Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 16–A Bài 1-50: Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt
--------------------------------
Phúc Âm: Mt 13, 24-30 {hoặc 24-43}:“Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: “Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Ðầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: “Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?” Ông đáp: “Người thù của ta đã làm như thế”. Ðầy tớ nói với chủ: “Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ”. Chủ nhà đáp: “Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: “Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta”.
{Người lại nói với họ dụ ngôn khác mà rằng: “Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt đó bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó”.
Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: “Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men”.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: “Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn, Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian”. Sau khi giải tán dân chúng, Người trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: “Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe”. Người đáp rằng: “Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe”.} - Ðó là lời Chúa.
----------------------------
TN 16-A1. HẠT CẢI 2
TN 16-A2. NTĐY/97- KHÔNG MUỘN.. 5
TN 16-A3. CSTM / 173- MEN.. 7
TN 16-A4. CS / 113- SỰ DỮ.. 8
TN 16-A5. STM / 160- THA THỨ.. 9
TN 16-A6. PV / 452- CỎ LÙNG.. 11
TN 16-A7. PV/454- ĐIỀU THIỆN HẢO.. 13
TN 16-A8. SCĐ / 395- LÀNH DỮ.. 15
TN 16-A9. SCĐ / 397- TRÁI TIM... 16
TN 16-A10. CỎ LÙNG VÀ LÚA.. 17
TN 16-A11. HẠT CẢI VÀ CỎ LÙNG, BỘT VÀ MEN.. 19
TN 16-A12. TIẾN TỚI VINH QUANG NƯỚC TRỜI 23
TN 16-A13. CHÚA KIÊN NHẪN VÀ KHOAN ĐUNG.. 25
TN 16-A14. MỘT NỬA ÁNH SÁNG – MỘT NỬA BÓNG TỐI 28
TN 16-A15. Đón nhận những hạt giống Lời Chúa. 32
TN 16-A16. CỎ LÙNG VÀ LÚA - Lm. Augustine, SJ. 37
TN 16-A17. LÚA MÌ VÀ CỎ DẠI 41
TN 16-A18. NƯỚC TRỜI GIEO VÀO GIỮA THẾ GIAN.. 42
TN 16-A19. XIN THẦY GIẢI NGHĨA THÍ DỤ.. 43
TN 16-A20. CỎ LÙNG XEN VÀO LÚA.. 45
TN 16-A21. HAI TAY CHẠY ĐUA CAN ĐẢM... 47
TN 16-A22: Chúa kiên nhẫn và khoan dung. 50
TN 16-A23. Tất cả là hồng ân- ĐC Giuse Ngô Quang Kiệt 56
TN 16-A24. SLC – Cỏ dại 58
TN 16-A25. SLCTTY/246 - Lúa và cỏ. 60
TN 16-A26. SLCTTY/246 – Lúa và cỏ. 62
TN 16-A27. CSTM/158 – Cỏ và lúa. 64
TN 16-A28. Cuộc biến đổi thái độ. 66
TN 16-A29. NƯỚC TRỜI 68
TN 16-A30. CỎ LÙNG - Nhóm Đồng Hành. 73
TN 16-A31. Nhận diện sự dữ. 74
TN 16-A32. CHÂN LÝ CỦA ĐẠO.. 75
TN 16-A33. NÉM ĐÁ DẤU TAY ! 77
TN 16-A34. THIÊN CHÚA TỪ BI QUẢNG ĐẠI VÀ NHẪN NẠI 80
TN 16-A35. SỰ NHẪN NẠI THẬT SỰ.. 83
TN 16-A36: Trên thửa ruộng Nươc Trời 85
TN 16-A37. Giáo Hội thánh thiện gồm những người có tội 90
TN 16-A38. Thiên Chúa kiên nhẫn với cỏ dại 91
TN 16-A39. Sống với cỏ lùng. 93
TN 16-A40. DỤ NGÔN CỎ LÙNG HẠT CẢI, MEN BỘT.. 94
TN 16-A41. Suy niệm của Noel Quession. 99
TN 16-A42. NGƯỜI GIEO GIỐNG.. 104
TN 16-A43. TÂM SỰ NGƯỜI GIEO GIỐNG.. 105
TN 16-A44. Chú giải dụ ngôn Người gieo giống. 108
TN 16-A45. Ý nghĩa Dụ ngôn Người Gieo Giống - Phaolô Phạm Xuân Khôi 116
TN 16-A46. GIẾT NGƯỜI ỊI THÌ TA Ở VỚI AI?. 123
TN 16-A47. Lễ Chúa Cứu Thế. 126
TN 16-A48. Thiên Chúa Kiên Nhẫn và Bao Dung. 130
TN 16-A49. Sức sống đức tin : Sống Lời Chúa. 132
TN 16-A50. CHUNG ĐỤNG VỚI LÚA MIẾN VÀ CỎ LÙNG.. 135
-------------------------------
Trung thành với phương pháp của mình, cũng như trung thành với truyền thống đông phương, Chúa Giêsu luôn dùng những hình ảnh cụ thể để chuyển đạt những màu nhiệm, những ý tưởng thâm sâu của mình đến với những người đang lắng nghe Ngài giảng dạy. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau dừng lại ở hình ảnh hạt cải.
Hạt cải là một loại hạt giống nhỏ, nhưng một khi đã nảy mầm và lớn lên, nó có thể trở thành một cây to cho chim trời tới đậu.
Hình ảnh này khiến chúng ta nghĩ ngay tới Giáo hội. Thực vậy, Giáo hội đã khởi đầu từ một con số rất nhỏ bé và khiêm tốn, đó là mười hai tông đồ, vừa quê mùa lại vừa dốt nát, vừa không có tiền bạc lại vừa thiếu thế lực. Đầu óc thì chất đầy những ý nghĩ sai lạc, những mơ ước về địa vị và xôi thịt. Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
Mà sự thực đúng như vậy. Các ông hăng hái thề thốt với Chúa, nhưng khi vừa gặp phải thử thách, thì cũng chính các ông là những kẻ lập tức đã bán Chúa, đã chối Chúa, hay đã bỏ Chúa mà chạy trốn. Từ đó, chúng ta có thể nói được rằng : Giáo hội đã khởi sự từ một con số không.
Tuy nhiên, Giáo hội đã nảy mầm, đã lớn lên và liên tục phát triển một cách diệu kỳ, nhu một mẻ lưới lạ lùng năm xưa.
Chỉ với một bài giảng, Phêrô đã cảm hóa được ba ngàn người. Các tông đồ khác cũng vậy. Các ông đã làm nhiều phép lạ và dân chúng kéo đến để xin chịu phép rửa tội. Những cuộc bách hại đẫm máu nhất cũng không đủ để ngăn chặn sức bành trướng của Tin mừng.
Chúng ta hãy nghe thánh Luca ghi lại trong sách Công vụ Tông đồ như sau :
- Giáo hội được bình an tại Giuđêa, Galilêa và Samaria. Giáo hội không ngừng vươn lên, sống trong sự kính sợ Chúa và phát triển dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Chẳnb bao lâu, Tin mừng ấy đã vượt khỏ bờ cõi xứ Palestine. Các tông đồ hăng say rao giảng Đức Kitô cho môn dân và Giáo hội đã có mặt trên toàn đế quốc La mã. Vào thê kỷ thứ hai, Tertulianô đã viết :
- Chúng tôi mới chỉ bắt đầu từ hôm qua, thế mà hôm nay chúng tôi đã tràn ngập mọi đền thờ, mọi thành phố và mọi công trường của các bạn.
Sự phát triển này, tự sức loài người sẽ không thể nào thực hiện nổi. Sở dĩ như vậy là vì Chúa Giêsu đã báo trước :
- Hạt cải tuy nhỏ, nhưng sẽ trở thành một cây to cho chim trời xuống đậu.
Tuy nhiên, những bước tiến này không phải là không gặp khó khăn. Giông tố đã nổi lên vàcấm cách đã xảy ra ở khắp nơi, khiến cho hàng trăm ngàn các vị tử đạo đã phải đổ máu đào và hy sinh mạng sống để làm chứng cho niềm tin của mình.
Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi vì tinh thần của Chúa hoàn toàn khác với tinh thần thế gian. Chẳng hạn : đang khi thế gian chạy theo tiền bạc và địa vị, hận thù và lạc thú… thì giáo lý của Chúa đã mạnh mẽ chống lại những đam mê mù quáng ấy. Chính Ngài đã phán hứa : phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó… Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch… Phúc cho những ai xây dựng hòa bình…
Tinh thần của Chúa Giêsu và tinh thần của thế gian thì hoàn toàn khác biệt, không thể đội trời chung với nhau. Nếu Đức Kitô đã chiến thắng, thì mọi quyền lực thế gian cũng không thể nào chống lại được với các môn đệ của Ngài.
Còn Giáo hội ngày nay thì sao ?
Thử nhìn vào Công đồng chung Vaticanô II, chúng ta nhận thấy gần ba ngàn vị giám mục từ kháp nơi trên thế giới, không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, màu da, đã tề tựu tại Rôma, dưới sự hướng dẫn của đấng kế vị thánh Phêrô, khiến cho mọi người phải chú ý và theo dõi.
Thế nhưng, để Giáo hội được liên tục phát triển, thì chính chúng ta, bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, phải trở nên như ánh sáng trong đêm tối, như men trong bột, như muối giữa thức ăn.
Đúng thế, chúng ta phải bước đi dưới ánh sáng Đức Kitô, nhờ đó bản thân chúng ta sẽ trở thành một thứ ánh sáng soi đường dẫn lối cho những người còn ngồi trong tăm tối. Men Phúc âm phải biến đổi con người chúng ta, rồi nhờ đó chúng ta sẽ làm cho những người chung quanh được hoán cải. Muối Tin mừng phải ướp cuộc đời chúng ta, không để nó ươn thối, rồi nhờ đó chúng ta sẽ ướp môi trường xã hội chúng ta đang sống cho khỏi xuống cấp.
Chúng ta nên nhớ rằng : khi con người xóa bỏ Thiên Chúa thì chắc chắn sẽ dễ dàng nhúng tay vào mọi thứ tội ác.
-------------------------------
Mục sư Martin Luther King, người đấu tranh giành tự do cho nô lệ da đen tại Hoa Kỳ bằng phương pháp bất bạo động đã kể lại câu chuyện như sau :
Chúng tôi đã có dịp viếng thăm bang Kerela ở cực Nam Ấn Độ. Một buổi chiều cuối tuần, chúng tôi đến bãi biển Cap-Comorin, thường được gọi là “nơi tận cùng của thế giới”, vì đây là mũi đất cuối cùng của lục địa Ấn Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương.
Trước mắt chúng tôi là đại dương mênh mông, với các đợt sóng nhấp nhô. Nơi đây được gọi là điểm hẹn của ba biển cả : Ấn Độ Dương, biển Ả Rập và vịnh Bengal. Ngồi trên tảng đá nhô ra trên mặt nước, chúng tôi cảm thấy mình bị cuốn hút vào biển cả mênh mông. Trong khi các đợt sóng dồn đập vào mỏm đá, tạo nên một bản nhạc nhịp nhàng, thì về phía tây, chúng tôi nhìn thấy mặt trời đỏ chói đang dần dần đi vào biển cả. Khi mặt trời gần khuất, vợ tôi đánh động tôi và nói :”Xem kìa, Martin, thật là tuyệt vời, phải không?” Tôi đưa mắt nhìn chung quanh và kìa mặt trăng đang từ từ lên khỏi lòng biển trong khi mặt trời chậm chạp đi xuống biển sâu. Khi mặt trời lặn, bóng tối bao trùm mặt đất, nhưng từ phía đông, mặt trăng mọc lên, rực rỡ, chói sáng.
Khi ánh sáng mặt trời tắt dần và dìm chúng ta vào trong bóng tối dày đặc, có thể ví như thời điểm của cái ác và sự dữ lộng hành, biến chúng ta thành nạn nhân của thế lực đen tối. Nhưng hãy nhìn về phía đông, chúng ta sẽ thấy một ánh sáng rực rỡ huy hoàng ngay trong đêm tối. Và đêm đen lại sáng tỏ như ban ngày. Đó là lúc điều thiện và cái tốt đang vươn lên mạnh mẻ. Nếu đã có ánh sáng ban ngày hướng dẫn chúng ta lúc thuận buồm xuôi gió, thì cũng có ánh sáng ban đêm dẫn đưa chúng ta khi bão tố phong ba. Cả hai phải cùng tồn tại để đồng hành với chúng ta đến với nguồn sáng vĩnh cửu là Thiên Chúa.
Đức Giêsu, trong bài Tin mừng hôm nay đã khẳng định lập trường của Thiên Chúa qua dụ ngôn cỏ lùng và lúa tốt. Đầy tớ muốn nhổ cỏ lùng đi, nhưng ông chủ lại bảo :”Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt”. Kể từ khi nguyên tổ nuốt lấy trái cấm thì sự dữ và cái ác như con bạch tuộc vươn vòi đến mọi mặt của cuộc sống con người. Nó dai dẳng, ngoan cố, lì lợm, không dễ dàng buông tha nếu chúng ta không chống cự lại một cách mãnh liệt, dứt khoát. Chẳng thế mà Kinh thánh đã dùng biểu tượng con rắn để mô tả hành động xảo trá của sự dữ luôn gieo rắc bất hòa trong bản hòa tấu nhịp nhàng của đời sống con người.
Trong dụ ngôn cỏ lùng, Đức Giêsu khẳng định về sự xuất hiện của cỏ lùng là do kẻ thù đã gieo chúng vào ruộng lúa.
Cho dù kẻ thù đó là Satan hay bởi chính sự lạm dụng tự do của con người, thì cỏ lùng luôn mang đến tai họa và chết chóc.
Cho dù cỏ lùng có bóp nghẹt lúa tốt trong một thời gian, nhưng mùa gặt đến, nó sẽ bị gom lại và đốt đi. Còn lúa tốt lại được cất vào kho lẫm.
Cho dù cứ để cỏ lùng và lúa tốt cùng lớn lên cho đến mùa gặt, nhưng không phải là để dung túng cho cái ác và để sự dữ lộng hành.
Thiên Chúa có chương trình hành động của Người : Trong hành trình của mỗi con người, vẫn có cỏ lùng mọc chung với lúa tốt, vẫn có cái ác sống chung với cái thiện, vẫn có bóng tối chen lẫn cùng ánh sáng. Đó là cuộc chiến đấu trường kỳ giữa sự lành và sự dữ. Trong lòng người tín hữu rễ cỏ lùng và lúa tốt vẫn đan xen lẫn nhau. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy khi viết :”Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi cứ làm”. Người tín hữu hay bị cám dỗ ở trong tình trạng chưa là tội nhân mà cũng chưa muốn tìm về thánh thiện.
Khi chiến đấu chống lại sự dữ, chúng ta không chiến đấu đơn độc, có Chúa cùng chiến đấu với chúng ta, như một người Cha đầy yêu thương. Nhưng người không can thiệp để tiêu diệt sự dữ một cách vũ bão, vì Người đã ban cho chúng ta sự tự do, và bởi chúng ta là những con người có trách nhiệm. Sự dữ nào cũng có phần cộng tác của con người, tội lỗi nào cũng mang dấu tay của những kẻ đồng lõa. Evà đã chẳng phạm tội nếu bà đừng đưa tay ra hái trái cấm. Để cứu lấy con người luôn luôn sa ngã, Thiên Chúa đã phải nhẫn nại, chờ đợi sự hoán cải tuy rất chậm chạp của họ.
Thiên Chúa yêu thương con người, và không hề quên sót một ai, cho dù họ là những tội nhân :
Nếu Thiên Chúa tỏ ra chậm chạp trong việc chống lại tội lỗi, là để chúng ta có thời gian mà sám hối canh tân.
Nếu chúng ta yếu đuối lầm lỗi, thì Người sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để can đảm trỗi dậy sau những lần vấp ngã.
Nếu phải bước đi trong bóng đêm tăm tối vì mất niềm hy vọng, thì Người sẽ là ánh sáng dẫn đường để chúng ta đến với niềm tin.
Thiên Chúa khinh ghét tội lỗi nhưng lại yêu mến tội nhân, vì Nười chờ đợi nơi họ lòng thống hối để được Người thứ tha. Thiên Chúa khoan dung, độ lượng không phải để dung túng cho các tội nhân, nhưng là để cho họ thời gian thức tỉnh mà quay trở về.
Chúa đã bao dung nhẫn nại với chúng ta. Lẽ nào chúng ta lại thiếu nhân hậu khoan dung với kẻ tội lỗi? Chúa đã yêu thương chúng ta, lẽ nào chúng ta không dùng tình yêu của Người mà hoán cải anh em? Lòng tương xót Chúa muốn kéo chúng ta vào quê hương vĩnh cửu. Nhưng không phải là một cuộc hành trình đơn độc. Trái lại, phải là một ngày hội thắm đẫm tình yêu, đầy ắp tiếng cười.
-------------------------------
Tận trong đáy sâu của tâm hồn, ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng muốn người khác mang lại hạnh phúc cho mình. Nhưng ai cũng dễ quên rằng ; hạnh phúc chỉ đến với ta khi ta trao tặng hay mang lại hạnh phúc cho người.
Trong Cựu ước, ông Tôbia là người đã khám phá ra chìa khóa của hạnh phúc ấy. Ông chia sẻ của cải cho người túng thiếu, ông giúp đỡ người hoạn nạn, và bố thí cho người nghèo khổ. Ông đã để lại cho con ông những lời vàng ngọc sau đây :”Điều con không thích kẻ khác làm cho mình, thì cũng đừng bao giờ làm cho người ta. Hãy chia sẻ cơm áo cho người đói rách. Biết ai khôn ngoan thì tìm đến học hỏi. Hãy chúc tụng Chúa trong mọi lúc. Xin Người dạy con theo nẻo chính đường ngay, và giúp con trong mọi điều con tính toán”. Chìa khóa hạnh phúc mà Tôbia để lại cho con, không gì khác hơn là hai giới răn cao cả nhất của chúng ta. Đó là mến Chúa, yêu người. Không thể mến Chúa mà không yêu người. Mà yêu người là tìm kiếm và mang lại hạnh phúc cho người.
Nói rõ hơn, món quà quí giá nhất mà chúng ta có thể trao tặng cho nhau chính là mối chân tình, tức là tấm lòng thật của mình. Nghèo hèn đến đâu, ai cũng có thể là một tấm lòng vàng để trao tặng cho người, cho đời. Một xã hội đói nghèo đến đâu, nhưng nếu được xây dựng trên những tấm lòng vàng, thì xã hội ấy vững mạnh hơn bất cứ một xã hội giàu sang nào. Cha ông chúng ta thường nói :”Thức khuya mới thấy đêm dài, sống lâu mới thấy dạ người có nhân”. Dù có đê hèn xấu xa đến đâu, cái nhân của lòng người vẫn mãi mãi in đậm tình người. Lòng người như một giây đàn, chỉ cần ngón tay chạm đến là vang ngay lên một cung điệu. Đó phải là cái nhìn của những người có niềm tin vào Chúa Giêsu đối với những người chung quanh.
Vì thế, chúng ta có thể nói : Bao lâu con người còn lấy tình người để đối xử với nhau, thì bấy lâu cuộc sống vẫn còn đáng sống. Bao lâu lòng quảng đại, sự tử tế, lòng vị tha, sự cảm thông, chia sẻ và tha thứ vẫn còn được thể hiện trong xã hội, thì bấy lâu con người vẫn còn tin yêu và hy vọng.
Tấm lòng vàng chúng ta vừa nói trên đây chính là men mà Chúa Giêsu nói tới trong bài Tin mừng. Dường như Ngài muốn nói với chúng ta :”Như men truyền sức cho khối bột, anh chị em cũng sẽ biến đổi thế giới. Men làm cho khối bột dậy lên, khi người ta để nó tiếp xúc với bột, hay đúng hơn, khi người ta trộn lẫn nó vào bột. Việc rao giảng Tin mừng cũng vậy”. Là men trong bột. Hơn ai hết, người Kitô hữu cần phải thắp sáng lên niềm tin yêu, niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người của mình.
-------------------------------
Trong một bản thăm dò về lý do không tin Thiên Chúa, người ta thấy một trong những lý do chính yếu là sự tồn tại của cái ác trong thế giới. Những người không tin Thiên Chúa cho rằng : Nếu thật sự có Thiên Chúa, và nếu Thiên Chúa là Đấng quyền năng, là Đấng yêu thương thì không thể nào cái ác có thể tồn tại. Mà nếu cái ác tồn tại thì một là không có Thiên Chúa, hai là nếu có Thiên Chúa thì Thiên Chúa ấy không phải là Đấng quyền năng, cũng không phải là Đấng yêu thương.
Sự tồn tại của cái ác cũng là lý do khiến cho nhiều người đã có niềm tin nhưng lại chối bỏ niềm tin ấy, nhất là khi cái ác không phải chỉ là một ý niệm trừu tượng mà là một điều rất cụ thể đang tấn công cuộc đời họ. Bản thân chúng ta có lẽ chưa mất niềm tin vì lý do này, nhưng phải chăng đã chẳng có những lúc chúng ta cũng cảm thấy nao núng và bị lung lạc trước những tai họa, những sự dữ liên tiếp ập xuống cuộc đời chúng ta?
Vấn đề sự dữ, sự ác không chỉ xuất hiện trong thời đại hôm nay, nhưng nó đã có mặt từ rất lâu và được phản ánh trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng. Cũng chính trong dụ ngôn này mà ta khám phá ra câu trả lời về vấn đề sự dữ, sự ác.
Câu trả lời ấy là : Thiên Chúa không phải là Đấng gieo vãi cỏ lùng sự ác trong đời mà là do ma quỉ. Thiên Chúa có đủ quyền năng để hủy diệt cái ác, nhưng Người đã không thực hiện điều đó chỉ vì Người khoan dung. Người nói :”Hãy đợi cho đến mùa gặt”. Khoan dung như thế không đồng nghĩa với sự dung túng và đồng lõa với sự ác. Người khoan dung để tạo cơ hội cho sự hoán cải và chờ đợi sự đổi mới của con người nói chung và của mỗi người nói riêng. Đành rằng nhìn ra cuộc sống chung quanh, chúng ta thấy đầy dẫy những sự ác : Từ đói nghèo, bệnh tật, cho tới những bất công, áp bức. Từ gian tham lừa đảo cho tới chiến tranh hận thù... Nhưng nếu đủ khiêm tốn và chân thành, chúng ta cũng sẽ nhận ra cái ác đang ngự trị trong chính lòng ta. Mảnh đất có cỏ lùng chen lẫn lúa không phải chỉ là mảnh đất cuộc đời ở bên ngoài, mà còn là chính tâm hồn mình. Tuy nhiên Thiên Chúa đã không vì những cỏ lùng sự ác ấy mà nhổ đi, mà tiêu diệt cả cuộc đời ta. Người vẫn cứ chờ đợi ta với lòng khoan dung. Thì ra không phải ai khác mà chính bản thân ta đã và đang được hưởng lòng khoan dung của thiên Chúa trước hết, khi mà dường như Người làm ngơ trước sự hiện hữu của sự dữ, sự ác.
Nếu thế thì ta không có đủ lý do để phủ nhận sự hiện hữu hay kết án thiên Chúa một cách bất công như thể Người là nguyên nhân của sự dữ và sự ác. Ta cũng không có lý do để khe khắt với người khác, cho dầu đời sống của họ đang bị cái ác thống trị. Bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể chỉ ngồi nhìn vào sự tồn tại của cái ác để thất vọng về Thiên Chúa và về cuộc đời, nhưng cần tìm cách vun trồng cho cây lúa là những giá trị của Tin mừng đã được gieo vãi trong tâm hồn ta. Và một khi cây lúa phát triển mạnh, tự nó có thể tiêu diệt cỏ lùng.
-------------------------------
Có tội ác nào tày trời đến độ không thể tha thứ được không? Tạp chí Times đã nêu ra câu hỏi trên đây khi trích dẫn câu trả lời của một vị luật sư người Campuchia.
Cách đây ba năm, một Mục sư đã rửa tội cho một giáo viên ở một vùng sình lầy thuộc tỉnh Battanpan, ở mạn tây Campuchia. Mới đây người giáo viên này tiết lộ mình đã từng là giám đốc cơ quan mật vụ của Khờ me đỏ. Sau 20 năm lẩn trốn, nay ông thú nhận là ông đã trực tiếp nhúng tay vào vụ thảm sát ít nhất là 12.000 người Khờ me.
Người Mục sư mà cha mẹ và với gần hai triệu đồng bào ruột thịt bị người Khờ me đỏ sát tế trong giai đoạn từ năm 1975 – 1979, đã nhận định về cuộc trở lại của người giáo viên này như sau :
Thật là kỳ diệu, Kitô giáo có thể thay đổi cuộc sống con người. Nếu Chúa Giêsu đã thay đổi người giáo viên này, thì Người cũng có thể thay đổi tất cả mọi người.
Ông Duo tức người giáo viên này, một hôm đã đến nghe vị Mục sư thuyết giảng, sau đó ông đã xin chịu phép rửa, ông nói rằng, trong suốt thời thơ ấu và ngay cả khi lớn lên ông không bao giờ được yêu thương. Giờ đây tin nhận Chúa Kitô, ông cảm thấy tâm hồn được tràn ngập yêu thương.
Mục sư ghi nhận rằng, cuộc thay đổi nội tâm đã ảnh hưởng đến toàn diện con người của ông. Trước kia ông lầm lì ít nói, nay ông vui vẻ và cởi mở với tất cả mọi người. Trước kia quần áo ông xốc xếch, thì nay ông ăn mặc chỉnh tề. Sau khi đón nhận phép rửa và tiết lộ tông tích của mình, ông Duo đã bị chính quyền Campuchia bắt giữ hồi tháng 5. 1998, hiện nay ông đang bị giam tại một nhà tù gần trung tâm Tollen, tức là nơi trước đây ông đã từng tham vấn, hành hạ và sát hại hàng trăm ngàn người đồng bào ruột thịt của mình.
Nhận định về tay đồ tể khát máu Khờ me, người luật sư Lobin đã nói như sau : Một câu chuyện mang lại niềm hy vọng cho nhân dân Campuchia, họ đã trải qua quá nhiều năm trong tăm tối. Khi đón nhận Chúa Giêsu, họ đã được mang lại ánh sáng trong cuộc sống của họ. Thật vậy, đã đến lúc người Campuchia cần phải từ bỏ thù hận để sống yêu thương.
Chứng từ sống động trên đây đưa chúng ta vào cốt lõi của đạo chúng ta là yêu thương và tha thứ mà hôm nay qua bài dụ ngôn cỏ lùng, Giáo hội muốn nhắc lại cho chúng ta. Dụ ngôn là một câu trả lời của Chúa Giêsu và thắc mắc mà các môn đệ thường nêu lên, là tại sao Thiên Chúa không trừng phạt nhãn tiền những kẻ làm điều gian ác?
Với hình ảnh của ruộng lúa tốt và cỏ lùng, Chúa Giêsu mạc khải lòng nhân từ và sự tha thứ vô biên của Thiên Chúa, đối với Thiên Chúa không có tội ác nào, dù cho có tày trời đến đâu mà không thể tha thứ được. Như một người cha ngày ngày ra đứng trước cửa trông ngóng người con hoang đàng trở về, thì Thiên Chúa cũng có một thái độ chờ đợi kiên nhẫn như thế đối với tất cả mọi tội nhân, dù cho con người có đốn mạt xấu xa đến đâu thì Chúa vẫn luôn dành cho một cơ may mới để trở về với Ngài. Nơi tâm hồn con người dù có tăm tối đến đâu, Thiên Chúa vẫn nhận ra được ánh sáng mà chính Ngài đã đặt để trong trái tim con người. Chính vì tin tưởng nơi khả năng có thể cải thiện của con người mà Thiên Chúa không ngừng tha thứ cho con người và kiên nhẫn chờ đợi con người trở về.
“Thức khuya mới thấy đêm dài, sống lâu mới thấy dạ người có nhân”. Dụ ngôn về cỏ lùng được Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, mời gọi các Kitô hữu mặc lấy tâm tình khoan dung nhân hậu và cảm thông của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không khoan nhượng, không dung tha cho bất cứ tội ác nào. Ngài gay gắt lên án thói giả hình và thái độ mù quáng của con người, nhưng Ngài lại tỏ ra cảm thông và tha thứ cho những người yếu đuối tội lỗi, Ngài không những cảm thông với những người tội lỗi, mà còn tha thứ cho chính những kẻ hành hạ Ngài.
Tòa nhà giáo huấn của Chúa Giêsu sẽ sụp đổ nếu từ trên thập giá Ngài không tha thứ cho những lý hình của Ngài. Cuộc sống của Ngài cũng sẽ vô giá trị nếu khi bị treo trên thập giá Chúa Giêsu vẫn còn mang theo hận thù trong lòng Ngài.
Tha thứ là vẻ đẹp cao quí nhất trong tâm hồn con người. Nhân cách của con người sẽ bị đánh mất nếu nó không thể làm được hành động tha thứ. Người tín hữu Kitô chúng ta cũng sẽ mất căn tính của mình nếu chúng ta chỉ sống theo đố kỵ, hận thù. Tha thứ là vẻ đẹp cao quí nhất trong tâm hồn con người, do đó cũng chính là điều khó thực hiện nhất, vì thế mà chúng ta không ngừng cầu xin Chúa cho chúng ta luôn được sống ơn tha thứ, đó là điều chúng ta cầu xin trong thánh lễ mỗi ngày.
Kinh Lạy Cha nhắc nhớ chúng ta rằng, chúng ta chỉ có thể cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa nếu chúng ta cũng tha thứ cho người anh em chúng ta mà thôi.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn được lớn lên trong niềm xác tín ấy.
-------------------------------
Người chủ nông trại trong dụ ngôn của Đức Giêsu đã gieo giống tốt vào ruộng mình và hy vọng có một mùa bội thu. Chẳng bao lâu nhiều mầm lúa màu xanh mạnh mẽ mọc ra, phủ khắp cánh đồng. Xem ra sự mong đợi của ông sẽ được hoàn thành.
Nhưng rồi một buổi sáng ông khám phá cỏ lùng mọc lên giữa những cây lúa non. Không chỉ lẻ tẻ chỗ này, chỗ kia mà cỏ lùng mọc khắp cánh đồng. Ông vô cùng sửng sốt. Ông thất vọng một cách chua chát. Khi ông ta nhìn vào cánh đồng, đâu đâu ông cũng thấy cỏ lùng. Lúa mì dường như biến mất.
Sớm muộn gì, những cỏ lùng cũng xuất hiện trong cánh đồng của chúng ta – một người bạn phản bội chúng ta, một đối tác làm chúng ta thất vọng hoặc chứng tỏ sự bất tín... Chúng ta sửng sốt và bị tổn thương vì điều xấu xuất hiện. Chúng ta chờ đợi điều xấu của người xấu và có thể đề phòng trước để chống đỡ lại. Nhưng điều xấu của người tốt làm chúng ta ngạc nhien và làm thương tổn chúng ta nhiều hơn. Ít nhất trong một lúc, chúng ta có khuynh hướng nhìn mọi vật đều là xấu xa – chúng ta trở thành rất tiêu cực.
Người chủ nông trại ấy có thể làm gì? Câu trả lời rõ ràng là nhổ hết cỏ lùng. Tuy nhiên giải pháp này tỏ ra không thể thực hiện. Cỏ lùng mọc sát thân lúa mì đến nỗi ông không thể cho nhổ chúng lên mà không làm bật cả rễ lúa mì.
Vậy ông ấy làm gì? Vâng, có một điều làm ông bình tĩnh trở lại. Điều này có thể làm ông nhìn sự việc trong một viễn cảnh tốt đẹp hơn. Quả thật, có nhiều cỏ lùng trong cánh đồng của ông. Nhưng cũng có lúa mì ở đó và lúa mì vẫn xanh tươi và đầy sức sống. Ông phải khiêm nhường và nhẫn nại. Ông phải làm việc vất vả hơn, chăm bón cho lúa mì nhiều hơn với hy vọng chúng sẽ trội hơn và lấn lướt cỏ lùng.
Chúng ta không nên thất vọng. Thế gian là một hỗn hợp của ánh sáng và bóng tối, của điều tốt và điều xấu. Lúa mì và cỏ lùng mọc bên nhau trong cùng một con người, dĩ nhiên trong chính chúng ta cũng thế. Nhưng không phải là mất tất cả – Điều tốt vẫn có ở đó. Không ai biết rõ điều đó hơn Đức Giêsu. Cho dù trong một khu vườn nhỏ (mười hai tông đồ) mà Đức Giêsu đã chăm chút cẩn thận trong ba năm thì cỏ lùng vẫn còn, tuy nhiên Người đã không loại bỏ nó.
Chúng ta phải làm việc cho điều tốt. Nhưng còn điều xấu thì sao? Điều xấu phải bị chống đối. Nhưng chúng ta phải làm thế nào để không gây ra thêm điều xấu trong quá trình đó.
Vì thế người nông dân bắt đầu làm việc và công việc không dễ dàng gì. Nhưng ông đã cố gắng tập trung vào lúa mì. Điều này chứng tỏ ông có một sự trợ giúp to lớn. Khi ông nhìn kỹ, ông nhận thấy, lúa mì phải cố gắng vươn lên. Ông lưu tâm điều đó, bởi vì điều đó có nghĩa là làm cho lúa mì phải chiến đấu mạnh mẽ hơn, cỏ lùng lúc đó gây hiệu quả có lợi cho mùa màng.
Sở dĩ chúng ta phải chiến đấu vì điều xấu có mặt. Nhưng qua sự chiến đấu mà chúng ta lớn lên. Chiến đấu làm tỉnh thức mọi điều tốt và cao quí trong chúng ta. Dĩ nhiên, hiện diện của điều xấu cũng có thể nói được là cần thiết. Nếu không có sự lựa chọn giữa tốt và xấu, thì không có nhân đức nào có thể được thực hiện.
Vào ngày gặt hái, người chủ nông trại sẽ tách cỏ lùng ra khỏi lúa mì. Ông thu được một mùa màng tốt đẹp. Cho dù, ông gặt được ít lúa mì hơn so với dự kiến, nhưng chất lượng tuyệt vời. Và vì một lý do lạ lùng, ông cảm thấy hài lòng trong mùa gặt này hơn bất cứ mùa gặt nào khác. Chiến thắng càng gian khổ thì niềm vui chiến thắng càng lớn hơn nhiều.
Dụ ngôn này vừa hiện thực vừa lạc quan. Và sau cùng điều tốt lành sẽ chiến thắng. Sự thật và điều thiện hảo không thể bị đánh bại.
-------------------------------
Chúng ta có xu hướng chia con người ra làm hai loại thánh nhân và tội nhân. Tuy nhiên sự phân chia này hoàn toàn không thực tế. Con người không dễ dàng được phân loại như thế. Con người vốn phức tạp và chúng ta thấy có những điều xung đột đang tồn tại trong cùng một con người.
Nhiều người xúc động về câu chuyện của Oskar Schindler, một nhà công nghiệp Đức. Ông đã cứu sống hơn một ngàn người Do thái ở Ba Lan từ những trại tập trung. Một người được ông cứu sống đã nói về ông :”Ông là cha chúng tôi, mẹ chúng tôi và niềm hy vọng duy nhất của chúng tôi. Ông không bao giờ để chúng tôi ngã gục”. Tuy nhiên nhiều người coi cuốn phim Hồ sơ Schindler đã ngạc nhiên, nếu không hoàn toàn tránh né bỏ qua, về các tật xấu của ông. Ông là một người thừa hưởng mọi thói xấu của con người. Do đó, ông tạo ra một điều khó xử về tinh thần.
Schindler chắc chắn không phải là một ông thánh, thật vậy, ông được giải thích với những mâu thuẫn. Không trung tín với vợ, chắc chắn ông biết cách hưởng thụ cái gọi là đời sống tốt đẹp như thế nào – thuốc xì gà, rượu, phụ nữ... Ông là một Kitô hữu nhưng chỉ trên danh nghĩa. Ông cũng là một đảng viên của Đảng Quốc Xã và mục tiêu mà ông thú nhận là kết thúc chiến tranh với hai hòm đựng đầy tiền... Ông đã khai thác người Do thái như một nguồn nhân lực rẻ mạt...
Tuy nhiên, có một khía cạnh khác tốt đẹp hơn nơi con người ông và mặc dù có sự sai sót, ông luôn luôn quay về với khía cạnh tốt đẹp đó. Có một nền tảng đạo đức trong con người ông. Chiến tranh càng tiếp diễn, ông càng kinh tởm những điều khủng khiếp giải pháp cuối cùng. Với những nguy hiểm đáng kể đối với bản thân (hai lần ông đã bị Đảng Quốc Xã bắt giữ), ông đã bảo vệ các công nhân của ông thoát khỏi các trại tàn sát. Do đó, ông tỏ ra là một người thật sự can đảm.
Nhưng Schindler không phải là một thiên thần. Ông chỉ là một con người, một con người có bản chất tốt lành mặc dù sự tốt lành của ông còn nhiều khiếm khuyết nghiêm trọng. Chúng ta tự hỏi ông còn có thể hoàn thành được những gì nếu ông không bị giằng co như thế. Và rồi các đảng viên Quốc Xã có hoàn toàn là những người xấu xa vì tất cả những điều khủng khiếp họ đã làm. Họ không phải là những hiện thân của quỷ dữ nhưng họ cũng là những con người dù là những con người xấu.
Một số người xem ra không biết gì về bản chất phân chia giằng co của mỗi con người – về sự cùng có mặt trong mỗi con người điều tốt lẫn điều xấu, sức mạnh lẫn sự nhu nhược, sự trung tín và sự phản bội... Ngay khi họ khám phá sự yếu đuối của một người nào, họ liền loại bỏ người ấy. Người hùng của họ phải hoàn hảo. Khi có một tì vết xuất hiện, họ mất tin tưởng nơi người ấy.
Nhưng sự việc không đơn giản như thế. Con người vốn phức tạp – điều này bao gồm mỗi người chúng ta. Chúng ta là một hỗn hợp lạ lùng giữa tốt và xấu. Hơn thế nữa, rễ cây của điều tốt hết dính với rễ cây của điều xấu đến nỗi người ta không nhổ cái này lên mà không nhổ luôn cái kia.
Chúng ta phải học kiên nhẫn và nhân hậu, trước tiên là đối với chính mình. Chúng ta phải khoan dung đối với bản thân mình. Chúng ta phải biết khía cạnh đen tối của chính mình mà không đầu hàng nó. Chúng ta phải chiến đấu bất chấp cỏ lùng với lòng tín thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ thì điều tốt sau cùng sẽ chiến thắng. Qua sự đấu tranh mà chúng ta trưởng thành với điều kiện chúng ta không được đầu hàng.
Và rồi chúng ta cũng nhân hậu với người khác. Chúng ta thường vội vàng phán xét cả khi chúng ta chỉ thấy một phần của đời sống con người. Chúng ta cũng vội vàng phân loại con người, và một khi đã xếp họ vào loại người xấu thì họ đừng hòng được ơn cứu chuộc. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền và tri thức để phán xét; vả lại Thiên Chúa nhẫn nại và nhân hậu.
Khi tập trung trên điều xấu của người khác, chúng ta trở nên mù quáng không nhìn thấy những nhân đức của họ. Chúng ta quá hăng hái phát biểu sự chỉ trích của chúng ta, nhưng không sẵn lòng đem đến một lời động viên nhỏ bé, và theo cách đó, chúng ta ngăn chặn con đường dẫn đến sự hoàn thiện. Vì thế, chúng ta chớ chỉ trích gay gắt người khác. Hãy tìm kiếm điều tốt lành nơi mỗi người, biểu lộ và phát huy điều tốt lành ấy lên.
Mỗi người sẽ được xét xử, không phải bởi một hành động hay một giai đoạn duy nhất trong đời sống mình, nhưng bởi toàn bộ đời sống của người ấy. Đó là lý do khiến sự phán xét phải đợi đến khi cuộc đời kết thúc. Một người có thể gây ra một lỗi lầm lớn, nhưng có thể chuộc lại lỗi lầm của mình nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo ra những thánh nhân chỉ với những thụ tạo không hoàn mỹ.
Cố gắng che giấu sự tì vết của dân thánh, dù đôi khi thành công, vẫn luôn luôn thiếu sự trung thực. (Anthony de Mello).
-------------------------------
Nghe bài dụ ngôn cỏ lùng hôm nay, có người sẽ lấy làm lạ. Trong cuộc sống, làm gì có một nhà nông nào lại để lúa và cỏ lùng cùng tồn tại trong ruộng mình! Nhưng dụ ngôn là dụ ngôn, nghĩa là một cách nói ví von bóng gió để làm sáng tỏ một vấn đề.
Vấn đề của dụ ngôn là lành dữ cộng sinh và lòng nhân từ cũng như sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Kinh xưa có câu :”Hỏi kẻ lành là ai, kẻ dữ là ai?” Chúng ta ưa thích phân biệt lành dữ, chánh tà, trắng đen rõ rệt. Chánh phải loại trừ tà, lúa tốt phải được chăm sóc, cỏ dại phải nhổ đi. Cái lý đương nhiên là vậy. Rất đơn giản. Nhưng cuộc sống không đơn giản như vậy.
Trong cuộc sống, có những lúc chánh tà không phân biệt rõ rệt. Cỏ lùng mọc chung với lúa tốt. Vả lại, cái mà ta gọi là kẻ dữ không giống như cỏ lùng. Cỏ lùng không thể biến thành lúa nhưng kẻ dữ có thể cải tà qui chánh, có thể hoán cải thành người tốt, nếu xã hội biết kiên nhẫn chờ đợi và tạo những điều kiện cho họ. Vả lại, kẻ lành, nếu không giữ mình, không liên tục làm điều lành, cũng có thể trở thành kẻ dữ. Vậy chẳng ai nên tự phong là lúa tốt, rồi loại trừ, lên án anh em là cỏ lùng. Có lần Chúa đã nói thẳng với những người tự phụ :”Tôi nói thật, bọn thu thuế, bọn gái điếm sẽ vào thiên đàng trước các ông kia đấy!”
Qua bài dụ ngôn, Chúa dạy chúng ta lòng nhân từ, kiên nhẫn, và tin tưởng vào sự lành. Hãy tin rằng sự lành sẽ tuần tự triển khai tốt đẹp, mặc dầu có sự dữ kè bên. Sự lành thậm chí còn có sức cảm hóa được kẻ dữ. Kẻ lành Monica đã cảm hóa được kẻ dữ Augustinô và cả hai mẹ con cùng trở nên những vị thánh lớn trong Giáo hội.
-------------------------------
Sau nhiều năm phải sống trong trại tập trung, văn hào Alexandre Solzhenitsyn đã nghiệm ra được những ý tưởng sau :
Tôi đã học được một bài học lớn nhờ những năm bị giam trong tù.
Tôi đã hiểu một người trở thành xấu như thế nào và một người trở nên tốt như thế nào.
Tôi đã dần dần nhận ra rằng đường biên giới phân chia giữa tốt và xấu không nằm giữa các nước hay các giai cấp hay các đảng phái chính trị, mà nằm ngay trong lòng mỗi người.
Ngay trong những trái tim ngập tràn sự ác vẫn còn sót lại một đầu cầu nhỏ nối với sự thiện.
Và ngay trong trái tim tốt nhất của các trái tim vẫn còn tồn tại gốc rễ sự ác.
Khi đến mùa gặt, rơm rạ bị để qua một bên, trấu bị gió thổi đi, cỏ dại bị quăng vào lửa, và lúa tốt được cất vào kho.
Lạy Chúa, khi đến ngày chết của con, mùa gặt của đời con cũng diễn ra trước mặt Chúa.
Xin bàn tay khôn ngoan của Chúa hãy sàng sẩy và chọn ra những gì đáng giữ lại; nhưng đối với những gì không đáng giữ lại, xin hãy thổi đi bằng hơi thở nhân từ của Chúa.
Suy Niệm của Lm. Augustine, SJ.
-------------------------------
Người dùng dụ ngôn mà nói với họ
Trong Phúc Âm, Đức Giêsu thường dùng những dụ ngôn rất phong phú để cắt nghĩa về các mầu nhiệm. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được nghe ba dụ ngôn nói về một số khía cạnh của Nước Trời: chính yếu là dụ ngôn cỏ lùng, rồi dụ ngôn hạt cải và men trong bột (c. 24-33). Tiếp đó là phần giải thích ý nghĩa dụ ngôn cỏ lùng (c.36-43).
Dụ ngôn "Lúa và cỏ lùng" là bản tóm tắt chính xác và sinh động toàn bộ lịch sử của nhân loại, nơi mà kẻ dữ bách hại người lành, nơi mà sự thiện phải chiến đấu vất vả để không bị cái ác đè bẹp. Thảm kịch ở Ru-an-đa vừa kể trên chỉ là một ví dụ nhãn tiền về cuộc chiến Thiện Ác đang xảy ra từng giờ, từng phút trong bất kỳ xã hội nào của loài người. Tại Việt Nam trong những năm gần đây chẳng hạn, đã có rất nhiều lời cảnh cáo về tệ nạn ma tuý đang tấn công vào giới trẻ, ngay cả tại các giáo xứ và các trường học. Đáng báo động hơn nữa là hiện tượng một số kẻ bán Hêrôin đã cho các em học sinh hút thử miễn phí để rồi sau khi bị nghiện, phải mua "hàng" của họ hoặc đi phân phối cho họ (xem CGDT số 1192, trg.17). Giới trẻ thật mong manh biết bao trước cơn lốc cuốn hút của ma tuý! Điều này gây lo ngại không ít cho những bậc phụ huynh có con em ở tuổi mới lớn, chưa chín chắn trong nhận thức, lại còn tìm "thử" cái mới, cái lạ, cái khác người. Đôi lúc công trình giáo dục chu đáo của phụ huynh cho con em từ tuổi nhỏ (lúa tốt) lại trở thành "công dã tràng xe cát" chỉ trong một phút chốc, trước sự quyến rũ của bạn bè các em (cỏ lùng). Tất cả các ví dụ trên cho thấy sự cam go trong cuộc chiến giữa "lúa" và "cỏ lùng"; giữa "con cái sự sáng" và "con cái ma quỉ". Đứng trước những thảm cảnh như Ru-an-đa, như ma tuý, lắm lúc chúng ta không thể không tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu rồi? Tại sao Người không can thiệp để ngăn chặn sự dữ?
Mặt khác, cuộc chiến nói trên không chỉ diễn ra ở bên ngoài, nhưng còn xảy ra trong nội tâm con người. Ai ai trong chúng ta cũng từng kinh nghiệm sự giằng co nội tâm như Thánh Phaolô diễn tả trong thư Rôma 7,19: "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm; sự ác tôi không muốn, tôi lại làm." Trong thực tế, cho tới giờ lâm chung, không tâm hồn ai hoàn toàn thánh thiện, trừ những người như Đức Maria được sự che chở đặc biệt của Chúa. Trong mỗi tâm hồn đều có một phần "con cái ma quỉ" và một phần "con cái sự sáng" như thể Thiên Chúa đã muốn như thế để mỗi người tự do yêu Chúa, tự do lựa chọn. Tuy nhiên, sự phân rẽ trong chính tâm hồn mỗi người như thế không phải là đường cùng, như thánh Phaolô đã nói tiếp theo câu nói ở trên: "Khốn thay cho tôi! Ai có thể cứu tôi khỏi thân xác hư đốn này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (7,24-25).
Thiên Chúa luôn khoan dung và kiên nhẫn
Thật vậy, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ tin vào Người Con ấy mà được cứu độ (Ga 3,17-18). Hơn thế, Người còn luôn tỏ ra kiên nhẫn với người tội lỗi: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống" (Ê-dê-ki-en 33,11). Chính vì tin vào thiện chí và lòng hướng thượng của những kẻ gian ác mà vị chủ ruộng (tức Thiên Chúa) đã trì hoãn việc nhổ cỏ lùng ngay, vì Người chẳng muốn nhổ lầm những mầm lúa tốt trong tâm hồn những kẻ ác (c.29). Ai ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm sự khoan dung của Thiên Chúa đối với bản thân mình. Giả sử Thiên Chúa chấp tội và cho tôi chết trong lúc tôi sống mất ân nghĩa với Chúa, thì tôi đã sa vào lửa đời đời. Thế nhưng, Người đã dung thứ tôi vì Người yêu tôi; vì Người tin vào khả năng hướng thượng của tôi; và vì vậy Người kiên nhẫn chờ đợi, cho tôi cơ hội để làm lại cuộc đời, để nhổ bớt cỏ lùng trong tôi trước khi "mùa gặt" (tức sự phán xử của Thiên Chúa) đến.
Trong thực tế, sự khoan dung và nhẫn nại của Chúa đã làm phát sinh nhiều vị Thánh lớn từ những người tội lỗi (Maria Mađalêna, Mátthêu, Au-tinh...) Do vậy, nếu mỗi người tội lỗi biết noi gương các vị thánh đó, tận dụng khoảng thời gian Thiên Chúa "gia hạn" cho họ trước khi mùa gặt đến, thì từ một Âu-tinh theo bè rối và sống buông thả lúc còn trai trẻ, sẽ có thể chỗi lên một vị thánh Giám Mục và Tiến Sĩ cho Hội Thánh.
Hạt cải và men trong bột
Dụ ngôn "cỏ lùng và lúa" không kết thúc bằng hình ảnh bi quan của "cỏ lùng hoành hành" hay của "lửa thiêu vào mùa gặt". Trái lại, hai dụ ngôn ngắn gọn về hạt cải và men mở ra một cái nhìn rất lạc quan về thực tại Nước Trời: đó là tuy nhỏ bé và ít ỏi, nhưng một khi vượt qua được những trở ngại để vươn lên, hạt cải Nước Trời sẽ trở thành một cây lớn, làm chỗ nương tựa cho nhiều người; còn men Nước Trời sẽ biến đổi bột một cách mãnh liệt, từ đó cho ra những ổ bánh thơm ngon, sốp và mềm.
Khi chịu phép rửa tội, mỗi Kitô hữu đã được lãnh nhận hạt giống đức tin và Men Phúc Âm. Họ cũng được mời gọi để làm cho hạt giống đức tin đó lớn lên và làm dậy men Phúc Âm trong môi trường họ sống, tuy âm thầm, chậm chạp, nhưng mãnh liệt.
-------------------------------
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Theo gương nhẫn nại của Chúa
Chúa nhật trước, chúng ta đã bắt đầu đọc bài giảng thứ ba trong năm bài giảng lớn của Phúc Âm thánh Matthêu là dụ ngôn Người gieo giống. Hôm nay chúng ta tiếp tục với ba dụ ngôn khác. Trước tiên là dụ ngôn hạt cải và cỏ lùng, rồi sau là dụ ngôn bột và men. Cả ba đều tiếp theo sau phần giải thích dụ ngôn người gieo giống.
- Dụ ngôn hạt cải và cỏ lùng đều mở đầu giống như dụ ngôn người gieo giống: “Nước Trời thì ví như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình...”. Thế rồi đột nhiên câu chuyện trở nên bi đát: các đầy tớ sửng sốt khám phá thấy cỏ lùng đã mọc lan khắp cả ruộng lúa vừa gieo. Họ hỏi ông chủ: “Cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?” Ông đáp: “Kẻ thù đã làm đó”. Họ sẵn sàng đi ra ruộng ngay để nhổ hết thứ cỏ dại làm hư ruộng của chủ.
+ “Vậy ông có muốn chúng tôi nhổ cỏ đi không?”. Phản ứng tự phát của những người đầy tớ trong dụ ngôn cũng đúng là phản ứng của những người đã mắt thấy tai nghe bài giảng của Đức Giêsu, phản ứng của những tín hữu ở mọi thời.
. Đó là phản ứng của thánh Gioan Tẩy Giả, người đã vẽ nên bức tranh gây ấn tượng về việc Đấng Mêsia sắp đến: “Tay Người cầm nia. Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3,12). Hụt hẫng vì không thấy cách xét xử của Chúa diễn ra y như mình đã loan báo, nên từ trong ngục tù, Người sai hai môn đệ đến hỏi Chúa rằng: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”.
. Đó là phản ứng ngỡ ngàng của tất cả những ai đã nghe lời Đức Giêsu loan báo: “Nước Trời đã đến gần”, thế mà họ lại chẳng thấy có gì được phác hoạ giống như sự xét xử vẫn trông đợi khi Nước này tới.
. Đó là phản ứng tỏ ra thất vọng của mấy môn đệ thân tín của Chúa khi thấy người ta không lịch sự tiếp đón Thầy mình. Giacôbê và Gioan, hai con ông Dêbêđê rất bực mình vì thái độ tiêu cực của một thôn làng miền Samari, liền hỏi Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa trời xuống tiêu diệt họ không?”.
Thực vậy, làm sao tin được rằng những hành động chẳng có gì là vẻ vang của Chúa Giêsu như chữa lành người bệnh, quan tâm đến các trẻ em và những người hèn mọn, tiếp xúc gần gũi với những người tội lỗi, mà lại loan báo và thực thi Nước Chúa một cách hiệu quả đang lúc giờ phút xét xử của Thiên Chúa còn muộn màng, chưa tỏ hiện và sự ác thì hoành hành và có mặt khắp nơi.
+ Ông chủ bình tĩnh đáp lời những người giúp việc tỏ ra quá mẫn tiệp: “Đừng, cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt... sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa”.
Từ mùa gieo - hình ảnh Nước Thiên Chúa đến - đến mùa gặt kèm theo việc đập lúa - hình ảnh việc xét xử - có một khoảng giữa: Lúc này đang là thời kỳ lúa lớn lên là thời gian nhẫn nại của Thiên Chúa: nếu Thiên Chúa gớm ghét sự ác, thì Người vẫn cứ phải yêu thương con người - kẻ tội lỗi cũng như người công chính - và Người biết rõ tiềm năng lạ lùng của Lời gieo trong lòng họ. Ngày thu hoạch mùa và lựa lọc sẽ đến vào giờ của Người; ngày đó không thể dự đoán trước. Ông chủ nói với các gia nhân ông rằng: “Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy nhặt cỏ lùng trước đã, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”.
Là một lời mời gọi sống theo gương nhẫn nại của Thiên Chúa, dụ ngôn này đồng thời cũng đề nghị ta suy niệm về thời gian của Giáo Hội: đó là thời gian mà tiềm năng của Lời đang hoạt động, bất chấp mọi trở ngại và chống đối; thời gian chờ đợi ngày cánh chung, thời gian của niềm hy vọng.
Lời giải thích dụ ngôn Chúa có ý nhắm nói riêng cho các môn đệ khi đã về tới nhà xem ra xa với bài học về lòng nhẫn nại mà dụ ngôn đã đưa ra. Điểm nhấn mạnh ở đây không còn nhắm tới sự sống giữa giống tốt và cỏ lùng nữa, mà là sự chọn lựa cuối cùng; đang khi chờ đợi sự chọn lựa này, thì phải cố gắng sống không như “con cái ác thần” mà như “những con cái Nước Trời”.
2. ... trong niềm hy vọng hạt giống sẽ nẩy mầm:
Xen giữa dụ ngôn cỏ lùng và người gieo giống được giảng cho đám đông, mà giải thích thì dành cho các môn đệ, ta thấy có hai dụ ngôn mới: dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men trong bột.
Dụ ngôn này cũng như dụ ngôn kia đều nói đến mối tương quan bé/lớn, mà có ý làm nổi bật sự bất cân xứng khác thường giữa một bên là cái bé nhỏ, khiêm tốn hầu như vô nghĩa lúc khởi đầu và bên kia là sự bành trướng lạ thường khi tới đích.
- Quả thực, chẳng có tỉ lệ cân xứng chút nào giữa “một hạt nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống” và một cây lớn lên từ hạt đó” vì khi mọc lên thành cây lớn nhất trong vườn, nó trở thành cây cổ thụ, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được!”.
- Và thật là chẳng cân xứng chút nào giữa một bên là một dúm men hầu như không trông thấy mà người phụ nữ vùi vào trong bột, và ba đấu bột là dùng để ủ men: từ ba trở thành 40 lít đủ bảo đảm bữa ăn cho hơn 100 người!
Cũng vậy, để làm cho Nước Chúa đến, Thiên Chúa cũng không xử sự khác người nông dân khi gieo vào đất một hạt bé nhỏ, hay như người đàn bà vùi một chút men vào bột. Dù bề ngoài xem quá khiêm tốn, sứ mệnh của Đức Giêsu vẫn cứ khai mào việc Thiên Chúa nhất định can thiệp vào lịch sử của con người. Vậy thì có lẽ nào mà phải nghi ngờ về kết quả chung cuộc?
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Chưa nhẫn nại đợi chờ” (A. Nocent, trong “Célébrer Jésus Chirist” số 6, NXB Đại học, 1977, trang 99-100).
“Sự nhẫn nại đợi chờ này thực là rõ nét trong dụ ngôn cỏ lùng, tâm điểm của Tin Mừng hôm nay.
Cánh đồng được gieo toàn hạt giống tốt. Con người đã gieo vào trần thế những con cái Nước Trời. Ban đêm kẻ thù xuất hiện, Satan tới gieo cỏ lùng. Và thế là có cảnh lẫn lộn trên trần gian, Người lành kẻ dữ cùng chung nhau một mảnh đất. Nếu chỉ thoáng nhìn, đôi khi khó mà không phê phán Thiên Chúa. Làm sao Chúa lại để điều ác phát triển như vậy? Những người xấu đôi khi xem ra lại được ưu đãi trong đời sống vật chất hơn những kẻ lành. Đó là vấn đề thường nhật mà không phải chỉ riêng cho những người chân chất. Thiên Chúa để cho như vậy. Và quả thực Thiên Chúa muốn để cho mọc lên hạt giống Người đã gieo; đó là người con Chúa đã tuyển chọn, những người Chúa đã ban ơn thánh tẩy, những người mà Thần Khí đã biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Con của Người. Chúa để cho họ phát triển, cùng lúc để cho cỏ lùng Người đã không gieo và không thể gieo lớn lên. Nhưng Người kiên nhẫn đợi chờ. Thế giới phải đi con đường của mình, và Thiên Chúa cứ để cho họ đi. Người đợi cho đến mùa thu hoạch. Cuộc đời trần gian cứ trà trộn như vậy, nên tốt hơn ta đừng can thiệp quá sớm kẻo làm chết đi cái gì còn đang sống. Nhưng Nước Chúa vẫn không ngừng tiến triển như hạt cải như bột lên men. Chúa đợi chờ cho mọi cái đạt tới độ chín mùi.
Thánh Matthêu khi viết điều này không phải là người không biết đến tình trạng của cộng đoàn mà ngài trách nhiệm. Ngài thấy cộng đoàn ấy lớn lên bước đầu từ hạt cải nhỏ tí ti, rồi trở thành cây lớn. Ngài hiểu biết rằng men đang nằm trong bột, nhưng ngài cũng không thể không biết rằng cỏ lùng lẫn lộn với hạt giống. Chắc chắn điều đó tạo nên vấn đề cho các tín hữu của ngài, cũng như ngày nay vậy và vấn đề không chỉ đơn giản là trấn an những nỗi lo âu và hâm nóng lòng tin tưởng vào Chúa quan phòng. Chứng tỏ cho thấy rằng Nước Chúa vẫn có sức năng động, mặc dầu có những kẻ thù, mặc dầu có những khiếm khuyết và đồng thời giúp cho cộng đoàn biết suy nghĩ về trách nhiệm của mình đang khi chờ đợi Ngày hội ngộ, đấy mới phải là mục tiêu mà thánh sử nhắm tới.
2. “Hạt giống tốt và cỏ lùng lẫn lộn xà ngầu” (Đức Cha L. Daloz trong “Le règne des cieux s'est apprché” NXB Desclée de Brouuer, trang 200-201).
“Dụ ngôn cỏ lùng cũng là lời mời gọi ta biết nhìn những con người và các biến cố trong tất cả sự thật, trong sự phức tạp của con người và biến cố. Khi giải thích dụ ngôn này, Đức Giêsu đối chọi hạt giống là những phần tử của Nước Chúa, với cỏ lùng là những kẻ thuộc về Ác Thần. Sự phân biệt xem ra đơn giản. Nhưng phân loại những “người lành”, “kẻ dữ” thực ra có quá dễ dàng như thế không? Chúa Giêsu phán rằng sẽ chỉ đến mùa gặt thì việc phân biệt lựa chọn (nghĩa là đến ngày tận thế) mới thực hiện được: “Con Người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người”. Phải, việc đó sẽ được thực hiện, nhưng chỉ vào ngày tận thế! Trong thời gian chờ đợi này, hạt giống và cỏ lùng lẫn lộn tứ tung. Ta cứ nghiệm mà coi: trong những tình huống tuyệt vọng nhất, nơi những con người xem như tồi tệ nhất, vẫn còn lập loè vài tia sáng. Hơn nữa, trong tình liên đới giữa con người với nhau, những người bị hãm hại và bị ức hiếp không để mình chịu thua sự độc ác của những kẻ hành hạ mình, mà lại trở thành con đường hộ phù và cứu độ cho những kẻ ấy. Đức Giêsu, người đứng đầu các kẻ công chính khi hấp hối trên thập giá đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho chúng...!”. Nét đẹp của con người, vẻ cao cả của một tấm lòng, đức tận tuỵ hy sinh của tình yêu thương cho đến tận cùng cũng biểu lộ cả trong những tình huống tội lỗi hỗn loạn hoàn toàn. Đôi khi chính ở đó mà những vẻ đẹp kia lại tìm được nét diễn tả thâm thuý nhất... vì sự ác làm nảy sinh những cử chỉ yêu thương và anh hùng bất ngờ. Phải là phép lạ khi hình ảnh của Thiên Chúa thường bị biến dạng mà vẫn ẩn vùi trong thâm sâu của bản thân mỗi người; phải là phép lạ khi tình yêu vẫn le lói như một tia sáng yếu ớt và kiên cường ngay ở nơi xem ra chỉ có bóng tối; hạt giống nhỏ xíu của Nước Trời “loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống” mà người ta tưởng chừng nó phải mất hút, thế mà lại xuyên qua được đá cứng nhất nhờ sức mạnh của nhựa cây! Hạt giống rất quý giá đó mà Thiên Chúa vốn nhẫn nại không cho phép người ta tạo nguy cơ loại bỏ nó, chỉ vì vội muốn nhổ ngay đám cỏ dại: “Sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa...”. Ta phải học cho biết hy vọng cả khi phải nguyện vọng như thế nào!; phải có lòng trắc ẩn và xót thương biết bao để biết tôn trọng tình trạng “hổ lốn” mà ta vốn thích phân loại cho rõ rệt! Ta phải học đức nhẫn nại của Chúa, một sự nhẫn nại không mệt mỏi cho đến tận thế, học thương yêu con người, hết mọi người để cho không một ai phải hư mất, học lòng thương yêu của Chúa Con, Đấng đã mặc lấy xác phàm để các anh em nhân loại của Người không phải là những nạn nhân của chính lòng độc ác của họ. Đức nhẫn nại của Cha đâu có biết đến giới hạn? “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt...”. Con người thật là quý giá, nên phải coi chừng đừng để mất đi một mảnh vụn nào hết! Thiên Chúa không hề mệt mỏi khi phải kiên nhẫn “cho đến ngày tận thế”.
-------------------------------
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng lúa để giải thích một trong những đặc trưng của Nước Thiên Chúa. Ngài chỉ cho thấy diễn tiến của Nước ấy qua hai giai đoạn nối tiếp nhau với nhũng qui luật khác nhau. Giai đoạn đầu diễn ra trong trần thế. Nước Thiên Chúa đã bắt đầu được thiết lập trong lịch sử. Đây Ià giai đoạn mở đầu, dầu sao cũng chỉ là tạm thời, dầu có kéo dài bao nhiêu. trong giai đoạn này sự 1ành và sự dữ, ân phúc và tội lỗi còn đan xen, pha lẫn nhau. Giai đoạn sau là thời hoàn tất. Nước Thiên Chứa đạt tới tình trạng chung cuộc trong Vinh quang Thiên quốc. Lúc đó chỉ còn có sự 1ành. Tội lỗi và sư ác đã bị loại trừ vĩnh viễn.
NƯỚC THIÊN CHÚA ĐÃ THÀNH HÌNH Ở TRẦN GIAN
Thiên Chúa mời gọi mọi người vào Nước của Ngài. Nước đó bắt đầu thành hình với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu. Đức Giêsu loan báo đồng thời khai mở triều đi của Thiên Chúa giữa loài người. Lời truyền giảng đầu tiên của Ngài là: Nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Ở giai đoạn mở đầu, Nước Thiên Chúa chưa thế hoàn hảo ngay. Hồng ân cứu độ và các giá trị khác của Nước Thiên Chúa là những giá trị hoàn hảo, tuyệt đối, vĩnh cửu. Nhưng một khi được thực hiện nơi con người và trong xã hội loài người thì các giá trị đó như mất đi phần nào tính hoàn hảo và tuyệt đối của chúng.
Lý do là vì chính các giá trị tuyệt đối, nhưng chúng chỉ được đón nhận cách tương đối. Không phải tâm hồn nào cũng sẵn sàng đón nhận các giá trị đó cách trọn vẹn. Hạt giống tốt mà nếu gặp đất xấu thì năng suất đương nhiên bị hạn chế. Trong xã hội loài người không phải chỉ toàn có sự thật, sự thiện. Bên cạnh cái tốt còn có rất nhiều cái xấu, bên cạnh cái lành mạnh còn không thiếu cái suy thoái.
Bởi thế cái chưa hoàn hảo trong Nước Thiên Chúa ở giai đoạn thiết lập không nằm trong chính Nước Thiên Chúa, nhưng thuộc về phía con người được mời gọi đón nhận Nước Thiên Chúa. Bên cạnh những người đón nhận không thiếu những người không đón nhận hoặc chỉ đón nhận nửa vời.
Đó chính là tình trạng cỏ lùng còn mọc lẫn trong ruộng lúa. Và tình trạng này còn kéo dài trong lịch sử loài người. Mặc dầu Nước Thiên Chúa đã bắt đầu lan rộng, sự lành và sự dữ còn tồn tại bên nhau, pha trộn nhau. Tuy nhiên tồn tại bên nhau không có nghĩa là thỏa hiệp với nhau. Tốt xấu như nhau, cấu kết với nhau, hoặc để cho xấu lấn át tốt.
Vậy trong giai đoạn khởi đầu của Nước Thiên Chúa người Kitô hữu phải có thái độ nào đối với tình trạng vàng thau lẫn lộn này? Phải có hai thái độ bổ túc cho nhau:
Một mặt phải thực tế chớ quá lý tưởng, đòi hỏi một sự toàn hảo về mọi mặt không thế có trong tình trạng tại thế. Cần tm thời chấp nhận cỏ lùng trong ruộng lúa một cách kiên nhẫn. Nhưng mặt khác lại phải kiên quyết chống lại sự ác, tìm cách giới hạn và đẩy lùi sự ác, làm cho sự thiện mỗi ngày thắng thế để Nước Thiên Chúa mỗi ngày tăng trưởng, tiến dần đến viên mãn chung cuộc.
NƯỚC THIÊN CHÚA SẼ ĐẠT TỚI HOÀN HẢO
Ngày Nước Thiên Chúa hạoàn tất tính theo thời gian của con người chắc còn xa, mặc dầu sánh với vĩnh cửu khoảng thời gian đó chẳng có là bao. Giai đoạn thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian dầu kéo dài đến đâu cũng chỉ là tạm thời. Giai đoạn chuẩn bị này chỉ là bước đầu, rồi sẽ nhường chỗ cho Vinh quang Thiên quốc. Không ai chối cãi rằng thế giới này, lịch sử này đang trôi qua không ngừng. Chúng ta đang ở trên chuyến tàu hướng về vĩnh cửu. Có thể tàu chạy không nhanh, nhưng chạy luôn không ngừng và cuộc hành trình sẽ rất dài. Rồi một ngày nào đó tàu cũng tới ga cuối cùng là ga "Vĩnh cữu" và sẽ ngừng hẳn.
Lúc đó là thời điểm Chúa Giêsu trở lại hoàn tất công trình cứu độ của Ngài và đưa ta vào cõi hằng sống. Tình trạng tạm thời, bất toàn sẽ nhường chỗ cho tình trạng vinh quang, bất tử. Lúc đó mới tới mùa gặt là thời điểm phân định dứt khoát. Tình trạng vàng thau lẫn lộn chấm dứt. Lúa được cất và0 kho, còn cỏ bị đem đốt. Trong vinh quang Nước Trời sẽ không còn sự ác, tội lỗi, sự chết. Chỉ có ân phúc, sự sống bất diệt, chân lý vĩnh cửu, niềm vui vô tận.
Dó chính là nơi mà Thiên Chúa muốn đưa ta tới, là tận đích ta phải hướng tới suốt đời ta, là lẽ sống của ta, là nơi an nghỉ đời đời. Nhưng muốn đạt tới đó, mỗi ngày còn phải vật lộn với tội lỗi, sự ác. .. đừng để cỏ lùng lấn át cây lúa. Phải vượt lên trên cái tường đối, hữu hạn, mau qua. .. để hướng tới cái chân thật, vô tận, vĩnh cửu.
-------------------------------
GỢI Ý GIẢNG
1. Khuynh hướng bất bao dung
Có lần Liên Hợp Quốc đã chọn nguyên một năm làm "năm quốc tế về lòng khoan dung" để giảm thiểu khuynh hướng bất bao dung ngày càng gia tăng trong nhân loại.
Bao dung là nhân từ, kiên nhẫn chịu đựng những điều xấu của người khác để dần dần tìm cách hoán cải họ. Bất bao dung là đòi trừng trị ngay những người xấu: một người làm gì đó có hại cho ta, ta trả đũa ngay. Do nóng vội, có khi ta không suy nghĩ kỹ xem biết đâu chính ta có gì sai lỗi nên người kia mới cư xử với ta như vậy. Khi người kia bị ta tấn công, họ cũng có thể cho là bị tấn công oan ức nên lại trả đũa ta. Thế là hai bên cứ leo thang. Thực ra có mấy ai hoàn toàn tốt, cũng như có mấy ai hoàn toàn xấu. Thái độ bất bao dung phát sinh từ suy nghĩ cho mình là tốt, hoàn toàn đúng và người ta là xấu, hoàn toàn sai.
Trên bình diện cá nhân và khu xóm, bất bao dung khiến người ta khó sống chung hòa thuận với nhau. Trên bình diện quốc tế, bất bao dung dẫn đến những cuộc chiến tranh khu vực. Mà xung đột và chiến tranh chẳng mang lại ích lợi gì, chỉ toàn gây hại. Chính vì trên thế giới có quá nhiều cuộc chiến tranh khu vực cho nên Liên Hợp Quốc mới thấy cần đề ra một năm quốc tế về lòng bao dung.
Muốn bao dung thì phải biết mình và biết người: biết mình cũng có lỗi lầm, và biết người cũng có những điều tốt. Muốn lấy cái rác trong mắt người ra thì trước hết phải lấy cái xà trong mắt mình đã.
2. Cái nhìn thiển cận.
Thiển cận là chỉ thấy gần chứ không thấy xa, chỉ thấy bề ngoài mà không thấy bề trong. Do thiển cận nên người ta bất bao dung, mất kiên nhẫn.
Thiên Chúa có thể bao dung và kiên nhẫn vì Ngài vừa thấy hiện tại vừa thấy tương lai, vừa thấy bề ngoài vừa thấy bề trong.
3. Lành dữ cộng sinh
Nghe bài dụ ngôn "cỏ lùng" hôm nay, có người sẽ lấy làm lạ. Trong cuộc sống, làm gì có một nhà nông nào lại để lúa và cỏ lùng cùng tồn tại trong ruộng mình! Nhưng dụ ngôn là dụ ngôn, nghĩa là một cách nói ví von bóng gió để làm sáng tỏ một vấn đề.
Vấn đề của dụ ngôn là lành dữ cộng sinh và lòng nhân từ cũng như sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Kinh xưa có câu: "Hỡi kẻ lành là ai, kẻ dữ là ai?” Chúng ta ưa thích phân biệt lành dữ, chánh tà, trắng đen rõ rệt. Chánh phải loại trừ tà, lúa tốt phải được chăm sóc, cỏ dại phải nhổ đi. Cái lý do nhiên là vậy. Rất đơn giản. Nhưng cuộc sống không đơn giản như vậy.
Trong cuộc sống, có những lúc chánh tà không phân biệt rõ rệt. Cỏ lùng mọc chung với lúa tốt. Vả lại, cái mà ta gọi là kẻ dữ không giống như cỏ lùng. Cỏ lùng không thể biến thành lúa nhưng kẻ dữ có thể cải tà quy chánh, có thể hoán cải thành người tốt, nếu xã hội biết kiên nhẫn chờ đợi và tạo những điều kiện cho họ. Vả lại, kẻ lành, nếu không giữ mình, không liên tục làm điều lành, cũng có thể trở thành kẻ dữ. Vậy chẳng ai nên tự phong là lúa tốt, rồi loại trừ, lên án anh em là cỏ lừng. Có lần Chúa đã nói thẳng với những người tự phụ: “tôi nói thật bọn thu thuế, bọn gái điếm sẽ vào thiên đàng trước các ông kia đấy!"
Qua bài dụ ngôn, Chúa dạy chúng ta lòng nhân từ, kiên nhẫn, và tin tưởng vào sự lành. Hãy tin rằng sự lành sẽ tuần tự triển khai tốt đẹp, mặc dầu có sự dữ kè bên. Sự lành thậm chí còn có sức cảm hóa được sự dữ. "Kẻ lành" Monica đã cảm hóa dược "kẻ dữ” Augustinô và cả hai mẹ con cùng trở nên những vị thánh lớn trong Giáo Hội. CỎ LÙNG XEN VÀO LÚA
Thế giới này giống như cánh đồng lúa đầy cỏ lùng xen vào. Những ông thánh sống lẫn lộn với những thằng quỷ, tốt xen lẫn với xấu. Tốt như những tổ chức nhân đạo, nhân quyền, hòa bình thế giới, UNESCO, UNICEP, FAO, OLYMPIC, WORLD CUP là những tổ chức xây dựng văn hóa, giáo dục tình thương bảo vệ sức khỏe trẻ em, phát triển lương thực thế giới, thăng tiến những tài năng, chăm lo y tế. Nhưng lại có rất nhiều những tổ chức xấu xen vào như Mafia, buôn lậu, ma túy, vũ khí, bọn khủng bố, trộm cướp, du đãng, buôn bán trẻ em, phim ảnh sách báo đồi trụy. Đồ thật, hàng tốt bị xen lẫn hàng xấu, đồ giả. Người lương thiện, chân chính bị lẫn lộn với kẻ tham ô, móc ngoặc, bất lương. Những thứ cỏ lùng gai góc đó không bao giờ hết, chỉ đến mùa gặt tận thế chúng mới bị quét sạch, đốt sạch. Tận thế sẽ thiêu đốt tất cả những thứ cỏ lùng đó, những kẻ xấu, kẻ dữ đó. Còn lúa thì được gánh về, chở về kho. Những thánh nhân, những người lương thiên, công chính sẽ sáng chói trong ngày vinh quang đó, được rước vào nước hạnh phúc đời đời. Thấy cỏ lùng xuất hiện với lúa các đầy tớ đến hỏi ông chủ : “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao ? Thế thì cỏ lùng ở đâu ra vậy ?”.
Thấy sự dữ tràn lan trên thế giới, bao nhiêu người thắc mắc: sự dữ, sự ác, bởi đâu ra ? Chúng ta nhiều lần thấy gian tà thắng ngay lành, bất công thắng công chính. Kẻ ác thắng kẻ thiện, cũng thất vọng kêu trách : Sao Chúa để kẻ dữ sống lâu, mạnh khỏe, giầu sang, may mắn, còn kẻ lành phải khổ cực trăm chiều? Trước những thắc mắc đó, Chúa đáp : “Kẻ thù đã làm đó!”
Kẻ thù là ai ? Thánh kinh cho biết có hai thứ kẻ thù : kẻ thù ở trong ta và kẻ thù ở ngoài ta.
Kẻ thù ở ngoài ta có những tên khác nhau : con rắn cám dỗ phỉnh gạt (St. 3, 2.13), con rồng, rắn xưa, quỷ, satan (Kh. 12,9), con thuồng luồng leviathan (Is. 27,1), kẻ thù, kẻ chống đối (Mt. 13, 25. Lc 10, 19, 2cr 6, 15). Những kẻ thù này ở ngoài con người, nhưng chúng xâm nhập vào con người sâu hiểm tới độ đồng hóa với bản tính nhân loại. Nhưng chúng sẽ bị “Thiên Thần Chúa từ trời xuống, tay cầm chìa khóa vực thẳm và một dây xích lớn, bắt lấy con rồng, tức là con rắn xưa cũng là ma quỷ satan xích nó… quăng vào vực thẳm, rồi đóng cửa niêm phong lại” (Kh 20. 2-3).
Nhưng một mình quỷ thôi, chúng sẽ bất lực như bất lực đối với Thánh Gióp. Chỉ khi có sự tiếp tay của ta như Eva tiếp nó, nó mới thành kẻ thù trong ta : nó trở nên kẻ nội thù ghê gớm. Nó mọc lên những cỏ lùng, bụi gai, đá sỏi, quỷ dữ (Mt. 13, 18-22). “Vì tự lòng phát xuất ra những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cướp, chứng gian, vu khống” (Mt 15, 19)
Khi chủ cho biết kẻ thù làm đó, thì đầy tớ xin nhổ đi, chủ sợ hại đến lúa, nên ông đáp : “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt”, thái độ của chủ thật khôn ngoan, ông kiên nhẫn chờ đợi đến mùa gặt, mới nhặt cỏ lùng đốt đi.
Sự chờ đợi kiên trì của Thiên Chúa đối với kẻ dữ, chính là để biểu lộ lòng thương yêu vô cùng của Chúa, nếu Chúa nóng lòng đánh nhanh, đánh mạnh, quét sạch kẻ thù theo như lời xin của đầy tớ và ước muốn của chúng ta, thì chắc chúng ta cũng bị thiêu đốt, chứ không phải chỉ có kẻ thù xa xôi, kẻ thù bên ngoài. Bởi vì ai trong chúng ta cũng có cỏ lùng, cỏ xấu, kẻ dữ mọc trong lòng mình, do mình đã giơ tay hái lấy những hạt cỏ, những giống độc, những trái cấm mà ăn như bà Eva xưa. Chúa chờ cho chúng ta biết tìm ra hết các giống xấu đó và nhổ chúng đi, thanh tẩy sạch mọi nọc độc đi, để đón nhận những giống tốt Chúa ban vào tâm hồn chúng ta, mong sao đến mùa gặt, chúng ta được chở vào kho lẫm hằng sống muôn đời.
Phải chăng Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta như đứa con phung phá trở về, như những người thâu thuế đấm ngực ăn năn, như cô gái điếm Madalena trở về nên Thánh nữ, chờ Simon Phêrô khóc lóc trở về làm nền tảng Hội Thánh, chờ anh trộm bên hữu Thập giá Chúa trở nên bạn hiền an ủi Người, chờ đứa con trụy lạc Augustinô trở về làm Giám mục Tiến sĩ Hội Thánh.
Xin đừng thất vọng, Chúa có thể làm cho con lạc đà chui qua lỗ kim được thì cũng làm cho những kẻ quỷ ám trở thành lành thánh được. Nhưng khốn cho những kẻ thất vọng như Giuda tự ý kết án treo cổ mình chết thật tội nghiệp.
-------------------------------
1. Thiện Ác cùng hiện diện trong mỗi con người, mỗi cộng đồng cũng như trong thế giới:
Trong các tài liệu của Giáo Hội chúng ta thường thấy tựa đề này: “Ánh sáng và bóng tối trong …. ví dụ: trong thế giới loài người hôm nay, trong gia đình hiện nay, trong giới trẻ hiện nay”. Đó chính là vấn đề mà dụ ngôn cỏ lùng trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu muốn nêu lên.
Trong cuộc sống, chúng ta luôn chứng kiến một thực tại là Thiện và Ác luôn có mặt cùng lúc, cùng nơi, bên cạnh nhau và tranh giành nhau. Thực tại ấy xẩy ra nơi mỗi tâm hồn, mỗi cộng đồng, mỗi xã hội. Mỗi người mỗi cộng đồng và thế giới luôn bị giằng co, lôi kéo bởi hai lực, hai khuynh hướng, hai trào lưu nội tâm trái nghịch nhau, một kéo về hướng tốt, một kéo về phía xấu. Thánh Phao-lô đã diển tả thực tại ấy như thế này: “Những điều ( tốt ) tôi muốn làm thì tôi không làm, trong khi những điều ( xấu ) tôi không muốn làm thì tôi lại làm”.
Một nhạc sĩ trẻ đã sáng tác một bài hát rất hay mang tựa đề “Một nửa ánh sáng, một nửa bóng tối trong tôi” để diễn tả thực tại ấy. Nội dung bài hát đại khái như vầy: Trong tôi, trong mỗi người chúng ta có một nửa là ánh sáng ( tức là phần tốt lành, vị tha, thánh thiện ) và một nửa là bóng tối ( tức là phần xấu xa, vị kỷ, tội lỗi ). Làm sao để nửa phần ánh sáng bừng cháy lên, đánh tan hoặc che phủ hoàn toàn nửa phần bóng tối kia đi.
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy: chẳng có ai hoàn toàn tốt lành, vị tha, thánh thiện; mà cũng chẳng có ai hoàn toàn xấu xa, vị kỷ, tội lỗi. Vấn đề là làm sao đề phần tốt lành, vị tha, thánh thiện hiện rõ và thắng thế. Trong mỗi cộng đoàn đức tin cũng thế. Trong trong thế giới loài người cũng thế. Ngày nay có biết bao người dám xả thân vì tha nhân, vì công lý và hòa bình thì cũng có không ít người chỉ biết hủy diệt, tìm mọi cách để hủy diệt. Giữa ánh sáng và bóng tối luôn luôn có sự đấu tranh giành giật loại trừ nhau một cách quyết liệt. Ánh sáng càng lan tỏa thì bóng tối càng bị thu hẹp và ngược lại. Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II luôn kêu gọi mọi người thành tâm thiện chí và nhất là các Ki-tô hữu hãy tích cực xây dựng một nền văn minh sự sống, chiến đấu chống lại nền văn minh sự chết đang hoành hành trong các quốc gia.
2. Thiện xuất phát từ Thiên Chúa, Ác là do ma quỉ:
Đứng trước sự kiện hiển nhiên “một nửa ánh sáng, một nửa bóng tối” ấy, con người không ngừng thắc mắc như các đầy tớ của dụ ngôn cỏ lùng trong Phúc Âm: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao ? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy ?”
Đối với những người tin rằng thế giới này do nhiều thần linh cai trị thì những điều tốt lành là do các thần tốt lành mà ra; còn các điều xấu, điều ác thì tất nhiên phải xuất phát từ những ác thần. Còn đối với chúng ta là những kẻ tin rằng Thiên Chúa là Chủ duy nhất của vũ trụ vạn vật và là Đấng toàn thiện, vậy thì sự ác, sự dữ do đâu mà có ?
Thánh Kinh cho biết: ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ vạn vật và Ngài đã đánh giá công trình ấy là tốt đẹp. Nhưng Thánh Kinh cũng cho chúng ta biết ngay từ buổi đầu, chính Sa-tan đã lôi cuốn tổ tông loài người bất tuân lệnh Chúa mà ăn trái cấm trong vườn địa đàng và gây tai họa cho con cái loài người. Giáo huấn trên ăn khớp với điều Đức Giê-su giải thích về dụ ngôn: “Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ”. Thế giới vũ trụ vạn vất là công trình tốt đẹp do quyền năng và tình thương của Thiên Chúa dựng nên; còn mầm mống sự ác là cỏ lùng đã được gieo vào lòng con người và lòng xã hội là do ma quỉ, do Ac thần. Cỏ lùng mọc xen với lúa và cùng lớn lên với lúa. Lúa tốt và cỏ lùng tranh giành nhau đất sống. Đó là cuộc chiến tranh khốc liệt xảy ra hằng ngày trong mỗi tâm hồn, trong mỗi cộng đồng.
3. Tại sao Thiên Chúa không hủy diệt sự Ac ngay lập tức ?
Một thắc mắc nữa là tại sao Thiên Chúa không hủy diệt sự Ác ngay lập tức mà lại để cho sự Ac hiện hữu, tác động xấu trên con người và xã hội ? Trong dụ ngôn cỏ lùng, ông chủ không nghe theo đề nghị của các đầy tớ là cho nhỏ hết cỏ lùng khỏi ruộng lúa, mà cứ để cho cỏ lùng phát triển song song với lúa tốt. Lý do ông nêu lên là nếu cho nhổ hết cỏ lùng thì “sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt”. Sẽ đến giờ, đến lúc cỏ lùng và lúa tốt được tách riêng ra.
Thiên Chúa có nhiều lý do để hành động như thế. Trước hết vì Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, không nỡ bẻ gẫy cây sậy đã dập, không dập tắt tim đèn còn khói. Ông chủ ruộng không ra lệnh nhổ hết cỏ lùng cũng là vị mục tử bỏ chín mươi chín con chiền lành để đi tìm một con chiên lạc, cũng là người cha ngày ngày đứng ngóng đợi đứa con hoang trở về.
Thứ đến là vì Thiên Chúa tin rằng người xấu có thể thay đổi thành người tốt, người tội lỗi có thể trở nên người công chính, nhờ hồng ân của Thiên Chúa và sức mạnh của Thánh Thần. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng khi một người ý thức mình là người có tội và phải vất vả lắm mới thoát ra khỏi cảnh tội thì người ấy sẽ sống khiêm tốn và yêu thương hơn.
Chúng ta có nhiều ví dụ trong Phúc Âm: Phê-rô phút trước vẫn còn là người đánh cá, phút sau đã trở thành môn đệ Đức Giê-su. Cũng Phê-rô phút trước còn là kẻ hèn nhát chối Thày trước mặt một người tớ gái, phút sau đã trở thành người sám hối vĩ đại, quyết sống chết với Thày Giê-su. Phao-lô phút trước còn là kẻ bách hại các Ki-tô hữu, phút sau đã trở thành vị tông đồ dân ngoại. Mát-thêu và Da-kêu phút trước còn là một nhân viên thu thuế, phút sau đã trở thành môn đệ Chúa. Ma-da-lê-na phút trước còn là một phụ nữ bán mình mua vui cho thiên hạ, phút sau đã trở thành người gắn bó chặt chẽ với Đức Giê-su. Người trộm lành phút trước còn là tên trộm dữ, phút sau đã là người được Đức Giê-su đưa vào thiên đàng hưởng hạnh phúc bên Chúa v.v.. Chúng ta cũng có thể tìm ở chung quanh mình những ví dụ khác mới mẻ hơn.
Lý do sau cùng là Thiên Chúa muốn con người đóng góp vào việc phát triển sự Thiện và tiêu diệt sự Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong thế giới.
4. Làm thế nào để phát triển sự Thiện và tiêu diệt sự Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong xã hội ?
Chúng ta phát triển sự Thiện và tiêu diệt sự Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong xã hội bằng cách làm cho một nửa ánh sáng bừng sáng lên và nửa bóng tối thu hẹp lại tức là tạo điều kiện cho các khuynh hướng tốt, các ước vọng tốt, các nỗ lực tốt thành hiện thực và đồng thời làm cho các khuynh hướng xấu, ước vọng xấu, hành động xấu không có cơ hội hình thành.
Nửa ánh sáng là lòng yêu thương, bác ái, nhân hậu, từ bi, quan tâm giúp người. Nửa bóng tối là ích kỷ, hận thù, khắt khe, sống thờ ơ với người bên cạnh. Nửa ánh sáng là khiêm nhường, hiền lành. Nửa bóng tối là kiêu căng, tự mãn, coi thường tất cả. Nửa ánh sáng là trong sạch, khiết tịnh, điều độ, siêu thoát. Nửa bóng tối là tham sân si, chạy theo lạc thú, ham hố của cải, chức quyền, địa vị. Nửa ánh sáng là công lý và hòa bình. Nửa bóng tối là bất công và chiến tranh... Mỗi lần chúng ta chọn phần nửa ánh sáng và từ khước phần nửa bóng tối là chúng ta phát triển sự Thiện và tiêu diệt sứ Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong xã hội.
Lạy Thiên Chúa là Cha từ bi nhân hậu, Cha đã tạo dựng vũ trụ vạn vật và con người. Cha lại còn giao phó cho con người sứ mệnh gìn giữ, cai quản và làm chủ công trình tốt đẹp ấy, để loài người cộng tác với Cha làm cho công trình ấy luôn luôn tốt đẹp và hữu ích. Xin Cha giúp chúng con biết quí trọng thiên nhiên và tôn trọng những định luật tự nhiên mà Cha đã đặt để trong đó. Xin Cha giúp chúng con biết tích cực bảo vệ và phát triển sự Thiện và đấu tranh tiêu diệt sự Ác nơi mình, nơi tha nhân và trong xã hội chúng con đang sống.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã được Cha sai đến trần gian để gieo vãi hạt giống tốt trong cánh đồng thế gian và làm cho hạt giống ấy phfinát triển thành cánh đồng cao sản. Chúa đã chiến đấu hết sức mình, chiến đấu đến nỗi bị kẻ thù giết hại để thực hiện Ý Cha và đem lại chiến thắng cho Vương quốc của Cha. Xin Chúa giúp chúng con biết cách đấu tranh bênh vực sự Thiện trong chúng con, trong cộng đồng và xã hội chúng con và đẩy lùi sự Ác ra khỏi lòng chúng con, khỏi cộng đồng và xã hội chúng con.
Lạy Chúa Thánh Thần là sức mạnh Thiên Chúa, xin Chúa luôn ở cùng chúng con, luôn chiến đấu với chúng con để đem lại chiến thắng cho Nước Thiên Chúa.
Phê-rô Đa-mi-a-nô ĐINH NGỌC THIỆU – Giê-rô-ni-mô NGUYỄN VĂN NỘI
-------------------------------
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta đều biết ảnh hưởng của lời nói: có những lời nói khiến ta sung sướng vô cùng, nhưng cũng có những lời nói làm lòng ta đau nhói; lời của những bậc khôn ngoan dạy ta nhiều điều hay lẽ phải, còn lời đường mật của những người xấu có thể dụ ta đến những thiệt hại khôn lường.
Hôm nay, Chúa bảo ta hãy lưu ý đến Lời của Chúa. Ðó là những hạt giống tốt có khả năng sinh những hoa trái rất tốt lành.
Xin Chúa giúp chúng ta trở thành những mảnh đất tốt để hạt giống Lời Chúa gieo vào sinh hoa kết quả tốt đẹp.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta chưa quan tâm đủ đến việc học hỏi Lời Chúa trong Tin Mừng.
- Rất nhiều hạt giống lời Chúa gieo vào lòng chúng ta đã uổng phí vì chúng ta không thành tâm đón nhận.
- Chúng ta nghe Lời Chúa rất nhiều nhưng thi hành thì rất ít.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 55,10-11)
Ðoạn trích này thuộc về phần thứ II của sách Isaia, phần này được gọi là 'Sách an ủi'. Ngôn sứ Ðệ nhị Isaia nói rằng Thiên Chúa đã hứa sẽ cho dân Do Thái thoát khỏi cảnh lưu đày và được trở về quê hương.
Thế nhưng nhiều người Do Thái tỏ ra không tin vào lời hứa đó. Ngôn sứ lưu ý họ hãy nhớ rằng lời của Thiên Chúa luôn luôn hữu hiệu: Ngài đã nói thì thế nào cũng xảy ra đúng như lời Ngài nói; Ngài đã hứa thì chắc chắn Ngài sẽ thực hiện.
Lịch sử đã chứng minh cho điều Ðệ nhị Isaia nói: dân do thái đã được hồi hương vào năm 538 trước công nguyên.
2. Ðáp ca (Tv 64)
Thánh vịnh 64 ca tụng Thiên Chúa Tạo Hoá: sau khi tạo dựng trái đất, Ngài thường xuyên thăm viếng, tưới gội, để cho trái đất thấm nhuần mầu mỡ, cây trái đâm chồi nẩy lộc sinh hoa kết quả, gia súc sinh sản và lớn lên, muôn loài hát xướng hoan ca.
Phụng vụ chọn những lời ca tụng này như một bức màn nền để làm nổi bật ý nghĩa dụ ngôn Tin Mừng về việc gieo những hạt giống lời Chúa.
3. Tin Mừng (Mt 13,1-23)
Dụ ngôn này đã quá quen thuộc với chúng ta. Chúng ta hãy để ý đến vài chi tiết mang ý nghĩa đặc biệt:
Người nông phu này gieo hạt giống xuống mọi loại đất mặc dù biết trước là nhiều hạt sẽ không nầy mầm mọc lên, và Thiên Chúa rất hào phóng sẵn sàng ban lời Ngài cho mọi người và ban cách rất quảng đại dồi dào.
Dụ ngôn kể ra 4 loại đất, trong đó có tới 3 là đất xấu. Thực tế đáng buồn là rất nhiều người đã không đón nhận Lời Chúa và làm cho lời ấy sinh kết quả.
Lời Ðức Giêsu trích dẫn sách Isaia 'Các ngươi lắng lai mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì'. Tâm thế của những người lòng chai dạ đá trước Lời Chúa. Ðối với họ, Lời Chúa như 'đàn gãy tai trâu' và như 'nước đổ lá môn' chẳng chút hiệu quả.
Nhưng đối với người biết đón nhận Lời Chúa và đem ra thực hành thì kết quả rất phi thường: một hạt sinh ra 30, 60, 100 hạt khác.
4. Bài đọc II (Rm 8,18-23) (Chủ đề phụ)
Ðoạn thư này chứa đựng một ý tưởng khá mới lạ của Thánh Phaolô, đó là có một sự liên đới số phận giữa con người và các thụ tạo khác: khi con người phạm tội và do đó bị rơi vào vòng nô lệ tội lỗi thì các thụ tạo cũng bị lôi cuốn vào vòng nô lệ đó; hiện nay con người ngóng chờ ơn giải thoát thì các thụ tạo cũng ngóng trông như vậy.
IV. Gợi ý giảng
1. 'Ngài dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều'
Một Rabbi do thái kia rất thích dùng các câu chuyện để giải thích những chân lý. Có một môn sinh hỏi ông tại sao ông thích dùng cách đó. Thay cho câu trả lời, ông lại kể một câu chuyện như sau:
Ngày xửa ngày xưa, chàng Sự Thật đi rảo khắp nơi, không mặc quần áo mà cũng chẳng trang sức gì cả, cho nên ai nấy vừa thấy chàng là mắc cỡ đỏ mặt và chạy trốn hết. Sự Thật buồn lắm. Một hôm chàng gặp nàng Dụ Ngôn mặc một chiếc áo muôn màu tuyệt đẹp.
- Anh Sự Thật ơi, sao anh buồn thế?
- Tôi buồn vì tôi vừa già vừa xấu, không ai muốn nhìn tôi.
- Không phải thế đâu. Nàng Dụ Ngôn cười đáp. Ðây anh hãy mượn chiếc áo của tôi mặc vào. Rồi anh sẽ thấy điều gì xảy ra.
Chàng Sự Thật mặc chiếc áo muôn màu của nàng Dụ Ngôn vào. Và chàng đi đâu cũng được mọi người niềm nở tiếp đón.
Kể xong câu chuyện, Vị Rabbi kết luận: Người ta rất khó đón nhận sự thật 'trần trụi', nhưng rất dễ đón nhận sự thật được diễn tả bằng dụ ngôn.
2. Lựa lời mà nghe
Có câu ca dao: 'Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau'. Câu này có thể gợi ý cho một câu khác: '... Lựa lời mà nghe sao cho có phúc'
Chúng ta phải lựa lời để nghe, bởi vì có những lời toàn gây thiệt hại và có những lời đem lại phúc thật.
Lời Chúa rất đáng cho chúng ta lựa để nghe, vì:
luôn đúng sự thật, không sai bao giờ, bởi Chúa chính là Sự Thật.
Chúa không gạt gẫm chúng ta bao giờ. Ngài nói gì cho chúng ta nghe đều chỉ vì lợi ích cho chúng ta.
Lời Ngài là ánh sáng chỉ đường, lời Ngài là sự sống.
Lời Chúa rất quý trọng, đến nỗi Ngôi Hai Thiên Chúa được gọi là Ngôi Lời.
3. Sống đạo bằng gì?
Nếu được hỏi câu này, một người bàng quan nhìn chúng ta sống sẽ trả lời rằng: họ sống đạo bằng đọc kinh, bằng lãnh nhận các bí tích và bằng tham dự các lễ nghi.
Ðúng vậy, người công giáo chưa hoặc rất ít sống đạo bằng Lời Chúa. Nếu sống đạo bằng đọc kinh thì sau giờ kinh là hết sống đạo! Nếu sống đạo bằng lãnh nhận các bí tích thì có bao nhiêu dịp để sống đạo đâu! Và nếu sống đạo bằng tham dự các lễ nghi thì sẽ không còn sống đạo khi ra khỏi nhà thờ! Vả lại, đạo ở trong các kinh đọc, trong các bí tích và trong những lễ nghi không thấm nhập vào cuộc đời, vào xã hội.
Ðạo là đường, sống đạo là đi đường. Trong cuộc hành trình này, Lời Chúa chỉ hướng cho ta đi, Lời Chúa dạy ta giải quyết những tình huống như thế nào, Lời Chúa là kim chỉ nam đưa ta tới cùng đích.
4. Bốn thái độ trước Lời Chúa
Chúng ta hãy nghe chính Ðức Giêsu giải nghĩa 4 loại đất, tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Chúa:
Ðất vệ đường: những kẻ chẳng thiết tha gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị quỷ dữ cướp đi.
Ðất lẫn sỏi đá: những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không quý chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó thì bỏ cuộc.
Ðất có nhiều gai: những người cũng đón nhận lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải... Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa chết ngạt.
Ðất tốt: những người sốt sắng nghe Lời và quảng đại thi hành.
Mỗi ngày Chúa Nhựt chúng ta dự Thánh Lễ, Lời Chúa đều được gieo vào lòng chúng ta.
Có khi nghe xong chúng ta quên liền. Sau Lễ, nếu có ai hỏi ta bài Tin Mừng hôm nay nói gì, chắc ta không trả lời được. Chúng ta là vệ đường.
Có khi chúng ta cảm thấy Lời Chúa rất hay và có ý muốn làm theo. Nhưng trở về với cuộc sống nhộn nhịp, vài ngày sau ý muốn ấy đã tắt ngúm. Chúng ta là đất lẫn sỏi đá.
Có khi chúng ta thực tâm thi hành lời Chúa. Thế rồi chuyện này chuyện nọ trong cuộc sống xảy đến. Chúng ta quan tâm giải quyết những chuyện ấy hơn. Lời Chúa bị bóp chết. Chúng ta là đất có nhiều gai góc.
Chỉ cần một câu Tin Mừng thôi nhưng được suy gẫm kỹ và được kiên trì thực hiện thì sẽ sinh kết quả gấp trăm.
5. Chuyện minh họa
Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi 'Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?'. Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời 'Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã'... Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua 'Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được: Giác ngô đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý'.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
'Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra'. Với tâm tình yêu mến lời Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1. Lời Chúa là nền tảng đức tin của người tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội Thánh / biết ý thức tầm quan trọng của Lời Chúa / cũng như cố gắng đọc thường xuyên / và đem ra thực hành trong đời sống thường ngày.
2. Kinh Thánh chứa đựng Lời Chúa / là cuốn sách được in ra nhiều nhất / được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất / và được đọc nhiều nhất trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết trân trọng bộ sách quý báu này.
3. Thường thì những người rao giảng Lời Chúa / hay gặp nhiều thử thách gian nan trong cuộc sống thường ngày / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa luôn che chở giữ gìn các vị ấy / để các ngài có thể chu toàn trọng trách của mình.
4. Sống đạo là sống theo Lời Chúa dạy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ sẽ / biết cố gắng sống theo Lời Chúa trong Tin Mừng / để đời sống đức tin ngày càng vững chắc và trưởng thành hơn.
CT: Lạy Chúa Giêsu, mỗi khi tham dự Thánh lễ, xin cho chúng con luôn biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng và chăm chú lắng nghe, để Lời Chúa được công bố thực sự trở nên nguồn dinh dưỡng quý báu cho đời sống đức tin của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Ðức Giêsu đã nói 'Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn nhờ những lời từ miệng Thiên Chúa phán ra'. Trong kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy tha thiết 'xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày'.
- Trước rước lễ: Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta được dự hai bàn tiệc là bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Chúng ta đã được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa rồi. Giờ đây chúng ta sắp được nuôi dưỡng bằng chính Thánh Thể Chúa. 'Ðây Chiên Thiên Chúa...'
VII. Giải tán
Chúng ta sắp trở về cuộc sống phức tạp với nhiều cực khổ, lo toan, đam mê, tranh chấp... Chớ gì tất cả những thứ ấy không bóp nghẹt những hạt giống Lời Chúa đã được gieo vào lòng chúng ta trong Thánh Lễ này.
Lm. Carolô Hồ Bạc Xái
-------------------------------
Vào năm 1994, một trong những cuộc diệt chủng lớn nhất của thế kỷ này đã nổ ra ở Ru-an-đa (Trung Phi), làm cho cả thế giới phải sững sờ. Chỉ trong hai tháng đầu của những vụ tàn sát, ước tính đã có đến khoảng 1 triệu người bị sát hại bằng đủ mọi phương tiện: từ súng ống, đến dao, rìu, cày, cuốc.
Hai sắc tộc Tút-si và Hu-tu vốn chung sống trên cả hai lãnh thổ hai nước Bu-run-đi và Ru-an-đa (Trung Phi) từ nhiều thế kỷ nay, nhưng họ chẳng bao giờ chấp nhận nhau. Trong quá khứ đã có nhiều nỗ lực hoà giải hai sắc tộc, nhưng chưa bao giờ triển vọng đạt đến sự hoà giải lại mạnh mẽ cho bằng thời điểm đầu năm 1994, khi tổng thống của Bu-run-đi và Ru-an-đa đến đàm phán với nhau hầu chấm dứt tình trạng xung đột sắc tộc trong mỗi nước. Cả hai vị này đều thuộc sắc tộc Hu-tu.
Tuy nhiên các phần tử cực đoan vốn chống lại một sự hoà giải như thế đã nhúng tay vào cuộc: họ đã bắn rơi chiếc chuyên cơ chở hai vị đến nơi đàm phán. Phẫn nộ trước cái chết của hai vị Tổng Thống thuộc sắc tộc của mình, người dân Hu-Tu ở Ru-an-đa đã đổ trách nhiệm cho người Tút-si và trả đũa bằng cách giết hại người Tút-si thiểu số sinh sống ở Ru-an-đa. Thế là máu đã đổ trong từng xóm làng và trong từng khu phố. Trước hoàn cảnh đó, quân phiến loạn Tút-si từ Bu-run-di đã tràn qua biên giới và cướp được chính quyền ở Ru-an-đa. Một cuộc thanh lọc sắc tộc vô cùng đẫm máu lại diễn ra; nhưng lần này, chính những người Hu-tu lại là nạn nhân. Cả đất nước Ru-an-đa đã biến thành một "lò sát sinh"; sau đó chỉ còn sót lại "vườn không nhà trống", bị ô nhiễm bởi hàng trăm ngàn tử thi không ai chôn cất; ngổn ngang trên các đường làng, trong các tư gia, trên các giòng sông và cả những nhà thờ, nơi đã diễn ra những cuộc tàn sát tập thể đến 3, 4 ngàn nạn nhân. Những kẻ sống sót thì kinh hoàng lánh nạn qua các quốc gia lân cận.
Gần đây, cuộc khủng hoảng Ru-an-đa đã chấm dứt, khi Liên Hiệp Quốc giúp hồi hương những người lánh nạn, tổ chức bầu cử một Tân chính phủ và thiết lập toà án quốc tế xét xử các tội phạm diệt chủng. Tuy nhiên, điều đáng buồn hơn hết là thảm kịch ấy đã diễn ra trên một đất nước đa số là Công Giáo từ nhiều thế kỷ. Rất nhiều người trong số các tội phạm là người Công Giáo; có kẻ hãy còn ở độ tuổi thiếu niên. Biến cố ấy cho thấy như thể hạt giống Tin Mừng mà các thừa sai đã cố công vun xới trên đất nước này trong nhiều thế kỷ dài, đã bị bóp chết chỉ trong khoảnh khắc bởi những cỏ lùng của sự thù oán và óc nham hiểm của con người. Cây lúa bao giờ cũng phải chật vật biết bao để sống còn được bên cạnh cỏ dại; nhưng khốn thay không phải bao giờ nó cũng thành công để sống còn!
Người dùng dụ ngôn mà nói với họ
Trong Phúc Âm, Đức Giêsu thường dùng những dụ ngôn rất phong phú để cắt nghĩa về các mầu nhiệm. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được nghe ba dụ ngôn nói về một số khía cạnh của Nước Trời: chính yếu là dụ ngôn cỏ lùng, rồi dụ ngôn hạt cải và men trong bột (c. 24-33). Tiếp đó là phần giải thích ý nghĩa dụ ngôn cỏ lùng (c.36-43).
Dụ ngôn "Lúa và cỏ lùng" là bản tóm tắt chính xác và sinh động toàn bộ lịch sử của nhân loại, nơi mà kẻ dữ bách hại người lành, nơi mà sự thiện phải chiến đấu vất vả để không bị cái ác đè bẹp. Thảm kịch ở Ru-an-đa vừa kể trên chỉ là một ví dụ nhãn tiền về cuộc chiến Thiện Ác đang xảy ra từng giờ, từng phút trong bất kỳ xã hội nào của loài người. Tại Việt Nam trong những năm gần đây chẳng hạn, đã có rất nhiều lời cảnh cáo về tệ nạn ma tuý đang tấn công vào giới trẻ, ngay cả tại các giáo xứ và các trường học. Đáng báo động hơn nữa là hiện tượng một số kẻ bán Hêrôin đã cho các em học sinh hút thử miễn phí để rồi sau khi bị nghiện, phải mua "hàng" của họ hoặc đi phân phối cho họ (xem CGDT số 1192, trg.17). Giới trẻ thật mong manh biết bao trước cơn lốc cuốn hút của ma tuý! Điều này gây lo ngại không ít cho những bậc phụ huynh có con em ở tuổi mới lớn, chưa chín chắn trong nhận thức, lại còn tìm "thử" cái mới, cái lạ, cái khác người. Đôi lúc công trình giáo dục chu đáo của phụ huynh cho con em từ tuổi nhỏ (lúa tốt) lại trở thành "công dã tràng xe cát" chỉ trong một phút chốc, trước sự quyến rũ của bạn bè các em (cỏ lùng). Tất cả các ví dụ trên cho thấy sự cam go trong cuộc chiến giữa "lúa" và "cỏ lùng"; giữa "con cái sự sáng" và "con cái ma quỉ". Đứng trước những thảm cảnh như Ru-an-đa, như ma tuý, lắm lúc chúng ta không thể không tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu rồi? Tại sao Người không can thiệp để ngăn chặn sự dữ?
Mặt khác, cuộc chiến nói trên không chỉ diễn ra ở bên ngoài, nhưng còn xảy ra trong nội tâm con người. Ai ai trong chúng ta cũng từng kinh nghiệm sự giằng co nội tâm như Thánh Phaolô diễn tả trong thư Rôma 7,19: "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm; sự ác tôi không muốn, tôi lại làm." Trong thực tế, cho tới giờ lâm chung, không tâm hồn ai hoàn toàn thánh thiện, trừ những người như Đức Maria được sự che chở đặc biệt của Chúa. Trong mỗi tâm hồn đều có một phần "con cái ma quỉ" và một phần "con cái sự sáng" như thể Thiên Chúa đã muốn như thế để mỗi người tự do yêu Chúa, tự do lựa chọn. Tuy nhiên, sự phân rẽ trong chính tâm hồn mỗi người như thế không phải là đường cùng, như thánh Phaolô đã nói tiếp theo câu nói ở trên: "Khốn thay cho tôi! Ai có thể cứu tôi khỏi thân xác hư đốn này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (7,24-25).
Thiên Chúa luôn khoan dung và kiên nhẫn
Thật vậy, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ tin vào Người Con ấy mà được cứu độ (Ga 3,17-18). Hơn thế, Người còn luôn tỏ ra kiên nhẫn với người tội lỗi: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống" (Ê-dê-ki-en 33,11). Chính vì tin vào thiện chí và lòng hướng thượng của những kẻ gian ác mà vị chủ ruộng (tức Thiên Chúa) đã trì hoãn việc nhổ cỏ lùng ngay, vì Người chẳng muốn nhổ lầm những mầm lúa tốt trong tâm hồn những kẻ ác (c.29). Ai ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm sự khoan dung của Thiên Chúa đối với bản thân mình. Giả sử Thiên Chúa chấp tội và cho tôi chết trong lúc tôi sống mất ân nghĩa với Chúa, thì tôi đã sa vào lửa đời đời. Thế nhưng, Người đã dung thứ tôi vì Người yêu tôi; vì Người tin vào khả năng hướng thượng của tôi; và vì vậy Người kiên nhẫn chờ đợi, cho tôi cơ hội để làm lại cuộc đời, để nhổ bớt cỏ lùng trong tôi trước khi "mùa gặt" (tức sự phán xử của Thiên Chúa) đến.
Trong thực tế, sự khoan dung và nhẫn nại của Chúa đã làm phát sinh nhiều vị Thánh lớn từ những người tội lỗi (Maria Mađalêna, Mátthêu, Au-tinh...) Do vậy, nếu mỗi người tội lỗi biết noi gương các vị thánh đó, tận dụng khoảng thời gian Thiên Chúa "gia hạn" cho họ trước khi mùa gặt đến, thì từ một Âu-tinh theo bè rối và sống buông thả lúc còn trai trẻ, sẽ có thể chỗi lên một vị thánh Giám Mục và Tiến Sĩ cho Hội Thánh.
Hạt cải và men trong bột
Dụ ngôn "cỏ lùng và lúa" không kết thúc bằng hình ảnh bi quan của "cỏ lùng hoành hành" hay của "lửa thiêu vào mùa gặt". Trái lại, hai dụ ngôn ngắn gọn về hạt cải và men mở ra một cái nhìn rất lạc quan về thực tại Nước Trời: đó là tuy nhỏ bé và ít ỏi, nhưng một khi vượt qua được những trở ngại để vươn lên, hạt cải Nước Trời sẽ trở thành một cây lớn, làm chỗ nương tựa cho nhiều người; còn men Nước Trời sẽ biến đổi bột một cách mãnh liệt, từ đó cho ra những ổ bánh thơm ngon, sốp và mềm.
Khi chịu phép rửa tội, mỗi Kitô hữu đã được lãnh nhận hạt giống đức tin và Men Phúc Âm. Họ cũng được mời gọi để làm cho hạt giống đức tin đó lớn lên và làm dậy men Phúc Âm trong môi trường họ sống, tuy âm thầm, chậm chạp, nhưng mãnh liệt.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn kinh nghiệm như thế nào về cuộc chiến giữa "cỏ lùng" và "lúa" trong môi trường bạn đang sống và trong chính nội tâm bạn? Bạn có thái độ bi quan hay lạc quan trước tình huống đó?
2. Bạn có thể tin rằng kẻ ác nói riêng (và con người nói chung) có được khả năng hướng thượng, tức yêu thích và tìm điều thiện không? Hay là họ cần ơn Chúa giúp sức nữa? Bạn kinh nghiệm về điều này như thế nào nơi chính bản thân bạn?
3. Bạn có tán đồng thái độ khoan dung và kiên nhẫn của Thiên Chúa (chủ ruộng) đối với kẻ tội lỗi (cỏ lùng) không?
-------------------------------
Nước Hà Lan nổi tiếng về những cánh đồng hoa luôn trải dài đến tận chân trời. Những màu sắc thanh tú khác nhau làm thích thú mọi người, có một cảnh tượng đặc biệt đẹp đẽ ở miền nam Hà Lan, đó là cánh đồng lúa mì vào tháng sáu. Những làn sóng lúa xanh mềm mại đang trở nên vàng tô đậm màu cây đó với màu xanh tương phản của bông cỏ.
Cảnh tượng thật là một thiên đường của thi nhân và họa sĩ, nhưng lại là một nỗi buồn của nhà nông. Những bông hoa xanh của cỏ dại báo cho biết mùa thu hoạch chỉ được bằng 1/3 mọi khi. Không có cách nào nhổ những cỏ dại hấp dẫn này mà lại không gây thiệt hại cho cánh đồng lúa mì. Một lo âu khác là khách du lịch sẽ dẫm nát hàng lúa để bứt những bông hoa đẹp.
Tại sao Thiên Chúa lại dựng nên cỏ dại rất hấp dẫn mà lại cũng rất tai hại như vậy ? Đối với nhà nông ở Hà Lan, thứ bông cỏ dại đó là một lầm lỡ trong thiên nhiên, là một cái gì không hợp với lòng tốt lành của Thiên Chúa.
Thiên Chúa cũng cho phép xảy ra cùng tình trạng trong cánh đồng nhân loại. Đa số người ta cố gắng sống tốt lành. Người ta nỗ lực sống liêm chính, hiền lành, điềm đạm, khiêm tốn, giữ lòng tinh tấn, theo chân lý. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy cỏ dại, những người không cố gắng làm lúa tốt. Trong thâm tâm, họ thật là xấu, mặc dầu bề ngoài cách sống của họ có thể là hấp dẫn. Họ thường lại thịnh vượng, thành công, họ xem ra phát triển mạnh. Họ có nhà ở tiện nghi, nhiều lương thực, có thời gian rảnh rỗi, khỏe mạnh. Họ là cỏ dại hấp dẫn, có thể làm hư hại lúa mì.
Tại sao Thiên Chúa lại để cho người ác thành công thịnh đạt? Chúa Giêsu trả lời cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: Thiên Chúa trồng lúa mì – người lành. Kẻ thù là ma quỉ, gieo cỏ dại – người ác. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy để cả lúa mì và cỏ dại mọc lên cho tới mùa gặt, cuộc phán xét, khi đó lúa mì sẽ được thu lại cất vào kho, còn cỏ dại sẽ được gom lại mà đốt đi.
Thiên Chúa công minh, Ngài để cho người xấu thành công về vật chất là để thưởng cho họ ở trần gian vì việc thiện nhỏ nhoi mà họ đã làm. Đôi khi Ngài cũng để cho người làmh chịu đau khổ ở trần gian, vì một vài điều tốt họ đã làm, để niềm vui của họ trọn vẹn hơn vào lúc phán xét.
Trong bài đọc I, chúng ta cầu xin cùng Chúa: “Vì là chủ của sức mạnh, nên Chúa phán xét hiền lành, Chúa thống trị chúng ta với đầy lòng khoan dung”. Trong bài Thánh vịnh đáp ca, chúng ta kêu cầu: “Lạy Chúa, Ngài là Thiên Chúa từ bi, nhân hậu, chậm bất bình, rất mực khoan dung và thành tín”.
Có sự khác biệt lớn lao giữa cỏ dại và người ác. Cỏ dại không thể thay đổi được, còn người ác có thể biến đổi. Đó là mục đích chính của lễ hiến tế Thánh này – để đem kẻ độc ác trở về với Thiên Chúa, để biến đổi cỏ dại con người thành lúa mì con người.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
-------------------------------
“Người kia gieo giống tốt trong ruộng mình”
Thánh Phaolô được gọi là ngôn sứ của việc cầu nguyện và Người định nghĩa việc cầu nguyện là “Lời cầu xin cùng Đức Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần” (Lc 11,13). Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi; trong tâm hồn chúng ta, Ngôi Con và Thánh Thần cầu xin Đức Chúa Cha cho chúng ta, nhờ đó chúng ta mới nói: Abba! Lạy Cha (Gal 4,6)
Qua bài Phúc Âm, Chúa Giêsu phán ba dụ ngôn về Nước Trời. Dụ ngôn thứ nhất nói về lúa tốt và cỏ lùng: “Người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong khi mọi người ngủ thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào giũa lúa rồi đi mất”. Chúa ám chỉ thực thể của Giáo Hội trong hiện tại và tương lai. Giáo Hội chính ngài thiết lập nên như dấu chỉ hữu hình nên như Nước Trời gồm nhóm 12 tiên khởi, mà cũng có người lành và kẻ dữ, điển hình là Giuđa. Khi Giáo Hội làn tràn do các Tông đồ rao giảng, cỏ lùng vẫn lẫn lộn giữa giống tốt. à cả trong mỗi người chúng ta ngày nay, những Giáo Hội nhỏ, hạt giống ơn thánh vẫn triển nở mà tội lỗi cũng phát sinh. Làm sao cắt nghĩa sự có mặt của hai yếu tố đối nghịch ấy? Chúa Giêsu cho chúng ta biết nguyên do. Ngài nói: “Kẻ thù đã đến gieo cỏ lùng”. Đó là ma quỷ, kẻ thù truyền kiếp của nhân loại từ trong địa đàng cho đến hôm nay. Chúng ta phải làm sao? Đi nhổ sạch cỏ lùng ngay ư? Chúa dạy chúng ta phải nhẫn nại. Vì chúng ta có thể lầm lẫn. Trong lịch sử Giáo Hội, có biết bao “cỏ lùng”, nhờ ơn Chúa, đã trở nên những hạt lúa tốt. Vậy hãy nhẫn nại chờ đợi. Những Augustinô, những Charles de Foucault, những Eve Lavallière là những chứng tích chói sáng.
Dụ ngôn thứ hai là dụ ngôn hạt cải. Còn gì bé nhỏ cho bằng hạt cải gieo xuống lòng đất, nhưng khi nó mọc lên, lớn hơn mọi thứ rau cỏ, biến thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu trên được. Chúa ám chỉ rằng Nước Trời mà Chúa gieo vào giữa thế gian xem ra bé nhỏ và khiêm tốn, nhưng rồi sẽ vững mạnh và lan rộng khắp thế gian. Nhiều dân tộc và quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng của Giáo Hội để xây dựng một xã hội công bằng và bác ái. Chúa dạy chúng ta phải vừa là người vừa là hạt giống, phải bị chôn vùi dưới lòng đất để làm triển nở Nước Trời: “Quả thật, Thầy bảo các con, nếu hạt lúc gieo xuống đất mà không chết đi, thì nó trơ trọi một mình; nhưng nếu nó chết đi, nó mới sai hoa lắm quả” (Gio 12,24). Chúa Giêsu đã là hạt giống, đồng thời cũng là người gieo, thì Giáo Hội và mỗi người chúng ta cũng phải trở nên như vậy.
Dụ ngôn thứ ba là dụ ngôn men trong bột. Người đàn bà lấy ít men trộn vào ba đấu bột cho đến khi cả khối dấy lên. Chúa ám chỉ Nước Trời ở giữa thế gian như một sức mạnh có sức biến đổi, thăng tiến, thì mỗi người chúng ta là muối ướp, đèn soi, men trong bột để cho nước Chúa trị đến.
-------------------------------
Một em bé lúc 13 tuổi bị mọi người xua đuổi, vì em mắc bệnh phong cùi nên mất quyền sinh sống với cộng đoàn. Một nhà truyền giáo bật chợt đi ngang qua nhìn thấy vậy, ông cảm thấy thật đau lòng nên vội vàng xuống xe bênh vực cho em. Không những nhà truyền giáo này chỉ bênh vực cho em bé bất hạnh. Mà còn đem em về trung tâm của mình để săn sóc.
Vừa khóc vừa cảm động, em hỏi nhà truyền giáo:
-Lại sao ông tốt với tôi như vậy?
Em bé gọi nhà truyền giáo bằng ông, vì đây là một linh mục Công giáo đang công tác mục vụ cho bệnh nhân ở làng bên cạnh.
-Lại sao ông tốt và lo tắng cho tôi như vậy?
Nhà truyền giáo trả lời:
-Bởi vì Thiên Chúa là Cha đã dựng nên tôi và dựng nên con.
Tất cả chúng ta được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài, và được Ngài yêu thương cách trọn vẹn, Ngài cũng muốn chúng ta yêu thương liên đới với nhau. Vì chính Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian là Đức Kitô để giúp cho mỗi người chúng ta sống xứng đáng với phẩm vị của mình là con cái Thiên Chúa. Vì thế, vâng lời Ngài dạy, cha săn sóc cho con. Và từ đó em bé 13 tuổi bị bệnh phong cùi này không những không quên được những cử chỉ của nhà truyền giáo, mà còn xin được làm đồ đệ của Chúa Giêsu và dùng những năm tháng còn lại của đời em để săn sóc cho các người phong cùi khác nặng hơn em lại trung tâm người phong cùi của nhà truyền giáo.
"Vâng lời Ngài, cha xin săn sóc cho con. Vâng lời Chúa dạy, tôi phục vụ anh chị em". Đó là điều Thiên Chúa Cha qua hình ảnh người gieo giống trong Phúc âm hôm nay mong đợi nơi những đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô, những kẻ đã lãnh hạt giống ân sủng và Lời Chúa trong cuộc đời của mình.
Câu chuyện về nhà truyền giáo vô danh và em bé phong cùi kia là một trong muôn vàn thí dụ cụ thể và cũng là một trong muôn vàn những sự kiện cụ thể để chứng minh rằng, qua bao thế hệ lời Chúa vẫn còn trổ sinh những chứng nhân của tình yêu, những hoa trái tốt đẹp trong lịch sử nhân loại cũng như trong lịch sử của mỗi người. Phải chăng Lời Chúa không trổ sinh bông trái là do chính con người là kẻ làm ngơ, thù ghét, muốn bóp chết hạt giống Lời Chúa trong tâm hồn của mình hay trong tâm hồn của anh chị em, chứ không phải Thiên Chúa ngưng không gieo giống, không ban xuống những ơn lành của Ngài, không phân phát Lời Ngài cho con người.
Thật thế, Thiên Chúa vẫn luôn tiếp tục thực hiện những công việc của Ngài để đổ tràn ân phúc và Lời Ngài xuống trên con người, nhưng chính con người từ chối không chấp nhận Ngài. Môi trường chúng ta sinh sống có thể còn nhiều thách thức, nhiều cám dỗ và nhiều trở ngại khác không cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái được. Nhưng nếu trong những môi trường như vậy mà đồ đệ của Chúa cương quyết dấn thân sống Lời Ngài dạy, biến đổi cuộc sống của mình trước để trở nên thửa ruộng tốt cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái, thì chắc chắn môi trường chúng ta sống sẽ được biến đổi cách tốt đẹp.
Với sức mạnh của ân sủng Lời Chúa, người Kitô hữu có thể biến cánh đồng xã hội thành đồng ruộng tốt tươi đầy bông lúa chín vàng mang lại cơm ăn áo mặc và hạnh phúc ấm no cho con người, cho anh chị em xung quanh. Nhưng nếu Lời chúa không được ăn rễ sâu vào trong tâm hồn của người Kitô hữu, có thể chính lúc đó họ đã làm cho những cánh đồng xã hội thành những đám ruộng hoang, cỏ tác mọc um tùm, bạo lực hận thù khắp nơi gây hoang mang và bất hạnh cho anh chị em.
Chúng ta là những người Kitô hữu đã lãnh nhận hạt giống Lời Chúa, cho nên mỗi người Kitô hữu chúng ta phải có trách nhiệm làm cho Lời Chúa được trổ sinh hoa trái. Bởi vậy, xin đừng ngồi than, đừng trách xã hội lịch sử con người của mình, nhưng hãy biết lợi dụng mọi biến cố, mọi ân sủng của Lời Chúa để làm cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái tốt đẹp, biến đổi cuộc sống của mình, biến đổi cuộc sống của anh chị em và làm chứng cho tình thương của Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong tình thương và đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
-------------------------------
Thế giới này giống như cánh đồng lúa đầy cỏ lùng xen vào. Những ông thánh sống lẫn lộn với những thằng quỷ, tốt xen lẫn với xấu. Tốt như những tổ chức nhân đạo, nhân quyền, hòa bình thế giới, UNESCO, UNICEP, FAO, OLYMPIC, WORLD CUP là những tổ chức xây dựng văn hóa, giáo dục tình thương bảo vệ sức khỏe trẻ em, phát triển lương thực thế giới, thăng tiến những tài năng, chăm lo y tế. Nhưng lại có rất nhiều những tổ chức xấu xen vào như Mafia, buôn lậu, ma túy, vũ khí, bọn khủng bố, trộm cướp, du đãng, buôn bán trẻ em, phim ảnh sách báo đồi trụy. Đồ thật, hàng tốt bị xen lẫn hàng xấu, đồ giả. Người lương thiện, chân chính bị lẫn lộn với kẻ tham ô, móc ngoặc, bất lương. Những thứ cỏ lùng gai góc đó không bao giờ hết, chỉ đến mùa gặt tận thế chúng mới bị quét sạch, đốt sạch. Tận thế sẽ thiêu đốt tất cả những thứ cỏ lùng đó, những kẻ xấu, kẻ dữ đó. Còn lúa thì được gánh về, chở về kho. Những thánh nhân, những người lương thiên, công chính sẽ sáng chói trong ngày vinh quang đó, được rước vào nước hạnh phúc đời đời. Thấy cỏ lùng xuất hiện với lúa các đầy tớ đến hỏi ông chủ : “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao ? Thế thì cỏ lùng ở đâu ra vậy ?”.
Thấy sự dữ tràn lan trên thế giới, bao nhiêu người thắc mắc: sự dữ, sự ác, bởi đâu ra? Chúng ta nhiều lần thấy gian tà thắng ngay lành, bất công thắng công chính. Kẻ ác thắng kẻ thiện, cũng thất vọng kêu trách : Sao Chúa để kẻ dữ sống lâu, mạnh khỏe, giầu sang, may mắn, còn kẻ lành phải khổ cực trăm chiều? Trước những thắc mắc đó, Chúa đáp : “Kẻ thù đã làm đó!”
Kẻ thù là ai ? Thánh kinh cho biết có hai thứ kẻ thù : kẻ thù ở trong ta và kẻ thù ở ngoài ta.
Kẻ thù ở ngoài ta có những tên khác nhau : con rắn cám dỗ phỉnh gạt (St. 3, 2.13), con rồng, rắn xưa, quỷ, satan (Kh. 12,9), con thuồng luồng leviathan (Is. 27,1), kẻ thù, kẻ chống đối (Mt. 13, 25. Lc 10, 19, 2cr 6, 15). Những kẻ thù này ở ngoài con người, nhưng chúng xâm nhập vào con người sâu hiểm tới độ đồng hóa với bản tính nhân loại. Nhưng chúng sẽ bị “Thiên Thần Chúa từ trời xuống, tay cầm chìa khóa vực thẳm và một dây xích lớn, bắt lấy con rồng, tức là con rắn xưa cũng là ma quỷ satan xích nó… quăng vào vực thẳm, rồi đóng cửa niêm phong lại” (Kh 20. 2-3).
Nhưng một mình quỷ thôi, chúng sẽ bất lực như bất lực đối với Thánh Gióp. Chỉ khi có sự tiếp tay của ta như Eva tiếp nó, nó mới thành kẻ thù trong ta : nó trở nên kẻ nội thù ghê gớm. Nó mọc lên những cỏ lùng, bụi gai, đá sỏi, quỷ dữ (Mt. 13, 18-22). “Vì tự lòng phát xuất ra những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cướp, chứng gian, vu khống” (Mt 15, 19)
Khi chủ cho biết kẻ thù làm đó, thì đầy tớ xin nhổ đi, chủ sợ hại đến lúa, nên ông đáp : “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt”, thái độ của chủ thật khôn ngoan, ông kiên nhẫn chờ đợi đến mùa gặt, mới nhặt cỏ lùng đốt đi.
Sự chờ đợi kiên trì của Thiên Chúa đối với kẻ dữ, chính là để biểu lộ lòng thương yêu vô cùng của Chúa, nếu Chúa nóng lòng đánh nhanh, đánh mạnh, quét sạch kẻ thù theo như lời xin của đầy tớ và ước muốn của chúng ta, thì chắc chúng ta cũng bị thiêu đốt, chứ không phải chỉ có kẻ thù xa xôi, kẻ thù bên ngoài. Bởi vì ai trong chúng ta cũng có cỏ lùng, cỏ xấu, kẻ dữ mọc trong lòng mình, do mình đã giơ tay hái lấy những hạt cỏ, những giống độc, những trái cấm mà ăn như bà Eva xưa. Chúa chờ cho chúng ta biết tìm ra hết các giống xấu đó và nhổ chúng đi, thanh tẩy sạch mọi nọc độc đi, để đón nhận những giống tốt Chúa ban vào tâm hồn chúng ta, mong sao đến mùa gặt, chúng ta được chở vào kho lẫm hằng sống muôn đời.
Phải chăng Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta như đứa con phung phá trở về, như những người thâu thuế đấm ngực ăn năn, như cô gái điếm Madalena trở về nên Thánh nữ, chờ Simon Phêrô khóc lóc trở về làm nền tảng Hội Thánh, chờ anh trộm bên hữu Thập giá Chúa trở nên bạn hiền an ủi Người, chờ đứa con trụy lạc Augustinô trở về làm Giám mục Tiến sĩ Hội Thánh.
Xin đừng thất vọng, Chúa có thể làm cho con lạc đà chui qua lỗ kim được thì cũng làm cho những kẻ quỷ ám trở thành lành thánh được. Nhưng khốn cho những kẻ thất vọng như Giuda tự ý kết án treo cổ mình chết thật tội nghiệp
-------------------------------
Lm. Mark Link S.J.
Chủ đề:
"Chúng ta đừng nguyền rủa bóng tối. Tốt hơn, hãy thắp lên một ngọn nến."
Cách đây vài năm người ta thấy một loại bích chương phổ biến dán nơi các rạp hát lớn với những chữ sau: Hãy dừng thế giới lại! Tôi muốn ra khỏi thế giới này!. Biểu ngữ trên chằm phản đối tất cả những điên rồ đang gia tăng trên thế giới. Sự điên rồ trên bình diện rộng lớn đang xảy ra, chẳng hạn như sự gia tăng chế tạo vũ khí hạt nhân và 44 cuộc chiến tranh là bằng chứng đã đành, mà cũng có những điên rồ trên bình diện nhỏ chẳng hạn như ở sở thú Detroit người ta phải thuê đem 4 nhân viên nữa mới bảo vệ được thú vật khỏi bị người ta quấy phá. Một con Kanguru Uc còn nhỏ trong lúc đi lạc mẹ đã bị đám con nít ném đá chết. Và rồi tại hồ nuôi cá sấu, nhiều người lớn ném cả tàn xì-gà đang còn lửa xuống những chú cá sấu đang tắm nắng và thích nhìn tro lửa làm phỏng làn da những con vật bò sát này; và phá lên cười khi thấy chúng quằn quại đau đớn.
Những điên rồ như thế khiến chúng ta phải tự đặt cho mình hai câu hỏi gây nhức nhối. Trước hết tại sao tội lỗi vẫn còn lan tràn như thế sau khi Chúa Giêsu thiết lập Nước Chúa đã 2000 năm nay? Phải chăng sau mấy chục thế kỷ, Nước Chúa đã bị tan thành hư không rồi sao? Và Nước Chúa hiện ở đâu? Thứ đến chúng ta nên có thái độ gì đối với sự dữ hiện đang bành trướng trong thế giới hôm nay? Chúng ta có thể làm được gì?
Chúa Giêsu có đề cập đến cả hai vấn nạn này trong bài Phúc Am hôm nay. Câu trả lời cho vấn nạn thứ nhất là Nước Chúa đã được thiết lập và hiện đang ở trong thế giới chúng ta, giống như cây lúa mì được gieo vào lòng đất và đang lớn lên trong đồng lúa, nhưng cây lúa ấy chưa đến lúc chín, chưa mang lại hoa quả theo như dự định. Hiện nay điều tốt và điều xấu vẫn cùng hiện hữu bên nhau trong thế giới giống như lúa và cỏ lùng hiện hữu bên nhau trong cùng một cánh đồng.
Điều này dẫn chúng ta đến vấn nạn thứ hai. Chúng ta phải có thái độ nào đối với những điều xấu đang xảy ra chung quanh chúng ta? Chúng ta có thể làm gì đối với những điều xấu đang gia tăng chung quanh chúng ta giống như cỏ lùng trong đồng lúa? Một cách căn bản, chúng ta chỉ có hai chọn lựa: Chọn lựa thứ nhất là la toáng lên một cách tuyệt vọng: Hãy dừng thế giới lại! Tôi muốn ra khỏi thế giới này!. Nói cách khác, chúng ta có thể nguyền rủa bóng tối và nói: Chết tiệt cái thế giới này đi! Nếu thiên hạ cứ muốn đâm đầu vào hố thẳm điên rồ thì cứ mặc xác họ! Tôi sẽ đi tìm một chốn thiên thai an toàn để sống và mặc cho cái thế giới này biến thành địa ngục!.
Khi đối diện với quan niệm này, chúng ta liền nghĩ đến cuốn sách tựa đề Rascals in Paradise (Những đứa con hoang trên thiên đàng). Trong phần dẫn nhập cuốn sách này, James Michener và A. Grove Day kể lại một nhà trí thức người Uc đã làm gì khi anh thấy thế chiến thứ hai sắp xảy ra vào cuối thập niên 1930. Anh ta lôi cuốn địa dư thế giới ra và tìm kiếm chỗ nào an toàn nhất để trú ẩn khi chiến tranh xảy ập tới. Anh ta quyết định đến trú ẩn ở một hòn đảo ít người biết đến ở Nam Thái Bình Dương. Một tuần trước khi Hitler xâm lăng Ba Lan, anh chàng người Uc ấy di chuyển đến hòn đảo trú ẩn an toàn của anh ta. Hòn đảo này tên là Guadalcanal. Định mệnh đã an bài khiến cho hòn đảo này về sau trở nên một trong những bãi chiến trường đẫm máu nhất trong thế chiến thứ hai. Điều này cho thấy rõ ngày nay không còn chốn nào trên thế gian có thể dùng làm chỗ ẩn náu, ngày nay không còn những bến cảng an toàn trên trái đất nữa. Ngày nay không còn chỗ nào là chốn thiên thai trên trái đất nữa!
Điều này dẫn chúng ta đến lựa chọn thứ hai tức là không ngồi đó nguyền rủa bóng tối, mà chấp nhận nó, đồng thời cố gắng thắp lên một ngọn nến. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: Các con là ánh sáng cho cả thế gian, không ai đốt đèn rồi đặt dưới đáy thùng, ngược lại người ấy sẽ đặt trên giá đèn để soi sáng cho mọi người trong nhà. Ánh sáng các con cũng phải tỏa sáng trước thiên hạ như thế (Mt 5:14-16).
Nhưng, một cách thực tế, làm sao chúng ta có thể thắp lên một ngọn nến giữa đêm đen tăm tối của thế giới hôm nay? Trước hết, chúng ta có thể cầu nguyện. Một thi sĩ đã nói: Lời cầu nguyện mang lại nhiều điều hơn những điều thế giới dám mơ ước. Thứ đến và tích cực hơn, chúng ta có thể xắn tay áo lên làm một điều gì đó chống lại sự ác trong thế giới chúng ta. Tôi xin kể cho anh chị em điều mà một người có thể làm được.
Có một sinh viên 22 tuổi học tại đại học Simon Fraser ở Canada. Tên cậu ấy là Terry Fox. Năm 1977, cậu bị ung thư và bị cưa chân phải. Huấn luyện viên bóng rổ ở trường trung học mà trước đây cậu đã học khi hay tin buồn này, ông liền gởi cho Terry bài báo nói về một người bị cưa chân đã thi chạy giải Marathon Nữu Ước. Bài báo gây hưng phấn cho trí tưởng tượng của Terry. Cậu biết mình chỉ còn sống thêm một vài năm nữa, vì thế cậu muốn được làm một điều gì cho có ý nghĩa với những năm còn lại này. Cậu bèn quyết định cố gắng chạy băng ngang qua cầu Canada từ Newfoundland đến British Columbia với khoảng cách là 5000 dặm (khoảng 9000 km). Cậu yêu cầu người ta bảo trợ cho cậu và cậu sẽ cho mọi người biết mọi diễn tiến về bệnh của cậu để họ nghiên cứu bệnh ung thư. Suốt 18 tháng, Terry đã tập chạy trên chiếc chân giả.
Cuối cùng, ngày 12/4/1980, Terry bắt đầu chạy. Cậu nhúng chiếc chân giả của cậu vào Đại Tây Dương và bắt đầu chạy băng ngang qua Canada. Trong túi cậu có toàn bộ giấy tờ hứa bảo trợ lên tới một triệu đô la. Sau 114 ngày và 3000 dặm đường: bất thình lình Terry ngã gục xuống. Căn bệnh ung thư đã lan đến buồng phổi cậu. Cậu không thể hoàn thành cuộc chạy. Khi nghe tin báo Terry bị quỵ xuống, dân chúng khắp nơi ở Canada liền gởi đến nhiều tặng vật bào trợ cho cậu ở bệnh viện. Trong nhiều tiếng đồng hồ, số tiền bảo trợ cho cậu lên tới 24 triệu đôla. Vài ngày sau đó, Terry qua đời.
Nếu như kẻ nào đó có quyền nguyền rủa bóng tối thì kẻ ấy phải là Terry. Tuy nhiên cậu ta rất cao thượng nên đã không làm thế. Cậu đã quyết định thắp lên một ngọn nến. Và ánh sáng ấy từ đó sẽ mãi mãi tỏa chiếu ra. Một cuốn phim đã dựng lại cuộc đời cậu. Một con tem đã phát hành để ca ngợi cậu. Và cậu là nhân vật trẻ nhất đã từng nhận được vinh dự cao nhất của quốc gia tức huân chương Canada. Mãi đến hôm nay, Terry vẫn còn kích động trí tưởng tượng của nhiều người.
Câu chuyện của Terry vẫn được tiếp nối. Donald Marrs, một người đưa thư 44 tuổi, sống ở Cincinnati, cùng bị bệnh ung thư giống Terry. Quá xúc động vì câu chuyện của Terry, ông bèn hoàn tất cuộc chạy cho cậu. Ong khởi sự từ phía dưới Chicago và trong 3 tháng đã tới được Golden Gate Bridge. Khi ông chạy xuyên qua chiếc cầu vàng này (Golden Gate Bridge) thì một cơn mưa phùn rơi xuống nhưng ông vẫn tiếp tục chạy. Và khi ông nhúng tay vào Thái Bình Dương hoàn tất cuộc chạy của Terry thì một chiếc cầu vồng khổng lồ đã bắc ngang qua bầu trời. Đó là một kết thúc phi thường cho một cuộc chạy phi thường.
Có một dụ ngôn cho chúng ta trong việc tiếp diễn trên. Chúa Giêsu đã thiết lập vương quốc Thiên Chúa, nhưng Ngài đã chết trước khi vương quốc ấy đạt đến viên mãn, y hệt như Terry đã chết trước khi có thể hoàn tất cuộc chạy.
Chúng ta đều phải giống như Donald Marrs. Chúng ta được mời gọi nắm lấy chiếc gậy từ tay Chúa Giêsu và hoàn tất công việc của Ngài. Đây là một thách thức từ bài Phúc Am hôm nay. Đây cũng là lời mời gọi chúng ta.
Có thể chúng ta không làm được điều mà Terry và Donald Marrs đã làm. Có thể chúng ta không làm được điều mà người bên cạnh chúng ta đã làm được. Nhưng chúng ta cũng vẫn có thể làm được một điều gì đó. Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi lương tâm mình và quyết định xem chúng ta có thể làm cách nào tốt nhất để có thể thắp lên ngọn nến và đặt nó lên trên giá đèn như Terry Fox đã làm.
-------------------------------
Sợi chỉ đỏ :
Mặc dù Thiên Chúa rất mạnh và đầy uy quyền, nhưng Ngài đối xử rất khoan dung với những kẻ tội lỗi để chờ cho họ ăn năn sám hối (bài đọc I : Kn 12,13.16-19). Bởi thế tác giả Thánh vịnh 85 gọi Thiên Chúa là "Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung (đáp ca). Ở đời này, người tốt kẻ xấu lẫn lộn. Nhiều người mong Thiên Chúa trừng trị kẻ xấu, nhưng Thiên Chúa khoan dung (Tin Mừng (Mt 13,24-43) vẫn cho chúng có thời gian hoán cải (dụ ngôn lúa và cỏ lùng). Thiên Chúa cũng kiên nhẫn chờ cho những yếu tố tốt dần dần phát huy ảnh hưởng của mình (dụ ngôn hạt cải và nắm men).
- Bài đọc II (Rm 8,26-27) (Chủ đề phụ)
Minh họa
- Mille images 78 D
- Lúa tốt và cỏ lùng (Mt 13,24-30)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ở đời có nhiều chuyện xấu và nhiều người xấu. Chúng ta không thích, chúng ta muốn dẹp sạch những thứ xấu xa ấy đi. Chúng ta còn cầu xin Chúa dùng uy quyền của Ngài để tiêu diệt chúng. Thế nhưng hình như Chúa không nghe lời cầu xin của chúng ta. Sự xấu và người xấu vẫn còn đó. Tại sao thế ?
Chúng ta hãy để ý lắng nghe Lời Chúa giải thích về vấn đề này, và chúng ta hãy xin Ngài chỉ cho chúng ta một cách sống thích hợp trong cuộc đời lẫn lộn tốt xấu này.
II. Gợi ý sám hối
- Tuy bản thân chúng ta đầy khuyết điểm, nhưng chúng ta thường khắt khe với những khuyết điểm của người khác.
- Không ít lần chúng ta nuôi ý muốn làm hại những người có va chạm với mình.
- Có khi chúng ta trách Chúa vì Ngài đã không sớm giải thoát chúng ta khỏi những bất công mà chúng ta gặp phải.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kn 12,13.16-19)
Các chương 10-19 của sách Khôn ngoan chứa đựng những suy tư về cách hành xử của Thiên Chúa qua những biến cố lịch sử. Dân Chúa đã nhiều lần bị kẻ thù làm khổ. Mặc dù cuối cùng rồi Thiên Chúa cũng giải thoát họ, nhưng họ vẫn ấm ức sao Chúa không ra tay sớm, sao Ngài không tiêu diệt chúng cho hết sạch.
Câu trả lời là : những kẻ thù ấy cũng là thụ tạo của Chúa, cũng được Ngài yêu thương. Cho nên mặc dù Ngài có đầy đủ sức mạnh và uy quyền để tận diệt họ, nhưng Ngài chỉ sử dụng sức mạnh đối với kẻ ngoan cố. Còn đối với những kẻ mà Ngài còn hy vọng họ hoán cải thì Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi họ sám hối để được thứ tha.
2. Đáp ca (Tv 85)
Tv 85 là lời cầu nguyện của người công chính bị bách hại. Mặc dù thế, tác giả đã thấu hiểu tấm lòng của Thiên Chúa, cho nên một mặt tác giả nài xin "Lạy Chúa, xin nghe lời tôi khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng tôi van nài", nhưng mặc khác tác giả cũng cầu nguyện cho những kẻ bách hại mình sớm nhận biết tội lỗi của họ, để rồi "Các dân tộc mà Chúa tạo thành, họ sẽ tới, họ sẽ thờ lạy Ngài và họ sẽ ca tụng danh Ngài".
3. Tin Mừng (Mt 13,24-43)
- Dụ ngôn lúa và cỏ lùng : dụ ngôn này phản ảnh hai thái độ trái ngược nhau. Thái độ của con người (biểu nhiên nơi các đầy tớ) là bất nhẫn trước kẻ xấu và muốn diệt trừ chúng. Thái độ của Thiên Chúa (chủ ruộng) là kiên nhẫn chờ cho đến thời gian phán xét (mùa gặt) mới ra tay.
- Hai dụ ngôn hạt cải và nắm men : hai dụ ngôn này vừa cho thấy sức phát triển rất mạnh của Nước Trời, vừa nói lên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa : Ngài không nóng vội, nhưng kiên nhẫn chờ cho hạt cải thành cây to và nắm men làm dậy cả thúng bột.
4. Bài đọc II (Rm 8,26-27) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô nói đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc cầu nguyện :
- Vì chúng ta yếu đuối không biết cầu nguyện thế nào cho xứng hợp, nên Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta cầu nguyện.
- Chúa Thánh Thần ở trong chúng ta sẽ cầu nguyện đúng theo thánh ý Thiên Chúa.
- Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong lòng ta một cách rất diệu kỳ "bằng những tiếng than khôn tả".
IV. Gợi ý giảng
1. Khuynh hướng bất bao dung
Có lần Liên Hợp Quốc đã chọn nguyên một năm làm "năm quốc tế về lòng khoan dung" để giảm thiểu khuynh hướng bất bao dung ngày càng gia tăng trong nhân loại.
Bao dung là nhân từ, kiên nhẫn chịu đựng những điều xấu của người khác để dần dần tìm cách hoán cải họ. Bất bao dung là đòi trừng trị ngay những người xấu : một người làm gì đó có hại cho ta, ta trả đũa ngay. Do nóng vội, có khi ta không suy nghĩ kỹ xem biết đâu chính ta có gì sai lỗi nên người kia mới cư xử với ta như vậy. Khi người kia bị ta tấn công, họ cũng có thể cho là bị tấn công oan ức nên lại trả đũa ta. Thế là hai bên cứ leo thang. Thực ra có mấy ai hoàn toàn tốt, cũng như có mấy ai hoàn toàn xấu. Thái độ bất bao dung phát sinh từ suy nghĩ cho mình là tốt, hoàn toàn đúng và người ta là xấu, hoàn toàn sai.
Trên bình diện cá nhân và khu xóm, bất bao dung khiến người ta khó sống chung hòa thuận với nhau. Trên bình diện quốc tế, bất bao dung dẫn đến những cuộc chiến tranh khu vực. Mà xung đột và chiến tranh chẳng mang lại ích lợi gì, chỉ toàn gây hại. Chính vì trên thế giới có quá nhiều cuộc chiến tranh khu vực cho nên Liên Hợp Quốc mới thấy cần đề ra một năm quốc tế về lòng bao dung.
Muốn bao dung thì phải biết mình và biết người : biết mình cũng có lỗi lầm, và biết người cũng có những điều tốt. Muốn lấy cái rác trong mắt người ra thì trước hết phải lấy cái xà trong mắt mình đã.
2. Cái nhìn thiển cận
Thiển cận là chỉ thấy gần chứ không thấy xa, chỉ thấy bề ngoài mà không thấy bề trong. Do thiển cận nên người ta bất bao dung, mất kiên nhẫn.
Thiên Chúa có thể bao dung và kiên nhẫn vì Ngài vừa thấy hiện tại vừa thấy tương lai, vừa thấy bề ngoài vừa thấy bề trong.
3. Lành dữ cộng sinh
Nghe bài dụ ngôn "cỏ lùng" hôm nay, có người sẽ lấy làm lạ. Trong cuộc sống, làm gì có một nhà nông nào lại để lúa và cỏ lùng cùng tồn tại trong ruộng mình ! Nhưng dụ ngôn là dụ ngôn, nghĩa là một cách nói ví von bóng gió để làm sáng tỏ một vấn đề.
Vấn đề của dụ ngôn là lành dữ cộng sinh và lòng nhân từ cũng như sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Kinh xưa có câu : "Hỏi kẻ lành là ai, kẻ dữ là ai ?" Chúng ta ưa thích phân biệt lành dữ, chánh tà, trắng đen rõ rệt. Chánh phải loại trừ tà, lúa tốt phải được chăm sóc, cỏ dại phải nhổ đi. Cái lý đo nhiên là vậy. Rất đơn giản. Nhưng cuộc sống không đơn giản như vậy.
Trong cuộc sống, có những lúc chánh tà không phân biệt rõ rệt. Cỏ lùng mọc chung với lúa tốt. Vả lại, cái mà ta gọi là kẻ dữ không giống như cỏ lùng. Cỏ lùng không thể biến thành lúa nhưng kẻ dữ có thể cải tà quy chánh, có thể hoán cải thành người tốt, nếu xã hội biết kiên nhẫn chờ đợi và tạo những điều kiện cho họ. Vả lại, kẻ lành, nếu không giữ mình, không liên tục làm điều lành, cũng có thể trở thành kẻ dữ. Vậy chẳng ai nên tự phong là lúa tốt, rồi loại trừ, lên án anh em là cỏ lùng. Có lần Chúa đã nói thẳng với những người tự phụ : "Tôi nói thật, bọn thu thuế, bọn gái điếm sẽ vào thiên đàng trước các ông kia đấy !"
Qua bài dụ ngôn, Chúa dạy chúng ta lòng nhân từ, kiên nhẫn, và tin tưởng vào sự lành. Hãy tin rằng sự lành sẽ tuần tự triển khai tốt đẹp, mặc dầu có sự dữ kè bên. Sự lành thậm chí còn có sức cảm hóa được sự dữ. "Kẻ lành" Monica đã cảm hóa được "kẻ dữ" Augustinô và cả hai mẹ con cùng trở nên những vị thánh lớn trong Giáo Hội. (Trích số đặc biệt báo Công giáo và Dân tộc, năm 1998, trang 223-224)
Chuyện Minh Hoạ
4. Người đảng viên quốc xã Schindler
Những ai đã từng xem cuốn phim Schindlers List hẳn đều ghê tởm vai chính của phim đó, tên là Oskar Schindler, một đảng viên Đức quốc xã, đã từng giết hại rất nhiều người.
Thế nhưng nhiều người đã từng biết ông thì lại ca tụng ông như một ân nhân cứu mạng cho hàng ngàn người khỏi bị Đức quốc xã giết. Thậm chí có người còn nói : "Ông ta là cha, là mẹ và là niềm hy vọng độc nhất của chúng tôi".
Sự thật là thế nào ? Sự thật, Oskar Schindler không phải là một vị thánh, mà là một con người với nhiều dằng co mâu thuẫn : trước hết ông là một người chồng bất trung đã bỏ vợ và chạy theo một cuộc sống ăn chơi thác loại ; ông cũng là một người công giáo nhưng lại không sống đạo ; ông là đảng viên đảng Quốc xã Đức từng tích cực ủng hộ cuộc chiến tranh do đảng này phát động ; chính ông đã thú nhận rằng ông hy vọng khi chiến tranh thắng lợi thì ông sẽ có hai cái rương đầy vàng ; ông còn hành hạ nhiều người do thái.
Nhưng bên trong ông lại có một con người khác. Đó là một người tốt. Nhiều lần đang cư xử như một người xấu, ông lại hướng về bên trong con người tốt ấy. Thấy những tù nhân bị hành hạ tàn nhẫn, ông không chịu nổi và nhiều lần dám đứng lên bênh vực họ. Hai lần ông đã bị bỏ tù vì những hành động như thế.
Sự thật về Oskar Schindler là như thế : vừa là quỷ dữ vừa là thiên thần, trong lòng ông vừa có cỏ lùng vừa có lúa tốt.
5. Trái tim phân chia
Sau nhiều năm phải sống trong trại tập trung, văn hào Alexandre Solzhenitsyn đã nghiệm ra được những ý tưởng sau :
Tôi đã học được một bài học lớn nhờ những năm bị giam trong tù.
Tôi đã hiểu một người trở thành xấu như thế nào và một người trở nên tốt như thế nào.
Tôi đã dần dần nhận ra rằng đường biên giới phân chia giữa tốt và xấu không nằm giữa các nước hay các giai cấp hay các đảng phái chính trị, mà nằm ngay trong lòng mỗi người.
Ngay trong những trái tim ngập tràn sự ác vẫn còn sót lại một đầu cầu nhỏ nối với sự thiện.
Và ngay trong trái tim tốt nhất của các trái tim vẫn còn tồn tại gốc rễ sự ác.
6. Lời cầu nguyện khi đến mùa gặt
Khi đến mùa gặt, rơm rạ bị để qua một bên, trấu bị gió thổi đi, cỏ dại bị quăng vào lửa, và lúa tốt được cất vào kho.
Lạy Chúa, khi đến ngày chết của con, mùa gặt của đời con cũng diễn ra trước mặt Chúa.
Xin bàn tay khôn ngoan của Chúa hãy sàng sẩy và chọn ra những gì đáng giữ lại ; nhưng đối với những gì không đáng giữ lại, xin hãy thổi đi bằng hơi thở nhân từ của Chúa.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, chậm bất bình và giàu lòng khoan dung. Người luôn kiên nhẫn đợi trông kẻ có tội ăn năn trở lại. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh luôn tạo điều kiện thuận lợi / để kẻ tội lỗi luôn có thể quay về với Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết nhận ra tình thương của Hội Thánh là mẹ chúng ta.
2- Ngày nay / người tốt kẻ xấu vẫn còn sống lẫn lộn ngay trong lòng Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / kiên nhẫn cảm hóa những kẻ tội lỗi / bằng chính tình thương tha thứ của Đức Kitô / Vị Mục Tử nhân lành.
3- Cuộc sống trần gian ngày hôm nay / quyết định số phận mai ngày của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết luôn cố gắng sống bác ái yêu thương / tận tuỵ phục vụ trong khiêm tốn / để trở nên muối ướp mặn đời / và ánh sáng cho trần gian / Nhờ đó họ sẽ được Chúa ; tưởng thưởng trong ngày phán xét chung.
4- Ngay trong chính bản thân mỗi người / vẫn hiện diện song song hai khuynh hướng tốt và xấu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn xứ đạo chúng ta / luôn biết chế ngự thói xấu bằng cách cố gắng sống theo Lời Chúa dạy / siêng năng lãnh nhận các bí tích hòa giải và Thánh lễ / đồng thời tuân theo lời giáo huấn của Hội Thánh.
CT : Lạy C, chúng con thường hay xét đoán người khác rất khắc khe mà hầu như quên xét lại chính bản thân mình. Xin giúp chúng con biết can đảm dứt khoác với tật xấu này, để chúng con có thể noi gương Chúa mà sống nhân từ với mọi người hơn. Chúng con cầu xin nhờ
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy xin Thiên Chúa là Cha chúng ta dạy chúng ta biết nhân từ như Ngài, biết tha thứ cho anh em như Chúa đã tha thứ cho chúng ta.
- Sau kinh Lạy Cha : "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an giữa thế gian này còn chen lẫn lúa tốt và cỏ lùng. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. Giải tán
Chúng ta sắp trở lại cuộc sống phức tạp : điều xấu điều tốt lẫn lộn, người lành người dữ sát cánh bên nhau. Anh chị em hãy cố gắng thực hành lòng bao dung nhân từ mà Lời Chúa vừa dạy chúng ta.
Nhóm GNCD
-------------------------------
Mt 13, 24-53
Dụ ngôn cỏ lùng là một trong những dụ ngôn hiếm hoi được chính Chúa giải thích rõ ràng. Giải thích của Chúa giúp ta có những hiểu biết hữu ích cho đời sống đạo.
Dụ ngôn nhắc nhớ ta về sự hiện diện của ma quỉ.
Ma quỉ hiện hữu. Chúng luôn có mặt để gieo rắc sự xấu. Chúa đã chuẩn bị những thửa ruộng tốt. Những thửa ruộng đó là thế giới, là Giáo hội, là tâm hồn mỗi người. Chúa đã gieo những hạt giống tốt. Hạt giống đó là Lời Chúa, là ơn Chúa, là những thiện chí, những ý hướng cao đẹp trong tâm hồn con người.
Nhưng ma quỉ lén gieo vào những hạt cỏ xấu.
Chúa gieo vào thế giới hạt giống khát vọng hòa bình. Đẹp biết bao nếu mọi dân tộc nắm tay nhau xây dựng một thế giới huynh đệ tươi thắm tình người. Nhưng buồn thay, cánh đồng hòa bình tươi xanh đã bị những ngọn cỏ tham vọng, ích kỷ, ác độc làm hoen ố. Lịch sử thế giới ghi bằng những trang buồn vì không ngày nào không có chiến tranh.
Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu tất cả trí thông minh, tất cả tài nguyên, tất cả năng lực đều góp phần xây dựng. Nhưng buồn thay, rất nhiều trí thông minh, rất nhiều tài nguyên, rất nhiều năng lực đã tiêu tốn trong việc hủy hoại, tha hóa, nô lệ hóa con người.
Ngay trong bản thân mỗi người, không thiếu những sáng kiến, những họat động ban đầu xem ra tốt đẹp, nhưng dần dà bị vẩn đục vì những biến tướng nặng mùi trần tục như khoe khoang, tìm hư danh, tìm lợi lộc.
Đó là những hạt cỏ xấu ma quỉ lén lút gieo vào ruộng lúa tốt.
Tuy nhiên, dụ ngôn cho thấy sự kiên nhẫn và lòng bao dung của Chúa.
Chúa đợi cho đến ngày tận thế mới thu lúa cùng với cỏ lùng. Chúa kiên nhẫn đợi chờ vì hi vọng những người tội lỗi ăn năn sám hối. Chúa bao dung tha thứ không nỡ phạt người tội lỗi tức khắc. Chúa yêu thương, tin tưởng người xấu sẽ có ngày nên tốt.
Nếu Chúa phạt ngay những người tội lỗi thì ta đâu còn cơ may được chiêm ngưỡng ông thánh trộm lành. Nếu Chúa thẳng tay thì ta đâu có thánh nữ Ma-đa-lê-na, Tông đồ của các Tông đồ, thánh Au-gút-ti-nô, Tiến sĩ lừng danh, thánh Phao-lô, vị Tông đồ dân ngoại. Nếu Chúa chấp tội thì bản thân ta sẽ là người bị phạt đầu tiên, vì trong ta cũng đầy những tội lỗi, những sự xấu. Trong tâm hồn ta cỏ lùng vẫn mọc xen với lúa.
Sau cùng, dụ ngôn cho ta hiểu tất cả là hồng ân của Chúa. Chúa cho phép sự dữ hiện diện để thanh luyện người lành.
Có sự lành để ta hiểu biết và yêu mến sự tốt lành của Thiên chúa. Có sự dữ để ta gớm ghét tránh xa và càng thêm gắn bó với sự lành.
Có sự lành để ta được hưởng niềm an ủi ngọt ngào của Chúa. Có sự dữ để ta phấn đấu vượt qua, chứng minh lòng trung tín của ta với Chúa.
Có thuận lợi để ta tiến bước trên đường thánh thiện. Có khó khăn để ta rèn luyện thêm nhân đức.
Mọi sự đều nên tốt cho kẻ lành. Thật vậy, việc cấm đạo là sự dữ. Nhưng nhờ đó mà Giáo hội có được những chứng nhân anh hùng. Đau khổ và bệnh tật là những khiếm khuyết trong cuộc sống, nhưng lại giúp con người được thông phần đau khổ với Chúa.
Thánh Nữ Tê-rê-xa đã nhìn thấy tất cả là hồng ân của Chúa. Sự lành cũng như sự dữ. Hạnh phúc cũng như đau khổ. Thành công cũng như thất bại. Tất cả đều góp phần rèn luyện, vun đắp và thăng tiến người lành.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Khi gặp những người xấu trong xứ đạo, trong hội đoàn, bạn có muốn khai trừ người đó ngay tức khắc không ?
2- Trong con người bạn có những khuyết điểm, những bệnh tật, bạn có phấn đấu khắc phục những khuyết điểm, vượt qua bệnh tật để thăng tiến bản thân không ?
3- Chúa đã khoan dung, kiên nhẫn đợi chờ bạn ăn năn hối cải. Bạn có biết kiên nhẫn với người khác ?
Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt
-------------------------------
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau giữ lại một ý tưởng chính của Chúa Giêsu. Thực vậy, Ngài nói về ơn cứu độ vĩnh cửu. Đứng trước ơn trọng đại ấy, chúng ta phải có một lập trường dứt khoát và phải có một chọn lựa rõ rệt : Đi với Chúa hay đi với ma quỉ, chúng ta không thể nào đi nước đôi, bắt cá hai tay, lửng lơ và trung lập.
Tuy nhiên, trong khi chờ đợi được đón nhận vào hạnh phúc nước trời, chúng ta phải sống với người khác, chia sẻ những băn khoăn lo lắng với họ. Và ngay cả đối với những kẻ đã chạy theo ma quỉ, chúng ta vẫn phải tỏ ra một thái độ nhân từ và khoan dung.
Đây không phải là một điều dễ dàng thực hiện, vì chúng ta thường hay nóng giận và tức tối. Chúng ta cũng giống như hai tông đồ Giacôbê và Gioan, được Chúa sai đi vào một làng xứ Samaria, nhưng dân làng này đã không tiếp nhận các ông.
Trước thái độ thờ ơ và lạnh nhạt ấy, các ông đã bực bội và thưa lên cùng Chúa :
- Xin cho lửa trời đổ xuống và thiêu huỷ họ.
Nhưng Chúa Giêsu đã không chiều theo sự bốc đồng của các ông và Ngài đã trách cứ :
- Các con không biết động cơ nào đã thúc đẩy các con hay sao ? Con Người đến không phải huỷ diệt mà để cứu thoát.
Chúng ta cũng vậy, đừng phê bình chỉ trích và gay gắt kết án những người anh em không cùng một đường lối với chúng ta.
Khi nhìn thấy sự dữ và tội ác tràn lan khắp nơi, chúng ta thường hay nghĩ rằng :
- Chúa ngủ hay Ngài nhắm mắt làm ngơ cho những sự kiện đáng tiếc ấy xảy ra.
Trên thế giới, những hạt giống tốt thì hiếm hoi, và cỏ dại thì mọc đầy trong cánh đồng của Chúa. Tại sao Chúa lại để cho như thế ?
Còn phần chúng ta, chúng ta là hạng người như thế nào : lúa tốt hay cỏ dại.
Nếu là lúa tốt thì liệu chúng ta có thực sự trong sạch và yêu thương hay không. Chúng ta có thực sự là bạn hữu nghĩa thiết của Chúa hay không ? Chúng ta có những sai lỗi và yếu đuối nào không ? Liệu có thể chắc chắn được rằng chúng ta sẽ không sa ngã hay không ?
Nếu chúng ta tỏ ra nghiêm khắc với kẻ tội lỗi, chúng ta sẽ trở nên những người biệt phái đã bị Chúa Giêsu kết án về sự giả hình của họ. Nếu không ý thức về những sai lỗi của mình, chúng ta dễ dàng đi tới chỗ phản bội Chúa mà không hay biết. Càng là những người con ngoan của Chúa, chúng ta càng phải cư xử độ lượng với người khác.
Tuy nhiên, trong thực tế, đang khi chúng ta mong muốn kẻ tội lỗi bị trừng trị thì Chúa lại không muốn như vậy, bởi vì như Kinh Thánh đã nói :
- Ta không muốn cho kẻ có tội phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống.
Ngài đã chết trên thập giá để cứu độ tội nhân. Ngài theo đuổi kẻ tội lỗi bằng tình thương và ân sủng. Niềm vui của Ngài là dẫn đưa những con chiên lầm lạc trở về với đàn của Ngài.
Hẳn chúng ta sẽ ngạc nhiên khi nghe Ngài phán :
- Cả thiên đàng sẽ vui mừng vì một kẻ tội lỗi hoán cải hơn là chín mươi chí người công chính không cần sám hối ăn năn.
Và Ngài đã kết luận bằng một hình ảnh cảm động, hình ảnh người cha đón tiếp cậu con hoang đàng trở về. Chúng ta đừng thất vọng và mất lòng cậy trông như Giuđa. Nhưng với một chút thiện chí và dưới tác động của ơn Chúa, rất có thể chúng ta cũng sẽ trở thành như người trộm lành trên thập giá, đã lấy trộm cả Nước Trời cho mình vào giây phút sau hết của cuộc đời.
Trên thiên đàng có những vị thánh đã bắt đầu từ một điểm tăm tối, không đáng ca tụng là mấy. Tuy nhiên với một điều kiện đó là các ngài đã biết trỗi dậy và trở về cùng Chúa, đã làm lại cuộc đời và trung thành với Chúa mãi mãi.
-------------------------------
Ở Scotland, nghề canh nông đã được hiện đại hoá với kỹ thuật máy móc tối tân, nhưng còn một: TN 16-A25
Ở Scotland, nghề canh nông đã được hiện đại hoá với kỹ thuật máy móc tối tân, nhưng còn một công việc cần phải được làm cẩn thận bởi bàn tay con người. Vài ngày trước khi mùa thu hoạch lúa mạch, bạn sẽ thấy một số đông dân chúng đi bộ băng qua cánh đồng lúa để nhổ những cây lúa dại. Lúa mạch là nguồn nông sản chính yếu cung cấp lương thực cho người dân Scotland. Một món ăn thông dụng được ưa thích khắp nơi trong nước làm từ lúa mạch là món cháo đặc, ở Mỹ gọi là oat meal, một món ăn điểm tâm vừa dễ nấu, vừa bổ dưỡng lành mạnh, không gây gia tăng chất béo, cholesterol, trong động mạch. Do đó mùa gặt lúa mạch là một sinh hoạt rất quan trọng.
Điều rất đơn giản mà những người nông dân phải làm là nhổ những cây lúa mạch dại ra khỏi ruộng lúa trước khi thu hoạch. Nếu để những cây lúa dại này trong lúc gặt, những hạt giống của nó sẽ rớt xuống và mọc lên tràn ngập cánh đồng trong mùa sắp tới. Sự khác biệt giữa lúa dại và lúa mạch thật rất tinh tế. Chỉ sau một hai ngày làm việc, bạn sẽ biết phân biệt rõ ràng. Điều lạ lùng là cây lúa dại thường lớn hơn và khoẻ mạnh hơn lúa thật làm bạn nghĩ rằng phải giữ chúng lại. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ lưỡng sẽ thấy rằng nhánh và hạt lúa dại dài hơn, nhưng lại lép. Điều này giúp ta hiểu tại sao những người nông dân phải chờ đợi cho đến khi mùa thu hoạch đến mới nhổ những cây lúa dại đi, vì chỉ khi đó bạn mới phân biệt được rõ ràng.
Bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh của nghề nông để diễn tả về thế giới, Giáo Hội, Nước Trời hay Vương quốc Thiên Chúa, qua dụ ngôn cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải, và dụ ngôn men trong bột. Mỗi dụ ngôn nói lên một khía cạnh khác nhau, đọc lên ai cũng hiểu dễ dàng.
Những người phụ trách các show hài hước kể chuyện vui thường có thói quen bắt đầu vào câu chuyện như sau : “Kính thưa quí vị, tôi có vài tin vui và vài tin buồn xin gửi đến quí vị”. Có một cuộc đối thoại tưởng tượng xảy ra như sau : “Một ông kia gặp người bạn và nói : “Tôi đã trúng số mấy chục ngàn đô la”. Người bạn trả lời : “Tốt quá”. “Không, khi đến Thuỵ Sĩ chơi trượt tuyết tôi đã xài hết rồi, và còn bị gãy chân nữa chứ”. “Xấu quá”. “Không, trong thời gian nằm bệnh viện, tôi gặp và yêu một cô y tá rất xinh đẹp, rồi tôi đã cưới cô ta”. “Tốt quá”. “Không, nhưng chẳng may cô ấy lại không thích ở Mỹ, và đòi chúng tôi phải ở lại Âu Châu”. “Xấu quá”. “Không, chúng tôi mua nhà ở Paris và kiếm được một việc làm cho hãng xuất khẩu”. “Tốt quá”. “Không, hãng bị phá sản, và chúng tôi bị mất nhà”. “Xấu quá”. “Không, trong hoàn cảnh túng quẫn, tôi đã xem lại mục đích, giá trị của đời mình và thấy rằng tôi đang sống lầm lạc”. “Tốt quá”. “Không, vợ tôi đã không chấp nhận quan điểm của tôi, và chúng tôi dần dần xa cách nhau”. “Xấu quá”. “Không, trong lúc hôn nhân bị khủng hoảng, chúng tôi đến với người cố vấn hôn nhân giúp chúng tôi nhận ra sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa”. “Tốt quá”. “Không, vì chúng tôi quá tập trung vào Thiên Chúa nên đã mất hầu hết bạn bè ở Paris và gây ra đụng chạm với cha mẹ vợ”. “Xấu quá”. Cứ thế mà tiếp tục. Lúc tốt, lúc xấu. Đời là thế ! Tốt và xấu đi đôi với nhau : “Vì Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”.
Chúng ta thường nói “Nhân vô thập toàn”. Không có ai hoàn hảo cả. Không có ai là một vị thánh cho đến khi lên thiên đàng. Mỗi người chúng ta đều mang đủ thất tình : hỉ (vui), nộ (giận), ai (buồn), cụ (sợ), ái (yêu), ố (ghét), dục (muốn). Với bấy nhiêu thứ tình cảm xô bồ trong con người thì khó lòng mà hoàn hảo được. Tâm hồn và tính tình của mỗi người là một sự pha trộn giữa lúa mì và cỏ lùng. Theo cha Tommy Lane, trên cửa một nhà thờ ở phía tây của Ireland, đã viết câu sau đây : “Giáo Hội không phải là một câu lạc bộ dành cho những vị thánh nhưng còn là một bệnh viện dành cho những người tội lỗi”. Câu nói này rất phù hợp với lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong dụ ngôn cỏ lùng. Giáo Hội là một sự pha trộn giữa lúa mạch và cỏ lùng, giữa những người thánh thiện và tội lỗi. Hãy kiên nhẫn với những tội nhân. Đừng vội phán đoán người khác. Hãy để Thiên Chúa phán đoán. Lời Chúa cảnh giác chúng ta : “Đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán... Hỡi kẻ đạo đức giả ! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em”.
-------------------------------
Có một câu chuyện cổ kể về một ông vua ở Ba Tư muốn dạy cho bốn người con trai một bài học về sự phán đoán. Bốn người con phải lên đường đi tìm một cây đào trong những thời điểm khác nhau. Trước tiên, vào mùa đông nhà vua ra lệnh cho người con trai lớn nhất phải lên đường. Vào mùa xuân, người con kế tiếp phải ra đi. Đến mùa hè, người con thứ ba ra đi. Cuối cùng, khi mùa thu về người con út phải ra đi. Sau đó nhà vua đã gọi tất cả bốn anh em lại để hỏi xem họ diễn tả cây đào như thế nào.
Người con cả nói cây đào giống như một gốc cây khẳng khiu trơ trụi. Người con thứ cãi lại, cây đào nở đầy hoa mầu hồng rực rỡ. Người con thứ ba không đồng ý, cây đào cành lá xanh tươi. Người con thứ tư nói tất cả các anh đều sai. Đối với anh, nó đeo đầy trái trên cành !
“Này các con”, nhà vua nói, “mỗi người đều đúng cả”. Trong khi nhìn vào những cặp mắt lúng túng của các con, nhà vua giải thích. “Các con thấy đó, mỗi người đã nhìn thấy cây đào trong mỗi mùa khác nhau, do đó tất cả các con đã diễn tả rất đúng điều đã nhìn thấy. Bài học cho các con là phải từ bỏ sự phán đoán của mình cho tới khi các con nhìn thấy cây đào trong bốn mùa của nó”.
Đây chính là bài học Chúa Giêsu đã dạy chúng ta qua dụ ngôn cỏ lùng : “Hãy cứ để cả hai, lúa và cỏ lùng, mọc lên cho đến mùa gặt”. Đến mùa gặt là ngày tận thế, sẽ biết được ai xấu ai tốt, và Thiên Chúa sẽ phán đoán và xét xử họ.
Chúa Giêsu đã so sánh những người Kitô hữu chân chính của Nước Trời giống như hạt cải bé nhỏ, như men trong bột. Khi so sánh như thế Chúa muốn chúng ta là những con người năng động, tích cực vì Nước Trời. Hãy nhìn vào lịch sử của Kitô giáo, lúc ban đầu chỉ là một nhóm nhỏ Kitô hữu ở Giêrusalem, đến nay đã ảnh hưởng trên toàn thế giới. Hãy nhớ rằng 1 ounce men, khoảng 28.35 grams, có thể làm 17 pound bột, khoảng 7.718kg, dậy men.
Trong phần chú giải về dụ ngôn men trong bột, William Barclay đã nói lên cái thành quả của men Kitô giáo trong việc biến đổi thế giới trần gian này như sau :
1. Kitô giáo đã biến đổi đời sống các cá nhân. Trong I Cor 6, 9-10 thánh Phaolô đã liệt kê ra một danh sách những điều ghê tởm của con người tội lỗi, rồi ngài nói : “Trước kia, có vài người trong anh em đã là như thế. Nhưng anh em đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính...” Sự biến đổi của Kitô giáo bắt đầu từ đời sống cá nhân, vì qua Chúa Kitô, nạn nhân của cám dỗ có thể trở thành người chiến thắng.
2. Kitô giáo đã biến đổi đời sống của phụ nữ. Lời cầu nguyện của một người đàn ông Do Thái vào ban sáng là tạ ơn Thiên Chúa vì đã không tạo dựng nên ông là một người ngoại đạo, một nô lệ hay một người phụ nữ ! Trong văn hóa Hy Lạp, người phụ nữ phải sống ẩn dật, làm việc nội trợ... Trong những vùng đất ở phương đông, nhất là một gia đình du mục : người cha được ngồi trên lưng lừa ; người mẹ phải đi bộ, và có thể còn phải mang vác một gánh nặng. Lịch sử chứng tỏ rằng Kitô giáo đã biến đổi thân phận và đời sống của phụ nữ.
3. Kitô giáo đã biến đổi đời sống của người yếu đuối và bệnh nhân. Trong cuộc sống chưa văn minh, họ bị coi là một mối phiền muộn. Ở Sparta, một trẻ thơ khi vừa sinh ra, phải nộp để khám xét ; nếu khoẻ mạnh, nó được phép sống ; nếu yếu đuối hay dị dạng, sẽ bị phơi nắng cho đến chết ở bên sườn núi... Kitô giáo là đức tin đầu tiên chú ý vào những sự đau khổ của cuộc sống.
4. Kitô giáo đã biến đổi đời sống cho người già. Giống như người yếu, người già là một sự quấy rầy... Người già, sau thời gian làm việc đã hoàn tất, không còn thích hợp với bất cứ điều gì hơn là bị loại trừ ra trên đống rác của cuộc sống. Kitô giáo là đức tin đầu tiên coi con người như là những ngôi vị chứ không phải là những dụng cụ có khả năng làm việc càng nhiều càng tốt.
5. Kitô giáo biến đổi đời sống cho trẻ thơ. Trong thời Chúa Giêsu những vụ ly dị xảy ra lan tràn. Con cái là mối phiền muộn; và theo thói quen thường xảy ra là cứ để mặc cho trẻ em chết một cách bi thảm. Trong thời xa xưa trẻ em có nhiều dịp để chết trước khi bắt đầu sống. Chỉ một nhóm nhỏ những người Kitô giáo đã làm thay đổi tất cả vấn đề này.
Ảnh hưởng của Kitô giáo được chứng minh bằng sức mạnh mang tính chất giống như men trong bột của một số nhỏ những người theo Chúa Kitô. Điều này giúp ta hiểu tại sao sách Công vụ Tông đồ đã ghi rằng khi Kitô giáo đến Thessalonica, những người Do Thái phải kêu la lên : “Những người đã làm điên đảo thế giới nay đã có mặt ở đây”.
Bất cứ ai hỏi rằng “Kitô giáo đã làm gì cho thế giới”? Cũng phải nhìn nhận một sức mạnh biến đổi nơi các Kitô hữu trong mọi thời đại. Lịch sử đã chứng minh điều này. Chúng ta có quyền lạc quan, tin tưởng, và hy vọng vào tương lai. Lời Chúa nói trong các dụ ngôn cỏ lùng. Dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men trong bột không bao giờ sai. Và câu hỏi được đặt ra cho chúng ta là liệu chúng ta có dám tiếp tục đứng chung với những người Kitô hữu sơ khởi đấu tranh cho sự sống của con người, nhất là bênh vực cho các trẻ em chưa sinh ra, còn trong bụng mẹ không?
-------------------------------
Bài Tin Mừng thuật lại ba dụ ngôn của Chúa Giêsu : cỏ lùng, hạt cải và men. Nghe Chúa nói ba dụ ngôn, nhưng các môn đệ lại chỉ xin Chúa giải thích một dụ ngôn cỏ lùng, và Chúa đã giải thích : người đi gieo giống tốt là Thiên Chúa, hạt giống là người ta, là con người, là con cái Chúa, thửa ruộng là thế gian, là nơi sinh sống, làm việc, phục vụ, cỏ lùng là người xấu, người dữ, mùa gặt là ngày chết hay ngày tận thế, thợ gặt là các thiên thần, lúa tốt thì được thu vào kho lẫm, tức là những người tốt lành, công chính, thánh thiện, thì được thưởng, còn cỏ lùng là những người xấu, người dữ thì bị tống vào hoả ngục.
Nghe hay đọc dụ ngôn này cùng với sự giải thích của Chúa, chúng ta thấy dễ hiểu và hợp tình hợp lý. Thế gian này có người tốt người xấu, người lành người dữ sống bên nhau, sống cùng nhau là chuyện bình thường. Chẳng có nơi nào toàn là những người tốt và cũng chẳng có nơi nào toàn là những người xấu. Nhưng có một điều khác biệt : cỏ lùng, vì bản chất của nó là cỏ dại, cỏ xấu, cho nên vạn đại nó cũng không thể nào biến thành lúa tốt được. Cũng thế, cây lúa thì lúc nào nó cũng là cây lúa, chỉ có điều là nó cho nhiều hay ít hạt lúa, chứ không bao giờ biến thành cỏ lùng được.
Đối với con người thì không như vậy : bản tính con người được Chúa tạo dựng là tốt lành : “Nhân chi sơ tính bản thiện” : khi sinh ra, con người vốn tốt lành, nhưng với thời gian lớn khôn, con người vẫn tốt hay trở thành xấu, nghĩa là con người tốt hay xấu là do thêm vào hay mất đi. Có người trước kia là lúa tốt, bây giờ là cỏ lùng, ngược lại, có người trước kia là cỏ lùng, bây giờ là lúa tốt. Dĩ nhiên cũng có những người luôn luôn là lúa tốt và những người lúc nào cũng là cỏ lùng, hoặc có những người khi thì là lúa tốt khi thì là cỏ lùng hoặc ngược lại. Điều quan trọng là tới khi chết, người ta đang ở trong tình trạng nào : cỏ lùng hay lúa tốt ? Đó là trách nhiệm của mỗi người.
Chính vì yếu tố trách nhiệm này, vì khả năng biến đổi tốt thành xấu và xấu thành tốt nên chúng ta phải cố gắng làm giảm bớt đến mức tối đa, tức là mức thấp nhất những gì là xấu xa, tội lỗi, tức là cỏ lùng, và gia tăng đến mức tối đa, tức là mức cao nhất, nhiều nhất những gì là tốt lành, thánh thiện, tức là lúa tốt. Hơn nữa, trong đời sống hằng ngày, ngoài việc cố gắng bớt cỏ lùng, thêm lúa tốt, tức là bớt tư tưởng, lời nói, việc làm xấu và gia tăng những việc phúc đức, mỗi người còn phải cố gắng làm sao để được nhắm mắt xuôi tay, kết thúc cuộc đời trong tình trạng đang kể là lúa tốt.
Ở đời này, thường chúng ta ít thấy công lý thắng gian tà, nhưng ở đời sau, thì tất cả mọi nợ nần đều phải trang trải, mọi bất công sẽ được san phẳng : lúa tốt, tức là người tốt, sẽ được nâng niu thu góp vào kho lẫm, tức là được thưởng công xứng đáng. Còn cỏ lùng, tức là người xấu, sẽ bị ném vào lửa để thiêu huỷ. Câu chuyện cỏ lùng giữa lúa tốt quả quyết với chúng ta về sự báo oán công minh ở đời sau : người tốt sẽ được thưởng, người xấu sẽ bị phạt muôn đời. Như vậy, tốt hay xấu, được thưởng hay bị phạt là do chính mỗi người chúng ta. Vì thế khi kết thúc dụ ngôn Chúa nói : “Ai có tai thì nghe:, nghĩa là Chúa muốn nhắc chúng ta rằng : chúng ta là đầu óc, có trí khôn, chúng ta biết phân biệt phải quấy, chân giả, đúng sai, tốt xấu thì đừng có sống đóng kịch hay sống bất chính, chúng ta phải biết sống đúng là con Chúa, chúng ta phải sử dụng đầu óc, trí khôn để sống theo luật Chúa. Chúng ta sống làm sao Chúa sẽ căn cứ vào đó để thưởng hay phạt chúng ta.
Tóm lại, trong cánh đồng mầu mỡ là con người yếu đuối của chúng ta, lúa tốt và cỏ lùng, tức là nhân đức và tội lỗi, đức tính và tật xấu... luôn luôn chèn ép nhau, giành giật nhau. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và chiến đấu để loại trừ cỏ lùng, tội lỗi và tật xấu, đồng thời bảo vệ lúa tốt, nhân đức và công phúc của chúng ta. Có như thế đến mùa gặt, tức là khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, chúng ta sẽ được Chúa nhân từ âu yếm nói với chúng ta : “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng với Chúa ngươi”. Xin Chúa cho chúng ta biết sống theo lời Chúa để chúng ta đều được nghe những lời đầy thân thương trên đây của Chúa.
-------------------------------
Trong những ngày đầu của thời đại kỹ thuật, một khẩu hiệu nổi tiếng cam đoan với chúng ta rằng: "Mọi ngày và trong mọi cách thức, tình hình sẽ một tốt và một tốt hơn." Thực tế là sự tiến triển của kỹ thuật không hẳn luôn luôn đưa chúng ta đến một thế giới tốt hơn. Chúng ta biết rằng sự tiến triển này không chắc chắn xảy ra. Kinh Thánh nói cho chúng ta biết rằng lịch sử chính là cuộc tranh chấp mà trong đó "các quản thần và quyền thần" của thời đại hiện tại thường cảm thấy như nhập lại chiến thắng trên các nhân đức tin, cậy và mến. Lời công bố của Chúa Giêsu về Nước Thiên Chúa đang gần đến không phải là lời mời gọi để lướt với làn sóng của sự tiến triển không thể tránh được. Nhưng, nó chính là lời kêu mời gia nhập vào cuộc chiến tranh, biết rằng bất chấp sự mẫu thuẫn và thất bại, lời hứa của Thiên Chúa về lòng thoả mãn tột bực của chúng ta sẽ không làm tròn. Cho đến khi Nước đến trong sự hoàn tất mỹ mãn của nó, con đường Kitô giáo vẫn là con đường của Thập Giá.
Có yếu tố của sự sợ hãi trong những thời kỳ biến đổi này và với một lý do chính đáng. Biến đổi có thể trở nên "xấu hơn" cũng như trở nên "tốt hơn." Thế nhưng con người mà đã gặp Chúa Giêsu đều học biết phân biệt những gì là mới và những gì đang hứa cho từ những gì là mới cũng như những gì đang đe doạ. Họ đang được nếm trước về Nước Thiên Chúa đang đến -- một "Thiên Đàng và Trần Gian Mới" và họ tín nhiệm hoàn toàn vào Chúa Giêsu là Đấng làm mọi sự trở nên mới. Do đó, họ không còn nhìn Kitô giáo như là một siêu thị nơi mà họ có thể chọn và lựa những gì họ ưa thích. Họ không nhặt lấy ý tưởng này tại đây, hay yếu tố kia chỗ nọ; kinh nghiệm tinh thần nhỏ bé tốt lành tại bàn này, hay nguyên tắc luân lý tại chỗ khác; và sau cùng, tiêu chuẩn của sự bình an tâm hồn tại nơi tính tiền. Không, loại đường lối này chính là những gì Chúa Giêsu đã cảnh cáo cho chúng ta. Loại đường lối chính là giống như "đổ rượu mới và bình cũ," Chúa Giêsu nói. Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu làm mọi sự trở nên mới mẻ, Thánh Tông Đồ Phaolô nói cho chúng ta biết: "Do đó, nếu ai ở trong Đức Kitô, người đó trở nên một tạo vật mới; thật vậy, sự cũ đã qua đi và sự mới đã đang đến!"
Khi một người quyết định theo Chúa Giêsu, khi một người quyết định tìm kiếm Nước Tình Yêu trước, người đó trải qua một cuộc đổi mới về phẩm chất. Nó không phải chỉ là cộng thêm một sự gì vào. Có sự mới về phẩm chất đã xảy ra. Khi các bạn chấp nhận ân sủng của Đức Kitô về cuộc sống mới, thì mỗi giây phút các bạn
sống không còn chỉ lại là phần nối thêm của giây phút quá khứ nữa, nhưng một tạo vật mới; mỗi nhịp thở các bạn hít thở không còn chỉ là những chức năng của thân thể mà chính là hành vi đón nhận ân sủng của cuộc sống mới. Và tất cả những sự kiện này chính là kết quả của cuộc thay đổi về phẩm chất, cuộc thay đổi thái độ.
Quan điểm ngược lại thuộc về những kẻ chỉ thấy biến đổi như là một nối kết kéo dài không thể tránh được của quá khứ mà thôi. Tác phẩm Macbeth của Shakespeare đã than vãn: "...Cuộc sống như hình bóng biết đi, và không biết nghe; nó chính là chuyện tào lao được kể bởi một kẻ ngu dại, chỉ là những âm thanh nhưng không biểu tượng gì cả."
Đây chính là âm thanh của quan điểm thế giới về thuyết nhạo báng và thất vọng. Đây chính là quan điểm của những người khiếp sợ và cưỡng lại tương lai đến độ buộc cho sự dữ mà được biết trên sự thay đổi rằng không biết được. Người ta nói rằng có nhiều người quá khiếp sợ đến sự thay đổi mà nếu họ được hiện diện tại lúc tạo đựng, thì họ sẽ cố biểu quyết cho sự hỗn độn hư vô.
Trong bài học Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói rằng "Nước Trời thì giống như hạt cải người kia lấy gieo trong ruộng mình; nó là hạt giống bé nhỏ nhất, song khi mọc lên thì lớn hơn các thứ rau và thành một cây, chim trời có thể tới đậu trên cành" (Mt 13:31). Hạt cải nhỏ bé không phải là mọc lên thành hạt cải khổng lồ. Nó trở nên một vật mới. Một cuộc thay đổi về phẩm chất đã xảy ra.
Tại đây và lúc này, trong cuộc kinh nghiệm tôn thờ này, giống như chúng ta tưởng nhớ lại trong quá khứ chúng ta thật sự đang nhắm đến tương lai: Nước Đang Đến. Tại đây và lúc này, trong cùng một nghĩa, chúng ta là những người đi trước thời gian. Tại đây và lúc này chúng ta đang mong đợi ngày mà khi, tất cả mọi vật đã đang được làm trở nên mới, "mọi đầu gối sẽ phải bái quỳ và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa." Tại đây và lúc này chúng ta đang chuẩn bị cho thời kỳ mà toàn thể thế giới sẽ tụ họp lại trong một cộng đồng thân mến -- Nước Tình Yêu.
"Tất cả mọi vật đều mới mẻ trong Đức Kitô" không phải chỉ là viễn cảnh dại dột thay thế cho viễn cảnh dại dột của hiện tại. Nó không phải là cuộc cộng thêm dại dột vào sự tiến triển của kỹ thuật. Nó chính là niềm hy vọng được thực hiện. Nó chính là sự công bình được thoả mãn. Nó chính là chân lý được toàn thắng. Nó chính là tình yêu được mãn nguyện. Nước Trời đã gần đến. Qua thái độ cởi mở cho triển vọng bất tận của thiên tài tạo dựng của Thiên Chúa, "tất cả mọi sự trở nên mới trong Đức Kitô" có thể là của các bạn. Hãy học biết mong đợi sự bất ngờ từ Thiên Chúa, và mọi sự trở nên Mới trong Đức Kitô sẽ là của các bạn.
-------------------------------
Mt 13,24-43
A. Hạt giống...
Bài Tin Mừng này gồm 3 dụ ngôn về Nước Trời :
1. Dụ ngôn cỏ lùng (Mt 13,24-30.36-43) :
- Vấn đề : Với lời rao giảng của Chúa Giêsu, Nước Trời đã bắt đầu thành lập. Vậy thì có nên để cho Nước Ma quỷ tiếp tục tồn tại không ? Tại sao kẻ ác vẫn còn sống mãi bên cạnh người lành và làm hại người lành ? Sao không giải quyết dứt khoát cho sớm đi ?
- Giải đáp : Chúa Giêsu trả lời qua dụ ngôn này rằng không nên nóng vội mà đòi cho cuộc thẩm phán diễn ra trước hạn kỳ mà Thiên Chúa đã định. Hiện tại cứ phải kiên nhẫn mà chờ, trong niềm xác tín rằng thế nào rồi cũng có Thẩm phán và khi đó số phận kẻ lành người dữ sẽ được phân định rõ ràng.
- Ý nghĩa : Dụ ngôn này vừa mời gọi kiên nhẫn vừa mời gọi khiêm nhường.
a/ Kiên nhẫn : chờ cho đến kỳ hạn Chúa định.
b/ Khiêm nhường : trong khi chờ đợi Thiên Chúa xét xử ai là kẻ lành ai là người dữ, mỗi người không nên dành quyền xét xử ấy của Thiên Chúa để coi ai là lành ai là dữ, ai là lúa tốt ai là cỏ dại. Mỗi người hãy chỉ lo một việc cần thiết thôi là lo trung thành nghe và thực thi Lời Chúa.
c/ Lạc quan : Thái độ của ông chủ ruộng thật là lạc quan : Khi tôi tớ đến báo động là có cỏ dại, ông khỏi cần suy nghĩ mà trả lời ngay rằng "kẻ thù đã gieo" ( c 27-28). Tôi tớ hoảng sợ xin đi nhổ cỏ lùng, ông bảo "Đừng". Ông chủ rất bình tâm chẳng chút ngạc nhiên và chẳng hề lo sợ, vì ông lạc quan tin vào khả năng của giống lúa, nó chẳng thế nào chịu thua sức mạnh của cỏ dại được.
2. Dụ ngôn hạt cải và nắm men (cc 31-33) :
- Vấn đề : Có người hồ nghi khi thấy thực tế khiêm nhường của công trình Chúa Giêsu và khi nghe Ngài nói về tương lai to lớn huy hoàng của Nước Trời : một nhóm nhỏ bé những môn đệ như thế này, đứng trước những khó khăn như thế đó, mà sẽ tạo thành Nước Trời huy hoàng như thế kia hay sao ?
- Giải đáp : Chúa Giêsu trả lời rằng "đúng thế", cũng như một hạt cải bé tí sẽ trở nên một cây khổng lồ, hay một nhúm men ít ỏi sẽ làm dậy cả thúng bột, tác động của Thiên Chúa sẽ khiến cho nhóm người bé mọn ít ỏi này trở thành một Dân Mới quy tụ hết mọi dân.
B.... nẩy mầm.
1. Thế gian hiện tại có người tốt và kẻ xấu lẫn lộn. Ngay trong con người tôi cũng có khuynh hướng tốt và khuynh hướng xấu đồng tồn tại. Tôi không nên có thái độ của những người tôi tớ trong dụ ngôn này, là khó chịu, tức bực. Nên có thái độ như ông chủ : bình tĩnh chấp nhận thực trạng, tích cực bồi dưỡng những yếu tố tốt và khắc phục những yếu tố xấu, lạc quan tin tưởng vào sức mạnh của cái tốt.
2. Tôi cũng không nên sốt ruột dành quyền của Chúa mà “nhổ cỏ” những người mà tôi coi là xấu.
3. Tôi nghĩ về những cái tốt và xấu trong con người tôi, nhất là nghĩ về sự kiên nhẫn của Chúa không vội trừng phạt những cái xấu của tôi. Một mặt tôi cám ơn Chúa đã thương cho tôi thời gian chứ không vội xét xử tôi, mặt khác tôi hứa sẽ tận dụng thời gian và cơ hội Chúa ban để dần dần tu sửa con người của mình.
4. Giáo Hội vốn không phải là một xã hội hoàn hảo. Giáo Hội tự bản chất là thánh thiện nhưng lại gồm những con người tội lỗi. Chúng ta có một Giáo Hội gồm nhiều vị thánh nhưng cũng có một số tội nhân. Những tội nhân vẫn có thể trở thành các thánh trong giây phút, còn các vị thánh thì có thể trở thành thánh thiện hơn. Các tội nhân cần sự tha thứ của chúng ta, còn các thánh thì khơi dậy sự cảm phục và quyết tâm cải hóa của chúng ta. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Cứ để cả hai cùng lớn lên tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt : Hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi” (Mt 13,30)
Trong lúc mọi người bận bịu ngoài vườn nho, kẻ trộm đã lẻn vào nhà mà chẳng ai hay. Khi có người biết được và tri hô lên thì bọn bất lương đã bỏ đi mất dạng sau khi đã vơ vét một số tiền lớn.
Thực là nỗi đau cho gia đình Mazarello. Cha mẹ nàng hầu như tuyệt vọng. Mazarello tìm lời ngọt ngào an ủi song thân. Nhưng thỉnh thoảng lòng căm hờn đối với bọn bất lương lại bừng cháy và những lời kết án được thốt lên. Mazarello đã ngăn cản : “Không ! Chúng ta không có quyền kết án họ. Tốt hơn, chúng ta hãy cầu xin Chúa đánh động tâm hồn họ và khiến họ ăn năn trở lại. Chỉ vì dốt nát, nếu không họ đã chẳng làm điều đồi bại như thế”
Đức Kitô luôn hiện diện trong Giáo Hội như dấu chỉ của lòng kiên nhẫn và khoan dung. Ngài cũng mời gọi người kitô hữu sống yêu thương, tôn trọng và tha thứ đối với mọi người. Nhưng đã bao lần, tôi ý thức được điều đó ?
Lạy Chúa, xin mở rộng cõi lòng của những người trẻ chúng con, để chúng con biết yêu thương thông cảm và luôn biết thứ tha. (Hosanna)
6. Hạt cải và nắm men cũng giống như một hòn sỏi ở chỗ đều bé nhỏ. Nhưng chúng khác hòn sỏi ở chỗ chúng có sức sống bên trong. Ném hòn sỏi xuống đất thì nó vẫn trơ trơ, còn gieo hạt cải xuống đất hoặc vùi nắm men vào thúng bột thì kết quả khác hẳn. Như thế, điều khác nhau và cũng là điều kỳ diệu chính là sức sống bên trong.
Tôi đón nhận những ơn Chúa và những lời Chúa như đón nhận một hòn sỏi hay một hạt cải, một nắm men ?
Là một Kitô hữu, tôi sống giữa những người khác như hòn sỏi hay như hạt cải, nắm men ?
7. “Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi đó nguyền rủa bóng tối”. Nhiều người khi thấy xã hội đầy dẫy sự xấu thì chán nản. Họ không tin vào sức cải hóa của Tin Mừng, họ không tin vào tác động của ơn Chúa. Hãy dùng ánh sáng Tin Mừng, hãy dùng ơn thánh Chúa ban cho ta để bắt tay vào cuộc cảm hóa môi trường mình sống. Nếu ngày xưa nhóm 12 tông đồ chùn bước trước tình trạng đầy dẫu khó khăn của đế quốc Rôma thì đã không có Giáo Hội như ngày nay.
8. Một nhà kinh tế được mời đến nói chuyện với một nhóm thương gia. Ông lấy một miếng giấy trắng lớn, vẽ trên đó một chấm đen và hỏi người ngồi hàng đầu xem anh ta thấy gì. Anh mau mắn trả lời : “một chấm đen”
Ông lần lượt hỏi từng người, tất cả đều trả lời thấy một chấm đen. Lúc đó, diễn giả mới bình tĩnh nói : “Các anh thấy một chấm đen. Đúng. Nhưng sao không một ai thấy cả một tấm giấy trắng lớn !” (Góp nhặt)
9. “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ gieo trong ruộng mình. Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men” (Mt 13,31-33)
Báo Tuổi Trẻ 96 có giới thiệu khuôn mặt của một nữ triệu phú : Chị đã thoát ra từ cuộc sống dường như đang ở bước đường cùng của mình, với hai bàn tay trắng cùng một tấm thân tật nguyền của chứng bệnh phong cùi mà mọi người xung quanh ai cũng ghê sợ. Chính chị cũng đã có lúc không biết sống để làm gì và làm gì để sống. Nhưng cuối cùng, vì tình yêu dành cho con, chị đã đứng vững và thành công. Nhờ tình yêu và nghị lực của chị, người con trai của chị mới có thể thành đạt, thành công và thành nhân.
Tình yêu mời gọi tình yêu và cứ thế… dậy men cuộc sống.
Lạy Chúa, dẫu có “nhỏ hơn” nắm men, hạt cải, con cũng nguyện xin Chúa cho con can đảm sống và chỉ sống vì yêu thương. (Hosanna)
10. Ta hãy suy gẫm về thái độ kiên nhẫn của Chúa đối với những người xấu. Chúa kiên nhẫn vì : a/ nhân từ chờ kẻ xấu ăn năn. “Cây lau bị dập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét Ngài chẳng nở tắt đi” ; “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống” ; b/ vì tôn trọng tự do mà Ngài đã ban cho mỗi người.
Trách nhiệm mỗi người : a/ xử dụng tự do để chọn điều tốt ; b/ tác động lên những người chung quanh để “tranh thủ” họ về phía tốt.
11. Với thời gian, lúa có thể lớn mạnh lấn át cỏ lùng, nhưng đồng thời cỏ lùng cũng có thể lớn mạnh làm chết lúa. Do đó sự kiên nhẫn chờ đợi của Chúa vừa là cơ hội mà cũng vừa là nguy cơ cho mỗi người chúng ta Hôm nay tôi còn xấu nhưng ngày mai tôi có thể tôi trở thành tốt. Ngược lại hôm nay tôi tốt nhưng ngày mai có thể tôi sẽ xấu.
Bởi đó, tôi chớ nên vội đánh giá người khác, và cũng chớ nên tự mãn về mình. Mọi người đều phải tận dùng thời giờ và cơ hội của Chúa để ngày càng trở nên hoàn thiện như Cha trên trời.
12. Một giám mục chúc mừng viên quản lý gian hàng điện khí về công việc tốt đẹp của anh. Ngài nói rằng không bao giờ hết ngạc nhiên về khoa điện năng tuyệt vời.
- Đúng, và con cũng chưa bao giờ nghĩ về điều đó mà không ngạc nhiên về sự kiên trì của Chúa.
- Sự kiên trì của Chúa ? Anh muốn nói gì ?
- Ngài có bao giờ tự hỏi sao Đấng sáng tạo phải đợi hàng thế kỷ mới có một vài người khám phá nguồn điện phong phú trong vũ trụ chỉ chờ được sử dụng ? (Góp nhặt)
13. “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời trong Nước Cha họ” (Mt 13,43)
Trên đường về quê trời, từ xa chúng ta đã thấy thấp thoáng đích đến. Kìa, tại sao bạn dừng lại ? Không, không thể được ! Đừng dừng lại bạn nhé !
Tôi biết bạn đang chao đảo vì nắng gắt của dư luận. Tôi biết gối bạn đã chồn, chân bạn đã mỏi đã nát vì chông gai, nay lại hụt hẫng do những vực thẳm của bất công và những khúc quanh của lòng người. Đừng cố làm ra vẻ thản nhiên, đừng cố che dấu cái tôi đầy đau khổ thất vọng. Bạn hãy cùng tôi đọc lại câu Tin Mừng này để san sẻ cho nhau niềm hy vọng. Quãng đường còn lại chắc chắn sẽ vui vẻ hơn, đỡ vất vả hơn.
Bạn hãy nhìn về phía trước và cùng tôi dấn bước tiến lên. Tôi đã thấy nghị lực và khát vọng hạnh phúc trong mắt bạn. Chúng ta sẽ cập bến.
Lạy Chúa, được nên công chính trong bí tích Thánh Tẩy, xin cho chúng con biết nâng đỡ nhau trên con đường công chính, con đường về nhà Cha. (Hosanna)
14. “Xin hãy nhẫn nại với Giáo Hội vì Giáo Hội là một cộng đoàn gồm những cá nhân yếu đuối và bất toà… Xin mỗi người hãy để cho Giáo Hội sử dụng… Giáo Hội cần đến các bạn… Các bạn là tương lai của Giáo Hội” (ĐGH Gioan Phaolô II)
15. Mầm khác :
-------------------------------
Chi Tiết Hay
Danh từ "cỏ lùng" được dùng để diễn tả một loại cỏ dại gọi là darnel. Loại cỏ dại này rất là giống cây lúa khi mới mọc lên, nên rất khó phân biệt với lúa. Chỉ khi trổ bông thì mới khác với lúa, lúc đó thì rễ của cỏ và lúa đã quấn với nhau nên không thể nhổ một mình cỏ được. Hạt cỏ thì lại độc không ăn được.
Gieo cỏ lùng vào ruộng người khác là một hình thức trả thù hay phá hoại vào thời đó. Luật La-mã trừng phạt những hành động này như là một tội hình.
Cây cải giống có thể lên cao khoảng từ 10 đến 12 feet. Dụ ngôn này chú tâm đến sư tương phản giữa sự bắt đầu rất bé nhỏ của Triều Đại Thiên Chúa và sự vinh quang ngoài sức tưởng tượng khi triều đại được hoàn hảo.
Đối với người Do thái, men tượng trưng cho những điều tội lỗi. Một trong những nghi thức chuẩn bị cho lễ Vượt Qua là tìm tất cả những mảnh men trong nhà mà đốt đi. Nhưng Đức Giêsu lại dùng men cho việc tốt. Có lẽ Ngài muốn dùng hình ảnh này để làm người nghe chú ý và chủ tâm là nói đến tầm mức ảnh hưởng của men.
Một Điểm Chính
Thiên Chúa tin tưởng và đặt niềm hy vọng nơi nhân loại. Ngài kiên nhẫn để cho chúng ta tự do để nhận định, của ăn thiêng liêng để bồi bổ tâm hồn, và thời gian để biến cải tâm hồn cho Triều Đại Thiên Chúa.
Suy Niệm
Phân biệt người công chính giữa các người khác là một việc làm vượt ngoài khả năng của con người khi chúng ta chỉ nhận định dựa vào những yếu tố bên ngoài. Chỉ có Thiên Chúa mới thấy rõ tâm lòng của mỗi người. Suy niệm về hoàn cảnh xã hội và thiêng liêng của đời sống của chính mình. Bạn nhận thấy bạn là người thế nào và bạn xem các người chung quanh là người thế nào?
Suy niệm về cuộc sống thường ngày của chính mình. Hạt cải vươn lên từng phút từng giây. Bạn hãy suy niệm về nỗ lực bạn dành cho hạt cải đức tin trong tâm hồn của mình. Đức tin của bạn triển nở như thế nào trong ân sủng và quan phòng của Thiên Chúa?
Như là một tí men đã làm dậy cả đấu bột, bạn đã dùng hoặc mở lòng như thế nào cho Phúc Âm của Thiên Chúa biến đổi toàn diện con người của mình cho Triều Đại Thiên Chúa?
-------------------------------
Thái độ ông chủ trong dụ ngôn của đoạn Tin Mừng vừa nghe xem ra không được hợp tình và hợp lý. Thực vậy, có anh nông dân nào mà lại không chịu khó đi xịt thuốc, hay đi nhổ, mà cứ để cho cỏ dại mọc xả láng trên đồng ruộng của mình.
Thế nhưng, nếu chúng ta hiểu rằng ông chủ ấy là chính Thiên Chúa và cỏ dại là những kẻ tội lỗi, thì chúng ta lại thấy cách cư xử này thật tuyệt vời, vừa hợp tình, lại vừa hợp lý.
Đúng thế, Ngài không đồng lõa và dung túng kẻ tội lỗi, nhưng đã đối xử với họ theo lòng khoan dung và nhân ái. Ngài kiên nhẫn đời chờ kẻ tội lỗn sám hối và hoán cải.
Nếu Thiên Chúa tiêu diệt sự ác ngay bây giờ, thì chắc chắn không ai trong chúng ta có thể sống sót, bởi vì như lời Thánh Vịnh đã diễn tả: Từ trong lòng mẹ, tôi đã là tội nhân, thoạt sinh ra, tôi đã mắc tội rồi.
Và như chúng ta đã biết: Tình thương thì nhẫn nại, nên Thiên Chúa luôn chờ đợi thiện chí hoán cải của từng người, đồng thời Ngài còn ban ơn nâng đỡ họ trên mọi bước đường đời, để rồi cuối cùng, ngày thầm phán mới tới, ngày xét xử tuyệt đối công mình và không ai có thể trách cứ Ngài là đã không dủ lòng thương xót.
Nếu như Thiên Chúa không dung túng và đồng lõa với sự ác, thì chúng ta cũng không được phép thở dài và chán ngán, thất vọng và buông xuôi, nhưng phải cố gắng trở thành người cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời.
Thực vậy, ông chủ đã xác quyết:
- Kẻ thù của ta đã làm như vậy.
Vì thế, bước khởi đầu của chúng ta cũng phải là nhận diện sự ác. Tiêu chuẩn để nhận diện sự ác không phải là bản thân chúng ta với những sở thích riêng tư, nhưng phải là Tin Mừng, với những đòi hỏi của Chúa.
Dưới ánh sáng của Tin Mừng, liệu chúng ta có nhận ra đâu là những dấu chỉ của sự ác đang hoành hành trong tâm hồn mỗi người chúng ta, cũng như trong thế giới hôm nay hay không?
Sau khi xem xong cuốn phim “Dưới ánh mặt trời của Satan”, trong một cuộc phỏng vấn, cha Bourgeois đã đưa ra những dấu chỉ của sự ác hôm nay, đó là sự khinh rẻ con người và cướp đi quyền sống của họ; thái độ tôn thờ ngẫu tượng như tiền bạc, quyền lực, lạc thú; sống trong ảo tưởng vì cho rằng khoa học có thể giải quyết được mọi sự; đánh mất niềm hy vọng, không còn nhìn tới tương lai và sau cùng là đánh mất chính mình, không còn biết rõ con người mình là như thế nào nữa.
Như vậy, sự ác có thể ẩn hiện dưới nhiều khuôn mặt, đôi khi lại là những khuôn mặt thật dễ thương, đầy quyến rũ và rất hấp dẫn.
Thế nhưng, sự dữ không phải chỉ hiện diện trên bình diện thế giới và cộng đồng nhân loại, mà còn hiện diện ngày trong chính cõi lòng chúng ta. Bởi vì cõi lòng chúng ta là như một thửa ruộng trong đó cỏ lùng xen lẫn với lúa tốt.
Vấn đề là làm thế nào để hạt giống Nước Trời đã được Thiên Chúa gieo vãi vào cõi lòng chúng ta được nảy mầm, lớn lên, đâm bông và kết trái. Chính vì thế, chúng ta phải cố gắng kiện toàn bản thân và thể hiện những giá trị của Tin Mừng trong chính cuộc sống chúng ta, bởi vì sự góp phần vào công cuộc kiến tạo Nước Trời phải được khởi đi từ chính bản thân mỗi người chúng ta.
-------------------------------
Trước khi dụ ngôn Chúa phải mọc chung quanh với cỏ lùng là do sự Chúa an bài, chúng ta sẽ lập được nhiều công phúc do phải sống với những con người không hoàn thiện (Mà chính chúng ta cũng là những người không hoàn thiện). Sở dĩ chúng ta biết chịu đựng, biết nhẫn nại, biết rộng lượng tha thứ… Mặt khác, trong bất cứ cuộc bách hại nào, cũng có những người yếu lòng tin: bỏ Chúa, bỏ đạo, nhưng đồng thời cũng có biết bao con người sẵn sàng hy sinh vì Chúa để chứng minh sự hiện hữu của Chúa, để chứng minh những chân lý của đạo.
Còn dụ ngôn về hạt cải và men trong bột nói lên sự phát triển của nước Chúa. Khởi thủy nước Chúa chỉ vì do mấy vị Tông đồ nghèo nàn, ngu dốt, nhút nhát, nhưng rồi chính các vị này, với ơn Chúa, đã làm nước Chúa phát triển khắp hoàn cầu về mọi phương diện.
Thánh Philipphê Phan Văn Minh (tử đạo ngày 3-7-1853, 38 tuổi) khi chưa thụ phong Linh mục, đã cùng Đức Cha Taberd, soạn hai cuốn tử điển La Việt và Việt La. Phan Văn Minh cũng soạn nhiều tập thơ:
Dưới chủ đề: “nước trời ca”, Ngài đã sáng tác 29 bài thơ. Dụ ngôn hạt cải, được ngài ghi thành mấy vần thơ như sau:
Nước Trời ví với vật chi?
Ví như hạt cải tí ti đen tròn
Gieo vào đất, một thời gian,
Mọc lên đâm dược, nảy nhành xum xuê,
Chim trời bốn hướng bay về
Nắng thì núp bóng, mưa thì che thân.
Ngài cũng là tác giả tập thơ “Gia Tô Cơ Đốc” gồm 44 bài. Sau đây là một bà trong 44 bài đó:
Gia Tô Cơ Đốc Đấng con trời
Đặc cách lêm phàm cứu khắp ni
Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp
Không dùng vương bá để xây đời
Vâng lời Thiên mệnh đành thân diệt,
Gánh tội nhân gian chịu máu rơi.
Dĩ nhược thắng cường mệnh chứng tỏ
Kiếp sau hiện hữu sống muôn đời.
Ngày 26-2-1853 quan sai lính đến vây nhà ông trùm Lựu, nhưng cha Lựu đã được bài sai được khắp nơi khác. Cha Minh mới đến nhận giáo xứ. Để cứu cha Minh, ông trùm Lựu đứng ra nói: “Bẩm quan, không có đạo trưởng nào tên Lựu ở đây. Chính tôi tên là Lựu.”
Quan không tin và bảo lính tiếp tục lục soát. Khi đó cha Minh sợ quan quân, vì mình, mà hại gia đình ông trùm Lựu, nên ra mặt, nhận mình là Linh mục. Thế là cùng với bảy qúi chức trong vùng, Cha bị bắt trói, đeo gông và đẩy xuống thuyền đưa về giam tại thị trấn.
Tại thị trấn Vĩnh Long, quan Tổng Trấn hạch hỏi cha về các Linh mục khác, những nơi trú ẩn, song quan đã không khai thác được gì. Những ngày sau, quan làm mọi cách, khi dụ dỗ, khi dọa nạt, khi sai lính kéo qua Thập giá để bắt cha chối đạo. Nhưng cha minh vẫn trung thành vớ Đức Kitô và Giáo Hội. Thấy cha còn trẻ, mới 38 tuổi, lại là con người hiền lành, học thức, các quan muốn tìm cách cứu cha, họ không bắt cha bước qua Thập giá nữa, chỉ cần cha nói miệng là: “đã bỏ đạo” thì cũng được tha. Nhưng cha Minh vẫn một mực từ chối. Không làm gì hơn được nữa, các quan cho lính đưa Cha về giam tại Tuyến Phong chờ ngày lãnh án.
Khi án tử từ kinh đô gửi về. Cha Minh quỳ gối tạ ơn Chúa, rồi an ủi các anh chị em bạn tù nên vui lòng tuân theo ý Chúa, hẹn tái ngộ trên nước trời. Cha nói:
“Anh em vững lòng tin và hết dạ cậy trông Chúa, Cựu Ước chẳng từ bỏ ai, và sẽ thưởng công trọng hậu cho những ai tôn thờ Người.”
Cha cũng căn dặn một tín hữu ở ngoài, tiến bạc của Cha, nếu còn, thì đừng phí tốn ma chy lớn, cứ đem quân pht hết cho người nghèo.
Ngày 3-7-1853 cha bị điệu đi xử. Cha mặc áo dài, dáng vẻ điềm tĩnh, hiên ngang, tiến ra pháp teường, vừa đi vừa lần chuỗi Mân Côi. Qua bờ sông Long Hồ tới Cái Sơn Bé, quân lính dọn bữa ăn sau cùng cho Cha, nhưng Cha không ăn gì. Cha cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con. Lạy Chúa Giêsu, xin cho con sức mạnh, can đảm chịu khó, để tôn vinh danh Chúa. Lạy mẹ Maria, xin nâng đỡ con.”
lưỡi gươm lý hình đã kết liễu cuộc đời Cha. Thi thể được an táng dưới nến một ngôi nhà thờ mới bị đốt phá tại quê hương Cái Mơm.
Năm 1900 hài cốt đấng tử đạo được di chuyển về đại chủng viện Sài gòn. Năm 1960 di cốt được đưa vào vương cung Thánh đường Sài gòn trong dịp lễ cung hiến.
-------------------------------
Hèn ! Đó là cảm nghĩ đầu tiên của bất kỳ ai quen suy nghĩ và hành động quang minh chính đại, khi đọc đoạn Tin Mừng này. “Xấu” chưa chắc đã “hèn”, nhưng “hèn” thì chắc chắn là “xấu”, bởi lẽ nhiều tay “giang hồ”, bặm trợn, vẫn rất ghét thói “ném đá dấu tay”, trong khi động cơ, phương tiện và mục đích của những hành động lén lút, luôn là bỉ ổi, xấu xa và hại người. Mafia tự nó là xấu, nhưng ít có thành viên Mafia chính cống nào chịu để cho người khác cho mình là “hèn”, trong khi đám khủng bố lại hành động hết sức hèn hạ, chỉ nhằm thoả mãn thú tính. XA-TAN là thứ hèn ! Và “Hèn” là bản chất, là phương thế hành động của hoả ngục, từ khởi thủy cho đến tận thế. CỎ LÙNG là vũ khí mà hoả ngục thường sử dụng nhất, để đối phó với Lời Chúa. Vậy phương thế nào tốt nhất để chống lại ? Ta có thể theo Chúa Giê-su, mà trả lời ngay: án binh bất động !
Trước hết, xét khía cạnh thuần túy nông nghiệp, thì chứng tỏ Chúa Giê-su và Thánh Gia Thất không biết gì về làm lúa, bởi vì nếu cứ để cỏ lùng và lúa cùng tồn tại, thì khi đến mùa gặt – nếu còn có gì để... gặt – ta chỉ thu hoạch được hai loại... rơm: rơm cỏ khô và rơm cây lúa ! Dường như thiên nhiên muốn tạo ra công bằng: Tất cả mọi loại cỏ dại đều phát triển cực nhanh và khoẻ, chẳng cần phân tro tưới tắm gì, trong khi các cây con người trồng để thu hoa lợi, thì phải chăm nom vun quén hết sức, mới mong có được kết quả, lắm khi chẳng tương xứng chút nào với công sức “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”.
Chúa Giê-su hẳn muốn chúng ta nhìn ở khía cạnh khác: thời gian là thước đo của chân lý và thời gian giúp phân biệt vàng thau, mà trong cuộc sống nhiều khi lẫn lộn. Lời Chúa trên thế gian này có khác với lời của ma quỷ chăng, thì chỉ có thể phân định ở kết quả chung cuộc: thứ nhất là dựa vào sự hữu dụng và lợi ích cứu rỗi Lời Chúa đem đến cho con người, ví như chỉ có lúa mới cho “hạt 30; hạt 60; hạt 100”, là điều mà cỏ lùng – lời của Xa-tan và hoả ngục – vô ích và có hại chẳng bao giờ muốn và làm được cho con người, cho dù khởi thủy nó hứa hẹn chẳng thua gì Lời Chúa. Thứ nhì, sự phân định thắng bại của Lúa ( Lời Chúa ) và Cỏ Lùng ( lời gian dối ) chỉ kết thúc ở ngày tận thế.
Nếu để tâm theo dõi những phong trào, những giáo phái, mà gần đây nhất là phong trào “chúng tôi CŨNG là Giáo Hội”, chúng ta mới hiểu hết ý nghĩa của Lời Chúa Giê-su: mới thoạt nghe, chúng ta thấy những gì chúng đưa ra rất có lý và “nói có sách, mách có chứng”. Chúng dẫn con người đi từ bất đồng chính kiến với cá nhân trong Giáo Hội ( mà cá nhân cao nhất, có không ít lầm lỗi, là Đức Giáo Hoàng ), để dần dà làm sai lạc Đức Tin của những người nghe theo chúng. Bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, là cách thế chúng thực hiện, để muốn chứng minh cho những kẻ nghe chúng, thấy khiếm khuyết của Vị này, Đấng kia, chứ chúng không “gắp lửa bỏ tay” vu oan giá hoạ cho ai.
Ngón đòn còn thâm độc hơn, khi gieo nghi ngờ đối với những Đấng toả ngát hương thánh thiện trong Giáo Hội, như Đức Thánh Cha Gio-an XXIII, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II, v.v... với những lập luận mập mờ, khiến kẻ tin và kẻ không tin đều không thể kiểm chứng. Đơn giản là chính các Đấng sống khiêm nhu, không khi nào muốn người khác biết đến và nói về mình.
Ngày nay, chúng ta không còn có thể tìm thấy những phe nhóm công khai chống đối Giáo Hội một cách thô thiển, bặm trợn nữa, mà là những phong trào có tôn chỉ hành động, có phương pháp khoa học và nền tảng lý luận sắc bén, đủ để bẻ gãy các lập luận của chúng ta, nếu như chúng ta không có Đức Tin vững vàng, không “phản bác” lại bằng một đời sống gương mẫu, làm chứng cho niềm tin Phục Sinh. Các phong trào do hoả ngục dựng nên không còn sử dụng những kẻ thù truyền thống của Giáo Hội, – chẳng hạn như vô thần –, mà dùng ngay chính các con cái của Giáo Hội, những kẻ tự xưng mình là Ki-tô hữu.
Chính vì thế, sự giống nhau giữa cỏ lùng và lúa ngày càng khó phân biệt. Và chính lúc này, những con cái chân chính của Chúa và của Giáo Hội mới hiểu hết ý nghĩa của hy sinh, của máu tử vì đạo và câu nói của Chúa Giê-su: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được ơn cứu thoát !”
Ai trong chúng ta cũng ghét thái độ “ném đá dấu tay” hèn hạ và có thể ít nhiều khó chịu hoặc không đồng tình với cách làm mà Chúa đưa ra. Chúng ta muốn “lôi” chúng ra ánh sáng. Chúng ta muốn đôi co lý luận với chúng. Chúng ta muốn liều mình một mất một còn với chúng. Tốt lắm ! Nhưng chúng là... ai ? Nếu chúng xuất đầu lộ diện, hoặc ta nhận ra nó ngay, thì đã chẳng có gì để nói. Nếu chúng không phải “cỏ lùng” khiến người ta khó nhận ra chúng, ngoại trừ những gia nhân trung thành với Chúa, thì đâu còn phải cảnh giác, đâu còn phải khiến ta kiên trì để không bị chúng lây nhiễm, đồng thời trung thành với Đức Tin và cuộc đời nhân chứng của chúng ta cho đến cuối.
Chợt nhớ bài hát vui của các cháu bé: “Thiên Đàng – hoả ngục hai bên; ai khôn thời dại, ai dại thời khôn. Đêm nằm nhớ Chúa nhớ Cha; đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn; linh hồn phải giữ linh hồn...”
Cuối cùng, trong cuộc sống với những mối tương giao phức tạp, đa dạng, trong khi cảnh giác với những lời của người khác, – bởi có thể có rất nhiều “cỏ lùng” pha trộn, muốn làm hại cuộc sống chúng ta về nhiều mặt, – thì bản thân chúng ta tuyệt nhiên không được gieo “cỏ lùng” vào lòng anh em chúng ta, bất luận vì lý do gì và với mục đích gì: chỉ có những lời xây dựng, đem an bình, chân thật và nhất là “để người ta xem thấy việc các con làm, mà ngợi khen Cha Cả trên trời”, như Lời Chúa Giê-su dạy. “Có nói có, không nói không, thêm bớt gì là do ý lòng quỷ ma”.
Đó là cách nghĩ, cách làm của một Ki-tô hữu, vì ngoài bổn phận loan báo Lời Chúa cho mọi người, thì lời của chúng ta cũng phải sinh hoa lợi tốt đẹp cho nhau.
Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 109, CVK62 NGUYỄN THẾ BÀI
-------------------------------
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Phụng vụ Chúa nhật tuần trước, Giáo hội đã cho chúng ta đọc dụ ngôn người gieo giống. Chúa nhật tuần này chúng ta được đọc thêm ba dụ ngôn khác về Nước Trời: dụ ngôn cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men trong bột. Cả ba dụ ngôn có một điểm chung là sự nhẫn nại và tính âm thầm trong việc phát triển Nước Trời. Nhưng dụ ngôn cỏ lùng đáng chúng ta suy nghĩ và tìm hiểu hơn vì ngoài bài học kiên nhẫn dụ ngôn này còn nói với chúng ta nhiều điều khác có liên quan đến cách chúng ta thường phản ứng trước những điều không tốt đẹp nơi người khác hay trong cộng đồng Giáo hội.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM
2.1 Lắng nghe Lời Chúa: Mt 13, 24-30 và 36-43: Dụ ngôn cỏ lùng.
Đức Giê-su trình bày cho dân chúng nghe một dụ ngôn khác: “Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện. Đầy tớ mới đến thưa chủ nhà rằng: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy? “ Ong đáp: “Kẻ thù đã làm đó “ Đầy tớ nói: “Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi gom lại không?” Ông đáp: “Đừng! sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa , tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”aiHai
(Đức Giê-su giải thích): Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế . Thợ gặt là các thiên thần. Vậy như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế cũng sẽ xẩy ra như vậy. Con Người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước Trời, rồi quăng chúng vào lò lửa; ở đó chúng sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. Bậy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ. Ai có tai thì nghe.aiHai
2.2 Trong đoạn Tin Mừng Mt 13, 24-30 và 36-43 trên, chúng ta khám phá Chúa Giêsu là Ai?
Bài Tin Mừng, tuy chỉ là một dụ ngôn và là một đoạn văn diễn từ nhưng cũng cho chúng ta thấy Đức Giêsu là Ai và muốn dạy chúng ta điều gì.
(1o) Trước hết chúng ta thấy Đức Giêsu là Nhà Sư Phạm Đại Tài khi biết dùng nhiều phương pháp khác nhau và thích hợp để dậy dỗ các mon đệ và dân chúng. Trong Phúc âm chúng ta thấy có khi Chúa nói trực tiếp. Có khi Chúa nói cách gián tiếp. Có khi Chúa nói một cách cao siêu (như với ông Nicôđêmô và chị phụ nữ Samari). Có khi Chúa nói một cách bình dân (như khi Chúa dùng các dụ ngôn để trình bày về Nước Trời). Có khi Chúa thuyết giảng (các chủ đề trong Tin Mừng Gioan). Có khi Chúa làm thay vì nói (chữa lành bệnh nhân, người phong cùi, tàng tật, người tội lỗi).
(2o) Kế đến chúng ta thấy Đức Giêsu chính là Người Gieo Hạt. Để chu toàn trách nhiệm và vai trò của Người Gieo Hạt Chúa đã không quản ngại vất vả ngày đêm lặn lội đến các thôn làng xa xôi hay vào các đo thị ồn ào náo nhiệt. Để chu toàn Sứ Vụ Người Gieo Hạt, Chúa đã tìm kiếm chiên lạc trên mọi nẻo đường, đã trở thành bạn bè thân hữu của quân thu thuế và phương tội lỗi. Và cuối cùng, Chúa đã tự biến mình thành Hạt Lúa chết thối trong lòng đất, qua cuộc Khổ Nạn Thập Giá, để trở thành Bông Lúa Mới phát sinh Mùa Gặt Mới cho Nước Thiên Chúa.
(3o) Sau cùng chúng ta thấy Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta biết tấm lòng quảng đại và kiên nhẫn của Thiên Chúa Cha. Chúa Cha quảng đại đến độ đã để cho kẻ thù hoạt động phá hoại mà không tiêu diệt ngay lập tức. Chúa Cha nhẫn nại nên ra lệnh cho đầy tớ để yên cho cỏ lùng mọc lên và phát triển cùng với và bên cạnh cây lúa tốt. Chỉ đến ngày đến giờ quyết định Người mới ra tay.
2.3 Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 13, 24-30 và 36-43 dạy chúng ta điều gì?
(1o) Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta, nhất là các giáo lý viên và các nhà giáo dục Kitô giáo, hãy học gương Chúa Giêsu mà trở thành những nhà sư phạm có tài và có phương pháp. Định nghĩa đơn sơ nhưng đầy đủ nhất về người giảng viên giáo lý là “người làm cho các học sinh (hay học viên) giáo lý hiểu biết, yêu mến và noi theo Đức Giêsu Kitô” Muốn thực hiện được sứ mạng ấy giáo lý viên và các nhà giáo dục Kitô giáo phải có tinh thần, trình độ và phương pháp giảng dạy hay thông truyền. Chúa Giêsu là Nhà Giáo Hảo Hạng và Tuyệt Vời nhất trên thế gian này. Nên chúng ta hãy học với Người.
(2o) Lời Chúa hôm nay còn dậy chúng ta hãy tiếp tay và cộng tác với Chúa Giêsu trong việc gieo hạt giống tốt vào thế gian và vào lòng người. Tâm hồn con người, nhất là tâm hồn trẻ thơ là một mảnh đất tốt sẵn sàng đón nhận hạt giống (tốt hoặc xấu). Cũng như từ bất cứ mảnh đất nào cũng có cây cối mọc lên thì từ mỗi tâm hồn trẻ thơ cũng sẽ mọc lên cây tốt hoặc cây xấu. Nếu chúng ta không gieo hạt giống tốt vào lòng các em thì ma quỷ, thế gian sẽ gieo những hạt giống xấu vào lòng các em. Đó là điều chắc chắn.
(3o) Lời Chúa hôm nay còn dậy chúng ta phải biết quảng đại và nhẫn nại theo gương Thiên Chúa. Trước những cảnh không tốt đẹp, không phù hợp với Giáo huấn của Chúa và của Giáo hội hay trước sự có mặt và hành động của những người gian ác, có một số người trong chúng ta cứ nằng nặc đòi anh em, cộng đoàn phải hoàn hảo, đòi những người gian ác phải bị tiêu diệt loại trừ ngay lập tức. Chắc chắn Thiên Chúa Cha “sốt ruột” hơn chúng ta trước cảnh trì trệ, thậm chí tồi tệ của Giáo hội, của Dòng Tu và Giáo Xứ và trước cảnh tội ác ngập trời của thế gian.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
(1o) Lời Chúa hôm nay cho tôi thấy rõ thêm chân dung của Thiên Chúa Cha, chân dung và sứ mạng của Đức Giêsu. Tôi phải làm gì trong tuần lễ này để họa lại hai (mà là một) chân dung ấy trong tâm hồn, cuộc sống dấn thân phục vụ tha nhân đồng loại, nhất là đồng đạo và học sinh/ học viên giáo lý của tôi?
(2o) Lời Chúa hôm nay một lần nữa lại dạy tôi biết Thiên Chúa có lòng từ bi, đại lượng và nhẫn nại đợi chờ trước cảnh “vàng thau lẫn lộn” trong cuộc đời cũng như trong tâm hồn (của tôi và của những người sống xung quanh tôi). Tôi phải làm gì trong tuần lễ này để có thái độ bình tĩnh, khoan dung kiên nhẫn mà không đồng lõa với những cảnh tội ác hay tồi tệ của con người và cộng đồng Giáo hội? (Suy nghĩ và quyết định việc làm cụ thể).
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu Kitô, con thích nhất là nghe Chúa khẳng định rằng Chúa chính là Người Gieo Hạt. Xin Chúa hãy gieo vào lòng con, vào giáo xứ con, vào Giáo hội và xã hội Việt Nam của con những hạt giống tốt. Xin Chúa hãy gieo vào lòng thế giới hôm nay những hạt giống tốt.
Lạy Chúa Giêsu Kitô con cũng rất thích được trở thành hạt giống như chính Chúa cũng đã trở thành Hạt Giống đã thối nát trong lòng đất để sinh bông lúa mới, để tạo nên Mùa Gặt Mới. Xin Chúa biến con thành hạt giống ấy, giống ý như Chúa vậy. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội (Kansas City, MO ngày 13 tháng 07 năm 2005).
-------------------------------
– Lm Cantalamessa
ROME (Zenit.org).-Trong bài giải thích về Tin Mừng Chúa Nhật XVI Thường Niên tuần này, Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, người giảng Phủ Giáo Hoàng đã giải thích về dụ ngôn cỏ lùng và hột giống tốt.
* * *
Matthew 13:24-43: Hột giống và cỏ lùng
Nước Trời có thể sánh với một người đã gieo giống tốt trong ruộng mình; nước Trời giống như một hột cải; nước trời giống như chất men. Ba câu đầu này của những dụ ngôn đủ cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu đang nói với chúng ta về một nước "Trời", nhưng nước đó được tìm thấy "trên mặt đất."
Thật vậy, chỉ trên mặt đất mới có một chỗ cho cỏ lùng và sự mọc lên, chỉ trên mặt đất mới có bột cần chất men. Trong nước cuối cùng, không có cái gì trong tất cả những thứ đó, nhưng duy nhất chỉ có Chúa, đấng sẽ là tất cả trong tất cả mọi người. Dụ ngôn hột cải biến thành một cây chỉ rõ sự lớn lên của nước Chúa trong lịch sử.
Dụ ngôn chất men cũng chỉ sự lớn lên của nước Chúa, nhưng không phải một sự lớn lên trong sự trải rộng cho bằng trong sự hùng mạnh; nó chỉ sức mạnh biến đổi Người có sức mạnh đó có thể đổi mới mọi sự. Hai dụ ngôn sau cùng này được các môn đệ hiểu dễ dàng. Nhưng dụ ngôn thứ nhất không được hiểu dễ dàng như thế đó là dụ ngôn cỏ lùng.
Sau khi bỏ những đám đông, và khi vào đến nhà, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu về sự đó: "Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe".. Chúa Giêsu đã giải nghĩa dụ ngôn. Người nói Người là kẻ gieo giống, hột giống tốt là con cái nước trời, những cỏ lùng là những con cái kẻ dữ, và đồng ruộng là thế gian và mùa gặt là ngày tận thế.
Đồng ruộng là thế gian. Trong thời cổ Kitô giáo, các người Donatists đã giải quyết vấn đề một cách đơn giản và nói rằng Giáo Hội là tất cả những kẻ lành, và thế gian thì đầy dẩy những con cái kẻ dữ, không có hy vọng gì được cứu độ. Nhưng tư tưởng của Thánh Augustinô trổi bật hơn, tư tưởng đó là tư tưởng về Giáo Hội phổ quát.
Chính Giáo Hội là một cánh đồng, trong đó những hột giống và những cỏ lùng, những kẻ tốt và những người xấu, đều mọc lên chung, là một nơi có chỗ để mọc, để được cải thiện và hơn hết để bắt chước gương nhẫn nại của Chúa. "Những kẻ dữ hiện hữu trong thế gian này hoặc là để được cải thiện hay là nhờ họ mà những kẻ lành có thể luyện tập đức nhẫn nại" (Th.Augustine).
Bài đọc thứ nhất, trích từ Sách Khôn Ngoan, cũng nói về sự nhẫn nại của Chúa, với thánh thi ca ngợi sức mạnh của Chúa: "Nhưng dầu Chúa là chủ tể sức mạnh, Chúa xét xử nhân hậu, và Chúa cai trị chúng con với nhiều khoan dung,.. . Và Chúa đã dạy dân Chúa, bằng những việc làm này, là những kẻ công chính phải ở hiền lành, và Chúa ban cho con cái Chúa điều kiện tốt để hy vọng Chúa cho phép sám hối vì tôi lỗi của họ."
Hơn nữa, sự nhẫn nại của Chúa, không phải là một sự nhẫn nại đơn giản, nghĩa là chờ tới Ngày Phán Xét và lúc đó phạt theo thoả thích. Đó là sự nhẫn nhục, lòng thương xót và ý muốn cứu vớt. Do đó, trong Nước Chúa, không có chỗ cho những tôi tớ không biết nhẫn nại, cho những người không làm gì hơn là kêu xin Chúa phạt và thỉnh thoảng chỉ cho Chúa con người Chúa phải đánh.
Một ngày kia Chúa Giêsu quở trách hai môn đệ của Người muốn lửa mưa từ trời xuống trên những kẻ đã không tiếp rước Người (Lc 9:55). Có lẽ cũng phải quở trách như vậy đến một số người quá sốt sắng đòi công lý, hình phạt và báo oán những kẻ giữ cỏ lùng của thế gian.
Sự nhẫn nại của ông chủ ruộng cũng được chỉ như một gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta phải chờ mùa gặt, nhưng không phải như những đầy tớ khó kiềm hảm, giữ chặt cái liềm, dường như nóng lòng thấy gương mặt của những kẻ dữ trong Ngày Phán xét. Ngược lại, chúng ta phải chờ như những người coi ý muốn của Chúa là của mình, là "tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý " (1 Tim. 2:4).
Do đó, một lời kêu gọi sống khiêm tốn và nhân hậu, là điều được gặt hái từ dụ ngôn hột giống và cỏ lùng. Chỉ có một đồng ruộng đúng đắn và cần thiết để nhổ ngay cỏ lùng, đó là từ chính lòng của mình!
Đức Ông Nguyễn Quang Sách
-------------------------------
Dẫn nhập đầu lễ :
Kính thưa cộng đoàn, sứ điệp phụng vụ của Chúa Nhật XVI hôm nay gọi mời chúng ta chiêm ngưỡng nét từ bi nhẫn nại của Thiên Chúa trong khi Ngài chăm sóc “thửa ruộng Nước Trời” của Ngài, để đợi chờ ngày “Thửa ruộng” ấy sạch hết cỏ lùng và lau lách, ngày của buổi “Cánh chung” mà Nước Trời sẽ là thửa ruộng chín vàng đồng toàn những bông hạt tốt xinh.
Trong khi nhẫn nại đợi chờ “ngày mai tươi sáng” ấy, sống mầu nhiệm “Nước Trời” giữa đời thường hôm nay phải là một nỗ lực không ngừng trở thành viên men hạt muối, đó chính là thực thi điều thiện và đẩy lùi sự dữ trong sức mạnh và khôn ngoan của Thánh Thần, dưới ánh sáng và theo con đường của chính Đức Kitô.
Giờ đây, để xứng đáng cử hành thánh lễ, chúng ta cùng thú nhận tội lỗi.
Giảng Lời Chúa :
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Nếu Chúa Nhật tuần trước, hình ảnh “Người Gieo Giống” bất chấp nắng nôi sỏi đá, gai góc phủ đầy giăng mắc khắp nơi, vẫn tung gieo hạt giống Lời Chúa trên khắp cánh đòng trần gian và nắm chắc một mùa bội thu ở cuối trời hy vọng. Thì Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay, lại khắc họa một “Người Gieo Giống” nhẫn nại, bao dung, sẵn sàng đối mặt, và nhiều khi, chấp nhận sánh bước với những “cỏ lùng” tai ác hiện diện tràn lan trong “Thửa ruộng Nước Trời”, sẵn sàng chờ đợi để mở những con đường sao cho “cỏ lùng bật gốc” để trở thành những cây lúa tốt tươi. Nếu không như thế, thì cũng phải đợi cho đến phút tận cùng mới thực thi án xử công minh rạch ròi : lúa tốt thì vào kho và cỏ lùng thì vô lửa…
Như thế, chúng ta có thể đọc thấy dụng ý đầu tiên của sứ điệp Lời Chúa hôm nay đó là
1. Mặc khải dung mạo từ ái của Thiên Chúa :
Nội dung nầy đã được nhấn mạnh ngay từ trích đoạn của sách Khôn Ngoan mà chúng ta vừa nghe Bài đọc 1 công bố :
“Nhưng Chúa xử khoan hồng
Vì Ngài làm chủ được sức mạnh.
Ngài lấy lượng từ bi cao cả
Mà cai quản chúng con…
Làm như thế Chúa đã dạy dân rằng :
Người công chính phải có lòng nhân ái
Ngài đã cho con cái niềm hy vọng tràn trề
Là người có tội được Ngài ban ơn sám hối.”
“Thiên Chúa chậm bất bình và giàu lòng nhân ái” : Chân lý nầy thật sự đâu phải lần đầu được mặc khải nơi đây. Từ thuở hồng hoang thời Cụ Tổ Áp-ra-ham, Thiên Chúa đã nói với chúng ta “sự thật hi hữu” nầy qua câu chuyện mặc cả của Áp-ra-ham với Gia-Vê Thiên Chúa về việc xử phạt thành Sô-đô-ma : “Nếu trong thành có 50…45…40…30…20…10 người lành, Chúa có phạt không ? “. Thiên Chúa sẵn sàng chờ đợi để Áp-ra-ham tìm cho đủ số 10 người lành…Nhưng cuối cùng, lòng nhẫn nại và khoan dung phải nhường chỗ lại cho công lý. Sô-đô-ma phải được thanh luyện để trả lại sự thánh thiện cho Thiên Chúa. (St 18,22-33). Chúng ta cũng đừng quên câu chguyện “thờ bò vàng” của dân Ít-ra-en vào thời Mô-sê dẫn đưa họ trở về Đất Hứa : “Ta đã thấy dân nầy rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng…”. Lại một Mô-sê can gián, và “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Chúa như Người đã đe”. (Xh 32,7-14).
Nếu mặc khải cựu ước vẫn thường có khuynh hướng khắc họa dung mạo Thiên Chúa là một Đấng Toàn Thánh cao cả, một Thượng Đế cao vút tầng mây sẵn sàng biểu lộ oai phong nghiêm khắc; thì chúng ta vẫn tìm thấy cái cốt lõi của chân lý nầy lại là mặc khải một “Thiên Chúa luôn đầy lòng thành tín và rất mực yêu thương, chậm bất bình và hay thương xót”. Và đó, chính là trọng tâm của mặc khải Tân ước nơi Con Người và Sứ điệp của chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Quả thật, với mầu nhiệm của Đấng ‘Emmanuel”, Thiên Chúa đã thật sự “cắm lều ở giữa chúng ta”, đã chung đụng, cọ xát, sẵn sàng chấp nhận cái hư hèn, yếu đuối, tội lỗi của con người.
- Nơi hang BêLem; Người đã ở giữa đàn súc vật.
- Nơi mái nhà Na-da-rét : Người đã ở giữa đám thợ thuyền mạt hạng.
- Trên những nẽo đường xứ Palestina : Ngài đã ở giữa những tên thu thuế, những kẻ tội lỗi, những người phong cùi, đĩ điếm…
- Đấng đã từng tuyên ngôn về lòng nhân hậu của Thiên Chúa như người cha chờ đợi đứa con hoang trở về, thì cũng chính Đấng ấy, bằng cái nhìn yêu thương đã gọi Giakê từ trên cây sung trèo xuống đổi đời, gọi Matthêô bỏ bàn thu thuế để ra đi rao giảng Tin Mừng…
- Đấng đã từng tuyên ngôn về dụ ngôn “Con chiên lạc”, cũng là Đấng nói với người thiếu phụ ngoại tình bị bắt quả tang và bị xét xử : “Phần Ta, ta không kết tội chị đâu. Hãy trở về và đừng phạm tội nữa”
- Đấng đã từng trả lời cho Phêrô : “Phải tha cho anh em không phải 7 lần, nhưng là 70 lần 7 lần”, đã dùng ánh mắt nhân từ nhìn Phêrô trong đêm bị nộp để thứ tha, và sau đó, khi hấp hối trên thập giá, đã trả lời cho tên trộm bị đóng đinh bên hữu : “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”…
Vâng, đó chính là sự thật về dung mạo của Thiên Chúa mà Đức Kitô muốn mặc khải cho con người. Chính “sự thật” nầy, đã cho chúng ta hiểu được : Lịch sử cứu rỗi là một “chuyện tình dài” giữa Thiên Chúa và Dân Ngài, giữa Thượng Đế thánh thiện Tối Cao và nhân loại yếu đuối mõng dòn, một chuyện tình có đủ “hỉ nộ ái ố”, có phản bội chối từ, có đọa đầy đánh phạt, có tha thứ khoan dung và có trở về sám hối.
Và chính chân lý nầy, sẽ là chìa khóa để chúng ta hiểu được ngụ ý thứ hai trong sứ điệp Lời Chúa hôm nay:
2. Nước trời, thực tại của ngày sau hết :
Tin một Thiên Chúa khoan dung nhẫn nại như thế có mâu thuẩn với chân lý Thiên Chúa là Đấng Thánh toàn năng không ? Vì cũng đã có không ít người phủ nhận Thiên Chúa, chối từ sự hiện hữu của Ngài, khi lập luận rằng : “Không thể có Thiên Chúa tốt lành mà đồng thời lại có sự ác”. Hay một lập luận khác : “Nếu quả thật Thiên Chúa hiện hữu, thì Ngài chính là kẻ đang dung túng hay bất lực trước sự Ác. Một Thiên Chúa như thế không đáng để cho tôi nhìn nhận và tôn thờ”. Quả thật, khi đối diện với những thảm cảnh xảy ra hằng ngày trên thế giới : Những trẻ thơ, những dân lành bị giết cách cách vô tội và tàn khốc bởi những cuộc khủng bố tự sát; những cuộc chiến tranh dã man, những đồi bại phong hóa, những tội ác ghê rợn : con giết cha, vợ chém chồng….đã khiến không ít người trong chúng ta đâm ra hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Làm sao Chúa lại cứ để những chuyện oái ăm như thế xảy ra hoài. Sao Ngài không ra tay “nhỗ sạch những cỏ lùng tai ác đó đi ?”. Chính dụ ngôn “Cỏ lùng trong ruộng lúa” mà chúng ta vừa nghe trong trích đoạn Tin Mừng Matthêô sẽ là câu trả lời “dứt dạc” của Đức Kitô cho vấn nạn trên.
Quả thật, Thiên Chúa chính là “Người Gieo Giống” dày kinh nghiệm và cũng đầy trách nhiệm. Ngài luôn quyết tâm bảo vệ “Ruộng lúa Nước Trời” mà Ngài đã đầu tư bằng tất cả tình yêu và sự khôn ngoan tuyệt đối. Chắc chắn Ngài sẽ không để cho một “thế lực đen tối’ nào phá hủy công trình tuyệt vời mà Ngài đã dày công thực hiện. Khi Đức Giêsu tiến vào trần gian công khai rao giảng và thiết lập Nước Trời, nhất là khi Ngài chấp nhận bị treo trên thập giá, đó chính là lúc “quyền lực của sự dữ bị ném ra ngoài”, sức mạnh của ơn cứu độ và tình yêu Thiên Chúa đã đến lúc chiến thắng. Tuy nhiên, đó là cuộc chiến thắng tiệm tiến, từ từ, không ầm ĩ, rầm rộ như “một cây đang đổ” nhưng âm thầm, nhẹ nhàng thẩm thấu tận những miền sâu thẳm của trái tim như “một cánh rừng đang mọc”; hay nói theo ngôn ngữ dụ ngôn hôm nay, như viên men trong bột, như hạt cải nhỏ vùi sâu trong lòng đất. Vâng, sức mạnh của ơn cứu độ, sức mạnh của tình thương, sức mạnh của “Nước Trời”, sẽ từ từ lớn lên trong cõi lòng mỗi người, trong trái tim của tất cả nhân loại để triệt tiêu dần dần thế lực của sự Ác, của hận thù chia rẽ, của chiến tranh khủng bố, của xảo trá bất công, của vô luân đồi bại…Chúa Kitô hôm nay một lần nữa nói với chúng ta rằng : Thế giới rồi đây sẽ trở thành một thúng bột được “dậy men Tin Mừng”, sẽ trở thành “cây cao bóng cả” để khắp dân thiên hạ cùng bay về núp bóng hoan ca.
Cũng chính trong viễn tượng cánh chung nầy mà chúng ta hiểu được thế nào là đồng lõa dung túng, thế nào là nhân ái từ bi. Thiên Chúa không đồng lõa với sự ác, nhưng vì tình thương, người khoan dung nhân hậu, đợi chờ hoán cải, mở đường sám hối ăn năn. Chúng ta đừng quên câu chuyện khá dí dỏm để minh họa cho chân lý nầy trong sách Giona (Gn 4,1-10)
3. Thửa ruộng Nước trời là chính lòng tôi :
Thế giới hôm nay quả thật là một thửa ruộng lớn mà lúa tốt đan xen với cỏ lùng đua nhau phát triển. Đó là một thế giới mà theo ngôn từ của Công Đồng chung Vatican II trong Hiến chế Vui Mừng và hy Vọng “vừa mạnh vừa yếu, có khả năng thực hiện những điều tốt đẹp nhất hoặc xấu xa nhất, và trước mặt nó là con đường dẫn tới tự do hoặc nô lệ, tiến bộ hoặc thoái hóa, huynh đệ hoặc hận thù…”. Đứng trước một thế giới như thế, sứ mệnh của mỗi người Kitô hữu đó chính là nỗ lực đẩy lùi sự dữ, chung tay kiến tạo Nước trời. Nói theo ngôn từ của Đức giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, đó chính là công cuộc xây đắp “nền văn minh tình thương và sự sống” để thay thế cho nền văn minh xây dựng trên hận thù và sự chết.
Công cuộc đó chỉ được khởi đi từ bản thân mỗi người. Bởi vì, cõi lòng mỗi người cũng chính là một thửa ruộng chất chứa cỏ lùng tính hư tật xấu đan xen với sự tốt lành nhân đức. Phải nỗ lực thánh hóa bản thân mỗi ngày bằng những quyết tâm :
- Không cố chấp khước từ tình thương của Thiên Chúa (Nhìn vào mẫu gương của Giuđa và Phêrô)
- Hãy để Chúa Thánh Thần nói tiếng nói quyết định (BĐ 2)
- Khiêm hạ âm thầm thực thi những giá trị Phúc âm để trở thành men muối giữa cuộc đời.
- Kiên trì nuôi giữ niềm hy vọng chiến thắng cuối cùng của sự thiện trên sự ác, của lúa tốt trên cỏ lùng, của tình thương cứu độ của Thiên Chúa trên bóng tối của quỷ ma.
Và như thế, một ngày không xa, Mùa xuân Cứu thế sẽ chợt về để tất cả hân hoan ca hát : “Người đi trong nước mắt, đem hạt lúa gieo trong ruộng mình. Người về miệng vui ca tay ôm bó lúa lòng mừng bao la”.
LM Giuse Trương Đình Hiền
CHUYỆN: TIN VÀ KHÔNG TIN
Một người đàn ông đi vào tiệm hớt tóc quen thuộc để cắt tóc và cạo râu như thường lệ. Ông ta bắt đầu buôn chuyện với người thợ phục vụ cho mình. Họ nói đủ thứ chuyện trên đời, rồi vô tình họ nói đến đề tài về Chúa. Người thợ cắt tóc nói: “Tôi chẳng tin trên đời này có Thượng Đế như ông đã nói”. Người khách hỏi lại: “Sao ông lại nói thế ?” Người thợ cắt tóc bảo: “Chuyện đó cũng dễ thôi, chỉ cần ông bước ra đường là thấy ngay trên đời này chẳng có Chúa. Nếu thực sự Ngài có tồn tại thì tại sao trên đời này lại có nhiều người bệnh tật như vậy ? Sao còn rất nhiều trẻ em bị bỏ rơi. Nếu có Chúa, trên đời này sẽ chẳng có đau khổ. Tôi không thể nghĩ nỗi là Chúa nào lại chấp nhận nhìn những cảnh đó xảy ra”.
Người khách lặng im suy nghĩ nhưng rồi ông không nói gì vì không muốn câu chuyện trở thành cuộc khẩu chiến. Người thợ cắt tóc làm xong công việc của mình và vị khách hàng bước ra khỏi tiệm. Vừa ra ngoài ông liền nhìn thấy một người đàn ông trên đường tóc tai râu ria bù xù ( như thể đã lâu lắm rồi ông ta không cắt tóc cạo râu vậy, trông rất bê bối ). Người khách liền quay lại cửa tiệm và nói với người thợ cắt tóc: “Ông biết gì không ? Trên đời này làm gì có thợ cắt tóc !”
Người thợ cắt tóc cự lại ngay: “Sao lại không ? Tôi đang ở đây và tôi là thợ cắt tóc !” Vị khách trả lời: “Không hề, nếu có thợ cắt tóc thì sao vẫn còn những người tóc tai, râu ria bù xù như người đàn ông đang đi trên đường kia ?”. “À, thợ cắt tóc thì có chứ, chỉ tại những người kia không chịu đến tiệm cắt tóc mà thôi”. “Chính xác !” Vị khách như chỉ đợi câu nói đó. “Đó là điều mà tôi muốn nói. Thượng Đế có tồn tại, chỉ là người ta không tin và không tìm đến Ngài mà thôi. Đó là lí do vì sao trên đời này lại có nhiều khổ đau đến như vậy !”
Lạy Chúa ! Xin thêm Đức Tin cho chúng con, để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Maria Magdalena BÍCH VÂN, trích từ “Tiếng gọi yêu thương”
-------------------------------
Dụ ngôn hạt giống tốt và cỏ dại, là cơ hội tốt để chúng ta suy niệm về sự thánh thiện của Giáo Hội. Thực vậy Giáo Hội giống như một thửa ruộng lớn nơi đó chủ đã gieo hạt giống tốt, là sự thánh thiện, nhưng người ta cũng thấy mọc cỏ dại là tội lỗi. Chúa giải thích dụ ngôn bằng cách ứng dụng trực tiếp hơn vào thế giới. Hạt giống tốt là thần dân Vương quốc và cỏ dại là những kẻ theo kẻ dữ. Chủ không muốn hành động mạnh chống lại những kẻ làm dữ, vì muốn tránh gây thương tổn cho những ai cố gắng trung thành với điều thiện, nhưng dụ ngôn cũng gợi ra câu hỏi khác mà chúng ta dùng làm đề tài suy niệm: làm sao trong Giáo hội của TC có lẫn lộn thánh thiện với tội lỗi?
1) Giáo Hội thánh thiện tự bản thể, trong cội rễ, trong nhựa sống, trong sự tăng trưởng. Nhưng Giáo Hội được tạo bởi những người có tội. Giáo Hội bắt rễ nơi Đức Kitô, nhựa sống là sự sống của Đức Kitô. Qua Giáo Hội, chính Đức Kitô lớn lên trong nhân loại. Nhưng nhân loại ấy làm bằng những con người yếu đuối. Một đàng những con người ấy giống như gié lụa mà không có cái nào chín ngay được, không có ai hoàn thiện trong tình trạng hiện thời. Đàng khác có những người tuỳ thuộc số hạt giống tốt của TC, nhưng vì có tự do, nên có thể biến đổi thành hạt giống của ma quỷ. Giáo Hội chịu sự giằng co bên trong, khi vừa thánh thiện nhờ tất cả động lực của nguồn gốc mình, vừa khổ vì tội lỗi của những người họp thành mình. Bởi đó mới có sự kiện lạ lùng: không ai có thể bắt bỏ Đức Kitô được một tội nào trong khi Giáo Hội Đức Kitô gồm bằng những tội nhân. Nhưng cũng phải nói luôn rằng Đức Kitô cấu tạo Giáo Hội thánh thiện bởi sức mạnh thánh hoá của Ngài. Trong tư cách GH, Giáo Hội thánh thiện nhờ sự kết hiệp với Đức Kitô nhờ Giáo lyý của mình, nhờ ác phép bí tích và cũng nhờ lưu lực thánh thiện đang biến cải các người tội lỗi. Giáo Hội như một linh hồn thánh, không ngừng hồi sinh một thân thể bệnh tật và thương tích. Điều nên kinh ngạc không phải là việc Giáo Hội đang sự khốn cùng của tội lỗi, nhưng là nghị lực của Giáo Hội để thúc đẩy sự thánh thiện.
2) Thực tại của Giáo Hội vượt ra ngoài các giới hạn của hiện tại chúng ta và của lịch sử quá khứ. Khi nói đến tội lỗi bên trong Giáo Hội (các lầm lỡ, các lạm dụng, các sai lầm…) người ta nghĩ đến Giáo Hội thời quá khứ, hay nghĩ đến Giáo Hội hiện đại. Tuy nhiên, phải nghĩ đến Giáo Hội toàn diện, từ khởi sự sẽ tiến tới hoàn thành, Giêrusalem trên trờ mà thánh Gioan nói đến. Khi sống thời hiện tại của Giáo Hội, chúng ta hãy sống viễn tượng và trong niềm kiêu hãnh chính đáng về Giáo Hội bất tử. Hãy tránh một thứ tâm trạng khổ dục, ưa thích một cách bệnh hoạn vạch rõ những gì yếu đuối và tội lỗi trong Giáo Hội hiện đại. Trái lại hãy dựa cách suy tư và cảm nhận của chúng ta trên hành động tích cực của Đức Kitô hằng sống. Trong Giáo Hội, từ Đức Giáo Hoàng cho đến người tín hữu khiêm nhường nhất, Ngài gợi lên lòng quảng đại, tăng cường lòng tin tưởng, thúc đẩy các sáng kiến, nâng đỡ lòng can đảm và ban cho các Kitô hữu chân chính khuôn mặt của những kẻ chiến thắng, những người sống mạnh, những người được giải cứu.
-------------------------------
Đôi khi có vẻ như Thiên Chúa sẽ dùng cái lưỡi hái của Người để cắt đi tất cả những cỏ dại mọc trong xã hội của chúng ta. Điều đó sẽ là một điều may phúc lớn lao nếu Thiên Chúa loại trừ khỏi chúng ta những kẻ phá thai, những đứa trẻ vô giáo dục, mấy tay nát rượu, những trùm du đãng, những kẻ giết người hàng loạt, những nhà độc tài… và tất cả những người lạm dụng sự tốt lành và giá trị nhân bản. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Vì sao nó đã không xảy ra? Sách Khôn ngoan nói với chúng ta rằng Thiên Chúa cho con người niềm hy vọng. Người sẽ cho phép họ thống hối tội lỗi của họ. Nói cách khác, Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi. Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của chúng ta. Người coi sự tự do của chúng ta là một tặng ân quý giá khiến Người phải chịu đựng sự dữ, ít nhất là cho đến ngày phán xét. Thiên Chúa sẽ không cưỡng bách bất cứ ai tránh sự dữ và làm điều lành nhưng Người muốn cho tất cả mọi người chúng ta có đủ thời giờ để thống hối và thay đổi cuộc sống của chúng ta.
Loại lúa mì được trồng nhiều ở miền Palestina, lúc còn nhỏ rất khó phân biệt với cây cỏ. Đây là sự thật ẩn trong câu căn dặn: “Khi nhổ cỏ, các anh sẽ nhổ cả lúa mì lẫn trong cỏ”. Người Anh khi chuyển dịch dụ ngôn này đã dùng những từ ngữ giúp minh họa được ý nghĩa của dụ ngôn, nhưng khi lắng nghe tiếng Anh thì rất khó phân biệt giữa hai từ “Wheat và Weed”.
Chúng ta có thể dễ dàng xét đoán một người nào hay một điều gì là sự xấu mà chịu đựng nó thì không thể chấp nhận được theo quan điểm của chúng ta. Đó có thể là một sai lầm nghiêm trọng. Sự thật là chúng ta không có quyền xét đoán tội lỗi của bất cứ ai. Quyền này thuộc về một mình Thiên Chúa. Phá thai là một tội trọng, tội mà Công đồng Vaticano II gọi là “tội không thể nói gì hơn nữa”. Tuy vậy, nhưng có những người phá thai vẫn chưa dứt khoát, mù mờ, lẫn lộn hoặc bị ép buộc, trong trường hợp đó tội của họ được giảm nhẹ cách nào đó. Mặc dầu xã hội của chúng ta đã bị đầu độc bởi một tai họa, là từ chối nhận lãnh trách nhiệm và những dự định bào chữa cho mọi loại xấu xa. Chúng ta không có quyền kết án một người nào, chỉ có hành động là xấu mà thôi.
Thực tế thì rắc rối lắm. Ngay trong Giáo hội dù Giáo hội được xác định là thánh thiện, chúng ta đã kinh nghiệm những gương mù, gương xấu rồi. Có những cỏ dại ngay trong cánh đồng của Giáo hội. Chúng ta đau buồn khi nghe những gương mù trong Giáo hội nhưng những điều xấu xa ấy không làm cho chúng ta ngạc nhiên vì ngay mười hai tông đồ chính Chúa Giêsu đã chọn, cũng có một người phản bội. Chúa Giêsu không loại trừ Giuđa trong khi phát giác ra những hành động gian dối hay những tư tưởng xấu của ông. Người không nhổ cỏ, cỏ đó là Giuđa, khỏi những cây lúa mì là những tông đồ khác.
Những người lãnh đạo quân đội hay cầm đầu chính trị sẽ loại trừ kẻ thù của mình ngay khi vừa phát giác ra họ. Nhưng Thiên Chúa thì không như thế. Cách thế của Thiên Chúa được diễn tả trong bài ca Thánh Vịnh của chúng ta: “Lạy Chúa, Chúa là Đấng nhân từ và hay tha thứ”. Chính chúng ta may mắn khi Chúa thì nhân từ và hay tha thứ. Ai ở trong thế giới này là người vô tội? Ai là lúa mì trong sạch mà không pha trộn một chút cỏ dại? Chúng ta có muốn Thiên Chúa đem chúng ta ra khỏi thế gian này để diện đối diện với Người trong công minh khi mà cánh đồng đời sống của chúng ta vẫn còn những cỏ dại không? Chúng ta không nhận biết rằng sự mời gọi chúng ta đến dự tiệc Thánh Thể là dấu hiệu sự kiên nhẫn của Thiên Chúa dành cho chúng ta ư? Người không đòi hỏi chúng ta phải hoàn hảo trước khi nhận lãnh Mình và Máu Con của Người, hiệp lễ chúng ta sẽ ý thức rằng đó không phải là một phần thưởng cho người đã tốt nhưng có nghĩa là để trở nên tốt.
Thiên Chúa thì kiên nhẫn với mỗi người trong chúng ta nơi cuộc sống đầy đấu tranh này, và Người kiên nhẫn với hết mọi người sống trong thế giới này. Chỉ đến ngày Tận thế. Người mới sai các thiên thần nhặt lấy cỏ mà đốt đi và thu lúa mì vào kho lẫm của Người.
-------------------------------
Đây là một bài học thực tiễn; chấp nhận sống trong một thế giới mà nơi nào cũng có kẻ tốt người xấu, lúa và cỏ lùng.
Dầu sao thì cũng khó chịu đến nỗi chúng ta hăng hái muốn nhổ cỏ lùng! Chúa Giêsu nói với những người không kiên nhẫn này: tại sao có nhiều kẻ bất lương đến thế? Thiên Chúa chờ đợi gì mà không loại trừ họ? Đúng như Gioan Tẩy giả nghĩ về Đấng Cứu Thế như là một vị đầy quyền năng quét sạch mọi sự ác: “Các ngươi sẽ thấy! Ngài cầm nia trong tay mà sẩy sạch sân lúa của Ngài, Ngài thu vén lúa vào kho còn rơm rạ Ngài ném vào lửa” (Mt 3,12).
Chúa Giêsu phải làm dịu những người không kiên nhẫn. Và chúng ta nữa! Phải, sẽ có sự chọn lọc vào ngày tận thế, và chỉ một mình Thiên Chúa thực hiện sự chọn lọc này.
Có lúc chúng ta làm như mình là Thiên Chúa: “Đây là những người tốt! Còn đây là những người xấu, bỏ vào lửa! Luôn luôn có sự cám dỗ này nơi những người Kitô hữu tốt nhất: cùng nhau tạo nên một đồng lúa tươi đẹp. Đáng tiếc là có nhiều cỏ lùng trên thế giới nhưng ít nhất chúng ta làm sạch đồng lúa của chúng ta, sống giữa những tín hữu đích thực, giữa những người trong sạch và có giáo dục. Chúng ta mơ ước về một Giáo hội gồm những người trong sạch, một giáo sứ trong sạch, một cộng đoàn trong sạch, một gia đình trong sạch. Chúng ta hãy nhổ cỏ lùng!
Ở đây chúng ta đứng trước một khuynh hướng bè phái nguy hiểm: chỉ có những người thiện nguyện và những người được chọn, những người được đào tạo, không có những người xử sự sai lầm, không có những người yếu đuối, không có những người tin nửa vời. Chắc chắn có những nhóm người đồng nhất rất sùng tín, anh hùng. Đây là trường hợp điển hình của bước đầu trong các dòng tu. Nhưng biết bao thế giơí nhỏ được chọn đang rình mò do tính kiêu ngạo cho mình là cây lúa tốt: chúng ta đang ghét cỏ lùng ở trong đó.
Chúa Giêsu nhìn Giáo hội theo một cách hoàn toàn khác. Đó là một dân tộc rộng mở và kiên nhẫn, một dân tộc bao gồm những người tốt và những kẻ gàn dở, một dân tộc của sự khiêm nhu và sự hy vọng.
Khiêm nhu. Bạn là ai mà muốn chọn lọc cỏ lùng! Bạn tin rằng mình là đồng lúa chăng? Có thể lắm chứ, nhưng đó là một cánh đồng pha trộn. Bạn hãy xét con tim và những hành vi của bạn, bạn sẽ chịu đựng tốt trong thế giới và quanh bạn hơn là những người khác cũng là một sự pha trộn thánh.
Hy vọng. Sự pha trộn này là một niềm hy vọng. Không có ai hoàn toàn xấu. May thay, tất cả mọi ngươì đều có thể thăng tiến cho tốt hơn! Khi người ta kiên nhẫn chấp nhận chúng ta cùng với cái xấu của chúng ta, chúng ta có cơ may thăng tiến cho tốt hơn. Và khi chúng ta chấp nhận cỏ lùng nơi người khác, thì chúng ta tiếp xúc với họ và có thể giúp họ trở thành cây lúa. Dụ ngôn về sự nhẫn nại này là một dụ ngôn tuyệt vời về sự tiến bộ.
-------------------------------
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Về Nước Trời thì cũng in như người kia": Trong lúc dụ ngôn người gieo giống có thể tóm tắt bằng mấy chữ: việc nảy mầm của Nước Trời sẽ gặp nhiều thất bại đau đớn; thì dụ ngôn cỏ lùng lập tức đi tiếp theo và đặt ngay câu hỏi: các thất bại, các sự chống đối Nước Trời, cái công việc của Thần dữ đó phải chăng không thể bị dẹp bỏ ngay lập tức? Cả hai đều cố gắng đánh đổ lòng nao nức trông chờ Đấng Thiên sai ra tay, dụ ngôn người gieo giống thì bằng cách xác quyết rằng không thể tránh được việc một phần lớn hạt giống bị mất đi; còn dụ ngôn cỏ lùng thì bằng cách khẳng định: đừng hành động trước thời gian, đừng muốn dẹp bô công việc của Thần dữ trước mùa gặt. Xin nhớ là vào thời Chúa Giêsu, sự nóng lòng này đã khiến người ta tin rằng việc giải phóng dân thánh và việc tiêu diệt quân vô đạo sẽ xảy ra ngay lập tức (x. các Thánh vịnh của Salomon và các bản văn Qumrân). Do đó họ không thể nghĩ là có việc chống đối lại Đấng Cứu thế (dụ ngôn người gieo giống) và việc chung sống, lâu dài với sự dữ trong thời Đấng Messia (dụ ngôn cỏ lùng).
(Chú thích về các công thức nhập đề của các dụ ngôn):
Như các dụ ngôn đương thời, dụ ngôn của Chúa Giêsu xuất hiện dưới hai hình thức căn bản:
1/ Những dụ ngôn bắt đầu với một tiếng chủ cách (nominatif) (chủ từ): đó là các câu chuyện đơn giản không có động thức nhập đề, ví như dụ ngôn người gieo giống ("Này người gieo giống đi ra gieo lúa").
2/ Những dụ ngôn bắt đầu với một tiếng ở dữ cách (datif) (tức từ gián tiếp) tương đương với chữ "Le" trong tiếng Aram. Đa số dụ ngôn của các giáo sĩ bắt đầu với các chữ ấy: MashalLe (người ta hay gặp chẳng hạn: Mashal. Le mélék shé: “Một dụ ngôn. Giống như ông vua kia..."). Ngữ điệu đó là một cách nói rút gọn, hay một lối viết tắt của câu émshol Lekha, Úlashal. Le ma haddabhar dom? Le... = "Tôi muốn kể cho anh một dụ ngôn. Tôi sẽ so sánh sự vật với cái gì? Thì nó cũng giống như... ". Thỉnh thoảng người ta thay thế ngữ điệu dài dòng đó bằng một tiếng dữ cách duy nhất.
Trong các dụ ngôn của Chúa Giêsu, ta gặp một công thức nhập đề dài ở dữ cách nơi các câu hỏi đi trước dụ ngôn của Mc 4, 30 tắt: "Làm sao mà so sánh Nước Thiên Chúa hay lấy gì mà ví nó được? Thì cũng như..." hoặc của Lc 13, 20t: "Ta sẽ lấy gì mà so sánh Nước Thiên Chúa?".
Tương ứng với công thức vắn với dữ cách khởi đầu, là các chữ hôs, hôsper, "như" viết ra tiếng Hy lạp là homoiôthêsetai, homoiôthê, homoios estin, "giống như"; trong căn ngữ của 5 công thức này, cũng có cùng một giới từ Aram là "Lc". Như vừa nói, chữ "Le" này là một lối viết tắt, nên không chỉ được dịch là "giống như song là: "Về... thì cũng giống như...". Trong nhiều trường hợp, chính nội dung của dụ ngôn buộc ta phải để ý đến lối viết tắt của công thức nhập đề đó, vì công thức này thay đổi điểm ta muốn so sánh. Trong Mt 13, 45, Nước Thiên Chúa rõ ràng là không "giống như người thương gia", mà giống như "viên ngọc quí"; trong Mt 25, 1, nó không "giống như mười trinh nữ" mà giống như bữa tiệc cưới; trong 22, 2 nó không "giống như vua kia" mà giống như các cuộc vui ở tiệc cưới; trong 20,1 Nước Thiên Chúa không "giống như gia chủ" nhưng giống như việc trả lương; trong 13, 24, nó không "giống như ' người kia gieo giống tốt trong ruộng mình", mà giống như mùa gặt hái; trong 18, 23 nó không "giống như ông vua trần thế" mà giống như việc tính sổ. Trong mọi trường hợp trên, ta tìm ra điểm so sánh đích thực khi nhớ rằng: dưới thành ngữ Hy lạp homoios estin "giống như", tiềm ẩn một chữ "Le" Aram, mà ta phải dịch là: "Về.... thì cũng giống như..".
Nhận xét này cũng có giá trị đối với các trường hợp khác trong đó ta thường không thấy lối viết tắt của công thức nhập đề. Không thể dịch Mt 13,31 là "Nước Thiên Chúa giống như hạt cải..." mà phải dịch: "Về Nước Thiên Chúa thì cũng giống như hạt cải... ", vì chẳng phải với hạt cải mà Nước Thiên Chúa được so sánh, nhưng là với cây to lớn phát sinh từ hạt cải và làm chốn nương náu cho chim trời. Ở trong Mt 13, 33 cũng thế: Nước Trời không "giống như men" mà giống như bột dậy lên (coi Rm 11,16) và trong Mt 13,47 Nước Trời không được ví với chiếc lưới đánh cá, nhưng như việc lựa lọc cá bị mắc vào lưới.
"Hãy để chúng mọc lên cả hai cho đến mùa gặt": Trong suốt cả dụ ngôn, ông chủ luôn tỏ ra tự tín. Khi được hỏi về nguồn gốc cỏ lùng, ông không chút ngần ngại tuyên bố: cỏ lùng do kẻ thù gieo. Ông cũng tỏ ra tin tưởng vào giá trị hạt giống của ông, và biết chắc cỏ lùng sẽ không tài nào thắng thế. Kể cũng lạ khi ở đây hầu như không biết đến nguy cơ làm chết ngạt hạt giống tốt, cái nguy cơ đã được tỉ mỉ mô tả ở dụ ngôn người gieo giống trước (13,7).
"Một hạt cải": Tính cách nhỏ bé của hạt cải được đưa vào ngạn ngữ Palestine. Nhưng cây cải lại cao đến 2 hay 3 mét, đứng quanh vùng có thể thấy. Tuy nhiên dù cao lớn (arbuste), nó cũng không phải là cây (arbre) như dụ ngôn nói.
“Thành một cây”: Trong Cựu ước, cây có chỗ cho chim trời nương náu là một hình ảnh thường dùng để chỉ một vương quốc hùng mạnh bảo đảm được an ninh cho thần dân mình (Ed 17, 23 ; 31, 6 ; Đn 4, 9 ; 11, 18). Trong văn chương khải huyền, giáp sĩ hay targum, chim tượng trưng cho dân ngoại đến từng lũ, từng đoàn. Ở đây Mt nhấn mạnh đặc tính cánh chung của dụ ngôn (nhưng điều này không loại bỏ lối áp dụng có tính cách Giáo Hội học) khi phóng đại thân cây rau lớn (arbuste) thành một "cây to (arbre).
"Bà nọ lấy, vùi...": dịch sát chữ: che dấu", hạn từ này đưa về ý tưởng chủ yếu của cả phần này.
"Ba thúng bột": Đây là một khối lượng bột rất lớn, trên 39 lít, nghĩa là khoảng 60-70 ký lô. Con số ba thúng bột này. Khác hẳn lấy từ St 18. 6 ( x.Tl 6, 19 và 1 Sm 1, 24) là quá phóng đại vì lượng bột đó làm đủ bánh nuôi trên 150 người ăn ! Viễn ảnh dị thường của bữa ăn này xem ra muốn đưa ta nghĩ đến bữa tiệc cánh chung. Ở dây Matthêu nhấn mạnh tới hiệu lực của men, thứ có một sức mạnh lạ lùng như vậy. "Cho đến khi tất cả dậy men": hiệu lực của Nước Trời lan rộng đến toàn thể sức mạnh của nó thật vô song, dù bề ngoài xem ra yếu ớt.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói hết thảy các điều ấy với dân chúng, và Người không nói với họ điều gì mà lại chẳng dùng dụ ngôn": Trong văn mạch Mt, phải giới hạn nghĩa của chữ “hết thảy" vào lời giảng dạy của Chúa Giêsu về Nước Trời. Vì không phải bao giờ Người cũng nói bằng dụ ngôn; nhưng khi dạy về mầu nhiệm Nước Trời, thì Người luôn dùng thể văn ấy. Phần thứ hai của câu ngụ ý rằng Chúa Giêsu, để dạy về Nước Trời cho quần chúng, đã cẩn thận nói bằng dụ ngôn, hầu tránh mọi hậu quả tuyên truyền có tính cách thiên sai chủ nghĩa.
"Sấm ngôn của ngôn sứ": Matthêu bảo là một ‘ngôn sứ’ nhưng lại trích dẫn một tác giả Thánh vịnh, Asaph. Có thể ông nhớ Asaph ấy đã được gọi là "ngôn sứ" trong 2 Sk 29, 30 ; nhưng đúng hơn, có Iẽ ông quan niệm tất cả các sách Cựu ước đều có giá trị sứ ngôn... Thế mà sách thánh đã tiên báo Đấng Messia sẽ dùng dụ ngôn mà phán dạy.
“Con cái của Nước... con cái quỉ dữ ”: Cách phân chia nhân loại thành hai khi đối nghịch nhau đây rất thông dụng trong Do thái giáo đương thời. Ta thường gặp lối phân chia đó trong các văn tập của Qumrân. Chỉ khác một điều là: đối với Qumrân, nói kẻ lành đều ở trường phái của họ. Tất cả kẻ dữ là những người bên ngoài; còn ở đây cá hai đều sống lẫn lộn, và các môn đồ không có quyền tách rời họ ra.
“Cũng như người ta nhặt cỏ lùng...”: Trong dụ ngôn, trọng tâm nằm trên quyết định của ông chủ là để cỏ lùng mọc chung với giống tốt, trong lúc ở phần giải thích lại là đề tài mùa gặt tương lai, là số phận chung cục của cỏ lùng và lúa: trên 7 câu giải thích, đã có tới 4 câu nói về mùa gặt tương lai. Có lẽ Matthêu đã lan rộng một kết luận nguyên thủy vừa phải hơn của Chúa Giêsu, để đánh đổ một niềm vững tin tự đại có khuynh hướng lan tràn giữa Kitô hữu thời ông: việc gia nhập Giáo Hội chưa phải là được cứu độ cách dứt khoát; còn có cuộc phán xét sau cùng sẽ vô cùng khốc liệt đối với các Kitô hữu xấu xa.
KẾT LUẬN
Được bắt đầu với việc rao giảng Lời, Nước Trời thoạt tiên rất nhỏ bé khiêm hèn. Nó không áp đặt trên mọi tạo vật một cách hách dịch và ngay tức thời. Tình trạng hiện nay của nó còn hỗn tạp hồ đồ: kẻ lành người dữ đều triển nở trong nó. Và chỉ vào cuối cuộc hành trình dài đằng đẵng? được theo đuổi một cách âm thầm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Nước Trời âm ỉ quy tụ toàn thể vũ trụ trong Hòa bình của Chúa Kitô.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Người môn đồ Chúa Kitô sẽ chấp nhận hiện tại dễ dàng hơn nếu biết tin tưởng như đã nói vào tương lai. Họ biết rõ rằng các bước đầu thật khiêm tốn như thế (Giáo Hội luôn luôn là thiểu số trong trần gian) chỉ là các dấu chỉ bất tương xứng vai công trình một ngày kia sẽ hoàn tất. Họ hoàn toàn tin tưởng ở Thiên Chúa. Thiên Chúa há không thể biến sỏi đá thành con cái Abraham được sao, nghĩa là Ngài không thể từ hư vô mà gầy dựng nên một dân tộc, một dân cho riêng Ngài được sao (Mt 3, 9)? Cái nhìn của Thiên Chúa khác với cái nhìn của người đời các vật tầm thường đối với Ngài lại là to tát, và cái lớn lao trước mặt người đời đôi khi lại làm Ngài ghê tởm.
2) Người hoàn toàn phó thác cho Nước Thiên Chúa, để Nước Chúa biến đổi, tái dựng mình, thì đúng là men đích thực của môi trường họ sống. Cái sinh lực liềm tàng trong họ cũng xâm nhập vào mọi thứ chung quanh và lan tràn đến hết mọi người. Tình yêu ở trong một con người luôn chiếu dọi cho những kẻ chung quanh.
3) Hạt giống tốt đã được gieo đầu tiên và ở khắp nơi, thì hạt lúa tốt sẽ được gặt hái sau cùng và khắp mọi chốn. Cỏ lùng không phải là nguyên thủy và cùng đích, chẳng phải là alpha và omêga:- Alpha và Omêga chính là hạt lúa tốt vậy.
4) Cái nhìn của Kitô hữu về thế giới, về tha nhân phải là một cái nhìn tích cực. Không phải vì ta có mắt tốt hơn những người khác để phân biệt cỏ lùng với lúa tốt hay bàn tay tài khéo hơn để tách rời thứ này khỏi thứ kia. Nhưng vì cái nhìn của ta là một cái nhìn đức tin: ta biết hạt giống hôm nay đang triển nở mà không gì ngăn được vì ta tin vào Chúa Giêsu Kitô; nhưng niềm xác tín này ta được không phải nhờ một phân tích “khoa học" về lịch sử đâu. Ta chẳng thấy hạt giống tốt ưu thắng và sẽ không bị chết ngạt, nhưng ta tin diều đó. Niềm tin làm ta hy vọng mãnh liệt vào con người, sự vật, biến cố.
5) "Óc kỳ thị" không chết trong ta đâu. Ta vẫn luôn bị cám dỗ lên án hay loại trừ những kẻ xem ra chẳng có cùng quan niệm như ta về chân thiện mỹ.
6) Ta thường đặt câu hỏi như các đầy tớ trong dụ ngôn: Từ đâu mà có biết bao sự dữ trong trần gian? Tại sao thế giới không nên tốt hơn sau 20 thế kỷ Kitô giáo? Vì sao Giáo Hội vẫn luôn có những khuyết điểm sờ sờ như vây? Chúa Giêsu trả lời bằng cách cho thấy tính cách hàm hồ không thể tránh được của toàn thể tạo vật đang trên đường tiến về Nước Trời. Một tính cách hàm hồ phổ quát, lan tới các tập thể cũng như cá nhân, Giáo Hội cũng như tín hữu. Điều đó có nghĩa là chân, thiện, mỹ không hiện hữu ở tình trạng hiển nhiên, y như điều sai quấy, xấu xa. Không một ai, không một tập thể nào hoàn toàn phù hợp với Nước Trời, nhưng cũng chẳng ai xa lạ, chẳng bị khai trừ khỏi Nước ấy.
7) Thiên Chúa là Đấng kiên nhẫn: Ngài chịu đựng nhiều thế kỷ tội lỗi vì viễn ảnh rộng lớn của Ngài là ban ơn cứu độ cho ta (Rm 3, 26). Ngài ghét tội lỗi, nhưng yêu kẻ biết thống hối ăn năn dù tội lỗi đến đâu (Rm 2, 4). Nếu Thiên Chúa không kiên nhẫn, bây giờ ta ở đâu rồi?
8) Đức kiên nhẫn ấy cũng cần cho con người. Do đấy có nhiều yêu sách xem ra mâu thuẫn nhưng phải biết dung hòa: không dung túng sự dữ, song vẫn kính trọng nhân vị và khả năng hoán cải của tội nhân, vẫn bảo vệ các tâm hồn ngay chính khỏi nhiễm lây gương xấu, tà đạo, thái độ dửng dưng tôn giáo. Do đó ngay từ nguyên thuỷ, ta thấy Giáo Hội khi thì nghiêm khắc (1Cr 5, 3- 5) lúc lại thông cảm (1 Cr 5, 9-10) tùy hoàn cảnh cụ thể của các tâm hồn. Hai thái độ ấy đều chính đáng và cần thiết, dù theo một lường độ khó mà xác định. Chúng cũng đề phòng ta khỏi bị ảo tưởng đạt được những trạng thái dứt khoát rõ ràng ở đời này. Một cộng đoàn Kitô hữu lý tưởng trong đó chỉ có các thánh, chỉ gồm người công chính là một điều hão huyền. Nếu đường ranh giới phân chia sự dữ điều lành khá rõ ràng, thì lại rất lu mờ giữa kẻ lành người dữ (lấy quyền nào mà cho mình là "tốt"?). Vì kẻ sống trong tội lỗi hôm nay, mai ngày có thể trở nên một thánh Augustinô hay một Charles de Foucauld.
-------------------------------
Đức Giêsu trình bày cho dân chúng nghe một dụ ngôn khác: "Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng, vào giữa lúa, rồi đi mất.”
Vấn đề sự ác là vấn đề trầm trọng nhất trong mọi vấn đề và làm cho mọi người phải suy nghĩ. Ai trong chúng ta vấp phải sự ác trong da thịt mình, khi bệnh hoạn… trong lòng mình với mọi vết thương tình cảm... trong lương tâm khi bị tội lỗi cắn xé... trong gia đình, công việc của mình vì những khó khăn, trong quan hệ nhân bản... Trong thế giới vì những áp bức và bất công đủ mọi loại... Và cái chết? Đối với tất cả mọi người cái chết là biểu tượng không tránh khỏi.
Tại sao có sự ác trong thế giới này?
Chúng ta có sẵn sàng lắng nghe một trong những lời giải đáp khả hữu? Lời giải đáp của Đức Giêsu.
Theo cách thức đơn giản và không thể bắt chước được của Người, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta thấy lòng chúng ta như thế nào? Một cái nhìn hiện thực, không phải là giấc mơ hoang tưởng của những kẻ lạc quan, cũng không phải là sự chê bai có hệ thống và nhị nguyên thiện ác của những kẻ bi quan. Nhân loại là một hỗn hợp của thiện và ác, của “ân sủng" và "tội lỗi". Trong lòng của chính tôi, có cả hai...cái tốt và cái ít tốt hơn. Và trong mọi con người mà tôi gặp gỡ hoặc sống chung, có cả hai... điều tốt và điều ít tốt hơn. Nhưng như các bạn đã nhận thấy, có một sự khác nhau giữa thiện và ác. Hai người gieo hạt không ngang bằng nhau. Người này gieo hạt ban ngày còn người giao vào ban đêm, lén lút lợi dụng lúc người ta không để ý. Theo những bước chân của Đấng gieo hạt, một kẻ gieo hạt khác lén đến ban đêm để thêm cỏ lùng?
Lạy Chúa, khám phá được điều đó thật tốt cho con !.
Phải, chính Chúa, Đức Giêsu cho con biết rằng điều xấu ác trong con và trong những người khác không phải là khuôn mặt đích thật của chúng con... mà nó lẻn vào một cách lén lút, chúng ta không hay biết, trong những kẽ hở của vô thức. Trong lúc người ta đang ngủ, kẻ thù chợt đến... hắn gieo cỏ lùng... và bỏ đi!
Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện. Đầy tớ mới đến thưa chủ nhà rằng: Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?". Ông đáp: "Kẻ thù đã làm đó?” Đầy tớ nói: "Vậy ông có muốn chúng tôi đi gom lại không?” Ông đáp: Đừng! sợ rằng khi gom cỏ lùng các anh làm bật luôn rễ lúa..."
Trong lời đáp ấy, có điểm làm người ta ngạc nhiên, trong khi mà dụ ngôn "người gieo hạt" Chúa nhật vừa qua, rõ ràng Đức Giêsu đã nhấn mạnh trên nguy hiểm của loài cỏ dại có thể lâu ngày làm cây lúa chết nghẹt. Vậy chúng ta cần phải "lắng nghe" một cách sâu xa hơn nhiều... dụ ngôn, ẩn ngữ, ý nghĩa được che giấu.
"Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt...”
Đây là quyết định của "ông chủ cánh đồng". Thiên Chúa dành cho Người "sự phán xét" sau cùng. Trong lúc chờ đợi, Người yêu cầu chúng ta không nên "xét đoán". Thiên Chúa nhẫn nại hơn chúng ta. Tạm thời, Người chịu đựng cỏ lùng: đây là một biểu lộ lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa đối với chúng ta. Và chính tôi là người được hưởng lợi bởi sự nhẫn nại ấy của Thiên Chúa: chính trong lòng tôi rễ lúa mì và rễ cỏ lùng đan kết vào nhau.
Lạy Chúa là Chủ cánh đồng, Chúa đã chấp nhận nguy cơ của cỏ lùng nhẫn nại: mầm sự sống và hạt giống sự chết sẽ càng lớn lên.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi những thứ óc bè phái của chúng con, khỏi những phán đoán nghiêm khắc và vội vàng. Lạy Chúa, xin Chúa giải thoát chúng con khỏi sự khắt khe, những cuộc chiến tranh tôn giáo, những ý thức hệ đảng phái. Lạy Chúa, Chúa không muốn có một Giáo Hội của những người "Thanh khiết" những người thuần túy": Giáo Hội của Chúa là một tập hợp của những người tội lỗi. Chúng con... các Kitô hữu, chúng con không hơn gì những người khác. Với mọi người, với mọi kẻ tội lỗi ! Chúa cho họ cơ hội để có thể trưởng thành, để có thể hoán cải.
Tôi có thể áp dụng dụ ngôn này vào những hoàn cảnh sống của tôi không?
Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: "Hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi".
Mùa gặt! Đây là hình ảnh tuyệt vời của Kinh Thánh (Giê-rê-mi-a 51,33 ; Hô sê 6,11 ; Giô-en 4,13). Ở Israel, mùa gặt lúa mạch vào tháng tư và mùa gặt lúa mì vào tháng năm... như trong mọi nước khác, ở những mùa màng khác, đó là một cơ hội để quần chúng vui mừng (R 2; Is 9,2; TV 126,6). Sau những công việc nặng nhọc, mùa gặt tỉa: phần thưởng và lễ hội của người nông dân. Mùa gặt trong Kinh Thánh thường là biểu tượng cho cuộc Phán xét vào ngày Thế Mạt (Is 28,27; 17,5; Am 9,13)...
Có phải, tôi sẽ khám phá ý nghĩa ẩn giấu của hình ảnh rất đẹp đẽ ấy?
Đối với Đức Giêsu, tạo vật tiến về mục đích của nó:
Người biết rằng lúa mì sẽ không bị hủy hoại, mặc dù mọi nỗi sợ hãi chính đáng mà chúng ta có thể có phải chấp nhận quan điểm của Đức Giêsu. Phải kiên nhẫn cộng tác vào công việc chậm chạp của Thiên Chúa đồng thời trông cậy vào Người. Điều đó đòi phải có một lòng nhân từ cao cả Chúng ta hãy tôn trọng kẻ tội lỗi và kẻ ác vì cái phần tốt đẹp còn ở trong họ, và vì luôn còn có khả năng họ sẽ hoán cải. Tôi phải tập nhìn điều tốt đẹp có trong nhân loại và không chỉ nhìn cỏ lùng trong cánh đồng. Lời kêu gọi ấy là để đào sâu đức tin của chúng ta: Bạn có thật sự tin vào Thiên Chúa không?
Dẫu sao chúng ta đã được cảnh báo. Sau cùng, khi mùa gặt đến, chúng ta sẽ thấy những hoa trái thật sự của những nỗ lực mà chúng ta đã làm trong cánh đồng của Chúa Cha.
Cha mẹ, vợ chồng, các chiến sĩ tông đồ hãy lắng nghe, lắng ghe điều đó.
Đức Giêsu còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói: "Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ cải lớn nhất ! nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được".
“Một" hạt cải... một thôi ! Xem ra buồn cười khi chỉ gieo một hạt cải.
“loại nhỏ nhất”: hầu như khó nhìn thấy trong lòng bàn tay. Tuy nhiên, mầm sống ấy sẽ mọc chồi xanh, rồi một cái cây... nếu bạn kiên nhẫn chờ đợi và chăm sóc cây trồng.
“Nước Thiên Chúa" là như thế!
Lạy Chúa tôi, tại sao thế gian dường như còn xa Triều đại của Chúa biết bao? Tại sao có quá ít người đi theo đến cùng Tin Mừng của Chúa?
Cha mẹ, vợ chồng, chiến sĩ, tông đồ... hãy nhìn, nhìn kỹ hạt giống ấy trong thế gian. Điều đáng kể không phải là cái vẻ hiện nay của chúng. Các bạn hãy tưởng tượng đến một cây lớn mà Đức Giêsu đã nhìn thấy trong đôi mắt sống lại của Người. Không còn là hạt cải bé tí xíu... bạn hãy tưởng tướng những con chim sẽ hót trên cây? Và bạn hãy gieo nó vào lòng đất... hạt cải duy nhất của bạn, hạt nhỏ nhất.
Người còn kể cho họ một dụ ngôn khác: “Nước Trời cũng giống như chuyện một nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men”.
Đây cũng là sự không tương xứng về tỉ lệ giữa lúc đầu và lúc cuối giữa nguyên nhân và hậu quả: Một nhúm men nhỏ, trộn với bốn mươi ký lô bột? Một sức mạnh ẩn giấu của sự sống ! Tác vụ của Đức Giêsu đã là một hoạt động rất nhỏ bé trong một vài tháng, mất hút trong một góc của một tỉnh trong đế Quốc La Mã. Nhưng Đttc Giêsu mơ mộng. Người nhìn xa. Tầm nhìn của Người trải rộng đến thời thế mạt, khi "Thiên Chúa sẽ là tất cả trong tất cả khi mọi thứ bột của nhân loại được dậy men Phúc âm. Nhưng về phần tôi, tôi sẽ làm thế nào cho công việc đó tại nơi tôi đang sống?
Một người dù nam hay nữ để cho mình biến đổi thành men. và để cho mình bị vùi xuống, trộn lẫn vào thế gi an… sẽ trở thành một sức sống vô hình thông ban cho tất cả môi trường mà mình được trộn lẫn vào. Tình yêu cư ngụ một con người, đức tin làm cho sống, hy vọng nâng đỡ những thất vọng... đều là "men" làm dậy tất cả bột" một cách vô hình, chậm chạp. Những người kbác cần đức tin, niềm hy vọng, niềm vui, sự thanh khiết , can đảm và lương tri của bạn... Bạn có là một thứ men không?
Tất cả các điều ấy, Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với đám đông ; và Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn, hầu ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ: "Mở miệng ra, tôi sẽ kể dụ ngôn, công bố những điều được giữ kín từ tạo thiên lập địa".
Với Đức Giêsu, nơi tín hữu phân biệt những thực tại “ẩn giấu” trong nơi thâm sâu của mình.
Bấy giờ, Đức Giêsu bỏ đám đông mà về nhà. Các môn đệ lại gần Người và thưa rằng: "Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe".
Matthêu phân biệt rõ ràng giáo huấn dạy cho mọi người cách công khai và một sự đào sâu hơn về giáo huấn cho người trong nhà và những người tìm hiểu sâu xa hơn. Có phải tôi thuộc về những người ham thích giáo huấn ấy hoặc thuộc những người chỉ bằng lòng với điều tối thiểu?
Lạy Chúa, xin giải thích cho chúng con...
Người đáp: "Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Vậy như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy. Con Người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù, gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi -nước của Người..."
Lạy Chúa nếu chúng con có làm người khác sa ngã, nếu chúng con có phạm tội, xin Chúa tha thứ cho chúng con.
Rồi quẳng chúng vào lò lửa, ở đó chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng: Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước Cha của họ. Ai có tai thì nghe.
Ở đây Đức Giêsu, sử dụng những hình ảnh thường thấy ở thời đại Người. Không nên giải thích những hình ảnh một cách cụ thể. Chúng có nghĩa là sự hủy diệt chung cuộc mọi sự dữ, là ngày tận thế. May thay! Điều đó sẽ được thực hiện như thế nào? Đó là mầu nhiệm không được tiết lộ.
Về phần những người: được cứu, họ sẽ chói lọi như mặt trời: đây cũng là một hình ảnh để suy niệm trong những tháng hè này.
-------------------------------
“Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục”( Mt.13:1-9)
***
Bạn thân mến!
Trên đây là dụ ngôn “Người gieo giống” và cũng là nội dung bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Khi nghe qua dụ ngôn này, có lẽ chúng ta đều có chung một suy nghĩ: “Anh nông dân này khờ quá. Gieo bốn hạt, mà chỉ có một hạt rơi vào đất tốt. Một cách làm ăn không hiệu quả, chỉ thua lỗ mà thôi . Phải chi anh ta cẩn thận hơn, chỉ gieo hạt trên mảnh đất màu mỡ, đã được chuẩn bị hẳn hoi, cất đi 3 hạt còn lại, thì chắc sẽ thu hoạch được nhiều hơn. Nhưng không, anh ta cứ vung vãi hạt giống khắp nơi: từ lề đường, đến đất sỏi đá và cả bụi gai nữa. Anh gieo như không tiếc hạt giống vậy!”
Qua dụ ngôn “Người gieo giống”, Thiên Chúa muốn tỏ bày cho chúng ta thấy lòng quảng đại và hy vọng của Ngài đối với con người chúng ta. Ngài là một Ðấng hào phóng, quảng đại và không tính toán hơn thiệt khi ban phát. Ngài không ngần ngại gieo hạt giống “Lời Chúa” và “Ân Sủng” vào lòng mỗi người chúng ta. Hạt giống ấy là Đức Giêsu Kitô, là Ngôi Lời, là Con yêu dấu của Ngài.
Qua dụ ngôn “Người gieo giống”, Thiên Chúa đã gieo hạt giống Lời Chúa đến khắp mọi nơi và vào tâm hồn của mọi người. Có hạt bị chim trời ăn mất, khi chưa kịp nảy mầm phát triển. Có hạt bị khô cháy khi chưa bám rễ. Có hạt đã mọc thành cây, nhưng bị gai làm chết ngạt. Nhưng may thay, có những hạt rơi vào đất tốt và đem lại kết quả gấp bội. Lời Chúa vẫn còn gặp được mảnh đất phì nhiêu, còn gặp những tâm hồn đầy khao khát và hy vọng
Qua dụ ngôn “Người gieo giống”, Thiên Chúa mời gọi ta hãy lắng nghe Ðức Giê-su chỉ dạy, hãy tin tưởng và đón nhận Ngài như mảnh đất tốt đón nhận hạt giống tốt. Hạt giống tốt rơi vào đất tốt sẽ phát sinh thành cây tốt, sẽ mang lại tràn đầy hoa trái trong mùa thu hoạch
Dụ ngôn “Người gieo giống” giúp ta phải tự hỏi lòng mình: Có bao nhiêu hạt giống “Lời Chúa” đã được gieo vào lòng tôi? Số phận của những hạt giống ấy giờ này ra sao? Hạt giống ấy đang nằm ở đâu trong cuộc đời của tôi ? Tôi đã đón nhận những hạt giống ấy như thế nào? Tôi đã làm gì để hạt giống ấy được phát triển và lớn lên ?
***
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ “tai” đến “tay” của con, vì con chỉ biết “nghe” mà không dám “làm”, thích nghe Lời Chúa dạy nhưng lại không dám đem ra thực hành. Xin giúp con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ. Xin giúp con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng, được sinh hoa kết trái mang lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống của con. Amen
( Trích từ R. Veritas)
-------------------------------
(CN 15TN – Mt 13, 1-23)
Qua dụ ngôn người gieo giống, ngoài lời mời gọi lắng nghe và sống Tin Mừng, tôi còn cảm nghiệm được những tâm tình kiên trì bền bỉ đầy yêu thương và vâng phục trọn vẹn thánh ý Chúa Cha của Đức Giêsu, vì chính Người là Đấng Được Sai Đi gieo hạt và cũng chính Người là hạt giống.
Sau khi thi hành sứ vụ công khai rao giảng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu chắc chắn đã nhận ra một thực tại cuộc sống đời thường không phải lúc nào cũng đem lại kết quả hữu hiệu như lòng Người mong muốn. Có nhiều hạng người khác nhau khi nghe lời Người. Số người nghe hiểu và đi theo Người thì quá ít. Những người này là những người được gieo vào đất tốt, như Đức Giêsu giải nghĩa, là “những kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.” Mt 13, 23)
Rồi khi các môn đệ thắc mắc: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?”, thì Đức Giêsu tự đặt mình trong chỗ đứng của các ngôn sứ, mà cụ thể là ngôn sứ Isaia, với sứ điệp chống lại lập trường chung quá nhiều và chống lại cả các thói quen tiện nghi trong đời sống; để rồi, qua thất bại tức sau khi chết, lời sấm của vị ngôn sứ thời danh này mới có hiệu quả, mới được người đời lắng nghe và nhìn nhận. Dẫn chứng lời nói và hình ảnh của ngôn sứ Isaia, Đức Giêsu hiển nhiên tiên báo về cái kết thúc bi thảm của Người trên Thập Giá. Nhưng chính Thập Giá này mới là nguồn sống dồi dào. Đồng thời, tâm tình này cũng là lời mời gọi các môn đệ hãy cố gắng kiên trì vượt qua những giai đoạn gian khổ khi ra đi rao giảng Tin Mừng của Người.
Trái tim đầy ắp yêu thương của Đức Giêsu, Người Gieo Giống, cũng được Người thổ lộ qua ngòi bút tinh tế và siêu thoát của thánh sử Gioan. Khi ông Anrê cùng với ông Philipphê đến thưa với Người rằng có người Hy Lạp muốn gặp, Đức Giêsu một lần nữa dùng ẩn dụ để bộc lộ tâm tình sâu kín:
“Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12, 24)
Có lúc mạnh và ẩn chứa hơn, Đức Giêsu nói đến sự thất bại của Người trên Thập Giá. Chính con đường đau khổ này dẫn đến từ một vài người, rồi thật nhiều và tới tất cả mọi người. Đó là lời quả quyết: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (Ga 12, 32)
Tâm tình tự hiến dành cho người rao giảng đích thực của Thiên Chúa cũng được thánh Phaolô Tông Đồ thấm nhuần, khi ngài thổ lộ với tín hữu Thêxalônica:
“Khi ở giữa anh em, chúng tôi đã cư xử thật dịu dàng chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ. Chúng tôi đã yêu mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi.” (1Tx 2, 7-8)
Khi nhìn ngắm những tâm tư chất chứa tình yêu quá lớn được ẩn giấu của Chúa Giêsu qua dụ ngôn người gieo giống và quá mãnh liệt của vị Tông Đồ Dân Ngoại, tôi thấy mình thực sự yếu đuối, bởi tôi đã sống trải qua hầu như cả ba hạng người mà Chúa Giêsu nêu ra, từ “kẻ được gieo bên vệ đường”, rồi “được gieo nơi sỏi đá” và cả “kẻ được gieo vào bụi gai”.
Trước lời tha thiết mời gọi khi hiểu được chiều sâu trái tim của Chúa Giêsu hôm nay, tôi liền nhớ đến những người âm thầm gieo giống mà Chúa Nhật vừa qua tôi đã chứng kiến, đáng để tôi lắng đọng tâm hồn, rồi đã và đang thúc đẩy tôi dấn bước theo cách gieo vãi tình thương của họ.
Sau khi dự tiệc cưới của đôi tân hôn, mà chú rể là người khuyết tật giầu nghị lực ngồi trên xe lăn và cô dâu là thiếu nữ lành mạnh và đậm đà tình nhân ái tại Mái Ấm Phan Sinh, tôi thực sự cảm phục tấm lòng cũng như tinh thần ân cần phục vụ của chị Hồng Ân, người đã bao bọc chở che cho đôi bạn trẻ vừa nghèo khổ vừa cô đơn. Tất cả mười bàn tiệc và bia được chồng chị ủng hộ thiết đãi. Ngoài ra, chị còn được một người bạn gái khác sẵn sàng hỗ trợ thiết kế cho cô dâu bộ áo cưới rất đẹp và thanh thoát quí phái. Nhờ những tấm lòng sẻ chia cao quí này mà đôi bạn trẻ, sau khi tổ chức lễ và tiệc cưới xong, đã có toàn bộ khoản tiền mừng để làm vốn sinh sống trong những giai đoạn trước mắt phải tự lực cánh sinh. Chưa hết, là bổn đạo mới lãnh nhận bí tích thánh tẩy được 2 năm, chị Hồng Ân đã kiên trì mời gọi 2 vị ân nhân kia là những người thuộc tôn giáo bạn. Đặc biệt hơn cả, người thiết kế áo cưới tươi đẹp cho cô dâu còn là người khuyết tật 2 chân từ tấm bé nữa.
Với tôi, chị Hồng Ân là người đã gieo lòng yêu thương không chỉ đến với một vài người thân quen của chị, mà chị còn gieo vào lòng của nhiều những người tham dự tiệc cưới ấm áp tình người này nữa. Qua những nghĩa cử giầu lòng từ bi mà chị đã thực hiện, tôi lắng nghe được tiếng thì thầm của tâm hồn mình và, từ đó, tôi cũng đã biết sống tôt hơn với những người nghèo khổ khác.
Nhìn vào đời sống chứng nhân của chị Hồng Ân, tôi tin rằng chị đã nhận “được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời” và là “người nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả”, nghĩa là chị thật hạnh phúc khi mắt chị đã nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô hiện diện nơi những người bé mọn và tai chị đã nghe được tiếng thổn thức của những hiện thân đích thực của Chúa Kitô.
Lạy Cha yêu thương,
Chúng con xin cảm tạ Cha đã cho chúng con mẫu gương gieo hạt giống Nước Trời tuyệt vời là Chúa Giêsu, để chúng con biết mở tai lắng nghe và biết mở mắt nhìn mà thấu hiểu niềm hạnh phúc được làm con cái Cha.
Chúng con cũng xin chúc tụng Cha đã ban cho chúng con một bậc thầy rao giảng là thánh Phaolô Tông Đồ, để nhất là trong Năm Thánh của Ngài, chúng con hăng say loan báo Tin Mừng của Cha.
Lạy thánh Phaolô,
Xin tăng thêm sức mạnh để chúng con đón nhận những gian khổ trên con đường ra đi gieo hạt giống của mình. Amen.
Phêrô Vũ văn Quí CVK64
Email: peterquivu@gmail.com
-------------------------------
(Mátthêu 13,1-23 – CN XV TN - A)
1.- Ngữ cảnh
Sau khi giới thiệu Đức Giêsu là Đấng có quyền giải thích Luật (ch. 5–7), rồi minh họa quyền đó bằng một vài truyện về phép lạ (ch. 8–9), tác giả Mátthêu đã cho thấy Đức Giêsu sai phái và ban “bài sai” cho các sứ giả của Nước Thiên Chúa (ch. 10). Nhưng chẳng mấy chốc vương quyền này đã bị đặt thành vấn đề, hoặc bởi chính Gioan Tẩy Giả, hoặc bởi các thành miền Galilê (ch. 11). Từ khước Đức Giêsu là Đấng thiết lập Triều Đại của Thiên Chúa, đây là đề tài của ch. 12: đề tài này đi tới đỉnh cao khi những người Pharisêu tố giác là Đức Giêsu bị quỉ ám (x. 12,22-24) và Đức Giêsu tuyên bố về Gia đình thật của Người (x. 12,46-50): Đức Giêsu đoạn tuyệt với môi trường tinh thần của Người. Trên nền tảng của bài tường thuật nói về sự đoạn tuyệt bi đát này với Do-thái giáo, ch. 13 đề cập tới “mầu nhiệm” Nước Thiên Chúa, giải thích làm thế nào mà Triều Đại Thiên Chúa lại vừa có thể được khai mạc trên mặt đất vừa bị loài người phản đối hoặc không được biết đến. Nối tiếp các bài tường thuật về các xung đột ở ch. 12, các dụ ngôn ở ch. 13 có hai ý nghĩa :
- đối với các môn đệ, các dụ ngôn này giải thích vì sao Nước Thiên Chúa, đã được Đức Giêsu khai mào, lại chưa được biểu lộ ra trong vinh quang, đặc biệt tại sao những bước đầu của Nước Thiên Chúa trong sứ vụ của Đức Giêsu lại thiếu vẻ huy hoàng và oai phong đến thế;
- đối với những người ở ngoài (c. 11), sau cuộc đoạn tuyệt được nói đến ở ch. 12, các dụ ngôn này trước tiên phải khẳng định rằng những gì họ có thể thấy từ bên ngoài về Nước Thiên Chúa, là được ban cho họ để xác nhận thái độ không tin của họ; và điều thuộc về Mầu nhiệm, nghĩa là thuộc về chương trình của Thiên Chúa đối với Vương quốc của Người.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Giới thiệu chương các dụ ngôn (13,1-3a);
2) Dụ ngôn Người gieo giống (13,3b-9);
3) Lý do khiến Đức Giêsu nói bằng dụ ngôn (13,10-17);
4) Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (13,18-23).
3.- Vài điểm chú giải
- dụ ngôn (3): Đọng từ Hy-lạp paraballô có nghĩa là “so sánh, đối chiếu”. Kể một dụ ngôn (parabolê) là kể một tình huống nhằm lưu ý về một thực tại ít được chú ý hơn, nhưng tác giả muốn các thính giả biết. Tác giả dụ ngôn không phải là một sử gia, nhưng là một nhà thần học và một nhà luân lý; ông có thể sáng tác ra các hoạt cảnh tùy theo sứ điệp hoặc bài học ông muốn truyền đạt. Một dụ ngôn không phải là một ẩn dụ: trong một ẩn dụ, mọi chi tiết đều có ý nghĩa, còn trong một dụ ngôn, người ta chỉ nhắm đến sứ điệp tổng quát (Tuy nhiên, dụ ngôn Người gieo giống được giải thích ra lại có vẻ là một ẩn dụ). Trong dụ ngôn, cần đặc biệt ghi nhận các nét “khác thường” thì mới hiểu được bài học căn bản.
- có những hạt rơi xuống vệ đường (4): Hẳn là người nông phu có điên thì mới gieo hạt giống lên mặt đường đã chai lì, hoăc lên vùng sỏi đá hay vào các bụi gai (x. cc. 5.7)! Tuy nhiên, theo J. Jeremias, tập tục trồng lúa của Paléttina là gieo giống trước khi cày xới đất cho hạt giống lọt xuống lớp đất sâu. Thật ra lối giải thích này tuy hấp dẫn nhưng không phù hợp với những gì đã xảy ra thật sự trong bài dụ ngôn. Vì vậy thay vì ra sức bảo vệ tính xác thực của dụ ngôn, ta nên lưu ý đến khía cạnh “khác thường” của lối xử sự của người gieo giống.
- hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục (8): Có những nhà chú giải như Jeremias cho rằng dụ ngôn này là một bài khuyến khích cổ võ tin vào thành công cuối cùng. Tuy nhiên, có một số khó khăn: (1) Một sử gia kinh tế (K.D. White) cho biết rằng năng suất 1 gấp 100, thậm chí 1 gấp 400, không phải là lạ lùng, chẳng hạn nếu trồng lúa trong vùng Giléad, gần Gađara. (2) Nếu Mt đã muốn nêu bật mùa màng bội thu, hẳn là ngài đã dùng chuỗi số đi lên như Mc (30, 60, 100) thay vì chuỗi số đi xuống (100, 60, 30), bởi vì như thế sẽ làm yếu đi bài học về tính lạc quan. (3) Trong năm câu của bài dụ ngôn, có tới bốn câu mô tả sự thất bại của vụ gieo (và trong phần giải thích, cũng có một tỷ lệ như thế). (4) Nhấn mạnh đến các thất bại của người gieo giống dường như lại phù hợp hơn nhiều với ngữ cảnh tổng quát của các chương này trong TM Mt, vì các ch. 11–12 mô tả sức chống đối ngày một gia tăng để đáp lại những hành vi quyền lực trong các ch. 8–9.
Vậy không nhất thiết phải loại bỏ lối giải thích “lạc quan” (Jeremias), bởi vì quả thất Đấng Mêsia sẽ vẫn chiến thắng. Nhưng bởi vì những người đương thời với Đức Giêsu vẫn đương nhiên liên kết Đấng Mêsia với sự thành công, có lẽ Đức Giêsu không muốn nhấn mạnh đến phương diện này đâu. Điều làm nên “mầu nhiệm Nước Trời”, mầu nhiệm mà chỉ một nhóm giới hạn “những kẻ bé mọn” mới có thể hiểu được, đó là cuối cùng Đấng Mêsia chỉ có thể thành công xuyên qua thất bại.
Tuy nhiên, viễn tượng của phần giải thích lại theo hướng của cuộc phán xét: Lúc đầu, bài dụ ngôn nhắm nhiều hơn đến các loại đất khác nhau và vụ thu hoạch cuối cùng, nhưng sang phần giải thích, Mt đã thay đổi Mc mà đặt cho dụ ngôn nhan đề “Người gieo giống” (Mt 13,18). Thật ra người gieo giống chỉ đóng một vai trò nhỏ bé trong truyện, vì bài đã trở thành dụ ngôn về “Lời rao giảng Nước Trời”. Tuy nhiên, tác giả Mt làm như thế là để sau này ngài có thể đồng hóa người gieo giống với Đức Kitô (x. 13,37). Bởi vì đối với ngài, Đức Giêsu tháp tùng Họi Thánh qua dòng lịch sử (x. 28,18). Người chính là Đấng đang hiện diện và tích cực hoạt động trong công việc gieo rắc Lời (x. 13,37). Người tự đồng hóa với các thừa sai của Người (x. 10,40). Chính Người xây dựng Họi Thánh (x. 16,18), tích cực hỗ trợ Họi Thánh trong việc duy trì kỷ luật (x. 18,18-20). Và cuối cùng Người sẽ là vị Thẩm phán tách các môn đệ trung thành khỏi những đồ đệ bất trung (x. 13,41-43). Quả thật, Mt đã muốn đọc tất cả các dụ ngôn của ch. 13 này dưới ánh sáng của cuộc phán xét cuối cùng. Vì thế, tác giả nhấn mạnh đến trách nhiệm cá nhân là phải sinh “hoa quả”, tức là các hành vi tốt lành, và ngài đã đảo lộn thứ tự của Mc là 30-60-100 thành 100-60-30 cho phù hợp với các truyện của ngài về phán xét: bắt đầu với việc ca ngợi những người thu hoạch nhiều hoa quả nhất, để đi đến chỗ phê phán những người không sinh hoa quả (x. 25,14-30). Vậy một truyện về sức mạnh của Lời Chúa đã trở thành truyện về phán xét.
- các mầu nhiệm Nước Trời (11): Công thức này được lấy từ nền văn chương khải huyền. Công thức nhắc lại những bí mật tối hậu của Thiên Chúa, cụ thể là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa tập trung nơi các hoạt động cứu chữa của Đức Kitô.
- Hễ ai nghe lời … đó là kẻ đã được gieo (19): Dụ ngôn “Người gieo giống” đã được chuyển thành dụ ngôn “Lời rao giảng về Nước Trời”. Trọng tâm đã chuyển từ một giáo huấn về mầu nhiệm Đấng Mêsia phải thất bại về mặt nhân loại sang việc lưu ý, khuyến khích, là hãy sẵn lòng đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Dù vậy, giữa hai bài dụ ngôn và phần giải thích không có mâu thuẫn, mà chỉ có khác biệt về điểm nhấn mạnh thôi. Mt đã sửa nhẹ khi viết lại Mc 4,14 để tránh sự đụng chạm trực tiếp giữa hạt giống là lời (Mc 4,14) và hạt giống là người nghe (x. Mc 4,16.18.20), nhưng cũng không thành công bao nhiêu, vì ở Mt 13,19b, “điều đã được gieo trong lòng” hẳn là lời, thì ở cc. 20tt, “điều (CGKPV: “kẻ”) được gieo” là “kẻ nghe”. Ở c. 19, Mt lại xác định lời được gieo là “Lời rao giảng về Nước Trời”.
Rõ ràng Mt nhấn mạnh rằng người môn đệ là người hiểu lời: ở c. 19, ngài xác định rằng vấn đề với loại hạt giống/đất thứ nhất là thiếu hiểu biết, và đến c. 23, ngài xác định rằng hạt giống tốt/đất tốt thì nghe và hiểu. Đây là hành văn đóng khung (x. thêm 13,13.15.51). Và Mt đã thay đổi chủ từ số phức của Mc (x. Mc 4,16tt) thành số đơn (x. Mt 13,20tt) để nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân. Câu 13,23 tóm bằng cách mô tả dung mạo của hạt giống tốt/đất tốt với các cặp động từ bổ nghĩa cho nhau: nghe và hiểu, sinh hoa kết quả và làm ra (so với Mc 4,20).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu chương các dụ ngôn (1-3a)
Toàn chương 13 của TM I có một phần dẫn nhập (cc. 1-3a). Đức Giêsu ra khỏi “nhà” và đi đến bờ hồ (c. 1). Người “ngồi xuống”, có lẽ để suy ngẫm, nhưng rồi đám đông đã kéo đến với Người (c. 2). Đây là lần duy nhất tác giả ghi nhận Đức Giêsu “rời bỏ nhà”. Chi tiết lạ, bởi vì ngay khi Người chuyển từ Nadarét đến Caphácnaum, tác giả cũng không hề lưu ý. Rất có thể chi tiết này đã có sẵn trong nguồn Mt dùng và là một từ để mở vào một hành trình truyền giáo. Nhưng cũng rất có thể là trong ý Mt, là tác giả quen loại bỏ các chi tiết miêu tả, từ ngữ ấy có một ý nghĩa ngôn sứ và mục vụ. Sau bài Diễn từ truyền giáo, từ này nhắc nhớ các đòi hỏi của nhiệm vụ truyền giáo. Tất cả những ai đã được mời bước theo Đức Giêsu (4,18-22) và đã được sai phái đi nhân danh Người, đều phải chấp nhận “bỏ nhà” (10,35-36; 19,21).
Đám đông đã tụ họp lại bên Người. Thay vì lên núi, Người lên một “chiếc thuyền”, mà ta có thể coi là biểu tượng của Họi Thánh (x. 8,23). Từ trên thuyền, Đức Giêsu lên tiếng giảng dạy. Cũng như khi bắt đầu Bài Giảng trên núi, ở đây Người cũng “ngồi” (5,1; 7,29); đây là dấu chứng tỏ tư cách của một vị thầy.
Bài diễn từ sẽ tập trung vào mầu nhiệm Nước Trời (c. 11), nhưng được diễn tả bằng một ngôn ngữ tiêu biểu, bằng “dụ ngôn” (x. cc. 3.10.13).
* Dụ ngôn Người gieo giống (3b-9)
Nhân vật chính là “người gieo giống” (ho speirôn) mà ta có thể thêm vào tính từ “siêu đẳng”. Ông đi vào sân khấu một mình; ông làm một công việc lâu giờ và mệt nhọc, mà không hé một lời, hoặc để than trách hoặc để nói lên sự thỏa mãn. Ở đây, chỉ có các sự kiện. Ta có thể gọi đây là một “hành động biểu tượng” được minh họa bởi một nhà bình luận giấu mặt.
Có nhiều yếu tố của bài dụ ngôn được nêu ra: hành vi gieo giống, hạt giống, các loại đất, chim trời, …; nhưng có thể nói độc giả được mời chú ý tối đa đến người gieo giống, công việc của ông, sự cần mẫn, sự can đảm, sự cương quyết của ông, cũng như các kết quả. Ông là một nông dân lạc quan, tin tưởng rằng cả “các con đường” khô cứng, những nơi sỏi đá, các bụi gai cũng có thể làm cho hạt giống sinh hoa kết quả. Không phải là ông thiếu kinh nghiệm, vì bất cứ người nào ít kinh nghiệm nhất cũng hiểu rằng hạt giống không thể tăng trưởng trên những mảnh đất loại đó, nhưng ông là người cải tổ các kỹ thuât truyền thống.
Thật ra công việc gieo giống chỉ là khởi điểm để đưa tới điểm khác. Tác giả đang nghĩ tới hoạt động của một người thợ khác, là nhà rao giảng Tin Mừng, hay chính xác hơn, đó là chính Đức Kitô. Chính Người đã cách mạng các tiêu chuẩn của việc giảng dạy quen thuộc (của người Pharisêu) khi chuyển sứ điệp của Thiên Chúa cho mọi hạng người, không phải chỉ cho những người “tốt”, nhưng cho mọi người. Sứ mạng của Người không được bù đắp bởi những thành công tức thời (trái lại, thập giá đang chờ Người!), nhưng Người không đầu hàng trước các thất bại, Người tiếp tục đi tới và gieo vãi. Ông đã tưởng rằng luôn có trước mặt một đám đất tốt, nếu không, ông đã chẳng phí phạm hạt giống. Thế nhưng cũng một loại hạt giống lại đạt được bốn loại kết quả: những nỗ lực đầu tiên đã thất bại, chỉ những nỗ lực cuối cùng mới có kết quả. Đức Giêsu cũng đã ở trong hoàn cảnh tương tự. Người đã thường xuyên ra đi, ngay từ buổi đầu, để gieo Lời trên khắp các nẻo đường Paléttina, nhưng mặc dù lao nhọc, Người không thâu đạt được các kết quả tốt. Sự hăng hái ban đầu nay đã tan biến nơi các thính giả và nhiều người đã rút lui, không bước theo Người nữa. Dụ ngôn đang đương đầu với phương diện chướng kỳ nhất của sứ vụ Nước Trời: dường như phần lớn công việc tông đồ, giống như phần lớn hạt giống, đã bị phí đi. Nhưng Đức Giêsu không nản chí, Người không nhìn tới thời giờ và sự mệt nhọc; Người không khựng lại trước các thất bại; Người đã tiếp xúc gặp gỡ (x. 11,19), để cho thấy rằng cả mảnh đất khô chồi nhất vẫn có thể trở thành đất “tốt”.
Trong khi biện minh cho các kết quả của công việc của Đức Giêsu, Đấng Mêsia, dụ ngôn cũng trả lời cho các đòi hỏi biện giáo và thần học của cộng đoàn tiên khởi. Nhiệm cuộc cứu độ mới này phải chấp nhận nguyên tắc là thành công chỉ đến xuyên qua thất bại. Vậy có thể tóm tắt ý nghĩa dụ ngôn như sau: Cũng y như người gieo giống đã làm công việc của mình xuyên qua vô số khó khăn thì mới đạt thành công, Nước Thiên Chúa được Đức Giêsu khai mào sẽ chỉ được thiết lập xuyên qua vô số những thất bại đáng kể. Và đó lại chính là điều mà cả người Pharisêu lẫn các đám dông không thể “hiểu” được. Nhưng thành công được nêu ra trong bài dụ ngôn cũng là một lời khuyến cáo: có hạt được gấp trăm, nhưng có hạt chỉ được sáu chục, và có hạt lại chỉ được ba chục mà thôi. Kết quả có đó vẫn không được làm cho người môn đệ rơi vào tình trạng lạc quan ngây thơ mà không tiếp tục cố gắng nữa.
* Lý do khiến Đức Giêsu nói bằng dụ ngôn (10-17)
Đức Giêsu vẫn còn ở trên thuyền (c. 2), nhưng các môn đệ vẫn cứ đến gần Người mà hỏi, mà cho đến nay ta cũng chẳng thấy các ông đâu cả! Các ông trao đổi với Người một câu chuyện (x. cc. 10.18.24[1].31) kéo dài khá lâu trong khi đám đông thinh lặng chứng kiến (c. 36). Đây những chỗ thiếu mạch lạc do công việc soạn thảo.
Giảng dạy bằng dụ ngôn là một cách mới, do đó, cần biện minh. Ở đây tác giả thu gom lại các câu thuộc nhiều xuất xứ có tầm mức khác nhau dường như không đáp ứng mục tiêu chờ đợi. Chúng giúp “giải thích” vì sao các môn đệ đón nhận, còn người Do-thái thì không đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu. Điều này, chúng ta đã thấy ở 11,19.25-26. Ở tại nguồn, có sự quảng đại vô biên của Thiên Chúa, Đấng tùy nghi “cho” (didômi) những người này mà không cho những người kia được hiểu các mầu nhiệm Nước Trời (c. 11). Theo văn mạch, “anh em” là các môn đệ, còn “họ” là dân chúng (c. 2). Sự cứng tin của người Do-thái, Họi Thánh sơ khai thấy là không hiểu được, nên đã gán thái độ tiêu cực này cho một hành động (trừng phạt) của Thiên Chúa. Trước đó, Đức Giêsu đã giải thích đây là ý muốn của Thiên Chúa (x. 11,25-27). Lịch sử được giải thích, hoặc đúng hơn, được bẻ lại theo thần học, nhưng làm như thế là gây ra những trục trặc trầm trọng hơn những trục trặc người ta muốn giải quyết.
Lời khẳng định hàm hồ ở c. 12 được làm sáng tỏ bởi một lời khác còn tăm tối hơn. Lời này minh họa sự tự do của Thiên Chúa nhưng che mất sự công minh của Người. Động từ “ban/cho” nêu bật sự quảng đại của Đấng Tối Cao, nhưng chỉ cho một số người, là những người đã được ưu đãi, khiến cho họ thêm dồi dào, còn những kẻ không có gì, thì còn bị tước mất cả những gì họ có thể có (c. 13).
Sau những lời “tâm sự” này, Đức Giêsu giải thích lý do dùng ngôn ngữ dụ ngôn bằng cách nại đến một bản văn của Isaia (6,9-10). Đây không phải là lần đầu tiên trong lịch sử cứu độ, người ta thấy những thất bại như Đức Giêsu. Dường như đây là thân phận của các ngôn sứ. Nhưng trước khi trích dẫn đoạn dài (cc. 14b-15), Mt tóm tắt đoạn văn một cách rõ ràng (c. 13b). Đức Giêsu đã chọn ngôn ngữ ẩn dụ, một kiểu nói thường thấy nơi các ngôn sứ, “bởi vì” (hoti nguyên nhân) các người đồng hương đã không muốn “thấy và nghe” những gì Người đã loan báo và đề nghị cho họ bằng ngôn ngữ thông thường. Đây là một sự thay đổi trong chiến thuật do sự cứng cỏi ương bướng của các thính giả, chứ không phải do một phương pháp mục vụ mới. Ai đã từ chối đề nghị đầu tiên, thì sẽ nhận được một đề nghị khác không phải dễ hơn, nhưng tối tăm hơn, che phủ hơn, huyền bí hơn. Sự từ khước của con người là nguyên do khiến Thiên Chúa, Đức Giêsu co lại. Mc còn cứng rắn hơn nữa vì ngài gán cho Đấng Cứu thế ý định trừng phạt: “để [hina mục đích] họ có nhìn mãi nhìn hoài cũng chẳng thấy” (Mc 4,11)[2].
Mt rút bản văn Is 6,9-10 từ Bản dịch LXX; so với bản híp-ri, trong Bản dịch hy-lạp này, mọi nét phi lý về thần học đã bị loại đi. Vị ngôn sứ tiên liệu sứ mạng của ông sẽ thất bại ngay bước đầu, do các thính giả cứng lòng. Ông vẫn mạnh mẽ can đảm làm việc để mong hoán cải toàn thể Israel. Như thế, nếu công việc của ông không đạt được kết quả mong ước, lỗi thuộc về con cái Israel. Đức Giêsu cũng thấy sứ mạng của Người đang đi vào con đường đó. Nhưng khi họ từ chối Đấng Mêsia, họ đã làm cho lời sấm ngôn nên trọn (c. 14). Isaia dĩ nhiên không nghĩ tới lời giảng của Đức Giêsu, nhưng điều này không ngăn cản Mt thấy rằng vị ngôn sứ cũng đã báo trước về số phận của lời rao giảng này.
Tác giả đang “cay cú” với hội đường, nhưng ngài còn tỏ ra bận tâm với cộng đoàn hơn (cc. 16-17). Mối phúc của các môn đệ đã được công bố ngay trong phần mở của Bài Giảng trên núi (5,12). Bây giờ Mt cảm thấy cần nhắc lại để nâng đỡ đức tin vẫn còn yếu ớt của các tín hữu. Mối phúc này hệ tại việc lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận bản thân và công việc của Đức Kitô. Đây chính là vinh dự họ có, còn lớn lao hơn vinh sự của các vị Tổ phụ Cựu Ước. Bằng móc nối này, Mt cũng cho thấy cộng đoàn Do-thái – Kitô hữu này mới là sự nối dài của Ít-ra-en chân chính (chứ không phải là hội đường).
* Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (18-23)
Phần “giải thích” lại tách khỏi chính bài dụ ngôn (cc. 3-9) về mặt nội dung và hình thức. Câu truyện đầu được thêm vào nhiều chi tiết mới. Các chi tiết mô tả la hạt giống, gai góc, chim trời, … đã có một ý nghĩa biểu tượng mà trước đây không có. Dụ ngôn đã biến thành hầu như một ẩn dụ và đã thay đổi cả chủ đề. Bài gốc là một loan báo về những chiến thắng tương lai của Nước thiên sai; đề tài của “phần giải thích” lại nhìn đến số phận của lời nơi mỗi thính giả. “Dụ ngôn Người gieo giống” đã chuyển thành dụ ngôn về “Lời rao giảng Nước Trời” (c. 19); từ ngữ logos được dùng 5 lần, trong khi không xuất hiện trong phần đầu. Các dạng đất khác nhau không tượng trưng các thính giả nghe lời Đức Giêsu rao giảng, nhưng các loại ki-tô hữu khác nhau, các tâm trạng khác nhau họ có khi nghe sứ điệp Tin Mừng. Người giải thích đã quên mất cử tọa Do-thái đang được Đức Giêsu ngỏ lời với, để nói với một cử tọa đã và đang trải nghiệm những khó khăn mà đức tin Kitô giáo gặp phải. Trong bản văn đầu, tác giả nhắm vào sự tương phản và hướng về bài học chung kết phát xuất từ kết quả phong phú do đất tốt; ngược lại, phần giải thích quan tâm đến cả các mưu toan không thành công. Trong bản văn này, các nguyên do ngăn cản hoặc làm chậm sự phgát triển của hạt giống là gian nan (thlipsis) và ngược đãi (diôgmos); các nghịch cảnh này liên hệ đến hoàn cảnh của Họi Thánh sơ khai (tương tự trong Lc 8,15: hypomonê hiểu là “sự kiên trì” khi gặp các nguy hiểm đối với đức tin).
Bản văn mới này cho thấy rằng mọi sự tùy thuộc thiện chí của mỗi một tín hữu. Tác giả đã thay từ ngữ số phức ha men, “có những [hạt]”, alla, “có những [hạt] khác” (cc. 4-8) bằng từ số đơn (“ai nghe”: cc. 20.22.23). Lời đến tai mọi người (đám đông và các môn đệ) nhưng không phải mọi người đều quan tâm đến và vâng lời như nhau (“nghe” theo nghĩa Kinh Thánh là “hiểu”, tức là gắn bó về trí thức, và “vâng lời”, tức gắn bó bằng đời sống. Đây chính là thần học kinh Shema (Đnl 6,4-5) được vào cho các Kitô hữu.
+ Kết luận
Bài Giảng trên núi và bài Diễn từ về truyền giáo nhắm trực tiếp đến chính tư cách môn đệ; còn các dụ ngôn lại nhắm đến cách thi hành sứ mạng truyền giáo, hoàn cảnh của Họi Thánh. Vào lúc tác giả viết, Họi Thánh đã trở nên vững vàng ở khắp nơi. Dù vậy, sự cứng lòng của người Do-thái vẫn là một cái gai làm cho các tín hữu phải đau đớn (cc. 10-17). Cần phải nêu bật tất cả các cố gắng của Đức Giêsu nhằm đưa sứ điệp Phúc Âm đến cho người đồng hương của Người.
Tuy nhiên, sứ điệp cũng được gửi đến cho các môn đệ của Đức Giêsu. Họ phải thấy mình vừa được nhắc nhở vừa được trấn an: được nhắc nhở hãy trở nên đất tốt và sinh hoa quả tối đa; được trấn an do biết Đức Giêsu hoàn toàn làm chủ tình thế: Người có gặp thất bại, nhưng các thất bại này được tiên liệu trong chương trình của Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Quả thật, thành công đến từ thất bại. Thất bại, như tấn bi kịch thập giá sẽ cho thấy, là đảm bảo cho thành công. Do đó, bài dụ ngôn là một sứ điệp chiến thắng gửi đến cho các tông đồ và các tín hữu, là một lời khuyến khích và trấn an. Hiểu như thế, bài dụ ngôn là một lời loan báo mang tính ngôn sứ báo trước các chiến thắng của Đức Kitô và của Họi Thánh.
2. Hoạt động của Đức Giêsu chỉ đâm chồi và kết trái tại nơi nào có đất tốt, nghĩa là tại nơi nào Người gặp được những tư thế sẵn sàng. Như thế, người tín hữu phải trở thành “đất tốt” nếu muốn làm cho hạt giống thần linh nhanh chóng đâm chồi và kết quả nơi mình và nơi người khác. Phải mở trái tim ra, phải san bằng con đường mà đón sứ điệp Ki-tô giáo. Bài dụ ngôn đang muốn lay động tình trạng tê cóng, lưỡng lự hoạc cứng cỏi của các thính giả.
3. Trong Bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã cho biết rằng người môn đệ không chỉ được đánh giá theo những gì đã biết, nhưng còn theo những gì đã làm (7,13-27). Tiêu chuẩn này được nhắc lại trong phần giải thích dụ ngôn. Không phải chỉ cần nghe lời giảng là đã được cứu, nhưng còn phải diễn tả ra bằng những việc tốt lành, tức là làm cho lời rao giảng đã nghe sinh hoa kết quả. Tiêu chuẩn này đã được nhắc lại nhiều lần (x. 3,8.10; 7,17-19; 12,33). Các quả chứng tỏ phẩm chất của cây; không có hoa quả, mọi sự chỉ là chuyện bì phu.
4. Đời sống Kitô hữu sẽ gặp vô số nguy hiểm (Satan, gian nan, thử thách, bách hại, các lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý). Cần phải có sức mạnh và sự can đảm mà thắng vượt chúng. Bài dụ ngôn về Lời là bài dụ ngôn về đức tin: bài này minh họa tấn bi kịch của người phải hằng ngày chiến đấu để giữ vững sự ưng thuận đối với sứ điệp của Đức Kitô.
-------------------------------
Tin Mừng Chúa Nhật XV Thường Niên A (Mt 13:1-23)
Trong chương này, Thánh Matthêu ghi lại 7 dụ ngôn của Chúa Giêsu mà thường chúng ta gọi là các Dụ Ngôn về Nước Trời. Trước đây phần lớn các học giả Thánh Kinh Công Giáo coi Hội Thánh là hiện thân của Nước Trời nơi trần thế. Ngày nay, có một số học giả không đồng ý với cách giải thích này. Nhưng dù đồng ý hay không thì cũng không thể tách rời Hội Thánh ra khỏi Nước Trời. Công Đồng Vaticanô II dạy: “Chúa Giêsu đã khai sinh Hội Thánh bằng việc rao giảng Phúc Âm rằng Nước Thiên Chúa đã đến như đã hứa trong Thánh Kinh từ ngàn xưa: ‘Thời gian đã trọn, Nước Thiên Chúa gần đến’ (Mc 1,15; x. Mt 4,17). Nước này chiếu sáng trước mặt mọi người qua lời nói, hành động và sự hiện diện của Chúa Kitô. Lời Chúa ví như hạt giống gieo trong ruộng (x. Mc 4,14): ai tin nghe lời Chúa và gia nhập đàn chiên nhỏ của Đức Kitô (x. Lc 12,32), thì đã đón nhận chính Nước Ngài; rồi tự sức mình, hạt giống nẩy mầm và lớn lên cho đến mùa gặt (x. Mc 4,26-29)…. Hội Thánh là mầm mống và khai nguyên Nước ấy trên trần gian” (Lumen Gentium 5). Như thế các dụ ngôn Chúa nói về Nước Trời cũng là các dụ ngôn về Hội Thánh. Hôm nay, Hội Thánh nhắc nhở chúng ta về dụ ngôn thứ nhất của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Matthêu.
Mt 13:1-2: Ngày ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.
Thánh Matthêu mở đẩu chương này bẳng việc Chúa ngồi trên thuyền mà giảng dạy dân chúng. Theo Thánh Hilary (xem Catena Aurae) thì chiếc thuyền này tượng trưng cho Hội Thánh, còn đám đông dân chúng là muôn dân đang mong chờ Tin Mừng. Từ thuyền này Chúa giảng dạy bằng dụ ngôn. Việc Chúa ngồi trong thuyền và giảng dụ ngôn có nghĩa rằng người nghe chỉ có thể hiểu được dụ ngôn Chúa giảng qua Hội Thánh, vì Chúa sẽ trao phó Lời Người cho Hội Thánh, và chỉ có Hội Thánh mới thật sự có quyền dẫn giải Lời Chúa. Ai ở trong thuyền của Hội Thánh thì cũng giống như các môn đệ ở trên thuyền với Chúa. Dụ ngôn theo tiếng Hy Lạp παραβολε có nghĩa là so sánh với nhau, dùng để chỉ sự tương tự giữa một sự vật cụ thể và một vấn đề luân lý hay tinh thần. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để so sánh giữa Chân Lý của Kitô Giáo với các biến cố hàng ngày của đời sống. Dụ ngôn là những chuyện ngắn Chúa dùng để dẫn nhập vào các bài giảng của Người. Qua việc dùng dụ ngôn, Chúa làm cho người nghe chú ý, và hiểu dễ dàng hơn những vấn đề trừu tượng. Dù người nghe có học hay không, nhờ Chúa dùng những gì người nghe quen thuộc nên dễ hấp thụ và nhớ điều Chúa giảng.
Mt 13:3-9: Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất.
Muốn hiểu dụ ngôn này, chúng ta cũng phải hiểu một chút về địa dư và phong tục của người Do Thái. Người Việt Nam khi đọc dụ ngôn Người Gieo Giống này nhiều khi thấy phi lý, vì tại sao không chỉ gieo giống vào ruộng mà lại đi gieo trên đường, trên đá sỏi, trên bụi gai. Ruộng ở đất Do Thái thời đó khác ruộng ở Việt Nam, nhất là ruộng ở châu thổ sông Cửu Long hay sông Hồng Hà. Nếu ai thăm Ðất Thánh và đến vùng đồng bằng ở phiá tây ngạn của Biển Hồ thì sẽ hiểu tại sao Chúa giảng dụ ngôn Người Gieo Giống như thế. Ðồng bằng này có nhiều lối mòn chằng chịt, rải rác những giải đất sỏi đá, với đá nằm ngay dưới mặt đất, đây đó lại có những bụi gai. Có nhiều nhà nghiên cứu Thánh Kinh nói rằng trong thời Chúa Giêsu, người ta gieo giống trước rồi mới cày đất lên để vùi hạt giống xuống. Khi người gieo giống vãi hạt giống xuống đất thì không biết là dưới đất có đá sỏi hay không. Còn lối mòn thì chằng chịt vết chân người, nhiều khi cầy cũng không làm vỡ được đất nên hạt giống vẫn nằm trơ trọi trên những vết chân này và chim trời đến ăn mất. Họ cũng thảy hạt giống trên bụi gai vì sau đó họ cũng sẽ cày cả bụi gai cho bật gốc. Với loại đất như thế thì có những hạt sẽ sinh hoa kết quả nhiều, có hạt ít, và có hạt không sinh hoa quả gì hết.
[1] Chúa Giêsu không giải thích dụ ngôn này lúc đó. Thường cách dạy có hiệu quả nhất là gợi ý cho người nghe phải suy nghĩ, tìm hiểu, đồng thời hấp dẫn họ để họ trở lại lần sau. Chúa muốn người nghe phải suy nghĩ xem Chúa muốn nói gì, và chuyện Chúa nói có liên quan gì đến họ không. Nếu ai còn muốn tìm hiểu thì sẽ trở lại với Chúa lần nữa.
Mt 13:10-13: Các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi.
Vương Quốc mà Chúa Giêsu đến để thiết lập hoàn toàn khác với vương quốc mà người Do Thái mong chờ. Dù họ đọc Cựu Ước, họ vẫn không hiểu hay không muốn hiểu về vai trò của Ðấng Kitô. Họ muốn và mong chờ một Ðức Kitô theo ý họ chứ không phải theo ý Thiên Chúa. Chúa dùng dụ ngôn để giúp họ mở mắt ra. Không phải là Thiên Chúa không ban ơn cho họ biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng vì họ bị mù quáng bởi những quan niệm cố chấp của họ nên lòng họ không mở ra để lãnh nhận ơn soi sáng của Thiên Chúa. Còn các môn đệ thì đơn sơ, không có thành kiến gì cả, mà tin vào Chúa nên hiểu được những gì Chúa nói.
Ơn của Thiên Chúa là ơn nhưng không vì Chúa yêu thương mà ban cho chúng ta, chứ không phải vì chúng ta xứng đáng. Nhưng nhận được hay không thì tùy thuộc vào mức độ cộng tác của chúng ta với ơn Chúa. Chúng ta phải dựa vào ba điểm sau đây để hiểu các câu này.
Ðức Giêsu Kitô yêu thương tất cả mọi người, kể cả những kẻ thù ghét Người vì Người đến để cứu chuộc mọi người.
Chúa dùng các dụ ngôn với mục đích truyền đạt tư tưởng cao siêu của Người cách rành mạch, dễ hiểu để dạy dỗ chúng ta chứ không để làm cho chúng ta hiểu lầm hay mù tối.
Người ta không hiểu vì kiêu ngạo, hay không sẵn lòng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta như một cái bình. Ơn Chúa như mưa từ trời đổ xuống, bình nào mở càng lớn thì càng lãnh được nhiều, bình nào đóng lại thì không lãnh được gì hết. Người ta không nhận được ân sủng Chúa vì không mở lòng ra, chứ không phải tại Chúa không ban.
Ai đã có thì được cho thêm. Người nào nghe và tin vào Chúa cùng đem Lời Chúa ra thực hành, tức là theo Chúa, thì Chúa ban ơn cho mỗi ngày một hiểu biết sâu xa hơn về các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Còn người nào không theo Chúa thì từ từ sẽ quên hết những lời Chúa dạy, và mỗi ngày một ra mù quáng, như là bị lấy đi mất vậy.
Mt 13:14-15: Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: 'Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành'.
Hai câu này được trích ra từ Isaia 6:9,10. Mục đích của lời tiên tri là nói với cho người Do Thái thời ngôn sứ Isaia. Chúa Giêsu dùng lời này cho dân Do Thái ở đây vì họ cũng giống như thế. Tuy nhiên, câu này vẫn có thể áp dụng cho con người thời nay. Họ đang nhắm mắt lại trước Chân Lý của Thiên Chúa, và gạt bỏ giáo huấn của Chúa ra ngoài. Chỉ có những người thiện tâm mới hiểu được ý nghĩa của Lời Chúa. Nghe xuông không đủ, mà phải hiểu và chấp nhận nữa. Chính chúng ta cũng có lúc không nghe được, không hiểu được, và nhất là không mở lòng ra đón nhận Lời và ân sủng của Chúa. Nhất là ngày nay, Chúa không còn trực tiếp dạy chúng ta nữa, mà dạy qua Hội Thánh và các thừa tác viên của Chúa. Nhiều khi vì tự ái, kiêu căng, và thành kiến, chúng ta cũng trở nên đui mù, câm điếc trước những lời mà Chúa dùng miệng người khác để nói với chúng ta. Ngày nay nhiều học giả Kinh Thánh thời danh, nhiều nhà thần học Công Giáo lỗi lạc đã trở nên sai lầm vì họ nghĩ rằng họ giỏi hơn Huấn Quyền. Cho nên muốn hiểu Lời Chúa thì cần ơn Chúa nhiều hơn là cần sự thông minh. Mà ơn Chúa từ trên cao chỉ có thể chảy xuống chỗ thấp. Nếu chúng ta hạ mình xuống thì chúng ta sẽ nhận được ơn hiểu biết Lời Chúa. Nếu chúng ta đưa mình lên thì ơn đó sẽ chảy chung quanh chúng ta đến những người thấp hèn hơn chúng ta.
Mt 13:16-17: Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe.
Lịch sử dân Do Thái là lịch sử của một cuộc sửa soạn và mong đợi sự xuất hiện của Ðấng Kitô. Các tổ phụ, các ngôn sứ và dân chúng đã mòn mỏi đợi chờ. Họ đã chết đi mà không được thấy Người. Ông Simêon là người đại diện cho họ, và khi được thấy Hài Nhi Giêsu rồi thì ông hoàn toàn thỏa mãn để nhắm mắt lià đời (Lk 2:28-30). Các môn đệ thật diễm phúc, không những các ông được thấy Chúa, được nghe Lời Chúa, mà còn được thành bạn hữu Chúa, và được làm nhân chứng cho Chúa. Hồng ân các ông lãnh được không phải vì các ông xứng đáng, nhưng vì Chúa đã gọi và chọn các ông. Nhưng muốn được diễm phúc đó, các ông cũng phải đáp lại lời mời gọi của Chúa, cùng bỏ mọi sự mà theo Người.
Ngày nay Chúa cũng nói với chúng ta rằng “phúc cho mắt các con vì chúng thấy được, và cho tai các con, vì chúng nghe được.” Chúng ta thấy và nghe được gì? Bằng con mắt đức tin, chúng ta thấy được sự hiện diện của Chúa trong đời chúng ta, trong những người chung quanh chúng ta, và nhất là thấy được Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, cùng trong Hội Thánh Công Giáo của Chúa. Chúng ta nghe được Lời Chúa trong Thánh Kinh, qua sự giảng dạy của Hội Thánh, và nhất là lời “Nhân danh Ðức Kitô, tôi tha tội cho anh/chị” trong Bí Tích Hòa Giải, qua vị linh mục thay mặt Ðức Kitô mà nói với chúng ta như ngày xưa Chúa nói “Tội con đã được tha, hãy ra về bình an.” Có biết bao nhiêu người tự nhận mình là Kitô hữu mà đâu có được hồng phúc đó. Còn bao nhiêu người nữa chưa biết Ðức Kitô, và chưa tìm ra chân lý. Vậy hãy cảm tạ Chúa và sống thế nào để qua chúng ta, người khác nhận ra sự hiện diện của Ðức Kitô trong trần gian này.
Mt 13:18-19: Vậy, các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo dọc đường.
Chúa bắt đầu giải thích dụ ngôn Người Gieo Giống.
Người nào tìm hiểu đủ mọi thứ, mà không phân biệt được cái gì là hay cái gì là giở, thì như miếng đất hay như lối mòn ai đạp lên cũng được. Khi vui tai thì nghe Lời Chúa, nhưng không hiểu, và không yêu mến Lời Chúa hơn những lời khác. Vì không yêu mến Lời Chúa nên tà thần đến tận lòng họ để giựt lấy Lời như chim trời giựt mất hạt giống trên lối mòn.
Mt 13:20-21: Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó, đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã.
Ngày nay có nhiều người Công Giáo bỏ qua Tin Lành vì các mục sư giảng hay hơn các Cha. Tôi biết có những người Công Giáo cuối tuần nào cũng nghe mục sư Joel Osteen của Lakewood Church giảng vì ông mục sư này giảng rất hay. Họ cho biết là ông không bao giờ nói điều gì chướng tai họ cả. Có lẽ Chúa Giêsu ví những người này như đất đá sỏi, thích nghe Lời Chúa vì vui tai mà không đem ra thực hành, nên chỉ biết cách hời hợt bên ngoài. Vì không thấm nhuần Lời Chúa ở trong lòng như cây lúa không mọc rễ sâu, nên dễ chán nản, bỏ nhà thờ này sang nhà thờ khác khi cha sở hay vị mục sư giảng những lời khó nghe, hoặc mất đức tin khi bị thử thách.
Mt 13:22: Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết nghẹt mà không sinh hoa kết quả được.
Câu này có lẽ Chúa nói với chúng ta, nhất là những người sống tại Âu Mỹ. Hầu hết người Công Giáo Việt Nam đi lễ ngày Chủ Nhật vì bị bắt buộc cách này hay cách khác. Chưa đến nhà thờ thì đã bồn chồn trong lòng về việc làm ăn dang dở. Có cầu nguyện thì cũng xin Chúa ích lợi phần xác nhiều hơn ích lợi phần hồn. Vì lo lắng như thế nên đâu có thì giờ mà suy niệm Lời Chúa, mà để cho Lời thấm nhập tâm hồn mình, và ảnh hưởng đến cuộc sống mình. Cho nên Lời Chúa bị những lo lắng khác làm cho chết ngạt.
Mt 13:23: Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi".
Ðất tốt là đất được cầy bừa, vun sới cẩn thận. Ðất tốt thấm nhuần nước mưa, phân bón và sương sa. Muốn cho đất tốt thì phải cầy lên, bới tìm các gồc rễ cỏ lồng vực và sỏi đá mà quẳng đi, có nghĩa là phải biết hy sinh, hãm minh, chấp nhận đau khổ. Phải năng xét mình để tìm ra tội lỗi mà tiêu trừ qua Bí Tích Hòa Giải. Phải năng lãnh các ân sủng của Thiên Chúa qua việc đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, lãnh nhận các Phép Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể cách thường xuyên. Như đất nhận mưa, sương sa và phân bón thường xuyên, chúng ta cũng phải nhận được những ân sủng của Chúa Thánh Thần, để nhờ đó có thể sinh những “hoa quả của Chúa Thánh Thần là bác ái, vui mừng, bình an, kiên nhẫn, nhân hậu, hào hiệp, trung tín, hòa nhã, tiết độ” (Gal 5:22). Nếu không lòng trí chúng ta cũng trở nên đất đá khô cằn, ơn Chúa không thể thấm nhuần được, và Lời Chúa không thể mọc lên được.
Câu Hỏi Ðể Suy Nghĩ Và Thảo Luận
Dụ ngôn là gì? Tại sao Chúa lại dùng dụ ngôn để giảng dạy?
Bốn loại đất mà Chúa Giêsu nói đến ở dụ ngôn Người Gieo Giống là gì? Ðặc tính của mỗi loại ra sao? Việc gì xảy ra cho hạt giống rơi vào mỗi loại đất này?
Việc gì một dụ ngôn có thể giải thích được mà những lời lẽ thông thường không giải thích được?
Làm sao mà lời thách thức của Chúa Giêsu ở câu 9 có thể giúp chúng ta hiểu được câu 11 và 12? Làm thế nào đức tin có thể mở lòng bạn để nhận ra những ý nghĩa tâm linh của Lời Chúa?
Những đức tính nào cần thiết để bạn có thể hấp thụ Lời Chúa?
Việc Chúa dẫn chứng lời ngôn sứ Isaia trong câu 14-15 có giúp bạn hiểu tại sao mà người ta không hiểu được dụ ngôn không? Tại sao?
Trong câu 16-17, Chúa Giêsu đưa ra một Phúc Thật mới. Các môn đệ đã thấy và nghe được những gì mà các ngôn sứ mong được nghe và thấy mà không được?
Bạn có thể nghe thấy Lời Chúa và chứng kiến công trình của Chúa trong thế giới hôm nay không? Bạn có nghĩ rằng mình cũng có phúc hơn các ngôn sứ không? Bạn đã và sẽ làm gì để xứng đáng với phúc này?
Lời Chúa Giêsu giải thích về dụ ngôn Người Gieo Giống trong câu 18-23 tỏ cho bạn thấy gì về hạt giống? Về các loại đất? Về hoa trái? Và về người chủ ruộng? Bạn tự cho mình là loại đất nào?
Làm sao bạn giải thích dụ ngôn này với những trẻ em sống ở thành thị, chưa bao giờ biết đồng ruộng là gì? Bạn có thể tìm ra những gì tương tự để dùng không? Hãy kể ra vài ví dụ cụ thể.
Tại sao mà có quá nhiều người hiểu sai ý nghĩa của các lời trong Kinh Thánh?
Cái gì là rễ sâu để giúp các tín hữu khỏi sa ngã? Rễ của bạn là gì? Nó sâu chừng nào?
Những lo lắng nào có thể làm việc lớn lên trong Ðức Kitô của bạn bị chết nghẹt? Bạn sẽ làm gì để thoát khỏi “bụi gai” đó?
Chúa Giêsu muốn các tín hữu sinh hoa kết quả thế nào? Bạn có thể làm gì để gia tăng công xuất của bạn?
-------------------------------
"Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt".
Chúa Nhật XVI Thường Niên A
PHÚC ÂM: Mt 13, 24-30 {hoặc 24-43}
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Đầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: 'Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?' Ông đáp: 'Người thù của ta đã làm như thế'. Đầy tớ nói với chủ: 'Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ'. Chủ nhà đáp: 'Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: "Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta".
{Người lại nói với họ dụ ngôn khác mà rằng: "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt đó bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn, Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian". Sau khi giải tán dân chúng, Người trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: "Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe". Người đáp rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".}
Đó là lời Chúa.
“Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” ( x. Ed 18,23 ).
Câu Lời Chúa thường được lặp đi lặp lại trong suốt mùa Chay thánh nói lên tấm lòng của Đấng chúng ta tôn thờ. Phụng vụ Lời Chúa ngày Chúa Nhật XVI TN A khởi đầu bằng đoạn trích sách Khôn ngoan làm nổi rõ lòng từ nhân của Thiên Chúa đồng thời gieo rắc niềm hy vọng cho tội nhân xiết bao: “Chúa xử khoan hồng vì Ngài làm chủ được sức mạnh… Làm như thế, Chúa đã dạy dân rằng: người công chính phải có lòng nhân ái. Ngài đã cho con cái niềm hy vọng tràn trề là người có tội được Ngài ban ơn sám hối” ( Kn 12,16-19 ). Chúng ta lại được nghe Chúa Giêsu nói thêm một số dụ ngôn về Nước Trời, đặc biệt là dụ ngôn “cỏ lùng trong ruộng” (Mt 13,24-29 ).
1. ĐỪNG NHỔ CỎ, KẺO NHỔ LẪN CẢ LÚA:
Một mệnh lệnh xem ra nghịch thường, nếu có một chút hiểu biết về nghề nông và kinh nghiệm trồng lúa. “Công cuốc, công cày là công bỏ; công làm cỏ mới là công ăn”. Trước khi thuốc diệt cỏ ra đời, thì làm cỏ là một khâu không thể xao nhãng trong nghề nông. Gieo trồng mà không làm cỏ thì chắc chắn “xôi hỏng, bỏng tay”; “mất cả chì lẫn cả chài”. Ngay cả chút “giống” bỏ ra cũng chẳng mong thu lại được, nếu không chịu làm cỏ.
Theo văn phong dụ ngôn thì điều muốn nói, muốn trình bày, chỉ có một hoặc hai điều mà thôi. Và điều muốn nói thường ở nơi câu kết hoặc nơi một chi tiết nghịch thường của câu chuyện. Và ta có thể nói rằng nội dung chính của dụ ngôn “cỏ lùng trong ruộng” muốn dạy ta là đừng tự phong làm “thẩm phán” của bất cứ ai. Với lý trí suy xét và dưới ánh sáng Lời Mạc khải chúng ta có thể phân biệt điều tốt, điều xấu, hành vi chính đáng, phải đạo và hành vi bất chính…nhưng chúng ta thật khó mà quy kết ai là chính nhân, ai là quân tử. Cha ông ta đã từng truyền dạy kinh nghiệm rằng vẫn có đó nhiều người “ khẩu phật mà tâm xà” và cũng có nhiều người “ngoài miệng thì nói nam mô mà trong bụng lại chứa một bồ dao găm”. Nhân sinh quan về sự nhập nhằng đen trắng, chính nhân quân tử hay tiểu nhân, mắt người phàm khó biện phân, thì Kim Dung, một cây bút nổi tiếng loại hình tiểu thuyết võ hiệp lịch sử kỳ tình Trung Hoa đã trình bày xuyên suốt qua các pho truyện của ông như “Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Đại Hiệp, Cô Gái Đồ Long…
Sau biến cố 1975, Chính quyền cộng sản đã ra lệnh bài trừ và tiêu hủy “các loại hình văn hóa phản động”, trong đó có tiểu thuyết của ngài Kim Dung. Lý lẽ đưa ra là cần minh bạch rõ ràng người xấu với kẻ tốt, phải rõ ràng “địch với ta”. Nếu không ta thì là địch. Nếu không theo cách mạng là phản động… Quả thật kiểu nhân sinh quan này tưởng rằng là triệt để nhưng thực ra là quá khích, độc đoán, một chiều… May thay, với thời gian, nhân sinh quan này hình như đang dần được chuyển hóa, đổi thay.
Con người, thường xem xét kẻ khác qua diện mạo bên ngoài, kiểu xem mặt mà bắt hình dong, vì thế, sai lầm là chuyện khó tránh. Thế mà ta lại cả gan muốn loại trừ người mà ta cho là xấu xa, là tội lỗi. Nếu giả như hễ ai đã phạm tội đều đáng bị loại bỏ, bị giết đi, thì thử hỏi có ai còn đáng sống. Và ngay chính bản thân ta cũng không đáng tồn tại. Giết người đi thì ta ở với ai ? Hơn nữa, kẻ đáng giết trước hết, chính là ta !
2. HÃY BIẾT KIÊN NHẪN ĐỢI CHỜ:
Chỉ mình Thiên Chúa mới tỏ tường đâu là lúa, đâu là cỏ lùng. Chỉ có Chúa mới là Đấng thấu tỏ mọi bí ẩn tâm can con người. Thế mà Người lại chờ cho đến mùa gặt. Thiên Chúa không thích con người phải chết và cũng chẳng muốn tội nhân bị diệt vong. Chỉ một người tội lỗi sám hối ăn năn là cả triều thần thiên quốc vui mừng khôn xiết hơn chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn ( x.Lc 15,7 ). Lượng từ bi vô biên của Chúa nào ai đo lường được. Người kiên nhẫn đợi chờ vì Người là Đấng Hoàn Thiện, là Cha từ nhân, Đấng chậm bất bình và rất mực khoan dung. Người kiên nhẫn đợi chờ vì Người biết con người là hữu thể đang chuyển thành ( L’homme c’est l’être en devenir ). Không một thánh nhân nào mà không có một quá khứ ( quá khứ lỗi lầm ), chính vì thế, chẳng có một tội nhân nào lại chẳng có thể có một tương lai ( tương lai tốt đẹp ). Với con người nhiều khi là không thể, vì quá khó, khó hơn cả lạc đà chui qua lỗ kim, nhưng với quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể ( x. Mt 19,23-26 ).
3.CHỜ ĐỢi KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ NGỒI KHOANH TAY HAY ĐỨNG NHÌN:
Rất có thể có nhiều người viện cớ rằng mình có thể sai lầm trong phán đoán để rồi không làm gì cả. Và cũng có thể có nhiều người vì lười biếng hoặc nhát đảm nên vô tình phạm đến đức trông cậy khi khoán trắng mọi sự cho Chúa. Chúng ta cần khử trừ sự xấu nhưng không được phép loại bỏ tội nhân. Ngoại trừ Mẹ Maria được Chúa gìn giữ vẹn tuyền, còn chúng ta, thảy đều là tội nhân cách này hay cách khác. Tuy nhiên, trong thực tế, giữa sự xấu với người xấu nhiều khi khó phân biệt ranh giới. Hơn nữa, có khi khoan dung với người xấu thì lại vô tình để cho sự xấu lan truyền. Vấn đề thật nan giải ! Một trong những cách thế xem ra khôn ngoan là chỉ lên án hay cảnh báo các hiện tượng tiêu cực cách chung chung mà không ám chỉ trực tiếp một ai để rồi “ai có tật thì giật mình”. Tuy nhiên, làm sao tránh được chuyện công luận hướng ngay về một hay những ai đó khi có một sự xấu được nêu lên và bị kết án. Đã là phương thế, đặc biệt các phương thế mang tính tiêu cực như khử trừ, loại bỏ, lên án…, thì không một phương thế nào là hoàn hảo và tối ưu.
Một kinh nghiệm nhà nông, đó là nếu lúa tốt nhanh, thì cỏ sẽ bị che rợp và khó phát triển. Cần nổ lực sử dụng các phương thế tích cực. Hãy làm chút men nồng. Chỉ một nắm men nhỏ thì cả khối bột sẽ dậy men ( x. Mt 13,33 ). Trong khi khoan dung, kiên nhẫn với tội nhân thì chúng ta cần nhân rộng các nghĩa cử bác ái, những hành vi đạo đức, thánh thiêng, cao thượng. Thà thắp lên một ánh nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối. Một cây nến, hai cây nến, nhiều cây nến…cả không gian sẽ bừng sáng và đêm tối sẽ phải lùi xa.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
-------------------------------
Hôm nay, Chúa nhật thứ ba trong tháng Bảy. Chúa nhật này Giáo hội mừng kính Chúa với danh Chúa: TN 16-A47
Hôm nay, Chúa nhật thứ ba trong tháng Bảy. Chúa nhật này Giáo hội mừng kính Chúa với danh Chúa Cứu Thế ! Chúa Cứu Thế ! Nghe tên sao mà dễ thương, sao mà gần gũi, sao mà thiết thực và nói đúng hơn là cần thiết cho con người, cách riêng cho mỗi Kitô hữu. Là con người, ai ai cũng mang trong mình thân phận của sự mỏng dòn, của yếu đuối và cần được cứu thế nên chúng ta cần và rất cần chạy đến bên Chúa Cứu Thế.
Thật tuyệt vời, thật ý nghĩa khi trang Tin mừng Chúa nhật 16 thường niên hôm nay đúng với tâm tình, đúng với thái độ, đúng với bản tính của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn luôn yêu thương và cứu độ những gì hư mất, những gì bị khiếm khuyết.
Những trang tin mừng đầy giá trị đã để lại cho chúng ta nhiều và thật nhiều cách hành xử bao dung nhẫn nại của Chúa mà chúng ta vô tình hay cố ý quên đó thôi.
Một người phụ nữ mang tội công khai phạm tội ngoại tình nhưng Chúa đã bao dung trong khi mọi người kết án. Mọi người ném đá thì Chúa vẫn chờ đợi sự hoán cải của chị. Chúa tin chị và Chúa đã tha thứ cho chị. Tin mừng không nói về kết cục cuộc đời của chị nhưng đứng trước lòng từ bi của Chúa, trước ơn cứu độ mà Chúa dành cho chị thì chẳng lẽ nào chị khước từ ơn cứu độ ấy ?
Một Giakêu được gắn cho một cái nhãn hiệu là tội lỗi nhưng sau khi đón nhận ơn cứu độ đến nhà ông đã thay đổi cuộc đời, ông đã hoán cải cuộc đời, ông đã đền bù gấp bốn cho những ai mà ông đã làm thiệt hại. Tình yêu thương của Chúa đã cứu được Giakêu.
Một Matthêu được mọi người gọi là thu thuế tội lỗi nhưng sau khi nhìn thấy ánh mắt cứu độ của Thầy Chí Thánh Giêsu đã thay đổi cuộc đời, đã bỏ mọi sự mà theo Thầy của mình.
Và trở về với một đoạn nhỏ trong Cựu Ước. Thiên Chúa đã bao dung chờ đợi sự hoán cải của con người. Tổ phụ của chúng ta: Abraham. Ông trả giá với Chúa từ 40 người công chính xuống còn 30, xuống còn 20, xuống còn 5 người và còn 1 người. Thiên Chúa vẫn nhẫn nại chờ đợi sự hoán cải, sự công chính của con người.
Chúa vẫn nhẫn nại với con người khiếm khuyết và tội lỗi để rồi chúng ta có trang tin mừng hôm nay. Chúng ta vẫn thường thấy lối hành xử của con người là nóng tính, thiếu kiên nhẫn với những ai lầm lỗi và yếu đuối nhưng Chúa thì khác. Chúa vẫn để cho cỏ lùng và lúa mọc lên cùng một lúc. Thiên Chúa vẫn nhẫn nại chờ đợi con người ta hoán cải.
Trong đời sống thường nhật, chúng ta thấy có nhiều và rất nhiều người, nhiều trường hợp đã hoán cải sau khi thấy mình phạm tội, thấy mình yếu đuối.
Ai đã một lần đến với Trung Tâm Mai Hoà, sẽ dễ dàng nhật ra một chàng thanh niên gầy còm, ốm yếu với khuôn mặt nám đen do hậu quả của căn bệnh thế kỷ gây ra cho anh. Phải tiếp xúc, phải có thời gian hàn huyên tâm sự thì mọi người sẽ nhận ra nơi anh có một sự chuyển biến, một sự thay đổi thật tuyệt vời.
Sau nhiều năm sống gần anh và giúp cho anh tìm hiểu về Chúa, tìm hiểu giáo lý tôi nhận ra nơi anh sự biến đổi thật tuyệt vời. Với con mắt nhiều người thì anh là một người vất đi, một người không còn đáng sống nữa vì đã nghiệm ma tuý, đã nhiễm bệnh thế nhưng khi nghe anh tâm sự mọi người sẽ ngạc nhiên. Trong thời gian anh vào trung tâm để dưỡng bệnh cũng chính là thời gian mà anh ngẫm nghĩ lại cuộc đời của anh. Anh cảm thấy hối tiếc vì quãng đời dài thời trai trẻ anh đã làm khổ gia đình, làm khổ ông bà cha mẹ anh chị em. Anh hối tiếc để rồi những ngày còn lại dẫu rằng hết sức vắn vỏi anh làm điều gì đó mà sức khoẻ cho phép để cộng tác với các soeurs chăm sóc cho những người đồng thân đồng phận như anh. Hơn thế nữa, anh đang sống trong đời sống chiêm niệm để nghiệm ra tình yêu thương mà Thiên Chúa dành cho anh qua tình yêu thương, lòng nhân hậu của Chúa qua vòng tay nhân ái của quý soeurs nữ tử bác ái và mọi người đến thăm trung tâm.
Chắc có lẽ trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe đã được quý soeus trung tâm Mai Hoà cảm nhận và chuyển tải trang tin mừng ấy vào đời sống thường nhật về sự nhẫn nại, tình thương yêu bao la của Thiên Chúa nên chàng thanh niên dưỡng bệnh trong Mai Hoà đã thay đổi cuộc sống.
Trong chuyến hành hương Mẹ La Vang vừa qua, một chàng thanh niên không ngần ngại đến tâm sự với tôi vì trong quãng thời gian dài 16 năm qua xa Chúa, xa gia đình. Anh nói rằng vì giận vợ, giận mẹ nên anh xa cách Chúa thế nhưng khi đến với Mẹ La Vang anh thấy mình cần phải hoán cải cuộc đời để quay về bên Chúa, hoán cải cuộc đời như lời Mẹ dạy. Anh nói không hiểu sao đến với đất Mẹ anh cảm thấy lòng mình thay đổi. Sau những lời tâm sự, anh chia tay và anh nói anh sẽ về và làm lại từ đầu.
Cha tập sự đáng kính của chúng tôi đã dạy chúng tôi khi chúng tôi còn là tập sinh của Ngài: Ai mà nhìn lên thập giá mà không hoán cải cuộc đời thì coi như người đó bị hư mất.
Chắc có lẽ một lần nào đó anh bạn trẻ ở Trung Tâm Mai Hoà, anh bạn trẻ tình cờ tôi gặp được ở Linh Địa La Vang và nhiều người nữa cũng đã nhìn lên thập giá và hoán cải đời sống của mình.
Trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe cũng như hình ảnh, lời khuyên ăn năn sám hối được Mẹ mời gọi chúng ta quá nhiều lần. Nghe nhiều đến độ mà người ta vẫn thường nói với nhau rằng: “biết rồi ! khổ lắm, nói mãi !”.
Vâng ! Biết, nghe nhiều lần mà chúng ta có cảm nghiệm và nhất là có chuyển tải những điều nghe, điều biết đó vào đời thường của chúng ta hay không mới là điều quan trọng !
Chúng ta vẫn thường mang trong mình cái tôi quá lớn. Chúng ta vẫn thường mang trong mình cái tâm trạng hết sức là bi đát đó là chúng ta luôn cho rằng chúng ta là đúng còn người khác thì sai. Thử nhìn laị trong đời sống thường nhật trong gia đình, trong cộng đoàn tu trì chúng ta sẽ rõ. Chúng ta vẫn thường cư xử với nhau thật khắc nghiệt chứ không phải cư xử như Chúa.
Trong gia đình, có ai chẳng may phạm lỗi này lỗi kia thì chúng ta thường có thái độ lên án, kết án và thậm chí ném đá chứ chúng ta không mặc lấy tâm tình nhẫn nại như Chúa dạy chúng ta.
Trong cộng đoàn tu cũng thế ! Ai làm không vừa ý anh em, chị em mình thì thường thường cộng đoàn có cái nhìn thiếu kiên nhẫn, thiếu chờ đợi sự hoán cải của anh chị em cùng tu với mình.
Thử hỏi nếu ai trong chúng ta ở trong hoàn cảnh đó thì chúng ta cảm thấy cô đơn, cảm thấy cay đắng như thế nào ?
Ai ai cũng thấy sự vội vã kết án, lên án anh chị em mình là sai đấy nhưng chẳng ai đủ bình tĩnh để mà nghe, để mà xem, để mà thấy sự thật cả. Chúng ta thiếu bình tĩnh để mà phán quyết về người khác.
Người ta vẫn thường nói: “đánh người chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại” nhưng thực tế cuộc đời chúng ta đâu có bao dung với những con người yếu đuối xung quanh chúng ta. Chúng ta vẫn thường khắc nghiệt với những con người yếu đuối và tội lỗi.
Bi đát của con người ở chỗ là mình có phải là người hoàn thiện đâu mà mình lại kết án người khác.
Nếu không suy nghĩ thì thôi chứ nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy rõ cái chân đích của cuộc đời mỗi người chúng ta. Cuộc đời của chúng ta tại trần thế này chỉ là đời tạm, chỉ là chuyến hành hương, chỉ là giai đoạn chuẩn bị cho việc về nhà Cha trên trời, về Thiên Quốc – nơi đó Chúa là Vua, là Chúa của cuộc đời chúng ta. Thế nên căn cốt của cuộc đời này không phải là chuyện giàu hay nghèo, chuyện ở nhà lầu mấy tầng, đi xe hơi mấy chấm. Căn cốt của cuộc đời này không phải là thành công hay không thành công, thất bại hay không thất bại mà căn cốt của cuộc đời này đó là chúng ta được cứu hay không được cứu mà thôi. Cuộc đời này, căn nhà lầu cao tầng, chiếc xe hơi sang trọng mà chúng ta đang có không phải là cùng đích mà đó chính là ơn cứu độ mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta chúng ta có đón nhận hay không mà thôi.
Thiên Chúa đã xuống thế, Ngài đã chịu khổ hình thập giá để mà cứu con người nhưng con người có đáp trả hay không đó mới là chuyện quan trọng.
Hôm nay mừng kính Chúa Cứu Thế, là dịp để chúng ta cảm thấy an tâm và tín thác hơn nữa cuộc đời của chúng ta trong vòng tay yêu thương từ ái của Chúa. Chúa đã, đang và sẽ chờ đợi sự hoán cải của mỗi người chúng ta, chuyện quan trọng là chúng ta có quay về với Chúa, chúng ta có hoán cải để cuối mùa lúa chúng ta là những bông lúa trĩu nặng hạt hay chúng ta là cỏ lùng hay không mà thôi.
Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng sự tự do của con người trước ơn cứu độ của Ngài. Thiên Chúa vẫn chờ đợi thái độ đáp trả của con người.
Cứu thì Thiên Chúa đã cứu rồi nhưng còn con người, Thiên Chúa vẫn nhẫn nại chờ đợi.
Chúa đã “lỡ” xuống thế cứu con người thì xin Chúa cũng thương cứu những con người tỗi lỗi, yếu đuối và bất xứng của chúng ta.
Nguyện xin Chúa là Chúa Cứu Thế đến và ở lại với mỗi người chúng ta để Ngài làm Chúa, làm chủ cuộc đời chúng ta và nhất là Chúa cứu chúng ta khỏi hư đi đời đời.
Anmai, CssR
-------------------------------
Nếu Chúa Nhật vừa rồi dụ ngôn “người gieo giống” diễn tả hình ảnh về một Thiên Chúa yêu thương:TN 16-A48
Nếu Chúa Nhật vừa rồi dụ ngôn “người gieo giống” diễn tả hình ảnh về một Thiên Chúa yêu thương và quảng đại trong việc phân phát Lời và Ơn Cứu độ của Người cho hết mọi người, thì Chúa Nhật XVI này phụng vụ Lời Chúa lại giới thiệu với chúng ta về một Thiên Chúa kiên nhẫn và bao dung trước sự dữ và tội lỗi của chúng ta.
1. Lúa và cỏ lùng, thực tại của cuộc sống
Khởi đầu dụ ngôn Chúa Giêsu ví Nước Trời như một thửa ruộng trong đó “lúa và cỏ lùng” mọc chung với nhau. Nếu lúa tượng trưng cho những con người tốt và những việc tốt, những điều thiện hảo, thì cỏ lùng lại tượng trưng cho những người xấu, những việc xấu, và tội lỗi. Lúa mọc với cỏ lùng, sự thiện ở bên cạnh sự dữ, người tốt sống với kẻ xấu. Sự lẫn lộn giữa “lúa và cỏ lùng” này chúng ta gặp bất cứ ở đâu: trong gia đình, ngoài xã hội, trong cộng đoàn, nơi công cộng, và ngay cả trong chính lòng của mỗi người.
Dụ ngôn của Chúa Giêsu cũng chỉ cho chúng ta thấy nguồn gốc của sự lành và sự dữ. Tất cả mọi sự tốt lành trong thế giới này đều đến từ Thiên Chúa, Người là nguồn gốc của mọi sự thiện hảo. Còn sự dữ là do Ma quỷ gieo vào. Ma quỷ là kẻ thù luôn chống lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Và Chúng tìm cách dụ dỗ con người làm những điều xấu và gây đau khổ cho người khác. Chúng ta phải tĩnh thức vì ngày hôm nay Ma quỷ hoạt động càng tinh vi để gieo rắc cỏ lùng sự dữ vào trong cuộc sống chúng ta!
2. Tại sao Thiên Chúa lại để như thế?
Trước “cỏ lùng”, sự dữ và người tội lỗi, thái độ của chúng ta thường giống như những người đầy tớ chủ ruộng: là muốn nhổ đi, loại trừ, nổi loạn, hoặc bất bao dung. Nhưng thái độ của Thiên Chúa được dụ ngôn nói tới thì hoàn toàn khác hẳn. Thiên Chúa kiên nhẫn và bao dung trước sự dữ, nhất là trước tội nhân. Bởi vì Thiên Chúa biết rằng: từ sự dữ có thể đưa tới sự lành! Từ một người tội lỗi có thể trở thành một vị thánh. Hay nói như Đức HY Nguyễn Văn Thuận: “Thiên Chúa biết vẽ những đường thẳng trên những đường cong”. Thiên Chúa luôn hy vọng và cho chúng ta những cơ hội để hoán cải, để thay đổi đời sống, để trở thành điều mình phải là. Nói như sách Khôn Ngoan: “Khi hành động như thế, Người dạy dỗ dân Người rằng: Người công chính phải ăn ở nhân đạo… Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn sám hối” (Kn 12,19). Hay nói như Thánh Vịnh hôm nay: “Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với ai kêu cầu Chúa” (Tv 85,5). Và Thánh Phaolô nói cách tuyệt với rằng: “Có Chúa Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta” (Rm 8,26).
Thời gian chúng ta sống là thời gian kiên nhẫn của Thiên Chúa, thời gian của sám hối, thời gian để làm điều thiện. Cỏ lùng thì mãi mãi là cỏ lùng, còn con người thì khác, con người có thể cải tà qui chính, có thể từ một thằng quỷ biến thành một vị thánh. Trong cái nhìn đó, Đức Thánh Cha Benedetto XVI trong lễ khai mạc sứ mạng giáo hoàng của Ngài, đã có câu nói rất hay: «Chúng ta chịu đựng vì sự kiên nhẫn của Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta tất cả cần sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Thiên Chúa, Đấng đã trở thành con chiên, nói với chúng ta rằng thế giới được cứu độ bởi Đấng Chịu đóng đinh chứ không phải những kẻ đóng đinh. Thế giới này được cứu độ nhờ sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và bị phá hũy bởi sự bất kiên nhẫn của con người». ( Benedetto XVI, Omelia nell’inizio solenne del Pontificato, Roma, 24 aprile 2005)
Nếu Thiên Chúa hành xử cách thẳng tay và ngay lập tức thì sẽ không có: một Phaolô bắt bớ Giáo hội, lại trở thành một người Tông đồ dân ngoại đi khắp nơi hăng say rao giảng Tin Mừng Đức Kitô; một Augustinô tội lội và phóng túng, đã trở thành một vị đại thánh, bậc tiến sỹ của Giáo hội; một Charles de Foucauld lêu lỗng lại trở thành người sống nghèo khó và khiêm tốn; một Ève Lavallìere cô đào nỗi tiếng của Pháp đã từ bỏ vinh quang và phú quí để sống cuộc đời hoàn toàn cho Chúa trong tu viện vv..vvv. Rất nhiều những chứng tích khác đã là những vị thánh lừng danh nhờ sự kiên nhẫn và bao dung của Thiên Chúa.
3. Bài học áp dụng
- Hãy học nơi Thiên Chúa thái độ bao dung và kiên nhẫn đối những lỗi lẫm và thiếu sót của những người xung quanh chúng ta.
- Hãy trở về với Chúa khi còn có cơ hội, nhất là trong năm Thánh Phaolô này, Giáo hội mở năm thánh để chúng ta được hưởng lòng khoan dung và sự kiên nhẫn của Thiên Chúa qua ơn toàn xá, ơn được tha các tội và các vạ.
- Hãy làm điều thiện đó là cách thức tốt nhất để xây dựng cuộc đời. Amen !
Lm. Phêrô Nguyễn Hương
-------------------------------
VietCatholic News (Thứ Sáu 18/07/2008 06:26)
CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN A
Khôn ngoan 12: 13, 16-19; Tv. 86; Rôma 8: 26-27; Matthêu 13: 24-30
Anh chị em thân mến,
Tuần vừa qua, vừa mới 7 giờ sáng thứ bảy, trên đường ra phi trường tôi gặp một số đông người tụ họp để chạy bộ gần thành phố Raleigh,NC. nơi tôi đang ở. Họ đứng đầy trên vỉa hè và tràn xuống cả mặt đường, vì thế xe phải lái chậm lại. Chúng tôi tự hỏi tại sao họ tụ họp sớm như thế? Nhưng khi nhìn thấy cái nơ màu hồng trên áo của mổi người, chúng tôi hiểu ngay là họ chạy để gây quỹ chữa trị bệnh ung thư vú. Nơ màu hồng nhắc chúng tôi biết mục đích việc họ tụ tập.
Chúng tôi cố gắng nhớ lại là từ khi nào người ta bắt đầu dùng nơ cài trên áo để người chung quanh chú ý giúp đỡ họ về một chuyện gì. Vào thập niên 80 có một số con tin bị giam giử tại Iran, người ta đã dùng dải băng vàng cài trên áo hay buộc vào thân cây hay vào cột đèn để tỏ sự đoàn kết với những người bị bắt và gia đình của họ. Tuy trên dải băng không in chữ, nhưng người ta ai cũng hiểu là “Chúng tôi muốn 52 người bị bắt phải được trả về an toàn”. Dải băng để chứng tỏ với các gia đình của họ là chúng tôi thông cảm với sự đau đớn và lo lắng của họ. Rồi từ đó đến nay người ta đeo nơ cho nhiều vấn đề, như về bệnh AIDS, để ủng hộ chính sách quân sự, để chống nạn buôn bán ma túy, để gây quỹ tìm thuốc chữa bệnh đảng trí của người lớn tuổi v.v... Mặc dù có nhiều cảnh đời khác nhau nhưng khi đeo nơ là chúng ta biểu hiện sự đồng tâm nhất trí.
Tôi nghỉ rằng dụ ngôn trong phúc âm cũng như dải băng hay nơ cài trên áo đối với Kito hữu. Dụ ngôn nhắc nhở chúng ta những trường hợp cần thiết và giúp chúng ta gắn kết trong hy vọng. Mặc dù chúng ta khác nhau về nhiều phương diện, nhưng dụ ngôn giúp chúng ta chú ý về một vấn đề, và vấn đế đó gắn kết chúng ta lại với nhau. Chúng ta là những người sống với dụ ngon. Dụ ngôn soi sáng và giúp chúng ta hiểu biết cả những điều ngoài tầm nhìn của chúng ta. Dụ ngôn giúp chúng ta cố gắng mổi ngày. Cũng như những người đeo nơ trên áo, chúng ta mang dụ ngôn trong lòng chúng ta, và như vậy chúng ta tuyên xưng "Mặc dù thế giới ra sao đi nửa, thì đây vẫn là trung tâm đời sống của chúng ta". "Đây là dấu chỉ chúng ta gắn kết với nhau" " Nhờ đó thúc đẩy tôi tiến lên trong đời sống hàng ngày"
Hôm nay chúng ta có dụ ngôn về cỏ lùng và lúa tốt. Mỗi khi chúng ta mở TV xem đá banh, vặn radio nghe tin tức rồi hỏi "đội nào thắng?" "ai thắng, người lành hay kẻ dữ?". Thế kỷ 20 là một thế kỷ bạo lực nhất trong lịch sử thế giới. Đáng lý ra khi con người tiến thì sự sống cũng tiến triển chứ? Thật là một sự chán chường, nhiều sự thật phá bỏ đi niềm tin tích cực. Chúng ta có cảm tưởng như chúng ta muốn buông xuôi với thế giới này và tự hỏi Thiên Chúa ở đâu?
Vì thế chúng ta cần nhìn vào dụ ngôn, và nhất là dụ ngôn ngày hôm nay về cỏ lùng và lúa tốt. Giáo hội tiên khởi, những người nghe phúc âm thánh Mátthêu, cũng phải đối chiếu với mầu nhiệm của sự giận dữ ấy. Tại sao lại có sự dử trong thế giới, trong giáo hội và trong lòng chúng ta? Đó là câu hỏi lớn lao mà dụ ngôn này không trả lời một cách dể dàng. Dụ ngôn này không giải thích gì cả. Nhưng có nhắc đên sự dữ trong chúng ta. Người chủ ruộng trả lời với đầy tớ rằng: "kẻ địch đã làm đó!". Đây không phải là dụ ngôn ngây ngô, hay chỉ nói về đời này. Nhưng còn chú ý đến một sự thật: là sự dữ có thật, và không bỏ qua được. Không phải là sự ví von như cỏ lùng mọc giữa lúa tốt. Mà chính sự dữ đã làm cho con người mất hết hăng say, và cố gắng.
Chúng ta thấy cỏ lùng, không phải chỉ có ở thế giới bên ngoài, nhưng "cỏ lùng rất gần chúng ta và ở trong lòng chúng ta." Dụ ngôn đối chiếu với giáo hội tiên khởi, một giáo hội với đầy chia rẽ, chống đối nhau, và yếu đuối. Họ đâu còn sức sống nào khác ngoài các dụ ngôn? Cộng đoàn chúng ta cũng có nhiều vấn đề mắc mứu. Đôi khi gây ra sự chia rẻ trong chúng ta. Và nhiếu lúc cũng đã chia rẻ chúng ta rồi. Cộng đoàn đức tin của chúng ta đã bị rung chuyển vì những gương xấu của hàng linh mục; bị phân chia vì mầu da hay vì nguồn gốc; vì người đến trước, kẻ đến sau; vì người bảo thủ, kẻ cấp tiến. Và khi nói đến những chia rẽ này, chúng ta hảy tự vấn lương tâm xem đã có “nó” xen vào chưa. Cỏ lùng hiện diện trong đời sống thiêng liêng của chúng ta. Ẩn mình vào trong những mảng tội lỗi thật sự của chúng ta, đó chính là việc làm của kẻ thù chúng ta. Muốn tìm cách tiêu diệt cỏ lùng ấy ra khỏi đất nước chúng ta, khỏi giáo hội và ra khỏi tâm hồn chúng ta. Chúng ta phải thật lòng hành động để dẹp bỏ sức cám dổ. Và dụ ngôn cũng khuyên chúng ta nên cẩn thận không nên xét đoán sự dữ vì chúng ta có thể hũy hoại điều tốt lành trong lúc chúng ta đánh dẹp sự dữ. Chúa Giêsu nói về kinh nghiệm của Ngài là chúng ta có thể đoán được tương lai sẽ ra sao từ những dấu chỉ đầu tiên.
Từ lúc đầu Giuđa có vẻ có tương lai: Làm được việc, biết giử tiền bạc, sổ sách. ông ta có vẻ là một môn đệ giỏi "người giử tiền". Nếu bạn là Chúa Giêsu, có lẻ bạn muốn sa thải Phêrô, Tôma hay bà Martha ra phải không? Những người này không tỏ dấu biết suy nghỉ và không hiểu theo Chúa Giêsu là như thế nào. Họ là những người chậm hiểu những điều Chúa dạy. Nhưng Chúa Giêsu kiên nhẫn, Chúa để sự tốt triễn nở từ từ trong đời của họ. Ngài để sự tốt có thời gian sinh hoa kết trái tốt tươi.
Bạn có bao giờ không thích một người mà bạn vừa gặp ngay từ lúc đầu không? Nhưng rồi từ từ sau đó người đó trở thành một bạn tốt của bạn không? Dụ ngôn nói "ta không biết được tương lai thế nào". Dụ ngôn là câu chuyện nói về ơn thánh đến với chúng ta. Thử nhìn vào đời sống, chúng ta nhớ lại những lổi lầm mà chúng ta đã vấp phạm, và thử hỏi chúng ta bây giờ có vui mừng là đã được dịp thay đổi ăn năn sửa mình không? Chúng ta có biết cảm ơn là chúng ta đã để cho lúa tốt lớn lên và sinh hoa trái làm vụ mùa tốt lên không? Thử hỏi nếu chúng ta bị Thiên Chúa xét xủ ngay lúc sai phạm, thì chúng ta sẽ ra sao?
Nếu chúng ta nhìn vào đời sống của cộng đoàn bây giờ, chúng ta vẩn còn thấy có những dấu chỉ của cỏ lùng. Khi chúng ta trở nên chán nản, thì chúng ta hãy lắng nghe dụ ngôn đầy hy vong này. Chúng ta có được thời gian để hạt lúa tốt trong lòng chúng ta đâm hoa kết trái. Chúng ta nên tin tưởng vào Chủ ruộng, vi Ngài biết phải làm gì, và chúng ta nên tin vào thành quả của việc Ngài làm. Đây là một dụ ngôn về hy vọng. Thế thì chúng ta không nên buông tay trong những cố gắng làm việc ngay cả những khi chúng ta bất mản vì phải cố gắng quá nhiều. Vì Thiên Chúa là Chủ ruộng và Ngài sẽ giúp mọi sự trở nên tốt lành.
Dụ ngôn cũng giống như những dải băng, tuy nó không có vẻ mạnh mẽ, đó chỉ là một mảnh lụa dài, một câu chuyện nhỏ. Nhưng những dải băng đó cho chúng ta biết đến tận thâm tâm sâu kín. Đó là dấu chỉ bên ngoài nói lên sự liên kết trong chúng ta. Dụ ngôn nhắc đến đức tin và nhắc chúng ta hảy tin tưởng vào đấy, nhất là tin vào Đấng đang dạy dụ ngôn cho chúng ta. Chúng ta mang dụ ngôn trong lòng chúng ta, như người ta mang dải lụa, để nhắc nhở chúng ta. Khi thế giới bên ngoài gây hoan man cho chúng ta và như muốn chống lại những hy vọng của chúng ta, chúng ta hảy thường suy niệm và nghe các ngụ ngôn. Nhờ thế, nó đem đến cho chúng ta niềm hy vọng, trong lúc cộng đoàn chúng ta cố gắng chiến đấu và hành động. Chúng ta nên tránh những điều chống đối chia rẻ; chúng ta không nên tính toán những thành quả củng như những thất bại Trong lúc chiến đấu với sự dữ, chúng ta phải liên tục cố gắng cho đến khi Đấng chủ ruộng cho chúng ta biết là đến mùa gặt, vì Ngài là người biết rõ hơn chúng ta về cách chia cỏ lùng riêng và lúa tốt riêng.
Dụ ngôn liên kết chúng ta hôm nay, nó khơi dậy niềm hy vọng trong chúng ta. Chúng ta không chán nản vì còn biết bao nhiêu việc phải làm. Trong dụ ngôn chúng ta thấy rõ Chủ ruộng là người cầm chịch. Người Chủ ruộng gieo giống tốt và nay có được vụ mùa tốt. Nếu có việc chia cỏ lùng và lúa tốt thi phải đợi đến sau này dưới sự chỉ đạo của Chúa. Lúc đó là lúc nào? Dụ ngôn nói là còn thì giờ, "hãy chờ đợi" và bây giờ chúng ta còn có thì giờ để lúa tốt sinh hoa trái trong đời sống chúng ta. Cảm tạ Thiên Chúa!
Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP
Lm Jude Siciliano OP
-------------------------------
Chúa Nhật 16 Thường Niên, Năm A (Kn 12:13, 16-19; Rm 8:26-27; Mt 13:24-43)
Ðể giúp người nghe hiểu về sự phát triển của nước Trời, Chúa Giêsu dùng ba dụ ngôn để chuyển đạt ý niệm. Dụ ngôn về hạt cải ám chỉ nước Trời bắt đầu rất nhỏ bé như hạt cải với việc chọn có mười hai tông đồ. Dụ ngôn nắm bột dậy men ám chỉ việc bành trướng của nước Chúa lúc đầu cũng nhỏ bé. Và nước Trời được ví như một thửa ruộng được gieo hạt giống. Trong khi người gieo giống thiếp ngủ, thì kẻ thù đến gieo vãi cỏ lùng vực vào ruộng lúa của chủ như Phúc âm hôm nay ghi lại: Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào ruộng lúa, rồi đi mất (Mt 13:25).
Theo ý nghĩa dụ ngôn thì lúa miến và cỏ lùng tượng trưng cho thiện và ác, sự lành và sự dữ. Thánh kinh dạy ta có sự hiện diện của sự dữ trong thế gian. Theo thần học và Thánh kinh công giáo thì thần dữ không chịu tuân phục Thiên Chúa. Như vậy sự dữ là sản phẩm của tự do mà Thiên Chúa đã ban cho loài thụ tạo: cho thiên thần cũng như loài người. Lucifer vì bất tuân phục Thiên Chúa, nên đã trở thành thần dữ. Ađam vì không vâng lệnh Thiên Chúa nên đã để cho tội lỗi lọt vào thế gian..
Vì thế bao lâu con người còn tại thế, thì thiện ác, tốt xấu, vẫn xen lẫn nhau như lúa miến và cỏ lùng và gây xung đột trong lòng người. Kẻ thù của nước Trời hằng rình chực lúc con cái sự sáng ngủ mê, không tỉnh thức cầu nguyện, không sống và thực hành lời Chúa, để gieo vãi cỏ dại là tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu vào tâm hồn loài người. Dưới chiêu bài tự do: tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng và tôn trọng quan điểm cá nhân, người ta tự do gieo vãi hạt giống cỏ lùng vào thế gian, trong xã hội ta đang sống bằng đủ mọi phương tiện truyền thông xã hội như sách vở, báo chí, truyền thanh, truyền hình, phim ảnh, mạng tin tức hầu làm tắc nghẽn lời Chúa, làm sa đoạ lòng người, làm lũng đoạn vườn nho của Giáo hội. Tội ác phạm đến Chúa, đến tha nhân và đến chính mình xẩy ra hằng phút trên thế giới.
Loài người thường có khuynh hướng hay đổ lỗi cho quỉ. Hễ cái gì xấu xa, dơ bẩn hay tội lỗi, thì cho là tại quỉ. Vì thế mà người ta ví nghịch như quỉ, xấu như quỉ, ác như quỉ.. Có lẽ người ta ví nghịch như quỉ cho nên hoạ sĩ mới hay vẽ hình thằng quỉ có cái đuôi dài? Mà thực vậy, hễ con vật gì có đuôi dài là nó thường nghịch, chẳng hạn như con khỉ. Về phương diện này thì kể ra cũng tội nghiệp cho thằng quỉ. Không biết còn gì giống như quỉ nữa không? Có một linh mục Việt Nam kia, trước khi qua Mỹ tu nghiệp có gặp một linh mục Mỹ, học làm linh mục cho giáo phận Ðà nẵng, sau khi mãn lính Mỹ ở Việt Nam. Linh mục người Mỹ nói với linh mục người Việt: ‘Cha cứ sang đó mà coi. Nó lạnh như quỉ vậy!’ Ông cha Việt nam nghĩ bụng từ trước tới nay đọc sách nói về hoả ngục với lửa sinh lửa diêm, thì phải nóng chứ. Sao bây giờ ông cha Mĩ lại ví: nó lạnh như quỉ vậy?
Hôm nay mỗi người cần nhận thức rằng nhiều cám dỗ để làm bậy là do khuynh hướng xấu trong con người chứ không hẳn là do ma quỉ bầy đặt. Ðó chính là điều mà Thánh Phaolô đã nhận ra là có hai khuynh hướng hay hai lề luật phản nghịch nhau nơi loài người: Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lí trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi (Rm 7:22-23). Thánh Phaolô muốn nói là thần trí ta muốn vươn lên, nhưng xác thịt cứ kéo ghì ta xuống.
Gương xấu và sự dữ trong thế gian giống như cỏ lùng, có thể gây ảnh hưởng xấu và làm hại ta bất cứ lúc nào. Và hậu quả của sự dữ có ảnh hưởng đến người xung quanh, tốt cũng như xấu. Ðể bảo vệ mùa gặt lúa trong Phúc âm hôm nay, đầy tớ đề nghị với chủ phải nhổ cỏ lùng. Tuy nhiên chủ lại bảo phải để cỏ lùng mọc chung với lúa miến, cho tới mùa gặt là lúc mà người ta mới có thể dễ dàng tách biệt lúa ra khỏi cỏ. Chủ trương để cỏ lùng mọc chung với lúa miến cho tới mùa gặt nói lên lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa và lòng khoan dung của Người mà ta cần phải học. Biết đâu người gian ác được ơn sám hối để trở lại cùng Chúa như sách Khôn Ngoan hôm nay ghi lại: Ngài đã cho con cái niềm hi vọng tràn trề là người có tội được Ngài ban ơn sám hối (Kn 12:19). Có những người có thể phản đối giải pháp trì hoãn này. Lý do họ đưa ra là nếu Giáo hội hay nước Chúa ở trần gian là phương tiện cứu rỗi thì phải diệt cội rễ của sự dữ và nết xấu. Tuy nhiên thời giờ tách biệt thiện hảo ra khỏi gian ác một cách hiệu quả và toàn diện thì chưa tới lúc. Bài học thứ hai ta cần học là thời giờ phán xét cũng là của Chúa và thuộc về Chúa.
Còn bài học thứ ba ta có thể rút tỉa trong Phúc âm hôm nay là việc thiện cũng như thói xấu đều bắt đầu bằng những việc nhỏ bé, nảy mầm từ những cám dỗ phạm những lỗi nhỏ, rồi đưa đến tội tầy đình. Việc luyện tập nhân đức cũng phải bắt đầu bằng những việc nhỏ bé dễ dàng. Vì thế mà ta cần luyện tập để thắng lướt những cám dỗ nhỏ trước để lấy đà hầu có thế thắng vượt cám dỗ lớn. Muốn được như vậy, ta phải tỉnh thức cầu nguyện, luyện tập nhân đức để có thể chống trả cám dỗ. Bao lâu còn tại thế, ta phải chung đụng với lúa miến và cỏ lùng: chung đụng với sự lành và sự dữ, tốt xấu và thiện ác. Vì thế ta phải canh chừng kẻo bị cỏ lùng lấn át.
Lời nguyện xin cho được ơn đứng vững trước cỏ lùng:
Lạy Chúa, mọi công trình Chúa tạo dựng đều là tốt đẹp.
Mà tội lỗi của thần dữ và ông bà nguyên tổ đã làm ra xấu.
Xin cho con được nhận thức rằng bao lâu còn tại thế
con phải chung đụng giữa cỏ lùng và lúa miến
trong xã hội loài ngưòi cũng như trong chính bản thân con.
Xin cho những người đang gieo vãi cỏ lùng vào thế gian
có được tâm hồn biết kính sợ Chúa.
Và xin cho con được đứng vững, khỏi bị cỏ lùng lấn át. Amen.
Lm Trần Bình Trọng
-------------------------------
Câu 10: “Các môn đệ đến gần”; c. 18: “Vậy anh em hãy nghe”, hiểu là Đức Giêsu nói với “các môn đệ”; c. 24: “Đức Giêsu trình bày cho họ [autois]”, hiểu là “các môn đệ” thì trung thành với văn cảnh hơn – Bản dịch CGKPV dịch diễn là “Đức Giêsu trình bày cho dân chúng nghe”, có lẽ cho phù hợp với ý của c. 34 –; c. 34: “Người còn kể cho họ [autois]”, hiểu là “các môn đệ”.
Tuy nhiên, Mc 4,33 dường như giảm nhẹ khẳng định cứng cỏi của 4,11: “tùy theo mức họ có thể nghe”. Như vậy, dụ ngôn là một cách nói dễ hơn và phù hợp hơn với trình độ của các thính giả.