Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14–A Bài 1-50 Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng
-----------------------------
Phúc Âm: Mt 11, 25-30: "Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. - Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
"Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng". - Ðó là lời Chúa.
-----------------------------
TN 14-A1. KHIÊM NHƯỜNG.. 2
TN 14-A2. NTĐY/89- SỐ KHÔNG.. 5
TN 14-A3. CS / 109- CHƯỚNG NGẠI 7
TN 14-A3. STM / 164- HIỀN LÀNH.. 8
TN 14-A5. PV / 427- CHÚA CHA.. 10
TN 14-A6. PV / 432- GÁNH NẶNG.. 11
TN 14-A7. PV / 430- HIỀN LÀNH.. 13
TN 14-A8. KINH TẠ ƠN CỦA ĐỨC GIÊSU.. 15
TN 14-A9. HÃY THƯA VỚI CHA BẠN.. 19
TN 14-A10. MẠC KHẢI CHO NHỮNG NGƯỜI BÉ MỌN.. 21
TN 14-A11. HỌC CÙNG ĐỨC GIÊSU SỰ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM TỐN.. 24
TN 14-A12. QUYỀN NĂNG TRONG YẾU HÈN.. 26
TN 14-A13. LỜI CẢM TẠ CỦA CHÚA GIÊSU.. 27
TN 14-A14. HÃY ĐẾN VỚI TA.. 31
TN 14-A15. HÃY HỌC CÙNG TA : HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM CUNG.. 34
TN 14-A16. Suy Niệm của JKN.. 36
TN 14-A17. HÃY HIỀN LÀNH VA KHIÊM NHƯỜNG.. 40
TN 14-A18. Khiêm nhường - TGM Ngô Quang Kiệt 42
TN 14-A19. CHIẾC LƯNG KHÒM CỦA JOE - Cha Mark Link S.J. 44
TN 14-A20. Học cùng Đức Giêsu sự Hiền lành và Khiêm tốn. 47
TN 14-A21. KHIÊM TỐN HỌC HỎI VỚI ĐỨC KITÔ - ĐC.JB. Bùi Tuần. 52
TN 14-A22. “HÃY ĐẾN CÙNG TÔI !”. 54
TN 14-A23. NGHỊCH LÝ.. 57
TN 14-A24. GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 14 TN A.. 58
TN 14-A25. SLC – Hiền lành. 62
TN 14-A26. SLCTTY/233- Mang lấy ách. 65
TN 14-A27. SLCTTY/233 - Mang lấy ách. 67
TN 14-A28. CSTM/150 – Gánh nặng. 68
TN 14-A29. Xin Chậm Lại Để Có Thể Nhanh Chóng Học Hỏi 70
TN 14-A30. Mạc Khải Cho Kẻ Bé Mọn. 71
TN 14-A31. Ách Của Tôi Êm Ái 73
TN 14-A32. Ba điều mặc khải - Nhóm Đồng Hành. 76
TN 14-A33. Nghèo trong tinh thần. 77
TN 14-A34. Chúa van cho người bé mọn sự hiểu biết về màu nhiệm nước Trời 81
TN 14-A35. Ngài đang mời gọi những người mệt mỏi 84
TN 14-A36. THẦY ĐÂY ĐỪNG SỢ.. 86
TN 14-A37. Khiêm nhường. 89
TN 14-A38. Gánh nặng của Chúa Giêsu. 90
TN 14-A39. Ai là người mở mắt?. 91
TN 14-A40. Thiên Chúa của chúng ta khiêm hạ thế nào. 92
TN 14-A41. TIN MỪNG MẶC KHẢI CHO NGƯỜI HÈN MỌN.. 94
TN 14-A42. Hiền lành. 98
TN 14-A43. HÃY ĐẾN VỚI CHÚA.. 100
TN 14-A44. Anh em khoâng soáng theo xaùc thòt, nhöng soáng theo tinh thaàn. 101
TN 14-A45. Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng. 106
TN 14-A46. LÒNG KHIÊM HẠ.. 108
TN 14-A47. VƯỢT QUA KHỔ ĐAU.. 114
TN 14-A48. Hiền lành và khiêm nhường. 116
TN 14-A49. Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. 118
TN 14-A50. HÃY ĐẾN VỚI TA - Trần Mỹ Duyệt 120
---------------------------------
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy Lucifer đã sa ngã vì tội gì, nếu không phải vì tội kiêu ngạo: TN 14-A1
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy Lucifer đã sa ngã vì tội gì, nếu không phải vì tội kiêu ngạo. Thực vậy, lúc bấy giờ Lucifer là một thiên thần sáng láng, nhưng vì kiêu ngạo, không muốn phục tùng Thiên Chúa nữa, nên đã bị đày đọa trong hỏa ngục. CònAdong Evà đã phản bội Chúa vì tội gì, nếu không phải vì tội kiêu ngạo. Đúng thế, vì muốn trở nên bằng Thiên Chúa, nên hai ông bà đã giơ tay ngắt trái cấm mà ăn.
Trải qua dòng lịch sử, chúng ta còn nghiệm ra sự kiêu ngạo là như một chứng bệnh di truyền, nằm sẵn trong máu huyết của mỗi người, bởi vì ai cũng có tự ái. Và theo lời thánh Phanxicô Salêsiô diễn tả : Sự tự ái chỉ ngưng hoạt động mười lăm phút sau khi con người đã chết. Chính sự tự ái này làm phát sinh ra thái độ kiêu ngạo và kiêu ngạo là một trong bảy mối tội đầu, là căn nguyên sinh ra mọi tội lỗi khác.
Thực vậy, trong Cựu Ước Thiên Chúa đã phán :
- Hỡi người, hãy nhớ mình là tro bụi, một mai người sẽ trở về bụi tro.
Thế nhưng, nhiều khi chúng ta đã quên mất thân phận tro bụi của minh, để rồi có những thái độ kiêu căng.
Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy thái độ kiêu căng ấy chỉ là một thứ lừa dối. Thực vậy, khi đánh giá về bản thân,chúng ta phải dựa vào một tiêu chuẩn nào đó, chẳng hạn như giá trị vật chất hay tinh thần, thế nhưng cả hai giá trị này chúng ta lại chẳng có gì đáng tự hào.
Thân xác của chúng ta ư ? Một chút sắt đủ làm được mấy chiếc đinh, một chút đường đủ làm được mấy chiếc kẹo, một diêm sinh đủ làm được mười hộp diêm, một chút vôi đủ quét được một khoảng tường nhỏ, một chút than đủ làm được mấy cây bút chì, tổng cộng chỉ đáng giá mấy chục ngàn đồng.
Còn trong lãnh vực tinh thần, cũng chẳng có gì đáng cho chúng ta vênh vang tự đắc.
Về kiến thức, càng học chúng ta lại càng cảm thấy mình dốt nát, còn biết bao nhiêu điều có lẽ chẳng bao giờ chúng ta biết đến. Ngay cả những cái tầm thường nhất chúng ta cũng không thể hiểu thấu, như sự sống, tình yêu…
Về nhân đức cũng vậy, nếu tự hào về những nhân đức mình có, thì đó là dấu chỉ chắc chắn nhất chứng tỏ mình chẳng có nhân đức nào cả. Bởi vì người nhân đức chẳng bao giờ kiêu căng, chẳng bao giờ coi mình hơn người khác, chẳng bao coi mình đả đạt tới lý tưởng.
Còn về tiền bạc, địa vị và danh vọng…tất cả những cái đó đều ở ngoài tầm tay của chúng ta, hay lệ thuộc vào người khác. Nếu nhờ những cái đó mà chúng ta có giá trị, thì giá trị ấy cũng chỉ là một giá trị vay mượn, phù phiếm mà thôi.
Để chữa lành căn bệnh kiêu ngạo truyền kiếp ấy, không gì bằng hãy học mẫu gương khiêm nhường tuyệt vời của Chúa Giêsu :
- Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã tự hạ, mặc lấy thân phận con người, đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Là Thày, nhưng Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ.
Thế nhưng đối với nhiều người thờ nay, khiêm nhường thường được nhìn bằn mặt cặp mắt khinh bỉ, như Nietzche đã nói:
- Khiêm nhường chỉ là một đức tính của kẻ nô lệ.
Nhưng với chúng ta thì lại khác : khiêm nhường là mẹ các nhân đức, khiêm nhường là một nhân đức của bậc anh hùng. Người khiêm nhường là người hiểu biết mình và can đảm nhìn thẳng vào sự thật. Vì thiếu can đảm nhìn vào sự thật, nên người ta ai cũng sợ chính mình. Kẻ chúng ta tránh né trước nhất lại là chính bản thân chúng ta, lại là chính con người chúng ta. Phải là bậc anh hùng hay thánh nhân mới giám nhìn thẳng vào chính mình và mới dám nói chính mình, để khám phá ra cái chân tướng đích thực của mình, như lời Chúa Giêsu đã nói :
- Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Đó là khuôn vàng thước ngọc, là kim chỉ nam của đạo làm người, là phương pháp thành công và hữu hiệu và bậc nhất.
Trong sách Trang Tử có ghi lại một mẩu chuyện đầy ý nghĩa sau đây :
Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào trọ tại một nhà kia. Chủ nhà có hai nàng thiếp, một xấu và một đẹp. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí mến người thiếp xấu và khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu mới hỏi gia nhân, thì họ trả lời :
- Người thiếp đẹp tự cho mình là đẹp, nên mất đẹp, chúng tôi chẵn ai nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại người thiếp sấu, tự biết mình là xấu, nên không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò lại mà căn dặn :
- Các con hãy ghi nhớ : giỏi mà bỏ được thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí và tôn trọng.
Hay như một vị vua Ả Rập đã nói :
- Trên đời này,ta chỉ sợ đức Thượng Đế và sợ mắc phải tính kiêu căng mà thôi.
Để kết luận, chúng ta hãy ghi khác lời Chúa phán : các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Truyện Tây Du Ký kể lại cuộc hành trình của thầy trò Đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh: TN 14-A2
Truyện Tây Du Ký kể lại cuộc hành trình của thầy trò Đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh, đem về phổ biến cho dân gian.
Trên cuộc ra đi đầy gian nan thử thách của thầy Tam Tạng, không chỉ là núi rừng hiểm trở với yêu ma quỷ quái, mà còn là những tật xấu của ba người đồ đệ thân tín. Tôn Ngộ Không, Trư Bát giới và Sa Tăng, ba tên này chính là ba nết xấu mà thiền sư họ Đường cũng như bao người khác phải vượt qua để đạt chánh quả. Đó là tính kiêu căng, lòng ham vật dục và sự lười biếng.
Trên cuộc hành trình về quê trời, mỗi người tín hữu cũng phải vượt qua bao gian nan thử thách, phải chiến đấu với những cơn cám dỗ triền miên. Thấu hiểu nỗi truân chuyên của con người, hôm nay Đức Giêsu đã kêu gọi :”Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
Hãy đến với Người, tất cả những ai đang phải “Bán lưng cho trời, bán mặt cho đất”, những ai “đầu tắt mặt tối” để kiếm sống, những ai “thấp cổ bé miệng”, Người sẽ ủi an bổ sức, sẽ cho họ được an dưỡng nghỉ ngơi.
Hãy đến với Người, tất cả những ai đang mang gánh nặng của quá khứ tội lỗi, của hiện tại yếu hèn, của tương lai chông chênh, Người sẽ xoa dịu vỗ về, sẽ ban cho họ sự bình an thanh thản.
Đức Giêsu còn tha thiết mời gọi :”Anh em hãy mang lấy ách của tôi… Vì ách của tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”. Nếu bất ngờ chúng ta bị một “cái ách giữa đàng mà quàng vào cổ” thì thật là gay go. Nhưng nếu chúng ta tình nguyện đón nhận cái ách của Đức Giêsu, là thánh giá bổn phận hằng ngày, thì cái ách kia sẽ trở nên êm ái, và gánh kia sẽ ra nhẹ nhàng. Vì chính con đường chúng ta đang tiến bước là con đường tình yêu, hành trình mà chúng ta đi tới là hành trình Nước Trời.
Chính trong tình yêu mà chúng ta cảm thấy bình an giữa cơn giông tố, niềm hân hoan trong lúc khổ đau.Chính trong tình yêu mà cái ách sần sùi trở nên êm ái, và cái gánh nặng nề hóa ra nhẹ nhàng.
Thánh Augustinô nói :”Nơi đâu có tình yêu thì không có vất vả, mà nếu như có vất vả thì người ta cũng yêu cả nỗi vất vả ấy”.Để có được thanh thản giữa bao lo toan của cuộc sống, để có được bình an giữa muôn bão tố cuộc đời, để có được thư thái giữa bao gánh nặng chồng chất, chúng ta hãy học nơi Thầy Giêsu :”Hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Kẻ Kiêu ngạo phô trương, cậy mình khôn ngoan tài đức, nên chẳng mấy ai ưa, mà Thiên Chúa cũng khinh chê loại bỏ. Còn người hiền hậu khiêm tốn nhận mình bé mọn, chỉ biết cậy dựa vào Chúa, nên được mọi người quí mến, mà Thiên Chúa lại yêu thương và ban cho Nước Trời. Đức Giêsu nói :”Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”. Một ly nước đầy không thể đổ thêm thứ gì vào đó. Cũng vậy, một kẻ chất đầy kiêu căng tự mãn thì không còn chỗ cho Thiên Chúa dạy dỗ và ban ơn. Chỉ có những tâm hồn nhận mình bé mọn, nhận mình là con số không, là trống rỗng thì lại có đủ chỗ cho Đấng vô cùng.
Đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy chúng ta hãy sống hiền lành và khiêm nhường;Là Thiên Chúa cao cả quyền năng, nhưng Người lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân để yêu thương và cứu chuộc con người.
Người không lên án người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang mà còn cứu bà khỏi trận mưa đá hãi hùng.
Người không khiến lửa trời xuống đốt cả làng Samari theo đề nghị của hai môn đệ háo thắng.
Người ví mình như người cha nhân hậu tha thứ cho đứa con hoang đàng.
Người xem mình như mục tử nhân lành chăm sóc từng con chiên.
Người xin Cha tha thứ cho những kẻ lăng nhục, hành hạ và đóng đinh Người.
Tột đỉnh của sự hiền lành và khiêm nhường nơi Đức Giêsu chính là Người đã hạ mình, vâng lời cho đến chết, và chết trên cây thập giá. Chiều thập tự mây cứ thong thả bay, suối cứ lững lờ trôi. Và lời kinh cứ tiếp tục xuôi thời gian gởi vào cuộc đời: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Trong cõi lòng hiền lành và khiêm nhường bao giờ cũng gói trọn con tim bao dung độ lượng.
---------------------------------
Trên chuyến xe lửa tiến về Paris, một anh sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Sau khi đoàn: TN 14-A3
Trên chuyến xe lửa tiến về Paris, một anh sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong việc cầu nguyện.
Anh sinh viên nhìn cụ già với vẻ khinh bỉ. Một lát sau anh nói : - Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí à?
Cụ già thản nhiên đáp :
- Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Anh sinh viên cười ngạo nghễ rồi nói :
- Lúc còn con nít tôi có tin. Nhưng bây giờ khoa học đã mở mắt cho tôi và tôi không thể tin được nữa. Ông hãy quăng xâu chuỗi ấy đi và hãy học hỏi những khám phá mới, ông sẽ thấy những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.
Cụ già khiêm tốn hỏi :
- Cậu vừa nói về những khám phá khoa học mới. Cậu có thể giúp tôi hiểu được những khám phá ấy?
Anh sinh viên hăng hái trả lời :
- Được chứ. Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi tặng ông những cuốn sách khoa học rồi ông sẽ thấy sự phong phú kỳ diệu của nó.
Cụ già rút trong túi ra một tấm danh thiếp và đưa cho anh sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, anh thanh niên tái mặt và lặng lẽ cúi đầu đi sang toa khác, bởi vì trên tấm danh thiếp có ghi : Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. Ông Louis Pasteur là một nhà bác học đã có nhiều phát minh trong lãnh vực hóa học và sinh vật học. Chính ông đã tìm ra thuốc chích ngừa bệnh chó dại. Dù thông thái như thế, nhưng ông vẫn khiêm tốn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, vẫn nỗ lực tìm kiếm Chúa để sống gắn bó với Người. Vì thế ông đã nghe được tiếng Chúa và đón nhận được những mặc khải của Người.
Còn anh sinh viên kia khả năng và sự hiểu biết không được bao nhiêu, nhưng đã tỏ ra kiêu căng tự phụ về sự hiểu biết ấy. Sự kiêu căng của anh đã che khuất đi khuôn mặt của Thiên Chúa, đã làm át đi tiếng nói của Người trong tâm hồn anh. Chính vì thế anh đã không thể nhận ra dung mạo của Thiên Chúa, không nghe được tiếng nói của Người trong cuộc đời mình.
Thời đại hôm nay nền khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực. Cuộc sống kinh tế của con người càng ngày càng phát triển. Người ta giàu có hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng tất cả những tiến bộ và phát triển ấy không đủ để phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và niềm tin tôn giáo. Chỉ có điều là người ta quá tự hào về những thành quả khám phá của mình, tự hào về sự giàu sang của mình. Và sự tự hào ấy đã ngăn cản, đã che mờ đôi mắt làm họ không còn nhận ra được những mặc khải của Thiên Chúa cho họ.
Phần chúng ta thì sao? Chúng ta chọn thái độ của nhà bác học Louis Pateur hay của anh sinh viên trong câu chuyện trên?
---------------------------------
Trước hết, chúng ta biết hiền lành là một trong những đức tính Chúa Giêsu đã đặt vào số tám: TN 14-A3
Trước hết, chúng ta biết hiền lành là một trong những đức tính Chúa Giêsu đã đặt vào số tám mối phúc :”Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. Rồi hôm nay, chúng ta lại thấy Chúa nói :”Hãy học với tôi vì tôi hiền lành”. Có lẽ không ai dám khuyên một lời như thế. Chúa Giêsu đả đưa ra lời khuyên đó, vì chính Ngài đã sống gương mẫu và kêu mời mọi người hãy sống như thế để chính mình được an bình, hạnh phúc, và đồng thời cũng đem lại bình an và phúc lộc cho những người chung quanh.
Quả thực, Chúa Giêsu đã sống hiền lành và làm gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta có thể nêu ra một số trường hợp cụ thể : Chẳng hạn, khi những người Pharisêu nhục mạ Ngài là bị quỉ ám, Ngài vẫn bình thản và nhắc nhở họ :”Đừng xét đoán theo bề ngoài. Hãy xét đoán cho công minh”. Chúa rao giảng giáo lý của Chúa một cách hiền hòa, không chua cay, nóng nảy, bực tức hay thách đố những người chống đối, xuyên tạc và bắt bẻ Ngài. Nhiều khi thấy đương đầu với họ không có lợi, Ngài tự ý lánh đi, để cho sự tức giận hay ghen ghét của họ dần dần lắng xuống. Đối với các môn đệ quê mùa, nóng tính, tham vọng. Ngài bình thản chấp nhận và nhẹ nhàng dạy bảo. Trước tòa án Do thái, người ta đổ vạ vu oan cho Ngài đủ điều, Ngài chỉ làm thinh. Tại dinh Philatô cũng thế, Ngài không nói nửa lời để minh oan, bào chữa, đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên. Bị tát vào má, nhổ vào mặt, đánh trên lưng, đội vòng gai trên đầu, bị nhạo cười mắng nhiếc, Ngài chịu đựng tất cả, không một lời phản đối, bực tức, phẫn uất. Trên thập giá, Ngài còn biện hộ cho những người làm khổ mình :”Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Ngài đã tắt thở và an nghỉ trong sự suy phục sứ mạng Chúa Cha trao cho Ngài một cách toàn vẹn :”Mọi sự đã hoàn tất”, “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”.
Đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã sống hiền lành một cách trọn vẹn, nên Ngài dám nói, dám kêu gọi chúng ta hãy học, hãy sống như Ngài. Ngài thực sự là mẫu gương cho mọi người. Qua mẫu gương hiền lành của Chúa, chúng ta rút ra được ý nghĩa của sự hiền lành là tự chủ, kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ hết lòng.
Người hiền lành là người làm chủ được chính mình, chiến thắng được chính mình, tức là thắng được cái tôi kiêu hãnh, ganh tị, giận hờn, tự ái, nóng nảy, tham lam của mình. Trong mỗi người có hai phần : phần thượng là ơn thánh, lý trí và ý chí. Còn phần hạ là cái dục vọng. Chiến thắng được chính mình là biết dùng ơn Chúa, dùng lý trí và ý chí điều khiển các dục vọng của mình, không để ngoại cảnh hoặc người khác chi phối, không phản ứng theo niềm vui nỗi buồn để đưa mình lên hay hạ người khác xuống.
Cũng thế, người hiền lành thì kiên nhẫn, chịu đựng mọi hoàn cảnh bất trắc hay những điều ngoài ý muốn của mình. Không tự mãn hay phóng đại công việc của mình, khoe mã, cầu danh, tự hào về những chuyện nhỏ nhen, bắt bẻ hay bực tức về chuyện sơ suất của người khác. Chúng ta mỗi người mỗi tính, mỗi người mỗi sở thích, và có những khả năng, tài năng khác nhau, không ai giống ai. Chúng ta sống với nhau, chúng ta phải biết kiên nhẫn, chịu đựng để hòa hợp với nhau, chia sẻ cho nhau. Vì thế, đòi hỏi chúng ta phải biết chịu đựng nhau, chấp nhận nhau. Chịu đựng chấp nhận cái hay cái tốt của người khác thì dễ nhưng chấp nhận chịu đựng cái xấu cái dở của người khác mới khó và đó mới là nhân đức. Có những trường hợp chúng ta phải chịu đựng, chấp nhận không phải một hai lần mà rất nhiều lần. Chấp nhận và chịu đựng được mới thực sự là người hiền lành.
Lại nữa, bao lâu còn là người, chúng ta còn lỗi lầm, còn cần được sửa sai, còn cần được tha thứ, và tha thứ mãi. Tha thứ nhiều là dấu chúng ta chịu đựng nhiều. Tha thứ nhiều sẽ chứng tỏ được tấm lòng quảng đại bao dung làm cho thêm bạn bớt thù. Tha thứ không phải là yếu thế hơn người được tha thứ, nhưng chính là tấm lòng rộng lớn hơn họ. Càng tha thứ sẽ làm cho đối phương nhận ra lỗi lầm của họ và họ sẽ thấy cần được tha thứ hơn. Cho nên, người nào muốn tập đức tính hiền lành là phải tập tha thứ.
Có lẽ tất cả chúng ta đều phải thú nhận mình còn thiếu rất nhiều đức tính hiền lành. Sống trong gia đình và sống trong bất cứ tập thể nào, chúng ta vẫn còn nhiều lần tỏ ra thiếu hiền lành, chưa hiền lành hoặc không hiền lành. Cho nên, Lời Chúa hôm nay thực là một bài học hữu ích, một lời kêu gọi chúng ta hãy sửa chữa hoặc cố gắng hơn nữa, để sống hiền lành. Nếu lịch sự được coi là bông hoa của đức ái, thì huống nữa là hiền lành. Vì thế, Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta hãy sống theo gương mẫu hiền lành của Ngài.
---------------------------------
Biết được một người quan trọng đem lại niềm vui cho chúng ta. Tuy nhiên, biết thường chỉ có: TN 14-A5
Biết được một người quan trọng đem lại niềm vui cho chúng ta. Tuy nhiên, biết thường chỉ có nghĩa là biết những sự kiện về người đó. Không biết một người khác theo cách đó chỉ có được một kiến thức nông cạn về người ấy.
Thật sự biết một người là phải có một quan hệ với người ấy, một quan hệ có nền tảng là yêu thương và tin cậy. Và cũng thế khi chúng ta muốn biết mình có được người khác hiểu biết và yêu thương không.
Trong cuốn sách viết về tiểu sử của George Washington, Richard Brookhiser nói :
“George Washington ở nơi chúng ta mỗi ngày, trên những tờ đô la và các khu phố. Từ núi Rushmore, ông nhìn xuống chúng ta. Trong thủ đô mang tên ông, ông có một đài tưởng niệm nổi tiếng nhất. Hơn bất kỳ người Mỹ nào, tên ông được dùng để đặt tên cho các trường học, đường phố, thành phố. Các nhà sử học xếp ông vào số những Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ”.
“Tuy nhiên, sự hiện diện của Washington không biến thành sự thân mật. Ông có mặt trong sách giáo khoa, trong ví tiền, nhưng không hiện diện trong tâm hồn chúng ta. Khuyết điểm này một phần do Washington, khi ông có khuynh hướng giữ khoảng cách giữa mình với dân chúng”.
Một số người coi Thiên Chúa như xa xôi cách biệt, không thật sự liên quan đến chúng ta và những đau khổ của chúng ta. Tệ hơn nữa, những người khác coi Thiên Chúa như một quan tòa, hoặc một thám tử sẵn sàng tóm lấy chúng ta để trừng phạt.
Đức Giêsu biết Chúa Cha và Chúa Cha biết Người. Điều này làm Người đầy tràn niềm vui. Vì Đức Giêsu biết Chúa Cha nên Người có thể mạc khải Chúa Cha cho người khác, đặc biệt cho những ai sẵn sàng cởi mở và đón nhận như con cái. Đức Giêsu mạc khải Chúa Cha như một người Cha yêu thương, từ bi hay tha thứ. Một Thiên Chúa âu yếm, quan tâm đến chúng ta. Người quan tâm đến chúng ta không phải để xét đoán và lên án chúng ta nhưng để chữa lành và cứu chuộc.
Nhiều người được gọi là thông thái đã từ bỏ Đức Giêsu, nhưng những người đơn sơ đã chấp nhận Người. Những người trí thức không cần đến Người, nhưng Người khiêm nhu lại chấp nhận Người. Sự kiêu ngạo trí thức là một điều nguy hiểm. Người đơn sơ gần gũi Thiên Chúa hơn người thông thái.
Đức Giêsu nói :”Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”.
Đức Giêsu không lên án khả năng trí thức nhưng tính kiêu ngạo tri thức. Không thể gọi là thông minh, sáng suốt khi khước từ Thiên Chúa, đó là lòng kiêu ngạo. Và không phải ngốc nghếch khi để cho Thiên Chúa bước vào đời sống mình. Đó là sự khiêm nhu.
Vì Đức Giêsu đã đến với chúng ta nên chúng ta không còn coi Thiên Chúa như một Đấng xa vời. Chúng ta nhìn thấy Người như một Đấng rất gần với chúng ta, biết rõ mỗi người chúng ta và quan tâm đến từng người một, vì chúng ta là con cái của Người. Người là Thiên Chúa đặc biệt cho người yếu đuối, nghèo khó và gánh vác nặng nề.
Khi đức tin là vấn đề của chỉ cái đầu, đức tin trở thành một việc lạnh lùng tri thức. Kết quả là Thiên Chúa vẫn ở bên ngoài chúng ta, một hình ảnh xa xôi, cách biệt. Nhưng đức tin không phải là vấn đề của cái đầu. Đúng ra nó là vấn đề của tâm hồn. Khi đức tin cắm rễ trong tâm hồn, Thiên Chúa trở nên gần gũi và âu yếm. Như thế đức tin trở thành một quan hệ ấm cúng với Thiên Chúa. Biết Thiên Chúa theo cách này, và có một liên hệ thương yêu với Người, sẽ tạo ra cho chúng ta một niềm vui cao cả. Thiên Chúa giống như một mùa xuân ở giữa chúng ta để mọi người trở nên tươi tỉnh và nâng ly chúc tụng.
---------------------------------
Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, ....”. Đây là một trong số những lời âu yếm nhất: TN 14-A6
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đây là một trong số những lời âu yếm nhất của Tin mừng.
Cuộc đời có thể rất nặng nề đối với một số người. Có nhiều loại gánh nặng – lo lắng, trách nhiệm, thất vọng, tổn thương, đau khổ, tội lỗi, bệnh tật, thất nghiệp, quan hệ khó khăn, nghiện ngập…
Ngày nay, những người làm công việc phục vụ thường được trả lương rất ít và được coi như nhận sự ban ơn. Họ có giá trị, không phải bởi chính họ, nhưng chỉ bởi dịch vụ mà họ cung ứng. Họ chỉ được nhận thấy khi đã nghỉ việc.
John Mc Gahern, một nhà văn Ái Nhĩ Lan, kể lại một sự cố xảy ra khi ông là nhà văn nội trú trong trường Trinity College, Dublin. Một phụ nữ mỗi tuần một lần đến làm vệ sinh phòng ông. Trong chưa đầy một giờ, bà làm sạch sẽ và làm ngăn nắp mọi sự. Bà là một phụ nữ duyên dáng và thường nói chuyện khi đang quét dọn. Bà nói với ông mỗi buổi sáng bà phải chờ xe buýt lúc sáu giờ sáng như thế nào và rồi bà có thể trở về nhà vào giờ nấu cơm chiều.
Về vị giáo sư trước đây đã ở trong căn phòng của Mc Gahern, bà nói :”Tôi đã quét dọn phòng ông ấy mười bốn năm và ông ấy không một lần nói chuyện với tôi. Tôi thường nói lời chào ông ấy buổi sáng trước, nhưng sau một lúc, tôi không nói gì nữa. Người ta nói ông ấy là một người thông minh nhất trong cả đại học, nhưng tôi, tôi cho rằng ông ấy có những cách thức của một anh khờ”.
Một sự nhạy cảm nhỏ bé, hoặc một lời đánh giá có thể giúp cho một gánh nặng trở nên nhẹ nhàng. Nó tạo ra thế giới của những điều khác biệt khi con người được thừa nhận và đối xử với nhau với lòng nhân từ và tôn trọng.
Các thầy luật sĩ và Pharisêu đã sống một cuộc sống được ưu đãi. Họ không hiểu một dân thường phải sống như thế nào. Với tầm quan trọng thái quá mà họ gán cho việc giữ luật chính xác và chi li, họ làm tăng lên các điều luật và quy tắc, họ đặt cho dân chúng một gánh nặng không thể mang nổi. Họ không có thiện cảm với những ai cho rằng gánh nặng này quá nặng không vác nổi.
Trong suốt những năm sống ở Nadarét, Đức Giêsu sống giữa đám dân thường. Và trong nhiều năm Người đã sống như một người thợ. Người trực tiếp biết được những tranh đấu, khó khăn và thất bại mà dân thường phải chịu. Người biết rõ những gánh nặng mà đời sống đã đặt trên vai họ.
Vì thế, Người cảm thương dân thường và muốn làm nhẹ bớt gánh nặng của họ. Dân chúng đến với Người từ mọi khu phố với gánh nặng của đau buồn và khốn khổ. Gặp được Người mọi gánh nặng của họ trở nên nhẹ nhàng. Chỉ sự hiện diện của Người có thể đem lại sự bình an cho một tâm hồn sầu khổ.
Nhìn lại gánh nặng của Người. Đức Giêsu nói “Ách của tôi êm ái và gánh của tôi nhẹ nhàng”. Làm sao Người có thể nói được điều ấy khi chính Người gánh vác gánh nặng cho rất nhiều người? Bởi vì Người vác gánh nặng của Người với tình yêu. Chỉ có tình yêu mới có thể làm cho một gánh nặng dường như nhẹ nhàng. Một phụ nữ thiếu lương thực một ngày khó mà chịu nổi. Nhưng một bà mẹ dành lương thực một ngày cho con mình không cảm thấy gì.
Một vài gánh nặng trong hành trang của chúng ta có thể và cũng nên bỏ bớt. Có một câu chuyện Thiền về một cụ già lên đường hành trình tâm linh với một bao nặng ở trên lưng. Trên giường chết, cụ già đưa cái bao cho đệ tử. Khi người đệ tử mở bao ra thì thấy nó trống rỗng. Vì thế người đệ tử tự hỏi tại sao nó nặng đến thế. Và cụ già nói :”Đó là trọng lượng của mọi vật trong đời tôi mà tôi không cần mang theo”.
Tôn giáo có thể làm cho đời sống nặng nề hơn. Nếu Đức Giêsu đặt mọi gánh nặng lên chúng ta thì đó là gánh nặng phải yêu thương người khác. Nhưng nếu chúng ta đã yêu thì không còn là gánh nặng nữa. Người không cất các gánh nặng khỏi chúng ta, nhưng ban cho chúng ta sức mạnh để vác chúng – khi đức tin làm cho mọi vật trở thành có thể thì tình yêu làm cho mọi vật trở thành dễ dàng.
---------------------------------
Đức Giêsu nói với chúng ta :”Anh em hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường: TN 14-A7
Đức Giêsu nói với chúng ta :”Anh em hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn anh em sẽ tìm được sự nghỉ ngơi”. Trong thế giới ngày nay xem ra khiêm nhường và hiền lành không có ý nghĩa nhiều.
Chúng ta hãy xem sự hiền lành. Có niềm tin cho rằng nếu bạn muốn thăng tiến trong cuộc sống, bạn phải cứng rắn, bởi vì nếu bạn hiền lành, người ta sẽ đạp lên bạn. Sự hiền lành thường được coi như nhút nhát, thụ động và yếu đuối.
Hiền lành không phải là một hình thức của yếu đuối. Nó là một hình thức của sức mạnh. Không có gì mạnh bằng sự hiền lành và không có gì hiền lành bằng sức mạnh thật. Chúng ta không hiểu nghĩa hiền lành là một người nhút nhát. Để hiền lành, phải là một người mạnh mẻ, tự tin.
Hiền lành là một phẩm chất cần thiết của cuộc sống. Hãy nghĩ đến sự hiền lành nơi đôi tay của bà mẹ hay của bác sĩ phẫu thuật. Tất cả chúng ta đều mong ước sự hiền lành, và chúng ta không thể sống cởi mở và trưởng thành mà không có nó.”Người hiền lành làm việc thận trọng, dè dặt, lắng nghe kỹ lưỡng, nhìn ngắm dịu dàng và sờ mó với sự thận trọng”. Một người hiền lành biết rằng kết quả chữa lành và phát triển là kết quả của sự nuôi dưỡng chứ không phải của sự áp chế.
Lòng ham muốn quyền lực căn nguyên trong sự yếu đuối chứ không phải trong sức mạnh. Chỉ có kẻ yếu mới đo lường giá trị của họ bằng con số những người mà họ có thể chế ngự. Người yếu thổi phồng họ lên và cố gắng hành động mạnh mẻ, kẻ ương ngạnh che giấu tính chất dễ tổn thương của họ.
Đức Giêsu không có sự gay gắt, khắc nghiệt. Người tiếp cận rất dịu dàng. Người không áp đặt ai. Người không cố gắng kiểm soát ai và bắt ai phải theo ý muốn của Người. Người tôn trọng tự do của họ. Người nào có ảnh hưởng to lớn nhất trên những người khác không cần kiểm soát những người chịu ảnh hưởng của họ.
Và chúng ta hãy xem sự khiêm nhường. Trong thế giới cạnh tranh ngày nay, bạn nghe nói rằng phải phô trương mình ra nếu bạn muốn có địa vị. Khiêm nhường bị coi như bạc nhược. Sự khiêm nhường không phải là một hình thức của sự bạc nhược mà là của sức mạnh. Khiêm nhường là nền tảng trên đó chúng ta xây dựng ngôi nhà tâm linh. Khiêm nhường không có nghĩa là đánh giá thấp về mình nhưng khiêm tốn thừa nhận sự thiện hảo của mình đồng thời nhận rằng mình có được là do Thiên Chúa ban cho.
Đức Giêsu hứa ban bình an trong tâm hồn cho ai hiền lành và khiêm nhường. Vì chúng ta ít tỏ ra hiền lành với người khác đến nỗi có quá nhiều sự rối ren trong nhà chúng ta và trên thế giới. Chúng ta thích thống trị những người khác bởi vì chúng ta biết rất ít về sự khiêm nhường đến nỗi chúng ta ít được bình an với chính mình và với những người khác. Những người kiêu căng và ngạo mạn không đem lại sự bình an. Họ gieo rắc rối ren và bất hòa với việc chiếu rọi lên những người khác sự tức giận và thất vọng của họ. Người khiêm nhường làm người khác nguôi giận và đem lại điều tốt đẹp nhất.
Ai kiêu ngạo và vô cảm làm cho đời sống trở nên nặng nề với chính mình và với người khác. Còn ai hiền lành và khiêm nhường làm cho đời sống trở nên nhẹ nhàng với chính mình và với anh em.
Thánh Seraphim nói “Hãy lãnh nhận sự bình an thiên phú và rồi nhiều người sẽ tìm được ơn cứu độ khi đến gần bạn”.
---------------------------------
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Trong một bối cảnh đối nghịch và thất bại hiển nhiên sau những chỉ dẫn làm nòng cốt cho: TN 14-A8
+ Trong một bối cảnh đối nghịch và thất bại hiển nhiên sau những chỉ dẫn làm nòng cốt cho sứ mạng Kitô hữu (ở Chúa nhật 11, 12 và 13), ta chờ đợi được thấy 12 môn đệ lên đường sứ mạng. Nhưng hôm nay, ta gặp lại Đức Giêsu giữa bộn bề hoạt động truyền giáo. Mt viết: “Dạy bảo 12 môn đệ rồi, Đức Giêsu lên đường dạy dỗ và rao giảng tại các thành thị trong nước” (11,1). Trong hoạt động truyền giáo ấy, Người phải trả lời những chất vấn của Gioan Tiền hô cũng như phải đương đầu với sự cứng lòng, sự chống đối của các đối thủ và sự bất tín của các thành thị xứ Galilê.
- Đối diện với các sứ giả của gioan Tiền hô. Gioan Tiền hô nhận thấy thái độ của Đức Giêsu không phù hợp với những lời rao giảng nghiêm khắc của ông, nên từ trong tù, ông sai người đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi một người khác?”.
Để trả lời họ, Đức Giêsu đưa họ trở lại những lời tiên báo của Isaia: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ngươi đã nghe và đã thấy: người mù nhìn thấy, kẻ què đi được, kẻ chết sống lại và người nghèo được nghe giảng Tin mừng”. Thời ứng nghiệm lời tiên tri đã tới. Phải biết nhận định những dấu chỉ loan báo về Nước Trời. Đức Giêsu nói với Gioan: “Phúc cho ai không vấp phạm vì Ta”.
- Khi “những sứ giả của Gioan đi rồi”, Đức Giêsu tiếp tục liên hệ sứ mạng của Gioan với sứ mạng của Ngài và tố cáo những ai không đón tiếp sứ mạng của các Ngài. Vạch trần ý đồ xấu xa của các đối thủ, Đức Giêsu so sánh họ với đám trẻ con hư đốn muốn chơi trò đám tang khi ta đề nghị chúng chơi trò đám cưới, và đòi chơi trò đám cưới khi ta đề nghị chúng chơi trò đám tang.
- Vì thái độ bất tín của miền Galilê quê hương Ngài dù họ đã thấy biết bao phép lạ Người làm sau cùng Ngài đã phải thốt lên những lời đau đớn y hệt các tiên tri trong Cựu Ước.
1. Kinh tạ ơn của Đức Giêsu.
Vậy mà Mt đã đặt lời kinh nguyện lạ lùng của Đức Giêsu vào trong cái bối cảnh chống đối và thất bại hiển nhiên của sứ vụ Galilê ấy. Lời kinh mà trong Phúc Âm Luca 10,21-22, ta gặp thấy trong sứ mạng của các môn đệ.
- Một lời cầu nguyện mang âm hưởng rất Do Thái, trong đó Đức Giêsu ngỏ lời với “Chúa trời đất”.
- Một lời cầu nguyện mà tiếp theo đó, Đức Giêsu, trong tương quan với Đấng mà Ngài gọi là “Cha”, đã tự nhận mình là “Con": một danh hiệu bất ngờ qua đó hiển lộ mối liên hệ duy nhất nối kết các Ngài: “Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự; không ai biết Con trừ ra Cha; cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và người mà Con muốn mạc khải cho”.
- Một lời cầu nguyện còn vang âm lời phán ra từ đám mây, khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan “Đây là Con Ta yêu dấu: Ta hài lòng về Người”.
Bây giờ Đức Giêsu cầu nguyện: “Điều Cha đã giấu những bậc khôn ngoan thông thái, Cha lại mạc khải cho những kẻ bé nhỏ. Vâng, lạy Cha, Cha đã muốn như vậy vì lòng nhân lành của Cha”. Cha cũng dùng tình yêu thương ấy ấp ủ Đức Giêsu, Con rất yêu dấu, Tôi tớ của Người, và những kẻ bé nhỏ sẽ nhận biết Cha trong cảnh nghèo hèn của họ.
- Một kinh nguyện tạ ơn, một tiếng reo vui, một lời tuyên xưng đức tin, một "bài ca tán tụng”.
Tại sao lại tạ ơn? Vào đúng lúc khó khăn này? Không phải vì Ngài đã thất bại đối với những bậc khôn ngoan thông thái, những kẻ cho rằng họ nắm giữ đặc quyền hiểu biết, nhưng vì sự đón nhận mà đám đông những “người bé nhỏ”, những kẻ khiêm nhường, những người có tâm hồn nghèo khó, dành cho Người. Những người ấy đã nhận ra nơi Người mầu nhiệm Thiên Chúa Cứu Độ, bí mật tình yêu của Người đối với nhân loại. Họ đã nhận biết nơi Người Thiên Chúa tối cao đã tỏ ra gần gũi, Thiên Chúa vĩ đại đã tỏ ra ngang hàng với những kẻ bé nhỏ.
Cl. Tassin ghi nhận: “Lời kinh này phản ánh đúng sự lượng giá của Đức Giêsu về sứ mạng của Người. Lời kinh cũng cho ta mẫu mực của mọi lời kinh tông đồ, lời kinh, biết nhìn lại những thành công và những thất bại, để khám phá ra ý định của Thiên Chúa với niềm hạnh phúc.
Trong lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu, những người bé nhỏ khám phá ra Thiên Chúa là một người Cha. Họ hiểu rằng giữa Thiên Chúa và con người ấy có một sự hỗ tương toàn vẹn, rằng Đức Giêsu muốn mạc khải Thiên Chúa và rằng, trong sứ mạng của Người, Thiên Chúa tỏ mình ra trong một ngôi vị.
2. ... và lời mời gọi trở nên môn đệ Người.
Đối với những người được tỏ cho biết mối liên hệ duy nhất nối kết Người với Chúa Cha, Đức Giêsu kêu gọi hãy trở nên môn đệ của Người. Để qua Người đi sâu vào sự hiểu biết trừu tượng, nhưng trong một liên hệ sống động giữa các ngôi vị.
“Gánh” mà Người gọi ra ở đây có lẽ là gánh của thói duy lề luật tỉ mỉ. Người là Đấng đến không phải để phá huỷ, nhưng"hoàn thành”, Người “chống lại thói tục chính yếu của tôn giáo thời ấy là áp đặt một kỷ luật khắt khe trên con người mà không thông truyền cho họ niềm vui ơn cứu độ”. Người đề nghị một sự công chính mới. Một sự công chính đòi hỏi hơn nhưng cũng nhẹ nhàng hơn, vì đó là sự gắn bó với cá nhân của Người, Đấng khai mở ra tình yêu của Chúa Cha. Một sự công chính mà bản thân Người rất “nhân lành và khiêm nhường trong lòng” đến hoàn tất trong những ai gắn bó với Lời Người.
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một lời nguyện không tách rời những câu Phúc Âm ở đoạn trước. (L. Monloubou, Evangile de Matthieu, Salvator).
Lời cầu nguyện của Đức Giêsu được trích dẫn ở đây không tách rời những câu Phúc Âm ở đoạn trước. Vì quen chia cắt chương này, ta hay coi thường mối liên hệ chặt chẽ nối kết Lời của Đức Giêsu với sự thất bại khi Người rao giảng tại Galilê. Thất bại này giải thích tại sao Đức Giêsu kết án những thành thị bất tín.
Điểm lý thú của lời kinh nguyện của Đức Giêsu là, sau khi cảm nhận sự thất bại trong chuyến đi vòng quanh Galilê, Đức Giêsu “chúc tụng” Chúa Cha.
Trong Cựu Ước không thiếu gì những bản văn miêu tả phản ứng hiếu chiến rất nhân loại của các ngôn sứ. Sau khi bị tổn thương vì gặp thất bại, họ qui trách nhiệm cho Thiên Chúa về những thất bại đó. Bài tự thuật của Giêrêmia tường thuật lại mối thất vọng nặng chất người - trừ Đức Giêsu ai dám kết án một sự thất vọng như thế? - của vị ngôn sứ bất hạnh, bị các thính giả mà ngài kết án vây hãm tứ bề. Những câu nói của một vị ngôn sứ tuyệt vọng vì thất bại, muốn nghi ngờ Thiên Chúa đã được Giêrêmia thuật lại (15,15-18 hoặc 15,19-21) có thể dùng trong bài đọc 1; những lời ấy cho thấy sự yếu đuối của tín hữu, và của chính vị ngôn sứ đã muốn nghi ngờ Thiên Chúa, chúng cho thấy sức mạnh vô song của Đức Giêsu, vì, thay vì phản loạn, nghi ngờ Ngài đã “chúc tụng” Ngài nói “Vâng, lạy Cha, đó là ý định của Cha”.
Đức Giêsu chúc tụng. Chúc tụng phát xuất từ sự ngưỡng mộ. Ta chúc tụng vì ngưỡng mộ một tác phẩm, một nhân vật có những dấu hiệu của sự hoàn hảo, toàn bích. Như thế Đức Giêsu nghĩ rằng kết quả của chuyến rao giảng tại Galilê, tuy bề ngoài có vẻ bi quan, vẫn có cái gì tích cực. Để thẩm định sự vật như thế, phải vượt qua những lý do tự nhiên. Vì tiếng kêu thán phục thốt lên trong lời chúc tụng không chỉ phát xuất do sự vật mà ta nhìn ngắm, ngưỡng mộ. tiếng kêu ấy phát xuất từ việc đối chiếu với Thiên Chúa. Một ... ngất ngây phát sinh khi ta thoáng thấy Thiên Chúa; tình trạng đó là kết quả của một hành vi của Thiên Chúa, như một tác phẩm thần linh. Vậy ta ngưỡng mộ Thiên Chúa hơn là tác phẩm của Người. Và ta chúc tụng.
Đức Giêsu chúc tụng Thiên Chúa vì, tuy không quên trách nhiệm đối với những kẻ bất tín trong thất bại của Ngài (sự kết án những thành thị minh chứng điều đó) Ngài đã nhận ra một mầu nhiệm thần linh; Ngài biết rằng Thiên Chúa có mặt trong tấn kịch. Nó đã hầu như phá huỷ nỗ lực rao giảng Phúc Âm của Ngài. Ngài ngưỡng mộ sự hiện diện này, công trình của Thiên Chúa này.
Chính Thiên Chúa đã che mắt những kẻ bất tín, cùng chính Thiên Chúa mạc khải cho “những ai đơn sơ": vì tất cả những điều đó, Ngài phải được chúc tụng. Ngài tỏ ra là một Thiên Chúa hiện diện còn hơn cả hiện diện: một Thiên Chúa “là Cha” Đức Giêsu nói: “Lạy Cha, Con chúc tụng Cha”.
2. Đức Giêsu, sự mạc khải của Chúa Cha cho những kẻ bé nhỏ. (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s'est approché, DDB).
Lời nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan thông thái biết, nhưng Cha đã mạc khải cho những người hèn mọn...”. Không có ý nói Thiên Chúa phân biệt đối xử; Đức Giêsu không tuyên bố cửa Nước Trời vĩnh viễn khép chặt đối với một vài loại người. Nhưng mỗi người chúng ta đều bị đe doạ vì thói tự mãn, kiêu căng về kiến thức, về sự khôn ngoan phàm trần... Để đón nhận Thiên Chúa và ơn cứu độ, con người phải diệt trừ thói tự mãn. Đó không phải là hạ mình. Ngược lại, đó là sự cao cả của con người: năng lực của họ mở ra vô biên và do đó đạt đến viên mãn. Vì thế Đức Giêsu có thể ca ngợi Chúa Cha đã ban cho con người được đi vào mầu nhiệm của Ngài: “Con chúc tụng Cha... vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Đó không phải là một lựa chọn cứng ngắc, nhưng là sự quan tâm yêu thương của Ngài. “Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”.
Điều mà Chúa Cha che giấu những người khôn ngoan thông thái, nhưng mạc khải cho những kẻ bé mọn, đó là mầu nhiệm Thiên Chúa, đời sống thân mật của Thiên Chúa. Thiên Chúa Tình Yêu tỏ mình ra trong mầu nhiệm đời sống của Ngài, mầu nhiệm sự thân mật của Ngài, là Thiên Chúa Ba Ngôi: “Tất cả đã được ban cho Ta từ Cha. Không ai biết Con trừ ra Cha, cũng không ai biết Cha trừ ra Con và những người mà Con muốn mạc khải cho”. Vì đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa, của tình yêu là sức sống Thiên Chúa mà Ngài muốn ta chia sẻ, sự khôn ngoan thông thái loài phàm trần chúng ta không tài nào hiểu được. Ta không thể phán đoán Thiên Chúa theo chuẩn mực nhân loại. Ta không thể tiến vào mối thân mật thâm sâu với Thiên Chúa bằng những nỗ lực hay bằng lý luận của loài người. Ta chỉ có thể mấp mé ở ngưỡng cửa nơi lý trí còn có thể phiêu lưu, nơi lòng muốn có thể vươn tới nhưng không bao giờ đạt được đối tượng. Các triết thuyết lý luận về Thiên Chúa, các nhà thần bí hướng dẫn cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng sau cùng Thiên Chúa vẫn là “Đấng vượt trên tất cả”. Ta chỉ nhận biết Ngài nếu để Ngài dạy dỗ. Ta chỉ gặp được Ngài nếu để Ngài dẫn ta đi. “Không ai biết được Chúa Cha trừ ra Con và những ai mà Con muốn mạc khải cho...”. Đức Giêsu là con đường duy nhất. Ngài là Con Thiên Chúa làm người để nói lời Thiên Chúa bằng ngôn ngữ loài người và để tỏ ra tình yêu Thiên Chúa trong cử chỉ của con người...
Ngài đã trở nên anh em của ta, để dẫn đưa ta về với Cha qua những nẻo đường quanh co của hiện tồn nhân loại. Mắt ta ngây ngất chiêm ngưỡng nơi Ngài một sự khôn ngoan và một tình yêu đích thực. Tim ta bốc lửa vì lời Ngài trao ban cho ta bí mật của bụi gai cháy đỏ. Ta chỉ biết được Chúa Cha và Chúa Con nhờ thờ lạy, chiêm ngắm trong ngọn lửa của Thánh Thần.
---------------------------------
Gheorge Washington, người cha của dân tộc Hoa kỳ, được rửa tội và được giáo dục trong Giáo: TN 14-A9
Gheorge Washington, người cha của dân tộc Hoa kỳ, được rửa tội và được giáo dục trong Giáo hội Anh giáo. Tuy nhiên, trong đời sống công khai của ông, ông đã đi dự lễ trong các nhà thờ của các Giáo hội khác, bất cứ ở nơi nào. Ít nhất, có hai lần ông tham dự thánh lễ của Giáo hội công giáo. Những người thân cận với ông làm chứng rằng: ông là người cầu nguyện. Vậy ông đã cầu nguyện thế nào ?
Câu trả lời cho vấn nạn được thấy trong một cuốn sổ tay nhỏ, dạng chữ viết tay của Washing ton, được tìm thấy trong một chiếc rương cũ kỹ. Nó có đầu đề đơn sơ là: “Sự hy sinh hàng ngày: một hy sinh cầu nguyện và tạ ơn vì tuần lễ, cả buổi sáng và buổi chiều”. Và đây là một lời cầu nguyện của ông vào sáng thứ tư: “Lạy Thiên Chúa tối cao hằng hữu, Đấng tạo hóa vĩ đại, là Đấng dựng nên trời và đất, là Thiên Chúa và Cha của đức Giêsu Kitô Chúa chúng con, từ trời xin đoái nhìn và thương xót con là tôi tớ của Ngài, đang khiêm tốn sấp mình trước tôn nhan Ngài, cảm nghiệm lòng thương xót của Ngài, và nỗi khốn khổ của con”.
Tôi muốn nhấn mạnh mấy lời của kinh nguyện đó trong liên hệ với Tin Mừng của Chúa nhật này. Ong Washington thưa với Thiên Chúa là “Cha của đức Giêsu Kitô Chúa chúng con”. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cầu nguyện cùng Cha Ngài: “Lạy Cha, là Chúa trời đất, con tạ ơn Cha”. Chúa Giêsu thường lặp lại từ “Lạy Cha” trong những lời cầu nguyện của Ngài.
Chúng ta nhắc lại một số lần, như khi Chúa Giêsu hấp hối trong vườn Giêtsimani. Ngài cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 126,39). Trên thánh giá, Chúa Giêsu kêu lên: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Một lúc sau Ngài tiếp: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay cha” (Lc 23,46). Khi sắp sửa cho Lazarô sống lại từ cõi chết, Chúa chúng ta nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con” (Gio 11,41). Trong những lời cuối cùng với dân chúng, Chúa Giêsu xứơng lên: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Jo 12,27). “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”. Khi các tông đồ xin Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện, Ngài dạy họ kinh “Lạy Cha”.
Bạn hãy lưu ý trong thánh lễ này, chúng ta thường thưa cùng Đấng tối cao là “Lạy Cha”. Tám lần trong kinh nguyện Thánh Thể IV, chúng ta thưa cùng Thiên Chúa là Lạy Cha.
Tôi đề nghị là chúng ta cầu nguyện như Chúa Giêsu đã làm với Cha của Ngài và Cha của chúng ta. Chúng ta làm như thế trong lời cầu nguyện cá nhân, riêng tư và tự phát ? Khi có điều gì khó khăn, chúng ta thưa: “Lạy cha... xin cho ý Cha được thể hiện”. Khi nghĩ đến sự chết chúng ta thưa: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Khi phải chịu bất công, và tàn nhẫn, chúng ta thưa: “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thưa: “Lạy cha, xin giúp con... Xin giúp tất cả chúng con làm mới lại tình yêu đối với Cha... Lạy Cha, xin cho chúng con được giao hòa với Cha và với nhau”. Mỗi người cha nhân loại xứng đáng đều hăm hở cho con cái điều chúng cần và ước ao, thì bạn có nghĩ rằng cha trên trời ít quảng đại sao ? Như một đứa con, bạn hãy cầu xin Ngài: Lạy Cha – trong thánh lễ này và trong mọi lời cầu nguyện riêng tư.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
---------------------------------
Mở đầu bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã ca tụng Thiên Chúa Cha vì đã mặc: TN 14-A10
Mở đầu bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã ca tụng Thiên Chúa Cha vì đã mặc khải cho những kẻ bé mọn, những người yếu đuối hiểu được mầu nhiệm Nước Trời, hiểu được giá trị cuộc sống vĩnh cửu sẵn sàng chịu những đau khổ vì mầu nhiệm đó, như trong trường hợp Thánh Inê (Đê) Lê Thị Thành (tử đạo ngày 12-7-1841, 60 tuổi)
Một nhân chứng tên Đang, đã cho biết cho biết:
“Bà Inê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình bà đầy máu mủ. Tuy vậy, bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khổ hơn nữa.”
Cô Luxia Nụ đến thăm mẹ trong ngục, thấy áo quần của mẹ loang lỗ đầy máu, cô thương mẹ khóc nức nở, mẹ nói:
“Đó là những bông hoa Chúa cài lên áo mẹ”
Bà nói tiếp: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo anh chị em con săn sóc việc nhà, vững tâm giữ đạo, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên đàng.”
Trong cuộc điều tra phong Thánh Lê Thị Thành, khi giáo quyền thẩm vấn, cô gái út Luxia Nụ, cung khai như sau:
“Thân mẫu chúng con rất chăm lo giáo dục các con. Chính bà dạy chúng con học chữ và Giáo lý, sau lại dạy cách tham dự Thánh lễ và xưng tội rước lễ. Bà không để chúng con biếng nhát việc xưng tội. Bà cho chúng con nhập Hội Con Đức Mẹ, vào ban thiếu nữ thưa kinh ở nhà thờ.”
Một người con khác, cô Anna cũng khai như sau:
“Song thân chúng con chỉ gả con gái cho những thanh niên đạo hạnh. Sau khi kết hôn, thân mẫu thường đến thăm chúng con và khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần bà dạy con rằng: Tuân theo ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng, con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng, hãy vui lòng nhận Thánh giá Chúa gửi cho. Bà thường khuyên vợ chồng chúng con sống hòa thuận, yên vui, đừng để ai nghe chúng con cãi lộn bao giờ.”
Khi bà Thành bị bắt và đưa trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo, bà đáp:
“Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời…”
Các quan truyền đánh đòn bà. lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng thanh củi lớn quuất vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng đến thăm, bà giải thích vì sao bà được kiên tâm như vậy:
“Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông cũng không chịu nổi, nhưng tôi đã được ơn Đức Mẹ giúp sức nên tôi cản thấy ít đau đớn.”
Lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba, thấy bà vẫn một lòng kiên trung, lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà bước qua Thánh giá. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng:
“Lạy Chúa, xin thương giúp con con không bao giờ muốn chối bò lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để cưỡng bức con đạp lên Thánh giá.”
Lần khác ra đứng trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong tay áo, nhưng bà Đê đã giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà giữ hơn rồi dẫn về ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi phải có người dìu.
Bà Đê danh họ là Lê Thị Thành, sinh khoảng năm 1781, tại làng Bái Điền, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Ngay từ nhỏ cô Thành đã theo mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc. Năm 17 tuổi cô kết hôn với anh Nguyễn Văn Nhất, người cùng xã, và sống với nhau rất hạnh phúc, thuận hòa, sinh hạ được hai con trai tên Đê, Trân và bốn gái: Thu , Năm, Nhiên, Nụ. Tục lệ địc phương thường gọi cha, mẹ bằng tên người con đầu lòng, vì thế có tên bà Đê. Hai ông bà sống hiền lành đạo đức, giáo dục con cái.
Ông bà Thành còn có lòng bác ái thương người, nhất là trọng kính và tận tình giúp đỡ các Linh mục ngặt nghèo trong thời cấm cách. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt để các giáo sĩ trú ẩn. Chính đức ái đó đã dẫn bà Đê đến phúc tử đạo.
Tháng 3-1841, có 4 Linh mục hiện diện trong giáo xứ Phúc Nhạc (Ninh Bình) mừng lễ Chúa Phục sinh. Cha Breneux Nhân ở nhà Cai Tổng Phaolô Thức, cha Galy Lý ở nhà ông trùm Cơ, cha Thành ở nhà bà Đê và cha Ngân ở một nhà khác. Một người tên Đễ theo giúp cha Thành muốn lập công và tham tiền đã đi báo cho Tổng Đốc Nam Định rằng trong làng Phúc Nhạc hiện có nhiều Đạo trưởng. Trịnh Quang Khanh tức đốc đích thân chỉ huy 500 lính bủa vây làng Phúc Nhạc vào sáng sớm ngày lễ Phục sinh (14-4-1841). Quan dạy tập họp giáo dân để lình đi lục soát từng nhà. Hai cha Thành và Ngân chạy thoát kịp. Cha Berneux Nhân vừa dâng Thánh lễ xong vội rời nhà trọ, trốn sang gác bếp nhà phước Mến Thánh giá, nhưng vô tình để gấu áo ra ngoài kẽ ván lên bị bắt. Cha Galy Lý được ông trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha Đường mương cạn nước ở sau vườn cạnh một bụi tre:
“Xin cha ẩn dưới mương này, Chúa gìn giữ thì cha thoát, bằng không thì cha và con cùng bị bắt.”
Nói xong, bà cùng cô con gái Luxia Nụ lấy rơm và cành khô che phủ lên. Nhưng lính đã trông thấy cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Galy Lý và bà Đê, chủ nhà.
Ông trùm Cơ, bốn hương chức và hai nữ tu mế Thánh giá là Anna Khiêm và Inê Thành cũng bị bắt. Tất cả bị trói, mang gông điệu ra đình làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà lại vui tươi không còn vẻ sợ hãi nữa.
Ngay hôm bị bắt, các nạn nhân bị điệu về thị trấn Nam Định, phải đi suốt đem khuya rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi cái gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành nam bà bị giam chung với hai nữ tu.
Vì những cực hình tra tấn nặng nề và ăn uống kham khổ, bà mắc bệnh kiết lỵ. Hai nữ tu tận tâm săn sóc bà, các Linh mục gửi thuốc, đến thăm, gỉai tội và ban Bí tích xức dầu. Trong giờ hấp hối, người ta thường nghe bà cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết vì con, con hết lòng theo Thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con.”
Cuối cùng bà dâng lời sau hết: “Giêsu Maria Giuse, con phó thác linh hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho trọn niềm tin ở Chúa.” Bà Inê Thành đã trút hơi thở cuối cùng, hôm đó là ngày 12-7-1841, sau 3 tháng bị giam cầm vì đức tin, thọ 60 tuổi.
Theo tục lệ, người lính cho đốt ngón chân bà để xác định nạn nhân không còn sống. Thi hài được an táng tại pháp trường Bảy Mẫu. Sáu tháng sau, giáo hữu cải táng, đem về Phúc Nhạc.
---------------------------------
TN 14-A11. HỌC CÙNG ĐỨC GIÊSU SỰ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM TỐN
GỢI Ý GIẢNG
1. Thế nào là "hiền lành?"
Trong nguyên bản Hy lạp, thánh Matthêu dùng chữ praus. Chữ này có nghĩa là dịu dàng, ngọt: TN 14-A11
Trong nguyên bản Hy lạp, thánh Matthêu dùng chữ praus. Chữ này có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi. Như thế, "hiền lành” bao gồm một tâm thế bên trong và một cách phản ứng bên ngoài.
-Tâm thế bên trong là luôn êm ái hoà nhã: nghĩ về người khác thì nghĩ tốt, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Đón nhận những lời nói và cách cư xử của người khác đối với mình thì không thành kiến, biết phải quấy, sẵn sàng đối thoại chấp nhận sửa đổi.
-Phản ứng bên ngoài nhẹ nhàng, tôn trọng, không thô bạo.
Chúa Giêsu hiền lành: trong đòng Ngài luôn yêu thương người khác (đặc biệt là những người khốn khổ hèn mọn), luôn muốn điều tốt cho người khác (nhất là muốn cứu độ người ta), không thành kiến đối với những người mà xã hội quen coi là xấu xa tội lỗi; lời nói và hành động của Ngài luôn tỏa ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Ngài không nặng lời, không lên án. Ngài chủ trương sống bằng tình thương. Ngài không bao động.
2. Thế nào là "Khiêm tốn?”
Trong nguyên bản hy lạp, thánh Matthêu dùng chữ tapeinos. Chữ này có nghĩa là chấp nhận "đứng thấp", “ở dưới", "bị hạ xuống", hoặc tự ý xuống thấp, ở dưới.
Căn bản của khiêm tốn là biết mình “là" thế nào từ đó không muốn tỏ ra hơn cái "là” ấy và giả như người khác có coi mình kém hơn cái “là" ấy thì mình cũng không màng tới. Điều quan trọng là sống thanh thaản và thành thật đúng với cái "là " của mình
Dụ ngôn của Đức Giêsu về những chỗ ngồi giúp ta hiểu rõ hơn về thái độ khiêm tốn đối với danh dự:
-Danh dự của ta không phải do ta tranh dành mà có: Khi được mời đi ăn cưới thì đừng tự ý dành chỗ nhất.
-Danh dự của ta là do chính cái "là" của ta tạo cho ta: chủ tiệc thấy ta xứng đáng chỗ nào thì sẽ đặt ta vào chỗ đó.
- Nhất là danh dự của ta là do Thiên Chúa sắp xếp cho ta: chủ tiệc cưới trong dụ ngôn này là chính Thiên Chúa. Ngài sẽ mời ta vào chỗ Ngài xếp đặt.
3. Cuộc hoán cải của Augustinô
Augustinô là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc vào bè rối Manichéisme. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông theo theo những đòi hỏi của xác thịt. Kết quả là một cuộc sống tội lỗi.
Một hôm, trong lúc tâm hồn trống rỗng vô vị, Augustinô bỗng nghe một tiếng từ đâu đó vang lên "Tolle et lege" (Hãy cầm lấy và đọc). Angustinô thấy trước mặt một quyển Thánh Kinh. Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư này của Thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma: đừng sống theo xác thịt nữa mà hãy sống theo Thánh Thần.
Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và ăn chay hãm mình của mẹ ngài là bà Mônica. Nhưng chính câu Thánh Kinh này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Augustinô.
4. "Hãy đến với Ta”.
Hãy đến với Ta. Chúa bảo tôi như thế. Nhưng tôi đáp lại: Con không dám, vì con bất xứng.
Hãy đến với Ta. Chúa lặp lại. Tôi lại đáp: Con sợ.
Hãy đến với Ta - Nhưng con đâu có hẹn trước với Chúa.
Hãy đến với Ta - Hiện giờ con không rảnh.
Hãy đến với Ta - Tôi không còn lý do gì từ chối nữa.
Chúa nói tiếp:
Con hãy đến... hãy ngồi xuống... hãy trút bỏ gánh nặng trên vai... Hãy ngồi dưới bóng cây im mát của Cha... Hãy giải khát bằng dòng nước trong lành của Cha...Ở bên Cha, con sẽ được nghỉ ngơi, sẽ thấy an bình.
Tôi thưa: "ách của Cha thật là êm ái. Gánh của Cha thật là nhẹ nhàng".
---------------------------------
“Hãy học cùng Ta…”
Thánh Phaolô, trong Thánh Thư gửi giáo đoàn Rôma, đã mô tả con người với hai yếu tố đối chọi: TN 14-A12
Thánh Phaolô, trong Thánh Thư gửi giáo đoàn Rôma, đã mô tả con người với hai yếu tố đối chọi nhau: xác thịt và thần trí. Con người là thần trí nếu biết sống trong tình yêu liên kết với Thiên Chúa, nếu không, nó chỉ là xác thịt yếu hèn và tội lỗi.
Ngày, dầu muốn hay không, con người vẫn cảm thấy mình bị giằng co, lôi kéo giữa hai sức mạnh đó. Một đàng là sức mạnh và tiếng nói của sự dữ, nhưng tôi vẫn làm. Đàng khác là tiếng gọi của Thần Khí: tôi biết nhưng nhiều khi tôi không nghe theo. Vậy, nếu chúng ta sống theo xác thịt thì chúng ta sẽ chết. Nếu nhờ Thần Trí mà chúng ta diệt được hành động xác thịt thì chúng ta sẽ được sống. Đó là hai sức mạnh tương phản của con người.
Chúa Giêsu nói là con người gây tương phản. Cụ già Simêon đã từng nói với Đức Mẹ: “Con trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối” (Lc 2,34)
Trong bài Phúc Âm, Chúa cũng gây ngạc nhiên khi Ngài chúc tụng Chúa Cha, vì “Cha đã giấu không cho những nhà hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lạc mặc khải cho những kẻ hèn mọn”. Những điều ấy là gi? Là sự hiểu biết về Thiên Chúa.
“Không ai biết Con trừ ra Cha. Và cũng chẳng ai beít Cha trừ ra Con và những kẻ Con muốn mặc khải cho”.
Nước Trời không được mặc khải cho những người thông thái hiền triết nhưn tự cao tự đại, khinh miệt người hèn mọn. Trái lại, chìa khóa Nước Trời được trao cho kẻ khiêm nhường, thành tâm và yêu mến. Một tâm hồn đầy cái “tôi” của mình cũng trống rỗng không có chỗ cho Thiên Chúa, một tâm hồn từ bỏ mình thì ơn Chúa cũng tràn vào chan hòa như giòng sông cả(Gn 7,38)
Các lời tâm sự của Chúa còn gây cho ta nhiều ngạc nhiên nữa. “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đồng bản thể và đồng hàng với Đức Chúa Cha, Ngài biết Cha như Con biết Cha. Nhưng Ngài đã hạ mình xuống, sống thân phận người nghèo nàn, khiêm nhường và kêu gọi chúng ta bắt chước Ngài. Chính Phaolô đã thốt ra những lời thống thiết: “NMg đã hủy mình đi, lãnh lấy thân phận tôi đòi… đem thân đội lốt người phàm. Ngài đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá” (Phi 2,7-8)
Điều làm cho các nhà thông thái kinh ngạc là Ngài đã tỏ quyền năng trong sự yếu hèn. Là một vị Thiên Chúa, “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”, một bậc Thầy mà chỉ dạy cho chúng ta bài học khiêm nhu và hiền hậu.
Sau cùng, nói được rằng, sau khi đã nêu ra những chứng thư khiêm tốn, Chúa Giêsu đã đưa ra một lời kêu gọi thống thiết cho tất cả những người nghèo khó: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi”. Những người nghe Chúa hôm nay là những người thấp cổ bé miệng, những người ăn làm đầu tắt mặt tối, bị khinh dể, những người gồng lưng dưới khối nặng của lề luật; người có quyền thế đặt ra bắt kẻ khác giữ, còn mình thì tự châm chước, “gạn lọc con muỗi, nhưng lại nuốt chửng con lạc đà” (Mt 23,34)
Thì, này đây, Ngài đến ban cho đời sống lam lũ của họ, cũng như của chúng ta, một ý nghĩa. Hãy đi theo Ngài. Hãy vác lấy “Ách của Ngài và gáng của Ngài, vừa êm ái vừa nhẹ nhàng”, thì tâm hồn chúng ta sẽ gặp bình an. Chúng ta hết làm nô lệ tội lỗi và được sống trong tụ do của con cái Chúa. Thánh Gêrađô là một Tu sĩ dòng Chúa Cứu Thế, một thầy thợ may, nhưng được Chúa mặc khải nhiều điều quan trọng hơn nhiều nhà hiền triết. Ngài nói: Lạy Chúa, chớ gì con được cứu rỗi các linh hồn hơn giọt nước ngoài biển cả, hơn lá cây rừng.
Trong ba năm, Người được theo các Cha Dòng trong các tuần đại phúc và được cứu vãn biết bao linh hồn.
---------------------------------
Lời cầu nguyện bộc phát này bày tỏ tư tưởng đích thực hơn hết của một người đối với chính mình: TN 14-A13
Lời cầu nguyện bộc phát này bày tỏ tư tưởng đích thực hơn hết của một người đối với chính mình. Vì thế, lời cảm tạ của Chúa Giêsu được ghi lại ở đây là một trong những đoạn tự thuật thiêng liêng quí báu nhất ta thấy trong Phúc Âm. Lời cảm tạ này tỏ ra rằng đặc điểm nổi bật nhất trong đời nhập thể của Con Thiên Chúa là vâng theo ý Cha. Với lời này: "Vì Cha đã thấy điều đó là tốt lành", ta thấy có sự từ bỏ mình và thuận phục lạ lùng, đó là chứng cớ hùng hồn cho chân lý rằng bất cứ ý của Cha là gì, con cũng tiếp nhận không thắc mắc, mặc dầu nói theo phương diện loài người, sự tiếp nhận ấy có thể gây cho Ngài nhiều sầu khổ. Chúa Giêsu nói điều này theo kinh nghiệm. Ngài thấy các luật sĩ, những người khôn ngoan đã từ chối Ngài, còn những người đơn sơ chấp nhận Ngài. Những người trí thức không cần đến Chúa Giêsu, nhưng những kẻ khiêm nhường chào đón Ngài. Chúng ta phải thận trọng xem Chúa muốn nói gì ở đây. Ngài không lên án năng lực trí thức nhưng điều Ngài đang lên án là sự kiêu căng trí thức. "Nơi cư trú của Phúc Âm là tấm lòng chứ không phải đầu óc" (Plumer). Không phải sự khôn ngoan xua đuổi Phúc Âm, nhưng chính lòng kuêu ngạo, không phải chính sự ngu dốt đón nhận Phúc Âm mà chính lòng khiêm nhường. Chúa Giêsu không gắn liền đức tin với sự ngu dốt, Ngài gắn liền sự hạ mình với đức tin. Một người có thể khôn ngoan như Salômôn, nhưng nếu ông ta không có tấm lòng đơn sơ, trông cậy, vô tư như tấm lòng của một đứa trẻ thì ông ta tự loại mình ra.
Chính những thầy thông luật đã nhìn thấy những nguy cơ của sự kiêu căng trí thức, họ nhận thức được những người đơn sơ thường gần gũi với Chúa Trời hơn các nhà thông thái khôn ngoan nhất. Các thầy thông luật có giai thoại sau đây: Một ngày kia luật sĩ Berokah ở Chuza đang đi trong chợ Lapet thì tiên tri Êlia hiện ra cùng ông, thày thông luật bèn hỏi: trong đám người ở chợ này có ai được định để hưởng sự sống đời sau không? Thoạt tiên Êlia trả lời là không có ai hết, sau đó ông chỉ một người và bảo rằng chính người này sẽ được hưởng sự sống trong nước thiên đàng. Luật sĩ nghe vậy bèn đến hỏi người đàn ông nọ xem ông đã làm những gì. Người đàn ông trả lời: tôi là một cai ngục, tôi cách ly đàn ông với đàn bà. Ban đêm tôi đặt giường tôi giữa đàn ông với đàn bà, như thế họ không làm gì bậy bạ được. Tiên tri Êlia lại chỉ hai người đàn ông khác và bảo họ cũng được hưởng nước thiên đàng. Thầy lại hỏi họ xem đã làm những gì. Hai người nọ trả lời: chúng tôi làm hề, hễ khi nào chúng tôi thấy ai buồn thì chúng tôi làm cho họ vui. Khi nào chúng tôi thấy hai người cãi vã với nhau thì chúng tôi cố gắng giảng hòa cho họ. Những người làm những việc đơn giản, người cai ngục giữ gìn tù nhân theo lối ngay thẳng, những người mang lại nụ cười và sự hòa thuận cho kẻ khác thì được vào nước thiên đàng.
Họ cũng có những giai thoại nữa: một lần kia vùng Sura bị một trận dịch hoành hành, nhưng nó không lan đến gần nhà một thầy thông luật nổi tiếng kia, dân chúng thấy thế bèn nghĩ chắc là nhờ đức độ của thầy. Nhưng trong giấc mộng họ được cho biết sở dĩ được như vậy là nhờ công đức của một người trong xóm đã sẵn lòng cho bất cứ ai mượn cuốc xẻng để đào huyệt. Một lần nọ, một trận hỏa hoạn bộc phát ở Drokeret nhưng lại không lan tới khu vực của luật sĩ Huna. Người ta nghĩ đó là nhờ đức độ của thầy, nhưng trong giấc mộng họ được cho biết đó là nhờ đức độ của một người đàn bà thường giúp đỡ nấu nướng cho những người hàng xóm. Một người đàn ông hay cho những người túng thiếu mượn đồ đạc của mình, một người đàn bà hay giúp đỡ bạn hàng xóm, họ là những người vô học, nhưng những hành động đơn sơ phát xuất từ lòng thương người của họ đã được Thiên Chúa chấp nhận. Chúa không phân biệt người ta theo trình độ trí thức.
Đoạn này kết thúc với lời tuyên bố lớn lao nhất của Chúa Giêsu, cũng là trung tâm điểm của niềm tin Kitô giáo. Chúa Giêsu phán rằng chỉ có mình Ngài mới bày tỏ Thiên Chúa cho loài người. Mọi người khác có thể là con Chúa Trời, nhưng Ngài là Đức Chúa Con. Gioan mô tả điều này theo một cách khác khi ông bảo Chúa Giêsu phán: “Ai thấy Ta là thấy Cha” (14,19). Điều Chúa Giêsu nói ở đây là: nếu các ngươi muốn thấy tâm trí của Thiên Chúa , tấm lòng và bản chất của Thiên Chúa , nếu các ngươi muốn thấy thái độ hoàn toàn của Thiên Chúa đối với con người thì hãy nhìn xem Ta. Theo giáo lý của Kitô giáo thì chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được Thiên Chúa như thế nào, và Chúa Giêsu có thể ban sự khôn ngoan đó cho bất cứ ai có lòng khiêm nhường và tin cậy đủ để lãnh nhận điều đó.
Matthêu 11, 28-30
Chúa Giêsu phán với những kẻ đang cố gắng tìm kiếm Thiên Chúa một cách vô vọng, đang cố gắng làm lành một cách vô vọng, đang thấy mọi lỗ lực của mình rốt cuộc chẳng được gì, chán nản kiệt sức rồi.
Chúa phán: "Hỡi những kẻ mệt mỏi hãy đến cùng Ta". Ngài đang mời gọi những người mệt mỏi vì tìm kiếm chân lý. Người Hi lạp nói rằng: "Rất khó tìm thấy Thượng Đế và khi anh đã tìm được Ngài thì anh lại không thể nào nói cho người khác biết về Ngài". Sôpha hỏi Gióp: nếu ông dò xét há có thể hiểu biết được sự sâu nhiệm của Chúa và thấu rõ Đấng Toàn Năng sao? Chúng ta biết Thiên Chúa không phải do sự tìm tòi của trí tuệ mà do quan tâm chú ý đến Chúa Giêsu. Chúng ta có thể chấm dứt việc tìm kiếm Thiên Chúa khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu , vì trong Ngài chúng ta thấy được Thiên Chúa .
Ngài phán: "Hỡi những kẻ mang gánh nặng, hãy đến cùng Ta". Chúa Giêsu nói về các luật sĩ và biệt phái: "Họ buộc những gánh nặng chất lên vai người ta còn mình thì không muốn đụng ngón tay vào" (Mt 23,4), vì tôn giáo chính thống Do thái là một gánh nặng. Đối với người Do thái, tôn giáo bao gồm những luật lệ, những qui tắc bất tận họ phải tuân thủ, chúng chỉ đạo mọi hành động của họ, lúc nào họ cũng nghe tiếng thôi thúc "ngươi chớ..... ngươi chớ.....".
Ngay các thầy thông luật cũng nhận thấy điều này. Câu chuyện minh họa sau đây cho thấy những đòi hỏi của luật pháp luôn luôn ràng buộc, dồn ép nặng nề, và không thể thực hiện được. Korak kể: Người láng giềng tôi là một bà góa, bà có hai con gái và một miếng ruộng. Khi bà bắt đầu cày, thì Môsê (ý nói luật Môsê) bảo: ngươi không được cày bò và lừa chung với nhau. Khi bà bắt đầu gieo giống thì ông phán: ngươi không được gieo trong ruộng ngươi hai thứ giống. Khi bà bắt đầu thu hoạch ông bảo: ngươi không được mót lúa sót hay lấy lại những gì ngươi bỏ quên (TL 24,19), cũng đừng gặt đến cuối ruộng (Lv 19,9). Bà bắt đầu đập lúa thì ông bảo: hãy giao cho ta của lễ phần mười thứ nhất và phần mười thứ hai, bà thuận và dâng hết cho ông. Sau đó người đàn bà đáng thương kia làm gì? Bà bán ruộng, mua hai con chiên để hớt lông may áo và để nó đẻ con kiếm lợi. Khi chiên sinh sản thì Aaron bèn đến (đòi hỏi của thầy tế lễ) nói: hãy dâng cho ta chiên con đầu lòng của ngươi, bà chấp nhận đòi hỏi đó và trao nó cho ông. Đến kỳ xén lông chiên, bà hớt lông và Aaron lại đến: hãy trao cho ta lông chiên hớt đầu tiên của ngươi (TL 18,4). Người đàn bà nghĩ thầm rằng: ta không thể chịu nổi ông này, ta sẽ làm thịt chiên mà ăn. Aaron lại đến bảo: hãy giao cho ta cái bả vai, cái hàm và cái bụng (TL18,3). Người đàn bà nói: ngay đến lúc tôi làm thịt nó ông cũng không để tôi yên, thôi tôi sẽ dâng nó luôn. Aaron bèn nói: trong trường hợp đó, nó sẽ hoàn toàn thuộc về ta (Ds 18,4). Ông liền mang nó đi bỏ lại bà góa đang khóc và hai đứa con gái.
Câu truyện kể trên là một thí dụ về những đòi hỏi triền miên mà Luật Pháp đặt trên con người trong mỗi sinh hoạt và hành động của đời sống. những đòi hỏi của Luật Pháp thật là một gánh nặng .
Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy mang lấy ách của Ngài. Người Do thái dùng thành ngữ "cái ách" để chỉ sự thuận phục, phó thác. Họ nói đến cái ách của Luật Pháp, của điều răn, cái ách của Nước Trời, của Chúa Trời. Nhưng Chúa Giêsu dùng những chữ đó trong lời kêu gọi của Ngài với một ý nghĩa rất gần gũi với chúng ta hơn. Ngài nói: "ách Ta êm ái" tiếng dễ chịu, êm ái trong tiếng Hi lạp có nghĩa là vừa vặn, sít sao. Ở xứ Palestine người ta làm ách bằng gỗ cho bò cái. Con bò được mang đến cho người ta đo kích thước, sau đó người ta bào cho cái ách thật nhẵn và đem bò đến để thử. Người ta điều chỉnh cái ách thật cẩn thận sao cho thật vừa để khỏi làm trầy cổ con thú kiên nhẫn.
Có một truyền thống cho rằng Chúa Giêsu là người thợ làm ách giỏi nhất miền Galilê . Ở khắp xứ người ta tìm đến tiệm thợ mộc của Ngài để mua những cái ách tốt nhất và khéo nhất. Thời ấy cũng như bây giờ các cửa tiệm đều treo bảng hiệu trên cửa, và có người bảo rằng bảng hiệu treo trên cửa tiệm mộc của người thợ mộc Nazareth chắc đã ghi là "ách của tôi rất vừa". Có thể ở đây Chúa Giêsu đang dùng lại cái hình ảnh tiệm thợ mộc ở Nazareth, nơi Ngài đã làm việc trong những năm tháng thầm lặng của Ngài.
Chúa Giêsu phán: "ách Ta rất vừa" Ngài muốn nói rằng: "sự sống Ta ban cho các ngươi để sống không phải là một gánh nặng làm trầy trụa các ngươi; đời sống các ngươi, công tác các ngươi đều được làm sẵn kích thước vừa với các ngươi!" Bất cứ điều gì Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta đều đã được làm sẵn để trở nên thích hợp với nhu cầu và khả năng của chúng ta. Chúa có công tác cho mỗi người chúng ta, tất cả đã được đo sẵn vừa vặn với chúng ta.
Chúa Giêsu phán: "gánh Ta nhẹ nhàng". Có một rabi nói: "ách ta trở thành bài ca của ta". Điều đó không có nghĩa là gánh nặng dễ mang, nhưng gánh nặng được đặt trên chúng ta trong tình yêu, được mang trong tình yêu, và tình yêu khiến gánh nặng nhất trở nên nhẹ nhàng. Khi chúng ta nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa , khi chúng ta biết gánh nặng của chúng ta là yêu Chúa và yêu người thì gánh nặng đó trở thành một bài ca. Có một câu truyện xưa kể về một người gặp một cậu bé đang cõng một em nhỏ hơn bị què, ông ta hỏi: "Em phải cõng một gánh quá nặng phải không? Cậu bé trả lời: nó đâu phải là gánh nặng, nó là đứa em nhỏ của cháu mà". Gánh nặng được ban cho trong tình yêu, và được mang trong tình yêu thì luôn luôn nhẹ nhàng.
---------------------------------
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta tắng nghe lời kêu mời tha thiết của Chúa Giêsu: "Hỡi những ai: TN 14-A14
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta tắng nghe lời kêu mời tha thiết của Chúa Giêsu: "Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi". Mỗi người chúng ta có lẽ giờ phút này cũng mang đến đây một gánh nặng, gánh nặng của những âu lo trong cuộc sống và nhất là gánh nặng của tội lỗi đang đè nặng trong lương tâm của ta.
Tin ở tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mang những gánh nặng đó cho Chúa Giêsu để xin Ngài tiếp tục độ trì, nâng đỡ chúng ta và tin ở tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta cũng mang đến cho Ngài những gánh nặng tội lỗi của mình để xin Ngài tẩy rửa tâm hồn chúng ta.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Người đã làm một cử chỉ mang nhiều ý nghĩa cao cả, đó là Ngài đã tuyên bố phục hồi danh dự cho ông Galilê, người đã bị Giáo Hội ở thế kỷ XVII kết án là lạc đạo, vì ông cho rằng trái đất quay xung quanh mặt trời.
Từ hàng bao thế kỷ qua, nhiều người xem ông Galilê như là nạn nhân của một Giáo Hội độc đoán, áp bức đối với con người. Và hiện nay không thiếu những người vẫn tiếp tục nhìn vào Giáo Hội như một sức kéo trì trệ, ngăn cản bước tiến của nhân loại. Với việc phục hồi danh dự cho ông Galilê, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II không những nhìn nhận một lỗi tầm của quá khứ, mà Ngài còn khẳng định một nguyên tắc nền tảng về sự tự trị của tôn giáo và khoa học.
Trong sứ điệp gởi cho vị giám đốc của đài thiên văn Vatican năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định như sau: "Tôn giáo không xây dựng trên khoa học, và khoa học cũng không là một nối dài của tôn giáo". Mỗi bên có một phương pháp, một nguyên tắc, một cách giải thích và những kết luận riêng của mình. Vì thế, Kitô giáo tự biện minh cho mình mà không dựa vào khoa học.
Lời tuyên bố trên đây của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đưa chúng ta vào một trong những chân lý nền tảng của Kitô giáo, chân lý đó là: “Đức tin là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho con người". Điều đó có nghĩa là không phải tìm kiếm, lý giải uyên bác thì con người mới đạt được đức tin. Nói như triết gia kiêm nhà toán học người Pháp là Pascal: "Muốn có đức tin thì người ta phải quì gối xuống mà van xin".
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay nêu bật tính cách nhưng không ấy của đức tin. Chúa Giêsu đã cảm lạ Thiên Chúa Cha vì đã giấu ẩn không cho những nhà hiền triết và khôn ngoan thông thái biết những chân lý về mầu nhiệm Nước Trời, mà chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn đơn sơ.
Lời cầu nguyện này được Chúa Giêsu thốt lên cho một loạt những thất bại của Ngài lại Bethsaida cũng như một số thành phố khác lại Galilêa, quê hương của Ngài. Cho dẫu Chúa Giêsu đã làm được rất nhiều phép lạ, nhưng nhiều người vẫn không tin Ngài, và một số thì chống đối ra mặt. Điển hình và gay gắt nhất chính là thái độ cứng lòng tin của các luật sĩ và biệt phái, tức là những hạng người được xem là khôn ngoan và trí thức trong dân. Họ dựa vào những hiểu biết uyên thâm của mình để khước từ sứ điệp của Chúa Giêsu.
Vì vậy, chỉ còn lại những dân chài lưới dốt nát được Chúa Giêsu chọn làm môn đệ, chỉ còn lại một số nhỏ những người thất học nghèo hèn bị xã hội đẩy ra bên lề, và Chúa Giêsu gọi họ là những kẻ bé mọn. Họ là những người đã đón nhận tinh thần "Tám Mối Phúc Thật". Họ là những con người nghèo khó, hiền lành và nhất là có tâm hồn trong sạcho Họ là những người có tinh thần trẻ thơ mà Chúa Giêsu đã đề ra: "Nếu các con không giống như trẻ nhỏ thì các con sẽ không được vào Nước Trời".
Thật vậy, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho, nhưng chỉ có những ai biết mở rộng tâm hồn, biết dốc cạn chính mình, biết chối từ những chỗ dựa của trần thế như tiền bạc, danh vọng, quyền bính, chỉ có những ai có tinh thần nghèo khó, đơn sơ như thế mới cảm nhận được đức tin, mới hiểu biết được mầu nhiệm Nước Trời.
Lý luận của đức tin, của luân lý và khoa học: Luận lý của đức tin là luận lý của lình yêu. Trong tình yêu người ta không lý luận, tình yêu không là số thành của một mớ những cộng trừ nhân chia. Tình yêu không là kết luận của một sự lý giải. Tình yêu là trao ban và trao ban nhưng không, trao ban không tính toán, không so đo hơn thiệt.
Kitô giáo chúng ta không chỉ là một hệ thống gồm những điều phải tin và phải giữ. Kitô giáo chúng ta thiết yếu là một con người, con người ấy chính là Chúa Giêsu Kitô. Con người ấy không ngừng mời gọi chúng ta đi vào quan hệ mật thiết với Ngài. Con người ấy không ngừng nói với mỗi người chúng ta: "Hãy đi theo Ta". Đi theo Ngài tứ là tiếp nhận sức sống củaNgài, là mặc lấy tâm tư, suy nghĩ hành động và nhất là cái nhìn của Ngài.
Thánh Phaolô đã diễn tả một cách chính xác cái nhìn ấy của Chúa Giêsu như sau: "Những gì con người cho là yếu nhược thì lại là sức mạnh của Thiên Chúa. Những gì con người cho là ngu dại thì đó lại chính là lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa". Tựu trung đó chính là lý luận và lẽ khôn ngoan của Thập giá. Lý luận và khôn ngoan ấy cũng là lý luận của tình yêu. Bởi vì cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một cái chết của tình yêu.
Chúng ta đang tham dự vào mầu nhiệm Thập giá của Chúa Giêsu, khi Ngài đã đoan hứa với chúng ta: "Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức nâng đỡ các ngươi".
Nguyện xin sức sống của Ngài mà chúng ta tiếp nhận trong Thánh lễ mỗi ngày bổ sức cho chúng ta, để chúng ta bước đi theo Ngài và mãi mãi được thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
---------------------------------
- Lm. VIKINI
Có lần báo chí đăng tin : Một anh tài xế khốn nạn, chịu không nổi vợ, đã mướn ba tên chuyên: TN 14-A15
Có lần báo chí đăng tin : Một anh tài xế khốn nạn, chịu không nổi vợ, đã mướn ba tên chuyên môn sát nhân để thủ tiêu vợ. Anh bị bắt và điều tra. Anh đáp : “Nó cằn nhằn tôi suốt ngày, làm cho đời tôi thành địa ngục”.
Biết bao kẻ phạm tội ác như thế, chỉ vì không sống hiền lành và khiêm tốn. Chị vợ nóng nảy gắt gỏng đã biến gia đình thành địa ngục, đã biến anh chồng thành kẻ sát nhân.
Vua Salômon đã nói : “Thà phải sống trong lẫm lúa nóng hừng hực còn hơn là sống trong ngôi nhà xinh đẹp với một bà vợ gắt gỏng” (Nguyễn hiến Lê dịch : Carnegie - Giúp chồng thành công trang. 128)
Nhiều gia đình không đến nỗi khủng khiếp như thế ; nhưng cũng chất đầy những đau khổ để giết nhau dần dần bằng lối sống bẳn gắt, từ giận chửi nhau đến đánh nhau. Hết chiến tranh nóng lại tới chiến tranh lạnh, buồn bực, âm ỉ, mặt nặng mặt nhẹ, rêu rao bêu xấu, thù vặt.
Muốn sống bình an thật sự, muốn được sống êm ấm, an vui, phải sống theo lời Chúa kêu gọi : “Hãy học cùng Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ mát bồi dưỡng”.
Học cùng Đức Giêsu hiền lành và khiêm tốn như thế nào ?
Trong vườn cây Dầu, quân dữ hùng hổ kéo đến tìm bắt Chúa Giêsu. Phêrô giật mình thức dậy, rút gươm đột xuất chém đứt tai tên đầy tớ thầy cả thượng phẩm. Đức Giêsu hiền từ bảo Phêrô : “Hãy xỏ gươm vào bao, ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”, rồi Người thương lấy tai đứt ráp lại cho anh được lành. Có ai hiền lành chịu nhục như thế không ? Không tức giận, mắng chửi, không đánh phạt quân dữ hung hăng, mà còn thương yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ thù.
Đang cơn đau đớn quằn quại trên thập giá, Đức Giêsu vẫn nhớ cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha : “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết”. Người không xin Thiên Chúa toàn năng công thẳng kết án, trả thù, giáng phạt quân dữ chết tươi. Người không đe dọa báo oán, không kêu xin cứu mình, nhưng kêu xin Chúa Cha nhân từ tha thứ cứu chữa kẻ giết mình ; khác hẳn những nạn nhân loài người thường chửi rủa đe dọa kẻ làm hại mình. Lòng Đức Giêsu rộng rãi bao la vô bờ : che chở bênh vực kẻ thù, cầu khẩn ân xá cho kẻ giết mình. Không thể tìm thấy đâu trên khắp mặt đất, hay dưới gầm trời bốn bể có người nào khoan nhân, dung thứ như Người. Chẳng bao giờ, từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế, tìm được ai thương yêu kẻ thù như Người, may ra chỉ có những người theo gương Người, được một phần nào thôi, như Thánh Stêphanô vị tử đạo tiên khởi.
Sự hiền lành của Đức Giêsu không phải là thứ hiền lành nhu nhược, nhút nhát hèn hạ ; mà là thứ hiền lành cứu nhân độ thế, hiền lành của tình thương vô cùng : Xin tha cho họ để họ khỏi bị phạt đời đời, xin tha cho họ để họ được cứu độ trở nên con Thiên Chúa, như Người đã tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình, tha cho viên sĩ quan đã đâm thấu qua Trái tim Người.
Sự hiền hậu của Đức Giêsu không phải là thứ hiền mù quáng, lầm lạc, mà là thứ hiền lành thẳng thắn, minh chính để trừ khử, sữa sai tội lỗi và sự dữ. Thấy quỷ ác hãm hại người ta, Người đã nghiêm khắc truyền lệnh : “Hãy ra khỏi người này”. Một lệnh truyền dứt khoát, ngắn gọn, mạnh mẽ.
Khi biệt phái chụp mũ Người lấy quyền tướng quỷ mà trừ quỷ. Người vạch rõ ác ý, sai lầm của họ : “Nếu Ta dùng tướng quỷ mà trừ quỷ, thì con cháu các người nhờ ai mà trừ quỷ. Nếu Ta dùng ngón tay Thiên Chúa, thì đó là nước Trời đã đến giữa các ngươi”
Sự hiền lành của Đức Giêsu là thứ hiền lành hạ mình xuống, chứ không phải nâng mình lên ; thắng mình chứ không khuất phục người ; sẵn sàng chịu nhục, chịu vả má, chứ không vả lại, chịu đánh chứ không đánh lại, chịu chết chứ không giết lại.
Đó là sự hiền lành anh hùng hạ mình xuống như những kẻ bé mọn và được Thiên Chúa như Mẹ Hiền luôn luôn thương giúp những đứa con thơ mọn. Còn những đứa lớn mạnh cậy mình khôn ngoan, thông thái không nhờ đến Mẹ, bất chấp lời Mẹ, nhưng tâm hồn chúng lại đầy mặc cảm, cô đơn, băn khoăn, lo lắng, buồn rầu.
Thánh Matthêu cho thấy Tin mừng của Đức Giêsu bị thất bại đối với các thầy tiến sĩ, luật sĩ, và biệt phái, nhưng lại được đông đảo dân chúng nồng nhiệt đón nhận. Vì thế, Đức Giêsu đã cảm tạ ngợi khen Đức Chúa Cha đã thương mặc khải cho những kẻ bé mọn. Họ đã học được sự hiền lành và khiêm nhường của Người và sống theo lời Người dậy. Tâm hồn họ được nghỉ ngơi bồi dưỡng, trở nên êm ái nhẹ nhàng trước những ách nặng và gồng gánh đầy khổ đau của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, Chúa đã ưu đãi những kẻ bé mọn thấp hèn. Xin làm cho trái tim con đừng bao giờ kiêu ngạo, trương phình lên như con bò, nhưng hãy vui vẻ sống nhỏ bé như con nhái để mong có thể chui qua lỗ kim mà vào ở nhà tình thương êm ái, ấm cúng của Chúa muôn đời.
---------------------------------
Câu hỏi gợi ý:
Những bậc khôn ngoan thông thái" là những ai? "Những người bé mọn" là những ai? "Biết: TN 14-A16
1. "Những bậc khôn ngoan thông thái" là những ai? "Những người bé mọn" là những ai? "Biết những điều này" là biết những gì?
2. Tại sao "những người bé mọn" lại được Thiên Chúa tự mạc khải cho?
3. "Ách" của Đức Giê-su nghĩa là gì? Tại sao "ách" ấy lại nhẹ nhàng?
Suy tư gợi ý:
1. Giải thích một vài từ ngữ khó hiểu trong bài Tin Mừng
Đức Giê-su tạ ơn Chúa Cha vì Ngài "đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn". Trong câu Kinh Thánh này, có ba điều ta cần tìm hiểu: (a) "Những bậc khôn ngoan thông thái" là những ai? (b) "Những người bé mọn" là những ai? (c) "Biết những điều này" là biết những gì?
a) "Những bậc khôn ngoan thông thái": Không nên hiểu từ ngữ này theo nghĩa đen. Trong ngữ cảnh bài Tin Mừng này, nó có nghĩa là những người tự cho mình là khôn ngoan thông thái, là hơn người, là vĩ đại, những người thích tự đề cao mình, thích được coi là quan trọng. Nói chung nó ám chỉ những người coi "cái tôi" của mình quá lớn, muốn "cái tôi" của mình là trung tâm của vũ trụ, được mọi người coi trọng, qui phục, muốn ý kiến và ý muốn của mình được mọi người luôn tôn trọng, chấp hành. Từ khuynh hướng "qui kỷ" ấy, họ dễ trở nên coi thường và khinh chê người khác. Nhiều khi tệ hơn nữa, họ muốn đạp trên đầu trên cổ người khác để tiến lên, sẵn sàng bắt người khác phải hy sinh cho mình.
b) "Những người bé mọn": Từ ngữ này cũng không nên hiểu theo nghĩa đen là những kẻ nghèo, còn nhỏ tuổi, thuộc hạng cùng đinh trong xã hội. Nhiều người tuy nhỏ bé trong xã hội, nhưng lại rất cao ngạo và coi "cái tôi" của mình to lớn không kém gì "nhưng người khôn ngoan thông thái" kể trên. Trong ngữ cảnh bài Tin Mừng này, "những người bé mọn" ám chỉ những người tự coi mình là nhỏ bé, coi "cái tôi" của mình không là gì cả, không đáng kể, không khao khát được mọi người quan tâm hay chú ý tới mình, không coi ý kiến hay ý riêng mình là quan trọng. Đó là những người sống tinh thần tự hủy theo gương Đức Giê-su (x. Pl 2,6-8), biết "lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình, không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác" (Pl 2,3-4), sẵn sàng chịu thiệt thòi mất mát vì yêu thương tha nhân.
Muốn biết ta thuộc hạng người nào, hãy xét xem phản ứng của ta thế nào khi ta bị xúc phạm, bị chạm tự ái, bị trái ý. Nếu ta tỏ ra bực bội, tức tối, có phản ứng mạnh, đồng thời cảm thấy đau khổ, muốn trả thù, muốn làm to chuyện, đó là dấu chứng ta thuộc hạng người trước, là hạng coi "cái tôi" của mình quá lớn. Trái lại, nếu ta cảm thấy đó là chuyện bình thường, chuyện nhỏ, không làm mình khó chịu, bực tức hay đau khổ, thì ta thuộc hạng người sau.
c) "Biết những điều này" là biết những gì? Chữ "biết" trong Kinh Thánh thường có nghĩa là cảm nghiệm chứ không chỉ là có kiến thức hay hiểu biết xuông. Người ăn trái táo thì có cảm nghiệm về mùi vị của trái táo, khác với người được học hỏi về trái táo một cách tỉ mỉ, khoa học, nhưng chưa hề được cầm trái táo trong tay mà ăn. "Những điều này" trong ngữ cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là những bí nhiệm về Thiên Chúa, về Chân Lý Tối Hậu. "Biết những điều này" là cảm nghiệm về Thiên Chúa, nếm được sự ngọt ngào êm dịu của Thiên Chúa, nhờ đó cảm thấy hạnh phúc, tràn đầy sự sống và sức mạnh của Thiên Chúa.
2. "Những người bé mọn" dễ cảm nghiệm về Thiên Chúa
"Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8). Vì là tình yêu, nên Ngài sẵn sàng tự hủy, hy sinh, phục vụ, quên mình, vì thế, Ngài mới chính là "Người Bé Mọn" tuyệt hảo nhất, là gương mẫu tuyệt vời cho tất cả "những người bé mọn". Vì "những người bé mọn" của Tin Mừng giống Thiên Chúa ở điểm căn bản này là sự yêu thương, nên họ hiểu Ngài và cảm nghiệm được Ngài dễ dàng hơn ai hết theo định luật "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". Chính Ngài cũng dễ dàng tỏ mình ra cho hạng người này nhiều hơn ai hết. Các vị thánh được Thiên Chúa tỏ mình ra đều là những người sống tinh thần yêu thương hay tinh thần "bé mọn" hơn ai hết.
3. Tính chất kỳ diệu và nghịch lý của "cái tôi"
"Cái tôi" là một hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho con người. Nó chính là bản thân ta, là cái ta yêu quí nhất trên đời. Nhưng vì chúng ta được tạo dựng nên giống Thiên Chúa là tình yêu, nên "cái tôi" ấy chỉ lớn mạnh, chỉ trưởng thành, chỉ đạt được giá trị hoàn hảo khi nó thật sự yêu thương, nghĩa là trở nên tình yêu như Thiên Chúa. Mà yêu thương chính là ra khỏi bản thân để hướng đến và sống cho một đối tượng khác. Điều đó đòi hỏi ta phải quên mình, từ bỏ mình, hy sinh chính mình, để chỉ lo cho hạnh phúc và lợi ích của đối tượng ta yêu. Vì thế, càng tự coi mình là nhỏ bé, là không quan trọng để coi đối tượng mình yêu thương là quan trọng, là lớn lao, thì càng thực hiện được khả năng yêu thương. Và như thế là thực hiện được chính bản thân mình, là làm cho "cái tôi" của mình trở nên cao cả, vĩ đại.
Do đó, có một nghịch lý kỳ diệu: ta càng quên "cái tôi" của mình đi, càng làm nó nhỏ bé lại, thì nó lại càng trở nên có giá trị và cao cả. Ngược lại, càng quan trọng hóa nó, càng tự đề cao nó, càng làm cho nó phình lớn, thì càng làm cho nó kém giá trị, càng làm nó nhỏ bé đi trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Sự nghịch lý này đã được thánh Phan-xi-cô Khó Khăn cảm nghiệm: "Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời" (Kinh Hòa Bình).
Đối với việc cảm nghiệm Thiên Chúa cũng có sự nghịch lý đó. Sự nghịch lý đó được thánh Gio-an Tẩy giả nói đến: "Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi" (Ga 3,30). Nghĩa là muốn Ngài lớn lên ở trong tôi, thì tôi phải nhỏ đi; hay nếu tôi tự làm cho mình nhỏ bé lại thì Ngài sẽ tự động lớn lên trong tôi. Còn nếu tôi làm cho "cái tôi" của mình phình to ra, thì Ngài sẽ tự động nhỏ lại trong tôi. Ngài có lớn lên trong tôi, tôi mới cảm nghiệm được Ngài, mới hiểu được Ngài, mới cảm nhận được những chân lý của Ngài, mới hấp thụ được sự khôn ngoan của Ngài. Đó chính là ý nghĩa của câu: Thiên Chúa "giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn". Thực ra Thiên Chúa chẳng muốn giấu gì về Ngài, nhưng những kẻ coi "cái tôi" của mình quá lớn đã tự bịt mắt mình lại trước những chân lý hay sự khôn ngoan của Thiên Chúa, để chỉ nhìn thấy những "giả lý" hay sự khôn ngoan của thế gian.
4. "Hãy mang lấy ách của tôi", vì "ách tôi êm ái…"
Khi ta coi "cái tôi" của mình là không quan trọng, là thấp kém, ta sẽ cảm thấy mình có vẻ như bị thiệt thòi, bị mất mát đủ thứ, và như bị quàng vào cổ mình một cái ách. Nhưng ách ấy chính là ách của Đức Giê-su, là thứ ách mà chính Ngài đã mang lấy suốt cuộc đời Ngài. Đã là ách thì khi mang vào tất nhiên sẽ cảm thấy nặng và khó chịu. Nhưng không có ách nào nhẹ nhàng và êm ái cho bằng ách của Ngài.
Thật vậy, khi một người coi nhẹ "cái tôi" của mình, không coi nó là quan trọng, tự nhiên người ấy sẽ thấy cuộc sống trở nên rất nhẹ nhàng: vì không cảm thấy bị chạm tự ái, vì không hề tức tối hay đau khổ khi bị xúc phạm, vì sẵn sàng tha thứ không chấp chiếm ai. Nhờ thế, cuộc sống giữa mình với tha nhân không còn vấn đề gì đáng mình phải buồn phiền đau khổ.
Thử đưa ra một trường hợp cụ thể. Giả như có ai đó làm thiệt hại hay xúc phạm đến ta, đó là một sự thiệt hại khách quan, không do ta gây ra. Nếu ta coi "cái tôi" của mình là quan trọng, ta sẽ bực tức buồn phiền và tâm ta sẽ đau khổ. Thế là ta đã tự mình làm cho mình đau khổ và thiệt hại thêm. Nếu ta cứ nghĩ đến chuyện bị xúc phạm đó, ta sẽ đau khổ hoài, và rất có thể vì thế ta tự làm cho mình mắc một chứng bệnh nan y nào đó. Như thế, sự thiệt hại do chính ta tự gây ra cho mình do sự bực tức còn lớn hơn sự thiệt hại ban đầu do người khác gây cho ta. - Nhưng nếu ta không coi "cái tôi" của mình là quan trọng, ta sẽ tha thứ ngay cho người xúc phạm hay làm ta thiệt hại, rồi quên ngay đi. Như thế ta chỉ bị sự thiệt hại ban đầu do người khác gây ra mà thôi. Điều đó khó mà tránh được trong cuộc sống chung với mọi người. Nếu ta coi thật nhẹ "cái tôi", ta sẽ thấy sự xúc phạm hay thiệt hại chẳng đáng kể, tâm hồn ta lập tức được bình an, nhẹ nhàng, vui tươi. Như thế chẳng phải ta đã hành động một cách khôn ngoan hơn rất nhiều sao?
Cách sau chính là cách của Đức Giê-su, là "mang lấy ách" của Ngài. Ách đó là ách êm ái và nhẹ nhàng nhất mà người khôn ngoan tất nhiên sẽ chọn khi đứng trước hai thứ ách: ách của Ngài và ách của chính mình. Không có ách nào làm ta mệt mỏi và nặng nề cho bằng cái ách do chính "cái tôi phình to" của mình tạo ra, nó chính là nguồn gốc phát sinh nên muôn vàn tội lỗi và đau khổ ở trần gian này. Vì thế, Đức Giê-su khuyên ta: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề (vì "cái tôi" của mình), hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi (là cái ách của tình yêu, không có "cái tôi" nặng nề trong ấy), và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường (nghĩa là tính coi nhẹ "cái tôi" của mình). Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng".
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha là Tình Yêu, xin cho con trở nên tình yêu giống như Cha, để con trở nên hình ảnh trung thực của Cha. Để được như thế, xin cho con biết coi nhẹ "cái tôi" của con, nhờ đó đời sống con trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp và hạnh phúc hơn bội phần. Amen.
---------------------------------
Lm Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Hiền lành và khiêm nhượng là đức tính tối quan trọng của con người.Trên Trên thế gian ai cũng thích: TN 14-A17
Hiền lành và khiêm nhượng là đức tính tối quan trọng của con người.Trên thế gian ai cũng thích người đơn sơ, hiền lành và từ tốn, hơn là một người cao ngạo, tự tôn , cái gì cũng cho mình hơn người, cái gì cũng cho là mình biết, mình giỏi khinh khi người khác. Người kiêu căng không biết chấp nhận giới hạn của mình, không biết nhận ra nhược điểm của mình , trái lại luôn lên mặt dậy đời, luôn muốn răn đe người khác. Tự cao, tự đại cũng là nguyên nhân làm cho con người không nhận ra ơn Chúa: "Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường " ( Lc 1, 51-52 ).
Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, nhưng lại hiền lành và từ tốn cỡi trên mình lừa, Ngài đến ban sự an bình cho mọi dân, mọi nước.
I. HÃY HỌC CÙNG CHÚA :" HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG .
Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa,được ngôn sứ Da-ca-ri-a trong bài đọc 1 loan báo Ngài là vị Vua chính trực, Đấng toàn thắng, oai phong lẫm liệt, nhưng lại rất khiêm tốn ngồi trên mình lừa. Đây là Đức Vua đã quét sạch chiến xa khỏi Êpraim, chiến mã khỏi Giêrusalem, bẻ tan cung nỏ của chiến tranh, đem lại độc lập và hòa bình cho muôn dân. Thiên Chúa, Đức Vua toàn thắng, thống trị là hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng Mêsia, ngày lễ lá đã tiến vài Giêrusalem trong bầu khí hân hoan, vui mừng, với muôn dân tung hô, với muôn vàn trẻ nhỏ Do Thái, tay cầm cành lá vạn tuế tung hô Vua Giêsu, Đấng có quyền phép vô cùng, nhưng đã khiêm nhu, hiền lành đi vào con đường thập giá, con đường chông gai, đau khổ để mang lại ơn cứu độ cho muôn dân.
Chúa đã im lặng , một sự nín thinh hầu như khó hiểu trước mặt những kẻ nộp, bắt và tra khảo Ngài, nhưng Ngài đã chiến thắng tử thần, chiến thắng sự dữ để đem lại niềm vui, sự hạnh phúc và cõi sống đời đòi cho những ai tin Ngài vì Ngài đã thắng thế gian "…Nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33). Chúa Giêsu đã chiến thắng sức mạnh của sự dữ, của tà thần, của danh vọng, tiền tài vật chất. Ngài không bao giờ thỏa hiệp để mong được vinh thân phì gia, được dễ dãi, được may mắn, được lợi nhuận theo kiểu người đời .Chúa chấp nhận sống nghèo, Ngài can đảm vượt lên trên cách đánh giá của người đời, Ngài sống giữa người nghèo, đồng bàn với người tội lỗi, liên hệ, làm quen với người thu thuế, giúp đỡ những kẻ bị xã hội ruồng bỏ, xa lánh, tìm kiếm những con chiên lạc vv…Hình ảnh của Chúa Giêsu đã được nhiều người có lòng tin họa lại. Một mẹ TêrêsaCalcutta nong nả lo cho người hấp hối, săn sóc kẻ bị bỏ rơi . Một Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, tuy tuổi già sức yếu vẫn luôn đi đây đi đó, khắp thế giới kêu gọi sự hiệp nhất, yêu thương và hòa bình. Một Phanxicô sống tuyệt cùng sự khó nghèo. Một Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã sống cái cốt lõi của tình yêu và còn biết bao vị thánh khác đã sống cung cách của Chúa Giêsu. Một Gandhi tuy không phải Kitô hữu, nhưng đã sống gần kề Tin Mừng . Một Martin Luther King đã ngã gục về một chí hướng , một niềm hy vọng và vì một niềm tin … Tất cả, những vị thánh, những vĩ nhân và những người Kitô hữu chân chính đều được mời gọi sống yêu thương , sống với trái tim cháy lửa khiêm nhượng và hiền lành của Chúa Giêsu vì " Người khiêm tốn là người sở hữu rất nhiều, mặc dù ra như chẳng có gì ".
II. CHÚA YÊU THƯƠNG KẺ BÉ MỌN :
Chúa Giêsu đã sinh ra, lớn lên trong cảnh khó khăn nghèo khó. Ngài đã đến như một kẻ nghèo, sống giữa người nghèo, thâu nạp các môn đệ đầu tiên cũng đủ mọi thành phần xã hội, đặc biệt những người trong lớp lao động nghèo nàn. Chúa và các môn đệ của Ngài loan truyền Tin Mừng cho những người nghèo khó, cho lớp dân cùng đinh, bơ vơ vất vưởng. Nuớc trời, Chúa Giêsu rao giảng, loan báo mở ra cho những người nghèo : nghèo về vật chất, nghèo về tinh thần nghĩa là những kẻ khiếm khuyết, tội lỗi, cần nhận ơn tha thứ. Chính vì vậy, Chúa Giêsu đã yêu thương các trẻ nhỏ vì các em có tâm hồn đơn sơ, hiền từ. Suốt cuộc đời của Chúa và trong cuộc hành trình tiến về núi Sọ để thực hiện việc cứu rỗi nhân loại. Những người đi theo Chúa là những người nghèo hèn, những bà phụ nữ tội lỗi được Chúa tha thứ. Chúa đã giải thoát và đem một người trộm cướp sám hối vào nước trời : "Hôm nay ngươi sẽ lên Thiên Đàng với Ta" (Lc 23, 43).
Khi sống lại Chúa phục sinh đã hiện ra đầu tiên với người phụ nữ Mađalêna tội lỗi tầy đình mà Ngài đã tha thứ vì người này đã yêu Chúa nhiều, Ngài đã trao trao sứ mạng loan báo Tin Mừng phục sinh cho bà đầu tiên. Chúa mời gọi con người phải có tấm lòng yêu thương vì ách và gánh của Ngài là sự yêu thương, có yêu thương con người mới biết chia sẻ và lưu tâm tới những người khác. Kiêu ngạo không thể gần gũi người khác được vì người tự cao tự mãn chỉ ích kỷ, bo bo cho mình và không biết mở ra cho người khác được. Chúa dậy chúng ta rằng: nhân loại quả lắm người tài, lắm người thông thái, giỏi giang, hiền triết, minh mẫn , thông minh biết nhiều chuyện, biết nhiều điều bí ẩn, huyền bí. Nhân loại đã lên cung trăng, lên hỏa tinh, con người đã tốn biết bao nhiêu tiền của để ngồi du lịch không trung, nhưng tất cả vẫn chỉ là con người. Giáo Hội cũng nẩy sinh biết bao nhà thông thái, lỗi lạc, nhưng tất cả vẫn chỉ dừng lại ở phạm vi nhân loại, con người. Ngôn ngữ Chúa muốn con người diễn tả là ngôn ngữ của tình yêu, vì chính Thiên Chúa là Tình yêu, nên chỉ ai sống yêu thương, mới có khả năng nhận biết Chúa (1Ga 4, 7-8). Biết Chúa mới chia sẻ cho người khác được và mới có tấm lòng loan báo Tin Mừng. Chỉ với trái tim yêu thương, con người mới nên đơn sơ, hiền từ và khiêm nhượng. Thánh Phaolô quả thực đã có lý khi nói: "Tình yêu Chúa thúc bách Tôi…". Quả thực, con người chỉ có thể hiểu được mầu nhiệm nước trời khi họ không cậy dựa vào sự thông thái, khôn ngoan của loài người mà phải có Chúa Thánh Thần hướng dẫn, soi sáng và phải ngang qua Chúa Giêsu, con người mới có thể đi vào sự thông hiệp mật thiết với Thiên Chúa và được cứu độ: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng là mạckhải cho những kẻ bé mọn "(Mt 11, 25).
Xin Chúa mở tâm hồn chúng con biết lắng nghe Lời Chúa với con tim rộng mở, với tâm hồn khiêm tốn và sẵn sàng để Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn. Xin Chúa cho chúng con biết sống hiền lành và khiêm nhượng như Chúa.
---------------------------------
Chúng ta thường tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, phép tắc vô cùng. Khi tuyên: TN 14-A18 FB
Chúng ta thường tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, phép tắc vô cùng. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, ta thường nghĩ đến một Thiên Chúa oai nghi bệ vệ, cao sang quyền thế, xa cách. Ta không nghĩ hay không dám nghĩ rằng Thiên Chúa thật rất khiêm nhường. Thực sự Thiên Chúa rất khiêm nhường.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa ẩn mình trong vô hình. Ở đời, một người quyền thế chiếm rất nhiều không gian của người khác. Người quyền thế ở nhà lớn, ngồi ghế rộng. Sự hiện diện của họ khiến mọi người khép nép, nói năng mất tự nhiên, đi đứng phải nhìn trước nhìn sau. Nếu bây giờ Thiên Chúa hiện hình đứng giữa chúng ta. Chắc hẳn chúng ta chẳng thể ngồi thoải mái như bây giờ. Trái lại chúng ta sẽ quì sụp xuống, gục đầu, đấm ngực ăn năn. Nhưng Thiên Chúa đã che giấu dung nhan. Người ẩn mình trong vô hình để cho ta được tự do. Người nhường không gian cho con người. Người tự trở nên một Đấng nghèo hèn, bé nhỏ đến độ bị người đời quên lãng.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa im lặng. Trong xã hội, người uy quyền thường nói nhiều. Người nhỏ phải nghe người lớn, người nhỏ có muốn nói cũng bị tiếng người lớn át đi. Thiên Chúa đã tự trở nên bé nhỏ. Người im lặng nhường lời cho con người. Người lắng nghe con người cả khi họ chỉ trích, chống đối, lên án Người. Người trở nên một Đấng bé nhỏ nghèo hèn, khép nép, im lặng trong thế giới ồn ào của loài người.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa đã cúi xuống thân phận con người. Con người chẳng là gì mà Chúa vẫn thương. Người còn cúi xuống sâu hơn nữa trước những kẻ tội lỗi để nâng họ lên. Khi người ta cúi xuống trước một kẻ cao trọng, sự khiêm nhường ấy đáng nghi ngờ. Nhưng khi người ta cúi xuống trước một thân phận tội lỗi, nghèo hèn, sự khiêm nhường ấy rất chân thực.
Chính sự khiêm nhường thẳm sâu làm chứng quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Thông thường ở đời, quyền năng là để chiến thắng, để chế ngự, để đè bẹp. Ai chống lại quyền lực, quyền lực sẽ nghiền nát người ấy. Trái lại, nơi Thiên Chúa, quyền năng là để chịu thua, để yêu thương, để tha thứ. Sức mạnh không ở nơi quyền lực. Quyền lực bộc phát là quyền lực không tự kiềm chế được. Trái lại, khiêm nhường là chế ngự được sức mạnh của mình. Đó mới chính là quyền năng thực sự mạnh mẽ.
Thiên Chúa vô hình. Có lẽ ta sẽ khó mà hiểu biết sự khiêm nhường của Thiên Chúa, nếu ta không nhìn thấy sự khiêm nhường của Đức Giêsu.
Cuộc đời Đức Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Người không ngừng đi xuống. Từ trời cao Người đã hạ mình xuống thế. Từ thân phận là Thiên Chúa Người đã hạ mình xuống làm một người bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tội đồ. Là Đấng hằng sống, Người đã tự nguyện chết đi. Suốt cuộc đời, Người đã không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Và một cử chỉ không thể nào quên là trong bữa tiệc ly, Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ. Người đã hạ mình xuống tận cùng, không còn có thể xuống hơn được nữa.
Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống, nên những ai kiêu căng tìm nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường nhỏ bé mới gặp được Người.
Hôm nay Đức Giêsu tha thiết mời gọi : "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Hãy ghi danh vào học trường Đức Giêsu. Hãy học bài học khiêm nhường. Hãy học bài học Giêsu. Hãy học với Thầy Giêsu. Hãy bước theo Thày Giêsu xuống những bậc thang khiêm nhường thẳm sâu. Ở bậc thang cuối cùng, Thiên Chúa đang chờ đợi ta, ta sẽ gặp được Người. Ta sẽ kết hiệp với Người. Ta sẽ rũ sạch mọi vất vả lo âu. Ta sẽ được bình an.
Lạy Đức Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
Bạn có thường để ý học bài học hiền lành khiêm nhường không ?
Hiền lành khiêm nhường biểu lộ sức mạnh. Bạn nghĩ gì về điều này ?
Thiên chúa tuyệt đối khiêm nhường, khám phá này có tác động gì với bạn không ?
Đức Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt
---------------------------------
Chủ đề : "Chúng ta phải cố gắng đối xử tử tế với kẻ khác giống như chính Chúa Giêsu đã đối xử."
700 năm trước khi Chúa Giêsu chào đời, có một người nô lệ Hy Lạp tên Aesop sưu tập một số: TN 14-A19
700 năm trước khi Chúa Giêsu chào đời, có một người nô lệ Hy Lạp tên Aesop sưu tập một số mẫu chuyện. Ngày nay người ta gọi sưu tập này là Aesop's Fables ( ngụ ngôn của Aesôp). Một trong các mẫu chuyện ngụ ngôn này kể về cuộc tranh cãi giữa mặt trời và gió. Chúng tranh cãi nhau xem cái nào mạnh hơn cái nào.
Ngày nọ, một cơ hội xảy đến giúp cả hai dàn xếp được cuộc tranh cãi. Hôm đó có một người mặc áo choàng đang đi trên một con đường quê hoang vắng. Mặt trời nói với gió: "Ai làm cho người ấy bỏ áo choàng ra mau hơn thì người ấy thắng cuộc nhé". Gió ta chẳng những đồng ý mà còn quyết định ra tay trước. " Chàng" ta thổi tới tấp, nhưng càng thổi thì người nọ càng giữ chặt lấy chiếc áo. Cuối cùng kiệt sức gió ta đành phải chịu thua. Lúc đó mặt trời mới ra tay. Gã ta cần giương hết quang vinh của gã ra. Chỉ trong mấy phút, người nọ nóng qúa phải cởi áo ra. Aesôp bàn đến phần luân lý câu chuyện trên như sau: "Bạn có thể thành công nhờ sự hiền từ dễ thương hơn là nhờ bạo lực".
Ngày nay sự hiền lành dễ thương không còn được đánh gía cao như trước. Trước đây, lời khen ngợi tốt nhất mà bạn có thể trao tặng kẻ khác là gọi họ là người hiền lành dễ thương, như ở bên Anh hay Mỹ, người ta gọi nhau bằng danh từ "gentleman" (người dễ thương). Nhưng ngày nay, bạo lực lại phổ biến hơn hiền lành dễ thương. Truyền hình đã làm cho bạo lực có rất nhiều khán gỉa bằng những chương trình Nielson rất phổ biến. Điều đó gây thiệt hại cho chúng ta. Người ta cảm thấy thích thú vì đã sáng chế ra những từ ngữ như "Battered Woman" ( người phụ nữ bị đối xử tàn tệ) và "abused chile" ( đứa bé bị lợi dụng). Gia đình chúng ta cũng phản ảnh phần nào bạo lực của thời đại. Chúng ta la, chúng ta đá vật này quăng vật nọ, và ngay cả đánh đấm lẫn nhau nữa !"
Thật là khác với điều Chúa Giêsu dậy dỗ chúng ta biết bao ! Chúa Giêsu nói: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường thật lòng".
Tiên tri Isaia đã tiên báo sự tử tế hiền lành của Chúa Giêsu như sau: "Ngài không la hét, không to tiếng hoặc ăn nói ồn ào ngoài đường phố. Ngài không bẻ gãy cây sậy đã bị giập và cũng không giập tắt ngọn đèn còn loe lét" (Is. 42, 20-3).
Một ví dụ bảo vệ sự hiền lành dễ thương của Chúa Giêsu là cách Ngài xử lý trường hợp người phụ nữ bị bắt qủa tang phạm tội ngoại tình. Chúa Giêsu chẳng những dễ thương với người phụ nữ, mà còn dễ thương với cả những kẻ tố cáo chị ta. Những kẻ này tự cho mình là công chính ! Chúa Giêsu không la, không quát, không hét, không hò. Ngài chỉ cúi xuống hiền từ dùng ngón tay viết lên cát. Hành vi này giống như tiếng sấm nổ giữa một đêm hè thinh lặng. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải hiền lành dễ thương. Ngài khuyên chúng ta bắt chước người mục tử trong dụ ngôn con chiên lạc. Vị ấy không hề đánh đập hay lôi kéo con chiên về nhà mà lại tử tế đặt nó trên vai mình. Chúa Giêsu cũng khuyên chúng ta bắt chước người bố trong dụ ngôn đứa con hoang. Ong bố này đã không quở mắng người con vừa trở về, cũng không cãi cọ với cậu mà chỉ ôm hôn cậu.
Joseph Lahey có kể một câu chuyện về chính mình trong tạp chí Guideposts (hướng đạo).
Khi còn bé, Joseph bị khòm lưng. Mặc đồ vào, cậu ta trông không đến nỗi tệ, nhưng khi cởi áo ra thì trông cậu thật xấu xí. Joseph rất ghét cái lưng của cậu. Một hôm, Joseph phải đứng xếp hàng ở trường khám bệnh. Cậu rất sợ lúc Bác sĩ bảo: " cởi áo ra!" Và giây phút kinh khủng ấy đã đến. Joseph lúng túng cởi nút áo, tay cậu run run thảm hại. Cuối cùng cậu cởi xong chiếc áo, vị Bác sĩ nhìn cậu, và làm một điều rất khác thường. Ong bước vòng quanh bàn, đôi tay to lớn của ông úp lên đầu cậu bé, Ong vừa nhìn thẳng vào mắt cậu, vừa dịu dàng nói: " này con, con có tin vào Chúa không? Cậu bé trả lời: Dạ, có ạ !". Bác sĩ nói: "Tốt ! con càng tin vào Ngài thì con càng tin vào chính con". Thế rồi cũng bất ngờ như khi biểu lộ sự tử tế của mình, ông còn tỏ ra là một Bác sĩ khéo xử nữa. Ong trở lại bàn giấy và viết gì đó trong giấy sức khỏe của cậu, rồi rời căn phòng một chút. Joseph liếc mắt nhìn vào phiếu sức khỏe của cậu. Cậu thắc mắc không hiểu Bác sĩ đã viết gì và cậu đang lấy lại bình tĩnh để chờ điều tệ hại nhất, đồng thời cậu nhón chân về phía trước nhìn vào tấm phiếu. Dưới hàng chữ lớn " đặc tính thể lý" ông Bác sĩ đã viết: " có cái đầu cân đối khác thường". Joseph không thể nào tin nổi vào mắt mình nữa! Một phút sau, ông Bác sĩ quay trở lại. Ong khám thêm một vài điểm trên người Joe, đoạn ông mỉm cười vừa nói: "Tốt lắm! Joseph ! Con mặc áo vào và kêu cho tôi em kế tiếp ".
Sự việc ngắn ngủi ấy trong cuộc đời Joseph xảy ra đã bao nhiêu năm nay, thế mà cậu ta không bao giờ quên được sự dễ thương và những lời khích lệ của ông Bác sĩ ấy.
Tin Mừng hôm nay chứa đựng một lời mời gọi quan trọng cho tất cả chúng ta. Nó mời gọi chúng ta hãy học với Chúa Giêsu vì Ngài " hiền lành và khiêm nhường thật lòng". Đi vào cụ thể, điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta trong tuần lễ sắp tới.
Trước hết là chúng ta nên cố gắng cư xử với tha nhân theo cách mặt trời đã làm trong ngụ ngôn" gío và mặt trời" của Aesôp; chúng ta nên cố gắng đối xử với mọi người bằng sự nồng thắm thực sự.
Thứ đến, chúng ta hãy cố gắng cư xử với những kẻ làm hại chúng ta theo cách xử sự của Chúa Giêsu trong trường hợp người phụ nữ ngoại tình, và như cách xử sự của ông bố trong dụ ngôn đứa con hoang đàng. Nghĩa là chúng ta hãy cố gắng cư xử một cách có hiểu biết.
Thứ ba, chúng ta hãy cố gắng cư xử với nhũng kẻ đang phải mang những gánh nặng ưu sầu giống như ông Bác sĩ đã cư xử với cậu bé tàn tật, nghĩa là chúng ta hãy cố gắng cư xử với họ một cách khéo léo, tế nhị.
Để kết thúc chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện. Xin anh chị em vui lòng yên lặng hiệp ý với tôi.
Lạy Chúa, trong tuần lễ sắp tới,
Xin giúp chúng con nhớ kỹ bài học trong dụ ngôn Gío và mặt trời.
Xin giúp chúng con bắt chước sự tế nhị của vị Bác sĩ trong câu chuyện cậu bé khòm lưng.
Xin giúp chúng con thực thi lời mà Chúa đã nói: "Hãy học với Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường thật lòng".
---------------------------------
Sợi chỉ đỏ :
- "Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm tốn" (Mt 11,29)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Đức Giêsu không những dạy chúng ta về đời sống đức tin, về những nhân đức siêu nhiên, mà: TN 14-A20
Đức Giêsu không những dạy chúng ta về đời sống đức tin, về những nhân đức siêu nhiên, mà còn dạy chúng ta cách sống nhân bản. Làm theo giáo huấn của Ngài, chúng ta sẽ trở thành những con người rất dễ thương dễ mến và do đó sẽ dễ thành công trong cuộc đời. Hôm nay Đức Giêsu dạy ta học gương của Ngài sống Hiền lành và khiêm tốn. Chúng ta hãy lắng nghe giáo huấn của Ngài và xin Ngài giúp ta thực hành được giáo huấn ấy.
II. Gợi ý sám hối
- Rất nhiều lần chúng ta nóng nảy, hung dữ với kẻ khác.
- Rất nhiều lần chúng ta kiêu căng : coi trọng mình và coi khinh kẻ khác.
- Rất ít khi chúng ta để ý xem Chúa đã sống như thế nào để tập sống theo gương Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Dcr 9,9-10)
Năm 333, Alexandre Đại đế chiến thắng đế quốc Babylon và đưa đế quốc Hy lạp lên ngôi bá chủ. Nhiều người do thái tự hỏi "Phải chăng đó là Vua Messia mà Thiên Chúa gởi đến ?", "Nếu không phải như thế thì phải chăng Vua Messia sẽ đến cũng giống như Alexandre hùng mạnh này ?"
Ngôn sứ Dacaria trả lời : Đấng Messia sẽ đến cũng là một vì Vua nhưng với nhiều khác biệt rất cơ bản :
- Ngài không phải là một vị vua chiến tranh, mà là vua hòa bình.
- Ngài không kiêu kỳ, mà rất khiêm tốn
- Ngài rất hiền lành : không thích giết chết mà chỉ muốn cứu độ.
Hình ảnh tiêu biểu về Vua Messia là Ngài không cởi trên lưng ngựa mà trên lưng lừa.
2. Đáp ca (Tv 144)
Những đức tính của Vua Messia cũng chính là những đức tính của Thiên Chúa : "Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa".
3. Tin Mừng (Mt 11,25-30)
Văn mạch : Sau một thời gian rao giảng, Đức Giêsu đã gặt hái được những thành công nhưng cũng gặp phải nhiều thất bại. Thất bại là nơi những người tự nghĩ mình là thông thái, như biệt phái, luật sĩ và gần đoạn Tin Mừng này nhất là dân ở các thành ven bờ Biển Hồ (Mt 11,20-24) ; còn thành công là nơi những người nghèo nàn, ít học, thu thuế, tội lỗi… Ngài gọi chung họ là "những kẻ bé mọn".
Phần đầu của đoạn Tin Mừng này ghi lại lời Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Trước hết, Ngài nhìn nhận tất cả những thành công và thất bại ấy đều theo đúng kế hoạch của Chúa Cha. Kế đến, khi nhìn lại những thành công và thất bại ấy, Đức Giêsu khám phá ra rằng chính Chúa Cha đã đặc biệt yêu thương những kẻ bé mọn nên đã cho họ đón nhận Tin Mừng của Ngài. Việc Chúa Cha yêu thương mặc khải cho những kẻ bé mọn khiến Đức Giêsu cảm động và vui mừng, vì thế Ngài lớn tiếng cảm tạ và ca tụng Chúa Cha.
Sang phần thứ hai của đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy mang lấy "ách" và "gánh" của Ngài. Theo ách nói do thái, "mang ách của ai" là học với người đó ; còn "gánh" thì ám chỉ lề luật. Nói tóm lại, Đức Giêsu kêu mời mọi người hãy học với Ngài và đón nhận luật của Ngài :
- Học với ngài : học gương hiền lành và khiêm tốn
- Đón nhận luật Ngài là luật yêu thương
4. Bài đọc II (Rm 8,9.11-13) (Chủ đề phụ)
Đây là lập luận thứ ba cho luận đề "được công chính hóa nhờ đức tin".
Cốt tuỷ của lập luận : trong con người có hai khuynh hướng đối nghịch nhau, một muốn làm lành và một muốn làm ác. Con người chỉ có thể tìm được sự thống nhất nội tâm nhờ ơn của Thánh Thần.
Áp dụng : Kitô hữu đã được Chúa Thánh Thần đến ở trong mình cho nên đã có một cuộc sống mới, cho nên họ đừng sống theo cuộc sống cũ nữa :
- Cuộc sống cũ là sống theo xác thịt. Cuộc sống đó sẽ dẫn đến cái chết.
- Cuộc sống mới là sống theo Thánh Thần. Nó sẽ dẫn đến sự sống vĩnh cửu.
Thánh Augustinô đã tự thuật rằng chính đoạn thư này của Thánh Phaolô đã giúp Ngài hoán cải.
IV. Gợi ý giảng
1. Thế nào là "hiền lành ?"
Trong nguyên bản hy lạp, thánh Matthêu dùng chữ praus. Chữ này có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi. Như thế, "hiền lành" bao gồm một tâm thế bên trong và một cách phản ứng bên ngoài.
- Tâm thế bên trong là luôn êm ái hoà nhã : nghĩ về người khác thì nghĩ tốt, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Đón nhận những lời nói và cách cư xử của người khác đối với mình thì không thành kiến, biết phải quấy, sẵn sàng đối thoại, chấp nhận sửa đổi.
- Phản ứng bên ngoài : nhẹ nhàng, tôn trọng, không thô bạo.
Chúa Giêsu hiền lành : trong lòng Ngài luôn yêu thương người khác (đặc biệt là những người khốn khổ hèn mọn), luôn muốn điều tốt cho người khác (nhất là muốn cứu độ người ta), không thành kiến đối với những người mà xã hội quen coi là xấu xa tội lỗi ; lời nói và hành động của Ngài luôn tỏa ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Ngài không nặng lời, không lên án. Ngài chủ trương sống bằng tình thương, Ngài không bạo động.
2. Thế nào là "Khiêm tốn" ?
Trong nguyên bản hy lạp, thánh Matthêu dùng chữ tapeinos. Chữ này có nghĩa là chấp nhận "đứng thấp", "ở dưới", "bị hạ xuống", hoặc tự ý xuống thấp, ở dưới.
Căn bản của khiêm tốn là biết mình "là" thế nào : từ đó không muốn tỏ ra hơn cái "là" ấy và giả như người khác có coi mình kém hơn cái "là" ấy thì mình cũng không màng tới. Điều quan trọng là sống thanh thản và thành thật đúng với cái "là" của mình.
Dụ ngôn của Đức Giêsu về những chỗ ngồi (Lc 14,7-11) giúp ta hiểu rõ hơn về thái độ khiêm tốn đối với danh dự :
- Danh dự của ta không phải do ta tranh dành mà có : Khi được mời đi ăn cưới thì đừng tự ý dành chỗ nhất.
- Danh dự của ta là do chính cái "là" của ta tạo cho ta : chủ tiệc thấy ta xứng đáng chỗ nào thì sẽ đặt ta vào chỗ đó.
- Nhất là danh dự của ta là do Thiên Chúa sắp xếp cho ta : chủ tiệc cưới trong dụ ngôn này là chính Thiên Chúa. Ngài sẽ mời ta vào chỗ Ngài xếp đặt.
3. Cuộc hoán cải của Augustinô
Augustinô là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc vào bè rối Manichéisme. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông theo theo những đòi hỏi của xác thịt. Kết quả là một cuộc sống tội lỗi.
Một hôm, trong lúc tâm hồn trống rỗng vô vị, Augustinô bỗng nghe một tiếng từ đâu đó vang lên "Tolle et lege" (Hãy cầm lấy và đọc). Augustinô thấy trước mặt một quyển Thánh Kinh. Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư này của Thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma : đừng sống theo xác thịt nữa mà hãy sống theo Thánh Thần.
Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và ăn chay hãm mình của mẹ ngài là bà Mônica. Nhưng chính câu Thánh Kinh này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Augustinô.
4. "Hãy đến với Ta"
Hãy đến với Ta. Chúa bảo tôi như thế. Nhưng tôi đáp lại : Con không dám, vì con bất xứng.
Hãy đến với Ta. Chúa lặp lại. Tôi lại đáp : Con sợ.
Hãy đến với Ta - Nhưng con đâu có hẹn trước với Chúa.
Hãy đến với Ta - Hiện giờ con không rảnh.
Hãy đến với Ta - Tôi không còn lý do gì từ chối nữa.
Chúa nói tiếp :
Con hãy đến… hãy ngồi xuống… hãy trút bỏ gánh nặng trên vai… Hãy ngồi dưới bóng cây im mát của Cha… Hãy giải khát bằng dòng nước trong lành của Cha… Ở bên Cha, con sẽ được nghỉ ngơi, sẽ thấy an bình.
Tôi thưa : "Ách của Cha thật là êm ái. Gánh của Cha thật là nhẹ nhàng". (Flot McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
CT : Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta : "Anh em hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường". Với ước muốn nên giống Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1- Hội Thánh là một bà mẹ hiền / luôn hết lòng yêu thương và tận tình chăm sóc con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / cảm nghiệm được một cách rõ rệt tình thương bao la của Hội Thánh.
2- Chúa Giêsu nói / "Phúc thay ai xây dựng hòa bình / vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết sống tinh thần tám mối phúc thật / nhờ đó / họ có thể trở thành những người kiến tạo hòa bình.
3- Trong đời sống thường ngày / khi gặp buồn phiền hay đau khổ / nhiều người đã đặt niềm tin không đúng chỗ / do đó bị lừa bịp và bị thiệt hại hết sức nặng nề / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp thử thách / chỉ chạy đến cùng Chúa để được Người nâng đỡ ủi an.
4- Chúa ghét kẻ kiêu căng / nhưng thương người khiêm tốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn biết noi gương Chúa Giêsu / sống hiền hậu và khiêm nhường.
CT : Lạy Chúa Giêsu, để nên hoàn thiện như Chúa Cha trên trời theo lời mời gọi của Chúa, chúng con phải lắng nghe Lời Chúa dạy và thực thi mệnh lệnh Chúa truyền. Xin Chúa thương ban ơn trợ giúp, để chúng con làm trọn những gì Chúa đòi hỏi nơi chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Đức Giêsu thường xuyên cầu nguyện với Chúa Cha và Ngài cầu nguyện rất sốt sắng. Chúng ta hãy kết hợp tâm tình với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh sau đây.
- Trước rước lễ : Đức Giêsu đã mời gọi : "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng". "Đây Chiên Thiên Chúa…"
VII. Giải tán
Trong Thánh lễ hôm nay, Đức Giêsu đã mời gọi chúng ta học gương hiền lành và khiêm tốn của Ngài. Trong tuần này, chúng ta hãy cố gắng sống hiền lành và khiêm tốn theo gương Chúa.
---------------------------------
Thêm sức tại Láng Sen, ngày 22/8/1999
Trong việc sống đạo để trở thành Kitô hữu, để trở thành môn đệ Đức Kitô, chúng ta thường: TN 14-A21
Trong việc sống đạo để trở thành Kitô hữu, để trở thành môn đệ Đức Kitô, chúng ta thường để ý nhiều đến việc học hỏi về Đức Kitô. Chúng ta học hỏi về Đức Kitô qua lớp giáo lý, qua các bài giảng, qua những giờ chia sẻ Lời Chúa, qua những giờ kinh phụng vụ, cầu nguyện. Nhiều người đã phấn đấu học hỏi về Đức Kitô. Những cố gắng và phấn đấu đó đáng ca ngợi.
Tuy nhiên, nếu chỉ có thế mà thôi, thì chúng ta không có quyền tự hào, xưng mình là người hiểu biết Đức Kitô một cách đúng đắn, một cách sâu sắc, và đúng như thánh ý Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó. Trong những năm tháng Đức Kitô mặc xác phàm, hoạt động ở thế gian, thì biết bao nhiêu người đã sống bên cạnh Đức Kitô. Họ nhìn thấy Đức Kitô đi đứng chính mắt họ. Họ nghe thấy Đức Kitô chuyện trò giảng dạy bằng chính tai họ. Họ sờ vào Đức Kitô bằng chính bàn tay của họ. Họ chứng kiến các phép lạ của Đức Kitô bằng chính con người của họ, thế nhưng, phần đông đã không nhận ra Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ loài người, chỉ một nhóm rất nhỏ, và trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy rõ, chắc chắn chỉ có một người, người đó là môn đệ Phêrô. Môn đệ Phêrô đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, là Đấng cứu độ trần gian”. Khi nghe lời tuyên xưng đó, Đức Kitô lập tức nói với Phêrô: “Điều mà con vừa nói, không phải máu thịt đã mạc khải cho con, mà là chính Cha trên trời đã mạc khải cho con”.
Điều mà Đức Kitô vừa nói Phêrô, là một chân lý rất quan trọng. Ngài nói cho Phêrô. Ngài nói cho tôi. Ngài nói cho anh chị em tất cả. Chân lý đó, là khi muốn tìm hiểu về Đức Kitô, thì chúng ta tất nhiên cần dùng đến ánh sáng tự nhiên, thí dụ như ánh sáng của trí tuệ, thí dụ như ánh sáng của các lớp giáo lý, thí dụ như ánh sáng của những bài giảng, những người dạy giáo lý, dạy Phúc Am, hay là ánh sáng của những nhóm chia sẻ Lời Chúa, những ánh sáng đó, là tự nhiên cần thiết nhưng không đủ để giúp chúng ta nhận ra Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ. Cần phải có một thứ ánh sáng khác đến từ trên cao. Đấng đến từ trên trời, đến từ chính Đức Chúa Cha, đó là ánh sáng siêu nhiên, không có ánh sáng đó, chúng ta chỉ biết Đức Kitô bằng những quan hiện thông thường, nhưng không gặp được Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ chúng ta.
Nhưng ánh sáng siêu nhiên đó, có phải ai muốn có là được không? Thưa không phải đâu, điều này cũng cần để ý, trong Phúc Âm Chúa nói rõ, Chúa giấu ánh sáng siêu nhiên đó, không cho những người thông thái, khôn ngoan biết mà chỉ ban cho những người bé nhỏ khiêm nhường. Đó là chân lý chúng ta phải nắm bắt, khi chúng ta có lòng khiêm nhường, khó nghèo nội tâm và có lòng khao khát tìm hiểu Đức Kitô, thì Cha trên trời sẽ cho chúng ta ánh sáng siêu nhiên của Ngài để chúng ta gặp được Đức Kitô, để cho chúng ta nhận ra Đức Kitô là tất cả của ta, để cho chúng ta có can đảm đi theo Đức Kitô, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ chúng ta.
Thưa anh chị em, những lời chúng ta vừa chia sẻ, cũng là đường lối giúp chúng ta sống đạo, nó đơn sơ thôi, nhưng phải nắm bắt cho vững từng khâu, từng vấn đề. Thứ nhất: phải tập trung sự hiểu biết vào Đức Kitô, thì mới có thể là Kitô hữu, thì mới có thể là môn đệ Đức Kitô. Thứ hai: để hiểu biết Đức Kitô, chúng ta cần phải dùng tất cả mọi phương tiện tự nhiên, như học giáo lý, nghe giảng, chia sẻ Lời Chúa, đọc sách thiêng liêng, cầu nguyện. Những phương tiện đó cần, hữu ích. Thứ ba: là chúng ta đừng dừng lại đó. Khi chúng ta học, nghe giảng, phụng vụ, chia sẻ Lời Chúa, thì phải có tấm lòng khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo khó. Ngẩng mặt lên Chúa Cha, xin Chúa Cha ban ơn, mở lòng, soi trí, để chúng ta hiểu được Đức Kitô, bằng không chúng ta rất gần mà lại hoá xa, biết nhiều về Đức Kitô, chứ sự biết đó rất lạnh lùng, rất xơ cứng, chỉ là cái biết tầm thường, không đốt lên được trái tim ta ngọn lửa yêu mến, để chúng ta đi về Đức Kitô, để chúng ta có sức đi theo Đức Kitô, sống chết với Đức Kitô.
Chúng ta đang thấy trong thế giới này, những khủng hoảng lớn: khủng hoảng về kinh tế, khủng hoảng về đời sống gia đình, khủng hoảng về văn hoá, khủng hoảng về tín ngưỡng. Trong tình trạng đầy khủng khoảng đó, tôi xin anh chị em hãy vững tin, là chỉ có Đức Kitô Đấng cứu độ chúng ta. Người sẽ cứu chúng ta ra khỏi tất cả các nguy cơ của những cơn khủng hoảng, đang tràn ngập vào đời sống gia đình, họ đạo, địa phương đất nước, Hội Thánh chúng ta, miễn là chúng ta biết học hỏi đúng đắn về Đức Kitô, với một tấm khiêm tốn, bé nhỏ và với một lòng cậy trông vào Chúa Cha.
Xin anh chị em trong những tháng còn lại chuẩn bị năm thánh, hãy gắn bó hơn với Đức Kitô, hãy xin Đức Mẹ giúp cho chúng ta tiến gần hơn với Đức Kitô, hãy xin Chúa Cha ban ánh sáng của Ngài, để ánh sáng đó giúp cho chúng ta hiểu được Đức Kitô, để chúng ta thực sự gặp gỡ Đức Kitô, để chúng ta thực sự dâng hiến trọn vẹn đời mình cho Đức Kitô, và để cho chúng ta trở nên một người có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi”, để rồi từ đó cá nhân chúng ta, họ đạo chúng ta, sẽ trở thành chứng nhân của Đức Kitô giữa trần gian. Amen.
Thêm sức tại Láng Sen, ngày 22/8/1999
Nhóm GNCD
---------------------------------
Bài Tin Mừng hôm nay có một nội dung hết sức phong phú và sâu sắc. Chúng ta nên suy niệm: TN 14-A22
Bài Tin Mừng hôm nay có một nội dung hết sức phong phú và sâu sắc. Chúng ta nên suy niệm từng nội dung một để có áp dụng thích hợp trong đời sống cá nhân và cộng đoàn.
1. TRƯỚC MẶT THIÊN CHÚA, NHỮNG NGƯỜI BÉ MỌN ĐƯỢC ƯU TIÊN ĐẶC BIỆT:
Nếu lời tuyên bố của Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an: ”Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( 3, 16 ) cho chúng ta biết Lòng Thương Yêu hải hà của Thiên Chúa đối với loài người nói chung thì lời cảm tạ Chúa Cha của Đức Giê-su trong Tin Mừng Mát-thêu: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” ( 11, 25 – 26 ) cho chúng ta biết hạng người nào được Thiên Chúa ưu ái cách riêng. Đó là những người “bé mọn”.
Người bé mọn theo nghĩa Thánh Kinh là hạng người sống đạm bạc, đơn sơ, khiêm nhường, chỉ biết tin tưởng phó thác vào một mình Thiên Chúa, chứ không cậy dựa vào bản thân mình hay sức mạnh nào khác. Thiên Chúa dành cho những người ấy một đặc ân vô cùng cao quý là mặc khải cho họ biết Sự Thật bí nhiệm của Thiên Chúa. Dĩ nhiên những người bé mọn được như thế thì không phải vì họ có công lao gì trước mặt Chúa, mà chỉ vì Chúa yêu thương họ và ban cho họ “cách nhưng-không” mà thôi.
Lịch sử Do-thái giáo và Ki-tô giáo càng làm nổi bật điều ấy. Khi Ít-ra-en được Thiên Chúa chọn làm dân riêng thì Ít-ra-en chỉ là một dân tộc nhỏ bé và yếu kém so với các dân tộc khác trong khu vực lúc bấy giờ. Khi Đức Giê-su thi hành sứ vụ rao giảng Nước Trời thì những người đón nhận Tin Mừng ấy phần đông là những người nghèo hèn, thấp kém, bị khinh khi, bị gạt ra ngoài lề xã hội Do-thái lúc bấy giờ. Ngay trong hàng ngũ các tông đồ, Chúa cũng gọi và chọn những người làm nghề chài lưới và thu thuế là những hạng người chẳng được ai trọng vọng. Ki-tô giáo thời kỳ đầu cũng thế: cũng là những thành phần thấp kém trong các xã hội làm nên các cộng đoàn tín hữu ở Pa-lét-tin và ở các vùng thuộc nền văn hóa Hy La ( tức Hy-lạp và La-mã ). Nếu Thiên Chúa yêu thương hết mọi người thì rõ ràng Người dành một tình yêu đặc biệt cho những người bé mọn.
Chúng ta có thể rút ra hai áp dụng cụ thể cho đời sống tâm linh:
Chúng ta phải biết tạ ơn Thiên Chúa về Ơn Đức Tin mà Chúa đã ban cho chúng ta. Chúng ta thử hỏi và trả lời: Tại sao tôi là người Công Giáo, là Ki-tô hữu mà không phải là người phật tử hay vô thần ? Nếu chúng ta được là người Công Giáo thì không phải chúng ta có công lao gì mà được Chúa ban ơn ấy đâu, mà chỉ vì Chúa thương chúng ta một cách nhưng không mà thôi.
Chúng ta phải biết bắt chước Thiên Chúa mà chọn những người bé mọn làm đối tượng ưu tiên cho mọi việc phục vụ của chúng ta. Những người bé mọn phải là những người được chúng ta quan tâm, nghĩ tới và phục vụ đầu tiên.
2. GIỮA THIÊN CHÚA VÀ ĐỨC GIÊ-SU CÓ MỐI QUAN HỆ RẤT MẬT THIẾT:
Lời Chúa trong đoạn Mt 11, 27 cho chúng ta biết giữa Chúa Cha và Con là Đức Giê-su có một quan hệ hết sức mật thiết và tin tưởng. Chúa Cha đã giao phó tất cả cho Con và chỉ những ai được Chúa Cha ban ơn mới biết được Chúa Con cũng như chỉ những ai được Chúa Con ban ơn thì mới biết được Chúa Cha. Nói cách khác Cha và Con là Một và chúng ta biết được Chúa Con thì biết được Chúa Cha và ngược lại.
Sống Lời Chúa hôm nay ( Mt 11, 27 ) là chúng ta biết cảm tạ hồng ân Thiên Chúa đã ban cho chúng ta là nhận biết Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Đồng thời không ngừng nài xin Thiên Chúa cho chúng ta được đi sâu hơn nữa vào mối quan hệ thần linh của Thiên Chúa.
3. NHỮNG NGƯỜI VẤT VẢ MANG GÁNH NẶNG NỀ ĐƯỢC ĐỨC GIÊ-SU HẾT SỨC QUAN TÂM VÀ ƯU ÁI.
Lời Chúa trong Mt 11, 28 – 30 là một lời mời hết sức ân cần, ưu ái mà Đức Giê-su dành cho những ai vất vả mang gánh nặng nề. Người rất thông cảm và sẵn sàng ủi an, trợ giúp những ai sống trong hoàn cảnh như thế. Trong văn mạch của Phúc Âm, chúng ta phải hiểu rằng những người vất vả mang gánh nặng nề là những người nghèo hèn, túng thiếu, phải lam lũ làm ăn, phải vật lộn với cuộc sống. Đức Giê-su mời những người ấy trút hết gánh nặng cho Chúa. Người còn mời họ hãy học với Người, tức bắt chước noi gương Người sống hiền lành, phó thác, cậy trông vào Thiên Chúa. Tin tưởng mà theo Chúa thì bước chân sẽ nhẹ nhàng, đời sống sẽ được đảm bảo.
Sống Lời Chúa hôm nay ( Mt 11, 28 – 30 ) là đáp lại lời mời hết sức ân cần, ưu ái của Đức Giê-su mà dâng hiến tất cả cuộc đời gian nan, vất vả của chúng ta. Đức Giê-su biết hết và thông cảm với nỗi nhọc nhằn của chúng ta. Ngài như một người mẹ, một người bạn sẵn sàng chia sớt với chúng ta để chúng ta nhẹ gánh mà vui sống.
Sống Lời Chúa hôm nay ( Mt 11, 28 – 30 ) còn là trở thành đồ đệ của Chúa, học với Chúa cách sống hiền lành và khiêm nhường. Thiên Chúa không ưa gì những tâm hồn ác độc hoặc kiêu căng tự mãn. Trái lại Người hết mực yêu thương những kẻ hiền lành và khiêm nhường. Người hiền lành và khiêm nhường không bao giờ có ý hại ai. Họ sống đơn sơ, phó thác và tin tưởng vào Chúa. Họ sống thuận hòa, khiêm tốn với người chung quanh.
Lạy Chúa Giê-su, Lời Chúa trong Phụng Vụ hôm nay phong phú quá ! Làm sao chúng con suy gẫm cho hết được ? Làm sao chúng con mang ra thực hành cho đầy đủ được ? Chúng con cám ơn Chúa và xin Chúa giúp chúng con.
Chúng con cám ơn Chúa vì Chúa đã gọi, đã chọn chúng con làm Ki-tô hữu, làm người thừa hưởng kho tàng Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cao cả.
Chúng con cám ơn Chúa vì Chúa đã mời gọi chúng con trút hết gánh nặng cuộc đời cho Chúa để chúng con nhẹ bước trên hành trình về Nhà Cha. Chúng con cám ơn Chúa vì Chúa đã muốn chúng con trở thành học trò của Chúa để chúng con học sống hiền lành và khiêm nhường với Chúa, như Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con sống xứng đáng với hồng ân Chúa ban, với tình thương và sự ưu tiên Chúa dành cho chúng con.
Giê-rô-ni-mô NGUYỄN VĂN NỘI
---------------------------------
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay gợi lên một nghịch lý: Vua Mê-si-a, cỡi lên lừng lừa, khiêm: TN 14-A23
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay gợi lên một nghịch lý: Vua Mê-si-a, cỡi lên lừng lừa, khiêm nhu tiến vào thành Giê-ru-sa-lem ( Bài đọc 1 ). Đức Giê-su, là Thầy và là Chúa, lại tỏ mình là Đấng hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, đồng thời cho ta biết ách của Ngài êm ái, gánh của Ngài nhẹ nhàng. Trong thư gởi tín hữu Ro-ma, Thánh Phao-lô theo bước chân của Đức Ki-tô, cũng vạch ra một con đường kỳ lạ: nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.
Vài Suy Tư
Nghịch lý thường làm ta kinh ngạc và hoang mang. Chúng ở ngoài cái lô-gích của lý lẽ và hành hạ ta vì làm cho ta mất tự chủ trong suy tư. Nghịch lý là sản phẩm của lý trí, nhưng chúng lại thuộc về một bình diện khác biệt với lô-gích và lý trí. Chúng thuộc bình diện xúc cảm và trực giác, lô-gích của trái tim, và nếu chúng là những nghịch lý Ki-tô giáo, chúng cũng còn thuộc bình diện mặc khải và lòng tin nữa. Từ quan điểm này, ta suy tư về các bài đọc phụng vụ hôm nay.
Nghịch lý của Đấng Mê-si-a
Đấng Mê-si-a được mong đợi suốt thời Cựu Ước là Đấng Mê-si-a – Vua, hậu duệ của nhà Đa-vít, Đấng tiến vào Giê-ru-sa-lem như vị đại vương cỡi trên lưng chiến mã, sau khi đã chinh phục vương quốc Đa-vít. Ngôn sứ Da-ca-ri-a cũng nói đến một nhà vua, công chính và vinh quang thật đấy, nhưng lại khiêm nhu cỡi trên lưng lừa con. Ki-tô giáo xem lời sứ ngôn này ứng nghiệm cho Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a mà người do thái và muôn dân mong đợi. Ngài là Đấng Mê-si-a – Vua, nhưng Ngài lại ngự trên ngai thập giá, đỉnh cao đau khổ.
Nghịch lý của tình yêu
Đoạn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, như họa lại tình yêu nghịch lý của Đức Giê-su. Đây chính là một nghịch lý vì Con Thiên Chúa tối cao đã tự hủy mình ra không qua việc nhập thể. Nghịch lý vì, là Thầy và là Chúa, mà lại hiền lành và khiêm nhường trong lòng, đã mang lấy ách và gánh nặng trên vai, để chúng ta tôi tớ của Ngài cảm thấy nhẹ nhàng hơn, để chúng ta là môn đệ bị đè nặng bởi lề luật cảm thấy dễ thở hơn.
Nghịch lý của ân sủng
Trong đời sống Ki-tô hữu, những từ “chết – sống” có liên hệ với nhau, nghĩa là phải chết để được sống. Phải chết đi cho tính xác thịt để con người mới được sống, do Thần Khí. Đây là cái chết theo nghĩa khổ chế, và nếu Chúa muốn, cũng có nghĩa thực nữa, đến mức độ chết vì đạo, để Đức Ki-tô sống trong ta theo cách thức hoàn toàn khác biệt với thế gian. Nếu Ki-tô hữu thực hiện điều này trong đời mình, họ không còn thuộc về thế gian này nữa, nhưng thuộc về thế giới của men và của ánh sáng.
Lm. PHẠM NGỌC LÊ, Giáo Phận Nha Trang
---------------------------------
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng ngắn do thánh Mathêu ghi lại. 1. Cha đố chúng con trong TN 14-A24
Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng ngắn do thánh Mathêu ghi lại.
1. Cha đố chúng con trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn dạy mọi người điều gì?
- Thưa Chúa dạy phải học với Chúa về sự hiền lành và khiêm nhường.
- Thế chúng con có hiểu hiền lành và khiêm nhường không? Đây cha cắt nghĩa cho chúng con.
Hiền lành và khiêm nhường là hai đức tính rất cần thiết cho cuộc sống của một con người. Có hiền lành và khiêm nhường thì chúng ta mới dễ được yêu thương. Có rất nhiều tấm gương trong Kinh Thánh cho chúng ta thấy điều đó.
Tấm gương rõ nét nhất là tấm gương của Đức Mẹ Maria. Vì Đức mẹ hiền lành và khiêm nhường mà Đức Mẹ đã được Chúa chọn để là mẹ Chúa Giêsu. Người thứ hai cũng có thể nhắc tới đó là gương của thánh Giuse. Chúng con hãy nhớ lại một chút coi. Sau khi được Chúa chọn để làm bạn với Đức Mẹ thì thánh Giuse đã sống như thế nào. Có thể nói là hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa. Chúa bảo gì Giuse lấp tức thi hành, không một thắc mắc, không một chút phân vân nghi ngại. Đang đêm Chúa bảo dậy thì Giuse dậy. Chúa bảo đi thì Giuse đi. Như một dụng cụ ngoan ngoãn để Chúa sai bảo. Thật là quá hiền lành và khiêm nhường.
Thêm vào đó cha thấy trong cuộc sống của Chúa, Chúa có rất nhiều đức tính rất đặc biệt, thí dụ như sự thánh thiện, sự can đảm, lòng trong sạch, sự nhiệt thành đối với những gì Chúa Cha muốn, đức vâng lời, tinh thần trọng luật, cuộc sống siêu thoát... rồi Chúa còn có những khả năng ứng xử rất tài tình trước những tình huống vô cùng khó khăn và đã dễ dàng vượt qua những cạm bẫy rất phức tạp và vô cùng nguy hiểm mà những người không ưa Chúa nhiều lần đặt ra để thử thách Chúa. Đặc biệt là Chúa còn làm được những điều rất lạ lùng như làm được những phép lạ mà không ai trên đời có thể làm được. Đó là những điều rất hấp dẫn mà mỗi người có thể học được một phần nào ở nơi Chúa, thế nhưng khi đề cập đến những đức tính mà một người môn đệ của Chúa phải học thì Chúa đã không nhắc một tí nào đến những đức tính trên mà chỉ nói đến hai đức tính xem ra chẳng có gì hấp dẫn lắm... Đó là sự hiền lành và khiêm nhường.
2. Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành
Sự hiền lành là một điều rất cần thiết để cho mọi người có thể dễ dàng sống với nhau như những người anh em con của cùng một Cha trên trời nhất là làm cho con người dễ đón nhận ý Chúa. Chính Chúa đã làm gương cho chúng ta.
a/ Kinh thánh nói cho chúng ta rất nhiều về sự hiền lành của Chúa.
+ Ngôn sứ Isaia đã tiên báo về Chúa như thế này: "Ngài hiền lành như con chiên bị đem đi giết. Cây sậy đã gục ngã, Ngài không nỡ bẻ gẫy. Tim đèn còn khói, Ngài cũng không nỡ lòng nào dập tắt nó đi" Thật khó mà tìm được những lời nào hay hơn thế để nói về sự hiền lành của Chúa.
+ Chúng ta hãy nhớ lại cách cư xử dịu dàng tới mức độ tuyệt vời của Chúa trong câu chuyện người đàn bà ngoại tình.
+ Chúng ta hãy dừng lại trước cảnh thật đẹp của một người chăn chiên khi tìm lại được con chiên lạc trong cả đàn chiên 100 con của mình.
+ Và đặc biệt chúng ta hãy cố mà hình dung ra khuôn mặt rạng ngời của người Cha trong dụ ngôn "Đứa con hoang đàng" khi người Cha ôm nó vào lòng khi nó đi hoang trở về: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, xỏ dép vào chân của cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt... Chúng ta phải mở tiệc ăn mừng vì con Ta đã chết nay mà nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy" (Lc 15,22-24). Không một lời trách móc, không một cử chỉ buồn phiền.
b/ Hiền lành ở đây không phải là nhu nhược nhưng là một hành vi cao cả anh hùng, không phải là những việc làm khuyến khích thêm tội ác mà là để cảm phục những người có tội để họ có thể tìm đường quay trở về.
Một đệ tử nhà hiền triết nổi tiếng kia đến thăm sư phụ đang lâm trọng bệnh gần chết. Anh ta đến gần giường và thưa với thầy:
- Thầy còn có điều gì để dạy cho con nữa không?
Nhà hiền triết âu yếm nhìn học trò mình rồi há miệng bảo môn đệ nhìn kỹ và ông hỏi:
- Con có thấy ta còn lưỡi không?
- Thưa thầy, còn.
- Thế răng của ta còn không?
- Thưa thầy, không còn cái răng nào!
Nhà hiền triết nói tiếp:
- Con có biết tại sao lưỡi còn mà răng lại rụng hết không? Bởi vì lưỡi thì mềm dẻo, còn răng thì cứng nhắc. Răng rụng trước lưỡi vì răng cứng cỏi. Bây giờ con đã học được tất cả những điều con phải biết rồi. Ta không còn điều gì để chỉ dạy cho con nữa.
+ Thánh Augustino đã thú nhận như sau "Thánh Ambrosio đã khuất phục được tôi và tôi mến Ngài. Tôi mến Ngài không phải chỉ vì Ngài thông thái mà là vì Ngài hiền lành, nhân hậu"
3. "Hãy học cùng ta vì Ta khiêm nhường"
Chúng con có biết các nhà tu đức học gọi khiêm nhường là gì không? Thưa là nhân đức nền tảng của đời sống đạo đức. Có người còn gọi khiêm nhường là nhân đức Mẹ của các nhân đức. Nhờ khiêm nhường, người môn đệ có thễ dễ dàng nhận ra được tiếng nói của Chúa và gặp được Ngài trong cuộc đời của mình. Nhờ khiêm nhường mà chúng ta làm cho cuộc đời của mình thêm đẹp.
Đầu tháng bảy năm 1870, một phái đoàn người Pháp đến chầu Đức giáo hoàng Piô IX tại Roma. Sau khi trưởng phái đoàn đã đọc bài chào mừng, Đức giáo hoàng đã nói chuyện thân mật với từng người và ai nấy đều xin ơn nọ ơn kia. Nhưng khi nhìn thấy một thanh niên có vẻ khô khan lạnh nhạt, Đức giáo hoàng đã hiền từ hỏi:
- Còn con, con không xin ơn gì sao?
Chàng thanh niên lạnh lùng đáp:
- Thưa không.
Đức giáo hoàng hỏi thêm:
- Cha con còn sống không?
Chàng thanh niên lửng khửng đáp:
- Thưa còn.
Đức giáo hoàng lại hỏi:
- Còn mẹ con thì sao?
Chàng thanh niên chậm chạp lí nhì đáp lại
- Mẹ con chết lâu rồi.
Bấy giờ Đức giáo hoàng cầm tay anh thanh niên mà nói với giọng cảm động rằng:
- Con không xin ơn gì với cha; còn cha, cha xin con một điều, là con hãy cùng cha quì gối xuống đất, đọc một kinh lạy cha, một kinh kính mừng, một kinh sáng danh, cầu nguyện cho mẹ con được lên thiên đàng, và khi được hưởng mặt Chúa. Mẹ con sẽ xin cùng Chúa cho con được sốt sắng giữ đạo để sau này con cũng được lên thiên đàng với mẹ con. Nói xong Đức giáo hoàng quỳ xuống đất, hai tay chắp trước ngực, mắt nhìn lên trời, đọc kinh rất sốt sắng, làm cho chàng thanh niên phát cảm động phải khóc nức nở.
Đức Giáo Hoàng quì xuống trước mặt mọi người . Ngài có làm gì lạ lùng không. Không. Ngài chỉ cùng đọc với mọi người những lời kinh đơn sơ nhất.
Chúng ta hãy nhìn vào đó mà bắt chước để cuộc sống của mỗi người chúng ta xứng đáng với Chúa hơn. Amen.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
---------------------------------
Ngài sẽ chẳng bẻ gãy cây sậy đã dập nát, cũng chẳng thổi tắt tim đèn còn khói. Đó là những: TN 14-A25
Ngài sẽ chẳng bẻ gãy cây sậy đã dập nát, cũng chẳng thổi tắt tim đèn còn khói. Đó là những lời tiên tri Isaia đã loan báo về Đấng Cứu Thế, qua đó chúng ta thấy được khuôn mặt của Ngài. Một khuôn mặt hiền hòa khả ái.
Thực vậy, Ngài đã không đến trong sấm chớp mưa dông, nhưng đến trong một đêm đông lạnh giá. Ngài không phải là một vị tướng lãnh oai hùng trong chiến trận, nhưng là một người cha giàu lòng thương xót.
Khí giới của Ngài không phải là gươm giáo và súng đạn, nhưng là giới luật yêu thương. Đúng thế, Ngài đã xác quyết :
- Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau.
Và Ngài còn nhấn mạnh hơn nữa :
- Nếu ai tát má bên phải của con, thì hãy đưa cả má bên trái cho nó nữa.
Đồng thời, Ngài đã khuyến khích chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài. Thế nhưng noi gương bắt chước Ngài ở điểm nào, nếu không phải như Ngài đã khẳng định :
- Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhưỡng trong lòng.
Ngài là Thiên Chúa quyền năng, thế mà đã trở nên như một con chiên hiền lành trước người thợ xén lông.. Vì thế, hiền lành chính nhân đức của người mạnh và phải có bản lãnh mới kiềm chế nổi sự nóng giận của mình. Vậy nhân đức hiền lành nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống mỗi người chúng ta ?
Kinh nghiệm cho thấy : chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác. Và trong cuộc sống chung này, chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội, những buồn phiền, vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi, khuyết điểm của mình. Hơn thế nữa, bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng.
Bởi đó, chúng ta cần phải biết quên đi và tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng, vì một sự nhịn là chín sự lành.
Chính sự hiền lành sẽ tạo nên trong gia đình một bầu khí hòa thuận và êm ấm :
- Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi nhỏ lửa, chẳng đời nào khê.
Chính sự hịền lành sẽ bắc được một nhịp cầu cảm thông và sẽ tạo được những mối liên hệ tốt ngoài xã hội giữa chúng ta với nhau, bởi vì :
- Già néo thì đứt giây.
- Bên thẳng thì bên phải chùng,
Cả hai đều thẳng, thì cùng đứt dây.
Kinh nghiệm cũng cho thấy những đổ vỡ xảy ra phần lớn chỉ vì sự nóng giận, nhiều khi rất vô lý của chúng ta.
Thực vậy, quan sát một con sư tử mắc bẫy. Bẫy chỉ là những sợi dây. Thế nhưng, nếu con sư tử càng lồng gầm gừ, càng dãy dụa thì những sợi dây lại càng xiết chặt. Còn nếu nó bình tĩnh, dùng hàm răng nhọn hoắt mà cắn dần những sợi dây, thì chẳng mấy chốc, nó sẽ được giải thóat.
Bởi đó, người ta thường bảo :
- Giận quá thì mất khôn.
Sự nóng giận là như dầu đổ vào lửa, làm cho lửa bùng cháy lên. Trong khi đó, sự hiền lành là như thùng nước dập tắt ngọn lửa. Đúng thế, sự hiền lành bao giờ cũng xoa dịu, cũng hàn gắn. Một thanh sắt nóng đỏ, nếu đem ngâm trong nước, nó sẽ nguội ngay lập tức.
Để kết luận, tôi xin kể lại mẫu gương của thánh Phanxicô Salêsiô. Thời còn trai trẻ, ngài là một người có tính nóng như lửa đốt, hơi một chút là nổi sùng, hơi một chút là quát tháo. Phải mất hơn hai mươi năm tập luyện. ngài mới trở thành một vị thánh hiền dịu và dễ thương.
Ngày kia, có một người đang tức giận đối với ngài. Ông ta xua bày chó sang tòa giám mục để chúng sủa vang. Còn ông ta và đám gia nhân thì bước vào phòng ngài và chửi bới om xòm. Chính ông ta đã nhổ nước miếng vào mặt ngài. Thế nhưng, ngài vẫn yên lặng, bình tĩnh rút khăn ra lau. Chính thái độ hiền hòa khả ái này đã cảm hóa được ông ta, khiến ông ta sám hối và quay trở về cùng Chúa.
Như vậy, hiền lành không phải là hèn nhát, nhưng là anh hùng. Kẻ khác đánh chúng ta và chúng ta đánh trả lại, thì đó chỉ lả phản ứng thông thường của loài vật. Trái lại, kẻ khác đánh chúng ta mà chúng ta vẫn tha thứ, vẫn cầu nguyện cho họ, thì đó mới là thái độ anh hùng, xứng đáng với địa vị của con người.
Hơn thế nữa. sự hiển lành còn là một phương tiện hữu hiệu nhất để cảm hóa người khác, bởi vì chỉ với một giọt mật, người ta có thể bắt được nhiều ruồi hơn cả một thùng dấm chua.
---------------------------------
Báo Văn Học số 193 tháng 5 năm 2002, trong mục Tin Văn do Thế Quân phụ trách, đăng tin: TN 14-A26
Báo Văn Học số 193 tháng 5 năm 2002, trong mục Tin Văn do Thế Quân phụ trách, đăng tin về em bé Mattie Stepanek 11 tuổi, hiện sống với mẹ ở Upper Marlboro, bang Maryland. “Mới sinh ra, em đã mang một căn bệnh di truyền quái ác có tên là “dysautonomic mitochondrial myopathy”, một hình thức khá hiếm hoi của bệnh yếu cơ – muscular dystrophy. Bệnh này đã giết chết ba anh chị em của Mattie, còn bản thân em thì đời sống bị dính liền vào chiếc xe lăn với một bình ốcxy thường xuyên bên cạnh. Nhỏ nhắn, yếu ớt, thiếu sức khỏe và mang một căn bệnh vô phương cứu chữa như thế, nhưng em luôn vui vẻ, lạc quan. Em rất ham học và sáng tạo. Em bắt đầu làm thơ và viết văn vào lúc 3 tuổi. Em đọc và mẹ em đánh máy lại. Lúc 5 tuổi, em đã có mấy trăm bài thơ và đến nay đã có hàng ngàn bài thơ”.
“Em có ba ước mơ : thứ nhất là xuất bản một tập thơ của riêng em, thứ hai là được diện kiến với “model” của em là cựu tổng thống Jimmy Carter và cuối cùng là được xuất hiện trong chương trình truyền hình của Oprah. Năm 2001, cả ba ước mơ của em không những đã thành đạt mà còn thành đạt ngoài ý muốn. Tháng 7 năm 2001, hai nhà xuất bản “VPS Books” và “Hyperion Books” hợp tác nhau xuất bản thi tập đầu tiên của em, tựa đề là “Heartsongs”. Ngay lập tức, nó trở thành “bestseller” trên toàn quốc. Tháng 10 năm 2001, em được diện kiến cựu tổng thống Carter trong chương trình truyền hình “Good Morning America”. Và ngày 19 tháng 10 năm 2001, em xuất hiện trong chương trình truyền hình Oprah.
Tối ngày 17 tháng 4 năm 2002, Mattie xuất hiện trong chương trình “Lary King Live” của hệ thống truyền hình CNN. Trong cuộc trò chuyện này, bằng một giọng nói lưu loát, cử chỉ sống động, em trả lời nhiều câu hỏi về cuộc sống, việc học, việc làm thơ và những mơ ước của em một cách thông minh, chân thành và đôi khi còn pha chút dí dỏm. Trả lời câu hỏi liên quan đến căn bệnh nan y của em, Mattie nói : “Các bác sĩ không tin rằng cháu sẽ sống nổi một ngày. Nhưng cháu đã sống được. Rồi họ lại bảo “OK, thằng nhỏ sống đến 6 tháng là cùng”. Cháu đã sống… Khi cháu lên 2, họ nói “OK, 10 tuổi thôi”. Bây giờ đây cháu đã được 11 tuổi. Họ sẽ có thể nói “đến mười mấy thôi, quá lắm là đến hết tuổi thiếu niên, nhưng cháu dự tính sẽ sống đến 101 tuổi lận”.
Đề cập đến sự kiên trì phấn đấu của mình để tồn tại và sáng tác, em phát biểu : “Đôi khi, cháu tự hỏi : Tại sao lại là cháu ? Tại sao cháu lại có một đời sống khó khăn như thế này ? Tại sao mấy anh chị em của cháu lại chết ? Tại sao bệnh không lành? Nhưng rồi cháu nghĩ lại và tự hỏi : Tại sao không phải là cháu chứ ? Cháu có thể chịu đựng được tốt hơn một đứa trẻ khác đã phải chịu những khó khăn trong đời của nó. Hoặc là cháu có thể chịu đựng tốt hơn một đứa nhỏ chẳng hiểu gì chuyện đó cả và có thể còn đau khổ hơn”.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mang lấy ách của Người trên đôi vai chúng ta. Phải chấp nhận những nhọc nhằn vất vả, bệnh tật ốm yếu, khổ đau buồn sầu, và tất cả những ngang trái ngoài ý muốn như là cái ách phải mang lấy trong cuộc đời.
Người Do Thái dùng thành ngữ cái ách để chỉ sự vâng phục, phục tùng. Họ nói về cái ách của lề luật, cái ách của các giới răn, cái ách của Vương Quốc, và cái ách của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cụ thể này để diễn tả lời mời gọi của Người.
Theo William Barclay, Chúa Giêsu nói, “Ach của Ta thì êm ái”. Chữ “êm ái”, tiếng Hy Lạp là “chrestos” có nghĩa là vừa vặn. Trong xứ Palestine những cái ách của con bò được làm bằng gỗ ; con bò phải được dẫn đến tiệm thợ mộc để đo kích thước phù hợp với từng con. Sau đó cái ách phải được thợ mộc đẽo gọt, điều chỉnh, sửa chữa cẩn thận cho thật vừa vặn để không làm trầy da hay tổn thương đến con vật.
Có một huyền thoại cổ kể lại rằng Chúa Giêsu là người thợ mộc sản xuất ra những cái ách vừa vặn vào loại hạng nhất ở xứ Galilêa, và trong khắp cả nước người ta ùn ùn kéo đến với Người để mua những cái ách hạng nhất do Người làm ra. Thời ấy, các cửa tiệm cũng có những nhãn hiệu dán trên cửa, và cái nhãn hiệu của tiệm thợ mộc ở Nagiarét nổi tiếng với hàng chữ : “My yokes fit well” – “Ach Ta rất vừa vặn”.
Chúa Giêsu nói : “Ach của Ta thì êm ái”, có nghĩa là : “Cuộc sống Ta ban cho con không phải là gánh nặng làm tổn hại đến con ; bổn phận của con đã được đo lường thích hợp với con rồi”. Bất cứ điều gì Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta đã được làm để phù hợp chính xác với những nhu cầu và khả năng của chúng ta.
Chúa Giêsu nói : “Gánh của Ta thì nhẹ nhàng”. Đúng như lời của một thầy Rabbi đã nói : “Gánh của tôi đã trở nên bài ca của tôi”. Điều này không có nghĩa là gánh nặng thì dễ dàng mang vác ; nhưng có nghĩa rằng nó được đặt trên vai chúng ta bằng tình yêu. Nó sẽ được mang vác trong tình yêu. Và tình yêu sẽ làm cho những gánh nặng nề nhất cũng trở nên nhẹ nhàng như thánh Augustinô đã nói : “Ở đâu có tình yêu, ở đó hết khó nhọc”.
---------------------------------
Có một câu chuyện cổ kể về một người đàn ông đang đi trên đường, tình cờ gặp một em bé trai: TN 14-A27
Có một câu chuyện cổ kể về một người đàn ông đang đi trên đường, tình cờ gặp một em bé trai đang cõng một em bé trai khác nhỏ hơn nhưng đã bị cụt hai chân trên lưng. Người đàn ông đó nói với bé trai rằng : “Đó quả thật là một gánh nặng cho em phải mang”. Nhưng em bé trai đã trả lời rằng : “Đó không phải là một gánh nặng. Đó là đứa em nhỏ của cháu”. Gánh nặng được trao ban trong tình yêu và mang lấy bằng tình yêu sẽ luôn nhẹ nhàng !
Trong chuyện “Ngụ ngôn về những con chim” kể rằng thuở sáng tạo trời đất và các loài súc vật, tất cả đều bước đi bằng chân loanh quanh trên mặt đất, trừ những con chim ! Nhưng những con chim này chẳng chịu làm gì hết mà chỉ phàn nàn về gánh nặng Thiên Chúa bắt chúng phải mang trên vai, trong khi đó chẳng có một loài vật nào phải mang cả. Thoạt đầu, đối với loài chim, đôi cánh là những bộ phận xấu xí và luộm thuộm nhất chúng phải mang. Chúng nghĩ rằng đó là cách chúng đã bị Thiên Chúa phạt vì một lý do nào đó. Tại sao cứ phải mang lấy những cái cánh vướng vít gây cản trở và khó khăn mỗi khi cất bước ? Tại sao ? Tại sao lại là chúng mình ? Sau cùng có hai hay ba con chim mạo hiểm hơn bắt đầu tập cử động những bộ phận phụ thuộc này. Chúng bắt đầu chớp cánh phất phơ, và sớm khám phá ra rằng cái mà chúng coi như một gánh nặng trên vai thực ra đã làm cho chúng có thể cất cánh bay lên cao được. Cái “gánh nặng” đã biến thành một món quà đẹp đẽ.
Con người sinh ra đời kèm theo với cái ách, gánh nặng và trách nhiệm. Đó là cuộc đời ! Và chúng ta cũng không thể tránh được lòng mong ước thoát khỏi chúng. Đó cũng là cuộc đời ! Chúng ta muốn được giải thoát, nhưng tự sức chúng ta không làm nổi. Chúa Giêsu nói với chúng ta : “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các người”. Chúng ta không mang vác một mình, nhưng với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, cái ách sẽ trở nên êm ái và gánh nặng sẽ nên nhẹ nhàng. Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, cái ách trở nên giống như đôi cánh chim giúp ta bay lên cao hơn trong đời sống tinh thần.
Trong tiểu sử cuộc đời thánh nữ Têrêsa Avila có kể một câu chuyện về việc ma quỉ giả dạng giống Chúa Giêsu sống lại hiện ra với thánh nữ. Vừa nhận ra sự giả dạng thánh nữ đuổi nó đi ngay. Trước khi ra đi, Satan hỏi : “Làm thế nào bà đã biết được tôi là một người mạo nhận ?” Thánh nữ đáp lại : “Bởi vì mày không có những vết thương”. Trong bài suy niệm của thánh nữ về đời sống tinh thần, The Interior Castle – Lâu Đài Nội Tâm – thánh nữ Têrêsa đã nói đi nói lại về hình ảnh của Chúa Kitô chịu đau khổ đến hơn 40 lần. Thánh nữ thường xuyên đề cập đến đau khổ là vì, đối với thánh nữ, hình ảnh Chúa Kitô mang thương tích đã đến với chúng ta trong chính thương tích của chúng ta là chìa khóa để tìm hiểu cuộc hành trình thiêng liêng. Chúng ta có một Thiên Chúa cùng đồng hành với chúng ta. Ngài biết sự phấn đấu và hiểu nỗi đau khổ của chúng ta.
Cái ách ở thế kỷ thứ nhất thường được mang bởi hai con vật cùng kéo cày hay kéo xe chung với nhau. Khi chúng ta mang lấy trách nhiệm phục vụ Chúa Kitô, chúng ta cũng mang lấy ân sủng và sức mạnh của Chúa Kitô. Thiên Chúa là Đấng đã ra lệnh cho chúng ta phải cúi xuống để Người đặt lên chúng ta cái ách của Người, cũng sẽ ở bên cạnh chúng ta để cùng mang vác với chúng ta.
---------------------------------
Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy ....”. Đó là một lời kêu gọi, một lời nhắn : TN 14-A28
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đó là một lời kêu gọi, một lời nhắn nhủ, một lời khích lệ đầy an ủi và phấn khởi Chúa Giêsu nói với tất cả và từng người chúng ta.
Theo nguyên nghĩa Hy Lạp, thì chữ “vất vả mang gánh nặng nề” Chúa Giêsu nói ở đây được hiểu là cái bao đựng vật dụng cá nhân như cái ba-lô người ta đeo trên lưng, còn theo nghĩa thông thường, đó là những vất vả, khó khăn, trách nhiệm mà người ta phải chấp nhận. Dù theo nghĩa nào thì chúng ta cũng hiểu ngay là mỗi người đều có những vất vả và đau khổ, được gọi chung là gánh nặng riêng cho đời mình.
Thực vậy, đời người giỏi lắm là được trăm năm trần thế. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy ? Trăm năm nào có gì đâu ? Nhưng từ lúc trắng răng đến lúc bạc đầu, không lúc nào vất vả, đau khổ không theo đuổi chúng ta, đến nỗi ca dao tục ngữ đã nói : “Gánh khổ mà đổ lên non. Còng lưng mà chạy khổ còn chạy theo”. Đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt, không ai chối cãi, không ai phủ nhận, sinh ra và có mặt trên đời là khổ : “Hữu sinh hữu khổ” là thế. Với thời gian, lớn lên, đau khổ, vất vả hằng theo sát gót con người, dù ở đâu và làm gì, ai cũng có những vất vả và đau khổ của riêng mình.
Chúa Giêsu đã nhận thấy điều đó, Chúa đã hình dung bằng hai tiếng “vất vả và gánh nặng”, và Chúa động viên, khích lệ, kêu gọi : “Hãy đến với Chúa” để Chúa an ủi, nâng đỡ. Thực vậy, ở đời này có nhiều gánh nặng : gánh nặng bản thân, gánh nặng gia đình, gánh nặng xã hội, gánh nặng của bệnh tật, thất bại, mất mát, hiểu lầm của tình người và tình đời. Đã gọi là gánh nặng thì phải vất vả gánh vác : vất vả với cuộc mưu sinh, vất vả đêm ngày, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt đổi lấy miếng ăn, thế mà có khi vẫn không đủ sống ; vất vả sớm tối với bầy con, vất vả khi chúng còn nhỏ bé, vất vả khi chúng đã khôn lớn, nhất là khi chúng hư hỏng , quậy phá.
Ngoài ra, “gánh nặng” còn được hiểu là những đau khổ của đời người. Đời người sống giỏi lắm là trăm năm, nhưng thử hỏi có ai là không đau khổ chăng ? Ai cũng có những đau khổ riêng mình : người trước người sau, người ít người nhiều, người tinh thần người thể xác, người đi tu hay sống đời gia đình… không ai dám nói đời mình không có đau khổ. Cuộc đời trần gian là thế.
Như vậy, chúng ta dễ dàng chấp nhận : vất vả và gánh nặng đời này thì nhiều thứ, nhiều cỡ, nhiều kiểu và chúng ta cũng nhìn nhận rằng : trước những gánh nặng đó, nhiều khi tự sức chúng ta, chúng ta không làm gì được, chúng ta buông xuôi, chán nản ư ? Thậm chí có những người khi gặp khó khăn, khủng hoảng thì bỏ cả việc đạo đức và chán cả cầu nguyện, như vậy là sai lầm lớn. Những lúc vất vả, khó khăn, đau khổ càng nhiều và càng nặng, chúng ta càng phải đến với Chúa mau hơn và nhiều hơn. Hãy đến với Chúa để cảm nhận được sự nâng đỡ và bổ sức của Chúa. Nhưng chúng ta nên nhớ : Chúa nói Ngài nâng đỡ và bổ sức cho chúng ta thôi chứ Ngài không cất gánh nặng cho chúng ta, Ngài làm cho nhẹ gánh chứ không cất gánh nặng đi. Có nghĩa là chính chúng ta phải cố gắng làm việc và tìm mọi cách để giải tỏa gánh nặng đời mình rồi Chúa sẽ giúp sức thêm, chứ đừng ngồi mà than thân trách phận, hoặc chỉ cầu xin, khấn vái thôi thì chưa đủ.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng : Có một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi chất đầy, nhưng khi đi tới một khúc đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe của bác bị sụp lún xuống bùn, bác ta ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần và kêu xin cứu giúp. Vị thần hiện ra nói : “Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy xem sao”, bác đứng lên cố sức đẩy, đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi qua, thương tình giúp đỡ bác, thế là xe bác vượt qua được. Đó là một câu chuyện ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết những khó khăn. Nếu trong cuộc sống chúng ta còn biết nhờ vả vào những người quyền thế hơn, tài năng hơn, thì tại sao chúng ta lại không cậy nhờ vào Chúa. Cho nên, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta : trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, nhất là những khi vất vả hay khổ đau, chúng ta hãy đến với Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ, bổ sức cho chúng ta.
---------------------------------
Có một câu chuyện về một nhóm người đang bay trên một chiếc phi cơ quân đội đến Âu Châu: TN 14-A29
Có một câu chuyện về một nhóm người đang bay trên một chiếc phi cơ quân đội đến Âu Châu. Cùng với hai phi công, còn có một nhà ngoại giao lừng danh đang ôm lấy một chiếc cặp tài liệu cồng kềnh; một vị tướng ngực đầy chịt những huy chương; và một anh binh nhì đang ôm lấy ba-lô của anh. Chiếc phi cơ bị trục trặc máy móc và phi công loan báo là không thể bay được nữa. "Chúng ta cần phải bỏ máy bay," anh nói. Trong khi anh phát những chiếc dù ra, thì sự kiện xảy ra là chỉ có bốn chiếc dù; thiếu một chiếc. Ngay lập tức, một cuộc tranh luận xảy ra xem coi ai sẽ bị bỏ lại. Ông phi công nói: "Bây giờ đang trong lúc thiếu hụt phi công và như thế tôi rất là cần thiết. Một chiếc dù phải thuộc về tôi." Trong lúc ông mang dù vào và nhảy thì ông phi công phụ cũng nói: "Tôi cũng rất là cần thiết với cùng một lý do." Trong lúc ông mang dù vào và nhảy thì ông tướng nói: "Qua kinh nghiệm luyện tập và chiến đấu, tôi có thể thống lĩnh toàn thể cả Quân Đội hầu sẽ bảo an cho nhiều người." Trong khi ông tướng màng dù và nhảy thì nhà ngoại giao lừng danh lên tiếng: "Tôi thường được coi như là người thông minh nhất trên thế giới này. Sự sống của tôi cần phải được bảo toàn cho phần tốt của mọi người." Trong khi ông mang dù và nhảy thì anh binh nhì nói với chính mình: "Cho chết ông thông minh nhất thế giới -- lại đi mang ba-lô của tôi."
Nhìn vào xã hội hỗn loạn ngày nay, chúng ta có thể đưa ra những lý do để mà tự hỏi nếu quyền thống trị thế giới đang trong tay những người thông minh thế giới. Đấy chính là một lý do tại sao thật là an ủi khi nghe Lời cam đoan của Chúa Giêsu trong Bài Tin Mừng hôm nay: "Hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học cùng Ta" (Mt 11:29). Cố nhiên, chúng ta còn có nhiều điều để mà học hỏi. Thế nhưng hãy ca khen Thiên Chúa vì đang dẫn đưa chúng ta hôm nay đến một Nguồn rất chắc chắn của mọi sự khôn ngoan chân thật.
Thư của Thánh Giacôbê chỉ bảo cho chúng ta "hãy mau nghe, đừng vội nói, và đừng vội giận. Vì khi giận, người ta không thực hiện được sự công chính của Thiên Chúa" (Jas 1:19-20). Không hiểu tại sao, chúng ta như đi ngược lại phương thức đó, trở nên chậm nghe, mau nói, và dễ tức giận. Chúng ta có thể nhìn thấy sự thể này trên phương diện thế giới nơi mà đang có khoảng bốn mươi hai cuộc chiến tranh đang xảy ra, và trên phương diện cá nhân nơi mà hạnh phúc được mưu cầu trong sự khác nhau của những khu vực tác chiến.
Một người phụ nữ, đời sống thật là đầy những căng thẳng, di chuyển với gia đình từ thành thị về nơi thôn quê. Cả nhà quyết tâm giảm bớt đi những căng thẳng và lo lắng mà họ đã sống qua hầu sống một đời sống mới an nhàn thoải mái hơn. Một người hàng xóm đến thăm người mẹ trong gia đình thì thấy trên bảng nhắc nhở có cắm một cái gì đó. Bà liền hỏi nó là gì thì người mẹ trả lời, "Ồ, đấy chính là bài thơ tượng trưng cho những gì mà chúng tôi di chuyển đến đây. Bài thơ này mở đầu rằng, 'Lạy Chúa, xin hãy làm cho chúng con chậm lại...' Thế nhưng, tôi vẫn chưa có đủ thì giờ để đọc phần còn lại."
Chúng ta hãy chậm lại hầu chúng ta có thể mau mắn lắng nghe Lời Ngài về an bình và tình huynh đệ. Chúng ta hãy chậm lại hầu chúng ta có thể mau mắn lắng nghe rằng đời sống của chúng ta không phải là đi ra khỏi trần thế này mà là đi nhập vào trong chính thế gian này để chăm nom. Chúng ta hãy chậm lại hầu chúng ta có thể mau mắn học biết "tốt đẹp dường nào và dịu ngọt dường nào khi anh em sum vầy với nhau" (Ps 133:1). Cộng đồng dân Chúa cùng tụ họp lại để trở nên gương mẫu của sự bình an, hiệp nhất và tình huynh đệ.
Trong một mẫu chuyện hoạt hình, "Kudu", có một người đàn ông tên "Thầy Giảng Dunn" tiến đến bục giảng và nói với cộng đồng rằng: "Anh chị em thân mến, hôm nay tôi muốn làm một bài kiểm tra -- kiểm tra tinh thần. Bài kiểm tra này sẽ đánh giá cấp bật phát triển tinh thần của toàn thể cộng đồng. Sửa soạn! Câu đầu tiên! Hãy làm hoàn tất câu: 'Ai vả má phải các ngươi...'" Ngay lập tức, có nhiều lời xì xào trong cộng đồng: "Trói hắn lại! ... thanh toán nó đi!" Sau đó, thầy giảng Dunn nói, "Tôi buộc phải chấm theo tinh thần Chúa Kitô."
Chúng ta cho điểm mình không đến nỗi tệ trong việc theo Đức Kitô. Chúng ta có đủ tín nhiệm vào Chúa Giêsu để thực thi sứ mệnh được phát thảo để đối đầu với sự dữ với quyền lực của tình yêu không? Chúng ta có đủ tin cậy để dám liều trở nên những sứ giả bị xiềng xích không?
Lạy Chúa, xin hãy làm cho chúng con chậm lại hầu chúng con có thể mau mắn học biết chương trình Thiên Chúa cho an bình và tình huynh đệ, hoà hợp và công bình. Lạy Chúa, xin hãy làm cho chúng con chậm lại hầu chúng con có thể mau mắn học biết làm thế nào ôm ấp thế giới trong tình yêu.
---------------------------------
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật XIV mùa thường niên hôm nay được trích trong một đoạn văn: TN 14-A30
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật XIV mùa thường niên hôm nay được trích trong một đoạn văn hay nhất của Thánh Mátthêu, người ta gọi đoạn văn này là "Hạt Ngọc Quý Nhất" của Thánh Mátthêu. Dòng tư tưởng của đoạn Phúc Âm này thật cao siêu và êm dịu, chúng ta thấy ngay về sự bay bổng và suy tư về Nước Trời. Có lẽ lời cầu nguyện này được thốt ra khi Chúa Giêsu nghe các Tông Đồ đi truyền giáo trở về và kể lại cho Chúa các điều họ đã thực hiện, các mối liên lạc giữa Chúa và Chúa Cha về sứ mệnh cứu rỗi làm trung gian, và mời gọi mọi người đến với Ngài. Điều ấy là các mầu nhiệm Nước Trời.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được mạc khải này cho chính mình và cho các Tông Đồ: "Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng..." Theo mạch văn và ý muốn của Chúa mà chúng ta hiểu, đây là những người Do Thái đang bị đè nặng bởi lề luật và các truyền thống của những biệt phái. Chúa Giêsu đã giải thoát họ khỏi ách lề luật và đem họ đến chỗ thảnh thơi. Vì từ nay những ai đến với Chúa phải đến với tất cả tâm hồn, phải được ghi khắc lề luật mới là luật của Thánh Thần ở bên trong và tự nguyện.
Đoạn văn này rất súc tích tư tưởng, không bao giờ khám phá ra hết, song ít ra chúng ta có thể nhận thấy chính những tư tưởng sau:
Trước hết là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài trên trời vì đã mạc khải những điều này cho các trẻ nhỏ, mà lại không cho những kẻ thông thái tự cao tự đại thường cho rằng mình biết tất cả. Lòng tự ái tự cao làm cho họ không nhận ra Lời Chúa, còn những bậc quân tử thì lại tự mãn về lối sống của mình, tự cho mình là chân chính và không cần đến sự giúp đỡ của Thiên Chúa, không cần ơn cứu rỗi của Ngài. Trái lại những kẻ bé mọn lại biết rằng mình dốt nát trước sự cao cả của Thiên Chúa, họ thấy mình bé nhỏ khốn nạn, và sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn về những hồng ân của Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn về những hồng ân của Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận ơn cứu rỗi, cảm thấy cần Chúa: "Chúa hạ người quyền hành xuống khỏi vị cao và nâng người hèn mọn lên".
Chúa Giêsu tự mạc khải Ngài: "Thực sự đã được Cha trao phó cho Ta và không ai biết Cha trừ ra Ta, và cũng không ai biết Ta trừ ra Cha" (Mt 11,27). Lời đó mạc khải về Chúa Giêsu, Ngài đồng bản tính với Thiên Chúa Cha. Một mình Cha biết đầy đủ về Con, vì Cha đã sinh ra Con trong trí và do sự hoàn toàn sung mãn của Ngài. Và chỉ có Con mới biết đầy đủ về Cha và hình ảnh của Con là sự trung thực nhất, là tư tưởng, ý nghĩ của Cha. Chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúa. Đây là một mạc khải vô cùng quí báu cho chúng ta. Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, song không phải hoàn toàn như chúng ta: "Mọi sự đã được Chúa Cha trao, không ai biết Con trừ ra Cha, và kẻ nào Con muốn mạc khải cho".
Một tư tưởng nữa của Phúc Âm hôm nay, đó là lời kêu gọi những kẻ đói khát, những ai mệt nhọc hãy đến với Ngài: "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những kẻ khó nhọc gánh nặng, Ta sẽ bổ sức lại cho".
Lời kêu gọi đầy lòng nhân hậu và giàu lòng thương xót mà Chúa hứa cho những ai đói khát, những ai mệt nhọc, Chúa sẽ nâng đỡ và Chúa luôn luôn trung thành giữ lời hứa của Ngài. Qua mọi thời đại, tất cả những ai đói khát công chính đều no nê, những ai nặng trĩu tội lỗi đến với Ngài đều được nhẹ nhõm, được bổ sức và được tha thứ. Chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: "Tội con đã được tha thứ" (Mt 9,2), và chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: "Đừng sợ, Ta đã thắng thế gian", (Jn 16,33) và "Ách Ta thì êm ái, gánh Ta thì nhẹ nhàng", (Mt 11,30).
Chúng ta hết thảy đều phải mang gánh nặng và vất vả, nhưng ở đây chúng ta không có ý nói đến những gánh nặng bên ngoài đè trên vai của mình. Nhưng khốn nỗi, chính trong lãnh vực của tâm linh, thường thì chúng ta cũng phải vất vả nặng nề, xác thịt đè nặng, các ham muốn của tình dục, nhiều tật xấu nào đó kìm hãm tinh thần con người, và sức nặng nào đó đã cản trở con người cũ, không chịu buông tha cuộc đời chúng ta để chúng ta được đi theo Chúa một cách an vui.
Hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy đến với Ngài. Ngài muốn cất gánh nặng đi cho chúng ta. Đúng hơn, Ngài muốn đặt trên vai chúng ta một ách khác nhẹ nhàng êm ái hơn, Ngài đến để phục hồi con người vất vả của chúng ta. Chính Ngài đã nói: "Hãy mang lấy ách của Ta và hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và các ngươi sẽ tìm được nghỉ ngơi cho tâm hồn". (Mt 11,29-30).
Vậy chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa, để tìm được nguồn an vui và sự bình an trong tâm hồn. Amen.
---------------------------------
Khi quy hoạch thành phố tương lai, người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí: TN 14-A31
Khi quy hoạch thành phố tương lai, người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí.
Nghỉ ngơi thư giãn là một nhu cầu quan trọng cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường.
Nghỉ ngơi không chỉ cần cho thân xác hay trí óc. Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn.
Cái tâm của chúng ta cần được sống trong an tĩnh giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen.
Nhiều người bị suy nhược thần kinh, bị stress.
Có người tự tử vì không đủ sức để tiếp tục sống.
Đức Giêsu mời chúng ta đến với Ngài, tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề.
Gánh nặng của nỗi đau và vấp ngã trong quá khứ
Gánh nặng của trách nhiệm và yếu đuối hiện tại
Gánh nặng phải mang vì người khác...
Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu, chán chường và mệt mỏi. Tất cả những ai muốn tìm một chút nghỉ ngơi. Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh.
Hãy mang lấy ách của tôi.
Đức Giêsu không ngần ngại nói đến ách của Ngài mà những kẻ đến với Ngài phải mang.
Ngài không giấu ta về những đòi hỏi nghiêm túc, về con đường hẹp mà ít người muốn đi, về thánh giá mà ta phải vác để theo Ngài.
Như thế sự an bình thư thái Ngài hứa ban đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ.
Đó là thứ bình an ngay giữa khổ đau và nước mắt, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương, vì xác tín là mình đang làm đúng ý Thiên Chúa.
Nếu ách của Ngài êm và gánh của Ngài nhẹ, thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu.
Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ.
"Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không cảm thấy vất vả; mà giả như có vất vả đi nữa thì người ta cũng thích cái vất vả đó" (thánh Âutinh)
Hãy học với tôi.
Đức Giêsu kêu gọi chúng ta làm học trò của Ngài.
Chúng ta học trường Giêsu, học Thầy Giêsu, học bài Giêsu.
Bài học nằm nơi chính trái tim Ngài: "Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu."
Khi mang trong mình những tâm tình của Thầy Giêsu thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại.
Chúng ta cần theo học Thầy Giêsu suốt đời, cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, cần sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ.
Chỉ như thế chúng ta mới được Thầy Giêsu mạc khải, và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những gánh nặng mà con người hôm nay phải mang vác? Đâu là gánh nặng của người nghèo và của người giàu? Đâu là nỗi vất vả và gánh nặng của người trẻ hôm nay?
Bạn thấy theo đạo có phải là một gánh nặng không? Giữ đạo nặng nề ở điểm nào? Có cách nào làm cho nó nhẹ nhàng hơn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhở đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc và được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
---------------------------------
Chi Tiết Hay
Ở giữa chương nói về sự chối từ Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài (Mt 11-13), đoạn phúc âm: TN 14-A32
Ở giữa chương nói về sự chối từ Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài (Mt 11-13), đoạn phúc âm này gồm ba điều mặc khải:
- lời ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa đã mặc khải cho kẻ bé mọn (cc.25-26).
- lời minh chứng sự liên hệ đặc biệt giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha (c.27), và
- lời mời gọi mọi người hãy đến với lời dạy dỗ khôn ngoan (cc.28-30).
(c.25) "Người khôn ngoan và thông thái" chỉ những người biệt phái và Pharisêu, những người đã chối từ Đức Giêsu. Trong những áng văn Do thái thời đó, những kẻ được mặc khải phải là người khôn ngoan và thông thái. Những điều thiết yếu Thiên Chúa không tỏ cho những người này biết là các phép lạ Chúa Giêsu đã làm và sự hiện diện của nước Thiên Chúa trong sứ điệp của Ngài.
(c.25) "Kẻ bé mọn" chỉ những môn đệ là những người tầm thường và thất học nhưng họ đã nghe và đón nhận lời Chúa tuy dầu họ thấp kém trong nấc thang xã hội và thiếu hiểu biết về tôn giáo.
(c.27) Đức Giêsu khẳng định Thiên Chúa đã cho Ngài tự mặc khải giống như một người cha tiết lộ chính mình với người con. Sự mặc khải giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu quá mật thiết, chỉ từ ngữ Cha và Con mới diễn tả được. Vì vậy duy chỉ Đức Giêsu mới có thể chuyển đạt được sự hiểu biết và sự khôn ngoan của Thiên Chúa cho chúng ta.
(cc.28-30) Đức Giêsu dùng mạch văn trong sách Huấn Ca (Sir 51:23-27) để kêu mời chúng ta làm môn đệ Người. Theo truyền thống, cái "ách" là biểu tượng cho lề luật. Đức Giêsu người có năng quyền diễn đạt lề luật, hứa sẽ cho nghỉ ngơi và bồi dưỡng trong trường khôn ngoan của Người. Gánh nặng là lối của người Pharisêu tìm đến sự khôn ngoan, gánh nhẹ là lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
Một Điểm Chính
Chỉ những ai được Chúa mặc khải mới tiếp nhận tin mừng cứu rỗi, tuy nhiên sự mặc khải chỉ đến với những ai mở lòng mới đón nhận còn ai kiêu ngạo thì sẽ bị chối từ.
Suy Niệm
Có phải tôi luôn hành động dựa vào trí hiểu biết không thôi? Hay tôi để lòng mình hướng dẫn trong nhân hậu và khiêm nhường? Tôi thuộc loại người nào?
Điều gì làm mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con Giêsu quá mật thiết? Còn liên hệ giữa tôi với Chúa có gần gũi không? Làm sao tôi có thể cải tiến mối liên hệ này?
Luật và lời của Chúa Giêsu thì êm ái và nhẹ nhàng "ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng." Tôi đang phải mang những gánh nặng gì? Công việc, học hành, gia đình, tiền bạc, ước vọng...? Những gánh nặng có cần thiết không? Làm sao tôi có thể làm nhẹ bớt những gánh nặng này? Làm sao Chúa Giêsu có thể làm nhẹ bớt gánh nặng này.
---------------------------------
Mt 11,25-30
*** Như Lễ Thánh Tâm
A. Hạt giống...
Đoạn này tiếp liền đoạn Chúa Giêsu khiển trách những thành ven Biển Hồ đã không tin Ngài vì: TN 14-A33
1. Đoạn này tiếp liền đoạn Chúa Giêsu khiển trách những thành ven Biển Hồ đã không tin Ngài vì cậy vào sự thông thái của mình (Mt 11,20-24). Sau khi than trách những kẻ cậy dựa vào sự thông thái của mình, Chúa Giêsu lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha vì đã mặc khải Tin Mừng cho những người bé mọn, tức là những người "nghèo trong tinh thần" mà Ngài đã nói trong Bát phúc (Tv 19,8 116,6), những người tội lỗi, những kẻ ít học.
Ngài còn nói "Vì ý Cha đã muốn an bài như vậy". Nghĩa là những thái độ hoặc tin hoặc cứng tin mà Chúa Giêsu gặp chẳng phải là chuyện may rủi, cũng chẳng phải do tài năng hoặc bất tài của Ngài, mà là chương trình khôn ngoan của Thiên Chúa là như vậy : Ngài luôn ưu ái những kẻ bé mọn và hạ bệ những bậc khôn ngoan.
2. Tiếp đến Chúa Giêsu kêu gọi hãy mang lấy ách và gánh của Ngài. Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, “gánh” chỉ luật lệ, và “mang ấy ách” nghĩa là học với. Chúa Giêsu kêu mời chúng ta học với Ngài và đón nhận luật của Ngài.
- Học với Chúa Giêsu là học được tính hiền lành và khiêm tốn.
- Luật của Ngài là luật yêu thương.
Bởi thế ai mang lấy ách của Ngài và học với Ngài thì tâm hồn người đó sẽ gặp được bình an.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu là một con người lạc quan. Mặc dù vừa thất bại ở các thành ven Biển Hồ, Ngài vẫn lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha. Sở dĩ Ngài lạc quan vì Ngài thấy được kế hoạch của Chúa Cha.
Sau khi bị thất bại, tôi dễ chán nản muốn bỏ cuộc. Xin Chúa cho con lạc quan như Chúa, để luôn tin tưởng vào thành công cuối cùng của việc loan Tin Mừng. Xin cho con lạc quan đến nỗi vẫn ca tụng tạ ơn Chúa vì những thất bại của con.
2. Thiên Chúa giấu không cho những người khôn ngoan biết những mầu nhiệm của Ngài, mà lại mặc khải cho những người bé mọn biết những điều ấy. “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng, Ngài nâng cao những người phận nhỏ”.
Dù con có biết được điều gì đi nữa, dù con có thành công bao nhiêu đi nữa, xin cho con luôn khiêm tốn, tự biết mình chỉ là kẻ bé mọn trước mặt Chúa.
3. Được Thiên Chúa mặc khải cho biết về Ngài, đó là một đặc ân cao quý. Biết bao người thông thái nhưng không có đức tin. Còn con, từ hồi mới sinh ra đã được ơn đức tin. Con xin tạ ơn và chúc tụng Chúa.
4. Niềm vui và sự phấn khởi là sợi chỉ xuyên suốt của toàn bộ Thánh Kinh. Thánh Phaolô đã nhắc nhở tín hữu “Anh em hãy vui lên. Tôi xin nhắc lại, anh em hãy vui luôn”. Cho dù cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu có là trọng tâm của Kitô giáo, cho dù hy sinh có là con đường tu đức của các kitô hữu, thì Tin Mừng vẫn là tên gọi của Đạo Chúa. Kitô giáo thiết yếu là một Tin Mừng để đón nhận, để sống và để loan báo. Mà nói đến Tin Mừng là nói đến hân hoan (Chờ đợi Chúa)
5. Một hôm sói hỏi sóc :
- Vì đâu mà họ nhà sóc của mi luôn vui vẻ nhảy nhót còn bọn sói chúng ta luôn buồn rầu ?
- Ông buồn vì ông ác. Tính độc ác bóp nghẹt tim ông. Còn chúng tôi vui vẻ vì chúng tôi hiền lành và không làm điều ác cho một ai (Tolstoð kể)
6. “Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,26)
Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả, và con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất Cả : cặp mắt, đôi chân và đôi bàn tay. Vì con là phụ nữ, ưa ngắm nhìn mái tóc óng ả của con, ưa nhìn ngắm những ngón tay thon nuột xinh xắn của con. Thế mà giờ đây đầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào, cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng hồng xinh xinh nữa, chỉ còn lại vài que củi khô nhám nhúa… Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn… Bởi vì, đời con đã được quá ư đầy tràn đến diệu kỳ. Sống đắm mình trong tình yêu, cuộc đời con đã được Chúa lấp đầy chan chứa.
Lời nguyện cầu của chị Véronique đẹp quá. Cứ dạt dào, bay vút, hòa quyện với lời tạ ơn của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết khám phá nơi con những khả năng Cha ban, biết trân trọng những tặng vật Cha ký thác, và tận dụng những cơ hội Cha gởi trao. (Hosanna)
7. “Hãy đến với Ta hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng” : Ôi một lời kêu gọi xuất phát từ một tấm lòng yêu thương bao la ! Chúa rất quan tâm lo lắng khi thấy tôi khổ đau và mệt mỏi. Ngài rất muốn nâng đỡ và xoa dịu tôi nên mới lên tiếng kêu mời tôi. Lẽ ra tôi phải tìm đến Ngài trước, thế mà Ngài lại kêu mời tôi trước.
Mà sở dĩ Ngài kêu mời tôi là vì rất nhiều lần khi gặp khốn khổ tôi đã không chạy đến với Ngài, tôi chạy đến với ai khác, tôi ngã lòng không muốn cầu nguyện nữa…
8. “Ta hiền lành và khiêm tốn” : hẳn là 2 đức tính này quý giá đặc biệt lắm nên Chúa mới tự mô tả mình như thế.
Tôi có hiền lành không ? Tôi còn phải học gì thêm ở tính hiền lành của Chúa ?
Tôi có khiêm tốn không ? Tôi còn phải học gì thêm ở tính khiêm tốn của Chúa ?
9. “Ách Ta êm ái” : Điều làm cho Luật của Chúa trở thành êm ái đó là tình yêu. Nếu tôi không yêu Chúa thì việc tôi giữ luật sẽ trở thành nặng nề. Nếu tôi không yêu thương anh chị em thì việc tôi sống chung với họ sẽ làm cho họ khổ sở. Xin giúp con ngày càng yêu thương nhiều hơn.
10. Ở Á Đông, thương cho roi cho vọt. Nhưng câu nói này lại hoàn toàn vô nghĩa trong xã hội Mỹ. Mới đây một tòa án tại bang Dalas đã tuyên án phạt một ông bố 3 roi vì tội đánh con của mình. Vụ án trên là một minh họa cho vấn đề Luật và Tình thương. Một gia đình sung túc đến đâu mà trong đó không có tình thương thì cũng như một nghĩa địa. Một xã hội văn minh kỹ thuật đến đâu mà không có tình thương thì chỉ là một bãi sa mạc. (Theo “Chờ đợi Chúa”).
11. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28)
Buồn và chán vì mọi người trong gia đình chẳng hiểu mình, tôi chạy đến những người bạn để mong trút hết bầu tâm sự. Nhưng đứa thì đi học, đứa đi làm, đứa đi chơi… Chiều muộn rồi, tôi chẳng biết đến với ai. Chạy lòng vòng ngoài phố càng khó chịu nặng nề thêm vì tiếng ồn, khói xe và bụi. Tới đường Tú Xương, bỗng nhiên tôi nghĩ đến nhà thờ Mai Khôi nhỏ bé, đơn sơ nhưng không khí yên tĩnh, thánh thiện. Tìm lấy một góc, tôi thầm kể cho Ngài tất cả. Tôi bỗng thấy nhẹ nhàng và bình an lạ lùng vì hình như có ai đó đã nghe tôi, hiểu tôi.
Kinh nghiệm này giúp tôi hiểu và cảm nghiệm sâu xa hơn Lời Chúa ngày hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm được : chỉ nơi Ngài con mới kín múc được niềm vui và sự bình an đích thực. (Hosanna)
12. Tôn kính Trái tim Chúa Giêsu không phải là tôn kính một phần cơ thể của Ngài, cũng không phải là tôn kính một di vật của Ngài cho dù di vật đó quý giá bao nhiêu đi nữa. Trái tim là biểu tượng của tình yêu, cho nên tôn kính Trái tim Chúa là tôn kính Tình yêu của Ngài.
Tình yêu của Chúa Giêsu như thế nào ? Một tình yêu tự hiến, đến nỗi dám chết vì yêu, đến nỗi còn một chút máu và nước cuối cùng Ngài cũng cho đi. Yêu là tự hiến, yêu là cho đi.
13. Khi tôn kính Trái tim Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải noi gương yêu thương của Ngài. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã yêu thương đến mức tối đa không thể nào yêu thương hơn được nữa, và yêu thương tất cả mọi người : từ những người thân (Đức Maria, các môn đệ) cho đến kẻ xa lạ (hai tên tử tội) và cho đến kẻ hành hạ mình (quân lính)…
14. Trong quyển nhật ký của ông, mục sư Martin Luther King, người đã hy sinh mạng sống để tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen, đã viết :
“Tôi rất hãnh diện nếu ngày tôi qua đời ai đó kể lại rằng Martin Luther King là người đã cố gắng sống vì yêu thương. Ngày đó tôi mong muốn các bạn sẽ có thể nói rằng tôi đã cố gắng sống cho công lý, rằng tôi đã đồng hành với những ai thực thi công lý, rằng tôi đã dấn thân để đem lại cơm bánh cho những người đói khổ, rằng tôi đã luôn luôn cho kẻ rách rưới ăn mặc. Tôi mong rằng ngày đó các bạn sẽ nói tôi đã xả thân để thăm viếng những người tù tội và yêu thương phục vụ mọi người… Còn tất cả những thứ khác, như giải Nobel hoà bình 1964 không có gì quan trọng…”
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng chúng con theo hình ảnh Chúa. Chúa đã phú bẩm cho chúng con một trái tim để yêu thương. Xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống trong yêu thương và phục vụ, nhất là yêu thương và phục vụ những người nghèo khổ chung quanh chúng con. (Chờ đợi Chúa)
15. Nhìn tượng Trái tim Chúa Giêsu, một người nói : “Có lẽ Chúa Giêsu là người duy nhất dám đưa trái tim bên trong của mình ra ngoài cho người ta thấy”. Người thứ hai góp ý : “Ngài là người độc nhất trong lịch sử không cần che dấu gì về mình cả”. (Onward)
16. Mầm khác :
---------------------------------
Chúa Nhật 14 Thường Niên, Năm A (Dcr 9:9-10; Rm 8:9,11-13; Mt 11:25-30)
Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay là một trong những lời lẽ an ủi và khích lệ nhất trong Thánh kinh:TN 14-A34
Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay là một trong những lời lẽ an ủi và khích lệ nhất trong Thánh kinh. Chúa Giêsu tạ ơn Thiên Chúa Cha đã ban cho những người bé mọn sự hiểu biết về màu nhiệm nước Trời. Còn những người khôn ngoan thông thái lại không lãnh hội được. Ðiều được tiết lộ cho những người này thì lại bị giấu kín khỏi những người khác. Vậy đâu là sự khác biệt và tại sao có sự khác biệt? Việc Thiên Chúa bày tỏ cho loài người qua Thánh kinh là kho tàng chung của nhân loại, nghĩa là ai cũng có thể mua cuốn Thánh kinh để đọc, nếu có tiền.
Tuy nhiên chỉ có những người mở rộng tâm hồn, chỉ có những người khiêm tốn trước Ðấng tối cao, mới có thể lãnh hội được lời Chúa. Ðó chính là ý nghĩa lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay: Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan và thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn (Mt 11:25). Chẳng thế mà văn hào Pascal mới nói: Thiên Chúa của Ápraham, Ixaác và Giacóp, không phải là Thiên Chúa của các triết gia và những nhà thông thái. Pascal là nhà toán học, vật lý học và triết học mà đã nói lên điều đó.
Vậy có phải Thiên Chúa giấu, không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời không? Nếu Chúa xử với bậc khôn ngoan và thông thái như vậy thì có vẻ Chúa không công bình với họ vì chính Chúa đã tạo dựng nên người khôn ngoan và thông thái. Và nếu như vậy thì kể là cũng tội nghiệp cho họ. Thực sự thì Thiên Chúa bầy tỏ cho tất cả mọi người về màu nhiệm nước Trời, nhưng chỉ có những người khiêm tốn và mở rộng tâm hồn mới lãnh hội được mà thôi. Những người khôn ngoan và thông thái mà cậy mình kiêu ngạo thường không muốn tuỳ thuộc vào Chúa. Và khi người ta không muốn tuỳ thuộc vào Chúa là chính lúc mà mầu nhiệm nước Trời bị cất giấu khỏi họ. Khi mà tâm trí người ta đầy ắp những thứ mà người ta cho là của mình, thì những gì thuộc thiên giới không còn chỗ mà vào. Còn những người khôn ngoan và thông thái mà có lòng khiêm tốn và mở rộng tâm hồn thì vẫn có thể tìm đến Chúa để tiếp nhận màu nhiệm nước Trời. Họ là những người to lớn về trí tuệ, mà lại bé mọn về tâm hồn. Bé mọn theo nghĩa Thánh Kinh là đơn sơ, khiêm tốn, tuỳ thuộc và phó thác vào Chúa.
Ðể có thể đến với Chúa và đặt niềm tin phó thác vào Người như trẻ con phó thác vào cha mẹ, người ta cần có những đức tính của trẻ nhỏ: đơn sơ, khiêm tốn, tuỳ thuộc và phó thác. Khi lớn lên với những của cải giàu sang, sự hiểu biết sâu rộng và quyền hành, người ta có thể bớt tùy thuộc vào Chúa hay không còn muốn tuỳ thuộc vào Chúa hoặc vẫn muốn tuỳ thuộc vào Chúa tuỳ theo mức độ người ta gắn bó với của cải, quyền thế hoặc tài trí. Ðặc biệt hôm nay Chúa mời gọi loài người: Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28).
Có khi nào ta cảm thấy vất vả vì công việc bổn phận trong gia đình và trách nhiệm ngoài xã hội, khiến ta muốn thoát khỏi những gánh nặng của cuộc sống không? Có khi nào ta phải mang những gánh nặng của cuộc đời như bệnh tật nan trị trong thân xác hoặc những vết thương về tinh thần và tình cảm khiến tâm can ta bị hao mòn, héo hắt không? Có bao giờ ta gặp cảnh khổ đau, sầu não, phiền muộn, âu lo, sợ hãi, chán nản, thất vọng không? Có khi nào người khác thấy ta có vẻ hạnh phúc, nhưng thực sự ta đang phải mang tủi hổ về bản thân và gia đình, ta phải ngậm đắng, nuốt cay và khóc thầm trong lòng không? Có khi nào ta không có ai hoặc không tìm được ai để thổ lộ nỗi lòng cho vơi nhẹ, vì sợ không được lắng nghe và không được giữ kín không?
Nếu vậy thì hôm nay Chúa mời gọi ta đến với Chúa để bày tỏ nỗi lòng với Chúa, để trút gánh nặng của cuộc sống vào lòng từ ái của Chúa, để hoà lẫn những đau khổ của đời ta với những khổ đau của Chúa trên thập giá mà dâng lên Thiên Chúa Cha, hầu làm giá đền tội cho chính mình và cho loài người. Chúa không hứa cất đi những gánh nặng khỏi cuộc sống của ta, nhưng còn mời gọi ta mang lấy ách của Người: Hãy mang lấy ách của tôi và học với tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11:29). Vậy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng như thế nào? Lời Chúa trong sách ngôn sứ Dacaria có mô tả về Ðấng Cứu thế sẽ đến như sau: Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ (Drc 9:9). Lừa là con vật hiền lành và dễ chịu khuất phục. Khi vào thành Giêrusalem trong ngày lễ Lá, Chúa Giêsu đã thể hiện lời tiên tri về Người mà cưỡi trên lưng lừa con (Mt 21:7), chứ không cưỡi trên lưng ngựa mặc dầu có ngựa ở Giêrusalem thời bấy giờ. Ðiều đó nói lên ý muốn của Người là sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha, chấp nhận khổ hình thập giá, để làm giá cứu chuộc loài người.
Và Chúa bảo đảm với ta: Ách của tôi thì êm ái, gánh của tôi thì nhẹ nhàng (Mt 11:30). Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma nêu lý do tại sao ách ta vác không được êm ái, và gánh ta mang không được nhẹ nhàng là vì ta không sống theo Thần Khí của Thiên Chúa (Rm 8:10). Ta cảm thấy mệt mỏi trong cuộc sống khi ta dựa vào sức riêng mà không cậy dựa vào ơn Chúa giúp cho ta vượt qua. Có bao giờ ta phàn nàn rằng Thiên Chúa và đạo giáo không đem lại ích lợi gì cho cuộc sống không? Nếu đạo giáo không mang lại được gì ích lợi cho cuộc sống, thì đạo phải tới ngày tàn lụi. Tuy nhiên đạo vẫn đứng vững được cho tới ngày nay và đã đem lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống muôn vàn người tín hữu. Nếu người ta không đạt được lợi ích thiêng liêng đó, thì lỗi tại đâu?
Vậy ta cần xét đâu là động lực thúc đẩy khiến cho ách mà ta vác trở nên êm ái, gánh nặng ta mang trở nên nhẹ nhàng? Thưa chính tình yêu của Ðức Kitô đã khiến cho ách của Người trở nên êm ái, và gánh nặng trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô cũng đã nhận ra hệ quả của tình yêu khi đặt bút viết: Ðâu có yêu, đấy không còn khổ, mà giả như người ta vẫn cảm thấy khổ, người ta lại chấp nhận cái khổ đó vì yêu. Ðến với Chúa, tâm hồn ta sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng như Chúa hứa (Mt 11:29) và như thánh Augustinô đã xác nhận: Tâm hồn ta sẽ thao thức khắc khoải, cho tới khi được an nghỉ trong Chúa.
Lời cầu nguyện xin được bổ sức:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa hứa bồi bổ sức mạnh và nghị lực,
cho những ai vất vả và mang gánh nặng của cuộc sống.
Xin dâng lên Chúa những người đau khổ về thân xác và tâm hồn;
những người lo lắng sợ hãi; những người mỏi mệt và chán sống;
những người phải mang tủi hổ và mặc cảm trong cuộc đời.
Xin ban cho họ thêm can trường và hi vọng.
Còn những khó khăn và khắc khoải của đời con,
con cũng xin dâng lên Chúa với lòng trông cậy. Amen.
Lm Trần Bình Trọng
---------------------------------
Matthêu 11, 28-30
Chúa Giêsu phán với những kẻ đang cố gắng tìm kiếm Thiên Chúa một cách vô vọng, đang cố: TN 14-A35
Chúa Giêsu phán với những kẻ đang cố gắng tìm kiếm Thiên Chúa một cách vô vọng, đang cố gắng làm lành một cách vô vọng, đang thấy mọi lỗ lực của mình rốt cuộc chẳng được gì, chán nản kiệt sức rồi.
Chúa phán: "Hỡi những kẻ mệt mỏi hãy đến cùng Ta". Ngài đang mời gọi những người mệt mỏi vì tìm kiếm chân lý. Người Hi lạp nói rằng: "Rất khó tìm thấy Thượng Đế và khi anh đã tìm được Ngài thì anh lại không thể nào nói cho người khác biết về Ngài". Sôpha hỏi Gióp: nếu ông dò xét há có thể hiểu biết được sự sâu nhiệm của Chúa và thấu rõ Đấng Toàn Năng sao? Chúng ta biết Thiên Chúa không phải do sự tìm tòi của trí tuệ mà do quan tâm chú ý đến Chúa Giêsu. Chúng ta có thể chấm dứt việc tìm kiếm Thiên Chúa khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu , vì trong Ngài chúng ta thấy được Thiên Chúa .
Ngài phán: "Hỡi những kẻ mang gánh nặng, hãy đến cùng Ta". Chúa Giêsu nói về các luật sĩ và biệt phái: "Họ buộc những gánh nặng chất lên vai người ta còn mình thì không muốn đụng ngón tay vào" (Mt 23,4), vì tôn giáo chính thống Do thái là một gánh nặng. Đối với người Do thái, tôn giáo bao gồm những luật lệ, những qui tắc bất tận họ phải tuân thủ, chúng chỉ đạo mọi hành động của họ, lúc nào họ cũng nghe tiếng thôi thúc "ngươi chớ..... ngươi chớ.....".
Ngay các thầy thông luật cũng nhận thấy điều này. Câu chuyện minh họa sau đây cho thấy những đòi hỏi của luật pháp luôn luôn ràng buộc, dồn ép nặng nề, và không thể thực hiện được. Korak kể: Người láng giềng tôi là một bà góa, bà có hai con gái và một miếng ruộng. Khi bà bắt đầu cày, thì Môsê (ý nói luật Môsê) bảo: ngươi không được cày bò và lừa chung với nhau. Khi bà bắt đầu gieo giống thì ông phán: ngươi không được gieo trong ruộng ngươi hai thứ giống. Khi bà bắt đầu thu hoạch ông bảo: ngươi không được mót lúa sót hay lấy lại những gì ngươi bỏ quên (TL 24,19), cũng đừng gặt đến cuối ruộng (Lv 19,9). Bà bắt đầu đập lúa thì ông bảo: hãy giao cho ta của lễ phần mười thứ nhất và phần mười thứ hai, bà thuận và dâng hết cho ông. Sau đó người đàn bà đáng thương kia làm gì? Bà bán ruộng, mua hai con chiên để hớt lông may áo và để nó đẻ con kiếm lợi. Khi chiên sinh sản thì Aaron bèn đến (đòi hỏi của thầy tế lễ) nói: hãy dâng cho ta chiên con đầu lòng của ngươi, bà chấp nhận đòi hỏi đó và trao nó cho ông. Đến kỳ xén lông chiên, bà hớt lông và Aaron lại đến: hãy trao cho ta lông chiên hớt đầu tiên của ngươi (TL 18,4). Người đàn bà nghĩ thầm rằng: ta không thể chịu nổi ông này, ta sẽ làm thịt chiên mà ăn. Aaron lại đến bảo: hãy giao cho ta cái bả vai, cái hàm và cái bụng (TL18,3). Người đàn bà nói: ngay đến lúc tôi làm thịt nó ông cũng không để tôi yên, thôi tôi sẽ dâng nó luôn. Aaron bèn nói: trong trường hợp đó, nó sẽ hoàn toàn thuộc về ta (Ds 18,4). Ông liền mang nó đi bỏ lại bà góa đang khóc và hai đứa con gái.
Câu truyện kể trên là một thí dụ về những đòi hỏi triền miên mà Luật Pháp đặt trên con người trong mỗi sinh hoạt và hành động của đời sống. những đòi hỏi của Luật Pháp thật là một gánh nặng .
Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy mang lấy ách của Ngài. Người Do thái dùng thành ngữ "cái ách" để chỉ sự thuận phục, phó thác. Họ nói đến cái ách của Luật Pháp, của điều răn, cái ách của Nước Trời, của Chúa Trời. Nhưng Chúa Giêsu dùng những chữ đó trong lời kêu gọi của Ngài với một ý nghĩa rất gần gũi với chúng ta hơn. Ngài nói: "ách Ta êm ái" tiếng dễ chịu, êm ái trong tiếng Hi lạp có nghĩa là vừa vặn, sít sao. Ở xứ Palestine người ta làm ách bằng gỗ cho bò cái. Con bò được mang đến cho người ta đo kích thước, sau đó người ta bào cho cái ách thật nhẵn và đem bò đến để thử. Người ta điều chỉnh cái ách thật cẩn thận sao cho thật vừa để khỏi làm trầy cổ con thú kiên nhẫn.
Có một truyền thống cho rằng Chúa Giêsu là người thợ làm ách giỏi nhất miền Galilê . Ở khắp xứ người ta tìm đến tiệm thợ mộc của Ngài để mua những cái ách tốt nhất và khéo nhất. Thời ấy cũng như bây giờ các cửa tiệm đều treo bảng hiệu trên cửa, và có người bảo rằng bảng hiệu treo trên cửa tiệm mộc của người thợ mộc Nazareth chắc đã ghi là "ách của tôi rất vừa". Có thể ở đây Chúa Giêsu đang dùng lại cái hình ảnh tiệm thợ mộc ở Nazareth, nơi Ngài đã làm việc trong những năm tháng thầm lặng của Ngài.
Chúa Giêsu phán: "ách Ta rất vừa" Ngài muốn nói rằng: "sự sống Ta ban cho các ngươi để sống không phải là một gánh nặng làm trầy trụa các ngươi; đời sống các ngươi, công tác các ngươi đều được làm sẵn kích thước vừa với các ngươi!" Bất cứ điều gì Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta đều đã được làm sẵn để trở nên thích hợp với nhu cầu và khả năng của chúng ta. Chúa có công tác cho mỗi người chúng ta, tất cả đã được đo sẵn vừa vặn với chúng ta.
Chúa Giêsu phán: "gánh Ta nhẹ nhàng". Có một rabi nói: "ách ta trở thành bài ca của ta". Điều đó không có nghĩa là gánh nặng dễ mang, nhưng gánh nặng được đặt trên chúng ta trong tình yêu, được mang trong tình yêu, và tình yêu khiến gánh nặng nhất trở nên nhẹ nhàng. Khi chúng ta nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa , khi chúng ta biết gánh nặng của chúng ta là yêu Chúa và yêu người thì gánh nặng đó trở thành một bài ca. Có một câu truyện xưa kể về một người gặp một cậu bé đang cõng một em nhỏ hơn bị què, ông ta hỏi: "Em phải cõng một gánh quá nặng phải không? Cậu bé trả lời: nó đâu phải là gánh nặng, nó là đứa em nhỏ của cháu mà". Gánh nặng được ban cho trong tình yêu, và được mang trong tình yêu thì luôn luôn nhẹ nhàng.
---------------------------------
Mt 14,22-33
Trong cơn băo, các tông đồ đã trải qua một cơn hoảng sợ dư dội. Nhưng cơn băo qua đi, họ lại: TN 14-A36
Trong cơn băo, các tông đồ đã trải qua một cơn hoảng sợ dư dội. Nhưng cơn băo qua đi, họ lại tìm thấy tin tưởng và bình an. Vậy điều gì làm họ hoảng sợ ? Và điều gì đã đem lại cho họ tin tưởng và bình an ?
VÌ SAO HỌ HOẢNG SỢ ?
Trước hết họ bị cơn bão biển để dọa. Đang đêm. Thuyền đang trôi trên mặt biển. Cơn giông bỗng nổi lên. Gió mạnh thổi ngược. Sóng đánh chập chờn. Các tông đồ hoảng sợ. Phêrô đang đại trên mặt nước bỗng chìm dưới sóng.
Tuy nhiên cơn bão không phải là nguyên nhân chính gây hoảng sợ. Nó chỉ là mối nguy để dọa từ bên ngoài. Nó chỉ làm sợ hãi thêm chứ không phải điều gây thảm kịch. Nguyên nhân chính gây hoảng sợ nằm trong lòng các tông đồ. Họ hoảng sợ vì đã không nhận ra Chúa đang đến với họ. Chúa thật quen thuộc vì luôn chung sống với họ. Họ mới gặp Ngài ban nãy. Nay Ngài lướt sóng trong đêm tìm đến với họ thì họ lại nghĩ là ma. Còn Phêrô, sau khi nhận ra Chúa rồi thì lại bắt đầu nghi ngờ quyền năng của Đấng mình đã tin và theo. Bởi thế chân không còn lướt nhẹ trên sóng, nhưng lòng hoài nghi đã dìm ông xuống nước.
NHỜ ĐÂU HỌ THOÁT NẠN VÀ ĐƯỢC BÌNH AN ?
Nhờ hai cuộc khám phá liên tiếp.
Trước hết nhờ họ đã nhận ra sự hiện diện của Chúa. Sự hiện diện của Ngài làm họ an tâm ngay giữa cơn bão táp: Sóng gió còn đó, nhưng vì có Chúa đang ở giữa, họ thấy ngay rằng sóng gió không còn là mối đe dọa đáng sợ nữa. Hơn nữa Chúa còn lên tiếng trấn an: “Thầy dây, dừng sợ.
Đây thật là một bài học rất quý giá : Hễ lòng mà vững thì dầu nghịch cảnh bên ngoài có dữ dội đến đâu cũng không đáng sợ.
Thứ đến sau khi đã khám phá ra hiện diện của Chúa hạọ đã nhận ra quyền năng của Ngài. Chắc chắn các tông đồ vẫn biết Thầy mình quyền năng, nhưng họ chưa có dịp chứng kiến cụ thế hoặc đã có dịp chứng kiến rồi nhưng lúc này không kịp nhớ tới nên mới hoảng sợ. Lúc này giữa cơn nguy khốn họ nhận thấy mình thật yếu đuối, nhỏ bé. Ý thức về thân phận mong manh của mình giúp họ dễ nhận ra quyền năng của Chúa và lòng tin tưởng trong họ được khơi lên.
Quả thật không phải đợi lâu, họ đã được chứng kiến ngay biểu hiện của quyền năng đó. Sóng gió đang gào thét bỗng im lặng. Phêrô thôi không còn chết chìm. Mọi người trên thuyền được bình an vô sự.
THÁI ĐỘ ĐỨC TIN
Câu chuyện các tông đồ gặp bão giúp người tín hữu hiểu thêm về đức tin và về những biến động của đức tin.
Theo nghĩa trọn vẹn của nó, đức tin là một thái độ trước cuộc sống. Tin không chỉ thuộc lãnh vực lý thuyết, không phải chỉ là chấp nhận một số chân lý được ghi chép trong sách vở. Đức tin loại đó là thứ đức tin khô héo, đức tin chết, giống như một con cá khô. Thực ra tin là nhận ra hiện diện của Chúa trong đời mình, trước mỗi biến cố của cuộc sống, nhận Chúa làm “điểm tựa" vững chắc cho mình, làm cái trụ cố định, vững vàng, bất di bất dịch. . . trong lúc mọi cái quanh mình đều tròng trành, trôi dạt, bấp bênh. . . vì thế nhất quyết bám chặt vào Ngài.
Nhận ra Chúa trong mỗi việc, trong mọi sự là có đức tin. Và đức tin đó nhất định có thể xua đuổi mọi sợ hãi, đem lại bình an.
KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN
Khủng hoảng đức tin là điều không thế tránh được. Đó là chuyện bình thường, cũng bình thường như đi biển mà gặp bão. Có thể coi khủng hoảng đức tin là một phần hầu như không thế thiếu của đời sống đức tin. Biến động là dấu hiệu của sự sống. Khi chi thế con người còn cảm thấy đau là dấu chưa bị tê lạiệt. Cũng vậy đức tin mà bị khủng hoảng có nghĩa là đức tin chưa chết.
Khủng hoảng đức tin chẳng những là bình thường mà còn cần thiết. Đây là dịp tôi luyện để lớn lên và là điều kiện để trưởng thành. Bằng chứng là sau cơn bão lòng tin của các tông đồ đã lớn hẳn lên. Họ đã tuyên xưng với lòng thán phục :
“Thật, Thầy là Con Thiên Chúa".
Vì thế người tín hữu phải giữ mình thật bình tĩnh khi đức tin gặp khó khăn, chịu thử thách.
SÓNG GIÓ BÊN NGOÀI KHÔNG ĐÁNG SỢ
Sóng gió bên ngoài thật ra cũng đáng sợ, nhưng không đáng sợ nhất. Điều đáng sợ nhất là sự thay đổi trong chính lòng mình. Chỉ đáng sợ khi lòng mình trở nên khô cứng, tâm trí khép lại, không còn nhậy cảm với ánh sáng và với tác động của Chúa. Lúc đó thì nguy thật.
Nếu lòng mình còn thực sự gắn bó với Chúa thì các khó khăn bên ngoài chỉ có ảnh hưởng tương đối, và trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn có thể sống đức tin được. Sự vững vàng của đức tin về mặt chủ quan tùy thuộc ở lòng mình, cũng như khi trong người mình khỏe khoắn thì thời tiết xấu cũng khó có thể gây cảm cúm. Bởi thế trong đời sống đức tin người tín hữu đừng chỉ nhìn vào những khó khăn, thử thách bên ngoài để mà lo sợ, than van. . . nhưng phải giữ vững niềm xác tín bên trong, khơi ngọn lửa thật sáng, thật nóng trong chính lòng mình.
---------------------------------
Nếu phải kể ra những điều chúng ta cần học hỏi nơi Chúa Giêsu, thì hẳn là nhiều lắm. Tuy:TN 14-A37
Nếu phải kể ra những điều chúng ta cần học hỏi nơi Chúa Giêsu, thì hẳn là nhiều lắm. Tuy nhiên, cái khó là phải bắt đầu từ đâu? May thay chính Chúa Giêsu đã chỉ rõ cho chúng ta bài học đầu tiên và cần thiết nhất, đó là lòng khiêm tốn, đức từ bi và nhân hậu. Chính Người đã nói: Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
Khi xây một căn nhà, thì trước hết chúng ta phải làm nền, phải xuống móng. Nền móng càng sâu, càng chắc thì ngôi nhà càng có thể xây lên cao. Nền móng đâu có phải được làm bằng những vật liệu quí giá và đẹp đẽ, nó chỉ là đá cát, đôi khi cả xà bần, gạch vụn được nện sâu và nện thật chắc. Nó là cái phải không phải để khoe khoang, nhưng luôn bị chôn vùi, bị che đậy và bị người ta chà đạp lên trên. Quả thế, khi chúng ta bước vào bên trong một tòa lâu đài, một hoàng cung hay một ngôi nhà tầm thường nào cũng vậy, chẳng ai để ý đến cái nền, chẳng ai thắc mắ xem nó được làm bằng gì, và chứa đựng những cái chi ở bên trong, nhưng chúng ta sẽ dẫm bước lên nó mà đi.
Con người xét về phương diện cá nhân cũng như tập thể, cũng là một công trình xây dựng, mà nền móng phải là lòng khiêm tốn. Không có nền móng này, không sớm thì muộn chúng ta cũng sẽ bị sụp đổ, bởi vì ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xống, thì sẽ được nâng lên. Hơn thế nữa, trong lời kinh Ngợi Khen, Mẹ Maria đã xác quyết: Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhau.
Lão Tử ngày xưa cũng đã nói: Giàu sang mà kiêu căng là tự rước lấy họa vào thân. Kẻ tự cao tự đại giống như kẻ nhón gót chân để cao hơn người, xoạc chân ra để lớn hơn người. Như vậy sẽ chẳng thể đứng vững và tiến bước. Trái lại bậc thánh nhân cho đến ngày cùng, vẫn không cho mình là lớn, nên mới thành được việc to.
Lịch sử cho chúng ta đầy rẫy những mẫu gương về những cá nhân cũng những tập thể, đặc biệt là những đế quốc hùng mạnh, nhưng kiêu căng, đã bị sụp đổ như thế nào. Những con người như Néron, Napoléon, Hitler…Nhưng đế quốc như Rôma, Mông Cổ…ngày xưa đã thảm bại ra sao, thì ai cũng đều biết. Sự tự cao tự đại thường đi đôi với lòng tạn bạo và bất nhân. Bởi vì kẻ kiêu căng thường bắt mọi người phải khuất phục mình, làm nô lệ cho mình và không ngần ngại dùng bạo lực để đàn áp, chế ngự và tiêu diệt những ai không chịu khuất phục.
Thế nhưng, Chúa Giêsu thì khác. Người đã dạy chúng ta: Ai muốn làm đầu, thì phải trở nên rốt hết và hầu hạ mọi người. Chính Người, trong suốt cả cuộc đời, đã sống khiêm nhu và trong giờ từ biệt các môn đệ, để ra đi chịu chết, Người đã không ngần ngại quì xuống rửa chân cho các ông, để nêu gương khiêm nhường, dồng thời kèm theo đó là bài học bác ái yêu thương, như lời Người đã phán: Con người đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Xưa nay trong Hội Thánh vãn có thói quen đề cao đức khiêm nhường. Nhưng đức khiêm nhường ấy thường được ghép đôi với sự vâng phục. Như vậy xem ra khiêm nhường chỉ là nhân đức của kẻ bề dưới. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã liên kết đức khiêm nhương với lòng bác ái và tinh thần phục vụ. Người coi đó là đức tính của người lãnh đạo, của bậc bề trên. Bởi vì chỉ kẻ khiêm nhường mới có khả năng yêu thương thực sự. Và chỉ kẻ yêu thương thực sự mới thích phục vụ người khác.
Như thế, khiêm nhương không phải là thái độ của kẻ hèn nhát, sẵn sàng chịu khuất phục, nhưng là đức tính của bậc anh hùng, của người đã làm chủ được bản thân mình.
---------------------------------
Chưa bao giờ Chúa Giêsu nói về Cha Ngài một cách long trọng như vậy: “Lạy Cha là Chúa:TN 14-A38
Chưa bao giờ Chúa Giêsu nói về Cha Ngài một cách long trọng như vậy: “Lạy Cha là Chúa trời đất”. Đây là một trong những lúc mãnh liệt nhất của Tin Mừng. Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài biết rõ vị Chúa tể trời đất đến nỗi chúng ta ngạc nhiên về những ánh sáng đầu tiên của mầu nhiệm khôn lường này: nơi Thiên Chuá duy nhất có những động thái tình yêu, những mối “quan hệ” mà chúng ta trình bày bằng những tiếng: Cha, Con và Thánh Thần. Tôi nghĩ rằng phải dành ra một lúc để chiêm ngắm và cảm tạ vì những ánh sáng đã không thể đến với chúng ta được: “Con chúc tụng Ngài, lạy Cha, Đấng mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Có lúc chúng ta nghĩ rằng chúng ta không là gì cả. Điều này không đúng. Thiên Chúa không yêu thương cái không là gì cả. Chúng ta là một cái gì đó và thậm chí vĩ đại bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Đến sống cuộc sống của chúng ta và biết rõ cuộc sống đó, nhất là cuộc sống của những người bé mọn, Ngài nói với chúng ta: “Hãy đến cùng Ta, hỡi tất cả những ai mỏi mệt và gánh nặng”.
Gánh nặng nào? Gánh nặng của cuộc đời hết sức khó khăn và đôi khi người ta còn chất thêm luật lệ tôn giáo quá đáng hay được chỉ dẫn không đúng. Thế là người ta cảm thấy sợ hãi không thể tuân giữ các giới răn, không bao giờ có thể làm vui lòng Chúa. Điều đó lấy mất tự do nội tâm và niềm vui của chúng ta , tước mất Thiên Chúa khỏi chúng ta. Nếu Ngài là Đấng làm cuộc sống chúng ta nặng nề, thế thì Ngài đâu phải là Thiên Chúa Tình yêu?
Chúa Giêsu đã mạnh mẽ tố giác những kẻ làm gương xấu cho những người bé mọn: “Các luật sĩ và Pharisêu nói mà không làm: họ đặt những gánh nặng lên vai những người khác trong khi họ không muốn đụng ngón tay vào: *Mt 23,3-4).
Có lẽ chúng ta đã bị chấn thương do những kẻ ra sức làm cho chúng ta trở thành những người luôn luôn có mặc cảm tội lỗi. Thật rất khó mà thoát ra được một sự giáo dục vụng về. Tôi chỉ biết có mỗi một cách là không ngừng đến với Chúa Giêsu, chiêm ngắm Ngài, lắng nghe Ngài, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài là Đấng đã nói: “Ta, Ta có thể cho người nghỉ ngơi an bình cùng với Chúa”.
Đó không phải là một an bình với một Thiên Chúa giả hiệu là Đấng luôn luôn bằng lòng với chúng ta theo giá rẻ mạt, Chúa Giêsu nói: “Hãy mang lấy ách của Ta”. Đây thật là một cái ách bởi vì đây là một điều luật. Không ai có thể bỏ qua điều luật, và luật của Chúa Giêsu, tức luật tình yêu, cho dầu bó buộc nhất, vẫn là một sự đòi hỏi vô cùng. Nhưng đây là một sự nghịch lý được Chúa Giêsu khẳng định nếu không thì chúng ta khó mà chấp nhận: “Ách ta êm ái, gánh ta nhẹ nhàng”. Luật của Chúa Giêsu duy trì chúng ta trong sự cố gắng nhưng để cho chúng ta được an bình. Nếu một gánh nặng làm tê liệt chúng ta và làm cho chúng ta buồn khổ thì chắc hẳn đó không phải là gánh nặng của Chúa Giêsu.
---------------------------------
Ba chương 11, 12 và 13 của thánh Matthêu xoay chung quanh các chủ đề ‘dấu kín’ và ‘tỏ bày’:TN 14-A39
Ba chương 11, 12 và 13 của thánh Matthêu xoay chung quanh các chủ đề ‘dấu kín’ và ‘tỏ bày’. Chúa tỏ bày một giáo huấn và tự tỏ bày chính mình. Giáo huấn không phải là hoàn toàn mới lạ vì dân Do thái đã được Thiên Chúa dậy dỗ nhiều. Nhưng Đức Kitô mở những viễn ảnh mới cho những chân lý cũ và có được điều ấy là vì Ngài liên kết những chân lý ấy với con người của Ngài. Mục đích của Ngài là hướng dẫn các tâm trí khám ra bản tính con Thiên Chúa của Ngài. Vì vậy ở đây chân lý không phải là sự khám phá của trí khôn sau những cố gắng học hỏi cho bằng là một cuộc gặp gỡ của toàn thể con người đáp lại một sự sẵn sàng thâm sâu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài vì Chân Lý được tỏ ra như một cuộc gặp gỡ cho những ai có tâm trí không chất chứa và tấm lòng sẵn sàng đón nhận. Đáng lẽ những kẻ đầu tiên đón nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô của Thiên Chúa phải là các vị tiến sĩ luật pháp, vì Lề Luật và các tiên tri loan báo Đức Kitô. Rủi thay, cái học tinh thần quá họ chất chứa nặng nề những lý luận tinh tế, những ý niệm trí thức, những tranh luận diễn giải. Mọi thứ ấy sinh ra tri thức tự mãn và bởi nó sinh ra kiêu ngạo. Vô tình họ đã dựng nên trước tâm trí một bức màn chắn. Trên đó họ thích thú nhìn ngắm hình dáng chính mình và do đó không còn có thể nhận ra lối Chúa đi qua, ở bên kia bức màn. Ý thích của Chúa Cha không phải là muốn các người khôn ngoan và tài khéo dựng nên một màn chắn trước họ, điều này thật tai hại, nhưng là muốn cho các người hèn kém và nhỏ bé có khả năng nhận diện Đấng yêu mến và giải thoát họ.
1) Cho người ‘nhỏ bé’ Chúa ban khả năng nhận biết Chúa Cha qua Chúa Giêsu. Qua các lời nói, việc làm và con người Chúa Giêsu, họ thấy được rằng giữa Đấng tỏ lộ trước mắt họ và Thiên Chúa có một tương quan đặc biệt tạo bằng gắn bó mật thiết và sanh thành như Cha với Con. Tư tưởng Do thái không quan niệm Thiên Chúa như là Cha, nhưng chỉ theo nghĩa Thiên Chúa tốt lành, chăm sóc và tạo thành. Quan niệm Thiên Chúa là Cha đến mức độ con người mang tên Giêsu lại là con đồng bản tính với Ngài, quả thật quá đáng và phạm thượng. Thực ra, mặc khải một việc như thế vượt quá những khả năng nhân loại, đó là một ơn Thiên Chúa ban. Những kẻ được lãnh nhận ơn ấy là các tâm trí hèn kém, đơn giản, cởi mở, ‘nhỏ bé’.
2) Đức Giêsu mà Chúa Cha dùng làm trung gian để tự biểu lộ, Người là ai? Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Chúa Giêsu sống tận cùng mầu nhiệm nhập thể. Đến chia sẻ thân phận làm người. Người muốn xuống tận kinh nghiệm nhân loại của kẻ hèn kém, nhỏ bé nhất và kẻ ấy phải có được một lối đi đến Người. Hơn nữa, vì những kẻ sẵn sàng đón nhận Chân lý, nhất là những tâm trí giản đơn và tình nguyện, vì những kẻ dễ dàng cảm nhận nhu cầu đến Chúa Cha nhiều nhất (ngay cả qua những thái độ phản kháng tiêu cực) là những kẻ nhỏ bé và nghèo hèn nhất, cho nên Chúa Giêsu thích mặc khải Chúa Cha cho những kẻ nhỏ bé và nghèo hèn.
---------------------------------
Mọi tôn giáo trên thế giới đều đòi hỏi những tín hữu phải tự hạ trước vị thần linh của họ: TN 14-A40
Mọi tôn giáo trên thế giới đều đòi hỏi những tín hữu phải tự hạ trước vị thần linh của họ, nhưng tôn giáo của chúng ta là tôn giáo duy nhất mà Con Thiên Chúa đã tự hạ trước dân của Người.
Chúa Cha đã sống với Chúa Con trong tình âu yếm của Chúa Thánh Thần tự đời đời. Đời sống của Thiên Chúa là một đời sống vinh quang và hoàn hảo, nhưng đến khi thời gian viên mãn Thiên Chúa đã sai Con của Người làm Đấng Cứu Độ chúng ta, làm con người giống như chúng ta mọi đàng ngoại từ tội lỗi. Một lời kinh của Giáo hội đã dâng lên Chúa Giêsu: “Khi Người trở nên con người để giải thoát chúng ta, Người đã không khinh chê lòng dạ của Đức Nữ Trinh” (Te Deum). Sự Nhập Thể là một hành động cao cả của sự khiêm nhượng.
Một số người nói rằng nếu chúng ta có thể thấy Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể với tất cả sự rực rỡ vinh quang thần tính của Người, chúng ta sẽ sấp mình thờ lạy trong sự sợ hãi, không dám đưa mắt nhìn lên vẻ mặt huy hoàng của Người. Nhưng đó không phải là mối quan hệ mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có với Người. Chúa Giêsu hiến tặng cho chúng ta một sự mời gọi nồng ấm, hãy sống thân mật với Người trong tin tưởng và yêu mến mà không có sợ hãi. Người đã không thể nói thẳng cách rõ ràng hơn. Người nói: “Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Kể từ khi chúng ta không còn sợ hãi Chúa Giêsu, nhưng là thân mật với Người. Chúng ta đừng bao giờ ngần ngại mang đến cho Người những gánh nặng của chúng ta để Người nâng đỡ cho. Chúa Giêsu đã nói về ách của Người. Ách là một cái cày bằng gỗ nặng, nó được đóng để đặt lên cổ của đôi bò, để giữ chúng lại và để chúng kéo xe. Có lẽ khi còn nhỏ, Chúa Giêsu đã thấy thánh Giuse đóng những cái ách như vậy và đã biết nó nặng như thế nào rồi. Người quyết định sẽ dạy cho mọi người biết tôn giáo của Người không giống như cái ách nặng nề bằng gỗ đó. Đó là lý do vì sao Người phán: “Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”.
Tiên tri Zacaria, được linh ứng bởi Thánh Thần đã thấy một hình ảnh Đấng Mêsia ngự đến. Ông tuyên bố với toàn dân: “Hãy nhìn xem Vua ngươi đang đến”. Và vụ Vua này không đến với hoàng bào vương giả và không cỡi trên một con ngựa chiến. Đúng hơn Người hiền lành, cỡi trên một con lừa non nớt, con lừa con của lừa mẹ. Người đã đến không phải cỡi trên mình ngựa như một vị vua oai nghi tiến vào cuộc chiến nhưng trên một con vật chậm chạp mà người nông dân dùng để dọn đất.
Chúa Giêsu đã làm viên mãn hình ảnh này bằng việc Người tiến vào thành phố Giêrusalem vào Chúa Nhật Lễ Lá. Nơi đó, Người đã trải qua hành vi lớn lao nhất của sự khiêm nhượng: ấy là cuộc thương khó và cái chết của Người trên thánh giá để cứu chuộc chúng ta. Ý tưởng về một Thiên Chúa khiêm hạ như vậy khiến cho không một trí tưởng tượng của con người nào có thể nghĩ tới. Chỉ khi Thiên Chúa mạc khải, tư tưởng chúng ta mới có thể nghĩ tới và tình yêu của người dành cho chúng ta trở thành một thực tại trong đời sống của chúng ta.
Trong mỗi thánh lễ chúng ta lắng nghe trong lòng chúng ta lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai vất vả và gánh nặng, Ta sẽ đến bổ sức cho các ngươi”. Khi đi đến với Chúa Giêsu là chúng ta xếp hàng đi hướng về vị chủ tế để rước lễ, vị chủ tế hành sự như Chúa Giêsu, giới thiệu với chúng ta Mình và Máu Thánh của Người, làm của nuôi thiêng liêng bổ sức thần linh cho chúng ta. Chúng ta đến với Chúa Giêsu bởi vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Trong Người, linh hồn của chúng ta tìm thấy sự nghỉ ngơi vì ách của Người thì êm ái và gánh của Người thì nhẹ nhàng.
---------------------------------
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Thuở ấy". Chi tiết xác định này có một giá trị thần học hơn là thời gian ; nó nối kết câu 25:TN 14-A41
“Thuở ấy". Chi tiết xác định này có một giá trị thần học hơn là thời gian ; nó nối kết câu 25 với cc. 20-24: dù quê hương của Chúa Giêsu (Capharnaum, c.23) có từ khước Người chăng nữa, thì những kẻ bé mọn vẫn hiệp lòng với lương dân (Tyr, Siđon c.21) để đón tiếp Người. Các thành, trung tâm của các trường giáo sĩ và của văn hóa tôn giáo đã chẳng biết Đấng mà những kẻ "đơn hèn" nhận ra vậy.
“Con xin ngợi khen Cha": Chúa Giêsu đội ơn hay xưng tụng Cha Người vì đã gặp thất bại nơi những kẻ khôn ngoan thông thái; không phải Người ưa thích đám hèn dân hơn hạng ưu tú vì tính khí hay là vì thiện cảm tự nhiên đâu; song Người nhận ra rằng thất bại ấy, và sự thành công đi kèm theo, đều tương ứng với chính bản chất của công cuộc Người thực hiện để phục vụ nhân loại là cứu kẻ nghèo, hạng người bị giới quyền cao khinh bỏ.
“Lạy Cha": Ở đây, Matthêu dùng hô cách (vocatif) patôr là hình thức đúng của tiếng kêu. Nhưng trong câu tiếp, cũng tiếng kêu ấy của Chúa Giêsu (Lạy Cha!) lại được diễn tả bằng chủ cách (nominatif) (ho patôr) là hình thức sai trong Hy ngữ. Việc chuyển từ hô cách sang chủ cách cho thấy từ ngữ Aram Chúa Giêsu dùng hẳn là Abba, tiếng mà vào thời Người, thường được sử dụng khi gọi (hô cách) cũng như khi nói về người cha (Hy ngữ ho patôr). Điều này thánh Phaolô đã xác nhận lúc bảo Kitô hữu cầu khẩn Thiên Chúa bằng mấy tiếng “Abba, ho patôr" (Rm 8,15 và Gl 4, 6). Thế mà, chữ Abba là một tiếng kêu thân mật dành cho việc xưng hô trong gia đình. Không bao giờ một người Do thái dám gọi Thiên Chúa bằng Abba tương đương với chữ ba ơi trong việt ngữ, papa trong Pháp ngữ. Người ta chẳng tìm thấy một lời khẩn cầu nào với Thiên Chúa bằng chữ Abba trong mọi kinh nguyện Do thái của 10 thế kỷ đầu trước Chúa Kitô, cũng như trong các kinh nguyện phụng vụ hoặc kinh nguyện riêng tư cả. Thành ra ngôn ngữ của Chúa Giêsu ở đây có một cái gì đó mới mẻ, độc đáo, lạ lùng: Người dám nói với Thiên Chúa như một đứa bé nói với cha nó cách đơn sơ, thân tình, không chút sợ hãi. Tiếng này mặc khải chính nền tảng của mối thông hiệp giữa Chúa Giêsu với Thiên Chúa vậy.
“Chúa trời đất": Đây là nơi duy nhất trong Tin Mừng mà chúng ta gặp tiếng xưng hô long trọng này. Công thức thật đặc biệt quan trọng ở đây vì cho phép ta thực sự lượng giá được tầm mức và ý nghĩa của những lời sắp nói.
"Đã che dấu ": Cặp động từ "che dấu-mặc khải" nổi bật lên trên toàn bộ các chương 11-13 và là chìa khóa giúp hiểu được chúng. Không phải loài người, cũng chẳng phải Chúa Giêsu, song chính Thiên Chúa là chủ từ của động từ ấy ; câu 26 sẽ nhấn mạnh điều đó; sự cứng lòng và niềm tin mà Chúa Giêsu gặp không phải là những tai nạn, cũng chẳng phải là những kết quả tích cực hay tiêu cực, của các nguồn lực riêng của Người đâu ; chính quyền bính và ý muốn Thiên Chúa điều khiển tất cả hoạt động của Người.
“Điều ấy": Không phải là những phương diện riêng biệt đặc biệt cao sâu của sứ vụ Chúa Giêsu, song là ý nghĩa tổng quát của toàn thể công trình mặc khải của Người. Các tiếng “Khôn ngoan" và “thông thái" cùng chỉ hạng học thức, chuyên môn, có thẩm quyền trong lãnh vực tôn giáo (x. Is 29, 14 và 1Cr 1, 19) ; trong lúc tiếng bé mọn" chỉ những “người nghèo trong tinh thần” của Bát phúc (Tv 19, 8 ; 116, 6), chỉ đám cùng dân là những người "tội lỗi" mà Biệt phái bao giờ cũng khinh bỉ; lý tưởng của những kẻ sau này ngày càng thoái hóa sự hiểu biết có tính cách vật chất và thuần lý về Lề Luật các truyền thống giáo sĩ. Như vậy ở đây Chúa Giêsu vừa đối lập với ngộ đạo kiểu quý phái của Qumrân vừa sung khắc với các tôn giáo huyền bí của các nhóm người Hy lạp.
“Không ai biết được Cha trừ ra Con": Đối lại với tri thức thuần lý của các giáo sĩ, Chúa Giêsu đưa ra một tri thức diện hiện sinh, làm bằng sự thân mật và tình yêu. Ý chí, tình yêu, cảm giác, nghĩa là tất cả mọi hình thức của trí tuệ mến yêu (inteuigence aimnte) đều tham dự vào tri thức đó. Đàng khác, Kinh Thánh đã chẳng gọi cuộc gặp gỡ sâu xa nhất giữa hai vợ chồng trong tình yêu là sự "hiểu biết" đó sao (St 17, 25...)? Ở đây biết và yêu chỉ là một chuyện. Đây cũng là nơi duy nhất trong các trình thuật Nhất lãm phát biểu một cách rõ ràng và không chối cãi được mối tử hệ thần linh của Đấng Mê-si-a.
"Hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng". Cũng một tiếng Hy lạp có nghĩa "gánh nặng được dùng chỗ này và Mt 23, 4 nơi Chúa Giêsu quở trách Biệt phái đã đặt những “gánh nặng nề" lên vai người khác. Như vậy ở đây Chúa Giêsu chẳng nghe lời các thử thách và khó khăn của đời sống, sức nặng của tội lỗi v v nhưng đến gánh nặng không thể nào chịu đựng của tinh thần vụ luật giáo sĩ. Điều này được xác nhận trong các câu tiếp theo: "mang lấy ách" là một thành ngữ thông thường các giáo sĩ dùng để chỉ ách của nước Thiên Chúa, của Lề luật, của trời, của các huấn lệnh v.v... xem chú thích BJ). "Ta sẽ nâng đỡ các con": Hy ngữ: anapausô - dịch sát chữ là: "Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức".
"Hãy mang lấy ách của Ta": Chúa Giêsu không đến để miễn cho con người mọi bó buộc luân lý; Người thay thế các yêu sách Lề luật Do thái bằng những đòi hỏi của Người là những đòi hỏi, như đã thấy trong Diễn từ trên núi, cũng có tính cách nghiêm chỉnh, và còn triệt để hơn các đòi hỏi của luật Môisen. Chỉ có điều là vị Tôn sư đề nghị ra chúng thì hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, khác xa với các giáo sĩ. Và chẳng những Người ban cho môn đồ sức mạnh để mang ách đó trong vui tươi song còn làm gương cho họ bằng cách sống điều mình đòi hỏi: "Lịnh truyền của Người không nặng nề" (1Ga 5, 3) và "chỉ tóm lại nơi một lời này: Ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình ngươi" (Rm 13, 9).
"Ta hiền lành": Nơi đây Mt dùng chữ praus (hiền lành) như ơ chân phúc thứ hai. Chúa Giêsu là kiểu mẫu của môn đồ vậy.
“Ach Ta thì êm ái và gánh Ta lại nhẹ nhàng": Điều này chẳng có nghĩa là Chúa Giêsu đòi hỏi ít thua các giáo sĩ đâu. Người đòi hỏi nhiều hơn nhưng cách khác. Tình yêu làm mọi gánh hoá ra nhẹ nhàng. "Nơi nào có tình yêu, nơi ấy chẳng có gian khổ" thánh Augustin đã nói như thế.
KẾT LUẬN
Học theo đức Khôn ngoan chân thật của Nước Trời là nên nghèo hèn với Chúa Giêsu. Cái thường gây vấp phạm, là cách thức Chúa mặc khải chính mình Người: quyền này tỏ trong sự yếu đuối!
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Giống hạng người "khôn ngoan, thông thái" mà Chúa Giêsu nhắm đến là những kẻ dùng trí tuệ riêng để xây cho mình một Thượng đế quan, một vũ trụ quan hoàn toàn đóng kín, cùng nhất định không muốn thay đổi chúng để học thêm điều gì mới lạ. Họ tưởng mình đã biết hết về Thiên Chúa, đã nắm trọn học thuyết đích thật về Ngài. Nhưng người ta có bao giờ mà nắm được chân lý, chính Chân lý luôn nắm chúng ta, và chỉ cần chúng ta để cho Ngài nắm lấy. Cơn cám dỗ ngàn đời của tâm trí con người, khởi từ câu chuyện biểu tượng của Adam và Eva, bao giờ cũng vẫn là một: Đó là tin rằng "mắt chúng ta sẽ mở ra" và "chúng ta sẽ nên giống Thiên Chúa" bằng cách ăn trái cây hiểu biết, bằng cách vận dụng trí tuệ của mình, thay vì chấp nhận rằng chính trong khi tự biến đi trong tình yêu Thiên Chúa mà chúng ta trở nên giống Ngài nhờ ân sủng.
2. Đức tin chúng ta đừng bao giờ biến thành một gánh nặng không thể vác nổi, một gánh nặng làm tróc thịt trầy da. Nếu nó trở thành một gánh nặng, hãy tin chắc rằng nó không chính thực đâu. Tình yêu chỉ biết mang lại tự do, ánh sáng và sự nâng đỡ cho những tâm hồn gặp gỡ được nó.
3. Trong đoạn này, Chúa Giêsu cho chúng ta một tấm gương cầu nguyện. Lời cầu nguyện ấy bắt đầu bằng một lời tạ ơn nói lên lòng chấp nhận thánh ý Chúa Cha và biết ơn Ngài vì đã cho gặp thử thách của thất bại. Nó tiếp tục bằng cách đi lên đến tận nguồn của lịch sử cứu rỗi, tức là mầu nhiệm Thiên Chúa trong chính mình Ngài. Sau cùng nó kết thúc bằng cách hứa ban cho ta ơn cứu rỗi ấy một cách cụ thể nếu chúng ta chấp nhận trở nên khó nghèo.
4. Ngày nay những kẻ "bé mọn" là ai? Phải chăng là một giai cấp xã hội? Có tương quan nào giữa lời nhận xét của Chúa Giêsu cách đây 2000 năm và cái chúng ta có thể nhận xét hôrn nay các tin hữu không? đâu là những kẻ khôn ngoan và thông thái của thời đại này? Phải hiểu thông thái và khôn ngoan theo nghĩa trần tục hay nghĩa tôn giáo? Ta có được đi đến chỗ bảo rằng các tín hữu tưởng mình biết mọi sự về Thiên Chúa những kẻ khôn ngoan và thông thái hiện thời mà ơn cứu rỗi bị che dấu đi không?
5. “Ach dịu dàng của Chúa Giêsu chỉ các đòi hỏi của đức tin Kitô giáo, chỉ bổn phận Kitô hữu: giữ mười giới răn, chống lại tính xấu thực hành luân lý Tin Mừng của Diễn từ trên núi, tuân phục các quyết nghị của Giáo Hội, chấp nhận bệnh tật, già nua, cái chết. Gánh này, thay vì đè nặng chúng ta, lại ban cho đời chúng ta một ý nghĩa. Như đôi cần chim, nó mang chúng ta lên trong lúc chúng ta tưởng phải mang nó.
6. Chúng ta sẽ học ở trường nào nếu không phải là trường của Chúa Giêsu Kitô? Xa Người, chúng ta chỉ có thể học đòi theo những thúc đẩy mù quáng và mâu thuẫn của đam mê, những cái nhìn thiển cận và tầm thường của tinh thần thế tục, học đòi … theo sự khôn ngoan nhân loại, thứ khôn ngoan tự biết mình không thể ban một ý nghĩa cho cuộc đời. Còn nơi trường Chúa Kitô, chúng ta học biết rằng mình là con cái được yêu đang tiến về Chúa Cha, dưới sự dẫn dắt của Chúa Con hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
---------------------------------
Mặt trời và gió luôn tranh cãi xem ai mạnh hơn ai. Hôm đó, có một người mặc áo choàng đi: TN 14-A42
Mặt trời và gió luôn tranh cãi xem ai mạnh hơn ai. Hôm đó, có một người mặc áo choàng đi trên con đường vắng. Mặt trời nói với gió:
Ai làm cho người ấy cởi bỏ chiếc áo choàng mau hơn thì sẽ thắng cuộc.
Gió đồng ý và ra tay trước. Chàng ta càng thổi thì người kia lại càng giữ chặt lấy chiếc áo. Cuối cùng chàng gió kiệt sức và đành chịu thua.
Lúc đó mặt trời mới ra tay. Bác ta toả xuống những tia nắng khiến người kia cảm thấy nóng bức. Và thế là người ấy phải cởi áo ra.
Tác giả câu chuyện trên đã kết luận như sau: Bạn có thể thành công nhờ sự hiền lành dễ thương hơn là nhờ bạo lực.
Ngày nay sự hiền lành dễ thương không còn được đánh giá cao như trước, bởi vì ngày nay bạo lực được phổ biến và có mặt khắp nơi, trên báo chí cũng như trên phim ảnh và truyền hình.
Thật khác xa với lời Chúa dạy: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Tiên tri Isaia đã nói trước về sự hiền lành của Đức Kitô như sau: Ngài không la hét, không to tiếng hoặc ăn nói ồn ào ngoài đường phố. Người không bẻ gẫy cây sậy bị giập, không thổi tắt ngọn đèn còn leo loét.
Một thí dụ tuyệt hảo về sự hiền lành dễ thương của Chúa là cách thức Ngài xử lư đối với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài chẳng những dễ thương đối với người phụ nữ, mà còn dễ thương với cả những kẻ tố cáo chị ta, vốn tự cho mình là công chính. Chúa Giêsu không la hét, không quát mắng, nhưng Ngài chỉ cúi xuống và viết trên cát.
Ngài khuyên chúng ta bắt chước người mục tử hiền lành trong dụ ngôn con chiên lạc. Người ấy không hề đánh đập hay lôi kéo con chiên về nhà, trái lại đã vác nó trên vai. Ngài cũng khuyên chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn đứa con hoang đàng. Ông ta đã không quở mắng đánh đập, trái lại đã ôm hôn cậu và mở tiệc ăn mừng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay chứa đứng một lời mời gọi quan trọng, đó là hãy noi gương bắt chước Chúa sống hiền lành và khiêm nhường. Cố gắng đối xử với mọi người bằng sự nồng thắm chân tình. Tiếp đến là hãy đối xử với những kẻ làm hại chúng ta theo cách đối xử của Chúa đối với người phụ nữ ngoại tình, của người cha đối với đứa con hoang đàng, của người mục tử đối với con chiên lạc. Nghĩa là hãy cảm thông hơn là kết án.
Và sau cùng là hãy đối xử với những người đang phải mang lấy gánh nặng của khổ đau, của bất hạnh một cách khéo léo và tế nhị, hầu đem lại cho họ sự an ủi và khích lệ. Tóm lại, chúng ta hãy thực thi lời khuyên nhủ của Chúa: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
---------------------------------
Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. (Mt.11.28)
Bạn thân mến!
Trên đây là lời mời gọi mà Chúa Giêsu gởi đến mỗi người chúng ta trong bài Tin Mừng Chúa:TN 14-A43
Trên đây là lời mời gọi mà Chúa Giêsu gởi đến mỗi người chúng ta trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Ðức Giêsu mời gọi chúng ta hãy đến với Ngài, tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề:
Gánh nặng của vấp ngã trong quá khứ. Gánh nặng của yếu đuối hiện tại. Gánh nặng của lầm lẫn và yếu hèn trong kiếp người. Gánh nặng của tội lỗi đam mê …Ngài mời gọi ta hãy đến với Ngài, Ngài chờ đợi ta trong Bí tích Hoà giải. Hãy đến với Ngài để được Ngài tẩy rửa và thanh luyện, để Ngài giải thoát ta khỏi những tội lỗi đam mê chồng chất, và nhất là để được Ngài thêm sức mạnh cho thân xác và bổ dưỡng cho tâm hồn để ta có đủ sức mà tiếp tục bước đi trên đường đời.
Gánh nặng vì bi quan thất vọng và lo âu. Gánh nặng của khó khăn chán chường và mệt mỏi. Gánh nặng bị đè nặng bởi lề luật và các quan niệm khắt khe của con người và xã hội… Ngài mời gọi ta hãy đến với Ngài. Hãy đến với Ngài trong thinh lặng và cầu nguyện. Ngài chờ đợi ta nói chuyện tâm tình với Ngài, Ngài lắng nghe những tâm tư ước vọng của ta . Hãy trao cho Ngài những thất vọng lo âu của ta. Hãy đặt vào tay Ngài những khó khăn và mệt mỏi của ta. Bên Ngài, hãy tìm những giây phút thinh lặng nghỉ ngơi, ta sẽ bắt gặp an bình thảnh thơi và hạnh phúc.
Gánh nặng của ham muốn vật chất, của đam mê xác thịt, của các tật xấu kìm hãm con người ta… Ngài mời gọi ta hãy đến với Ngài. Ngài chờ đợi ta trong bí tích Thánh Thể. Ngài ẩn mình trong tấm bánh nhỏ bé . Ngài luôn có đó để ban ơn dìu dắt và phù giúp cho ta trên đường đời.
Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi ta hãy đến với Ngài. Ngài muốn cất gánh nặng đi cho ta và đặt trên vai ta một điều khác nhẹ nhàng êm ái hơn: "Hãy mang lấy ách của Ta ... Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của ta thì nhẹ nhàng". (Mt.11:29-30).
Ách của Chúa là gì ? Gánh của Chúa là chi ? Phải chăng ách của Chúa là sự khiêm nhường bé mọn. Gánh của Chúa là lòng yêu thương trìu mến. Vì: “Anh em hãy học cùng Ta, vì Ta có lòng khiêm nhường trong lòng”(Mt.11:29). Ách của Ngài êm ái và gánh của Ngài nhẹ nhàng, là vì chúng được đón nhận trong tình yêu. Tình yêu làm cho mọi sự trở nên nhẹ nhàng êm ái: "Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không còn thấy vất vả nữa; mà giả như có vất vả đi nữa thì người ta cũng thích cái vất vả đó" (thánh Augustinô)
“Hãy học cùng Ta…” Ðức Giêsu kêu gọi ta làm học trò của Ngài: Ta học trường học Giêsu, học thầy giáo Giêsu, học bài học Giêsu… Bài học nằm nơi chính trái tim của Ngài: "Vì Ta có trái tim hiền hậu và khiêm nhường". Khi làm học trò ”ngoan” của Ngài thì sự liên hệ gần gũi giữa Ta và Ngài được triển nở bền vững, giống như sự liên hệ thâm sâu giữa Ngài và Thiên Chúa Cha vậy: “Không ai biết Người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ Người Con và những kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho” (Mt.11:27).
Hôm nay tôi tự hỏi lòng mình: Tôi đang phải mang những gánh nặng gì đây? Gánh nặng của công việc; học hành; gia đình; tiền bạc và ước vọng cho tương lai..v..v.. Những gánh nặng đó có quan trọng và cần thiết “nhất” hay không? Làm sao tôi có thể làm nhẹ bớt những gánh nặng này? Tôi phải làm gì để Chúa Giêsu có thể làm nhẹ bớt gánh nặng này cho tôi ?
***
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con trở nên đơn sơ nhỏ bé, để con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con. Xin cho con biết năng chạy đến với Chúa qua thinh lặng cầu nguyện, và qua các Bí Tích mà Chúa đã thiết lập, nhờ đó con tìm được nguồn an vui, sự bình an và bồi dưỡng cho tâm hồn. Amen.
Linh Xuân Thôn
---------------------------------
VietCatholic News (Thứ Sáu 04/07/2008 12:33)
Suy Niệm Roma 8:9, 11-13 – Chúa Nhật XIV – Năm A
Cách đây hai tuần, Thánh Phaolô đã so sánh Ađam với Đức Kitô. Vì tội bất phục tùng của Ađam mà:TN 14-A44
Cách đây hai tuần, Thánh Phaolô đã so sánh Ađam với Đức Kitô. Vì tội bất phục tùng của Ađam mà tội lỗi đã nhập vào thế gian (Rom 5:12 ). Con người bị tội lỗi làm tổn thương và trở nên nặng nề vì khuynh hướng phạm tôi của mình nên nghiêng về xác thịt nhiều hơn về tinh thần. Nhưng Đức Kitô, một Ađam mới, đã dùng chính cái chết trong vâng phục của Người mà cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi (x. 1 Cor 15:22 ). Nhờ ân sủng của Thiên Chúa mà chúng ta có đức tin. Qua bí tích Thánh Tẩy, chúng ta cùng chết và sống lại với Đức Kitô và bây giời chúng ta có một đời sống mới trong Người (x. Rom 6:4).
Là những người đã được Đức Kitô giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết, chúng ta không còn làm nô lệ cho thân xác và tội lỗi nữa (Rom 6:6). Hôm nay Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta cách mà chúng ta phải sống nếu chúng ta thật sự tin vào Đức Kitô.
9. Anh em không sống theo xác thịt mà sống theo tinh thần (có bản dịch là Thánh Thần hay Thần Khí vì chữ πνευμα của Hy Lạp có thể dịch theo cả hai nghĩa), nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em.
Nếu chúng ta thật sự có Chúa Thánh Thần, vì thân xác chúng ta là Đền Thờ Chúa Thánh Thần (1 Cor 6:19 ), nên Chúa Thánh Thần thật sự ở trong chúng ta nếu chúng ta sống theo Ngài. Sống theo xác thịt đây không chỉ có nghĩa là tim thú vui xác thịt mà có nghĩa là tất cả những gì quy về mình, là sống ích kỷ, như đuổi theo tiền tài, danh vọng, đam mê…. Đối với những người tin vào Đức Kitô thì Chúa Thánh Thần trở nên sức sống mới của họ. Ngài là động lực thúc đẩy mọi việc họ làm.
Nếu ai không có Thánh Thần của Đức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người.
Chúng ta chỉ có thể liên hệ với Đức Kitô nhờ có Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta. Mà một khi Chúa Thánh Thần thật sự ở trong chúng ta thì Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta làm tất cả mọi sự theo Ý Thiên Chúa. Và khi Ngài đã hướng dẫn thì chúng ta phải tuân theo. Ngày nay có nhiều người tự xưng là Công Giáo hay Kitô hữu mà thật sự không thuộc về Đức Kitô vì không có Chúa Thánh Thần ngự trong họ, hay không làm theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Kitô hữu không phải chỉ là một nhãn hiệu được dán vào chúng ta, mà phải là căn tính của chúng ta. Một người thuộc về Đức Kitô là người được trang bị để sống cho Thiên Chúa nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Người đó sẽ không những chỉ sống đời Công Giáo ở nhà thờ, mà sống đời sống ấy mọi nơi mọi lúc. Người ấy phải thể hiện tinh thần của Đức Kitô trong mọi việc mình làm, kể cả lá phiếu của mình. Thí dụ tôi không thể nói rằng tôi là Công Giáo mà tôi lại ủng hộ phá thai là điều dữ tự bản chất, hoàn toàn trái ngược với giới răn của Chúa. Cho nên khi tôi ủng hộ phá thai thì tôi không còn thật sự là người Công Giáo nữa, và như thế chắc chắn là tôi không thuộc vể Đức Kitô.
11. Nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em,
Việc làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết là công trình của Chúa Ba Ngôi (x. GLCG 648-650). Ở đây Thánh Phaolô nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa qua sự sống lại của Đức Kitô. Chúa Thánh Thần vừa là Thần Khí của Chúa Cha mà cũng là Thần Khí của Đức Kitô. Nếu Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta thì cả Ba Ngôi cũng ngự trong chúng ta.
thì Đấng đã làm cho Đức Kitô từ cõi chết sống lại, cũng [sẽ] cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em.
Bản dịch trong Phụng Vụ này thiếu chữ [sẽ]. Câu này nói lên vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc cho thân xác các Kitô hữu được sống lại vinh quang trong ngày sau hết. Khi sống lại, Đức Kitô đã chiến thắng sự chết và trở nên nguồn mạch sự sống lại của chúng ta trong sự hiệp nhất với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Đương nhiên là thân xác của tất cả mọi người sẽ được sống lại trong ngày tận thế, nhưng có những người sẽ sống lại “để hưởng phúc trường sinh,” và có những người sẽ sống lại “để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời” (Daniel 12:2). Chúng ta chỉ được hưởng phúc trường sinh nếu Thánh Thần của Đức Kitô ngự trong chúng ta, nghĩa là khi chết chúng ta đang ở trong tình trạng ân sủng.
12. Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt.
Trước kia chúng ta là nô lệ của tội lỗi, nhưng Đức Kitô đã chuộc chúng ta bằng một giá rất đắt (x. 1 Cor 6:20 ; 7:23 ). Người đã chết để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và chiến thắng sự chết. Giờ đây, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta đã tin vào Đức Kitô và đã tùng phục Người. Người đã chuộc chúng ta ra khỏi ách nô lệ xác thịt và làm cho chúng ta nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Người cứu chuộc chúng ta bằng cách vâng phục Thánh Ý Chúa Cha và vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá (Phil 2:8). Vì Chúa đã chuộc chúng ta nên “chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt” (Rom 8:12 ). Vậy sống theo xác thịt là gì?
Trong những đoạn trước của Thư Rôma, Thánh Phaolô đã nói rằng sống theo xác thịt là sống theo bản tính con người, là bản tính đã bị tội Ađam làm tổn thương. Tội Ađam đã để lại cho tôi một bản tính con người có khuynh hướng dễ làm điều ác hơn điều lành. Khi tôi sống chiều theo những khuynh hướng này là tôi đang sống theo xác thịt. Ở đây tôi xin đan cử một số ví dụ cụ thể:
Tôi làm mọi sự để thỏa mãn những đòi hỏi của thân xác
tôi, kể cả những việc vô luân là sống theo xác thịt,
Tôi chỉ nghĩ đến vật chất và những gì có lợi cho tôi là sống theo xác thịt,
Tôi làm việc, dù cả những việc lành, vì hư danh là sống theo xác thịt,
Tôi coi mình quan trọng hơn người khác là sống theo xác thịt,
Tôi đưa mình lên trên người khác hoặc muốn hơn người khác là sống theo xác thịt,
Tôi muốn người khác phải làm theo ý tôi là sống theo xác thịt,
Tôi làm để thỏa mãn “cái tôi ” là sống theo xác thịt,
Tôi cảm thấy ghen tức vì người khác hơn mình là sống theo xác thịt,
Tôi ích kỷ chỉ nghĩ đến mình và tích trữ cho mình là sống theo xác thịt.
Nếu muốn liệt kê thêm thì tôi sẽ phải ngồi đây viết hết trang này sang trang khác. Nhưng có lẽ những điều tôi đan cử trên đây cũng đủ rồi. Chỉ cần dùng một câu hỏi thôi là đủ để tôi biết rằng tôi có sống theo xác thịt hay không. Đó là “Tôi làm việc này vì tôi hay vì Chúa?” Nếu câu trả lời là “Vì Tôi” là tôi đang sống theo xác thịt.
13. Vì chưng, nếu anh em [đã] sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết;
Sống theo xác thịt là sống trong tội lỗi, mà “tiền công tội lỗi là sự chết” (Rom 6:23 ). (Thêm chữ [đã] vào đây là không chỉnh lắm). Ngày nay có nhiều người nghĩ rằng sống theo Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh là bị mất tự do. Họ không hiểu rằng con người chẳng bao giờ thật sự có tự do trừ khi sống theo chân lý. Muốn làm gì thì làm đâu phải là tự do mà là nô lệ cho thân xác, tiền tài, danh vọng và ma quỷ. Đó là lý do tại sao tự do giả tạo này dẫn con người đến nghiện ngập đủ thứ mà không thể thoát ra được, giống như tình trạng nhân loại khi chưa có Đức Kitô. Người thì nghiện quyền lực, tiền bạc, và danh vọng. Người thì nghiện ma tuý, sách báo và phim ảnh khiêu dâm. Người thị nghiện TV, video games, cờ bạc, trai gái, rượu chè. Tự do đâu chẳng thấy, mà chỉ thấy những xiềng xích này càng ngày càng thêm nặng. Vì thế Thánh Phaolô cảnh cáo chúng ta là nếu muốn chết cả hồn lẫn xác thì hãy tiếp tục sống theo xác thịt.
nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết [tiêu diệt] được các hành động (xấu xa của) thân xác, thì anh em sẽ được sống.
Chúng ta không thể tự mình tiêu diệt được các hành động xấu xa của thân xác mình. Tất cả những ai cậy vào sức mình mà chiến đấu với xác thịt đều thảm bại, vì chúng có một đồng minh mạnh mẽ hơn ta nhiều là ma quỷ. Chúng ta chỉ chiến thắng được nhờ ơn Chúa Thánh Thần mà thôi. Nhưng Chúa Thánh Thần không bao giờ ép buộc chúng ta mà chỉ soi sáng, mời gọi và ban sức mạnh cho chúng ta thôi. Thánh Augustinô đã nói: “"Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta không cần có chúng ta cộng tác; nhưng Ngài đã không muốn cứu độ chúng ta nếu chúng ta không cộng tác" (Bài giảng169, 11,13). Vậy nếu tôi muốn sống theo Thần Khí của Đức Kitô thì tôi phải sống thế nào?
Sống hiền lành và khiêm nhường như Chính Chúa Giêsu dạy tôi trong bài Tin Mừng hôm nay “hãy học cùng Thầy, vì Thầy dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” (Mt. 11:29 ).
Sống tín thác vào Chúa nhất là trong những lúc chán chường, thất vọng vì Chúa đang tha thiết mời tôi, đặc biệt là trong Thánh Kinh và Bí Tích Thánh Thể: "Tất cả hãy đến với Thầy, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Thầy sẽ nâng đỡ bổ sức cho các con” (Mt 11:28).
Sống theo Thánh Ý Thiên Chúa. Ý Cha thể hiện (Mt 6:10 ) “Không phải mọi người thưa với Thầy, ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ mà sẽ được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ người làm theo Thánh Ý của Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời (Mt 7:21 ).
Cùng làm mọi sự vì vinh danh Chúa như Thánh Phaolô “Dù anh em ăn, uống, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy làm tất cả vì vinh danh Thiên Chúa” (1 Cor 10:31 ).
Tôi có thể dùng cùng một câu hỏi ở trên để biết tôi có sống theo Thần Khí của Đức Kitô hay không: “Tôi làm việc này vì tôi hay vì Chúa?” Nếu câu trả lời của tôi là “Vì Chúa” thì tôi đang làm theo Thần Khí.
Muốn làm được những điều trên tôi cần có Chúa Thánh Thần, tức là Thần Khí của Đức Kitô, ngự trong tôi. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể soi sáng cho tôi để tôi biết điều gì đẹp lòng Chúa. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể ban sức mạnh cho tôi để làm theo sự hướng dẫn của Ngài. Muốn được như thế tôi lại cần phải khiêm nhường, nhận biết sự yếu đuối của mình và sự lệ thuộc của mình vào ân sủng. Tôi phải luôn chạy đến cùng Thánh Tâm Chúa trong Thánh Thể để Người bổ sức cho tôi.
Phaolô Phạm Xuân Khôi
---------------------------------
Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha:TN 14-A45
Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
"Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được BÌNH AN. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng". (Mt 11, 25-30).
Quả thật Lời của Chúa dậy ta thì cứ mặc, biết vậy, hiểu vậy, biết Chúa muốn mình được như thế, nhưng tội lỗi thay có phải vì bản tánh hung dữ của con người thì thật mà khó lòng để mà làm theo được như vậy? Ai ai trong chúng ta cũng có cái Tôi lớn lắm. Một lời nói về mình mà nghe chừng như không coi trọng, ve vuốt, và nịnh bợ, là ta liền bốp chát đáp trả lại ngay. Sự đáp trả của ta sau khi nghe từ miệng anh chị em, sẽ nghe như những tiếng sấm sét, thét gào, và rất ư là dữ tợn khó nghe. Có rất nhiều chuyện ẩu đả đã xẩy ra mà kết cuộc là có người bị đổ máu và ngồi tù? Vì sao? Thưa vì bản tánh hung hăng dữ tợn phát xuất từ trong con người của ta mà ra và chỉ vì một lời nói ăn thua đủ.
Tôi nghiệm thấy rằng muốn được dịu hiền trong lòng như Chúa mong mỏi nơi chúng ta quả là một việc làm bác ái rất khó mà thực thi, trừ khi ta được Ơn Chúa ban. Sự dịu hiền thường thì đi liền với nhường nhịn. Có phải nếu ta biết nhường nhịn anh chị em thì khi ai nói gì mích lòng ta, ta cũng nhịn không đáp trả, và vì không đáp trả thì sẽ không có xẩy ra những hậu quả không tốt đẹp.
Có phải tôi và rất nhiều người trong anh chị em chúng ta cứ sợ rằng khi bị nghe người khác nói những điều không tốt về mình, như có tính cách bêu rêu, đặt điều nói xấu, hạ nhục, và làm mất danh dự của ta mà nếu ta không có một lời đáp trả ngay cả một lời phân bua thì sẽ bị người đời gán cho cái tội là hèn nhát, là ngu dại, là có đầu óc của một con người không được bình thường. Từ nơi chính mình còn nhát đảm và yếu hèn đến thế thì làm sao mà có thể gánh vác và bảo vệ cho gia đình của mình được? Nhất lại là đường đường một đấng mày râu có tánh nhút nhát như con gái thế thì hèn lắm thường sẽ bị rất nhiều người cười chê mà nhất là phái nữ?
Có mấy ai trên đời có con nhỏ đi học mà dậy con rằng khi ai đánh đập con thì con cứ để cho họ đánh đến khi nó không buồn đánh nữa thì thôi? Mà không dậy con mình rằng nếu con muốn thắng nó thì con phải đánh nó túi bụi trước và nếu nó to lớn hơn con thì chạy về nhà méc bố mẹ, bố mẹ sẽ cho nó bài học nhớ đời?? Còn không thì vì chuyện con nít đánh lộn mà lại ảnh hưởng và thành chuyện đụng độ lớn giữa cha mẹ của hai đứa nhỏ??
Đấy là ta chỉ mới có thí dụ về những lời nói qua nói lại và sự đối đáp giữa anh chị em với nhau thôi (được gọi là đấu miệng) chứ chưa nói đến khi ta phải bị mất quyền lợi. Ôi thôi khi nói đến mất quyền lợi thì dù là một cái bánh hay một cái kẹo thì cũng gặp nhiều khó khăn. Giữa đám nhỏ với nhau thì so đo đủ thứ là sao thầy cô hay cha mẹ chia cho không đồng đều, đứa thì có, đứa thì không. Rồi giữa con nít với nhau đứa không có sẽ dành với đứa có và thì đánh lộn nhau vỡ đầu cũng chỉ vì không được cái bánh hay cái kẹo.
Còn người lớn thì sao? Thưa rằng người lớn thì càng so đo nhau từng tí một. Có cho nhau thì cũng phải dòm chừng. Chẳng phải vì thương mà cho nhau đâu! Nhưng là vì quyền lợi của mình. Người khôn thì đem tiền đi mua chuộc cho công việc của mình và được giờ làm OT. Còn người dại thì sao? Thưa rằng người dại khờ thì chỉ biết phó mặc cho Chúa chứ chẳng muốn luồn cúi và chạy chọt mà có muốn cũng chẳng có dư mà làm như thế!??
Còn khiêm nhường ư! Khiêm nhường thì lại còn khó hơn gấp trăm lần sự dịu hiền mà Chúa mong muốn nữa! Vì khiêm nhường có phải thường được đòi hỏi cả hai bản chất là vừa hiền lành và vừa có tánh thương yêu người. Yêu người thì ai nói sao cũng được. Có đôi khi vì yêu người mà ta nhịn ngay cả những cái chọc ghẹo đùa cợt thái quá mất danh dự và lòng tự trọng từ nơi anh chị em của chúng ta, nhưng vì Chúa dậy kính Chúa và yêu người, và ngay cả bài học của tuần này là hãy bắt chước Chúa là "hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được BÌNH AN". Quả thật là đúng như vậy vì tôi có thử tập và có thử làm theo Lời chỉ dẫn của Ngài và tôi có tìm được Bình An khi tôi đối xử hiền lành với anh chị em và khiêm nhường để thấy anh chị em luôn hơn mình.
Khi xưa tánh tình của tôi cũng hung hãn và cũng chẳng nhường nhịn ai cho dù một lời nói, nhưng quả thật cuộc sống thuở xưa của tôi cũng chẳng bao giờ được bình an vì cứ luôn phải so đo và so sánh với tất cả mọi người. Nếu tôi không được hoặc hơn anh chị em của mình thì tôi rất lấy làm đau khổ và khó chịu. Lâu dần cái không ưa của tôi nó trở thành như một con quái vật sống trong tôi. Qua ánh mắt của một con quái vật tôi thấy ai cũng chán ngán, tôi thấy ai cũng không ưa tôi, tôi thấy ai cũng gian dối với tôi, nhưng tôi không cần, miễn là tôi được họ tâng bốc, nịnh bợ, và đưa tôi lên rồi sau cánh cửa được đóng lại là tôi biết họ chửi tôi không ngớt lời và có thể trong lòng họ cũng vái Trời khẩn Chúa là cho tôi gặp tai nạn để không còn nhìn thấy cái bản mặt đáng ghét của tôi trên trần gian này nữa!??
Lậy Chúa! Lậy Thiên Chúa Nhân Từ của chúng con!
Thế có phải vì Chúa hiểu thấu được tấm lòng gian ác của nhân loại chúng con nên những bài học Chúa dậy nếu đem ra thực hành sẽ được Chúa ban cho BÌNH AN, chẳng những cho riêng tâm hồn của chúng con mà BÌNH AN của Chúa cũng được chuyền đến cho tất cả mọi người anh chị em chúng con gặp gỡ mỗi ngày trong cuộc sống ngày lại ngày này!?? Ước gì Lời của Chúa luôn thấm nhuần trong tâm hồn và trái tim chai đá của chúng con, để thế giới sớm có hòa bình và nhân loại chúng con sớm tìm được Thiên Đàng ngay trên trần gian này. Amen.
Tuyết Mai
---------------------------------
Trang tin mừng thật ngắn mà chúng ta vừa nghe để lại một bài học dài, bài học lớn, bài học hay:TN 14-A46
Trang tin mừng thật ngắn mà chúng ta vừa nghe để lại một bài học dài, bài học lớn, bài học hay, bài học hết sức ý nghĩa của cuộc đời con người: “Anh em hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Bài học này quả là một bài học khó đối với mỗi người chúng ta vì lẽ chúng ta đã “lỡ” mang trong mình dòng máu của kiêu ngạo, của bất tuân từ ông bà nguyên tổ.
Nhìn một chút lại hình ảnh đẹp của vườn địa đàng ngày xưa chúng ta sẽ thấy chiều chiều gió thổi hiu hiu, Giavê Thiên Chúa cùng đi dạo với ông Ađam và bà Evà trong vườn Địa Đàng. Thiên Chúa yêu thương ông bà bằng một mối tình hết sức nồng thắm. Thiên Chúa chỉ có một điều quy ước với ông bà là đừng ăn cái trây ở cái cây giữa vườn. Thế nhưng, nghe lời xúi giục của con rắn hay nói đúng hơn phát xuất từ chính lòng kiêu ngạo của con người để rồi con người đã đánh mất đi tình nghĩa với Thiên Chúa và Thiên Chúa đã đuổi khỏi vườn Địa Đàng.
Cái máu kiêu ngạo của ông bà nguyên tổ hình như đã truyền vào máu mỗi người chúng ta để rồi bài học khiêm nhường mà Thiên Chúa dạy cho ông bà ở cái thời xa xưa ấy không hề vô giá trị mà rồi ngày hôm nay, Giêsu – Con Thiên Chúa – đã phải lập lại cái bài học quý báu ấy.
Chúa Giêsu – con Thiên Chúa – đã vâng phục Chúa Cha, vì yêu thương, vì muốn cứu con người khỏi sự hư mất do sự kiêu căng. Thánh Phaolô đã viết nên điều ấy trong thư của Ngài gửi tín hữu Philip:
“Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mëc lấy thân nô lệ
tở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế
Người lại còn hạ mình
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết
cết trên cây thập tự,
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt muôn ngàn danh hiệu
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu,
cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ
muôn vật phải bái quý
và để tôn vinh Thiên Chúa Cha
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:
“Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,6-11)
Thiên Chúa, là một vị Chúa, vậy mà Ngài đã trút bỏ vinh quang, Ngài trút bỏ địa vị của một vị Thiên Chúa và mặc lấy thân phận của Người tôi trung có sứ mạng cứu chuộc.
Ở vùng biển, người đi mò ngọc trai lặn xuống nước để tìm ngọc quý, có một kinh nghiệm đặc biệt. Anh cố lặn sâu xuống, nhưng nước lại đẩy anh lên. Chúng ta biết định luật Archimède về sức đẩy của nước từ dưới lên. Vật thể càng nặng, khối càng to, thì lượng nước tách ra càng lớn. Vì vậy, sức đẩy lên trên càng mạnh, như thể muốn đưa anh ta lên lại mặt nước. Nhưng anh vẫn cố lặn xuống vì sinh kế. Quả là vất vả. Nhưng anh sẽ vui mừng biết bao khi nhìn thấy hạt ngọc trong vỏ trai dưới đáy biển.
Việc tìm kiếm sự khiêm tốn cũng giống như việc tìm kiếm của người mò ngọc trai. Phải lặn xuống dưới, xuống mãi tới đáy, tới chỗ mà sự thật về con người của chúng ta nằm ở đó. Và cũng có một sức mạnh, mạnh hơn sức nước biển, sức mạnh của kiêu căng, tìm cách đẩy chúng ta trồi lên, đưa chúng ta lên trên chính mình và trên người khác. Thế nhưng hạt ngọc ở dưới đáy, nằm trong vỏ trai của tâm hồn ta, lại quá quý giá, khiến ta không bỏ cuộc, nếu không muốn thất bại.
Phải vượt qua khu vực ảo tưởng cho mình là lớn, để đi tới hữu thể đích thực của ta, con người thật của ta. Vì, như thánh Phanxicô Assisi nói, "con người trước mặt Thiên Chúa như thế nào, thì thực sự là thế ấy, không hơn"
Con người có hai cuộc đời, một cuộc đời thật, một cuộc đời tưởng tượng. Cuộc đời tưởng tượng xây dựng bằng ý kiến của mình hay dư luận của người khác. Chúng ta thường cố làm đẹp và gìn giữ con người tưởng tượng của ta, và làm ngơ với con người thật. Có được một nhân đức hay một công trạng nào, thì tìm hết cách này cách khác làm cho người ta biết đến, càng sớm càng tốt, để được ca ngợi, để trở thành có giá trước mặt người khác. Chúng ta dùng nhân đức hay công trạng đó để làm phong phú cho con người tưởng tượng của ta.
Thế nên, tìm kiếm sự khiêm tốn là tìm kiếm cho chính hữu thể, tìm kiếm sự trung thực. Đây là điều liên hệ đến con người nói chung, chứ không riêng gì cho người kitô hữu. Khiêm tốn là điều có tính cách nhân vi. Những từ la-tinh để chỉ về con người và khiêm tốn phát xuất từ một gốc có nghĩa là đất (humus). Con người được tạo dựng bởi đất, phải biết hạ mình xuống đất. Phải biết khiêm tốn.
Triết gia Nietzsche, người Đức, hăng hái đả kích luân lý kitô giáo, vì luân lý này rao giảng sự khiêm tốn. Ông đã đụng chạm đến một trong những ân huệ đẹp nhất mà luân lý kitô giáo đem đến cho thế giới.
Phần chúng ta, hãy tin tưởng vào người hướng dẫn bảo đảm nhất là lời Chúa. Nhờ quyền năng của Thần Khí, lời Chúa giúp ta trở thành những người mò ngọc trai. Chúng ta không thể và không muốn điều gì khác hơn là tìm viên ngọc quý trong vỏ trai.
Theo Thánh Phaolô, người nào hiểu khiêm tốn là sự thật, người đó là người khôn ngoan, biết chừng mực. Phaolô cũng khuyên các tín hữu đừng có một ý tưởng sai lầm và phóng đại về mình, phải biết đánh giá đúng về mình. Kiểu nói "hãy đánh giá mình cho đúng mức" cũng tương đương với kiểu nói "ham thích những gì hèn mọn". Qua đó, Thánh Phaolô muốn nói: người ta khôn khi khiêm tốn, và người ta khiêm tốn khi khôn. Biết hạ mình là tiến đến gần sự thật.
Thánh nữ Têrêxa Giêsu viết: "Một ngày nọ, tôi đã tự hỏi vì sao Chúa yêu thích sự khiêm tốn đến thế. Bất chợt, không cần suy nghĩ, tôi có ý tưởng này: đó là vì Ngài là Chân lý tối cao và vì sự khiêm tốn là chân lý". Vậy là thánh nữ cũng đi đến kết luận như Thánh Phaolô. Thiên Chúa đã thông truyền cho thánh nữ chân lý lời Ngài không bằng con đường chú giải suy luận, nhưng bằng con đường minh chiếu bên trong.
Kinh Thánh cho chúng ta thấy một mẫu gương tuyệt vời về sự khiêm tốn: Đức Maria. Trong lời kinh Magnificat, Đức Maria ca ngợi Thiên Chúa đã nhìn đến phận nữ tỳ hèn mọn. Khi nói về sự hèn mọn của mình, Người không có ý nói về sự khiêm nhường của mình đâu, nhưng là nói đến thân phận thực sự hèn mọn của mình, thuộc vào số những người hèn mọn nghèo khó trong Kinh Thánh. Việc Người minh nhiên nhắc đến bài ca của bà Anna, mẹ Samuel (1Sm 1,11), cho thấy điều đó (Đức Maria sử dụng cùng một từ có nghĩa là lầm than, son sẻ, thân phận thấp hèn). Chứ ở đây không phải Người ý thức về sự khiêm tốn của mình. Làm sao Người dám ca ngợi sự khiêm tốn của mình ? Tự cho mình là khiêm tốn thì còn khiêm tốn nỗi gì? Đó là kiêu ngạo. Và làm sao ta dám nghĩ Người coi việc Thiên Chúa tuyển chọn mình là do mình khiêm tốn? Việc tuyển chọn hoàn toàn là do ý Thiên Chúa, là ơn nhưng không của Thiên Chúa, chứ đâu phải vì Mẹ khiêm tốn. Hơn nữa, nghĩ như thế là không hiểu được cả cuộc đời của Mẹ.
Đức Maria khiêm tốn trong cả cuộc đời, cho dù gặp bao nhiêu khó khăn thử thách. Ta có thể nhận ra điều này trong cách Người theo dõi con mình: yên lặng, xa xa vậy. Thậm chí không muốn đứng ở hàng đầu để nghe Đức Giêsu giảng cho dân, mà còn đứng ở ngoài nữa, đến nỗi phải nhờ người khác xin với Chúa để được gặp (Mt 12,46tt).
Dù là Mẹ Chúa, Đức Maria không coi việc ở gần Chúa như ở gần một kho tàng dành riêng cho mình. Người từ bỏ mình, nhận thân phận một nữ tỳ, giống mọi phụ nữ khác. Lời khuyên của Phaolô được áp dụng cách hoàn hảo nơi Mẹ. Mẹ không ước vọng những điều cao sang, chỉ hài lòng với những gì hèn mọn.
Chúng ta cũng có thể thấy sự khiêm tốn kiểu trên trong cuộc đời của nhiều vị thánh. Một hôm, có một người bạn hỏi Phanxicô Assisi xem làm sao mà mọi người đều chạy theo ngài, và muốn thấy ngài như vậy. Phanxicô trả lời: đó là vì Thiên Chúa không thấy ai xấu xa hơn ngài, không ai tội lỗi hơn ngài. Đấng thánh nghĩ rằng người ta tò mò muốn xem một tội nhân, nhưng dân chúng lại tò mò muốn xem một thánh nhân. Thánh Bênađô thì nói đơn sơ như sau: "Người thực sự khiêm tốn luôn muốn được coi là xấu xa, chứ không muốn được tuyên dương là khiêm tốn".
Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta thấy có cái gì đó không ổn. Tất cả mạng sống, của cải, tiền bạc, địa vị, danh vọng của chúng ta đều thuộc về Chúa. Chúa là chủ, chúng ta chỉ là người quản lý nhưng chúng ta lại đánh đổi cái vị trí tuyệt vời ấy. Chúng ta có cái gì đó giống giống ông bà nguyên tổ. Ông bà được Thiên Chúa mời gọi trông nom, quản lý, giữ gìn và Thiên Chúa ưu đãi nhưng không chịu. Muốn làm chủ Thiên Chúa nên đã gây ra biết bao nhiêu chuyện đổ nát trong hành trình đời người. Chúng ta là người quản lý, người đầy tớ của Chúa vậy mà chúng ta không biết, chúng ta đánh tráo vị trí ấy nên rồi cuộc đời của chúng ta cũng giống như cuộc đời của ông bà nguyên tổ. Suốt cuộc đời phải vất vả lầm than do sự cao ngạo của mình. Lời thánh vịnh 130 thật hay:
Lòng con chẳng dám tự cao
Mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi
Đường cao vọng chẳng đời nào bước
Việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu
Hồn con con vẫn trước sau
Giữ cho thinh lặng giữ sao an bình
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ
Trông con hồn lặng lẽ an vui
Cậy vào Chúa Israel ơi
Từ nay đến mãi muôn đời muôn năm (Tv 130,1-3)
Vâng ! Như Thánh Phaolô tông đồ nói có cái gì mà chúng ta không lãnh nhận từ Chúa đâu mà chúng ta vênh vang ? Tốt hơn hết là chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta tâm tình khiêm hạ.
Khi và chỉ khi chúng ta nép mình vào lòng Chúa như trẻ thơ nép mình vào lòng mẹ chúng ta mới bình an thật sự. Nép mình vào vật chất, vào của cải, vào dục tình, vào địa vị đến một lúc nào đó chúng ta sẽ điên đảo, quay cuồng với vật chất, của cải, dục tình, địa vị và bi đát cuối cùng là chúng ta sẽ bị tất cả những thứ ấy đè bẹp cuộc đời chúng ta và chúng ta sẽ đánh mất đi ân phúc mà Thiên Chúa dành cho ta như thuở ban đầu Thiên Chúa dành cho ông bà nguyên tổ.
Một chuyện vô cùng nghịch lý mà chúng ta vui vẻ sống cái nghịch lý ấy giữa đời thường. Thử hỏi mỗi người chúng ta có thích sống với những người kiêu ngạo hay không ? Vậy mà nhiều lần nhiều lúc vô thức hay hữu thức chúng ta lại cư xử một cách quá kiêu ngạo với anh chị em đồng loại. Chính từ sự kiêu ngạo, cái tôi qúa lớn của mỗi người chúng ta đã bây biết bao nhiêu tổn thương, bao nhiêu đổ nát cho anh chị em đồng loại. Chẳng nói gì xa đến anh chị em đồng loại, chúng ta thử xét ngay trong mái ấm, trong gia đình của chúng ta xem, chúng ta sống như thế nào, có khiêm hạ như Chúa, như Mẹ, như các thánh đã sống hay không ? Hay là chúng ta lên mày lên mặt với những người kém may mắn hơn chúng ta ?
Điều chúng ta không thích, chúng ta đừng làm cho người khác. Chúng ta không thích người khác kiêu ngạo với chúng ta thì chúng ta đừng kiêu ngạo với người khác.
Muốn như thế, không còn cách nào khác hơn cái cách mà Chúa mời gọi mỗi người chúng ta. Thật tuyệt vời, Chúa nói: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng …”
Cuộc đời của mỗi người chúng ta, ít nhiều trong chúng ta, ai ai cũng mang những gánh, những vác thật nặng nề để rồi nghe lời Chúa nói với chúng ta hôm nay, chúng ta lại hoàn toàn yên tâm đến với Chúa để chúng ta trút nhẹ gánh lo vào tay Chúa.
Chúa vẫn ở đó để chờ chúng ta, còn chúng ta thì sao ?
Đó là câu trả lời của mỗi người chúng ta sau khi tham dự Thánh lễ, sau những lần cầu nguyện và nhất là những lần phải đối diện với những lo âu vất vả của cuộc đời.
Nguyện xin Chúa là thầy dạy lòng khiêm nhường đến và ở lại với mỗi người chúng ta để Ngài dạy chúng ta ngày mỗi ngày biết cách sống khiêm nhường hơn.
Xin Chúa giúp chúng ta sau những vất vả lo toan của cuộc đời không đi tìm nơi nào khác vì chỉ nơi Chúa chúng ta mới được nghỉ ngơi, được bồi dưỡng và được bình an đích thực.
LM Vũ Quốc Thịnh CSsR
---------------------------------
(Chúa Nhật XIV TN A )
Người ta luôn không hài lòng về số phận của mình ( On n’est pas toujours content de son sort ). Câu:TN 14-A47
Người ta luôn không hài lòng về số phận của mình ( On n’est pas toujours content de son sort ). Câu ngạn ngữ trên đây một cách nào đó nói lên thực trạng của con người trong kiếp nhân sinh lữ thứ. Đời là một bể trời khổ dâu. “Thoặt sinh ra thì đà khóc chóe. Trần có vui sao chẳng cười khì ?” Lời than của một thi nhân Việt Nam như chứng thực điều này. Hết chuyện ngày ngày lo kế sinh nhai “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, thì lại đến chuyện gia thất “con là nợ, vợ ( chồng ) là oan gia, cửa nhà là nghiệp chướng ! Những cảnh vui, cảnh an bình thì thấp thoáng như vó câu qua cửa, còn các chuyện buồn, cảnh khổ thì cứ đằng đẵng tiếp nối dù lòng chẳng mong, chẳng đợi bao giờ.
“ Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi,tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” ( Mt 11,28 ). Một lời mời gọi vừa đượm tình vừa rất hiện sinh. Hiện sinh vì nó nó đáp ứng nhu cầu của mọi người mọi thời và mọi nơi. Ngoại trừ các em bé còn trong nôi hay các bé thơ chưa biết nhìn đời với con mắt phản tỉnh, hầu như khi đã biết nghĩ suy một cách nào đó thì ngay cả các bé thiếu nhi, thiếu niên cũng không thoát được sự “bể dâu” của cuộc đời. Nó đượm tình vì nó nói lên việc Đức Kitô đã chung thân, đồng phận với nhân trần chúng ta khi làm người, đặc biệt trong mọi cảnh tình khốn khó.
Cũng có thể như lời Đức Phật dạy: vì quá ham muốn (dục), mà không toại nguyện thì chuốc lấy sự khổ đau. Nhưng đã là người thì tránh sao được cái sự muốn. Ý chí tự do là một trong nhữg ưu phẩm của con người trổi vượt trên các loài thụ tạo hữu hình. Khi anh không muốn cũng là lúc anh muốn cái sự không muốn. Để giải thoát khỏi mọi cảnh khổ, Đức Phật đề ra con đường “tri –kiến” là nhận thức sự vô thường của vạn vật để rồi tạo lập một thái độ tạm gọi là “dửng dưng” vô niệm, vô úy, vô chấp. Đây là một trong những con đường tự giải thoát bản thân khỏi cái vòng lẫn quẩn của vô minh. Thế nhưng, dù sao đó cũng là một kiểu “giác ngộ” của con người, là sản phẩm của loài thụ tạo. Đức Khổng Tử thì đề ra con đường “trung dung”, chính danh, chính phận. Tức là sống đúng danh phận của mình cách hài hòa cân đối, không bất cập mà cũng chẳng thái quá. Khi mọi sự ở trong trật tự của chúng thì cái sự khổ sẽ dần mất đi. Lão Tử thì vẽ ra con đường “vô vi”: Làm mà như không làm… Mỗi hiền nhân mỗi con đường, nhưng thảy đếu là những con đường xuất phát từ người trần gian.
Để vượt qua bao khổ lụy kiếp người, Chúa Kitô mời gọi nhân trần chúng ta hãy mang lấy ách của Người, tức là hãy làm môn đệ của Người. Làm môn đệ của Người là bước đi theo con đường Người đã đi. Để có thể tiếp bước theo Người thì Người mời gọi chúng ta là hãy học cùng Người sự hiền lành và khiêm nhượng. “ Hãy học cùng tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” ( Mt 11,29 ).
Hai từ khiêm nhu rất dễ khiến chúng ta liên tưởng đến thái độ, cung cách hạ mình. Thế nhưng, thái độ khiêm nhường đích thực là nhìn nhận bản thân đúng như mình là trong các mối tương quan với tha nhân, với các loài thụ tạo và với Thiên Chúa, Đấng Tạo thành mọi sự. Người khiêm nhu là người trên hết, trước hết, biết nhìn nhận mình là loài được tạo nên và vì thế, mình chỉ là mình, khi sống, hoạt động theo ý muốn của Đấng dựng nên mình. Ý thức được điều này và tin nhận sự thật này, đồng thời tin nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa thật thì việc bước theo Đức Kitô, làm môn đệ của Người, là lẽ tất yếu đương nhiên.
Hai từ hiền lành cũng đễ làm ta liên tưởng đến một thái độ sống mềm mại, dịu dàng. Thế nhưng sự hiền lành đích thực là một thái độ sống vuông tròn bổn phận trong mọi hoàn cảnh thuận nghịch. Hình ảnh người mẹ hiền, cô dâu hiền minh chứng cho sự thật này. Học ở Đức Kitô sự hiền lành là biết đi đến cùng trong bổn phận của “người tôi tớ vô dụng” ( x. Lc 177-10 ) chỉ làm những gì phải làm. Và điều chúng ta cần phải làm xuyên suốt mọi hoạt động đó là trả món nợ yêu thương. Bởi tình yêu, ta được chào đời, thì cho tình yêu ta sống kiếp người.
Khi đã tự nguyện làm môn đệ Đức Kitô thì chúng ta cần phải bước đi trên con đường đạo lý yêu thương Người đã đi. “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15,12 ). Đây chính là giới răn mới, giới răn mà Chúa Kitô truyền lại khi Người sắp từ bỏ trần gian mà về cùng Chúa Cha. Sự êm ái ngọt ngào khi mang lấy ách của Chúa Kitô đó là biết sống yêu thương như Người đã yêu.
Thánh giáo phụ Âugustinô đã nói: “ Hãy yêu đi, rồi làm gì thì làm”. Khi đã yêu thì sẽ không còn đau khổ. Dù cho đau khổ vẫn có đó, còn đó, nhưng nó đã được yêu rồi. Với thánh Tông Đồ dân ngoại thì khi đã được yêu rồi thì thập giá không còn là sự điên rồ hay nổi ô nhục mà trở thành niềm vinh dự.
Đau khổ phát sinh, có thể là do lỗi hay tội của bản thân hay của tha nhân. Nhưng dù sao đi nữa vẫn có đó nhiều nổi khổ đau thật khó tìm ra nguyên do, căn cớ. Đau khổ là một huyền nhiệm. Chúa Kitô đã không đưa ra một lời giải đáp rạch ròi về nguyên nhân của khổ đau, nhưng Người đã tự nguyện mang nó vào chính bản thân mình để thể hiện tình yêu. Đó là mầu nhiệm thập giá. Đau khổ quả là một sự dữ, nhưng nó sẽ chẳng là gì trước sức mạnh của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa trong Đức Kitô đã biến khổ đau thành ân phúc.
Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng… Nếu ta vẫn đang ngụp lặn trong bao đau khổ, chắc hẳn vì ta chưa đáp lại lời mời của Đấng Cứu Độ là hãy đến với Người. Đến với Người ta sẽ gặp “Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa…, Đấng bẻ gãy mọi cung nỏ của chiến tranh, Đấng công bố hòa bình cho muôn dân” ( Dcr 9,9-10 ). Đến với Đấng Cứu độ, ta sẽ được Thần Khí của Người đổi mới và “chúng ta sẽ diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta và chúng ta sẽ được sống, sống trong an bình.” ( x. Rm 8,13 ).
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
---------------------------------
Lời Chúa hôm nay thật là phong phú, mỗi câu là một đề tài đáng suy nghĩ. Chúng ta chỉ tập trung:TN 14-A48
Lời Chúa hôm nay thật là phong phú, mỗi câu là một đề tài đáng suy nghĩ. Chúng ta chỉ tập trung suy niệm một câu thôi: “Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).
Hiền lành và khiêm nhường là hai đức tính căn bản và nền tảng mà mỗi người chúng ta phải có để làm người.
1. Người hiền lành (meek)
Vậy người hiền lành là ai? Trước hết người hiền lành là người có đức độ, lương thiện (good); có lòng thương người (helpful); người tỏ ra kiên nhẫn (patient), dễ tùng phục (submissive), tử tế và hòa nhã với người khác (kind). Người ở hiền thì sẽ có hậu: “Ở hiền gặp lành”, “Cha mẹ hiền lành thì để đức cho con” (ngạn ngữ Việt nam).
Trái nghịch với hiền lành là người độc ác, ích kỷ, nóng tính (nóng tính thì hỏng việc!); người thích mệnh lệnh, ưa “ăn trên ngồi trốc”; người “giận cá bằm thớt”; người hay gây lộn “thượng cảng chân hạ cẳng tay!”; người hay “bới lông tìm vết”; người hay nói xiên nói xỏ, nói móc nói me, gây chia rẽ trong gia đình, cộng đoàn, xã hội, vv và vv…!
2. Người khiêm nhường (humble)
Còn người khiêm nhường là ai? Người khiêm nhường là người biết mình, biết người, biết sự vật đúng như nó là; người không khoe khoang, không phô trương, dù có thành công (not proud or arrogant although successful); người biết tôn trọng người khác và nhường - nhận người khác hơn mình.
Ngược với khiêm tốn là người kiêu ngạo: người tự coi mình là hơn người, khoe khang, nói quá sự thật, hay “vơ đũa cả nắm”, kiểu “cả vú lấp miệng em!”, lúc nào cũng cho mình đúng còn người khác thì sai vv…!
3. Gương khiêm nhường
Đức Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hãy học cùng Người, hãy học trường Giêsu. Bởi nơi Người, chúng ta gặp một mẫu gương đích thực về sự hiền lành và khiêm nhường: Người là Thiên Chúa nhưng đã hạ mình mặc lấy thân phận tôi đòi (Phil 2,6), là vị Thầy nhưng đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, Người hiền lành như chiên con bị xén lông mà chẳng mở miệng (Is 53,5-7), và Người đã sống sự khiêm tốn tới tột cùng là cái chết nhục nhã trên thập giá. Nhưng sự hiền lành và khiêm tốn đó lại trở thành dũng lực, là sức mạnh của Tình Yêu và ơn cứu độ cho chúng ta. Người được Thiên Chúa tôn vinh với danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (Phil 2,9). Đúng là “ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên” (Lc 18,14)!
Khi nói về những vị thánh đã học được gương của Chúa Giêsu, ta nhớ tới câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII: Tên thật ngài Roncalli, trước khi làm giáo hoàng, ngài là khâm sứ ở Bungari và Thổ. Trong khi thi hành công vụ, ngài nhận được một bức thư của một linh mục chỉ trích ngài đủ mọi thứ. Ngài đọc thư và không nói gì. Sau đó ngài làm Hồng Y, rồi làm Giáo Hoàng (1958). Về sau vị linh mục đó cùng với giáo dân sang Rôma để yết kiến Đức Giáo Hoàng. Vị linh mục này kể lại buổi yết kiến này: trong khi đứng chờ, đầu óc của ngài cứ nghĩ tới bức thư đó và vừa hối hận vừa lo sợ. Thời gian lâu rồi chắc Đức Thánh Cha đã quên. Không ngờ tới liền, Đức Thánh Cha kéo lá thư trong cuốn sách kinh ra. Cha hoảng sợ, chuyện gì sẽ xảy ra cho tôi? Nhưng Đức Giáo Hoàng ôn tồn nói: “Con đừng sợ, Cha cám ơn Con. Cha để lá thư trong sách để mỗi ngày đọc và xét mình. Hầu dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại và tránh những lầm lỡ có thể xảy ra trong tương lai. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.
Các thánh thật hiền lành và khiêm tốn như Chúa Giêsu! Chúng ta chưa giống Chúa vì chúng ta chưa học và sống sự hiền lành và khiêm nhường Người. Nên hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy đến với Người và học nơi Người. Khi chúng ta học được sự hiền lành và khiêm nhường thì lòng chúng ta, gia đình và xã hội sẽ có bình an. Amen!
Lm. Phêrô Nguyễn Hương
---------------------------------
Tin mừng: Mt 11, 25-30.
Bạn thân mến,
Chúa Giê-su mời gọi bạn và tôi hãy học với Ngài có lòng hiền hậu và khiêm nhường, lời mời gọi này:TN 14-A49
Chúa Giê-su mời gọi bạn và tôi hãy học với Ngài có lòng hiền hậu và khiêm nhường, lời mời gọi này không làm cho bạn và tôi trở thành người nhụt chí hoặc trở thành người sống an phận, nhưng trái lại, nó sẽ khiến bạn và tôi trở thành người có sức mạnh hơn cả đội quân hùng hậu, và lòng cảm thông sâu sắc với những bất hạnh của tha nhân.
Lòng hiền hậu của Chúa Giê-su đã làm cho ông Phê-rô hối hận ăn năn, đã làm cho Mát-thêu thu thuế trở thành tông đồ tài năng, đã làm cho Gia-kêu lùn hoán cải cuộc sống, và nhất là, sự hiền lành này được thể hiện hằng ngày trong bí tích Thánh Thể trên bàn thờ. Chính sự hiền lành cách trọn vẹn này của Chúa Giê-su đã làm cho nhân loại nhận biết Cha tình yêu ở trên trời.
Giữa một thế giới thù hận và ghen ghét, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta học nơi Ngài sự hiền lành, chính là Ngài muốn bạn và tôi dùng sự hiền lành này, như một khí cụ của tình yêu, để chinh phục tâm hồn người khác về cho Chúa. Bởi vì sự hiền lành đích thực có sức mạnh tuyệt đối cảm hóa người dữ, thông cảm với người tội lỗi, hòa đồng với tha nhân, để khi người khác nhìn thấy sự hiền lành của chúng ta, thì họ cũng thấy được một Chúa Giê-su hiền lành trong cuộc sống.
Lòng khiêm nhường của Chúa Giê-su đã trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại, bởi vì nếu Chúa Giê-su chỉ là một vị Thiên Chúa muôn đời muốn cao sang không hề biết cảm thông với những đau khổ của con người, thì Ngài vẫn mãi mãi là Thiên Chúa chứ không phải con người. Nhưng khi khiêm nhường tự hạ làm con người như chúng ta, để cứu chuộc chúng ta, thì Chúa Giê-su đã làm một cuộc cách mạng lừng lẫy: nâng con người tội lổi lên làm con Thiên Chúa và được hưởng phần gia nghiệp Nước trời.
Cũng có những lúc bạn và tôi thật khiêm nhường trước mặt kẻ có chức quyền, nhưng lại hống hách với anh em đồng nghiệp, đó là khiêm nhường giả tạo; có những lúc bạn và tôi thú nhận trước mặt Chúa là mình quá kiêu ngạo nên nếm từ thất bại này đến thất bại khác, và hứa sửa đổi cách sống cho phù hợp với tinh thần Chúa dạy, nhưng sau đó thì kiêu ngạo vẫn cứ kiêu ngạo...
Bạn thân mến,
Làm người Ki-tô hữu thí nhất định phải có sự hiền lành và khiêm nhường, làm một tu sĩ hay linh mục thì càng phải có sự hiền lành và khiêm tốn gấp vạn lần giáo dân, bởi vì sự hiền lành làm cho khuôn mặt chúng ta giống Chúa Giê-su, và sự khiêm nhường làm cho chúng ta trở thành công cụ tuyệt vời của Ngài để rao giảng Lời Chúa cho mọi người.
Mọi người đang chờ bạn và tôi đem sự hiền lành và khiêm nhường này để chào đón và phục vụ họ, bởi vì con người thời nay không thích vũ khí tối tân hay các chính sách mị dân bằng lời nói trôn tru như mỡ heo. Nhưng người ta hân hoan chào đón người có lòng hiền hậu và khiêm tốn trong cuộc sống, bởi vì chỉ có hiền hậu mới xoa dịu nỗi đau của tha nhân, và chỉ có sự phục vụ khiêm nhường mới nâng phẩm giá con người của họ lên cao mà thôi.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
-----------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
---------------------------------
“Tất cả hãy đến với ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách ta và hãy học cùng ta, vì ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ được bình an. Vì ách của ta êm ái, gánh của ta nhẹ nhàng” (Mt 11:30).
Ôi! Còn lời êm ái, dịu ngọt, và thân tình nào hơn những lời mà Chúa đã nói với con hôm nay? Còn:TN 14-A50
Ôi! Còn lời êm ái, dịu ngọt, và thân tình nào hơn những lời mà Chúa đã nói với con hôm nay? Còn tấm lòng nào yêu thương và quan tâm lo lắng cho con hơn tấm lòng Chúa đang dành để yêu thương và quan tâm lo lắng cho con? Những gì mà Chúa nói hôm nay, nếu đem kết hợp lại với những gì mà Chúa đã nói ở nhiều trường hợp khác như việc biết con được dệt trong lòng mẹ lúc nào và bằng những chất liệu nào. Việc đếm những sợi tóc của con, và biết sợi nào ngày nào đang đen hóa trắng, sợi nào rụng xuống vì lý do gì, sẽ là một bài ca tuyệt mỹ ru con vào lòng thương xót Chúa..
Trấn an con lúc con gặp sầu buồn, lo lắng chưa đủ: “Sự khó ngày nào để cho ngày nấy, ngày mai mai lo”. Hôm nay, Chúa còn tình nguyện mang vác những gánh nặng của cuộc đời con. Chúa muốn đổi những gánh nặng cồng kềnh con đang mang bằng gánh nặng nhẹ nhàng, êm ái của Chúa. Chúa còn hứa ban bình an cho con nữa. Con dâm ra ngờ vực Chúa:
- Chúa ơi! Nhưng sao con thấy hơi ngại ngùng quá. Nghi ngờ quá. Con đến với Chúa cả mấy năm nay, tốn bao nhiêu tiền xin lễ mà bệnh cao máu, đau dạ dầy và mất ngủ của con vẫn y nguyên.
Con đau khổ, khóc lóc mấy chục năm mà người chồng bê bối, rượu chè, cờ bạc, bê tha, người vợ lăng loàn, se xua vẫn không thấy quay về với bổ phận gia đình, chăm lo con cái. Đứa con trai, con gái của con vẫn tiếp tục lang thang với chúng bạn, nghiện hút, và băng đảng. Bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu lời cầu, hết đền thánh này đến vương cung thánh đường khác, mà chưa thấy Chúa nghe.
Con lao đao, xuôi ngược, chạy hết hãng xưởng này đến hãng xưởng khác mà vẫn không có việc làm. Gia đình con vẫn lâm vào cảnh thiếu thốn, chật vật. Còn Chúa, Chúa vẫn lặng thinh.
Nước mắt, than van, và đau khổ. Con đến với Chúa, con cầu xin Chúa vậy mà Chúa vẫn làm thinh. Chúa vẫn chẳng trả lời con. Vậy thì làm sao con tin được Chúa muốn đỡ gánh nặng của con. Làm sao con tin được rằng Chúa sẽ nâng đỡ con. Chúa ơi! Con nghi ngờ quá, phân vân quá.
Không giận hờn, và không chấp nhất, Chúa chỉ nhỏ nhẹ nói với con:
- Này con. Con không tin rằng cha thương con và yêu con vì con quá khổ sở, vì con quá buồn phiền, và vì cha không trả lời con, không cho con những gì con xin. Nhưng con có bao giờ nghĩ rằng, chính cha đây trước cơn hấp hối kinh hoàng tại vườn Cây Dầu, cũng phải đau khổ thốt lên: “Lậy cha nếu có thể được, xin cất chén này cho con”. Vậy mà sau đó, cha cũng phải lủi thủi một mình chuốc lấy đau khổ, vác thập giá một mình lên núi Sọ. Chúa Cha xử với cha như thế đó. Con trả lời cha đi, trường hợp ấy, con sẽ cư xử ra sao?!
Ngay hôm nay, cha vẫn lủi thủi một mình trong các nhà tạm. Ở đó để chờ dịp gần gũi với chúng con. Ở đó để sẵn sàng chia sẻ với chúng con những khó khăn cuộc đời. Nhưng có được mấy người đáp lại.
Ngay cả con nữa. Có mấy lần con đến thăm cha?! Và những lần như vậy, con đến với cha như thế nào, và với tâm tình gì? Hay như con vừa kể lể cũng với tâm tình đòi hỏi, xin xỏ, và rầy rà?! Và khi không được như ý thì con đau khổ, chán nản, và bực bội. Rồi từ chán nản, buồn bực, con đâm ra nghi ngờ tình thương cha, nghĩ rằng cha không thương con.
Từ bình minh sáng tạo, con đã có trong thượng trí của cha. Con đã hiện hữu trước mắt cha. Con làm gì, đi đâu, và như thế nào thì cha đã biết rõ hết. Và trong cái biết ấy, cha đã dành cho con một sự săn sóc hết sức đặc biệt mà cha chỉ dành cho một mình con. Chỉ có con, trong những bối cảnh riêng mới có những săn đón ấy, mới có những yêu thương, chiều chuộng ấy. Một sự yêu thương và săn sóc đặc thù, riêng tư nhưng rất mực thiết tha.
Và tâm hồn con đã ngập tràn hạnh phúc, và để lòng mình trào lên lời tri ân mối tình bao la của Thiên Chúa:
- Vâng!. Lậy Chúa. Từ hôm nay, Chúa cứ việc tự tiện làm chủ và hướng dẫn đời con đi. Chúa làm gì mặc ý, con không dám phàn nàn, không dám cự nự nữa. Con sẽ mang ách của Chúa, và con sẽ cố học bài học hiền lành và khiêm nhường để thấy rằng ách Chúa êm và gánh Chúa nhẹ, và để con cảm được cái bình an tâm hồn.
Cái ách. Vâng, mỗi chiếc xe phải có một cỗ máy, tuy nặng, nhưng nhờ đầu máy ấy mà chiếc xe chạy như bay trên xa lộ, tưởng chừng như cái đầu máy không có và không phải là khối sắt nặng nề. Nhưng hơn thế nữa, tất cả sức mạnh, lực đẩy, và khả năng hoạt động của chiếc xe lại hoàn toàn tùy thuộc vào cái đầu máy, đến nỗi thiếu nó, hoặc nếu nó bị hư là cả chiếc xe nằm ụ.
Cái đầu máy xe kia chính là ách của Chúa, là luật Chúa, là sự tin tưởng, phó thác, và chấp nhận. Mới nghe ra, con tưởng như nặng nề, và khó khăn, vất vả. Nhưng nếu có nó, nếu giữ nó, và nếu thực hành nó, thì cả gánh nặng cuộc đời con dù có chất đầy chiếc xe khổ ải, thì nó vẫn cảm thấy nhẹ tâng, và chạy nhanh trên hành trình cuộc sống.
Sự bình an của Chúa, như lực đẩy của chiếc đầu máy, sẽ làm cho mọi nặng nề, bế tắc, và khó khăn trở nên dễ dãi. Với nó, con không phải lê bước một mình, và không phải tự mình mang vác lấy cái nhọc nhằn, vất vả, mà là chính Chúa, vì Chúa đã tình nguyện đỡ nâng, mang vác lấy thay cho con. Vậy lậy Chúa, này con xin đến với Chúa.
---------------------------------