệ không mang lại niềm vui, Đức Giêsu đề nghị sự phục vụ trong niềm vui và trong tình bạn (9,15).

Trong Chúa Giêsu, những tâm hồn bé nhỏ sẽ được bình an và hạnh phúc như chính Ngài đã khẳng định: “Tm hn anh em s được nghỉ ngơi bi dưỡng. Vì ách ti m i, v gnh ti nh nhng” (cc. 29b-30).

Tác giả bài viết: Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện, DCCT

---------------------------------

 

TN 14-A65. VẤT VẢ và GÁNH NẶNG


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊn, năm A

Mt 11, 25-30

 

Chúa Giêsu trong suốt cuộc hành trình giới thiệu Nước Trời, công bố Tin mừng Nước Thiên Chúa: TN 14-A65


Chúa Giêsu trong suốt cuộc hành trình giới thiệu Nước Trời, công bố Tin mừng Nước Thiên Chúa. Ngài đã dạy dỗ các tông đồ và nhân loại rất nhiều điều. Chúa luôn dạy mọi người :” Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu các con “. Lời dạy của Chúa Giêsu luôn thách thức con người bởi vì sống hiệp nhất, bác ái, yêu thương sẽ được C húa chúc lành. Còn sống chia rẽ, hận thù, Chúa không ngự trị. Hôm nay, Chúa lại mời gọi :” Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng…”.Đây là một lời mời gọi, động viên, khích lệ đầy an ủi, Chúa nói với các tông đồ, nói với tất cả mọi người và từng người chúng ta.

Vất vả và gánh nặng có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất, đây là một cái bao đựng, một cái ba lô chứa đầy đồ vật, nặng, khó vác, khó đeo. Còn theo nghĩa thông thường: vất vả và gánh nặng nói đền sự nhọc nhằn, vất vả, trách nhiệm mà con người phải chấp nhận. Dù chúng ta hiểu theo bất cứ nghĩa nào thì đây cũng là những đau khổ, những vất vả, thử thách, trách nhiệm riêng của mỗi người trong cuộc sống hằng ngày.

Trong đời sống, trong cuộc đời của mỗi người đều có những niềm vui, hạnh phúc, nhưng đồng thời cũng có những vất vả, thử thách, đau khổ…Đó là định luật ở đời.: có vui, có khổ, có sống, có chết. “ Hữu sinh hữu khổ “. Vâng, đời của mỗi người có dài, có sống lâu cũng chỉ hơn trăm tuổi nhưng ai cũng phải trải qua nhiều đau khổ, nhiều chông gai, nhiều vất vả trong cuộc đời.

Chúa Giêsu hiểu rõ tất cả mọi người, thấu hiểu hết những vất vả, gánh nặng mà con người phải chịu, phải chấp nhận và phải long đong mang vác. Gánh nặng ấy là gánh nặng của bản thân, gia đình, xã hội, gánh nặng ấy cũng là gánh nặng của bệnh hoạn tật nguyền luôn đe dọa con người, là những mất mát; cha mẹ, người thân qua đời, những hiểu lầm, những vu oan, cáo vạ vô cớ mà người ta chồng chất lên nhau. Những vất vả ấy con người phải kê vai gánh vác ; vất vả với cuộc sống hằng ngày, với kinh tế thiếu hụt, vất vả với con cái lúc nhỏ,và lúc chúng trưởng thành, khôn lớn vv…Ai cũng có những vất vả, ai cũng có những đau khổ thể xác cũng như tinh thần. Do đó, Chúa nói :” Hãy đến với Chúa “. Lời mời gọi của Chúa Giêsu mang lại cho mọi người, cho chúng ta tia hy vọng, đem lại cho chúng ta sự an ủi, đỡ nâng nhất là khi chúng ta gặp đau khổ, gặp thử thách chông gai vv…Chúa Giêsu nhắn nhủ chúng ta rằng :” Ngài đang có mặt, Ngài đang hiện diện “ trong mọi biến cố, trong mọi trạng huống của cuộc đời. Ngài mang lấy những đau khổ, những thử thách của chúng ta. Ngài trực tiếp có mặt trong từng phút giây của cuộc đời chúng ta. Ngài mang, gánh lấy tất cả những sầu đau, tủi hờn, buồn tủi của chúng ta. Ngài luôn là Đấng cứu chuộc chúng ta. Chúa luôn hiện diện để cứu vớt, giúp đỡ, nâng đỡ, bổ sức và cứu vớt chúng ta như Ngài đã đến với những người cùi, người phong, người hủi, ngài đã đến với những con người tội lỗi, những con người nghèo túng, tật nguyền, những người thu thuế vv…Chúa Giêsu đón nhận lấy tất cả những khó nhọc, buồn phiền, đau khổ của chúng ta. Ngài đã vất vả mà gánh vác tất cả những đau khổ, bệnh hoạn, khó khăn, thử thách của con người, nên, Ngài cũng đồng hóa với những người nghèo, những người bệnh hoạn, tội lỗi, bất hạnh.Chính vì thế, Ngài đã nói :” Mỗi khi các con cho một người đói ăn, người khát uống là các con cho chính Ta ăn, cho Ta uống “. Rõ ràng, Chúa Giêsu đã chúng ta thấy rõ khuôn mặt của Ngài.

Đến với Chúa, Ngài mang lấy những nỗi nhục nhằn, đau khổ, bất hạnh của chúng ta. Ngài bổ sức, nâng đỡ chúng ta. Chúng ta là con của Ngài, chúng ta cũng hãy bắt chước Ngài, nâng đỡ, an ủi những người sống xung quanh chúng ta. Hợp quần gây sức mạnh. Đau khổ sẽ giúp con người liên kết với nhau để chống lại nó. Chúng ta kết hợp với sự đau khổ của Chúa trên Thập giá, chúng ta sẽ cảm thấy đau khổ trở nên nhẹ nhàng.

Nữ tu Emmanuelle Billoteau đã viết :” …Ai mà chẳng khao khát tìm được sự yên tĩnh trong tâm hồn, là cái tên khác của niềm thinh lặng nội tâm . Và Đức Giêsu thì nhắc cho chúng ta nhớ rằng chỉ có một cách để đạt tới chân trời ấy thôi : chấp nhận mang lấy ách của Người. Vậy thì chúng ta hãy để cho Đức Kitô nắm lấy chúng ta, Người là Đấng có lòng hiền hậu và khiêm nhường, là con đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha “.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn luôn biết chạy đến với Chúa như Chúa đã đến với mọi thành phần xã hội : “ kẻ đói nghèo, người bệnh hoạn, phường tội lỗi, người bất hạnh vv…”. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Vất vả và gánh nặng là gì ?

2.Tại sao Chúa nói :” Hãy đến với Chúa “ ?

3.Chúa Giêsu là Đấng nào ?

---------------------------------

 

TN 14-A66. Mang ách của Chúa, sẽ gặp được bình an


Suy niệm Chúa nhật XIV thường niên – năm A

(Mt 11, 25 - 30)

 

Sống trong một thế giới mà người nghèo, kẻ yếu, người bị áp bức luôn phải lo lắng, vật lộn với cuộc: TN 14-A66


Sống trong một thế giới mà người nghèo, kẻ yếu, người bị áp bức luôn phải lo lắng, vật lộn với cuộc sống đầy vất vả. Không những thế, họ còn bị đồng loại chất lên vai những gánh nặng trong khi những người kia lại chẳng buồn đưa lấy một ngón tay để nhấc những gánh nặng ấy. Lời mời gọi của Đức Giêsu “hãy đến với Ta” thật ý nghĩa và đầy nguồn an ủi cho những ai vất vả mang gánh nặng nề. Đến với Chúa Giêsu, gánh nặng sẽ vơi đi, mang ách của Người ta sẽ cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng, vì ách của Chúa là ách của tình yêu và tha thứ.

Lời Chúa Giêsu thân thưa với Cha Người : “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11, 25). Chúa Giêsu hứa ban cho tất cả “sự bổ sức”, nhưng đặt một điều kiện, đó là: “ Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11, 29). Cái “ách đó” là gì, mà thay vì đè nặng thì lại làm vơi nhẹ, thay vì nghiền nát thì lại nâng lên ? ” Ách của Chúa Giêsu là luật của tình yêu thương, là giới răn mà Người đã để lại cho các môn đệ Người (x. Ga 13, 34; 15, 12).

Nói đến cái “ách”, luật Dothái được xem như đặc quyền của họ, vì sự khôn ngoan là hồng ân của Thiên Chúa thể hiện trong sống hàng ngày. Chúa Giêsu coi mình như là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và ban tặng những cái ách ấy cho ai đón nhận Người. Chúa Giêsu chính là mặc khải trọn vẹn về Thiên Chúa và ý muốn của Thiên Chúa cho con người. Người mời gọi : “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng ” hãy đến với Người, hãy tin vào Người, “ Người sẽ nâng đỡ bổ sức cho ” (Mt 11, 28).

Ách, với mục đích là giúp con vật kéo cầy, kéo xe một cách dễ dàng. Cũng thế, khi chúng ta mang ách của Chúa Giêsu, Người không làm gì khác hơn là giúp đỡ chúng ta bớt đi những gánh nặng. Người mời gọi chúng ta đến mang lấy ách của Người, Người cùng vác ách với chúng ta. Chúa Giêsu mang ách ấy trước hết và đứng bên cạnh chúng ta. Khi hai người cộng tác với nhau kéo chung một cái ách, chắc chắn hơn một khỏe mạnh. Đó chính là điều Chúa Giêsu làm cho mỗi người trong chúng ta.

Thật là lạ, Chúa Giêsu mời gọi kẻ khó nhọc đến với Người để được nghỉ ngơi dưỡng sức, nay Người lại trao thêm ách. Ách là một công cụ để làm việc. Ách là để thi hành một tác vụ, phục vụ Đức Kitô. Chúng ta có đón nhận cái ách mà Đức Giêsu ban cho hay không? Ách của Người không phải là gánh nặng nhưng là êm ái và nhẹ nhàng (x. Mt 11, 30). Thánh Phaolô nói cái ách này sẽ dẫn chúng ta đến tự do, nên khi đón nhận cái ách của Đức Giêsu là chúng ta cũng đón nhận một người “cùng mang ách” với chúng ta.

Ở đoạn trước trong Tin mừng Matthêu, Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai “có tinh thần nghèo khó” (Mt 5,3) như thể đã có được nước trời làm sản nghiệp. Hôm nay, Đức Giêsu nói đến “những kẻ bé mọn” (Mt 11, 25) nghĩa là những người hèn mọn và khiêm nhường. Theo nghĩa Kinh Thánh, họ là những người không có uy thế, quyền lực, địa vị hay chức vụ cao sang, chẳng có gì để có thể khoe khoang. Vì thế, họ chấp nhận phó thác nơi Thiên Chúa mà không chút do dự hay kiêu hãnh giả tạo nào.

Tiên tri Dacaria nói đến Vị vua Mêssia lên Giêrusalem cưỡi trên con lười con là con của lừa mẹ, nhắc lại rằng Chúa Giêsu liên kết với chúng ta, dưới ách nặng của sự khiêm nhường và dịu dàng, Người đã mang thân phận người như chúng ta, chịu khổ nạn để cứu chuộc chúng ta. Từ trên nơi cao thẳm, Người đã cúi xuống đất để nghe tiếng van nài, Người đã hạ mình xuống để giải thoát chúng ta khỏi chết.
Chúa Giêsu đề nghị chúng ta mang lấy ách của sự khiêm nhường và hiền hầu, của niềm tin vào tình thương Thiên Chúa và phó thác trong tay Người, xin Người cứu giúp : “ Trẻ trung thì mệt, thì mỏi, tráng đinh nghiêng ngả bổ nhào, song những ai trông vào Thiên Chúa, sẽ có sức mạnh luôn luôn đổi mới, chúng mọc cánh như những phụng hoàng; chúng chạy mà không mỏi, chúng đi mà không mệt ” (Is 40, 30-31). Thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta đón nhận vào lòng sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy liều thuốc bổ sức như lời Người hứa ; và giảm bớt gánh nặng đè trên chúng ta, vì có Chúa vác đỡ chúng ta.

Có người viện cớ hỏi : Vậy tại sao Thiên Chúa không cất đi gánh nặng nơi con người, giải thoát con người một lần cho tất cả các gánh nặng ? Thưa là vì Ngài không muốn cứu chúng ta mà không có chúng ta. Thiên Chúa dành cho chúng sự tôn trọng và yêu thương trong lúc ấy.

Chúng ta đang đứng trước một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này là chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn nghĩa là những người không cậy dựa và sức riêng mình để tự cứu mình mà chỉ cậy dựa vào Chúa, những người không đặt an toàn vào sự hiểu biết nhân loại nhưng trong Người Con đã được mạc khải cho họ, bởi vì họ biết ngoài Người ra, họ không thể làm gì được.

Niềm vui cả thể của con người là được gắn bó với Đức Kitô và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa là Cha.  Biết được Chúa Cha yêu mến, kết hợp với Ngài và tin tưởng vào Ngài như người con bé nhỏ đặt an toàn trong tay bố của mình.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con được kể vào số những kẻ bé mọn của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải cho biết mầu nhiệm Nước Trời.

Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương của lòng từ mẫu, xin giúp chúng con “ học” nơi Chúa Giêsu sự khiêm nhường thật, cương quyết mang lấy ách êm ái Người trao, để sống an bình nội tâm, và giúp chúng con an ủi các anh chi em khác đang mệt nhọc bước đi trên con đường cuộc sống. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

---------------------------------

 

TN 14-A67. ỨNG XỬ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG


CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN A

Dcr 9,9-10; Rm 8,9.11-13; Mt 11,25-30

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 11,25-30

(25) Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất. Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (26) Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. (27) Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho. (28) Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. (29) Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. (30) Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.

2. Ý CHÍNH:

 

Đức Giê-su ngợi khen Chúa Cha vì đã tỏ mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Người: TN 14-A67

Đức Giê-su ngợi khen Chúa Cha vì đã tỏ mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Người hứa sẽ mặc khải về Chúa Cha và ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người. Người kêu gọi dân Do thái đang sống dưới ách Luật Mô-sê và những kẻ đang chịu lầm than vất vả hãy đến để được ơn nâng đỡ. Người khuyên họ mang lấy ách thập giá của Người và học nhân đức hiền lành và khiêm nhường của Người. Nhờ đó, thập giá sẽ nên nhẹ nhàng và đau khổ sẽ thành êm ái cho họ. Tóm lại, Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai xuất hiện như là Con người, Con Thiên Chúa, là Vua và là Đấng mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn.

3. CHÚ THÍCH:

- C 25-26: + Lạy Cha (Áp-ba): là một tiếng kêu thân thương của đứa con với cha giống như “Bố ơi!” của người Việt Nam. Đây là một kiểu nói mới lạ độc đáo của Đức Giê-su, mà trước đó không ai dám thưa với Đức Chúa như vậy. + Con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu: Đức Giê-su cảm tạ Chúa Cha vì đang khi những kẻ tự cho mình là khôn ngoan không chấp nhận Tin mừng Nước Trời, thì những người nghèo hèn lại vui vẻ đón nhận. + Đó là điều đẹp ý Cha: Đức Giê-su nhận ra thánh ý của Chúa Cha phù hợp với lời tuyên sấm của I-sai-a: trong Triều đại của Đấng Thiên Sai người nghèo sẽ được nghe rao giảng Tin Mừng (x. Is 61,1-2).

- C 27-28: + Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi: Câu này gợi lại lời tuyên sấm của Đa-ni-en về Đấng Thiên Sai mang danh hiệu Con Người, Ngài được Đấng Cao Niên là Thiên Chúa ban cho mọi sự (x. Đn 7,13-14). + Không ai biết rõ người Con trừ Chúa Cha…: Chỉ Chúa Con mới biết rõ về Chúa Cha và mặc khải cho nhân loại để họ tin theo và được ơn cứu độ là sự sống đời đời (x. Ga 17,3). + Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề: Những người bé nhỏ khiêm hạ được Đức Giê-su mặc khải cho là những ai đang vất vả mang gánh nặng nề. Đó là dân chúng Do thái sống dưới ách Lề Luật và phải tuân giữ nhiều tập tục phức tạp mà các kinh sư và Pha-ri-sêu đã đặt thêm ra (x. Mt 23,4). Đây cũng hiểu là hết những ai đang chịu nhiều thiệt thòi về vật chất và đau khổ về tâm hồn. + Hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng: Đức Giê-su thương xót hết mọi kẻ đau khổ và mang vác gánh nặng. Người không hứa sẽ cất cho họ khỏi gánh nặng, nhưng sẽ ban thêm sức mạnh tinh thần giúp họ can đảm chịu đựng đau khổ để vượt qua và lập công đền tội mình.

- C 29-30: + Hãy mang lấy ách của tôi: Ách hay gánh nặng của Đức Giê-su là đạo lý Tin Mừng. Đạo lý ấy được tóm lại trong ba điều: Một là phải tin vào Đức Giê-su và trở nên môn đệ của Người. Hai là phải sống khiêm hạ bé nhỏ trước tôn nhan Thiên Chúa. Ba là phải cư xử hiền hòa với tha nhân noi gương Đức Giê-su. + Vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường: Sự hiền hậu của Đức Giê-su luôn đi với khiêm nhường tự hạ (x. Mt 11,29; Lc 14,11). + Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng: Đức Giê-su hứa sẽ ban bình an nội tâm cho những ai mở lòng đón nhận tình yêu của Người, và chấp nhận theo con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang”. + Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng: Tuy Đức Giê-su đòi hỏi nhiều hơn và triệt để hơn các ráp-bi Do thái (x Mt 10,37-38), nhưng Người chỉ mời gọi và chờ đợi sự tự nguyện đáp lại, trái với các đầu mục Do thái thường "bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, còn chính họ thì không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,4).

4. CÂU HỎI: 1) “Abba” nghĩa là gì ? Lối xưng hô này cho thấy quan hệ giữa Đức Giê-su với Thiên Chúa ra sao ? 2) Đức Giê-su ngợi khen Chúa Cha về điều gì ? 3) Lời Đức Giê-su cho biết Người được Thiên Chúa ban cho mọi sự đã được ngôn sứ nào đề cập đến ? 4) Đức Giê-su kêu gọi những kẻ đang vất vả mang gánh nặng đến với Người. Họ là những ai và Người hứa sẽ ban điều gì cho họ ? 5) Ách của Đức Giê-su nói đây ám chỉ điều gì và được tóm lại như thế nào ? 6) Sự hiền hậu của Đức Giê-su luôn đi kèm với nhân đức nào ? 7) Đức Giê-su đã nêu gương khiêm nhường hiền hậu ra sao ? 8) Đức Giê-su hứa ban điều gì cho những kẻ sống khiêm hạ hiền hòa ?

II. SỐNG LỜI CHÚA:

1. LỜI CHÚA: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).

2. CÂU CHUYỆN:

1) GƯƠNG NHẪN NHỊN CHỊU ĐỰNG THA NHÂN:

LẠN TƯƠNG NHƯ được phong làm tướng quốc nước Triệu. LIÊM PHA cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị vua Triệu xếp đứng bên dưới, nên cảm thấy bực tức và hăm hễ gặp mặt Tương Như là sẽ giết. Tương Như vì thế cứ phải lánh mặt... Một hôm Tương Như có việc phải ra ngoài, gặp phải toán lính tiền đạo của Liêm Pha từ xa đi tới, liền sai mấy người đánh xe tránh vào trong ngõ, đợi cho kiệu của Liêm Pha đi qua rồi mới ra đường. Bọn xa nhân của Tương Như thấy thế rất căm giận thay cho chủ và họp nhau lại chất vấn Tương Như rằng:

        - Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây để hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng quan nhất phẩm mà hạng thứ của ngài còn ở trên ông ta. Liêm Pha dọa, ngài đã không đáp nên tránh mặt ở triều đình. Nay lại còn tránh cả ở ngoài đường nữa ! Sao ngài lại tỏ ra nhát sợ ông ta quá như vậy ? Chúng tôi là bề tôi cảm thấy xấu hổ, nên xin phép từ giã ngài, không tiếp tục theo ngài nữa.

 Tương Như liền nói :

 - Các ngươi xem tướng quân ta có hơn vua nước Tần không ?

 Bọn xa nhân đáp :

  - Thưa không.

         Tương Như lại nói :

          - Trước cái oai của vua nước Tần, thiên hạ nào ai dám ra mặt chống, mà Tương Như này dám mắng ông ta ngay giữa triều đình nước Tần, lại làm nhục cả quần thần của vua Tần nữa.  Tương Như ta dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân hay sao ? Nhưng ta nghĩ sở dĩ nước Tần hiện nay không dám tiến đánh nước Triệu chúng ta là vì e sợ có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ đấu nhau, thề không sống chung với nhau. Nếu nước Tần nghe tin được, tất sẽ thừa cơ mang quân sang đánh nước Triệu ta thì sao ? Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì lấy việc nước là trọng và coi thù riêng là khinh vậy thôi.

Bọn xa nhân liền quỳ mọp bái lạy Tương Như mà rằng :

- Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.

         Về phần Liêm Pha, khi nghe thuật lại lối ứng xử của Tương Như thì cả thẹn mà rằng : ”Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm”. Rồi Liêm Pha còn đến tạ tội với Tương Như, qùi mọp mà rằng : ”Tôi tính tình thô bạo, đội ơn tướng quân đã bỏ qua, tự nghĩ lấy làm hổ thẹn quá !”. Tương Như đến đỡ dậy, và sau đó cả hai kết làm bạn thân thiết sống chết có nhau.

                   (Cái DŨNG của thánh nhân- Nguyễn duy Cần)

2) TÂM HỒN BÌNH AN NHỜ TIN VÀO CHÚA:

TOM là một tân tòng người da đen. Anh có lòng tin Chúa và siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày. Nhưng anh bạn thân của anh tên là GION thì lại không tin Chúa. Khi gặp Tom, anh ta thường khích bác đức tin của Tom và coi Tom là một kẻ mê tín. Một hôm Tom đang vác một bao khoai mì khá nặng từ cánh đồng trở về nhà, thì gặp Gion đang ngồi chờ bên vệ đường. Thấy Tom vác nặng mồ hôi chảy ra nhễ nhãi, Gion liền lên tiếng diễu cợt: “Này Tom, anh tin Chúa mà sao Chúa lại để anh vất vả quá như thế ?” Tom không trả lời và tiếp tục bước đi. Được thể, Gion lẽo đẽo theo sau và tiếp tục nói những lời khích bác về đạo. Đi được một quãng, Tom đã cố ý buông tay cho bao khoai sau lưng anh rơi xuống đất. Sau đó anh quay lại nhặt lên và nói với Gion: “Tôi cũng xin hỏi anh: "Làm sao tôi biết được bao khoai sau lưng mình bị rơi, khi mắt tôi không thấy nó rơi ?”. Gion liền đáp: “Đương nhiên là anh phải biết nó rơi rồi, vì anh cảm thấy gánh nặng trên vai anh biến mất ?” Bấy giờ Tom liền giải thích cho Gion hiểu lý do theo đạo của mình như sau: “Tôi đồng ý với anh là bao khoai tôi đang vác mà bị rơi xuống thì đương nhiên tôi phải biết, vì tôi thấy gánh nặng trên vai đột nhiên biến mất và tôi thấy nhẹ mình. Về đức tin cũng vậy: Trước đây, tôi luôn cảm thấy buồn rầu lo lắng về những tội lỗi trong quá khứ, và không lúc nào tâm hồn tôi được bình an. Nhưng từ ngày theo đạo, tôi đã gặp được Chúa Giê-su. Mỗi lần tham dự thánh lễ, tôi được nghe Lời Chúa an ủi và lời giảng của vị linh mục giúp tôi hiểu thêm về lòng thương xót của Chúa, về ý nghĩa những đau khổ tôi gặp phải và về giá trị công việc lao động tôi đang làm… Khi đến nhà thờ, tôi cảm thấy bao nhiêu gánh nặng lo âu phiền muộn đều biến mất. Hiện nay tôi cảm thấy tâm hồn thật bình an hạnh phúc. Mặc dù vẫn phải làm việc để kiếm sống, vẫn gặp phải những điều rủi ro tai nạn trái với ý muốn, nhưng tôi luôn an tâm và sẵn sàng chấp nhận chúng giống như tôi đang vác cây thập giá mình mà theo chân Chúa vậy. Chính đức tin đã giúp tôi nhận ra Chúa Giê-su sống trong tôi và tôi cảm thấy rất vui khi có Chúa đồng hành, cùng chia sẻ vui buồn với tôi. Đó chính là lý do khiến tôi theo đạo và tôi thề quyết trung thành theo Chúa đến cùng”.

Tom đã cảm nghiệm được lời Đức Giê-su hôm nay: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng… Và tâm hồn anh em sẽ được bình an” (Mt 11,28-29).

3. SUY NIỆM:

1) THẾ NÀO LÀ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG ?:

- Hiền hậu hay hiền lành là thái độ của một người tốt lành, giàu lòng từ bi nhân ái, có lòng thương xót và thích làm điều tốt cho kẻ khác. Hiền hậu theo Kinh Thánh còn có nghĩa là thái độ hiền dịu, không cứng cỏi… Như vậy hiền hậu vừa có bên trong lại vừa phát xuất bên ngoài. Trong lòng thì từ bi, khoan dung, độ lượng, cảm thông. Bên ngoài thì nhẹ nhàng, từ tốn nhỏ nhẹ, không thô bạo, không gây thù chuốc oán với ai...

          - Trong đời sống thường ngày, những người có quyền thường đi đôi với tính tự cao tự đại, không muốn ai làm trái ý của mình nên nét mặt thường cau có, hay la mắng người dưới làm trái ý mình, có khi còn “giận cá chém thớt” nữa.  Trong thực tế, một vài câu nói thường hay được nhiều người nhắc lại như: ”No mất ngon, giận mất khôn”, và “Nóng tính hỏng việc”.

 - Khiêm nhường là thái độ nhún nhường không thích khoe khoang thành tích, luôn sẵn sàng hạ mình một chút.  Căn bản của khiêm nhường là tôn trọng sự thật về mình: nhận thức đúng mình là người xấu tốt như thế nào để không muốn nổi trội hơn người khác. Giả như người khác có coi thương mình thì cũng không tức giận trả thù. Nhờ “biết mình biết người” như vậy nên người khiêm nhường sẽ luôn thành công trong mọi việc., sẽ không cảm thấy quá buồn phiền chán nản khi sự thể xảy ra không như ý của mình. Người khiêm nhường dễ gây được thiện cảm với người khác và nhận được sự hợp tác của nhiều người. 

 2) HÃY HỌC VỚI TÔI SỰ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG TRONG LÒNG:

- Đức Giê-su mời gọi chúng ta hãy học tập với Người về “lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Để tâm hồn chúng ta sẽ được hưởng sự bình an thư thái. Cần loại bỏ thái độ tự mãn về sự khôn ngoan thông thái của mình, để mặc lấy cách suy nghĩ đơn sơ trung thực của trẻ thơ. Bấy giờ chúng ta sẽ được Đức Giê-su mặc khải những mầu nhiệm của Thiên Chúa (x. Mt 11,25-27). Thánh Au-gút-ti-nô nói: “Ở đâu có khiêm nhường, ở đó có bác ái”.

- Văn hào Nga TÔN-TOI (Tolstoi) đã kể một câu chuyện ngụ ngôn cho thấy sự hiền lành là nguyên nhân của niềm vui và hạnh phúc như sau: Một hôm sói hỏi sóc nâu: “Tại sao họ sóc nhà mi luôn vui vẻ nhảy nhót, còn bọn sói chúng ta lại luôn ủ rũ buồn rầu vậy?” Sóc liền trả lời rằng: “Ông buồn rầu vì trong lòng ông chứa đầy sự độc ác. Chính sự độc ác ấy đã bóp nghẹt trái tim ông, không cho ông được an bình hạnh phúc. Còn sở dĩ lũ sóc chúng tôi luôn vui vẻ vì chúng tôi hiền lành, không làm hại ai cả”.

- Một câu chuyện khác về một con nhái bén kiêu căng: Ngày nọ một con nhái bến kiêu căng lên tiếng thách đấu với một con bò mộng. Nhái ta cố phình bụng sao cho to hơn bụng con bò. Nhưng to đâu không thấy, chỉ thấy con nhái bén kiêu căng kia đã bị nổ bụng chết thảm. Câu chuyện nhái bén này dạy loài người chúng ta bài học như sau: “Đừng trèo cao để khỏi bị té đau”, đừng “xưng hùng xưng bá” khi không có thực tài: “Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Người xưa cũng có câu: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” (Một người tài giỏi chắc sẽ có người khác tài giỏi hơn đánh bại mình).

3) ỨNG XỬ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG: Trong cuộc sống, mỗi tín hữu chúng ta hãy quyết tâm ứng xử hiền lành khiêm nhường cụ thể như sau:

a) Nhẫn nhịn chịu đựng: Kềm chế cơn giận khi bị kẻ khác khinh thường chơi xấu noi gương Đức Giê-su đã không trừng phạt dân làng Sa-ma-ri không tiếp đón Người và các môn đệ vào ở trọ trong làng của họ. Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an đã tỏ thái độ tức giận và thưa với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không? ” Nhưng Người quay lại quở mắng các ông: “Anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào. Vì Con Người không đến để làm cho người ta mất mạng, nhưng là để  cứu mạng”. Rồi thầy trò đi sang làng khác (x. Lc 9,53-56).

b) Không khoa trương công đức trước mặt người đời để tìm tiếng khen (x. Mt 6,1-4). Tránh tình trạng “thùng rỗng kêu to”; “Làm láo báo cáo hay”. Bệnh thành tích làm cho người ta dễ che đậy cái xấu và gian dối phóng đại điều tốt để được khen thưởng.

c) Sẵn sàng tha thứ vô điều kiện: Đức Giê-su đã dạy: “Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (x. Mt 5,43-45). Trong kinh Lạy Cha Người cũng dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12).

d) Cần sớm hòa giải với tha nhân trước khi dâng của lễ: “Vậy nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lài đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).

e) Sắn sàng phục vụ hơn là được phục vụ (x. Mt 20,28): Đức Giê-su đã rửa chân cho môn đệ trước khi dạy các ông bài học khiêm nhường (x. Ga 13,14);

g) Yêu kẻ thù và làm ơn cho những kẻ thù ghét bách hại mình (x. Mt 5,39-42): Trên thập giá, Đức Giê-su im lặng chịu đựng sự sỉ nhục và xin Chúa Cha tha cho những kẻ hành hạ mình (x. Lc 23,34)…

4) PHÚC THAY AI XÂY DỰNG HÒA BÌNH: Trong bài giảng “Tám mối phúc thật” , Đức Giê-su đã khẳng định: Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. ”Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,4.10).  Sự hiền lành sẽ làm cho chúng ta được vào Nước Trời của Đức Giê-su và nếu biết xây dựng hòa bình trong môi trường sống và làm việc của mình, chúng ta sẽ xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa.

Tuy nhiên, sự hiền lành nơi Đức Giê-su không phải là nhu nhược thụ động, không đồng nghĩa với ba phải và bất nhất … nhưng luôn ăn ở công minh chính trực, từ bi nhân ái, thể hiện qua thái độ ứng xử với tha nhân như sau:

a) Tránh xét đoán ý trái cho kẻ khác: và luôn tỏ lòng nhân từ với các tội nhân noi gương Đức Giê-su xưa đã nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình rằng: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa !” (Ga 8,11b).

b) Hiền lành nhưng cương quyết: Không thỏa hiệp với cái xấu như Người đã trách Phê-rô khi ông can trách Người đừng đi con đường qua đau khổ vào vinh quang như sau: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23). Đức Giê-su quát mắng ma quỷ: “Xa-tan kia, xéo đi ! Vì đã có lời chép: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,10).

c) Nặng lời khiển trách bọn đạo đức giả: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào” … “ Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các ngươi trốn đâu cho khỏi hình phạt hỏa ngục?” (Mt 23,13.33).

d) Dùng biện pháp mạnh khi cần: Người dùng dây thừng làm roi đuổi tất cả những người đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. Rồi Người bảo họ: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp“ (Mt 21,12-13).

e) Lý phải nhân tâm phục: Đức Giê-su đã hạch lại kẻ đã vả mặt Người như sau: “Nếu tôi nói sai, hãy chứng minh xem sai chỗ nào. Còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi ?” (Ga 18,22-24).

TÓM LẠI: Tất cả những điều tốt đẹp nói trên của Đức Giê-su đã được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong KINH HÒA BÌNH. Nếu mỗi tín hữu chúng ta biết năng đọc và áp dụng thực hành theo các nguyên tắc ứng xử trong Kinh Hòa Bình này thì chúng ta sẽ nên giống Đức Giê-su và sẽ tích cực góp phần trong sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.

     4. THẢO LUẬN: 1) Sự hiền lành giống và khác với sự nhu nhược và ba phải thế nào ? 2) Có người nghĩ rằng: không thể áp dụng lời Đức Giê-su dạy: “Đừng chống cự người ác” (Mt 5,39), vì kẻ ác sẽ “được đàng chân, lân đàng đầu”. Bạn có đồng ý với quan điểm ấy hay không ? Tại sao ? 3) Bạn cần làm gì cụ thể để trở nên hiền lành và khiêm nhường noi gương Đức Giê-su ?

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA. Xin cho chúng con quyết tâm học tập theo Chúa nhân đức hiền lành và khiêm nhường trong lòng, noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa. Xin cho chúng con trước khi nhắm mắt từ giã cuộc đời, có thể nói được như mục sư Mác-tin Lu-thơ Kinh (Martin Luther Kinh) rằng: “Tôi rất hãnh diện nếu ngày tôi qua đời, ai đó sẽ kể lại rằng: Mác-tin Lu-thơ Kinh là người đã cố gắng sống vì yêu thương. Ngày đó tôi mong muốn các bạn sẽ nói rằng tôi đã sống cho công lý, tôi đã dấn thân để đem lại cơm bánh cho những người đói khổ, tôi đã luôn cho kẻ đói rách được ăn mặc. Tôi mong rằng ngày đó các bạn sẽ nói rằng tôi đã dấn thân đến thăm những người tù tội, và yêu thương phục vụ hết mọi người như lời Chúa dạy… Còn tất cả những thứ khác, như giàu có, danh dự, giải No-ben hòa bình … đều không đáng kể”.

LẠY CHÚA. Chúng con đã được Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Chúa đã phú ban cho chúng con một trái tim biết yêu thương. Xin cho chúng con luôn tìm kiếm Chúa là nguồn hạnh phúc thật của đời con. Xin cho con biết ăn ở khiêm nhường và phục vụ Chúa trong những người cô đơn nghèo khổ và bệnh tật yếu đuối đang sống bên cạnh chúng con”.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH -  HHTM

---------------------------------

 

TN 14-A68. HÃY MANG LẤY “ÁCH” VÀ “GÁNH” CỦA ĐỨC GIÊSU


(CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN, A)

Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

Trong cuộc sống hiện nay, khoa học phát triển, con người được nhàn nhã hơn. Nhận định đó không: TN 14-A68


Trong cuộc sống hiện nay, khoa học phát triển, con người được nhàn nhã hơn. Nhận định đó không sai. Tuy nhiên, nó chỉ đúng với những gì là thực dụng, hay đúng trong lãnh vực khoa học, còn trong lãnh vực tinh thần thì vẫn còn đó những buồn sầu, lo lắng; vẫn còn đó những đau khổ tinh thần; và vẫn còn đó những điều bất bình an khi con người có nhiều thứ phục vụ cho thân xác và chất lượng hiện sinh của cuộc sống. Câu hỏi được đặt ra là: làm sao cho cuộc sống này được hạnh phúc và bình an thực sự?

1.      Những gánh nặng cuộc đời

Trước khi nói đến sự bình an, chúng ta cùng nhau tìm hiểu những gánh nặng của con người trong cuộc sống hiện nay.

Những gánh nặng đó là:

Gánh nặng của những quá khứ với biết bao nhiêu điều chưa làm được;
Gánh nặng của hiện tại với biết bao bất công;
Gánh nặng của ham muốn, tham lam mà không đạt được;
Gánh nặng của những nghi ngờ, bon chen, hà tiện, ganh tỵ;
Gánh nặng của những khát vọng thống lĩnh xã hội bằng chiến tranh;
Gánh nặng của những người bị áp bức bạo tàn;
Gánh nặng của những kỳ thị chủng tộc và loại trừ;
Gánh nặng khi mang trên mình những căn bệnh nguy hiểm của thế kỷ;
Gánh nặng của những thất vọng, lo âu;

Khi mang trên mình những gánh nặng về thể lý hay tinh thần như thế, con người cần phải được nghỉ ngơi, bồi dưỡng để đem lại bình an. Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, và hãy học cùng Đức Giêsu, vì Ngài “hiền hậu” và “khiêm nhường” trong lòng.

2.      Ý nghĩa sự “hiền hậu” và “khiêm nhường” theo tinh thần Tin Mừng

Khi nói đến sự“hiền hậu”, người ta nghĩ ngay đến những đặc tính của nó như: dịu dàng, nhẹ nhàng, ngọt ngào, không thô bạo, cứng cỏi, cộc cằn...; "hiền hậu" còn có nghĩa là êm ái, hòa nhã, yêu thương, nhân hậu, thông cảm, tôn trọng và khoan dung; luôn nghĩ tốt và hành động tốt cho người khác. Sẵn sàng đối thoại, không đối đầu và chấp nhận sửa sai.

Còn khi nói đến sự "khiêm tốn”, chúng ta sẵn sàng xuống thấp, ở dưới hay chấp nhận bị hạ xuống, biết sự giới hạn của mình để sống khiêm tốn, sống thật với bản chất, khả năng của mình, không thêu dệt quá những gì mình có.

3.      Hãy học với Đức Giêsu vì Ngài “hiền hậu” và “khiêm nhường”

Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ hãy mang lấy "ách" và "gánh" của Ngài, bởi vì Ngài có lòng “hiền hậu” và “khiêm nhường” trong lòng.

Thật vậy, hễ mang “ách” của ai là học với người đó; còn mang "gánh" của ai thì được mời gọi giữ những điều luật của người đó đang giữ hay điều luật của chính người đó ban hành. Đức Giêsu mời gọi mang lấy "ách" và “gánh” của Mình, Ngài muốn chúng taphải sống“hiền hậu”, “khiêm nhường”, “êm ái”, “nhẹ nhàng” và giữ “luật yêu thương”.

Khi mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, chúng ta sẽ được hạnh phúc và bình an, vì “ách” của Đức Giêsu thì êm ái và “gánh ” của Ngài thì nhẹ nhàng. Đến với và mang lấy tinh thần của Đức Giêsu, chúng ta sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì có ơn Chúa phù trợ, chở che. Khi ấy, tinh thần của chúng ta sẽ hạnh phúc và an vui, dẫu có gặp phải những điều khó khăn, thử thách.

Khi mang trong mình những “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, ấy là lúc chúng ta đang sống trong quỹ đạo của tình yêu và làm cho tình yêu đó được lên ngôi chứ không phải nhu nhược, nhát đảm, hèn hạ, mù quáng, hay lầm lạc...

Lạy Chúa, xin cho chúng con được kiên trì trung thành mang lấy “ách” và “gánh” của Chúa để chúng con được bình an. Amen.


 

TN 14-A69. Học biết với Chúa Giê-su


CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Mát-thêu 11:25-30)
 

Có khi nào chúng ta lưu ý một chút đến đoạn Tin Mừng được sắp xếp như thế nào không?  Bài Tin: TN 14-A69

Có khi nào chúng ta lưu ý một chút đến đoạn Tin Mừng được sắp xếp như thế nào không?  Bài Tin Mừng hôm nay chia làm ba đoạn ngắn với những ý tưởng rõ ràng.

          Trước hết là lời cầu nguyện của Chúa Giê-su dâng lên Chúa Cha, một lời cầu nguyện để ngợi khen việc làm của Người.  Đó là Chúa Cha đã “mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn”.  Nói đến những gì là mầu nhiệm cao siêu, chúng ta thường nghĩ tới những nhà thông thái, các thần học gia lỗi lạc, những tư tưởng gia cao thâm…  Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su làm chúng ta thắc mắc:  Tại sao Chúa Cha lại giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mà lại cho những kẻ bé mọn?  Nếu những kẻ thông thái không hiểu được mầu nhiệm Nước Trời thì những kẻ bé mọn ngu dốt làm sao hiểu nổi!  Lý do thật đơn giản.  Đó là mầu nhiệm Nước Trời được thiết lập không phải để người ta khảo cứu và viết những bộ sách thật dầy mà trình bày những học thuyết, nhưng để người ta sống, sống theo lời dạy và gương mẫu của Chúa Giê-su.  Mầu nhiệm Nước Trời được mặc khải qua con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su chứ không phải là mớ lý thuyết suông.  Cho nên muốn hiểu và sống mầu nhiệm Nước Trời là người ta phải gắn bó với giáo lý và lối sống của Chúa Giê-su.

          Thứ hai, Chúa Giê-su khẳng định một chân lý thật đơn giản:  Người là nhịp cầu nối liền Thiên Chúa với nhân loại.  Giữa Thiên Chúa và nhân loại là một khoảng cách vô biên, nên nhân loại không thể tự mình biết, đến và có tương quan với Thiên Chúa được.  Bởi vậy, Chúa Cha đã “giao phó mọi sự” cho Con Một và sai Người Con ấy đến với nhân loại, để nhân loại nhờ Người Con mà biết được Người Cha.  “Giao phó mọi sự” mang thật nhiều ý nghĩa.  Là tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa.  Là lòng thương xót thứ tha của người Cha chờ đợi những đứa con hoang đàng trở về.  Là những an ủi vỗ về của trái tim Thiên Chúa trước những nỗi khổ đau của con cái mình.  Là sức mạnh và dẫn dắt của Thánh Thần Thiên Chúa.  Là ước muốn mọi người “hãy nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo… Không có danh sách nào đủ để liệt kê mọi sự Thiên Chúa muốn tỏ ra cho chúng ta biết qua Chúa Giê-su.  Nếu chúng ta muốn biết bất cứ điều gì về Thiên Chúa, cứ chiêm ngưỡng Chúa Giê-su, vì Người là “hình ảnh Thiên Chúa vô hình” (Cô-lô-xê 1:15).

          Điều thứ ba là lời mời gọi.  Chúa Giê-su không mời gọi người ta hãy vào thư viện đọc sách vở thần học để tìm hiểu mầu nhiệm Nước Trời, nhưng là “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi”.  Có cái ách nào là êm ái ngoài cái ách tình yêu?  Đâu cần phải học lấy sự thông thái của Chúa Giê-su, nhưng là học sống gương hiền hậu và khiêm nhường của Người!  Chúa Giê-su đã từng sống kiếp người và Chúa biết thế nào là “vất vả và mang gánh nặng nề”.  Giờ đây Người mời gọi chúng ta khoác lấy cái ách tình yêu của Người, để trong tình yêu ấy chúng ta được nghỉ ngơi bồi dưỡng.  Có lẽ đây là lời mời gọi duy nhất trong Tân Ước mang lại cho chúng ta niềm an ủi và phấn khởi, nhất là trong những khó khăn thách đố của cuộc đời.  Tìm những giây phút “nghỉ ngơi bồi dưỡng” phải là một ưu tiên trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Mầu nhiệm Nước Trời không phải chỉ đến gần, mà ở ngay trong tâm hồn chúng ta.  Nó không phải là một cơ cấu chính trị, nhưng là một thực tại được thể hiện bằng lối sống giống như Chúa Giê-su.  Không có những bộ dân luật, hiến pháp, tuyên ngôn…, nhưng chỉ là “điều răn mới:  Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.  Nước Trời sẽ luôn luôn là một “mầu nhiệm” nếu người ta không muốn đón nhận chính Chúa Giê-su vào tâm hồn mình và sống làm môn đệ Người.  Trái lại, nếu chúng ta “biết rõ” người Con, tức là sống mối tương quan mật thiết với Chúa Giê-su, chúng ta sẽ biết rõ Chúa Cha và “kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô” (Ê-phê-xô 1:9).  Lời mời gọi của Chúa Giê-su hôm nay quả thực rất ý nghĩa:  Hãy đến để Người cho chúng ta được nghỉ ngơi bồi dưỡng!  Chúng ta sẽ đáp lại lời mời gọi ấy như thế nào?
            Lm. Đa-minh Trần đình Nhi       


 

TN 14-A70: BÊN LÒNG CHÚA

Thiên Chúa yêu thương, được diễn tả dưới rất nhiều hình ảnh, nhưng hình ảnh Thiên Chúa kêu: TN 14-A70


Thiên Chúa yêu thương, được diễn tả dưới rất nhiều hình ảnh, nhưng hình ảnh Thiên Chúa kêu gọi con cái loài người đến cùng Ngài để được nâng đỡ, bổ sức là một trong những hình ảnh xúc động nhất. Thiên Chúa, Đấng dựng nên đất trời, có thể làm tất cả cho thọ tạo được hạnh phúc mà không một quyền lực sự dữ nào có thể khuất phục. Mặc dầu Ngài luôn thinh lặng, nhưng không phải là câm nín. Thiên Chúa yêu  thích hành động trong thầm lặng, những hành động lặng lẽ âm thầm nhưng chứa đựng sức mạnh vô song.

Quả thật, ai đã từng làm người, có lẽ đều cảm nhận sự vất vả nhọc nhằn của nó. Phải chăng đó là phương thế làm người hoàn hảo hay là hậu quả của tội nguyên. Mở mắt chào đời, con người đã biết khóc, khóc vì nhọc lao, đau khổ của kiếp người. Thế nhưng, không hoàn toàn như thế, Ngài từng bước nâng đỡ con người, Ngài luôn luôn cận kề chăm sóc, ủi an. Tự sức nhân loại, không ai có thể làm nên công trạng, nhưng nhờ tình thương và sự ưu ái của Thiên Chúa, mà thế giới được tồn tại. Ngài có bỏ rơi ai bao giờ, chỉ tội con người không biết bám víu Thiên Chúa mà thôi.

Cứ đọc, suy gẫm và cảm nghiệm, bạn có thể thấy được sự tinh tế, nhạy bén của tình thương Thiên Chúa. Không còn lời mời gọi nào tha thiết mà yêu thương hơn: “Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 12,28). Phải, chỉ ở trong cung lòng Thiên Chúa, con người mới cảm nghiệm hết được tình yêu thương, sự quan tâm, lo âu, chăm sóc đích thực. Thực tế cuộc sống có quá nhiều lo toan, mất mát, con người lầm tưởng Thiên Chúa không còn hiện diện. Có phải Thiên Chúa thua cuộc, hay sức mạnh Ngài vô hiệu? Hoàn toàn không phải thế! Đấng tạo dựng nên cả vũ trụ này, chả lẽ buông tay trước sự hoành hành của thế lực sự ác. Không! ngược lại, biết mình nắm giữ vận mạng thế giới nhưng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn từng bước huấn luyện con người. Bài học sư phạm của Ngài được trải dài trong một quá trình tiệm tiến. Muốn điều tốt ngày sau cho con cái, Thiên Chúa đã chuẩn bị từ khởi nguyên kìa. Việc mầu nhiệm Ngài hành động cho dương thế là trong mọi khoảnh khắc, mọi phút giây, cái khó là hiếm ai nhận biết để mà tin yêu.

Nếu cõi trần là chốn đầy những sự thương đau, mất mát thì sự cần thiết phải bám víu vào sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa là vô cùng quan trọng. Chính nỗi vất vả nhọc nhằn mà ngày ngày con người mưu sống gây cho nhân loại cảm giác nặng nề, mệt mỏi. Đôi lúc sự vất vả đẩy con người rớt xuống bờ vực thẳm của tuyệt vọng. Sự đói nghèo, bệnh tật, khó khăn… làm cho họ chới với. Càng cậy dựa vào sức mình, con người càng rơi vào vòng kiệt quệ. Họ không biết được rằng, Thiên Chúa, Đấng có mắt ở trên cao, nhìn thấu suốt tâm can họ. Ngài biết, Ngài cần làm gì cho nhân loại. Đấng cầm quyền sinh tử của đất trời lẽ nào không bảo vệ được thọ tạo mình. Thế nhưng, trong thinh lặng, Thiên Chúa giúp con người dần khám phá bàn tay yêu thương quan phòng qua từng biến cố thời đại.

 Nếu hành trình làm người là một hành trình đầy khổ luyện, gian nan, thì trên hành trình ấy Thiên Chúa đã đi bước trước, đã từng sống, từng chết, từng sẻ chia. Còn gì mà Ngài không làm cho nhân loại cơ chứ, ngay cả đến việc loại bỏ sự sống của chính mình cho con người được sống. Sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa trên sự dữ không là vấn đề, căn bản là do con người. Lòng người đã không còn tin nhận Thiên Chúa và qui hướng về Ngài. Chả còn mấy ai kín múc sức mạnh niềm tin vào Ngài nữa rồi, nhưng chạy theo đam mê vật chất, cậy dựa vào tài cán bản thân và sức mạnh của tiền tài, danh vọng, con người hòng tưởng mình có thể bá chủ thế giới, đổi trắng thay đen trong từng gang tấc, dễ dàng như trở bàn tay. Cứ vậy, lỗi tội lần lượt sinh ra.

Lạy Chúa, làm người mặc dầu con có sức mạnh, tài năng, hiểu biết… để tồn tại nhưng không thiếu khi con kiệt sức đến mệt mỏi rã rời. Cuộc trần này là chốn đầy đau thương và nước mắt, thánh giá trên vai nhiều lúc nặng trĩu đến mức con chỉ còn muốn buông tay bỏ cuộc. Vậy mà ở tận cùng cõi linh thiêng nào đó, ở nơi có một sức mạnh vô hình đã kéo con dậy, nắm tay dắt con đi hết đoạn đường Ngài muốn. Quả thật, nếu tự mình con không còn đủ sức, cũng chẳng có lấy xíu xiu niềm tin, tình yêu và nghị lực, nhưng nguồn trợ lực Thiên Chúa là bóng cánh đời con, Ngài đã đặt lên vai con chiếc ách nhẹ nhàng, êm ái của tình yêu thương và tha thứ. Cho con được gục đầu vào lòng Chúa, trút bỏ hết mọi khổ nhọc tận đáy tâm hồn. Cho con tình yêu, sự dịu dàng, êm ái hầu con có thể nhận ra chính Ngài đang mang ách đời con.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

(CN 14TN-A 2011)

---------------------------------

 

TN 14-A71: THẾ GIỚI MỚI


Chúa Nhật 14A Thường Niên

 

Trái đất đang già đi vì những lối sống ngạo mạn.  Bước đi nặng nề vì cuộc sống quá lầm than. Mất: TN 14-A71


Trái đất đang già đi vì những lối sống ngạo mạn.  Bước đi nặng nề vì cuộc sống quá lầm than. Mất mát quá nhiều vì không còn niềm tin nơi Thiên Chúa và con người. Trước một thế giới chỗ thì sưng phồng lên vì kiêu ngạo chỗ thì lõm sâu vì “mang gánh nặng nề” (Mt 11:28), ai sẽ đem lại thế quân bình cho nhân loại ?

HI VỌNG VẪN CÒN ĐÓ

Đức Giêsu muốn mở ra trước mắt chúng ta một thế giới mới, gồm những người bé mọn.  Chính trong những tâm hồn bé mọn đó “người Con mạc khải cho” (Mt 11:27)    chân lý vĩ đại về “mầu nhiệm Nước Trời” (Mt 11:25) và về “Chúa Cha.” (Mt 11:27)   Mầu nhiệm Nước Trời chính là sự sống huyền nhiệm giữa Ba Ngôi Thiên Chúa hiện thân nơi con người Đức Giêsu Kitô.  Chỉ “những người bé mọn” mới có thể nhận thức đúng thời điểm “Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian.” (Ga 3:17)  Chân lý siêu việt và vĩnh hằng đó đem lại một hạnh phúc khôn tả.  Chân lý đó không phải là đối tượng nghiên cứu của những “bậc khôn ngoan thông thái.” (Mt 11: 25)   Càng không phải do công tìm tòi vất vả của những người bé mọn, vì vượt ngoài khả năng và mơ ước của họ. Đúng là tình cho không biếu không !  

Khi được mạc khải “mầu nhiệm Nước Trời”, “những người bé mọn” được đưa vào một thế giới mới, thế giới của Thiên Chúa.   Tất cả những tiêu chuẩn trong thế giới này đều dựa trên “ý Cha” (Mt 11:26).  Chúa Cha muốn “những người bé mọn” biết rõ về tương quan thâm sâu giữa Chúa Cha và Chúa Con.  Vượt trên kiến thức tự nhiên, sự hiểu biết về Thiên Chúa đưa con người tới đỉnh cao hạnh phúc !  Vì nhờ đó, họ bước vào tương quan với Chúa Cha và Chúa Con.   Thật vậy, chính sự hiểu biết lẫn nhau đã khiến tương quan giữa Chúa Cha và Chúa Con khắng khít tuyệt đối và trở thành khuôn mẫu cho mọi mối tương quan.  Chính trong tương quan sâu xa đó, Đức Giêsu đã được Chúa Cha tin tưởng tuyệt đối đến nỗi “giao phó mọi sự” (Mt 11:27) cho Người. 

Bởi thế, Chúa trở nên thành lũy bảo đảm hạnh phúc cho những người bé mọn (x. Tv 27:1).  Người ta chỉ sợ hãi khi không có nơi bảo đảm và không hiểu biết về ngoại vật cũng như chính bản thân. “Những người bé mọn” có một bộ óc khổng lồ vì đã được mạc khải về tình yêu Thiên Chúa.   Dù có hao mòn thân xác vì phải “vất vả mang gánh nặng nề”, tâm hồn họ vẫn bình an vì biết có một nơi sẽ đem lại sự “nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11:28)  Đó là chính Thánh Tâm.  Tìm cư trú nơi Thánh Tâm không phải là cách trốn nợ đời.   Nói khác, “theo Thầy”, những môn đệ vẫn phải “mang lấy ách” (Mt 11:29) của Người.   Nhưng khác với những lo toan trần thế, họ thực sự cảm thấy bình an. Chính Đức Giêsu đã mạc khải huyền nhiệm đó : “Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.   Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11:30)   

Làm cách nào Đức Giêsu có thể làm cho ách và gánh đó thoát khỏi định luật nặng nề tự nhiên  ?  Thứ nhất, vì “những người bé mọn” sẽ học được cách mang lấy ách và gánh đó nơi Đức Giêsu. Cây khổ giá chính là ách và gánh  Chúa Cha đã trao cho Người.  Nhưng Người đã hân hoan vác lấy để hoàn thành sứ mệnh “Con Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:29) và “Người Tôi Trung của Thiên Chúa” (Is 52:7-10; Ga 13:1-20).   Người là khuôn mẫu cho những người bé mọn.  Lời Thầy Chí Thánh luôn văng vẳng bên tai : “Hãy học với tôi,” (Mt 11:29) vì “Thầy là sự thật” (Ga 14:6) giải thoát.

          Lý do thứ hai vì chính tình yêu Chúa Cha sẽ đưa họ vượt qua mọi trở ngại trong cuộc đời.   Vì tình yêu Chúa Cha đã khiến Chúa Con vượt qua mọi chướng ngại tới vinh quang.   Tình yêu sẽ làm cho tất cả nên nhẹ nhàng.  Tình yêu Thiên Chúa cũng làm cho những người bé mọn coi thường mọi gánh nặng trần gian.   Dưới ánh sáng “mầu nhiệm Nước Trời”, họ hiểu được tất cả ý nghĩa và giá trị cây khổ giá.   Vì chính trên cây thánh giá, Người xuất hiện như “Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” để “công bố hòa bình cho muôn dân.” (Dcr 9:9.10)  

Lý do thứ ba vì “Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết sẽ làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8:11)    Chính Thần Khí đã làm cho Đức Giêsu vượt qua cái chết, làm sao Thần Khí nơi những người bé mọn lại phải đầu hàng cuộc đời ?   Được Chúa Con mạc khải mầu nhiệm Nước Trời, người môn đệ nhìn rõ mầu nhiệm trần thế.   “Mầu nhiệm Nước Trời” phơi bày bộ mặt thật trần thế chỉ là tham sân si (x. 1 Ga 2:16) dẫn con người vào cõi chết.   Sống là lựa chọn giữa Nước Trời và trần thế.    Do đó, “nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.” (Rm 8:13)   Với một đầu óc sáng suốt và một tâm hồn bình an, “những người bé mọn” sẽ dễ dàng chọn lựa những “điều đẹp ý Cha” (Mt 11:26) để sống hạnh phúc.


MỘT CUỘC GẶP GỠ

Hạnh phúc đã trở thành giấc mơ đối với nhiều người hôm nay.   Cuộc sống vội vã quay cuồng khiến nhiều người thấy cuộc đời vô nghĩa.   Đó chính là tâm trạng của anh chàng họa sĩ Kiko Argűello tại thủ đô Madrid, Tây Ban Nha.   Anh đã chiếm được nhiều phần thưởng lớn lao trong ngành hội họa.   Dù thế, thành công cũng không làm cho anh hạnh phúc.   Anh tự vấn và hỏi những người chung quanh về mục đích cuộc đời.   Nhưng không ai trả lời được câu hỏi căn bản đó.   Anh  muốn tự tử vì nhàm chán và thất vọng.  Anh muốn chạy trốn chính mình.   Anh cảm thấy có một vực thẳm mở ra trong nội tâm.   Anh gọi đó là tiếng Thiên Chúa mời gọi tận nơi sâu thẳm nhất.   Một ngày kia, anh vào phòng và hét to lên : “Nếu Chúa có thật, xin hãy giúp con !  Con không biết Chúa là ai – xin giúp con !    Lúc đó, Chúa đã thương xót tôi, vì tôi đã có một kinh nghiệm sâu xa về cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đầy kỳ thú này.” (Zenit 28/06/02)   Cuối cùng anh đã bỏ mọi sự để sống giữa người nghèo, nơi ngoại ô Madrid.   Anh đã thành lập một cộng đoàn sống với người nghèo và xây dựng một Đường Hướng Giáo Lý mới dựa trên Lời Chúa, phụng vụ và cộng đoàn.   Đường hướng này đã trở thành thực thể Giáo Hội mở rộng tới 105 quốc gia, 883 giáo phận và 4.950 xứ đạo.  Hiện nay khắp thế giới khoảng 1.000.000 giáo dân, 1.457 chủng sinh, 63 phó tế và 731 linh mục đang theo đuổi Đường Hướng này. 

Trước trào lưu tục hóa khiến nhiều người bỏ đạo và Giáo Hội, Đường Hướng Tân Giáo Lý cố gắng mở ra một con đường khai tâm Kitô giáo đưa tới bí tích Thanh Tẩy, mục đích khám phá ý nghĩa đời sống Kitô hữu.  Sau năm năm nghiên cứu, Tòa Thánh Vatican đã chấp nhận qui chế Đường Hướng Tân Giáo Lý, một thực thể Giáo Hội đã bắt đầu từ năm 1964.   Nhờ Đường Hướng Tân Giáo Lý này, nhiều giáo xứ đã được canh tân, tạo nên một động lực truyền giáo lạ lùng, khiến nhiều giáo lý viên và nhiều gia đình cả nhà dấn thân đi truyền giáo bất cứ nơi nào cần.   Từ đó cũng nẩy sinh nhiều ơn gọi, cho cả đời sống tu trì lẫn linh mục.   Chừng 40 chủng viện truyền giáo đã mọc lên để giúp nhiều giáo phận đang gặp khó khăn vì thiếu ơn gọi (Zenit 28/06/02).  

Giáo Hội đang cần những con người như Kiko Argűello để tái khám phá con đường cứu độ Chúa mở ra cho “những người bé mọn”.   Càng đi sâu vào “mầu nhiệm Nước Trời” càng  cảm thấy “ách Chúa êm ái và gánh Chúa nhẹ nhàng”, để hoàn thành sứ mệnh cứu độ giữa bao thách đố hôm nay. 

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP

---------------------------------

 

TN 14-A72: Tránh tự mãn để hiểu biết và kinh nghiệm về Thiên Chúa hơn


CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN

ĐỌC LỜI CHÚA

•        Dcr 9,9-10: (9) Kìa Đức Vua đang đến với ngươi: Người (…) khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.

•        Rm 8,9.11-13: (9) Anh em được Thần Khí chi phối, vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô.

 •       TIN MỪNG: Mt 11,25-30

Chúa Cha và người Con

(25) Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói: «Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (26) Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha».  (27) «Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.

 Hãy mang lấy ách của tôi

 (28) «Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. (29) Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. (30) Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng».

CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

 

Người tự mãn với những gì mình đang có, đang biết, thì có thể có thêm, biết thêm nhiều hơn không? : TN 14-A72


1. Người tự mãn với những gì mình đang có, đang biết, thì có thể có thêm, biết thêm nhiều hơn không? Tại sao?

2. Trong đời sống tâm linh, nếu ta tự mãn với những hiểu biết hay trình độ tâm linh mình đang có, thì có thể tiến bộ về tâm linh hơn không? Tại sao?

3. Mang lấy ách của Đức Giêsu nghĩa là gì? Tại sao ách Ngài lại nhẹ nhàng?

Suy tư gợi ý:

1.      Muốn đạt chân lý, phải dấn thân trọn vẹn cho chân lý

Một nhà thông thái nọ đến xin một đạo sư truyền đạo cho mình. Đạo sư bèn lấy trà ra để tiếp khách. Nhưng ông làm một điều rất kỳ lạ: nước đã đầy và tràn ra mà ông vẫn cứ rót tiếp. Người khách ngạc nhiên hỏi ông tại sao lại làm như vậy. Đạo sư đáp: «Tâm hồn và lòng trí ông cũng đầy ắp như tách trà này rồi, làm sao chứa thêm những chân lý về đạo được nữa?»

Kinh nghiệm cho tôi thấy: một khi lòng trí tôi mải miết lo chuyện gì, thì tôi không thể mải miết với chuyện khác được, nhất là những chuyện có tính chất trái ngược với chuyện tôi đang mải miết say mê. Đó là một định luật tâm lý rất phổ quát. Cũng vậy, một người đang say mê những chuyện trần tục, những chuyện tầm thường, người ấy khó có thể nhập tâm và hiểu được những chân lý siêu việt của tôn giáo. Vì muốn hiểu và cảm nghiệm được những chân lý này, con người phải dấn thân trọn vẹn cho chân lý. Chân lý tôn giáo giống như viên ngọc quý hay kho báu dấu trong ruộng, phải bán hết tất cả những gì mình có mới mua được (x. Mt 13,44-46). Đối với những ai trong lòng đang đầy ắp «cái tôi» vị kỷ của mình cũng vậy, lòng trí họ không còn chỗ nào cho Thiên Chúa hay Đức Giêsu sống và hoạt động trong họ nữa.

2. Phá chấp, phá «sở tri chướng»

Học sinh cấp một được cô giáo dạy: không được lấy số nhỏ trừ số lớn, vì không thể có 3 trái cam mà lại ăn hết 5 trái được. Với trí óc của em, điều đó hoàn toàn hợp lý, không thể khác được. Nhưng nếu em cứ cố chấp với kiến thức hạn hẹp ấy, em sẽ không thể chấp nhận khái niệm về số âm khi em bắt đầu học cấp 2, coi việc lấy số nhỏ trừ số lớn là chuyện bình thường.

Cũng vậy với các học sinh cấp hai. Các em được dạy rằng trong căn hiệu bậc hai không thể có số âm, vì số trong căn hiệu được giả thiết là bình phương của một số, mà đã là bình phương thì không thể là số âm được. Đối với trình độ cấp 2 của các em, điều đó thật hợp lý, và không thể khác hơn được. Nhưng nếu các em cứ cố chấp với kiến thức cố hữu này, các em sẽ không thể chấp nhận được khái niệm về số ảo được dạy trong chương trình giải tích ở đại học, cho phép có số âm trong căn hiệu bậc chẵn.

Còn nhiều thí dụ khác tương tự trong lãnh vực toán học, vật lý, hóa học, sinh học… Tương tự, với những kinh nghiệm và kiến thức trần gian, nếu cứ chấp vào đó, người ta không thể hiểu được những chân lý cao sâu về tâm linh trong tôn giáo. Cứ chấp cứng vào những quan niệm hay lề lối suy tư của tôn giáo này, ta sẽ vô phương hiểu được quan niệm hay lề lối suy tư của các tôn giáo khác. Hoặc cố chấp vào những điều mà ta cho là chân lý bất biến ở trình độ này, ta không thể tiếp thu được những chân lý ở trình độ cao hơn.

3.      Ai tự mãn với những gì mình đã biết sẽ không thể biết thêm

Cái lý tất yếu ấy, Đức Giêsu đã nói đến: «Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn» (Mt 11,25). «Các bậc khôn ngoan thông thái» ở đây không có nghĩa là những người khôn ngoan thông thái đích thực, mà đúng hơn là những kẻ tự mãn với sự thông thái của mình, cho rằng sự hiểu biết của mình đã viên mãn, tràn đầy, không cần phải học hay tìm hiểu thêm gì nữa. Một người tuy dốt nát hiểu biết không hơn ai, nhưng lại tự mãn về sự hiểu biết của mình, cũng được liệt vào hạng này. Họ giống như tách trà đã đầy ắp tới miệng, không thể chứa thêm giọt nước nào nữa. Còn «những người bé mọn» ở đây không có nghĩa là những người nhỏ bé, địa vị thấp kém, ít học hành, ít kiến thức, mà có nghĩa là những người tự cho mình là còn biết rất ít, hoặc chưa biết gì cả. Những người này bao gồm cả những người hết sức thông thái nhưng không cho rằng mình biết tất cả, vẫn sẵn sàng lắng nghe và học hỏi nơi người khác. Tâm hồn họ như một ly chưa đầy, sẵn sàng đón nhận những gì từ ngoài vào.

Hai hạng người trên, với thời gian, hạng thứ nhất – tự mãn với những hiểu biết của mình – sẽ không tiếp nhận thêm được gì nữa, nên dần dần sẽ bị lạc hậu khi sống trong một thế giới hay xã hội ngày càng tân tiến. Họ cho rằng những điều họ từng tiếp thu được đã viên mãn, trọn vẹn, là những chân lý bất biến rồi, nên không thể chấp nhận điều gì khác hay ngược với những kiến thức ấy. Họ cố chấp với những hiểu biết ấy, nên không thể tiến xa và lên cao hơn được nữa. Họ như một học sinh cấp một, cứ nhất định rằng không thể lấy số nhỏ trừ số lớn được, nên từ chối không học cấp hai, vì không chấp nhận được khái niệm về số âm. Phật giáo gọi sự cố chấp này là «sở tri chướng», nghĩa là chính sự hiểu biết của mình là chướng ngại cản trở mình hiểu biết thêm. Còn hạng thứ hai, cho dù hiểu biết nhiều tới đâu, vẫn cảm thấy mình còn rất nhiều điều chưa biết, và những gì mình đã biết còn rất phiến diện, thiếu sót, nên không tự mãn mà khao khát và sẵn sàng học hỏi thêm. Vì thế, họ vẫn còn khả năng tiếp thu thêm những điều mới lạ. Socrate, một triết gia lỗi lạc thời thượng cổ, nói: «Điều tôi biết chắc chắn là: tôi không biết gì cả». Những người có thái độ như ông, cho dù có thông thái tới đâu, cũng là «những kẻ bé mọn» mà như Đức Giêsu nói, sẽ được Chúa Cha mặc khải cho những chân lý quan trọng.

4.      Bé mọn trong đời sống tâm linh

Để hiểu biết về thế giới vật chất hữu hạn này mà người ta đã phải phá chấp không biết bao nhiêu lần mới có thể tiến bộ và lên cao hơn cấp độ mình đang có. Để hiểu được một giả thuyết khoa học mới, phải chấp nhận giả thuyết cũ là còn thiếu sót. Vật chất hữu hạn mà còn vậy, huống hồ Thiên Chúa vô hạn, siêu việt, siêu nghiệm, không bao giờ hiểu cho hết được! Vì thế, để hiểu biết về Thiên Chúa, nếu ta cứ tự mãn hay cố chấp vào những hiểu biết cũ thì ta sẽ ở mãi trong trình độ thấp kém của mình, không thể tiến xa hơn được. Đúng ra càng sống đạo lâu, sự hiểu biết, khám phá và kinh nghiệm về Thiên Chúa của ta càng phải mới lạ, sâu xa và phong phú hơn. Thánh Phaolô viết: «Với thời gian, lẽ ra anh em phải là những bậc thầy, thế mà anh em lại cần phải để cho người ta dạy anh em những điều sơ đẳng về các sấm ngôn của Thiên Chúa: thay vì thức ăn đặc, anh em vẫn còn phải dùng sữa. Thật vậy, phàm ai còn phải dùng sữa, thì không hiểu gì về đạo lý liên quan đến sự công chính, vì người ấy vẫn là trẻ con. Thức ăn đặc thì dành cho những người đã trưởng thành, những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt điều lành điều dữ» (Dt 5,12-14). Khi còn nhỏ, ta chỉ có thể ăn sữa, và ăn sữa là đủ để ta sống. Nhưng khi lớn lên, thức ăn lỏng như sữa không cung cấp đủ năng lượng cần thiết để ta sống và sinh hoạt.

Cũng vậy đối với đời sống tâm linh. Khi mới bước vào đời sống tâm linh, ta cần dùng một thức ăn tâm linh sơ đẳng: chẳng hạn ta cầu nguyện bằng những lời kinh đã dọn sẵn, nhờ đó ta tập nói chuyện với Chúa. Và lúc đó thức ăn tâm linh đó đủ cho sự sống tâm linh còn non nớt của ta. Nhưng nếu ta không nâng cấp cách cầu nguyện ấy lên, tâm linh ta không thể lớn lên được. Cách cầu nguyện đơn giản ấy không đem lại đủ sức mạnh để ta chu toàn những phận sự ngày càng khó khăn và nặng nề hơn của ta, không giúp ta vượt qua được những trở ngại lớn lao mà ta gặp trên đường đời, và thắng được những cơn cám dỗ mạnh mẽ. Ta cần thực tập những cách cầu nguyện cao hơn: cầu nguyện tự phát bằng chính những tâm tình có thật, những nhu cầu có thật của ta. Hoặc cao hơn nữa, cầu nguyện bằng cách ý thức sâu xa sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta, bằng cách lắng nghe Chúa nói trong đáy lòng ta, bằng sự kết hiệp thân mật với Thiên Chúa… Những cách cầu nguyện cao cấp đem lại cho ta nhiều sức mạnh, nhiều niềm vui hơn, nhờ đó ta có nhiều kinh nghiệm về Thiên Chúa hơn…

Nếu ta tự mãn với tình trạng tâm linh hiện tại của ta, đời sống tâm linh của ta không thể lớn lên và mạnh mẽ được. Trái lại, nếu ta nhìn nhận rằng ta cần phải tiến bộ nhiều hơn, sẵn sàng đón nhận những hiểu biết và kinh nghiệm mới mẻ về Thiên Chúa, những cách thức sống đạo mới hơn, cao hơn, thực tế hơn, bớt hình thức mà đi vào chiều sâu hơn, thì ta sẽ thấy mình dần dần tiến cao hơn, và dễ dàng sống thánh thiện, vị tha, hy sinh cho Thiên Chúa và tha nhân hơn. Nếu cá nhân cần phải loại trừ tính tự mãn mới tiến bộ được, thì các tập thể, kể cả quốc gia, tôn giáo, cũng phải như vậy.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, tâm hồn con nặng trĩu những âu lo, phiền muộn, chỉ vì con đã đặt nặng «cái tôi» của mình nhiều quá. «Cái tôi» của con đã chiếm hết không gian tâm thức của con, và gây ra biết bao xáo trộn, xung đột với tha nhân, với lương tâm, với bổn phận, tạo nên bao phiền muộn, lo lắng, sợ hãi… Cái ách của «cái tôi» thật nặng nề. Xin cho con biết mang lấy ách nhẹ nhàng của Đức Giêsu, bằng cách «từ bỏ mình», là điều kiện đầu tiên mà Ngài đòi buộc những ai theo Ngài phải thực hiện. Từ xưa đến nay, con chỉ mang danh theo Chúa thôi, chứ thực tế con chưa hề theo Ngài bao giờ, vì con chưa hề «từ bỏ mình». Con vẫn coi «cái tôi» của mình quan trọng quá mức! Ai nói động đến con là con nổi tam bành lên. Xin cho con hiểu rằng điều kiện tiên quyết để theo Chúa là từ bỏ chính «cái tôi» của mình. Nhờ thế, những ai theo Chúa đích thực luôn luôn được bình an, hạnh phúc và tràn đầy sức mạnh.
 Joan Nguyễn Chính Kết

---------------------------------

 

TN 14-A73: KHIÊM NHƯỜNG


Mt 11, 25 – 30

 

Trong quyển đời sống nhân bản và đôi nét về tâm lí chiều sâu định nghĩa người kiêu ngạo là người: TN 14-A73


Trong quyển đời sống nhân bản và đôi nét về tâm lí chiều sâu định nghĩa người kiêu ngạo là người đánh giá khả năng mình quá cao (về khả năng thực hoặc tưởng tượng).Tính kiêu ngạo đặt trên một cơ sở tự tôn vượt trội nào đó. Người ta tự kiêu về tên tuổi, về tài sản của mình, hoặc về sự nghèo khó của mình. Có một số người lại tự kiêu về việc mình biết im lặng. Cũng có những người lại tự kiêu về việc mình biết tự kiêu, đây là một loại quá cỡ. Con người ta thường cố tự kiêu bất cứ khi nào có thể.... Có thể nói kiêu căng là tự đề cao mình quá sức, và tự đặt mình lên trên người khác, hoặc không cho người khác ngang hàng với mình. Người nào đã mang trong mình sự kiêu ngạo sẽ có rất ít bạn thân, và không còn ai muốn đến gần họ. Có một nhân vật đến trần gian hơn hai ngàn năm nay, toàn tài toàn đức, cao sang hiển vang, không có một từ ngữ nào có thể diễn tả hết về Ngài, trên trời Ngài là Con Chúa, dưới đất là cháu vua, nhưng suốt cuộc đời Ngài là một chuỗi khiêm nhường, sống và nâng đỡ những người "thấp cổ bé họng". Ngày ngày Ngài không ngừng kêu gọi hãy đến "học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường". Người đó chính là Đức Giêsu, Người đã được Phêrô tuyên xưng "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống". Tuy là Con Chúa nhưng Ngài lại rất khiêm nhường với chúng sinh qua con đường:

1. Tự hạ

Tự hạ là hành động của người ở địa vị cao lại hạ mình xuống với một người dưới thấp, giống vua tôi lại hạ mình xuống với thần dân. Hay trong cuốc sống, cũng có rất nhiều trường hợp hạ mình như thế! Nhưng nêu so sánh với Con Thiên Chúa xuống thế làm người thì việc vua hạ xuống với thần dân vẫn còn kém xa. Đó chỉ là hành động của con người hạ mình xuống với con người, còn Đức Giêsu là Con Chúa hạ mình xuống thế làm con người. Vì người ta cho dù ở địa vị nào thông thái tài giỏi đến đâu, đối với Ngài vẫn chưa bằng một hạt cát ở sa mạc, nhưng nơi Ngài tuyệt nhiên không có một tí gì là kiêu căng. Trái lại, Ngài vẫn là một tấm gương trên con đường khiêm nhường, hạ mình sâu thẳm lạ lùng, làm con của một người thợ mộc âm thầm nghèo nàn, khoảng cách giữa Ngài với nhân loại như không còn nữa, gần gũi thân thiết như một người cha luôn cảm thông nâng đỡ con mình.

2. Đồng hành với người nghèo hèn

Mới đây người ta thống kê cho thấy tài sản thế giới dần dần thâu tóm vào một số đại gia giàu có, chỉ hai trăm năm mươi người giàu nhất thế giới đã chiếm bốn mươi phần trăm tài sản thế giới. Cho thấy xã hội ngày càng phân ra hai " chiến tuyến" rõ rệt, một bên là những người có thế lực giàu có, còn một bên là những người nghèo khổ, thiếu ăn. Nếu có lựa chọn thì không ai chọn cảnh sống nghèo khổ, thiếu ăn. Nhưng Con Thiên Chúa lại làm thế! Ngài muốn đồng hành chia sẻ đau khổ và cảm thông. Do đó, Ngài đã chấp nhận sinh ra trong chốn cơ hàn, nơi hang lừa máng cỏ, sống trong cảnh thiếu thốn, nghèo nàn, dưới mái nhà thợ mộc âm thầm, khi lớn lên thì lại làm bạn với những người thuyền chài thất học, gần gũi với những người "tay lấm chân bùn". Khi từ giã cõi đời lại chấp nhận cho quân lính hành hạ, sỉ nhục rồi chịu tử hình trên cây thập giá giữa hai tên trộm cướp...

3. Chấp nhận sống thanh bần.

Nhờ đức thanh bần mà người ta có thể sống giản dị, dễ hoà đồng với mọi người, nhất là những người nghèo khổ, biết sống cho họ vì họ. Chính vì sống thanh bần mà Đức Giêsu đã chấp nhận thái độ khiêm tốn tự hạ. Khi chịu phép rửa ở sống Giodan, Chúa Cha đã mặc khải cho biết "đây là Con Ta yêu dấu", Ngài cũng không có một thái độ cử chỉ nào khác người thường. Hơn nữa, Ngài vẫn chấp nhận cho người Do Thái nhắc đến gia đình bà con dưới đất của Ngài, là những người hạ lưu tầm thường... Chính cuộc sống thanh bần trong tâm hồn chúng ta cũng sẽ làm cho mình dễ gần, dễ đến.

Lạy Chúa, Xin cho con biết ý thức mình là công cụ của Chúa, để con biết khiêm nhường trong mọi công việc. Và khi con càng khiêm nhường thì càng trở nên giống Chúa, lại càng có khả năng thi hành cách hữu hiệu như Chúa muốn. Amen

---------------------------------

 

TN 14-A74: HỌC HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG NƠI CHÚA GIÊSU


Mt 11, 25 – 30

 

Chúng ta thường nghe nói: "Học ăn, học nói, học gói, học mở" hay "Học, học nữa, học mãi". Thật: TN 14-A74


Chúng ta thường nghe nói: "Học ăn, học nói, học gói, học mở" hay "Học, học nữa, học mãi". Thật vậy, ai trong chúng ta từ nhỏ đến lớn không nhiều thì ít đều phải học. Học về mọi phương diện và mọi lĩnh vực. Hôm nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy học nơi Người: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mt 11, 29b
)
Càng sống hiền lành và khiêm nhường chúng ta sẽ càng nên giống Chúa Giêsu hơn. Vả lại đó cũng là mối phúc mà Chúa Giêsu đã nói trong bài giảng trên núi: "Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp" (Mt 5, 4). Thế nào là hiền lành và khiêm nhường như Chúa Giêsu?

Hiền lành khác với nhu nhược hay xu hướng. Người hiền lành chắc chắn không phải là người hay tranh giành, ghen tỵ, ganh ghét ham thích ăn thua đủ với người khác. Người hiền lành chính là người biết sống hoà nhã và tôn trọng người khác. Chúa Giêsu luôn tiếp xúc với mọi hạng người từ những trẻ nhỏ đến người lớn, từ người tự cho là công chính đến những người được coi là tội lỗi công khai.

Khiêm nhượng là sống thật với con người của mình. Mỗi người chúng ta đều có cái hay cái dở khác nhau. Với cái hay thì chúng ta cố gắng phát huy còn cái dở thì cố gắng khắc phục. Thậm chí khi cần chúng ta còn cần nên hạ mình xuống trước người khác. Hạ mình không phải là mình chịu thua nhưng hạ mình như thế là mình đang chiến thắng. Chiến thắng chính mình. Bởi lẽ, khuynh hướng kiêu ngạo và ích kỷ luôn ngự trị trong mỗi người chúng ta. Người khiêm nhường luôn được mọi người yêu thương. Chính Chúa Giêsu từ một vị Thiên Chúa mà đã hạ mình xuống để sống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Thánh Phaolô đã nói trong thư gởi cho tín hữu Philipphê: "Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2, 6 - 8)

Phải nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Vị Thầy rất đáng để chúng ta học đòi bắt chước. Thầy Giêsu không dạy bằng lời nói suông nhưng luôn dạy bằng gương sống. Hãy tiếp tục chiêm ngắm Chúa Giêsu nhiều hơn. Đồng thời hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta khi chiêm ngắm Người thì cũng biết tập sống hiền lành và khiêm nhường như Người. Đó là điều mà Người đang tha thiết mong mỏi nơi từng người chúng ta.

---------------------------------

 

TN 14-A75: HÃY MANG LẤY ÁCH CỦA CHÚA


Mt 11, 25 – 30

Anh chị em thân mến,

 

Một giáo dân hỏi một vị linh mục: Thưa cha, sao Chúa khó quá? Sao Hội thánh mình cũng khó nữa?: TN 14-A75


Một giáo dân hỏi một vị linh mục: Thưa cha, sao Chúa khó quá? Sao Hội thánh mình cũng khó nữa? Chúa Nhật không đi lễ thì có tội. Chỉ được một vợ một chồng mà thôi; ngoài đời người ta vợ nhóc luôn. Rồi, sao không cho các linh mục có vợ nữa? Con nghĩ cấm chuyện này là không đúng, vì là trái với tự nhiên. Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ mà; đâu phải dựng nên đàn ông không đâu? Chúa nói ách Chúa êm ái, gánh của Chúa nhẹ nhàng, con thấy không nhẹ chút nào cả! Ông cha sở nghe nói cười xòa, trả lời: Mà ông coi, Hội thánh đâu cấm người đi tu không được có vợ! Linh mục không có vợ chính là: tự nguyện sống độc thân vì Chúa và vì Nước Trời. Nếu linh mục không sống độc thân được, nên chọn đời sống gia đình, đừng nên bắt cá hai tay. Ông thấy có phải không? - Dạ dạ... Cha sở nói tiếp: Mà nè, nếu ông muốn, hãy làm đơn xin Tòa Thánh cho phép các linh mục được cưới vợ đi; nhưng họ nên nhớ, khi Tòa Thánh chưa chấp thuận, phải tuân phục Hội thánh, không được xé rào đấy nhé! Mọi người xung quanh nghe câu nói đều cười ầm lên....

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có hai điều chúng ta cần suy niệm:

a/.Chúa Giêsu cảm tạ Chúa Cha đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những kẻ bé mọn. Có người sẽ nói: Không lẽ Chúa ghét người khôn ngoan, cao trọng hay sao? Sao Chúa lại yêu thương trẻ nhỏ mà không phải người lớn? Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã nói: Nước Trời là của trẻ nhỏ và của những người giống như chúng. Có người sẽ hỏi: Tại sao phải ưu tiên cho trẻ nhỏ? Có phải đây là một định kiến để lật đổ phẩm trật đã có sẵn không? - Thưa không. Chúa Giêsu yêu trẻ nhỏ không phải vì chúng dễ thương hơn người lớn. Người không yêu thương ai bằng tình cảm bên ngoài. Đứa trẻ được Chúa yêu thương, là hình ảnh trẻ con luôn tin tưởng, trông cậy vào cha mẹ. Trẻ con không trông cậy vào mình; chúng chỉ trông cậy vào người lớn. Tâm hồn chúng hoàn toàn trống rỗng cần được lấp đầy. Chính vì thế Chúa luôn sẵn sàng lấp đầy tâm hồn trẻ thơ ơn sủng sung mãn của Người, vì Người luôn muốn ở trong tâm hồn của trẻ thơ; nơi đây cũng là đền thờ tốt lành của Chúa Thánh Thần...

b/ Ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến, Ta sẽ thêm sức cho...Hãy mang lấy ách của Ta...vì ách Ta êm ái, gánh Ta nhẹ nhàng. Chúa Giêsu nói, ách Chúa êm ái, gánh Chúa nhẹ nhàng, Chúa có mâu thuẫn không? Đã là ách và gánh làm sao nhẹ nhàng được?

Một bà nhơn đức trong họ đạo, một hôm đến gặp cha sở và nói: thưa Cha, bà bạn của con vừa nói với con: khi tôi dâng mình cho Chúa rồi, y như là Chúa để cho gặp tai ương, giống như Chúa "chơi" tôi vậy. Bà nên nhớ, bà đừng có dâng mình, vì dâng mình xong, Chúa phát cho bà một gánh nặng là bà phải chạy dài ngay...Thưa cha, con thấy bà bạn con hiểu biết về Chúa sai lạc quá! Dù vậy con ít lời lắm. Con không biết nói sao cho bà hiểu; nên con muốn trình cha, để cha biết, có dịp cha giải thích lại cho bà ta....

Rõ ràng câu chuyện trên đây cho ta thấy, ngay cả người có đạo lâu năm cũng không hiểu mấy về Chúa. Ách của Chúa chính là đạo lý của Tin mừng; ai muốn theo Chúa phải tuân giữ đạo lý này; đó là: tin tưởng - khiêm tốn - vâng phục. Ách của Chúa êm ái nhẹ nhàng, không phải là vì đó là gánh nặng dễ dàng mang trên vai. Đó chính là gánh nặng được đặt trên vai chúng ta bằng tình yêu và nó cũng được chúng ta vác trong tin yêu nữa. Thử hỏi có ai vác gánh nặng của mình mà bước đi trong vui vẻ, hăng hái, lại cảm thấy gánh đó quá nặng không thể mang nổi không? Hay là chúng ta phải nói ngược lại?

c/. Gợi ý sống và chia sẻ:

Nước Trời dành cho kẻ bé mọn, chính là những người luôn cần đến, những người sẵn sàng thành tâm đón nhận. Mỗi người Kitô hữu chúng ta có phải là kẻ bé mọn, đáng được nhận lãnh Nước Trời không? Hãy đến với Ta, những ai vất vả mang gánh nặng nề: Chúa mời ta đến để Chúa chia sớt gánh nặng cuộc đời cho chúng ta. Ta có tin không? Ta có sẵn sàng đến với Chúa không?

---------------------------------

 

TN 14-A76: NÉP MÌNH BÊN CHÚA


Mt 11, 25 – 30

 

Một người quá thông minh và nhiều kiến thức có thể trở thành kiêu căng về những gì mình đạt : TN 14-A76


Một người quá thông minh và nhiều kiến thức có thể trở thành kiêu căng về những gì mình đạt được. Người Hy lạp vốn nổi tiếng về khôn ngoan và thông biết đã coi việc giảng dạy của Phaolô về Thập giá của Đức Giêsu Kitô là sự điên rồ. Nhà du hành vũ trụ người Nga Gadadin đã kiêu căng nói rằng: "Tôi đã bay khắp cùng trái đất mà chẳng thấy bóng dáng của Thiên Chúa ở đâu cả". Quả thật, sự hiểu biết của những con người kiêu căng đã làm cho họ xa rời Thiên Chúa vốn là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan. Triết gia Bacon đã nói: "Kiến thức nông cạn đưa con người xa rời tôn giáo, ngược lại kiến thức sâu xa dẫn đưa con người lại gần Tôn giáo". Như thế, những hiểu biết của con người dù có uyên thâm cỡ nào đi nữa mà làm cho họ trở nên xa cách tôn giáo hay xa cách Thiên Chúa thì chỉ là những kiến thức hàm hồ và nông cạn theo nghĩa sâu xa nhất của nó.

Tin mừng hôm nay chó chúng ta thấy được rằng: Những con người đơn sơ và khiêm tốn sẽ được hiểu biết về Thiên Chúa nhờ họ biết đón nhận Đức Giêsu Kitô và những lời giảng dạy của Ngài. Trong khi đó, những con người tự kiêu, tự phụ về sự thông hiểu của mình đã khước từ Đức Giêsu Kitô và cho Ngài là kẻ mất trí và bị quỷ ám.

Cuộc đời của Đức Giêsu Kitô là một mầu nhiệm, một siêu lý đối với con người, nên con người không thể biết rõ về Ngài nếu không được Thiên Chúa ban ơn hiểu biết ấy. Mầu nhiệm nơi Đức Giêsu Kitô "không phải là một vách tường chận đứng trí óc của chúng ta, nhưng là một biển cả, trong đó trí óc chúng ta chìm đắm" (Gustave Thibon). Chính sự khiêm nhường sẽ đưa dẫn con người đến với Thiên Chúa. Khuôn mẫu của sự khiêm nhường ấy chính là Đức Giêsu Kitô "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" Chính Ngài là vị Vua Messia hiền lành và khiêm nhu mà sách tiên tri Dacaria nói đến trong bài đọc một hôm nay.

Đức Giêsu Kitô đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha bởi lẽ Ngài biết rõ về Cha và Cha cũng biết rõ Ngài. Chữ "biết" trong Thánh kinh có nghĩa là có sự liên hệ cá nhân với người mình biết và có sự tiếp xúc thân mật với người đó. Như thế, biết Thiên Chúa chính là nhập vào sức sống lớn lao và một dòng ánh sáng vĩ đại phát ra từ trái tim Thiên Chúa và trở lại với Ngài.

Nhờ Đức Giêsu Kitô, chúng ta biết được Thiên Chúa Cha. Đây là một hồng ân cao vời mà con người đã đón nhận một cách nhưng không . Ân ban này hoàn toàn miễn phí, chỉ cần người nhận biết mở lòng mình ra và đơn sơ đón nhận. Nhưng đây không phải là chuyện dễ dàng đối với những người quá thông minh và hiểu biết! Bởi đó, rất có thể sự khôn ngoan của loài người là nguyên cớ cản trở lớn nhất cho việc họ tìm đến với Thiên Chúa. Khi thấy mình quá giỏi, quá tài, con người chỉ lo củng cố mình và coi mình quá lớn lao đến nỗi không còn chỗ cho Thiên Chúa trong cuộc đời của họ nữa. Họ thấy mình quá quan trọng đối với nhân loại và nghĩ rằng mình có thể cứu nhân loại khỏi những đau khổ trong cuộc đời này. Sai lầm này xem ra chẳng tốt đẹp cho tha nhân mà cũng chẳng tốt lành gì cho bản thân của họ nữa.

Chuyện kể rằng: "Có một máy bay nhỏ chở hành khách đang bay ở độ cao trung bình và với vận tốc vừa phải. Hành khách trên máy bay gồm một vị giáo sĩ, một hướng đạo sinh, một giám đốc sản xuất điện toán. Đang bay trên bầu trời thì bỗng nhiên động cơ của máy bay không hoạt động nữa. Gió rít mạnh làm chiếc máy bay rơi nhanh. Ba chiếc dù được đưa ra, nhưng trên máy bay có tất cả bốn người. Làm sao đây?

Viên phi công khóc và nói: "Tôi phải có một cây dù, vì tôi có vợ và ba đứa con thơ." Nói đoạn, viên phi công nhanh tay chộp lấy một cái dù và nhảy vội ra khỏi máy bay. Ba người còn lại nhìn nhau. Ông Giám độc điện toán kêu lên: "Ồ, chắc là tôi phải cần một cái dù. Tôi là người thông minh nhất thế giới và thế giới đang cần tôi". Nói chưa dứt lời, ông nhanh tay luồn dây vào vai rồi vội nhảy ra ngoài.

Vị giáo sĩ thở dài buồn bã, quay sang nói với anh hướng đạo sinh: "Này con, con hãy lấy chiếc dù cuối cùng và nhảy ra đi. Cha đã già rồi, cha sẵn sàng để đi gặp Chúa. Con còn trẻ, tương lai huy hoàng đang chờ đợi con. Con không thể chết được". Nhưng người hướng đạo sinh mỉm cười nói: "Cha già đáng kính và dễ thương của con ơi. Cha hãy yên tâm. Vẫn còn đủ dù cho hai cha con mình. Người tự hào là thông minh nhất thế giới vừa nhảy ra khỏi bằng chiếc ba lô của con".

Hãy tự khiêm tự hạ trước mặt Thiên Chúa để chính Ngài sẽ hành động trên chúng ta. Hạnh phúc cho những ai biết nép mình bên Chúa như đứa con thơ trong tay người mẹ hiền của mình.

Hãy học biết Thiên Chúa theo ơn Ngài ban cho chúng ta và theo những gì Đức Giêsu Kitô đã dạy chúng ta. Biết Thiên Chúa chính là sống thân tình với Ngài, là bơi lội trong biển tình thương và ân sủng của Ngài. Đừng đòi hỏi Thiên Chúa bất cứ điều gì chỉ nhằm làm thoả mãn tình hiếu kỳ và kiêu căng của chúng ta. Chúa luôn ở gần những tâm hồn đơn sơ, khiêm hạ và không ngừng ban ơn cho họ.

---------------------------------

 

TN 14-A77: HÃY ĐẾN CÙNG TA


Mt 11, 25 – 30

 

Ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần đi xa cùng với cái cảm giác quây trở về. Trên chặng đường: TN 14-A77


Ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần đi xa cùng với cái cảm giác quây trở về. Trên chặng đường vất vả, với sự chờ đợi cho đến nơi.

Khi đến nơi thì bao nhiêu nhọc nhằn vất vả không còn nữa. Sự mệt nhọc của con đường đi, với những nắng mưa của thời tiếc, những cơn nóng bức, những làn gió mạnh, những bụi bẩn hoà lẫn với khói xe, tất cả những thứ dường như không tồn tại trên đời. Không phải vì chúng ta đã đến được nơi an toàn, nhưng vì chúng ta đã về bên những người thân yêu của mình. Ở bên cạnh những người thân yêu để tận hưởng cuộc sống với họ thì còn hơn cảm giác bình an của riêng mình. Cũng chính vì đến được bên cạnh những người thân yêu, nên bao nhiêu sự mệt nhọc, lo sợ đều tan biến đi. Giờ đây chỉ còn cảm giác êm ái nhẹ nhàng. Tình yêu thương làm cho cuộc sống con người trở nên nhẹ nhàng và có ý nghĩa hơn.

Chúa Giêsu kêu mời: "Hãy đến với Ta, tất cả những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho".

Ngài nhìn thấy con người bị biết bao sức nặng của trần thế chồng chất trên đôi vai nhỏ bé của họ. Ngài nhìn thấy những người đang gục ngã thảm hại, trước những khó khăn nhọc nhằn mà họ không thể nào vượt qua được. Ngài cũng nhìn thấy có những người đang lê lết, bước đi nặng nề, nhưng họ không muốn cho gánh nặng của mình nhẹ đi, nên họ đang chết dần chết mòn trong những gì mà họ mang lấy. Họ tưởng rằng như thế là vinh quang, như thế là hạnh phúc, họ chỉ bám vào những gì mình suy tưởng, chính vì thế họ không còn nhìn thấy gì ngoài bản thân mình. Họ không còn biết lắng nghe, không tiếng nói nào có thể thâm nhập được vào trong con người của họ. Họ tưởng mình tài năng, tưởng mình đạo đức thánh thiện, họ sống bám vào những ý tưởng đó, họ cũng sẽ chết với những gì họ suy nghĩ, vì không chịu vượt ra khỏi chính mình để biết nhìn, biết lắng nghe và thay đổi cách sống mà chạy đến với Chúa để Ngài nâng đỡ bổ sức cho. Họ là những người khôn ngoan mà Chúa Cha đã không cho nhìn thấy những ý định của Thiên Chúa.

Nếu giờ nầy Chúa Giêsu hiện diện trước mặt mỗi người chúng ta, Ngài sẽ cám ơn Chúa Cha như thế nào về mỗi người trong chúng ta? Ngài cám ơn vì chúng ta là những người bé mọn biết chạy đến với Thiên Chúa, biết mang lấy gánh nhẹ nhàng của Ngài vì chúng ta nhìn thấy, nhận biết thánh ý Chúa để tuân giữ và thi hành trong cuộc sống. Hay Ngài cám ơn vì mọi việc không cho chúng ta nhìn thấy, không cho chúng ta nhận biết, bởi chúng ta chỉ biết có chính mình mà không còn lắng nghe, không còn nhìn thấy gì ngoài con người ích kỷ của chúng ta. Như vậy thì Hồng Ân cứu rỗi của Ngôi Hai Thiên Chúa có ích lợi cho biết bao người, còn bản thân chúng ta thì không được gì hết sao?

Chúng ta để ra một ít phút nhìn lại đời sống, nhìn vào những việc làm đã qua: chúng ta không có thời gian đủ để lo cho công việc cứ bao vây, chìm ngặp trong những tính toán cùng với biết bao dự án cho tương lai. Chúng ta cũng nhìn thấy những người chung quanh mình sao quá tệ, họ không biết làm ăn, không biết toan tính cho cuộc sống, không nhìn thấy những lợi lộc, không biết nhanh nhạy để chộp lấy thời cơ, họ không đủ khôn ngoan. Những lúc đó, là sự khôn ngoan của con người, sự khôn ngoan để tìm những lợi lộc trần thế, sự khôn ngoan mà Chúa Giêsu cảm tạ Chúa Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết Mầu Nhiệm về Thiên Chúa, vì mãi đi tìm những điều không thuộc về Thiên Chúa.

Nếu chúng ta cũng sống với tất cả những gì của trần thế để lo cho cuộc sống của mình và cho nhiều người khác, đồng thời chúng ta dâng lên Chúa những lo toan, những tính toán của mình, xin Chúa hướng dẫn để biết sống theo thánh ý Chúa. Chúng ta cũng nếm trải những khó khăn vất vả, những khổ nhọc của con người và vượt qua cách tốt đẹp vì có Chúa ở cùng. Đó là chúng ta biết đến với Chúa, cùng làm việc với Chúa, cùng mang những gánh của Chúa, nên chúng ta đã vuợt qua thật êm ái và nhẹ nhàng. Ở bên Chúa mọi khổ nhọc như tan biến đi, chỉ còn tình yêu ngự trị.

Xin Chúa ban thêm đức tin cho mỗi người để biết siêng năng chạy đến với Chúa trong từng giây phút của cuộc đời.

---------------------------------

 

TN 14-A78:  SỰ KHIÊM NHƯỜNG CỦA THIÊN CHÚA


Mt 11, 25 – 30

 

Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng nhưng cũng là Đấng khiêm tốn và quãng đại vô cùng. Ba : TN 14-A78


Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng nhưng cũng là Đấng khiêm tốn và quãng đại vô cùng. Ba Ngôi cho đi tất cả, không hướng về bản thân mình nhưng hướng về hai Ngôi kia trong một Thiên Chúa duy nhất. Ba Ngôi Thiên Chúa là nguồn lực và là mẫu mực về tình yêu thương phục vụ cho loài người chúng ta.

Thiên Chúa luôn yêu thương chăm sóc loài người. Ngài là Tạo Hoá mà lại rất mực quan tâm đến loài thụ tạo chúng ta. Ngài biết rõ mọi sự và có dư khả năng để bắt loài người luôn vâng lệnh Ngài. Tuy nhiên, khi đến với loài người, Ngài tỏ lòng từ bi, nhân ái đối với loài người. Ngài là Tạo hóa mà lại chấp nhận ban cho loài người quyền tự do: tự do vâng phục và tự do... chống đối Ngài, có khả năng xúc phạm đến Ngài. Thiên Chúa vẫn một lòng thương cho dù con người có lỗi phạm nặng nề. Điều đó biểu hiện nơi Chúa Giêsu, nơi lòng thương xót của Ngài. Trên Thánh giá, Chúa Giêsu còn nói lời tha thứ cho những kẻ giết hại mình: xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết. Từ lúc chưa nhập thể thì Ngôi Hai đã biết mình sẽ nhập thế cứu chuộc cho ai rồi: những người tội lỗi, đang xa lìa Chúa và thường xuyên lỗi lời Chúa dạy. Dầu con người hay lỗi phạm đến thế, Chúa vẫn tìm dịp cho con người hoán cải. Có lúc Chúa cảnh cáo và đe phạt nặng nề, nhưng không tiêu diệt. Khi con người hoán cải thì Ngài lại thương tiếp tục ban ơn, thể hiện lòng nhân từ đối với loài người tội lỗi. (vd: Xh 33, 3t )

Sự khiêm nhường của Thiên Chúa biểu lộ rõ nơi Chúa Giêsu, một tấm gương khiêm nhường tuyệt hảo. Từ khi nhập thể, Ngài đã biểu lộ rõ sự khiêm nhường: đến ở trong một gia đình nghèo, trong một làng nghèo miền Galilê xa thủ đô. Ngài sinh trong dòng tộc vua Đavid nhưng là một dòng tộc lúc đó đã hết quyền và nghèo khổ. Ngài còn chấp nhận sinh ra trong hang chiên lừa, bị bắt bớ, bị coi thường. Lúc đi giảng đạo, chắc Chúa phải nghe nhiều lần câu: Ông ấy là con bác thợ mộc Giuse, ở Nazarét nào có cái chi hay, còn ông này chúng ta biết rõ từ đâu tới... (x.Mt 13,55). Chúa Giêsu đã khiêm tốn chịu sự hiểu lầm đó và phó thác hoàn toàn cho Chúa Cha định liệu. Ngài đi rao giảng nhưng kết quả trước mắt không được mỹ mãn, Ngài lại bị kết án oan do sự phạm thượng của con người. Ngài lại chẳng oán phạt. Ngài trở nên con chiên hiền lành trong tay Chúa Cha và để cho loài thụ tạo mặc sức hành xử! Đó không phải là gương khiêm tốn và phó thác vô cùng của Thiên Chúa sao?

Noi gương Chúa, chúng con sẽ sống đạo trong tinh thần khiêm hạ và nhận ra sự thật về chính mình. Chúng con chỉ là loài hay chết, đầy giới hạn và yếu đuối. Tất cả là nhờ ơn Chúa. Do đó, chúng con cần hạ mình, chấp nhận cuộc sống nghèo, biết cộng tác với ơn Chúa và nổ lực đáp trả lời Ngài mời gọi. Chúng con xin cám ơn Chúa đã hiện diện và ban ơn từng giây phút trong cuộc sống của mỗi người chúng con. Chúng con là loài thụ tạo, chẳng đáng là gì trước mặt Chúa vậy mà nhiều lúc lại quá ngạo mạn khi cho rằng Chúa phải cho mình điều này điều kia. Chúng con thật quá vô tình khi đi lễ và giữ điều luật cách bó buộc: để khỏi bị phạt chứ không vì thương mến Chúa. Chúng con chưa biết học hỏi sự khiêm tốn và tình thương Chúa biểu hiện nơi Đức Kitô mà chỉ biết có mình! Chúa đã yêu thương hết mình vì chúng con, chẳng tiếc gì kể cả Người Con Một, vậy mà khi làm được chút việc lành (mà nhiệm vụ chúng con phải làm), chúng con đòi Chúa phải đáp ứng những yêu sách của chúng con; khi Chúa nhờ vác chút thập giá, chúng con đôi co với Chúa và tìm cách thoái thác dù biết rằng điều chúa muốn là tốt cho chúng con.

Lạy Chúa, rất nhiều khi chúng con tỏ ra nông nổi, không biết nhận ra và đáp trả tiếng Chúa, xin Chúa thứ tha và ban ơn trợ giúp cho đức tin yếu hèn của chúng con. Chúng con sẽ noi theo tinh thần khiêm tốn của Người mà phục vụ và chu toàn trách nhiệm được giao trong tình yêu Chúa.

---------------------------------

 

TN 14-A79: MANG LẤY ÁCH CỦA CHÚA


Mt 11, 25 – 30

 

Cuộc sống nơi miền quê cho chúng ta kinh nghiệm về làm đồng, nơi đó chúng ta chúng kiến cảnh : TN 14-A79


Cuộc sống nơi miền quê cho chúng ta kinh nghiệm về làm đồng, nơi đó chúng ta chúng kiến cảnh những con trâu, bò mang lấy ách để cày những thửa ruộng, liếp vườn. Nên ngay khi chúng ta nghe Chúa Giêsu kêu gọi: "Hãy mang lấy ách của Ta, ... vì ách của Ta thì êm ái, còn gánh của Ta thì nhẹ nhàng". Đã là ách thì làm sao mà êm ái, đã là gánh thì làm sao mà có thể nhẹ nhàng được. Kinh nghiệm trong thực tế cuộc sống không dễ cho con người chúng ta cảm nhận được lời nầy của Chúa Kitô.

Theo truyền thống Do thái, lề luật được xem như là một cái ách đè nặng trên dân chúng mà họ không thể thoát ra được. Thiết tưởng chúng ta cũng nên biết, Lề Luật của Thiên Chúa ban cho dân Do thái là vì tình thương họ, hướng dẫn họ sống đẹp lòng Chúa. Nhưng qua dòng lịch sử, người ta đã thêm vào đó những giải thích theo ý con người làm cho lề luật trở thành một gánh nặng mà người theo đạo khó gánh vác nổi. Như thế ách là một cái gì đang đè nặng là cho phải nặng nhọc hơn cho những ai phải vác lấy nó.

Tuy nhiên chúng ta cũng nên biết rằng cái ách không chỉ là một cái gì đè nặng mà còn là cái gì đó để liên kết và chia sẻ. Hai con trâu, hai con bò cần có cái ách để nó chia sẻ nỗi khổ nhọc. Trong chiều hướng này chúng ta sẽ thấy và hiểu rõ hơn câu nói của Chúa Giêsu : "Hãy mang lấy ách của Ta, ... vì ách của Ta thì êm ái, còn gánh của Ta thì nhẹ nhàng". Chúa Giêsu không muốn chúng ta phải vất vả gánh nặng thêm mà Ngài muốn chúng ta hãy để cho Ngài cùng chung vai sát cánh với chúng ta, chia sẻ nỗi vất vả của chúng ta. Lời Chúa dạy là những giới răn mới không phải để trói buộc con người trong sự nô lệ của tội lỗi, của lề luật mà là nô lệ trong tình yêu Thiên Chúa, mà nô lệ trong tình yêu thì chính là sống và chết cho tình yêu Thiên Chúa để đáp lại tình Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta. Vậy ách của Chúa quả là nhẹ nhàng thực sự vì nó mang lại cho ta sự tự do thực sự, tự do trong tinh thần nghĩa tử. Mang lấy ách của Chúa là để Chúa nâng đỡ bổ sức cho chúng ta.

Trong cuộc sống con người ai ai cũng sẽ gặp những khốn khó vất vả trong cuộc sống. Vì thế, người ta thường ví đời là bể khổ, đời là vũng nước mắt.... Nhưng làm sao có thể vượt qua những vất vả này. Thưa là hãy cùng Chúa vượt qua và Ngài mời gọi chúng ta. Ngài là vua hoà bình, vua bình an. Ngài sẽ quét sạch mọi đau thương khốn khó, Ngài sẽ làm khô những giọt lệ trên khoé mắt chúng ta.

Muốn được như thế mỗi người chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa, để Chúa cùng hành động với Chúa, chẳng những Chúa bằng lòng mà lại vui lòng nữa khi ta biết để cho Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng ta.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta cảm nhận được sức mạnh của Chúa trong cuộc sống để chúng ta biết phó thác cho Chúa cuộc đời chúng ta, để Chúa hướng dẫn chúng ta và để Chúa hoàn thành tất cả những gì là đẹp lòng Chúa.

---------------------------------

 

TN 14-A80: ỨNG XỬ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG


Mt 11, 25 – 30

1. LỜI CHÚA: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng" (Mt 11,28-30).

2. CÂU CHUYỆN:
1) GƯƠNG NHẪN NHỊN CHỊU ĐỰNG THA NHÂN:

 

LẠN TƯƠNG NHƯ được phong làm tướng quốc nước Triệu. LIÊM PHA cậy mình có nhiều công : TN 14-A80


LẠN TƯƠNG NHƯ được phong làm tướng quốc nước Triệu. LIÊM PHA cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị vua Triệu xếp đứng bên dưới, nên cảm thấy bực tức và hăm hễ gặp mặt Tương Như là sẽ giết. Tương Như vì thế cứ phải lánh mặt... Một hôm Tương Như có việc phải ra ngoài, gặp phải toán lính tiền đạo của Liêm Pha từ xa đi tới, liền sai mấy người đánh xe tránh vào trong ngõ, đợi cho kiệu của Liêm Pha đi qua rồi mới ra đường. Bọn xa nhân của Tương Như thấy thế rất căm giận thay cho chủ và họp nhau lại chất vấn Tương Như rằng:

- Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây để hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng quan nhất phẩm mà hạng thứ của ngài còn ở trên ông ta. Liêm Pha dọa, ngài đã không đáp nên tránh mặt ở triều đình. Nay lại còn tránh cả ở ngoài đường nữa ! Sao ngài lại tỏ ra nhát sợ ông ta quá như vậy ? Chúng tôi là bề tôi cảm thấy xấu hổ, nên xin phép từ giã ngài, không tiếp tục theo ngài nữa.

Tương Như liền nói :

- Các ngươi xem tướng quân ta có hơn vua nước Tần không ?

Bọn xa nhân đáp :

- Thưa không.

Tương Như lại nói :

- Trước cái oai của vua nước Tần, thiên hạ nào ai dám ra mặt chống, mà Tương Như này dám mắng ông ta ngay giữa triều đình nước Tần, lại làm nhục cả quần thần của vua Tần nữa.  Tương Như ta dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân hay sao ? Nhưng ta nghĩ sở dĩ nước Tần hiện nay không dám tiến đánh nước Triệu chúng ta là vì e sợ có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ đấu nhau, thề không sống chung với nhau. Nếu nước Tần nghe tin được, tất sẽ thừa cơ mang quân sang đánh nước Triệu ta thì sao ? Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì lấy việc nước là trọng và coi thù riêng là khinh vậy thôi.

Bọn xa nhân liền quỳ mọp bái lạy Tương Như mà rằng :

- Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.

Về phần Liêm Pha, khi nghe thuật lại lối ứng xử của Tương Như thì cả thẹn mà rằng : "Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm". Rồi Liêm Pha còn đến tạ tội với Tương Như, qùi mọp mà rằng : "Tôi tính tình thô bạo, đội ơn tướng quân đã bỏ qua, tự nghĩ lấy làm hổ thẹn quá !". Tương Như đến đỡ dậy, và sau đó cả hai kết làm bạn thân thiết sống chết có nhau.

 (Cái DŨNG của thánh nhân- Nguyễn duy Cần)

2) TÂM HỒN BÌNH AN NHỜ TIN VÀO CHÚA:

TOM là một tân tòng người da đen. Anh có lòng tin Chúa và siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày. Nhưng anh bạn thân của anh tên là GION thì lại không tin Chúa. Khi gặp Tom, anh ta thường khích bác đức tin của Tom và coi Tom là một kẻ mê tín. Một hôm Tom đang vác một bao khoai mì khá nặng từ cánh đồng trở về nhà, thì gặp Gion đang ngồi chờ bên vệ đường. Thấy Tom vác nặng mồ hôi chảy ra nhễ nhãi, Gion liền lên tiếng diễu cợt: "Này Tom, anh tin Chúa mà sao Chúa lại để anh vất vả quá như thế ?" Tom không trả lời và tiếp tục bước đi. Được thể, Gion lẽo đẽo theo sau và tiếp tục nói những lời khích bác về đạo. Đi được một quãng, Tom đã cố ý buông tay cho bao khoai sau lưng anh rơi xuống đất. Sau đó anh quay lại nhặt lên và nói với Gion: "Tôi cũng xin hỏi anh: "Làm sao tôi biết được bao khoai sau lưng mình bị rơi, khi mắt tôi không thấy nó rơi ?". Gion liền đáp: "Đương nhiên là anh phải biết nó rơi rồi, vì anh cảm thấy gánh nặng trên vai anh biến mất ?" Bấy giờ Tom liền giải thích cho Gion hiểu lý do theo đạo của mình như sau: "Tôi đồng ý với anh là bao khoai tôi đang vác mà bị rơi xuống thì đương nhiên tôi phải biết, vì tôi thấy gánh nặng trên vai đột nhiên biến mất và tôi thấy nhẹ mình. Về đức tin cũng vậy: Trước đây, tôi luôn cảm thấy buồn rầu lo lắng về những tội lỗi trong quá khứ, và không lúc nào tâm hồn tôi được bình an. Nhưng từ ngày theo đạo, tôi đã gặp được Chúa Giê-su. Mỗi lần tham dự thánh lễ, tôi được nghe Lời Chúa an ủi và lời giảng của vị linh mục giúp tôi hiểu thêm về lòng thương xót của Chúa, về ý nghĩa những đau khổ tôi gặp phải và về giá trị công việc lao động tôi đang làm... Khi đến nhà thờ, tôi cảm thấy bao nhiêu gánh nặng lo âu phiền muộn đều biến mất. Hiện nay tôi cảm thấy tâm hồn thật bình an hạnh phúc. Mặc dù vẫn phải làm việc để kiếm sống, vẫn gặp phải những điều rủi ro tai nạn trái với ý muốn, nhưng tôi luôn an tâm và sẵn sàng chấp nhận chúng giống như tôi đang vác cây thập giá mình mà theo chân Chúa vậy. Chính đức tin đã giúp tôi nhận ra Chúa Giê-su sống trong tôi và tôi cảm thấy rất vui khi có Chúa đồng hành, cùng chia sẻ vui buồn với tôi. Đó chính là lý do khiến tôi theo đạo và tôi thề quyết trung thành theo Chúa đến cùng".

Tom đã cảm nghiệm được lời Đức Giê-su hôm nay: "Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng... Và tâm hồn anh em sẽ được bình an" (Mt 11,28-29).

3. SUY NIỆM:

1) THẾ NÀO LÀ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG ?:

- Hiền hậu hay hiền lành là thái độ của một người tốt lành, giàu lòng từ bi nhân ái, có lòng thương xót và thích làm điều tốt cho kẻ khác. Hiền hậu theo Kinh Thánh còn có nghĩa là thái độ hiền dịu, không cứng cỏi... Như vậy hiền hậu vừa có bên trong lại vừa phát xuất bên ngoài. Trong lòng thì từ bi, khoan dung, độ lượng, cảm thông. Bên ngoài thì nhẹ nhàng, từ tốn nhỏ nhẹ, không thô bạo, không gây thù chuốc oán với ai...

- Trong đời sống thường ngày, những người có quyền thường đi đôi với tính tự cao tự đại, không muốn ai làm trái ý của mình nên nét mặt thường cau có, hay la mắng người dưới làm trái ý mình, có khi còn "giận cá chém thớt" nữa.  Trong thực tế, một vài câu nói thường hay được nhiều người nhắc lại như: "No mất ngon, giận mất khôn", và "Nóng tính hỏng việc".

- Khiêm nhường là thái độ nhún nhường không thích khoe khoang thành tích, luôn sẵn sàng hạ mình một chút.  Căn bản của khiêm nhường là tôn trọng sự thật về mình: nhận thức đúng mình là người xấu tốt như thế nào để không muốn nổi trội hơn người khác. Giả như người khác có coi thương mình thì cũng không tức giận trả thù. Nhờ "biết mình biết người" như vậy nên người khiêm nhường sẽ luôn thành công trong mọi việc., sẽ không cảm thấy quá buồn phiền chán nản khi sự thể xảy ra không như ý của mình. Người khiêm nhường dễ gây được thiện cảm với người khác và nhận được sự hợp tác của nhiều người. 

2) HÃY HỌC VỚI TÔI SỰ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG TRONG LÒNG:

- Đức Giê-su mời gọi chúng ta hãy học tập với Người về "lòng hiền hậu và khiêm nhường". Để tâm hồn chúng ta sẽ được hưởng sự bình an thư thái. Cần loại bỏ thái độ tự mãn về sự khôn ngoan thông thái của mình, để mặc lấy cách suy nghĩ đơn sơ trung thực của trẻ thơ. Bấy giờ chúng ta sẽ được Đức Giê-su mặc khải những mầu nhiệm của Thiên Chúa (x. Mt 11,25-27). Thánh Au-gút-ti-nô nói: "Ở đâu có khiêm nhường, ở đó có bác ái".

- Văn hào Nga TÔN-TOI (Tolstoi) đã kể một câu chuyện ngụ ngôn cho thấy sự hiền lành là nguyên nhân của niềm vui và hạnh phúc như sau: Một hôm sói hỏi sóc nâu: "Tại sao họ sóc nhà mi luôn vui vẻ nhảy nhót, còn bọn sói chúng ta lại luôn ủ rũ buồn rầu vậy?" Sóc liền trả lời rằng: "Ông buồn rầu vì trong lòng ông chứa đầy sự độc ác. Chính sự độc ác ấy đã bóp nghẹt trái tim ông, không cho ông được an bình hạnh phúc. Còn sở dĩ lũ sóc chúng tôi luôn vui vẻ vì chúng tôi hiền lành, không làm hại ai cả".

- Một câu chuyện khác về một con nhái bén kiêu căng: Ngày nọ một con nhái bến kiêu căng lên tiếng thách đấu với một con bò mộng. Nhái ta cố phình bụng sao cho to hơn bụng con bò. Nhưng to đâu không thấy, chỉ thấy con nhái bén kiêu căng kia đã bị nổ bụng chết thảm. Câu chuyện nhái bén này dạy loài người chúng ta bài học như sau: "Đừng trèo cao để khỏi bị té đau", đừng "xưng hùng xưng bá" khi không có thực tài: "Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần". Người xưa cũng có câu: "Cao nhân tất hữu cao nhân trị" (Một người tài giỏi chắc sẽ có người khác tài giỏi hơn đánh bại mình).

3) ỨNG XỬ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG: Trong cuộc sống, mỗi tín hữu chúng ta hãy quyết tâm ứng xử hiền lành khiêm nhường cụ thể như sau:

a) Nhẫn nhịn chịu đựng: Kềm chế cơn giận khi bị kẻ khác khinh thường chơi xấu noi gương Đức Giê-su đã không trừng phạt dân làng Sa-ma-ri không tiếp đón Người và các môn đệ vào ở trọ trong làng của họ. Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an đã tỏ thái độ tức giận và thưa với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không? " Nhưng Người quay lại quở mắng các ông: "Anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào. Vì Con Người không đến để làm cho người ta mất mạng, nhưng là để  cứu mạng". Rồi thầy trò đi sang làng khác (x. Lc 9,53-56).

b) Không khoa trương công đức trước mặt người đời để tìm tiếng khen (x. Mt 6,1-4). Tránh tình trạng "thùng rỗng kêu to"; "Làm láo báo cáo hay". Bệnh thành tích làm cho người ta dễ che đậy cái xấu và gian dối phóng đại điều tốt để được khen thưởng.

c) Sẵn sàng tha thứ vô điều kiện: Đức Giê-su đã dạy: "Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính" (x. Mt 5,43-45). Trong kinh Lạy Cha Người cũng dạy chúng ta cầu nguyện: "Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con" (Mt 6,12).

d) Cần sớm hòa giải với tha nhân trước khi dâng của lễ: "Vậy nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lài đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 5,23-24).

e) Sắn sàng phục vụ hơn là được phục vụ (x. Mt 20,28): Đức Giê-su đã rửa chân cho môn đệ trước khi dạy các ông bài học khiêm nhường (x. Ga 13,14);

g) Yêu kẻ thù và làm ơn cho những kẻ thù ghét bách hại mình (x. Mt 5,39-42): Trên thập giá, Đức Giê-su im lặng chịu đựng sự sỉ nhục và xin Chúa Cha tha cho những kẻ hành hạ mình (x. Lc 23,34)...

4) PHÚC THAY AI XÂY DỰNG HÒA BÌNH: Trong bài giảng "Tám mối phúc thật" , Đức Giê-su đã khẳng định: Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp". "Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5,4.10).  Sự hiền lành sẽ làm cho chúng ta được vào Nước Trời của Đức Giê-su và nếu biết xây dựng hòa bình trong môi trường sống và làm việc của mình, chúng ta sẽ xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa.

Tuy nhiên, sự hiền lành nơi Đức Giê-su không phải là nhu nhược thụ động, không đồng nghĩa với ba phải và bất nhất ... nhưng luôn ăn ở công minh chính trực, từ bi nhân ái, thể hiện qua thái độ ứng xử với tha nhân như sau:

a) Tránh xét đoán ý trái cho kẻ khác: và luôn tỏ lòng nhân từ với các tội nhân noi gương Đức Giê-su xưa đã nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình rằng: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa !" (Ga 8,11b).

b) Hiền lành nhưng cương quyết: Không thỏa hiệp với cái xấu như Người đã trách Phê-rô khi ông can trách Người đừng đi con đường qua đau khổ vào vinh quang như sau: "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mt 16,23). Đức Giê-su quát mắng ma quỷ: "Xa-tan kia, xéo đi ! Vì đã có lời chép: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi" (Mt 4,10).

c) Nặng lời khiển trách bọn đạo đức giả: "Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào" ... " Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các ngươi trốn đâu cho khỏi hình phạt hỏa ngục?" (Mt 23,13.33).

d) Dùng biện pháp mạnh khi cần: Người dùng dây thừng làm roi đuổi tất cả những người đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. Rồi Người bảo họ: "Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp" (Mt 21,12-13).

e) Lý phải nhân tâm phục: Đức Giê-su đã hạch lại kẻ đã vả mặt Người như sau: "Nếu tôi nói sai, hãy chứng minh xem sai chỗ nào. Còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi ?" (Ga 18,22-24).

TÓM LẠI: Tất cả những điều tốt đẹp nói trên của Đức Giê-su đã được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong KINH HÒA BÌNH. Nếu mỗi tín hữu chúng ta biết năng đọc và áp dụng thực hành theo các nguyên tắc ứng xử trong Kinh Hòa Bình này thì chúng ta sẽ nên giống Đức Giê-su và sẽ tích cực góp phần trong sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.

    4. THẢO LUẬN:

1) Sự hiền lành giống và khác với sự nhu nhược và ba phải thế nào ?

2) Có người nghĩ rằng: không thể áp dụng lời Đức Giê-su dạy: "Đừng chống cự người ác" (Mt 5,39), vì kẻ ác sẽ "được đàng chân, lân đàng đầu". Bạn có đồng ý với quan điểm ấy hay không ? Tại sao ?

3) Bạn cần làm gì cụ thể để trở nên hiền lành và khiêm nhường noi gương Đức Giê-su ?

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA. Xin cho chúng con quyết tâm học tập theo Chúa nhân đức hiền lành và khiêm nhường trong lòng, noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa. Xin cho chúng con trước khi nhắm mắt từ giã cuộc đời, có thể nói được như mục sư Mác-tin Lu-thơ Kinh (Martin Luther Kinh) rằng: "Tôi rất hãnh diện nếu ngày tôi qua đời, ai đó sẽ kể lại rằng: Mác-tin Lu-thơ Kinh là người đã cố gắng sống vì yêu thương. Ngày đó tôi mong muốn các bạn sẽ nói rằng tôi đã sống cho công lý, tôi đã dấn thân để đem lại cơm bánh cho những người đói khổ, tôi đã luôn cho kẻ đói rách được ăn mặc. Tôi mong rằng ngày đó các bạn sẽ nói rằng tôi đã dấn thân đến thăm những người tù tội, và yêu thương phục vụ hết mọi người như lời Chúa dạy... Còn tất cả những thứ khác, như giàu có, danh dự, giải No-ben hòa bình ... đều không đáng kể".

LẠY CHÚA. Chúng con đã được Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Chúa đã phú ban cho chúng con một trái tim biết yêu thương. Xin cho chúng con luôn tìm kiếm Chúa là nguồn hạnh phúc thật của đời con. Xin cho con biết ăn ở khiêm nhường và phục vụ Chúa trong những người cô đơn nghèo khổ và bệnh tật yếu đuối đang sống bên cạnh chúng con".

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.  - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH -  HHTM

---------------------------------

 

TN 14-A81:  DIỆU HIỀN


Mt 11, 25 – 30

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Truyện kể: Thánh Jean Vianney, lúc còn là chủng sinh học hành rất chậm. Ngày kia, một giáo sư : TN 14-A81


Truyện kể: Thánh Jean Vianney, lúc còn là chủng sinh học hành rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học thừa lệnh Đức giám mục, đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục không. Vianney không thể trả lời xuông sẻ câu hỏi nào cả. Vị giáo sư nổi nóng đập bàn nói: Vianney, anh dốt đặc như con lừa. Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì? Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: Thưa Thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương con lừa mà đánh bại 3 ngàn quân Philistin. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?

Sách tiên tri Giacaria được xếp vào áp cuối của bộ sách Cựu Ước. Giacaria sinh sống tại Giêrusalem và thi hành sứ vụ tiên tri vào khoảng năm 520-518 trước Công nguyên. Với việc lên ngôi của Zerubbabel, dòng dõi vua Đavid, Thiên Chúa khai mở triều đại mới trong vinh quang và sang giầu cho Giêrusalem. Thiên Chúa muốn Zerubbabel và Joshua xây dựng lại Đền Thờ và lập lại hàng giáo sĩ giữ việc thờ phượng và dâng hương tại đó. Giacaria cũng là một trong những người Do-thái bị lưu đầy được trở về Giêrusalem. Ông cùng được dự phần trong nhóm các tiên tri Do-thái. Ông phấn chấn lòng dân về tin mừng của Đấng cứu độ: Đây Chúa phán: Hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng: Nầy vua ngươi đến với ngươi. Người là Đấng công chính và là Đấng cứu độ. Người khiêm tốn ngồi trên lừa con của lừa mẹ (Zach 9, 9). Tiên báo về Đấng công chính ngồi trên lưng lừa con bước vào thành thánh Giêrusalem với lời tung hô vạn tuế. Con cái Sion tung hô nhảy mừng ca hát: Vạn tuế, tung hô Đấng nhân danh Chúa mà đến.

Người đời hãnh diện với danh vọng và quyền lực để cai trị nhân dân. Có nhiều người tự cao tự đại làm như họ sở hữu mọi gia sản trên đời. Sự khôn ngoan, tài trí, sức mạnh và cả sự sống đều là ân huệ được trao ban. Mỗi người có khả năng để phát triển tất cả kho tàng qúi báu được ẩn dấu và phú bẩm. Không có sự gì chúng ta sở hữu mà không do ơn trên ban cho. Cho dù có thông giỏi, quyền thế và uy lực, con người cũng không thể hiểu thấu chính mình và vũ trụ chung quanh. Chúa Giêsu Đấng trung gian vạn vật đã lên tiếng nói rằng: Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã dấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn (Mt 11, 25). Thiên Chúa mạc khải nước trời cho những tâm hồn đơn sơ và chân thành. Không phải cứ thông minh hiền triết là nắm giữ được chìa khóa của sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan gắn liền với sự đơn sơ khiêm tốn.

Sau khi chịu chức linh mục, cha Jean Vianney vì nổi tiếng nhân đức, giáo dân các giáo họ lân cận tuôn đến tham dự thánh lễ, nghe giảng và xưng tội. Một cha sở kia tức giận vì tín hữu bỏ mình đến với cha Vianney. Ông cha này đã viết thơ nhục mạ cha Vianney. Cha Vianney nhận thơ, vội tìm tới xin cha sở kia tha lỗi và khẩn khoản xin cha sở kia giúp trình Đức giám mục đổi Vianney đi vùng khác hay tốt hơn cho nhập dòng nào đó để khỏi làm phiền các cha lân cận. Trước thái độ khiêm hạ đó, cha sở kia quì mọp xuống xin lỗi và từ đó chọn cha Vianney là cha linh hướng.

Hãy tìm học với Chúa Kitô: Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an (Mt 11, 29). Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa toàn năng toàn mỹ. Chúa cư ngụ giữa xã hội con người đầy tội lỗi, yếu đuối và mỏng dòn. Dù tình trạng con người xấu xa đến mức nào đi nữa, Chúa vẫn yêu thương, chữa lành và cứu độ. Chúa không loại trừ sự dơ dáy tanh hôi của bệnh tật và tội lỗi. Một Thiên Chúa tốt lành vô cùng lại phải đối đầu với sự tà tâm của con người. Chúa đã nhiều lần tranh luận, thuyết phục, răn dậy, sửa sai, hướng dẫn và dậy dỗ cả các Thượng tế, Tư tế, Biệt Phái, Luật sĩ, các Đầu mục các phái, các vị lãnh đạo và toàn dân. Với lòng thương xót tuyệt đối, ánh sáng của Chúa chiếu dọi vào từng tâm hồn. Chúa muốn chúng ta hãy học nơi Chúa sự dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng.

Trong khi loài người, gọi là đồng loại, thì phân biệt và cách biệt. Phân biệt chủng tộc, tôn giáo, văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống, mầu da, sắc tộc, giầu nghèo, học thức, chức vị và muôn ngàn cách thế dị biệt. Hình như nhiều người luôn tìm cách đánh giá sự hơn thua và vinh nhục ở đời như là cùng đích. Dân tộc nào cũng muốn trội hơn. Người nào cũng muốn khoe tài, khoe của. Đâu mấy ai khoe sự khó nghèo, khiêm nhường hay hiền lành. Nếu cứ mải mê chạy đua tìm kiếm những triều thiên giả tạo, chúng ta sẽ bị chìm đắm trong vòng xoáy tục lụy trần đời. Biết rằng, sống là phải vươn lên và phấn đấu không ngừng. Cho dù đứng trong bất cứ địa vị nào trong xã hội, chúng ta cũng chỉ là một con người đầy khuyết điểm và yếu đuối. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đấng kế vị thánh Phêrô, đã tiếp nhận được bài học qúi giá của sự dịu hiền và khiêm hạ. Từng việc cụ thể ngài thực hiện trong những ngày tháng qua đã làm nổi bật sứ vụ của đấng thay mặt Chúa. Đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ.

Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt đối cho mọi người trong mọi thời. Là môn đệ của Chúa, chúng ta cần suy tư sâu lắng tất cả những lời chỉ dậy và hành động gương sáng của Chúa. Chúa giảng về sự tha thứ, thương xót, bác ái, khó nghèo, trong sạch, hiền lành, khiêm nhường, chịu đựng, hy sinh và ngay cả chết cho bạn hữu. Chúa đã giảng và đã thực hành. Trong khi chúng ta thích khoe mẽ, nói nhiều mà chẳng muốn áp dụng. Lời nói chẳng đi đôi với việc làm, đôi khi còn ngược lại, nói một đường, làm một nẻo. Khuyên dậy, giảng giải, trình bầy và thuyết phục điều hay lẽ phải thì ai cũng có thể làm được, nhưng thực hành những điều này cần có một ý chí và quyết tâm cao. Thực hành sống đạo cũng thế, chúng ta cần có thái độ chọn lựa dứt khoát bước theo lề phải. Tu thân tích đức từng bước mỗi ngày. Các thói quen tốt lành sẽ trở thành các nhân đức. Nhân đức dẫn chúng ta tiến gần trên con đường trọn lành.

Thánh Phaolô khuyên dậy: Vì chưng, nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được các hành động thân xác, thì anh em sẽ được sống (Rm 8, 13). Thân xác con người vốn có bản năng yếu đuối. Các cơn cám dỗ luôn rình rập kéo lôi chúng ta trở lại tình trạng man rợ xa Chúa. Nhờ thần trí hướng dẫn, chúng ta có thể thắng vượt những cạm bẫy giăng mắc quanh môi trường cuộc sống. Xác thịt thì nặng nề yếu đuối nhưng thần trí cần phải dũng mạnh và cương trực. Thân xác là máng chuyển các ơn huệ vào tâm hồn. Chúng ta cần bồi dưỡng sức mạnh cho cả xác lẫn hồn để có hồn trong, xác mạnh. Sứ mệnh và cùng đích của toàn diện cuộc sống con người là sự sống viên mãn ngày sau.

Lạy Chúa, dòng nước sẽ tuôn chảy về chỗ thấp trũng. Ơn sủng của Chúa cũng tuôn đổ vào những tâm hồn biết khiêm nhượng đón nhận. Xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân của Chúa.

---------------------------------

 

TN 14-A82: NGƯỜI BÉ MỌN CỦA TIN MỪNG


Mt 11, 25 – 30

Lm Trần Thanh Sơn

 

Tin mừng Chúa Nhật 13 vừa qua, Đức Giêsu đã cho chúng ta thấy cách Thiên Chúa đánh giá các: TN 14-A82


Tin mừng Chúa Nhật 13 vừa qua, Đức Giêsu đã cho chúng ta thấy cách Thiên Chúa đánh giá các sự việc. Ngài không có những hứa hẹn bên ngoài, cũng không đánh giá trị của chúng ta dựa vào khối lượng công việc mà chúng ta thực hiện, cho bằng dựa vào động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu đó là một lý do tốt thì dù công việc bé nhỏ cũng có giá trị và được trả công xứng đáng.

Lời Chúa hôm nay tiếp tục cho chúng ta thấy một nghịch lý nhưng không vô lý của Tin mừng: đó là việc Chúa Cha mạc khải chân lý cho những người bé mọn nhưng lại giấu đối với những người hiền triết và khôn ngoan, hay nói đúng hơn, đối với những người tự cho mình là hiền triết và khôn ngoan (x. Mt 11, 25). Nhưng ai là người bé mọn mà Tin mừng muốn nói đến hôm nay?

1. Người bé mọn theo Tin mừng:Để có thể nhận ra ai là người bé mọn được mạc khải Tin mừng, chúng ta có thể điểm qua danh sách các môn đệ của Đức Giêsu, bởi họ chính là những người được mạc khải Tin mừng Nước Thiên Chúa cách rõ ràng nhất. Trong đó, chúng ta thấy có Phêrô và các bạn là những ngư phủ thất học như cái nhìn của người Do thái, có Matthêu, một quan chức nhà nước làm nghề thu thuế, một người tội lỗi theo cái nhìn của người Do Thái. Rồi sau này còn có cả Phaolô, một người Biệt Phái, dòng dõi quý phái, học trò của Rabbi Gamaliel nổi tiếng (x. Pl 3, 5). Như thế, các môn đệ của Đức Giêsu gồm đủ mọi hạng người. Điều đó, cho thấy Ngài không hề từ chối bất cứ một người nào đến với Ngài, dù đó là nam hay nữ, già hay trẻ, tầng lớp lao động hay trí thức, công chính hay tội lỗi. Nhưng chỉ cần họ sẵn sàng mở lòng là họ sẽ đón nhận được lời Đức Giêsu rao giảng.

Như thế, chúng ta có thể có một khái niệm sơ khởi về hình ảnh người bé mọn mà Đức Giêsu đề cập tới trong bài Tin mừng hôm nay. Người bé mọn không dựa vào trọng lượng cơ thể, cũng không dựa vào tuổi tác hay trình độ văn hoá, nhưng là dựa vào cách sống và cách mỗi người đón nhận sự việc.

Trước hết, người bé mọn là người không sống theo xác thịt, nhưng luôn sống theo Thánh Thần (x. Rm 8, 9). Trong cuộc sống hiện nay, do ảnh hưởng bởi chủ nghĩa thực dụng, đứng trước mỗi việc, chúng ta thường lý luận và tìm cách giải quyết theo khả năng của mình và khi có kết quả, chúng ta mặc nhiên coi đó là do sự tài giỏi của mình. Nhưng thực tế, không phải là như thế, trong thư gởi tín hữu thành Corinhtô, thánh Phaolô đã từng nói: "Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?" (2 Cr 4, 7), nghĩa là mọi sự chúng ta có đều do bởi ơn Chúa. Thật vậy, có ai trong chúng ta đây có thể tự tạo ra mạng sống và trí khôn cho mình đâu. Tất cả những gì chúng ta có đều được nhận lãnh.

Thật vậy, giống như một cái ly đầy nước thì không thể đổ thêm vào được, một người nghĩ rằng mình đã đầy đủ rồi thì không thể tiếp nhận thêm bất cứ điều gì. Người ta chỉ có thể đón nhận cái gì mà mình còn thiếu, chưa có. Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Trẻ em luôn thắc mắc vì em chưa biết nhiều. Do đó, các em dễ học được nhiều cái mới hơn người lớn. Người lớn ít thắc mắc vì hai lý do: một là đã biết rồi; hai là vì tự ái sợ người khác cho rằng mình dốt nên không dám hỏi (nhưng chúng ta quên một điều: nếu hỏi chỉ mang tiếng dốt một lần thôi, còn nếu như không hỏi sẽ dốt suốt đời), nên cũng khó đón nhận những thay đổi, những suy nghĩ khác với suy nghĩ của mình. Như thế, một cách nào đó, trẻ em chính là người bé mọn, còn người lớn là những người hiền triết và khôn ngoan. Hiểu như thế, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa không hề có thái độ kỳ thị, mạc khải cho người này, bỏ người khác, nhưng là do con người có muốn mở lòng mình ra để đón nhận mạc khải hay không.

Kế đến, người bé mọn là người không kiêu căng, hợm hĩnh nhưng là người tác tạo hoà bình. Ngôn sứ Zacharia trong bài đọc một đã mô tả về Đấng Messia của Thiên Chúa với những lời lẽ hết sức nhẹ nhàng như sau: "Nầy vua ngươi đến với ngươi... Người khiêm tốn ngồi trên con của lừa mẹ.. Người đã loại bỏ các chiến xa khỏi Ephraim và ngựa Giêrusalem. Cung tên chiến trận sẽ được phá huỷ. Người công bố hoà bình cho các dân tộc." (x. Dcr 9, 9-10). Thế đó, một vị vua không ngồi trên lưng con Thiên lý mã bách chiến, bách thắng, nhưng là cỡi trên con lừa con. Một vị vua không xây thành đắp lũy, nhưng lại loại bỏ chiến xa, phá huỷ cung tên; không gây chiến, nhưng công bố hoà bình. Một vị vua sống tinh thần bé mọn, cũng là vị vua luôn tìm cách tạo dựng bình an.

Tóm lại, người bé mọn theo Tin mừng là người nhận ra sự thiếu thốn của mình và luôn biết mở lòng để đón nhận người khác, biết tác tạo hoà bình trong đời sống. Những người như thế sẽ đón nhận được mạc khải của Nước Thiên Chúa.

Quy chiếu với đòi hỏi của Tin mừng, tôi và quý vị đang là hạng người nào? Chúng ta là những người hiền triết và khôn ngoan hay là người bé mọn? Đây là câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự trả lời trước mặt Chúa, nếu muốn đón nhận được mạc khải Nước Trời.

2. Gia đình sống tinh thần bé mọn:

Trong đời sống gia đình, nếu cả hai vợ chồng đều ý thức biết sống tinh thần bé mọn của Tin mừng, nghĩa là cả hai vợ chồng đều ý thức rằng mọi sự không do bởi mình, hơn nữa, mình còn phải đón nhận rất nhiều từ nơi người bạn của mình, cụ thể như: người chồng cần hiểu rằng nếu không có một người vợ tần tảo ở nhà thì tất cả những gì mình làm ra sẽ có thể không cánh mà bay; còn người vợ cũng cần ý thức: nếu không có bàn tay người chồng thì mình cũng chẳng có gì để mà tần tảo, tiết kiệm hay nói theo cách nói của cha ông chúng ta, cả hai vợ chồng cần nhớ rằng: "của chồng, công vợ". Đồng thời, luôn ý thức nhường nhịn, sống hiền lành, tạo bầu khí bình an trong gia đình theo gương Chúa Giêsu, thì ắt hẳn mầu nhiệm hạnh phúc gia đình theo tinh thần Tin mừng cũng sẽ được mạc khải cho từng người chúng ta.

Tương tự như thế, sống trong cộng đoàn, không ai trong chúng ta có thể tự lo cho mình hết mọi việc. Chúng ta cần thợ để hớt tóc, may đồ; cần có bác sĩ để chữa bệnh, cần anh công nhân làm ra các sản phẩm sử dụng mỗi ngày; cần người đánh cá, cần người quét đường... Tóm lại, không ai trong chúng ta có thể sống cho riêng mình, nhưng cần khiêm tốn, nhận ra sự thiếu thốn của mình để đón nhận người khác, và tích cực góp sức mình để xây dựng và làm phát triển cộng đoàn.

Còn ngược lại, nếu chúng ta tự cho mình là "hiền triết khôn ngoan", nghĩa là đầy đủ, không cần đón nhận ai nữa. Chắc hẳn mầu nhiệm về hạnh phúc gia đình, về bình an trong cộng đoàn cũng sẽ bị giấu kín đối với chúng ta.Giờ đây, bí tích Thánh Thể sắp cử hành trên bàn thờ đây cũng là một mầu nhiệm của Thiên Chúa, chúng ta hãy mở rộng lòng trong tâm tình của những người con bé nhỏ, sẵn sàng đón nhận Ngài ngự vào tâm hồn mình. Nhờ đó, mỗi người chúng ta được thêm ân sủng để có thể ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa nhiều hơn. Amen.

---------------------------------

 

TN 14-A83: BÉ MỌN THÔI CHƯA ĐỦ


Mt 11, 25 - 30
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb


 

Hành trình rao giảng Tin mừng của Chúa Giêsu cũng trải qua lắm nổi truân chuyên, nhiều thành: TN 14-A83


Hành trình rao giảng Tin mừng của Chúa Giêsu cũng trải qua lắm nổi truân chuyên, nhiều thành công nhưng cũng không thiếu sự thất bại bởi sự cứng lòng của con người. Nhìn lại hành trình đã qua, Chúa Giêsu nhận thấy rằng thì ra sự khôn khoan thông thái của Chúa Cha dường như "chỉ dành riêng" cho những con người bé mọn hơn là cho những kẻ tự nhận mình là uyên bác, thông thái. Lời kinh tạ ơn của Chúa Giêsu không ngoài việc chúc tụng tôn vinh công trình kỳ diệu mà Chúa Cha đang thực hiện mà còn là một lời mời gọi những ai được Cha ưu ái thương yêu hãy đồng hành với Người, chia sẻ với Người và cùng gánh lấy "ách êm ái, nhẹ nhàng của sự hiền hậu và khiêm nhường" nơi Người.

Lời kinh tạ ơn của Chúa Giêsu xem ra chẳng "ăn nhập" gì với những thất bại mà Người gặp phải trên đường rao giảng Tin mừng. Bởi ngay lúc Chúa Giêsu quở trách các dân thành cứng lòng tin, chứng kiến hầu hết các phép lạ Người thực hiện nhưng vẫn không chịu sám hối ăn năn (x. Mt 11, 20-24), Người lại dâng lời tạ ơn Chúa Cha. Vâng, Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha, bởi trong chính sự thất bại, Người khám phá ra chân lý, rằng tất cả sự thành công hay thất bại đều không nằm ngoài thánh ý của Cha Người. Không chỉ có thế, Chúa Giêsu còn thấy rằng mầu nhiệm cứu độ mà Người đang loan báo nếu chỉ thất bại trước những con người tự cho mình là khôn ngoan thông thái - những người tự cho rằng họ nắm giữ toàn quyền chìa khoá sự hiểu biết, túi khôn nhân loại; thì nay, mầu nhiệm đó lại được mở toang cho số đông những con người bé mọn, những kẻ khiêm nhường, hiền hoà nhân hậu, những con người có tâm hồn đơn sơ khó nghèo.

Thật ra trong lịch sử dân thánh, chúng ta chứng kiến nhiều trường hợp Thiên Chúa mạc khải sự khôn ngoan của mình cho những kẻ bé mọn. Một Samuel bé thơ, nhưng lời nói của em về việc Giavê Thiên Chúa trừng phạt gia tộc tư tế Hêli đã làm cho Hêli thốt lên : "Người là Giavê, xin Người cứ làm điều Người cho là tốt" (x. 1 Sm3, 1-18); một cậu bé Đavít còm cõi, tóc cháy xém vì nắng do phải chăn chiên ngoài đồng, lại được Giavê Thiên Chúa cất nhắc làm vua một dân tộc vĩ đại và là dòng dõi xuất thân của Đấng Mêsia (x. 1 Sm 16); và một Đaniel và các bạn là Khanania, Misael va Adaria được Giavê Thiên Chúa "ban ơn hiểu rộng biết nhiều về tất cả chữ nghĩa và lẽ khôn ngoan" (Đn 1, 17) để đương đầu với vua chúa và các vị bô lão trong dân vốn được xem là thông thái khôn ngoan (x. Đn 2.13). Thế nên, lời chúc tụng tạ ơn của Chúa Giêsu về điều mà Cha Người đã che giấu đối với những kẻ tự cao tự đại, nhưng lại mạc khải cho những kẻ đơn sơ bé mọn quả là chính đáng và phải lẽ. Bởi Chúa Cha đáng được chúc tụng và tôn vinh về điều tưởng chừng không đáng gì để tụng ca, nhưng lại là điều vô cùng quan trọng với những ai hiểu được thánh ý Người.

Những kẻ bé mọn được Chúa Cha mạc khải sự khôn ngoan và mầu nhiệm nước trời thông qua người con chí ái là Chúa Giêsu. Thế nhưng bé mọn thôi chưa đủ, Chúa Giêsu còn mời gọi hết những ai được Chúa Cha yêu thương hãy đến với Người và học hỏi nơi Người về lòng hiền hậu và khiêm nhường. Họ sẽ được Người chia sẻ với gánh nặng thế trần, thay vào đó là ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Người.

Ach êm ái và gánh nhẹ nhàng của Chúa Giêsu không gì khác hơn chính là đạo lý, là giáo huấn và là chính con người Chúa Giêsu. Để có được ách và gánh đạo lý này, người theo Chúa Giêsu cần phải học cho được thế nào là khiêm nhường và hiền hậu từ nơi Người. Hiền hậu là khiêm nhường là hai thái độ sống căn bản, là chìa khoá của mọi nhân đức, là điểm nối kết tình yêu giữa hai tâm hồn luôn hướng về nhau.

Khiêm nhường là biết mình. Biết mình thân phận mỏng dòn, yếu đuối, dễ sa ngã; biết mình cần sự trợ giúp, cần được tôi luyện mỗi ngày; biết mình cần đến tình yêu, cần đến sự tha thứ và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Khiêm nhường đích thực luôn hướng về Thiên Chúa chứ không phải để "đánh bóng" bản thân mình.

Còn hiền hậu vốn được xem như thái độ hướng về tha nhân. Đó chính là thái độ nhẹ nhàng, khoan dung, độ lượng và nhân ái. Hoa quả của sự hiền hậu chính là không cứng rắn cọc cằn, không hằn học bon chen, không tranh chấp oán hờn, không lên án bạo động,... Chúa Giêsu chính là mẫu gương của sự hiền hậu đích thực và Người mời gọi chúng ta bước theo Người trên con đường này, nhờ đó nhân loại được Chúa chúc lành.

Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta sống lại lời kinh tạ ơn mà Chúa Giêsu đã cầu nguyện khi xưa để không ngừng tạ ơn Chúa Cha về muôn điều kỳ diệu Người đã tỏ hiện cho chúng ta - những Kytô hữu hèn mọn. Đồng thời cũng là lời thúc giục chúng ta dấn bước theo Chúa Giêsu trong khiêm nhường và hiền hậu để không ngừng sống cho Chúa và mưu ích cho tha nhân.


---------------------------------

 

TN 14-A84: MỐI LIÊN LẠC GIỮA TRỜI VÀ ĐẤT


Mt 11, 25 - 30
Br Nguyễn Kim Thanh, CMC


 

Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Sau khi chuẩn bị dụng cụ phẫu thuật: TN 14-A84


Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Sau khi chuẩn bị dụng cụ phẫu thuật đầy đủ, trước khi chính thức bắt tay vào việc. Bác sĩ nói với cháu bé:" Công việc làm cho cháu đầu tiên bây giờ là phải chích thuốc để cháu ngủ mê". Cháu gái dịu dàng thưa bác sỹ:" Cháu xin phép bác sỹ trước khi cháu đi ngủ, cháu cần ít phút cầu nguyện với Chúa của cháu, vì đây là thói quen mà má cháu đã dạy cháu phải cầu nguyện trước lúc đi ngủ". Thế rồi em bé quỳ gối lên, cầu nguyện một cách thật sốt sắng, cầu nguyện xong, em nói với bác sỹ:"Thưa bác sỹ, bây giờ cháu đi ngủ được rồi".

Sau đó, chính lúc em bé được giải phẫu thì vị bác sỹ cũng trong tư thế tâm sự và cầu nguyện với Thiên Chúa của ông, đây cũng là lần đầu tiên ông cầu nguyện sau hơn 30 năm tỏ ra lạnh nhạt và thờ ơ với Chúa chẳng khác một người vô đạo.

Cầu nguyện chính là sức mạnh, là mối giây liên lạc mật thiết giữa Thiên Chúa và chúng ta. Sự đơn sơ, chân thành qua việc cầu nguyện của cháu bé bệnh nhân đã không chỉ đem lại cho em niềm vững tin chịu đựng, chấp nhận đau khổ, mà còn phát sáng niềm tin, thu hút đánh động lòng người khác trở lại sau một thời gian dài" lãng quên" Thiên Chúa.

Kinh nguyện chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống Chúa Cứu Thế. Thánh Kinh đã nhiều lần ghi lại. Thánh sử Luca đề cập đến 11 lần. Thánh Matthêu kể đến 3 lần, Thánh Maccô và Gioan ghi lại 4 lần việc Chúa cầu nguyện. Nếu chúng ta so sánh việc cầu nguyện của Chúa Kitô với loài người chúng ta, thì có chút khác nhau. Khác nhau ở chỗ là khi Chúa cầu nguyện không có tâm tình sám hối, tâm tình nhận mình là hèn hạ, bất lực, vì Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa. Mà tâm tình cầu nguyện của Chúa là tạ ơn, ngợi khen qua công trình cứu độ của Ngài được uỷ thác bởi Chúa Cha.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy việc cầu nguyện của Chúa Kitô. Thánh Matthêu ghi lại thật chi tiết:" Vâng lạy Cha, ý Cha muốn như vậy, mọi sự đã được Cha trao phó cho Con, không ai biết Cha trừ ra Con, không ai biết Con trừ Cha và những kẻ Cha muốn mạc khải cho".

Chúa Giêsu ngước mặt lên trời và đối thoại với Cha trên trời. Một cuộc đối thoại thần linh giữa Cha và Con. Cha Con thật sự hiện diện, trao đổi, lắng nghe, luận bàn. So sánh cuộc sống thường hằng trong ngành bưu chính viễn thông, chúng ta thấy mỗi ngày, không biết cơ man nào là thư từ được gởi đi cũng như nhận vào. Những cuộc trao đổi chuyện trò trên điện thoại cũng như những hình thức khác qua mạng thông tin đã đem lại cho con người biết bao là tiện lợi. Trên lãnh vực tinh thần cũng thế, cầu nguyện chính là đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất. Nguyên nhân cầu nguyện chính là một nhu cầu, được phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa là chính. Cầu nguyện cũng đôi khi còn là một lời cầu cứu van xin. Hiệu quả sau khi cầu nguyện, người thành tâm sẽ có một tâm hồn an bình, biết tin tưởng và phó thác. Đôi lúc niềm đau và sự hụt hẫng vẫn còn trong thực tế, nhưng sau khi cầu nguyện họ sẽ trở nên kiên vững và biết chấp nhận. Giả sử như chúng ta vô ý, bất cẩn bị gãy chân trong tai nạn xe hơi, chúng ta rất lo lắng khi đang một mình trong hiện trường tai nạn. Sự đau đớn càng tăng khi nhận thấy máu chưa được cầm, có thể đưa đến mất mạng. Thế rồi sau khi được băng bó và chữa trị, chúng ta sẽ cảm thấy an tâm ngay khi biết sự thật tình trạng thương tích và nhất là sự còn sống của mình. Cầu nguyện cũng tương tự như thế, được Thiên Chúa quan tâm và cứu vớt khiến ta trở nên an tâm và tin tưởng.

Cầu nguyện còn là một mạc khải của trời cao. Mạc khải này chỉ phát đúng sóng và trao đúng nguồn cho ai muốn nhận. " Cha đã dấu những bậc khôn ngoan thông thái điều này, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha ( Mt 11,25-26 ).

" Kẻ bé mọn" chính là sắc phục riêng làm cho " Vị Chỉ Huy" của họ nhận ra họ trong trận chiến. Vậy kẻ bé mọn là ai?

Họ chính là những hạng đói khó được no đầy ơn phúc.
Họ là chú chiên đi lạc được chủ tìm về hội tụ với bầy đàn.
Họ là những diễn viên trên sân khấu trần gian, mà vai diễn của họ gắn liền với cuộc sống.

Đại diện họ là người mang tên Laziarô lở loét, đói meo, mon men đến bàn ăn của người phú hộ nhà giầu để được sự nguyền rủa, chửi mắng chứ đâu được no bụng dầu chỉ là xương thừa, canh cặn! Họ cũng còn là những người núp ẩn dưới hình ảnh người phụ nữ ngoại tình bị cộng đoàn lôi ra ngoài ném đá. Họ cũng là đứa con hoang đàng phung phá hết gia tài của cha già, nhưng đã biết hồi tâm, sám hối trở về với cha.Họ cũng là dáng dấp của kẻ tội lỗi nhưng sau khi nhận ra thì quyết tâm chừa cải như Madalena, như người trộm lành cùng đóng đinh với Đức Giêsu trên thập giá... Và còn rất nhiều những kẻ bé mọn khác chúng ta có thể gặp họ cách thường xuyên trong cuộc sống thường hằng. Nhưng, chỉ có điều chúng ta tìm gặp họ để làm gì?

Tìm gặp họ để chúng ta cảm thông như Đức Kitô đã cảm thông với người trộm lành trên thập tự giá.

Tìm gặp họ để cho họ thực sự trở về như trường hợp của ông Giakêu đã trở về với Chúa sau khi được Chúa đến nhà thăm ông.

Tìm gặp họ để họ được trở lại con đường ánh sáng mà họ đang tránh lẩn như trường hợp của ông Sao lô tức Thánh Phaolô trở lại sau này.

Tìm gặp họ ở những nơi, những chốn mà tình đời cũng như trường đời cho là trái nghịch, dở hơi. Đó lại là những yêu sách của tình yêu là đem yêu thương vào nơi oán thù, đem hoà bình vào nơi chinh chiến...

Tất cả những điều trên một khi nhận ra được tính xác thực của chúng qua cầu nguyện, Thiên Chúa sẽ tăng thiện chí cho những ai thành tâm, rồi cứ như cơn gió tạt vào đám cháy cũng sẽ thiêu rụi tất cả những phiền toái, những phức tạp, những nguy hiểm để thực hành đức ái. Người biết cầu nguyện cũng là người biết nhận ra tình yêu Thiên Chúa thể hiện qua cuộc sống thực tế thường ngày.

Chúng ta hãy cùng nhìn xem, một người bị cụt cả hai chân, hầu như cưa hết cả hai bắp đùi, hằng ngày ngồi trên một tấm gỗ, tấm gỗ này được đóng phía dưới năm bánh xe nhỏ. Phía trước mặt đặt một cái nón cói rách đang gò lưng bò về phía trước giữa phố chợ đông người hầu để kiếm sống qua ngày nhờ lòng hảo tâm bố thí của mọi người. Vậy mỗi khi gặp cảnh này, chúng ta có thái độ thế nào? Có khi nào chúng ta vẫn tỉnh bơ như không có gì xảy ra, vì chúng ta cho rằng đây là việc tất nhiên, xui ai, nấy chịu? Chúng ta chỉ có được sự thương cảm thật sự khi việc cầu nguyện giữa ta và Thiên Chúa gắn liền nhau cả trong tư tưởng và hành động.

Cầu nguyện là mối giây liên kết giữa Chúa và loài người. Thực hành cầu nguyện là loài người biết yêu thương nhau, chia sẻ và thông cảm cho nhau như chính Chúa đã làm cho loài người.

Lạy Mẹ Maria, chúng con khẩn nài Mẹ ban cho chúng con tình mến của Mẹ trong sự hợp nhất và mật thiết kết hợp với Thiên Chúa. Mẹ đã có một đời sống cầu nguyện vững vàng. Trái tim Mẹ luôn mãi thuộc về chỉ một mình Thiên Chúa. Và kết quả của sự cầu nguyện liên lỷ trong Mẹ là một hành trình đức ái yêu thương. Việc Mẹ đến thăm Bà Isave là một hiệu quả của cầu nguyện. Xin Mẹ ban cho chúng con mau chóng trở nên giống Mẹ trong cầu nguyện và thực hành việc cầu nguyện.


---------------------------------

 

TN 14-A85: SỐNG THEO TINH THẦN


Mt 11, 25 - 30
Lm Minh Vận, CMC


 

Có cặp vợ chồng trẻ kia thường hay gây lộn với nhau theo tính nóng nảy của bản năng tự nhiên: TN 14-A85


Có cặp vợ chồng trẻ kia thường hay gây lộn với nhau theo tính nóng nảy của bản năng tự nhiên. Một hôm, người vợ không còn cầm hãm được lòng tức bực muốn trả thù, nên cô ta đã lên xe hơi, rồ ga lái một vòng lả lướt trêu ngươi trước xe chồng, khiến anh ta nổi xung cũng rồ máy tông luôn vào xe vợ cho hả dạ. Thế là hai chiếc xe mới của vợ, cũ của chồng bị tan tành; đồng thời, chẳng may lại còn đâm luôn vào xe hơi của một ông bạn Mỹ ở nhà bên cạnh nữa. Kết quả, anh chồng bị cảnh sát tống giam và bị tòa kết án là tội cố sát.

I. SỐNG THEO XÁC THỊT SẼ PHẢI CHẾT


Theo y khoa ngày nay những người mắc các chứng bệnh sau đây: Nghiện thuốc hút bị ung thư phổi. Say sưa bia rượu nhậu nhẹt quá trớn bị bệnh đau dạ dầy, lở loét, hư thận, da vàng. Ăn đồ ngọt quá nhiều cũng bị bệnh tiểu đường. Nghiện xì ke ma túy sẽ bị bệnh thần kinh, khiến con người mất quân bình, mát mát, khùng khùng. Nóng giận khiến con người mất khôn, làm tan cửa nát nhà, gia đình ly tán. Dâm ô xác thịt mê đắm sinh bệnh Aids, là thứ bệnh ghê tởm vô phương chữa trị của thời đại hôm nay, chỉ còn đợi thần chết. Đó cũng là thứ tội dân thành Sodoma và Gomora xưa, bị Chúa sai Thiên Sứ khiến lửa bởi trời xuống thiêu rụi bọn họ. Đúng theo lời Thánh Phaolô: "Nếu anh em sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết" (Rom 8:13).

II. SỐNG THEO TINH THẦN SẼ ĐƯỌC VĨNH SINH


Còn chúng ta là con cái Chúa, Thánh Phaolô dạy: "Chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để sống theo tính hư nết xấu của xác thịt" (xem Rom 8). Nhưng: "Nhờ tinh thần, chúng ta đã giết chết được các hành động lố lăng của xác thịt, của đam mê, của thú tính và dục vọng lăng loàn" (xem Rom 13).

Thực nghiệm trong cuộc sống, nếu chúng ta được giải thoát khỏi những đam mê của thân xác, khỏi những ràng buộc của tội lỗi, khỏi những kìm hãm của dục vọng; chúng ta sẽ thấy lương tâm an vui, tâm hồn thoái mái; được hưởng an bình hạnh phúc và hoan lạc vô tận... tâm hồn chúng ta sẽ vươn lên cao cả, trải rộng bao la, hiếu hòa, an vui với mọi người.

Bao lâu bị những đam mê vây bọc, chúng ta thấy con người trở nên tối tăm, trí khôn ra u mê, lương tâm mất sáng suốt để phân biệt phải trái, khiến linh hồn trở thành nô lệ cho thân xác, thân xác trở thành bày tôi cho thú tính, thú tính xúi dục làm những điều xằng bật đồi tệ, mất hết cả nhân phẩm, hạ thấp và làm ô danh cho chức vị, tuổi tác... Vua Salomon là một vị vua được Chúa ban ơn khôn ngoan nhất trần gian đến nỗi đã được Chúa khen: "Chưa hề có ai được trí khôn ngoan như ông và sau này cũng sẽ không có ai hơn ông". Thế mà chỉ vì mê sắc dục, chiều theo thú tính, vua đã trở nên đồi bại, thờ ngẫu tượng, xúc phạm tới Thiên Chúa. Như vậy, cần phải thoát ly những đam mê thú tính, những dục vọng lăng loàn, chúng ta sẽ được tự do tận hưởng hạnh phúc chân thật của Chúa.

III. HẠNH PHÚC THẬT CỦA CON CÁI CHÚA


Là con cái yêu dấu, sống theo tinh thần Chúa, chúng ta sẽ thấy mình vượt lên trên trần thế, thưởng nếm được an bình hạnh phúc và hương vị siêu nhiên Thiên Đàng ngay trên trần gian này, vì chính Chúa sẽ ban cho chúng ta được hiểu biết và cảm nghiệm được chính Chúa là Nguồn Hạnh Phúc chân thật. Chúa Giêsu đã tỏ cho chúng ta thấy hạnh phúc cao cả vĩ đại đó qua lời nguyện Ngài dâng lên Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho những bậc hiền triết, khôn ngoan thông thái hiểu biết những mầu nhiệm đó, mà lại mặc khải cho những kẻ khiêm nhu bé mọn" (Mt 11:25).

Nhưng điều kiện để đạt được hạnh phúc đó, Chúa kêu gọi chúng ta: "Hãy đến với Cha, vì Cha nhân từ và khiêm nhu, các con sẽ được an bình tâm hồn" (Mt 11:29). Nhân từ và khiêm nhu là điều kiện Chúa đòi, để chúng ta được hưởng hạnh phúc chân thật. Nhân từ và khiêm nhu là bài học Chúa truyền chúng ta phải học nơi Chúa. Nếu bài học đó khó khăn, gương mẫu đó khó noi theo bắt chước thì Chúa mới kêu gọi chúng ta: "Hãy đến với Cha, hỡi các con là những kẻ gánh vác nặng nề, Cha sẽ bổ sức cho các con. Các con hãy mang lấy ách của Cha, hãy học cùng Cha vì Cha nhân từ và khiêm nhu thành tâm, rồi các con sẽ chiếm được sự an bình chân thật trong tâm hồn; vì ách của Cha thì êm ái và gánh của Cha thì nhẹ nhàng" (Mt 11:28-30). Nếu chúng ta biết học nơi Chúa bài học khiêm nhu và sống theo mẫu gương khiêm nhu của Chúa, chúng ta sẽ được nếm hưởng nguồn an bình hạnh phúc ngay trên trần gian này, và còn được sự sống đời đời trong hạnh phúc vĩnh cửu.

KẾT LUẬN


Xin Mẹ giúp chúng con biết học nơi Chúa bài học khiêm nhu và sống theo tinh thần khiêm nhu của Chúa như Mẹ, để Chúa cũng được hài lòng với chúng con như đã hài lòng với Mẹ, và được cùng Mẹ tận hưởng Chúa là chính nguồn hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu.

---------------------------------

 

TN 14-A86:  CHA ĐÃ MẶC KHẢI CHO KẺ BÉ MỌN


Mt 11, 25 – 30

L. M. Gioan Trần Khả

"Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những ngưòi hiền triết khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn."

 

Một nguời giầu kia luôn luôn đầy nỗi lo lắng. Tuy ông có tất cả mọi cái mà những nguời trên thế gian: TN 14-A86


Một nguời giầu kia luôn luôn đầy nỗi lo lắng. Tuy ông có tất cả mọi cái mà những nguời trên thế gian này muốn có, lòng của ông vẫn không đuợc vui. Ngược lại, ông có một nguời đầy tớ biết đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Một hôm, khi nguời đầy tớ này thấy chủ mình qúa lo lắng buồn rầu tuởng chừng chết đi được, anh liền đến nói với ông chủ, "Thưa ông, có phải Thiên Chúa đã là người cai quản cái thế giới này trước khi ông được sinh ra không ạ?"

"Đúng như thế!" Ông chủ đáp
.
Nguời đầy tớ lại hỏi tiếp, "Thưa ông, có phải chính Thiên Chúa sẽ tiếp tục cai quản thế giới này sau khi ông qua đi không ạ?"

Ông chủ lại trả lời, "Đúng như thế!"

Người đầy tớ hỏi lại, "Như vậy không lẽ không thể để cho Thiên Chúa cai quản cái thế giới này trong khi ông đang sống hay sao?" (Vaswani, "The Good You Do Return", 58).

Thánh Matthêu liệt kê thứ tự lời của Đức Giêsu trong bài phúc âm:

Ngợi khen Thiên Chúa Cha (25-26).

Nhận diện danh tánh cuả Đức Giêsu (27).

Lời kêu mời đến với Đức Giêsu (28-30).

 Ngợi Khen Thiên Chúa Cha

Bắt đầu bằng công thức cầu nguyện theo truyền thống của Do Thái giáo, Đức Giêsu ca ngợi Thiên Chúa Cha vì Ngài đã không tỏ lộ chân lý cho những nguời thông thái học cao hiểu rộng, nhưng cho những kẻ bé mọn, đơn sơ. Chính những nguời bình dân, bé mọn, đơn sơ, thiếu học thức lại là những nguời đã theo Đức Giêsu ngày này qua ngày khác để nghe những lời giảng dạy của Ngài. Họ đã nhận biết Đức Giêsu là ai để rồi đặt niềm tin tuởng nơi Ngài. Còn những nguời thông thái như Pharisiêu và các luật sỹ thì lại ngày đêm lo lắng bày mưu tìm kế bắt bẻ Đức Giêsu và tố cáo Ngài là kẻ lộng ngôn phạm thượng. Họ đã dựa vào sự khôn ngoan thông thái thế gian, và kết qủa là không biết Đức Giêsu là ai. Nguời đầy tớ đơn sơ và khiêm tốn trong câu truyện trên đây đã dạy cho ông chủ của anh một bài học thật đáng gía giống như tinh thần của lời Chúa. Sự giầu sang, quyền qúy khôn ngoan ở đời này không thể dạy và đưa chúng ta đến với Thiên Chúa.

Nhận diện Danh Tánh Đức Giêsu

Nhiều nguời thời nay cũng không khác gì những nguời trong thời của Đức Giêsu. Trong các giáo xứ chúng ta thâý không thiếu bóng dáng những ngừời giáo dân đơn sơ chân thành qùy gối tôn thờ trưóc Thánh Thể hoặc mân mê chuỗi mân côi lâm râm cầu kinh trưóc toà Đức Mẹ với tấm lòng thành kính tin yêu. Trong khi đó chúng ta cũng không thiếu những nguời dành thời giờ đọc sách, đọc báo và tìm những lý lẽ để bắt bẻ đạo lý của Giáo Hội. Có những nguời đã cho mình là khôn ngoan hiểu biết, bận rộn trích dẫn kinh thánh cách sai lạc, thâu băng, viết thư để bài bác bôi nhọ những lời giảng dạy của các linh mục. Họ đã quên không dành thời giờ để tạo cho mình một lối sống gần gũi với Thiên Chúa và tha nhân. Gần đây nhất, là trong khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II và các Hồng Y Hoa Kỳ hội họp để tìm ra giải pháp đối phó với vấn đề tội phạm lạm dụng tình dục đối với trẻ vị thành niên của một số linh mục theo tinh thần của Lời Chúa, thì thay vì xây dựng thêm, nhiều nguời lại tìm mọi lý lẽ để bài bác, phê bình chỉ trích tinh thần phục vụ cuả các vị lãnh đạo trong Giáo Hội Công Giáo. Họ cho rằng các ngài tiếp tục bưng bít và bao che sự xấu xa. Nhiều nguời đã về hùa với báo chí để mạnh lời chỉ trích hàng linh mục và coi như lối sống độc thân của hàng linh mục Công Giáo là lỗi thời. Nhiều nguời đã hiểu lầm cho là tại vì Giáo Hội đòi buộc các linh mục sống độc thân cho nên mới gây nên những tội trạng xúc phạm tới trẻ em như thế. Nguời ta đã không hiểu được lời của Đức Giêsu, "Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu. Qủa vậy, có những nguời không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những nguời không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những nguời tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu" (Mt 19:11-12). Nguời ta đã quên đi tinh thần tha thứ, nhân từ và thương yêu để rồi nặng lời chỉ trích Giáo Hội và không còn tình thương xót khi lên án những nguời đã phạm tội. Nguời ta đã không hiểu rằng Đức Giêsu đến không phải để kêu gọi nguời công chính, nhưng là để kêu gọi những nguời tội lỗi biết ăn năn xám hối. Ngài đến để cứu chữa những nguời yếu đau bệnh tật. Cũng chính vì tinh thần của Đức Giêsu mà nhiều nguời trẻ thay vì muốn tiến thân làm giầu ở xã hội, đã dấn thân dâng hiến đời mình trong đời sống tu trì để phục vụ tha nhân, chăm lo cho những nguời yếu đau bệnh tật, và thăm hỏi những tội phạm trong các nhà giam. Lời cuả Đức Giêsu hôm nay lại là một thách đố cho chúng ta luợng định xem mình thuộc hạng nguời nào? Khôn ngoan thông thái, hay khiêm nhường bé mọn? Thực sự hiểu lời Chúa hay không hiểu lời Chúa? Biết Thiên Chúa hay không biết Thiên Chúa?

Đến Với Đức Giêsu

Để hiểu đưọc lời Chúa và biết Thiên Chúa, phuơng tiện duy nhất là đến với Đức Giêsu. Không ai biết đưọc Thiên Chúa Cha trừ ra Đức Giêsu, và những nguời được Đức Giêsu chỉ dạy cho. Báo chí và các nhà bình luận muốn nói gì thì nói, nhưng chúng ta chỉ có thể hiểu biết Thiên Chúa qua Tin Mừng của Đức Giêsu và các lời giảng dạy, giáo huấn của Giáo Hội mà thôi. Thêm nữa có thể vì nghe biết về tội lỗi của một số linh mục và cả giám mục xẩy ra trong Giáo Hội làm cho chúng ta phần nào cảm thấy mệt mỏi, buồn nản và chán chường. Đây cũng là lý do và là thời điểm để chúng ta lắng nghe lời mời gọi của Đức Giêsu, "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các nguơi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhưòng trong lòng, và tâm hồn các nguơi sẽ gặp được bình an" (Mt 11:28-30). Ách của Đức Giêsu là ách của tinh thần hiền lành và khiêm tốn, chứ không phải ách của tôị lỗi, của thù hận, của nguyền rủa và lên án.

---------------------------------

 

TN 14-A87: CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN


Mt 11, 25 – 30

John Nguyễn

1. Giải thích một vài từ ngữ khó hiểu trong bài Tin Mừng

 

Đức Giê-su tạ ơn Chúa Cha vì Ngài "đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết: TN 14-A87


Đức Giê-su tạ ơn Chúa Cha vì Ngài "đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn". Trong câu Kinh Thánh này, có ba điều ta cần tìm hiểu: (a) "Những bậc khôn ngoan thông thái" là những ai? (b) "Những người bé mọn" là những ai? (c) "Biết những điều này" là biết những gì?

a) "Những bậc khôn ngoan thông thái": Không nên hiểu từ ngữ này theo nghĩa đen. Trong ngữ cảnh bài Tin Mừng này, nó có nghĩa là những người tự cho mình là khôn ngoan thông thái, là hơn người, là vĩ đại, những người thích tự đề cao mình, thích được coi là quan trọng. Nói chung nó ám chỉ những người coi "cái tôi" của mình quá lớn, muốn "cái tôi" của mình là trung tâm của vũ trụ, được mọi người coi trọng, qui phục, muốn ý kiến và ý muốn của mình được mọi người luôn tôn trọng, chấp hành. Từ khuynh hướng "qui kỷ" ấy, họ dễ trở nên coi thường và khinh chê người khác. Nhiều khi tệ hơn nữa, họ muốn đạp trên đầu trên cổ người khác để tiến lên, sẵn sàng bắt người khác phải hy sinh cho mình.

b) "Những người bé mọn": Từ ngữ này cũng không nên hiểu theo nghĩa đen là những kẻ nghèo, còn nhỏ tuổi, thuộc hạng cùng đinh trong xã hội. Nhiều người tuy nhỏ bé trong xã hội, nhưng lại rất cao ngạo và coi "cái tôi" của mình to lớn không kém gì "nhưng người khôn ngoan thông thái" kể trên. Trong ngữ cảnh bài Tin Mừng này, "những người bé mọn" ám chỉ những người tự coi mình là nhỏ bé, coi "cái tôi" của mình không là gì cả, không đáng kể, không khao khát được mọi người quan tâm hay chú ý tới mình, không coi ý kiến hay ý riêng mình là quan trọng. Đó là những người sống tinh thần tự hủy theo gương Đức Giê-su (x. Pl 2,6-8), biết "lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình, không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác" (Pl 2,3-4), sẵn sàng chịu thiệt thòi mất mát vì yêu thương tha nhân.

Muốn biết ta thuộc hạng người nào, hãy xét xem phản ứng của ta thế nào khi ta bị xúc phạm, bị chạm tự ái, bị trái ý. Nếu ta tỏ ra bực bội, tức tối, có phản ứng mạnh, đồng thời cảm thấy đau khổ, muốn trả thù, muốn làm to chuyện, đó là dấu chứng ta thuộc hạng người trước, là hạng coi "cái tôi" của mình quá lớn. Trái lại, nếu ta cảm thấy đó là chuyện bình thường, chuyện nhỏ, không làm mình khó chịu, bực tức hay đau khổ, thì ta thuộc hạng người sau.

c) "Biết những điều này" là biết những gì? Chữ "biết" trong Kinh Thánh thường có nghĩa là cảm nghiệm chứ không chỉ là có kiến thức hay hiểu biết xuông. Người ăn trái táo thì có cảm nghiệm về mùi vị của trái táo, khác với người được học hỏi về trái táo một cách tỉ mỉ, khoa học, nhưng chưa hề được cầm trái táo trong tay mà ăn. "Những điều này" trong ngữ cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là những bí nhiệm về Thiên Chúa, về Chân Lý Tối Hậu. "Biết những điều này" là cảm nghiệm về Thiên Chúa, nếm được sự ngọt ngào êm dịu của Thiên Chúa, nhờ đó cảm thấy hạnh phúc, tràn đầy sự sống và sức mạnh của Thiên Chúa.

2. "Những người bé mọn" dễ cảm nghiệm về Thiên Chúa

"Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8). Vì là tình yêu, nên Ngài sẵn sàng tự hủy, hy sinh, phục vụ, quên mình, vì thế, Ngài mới chính là "Người Bé Mọn" tuyệt hảo nhất, là gương mẫu tuyệt vời cho tất cả "những người bé mọn". Vì "những người bé mọn" của Tin Mừng giống Thiên Chúa ở điểm căn bản này là sự yêu thương, nên họ hiểu Ngài và cảm nghiệm được Ngài dễ dàng hơn ai hết theo định luật "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". Chính Ngài cũng dễ dàng tỏ mình ra cho hạng người này nhiều hơn ai hết. Các vị thánh được Thiên Chúa tỏ mình ra đều là những người sống tinh thần yêu thương hay tinh thần "bé mọn" hơn ai hết.

3. Tính chất kỳ diệu và nghịch lý của "cái tôi"

"Cái tôi" là một hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho con người. Nó chính là bản thân ta, là cái ta yêu quí nhất trên đời. Nhưng vì chúng ta được tạo dựng nên giống Thiên Chúa là tình yêu, nên "cái tôi" ấy chỉ lớn mạnh, chỉ trưởng thành, chỉ đạt được giá trị hoàn hảo khi nó thật sự yêu thương, nghĩa là trở nên tình yêu như Thiên Chúa. Mà yêu thương chính là ra khỏi bản thân để hướng đến và sống cho một đối tượng khác. Điều đó đòi hỏi ta phải quên mình, từ bỏ mình, hy sinh chính mình, để chỉ lo cho hạnh phúc và lợi ích của đối tượng ta yêu. Vì thế, càng tự coi mình là nhỏ bé, là không quan trọng để coi đối tượng mình yêu thương là quan trọng, là lớn lao, thì càng thực hiện được khả năng yêu thương. Và như thế là thực hiện được chính bản thân mình, là làm cho "cái tôi" của mình trở nên cao cả, vĩ đại.

Do đó, có một nghịch lý kỳ diệu: ta càng quên "cái tôi" của mình đi, càng làm nó nhỏ bé lại, thì nó lại càng trở nên có giá trị và cao cả. Ngược lại, càng quan trọng hóa nó, càng tự đề cao nó, càng làm cho nó phình lớn, thì càng làm cho nó kém giá trị, càng làm nó nhỏ bé đi trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Sự nghịch lý này đã được thánh Phan-xi-cô Khó Khăn cảm nghiệm: "Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời" (Kinh Hòa Bình).

Đối với việc cảm nghiệm Thiên Chúa cũng có sự nghịch lý đó. Sự nghịch lý đó được thánh Gio-an Tẩy giả nói đến: "Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi" (Ga 3,30). Nghĩa là muốn Ngài lớn lên ở trong tôi, thì tôi phải nhỏ đi; hay nếu tôi tự làm cho mình nhỏ bé lại thì Ngài sẽ tự động lớn lên trong tôi. Còn nếu tôi làm cho "cái tôi" của mình phình to ra, thì Ngài sẽ tự động nhỏ lại trong tôi. Ngài có lớn lên trong tôi, tôi mới cảm nghiệm được Ngài, mới hiểu được Ngài, mới cảm nhận được những chân lý của Ngài, mới hấp thụ được sự khôn ngoan của Ngài. Đó chính là ý nghĩa của câu: Thiên Chúa "giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn". Thực ra Thiên Chúa chẳng muốn giấu gì về Ngài, nhưng những kẻ coi "cái tôi" của mình quá lớn đã tự bịt mắt mình lại trước những chân lý hay sự khôn ngoan của Thiên Chúa, để chỉ nhìn thấy những "giả lý" hay sự khôn ngoan của thế gian.

4. "Hãy mang lấy ách của tôi", vì "ách tôi êm ái..."

Khi ta coi "cái tôi" của mình là không quan trọng, là thấp kém, ta sẽ cảm thấy mình có vẻ như bị thiệt thòi, bị mất mát đủ thứ, và như bị quàng vào cổ mình một cái ách. Nhưng ách ấy chính là ách của Đức Giê-su, là thứ ách mà chính Ngài đã mang lấy suốt cuộc đời Ngài. Đã là ách thì khi mang vào tất nhiên sẽ cảm thấy nặng và khó chịu. Nhưng không có ách nào nhẹ nhàng và êm ái cho bằng ách của Ngài.

Thật vậy, khi một người coi nhẹ "cái tôi" của mình, không coi nó là quan trọng, tự nhiên người ấy sẽ thấy cuộc sống trở nên rất nhẹ nhàng: vì không cảm thấy bị chạm tự ái, vì không hề tức tối hay đau khổ khi bị xúc phạm, vì sẵn sàng tha thứ không chấp chiếm ai. Nhờ thế, cuộc sống giữa mình với tha nhân không còn vấn đề gì đáng mình phải buồn phiền đau khổ.

Thử đưa ra một trường hợp cụ thể. Giả như có ai đó làm thiệt hại hay xúc phạm đến ta, đó là một sự thiệt hại khách quan, không do ta gây ra. Nếu ta coi "cái tôi" của mình là quan trọng, ta sẽ bực tức buồn phiền và tâm ta sẽ đau khổ. Thế là ta đã tự mình làm cho mình đau khổ và thiệt hại thêm. Nếu ta cứ nghĩ đến chuyện bị xúc phạm đó, ta sẽ đau khổ hoài, và rất có thể vì thế ta tự làm cho mình mắc một chứng bệnh nan y nào đó. Như thế, sự thiệt hại do chính ta tự gây ra cho mình do sự bực tức còn lớn hơn sự thiệt hại ban đầu do người khác gây cho ta. - Nhưng nếu ta không coi "cái tôi" của mình là quan trọng, ta sẽ tha thứ ngay cho người xúc phạm hay làm ta thiệt hại, rồi quên ngay đi. Như thế ta chỉ bị sự thiệt hại ban đầu do người khác gây ra mà thôi. Điều đó khó mà tránh được trong cuộc sống chung với mọi người. Nếu ta coi thật nhẹ "cái tôi", ta sẽ thấy sự xúc phạm hay thiệt hại chẳng đáng kể, tâm hồn ta lập tức được bình an, nhẹ nhàng, vui tươi. Như thế chẳng phải ta đã hành động một cách khôn ngoan hơn rất nhiều sao?

Cách sau chính là cách của Đức Giê-su, là "mang lấy ách" của Ngài. Ách đó là ách êm ái và nhẹ nhàng nhất mà người khôn ngoan tất nhiên sẽ chọn khi đứng trước hai thứ ách: ách của Ngài và ách của chính mình. Không có ách nào làm ta mệt mỏi và nặng nề cho bằng cái ách do chính "cái tôi phình to" của mình tạo ra, nó chính là nguồn gốc phát sinh nên muôn vàn tội lỗi và đau khổ ở trần gian này. Vì thế, Đức Giê-su khuyên ta: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề (vì "cái tôi" của mình), hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi (là cái ách của tình yêu, không có "cái tôi" nặng nề trong ấy), và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường (nghĩa là tính coi nhẹ "cái tôi" của mình). Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng".

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha là Tình Yêu, xin cho con trở nên tình yêu giống như Cha, để con trở nên hình ảnh trung thực của Cha. Để được như thế, xin cho con biết coi nhẹ "cái tôi" của con, nhờ đó đời sống con trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp và hạnh phúc hơn bội phần. Amen.

---------------------------------

 

TN 14-A88: Làm người bé mọn của Thiên Chúa


CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN

 Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Mát-thêu 11:25-30)

 

Lời cầu nguyện dễ thương của Chúa Giê-su dâng lên Thiên Chúa Cha đã cho chúng ta một cái nhìn  TN 14-A88 Dalat


Lời cầu nguyện dễ thương của Chúa Giê-su dâng lên Thiên Chúa Cha đã cho chúng ta một cái nhìn độc đáo về thân phận chúng ta.  Người gọi chúng ta là “những người bé mọn”.  Thử hỏi với thân phận này, chúng ta nhận được gì nơi Thiên Chúa, Cha trên trời của chúng ta?  Chúa Giê-su, Ngôi Lời xuống thế làm người phàm, trả lời câu hỏi đó của chúng ta.

          Trong sự thông hiệp với Chúa Cha, Chúa Giê-su không chỉ cầu nguyện cho cá nhân mình, nhưng cho tất cả chúng ta là những kẻ mà Người cùng chia sẻ phận con người.  Người muốn cùng chúng ta làm những “kẻ bé mọn” trước mặt Chúa Cha.  Nhớ lại lịch sử tạo dựng, tổ tông chúng ta đã không chịu làm những kẻ bé mọn của Thiên Chúa.  Họ không vâng phục Người, mà chỉ muốn được mở mắt ra và “sẽ tinh khôn và nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (Sáng Thế 3:4,6).  Thế là họ đã đánh mất hết những gì Thiên Chúa dành cho những kẻ bé mọn, bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen!

          Giờ đây Chúa Giê-su đến phục hồi cho chúng ta căn tính con Thiên Chúa, và Người mời gọi chúng ta cùng với Người sống đích thực như những kẻ bé mọn của Cha Người.  Kẻ kiêu căng muốn biết hết mọi sự, muốn biết cả những điều Thiên Chúa không muốn họ biết, tức là tội lỗi!  Còn đối với những người bé mọn, Thiên Chúa thưởng đức khiêm nhường của họ bằng một cái biết vô giá, đó là “biết mầu nhiệm Nước Trời”.  Bằng nhiều dụ ngôn, Chúa Giê-su đã tỏ ra cho chúng ta thấy giá trị của Nước Trời, giống như kho báu chôn giấu trong ruộng hoặc như viên ngọc quý thương gia tìm kiếm.  Cho nên ngay lúc khởi đầu rao giảng, Chúa Giê-su đã đề cao tình yêu quan phòng của Thiên Chúa Cha đối với những kẻ bé mọn, rồi Người kết luận:  “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mát-thêu 6:33).

          Điều biết thứ hai Thiên Chúa dành cho những người bé mọn, đó là “biết rõ Chúa Cha”.  Thiên Chúa là Đấng siêu việt, vô hình, thì làm sao con người phàm biết được Người.  Nhưng Con Thiên Chúa đã đến trần gian để nối trời với đất, vô biên với hữu hạn.  Người là “hình ảnh Thiên Chúa vô hình” (Cô-lô-xê 1:15), để qua Người chúng ta cảm nghiệm được những gì Thiên Chúa muốn tỏ ra cho chúng ta, nhất là cảm nghiệm được trái tim đầy lòng thương xót của Người.
          Điều biết thứ ba là tìm được sự “nghỉ ngơi bồi dưỡng” và “học với Chúa Giê-su hiền hậu và khiêm nhường”.  Cả một đời dương thế đầy vất vả và gánh nặng, ai cũng cần được nghỉ ngơi và lấy lại năng lực.  Những kẻ “khôn ngoan thông thái” của thế gian tìm nghỉ ngơi bồi dưỡng ở vật chất, lạc thú… Còn những người bé mọn của Thiên Chúa tìm nghỉ ngơi trong tình yêu Thiên Chúa.  Chúa Giê-su dạy chúng ta bài học nghỉ ngơi bồi dưỡng này.  Sau những ngày mệt nhọc, vào lúc đêm xuống hoặc sáng sớm, Người có thói quen đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Cha Người.  Người muốn thực sự sống khiêm nhường như người con bé mọn trước mặt Chúa Cha, để “ách” tuân phục được êm ái và “gánh” sứ mệnh cứu độ được nhẹ nhàng.
Sống sứ điệp Tin Mừng

          Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc nhở chúng ta:  “Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô” (8:10).  Là Ki-tô hữu, chắc chắn chúng ta phải mang lấy Thần Khí của Chúa Ki-tô, tức là làm “người bé mọn” của Thiên Chúa.  Chính nhờ sống bé mọn trước mặt Thiên Chúa mà Chúa Ki-tô đã được tôn vinh (Phi-líp-phê 2:6-11).  Người đi ngược lại con đường A-đam đã đi, để làm gương cho chúng ta và dẫn chúng ta trở về với Cha trên trời.  Người đã ngợi khen tình yêu Chúa Cha vì Chúa Cha cho chúng ta được biết mầu nhiệm Nước Trời.
          Sống như một Ki-tô hữu, liệu chúng ta có luôn nhớ hồng ân lớn lao nhất này không?  Có khi nào chúng ta “ngợi khen” và cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta những gì thế gian này không thể cho?  Đó là mầu nhiệm Nước Trời, để qua mầu nhiệm này chúng ta cảm nhận một cách sống động tình yêu cứu độ Thiên Chúa tỏ ra cho chúng ta.  Chúng ta cứ hãnh diện và học Chúa Giê-su mà sống chức phận “người bé mọn” của Chúa Cha!     

 Lm. Đa-minh Trần đình Nhi 

---------------------------------

 

TN 14-A89: Khiêm nhu

 

Một vị quan tể tướng đời Đường rất lừng danh và có lòng mộ đạo chân thành. Thầy của ông là một TN 14-A89 Hanoi


Một vị quan tể tướng đời Đường rất lừng danh và có lòng mộ đạo chân thành. Thầy của ông là một bậc cao tăng. Hai thầy trò rất tâm đồng ý hiệp với nhau, không phân biệt địa vị hay chức quyền. Ngày kia quan tể tướng bèn hỏi: Xin thầy giải thích kiêu căng nghĩa là gì? Thầy liền đổi sắc mặt, trợn mắt hỏi với một giọng khinh miệt: Mi hỏi ta gì đó, đồ ngu. Cử chỉ và lời nói bất ngờ ấy làm cho gương mặt quan tể tưởng đỏ bừng lên. Bấy giờ vị cao tăng mới ôn tồn nói: Thưa, đó chính là sự kiêu căng đấy.

Câu chuyện trên như muốn vạch trần cái gốc rễ của tính kiêu căng. Đó là không chấp nhận những giới hạn của mình, không sẵn sàng đón nhận sự thật. Và tệ hơn nữa, sự kiêu căng còn là nguyên nhân làm cho con người không còn biết mở rộng cõi lòng để đón nhận Thiên Chúa. Chính vì thế mà Kinh Thánh đã xác quyết: Chúa hạ bệ những kẻ quyền hành và nâng cao những người khiêm nhu. Hay nói một cách khác, Chúa chán ghét những kẻ kiêu căng và yêu thương những người khiêm nhường.

Thực vậy, một Lucifer kiêu căng, dám ngang nhiên tuyên bố: Tôi không phục tùng Thiên Chúa nữa. Một Adong Eva kiêu căng muốn trở nên bằng Thiên Chúa, số phận họ như thế nào hẳn chúng ta cũng đã biết: Lucifer và các thần dữ thì lãnh nhận bản án lưu đày hoả ngục. Còn Adong Eva thì bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng với cảnh khổ đau và chết chóc.

Trong khi đó, một David khiêm nhường sám hối đã được Thiên Chúa tha thứ và chọn dòng dõi ông làm nơi phát sinh Đấng Cứu Thế. Một Maria khiêm nhường với thân phận người tôi tá Chúa nên đã được đặt làm Mẹ Ngôi Hai giáng trần. Một Gioan khiêm nhường không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài, đã được khen ngợi là cao trong hơn hết mọi người nam.

Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, một lần nữa, Chúa Giêsu lại xác quyết như thế: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xưng tụng Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những mầu nhiệm Nước Trời, mà lại mạc khải cho người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là sở thích của Cha.

Từ đó chúng ta có thể kết luận, Chúa yêu thương những người khiêm nhu. Đó là một sự thật, một chân lý, một kinh nghiệm sống ngàn đời không hề đổi thay. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự sống tinh thần đơn sơ bé nhỏ và khiêm cung như Chúa mong muốn hay chưa?

---------------------------------

 

TN 14-A90: Ở hiền gặp lành – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

 

Cha ông ta vẫn thường dạy con cái: "Ở hiền gặp lành". Người ăn ở hiền lành, người sống có nhân, TN 14-A90


Cha ông ta vẫn thường dạy con cái: "Ở hiền gặp lành". Người ăn ở hiền lành, người sống có nhân, có nghĩa ắt trời sẽ ban cho nhiều phúc lộc dư tràn. Ngược lại, nếu sống ác nhân ác đức, trời sẽ quả báo những tai hoạ khó lường.

Thế nhưng, hiền lành có phải là "tĩnh tọa như Bụt"? Ai muốn làm gì thì làm hay không? Thưa không, mà hiền lành ở đây là biết sống đúng với vị trí của mình. Là biết sống đúng với phẩm giá của mình. Là biết tôn trọng phẩm giá của mình. Một con người có phẩm giá cao đẹp là một con người có lý trí đủ để suy biết điều hay lẽ phải, có ý chí vững mạnh để không bị sự gian ác làm hại bản thân và tha nhân, có sự chọn lựa đúng đắn và chuẩn mực về cái hay, cái đẹp, cái phải, cái trái. Là người phải biết phân biệt phải quấy. Biết nói không với điều ác. Không thỏa hiệp với gian tà. Vì "im lặng là đồng lõa" và hùa theo là "đồng phạm". Người không có trí khôn, làm theo lời người khác thì không có tội, nhưng người hiền lành không thể làm chuyện ác, chuyện lừa dối để rồi đổ lỗi cho hoàn cảnh. Nếu đổ lỗi cho hoàn cảnh thì trên đời này ai phạm tội cũng vì hoàn cảnh mà ra. "Túng quá hóa liều", "Nóng mất khôn", "Tức nước vỡ bờ". Trong một phân tích về lý do phạm tội của các tù nhân thì có 80% tội nhân cho rằng mình phạm tội là do hoàn cảnh. Như vậy, sự hiền lành là một thái độ sống dung hoà với mọi người. Sự hiền lành sẽ giúp cho con người hành xử theo tình, theo lý và theo lẽ phải nhưng với một thái độ ôn hoà với đầy lòng bác ái bao dung.

Hôm nay Chúa nói: "hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Sự hiền lành của Chúa không phải là đi tìm sự thỏa hiệp với thế gian. Chúa không im lặng trước sự dữ. Chúa đã từng lên án gắt gao thói giả hình và gian tà của những kẻ biệt phái. Chúa đã từng xô đuổi con buôn ra khỏi đền thờ. Chính vì những điều Chúa làm, những lời Chúa nói đã ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo, đến địa vị, chỗ đứng của các biệt phái mà người ta tìm cách giết Chúa. Sự hiền lành của Chúa là vì công lý mà chịu nhiều thiệt thòi không kháng cự. Vì dám nói sự thật mà phải chết nhục nhã trên cây thập giá, nhưng Ngài không oán hận, và còn xin cùng Chúa Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm. Chúa đấu tranh nhưng bất bạo động, vì "ai dùng gươm sẽ chết vì gươm", "oán báo oán, oán chập chùng" và còn tha thứ cho sự xúc phạm của tha nhân không chỉ "7 lần mà là 70 lần bảy".

Trong tám mối phúc, Chúa đã chúc phúc những cho ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nườc Trời là của họ. Như thế hiền lành ở đây là sống thật và làm chứng cho sự thật. Không nhượng bộ, không thỏa hiệp với dối gian. Cho dù vì lẽ công chính mà mình bị bách hại, bị thiệt thòi vẫn chấp nhận, vì phần thưởng của chúng ta là Nước trời.

Sự hiền lành của Chúa còn hệ tại ở sự cảm thông với lỗi lầm của người khác. Không thành kiến đối với những người bị xã hội ruồng bỏ. Ngài yêu thương họ. Ngài đến để đối thoại với họ. Ngài mở cho họ một con đường mới. Ngài giúp họ làm lại cuộc đời như Madalena, như Giakêu, hay như người thiếu phụ bên bờ giếng Giacóp.

Sự hiền lành thường đi song song với khiêm tốn. Hiền lành để tha nhân dễ gần chúng ta và khiêm tốn để ta dễ hòa đồng với tha nhân. Tuy hai nhưng là một mục đích. Tạo cơ hội cho chúng ta đến với tha nhân và tha nhân đến với ta. Kẻ kiêu căng thường phân loại để chơi. Người khiêm nhường thì đối xử mọi người như nhau. Người hiền lành ai cũng muốn tới gần. Kẻ gian ác ai cũng chạy xa. Chúa Giêsu Ngài hiền lành và khiêm nhường nên ai cũng có thể tiếp xúc với Ngài, và Ngài cũng có thể gặp gỡ trao đổi với mọi người. Từ em bé đến người già. Từ người giầu có đến kẻ hèn. Từ người công chính đến tội lỗi.

Xin Chúa giúp chúng ta biết học nơi trái tim yêu thương của Chúa: "sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Ngài không ở trên cao nhưng tự hạ mặc lấy thân phận con người. Ngài còn dạy chúng ta bài học khiêm tốn khi quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Một cử chỉ khiêm tốn đến nỗi Phêrô đã bộc trực thốt lên: "Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con sao?". Đó là một sự tự hạ không ủy mị hay luồn cúi mà là bài giáo huấn sống động về tinh thần hy sinh phục vụ lẫn nhau. Ngài đã dạy chúng ta hãy sống đúng với thân phận con người là lệ thuộc vào Chúa. Ngài đã dạy chúng ta hãy hạ mình để sống hòa hợp với tha nhân. Đừng tự cao tự đại để gạt Thiên Chúa ra bên ngoài như Adam - Evà năm xưa chỉ dẫn tới diệt vong. Đừng tự cao tự đại đến nỗi đè bẹp người khác để mình được tôn vinh. Đừng khinh bỉ người tội lỗi, bất hạnh nhưng yêu thương và tôn trọng họ. Và trên hết, hãy mang lấy tâm hồn trẻ thơ để luôn đơn sơ và bé nhỏ trước mặt Chúa, trước mặt tha nhân. Vì sự đơn sơ và bé nhỏ là dấu chỉ đặc thù của sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Đây cũng là phương thế để chúng ta đón nhận mạc khải Nước Trời và đón nhận tình thương của Chúa tuôn đổ xuống trên cuộc đời chúng ta. Amen.

---------------------------------

 

TN 14-A91: Hãy học cùng Ta..." – PM. Cao Huy Hoàng

 

Cuối mỗi cấp, học sinh hoặc sinh viên phải thi lấy bằng tốt nghiệp ra trường, gọi là tốt nghiệp trung TN 14-A91


Cuối mỗi cấp, học sinh hoặc sinh viên phải thi lấy bằng tốt nghiệp ra trường, gọi là tốt nghiệp trung học, tốt nghiệp đại học. Không biết có ai đã dùng từ tốt nghiệp cho những người học Giáo Lý, Giáo Lý Dự Tòng, Giáo Lý Hôn Nhân không, nhưng hình như mới đây, hai từ "tốt nghiệp" cũng dành cho những Đại Chủng Sinh hoàn tất chương trình Đào Tạo Linh Mục tại các Đại Chủng Viện.

Thiết tưởng, ấy cũng chỉ là chuyện từ ngữ theo cách của xã hội mà thôi.

Điều quan trọng ở chỗ: học không phải chỉ để tốt nghiệp, càng không phải để lấy bằng tốt nghiệp, nhưng là để có một cuộc biển đổi nên người trưởng thành. Học sinh nên người trưởng thành là có ý thức và trách nhiệm về tư tưởng, lời nói việc làm của mình. Cũng vậy, người học Giáo Lý nên người trưởng thành, ấy là có ý thức chuẩn xác về ơn gọi được làm con cái Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô, và có trách nhiệm sống cho ra người con của Thiên Chúa.

Tin Mừng hôm nay cũng nhắc đến chữ "học": "Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an".

Trong Tin Mừng, tất cả những câu mệnh lệnh của Chúa Giêsu đều nói đến việc "làm", như: "Hãy tin", "hãy từ bỏ", "hãy cầu nguyện", "hãy tha thứ", "hãy yêu nhau"... "Đừng thù oán", "đừng lên án"... Và chỉ có một câu duy nhất này, Chúa bảo "hãy học".

Như vậy, hẳn là môn học mà Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy học, ấy là môn học quan trọng lắm. Đã vậy Chúa lại bảo "hãy học cùng Ta", không học ở nơi thầy nào khác, cho thấy rằng chỉ có Chúa Giêsu mới xứng đáng là thầy dạy môn học nầy. Môn học đó là "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng".

Hãy học cùng Chúa Giêsu, vì Chúa hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.

Quả thật, chỉ có Chúa Giêsu mới là người hiền lành kiểu mẫu, hiền lành đến mức chấp nhận thương tích mà không đánh trả, hay báo thù; hiền lành vì yêu và yêu cả người phản bội, sỉ nhục, thóa mạ hay hành hung tàn nhẫn... đúng như Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: "Người hiến thân vì Người tình nguyện và không mở miệng như con chiên hiền lành bị đem đi giết, và như chiên non trước mặt người xén lông, Người thinh lặng chẳng hé môi" (Is 53, 7). Và Thánh Vịnh 30 mô tả chân dung của Chúa Giêsu: "Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa" (Tv 30).

Sự hiền lành ấy còn mang nét đẹp trung tín đến ngàn đời, không có gì thay đổi được bản tính "hiền lành, hay thương xót" của Thiên Chúa Cha, phản chiếu nơi Chúa Giêsu, Người Con chí ái. Ấy vậy, Ngôn Sứ Giêrêmia nói: "Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi" (Gr 11, 19).

Chỉ có Chúa Giêsu mới là người khiêm tốn, như Ngôn Sứ Dacaria ca tụng: "Này vua ngươi đến với ngươi. Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ" (Dcr 9, 9).

Và Thánh Tông Đồ Phaolô còn khẳng định lòng khiêm nhượng của Chúa Giêsu sâu thẳm đến mức không giữ cho mình địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng lại khiêm hạ vâng phục Thiên Chúa Cha mọi đàng: "Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (Pl 2, 6-8)

Bài học "hiền lành và khiêm nhượng" của Chúa Giêsu quả là một bài học khó nuốt, vì có vẻ như bài học ấy muốn dẫn học viên đến cái chết vì yêu, như Ngài đã chết vì yêu vậy. Hơn nữa, lại không thấy Chúa nói gì đến lễ tốt nghiệp, hay được vinh quang gì khi tốt nghiệp.

Thực ra, Chúa đã nói đến lễ tốt nghiệp ấy rồi: "và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an".

Chúa muốn chúng ta được bình an trong cuộc đời. Bình an có một giá trị lớn lao trong đời sống con người, vì khi có bình an hồn xác, ta mới có được hạnh phúc. Bình an là kết quả của lòng hiền lành khiêm nhượng, vì Chúa biết khi không có lòng hiền lành và khiêm nhượng thì chỉ chuốc lấy đau khổ, khó nhọc và gánh nặng.

Vì muốn chúng ta được bình an, Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta đến và học cùng Ngài: "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".

Nhìn lại cuộc sống chúng ta, quả là đang khó nhọc và gánh nặng.

Khó nhọc, gánh nặng là vì chưa khiêm nhượng trong lòng đủ để có thể ký thác đường đời cho Chúa, lại ảo tưởng với trí tuệ, khả năng, sự khôn khéo của mình có thể giải quyết mọi vấn đề để mang lại cho mình bình an hạnh phúc.

Khó nhọc và gánh nặng là vì không đủ hiền lành nhẫn nhịn chấp nhận sự thua kém, lại nông nổi lao mình vào chỗ tranh chấp hơn thua để chuốc lấy cái mất bình an cứ dày vò, đày đọa tâm hồn.

Khó nhọc và gánh nặng cho nhau trong cuộc đời, là vì không đủ hiền lành và khiêm tốn nhìn nhận mỗi sự hiện diện của người bạn đời, của tha nhân, kể cả của người nghèo hèn thấp kém, mất tư cách, mất phẩm hạnh... đều có thể mang lại cho ta một hồng ân quí giá của Thiên Chúa.

Khó nhọc và gánh nặng vì lòng tự phụ, vì tính chủ quan của người lớn hoặc tự cho mình là lớn, hoặc chỉ thích "chức" quyền, mà không chấp nhận thi hành nhiệm "vụ", chắc chắn sẽ có lúc vấp ngã trên đường đời, để lộ chân tướng dối trá của lòng mình ra cho thiên hạ đàm tiếu.

Khó nhọc và gánh nặng là vì mình đành lòng chấp nhận làm nô lệ cho những đam mê xác thịt hay hư nát này: hư danh, lạc thú, giàu sang, hưởng thụ...dẫn đến sự suy sụp tinh thần, kiệt quệ sức lực, mất cả ý chí nghị lực trong cuộc đời.

Thánh Phaolô khuyến cáo: "Chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động xấu xa của thân xác, thì anh em sẽ được sống" (Rm 8, 11 – 13).

Vâng, chính những món nợ xác thịt làm cho chúng ta ra khó nhọc và gánh nặng, ra đau khổ và mất bình an. Món nợ hư danh, món nợ nhục dục, món nợ của cải phù vân, món nợ hưởng thụ. Như tâm sự của một tác giả:

...Tôi đã vay của trần gian,
mấy ngàn mảnh hữu danh vô thực
Tôi đã mượn của thân xác phù vân,
những thoáng mơ màng hạnh phúc
Tôi phải trả cho người,
bằng sự nô lệ cả đời tôi
Tôi phải trả cho phù vân,
bằng sự chết nghìn thu tan tác.
Có còn được nghe niềm bình an ca hát
Nơi vực thẳm lòng kiêu ngạo của tôi ?
Ôi ! Đức Khiêm Hạ trên cao vời
Hãy nhỏ xuống lòng tôi,
mấy giọt ân tình lòng thứ tha, thương xót
một kiếp đời không chịu học Chúa Giêsu.
(Tuyết Mai Texas)

Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta sống "hiền lành và khiêm nhượng" theo gương Ngài, không phải để chúng ta phải chết, nhưng là để chúng ta được vinh dự chết cái tôi kiêu hãnh, cái tôi mặt dày mặt dạn của mình, cái tôi khó từ bỏ của mình để sống cho người khác được sống; để chúng ta cất được những khó nhọc, những gánh nặng do làm nô lệ tính xác thịt của mình; và cuối cùng, là để tâm hồn chúng ta được bình an.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành khiêm nhượng trong lòng, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa, tin tưởng Chúa và học cùng Chúa sự hiền lành khiêm nhượng, để chúng con được thanh thản, bình an, hạnh phúc trong Chúa luôn. Amen.

---------------------------------

 

TN 14-A92: Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà


HỌC SỐNG HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG VỚI CHÚA GIÊSU


Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng (Mt 11, 29-30).

 

Người đời tưởng rằng muốn trở nên hùng mạnh và thắng được người khác thì mình phải hung tợn hơn, TN 14-A92


Người đời tưởng rằng muốn trở nên hùng mạnh và thắng được người khác thì mình phải hung tợn hơn, tàn ác hơn, phải tôn mình lên và hạ bệ người khác xuống, phải dùng sức mạnh để quật ngã, phải dùng khí giới để huỷ diệt và khủng bố kẻ thù... Nhưng nghĩ như vậy là thiển cận và sai lầm.

Lịch sử loài người đã tỏ cho thấy cho dù những bạo chúa hung tàn nhất như Nê-rô hay Tần Thuỷ Hoàng chẳng hạn, cũng chỉ có thể dùng cường quyền và bạo lực để chiếm lấy ngai vàng trong một thời gian nhưng không thể chinh phục được lòng người. Những nhân vật nầy cũng chưa hề được xem là hùng mạnh, là anh dũng. Trong khi đó, lịch sử đánh giá rất cao những con người hiền lành, khiêm nhượng, ôn hoà bất bạo động như Mahatma Gandhi, Martin Luther King... Lịch sử nhân loại nhìn nhận họ là những bậc vĩ nhân đáng ngưỡng mộ, biết dùng sự hiền hoà, bất bạo động để chiến thắng bạo tàn, biết "dùng nhu để thắng cương, biết dụng nhược để thắng cường" (Lão Tử).

Thế nên, mặc dù Chúa Giê-su có rất nhiều phẩm chất cao đẹp đáng nêu gương, nhưng phẩm chất đầu tiên mà Người kêu gọi mọi người nên học nơi Người là đức tính hiền hậu và khiêm nhường. "Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng." (Mt 11, 29) và "phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp" (Mt 5, 4)

Câu chuyện sau đây minh chứng cho thấy sự hiền lành khiêm nhu có thể chiến thắng hung hăng và thô bạo.

Thời chiến quốc, vua nước Triệu phong Lạn Tương Như làm tướng quốc. Tướng Liêm Pha cậy mình có công lớn hơn mà lại bị đặt dưới quyền Tương Như nên đâm ra căm tức, thề rằng nếu gặp mặt Lạn Tương Như là giết.

Tương Như nghe nói thế bèn tìm cách lánh mặt Liêm Pha hoài. Một hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha đi tới, vội bảo tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra tiếp tục hành trình.

Bọn xa nhân thấy thế tức giận, bèn hỏi Tương Như: "Chúng tôi tưởng ngài là bậc đại trượng phu nên đem lòng quý trọng, từ bỏ nhà cửa, xa lìa thân thích để đến đây hầu ngài. Nay thấy ngài là tướng quốc, thứ hạng còn cao hơn Liêm tướng quân, lại để Liêm tướng quân doạ giết mà không đáp lại; ngài đã tránh mặt Liêm tướng quân ở triều đình, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ Liêm tướng quân quá vậy? Chúng tôi rất lấy làm xấu hổ, vậy chúng tôi xin rút lui, không theo hầu ngài nữa."

Tương Như nói: "Các ngươi xem Liêm tướng quân có oai phong, cao trọng bằng vua Tần không?" Bọn xa nhân thưa: "Không".

Tương Như nói: "Uy danh của vua Tần, thiên hạ đều kinh sợ không ai dám chống, vậy mà một mình Tương Như nầy dám mắng nhà vua giữa triều đình, lại dám làm nhục cả đám quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm Tướng Quân ư? Nhưng ta nghĩ sở dĩ Tần không dám đánh nước ta là vì ngại có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, tất không cùng sống. Tần mà nghe tin ấy tất sẽ thừa cơ tiến đánh nước ta. Sở dĩ ta chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là nhẹ đó thôi".

Nghe vậy, bọn xa nhân quỳ mọp tâu rằng: "Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao hiểu được đại chí của tướng công".

Liêm Pha hay được tin nầy, cả thẹn than rằng: "Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm", rồi trần vai áo đến trước cửa nhà Tương Như tạ tội: "Tính tôi thô bạo, đội ơn tướng quốc bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!"

Tương Như đỡ Liêm Pha dậy, hai người nắm tay nhau khóc và thề nguyền kết bạn suốt đời sống chết có nhau.

(Trích "Thuật xử thế của người xưa" của Thu Giang Nguyễn Duy Cần).

Thế là bằng đường lối nhịn nhục, hiền lành và khiêm nhượng, Lạn Tương Như hoàn toàn chiến thắng và chinh phục được cả con người lẫn tâm hồn của Liêm Pha. Đúng như Pascal nhận xét: "Người ta chỉ thực sự vĩ đại khi hạ mình quỳ xuống."

Một trong những hình tượng rất sinh động để diễn tả sự khiêm hạ là hình tượng về nước. Nước luôn tỏ ra mềm mỏng, dịu dàng, tránh va chạm và xô xát. Cho dù nước có bị tấn công thô bạo, nước cũng không hề kháng cự bao giờ.

Khi người ta dùng búa tạ đập vào khối đá rắn chắc, đá dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại nên bị vỡ tan. Khi người ta dùng búa tạ giáng vào nước, nước dùng sự mềm mại dịu hiền của mình đối lại, thế là nước không hề bị sứt mẻ hư hao, còn búa thì bị chìm lĩm xuống tận đáy bùn!

Nước luôn luôn tìm chỗ rốt hết, tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao, nên nước luôn được bảo toàn.

Tuy mềm mại và luôn tìm chỗ thấp hèn như thế, nhưng nước lại có sức mạnh phi thường.

Khi có một đám cháy rừng bộc phát thiêu rụi hàng ngàn mẫu rừng nguyên sinh và trong khi bao nhiêu nỗ lực của con người với những phương tiện hiện đại nhất không tài nào dập tắt được, thì người ta chỉ còn biết cầu mưa! Khi mưa trút xuống hàng tỉ mét khối nước thì thần hỏa mới chịu bó tay và rừng xanh mới có thể phục hồi.

Nước tuy mềm mại dịu dàng nhưng có thể bào mòn đá cứng. Nước tuy không cánh nhưng có thể bay tới mây trời; nước không có mũi dùi mũi khoan nhưng có thể thấm nhập đến tầng sâu nhất trong lòng đất. Nước đi đến đâu thì đem lại sự sống dồi dào cho nơi đó.

Như thế, nước tuy thấp kém, mềm mỏng, dịu hiền nhưng lại có sức mạnh vô song.

Những minh hoạ trên đây giúp chúng ta xác tín hơn vào lời dạy đầy khôn ngoan của Chúa Giê-su được trích đọc trong Tin Mừng hôm nay: "Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng." (Mt 11, 29) và "phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp" (Mt 5, 4).

---------------------------------

 

TN 14-A93: CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN

 

Gánh nặng của chúng ta là bổn phận hằng ngày của mỗi người đối với bản thân, gia đình và xã hội. TN 14-A93


Gánh nặng của chúng ta là bổn phận hằng ngày của mỗi người đối với bản thân, gia đình và xã hội. Đối với bản thân là phải sống cho xứng đáng là con người có lý trí, có lương tâm. Lý trí đòi hỏi chúng ta phải xa lánh điều tội lỗi và làm điều phải, điều lành. Lương tâm đòi hỏi chúng ta sống công bình và bác ái.

Đối với gia đình phải là một người con thảo, một người chồng đảm đang, chung thủy; một người vợ hiền, một người cha gương mẫu hay một người mẹ đức hạnh. Nhưng nhiều khi vì hoàn cảnh, "cái khó bó cái khôn", vì những đam mê hay thiếu sáng suốt, con cái đã nên gánh nặng cho cha mẹ, vợ chồng đã tự làm khổ nhau vì không hiểu nhau. Cha mẹ với chướng tật của tuổi già đã gây khổ đau cho con cái. Đàng khác có những bậc cha mẹ quá nuông chiều con cái khi nhỏ, lúc chúng lớn lên chúng sống buông tuồng mất nết làm khổ đau, nhục nhã cho cha mẹ. Có những đôi vợ chồng vì ích kỷ, vì thiếu nhân nhượng đã làm khổ cho nhau. Ở với nhau nhưng như hai người tù chung thân bị xiềng chung một xích, suốt đời làm khổ cho nhau.
Thêm vào đó, những bất công xã hội ảnh hưởng đến đời sống gia đình. Những khó khăn vật chất làm nhiều người nghi ngờ tình thương và sự công minh của Chúa, và thấy đời mình khổ sở và đau đớn muốn buông xuôi. Hoặc liều lĩnh làm bất cứ chuyện gì để có ăn, rồi cảm thấy mình đã trượt dốc khá sâu và bị cám dỗ ngã lòng. Những lúc ấy chúng ta cảm thấy đức tin là một gánh nặng, sống đạo là bó buộc, là cái ách càng muốn thoát ra, càng cảm thấy chán chường. Nhưng phúc thay cho ai nhớ đến và tin tưởng vào tình thương của Chúa kêu gọi :"Hỡi những ai nặng gánh đường trường, hãy đến với Ta, Ta sẽ đỡ gánh bồi dưỡng cho", nhất là nhớ và chạy đến với nhiệm tích Thánh Thể. Chúa đang mời gọi chúng ta hãy đến nghỉ ngơi bên Ngài, hãy đến với Ngài để được bổ sức hồi sinh và được sống bình an hạnh phúc đời này và mai sau.

Như vậy, Lời Chúa mời gọi chúng ta tái khám phá con đường cứu độ Chúa mở ra cho “những người bé mọn”. Càng đi sâu vào mầu nhiệm Nước Trời càng cảm thấy “ách Chúa êm ái và gánh Chúa nhẹ nhàng”. Chúng ta sốt sắng xin cho biết sống hiền lành và khiêm tốn theo gương Chúa Giêsu, luôn sẵn sàng đáp lời mời gọi của Thiên Chúa để hoàn thành sứ mệnh cứu độ giữa bao thách đố hôm nay.

Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể nhân từ hay thương xót, Chúa mời gọi chúng con đến với Chúa, nhưng chúng con là ai mà dám đến gần Chúa! Đã bao lần xúc phạm đến lòng nhân từ Chúa, chúng con đâu còn dám rước Chúa vào nhà. Chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã muốn ngự trong lòng và cho chúng con được nghe lời êm ái dịu dàng của Chúa: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an”.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy chúng con thực hiện thánh ý Chúa, dạy chúng con sống cho khiêm tốn và xứng đáng trước nhan Chúa vì Chúa là đường sáng cho chúng con. Xin Chúa sửa tánh kiêu ngạo trong chúng con và ban cho chúng con ơn khiêm nhường thật lòng để chúng con đến gần Chúa và đáng được Chúa yêu. Amen.

---------------------------------

 

TN 14-A94: SUY NIỆM CN 14 TN A

 

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta Đức Giêsu là Đấng cứu độ khiêm nhường và  TN 14-A94


Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta Đức Giêsu là Đấng cứu độ khiêm nhường và hiền hậu đối với mọi người, đặc biệt là những người bé nhỏ hèn mọn là những người được ưu tiên loan báo Tin mừng:
“Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn…”

Lần đầu tiên trong cuộc đời loan báo Tin mừng cứu độ, Đức Giêsu tràn đầy Chúa Thánh Thần và dâng lời chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa Cha với tâm tình hân hoan phấn khởi vì những người nghèo khổ, bé nhỏ đón nhận Tin mừng nước Trời. Đức Giêsu còn xác định đó là ý muốn của Thiên Chúa Cha: “Đó là đẹp ý Cha”.

Đức Giêsu sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo để chia sẻ thân phận làm người với đa số nhân loại chúng ta. Thế giới hôm nay 80% là người nghèo. Thời gian 33 năm sống trên trần gian, Đức Giêsu đã lăn lóc với người nghèo khổ, tiếp xúc, gần gũi, giúp đỡ, chữa lành bệnh tật, an ủi những con người khổ đau… nhất là loan báo mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé nhỏ trong xã hội. Điều này minh chứng Đức Giêsu là một người “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.

Thông cảm với con người nghèo khổ, bé nhỏ trong xã hội. Đức Giêsu đã kêu gọi họ đến với Ngài, để Ngài nâng đỡ, bồi dưỡng, ủi an: “Tất cả những ai đang vất vả, mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi, bồi dưỡng”.

Xã hội hôm nay còn bất ổn, hận thù, chia rẽ, ghen ghét là vì con người chưa sống bài học Chúa dạy: “Hiền lành và khiêm nhường trong long”.

Đức Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo về sự hiền lành và khiêm tốn:

– Ngài yêu thương người tội lỗi, những người bé nhỏ nghèo hèn, sẵn sàng tha thứ cho người hại mình, lấy tình thương đáp lại hận thù, lấy ân báo oán: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết”.

– Ngài quan tâm đặc biệt đến việc loan báo Tin mừng cho người nghèo hèn, bé nhỏ trong xã hội “Con ngợi khen Cha, đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những kẻ bé nhỏ”.

– Ngài kêu gọi những ai khó nhọc hãy đến với Ngài đẻ Ngài an ủi, bồi dưỡng được an nghỉ và hãy mang lấy ách của Chúa, ách chỉ là lề luật, đó là luật yêu thương. Luật yêu thương sẽ giúp con người được bình an, vui tươi và hạnh phúc. Mang ách của Chúa là đi theo Chúa trên con đường tình thương phục vụ tha nhân.

– Đức Giêsu còn là mẫu gương rất mực khiêm tốn: Ngài đã tự hạ và vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Khiêm nhường là nhìn nhận sự thật về mình và về an hem. Phải có ý chí mạnh, nghị lực và tinh thần cương quyết mới có sự khiêm nhường thực sự để không bao giờ kiêu căng, tự mãn, khinh khi an hem… mà biết sống tương quan tốt với an hem trong tinh thần huynh đệ bác ái.
Thánh Augustinô đã nói: “Kiêu ngạo thay đổi các thiên thần thành ma quỷ. Khiêm nhường làm cho con người thành thiên thần”.

Sự khiêm nhường hay kiêu ngạo sẽ quyết định chúng ta là con cái Thiên Chúa hay con cái thế gian.

Thánh Phêrô khuyên dạy chúng ta: “Anh em hãy lấy đức khiêm tốn mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5, 5).

Khiêm nhường là nhìn nhận sự thật về mình và an hem. Ông Samuel Moorse phát minh ra điện tín, nhận được rất nhiều giải thưởng cao quý, nhưng ông luôn cho mình là bất xứng với những lời khen tặng. Ông đã nói: “Tôi được hân hạn đóng góp vào nền văn minh của nhân loại, nhưng không phải vì tôi tài giỏi hơn kẻ khác, mà chỉ là vì Thiên Chúa muốn ban quà tặng này cho nhân loại, nên khi đến lúc Ngài muốn tỏ bí mật này cho con người, Ngài đã thương bày tỏ cho tôi”.

Biết nhìn nhận tất cả những gì mình có là do Thiên Chúa ban, chứ không phải do công lao, tài ba của mình. Đó mới là người khiêm nhường thật.

Xin Chúa cho chúng con biết sống hiền lành và khiêm nhường để chúng con đem an hòa, niềm vui cho mọi người trong xã hội và trong gia đình.

LM Giuse Nguyễn Văn Nam

---------------------------------

 

TN 14-A95: HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG - CN 14 TN A

 

Ngày xưa, có một vị đạo sỹ khá nổi tiếng về sự thông thái và nếp sống đạo đức. Nhiều học trò từ  TN 14-A95


Ngày xưa, có một vị đạo sỹ khá nổi tiếng về sự thông thái và nếp sống đạo đức. Nhiều học trò từ khắp nơi tìm đến để xin thụ giáo nơi ông. Trong ngày khai môn, vị đạo sỹ quy tụ các đệ tử trong chiếc sân rộng trước nhà, ở giữa có một pho tượng bằng đá. Trước mặt các học trò, ông chẳng nói chẳng rằng, chỉ cầm trên tay một nắm đá, ném tới tấp vào pho tượng và nặng lời chửi rủa, sau đó ông ra hiệu giải tán. Chiều tối, ông lại quy tụ các học trò đến trước pho tượng và lặng lẽ cúi đầu xin lỗi vì hành vi xúc phạm ban sáng. Ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng kia, ông cứ lập đi lập lại hành vi ấy, ban sáng chửi bới pho tượng và trước khi đêm về ông lại cúi mình xin lỗi. Một người học trò sốt ruột hỏi ông ta : “Thưa thầy, chúng con đến đây để tầm sư học đạo mong thầy chỉ giáo, nhưng suốt cả tháng qua, thầy chẳng dạy chúng con điều gì, ngoài trừ mỗi một hành động thầy làm xem ra có vẻ ngớ ngẩn và vô nghĩa”. Bấy giờ, vị đạo sĩ mới nói với các học trò : “Tất cả bài học mà thầy muốn truyền đạt, nằm ở pho tượng kia. Chúng con hãy suy nghĩ và sống như vậy. Khi bị rủa xả, nó không giận, không cự cãi. Khi được người ta xin lỗi, nó cũng không vênh váo hay tự đại. Điều thầy muốn dạy bảo các con, là hãy sống hiền lành và khiêm tốn như thế.”

Hãy học với ta, vì ta hiền lành và khiêm nhường

Bài học Chúa dạy chúng ta hôm nay cũng là hãy sống tinh thần hiền hòa và khiêm nhường. Nhưng, chúng ta không sao chép lại sự hiền lành và khiêm tốn từ nơi bức tượng vô tri vô giác kia. Chúng ta cũng chẳng cần học hỏi sự hiền lành và khiêm tốn nơi các vị hiền nhân quân tử mà sử sách đã nêu gương. Chúa mời gọi chúng ta hãy học hai bài học căn bản này nơi chính trường học của Ngài, phát nguyên từ trái tim nhân lành và yêu thương nơi Ngài. “Anh em hãy học cùng tôi, vì tôi có tấm lòng hiền lành và khiêm nhường”. Chúa Giêsu là vị tôn sư duy nhất và tuyệt hảo mà chúng ta cần phải đến để thụ giáo. Chỉ mình Đức Giêsu là chuẩn mẫu duy nhất để chúng ta noi theo. Ngài không dạy chúng ta bằng lý thuyết mô phạm, nhưng chính cuộc sống và cái chết của Chúa trên Thập giá đã diễn bày hai phẩm tính ấy một cách tròn đầy.

Vào năm 1944, Hit-le, tên trùm phát xít Đức đã cao ngạo dương oai muốn thôn tính cả thế giới và tập trung quyền bính trong tay mình. Một vị chính khách đã mỉa mai tự hỏi: “Con người đầy tham vọng và kiêu căng này đã chiếm biết bao lãnh thổ. Hắn sẽ dừng lại ở lãnh thổ nào đây ?”. Nghe vậy, một vị giáo sĩ trả lời: “Chắc chắn ông ta sẽ phải dừng lại trên một lãnh thổ rất chật hẹp, vỏn vẹn chỉ hai thước đất, đủ để chôn ông ta mà thôi”. Cũng tương tự như thế, hoàng đế Napolêon đã từng ngạo nghễ bắt giữ ngay cả Đức Thánh Cha Piô VII và giam Ngài ở đảo Saint Hélène. Vào cuối đời, ông bị thất trận tơi tả, và chính ông lại bị biệt giam tại hòn đảo ấy, nơi mà ông đã kiêu ngạo giam giữ vị sứ giả của Chúa. Phi hành gia Gagarin của Liên Xô sau một vòng bay quanh bầu trời bao la đã kệch cỡm tuyên bố: “Tôi đã bay vào vũ trụ mênh mông và lùng sục khắp nơi mà chẳng tìm thấy một ông gìa nào có tên là Thiên Chúa đâu cả”. Sau lời phát ngôn đầy kiêu căng đó, con thuyền Spounik của ông đã nổ tung. Câu chuyện về con tàu Titanic chìm sâu giữa đại dương vào năm 1911 cũng giống hệt như vậy. Người ta đã kiêu ngạo treo một bảng hiệu trên thành tầu với hàng chữ ‘Ở đây không có Thiên Chúa’ (There is no God). Biến cố bi thảm ấy là một lời cảnh báo đối với sự cao ngạo của con người. Tất cả những dẫn chứng trên giúp chúng ta nghiệm ra rằng, ‘Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhu’.

Trong thư Rôma, thánh Phaolô đã viết: “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, thì cũng nhờ một người duy nhất mà chúng ta được công chính hóa” (Rm 5,18). Con người đầu tiên ấy chính là Adam và tội gây nên cái chết cho con người chính là tội kiêu ngạo. Ngược lại, Đức Giêsu - Adam mới, đã phục hồi cho chúng ta phẩm giá làm con, qua sự khiêm tốn tự hạ nơi Người.

Trong thư Philipphê, Thánh Phaolô cũng đã viết một bài thánh thi nổi tiếng, họa lại bài ca về ‘Người tôi tớ đau khổ’ trong sách tiên tri Isaia để mời gọi chúng ta chiêm ngắm mẫu gương nơi Chúa Giêsu. Ngài viết : “Đức Giêsu Kitô vốn là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất thiết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống như một phàm nhân. Ngài lại còn hạ mình vâng lời cho đến chết và chết trên cây Thập giá (Philip 2, 6-8). Bài học khiêm nhường Chúa nói hôm nay chính là bài học được hiển thị rõ nét nơi cái chết của Ngài.

Con chiên hiền lành bị đem đi xén lông mà không kêu ca mở miệng

Ở đời người ta vẫn thường hay nói ‘Nhịn là nhục’. Nhiều người vẫn chủ trương phải tranh đấu để có thể tồn tại trong xã hội. Giáo huấn mà Chúa Giêsu trình bày hôm nay xem ra rất nghịch thường và khó chấp nhận. “Ai tát con má bên phải, con hãy đưa luôn cả má bên trái, ai bắt con đi một dặm, con hãy đi với nó hai dặm”. Theo lý luận thông thường, chẳng ai dại dột làm thế. Nhưng đây là sự khôn ngoan của nước trời cho dù đối với thế gian, đó quả là sự khờ dại và điên rồ. Thánh Phaolô cắt nghĩa : “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn sự khôn ngoan của loài người. Cái yếu đuối của Thiên Chúa lại còn hơn sự mạnh mẽ của trần gian.” (1 Cor 1,25).

Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng đưa ra quy chuẩn về sự trọn lành mà chúng ta vẫn thường gọi là bản ‘Hiến Chương Nước Trời’. Một trong những mối phúc, những quy chuẩn căn bản của bản hiến chương ấy, là ‘Phúc cho những ai sống hiền lành’.

Khi đi vào trần gian, Chúa Giêsu đã đến rất âm thầm trong tĩnh lặng, mặc lấy hình hài của một thơ nhi nhỏ bé và yếu ớt. Ngài đã trải qua 30 năm tại Nazarét trong cuộc sống rất bình lặng, chung chia thân phận làm người giữa những dân quê chất phác và mộc mạc. Sự hiền lành ấy được thể hiện rõ nét hơn nơi cái chết của Chúa trên Thập giá. Ngài đã bị chửi rủa, bị lăng mạ, bị bêu xấu, nhưng Chúa tuyệt đối không cãi một lời, không đối lại một câu. Sự thinh lặng ấy không phải là một sự câm nín cách vô nghĩa, nhưng đó là một loại hình ngôn ngữ diễn bày sự hiền lành sâu thẳm nơi Ngài. Ngôn sứ Isaia đã phác vẽ dung mạo hiền từ của Đức Kitô, Đấng sẽ bị sát tế như một ‘Con chiên hiền lành bị đem đi xén lông mà không hề kêu ca hay mở miệng’.

Trong cuộc sống hôm nay, đây là hai bài học căn bản, vạch dẫn cho chúng ta con đường vươn tới hoàn thiện, nhưng quả là rất khó để thực hành. Ai trong chúng ta cũng có cái tôi to đùng, thích được người ta nể trọng. Mọi người đều biết rằng, Thập gía là lý tưởng của mọi Kitô hữu và Chúa Giêsu vẫn nhắc đi nhắc lại lời mời gọi của Ngài : “Ai muốn theo tôi hãy bỏ mình vác thập giá mình mà theo”. Biết thế, nhưng thực hành không phải là chuyện giản đơn.

Kết luận

Kinh điển Phật giáo có thuật lại một giai thoại. Một người kia mang đến dâng cho Đức Phật hai bó hoa, một bó cầm bên tay phải và một bó cầm bên tay trái. Ông đến dâng lên bó hoa cầm nơi tay trái. Đức Phật ngắm nghía một lát và nói với ông : “Hãy vứt đi”. Người đàn ông kia vứt bó hoa xuống đất và dâng cho Đức Phật bó hoa còn lại bên tay phải. Đức Phật cũng nói : “Hãy vứt xuống”. Người đàn ông không hiểu và hỏi lại: “Thưa Ngài, con đã vất cả hai bó hoa xuống đất rồi, con phải làm gì nữa ?”. Đức Phật mới trả lời: “Ta không bảo phải vứt những bó hoa này mà hãy vứt đi chính người đang cầm hoa”. Trong cuộc hành trình theo Chúa Giêsu, chúng ta hãy tập vứt bỏ chính mình, giống như Chúa Giêsu đã nêu gương. Ngài đã đi đến tận cùng của mầu nhiệm tự hủy và hôm nay Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy sao chép lại cách sống của Ngài : “Anh em hãy học với tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

Lm. Văn Hào SDB

---------------------------------

 

TN 14-A96: HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG


Chúa Nhật XIV thường niên - Năm A

 Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

 

Ngày nay, người ta say mê quyền lực và muốn khuất phục người khác dưới quyền mình, muốn sai TN 14-A96


Ngày nay, người ta say mê quyền lực và muốn khuất phục người khác dưới quyền mình, muốn sai khiến người khác theo ý mình.  Con người có khuynh hướng trở nên kiêu ngạo. Người ta còn dị ứng khi nói đến lời dạy “ hiền lành khiêm nhường “của Đức Kitô, nhất là khuyên chúng ta hãy thực hiện đức tính này.

          Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta cần đi bước theo chân Chúa Kitô.  Người đã đến chia sẻ kiếp người của chúng ta, Người đã đi đến mức cùng của việc tự hạ : sống chung thân phận với người nghèo khổ, như người tôi tớ rốt hết. Hiền lành và khiêm nhường là những đức tính mà Chúa Giêsu đã thực hiện trước và khuyên các môn đệ hãy đem ra thực hành :”Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

          Thực ra, truớc Chúa Giêsu mấy trăm năm, nhà hiền triết Lão Tử cũng đã đưa ra chủ trương:”Nhu nhược thắng cương cường” : lấy mềm dịu thắng cứng rắn (nhu thắng cương, nhược thắng cang). Đây là một chủ trương mới lạ, khó được chấp nhận, chỉ những người có tâm hồn cao thượng mói hiểu và chấp nhận được chủ trương này. Hôm nay chúng ta thấy lời khuyên của Chúa Giêsu rất gần với chủ trương của Lão Tử. Và trong thực tế, có rất nhiều người đã thực hiện lời khuyên của Chúa Giêsu. Họ đã thành công và đã để lại tấm gương sáng muôn đời cho nhiều người.  Chúng ta hãy nhớ lại lời khuyên của Chúa Giêsu trong “Tám mối phúc thật” :”Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ dẽ được gọi là con Thiên Chúa”.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          +  Bài đọc 1 : Dcr 9,8-10.

          Trong thời Chúa Giêsu, người ta đang trông chờ Đấng Messia đến cứu dân Người với hình ảnh là một  Đấng Messia đầy quyền uy, dùng võ khí để tái lập hoà bình. Nhưng tiên tri Giacaria lại loan báo cho dân thành Giêrusalem biết : Đấng Messia không đến trong quyền uy với võ khí hủy diệt, nhưng đến với một thứ võ khí đặc biệt là “hiền lành và khiêm nhường”.

          Theo đó, Đấng Messia sẽ đến cũng là một vị Vua nhưng là vị Vua có những đức tính khác biệt :

          . Ngài không phải là vị vua chiến tranh nhưng là hòa bình.
          . Ngài rất khiêm nhường, không ngồi trên lưng ngựa mà trên lưng lừa.
          . Ngài rất hiền lành : không muốn giết chết mà chỉ muốn cứu sống.

          Đức Giêsu sẽ hoàn tất việc mong chờ này vào ngày lễ Lá, khi Người vào thành Giêrusalem trên lưng một con lừa, như những người nghèo.

          +  Bài đọc 2 : Rm 8,9.11-13.

          Đây là đề tài phụ. Thánh Phaolô nhắc cho chúng ta rằng khi được chịu phép rửa tội, chúng ta thực sự  đã trở nên môn đệ Chúa Kitô và để phục sinh với Người chúng ta phải sống theo thần khí của Người (tức là Thánh Thần) chứ đừng “sống theo xác thịt’ là mọi khuynh hướng xấu sẵn có trong chúng ta
.
          Ai sống đời sống cũ tức là sống theo xác thịt sẽ bị dẫn đến sự chết. Còn ai sống đời sống mới tức là sống theo Thánh Thần sẽ được dẫn tới sự sống vĩnh cửu.
          +  Bài Tin mừng : Mt 11,25-30.

          Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta có thể tìm thấy hai ý tưởng chính :

          a) Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Người qúi chuộng những kẻ bé mọn và khiêm nhường. Chính Người đã tiết lộ bí mật của Người cho họ trong khi Người lại giấu không cho những người khôn ngoan và quyền thế biết được những điều ấy. Vì sao ? Vì các luật sĩ và biệt phái  đáng lẽ ra  phải là những người đầu tiên nhận ra rằng Chúa Kitô là sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng sự hiểu biết về Sách Thánh của họ đã làm cho họ đầy kiêu căng, một thứ vật cản.

          b) Sang phần sau, Chúa Giêsu cho biết, vì không tự mãn, những trí óc khiêm nhường của những kẻ bé mọn lại được mở ra  ngay từ đầu đối với những mầu nhiệm của Chúa. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa và đón nhận lời Người.

          Nhân dịp này, Chúa Giêsu cũng khuyên những người bé mọn đó hãy “mang lấy ách của Ngài” tức là “hãy học cùng Ngài” về hai đức tính căn bản là “Hiền lành và khiêm nhường” trong cuộc sống hằng ngày để làm môn đệ Chúa.

B. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Người hiền lành khiêm nhường

          Trong phần thực hành lời Chúa, chúng ta chỉ bàn đến lời khuyên của Chúa trong phần thứ hai của bài Tin mừng : “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

I NÓI VỀ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG.

          1. Nói về hiền lành.

Hiền lành hay hiền hậu là con người tốt lành, không độc ác, nhưng có lòng thương người , có đức hạnh và hay làm điều thiện. Ví dụ : Cha mẹ hiền lành để đức cho con.

          Theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh thánh thì nó có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi.  Như thế hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hòa nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo.

          Hiền lành thì phải tránh tính nóng nảy. Trong đời sống hằng ngày, người có quyền bính đều xử dụng tính nóng nảy của mình đối với người khác, có khi còn “giận cá băm thớt”.  Người ta từng nói :”No mất ngon, giận mất khôn”. Cho nên, để luôn luôn tự cảnh giác, ông Nguyễn đình Giản, thời Lê mạt, đã viết vào một mảnh giấy, dán lên chỗ ngồi giải trí, câu này :

                                      Tảo cấp tắc bại sự
                                      Nóng tính thì hỏng việc.

          2. Nói về khiêm nhường.

          Theo chữ thì Khiêm nhường hay khiêm nhượng là nhún nhường không khoe khoang, hạ mình xuống một chút.  Căn bản của khiêm nhường là biết mình “là” thế nào : từ đó không muốn tỏ ra hơn cái “là” ấy ; và giả như người khác có coi mình kém hơn cái “là ấy” thì mình cũng không màng tới. Điều quan trọng là sống thanh thản và thành thật đúng với cái “là” của mình.
          Khiêm nhường trái ngược với kiêu ngạo. Kiêu ngạo là muốn tự cho mình vượt quá cái “là” của mình và bắt người ta phải công nhận như vậy. Người kiêu ngạo được coi là người VIỆT VỊ  trong bóng đá vì đã vượt quá vị trí của mình. Dĩ nhiên, cầu  thủ “việt vị” thì đều bị trọng tài phạt.

------------------

Truyện : hoàng đế Napoléon kiêu ngạo.

           Trong trận đánh Nga, hoàng đế Napoléon đã mơ tưởng thu phục cả Ân độ, và với lòng kiêu căng vô biên, nhà vua đã cho đúc một thứ huy chương có dòng chữ này :”THIÊN ĐÀNG LÀ CỦA CHÚA, TRÁI ĐẤT LÀ CỦA TÔI”. Nhưng rồi nhà vua đã mất ngôi báu vì trận Nga này. Sau trận thất bại của nhà vua, một viên đại tướng Nga cũng cho đúc một huy chương khác, trên mặt có một hình bàn tay đưa ra đám mây và cầm roi đánh vào lưng Napoléon cùng với lời này :”CÁI LƯNG LÀ CỦA MÀY, CÁI ROI LÀ CỦA TA”.  Và như thế, vị hoàng đế kiêu ngạo, sau này trong nơi vắng vẻ bị tù đầy ở đảo Sainte Helène có thể suy nghĩ về chân lý về những lời này của Chúa :”Kẻ nào đưa mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 23,12).

II. NGƯỜI ĐỜI NGHĨ THẾ NÀO ?

          Tùy theo quan niệm của người ta, hiền lành nhịn nhục có thể bị coi như một thái độ hèn nhát, nhu nhược. Nhưng cũng có rất nhiều người coi đó là thái độ anh hùng đáng ca tụng. Phải là một con người có bản lĩnh vững vàng cao thượng mới có thể thực hiện được.

          1. Thái độ hèn nhát.

          Ngày nay sự hiền lành dễ thương không còn được đánh giá cao như trước. Trước đây lời khen ngợi tốt nhất mà ta có thể trao tặng cho kẻ khác là gọi họ là “người hiền lành dễ thương”.  Nhưng ngày nay, bạo lực lại phổ biến hơn hiền lành dễ thương.  Truyền hình đã làm cho bạo lực có rất nhiều khán giả bằng những chương trình Nielson rất phổ biến (bên Mỹ).

          Nếu thi sĩ Alfred de Vigny coi cầu nguyện và than vãn là thái độ hèn yếu, thì đối với ông và với nhiều người khác, họ nghĩ sao với lời Chúa :”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” ?  Có lẽ họ muốn theo cách hành động của anh chàng Tân Ti Tụ suốt đời không chịu để cho ai làm nhục .

Truyện : Anh chàng Tân Ti Tụ.

           Đời Trang Công nuớc Tề có người tên là Tân Ti Tụ đêm nằm mơ thấy một chàng cao lớn đội mũ trắng đi giầy mới, mặc quần gai, áo vải, đeo gươm tự dưng đến nhà mắng, nhổ vào mặt mà đi.

          Tân Ti Tụ giật mình thức dậy, tuy biết chiêm bao nhưng vẫn tức tối, suốt đêm bực rọc khó chịu, không ngủ được.
          Sáng dậy, Tân Ti Tụ mời một bạn thân đến nói rằng :

          - Bác ạ, tôi từ nhỏ đến giờ vẫn là kẻ hiếu dũng, nay sáu mươi tuổi rồi mà chưa hề chịu ai làm nhục, thế mà đêm qua bị một đứa, tôi phải đi tìm để báo thù, nếu thấy thì hay, còn không tôi chết mất.

          Thế rồi từ hôm ấy, sáng nào Tân Ti Tụ cũng cùng bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình mãi ba ngày không thấy, rút cục Tân Ti Tụ phải uất lên mà chết.
                             (Thái Bạch, Đông tây kim cổ tinh hoa, 1965, tr 134)

          2. Thái độ can đảm

          Ngược lại với thái độ của những kẻ tầm thường chỉ biết hành động theo tình tư dục, những bậc thánh nhân, hiền nhân quân tử có cái nhìn khác hẳn. Những kẻ tầm thường không có cái suy nghĩ và hành động như các vị đó.

          Thánh Francois de Sales nói :”Tất cả đều được chinh phục bởi hiền dịu chớ không phải bạo lực”.

          Nhà hiền triết Mạnh Tử nói :”

 Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân

Đạo trời không riêng một người, Luôn gia ân cho kẻ hiền lành.

Ông Tô đông Pha, một văn sĩ Trung hoa thời xưa nói rất chí lý :

“Chỗ mà người xưa gọi là hào kiệt, ắt phải có khí tiết hơn người. Nhưng, nhân tính có chỗ không thể nhịn được. Bởi vậy, kẻ thất phu gặp nhục, tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xốc đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Kẻ Đại dũng trong thiên hạ, trái lại, thình lình gặp những việc phi thường cũng không kinh, vô cố bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão của họ rất lớn và chỗ lập chí của họ rất xa vậy”.

          Để làm nổi bật cái triết lý “Nhu nhược thắng cương cường” trong phương diện cách mạng, ông Nguyễn duy Cần trong cuốn “Cái Dũng của thánh nhân” đã đề cập đến cuộc giải phóng Ấn độ do ông Gandhi điều khiển. Chính sách đề kháng bất bạo động của Gandhi đã làm cho thế giới hết sức ngạc nhiên và thán phục.  Đâu phải người ta không biết dùng bạo động, nhưng vì người ta cho đó là còn hạ sách.

          Ông Gandhi nói :”... Tôi tin rằng Ấn độ không phải là vô lực. 100.000 người Anh làm gì mà đến 300 triệu người Ấn kia phải sợ ? Bất bạo động đâu phải chịu lụy kẻ làm hại mình. Bất bạo động, là dùng sức mạnh của cả tâm hồn để chống lại với cường quyền của kẻ độc tài”.

          Một người như thế thôi cũng đủ khiêu khích cả một đế quốc và làm cho nó “tan tành nghiêng ngửa”.

Truyện : Lạn Tương Như  và Liêm Pha.

           Lạn Tương Như được phong làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị đứng dưới, nên tức giận hăm he hễ gặp mặt Tương Như là giết đi. Tương Như vì thế cứ lánh mặt mãi... Một hôm Tương Như ra ngoài, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra. Bọn xá nhân thấy thế càng giận  bèn họp nhau hỏi Tương Như :

          - Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc thượng phu nên mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm Pha dọa, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thế vậy ? Chúng tôi lấy làm xấu hổ, vậy xin đi không ở nữa.

          Tương Như nói :

          - Các ngươi xem tướng quân có hơn được vua Tần không ?

          Bọn xá nhân đáp :

          - Không.

          Tương Như nói :

          - Lấy cái oai của vua Tần, thiên hạ ai dám chống, mà Tương Như này dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa.  Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân ư ? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì e có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, thế không cùng sống. Tần nghe tin, tất thừa cơ đánh Triệu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là coi việc nước là trọng và thù riêng là khinh vậy thôi.

          Bọn xá nhận mọp lạy mà rằng :

          - Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.

          Liêm Pha khi nghe thuật lại việc làm của Tương Như cả thẹn mà rằng :”Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm”. Bèn đến tạ tội với Tương Như, qùi mọp mà rằng :”Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quân bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá”. Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết làm bạn sống chết với nhau.

                   (Nguyễn duy Cần, Cái DŨNG của thánh nhân, 1958, tr 162-163)

III. CHÚNG TA NGHĨ SAO ?

          Mỗi người phải lựa chọn cho mình một hướng đi. Chúng ta phải có lựa chọn nào trước lời Chúa dạy :”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” ? Thái độ của người hiền lành là hèn nhát hay can đảm ?

          Đối với chúng ta, sự hiền lành và khiêm nhường của Đức Giêsu đã làm cho không biết bao người đương thời với Chúa Giêsu và bao thế hệ sau này ngỡ ngàng và kinh ngạc.

                                      Truyện : BEN HUR

Nhà văn Lewis Wallace trong tác phẩm BEN HUR cũng nói lên tâm tư sững sờ trước sự khiêm nhường sâu thẳm của Đức Kitô :

          Ben Hur khi chứng kiến cảnh Đức Kitô bị Giuda phản nộp và bị các tên lính bắt trói, chàng hăm hở tiến đến gần Chúa Giêsu và hỏi :

          - Lạy Thầy, hãy nghe tôi, có phải Thầy tự ý muốn đi theo bọn lính và các giáo sĩ hay không ?

          Đức Giêsu lặng thinh.

          - Lạy Thầy, tôi có một binh đoàn quân Galilê trong thành phố này. Hãy ra lệnh đi, họ sẽ phục tùng Thầy. Thầy có thuận không ?

          Đức Giêsu vẫn một mực cúi nhìn đăm đăm xuống đất.

          - Lạy Thầy, một lời thôi, một lời của Thầy thôi, tất cả sẽ theo Thầy...
          Đức Giêsu vẫn im lặng, đến nỗi Ben Hur ngã vật xuống bờ sông Cédron và thốt lên :

          - Người Nazareth, hỡi người Nazareth, thế thì thông điệp của Người mang ý nghĩa gì ?

          Mang một ý nghĩa gì ư ? Đó là “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đó là thông điệp mà Đức Giêsu gửi cho mọi người chúng ta. Ngài đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt chước Ngài thôi.

          Qua những tư tưởng trên, chúng ta thấy cái hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô không là một sự nhu nhược nhát đảm, nhưng đó là đức tính của những vĩ nhân, của những bậc đại thánh. Bởi vì chính tính khí kiêu căng đã làm cho thế giới bị đảo lộn, hận thù ghen ghét, chiến tranh.  Những kẻ kiêu căng tự mãn là những tiểu nhân, hèn mọn, còn những tâm hồn hiền lành khiêm nhường là bậc anh hùng vì họ đã anh dũng chiến thắng được bản thân với những tính tự ái ích kỷ hẹp hòi.  Đó mới là cuộc chiến quan trọng, và cái chiến thắng của cuộc chiến đó mới đáng kể.

                                      Truyện : Đức Gioan 23 và bức thư.

          Lúc được phong chức Tổng giám mục, Đức Cha Roncalli là khâm sứ Toà thánh kiêm đại diện Tông tòa quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ.  Công việc của ngài rất khó khăn, vì phải trông coi một vùng rộng lớn đang sôi động về mặt chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo, Công giáo với Tin lành, Chính thống, Hồi giáo, các linh mục triều lại chia rẽ với các tu sĩ.

          Trong lúc thi hành công việc mục vụ, Đức Tổng giám mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích Ngài về mọi mặt, do tay một linh mục bất mãn viết.  Đọc xong, Đức cha Roncalli không nói một lời, lòng vẫn tha thiết yêu vị linh mục ấy.

          Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức  sứ thần Toà thánh tại Paris, rồi hồng y giáo chủ Vênêcia, và cuối cùng đắc cử Giáo hoàng với danh hiệu Gioan 23 năm 1958.

          Linh mục bất mãn viết thư năm nào vẫn còn sống.  Về sau để ngài tháp tùng với giáo dân sang Rôma và xin được yết kiến Đức Giáo hoàng.

          Linh mục ấy đã thuật lại cuộc tiếp kiến riêng tư với Đức Giáo hoàng :

“Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi trộm nghĩ, đã mấy chục năm trời qua rồi, giờ đây chắc hẳn Đức Thánh Cha không còn nhớ gì... Nhưng ai ngờ, sau khi tiếp chuyện thân mật, Đức Thánh Cha với lấy cuốn Kinh thánh và lôi ra trước mặt tôi bức thư khốn nạn ấy. Đang khi tôi lo âu lúng túng, Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo :”Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Thánh kinh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xẩy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.

          Trong bài “Anh hùng” được chia sẻ với giới trẻ hạt Đức trọng, tôi đã đề cập đến câu định nghĩa về anh hùng của Vương Thông, theo đó :

          ANH  là người tự biết mình.
          HÙNG là người tự thắng mình.

          Vậy người thực hiện được lời Chúa dạy :”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” phải là vị anh hùng vì họ đã tự biết mình và đã thắng được mình, thắng được tính nóng nảy và hay trả thù của mình.  Đứng trước tấm gương của những người hiền lành nhịn nhục, không ai dám coi họ là những người hèn nhát mà phải suy tôn họ là anh hùng.

          Trong bài giảng “Tám mối phúc thật” , Chúa Giêsu đã khẳng định :”Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.  Nếu người ta nói :”Cha nào con ấy” thì chúng ta phải nghĩ thế nào khi chúng ta là con cái Chúa ?  Nếu Cha chúng ta là Đấng hiền lành khiêm nhường, còn chúng ta là con, thì không thể nào đi ra khỏi con đường Chúa đã vạch ra cho chúng ta. Bài học đã có sẵn, chúng ta chỉ việc đưa ra thực hành.

---------------------------------

 

TN 14-A97: HỌC SỐNG HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG


 VỚI CHÚA GIÊSU

Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà

 

Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm TN 14-A97


Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng (Mt 11, 29-30).

Người đời tưởng rằng muốn trở nên hùng mạnh và thắng được người khác thì mình phải hung tợn hơn, tàn ác hơn, phải tôn mình lên và hạ bệ người khác xuống, phải dùng sức mạnh để quật ngã, phải dùng khí giới để huỷ diệt và khủng bố kẻ thù... Nhưng nghĩ như vậy là thiển cận và sai lầm.

Lịch sử loài người đã tỏ cho thấy cho dù những bạo chúa hung tàn nhất như Nê-rô hay Tần Thuỷ Hoàng chẳng hạn, cũng chỉ có thể dùng cường quyền và bạo lực để chiếm lấy ngai vàng trong một thời gian nhưng không thể chinh phục được lòng người. Những nhân vật nầy cũng chưa hề được xem là hùng mạnh, là anh dũng. Trong khi đó, lịch sử đánh giá rất cao những con người hiền lành, khiêm nhượng, ôn hoà bất bạo động như Mahatma Gandhi, Martin Luther King... Lịch sử nhân loại nhìn nhận họ là những bậc vĩ nhân đáng ngưỡng mộ, biết dùng sự hiền hoà, bất bạo động để chiến thắng bạo tàn, biết "dùng nhu để thắng cương, biết dụng nhược để thắng cường" (Lão Tử).

Thế nên, mặc dù Chúa Giê-su có rất nhiều phẩm chất cao đẹp đáng nêu gương, nhưng phẩm chất đầu tiên mà Người kêu gọi mọi người nên học nơi Người là đức tính hiền hậu và khiêm nhường. "Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng." (Mt 11, 29) và "phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp" (Mt 5, 4)

Câu chuyện sau đây minh chứng cho thấy sự hiền lành khiêm nhu có thể chiến thắng hung hăng và thô bạo.

Thời chiến quốc, vua nước Triệu phong Lạn Tương Như làm tướng quốc. Tướng Liêm Pha cậy mình có công lớn hơn mà lại bị đặt dưới quyền Tương Như nên đâm ra căm tức, thề rằng nếu gặp mặt Lạn Tương Như là giết.

Tương Như nghe nói thế bèn tìm cách lánh mặt Liêm Pha hoài. Một hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha đi tới, vội bảo tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra tiếp tục hành trình.

Bọn xa nhân thấy thế tức giận, bèn hỏi Tương Như: "Chúng tôi tưởng ngài là bậc đại trượng phu nên đem lòng quý trọng, từ bỏ nhà cửa, xa lìa thân thích để đến đây hầu ngài. Nay thấy ngài là tướng quốc, thứ hạng còn cao hơn Liêm tướng quân, lại để Liêm tướng quân doạ giết mà không đáp lại; ngài đã tránh mặt Liêm tướng quân ở triều đình, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ Liêm tướng quân quá vậy? Chúng tôi rất lấy làm xấu hổ, vậy chúng tôi xin rút lui, không theo hầu ngài nữa."

Tương Như nói: "Các ngươi xem Liêm tướng quân có oai phong, cao trọng bằng vua Tần không?" Bọn xa nhân thưa: "Không".

Tương Như nói: "Uy danh của vua Tần, thiên hạ đều kinh sợ không ai dám chống, vậy mà một mình Tương Như nầy dám mắng nhà vua giữa triều đình, lại dám làm nhục cả đám quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm Tướng Quân ư? Nhưng ta nghĩ sở dĩ Tần không dám đánh nước ta là vì ngại có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, tất không cùng sống. Tần mà nghe tin ấy tất sẽ thừa cơ tiến đánh nước ta. Sở dĩ ta chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là nhẹ đó thôi".

Nghe vậy, bọn xa nhân quỳ mọp tâu rằng: "Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao hiểu được đại chí của tướng công".

Liêm Pha hay được tin nầy, cả thẹn than rằng: "Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm", rồi trần vai áo đến trước cửa nhà Tương Như tạ tội: "Tính tôi thô bạo, đội ơn tướng quốc bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!"

Tương Như đỡ Liêm Pha dậy, hai người nắm tay nhau khóc và thề nguyền kết bạn suốt đời sống chết có nhau.

(Trích "Thuật xử thế của người xưa" của Thu Giang Nguyễn Duy Cần).

Thế là bằng đường lối nhịn nhục, hiền lành và khiêm nhượng, Lạn Tương Như hoàn toàn chiến thắng và chinh phục được cả con người lẫn tâm hồn của Liêm Pha. Đúng như Pascal nhận xét: "Người ta chỉ thực sự vĩ đại khi hạ mình quỳ xuống."

Một trong những hình tượng rất sinh động để diễn tả sự khiêm hạ là hình tượng về nước. Nước luôn tỏ ra mềm mỏng, dịu dàng, tránh va chạm và xô xát. Cho dù nước có bị tấn công thô bạo, nước cũng không hề kháng cự bao giờ.

Khi người ta dùng búa tạ đập vào khối đá rắn chắc, đá dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại nên bị vỡ tan. Khi người ta dùng búa tạ giáng vào nước, nước dùng sự mềm mại dịu hiền của mình đối lại, thế là nước không hề bị sứt mẻ hư hao, còn búa thì bị chìm lĩm xuống tận đáy bùn!

Nước luôn luôn tìm chỗ rốt hết, tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao, nên nước luôn được bảo toàn.

Tuy mềm mại và luôn tìm chỗ thấp hèn như thế, nhưng nước lại có sức mạnh phi thường.

Khi có một đám cháy rừng bộc phát thiêu rụi hàng ngàn mẫu rừng nguyên sinh và trong khi bao nhiêu nỗ lực của con người với những phương tiện hiện đại nhất không tài nào dập tắt được, thì người ta chỉ còn biết cầu mưa! Khi mưa trút xuống hàng tỉ mét khối nước thì thần hỏa mới chịu bó tay và rừng xanh mới có thể phục hồi.

Nước tuy mềm mại dịu dàng nhưng có thể bào mòn đá cứng. Nước tuy không cánh nhưng có thể bay tới mây trời; nước không có mũi dùi mũi khoan nhưng có thể thấm nhập đến tầng sâu nhất trong lòng đất. Nước đi đến đâu thì đem lại sự sống dồi dào cho nơi đó.

Như thế, nước tuy thấp kém, mềm mỏng, dịu hiền nhưng lại có sức mạnh vô song.

Những minh hoạ trên đây giúp chúng ta xác tín hơn vào lời dạy đầy khôn ngoan của Chúa Giê-su được trích đọc trong Tin Mừng hôm nay: "Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng." (Mt 11, 29) và "phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp" (Mt 5, 4).

---------------------------------

 

TN 14-A98: Suy Niệm Chúa Nhật XIV Thường Niên – Năm A

 

Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật. Với bản tình loài người, Ngài có đầy đủ mọi đức tính  TN 14-A98


Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật. Với bản tình loài người, Ngài có đầy đủ mọi đức tính mà người đời cần học hỏi. Nhưng ít khi Ngài mời gọi con người học theo các đức tính của Ngài, có chăng cũng chỉ là gián tiếp thôi. Vậy mà, Tin mừng hôm nay lại cho chúng ta biết, Ngài trực tiếp mời gọi các môn đệ và mỗi người chúng ta hãy học theo Ngài để sống hiền lành và khiêm nhường. Điều đó, chứng tỏ, đức tính hiền lành và khiêm nhường hết sức quan trọng trong đời sống chúng ta.

Vậy, Đức Giêsu sống hiền lành và khiêm nhường như thế nào?

Trước hết, Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã tự hạ mình xuống, làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Như thế, Đức Giêsu cũng chấp nhận mang nơi mình sự thấp hèn, yếu đuối, đau khổ của con người. Cụ thể, Tin mừng cho biết Đức Mẹ sinh Ngài trong hoàn cảnh thiếu thốn, rét mướt, bị người đời từ chối (x. Mt 2,7). Sau đó, Ngài sống với Thánh Giuse và Mẹ Maria trong tinh thần khiêm nhường vâng phục (x. Mt 2,51).

Khi ra giảng đạo, Ngài nêu cao tinh thần hiền lành và khiêm nhường. Ngài dạy các môn đệ hãy trở nên như trẻ nhỏ: “Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ, các con không được vào nước trời.” (Mt 18,3). Trong bài giảng về hiến chương nước trời, Ngài tuyên bố: “Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.” (Mt 5,4). Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, Đức Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Người đã quý chuộng những kẻ bé mọn và khiêm nhường. Chính Người đã tiết lộ bí mật của Người cho họ trong khi lại giấu không cho kẻ khôn ngoan và thông thái biết những điều ấy (x. Mt 11,25). Rồi, Ngài mời gọi mọi người sống hiền lành và khiêm nhường như Ngài: “Hãy học cùng Ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt 11,29). Khi dân chúng tôn Ngài lên làm vua, Ngài khiêm nhường không đón nhận như họ tưởng mà trái lại, Ngài lánh lên núi cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha (x. Ga 6,15). Trong bữa tiệc ly, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã thể hiện sự khiêm nhường cách tột cùng khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Đồng thời, Ngài dạy các môn đệ hãy rửa chân cho nhau (x. Ga 13,14). Trong ngày khải hoàn vào Thành Giê-ru-sa-lem, mặc dầu được dân chúng tung hô, nhưng Ngài vẫn khiêm nhường ngồi trên lưng lừa. Cử chỉ đó đã được tiên tri Isaia báo trước mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất: “Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ. Người đã loại bỏ các chiến xa khỏi Ép-ra-im, và ngựa khỏi Giê-ru-sa-lem. Cung tên chiến trận sẽ được phá huỷ. Người sẽ công bố hoà bình cho các dân tộc”(Dcr 9,9-10). Ngài hiền lành khi không kết án người phụ nhữ ngoại tình (x. Ga 8,2-11). Ngài hiền lành như người mục tử đi tìm con chiên lạc (x. Lc 15,3-7). Ngài hiền lành như người cha đợi chờ đứa con đi hoang trở về (x. Lc 15,1-32). Ngài hiền lành khi để cho Giuđa, kẻ phản bội hôn lên má mình và để cho quân dữ bắt trói đem đi (x. Mc 14: 43 -50; Lc 22: 47 -53; Ga 18: 3-11 ). Ngài hiền lành khi không có một phản ứng gì trước cảnh dân chúng nhạo cười hay bị kết án bất công. Đặc biệt, Ngài chấp nhận những đòn roi, chịu đội mạo gai, chịu đóng đinh trên thập giá…tất cả đều thể hiện sự hiền lành và khiêm nhường của Ngài.

Chúng ta không chỉ thấy đức tính hiền lành và khiêm nhường nơi Đức Giêsu mà còn thấy đức tính hiền lành và khiêm nhường nơi Đức Maria và các Thánh.

Nơi Đức Maria: Khi được Thiên thần Gabriel chào “Bà đầy ơn phúc” và cho Mẹ biết Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã thưa với Thiên Thần rằng: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”(Lc 1,38). Rồi Mẹ quy hướng tất cả những gì mình có được về cho Thiên Chúa bằng lời kinh Magnificat (x. Lc 1, 46-55). Từ đó, Mẹ sống một cuộc sống phó thác trọn vẹn trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa bằng việc khiêm nhường chấp nhận mọi đau khổ sẽ đến với mình: sinh con trong hang đá nghèo hèn; đem con trốn sang Ai-cập; lạc mất con trong đền thờ; thấy con vác thập giá và cuối cùng là chấp nhận đứng nhìn Con yêu dấu chết tất tưởi trên thập giá trước những kẻ nhạo báng Người.

Hầu hết các thánh cũng đã sống hiền lành và khiêm nhường. Xin được đơn cử một số các thánh sau đây:

Thánh Giuse: Khi biết Mẹ có thai, nhưng vì bản tính hiền lành và khiêm nhường nên Ngài không tố cáo Mẹ mà dự định âm thầm bỏ trốn. Ngài khiêm nhường vâng lời đón Đức Mẹ về nhà làm vợ mình, đưa Đức Giêsu trốn sang Ai-cập và lại đưa Mẹ con về cho dù lệnh truyền đó chỉ là lời của Thiên thần trong giấc mơ. Suốt cuộc đời của Thánh Giuse, Ngài đã sống hiền lành và khiêm nhường trong tinh thần phục vụ chương trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria và Chúa Giêsu một cách âm thầm.

Thánh Gioan Tẩy Giả: Khi được dân chúng ca tụng vì tưởng Ngài là Đấng Cứu Thế, là Đấng phải đến, thì Gioan đã khiêm nhường giải thích rằng: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa… Đấng đến sau tôi cao trọng hơn tôi, tôi không xứng đáng để xách dép cho Người” (Lc 1,23-27). Vì biết sứ mạng của mình chỉ là người dọn đường, nên khi Đức Giêsu đến, Thánh Gioan đã âm thầm rút lui : “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).

Thánh Phêrô cũng đã sống rất khiêm nhường. Sự khiêm nhường đó được thể hiện qua những hành động sau đây: Khi Ngài vâng lời thả lưới và đánh bắt được rất nhiều cá (x. Lc 5, 1-11). Khi thấy “mẻ cá lạ lùng”, Phêrô đến sụp lạy dưới chân Chúa và thưa Người rằng: “Lạy Thầy, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Khi lún xuống nước, ông kêu xin Chúa rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con” (Lc 14,30). Sau khi chối Thầy ba lần, ông đã ra ngoài ăn năn khóc lóc (x. Lc 22,62). Khi chịu chết tử đạo, ông xin được đóng đinh đầu lộn ngược xuống đất vì nghĩ mình không xứng đáng để nên giống Thầy mình. Như vậy, Phêrô là một vị thánh hết sức khiêm nhường.

Thực tế trong xã hội hôm nay, chúng ta thấy đâu đâu cũng có bạo lực xảy ra: nơi gia đình, nơi trường học, nơi các cơ quan công quyền, ngoài xã hội. Người ta vẫn cứ muốn giải quyết mọi thứ bằng bạo lực. Vì thế, đức tính hiền lành và khiêm nhường hầu như vắng bóng, không được chú trọng, không được để ý lưu tâm. Không những thế, nhiều khi người ta còn cho rằng: người sống hiền lành là người đần độn, hèn nhát; người sống khiêm nhường thì được được coi là tự ti, rụt rè, biếng nhác.

Nhưng xét về phương diện tu đức và dưới nhãn quan của Kitô giáo, thì hiền lành và khiêm nhường luôn là hai đức tính nền tảng cần thiết cho bản thân, gia đình, Giáo Hội và xã hội. Vì khiêm nhường là mẹ của các nhân đức khác, là nền móng để xây dựng đời sống thiêng liêng. Người sống hiền lành thường để lại nhiều điều tốt cho hậu thế, như người ta nói: “Cha mẹ hiền lành để đức cho con.” Người hiền lành và khiêm nhường luôn biết sống hoà thuận với tất cả mọi người, coi trọng mọi người, không phân biệt sang hèn giàu nghèo. Người khiêm nhường và hiền lành thì không làm hại người khác. Người hiền lành và khiêm nhường luôn đem lại niềm vui và bình an cho mọi người. Không những thế, người hiền lành và khiêm nhường luôn được Chúa ban ơn (x. 1 Pr 5,5). Trong cuốn Nhật Ký về Lòng Thương Xót của Thánh Nữ Faustina Kowalska, Chúa Giêsu nói với Thánh Nữ về nhân đức hiền lành và khiêm nhường rằng: “Con hãy đem đến Ta các tâm hồn hiền hòa, khiêm tốn và những tâm hồn trẻ thơ. Hãy nhận chìm họ vào đại dương Thương Xót của Ta. Những tâm hồn này giống Trái Tim hơn hết. Họ tăng nghị lực cho Ta để Ta bước vào cơn hấp hối đau thương. Ta thấy họ như những Thiên Thần trần thế, chầu chực quanh các bàn thờ của Ta. Ta đổ tràn trên họ những dòng thác lũ ân sủng. Duy chỉ những tâm hồn khiêm nhường mới có khả năng đón nhận ân huệ của Ta. Ta đặc biệt tín nhiệm nơi những tâm hồn đó.”

Qua những trình bày trên đây chúng ta thấy Đức Giêsu, Đức Mẹ và các thánh đã quý trọng đức hiền lành và khiêm nhường. Mặt khác, người hiền lành và khiêm nhường mang lại nhiều lợi ích cho gia đình, xã hội và được Chúa thương ban ơn. Vậy, chúng ta hãy cố gắng học tập đức tính hiền lành và khiêm nhường của Đức Giêsu, Đức Mẹ và các thánh. Để được như vậy, trong những sinh hoạt thường ngày, qua các mối tương quan trong gia đình, ngoài xã hội chúng ta hãy dẹp bỏ tính nóng nảy để tập sống hiền lành và khiêm nhường.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết thực hiện lời dạy và gương sáng của Chúa để sống hiền lành và khiêm nhường, hầu mang lại sự bình an cho gia đình, Giáo Hội và xã hôi. Amen.

Lm. Anthony Trung Thành


---------------------------------

 

TN 14-A99: CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN A


Lời Chúa: Mt 11,25-30

 "Hãy học với tôi,
vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.
Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.”
(Mt 11,29)


Anh chị em thân mến,

 

Qua bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa muốn đề cập đến hai đức tính cần thiết mà người mỗi TN 14-A99 Luong


Qua bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa muốn đề cập đến hai đức tính cần thiết mà người mỗi người theo Chúa phải học để có thể thành công trong cuộc đời của mình nhất là trong cuộc đời truyền giáo. Hai tính ấy là hiền lành và khiêm nhường.

1/ Hãy học cùng Tôi vì Tôi hiền lành.

Đây là mối phúc thứ hai của Chúa Giêsu trong hiến chương Nước Trời:

"Phúc cho những kẻ hiền lành.
Vì họ sẽ được đất làm cơ nghiệp" (Mt 5,4).


Nhiều người cứ tưởng hiền lành là yếm thế, là nhu nhược, là yếu đuối, để mặc kệ cho người ta phá hoại, mặc cho bất công hoành hành, mặc kệ cho tội ác phóng túng...!

Không! Không phải như thế mà hiền lành ở đây là một hành vi cao cả, không phải là những việc làm khuyến khích thêm tội ác mà là để cảm phục những người có tội để họ biết đường quay trở về.

Hiền lành chính là sức mạnh, sức mạnh của giọt nước làm thủng đá, của khí trời làm gẫy sắt...

Thánh Phanxicô Salesiô quả quyết: “Kẻ hiền lành sẽ làm chủ các tâm hồn và mọi ý chí sẽ ở trong lòng họ”.

Vâng! Chỉ có những tâm hồn mạnh mẽ thật, biết xả kỷ, biết tự chủ, biết tự thắng mình mới có thể sống hiền lành được.

Một bữa kia, Socrate có người bạn đến rủ ông đi công việc sớm một chút. Bà vợ ông thấy vậy la lối gầm thét om sòm. Socrate vẫn thản nhiên. Nhưng khi ông vừa bước ra khỏi cửa thì bà vợ đứng trên lầu đổ một thau nước bẩn xuống đầu ông. Các bạn ông thấy vậy tỏ dấu bất bình, phản đối... Nhưng Socrate chỉ cười và nói:

- Thế có gì lạ đâu! Hễ trời gầm thì thế nào mà chẳng có mưa!

Rồi ông thản nhiên trở vào nhà thay quần áo.

Chúng ta hãy nhìn vào gương Chúa Giêsu, là bậc thầy về sự hiền lành, là cha chí ái của chúng ta, để học lấy cái sức mạnh của sự hiền lành, cái sức mạnh của con người biết lấy ơn trả oán, biết xả kỷ mưu cầu ích chung, biết bình tĩnh trước mọi xúc phạm, ngược đãi...cái sức mạnh mà Chúa đã kéo về với Chúa đến hơn 1/3 nhân loại.

Bắt chước sống hiền lành như Chúa, chúng ta sẽ được Chúa chúc phúc, trước hết là cái phúc được sống an vui trong lòng, được gieo an vui cho mọi người chung quanh, và cái phúc chiếm được lòng mọi người.

Thánh Phanxicô Salésiô một lần kia bị xỉ nhục một cách thậm tệ nhưng ngài vẫn chịu đựng. Người anh của Ngài thấy vậy tỏ ý không bằng lòng với thái độ mà ông coi như là "nhu nhuợc" như thế. Thánh nhân cắt nghĩa:

- Anh ạ. Ai cũng có máu Ađam cả. Em cũng bực tức và cũng giận lắm, nhưng em cố gắng theo gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu. Cứ mỗi dịp như vừa rồi, em lại tập thêm được một chút ít bằng cách tự bảo "Này hỡi Phanxicô, hãy đậy kỹ vung, đừng nói, đừng mở gì ráo. Cuối cùng em thấy rằng: lấy một giọt mật thì bắt được cả một bày ruồi, chứ lấy cả một thùng giấm cũng chẳng bắt được một con"

Và đây là những lời còn táo bạo hơn: "Nếu kẻ thù móc mắt bên phải của tôi, tôi vẫn có thể dùng con mắt trái để mỉm cười với họ. Nếu họ móc cả mắt trái của tôi, tôi vẫn còn mãi trái tim để yêu mến họ"

2/ "Hãy học cùng Tôi vì Tôi khiêm nhường".

Thánh Phaolô đã từng ca ngợi sự khiêm nhường của Chúa Kitô như thế này: “Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ.” (Pl 2,6-7). Nhà văn Lewis Wallace trong tác phẩm BEN HUR nổi tiếng cũng đã phải sững sờ trước sự khiêm nhường sâu thẳm của Đức Kitô. Ông đã đặt vào môi miệng của Ben Hur những lời sau đây lúc anh phải chứng kiến cảnh Đức Kitô bị Giuđa phản nộp và bị các tên lính bắt trói điệu Chúa đi. Anh hăm hở tiến đến gần Chúa Giêsu và hỏi:

- Lạy Thầy, hãy nghe tôi, có phải Thầy tự ý muốn đi theo bọn lính và các giáo sĩ hay không?

Đức Giêsu lặng thinh.

- Lạy Thầy, tôi có một binh đoàn quân Galilê trong thành phố này. Hãy ra lệnh đi, họ sẽ phục tùng Thầy. Thầy có thuận không?

Đức Giêsu vẫn một mực cúi nhìn đăm đăm xuống đất.

- Lạy Thầy, một lời thôi, một lời của Thầy thôi, tất cả sẽ theo Thầy...

Đức Giêsu vẫn im lặng, đến nỗi Ben Hur ngã vật xuống bờ sông Cédron và thốt lên:

- Người Nazareth, hỡi người Nazareth, thế thì thông điệp của Người mang ý nghĩa gì?

Thông điệp mang một ý nghĩa gì ư? Đó là “Hãy học cùng Tôi vì Tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đó là thông điệp mà Đức Giêsu gửi cho mọi người chúng ta. Ngài đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt chước Ngài thôi.

Khiêm nhường là một đức tính được Thiên Chúa yêu mến. Khác hẳn với tính tự cao, tự đại thường đưa đến những thất bại trong cuộc sống.

Khi đưa quân qua đánh Nga, hoàng đế Napoléon của nước Pháp đã mơ tưởng đến việc có thể thu phục được cả Ấn độ, và với lòng kiêu căng vô biên, nhà vua đã cho đúc một thứ huy chương có dòng chữ này: "Thiên Đàng là của Chúa, trái đất là của ta”. Thế nhưng thật là mỉa mai chính vì trận đem quân đánh Nga này mà nhà vua đã mất ngôi báu. Và sau trận thất bại của nhà vua, một viên đại tướng Nga cũng cho đúc một huy chương khác, trên mặt có một hình bàn tay đưa qua đám mây và cầm roi đánh vào lưng Napoléon cùng với lời này: "Cái lưng là của mi, cái roi là của Ta”. Và như thế, vị hoàng đế kiêu ngạo, sau này trong nơi vắng vẻ khi bị tù đầy ở đảo Sainte Helène có thể suy nghĩ về những lời này của Chúa: "Kẻ nào đưa mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 23,12).

Mẹ Têrêsa viết: "Nếu sống khiêm nhường, không gì có thể làm ta thay đổi, dù lời khen, lời chê. Ai chỉ trích không làm chúng ta nản lòng, ai khen tụng, chúng ta không tự mãn". - "Khiêm nhường là nẻo đi đúng đắn. Chính con đường khiêm nhường sẽ làm ta nên giống Đức Giêsu hơn."

Một buổi chiều nọ, thánh Macariô một con người luôn được sống thân tình với Chúa, trở về căn buồng chật hẹp của mình, tay ôm nặng những ngành lá vạn tuế. Satan hiện đến trước mặt Ngài và nói.

- Hết mọi việc ông làm tôi cũng làm cả: ông ăn chay, tôi đây có ăn gì đâu, ông thức khuya, tôi chẳng hề ngủ. Ông đã từ từ bỏ của cải, tôi thì vẫn sống nghèo. Chỉ có cái này tôi không có, và chính vì thế ông vẫn làm cho tôi khó chịu.

- Cái chi thế, thánh nhân hỏi.

- Sự khiêm nhường

Nói đoạn, quỉ biến mất.

Lạy trái tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa. Amen.

---------------------------------

 

TN 14-A100: Ngược đời

 

Đọc lại Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu hay dạy những điều ngược đời. Thực vậy, đang khi thiên TN 14-A100


Đọc lại Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu hay dạy những điều ngược đời. Thực vậy, đang khi thiên hạ tranh nhau ngồi chỗ nhất nơi đám tiệc, hay chiếm lấy một địa vị cao nơi một tập thể, thì Chúa Giêsu lại dạy chúng ta phải tìm chỗ rốt hết: ai muốn cầm đầu thì hãy làm kẻ đầy tớ. Đang khi thiên hạ tìm đủ mọi cách để trưng ra nào bằng cấp, nào địa vị, nào chức tước thì Chúa Giêsu lại cho chúng ta hiểu rằng những kẻ bé mọn là những người chiếm ưu thế nơi tình thương của Thiên Chúa: Con xưng tụng Cha vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn.

Về những điều ngược đời ấy Chúa Giêsu không phải chỉ giảng dạy bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc đời của Ngài. Từ trời cao Ngài đã xuống thế làm người. Khi mở mắt chào đời, Ngài có thể sinh ra nơi đền hờ, vì đền thờ vốn được coi là nhà của Ngài, thế nhưng Ngài đã chọn máng cỏ hang đá Bêlem. Ngài đến trong cương vị của Đấng cứu thế, nhưng Ngài lại bị Hêrôđê tìm giết. Trên đường Ngài đi không có thảm đỏ, không có binh lính dàn chào, cũng không có các tư tế nghinh đón. Những người bạn của Ngài và ngay cả những người Ngài đã chọn để tiếp nối sứ mạng của Ngài đều là những kẻ quê mùa dốt nát, những kẻ thu thuế bị đồng hoá với phường tội lỗi. Cả một thế giới những con người không có chỗ đứng trong xã hội bấy giờ.

Và cuối cùng, bản thân Ngài đã bị treo trên thập giá, một án phát cho hạng người nô lệ. Ngài đã ở vào chỗ rốt hết, chẳng có chi là danh giá.

Trở lại đoạn Tin Mừng, những kẻ bé mọn trước tiên là các tông đồ, rồi đến những kẻ nghèo túng, yếu thế, những kẻ chẳng mấy được quan tâm. Vậy thì họ được Chúa mạc khải cho những gì? Tôi xin thưa họ được Chúa mạc khải cho biết chương trình cứu độ mà Ngài thực hiện. Đồng thời bản thân họ cũng đã đón nhận và tin vào Ngài như vị cứu tinh của họ.

Đứng trước ơn cứu độ Thiên Chúa trao ban, hoàn toàn do sáng kiến tình thương của Ngài, những kẻ không có gì để bám víu, để tự mãn, lại là những kẻ có ưu thế nhất. Và như vậy, kẻ rốt hết lại là kẻ đầu hết. Còn chúng ta thì sao, mặc dù đã nghe và đã biết chủ trương ngược đời của Chúa Giêsu như thế, nhưng trong thực tế chúng ta lại muốn xử sự theo sự khôn ngoan của người đời, bởi vì nhiều khi chúng ta muốn rao giảng Tin Mừng bằng uy quyền, bằng sự phô trương giàu sang và thanh thế, bằng sự xa lánh tất cả những gì mang dấu vết của thập giá, thành thử chúng ta không còn những người môn đệ đích thực của Đức Kitô nữa.

-------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây