Như chúng ta đã biết: ngay từ thời niên thiếu, Gioan tiền hô đã vào hoang địa, sống một cuộc: TN 2-A1
Như chúng ta đã biết: ngay từ thời niên thiếu, Gioan tiền hô đã vào hoang địa, sống một cuộc sống khắc khổ, ăn châu chấu với mật ong rừng. Ông xuất hiện bên bờ sông Giócđan. Ông tiếp nhận mọi người, không phân biệt, không loại trừ, không sợ hãi.
Ông trao ban phép rửa sám hối. Đây không phải là một bí tích, nhưng chỉ là một nghi thức chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Đấng Cứu Thế.
Với tất cả sự khiêm tốn, ông đã trả lời cho những kẻ đến hỏi ông là ai:
- Tôi chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc: hãy dọn đường Chúa đến.
Khi được hỏi về vai trò và chỗ đứng của mình, ông đã xác quyết:
- Phần tôi, tôi rửa trong nước, nhưng giữa các ông có một Đấng mà các ông không biết…Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.
Được chọn giữa muôn người để là sứ giả, làm tiền hô, kêu gọi mọi người dọn đường, tức là chuẩn bị tâm hồn đón nhận Đấng Cứu Thế, ông đã không huênh hoang tự đắc, trái lại luôn khiêm tốn ý thức vai trò và địa vị nhỏ bé của mình. Ông không bao giờ muốn giữ người khác lại cho riêng mình. Trái lại, ông đã thẳng thắn tuyên bố:
- Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Và rồi khi thấy Chúa Giêsu tiến đến với mình, ông đã long trọng giới thiệu Ngài với đám đông dân chúng:
- Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.
Khi long trọng giới thiệu như thế, ông làm cho chúng ta liên tưởng tới lời tiên báo của Isaia về một Đấng Cứu Thế đau khổ, Ngài giống như một con chiên bị dẫn tới lò sát sinh, hay như một con chiên không mở miệng kêu la khi bị xen lông.
Ba chữ “tội trần gian” có ý muốn nói tới tội chung của nhân loại, cũng như tội riêng của mỗi người chúng. Từ đó, vị tiền hô đã chỉ cho chúng ta thấy rõ khía cạnh đau khổ của Chúa Giêsu, và đó cũng là khía cạnh cao cả nhất của Ngài trong cuộc sống nơi dương thế.
Đúng vậy, Chúa Giêsu đến trong thế gian, không phải để chiếu tỏa vinh quang của Ngài, cũng không phải để nắm giữ một vai trò đầy quyền uy hầu chuộc lại tội lỗi chúng ta. Trái lại, Ngài đã cứu độ chúng ta, đã gỉa thoát chúng ta khỏi án phạt của tội lỗi bằng việc đổ máu, bằng hy lễ của thập giá.
Lời giới thiệu của Gioan tiền hô phải chăng đã gồm tóm toàn bộ sứ mạng của Chúa Giêsu nơi trần gian. Vì thế, Giáo hội cũng đã muốn lặp lại lời giới thiệu trang trọng này trên môi miện các linh mục, trước khi chúng ta lên rước lễ.
Bấy giờ, vị linh mục cầm lấy Mình Thánh, giơ lên trước cộng đoàn và nói:
- Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc chiên Thiên Chúa.
Trở lại với Gioan tiền hô, chúng ta thấy chính lúc cử hành nghi thức sám hối, ông đã được mạc khải và đã nhận ra Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi.
Noi gương Gioan tiền hô, chúng ta cũng hãy dành cho Chúa Giêsu chỗ nhất trong trái tim cũng như trong cuộc sống của chúng ta.
Rồi sau đó, bằng lời rao giảng và nhất là bằng chứng tá của một cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương, chúng ta hãy giới thiệu khuôn mặt đích thực của Đức Kitô cho những người chung quanh, nhờ đó bản thân chúng ta sẽ trở nên những tiền hô, dọn đường Chúa đến, cũng như sẽ trở nên những chứng nhân cho Chúa giữa lòng cuộc đời.
Ngọn núi Mount Rushmore, tọa lạc trên những rặng đồi Black Hills của tiểu bang South Dakota: TN 2-A2
Ngọn núi Mount Rushmore, tọa lạc trên những rặng đồi Black Hills của tiểu bang South Dakota, nổi tiếng vì có những bức điêu khắc khổng lồ khuôn mặt của bốn vị tổng thống Hoa Kỳ: George Washington, Thomas Jeffrson, Abraham Lincoln và Theodore Roosevelt. Mỗi bức tượng đầu người có chiều cao khoảng 18 mét, và toàn thể cấu trúc cao tới 1945 mét, trên mặt đất. Phải mất 14 năm để thực hiện công trình này. Khi được hỏi ông đã thực hiện công trình này như thế nào, điêu khắc gia Gutzon Borglum trả lời với một ánh mắt sáng ngời: “Ôi, những bức hình đó đã ở đấy 40 triệu năm nay rồi. Tất cả những điều tôi phải làm là cho nổ mìn 400.000 tấn đá để mọi người nhìn thấy chúng mà thôi”.
Chúng ta, là những người con cái của Thiên Chúa cũng đã hiện diện trong tâm trí Ngài từ ngàn đời. Từ đời đời, Ngài đã tạo nên chúng ta và cứu chuộc chúng ta qua Đức Giêsu Kitô.
William Barlay, nhà chú giải Thánh Kinh rất được ưa thích hiện nay, có lần đã nói rằng có hai ngày quan trọng nhất trong đời người: “Ngày chúng ta được sinh ra và ngày chúng ta khám phá ra tại sao chúng ta đã được sinh ra”.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Gioan Tẩy giả nói về ngày ông đã biết tại sao mình được sinh ra. Đó là khi: “Tôi đã nhìn thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Người… Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Lý do Gioan được sinh ra là để loan báo và sửa soạn cho dân chúng đón nhận “Chiên con của Thiên Chúa xóa tội lỗi trần gian”.
“Như thế Gioan tỏ cho thấy Chúa Giêsu vừa là người Đầy Tớ Đau Khổ, im lặng, để người ta dẫn tới lò sát sinh gánh tội lỗi của nhiều người, vừa là chiên con của lễ Vượt Qua, biểu tượng của sự cứu chuộc của Israel… Tất cả cuộc đời của Chúa Kitô nói lên sứ mạng của Ngài: “Phục vụ và thí mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Con chiên là một con vật hiền lành được nuôi ở nông trại để xén lông làm áo len. Thịt nó rất thơm ngon. Con trừu khi còn nhỏ gọi là con chiên (lamb), lớn lên gọi là trừu hay cừu (sheep).
Con chiên, ngoài đặc tính cụ thể là cho len và thịt, nó còn tượng trưng cho sự hiền lành, thanh khiết và vô tội. Có lẽ vì những đặc tính này, qua một hình thức có tính cách biểu tượng, người ta đã đặt tội lỗi lên con chiên để hiến dâng cho Thiên Chúa như một lễ vật. Vào ngày lễ Vượt Qua, người Do Thái đã chọn một con chiên đực mang đi giết, ăn thịt chiên quay để tưởng nhớ cuộc giải phóng khỏi tình trạng nô lệ bên Ai Cập xưa kia.
Tại Werden nước Đức, có một con chiên bằng đá được đặt ngay trên nóc nhà thờ. Câu kể lại rằng, xưa kia có một ông thợ đang sửa lại mái nhà thờ. Thình lình sợi dây đai an toàn bị đứt, ông bị rơi ngã xuống đất. Khu vực phía dưới xung quanh nhà thờ chất đầy gạch đá. Nhưng may mắn cho ông, có một con chiên đi ăn cỏ, lạc vào khu vực nhà thờ. Ông đã rơi xuống ngay trên mình con chiên. Con chiên bị chết ngay tại chỗ, nhưng ông thợ đã sống sót. Sau đó người thợ này đã tạc một con chiên bằng đá, đặt trên mái nhà thờ để nhớ ơn con chiên đã cứu mạng sống của mình.
Giống như con chiên không những hiền lành, lại còn cung cấp món ăn ngon, Chúa Giêsu đã mang lấy tội lỗi của nhân loại, Ngài còn trở nên lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta qua bàn tiệc Thánh Thể.
Trích lại lời của Công đồng Vatican, sách Giáo lý Công giáo số 1323 nói rằng: “Trong bữa tiệc sau hết, đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình Máu Người, để nhờ đó Hy Tế Khổ Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quý của Người là Giáo Hội việc tưởng nhớ cái chết và sự sống lại của Người: đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc Vượt qua “trong đó khi lãnh nhận Chúa Kitô, tinh thần ta được tràn đầy ân sủng, và bảo chứng cho ta, một vinh quang tương lai”.
Sách Khải Huyền của thánh Gioan còn diễn tả sự cử hành phụng vụ ở trên trời với một vị ngự trên ngai. Đó là Đức Chúa Trời. Rồi người ta thấy Chiên Con bị sát tế đứng đó: Đó là Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá và đã phục sinh. Ngài vừa là Đấng tế lễ, và bị hiến tế, là Đấng ban và được ban phát.
Mang hình ảnh của con chiên hiến tế, Chúa Giêsu Đấng được chỉ định phải đến để xóa tội trần gian và mang lại sự sống cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể. Vậy thái độ đáp trả của chúng ta là gì ?
Con Chiên Thiên Chúa mang tội lỗi của chúng ta đi, với điều kiện chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ tội lỗi của mình ra để cho Ngài mang đi. Chiếc xe hốt rác sẽ không giúp ích gì được cho dân chúng nếu họ không chịu đem rác ra để ở nơi đã chỉ định. Đôi khi lấy tội lỗi ra khỏi chúng ta cũng giống như lấy đồ chơi ra khỏi trẻ con. Trẻ em thường không muốn vứt bỏ đồ chơi đi, nếu chưa chán. Nếu chúng ta đã quen vui vẻ thoải mái với tội lỗi đến nỗi nghĩ rằng mình không thể sống mà không có nó, cũng như trẻ con không thể sống mà không có đồ chơi, thì Đức Giêsu cũng không thể nào lấy tội lỗi đi cho chúng ta được ! Chính chúng ta phải từ bỏ trước.
Các nhà đạo đức thường ví tình trạng tội lỗi như một vũng bùn sình lầy đen đũi, thối tha và dơ bẩn. Nhưng những con trâu lại thích đằm mình vào đó trong những buổi trưa hè nóng nực. Bởi nó mang lại sự mát mẻ và thoải mái. Sống trong tình trạng tội lỗi cũng như thế, chúng ta không muốn đứng lên từ bỏ vũng bùn tội lỗi mà cất bước ra đi, chỉ vì sợ mất khoái cảm thoải mái, cho dù biết rằng nó xấu xa tội lỗi. Bước khởi sự cho việc từ bỏ đàng tội lỗi là lòng ăn năn sám hối với sự hoán cải và đổi mới đời sống.
Có một người sau khi chết được đưa lên đứng chờ ở cửa tòa phán xét. Trong khi đứng chờ ở: TN 2-A3
Có một người sau khi chết được đưa lên đứng chờ ở cửa tòa phán xét. Trong khi đứng chờ ở sân bên ngoài nhìn vào phía trong thiên đàng, anh thấy một đoàn rước rực rỡ huy hoàng đang bước đi, vừa đi vừa hát thánh vịnh, tay cầm cờ vinh quang, họ bước đi ngang qua cửa thiên đàng. Anh hỏi thánh Phêrô: “Họ là ai vậy ?” Thánh Phêrô trả lời: “Họ là các tiên tri đang tiến đến gặp Thiên Chúa”. Nghe vậy anh lo sợ nói: “Vậy là không có con rồi, con không thể đi với các ngài được !”
Rồi tới một nhóm người vĩ đại khác trong trang phục áo choàng trắng đang trên đường tiến tới. Họ bước qua cổng trời với những tiếng hoan hô vang lên từ bên trong. “Họ là ai vậy ?” Thánh Phêrô trả lời: “Họ là đoàn lũ đông đảo các thánh tông đồ”. “Vậy là con cũng không thể đi chung với các ngài được !” Anh trả lời.
Lại đến một nhóm khác đang trên đường đi tới. Lần này tiếng hát có vẻ lớn hơn. Họ vừa đi vừa vẫy cành lá chiến thắng. “Họ là ai vậy ?” Thánh Phêrô đáp: “Họ là các thánh tử đạo đã đổ máu đào chứng minh đức tin của họ “. “Vậy là con cũng không thể nhập chung với họ được nữa !” Anh càng lo sợ hơn, vì phải có một nhóm nào khác thích hợp cho anh có thể đi chung với họ vào trong nước thiên đàng.
Sau cùng một nhóm khác cũng đang tiến tới cổng trời. Những tiếng la nồng nhiệt đón mời họ từ phía bên trong thiên đàng, hòa theo những bài ca ngợi khen và tạ ơn. Tất cả tầng trời bừng lên trong hoan lạc hào hứng khi họ tiến tới gần cổng trời. Anh bắt đầu nhận ra vài người trong nhóm họ. Có người đàn bà bị tố cáo phạm tội ngoại tình, tên trộm lành, ông Giakêu lùn, đứa con hoang đàng, và người đàn bà đã xức dầu thơm trên chân Chúa Giêsu. Đặc biệt nhất có cả Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đang đi giữa họ. Ngài dẫn họ đi ngang qua cổng trời. Khi họ bước qua những chiếc cổng của bẩy tầng trời, những tiếng ca của các ca đoàn thiên thần nghe vang dội tiếng hát Amen.
Quá sung sướng, anh nói với thánh Phêrô: “Những người này là những người tội lỗi, được cứu rỗi bởi ân sủng của Con Chiên Thiên Chúa”. Vừa nói xong anh phóng vào nhập chung với đoàn người: “Chúc tụng Thiên Chúa, con có thể đi vào chung với nhóm này. Con đã được cứu rỗi bởi Con Chiên Thiên Chúa!”
Mặc dù chúng ta là những người tội lỗi, nhưng đã được rửa bằng máu của Con Chiên Thiên Chúa để được tham dự vào bàn tiệc của Nước Trời. Bởi chính Chúa Giêsu đã đến trần gian để mời những tội nhân ngồi vào bàn tiệc với Ngài. “Tôi không đến kêu gọi những người công chính, nhưng kêu gọi những người tội lỗi”. Nhưng để được như vậy, một điều kiện duy nhất Ngài đòi hỏi chúng ta là phải hối cải. Hối cải thực sự bằng lời nói và hạnh động.
Với tình yêu vô biên Đức Giêsu đã đóng vai trò Con Chiên Thiên Chúa, hy sinh mạng sống Ngài “để tha thứ tội lỗi” cho nhân loại. Vì thế khi một người tội lỗi trở về, đã trở về bằng giá máu của Con Chiên Thiên Chúa, nên cả triều đình trên trời đều vui mừng. Chúng ta cũng phải có thái độ khoan dung đối với người tội lỗi như Thiên Chúa là Cha Nhân Lành đã có. Càng yêu thương tội nhân bao nhiêu, chúng ta càng phải ghét tội và xa tránh dịp tội bấy nhiêu.
Đây chính là cách Thiên Chúa đã liên hệ với chúng ta, và là cách thức chúng ta phải có để liên hệ với người khác. Chính là vì ý nghĩa và vai trò của “Con Chiên Thiên Chúa Đấng xóa tội trần gian” mà Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những người hành quyết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”.
Một vị Giám Mục già ở Washington, D.C. đã cảm thấy mệt mã đối với những buổi tiệc của: TN 2-A4
Một vị Giám Mục già ở Washington, D.C. đã cảm thấy mệt mã đối với những buổi tiệc của các tổ chức xã hội và tòa đại sứ mà ngài phải hiện diện. Có một lần kia, ngài bước vào phòng tiếp tân cách mệt nhọc, ngán ngẩm nhìn xem cảnh vật quen thuộc và tìm ngồi vào chiếc ghế gần nhất. Cô chiêu đãi viên hỏi ngài cách kính cẩn: "Ngài cần dùng tách trà thơm không?" Vị giám mục mệt nhọc trả lời: "Ồ không". "Hay cà-phê thưa ngài?" "Cũng không cần". Là người hiểu ý khách, cô chiêu đãi viên liền kề tai ngài giám mục hỏi nhỏ: "Hay Scotch với nước nhá?" Mặt vị giám mục sáng lên, ngài liền trả lời: "Không cần nước!"
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả cũng bừng sáng hớn hở khi ngài nhìn thấy Chúa Giêsu tiến đến với ngài ở bờ sông giođan. Thánh Gioan Tẩy Giả đã hô to lên, "Hãy nhìn xem, đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian". Đoạn ngài dâng cho Chúa Giêsu không phải là trà, cà-phê hay bất cứ thứ nước kích thích mạnh nào khác ngoài nước sông vì ngài đang ở bên cạnh sông làm phép rửa. Thánh Mátthêu ghi lại là Thánh Gioan Tiền Hô đã xin Chúa làm phép rửa cho ngài; song Chúa Giêsu lại muốn chịu phép rửa bởi tay Thánh Gioan. Sau khi chịu phép rửa thì chúa Giêsu lên bờ sông, và Thánh Thần lấy hình chim bồ câu từ thiên đàng đậu xuống trên Ngài. Thấy thế, Thánh Gioan Tiền Hô nhận ra rằng Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai vì ngài đã được mạc khải rằng: "Nếu ngươi thấy Thánh Thần ngự trên ai thì chính Ngài là Đấng sẽ thanh tẩy bằng Thánh Thần". Đoạn Phúc Âm được kết thúc bằng lời minh xác giống như lời đã nói bởi vị bách quân trưởng lính Rôma khi chứng kiến cảnh Chúa Giêsu tắt hơi thở trên Thánh Giá: "Tôi thấy và tôi xin làm chứng rằng người này thật là Con Thiên Chúa" (Jn 1:34).
Đôi khi tôi cảm thấy thất vọng, và cho rằng công việc của tôi đều vô ích. Nhưng Thánh Thần Chúa đã lại làm tôi thêm phấn khởi trong linh hồn. Những lời "Tâm Linh" đó đã nói lên tính cách tâm trạng của mỗi người chúng ta. Nhiều lúc, chúng ta cần phải được phấn khích, đổi mới, sửa đổi, thêm tích cực-- cần phải được tạo dựng lại. Và chúng ta có thể lấy làm vui mừng khi nghe thấy Tin Mừng Chúa Kitô nói về việc Thánh Thần Đấng làm công việc trên.
Như chúng ta vừa nghe bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần lúc Ngài chịu phép rửa ở sông Giođan xong. Khi Thánh Thần xuống trên Đức Kitô trong cảm nghiệm của sự thanh tẩy đó (đúng ra là ban quyền hành sử cho Đức Kitô trong sứ vụ Thiên Sai), thì đến rất nhẹ nhàng-- rất an bình đến nỗi hình ảnh được dùng để mô tả sự việc là chim bồ câu-- một loại chim tượng trưng hiền hòa nhất.
Theo như sự lo lắng ước muốn của các môn đệ, thì mãi đến khi Chúa Giêsu Phục Sinh các môn đệ mới được nhận lãnh Ơn Chúa Thánh Thần. Vào buổi tối sau cùng của Chúa Giêsu trên dương thế, Ngài đã hứa với các bạn thân thiết nhất của Ngài trong bàn tiệc rằng: qua Ngài, Chúa Cha sẽ gởi Ơn Chúa Thánh Thần xuống trên họ, Ngài chính là Đấng An Ủi, Trạng Sư, Linh Hướng. Trong sách Tân Ước dùng chữ "Paraclete" để chỉ về Thánh Thần và thật khó mà dùng từ cho đúng với nghĩa chữ để có thể lột tỏ toàn vẹn nghĩa chữ khi chuyển ngữ. Song danh từ ấy đại ý là sức mạnh của sự an ủi... biến đổi... thêm sức... đổi mới... khôn ngoan... tái tạo! Các môn đệ sẽ lãnh nhận những sức mạnh từ nơi Thánh Thần, như Chúa Giêsu đã nói, là họ nhờ đó mà làm được những việc cao cả: "Quả thật, quả thật Ta nói cho các con biết, ai tin vào Ta sẽ làm được những việc Ta đã làm; và còn hơn thế nữa" (Jn 14:12).
Ở chương thứ hai mươi theo Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu đã thực hiện lời hứa của Ngài. Ngài hiện ra với các môn đệ trong Thân Xác Vinh Hiển và đã ban các ơn Chúa Thánh Thần. Và nếu như chúng ta có thể nói theo thánh kinh thuật lại thì đó thật là một sự êm ái, bình an, và cảm nghiệm. Sau đó, vào ngày Ngũ Tuần, các kẻ theo Chúa Kitô tụ họp tại Giêrusalem thì Thánh Thần Chúa đã hiện xuống trên họ. Và lần này Ơn Thánh Thần không xuống cách êm ái nhưng trong cơn gió cực mạnh và lửa. Dĩ nhiên kể từ đó, Tân Ước trở nên Sách của Chúa Thánh Thần; và cứ thế tiếp nối qua mọi thời đại, Thánh Thần Chúa làm thay đổi sức sống của những Kitô hữu tựa như họ có sức mạnh làm thay đổi, lật ngược toàn bộ thế giới.
Cũng thế, Chúa Thánh Thần có thể làm thay đổi đời sống Kitô hữu hay chính chúng ta hiện nay như thế. Ngài có thể làm cho mọi Kitô hữu tiến tới mục đích là trở nên những con người đặc biệt tuyệt mỹ như thánh ý Chúa khi tạo dựng con người. Ngài cũng làm cho chúng ta có sức mạnh làm thay đổi đời sống những ai cần đến sự hiện diện săn sóc của chúng ta qua những thông cảm, quan tâm, vật chất, và nâng đỡ tinh thần. Người đó có thể là hàng xóm láng giềng đang phải đối đầu với những đau khổ, hay là những bậc cha mẹ đang buồn sầu vì con cái rời bỏ gia đình đi hoang, hoặc là bạn bè thân quyến của chúng ta đang gặp khó khăn về tài chánh, cũng có thể là người xa lạ cần ta giúp một tay, hơn nữa là những người bị tù đày cô đơn và những bệnh nhân đang cần những an ủi săn sóc.
Bạn còn đợi chờ gì nữa mà không lãnh nhận cảm nghiệm sự Hiện Diện của Thiên Chúa Đấng sẵn sàng ban cho bạn tràn đầy Sức Mạnh của Ngài! Sao bạn tiếp tục giữ sự thất vọng; tìm kiếm chi cuộc sống không toàn hảo; hãy bằng lòng chấp nhận để toàn con người bạn được lặn ngụp trong Tình Yêu Chúa Thánh Thần!
Chủ đề của Chúa Nhật hôm nay, Chúa Nhật thứ II Mùa Thường Niên, có thể nói là: "Lạy: TN 2-A5
Chủ đề của Chúa Nhật hôm nay, Chúa Nhật thứ II Mùa Thường Niên, có thể nói là: "Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi thánh ý Cha". Đó là chủ đề về việc làm chứng cho Chúa.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia làm chứng cho Người Tôi Tớ Thiên Chúa là Chúa Kitô, Đấng sẽ đến sau đó khi tới thời gian đã định trong lịch sử cứu rỗi.
Trong bài đọc thứ II, thánh Phaolô đã giới thiệu mình như là người tông đồ của Chúa Kitô, người làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người.
Một cách đặc biệt trong bài Phúc âm thánh Gioan (x. Jn 1,29-34), nhắc lại cho chúng ta lời chứng của Gioan Tiền Hô về Chúa Giêsu: "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian". Thiết tưởng chúng ta nên dành một vài phút để suy niệm về dung mạo của người làm chứng cho Chúa Kitô phải như thế nào? Qua mẫu gương của thánh Gioan Tiền Hô, một mẫu gương đã được diễn tả một cách ngắn ngủi nhưng thật đầy đủ những yếu tố căn bản sau đây:
Trước hết, sở dĩ thánh Gioan làm chứng cho Chúa Kitô là vì Ngài đã nhận được Lời chứng từ Thiên Chúa Cha: "Phần tôi, tôi đã không biết Ngài, nhưng Đấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần, và tôi đã thấy và tôi làm chứng, chính Ngài là Con Thiên Chúa".
Người làm chứng là kẻ vâng lời và vâng theo ơn soi sáng của Thiên Chúa. Không có Thiên Chúa sai đi trước, không có Thiên Chúa chỉ dạy cho ta trước thì chúng ta không thể làm chứng cho Chúa Kitô. Làm chứng cho Chúa Kitô là một hồng ân nhưng không từ Thiên Chúa Cha và đồng thời cũng là một bổn phận đáp lại lời chứng của Thiên Chúa Cha. Chúng ta có biết sống trong thái độ lắng nghe lời chứng của Thiên Chúa Cha về Chúa Giêsu Kitô hay không?
Từ đó sang điểm thứ hai, lời chứng của thánh Gioan: "Tôi đã thấy và tôi làm chứng, chính Ngài là Con Thiên Chúa". Lời chứng này phù hợp với lời chứng của Thiên Chúa Cha về Chúa Giêsu trong biến cố phép rửa, trong biến cố Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa trước đó có tiếng từ trời phán: "Này là Con Ta yêu dấu", mà Chúa Nhật vừa qua khi cử hành Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta đã đọc lại đoạn Phúc Âm này.
Từ đó một kết luận cho chúng ta là, lời chứng của người làm chứng cho Chúa Kitô phải phù hợp với lời chứng của Thiên Chúa Cha về Chúa Kitô. Chỉ có một sự thật về Chúa, sự thật mà Thiên Chúa đã mạc khải, và người làm chứng cho Chúa Kitô nếu muốn thật sự lời chứng của mình có giá trị thì phải nói lên sự thật đó, không làm méo mó nó bằng những ý kiến riêng tư của mình. Chúng ta cần phải trình bày giáo lý tinh tuyền của Giáo Hội căn cứ trên lời chứng của Thiên Chúa Cha, chứ không phải là giáo lý do sáng kiến riêng của chúng ta chế ra. Thánh Gioan vâng lời Thiên Chúa Cha và trung thành với lời chứng của Thiên Chúa Cha, dù phải chấp nhận hy sinh trở nên bé nhỏ đi để Chúa Kitô lớn lên trong tâm hồn kẻ khác.
Điểm thứ ba, thái độ của người làm chứng đối với Chúa Kitô: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng cứu rỗi thế gian, hãy theo Người, còn tôi, tôi không phải là Đấng phải đến". Người làm chứng không cho mình chiếm chỗ của Chúa Kitô, không che khuất Chúa Kitô, nhưng mà chỉ cho mọi người nhìn thấy Chúa Kitô: "Ngài đến sau tôi nhưng đã có trước tôi và cao trọng hơn tôi". Thánh Gioan nhìn nhận sự thấp hèn của mình trước Chúa Kitô và đó cũng là thái độ nêu gương cho những ai muốn làm chứng cho Chúa Kitô.
Thánh Gioan làm chứng cho Chúa Kitô và muốn cho mọi người đến với Chúa: "Tôi đến làm phép rửa để mạc khải Người cho dân Israel". Sứ mạng của người làm chứng có mục đích hướng dẫn người ta đến gặp Chúa, và khi người nghe đã gặp được Chúa rồi thì người làm chứng phải rút đi, vai trò của mình đã xong, hãy để cho Chúa Kitô trực tiếp hướng dẫn các linh hồn trên con đường mà Ngài muốn. Người làm chứng biết là Chúa Kitô trọng tự do lương tâm của người nghe. Hai người môn đệ của Gioan đã theo Chúa và ở lại với Chúa, họ đã quên đi Gioan để rồi đến phiên họ, họ cũng làm chứng cho Chúa: "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian".
Gặp gỡ với Chúa Kitô luôn luôn mời gọi mọi người chúng ta làm chứng cho Ngài, và cuối cùng vai trò của Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất người làm chứng với Chúa Kitô, Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn cho người làm chứng được mỗi ngày một trở nên giống như Chúa Kitô hơn.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta được lòng nhiệt tâm, sốt sắng trong dịp cử hành Thánh Lễ này và từ đây trong suốt cuộc sống của mình luôn luôn là người làm chứng cho Chúa. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta được mỗi ngày trở nên giống Chúa Kitô hơn để chúng ta trở nên xứng đáng là người làm chứng cho Chúa, người làm chứng biết lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa Cha, lắng nghe lời mạc khải của Thiên Chúa Cha và sống vâng phục ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, người làm chứng biết nhường chỗ cho Chúa Kitô trong tâm hồn anh chị em mình. Xin Chúa giúp chúng ta được trưởng thành trong đức tin. Amen.
Biết một người là đi vào một mầu nhiệm. Chúng ta quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn: TN 2-A6
Biết một người là đi vào một mầu nhiệm.
Chúng ta quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, hai lần Gioan khẳng định: "Tôi đã không biết Người" (cc 31-33). Cho đến khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan thú nhận mình vẫn chưa biết Ngài là Mêsia. Dù Đức Giêsu là bà con họ hàng của ông (x.Lc 1,36), dù hẳn ông đã có một số thông tin về Ngài.
Và dù ông biết Ngài cao trọng hơn mình (x.Mt 3,14), nhưng cái biết ấy, ông vẫn chưa coi là biết thật sự.
Được Thiên Chúa mách bảo, ông kiên nhẫn đợi chờ.
Làm phép rửa trong nước là cách giúp ông khám phá Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Ai được Thần Khí ngự xuống và ở lại, Người ấy là Mêsia.
Gioan đã thấy Thần Khí ở lại trên Đức Giêsu lúc Ngài được ông ban phép rửa.
Bây giờ có thể nói ông đã biết Đức Giêsu. Ông đã biết sau khi ông đã thấy. Từ cái biết nhờ thấy, do ơn Thiên Chúa ban, Gioan đã trở nên người làm chứng trung tín.
Ông vui lòng giới thiệu Đức Giêsu cho môn đệ mình. Ông mừng khi thấy dân chúng tuốn đến với Ngài (Ga 3,26). Ông vui khi trở nên lu mờ đi để Ngài được nổi bật (Ga 3,30).
Làm chứng cho Đức Giêsu khiến ông trở nên tay trắng. Gioan đã thấy, đã biết, đã làm chứng cho Đức Giêsu.
Nếu biết là đi vào một mầu nhiệm, thì mầu nhiệm ấy cứ vẫy gọi người ta tiến sâu hơn. Càng tiến sâu, cái biết càng được thanh lọc.
Hành trình của Gioan cũng là của tôi: thấy, biết, làm chứng.
Biết một người là khó.
Biết Đức Giêsu Kitô còn khó hơn nhiều.
Tôi chẳng thể nào múc cạn được con người độc đáo này, nơi giao nhau giữa trời và đất, giữa Tạo Hóa và thụ tạo.
Để biết Đức Giêsu, tôi cần thấy Ngài tỏ mình. Không hẳn tôi sẽ thấy một thị kiến huy hoàng long trọng. Không hẳn Ngài sẽ xuất hiện trong sức mạnh quyền năng. Ngài vẫn tỏ mình xuyên qua những đời thường, qua những con người đơn sơ tôi vẫn gặp.
Tôi cần tập thấy Ngài ẩn sau lớp vỏ xù xì của thực tế. Cần thường xuyên làm mới lại cái biết về Đức Kitô, để có tương quan thâm trầm hơn, thân mật hơn với Ngài.
Nếu biết là thấy, là có kinh nghiệm riêng tư, là hiệp thông, gặp gỡ, chia sẻ chính cuộc đời Ngài, là để mình sống trong Ngài và Ngài sống trong mình, thì biết là nỗ lực của cả một đời Kitô hữu.
Gioan đã làm chứng cho dân về Đấng họ đang đợi.
Con người hôm nay đang đợi ai?
Đức Giêsu do chúng ta trình bày và sống có đáp ứng những khát vọng sâu thẳm của họ không?
Tôi cần thấy và biết Ngài hơn, để làm chứng tốt hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, thế nào là biết một người? Có bao nhiêu mức độ khác nhau trong việc biết một người? Bạn biết Đức Giêsu ở mức độ nào?
Gioan giới thiệu Đức Giêsu là "Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian." Còn bạn sẽ giới thiệu Đức Giêsu như thế nào cho con người hôm nay?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy Chúa thật lớn lao, để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la, để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu, để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.
Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho con thật mạnh mẽ, để không nỗi thất vọng nào còn chạm được tới con.
Xin làm cho con thật đầy ắp, để ngay cả một ước muốn nhỏ cũng không còn có chỗ trong con.
Xin làm cho con thật lặng lẽ, để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.
Xin Chúa ngự trong con thật sống động, để không phải là con, mà là chính Ngài đang sống.
Thế là chúng ta đã sống một mùa Giáng Sinh. Thiên Chúa đã tặng ban cho nhân loại Người: TN 2-A7
Thế là chúng ta đã sống một mùa Giáng Sinh. Thiên Chúa đã tặng ban cho nhân loại Người Con Một yêu quý mà Gioan tẩy giả hôm nay có sứ mạng giới thiệu cho nhân loại: "Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa" (Ga 1,34)
1. CÁI LY KỲ LÀ CHÚA ĐANG SỐNG GIỮA MỌI NGƯỜI MÀ CON NGƯỜI CHƯA NHẬN RA CHÚA.
Chúa hiện diện, lang thang rầy đây mai đó, Ngài sống không nhà không cửa, nhưng điều quan trọng nhất là Ngài đang rao giảng về Nước Thiên Chúa. Cái lạ thường là Ngài sống giữa mọi người mà con người vẫn chưa nhận ra Ngài. Chính Gioan tẩy giả sau một thời gian lâu dài, rao giảng, loan báo dọn đường cho Chúa Cứu Thế, nhưng chính ông cũng chưa biết Đấng ông rao giảng là Đấng nào. Đó là cái trớ trêu?, vì giờ mạc khải vẫn chưa tới với ông. Chỉ mãi đến khi Chúa Giêsu hòa mình giữa dòng người, giữa đoàn lũ tội nhân để xin Gioan làm phép rửa cho mình, thì lúc đó mắt ông mới mở ra để nhận ra rằng Đấng mình mong ợi đang ở trước mặt mình. Gioan đã thoát ra khỏi vòng u mê mờ ám để nhận ra Chúa Giêsu.
Vâng, Gioan tẩy giả là người có vinh dự lớn lao, được Thiên Chúa tuyển chọn để giới thiệu, vén lộ cho nhân loại hiểu được Đấng Cứu Thế là ai. Thánh Thần đậu xuống trên Người của Chúa là dấu chỉ để Gioan nhận ra Người.
Gioan tẩy giả đã làm chứng cho Chúa Giêsu qua việc ông sống, đã minh chứng cho Chúa qua việc ông làm, qua những công việc ông hiểu về Chúa. Nhân loại qua bao thế hệ đã từ từ nhận ra Chúa. Chúa đang ở đó, Chúa đang hiện diện và Chúa đang hướng dẫn lịch sử con người.
2. CHÚNG TA CŨNG CÓ SỨ MẠNG GIỚI THIỆU CHÚA CHO MỌI NGƯỜI:
Khi được Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Chúa bắt đầu sứ vụ công khai của Người. Chúa Giêsu có thể không cần phải ai giới thiệu,Người có thể vươn vai lớn mạnh như một thánh Gióng hay như một thần đồng nào đó.????? Người có thể ung dung rao giảng mà chẳng cần phải xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình vì Người hoàn toàn vô tội. Nhưng để minh chứng cho nhân loại hay rằng Người? là người thật chứ không phải là một vị tiên hay một thần thánh giáng trần cách lạ thường nên việc giới thiệu để mọi người nhận ra Chúa là Đấng gánh tội trần gian quả thực mang một ý nghĩa cứu độ, ý nghĩa giải thoát.
Là người Kitô? hữu chúng ta cũng được trao sứ mạng loan truyền, giới thiệu về một Chúa Giêsu chịu đóng đinh, một Đấng cứu độ bị treo trên Thập Giá, nhưng từ nơi Thập Giá,Người đã kéo mọi người lên với Người. Làm chứng cho Chúa Giêsu bị đóng đinh là ta minh chứng cho tình yêu của Ngài. Nhưng liệu đã mấy ai hiểu được tình yêu và dám giới thiệu tình yêu cho mọi người. Ta tưởng rằng đã nắm vững về Chúa, đã nắm sự thật của Chúa, nhưng thực tế ta đã hiểu Chúa và sống như Chúa hay chưa ? Bên cạnh ta còn biết bao nhiêu người chưa biết Chúa, liệu ta có được một phần nào như Gioan là giới thiệu Chúa cho nhữngngười chung quanh chúng ta hay chưa ? Chúng ta có dám làm chứng cho Chúa, giới thiệu Chúa cho người khác như Mẹ Têrêsa Calcutta, như Charles Foucauld, như? Têrêsa Hài Đồng Giêsu, như cha Piô năm dấu, như thánh Vinh Sơn hay như nhiều vị thánh khác hay không ? Mỗi người chúng ta phải là một Gioan Tẩy Giả, một người? dám liều mạng để giới thiệu: "Đấng là Đường,là Sự Thật và là Sự Sống ". Tất cả chỉ để làm vinh danh Thiên Chúa . Chúng ta có từ chối hay ngại ngùng làm chứng và giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác hay không? vì Ngài chính là Đấng Emmanuen:Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta ".
3. LỜI TIN THẮP SÁNG:
- Hãy thắp lên niềm tin, dù chỉ giới thiệu và đưa một người về với Chúa, ta cũng đã hạnh phúc lắm rồi.
- Hãy đốt lên ngọn lửa, hãy chuyền ngọn lửa ấy cho người khác vì đó là cách làm cho bộ mặt yêu thương của Chúa nổi bật nơi con người.
- Hãy làm chứng như Gioan Tẩy Giả: "Tôi đã thấy và tôi làm chứng ".
- Hãy đọc tư tưởng của Nathan Soderblum: "Thánh nhân là những người có thể làm cho người khác dễ tin vào Chúa hơn ".
Ngày nay, chúng ta nghe nói nhiều về truyền giáo, và chính chúng ta cũng hay nói về truyền: TN 2-A8
Ngày nay, chúng ta nghe nói nhiều về truyền giáo, và chính chúng ta cũng hay nói về truyền giáo. Truyền giáo đó là làm cho Danh Chúa được cả sáng nơi công việc của chúng ta; làm cho mọi người tin nhận Chúa qua lời rao giảng của Giáo Hội. Hơn lúc nào hết, ngày nay người ta cần chứng tá hơn là lý thuyết suông, cần việc làm cụ thể hơn là lời nói. Đức thánh cha Phaolô VI đã nói rất thấm thía trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng như sau: "Người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn các thầy dạy. Nếu họ có nghe các thầy dạy là bởi vì thầy dạy cũng chính là chứng nhân". Thánh Giacôbê đã dạy rằng: "Ai bảo mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy đợc chăng? Giả như có một người anh em hay chị em không có áo che thân, và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?" (Gc 2,14-15). Chính nhờ công việc, nhờ việc làm mà củng cố lời rao giảng.
Lời rao giảng, giới thiệu của Gioan tẩy giả về Chúa Giêsu trở nên đáng tin đến độ có những môn đệ của ông đã xin làm môn đệ của Chúa Giêsu. Bởi vì ông đã sống hết mình với sứ điệp ông rao giảng. Ông mời gọi người ta ăn năn sám hối đón đợi Đấng Cứu Thế thì chính ông đã là mẫu gương của người sám hối, chờ mong. Nhìn nhận Đấng Cứu Thế, ông tự làm cho mình trở nên bé nhỏ, từ chối những vinh dự mà dân chúng thời đó muốn suy tôn ông, để giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người, cho những môn đệ của mình. Ông đã để cho môn đệ của mình đi theo làm môn đệ Chúa Giêsu, một người lúc đó còn vô danh chưa ai biết đến.
Không phải tất cả chúng ta đều có điều kiện để giới thiệu, để rao giảng Chúa Giêsu cho người khác. Nhưng tất cả chúng ta đều có ơn gọi làm chứng cho ngài bằng đời sống của chúng ta, và bổn phận đó nằm trong tầm tay của chúng ta, từ em thiếu nhi cho đến cụ già. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận của mình với trách nhiệm làm người, làm con Thiên Chúa. Và khi chúng ta sống đúng đắn tư cách, bổn phận là người, là con Thiên Chúa, chúng ta đã trở nên chứng nhân cho Chúa, là ánh sáng cho thế gian.
Nguyện xin thánh Gioan tẩy giả cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, để chúng ta noi gương bắt chước ngài trong ơn gọi làm chứng cho Chúa bằng đời sống của mình.
Tại sao Gio-an lại giới thiệu Đức Giê-su là «Chiên Thiên Chúa», «Đấng xoá tội trần gian: TN 2-A9
1. Tại sao Gio-an lại giới thiệu Đức Giê-su là «Chiên Thiên Chúa», «Đấng xoá tội trần gian»? Ý nghĩa sâu xa của những từ ngữ đó thế nào?
2. Vai trò của Gio-an Tẩy Giả đối với Đức Giê-su như thế nào? Tư cách của ông có xứng với vai trò hay sứ mạng của ông không? Tư cách ấy là gì?
3. Qua tư cách và hành động của Gio-an, bạn có thể rút ra kết luận gì cho cuộc đời ngôn sứ của bạn? (nên nhớ mỗi Ki-tô hữu phải là một ngôn sứ!)
Suy niệm
1. Lời giới thiệu đầu tiên của Gio-an về Đức Giê-su
Đức Giê-su bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức sám hối thay cho cả nhân loại qua phép rửa của Gio-an, và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức đền tội thay cho cả nhân loại qua cái chết thê thảm trên thập giá. Và hôm nay, ít ngày sau khi Gio-an rửa tội cho Đức Giê-su, ông liền giới thiệu cho dân chúng biết Ngài là ai, và một phần nào báo trước cái chết của Ngài: «Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian!». Muốn hiểu hết ý nghĩa lời giới thiệu ấy, ta cần biết tập tục sau đây của người Do Thái:
Theo truyền thống Do Thái trong sách Xuất Hành (Xh 29,38-42), thì mỗi ngày, vào sáng sớm và chiều tối, các tư tế trong đền thờ phải sát tế mỗi buổi một con chiên nhỏ cỡ một tuổi làm của lễ toàn thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy tội lỗi của cả dân chúng mỗi buổi đều đổ hết lên đầu con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết để đền tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng được khỏi tội trước Thiên Chúa. Tội lỗi của dân chúng đối với Thiên Chúa đáng lẽ phải trả giá bằng sinh mạng của chính con người, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận để con chiên chết thay con người. Đức Giê-su đã trở thành chiên hy sinh như thế: «Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta» (1Cr 5,7)
Lời giới thiệu của Gio-an còn ngầm nói lên bản tính Thiên Chúa của Đức Giê-su: «Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi». Theo lời thiên thần nói khi truyền tin cho Đức Ma-ri-a, ta biết khi Đức Ma-ri-a thụ thai thì bà Ê-li-sa-bét, đã có thai Gio-an được 6 tháng (x. Lc 1,36b). Nghĩa là xét về mặt thể chất, Gio-an đã ra đời trước Đức Giê-su nửa năm. Nhưng Gio-an lại giới thiệu Đức Giê-su là Đấng «có trước» mình. Như vậy từ ngữ «có trước» ở đây không thể hiểu theo nghĩa thể chất, mà phải theo nghĩa tâm linh, nghĩa là ông ám chỉ nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su.
2. Gio-an, người dọn đường cho Đức Giê-su
Để chuẩn bị xa cho việc Đức Giê-su đến với nhân loại, Thiên Chúa đã nhờ các ngôn sứ tiên báo biến cố ấy hàng mấy trăm năm trước, bằng cách này hay cách khác. Để chuẩn bị gần, Ngài dùng một người tiền hô, có nhiệm vụ dọn đường và giới thiệu. Người đó là Gio-an Tẩy Giả.
Gio-an là bà con với Đức Giê-su, vì mẹ của ông Gio-an là chị họ của Đức Giê-su (x. Lc 1,35a). Vì thế, chắc chắn ông Gio-an và Đức Giê-su đã quen biết nhau, nhưng Gio-an không biết hoặc biết không chắc chắn Giê-su là Đấng Thiên Sai. Chỉ khi Đức Giê-su đến với ông xin chịu phép rửa và sau đó có những dấu chứng từ trời cao, ông mới biết điều đó cách chính xác. Vì chính Thiên Chúa đã báo trước cho ông điều ấy: «Chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần"». Khi đã biết đích xác Đức Giê-su là ai, Gio-an bắt đầu làm chứng về Ngài.
3. Những ngôn sứ của Thiên Chúa
Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho ta thấy: những người làm ngôn sứ trong các thời đại, luôn luôn có sự giao tiếp với Thiên Chúa, và được chính Thiên Chúa kêu gọi, sai phái, không nhất thiết phải qua một trung gian người nào (xem Is 6,1-12; Gr 1,5-19). Lời kêu gọi đó có những trường hợp khó có thể chối từ như trường hợp của ngôn sứ Gio-na (x. Gn 1,1-2,11). Các ngôn sứ cũng được Ngài soi sáng, cho biết hết kế hoạch của Ngài (x. Am 3,7), được Ngài hướng dẫn cụ thể những việc phải làm (rất nhiều câu bàng bạc trong các sách ngôn sứ chứng tỏ điều ấy). Nhờ sự rõ ràng đó, các ngôn sứ mới tin tưởng vào sứ mệnh và lời chứng của mình, và lời chứng của họ mới có sức mạnh thuyết phục. Nếu không, lời chứng của họ chỉ là những xác quyết thiếu căn cứ, dựa trên những tin tưởng rất chủ quan, hoặc chỉ là những lời tuyên xưng xuông (không thực tín). Nếu chỉ dựa trên những tin tưởng chủ quan, không dựa trên những nền tảng chắc chắn mà lại dám lấy cả mạng sống mình để làm chứng thì thật là ngu dại, thậm chí có thể khiến những kẻ nghe mình đi vào sai lầm trầm trọng.
Tương tự như Đức Giê-su và Gio-an Tẩy Giả, các ngôn sứ thường không thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo. Nhiều trường hợp, các ngôn sứ còn lên tiếng quở trách, kết án, chỉ dẫn và sửa sai chẳng những hàng chức sắc này (x. Is 56,10-12; Gr 23,1-4; Ed 34,1-31; 44,15-31; Hs 4,4-10; 5,1; đặc biệt Mt 23,13-32), mà cả vua chúa quan quyền nữa (x. Is 10,1-3; 10,5.12; 14,24-27, đặc biệt Mt 14,4). Điều này chứng tỏ không phải cứ thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo thì ngoại trừ bề trên mình là chức sắc cao cấp hơn, không còn ai có quyền chỉ dạy hay sửa sai mình.
Và đã là ngôn sứ thật, thì phải dám nói lên tiếng nói của chân lý, công lý và tình thương, đồng thời dám chịu đau khổ và dám chết vì lời chứng của mình giống như Gio-an. Đó là đặc điểm không thể thiếu của những ngôn sứ thật đến từ Thiên Chúa. Người vì sợ liên lụy đến bản thân nên không dám bênh vực cho Thiên Chúa và tha nhân, cho chân lý, công lý và tình thương, thì chắc chắn không phải là ngôn sứ thật, dù họ có mang danh là đại ngôn sứ đi chăng nữa! Đó là dấu chứng chắc chắn để phân biệt thật giả. Và cũng chính vì yếu tố đặc trưng này mà luôn luôn số phận của các ngôn sứ thật là bị «ném đá» và bạc đãi, còn ngôn sứ giả thì được ưu đãi, trọng vọng, được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi do những thế lực phản công lý dành cho để thưởng công cho sự im lặng rất lợi hại của họ (xem Lc 6,22.26).
4. Ngôn sứ phải sống vì Thiên Chúa và tha nhân, không vì mình
Trong cách giới thiệu của Gio-an về Đức Giê-su, ta thấy ông luôn luôn làm cho Đức Giê-su nổi bật lên, đồng thời tự làm cho mình lu mờ đi: «Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi» (Ga 3,30). Chẳng hạn: «Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi», «Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người» (Ga 3,28), «Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người» (Ga 1,27). «Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi» (Mt 3,11), «Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần» (Mc 1,8). Khi đã hoàn thành nhiệm vụ, Gio-an rút lui vào bóng tối, để Đức Giê-su đóng trọn vẹn vai trò của Ngài.
Đây cũng là một dấu chứng của ngôn sứ thật. Người ngôn sứ thật phải từ bỏ được chính «cái tôi» của mình, và thể hiện được tinh thần quên mình, tự hủy như Đức Giê-su (Pl 2,6-8). «Không làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình; không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác» (Pl 2,3-4). Một người coi cái tôi của mình quá lớn chắc chắn không phải là ngôn sứ thật. Họ không thể sống vì Chúa, vì tha nhân được, mặc dù họ có thể tạo được cái vẻ như vậy: «có vẻ yêu Chúa, có vẻ yêu người».
Rất nhiều người làm ngôn sứ, làm tông đồ, rao giảng Tin Mừng, làm nhiều việc lành phúc đức, bố thí một cách rộng rãi… nhưng không do lòng yêu mến Chúa hay tình thương đối với tha nhân thúc đẩy, mà do tính ham được tiếng khen, lời ca tụng, muốn nổi danh là đạo đức, là có lòng thương người, v.v… Họ đã dùng danh nghĩa Thiên Chúa để tạo nên danh thơm tiếng tốt cho mình, để có những cấp bậc cao sang trong Giáo Hội và xã hội. Tâm lý này đã được Đức Giê-su vạch mặt: «Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen» (Mt 6,1), Và thánh Phao-lô cho biết sự vô giá trị của những hành động như vậy: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,3). Tính chất khoa trương, thích «phình to bản ngã» này, Đức Giê-su gọi là «men Pha-ri-siêu»: «Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả» (Lc 12,1, x. Mt 16,6.11; Mc 8,15). Là người Ki-tô hữu, là ngôn sứ, chúng ta cần phải tránh loại «men» rất khó tránh này.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giê-su đã đến để thiết lập Giáo Hội, tức một dân tộc ngôn sứ cho Cha ở trần gian. Giáo Hội không chỉ có sứ mạng «tư tế» (thờ phượng Thiên Chúa), mà còn có sứ mạng «vương đế» (làm chủ bản thân, tập thể, ngoại cảnh, lịch sử), và sứ mạng «ngôn sứ» (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương) nữa. Nhưng Giáo Hội đã làm tròn sứ mạng «ngôn sứ» ấy trước mặt các dân tộc chưa? Xin cho chính bản thân con, cũng như mọi Ki-tô hữu khác ý thức được sứ mạng «ngôn sứ» tức «làm chứng» của mình trong môi trường mình sống, trong xã hội và Giáo Hội, nhất là khi chân lý, công lý và tình thương bị coi thường, bị chà đạp. Xin cho con đức can đảm phải có của một ngôn sứ như Gio-an Tẩy Giả, để con thực hiện tốt sứ mạng ngôn sứ của mình. Amen.
Thế nào là Người Tôi Trung được giới thiệu trong bài đọc I-sai-a? 2. Từ gương Người Tôi Trung: TN 2-A10
1. Thế nào là Người Tôi Trung được giới thiệu trong bài đọc I-sai-a?
2. Từ gương Người Tôi Trung, chúng ta có thể rút ra được những bài học nào cho cuộc sống ?
Suy tư gợi ý:
1. Người Tôi Trung:
Các bài đọc hôm nay tiếp tục quảng diễn ý nghĩa về vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang được biểu lộ qua Người Tôi Trung, qua các tín hữu.
* Bài đọc I-sai-a (49,3.5-6) là bài ca thứ II trong bốn bài ca về Người Tôi Trung trong sách ngôn sứ I-sai-a. Bốn bài này trình bày dung mạo của một người tôi trung trọn hảo của Gia-vê, qui tụ dân của Thiên Chúa, ánh sáng muôn dân, rao giảng lòng tin đích thực, chịu chết để tẩy xóa tội lỗi của dân và được Thiên Chúa tuyên dương. Các học giả chưa đồng ý với nhau về nguồn gốc và ý nghĩa các đoạn này. Người Tôi Trung có thể là dân It-ra-en, có thể là một nhân vật lịch sử của thời quá khứ hay hiện tại, cũng có thể là chính ngôn sứ I-sai-a thứ II. Đức Giê-su đã đưa về Ngài đoạn văn về Người Tôi Trung đau khổ (Lc22,19-20 37;Mc10,45) và Giáo Hội tiên khởi đã nhận ra Đức Giê-su, Người Tôi Trung trọn hảo đã được các ngôn sứ loan báo trước (Mt12,17-21;Ga1,29).
* Thư 1 Cr1,1-13.17: Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu hãy nhớ mình là dân thánh, là những người được kêu gọi, được ban nhiều ơn sủng để rao giảng và làm chứng cho Đức Giê-su. Ngài viết:" Thật thế, lời chứng về Đức Ki-tô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người….Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người…".
* Tin Mừng Thánh Gio-an (1,29-34) hôm nay nói về lời chứng của ông Gio-an tẩy giả. Thấy Đức Giê-su đi về phía mình, ông liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian… Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi… Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu… ngự trên Ngài… nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn." Bằng đời sống ngay thẳng, khó nghèo và khiêm tốn, ông đích thậtlà người tôi tớ luôn trung thành với sứ mạng "dọn đường" cho Đấng Cứu Thế.
2. Những bài học áp dụng vào đời sống
Như người tôi trung, chúng ta phải trung thành với Thiên Chúa qua việc chu toàn sứ vụ Ngài trao phó, sứ vụ rao giảng Tin Mừng:
-"Hỡi It-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta.Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang"(Is 49,3).
-"…này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất."(Is 49,6).
Thuật lại đúng những gì đã nghe; trao lại đầy đủ những gì đã được ủy thác; nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không; lời nói và việc làm phải đi đôi vơí nhau. Đó chính là những cách thể hiện lòng trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Thứ đến cần có lòng khiêm tốn: Khi tham gia vào việc truyền giáo, nếu không cẩn thận ta dễ dàng xa rời mục đích, đi đến chỗ tự hào, và thay vì làm vinh danh Chúa thì ta lại tìm cách đề cao chính mình.Thánh Gio-an tẩy giả là mẫu gương cho chúng ta về điều này. Ông luôn xác định rõ vai trò của mình là sứ giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Khi gặp Đức Giê-su, ông đã giới thiệu với mọi người:"Đây là Chiên Thiên Chúa"…….." Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi"(Ga3,30).
Sau nữa, việc loan báo Tin Mừng còn đòi hỏi các thành phần dân Chúa phải hi sinh và đoàn kết trong tình yêu thương . Thư thứ nhất gửi Cô-rin-tô hôm nay, Thánh Phao-lô đã quở mắng các tín hữu vì họ chia rẽ nhau. Các Thánh Tông Đồ, khi đi rao giảng Tin Mừng, đã phải chịu biết bao hi sinh, lao nhọc, tù tội, cực hình và ngay cả đến cái chết để làm chứng cho điều mình rao giảng. Và nổi bật hơn cả"Chính Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự"(Pl 2,6-8).
NGUYỆN:
Lạy Cha, chúng con tạ ơn Cha đã cho chúng con được diễm phúc tham dự vào công việc của Cha là đem Tin Mừng cứu độ đến với anh chị em còn chưa nhận biết Cha. Rõ ràng không công lênh gì mà tay chúng con lại được ôm một món quà quá lớn để trao tặng. Đây thực là một hồng ân lớn lao Cha dành cho chúng con. Xin cho chúng con luôn nhiệt thành trong công việc mở mang nước Cha "không phải bằng lời lẽ khôn khéo để Thập giá Đức Ki-tô khỏi phải trở nên vô hiệu " nhưng bằng chính đời sống và những công việc thường ngày của chúng con, chúng con cầu xin Cha. Amen.
Bạn có thể biết và tin Đức Giê-su mà không do một người nào khác giới thiệu cho bạn không: TN 2-A11
1. Bạn có thể biết và tin Đức Giê-su mà không do một người nào khác giới thiệu cho bạn không? Nếu thế, bạn có cảm thấy bổn phận phải tiếp tục giới thiệu Đức Giê-su cho những người khác nữa không?
2. Những người hiện nay mang danh là biết và tin Ngài, thật ra có biết và tin Ngài đích thực không? Những người này có cần được giới thiệu lại về Đức Giê-su để họ biết và tin Ngài đích thực hơn, nghĩa là niềm tin ấy phải được thể hiện bằng sự dấn thân cụ thể trong đời sống không?
3. Khi giới thiệu, rao giảng về Đức Giê-su, bạn có bị cám dỗ tìm chính mình, lợi ích cho mình – thay vì tìm Ngài và lợi ích cho Ngài – trong công việc thánh thiện ấy không? Bạn có dễ dàng từ bỏ những ưu đãi, đặc quyền đặc lợi đi kèm với công việc tông đồ không?
Suy tư gợi ý:
1. Cần giới thiệu Đức Giê-su cho người chưa biết Ngài
Đức Giê-su nói: «Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án» (Mc 16,16). Sự cần thiết và quan trọng của Đức tin được Kinh Thánh nói đến rất nhiều (xem thêm: Lc 8,12b; Cv 16,31; Rm 10,9; Ep 2,8; 1Pr 1,9; v. v…). Nhưng tin không phải ai cũng làm được: ta thấy hiện nay trên thế giới, cứ 10 người thì mới có 3 người mang danh là tin Đức Giê-su. Và rất có thể trong 3 người – hay hơn nữa – mang danh là tin ấy mới có một người thật sự tin vào Ngài (vì tin thật sự là tin phải được chứng tỏ bằng việc làm, bằng đời sống và sự dấn thân thật sự). Việc có đức tin tùy thuộc nhiều điều kiện: một cách khách quan vào cơ hội hay «nhân duyên» (nói theo từ nhà Phật), và một cách chủ quan vào tâm trạng của mỗi người. Về điều này thánh Phao-lô cũng viết: «Kinh Thánh nói: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng» (Rm 10,11.13-15a).
Để người ta tin vào Đức Giê-su, cần có người giới thiệu Ngài cho họ. Người giới thiệu hết sức cần thiết. Trong thương trường, để bán được hàng hóa, người ta phải tìm mọi cách, bằng quảng cáo, tiếp thị, để giới thiệu cho mọi người biết trên thị trường có loại hàng hóa ấy, chất lượng nó ra sao, nó cần thiết cho đời sống thế nào. Thời nay, hàng hóa mà không nhờ quảng cáo và tiếp thị thì dễ có nguy cơ bị ế. Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Gio-an Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giê-su cho hai môn đệ của mình để họ theo Ngài: hai môn đệ này một người là An-rê, và người kia chắc hẳn là Gio-an (nhỏ), tác giả bài Tin Mừng này (tác giả thường không muốn nói đến bản thân mình). Nhờ Gio-an Tẩy giả giới thiệu, hai môn đệ của ông đã trở thành môn đệ của Đức Giê-su và dấn thân trọn vẹn cho Ngài suốt cuộc đời.
2. Cần giới thiệu lại Đức Giê-su cho người đã biết và tin Ngài
Hiện nay, chung quanh ta có biết bao người không tin thật sự vào Đức Giê-su, vào chân lý cứu độ. Trong số đó, có biết bao người mang danh là tin Ngài, nhưng thật sự chỉ là tin trên danh nghĩa, vì trong thực tế họ chỉ biết về Ngài rất mơ hồ, sự biết ấy không đủ sức mạnh để thúc đẩy họ sống và hành động như sự hiểu biết ấy đòi hỏi. Ngay trong số chúng ta, những người tự xưng là Ki-tô hữu, chúng ta có thể tuyên xưng rất mạnh niềm tin của mình, thậm chí kết án những ai tin khác với mình, nhưng giữa niềm tin ấy và cuộc sống của ta là cả một sự xa cách. Tin trên lý thuyết và sống trong thực tế không trùng hợp với nhau, lý và sự, chủ trương và hành động, nói và làm khác xa nhau. Điều đó chứng tỏ chúng ta chưa thật sự tin.
Thánh Gia-cô-bê nói: «Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,26; x.2,17). Nhiều khi chúng ta tưởng mình có đức tin, nhưng đức tin ấy xét cho nghiêm túc lại là thứ «đức tin chết», những đức tin giả hiệu, là «hàng giả», loại rẻ tiền (vì được mua với giá rẻ). Chính vì thế, Giáo Hội ngày nay mới nói đến vấn đề «phúc âm hóa mới», hay «tái phúc âm hóa», nghĩa là giới thiệu lại Đức Giê-su cho những người đã biết Ngài, đã mang danh là tin Ngài, để họ tin Ngài một cách đích thực hơn.
3. Tỷ lệ người tin thật sự trong Giáo Hội và thế giới hiện nay
Cứ nhìn vào thực trạng của Giáo Hội, của xã hội và thế giới hiện nay, ta có thể thấy được tỷ lệ người tin thật sự vào Đức Giê-su là bao nhiêu. Người thật sự tin tất nhiên phải trở thành «muối» (x. Mt 5,13; Mc 9,49; Lc 14,34), thành «men» (Mt 13,33; Lc 13,21) chất lượng. Nếu thức ăn được ướp muối mà vẫn bị hư, bột được trộn men mà không dậy lên được, là vì: hoặc muối hay men quá ít, hoặc muối hay men đã bị mất chất lượng. Vì nếu men tốt thì chỉ cần «một chút men (là đủ) làm cả khối bột dậy men» (Gl 5,9).
Tệ hơn nữa, nếu men bị biến chất thành men thối thì thật là nguy hiểm cho đống bột. Đức Giê-su đã cảnh cáo chúng ta này: «Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê» (Mc 8,15; x. Mt 16,6). Ngài giải thích: «Men Pha-ri-sêu tức là thói đạo đức giả» (Lc 12,1b), là thói giữ đạo một cách hình thức, với những nghi lễ trang trọng bề ngoài, mục đích để được ca tụng, được khen, nhưng trong tâm hồn thì chẳng có tình thương, chẳng muốn hy sinh chịu thiệt cho ai (x. Mt 23). Còn «men Hê-rô-đê» có thể là thói ham thích quyền bính, thích ép buộc người khác phải làm theo ý mình, đồng thời sẵn sàng làm tất cả mọi sự – kể cả những bỉ ổi, đê hèn, tội lỗi – để đạt được hay duy trì quyền bính của mình (x. Mt 2,16). Hai loại «men» này thực chất thì như nhau, nhưng một đằng áp dụng trong tôn giáo, một đằng áp dụng ở ngoài đời. Chính những loại «men» này đã làm Giáo Hội, xã hội và thế giới thoái hóa về đạo đức và tâm linh.
Vậy, ai sẽ là người làm công việc «tái phúc âm hóa» này, nghĩa là làm cho muối mặn trở lại, men nồng trở lại? Bạn nhận định thế nào về thực trạng của Giáo Hội, xã hội và thế giới hiện nay? Bạn có ý thức được nhu cầu khẩn thiết phải tái phúc âm hóa trong Giáo Hội không? Bạn có nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi bạn làm công việc này không? Nếu nghe thấy, bạn có đáp lại tiếng Chúa như Sa-mu-en trong bài đọc I không? Bạn có sẵn sàng đi theo và rủ người khác theo Ngài như hai môn đệ của Gio-an Tẩy giả trong bài Tin Mừng không? Bạn thử lắng nghe Chúa nói trong lòng mình và nghe cả lòng mình nói nữa!
4. Dành cho Chúa tất cả, đừng giữ lại gì cho mình
Thái độ của Gio-an Tẩy giả cũng là một gương mẫu và là một bài học tốt cho chúng ta. An-rê và Gio-an (nhỏ) đều đang là môn đệ của Gio-an Tẩy giả. Chắc chắn ông đã từng nói với các môn đệ mình cũng như đã từng nói với dân chúng: «Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Tôi làm phép rửa trong nước để giục lòng sám hối, còn Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa» (Mt 3,11). Khi nói những lời ấy, Gio-an Tẩy giả xác định mình không phải là Đấng ấy, đồng thời muốn giới thiệu Đấng ấy để mọi người – kể cả các môn đệ của ông – tin và hướng về Đấng ấy. Chính vì thế, khi Gio-an Tẩy giả «thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa"» thì có «hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su». Khi hai môn đệ rất ưu tú của mình bỏ mình để làm môn đệ Đức Giê-su, chắc chắn Gio-an Tẩy giả cảm thấy một niềm vui buồn lẫn lộn. Vui vì thấy Đức Giê-su có được hai môn đệ, vui vì hai môn đệ của mình có được một người thầy cao cả và xứng đáng hơn mình. Nhưng cũng buồn vì mình đã bị mất mát một cái gì rất thân quí. Giữa vui và buồn ấy, đối với một người thật sự quan tâm tới công việc chung, thì cái vui ấy sẽ lấn át cái buồn, và nỗi buồn chỉ là thoáng qua.
Khi ta giới thiệu Đức Giê-su cho mọi người, rao giảng, dạy dỗ về Ngài, chắc chắn vì sự giới thiệu, dạy dỗ ấy, nhiều người sẽ nhận ta là thầy, và theo làm môn đệ ta. Ngoài ra, ta còn được biết bao người kính trọng, nể phục, khen ngợi, đồng thời dành cho ta nhiều ưu tiên, đặc quyền đặc lợi nào đó. Ban đầu có thể ta không hề nhắm tới những điều phụ thuộc này, nhưng khi đã hưởng được những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy, lòng ta bắt đầu cảm thấy gắn bó với chúng, đến nỗi nếu không có những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy, ta cảm thấy thiếu thốn, bực bội. Từ đó, như một phản xạ có điều kiện, khi ta giới thiệu hay rao giảng về Đức Giê-su, phản ứng tự nhiên của ta là đòi hỏi những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy. Và cuộc đời tông đồ của ta dần dần bị biến chất. Ta không còn quan tâm chính yếu tới Đức Giê-su mà ta đang giới thiệu, rao giảng, nhưng ta lại tìm chính ta, tìm danh vọng, địa vị, ưu đãi trong chính công việc tưởng chừng rất thánh thiện ấy. Và khi bổn phận tông đồ buộc ta phải từ bỏ chúng, ta không thể chấp nhận được. Ta cố níu lại cho bằng được những thứ ấy. Đó chính là một trong những cám dỗ rất thường gặp nơi những người làm tông đồ, những người giới thiệu Đức Giê-su như Gio-an Tẩy giả. Thiết tưởng chúng ta luôn luôn tỉnh táo kẻo sa vào chước cám dỗ ấy, vì có biết bao người đã chìm đắm trong đó rồi!
Cầu nguyện
Lạy Cha, con biết Cha là nhờ Đức Giê-su giới thiệu, và biết Đức Giê-su là nhờ Giáo Hội, nhờ một ai đó giới thiệu. Nhờ đó, con được diễm phúc biết và yêu mến Cha, biết và tin theo Đức Giê-su để được cứu độ. Vì thế, con cảm thấy mình thật ích kỷ nếu không tiếp tục giới thiệu cho những người khác nữa biết về Cha, về Đức Giê-su. Nhưng xin hãy cho con biết và tin đích thực, đồng thời sống thật sự niềm tin ấy trước khi giới thiệu niềm tin ấy cho người khác. Amen.
Gioan Tẩy giả là vị tiên tri duy nhứt đã tận mắt thấy Đấng Cứu thế và ông đã tuyên xưng: "Đây: TN 2-A12
Gioan Tẩy giả là vị tiên tri duy nhứt đã tận mắt thấy Đấng Cứu thế và ông đã tuyên xưng: "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian". Lời tuyên xưng nầy, chúng ta đã thường xuyên nghe lại trước khi rước lễ.
Thử hỏi "tội trần gian là gì?" Chúng ta thường hiểu tội là một lỗi lầm, vấp phạm, thiếu sót về luân lý, nhưng "tội trần gian" nói đến trong Tin mừng là một quyền lực lớn lao đáng sợ, đè bẹp làm con người có tự do hay không? Nơi tội như một thiếu sót luân lý, con người có tự do để quyết định lam lành hay làm dữ. Trái lại, tội trần gian được xem như là một quyền lực trói buộc con người, cướp mất tự do của con người, làm họ không thể sống xứng đáng là người nữa. Tương tự như người nghiện xì ke hay nghiện rượu, họ không còn làm chủ được ý chí của họ, họ không còn tự do để vươn ra khỏi bệnh trạng của họ. Dưới ách của tội trần gian, con người như sống trong mây mù đen tối. Biểu tượng của tội trần gian là con bò vàng và người thờ bò vàng muốn nói lên là họ không cần đến Thiên Chúa, tự sức mình họ lớn mạnh đủ để lèo lái cuộc đời và thế giới theo ý họ.
Đức Giêsu được tuyên xưng là Chiên Thiên Chúa. Chiên là loài thú vật quen thuộc đối với dân chúng ở bờ sông Gio-đan. Chiên cũng nhắc nhớ đến bữa ăn trước cuộc Xuất hành ra khỏi ách nô lệ Ai Cập. Chiên do đó là dấu chỉ sự cứu độ và việc lớn lao Thiên Chúa đã làm cho dân Do Thái. Đấng Cứu thế được loan báo trong lời tiên tri như là con chiên. Vì thế dân chúng hiểu ngay ý nghĩa lời tuyên xưng của Gioan Tẩy giả: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian". Chúa Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa, Người gánh tội của nhân loại và mang lên thập giá, Người đã hiến mình để cứu độ trần gian, giải thoát con người ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi. Tình yêu của Người là sức mạnh giải thoát con người và giúp con người có khả năng sống xứng đáng là người.
Mỗi lần dâng Thánh lễ, chúng ta cầu xin cùng Đức Kitô, Chiên Thiên Chúa, giải thoát chúng ta khỏi tội trần gian. Chúng ta cảm nghiệm ảnh hưởng của tội trần gian quá mạnh, mạnh hơn thiện chí của chúng ta. Tự mình chúng ta không thoát ra nổi, chỉ có Chúa mới có thể giải thoát chúng ta ra khỏi vòng ảnh hưởng tội trần gian, để chúng ta được cứu chữa và hòa giải với Thiên Chúa. Những Kitô hữu đầu tiên đón nhận đức tin đã cảm nghiệm phép Rửa như một cuộc thay đổi chế độ: họ ra khỏi thế lực của tội lỗi để bước vào quyền năng giải thoát của Thiên Chúa. Chúng ta cũng cảm nghiệm cả hai trong cuộc sống: thế lực tội lỗi và quyền năng của ơn thánh, của sức mạnh của Chúa Thánh Linh. Chúng ta vẫn còn bị thế lực tội lỗi tấn công. Chúng ta không chỉ lãnh nhận Chúa Thánh Linh một lần cho tất cả. Vì thế, chúng ta thường xuyên họp nhau cầu nguyện, để được ở trong quyền năng của ơn thánh, để được lãnh nhận sức mạnh giải thoát từ Chiên Thiên Chúa, để chúng ta có thể sống xứng đáng phẩm giá con người như Thiên Chúa đã tạo dựng. Chúng ta cũng cầu xin Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại luôn tỏ quyền năng của Người, để giúp chúng ta luôn sống trong tình yêu Người.
Chứng kiến của thánh Gioan quan trọng vì nó là sự xưng hô Chúa Kitô là Thiên Chúa - sự: TN 2-A13
Chứng kiến của thánh Gioan quan trọng vì nó là sự xưng hô Chúa Kitô là Thiên Chúa - sự xưng hô dựa trên thân thế và sứ mệnh Cứu Thế của Chúa. Vì tự hào, người Do thái không cho mình là cần ơn cứu chuộc, họ chỉ chờ giải phóng khỏi nô lệ ngoại quốc. Họ không muốn nghe nói đến Đấng Cứu thế sẽ chịu đau khổ, họ chờ một vị cứu tinh theo sự ước muốc xác thịt của họ.
Trái lại, Gioan đã rao giảng về Đấng Cứu thế chịu đau khổ và chịu chết để cứu thế gian. Ngài xưng hô Đấng Cứu thế là Thiên Chúa đội lốt một tôi tớ. Ngài dùng hình bóng "Chiên Thiên Chúa": thanh tịnh, ngay thật, đơn sơ, nhẫn nại và mềm mại.
Thánh Gioan nhận thấy ở nơi Chúa Kitô, một đấng đã được Chúa Cha kén chọn khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người khi Người chịu phép tẩy rửa, Đấng đã có từ đời đời, Đấng phải chịu chết như "Con chiên bị giết trong lễ Xuất hành" để cứu thế gian khỏi tội. Ngài tuyên bố rằng Chúa Kitô sẽ rửa ta bằng Chúa Thánh Thần, nghĩa là phép Rửa sẽ đem lại tràn trề ơn Chúa Thánh Thần.
Phép tẩy rửa là bí tích làm ta sinh lại như con Thiên Chúa và làm ta được thánh hóa bởi Chúa Thánh Thần. Nhờ bí tích này ta được sáp nhập vào Chúa Kitô và cùng thông sự sống Thiên Chúa. Thánh Gioan viết: "Ai nhận Chúa, Chúa sẽ cho quyền làm con cái Chúa" (Ga 1:12). Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô: "Ta nói thật với ông, những ai không tái sinh bởi nước Chúa Thánh Thần sẽ không thể vào nước Thiên Đàng" (Ga 3:3). Chính Chúa Giêsu tẩy rửa ta và làm ta nên thánh bởi ơn Chúa Thánh Thần.
Phép tẩy rửa làm ta kết hợp với sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô. Bí tích làm ta kết hợp mật thiết với Chúa đến nỗi ta được thông phần với sự chết và sự sống lại của Chúa. Thánh Phaolô viết: "Anh chị em không biết rằng khi anh chị em chịu phép Rửa để sáp nhập với Chúa, anh chị em đã được rửa trong sự chết của Chúa. Nhờ phép Rửa để sáp nhập vào Chúa, chúng ta được chôn táng với Chúa đến nỗi ta có sự sống mới, cũng như Chúa Kitô đã sống lại trong kẻ chết bởi sự cả sáng của Chúa Cha. Nếu ta kết hợp với Chúa qua sự chết như Chúa, chúng ta cũng sẽ kết hợp với Chúa trong sự cả sáng như Chúa" (Rm 6:3-4)
Phép Rửa là bí tích tha tội tổ tông và tội riêng của ta. Hiệu quả của bí tích này là ta giải với Thiên Chúa, ta sống sự sống Thiên Chúa và ta trở nên thành phần của dân Chúa. Chúa Giêsu nói: "Phải, Thiên Chúa yêu nhân loại đến nỗi ban cho nhân loại Con Một Chúa, để những ai tin Người sẽ không phải chết, nhưng sẽ sống đời đời." (Ga 3:16)
Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết giá trị và yêu mến phép tẩy rửa, một bí tích làm con trở nên con Chúa, và được sống sự sống của Chúa, được yêu với tình yêu của Chúa. Xin cho con nhắc lại hằng ngày áo trắng con đã mặc ngày con chịu phép Rửa để con có thể quý trọng sự đẹp đẽ của linh hồn và của xác con.
"Này là Chiên của Thiên Chúa, Đấng khứ trừ tội của thế gian".
Trong Tin mừng hôm nay, Gioan Tiền hô đã công khai giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người: TN 2-A14
Trong Tin mừng hôm nay, Gioan Tiền hô đã công khai giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người: "Này là Chiên của Thiên Chúa, Đấng khử trử tội của thế gian" (Jn 1:29). Với câu nói này, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Chúa Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa và Ngài là Đấng khử trừ tội của thế gian.
Khi gọi Chúa Giêsu là "Chiên của Thiên Chúa", Gioan xác nhận sự vô tội và tinh tuyền thánh thiện của Chúa Giêsu.
Khi nói Chúa Giêsu là "Đấng khử trừ tội của thế gian", Gioan chỉ cho mọi người thấy Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế, Đấng Messia, là "tôi tớ đau khổ của Giavê" như tiên tri Isaia từng nói đến trong Cựu ước.
Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Chúa Giêsu. Chính vì là Con Chiên vô tội của Thiên Chúa Chúa Giêsu mới có thể khử trừ tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Chúa Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân loại. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Chúa Giêsu là "Chiên Thiên Chúa", Đấng duy nhất thực sự khử trừ tội của con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ, nghĩa là sự tha thứ tội lỗi.
Chúa Giêsu khử trừ tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Người tội lỗi của tất cả nhân loại, từ tội của nguyên tổ Adong cho đến tội của người sau hết trong nhân loại. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Người đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân loại.
Nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, Thiên Chúa đã chỉ cho ta thấy ác quả kinh hoàng của tội lỗi vì nó dẫn đến sự đau khổ tột cùng và cái chết đau thương của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, và tình yêu vô biên của Thiên Chúa khi chính Người đã chấp nhận chịu đau khổ để giải thoát ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và khỏi chết đời đời.
Câu sau sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu xa hơn về sự đau khổ kinh hoàng mà Chúa Giêsu phải chịu để chuộc tội cho chúng ta. Từ đó, chúng ta cảm nhận cách thấm thía hơn tình yêu vô biên của Người dành cho ta.
Một cô gái đang có người yêu bị một kẻ lạ mặt hãm hiếp và đã có thai. Cô khổ tâm vô cùng vì bị người yêu khước từ và gia đình ngờ vực. Cô đã đến gặp Đức Cha Fulton Sheen than thở với ngài và hỏi ngài: "Tại sao con phải ra nông nỗi này?" Sau khi lắng nghe với tất cả sự cảm thông, Đức Cha ôn tồn trả lời cô gái: "Vì chị đã phải gánh tội của một người".
Rồi Đức Cha Sheen kết luận: Nếu chỉ vì phải gánh tội của một người mà cô giái kia phải đau khổ buồn sầu như thế, thì khi phải gánh chịu tội của cả nhân loại Chúa Giêsu đã phải chịu đau khổ buồn sầu biết chừng nào!
Là những người Kitô hữu, chúng ta chẳng những được mời gọi để hưởng ơn cứu độ của Chúa Cứu thế nhưng còn được kêu mời để trở nên những "Chúa Cứu thế khác". Đức Cha Fulton Sheen nói rằng chúng ta được cứu chuộc bằng cách trở nên những con người cứu chuộc. Điều này như một sự lập lại lời Chúa Giêsu khi Người dạy chúng ta đọc kinh Lạy Cha "Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Thế giới hôm nay phải đau khổ trăm chiều vì con người càng sa đoạ, càng lún sâu vào vũng bùn tội lỗi. Làm thế nào để khử trừ hay ít ra là làm giảm bớt tội lỗi trên thế giới hôm nay?
Chắc chắn không có cách nào tốt hơn, hoàn hảo hơn đường lối Chúa Giêsu đã thực hiện để trở nên "Đấng khử trừ tội của thế gian."
Để đi theo đường lối của Chúa Giêsu, trước hết chúng ta phải noi gương Chúa Giêsu là "Chiên của Thiên Chúa" qua việc cố gắng sống thánh thiện và xa lánh mọi tội lỗi. Kế đến, chúng ta phải nổ lực trở nên giống Ngài là "Đấng khữ trừ tội lỗi của thế gian" bằng cách vui nhận những khó khăn, đau khổ, thử thách trong cuộc sống để kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu và cầu nguyện xin Chúa tha thứ tội lỗi cho tha nhân, nhất là những người đang làm ta đau khổ cách này hay cách khác.
Bao lâu chúng ta chưa biết xa lánh tội lỗi, chưa biết nhìn nhận trách nhiệm về tội lỗi của chính mình, chưa biết noi gương Chúa Giêsu quảng đại tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, chưa dấn thân lãnh lấy trách nhiệm đền tội thay cho tha nhân, bấy lâu chúng ta chưa phải là những người tín hữu đích thực của Chúa Kitô.
Trong mỗi Thánh lễ, trước khi hiệp lễ, chúng ta cầu xin với Chúa Giêsu bằng lời nguyện "Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con." Liền sau lời nguyện đó, linh mục chủ tế cũng giới thiệu Chúa Giêsu Thánh thể cho chúng ta bằng những lời như Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với dân chúng năm xưa: "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian..." Lúc ấy, chúng ta hãy sốt sắng hiệp cùng Mẹ Maria nài xin Chúa Giêsu Thánh Thể mà ta sẽ rước vào lòng cho ta biết kết hợp mật thiết với Người, để nhờ Người và trong Người ta sẽ sống như những con chiên đích thực của Chúa, những con người biết sống yêu thương tha thứ và hiệp nhất trọn vẹn với tha nhân.
Chúng ta đang ở trong tuần lễ khai mạc cho sứ vụ rao giảng Tin mừng của Chúa Giêsu. Đây: TN 2-A15
Chúng ta đang ở trong tuần lễ khai mạc cho sứ vụ rao giảng Tin mừng của Chúa Giêsu. Đây được xem là tuần lễ đầu tiên của cuộc tạo thành mới so với tuần lễ của cuộc tạo thành cũ. Theo sự phân chia đó, Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh của ngày thứ hai nói đến lời chứng của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu.
Những gì Gioan làm chứng về Chúa Giêsu hôm nay đều xuất phát bởi quá trình trước đó ông đã miệt mài loan báo, ông đã không ngừng kêu gọi dân chúng hoán cải trở về, dọn đường sửa lối tâm hồn cho ngay thẳng,… để đón chờ ngày Chúa đến viếng thăm. Và nhất là, ông đã cảm nghiệm rất rõ về Chúa Giêsu- Đấng đang “tiến về phía ông”, qua biến cố Người chịu phép rửa tại sông Giođan.
Biến cố nơi dòng sông Giođan và những dấu lạ kèm theo đã giúp cho Gioan Tẩy giả có tầm nhìn thật minh xác về Chúa Giêsu. Chúa Kytô chính là Chiên Thiên Chúa. Người đến để xoá bỏ tội trần gian. Nhắc đến chiên, người Dothái không ai không nhớ đến chiên lễ Vượt qua, ngày mà Giavê Thiên Chúa dẫn đưa dân Người ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Như thế, khi nói Chúa Kytô là Chiên Thiên Chúa, Gioan muốn giới thiệu với các môn đệ và dân chúng của mình rằng chính Người là Chiên lễ Vượt qua mới. Có lẽ vì thế mà trong tác phẩm của mình, thánh sử Gioan đã liên kết Chúa Giêsu với chiên lễ Vượt qua khi cho việc tổng trấn Philatô xử Chúa Giêsu vào giờ áp lễ vượt qua, khoảng 12 giờ- đây cũng là giờ các vị tư tế sát tế chiên để dâng lên Giavê Thiên Chúa (x. Ga 19, 14); hay việc nhúng giấm chua vào nhành hương thảo để đưa lên cho Chúa Giêsu bị treo trên thập giá cũng giống như người Dothái dùng nhành hương thảo nhúng vào máu chiên để bôi lên khung cửa trong đêm vượt qua để được giải thoát (x Ga 19,29; Xh 12, 22-23); rồi việc Chúa Giêsu không bị đánh gẫy xương chân cách nào đó cũng liên hệ đến những quy định về chiên lễ vượt qua của người Dothái không được đập gẫy chiên sát tế (x. Ga 19, 33; Xh 12, 46).
Như thế, khi tuyên xưng Chúa Kytô chính là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian, Gioan Tẩy giả vô hình trung, đã tiên báo cái chết mà Chúa Giêsu phải chịu sau này để giao hoà thế gian với Thiên Chúa. Vâng, chính nhờ cái chết của Chúa Kytô mà con người được giải thoát khỏi gông cùm tội lỗi, được thoát khỏi ách thống trị của tử thần.
Biến cố xảy ra nơi dòng sông Giođan còn giúp cho Gioan Tẩy giả nhận ra chân lý này: Chiên Thiên Chúa chính là Thiên Chúa và cũng là Con Thiên Chúa. Lời chứng này của Gioan không chỉ phù hợp với những gì xảy ra trong ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa, mà còn dẫn đưa chúng ta vào một mạc khải quan trọng bậc nhất của Kytô giáo - mạc khải về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Thật vậy, ngày Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống dòng sông Giođan cũng chính là lúc Chúa Thánh Thần dưới hình chim bồ câu ngự xuống trên Người và tiếng Chúa Cha tuyên bố: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3, 17).
Mỗi khi tham dự thánh lễ là mỗi lần chúng ta chiêm ngắm Chúa Kytô Thánh Thể trên đôi tay của vị tư tế để cùng ngài tuyên xưng: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Như Gioan Tẩy giả xưa, xin Chúa cho mỗi người chúng ta không ngừng tuyên xưng niềm tin của mình vào Chiên Thiên Chúa và hăng say ra đi loan báo cho thế giới này biết đến Đấng cứu độ duy nhất là Đức Giêsu Kytô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Trong thánh lễ, ta đọc Chiên Thiên Chúa nhiều lần. Có lẽ ít người hiểu được ý nghĩa của cụm: TN 2-A16 FB
Trong thánh lễ, ta đọc Chiên Thiên Chúa nhiều lần. Có lẽ ít người hiểu được ý nghĩa của cụm từ "Chiên Thiên Chúa". Nhưng khi Gioan Baotixita giới thiệu Đức Giêsu cho dân Do Thái:"Đây là Chiên Thiên Chúa" thì người Do Thái hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ.
Trong Kinh Thánh, chiên được dùng làm biểu tượng cho những người hiền lành, đạo đức. Trong dụ ngôn về ngày phán xét, Chúa đã tách chiên ra khỏi dê. Chiên ở bên phải, dê ở bên trái. Chiên tượng trưng cho những người lành, dê là những kẻ không làm lành.
Thế nhưng chiên còn có một ý nghĩa sâu xa hơn. Hằng năm, vào lễ Vượt Qua của người DoThái, mỗi gia đình có tục lệ ăn thịt một con chiên. Phải lựa con chiên non dưới 1 năm tuổi, tốt đẹp, không tì vết. Người Do Thái ăn thịt Chiên Vượt Qua, không phải để mừng mùa đông đã qua và mùa xuân vừa mới khởi đầu. Nhưng là để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai cập.
Thuở ấy, dân Do Thái làm nô lệ bên Ai cập. Họ phải chịu lao động nhọc nhằn để phục vụ người Ai cập. Người Ai cập không những bắt người Do Thái lao động cực nhọc, mà còn hà hiếp, nhất là giết chết con trai đầu lòng của người Do Thái. Trong cơn đau khổ, người Do Thái cầu cứu Chúa. Chúa đã nhận lời , truyền cho Môsê lãnh đạo dân ra khỏi Ai cập, tiến về miền đất hứa. Vào đêm hôm giải thoát dân Do Thái, Chúa truyền cho họ ăn thịt chiên non, lấy máu bôi lên cửa nhà. Đêm ấy thiên thần Chúa đến. Nhờ dấu máu chiên bôi trên cửa nhà mà người Do Thái được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai cập.
Lễ Vượt Qua được cử hành vào đầu mùa xuân. Người DoThái nhớ đến con chiên. Con chiên đã chết cho họ được sống. Máu chiên đã đưa họ ra khỏi mùa đông tăm tối, tiến vào mùa xuân tươi sáng. Máu chiên đã giúp giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, đưa họ về miềm đất hứa, sống trong tự do.
Đức Giêsu đã chịu tử hình vào dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái. Bữa tiệc ly chính là tiệc lễ Vượt Qua mà Đức Giêsu ăn với các môn đệ. Chịu chết vào dịp lễ vượt qua, Đức Giêsu chính là con chiên của Thiên Chúa bị sát tế để cứu nhân loại.
Đức Giêsu là con Chiên hiền lành, không hé môi khi bị đem đi xén lông. Người khiêm nhường gánh lấy tội lỗi nhân loại.
Bản tiếng Việt dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian. Từ ngữ "xoá" là một cách nói văn hoa nhẹ nhàng, nhưng không lột hết ý nghĩa của nguyên ngữ. Tiếng Hy-lạp dùng từ "airein", tiếng La-tinh dùng từ "tollit" có nghĩa là nhận lấy vào mình, gánh lấy, vác lấy. Có lẽ nên dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng "gánh" lấy tội nhân loại thì đúng hơn. Xoá là đứng ngoài cuộc. Đức Giêsu không đứng ngoài cuộc. Người đã nhập cuộc, gánh lấy thân phận con người, và nhất là gánh lấy tội lỗi của con người. Chính vì gánh lấy tội lỗi mà Người, Đấng hoàn toàn trong sạch, vô tội đã chịu hạ mình xếp hàng giữa những người tội lỗi xin Gioan rửa tội. Chính vì gánh lấy tội lỗi nhân loại mà Người lui tới với những người tội lỗi, trò với họ, ăn uống đồng bàn với họ. Nhưng nhất là chính vì gánh lấy tội nhân loại mà Người phải chịu chết giữa hai tội phạm, đồng số phận với họ, đồng bản án với họ, như những người trộm cướp.
Người gánh lấy tội của ta để ta được tha thứ. Người hạ mìmh xuống để ta được nâng lên. Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có. Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa. Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ. Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang. Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do. Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.
Người tín hữu thường được gọi là "con chiên của Chúa".
Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại "chiên " trong ngày phán xét. Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa.
Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Uớc mong những chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.
1) “Chiên Thiên Chúa” gợi lên những ý tưởng nào nơi bạn?
2) Là ‘con chiên của Chúa’ bạn phải sống thế nào cho xứng đáng danh hiệu ấy?
3) Thánh Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với tất cả ý nghĩa sâu xa của danh hiệu “Chiên Thiên Chúa”. Hôm nay, nếu phải giới thiệu Chúa Giêsu cho người chung quanh, bạn sẽ dùng danh hiệu nào?
Người ta kể rằng: Một tu sĩ kia muốn họa lại chân dung của Đức Giêsu. Được phép của bề: TN 2-A17
Người ta kể rằng: Một tu sĩ kia muốn họa lại chân dung của Đức Giêsu. Được phép của bề trên, ông đi rảo khắp nơi để tìm cho kỳ được người mẫu thích hợp. Thế nhưng, càng tìm kiếm, ông càng khám phá ra rằng, không thể có một người nào trên trần gian nầy hoàn toàn giống Đức Giêsu. Từ đó, ông đi đến kết luận: Gương mặt Đức Giêsu phải là một tổng hợp của tất cả mọi vẻ đẹp của con người trên trần gian nầy. Do đó, thay vì chỉ chọn một người mẫu, ông đi thu nhặt tất cả những nét đẹp trên mọi gương mặt mà ông bắt gặp.
Thầy dòng kia đã quá băn khoăn về khuôn mặt Chúa Cứu thế, còn thánh Gioan Tẩy giả, qua bài Tin mừng hôm nay, thì lại quá đơn giản. Ngài giới thiệu Chúa, bằng một hình ảnh và một tên rất thường: "Đây Chiên của Thiên Chúa". Vậy
1.Vì sao gọi Chúa là Chiên?
2.Hình ảnh ấy dạy ta điều gì?
Biểu tượng "Con Chiên" mang một giòng lịch sử súc tích. Nó còn liên hệ chặt chẽ với những biến cố của ơn Cứu độ. Chiên được ăn với một nghi lễ đặc biệt ở Ai Cập, trong đêm dân Do Thái xuất hành trở về Đất Hứa. Chiên lại được đặt trên bàn tiệc, đêm trước khi Chúa đi chịu chết. Vâng, Chiên, con vật hy sinh cả thịt lẫn da và lông là dấu chỉ của sự chiến thắng của Thiên Chúa.
Biểu tượng con chiên không chỉ hạn chế trong đạo Do Thái và đạo Chúa. Người hùng Ấn độ Mahatma Gandhi đã thấy trong hình ảnh con chiên, ý nghĩa sâu sắc của quan niệm về hoà bình của Ông. Chính quan niệm tranh đấu trong hoà bình rất bạo lực mà ông đã hô hào như là một con đường duy nhất để chiến thắng cuối cùng.
Một nhà thuyết giáo đã nói: "Đạo Công Giáo chúng ta đầy tràn những ý kiến ngược đời. Bởi lẽ biết bao nhiêu điều đạo ấy dạy, đi ngược với điều mong chờ." Này chúng ta tuyên xưng rằng chiên mạnh hơn sư tử. Trong mỗi Thánh lễ chúng ta hát lên một cách khải hoàn: "Lạy Chiên Thiên Chúa, đấng xóa tội trần gian". Qua đó, chúng ta tuyên xưng Đấng "Tôi tớ" quá ư lạ lùng của nhân loại đã rảo quanh thế giới để tỏ cho chúng ta hay sự dịu dàng là chính sự dẻo dai bền bỉ (bài đọc 1). Như thế quan niệm "Nhu thắng cương, nhược thắng cường"(mền thắng cứng, yếu thắng mạnh), cũng dễ chúng ta chấp nhận. Vâng, chúng ta cũng được kêu gọi hãy theo truyền thống ngược đời là tìm thấy sự vinh quang trong yếu hèn của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói thẳng: "Tôi vui thỏa trong các nỗi yếu đuối... vì khi tôi yếu, thì chính bấy giờ là Tôi mạnh" (2 Cor 12:10).
Trong những ngụ ngôn của Lã Phụng Tiên, có câu "Cây dẻ và cây sậy". Cây dẻ tự hào mình là thứ cây cổ thụ cao lớn đồ sộ, hiên ngang đứng giữa trời đất giang tay đón gió. Dẻ đưa mắt nhìn xuống đám cây lau sống lụp xụp trong bùn dưới chân mình. Dẻ tỏ vẻ khinh khi bảo: "Kìa loài chi chúng bay mà ta vừa rung lá, bay đã cúi đầu lo sợ". Khóm lau trả lời: "Chúng tôi cúi đầu mà không gãy thân. Còn Ông hãy coi chừng." Và cứ thế , lời qua tiếng lại mỗi ngày. Bỗng một ngày kia, trận bão từ biển Đông thổi vào. Cây dẻ cứ đứng vững như trồng, còn lau đua nhau cúi sát mặt. Nhưng trận gió cứ thổi lên, thổi lên từng hồi. Dẻ ta vẫn đứng sừng sững, còn lau nằm sát nước. Bỗng một tiếng đổ sụp vang trời dội đất. Cây dẻ đã trốc rễ và vật mình nằm sóng sượt không thốt nên lời. Qua cơn bão táp, lau đứng lại vững vàng: Vâng, lau cúi mình nhưng lau không gãy. Thưa anh chị em "trong lúc tôi yếu là lúc tôi mạnh" là thế đó.
Sang phần hai, ta hãy tự hỏi ta học được gì nơi hình ảnh con Chiên? Mỗi lần ta hành động như một ông chủ hống hách thay vì cư xử như người "đầy tớ" khiêm cung là mỗi lần ta quên bài "thần học về con Chiên". Chúa Kitô đã nói cho chúng ta hay đạo và đời khác nhau trong căn bản, trong gốc ngọn. Ngoài đời, những người lãnh đạo khống chế người dân của mình. Nhưng đối với môn đồ của Người, Chúa Giêsu bảo: "Nơi các ngươi thì không như thế. Ai muốn làm lớn trong các ngươi thì hãy hầu hạ các ngươi". (Mt 20:26).
Con Chiên của Lễ Vượt qua còn mang ý nghĩa một cuộc giải phóng cho dân Chúa đã chọn, khỏi ách nô lệ của dân Ai Cập. Như thế muốn nên môn đồ thật của con "Chiên", ta phải chấp nhận những thách đố của một cuộc giải phóng nhân loại khỏi những bất công, khỏi những kỳ thị chủng tộc, mầu da, khỏi những nạn đói khát, bệnh tật, nghèo nàn... Chúng ta phải làm nhân chứng cho "Chiên" trong mọi lúc mọi nơi khi chúng ta tranh đấu cho nhân quyền (Cylvvicki).
Để kết thúc, chúng ta phải công nhận rằng Chiên Thiên Chúa đã sống và đã giảng dạy theo chức năng của biểu hiệu con Chiên mà Chúa đã mạc khải cho Gioan Tẩy Giả phải giới thiệu. Mặc dầu phải điệu đi để cho người ta xén lông, cho kẻ xé thịt; mặc dầu không mở miệng than van: Chiên Giêsu đã đem lại một chiến thắng lớn lao hơn bất cứ ai từ trước tới nay. (Mc Karns).
Một trong những vấn đề mà các nhà tâm lý học phải đương đầu là vấn đề mất gốc hay mất căn: TN 2-A18
Một trong những vấn đề mà các nhà tâm lý học phải đương đầu là vấn đề mất gốc hay mất căn tính. Có những loại căn tính khác nhau như: căn tính cá nhân, căn tính nòi giống, căn tính văn hoá, căn tính phái tính, căn tính gia đình, căn tính tôn giáo. Theo Hán tự thì căn là rễ. Mất căn tính là mất gốc rễ. Ở Việt Nam ai đã mang thẻ căn cước, thì hiểu rõ được nghĩa của chữ căn. Khi mất thẻ căn cước người ta sẽ khó lòng chứng minh với nhà chức trách về cái danh tính của mình. Một lần người viết bài suy niệm này bị tóm cổ trên chuyến xe đò Sài Gòn-Vũng Tàu vì quên mang thẻ căn cước. Tưởng là trốn quân dịch, cảnh sát đem về nhốt ở bốt cảnh sát Quân Tân Bình.
Vào cái thời trước khi Chúa Cứu thế Giáng sinh, người Do Thái mong đợi Đấng Cứu thế đến để giải thoát họ khỏi kiếp lưu đầy, khỏi cảnh nô lệ lầm than khốn khổ của người ngoại bang. Họ mong đợi Đấng Cứu thế đến như một tướng lãnh tài giỏi, bách chiến, bách thắng. Họ nuôi hy vọng Đấng Cứu thế sẽ thiết lập một vươngn quốc trần gian, giàu có và hùng mạnh, để đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Và đó là những quan niệm sai lầm của họ về Đấng Cứu thế, cũng như về bản chất của đạo giáo. Phúc âm hôm nay thuật lại Gioan Tiền hô đã sửa sai quan niệm của họ về Đấng Cứu thế. Gioan Tẩy giả minh xác Đấng Kitô là chiên Thiên Chúa, được sai đến để xóa tội trần gian (Ga 1:29). Trong thời Cựu ước, chiên được dùng để làm lễ vật hy sinh dâng lên Thiên Chúa. Bằng việc gọi Chúa Kitô là Chiên Thiên Chúa, Gioan chỉ cho thấy đời sống của Chúa Kitô được dâng cho Thiên Chúa như là lễ vật hy sinh đền tội thay cho nhân loại. Minh xác về vai trò của Đấng Cứu thế, thì Gioan cũng minh xác về vai trò của chính mình.
Khi Gioan Tiền hô xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, thì ông được dân chúng tôn sùng, coi Gioan như là chính Đấng Cứu thế phải đến. Vào cái thời đó tại đất Do Thái, người ta đã chán ngấy cái tình trạng xã hội suy đồi. Những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự đều tham nhũng thối nát. Còn trên bình diện chính trị, thì đất nước của họ đang bị đế quốc La Mã cai trị, nên họ mong đợi Đấng Cứu thế đến hơn bao giờ hết vì thời gian đã chín mùi. Như vậy, nếu theo quan niệm của dân chúng về Đấng Cứu thế, thì ông Gioan cũng có thể mạo nhận cho mình là Đấng Cứu thế, nhất là cái sứ điệp rao giảng của Ông có sức lôi cuốn mãnh liệt. Tuy nhiên Gioan Tiền hô không ngộ nhận, vì ông đã ý thức được cái căn tính của mình, và thể hiện đúng vai trò của mình. Gioan chỉ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa, đi dọn đường cho Đấng Cứu thế đến mà thôi, và không xứng đáng cởi giây dày cho Người.
Cái bài học mà Gioan Tẩy giả dạy bạn hôm nay là bài học chấp nhận: chấp nhận cái vị thế, cái thế đứng, cái quyền hạn của mình, cái thực chất về mình cả ưu điểm cũng như khuyết điểm, không giả tạo, không qui công về cho mình cái mà mình không có, điều mình không làm. Có bao giờ bạn thấy mình khoe khoang tự phụ mà tối về nhà cảm thấy tâm hồn trống rỗng? Cảm thấy tâm hồn trống rỗng là bước đầu cho việc muốn sửa đổi. Thánh Phaolô trong thư gửi Tín hữu Corintô hôm nay cũng giúp bạn tìm ra căn tính của người Kitô giáo trong Chúa Kitô. Theo thánh Phaolô, thì người Kitô giáo đã được thánh hiến để trở nên dân tộc thánh thiện. Nhờ bí tích Rửa tội, họ được chọn làm dân riêng, và làm nghĩa tử của Chúa, được thừa hưởng phần gia nghiệp Nước Trời.
Bài học nữa mà Gioan Tẩy giả dạy bạn hôm nay là bài học tìm về căn tính và cội rễ của mình. Nhận ra căn tính là điều quan trọng cho bạn, và cho những người tiếp xúc với bạn. Nhận ra căn tính giúp bạn biết chấp nhận cái sự thực về mình. Nhận ra căn tính sẽ giúp bạn sống trung thực với lòng mình. Ý thức được cái căn tính của mình, sẽ giúp người khác biết được cái thế đứng, và lập trường của mình. Là người Công giáo, bạn cũng cần học hỏi để có được cái nhìn không lệch lạc về bản chất của đạo giáo và của người Kitô giáo. Bạn cần học hỏi để biết mình sinh ra đời để làm gì, sống như thế nào, và cùng đích của đời sống sẽ đi về đâu?
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu được ộng Gioan Tẩy giả làm chứng là “Chiên Thiên: TN 2-A19
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu được ộng Gioan Tẩy giả làm chứng là “Chiên Thiên Chúa” và là “Chiên đến để xoá tội trần gian.” (c,29).
Lời chứng của Gioan Tẩy giả là một trong bảy lời chứng được lần lượt nêu lên trong bảy ngày liên tiếp, có dáng dấp như tuần lễ của cuộc sáng tạo mới, mà chóp đỉnh là cuộc mạc khải vinh quang của Đức Giêsu qua phép lạ hoá nước lã thành rượu ngon, khiến các môn đệ bắt đầu tin vào Ngài (2,11).
Ngày thứ nhất (cc.19-28)
Chứng nhân Gioan Tẩy giả ngỏ lời cùng các thượng tế và các thầy Lêvi.
Chứng từ ông Gioan Tẩy giả nêu để khẳng định ông không phải là Đức Kitô, nhưng chỉ là tiếng người kêu trong hoang địa và bản thân ông chẳng xứng đáng cởi dây giày cho Đấng đến sau. Ông cũng không phải là ngôn sứ Êlia theo Mal 3,23, như người ta vẫn chờ mong, và cũng không phải là vị ngôn sứ nào đó được nói tới trong sách Đệ Nhị Luật.
Ngày thứ hai (ngày hôm sau trong cc.29-34)
Chứng nhân là ông Gioan lần đầu tiên gặp Đức Giêsu.
Chứng từ: Đức Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian.” Ngài ở địa vị cao hơn ông Gioan. Ngài là Đấng mà Thần Khí sẽ đậu trên, là Đấng sẽ làm phép rửa nhờ Thần Khí. Ngài chính là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.
Ngày thứ ba (cũng ngày hôm sau trong cc.35-39).
Chứng nhân Gioan Tẩy giả ngỏ lời cùng hai môn đệ của ông, là những người đến với Đức Giêsu vào lúc 4 giờ chiều và đã ở lại với Ngài.
Chứng từ: “Đây là Chiên của Thiên Chúa.” Lời này có thể chỉ về chiên Vượt Qua hoặc chỉ về người tôi tớ chịu đau khổ như chiên bị xén lông mà không kêu la như được mô tả trong Isaia 53,7.
Ngày thứ tư (?) (cc.40-42)
Chứng nhân Anrê đối với em là Simon.
Chứng từ: Chúng tôi đã được thấy vị Cứu Tinh Mêsia.
Ngày thứ năm (ngày hôm sau trong cc. 43-51)
Chứng nhân Philíp đối với Nathanaen
Chứng từ: Đấng mà Môsê đã ghi nhận trong sách Luật và các ngôn sứ cũng ghi nhận.
Ngày thứ sáu
Chứng nhân Nathanaen
Chứng từ: “Thầy là Con Thiên Chúa; Thầy là vua của Ít-ra-en.
Ngày thứ bảy (tức “ngày thứ ba” trong 2,1-11)
Chứng nhân Đức Giêsu làm phép lạ tại Cana.
Chứng từ: “Đó là cách Đức Giêsu bày tỏ vinh quang của Ngài, và các môn đệ bắt đầu tin vào Ngài” (2,11).
Đức Kitô đã từng được ví như con chiên, nhất là trong sách Khải Huyền cũng như trong Tin Mừng Gioan, Công Vụ Tông Đồ và thư thứ nhất của Phêrô. Hình ảnh Đức Giêsu như một con chiên phát xuất từ Cựu Ước theo hai viễn tượng sau đây.
Tôi tá của Giavê
Một là hình ảnh Tôi Tá của Giavê - Hình ảnh ấy được ngôn sứ Giêrêmia áp dụng với bản thân ông. Đó là lúc ông bị kẻ thù bách hại nên ví mình như “con chiên bị giong tới lò sát sinh” (Gr 11,19). Cũng hình ảnh ấy được gán cho Người Tôi Tá Giavê chịu chết để đền bù các tội của dân, giống như con chiên bị giong tới lò sát sinh hoặc như con chiên đang được xén lông vẫn ở lặng không hở môi (Is 53,7). Điều được nhấn mạnh ở đây là đức tính khiêm nhường và nhẫn nại của Người Tôi Tá Giavê. Điều nhấn mạnh ấy rất là thích hợp để loan báo về bản thân Đức Kitô, Đấng đã từng ở lặng trước Thượng Hội Đồng Do thái giáo (Mt 26,63). Ngài cũng từ chối không trả lời tổng trấn Philatô (Ga 19,9). Rất có thể đó chính là điều ông Gioan Tẩy giả muốn loan báo khi nhìn nhận Đức Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (1,29; x.Is 53,7-12; Dt 9,28)
Chiên Vượt Qua
Hai là hình ảnh Chiên Vượt Qua - Giavê Thiên Chúa đã truyền cho mỗi gia đình người Do thái phải giết một con chiên đực một tuổi, không mang tì vết (x.Xh 12,5). Họ sẽ ăn thịt chiên đó ban chiều rồi lấy máu chiên bôi trên khung cửa. Chính nhờ dấu chỉ đó, người của gia đình Do thái được Thiên Thần đến sát phạt các con đầu lòng Ai cập, sẽ tha không sát hại họ. Truyền thống Do thái còn dành cho máu chiên Vượt Qua giá trị cứu chuộc khi nói: “Nhờ máu của Giao Ước do cắt bì và nhờ máu của chiên Vượt Qua, Ta đã giải thoát ngươi khỏi Ai cập” (Pirqè R. Eliezer 29). Chính nhờ máu của chiên Vượt Qua nên người Hipri đã được cứu chuộc khỏi Ai cập và có thể trở nên dân tộc được thánh hiến, trở nên vương quốc của các tư tế (Xh 19,6). Họ được gắn liền với Thiên Chúa nhờ Giao Ước và được cai trị do Luật Môsê.
Truyền thống Kitô giáo
Riêng truyền thống Kitô giáo vẫn đượm nét với hình ảnh Đức Kitô là Chiên Vượt Qua: “Khi Người tự hiến tế làm chiên Vượt Qua của chúng con, Người hủy diệt tội lỗi xưa để đổi mới muôn loài sa ngã, và hoàn lại sự sống nguyên tuyền cho chúng con” (Kinh Tiền Tụng Phục Sinh IV)
+ Quả thật, Đức Giêsu là Chiên (1P 1,19; Ga 1,29; Kh 5,6) không tì vết (Xh 12,5) được hiểu là vô tội (1P 1,19; Ga 8,48; 1Ga 3,5; Dt 9,14). Chính Đức Kitô đã dùng giá máu mình để cứu chuộc nhân loại (1P 1,18tt; Kh 5,9; Dt 9,12-15). Ngài đã cứu họ khỏi “bụi trần” (Kh 14,3) khỏi cái thế giới buông theo gian tà phát sinh do đạo thờ ngẫu tượng (1P 1,14.18; 4,2tt), nhờ đó từ nay họ có thể tránh tội (1P 1,15tt; Ga 1,29; 1Ga 3,5-9). Có thể hình thành nên vương quốc tư tế mới, nên dân tộc được thánh hiến cho Thiên Chúa (1P 2,9; Kh 5,9tt; x.Xh 19,6). Họ sẽ dâng lên Thiên Chúa cuộc thờ phượng thiêng liêng bằng một đời sống không có gì chê trách được (1P 2,5; Dt 9,14). Họ bỏ lại đàng sau bầu khí tăm tối của thế gian để nhận lấy ánh sáng của Nước Thiên Chúa (1P 2,9): Đó chính là cuộc xuất hành thiêng liêng. Chính nhờ máu Con Chiên là Đức Kitô (Kh 12,11), họ thắng được Satan đứng đằng sau Pharaon, nên họ có thể cất tiếng hát bài thánh ca Môsê và Con Chiên (Kh 15,3.7.9tt.14-17) để tán dương và mừng hô được giải thoát.
+ Truyền thống Kitô giáo nhìn nhận Đức Kitô là Chiên Vượt Qua đích thực, đã có rất sớm. Tông đồ Phaolô khuyên tín hữu Corintô sống “tinh tuyền và chân thật” như bánh không men vì “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (1Co 5,7). Phaolô viết thư thứ nhất cho tín hữu Corintô vào những năm 55-57; truyền thống nói trên phải có trước đó lâu rồi. Cơ sở của truyền thống này được thấy nơi Tin Mừng của Gioan. Theo Gioan, Đức Giêsu chịu chết trước lễ ăn bánh không men (Ga 18,28; 19,14.31), tức vào buổi chiều lễ Vượt Qua (19,14), chính là thời điểm người ta sát tế chiên làm của lễ. Sau khi Đức Giêsu tắt thou, người ta không đánh gẫy ống chân Người, đó là điều người ta thực hiện với hai người cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu (19,33); tác giả Tin Mừng Gioan ghi nhận điều đặc sắc này áp dụng với chiên Vượt Qua là Đức Giêsu (19,36; x.Xh 12,46).
+ Từ hình ảnh Đức Kitô Chiên Vượt Qua mới, ta có hình ảnh Đức Kitô Chiên thiên quốc (Kh 5,9tt). Sách Khải Huyền gây ấn tượng đột xuất khi đối chiếu sự yếu đuối của chiên hiến tế với quyền lực mà chiên nhận được khi đạt tới vinh quang trên trời. Một đàng ta có hình ảnh chiên hy sinh chịu chết để cứu chuộc chúng sinh; đàng khác ta có hình ảnh Đức Kitô dũng mãnh tựa sư tử đạt chiến thắng trong công trình giải phóng dân Thiên Chúa khỏi quyền lực sự dữ (5,5tt; 12,11). Ta thấy Đức Kitô Chiên Vượt Qua nay cùng ngồi bên ngai báu của Thiên Chúa (22,1.3), cùng được các quyền thần trên trời thờ lạy (5,8.13; 7,10). Ngài mang uy quyền của Thiên Chúa. Chính Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa thi hành các sắc lệnh của Thiên Chúa chống lại những kẻ nghịch đạo (6,1tt); chính cơn thịnh nộ của Đức Kitô nhận chìm chúng trong kinh hãi (6,16); Đức Kitô đứng ra điều khiển cuộc chiến cuối cùng chống lại lực lượng toa rập của sự ác, và rồi cuộc chiến thắng đạt được sẽ vĩnh viễn hoá tước hiệu của Ngài là “Vua trên các vua và Chúa trên các chúa” (17,14; 19,16). Tư cách dễ thương tiên khởi của Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa được biểu lộ rõ nhất trong hôn lễ với Giêrusalem trên trời là Giáo Hội (19,7-9; 21,9). Đức Kitô Chiên Thiên Chúa sẽ đảm nhận việc dẫn đưa các tín hữu tới nguồn nước dạt dào của các mối phúc nơi thiên quốc (17,17; x.14,4).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ gì về hình ảnh Đức Kitô Chiên Vượt Qua như Tôi Tá của Giavê? Như Chiên Vượt Qua? Có phải điều quan trọng là chính bạn nghiệm thấy Đức Kitô cứu bạn khỏi thế giới tội lỗi? Và bạn đang trên đường tiến về Đất Hứa của cõi phúc?
2. Xưa ông Gioan Tẩy Giả làm chứng rằng Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa, Đấng đến xoá bỏ tội trần gian. Nay bạn được mời gọi để làm chứng điều gì về Đức Kitô trong viễn tượng của Năm Thánh 2000? Chẳng hạn về các mối phúc: Siêu thoát? Hiền lành? Thương người? Xây dựng hoà bình trong gia đình và nơi xã hội?
Chúng ta đều biết Mùa Phụng Vụ Thường Niên được chia làm hai giai đoạn, giai đoạn sau Mùa: TN 2-A20
Chúng ta đều biết Mùa Phụng Vụ Thường Niên được chia làm hai giai đoạn, giai đoạn sau Mùa Giáng Sinh và giai đoạn sau Mùa Phục Sinh. Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh bao giờ cũng ngắn hơn Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh. Cách đây hơn ba tuần lễ, Giáo Hội mới cử hành biến cố Chúa Kitô Giáng Sinh, nay cử hành việc Người đã xuất thân loan báo Tin Mừng Nước Trời. Phải nói là Chúa Giêsu lớn quá mau theo tiến trình phụng niên. Tuy nhiên, nếu hiểu ý nghĩa Phụng Vụ Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh và Hậu Phục Sinh khác nhau thế nào, chúng ta cũng sẽ hiểu được về thời gian dài ngắn của Mùa Thường Niên được chia làm hai giai đoạn này.
Theo tôi, nếu Phụng Vụ là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, thì trong Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh, Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô Thừa Tác, tức Mầu Nhiệm Chúa Kitô tỏ mình ra cho thế gian biết Người thực sự là Đấng Thiên Sai, Đấng đến không phải để làm theo ý mình song ý Đấng đã sai (x Jn 6:38). Và nếu Chúa Kitô "đến để làm chứng cho chân lý" (Jn 18:37), làm chứng về mình là Đấng Thiên Sai như thế, thì Mầu Nhiệm Chúa Kitô Thừa Tác này đã thực sự được kết thúc ở Mầu Nhiệm Vượt Qua, một Mầu Nhiệm Chúa Kitô được Giáo Hội long trọng cử hành trong Mùa Chay, Tam Nhật Thánh, Đại Lễ Phục Sinh và Mùa Phục Sinh.
Vậy nếu giai đoạn thứ hai của Mùa Thường Niên được Giáo Hội sắp xếp sau Mùa Phục Sinh thì chắc chắn phải có một liên hệ mật thiết về ý nghĩa với Mùa Phục Sinh, như liên hệ ý nghĩa của giai đoạn Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh với Mùa Giáng Sinh vậy. Theo tôi, nếu ý nghĩa hay chủ đề của cả Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh là việc Chúa Kitô tự chứng về mình, thì ý nghĩa và chủ đề của cả Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh là việc Chúa Kitô được Thánh Thần làm chứng về Người qua Giáo Hội, cho đến khi Người lại đến trong vinh quang, thời điểm kết Mùa Thường Niên nói riêng và Phụng Niên nói chung ở Lễ Chúa Kitô Vua. Như thế, chúng ta có thể suy ra, sở dĩ Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh ngắn, là vì Mầu Nhiệm Chúa Kitô Thừa Tác hay Tự Chứng chỉ xẩy ra có 3 năm, trong khi Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh dài, là vì Mầu Nhiệm Chúa Kitô ở cùng Giáo Hội bằng Thần Linh của Người kéo dài "cho đến tận thế" (Mt 28:20).
Tuy nhiên, Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh được mở màn chẳng những với Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, như chúng ta đã cử hành tuần trước, mà còn được tiếp nối bằng một Chúa Nhật chuyển tiếp nữa là Chúa Nhật Thứ Hai hôm nay đây. Tại sao lại nói Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên hôm nay đây là Chúa Nhật chuyển tiếp?
Thưa, là vì Giáo Hội đã xen kẽ ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan vào cả ba chu kỳ phụng vụ A, B, C thay cho Phúc Âm riêng của mỗi chu kỳ, Phúc Âm Mathêu cho Năm A, Marcô cho Năm B và Luca cho Năm C. Mà nội dung của ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật Thứ Hai của cả ba chu kỳ A, B, C là gì, nếu không phải là những bài mang ý nghĩa chuyển tiếp từ Cựu Ước sang Tân Ước, chuyển tiếp liên tục nhau một cách rất khít khao từ năm A tới năm C. Thật vậy, bài Phúc Âm Thánh Gioan của Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên Năm A hôm nay cho thấy Gioan Tiền Hô, tiêu biểu cho các tiên tri thời Cựu Ước, đã xác nhận Chúa Giêsu "là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn". Mà "Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" này, trong bài Phúc Âm cũng theo Thánh Gioan ở Năm B, sau khi hai người môn đệ của Gioan Tiền Hô đến ở với Người, đã được họ cảm nhận là "Đấng Thiên Sai". Và "Đấng Thiên Sai" như họ cảm nhận đây, trong bài Phúc Âm cũng theo Thánh Gioan ở Năm C, đã "tỏ vinh quang của Người ra để các môn đệ tin vào Người". Từ đó, từ việc bắt đầu tỏ mình ra trước hết cho các môn đệ tiên khởi của mình này, Chúa Giêsu mới chính thức công khai tỏ mình ra, như được các Thánh Ký Nhất Lãm đề cập đến ở ba bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Thường Niên tuần tới.
Đề Tài của Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên
Chủ đề của bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên Năm A hôm nay thực sự là lời của Thánh Gioan Tiền Hô chứng nhận về Đấng đến sau mình, "Đấng Thiên Chúa tuyển chọn". Thật ra, Chúa Giêsu cũng có thể tự làm chứng về mình. Tuy nhiên, trước mắt thế gian, nhất là vì thiện ích thiêng liêng cho dân Do Thái, Người cũng cần đến cả chứng của loài người nữa, như chính Người đã minh định với người Do Thái trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 5 câu 34 như thế này: "Quí vị đã sai người đến với Gioan, vị đã làm chứng cho sự thật. (Bản thân Tôi không cần đến một thứ chứng từ như thế, song chỉ vì phần rỗi của quí vị mà Tôi nhắc đến những điều này mà thôi)". Đúng thế, "để danh chính ngôn thuận", nhân vật Giêsu Nazarét vô danh tiểu tốt (x Jn 7:52) trước mắt dân Do Thái mới xuất đầu lộ diện bấy giờ cần phải có một người đỡ đầu cho, một người có thế giá lớn, được dân chúng kính phục như một vị tiên tri, chẳng hạn Gioan Tẩy Giả, giới thiệu cho thì mới được công nhận và đáng tin. Và, một khi đã được Gioan Tiền Hô giới thiệu thế nào, Chúa Giêsu phải đóng đúng vai trò của mình như thế. Bằng không, một là chứng của Gioan là chứng dối, hai là Chúa Giêsu chỉ là một kitô giả. Tuy nhiên, nếu Gioan Tẩy Giả làm chứng Chúa Giêsu "là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" thì ngài phải có bằng cớ khiến cho ai cũng phải công nhận.
Vậy bằng cớ của vị tiền hô để ngài có thể làm chứng về Chúa Giêsu thực sự "là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn", tức là Đấng Thiên Sai, Đấng dân Do Thái mong đợi đây là gì, nếu không phải, như ngài thành thực cho biết trong bài Phúc Âm hôm nay: "Như tôi nói là Tôi không hề biết Người. Đấng sai tôi làm phép rửa bằng nước bảo tôi biết rằng 'Khi nào ngươi thấy Thần Linh xuống đậu trên ai thì vị ấy chính là Đấng rửa trong Thánh Thần".
Đúng thế, "là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn", theo Mạc Khải Cựu Ước, trước hết phải là Đấng được tràn đầy Thần Linh, qua sự kiện được "Thần Linh đậu xuống" trên mình, và sau nữa, nhờ đó, nhờ Thần Linh và bởi Thần Linh, vị này có cả tư cách lẫn khả năng "rửa trong Thánh Linh", tức có thể thực hiện những việc Thần Linh sai khiến. Đó là lý do, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Thường Niên Năm C tuần tới, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã tuyên bố ứng nghiệm nơi trường hợp của mình lời tiên tri Isaia nói về vị được Thần Linh Chúa chẳng những "đậu xuống", ở chỗ ngự trị và xức dầu, mà còn có khả năng "rửa trong Thánh Thần", ở chỗ được sai đi rao giảng và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa. Trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, nếu Tiên Tri Isaia trong bài đọc một nói đến ý định của Đấng tuyển chọn là: "Ta sẽ làm cho ngươi trở thành ánh sáng soi các dân nước, để ơn cứu độ của Ta chiếu đến tận cùng trái đất", thì Thánh Vịnh 40 trong bài Đáp Ca cũng cho thấy phản ứng tương hợp của một vị thực sự là "Đấng Thiên Chúa tuyển chọn", ở chỗ: "Lạy Chúa, này tôi xin đến để thực thi ý Chúa", bằng việc "tôi đã loan truyền đức công minh của Ngài nơi đại hội; Ôi Chúa, Chúa biết rồi, tôi chẳng hề ngậm môi".
Vấn đề thực hành sống đạo:
Bài đọc Thứ Hai hôm nay, Thánh Phaolô nhắc nhở Kitô hữu giáo đoàn Corintô qua bức thư thứ nhất của ngài về ơn gọi và vai trò cao quí của họ là: "những người được thánh hiến trong Chúa Giêsu Kitô và được kêu gọi là một dân thánh". Tuy nhiên, được "Thiên Chúa tuyển chọn" "trong Chúa Giêsu Kitô" như thế, Kitô hữu chúng ta đã có một tâm hồn như câu Đáp Ca thứ ba của bài Thánh Vịnh 40 tuyên tụng hay chưa: "Ôi Chúa Trời ơi, tôi hân hoan thực thi ý Chúa, luật pháp của Chúa ghi tận đáy lòng tôi!"? Nghĩa là chúng ta đã hết sức nỗ lực để sống như Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai hay chưa, ở chỗ, có luôn sẵn sàng làm theo ý Đấng đã tuyển chọn để sai phái mình đi sinh hoa trái (x Jn 15:16) hay chưa? Hoa trái của chúng ta là những gì? Vì chỉ có sinh hoa kết trái Thần Linh, chúng ta mới thực sự chứng tỏ chúng ta chẳng những đã được "rửa trong Thần Linh" (Jn 3:5) khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, mà còn như Chúa Kitô thực hiện được cả việc "rửa trong Thánh Thần" nữa.
Mở đầu bài Tin Mừng ta bắt gặp hình ảnh Gioan tẩy giả đang giới thiệu Đức Giêsu cho mọi: TN 2-A21
Mở đầu bài Tin Mừng ta bắt gặp hình ảnh Gioan tẩy giả đang giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người: “Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi“ ( Ga 1,30 ). Nhưng trên thực tế lúc đó, với cái nhìn tự nhiên của con người, xét về mọi phương diện, ta thấy Đức Giêsu không trổi hơn Gioan tẩy giả: Về tuổi đời: Đức Giêsu trẻ hơn Gioan tẩy giả độ 6 tháng.
Về nguồn gốc gia thế: Gioan tẩy giả sinh ra trong gia đình có cha là tư tế và mẹ thuộc dòng tộc tư tế Aharon ( Lc 1,5 ). Còn Đức Giêsu ? Dân làng Na-da-rét nói: “Ong không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria…sao?”( Mt 14, 55 ).
Về vị thế xã hội: Gioan tẩy giả lừng lẫy tiếng tăm khiến “mọi người từ khắp miền Giuđê và Giêrusalem kéo đến với ông” ( Mc 1,5 ). Đang khi đó Đức Giêsu vẫn còn mai danh ẩn tích. Nếu có người biết đến thì cũng chỉ là những người cùng quê và có giỏi thì cũng biết ngài như là “con ông Giuse” ( Lc 4,22b ). Hơn nữa, “Từ Na-da-rét có gì hay được” ( Ga 1,46 ) đủ cho thấy Đức Giêsu chưa có vị thế trong xã hội.
Vậy mà ở đây, lần thứ hai Gioan tẩy giả đã xác quyết: Đức Giêsu trổi hơn ông !
Gioan tẩy giả đã không nhìn Đức Giêsu theo lăng kính của lợi nhuận, của tiếng tăm danh vọng. Nhưng ông đã nhìn Đức Giêsu dựa trên giá trị nhân vị, giá trị thiêng liêng sâu thẳm của con người Ngài.
Chúng ta nên học lấy cách nhìn này của vị Tiền hô cho Đấng Cứu Thế! Để thấy được nơi Thai nhi yếu ớt trong lòng mẹ chưa có chút vị thế là nến tảng của gia đình và xã hội; thấy nơi người tàn tật là sức mạnh tiềm ẩn, nơi người già cả là kho tàng kinh nghiệm của nhân loại; thấy chính mình là tuyệt tác của Thiên Chúa; thấy trong sự im lặng đứng yên là sự chuyển động không ngừng của tình yêu Thiên Chúa.
Thánh Gioan còn đi xa hơn khi nhận biết Đức Giêsu trên thang giá trị một Thiên Chúa làm người: “vì có trước tôi” ( Ga 1,30 ).
Chính qua cách nhìn này, Gioan tẩy giả đã đón nhận được Đức Giêsu trong tin yêu dù “đã không biết Người” ( Ga 1,31a ). Và ông đã không ngại làm chứng về Người rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” ( Ga 1,29 ), “Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” ( Ga 1, 34 ). Khi làm chứng cho Đức Giêsu cũng có nghĩa ông đã để Đức Giêsu lớn lên, còn ông nhỏ đi. Như thế, Gioan tẩy giả không chỉ nhìn Đức Giêsu trong cái nhìn chiều sâu, cái nhìn của đức ái, mà còn làm cho giá trị sâu thẳm của Đức Giêsu được tỏ bày do lời ông minh chứng.
Trong thế chiến thứ hai, năm 1941, có một vị linh mục bị giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do-thái. Như bao người khác, cha cũng bị hành hạ và ngược đãi đến tàn tệ, còn hơn cả đối với súc vật. Thế nhưng ngài lại vẫn luôn vui vẻ tìm cách giúp đỡ các tù nhân đồng cảnh ngộ đang rơi vào tâm trạng khủng hoảng tuyệt vọng.
Cha xin cai tù cho được đi lao động thay những người đau yếu. Ngài nhường khẩu phần bánh mì ít ỏi của mình cho những người thiếu ăn hơn. Đối với kẻ rách rưới, ngài chia sẻ cho họ chiếc áo cũ nhưng còn tương đối lành lặn... Trong hoàn cảnh đầy hiểm nguy, cha vẫn lặng lẽ dấu kín lý lịch của bản thân là một người Công giáo, hơn thế nữa, lại còn là một linh mục. Chỉ có một vài người rất thân thiết mới biết rõ ngài là ai...
Trong số những người được cha giúp đỡ, có một cậu thiếu niên. Trước đây cậu ta vốn lớn lên ở đầu đường xó chợ, không tin bất cứ ai, ngang bướng, chuyên trộm cắp để bán lấy tiền độ nhật. Đến khi phải vào tù, cậu cũng luôn cướp giựt, quấy nhiễu mọi người. Vị linh mục khả ái đã từng bước một tìm cách gần gũi cậu ta, trò , giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã hoán cải được tâm hồn tưởng đã hóa ra chai đá của cậu. Dù vậy, ngài thấy cũng chưa đến lúc nói với cậu ta về Thiên Chúa...
Thế rồi, một hôm, cha được tin mình phải chuyển đi gấp đến trại Ao-sơ-vích ( Auschwitz ), một trại tập trung mà ai nghe đến tên cũng kinh hoàng khiếp hãi vì đó là nơi hủy diệt với những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác. Ngài cố giữ bình tĩnh, vội vã chia tay mọi người. Đến trước mặt cậu thiếu niên vừa mới quyết định hoàn lương, ngài rất muốn giúp em hiểu biết về Chúa, tin Chúa và theo Chúa.
Cha nhìn thẳng vào mắt cậu, nhỏ nhẹ hỏi: “Này cháu thân yêu của bác, cháu có muốn tin vào một người tên là Giê-su không ?” Cậu thiếu niên đứng thẳng người lên, trả lời cha bằng một câu hỏi chân hành: “Nhưng thưa bác, ông Giê-su là ai để cháu có thể tin ?’ Biết mình không còn thời gian để cắt nghĩa Kinh Thánh và giới thiệu chi tiết về Đức Giê-su, cha yên lặng một chút, ngẫm nghĩ rồi buột miệng nói với cậu thiếu niên: “Người đó giống như bác !” Cậu ta đăm đăm nhìn ngài rồi khẳng khái tuyên xưng: “Vâng, nếu ông Giê-su ấy là một người giống như bác, thì cháu tin !”
Sau thế chiến, người ta không còn gặp lại vị linh mục già ấy nữa, nhưng chắc chắn một điều là: cậu truyện này được một người sống sót qua các trại tập trung thuật lại như một chứng từ sống động, người ấy chính là cậu thiếu niên năm xưa, một người tân tòng Công giáo...
CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa, Xin tẩy rửa chúng con khỏi mọi vết nhơ của lòng thèm muốn, háo danh, giả hình, Xin giải cứu chúng con khỏi mọi hận thù và những suy nghĩ quanh co, khỏi những tính toán nhỏ nhen, tranh chấp, giành giựt, khỏi những thái độ hống hách, gây gỗ, ngăn chặn, phòng vệ. Vì chỉ có một cách sống đáng quý mà thôi, đó là yêu mến và để cho người ta yêu mến mình,
Lạy Chúa là ánh sáng trong suốt, Xin cho trái tim con trong suốt như giòng suối, để bầu trời xanh có thể soi mình trong đó. Xin cho ánh mắt con là một tia sáng, để người ta thấy được Chúa trong cặp mắt con.
“Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế", đó là câu Kinh Thánh người ta đọc được trên cánh cửa phòng khách của Bịnh viện tâm thần Pha-sung tại Giêrusalem. Nhưng nếu hỏi các bịnh nhân trong Bịnh viện này thì sẽ có một số người không ngần ngại tự nhận mình là Đấng Cứu Thế.
Bịnh Viện Pha-sung được mở ra để chữa trị cho những nạn nhân của điều mà người ta thường gọi là Hội chứng Gierusalem. Một số du khách đến Giêrusalem bị dao động một cách mãnh liệt bởi những chứng tích sống động của thành thánh đến nỗi tự nhận mình là Đấng Cứu Thế hay một nhân vật nổi tiếng nào đó trong Kinh Thánh hoặc tự cho rằng mình đã được Thiên Chúa ủy thác cho một sứ mệnh hay một sứ điệp rất đặc biệt. Như trường hợp của một người Ý ăn mặc rách rưới với quyển Tân Ước trên tay với niềm xác tín rằng mình là Chúa Giêsu Kitô. Như trường hợp một người Đức nọ từ phòng trọ trong khách sạn đã gọi cho Cảnh sát để bảo rằng nhân viên trong nhà bếp không cho ông chuẩn bị bữa Tiệc ly. Hoặc như trường hợp một du khách nọ không một mảnh áo che thân chạy xuyên qua các ngã đường và giải thích với nhân viên công lực rằng mình có sứ mạng chữa trị những người mù lòa.
Mỗi năm bịnh viện tâm thần Pha-sung đón tiếp ít nhất 50 bịnh nhân như trên, đa phần đến từ Hoa Kỳ số còn lại đến từ Tây Âu. Phần đông đều đã có lần bị rối loạn thần kinh trong quá khứ. Theo Bác sĩ tham gia làm việc tại bịnh viện Pha-sung, hội chứng Gierusalem có thể được giải thích bằng 2 cách: Hoặc là con người quá đỗi sung sướng được đặt chân đến miền đất mình hằng mơ ước, hoặc con người thất vọng khi nhận ra rằng Giêrusalem cũng chỉ là một nơi trần tục giống như mọi nơi khác trên mặt đất, cũng những bức tường, những cảnh kẹt xe… không muốn chấp nhận thực tại nhiều người đã rút lui vào một thế giới tưởng tượng.
Khung cảnh bên ngoài là điều cần thiết cho việc diễn tả niềm tin của con người. Có ảnh tượng, có bàn thờ trong gia đình, có giáo đường, có nơi phượng tự, có các lễ nghi, có những nơi hành hương cho con người sống lại cảm nghiệm của những người đi trước… Tất cả những điều này cần thiết cho nhu cầu tôn giáo của con người. Tuy nhiên con người dễ bị cám dỗ để chỉ dừng lại những khung cảnh bên ngoài mà quên đi mục đích của nó là đưa con người vào sự kết hợp với Thiên Chúa. Trong cuộc nói với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giê-su đã khẳng định như sau: "Đã đến giờ những kẻ thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật".
Nơi ngọn nguồn của việc tỏ mình ra của Đức Giêsu, có chứng từ của Chúa Cha: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần." Chúng ta chỉ nhận biết Đức Giêsu sau lời mạc khải của Chúa Cha. Đức Giêsu thường nhắc lại: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” ( Ga 6,44 ), “Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi” ( Ga 6,45 ). Và chính Thánh Thần do Chúa Cha sai đến đã chỉ cho Gioan tẩy giả biết Đức Giêsu. Nhờ ông, ta đi vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Ta chỉ nhận biết Đức Giêsu khi Thánh Thần Thiên Chúa đến mở mắt và chỉ cho ta thấy. Nếu không có Thánh Thần, không có lời chứng của các chứng nhân, ta sẽ không nhận biết Người. Người đâu phải là đối tượng của khoa học nhân văn mà ta có thể nhận dạng nhờ việc nghiên cứu. Người là ngôi vị Con Thiên Chúa mà ta chỉ nhận biết được khi chính Thiên Chúa tỏ ra cho ta. Người là đối tượng của một chứng từ. Không ai có thể nhận biết Người nếu họ không có trái tim rộng mở đón nhận những dấu chỉ của Chúa Thánh Thần.
Bạn nghĩ gì khi nghe linh mục nâng cao Mình Thánh Chúa lên và nói: "Đây là Chiên Thiên: TN 2-A22
Bạn nghĩ gì khi nghe linh mục nâng cao Mình Thánh Chúa lên và nói: "Ðây là Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian...?". Thánh Gioan tông đồ muốn nói gì, khi đề cập đến "Chiên Con Thiên Chúa". Trong sách Tin Mừng mà Ngài viết vào cuối đời, khi đã gần trăm tuổi? Khi giới thiệu Chúa Giêsu, ba phần tư thế kỷ trước đó, thánh Gioan Tẩy Giả đã muốn nói gì?
Kinh Thánh trình bày với chúng ta ba ý nghĩa khác nhau:
1. Ngôn sứ Isaia khi nói về người tôi tớ đau khổ của Giavê đã viết: "Bị đối xử tàn tệ, Ngài vẫn hạ mình không kêu một tiếng, như một con chiên bị đem đi giết. Như con cừu im lặng khi người ta xén lông" (Is 53,7).
Thánh Gioan (Ga 19,9) khi trình thuật cuộc tử nạn của Ðức Giêsu đã hiểu theo nghĩa này. Các Giáo Hội Ðông phương còn nhắc lại trong phụng vụ của mình.
2. Trong Giáo Hội Công giáo, Chiên Thiên Chúa nhắc chúng ta nhớ đến con chiên bị sát tế trong lễ Vượt Qua. Chính Ðức Giêsu đã bị kết án tử hình vào lúc các tư tế giết các con chiên để hiến tế trong lễ Vượt qua. Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Côrintô: "Ðức Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta đã bị sát tế" (Cum Pascha nostrum immolatus est Christus) (1Cor 5,7).
3. Sau cùng, trong sách Khải Huyền, Con Chiên xuất hiện đầy quyền năng trong cuộc chiến chống cái ác. Ngài đã chiến thắng và đưa các tín hữu tới nguồn Nước Hằng Sống.
Ngày nay, nghe nói Chiên Thiên Chúa, chúng ta thấy kỳ kỳ, lạ tai. Nhưng được Thánh Kinh soi sáng, hình ảnh, hay biểu tượng Chiên Thiên Chúa, làm cho lòng tin của chúng ta thêm phong phú và sâu sắc hơn.
Trước tiên chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã gởi đến cho chúng ta một vị đại tiên tri, đó là thánh Gioan: TN 2-A23
Trước tiên chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã gởi đến cho chúng ta một vị đại tiên tri, đó là thánh Gioan Tiền Hô, chính ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu cho chúng ta: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian" (Ga 1, 29b), nhờ đó mà chúng ta biết được Chúa Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại, là Đấng đã lập bí tích Rửa Tội để chúng ta được làm con Thiên Chúa và hòa giải chúng ta với Ngài qua bí tích Giải Tội.
Để trở thành người chuẩn bị đường cho Chúa Giêsu đến, thánh Gioan Tiền Hô đã có đủ ba điều kiện: được chọn, được sai đi và làm chứng.
Mỗi người Kitô hữu đang hiện diện trong xã hội hôm nay cũng là những người được chọn -không phải để chuẩn bị- nhưng là để làm chứng cách sống động cho tình yêu của Thiên Chúa ngay trong cuộc sống của mình, và như thế, mỗi Kitô hữu cũng đã có ba điều kiện trên đây để làm chứng cho Tin Mừng.
Thiên Chúa đã chọn chúng ta không như đã chọn thánh Gioan Tiền Hô: công khai kèm theo dấu lạ, nhưng Ngài đã chọn chúng ta qua đức tin của cha mẹ, qua hoàn cảnh của cuộc sống, qua bao thăng trầm của đời người, để chúng ta càng hiểu thấu đáo hơn về tình yêu của Ngài đối với chúng ta.
Thiên Chúa đã chọn chúng ta và sai đi làm chứng cho tình yêu hy sinh trên Thập Giá của Ngài. Ngài sai chúng ta đi vào trong những nơi phố chợ ồn ào náo nhiệt nhưng tâm hồn nhiều người đã lạnh tanh vì thiếu vắng tình yêu thương chân thật; Ngài sai chúng ta vào nơi công sở để rao giảng tin mừng Nước Trời bằng chính sự phục vụ chân tình của chúng ta; và cũng như thánh Gioan Tiền Hô đã vào trong hoang địa để suy tư tìm hiểu sứ mệnh của mình, Thiên Chúa cũng đưa chúng ta vào trong an tịnh của tâm hồn, không phải trong hoang địa, nhưng là sau những lần rước Thánh Thể hoặc viếng Thánh Thể, để qua xét mình kiểm thảo dứơi ánh sáng Lời của Ngài chúng ta thấy mình rõ hơn...
Thiên Chúa đã chọn chúng ta và đã sai chúng ta đi, để sống những gì mình đã cảm nghiệm được trong đức tin của mình. Thánh Gioan Tiền Hô đã lấy mạng sống của mình để trả giá cho cuộc đời chứng nhân cho sự thật, ngài đã chết anh dũng như ngài đã sống giữa tội ác và thế lực của bạo chúa Hêrođê.
Để sống những gì mình đã tin thì khó hơn là rao giảng bằng lời nói, bởi vì đức tin thì không thấy được, mà con người thời nay thì chỉ muốn thấy cho tường tận mới tin. Cho nên đời sống chứng nhân của người Kitô hữu rất quan trọng, do đó mà, khi con người thời nay đòi những dấu lạ mới tin, thì người Kitô hữu là chúng ta đều có thể làm dấu lạ cách kỳ diệu, dấu lạ đó chính là sống yêu thương và phục vụ cách chân thành tha nhân thì đó chính là dấu lạ như bài ca Hòa Bình của thánh Phanxicô Khó Nghèo: đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm... đó chính là đức tin được thể hiện bằng hành động vậy.
Anh chị em thân mến,
Ngày xưa, Thánh Gioan Tiền Hô đã giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của mình, thì ngày nay, mỗi người chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho người anh em chị em của chúng ta không chỉ bằng lời nói mà thôi, nhưng còn là bằng đời sống của chính mình: đời sống yêu thương và phục vụ, đó chính là cách giới thiệu khoa học nhất mà chính các thánh đã thực hành trong cuộc sống của mình.
Câu hỏi gợi ý:
- Bạn có lần nào giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác chưa ? Nếu có thì bằng cách nào ?
- Giả sử bạn là một người Kitô hữu nhưng rất lơ là với tôn giáo của mình, bạn có giật mình khi thấy có người nhắc nhở bạn là người Kitô hữu ?
- Có lúc nào bạn muốn mình là thánh Gioan Tiền Hô không ?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 2 thường niên tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan. Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Gioan tẩy giả làm chứng và giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ mình: - Chúa Giêsu là Con: TN 2-A24
Gioan tẩy giả làm chứng và giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ mình:
- Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.
- Chúa Giêsu tuy đến sau Gioan nhưng trổi hơn Gioan và có trước Gioan.
- Chúa Giêsu là Đấng tràn đầy Thánh Thần và sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
B.... nẩy mầm.
1. “Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng…”: Trong Tin Mừng Ga, động từ “thấy” có ý nghĩa rất sâu: không phải chỉ là một cảm nhận của thị giác mà còn dẫn tới một cảm nghiệm của đức tin. Bởi thế trong các sách Tin Mừng, có những người đã xin Chúa Giêsu giúp mình “thấy” (Mc 10,47-48) ; có những người được Chúa Giêsu cho “thấy” (Mc 10,49-52) ; có những người đã “thấy” một cách dần dần qua nhiều giai đoạn (Ga 20,15-16 Lc 24,15-16…), và có những người tuy mắt vẫn mở mà không “thấy” (Ga 9,40-41).
Thánh Gioan tẩy giả đã “thấy” Chúa Giêsu và đã làm chứng về Ngài. Phần tôi, làm cách nào để tôi thực sự “thấy” được Chúa Giêsu đến nỗi có thể làm chứng cho Ngài ?
2. Có hai lời chứng của Gioan rất đáng ta ngưỡng mộ: “Ngài là kẻ đến sau tôi nhưng trổi vượt hơn tôi” ; “Tôi chỉ rửa bằng nước, còn Ngài rửa bằng Thánh Thần” à làm chứng là nói rõ sự thật, cho dù sự thật đó “phũ phàng” có thể khiến bản thân mình bị “xuống giá”.
3. Mục đích của việc Gioan làm chứng cho Chúa Giêsu là để cho Ngài lớn lên còn Gioan nhỏ đi, Ngài sáng lên còn Gioan mờ xuống.
Đôi khi tôi làm ngược lại, muốn cho tôi lớn lên và sáng lên, tôi đã khiến Chúa bị nhỏ đi và mờ xuống.
4. Những lời của Gioan đã chạm đến lòng người nghe nhờ hai lý do: ông giúp họ ý thức mình là kẻ tội lỗi cần được cứu và sau đó giúp họ cởi mở lòng ra cho Chúa Giêsu là Đấng xóa tội trần gian.
Tôi có ý thức mình là kẻ tội lỗi cần được cứu không ? Tôi có mở lòng tôi ra cho Chúa Giêsu đấng muốn xoá hết mọi tội lỗi của tôi không ? (Mark Link, Vision 2000)
5. “Nhiều người không nhìn nhận Chúa Giêsu, bởi vì họ không nhận mình là kẻ tội lỗi. Nếu tôi không phải là kẻ tội lỗi thì tôi sẽ không cần đến Đức Kitô. Tôi sẽ không cử hành mầu nhiệm Đức Kitô trong niềm vui mừng nếu tôi không buồn rầu ý thức mình là một tội nhận đang cần một Đấng cứu độ. Tuy nhiên, điểm nhắm không phải là tội của tôi mà là Đức Kitô Đấng cứu độ” (Kilian Mc Donnell).
Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói:”Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.
Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước.” Ông Gioan còn làm chứng:”Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi:”Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”
Với những lời Kinh thánh vừa nghe, chúng ta bước vào tuần thứ hai của tuần lễ hết sức hệ trọng: TN 2-A25
Với những lời Kinh thánh vừa nghe, chúng ta bước vào tuần thứ hai của tuần lễ hết sức hệ trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu. Bấy giờ, Ngài đã chịu phép rửa, đã chịu cám dỗ rồi và sắp bắt tay vào công tác mà Ngài đến thế gian để thi hành. Một lần nữa, Phúc âm thứ tư cho chúng ta thấy rõ Gioan Tẩy giả tự phát tôn vinh Chúa Giêsu. Ông gọi Chúa Giêsu bằng danh hiệu phi thường đã được gắn liền trong chính ngôn ngữ của hiến tế:”Con Chiên của Thiên Chúa”. Gioan đã nghĩ gì khi ông dùng danh hiệu đó? Ít nhất có bốn hình ảnh được gợi lên:
1. Rất có thể Gioan đang nghĩ đến Con Chiên của lễ Vượt Qua, bấy giờ ngày lễ Vượt Qua cũng sắp đến (2,13). Câu truyện cổ về lễ Vượt Qua kể rằng: nhờ máu con chiên bị giết mà con trai đầu lòng của người Is-ra-en được bảo vệ trong đêm họ rời Ai cập. Trong đêm đó, lúc thiên sứ ra đi đánh giết các con trai đầu lòng của người Ai cập, thì người Is-ra-en phải bôi máu của con chiên bị giết trên cửa, để thiên sứ ấy thấy máu thì vượt qua nhà họ. Nhờ máu con chiên đó, họ thoát được cơn hủy diệt. Có người gợi ý rằng chính lúc Gioan trông thấy Chúa Giêsu , thì ở cánh đồng gần đó ông cũng trông thấy những bầy chiên lùa ngang qua, từ vùng quê lên Giêrusalem. Những con chiên đó sẽ được dùng làm của lễ cho ngày lễ Vượt Qua... Máu của con chiên lễ Vược Qua đã giải cứu người Is-ra-en tại Ai cập cho thoát khỏi chết chóc. Có thể Gioan muốn nói:"đây là của lễ đích thực và duy nhất có thể giải cứu các ngươi khỏi sự chết". Tông đồ Phaolô cũng đã nghĩ về Chúa Giêsu như là Con Chiên của lễ Vượt Qua (1Cor 5,7). Có một sự giải thoát cho chúng ta mà chỉ một mình Chúa Giêsu mới thực hiện được.
2. Gioan vốn là con trai của thầy tư tế, chắc ông biết rõ mọi chi tiết liên hệ đến đền thờ và việc dâng của lễ. Hằng ngày buổi sáng và buổi chiều, luôn luôn có một con chiên được dâng làm của lễ trong đền thờ để chuộc tội cho dân chúng (Xh 29,38-42). Bao lâu còn đền thờ thì của lễ còn được dâng lên mỗi ngày. Cả khi dân chúng chết đói vì chiến tranh và bị bao vây, họ cũng chẳng bao giờ bỏ qua việc dâng con chiên cho đến năm 70 SC, khi đền thờ bị phá hủy. Có lẽ Gioan muốn nói:"mỗi sáng, mỗi chiều một con chiên được dâng lên vì tội lỗi của dân chúng, nhưng thực sự chỉ một mình Chúa Giêsu mới là của lễ duy nhất có thể giải thoát loài người khỏi tội lỗi".
3. Trong các sách tiên tri có hai hình ảnh lớn về con chiên. Giêrêmia viết:"còn tôi, như con chiên hiền lành bị đem đi giết" (11,19). Isaia có bức tranh vĩ đại về người bị đưa đi "như con chiên đến hàng làm thịt" (53,7). Cả hai nhà tiên tri đều có linh tượng về Đấng chịu đau đớn và hi sinh với thái độ hiền lành và đáng yêu sẽ cứu chuộc dân Ngài. Có lẽ Gioan muốn nói rằng:"các tiên tri của các ngươi từng mơ tưởng đến một ngày sẽ yêu thương, chịu đau đớn rồi chịu chết cho dân, người ấy đã đến rồi". Đúng là về sau, bức tranh trong Isaia 53 đã trở thành lời tiên báo quí báu nhất cho Hội Thánh về Chúa Giêsu trong cả Cựu Ước. Gioan là người đầu tiên đã thấy như vậy.
4. Còn hình ảnh thứ tư tuy xa lạ với chúng ta nhưng lại rất quen thuộc với người Do thái. Thời gian giữa Cựu Ước và Tân Ước, có những ngày chiến đấu ác liệt của anh em nhà Maccabê. Trong giai đoạn ấy, con chiên, nhất là con chiên có sừng là biểu tượng của một nhà chinh phục vĩ đại. Cũng như Samuel, Đavít, Salômôn, Giuđa Maccabê đã được mô tả như thế. Điều có lẽ hơi lạ tai với chúng ta, là con chiên lại tiêu biểu cho nhà chinh phục vô địch của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đây không phải là bức tranh về thái độ ngoan ngoãn, yếu đuối, bất lực, mà là bức tranh về sự uy nghi mạnh mẽ đắc thắng. Chúa Giêsu là nhà vô địch của Thiên Chúa, đã chiến đấu với tội lỗi và đã đánh bại nó trong chỉ một trận đánh mà thôi.
Thành ngữ Chiên của Thiên Chúa là một thành ngữ hết sức kỳ diệu. Tác giả sách Khải huyền đã dùng thành ngữ ấy 29 lần trong sách của mình, và trở thành một trong những danh hiệu quí báu nhất của Chúa Cứu Thế. Chỉ trong một chữ, thành ngữ tóm tắt được tình yêu thương, đức hi sinh chịu khổ và chiến thắng khải hoàn của Chúa Giêsu.
Gioan Tẩy giả chưa từng biết Chúa Cứu Thế, nhưng ông lại là bà con với Chúa Giêsu , và chắc chắn đã quen biết Ngài. Không phải Gioan nói ông không biết Chúa Giêsu là ai, nhưng ông muốn nói là mình chưa từng nhận biết Ngài là Đấng Messia (Cứu Thế), ông vừa mới được mạc khải rằng Giêsu này chính là Con Thiên Chúa .
Lại một lần nữa, Gioan Tẩy giả nói rõ phận sự duy nhất của ông là chỉ cho người ta đến với Chúa Giêsu . Ông chẳng là gì hết, còn Chúa Cứu Thế Giêsu là tất cả. Ông không hề đòi hỏi danh tiếng hay địa vị cho chính mình, ông chỉ là người kéo màn để Chúa Giêsu một mình chiếm ngự trong sân khấu.
Đề tài của bài đọc Phụng vụ hôm nay là Ơn Cứu độ. Ơn Cứu Độ từ đâu mà đến và sẽ thực hiện: TN 2-A26
Đề tài của bài đọc Phụng vụ hôm nay là Ơn Cứu độ. Ơn Cứu Độ từ đâu mà đến và sẽ thực hiện như thế nào ?
Bài đọc 1 cho ta thấy quan niệm Ơn Cứu độ trong Cựu ước.
Dân Do thái, khi nói đến Ơn Cứu độ, họ liên tưởng đến một cuộc giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Họ mong ước một vị Cứu Tinh xuất hiện phất cờ giải phóng đuổi quân xâm lăng. Nhưng Ơn Cứu độ của Thiên Chúa không phải là một cuộc giải phóng vật chất mà trước tiên là một cuộc giải phóng tinh thần, một cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Nhà tiên tri Isaia nói đến Ơn Cứu độ như một cuộc giải thoát, không những cho con cái Israel, mà cho toàn thế giới. Người loan báo một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đến như ánh sáng của các dân tộc, như một dấu chỉ cuộc giải thoát.
Dấu chỉ đặc biệt và duy nhất ấy là Đức Giêsu Kitô, Ngài đến không phải chỉ để cứu độ cá nhân thôi mà còn cứu vãn cả thế giới.
Ngài sẽ cứu độ chúng ta như thế nào và bằng cách nào?
Trong bài đọc II, Thánh Phaolô cho biết Ơn Cứu độ đến với chúng ta qua và nhờ Giáo Hội. Ơn Cứu độ, Chúa ban cho từng người nhờ phép Bí tích rửa tội thánh hóa. Nhưng, Phaolô nói: những người được thánh hóa trong Chúa Ki tô, được kêu gọi nên thánh, làm một với tất cả mọi người khắp nơi đang kêu cầu Thánh danh Chúa". Nghĩa là Ơn Cứu rỗi Chúa ban cho từng người, nhưng ở trong tổ chức Ngài đã thiết lập ấy là Hội Thánh. Chúng ta sống đạo để được ơn cứa rỗi, nhưng không riêng rẽ, tại tâm thôi, mà hiệp nhất với Giáo Hội, với Cộng đồng dân Chúa. Phaolô viết: “Chúng tôi kính chào Hội Thánh Corintô". Mặc dầu cộng đoàn ấy chúng có nhiều khuyết điểm mà nhiều người chỉ trích, nhưng Thánh Tông đồ quan niệm rằng Ơn Cứu độ của Chúa được thông qua nhờ các cộng đoàn ấy. Tất cả đều kêu cầu Đứctô là Cứu Chúa. Và thật là nhỏ nhen và độc hại khi có những chia rẽ tranh giành chống đối nhau trong cộng đoàn Dân Chúa, những Cộng đoàn có sứ mạng chuyển đạt Ơn Cứu rỗi.
Ơn Cứu độ thực hiện như thế nào? Bài Tin Mừng trả lời cho chúng ta câu hỏi quan trọng ấy.
Ngày nay, có người quan niệm rằng khoa học, cơ giới, các thứ ý thức hệ sê cứu vãn thế giới, nhưng rồi người ta nghiệm thấy bất công càng chồng chất, hố chia rẽ càng khơi sâu, loài người cần đến một cuộc cứu vãn căn bản và siêu việt hơn. Nếu tội lỗi của loài người là nguyên do mọi sự dữ, thì Ơn Cứu độ chỉ có thể đến từ motc Đấng vô tội, Đấng cứu vãn thế giới khỏi tội lỗi, Đấng ấy đã xuất hiện trên bờ sông Giođan năm 28 kỷ nguyên và được Gioan Tiên Hô hướng chỉ: "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian".
Chúa Giêsu thật là Con Chiên trong sạch, Đấng sinh ra từ gia đình nhân loại tội lỗi nhưng không biết đến tội lỗi. Mẹ Ngài là một trinh nữ không vứng mắc tì ố tội. Ngài đến để xoá tội chúng ta bằng sự chết và sự sống lại của Ngài. Ngài chết đúng vào lúc mà trong đền thờ ngài ta tế sát con chiên lễ vượt qua.
Ngài chết không một lời than vãn như con chiên người ta đem đi giết mà không thở than. Ngài chết để đần tội chúng ta, để cứu rỗi chúng ta. Phép rửa tội mà phép rửa của Gioan chỉ là tượng trưng, là Bí tích cứu rỗi làm cho chúng ta cùng chết cho tội lỗi và được sống lại với Ngài trong cuộc sống mới.
Sau khi giới thiệu Chúa Kitô là Con Chiên gánh cội, Gioan nói: "Đấng sai tôi đi làm làm phép rửa đã đoan chắc với tôi rằng Người nào mà tôi thấy Thánh Thần xuống, Người ấy chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần”. Đó là dấu chỉ để nhận ra. Đó cũng là sự khác biết giữa các cuộc thanh tẩy: người Do thái và dân ngoại có thói quen tắm gội, Gioan và nhóm Essanien làm phép rửa để đón Đấng Messia. Chỉ có Chúa Giêsu đã làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần để tẩy xóa tội lỗi và ban ơn thánh hóa. “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
Tại tiền đường cao vút của Thánh đường Verden ở Đức, có khắc hình một con chiên, đê ghi nhớ câu như sau: Có một người thợ đang làrn việc trên mái nhà thờ cao vót, trượt chân rơi xuống đất. Ai cũng tưởng ông chết. Nhưng may ông rơi đúng vào trên một con chiên hiền lành đang ăn cỏ ở sân. Con chiên chết nhưng ông được sống. Ngài là Chiên Thiên Chúa đã chết để ban ơn Cứu độ cho chtíng ta vậy.
Khi phải làm một chuyến hành trình dài, người ta cần có bạn đồng hành, để có bạn đường mà: TN 2-A27
Khi phải làm một chuyến hành trình dài, người ta cần có bạn đồng hành, để có bạn đường mà chia vui xẻ buồn, nói với nhau, và giúp đỡ nhau. Hai môn đệ hành trình Emmau nhờ đi chung với nhau nên đã san sẻ cho nhau nỗi buồn nặng trĩu sau những biến cố đau thương xảy ra tại Giêrusalem. Họ lại có được một bạn đồng hành nữa là Đức Giêsu phục sinh. Chính Người Bạn đồng hành này đã xóa tan mọi sầu lo của họ và làm cho niềm tin của họ sống lại.
Đời người trên dương thế là một cuộc hành trình dài thăm thẳm, không biết bao giờ mới xong, cũng không chắc sẽ đi đến đích hay không. Vậy mà có nhiều người cứ mãi độc hành: một mình tìm đường, một mình đi, một mình xoay trở trước những khó khăn... Thật là phiêu lưu!.
Mùa thường niên của năm Phụng vụ cũng là một cuộc hành trình, nhưng không phải độc hành, mà là đồng hành với Chúa Giêsu: chúng ta cùng với Ngài đi qua những chặng đường từ Nadarét đến Galilê để tới Giêrusalem; từ gian khổ đến vinh quang; từ chết đến sống lại. Có Ngài cùng đi với chúng ta, chúng ta không sợ lạc đường. Cùng đi với Ngài, cho dù nhiều lúc gặp khó khăn, chắc chắn chúng ta sẽ tới đích. Chúa Giêsu đồng hành với chúng ta nghĩa là Ngài sẽ vui khi chúng ta vui, Ngài sẽ buồn khi chúng ta buồn; chúng ta đồng hành với Chúa Giêsu cũng có nghĩa là ta sẽ được vui niềm vui của Ngài và buồn với nỗi buồn của Ngài. Đời ta không cô độc, buồn tẻ...
Tuy chỉ là "mùa thường niên" không có những lễ trọng, nhưng nếu chúng ta sống mùa này như một người đồng hành với Chúa, cuộc đời chúng ta chắc chắn sẽ rất có ý nghĩa.
2. Người Con và Người Tôi Tớ
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu với hai nét tương phản nhau: Ngài là Người Con yêu quý của Thiên Chúa cao sang, và Ngài là Người Tôi Tớ khiêm tốn thấp hèn. Thực ra hai nét trên không dối chọi nhau mà làm nổi bật nhau và soi sáng cho nhau: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa cao sang do cách Ngài sống như một Người Tôi Tớ; và Ngài là Người Tôi Tớ tuyệt hảo bởi vì Ngài là Con Thiên Chúa cao sang.
Nhìn Chúa Giêsu, chúng ta rút ra được một triết lý sống: sống cao thượng trong hoàn cảnh tầm thường; và sống hoàn cảnh tầm thường với tâm hồn cao thượng.
Cùng sống với Chúa Giêsu qua những biến cố mỗi tuần trong Mùa thường niên này, chúng ta có thể thực hiện được triết lý sống tuyệt vời ấy.
3. Con Chiên gánh tôi trần gian.
Thời Cựu ước trong ngày lễ Đền tội, người do thái bắt một con chiên đem đến cho Tư tế. Vị Tư Tế đọc một danh sách các thứ tội của dân và kêu gọi mọi người sám hối. Sau đó Tư Tế đặt tay trên đầu con dê, ngụ ý trút hết danh sách tội ấy lên đầu nó, rồi đuổi nó vào sa mạc. Con chiên ấy được gọi là con chiên gánh tội.
Khi Thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu Đức Giêsu là "Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian", phải chăng Thánh Gioan cũng có ý rằng Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi chúng ta nên từ nay loài người không còn tội gì nữa? đơn giản và dễ dàng thế sao?
Quả thực Đức Giêsu đã gánh lấy tội trần gian. Việc này có nghĩa là nhờ Ngài mà tội lỗi chúng ta được tha thứ. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta không phải làm gì cả.
Cần phân biệt rõ giữa tội lỗi và thân phận tội lỗi. Đức Giêsu gánh lấy và tha thứ tội lỗi chúng ta, như con chiên đã mang tội lỗi dân Do thái vào sa mạc. Nhưng thân phận tội lỗi của chúng ta vẫn còn. Và Đức Giêsu muốn giúp chúng ta cải thiện thân phận ấy, dĩ nhiên là với sự hợp tác của chúng ta.
-Ngài giúp chúng ta thế nào? Bằng cách đến với chúng ta, sống gần chúng ta, gieo vào mảnh đất tâm hồn chúng ta hạt giống sự tết lành và thánh thiện của Ngài.
-Chúng ta hợp tác thể nào? Bằng cách tiếp nhận Ngài, sống với Ngài và để cho những hạt giống ấy lớn lên trong lòng mình.
Sự tha thứ cửa Chúa và bí tích Giải tội không phải là một thứ phù phép, mà là một trợ lực, một hạt giống.
4. "Ngài cao trọng hơn tôi”
Ngày xưa một vị vua bảo một ông quan: "Khanh hãy đi khắp đất nước tìm về cho trẫm một người tốt". Ông quan này tính tình hung dữ, gian dối và không có bạn. Sau một thời gian đi tìm, ông trở về triều, tâu:
"Thần đã đi khắp nơi, gặp hết mọi người. Nhưng chẳng tìm được người nào tốt cả . Ai cũng hung dữ, gian dối vàkhông có bạn”.
Nhà vua sai một quan khác: "Khanh hãy đi khắp đất nước tìm về cho trẫm một người xấu. Ông này cô lòng nhân từ, quảng đại và được mọi người thương mến.
Sau một thời gian đi tìm, ông cũng trở về triều và tâu: "Hạ thần không thể chu toàn sứ mạng mà Bệ Hạ giao phó . Hạ thần đã gặp nhiều người gian lận, trộm cắp, tham lam ...Nhưng chẳng có người nào thực sự xấu cả. Dù họ đã làm những điều ấy, nhưng trong thâm tâm ai cũng tốt
Câu trên muốn nói rằng ta có khuynh hướng nhìn người khác không theo lòng họ mà theo lòng ta. Thánh Gioan Tẩy giả thì không thế. Nếu như mọi người thì Gioan sẽ coi thường Đức Giêsu, bởi Ngài đến sau ông; chẳng những thế ông còn coi Ngài là đối thủ của ông, bởi Ngài đang lấn dần ảnh hưởng của ông. Nhưng Gioan đã nghe theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần nên đã hiểu đúng về Đức Giêsu và đã nhất định giới thiệu Ngài cho mọi người: "Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi vì Ngài cao trọng hơn tôi".
5. Được kêu gọi nên thánh .
Trong thư gởi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô định nghĩa tín hữu là "những người được kêu gọi nên thánh". Nhưng "thánh" là gì ? Theo thần học, chỉ có một mình Thiên Chúa là "thánh" (Kinh Sáng Danh: "Chỉ có Chúa là Đấng Thánh"). Theo Thánh Kinh, những ai và những gì thuộc về Thiên Chúa cũng được gọi là "thánh", chẳng hạn Đền thánh, Luật thánh, thánh nhân...; việc dâng hiến một người hoặc một vật cho Chúa được gọi là thánh hiến.
Vậy tín hữu là những người được kêu gọi nên thánh có nghĩa là tín hữu được mời gọi ngày càng thuộc về Chúa hơn, ngày càng giống Chúa hơn. Nhưng làm thế nào để được như vậy? Cách tốt nhất là thường xuyên ở bên Chúa, nhìn vào Chúa và noi gương Chúa. Đó là điều mà phụng vụ các ngày chúa nhât quanh năm muốn giúp chúng ta. .
Gioan Tẩy Giả là một chứng nhân của Chúa Cứu Thế. Chứng nhân là người đã thấy, đã nghe: TN 2-A28
Gioan Tẩy Giả là một chứng nhân của Chúa Cứu Thế. Chứng nhân là người đã thấy, đã nghe, đã gặp gỡ đã hiểu biết con người mà mình làm chứng. Nếu không thì chứng từ của người ấy không đáng tin.
Gioan Tẩy Giả lúc đầu đã tự thú nhận: "Phần tôi, trước kia tôi đã không biết Ngài". Cái biết ở đây, Gioan Tẩy Giả muốn nói đến một sự nhận biết về con người thật củaa Chúa Giêsu, chứ không phải chỉ là một cá biết hời hợt do việc tiếp xúc bên ngoài. Vì chẳng lẽ, Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu là hai anh em họ hàng mà lại không biết nhau sao?
Mãi cho đến một hôm, Gioan Tẩy Giả mới dám lên tiếng công khai quả quyết, không chút do dự rằng: “tôi đã thấy và tôi xin làm chứng”. Thật vậy trong lúc Gioan Tẩy Giả làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu, ông "đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và đậu lại trên Ngài".
Đó là dấu hic mà Đấng sai ông đi làm Phép Rửa đã cho ông biết sự thật về Chúa Giêsu: "Hễ thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì Đó là Ngài”."Tôi đã thấy, nên tội xin làm chứng: Chính Ngài là Con Thiên Chúa”. Kể từ đó, Gioan Tẩy Giả bắt đầu mạnh dạn làm chứng về Chúa Giêsu và giới thic Ngài cho dân Do Thái: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa tội trần gian”.
GIỚI THIC CHÚA CỨU THẾ
Chúng ta ngạc nhiên trước lời giới thic bí ẩn của Gioan Tẩy Giả. Tại sao Gioan Tẩy Giả lại giới thic Chúa Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa? Với danh hic “Con Chiên Thiên Chúa”; ông muốn nói gì với dân Do thái và nói với chúng ta về Chúa Giêsu?
Danh hiệu “Con Chiên Thiên Chúa "là một danh hiệu được Thánh Sử Gioan sử dụng rất nhiều, nhất là trong Sách Khải Huyền, khi nói đến Con Chiên Con bị sát tế. Danh hic này bao hàm nhiều ý nghĩa đối với người Do thái. Họ là những người biết rõ nghi thức ăn tiệc Chiên Vượt Qua hằng năm.
Mỗi năm vào lễ Vượt Qua, người ta giết một con chiên con, làm thịt theo đúng nghi thức để tưởng niệm ngày Thiên Chúa giải phóng dân Do thái khỏi ách nô Lc Ai cập, nhờ dấu máu của con chiên bị giết ăn thịt bôi lên khung cửa trong đêm họ vượt qua Biển Đỏ về Đất Hứa. Họ cũng biết rõ nghi thức sát tế hằng ngày một con chiên trong Đền Thờ Giêrusalem để làm của lễ đền tội cho dân chúng.
Như thế, khi giới thic Chúa Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa, Gioan Tẩy Giả muốn cho dân Do thái nhận biết Chúa Giêsu đây là con chiên gánh mang tất cả tội lỗi nhân loại trên trần gian, là Con Chiên tự hiến tế làm của lễ đền thay tội lỗi muôn dân, thực hiện đúng hình ảnh "Người Tôi Tớ của Giavê Thiên Chúa" như đã được loan báo trong sách Ngôn sứ Isaia: "Người tôi tớ của Giavê đã mang lấy tội lỗi của nhiều người, Ngài đã bị đãm vì những sự ngỗ nghịch của chúng tôi, và vì tội lỗi của chúng tôi, Ngài đã bị nghiền nát, bị tra tấn, Ngài đã chịu đựng mà không hé môi, như con cừu bị dẫn đến lò sát sinh, như con chiên ngâm câm không hề mở Miệng. Hình phạt đã giáng xuống trên Ngàii để đổi tấy sự bình an cho chúng tôi và nhờ những vết hằn Ngài chịu mà chúng tôi có phương được chữa lành" (x.Is. 53)
Nói chung, khi giới thic “Con Chiên của Thiên Chúa", Gioan Tẩy Giả muốn nói đến những hình ảnh “con Chiên Vượt Qua”,”Con Chiên đền tội" và “Người Tôi Tớ đau khổ", để chúng ta thấy rõ sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu Kitô. Là Đấng Cứu Thế Chúa Giêsu sẽ tế lễ thân mình, như Con Chiên ngoan hiền, vô tội, bị đic đến lò sát sinh để giải phóng và hồi sinh nhân loại tội lỗi qua mầu nhiệm Vượt Qua: Tử nạn và Phục sinh.
Nhờ mạc khải của Thiên Chúa, Gioan Tẩy Giả đã nhận ra Chúa Giêsu là “Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn" để gánh vác tội lỗi trần gian: “Đấng xóa tội trần gian". Đó là sứ vụ của Chúa Giêsu Kitô.
SỨ MẠNG CỦA CHÚA CỨU THẾ VÀ CỦA CHÚNG TA
Chúa Giêsu là người vô tội, nghĩa là Ngài không làm một điều gì ác hại cho ai, không gây ra bất công cho người nào, nhưng Ngài đã mang lấy tất cả hậu quả của tội ác trên thân xác Ngài. Cái chết trên Thập giá là bản án cuối cùng của tội ác, trong đó chất chứa tất cả những hậu quả của bất công, từ cảnh áp bức cho đến nô Lc, bệnh tật, nghèo đói...Ngài đón để xóa bỏ tất cả những hậu quả của tội ác dưới mọi hình thức cho đến tận nguồn gốc của chúng ta là tội lỗi trong lòng con người. Ví như Chúa Giêsu đã nói: "Tự lòng con người phát xuất những ý định gian là, những tội giết người, ngoại tình, là dâm, trộm cắp gian dối..." Đó mới là những cái làm đồi bại con người và xã hội.
Chúng ta phạm tội, gây ra những sự xấu xa, ác hại cho mình và cho anh em. Chúng ta phải đền tội, Đó là điều phải lẽ. Nhưng chúng ta còn phải liên đới và chia sẻ trong tai họa của sự ác do chính chúng ta đã gây ra hoặc do những kẻ khác gây ra nữa. Chúng ta phải chịu cảnh nghèo đói, bệnh tật, phải chia sẻ thân phận bị áp bức, bóc lột...
Tuy nhiên, sự liên đới, chia sẻ, gánh vác của chúng ta không thể nào mang tính cách tiêu cực được. Chúa Giêsu liên đới, chia sẻ thân phận con người tội lỗi của chúng ta là để giải phóng, để khử trừ, để tiêu diệt tội lỗi. Một bác sĩ chia sẻ cơn bệnh của bệnh nhân, không thể nào cứ để cho bệnh nhân bị cơn bệnh hoành hành mãi được. Cái gánh vác tội lỗi của chúng ta với Chúa Cứu Thế phải là một cuộc nhập thể, một nhập cuộc để giải phóng, phải nhận lấy cái đau khổ, bệnh tật, nghèo đói, để rồi từ đó tìm con đường, tìm giải pháp tiêu diệt nỗi đau khổ của con người do chính tội ác của con người gây ra cho anh em đồng loại của mình.
Từ nhận định về mặt tôn giáo, chúng ta phải khẳng định rằng, nỗi đau khổ của mọi người, từ nỗi đau khổ cá nhân cho đến nỗi đau khổ của cả loài người, là trách nhiệm tôn giáo của người Kitô hữu chúng ta. Tình liên đới của mọi người trong tai họa của sự ác trở nên yếu tố thuận lợi cho ơn cứu dộ.
Tất cả mọi người đều đồng hưởng ơn cứu độ do Chúa Kitô mang lại. Ơn cứu độ rộng mở đón bất cứ ai. Điều tiên quyết đòi hỏi nơi con người là không từ chối lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô, ít ra không từ chối một cách cố chấp.
Một khi đã ý thức về tình liên đới của chúng ta trong tai họa tội lỗi, chúng ta hãy cố gắng lật ngược ý nghĩa của tình liên đới này, bằng cách đi sâu vào con đường hiệp nhất với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta, để xóa bỏ, khử trừ, tiêu diệt tội lỗi.
Trong Thánh lễ, Chủ tế cũng lập lại với chúng ta lời giới thic của Gioan Tẩy Giả: "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta biết đón nhận Chúa Giêsu Kitô và cùng hiến thân mình với Ngài cho Thiên Chúa và cho anh em trong cuộc sống. Đó là lễ tế thiêng liêng chúng ta cùng dâng lên để tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Với Chúa nhật Đức Giêsu chịu phép Rửa, Phụng Vụ dẫn ta vào giai đoạn mới trong đời Đức: TN 2-A29
Với Chúa nhật Đức Giêsu chịu phép Rửa, Phụng Vụ dẫn ta vào giai đoạn mới trong đời Đức Giêsu, giai đoạn tỏ mình và hoạt động công khai nhằm cứu độ nhân thế. Trong ý hướng đó, Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay giới thiệu Đức Giêsu là Ánh sáng muôn dân và là Đấng xoá tội trần gian, mời gọi ta thực sự tin nhận Đức Giêsu và trở thành người giới thiệu Đức Giêsu cho tha nhân.
I. TUYÊN XƯNG ĐỨC GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG VÀ CHIÊN XOÁ TỘI
Ai trong chúng ta cũng biết trong sách Isaia đệ nhị, từ chương 40-55, có bốn bài ca vốn thường được gọi là bài ca về Người Tôi Tớ và bốn bài ca ấy tạo thành một toàn thể độc lập với những lời sấm trong sách.
Vấn đề là tác giả có ý ám chỉ ai khi phác hoạ chân dung người Tôi Tớ ? Phải chăng là Vua Kyrô ? Hay là số sót của Ítraen ? Hay là Người Tôi Tớ sẽ xuất hiện trong thời cánh chung ? Xem ra không nhân vật hay tập thể nào hoạ lại hoàn toàn chân dung Người Tôi Tớ của Isaia. Dẫu sao đi nữa, ý nghĩa căn bản vẫn là trình bày một cộng tác viên đắc lực trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Cũng vì thế, không lạ gì khi ngay từ những thế kỷ đầu tiên, các Kitô hữu đã gặp được giữa chân dung Người Tôi Tớ và cuộc đời cũng như sứ vụ của Đức Giêsu một tương ứng đặc biệt.
Mối tương ứng ấy xuất hiện rõ nét hôm nay khi ta nối kết bài đọc I và bài Tin Mừng. Trong bài đọc I, sứ vụ Người Tôi Tớ được trình bày không chỉ là sứ vụ liên hệ đến Dân được tuyển chọn, nhưng còn là sứ vụ cứu độ phổ quát: "Này đây Ta đặt ngươi thành ánh sáng muôn dân, để ơn cứu độ của Ta tràn lan khắp địa cầu” (Bài đọc I).
Còn trong bài Tin Mừng, Gioan giới thiệu Đức Giêsu là "Chiên Thiên Chúa đấng xoá tội trần gian". Linh mục Nguyễn Thế Thuấn dịch là "Đấng khử trừ tội lỗi thế gian" với giải thính: khử trừ là huỷ diệt đi, khử trừ tội là huy diệt tội một nghĩa rất mạnh.
"Chiên Thiên Chúa" có thể gợi nhớ tới Chiên Vượt Qua (Xh.2), nhưng cũng còn đưa về hình ảnh Người Tôi Tớ đau khổ (Is.53), vốn như con chiên bị dẫn đến lò sát sinh và câm lặng trước kẻ xén lông. Chiên Thiên Chúa ấy sẽ khứ trừ tội lỗi thế gian, tội lỗi vốn được hình tượng hoá trong tư tưởng Gioan bằng bóng đêm tăm tối, và Đức Giêsu là Ánh sáng bừng Lcn giữa màn đêm tăm tối ấy. Nhất nữa là với Gioan, bài Tự ngôn (l,l 8) không chỉ ngừng lại ở một thời điểm lịch sử mà đưa về tới khởi nguyên của lịch sử "Tự khởi thuỷ.... ". Và như thế, đức Giêsu là Đấng sửa chữa lại tất cả những tàn phá mà tội lỗi đã mang vào thế gian. Ngài là Đấng xoá tội thế gian và là ánh sáng muôn dân, nhờ Ngài muôn dân được đón nhận ơn cứu độ.
II ĐỂ ĐÓN NHIẬN ÁNH SÁNG
Nếu Đức Giêsu là ánh sáng muôn dân và là Đấng xoá tội thế gian, điều quan trọng là phải tin nhận Ngài làm Cứu Chúa của mình.
Chỉ có Đức Giêsu mới giải thoát ta khỏi thân phận nô Lc căn bản nhất là nô Lc tội lỗi. Thiên Chúa cứu độ con người không bằng lý thuyết đạo đức, cũng không bằng những lời khuyên dạy ăn ngay ở lành, nhưng trước hết và trên hết, ơn cứu độ được thực hiện nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô và ở nơi Đức Giêsu Kitô, phần phúc và sự cứu rỗi của ta mới có được (lCr l,30). Thành ra, phải chịu lấy, phải tin nhận Đức Giêsu trước đã, để quyền năng và tình thương của Thiên Chúa nơi thập giá đức Kitô chữa lành ta, cho ta được sống lại trong sự phục sinh của Ngài. Chỉ có sức mạnh của thẩp giá Đức Kitô phục sinh mới khử trừ hết mọi tội lỗi trong ta và ban cho ta sức mạnh bước đi trong đường lối của Thiên Chúa. Sức mạnh đó là lòng mến của Thiên Chúa biến đổi lòng ta, làm cho ta yêu mến hết lòng. Sức mạnh ấy là Bình an và Vui mừng của Thánh Thần. Và khi lòng ta mở ra bỏ ngỏ cho Thiên Chúa, tối tăm tội lỗi không còn chỗ nào chen chân để tồn tại trong ta nữa.
Tin thận Đức Giêsu để được giải thoát khỏi tội lỗi, đồng thời cũng đón nhận được ánh sáng để bước đi trong đời. "Thực vậy mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Bởi vì Ađam, con người đầu tiên đã là hình bóng của Ađam sẽ đến là Chúa Kitô. Chúa Kitô, Ađam mới, trong khi mặc khải về Chúa Cha và tinh yêu của Ngài, đã cho con người biết rõ về chính con người và tỏ cho họ biết thiên chức cao cả của họ. Bởi vậy tất cả những chân lý về con người đều tìm thấy nguồn gốc và đạt tới tột điểm nơi Đức Giêsu Kítô" (MV. 22).
III VÀ GIỚI THIỆU ÁNH SÁNG
Hơn thế nứa, như thánh Gioan, Giáo Hội và mỗi Kitô hữu còn có trách nhiệm giới thiệu đức Giêsu cho người khác. Không như một bổn phận nặng nề vì ép buộc, nhưng như hành động thúc bách bởi niềm tin vào Đức Giêsu, cùng với lòng yêu mến con người, muốn mang lại những gì tốt đẹp nhất cho tha nhân. Chính ở đây, cung cách làm chứng của Gioan là gợi ý quý báu cho vai trò chứng tá của chúng ta.
Lời chứng của Gian phát sinh từ kinh nghiệm bản thân, sống động và sâu sắc
- Đã nghe: "Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép Rửa trong Chúa Thánh Thần".
- Đã thấy: "Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Ngài” .
Muốn đạt hiệu quả, lời chứng của người Kitô hữu cũng phải là lời chứng phát sinh từ kinh nghiệm đức tin sống động về Đức Giêsu là Cứu Chúa.
Không ai có thể dẫn ta vào kinh nghiệm cao cả đó ngoài Thánh Thần Thiên Chúa như thánh Phaolô khẳng định: "Không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Chúa mà không do Thánh Linh". Chứng từ của những vị thánh nổi tiếng như Phaolô và Âutinh, hay của nhiều người khác trong thời đại chúng ta như A. Frossard đã quá đủ để nói Lcn tác động mãnh liệt của Thánh Thần trong việc dẫn lối vào kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa.
Tuy nhiên, cùng với tác động của Thánh Thần, mỗi người cũng cần có thái độ thích hợp. Đó là suy niệm, chiêm ngắm và học hỏi. Trong sách Giáo Lí Chung, mới được ban hành ngày 1992, có thể đọc được khẳng định này: Bài học của lịch sử là: Những thời kì mạnh về giáo lí là những thời kì Giáo Hội dược canh tân. Hãy nhìn lại thời dại của các giáo phụ với những vị Giám mục hiến mình cho công việc này: Thánh Cyrinô thành GiêrusaLcm, Gioan Kim Khẩu, Ambrôsiô, Augustinô và nhiều giáo phụ khác và những tác phẩm giáo lí của các ngài vẫn còn là mẫu mực" (Catéchisme de L’eglise catholique, số 8). Giáo lí giúp canh tân Giáo Hội và Giáo Hội được canh tân cũng có nghĩa là Giáo Hội mạnh mẽ trên đường chứng tá, giới thiệu đức Giêsu cho người khác cách sắc bén và xác tín hơn.
KẾT LUẬN
Trước khi cho rước Lc, linh mục nâng cao Mình Thánh Chúa và mời gọi đây Chiên Thiên Chúa, đây đấng xóa tội trần gian...". Rước Lc, ăn Thịt Chiên Thiên Chúa là hành động cụ thể diễn tả sự tin nhận Đức Giêsu và đón lầy ơn cứu độ Ngài ban. ước gì trong Thánh Lc hôm nay, ta thật sự đón nhận Đức Giêsu để được ơn thứ tha tội lỗi và trong suốt tuần Lc này, không ngừng quy chiếu cách sống của mình vào Đức Giêsu và góp phần giới thiệu cho mọi người.
Thánh Gioan đã làm chứng Chúa Kitô, chẳng những bằng lời nói, mà na cũng đã sẵn sàng: TN 2-A30
Thánh Gioan đã làm chứng Chúa Kitô, chẳng những bằng lời nói, mà na cũng đã sẵn sàng chết để trở thành nhân chứng của Chúa nữa.
Biết bao vị Thánh Việt nam chúng ta, can đảm sẵn sàng và ước ao tỏ mình là người Công giáo, để được diễm phúc tử đạo. Ta nhận thấy lòng can đảm này trong câu truyện của hai Thánh Phêrô Tự (tử đạo ngày 5.9.1838, 42 tuổi)và Thánh Giuse Cảnh (tử đạo ngày 5.9.1838, 75 tuổi.)
Ngày 29.6.1838, lính đến vây kín làng Đức Trai (Kẻ Mốt), bắt được Cha Pêrô Nguyễn Văn Tự.
Cùng bị bắt với Cha Tự có thầy Đaminh Bùi Văn Úy. Cha Tự định khai thầy chỉ là Giáo hữu vào làm bếp để đỡ cho thầy. Nhưng thầy Úy nói: “Xin Cha cứ nói con là thầy giảng, may ra con được Tử đạo với Cha”. Hai cha con bị dẫn đếnh huyện Lương tài. Quan huyện ngỏ ý muốn tiền chuộc, song cha bình tĩnh trả lờ: “Đối với tôi, bị bắt vì đạo là một hồng ân Chúa ban, tiền bạc thì tôi không có, làm phiền hà hiáo hữu tôi lại càng không muốn”. Quan cho áp giải Cha về thị trấn Bắc ninh và phải mang gông đi vào ngục thất ở phía sau tường thành Ninh Thái.
Ngày hôm sau, cha Phêrô Tự đa gọi đến văn phòng tòa án, để khai tên các thừa sai mà cha biết. Cha khai tên hai Đức Cha và 6,7 nhà truyền giáo, khiến quan mừng lắm, đến sau mới biết các vị nói trên đều đã bị bắt cả.
Ngày 10 tháng 7 , Cha Phêrô lại phải ra tòa một lần nữa. Lần này quan bảo Cha cắt nghĩa các đồ thờ chén lễ và áo lễ, líng đã tật thu được ởKẻ Một Cha được dịp giảng đạo lý Công giáo cho các quan nghe. Song một tin làm cho Cha hết sức buồn, khi quan án báo tin cho biết: hai ngày nữa sẽ gọi hết tất cả Giáo dân đã bị bắt ra tòa, để mọi người phải bước qua Thánh giá , vì đã có nhiều người bằng lòng xuất giáo. Khi trở về ngục, suốt hai ngày liền, Cha khuyên bảo mọi người giữ vững đức tin bằng cầu nguyện và ăn năn tội. Đến ngày ra tòa, quả nhiên 3 trong 4 ông trùm xứ bước qua Thánh giá để được trở về nhà. Chỉ còn lại ba Giáo dân trẻ tuổi, là các anh Tôma Đệ, Autinh Mới vá.
Têphan và cụ già 75 tuổi là lương y Hoàng Lương Cảnh can đảm tuyên xưng đức tin.
Tổng đốc Bắc Ninh, sau một ngày hỏi cung các chứng nhân, , đã tự án vào triều đình xin xử trảm đạo trưởng Nguyễn Văn Tự và đạo mục Hoàn Lương Cảnh, còn hai thầy giảng và ba Giáo dân phải đòn 100 roi, vào phát lưu vào Bình Định. Song nhà vua phúc đáp tất cả phải được tra hỏi lại, nếu bỏ đạo thì ẽ tha, nếu không sẽ phải chết. Ngày 9 tháng 8, Cha Phêrô và các bạn lại được kêu ra tòa. Trong một gian nhà rộng lớn, một bên là Thánh giá đặt dưới đất, một bên là những dụng cụ khổ hình. Quan Tổng Đốc chủ sự phiên tòa, khi thì tỏ ra mềm dẻo dụ dỗ, khi nói nóng đe roi, bắt các chứng nhân phải lần lượt bước qua Thánh giá.
Trước hết, quan lấy lời ôn tồn bảo Cha Tự bước qua ảnh Thánh, ông nói ông thực tình không muốn kết án Cha. Bằng một giọng khiêm tốn, Cha trả lờ: “Là một Linh mục trong đạo không lẽ tôi lại phạm tội nặng như thế, để rồi không ai có thể tha cho tôi được. Bẩm quan, tôi không dám đâu.”
Đến lượt cụ trùm Giuse Cảnh bị thúc bước qua ảnh Thánh, song cụ cũng quỳ phục xuốngđất cầu nguyện, nhưng không to tiếng. Quan tưởng cụ nói gì, bảo nói lớn lên. Cụ liền sốt sắng lớn tiếng đọc kinh “Chúa Thánh thần”: “…Xin an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành…”
Rồi kinh: “Thánh Danh”, “Chúa Giêsu là đường nẻo thật, ai theo đường này thì sẽ sống mãi vui vẻ chẳng cùng…”, vừa đọc vừa thờ lạy Thánh giá. quan nổi giận gào thét: “Lôi lão già ra, và bảo lão im đi.” Nhưng vụ tiếp tục đọc lớn tiếng hơn nữa “Cầu Chúa Giêsu cho các vị trị nước càng ngày càng thịnh”, khiến các quan đang giận lại phá ra cười: “Lão cầu cho kẻ hành hạ mình nữa sao?”. Cụ bình tĩnh nói về giới luật yêu thương của đạo Chúa… Khi quan hỏi ý kiến cụ kể tích truyện Giuđa phản thầy cho các quan nghe.
Tòa án phúc trình kết quả vào triều đình. Ngày 2.9.1838, vua Minh Mạng tuyên án như sau: “Đạo trưởng Nguyễn Văn Tự vào đạo mục Hoàng Lương Cảnh phải trảm quyết tức khắc.”
Ba ngày sau, tức ngày mùng 5 cùng tháng, bản án ra tới Bắc Ninh, các quan quân lệnh thi hành ngay. Cha Phêrô và cụ giuse dẫn đi xử, tỏ ra vui mừng, tạm biệt các bạn và hứa hẹn gặp nhau trên thiên đàng.
Cha Phêrô lấy áo dòng trắng ra mặc còn cụ trùm mang tấm áo dòng ba. Lợi dụng lúc có nhiều người đến xem, Cha Phêrô lên tiếng giảng đạo cho mọi người.
Trên đường ra pháp trường, binh lính xếp hàng đihai bên. Cha Phêrô ngồi chung một cũi với cụ trùm, tay cầm tượng Chúa chuộc tội. Hai người vừa đi vừa đọc “Kinh cầu các Thánh” rồi kinh cầu “chịu nạn”
Khi tới nơi xử, mỗi Đấng quỳ trên một chiếc chiếu nhỏ đã trải sẵn. Vì Cha Phêrô có tầm vóc cao hơn lý hình nhiều, tuy Cha đã quỳ gối cũng còn phải cúi đầu xuống sâu để lý hình làm phận sự. Theo hiệu lệnh của quan, hai lý hình chém đầu. Nhiều người có đạo và không có đạo, xô nhau thấm máu hoặc lấy vật gì làm kỷ niệm. Một viên quan lượm được tượng Chúa chuộc tội của Cha Phêrô, đưa về tặng Cha bề trên Hermosilla Vọng.
Thi hài cụ trùm Giuse được chôn táng dưới một ngọn đồi gần đấy, đến sau giáo dân rước về Thỏ Hạ, đặt dưới nền một Thánh đường đã đổ nát. Còn xác Cha Thánh Phêrô, lương dân và giáo dân tranh nhau, cho đến khi giáo dân phải bỏ ra 60 lạng bạc để chuộc, đem về chôn táng tại họ Nghĩa Vụ thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Trên mái một nhà thờ ở Werden, nước Đức, người ta có thể nhìn thấy một tảng đá chạm trổ: TN 2-A31
Trên mái một nhà thờ ở Werden, nước Đức, người ta có thể nhìn thấy một tảng đá chạm trổ một con chiên. Đây là câu về tảng đá đó. Một công nhân đang làm trên mái nhà thờ này thì dây thừng an toàn bị đứt, anh công nhân bị rớt xuống sân nhà thờ, mà sân thì xếp đầy những cống đá lớn. Thế nhưng anh công nhân không bị thương nặng. Có một con chiên đang gặm cỏ giữa hai khối đá lớn. Anh công nhân rớt xuống trên con chiên và đè nó chết, làm tiêu tan điều được coi là cú rơi định mệnh.
Để nhớ ơn, anh công nhân đã chạm trổ một con chiên bằng đá và đặt trên mái nhà thờ. Đó là một cách tốt đẹp bày tỏ lòng biết ơn của anh mà nó không biết.
Chúng ta càng phải biết ơn sâu xa hơn đối với Chúa Giêsu, Con chiên Thiên Chúa đã tự cứu chúng ta khỏi định mệnh mất ơn nghĩa đời đời, Chúa Giêsu đã tự ý và yêu thương mà hy sinh mạng sống Ngài cho chúng ta được sống. Như thánh Gioan đã hô to trong bài Tin Mừng hôm nay: đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”, các thính giả bấy giờ đã hiểu, vì trong cựu ước, con chiên thường được dùng làm lễ hy tế. Nó là hình bóng Chúa Giêsu Kitô. Đấng đã gánh lấy tội trần gian. Gọi Chúa Kitô là con chiên để diễn tả sự kiện Ngài đã chịu hiến tế, để giao hòa con người với Thiên Chúa.
Hình bóng của Luật cũ đã nên trọn vẹn trong Luật mới. Không chỉ trong Tin Mừng hôm nay Chúa Kitô được gọi là Con Chiên. Thánh Phêrô cũng đã nói về Chúa Kitô là Con Chiên (I P. 1,19). Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan gọi Con Thiên Chúa là Con Chiên ít nhất 27 lần. Ông đã chỉ rõ Chúa Kitô là Con chiên chiụ chết vì tội lỗi của loài người, của các dân tộc. Ông cũng nhấn mạnh sự thật rằng: Con Chiên đây là Con Chiên thật của Thiên Chúa, rằng Ngài tăng cường sức mạnh cho những kẻ tin theo Ngài, Ngài chiến thắng Satan.
Nhiều lần trong Kinh thánh, Giáo hội công giáo đã phác họa Chúa Kitô là con chiên, đặc biệt là trong các hang toại đạo và các đại giáo đường ở Roma. Con chiên đáng chú ý ở sự ngây thơ, sự hiền lành, nhẫn nhục, thanh sạch, là những đức tính quý báu của Chúa Kitô, Con Chiên vô tì tích.
Cho nên, không lạ gì chúng ta, những người theo Chúa Kitô liên lỉ kêu cầu Ngài với danh hiệu êm dịu và đơn sơ: con chiên Thiên Chúa. Một lát nữa, ngay trước khi rước lễ, chúng ta sẽ hát lên: “Lạy Chiên Thiên Chúa Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con”. Chúng ta hãy hết lòng hát lên cầu xin Ngài.
Anh công nhân ở Werden, nước Đức, đã chạm trổ tượng kỷ niệm để nhớ ơn con chiên đã cứu mạng sống anh, mà nó không sẵn sàng. Thế thì khi dâng Thánh lễ, chúng ta còn phải tạ ơn biết bao cho vừa đối với con chiên đã thương yêu, vui lòng hiến ban mạng sống vì những kẻ thuộc về Ngài, vì các bạn và tôi.
Hôm nay Chúa Nhật II Mùa Thường NIÊN, Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc lại đoạn Tin Mừng: TN 2-A32
Hôm nay Chúa Nhật II Mùa Thường NIÊN, Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc lại đoạn Tin Mừng của thánh Gioan, kể lại việc Chúa Giêsu khởi đầu cuộc đời rao giảng Tin Mừng được bắt đầu bằng biến cố về cái chết của thánh Gioan Tẩy Giả. Lời chứng của thánh Gioan Tẩy Giả và cũng là lời tuyên xưng đức tin của ông: "Tôi đã thấy và tôi làm chứng, chính Ngài là Con Thiên Chúa". Gioan đã tin vào Chúa Giêsu Kitô và do đó ông đã làm chứng cho Chúa. "Tin" mới có thể làm chứng cho Chúa được. Trong khung cảnh này, chúng ta có thể chia sẻ với nhau về dung mạo của người làm chứng cho Chúa, dựa trên mẫu gương của thánh Gioan Tẩy Giả, một mẫu gương đã được diễn tả một cách ngắn gọn, nhưng thật đầy đủ những yếu tố căn bản của nó.
Trước hết, thánh Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Chúa Kitô, bởi vì thánh Gioan đã nhận được lời chứng từ Thiên Chúa Cha và đã tin vào lời chứng của ThiênChúa Cha: "Về phần tôi, tôi không biết Ngài, nhưng Đấng sai tôi làm Phép Rửa trong nước phán bảo tôi: con thấy Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm Phép Rửa bằng Chúa Thánh Thần ". Thánh Gioan đã nhìn thấy dấu chỉ đó và ngài đã tin, nên ngài đã làm chứng: "Tôi đã thấy và tôi làm chứng, chính Ngài là Con Thiên Chúa".
Như vậy, không có Thiên Chúa sai đi và làm chứng trước, không có Thiên Chúa mời gọi thì chúng ta không thể làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô. Làm chứng cho Chúa là một ơn gọi và là một hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban cho mỗi người Kitô hữu chúng ta, một hồng ân phát xuất từ chính Thiên Chúa Cha.
Điểm thứ hai trong nếp sống nêu gương làm chứng của thánh Gioan Tẩy Giả: "Tôi đã thấy và tôi làm chứng, chính Ngài là Con Thiên Chúa". Điều mà chúng ta muốn nhắc nơi đây, Đó là lời chứng của thánh Gioan và lời chứng của Thiên Chúa Cha về Chúa Giêsu Kitô.
Anh chị em thân mến!
Chúa Nhật trước, chúng ta đã đọc đoạn Phúc âm kể lại biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, và trong biến cố này Thiên Chúa Cha đã làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô: "Đây là Con Ta yêu dấu. Các ngươi hãy nghe lời Ngài". Và giờ đây, lời chứng của thánh Gioan đã tặp lại: "Chính Ngài là Con Thiên Chúa". Nội dung của người làm chứng cho Chúa Kitô phải phù hợp với lời chứng của Thiên Chúa Cha về Chúa Giêsu Kitô. Chỉ có một sự thật về Chúa Kitô, sự thật mà Thiên Chúa Cha muốn mạc khải cho con người qua Chúa Kitô và được lưu giữ trong Giáo Hội. Những người làm chứng cho Chúa Kitô nếu muốn lời chứng của mình có giá trị thì phải nói lên sự thật đó, không làm méo mó nó bằng những ý kiến riêng tư của mình. Chúng ta phải nói lên giáo lý tinh tuyền của Giáo Hội căn cứ trên lời chứng của Thiên Chúa Cha, chứ không phải nói lên một thứ giáo lý do chính tư tưởng của chúng ta sáng chế ra.
Thánh Gioan Tẩy Giả vâng lời Thiên Chúa Cha và ngài đã trung thành với lời chứng của Thiên Chúa Cha, ngài đã trở nên nhỏ bé để Chúa Giêsu lớn lên trong tâm hồn người khác. Không phải ông chấp nhận bé nhỏ đi để lớn lên trong người khác, nhưng ông còn chấp nhận để cho những người đồ đệ của ông bỏ mình mà đi theo Chúa Giêsu. Từ đó, chúng ta bước sang điểm thứ ba của thái độ nêu gương của người chứng nhân. Khi thánh Gioan Tẩy Giả nói: "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian", thì hai người đồ đệ mà đoạn Tin Mừng hôm nay không kể lại, nhưng nếu đọc tiếp đoạn Phúc âm thánh Gioan thì chúng ta sẽ thấy hai trong số những đồ đệ đứng bên cạnh Gioan, nghe Gioan nói như vậy thì bỏ Gioan mà đi theo ChúaGiêsu.
Người làm chứng đã không chiếm chỗ của Chúa, không che khuất Chúa Kitô, nhưng chỉ cho người khác nhìn thấy và đi theo Chúa: "Ngài đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi và cao trọng hơn tôi". Thánh Gioan nhìn nhận mình thấp hèn trước mặt Chúa và muốn cho những người đồ đệ của mình đi theo Chúa Giêsu.
Sứ mạng của người làm chứng có mục đích hướng dẫn người ta đến gặp gỡ Chúa Kitô, và khi người nghe đã gặp được Chúa Kitô rồi thì người làm chứng phải rút lui đi, vì vai trò của mình đã xong. Hãy để cho Chúa Kitô trực tiếp hướng dẫn các linh hồn, hãy để cho Chúa Kitô lớn lên trong các tâm hồn. Người làm chứng cần phải kính trọng tự do và lương tâm của người khác, và để cho họ tự nguyện dấn thân chọn và theo Chúa.
Hai môn đệ của Gioan đi theo Chúa Giêsu và đã ở lại với Chúa. Họ đã quên đi thánh Gioan để theo Chúa, để rồi đến phiên họ, họ cũng làm chứng cho Chúa Kitô. Sau này, khi Chúa Giêsu Kitô sống lại, Ngài đã truyền cho các tông đồ: "Hãy đi và giảng dạy muôn dân những gì Thầy đã truyền cho các con".
Anh chị em thân mến!
Mỗi người chúng ta hôm nay được mời gọi nhớ lại ơn gọi của mình mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Ơn gọi ấy còn được thể hiện qua việc chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, chúng ta đã tuyên xưng niềm tin của mình vào một mình Chúa, và hứa từ bỏ những việc làm tội lỗi của ma quỉ để làm chứng cho Chúa.
Xin Chúa củng cố mỗi người chúng ta trong đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận, đã tuyên xưng và đã cam kết muốn làm chứng niềm tin ấy trước mặt anh chị em xung quanh. Xin Chúa ban cho chúng ta ơn trung thành với đức tin này mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng trong kinh Tin Kính.
Đâu là cơ cấu của đoạn văn này? 2) Gioan Tẩy Giả “đã không biết” (cc. 31-33) Chúa Giêsu theo:TN 2-A33
1) Đâu là cơ cấu của đoạn văn này?
2) Gioan Tẩy Giả “đã không biết” (cc. 31-33) Chúa Giêsu theo nghĩa nào? Ông chẳng phải là anh họ của Người sao?
3) Đâu là mối liên lạc giữa thị kiến khả giác và chứng từ của Gioan Tẩy Giả?
4) Về việc thị kiến Thần khí, có sự khác biệt nào giữa Tin Mừng thứ tư và Tin Mừng Nhất Lãm?
5) Trong thị kiến ấy, con chim câu có nghĩa gì?
6) Trong quan điểm của Gioan, đâu là ý nghĩa của phép thanh tẩy bằng Thánh Thần, vốn là phép phân biệt và xác định nhân vật lịch sử Giêsu?
7) Trong câu 34, giữa hai dị bản “Con Thiên Chúa” và “Tuyển nhân của Thiên Chúa”, nên chọn dị bản nào hơn?
8) Thành ngữ “Chiên Thiên Chúa” (c. 29) quy chiếu về cái gì?
9) Đâu là ý nghĩa của biến cố này?
*******
1) Đoạn văn ta đang nghiên cứu là thành phần của một bản văn dài (1, 19-51) phân chia chứng từ của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu ra làm hai ngày: - 1, 19-28: chứng từ gián tiếp và có tính cách tiêu cực.
- 1, 29-34: chứng từ trực tiếp và tích cực.
Hai ngày ấy được tiếp nối bằng hai ngày khác, tường thuật việc các môn đồ đầu tiên đến cùng Chúa Giêsu:
- 1, 35-42: Anrê, người môn đồ vô danh, Simon con Gioan.
- 1, 43-51: Philipphê, Nathanael.
Trong cơ cấu của toàn bộ này, C.H.Dodd (Historical Tradition in the Fourth Gospel, Cambridge, 1963, tr. 248tt) tìm ra được một lược đồ tam phần (schéma tripartite) chung cho 4 đoạn nói về Gioan Tẩy Giả trong Tin mừng thứ tư ( 1, 6-8; 1, 19-34; 3, 22-30; 10, 41-42). Mỗi lần như vậy, người ta nói:
1/ Gioan không phải là: ánh sáng (1,8), Messia (1,20; 3,28); ông không làm “dấu chỉ” nào (10,41).
2/ Ông là: chứng nhân của ánh sáng (1,7), của Đấng Messia (1, 29-34 và 3, 27-30), của Chúa Giêsu (10, 41).
3/ Ông làm công việc: dẫn thiên hạ tin vào Chúa Kitô và theo Người (1, 7.33-42, (3, 31-36); 10,42).
Chứng từ tích cực, đúng nghĩa của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô chiếm vị trí chủ yếu trong cả bốn trường hợp. Đó là vì đối với thánh sử, Gioan tự bản chất là chứng nhân của Chúa Kitô: ông đã đến để làm chứng ... để làm chứng cho sự sáng… (1,7). Ông đã làm chứng cho Sự thật ... (5, 33). Đây đúng là nét chính yếu và riêng biệt của Tin Mừng thứ tư.
Chứng từ dài nhất của Gioan Tẩy Giả nằm ở 1,19-34. Đoạn này làm thành một khối biệt lập, được phân định rõ ràng bằng một kiểu đóng khung: công thức “Và đây là chứng của Gioan" (1,19) đối lại với công thức “Vì đã được xem thấy nên tôi xin đoan chứng: chính Người là Tuyển nhân của Thiên Chúa (hoặc Con Thiên Chúa)” (1,34). Như vậy chủ đề căn bản là chứng từ của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu.
Nhưng như ta đã thấy lúc nãy, đoạn chứng từ này phân thành hai ngày:
- Ngày đầu (1,19-28) được dành cho việc Gioan làm chứng (với tính cách chuẩn bị) trước mặt các sứ giả của Biệt phái về Đấng “xứng đáng hơn”, đã đến đây rồi, đang có mặt "giữa họ”, nhưng còn "ẩn danh" và "tới sau Gioan". Chứng từ có vẻ tiêu cực theo nghĩa là Gioan tuyên bố mình không phải là: Messia, Con, Ngôn sứ; ông xóa mình trước “Đấng đến sau ông”.
- Ngày thứ hai (1, 29-34) dành cho chứng từ đích thực của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu và nhắm một đám đông vô giới hạn, tức là Israel và "thế gian" (1, 29-31), vì điều Thiên Chúa hoàn tất trong Israel thì nhắm tới toàn thể nhân loại.
2) Cơ cấu của 1, 29-34. Đoạn văn này, hình như thu thập và sắp xếp lại nhiều yếu tố có nguồn gốc khác nhau, được kết cấu theo lối nhị cú chuyển hoán (chiasme).
c. 29 “(Gioan) thấy Chúa Giêsu đến với ông thì nói: này là Chiên của Thiên Chúa...".
c. 30 “Chính Người là Đấng tôi đã nói: Sẽ đến sau tôi một người đã vượt trước tôi, vì Người đã có trước tôi”.
c. 31 "Phần tôi, tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ mình ra cho Israel; mà tôi đã đến thanh tẩy bằng nước".
c. 34 Và tôi đã được xem thấy nên xin đoan chứng: chính Người là vị Tuyển nhân của Thiên Chúa (Con Thiên Chúa?)".
c. 33b “Người thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại trên ai, thì chính Người là Đấng thanh tẩy trong Thánh Thần".
c. 33a “tôi chưa hề biết Người, nhưng Đấng đã sai tôi đến thanh tẩy bằng nước, chính Ngài đã nói với tôi:”
c. 32 “và Gioan đã đoan chứng rằng: Tôi đã trông thấy Thần khí đáp xuống, như chim câu, và đã lưu lại trên Người".
Tính cách nhất thống của toàn bộ được chỉ rõ qua kiểu đóng khung: “Chiên Thiên Chúa” (1, 29 – “Tuyển nhân của Thiên Chúa” (Con Thiên Chúa) (c.34). chóp đỉnh hay khúc ngoặt của bản văn nằm ở câu 32: "tôi đã trông thấy Thần khí đáp xuống và đã lưu lại trên Người". Như vậy đoạn văn, qua cơ cấu của nó, đặt trọng tâm vào việc nhìn thấy Thần khí đáp xuống từ trời và lưu lại trên Chúa Giêsu, nền tảng và đối tượng đoan chứng của Gioan Tẩy Giả.
3) Việc Gioan hai lần quả quyết (cc. 31.33) mình không biết Chúa Giêsu đã đóng khung cho câu 32. Sự nhấn mạnh này rất có ý nghĩa: vị Tẩy giả không biết Đấng mà phép rửa bằng nước của ông đang, chuẩn bị, dọn đường cho. Để diễn đạt sự vô tri đó, thánh sử dùng động từ "oida". I. de la Potterie đã xác định ý nghĩa của nó như sau: Động từ "oida" chỉ sự hiểu biết xét như đã thủ đắc, có tính cách chắc chắn tuyệt đối, trong lúc động từ "ginôskô " chỉ quá trình thủ đắc tri thức.
Lúc thánh sử bảo rằng Gioan Tẩy Giả không biết Đấng đến sau ông, điều ấy chẳng có nghĩa: Chúa Giêsu đối với ông chỉ là một kẻ xa lạ, nhưng có nghĩa: ông không biết Người như là Messia, ông chưa có đầy đủ ánh sáng đức tin, chưa thấy trong Người vị Tuyển nhân của Thiên Chúa. Cha De la Potterie đã có lý khi nhấn mạnh đến mối tương quan giữa sự vô tri này của Gioan Tẩy Giả và sự vô tri của người Do thái ở 1,26. Trên điểm này, Gioan Tẩy Giả còn giống với người Do thái là những kẻ đã chẳng hề có ý niệm nào về lai lịch của Đấng đang ở giữa họ: chính cảnh mặc khải ở sông Giođan sẽ cho Gioan Tẩy Giả cái nhìn đức tin ấy.
Thành ra việc nhìn thấy Thần khí có hai mục đích: kéo Gioan Tẩy Giả ra khỏi sự vô tri của ông, đồng thời đặt ông vào trong ơn gọi thực sự; khi mặc khải cho ông thấy. Tuyển nhân của Thiên Chúa, thị kiến đó biến đổi ông từ kẻ làm phép rửa bằng nước thành chứng nhân của Thần khí, hay đúng hơn thành chứng nhân của Đấng có Thần khí lưu lại bên trên. Chính vì lý do đó mà ông, đã “đến” (c. 31). Phép rửa bằng nước chỉ là một giai đoạn chuẩn bị cho vai trò quan yếu đó vậy.
Về vấn đề này, ta có thể so sánh 1,31: 'Tôi đã đến thanh tẩy trong nước” (thanh tẩy: hiện tại phân từ, chỉ một sự kiện đơn giản) với 1,7: "ông đã đến để làm chứng: ... để làm chứng cho sự sáng" (mệnh đề chỉ mục đích) và với 1,31: tôi đã đến thanh tẩy bằng nước để Người được tỏ mình ra cho Israel". Cái thị kiến kéo Gioan Tẩy Giả ra khỏi sự vô tri của ông chẳng những đã mặc khải cho ông sứ mệnh đích thật, mà còn cho ông đủ khả năng chu toàn nó.
4) Chứng từ của Gioan Tẩy Giả mở đầu bằng lời tuyên bố. “Tôi đã chiêm ngắm Thần khí (tetheamai)” nơi câu 32, và kết thúc với câu 34: “tôi đã xem thấy và tôi xin đoan chứng ...” hay dịch cách khác: Vì đã xem thấy, nên tôi xin đoan chứng. Chứng từ như thể dựa trên một thị kiến vậy.
Mối liên hệ giữa chứng từ và thị kiến xuất hiện nhiều lần trong Tin mừng thứ tư: x. 3, 11.32; cũng xin xem 1 Ga 1,2 và 4, 14. Tuy nhiên phải phân biệt hai hành động. Chứng tá không giản lược thành một thị kiến khả giác, hoàn toàn có tính cách vật chất, ngoại trừ trường hợp Chúa Giêsu, Đấng mà chứng tá là mặc khải trực tiếp về những thực tại thiên giới. Trong trường hợp chứng nhân loài người, có một sự phân cách giữa đối tượng của thị kiến và đối tượng của chứng tá: biến cố người ta đã thấy cho biết một điều khác không trông thấy được, và chính thực tại dấu ẩn này là cái người ta sẽ làm chứng cho. Dầu sao, việc nhìn thấy bên ngoài vẫn quan trọng: vai trò của chứng nhân tận mắt không thể bị xem nhẹ. Tại sông Giođan, Gioan Tẩy Giả đã nhìn thấy một sự kiện bên ngoài: Thần khí đáp xuống và lưu lại trên Chúa Giêsu (1, 32); nhưng cái ông làm chứng, chính là thiên sai tính của Người.
Thiết tưởng nên nhấn mạnh đến vai trò, tầm quan trọng và bản chất của thị kiến khả giác. Việc nhìn thấy bên ngoài, điều kiện của chứng tá, tượng trưng cho một trong nhiều trường hợp mà một hạn từ của Gioan phải được hiểu vừa trên bình diện kinh nghiệm khả giác, vừa trên bình diện thực tại thiêng liêng. Thị kiến không còn là một cái nhìn nào đó, nhưng là cái nhìn dẫn đến đức tin, nhìn biến cố như là dấu chỉ. Kẻ đã thấy thì làm chứng cho ý nghĩa của biến cố mình mục kích. Có thể nói ông làm chứng cho ý nghĩa ấy xét như nó đã được ông nhìn thấy trong biến cố.
Ta nên chú ý đến việc nghiên cứu các động từ được thánh sử dùng trong đoạn văn này đây để chỉ cái nhìn. Nơi 1,29, ông sử dụng tiếng blepein: Gioan thấy (nhận thấy) Chúa Giêsu đang đến với mình. Động từ rõ ràng diễn tả tri giác bằng mắt.
Nơi câu 32 Gioan Tẩy Giả đoan chứng cho việc ông đã nhìn thấy “Thần khí đáp xuống trên Chúa Giêsu và lưu lại trên Người". Động từ được dùng là theasthai ở thì quá khứ (“tetheamai"): nó mô tả thị kiến như một việc chiêm ngưỡng, theo dõi diễn tiến của biến cố để đi sâu vào ý nghĩa. Thành thử nó cho thấy có sự tiến triển trong tri giác. Bởi thế người ta đã dịch: "Tôi đã chiêm ngưỡng (đã trông thấy) Thần khí đáp xuống ... và Ngài đã lưu lại trên Người". Việc chuyển từ phân từ (“đáp xuống") qua trực thuyết cách aoriste (indicatif aoriste) (“và Ngài đã lưu lại") có tác dụng làm cho ta chứng kiến và như thể chiêm ngưỡng được chính diễn tiến của biến cố vậy.
Trong các câu 33-34 (có lẽ thuộc về một truyền thống khác) xuất hiện động từ horân. Trước tiên nó được dùng ở thì aoriste c.33) để chỉ việc loan báo cho Gioan Tẩy Giả hay rằng ông sẽ được nhìn thấy (tận mắt) cái dấu chỉ sẽ đưa ông đến chỗ nắm được một thực tại siêu việt nhờ sự soi sáng của Thiên Chúa: "Ai mà ngươi thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại bên trên ...”. Động từ cũng trở lại với trực thuyết cách quá khứ (indicatif parfait) (c.34) để chỉ chính tri giác ấy, cái tri giác mà lần này được thủ đắc và đào sâu đến độ nắm được thực tại trên. Trong thị kiến và nhờ thị kiến, Gioan Tẩy Giả được mặc khải cho biết tư cách thiên sai của Chúa Giêsu. Ông đã "thấy" và ông đoan chứng rằng "chính Người là Tuyển nhân của Thiên Chúa (Con Thiên Chúa)". Động từ horân ở thì quá khứ (parfait) diễn tả cái nhìn đã hoàn toàn được đào sâu và làm cơ sở cho một chứng từ 'bảo đảm và trường tồn từ nay (nghĩa của thì parfait trong Hy ngữ: heôraka hai memarturêka).
5) Đối tượng chủ yếu của thị kiến là Thần khí, như trong Nhất Lãm. Nơi Mt (3,16), Ngài được gọi là Thần khí Thiên Chúa (theo, không có mạo từ); nơi Lc (3,22), Thánh Thần; nơi Ga (1,32tt) như nơi Mc (1,10), Thần khí; nhưng nơi Gioan, nguồn gốc thiên giới (ex ouranou "từ trời" không có. mạo từ) cho thấy Ngài là Thần khí Thiên Chúa hay Thánh Thần.
Như Mt và Lc, Gioan nói rằng Thần khí xuống "trên Chúa Giêsu (epi; Mc dùng chữ "phía", eis). Điểm đặc biệt của Gioan là sự kiện Thần khí "lưu lại" trên Người. Chi tiết này được đề cập hai lần (cc. 32.33) và được coi như thuộc thành phần dấu chỉ phân biệt Đấng mà Thần khí ngự lên trên.
Các nhà chú giải hầu hết đều cho đó là một quy chiếu mặc nhiên về sấm ngôn Is 11,2: "Một chồi sẽ xuất từ gốc Giessê và từ rễ nó, lộc sẽ mọc lên: trên Người Thần khí Giavê sẽ đậu xuống ...". Vẫn biết bản Hy lạp (LXX) của Isaia không sử dụng động từ menein lưu lại) nhưng dịch là anapausetai, Gioan vẫn chọn động từ menein vì đó là một tiếng thần học chuyên môn của ông. Như việc Thần khí đậu trên chồi nhà Đavít trong Is 11,2 việc Thần khí lưu lại trên Chúa Giêsu trong Ga 1,32-33 là một dấu chỉ, ban cho Gioan Tẩy Giả, nói lên mối tương quan thường xuyên, thân thiết và hoàn hảo giữa Thần khí Thiên Chúa và Chúa Giêsu. Cùng với Y.Godet, ta có thể coi việc sử dụng chữ "epi" với accusatif sau động từ "lưu lại ", một động từ tự bản chất ở thể tĩnh, như là thành ngữ diễn tả tính cách sống động của mối tương quan ấy.
6) Thần khí đáp xuống “... như một chim câu (đến) từ trời” (1,32). Chi tiết này cũng gặp thấy trong Tin mừng Nhất Lãm. Nó được mở đầu bằng chữ hôi (hôsei, nơi một, nhấn mạnh sự so sánh). Lc nói rõ là Thần khí ngự xuống dưới hình dạng thể xác, (somatikô eidei).
Về ý nghĩa chim câu, có nhiều lập trường khác biệt. Theo J.Jeremias the Theology of the New Testament, London, SCM Press, 1971, t.I. tr. 52), lối so sánh Thần khí với chim câu hoàn toàn vắng bóng trong Do thái giáo cổ. Và ông bảo, điều đó giải thích tại sao người ta đã đi tìm những điểm song song - có lúc thật kỳ lạ - trong lịch sử các tôn giáo. Nhưng, vẫn theo Jeremias, tất cả mọi dự tính đó đều phát xuất từ một thiên kiến sai lầm cho rằng trong trình thuật Tin Mừng nguyên thủy, Thần khí thực sự được tượng trưng bằng một con chim câu. Theo ý ông, đầu tiên (Mc 1,10) chỉ có vấn đề so sánh, tương tự như lối so sánh mồ hôi của Chúa Kitô trong cơn hấp hối với "những giọt máu nặng hạt" (Lc 22,44). Ông bảo điều này không có nghĩa là mồ hôi của Chúa Kitô đã biến thành máu, nhưng có nghĩa là cơn phiền não của Người dữ dội đến nỗi mồ hôi từ thân Người toát ra nhiều như máu chảy. Cũng vậy, Jeremias còn viết, kiểu nói "như một chim câu" chẳng có ý bảo rằng Thần khí hiện ra dưới hình dáng một con chim câu, nhưng là Ngài đáp xuống trên Chúa Giêsu với tiếng rung nhẹ của con chim đó. Jeremias nghĩ rằng hình ảnh đã dần dần bị vật chất hóa khi người ta biên soạn các Tin Mừng; và quá trình vật chất hóa hình ảnh này xuất hiện trong bản văn Lc (22, 44), do ảnh hưởng của môi trường Hy Lạp.
Lập luận của Jeremias bảo rằng trong truyền thống Do thái hoàn toàn vắng bóng lối biểu tượng chim câu-Thần khí xem ra khó bác bỏ. Và đấy chính là cái giảm giá trị lối giải thích dựa trên St 1,2 cho rằng chim câu trong phép rửa của Chúa Giêsu tượng trưng Thánh Thần - vì trong bản văn này quả có hình ảnh ‘Thần khí bay là đà’ (trên nước) như một con chim, ít là theo một lối giải thích tàm tạm, nhưng không gì cho thấy con vật đó là một chim câu (chỉ có một bản văn của các giáo sĩ hiểu theo nghĩa ấy - x.strack-billebeck, I, 312) – hoặc dựa trên St 8,8 là bản văn thường được viện dẫn để bênh vực cho lập trường. Bản văn này quả có nói tới một con chim câu, nhưng chẳng có gì cho thấy chim câu ấy chỉ Thần khí. Tuy nhiên lối giải thích do Jeremias đề ra không nhất thiết bó buộc phải theo.
Thực vậy trong truyền thống Do thái có biểu tượng về chim câu. Nó không liên hệ tới Thần khí nhưng tới Israel, đặc biệt là Israel bị lưu đày đang khao khát hồi hương và cầu xin Thiên Chúa trợ giúp. Biểu tượng ấy thường gặp trong Cựu ước (Hs 7, 11; 11,11; Is 60,8; Tv 55,7-8; 68,13; 74,19; Dc 1,15; 2,14; 5,2; 6, 8) và trở lại trong các ngụy thư hay văn chương giáo sĩ (Strack-bill. I, 123tt).
Trong Thánh vịnh 56,1, bản Massorètes viết: “theo cung điệu chim câu của các thần xa lạ” (BJ). Thế nhưng bản Hy lạp lại dịch là: “Theo cung điệu dân lưu đày của các thánh nhân Ngài” (huper tou la ou apo tôn agiôn memakrummenou) và bản Targum: "Ad laudandum pro ecclecia quan similatur columbae silentii, in tempore queo elongati suos a civitatibus sui…”
Trong sách Êdơra thứ tư (5,23-27), ta đọc đọc bài thơ nhỏ sau đây:
"Giữa muôn chim trong tạo vật Ngài đã gọi một chim câu,
Giữa muôn thú trong tạo thành Ngài đã yêu một cừu cái,
Giữa muôn dân thuộc mọi chủng tộc Ngài đã chọn một dân riêng,
Giữa muôn nước trong vũ hoàn Ngài đã giữ lấy một gia sản".
Theo E.R. Goodenough (Jewish Symbols in the Grece-Roman Penod, t.8, New-haven, 1956, tr.42tt), trong truyền thống Do thái, Israel thường được tượng trưng bằng một con chim câu. Tác giả này tham chiếu sách Edơra thứ 4, Pseudo-Philon, Targum Esther v.v... Nhưng ông thêm: chim câu chỉ Israel mà đôi cánh là việc thực thi Lề luật, thế nên hình các con chim câu khắc trên tráp đựng Ngũ kinh có lẽ vừa biểu hiệu đặc tính đồ vật được cất giữ, vừa tượng trưng Israel trên tráp Lề luật". Xa hơn, ông còn viết: “Theo giả thuyết tự nhiên nhất, chúng tôi có khuynh hướng nghĩ rằng hình chim câu khắc trên mộ và trong các hội đường Do thái tượng trưng cho Israel, dân ưu ái của Thiên Chúa, hay cá nhân người Israel, hoặc tượng trưng cho ơn cứu rỗi vì tình yêu và sự bất tử mà Thiên Chúa ban cho người tín hữu, kẻ trung thành”.
7) Đi từ sự kiện đó, A.Feuiliet ngh rằng chim câu đáp xuống và lưu lại trên Chúa Giêsu tượng trưng và tiên trưng kết quả chính yếu của việc tuôn đổ Thần khí, tức là việc thiết lập Israel mới, thiết lập cộng đoàn hoàn hảo của thời ân sủng. Thành ra cái được biểu hiệu không trực tiếp là Thần khí, nhưng là hậu quả của việc Ngài hiện diện trong Chúa Giêsu, hậu quả cho dân Thiên Chúa. Như vào ngày Hiện xuống, các lưỡi lửa không trực tiếp tượng trưng Thần khí, nhưng tượng trưng các ngôn ngữ mà 12 sứ đồ sắp bắt đầu nói ra dưới ơn linh ứng của Ngài, và, sâu xa hơn, tượng trưng việc Phúc âm hóa vũ trụ; thì cũng vậy, chim câu trong phép rửa có ý chỉ điều này là dân thiên sai phải xuất phát từ trong con người Chúa Giêsu Messia, vua và tôi tớ của Giavê.
Kiểu nói: "Chính Người là Đấng thanh tẩy trong Thánh Thần" (c. 33b) giúp chú giải thị kiến; nó giải thích cho Israel hiểu con người Chúa Giêsu, con người mà trên đó Thần khí đã đáp xuống và dừng lại.
Công thức “thanh tẩy trong Thánh Thần" của Gioan có nhiều tiếng song song trong Nhất Lãm và trong Công Vụ, nhưng vẫn rất khác biệt. Nơi Mt (3,11) và Lc (3,16), việc loan báo phép rửa trong Thánh Thần được nối kết với hình ảnh lửa, và cả hai đều liên hệ với lời loan báo việc giá lâm gần kề của “kẻ mạnh hơn”, tức là của Đức Messia, Đấng đến thực thi cuộc phán xét sau cùng. Trong viễn tượng ấy, Thần khí, được liên kết chặt chẽ với lửa, chỉ sức mạnh thần linh, hơi thở vũ bão sẽ hoàn thành cuộc xét xử đó (x.Ts 4,4tt; Hênoc 62,2). Trong nghĩa này, không phải Thánh Thần, mà Gioan Tẩy Giả loan báo là sẽ được Đấng Messia tuôn đổ, nhưng chính là hơi thở mạnh mẽ sẽ tiêu diệt ác nhân Is 11 đã đề cập tới (Is 11,4).
Tuy nhiên, công cuộc ấy cũng là công cuộc ân sủng. Nó nhằm mục đích thiết lập dân cánh chung, tinh tuyền và thánh thiện của Thiên Chúa. Chính khía cạnh này đã được giữ lại có lẽ bởi Mc (1,8) là người không đề cập tới lửa, và bởi Luca (Cv 15) là người dời câu nói ("thanh tẩy bằng Thánh Thần”) vào lễ Ngũ Tuần.
Tin Mừng thứ tư nằm trong cùng chiều hướng ấy. Nhưng điểm đặc biệt của nó vẫn luôn là việc làm nổi bật con người Chúa Giêsu, bằng hai cách:
1) Cắt ngang câu nói: "Phần tôi, tôi thanh tẩy bằng nước” đặt ở 1,26, nhưng phản đề chỉ được đưa ra ở 1,31.33, nơi không còn đối nghịch giữa hai phép rửa cho bằng hai nhân vật: Gioan-Giêsu;
2) Dùng hiện tại phân từ với định quán từ, để chỉ một chúc vụ kéo dài và đặc trưng hơn là một hành động chốc lát: chính Người là Đấng thanh tẩy (sát chữ: "là Tẩy giả") trong Thánh Thần" (1, 33b).
Thành ra có sự đối lập giữa hai nhân vật trong vai trò lịch sử hơn là đối lập giữa hai phép rửa: Gioan Tẩy Giả với vai trò chứng nhân và Chúa Giêsu với vai trò thanh tẩy trong Thánh Thần.
Trong viễn tượng Gioan, phép rửa trong Thánh Thần, phép rửa phân biệt và xác định nhân vật lịch sử Giêsu, ám chỉ cái gì? Trước tiên nên để ý rằng không có mạo từ trước chữ "Thánh Thần". Điều đó nhắm mục đích quy hướng sự chú ý chẳng phải trên bản thân của Thánh Thần, nhưng là trên hành động, trên luồng sinh khí của Ngài. Nên có lẽ phải dịch: “trong quyền năng của Thánh Thần". Chúa Giêsu sẽ thanh tẩy trong quyền năng của Thánh Thần vậy.
Đúng ra danh xưng ấy liên hệ đến điều gì? Khó mà xác định ngay được. Nhưng phần tiếp theo của Tin Mừng, với các hình ảnh và công thức khác nhau, sẽ dần dần cho thấy điều đó. Tuy nhiên ta có thể nói:
1) Trong viễn tượng Tin Mừng thứ tư, phép rửa bằng Thánh Thần không có ý nghĩa phán xét cánh chung như trong truyền thống Mt-Lc;
2) Nó cũng không nhắm tới phép rửa được đề cập ở 3,22 và 4,1 vì phép rửa này chẳng phải là phép rửa trong Thánh Thần. Vậy phải chăng nó chỉ phép rửa Kitô giáo? Có lẽ một cách gián tiếp, nhưng viễn tượng chắc hẳn rộng hơn. Phép rửa trong Thánh Thần nhắm tới và xác định toàn thể hoạt động, công trình của Chúa Giêsu. Sứ mệnh của Người, đối với nhân loại, chủ yếu sẽ là một phép rửa trong Thánh Thần".
Các nhà chú giải hầu như nhất trí quy chiếu thành ngữ "trong Thánh Thần" về các bản văn Cựu ước loan báo việc tuôn tràn Thần khí Thiên Chúa trên cộng đoàn: Is 32,15tt; 44,3tt; Ed 36, 25-29; Ge 3,1. Ta cũng có thể nhắc lới, như là bằng chứng của niềm chờ mong ấy, nhiều bản văn Qumrân như LQS IV, 19-23; và Chúc thư tổ phụ Lêvi 18, 6-9; Tv Salomon 17, 29-42. Trong các bản văn này, biểu lộ niềm tin tường vào chương trình của Thiên Chúa, tin tưởng rằng vào thời cánh chung, qua việc tuôn đổ Thần khí, Ngài sẽ tạo cho mình một dân tộc thánh, tuân phục Lề luật, một dân ‘biết’ Ngài. Qua việc Thần khí ngự xuống và đậu lại, Chúa Giêsu được chỉ định như là tác nhân của cuộc tuôn tràn thời cánh chung ấy. Chính Người là Đấng thực hiện công việc. Trước đó, nơi câu 32-33, lời ám chỉ mặc nhiên về Is 11,2 đã quy hướng theo nghĩa này.
Tính cách mới mẻ hoàn toàn, làm nên mặc khải chủ yếu của Tân Ước, hệ tại chỗ gán cho Chúa Giêsu một hành vi được coi như thuộc về Thiên Chúa. Thật vậy, trong Do thái giáo, không bao giờ việc tuôn tràn Thần khí được gán cho Đấng Messia: chỉ có Kitô giáo mới dám làm việc ấy. Đó cũng là chủ đề trong diễn từ của Phêrô ngày lễ Ngũ tuần: “Chúa Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy ... Và bây giờ, Người đã lĩnh nơi Cha ơn đã hứa là Thánh Thần mà đổ xuống” (Cv 2, 32 tt).
8) Lời tuyên bố sau cùng của Gioan Tẩy Giả (c. 34) xác nhận và củng cố lối giải thích trên. Gioan Tẩy Giả tổng lược và tổng hợp chứng từ của ông trong công thức: “Vì đã thấy, nên tôi xin đoan chứng chính Người là Tuyển nhân của Thiên Chúa".
Có một vấn đề phê bình văn bản được đặt ra cho câu này. Phần lớn các bản văn đọc là "Con Thiên Chúa" (“huios"). Một vài bản văn (như P 5, Sin., nhiều thủ sao của bản La-tinh cổ và Syri cổ, thánh Ambrôsiô) lại đọc: "Tuyển nhân của Thiên Chúa" ("eklektos"). Vài bản khác phối hợp cả hai cách: "Con được chọn" (electus Tilius).
Dầu cách đọc “Tuyển nhân của Thiên Chúa" ít được theo trong truyền thống thủ sao, nó cũng vẫn được một số lớn nhà chú giải giữ lại: Harnack, Loisy, Lagrange, Windisch, Cullmann, Van den Bussche, de la Potterie, Schnackenburg, Boismard, Brown, Barrett, Mollat ... Theo Jeremias mục Pais (tou theo)", TWNT), cách đọc "Con Thiên Chúa" hình như đã thay thế cách đọc nguyên thủy “Tuyển nhân của Thiên Chúa" vào thế kỷ 4, để chống lại dưỡng tử thuyết trong Kitô học. Mặt khác, dựa trên nhiều khuynh hướng thần học, khó mà tưởng tượng rằng các sao lục viên Kitô giáo đã đổi tiếng “Con Thiên Chúa" thành "Tuyển nhân của Thiên Chúa", trong lúc một sự thay đổi theo chiều ngược lại xem ra khả dĩ hơn. Thành thử cách đọc “Tuyển nhân của Thiên Chúa" có thể nên giữ lại vì danh nghĩa là cách đọc khó hơn". Cách đọc “Con Thiên Chúa" có thể là do ảnh hưởng của các trình thuật Nhất lãm về phép rửa Chúa Giêsu.
Cách đọc “Tuyển nhân của Thiên Chúa” xem ra quy chiếu về Is 42,1: nầy là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ Tuyển nhân của Ta mà hồn Ta sủng mộ. Ta đã đặt Thần khí Ta trên Người". Do đó Chúa Giêsu được chỉ định như là "Tôi tớ Giavê" mà nét phân biệt, như trong sấm ngôn Is 11,2 và trong trường hợp của ngôn sứ ở 61,1, là sự hiện diện của Thần khí Thiên Chúa "trên Người”, hiện diện để giúp thi hành sứ mệnh canh tân dân Thiên Chúa bằng cách dạy họ biết Lề luật Ngài. Việc ám chỉ Is 11,2, hàm chứa trong tiếng menein (lưu lại) của cc. 32.33, nhấn mạnh tính cách trường tồn và tràn đầy của việc Thần khí hiện diện trong Chúa Giêsu; còn việc ám chỉ Is 42,1 có lẽ nhắm mục đích nhấn mạnh trực tiếp hơn tính cách riêng biệt của sứ mệnh người là thanh tẩy "trong Thánh Thần" nghĩa là vãn hồi pháp luật, công bình và chân lý.
Nếu chấp nhận cách đọc "Tuyển nhân của Thiên Chúa", ta được một lối đóng khung rất đặc biệt cho cả phần 1, 29-34. Quả vậy, hình như công thức "Chiên Thiên Chúa" có thể được giải thích, ít ra một cách nào đó, khi đem quy chiếu về kiểu nói "Tôi tớ Thiên Chúa" của Is 42.9
Hãy giải thích đôi chút lời quả quyết vừa nêu. Nhiều tác giả tự hỏi phải hiểu chữ "Chiên Thiên Chúa" thế nào. Thông thường, người ta coi đó như một tiếng ám chỉ chiên Vượt Qua hoặc chiên hy tế của Đền thờ, hay "Tôi tớ Giavê" trong sấm ngôn Is 53,7, kẻ được hình dung như con chiên bị đem đi giết, như con cừu trước thợ xén lông, và mang lấy nỗi khổ cùng các hành vi bất công của chúng ta. Về chiên Vượt Qua hay chiên hy tế thường ngày, thật sự không có vấn đề liên hệ vì chẳng có chỗ nào gán việc đền tội cho chúng (Str-bill, II, 368).
Ngược lại, về phía bản văn Isaia, sự tương tự giữa nó với đoạn Gioan dựa trên hai nền tảng: trong cả hai bản văn hy vật được tượng trưng bằng một con chiên, mang lấy trên mình tội của thế gian (lập luận thường được dùng để bênh vực việc đồng hóa Chúa Giêsu với con chiên Vượt Qua). Dầu sao đó chỉ là tương tự trên ngoài mà thôi. Trong sấm ngôn Isaia, hình ảnh con chiên, con cừu không có mục đích nói lên tính cách hy vật, nhưng là nói lên sự dịu dàng tính chịu đựng, đức phục tùng của người Tôi tớ. Còn về việc đền bù thay thế tội lỗi, chắc chắn không dược thánh Gioan diễn tả ở đây.
Động từ airoin (cất đi, cất lấy) của Gioan không tương đương với động từ pherein (mang lấy, gánh lấy trên mình) của Is 53,4. Và cũng nên ghi nhận là ý tưởng về một Đấng Messia đau khổ rất xa lạ với thiên sai chủ nghĩa đương thời. Chắc hẳn khó khăn này có thể vượt qua. Vì vị Tiền Hô có thể đã biết được trước mầu nhiệm cứu chuộc, hoặc nhờ suy niệm về sấm ngôn Isaia, hoặc nhờ một ân sủng đặc biệt, thích hợp với sứ mệnh. của ông. Nhưng quả là khó khi muốn làm cho một lời tuyên bố về sứ mệnh đền bù và cứu chuộc của Chúa Giêsu ăn khớp với các chứng từ khác của Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả thường coi Đấng Messia như là vị thẩm phán chuyên việc quét sạch sân lúa của Người với một cái rê trong tay và phân biệt nghiêm nhặt người công chính với kẻ tội lỗi (Mt 3,12; Lc 24,17). Cho đến cuối đời, ông vẫn nóng lòng chờ đợi Người đảm nhận vai trò đó (Mt 11,2-3; Lc 7,18-19). Hơn nữa, nếu sự hy sinh cứu chuộc của Đấng Messia đã được công bố rõ ràng như thế ngay từ đầu, thì làm sao giải thích nỗi kinh ngạc của các sứ đồ khi nghe loan bác cuộc Tử nạn (Mc 9,32; Lc 24,21 v.v...)?
10) Khoa chú giải đã tự hỏi đâu là ý nghĩa riêng của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa trong các trình thuật Nhất Lãm. Thường người ta trả lời như sau: Chúa Giêsu, khi chịu rửa, đã để Thần khí chiếm đoạt. Thiên Chúa đã sử dụng Người, trang bị và ban cho Người- khả năng làm sứ giả của Ngài, làm kẻ xây dựng thời cứu độ. Chúa Giêsu, khi chịu rửa, đã học biết ơn gọi của Người vậy.
Còn trình thuật Gioan không đề cập tới phép rửa của Chúa Giêsu, đối với ông, việc gặp gỡ giữa Gioan Tẩy Giả với Chúa Giêsu trước hết là cơ hội của một cuộc thần hiện, nghĩa là của một cuộc mặc khải cho Gioan Tẩy Giả biết thiên sai tính thiêng liêng của Chúa Giêsu. Cuộc thần hiện này được vị Tẩy giả giải thích dưới ánh sáng của một lời thần linh (1,33); lời này, được thị kiến củng cố, đặt nền tảng cho chứng tá của ông về Chúa Giêsu và về công việc của Người. Trong viễn tượng của Tin mừng thứ tư, cảnh này có một tầm quan trọng căn bản, vì Gioan chỉ "đến" là để "làm chứng điều ấy" (1,7): "để Người được tỏ mình ra cho Israel" (1,31).
Israel ở đây chỉ Israel cánh chung, đích thực, nghĩa là các thành phần trong dân được xác nhận là đã sẵn sàng đón nhận ánh sáng. Chính họ, qua chứng từ của Gioan Tẩy Giả, là đối tượng của mặc khải về Đấng được Thần khí "lưu lại" bên trên. Họ biết rằng từ nay Thần khí hiện diện, một cách thường xuyên và tràn đầy, trên Đấng Ngài đã “đáp xuống" và lưu lại: chính Người là Đấng rửa trong Thánh Thần. Với Người, thời đại mới đã được khai mạc.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Này là Chiên của Thiên Chúa": Người ta bảo rằng cái lập luận vững vàng bênh vực lập trường "Con chiên Vượt Qua tiên trưng con Chiên mà Gioan Tẩy Giả làm chứng ở đây" phát xuất từ chính thánh sử, từ chính trình thuật Tử nạn (19, 36-37). Vì theo thời biểu của Gioan, Chúa Giêsu chết vào chính lúc hoàn tất nghi thức sát tế chiên dành cho bữa ăn Vượt qua trong Đền Thờ. Người ta lại còn phỏng đoán Gioan đã thay đổi thời biểu với chủ ý ngầm bảo độc giả rằng Chúa Kitô chịu sát tế thay thế chiên Vượt Qua của Cựu Ước.
Từ ngày khám phá các thủ bản ở Biển Chết, vấn đề thời biểu trên lại được tranh luận hơn nữa. Nhưng hình như có thể bỏ qua. Thật vậy, lời giải thích mà chính thánh sử đưa ra về các hoàn cảnh của cái chết Chúa Giêsu tự nó đã dứt khoát. Đặc biệt ông thấy việc không bẻ gẫy xương (Ga 19,36b) và nhát lưỡi đòng (Ga 19, 37b) là dấu hoàn thành một sấm ngôn Cựu Ước. Người ta bảo bản văn đầu đưa ta về lại một chi tiết đặc biệt trong pháp chế liên hệ đến chiên Vượt Qua trong Xh 12, 46 và Ds 9, 12. Nhưng ta cũng có thể thấy đó là một câu trích dẫn Thánh Vịnh 34, 2. Thật vậy, bản văn Gioan tương hợp với bản văn Thánh vịnh hơn nhiều. Lại nữa, ngoại trừ câu 19,37 (= Dcr 12, 10), 6 câu trích dẫn khác trong phần 2 của Gioan đều xuất phát từ sách Thánh Vịnh. Nhận xét này cho ta một dấu hiệu đáng lưu tâm.
Ngoài ra, ý tưởng được trình bày trong Thánh Vịnh đặc biệt ăn khớp với bản văn ta đang nghiên cứu và với toàn thể thần học Gioan. Thật vậy, Thánh Vịnh quả quyết Giavê sẽ bảo vệ người công chính bị bách hại, đến nỗi chẳng một xương nào của ông bị dập gãy. Trong Ga 19, Chúa Cha không để cho thân xác Chúa Giêsu ra hư hoại do việc đánh gãy xương, vì nó cần phải nguyên vẹn để được phục sinh. Vào giờ chết, trong lúc Chúa Giêsu xem ra hoàn toàn bị ruồng rẫy, thì Chúa Cha không bỏ rơi Người: Gioan thích diễn đạt tư tưởng ấy (8,29; 16,32). Cái ý tưởng sự chết dẫn đến chiến thắng đó cũng nằm trong câu trích dẫn Dcr 12,10. Bản văn Hy Bá nguyên thủy kém sáng sủa, nhưng câu trích dẫn trong Gioan không có gì mơ hồ. Các kẻ đâm Chúa Giêsu sẽ phải nhìn lên Người, như nhìn một vị chiến thắng, để đón nhận từ Người, từ cạnh sườn họ đã đâm thâu, ơn cứu độ nhờ nước và máu, biểu tượng của phép Thanh Tẩy và Thánh Thể.
Thành thử hai câu trích dẫn của Ga 19, 36-37, điều hợp với nhau, hình như không đưa ta đến sự song đối kiểu mẫu với con chiên Vượt Qua; trái lại chúng ám chỉ tới khuôn mặt người Tôi tớ đau khổ và được tôn vinh nhờ nỗi khổ đau của mình.
"Đấng khử trừ": Động từ Hy Lạp airoin có nghĩa là nâng lên và do đó có nghĩa là mang lấy, gánh lấy trên mình hoặc mang đi, cất đi, làm biến đi. Ga thường sử dụng động từ theo nghĩa sau cùng (x. 2, 16; 5, 8- 12; 10, 18; 1 Ga 3, 5).
"Tội thế gian": Kiểu nói số ít này nhắm toàn thể các tội lỗi của thế gian trong trương độ và hàm súc của chúng.
KẾT LUẬN
Cho đám đông tội lỗi mà ông đã dẫn đến chỗ ý thức các tội phạm của mình cùng ao ước một sự thanh tẩy đích thực mà phép rửa bằng nước của ông không thực hiện được, Gioan giới thiệu Chúa Giêsu như kẻ được chỉ định để ban ơn cứu độ thiêng liêng đích thực bằng cách thực hiện các sấm ngôn về người Tôi tớ khổ đau: "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng khử trừ tội thế gian” hay nói cách khác: đây là người Tôi tớ thời danh của Thiên Chúa, Đấng sẽ chấp nhận từ bàn tay Thiên Chúa, cách ngoan ngoãn và vô tội như một con chiên, mọi thử thách cần thiết để cứu rỗi các tội nhân.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Gioan Tẩy Giả nói đến một người tên là Giêsu. Đấy chẳng có gì lạ lùng, mặc dù đức tin của ta vào Chúa Kitô thường hay bỏ quên mầu nhiệm nhập thể. Khi nghĩ tới Người, ta dễ hình dung ra một loại nhân vật thần thoại, không phải người cũng chẳng phải Thiên Chúa, hoàn toàn đứng riêng ra, thoát khỏi sự truyền nhiễm của tội ác, là do đấy được ưu đãi đến độ không còn gì chung với chúng ta nữa. Thế mà, khởi điểm của chứng tá ta nghe hôm nay chính là: con người Giêsu ấy đã được sinh ra từ một người nữ như bao kẻ khác, "đã được Thiên Chúa nắn đúc từ lòng mẹ” như Isaia xác định (49,5), vì sự che chở đặc biệt không bớt đi tí gì thực tại nhân loại của Người. Nhưng con người ấy có một định mệnh đặc biệt: Isaia sẽ gọi Người là "Tôi tớ". Gioan Tẩy Giả còn cho Người tước hiệu lạ kỳ hơn: "Chiên Thiên Chúa". Và ông làm điều ấy một cách cụ thể, rõ ràng: khi Chúa Giêsu đi qua, Gioan Tẩy Giả chỉ Người mà bảo: "Đây là Chiên Thiên Chúa".
2. Hai thành ngữ "Tôi tớ " và "Chiên Thiên Chúa", dù trông khác nhau, đều nói lên rằng Chúa Giêsu sẽ vừa là Đấng vô tội vừa bị con người trừng phạt như một tội nhân. Khi gọi Người như vậy, Isaia và Gioan Tẩy Giả muốn công bố sự công chính, đức vâng phục lệnh Thiên Chúa và định mệnh hy lễ cứu chuộc của Người. Trong thư của ông, Phêrô sẽ nói "máu của Người châu báu như máu con chiên vô tật vô tì" (1Pr 1,19). Chúa Giêsu là người công chính sẽ trả nợ cho nhân loại, sẽ bị vây bắt, hành hạ và giết chết bởi những kẻ Người đến cứu vớt. Khi gọi Người như Con Chiên và Tôi tớ của Thiên Chúa, hai vị ngôn sứ đều muốn bảo Người là kẻ thừa kế, là kẻ thực hiện mọi lời Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ.
3. Đó là điều Gioan Tẩy Giả khám phá lúc bấy giờ khi giải thích cho ta hay làm sao ông đã "nhận biết" Chúa Giêsu. Dù là anh em họ, ông đã không biết Người trong chính thực thể của Người. Nhưng Chúa Thiên Chúa đã cho ông một dấu hiệu: "Ngươi thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại trên ai, thì chính Người ...". Và Gioan đã tuyên bố: tôi đã thấy Thần khí, như một chim câu, từ trời đáp xuống và lưu lại trên Người. Rồi tiếp đó ông thản nhiên bảo: tôi đã thấy và xin đoan chứng: chính người là “Tuyển nhân của Thiên Chúa". Việc mô tả Chúa Giêsu dần dà trở nên rõ hơn dưới sự linh ứng của Thiên Chúa: "Chúa Giêsu là Tuyển nhân của Thiên Chúa". Về sau thánh Phaolô sẽ gọi Người là "Chúa chúng ta, Chúa của họ cũng như của chúng ta" (1Cr 1,2). Kể từ lời khẳng quyết này, các từ ngữ không thể đi xa hơn nữa và trí óc của ta chỉ còn có thể tìm những tiếng tương đồng, những thành ngữ cắt nghĩa được nhiều hay ít những gì vừa nói mà thôi.
4. Chúa Giêsu là một con người, một ngươi công chính bị hiểu lầm, bị khai trừ và sau cùng bị giết bỏ; và Đấng công chính ấy là Chúa của nhân loại. Đó là lời khẳng định chính yếu ban bố cho ta hôm nay, một lời khẳng định dị thường đến nỗi khó tưởng tượng rằng có một ai khác đã sáng tác ra, trừ phi được chính Thiên Chúa soi sáng.
5. Gioan Tẩy Giả lại giải thích điều ấy trong một ngôn ngữ khá lạ lùng. Ông nói đến Đấng tới sau ông. Đó là Chúa Giêsu, trẻ hơn ông một chút, nhưng chưa ai biết tên tuổi, trong lúc ông, Gioan, đã nổi tiếng như cồn khắp xứ Palestine và đã thành công rực rỡ. Đấng ấy vượt lên trước ông, vì Người ngày càng trở nên quan trọng trong lúc ông, với nhiệm vụ giới thiệu Người, sắp dần dần lui vào bóng tối. Phải như vậy "vì Người đã có trước tôi". Thành ra không phải nhờ nhân đức, quyền năng chữa bệnh hay tài hùng biện của Người, nhưng là nhân bản tính của Người vậy. Mặc dầu sinh sau Gioan, Chúa Giêsu đã hiện hữu trước ông. Gioan biết điều đó nhờ một ơn soi sáng đặc biệt và ông đã nói ra cho mọi người.
6. Gioan Tẩy Giả dùng hai thành ngữ khác nhau để nói về sứ mệnh của Chúa Giêsu: "Người khử trừ tội thế gian" và "Người thanh tẩy trong Thánh Thần". Người khử trừ, Người cất đi tội lỗi như thể đó là một gánh nặng, một chướng ngại. Ngôn ngữ của vị ngôn sứ này gởi lên hình ảnh Chúa Kitô đến thực hiện một cuộc giải phóng và cho thấy con người như thể bị giới hạn trong tư tưởng hay trong hành động bởi những trở ngại nặng nề cản ngăn họ đi đến cùng đích số mệnh. Vì thế Chúa Kitô đến cất đi các xiềng xích đang trói buộc trái tim con người trong ích kỷ, tham vọng, chai đá, nhục dục, ghen tương, oán hờn, thụ động. rồi "Người thanh tẩy trong Thánh Thần". Chúng ta biết rằng hạn từ "thanh tẩy" có nghĩa là: dìm sâu.
Chúa Kitô sắp tái tạo con người bằng cách dìm nó trong Thần khí Thiên Chúa, bằng cách làm cho nó thấm nhuần Thánh Thần của Ngài. Nhờ vậy, con người sẽ được biến đổi một cách sâu xa; ta có thể bảo rằng sở dĩ nó được cứu, là vì nó đã bị hủy tiêu và thay thế bằng một kẻ khác dầu sao vẫn tốt hơn chính nó.
7. "Phần tôi, tôi đã không biết Người". Câu này giúp ta nhìn sâu vào định mệnh Gioan Tẩy Giả. Vị Tiền hô đã làm việc, đã rao giảng một thời gian lâu dài, trong ý thức đơn sơ là vâng theo một sứ mạng, thế mà chẳng biết Đấng mình loan báo. Phải chăng đó là một trong những nét của ơn gọi đích thực? Ai có sứ mệnh dọn đường cho Chúa Kitô đến trong một tâm hồn, trong một môi trường, trong thế giới, đừng tưởng rằng mình sẽ biết chắc Chúa Kitô đứng đấy. Không! Phải nhẫn nại làm việc trong đức tin và để mặc Chúa chọn thời cơ thuận tiện để biểu lộ dấu chỉ của việc Thần khí đáp xuống. Nếu lòng trung thành nhẫn nại của Gioan Tẩy Giả sau cùng đã được ân thưởng bằng thị kiến ở sông Giođan, thì lòng trung tín của ta cũng sẽ được ân thưởng bằng một sự hiểu biết ngày càng sống thực hơn về Chúa, và sau cùng bằng thị kiến diện đối diện với Đấng mà chúng ta vẫn hằng mong gặp.
Bài Phúc Âm nói đến ‘ngày hôm sau’, tức là ngày sau khi Gioan Tẩy Giả trả lời cho người Do:TN 2-A34
Bài Phúc Âm nói đến ‘ngày hôm sau’, tức là ngày sau khi Gioan Tẩy Giả trả lời cho người Do Thái đến hỏi về sứ mệnh của ngài, và tuyên bố rằng ngài không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Ngài nói: “Ở giữa các ông có một người mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi” (1,26). Danh từ ‘Con Chiên Thiên Chúa’ rất thông thường trong ngôn ngữ thánh sử Gioan, nhất là trong sách Khải Huyền của tác giả. Nó chỉ Đấng Cứu Thế, Đức Giêsu Kitô hiến tế mình để giải phóng và hồi sinh nhân loại. Cách gọi này rất nhiều ý nghĩa đối với môn đệ Gioan là những người biết rõ nghi thức ăn tiệc chiên Vượt Qua và việc sát tế hằng ngày một con chiên trong Đền thờ, làm của lễ đền tội cho dân chúng. Con Chiên gánh tội trần gian là con chiên tự hiến làm lễ giải phóng dân chúng, theo như các bài ca của ngôn sứ Isaia về Người Tôi Tớ Giavê. Điều này không có nghĩa là các môn đệ hiểu rõ ngay. Nhưng Gioan Tẩy Giả dùng cách nói trên chuẩn bị cho họ hiểu rõ sau này.
Trong đời ta, có khi ta nghe một lời nói, hay trải qua một biến cố mà ngay lúc đó ta chưa thấy rõ tất cả ý nghĩa; chỉ về sau Chúa mới cho ta khám phá ra tất cả tầm mức của nó. Ở đây ta lưu ý tới hai điểm:
1) Tội trần gian.
Trần gian có nghĩa là nhân loại. Tác giả Phúc Âm dùng tiếng ‘tội’ ở số ít (không phải ‘các’ tội lỗi). Như thế ông làm nổi rõ sự liên đới của mọi người trong tai họa sự ác. Nhưng tình liên đới đó trở nên yếu tố thuận lợi cho sự cứu rỗi. Tất cả mọi người đều đồng hưởng ơn cứu độ do Đức Kitô mang lại. Ơn cứu độ rộng mở đón nhận bất cứ ai. Điều tiên quyết đòi hỏi nơi họ là không từ chối lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, ít ra không từ chối một cách tội lỗi. Không được tẩy xóa khỏi tội lỗi, thì nhân loại sẽ bị kết án. Nhờ Đức Kitô, nhân loại được cứu thoát.
Một khi đã ý thức về tình liên đới của ta trong tai họa tội lỗi, chúng ta hãy cố gắng lật ngược ý nghĩa của tình liên đới ấy bằng cách đi sâu vào con đường hiệp nhất với Đức Giêsu Kitô Cứu Chúa.
2) Phần tôi, tôi đã không biết Người.
Thế ra trong thời gian lâu dài, Gioan đã làm việc, giảng thuyết với ý thức đơn giản là để tuân theo một sứ mệnh mà không biết rõ Đấng mà ngài loan báo. Phải chăng đó là một trong những nét của một ơn gọi chân chính? Người có sứ mệnh chuẩn bị cho Đức Kitô đến trong một linh hồn, một môi trường, trong thế gian phải chấp nhận trường hợp có thể xảy ra là chính mình lại không thấy hiển nhiên rằng Đức Kitô đang ngự đến đó. Phải kiên nhẫn làm việc trong đức tin. Hãy để cho Chúa tự do chọn lựa thời giờ mà một dấu hiệu xảy tới, nếu có, báo tin Đức Thánh Linh ngự xuống.
Có một người là Giêsu người Nagiarét đi về phía chúng ta. Và Gioan Tẩy Giả lôi kéo sự tò mò:TN 2-A35
Có một người là Giêsu người Nagiarét đi về phía chúng ta. Và Gioan Tẩy Giả lôi kéo sự tò mò của chúng ta.
- Người này đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi.
Làm sao không nghĩ đến đoạn mở đầu? “Ban đầu đã có Ngôi Lời”. Thật là mầu nhiệm! Một người nói về một người khác: Ngài đến sau tôi nhưng đã có trước tôi. Gioan Tẩy Giả thú nhận dứt khoát: “Tôi không biết Ngài”. Và mặc dầu Chúa Giêsu là em họ ông.
Chúng ta cũng thế, cho đến cuối đời chúng ta sẽ phải nói: tôi không biết Ngài. Đây là một điều gì đó của mầu nhiệm Nhập Thể, tức Ngôi Lời làm người, sẽ luôn luôn thoát khỏi chúng ta. Nhưng Tin Mừng được trao ban cho chúng ta để chúng ta nhận biết Chúa Giêsu Kitô để nhờ đó chúng ta được sống cuộc sống vĩnh cửu, nghĩa là cuộc sống thật sự, chính là nhận biết Thiên Chúa trong khi nhận biết Chúa Giêsu Kitô (Ga 17,3).
Gioan Tẩy Giả giúp chúng ta tiếp xúc lần đầu tiên bằng mệnh từ khá làm cho chúng ta bối rối: “Đây là Chiên của Thiên Chúa”. Đây không phải là ngôn ngữ của chúng ta và chúng ta có nguy cơ lặp lại điều này một cách máy móc: thế thì chúng ta nói gì về Chúa Giêsu? Vô tội, hiền lành chăng? Phải, nhưng máu và vinh quang nữa. Vô tội, Ngài đã gánh lấy tội lỗi của muôn người và giải thoát chúng ta khỏi sức nặng đè bẹp các cuộc đời. “Chiên Thiên Chúa Đấng xóa tội trần gian”.
Thật là một xác thực kỳ lạ! Một trong những sự xác thực làm chúng ta bừng lên niềm vui nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Ngài. Nhờ chiên này mà người ta có thể tránh được tội lỗi. Tội lỗi sẽ luôn luôn tồn tại, đó là bóng tối của tự do của chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu có thể luôn luôn nâng đỡ chúng ta, sự cứu độ hiện diện ở trong cái luôn luôn này. Tội lỗi là một mối nguy, một sự cố trên đường đi, chứ không bao giờ là sự chết chóc, không bao giờ là ngục tù, chúng ta không thể phạm tội mà không được tha thứ bao lâu chúng ta tin tưởng rằng Chúa Giêsu, Chiên vô tội và quyền năng, xóa bỏ tội lỗi.
Quyền năng sao? Đây là tiếng nhiệm mầu biết bao nói lên đều đó: “Ngài có trước tôi”. Ngài có trước Gioan Tẩy Giả, Ngài có trước mọi người. Ngài là Đấng đang có, đã có và đang đến. Đây là nhũng tiếng dùng để giới hạn Đấng vô cùng: “Tôi đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Ngài và tôi làm chứng: Đây là Con Thiên Chúa”.
Một ngày kia, đã có một người tiến về phía những người khác và con người đó là Thiên Chúa.
Đứng trước một điều khẳng định này đi qua mà không đốt cháy trái tim và cuộc đời của họ. Họ tiếp tục sống bên ngoài Chúa Giêsu. Họ đã đọc Tin Mừng, nhưng họ đã không gặp được Chúa Giêsu.
Có những người đã thực sự găp Ngài và họ mong ước sống trong tình yêu mãnh liệt với Ngài. Họ đọc nhiều, họ tìm kiếm sự gặp gỡ Chúa trong việc suy niệm Tin Mừng và trong bài giảng, họ nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa!”. Nhưng họ vẫn mù loà và bất động trước sự dấn thân của anh em, ít ý thức về nhiệm vụ của con người, không can đảm lắm trong những bất trắc. Khi họ tuyên bố Chúa Giêsu là Thiên Chúa thì họ chỉ làm trò cười mà thôi: ‘Nhìn vào cuộc sống của ngươi, người ta thấy Chúa Giêsu của ngươi là Thiên Chúa ở đâu?’.
Cũng có những người vĩ đại. Họ nói tương tự như trên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”, nhưng họ sống với Chúa Kitô một cuộc đời đầy việc kỳ diệu. Họ rất thân tình, vững mạnh và khiêm hạ khi gánh nặng quá sức họ. Cuộc sống của họ là một kinh nghiệm về Chúa Giêsu. Đối với họ, Ngài mới thật là Con Thiên Chúa.
Qua việc Chúa gọi Samuel, Gioan, Andrê và Simon, chúng ta nhận thấy, mỗi người có một:TN 2-A36
Qua việc Chúa gọi Samuel, Gioan, Andrê và Simon, chúng ta nhận thấy, mỗi người có một trường hợp riêng, nhưng tất cả lại qui về một mối duy nhất.
Thực vậy, trong cả bốn trường hợp trên thì sáng kiến kêu gọi luôn luôn là sáng kiến của Chúa, chứ không bao giờ là sáng kiến của chính cá nhân, của chính bản thân các ông.
Samuel thì được Chúa kêu gọi trong đền thờ, giữa đêm khuya thanh vắng. Còn Gioan, Andrê và Phêrô thì lại được kêu gọi giữa thanh thiên bạch nhật trên bờ biển. Tất cả các ông đều chứng thực lời Chúa đã phán với các ông sau này:
- Không phải các con đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con đi để các con sinh nhiều hoa trái.
Tiếp đến, tất cả các ông, một khi đã nghe biết tiếng gọi của Chúa, đã mau mắn bước theo Chúa, không một chút do dự. Thế nhưng, mỗi người một cách khác nhau tùy theo hoàn cảnh của mình và cách thế mình được kêu gọi, cũng như theo nhiệm vụ mình được trao phó.
Đúng thế, Samuel được gọi trực tiếp từ thuở nhỏ, nhưng phải nhờ thày cả Heli thì mới hiểu được sứ mệnh Chúa ủy thác. Gioan và Andrê hoàn toàn bị thúc đẩy bởi tính tò mò tự nhiên, nhưng cũng đã phải nhờ tới thầy mình là Gioan Tiền hô mới nhận biết Đức Kitô chính là Thiên Chúa, chính là Đấng Cứu thế muôn dân mong đợi. Còn Simon Phêrô, được anh là Andrê tiến cử và sau đó Chúa Giêsu mới chính thức kêu gọi ông bằng cách đặt cho ông một tên mới. Nếu Gioan, Andrê và Phêrô đều là những tông đồ của Chúa, thì vai trò của mỗi ông trong lòng Giáo hội lại rất khác biệt nhau.
Còn chúng ta thì sao? Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy tất cả chúng ta đều đã được Chúa kêu gọi nhưng theo những cách thức khác nhau. Đúng thế, người thì nhận ra tiếng Chúa gọi ngay từ thuở nhỏ, nhưng đến sau mới nhận được ơn soi sáng. Người thì trung thành tiến tới từng bước một, kẻ thì sốt sắng lúc ban đầu, nhưng rồi dần dần trở nên nguội lạnh.
Đồng thời chúng ta cũng được Chúa trao phó cho những nhiệm vụ khác nhau, tùy theo hoàn cảnh gia đình và xã hội, cũng như tùy theo khả năng riêng của mỗi người. Nhưng tất cả chúng ta đều phải hợp nhất trong một thái độ căn bản, là muốn trao về cho Đấng chúng ta tin, tất cả những gì thuộc về chúng ta như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
- Thân xác chúng ta thuộc về Đức Kitô, nó sẽ được phục sinh.
Hay nói một cách khác:
- Thân xác của chúng ta là chi thể của Đức Kitô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Thân xác chúng ta.
Hay nói đúng hơn, tất cả con người chúng ta ngày càng phải thuộc về Chúa hơn. Và chúng ta chỉ thuộc về Chúa một cách dứt khoát và trọn hảo khi đã đi hết đoạn đường đời của chúng ta.
Mỗi người chúng ta có một hoàn cảnh, một sứ mạng riêng biệt. Thế nhưng, chúng ta cùng theo đuổi một mục đích là làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Cũng như trong một cơ thể, nhiệm vụ của tay khác với chân, nhiệm vụ của mắt khác với răng. Tuy nhiên, tất cả cùng theo đuổi một mục đích chung đó là sự sống còn và phát triển của cơ thể. Mặc dù chúng ta có những khác biệt, nhưng liệu tất cả chúng ta đã mau mắn đáp trả tiếng Chúa gọi hay chưa?
Huyền thoại Ấn Độ kể rằng: Thuở trái đất này còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa rất:TN 2-A37
Huyền thoại Ấn Độ kể rằng: Thuở trái đất này còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không bao giờ từ chối người nào.
Ngày kia, một lão ông lom khom chống gậy tới than thở với thỏ Pôlixa:
- Suốt mùa nước lũ vừa qua, lão không có gì để ăn, đói lả người, chắc lão sẽ chết nay mai thôi. Trước khi chết, lão chỉ xin một miếng thịt thỏ mà lão rất thèm thuồng bấy lâu. Vậy thỏ Pôlixa có cho lão được không?
Thỏ Pôlixa nhìn ông lão hom hem yếu đuối, tội nghiệp, liền nói:
- Được rồi, ông chờ cháu một lát.
Thế là Pôlixa vội đi kiếm củi, xếp thành đống, mồi lửa và nói:
- Ông chờ thịt cháu chín, rồi ông lấy àm ăn nhé!
Nói xong, thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên, lửa tắt, ông lão biến mất. Thì ra đó là một vị thần được sai tới để thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng Đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.
Huyền thoại nào cũng mang một sứ điệp cho con người. Nếu thỏ Pôlixa là hình ảnh của những ai biết hy sinh thân mình cho kẻ khác, thì “Con Chiên” trong Tin Mừng hôm nay chính là hiện thân của Đấng đã hiến thân vì nhân loại. Đó là Đức Giêsu Kitô mà Gioan đã giới thiệu với các môn đệ của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29).
Chỉ có Con Chiên thanh sạch, hiền lành, bị sát tế không một lời thở than, mới đền thay được tội lỗi.
Chỉ có Đấng vô tội mới có thể chết thay cho các tội nhân.
Chỉ có Phép rửa trong Thánh Thần, chính là Máu Đức Giêsu mới có thể tẩy xóa tội lỗi và ban ơn thánh hóa.
Qua lời chứng của Goan Tẩy giả, Giáo hội mời gọi chúng ta yêu mến và đền đáp công ơn cứu chuộc của Đức Giêsu. Đồng thời, cũng kêu gọi chúng ta hãy đi làm nhân chứng cho Người.
Tình yêu đáp lại tình yêu, ân tình đền đáp ân tình, đó là qui luật cơ bản nhất của con người. Niềm tin của người tín hữu Kitô thiết yếu là sự đáp trả ân tình của Chúa.
Đáp trả ân tình của Chúa không chỉ là thiết tha yêu mến Người, mà còn là quyết tâm sống hiến thân như Người đã sống.
Đáp trả ân tình của Chúa không chỉ là nhìn nhận những ân huệ Người ban, mà còn luôn biết mở rộng lòng ra để sống quảng đại với anh em.
Đáp trả ân tình của Chúa không chỉ là biết yêu thương con người, mà còn là yêu thương không mong đền đáp, là cho đi không tính toán thiệt hơn.
Những người quảng đại đáp trả ân tình của Chúa cũng là những chứng nhân. Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người nói năng và hành động qua chúng ta. Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người dùng cuộc sống chúng ta để tha thứ và yêu thương. Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người mượn con người của chúng ta để tiếp tục hiến thân cho nhân loại.
Môn chơi chữ có thể rất vui. Một số người nói một từ và bạn có thể trả lời theo những gì đếnTN 2-A38
Môn chơi chữ có thể rất vui. Một số người nói một từ và bạn có thể trả lời theo những gì đến trong tâm trí bạn. Thí dụ, tôi nói ‘nhỏ’ và bạn nói ‘lớn’. Tôi nói ‘bóng đá’, bạn nói ‘bóng chày’. Gioan Tẩy Giả nói “Đây Chiên Thiên Chúa” và chúng ta có thể nói “cái gì?”
Để trình bày Chúa Giêsu. Thánh Gioan Tẩy Giả đã có thể làm tốt hơn khi tuyên bố: “Hãy chiêm ngắm, đó là Chúa của các ngươi” hoặc “Đó là Đấng Cứu Độ” hay “Đây là Đức Kitô” không hay hơn sao? Tất cả những tước hiệu này xem ra diễn tả rõ ràng hơn: “Chiên của Thiên Chúa”.
Thật ra, đối với người Do Thái, tước hiệu mà Gioan Tẩy Giả rao giảng thì từ ‘Chiên Thiên Chúa’ gợi lên trong tâm trí họ toàn bộ giáo lý đức tin của dân riêng Thiên Chúa. Ngay lập tức, họ nghĩ rằng không phải là một con chiên nhỏ bé nhưng là sự lớn lao của quyền năng và lòng thương xót Chúa hướng đến họ qua dấu máu của con chiên, nhờ đó họ được cứu thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập và được mang đến sự tự do và đời sống mới nơi đất Hứa. Mỗi năm vào dịp lễ Vượt Qua, họ lại tưởng nhớ và mừng lễ Cứu Độ bằng việc tham dự vào bữa ăn tối Vượt Qua.
Trong thánh lễ, việc mừng sự cứu độ của chúng ta trong Đức Kitô, chúng ta nhìn lên Mình và Máu Chúa, chúng ta nhận biết Người bởi chúng ta hiểu những lời của vị linh mục: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Khi chúng ta nghe những lời này trước khi rước lễ, chúng ta được mời gọi nhớ lại những gì mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta, Người như Chiên Vượt Qua. Chúng ta diễn tả niềm tin của chúng ta trong những lời tuyên xưng Thánh Thể. Khi nhớ chiên vượt qua đã bị hy sinh sát tế thế nào, chúng ta được mời gọi suy niệm về chung kết là việc Chúa ngự đến như là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ thế gian này: “Đức Kitô đã chết, Đức Kitô đã sống lại, và Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang”.
Khi suy niệm về sự giải thoát đã ban cho các tổ phụ chúng ta, trong đức tin, chúng ta được mời gọi suy niệm về việc được giải thoát khỏi tội lỗi của chúng ta: “Lạy Chúa, bằng thánh giá và sự phục sinh của Người, Người đã cho chúng con được tự do. Chúa là Đấng Cứu Độ thế gian”. Khi suy nghĩ về đời sống mới của các tổ phụ tinh thần của chúng ta nơi đất Hứa, chúng ta được mời gọi suy niệm đời sống mới của chúng ta trong Đức Kitô: “Bằng cái chết, Người đã tiêu diệt sự chết nơi chúng ta, bằng việc sống lại, Người đã phục hồi sự sống cho chúng ta”. Khi suy niệm về các tổ phụ đã kỷ niệm sự giải thoát của mình bằng việc dự phần vào bữa tối Vượt Qua, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm việc chúng ta cử hành mừng ơn cứu độ của chúng ta nơi bữa tiệc Thánh Thể: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”.
Khi mời gọi mọi người lên hiệp lễ, vị linh mục nói: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” hay là câu: “Hạnh phúc thay những người được gọi đến dự bữa tối với Người”. Bữa tối hoặc tiệc đây không phải ám chỉ bữa tối sau hết nhưng là tiệc cưới của Con Chiên Thiên Chúa trên thiên đàng nơi mà các tín hữu của Chúa mừng giao ước tình yêu và trung tín (Kh 19,9). Bữa tiệc huy hoàng và đời đời là số phận của chúng ta bởi vì chúng ta nên một với Chiên Thiên Chúa ở trên trời.
Không có từ đơn giản nào mà thích hợp như một câu trả lời khi chúng ta nghe xướng: “Đây Chiên Thiên Chúa”, nhưng một cuộc suy niệm sâu xa về sự phong phú của tước hiệu này sẽ giúp chúng ta hiểu biết Chúa Giêsu tốt hơn và dẫn chúng ta tới dự phần đầy đủ hơn nơi bữa tiệc Thánh Thể của Chiên Thiên Chúa.
Nếu khởi đầu Mùa Quanh Năm là sự nhận diện thiên tính của Chúa Giêsu khi Người chịu phép:TN 2-A39
Nếu khởi đầu Mùa Quanh Năm là sự nhận diện thiên tính của Chúa Giêsu khi Người chịu phép Rửa nơi sông Giođan và cũng là nhận diện phẩm giá Kitô hữu khởi đi từ ngày họ lãnh phép Rửa Tội, thì Chúa Nhật thứ hai Thường Niên được xem như một khai triển phẩm giá ấy về mặt sứ vụ. Thật vậy, đảm nhận cuộc sống làm người và đón nhận cuộc đời làm con Chúa, tín hữu không chỉ sống đơn lẻ mà còn sống giữa những người khác, thế nên nét tươi tắn nhất trong sứ vụ của họ là giới thiệu Chúa Kitô cho những kẻ xung quanh mình. Nhưng vấn đề là phải làm sao để giới thiệu Chúa Kitô cho có hiệu quả.
Dựa trên trang Tin Mừng hôm nay về việc Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô cho những kẻ đương thời, ta gặp thấy những tiêu chuẩn xác định hiệu quả cho việc giới thiệu ấy.
1) Giới thiệu Chúa Kitô bằng kinh nghiệm bản thân
Đây là tiêu chuẩn quan trọng có khả năng đi vào lòng người, bởi lẽ “con người hôm nay ít thích nghe những lời dạy cho bằng nghe những chứng tá” (Gioan Phaolô II). Nếu chỉ giới thiệu Đức Kitô như một học thuyết, thì dẫu chủ quan mình có nắm vững và say mê, Đức Kitô ấy vẫn chỉ là một lý tưởng còn xa lạ chưa đụng chạm thiết thực với đời người. Nếu chỉ giới thiệu Đức Kitô như một hệ thống tín điều, thì dù cho có xác tín đến đâu, Đức Kitô ấy vẫn còn xa vời, chưa phải là điểm quy chiếu thiết thân cho cuộc sống.
Thế nên, tiêu chuẩn hàng đầu là cần giới thiệu Đức Kitô như một Đấng mà mình đã tiếp cận, gặp gỡ và kết thân. Hiện nay mình đang sống trong Người như kiểu nói của thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”, và do thúc bách bởi sự sống ấy mà mình giới thiệu Người cho người khác. Người là khởi điểm đồng thời cũng là đích điểm cho việc giới thiệu này.
Với kinh nghiệm bản thân, ta giới thiệu sự xác tín của ta vào Đức Kitô và đó cũng chính là sự khả tín của điều ta giới thiệu.
Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã không làm điều gì khác ngoài việc giới thiệu qua chứng từ về một kinh nghiệm ở ngôi thứ nhất số ít: “Tôi đã thấy và tôi xin làm chứng”.
2) Giới thiệu Đức Kitô là Đấng Cứu Độ
Có một thực tế không thể phủ nhận là khi giới thiệu Đức Kitô, thường ta hay rơi vào một trong hai thái cực:
Hoặc quá chủ quan: giới thiệu một Chúa Kitô không như Người là mà như mình tưởng, mình nghĩ. Coi chừng! Thiên Chúa tạo dựng con người “giống hình ảnh Thiên Chúa”, nhưng xem ra con người lại có khuynh hướng nắn đúc một Thiên Chúa theo như mình nghĩ, “giống hình ảnh con người”. Có lẽ dân Do Thái ở Ai Cập năm xưa lấy hình ảnh bò vàng làm tượng thờ phải được xem như một kinh nghiệm đau lòng.
Hoặc quá chung chung: giới thiệu một Chúa Kitô không minh bạch xác đáng, có nguy cơ giản lược đánh đồng coi Kitô giáo cũng chỉ là một trong nhiều tôn giáo ngang hàng và Đức Kitô không còn là Đấng Cứu Độ duy nhất nữa. Có lần đến thăm nhà một tân tòng, tôi gặp thấy cảnh tổng hợp nhiêu khê: truyền thống gia đình ông bà cha mẹ theo Phật Giáo, con trai theo Tin Lành, cô gái vào Công Giáo, còn cậu em là đối tượng một đảng nên không theo tôn giáo nào. Bà mẹ gia đình nói trổng như muốn phân bua về việc tự do chọn lựa niềm tin của con cái: “Ôi! Đạo nào cũng tốt, đều dạy ăn ngay ở lành cả ấy mà”. Trong suy nghĩ của người mẹ này, Đức Kitô cũng ngồi chung chiếu với những vị cổ võ đạo đức nhân sinh. Thế thôi.
Thiết nghĩ, giới thiệu Đức Kitô là phải trình bày cho thấy Người là Thiên Chúa cứu rỗi nhân loại, là Đấng Cứu Độ trần gian, là Đấng từ trời xuống để đem ơn giải thoát đến tất cả mọi người và đạt tới từng người. Nét độc sáng của Kitô giáo chính là đây. Và Đức Kitô sở dĩ thiết thân đối với người đời bởi Người chính là Đấng Cứu Thế.
Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã dứt khoát giới thiệu Đức Kitô cho dân chúng bằng một hình ảnh đặc biệt cho thấy Người là Đấng Cứu Độ: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
3) Giới thiệu Đức Kitô nhờ Thánh Thần
Giới thiệu Đức Kitô là công cuộc dài hơi, thậm chí là công việc một đời, vì thế đòi hỏi người giới thiệu không chỉ như kẻ chào hàng tiếp thị, mà phải đầu tư để học biết và học hiểu, học tập và học hành, học ngang và học dọc, học tới và học lui; nghĩa là phải nỗ lực hợp tác với ơn thánh bằng vận dụng hết công suất những khả năng Chúa ban mà chu toàn nghĩa vụ cũng là ý nghĩa cuộc đời mình. Ngày nào còn là Kitô hữu, ngày đó còn phải gắn bó và giới thiệu Đức Kitô cho người khác. Đó là yếu tố thuộc về căn tính.
Giới thiệu Đức Kitô cũng là một công trình thuộc về sứ vụ truyền giáo của mọi thành viên trong Giáo Hội, nghĩa là thuộc về lẽ công bình. Ai đã nhận được lẽ sống Đức Kitô thì cũng canh cánh bên lòng một đòi buộc phải tiếp nối sứ mạng giới thiệu sự sống ấy cho những người mình gặp gỡ trong mọi cảnh ngộ cuộc đời. Chả thế mà sứ vụ cũng đồng nghĩa với sự lên đường. Đồng quà tấm bánh có thể giữ lại chứ sự sống mà giữ lại thì cũng đồng nghĩa với sự thui chột ngột ngạt ngay trong vòng tay ôm chặt của người sở hữu.
Giới thiệu Đức Kitô như thế cũng là cuộc hiến thân làm chứng, đón nhận hy sinh, chấp nhận thiệt thòi, quên mình xóa mình, thao thức miệt mài, “làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm”. Không dễ dàng, không dễ dãi và không dễ chịu. Thế nên đó là một công trình sức người tự mình không làm nổi ngoài ơn của Thánh Thần. Vả chăng chính Thánh Thần mới giữ vai trò chủ động trong công trình lớn lao này, còn con người dẫu hết lòng hết sức cũng chỉ là dụng cụ góp phần.
Nếu hôm qua Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã dựa vào dấu chỉ Thánh Thần để nhận biết Đấng Cứu Thế: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép Rửa trong Thánh Thần”, thì hôm nay tín hữu cũng dựa vào Thánh Thần để chu toàn sứ mạng giới thiệu Đức Kitô cho người đồng thời với mình.
Tóm lại, giới thiệu Chúa Kitô bằng kinh nghiệm bản thân, giới thiệu Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế và giới thiệu Chúa Kitô nhờ Thánh Thần. Đó là những tiêu chuẩn giúp cho việc giới thiệu này mang lại hiệu quả mong muốn.
Vì thế, Kitô hữu không chỉ là người mang Chúa Kitô trong mình, không chỉ thuộc về Chúa Kitô mà còn là người phải giới thiệu Chúa Kitô cũng như biết cách giới thiệu Chúa Kitô làm sao cho có hiệu quả nữa. Như một người chào hàng không mệt mỏi, như một chứng nhân luôn trung thành, và như một lẽ sống hạnh phúc, ta quyết chí lên đường.
Trong buổi chia sẻ của những tân tòng lớp trước dành cho lớp sau, một cô gái mười sáu tuổi đã chân thành cho biết lý do mình gia nhập đạo Công Giáo: “Tôi theo đạo vì lúc nhỏ học chung với một người bạn Công Giáo. Bạn ấy rủ tôi đi lễ, tôi đi theo dẫu chẳng hiểu gì. Nhưng vì bạn ấy đối xử tốt với tôi, nhất là trong những lúc ngặt nghèo, nên qua gương sống đức tin của bạn ấy, dần dà tôi hiểu ra lẽ đạo và cuối cùng tôi tìm đến với lớp giáo lý khai tâm, và hôm nay được nhận Bí tích Thanh Tẩy”.
Mong rằng đây không chỉ là cá biệt mà là điển hình đã được nhân lên trong mọi cộng đoàn tín hữu.
Mỗi ngôn từ, mỗi cụm từ đều mang một ý nghĩa nào đó. Mỗi câu , mỗi dụ ngôn, mỗi huyền:TN 2-A40
Mỗi ngôn từ, mỗi cụm từ đều mang một ý nghĩa nào đó. Mỗi câu , mỗi dụ ngôn, mỗi huyền thoại cũng đều muốn nói lên một sứ điệp nào đó.Từ “ Con Chiên “ trong Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay là hiện thân của sự thật: Đấng Cứu Thế đã hiến thân vì nhân loại như lời Ngài đã tuyên bố:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô mà Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu với các môn đệ của Ông:” Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” ( Ga 1, 29 ).
CHIÊN THIÊN CHÚA:
Đối với người Do Thái cụm từ Chiên Thiên Chúa gợi lên trong tâm trí, trong cõi lòng của họ toàn bộ giáo lý đức tin của dân riêng họ. Ở đây, gioan Tẩy Giả đã nghĩ tới người tôi đau khổ mà ngôn sứ Isaia đã đề cập tới. Chiên cũng có nghĩa là Chiên Vượt Qua. Thiên Chúa ban ơn tha tội trọn vẹn cho toàn thể nhân loại qua Chiên Vượt Qua, Đấng xóa hết tội lỗi trần gian bằng giá máu cứu chuộc của Người. Chiên Thiên Chúa là Đấng-sẽ-đến-sau như Chiên Khải Huyền của Thiên Chúa. Chiên Thiên Chúa là Con Chiên thanh sạch, vô tì tích, bị đưa đi lò sát nhưng hiền lành, khiêm nhượng không than thở một lời, gánh hết tội cho nhân loại, cho từng người. Chiên sát tế vô tội mới chết thay cho tội nhân. Chỉ có phép rửa trong Chúa Thánh Thần, chính là Máu của Đức Giêsu Kitô mới có thể rửa sạch tội lỗi của con người, của gian trần và ban ơn thánh hóa. Chiên Thiên Chúa là chính Đức Giêsu Kitô, Đấng tới trần gian không phải để được hầu hạ, mà để phục vụ. Đây là Đấng Cứu Độ, Đấng chuộc tội nhân loại. Do đó, đối với người Do Thái, hằng năm họ ăn lễ Vượt Qua một cách rất trọng thể để tưởng nhớ biến cố Chúa đã giải thoát cha ông họ ra khỏi ách nô lệ Ai Cập và dẫn đưa cha ông họ vào đất hứa.
HÃY YÊU MẾN VÀ ĐỀN ĐÁP CÔNG ƠN CỨU CHUỘC CỦA CHÚA VÀ HÃY TRỞ THÀNH CHỨNG NHÂN CỦA NGƯỜI: Thánh Gioan Tẩy Giả đã chỉ cho các môn đệ và mọi người biết Đấng Cứu Thế:” Đây Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian”. Thánh Gioan đã làm chứng Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Qua lời chứng của Gioan Tẩy Giả, Hội Thánh mời gọi nhân loại, đặc biệt mọi Kitô hữu đền đáp công ơn cứu chuộc của Chúa, đồng thời kêu gọi mọi Kitô hữu hãy mau mắn ra đi làm chứng cho Người. Người Kitô hữu phải tuyên xưng niềm tin bằng việc đáp trả tình thương vô biên của Chúa Giêsu. Yêu mến Chúa Giêsu không có nghĩa là miệng nói:” Lạy Chúa, lạy Chúa” mà còn bắt chước lối sống của Người. Yêu mến, đền đáp công ơn của Chúa Giêsu không chỉ nhận lãnh nhưng không những ân huệ cao quí của Người mà còn biết sống chia sẻ, quảng đại với hết mọi người. Yêu mến Chúa là yêu mến người khác và không mong họ đền đáp lại mình. Sống đáp trả ân tình đối với Chúa như thế cũng có nghĩa là làm chứng cho Chúa, bởi vì đối với Chúa sống đời sống của Chúa như thánh Phaolô nói:” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “, chính là việc họa lại sự sống của Chúa và đó cũng là chứng nhân cho Chúa bằng đời sống của mình rồi. Làm chứng cho Chúa Giêsu nghĩa là để Chúa dùng con tim, dùng trí óc, dùng lời nói, hành động của chúng ta để tha thứ và yêu thương người khác. Và một cách thiết thực, thực tế: làm chứng cho Đức Giêsu Kitô là để Chúa dùng con người của mình, tiếp tục hy sinh, hiến mạng sống cho người khác.
Kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô khó khăn nói lên trọn vẹn ý nghĩa yêu thương và làm chứng cho Chúa:” Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời …vv…”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đền đáp công ơn vô biên của Chúa và xin cho chúng con tấm lòng nhiệt thành làm chứng cho Chúa”.Amen.
Bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ II Mùa thường niên năm A hôm nay, được đặt trong mạch văn nói:TN 2-A41
Bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ II Mùa thường niên năm A hôm nay, được đặt trong mạch văn nói về lời chứng của Gioan Tẩy Gỉa. Thật vậy, trong đọan trước Jn.1,19-28, khi trả lời cho phái đòan của người Do Thái sai đến hỏi cho biết ông là ai thì Gioan Tẩy Gỉa thẳng thắn nói với họ rằng ông không phải là Đức Kitô, cũng không phải là Elia, cũng không phải một ngôn sứ, mà chỉ là người dọn đường cho Đấng đến sau, Đấng ấy cao trọng hơn ông nhiều. Vậy ai là Đấng ấy ? Trong đọan Tin Mừng hôm nay Jn.1,29-34 Gioan Tẩy Gỉa sẽ chỉ cho mọi người thấy Đức Giêsu chính là Đấng ấy.
1/ Đây Chiên Thiên Chúa …
Chúa Giêsu được Gioan Tẩy Gỉa giới thiệu là Chiên Thiên Chúa. Chiên được hiểu ba nghĩa: chiên ở Kh. 1,17; 17,14 đó là Chiên tiêu diệt sự ác ở trần gian hay còn gọi là Chiên chiến thắng (x.1Jn.3,5-7), nghĩa này phù hợp với thần học cánh chung khắt khe của Gioan Tẩy Giả (x.Lc.3,7.9,16.17), nhưng lại không thích hợp với lối nhìn của Đức Giêsu mà Gioan tông đồ muốn trình bầy, đó là Đấng khử trừ tội lỗi trần gian bằng cái chết của Ngài. Đây là Chiên hiến tế hay Người tôi tớ đau khổ của Giavê (x.Is.53,7; Cv.8,32). Nghĩa thứ ba Chiên Vượt qua(x.Jn.19,29.36; Kh.5,6). Phúc Âm gia đã đan dệt ba nghĩa để nói lên Chiên của Thiên Chúa phải khử trừ tội của thế gian qua việc đền tội thay, bằng cái chết của mình, để rồi từ cái chết mà vượt qua sự sống bằng sự Phục Sinh vinh hiển.
Tội trần gian đã đè nặng trên Chiên con khi Ngài chấp nhận xuống giòng sông Giođan, và từ giòng sông đi lên Gioan Tẩy Gỉa đã nhìn thấy Thần Khí Thiên Chúa như chim bồ câu đậu xuống trên Ngài, và rồi ông làm chứng dựa vào lời mạc khải: “ ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần” (c.33b). Như thế Đức Giêsu được Thần Khí xức dầu, Ngài là Đấng Thiên Sai được trao sứ mạng đến với những người cùng khốn. Là Đấng Messia hiền lành và đầy thương xót (x.Is.42.2-7).
2/Gioan Tẩy Gỉa làm chứng:
Nhìn vào tòan bài Tin Mừng chúng ta thấy hầu như câu nào trong đọan này cũng đều trực tiếp hay gián tiếp nói đến việc Gioan Tẩy Gỉa làm chứng cho Đức Giêsu. Tại sao Gioan lại nhấn mạnh đến chứng của Gioan Tẩy Gỉa như vậy ? _ Những người Do Thái chưa tin Đức Giêsu thì họ dễ tin vào Gioan Tẩy Gỉa và Cựu Ước hơn là vào Đức Giêsu. Ngay cả các môn đệ của Đức Giêsu, trước khi tin Ngài đã Phục Sinh họ cũng dễ tin Thánh Kinh hơn Ngài. Thiên Chúa đã phải dùng Moisen và Elia để giúp ba tông đồ cỡ lớn tin vào lời Đức Giêsu khi Ngài nói về cái chết của Ngài (x.Lc 9,28,30-31). Khi Phục Sinh, chính Đấng Phục Sinh cũng phải dùng Cựu Ước mà giúp các môn đệ (x.Lc.24,25-27) và các tông đồ (x.Lc.24,44-46) hiểu và tin Ngài phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba sống lại từ cõi chết.
Đối với các môn đệ của Gioan, thì có lẽ không có chứng nào lại hùng hồn bằng chứng của Gioan Tẩy Gỉa khi muốn khẳng định Gioan Tẩy Gỉa không phải là Đức Kitô, Đức Giêsu mới là Đức Kitô. Ngòai việc chứng của Gioan Tẩy Gỉa có giá trị đối với người Do Thái và nhất là đối với các môn đệ của ông. Gioan Thánh Sử còn cho ta thấy chứng của Gioan Tẩy Gỉa là chứng của Thiên Chúa. Gioan Tẩy Gỉa đã tự nhận: “ Tôi đã không biết Ngài ….tôi chưa hề biết Ngài”(cc.31.33) nhưng Đấng sai Người đến thanh tẩy bằng nước đã chỉ cho Người biết Đức Giêsu là ai để Người đoan chứng.
3/ Sứ điệp Tin Mừng:
Tại sao Gioan không dùng con vật nào khác để chỉ Đức Giêsu, mà lại dùng con chiên ? Như thế giúp chúng ta hiểu Đức Giêsu như thế nào ?Xây dựng và củng cố niềm tin chúng ta vào Đức Giêsu, Ngài là người tôi tớ của Thiên Chúa và là con chiên của Thiên Chúa, chịu đau khổ vì tội lỗi của chúng ta, để cứu chuộc chúng ta, nhưng sau cùng Ngài làm Chúa của tất cả …Ai có thể bịa ra được câu đó, nếu không phải do chính Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta.Gioan Tẩy Gỉa dùng hai kiểu nói khác nhau để nói về sứ mạng của Chúa Giêsu “ Ngài cất lấy tội lỗi của chúng ta” và “Ngài rửa trong Thánh Thần”. Ngài đến để giải thóat chúng ta khỏi xiềng xích của ích kỷ, tham lam, cứng lòng, thèm muốn, dục vọng, thù hằn…Rối Ngài rửa ta trong Thánh Thần, tái tạo ta trong Thánh Thần của Thiên Chúa, để ta được đổi mới và được cứu độ…“và tôi, tôi đã không biết Ngài…” sự cao cả của Gioan Tẩy Gỉa là ở đó, tức là chuẩn bị cho Đấng mà mình không biết, ông phải làm việc trong niềm tin…để cho Thiên Chúa tự do lựa chọn, cho tới khi xuất hiện một dấu chỉ cho thấy Thánh Thần ngự xuống.Lạy Chúa Giêsu, thánh Gioan Tẩy Gỉa đã giới thiệu và làm chứng về Chúa, xin cho chúng con có tinh thần khiêm tốn của thánh Gioan, biết sống yêu thương và phục vụ mọi người, sẵn sàng đón nhận những thua thiệt, để Chúa được lớn lên, được ưu đãi mặt mọi người. Đồng thời biết làm chứng nhân cho Chúa Giêsu để xứng đáng hưởng nguồn ơn cứu độ Thiên Chúa hứa ban.
Bài đọc 1: Isaia 49, 3, 5-6 = Chúa là Sức mạnh của tôi / God is my Power.
Bài đọc 2: 1Cor 1, 1-3= Anh được gọi là Dân Thánh / You called to be a Holy People.
Tin Mừng: Gioan 1, 29-34=Bạn biết Đức Kitô không?/ Do you know Jesus Christ ?
( Dùng cho cá nhân Sống và Cảm nghiệm thêm; các Đoàn thể, Nhóm để cùng chia sẻ )
A- Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ 3 bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
Ông Gioan thấy Đức Kitô tiến về phía mình, nên đã nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần:TN 2-A42
1/ Ông Gioan thấy Đức Kitô tiến về phía mình, nên đã nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian." Tôi đã được biết Đức Kitô từ lâu, qua nhiều cách.. . Tôi đã phấn đấu những gì để nên giống Ngài? Những ơn phúc mà tôi đã lãnh nhận, tôi đã dùng LÀM CHỨNG Chúa như thế nào?
…he exclaimed: "Look there! The Lamb of God who takes away the sin of the world ! (Gioan 1, 29 )
2/ Thánh Gioan còn nói thêm: Tôi đã thấy, nên chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn. Đem Chúa vào đời sống bạn có dễ không? Tại sao? Chúa đang cần bạn làm gì hôm nay?
Now I have seen for myself and have testified, This is God"s chosen One ( Gioan 1, 34 )
3/ Thánh Phaolô viết: Kính gởi Hội Thánh Thiên Chúa ở Corinttô, những người đã được thánh hiến trong Đức Giêsu Kitô, được gọi là thánh. Hội Thánh thực sự đã hội nhập vào mọi dân tộc, đã nhập thế ở mọi nơi. Giáo hội đang mong gì ở tôi hôm nay? Tôi đã làm sao để xứng đáng là dân thánh?
Send greetings to the Church of God which is in Corinth; to you.. . called to be a holy people. (1Cor.1, 2 )
4/ Sách Tiên tri Isaia viết: Đấng đã nhào nặn ra tôi, từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung…Từ bao năm qua, bạn đã thấy Chúa chọn bạn trong tình thương như thế nào? Bạn đã quyết tâm đáp lại bằng cách gì? Hay lấy lý do là bận nhiều việc…, cứ thong thả đã rồi sẽ tính sau?
Now the Lord has spoken, who formed me as His servant from the womb… (Is. 49, 5 )
B- Tôi chọn câu Kinh Thánh hay nhất để làm Châm ngôn Sống: ( The Best God" s Word )
* ĐÂY LÀ CHIÊN THIÊN CHÚA, ĐÂY ĐẤNG XOÁ BỎ TỘI TRẦN GIAN. * ( Ga. 1, 29 )
· Look there! The Lamb of God who takes away the sin of the world *
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì cụ thể để Sống điều đã Cảm nghiệm: ( So what am I doing ? )
· Tôi chọn 1 trong 4 Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thi hành.
· Làm việc bổn phận trước, nhận ra sai sót của mình,vui vẻ giúp người thân, trung tín mọi việc.
D- Tôi cầu nguyện và Sống lời tôi cầu nguyện: ( I pray and practice in my life )
1- Lạy Chúa, Ông Gioan khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình đã nói: Đây là chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian. Xin cho con luôn bạo dạn tuyên xưng Đức Kitô trong đời sống của con.
2- Thánh Phaolô trong thư gởi Corintô đã khẳng định những người đã được thánh hiến trong Đức Kito đều được gọi là Thánh. Xin gíup con sống xứng đáng với danh hiệu người Tín hữu hôm nay.
Lời hay ý đẹp:
NGƯỜI TÍN HỮU HÔM NAY AO ƯỚC ĐƯỢC HỌC HỎI KINH THÁNH VÀ CHIA SẺ KINH NGHIỆM SỐNG LỜI CHÚA CỤ THỂ NHIỀU HƠN.
CHÚC MỪNG CÁC BẠN ĐÃ NHẬN RA CHÂN GÍA TRỊ CỦA TIN MỪNG CHO HÔM NAY!
Khi Gioan Tẩy Giả thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “ Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng:TN 2-A43
Khi Gioan Tẩy Giả thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “ Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1.29). Qua lời giới thiệu trên, Thánh Gioan Tẩy Giả muốn giúp chúng ta khám phá hình ảnh con chiên trong Cựu ước. Và từ hình ảnh đó, mỗi người chúng ta sẽ dễ nhận ra Đức Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa như lời Thánh Gioan Tẩy Giả đã khẳng định. Nhờ đó chúng ta sẽ được khơi lên niềm hy vọng vào Đức Giêsu Kitô, Nguồn hạnh phúc của chúng ta.
1/ Chiên Vượt Qua:
Khi Thiên Chúa quyết định giải thoát dân Israel ra khỏi Ai Cập, Ngài truyền cho mỗi gia đình trong dân Do thái phải sát tế một con chiên đực. Con Chiên sát tế phải toàn ven, không quá một tuổi. Hơn nữa phải lấy máu chiên bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Trong đêm ấy, Đức Chúa sẽ rảo khắp đất Ai Cập, sẽ sát hại các con đầu lòng Ai Cập. Còn vết máu chiên được bôi lên khung cửa nhà của dân Do thái, đó là dấu hiệu dân Chúa đang ở đó, Đức Chúa sẽ vượt qua và con cái dân Do Thái sẽ không bi tiêu diệt (x Xh 12,1-4). Như vậy nhờ máu chiên trong tiệc vượt qua, dân Do Thái đã không bị tiệu diệt, nhưng nhờ đó mà họ đã được giải thoát khỏi đất nô lệ Ai Cập, được trở nên dân tộc được Chúa thánh hiến, được Chúa nhận làm dân sở hữu, được phụng thờ Thiên Chúa.
Từ hình ảnh con chiên vượt qua trong Cựu ước, sau này các vị chứng nhân trong Tân ước đã nhận thấy nơi Đức Giêsu Kitô chính là Con Chiên Vượt Qua đích thực.
2/ Đức Giêsu Là Chiên Vượt Qua:
Không phải vô tình hay do cảm hứng mà Thánh Gioan Tẩy Giả đã khẳng định với mọi người Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Chắc hẳn những lời từ miệng Gioan Tẩy Giả thốt ra, đó là kết quả của chuỗi ngày ngài đã cảm nghiệm về sứ mạng mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trong trần gian. Theo Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu sẽ hoàn tất sứ mạng của Ngài bằng việc phải đổ máu, phải chịu sát tế như chiên con. Và kết quả công trình cứu độ của Đức Giêsu là nhờ Máu Ngài mà nhân loại được cứu độ.
Về điểm này, chính Thánh Phêrô đã khẳng định cho chúng ta ơn cứu độ mà nhân loại được đón nhận là nhờ Máu của Đức Giêsu Kitô đổ ra, Ngài chính là Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã nói: “ Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích là Đức Kitô” ( 1 Pr 1,19). Hơn nữa bằng tất cả lòng xác tín ơn cứu độ được thực hiên nhờ Máu Đức Giêsu đổ ra, Tác giả thư Do thái đã tuyên xưng cho chúng ta biết: “ Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa Hằng Sống” ( Dt 9,14).
Như vậy, qua những dòng cảm nhận của các chứng nhân về Đức Giêsu là Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa. Tất cả như muốn mở ra cho chúng ta niềm hy vọng vào Đức Giêsu Kitô. Nơi Ngài ơn cứu độ sẽ tuôn chảy đến mọi tâm hồn. Và những ai tin tưởng cũng như đón nhận Máu sự sống của Ngài, chắc chắn sẽ được tẩy xoá mọi vết nhơ, được giao hoà với Thiên Chúa, được đón nhận sự sống muôn đời. Vì trong khi lập Bí Tích Thánh Thể, Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về hiệu lực của việc Ngài tự đổ máu cho nhân loại, khi Chúa nói: “ Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là Máu Thầy, Máu giao ước đổ ra cho muôn người được tha tội” ( Mt 26,28). Và nơi khác Chúa lại khẳng định dứt khoát bằng những lời rõ ràng này như sau: “ Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”( Ga 6,54). Đây cũng là lời hứa cứu độ mà Đức Giêsu đã khơi nên niềm hy vọng cho chúng ta.
3/ Niềm Hy Vọng Nơi Đức Giêsu Là Chiên Thiên Chúa:
Từ hình ảnh Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, giờ phút này đã khơi lên trong tâm hồn chúng ta niềm hy vọng vững chắc nơi Ngài. Nếu như dân Do thái bên đất Ai Cập khi xưa đã được cứu sống nhờ máu con chiên, thì Đức Kitô nhờ Máu Ngài đổ ra trên thập giá, Ngài đã đem lại sự sống toàn vẹn cho chúng ta. Kể từ giây phút tuyệt vời ấy, sự sống con người phải được bắt nguồn từ Đức Kitô. Con người sống là nhờ Đức Kitô, bởi Đức Kitô. Hay nói cách khác, Đức Kitô Chiên Thiên Chúa chính là sự sống của con người.
Khi nhìn ơn cứu độ khởi sự từ Đức Kitô, chúng ta rất an lòng và vững tâm. Vì thế chúng ta hãy tìm đến Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa đển đón nhận Máu cứu độ của Ngài. Chắc chắn khi khao khát được hiệp thông trọn ven với Máu Đức Kitô là Nguồn suối mang lai sự đổi mới cho sự sống nhân loại, chúng ta bắt đầu một nguồn sống mới với niềm hy vọng tốt đẹp cho tương lai. Đời sống mới này sẽ do chính Chúa ban tặng cho chúng ta, nghĩa là: Từ con người trước đây là nạn nhân của những bất công, chúng ta sẽ tìm gặp công lý và sự thật. Từ con người bị nô lệ cho tội lỗi, chúng ta sẽ được giao hoà với Thiên Chúa và được tự do hoàn toàn trong Chúa. Từ con người mất tình nghĩa với Thiên Chúa, chúng ta sẽ được trở nên người thân tình với Thiên Chúa. Đặc biệt từ một con người thiếu vắng sự sống của Thiên Chúa, chúng ta sẽ được đón nhận tràn đầy sự sống từ Thiên Chúa, sự sống bất diệt và hạnh phúc muôn thuở.
Với những cảm nghiệm cùng với niềm hy vọng vững chắc vào Đức Giêsu Kitô Chiên Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ rất vững tâm và an lòng. Thế nhưng chúng ta cũng phải biết khiêm tốn xin Me Maria luôn nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta mỗi ngày, luôn biết gắn bó với Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian. Amen.
Chúa Nhật 2 Thường Niên: Thánh Gióng và Thánh Tiền hô
Vào đời Hùng Vương thứ 6, người Ân từ phương Bắc kéo xuống tấn công vương quốc Văn Lang:TN 2-A44
Vào đời Hùng Vương thứ 6, người Ân từ phương Bắc kéo xuống tấn công vương quốc Văn Lang của người Việt Nam. Thế giặc mạnh như chém sắt chẻ tre, người Ân đi tới đâu, làng mạc biến thành bình địa tới đó. Nếu không có chú bé ba tuổi của làng Phù Đổng, tỉnh Bắc Ninh, vươn mình, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, một mình một ngựa xông thẳng vào giặc Ân, hiện tình của nước Việt Nam ngày nay có thể đã thay đổi. Điểm lạ lùng là sau khi phá tan giặc ngoại xâm, Phù Đổng Thiên Vương không ghé vào thủ đô Phong Châu diện kiến Vua Hùng Vương. Nhưng thiên tướng cưỡi ngựa sắt lên núi Sóc Sơn, rồi biến mất. Cả một vương quốc Văn Lang không ai được dịp mở lời tri ân tới người hùng tuổi trẻ tài cao.
Chú bé ngày xưa của làng Phù Đổng là một thiên tướng với nhiều đặc điểm lạ kỳ. Một trong những điểm lạ kỳ nhất là chú không màng lợi danh, không để chữ tôi của mình lấn áp chữ tôi của đại cuộc. Chú xuất hiện trong một khoảng thời gian của lịch sử lập quốc. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ của người trai thời loạn, chú bé yên lặng bỏ đi. Vua Hùng Vương mến tài, tri ân người hùng lập đền thờ ở làng Phù Đổng. Nhân gian xưng tụng, gọi tên Thánh Gióng.
Vào thời Đức Giêsu, người Do Thái bị gót giầy đô hộ của người La Mã chà đạp. Vào năm 63 B.C., dưới vó ngựa sắt của đoàn quân viễn chinh La Mã, thống tướng Pompey cưỡi ngựa tiến vào kinh thành Giêrusalem. Thế là tình hình chính trị của vùng đất thánh lật sang một trang sử mới, trang sử bị bảo hộ dưới bàn tay sắt bọc nhung của Hoàng Đế Cêsar. Sống trong tình trạng bị ngoại bang đô hộ dầy xéo, người Do Thái vào những năm đầu tiên của công nguyên đêm ngày mong chờ Giavê Thiên Chúa sẽ sai một Đấng Xức Dầu tới. Đấng Xức Dầu này, tương tự như Vua Đavít, sẽ đứng lên lãnh đạo dân chúng đánh đuổi người La Mã ra khỏi vùng đất hứa. Dấu hiệu báo cho dân Do Thái biết Đấng Xức Dầu đã gần đến là sự tái xuất hiện của ngôn sứ Elijah, người đã được đưa về trời bằng một cỗ xe lửa (2Các Vua 2:11). Theo niềm tin, ngôn sứ Elijah sẽ tái xuất hiện, làm người tiền phong, mở đường dẫn lối cho Đấng Xức Dầu đến với dân Do Thái (Malaki 3:1, 23).
Ngày đó rồi cũng đã tới, xuất hiện trong sa mạc qua hình ảnh của ngôn sứ Elijah, ngôn sứ Gioan Tiền Hô mặc áo lạc đà (2Các Vua 1:8), sống bằng mật ong và châu chấu của hoang địa. Tự xưng mình là tiếng kêu trong sa mạc, ngôn sứ Tiền Hô kêu gọi dân chúng hãy thay đổi đời sống, hãy chuẩn bị con đường cho Đấng Xức Dầu. Tiếng kêu gọi của người ngôn sứ đã đánh động lương tâm của nhiều người Do Thái. Đáp trả lại lời mời gọi của tiếng kêu âm vang từ sa mạc, người người từ khắp các làng mạc của miền Nam Giuđê và kinh thành Giêrusalem tiếp tục kéo về vùng đất sỏi, nhận phép thanh tẩy bằng nước sông Giođan từ hai bàn tay của người ngôn sứ sa mạc. Thanh thế của Gioan vào năm thứ nhất Công Nguyên rất lớn. Ngay cả vua Hêrôđê Antipas cũng phải kính nể ngôn sứ Tiền Hô, mặc dầu bản thân của nhà vua bị người ngôn sứ công kích lên án về cuộc hôn nhân giữa ông với người chị dâu Hêrodias. Bởi vị thế khá đặc biệt của ngôn sứ thanh tẩy, có người lầm tưởng Gioan chính là Đấng Kitô mà họ đang mong đợi (Luca 3:15). Nhưng Gioan Tẩy Giả thẳng thắn lắc đầu phủ nhận. Không những thế, ông còn khẳng định một điều, ông chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, tiếng kêu dọn đường cho Đấng Kitô (Máccô 1:2-3).
Tương tự như Phù Đổng Thiên Vương, ngôn sứ Gioan Tiền Hô là một người cũng không màng danh lợi, không có những uẩn khúc về cái tôi, cái bản ngã. Cả hai, Thánh Gióng và Gioan Tiền Hô đều hiểu rõ lý do tại sao mình đã xuất hiện trên cõi đời này. Cả hai đều biết nhiệm vụ mình sẽ phải thi hành trong một khoảng thời gian ngắn ngủi của trăm năm trong cõi trần gian. Bởi hiểu và biết, cả hai đều không chết đuối trong dòng sông với cái bản ngã của riêng mình. Nhưng sau khi hoàn thành sứ mệnh do trời cao trao tặng, cả hai yên lặng bỏ đi. Trong khi Phù Đổng bay lên núi Sóc Sơn rồi biến mất, Gioan Tiền Hô nhún nhường lên tiếng khẳng định thân thế của Đấng Xức Dầu Giêsu qua câu nói, “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”, ngay khi nhận ra bóng dáng của Đức Giêsu (Gioan 1:29). Chưa hết, ngày hôm sau, lại một lần nữa, thấy Đấng Mêsia Giêsu đi ngang qua, ngôn sứ Gioan Tiền Hô tái xác nhận với hai người môn đệ về thân thế “Chiên Thiên Chúa” của Ngài. Bởi chứng từ của sư phụ, hai người môn đệ quyết định rời bỏ môn phái Tiền Hô, gia nhập môn phái Giêsu. Thấy hai người môn đệ đi theo những dấu chân của mình, Chiên Thiên Chúa quay lại hỏi, “Các anh đi tìm chi thế?” Anrê và người môn đệ kia trả lời, “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Và bắt đầu từ giây phút đó, cả hai người môn đệ của Gioan trở thành hai tân môn đệ của Đức Giêsu (Gioan 1:35-39).
Suy Niệm
Làm người, ai chẳng có bản ngã. Cái tôi của bạn và cái tôi của tôi, cả hai đều được Thiên Chúa ban tặng ngay khi mình vừa được thụ thai trong lòng mẹ. Nhưng nếu bạn và tôi không khéo sử dụng cái bản ngã của riêng mình, chữ tôi có thể trở thành con dao hai lưỡi, nguy hại đến tính mạng tâm hồn của người đang sở hữu lưỡi dao. Khi biết sử dụng cái bản ngã của mình để làm sáng danh Thiên Chúa, hoặc vào những công tác vô vị lợi để xây dựng giáo xứ, hoặc làm việc bác ái lợi ích cho những người anh chị em thiếu may mắn hơn mình, đó là một cái bản ngã thiên đàng, cái bản ngã của Thánh Gióng và của Ngôn Sứ Gioan. Ngược lại, nếu chỉ sử dụng cái tôi cho những sở thích cá nhân của mình, không màng chi đến những lợi ích của tha nhân và của xã hội, cái tôi này không phải là cái bản ngã của Thánh Gióng và Ngôn Sứ Gioan. Cái tôi này chính là cái bản ngã hỏa ngục của người nhà giàu trong câu dụ ngôn Ông Nhà Giàu và Lazarô của Tin Mừng Luca 16:19-31.
Bởi Thánh Gióng và Thánh Tiền Hô đều sử dụng cái bản ngã của mình cho tha nhân, cho xã hội, và cho đại cuộc, cái tôi của họ là cái bản ngã thiên đàng. Thánh Gióng một mình một ngựa, dẹp tan giặc Ân, đem lại thanh bình, tiếng cười tiếng nói, tiếng chầy giã gạo đêm trăng, và tiếng hát quan họ Bắc Ninh tới vương quốc Văn Lang. Ngôn sứ Tiền Hô, nếu để cái tôi của ngài lên trên đại cuộc, thay vì dẫn người ta đến với Đấng Kitô, ông sẽ làm lơ không giới thiệu Chiên Thiên Chúa đến cho môn đệ của môn phái Tiền Hô và đám đông dân chúng đang lầm tưởng Gioan là Đấng Mêsia; hoặc ông sẽ giơ cao tay ngăn cản hai người môn đệ, trước khi họ có dịp cất bước ra đi lần theo vết chân của Chiên Thiên Chúa. Không! Ngôn sứ Gioan đã không làm như vậy. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tiếng kêu dọn đường trong hoang địa, người ngôn sứ không ngần ngại, không tiếc nuối, nhưng chấp nhận biến mất sau bức màn nhung sân khấu để Chiên Thiên Chúa Giêsu bước lên khán đài chính. Đẹp thay những cái bản ngã thiên đàng của Thánh Gióng và Thánh Tiền Hô.
Lời Nguyện
Lạy Chúa, xin dạy con biết sử dụng cái tôi của riêng con để làm sáng danh Thiên Chúa, sáng danh Thiên Đàng, và sáng danh Đức Kitô.
Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con THIÊN CHÚA!Đâu có lời chứng nào - về phía người – veà:TN 2-A45
Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con THIÊN CHÚA!
Đâu có lời chứng nào - về phía người phàm - vững chắc hơn lời chứng của Thánh Gioan Tẩy Giả, Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế? Chắc hẳn không!
Định mệnh thánh đã liên kết cuộc đời của thánh Gioan Tẩy Giả với cuộc đời nơi dương thế của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ trần gian. Thánh Gioan Tẩy Giả là quí tử của thánh nữ Elisabét, họ hàng với Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA. Đức Mẹ MARIA là hiền mẫu của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Tất cả liên hệ vừa huyết tộc vừa thiêng liêng ấy đã giúp cho hai Vị - mỗi Đấng trong phận vụ của mình - chu toàn thánh ý THIÊN CHÚA CHA đã hoạch định.
THIÊN CHÚA CHA đã muốn cho chính Thánh Gioan Tiền Hô phải làm chứng cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ, trước khi Đức Chúa GIÊSU KITÔ công khai rao giảng Tin Mừng. Tất cả đều nằm trong chương trình cứu độ của THIÊN CHÚA CHA. Và Thánh Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ bằng lời nói, hành động và sau cùng, bằng chính cái chết của ngài. Về phần Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Ngài đã làm chứng cho THIÊN CHÚA CHA bằng lời rao giảng, bằng cuộc sống, bằng cái chết và sự sống lại của Ngài.
Giờ đây tín hữu Công Giáo cũng được mời gọi làm chứng cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ trần gian, bằng cuộc sống ngay chính.
Sống ngay chính trong ngôn từ. Nói thẳng và nói thật. Không gian manh lừa đảo. Không nịnh bợ ve vuốt. Không dùng ba tấc lưỡi điêu-ngoa để thủ lợi và để hại người. Không chuyển Không thành Có và chuyển Có thành Không.
Sống ngay chính trong hành động. Không trộm cắp. Không ăn cướp của công. Không giết chết bào thai trong dạ. Không cư xử bạo tàn với trẻ thơ, với người già cả và với kẻ cô thế cô thân.
Thế nhưng, sống ngay chính và có lòng chân thành quả thật rất khó giữa một thế giới đảo-điên, lành dữ ngang-ngửa và trong một xã hội gian-xảo vàng thau lẫn-lộn hôm nay!
Vậy phải làm sao bây giờ? Thưa, tín hữu Công Giáo hãy ngước mắt nhìn lên Thánh Giá có Đức Chúa GIÊSU KITÔ bị kết án tử hình. Thánh Giá là bài học và là giá cao phải trả cho bất cứ cuộc đời nào sống ngay thẳng trên thế gian này. Do đó, tín hữu Công Giáo chân chính không bao giờ sợ hãi và lùi bước trước mọi thứ quyền lực độc-tài tăm-tối! Độc-tài tăm-tối vì có bàn tay của ma quỷ ác thần nhúng vào!
Vì thế, để có được sức mạnh thiêng liêng giúp sống đúng tinh thần Phúc Âm cũng như dám làm chứng cho Tin Mừng Cứu Độ của Đức Chúa GIÊSU, tín hữu Công Giáo cần phải cầu nguyện liên lĩ. Cầu nguyện không ngừng. Hãy kín múc ơn thánh nơi bí tích Thánh Thể và qua Tràng Chuỗi Mân Côi. Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể và Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA là 2 Cột Trụ kiên cố vững vàng nhất mà mọi tín hữu Công Giáo có thể nương tựa trong cuộc chiến chống lại ba thù: ma quỷ, xác thịt và thế gian.
Ước gì mỗi tín hữu Công Giáo quảng đại dấn thân làm chứng cho Tình Yêu Nhân Hậu Vô Biên của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Nguyện cho các tín hữu Công Giáo được can đảm để công khai tuyên xưng rằng: Đức GIÊSU KITÔ chính là Con THIÊN CHÚA, là Đấng Cứu Độ nhân trần. Chỉ duy nhất nơi Ngài, con người mới tìm thấy Đường Đi, Sự Thật và Sự Sống.
Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy những diễn tiến sau: 1/ Trông thấy Chúa Giê su tiến đến, Gioan Tẩy:TN 2-A46
Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy những diễn tiến sau:
1/ Trông thấy Chúa Giê su tiến đến, Gioan Tẩy Giả lớn tiếng công bố: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.
2/ “Nầy tôi đã nói về Ngài: Một người đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Ngài cao trọng hơn tôi. Và tôi, tôi đã không biết Ngài, nhưng để Ngài được tỏ mình ra với Israel, nên tôi đã đến làm phép rửa trong nước.”
3/ “Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Ngài. Về phần tôi, tôi đã không biết Ngài. Nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.”
4/ “Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa.”
Nơi Phúc Âm Matthêu được ghi lại, “Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán rằng: Đây là Con yêu dấu của Ta, ta hài lòng về Người” (Mt. 3:16-17).
Qua diễn trình Phúc Âm thánh Gioan ghi lại, có thể Chúa Giêsu đến nơi Gioan Tẩy Giả làm phép rửa lần thứ hai vì Gioan Tẩy Giả đã được thấy Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu; thế nên Gioan Tẩy Giả lên tiếng minh xác về Ngài.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu truyền cho các môn đồ sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Trời và rửa tội cho muôn dân, “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.”
Mỗi người khi chịu phép Rửa Tội, được Chúa Giêsu làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần, được thông quyền tư tế, tiên tri, và vương quyền của Ngài. Như vậy, mỗi người theo Chúa Giêsu được gọi là con của Thiên Chúa và mang sứ vụ giống như Chúa Giêsu đã thực hiện, rao giảng Tin Mừng Nước Trời.
Chẳng những thế, Chúa Giêsu đã rõ ràng minh xác, “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thày, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm” (Gn. 14:12-13). Hơn nữa, Ngài còn đoan chắc, “Thầy bảo thật anh em: nếu có ai nói với núi này: 'Dời chỗ đi, nhào xuống biển!', mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì điều ấy sẽ được ban cho. Vì thế, Thầy nói với anh em: tất cả những gì anh em cầu nguyện và xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc. 11:23-24).
Chúa Giêsu đã rao giảng về Tin Mừng Nước Trời như thế nào. Tin Mừng Nước Trời Ngài rao giảng là gì? Tại sao Phúc Âm được ghi, “Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 1:23).
Chúa Giêsu rao giảng thế nào về đức tin, lòng tin? Đức tin Ngài rao giảng là gì và tại sao "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc. 17:6).
Chúng ta thực lòng nghĩ mình tin vào Thiên Chúa, tin vào Chúa Giêsu; chúng ta tuyên dương mình có đức tin. Vậy đức tin của chúng ta như thế nào? Nếu đem so sánh với lời giảng dạy của Chúa Giêsu nơi Phúc Âm thì đức tin của mình lớn hay nhỏ hơn hạt cải?
"Khi cần một người cha cho dân mình, Chúa đã gọi một ông lão...
Khi cần một lãnh tụ cho dân, Chúa đã gọi một thiếu niên con út trong gia đình...
Khi cần người làm nền móng xây dựng Giáo Hội, Chúa đã gọi một kẻ chối Chúa,
Khi cần người truyền đạo, Chúa đã gọi một kẻ bắt đạo...”
GỢI Ý SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT II TN. A
Ga 1, 29-34
ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA
Phúc Âm thứ tư được viết ra như một vụ án kéo dài, ở đó các nhân chứng lần lượt nối tiếp nhau: TN 2-A47
Phúc Âm thứ tư được viết ra như một vụ án kéo dài, ở đó các nhân chứng lần lượt nối tiếp nhau để chính thức tuyên bố những gì họ biết về Chúa Giêsu, Ngôi Lời hoá thành nhục thể, Ánh Sáng thế gian, Con Một Thiên Chúa, Vua Israel. Như vậy, ngay từ ngày đầu tuần lễ khai trương,Thánh Gioan Tẩy Giả đã trả lời cho các tư tế và thầy lêvi được phái đến từ Giêrusalem: Ngài tuyên bố với họ rằng Ngài không phải là Đấng Messi. Hôm sau đó, Ngài làm chứng trước mặt các môn sinh của Ngài,những người luôn sẵn sàng tin. Ngài nói với họ:” Đây,Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian”. Các nhà chú giải không nhất trí với nhau về ý nghĩa chính xác của từ nầy. Chúa Giêsu có phải là con chiên bị tế trong lễ Vượt Qua, để tưởng nhớ cuộc giải phóng khỏi Ai cập chăng? Người có phải là con chiên bị sát tế và chiến thắng trong Sách Khải Huyền (Kh 5,6.12) chăng? Người có phải là người tôi tớ trong sách Isaia ‘không hé miệng như một con chiên bị đem đi lò mổ” chăng (Is 53,7)? Hay có thể phải thay thế con chiên phải sát tế mỗi ngày trong Đền Thờ, để chuộc tội cho dân?
Câu trả lời hay nhất có lẽ là nằm trong đức tin của các tín hữu tiên khởi, là những người mà Phúc Âm Thánh Gioan muốn dành cho trước tiên. Họ không nghĩ tới sự hiền lành hay yếu đuối của con chiên hơn là sự bày tỏ nơi con chiên quyền năng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ Israel. Với họ Thánh Thể là sự nhắc lại lễ Vượt Qua mà từ nay cộng đồng Kitô hữu liên kết.
Mỗi lần họ đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa kitô phục sinh, các tín hữu tiên khởi nhìn nhận “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian”. Cũng như họ, chúng ta tìm lại chính ý nghĩa nầy trong khi hiệp lễ và trong những lời tung hô:”Khi chúng ta ăn bánh nầy và uống chén nầy, chúng ta mừnh mầu nhiệm đức tin”
Thế giới chúng ta có một kinh nghiệm dài về những cuộc cách mạng và những cuộc giải phóng, vốn chỉ thay đổi chỗ các đàn áp và bất công. Thế giới nầy khát mong một cuộc giải phóng sâu xa đi thẳng vào tâm sự dữ và cái ác. nầy đây cuối cùng Đấng phải xoá đi tội trần gian. Từ ngữ Hy Lạp được Thánh Gioan dùng ở đây muốn nói “gánh” theo nghĩa chất lên người mình bằng việc nhận lấy tội lỗi, đồng thời “mang đi” theo nghĩa cất bỏ,xoá đi bằng việc làm cho tội lỗi biến mất.
Bằng hành động của Con Chiên, thế giới từ lâu bị thương tích vì bất công và hận thù, sẽ thấy được sự giải phóng thật sự của mình: thế giới sẽ được khôi phục trong tình yêu của Thiên Chúa Cha.
“ Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”(Ga 1,29).
Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu với đám đông dân chúng thời bấy giờ là những người ít nhiều: TN 2-A48
Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu với đám đông dân chúng thời bấy giờ là những người ít nhiều quen thuộc hình ảnh con chiên. Nói đến chiên thì người ta dễ liên tưởng đến việc gánh tội. Hình ảnh con dê tế thần hay con chiên gánh tội vốn dĩ khá quen thuộc với nhiều người thuộc nhiều môi trường xã hội, nhất là với người Do Thái.
Chúng ta không nghi ngờ gì về một trong những sứ mạng của Chúa Kitô khi đến trần gian đó là tẩy xoá tội lỗi con người. Và một trong những cách thế chính yếu mà Người xoá tội lỗi nhân gian đó là vạch mạch chỉ tên tội lỗi và đầu mối của tội lỗi là thần dữ. Người đã từng minh nhiên vạch trần khuôn mặt của thần dữ hay là ma quỷ như sau: “Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44). Có thể khẳng định hai đặc tính của thần dữ là gian dối và tàn ác. Thánh Gioan tông đồ đã nói với chúng ta rằng tội lỗi là sự gian ác. Ai phạm tội là làm điều gian ác và họ là người của ma quỷ (x.1Ga 3,8-10).
Chính khi trong phận con chiên hiền lành gánh lấy án hình khổ giá cách bất công và nhục nhã là lúc Chúa Kitô cho chúng ta thấy chân tướng của sự tội. Do bởi ganh tương đố kỵ mà các lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ đã kết án Chúa Kitô cách bất công với nhiều chứng cứ gian dối (x.Mt 26,59). Ngay cả Philatô cũng thừa biết rõ chính vì “ganh tị mà họ nộp Người” (Mt 27,18). Ông đã khẳng định là không tìm thấy lý do nào để kết tội Chúa Kitô và dù ông đã tìm nhiều cách để cứu Người mà chẳng thể làm được vì ông nhát đảm, sợ cái ghế lung lay, mất chức, mất quyền (x.Ga 19,8-16). Thập giá Chúa Kitô cho chúng ta thấy rõ tội lỗi chính hành vi gian dối và độc ác.
Hình ảnh người tôi trung của Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia loan báo vừa là người sẵn sàng “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu, không che mặt khi bị người ta phỉ nhổ (Is 51,8), vừa là người “làm ánh sáng muôn dân để đưa ơn cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng cõi đất” (Is 49,6). Chúa Kitô chính là người tôi trung đích thực của Thiên Chúa. Khi đón nhận sự gian ác của con người thì chính là lúc Người soi sáng cho chúng ta thấy rõ khuôn mặt của sự tội. Biết rõ chân tướng của tội lỗi là tiền đề ắt có để thoát ra khỏi vòng kiềm toả của nó vậy.
Ở trong sự thật, sống trong chân lý thì chúng ta sẽ chiến thắng thần dữ, cha của sự gian dối. Khẳng khái trước Philatô, Chúa Kitô đã tuyên bố một trong những sứ mạng của Người khi vào trần gian đó là làm chứng cho sự thật, ai hâm mộ sự thật thì hãy nghe theo Người, và sự thật sẽ giải thoát nhân loại chúng ta (x.Ga 18,37; 8,32).
Sống trong tình yêu thì chúng ta sẽ chiến thắng thần dữ, tên sát nhân, nguồn cội của những hành vi ác độc. Một trong những sứ mạng của Đấng Cứu Độ khi vào trần gian đó là mạc khải tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu tòan diện và đến cùng. “Con Người đến thế gian không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”(Mt 20,28). Quả thật, không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình của người sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (x.Ga 15,13).
Chúa Kitô vạch mặt, chỉ tên tội lỗi rồi xoá bỏ nó bằng việc trao ban Thánh Thần. Thánh Gioan Tẩy Giả đã xác nhận và làm chứng: “Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga1,33-34). Khi chịu tử nạn trên thập giá, Trái Tim cực thánh Chúa Kitô đã bị đâm thâu, máu cùng nước đã chảy ra và Thánh Thần, Thần Chân Lý và là Nguồn Tình Yêu được trao ban (x.Ga 19,31-37; 16,13).
“Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51). Khi gợi nhớ cho Philipphê và Natanael về hình ảnh chiếc thang bắc từ đất lên trời mà tổ phụ Giacop ngày xưa mơ thấy (x.St 28,10-22), thì Chúa Kitô đã khẳng định Người chính là con đường dẫn đưa nhân loại về trời. Dẫn đưa nhân loại về trời cũng có nghĩa là giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, khỏi vòng kiềm toả của thần dữ. Có thể nói rằng hai thanh đứng của chiếc thang chính là sự thật và tình yêu. Sự liên kết mật thiết của tình yêu và sự thật sẽ trở thành khí cụ tiêu diệt tội lỗi và dĩ nhiên sẽ dẫn đưa chúng ta về với nguồn hạnh phúc đích thật, vĩnh cửu. Nếu chúng ta biết yêu thương nhau bằng việc làm với lòng chân thật và nếu chúng ta biết sống trong sự thật để yêu thương nhau, thì chúng ta sẽ an lòng trước mặt Thiên Chúa và nhất là sẽ được bình an vì Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta, ở trong chúng ta (x.1Ga 3,11-24).
Xin cùng nhìn lên thập giá để nhớ về người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu. Cũng cất lời khẩn xin Chúa Giêsu cứu thoát như người bị treo bên trái, nhưng anh này đã khiêm tốn ở trong sự thật khi nhìn nhận mình đáng chịu hình phạt khổ giá vì tội đã phạm, đồng thời anh ta cũng có chút tấm lòng với Chúa Giêsu khi bào chữa rằng Ngài đây đâu có làm điều gì sai trái (x.Lc 23,39-43). Chính nhờ có chút tấm lòng và biết sống trong sự thật nên lời khẩn xin của anh đã được nhậm lời và anh ta đã được về trời ngay hôm ấy.
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Thuận Hiếu – Ban Mê Thuột
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Gioan Tiền Hô đã giới thiệu Chúa Giêsu: Đây Chiên Thiên Chúa: TN 2-A49
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Gioan Tiền Hô đã giới thiệu Chúa Giêsu: Đây Chiên Thiên Chúa. Thế nhưng hình ảnh con chiên có ý nghĩa gì trong Kinh Thánh?
Trong sách Samuel quyển thứ 2, tiên tri Nathan có kể cho vua Đavít nghe câu như sau: Có hai người trong một thành phố. Một người thì giàu sang và thế lực. Còn một người thì nghèo túng và hèn mọn. Gã giàu sang có một đàn chiên đông đảo, trong khi anh nhà nghèo chỉ có một con chiên nhỏ bé. Đứa con của anh nhà nghèo rất thương con chiên ấy và chơi đùa với nó suốt ngày. Thế rồi bữa kia, gã nhà giàu có khách, hắn truyền cho đám tôi tớ qua nhà anh nghèo, bắt con chiên mà giết thịt để đãi khách.
Câu trên rất thích hợp để áp dụng cho Chúa Giêsu. Ngài cũng được yêu mến, nhưng đồng thời cũng đã bị bọn người độc ác giết chết một cách tàn bạo. Tuy nhiên, trong tâm trí của Gioan Tiền Hô, còn có một hình ảnh khác khi giới thiệu Chúa Giêsu: Đây Chiên Thiên Chúa. Đó là hình ảnh những con chiên bị sát tế mỗi ngày trong đền thờ, làm lễ vật dâng tiến cho Thiên Chúa như Maisen đã quy định: Mỗi ngày các ngươi hãy hiến tế trên bàn thờ hai con chiên được một tuổi. Một con vào buổi sáng còn một con vào buổi chiều. Máu của chiên đổ ra có sức tẩy xoá tội lỗi cho dân chúng.
Trước Gioan Tiền Hô, các tiên tri cũng đã nói về người tôi tớ Thiên Chúa phải đau khổ và phải chết như một con chiên. Tiên tri Isaia đã mô tả: Ngài như con chiên bị đưa tới lò sát sinh, mà không hề thốt lên một lời. Ngài chết vì tội lỗi chúng ta. Còn tiên tri Giêrêmia thì nói: Tôi giống như con chiên bị đem đi giết và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi. Và như thế hình ảnh con chiên gợi lên những hy sinh và đau khổ. Sau cùng thánh Gioan trong sách Khải Huyền, ngoài những đặc tính trên, còn thêm vào đó nét vinh quang và khải hoàn của Con Chiên Thiên Chúa. Chẳng hạn, nơi chương 5, thánh Gioan đã mô tả: Muôn dân vây quanh và ca ngợi Con Chiên bằng bài hát như sau:
Ngài đã bị giết và nhờ cái chết hy tế của mình, Ngài đã mua chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi ngôn ngữ, mọi quốc gia và mọi chủng tộc. Ngài đã biến họ trở thành vương quốc của các tư tế để phụng sự Thiên Chúa chúng ta. Rồi các thiên thần tiến đến vây quanh Ngài và hát vang: Con Chiên bị giết đáng được lãnh nhận danh vự, vinh quang và tán tụng... Tóm lại, hình ảnh Con Chiên Thiên Chúa gợi lên 3 hình ảnh. Hình ảnh của sự yêu mến, hình ảnh của sự đau khổ và hình ảnh của sự vinh quang. Đây cũng là con đường mà mỗi người chúng ta cần phải đi qua trong cuộc sống, đó là để được Chúa yêu thương và chúc phúc, chúng ta cũng phải bước qua gian khổ, thử thách và thập giá, nhờ đó mà tiến tới vinh quang phục sinh.
Trong một bối cảnh thù nghịch cuộc vận động của các thầy cả, thầy lêvi yêu cầu Gioan tự xác: TN 2-A50
Trong một bối cảnh thù nghịch cuộc vận động của các thầy cả, thầy lêvi yêu cầu Gioan tự xác định vai trò trong cuộc chờ đợi Đấng Cứu Thế: "ông là ai". Gioan Tẩy Giả đã trả lời trước hết bằng ba phủ định: ông không phải là Đấng Cứu Thế, không phải là Êlia, cũng không là một đại tiên tri. Rồi ông tuyên bố. "ở giữa anh", “một người mà anh em không biết; chính Ngài đến sau tôi nhưng tôi không xứng đáng cởi dây giày cho người” (l,2-27).
Bây giờ, Gioan Phúc âm xác định là ngày hôm sau, đối diện với các môn đệ, sau khi nhóm người điều tra bỏ đi.
Gioan Tẩy Giả thấy Chúa Giêsu "tiến về phía Ngài”. Không phải là để xin rửa tội như ta tự nhiên nghĩ tới vì phép rửa đã xảy ra, nhưng để làm ứng nghiệm lời sấm của Isaia 40,10 "Chúa đến”.
Cũng trong chiều hướng làm ứng nghiệm lời tiên tri Isaia 40,2 đã loan báo cho Israel biết rằng "tội lỗi họ đã được tha thứ", Gioan tuyên bố: "Đây là hiểu ngầm một lời mời hãy nhận xem chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội tràn gian. Một nhận dạng mà ta sẽ gặp lại ở chương 1,36.
Sự đối chiếu với Chiên Thiên Chúa có thể có 3 nền tảng trong Cựu ước. Hoặc con chiên của Israel 53,7: "Như con chiên bị đưa đến lò bát tế, như cừu đến trước mặt kẻ xén lông... Trong trường hợp này, thánh sử Gioan đã thấy nơi Đức Giêsu khuôn mặt của Người Tôi Tớ đau khổ gánh lấy tội lỗi thế giới. Nhưng cũng nên biết rằng cùng một từ ngữ Aram ấy có thể có 3 nghĩa: "trẻ em”, "tôi tớ” hoặc "con chiên”. Hoặc con chiên bị sát tế và đứng trong sách Khải Huyền, có thể thắng vượt tội lỗi và sự chết, là Đức Kitô phục sinh (Kh 5,6; 14,10; l.7,14). Hoặc con chiên vượt qua. Thực vậy, theo Gioan 19,14, Đức Giêsu bị kết án vào giờ mà các thầy cả bắt đầu sát tế chiên để mừng lễ Vượt qua. A. Marchadour nhận định: "Một tước hiệu như thế có thể có 3 ý nghĩa. Một độc giả không am hiểu bối cảnh Kinh Thánh của từ ngữ sẽ ghi nhận rằng có 2 so sánh vay mượn. Ở thế gian động vât: con chiên Thiên Chúa và chim bồ câu từ trời xuống. Hai hình ảnh của sự bất bạo động này rất thích hợp với bản chất của Đức Giêsu và với công cuộc nối kết với thế giới của Thiên Chúa". Và làm chứng: "Chính Ngài là Con Thiên Chúa”.
Rồi, khi gợi lại phép rửa ở sông Giođan, Gioan Baotixita, người đã loan báo trước về Đấng Messia mà không biết (“Tôi không biết Ngài câu 31 và 33), đã làm chứng: "người đã thấy Ngài quả quyết 2 lần như vậy (câu 32 và 34): "Mọi người sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa và ơn cứu độ Nơi Đức Giêsu, trên Ngài Gioan đã nhìn thấy "Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống từ trời và đậu lại", Thiên Chúa đã mạc khải cho ông biết đó là Con Thiên Chúa…X lon Dufour nhận xét: "Sự chứng nhận này hiển nhiên phù hợp với lời tuyên bố của Thiên Chúa khi Đức Giêsu chịu phép rữa: Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người (Mt 3,17). Nhưng đây không phải là tiếng nói từ trời cao. Đó là tiếng nói của người phàm, Gioan Tiền hô đã nói.
Trong tước hiệu “Con Thiên Chúa" độc giả Kitô hữu tìm ra ý nghĩa vượt quá lời tuyên xưng về Đấng Messia, tước hiệu ấy nối kết với tước hiệu "Con duy nhất" đã được nhấn mạnh ở phần nhập đề. Đó chính là ý nghĩa mà bản văn này nhẩm tới, vì Phúc âm đã viết "để anh em tin rằng Đức Giêsu, Đấng Messia là con Thiên Chúa (20,31).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Dấu chỉ đến từ Thiên Chúa.
(Mgr. L. Daloz, "Nous avons vu ta gloire”, DDB).
Nơi ngọn nguồn của việc tỏ mình ra của Đức Giêsu, chứng từ của Chúa Cha: "Đấng mà trên Người ngươi sẽ thấy. Thần Linh xuống và ở lại, chính người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần". Ta chỉ nhận biết Đức Giêsu sau lời mạc khải của Chúa Cha. Đức Giêsu thường nhắc lại: "Ai nghe lời Cha và đón nhận thì đến với Ta” (6,45). Và chính Thánh Thần do Chúa Cha sai đến đã chỉ cho Gioan Tẩy Giả biết Đức Giêsu. Nhờ ông, ta đi vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Ta chỉ nhận biết Đức Giêsu khi Thánh Thần Thiên Chúa đến mở mắt và chỉ cho ta thấy. Nếu không có Thánh Thần, không có lời chứng của các chứng nhân, ta sẽ không nhận biết Người. Người đâu phải là đối tượng của khoa học nhân văn mà ta có thể nhận dạng nhờ việc nghiên cứu và suy gẫm. Người là ngôi vị Con Thiên Chúa mà ta chỉ nhận biết được khi chính Thiên Chúa tỏ ra cho ta. Người là đối tượng của một chứng từ, không ai có thể nhận biết Người nếu họ không có trái tim rộng mở đón nhạn những dấu chỉ của Chúa Thánh Thần.
2. Con đường của Con Chiên.
(H. Denis, 100 mots pour dire la foi. DDB).
Hằng bao lần ta đã chẳng đọc và nghe: Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian sao? Thư thánh Phêrô sử dụng một đề tài Kinh Thánh cổ xưa như phiêu lưu của Môsê bên Ai Cập, tôi muốn cùng các bạn đi lại con đường của Con Chiên Thiên Chúa, Người đi từ sự báo oán giải phóng đến sự bất bạo động hoà bình.
Con đường ấy khởi đi từ một lịch sử đẫm máu. Dân Thiên Chúa được cứu khỏi Ai Cập nhờ máu Con Chiên. Con Chiên sẽ trở nên biểu tượng của công cuộc giải phóng Israel. Vì, ta đừng quên điều này, cuộc gặp gỡ của Môsê ở bụi gai cháy đỏ không, phải là một câu thần bí phóng đại hoặc truyện trẻ em ham thấy Chúa Mẹ hiện ra. Không, Môsê đã giết ngọt một tên Ai-cập đáng ngờ và Thiên Chúa của ông, dù chưa rõ tên Ngài, đã hứa nghe thấy dân Ngài đang bị nô lệ kêu xin. Như thế Con Chiên thuộc về phía cánh tay báo oán của Thiên Chúa, cùng với tất cả sức mạnh của Người. Nhưng chẳng bao lâu, đặc biệt với các ngôn sứ (Is 53, Gr 11...) Con Chiên này sẽ trở nên kiểu mẫu của những ai chết cho dân Người, như con cừu câm rùn bị dẫn tới lò sát sinh...
Thiên Chúa rời bỏ ngai Đấng toàn Năng. Ta nói rằng Người đứng về phía Con Chiên chịu đau khổ. Như thể thời gian dần dần chín mùi để đón nhận một Đức Giêsu nào đó, được Gioan tuyên xưng là Đấng xoá tội trần gian, còn thư Phêrô thì nhận là Con Chiên không khiếm khuyết, không tì vết, giải thoát ta khỏi cuộc sống không mục đích như là chiên vất vưởng lầm lạc. Nhưng sự đảo ngược hình ảnh chưa hoàn toàn. Cuộc giải phóng bằng việc báo oán của Thiên Chúa chưa chuyển hoá thành lễ dâng của một vát hy sinh tự nguyện và tự hạ. Thật vậy, Con Chiên phải mặc lấy những màu sắc và những hình thức của Sự Sống thực sự và của Vương triều thiên quốc. Đó chính là Con Chiên của sách Khải Huyền, hiện diện trong biết bao trang sách khi thời gian viên mãn. Điều đó nhắc tôi nhớ tới một bức bích hoạ rất đẹp và rất cổ xưa ở vùng ngoại ô Lyon, trong đó ta thấy Đức Kitô vinh hiển dưới hình Con Chiên mặt người. Đó là cuộc khải hoàn của niềm bình an, sức mạnh của sự bất bao động của Thiên Chúa. Vâng, chỉ Con Chiên mới có thể ban sự Bình An của lễ Phục Sinh, niềm bình an được hứa ban cho thế giới đã được giải phóng. Xin ban bình an cho chúng con.