Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 34-ABC Bài 101-150 Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ --------------------------------------
Năm A: Phúc Âm: Mt 25,31-46: “Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. “Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”. “Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta”. “Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!” “Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?” Khi ấy Người đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm B: Phúc Âm: Ga 18, 33b-37: “Quan nói đúng: Tôi là Vua”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” Chúa Giêsu đáp: “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” Philatô đáp: “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?” Chúa Giêsu đáp: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này”. Philatô hỏi lại: “Vậy ông là Vua ư?” Chúa Giêsu đáp: “Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm C: Phúc Âm: Lc 23, 35-43: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
Lễ Chúa Kitô Vua đã được Đức Pi-ô XI thiết định vào năm 1925 để khẳng định niềm tin của Giáo Hội vào quyền tối thượng của Chúa Giê-su trên mọi người, mọi gia đình và mọi xã hội nhân loại. Trước đây, Lễ Chúa Kitô Vua đã được ấn định vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng mười. Từ sau cuộc canh tân phụng vụ, Lễ nầy đóng lại Năm Phụng Vụ, như đỉnh cao của tất cả mầu nhiệm Đức Kitô.
Ed 34: 11-12, 15-17 Qua dụ ngôn người mục tử nhân lành, ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo rằng Đấng Mê-si-ABC mà muôn dân mong đợi sẽ còn hơn một vị vua, Ngài là người mục tử nhân lành tận tình chăm lo từng con chiên một, nhất là những con chiên ốm yếu nhất.
1Cr 15: 20-26, 28 Thánh Phao-lô gợi lên vương quyền của Đức Ki-tô. Thiên Chúa đã quy phục mọi sự cho Con của Ngài, và vào ngày tận thế, Chúa Con sẽ hoàn lại cho Cha Ngài một thế giới không còn bóng dáng của Sự Ác và Tử Thần.
Mt 25: 31-46 Tin Mừng trình bày quang cảnh Ngày Chung Thẩm ở đó Đức Vua vinh hiển mở cửa Nước Trời cho tất cả những ai đã yêu mến Ngài khi yêu thương anh chị em bất hạnh, những người mà Đức Vua Tình Yêu tự đồng hoá mình với họ.
BÀI ĐỌC I Ed 34: 11-12; 15-17
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào thời kỳ bi thảm nhất của lịch sử Ít-ra-en: những cuộc xâm lăng của đế quốc Ba-by-lon vào đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Sau khi vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-so đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất vào năm 598 trước Công Nguyên, Ê-dê-ki-en là một trong đoàn người ưu tú đầu tiên bị dẫn đi lưu đày.
Trong khi sống trong cảnh lưu đày ở Ba-by-lon, ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo một tai họa còn lớn lao hơn. Tai họa nầy bất ngờ xảy đến mười một năm sau đó khi quân Ba-by-lon triệt hạ kinh thành Giê-ru-sa-lem và phá hủy Đền Thờ (588-587 BC). Cuộc xuất chinh thứ nhất của quân Ba-by-lon là trừng phạt trong khi cuộc xuất chinh thứ hai chấm dứt vương quốc Giu-đa. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cực lực tố cáo hạnh kiểm của các nhà lãnh đạo dân Ít-ra-en là bất tài, chỉ lo cho mình mà không quan tâm gì đến quốc gia dân tộc. Họ là những mục tử gian ác đã dẫn dân chúng đến chỗ phải ly tán khắp nơi.
1. Dụ ngôn người mục tử nhân hậu.
Khi nỗi bất hạnh giáng xuống trên dân tộc mình, thì ngôn sứ Ê-dê-ki-en, trước đây loan báo tai họa, bây giờ loan báo niềm hy vọng. Sẽ đến ngày Đức Chúa sẽ đích thân cầm lấy vận mệnh của dân Ngài: Ngài sẽ là vị Mục Tử đích thật.
Sống trong cùng hoàn cảnh lịch sử với ngôn sứ Ê-dê-ki-en, nhưng không bị lưu đày như ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-ABC đã sử dụng cùng một hình ảnh để loan báo một tương lai tươi sáng hơn: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác…Các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Nầy Ta sẽ để ý đến hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Chính ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng…Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng” (Gr 23: 1-4). Chắc chắn, sấm ngôn này của ngôn sứ Giê-rê-mi-ABC đã là nguồn cảm hứng cho ngôn sứ Ê-dê-ki-en sáng tác dụ ngôn mà ông khai triển suốt chương 34 được trích dẫn trong bài đọc I nầy.
2. Sứ điệp hy vọng.
Trước hết, đại họa mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo được ứng nghiệm ngay sau đó. Quân Ba-by-lon đánh chiếm lần thứ hai, triệt hạ thành đô Giê-ru-sa-lem tàn phá Đền Thờ, bắt một số lớn dân chúng đi lưu đày, còn một số khác chạy trốn sang Ai-cập. Như vậy, đàn chiên tản mác khắp nơi. Đó là một thời kỳ thử thách, một thời kỳ “mây mù tăm tối” (hình ảnh truyền thống để gợi lên sự trừng phạt của Thiên Chúa).
Khi mây mù tăm tối bao phủ dân tộc, ngôn sứ Ê-dê-ki-en tuyên sấm rằng Thiên Chúa sẽ can thiệp. Chính Ngài sẽ đích thân chăn dắt đàn chiên của mình: “Chúng có tản mác đến tận đâu vào một ngày mây mù tăm tối, thì Ta cũng sẽ cứu chúng ra”. Ngài sẽ cho họ hồi hương trở về quê cha đất tổ. Đức Chúa sẽ đích thân băng bó tất cả những ai bị thương, bồi bổ những ai bệnh hoạn trong cơn thử thách, Ngài “sẽ dựa vào công lý mà săn sóc”.
Qua dụ ngôn này, ngôn sứ Ê-dê-ki-en lên án những kẻ cậy quyền cậy thế chà đạp những kẻ nghèo hèn khốn khổ, thấp cổ bé miệng, nhưng cũng loan báo một sứ điệp chứa chan hy vọng. Sứ điệp này được gởi đến cho những kẻ sống kiếp lưu đày tha hương và những nạn nhân xấu số của những cuộc xâm lăng, nhưng cũng tiên báo một sự thay đổi sẽ xảy đến trong lịch sử Ít-ra-en: sau cuộc hồi hương trở về, vương quyền sẽ không còn được khôi phục lại nữa. Chỉ một mình Đức Chúa sẽ là vị Vua Tối Cao của dân Ngài.
3. Tôn giáo tình yêu.
Qua dụ ngôn mục tử nhân lành, sứ điệp vị ngôn sứ gởi đến còn quan trọng hơn. Những mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Ngài được trình bày như những mối liên hệ đầm ấm thân tình bằng những hình ảnh chất chứa biết bao âu yếm, sôi nổi, nồng nàn được lập đi lập lại như một điệp khúc: “Con nào mất, Ta sẽ lo tìm kiếm; con nào lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh hoạn, Ta sẽ bồi bổ; con nào béo khỏe, Ta sẽ giữ gìn”. Ở nơi dụ ngôn người mục tử nhân lành hàm chứa một tôn giáo tình yêu. Đức Giê-su, khi lấy lại dụ ngôn này và tự nhận mình là Người Mục Tử Nhân Lành nầy, sẽ tự định vị mình vào trong truyền thống của vị ngôn sứ (Ga 10: 1-16; Mt 18: 12-14; Lc 15: 4-7).
Đức Chúa, Đấng trừng phạt dân Ngài, nhưng không quên họ và yêu mến họ, là một Thiên Chúa chí công vô tư: Ngài biết “phân xử giữa chiên và chiên, giữa dê và cừu”. Đây là hình ảnh mà thánh Mát-thêu lấy lại trong Tin Mừng hôm nay về Ngày Chung Thẩm.
BÀI ĐỌC II 1Cr 15: 20-26, 28
Cộng đoàn Cô-rin-tô mà thánh Phao-lô đã loan báo Tin Mừng, đa số là người gốc Hy-lạp, ngay cả những người không phải gốc Hy lạp cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Việc kẻ chết sống lại đặt ra cho họ một vấn nạn. Tại sao thân xác, vốn là chứng ngại ngăn trở linh hồn siêu thoát, lại được thăng hoa viên mãn; và vốn là ngục tù giam hãm linh hồn trong vật chất, lại được phục sinh? Đối với tư tưởng Do thái quan niệm con người như toàn thể, việc kẻ chết sống lại được cắm rể sâu vào trong niềm tin truyền thống từ nhiều thế kỷ. Thánh nhân dành đoạn kết của bức thư để trả lời cho những vấn nạn mà cộng đoàn Cô-rin-tô nêu lên.
1. Sự phục sinh của Đức Ki-tô và sự phục sinh của chúng ta.
“Đức Giê-su đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu”. Chúng ta đều phải chết vì thân phận của chúng ta liên đới với sự chết và tội lỗi ở nơi A-đam, nhưng được sống lại nhờ liên đới với Đức Ki-tô. Đức Ki-tô là Đầu của toàn thể nhân loại được tái sinh, Trưởng Tử của đoàn người đông đúc được sống lại. Với Ngài, trong Ngài và nhờ Ngài toàn thể con người của chúng ta, chứ không chỉ linh hồn, được cứu độ.
2. Vương quyền của Đức Ki-tô.
Lúc đó, thánh nhân triển khai tư tưởng của mình trong một thị kiến vĩ đại về Ngày Chung Cuộc. Sau khi đã tiêu diệt dứt khoát mọi thế lực của sự Dữ và cuối cùng là sự Chết, Chúa Con sẽ trao lại cho Chúa Cha vương quyền mà Chúa Cha đã trao cho Ngài. Như vậy mọi sự đều hoàn tất. Sứ mạng của Chúa Con được chu toàn. Lúc đó, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài muôn vật.
TIN MỪNG Mt 25: 31-46
Năm phụng vụ hoàn tất trên thị kiến vĩ đại mà truyền thống Kitô giáo gọi “Ngày Chung Thẩm”. Thị kiến nầy đóng lại bài diễn từ Cánh Chung, trong đó Đức Giê-su gợi lên những viễn cảnh nối tiếp nhau về ngày cùng tận của thế giới và ơn cứu độ của mỗi người (Mt 24-25)
1. Con Người.
Bức tranh được gợi hứng từ thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: Con Người ngự giá mây trời mà đến và Thiên Chúa trao cho người “quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người” (Đn 7: 13-14).
Ngai vinh hiển, sự hiện diện của các thiên thần vào ngày chung thẩm, là những nét đặc trưng của truyền thống ngôn sứ và truyền thống khải huyền. Nhưng hoạt cảnh này được soi sáng chủ yếu bởi một nhân vật huyền nhiệm được gọi là “Con Người”. “Con Người”, theo nguyên ngữ Híp-ri: “con cái của loài người”. Danh xưng Kinh Thánh này đã được gặp thấy trong sách Ê-dê-ki-en, đồng nghĩa với “một phàm nhân” như trong câu “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây” (Ed 2: 1). Trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “Con Người” là nhân vật xuất thân từ thiên giới, nhưng không kém một phàm nhân.
Như vậy, Đức Vua, được gọi là “Con Người” giáng trần để xét xử trần gian. Danh xưng này nhắc nhở trước tiên rằng Ngài cùng chia sẻ nhân tính của chúng ta. Nét đặc trưng nầy ngự trị toàn bộ hoạt cảnh. Vua-Thẩm Phán muốn liên đới với anh em đồng loại của mình, đặc biệt những kẻ nghèo hèn khốn khổ đến độ Ngài tự đồng hoá mình với họ: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã chăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã thăm viếng”.
2. Sự liên đới của Thiên Chúa với con người:
Cựu Ước thường hằng mặc khải Thiên Chúa đứng về phía những kẻ thấp cổ bé miệng, những kẻ nghèo hèn bị áp bức. Chính Ngài đích thân đảm nhận việc báo oán cho họ. Trong sách Xuất Hành, Thiên Chúa một cách nào đó đã tự đồng hoá mình với những người khốn khổ, bị áp bức: “Bất cứ mẹ góa con côi nào, các ngươi cũng không được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu…Nếu ngươi giữ áo choàng của người thân cận làm vật cầm cố, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặ; vì đó là chăn đắp duy nhất của nó, đó là áo choàng che thân nó; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu lên Ta, Ta sẽ nghe nó” (Xh 22: 21, 25-26). Sách Gióp mô tả những nguyên do Thiên Chúa trừng phạt nhân danh công lý theo cùng những từ ngữ loan báo Tin Mừng:
“Anh đòi anh em nộp của cầm mà chẳng có lý do, lại còn lột cả áo che thân của họ. Kẻ mệt nhoài, anh chẳng cho nước uống, người đói lả, anh từ chối bánh ăn. Anh trao đất đai cho kẻ có quyền hành, và cho người thần thế được định cư. Các quả phụ, anh đuổi về tay trắng, các cô nhi, anh bắt phải bó tay. Vì thế, cạm bẫy bủa vây anh tứ phía làm cho anh bất chợt phải sợ hãi kinh hoàng” (G 22: 6-11).
3. Đức Ái là tiêu chuẩn để xét xử:
Nét tiêu biểu của Kitô giáo đó là “Mến Chúa và yêu người chỉ là một”. Nhưng ai có thể công bố “mến Chúa và yêu người chỉ là một”, nếu không là Đấng ở nơi Ngài hiệp nhất Thiên Chúa với nhân loại chúng ta?
Hoạt cảnh Ngày Chung Thẩm, theo đó việc phân định giữa những người công chính và quân vô đạo được thực hiện trên tiêu chuẩn tình yêu, thật sự minh họa hùng hồn nhất nét tiêu biểu Kitô giáo, mến Chúa và yêu người chỉ là một: “Mỗi lần các ngươi làm (hay không làm) như thế cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm (hay không làm) cho chính Ta vậy”. Sau này, trong thư thứ nhất, thánh Gioan đã khai triển luật Đức Ái này vào trong cộng đoàn Ki-tô hữu: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mình mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4: 20). 4. Chiều kích Ki-tô giáo.
Được đặt vào trong bối cảnh lịch sử của nó, đoạn Tin Mừng nầy đã có âm vang ngay tức thời. Đức Giê-su đã từng gọi các môn đệ Ngài là những “kẻ bé nhỏ”, đặc biệt trong Diễn Từ Từ Biệt trước khi bước vào cuộc Khổ Nạn của Ngài: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy” (Ga 13: 33). Vào lúc thánh Mát-thêu ghi lại đoạn Tin Mừng hôm nay, những người Kitô hữu đang phải sống trong cảnh bách hại, bị ngược đãi và tù đày, chịu những gian truân tứ bề. Đức Giê-su dự phần vào những nỗi truân chuyên của họ. Không phải trên đường Đa-mát Chúa Ki-tô đã hiện ra và chất vấn với thánh Phao-lô, kẻ lùng bắt bách hại các Ki-tô hữu: “Tại sao ngươi bách hại Ta?” đó sao? Chắc chắn đoạn Tin Mừng hôm nay đã đem đến một niềm an ủi lớn lao biết là ngần nào không những cho những người Kitô hữu chịu bách hại, ngược đãi, tù đày. Bởi vì Đức Ki-tô đã tự đồng hóa mình với họ. Tuy nhiên, bản văn này có một tầm mức hoàn vũ hơn.
5. Chiều kích hoàn vũ.
Trong bối cảnh Chung Thẩm hùng vĩ: “Các dân thiên hạ sẽ tụ họp trước mặt Người”, Vua-Thẩm Phán ngỏ lời với hết mọi người, không phân biệt tôn giáo, dân tộc. Vì thế, “những kẻ bé nhỏ” cũng là tất cả những ai nghèo hèn khốn khổ trong cuộc đời này, chính họ mà Ngài cũng đã tự đồng hóa mình. Quả thật, trong sách Tin Mừng này, ngay từ khởi đầu sứ mạng công khai của mình, Chúa Giê-su công bố “Các Mối Phúc” được gởi đến hết mọi người: “Phúc thay ai…” (Mt 5: 1-10).
Khi nối kết diễn từ Chung Thẩm với diễn từ “Các Mối Phúc”, Ngài đem đến một khía cạnh mới mẽ. Ngài mở rộng sự tuyển chọn của Thiên Chúa vượt quá bên kia Kitô giáo. Tất cả những ai thực hành Đức Ái huynh đệ sẽ được định vị trong tinh thần của Đức Kitô: họ sẽ dự phần vào những lời chúc phúc của Chúa Cha.
Đây là ân ban trực tiếp của mầu nhiệm Nhập Thể. Ngôi lời Nhập thể không là một giai đoạn tạm thời: Thiên Chúa thật sự tháp nhập vĩnh viễn vào nhân loại. Và qua nhân loại, đặc biệt là những người nghèo hèn khốn khổ, bị áp bức, bị tước đoạt đến khốn cùng, Ngài cho chúng ta được tháp nhập vào Ngài. Hơn bất cứ đoạn Tin Mừng nào khác, Tin Mừng hôm nay chất vấn với mỗi người Ki-tô hữu chúng ta chỉ trên một điều: “làm hay không làm” cho anh chị em khốn khổ mà chúng ta gặp gỡ thường ngày là “làm hay không làm” cho chính Ngài. Sự khác biệt giữa những người Ki-tô hữu với những người khác chính là ở điểm này: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những điều đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít” (Lc 12: 47-48).
Ngày nay nói đến vua chúa ai cũng cho là chuyện của thời đã qua. Xưa kia hình ảnh vua chúa, quan quyền cao trọng bao nhiêu ngày nay bị lơ là bấy nhiêu. Quốc gia nào còn giữ được truyền thống hình ảnh hoàng gia sống động cũng chỉ là giữ hình thức truyền thống xưa. Gọi là hình thức vì người trong hoàng tộc không hưởng đặc ân như xưa. Nếu thực tài họ cũng làm việc như những công dân khác và cùng trách nhiệm pháp lí như mọi người. Thiếu tài không thực sự lãnh đạo, cũng chẳng quyền thế. Đại đa số hình ảnh vàng son thời vua chúa ngày nay đóng khung, lộng kiến trong lâu đài bảo tàng viện.
Câu hỏi đặt ra cho các Kitô hữu ngày lễ kính Chúa Kitô vua vì thế có lỗi thời chăng? Với Kitô hữu có danh, không thực hành đời sống đạo thì đại lễ, lễ kính, lễ nhớ. Tất cả đều lỗi thời vì đối với họ tôn giáo là lỗi thời. Với Kitô hữu chân chính, sống thực hành niềm tin thì ngày lễ kính Chúa Kitô vua là một ngày hết sức đặc biệt. Đặc biệt vì nhiều lí do. Lí do quan trọng hơn cả vì Ngài là vua tình yêu. Tình yêu ban sự sống. Sự sống vĩnh cửu. Chỉ có Đấng chiến thắng sự chết mới ban sự sống vĩnh cửu. Mừng lễ Chúa Kitô vua chính là mừng lễ Ngài chiến thắng tử thần. Chiến thắng này không phải riêng cho Ngài mà cho chính chúng ta. Mừng vua chúng ta chiến thắng khải hoàn. Người hưởng thành quả của chiến thắng là chính chúng ta. Lễ mừng kính Ngài là lễ tạ ơn Ngài thắng trận thay cho chúng ta.
Lí do thứ hai để mừng kính do tiên tri Êdekia đưa ra. Đó là tạ ơn một chủ chiên hiền từ, nhân lành, đầy lòng xót thương. Lòng nhân từ của chủ chiên tỏa lan đến toàn đàn chiên, bao gồm cả chiên mạnh khoẻ đến chiên đau bệnh, chiên trong ràn và chiên ngoài ràn.
Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau, con nào mập béo, Ta sẽ chăm sóc, và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính Ed 34,15 Lí do thứ ba để mừng vì hãnh diện, Đức Kitô chiến thắng điều mà toàn thể nhân loại thua, sợ, cố tránh nhưng không tránh được. Điều nhân loại mong tránh thì Thiên Chúa của sự sống đè bẹp dưới chân. Hình ảnh này rất gần với hình ảnh xưa kia Đức Trinh Nữ đạp đầu kẻ thù của nhân loại là con rắn, hình ảnh của satan. Người Con duy nhất của Mẹ là Đức Kitô đặt kẻ thù dưới chân. Kẻ thù đây là tử thần. Chính Ngài đã chiến thắng sự chết. Sự chết không còn làm chủ nữa, chúng không còn tác oai, tác quái nhưng đã bị đặt vào đúng vị trí, đúng chỗ của nó.
Lí do thứ tư mừng phần thưởng tương lai của mỗi chúng ta. Phúc âm đưa ra hình thời sinh tiền sống bác ái, yêu thương; khi chết cũng sẽ được yêu thương bồi đắp. Bác ái, yêu thương diễn tả qua hành động cụ thể trong cuộc sống và được chính Chúa Cha chúc phúc.
Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta.
Hình ảnh của những con chiên đau khổ, thương tật trong sách tiên tri Êdekia giờ trở thành hình ảnh của những con người bất hạnh vì ốm đau, bệnh tật, gây nên bởi cô đơn, buồn thảm. Hình ảnh con người ốm o, gầy còm, ho sặc sụa, khát khô họng được nhắc đến như hình ảnh chiên lạc. Bàn tay nâng đỡ vỗ về của chủ chiên được trao sang bàn tay của mọi người. Những bàn tay làm công việc của bàn tay chủ chiên. Chính vì làm công việc của chủ chiên mà chủ chiên chúc phúc, đón nhận và ban thưởng. Chủ chiên chia phần gia nghiệp nước trời của mình cho những ai cùng cộng tác, lao tác, chia sẻ công việc của chủ chiên vì thợ thì đáng hưởng công. Phần thưởng thứ hai dành cho những bàn tay nâng đỡ, vỗ về chiên đau bệnh, chiên lạc đến từ Thiên Chúa Cha. Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc đến lãnh thưởng. Ân phúc Thiên Chúa ban thưởng đến từ Thiên Chúa Cha. Đây là nguyên nhân nữa để mừng kính ngày lễ Đức Kitô vua.
Hôm nay là ngày Chúa nhật cuối năm phụng vụ, Giáo hội hướng lòng chúng ta về ngày chung thẩm, ngày mà mọi người sẽ qua đi và vũ trụ sẽ ra tro. Ngày đó không ai biết được nhưng chỉ biết một điều là ngày ấy Chúa Giêsu sẽ xuất hiện lần thứ hai với dáng vẻ uy nghi của một vị Vua Thẩm phán, có các thiên thần hầu cận, để phán xét kẻ sống và kẻ chết như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin kính.
Ngài sẽ phán xét thế nào ? Ngài sẽ phán xét theo tiêu chuẩn Ngài đã đề ra trong bài Tin mừng hôm nay : Tình yêu đối với tha nhân. Ngài đã đồng hóa Ngài với tha nhân trong nhiều dụ ngôn. Những ai thể hiện tình yêu ấy đối với Ngài qua tha nhân thì sẽ được thưởng, còn ai không yêu thương Ngài qua tha nhân thì sẽ bị phạt, đúng như quan niệm của dân gian: ”Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”: việc lành việc dữ sau cùng đều có thưởng phạt.
I. BỐI CẢNH NGÀY LỄ.
Hôm nay là Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lề Chúa Giêsu Vua để nhắc nhở cho mọi người hãy suy tôn, phục vụ và theo Ngài, đồng thời phải chuẩn bị tâm hồn chờ đợi Chúa đến trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
Đức Giáo hòang Piô XI đã thiết lập lễ này vào ngày 11.12.1925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan của Năm thánh 1925. Ngài thiết lập lễ này vì vào những thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết khác. Về phía Giáo hội, qua việc mừng kính tước hiệu là Vua của Chúa Kitô, Giáo hội khẳng định niềm tin trước sau như một của mình là tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô trên mọi con người, mọi gia đình, mọi xã hội và trật tự nhân loại.
Ngoài ra, để điều chỉnh một số lệch lạc trong đời sống đạo nơi một số con cái, Giáo hội là Mẹ nhắc nhở cho mọi người rằng Chúa Kitô không chỉ là người Anh hay người Bạn đồng hành mà Ngài còn là “Vua trên các vua, Chúa trên các chúa. Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời”.
II. MỘT NƯỚC CẦN CÓ VUA.
Người ta thường nói :”Kim chỉ phải có đầu”, trong một tập thể không thể có cảnh “cá mè một lứa” được, nhất là trong một nước. Hầu hết các dân tộc thời xưa đều mơ ước và tin rằng vua của họ là con Trời, vì chỉ có con Trời mới là toàn năng công minh, thấu suốt mọi sự, mới giúp dân, ban ơn cho dân muôn phần tốt đẹp. Họ thường gọi Vua làThiên tử, Trời có mắt, đèn Trời soi sáng, xin Trời phù hộ. Bên phương Đông, Đức Khổng Tử đã thấy rõ vua Nghiêu, vua Thuấn, Vũ vương, Văn Vương làm vua theo mệnh Trời, cho nên vương quốc thời cổ đại của các ngài thật lý tưởng.
Kinh thư viết :”Thiên hựu hạ dân, tác chi quân, tác chi sư” : Trời giúp dân, đặt vua cai trị, đặt thầy dạy dỗ (Thái hệ thượng 7). Nhận biết Trời đặt mình làm vua, các ông hết lòng hết sức vâng theo mệnh Trời để giúp dân. Vua Vũ Vương viết :”Duy kỳ khắc tướng Thượng Đế, sủng tuy tứ phuơng” : Chỉ vì phục vụ Thượng Đế, giúp nhân dân bốn phương.
Bên Tây phương, Ba tư, Ai cập, Hy lạp hay La mã đều coi vua là con Thần Trời. Dân Do thái khi chưa có vua, họ đòi tiên tri Samuel :”Thế nào cũng phải có vua cho chúng tôi”(1Sm 8,19). Và ai được chọn làm vua đều được thánh hiến bằng xức dầu tấn phong, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với tiên tri Nathanael :”Hãy đi nói với Đavít :Ta là cha nó, nó sẽ là con Ta”(2Sm 7,5.14 và Tv 2,7). Nếu vua trung thành thực hiện sự công chính trong vương quốc và bảo đảm thịnh vượng cho toàn dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ vua khỏi tay quân thù” (Tv 20,21 và 45,4-8). (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A, tr 192).
Truyện: nữ hoàng Elizabeth lên ngôi
Năm 1952, lễ đăng quang của nữ hoàng Anh Elizabeth là một nghi thức long trọng nhất của thế kỷ 20. Ba triệu người đứng chật các đường phố Luân đôn. Từ các thuộc địa Anh, các đoàn đại biểu trong sắc phục địa phương cũng có mặt. Nữ hoàng ngự giá trên chiếc xe ngựa bằng vàng. Hơn 10 sư đoàn trong quân đội hoàng gia diễn hành. Năm trăm chiếc khu trục cơ nhào lộn trên không.
Vua chúa và các nhà lãnh đạo hầu hết đều có mặt mang theo tặng vật cho vị tân nữ hoàng. Nhưng có lẽ quà tặng cao qúi nhất mà thế giới tặng cho nữ hoàng là ngọn cờ nước Anh lần đầu tiên được một người Tân tây lan cắm trên đỉnh Everest ở độ cao 8.846 mét vào chính ngày áp lễ đăng quang.
III. ĐỨC GIÊSU XƯNG MÌNH LÀ VUA.
1. Nơi Đức Giêsu xưng vương.
Sau phép lạ bánh ra nhiều, dân chúng hồ hởi muốn tôn Ngài làm vua, nhưng Ngài đã lẩn tránh vì Ngài không muốn cho dân chúng hiểu Ngài làm vua theo kiểu thế gian. Ngài chỉ nhận mình là Vua khi đứng trước toà án Philatô, với dáng vẻ tang thương tiều tụy, Ngài khẳng định Ngài là Vua: “Ông nói phải, Tôi là Vua”. Chính Philatô cho Ngài ngồi ở Gabata, ghế dành cho quan tòa. Như vậy, vô tình Philatô công nhận Ngài là Vua và Ngài sẽ xét xử dân Do thái.
Ngoài ra, ông còn truyền viết tấm bảng treo trên đầu Chúa Giêsu với hàng chữ I.N.R.I. (Jesus Nazareth Rex Judaeorum) có nghĩa là Giêsu Nazareth vua dân Do thái, tức là công nhận Đức Giêsu là Vua. Ngai vàng của Ngài là cây thập giá. Từ trên cao, Chúa nhìn xuống thần dân, giang hai tay ra để ôm lấy dân Ngài. Và diễn từ nhận chức của Ngài là :”Xin tha cho họ” và cao điểm là :”Mọi sự đã hoàn tất”.
2. Vương quốc của Ngài.
Vương quốc của Ngài không có tính cách chính trị . Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian như các vua chúa ở trần gian. Vương quốc mà Ngài lập ra không có lãnh thổ hay tài nguyên vì vương quốc ngài là vương quốc thiêng liêng nên vô biên giới và vĩnh cửu, nước không thuộc thời gian nhưng thuộc thời cánh chung. :”Nuớc Người sẽ không bao giờ cùng”(Kinh Tin Kính).
IV. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA MỤC TỬ.
Đức Giêsu là Vua không theo nghĩa như các vua trần gian, nhưng Ngài xưng mình là Vua Mục tử nhân lành. Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài đọc I). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố :”Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta”(Ga 10,10). Ngài còn nói thêm :”Ta đến để cho chiên Ta được sống và được sống dồi dào. Chính Ta là mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì chiên”.
Ở Nước Trời, Đức Giêsu là Vua đích thực muôn đời vì Ngài đã hạ mình xuống làm tôi trung vâng lời Chúa Cha hiến mình chịu chết trên thập giá để cứu chuộc muôn dân, đưa muôn dân về với Thiên Chúa Cha trong nước vĩnh phúc hằng sống.” Chính vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài, ban cho cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu để trên trời dưới đất và hoả ngục phải bái quì khi nghe danh thánh Giêsu” (Pl 2,6).
Nếu Đức Kitô là Vua Mục tử thì vương quốc của Ngài là vương quốc tình thương. Đặc điểm của công dân trong nước này là những con người bất hạnh, khổ đau. Chính Đức Kitô, vị Vua Mục tử, đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn nghèo khổ :”Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc vương quốc của Ngài là chính những hành động của tình thương.
V. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA THẨM PHÁN.
1. Ngài đã khẳng định vậy.
Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn tuyên xưng :”Và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Lòng tin của Hội thánh đã được xây dựng trên lời Chúa :”Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái”(Mt 25,31).
Ngai uy linh có nghĩa là ngai vinh quang, người Do thái quan niệm ngai vinh quang chỉ dành cho Thiên Chúa, các ngai khác dành cho các tông đồ (Mt 19,28). Khi nói Chúa ngự lên ngai uy linh là một cách mạc khải Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
2. Ngài phán xét như thế nào ?
a) Dựa trên tình thương.
Sự phán xét của Ngài không tùy thuộc vào kiến thức của chúng ta có, sự may mắn hay tiếng tăm của chúng ta đạt được, nhưng tùy theo vào sự giúp đỡ mà chúng ta đã làm cho người khác. Cha Mark Link nói :”Khi Chúa đến, Ngài không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Ngài sẽ cân đo trái tim của chúng ta yêu thương ra sao”.
Những điều Chúa nêu ra là cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, tiếp đón khách lạ, an ủi người bệnh, thăm viếng kẻ bị tù... Đó là những việc mà ai cũng có thể làm, đó là những sự giúp đỡ đơn giản cho mọi người cần đến mà chúng ta vẫn gặp hằng ngày. Không có ví dụ nào mở ra con đường đi tới vinh quang cho những người tầm thường nhất bằng ví dụ này.
Người Á đông chúng ta tuy không biết Thiên Chúa, nhưng có một quan niệm rất chính xác và cao sâu về Ông Trời : Ông Trời là chủ tể của mọi loài, không ai sống ngoài tầm kiểm soát của Ông Trời, sống theo ý Trời thì có phúc, làm ngược ý Trời thì bị phạt. Hai câu phản ảnh rõ nhất quan niệm trên là “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” : Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt được. Và còn một câu khác nữa cũng nói lên quan niệm ấy :”Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong : Người sống theo Trời thì còn, người nghịch với Trời thì mất.
Dù là dân đen hay vua chúa, dù nghèo hay giầu, dù trẻ hay già... cuối cùng rồi thì ai cũng chết và trình diện trước mặt Chúa, Vua Trời. Khi đó Vua Trời sẽ xét xử cuộc sống mỗi người dựa trên Luật Yêu thương. Người nào sống yêu thương là “thuận thiên” và sẽõ được “tồn” trong hạnh phúc vĩnh hằng. Kẻ sống mà không yêu thương là kẻ “nghịch thiên” và sẽ “vong” vĩnh viễn trong cõi trầm luâm. (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 564)
b) Giúp đỡ không tính toán.
Tất cả những người giúp đỡ không nghĩ rằng họ đã giúp đỡ Chúa Giêsu và tích trữ công đức đời đời cho mình. Họ giúp vì không thể không giúp, đó là bản chất tự nhiên không tính toán, phát xuất từ lòng yêu thương thật. Trái lại những người không muốn giúp đỡ người khác thường tỏ ra :”Nếu chúng tôi biết là anh thì chúng tôi đã sẵn lòng giúp”. Cũng có những người ra tay giúp đỡ nếu họ được người ta khen ngợi, cám ơn và công bố ra cho nhiều người biết, như thế không phải là họ giúp đỡ ai mà chỉ để chiều theo lòng tự ái tự tôn của họ. Giúp đỡ như vậy không phải là rộng lượng nhưng là ích kỷ trá hình. Sự giúp đỡ đẹp lòng Chúa phải là sự giúp đỡ không vì mục đích nào ngoài sự giúp đỡ cả.
Truyện: thánh Martinô thành Tours.
Ông là một quân nhân La mã và một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí , Martinô không có tiền, nhưng ông thấy người hành khất xanh xao và run rẩy vì lạnh, Martinô đã cho những gì ông có : ông cởi chiếc áo nhà binh đã sờn rách và xé một nửa cho người hành khất. Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ đang bao quanh Chúa Giêsu và Ngài đang mặc nửa chiếc áo lạnh nhà binh của ông. Một thiên sứ hỏi Ngài :”Tại sao Ngài mặc chiếc áo sờn rách đó ? Ai đã cho Ngài áo đó”? Chúa Giêsu trả lời :”Martinô, tôi tớ của Ta đã cho Ta”. c) Cho đi thì sẽ được.
Tất cả những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho Chúa mà những gì chúng ta làm cho Chúa thì không thể mất được. Những gì chúng ta làm cho tha nhân, dù nhỏ mọn như một chén nước lã thì cũng có phúc trước mặt Chúa. Trái lại, những gì chúng ta không làm cho tha nhân tức là không làm cho Chúa, mà đã không làm cho Chúa là một điều có lỗi. Do đó, Chúa sẽ xét xử chúng ta theo nguyên tắc :”Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng” : có công thì được thưởng, có tội thì phải phạt. Được thưởng hay bị phạt là do chúng ta định đoạt lấy, không ai có thể làm thay cho chúng ta được..
Truyện: cho đi thì sẽ được.
Một ngày mùa đông lạnh giá, Lady Grey, một phụ nữ qúi tộc người Anh, rất giầu có, đã cải trang làm một người hành khất đi ăn xin từng nhà trong thành phố Luân đôn. Đến một số nhà, bà bị xua đuổi một cách tàn nhẫn. Một vài nơi khác, bà chỉ được bố thí cho những thứ thừa thãi vất đi. Điều lạ là tất cả những người ấy là những gia đình giầu có. Thế rồi bà tìm đến một căn nhà lụp xụp nghèo nàn. Tại một túp lều xiêu vẹo, bà được một ông lão tàn tật ân cần mời vào sưởi ấm bên bếp lửa và cùng chia nhau một khúc bánh mì đen.
Hôm sau chính người nữ qúi tộc ấy sai các gia nhân đến tận nhà mời những người mà bà đã đến ăn xin tối hôm trước tới dự một bữa tiệc tại dinh thự của bà. Tất cả khách được hướng dẫn vào một phòng chiêu đãi sang trọng và mỗi người được đặt chỗ ngồi riêng dọn sẵn. Bấy giờ ai nấy thấy trước mặt mình là những món ăn y như những thứ mà họ đã đem bố thí cho “bà ăn mày” : chỗ thì củ khoai thối, chỗ thì miếng bánh mốc không ăn được, có nơi là một cốc nước lã bẩn thỉu, lại có nơi chỉ là chiếc đĩa trống không. Duy chỉ có chiếc đĩa trước mặt ông lão tàn tật đầy ắp những món ăn ngon lành sang trọng. Mọi người chưa hết ngạc nhiên thì bà qúi tộc xuất hiện và tuyên bố :”Hôm qua tôi đích thân đi ăn xin từng nhà để hiểu biết hơn về lòng nhân ái của qúi vị. Hôm nay tôi chỉ đáp lễ bằng cách dọn ra mời qúi vị những thứ mà qúi vị đã cho tôi. Tôi tin rằng qúi vị cũng sẽ được tiếp đãi như vậy trong bữa tiệc mai sau truớc mặt Thiên Chúa là Đấng bây giờ đang đứng trước nhà qúi vị để trông chờ tấm lòng nhân ái của qúi vị”.
(Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 139)
Nghe xong câu truyện trên đây, nhất là qua bài Tin mừng của Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, chúng ta thấy cả hai đều qui về một mục đích là nêu cao và làm sáng tỏ một vấn đề hết sức hệ trọng trong đời sống đạo đức : đó là yêu thương giúp đỡ tha nhân, đặc biệt với những kẻ hẩm hiu cùng khốn là yêu thương chính Chúa và Chúa chỉ căn cứ vào đó mà đối đãi lại với chúng ta. Nếu Thiên Chúa là Tình yêu và yêu thương là chính bản tính của Ngài, thì đạo của Ngài hẳn phải là đạo yêu thương. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương và Chúa coi những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính Ngài. Rồi trước khi chấm dứt cuộc đời rao giảng Tin mừng ở trần gian, Chúa còn quả quyết :”Ta bảo thật, những gì các ngươi làm cho một trong những người bé nhỏ của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục nhập thể nơi người anh chị em, và Ngài tiếp tục nhập thể nơi mỗi người Kitô hữu hôm nay. Ngài cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ. Ngài cần đến môi miệng chúng ta để nói lời an ủi khuyến khích. Ngài cần đến trí hiểu và con tim chúng ta để sống tình liên đới yêu thương. Ngài cần đến đôi chân chúng ta để đến với mọi người. Laudetur Christus Rex in saecula saeculorum. (Chúa Kitô Vua đời đời được ca ngợi ).
"Nhân" là nguyên nhân, "Quả" là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt do mầm ấy phát sinh. Trong nhân có qủa và trong qủa có nhân. Chính trong Nhân hiện tại có hàm chứa cái Qủa tương lai. Nhân thế nào thì Qủa thế ấy. Thưởng phạt ngày sau đều tùy thuộc vào những hành động tốt hoặc xấu của chúng ta thực hiện ngày hôm nay. Nói chung, ai trong chúng ta cũng muốn được hưởng hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Chúng ta biết con đường lên thiên đàng là thiên đàng mà. Nếu chúng ta muốn được hưởng an lạc ngày sau, chúng ta phải sống vui tươi và an bình ngày nay. Biết rằng cuộc đời ai cũng có những sự chen lẫn giữa vui sướng và khổ sầu. Sự khổ đau trong cuộc sống không phải luôn luôn là sự tiêu cực. Vì sự đau khổ cần thiết như là những thử thách để giúp ta tinh luyện cho cuộc đời sáng thêm. Ví như lửa thử vàng, gian nan thử đức vậy.
Kết thúc Năm Phụng Vụ, Giáo Hội mừng Đại Lễ Chúa Kitô Vua, Vua Các Vua, Chúa Các Chúa. Chúa Giêsu là trung gian giao hòa giữa trời với đất. Ngài đã nhập thể để rao truyền tin mừng cứu độ. Chính Ngài là trung tâm và là cốt lõi của tất cả mọi sự hiện hữu. Ngài mở lối dẫn chúng ta vào hưởng niềm vui hạnh phúc Nước Trời. Con đường Chúa đi là con đường yêu thương trong khổ giá. Muốn lãnh nhận ơn cứu độ, chúng ta phải dõi theo lối bước của Ngài. Hai giới răn nồng cốt tóm kết tất cả lề luật là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em như chính mình. Đức yêu thương được thể hiện qua sự giúp đỡ, chia sẻ, thăm viếng và sống tình bác ái với nhau. Con đường đức ái là con đường tuyệt hảo dẫn vào quê trời.
Chúa Giêsu dẫn bước chúng ta vào cuộc sống thật ngày sau qua dụ ngôn phân định Chiên và Dê. Chiên và dê chỉ là hình ảnh tượng trưng gởi theo một sứ điệp nói về sống bác ái vị tha. Chiên dê, phải trái, bên này bên kia hay thiên đàng hỏa ngục là ranh giới để phân biệt tốt xấu, lành dữ và thưởng phạt. Phúc thay những ai được xếp vào hàng bên phải: Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ (Mt 25, 34). Không phải tự nhiên hùa theo đám đông mà được ơn cứu độ. Mỗi người phải phấn đấu từng ngày để nên trọn lành. Chúng ta có thể quan sát hình ảnh một thửa ruộng trong đó có lúa và cỏ dại. Khi chủ ruộng vun xới chăm sóc cả hai lúa và cỏ đều được hưởng phân bón và tưới gội đồng đều. Lúa và cỏ cùng chung hưởng nắng ban mai, sương sớm và mưa nguồn. Phát triển tốt nhưng kết qủa thì khác nhau, lúa trổ sinh bông hạt và được thu hoặch cho vào kho lẫm. Còn cỏ dại bị người ta chà đạp và thu gọn đem thiêu đốt.
Theo giáo lý Nhà Phật, nhân là năng lực phát động, Quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả và nếu không có Quả thì không có Nhân. Cũng chính trong cái Quả hiện tại, đã có hình bóng của Nhân quá khứ. Vì thế, mỗi vật đều có thể gọi là nhân hay quả: Đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và qủa tiếp nối nhau và đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền. Nhân qủa đi đôi và ảnh hưởng tới nhau như gieo gió thì gặt bão. Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi. Đôi khi chúng ta tự hỏi rằng tại sao những người làm ác mà họ vẫn sống phây phây lại giầu có sung sướng, trong khi những người hiền lành, đạo đức lại rơi vào cảnh túng quẫn và khổ đau. Câu trả lời là đời sống tạm này chưa kết thúc, chúng ta chưa thể kết luận thế nào là hạnh phúc thật.
Một Nhân không thể sinh ra Qủa, mà phải nhờ vào môi trường vạn vật chung quanh. Sự vật trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một Nhân nào có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều Nhân khác. Sự liên đới trùng trùng điệp điệp giữa muôn loài làm thành bước tiến của thiên nhiên vạn vật. Không có thụ tạo nào đứng riêng biệt một mình trong vũ trụ. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói một cách giản dị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra gì được cả, nếu để một mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng, đất nước và nhân công. Có biết bao nhiêu yêu tố để hình thành một chuỗi Nhân Quả. Trong bất cứ một loài thụ tạo nào cũng có mỗi liên hệ chằng chịt với thế giới hiện hữu chung quanh.
Về phương diện tinh thần, những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tính tình tốt hay xấu trong hiện tại. Tư tưởng và hành động quá khứ là Nhân, tính tình và nếp sống trong hiện tại là Quả. Tính tình và nếp sống hiện tại là Nhân, để tiếp tục tạo ra hành động trong tương lai là Quả. Nhân Qủa tiếp nối không ngừng qua những hành vi chúng ta thực hiện hằng ngày. Chúng ta có thể thay đổi và sửa sai những lầm lỡ trong qúa khứ để tạo thành Nhân tốt. Không bao giờ trễ, nếu chúng ta biết bắt đầu lại. Mỗi ngày chúng ta có thể tạo nhân tốt, hậu qủa sẽ tốt. Sống trong xã hội, con người phải tương trợ và có ảnh hưởng lẫn nhau. Tục ngữ nói: Gần mực thì đen, gần đèn thị rạng. Một người làm phúc, muôn người đều được hưởng nhờ. Một cây trổ hoa, cả vườn cây thơm hương.
Sống bác ái vị tha là một bổn phận cao quý của con người. Chúng ta thường gặp thấy các Tăng Ni Phật Giáo đi khất thực. Các Tỳ-kheo đi một mình hay từng nhóm, không đứng trước cửa chợ mà đi theo thứ tự, từ nhà này sang nhà khác, không phân biệt, mắt nhìn xuống và yên lặng đứng đợi trước mỗi cửa nhà để xem thức ăn có được đặt vào bình bát không. Khất thực là xin vật thực của người đời để nuôi thân mà cũng còn có bổn phận nhắc nhở chúng sinh làm việc phúc đức. Trong Đạo Công Giáo, Kinh Bổn có dạy thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối: Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Cho khách đỗ nhà. Chuộc kẻ làm tôi. Chôn xác kẻ chết. Thương linh hồn bảy mối: Lấy lời lành mà khuyên người. Mở dạy kẻ mê muội. Yên ủi kẻ âu lo. Răn bảo kẻ có tội. Tha kẻ dể ta. Nhịn kẻ mất lòng ta. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Đây là những mối phúc quan trọng giúp đỡ tha nhân về vật chất và tinh thần. Thật ngạc nhiên khi chúng ta nghe Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nói về ngày phán xét. Ngài phán xét về thực hành đức yêu thương hơn là về những sa ngã phạm tội khác. Được thưởng hay bị phạt đều tùy thuộc vào việc thực hành mười bốn mối này.
Con người không thể nên tốt một mình, nhưng phải tương trợ lẫn nhau mà sống. Người ta thường nói: Thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba yếu tố kết thành sự thành công. Chúng ta cần có tha nhân để cùng chia sẻ nâng đỡ, cần có cuộc sống xã hội để cộng tác xây dựng và cần có người đồng hành để chung vai sát cánh gánh vác công việc. Ngày phán xét sau cùng, thẩm phán sự sống sẽ hỏi chúng ta về sự liên đới Nhân Qủa giữa người với người. Với những người tạo Nhân tốt qua việc bác ái, sẽ được nghe những lời an ủi: Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước (Mt 25, 35).
Bất cứ vị thánh nào cũng có trái tim yêu thương rộng mở. Các Ngài biết chia sẻ và dâng hiến. Hiến dâng cuộc đời cho Chúa và phục vụ tha nhân. Không có sự liên đới với tha nhân, chúng ta khó có thể nên trọn lành. Tha nhân tốt hoặc xấu vẫn có thể sẽ giúp chúng ta nên tốt lành. Chúng ta có thể tìm tựa nương đức ái nơi những người khốn cùng, nghèo đói, cô đơn, bệnh hoạn, tù đầy và thất vọng. Họ chính là hình ảnh của Đấng đã dám thí mạng vì yêu. Giúp đỡ những kẻ bé mọn và cùng khốn nhất là chúng ta đang làm cho chính Chúa, Chúa Giêsu đã phán: Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta' (Mt 25, 36).
Thật đáng phải run rẩy và sợ hãi khi chúng ta phải đối diện với sự phán xét sau cùng. Thiên Chúa nhân từ nhưng công bằng vô cùng. Giờ phán xét sẽ không có một ai khác chống lưng cho chúng ta. Chúng ta cũng không còn điểm tựa nào khác để biện hộ. Sự thật phơi bầy trước tôn nhan chói lòa của Tạo Hóa. Chúng ta gieo Nhân nào thì sẽ được gặt Qủa đó. Trong cuộc lữ hành trần thế, biết bao lần chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau khổ, đói khát và cùng quẫn của anh chị em, giờ đây chúng ta phải đối diện: Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: 'Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng (Mt 25,41).
Ngày phán xét, Chúa sẽ không chất vấn chúng ta về bao nhiêu việc vĩ đại đã thực hiện. Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ: Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời (Lc 10,20). Thiên Chúa không đếm bao nhiêu giờ chúng ta đã đọc kinh, cầu nguyện, lần hạt, tụ họp sinh hoạt… Chúa sẽ nhìn xem trái tim của chúng ta đã mở rộng yêu thương đến mức nào. Chúng ta đã chia sẻ gì cho những kẻ bé mọn nhất của Chúa. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta qua ý muốn của Chúa, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Chúa lại dành quyền cho chúng ta lựa chọn. Hạnh phúc thay những ai được Chúa cho đứng về phía bên phải: Còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu" (Mt 25,46).
Lạy Chúa, đã rất nhiều lần chúng con đã thưa rằng: Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu? (Mt 25,44). Chúa trả lời: Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta'. (Mt 25,40). Xin Chúa khơi dậy lòng yêu thương bác ái nơi tâm hồn, để chúng con biết cùng chia sẻ. Chúng con cảm tạ danh Chúa muôn ngàn đời. Amen.
Hôm nọ, có người đàn ông đem đến cho tôi một tượng chuộc tội khá lớn. Bàn tay Chúa Giê-su chịu đóng đinh bị sút ra khỏi thanh ngang của cây thánh giá. Ông nhờ tôi đóng lại cây đinh bị sút để tượng Chúa Giê-su chịu nạn được gắn chặt trở lại vào thập giá như trước đây.
Tôi hỏi ông: “Một việc đơn giản như thế, sao ông không tự làm lấy, đem đến nhờ tôi làm gì mất công.” Ông trả lời: “Tôi không dám đóng đinh Chúa, sợ xúc phạm đến Người.”
Vậy mà mấy tuần sau, ông nầy lại vác rựa chém người hàng xóm, may có người can ngăn kịp thời, nếu không thì ông ta đã chém chết một hình tượng sống động của Thiên Chúa.
Nhiều người cung kính cúi đầu trước tượng ảnh thánh và không bao giờ dám xúc phạm đến ảnh tượng thánh do tay người phàm làm ra, nhưng lại ngang nhiên xỉ vả, mắng chửi, đánh đập những người chung quanh là hình tượng sống động của Thiên Chúa do chính Ba Ngôi Thiên Chúa dựng nên mà không áy náy lương tâm.
Sở dĩ như thế cũng chỉ vì người ta không nhận ra những người đang sống chung quanh mình là những hình tượng sống động của chính Thiên Chúa. Những hình tượng sống động nầy vẫn đáng trọng hơn những bức tượng bằng thạch cao, bằng gỗ đá… do tài năng con người tạo nên.
Chúng ta thử so sánh: bức tượng Đức Mẹ hay thánh Giu-se bằng thạch cao trên cung thánh nầy và những người đang chung sống chung quanh ta, bên nào trọng hơn.
Chắc chắn nhiều người sẽ bảo rằng: tượng Đức Mẹ trên cung thánh trọng hơn các bà các cô đang ngồi trong nhà thờ nầy. Tôi cho rằng nói như vậy không đúng. Thật ra, các bà các cô, các ông ngồi trong nhà thờ nầy trọng hơn tượng Đức Mẹ hay tượng các thánh. Tại sao?
• Thứ nhất là vì: Tượng Đức Mẹ chỉ là hình ảnh của Đức Mẹ, do bàn tay người phàm tạo ra bằng thạch cao, bằng gỗ đá, không có linh hồn, không có sự sống; trong khi những con người chung quanh ta đây là hình ảnh sống động của Thiên Chúa, có linh hồn, có sự sống, có trí khôn, do chính Ba Ngôi Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Chúa.
• Thứ hai: Chúa Giê-su lập bí tích Thánh Tẩy (rửa tội) để tháp nhập ta vào thân mình Chúa như cành nho tháp vào thân nho, như bàn tay nối liền cơ thể, để ta được trở thành phần thân thể của Chúa Giê-su. Các bức tượng thánh không được vinh dự đó.
• Thứ ba: Chúa Giê-su lập bí tích Thánh Thể để ban Thịt Máu Người cho chúng ta, để chúng ta được nên cùng máu thịt với Người, được tiếp nhận sự sống đời đời của chính Người thông ban. Các bức tượng thánh không được vinh dự như thế.
• Thứ tư: Thiên Chúa Ba Ngôi còn ngự trị trong tâm hồn ta như trong đền thờ cao quý của Chúa. Các bức tượng thánh không được ân huệ lớn lao đó.
• Thứ năm: Mai đây, các bức tượng thánh sẽ bị mai một theo thời gian, còn chúng ta sẽ được Chúa cho lên thiên đàng hưởng phúc trường sinh với Chúa. Không một bức tượng thánh nào được diễm phúc lớn lao như thế.
Nói như thế không phải là xem thường ảnh tượng thánh nhưng để nhấn mạnh rằng nếu chúng ta tôn kính và không bao giờ dám xúc phạm ảnh đến ảnh tượng thánh, thì chúng ta cũng phải đối xử y như thế đối với anh chị em chung quanh.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su khẳng định với chúng ta rằng mọi người chung quanh chúng ta, dù bần cùng cơ cực, dù đau yếu bệnh tật, dù bị tù đày hay bị ruồng bỏ… cũng đều đáng được tôn trọng, đáng được yêu thương và phục vụ vì họ là hiện thân của Chúa Cứu Thế, là phần thân thể của Chúa Giê-su.
Những ai cho người đói khát đang lang thang trên các vỉa hè một bát cơm thì Chúa Giê-su nói là họ đã cho Người ăn, vì người đói khát đó cũng chính là Chúa; những ai cho người rách rưới một tấm áo thì Chúa Giê-su nói là họ đã cho Người mặc, vì người rách rưới đó cũng chính là Chúa… Như thế, Người dạy rằng mọi kẻ quanh chúng ta là hiện thân của Người, làm gì cho họ là làm cho chính Chúa.
Nếu hôm nay chúng ta chửi mắng, chà đạp, gây buồn phiền đau khổ cho những người chung quanh thì đến ngày ra trước toà phán xét, Chúa Giê-su sẽ phán với chúng ta rằng: "Hỡi quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào chốn cực hình dành sẵn cho ma quỷ và các thần ác, vì xưa kia ngươi đã đánh đập, chửi mắng, xỉ nhục Ta…”
Bấy giờ chúng ta sẽ biện bạch rằng: Lạy Chúa, Chúa phán xét như vậy thật là oan cho con, vì có đời nào con dám đánh đập, chửi mắng hay xúc phạm đến Chúa!”
Chúa Giê-su sẽ trả lời rằng: “Những lúc các ngươi làm điều đó cho các anh em bé mọn của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta.”
Hôm xưa, khi ông Sao-lê (tức là thánh Phao-lô khi chưa trở thành tông đồ của Chúa) hăm hở tìm bắt những người tin theo Chúa Giê-su tại thành Đa-mát. (Nên nhớ là vào thời điểm đó Chúa Giê-su đã sống lại và lên trời rồi.) Ông bị quật ngã và có tiếng Chúa Giê-su vang lên giữa thinh không: "Sao-lê, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phao-lô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9)
Sự kiện nầy chứng tỏ bắt bớ các ki-tô hữu là bắt bớ Chúa Giê-su.
Thánh Ca-mi-lô Len-li là đấng sáng lập “Hội Dòng Tôi Tớ các bệnh nhân”. Ngài luôn nhìn thấy Chúa Giê-su nơi các bệnh nhân, đến nỗi nhiều lần mang thức ăn cho họ, ngài nghĩ họ là Đức Ki-tô nên nài xin họ ban ơn và tha thứ tội lỗi cho mình. Ngài đứng trước mặt họ với với thái độ cung kính như thể đang ở trước nhan Chúa vậy. Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy chúng ta bài học tối quan trọng trong đời người môn đệ, đó là phải biết nhận ra Chúa nơi mỗi anh chị em đang sống chung quanh chúng ta và hết lòng yêu thương phục vụ Chúa nơi những người đó.
Đó là cốt tuỷ của giáo lý công giáo. Đó là kim chỉ nam cho đời sống đạo. Đó là chìa khoá mở cho ta vào cửa thiên đàng.
Vì tham vọng chính trị điên cuồng, nhiều vị vua Israel trước đây đã đẩy dân của mình sa vào thảm hoạ. Họ không còn chăm lo cho người dân nữa. Vì thế, Tiên tri Ezekiel đã báo cho mọi người biết chính Thiên Chúa mới là mục tử đích thực, Ngài sẽ đòi lại chiên từ tay các mục tử không xứng đáng của nhà Israel để quy tụ lại và dẫn dắt họ. Và chính Đức Kitô là vị Mục Tử có tất cả phẩm chất mà Ezekiel đã loan báo. Do đó, trong sự trang trọng của ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm ngày khải hoàn của vương quốc Chúa Giêsu Kitô. Ngày đó, Người sẽ hoàn tất công trình sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa Cha, Người sẽ hiển trị trong vinh quang và quyền năng của một vị Chúa Tể vũ trụ vạn vật, tất cả sẽ quy phục dưới chân Người.
Dụ ngôn ngày phán xét được viết theo thể văn khải huyền giúp ta hình dung việc Chúa Giêsu Kitô vị Vua - Mục Tử phân xử chiên và dê, tức người lành kẻ dữ. Người phân xử dựa trên luật tình yêu. Người lành hay người công chính là người biết sống tình yêu Thiên Chúa nơi anh chị em chung quanh mình. Còn ngược lại không sống tình yêu với mọi người là kẻ dữ, không xứng đáng đi vào vương quốc tình yêu của Chúa Giêsu Kitô.
Những dụ ngôn trước đây, ông Vua là Chúa Cha. Nhưng ở đây chính Chúa Giêsu được coi là Đức Vua sẽ đến xét xử mọi người. Hình ảnh người mục tử tách biệt chiên với dê rất quen thuộc đối với người Israel thời đó. Ban ngày chiên và dê gặm cỏ chung, nhưng đêm xuống, vì dê không chịu được lạnh nên người mục tử phải tách chúng ra để giữ cho ấm. Việc này gợi cho ta hình ảnh Vị Mục Tử nhân lành là Chúa Giêsu Kitô luôn quan tâm chăm sóc đoàn chiên của mình bằng tình yêu đích thực, nên người biết rõ từng con và gọi đúng tên của chúng. Trong dụ ngôn này, khi xét xử vào ngày chung thẩm, Vị Vua Giêsu cũng dựa trên một lề luật duy nhất là tình yêu để xét xử tất cả mọi người, dựa trên tình bác ái mà mọi người dành cho tha nhân để quyết định vận mạng chung cuộc của họ.
Thiên Chúa là tình yêu: vì yêu nên Ngài đã sáng tạo và cũng vì yêu Ngài đã thực hiên công trình cứu độ. Chúa mời gọi những ai tin theo Ngài sống giới răn quan trọng nhất là: yêu thương. Bởi vì trong Vương quốc Chúa Giêsu Kitô thiết lập không có chỗ cho hận thù chia rẽ, không là nơi của ghen ghét, đố kỵ nảy sinh, không chào đón lối sống ích kỷ, thờ ơ. Vương quốc này là nơi ở của tình yêu, là nơi con người thực thi lòng quảng đại, nơi mọi người biết sống để tha thứ và cùng trải lòng ra cho nhau. Trong cuộc sống trần thế này, nếu biết yêu thương thì sẽ gặp Nước Trời. Trần gian chính là nơi gieo mầm yêu thương của Vương quốc Chúa Giêsu. Ngày chung thẩm chỉ là lúc gặt hái kết quả. Vì vậy, mỗi Kitô hữu ngay từ bây giờ hãy sống và gieo mầm tình yêu bằng lòng bác ái, bằng sự hy sinh, bằng nếp sống vì mọi người. Xin ban Thánh Thần Chúa đến biến đổi chúng con, để chúng con cũng có một con tim, khối óc và hành động như Chúa.
Nói đến sức mạnh, chúng ta tự nhiên sẽ nghĩ đến những chàng trai võ sĩ thân hình lực lưỡng, cân đối rắn chắc,với những bắp thịt vạm vỡ, với những quả đấm thôi sơn ngàn cân. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng nghĩ đến những trận bão táp, những cơn lũ lụt phá đổ cây cối nhà cửa làng mạc, đê điều, đường sá, cầu cống. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng thường nghĩ tới những đám cháy lớn thiêu rụi cả một khu rừng, thiêu huỷ các tầng lầu,hoặc động đất san bằng nhiều thành phố, giết hại hàng triệu người trong vài giây đồng hồ. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng liên tưởng đến những cuộc chiến tranh hoặc chiến tranh thế giới giết hại bao sinh mạng, tàn phá bình địa nhiều thành phố làng mạc nhà cửa dinh thự đền đài. Nhưng có lẽ nhiều người trong chúng ta quên rằng, còn có một sức mạnh vạn năng khác, mãnh liệt hơn cả, quyết thắng tất cả nhưng lại luôn luôn ở trong tầm tay của mình. Đó chính là sức mạnh niềm tin tôn giáo. Niềm tin tôn giáo không thể nào bị bóp nghẹt do bất cứ quyền lực nào. Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể xoá được những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người, không thể nào loại bỏ được niềm tin tôn giáo.(x.nguoitinhuu.com; Lm Trần quý Thiện).
Trước toà án Philatô, Đức Giêsu đã biểu lộ sức mạnh niềm tin tôn giáo “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho Ngài” ( Ga 18,11). Tin vào Sự Thật, mà “Sự thật sẽ giải thoát các con”cho nên Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”(Ga 18,37). Bởi vì “Ta là đường,là sự thật và là sự sống”. Kết thúc năm phụng vụ, tận cùng của thời gian,Giáo hội suy tôn Đức Giêsu – Vua Vũ Trụ - Vua Niềm Tin. Đức Giêsu là vua không phải theo kiểu trần thế, cũng không theo nghĩa chính trị. Đức Giêsu là vua niềm tin, vua tình yêu.Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của sự thật và “ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Vương quốc trần gian do con người thiết lập bằng sức mạnh, thường đem lại sự giàu sang và vinh quang. Đức Giêsu từ chối loại vương quốc huy hoàng do Satan đề nghị: Nếu ông quỳ gối thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông mọi vương quốc làm sản nghiệp. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêza không? Đức Giêsu đáp: của Xêza hãy trả cho Xêza, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đặc biệt trong phiên toà xét xứ, Philatô hỏi Đức Giêsu: Ông có phải là vua dân Do thái không? Đức Giêsu đồng ý nhưng xác minh: Nước tôi không thuộc về thế gian này (Ga 18,36).
Vương quốc Đức Giêsu là vương quốc sự thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Vương quốc đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza chỉ cai trị thể xác loài người, còn vương quốc Đức Giêsu chiếm trọn lòng người.Thế lực của Xêza là quân đội, khí giới, nhà tù. Sức mạnh vương quốc Đức Giêsu là niềm tin, là yêu thương, tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị giới hạn, còn vương quốc Đức Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng đã và đang chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêza, chỉ còn vương quốc sự thật và niềm tin là tồn tại muôn đời. Chính niềm tin tôn giáo dạy chúng ta rằng: mục đích tối thượng của các tôn giáo là hướng con người đến chân thiện mỹ.Qua không gian thời gian,trải qua bể dâu của lịch sử với những thao thức băn khoăn của kiếp người, con người luôn luôn tìm đến niềm tin tôn giáo. Con người tiếp nhận sự sống từ chính nguồn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời.Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Thiên Chúa thì không thể có sự sống.Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người vì Thiên Chúa yêu thương con người.Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thù ghét Ngài.Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa.Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi người đều là hình ảnhThiên Chúa. Chỉ xuyên qua niềm tin và tình thương con người mới đến được với Thiên Chúa. Với sức mạnh niềm tin, chúng ta khẳng định rằng: trên vạn nẻo đường của cuộc đời mỗi người, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu Thiên Chúa luôn có mặt để hướng dẫn nâng đỡ chúng ta.
Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội Việt Nam hôm nay phải chăng là khủng hoảng về niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống?
Trong những ngày này, bên cạnh những thông tin u ám về triển vọng kinh tế quốc gia, cũng đồng thời diễn ra một làn sóng khiến niềm tin và tính đoàn kết xã hội bị tổn thương. Chế độ trong lúc bấp bênh, với những thất bại không thể hàn gắn một sớm một chiều về kinh tế, đang nỗ lực dẹp làn sóng chỉ trích với bàn tay sắt chế áp những tiếng nói đối lập. Một vài gương mặt cũ tiếp tục bị cầm tù, một số gương mặt mới bị bổ sung vào danh sách triệt hạ. Tuy nhiên, nhân dân quá mất niềm tin, thể hiện ở chỗ đồng tiền quốc gia giờ đây như một cục than bỏng tay mà giới có tiền muốn nhanh chóng đẩy đi, để ôm vào các tài sản có tính bền vững như vàng và bất động sản. Cú sốc lãi suất, tỷ giá, giá vàng và lạm phát đang diễn ra hiện nay sẽ là một cú thôi sơn vào chính quyền hiện tại. Định mệnh chông chênh. Khi lòng tin không còn, mọi tuyên bố của quan chức không còn sức nặng. Người Việt Nam đang thực sự mất phương hướng, làn sóng rút tiền khỏi ngân hàng, đem ký gửi niềm tin vào vàng và bất động sản, đang là mối hiểm họa cận kề đẩy Việt Nam xuống lề vực thẳm. Lãi suất ngân hàng ngày hôm nay đã lên tới mức báo động 18%, khiến người ta mơ hồ hình dung tới địa ngục tài chính thời năm 2008. (x.Blog Lãng ngày 12/11/2010). Ngoài chợ các thứ thực phẩm tăng vọt, thu nhập chả tăng đã thế thực phẩm lại toàn nhiễm chất nọ, chất kia. Đau nhất là yêu quê hương, mua gì cũng nhất quyết tìm hàng Việt Nam trừ cái gì Việt Nam không làm được mới mua của nước khác sản xuất (hạn chế mua hàng Trung Quốc), nay lại biết tin hàng Việt Nam là mua của Trung Quốc rồi dán mác Việt Nam vào. (x.Blog Người Buôn Gió, 17.11.2010).
Niềm tin không có tai, có mắt, có mũi, nhưng nó lại hiển hiện trên gương mặt, hoặc hạnh phúc rạng ngời của một cá nhân, một xã hội, hoặc chỉ còn là vẻ vô cảm, thờ ơ lạnh lẽo của cá nhân ấy, xã hội ấy…Giải cứu niềm tin xã hội Việt Nam hôm hay cần mọi chính sách, chủ trương lấy lợi ích người dân làm trọng. Chỉ cần các quy chuẩn pháp luật xã hội hãy thực sự công bằng, minh bạch, để người dân từ đó điều chỉnh hành vi, cách ứng xử. Sự giải cứu đó, không mất tiền. Nhưng cần rất nhiều đến tấm lòng, tấm lòng vì dân, vì lợi ích một dân tộc dân chủ, giàu mạnh, văn minh và văn hóa. (x.Kim Dung,bvnpost on 21.10.2010). Con người sinh ra trên cõi đời này để làm gì và để đi về đâu? Đó là những câu hỏi lớn mà ngàn đời con người không ngừng đặt ra cho mình khi đứng trước những mâu thuẫn bất trắc của cuộc sống. Nghĩ cho cùng, mỗi người chỉ tìm thấy giải đáp cho câu hỏi ấy nhờ ánh sáng sức mạnh niềm tin tôn giáo. Ánh sáng niềm tin ấy hướng dẫn con người đến yêu thương và phục vụ tha nhân. Khi con người biết sống cho người khác thì con người sẽ tìm thấy chính mình, thấy lý tưởng, thấy ý nghĩa cuộc sống.
Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong vương quốc Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Mừng lễ Chúa Giêsu - Vua Vũ Trụ - Vua Niềm Tin, chúng ta hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tất cả con người mình, từ tư tưởng lời nói cho đến việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện công lý và tình yêu hoà bình.
Thông lệ, cứ vào cuối năm, các đơn vị thường hay tính sổ xem năm qua mình đã làm được gì. Tiêu chí đánh giá kết quả đạt được ấy cũng không giống nhau. Doanh thu của anh nông nghiệp hẳn khác với anh công nghiệp và dịch vụ; hay ta cũng không thể đem chuyện đạo đức của người Công giáo mà gán cho một Phật tử… Từ những thói quen người ta vẫn làm như thế, khi nhìn vào phụng vụ hôm nay, ta sẽ chẳng ngạc nhiên về bài Tin Mừng mà Giáo hội chọn đọc. Ở bài Tin Mừng này, sáng lên tiêu chí đánh giá trong vương quốc của Thiên Chúa và viễn tượng cánh chung của thế giới con người.
Tiêu chí đánh giá trong vương quốc của Thiên Chúa
Nghe qua hai lời phán quyết của Con Người (chính là Đức Giêsu) dành cho hai nhóm người trong ngày chung thẩm, người ta thấy sáng lên một tiến trình gồm hai yếu tố: tương quan và yêu mến. Ở khía cạnh tương quan, ta thấy mọi người bị đòi buộc phải có mối tương quan khắng khít với Con Người, thông qua cách hành xử của họ trong mối tương quan với tha nhân. Nói một cách khác, trong vương quốc của Người Con, mọi người bị phán xử dựa trên tương quan họ có với Con Người. Tương quan ấy chỉ có được khi người ta bày tỏ hành vi yêu mến dành cho người khác, đặc biệt là những kẻ thua thiệt, nghèo hèn.
Tiêu chí đánh giá thứ hai trong vương quốc của Thiên Chúa là yêu mến. Lòng yêu mến mà Thiên Chúa đòi hỏi chẳng nặng nề, khó khăn gì. Chúng không là của cải hay thứ gì vượt quá sức ta. Chúng chỉ là tấm bánh dành cho người đói, chén nước dành cho người khát, lời hỏi thăm dành cho người đang vất vả, lao tù… Tất cả những chuyện ấy mọi người đều có thể làm được với con tim rộng mở và lòng thương cảm. Và tất cả những thứ tưởng chừng nhỏ bé ấy lại dệt nên tấm vé thông hành cho mỗi người chúng ta tiến vào Nước Trời. Bởi như thánh Augustinô đã từng nói rằng, trong Nước Trời, người ta không bị phát xét điều gì ngoài lòng yêu mến.
Viễn tượng cánh chung của thế giới con người
Từ hai tiêu chí được dùng để đánh giá trong Nước Trời sẽ giúp ta đón nhận viễn tượng cánh chung một cách dễ dàng hơn. Rất nhiều khi người ta nhìn viễn tượng này với cảm giác sợ sệt. Ít ai nghĩ rằng khi lìa bỏ cõi tạm, qua mối tương quan mật thiết với Đức Kitô, họ sẽ tiến vào Vương Quốc của Vua Tình Yêu. Mà tình yêu thì ngọt ngào, làm cho tâm hồn người ta bay bổng. Vậy tại sao phải sợ khi được tiến vào vương quốc ấy? Chỉ những người nào không sống trong bầu khí tình yêu, không dám sống tình yêu với Thiên Chúa, với tha nhân thì mới sợ mà thôi.
Hôm nay Giáo hội mừng kính lễ Đức Kitô Vua vũ trụ. Ngoài những ý nghĩa thường nghe, một điều chúng ta cũng cần lưu tâm đó là chúng ta chẳng cần phải chết thì mới được vào trong vương quốc của Thiên Chúa. Ngay khi sống ở trần gian này, chúng ta cũng đang sống trong vương quốc có Đức Kitô là Vua. Nói cách khác, Nước Trời đang hiện diện ngay đây. Thế nhưng điều khác lạ đó là trong Nước Trời tại thế, người ta có thể chuyển từ hàng ngũ “dê” sang “chiên”, còn trong Nước Trời mai hậu thì mọi chuyện đã rõ ràng, phân minh.
Tóm lại, cuối năm người ta tổng kết để nhìn lại quá khứ và vạch ra kế hoạch cho năm tới. Hy vọng đây cũng là dịp để mỗi người Kitô hữu nhìn lại và biết mình đang ở hàng ngũ nào: “chiên” hay “dê”, để có thể trông cậy vào tình yêu của vị Vua đang cai trị và quyết tâm đổi mới không ngừng, hầu luôn ở số những người được “Cha chúc phúc”.
Gợi ý suy niệm
• Anh chị có an tâm vào tương quan giữa mình với Thiên Chúa? • Hành động nào anh chị có thể làm để cải thiện mối tương quan ấy? HV. Đaminh, Gò Vấp
Đã có ngày sinh, rồi cũng sẽ có ngày tử. Vũ trụ này, từ mặt trời đến các tinh tú, đã có ngày sinh rồi: TN 34-ABC109
Đã có ngày sinh, rồi cũng sẽ có ngày tử. Vũ trụ này, từ mặt trời đến các tinh tú, đã có ngày sinh rồi cũng sẽ có ngày tàn. Thế nào thì cũng phải có ngày tận cùng của trái đất và nhân loại. Có cần phải có một ngày cánh chung như thế không nhỉ?
Cần chứ: Để con người hiểu được ý nghĩa về sự hiện hữu của mình khi sống trên mặt đất. Để nhân loại biết được có một Đấng Cao Cả, quyền phép vô cùng đã dựng nên vũ trụ này và tất cả những thứ trên mặt đất, chứ không phải tự nhiên mà chúng có. Và nhất là để con người thấy được sự CÔNG BÌNH mà khi sống ở cuộc đời, người ta chỉ thấy đầy dẫy những bất công, cay đắng mà không làm sao nói được.
Thêm một sự kiện quan trọng nữa mà bài Tin Mừng hôm nay nói tới: Sau ngày tận thế, tất cả nhân loại phải xách chiếu hầu toà. Công lý phải được lên ngôi. Sự thật phải được bừng sáng. Trong vẻ uy hoàng và uy nghi, Chúa Giêsu, vị Vua của toàn vũ trụ sẽ tiến ra xét xử. Tất cả mọi vua chúa, quan quyền với mọi quyền lực trong tay, bây giờ, ô sao ủ rũ thế? Sự phán xét này cần thiết phải có. Để những kẻ lừa dối nhân loại phải bị trừng trị. Những kẻ suốt đời làm toàn điều ác mà cứ mãi phây phây, có khi lại còn được tung hô ca ngợi phải bị báo oán. Tiêu chuẩn duy nhất để dựa vào mà xét xử là tiêu chuẩn Tình Yêu, lòng bác ái, lòng yêu thương và chữ Tâm nồng nàn. Nhân loại sẽ được xếp thành hai loại.
Loại bên phải: là những người được ân thưởng, Phần thưởng vĩnh cửu sẽ dành cho những người biết mở rộng con tim và bàn tay, để thương yêu và giúp đỡ người khác. Có một điều diệu kỳ mà giờ này mới khám phá ra là Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với những người nghèo. Những gì mà ta làm cho người nghèo, thì Chúa nhận cho đấy là làm cho chính Chúa. Chúa nợ người ấy và bây giờ được ân thưởng. Loại bên trái: là những người sẽ phải lãnh lấy án phạt. Vì họ dửng dưng, vô cảm trước những khổ đau của đồng loại. Và như vậy là họ lạnh lùng với chính Chúa. Đấy là chưa muốn nói tới những sự ác độc, bóc lột, lừa đảo, lợi dụng những người nghèo, nghèo cả về vật chất, về tinh thần và cả quyền lực. Những người có vết máu trên tay ấy, dĩ nhiên sẽ là những người đầu tiên bị Vua Vũ Trụ Giêsu kết án.
Câu hỏi gợi ý: 1* Theo bạn cần phải có ngày phán xét chung hay không? 2* Bạn sẽ là người đứng vào bên phải hay bên trái?
Đoạn Tin Mừng hôm nay đặt chúng ta vào trong quang cảnh hùng vĩ của cuộc phán xét chung. Ở đó, TN 34-ABC110
Đoạn Tin Mừng hôm nay đặt chúng ta vào trong quang cảnh hùng vĩ của cuộc phán xét chung. Ở đó, Đức Kitô giữ vai trò xét xử bá nhân bá tánh. Vậy thì sẽ phải xét xử ra làm sao? Hơn nữa, mỗi người có những hoàn cảnh, những nhiệm vụ, những khả năng riêng, do đó quả cân nào sẽ phân định tội trạng và công phúc?
Thế nhưng, đối với Chúa Giêsu mọi sự xem ra lại đơn giản. Muôn dân thiên hạ cuối cùng được phân chia thành hai loại được đặt ở bên phải và bên trái của Ngài. Tiêu chuẩn để phân biệt cũng rất đơn giản: Đã làm gì cho những kẻ bé mọn. Đối xử với những kẻ bé mọn, đói khát, trần truồng, tù tội, đau yếu là đối xử với chính Chúa vậy.
Sự phân xử của Chúa Giêsu trong ngày phán xét làm cho cả người lành lẫn kẻ dữ phải ngạc nhiên sửng sốt. Mọi sự sẽ dễ dàng hơn nếu như mỗi người trong cuộc đời của mình đã có lần được gặp Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt, với một bảng tên rõ ràng và một lý lịch minh mạch. Biết bao nhiêu người đã xả thân để giải phóng thánh địa chỉ vì đó là nơi đã ghi dấu tích sự hiện diện của Chúa, huồng hồ là gặp Chúa đói khát, trần truồng, đau yếu và tù tội. Ai có thể lại làm ngơ.
Nhưng cái làm cho chúng ta lúng túng đó là Chúa Giêsu đã đồng hoá mình với mỗi người trong anh em chúng ta, với những con người chúng ta gặp trong cuộc sống thường ngày tại khu phố, tại trường học, trên đồng ruộng, nơi công sở, ngoài chợ ngoài đường và nhất là với những kẻ làm chúng ta khó chịu vì cái nghèo nàn, thô kệch và quấy rầy của họ. Mọi người đều ngạc nhiên.
Nhưng Đức Kitô trong cương vị Đấng xét xử, đã tuyên bố: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất là các ngươi đã làm cho chính ta. Và những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất là các ngươi đã không làm cho chính Ta. Thế là đã rõ. Đức Kitô xét xử theo tình yêu chúng ta đã có hay không có đối với anh em đồng loại, nhất là đối với những người hèn mọn về chức tước, danh vọng và của cải. Vương quốc của Đức Kitô chính là vương quốc của tình yêu. Giáo Hội tôn vinh Đức Kitô là Vua, nhưng Ngài không muốn ngự trên ngai vàng để mọi người bái phục, nhưng Ngài đã đến phục vụ những kẻ hèn và đồng hoá mình với họ.
Phụng vụ Chúa Nhật tuần cuối năm phụng vụ đề cập đến ngày cánh chung. Đức Giêsu lại đến trong thế: TN 34-ABC111
Phụng vụ Chúa Nhật tuần cuối năm phụng vụ đề cập đến ngày cánh chung. Đức Giêsu lại đến trong thế gian để xét xử thế gian, để phân biệt người lành kẻ dữ. Người lành thì được Thiên Chúa cho hưởng sự sống vinh quang với Người, kẻ dữ thì chịu án phạt trần luân. Tuy bài tin mừng chỉ nói đến việc chăm sóc những kẻ hèn mọn: cho họ ăn, uống, mặc, thăm viếng khi tù đày, … nhưng đó lại là một lối nói đại ý để ám chỉ chung hết tất cả những việc làm đạo đức mà con người cần phải thực hiện cho nhau và những việc làm nào không nên làm. Những việc làm đạo đức như một chất liệu để xây đắp vững chắc cho ngôi nhà vĩnh cửu trong một vương quốc mà những người muốn được bước chân vào vương quốc đó phải dày công thực hiện. Thiên Chúa không chấp nhận cho những kẻ dữ tồn tại trong vương quốc của Người (c 41).
Qua bài Tin Mừng này, xin chia sẻ những ý tưởng sau:
1. Vua như mục tử săn sóc đoàn chiên mình.
Đức Giêsu được tôn vinh là Vua. Nhưng là vị vua không giống như bao vị vua chúa trần gian, dùng sức mạnh và quyền lực của mình để thống trị thần dân. Tước vị vua nơi đức Giêsu được ví như một người đứng đầu để dẫn dắt thần dân của mình. Cai trị thần dân không dùng đến sức mạnh hay quyền lực từ bản thân mình, nhưng là uy lực của tình yêu. Người mục tử hiểu đoàn chiên mình thế nào, biết đoàn chiên mình đang cần những gì, và sẵn sàng làm bất cứ thứ gì để lo cho đoàn chiên của mình dù phải hy sinh tính mạng khi gặp sói dữ, thì nơi đức Giêsu cũng thể hiện chính những điều đó. Và, chỉ có uy lực của tình yêu mới có thể khiến cho người mục tử dám hy sinh cả đến tính mạng của mình để bảo vệ, tìm sự an lành cho đàn chiên.
Nói cách khác, Đức Giêsu là vua vũ trụ nhưng là vị vua cai trị thần dân bằng sức mạnh của tình yêu. Bởi thế, trong vương quốc của Người, khi tình yêu được thăng hoa thì không có chỗ cho những bất công và hận thù. Chỉ có tình yêu mới có thể dẫn đưa dân đến nơi an bình. Chỉ có tình yêu mới nói lên rằng “nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi.”
2. Vua như vị thẩm phán xét xử công minh.
Đức Giêsu được tôn vinh là vua. Một vị vua của sự công minh chính trực, phân minh rõ ràng điều tốt và điều xấu, người lành kẻ dữ. Chiên và dê được phân tách để được lãnh thưởng và chịu án phạt. Người ngự đến trong vinh quang không phải là để ban ân sủng hay để cứu chuộc loài người, nhưng là một sự ngự đến để xét xử trần gian. Đối với những ai siêng năng làm việc và làm việc tốt, điều đó ắt sẽ được trọng thưởng. Đối với những kẻ ích kỷ, chỉ biết sống cho mình, nghĩ đến mình nhiều hơn kẻ khác, sẽ bị luận phạt một cách công minh.
Vua chúa trần gian xét xử theo quyền lực của mình, phân minh công trạng theo sự phán đoán của cá nhân, hoặc phán xét theo lối người thân nhẹ tội và được tha, kẻ ngoại bang nặng tội và chịu án phạt. Sự phán xét của Thiên Chúa không dựa trên những yếu tố đó. Người phán xét dựa trên giá trị lương tâm của mỗi con người. Người ta có thể lừa dối được nhiều người chung quanh, nhưng không ai có thể lừa dối được lương tâm của mình. Trong cuộc phán xét đó, sẽ không có chỗ cho những lời biện hộ gian dối, sẽ không tồn tại cho những lời biện hộ thiếu sự công bằng. Sự tố cáo nơi lương tâm mỗi con người trước nhan Thiên Chúa sẽ là những yếu tố chính để đức Vua, Thiên Chúa hiển trị, xét sử công minh.
Vào cuối năm phụng vụ, Giáo Hội muốn chúng ta nhìn lại cuộc sống của mỗi người để cải thiện. Cải thiện để trở nên tốt hơn, xứng đáng hơn để lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa đã hứa ban cho mỗi người chúng ta. Cải thiện cuộc sống mình để bình an trong cuộc phán xét của Thiên Chúa và cải thiện của sống để xứng đáng là thần dân sống trong nước Chúa.
Để vào Vương Quốc Tình Yêu, con người phải có Tình Yêu - Tình yêu Thiên Chúa và Tình Yêu tha nhân: TN 34-ABC112
Để vào Vương Quốc Tình Yêu, con người phải có Tình Yêu - Tình yêu Thiên Chúa và Tình Yêu tha nhân - Chúa Giêsu luôn luôn nhắc nhở về Giới Luật Yêu Thương trong xuyên suốt cuộc hành trình loan báo Tin Mừng của Ngài. Đường về Vương Quốc Tình Yêu không có con đường nào khác ngoài “Con đường Tình Yêu Giêsu”.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều thuộc vào hai điều răn ấy.” (Mt.34-40) Yêu mến Thiên Chúa
Chúa Giêsu đã lặp lại một giới răn quan trọng trong Đệ Nhị Luật về điều luật yêu thương đối với Thiên Chúa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Đnl. 6,5).
Ta sống trong cuộc đời, mọi suy nghĩ và hành động đều phải nhắm đến mục đích tôn vinh Danh Thánh Chúa. Chính nhờ thế, mà mọi suy nghĩ và hành động được thánh hóa và định hướng theo ý ngay lành vì Thiên Chúa là Đấng toàn thiện. Thánh ý Thiên Chúa luôn là Chân Thiện Mỹ và mọi việc làm của con người theo thánh ý Ngài là để tôn thờ Ngài và làm ý định của Ngài thành hiện thực trong Vương Quốc Tình Yêu của Ngài từ ngay ở cuộc đời này và cho đến đời đời. Như Chúa Giêsu đã dạy ta cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời”.
Chính khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa, chúng ta biết thao thức và tìm về nguồn vĩnh cửu. Chúng ta biết tự hỏi và luôn nhìn lại từng bước đi của đời mình, như chàng thanh niên đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành, con phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc. 10,17).
Chính khi ta yêu mến Thiên Chúa, ta mới biết đâu là chân giá trị của cuộc đời, để chúng ta biết chọn lựa, để chúng ta đừng “rời bỏ” hướng đi đúng đắn của đời ta chỉ vì những lợi lộc phù du. “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc,17-22).
Chính khi chúng ta biết yêu mến Thiên Chúa, chúng ta biết nương tựa nơi Ngài, trông đợi nơi Ngài, đặt niềm tin nơi Ngài, chứ không trông đợi vào sức mạnh ở trần gian. “Chúng ta chẳng phải là một thế hệ chỉ biết trong ngóng nơi trần thế sự tiến bộ nhất thời sao?” (Gioan Phaolô II. Thư gởi giới trẻ, số 5).
Chính khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, ta mới thủy chung với Thiên Chúa. Hoàn toàn phó thác nơi Ngài.
Yêu người thân cận
Chính từ lòng mến yêu Thiên Chúa giúp ta biết yêu mến tha nhân và chia sẻ chân tình những buồn vui trong cuộc sống.
"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt. 25,34-36).
Nói như cách nói của ĐGH Bênêđictô XVI, thế giới hôm là “một thế giới tan nát vì chia rẽ và hận thù”. Có biết bao người đói khát, lạc lỏng, trần trụi, bệnh hoạn, tù tội… trước những ánh mắt lạnh lùng của nhiều người sống phung phí, xa hoa, quyền lực, đàn áp, tàn bạo, tom góp…
Không chỉ là cơn đói thân xác mà còn là cơn đói tâm linh. Không chỉ là tù tội thân xác, mà còn là tù tội tâm hồn. Có biết bao người bị giam cầm trong thứ ngục tù ý thức hệ chính trị, tôn giáo, triết học, y học… xem nhẹ đạo lý, phi nhân, trong muôn hình vạn trạng phương cách hủy hoại những điều cao quý thiêng liêng của con người, như phá thai, khủng bố, buôn người, mafia…
Thay vì làm cho thế giới tốt đẹp hơn, nhiều người vì những lợi nhuận trước mắt, vì những quyền lợi riêng lẻ, đã làm bất cứ chuyện gì có thể làm được để đạt được mục đích lợi lộc ích kỷ của mình, gây ra biết bao điều bất hạnh cho người khác.
Rõ ràng, một thế giới tan nát vì thiếu tình thương.
Thánh Augustinô đã khuyên: “Ta hãy cùng nhau ao ước Thiên Quốc, hướng lòng về Quê Trời, chúng ta cảm thấy mình là lữ khách nơi trần thế này” (Chú giải Phúc Âm thánh Gio-ABCn, bài giảng 35,9).
“Ao ước Thiên Quốc, hướng lòng về Quê Trời” bằng chính việc xây dựng một thế giới yêu thương ngay tại trần thế để ta chuẩn bị vào Vương Quốc Tình Yêu vĩnh hằng của Thiên Chúa”. Về Vương Quốc Tình Yêu, phải đi con đường Tình Yêu như Thầy Giêsu đã yêu thương nhân loại đến hiến tế mạng sống mình vì nhân loại trên Thập Giá.
Mỗi người cho nhau điểm tựa yêu thương, ta hướng tâm hồn lên cao là “đường về Vương Quốc Tình Yêu”duy nhất, không thể là đà trong những con đường dục vọng thấp hèn không có lối thoát ở trần gian.
"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.”
Để đạt được điều đó, Chúa đã cho ta thấy bức tranh ngày phán xét, trong đó, không có gì khác ngoài tình yêu mà con người dành cho nhau.
Trong tập truyện “Điểm tựa yêu thương”, có câu chuyện ngắn “Lời hứa” đáng cho ta suy ngẫm:
Vì xa cách nhau đến 5 tuổi, nên mọi người vẫn nói thật kỳ lạ khi chúng tôi lại giống nhau đến thế. Tôi và em gái có đường nét trên gương mặt rất giống nhau và dĩ nhiên, chúng tôi đều có mái tóc dài đỏ hoe. À, ít ra tôi vẫn còn tóc cho đến khi bắt đầu trải qua liệu pháp hóa trị. Những lọn tóc dài đỏ hoe của tôi rụng từng nắm khi quá trình trị liệu diễn ra.
Tôi sờ lên mái đầu đã trọc lóc của mình. Nước mắt ứa ra. Giờ thì mọi người sẽ không nói chúng tôi giống nhau nữa. Cô em Marlanea đang bay từ Montana sang thăm tôi. Nó không biết trông tôi sẽ tệ đến thế nào. Tôi muốn chuẩn bị tránh cho nó bị sốc hay ngăn nó thấy những gì nó sẽ chứng kiến. Tôi đã luôn trông nom nó, cố gắng bảo vệ nó an toàn, tránh xa mọi tổn hại Con bé ra đời vào ngày sinh nhật lần thứ năm của tôi. Mẹ tôi nói rằng nó là quà sinh nhật của tôi. Tôi xem việc đó là nghiêm túc và tôi yêu thương nó bằng tất cả trái tim mình.
Chúng tôi lớn lên bên nhau không rời nửa bước. Chúng tôi chính là những người bạn tốt nhất của nhau. Cha mẹ chúng tôi vẫn thường nói lẽ ra chúng tôi phải là hia chị em sinh đôi vì chúng tôi giống nhau quá nhiều, và chúng tôi quá thân thiết với nhau.
Thậm chí chúng tôi suy nghĩ cũng giống nhau nữa. Khi đi mua sắm, chúng tôi thường mua những món quà nhỏ cho nhau – từ áo thun cho đến tách cà-phê – nhưng hầu như lần nào chúng tôi cũng mua cho người kia cùng một món. Chúng tôi chia sẻ một sự gắn bó mà hầu hết mọi người đều không hiểu được.
Giờ đây là khi đã trưởng thành, chúng tôi sống ở hai bang khác nhau. Con bé gọi điện thoại cho tôi, khi tôi “A lô”, ngay lập tức, nó hỏi: “Em biết có chuyện không ổn. Nói em biết đi, chuyện gì vậy?”.
Không còn ngạc nhiên về khả năng kỳ bí khi biết trước có chuyện bất ổn xảy ra của cô em, tôi đành kể cho nó nghe. Chúng tôi lặng im, cùng khóc thầm. Những giọt nước mắt tôi không thể khóc vào sáng sớm hôm đó giờ đây tự nhiên tuôn ra trong lúc tôi trò chuyện với em gái qua điện thoại.
Từ lúc biết được tôi bị ung thư, gần như ngày nào con bé cũng gọi điện thoại. Trong giọng nó lúc nào cũng có sự lo lắng nhưng dù sao cũng luôn tươi tắn. Hàng tuần, con bé gửi cho tôi một tấm thiệp vui, một tia hy vọng rực sáng khiến tôi tin rằng cuộc đời sẽ lại bình yên.
Trong một cuộc trò chuyện đẫm nước mắt qua điện thoại, con bé nói với tôi rằng nó biết chắc tôi sẽ không qua đời vì ung thư.
Tôi hỏi trong nước mắt: “Vậy à, sao em biết?”.
“Bởi vì khi còn nhỏ, chúng ta đã từng hứa rằng chúng ta chỉ có thể qua đời nếu người còn lại cũng sẵn sàng ra đi. Mà em thì chưa sẵn sàng chết nên chị cũng không thể ra đi được.”
Chúng tôi chưa từng thỏa thuận xem nếu chúng tôi phá vỡ lời hứa thì chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng cả hai chúng tôi đều hiểu rằng điều đó chắc chắn phải rất nghiêm trọng.
Tôi nghe thấy tiếng taxi dừng trước cửa nhà. Em gái tôi, người bạn tốt của tôi, vừa đến.
Tôi run rẩy đưa tay lên sờ vào mái đầu trọc của mình một lần nữa trước khi mở cửa cho người bạn tốt nhất – em gái tôi.
Con bé đứng đó, mặt trời tỏa ánh nắng rực rỡ phía sau khiến nó lung linh như một thiên thần, giống hệt những gì tôi luôn nghĩ về nó. Con bé đứng đó, trong chiếc quần jeans bó và áo thun, đội một chiếc nón có hàng chữ: “Hôm nay đầu tôi xấu lắm”. Cả hai chị em cùng cười.
Tôi lên tiếng: “Chào em”.
Con bé trả lời: “Chào chị”.
Rồi con bé đưa tay lên gỡ nón ra. Em gái tôi đã cạo trọc đầu. Chúng tôi đứng đó, cùng khóc, cùng cười, và ôm lấy nhau.
“Trong chúng ta vẫn như hai chị em.” – Con bé nói.
“Chị yêu em.” – Đó là tất cả những gì tôi có thể nói.
Tôi nhắm mắt lại và thầm nguyện cầu: “Tạ ơn Chúa đã ban cho con cuộc sống. Tạ ơn Chúa trên Thiên Đường vì đã cho con người em. Cám ơn mẹ đã cho con món quà này”.
Dawn Braulick.
Đường về Vương Quốc Tình Yêu
“Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc!”.
Nếu ta có tên trong “những kẻ Cha Ta chúc phúc” thì hạnh phúc biết bao! Được Chúa gọi như vậy, là ta đã trải qua một cuộc đời thật ý nghĩa!
Giêsu Kitô, Vua Tình Yêu, Vua Hòa Bình, chỉ có con đường Giêsu mới dẫn chúng ta đến Vương Quốc Tình Yêu của Ngài.
Trong thế giới nhiều biến động và không ngừng hận thù tranh chấp, giữ được trái tim yêu thương để đến với nhau bằng tình yêu chia sẻ, nâng đỡ, cảm thông, tha thứ… như Tình Yêu Giêsu thật không dễ dàng gì! Nhân loại cần có nhau, nhưng chính nhân loại lại gây cho nhau những thương đau! Nhưng, Chúa sẽ ban cho sức mạnh để không ngừng phấn đấu vươn lên.
Trong Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 25, ngài kể lại:
Mắt hướng nhìn về sự sống vĩnh cửu, chân phước Pier Giorgio Flassati, qua đời năm 1925, lúc mới 24 tuổi, đã nói: “Tôi muốn sống thực chứ không muốn sống lây lất!”, và trên tấm hình chụp một cuộc leo núi, gửi cho một người bạn, chân phước viết: “Hướng lên cao”, ám chỉ sự trọn lành Kitô giáo, cũng là sự sống đời đời.
Tội lỗi là sự nghèo đói tâm linh, là sự thiếu thốn tâm hồn, là kiếp tù đầy của bóng tối, là khách lạ lạc lỏng trong cuộc hành trình, là vết thương vô hình gặm nhấm hồn xác… cần lắm tình thương của đồng loại.
Hãy là những “điểm tựa yêu thương” cho nhau trong cuộc đời này, để mai này chúng ta được vào Vương Quốc Tình Yêu của Ngài.
Lạy Chúa, Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa, Trong mọi người. Amen.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta nhận thấy Đức Kitô chính là vị Vua sẽ đến để xét xử TN 34-ABC113 Lương
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta nhận thấy Đức Kitô chính là vị Vua sẽ đến để xét xử chúng ta. Đồng thời số phận đời đời của chúng ta hoàn toàn tuỳ thuộc vào thái độ cư xử đối với những kẻ hèn mọn, đói khát, đau yếu và tù tội: Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thuở đời đời. Hơn thế nữa, Ngài đã đồng hoá mình với những kẻ bất hạnh ấy, bởi vì mỗi khi chúng ta thực hiện một hành động bác ái giúp đỡ họ là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy.
Mặc dù là một vị Vua nhân từ đầy lòng thương xót, nhưng Ngài cũng đã lên án phạt những kẻ ích kỷ chỉ biết nghĩ đến mình mà thôi, dầu họ chẳng bao giờ cướp của giết người. Bởi vì khinh dể những kẻ hèn mọn là khinh dể chính Chúa. Quên lãng những kẻ hèn mọn là quên lãng chính Chúa. Đức Kitô Vua, hằng ngày vẫn đi trước mặt chúng ta, hằng ngày vẫn sống giữa chúng ta nơi những anh em nghèo túng và khổ đau.
Thật là bất hạnh nếu như chúng ta đã không nhận ra Ngài, cũng như đã không giúp đỡ Ngài. Bởi vì trong ngày sau hết chúng ta sẽ bị Chúa chúc dữ: Hỡi những kẻ bị nguyền rủa, hãy đi cho khuất mặt Ta, để vào lửa đời đời đã được sắm sẵn cho ma quỷ, vì khi Ta đói các ngươi đã không cho ăn. Khi Ta khát các ngươi đã không cho uống, khi Ta trần trụi, các ngươi đã không cho mặc, khi Ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã không thăm viếng. Liệu lúc bấy giờ chúng ta có thể khiếu nại rằng chúng ta chẳng hề hay biết?
Chính vì thế, chúng ta đừng đóng chặt cửa con tim và cõi lòng của chúng ta. Bởi vì một sự mù loà và chai cứng như thế chỉ dẫn tới những hậu quả thảm khốc cho số phận đời đời mà thôi. Chúa Giêsu đã kết thúc câu chuyện bằng một lời lẽ rõ ràng và minh bạch: Kẻ dữ sẽ phải lãnh nhận hình phạt đời đời, còn người lành sẽ có được sự sống vĩnh cửu.
Vấn đề chính yếu của chúng ta đó là phải cố gắng thực hiện những yêu cầu, những đòi hỏi của Chúa Giêsu luôn luôn muốn cho chúng ta được mọi sự tốt lành. Ngài sẵn sàng giơ tay trợ giúp, nhưng liệu chúng ta có nắm lấy bàn tay trợ giúp của Ngài hay không thì đó là bổn phận, là công việc của mỗi người chúng ta.
Có một chú rể trước khi tập sự cho hôn lễ, đã bí mật gặp vị mục sư và đưa ra lời đề nghị.- Tôi sẽ TN 34-ABC114
Có một chú rể trước khi tập sự cho hôn lễ, đã bí mật gặp vị mục sư và đưa ra lời đề nghị.
- Tôi sẽ đổi 100 đô la lấy việc bỏ các từ ‘yêu thương, tôn trọng, vâng lời và chung thủy với cô ấy mãi mãi’ trong lời thề kết hôn.
Vị mục sư đồng ý và nhận lấy 100 đô la với vẻ hài lòng.
Hôm sau, vào buổi lễ chính thức, vị mục sư nhìn thẳng vào mắt chàng trai, mỉm cười nhẹ nhàng và chậm rãi nói:
- Chàng trai, bạn có hứa sẽ luôn sẵn sàng phủ phục mình trước mặt cô gái đứng trước mặt đây, vâng theo mỗi mệnh lệnh của cô ấy, mang đồ ăn sáng đến bên giường cô ấy vào mỗi buổi sáng trong suốt cuộc đời của bạn. Đồng thời thề trước mặt Chúa sẽ không bao giờ thèm nhìn bất kỳ người phụ nữ nào khác cho đến khi cả hai không còn trên cõi đời này nữa không?
Chú rể nuốt nước bọt và nhìn xung quanh, đáp lại bằng một giọng rất nhỏ nhẹ: - Vâng.
Sau nghi thức, chàng trai ngay lập tức bám chặt lấy vị mục sư và rít lên:
- Tôi nghĩ chúng ta đã có một thỏa thuận?
Lúc này, vị mục sư mới đặt lại vào tay chú rể tờ tiền cũ và thì thầm:
- Cô ấy đã đưa cho tôi 200 USD cơ!
Chưa bao giờ chúng ta thấy quyền lực của đồng tiền lên ngôi như ngày hôm nay. Có tiền thì có chức. Có chức thì có tất cả. Có tiền có thể sai khiến. Sai khiến người khác làm cả những chuyện bất chính hay phi đạo đức. Có tiền có thể bẻ cong công lý. Đồng tiền có thể giúp người có tội trở thành không!
Có lẽ vì đồng tiền có một sức mạnh như thế nên người người đi kiếm tiền. Kiếm tiền bằng mọi cách. Kiếm tiền bằng mọi thủ đoạn miễn sao có tiền! Thực tế, ai đã vào đời, bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, tranh đua với người đời mà không một lần cảm nghiệm cái mãnh lực của đồng tiền? Đồng tiền nối liền với khúc ruột của con người, nó cũng chính là cái nguyên do đưa đến buồn vui sướng khổ của nhân loại? Cũng chính đồng tiền đã đưa đẩy con người tới thành công hay thất bại, được thiên hạ nể vì, nhân nhượng hay khinh khi coi thường! Vì thế tiền bạc đã biến thành một thứ quyền lực vô song, có ảnh hưởng trong cuộc sống con người. Thế sự thăng trầm, con người thay lòng đổi dạ, xã hội đảo điên, luân thường đạo lý bị xáo trộn, tất cả cũng vì ảnh hưởng của đồng tiền.
Đồng tiền thực sự có một sức mạnh và quyền lực nhất định trong cuộc sống. Nó mang đến hạnh phúc cho con người nếu con người tạo ra nó từ sự chính nghĩa, nhưng nó cũng có thể làm sa ngã hoặc huỷ hoại một nhân cách khi ai đó tôn sùng nó hơn tất cả mọi điều khác trong cuộc đời. Cái giá phải trả cho sự mù quáng trước "Quyền lực của đồng tiền" là đánh mất bản thân, tình thân, tình yêu - những điều mà đồng tiền không bao giờ có thể “mua” lại được.
Hôm nay lễ Chúa Kitô Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta còn có một giá trị quý hơn tiền, hơn danh lợi thú là có được Đức Kitô ngự trị. Đồng tiền sẽ không mua được Nước Trời. Đức Kitô thì hứa ban cho chúng ta sự sống đời đời. Đồng tiền không mang lại bình an cho con người, nhưng Đức Kitô là niềm hoan lạc nếu chúng ta để cho Ngài chỗ nhất trong cuộc đời. Đồng tiền khiến chúng ta sống ích kỷ, hưởng thụ. Đức Kitô biến chúng ta thành những con người có ích cho tha nhân với thái độ phục vụ quảng đại và vô vị lợi.
Đồng tiền là nguyên nhân gây nên những chia rẽ, tranh chấp, hận thù. Đức Kitô là nguyên lý cho sự hiệp nhất bình an. Chiếm được đồng tiền thì con người bo bo giữ lấy trong ích kỷ, xa lánh mọi người. Chiếm được Đức Kitô thì con người sẽ chia sẻ đến cho muôn người. Thế nê, có Đức Kitô trong cuộc đời là có bình an, có hạnh phúc, có niềm vui. Vắng Đức Kitô sẽ chỉ còn những tranh chấp, xa lánh và đố kỵ lẫn nhau.
Ước gì chúng ta luôn tìm kiếm Đức Kitô và dành cho Ngài vị trí số một trong cuộc đời. Ước gì loài người chúng ta hãy hãnh diện là loài làm chủ đồng tiền chứ không phải là nô lệ của đồng tiền. Có chăng là biết quy phục một mình Đức Kitô mà thôi.
Xin Chúa giúp chúng ta biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng ta luôn can đảm chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những hào nhoáng của danh lợi thú mau qua. Amen.
Hôm nay, Chúa nhật 34 thường niên, Chúa nhật kết thúc năm năm Phụng Vụ. Hội Thánh tôn kính TN 34-ABC115
Hôm nay, Chúa nhật 34 thường niên, Chúa nhật kết thúc năm năm Phụng Vụ. Hội Thánh tôn kính vương quyền của Chúa Giêsu nhằm nói lên cùng đích của Phụng Vụ, là làm cho loài người được tôn vinh một khi họ được thông dự vào vương quyền của Đức Kitô Giêsu Tình Yêu.
Chúa Giêsu Kitô là Vua, Vua Tình Yêu. Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Ngài là Vua công bình và đầy yêu thương. Vương quốc của Ngài là vương quốc của tình yêu. Dân của Ngài phải là những người biết sống yêu thương. Lẽ đương nhiên, muốn vào Vương quốc của Ngài, phải là người biết sống yêu thương, yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em thật sự. Vì thế “chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu mến”. Yêu mến cụ thể là phục vụ Chúa Kitô Vua trong tha nhân, những người đang sống chung quanh chúng ta, đang cần chúng ta giúp đỡ, đặc biệt là những người “nghèo khó, bé nhỏ”.
Trong dụ ngôn cuộc phán xét chung, Thánh Matthêu tường thuật lại quang cảnh ngày cánh chung, khi Vua Giêsu tái lâm và Ngài phân xử mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt và phân xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để mà phân xử, tách ra là những gì chúng ta thực hiện cho tha nhân. Chúa Giêsu Kitô, Vua tình yêu, Ngài đồng hóa với những ai đang sống chung quanh và giữa chúng ta khi chúng ta chia sẻ tình thương, cơm áo cho người đói khổ trần truồng, khi thăm viếng người bị bệnh hoặc bị tù đày:“ Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Ta khát, các ngươi đã cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta đau yếu, các ngươi đã chăm sóc…”. Vì thế, khi chúng ta làm cho họ là chúng ta đang làm cho Chúa: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm chính cho Ta vậy”. Thiên Chúa yêu thương và công bình sẽ dựa vào những hành động và thái độ ứng xử của chúng ta đối với tha nhân để mà xét xử.
Khi đó, chúng ta thấy: Đức Vua đã làm cho những người lành đứng bên phải, cũng như những kẻ dữ đứng bên trái, đều phải chưng hửng. Người bên phải rất sửng sốt khi thấy Vua Giêsu kể những việc tốt họ đã làm cho những người bất hạnh trong cảnh đói khát, rách rưới, tù đày, như là những việc giúp đỡ họ dành cho chính bản thân Đức Vua. Còn người bên trái cũng hết sức ngỡ ngàng khi thấy Đức Vua đồng hoá bản thân Ngài với những người mà họ đã coi thường, nên đã không cho họ cơm ăn, áo mặc, nhà ở…Họ không ngờ rằng mỗi lần họ tiếp đón hay hất hủi những người cần đến họ giúp đỡ là họ đã tiếp đón hay hất hủi chính Chúa Giêsu!
Ngược lại, khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã âm thầm đi vào giữa đám đông nhân loại mà không ai biết. Chúng ta dễ dàng gặp Chúa lúc chúng ta không ngờ. Nếu chúng ta nhận được rằng Thiên Chúa không phải là Vua thống trị nhưng là Vua phục vụ, thì chúng ta không thể không nhận ra Ngài nơi những người bé mọn nhất. Chúng ta sẽ không còn thắc mắc như người lành hay kẻ dữ trong ngày phán xét cuối cùng: “Thưa Ngài, có khi nào chúng tôi thấy Ngài đói, Ngài khát, Ngài rách rưới… đâu?”. Bởi vì Thiên Chúa đã đi vào từng môi trường. Chúa đi vào con người. Chúa đi vào hoàn cảnh. Vua Giêsu khẳng định với chúng ta rằng Thiên Chúa tự đồng hoá với khuôn mặt của hàng triệu, triệu con người trên thế giới đang ê chề trong cảnh thiếu ăn, nghèo đói, thất nghiệp hay những công việc nô lệ, vô nhân đạo, đang bị kẻ mạnh áp bức hay người quyền thế bóc lột.
Mừng lễ Chúa Kitô là Vua hôm nay, chúng ta xác tín rằng: Chúa Kitô là Vua. Vương quốc của ngài là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì thuộc về Chúa Kitô và là công dân của Nước Thiên Chúa. Tình yêu, nói được là như “ chứng minh nhân dân” của Nước Thiên Chúa. Chắc hẳn, Tình yêu không đòi hỏi nhiều lời nói hơn bằng nhiều hành động thiết thực, sống động, cụ thể là chia sẻ chính những lo lắng khó khăn, khốn khổ cùng cực của đồng bào trong hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống. Hãy phục vụ những Vua Kitô ấy để vào ngày cuối cùng Vua Kitô sẽ mời gọi chúng ta “ hãy đến, hỡi những người cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc đã dành sẵn cho anh em từ thưở đời đời”. Thiết lập Nước Thiên Chúa trong thế giới này là một ưu tiên trước hết của những người theo Chúa Kitô. Chúng ta được gọi để công bố Nước Chúa trong hòa bình, công lý và yêu thương. Tác giả sách Khải Huyền diễn tả: "Tôi thấy trời mới đất mới. Trời cũ đất cũ đã qua đi... Tôi thấy thành thánh Giêrusalem mới xinh đẹp như cô dâu trang điểm ra gặp chú rể. Tôi nghe tiếng nói lớn: "Đây là nơi Thiên Chúa ở với con cái loài người. Họ là dân của Chúa và Chúa là Chúa của họ. Chúa sẽ ở với họ." Đây không phải chỉ là một thành phố mới nhưng là một bầu khí mới. Hãy yêu thương và chia sẻ cho kẻ khác như Chúa yêu chúng ta và chúng ta sẽ trở nên toàn vẹn như Chúa muốn cho mỗi người chúng ta.
Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa cho một năm Phụng Vụ đã qua, một năm chúng ta nhận lãnh rất nhiều, nhiều ân sủng của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua Thánh Lễ mỗi ngày, qua các biến cố trong cuộc sống, qua các mối tương quan chúng ta có lẫn nhau. Chúng ta cũng xin Thiên Chúa là Cha tha thứ cho chúng ta, vì những tội lỗi mà chúng ta xúc phạm đến tình yêu của Chúa và những tổn thương gây ra cho anh em mình, nhất là những người ta gặp gỡ mỗi ngày. Sau đó chúng ta có một quyết tâm mới cho những ngày tháng hồng ân của Năm Mới mà chúng ta chuẩn bị đi vào.
Lạy Chúa Kitô là Vua của Tình Yêu, xin giúp chúng con biết sống yêu thương như Chúa để chúng con sẽ được dự phần trong Vương quốc tình yêu của Ngài. Amen.
“Ngài sẽ ngồi trên ngai vinh hiển, như một mục tử” (Mt 25,31-32).
Những công trình nghệ thuật và văn chương cổ điển, như những bức họa của Michelangelo tại đền thờ TN 34-ABC116
Những công trình nghệ thuật và văn chương cổ điển, như những bức họa của Michelangelo tại đền thờ Sixtine hay của họa sĩ Dante, rất cuốn hút người xem với những cảnh vẽ về ngày phán xét sau cùng. Sự pha trộn những nét tương phản được diễn tả rất sống động, như sự đối kháng giữa thiên thần và quỷ dữ, giữa lửa và mây, giữa những con người vui sướng vì được cứu thoát và những kẻ bị chúc dữ đầy khiếp sợ. Các bức họa muốn diễn bày ý tưởng, là trong ngày chung thẩm, người tốt lành sẽ được ân thưởng, và kẻ gian ác sẽ bị luận phạt. Các họa sĩ cũng mô tả chân dung của Đấng phán xử như một vị Vua uy lực, đấng sẽ ra phán quuyết tối hậu về số phận của mọi người, người tốt cũng như kẻ xấu. Những hình ảnh này chắc chắn làm an tâm những ai đang cố gắng sống ngay lành, tuy còn phải nỗ lực hoàn thiện, đồng thời cũng gợi nhắc những ai làm điều xấu phải cố gắng hoán cải để nên hoàn thiện hơn.
Hình ảnh một vị Vua thần thánh đầy uy quyền, công bố những phán quyết để xử phạt, hoàn toàn đối nghịch với hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương qua dáng dấp một vị mục tử nhân lành, mà bài đọc thứ nhất cũng như Thánh vịnh đáp ca hôm nay gợi tả. Dung mạo của Đấng Chăn Chiên nhân hậu luôn chăm sóc đoàn chiên, đi tìm kiếm các con chiên lạc, thu gom chúng về đàn để không bị tản mát, chữa trị những con bị đau yếu, dẫn chúng về đồng cỏ xanh tươi đầy ắp thức ăn bổ dưỡng, cho chúng thư thái nghỉ ngơi và được no khát nơi dòng suối trong - hoàn toàn đối nghịch với một Đấng uy quyền ngồi trên tòa cao ngất ngưởng để xét xử và ra những phán quyết nhằm nghiêm phạt. Trong Tin mừng Matthêu, nhiều lần Đức Giêsu đã nói với các môn đệ hãy bắt chước Ngài, sao chép lại tình yêu mục tử giống như Ngài. Ngài chạnh lòng thương cảm trước đám đông như bầy chiên lang thang không người chăn dắt (Mt 9,36). Ngài sai các môn đệ đi “tìm các con chiên lạc nhà Israel (10,6). Ngài cũng khuyến mời các học trò hãy thực hành giống như Ngài, một người chăn chiên liều lĩnh, đã bỏ lại 99 con trên đồng vắng để đi kiếm tìm con chiên lạc mất (18, 10-14).
Trong trình thuật Tin mừng hôm nay, thánh Matthêu dung hòa cả hai chiều kích xem ra có vẻ đối nghịch này, để khải thị chủ đề về cánh chung. Một đàng, là vào giờ phút chung thẩm sau hết, sự chọn lựa cuộc sống nơi mỗi người chúng ta mang tính chất quyết định và không thể thay đổi. Đàng khác, Đức Giêsu, đấng ngồi trên ngai phán xử lại là một Người Chăn Chiên giàu lòng nhân hậu. Đức Giêsu vừa là một Vị Vua uy quyền, ngự trên ngai tòa cao sang, nắm trong tay toàn quyền sinh sát trên tất cả sinh linh, đồng thời, Ngài cũng là một mục tử hiền lành, rất mực bao dung và đầy lòng thương xót. Hình ảnh sống động nhất nơi dụ ngôn không phải là dung mạo một ông vua với vinh quang chói sáng theo quan điểm trần gian, nhưng là một Đức Vua cao cả được đồng hóa với khuôn mặt của những con người cùng khổ đang đói, đang khát, đang lang thang nơi đầu đường xó chợ, đang rét mướt trần trụi không manh áo che thân, đang quằn quại bi thương trong bệnh hoạn hay đang bị giam giữ chốn lao tù. Những con người khốn khổ này được đồng hóa với chính Đức Giêsu. Điệp khúc đó được lập đi lập lại bốn lần trong câu truyện dụ ngôn, như muốn làm vang lên những tiếng thét gào ai oán của những người khốn khổ nhất. Họ giống như những con chiên thương tích và ốm yếu trong đàn đang cần được chăm sóc. Những học trò của Đức Giêsu khi thực hành giáo huấn này, biết bày tỏ lòng thương cảm đến các cận nhân chung quanh, chính là họ đang hiển thị dung mạo yêu thương của Đức Giêsu - Vua Mục Tử, một cách rõ nét nhất.
Trong Tin Mừng Gioan, quyền uy của Đấng chăn chiên hiện lộ trong việc kết hợp thân tình giữa chủ chăn và đoàn chiên (10,14), khi người mục tử biết từng con chiên(10,3), và người chăn chiên hy sinh ngay cả mạng sống mình cho đoàn chiên (10,11). Đây là uy quyền được diễn bày bằng tình yêu, một thứ uy quyền được sẻ chia, được trao ban để đi vào lòng người, chứ không phải là một thứ uy lực đứng ngạo nghễ trên cao, chỉ để công bố những phán quyết trừng phạt cách nghiêm khắc.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cảnh báo chúng ta. Đương nhiên, chúng ta không khiếp sợ trước một vị vua oai phong nghiêm trị các thần dân khi chúng ta sao lãng bổn phận do lơ là hay yếu đuối. Nhưng những ai vẫn ngoan cố đóng khép lòng mình lại, chối từ lòng thương xót của Đấng Chăn Chiên nhân hậu, chính họ đã tự chuốc lấy án phạt cho chính mình.
Mỗi người chúng ta có tự do để chọn lựa số phận muôn đời. Sự định đoạt đó tùy vào thái độ chúng ta hôm nay có biết đón nhận hay khước từ tình yêu của Vị Chăn Chiên nhân hậu, đấng luôn yêu thương và muốn cứu độ chúng ta.
Ấn tượng trước hết tôi có khi đọc đoạn Tin Mừng về ‘cuộc phán xét chung’ là theo đạo chẳng có TN 34-ABC117
Ấn tượng trước hết tôi có khi đọc đoạn Tin Mừng về ‘cuộc phán xét chung’ là theo đạo chẳng có ích gì, bởi vì khi ‘tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê’ thì Vua Vũ Trụ đâu có áp dụng tiêu chuẩn tôn giáo, có đạo hay không; cũng vậy khi phán ‘hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn’ cũng đâu chỉ dành cho những người đã rửa tội, năng chịu các phép bí tích. Tiêu chuẩn Người áp dụng có vẻ quá đời thường, quá nhân bản, và có phần nào quá thực dụng chủ nghĩa nữa là khác, đến độ cả các không Kitô hữu (non-Christians) cũng dễ dàng đạt được: sống bác ái, sống từ nhân với hết mọi người. Các Phật tử chẳng hạn có lẽ còn thực thi ‘từ bi xả hỉ’ hơn cả người Công giáo, các đồng chí đồng đội ngoài chiến trường còn đùm bọc nhau keo sơn hơn cả các tu sĩ trong cộng đoàn. Nếu đã như thế thì làm Kitô hữu được Phúc Âm dạy bảo, được các Bí Tích đỡ nâng, được các luật lệ, luân lý chở che… thực sự sẽ mang lại cho tôi ích lợi gì trong cuộc xét xử ngày Đức Vua quang lâm?
Ấn tượng tiếp theo là Đức Vua này quá chủ quan. Người xét xử không căn cứ theo một bộ luật khách quan được ban hành, trong đó có cả luật ‘mến Chúa yêu người’ vẫn thường được coi là quan trọng hơn hết. Luật pháp phải khách quan, nhất là khi xét xử, để cứ theo đó mà áp dụng công bằng cho mọi người. Đàng này tiêu chuẩn Đức Vua dùng để xét xử lại chỉ qui hướng trực tiếp về cá nhân Ngài thôi: “vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đến hỏi han”. Khi đặt các lời trên vào miệng Quan Án, hình như Đức Giêsu muốn cho thấy chính Đức Vua vinh quang từ lâu vẫn hằng chờ mong để mình được mọi người xót thương và gia ân. Như vậy được chúc phúc hay bị nguyền rủa đều dựa trên một tiêu chuẩn chung là lòng nhân ái mà mỗi người có trong tương quan thuận hay nghịch với một Đức Vua hằng xót thương tha thứ và chờ đợi được thương xót lại.
Chập hai điều này lại với nhau, tôi mới thoáng phát hiện ra một nét độc đáo và siêu việt của ơn gọi Kitô hữu mà mình được diễm phúc tiếp nhận. Nhiều người không phải là Kitô hữu, chưa hề biết gì về Đức Vua hằng thương xót và hay tha thứ, nhưng vô hình chung lại thường xuyên đi vào tương quan thuận với ‘Đấng dấu mặt’ hằng chờ đợi được xót thương “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói, khát, là khách lạ, trần truồng, đau yếu hay ngồi tù…?” để mà cho ăn, cho uống, đón tiếp, cho mặc, thăm viếng hỏi han… Đức Giêsu cho thấy rõ, thế là đã quá đủ để tạo một tương quan thuận với Thiên Chúa tình yêu và chỉ đòi hỏi có tình yêu. “Ta bảo thật: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy”. Tôi thành thực chúc mừng các anh chị em chưa được biết Chúa vì thật may cho anh chị em! Thế nhưng, nếu chỉ mới giữ có một vế (làm mà không biết) mà đã được như thế, huống hồ chi nếu giữ được cả hai vế (làm và biết). Kitô hữu là những người duy nhất trên trần gian này được diễm phúc có cả hai vế để tiến vào tương quan cá vị sâu đậm nhất với Đức Vua xót thương và chờ đợi được xót thương. Nhờ đức tin mà ngay từ ngày lãnh phép rửa tội họ đã nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng đầy lòng nhân ái và yêu thương; trong suốt quá trình sống đời Kitô hữu, nhất là khi lãnh nhận các Bí Tích, đặc biệt bí tích giải tội, họ đã có không biết bao nhiêu dịp để cảm nghiệm được lòng từ ái của Đức Vua; Lời Chúa hằng thôi thúc họ diễn đạt tương quan với Người bằng đời sống bác ái, yêu thương và phục vụ. Tiêu chuẩn sống của họ không còn phải là một điều luật khách quan ‘kính Chúa yêu người’, mà đã là một tương quan nhân vị mới, cho dầu theo cách nói quen thuộc của người Do Thái Đức Giêsu gọi đó là ‘Điều răn mới’, “là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Do đó không một Kitô hữu nào sẽ còn dám nói “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói…” Rồi họ còn có muôn ngàn dịp để nhận ra và cảm nghiệm Đức Vua yêu thương họ, cũng như họ thừa biết rằng Đức Vua họ tôn thời khao khát được họ yêu mến và xót thương lại biết là dường nào, đặc biết qua các hành động nhân hậu đối với người anh em. Do đó khi gặp lại Đức Vua quang lâm, các Kitô hữu sẽ phải là những người “đứng thẳng và ngẩng đầu lên!” (Lc 21:28) vì họ đã biết chắc rằng mình đứng bên phải trong số các kẻ “được Cha Ta chúc phúc”.
Lạy Đức Vua Vũ Trụ, Vua tình yêu và xót thương, cảm tạ Vua đã cho con cơ hội tuyệt vời để nhận biết con được Người thương xót và Người cũng khao khát được con xót thương lại. Chớ gì chương trình sống Kitô của con chỉ đơn giản là nhận biết mình được xót thương để rồi cố gắng đáp trả. Xin cho mọi người, không phân biệt lương giáo, biết cùng nhau ban phát lòng xót thương Chúa hằng khao khát, nhờ chính các Kitô hữu chúng con nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, và nhắc nhở cho mọi người rằng: có một Đức Vua yêu mến và xót thương hết thảy mọi người. Amen.
Lễ này đã được Đức Giáo hoàng Pi-ô XI thiết lập vào năm 1935, không phải vì thế giới ngày nay TN 34-ABC118
Lễ này đã được Đức Giáo hoàng Pi-ô XI thiết lập vào năm 1935, không phải vì thế giới ngày nay đã từ chối vương quyền của Chúa, không nhằm tạo lại một cái gì đã mất, nhưng để giúp chúng ta là những người tin Chúa, nhớ đến một thực tại mà nhiều người đã bỏ quên: đó là vương quyền tuyệt đối của Chúa Ki-tô trên vạn vật, đồng thời cũng nhắc nhở mọi người nhớ đến cùng đích của cuộc sống: tất cả phải quy về một mối là Chúa Ki-tô. Không có Ngài, thế giới này sẽ là gì? Sẽ đi về đâu? Cuộc sống con người có ý nghĩa gì? Hiến chế “Giáo Hội trong thế giới ngày nay” đã nhấn mạnh đến điểm này. Chúa Ki-tô là đích điểm của mọi sự. TrongThông điệp “Đấng Cứu chuộc con người” của Đức Giáo hoàng Gioan-Phao-lô II càng nhấn mạnh hơn.
Cuộc sống con người chỉ có ý nghĩa khi nó kết thúc trong Chúa Ki-tô, trước mặt Vì Vua muôn thuở: “Ngài phải là Đầu và là Cuối cùng của mọi sự (Anpha và ô-mê-ga), là Đấng mà mọi sự có tự Ngài, là đường, là sự thật và là sự sống” của mọi người. Ngài là Đấng Cứu chuộc con người (Thông điệp Đấng cứu chuộc con người, số 17).
Thánh Mat-thêu đã trình bày Chúa Giêsu như một vị Vua, không phải như vua trần thế, mà là Vua của mọi loài, Vua tuyệt đối: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên thần theo hầu, bấy giờ Người sẽ lên ngai vinh hiển của Người”.
Chúng ta không thể nào so sánh vinh quang của một vị vua trần thế với vinh quang của Đấng đã Phục sinh.
Các vua trần thế chỉ như một ngọn đèn cháy một lúc rồi lụi tắt. Chúa Giêsu mới là Vua, vì vương quyền của Ngài không bắt đầu trong thời gian, Ngài là Vua tự muôn thuở: “Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con”. “Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con”. (Tv 110).
Nhưng Vua Giêsu của chúng ta là một Thiên Chúa nhập thể, đã sống trọn kiếp người, đã chết và đã sống lại. Ngài sống lại để trở nên “Chúa của kẻ chết và của kẻ sống” (thơ gởi giáo đoàn Cô-lô-sê). Vương quyền của Ngài vượt mọi ranh giới. Thánh Gioan, trong sách Khải Huyền đã nhìn thấy Ngài đầy vẻ uy nghi, sáng chói: “Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời! Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1,18). Thánh Gioan viết tiếp: “Thấy Ngài, tôi ngã vật xuống dưới chân Ngài như chết vậy”.
Bức tranh hoành tráng của Gioan diễn tả phần nào quyền uy tối thượng của Đấng đã toàn thắng sự chết. Ai có thể đọc hết sách Khải huyền mới có thể hình dung được nét oai phong thần linh của Chúa Giêsu… Đức Vua muôn thuở mà Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm.
Ngài là Thiên Chúa, là Ngôi Lời Thiên Chúa. Trước mặt Ngài, chúng ta chỉ có thể có một thái độ là tôn thờ. Và tôn thờ chính là nhìn nhận quyền tuyệt đối của Ngài trên chúng ta, quyền xét xử và thưởng phạt. Thực sự, chúng ta có nhìn nhận điều đó không? Tôn thờ chính là thi hành thánh ý của Ngài chứ không chỉ sống theo ước muốn của chúng ta. Tôn thờ chính là chỉ yêu một mình Ngài trên hết mọi sự… Đạo Công giáo không phải là một ách nô lệ, mà là một tình yêu trọn vẹn.
Dụ ngôn cũng cho chúng ta thấy: “Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Ngài”.
Vua chúa trần gian chỉ có quyền trên một số người và trong một thời gian hạn định. Vua Giêsu nắm quyền trên toàn thể muôn dân, từ người thứ nhất là A-đam đến người cuối cùng trong thế giới. Chúng ta không thể hình dung được quyền uy cao cả của Ngài, vì chúng ta quá bé nhỏ, một hạt cát…. Chúng ta sẽ đến trước mặt Ngài và Ngài sẽ xét xử mọi người, không trừ ai. Vương quyền của Ngài là tuyệt đối. Lúc bấy giờ chúng ta mới biết, chúng ta sẽ như thế nào.
“Ngài tách chiên ra khỏi dê”, tức là những người lành và những người tội lỗi không còn lẫn lộn như ở trần gian. “Lúa tốt không còn lẫn với cỏ lùng nữa”. Giờ đó không còn thay đổi. Đó là giờ quyết định.
Vua ngỏ lời với những người lành, và lời Ngài gây ngạc nhiên. Ngài nêu rõ tại sao họ được ân thưởng: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói… các ngươi đã cho ăn…”
Ngài không hỏi họ đã sáng chế ra bao nhiêu máy móc tinh vi, cũng không hỏi đã xây bao nhiêu lâu đài dinh thự, sản xuất bao nhiêu đạn hạt nhân, đã chứa bao nhiêu tỷ bạc. Ngài chỉ hỏi họ có yêu thương giúp đỡ Ngài không? Vì Ngài đói rách, bệnh hoạn, khốn khổ…
Ngạc nhiên, ngỡ ngàng! “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn…đâu!” Đúng thế, chúng ta có bao giờ thấy Chúa đâu! Chúng ta chỉ thấy người nghèo, người khổ thôi, nhưng Đức Vua sẽ trả lời: “Ta đói trong những người đói, Ta đau khổ trong những người đau khổ”.
Thánh Phao-lô đã nghe tiếng Chúa gọi trên đường Đa-mas: “Sao-lê, Sao-lê, sao ngươi bắt bớ Ta?” Sao-lê trả lời: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Và câu trả lời vọng lại: “Ta là Giêsu ngươi đang bắt bớ”. Ta là Giêsu chứ không phải là môn đệ. Ngươi đang bắt bớ Ta chứ không phải môn đệ của Ta. Bao nhiêu lần chúng ta đã đọc, đã nghe câu nói này, chúng ta có ý thức được gì không? Chúa nói với Phao-lô, hôm nay Chúa cũng nói với chúng ta như thế, nhưng… chúng ta vẫn phớt lờ như không hay biết. Chúng ta muốn đứng bên phải, trong số chiên ngoan, nhưng thực sự, chúng ta không xứng đáng, chúng ta thấy Chúa đói mà không cho ăn… Chúng ta ngại phải móc túi, ngại cho… Chúng ta lo xa, chúng ta sợ mất mát, chúng ta sợ người ta lợi dụng…Chúng ta chưa nhìn thấy Chúa trong anh em khốn khổ… Chúng ta chỉ muốn sướng một mình, vui hưởng một mình, còn anh em… “sống chết mặc bây”.
Chúng ta chọn vua nào? Vua Giêsu? Nếu chọn Vua Giêsu, Ngài đang ở giữa chúng ta, Ngài là những đứa trẻ không ai thương đến, những người neo đơn, bệnh hoạn…
Vui mừng biết bao khi chúng ta khám phá ra Chúa Giêsu trong những người anh em khốn khổ! Hãy mở rộng tâm hồn để nhìn thấy điều kỳ diệu là Vua Giêsu chúng ta đang nghèo đói trong anh em… đang cần đến sự giúp đỡ ân cần của chúng ta. Hãy nhớ rằng “trong ngày sau hết, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu” (thánh Gioan Thánh Giá). Có lẽ chúng ta không thể làm hết mọi sự, giúp đỡ hết mọi người, nhưng chúng ta có làm hết khả năng để nâng đỡ những người anh em xấu số của chúng ta không?
Chúng ta lãnh nhận nhiều hơn anh em, không phải để chúng ta vui chơi phung phí, nhưng để chia sẻ. Chúng ta chỉ là “những người quản lý những ân huệ thiên hình vạn trạng của Chúa”, chúng ta không có quyền vui hưởng một mình…
Thánh Phan-xi-cô At-xi-di là một trong những khuôn mặt quen thuộc đã nhìn thấy Chúa Giêsu trong những người cùi… đã yêu thương phục vụ họ. Mẹ Tê-rê-xa Calcutta cũng thế. Đối với Mẹ, những người khốn cùng nhất trong xã hội, những người bị bỏ rơi… là những Chúa Giêsu cần được yêu thương. Tại sao chúng ta không thể nhìn thấy Chúa trong anh em khốn khổ? Chúng ta mù quáng đến mức độ nào? Hãy xin Chúa cho chúng ta một tâm hồn nhạy cảm trước những người anh em đang khốn khổ.
Vua Giêsu của chúng ta không đến với chúng ta bằng dáng vẻ oai phong như các vua trần gian, nhưng Ngài khiêm tốn đến với chúng ta nơi bàn thờ trong hình thức hết sức nhỏ bé để chúng ta gần gũi với Ngài hơn. Sau khi lãnh nhận Ngài, chúng ta có thể nhận ra Ngài rõ rệt hơn nơi anh em, và yêu mến Ngài trong anh em chúng ta hơn.
Thế giới loài người có khởi đầu và có kết thúc. Chúa Giêsu đã báo trước sẽ có ngày tận cùng thời TN 34-ABC119
Thế giới loài người có khởi đầu và có kết thúc. Chúa Giêsu đã báo trước sẽ có ngày tận cùng thời gian, đó là lúc người lành, kẻ dữ biết rõ số phận của mình. Trong ngày cuối cùng đó, Đức Giêsu chịu đóng đinh sẽ hiện đến trong uy nghi vinh hiển, là Vua xét xử thế gian. Lúc đó, tôi sẽ đứng trong nhóm nào, bên phải hay bên trái của Chúa? Tôi phải làm sao để được Chúa Cha phúc, được Chúa Giêsu tha thứ mọi lỗi lầm dương thế và cho nhập vào hàng ngũ các thánh.
Xưa kia khi Chúa Giêsu xuống trần, Ngài không dùng quyền để xử án thế gian nhưng để tỏ lòng thương xót với những người tội lỗi và cứu độ họ (x. Ga 3,17), nhưng đến ngày phán xét, Chúa Giêsu sẽ ngự đến trong uy nghi sáng láng và thưởng phạt công minh. Hiện nay, Ngài tự đồng hoá mình với những kẻ bé mọn để chúng ta có cơ hội phụng sự Ngài nơi đồng loại. Khi chúng ta tiếp nhận những kẻ bé mọn vì danh Chúa tức là đón nhận Chúa và mai sau Ngài sẽ ban thưởng cho chúng ta. Những kẻ đáng thương là đối tượng tình thương của Chúa. Vì vậy, khi ta giúp đỡ những kẻ đáng thương là chúng ta thể hiện tình thương của Chúa đối với con người. Ngược lại, những kẻ dữ vì không thi hành việc bác ái cụ thể đối với những người đáng thương nên đã cản trở tình thương yêu của Chúa đối với con người và vì vậy là một trọng tội đáng vào lửa muôn đời.
Trong ngày phán xét, những người đã thông phần đau khổ vì Đức Giêsu, đã làm chứng cho chân lý và sống vì hạnh phúc của tha nhân sẽ được vinh thắng, được ở cùng với Vua Giêsu rất đáng mến và hưởng vinh phúc với Ngài. Những kẻ dữ, không biết xót thương ai nên phải bị trầm luân khốn khổ, phải lui ra khỏi mặt Chúa đời đời! Đó là hình phạt lớn nhất cho họ.
Hiện nay, sự dữ còn đang hoành hành trong thế giới, cỏ lùng còn lẫn lộn với lúa, người ác sống chung với người lành và còn coi thường việc thưởng phạt, nhưng đến ngày tận thế, họ sẽ biết rõ quyền năng và sự công thẳng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, đối với người lành, Chúa sẽ đối xử nhân từ và cho vào hưởng hạnh phúc đời đời.
Chúng ta biết mình sẽ có ngày ra trước toà Chúa. Vậy, chúng ta hãy lo làm tròn bổn phận của mình, làm nhiều việc lành và dâng những hy sinh hàng ngày cho Chúa để được chúa xót thương. Số phận của chúng ta không phải được quyết định vào ngày tận thế nhưng tuỳ thuộc vào thái độ sống của chúng ta ngay từ hôm nay trong cuộc đời dương thế. Xưa ta cho kẻ đói thì nay Chúa cũng cho chúng ta được no nê, xưa ta tốt bụng với anh em thì nay Chúa cũng sẽ tỏ lòng nhân hậu với chúng ta. Chúng ta đong đấu nào cho anh em thì Chúa cũng sẽ đong lại bằng đấu ấy cho chúng ta mà đong dư tràn nữa. (x. Mt 7,2)
Vào ngày phán xét, Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta về đời sống đạo (x. Ga 18, 37), về lòng hối cải (x. Mt 12, 41), về việc đón tiếp các đại diện của Chúa (x. Mt 10, 41). Những việc bác ái hy sinh vì Chúa là những hoa trái của đời sống Tin Cậy Mến, là những của lễ đẹp lòng Chúa hơn hết. Do đó, ngay từ bây giờ, chúng ta hãy chỉnh đốn lại cách đối xử của ta đối với tha nhân, nhất là những kẻ đang cần ta giúp đỡ vật chất cũng như tinh thần, mỗi người chúng ta hãy sống thật đúng với lời Chúa dạy, lo làm các việc lành phúc đức và trung thành giữ giới răn Chúa cho đến cùng.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa. Chúa rất muốn chúng con hạnh phúc nên đã đến cứu chuộc chúng con. Chúa đã tự đồng hoá mình với những kẻ bé mọn và muốn chúng con yêu thương Chúa qua những người nghèo hèn khốn khổ. Chúng con sẽ cố gắng lo giúp đỡ những người bé mọn, tích cực cộng tác với xã hội trong việc giúp đỡ tha nhân nhất là những người trong hoàn cảnh khổ đau, thiếu thốn để xã hội ngày càng tốt đẹp và mọi người nhận ra Chúa đang hiện diện đặc biệt nơi các môn đệ của Người.
CHÚA VẪN CHO NGƯỜI BÉ MỌN SỰ HIỂU BIẾT VỀ MẦU NHIỆM NƯỚC TRỜI
Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay là một trong những lời lẽ an ủi và khích lệ nhất trong Thánh kinh. TN 34-ABC120
Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay là một trong những lời lẽ an ủi và khích lệ nhất trong Thánh kinh. Chúa Giêsu tạ ơn Thiên Chúa Cha đã ban cho những người bé mọn sự hiểu biết về màu nhiệm nước Trời. Còn những người khôn ngoan thông thái lại không lãnh hội được. Điều được tiết lộ cho những người này thì lại bị giấu kín khỏi những người khác. Vậy đâu là sự khác biệt và tại sao có sự khác biệt? Việc Thiên Chúa bày tỏ cho loài người qua Thánh kinh là kho tàng chung của nhân loại, nghĩa là ai cũng có thể mua cuốn Thánh kinh để đọc, nếu có tiền.
Tuy nhiên chỉ có những người mở rộng tâm hồn, chỉ có những người khiêm tốn trước Đấng tối cao, mới có thể lãnh hội được lời Chúa. Đó chính là ý nghĩa lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay: Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan và thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn (Mt 11:25). Chẳng thế mà văn hào Pascal mới nói: Thiên Chúa của Ápraham, Ixaác và Giacóp, không phải là Thiên Chúa của các triết gia và những nhà thông thái. Pascal là nhà toán học, vật lý học và triết học mà đã nói lên điều đó.
Vậy có phải Thiên Chúa giấu, không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời không? Nếu Chúa xử với bậc khôn ngoan và thông thái như vậy thì có vẻ Chúa không công bình với họ vì chính Chúa đã tạo dựng nên người khôn ngoan và thông thái. Và nếu như vậy thì kể là cũng tội nghiệp cho họ. Thực sự thì Thiên Chúa bầy tỏ cho tất cả mọi người về màu nhiệm nước Trời, nhưng chỉ có những người khiêm tốn và mở rộng tâm hồn mới lãnh hội được mà thôi. Những người khôn ngoan và thông thái mà cậy mình kiêu ngạo thường không muốn tuỳ thuộc vào Chúa. Và khi người ta không muốn tuỳ thuộc vào Chúa là chính lúc mà mầu nhiệm nước Trời bị cất giấu khỏi họ. Khi mà tâm trí người ta đầy ắp những thứ mà người ta cho là của mình, thì những gì thuộc thiên giới không còn chỗ mà vào. Còn những người khôn ngoan và thông thái mà có lòng khiêm tốn và mở rộng tâm hồn thì vẫn có thể tìm đến Chúa để tiếp nhận màu nhiệm nước Trời. Họ là những người to lớn về trí tuệ, mà lại bé mọn về tâm hồn. Bé mọn theo nghĩa Thánh Kinh là đơn sơ, khiêm tốn, tuỳ thuộc và phó thác vào Chúa.
Để có thể đến với Chúa và đặt niềm tin phó thác vào Người như trẻ con phó thác vào cha mẹ, người ta cần có những đức tính của trẻ nhỏ: đơn sơ, khiêm tốn, tuỳ thuộc và phó thác. Khi lớn lên với những của cải giàu sang, sự hiểu biết sâu rộng và quyền hành, người ta có thể bớt tùy thuộc vào Chúa hay không còn muốn tuỳ thuộc vào Chúa hoặc vẫn muốn tuỳ thuộc vào Chúa tuỳ theo mức độ người ta gắn bó với của cải, quyền thế hoặc tài trí. Đặc biệt hôm nay Chúa mời gọi loài người: Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28).
Có khi nào ta cảm thấy vất vả vì công việc bổn phận trong gia đình và trách nhiệm ngoài xã hội, khiến ta muốn thoát khỏi những gánh nặng của cuộc sống không? Có khi nào ta phải mang những gánh nặng của cuộc đời như bệnh tật nan trị trong thân xác hoặc những vết thương về tinh thần và tình cảm khiến tâm can ta bị hao mòn, héo hắt không? Có bao giờ ta gặp cảnh khổ đau, sầu não, phiền muộn, âu lo, sợ hãi, chán nản, thất vọng không? Có khi nào người khác thấy ta có vẻ hạnh phúc, nhưng thực sự ta đang phải mang tủi hổ về bản thân và gia đình, ta phải ngậm đắng, nuốt cay và khóc thầm trong lòng không? Có khi nào ta không có ai hoặc không tìm được ai để thổ lộ nỗi lòng cho vơi nhẹ, vì sợ không được lắng nghe và không được giữ kín không?
Nếu vậy thì hôm nay Chúa mời gọi ta đến với Chúa để bày tỏ nỗi lòng với Chúa, để trút gánh nặng của cuộc sống vào lòng từ ái của Chúa, để hoà lẫn những đau khổ của đời ta với những khổ đau của Chúa trên thập giá mà dâng lên Thiên Chúa Cha, hầu làm giá đền tội cho chính mình và cho loài người. Chúa không hứa cất đi những gánh nặng khỏi cuộc sống của ta, nhưng còn mời gọi ta mang lấy ách của Người: Hãy mang lấy ách của tôi và học với tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11:29). Vậy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng như thế nào? Lời Chúa trong sách ngôn sứ Dacaria có mô tả về Đấng Cứu thế sẽ đến như sau: Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ (Drc 9:9). Lừa là con vật hiền lành và dễ chịu khuất phục. Khi vào thành Giêrusalem trong ngày lễ Lá, Chúa Giêsu đã thể hiện lời tiên tri về Người mà cưỡi trên lưng lừa con (Mt 21:7), chứ không cưỡi trên lưng ngựa mặc dầu có ngựa ở Giêrusalem thời bấy giờ. Điều đó nói lên ý muốn của Người là sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha, chấp nhận khổ hình thập giá, để làm giá cứu chuộc loài người.
Và Chúa bảo đảm với ta: Ách của tôi thì êm ái, gánh của tôi thì nhẹ nhàng (Mt 11:30). Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma nêu lý do tại sao ách ta vác không được êm ái, và gánh ta mang không được nhẹ nhàng là vì ta không sống theo Thần Khí của Thiên Chúa (Rm 8:10). Ta cảm thấy mệt mỏi trong cuộc sống khi ta dựa vào sức riêng mà không cậy dựa vào ơn Chúa giúp cho ta vượt qua. Có bao giờ ta phàn nàn rằng Thiên Chúa và đạo giáo không đem lại ích lợi gì cho cuộc sống không? Nếu đạo giáo không mang lại được gì ích lợi cho cuộc sống, thì đạo phải tới ngày tàn lụi. Tuy nhiên đạo vẫn đứng vững được cho tới ngày nay và đã đem lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống muôn vàn người tín hữu. Nếu người ta không đạt được lợi ích thiêng liêng đó, thì lỗi tại đâu?
Vậy ta cần xét đâu là động lực thúc đẩy khiến cho ách mà ta vác trở nên êm ái, gánh nặng ta mang trở nên nhẹ nhàng? Thưa chính tình yêu của Đức Kitô đã khiến cho ách của Người trở nên êm ái, và gánh nặng trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô cũng đã nhận ra hệ quả của tình yêu khi đặt bút viết: Đâu có yêu, đấy không còn khổ, mà giả như người ta vẫn cảm thấy khổ, người ta lại chấp nhận cái khổ đó vì yêu. Đến với Chúa, tâm hồn ta sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng như Chúa hứa (Mt 11:29) và như thánh Augustinô đã xác nhận: Tâm hồn ta sẽ thao thức khắc khoải, cho tới khi được an nghỉ trong Chúa.
Lời cầu nguyện xin được bổ sức:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa hứa bồi bổ sức mạnh và nghị lực, cho những ai vất vả và mang gánh nặng của cuộc sống. Xin dâng lên Chúa những người đau khổ về thân xác và tâm hồn; những người lo lắng sợ hãi; những người mỏi mệt và chán sống; những người phải mang tủi hổ và mặc cảm trong cuộc đời. Xin ban cho họ thêm can trường và hi vọng. Còn những khó khăn và khắc khoải của đời con, con cũng xin dâng lên Chúa với lòng trông cậy. Amen.
Hằng năm vào ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, giáo hội hiệp với toàn thể vũ hoàn suy TN 34-ABC121
Hằng năm vào ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, giáo hội hiệp với toàn thể vũ hoàn suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô, Người Con chí ái của Thiên Chúa (x.Col 1,16). Khi suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ, giáo hội muốn khẳng định chân lý mà thánh tông đồ dân ngoại đã nói với tín hữu Côlôxê, đó là mọi sự trên trời cùng dưới đất đều được Thiên Chúa tạo thành nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô. Chúa Kitô không chỉ là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu mà Người còn là khuôn mẫu của mọi vật mọi loài, vì người là Trưởng tử của mọi loài thọ sinh.
Loài người là loài cao trọng nhất trong các loài thọ tạo hữu hình. Thánh Kinh minh định chân lý này qua việc bàn bạc của Thiên Chúa trước khi tạo dựng con người và sự lao nhọc của Thiên Chúa khi dựng nên con người. Các loài thọ tạo khác thì Thiên Chúa chỉ phán một lời thì liền "xẩy ra như vậy". Sự cao trọng của con người còn được khẳng định khi nó được dựng nên "giống hình ảnh" của Đấng Tạo Thành và được trao quyền làm chủ vũ trụ vạn vật (x.St 1,26-29). Hình ảnh của Đấng vô hình nay đã được mạc khải cách hoàn hảo và rõ nét nơi chính Đức Kitô (x.Col 1,15).
Suy tôn Chúa Kitô là Vua vũ trụ, giáo hội không chỉ khẳng định quyền tối thượng của Chúa Kitô trên mọi loài mà còn tuyên xưng Chúa Kitô chính là khuôn mẫu, là lẽ sống của mọi hiện hữu, nhất là của loài người. Qua các bài đọc của Chúa Nhật XXXIV TN C mà giáo hội cho trích đọc chúng ta nhận ra khuôn mẫu, lẽ sống mà Đức Kitô tỏ bày đó là hiện hữu cùng và hiện hữu cho.
"Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Mt 1,23). Khi vào trần gian, Đức Kitô đã mạc khải cho nhân loại chúng thấy ý nghĩa của các hiện hữu là hiện hữu trong tương quan. Mọi thụ tạo, nhất là loài người, không ai là một hòn đảo. Ta chỉ là ta trong tương quan với người. Có người thì mới có ta. Trong mối tương quan gia đình dòng tộc, cha ông chúng ta có câu ngạn ngữ rất tượng hình: có con rồi mới có cha, có cháu rồi mới có ông, có bà.
Mối tương quan "cùng-với" này vừa nói lên sự tuỳ thuộc vừa nói lên sự liên đới giữa các hiện hữu. Nhiều muông thú hay vật nuôi như chim, gà, mèo, chó..., khi được nuôi riêng một mình thì chúng vẫn phát triển thành chúng, trái lại, con người không thể lớn lên, phát triển thành người cách đúng nghĩa khi sống một mình. Hiện tượng "người rừng" đó đây, không có khả năng nói, không có khả năng giao tiếp với đồng loại...là một minh chứng. Chúng ta làm người, chào đời, có mặt ở trần gian này là nhờ ai đó và với ai đó. Vì thế có thể nói rằng một trong những mục đích và ý nghĩa nền tảng của sự hiện hữu của con người đó là sống cùng, sống với và sống cho.
Cả cuộc đời của Đức Kitô trên trần gian, rõ nét nhất là quảng thời gian rao giảng Tin mừng và đích diểm là cái chết trên thập giá khẳng định cho chúng ta về mục đích ý nghĩa của kiếp nhân sinh. Đức Kitô là Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cvtđ 10,38). Và chính Người đã minh định rõ ràng: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,28).
Trên đỉnh đồi Gôngôta, dù có thể tự cứu mình khỏi án hình thập giá, nhưng Chúa Kitô đã không tự cứu mình. Dù không tìm cách tự cứu mình thế mà Người đã hứa ban hạnh phúc Thiên đàng cho người bị treo bên phải Người, đồng thời xin Chúa Cha tha cho những người đang phỉ nhổ, hành hạ và giết mình mà trong số đó chắc chắn có cả người gian phi bị treo bên trái Người (x.Lc 23,39-43).
Hình ảnh của một vị minh quân theo quan niệm người xưa đó là người lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ. "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh". Hình ảnh vị minh quân này đã được Chúa Kitô thể hiện bằng vị mục tử nhân lành sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì đàn chiên và vì từng con chiên một. Xuất thân từ một người chăn chiên, Đavít đã được chọn gọi để làm vua Israel. Dù còn nhiều thiếu sót và lỗi lầm tày trời, nhưng Đavít chính là một hình ảnh tiên báo cho vị Mục Tử Nhân lành, vị Vua Công chính là Đức Kitô, Đấng đã dùng tình yêu của mình để dẫn đưa mọi thụ tạo, nhất là loài người về với sự thật căn bản: chúng ta là loài thụ tạo, chúng ta sẽ chỉ là mình khi hiện hữu đúng với thánh ý Đấng Tạo Thành đó là sống cùng và sống cho tha nhân.
Dỏng dạc trước Philatô, Chúa Kitô minh nhiên công bố: "Tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật, thì nghe tiếng tôi"(Ga 18,37). Và sự thật ấy được tỏ bày cách hoàn hảo bằng một Con Người chịu treo trên thập giá, với trái tim bị đâm thâu, hầu đưa toàn thề nhân loại đi lên và những ai tin vào Người thì sẽ được sống muôn đời (x.Ga 3,14-15), đồng thời làm cho muôn vật muôn loài được hòa giải với Thiên Chúa (x.Col 1,20).
Suy tôn Chúa Kitô là Vua tức nhìn nhận quyền tối thượng của Người trên đời chúng ta, là đón nhận lẽ sống, quy luật hiện hữu mà Người đã ban ra. Chúng ta có thể nhận ra quy luật ấy qua lời khẳng định của Chúa Kitô: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy...(Mc 8,34-38; Mt 16,24-28; Lc9,23-27).Và đến ngày tận thế, chính Đấng là Vua Vũ Trụ, khi "ngự trên ngai vinh hiển của Người" sẽ thẩm xét chúng ta dựa trên tiêu chí là thái độ sống cùng, sống cho tha nhân của chúng ta, đặc biệt cho những người anh em "bé mọn" (x.Mt 25,31-46).
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ với TN 34-ABC122
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ với niềm vui khôn tả và quả quyết rằng Người là Vua và là Chúa chúng ta. Nhưng vương quốc của Người không thuộc về thế gian này.
Vậy Người là Vua những gì? Người là Vua vinh quang, Vua mọi sự. Đơn giản, Người là Vua, hoàn toàn là Vua. Thực tế xem ra khó chấp nhận, vì con người muốn biến Đức Giêsu thành trò cười khi mặc cho Người áo tím và đội vòng gai.
Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa là Vua dân Ngài tuyển chọn. Tước hiệu này được gán cho Chúa Kitô, chính nơi Người mà mạc khải được hoàn tất. Người đã khai mở triều đại Thiên Chúa bằng chiến thắng trên sự chết, khước từ vương quốc nhân loại sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều: “Biết họ muốn tôn phong Người lên làm vua” (Ga 6, 5). Người sẽ thể hiện ý nghĩa tuyệt đối về vương quốc của Thiên Chúa trên thập giá. Bị kết án bởi những tham vọng của vương quốc thế trần, nhưng chiến thắng bằng vương quốc vĩnh cửu, yêu thương và an bình.
Khi nói đến tước hiệu “vua” một số người thường nghĩ ngay đến quyền lực và sức mạnh tuyệt đối. Nhưng quyền ở đây là gì? Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe có câu trả lời. Đó là quyền sống đời đời! Vậy câu hỏi được đặt ra: chúng ta trao quyền đó cho ai? Chính chúng ta cũng không có quyền sống đời đời, làm sao chúng ta có thể trao ban cho người khác? Ngay cả sự sống chúng ta lãnh nhận, chúng ta cũng không thể tặng ban cho chính mình, huống hồ là sự sống thần linh, sự sống đời đời.
Chúng ta lãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa, chỉ mình Thiên Chúa mới có thể trao ban sự sống ấy. Chúa Cha đã trao cho Chúa Con quyền này, và đặt vào tay Chúa Con, nên Chúa Con là Vua vũ trụ. Lời nguyện Thánh lễ hôm nay cho thấy Thiên Chúa muốn thiết lập mọi sự nơi Con yêu dấu của Ngài là Vua vũ trụ “Chúa Giêsu là nền tảng của chúng ta, nơi Người chúng ta đặt mọi hy vọng”. Chúng ta biết, muốn xây dựng một lâu đài cao vút, thì nền móng phải vững chắc và đáng tin. Vậy, Chúa Giêsu là đá tảng từ trời xuống đặt nền trên trái đất để xây dựng một nhân loại mới lên tới trời!
Đời sống chúng ta được xây dựng trên Chúa Kitô, đức tin càng chắc chắn và sống động thì sự hiện hữu của chúng ta càng gắn bó chặt chẽ với Thiên Chúa. Chính bởi nghe và đồng hóa với Lời Thiên Chúa mà đức tin chúng ta trở nên chắc chắn và lớn lên trong Đức Kitô.
Lời cầu nguyện đầu lễ: “Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi…” Một trong những thuộc tính của vị vua là bảo vệ thần dân, giải phóng dân của mình khỏi tay quân thù ; Chúa Kitô Vua đã giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ của tội lỗi và sự chết. Hận thù, bạo lực, ngẫu tượng làm chúng ta thất vọng, Người đến giải thoát chúng ta khỏi mãnh lực của sự chết, khỏi nô lệ của mọi thứ vui, rượu chè, cờ bạc, sì ke, ma túy…
Lời Chúa trong sách Tiên tri Êdêkiel “Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau” (Ez 34, 15-16).
Và khi giải thoát chúng ta, Đức Kitô đã đưa ra khỏi tình trạng nô lệ để chúng ta trở nên những người tự do. Chính tình yêu cho phép chúng ta sống sự sống của Thiên Chúa nơi con người, và phục vụ đồng lo của mình của mình ại trong yêu thương khi trao ban cho người đói đồ ăn, người khát thức uống, cho khách đỗ nhờ, cho người mình trần áo mặc, viếng thăm kẻ bị giam cầm, an ủi người cùng khổ ; tóm lại, yêu thương và phục vụ con người là trả lại cho anh em đồng loại phẩm giá bị đánh mất. Đây chính là điều Đức Giêsu đã làm để giải thoát con người.
Sau cùng, Đức Kitô có quyền xét xử. Chính người tuyên án: “Mỗi lần các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho chính Ta” (Mt 25, 40.45).
Chúng ta không thể chiếm lấy gia nghiệp nước trời đã chuẩn bị từ tạo tiên lập địa cho những ai phục vụ trong yêu thương. Chỉ người sống yêu thương mới có chỗ trong triều đại sự sống và chân lý, ân sủng và thánh thiện, công chính, yêu thương và an bình của Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện Ca hiệp lễ kết thúc bằng lời cầu xin: “cho hết mọi loài thọ sinh (…) biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng”.
Nếu Đức Kitô Vua đã chiến đấu cho đến chết, thì các thần dấn cũng phải chiến đấu. Vì thể chế xã hội loài người không muốn Đức Kitô cai trị trên họ nên họ chiến đấu chống lại Đức Kitô.
Nếu chúng ta là thần dân của Đức Kitô, chúng ta phải cầm vũ khí tốt để chiến đấu, vũ khí ấy là: chuyên cần cầu nguyện, siêng năng lãnh nhận các bí tích, sự chúc lành của Thiên Chúa chỉ cho chúng ta trước cuộc chiến đấu, biết chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa và của Đức Kitô trên mọi sức mạnh của sự dữ.
Chúng ta chỉ còn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Vua Kitô, sống trung thành với Người như những tôi tớ, can trường trong đức tinh, nhiệt thành trong đức mến, để một ngày kia, chúng ta có thể nghe Vua Kitô nói với chúng ta rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Mt 25, 34).
Lạy Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ Vua Giêsu, Vua Tình Yêu. Xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua vũ hoàn nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, mọi vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen.
Chúa nhật cuối cùng cùng của năm phụng vụ, cũng chính là Chúa Nhật nói đến ngày Chúa đến trong TN 34-ABC123
Chúa nhật cuối cùng cùng của năm phụng vụ, cũng chính là Chúa Nhật nói đến ngày Chúa đến trong vinh quang, nói đến ngày phán xét. Ngày đó sẽ được hiển hiện rõ người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hay ác một cách rõ ràng. Tiêu chuẩn để phân xử là tất cả những gì chúng ta đã thực hiện cho những anh chị em hằng ngày chúng ta gặp gỡ. Vậy chúng ta đã làm gì và chúng ta đã sống thế nào?
Có thể chúng ta là những người bé nhỏ mà Chúa Giêsu nhận đó là chính Ngài, vì hằng ngày chúng ta cũng có nhu cầu cần đến sự giúp đỡ, sự cảm thông của người khác. Những sự trợ giúp mà chúng ta nhận được từ người khác thuộc cả về phương diện vật chất, tình cảm cũng như tinh thần. Những nhu cầu đó đôi khi cũng rất quan trọng, vì nó giúp chúng ta được vui sống.
Rồi sự giúp đỡ của người khác dành cho chúng ta cũng có nhiều loại như khi chúng ta cần phải hỏi đường đi trong một nơi mà chúng ta chưa quen biết; khi chúng ta cần một lời chỉ dẫn, một lời an ủi, một nụ cười hay một cái nhìn thông cảm của người khác. Khi chúng ta lỡ đường và ghé vào nhà một người quen và được họ tiếp đãi cho cơm ăn cho chỗ nghỉ đêm. Khi chúng ta không may bị hư xe giữa đường và được người khác dừng lại giúp đỡ. Khi chúng ta đang đứng trước quầy trả tiền mà bị thiếu một vài ngàn và được người khác cho mượn. Khi chúng ta đang thất nghiệp mà được bạn bè giới thiệu việc làm…. Những cơ hội đó chính là những niềm vui cho cuộc sống.
Rồi cũng có những lúc chính chúng ta lại là những người làm ơn. Chắc chắn không nhiều thì ít chúng ta cũng đã có và sẽ còn tiếp tục có những nghĩa cử nhân ái với người khác. Đi đến hoặc gởi đi một cánh thư chia buồn với tang quyến của người quá cố, tới bệnh viện thăm người đau yếu hay đến nhà dưỡng lão an ủi những người già yếu, khuyến khích một người bạn đang có tâm sự buồn, trao cho người ăn xin một vài ngàn hay mua cho họ một chiếc bánh, một ly nước, giúp đỡ người lâm nạn trong hoàn cảnh khó khăn. Dành thời giờ để tiếp một người cần đến chúng ta. Tất cả những việc đó đều là những việc bác ái sẽ được Thiên Chúa nhìn nhận.
Trong thực tế có rất nhiều sự hy sinh, co nhiều cử chỉ cao thượng như việc săn sóc bệnh nhân, thăm nom người đau yếu, việc giúp đỡ những người nghèo, bênh vực cho những người bị áp bức, chia sẻ cho những ai đang gặp những hoàn cảnh khó khăn, thăm hỏi những tù nhân …việc làm đó của chúng ta được Chúa nhìn nhận là làm cho chính Ngài, như trong bài Phúc âm hôm nay có nói tới.
Ngược lại, cũng không ít lần chúng ta dửng dưng thờ ờ, để đến nỗi Chúa đã phải trách: "khi Ta đói ngươi đã không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống. Ta là khách lạ các ngươi chẳng tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc. Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta đâu." Đó chính là lời cảnh tỉnh với những ai còn đang vô tình, vô tâm để họ biết đem tình yêu và lòng bác ái đến với mọi người.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống theo lời kinh hòa bình mà mỗi ngày giáo phận chúng con vẫn luôn hát vang: “biết đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem niềm vui đến chốn u sầu”. Amen.
Hôm nay Chúa nhật cuối cùng trong năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Kitô Vua. Năm phụng vụ TN 34-ABC124
Hôm nay Chúa nhật cuối cùng trong năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Kitô Vua. Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể, khai triển qua cuộc tử nạn, Phục sinh để rồi kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Đức Kitô chính là khởi đầu và là cùng đích của vũ trụ và lịch sử nhân loại.
Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, của lịch sử nhân loại và Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta.
Chúng ta phải hiểu tước hiệu Vua Kitô như thế nào? Và việc tuyên xưng Đức Kitô là vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu?
1. Ông vua trong lịch sử loài người
Sau thế giới đại chiến lần thứ I, chế độ Vua cai trị, thường gọi là chế độ Quân chủ, không còn nữa. Chỉ còn mấy ông vua bà hoàng để bày cho đẹp, như ở Thái Lan, Anh Quốc, Nhật v.v. nhưng thực quyền của họ không có gì cả. Những người trẻ hôm nay, qua sách vở, khó hình dung rõ nét thế nào là một ông vua.
Trong lịch sử loài người có một số ông vua tài giỏi về đánh giặc cũng như về cai trị, nhưng hầu hết các ông vua, vì cha truyển con nối, nên độc tài độc đoán, không có khả năng trị quốc an dân, chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình, chẳng quan tâm đến sự lầm than đói khổ của bá tánh. Lịch sử Trung Hoa, các ông vua còn tự xưng mình là Thiên tử, là con ông Trời, bắt ai chết thì người đó phải chết, cho ai sống thì người đó được sống (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Các vua Lamã thì xưng mình là Thần, ngang với Thượng đế.
Nhìn chung, các vua trần gian thì ích kỷ, dâm ô. Khi họ đã nắm được ngai vàng thì coi mọi người như bầy tôi, giang sơn đất nước thì cho là tài sản riêng của mình. Vua thường nói: “Thần dân của trẫm. Giang sơn của trẫm”. Thế rồi khư khư giữ lấy. Nghi ngờ kẻ nào có ý phản loạn thì giết ngay tức khắc, không chỉ giết một người đó, mà còn tru di cả tam tộc cửu tộc nữa.
Nếu muốn đổi triều đại, vua của dòng họ này sang triều đại dòng họ khác, thì phải giành giật, phải thoán ngôi. Cứ đọc lịch sử Việt Nam thì thấy, mỗi thay đổi triều vua từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, toàn là máu và nước mắt. Đến đời Nguyễn Ánh tự xưng là Gia Long hoàng đế, làm vua từ năm 1802, cha truyền con nối kéo dài hơn 100 năm, cho đến năm 1945, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại. Vua này vì sợ Việt Minh Cộng sản giết chết nên mới thoái vị.
2. Ông vua trong Kinh Thánh
Vào khoảng thế kỷ thứ 11 trước Chúa Giáng sinh, dân Israel đòi có vua cai trị giống như các dân khác, Giavê Thiên Chúa (qua ngôn sứ Samuel), đã cảnh cáo dân rằng:
Ba vị vua đầu tiên của Israel là Saul, Đavid, và Salomôn.
Về Saul thì Thiên Chúa nói: “Ta hối tiếc vì đã đặt Saul làm vua, nó đã quay lưng lại Ta.” (1S 15: 10).
Về Đavid, Thiên Chúa nói: “Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua Israel... Tại sao ngươi dám khinh màng lời Đức Giavê... ngươi đã lấy gươm đâm Uria, người xứ Hitit và đoạt lấy vợ nó làm vợ ngươi.” (2S 12: 9).
Còn Salômôn, vị vua có 700 vợ và 300 hầu thiếp (1V 11: 3). Ông đã bỏ Đức Chúa Giavê để thờ tà thần của các vợ. Giavê phán với Salômôn: “Bởi ngươi đã nên thể ấy nơi ngươi... Ta sẽ giựt lấy vương quyền của ngươi.” (1V 11: 11). Trong Tân Ước cũng nhắc đến một ông vua rất tàn ác, đó là Hêrôđê. Kinh thánh nói: “Bấy giờ Hêrôđê tức cuồng lên, sai quân giết hết cả trẻ em ở vùng Belem, từ hai tuổi trở xuống. (Mt 12: 6).
3. Đức Giêsu Kitô Vua
Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua, không phải chỉ của thế giới này, mà của toàn vũ trụ. Ngài không bao giờ làm vua theo kiểu các vua chúa ở trần gian, cũng không bao giờ làm chủ một lãnh vực kinh tế nào. Ngài là Vua theo một nghĩa hoàn toàn khác.
Vì thế, ngày lễ Chúa Kitô Vua mang màu sắc đầy vinh quang chiến thắng, Giáo Hội lại nêu cao biến cố đau thương Chúa chịu chết treo trên thập giá.
Các sách Tin Mừng đã đặt lễ đăng quang của Chúa Giêsu trong chính cuộc tử nạn của Ngài. Khởi đầu là cuộc khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem, trong đó Chúa Giêsu đã ngồi trên lưng một con lừa con. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng Ngài là Vua, nhưng Ngài là Vua không theo các cung cách của vua chúa trần gian. Tất cả bản án của Chúa Giêsu đều xoay quanh tước hiệu Vua của Ngài.
Chúa đã trả lời với tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Câu trả lời ấy cho chúng ta biết: Nước Chúa không thuộc về thế gian, có nghĩa là bất cứ nước nào, bất cứ chế độ nào, với nền văn minh nào, cũng không thể đồng hóa với nước Chúa. Nước Chúa ở trong các tâm hồn, những tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, và nhất là đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Chúa Giêsu đem đến.
Vậy, tất cả những ai đón nhận tình yêu cứu độ đó, họ sẽ được nhận vào Nước Chúa. Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, những người chứng kiến đã có những thái độ khác nhau: có kẻ xót thương, có người lãnh đạm vô tình, có kẻ thách thức, nhục mạ, nhưng cũng có người nhận ra Chúa và tin tưởng Chúa. Đó chính là người trộm lành. Anh không dám thách thức Chúa như người trộm khác cùng bị đóng đinh với anh hay như những người vô lễ khác, nhưng anh biết tội mình và suy đoán rằng vương quyền mà Chúa liều chết vì nó phải là một vương quyền tốt đẹp vô lường nên anh kêu xin Chúa cứu vớt để được đưa vào vương quốc ấy. Đúng vậy, giữa đám đông mù quáng, ngược ngạo, ít ra cũng còn một tâm hồn ngay tình. Đó là người trộm lành trong một hoàn cảnh thật bi đát bị treo trên thập giá, anh đã biết nhận tội của mình và nhìn nhận sự vô tội của Chúa Giêsu. Giữa lúc mọi người đều bỏ rơi Chúa, đã quên hết những phép lạ, những lần đi theo Chúa lúc Ngài được tôn vinh, người trộm đã nhận ra vương quyền của Chúa và tuyên xưng đức tin của mình bằng một lời van xin đầy hy vọng sâu xa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Lời cầu nguyện khiêm hạ của anh đã mở được cửa vương quốc đó cho anh.
Hiện nay trên thế giới khoảng 2,5 tỷ trên 7 tỷ người là Kitô hữu thuộc nhiều giáo phái khác nhau (Công giáo, Tin Lành, Chính Thống…). Họ là những người theo Ngài, làm môn đệ Ngài, đồng thời nhìn nhận Ngài là lẽ sống, là gương mẫu hoàn hảo nhất cho cuộc đời mình, và coi giáo huấn của Ngài là kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Họ theo Ngài chủ yếu không phải vì giáo huấn của Ngài cao siêu, vì nhân cách của Ngài đáng phục nhất (mặc dù họ tin đích thực là như vậy). Họ theo Ngài vì họ tin Ngài là Con Thiên Chúa, là thần linh cao cả vô cùng, lại là người yêu thương họ hơn bất kỳ ai khác trên đời, yêu họ đến nỗi sẵn sàng đau khổ và chết cho họ. Nhất là Ngài là người duy nhất có thể đem lại hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu cho họ.
Thật vậy, còn gì vương giả cho bằng khi Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho những kẻ đã làm hại Ngài. Chúa Giêsu là Vua của Tình Yêu, chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố: “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.
Qua hơn 2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy Đức Giêsu làm cái mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường của phục vụ và phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cữ chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành: “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.
Mỗi người tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân ta chưa, nghĩa là Ngài đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa, có lẽ rất nhiều người sẽ phải ngập ngừng, hoặc phải trả lời chưa!. Ngài là vua của tâm hồn ta, hay là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta?
Nếu Ngài chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng Ngài là vua có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của Tổng thống Bush: «Show, but don’t tell!»: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói suông!
Trong ngày sau cùng, khi Đức Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?
Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là “người khôn ngoan xây nhà trên đá”. (Mt 7,24).
“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40)
Sẽ có phán xét chung vào ngày Chúa Kitô trở lại trong vinh quang. Lúc ấy, tất cả mọi người sẽ trình diện TN 34-ABC125
“Sẽ có phán xét chung vào ngày Chúa Kitô trở lại trong vinh quang. Lúc ấy, tất cả mọi người sẽ trình diện trước tòa Chúa Kitô để trả lẽ vể các hành vi của mình” (Giáo lý Hội thánh công giáo). Điều xác tín này chắc chắn là không sai lầm. Mặc dù, đó là ngày nào thì không ai được biết nhưng điều gì sẽ xảy ra trong ngày đó thì đã được nói quá rõ ràng. Đức Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang của Người “khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu…” (Mt 25,31). Người sẽ ngồi trên ngai của Người và theo lẽ chính trực mà xét xử, mà “tách chiên ra khỏi dê”. Ngày ấy Thiên Chúa không hỏi Ta có bao nhiêu hecta đất, giữ chức vụ gì trong xã hội, nói được mấy thứ tiếng hay học hàm, học vị thế nào. Nhưng điều Ngài đặt nặng nhất là “món nợ yêu thương”, là anh đã làm được gì cho đồng loại của mình.
Như Thiên chúa yêu thương. Đức Giêsu cũng muốn con người hãy yêu thương nhau. Trong đó đối tượng được chú ý đặc biệt là những “kẻ bé mọn” tức là những ai xét thấy là cần phải được nâng đỡ trên mọi lãnh vực. Ở đây cụ thể có sáu loại việc: đói cho ăn, khát cho uống; lỡ đường cho nương trọ; trần truồng cho mặc, bệnh tật thì thăm viếng, tù đày thì ủi an. Tất nhiên còn nhiều điều khác nữa. Kể cả là sự giúp đỡ về tinh thần, bảo vệ công lý, xây dựng hoà bình… Thiên Chúa muốn chúng ta thương yêu người khác rồi chính Ngài lại là người đứng ra trả ơn cho chung ta. Đây mới chính là điều không ai ngờ tới. Thật vậy, khi làm điều thiện tức là chúng ta không những làm theo lời dạy của Chúa mà còn diễn tả cách sống động tình thương của Thiên Chúa tại trần gian này. Tuy nhiên, không phải Thiên Chúa ham danh lợi, muốn được mọi người biết đến lòng quảng đại của mình. Thiên Chúa không như con ngươì, và Ngài cũng chẳng cần phải muốn thế để làm gì. Điều quan trọng là Ngài muốn con người biết yêu thương, biết chia sẻ cho nhau, nâng đỡ nhau trên cuộc đời vốn đã quá khó nhọc nầy. Và yêu thương chính là tiếng nói mạnh mẽ nhất của người con biết nghe lời, “yêu thương là chu toàn lề luật” (Ga13,35). Mặc khác, trong trách nhiệm liên đới, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, chúng ta đâu thể dửng dưng trước nỗi thống khổ của đồng loại.
Có lẽ bạn không phủ nhận rằng, bạn cũng có nhu cầu được yêu thương. Vậy nếu bạn thực hành việc yêu thương với người khác cũng là hợp lý thôi. “muốn ăn phải gắp cho người” mà. Kẻ dữ làm sao biết yêu thương và khi hành động thiếu bác ái là ta không muốn yêu thương nơi chính bản thân mình. Như vậy, nếu có phải chịu hình phạt trong lửa hoả ngục cũng không là điều ngạc nhiên.
Hơn nữa, đây còn là chuyện làm cho chính Chúa. Làm cho con người mà Thiên Chúa trả công thì còn mong ước gì hơn.
Muôn thuở Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta bất luận chúng ta tốt xấu. Tuy vậy, một khi chúng ta làm theo lời dạy của Chúa, chúng ta sẽ được Thiên Chúa yêu thương nhiều hơn. Vậy, có lý do gì để bạn khước từ tình thương và hạnh phúc đã dành sẵn cho người biết lắng nghe và thực hành lời Chúa?
“Phần gia nghiệp” chỉ dành cho những ai biết sống tinh thần Phúc Âm.
Thường thì phạm nhân không được phép treo ảnh, nhưng Hiroshi Igarashi nài xin ban quản giáo và cuối TN 34-ABC126
Thường thì phạm nhân không được phép treo ảnh, nhưng Hiroshi Igarashi nài xin ban quản giáo và cuối cùng được phép treo ảnh Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Một đêm nọ, một quản giáo đi tuần khu nhà tù anh ở đã yêu cầu anh: “Này, anh làm ơn lấy bức ảnh đó xuống dùm tôi. Mắt bà ấy nhìn sợ quá.” Igarashi đáp: “Anh thấy rùng rợn vì anh là người tội lỗi.”
Giờ đây Igarashi đã được tự do, anh tổ chức một nhóm ở Tokyo gọi là “Nhà Mẹ”. Nhóm tận tâm giúp những người ở tù làm lại cuộc đời và tái nhập xã hội sau khi mãn hạn tù. Nhóm lấy tên Mẹ Têrêsa và còn lấy tinh thần của thánh nhân và Kinh Thánh làm nền tảng cho các hoạt động của nhóm. Có tiền án hình sự 3 lần và gần 20 năm ngồi tù, Igarashi biết rõ thực trạng và tất cả các vấn đề trong tù. Nhiều tù nhân bị cô lập và thiếu thốn tình thương. Điều mà những người này cần là có người hỗ trợ họ về mặt tình cảm, nhưng không có ai làm điều đó cả.
Khi anh bị bắt giam lần thứ ba, gia đình anh cắt đứt mọi liên hệ với anh. Anh đã nghĩ đến chuyện tự vẫn, nhưng ngay lúc đó có một người Brazil gốc Nhật vui tính bị cảnh sát bắt giam. Người này thường xuyên cầu nguyện và nói về Kinh Thánh cho Igarashi nghe. Đó là lần đầu tiên Igarashi bắt đầu đọc Kinh Thánh. Anh ấn tượng nhất là câu: “Saolô, Saolô sao ngươi lại bắt bớ ta?” (Cv 9, 4) Đối với Igarashi, câu này nghe như thể Đức Kitô đang hỏi chính anh: “Sao con phạm tội chống Ta?”Đó là lúc anh trở lại đạo. Anh cầu nguyện hết lòng, lớn tiếng nói: “Con xin lỗi Chúa!”
Anh nhận ra khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, Ngài chết thay cho anh trên đó và anh khóc nức nở. Igarashi biết Mẹ Têrêsa cũng ở trong nhà tù, qua một quyển sách anh tình cờ đọc được. Anh lập tức tin rằng “con người này có thật” và muốn học hỏi nơi thánh nhân, mãi sau này anh mới biết ngài đã qua đời. May mắn thay, anh có cơ hội gặp được một số tu sĩ dòng Thừa sai Bác ái do ngài sáng lập.
Đức cố Hồng y Seiichi S. Hirayanagi mở khoá học giáo lý tân tòng giới thiệu đức tin Công giáo cho anh. Một luật sư Tin lành đã đứng ra bảo lãnh anh. Khi ra tù, Igarashi bắt đầu biến đức tin thành hành động thực tế bằng cách thành lập Nhà Mẹ. Đức Tổng Giám mục Takeo Okada đích thân gửi thư chúc mừng. Anh làm việc hết mình, phấn đấu noi theo con đường tình yêu của Mẹ Têrêsa. (Theo UCA News)
Đức Kitô, Vua Tình Yêu đã cảm hóa tù nhân Hiroshi Igarashi. Nhờ vậy, Mẹ Têrêsa Calcutta mới dẫn dắt anh bước theo Ơn Gọi. Tin Mừng hôm nay công bố điều kiện để được Thiên Chúa chúc phúc và được ban thưởng Nước Trời.
Xả kỷ
Tiên quyết theo lời mời gọi Tình Yêu Thiên Chúa, người Kitô hữu phải bỏ mình, thoát khỏi những ràng buộc xác thịt, đam mê, ham muốn, nếu quyết dấn thân theo Chúa, với trọn tâm tình tin, cậy, mến.”Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” (Lc 9, 23)
Không nuông chiều bản thân, không màng danh lợi phù vân, mà cần làm trọn bổn phận, trách nhiệm được Chúa trao phó. Chu toàn mọi nhiệm vụ, hay Ơn Gọi, dù chịu khó khăn, thách đố, dù bị đối xử phân biệt, bị vu oan cáo vạ, tra tấn, tù đầy, ám hại, vẫn phó thác, vững tin vào Chúa Quan Phòng.
Một khi xả kỷ, bỏ đi bản thân, thì mới có thể tha thiết gần gũi với tha nhân, để cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ. Nếu còn lấn cấn ngã chấp, cao ngạo, lục dục, tham sân si, thiếu khiêm hạ, vì còn dai dẳng vị kỷ, kiêu căng, coi thường, đố kỵ, khinh khi, ganh ghét người khác, thì làm sao có thể chân thành đến với người khốn cùng. Nếu có, chỉ là đóng kịch, giả hình, che mắt thiên hạ, hòng kiếm chút hư danh phù du.
Bác ái
Cảm nghiệm Tình Yêu vô biên, Mẹ Têrêsa Calcutta mới hiểu thấu vì sao Đức Giêsu hiện thân trong người nghèo khổ, hèn mọn:“Chúng ta phải ngạc nhiên thấy Chúa đói khát chúng ta như thế nào. Người đã hóa nên kẻ đói khổ, kẻ thiếu áo mặc, người hấp hối, để chúng ta có cơ hội cho Người ăn, cho Người mặc, phục vụ Người qua công việc chúng ta giúp đỡ người nghèo khó.”
Bác ái còn là dấu chỉ Tình Yêu, vì thế: “Đâu có tình yêu thương, ở đó có Thiên Chúa; đâu có thù ghét, ở đó có hỏa ngục.” (Đường Hy Vọng, số 749)
Buồn lắm thay, cũng phát sinh những kiểu bác ái biến thể, dị dạng, què quặt, lạm dụng, phi Kitô giáo, thậm chí phản Kitô:
Có loại bác ái ồn ào: Bác ái phóng thanh. Có loại bác ái kể công: Bác ái ngân hàng. Có loại bác ái nuôi người: Bác ái sở thú. Có loại bác ái khinh người: Bác ái chủ nhân. Có loại bác ái theo ý: Bác ái độc tài. Có loại bác ái nhãn hiệu: Bác ái giả hiệu. (Đường Hy Vọng, số 756)
Phục vụ
Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu phán dạy: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13, 14-15) Không chỉ phục vụ lẫn nhau, thân bằng quyến thuộc, Đức Giêsu còn đòi hỏi phải phục vụ những người hèn mọn, bé nhỏ, khốn cùng, khách lạ, người đau yếu, kẻ tù tội. Bởi vì những người khốn khổ đó chính là hiện thân Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô khẩn khoản Kitô hữu hãy quên mình phục vụ tha nhân. “Đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau.” (Gl 5, 13)
Phục vụ tha nhân đâu chỉ bằng vật chất, của cải, mà còn bằng tinh thần, thân thiện, sự chia sẻ, sự quan tâm, đồng cảm, đồng hành, hiệp thông cầu nguyện: “Tôi không làm việc bác ái được, vì tôi không có tiền! Chỉ có tiền mới bác ái sao? Bác ái của nụ cười, bác ái của bắt tay, bác ái của thông cảm, bác ái của thăm viếng, bác ái của cầu nguyện.” (Đường Hy Vọng, số 741).
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu như các Thánh yêu người, biết nhận ra Chúa trong mọi người, nhất là những kẻ hèn kém, khốn cùng, để chúng con có thể xả thân phục vụ Chúa mọi nơi, mọi lúc.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là mẫu gương mẫu bác ái, phục vụ, xin giúp chúng con biết noi theo Mẹ thực hành Lời Chúa dạy mến Chúa yêu người, để chúng con xứng đáng được nhập vào đoàn chiên bên hữu Chúa Giêsu Kitô. Amen.
(Suy niệm của Msgr. Edward Peter Browne – Lm. Gioan Trần Khả chuyển dịch) Sứ Giả và Bản Tin
Tuần trước ở trang đầu của hầu hết các trang báo trên thế giới và các đài truyền hình đã có hình TN 34-ABC127
Tuần trước ở trang đầu của hầu hết các trang báo trên thế giới và các đài truyền hình đã có hình của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Fiedel Castro, và những lời nhận xét của Fidel Castro nói là Đức Giáo Hoàng là một con người vĩ đại, một người thu hút tuyệt vời. Nhưng suốt cả ba mươi năm qua Fidel Castro đã nỗ nực đánh phá giáo hội ở Cuba. Ông đã giết các linh mục, các nam nữ tu sỹ, đã đóng cửa nhiều nhà thờ, cấm dạy giáo lý và giáo thuyết của Giáo Hội Công Giáo, dù thế ông lại cho Đức Giáo Hoàng là một người vĩ đại. Ông yêu thích sứ giả mang tin, nhưng ông lại ghét bản tin.
Vài năm về trước chúng ta có Mẹ Têrêsa thăm đất nước của chúng ta và đã nói chuyện ở vài nơi cũng có sự hiện diện của tổng thống và phó tổng thống tham dự và các vị đã tỏ ra ngưỡng mộ mẹ Têrêsa, nói mẹ là một người tuyệt vời. Nhưng cùng lúc, họ lại ủng hộ phá thai, hợp pháp hóa phá thai, cho phá thai là điều chấp nhận được, và đã ủng hộ lối sống luyến ái đồng phái tính. Thái độ của họ là: “Mẹ Têrêsa là một người vĩ đại, một người mang tin tuyệt vời, nhưng chúng tôi không thích bản tin của bà!”
Ngay trong thời của Chúa Giêsu Kitô, dân chúng cũng có thái độ suy nghĩ giống như vậy. Họ thích người mang tin, nhưng lại không thích bản tin. Họ đã đi theo và nghe Chúa Giêsu, họ đã thấy Ngài chữa lành người yếu đau, làm cho người mù sáng mắt, nuôi hàng ngàn người ăn, nhưng khi Chúa Kitô nói với họ, “Hãy tin theo ta, hãy đến đi theo làm môn đệ của ta,” thì không, họ đã không muốn tham dự tí nào cả. Hơn thế, họ đã muốn lên án giết ngài.
Nó là một điều rất được tán đồng đối với quan điểm của thế giới ngày nay cho rằng thật tuyệt diệu để yêu thích người mang tin nhưng không thèm nghe bản tin. Có nhiều người hâm mộ Thiên Chúa, hâm mộ đức Giáo Hoàng, hâm mộ mẹ Têrêsa, nhưng họ lại không muốn làm môn sinh. Họ không muốn chu toàn trách nhiệm đi theo với bản tin.
Hâm Mộ hay Môn Sinh
Như bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta, chúng ta được kêu gọi để nên môn sinh của Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải chỉ là những người hâm mộ. Chúng ta không chỉ muốn nói “đó là một ý tưởng thật hay” và rồi không chu toàn bổn phận. Chúng ta được kêu gọi trở nên các môn sinh. Chúng ta có nhiều loại, có thể nói là, tạp nhạp tín hữu Công Giáo. Có những người Công Giáo chỉ vì đã được rửa tội và không còn gì khác hơn. Ông Bà muốn bảo đảm là đứa cháu phải được rửa tội nhưng cha mẹ của con trẻ đã chẳng quan tâm đến việc nuôi nấng dạy dỗ con trong đức tin Công Giáo. Họ muốn là những người hâm mộ nhưng không phải là môn sinh. Rồi có những người Công Giáo hạng trung bình hoặc là người Công Giáo theo mùa. Họ muốn tham dự và nói, “Đúng, tôi là người Công Giáo,” nhưng họ lại không muốn tham gia tới mức độ của môn sinh. Và sau cùng là những người Công Giáo tốt, Công Giáo thực thụ, Công giáo giòng, họ không những tuyên xưng các giáo huấn của Giáo Hội, của Chúa Kitô, nhưng họ còn thực hành đức tin của mình.
Chúa nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay là thật không thể cho là đủ để chỉ là những người ngưỡng mộ, chúng ta còn phải thực hành, và trở thành các môn sinh. Chúng ta được kêu gọi làm môn sinh của Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải chỉ là những người ngưỡng mộ ngoài cuộc. Phần nào đó nó như là một sự trái ngược nơi bài Tin Mừng hôm nay so với Tám Mối Phúc Thật, Bài Giảng Trên Núi, khi Chúa nói “Phúc cho những người nghèo khó, phúc cho những người đói, phúc cho những người khát, phúc cho những người nghèo khổ bần cùng.” Họ được chúc phúc bởi vì họ bỏ tất cả mọi cái ở thế gian vì nước Thiên Chúa. Và bây giờ Ngài lại nói phúc cho những người biết chia cơm sẻ nước cho người đói khát. Nhất là trong mùa lễ Tạ Ơn và Giáng Sinh, người ta tham gia vào các chương trình gói quà Giáng Sinh, gói quà Tạ Ơn, thu góp thực phẩm để giúp những người nghèo, bỏ thêm tiền vào gỉo thu để chúng ta có thể giúp nuôi những người đói, mua sắm áo quần cho người rách mướt, lo cho những người vô gia cư.
Những Người Được Chúc Phúc
Nhưng điều quan trọng hơn cả là chúng ta trở nên môn sinh của Chúa Giêsu Kitô. Bản tin được trao gởi đến cho chúng ta trong Tin Mừng không phải là cho ăn, cho áo, cho nước những người đói khát, mà là cho trọn vẹn về Tin Mừng. Chúng ta đói khát bản tin của Tin Mừng. Chúng ta đói tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta đói giáo huấn của Chúa Kitô, chúng ta khát tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mong được mặc tấm áo ân sủng của Thiên Chúa. Đây chính là cách chúng ta đi đến mức sung mãn của sự sống, bằng cách trở nên các môn sinh của Chúa Giêsu Kitô, không phải chỉ là những người ngưỡng mộ ngoài cuộc, những người hâm mộ. Chúng ta được kêu gọi hôm nay để trở nên các môn sinh, những người đi theo, thi hành và kiện toàn các giáo huấn của Chúa Kitô và của Giáo Hội và rồi chúng ta sẽ được gọi là những người được chúc phúc của Thiên Chúa Cha. Xin Thiên Chúa chúc lành cho các bạn.
Ngày nay trên thế giới, rất ít nước còn chế độ quân chủ, vì thế, chỉ còn đếm trên đầu ngón tay mà TN 34-ABC128
Ngày nay trên thế giới, rất ít nước còn chế độ quân chủ, vì thế, chỉ còn đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Ấy vậy mà đạo Công Giáo hằng năm lại mừng lễ Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ! Tại sao vậy? Và, Đức Giêsu làm Vua như thế nào? Chúng ta có thuộc về dân trong đất nước của Ngài không?
1. Vị Vua lạ lùng
Mỗi khi mừng lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về Đức Giêsu như là điểm quy chiếu, như cái tâm trong vòng tròn; như cùng đích của con người. Bởi vì Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa. Ngài là khởi đầu và cùng đích, là Anpha và Ômêga. Là Chủ Vũ Trụ; là Vua các vua, Chúa các chúa. Ngài làm Vua trong sự toàn thiện, hoàn mỹ.
Tuy nhiên, khi nói đến Đức Giêsu là Vua, chúng ta thấy Ngài là một vị Vua không như các vua chúa trần gian! Ngài là Vua, nhưng là một vị lạ lùng!
Lạ lùng lúc sinh ra trong cảnh nghèo nàn. Rong ruổi bôn ba khắp ngả đường. Đến nỗi: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20). Không thành quách, cung điện ngọc ngà.
Khi tổ chức vương triều thì lại không binh lính, cũng chẳng có kẻ hầu người hạ, lại càng không dùng vũ khí, sử dụng quyền lực, binh đao.
Ngược lại, cung điện lại được đặt trong lòng mỗi con dân. Thành quách là sự liên đới. Lãnh đạo bằng tình yêu và tha thứ. Luôn phục vụ người khác thay vì được người khác phục vụ mình.
Nhưng có lẽ điều làm cho người ta chú ý nhất đến Vị Vua hy hữu có một không hai này chính là: khi được mọi người tôn vinh làm vua thì không muốn, nên tìm cách trốn tránh. Đến khi mọi người thù ghét, bôi nhọ, bêu dếu, chẳng ai bênh vực, đỡ nâng và không ai muốn trao Vương Quốc cho mình thì lại khẳng khái tuyên bố mình là Vua và đến thế gian này chỉ vì một mục đích là làm chứng cho sự thật (x. Ga 18, 36).
Tuy nhiên, ngược đời ở chỗ: Nước của Vị Vua ấy lại “không bao giờ cùng” “vô biên cương”, “không ranh giới” và “không thuộc thế gian này”.
Trong nước ấy, chỉ có sự thật, công lý, bình an và tình yêu ngự trị. Thần dân là tất cả những ai thuộc về đặc tính trên (x. Ga 18, 36).
Tất cả những điều lạ lùng đó, Đức Giêsu muốn mặc khải cho chúng ta biết: Ngài là Vua sự thật; đồng thời, Ngài mời gọi chúng ta đứng về phía sự thật để được gia nhập đoàn dân của những người yêu mến công lý.
2. Vua Sự Thật
Sự thật mà Đức Giêsu mang đến và mời gọi là gì? Thưa, đó là: mặc khải cho nhân loại biết sự thật, một sự thật được xây dựng trên tình yêu. Vì thế, Ngài đã chấp nhận đánh đổi ngay cả mạng sống của mình để biểu hiện tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.
Thật vậy: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Khi Ngài đến, Ngài đã yêu thương họ đến cùng và chấp nhận đánh đổi chính cái chết trên thập giá để làm chứng cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi, nghèo khó, bị áp bức, bóc lột... Vì tình yêu không giới hạn và vô biên, nên Đức Giêsu đã gọi những người đó là bạn hữu và chấp nhận chết cho bạn hữu của mình được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,7-10; 15, 9-15). Quả thật: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13)
Sự thật ấy nhằm diễn tả đặc tính của tình yêu trong một Vương Quốc khác chứ không phải nơi trần gian.
Điều này đã được Đức Giêsu nói trước quan toàn quyền Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này" (Ga 18, 36).
Vì thế, vinh hoa, phú quý, sung túc, sang giàu, quyền lực và ngay cả sự sống trần gian này chẳng đáng gì đối với sự sống vĩnh cửu trong Nước của Chúa.
Và, như một sự tất yếu, muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Trong thời đại hôm nay, việc sống chứng nhân cho sự thật không phải là chuyện dễ! Lại càng khó hơn nữa khi trong một xã hội tình yêu luôn bị đánh cắp, nghi ngờ và bị lợi dụng!
Bởi vì: người ngay thẳng, trung thực thì thường thua thiệt, và bị coi là ngu dốt, còn kẻ gian dối lại được coi là khôn ngoan... Sống man trá mà thành công thì được tưởng thưởng, còn vì sự thật mà bị thất bại thì bị khiển trách...
Đứng trước một xã hội như thế, hẳn sống đời chứng nhân cho Chúa quả là khó! Tuy nhiên, dù khó, chúng ta vẫn phải thi hành vì đây là hành vi mang tính quyết định thuộc về hay khước từ... Khi sống vì chân lý, ấy là lúc chúng ta chấp nhận lội ngược dòng để làm chứng cho sự thật và tình yêu của Thiên Chúa trong bối cảnh hiện nay.
Thật vậy, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người được trở thành thần dân của Đức Giêsu và trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, đồng thời được mời gọi sống đặc tính của Nước ấy trong cuộc sống đời thường của mình. Vì thế, hẳn chúng ta phải mặc lấy Ngài và những tâm tình của Ngài như: từ bi, nhân hậu, hiền lành, nhẫn nại, bao dung, chết đi cho tính xác thịt, ý riêng và ra khỏi chính mình, từ bỏ tính kiêu ngạo, hóng hách để cúi xuống rửa chân cho cả kẻ thù. Sẵn sàng yêu thương, làm phúc cho kẻ đói ăn, khát uống. Nâng đỡ những người thấp cổ bé họng, chân yếu tay mềm, nhân phẩm bị trà đạp...
Quyết tâm đứng lên để bảo vệ những người không có tiếng nói... Chấp nhận vì sự thật mà bị bách hại, vu khống đủ điều xấu xa.
Nếu thế gian chống đối lại sự thật, vì sự thật làm cho họ thua thiệt, thì chúng ta, không bao giờ được thỏa hiệp với bất công dù dưới bất kỳ hình thức hay nhãn giới nào...
Khi làm chứng cho Đức Giêsu trong sự thật như thế, hẳn chúng ta sẽ không thể thoát được số phận phải chết như Thầy của mình, tuy nhiên: "... can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16,33). Thật thế, chỉ trong sự thật, chúng ta mới được vào Nước Trời và được Đức Giêsu tuyên bố nhận chúng ta trước mặt Chúa Cha và Triều Thần Thiên Quốc: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta" (Mt 25, 34-37).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Vua Vũ Trụ, xin cho con được yêu mến và ham thích đường lối sự thật và tình yêu của Chúa, đồng thời biết chia cơm sẻ bánh cho người nghèo khổ.
Ước gì khi làm những điều đó trong lòng mến, chúng con sẽ được vào Vương Quốc của Vua tình yêu và sự thật để được sống đời đời. Amen.
Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ TN 34-ABC129
Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người.
Trong bài giảng lớn cuối cùng này của Đức Giêsu, người thợ mộc hèn mọn Nadarét sau cùng biểu lộ ý thức phi thường mà Người có về vai trò của mình. Ơ đây, chúng ta có sự khẳng định mạnh mẽ nhất về thiên tính của Đức Giêsu theo nghĩa chặt chẽ. Trong vài ngày nữa, Người sẽ bước vào cuộc khổ nạn (Mt 26,1-5) và trở thành “ông vua” bị nhạo báng, bị đội mão gai, bị giết chết như một người nô lệ tầm thường. Nhưng Người biết mình là ai. Một ngày kia Người sẽ đến trong vinh quang để phán xét thế gian, là đặc quyền mà Cựu ước dành cho Giavê. Ở đây Đức Giêsu lấy lại tước hiệu Con Người mà Người đã sử dụng nhiều lần trong bài giảng về thời Thế Mạt (Cánh chung): Mt 24,3.27.30.37.39.44. Kể từ ngôn sứ Đanien (7,13), Con Người là nhân vật mầu nhiệm, có nguồn gốc từ trời, mà sách Khải Huyền Do Thái (Đặc biệt là sách Hê-nóc) mô tả như vị Thẩm Phán của thời Thế Mạt.
Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.
Thỉnh thoảng chúng ta nên nghĩ đến “Ngày” này. Tôi sẽ được đưa về với ngày đó rất nhanh. Lúc đó mọi sự vật trần gian sẽ có một tỉ lệ mới: Lạy Chúa, xin Chúa ngay từ bây giờ giúp con phán đoán mọi sự việc theo quan điểm vĩnh cửu, để phân biệt cái gì là không đáng kể với cái gì là quan trọng. “Các dân thiên hạ..”. Tôi cũng thế, tôi sẽ có mặt ở đó. Một đám đông to lớn chờ phán xét. Cũng có mặt ở đó tất cả những người mà tôi yêu thích, tất cả những người mà tôi biết, tất cả những người mà tôi có trách nhiệm.
Nhưng cũng có mặt mọi người khác: Do Thái và không Do Thái, Kitô hữu và không phải Kitô hữu, tín hữu và không tín hữu, Hồi giáo, Ấn giáo, người theo thuyết vật linh… những nhà thần bí suốt đời sống trong sự cầu nguyện, và những người vô thẩm mà cả đời không bao giờ cầu nguyện… tất cả đều đứng trước mặt Đức Giêsu! Người là vị Vua Mục tử, tước hiệu mà văn chương của các ngôn sứ cũng đã dùng để nói về Gia-vê (Ed 34,11-22).
Bấy giờ Đức vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng:”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho cắc ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”.
Trong vài ngày nữa, Đức vua này, Con Thiên Chúa sẽ bị đóng đinh. Tuy nhiên Người ý thức được “ý định của Thiên Chúa từ thuở tạo thiên, lập địa!”. Người nói Thiên Chúa đã tạo ra con người… để một ngày ban cho con người Nước của Người làm gia nghiệp. Nhưng sự phán xét dựa trên tiêu chuẩn nào? Trên quy tắc nào sự sàng lọc được thực hiện?
Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu, các người đã thăm nom, Ta ngồi tù, các người đã đến thăm.
Vậy chúng ta được phán xét dựa trên và chỉ dựa trên tình yêu. Và dựa trên một tình yêu rất đơn giản: cho ăn, cho uống, tiếp đón, cho mặc, thăm viếng, săn sóc. Như thế, những cử chỉ yêu thương khiêm hạ và chân thật có một giá trị vô cùng, một giá trị vĩnh cửu. Vả lại danh sách những hành động yêu thương mà Đức Giêsu kể ra không hạn chế. Đó chỉ là những gương mà chúng ta có thể kéo dài ra tùy theo cuộc sống của mỗi người.
Con tôi khóc ban đêm, và tôi thức dậy để dỗ dành âu yếm nó. Bà mẹ già của tôi không thể ngồi dậy, và tôi đã đỡ bà ra khỏi giường để cho bà ngồi vào ghế bành. Những người láng giềng của chúng tôi thiếu thốn tình bạn họ cần và chúng tôi đem tình bạn đến với họ. Trong giáo xứ, linh mục cần các bậc phụ huynh phụ trách việc dạy giáo lý và tôi đã chấp nhận trách nhiệm này và nó chiếm khá nhiều thời gian của tôi. Các đồng nghiệp của tôi cần được bảo vệ và tôi đã lãnh trách nhiệm về cộng đoàn và chính sách.
Thế giới thứ ba yêu cầu chúng ta giúp đỡ để phát triển, và tôi đã tham dự vào chiến dịch thế giới chống nghèo đói…Người phối ngẫu, con cái tôi, bạn bè tôi… đang cần những cử chỉ yêu thương của tôi… Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng:
“Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp đón hoặc trân truồng là cho mặc. Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?”
Sự ngạc nhiên của những người “được cứu” là một trong những yếu tố gây kinh ngạc trong cảnh này. Theo Đức Giêsu không một ai trong số những người được Chúa Cha chúc phúc có vẻ nhận biết đích xác điều gì đã được diễn ra trong đời sống hàng ngày của họ: ý nghĩa sau cùng của các hành động họ làm chỉ được tiết lộ vào giờ sau hết.
Như thế, cuộc phán xét sau cùng này mà chúng ta tưởng tượng trong tương lai, còn rất xa trong thời gian, thực ra lại là một biến cố thường xuyên: Chính HÔM NAY là ngày phán xét? Thiên Chúa sẽ không cần phán xét con người, mà con người ta phán xét mình trong suốt cuộc đời.
Thiên Chúa chỉ cần tiết lộ điều đã được “che giấu” trong mỗi ngày mà họ đã sống. Đời sống vĩnh cửu đã được bắt đầu. Vậy điều gì đã được “che giấu” và không được nhận thức?
Để đáp lại Đức vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
Điều được “tiết lộ vì thế chính là sự hiển diện khó tin được của Đức Giêsu! Khi toàn bộ lịch sử nhân loại sẽ hoàn tất, và để tóm thu toàn bộ lịch sử ấy, Đức Giêsu chỉ có thể nói về Người, như thể trong vô số người đàn ông và đàn bà, chỉ mình Người đã hiện hữu, bằng sự hiện diện vô số và ẩn giấu. ‘Ta đói …Ta khát… Ta ngồi tù… Ta là khách lạ.. Ta đau ốm…”. Như thế, cuộc quang lâm sau cùng, sáng chói trong vinh quang của Đức Giêsu từ trên các đám mây sẽ là bằng chứng cho một “sự đến” khác, bí mật và ẩn giấu nhưng thường xuyên, và xảy ra qua những hành động yêu thương. Một cách rõ ràng và hiển nhiên sự hiện diện huy hoàng của Đức Giêsu trong ngày Thế Mạt sẽ nói rằng Người không ngừng đến và không ngừng hiện diện trong mỗi người anh em đang cần đến chúng ta.
Lạy Chúa, xin giữ cho chúng con luôn canh thức cho đến giờ Chúa sẽ hiện ra.
Rồi Đức vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó”.
Lạy Đức Giêsu, Đấng mạc khải tình yêu của Chúa Cha, chính Chúa đã tuyên bố những lời đáng sợ như thế. Con lắng nghe và không thể trốn tránh trách nhiệm đã gạt bỏ những gì gây phiền nhiễu cho con trong Tin Mừng. Thật vậy Tin Mừng không phải là một thuyết duy tâm mơ hồ và nặng tình cảm, đó là lời kêu gọi của một yêu sách cực độ. Từ chối yêu thương… không giống như yêu thương? Không – tình yêu không thể có chỗ của nó bên cạnh Thiên Chúa là tình yêu. Chúng ta nhận thấy có một khía cạnh có tầm quan trọng tột bậc: Chúa Cha đã chuẩn bị thiên đàng cho người từ thuở tạo thiên lập địa… còn hỏa ngục không được chuẩn bị cho con người nhưng cho sa tan và các sứ thần của nó. Ơ đây chúng ta gặp lại nhân vật hắc ám mà ngay từ lúc đầu đã được giới thiệu như kẻ thù của Đức Giêsu (Mt 4,1), kẻ đã gieo cỏ lùng vào cánh đồng lúa mì (Mt 13,39), kẻ mà Đức Giêsu đã nhiều lần đi đầu để tiêu diệt (Mt 9,34; 12,24; 8,31; 15,22; 17,18). Tín điều về hỏa ngục không do Giáo Hội bày đặt ra. Chúng ta nghe từ chính miệng Đức Giêsu: “Quân bị nguyền rủa, đi đi cho khuất mắt Ta…”
Tín điều về Hỏa ngục có nghĩa như sau: Thiên Chúa có đủ tình yêu cao cả để cho tạo vặt được tự do với sự tự do chân thật, kể cả tự do nói “không” với Thiên Chúa. Dĩ nhiên Thiên Chúa không muốn có Hỏa ngục. Và sự hiện diện dù của chỉ một người bị sa Hỏa ngục đối với chúng ta cũng là một cớ vấp ngã, đối với Thiên Chúa thì còn hơn thế nữa. Giữa Hỏa ngục “có thể” và Hỏa ngục thực, Thiên Chúa can thiệp với tất cả năng lực của Tình Yêu Của Người: chính ở chỗ đó, thập giá của Đức Giêsu được dựng lên Thiên Chúa đã làm tất cả để không một ai phải vào chỗ đó nội các tạo vật dứt khoát nói “không” với Thiên Chúa. “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người’ tội lỗi” (Mt 9,13). “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi” (Rm 5,9). “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu (1Tm 2,4). Hỏa ngục vì là sự khước từ tuyệt đối Tình yêu nên lúc nào cũng chỉ hiện hữu từ một phía… phía của người đã tạo ra hỏa ngục cho chính mình. Nhưng chính Thiên Chúa không thể có bất cứ sự cộng tác nào trong sự lệch lạc ấy. Chừng nào còn có dù chỉ một con người ở trong sự khước từ ấy thì có thể nói Thiên Chúa còn thấy mình bị đóng dấu sắt nung đỏ bởii sự từ chối ấy xúc phạm đến tình yêu vô hạn của Người và người ta đoán rằng dấu ấn này đã mang hình thể của thập giá?
Vì xưa Ta đói, các Ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom”. Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ đâu?”: Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các người không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”. Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời.
Cả hai cảnh phán xét hoàn toàn giống nhau và đối nhau: điều mà những người này đã làm, những người khác bỏ không làm. Mọi con người dù là Kitô hữu hay không, dù biết hay không biết Đức Giêsu sẽ bị xét đoán trên cùng một tiêu chuẩn: không phải số lời cầu nguyện đã đọc, những hành động thờ phụng đã hoàn tất …những tình yêu cụ thể mà người ấy sẽ biểu lộ cho các anh em mình. Không làm điều xấu chưa đủ. Còn phải làm điều tốt. Mỗi con người ngay từ HÔM NAY được phán xét bằng điều tốt lành mà người ấy làm cho những người cần đến người ấy. Vậy ngày hôm nay, ai đang chờ đợi tôi một điều gì?
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ. Giáo Hội dùng Chúa nhật hôm nay để TN 34-ABC130
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ. Giáo Hội dùng Chúa nhật hôm nay để tôn vinh Chúa Giêsu là Vua.
Chính vì thế mà hôm nay cha muốn nói với chúng con về Vua-Giêsu.
1. Trước hết cha phải nói ngay. Chúa Giêsu là vua nhưng Chúa không muốn làm vua theo kiểu của con người trần thế chúng ta.
Đây chúng con hãy nghe Chúa giải thích: “Nước tôi không thuộc về thế gian này". Rồi khi ông Philatô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?” Ðức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”(Ga 18,37)
Vì Chúa không phải là vua theo kiểu của thế gian nên Chúa không sống theo lối sống của hầu hết các vua chúa trên trần gian này.
Cha hỏi chúng con vua chúa trên thế gian này thường sống như thế nào? Cha không dám nói là tất cả nhưng cha có thể nói hầu hết các vua chúa trên thế gian này khi làm vua thì chỉ biết sống hưởng thụ.
Chúng con hãy nghe câu chuyện này:
Có một ông Vua nọ bị dân gán cho một căn bệnh hiểm nghèo, đó là "Tứ chứng nan y" gồm: Mù, què, câm, điếc.
Một hôm, một người vào cung Vua, yết kiến. Vua hỏi:
- Nhà ngươi vào gặp Ta chắc có chuyện gì?
- Tâu bệ hạ - người đó thưa lại- hạ thần nghe rằng bệ hạ đang mang một căn bệnh rất hiểm nghèo là "Tứ chứng nan y" nên hạ thần vào thăm bệ hạ.
Nghe thế, Nhà vua liền nổi giận quát:
- Kẻ nào dám bịa đặt bảo ta bị bệnh? Chân tay mắt mũi ta lành lặn thế này mà bảo ta mù, què, câm, điếc sao?
Người kia liền tâu:
- Thần nghe thiên hạ đồn như vậy, nay gặp Vua mới biết sự thực. Nhưng xét lại, thì tin đồn ấy cũng chẳng sai.
Nhà vua chặn lời và nói:
- Vậy ngươi hãy chỉ cho ta xem nào!
- Tâu bệ hạ, thứ nhất dân kêu kiện nhiều mà bệ hạ không thèm trả lời, không giải quyết, nên bọn họ tưởng Bệ Hạ bị câm. Thứ hai, giặc ngoại bang tràn lan muốn xâm chiếm đất nước, nhân dân hoang mang lo sợ, kêu cầu nhà Vua mà vua không lo gì hết, nên họ tưởng là nhà Vua họ bị điếc. Thứ ba, cuộc sống của bệ hạ thì quá là sung sướng, trên nhung dưới lụa, còn ngược lại, dân chúng sống trong cùng cực, đói khổ. Họ không hề thấy bệ hạ dòm ngó gì đến họ, cũng chẳng thèm quan tâm lo lắng đến đời sống của họ, nên họ tưởng bệ hạ bị đui. Và cuối cùng, vì họ không bao giờ thấy bệ hạ ra khỏi cung điện, mà ngày đêm chỉ biết ăn chơi với các cung phi, nên họ tưởng là bệ hạ bị què!
Đọc lại tiểu sử của rất nhiều vua trên trái đất này, cha thấy rất nhiều ông vua đã sống như thế kể cả một ông vua nổi tiếng là khôn ngoan trong Kinh Thánh đó là vua Salomon. Sách Các Vua 1 V 11, 2-3 nói Salômôn có đến 700 bà vợ chính thức và 300 thê thiếp! Khiếp chưa chúng con?
2. Còn Vua Giêsu thì sao chúng con?
Chúng ta hãy nghe lời chính Chúa nói: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người."(Mt 20,28)
Chúa Giêsu là Con của Thiên Chúa xuống thế làm người. Chúa Giêsu là hoàng tử từ trời cao được Thiên Chúa Cha gửi xuống trần thế này là để làm Vua. Chúa Giêsu cảm thấy hạnh phúc vì được ở giữa loài người. Vua Giêsu sống giữa dân, lo cho dân, vui với cái vui của dân, khổ với nỗi khổ của dân. Tất cả vì dân mà phục vụ, vì dân mà sống. Toàn bộ Tin Mừng đạ cho chúng ta thấy điều đó. Đây là một trong những câu chuyện mà Tin Mừng Luca ghi lại:
Hôm đó, Vua Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Nain, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người.Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: "Bà đừng khóc nữa! " Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: "Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! " Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người".17 Lời này về Đức Giêsu được loan truyền khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận.(Lc 7 ...) 3. Cuối cùng, cha hỏi chúng con: Vua Giêsu muốn cho các thần dân của Người sống với nhau thế nào?
Đây là ước nguyện của Chúa Giêsu: "Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!"(Lc 12,49). Vua Giêsu muốn cho mọi người yêu thương nhau. Bởi vì chỉ có tình yêu mới đem lại những điều kỳ diệu cho cuộc sống này.
Có một cậu bé tự cho mình là đứa trẻ bất hạnh nhất thế giới này. Trong con mắt của bạn bè, cậu là kẻ nhát gan, yếu đuối. Trên nét mặt cậu thường lộ vẻ sợ hãi. Cậu thở phì phò giống người ta kẻo bễ vậy. Khi bị cô giáo gọi đứng dậy đọc bài hay trả lời câu hỏi, đôi chân cậu lập tức run rẩy, môi liên tục mấp máy. Đương nhiên, cậu trả lời ấp úng và đứt quãng. Cuối cùng, cậu đỏ mặt xấu hổ quay về chỗ ngồi. Nếu cậu có một gương mặt đẹp, thì người khác có thể cảm tình với cậu một chút. Nhưng khi bạn thương hại nhìn cậu ta, thì bạn có thể nhìn thấy hàm răng hô xấu xí của cậu.
Vào một ngày mùa xuân, bố cậu bé xin nhà hàng xóm một ít cây giống. Bố cậu muốn trồng chúng trước nhà. Ông bảo các con, mỗi đứa trồng một cây. Ông nói với chúng, cây của ai lớn nhanh nhất, người đó sẽ được ông tặng cho một món quà giá trị. Cậu bé ấy cũng muốn nhận được món quà.
Nhưng khi nhìn thấy anh chị em hào hứng chạy đi chạy lại tưới nước cho cây, không hiểu tại sao, trong đầu cậu lại nảy sinh ý nghĩ kỳ quặc: cậu mong cái cây mình trồng mau chóng chết đi. Vì thế, cậu chỉ tưới nước cho cây hai lần, sau đó bỏ mặc nó.
Một tuần sau, khi xem cái cây mình trồng, cậu bé ngạc nhiên phát hiện nó không những không héo úa, mà còn mọc ra mấy cái lá xanh nõn nà. So với những cái cây mà anh chị em cậu trồng, nó dường như tươi tốt hơn và tràn đầy sức sống. Bố cậu thực hiện đúng lời hứa, mua cho cậu một món quà mà cậu thích nhất. Đồng thời, ông còn nói với cậu, cứ xem cách cậu trồng cây, thì sau này chắc chắn cậu sẽ trở thành một nhà thực vật học xuất sắc.
Từ đó trở đi, cậu bé dần dần trở nên lạc quan.
Vào một buổi tối, cậu bé trằn trọc không sao ngủ được. Nhìn ánh trăng vằng vặc ngoài sân, cậu chợt nhớ đến câu nói của thầy giáo dạy sinh vật: thực vật thường lớn lên vào lúc trời tối. Cậu nghĩ bụng, tại sao mình không xem thử xem cái cây mình trồng lớn như thế nào nhỉ? Khi cậu rón rén đi ra ngoài sân. Cậu nhìn thấy bố đang dùng gáo tưới nước cho cái cây cậu trồng. Ngay lập tức, cậu hiểu ra tất cả. Hóa ra, bố cậu âm thầm bón phân cho cái cây cậu trồng. Cậu trở về phòng ngủ, gục mặt xuống giương mặc cho nước mắt chảy đầm đìa trên khuôn mặt.
Thấm thoắt mấy chục năm đã trôi qua. Cậu bé với đôi chân tập tễnh ấy mặc dù không trở thành một nhà thực vật học như ước nguyện của người cha, nhưng lại trở thành tổng thống của nước Mỹ. Tên của ông là Franklin Roosevelt.
“Khi Con Người ngự đến trong vinh quang …” (Mt 25,31)
Việc suy nghĩ về Lần Đến Thứ Hai của Đức Giêsu có thể làm cho chúng ta cảm thấy một chút sợ hãi. TN 34-ABC131
Việc suy nghĩ về Lần Đến Thứ Hai của Đức Giêsu có thể làm cho chúng ta cảm thấy một chút sợ hãi. Chúng ta biết rằng sẽ thật tuyệt vời khi được ở với Đức Giêsu trên thiên đàng mãi mãi, nhưng chúng ta cũng sẽ lo lắng về điều chưa biết. Hôm nay, chúng ta hãy cố gắng bỏ sự sợ hãi qua một bên bằng việc hình dung ra ba cảnh tượng xung quanh Đấng Đến Lần Thứ Hai.
Cảnh 1: Hãy dán mắt của bạn vào những gì sẽ giống như khi bạn nhìn thấy Đức Giêsu đang ngồi “trên ngai vinh quang của Người” với tất cả các quốc gia được tập hợp xung quanh Người (Mt 25,31). Hãy tưởng tượng những điều Đức Giêsu sẽ nói với đám dân tập họp đông nhất trong tất cả mọi thời này. Lễ hội hành hương Kumbh Mela[1] năm 2013 ở Ấn Độ hiện thời là sự tập hợp lớn nhất, người ta đếm được cả ba mươi triệu người. Nhưng đây cũng chỉ là một cột mốc so với khả năng tiềm tàng của mười ba tỷ người đang đến với nhau!
Cảnh 2: Hãy dán mắt vào sự hấp dẫn của Đức Giêsu. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã thu hút rất nhiều sự chú ý ở bất cứ nơi nào ngài đến, chỉ đơn giản vì tính cách của ngài. Ngài luôn luôn để lộ ra một cảm thức của niềm vui hy vọng, của sự tin cậy vào Thiên Chúa, và của tình yêu dành cho những người ngài ở cùng. Ngài dường như luôn luôn thực hiện một mối tương quan cá vị, sâu sắc với những người nghe, không quan trọng đó là dịp nào. Bây giờ, dù lôi cuốn thế nào, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II cũng không thể đến gần với những gì sẽ xảy ra khi Đức Giêsu trở lại. Tình yêu, sự trong sáng và niềm vui của Chúa sẽ vô song vô tận. Đây là lý do tại sao tất cả các dân tộc sẽ tập họp quanh Người.
Cảnh 3: Hãy dán mắt vào trời mới và đất mới mà Đức Giêsu sẽ thiết lập. Hãy tưởng tượng một nơi ở đó không còn cần đến các bác sĩ, các sĩ quan cảnh sát, các nhà tù, các căn cứ quân sự, hay những nhà cho những người vô gia cư. Hãy nghĩ làm thế nào mà Disneyland (California, USA) được gọi là “nơi hạnh phúc nhất trên trái đất”. Đúng vậy, khi Đức Giêsu bước vào trong cuộc tạo dựng mới, thì tính “ma thuật” của Disney sẽ dường như là trần tục và tầm thường. Sẽ không có gì hơn là sự bình an, niềm vui và sự thỏa mãn trong sự hiện diện của Thiên Chúa.
Hãy giữ những cảnh tượng này trong tâm trí suốt cả ngày hôm nay. Hãy để chúng xua đuổi mọi nỗi sợ hãi về điều chưa biết.
“Lạy Chúa Giêsu, con không thể chờ đợi để thấy Chúa hơn nữa!”
Theo the Word Among us Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương
Chúng con có biết hôm nay là lễ gì không? - Thưa cha lễ Chúa Kitô Vua. - Chúng con có biết TN 34-ABC132
Chúng con có biết hôm nay là lễ gì không?
- Thưa cha lễ Chúa Kitô Vua.
- Chúng con có biết Chúa Giêsu muốn làm vua như thế nào không?
……
Chúa Giêsu làm vua nhưng cách Chúa là vua chẳng giống một ông vua nào trên cõi đời này. Tại sao cha dám nói thế. Đây chúng con hãy nghe câu chuyện này. Đây là câu chuyện do Cha Mark Link S.J kể. Theo ngài thì trong cuốn sách của mình có tựa đề là: The Christian Vision (Thị kiến của người Kitô hữu) ông John Powell có kể lại một truyền thuyết xưa kia của người Ái Nhĩ Lan. Truyền thuyết này nói về thời còn các vị vua đang cai trị nước họ.
Ngày xưa, có một vị vua đương cai trị nhưng không có con nối dõi ngai báu. Nhà vua muốn tìm một người thật xứng đáng để nối ngôi vua sau này. Chính vì thế, nhà vua đã truyền cho các sứ giả loan báo trên khắp các thành thị và phố phường trong toàn vương quốc, mời gọi tất cả những người đàn ông ưu tú đến cho Ðức vua phỏng vấn.
Ðức vua làm thế với hy vọng có thể chọn được một người kế vị trước khi Ngài chết. Hai tiêu chuẩn được ngài nhấn mạnh đặc biệt là kẻ ấy phải có lòng mến Chúa yêu người sâu sắc.
Có một người thanh niên cảm thấy mình có đủ hai tiêu chuẩn trên. Tự thâm tâm anh cảm thấy có tiếng thúc giục anh đi dự cuộc phỏng vấn này. Nhưng phiền một nỗi là anh quá nghèo, nghèo đến mức chẳng có quần áo tươm tất để mặc khi đi dự phỏng vấn. Đồng thời anh cũng chẳng có tiền mua đồ ăn đồ uống đi đường để đến cung điện đức vua tham dự cuốc phỏng vấn này. Bí quá anh đã cầu nguyện xin ơn Chúa soi sáng và trong thâm tâm, Chúa cho anh biết là anh có thể đi ăn xin. Những người tốt bụng đã cho anh đủ quần áo và lương thực cần thiết. Khi mọi sự đã sẵn sàng, anh bắt đầu lên đường.
Sau một tháng dài đi đường, người thanh niên này đã nhìn thấy cung điện đức vua. Anh ta ngồi xuống trên một ngọn đồi phía trước. Tình cờ anh trông thấy một ông lão ăn mày nghèo khổ đang ngồi bên vệ đường. Vừa thấy anh, ông cụ chìa tay ra xin anh giúp đỡ. Giọng nói ông ta thật yếu ớt:
- Tôi đói và lạnh quá, cậu có thể cho tôi cái gì mặc cho đỡ lạnh và ăn cho đỡ đói không?
Người thanh niên nhìn ông cự lòng tràn đầy xúc động. Và liền cởi bộ đồ ấm áp anh đang mặc bên ngoài đổi lấy tấm áo cũ rách của ông già ăn xin, đồng thời cũng cho ông cụ phần lớn số lương thực anh mang theo trong túi xách dành cho chuyến trở về nhà của mình. Thế rồi, mặc dù lòng tấy hơi ngại nhưng anh cũng liều bước tới cung điện trong bộ áo rách nát cùng với số lương thực mang theo không đủ cho chuyến trở về của mình. Khi anh ta đến gần cổng lâu đài, thì đám lính gác chận anh ta lại rồi dẫn anh đến khu vực dành cho du khách. Sau một thời gian chờ đợi lâu, anh ta được dẫn tới diện kiến đức vua.
Ðến trước bệ rồng anh thanh niên quỳ mọp, gập sâu người xuống cúi chào. Khi ngước lên nhìn, anh không thể nào tin nổi mắt mình và run rẩy thốt lên:
- Té ra ngài chính là ông lão ăn xin bên vệ đường đó sao!
Đức vua đáp:
- Ðúng thế.
Người thanh niên liền hỏi:
- Tại sao ngài lại làm điều ấy đối với kẻ tiện dân này?
Ðức vua trả lời:
- Bởi vì trẫm muốn thử xem ngươi có phải là thật là người có lòng mến Chúa yêu người hay không?
Câu chuyện kết thúc thế nào thì chúng ta có thể đoán được.
Câu chuyện cho chúng ta thấy một điều rất thật. Sự thật này là: vào ngày cuối cuộc đời, mỗi người chúng ta sẽ bị xét xử về việc chúng ta đã phục vụ Chúa Kitô Vua như thế nào nơi kẻ những người mọn nhất trong anh chị em chúng ta. Hãy nhớ lại những lời Chúa nói: "Ðoạn đức vua sẽ nói “Xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là khách lạ các ngươi đã đón tiếp Ta vào nhà, Ta đau ốm bệnh hoạn các ngươi đã chăm sóc Ta".
Bây giờ đám người công chính sẽ thưa với Ngài: "Lạy Chúa có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu? Ðức vua sẽ đáp lại: "Ta nói cho các ngươi hay, bất cứ khi nào các ngươi làm điều này cho một trong những anh em bé mọn nhất trong các ngươi tức là các ngươi đã làm cho chính Ta đó".
Chúa không hỏi chúng ta về những điều cao siêu khó hiểu. Chúa cũng không đòi hỏi chúng ta về những việc anh hùng chỉ có những người có chí khí gan lỳ mới làm được. Chúa cũng không tra vấn chúng ta về những việc làm to tát chỉ có những người nhiều tiền nhiều của mới co thể thực hiện được nhưng Chúa chỉ hỏi chúng ta về những việc làm hết sức dễ dàng, hết sức nhỏ bé ai cũng có thể làm được. Đó là những việc có liên hệ đến những nhu cầu rất cần thiết của mỗi người như việc ăn ở đi mặc.
Cha hỏi chúng con: Đọc lạ những lời Đức Vua nói với mọi người trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng con có thấy điều gì khó hiểu hay không.
Cha chắc là không!
Vậy thì vấn đề còn lại là chúng ta phải sống những điều Chúa nói. Hãy ghi tạc Lời Chúa vào lòng: "Ta nói cho các ngươi hay, bất cứ khi nào các ngươi làm điều này cho một trong những anh em bé mọn nhất trong các ngươi tức là các ngươi đã làm cho chính Ta đó".
Cha muốn kết thúc bằng câu chuyện này: Câu chuyện trích ở trong một cuốn sách mà cha rất thích. Truyện một tâm hồn:
Enricô ơi!
Như sáng nay, lúc đi học về, con đi trước mẹ, con đã gặp một người đàn bà nghèo bế một đứa con nhỏ xanh xao yếu đuối và chìa tay xin con. Con nhìn người ta bằng cặp mắt lạnh lùng, con chẳng cho gì cả mà chính lúc ấy túi con có tiền. Nghe mẹ, con ơi!
Con đừng tập thói làm ngơ trước cái nghèo khó nó ngửa tay xin con ; hơn nữa con lại càng không nên bước qua một người mẹ xin ăn cho con. Con hãy nghĩ đến bụng đói của đứa trẻ thơ, nghĩ đến sự đau khổ của người mẹ.
Mỗi khi mẹ bố thí cho kẻ nghèo thì bao giờ họ cũng cảm ơn và chúc cho mẹ, cho cả nhà ta được mọi sự lành. Những lời chúc tụng ấy nghe êm ái biết là dường nào! Và lòng tạ ơn họ không biết bao nhiêu.
Những lời cầu nguyện ấy sẽ thấu đến đấng Thượng đế để ngài phù hộ cho tất cả những người thân yêu của ta. Vì thế, mẹ trở về rất hài lòng và tự nhủ:
- Người ấy đã cho ta nhiều hơn là ta đãi họ!
Enricô ơi! Con hãy nghe mẹ: thỉnh thoảng nên bớt một vài xu trong túi tiền của con để cho người già không chốn nương thân, người mẹ không gạo, đứa trẻ không mẹ không cha. Những kẻ khó thích xin trẻ con vì như thế họ không nhục, vì trẻ con cũng như họ phải cần đến mọi người. Con có nhận thấy ở quanh trường thường có nhiều kẻ ăn xin không? Sự bố thí của người lớn là một việc làm phúc, nhưng sự bố thí của trẻ con không những là một việc làm phú mà còn là một sự vỗ về nữa, vì mỗi lần đứa trẻ đem cho thì hình như đồng tiền kèm với bông hoa ở trong tay nó rơi ra.
Con ơi! Con phải biết con có đủ cả, chứ kẻ khó thì thiếu hết. Khi con mong được sung sướng thì người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết. Trong một đám có bao nhiêu là nhà giàu, trong một phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại, có bao nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn còn thấy nhiều đàn bà và trẻ con đói khát, rách rưới! Thực đáng buồn thay!
Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ vô tình thì từ sau, con đừng bước qua một kẻ khó mà không cho gì".Mẹ con.
Tước hiệu Chúa Kitô là Vua được được thánh Gioan diễn tả khi Chúa Giêsu xác nhận danh tánh TN 34-ABC133 Dalat
Tước hiệu Chúa Kitô là Vua được được thánh Gioan diễn tả khi Chúa Giêsu xác nhận danh tánh Ngài trước mặt Philatô khi Ông này cứ gạn hỏi Chúa :” Vậy Ông là Vua sao ? “ ( Ga 19, 37 ). Đức Giêsu đáp :” Chính Ngài nói rằng tôi là Vua.Tôi đã sinh ra và đến thế gian vì điều này : đó là để làm chứng cho sự thật.Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi “ ( Ga 19. 37 ). Hôm nay, mừng lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ, chúng ta chiêm ngưỡng Vị Vua Trời Đất đã sống hiền lành và khiêm nhượng. Vị Vua khiêm nhu đã cưỡi lừa đi vào Giêrusalem để chịu chết theo ý Thiên Chúa Cha.
Philatô thực tế đã nghe nói về Chúa Giêsu rất nhiều.Ông cảm phục Chúa vì nghe thiên hạ, dân chúng nói về những điều kỳ diệu, tính hiền lành, khiêm nhường của Ngài, do đó, Ông rất ngạc nhiên khi người ta vu cáo Chúa, tuy nhiên vì hèn yếu, vì danh vọng, vì sợ mất ngôi, Ông đã không dám can thiệp, tha cho Chúa dù Ông được Ngài xác định :” Nước của Chúa không thuộc thế gian này “ và chức vị Vua của Chúa cũng chỉ là chức vị thiêng liêng, thuộc thiên giới chứ không thuộc hạ giới. Vua là Vua thiêng liêng. Philatô đã dựa vào những lời tố cáo của dân cho rằng Chúa tự xưng là Vua theo nghĩa chính trị. Và chỉ có nghĩa này, dân chúng và Philatô mới có thể bắt giữ Chúa Giêsu, kết án Chúa Giêsu mà thôi. Mặc dầu Chúa Giêsu đã hai lần quả quyết “ Nước tôi không thuộc thế gian này “ và Ngài còn nhấn mạnh :” Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái “ ( Ga 18, 36 ). Khi nói lên điều đó, Chúa Giêsu muốn cho Philatô hiểu :” Quan tổng trấn đừng sợ “. Chúa không dành giật chức vị của ai vì Chúa đến để “ Phục vụ chứ không phải được phục vụ, được hầu hạ “.
Theo thánh Gioan:” Nước Thiên Chúa không thuộc thế gian mà thuộc thiên giới. Nước của Chúa hoàn toàn thiêng liêng, không thuộc xác thịt mà thuộc thần khí. Chính vì thế. Chúa Giêsu xác định, quả quyết rằng Ngài không có gì đối kháng với đế quốc Roma. “ Của Cêsarê trả cho Cêsarê. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa “. Vương quyền của Thiên Chúa hoàn toàn linh thiêng. Chúa Giêsu không bao giờ lấn quyền, hay có ý chiếm quyền của Philatô hay các Vị lãnh đạo thế trần lúc đó ! Vương quốc của Chúa Giêsu đã được Ngài thiết lập ngay trên thập giá :” Khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta “ ( Ga 12, 32 ). Chính trên thập giá, Ngài mới tỏ rõ uy quyền của Ngài là Vua. Chúa Giêsu là Vua hiền từ, khiêm nhượng, Vị Vua từ khước vinh quang trần thế, Vua hy sinh, tự hiến ( Philip 2, 1tt…).
Philatô biết rõ sự thật :” Chúa hoàn toàn vô tội “, nhưng Ông vẫn truyền đưa Chúa Giêsu đi và đánh đòn Người “ ( Ga 19, 1 ). Philatô cũng đã cho viết d
òng chữ đóng trên thập giá :” Giêsu Nazarét, Vua dân Do Thái “ ( Ga 19, 19 ).
Ca nhập lễ lễ Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ viết :” Con chiên đã bị giết.Nay xứng đáng lãnh nhận thần tính và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang. Kính dâng Người vinh dự và quyền năng đến muôn thuở muôn đời “ (Kh 5,12; 1, 6 ).
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ.Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi ken chúc tụng ( Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ ).
Đức Thánh Cha Pio XI đã thiết lập lễ mừng kính Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ hằng năm.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao Philatô lại gạn hỏi :” Chúa Giêsu có phải là Vua không?”. 2.Tước hiệu Vua của Chúa Giêsu có nghĩa gì ? 3.Tại sao Philatô lại hỏi sự thật là gì ? 4.Vương quốc của Chúa Giêsu ở đâu ?
Chúa Giê-su Ki-tô là Vua, chắc chắn không giống như một ông vua trần gian, nhưng là Đức Vua TN 34-ABC134
Chúa Giê-su Ki-tô là Vua, chắc chắn không giống như một ông vua trần gian, nhưng là Đức Vua của một vương quốc thiêng liêng, như Người đã khẳng định với Phi-la-tô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này… Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật” (Gio-ABCn 18:36, 37). Nói khác đi, Chúa Giê-su là Vua chăm sóc các linh hồn. Đề tài này được diễn tả trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, nhất là qua sự phối hợp giữa bài đọc trích sách Ê-dê-ki-en với đoạn thư thánh Phao-lô và bài Tin Mừng.
Hình ảnh Thiên Chúa là Mục Tử chăn dắt Ít-ra-en dân Người là một đề tài dễ thương trong Cựu Ước. Tương quan thắm thiết giữa chiên và mục tử được sử dụng để nói lên tình yêu Thiên Chúa dành cho dân Người và được ngôn sứ Ê-dê-ki-en mô tả qua những hành vi cụ thể. Trước hết Thiên Chúa chăm sóc dân Người bằng cách “thân hành kiểm điểm”. Chúa muốn dành việc chăm sóc ấy cho riêng Người, để các con chiên có thể nhận biết tình yêu cá nhân của Chúa đối với từng con chiên và để Người chắc chắn không muốn mất đi bất cứ một con nào. Hành vi “kiểm điểm” cũng chứa đựng bao ý nghĩa! Chúa kiểm điểm ta không phải để xét nét lầm lỗi rồi trừng phạt ta, nhưng là để xem Người có thể làm gì cho ta để ta luôn được ở bên Người. Ngôn sứ đã kể ra một số hành vi kiểm điểm của Chúa: nếu chiên bị mất, Chúa đi tìm; chiên đi lạc, Chúa đưa về; chiên bị thương, Chúa băng bó; chiên bệnh tật, Chúa chữa lành; chiên béo mập và khỏe mạnh, Chúa canh chừng để chúng khỏi làm mồi cho sói dữ. Khi tôn vinh Chúa Ki-tô là Vua, chúng ta không thể bỏ qua hình ảnh Mục Tử Nhân Lành. Trước mặt Phi-la-tô, Chúa tuyên bố Người là Vua, thì cũng chính Chúa đã tuyên bố “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Gio-ABCn 10:11).
Chăn dắt đoàn chiên là sứ mệnh của Vua Giê-su. Nhưng còn một công việc vô cùng lớn lao Vua Ki-tô đã thực hiện cho dân Người, đó là Người đã chiếm lại vương quyền trong tay ma quỷ. Sau khi A-đam phạm tội, vương quyền làm chủ trái đất và quyền làm con Thiên Chúa của ta đã bị mất, thậm chí sự sống thể xác của ta cũng bị thần chết thống trị. May thay, chính Vua Ki-tô đã hy sinh mạng sống mình trên thập giá rồi sống lại để đánh bại quyền lực của ma quỷ và sự chết. Nhờ đó, hết thảy chúng ta được phục hồi trong sự sống của con cái Chúa. Thánh Phao-lô không quên quả quyết với chúng ta một chân lý quan trọng: “Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cô-rin-tô 15:22). Như sự sống của con chiên gắn liền với sự sống của mục tử, sự sống đời đời của ta cũng gắn liền với sự sống lại của Vua Ki-tô. Như thế, trong cuộc sống đời này, chúng ta “liên đới” với Vua Ki-tô, để chuẩn bị sự sống vĩnh cửu của ta bằng cách lãnh nhận sức sống của Người qua Lời Chúa và Thánh Thể. Vua Ki-tô đã “mở đường” cho sự sống đời đời, nên khi Người trở lại trong ngày Phán Xét, thì đến lượt chúng ta cũng sẽ được theo Người về nhà Cha. Nhưng xin đừng quên với điều kiện chúng ta phải “liên đới” với Người ngay từ bây giờ!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Những trình bày của ngôn sứ Ê-dê-ki-en và của thánh Phao-lô về Vua Ki-tô, Đấng chăn dắt linh hồn chúng ta, chuẩn bị cho chúng ta có một thái độ thích đáng khi Đức Vua đến xét xử trần gian. Đây là một cuộc xét xử về mối yêu thương “giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê”. Người xét xử muôn dân, không dựa trên tiêu chuẩn việc làm, nhưng trên tiêu chuẩn yêu thương. Người không đòi hỏi các con chiên phải thực hiện những việc vĩ đại, nhưng chỉ là những gì nhỏ nhặt và thực tế liên quan đến sự sống của người chung quanh. Mục tử đã chăm sóc cho sự sống của con chiên trong những việc nhỏ như đi tìm, dắt về, băng bó, canh chừng. Cũng thế, Chúa xét xử ta về những việc nhỏ như cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, tiếp đón khách lạ, thăm tù nhân… Điều Chúa nhấn mạnh hơn hết chính là động lực yêu thương khi ta làm những công việc nhỏ mọn ấy. Vua Ki-tô được mệnh danh là Vua Tình Yêu. Người đã đồng hóa mình với những kẻ hèn kém nhất trong xã hội, để ta có nhiều cơ hội thi triển sức mạnh tình yêu. Vậy ta hãy chuẩn bị cho cuộc xét xử bằng cách thi hành bác ái ngay từ bây giờ!
Năm phụng vụ bao giờ cũng kết thúc bằng lễ Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ. Bởi vì, năm Phụng vụ trình TN 34-ABC135
Năm phụng vụ bao giờ cũng kết thúc bằng lễ Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ. Bởi vì, năm Phụng vụ trình bầy xuyên suốt cho chúng ta hiểu về lịch sử ơn cứu độ từ ngày Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, tạo dựng con người cho đến khi Ngài hoàn tất Vương quyền của Ngài trong Đức Giêsu Kitô. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mô tả cho các môn đệ, cho chúng ta về ngày Cánh Chung. Chúa sẽ ngự trị trong vinh quang.Muôn dân sẽ qui tụ chung quanh Ngài. Ngài sẽ tách biệt kẻ lành, người dữ…Chúa là Vua tình yêu, Ngài sẽ xét xử nhân loại theo lẽ công minh của Ngài…
Chúa Giêsu là Vua nhưng là Vua lòng mọi người. Nước Thiên Chúa không thuộc thế gian này. Nước của Ngài là nước tình thương. Do đó, ngày Chung Thẩm, Thiên Chúa sẽ ngự trị trong vinh quang, có các thiên thần theo hầu Ngài. Ngài sẽ ngự lên ngai vinh hiển và xét xử muôn dân nước theo lòng nhân từ của Ngài. Ngài sẽ tách biệt họ như Mục tử tách biệt chiên và dê. Chiên bên phải và dê bên trái.Đức Giêsu ừa là Vua Vũ Trụ, vừa là Vị Thẩm Phán thế gian. Chúa công minh chính trực tuyển lựa những thần dân của Ngài một cách bất ngờ đến nỗi những người hiền lành, khiêm nhượng, ngoan đạo cũng không hề ngờ tới :” Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc ? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu ? “ ( Mt 25, 37-39 ). Chúa đồng hóa với những người thấp hèn, nghèo khổ, Ngài đồng hóa với những người đói, người khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, tù đầy. Xem ra những người này, hằng ngày chúng ta vẫn được tiếp xúc, cận kề, những nhiều khi chúng ta lại làm ngơ, giả điếc, nhiều lần chúng ta đã nhắm mắt, làm ngơ, để mặc họ. Thế nên, tiêu chuẩn để được cứu rỗi, tiểu chuẩn để vào Nước Trời thật giản đơn : chúng ta hãy đối xử tốt, thực hành những nghĩa cử yêu thương, những cử chỉ tốt đẹp đối với những kẻ khó nghèo, neo đơn, cô thân cô thế bởi vì chính Chúa đã đồng hóa mình với họ:” Mỗi lần các ngươi làm cho một người bé mọn nhất của ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta “ ( Mt 25, 40 ).
Ngày phán xét, Chúa sẽ tách biệt chiên, dê, người lành kẻ dữ, người thánh, kẻ gian ác, người hiền, kẻ hung ác vv…Tất cả những người này đều được Chúa đo lường, phán xét vì việc sẵn sàng làm hay không làm những việc thiện, những cử chỉ yêu thương cho những người đang cần giúp đỡ. Người ta có được cứu độ hay bị trầm luân trong lửa hỏa ngục đời đời cũng dựa vào tiêu chuẩn làm hay không làm những nghĩa cử bác ái, yêu thương đối với những người nghèo, những con người cùng khổ. Vâng, xa rời người nghèo, những kẻ đói khổ, cùng cực, không chạm đến nỗi đau của họ, không làm một nghĩa cử yêu thương đối với họ là một trọng tội. Người ta chỉ có thể nhận lãnh phần thưởng nếu biết nhận ra Chúa nơi những con người nghèo, nơi những con người cô thân cô thế và sẵn sàng giúp đỡ họ.
Xin mượn lời của Olivier Lebouteux để kết luận bài suy niệm này :” Đã là người thì dù là Kitô hưu hay không, dù là người có tín ngưỡng hay người không nhìn nhận có một Thần nào, ai ai cũng sẽ chạm mặt với Đức Kitô: hoặc là lúc bình sinh nhờ đức tin, hoặc là vào thời sau hết.Bấy giờ, sự thật về con người chúng ta sẽ hiển hiện trong ánh sáng chan hòa.Mỗi một hành vi của chúng ta sẽ được xét theo thực chất của nó. Điều lạ là cảnh phán xét này có vẻ dành nhiều bất ngờ cho cả những ai nghĩ mình đã nhận biết Chúa rồi lẫn những ai tưởng chừng đang khám phá ra Chúa. Mỗi một hành vi trong đời chúng ta đều đưa chúng ta hướng về Đức Giêsu hoặc là đẩy chúng ta ra xa Người. Chính Người là nguyên thủy và cùng tận của mọi sự, và điều này là đúng cho toàn thể nhân loại. Đôi khi chúng ta tự hỏi, chung cục nào được dành cho nhân loại trong kế hoạch của Thiên Chúa, do có nhiều tín ngưỡng như thế ; cuối cùng, chính trên cơ sở tấm lòng nhân ái thời bình sinh mình đã tỏ ra trong lối sống của mình, mà mỗi người sẽ được mời tham dự ( hay không ) vào sự sống của Thiên Chúa. Khi đến chia sẻ cuộc sống của chúng ta, Đức Giêsu đã kết thân với mỗi một người trần thế, đã trở nên hiện diện nơi kẻ nhỏ bé nhất, nơi mọi kẻ đói khát.Nhưng chúng ta thì khó lòng nhận ra Người qua những khuôn mặt bị biến dạng, chịu lăng nhục, bởi chúng ta không tự mình nghĩ ra đó là những hình ảnh của Người. Đừng tìm Người ở những nơi Người không có mặt, e rằng chúng ta có thể đi bên cãnh Người mà không thấy Người “.
Lạy Chúa Giêsu, Vua Vũ Trụ, xin giúp chúng con luôn biết tin nhận Chúa là Vua tình yêu nhưng cũng là Vị Thẩm Phán chí công luôn xét xử muôn dân theo lẽ công minh và lòng nhân từ. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa Giêsu là Vua thế nào ? 2.Tại sao lại gọi Chúa là Vua Vũ Trụ ? 3.Chúa Giêsu xét xử con người bằng phương cách nào ? 4.Tiêu chuẩn để được vào Nước Thiên Chúa ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 25:31-46)
Khi kể lại lịch sử một ông vua trần gian, người ta thường nói đến xuất xứ, con người và sự nghiệp TN 34-ABC136
Khi kể lại lịch sử một ông vua trần gian, người ta thường nói đến xuất xứ, con người và sự nghiệp của ông. Hôm nay, cùng toàn thể Giáo Hội tôn vinh Chúa Giê-su Ki-tô là Vua vũ trụ, Phụng vụ Lời Chúa không làm công việc thế gian thường làm, nhưng kể lại một công việc hết sức đặc thù của Người, là Người chủ trì cuộc xét xử toàn thể nhân loại về lối sống của họ. Cuộc phán xét không kể lại công nghiệp của cá nhân Đức Vua, mà là công trạng của các thần dân trong vương quốc Người. Điểm đặc biệt nhất của cuộc phán xét này là Đức Vua đã đặt ra tiêu chuẩn xác định công trạng của từng người: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
Phục vụ chính là “tinh thần quốc gia” của Đức Vua và các công dân của Người. Nhưng làm sao Vua Giê-su có thể xét xử về những việc phục vụ của chúng ta nếu chính Người không nêu gương phục vụ cho chúng ta? Đúng vậy, Vua Giê-su đã phục vụ Thiên Chúa và nhân loại. Với Thiên Chúa, Người đã nhận lấy vương quyền và sứ mệnh từ Chúa Cha, trong thái độ hoàn toàn vâng phục và trút bỏ vinh quang (Phi-líp-phê 2:6-8). Dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, Người đã phục vụ nhân loại khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng và minh chứng tình yêu của Thiên Chúa. Vua Giê-su đã nêu gương phục vụ khi Người tuyên bố: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân” (Mác-cô 10:45). Đối với nhân loại, Vua Giê-su đã phục vụ trong yêu thương. “Chạnh lòng thương” luôn là động lực giúp cho Đức Vua đến với thần dân để nuôi sống họ, chữa lành những bệnh tật thể xác lẫn linh hồn, tha thứ tội lỗi và đưa họ trở về đường ngay nẻo chính. Để dạy chúng ta bài học thực tế về phục vụ, Đức Vua đã không ngần ngại đồng hóa mình với thần dân khi Người khẳng định rằng: Các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy! Khẳng định này giúp chúng ta ý thức giá trị và nhân phẩm của mọi người, bởi vì tất cả đều được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Một người ăn xin ngồi bên vệ đường cũng cao quý như một giám mục trên ghế nhà thờ chính tòa vậy. Khi nhìn những người cùng khổ, điều trước tiên chúng ta phải nói với chính mình là: Chúa đấy! Đồng thời chúng ta nghe như Vua Giê-su nói: Con làm gì giúp đỡ họ là con giúp đỡ chính Ta! Lời này đã nhắc nhở thánh Máctinô thành Tours, khiến ngài vung gươm cắt đôi chiếc áo choàng đắt tiền để trao tặng người hành khất đang rét run bên đường. Đêm ấy, Chúa Giê-su hiện đến cám ơn ngài và Chúa mang trên mình mảnh áo choàng của Máctinô.
Là một vị minh quân, ông vua trần gian kết thúc triều đại mình bằng một đám tang đông đảo, dân chúng thăm viếng linh cữu và sụt sùi thương tiếc. Trái lại, Đức Vua Giê-su thì khai mạc triều đại khi Người “đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người”, để ban thưởng những công dân nào đã phục vụ theo gương của Người và luận phạt những kẻ đã chối bỏ Người nơi những anh chị em của họ.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúa Ki-tô là Đức Vua, nhưng Người cũng là Đầu của Nhiệm Thể tức Giáo Hội, là Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc (Rô-ma 8:29). Nhờ liên đới với Chúa Ki-tô, Đức Vua của chúng ta, chúng ta sẽ được hiển trị với Người nếu chúng ta chọn con đường phục vụ giống như Người. Sau khi Vua Giê-su hoàn tất sứ mệnh trên trần gian, Người được Thiên Chúa tôn vinh và muôn loài muôn vật tuyên xưng Người là “Chúa” (Phi-líp-phê 2:11). Nhưng Người vẫn hiện thân nơi anh chị em chúng ta và chờ đợi chúng ta tiếp tục sống tinh thần phục vụ của vương quốc Người. Nơi anh chị em chúng ta, Đức Vua tiếp tục là khách lạ và ngồi tù, đợi chúng ta đón tiếp hoặc viếng thăm, vẫn chìa tay xin từng đồng bạc, từng miếng cơm manh áo, từng viên thuốc. Đức Vua là những người phong cùi, người già neo đơn, là những người tàn tật đi bán vé số… tại khắp nơi trên quê hương Việt Nam và nhiều nơi khác. Người đang chờ phán với chúng ta: “Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi…”
Trước quan tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu khẳng định vị thế là vua của mình: “Tổng trấn hỏi Người: TN 34-ABC137
Trước quan tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu khẳng định vị thế là vua của mình: “Tổng trấn hỏi Người: vậy ông là vua sao? Đức Giêsu trả lời: chính ngài nói rằng tôi là vua” (Ga 18, 37). Thánh Phaolô cũng đã nói lên ý hướng này: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người” (1Cr 15, 26). Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không xây dựng một vương quốc dựa trên sức mạnh, không củng cố địa vị bằng bạo lực. Ngài là vị vua khiêm nhường, yêu thương nhưng công minh, và vương quốc của Ngài là vương quốc của sự thật.
* Đức Giêsu- Vị Vua Khiêm Nhường
Dầu được người đời tung hô: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa” (Lc 19, 38), nhưng Đức Giêsu vẫn không màng đến ngọc miện ngai vàng. Ngài đã thực sự trở nên “tôi tớ” phục vụ mọi người và không ngần ngại đồng bàn với kẻ thu thuế và phường tội lỗi; bởi vì, “Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45). Trên hết, Chúa Giêsu muốn thiết lập một vương quốc tình yêu, trong đó mỗi người sống chiều kích khiêm nhường như chính Ngài mời gọi (x. Mt 11, 29), luôn sẵn sàng cho đi tất cả vì lợi ích và phần rỗi người khác.
* Đức Giêsu- Vua Tình Yêu
Thánh Gioan khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 16), và Ngài đã yêu ta bằng mối tình muôn thuở (x. Gr 31, 3). Tình yêu nói lên phẩm tính của Chúa Giêsu. Đàng khác, nó cũng là một mệnh lệnh cho những ai muốn trở thành môn đệ Ngài: “Ở điểm này, người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35). Thánh Gioan mời gọi mỗi hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (1Ga 4, 7). Ở đây, không chỉ yêu mình, gia đình hay bạn bè, mà còn yêu thương cả người xa lạ, yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình (x. Mt 6, 44). Chúa Giêsu là vua tình yêu, nên chỉ những ai sống trong yêu thương mới trở nên môn đệ và thần dân của Ngài.
* Đức Giêsu- Vua Công Chính
Bài Tin Mừng nói về cánh chung (Mt 25, 31- 46) cho thấy trong ngày sau hết, mỗi người phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về những việc mình làm. Chúng ta đong cho anh chị em bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại bằng đấu ấy (x. Mt 7, 1-3). Người sẽ chất vấn về những nén bạc đã được trao cho chúng ta: nó sinh lời, mang lại lợi ích cho bản thân và tha nhân hay đã cất dấu dưới lớp đất của lười biếng và ích kỷ. Chúng ta không mang gì vào trần gian thì cũng không thể đem được gì ra khỏi đời này, ngoại trừ phúc- tội mà mình đã gieo khi còn sống. Trong đó, tình yêu tha nhân là cán cân cho biết ai là kẻ bị vực thẳm cực hình chôn vùi, và ai là người đáng được hưởng cõi phúc vĩnh hằng. Bởi vì, Chúa Giêsu thường đồng hóa mình với những người nghèo đói, đau yếu, tù tội… Và ai làm như thế cho những kẻ bé nhỏ nhất là làm cho chính Ngài.
* Thiết Lập Vương Quốc Sự Thật
Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là sự thật” (Ga 14, 6). Ngài đã sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng Ngài (x. Ga 18, 37). Giữa một thế giới mà sự dối trá đã thành “cơm bữa”, thì sống và làm chứng cho sự thật không đơn giản chút nào. Tuy nhiên, đó lại là điều không thể thiếu cho ai muốn gia nhập vương quốc của Ngài. Nó đòi buộc mỗi người phải chết dần cho cái tôi ích kỷ, thấm nhập lời của Đức Kitô để nhận biết sự thật; sự thật có khả năng dẫn mỗi người tới sự giải thoát (x. Ga 8, 32).
Lạy Chúa Giêsu, Vua của lòng con, xin đổi mới con mỗi ngày để con trở nên khiêm nhường, yêu thương và chân thành hầu đáng được hưởng hạnh phúc Chúa hứa ban. Montfort Nguyễn Xuân Pháp CT ----------------------------
(31) Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu. Bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. (32) Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê, (33) Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. (34) Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc. Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”. (35) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; (35) Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom. Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”.(37) Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống. (38) Có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc ? (39) Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu ?” (40) Để đáp lại, Đức Vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy”. (41) Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó”. (42) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn. Ta khát, các ngươi đã không cho uống. (43) Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc. Ta đau yếu hay ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom”. (44) Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu ?” (45) Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé mọn nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”. (46) Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời”.
2. Ý CHÍNH:
Vào ngày tận thế, sau khi các thiên thần tập họp mọi người đã chết được sống lại, Vua Giê-su sẽ ngự TN 34-ABC138
Vào ngày tận thế, sau khi các thiên thần tập họp mọi người đã chết được sống lại, Vua Giê-su sẽ ngự đến lần thứ hai trong uy quyền và vinh quang. Người sẽ trở thành thẩm phán để phán xét chung mọi người (31), dựa trên cách họ đã ứng xử với Người đang hiện thân nơi những người nghèo đói, bệnh tật và đau khổ cả về thể xác cũng như tâm hồn (40.45).
3. CHÚ THÍCH:
- C 31: + Khi Con Người đến trong vinh quang của Người: Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến trần gian 2 lần: Lần thứ nhất cách đây hơn 2000 năm tại nước Do thái để thiết lập Nước Trời. Người mở ra con đường lên trời là đường mến Chúa yêu người (x Mc 8,34). Người truyền cho các môn đệ loan báo Tin Mừng khắp thế gian. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh ở trần gian và là Thiên Đàng đời sau. Người cũng hứa sẽ đến lần thứ hai để làm Vua Thẩm Phán (x Mt 16,27), thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ (x Mt 25,31-32).
- C 32-33: + Người sẽ tách biệt họ với nhau như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái: Bấy giờ Đức Giê-su như người Mục Tử sẽ phân chia muôn dân thành hai lọai người là “chiên và dê”. Chiên và dê là hai lòai vật giống nhau. Nhưng đặc tính của con chiên là hiền lành, còn đặc tính của con dê là hay phá phách chuồng trại. Về amawtj kinh tế, chiên có giá trị hơn dê nhờ có bộ lông dầy được thợ cắt xén từng thời kỳ. Lông chiên được dùng làm len, được đan thành áo ấm.
- C 34: + Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha ta chúc phúc…: Những người được xếp bên phải là những tín hữu sống theo “Tám Mối Phúc thật” (x. Mt 5,1-12), thực hành bác ái phục vụ Chúa hiện thân trong những người đau khổ bất hạnh (x Mt 25,35-36). Còn những người bên trái tượng trưng những kẻ vô tín, thể hiện qua thái độ làm ngơ trước những người đau khổ bất hạnh của tha nhân (x Mt 25,41-45).
4. CÂU HỎI: 1) Theo Tân Ước, Đức Giê-su đến trần gian mấy lần ? Mục đích đến mỗi lần là gì ? 2) Trong ngày tận thế khi đến lần thứ hai, Đức Giê-su sẽ phân chia lòai người thành hai lọai là những lọai nào ? Số phận những người loại “chiên” khác với những kẻ loại “dê” thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi đã không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,45).
2. CÂU CHUYỆN:
1) NẾU TÔI BIẾT LÀ NGÀI…
NEN-SÂN MÊN-ĐƠ-LA (Nelson Mandela) là Tổng thông da đen đầu tiên tại một đất nước nổi tiếng về tệ nạn “phân biệt chủng tộc” là Nam Phi. Khi còn là một thanh niên, Men-đơ-la đã là lãnh tụ của đảng có tên “Quốc hội Châu Phi” (ANC) đã bị nhà cầm quyền cấm họat động. Vì đang ở trong thời kỳ đấu tranh giành quyền lực với đảng cầm quyền, nên NEN-SÂN buộc phải cải trang để hoạt động bằng cách ăn mặc và hóa trang thành nhiều người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Ông tin rằng khi hóa trang như thế, người ta sẽ không nhận ra ông, để ông có thể đi nhiều nơi trong nước.
Lần kia, khi đi dự một cuộc họp kín tại một vùng quê nghèo là GIO-HAN-NÉT-BỚC (Johannesberg), do một linh mục sắp xếp để NEN-SÂN nói chuyện về cách mạng với một số thanh niên Công giáo. Khi ông đến nơi, người phụ nữ giữ cửa thấy cách ăn mặc lôi thôi đã không nhận ra và từ chối mở cửa với lý do: “Ở đây không có chỗ cho lọai người như ông”. Nói xong chị ta đóng sầm cửa lại trước mặt ông. Nhưng sau khi được biết người mới đến kia là ai, chị ta đã vội quay lại nói với ông: ”Xin lỗi ngài về sự thất kính của tôi khi nãy, vì tôi đã không nhận ra ngài. Nếu như tôi biết đó là ngài, thì tôi đã mở rộng cửa ra đón và phục vụ ngài chu đáo rồi”.
Tuy nhiên, dù ông đã cố giả dạng trở thành nhiều người khác, nhưng vẫn có người nhận ra ông. Một hôm, khi ông giả dạng làm một người tài xế ở Gio-han-nét-bớc dừng xe đón khách ở một góc phố, ông mặc áo khoác bụi bặm và đội một chiếc mũ nhàu nát, thì bỗng thấy một viên cảnh sát xuất hiện. Ông nhìn quanh để tìm cách thoát thân. Nhưng rất may khi viên cảnh sát kia lại mỉm cười và lén đưa tay lên chào theo kiểu ANC, rồi bước theo một hướng khác. Những chuyện như vậy xảy ra nhiều lần, và NEN-SÂN cũng tạm yên tâm vì biết rằng có nhiều người Châu Phi đang ủng hộ con đường đấu tranh chống tệ nạn phân biệt chủng tộc của ông. Cuối cùng sau khi bị bắt ở tù nhiều năm, MÊN-ĐƠ-LA đã được trả tự do và đã chiến thắng trong một cuộc bầu cử công bằng để trở thành vị Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi.
Giữa công trường Thánh Phêrô ở La Mã có một ngọn tháp cao chót vót mang một cây Thánh giá vươn lên giữa trời xanh. Ngọn tháp có từ đời Hoàng đế Ca-li-gu-la, được đưa về dựng giữa công trường năm 1586. Trên ngọn tháp có khắc ba câu như sau:
Christus vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus regnat: Chúa Kitô hiển trị.
Christus imperat: Chúa Kitô thống quản.
Ngày nay, trong Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, Hội thánh tôn vinh Chúa Giê-su Con Thiên Chúa chính là Vua của toàn thể vũ trụ. Người cũng là Vua lòng của mỗi tín hữu chúng ta.
3. SUY NIỆM:
Hôm nay là Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Hội thánh mừng lề Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ để nhắc nhở cho mọi người hãy suy tôn, phục vụ và đi theo Người, đồng thời phải chuẩn bị đón Chúa sẽ đến trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán xét xử kẻ sống và kẻ chết. Đức Giáo hòang Piô XI đã thiết lập lễ Ki-tô Vua vào ngày 11.12.1925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan mừng Năm thánh 1925. Sở dĩ Đức Thánh Cha thiết lập lễ này vì vào thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết vô thần. Về phía Giáo hội, qua việc mừng kính tước hiệu Vua của Chúa Giê-su, Hội thánh tuyên xưng vương quyền của Người trên mọi người, mọi gia đình, mọi xã hội và dân tộc trên thế giới.
1) ĐỨC GIÊ-SU LÀ VUA :
- Sau phép lạ bánh ra nhiều, dân chúng phấn khởi muốn tôn Đức Giê-su lên làm vua Thiên Sai. Nhưng Người đã lẩn tránh vì Người không đến để làm ông vua thế tục như dân Do thái đang mong đợi. Người chỉ nhận mình là Vua khi đứng trước toà án của quan Tổng Trấn Phi-la-tô. Ông ta hỏi Đức Giê-su: “Ông là vua dân Do thái sao?” Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu, không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này” Ông Phi-la-tô liền hỏi: Vậy ông là vua sao ?” Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: Đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,33-36).
- Ngoài ra, Phi-la-tô khi tuyên án tử hình thập giá cho Đức Giê-su, ông còn truyền viết tấm bảng gắn phía trên đầu Người hàng chữ I.N.R.I. viết tắt của câu tiếng La tinh nghĩa là “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do thái”. Qua đó ông ta công nhận Đức Giê-su là Vua, mà ngai vàng của Người là cây thập giá. Từ trên cao, Người giang hai tay ra như để ôm lấy dân Người. Người công bố quyết định miễn xá tội cho các tù nhân qua lời cầu xin với Chúa Cha: ”Lạy Cha, xin tha cho họ, Vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đức Giê-su đã tha thứ cho người gian phi có lòng sám hối: “Tôi bảo thật anh: hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).
2) VƯƠNG QUỐC CỦA VUA GIÊ-SU:
- Vương quốc của Đức Giê-su thiêng liêng:
Nghĩa là không thuộc về thế gian vì không có lãnh thổ, không có quân đội, không biên giới và tồn tại mãi mãi như trong kinh tin kính: ”Nuớc Người sẽ không bao giờ cùng”.
- Vương quốc ấy là Hội Thánh hôm nay và Thiên Đáng mai sau:
Mỗi tín hữu chúng ta có bổn phận gia nhập làm thần dân của Vương quốc Nước Trời và có bổn phận làm cho Vương quốc ấy ngày một lan rộng, như kinh Lạy Cha: “Chúng con nguyên Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”.
- Bồn phận của các tín hữu:
Mỗi người phải làm thế nào để mời Chúa Giê-su đến làm chủ tâm hồn mình, bằng việc năng cầu nguyện với Chúa, tham gia sinh hoạt trong các hội đoàn công giáo tiên hành, để nhờ suy niệm Lời Chúa, cầu nguyện xin ơn Thánh Thần giúp thánh hóa bản thân, tích cực góp phần cải thiện môi trường xã hội mình đang sống và thực hành các công tác tông đồ bác ái, để Vương quyền của Chúa Giê-su cũng được nhiều người tin nhận.
3) ĐỨC GIÊSU LÀ VUA MỤC TỬ:
- Đức Giêsu là Vua Mục Tử:
nhưng không giống như các ông vua trần gian, mà là ông Vua Mục tử nhân lành như sấm ngôn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trên đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất Ta sẽ đi tìm, con nào đi lạc Ta sẽ đưa về. Con nào bị thương Ta sẽ băng bó, Con nào bệnh tật Ta sẽ làm cho mạnh. Con nào béo mập, con nào khỏe mạnh. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm, con nào đi lạc Ta sẽ đưa về, con nào mạnh con nào béo mập Ta se canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34,15-16).
- Đức Giêsu là Vua Thiên Sai:
Người tuy là Thiên Chúa, nhưng đã khiên hạ vâng phục ý Chúa Cha để sẵn sàng hiến thân chịu chết trên cây thập giá hầu cứu chuộc muôn dân, đưa họ về làm con Thiên Chúa trong nước Trời hằng sống. Thánh Phao-lô đã ca tụng Đức Giê-su Vua như sau: ” Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đát, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,10-12).
- Vương quốc là Vương quốc tình thương:
Đặc điểm của công dân trong nước Trời là đón nhận mọi hạng người, đặc biệt là những người nghèo đói, bất hạnh, bệnh tật, tội lỗi... Chính Đức Kitô Vua Mục tử, cũng tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn này và mời gọi các thần dân của Người phải thể hiện đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và đức Mến như sau:”Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc Vương quốc của Người là những hành động yêu thương khiêm nhường phục vụ như: quan tâm để chía sẻ tinh thần vật chất, thăm viếng để an ủi và chia sẻ với những người nghèo hèn và bị bỏ rơi.
4) CHUẦN BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN THẾ NÀO ? :
- Sẵn sàng đón Chúa đến cách bất ngờ:
Mối ngày luôn ý thức Chúa sẽ đến với mỗi người chúng ta vào giờ chết cách bất ngờ. Do đó chúng ta cần ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa đến như người đầy tớ canh thức chờ chủ đi ăn cưới về lúc đêm khuya. Cần chuẩn bị cây đèn đức tin chứa sẵn dầu ân sủng nhờ việc năng cầu nguyện suy niệm Lời Chúa và lãnh nhận các phép bí tích như xưng tội và rước lễ mỗi ngày. Nhờ đó chúng ta sẽ có một cái nhìn đức tin để thấy Chúa Giê-su đang hiện thân nơi những người đau khổ bất hạnh, rồi tận tình phục vụ họ như phục vụ chính Chúa Giê-su.
- Sống yêu thương noi gương Mẹ Tê-rê-sa:
Khi còn sống, nữ tu Tê-rê-sa Can-quýt-ta (Therese Cancutta) rất tâm đắc với đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay về việc Chúa Giê-su sẽ đến làm Vua Thẩm Phán để ban thưởng kẻ lành và phạt kẻ gian ác. Mẹ luôn bị những người đau khổ và bất hạnh lôi cuốn sự quan tâm. Dưới mắt mẹ Tê-rê-sa, những người này không những đáng thương, mà còn là hiện thân của Đức Giê-su đang chịu đau khổ và bị bỏ rơi trên cây thập giá. Nơi mẹ, tình yêu Đức Giê-su và tình thương đối với những người bất hạnh luôn hòa quyện vào nhau. Càng yêu Chúa nhiều bao nhiêu thì mẹ lại càng yêu thương các người bệnh tật và đau khổ bấy nhiêu. Mẹ thường khuyên các chị em nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái như sau: “Chị em cần tập nhìn thấy Đức Giê-su trong mỗi con người bất hạnh mà chị em đang phục vụ, dù họ có đáng kinh tởm đến đâu đi nữa”.
4. THẢO LUẬN: Một giáo sư đại học ở Chi-ca-gô Hoa Kỳ đã đặt cho các sinh viên câu hỏi sau đây: “Bạn hãy cho biết: Gần đây nhất, bạn đã giúp đỡ cụ thể cho một người nào đang cần trợ giúp không ?” Đây là một câu hỏi quan trọng mà mỗi buổi tối chúng ta cần phải tự hỏi mình, rồi ăn năn sám hối và quyết tâm sống tình bác ái yêu thương là điều kiện để sau này chúng ta sẽ được hạnh phúc đời đời trong Nước Chúa.
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU, Vua vũ trụ. Nếu Chúa thật sự là Vua của hơn một tỉ người Công giáo, thì thế giới chúng con đang sống đã biến thành thiên đàng từ lâu rồi. Chúng con chưa làm dậy men cho khối bột xã hội không phải vì số lượng men còn ít, cho bằng vì men Tin Yêu nơi chúng con đã bị quá “đát”, bị chai lì và mất phẩm chất rồi. Chúng con phải gánh chịu trách nhiệm về tình trạng sự dữ đang tràn lan khắp nơi, mà trong đó một phần là do lỗi của chúng con. Chúng con chỉ biết khoanh tay kêu cầu cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không tích cực làm cho Nước ấy sớm hình thành và phát triển từ nơi bản thân ra đến môi trường sống chung quanh.
- LẠY CHÚA. Nhiều lần con đã tự biện hộ về những thiếu sót bổn phận khi nói rằng: “Lực bất tòng tâm: Làm sao tôi có thể vào trong tù để thăm nuôi tù nhân ? Làm sao tôi dám chứa chấp những khách lỡ đường không giấy tờ tùy thân vào ở trọ trong nhà ? Tôi lấy đâu ra tiền để có thể chăm sóc những bệnh nhân bị AIDS hay phong cùi ? …” Lạy Chúa, nếu con cứ lý luận như thế thì chắc con sẽ không làm gì hết. Nhưng có biết bao công việc đang trong tầm tay của chúng con như: giúp đỡ tiền bạc cho một người cơ nhỡ, làm biển báo nguy bị sụt cống trên đường, giới thiệu Chúa cho một người lương đang tìm kiếm Chúa… Và còn biết bao những việc khác tương tự... Xin cho con biết luôn quan tâm tới người bên cạnh, và sẵn sàng chia sẻ tình thương với họ, hầu xứng đáng trở nên môn đệ thực sự của Chúa.
Năm Phụng Vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập Thể và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức TN 34-ABC139 Ephata
Năm Phụng Vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập Thể và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa Nhật cuối cùng Năm Phụng Vụ, Giáo Hội nhắc nhở rằng: Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử đời mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua Vĩnh Cửu, Vua Tình Yêu.
Núi Corcovado và núi Tao Phùng
Dịp Đại Hội Quốc Tế Giới Trẻ tại Rio Brazil, tôi đi hành hương lên ngọn núi Corcovado cao 704m, kính viếng bức tượng Cristo Redentor – Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế Vua giang tay đứng trên đỉnh núi cao.
Có loại xe lửa nhỏ khoảng 30 chỗ ngồi đưa du khách lên núi theo đường ray. Cũng có một đường xe hơi chạy lên núi theo hình xoắn ốc, đây cũng là đường bộ cho những ai thích leo núi. Năm 1985, Francisco Passos và Tegesra Suris xây dựng tuyến đường sắt thông đến núi Corcovado.
Lên đến trạm cuối, chúng tôi đi thang máy lên chỉ cách đỉnh núi khoảng 100m và tiếp tục đi bộ khoảng 120 bậc thang là đến chân tượng Chúa.
Từ đỉnh cao phóng tầm mắt nhìn thành phố Rio de Janeiro tuyệt đẹp. Tôi dành nhiều thời giờ để ngắm trời mây cảnh vật và chụp hình lưu niệm; đặc biệt chiêm ngắm tượng Chúa Cứu Thế là một trong 7 kỳ quan mới của thế giới. Bức tương màu trắng thiên nhiên hướng nhìn về phía ngọn núi Zuckerhut – Sugarload.
Bức tượng Chúa Giêsu Vua là một đài kỷ niệm trên đỉnh ngọn núi Corcovado ở phía Nam thành phố. Bức tượng được dự định xây dựng để kỷ niệm 100 năm độc lập của nước Brazil do kỹ sư kiến thiết Heitor da Silva Costa người Brazil phác họa vẽ mẫu. Bức tượng được khởi công thi hành năm 1922, nhưng gặp trở ngại vấn đề tài chánh nên việc thi hành kéo dài suốt 10 năm. Sau khi Tổng Giáo Phận Rio de Janeiro, Tòa Thánh Vatican và nước Pháp cùng trợ giúp cho dự án, công trình được hoàn thành, và khánh thành ngày 12.10.1931.
Bức tượng Chúa Giêsu cao 30m, chân đế cao 8m, đủ chỗ chứa cho 150 người vào trú ẩn trong tượng. Hai cánh tay Chúa Giêsu giang ra rộng 28m. Bức tượng nặng 1.145 tấn. Đầu và hai tay Chúa Giêsu do nhà điêu khắc người Pháp Paul Landowski làm ở Paris. Bức tượng làm bằng vật liệu bêtông cốt sắt theo từng phần ráp nối lại, và được kết bên ngoài bằng những viên đá dát theo kiểu Mosaic.
Năm 2006 dịp mừng kỷ niệm bức tượng được 75 năm, Giáo Hội đã chính thức nâng nơi đây thành nơi hành hương kính viếng Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế.
Đứng nơi ngọn núi Corcovado, tôi nhớ đến tượng Kitô Vua (Tao Phùng) ở Vũng Tàu. Với chiều dài 500m đi lên khoảng 1.000 bậc thang. Tượng được xây dựng 1974, do điêu khắc gia Văn Nhân và 50 thợ lành nghề thực hiện. Tượng có chiều cao 32m, chiều dài hai cánh tay là 18,4m; được đặt trên bệ khối chạm hình Tiệc Ly. Bên trong tượng là cầu thang xoắn ốc gồm 133 bậc, chạy từ bệ lên cổ tượng. Trong lòng tượng có thể chứa 100 người cùng một lúc. So với tượng Kitô Vua ở Rio de Janeiro ở Brazil thì thân tượng ở Vũng Tàu cao hơn 2m. Tượng Chúa ở Brazil đứng trên đỉnh núi Corcovado cao hơn 704m so với mực nước biển, còn tượng Chúa ở Vũng Tàu đứng trên độ cao hơn 170m của núi Nhỏ. Bệ tượng ở Brazil cao 8m, còn bệ tượng ở Vũng Tàu chỉ cao 4m.
Núi Corcovado hay núi Tao Phùng, nơi Chúa Giêsu Vua giang đôi tay ôm trọn nhân loại trong tình thương cứu rỗi. Trái Tim của Ngài mở ra để yêu thương mỗi người và mọi người, cánh tay của Ngài mở rộng để vươn đến mọi người. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp của một Mục Tử.
Chúa Giêsu là Vua Mục Tử Nhân Lành. Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài đọc I). Ngài tuyên bố: “Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta” (Ga 10,10); “Ta đến để cho chiên Ta được sống và được sống dồi dào. Chính Ta là mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì chiên”. Vua Mục Tử thiết lập Vương Quốc Tình Thương. Vị Vua ấy đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn nghèo khổ: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc Vương Quốc của Ngài là chính những hành động của tình thương. Vua Giêsu làm Thẩm phán xét xử mỗi người theo tiêu chuẩn của tình thương.
Vua Giêsu, vị Thẩm Phán
Để diễn tả vương quyền của Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh đặc biệt. Năm A với bài Tin Mừng theo Thánh Matthêu (25,31-46), đề cao Vua Giêsu như vị Thẩm phán xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng theo Thánh Gioan (18,33-37), một cái nhìn thần học về uy quyền của Vua Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể đến để làm chứng cho sự thật rằng Thiên Chúa hằng yêu thương nhân loại và chờ đợi con người đáp lại tình yêu ấy bằng cách tin vào Đấng được sai đến. Năm C với bài Tin Mừng theo Thánh Luca (23,35-43) trình bày Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Ngai vàng là thập giá, vương miện là mão gai. Vua Giêsu tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để đem lại sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Ngài không là vị Vua Cứu Độ bảo đảm cho con người ta những sự thiện hảo thế tạm. Ngài chẳng giải thoát ngay cả chính bản thân Ngài khỏi cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài cũng chẳng hứa sẽ giải thoát con người khỏi bệnh tật hay đói nghèo. Quyền bính của Ngài là Ơn Cứu Độ và sự sống trong Thiên Chúa: “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Ngài đã thi hành vương quyền bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Vương Quốc của Chúa Kitô Vua là Vương Quốc của Tình Yêu. Muốn vào Vương Quốc của Ngài, phải là người có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự.
Đã làm gì và không làm gì cho tha nhân
Thánh Mátthêu tường thuật quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái giáng và Ngài phân xử, mọi người tốt xấu, lành dữ đều có mặt và được xét xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để xét xử là tình yêu mỗi người thực hiện cho tha nhân.
Nội dung cuộc xét xử thật bất ngờ. Đấng Thẩm Phán chỉ xét hỏi người ta về tình thương. Một tình thương cụ thể được chứng tỏ bằng việc làm thiết thực đối với những con người bằng xương bằng thịt “Cho kẻ đói được ăn, cho kẻ được khát uống, viếng thăm kẻ bệnh tật và tù đày, tiếp rước khách lạ bơ vơ…” Điều bất ngờ hơn nữa chính là lời Đức Kitô tuyên bố: “Mỗi lần các ngươi làm những điều ấy cho một kẻ bé nhỏ là các ngươi làm cho chính Ta”. Những người bị xét xử đều nhất loạt thắc mắc: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói khát, rách rưới, bệnh tật, bị cầm tù hay là khách lạ đâu?” Mặc cho người tốt kẽ xấu thắc mắc, lời Chúa dạy thật rõ ràng: người khốn khổ bất cứ dưới hình thức nào đều là hiện thân của Chúa. Ngài tự đồng hóa mình với họ.
Vậy thì rõ ràng mọi việc chúng ta làm vì tình thương đối với đồng loại đều là việc đạo đức. Thiên Chúa không cần phân biệt ai là Giáo Hoàng, ai là Giám Mục, ai là Linh Mục, ai là Giáo Dân; không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, việc làm chứ không phải lời nói hay cái gì khác quyết định chúng ta thuộc chiên hay dê.
Thánh Gioan Kim Khẩu dạy: đừng phân biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài Nhà Thờ, tức là những anh chị em khác, phải được tôn trọng như nhau. Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể và Ngài cũng hiện diện thực sự trong mỗi một con người.
Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, đã sinh ra trong chuồng súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo trên thập giá. Vì thế, Ngài đã kinh qua mọi khổ đau và cái chết trong thân phận con người, Ngài cảm thông với hết thảy mọi người. Chúa bảo rằng, những ai cho người đói khát một ly nước, một chén cơm là họ cho Chúa ăn uống. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo là họ đã cho Ngài mặc áo. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian là họ đã cho Chúa trọ nhà... Điều vĩ đại trong Phúc Âm về Ngày Phán Xét đó là giá trị những việc nhỏ bé hàng ngày của tình yêu thương. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng yêu thương sẽ tồn tại mãi mãi.
Vương Quốc của Vua Giêsu là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì thuộc công dân Nước Thiên Chúa. Tình yêu là “thẻ căn cước” của công dân Nước Trời. Tình yêu không đòi hỏi nhiều lời nói cho bằng nhiều hành động thiết thực và sống động. Việc bác ái là chứng chỉ duy nhất để được nhận vào số những người được Chúa Cha chúc phúc.
Nếu Chúa Giêsu chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng Ngài là vua có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của Tổng Thống Bush: “Show, but don’t tell!”: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói suông!
Trong ngày sau cùng, khi Vua Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?
Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là “người khôn ngoan xây nhà trên đá” (Mt 7,24).
Lạy Chúa Giêsu, nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều mà Chúa đề cao: mỗi lần giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác…đó là chúng con làm cho chính Chúa, xin cho chúng con luôn biết thực hành đức ái trong đời sống hàng ngày. Amen.
Có vẻ như Chúa Giêsu coi trọng chiên hơn dê, nên trong dụ ngôn này, chiên được là biểu tượng TN 34-ABC140
Có vẻ như Chúa Giêsu coi trọng chiên hơn dê, nên trong dụ ngôn này, chiên được là biểu tượng cho những người tốt bụng, được đứng bên phải Đức Vua (Chúa Giêsu), được Thái Thượng Hoàng (Chúa Cha) chúc phúc, được khen, được ân thưởng cho vào Nước Trời, nơi đã dọn sẵn chỗ cho họ thật sung sướng.
Chuyện cho ăn, cho uống, cho mặc, tiếp rước, chăm sóc và thăm nuôi, không ghi rõ là một lần hay nhiều lần, chỉ thấy Chúa Giêsu bảo: “Xưa Ta thế này, các người đã làm thế này...” Vậy có thể hiểu đây là chuyện thường xuyên làm, làm ở mọi nơi mọi lúc, làm suốt đời, làm như một phản xạ tự nhiên, làm vô điều kiện, làm ân cần tận tụy bằng cả tâm hồn yêu quý và tôn trọng thật sự những ai đói khát, trần truồng, bị lỡ đường, bị đau ốm, bị tù đày.
Điều đáng lưu ý, đó chính là người nghèo họ lo cho nhau hay thật là hay, chia sẻ với nhau nhanh nhảu và nhiều sáng kiến hơn người giàu có khá giả đối đãi với nhau. Ta không đến nỗi nghèo, ta cũng có lòng tốt với người nghèo, nhưng xét cho cùng ta có giúp người nghèo phần nào thì cũng chỉ mới là cho đi cái phần dư thừa của ta mà thôi, giúp xong dường như ta vẫn thế, chẳng nghèo bớt đi tý nào, lại còn được tiếng là… ân nhân! Trong khi người nghèo mà giúp nhau thì có nhiêu giúp nhiêu, giúp hết, giúp toàn phần, giúp xong mà trắng tay cũng chẳng sao, sẽ lại có ai đó cũng nghèo như họ, có khi còn nghèo hơn họ, sẽ giúp họ!
Một cha già DCCT có kể một chuyện cách nay đã 25 năm, vậy mà tính thời sự vẫn nóng hổi. Một gia đình nghèo trong Xóm Giáo cha phụ trách hết gạo ăn, cha vội về Nhà Dòng, vào bếp lấy gạo, khi mang đến nơi thì thấy họ đang nấu nồi cháo, hỏi ở đâu có gạo mà nấu thì hoá ra nhà hàng xóm là một nhà không Công Giáo, cũng nghèo ngang ngửa, có mỗi hai lon gạo, mang sang chia một lon, họ còn một lon, như vậy cả hai nhà sẽ được cùng ăn cháo, chứ không để nhà thì ăn cơm, nhà thì nhịn đói.
Dê đứng bên trái
Ngược với chiên, dê bị coi là biểu tượng cho những người xấu bụng, hẹp hòi, phải đứng bên trái Đức Vua, bị nguyền rủa, bị xua đuổi, bắt vào hỏa ngục, dưới quyền thống trị của đủ các thứ quỷ. Tất cả chỉ vì đã không cư xử tử tế nhân ái đối với những ai đói khát, trần truồng, bị lỡ đường, bị đau ốm, bị tù đày.
Cũng cần hiểu ngay đây là thái độ, cung cách vô cảm, thản nhiên và thường xuyên khép lòng trước nỗi khổ, nỗi đau, nỗi cô đơn của tha nhân khốn cùng quanh mình. Thật ra họ đâu có làm điều gì xấu nào đâu! Chẳng có tòa án nào có thể kết tội họ. Nhưng hóa ra từ chối không làm điều tốt cũng chính là gián tiếp làm điều xấu, để cho cái xấu cái ác lấn lướt hoành hành mà xúc phạm phẩm giá con người!
Và như thế, có thể mãi sau này, khi bản thân họ xui xẻo lâm cảnh ngặt nghèo bi đát, may ra chỉ còn có tiếng nói lương tâm rỉ rả thì thầm sâu nơi đáy lòng làm cho họ thấy áy náy ray rứt chăng?
Một lần đi thăm và tặng quà cho bệnh nhân phong ở trại Êana, Buôn Ma Thuột, ngoài gạo, mì tôm, các thứ nhu yếu phẩm, có mang theo mấy chục đôi giầy bata bảo hộ lao động của công nhân, loại Nhà Nước sản xuất. Có ông già người dân tộc Êđê ngồi khóc một mình, ông bảo: "Hồi tôi còn chân thì không thấy ai cho giầy, bây giờ ông cha đem giầy lên cho thì tôi cụt mất cả hai bàn chân rồi!" Vậy thấy người nghèo cần gì, ta giúp được gì thì phải giúp ngay, không được do dự chần chừ.
Đức Vua ngồi trên ngai ở giữa
Chúa Giêsu đặt dụ ngôn này trong viễn cảnh Ngày Quang Lâm, phán xét tất cả cuộc sống con người, thưởng phạt công minh, Thiên Đàng và Hỏa Ngục phân định đâu ra đó, nghĩa là chung thẩm rồi chứ không còn là sơ thẩm với phúc thẩm, không thể kháng án hay cho điều tra lại để xin giảm án hoặc tha bổng nữa.
Cái hay ở đây là khi làm điều tốt cho người ta, không ai ngờ lại cũng là làm điều tốt cho chính Chúa Giêsu! Ngược lại, cái đáng sợ là khi không làm điều tốt cho người ta, thì chẳng ai ngờ cũng là đã từ chối, không làm điều tốt cho chính Chúa Giêsu!
Chúa Giêsu ẩn mình nơi người nghèo, người gặp hoạn nạn, người lâm cảnh khốn cùng, hay nói kiểu khác, Chúa Giêsu muốn đứng chung một phía, muốn ở cùng với họ, muốn họ là hiện thân hôm nay của Ngài giữa cuộc đời.
Cách đây 37 năm, một lần cha Thành Tâm đến giúp Tĩnh Tâm cho ca đoàn Phanxicô Đakao, nghe cha ôm đàn ghita hát mà rùng mình: "Có những lúc chúng ta đi trong cuộc sống mọi ngày, đã gặp Ngài nhưng chẳng biết Ngài. Có những lúc chúng ta vô tâm không để ý Ngài, người ăn xin hèn yếu…"
Thánh Vinh Sơn Phaolô bảo các chị Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn: "Khi cần, dù đang giờ Phụng Vụ, hãy tạm biệt Chúa Giêsu nơi Nhà Thờ để chạy đi thật nhanh, kịp gặp Chúa Giêsu nơi người nghèo"…
Và Phúc hay Họa, được thưởng hay bị phạt, tất cả nằm ở mấu chốt: có làm hay không chịu làm điều tốt trong đời này mà thôi!
Còn chúng ta sẽ đứng ở đâu ?
Khi xét xử Chung Thẩm, không thấy Chúa Giêsu phân loại theo tôn giáo, hữu thần hay vô thần, màu da, giai cấp, đảng phái, địa vị, chức tước, bằng cấp, nghề nghiệp, đi tu hay không đi tu, đoàn thể này hay hội nhóm kia, không kiểm điểm có giữ chay nghiêm chỉnh, có lần chuỗi liên tục, có hành hương Đất Thánh bao nhiêu bận, lại càng không thống kê Sổ Vàng đóng góp xây dụng Nhà Thờ hay Quỹ bảo trợ Ơn Gọi này nọ... Rõ ràng Chúa Giêsu chỉ dựa trên duy nhất tiêu chuẩn là đã cư xử tử tế, đối đãi nhân ái đối với người nghèo khổ và khốn cùng hay không mà thôi.
Vậy có thể nói, tất cả, chẳng trừ ai trên đời, đều được Chúa Giêsu đánh động lương tâm trong dụ ngôn này. Hơn thế nữa, cái đói ngày nay không còn dừng lại ở cái đói ăn mà còn nhiều thứ đói khác đang cồn cào ngấu nghiến nhân loại: đói văn hóa, đói nhân phẩm, đói bình an, đói tâm linh, đói một ước mơ được có một Đấng để tin, được có một cõi để về.
Hình như người ta đang bị ru ngủ, mê muội ảo tưởng vào một thế giới đang phát triển, đang giàu lên, đang dư thừa, đang no ấm, trong khi thực tế cái nghèo cái đói ngày càng khốc liệt hơn, bị giấu đi đàng sau những ngôi nhà cao tầng, những cầu vượt ngất ngưởng, những siêu thị hoành tráng.
Mẹ Têrêsa Calcutta chăm sóc cho quá nhiều những Giêsu trần trụi không quần áo trên hè phố Ấn Độ, và Mẹ bảo: "Chiếc áo anh chị em đang mặc là của anh chị em. Chiếc áo thứ hai là cái đáng lẽ của người nghèo. Chiếc áo thứ ba là cái anh chị em đã cướp của một người nghèo nào đó mà vì thế họ đang phải trần trụi". Thánh Vinh Sơn Phaolô cứ sợ mình chưa giúp những Giêsu được no hơn tý nào thì lại có thể làm cho họ bị tủi thân hơn, nên ngài cẩn thận dặn dò: "Khi anh chị em cho người nghèo một chiếc bánh, hãy nhớ kèm theo một nụ cười chân thành, để nụ cười ấy xoá đi sự xúc phạm họ, tổn thương họ mà anh chị em đã gây ra".
Ngoài những người như Cha Vinh Sơn, Đức Cha An Phong, Mẹ Têrêsa, Abbé Pierre, bác sĩ Ruth Pfau, … thì còn ai nghe được tiếng nói của Vua Nghèo Giêsu thều thào thì thầm ngay bên chúng ta: "Xưa Ta đói, nay Ta vẫn đang đói…"
Ở đời, mấy ai học được chữ "ngờ!": hẳn ai trong chúng ta cũng kinh nghiệm ít nhiều về điều TN 34-ABC141
"Ở đời, mấy ai học được chữ "ngờ!": hẳn ai trong chúng ta cũng kinh nghiệm ít nhiều về điều ấy. Liên quan đến chủ đề này, đại thi hào Ta-go của Ấn Ðộ có thuật một câu chuyện đầy thi vị như sau:
Có một người hành khất nọ ngày ngày vác bị đi xin bố thí. Một lần nọ, đang trên đường hành khất, người ấy trông thấy xa giá của Ðức Vua đi kinh lý đang tiến về phía ông. Lòng người hành khất bỗng khấp khởi mừng vui hy vọng: "Phen này, với của bố thí vua ban, ta sẽ không còn phải ngày ngày lê gót hành khất nữa!" Thế nhưng khi giáp mặt với người hành khất, Ðức Vua đã chẳng bố thí gì; trái lại, ngài ngửa tay xin ông chia sẻ điều ông có trong bị. Quá bất ngờ, người hành khất lúng túng thọc tay vào bị, bốc đại một hạt lúa, rồi đặt vào tay Ðức Vua. Ðoạn Ðức Vua ngự trở lại lên xa giá tiếp tục cuộc kinh lý.
Chiều đến, khi trở về túp lều dột nát của mình, người hành khất kiểm kê những gì đã xin được. Trước sự ngạc nhiên vô cùng của ông, ông nhìn thấy lấp lánh dưới đáy túi một hạt gạo bằng vàng. Thì ra khi ông trao cho Ðức Vua một hạt lúa, ngài đã kín đáo đặt trở lại vào túi của ông một hạt vàng. Lúc ấy người hành khất bật khóc và tiếc nuối: "Phải chi tôi đã dâng cho vua tất cả những gì tôi có cho rồi!"
Tương tự như câu chuyện trên, bài Phúc Âm hôm nay cũng cho thấy những bất ngơലong ngày phán xét: cả hai nhóm người lành, dữ đều được xét xử dựa trên điều họ không ngờ tới; chỉ khác một điều là nếu sự bất ngờ đó đem lại mối phúc cho nhóm này, thì nó lại mang đến sự bất hạnh cho nhóm kia. Cũng như trường hợp của người hành khất, sự bất hạnh đã rơi xuống trên nhóm người, do không ngờ, đã bỏ sót điều lẽ ra họ nên làm, khi hãy còn thời giờ và cơ hội. Nhưng bây giờ thì... đã muộn!
Ðức Vua của người nghèo
Bài Tin Mừng của ngày lễ Chúa Kitô Vua hôm nay trình bày hình ảnh Chúa Kitô như vị Vua của người nghèo; tự đồng hoá mình với người nghèo và xét xử mỗi người theo thái độ của họ đối với người nghèo.
Thực ra hai hình ảnh "chiên" và "dê", biểu trưng cho hai nhóm người trong dụ ngôn, được vay mượn từ một thực tế quen thuộc với nhóm thính giả Do Thái của Ðức Giêsu. Thông thường, một mục tử chăn dắt cả chiên lẫn dê trong đồng cỏ. Chiều đến, họ thường tách chiên ra khỏi dê, để đưa chúng vào trú đêm ở nơi kín gió hơn, còn dê thì có thể để bên ngoài, vì chiên chịu lạnh kém hơn dê. Ðể phân chia đàn vật, người mục tử thường dựa vào màu lông của mỗi giống: chiên thường màu trắng; dê thường màu đen. Còn trong ngày chung thẩm, đâu là tiêu chuẩn phân chia người sẽ được đưa vào cõi phúc và kẻ sẽ bị bỏ lại?
Ðối với những kẻ đi theo Người, Ðức Giêsu đã nhiều lần nói về tiêu chuẩn để được vào Nước Trời: đó là những người thi hành ý muốn của Cha, Ðấng ngự trên trời, chứ không phải là những kẻ chi thưa thốt ngoài môi miệng: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" (Mt 7,21-22); đó là những ai mạnh dạn tuyên xưng Ðức Giêsu trước mặt người đời, vì chính Người sẽ tuyên xưng họ trước mặt Thiên Chúa (Mt 10,32-33); đó là những người chịu bách hại vì Danh Ðức Giêsu và bền đỗ đến cùng (Mc 13,13). Tất cả những tiêu chuẩn trên đều liên quan đến giới luật "kính mến Chúa trên hết mọi sự" và chấp nhận mọi hệ quả của việc sống theo giới luật đó. Còn trong dụ ngôn hôm nay, Ðức Giêsu đề cập đến một tiêu chuẩn xét xử khác, chung cho mọi dân nước (c.32), tức là cho kẻ tin lẫn kẻ chưa nhận biết Chúa Kitô. Tiêu chuẩn này liên quan đến một giới luật liên hệ chặt chẽ với giới luật trước, đó là "yêu tha nhân như chính mình."
Khi bày tỏ tiêu chuẩn thứ hai này, Ðức Giêsu đã minh chứng Người là Ðức Vua của người nghèo, luôn quan tâm đến hoàn cảnh đáng thương, cần được giúp đỡ của những người bé mọn. Quan tâm ấy của Người không chỉ thể hiện trong ngày chung thẩm, nhưng chính Người đã sống mối bận tâm đó từng ngày, trong cuộc đời dương thế của Người. Các Tin Mừng có thể cho ta nhiều bằng chứng về điều ấy: Người đã cho đám đông đói lả được no nê cơm bánh và Lời Chúa (Mt 14,13-21); đã giải tỏa cơn khát khao chân lý của người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp (Ga 4); đã tiếp rước một Giakêu thu thuế bị đồng bào khinh miệt và kể như người xa lạ (Lc 19,1-10); đã mặc lại chiếc áo nhân phẩm cho người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang (Ga 8,1-11); đã làm biết bao phép lạ xoa dịu cơn đau của những người đau yếu; cuối cùng, Người cũng đã giải thoát nhiều trường hợp bị giam cầm trong xiềng xích của quỉ dữ (Mt 18,28-34) v.v... Tóm lại, khi mang đến cho những con người nói trên những ích lợi về phần xác, Ðức Giêsu còn đồng thời làm thỏa mãn những nhu cầu tinh thần và tâm linh của họ.
Ngoài việc quan tâm đến những người bé mọn, Ðức Giêsu còn tự đồng hoá mình với những con người ấy, đến độ nếu ai đó làm một việc lành cho họ, thì là làm cho chính Người (c. 40). Với việc tự đồng hóa trên, Người cũng đã biến hai giới luật Mến Chúa và yêu người nên một. Kể từ đó, kẻ mến Chúa cũng phải yêu thương tha nhân, vốn được dựng nên theo hình ảnh Chúa; còn kẻ làm một điều tốt cho tha nhân cũng chính là làm cho Ðấng đã tự đồng hóa mình với những người bé mọn. Tiêu chuẩn phán xét giờ đây, đã rõ: "Thiên Chúa sẽ đong lại cho mỗi người bằng chính "đấu tình thương" mà người ấy đong cho tha nhân (Mt 7,2). Tiêu chuẩn này cũng am hợp với mối phúc thứ Năm: "Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương." (Mt 5,7)
Tình yêu sẽ không sợ những bất ngờ
Mẫu gương của nhóm người thứ nhất trong dụ ngôn (chiên) cống hiến cho chúng ta một bài học quí giá: đó là nếu luôn sống theo thúc đẩy của lòng mến, ta sẽ không phải sợ hãi những bất ngờ; kể cả những bất ngờ trong ngày chung thẩm. Hơn thế, một nếp sống theo thúc đẩy của Tình Yêu cũng sẽ giải phóng ta vượt qua mọi nỗi sợ, ngay cả nỗi sợ lớn nhất là phải xóa mình, như câu chuyện sau của Bích Hà minh chứng.
"Chỉ còn mấy ngày nữa là Bích Hà đi khám sức khỏe. Ðã nhiều năm mòn mỏi ở trại tị nạn, cô trông mong từng giờ từng phút, ngày sẽ được đi định cư ở một nước thứ ba. Từ lâu nay, cô có thói quen mỗi chiều nấu một bát cháo nhỏ để đi thăm một người bệnh lao, phải sống cách ly trong một túp lều ở cuối trại. Nhưng chiều nay cô bỗng thấy lưỡng lự. Cái ý tưởng sẽ bị nhiễm vi trùng lao và sẽ "rớt" trong lần khám sức khoẻ tới khiến cô rùng mình: hy vọng được đi định cư của cô lúc đó ắt hẳn sẽ sụp đổ. Bỗng nhiên lời phán xét của Chúa trong bài dụ ngôn hôm nay vang lên trong tai cô: "Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm."
Suy gẫm lời đó, cô lấy lại được can đảm để tiếp tục cuộc thăm viếng mỗi ngày: cô đã nhận ra được nơi người bệnh lao bị bỏ rơi đó, hình ảnh của chính Chúa Giêsu đang cần đến sự ủy lạo của cô. Kể từ sau kinh nghiệm này, Bích Hà không còn sợ hãi gì nữa; ngay cả ý nghĩ phải hy sinh mạng sống vì tình yêu tha nhân cũng không làm cô sợ sệt. Hiện nay, Bích Hà là một điều động viên năng nổ của phong trào Focolare (do chị Chi-Lan Lưu Bích sáng lập) ở miền Ðông Canađa."
Đọc Tin Mừng chúng ta nhận thấy có một số tước hiệu Chúa Giêsu tự nhận cho mình như: TN 34-ABC142
Đọc Tin Mừng chúng ta nhận thấy có một số tước hiệu Chúa Giêsu tự nhận cho mình như mục tử, tôi tớ, thầy, Chúa, Con người. Những tước hiệu này như nối kết với chính bản thân của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, danh xưng “Vua”, Chúa Giêsu nhận trước vài giờ Ngài lãnh án tử hình và chịu đóng đinh trên thập giá, mang một ý nghĩa rất đặc biệt. Từ Vua xuất hiện sau khi Philatô một người có uy quyền gạn hỏi Chúa và đã được Ngài xác nhận quả gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ quan trọng.
Ngài tự ý nói điều ấy, hay có ai khác đã nói với Ngài về Tôi? (Ga 18, 34). Philatô, vị quan tổng trấn đứng trước mặt Chúa Giêsu trong phiên tòa, đã gạn hỏi cung Chúa Giêsu “Ông có phải là Vua dân Do Thái không?” (Ga 18, 33). Chúa Giêsu hiểu rất rõ rằng dân Do Thái đã cáo gian Ngài tự xưng là Vua. Và ngộ giả, nếu không có lời vu khống của dân Do Thái, chắc chắn Philatô đã không có cớ gì để bắt Chúa Giêsu và xét xử Ngài về tội xưng Vua. Trong lúc này, nghĩa là trong lúc xét xử, Philatô lưu ý, quan tâm vì khía cạnh chính trị của lời tố cáo của dân Do Thái. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã rất thản nhiên nói với Philatô: “Nước Tôi không thuộc thế gian này” (Ga 18, 36). Lời khẳng định của Chúa Giêsu chỉ ra rằng: “quan tổng trấn” không có gì phải sợ sệt cả. Chúa Giêsu đã hai lần nhắc lại: “Nước Tôi không thuộc thế gian này”. Dưới con mắt và trong suy nghĩ của dân Do Thái và Philatô, đại diện đế quốc Roma, danh từ Vua có nghĩa chính trị bao gồm bộ máy nhà nước, với nội các, với quân đội để bảo vệ chủ quyền và an ninh của vương quốc ấy. Đối với Chúa Giêsu vương quốc của Ngài thuộc thế giới linh thiêng vì như Chúa đã xác định: “Nếu nước Tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ củaTôi đã chiến đấu không để Tôi bị nộp cho người Do Thái” (Ga 18, 36). Những người Do Thái và ngay chính Philatô đã quá rõ biết điều ấy ! Nếu họ sợ Chúa Giêsu, họ đã lầm lớn về lối suy nghĩ của họ vì chính Chúa Giêsu đã khước từ ngôi Vua theo quan niệm con người, khi mà dân chúng và nhiều người chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu làm cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa ra nhiều để nuôi nhiều ngàn người ăn (Ga 6, 1-15), dân chúng đã hồ hỡi, phấn khởi muốn tôn Ngài lên làm Vua, nhưng Ngài đã từ chối (Ga 6, 15). Philatô quả đã biết rất rõ, Chúa Giêsu không tự xưng Vương, không muốn được tôn phong Vua theo quan niệm thế gian mà những người tố cáo Ngài vì họ ghen ghét Ngài (Mt 27, 28). Sở dĩ người Do Thái bắt nộp Chúa Giêsu, vu khống Ngài vì họ xấu xa, lòng dạ đen tối, tội lỗi và Philatô không dám bênh vực Chúa vì Ông quá hèn nhát và đê tiện. Vương quyền của Chúa Giêsu không thuộc về thế gian (Ga 19, 36). Theo ngôn ngữ của thánh sử Gioan thì nước Thiên Chúa không thuộc địa giới mà là thiên giới, không thuộc xác thịt mà thuộc thần khí. Chính vì thế, Chúa Giêsu không có gì để đối kháng với đế quốc Roma, hay sợ lấn quyền hành của Philatô hay của các vị lãnh đạo thế trần lúc đó.
Chúa Giêsu xác định chức vụ Vua với Philatô khi Philatô cứ gạn hỏi: “Vậy Ông là vua sao ?” (Ga 19, 37). Đức Giêsu đáp: “Chính Ngài nói rằng Tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng Tôi” (Ga 19, 37). Philatô ngỡ ngàng hỏi lại Chúa Giêsu: “Sự thật là gì?” (Ga 19, 38). Chúa Giêsu là sự thật và là sự sống. Theo quan niệm của Ngài, vua có nghĩa là làm chứng nhân cho chân lý. Vương quốc của Chúa Giêsu đã được Ngài thiết lập ngay trong cuộc khổ hình, chịu chết của Ngài trên thập giá: “...Khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” (Ga 12, 32). Ngay trên thập giá, Chúa Giêsu mới chứng tỏ thật sự Ngài là Vua. Chúa Giêsu là vua khiêm nhượng, hiền từ, Vua phục vụ cưỡi trên mình lừa... Một vị vua hy sinh tự hiến, khước từ mọi thứ vinh quang trần thế (Philip 2, 1tt..).
Philatô quả đã biết Chúa Giêsu hoàn toàn vô tội (Ga 18, 38) và muốn tìm các tha Chúa (Ga 19, 12), nhưng vì hèn nhát và sợ áp lực của người Do Thái (Ga 19, 39), Philatô đã truyền đem Đức Giêsu đi và đánh đòn Người (Ga 19, 1). Philatô cũng đã cho viết dòng chữ để đóng trên thập tự giá: “Giêsu Nagiarét vua dân Do Thái” (Ga 19, 19)
Đức Giáo Hoàng Piô XI trong thông điệp Quas Primas công bố ngày 11 tháng 12 năm 1952 đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua hằng năm.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người có lòng tin luôn ý thức rằng nước Chúa không thuộc thế gian này, nhưng dân Chúa lại ở trong thế gian. Xin cho chúng con biết trở thành chứng nhân sống động cho nước Chúa giữa muôn người. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ :
1. Bạn hiểu sao về từ Vua ? 2. Bạn cảm nghiệm thế nào về vương quyền của Chúa ? 3. Tại sao Philatô lại giữ nguyên câu đã viết: “Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái ?
Từ sau vụ nổ big-bang, vũ trụ được thành hình, và càng ngày càng bành trướng: Trái đất chỉ TN 34-ABC143
Từ sau vụ nổ big-bang, vũ trụ được thành hình, và càng ngày càng bành trướng.
Trái đất chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu trong vũ trụ, nhưng nó lại lớn lao vô cùng, vì là hành tinh được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc. Con Thiên Chúa đã ghi dấu chân mình trên mặt đất, đã sống trọn phận người bên cạnh nhân loại anh em.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi ngắm nhìn trái đất tròn.
Đây là vũ trụ của hơn 6 tỉ người đang sống. Vũ trụ này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ đi về đâu? Tất cả sẽ được hội tụ và biến đổi nơi Đức Kitô, để rồi Ngài sẽ dâng lại tất cả cho Thiên Chúa Cha.
Tuy Đức Giêsu không nói rõ mình là vua, cũng không chịu để dân chúng tôn vương mình, nhưng Ngài lại nói nhiều về Nước của Ngài.
Nước đó, Philatô chẳng có gì phải sợ. Một nước không có quân đội để chiến đấu, không có lãnh thổ trên bản đồ, không thuộc về thế gian. Nhưng Nước đó lại có những công dân thực sự. Bất cứ ai đứng về phiá sự thật thì thuộc về Nước này.
Họ bắt gặp sự thật nơi lời chứng của Đức Giêsu. Họ đã nghe tiếng Ngài và theo Ngài tiến bước. Có những người chưa biết Đức Giêsu, nhưng đã ở rất gần Ngài.
Nước của Vua Giêsu là Nước của sự thật. Sống theo sự thật chẳng bao giờ dễ dàng. Kẻ trung thực thường thua thiệt, lại bị coi là dại dột. Sự dối trá nhiều khi được coi là khôn ngoan. Người ta dối trá một cách trơn tru, không chút áy náy.
"Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi".
Chúng ta không nghe được tiếng Chúa, chỉ vì ta sợ sự thật, sợ nói thật, sợ sống thật, như Philatô muốn giữ ghế ngồi hơn là cứu người vô tội.
Lương tâm bị băng hoại, lòng tin vào nhau bị đổ vỡ. Cuối cùng chính chúng ta là nạn nhân của mình, của một thế giới xây dựng trên những đồ giả.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, ta đặt mình trước một thế giới bề bộn bao vấn đề: ô nhiễm môi trường, tăng dân số, aids, thất nghiệp, ma tuý, mafia, tham nhũng, nghèo đói, lạc hậu, bất công... Thế lực của sự dữ và tội ác có vẻ thắng thế, ích kỷ, hận thù, bạo lực tung hoành khắp nơi. Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Chúa mau đến, mà còn đưa tinh thần Đức Kitô vào mọi cơ cấu trần gian: chính trị, xã hội, nghệ thuật, giáo dục, thể thao, giải trí...
Càng làm cho sự thật và tình yêu thắng thế thì Nước Chúa càng lớn dần lên cho đến lúc thành tựu viên mãn vào ngày tận thế.
Xin Đức Giêsu làm vua cả vũ trụ loài người nhờ làm vua tiểu vũ trụ là cõi lòng từng Kitô hữu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các bạn trẻ thường có một thần tượng để tôn sùng. Có người mê vua bóng đá Pelé hay vua nhạc rock Michael Jackson... Bạn có ai là thần tượng không? Bạn đã sống như thần tượng đó ra sao?
Vũ trụ vật chất là quà tặng của Thiên Chúa cho con người, bạn nghĩ gì về nạn ô nhiễm ngày càng gia tăng trên trái đất do chặt cây, đốt rừng, nước thải, bụi khói, tiếng ồn...?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng. Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Mark Twain viết trong cuốn "The Prince and The Pauper, Hoàng Tử và Người Nghèo" về: TN 34-ABC144
Mark Twain viết trong cuốn "The Prince and The Pauper, Hoàng Tử và Người Nghèo" về hai người con trai sinh ra tại Anh quốc. Người con trai thứ nhất thì được sinh ra trong hoàng gia và trở nên Hoàng Tử Wales. Sự chào đời của Hoàng Tử được diễn tả: "Anh quốc đã chờ đợi, hy vọng, và cầu nguyện cho ông ấy, và bây giờ thì ông ấy đã chào đời. Tất cả mọi người đều vui mừng... Mọi người giàu cũng như nghèo đều nghỉ lễ ca hát tưng bừng."
Cùng ngày đó, một cậu bé trai khác tên là Tom Canty đã chào đời trong một gia đình nghèo túng và lụp xụp tại London: "Nó là một đứa bé mà không ai muốn." Không một ai trông đợi sự ra đời của nó. Không một ai hy vọng hoặc cầu nguyện cho nó. Khi nó chào đời thì không ai ca hát hoặc mừng rỡ cho nó.
Cả hai đều lớn lên trong hai hoàn cảnh khác nhau. Cả hai đều lớn lên với cái nhìn khác nhau về thế giới. Tuy nhiên, điều giống nhau giữa hai đứa bé đó là chúng đều lớn lên trong vui tươi, rạng rỡ, và hăng hái mà chúng ta có thể nhìn thấy ở nơi những đứa con trai khác.
Một ngày nọ, Tom Canty đứng ngoài cửa cung điện. Nó rất ngạc nhiên do sự huy hoàng của cung điện. Khi nó tiến đến gần cánh cửa để có thể nhìn cho rõ hơn thì bất chợt nó bị hai tên lính bắt nó và quăng xuống đất.
Cùng một lúc đó, vị hoàng tử trong cung nhìn thấy thảm cảnh của Tom liền chạy đến bênh đỡ. Sau đó, các tên lính canh rất ngạc nhiên khi họ nhìn thấy hoàng tử đã mời Tom vào trong cung điện để thăm quan.
Sau đó, hoàng tử nảy ra một ý kiến là tráo đổi cuộc sống của nhau. Hoàng tử thì mặc quần áo rách rưới của Tom, và đi thang lang qua các ngõ hẻm nghèo nàn với những người nghèo khổ. Còn Tom thì mang bộ đồ hoàng gia và vàng ròng.
Sau một thời gian, khi hoàng tử trở về hoàng cung thì bị lính chận lại. Khi hoàng tử cố gắng kể về thân phận thật sự của mình họ không tin và đã tóm cổ hoàng tử giam trong nhà tù.
Để rút ngắn câu truyện, khúc kết của câu truyện đó là mọi sự đều được sáng tỏ. Tuy nhiên, trong tiến trình đó, một điều quan trọng đã xảy ra. Sau cái lần đi vào những nơi nghèo khổ, hoàng tử đã học được bài học đầu tiên thế nào là sống nghèo khổ, thế nào là bị chà đạp, thế nào là bị đối xử bất công. Sau đó, hoàng tử đã được trở thành một ông vua. Một ông vua nhân từ và được nhiều người mến chuộng nhất trong suốt thời kỳ hoàng tộc nước Anh.
Câu truyện Hoàng Tử và Người Nghèo thì cũng giống như câu truyện về Chúa Giêsu và mỗi người chúng ta. Chúng ta những đứa trẻ nghèo khổ, còn Chúa Giêsu là hoàng tử, được tiền định là Vua của tất cả tạo vật.
Chúa Giêsu đã thay đổi chỗ của mình với chúng ta. Ngài thay đổi quần áo hoàng tộc thiên tính của mình để đổi lấy những áo quần rách rưới của thân phận con người chúng ta.
Giống như hoàng tử trong câu truyện của Mark Twain, Chúa Giêsu đã học được bài học thế nào là kiếp sống con người nghèo nàn và bị chà đạp.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu khác với hoàng tử là Ngài đã chịu chết trong tay loài người, sống lại từ cõi chết, và trở nên Vua các vua trên khắp vũ trụ.
Đây là một mầu nhiệm cao cả mà chúng ta mừng kính Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay. Chúng ta mừng kính Chúa Giêsu, Vua của toàn thể vũ trụ, thông hiểu được hoàn cảnh của chúng ta bởi vì Ngài đã trở thành một người trong chúng ta và cảm nghiệm được những gì mà chúng ta cảm nghiệm.
Lạy Chúa, chúng con suy tôn Chúa là Vua Vũ Trụ, Vua gia đình chúng con, Vua lòng chúng con.
Dưới chế độ quân chủ thì nhà vua là người nắm giữ mọi quyền hành trong một nước. Với: TN 34-ABC145
Dưới chế độ quân chủ thì nhà vua là người nắm giữ mọi quyền hành trong một nước. Với quyền hành lớn lao như thế, nhà vua dễ trở thành độc tài, bắt thần dân phải cung phụng cho mình với nếp sống xa xỉ và phóng túng.
Ngày nay, mặc dù chế độ quân chủ đã cáo chung tại hầu hết các nước, thế nhưng người ta vẫn tiếp tục dùng danh từ vua để chỉ một người thành công vượt bực trong một phạm vi nào đó, chẳng hạn như vua bóng đá, vua dầu lửa, vua xe hơi, vua leo núi…
Những ông vua thần tượng này thường được quần chúng ngưỡng mộ vì tài năng, vì giàu có, nhưng lắm khi đời sống luân lý của họ lại khiến chúng ta phải vỡ mộng.
Đành rằng trong lịch sử có những bậc minh quân, thương dân như thương con. Thế nhưng, có nên gọi Đức Kitô là vua khi nhân loại đã bước qua thiên niên kỷ thứ ba hay không ?
Lần kia, sau phép lạ bánh hóa nhiều, dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, để Ngài phất cờ giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc La mã, nhưng Ngài đã trốn lên núi một mình.
Còn đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, khi bị Philatô tra hỏi :
- Vậy ông là vua ư ?
Đức Kitô đã không từ chối và cũng chẳng xác nhận. Ngài chỉ bảo :
- Chính quan nói rằng tôi là vua.
Thế nhưng rất nhiều lần Ngài đã đề cập đến nước Ngài. Nếu như chúng ta có gọi Ngài là vua, thì chắc chắn Ngài sẽ là một vị vua rất đặc biệt, không giống với bất kỳ vua chúa trần gian nào.
Thực vậy, sinh ra nơi máng cỏ Bêlem, hoạt động thì nay đây mai đó, không có lấy được một hòn đá tựa đầu và sau cùng chết đi trên thập giá. Và như thế Ngài là một vị vua không ngai vàng, không cung điện, không binh đội, không vương trượng. Quả thực Ngài là một vị vua không giống ai.
Nét đặc sắc của vương quyền nơi Ngài chính là tinh thần phục vụ :
- Con Người đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Nơi khác Ngài cũng xác quyết :
- Thày sống giữa anh em như kẻ hầu bàn.
Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ. Và hành động phục vụ cao cả nhất chính là cái chết trên thập giá. Nhưng cũng chính nhờ cái chết này mà Ngài được tôn vinh :
- Ngày nào Thày bị treo lên khỏi đất, Thày sẽ kéo mọi sự lên cùng Thày.
Và thánh Phaolô đã xác quyết :
- Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài lên, tặng ban một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Với chúng ta thì sao ? Một khi tuyên xưng Đức Kitô là vua, chúng ta cũng phải thực thi tinh thần phục vụ của Ngài. Đây cũng chính là điều Ngài mong muốn :
- Nếu các con gọi Ta là Thày và là Chúa mà Ta còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Nơi khác Ngài cũng xác quyết :
- Vua chúa trần gian thì lấy quyền hành mà thống trị họ. Còn các con thì không như thế, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người. Chính nhờ tinh thần phục vụ này mà chúng ta trở nên ánh sáng, trở nên muối mặn, trở nên men bột, hầu góp phần làm cho nước Chúa được trị đến.
Chúa Giêsu có phải là vua thật không ? Ngài là vua theo nghĩa nào ? Bài Tin Mừng trả lời: TN 34-ABC146
Chúa Giêsu có phải là vua thật không ? Ngài là vua theo nghĩa nào ? Bài Tin Mừng trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó trong phiên tòa Rôma xử án Chúa Giêsu. Người xét xử là tổng trấn Philatô, là ông quan của đế quốc Rôma đặt cai trị ở Do thái, vì lúc ấy dân Do thái đang ở dưới quyền đô hộ của người Rôma. Bị cáo là Chúa Giêsu, do người Do thái điệu Chúa đến đây để xin Philatô xét xử.
Philatô hỏi Chúa : “Ông có phải là vua dân Do thái không ?”. Để trả lời, Chúa hỏi lại : “Ngài tự ý nói điều ấy hay những người khác đã nói với ngài về tôi ?” Hỏi như vậy là Chúa muốn vạch trần thâm ý của Philatô. Nếu Philatô tự ý hỏi như vậy tức là Philatô muốn hỏi : “Anh có phải là tay lãnh tụ chính trị, dám chống lại chính quyền Rôma không ?”. Đối với Philatô, là vua Do thái chỉ có nghĩa như vậy. Mà nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “không”. Ngài không phải là vua theo nghĩa đó. Còn nếu câu Philato hỏi là do các nhà lãnh đạo Do thái nhắc nhở cho, thì có nghĩa là Chúa Giêsu là vị cứu tinh của Do thái như Thiên Chúa đã hứa với dân tộc họ. Nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “có”. Ngài thực sự là vua. Nhưng không phải chỉ là vua của dân Do thái mà còn là vua của mọi người. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu là vua tâm linh, là vua lòng mọi người, chứ không phải là vua theo nghĩa thông thường trần gian. Vì thế, vương quyền của Chúa có tính cách thiêng liêng chứ không có tính cách trần thế, không dùng phương tiện, sức mạnh, bạo lực của trần gian. Trái lại, phương tiện thực thi vương quyền của Chúa là nhập thể cứu chuộc và rao giảng sự thật. Chính chúa đã khẳng định với Philatô : “Tôi là vua, nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này : làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Như vậy, chúng ta có thể quả quyết : Chúa Giêsu là vua. Ngài là vua sự thật. Sự thật là gì ? Chính Philatô đã hỏi Chúa Giêsu điều đó. Chúa không đáp lại bằng lời nói mà bằng chính việc Ngài đang thực hiện trước tổng trấn. Việc đó là thực hiện việc của tình yêu cứu độ. Ngài vô tội, nhưng vì yêu thương nhân loại, đã cam lòng chịu chết để đền tội cho nhân loại. Sự thật là như thế. Đó là tình yêu cứu độ. Đó là sự thật mà Chúa muốn làm chứng và muốn nói tới. Và giờ đây, nhìn chung quanh trong nhà thờ này : các ảnh tượng Chúa, chúng ta cũng thấy sự thật cứu độ là như vậy : Chúa Giêsu trên cây thánh giá, Chúa Giêsu trong phép Mình Thánh, Chúa Giêsu trong chặng đường thánh giá… Tất cả đều nói lên tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy đã được ban cho con người, chỉ cần con người đón nhận tình yêu ấy bằng một tâm hồn khiêm tốn, khao khát tình yêu cứu độ. Và bằng tâm hồn mở rộng ra, yêu thương bác ái đối với những người chung quanh. Sự thật cứu độ như vậy, nói thì đơn sơ dễ dàng, nhưng thực hiện thật là phức tạp và khó khăn, đòi hỏi nhiều cố gắng của chúng ta. Bởi vì cuộc sống tất bật, chật vật, đầu tắt mặt tối, đầy lo toan khốn khổ, dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa. Như vậy, chúng ta chưa sống sự thật cứu độ, chưa rao giảng sự thật cứu độ, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Điều đó có đúng không ?
Chúng ta tôn xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Cuộc sống chúng ta có rất nhiều dịp, nhiều lúc phải quyết định chấp nhận hay từ khước, nói có hay không dứt khoát : có thì nói có, không thì nói không. Một khi chúng ta trả lời “có” cho một người, tức là chúng ta trả lời “không” cho người khác. Khi chúng ta trả lời “có” cho Thiên Chúa, là chúng ta trả lời “không” cho ma quỉ cám dỗ. Không thể có trung lập giữa không và có, giữa Chúa và ma quỉ, giữa ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là phải có một quyết định, một lập trường, một triết lý sống thực hành thánh thiện, ngay thẳng, trung thực, chứ đừng ăn không nói có, lật lọng, dối trá, thay trắng đổi đen.
Nói rõ hơn, chúng ta phải tôn trọng sự thật : phải giữ thành thật trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Không được làm chứng dối, thề gian, bỏ vạ, cáo gian, đổ tội cho người khác, vu khống người ta. Không được xét đoán vô căn cứ, kết tội khi chưa đủ bằng chứng, cả khi nói những lời gây thiệt hại danh dự của người khác… cũng đều lỗi phạm sự thật. Can đảm biện hộ cho sự thật khi cần đến và có sự thật buộc chúng ta phải giữ kín.
Chúng ta hãy nhớ : một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện… có lẽ sẽ bị đánh giá là một người không giống ai, là một người lội ngược dòng nước cuốn. Nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại chính là thánh giá mà mỗi người cần phải vác hàng ngày. Chúng ta phải trở nên muối đất, trở nên ánh sáng thế gian bằng cuộc sống chứng nhân trung thực cho Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta hẳn đã nghĩ rằng chỉ có các dân tộc sơ khai và trong quá khứ xa xôi mới tôn thờ ngẫu: TN 34-ABC147
Chúng ta hẳn đã nghĩ rằng chỉ có các dân tộc sơ khai và trong quá khứ xa xôi mới tôn thờ ngẫu tượng. Sự thật không phải như thế. Con người hiện đại cũng có các ngẫu tượng của họ. Và họ tôn thờ các ngẫu tượng ấy như thế nào. Tiền bạc là ngẫu tượng phổ biến nhất hôm nay. Nhưng cũng có những ngẫu tượng khác : tài sản, lạc thú, thành công, danh vọng, quyền lực… Sự tôn thờ thần tượng khá nhất là dẫn người ta đến một đời sống phù phiếm, còn tệ nhất là một đời sống mất phẩm cách, đê tiện. Nhưng tai hại to lớn nhất mà sự tôn thờ ngẫu tượng gây ra là nó làm cho người ta quên đi Thiên Chúa chân thật.
Người ta có thể lấy mình làm ngẫu tượng. Các lãnh tụ Cộng sản lấy chính mình làm ngẫu tượng. Một trong những đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản là “tôn thờ lãnh tụ”. Các lãnh tụ đặt chính mình lên bệ thờ. Bạn quay về hướng nào, cũng thấy những hình ảnh, tranh tượng của họ (Chúng ta thấy điều này ở I-rắc với Sadam Hussein). Khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ nhiều bức tượng như thế đã bị giật sập và đập vỡ. Những quái vật ấy, những thần tượng ấy đồng nghĩa với sự đàn áp và khủng bố.
Trong lúc mà những bức tượng bị đổ nhào, tạp chí Time phát hành một bức ảnh nhỏ làm xúc động. Bức ảnh được chụp ở Ukraina, cho thấy một nhóm dân thường tụ họp cầu nguyện xung quanh một bàn thờ đơn sơ ở một nơi công cộng. Trên bàn thờ, người ta đặt một tượng bán thân của Đức Kitô. Bức ảnh này nói lên tất cả. Sau khi các thần tượng bị lật nhào, Đức Kitô được đặt vào đúng vị trí của Người. Thật tương phản biết bao giữa qui luật của Người và qui luật của những thần tượng. Các thần tượng chỉ huy; Đức Kitô mời gọi. Các thần tượng chỉ huy thông qua sợ hãi, Đức Kitô chỉ huy thông qua tình yêu. Các thần tượng đem đến áp bức và chết chóc; Đức Kitô đem đến tự do và sự sống. Không có gì đáng kinh ngạc khi chúng ta giữ lòng trung tín, trung kiên với Người, điều mà chúng ta không làm đối với một người khác hoặc một cơ chế trên trần gian.
Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đứng đơn độc và không vũ khí trước Philatô. Làm tổng trấn một tỉnh thuộc Lamã, Philatô là một con người đầy quyền lực. Ông có hàng ngàn binh lính dưới quyền ông. Và kia là Đức Giêsu – không có lấy một người lính để bảo vệ. Tuy nhiên, Đức Giêsu là người cao cả hơn không ai sánh bằng. Và mặc dù Người có thể bị tổn thương. Người là Đấng duy nhất chỉ huy làm chủ.
Quyền lực chính trị là khả năng ép buộc những người khác làm theo ý muốn của người ta. Khả năng này chủ yếu là do một địa vị như vua hoặc tổng thống. Nó không ở người chiếm giữ địa vị ấy. Quyền lực chính trị không liên quan đến lòng tốt hoặc sự khôn ngoan. Nhiều người ngu ngốc và xấu xa đã thực hành quyền lực ấy.
Mặt khác, quyền bính tinh thần hoàn toàn thuộc về cá nhân và không liên quan đến khả năng ép buộc những người khác. Người có sức mạnh tinh thần cao cả có thể giàu sang và đôi khi chiếm những vị trí lãnh đạo, nhưng thông thường họ nghèo khó và không có quyền lực chính trị.
Chúng ta phải phân biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, và đàng khác là quyền lực và sự chỉ huy người khác. Một số người với quyền bính tinh thần cao cả nhưng hoàn toàn không có quyền lực và phần lớn người có ảnh hưởng không cần kiểm tra những người mà họ có ảnh hưởng. Đức Giêsu làm cho người ta cảm nhận sự hiện diện của Người một cách đơn giản bởi tính cách của Người. Có một quyền bính thầm lặng trong mọi việc Người nói và làm.
Đức Kitô là niềm tin hy vọng của loài người. Người cho chúng ta thấy Thiên Chúa là ai và làm cách nào để giữ Thiên Chúa ở trung tâm đời sống chúng ta. Thiên Chúa không phải là một khuôn mặt xa lạ và thờ ơ. Thiên Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Đấng gần gũi với chúng ta, và chúng ta quan trọng và quí giá đối với Người.
Đức Kitô không đến để thiết lập một quyền tối thượng chính trị nhưng để làm chứng cho chân lý về quyền tối thượng của Thiên Chúa vĩnh cửu và trên toàn thể vũ trụ.
Trong mọi danh hiệu mà chúng ta ban cho Đức Giêsu thì danh hiệu “Vua” xem ra không thích: TN 34-ABC148
Trong mọi danh hiệu mà chúng ta ban cho Đức Giêsu thì danh hiệu “Vua” xem ra không thích hợp nhất. Nó có vẻ như một loại danh hiệu mà Người bác bỏ. Khi chúng ta nghĩ đến một ông vua, chúng ta nghĩ ngay đến một ngai vàng, một vương miện, một cung điện, sự giàu sang, quyền lực, vinh dự, một đoàn tùy tùng các tôi tớ, và dĩ nhiên một quân đội.
Khi chúng ta nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta thấy gì ? Không có ngai vàng, vương miện, cung điện, quân đội. Chúng ta thấy Người đi bộ trên những con đường bụi bặm xứ Palestien với một nhóm môn đệ. Chen chúc xung quanh Người là những người nghèo và người bệnh, những người tội lỗi và những người bị gạt ra bên lề. Tóm lại, đó là những loại người mà ở trong vương quốc trần gian phải đứng ngoài hoàng cung để ngó vào, còn hoàng cung thì khép lại trước mắt họ.
Tuy vậy, danh hiệu “Vua” vẫn thích hợp và có một ý nghĩa đúng đắn và chân thật với Đức Giêsu. Trên hết, nó có nghĩa là thần tính của Người. Thiên Chúa là Chúa của mọi loài, Vua của vũ trụ, Đấng mà mọi loài phải giữ lòng trung tín, Đấng cai quản và phán xét mọi sự.
Nhưng ngay cả trên bình diện con người, danh hiệu ấy cũng có ý nghĩa. Người là suối nguồn cao cả nhất của điều thiện hảo, là ánh sáng và hy vọng trong một thế giới tối tăm. Đức Giêsu có một quyền bính đạo đức và tinh thần vô tận bởi bản chất cao cả của Người. Sự hiện diện của Người có thể thay đổi những người ở xung quanh Người vượt qua sự nhận biết của họ. Thái độ của Người đối với những tội nhân là lòng nhân hậu và sự thuyết phục hơn là lên án. Có những vĩ nhân làm mọi người cảm thấy họ nhỏ bé. Nhưng một vĩ nhân thật sự làm cho mọi người cảm thấy họ cao cả. Trong ý nghĩa đó, Đức Giêsu quả thật là Vua.
Một mặt chúng ta phải phân biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, với quyền lực và sự chỉ huy ở mặt kia. Có người có quyền bính tinh thần lớn nhất lại hoàn toàn không có quyền lực, và người có ảnh hưởng lớn nhất thì không cần phải chỉ huy những người chịu ảnh hưởng của họ. Điều này đúng với Đức Giêsu. Philatô có quyền lực trên dân; Đức Giêsu có ảnh hưởng trên dân. Đức Giêsu làm cho người ta cảm thấy sự hiện diện của Người một cách đơn sơ bởi tính cách của Người. Người có một quyền bính thầm lặng trong mọi việc Người nói và làm.
Và Người đã nói về một Nước Trời – một Vương quốc trên thiên đàng. Vương quốc của Người thể hiện mọi điều mà thế gian này không thay thế được nhưng ngày một mờ nhạt. Đó là tất cả những gì đúng và chân thật, đẹp đẽ, công bằng và thiện hảo. Vương quốc Người sẽ đến khi ý định của Thiên Chúa đối với chúng ta và mọi tạo vật được thành tựu.
Mặc dù Vua Kitô không cần hoặc không muốn có binh lính và xe tăng, Người lại cần có những chiến sĩ – những người sẵn sàng “chiến đấu” cho công lý, sự thật, hòa bình. Có một cuộc chiến đã tiến hành giữa vua bóng tối với vua ánh sáng, vua dối trá với vua chân thật, vua xấu xa với vua nhân lành. Chúng ta ở về phía nào ?
Chính trong Chúa nhật sau cùng của năm phụng vụ, chúng ta tự nhiên nghĩ về sự phán xét: TN 34-ABC149
Chính trong Chúa nhật sau cùng của năm phụng vụ, chúng ta tự nhiên nghĩ về sự phán xét – Sự phán xét sau cùng và sự phán xét mỗi người chúng ta sau cái chết. Tin Mừng hôm nay làm chúng ta hết sức ngạc nhiên, bởi vì ở đây người bị xét xử là chính Đức Giêsu, Đấng mà chúng ta gọi là Vua của chúng ta.
Đôi khi trong một phiên tòa, xảy ra trường hợp bị cáo là chính quan tòa. Quả thật, đôi khi chính khái niệm công lý bị xét xử.
Hãy lấy trường hợp của Louise Woodward, một người Anh 19 tuổi mà ban bồi thẩm ở Massachusetts tin rằng năm 1998 cô đã giết chết một em bé tám tháng tuổi, Matthen Eappen được giao cho cô chăm sóc. Nhưng nhiều người theo dõi vụ án đã tin rằng công lý đã mắc sai lầm. Người ta cho rằng cô đã giết em bé vì lầm thuốc. Nhưng đây chỉ là sự nghi ngờ hợp lý và ban bồi thẩm khó có thể tìm ra bằng chứng giết người – Đoàn luật sư được kêu gọi chống lại bản án cho cô.
Lúc đầu vụ án, Louise là một bị cáo. Nhưng giờ đây mọi tập trung đều hướng về quan tòa Hiller Zobel, ông đã xem lại bản án. Trong lúc chờ đợi quyết định của ông, nhiều câu hỏi được đặt ra về tính cách của ông. Người ta nói rằng ông là người có tư tưởng độc lập. Một người không bị dư luận làm dao động hoặc nhượng bộ một áp lực. Bản án ông đang đi đến sẽ cho biết những nhận xét ấy về ông có đúng hay không. Giờ đây, chính quan tòa Zobel đang được xét xử.
Sau khi cân nhắc cẩn thận Zobel thay đổi bản án của ban bồi thẩm là giết người mức độ hai thành tội ngộ sát. Vâng một em bé đã chết và Louise đã bị khiển trách về cái chết ấy. Nhưng cô không phải là kẻ sát nhân. Và khi cô đã phục vụ mười bảy tháng trong nhà tù. Cô được trả tự do. Trong con mắt của những quan sát viên trung lập, bản án của ông là đúng đắn. Từ vụ đó, danh tiếng của quan tòa Zobel được nâng cao. Ông đã chứng tỏ là một người quan tâm đến công lý với tất cả sự nhiệt thành.
Hình ảnh của cảnh tượng trong Tin Mừng hôm nay. Đơn độc và không vũ khí, Đức Giêsu đứng trước Philatô trong vụ xử liên quan đến mạng sống của Người. Người đã bị những người Do thái kết án gây ra xáo trộn trong dân, và nói với họ đóng thuế cho xê-da là sai lầm.
Tuy nhiên, Philatô đã sớm thấy rằng Đức Giêsu vô tội. Ông còn tuyên bố. Người vô tội trước nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng các nhà lãnh đạo tôn giáo bắt đầu gây áp lực chính trị trên ông. Họ đe dọa sẽ báo cáo lên Rôma việc ông trả tự do cho một người mà họ xác nhận là kẻ thù của xa-dê.
Giờ đây sự chú ý chuyển từ Đức Giêsu qua Philatô. Giờ đây Philatô là người bị xét xử. Ông có thấy rằng công lý phải được thực hiện không ? Đức Giêsu làm cho điều đó trở nên dễ dàng đối với ông bằng cách bảo đảm rằng Vương quốc của Người không đe dọa Xê-da. Philatô đã đấu tranh với điều đó. Nhưng rồi ông bắt đầu thỏa hiệp. Ông cố làm nguôi những kẻ kết án Đức Giêsu. Trước hết bằng cách cho đánh Đức Giêsu bằng roi và rồi cho thả Baraba. Khi điều này không làm họ thỏa mãn, ông nhượng bộ áp lực và trao Đức Giêsu cho họ.
Philatô biết điều ông đã làm. Ông sai đem nước để rửa tay với hy vọng vô ích được tẩy sạch khỏi những vết nhơ vì máu vô tội. Sau cùng ông là người bị lên án. Chỉ cần một cái búng tay, ông có thể trả tự do cho Đức Giêsu. Tuy nhiên vì sợ cho địa vị của mình, ông đã để cho một người vô tội nhất bước đi trên mặt đất này để đến cái chết. Sự hèn nhát của Philatô tương phản với sự can đảm thinh lặng của Đức Giêsu.
Ngày nay các nhà lãnh đạo chính trị thường bị những áp lực tương tự. Các nhóm áp lực chi phối họ, đe dọa sẽ bãi nhiệm họ nếu họ không theo đường lối của các nhóm đó. Cũng có lúc, tất cả chúng ta sẽ bị áp lực. Tất cả chúng ta thấy mình bị xét xử.
Bởi cách chúng ta sống, đặc biệt bởi thái độ của chúng ta đối với sự thật và công lý, chúng ta tuyên bố mình đứng về phía Đức Kitô và vương quốc của Người, hoặc chúng ta giống như Philatô, đi theo con đường trốn tránh và hèn nhát. Không thể có thái độ trung lập.
Ai xét xử Philatô ? Ông là người xét xử chính mình. Chúng ta cũng xét xử chính mình. Đừng chờ đến ngày phán xét cuối cùng. Phán xét xảy ra ngay bây giờ. Nó diễn ra mỗi ngày, trong những điều nhỏ. Trước khi kết thúc, người ta đã phán xét mình. Bằng trăm, ngàn cách họ đã chọn theo hoặc chống chính mình hay anh chị em của mình, theo hoặc chống sự thật. Sự phán xét của Thiên Chúa sẽ không hoàn thành một điều gì mới. Nó sẽ đưa ra hầu như những việc đã làm.
Tuy nhiên chúng ta đừng bao giờ quên rằng tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha ở trung tâm Vương quốc. Đức Giêsu không nói để chúng ta sợ hãi ngày cuối cùng đó, mà chỉ để chúng ta sẵn sàng cho ngày đó.
Vui biết bao khi thuộc về Đức Kitô và vương quốc của Người. Hãy để đời sống chúng ta được thần khí Người cai trị và bằng những phương thế nhỏ bé hãy làm việc để mở rộng nước của Người – một vương quốc của chân lý và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hòa bình.
Một triết gia đã đưa ra nhận định rất bi quan : “Homo homini lupus” : con người là lang: TN 34-ABC150
Một triết gia đã đưa ra nhận định rất bi quan : “Homo homini lupus” : con người là lang sói của con người. Lang sói là một loài thú dữ, bản tính thích tấn công, cắn xé và giết chóc. Thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn tấn công nhau, cấu xé và giết chóc nhau.
Bởi vậy một sử gia đã đưa ra một kết luận tương tự với nhận định bi quan của triết gia trên : lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Từ khi có loài người trên mặt đất này cho đến nay, có mấy khi mà loài người được hưởng thái bình ? Hầu hết thời gian lịch sử của loài người đều là chiến tranh. Gần đây nhất là 2 cuộc thế giới đại chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người chết ; cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết thêm 40 triệu sinh mạng nữa. Và hiện nay cả loài người đều phập phồng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại chiến lần thứ ba với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700.000 người chết hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ tung, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt.
Tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau một cách ngu xuẩn như vậy ? Tôi nghĩ rằng trong con người chúng ta vừa có thú tính vừa có nhân tính : thú tính thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn nhân tính là có trí khôn biết suy nghĩ tính toán. Khi buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau ; và nếu con người lại dùng cái trí khôn của tính người để phục vụ cho cái thú tính kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài lang sói đích thực nữa. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sử quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau.
Cho nên trong bối cảnh giữa hai cuộc chiến tranh thế giới làm chết hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày 11.12.1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu nguyện cho loài người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau; nhưng mọi người hãy suy phục vương quyền của Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài, Đức Giáo Hoàng coi đó là chấm dứt chiến tranh.
Vương quyền của Chúa Kitô không xây dựng trên sức mạnh, không củng cố bằng bạo lực theo kiểu các nước trần gian. Bởi thế Chúa Giêsu đã nói : “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị bắt như thế này”. Nói cách khác, Chúa Giêsu không thích chiến tranh, không muốn có phe phái, phe này chiến đấu lại phe kia. Vương quyền của Chúa xây dựng trên sự thật, như Lời Chúa nói “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật”. Nhưng sự thật là gì ? Là cái làm cho con người đúng là con người chứ không phải là lang sói. Con người phải phát huy cái nhân tính của mình và đồng thời dần dần loại bỏ đi cái thú tính trong mình. Con người cố gắng sống cho ra người, mọi người biết tôn trọng nhân phẩm nhân quyền của nhau, mọi người nhắc nhở nhau và giúp nhau làm những việc tốt mà lương tâm chân chính của con người dạy phải làm. Người nào sống như vậy thì là người sống trong vương quốc của Chúa; người nào, cố gắng làm cho nhiều người khác cũng sống như vậy thì là đang xây dựng vương quốc của Chúa.