Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 3-A Bài 1-50: Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng ---------------------------------------- Phúc Âm: Mt 4, 12-23 (bài dài) "Người vào Capharnaum để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã tiên báo".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết". Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến!" Nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người. Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người. Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. - Ðó là lời Chúa.
Thiên Chúa là ánh sáng. Đúng thế, sách Sáng thế ký kể lại rằng: ngày thứ tư, Thiên Chúa: TN 3-A1
Thiên Chúa là ánh sáng. Đúng thế, sách Sáng thế ký kể lại rằng: ngày thứ tư, Thiên Chúa dựng nên các tinh tú trên bàu trời. Ngài xếp đặt chúng để chiếu tỏa ánh sáng cho địa cầu và phân chia ngày đêm. Và như vậy, ngay từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng.
Trong Cựu ước, ánh sáng vốn thường được dùng để nói lên vinh quang của Thiên Chúa.
Thực vậy, Thiên Chúa đã hiện ra với ông Maisen trong bụi gai bốc cháy:
- Bấy giờ ông Maisen nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng không bị thiêu rụi. Ông tự bảo: mình phải lại xem cảnh tự kỳ lạ này mới được, vì sao bụi cây lại không cháy rụi ?
Thiên Chúa cũng đã hiện diện giữa dân Ngài qua áng mây và cột lửa. Sách Xuất hành ghi lại:
- Khi ra khỏi Ai cập, Đức Chúa đi đằng trước họ, ban ngày thì ở trong cột mây để hướng dẫn, ban đêm thì ở trong cột lửa để soi sáng, nên họ có thể đi cả ban ngày lẫn ban đêm. Ban ngày cột mây đi trước dân không rời, ban đêm cột lửa cũng vậy.
Ngày Thiên Chúa ký kết với dân Do thái giao ước tại Sinai, lúc bấy giờ ngọn núi rực sáng như bốc cháy. Sách Xuất hành ghi lại:
- Bấy giờ mây bao phủ núi…Vinh quang Đức Chúa xuất hiện trên đỉnh núi trông giống như ngọn lửa thiêu, trước mắt con cái Israel.
Thế nhưng, Thiên Chúa không phải chỉ là ánh sáng tự nhiên bên ngoài, con mắt chúng ta có thể trông thấy, mà hơn thế nữa, Ngài còn là ánh sáng siêu nhiên bên trong để soi dẫn bước đường chúng ta đi và ban cho chúng ta sự sống.
Thực vậy, Thiên Chúa đã dùng luật pháp và lời các tiên tri để hướng dẫn đường đi nước bước cho con người. Ngài chính là đèn soi lối cho họ. Ngài là ánh sáng và là ơn cứu độ của họ.
Khi mở mắt chào đới, chúng ta nhìn thấy ánh sáng và chúng ta chính thức bước vào cuộc sống. Cũng vậy, nếu bước đi trong ánh sáng của Chúa, nếu bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ được vào cõi sống với vinh quang bất diệt.
Đối với chúng ta ngày hôm nay, Đức Kitô chính là nguồn sáng duy nhất.
Thực vậy, trong đêm Giáng sinh, ánh sáng của Chúa đã bao phủ khi sứ thần loan báo tin vui. Thánh Luca ghi nhận:
- Kìa sứ thần Chúa đứng bên họ và vinhquang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng.
Tiếp đến, ánh sáng của ngôi sao lạ cũng đã chiếu soi để dẫn đưa ba nhà đạo sĩ phương đông đến tìm gặp và thờ lạy hài nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem.
Khi Chúa biến hình trên đỉnh Tabôrê, khuôn mặt Ngài sáng ngời và y phục Ngài trở nên trắng tinh như tuyết. Đây phải chăng chính là một hình ảnh báo trước vinh quang phục sinh của Ngài, bởi vì Ngài chính là ánh sáng thế gian.
Sau cùng, Ngài đã dùng luồng ánh sáng chói lòa để quật ngã thánh Phaolô trên con đường Đamas, biến thánh nhân từ một kẻ thù địch trở thành một tông đồ nhiệt thành đem Tin mừng đến cho muôn dân.
Thế nhưng, điều quan trọng hơn nữa Đức Kitô chính là ánh sáng chiếu soi tâm hồn, dẫn bước chúng ta trên con đường tìm gặp Chúa.
Thực vậy, ngày hôm nay khi Ngài bắt đầu cuộc sống công khai, thánh Matthêu đã áp dụng lời tiên tri Isaia sau đây cho Ngài:
- Đoàn dân ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Chính Ngài cũng đã xác nhận:
- Ta là ánh sáng thế gian, ai tin Ta sẽ không đi trong tối tăm.
Ánh sáng ấy sẽ dẫn chúng ta tới vùng đất của sự sống vĩnh cửu, nếu chúng ta biết bước theo sự soi dẫn của Ngài, có nghĩa là nếu chúng ta biết tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.
Hẳn chúng ta không thể nào quên được một hình ảnh sống động vào đêm thánh vọng Phục sinh, khi cây nến cháy được rước và tiến lên từ cuối nhà thờ trong bóng tối dày đặc, vị linh mục đã xướng:
- Ánh sáng Chúa Kitô.
Phải, ánh sáng Chúa Kitô đã chiếu dọi vào tâm hồn mỗi người, thế nhưng chúng ta có tiếp nhận ánh sáng ấy hay chúng ta lại ưa thích sự tối tăm ? Giống như người đau mắt ghét bỏ ánh sáng, thậm chí có kẻ còn ra sức dập tắt ánh sáng ấy.
Cuộc đời chúng ta là một tấm bi kịch, một cuộc chiến đấu giữa ánh sáng và bóng tối. Chúng ta phải có thái độ chọn lựa dứt khoát và quyết liệt:
- Chọn ánh sáng hay bóng tối ? Cố gắng trở nên con cái Thiên Chúa hay con cái thế gian ?
Mỗi người phải thành thực trả lời với Chúa và chính câu trả lời ấy sẽ ảnh hưởng tới tương lai và ấn định số phận đời đời của chúng ta.
Dân ngồi trong tăm tối đã nhìn thấy ánh sáng huy hoàng.
Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy ngày xưa có những nhân vật khôn ngoan và thông thái, tuy đã: TN 3-A2
Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy ngày xưa có những nhân vật khôn ngoan và thông thái, tuy đã chết từ lâu, nhưng vẫn còn được người đời nhắc đến, chẳng hạn như Aristote, Platon, César…Đồng thời, có những dân tộc đã trải qua những thời đại hoàng kim của mình, chẳng hạn người Hy Lạp nổi tiếng về văn hóa, người La Mã nổi tiếng về binh đội…
Còn hôm nay, chúng ta cũng có những nhà bác học với những phát mình làm đảo lộn cách thức suy nghĩ và hành động thường tình, chẳng hạn như máy hơi nước, máy vô tuyến, điện lực, nguyên tử…Đồng thời cũng có những quốc gia giàu mạnh nắm giữ vai trò của một siêu cường như Hoa Kỳ, Nga…
Thế nhưng, tất cả mới chỉ nổi tiếng, mới chỉ giỏi giang về những sự việc trước mắt và ở đời này. Còn nhụ sự việc thiêng liêng về đời sau, về linh hồn, về Thiên Chúa, thì họ lại hoàn toàn chẳng biết gì và không hề nói tới. Không nói tới, bởi vì có biết đâu mà nói.
Chevreul, một khoa học gia, đã phát biểu:
- Các bạn khoa học của tôi thật tài giỏi trong những lãnh vực chuyên môn, thế nhưng trong lãnh vực tôn giáo, họ không hơn gì những em nhỏ mới được xưng tội rước lễ lần đầu. Miệt mài vào công việc nghiên cứu trong những lãnh vực chuyên môn ấy, họ không cho tôn giáo là quan trọng, nên không chịu tìm hiểu cũng như không chịu sống theo những tiêu chuẩn của tôn giáo.
Đúng thế, lãnh vực của khoa học là lãnh vực của thực nghiệm. Khoa học khởi đi từ những hiện tượng, những sự việc cụ thể, để rồi dẫn tới những định luật và áp dụng những định luật ấy vào đời sống thực tế.
Còn quốc gia thì bận rộn với vấn đề chính trị, quân sự, ngoại giao và kinh tế, chỉ có tôn giáo mới lo đến linh hồn, đến đời sau, đến Thiên Chúa và đem lại lời giải đáp cho những vần đề đã từng làm chúng ta băn khoăn và thắt mắc.
May áo, chúng ta phải đến với thợ may. Đóng giày, chúng ta phải đến với thợ giày. Bắt điện, chúng ta phải đến với thợ điện. Về những sự đời này, chúng ta phải đến với những chính trị gia, những vị tướng lãnh, những nhà kinh tế…Còn về những sự đời sau, chúng ta phải đến với tôn giáo. Làm khác đi là đến với những nơi không có thẩm quyền, hoặc không đủ khả năng. Làm khác đi là đến lầm địa chỉ.
Một số vấn đề then chốt đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắt mắc, chẳng hạn: Tôi bởi đâu mà đến ? Tôi sống ở trên đời để làm gì ? Và chết rồi tôi sẽ ra làm sao ? Kẻ bất lương và người lành thánh có gì khác nhau ở bên kia cái chết ?
Đứng trước những vấn đề này, chỉ có tôn giáo và nhất là Kitô giáo mới đưa ra được những lời giải đáp thỏa đáng. Bởi đó, thánh Tôma tiến sĩ đã có lý khi nói:
- Một bà lão thuộc giáo lý có khi còn am hiểu hơn những nhà bác học tài giỏi.
Đạo là đường, là ánh sáng. Không có đạo và nhất là không sống đạo, thì dù có thông thái và khôn ngoan tới đâu chăng nữa cũng vẫn là những kẻ đáng thương còn ngồi trong tăm tối.
Tuy nhiên, có điều thật bẽ bàng và cay đắng, đó là ánh sáng đã chiếu trong u tối, nhưng u tối lại không tiếp nhận ánh sáng. Sở dĩ như vậy vì họ không muốn bước đi trong ánh sáng. Họ giống như những người đau mắt, luôn ghét bỏ ánh sáng.
Vì thế, khôn ngoan về những sự việc ở đời này mà thôi chưa hẳn đã là khôn ngoan thực sự, trái lại nhiều khi còn dại đột và kém sáng suốt, bởi vì như lời Chúa đã xác quyết:
- Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi.
Hãy đón nhận ánh sáng của Chúa, có nghĩa là hãy lắng nghe và thực thi những điều Chúa truyền dạy, bởi vì lời Chúa chính là đèn soi đường dẫn lối cho chúng ta đi.
Hôm nay Chúa Giêsu gọi bốn tông đồ đầu tiên trong số 12 vị: Simon Phêrô, Andrê, Giacôbê: TN 3-A3
Hôm nay Chúa Giêsu gọi bốn tông đồ đầu tiên trong số 12 vị: Simon Phêrô, Andrê, Giacôbê và Gioan. Đây chính là bước khởi sự thành lập Giáo Hội với sứ mạng phúc âm hóa. Một khởi điểm cho sự thành lập mầu nhiệm Vương Quốc Thiên Chúa như Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI gửi cho thế giới ngày nay: “Giáo Hội có một nhận thức sâu xa về lời của Đấng Cứu Chuộc “Ta phải công bố Tin Mừng về Vương Quốc của Thiên Chúa”.
Năm 1998, tại hội nghị có tên là “Thi Hành Công Lý” (Doing Justice), một trong những thuyết trình viên đã dùng bức tượng “Kẻ Nô Lệ Dở Dang” (Unfinished Slave) hay “Người Tù Tỉnh Thức” (Awakening Prisoner) của nhà nghệ sĩ vĩ đại Michelangelo để minh họa cho bài nói chuyện của mình. Bức tượng miêu tả một con người đang phấn đấu để được tự do thoát ra khỏi những giới hạn của một tảng đá cuội lớn mầu xám. Hình ảnh của con người được biểu lộ dần dần, qua những nhát búa đục đẽo đầy ân huệ của người nghệ sĩ. Nó bùng phá ra khỏi khối đá lao tù để đi vào sự tự do bằng việc trở nên làm con người hoàn toàn… Bình phẩm về kiệt phẩm này, thuyết trình viên đã nói:
“Hình ảnh của người nô lệ đang được giải thoát này xác định vị trí của chúng ta trong vai trò căn bản của Giáo Hội hôm nay: sứ mạng phúc âm hóa của Giáo Hội… Từ ngữ “phúc âm hóa” được rút ra từ tên gọi được ban cho một người nô lệ trong nước Hy Lạp cổ xưa. Người nô lệ được giao trọng trách mang tin mừng chiến thắng về cho dân chúng đang chờ mong ở nhà khi chiến trận xảy ra. Để đáp lại công lao loan báo tin mừng chiến thắng này của người nô lệ, dân chúng ban thưởng cho người nô lệ ân huệ được tự do”.
Người nô lệ thời Hy Lạp ngày xưa đã diễn tả cho chúng ta thấy rằng sự tự do không phải chỉ hệ tại một lời công bố, nhưng là một sự biến đổi ở chính bản thân con người. Bản thân người nô lệ được giải thoát khỏi sự lệ thuộc, được tự do chính là Tin Mừng.
Ngay từ ban đầu, các tông đồ đã không đi theo Chúa với cùng một mục đích như Chúa muốn. Họ theo Chúa Giêsu với những tư tưởng, ước mơ, và dự định riêng tư của mỗi người. Người muốn bỏ Giêrusalem để lên Rôma bằng mọi cách. Người khác muốn nhìn thấy vương quốc Israel được tái tạo theo như dòng tộc của nhà Đavid. Kẻ muốn ngồi bên hữu Chúa Giêsu trong nước Giêrusalem mới… Nhưng Ngài đã giúp họ vượt thoát ra khỏi những ý định riêng tư đó mà mang lấy sứ mạng làm “ngư phủ bắt người”, đi rao truyền Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu Kitô.
Các tông đồ đã trung thành với sứ mạng của mình. Sách Công vụ Tông đồ đã nói với chúng ta tất cả những điều họ đã làm: “Họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, hiệp thông với nhau, tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện… Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung… Họ đồng tâm nhất trí…”
“Giáo Hội đã gắn bó với chương trình phúc âm hóa từ trong bản chất thâm sâu”. Giáo Hội chỉ có một chương trình, một sứ mạng, và một mục đích duy nhất: “Trong Chúa Giêsu Kitô, con của Thiên Chúa làm người, đã chết, và sống lại từ cõi chết: sự cứu rỗi được trao ban cho mọi người, như là một ân sủng và lòng từ bi của Thiên Chúa”. Và ngày nay, mỗi người Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi đến để tiếp tục bước theo con đường của Chúa Giêsu đã đi qua và đã dạy chúng ta.
Vị linh mục tuyên úy hỏi người thủy thủ trẻ tuổi: “Ai đã dẫn đưa bạn tới Chúa Giêsu Kitô?: TN 3-A4
Vị linh mục tuyên úy hỏi người thủy thủ trẻ tuổi: “Ai đã dẫn đưa bạn tới Chúa Giêsu Kitô ?” Anh ta chần chừ suy nghĩ, vì nghĩ rằng phải sử dụng tên tuổi của những nhà giảng thuyết trứ danh, bèn hỏi lại vị tuyên úy: “Thưa cha, chắc không cần phải là người giảng thuyết chứ ?” Rồi anh nói tiếp: “Đó là sự thực hành của mẹ con”. Hầu hết chúng ta đã đón nhận đức tin từ cha mẹ. Khi lớn lên không bao giờ thắc mắc rằng chúng ta đã không phải là Kitô hữu. Chúng ta giữ đức tin trong khi được dạy cách làm dấu, đọc kinh Lạy Cha, đi nhà thờ dự lễ… học cách thức chào hỏi, lễ phép bởi cha mẹ, thầy cô nơi trường học. Do đấy, tất cả mọi người trong gia đình, cộng đoàn hay xã hội đều được mời gọi đóng góp vào sứ mạng “ngư phủ bắt người”. Bạn có tin được không, ngay cả con chó cũng có thể dẫn đưa một người về với Đức Kitô.
Một ông lão không bao giờ để ý gì tới Thiên Chúa, hay đời sống tinh thần, nhưng vợ ông lại là một Kitô hữu rất đạo đức. Bà đã cầu nguyện cho chồng nhiều năm, nhưng dường như lời cầu xin của bà chưa được đáp trả vì ông không bao giờ chịu đến nhà thờ chung với bà. Người đàn bà đạo hạnh đáng thương này đi lễ hằng tuần với một con chó già. Nó đi theo bà vào nhà thờ, rồi phủ phục nằm im dưới gầm ghế ngồi. Khi người đàn bà chết, con chó có vẻ buồn bã lắm. Một vài lần, lão già chú ý thấy con chó rời nhà vào một giờ nhất định, rồi trở về đúng giờ. Một buổi sáng Chúa nhật, ông lão đi theo con chó xem nó đã đi đến đâu. Con chó dường như có vẻ hứng khởi và vui vẻ khi có người cùng đi với nó dọc theo lối bộ hành cho đến cửa nhà thờ. Ông lão ngừng lại khi thấy nó nhanh nhẹn nhẩy lên những bậc thềm rồi đứng chờ ông ở cửa nhà thờ. Sau khi đứng lại nghỉ ngơi giây lát, chưa quyết định phải làm gì, ông lão tự nhủ: “Vào nhà thờ theo con chó cũng được. Đâu có hại gì !” Ông đã vào nhà thờ, đi theo con chó đến ngay chỗ vợ ông vẫn thường ngồi. Nhớ đến vợ, ông ngồi xuống và lắng nghe. Chúa nhật kế tiếp, ông lão lại đi đến nhà thờ với con chó trung thành của ông. Dần dần, người ta đã thấy ông ở trong nhà thờ ngay chỗ vợ ông vẫn thường ngồi với con chó nằm thinh lặng dưới gầm ghế. Sau cùng ông đã tham gia cộng đoàn và cho phép Tin Mừng thấm nhập vào cuộc đời ông.
Phúc âm hóa là công trình biến đổi con người trở nên giống hình ảnh của Chúa Kitô. Đó là công việc giải thoát con người khỏi tội lỗi. Sách Giáo lý Công giáo số 900 mời gọi chúng ta trong vai trò “ngư phủ bắt người” này như sau: “Cũng như tất cả các tín hữu đều được Thiên Chúa ủy nhiệm cho việc tông đồ, vì đã lãnh nhận phép rửa tội và phép thêm sức, các giáo dân có nghĩa vụ và có quyền lợi làm việc, từng cá nhân hoặc từng nhóm lại thành các hiệp hội, để sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa được mọi người trên trái đất biết tới và đón nhận”.
Đức Thánh Cha Phaolô II đã có lần mạnh mẽ lên tiếng kêu gọi toàn thể Giáo Hội tại Mỹ: TN 3-A5
Đức Thánh Cha Phaolô II đã có lần mạnh mẽ lên tiếng kêu gọi toàn thể Giáo Hội tại Mỹ Châu, hãy tìm giải pháp cho những vấn đề trầm trọng đang tác hại tại lục địa này. Chúng ta hãy cùng lắng nghe một đoạn trong bài giảng của Đức Thánh Cha trong thánh lễ cử hành tại Goađalubê:
“Giáo Hội đã có Tin mừng sự sống và sự can đảm của tiên tri, Giáo Hội lại có các nền văn hóa của chết chóc. Ước gì đại học của hy vọng này cũng là đại học của sự sống, đấy là tiếng báo động lớn của chúng ta, hãy kiến tạo một cuộc sống mới xứng đáng cho tất cả mọi người, cho các thai nhi đã được cưu mang trong lòng mẹ, cho những trẻ em bụi đời sống ngoài đường phố, cho những người dân bản xứ, cho những người dân Phi châu, cho những người di dân vì tị nạn, cho những người trẻ chiếm nhiều cơ hội để thăng tiến đời mình, cho những người già cả, cho tất cả những ai đang nếm trải sự nghèo khổ hay bị loại ra bên lề xã hội. Đã đến lúc chúng ta phải nhất quyết loại trừ ra khỏi đại học Mỹ Châu này bất cứ sự tấn công nào chống lại sự sống. Xin đừng bao giờ có bạo lực, đừng bao giờ có khủng bố và buôn bán ma túy, đừng bao giờ có nạn tra tấn, hay những hình thức lạm dụng khác, cần phải chấm dứt việc kết án tử hình, đừng bao giờ có nạn khai thác bóc lột những kẻ yếu thế, đừng bao giờ có nạn kỳ thị chủng tộc, đừng bao giờ có những khu ổ chuột cùng khổ, đừng bao giờ có những tệ nạn như vậy. Đó là những tệ nạn không thể dung chấp được, những tệ nạn này kêu thấu đến tận trời cao và mời gọi các tín hữu Kitô hãy có một nếp sống khác, hãy dấn thân vào trong xã hội, mục kích phù hợp hơn với đức tin của mình”.
Những lời trên đây của vị chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ là một tiếng vang của chính Tin mừng mà Chúa Giêsu đã mang đến cho nhân loại cách đây hơn hai ngàn năm. Hiện nay tại các nhà thờ Anh giáo bên Anh Quốc, người ta đang thấy trưng bày những tấm bích chương có vẽ hình Chúa Giêsu giống hệt dung mạo của nhà cách mạng nổi tiếng Thêghê Bara, ông là một bác sĩ, đã từng là bạn của chủ tịch Fiđel Castro người Cuba, ông muốn quảng bá lý tưởng cách mạng bạo động cho toàn thể Châu Mỹ Latinh, thế nhưng ông đã ngã gục vào giữa thập niên sáu mươi. Chúa Giêsu quả thật là một nhà cách mạng nhưng Ngài không hề có Chủ trương dùng bạo động để thực hiện cách mạng. Hơn nữa, cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu đã thực hiện qua chính cuộc sống của Ngài và được Giáo Hội tiếp tục giảng dạy và thể hiện thiết yếu là cuộc cách mạng bản thân. Tính cách mạng ấy được Chúa Giêsu thốt lên khi bắt đầu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài: “Hãy hối cải vì nước trời đã gần đến”.
Trong chương trình cách mạng ấy của Chúa Giêsu, chúng ta bắt gặp lẽ khôn ngoan nghìn đời của các nhà hiền triết Đông Tây: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Có tu thân nghĩa là có sống cho ra người thì người ta mới có thể lãnh đạo gia đình, cai trị đất nước và mang lại thái bình cho thế giới. Khi nghe lời kêu gọi hòa bình của Giáo Hội, nhà độc tài Stalin đã thách thức, thử hỏi xem Giáo hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Có thể Stalin đã quên lời nhận xét của người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản là Lênin như sau: “Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô nghèo, thì cũng đủ để cải tạo xã hội Nga”.
Quả thật ở bất cứ thời đại nào, thế giới cần nhiều vị thánh hơn là những con người tài ba. Khoa học và kỹ thuật đang tiến bộ với tốc độ nhanh chóng khiến chúng ta phải chóng mặt, các tiện nghi ngày càng tối tân, con số các nhà tỷ phú trên thế giới ngày càng gia tăng, của cải do con người tạo ra ngày càng ứ đọng, vậy mà tình hình thế giới được các phương tiện truyền thông đưa lên vẫn là một bức tranh xám xịt. Chiến tranh, chết chóc và nhất là đói khổ vẫn còn bao phủ phần lớn địa cầu của chúng ta. Bên này bán cầu thừa mứa của cải vật chất, thì bên kia bán cầu còn tới không biết bao nhiêu người đang phải lâm cảnh chết đói. Trong một quốc gia, một thiểu số nhỏ kẻ nắm giữ trong tay phần lớn của cải, còn số đông phải quằn quại trong khốn khổ.
Nguyên nhân của sự chênh lệch ấy là giải pháp cho vấn đề nằm ngay trong chính lòng con người, bao lâu vẫn còn có những người chiếm giữ quyền hành trong tay và chối bỏ những quyền cơ bản nhất của người khác thì bấy lâu vẫn còn có một số người phải quằn quại đói khổ. Bao lâu con người chưa hối cải và sống cho ra người thì bấy lâu thế giới vẫn không bao giờ có được hòa bình thật sự.
Hãy hối cải, hãy sống cho ra người, nếu chúng ta quyết tâm thực hiện mệnh lệnh này của Chúa Giêsu trong môi trường sống của chúng ta hằng ngày, thì không những chúng ta đóng góp vào cuộc cải tạo xã hội mà còn chứng tỏ cho mọi người thấy được rằng, nước trời thực sự đang đến.
Đó là niềm xác tín, đó là niềm tin của chúng ta, giờ đây chúng ta hãy cùng nhau nài xin Chúa ban cho chúng ta niềm tin này.
Có một vị ẩn sĩ nọ, sau bao nhiêu năm tu luyện bỗng thấy hương thơm sự thánh thiện của: TN 3-A6
Có một vị ẩn sĩ nọ, sau bao nhiêu năm tu luyện bỗng thấy hương thơm sự thánh thiện của mình bay tỏa khắp nơi, nhiều người tiến đến vấn ký cũng như để xin ông cầu nguyện cho. Từ đó vị ẩn sĩ thường hãnh diện về tiếng tăm của mình. Một buổi sáng nọ, ông đến thăm một ngôi nhà thờ nằm bên cạnh một dòng sông. Đi dọc theo bờ sông, ông thấy có một người đàn ông đang ngồi khóc lóc thảm thiết. Đến gần, vị ẩn sĩ mới nhận ra đó là người đàn ông mà khi nghe nhắc đến tên tất cả mọi người dân trong vùng đều phải run sợ, vì hắn là một tên cướp giết người không gớm tay.
Vị ẩn sĩ định làm ngơ bỏ đi, nhưng người đàn ông tiến đến quì gối xuống trước mặt ông và xưng tội. Nghe xong một danh mục những tội mà cả đời ông không dám nghĩ tới, và khi so sánh với cuộc sống hoàn toàn trong sạch của mình, vị ẩn sĩ tự nhiên nổi giận. Ông nghĩ đến cơn giận thánh của Chúa Giêsu khi vào Đền thờ Giêrusalem, thế là thay vì đưa tay ban phép giải tội, vị ẩn sĩ lại to tiếng quát bảo người đàn ông như sau:”Một tên đầu trộm đuôi cướp như ngươi mà hy vọng được Chúa tha thứ sao? Ta nói thật cho ngươi: cây gậy ta đang cầm trên tay đây trở thành bông còn dễ hơn là việc Chúa tha thứ cho ngươi”.
Nói xong những lời đó, vị ẩn sĩ bỏ mặc cho tội nhân chìm đắm trong thất vọng và ông tiếp tục cất bước. Thế nhưng ông chưa kịp đi được mười bước thì cây gậy của ông đang cầm trong tay bỗng bị cắm sâu xuống đất. Ông dùng tất cả sức lực của mình để kéo nó lên khỏi đat nhưng cây gậy vẫn không nhúc nhích. Và lạ lùng thay, từ thân cây gậy, lá, cành và hoa trái từ từ mọc lên. Rồi nhà ẩn sĩ lại nghe có tiếng phán bảo:”Sự tha thứ của Chúa dành cho một tội nhân sám hối còn dễ hơn một cây gậy trổ bông. Một người có tội biết ăn năn trở lại được tha thứ còn dễ dàng hơn là một kẻ kiêu hãnh”.
Quả thực, trọng tâm của bài Tin mừng hôm nay chính là lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu:”Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến”. Đó cũng là mệnh lệnh đầu tiên của Chúa Giêsu khi Ngài bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng Tin mừng. Ơn cứu độ mà Chúa Giêsu loan báo và thực hiện chính là việc giải phóng con người khỏi tội lỗi. Tất cả những bệnh hoạn, tật nguyền mà Chúa Giêsu thuyên chữa khi bắt đầu sứ vụ công khai là một dấu hiệu của tội lỗi. Cứu chữa con người khỏi những tật bệnh trong thân xác, Chúa Giêsu muốn cho con người thấy Ngài đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và tất cả những hệ lụy của nó. Nhưng tất cả những phép lạ mà Chúa Giêsu thực hiện không phải là những ảo thuật, bùa chú mà là sự gặp gỡ giữa con người với quyền năng Thiên Chúa, là một sự thi thố tình yêu không giới hạn của Ngài.
Do đó, con người chỉ có thể chứng kiến được phép lạ khi tuyên xưng quyền năng của Chúa Giêsu:”Chính lòng tin của con đã chữa con”. Chúa Giêsu đã không ngừng lập đi lập lại câu đó mỗi lần thuyên chữa một bệnh nhân. Lòng tin của con người được thể hiện qua việc con người tuyên xưng niềm tin của mình nơi quyền năng của Chúa Kitô.
Thiên Chúa mời gọi chứ không áp đặt. Ngài luôn chờ đợi sự ưng thuận của con người. Do đó, bước đầu tiên mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người chính là sám hối, nghĩa là nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, và đó cũng là thái độ cơ bản và thường hằng trong cuộc sống con người. Bao lâu con người còn nhận ra thân phận yếu hèn của mình thì bấy lâu con người còn nhận ra sự cần thiết của ơn cứu rỗi mà Đức Kitô đã tặng ban. Trái lại, nếu con người phủ nhận thân phận tội lỗi của mình thì con người cũng sẽ khước từ ơn cứu rỗi của Thiên Chúa.
Sám hối không chỉ là một tiếng khóc của thất vọng, mà phải là một sức bật mới giúp cho con người vươn lên:”Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến”. Nước trời chính là động lực của lòng sám hối. Lòng sám hối đích thực là phải quyết tâm hướng về thực tại của nước trời và những thực tại đó chính là hòa bình, bác ái, yêu thương, quảng đại, cảm thông, tha thứ. Thể hiện lòng sám hối chính là thực thi những giá trị ấy. Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến, hay đúng hơn hãy sám hối để cho nước trời được đến giữa mọi người.
Khi nghe tin Gioan tẩy giả bị bắt, Chúa Giêsu biết cuộc đời công khai của Ngài bắt đầu ý: TN 3-A7
Khi nghe tin Gioan tẩy giả bị bắt, Chúa Giêsu biết cuộc đời công khai của Ngài bắt đầu ý định cứu rỗi của Chúa Cha muốn thực hiện qua Ngài. Ngài rời bỏ Nagiarét, nơi Ngài sinh ra và lớn lên từ thời thơ ấu, đến miền duyên hải thành Caphacnaum, thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali; và Ngài khởi sự rao giảng rằng:”Anh em hãy ăn năn sám hối, vì nước trời đã đến gần”.
“Hãy ăn năn sám hối”, lời kêu mời của Chúa Giêsu nhắc lại lời mời gọi sám hối của Gioan Tẩy giả. Thiên Chúa đã nhập thể làm người và đã đích thân rảo qua các nẻo đường để rao giảng Tin mừng. Là ánh sáng, Chúa không thể giấu mình được, Ngài cần chia sẻ chính mình. Ngài đã đến không như một ánh lửa leo lét, nhưng như ánh sáng huy hoàng để soi lối cho những ai đang ngồi trong bóng tối tử thần tìm về ơn cứu độ.
Nhưng để nhận ra ánh sáng đó, cần phải có lòng ước muốn. Ánh sáng cũng vô ích cho những ai không muốn thấy, bởi vì đối với người mù, ngay cả mặt trời chính ngọ cũng chẳng khác gì đêm tối. Ánh sáng chỉ thuận lợi cho những ai muốn và có thể sử dụng nó. Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người. Ngài đến để giải thoát con người khỏi đêm tối tội lỗi, nhưng con người chỉ vui hưởng ơn cứu độ khi sẵn lòng đón nhận ánh sáng là Chúa Kitô. Ơn phúc nhưng không vẫn có đó, nhưng hiệu nghiệm hay không là tùy từng người. Điển hình là phản ứng của dân chúng thời đó: trong khi những người bình dân tin vào Tin mừng được lành bệnh thể xác và tinh thần, thì cũng có người như nhóm biệt phái, thay vì đón nhận ơn phúc, họ lại tìm cách bắt bớ Chúa.
Nguyện cho lời Chúa hôm nay hoán cải tâm hồn chúng ta, để ánh sáng Chúa lan tỏa trong chúng ta, đánh tan mọi ảnh hưởng của tội lỗi.
Chúng ta hết thảy đểu đã nghe những nhà bình luận thể thao la lên: Đây là một khởi điểm!: TN 3-A8
Chúng ta hết thảy đểu đã nghe những nhà bình luận thể thao la lên: Đây là một khởi điểm! Dù là một cuộc đua ngựa, trượt tuyết, chạy đường dài, người ta đều la lên: Đây là một khởi điểm! Chúng ta đã trông thấy những lực sĩ giương bắp thịt lên và mặt mày căng thẳng chờ dấu hiệu khởi hành, vì việc khởi hành là quan trọng. Khởi hành tốt tạo điều kiện cho phần còn lại của cuộc chạy đua.
Hôm nay, Tin mừng kể lại cho chúng ta khởi điểm của Chúa Giêsu, bắt đầu sứ vụ của Ngài. Khởi điểm quan trọng vì nó cho hoạt động của Chúa Giêsu ý nghĩa của nó.
Ba nét nêu lên đặc điểm của bản văn này: chuyển động, những cuộc cắt đứt, một sứ điệp.
Việc Gioan Tẩy giả bị bắt giam giống như một dấu hiệu khởi điểm đối với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chuyển động: Ngài rút lui về Galilê rồi từ giã Nagiarét để đến Capharnaum, rồi Ngài đi dọc theo bờ hồ và kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài kêu gọi họ bước theo Ngài.
Những cuộc di chuyển này của Chúa Giêsu gây ra những sự cắt đứt. Bước đi, bao giờ cũng để lại sau lưng mình những phong cảnh, những sự vật và những con người. Chúa Giêsu cắt đứt với ngôi làng thời thơ ấu của Ngài: Nagiarét, để đi đến một môi trường mới mẻ: thành phố Capharnaum quốc tế. Các môn đệ cũng cắt đứt với môi trường của họ để theo đuổi một cuộc mạo hiểm mới với Chúa Giêsu. Họ để lại đằng sau họ ngôi làng, nghề nghiệp, gia đình. Tất cả những chuyển động này không chỉ là di chuyển đơn thuần mà thôi. Chúng được hướng về một sứ điệp phải loan truyền. Một sứ điệp của Thiên Chúa:”Hãy sám hối vì nước trời đã đến gần”.
Nói cách khác, Thiên Chúa đến, Ngài đến gần anh em, Ngài mang đến cho anh em sự sống và hạnh phúc. Thiên Chúa mang ánh sáng đến cho những người xứ Galilê, Do thái và ngoại giáo, đến cho những người ngồi trong bóng tối. Thiên Chúa mang sự sống và hạnh phúc đến cho tất cả những ai ngồi trong bóng sự chết. Hết thảy mọi người đều được mời gọi hoán cải, đứng dậy, đón nhận hồng ân của Thiên Chúa. Đứng dậy, thay đổi cuộc sống vì Thiên Chúa làm những điều mới mẻ nơi Chúa Giêsu Kitô.
Những cuộc di chuyển này của Chúa Giêsu, những sự cắt đứt này, sứ điệp một Thiên Chúa gần gũi này có liên quan đến chúng ta hôm nay không? Dĩ nhiên rồi. Vì nếu Chúa Giêsu đã bước đi trên những nẻo đường xứ Galilê, là vì chúng ta. Nếu Ngài đã cắt đứt với ngôi làng của Ngài là vì chúng ta. Sứ điệp của Ngài liên quan đến chúng ta và không chỉ nhắm những người ở xứ Galilê mà thôi.
Bởi sự nối kết những thế hệ tín hữu, sứ điệp của Chúa Giêsu đã đến với chúng ta và chúng ta đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Trở thành môn đệ không phải là chỉ đón nhận Chúa Giêsu Kitô, mà còn trở nên trách nhiệm về sứ điệp của Ngài, tức là di chuyển để loan truyền nó. Sứ điệp này không phải là một quả bóng chúng ta giữ trong tay chúng ta, ta phải ném nó lại cho những người khác.
Làm sao di chuyển hôm nay vì Thiên Chúa và sứ điệp của Ngài? Bằng cách thực hành những giá trị của Tin mừng. Đây là ba giá trị khiến chúng ta phải di chuyển và dẫn đưa chúng ta đến những sự cắt đứt với các giá trị của thế gian này.
Thực thi tính nhưng không. Đây là một giá trị quan trọng của Tin mừng: Nếu anh em làm ơn cho những kẻ làm ơn cho anh em, nếu anh em chỉ cho những kẻ trả lại cho anh em… thì anh em bắt chước những kẻ tội lỗi. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cắt đứt với những thái độ tìm lợi nhuận, hoán cải theo tinh thần nhưng không.
Tha thứ. Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Ngài nói với chúng ta: “Hãy thương yêu kẻ thù, hãy cầu nguyện cho những kẻ bách hại các con”. Có lẽ chúng ta không có kẻ thù, cũng không có những kẻ bách hại, nhưng một số người làm tổn thương chúng ta, tấn công chúng ta bởi lời nói, cử chỉ, thái độ của họ. Chúng ta phải cắt đứt với ước muốn trả thù của chúng ta, hoặc đơn giản hơn với sự khinh bỉ của chúng ta đối với kẻ khác.
Hủy bỏ những khoảng cách. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu lo lắng hủy bỏ những khoảng cách: “Ngài ngồi ăn với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, Ngài để cho những người phong cùi đến gần Ngài”, tóm lại Ngài lui tới với những kẻ bên lề xã hội, đủ loại, vì sứ điệp của Ngài nhắm tới hết thảy mọi người như các môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải vượt các rào cản ngăn cách chúng ta với tha nhân, những người nhập cư, da đen, mắc bệnh Sida, người nghèo.
Những việc thực hành Tin mừng này làm cho chúng ta trở thành những người di chuyển. Đi đến với những kẻ mà chúng ta không trông mong họ đền đáp gì cả, đi đến với những người làm ta đau khổ, đi đến với những kẻ khác với chúng ta.
Hôm nay, ta đừng sợ xét xem chúng ta có phải là những môn đệ di chuyển vì Thiên Chúa không. Vì Thiên Chúa không có đôi chân nào khác ngoài chân của chúng ta.
Vào ngày nắng hạ kia, có cậu bé ra đường tình cờ nhìn thấy một đồng xu nhấp nhoáng dưới: TN 3-A9
Vào ngày nắng hạ kia, có cậu bé ra đường tình cờ nhìn thấy một đồng xu nhấp nhoáng dưới chân mình. Cậu bé nhặt đồng xu lên nắm chặt trong tay và khuôn mặt cậu bé tỏ lộ rất là vui mừng. Đồng xu kia thuộc về chú bé mà không phải làm gì hết! Kể từ ngày đó cứ hễ ra đường là đầu chú bé cúi xuống với đôi mắt mở to liếc nhìn khắp chỗ để may ra vớ được thêm đồng tiền nào chăng. Suốt cuộc đời chú bé kiếm được 302 đồng một xu, 24 đồng năm xu, 41 đồng 10 xu, 8 đồng 25 xu, 3 đồng 50 xu, và tờ một đô-la bị rách, tổng cộng tất cả là 12 đồng 80 xu. Tất cả số tiền thuộc về chú bé mà không phải mất gì hết. Song chú bé ấy đã mất đi 35.127 lần nhìn xem hoàng hôn, 327 lần ngắm nhìn cầu vồng, những cảnh huy hoàng rực rỡ của lá phong đổi mầu vào mùa thu, những áng mây trắng trôi lang thang trên bầu trời xanh ngắt, chim bay thú chạy, ánh mặt trời cùng những nụ cười chào hỏi của những đi qua lại. Còn biết bao điều khác nữa mà chú bé đã bỏ quên. Ý câu chuyện muốn nói là trên thế giới này cũng có biết bao người như chú bé đã đi qua cuộc sống trong tâm thức bị tù đầy, bỏ qua không biết bao nhiêu chuyện lý thú có thể khám phá qua cuộc sống dương gian này.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Mátthêu thuật lại rằng: Chúa Giêsu đang đi bộ dọc theo bờ biển Galilê, chợt Ngài nhìn thấy hai anh em là Simon cũng gọi là Phêrô, và em là Anrê. Cả hai anh em đều là dân thuyền chài. Chúa Giêsu gọi họ, "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ lưới cá người" (Mt 4:19). Ngài kêu mời họ vào cuộc thám hiểm kỳ bí lý thú trong chính đời sống mới, vào sự cảm nghiệm đời sống tình yêu của chính Ngài. Và ngay lập tức họ đã bỏ mọi sự, tầu bè, cha mẹ, để theo Chúa như Thánh Mátthêu đã kể.
Simon Phêrô, và các tông đồ khác theo Chúa để học nơi Chúa. Chẳng bao lâu, họ nhận ra rằng Đức Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Ngài là Lời Chúa. Ngài không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Chúa Giêsu là Sự Sống. Ngài không những chỉ cho biết ý nghĩa của " Đường sự Sống", mà chính Ngài là Đường sự Sống, là Ánh Sáng.
Ông Thomas Carlyle không những là sử gia mà còn là một nhà văn nổi tiếng của Scottish, có lần ông nhận được lá thư của một sinh viên trẻ muốn trở thành thầy giáo viết cho ông như vầy: "Thưa ông Carlyle, tôi muốn trở thành một giáo viên. Ông có thể chỉ cho tôi biết cách làm sao để nên một thầy giáo thành công không?" Ông Carlyle trả lời: "Hãy nên như là một học trò, như anh muốn người khác trở nên". Còn mọi cách khác chỉ là trò đùa vô lý!" Và đó chính là cách thức Kitô hữu dạy dỗ. Điều gì Chúa Giêsu dạy chúng ta làm thì chính Ngài đã làm trước. Chỉ có một cách chắc chắn chúng ta có thể "liên kết với Ngài" là hãy sống như Ngài đã sống theo như Thánh Gioan Tông đồ đã viết (I Jn 1:5-6). Hơn nữa, chúng ta phải hối cải nếu như chúng ta muốn sống giống Chúa Giêsu vì đó là cách duy nhất.
"Để trở nên môn đệ Ta, thực hành điều Ta dạy, đón nhận Ta là gương mẫu sống, ôm ấp Đời Sống Mới mà Ta ban cho, biến đổi không chỉ đạo giáo của con nhưng là toàn bộ cuộc sống từ thói quen đến tương lai, con phải biến đổi-- đặc biệt mọi cách thức của con nếu như con muốn theo Ta".
Chúng ta đã biết Thánh Kinh, những lời giáo huấn của Chúa, và những cách thức Ngài đã làm gương...
Bạn có chúc lành cho những người chúc dữ mình không? (Lk 6:28). Bạn có bố thí cho những ai xin bạn không? (Lk 6:30). Bạn có làm điều tốt cho kẻ ghét bạn không? (Lk 6:27). Bạn có thương kẻ thù bạn không? (Lk 6:27). Bạn có từ bi với mọi người không? (Lk 6:36).
Khi thấy tha nhân cần giúp đỡ, bạn có nhìn nhận Chúa Giêsu trong họ không? (Mt 25:31-64).
Hãy để những vấn đề kể trên thành hành động và lối sống của bạn.
Chúa Giêsu đã sống giữa dân tộc Ngài, và rao truyền Tin Mừng về một Thiên Chúa Yêu Thương sẽ đem họ đến sự toàn hảo. Hình ảnh một Thiên Chúa Tình Yêu được biểu lộ qua Chúa Giêsu và những việc Ngài làm. Ngài tỏ lộ chính mình Ngài như một Gương Mẫu Tuyệt Hảo cho dân chúng noi theo để đáp trả Thiên Chúa đáng kính yêu của họ. Nhưng dân tộc Ngài lại ra án lệnh Ngài phải chết. Họ không chấp nhận giáo thuyết có một Thiên Chúa Yêu Thương ở giữa họ. Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng là nếu họ muốn theo Ngài thì phải thay đổi tất cả từ tâm linh đến cách sống của họ. Họ phải thay đổi cách đối xử với tha nhân cũng như người ngoại bang; và họ đã không thể chấp nhận những giáo huấn ấy.
Họ không muốn thay đổi những gì họ đang nắm giữ, vì thay đổi là đụng chạm đến an ninh, lòng tự ái, giáo điều và tinh thần nghiêm khắc của họ. Chúa Giêsu đến rao giảng một Thiên Chúa Yêu Thương đã ban tặng cho họ một cách thức tốt hơn. Đời sống sẽ được phong phú hơn bởi một tinh thần và một hệ thống giá trị mới hoàn toàn. Tất cả những điều ấy sẽ ban tặng cho ai thống hối và đi theo Ngài. Nhưng họ không thể chấp nhận lời kêu gọi để tiến tới sự cao siêu hơn; bởi đó họ đóng đinh Ngài và Ngài đã chết trong chính sự u mê của họ.
Những ai được cứu rỗi? B/ Chúa mời gọi một số môn đệ tiếp nối sứ mạng của Người: TN 3-A10
A/ Những ai được cứu rỗi ?
B/ Chúa mời gọi một số môn đệ tiếp nối sứ mạng của Người.
II. Ý NGHĨA CÁC BÀI ĐỌC:
1. Is 49,3.5-6: Đoạn sách tiên tri Isaia trích đọc trong chúa nhật 2 mùa thường niên A cho chúng ta thấy Chúa là Ánh Sáng cứu rỗi.Người ban bình an và hạnh phúc cho mọi người.
2. I Co 1,1-3: Chỉ có Chúa là Chúa duy nhất yêu thương mọi người.Chúa kêu gọi con người hiệp nhất trong Chúa qua phép rửa tội.
3. Tin Mừng Mt 4,12-17:Chúa Giêsu rao giảng công khai khi sứ mạng của Gioan chấm dứt.
Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha tuyển lựa,sai vào thế gian để thực hiện công cuộc Cứu rỗi nhân loại.Việc Người đản sinh với hình hài của một con người bằng xương bằng Thịt xem ra bình thường,nhưng lại mặc một ý nghĩa phi thường.Chúa có thể thực hiện việc Cứu thế một cách khác thường,một cách thần tiên như trong những câu chuyện thần thoại Cổ tích.Người có thể là Cô Tấm,cô Cám hay như Thạch Sanh Lý Thông,Phù Đổng Thiên Vương hay như những anh hùng dân Tộc Lê Lợi,Lê Lai,Alexandre Đại Đế,Napoléon vv…
Chúa Giêsu đã sống,đã lớn lên với một nền giáo dục gia đình thánh tuyệt hảo để qua 30 Năm ẩn dật,Người đã ra đi,mở đầu sứ vụ công khai tại Galilêa để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã loan báo trước.Chúa không chọn Nagiarét,nơi Người sinh trưởng,nhưng Người đã Chọn một nơi thuận tiện gần biển hồ Galilêa vì nơi đó phát xuất những Lời Tin Mừng làm Đảo lộn thế giới,nhân loại …
I. VẪN LÀ LỜI…
Lời của Gioan Tẩy Giả xưa vẫn còn âm vang mãnh liệt:"Hãy sám Hối và tin vào Tin Mừng ".Lời đó đã dẫn Chúa Giêsu hòa nhập vào đoàn tội nhân bên Dòng sông Giođan để xin Gioan thánh tẩy cho mình,nhưng cũng chính lúc đó Thiên Chúa Cha đã xác nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,là Con một của Người yêu dấu,đồng thời Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đậu xuống trên Chúa Giêsu đã tôn vinh nhân tính thần Linh của Người. Việc Người ăn chay trong sa mạc bốn mươi đêm ngày để nhận lãnh ý định Của Thiên Chúa Cha khai mạc sứ vụ cứu thế của Người.Chúa chọn Galilêa,một miền đất Bị người Do Thái coi là vô đạo, vùng đất ở lề, ở bên ngoài.Đối với người Do Thái vùng đất Phải chọn là Giêrusalem vì họ cho rằng họ là người ở trong,là người có đạo,là người hiểu biết Thiên Chúa và chính họ đang nắm giữ lề luật của tổ tiên,của cha ông.
Nhưng cái nghịch lý,cái trớ trêu vẫn là Chúa không bao giờ chiều ý con người và như Thánh Phaolô nói:"Sự giàu có,khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người,ai dò cho thấu ! Đường lối của Người,ai theo dõi được !"(Rm 11,33 ).Chúa đã chọn Galilêa để loan báo Tin Mừng đầu tiên.Galilêa không phải là nơi con người ngoan đạo,siêng năng đọc kinh,giữ luật,giữ đạo:đây là vùng đất bị coi là khô khan,là nơi lạc lõng của các chiên lạc nhà Israen.Chúa chọn vùng đất này vì thương xót dân,họ bơ vơ,vất vưởng không người dậy dỗ,họ lang thang phiêu bạt,mò mẫm tìm tòi chân lý,tìm tòi lẽ sống,.Chúa đến đó để nói cho họ và mọingười hay rằng:"Chúa tin.Họ không có phẩm trật,không có cơ cấu,họ quả thực bơ vơ và lạc lõng giữa biển đời muôn vàn sóng gió,trăm ngàn thử th1ch.Lời Chúa vang lên:"Hãy sám hối vì triều đại Thiên Chúa đã gần "(Mt 4,17).Lời Chúa vang vọng là Lời thúc bách nhân loại,thúc bách
Mọi người hãy quay trỏ về,hãy sống công chính,hãy sống tốt lành để Chúa ngự trị nơi con Người. Nước Chúa đang ở đó,Nước Chúa đang hiện diện,tình thương sẽ làm cho nước Chúa sáng lên.Nơi đâu có tình thương,nơi đó có thiên đàng.Nơi đâu hận thù xâm lấn,nơi
Đó hỏa ngục dấy loạn.
Chúa đến để qui tụ,để cứu độ mọi người.Chỉ nơi Thập Giá,chúng ta mới nhận được ơn Cứu độ của Chúa.Quan niệm,chỉ có những kẻ ở trong mới có ơn cứu rỗi xem ra không Vững vì tình thương và lòng nhân từ của Chúa trải rộng trên mọi người,trên mọi dân tộc.
Quan niệm khư khư cho mình là đúng,là nắm chân lý không còn chỗ đứng nơi lòng Chúa Nhân từ…
II. CHÚA MỜI GỌI MỘT SỐ MÔN ĐỆ TIẾP TỤC SỨ MẠNG RAO GIẢNG CỦA CHÚA
Tại Galilêa,Chúa đã kêu gọi những môn đệ tiên khởi đi theo Người,Chúa không phân biệt Vùng đất ở trong hay ở ngoài.Chúa cho thấy,tất cả đều do Chúa,tất cả đều là hồng ân của Chúa. Bên biển hồ,các ngư phủ đang thi thố tài năng đánh bắt cá ;Chúa gọi họ,tất cả đều Nhất loạt bỏ mọi sự để đi theo Chúa Giêsu:"Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành ngư phủ Đánh bắt người ". Các môn đệ giờ đây,trong giờ quyết định linh thiêng sẽ không chỉ còn là Những tay thợ lanh nghề bắt cá:biết chỗ nào có cá,chỗ nào không có cá,chỗ nào nước sâu, Chỗ nào nước cạn. Không giờ đây,họ sẽ được Chúa huấn luyện,đào tạo để nhất nhất gầy Dựng họ trở thành những ngư phủ cứu rỗi con người. Chúa yêu thương ho,Chúa muốn họ Tiếp nối công cuộc cứu rỗi của Chúa khi Chúa hoàn tất ý định của Chúa Cha là hy sinh Mạng sống của mìng làm giá cứu chuộc nhiều người."Không có tình yêu nào cao vời bằng Tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu "(Ga 15,13 ). "Khi nào Ta bị treo Lên,Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta ".
Chúa đã chọn đất Galilêa,một vùng đất bị người Do Thái ở Giêrusalem khinh bỉ để khai Mạc sứ vụ công khai.Chúa đã chọn những chàng trai chài lưới,ít học,ít trí thức để trở nên Môn đệ của Người.Ơn cứu độ không dành riêng cho ai,cho dân tộc,cho một quốc gia nào.
Có những chuyện xem ra to tát,có những cuộc phô trương rước sách,kinh kệ,lễ lạy linh Đình,rầm rộ lại là những dấu hiệu ít giá trị thiêng liêng.Chúa thích sự khiêm nhượng,đơn Sơ hơn là những cuộc phô trương lộng lẫy.Một cử chỉ tử tế của một nữ tu trong bệnh viện Giúp một bệnh nhân cùi,sida,một cử chỉ bác ái chia sẻ của một người tầm thường đối với Một người nghèo khổ,neo đơn đều mang một giá trị cứu rỗi.Một cử chỉ của Mẹ Têrêsa Calcutta,đối với người hấp hối một sự tận tụy yêu thương giải tội cho các hối nhân của một Linh mục,tất cả đều có giá trị trước mặt Chúa.Làm những việc nhỏ bé với tấm lòng trong Sáng,hối cải và vì Chúa sẽ làm cho mọi người hiểu ra rằng: tất cả đều vì vinh danh Chúa, Tất cả cho nước Chúa trị đến.
Ta hãy nói như thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu:" Tôi sẽ làm mưa Hoa Hồng xuống trần Gian " "Tôi chọn tất cả và cho tất cả ".
Linh mục Giuse Nguyễn hưng Lợi dcct
CHÚA CHỌN
Cầu nguyện tin mừng mt 4,12-23,tiếp bài suy niệm tin Mừng chúa nhật 3 A.
Lạy chúa Giêsu,
Con đường con đi qủa là huyền nhiệm.Con nhớ cách đây 2002 năm,chúa đang cầu nguyện.con chiêm ngưỡng Chúa,con nhìn vào chúa,Chúa cầu nguyện thâu đêm,cầu nguyện liên lỉ,cầu nguyện không ngừng.con không biết lúc đó,chúa đã nói gì với chúa cha.Nhưng sự liên kết mật thiết giữa chúa với thiên chúa Cha chỉ cho con hay rằng:”Việc Chúa đang sửa soạn là điều tối quan trọng “.Ơn gọi mà Chúa đang mời một số đi theo Chúa có tính nhưng không.chúa muốn chọn, muốn gọi ai là tùy ý Chúa.Không ai có quyền bắt Chúa phải gọi người này,chọn người kia.Chúa cầu nguyện để cho mọi người thấy tự sức riêng con người không thể làm gì được,tự sức lực của mình con người sẽ thất bại ê chề ! Không cầu nguyện,con người sẽ sa lầy trong yếu đuối,tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã cẩn thận hỏi ý Chúa cha và Chúa chỉ trao sứ vụ cho nhóm mười hai sau khi đã thức suốt đêm để cầu nguyện.Vâng,Chúa đã gọi và chọn mười hai người mà chúa đích danh gọi họ là tông đồ:Apostoloi,tiếng Hy Lạp có nghĩa là người được sai đi.Các tông đồ vì là những người được chính Chúa Giêsu trao sứ vụ và sai đi,nên họ lệ thuộc vào Chúa,trở thành ngôn sứ của Chúa,và trung thành với sứ mạng Chúa nhờ họ thực hiện trong nhân loại,nơi Giáo Hội.
Biến cố chúa chọn và thiết lập nhóm mười hai là biến cố lịch sử của nhân loại,đặc biệt của Giáo Hội.Từ đây,nghĩa là từ giây phút Chúa gọi đích danh nhóm mười hai là tông đồ. Giáo Hội Chúa kitô đã hình thành nơi trần thế này và hội Thánh Chúa vẫn tồn tại tới muôn đè¬I:”Con là đá,và trên tảng đá này,Ta sẽ xây dựng Hội Thánh của Ta “(Mt 16,18 ).
Lạy Chúa Giêsu,giây phút long trọng nhất,linh thiêng nhất vào một đêm,Chúa thức trắng để cầu nguyện,hỏi ý Chúa Cha cách đây 2002 năm và ý định của Chúa mời gọi những người thành tâm thiện chí đi theo chúa để được Chúa gọi là Apostoloi, vẫn còn kéo dài cho tới cùng lịch sử.Chúa gọi,chúa sai con người ra đi rao giảng nhưng Chúa luôn tôn trọng sự tự do của mỗi người.Hư đi hay tồn tại là do sự quyết định hết sức tự do của mỗi người và đây là sự huyền nhiệm nhất,bí nhiệm nhất.
Chúa chọn ngay vài môn đệ đầu tiên nơi giải đất ngoại đao galilêa để minh chứng rằng Người không giới hạn sứ mạng trong không gian,thời gian và nơi chốn.
Xin chúa cho chúng con và mọi tông đồ của chúa hiểu rõ sứ vụ mình đã lãnh nhận là do chúa.Ơn gọi của mỗi người là do Chúa.Tất cả đều do sự chọn lựa nhưng không của Chúa.
Xin Chúa cho chúng con nhận ra rằng không có Chúa,không nương tựa vào Chúa,chúng con sẽ té ngã.Có Chúa ở trong lòng,có chúa ở bên cạnh,mọi thử thách,mọi chông gai,cam go rồi sẽ qua đi.
Xin cho chúng con và mọi tông đồ luôn ý thức,luôn cảm nghiệm:”Ơn cứu độ dành cho mọi người.Chúa không loại trừ bất cứ người nào “. Amen.
Chúa Giêsu mang ánh sáng cứu độ đến cho muôn dân, nhờ sự cộng tác tông đồ của những người môn đệ Chúa. Những lời rao giảng đầu tiên của Chúa là phải sám hối để được cứu độ, để được gia nhập Nước Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng nhau cầu xin cho danh Cha cả sáng và Nước Cha trị đến:
Chúa đã kêu gọi các tông đồ trở nên những người tiếp tục công cuộc cứu chuộc muôn dân; chúng ta cầu xin cho Hội Thánh luôn chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Hiện nay, có biết bao Kitô-hữu đang nhiệt thành đáp lời mời gọi của Đức Kitô/ hăng say rao giảng Tin Mừng cứu độ / xả thân phục vụ những kẻ bần cùng. / Chúng ta cầu xin cho những anh chị em ấy / luôn giữ bền vững trung kiên trong sứ mạng / và cũng cầu xin cho có nhiều người trẻ tiếp tục vâng theo tiếng Chúa kêu gọi.
Chúa Giêsu đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng: "Anh em phải sám hối, vì Nước Trời đã gần đến". Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người thành tâm thiện chí, khi nghe thấy đời sống của Hội Thánh, cũng lắng nghe được tiếng Chúa kêu mời, mà đón nhận ơn cứu độ trong Nước Trời.
Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo, và cách đặc biệt cho những người đang sống xa cách Chúa. Xin cho mọi người biết phải có lòng sám hối luôn để được sống thân mật với Chúa, để xứng đáng là một môn đệ của Đức Kitô và là một công dân Nước Trời.
Kết thúc: Lạy Chúa là Đấng Cứu chuộc chúng con, Chúa đã dạy chúng con phải ăn năn sám hối, và Chúa cũng đã mời gọi chúng con làm môn đệ của Chúa – để mang Tin Mừng cứu độ đến mọi nơi trên thế gian này, thì chúng con cũng xin Chúa ban ơn, giúp chúng con can đảm thực hành những điều Chúa đã truyền dạy. Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
Galilê là vùng ven, ít nguy hiểm cho Ngài. Dân cư ở đây phần đông là dân ngoại. Người Do: TN 3-A11
Galilê là vùng ven, ít nguy hiểm cho Ngài. Dân cư ở đây phần đông là dân ngoại. Người Do Thái ở đây bị coi là những kẻ sống bên lề Dân Chúa. Nhưng Galilê lại là nguyên quán của Ngôi Lời làm người, và là nơi Đức Giêsu chọn để bắt đầu thi hành sứ vụ.
Từ Galilê, Ngài sẽ sai môn đệ đi khắp thế gian (Mt 28,19).
Đức Giêsu rời bỏ Nadarét, để đến cư ngụ tại Caphácnaum. Caphácnaum là địa bàn hoạt động được Ngài ưa thích. Có lúc nó được gọi là thành của Ngài (9,1), dù bất xứng (11,23).
Galilê, Nadarét, Caphácnaum chẳng có chút tiếng tăm (Ga 1,46), nhưng Đức Giêsu vẫn là một ngôn sứ xuất thân từ đó (Mt 21,11).
Hãy ngắm nhìn Đức Giêsu trên những nẻo đường.
Ngài rút về Galilê, Ngài đến Caphácnaum, đi dọc theo bờ biển. Khắp miền Galilê in dấu chân của Ngài (Mt 4,23), Ngài không vào hoang địa như Gioan, rồi gọi người ta đến. Ngài đích thân đến với con người ngay giữa đời thường. Ngài cứ đi không nghỉ, không đóng đô ở một chỗ. Nhu cầu quá lớn không cho phép Ngài dừng lại (Mc 1,38). Đức Giêsu chuyển động và kéo người ta chuyển động theo Ngài.
Những người đầu tiên là các ngư phủ mà Ngài quen biết. Tuy là những người ít học, không giàu có hay địa vị, nhưng đối với Ngài, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người cộng sự của Ngài.
Sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi. Sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung. Sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh. Khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ.
"Các anh hãy theo Tôi": một lời mời gọi lên đường. Hãy gắn bó với Tôi và chia sẻ thao thức của Tôi. Để lên đường cần bỏ lại cái êm ấm được phép, êm ấm bên gia đình, bên vợ con như Phêrô, êm ấm bên khoang thuyền, cạnh người cha đang vá lưới.
Theo Chúa là chấp nhận ra khơi hay đúng hơn là chấp nhận lên bờ, bóc mình ra khỏi khung cảnh sống quen thuộc. Chấp nhận bấp bênh, không nhà cửa, không nghề nghiệp, là để có thể đi đến mọi nhà, gặp mọi người, và tận tụy cho sứ mệnh loan báo Nước Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã đi rao giảng Tin Mừng về Nước Trời gần bên.
Để đón lấy quà tặng đó, cần sám hối, hoán cải.
Hoán cải là để Ngài kéo vào một chuyển động, là quay lại, là bỏ con đường mình đã quen từ lâu, để đi cùng chiều với Chúa và ngược chiều với cái tôi ích kỷ.
Đức Giêsu gieo rắc niềm vui khắp nơi.
Niềm vui cho người nghe, niềm vui cho người khỏi bệnh. Bước chân không mỏi, lời nói thiết tha, trái tim gần gũi?
Hôm nay Hội Thánh vẫn sống giữa những Galilê dân ngoại.
Chúng ta có đủ niềm vui để làm Galilê bừng sáng không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Đi kèm với lời giảng, Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ. Theo ý bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần phải làm gì kèm theo, để dễ được người nghe đón nhận?
Đức Giêsu đã gọi bốn bạn trẻ khi họ đang tất bật với cuộc sống. Có khi nào Chúa gọi bạn lúc bạn đang vất vả kiếm sống không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng. Nụ cười ấy hòa với niềm vui của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu, có những niềm vui Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay. Có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại. Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều màu hồng. Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
Vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước đã bị giao nộp. Số phận của ông Gioan cũng không: TN 3-A12
Vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước đã bị giao nộp. Số phận của ông Gioan cũng không hơn gì các ngôn sứ đi trước. Ông dám lên tiếng và đã trả giá cho sự thật. Ánh sáng chân lý tưởng chừng bị dập tắt để rồi mọi sự lại rơi vào bóng đêm của tử thần.
Đức Kitô chợt xuất hiện nơi miền Galilê dân ngoại. Người là ánh sáng đã bừng lên giữa những nhiễu nhương của tăm tối tội lỗi trần gian. Người đến công bố triều đại Thiên Chúa, đem đến ơn giải thoát cho những ai "đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần".
Đức Kitô đến công bố sự thật về một "Nước Trời đã gần đến". Lời Người làm vang vọng những lời của ông Gioan. Người xác định lại điều Gioan đã loan báo về Nước Trời đã gần đến. Người công bố với uy tín của Đấng "đến sau" nhưng "có trước", "trổi vượt hơn", vì Người là "Đấng Thiên Chúa tuyển chọn".
Ngài mời gọi mọi người hãy có thái độ chuẩn bị tích cực nhất: "anh em phải sám hối". Tính cấp bách của lời này không thua gì của Gioan. Người ta phải trở về với Chúa sớm nhất, không trì hoãn. Những ai không dứt khoát với con đường tối tăm, thỏa hiệp với sự dữ thì chẳng bao giờ xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Do đó, lòng dạ của Biệt phái, của? Hêrôđê rất xa vắng với Nước Thiên Chúa gần bên, nhất là khi họ bắt nộp và âm mưu giết hại Gioan. Chúa Giêsu không phải ngẫu nhiên mà đến rao giảng ở miền Galilê dân ngoại. Xứ Giuđê quá cứng lòng, đã khước từ sứ điệp của Gioan. Điều đó đã buộc Đức Giêsu đến ngỏ lời với dân ngoại miền Galilê.
Dọc biển bờ hồ Galilê đã có những tâm hồn mở ra cho Nước Thiên Chúa. Họ chỉ là những anh chài lưới nghèo nàn chất phác. Nhưng con tim họ thì quảng đại mạnh mẽ khác thường. Vậy là giữa khoảng không thinh lặng không lời đáp trả đã có những con người biết lắng nghe lời mời gọi của Đức Kitô. Họ không chỉ là những công dân mới của Nước Thiên Chúa. Họ còn mang lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nuớc Thiên Chúa cho muôn dân. Từ đây, thế gian tăm tối phải mở mắt thấy rằng nó có thể bịt miệng giết Gioan, hay đóng đinh Đức Kitô, nhưng chẳng thể ngăn nổi ánh sáng Lời Chúa chiếu tỏa trên môi miệng môn đệ Người.
Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan đã bỏ lại tất cả để theo Chúa. Hẳn là Đức Kitô phải hấp dẫn lắm và sự nghiệp Nước Thiên Chúa phải cao đẹp lắm mới khiến các chàng ngư phủ mau mắn theo Người như vậy. Vậy mà Chúa Giêsu chẳng hứa hẹn điều dễ dãi. Rồi số phận của Chúa Giêsu và các môn đệ cũng chẳng khác gì Gioan. Nhưng các ông và tất cả các môn đệ thuộc về Đức Kitô sẽ nhận ra cái logic của Tin Mừng khác với trần gian: "trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" (Rm 8, 37).
Mọi người chúng ta đang mang lấy ánh sáng Đức Kitô trong mình. Ánh sáng của Người đến xua tan những ngóc ngách tăm tối để lòng ta không ngừng thuộc trọn về Người. Chúng ta hãy mở cửa tâm hồn mình cho ánh sáng chân lý Chúa chiếu soi. Phải sám hối thật lòng để xứng đáng với Nước Thiên Chúa đến.
Như các môn đệ, Chúa mời gọi ta đem ánh sáng cứu độ Chúa cho mọi người. Nếu thế gian không có ánh sáng Chúa chiếu rọi thì sẽ mãi ở trong lầm lạc, vô phương giải thoát. Và nếu ánh sáng trong lòng ta đã tắt lịm thì sẽ chẳng thể thắp sáng cho ai được. Ta hãy xin Chúa ban cho ta ánh sáng của Người và mau mắn đáp trả sứ mệnh loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân.
Theo bài Tin Mừng hôm nay, thì Ga-li-lê là vùng đất của dân ngoại, thế nhưng Đức Giê-su lại: TN 3-A13
1. Theo bài Tin Mừng hôm nay, thì Ga-li-lê là vùng đất của dân ngoại, thế nhưng Đức Giê-su lại sinh trưởng và xuất thân từ vùng này. Các môn đệ của Ngài cũng thế. Điều đó có ý nghĩa gì không? Tại sao Ngài không sinh trưởng ở vùng đất của dân có đạo như Giu-đê (Giê-ru-sa-lem)?
2. Tại sao để canh tân tôn giáo, Đức Giê-su không chọn các môn đệ là người có học thức, hay có nhiều hiểu biết về tôn giáo như các kinh sư, Pha-ri-siêu, mà lại chọn những người ít học, đơn sơ, nghèo nàn, nhút nhát?
3. Các môn đệ có những đặc điểm nào mà Đức Giê-su lại thích chọn họ hơn là các kinh sư? Có thể rút ra bài học gì cho chính bạn?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giê-su đến để canh tân lại đạo Do Thái
Vào thời Đức Giê-su, đạo Do Thái chỉ còn là cái vỏ bên ngoài, bên trong thì trống rỗng. Các tín hửu chỉ còn giữ đạo một cách hình thức. Họ đặt quá nặng việc tham dự những lễ nghi tôn giáo, những vẻ thấy được bên ngoài. Vì thế, lễ nghi thì ngày càng rườm rà, càng gia tăng vẻ long trọng, luật lệ ngày càng nhiều, càng phức tạp và gây nên lắm phiền hà, các cơ sở vật chất cũng gia tăng. Còn tinh thần bên trong tức kính sợ Thiên Chúa và yêu thương đồng loại là hai điều răn lớn nhất trong lề luật (Mt 22,35-40) thì bị coi nhẹ. Và «công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23) là yếu tố cốt tủy nhất của tôn giáo thì bị xem thường.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo chỉ còn là những người thích ăn trên ngồi trốc, hưởng thụ những đặc quyền đặc lợi mà luật lệ tôn giáo đã dành cho (Mt 23,6-7), nhiều khi lại cấu kết với thế quyền để đàn áp bóc lột dân chúng (23,14). Họ dạy người khác làm những điều tốt đẹp mà chính họ lại không chịu làm (23,3). Nhiều khi họ không biết cái nào là cái chính cái nào là cái phụ trong tôn giáo (23,16-22) để dạy người ta giữ: nên cái chính yếu thì bị coi nhẹ, còn cái phụ thì lại được quan trọng hóa lên. Vì thế, họ trở thành những kẻ «dẫn đường mù quáng» (23,24), «mù lại dắt mù» (Lc 6,39).
Thế nên sứ mạng của Đức Giê-su là đến để làm một cuộc đại canh tân và cách mạng về tôn giáo. Có thể nói Ngài lập nên một đạo mới trên chính nền tảng của đạo cũ, hoặc Ngài đưa vào đạo cũ một tinh thần mới. Điều này khiến ta phải tự hỏi: tình trạng sống đạo của người Ki-tô hữu hiện nay có cần canh tân hay cách mạng như thế không? Và ai có nhiệm vụ ấy?
2. Nơi xuất xứ và cộng sự viên của Đức Giê-su trong việc canh tân và cách mạng của Ngài
Là một nhà cách mạng tôn giáo, nhưng Đức Giê-su lại xuất thân từ Na-da-rét, thuộc vùng Ga-li-lê (miền Bắc) là «miền đất của dân ngoại» (xem bài Tin Mừng), chứ Ngài không sống ở vùng Giu-đê (miền Nam) là vùng của Do thái giáo với kinh đô và đền thờ Giê-ru-sa-lem. Vì thế, Đức Giê-su được gọi là «người Ga-li-lê» (x. Mt 21,10; 26,69; Lc 23,6; 26,59; Mt 21,11). Theo quan niệm của dân chúng thì Ga-li-lê chẳng phát sinh được điều gì đáng giá: «Đấng Ki-tô mà lại xuất thân từ Ga-li-lê sao?» (Ga 7,41). «Ông cứ nghiên cứu đi rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Ga-li-lê cả» (Ga 7,52).
Các môn đệ mà Ngài chọn để làm cộng sự viên với Ngài trong cuộc canh tân này, cũng không phải là người Giu-đê mà đều là người Ga-li-lê. Các ông là những ngư dân ít học, mặc dù theo đạo Do Thái, nhưng biết rất ít những kiến thức tôn giáo. Ngài không chọn làm môn đệ những người thuộc giới kinh sư hay luật sĩ của Do Thái giáo, là những người có rất nhiều kiến thức tôn giáo. Cách lựa chọn môn đệ của Ngài đáng cho chúng ta suy nghĩ. Tại sao Ngài không chọn các kinh sư giỏi giang làm môn đệ? (trừ Phao-lô – được chọn sau này làm tông đồ thay thế Giu-đa – là một kinh sư).
Để làm một cuộc canh tân, Thiên Chúa đã dùng những yếu tố hầu như hoàn toàn mới, vì «không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới !» (Mc 2,22). Làm sao có thể đổi mới tôn giáo được với những con người cũ, có những quan niệm cũ, nề nếp suy tư cũ, lối sống cũ với nhiều sai lạc mà họ vẫn cố chấp cho là chân lý không thể thay đổi được? Bằng chứng: cho tới ngày nay, Đức Giê-su đến đã 20 thế kỷ rồi, nhưng đạo Do Thái vẫn còn đang trông chờ một Đấng Cứu Tinh!
Đức Giê-su đến đã làm thay đổi rất nhiều: tinh thần mới, quan niệm mới, lề luật mới, cơ cấu mới, v.v… Sự thay đổi này đã gây nên một sự phản kháng mạnh mẽ nơi giới trí thức, giới lãnh đạo trong Do Thái giáo. Chắc chắn họ có lý của họ, và cái lý ấy cũng dựa rất chắc chắn trên nền tảng Kinh Thánh! Điều đó cho thấy không phải cứ có lý, có nền tảng Kinh Thánh là đủ, mà còn phải có tinh thần của Thiên Chúa, tức «công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23), và nhất là tinh thần phó thác và đổi mới theo Thánh Linh, Đấng luôn luôn đổi mới mọi sự (x. Tv 104,30; Ep 4,23; Kh 21,5).
Cuộc canh tân của Đức Giê-su phải được xây dựng trên những yếu tố mới mẻ, không thể dính líu nhiều với đạo cũ. Điều này khiến cho những ai thường tự hào mình là «đạo gốc» phải suy nghĩ. Là người «đạo gốc» mà cách sống đạo chẳng có «gốc» (=chẳng có nền tảng) là «công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23) thì thật đáng xấu hổ!
3. Thiên Chúa cần những người cộng tác
Đức Giê-su không thực hiện cuộc canh tân tôn giáo một mình, Ngài cần rất nhiều người cộng tác. Người cộng tác ấy không nhất thiết phải là người có học, thông minh, nhiều tài năng, hiểu biết nhiều về Kinh Thánh, hay có quyền thế, v.v… Các môn đệ Ngài tuyển chọn chẳng phải là hạng trí thức: «Họ ngạc nhiên khi thấy ông Phê-rô và ông Gio-an mạnh dạn, và biết rằng hai ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân» (Cv 4,13). Chính Đức Giê-su cũng chẳng phải là người có học: «Người Do-thái lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: "Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!"» (Ga 7,15). Về đức độ, các môn đệ cũng chẳng phải là hơn người: khi Đức Giê-su bị bắt, tất cả các ông đều bỏ trốn, để mặc Ngài chịu trận một mình, Phê-rô thậm chí còn chối phắt Thầy mình. So với các anh hùng của dân tộc ta (như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ…) thì các ông thua xa.
Điều mà Ngài cần nơi những người cộng tác với Ngài là: mau mắn, không chần chừ tính toán. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: vừa được Đức Giê-su mời gọi, thì Phê-rô và An-rê «lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người». Gia-cô-bê và Gio-an cũng vậy: «lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người». Sự mau mắn, không chần chừ tính toán được Mát-thêu diễn tả bằng hai chữ «lập tức». Nó đòi hỏi phải có một chút liều lĩnh, phó thác, tin tưởng vào Đức Giê-su. Chính nhờ những đức tính này mà khi được Thánh Thần tác động, các ông trở nên có đủ mọi thứ đức tính, mọi thứ tài năng hơn người. Từ những con người chết nhát, các ông đã trở nên những tông đồ can đảm, luôn luôn mạnh dạn làm chứng cho Đức Giê-su, không chút sợ hãi (xem Cv 4,29.31; 9,27-28; 18,26; 19,8; 28,31).
Ngày nay, để canh tân Giáo Hội, Đức Giê-su vẫn tiếp tục cần rất nhiều người cộng tác với Ngài. Ngài luôn luôn mời gọi tất cả mọi Ki-tô hữu làm điều ấy. Bạn có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi trong thẳm sâu tâm hồn không? Bạn đáp lại thế nào? Bạn «lập tức» chấp nhận, hay còn phải suy nghĩ xem mình có đủ khả năng, có đủ thì giờ, có đủ đức độ không? Nếu bạn có đủ khả năng, đủ thì giờ, đủ đức độ như các kinh sư Do Thái xưa, thì chắc hẳn Ngài đã chẳng kêu gọi bạn đâu, vì bạn sẽ cậy vào sức riêng bạn, chứ không thèm nhờ cậy vào Ngài nữa! Chính vì biết bạn thiếu tất cả những thứ ấy Ngài mới kêu gọi bạn, như đã từng kêu gọi các tông đồ xưa. Điều quan trọng khi đi theo Ngài là bạn phải biết rằng bạn thiếu những thứ ấy để bạn khiêm nhường cậy dựa vào sức của Ngài, chứ không phải sức của mình. Bạn không nghe thấy Ngài cầu nguyện với Cha Ngài như vầy sao? «Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha» (Mt 11,25). Điều lạ lùng và hết sức nghịch lý nhưng lại là thực tế, đó là ta sẽ làm được tất cả khi thật tình nghĩ rằng «không có Thầy, anh em chẳng làm gì được» (Ga 15,5), nhưng «tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13), vì «đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được» (Lc 1,37).
Vậy, nếu nghe thấy Ngài mời gọi bạn cộng tác với Ngài, bạn nên mau mắn chấp nhận. Chính nhờ sự mau mắn này, bạn – cũng như các tông đồ xưa – sẽ được biến đổi để làm được tất cả những gì Ngài mong muốn.
Cầu nguyện
Lạy Cha, nếu cần con cộng tác với Cha trong bất kỳ việc gì, thì đây con sẵn sàng, mặc dù con chẳng tài đức gì. Con chỉ muốn bắt chước các tông đồ xưa, nghe Đức Giê-su kêu gọi, là «lập tức» bỏ tất cả mà đi theo, không suy nghĩ, đắn đo, tính toán. Xin ban cho con tinh thần tin tưởng và phó thác nơi quyền năng vô biên của Cha trong mọi sự. Amen.
"Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng lớn lao; và kẻ ngồi trong bóng tối sự chết, một ánh sáng đã rạng lên".
Ngày nọ, một vị linh sư gọi các đệ tử của mình lại và hỏi họ: "Khi nào thì ta biết đêm chấm: TN 3-A14
Ngày nọ, một vị linh sư gọi các đệ tử của mình lại và hỏi họ: "Khi nào thì ta biết đêm chấm dứt và ngày bắt đầu?" Các đệ tử liền lần lượt trả lời: "Khi ta có thể thấy được sự khác biệt được giữa con trâu và con bò"; "Khi ta có thể phân biệt được con vịt và con ngan"; "Khi ta có thể nhận dạng được trái cam và trái táo." Vị linh sư gật gù và nói: "Các con đang nói về ánh sáng tự nhiên như yếu tố phân biệt ngày và đêm. Nhưng chúng con có biết khi nào thì chúng ta có ánh sáng tâm linh để ra khỏi bóng đêm của tâm hồn không?" Thấy họ bối rối, ngài liền nói: "Khi chúng ta nhận ra những người xung quanh thực sự là anh chị em của mình để yêu thương và giúp đỡ họ".
Trong Tin mừng hôm nay, khi thuật về việc Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời truyền giáo công khai và kêu gọi các tông đồ đầu tiên, thánh Matthêô đã giới thiệu Chúa Giêsu như Đấng đã làm trọn lời ngôn sứ Isaia đã nói trước đây: " Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng lớn lao; và kẻ ngồi trong vùng bóng tối sự chết, một ánh sáng đã rạng lên" (Mt 4:16 & Is 9:1).
Theo đó, Chúa Giêsu chính là ánh sáng đem lại sự sống thần linh và tình yêu hiệp nhất cho nhân loại, ánh sáng tâm linh mà vị linh sư muốn nói đến trên đây, như chính Chúa đã tuyên bó sau này: "Sự sáng thế gian, chính là Ta! Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống" (Jn 8:12) Thực vậy, Chúa Giêsu đã dạy mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha duy nhất và hết thảy mọi người là anh chị em của nhau nên phải thực sự yêu thương hiệp nhất với nhau.
Sứ điệp đầu tiên của Chúa Giêsu thực là ngắn ngủi vì được tóm gọn trong một câu: "Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên" (Mt 4:17)
Sự hối cải mà Chúa Giêsu muốn mói đến ở đây chính là việc chúng ta phải bước ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, ganh tương, đố kỵ, chia rẽ để bước vào ánh sáng ban ngày của yêu thương và hiệp nhất. Vì tội lỗi suy cho cùng chính là sự phá hủy liên hệ yêu thương hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, để từ đó dẫn đến sự chia rẽ rạn nứt nơi chính nội tâm con người và giữa con người với nhau.
Chúa Giêsu đến trần gian không có mục đích gì khác hơn là khôi phục lại sự hiệp nhất hài hòa giữa Thiên Chúa và nhân loại, giữa con người với nhau, và chính nơi tâm hồn mỗi người. Sự hiệp nhất trong tình yêu này chính là lý tưởng của Chúa Giêsu và là điều Ngài hằng tha thiết cầu xin cùng Chúa Cha để trở nên hiện thực như lời cầu nguyện hiến tế của Ngài: "để hết thảy chúng nên một" (Jn 17:21)
Và Chúa Giêsu đã phải trả giá cho sứ mạng này bằng sự sống, sự chết và sự sống lại của chính Ngài. Ngài đã trở thành chính sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, cũng như là nguyên lý tạo thành sự hiệp nhất giữa con người với nhau và nơi chính bn thân mỗi người. Chấp nhận Chúa Giêsu có nghĩa là chấp nhận ánh sáng sự sống, ánh sáng dẫn ta bước đi trên con đường yêu thương hiệp nhất.
Các môn đệ đầu tiên được Chúa kêu gọi trong Tin mừng hôm nay là những người được mời gọi sống tinh thần yêu thương hiệp nhất ấy. Thời gian các ông theo Chúa là thời gian các ông được Chúa huấn luyện để hối cải từ một lối sống chia rẽ, ghen tương, đố kỵ đến một cuộc sống yêu thương hiệp nhất. Dấu chỉ của người môn đệ Chúa Kitô cũng không gì khác hơn là tình yêu hiệp nhất: "Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta: ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến lẫn nhau" (Jn 13:35). Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cũng được đánh dấu bằng tình yêu hiệp nhất này: "Ngày ngày họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Đền thờ, bẻ bánh ở nhà, cùng nhau chia sẻ của nuôi thân, lòng hân hoan, dạ đơn thành" (Acts 2:46)
Theo gương Chúa Giêsu, trong bài học hai của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô - vị tông đồ dân ngoại - đã kêu gọi các tín hữu tiên khởi sống tinh thần yêu thương hiệp nhất trong đời sống cộng đoàn và tỏ dấu quan tâm về sự chia rẽ bè phái đang diễn ra nơi họ. Thánh Tông đồ viết: "Hỡi anh em, nhân Danh Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng ý với nhau hết thảy, đừng để có sự chia rẽ trong anh em, nhưng hãy đoàn kết trong cùng một tâm trí, cùng một quan điểm" (1 Cor 1:10).
Trong ánh sáng của Chúa Kitô, thánh Phaolô nhận ra tất cả tín hữu đã liên kết chặt chẽ với nhau và làm nên một thân thể duy nhất nơi Chúa Kitô nhờ Thần khí Người. Tất cả mọi sự chia rẽ trong cộng đoàn Hội thánh đều là những hành động chia cắt chính Chúa Kitô. Sự chia rẻ bè phái xảy ra trong Hội thánh ở Corinthô là vì các tin hữu không đặt trọn niềm tin vào Chúa Kitô nhưng lại dựa vào uy thế của các vị lãnh đạo khác nhau. Đây là dấu chỉ cho thấy đức tin của các tín hữu ở đây còn là một đức tin ấu trĩ què quặt, một đức tin chưa trưởng thành vì không dựa vào Chúa Kitô mà chỉ bám vào tình cảm cá nhân dành cho người này hay người khác.
Mới đây, một giáo dân ở một giáo xứ nọ cho tôi hay là bà và gia đình cảm thấy chán nản buồn rầu bỏ cả xưng tội chịu lễ như muốn mất đức tin chỉ vì có sự thay đổi cha xứ, vì linh mục ở giáo xứ bà không làm gương về sự yêu thương hiệp nhất như các ngài thường giảng, và vì có sự chia rẽ bè phái trong giáo xứ.
Tâm sự của bà đã cho thấy niềm tin của bà chưa phải là một niềm tin trưởng thành vì còn lệ thuộc quá nhiều vào tư cách của các chủ chăn mà chưa đặt trọn nơi Chúa Kitô. Nhưng sự kiện này cũng cho thấy sự yêu thương hiệp nhất là yếu tố vô cùng quan trọng trong đời sống của một cộng đoàn Kitô hữu. Thiếu yêu thương hiệp nhất, đời sống cộng đoàn trở nên buồn nản và có thể dẫn đến sự tan rã của cộng đoàn. Vì vậy, bổn phận của mỗi người trong cộng đoàn Kitô hữu là phải dấn thân hy sinh để xây dựng tình thương và hiệp nhất trong gia đình và cộng đoàn, phải quên mình và từ bỏ những ý riêng để gìn giữ sự hiệp nhất trong Chúa với tha nhân.
Khi thấy sự hiệp nhất yêu thương của gia đình, cộng đoàn hay giáo xứ bị suy thoái và tổn thương, mỗi người cần phải xét mình và cố gắng từ bỏ tất cả những gì có thể làm thiệt hại đến sự hiệp nhất yêu thương. Việc bỏ bê các việc đạo đức hay các sinh hoạt trong cộng đoàn và nhất là việc nói hành nói xấu nhau lúc này không giúp ích gì mà chỉ gây thêm tội trước mặt Chúa. Trái lại, đây là lúc mỗi người trong cộng đoàn càng phải khiêm nhường và khoan dung nhẫn nại hơn trong cách đối xử với nhau, phải nỗ lực tha thiết hơn trong đời sống cầu nguyện, và phải siêng năng đến với Chúa Giêsu Thánh thể là nguyên lý của sự hiệp nhất trong cộng đoàn để xin Ngài tái tạo và củng cố sự hiệp nhất nơi cộng đoàn.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng tái tạo hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người cũng như hiệp nhất giữa con người chúng con với nhau, nhờ lời Mẹ Maria chuyển cầu, xin Chúa giúp chúng con được ơn hối cải đểtừ bỏ tất cả những cảm nghĩ, lời nói và hành động nào có thể làm tổn thương sự hiệp nhất của chúng con với Chúa và với nhau. Xin Chúa giúp chúng con biết nỗ lực xây dựng sự hiệp nhất trong mọi môi trường chúng con sống. Xin soi sáng cho chúng con nhận biết rằng mọi người chúng con là anh chị em với nhau vì có cùng một Cha trên trời, và cùng là chi thể của nhau, để chúng con luôn sống như những người con thảo của Chúa Cha và những chi thể đích thực của Nhiệm thể của Chúa
Khủng hoảng là cơn bệnh da diết và trường kỳ của mọi người, mọi gia đình, mọi tôn giáo: TN 3-A15
Khủng hoảng là cơn bệnh da diết và trường kỳ của mọi người, mọi gia đình, mọi tôn giáo, mọi quốc gia và trong mối bang giao quốc tế. Khủng hoảng kinh tế khi gia đình hay cộng đồng hoặc quốc gia thiết hụt vì chi trội hơn thu và nạn thất nghiệp cao. Khủng hoảng tinh thần khi gia đình, xã hội có những cuộc tranh cãi, chia rẽ và hận thù. Khủng hoảng an ninh khi tranh chấp xẩy ra và hai nước cùng động binh chuẩn bị chinh chiến. Khủng hoảng đức tin khi tín hữu coi nhẹ luật mến Chúa và yêu tha nhân để dấn thân vào công tác chống đối, chỉ trích, xuyên tạc, tạo tị hiềm, và gây chia rẽ từ hạ tầng cơ sở là cộng đoàn và giáo xứ, lên đến giáo phận và giáo đô Rôma. Khủng hoảng tu trì khi cảnh "cá đối bằng đầu" thịnh hành theo thuyết tự do cá nhân; khi mục đích tối thượng là "nên thánh theo lời khuyên Phúc âm" bị sao nhãng và đặt nhẹ; khi tam đức như đức khó nghèo, vâng phục và trinh khiết không còn được tôn trọng và tuân giữ. Khủng hoảng mầu da hay sắc tộc khi các sắc dân đứng lên tranh đấu, bạo động, chém giết.
Mỗi năm vào ngày thứ Năm tuần thánh tại một số nhà thờ Chính toà trên nước Mỹ, đang khi Giám mục và các linh mục đồng tế bên trong thì bên ngoài, phong trào tranh đấu biểu tình và đòi quyền cho phái nữ được tham dự vào chức linh mục thừa tác như nam giới trong Giáo hội hò la và giận dữ. Cuộc khủng hoảng này đang được đội lốt dưới chiêu bài "trọng nam khinh nư "và "đòi bình đẳng" trong Giáo hội. Nhiều lần Đức Giáo hoàng đã kiên nhẫn lắng nghe, giải thích và dùng hình ảnh tuyệt vời và thế đứng đặc biệt của Đức Maria như mẫu mực và hướng đi cho phụ nữ. Maria không là linh mục, nhưng là mẹ của linh mục. Maria là phàm nhân, nhưng là Mẹ Thiên Chúa. Maria không là Cứu Chúa, nhưng là Đấng Đồng công cứu chuộc. Maria không dám tự nhận hay đòi một danh xưng cao sang nào, trái lại Maria khiêm tốn thưa "này tôi là tớ nữ Chúa, tôi xin vâng nhận Thiên ý." Khủng hoảng trong lòng Maria như thế được giải kết trong vâng phục ý Chúa và trong ý thức thân phận hèn mọn của mình.
Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai đã vạch mặt chỉ tên những người lạm dụng và thao túng tôn giáo. Họ tạo cuộc khủng hoảng bè phái và dùng tôn giáo như khí cụ đấu tranh. Họ chia thân thể mầu nhiệm Đức Kitô ra những phái nhóm khác nhau để thủ lợi. Họ dùng tên các tông đồ để gây thanh thế cá nhân và tạo mâu thuẫn, đối kháng và chia rẽ trong cộng đồng và giáo hội. Cơn khủng hoảng giáo phái từ đó tiến triển theo cấp số nhân và hôm nay trong cộng đồng Kitô hữu (Tin lành, Công giáo và Chính thống) có khoảng chừng 400 giáo phái khác nhau. Trong Giáo hội Công giáo, tuy sự hợp nhất còn duy trì được, nhưng cũng có khoảng vài trăm dòng nam nữ biệt lập. Tất cả đều vì Chúa và các linh hồn. Tất cả đều được nuôi sống nhờ lòng hảo tâm và dâng cúng của các tín hữu. Cơn khủng hoảng muôn đời sẽ không giải quyết được vì tín hữu thì cầu cho được "hằng ngày dùng đủ", và họ xử dụng cái dùng đủ ấy để cung cấp sự giầu sang và xây dựng các lâu đài, cơ sở cho các dòng. Từ đó các dòng trở nên gánh nặng cho tín hữu. Thế hệ nầy sang thế hệ khác tiếp nối nhau giúp đỡ, và dâng cúng cho Giáo hội nói chung và làm giàu cho các dòng nói riêng mà vẫn không sao dập tắt cơn khát.
Thần học cứu rỗi của Đức Kitô khai mạc bằng lời "hãy hối cải vì nước Trời đã gần" quả thật đang bị khủng hoảng do sự thiếu khả năng và thiện chí rao giảng. Đồng thời hình ảnh nước Trời đang lu mờ và mất hút trong cơn sốt vật chất miên man và vô độ của con người. Tiên tri Isaia đã phóng lên không trung ánh sáng vĩ đại của Đức Kitô (bài đọc1). Ánh sáng ấy đáng lẽ phải giải thoát nhân loại và đưa nhân loại vào cõi sống. Nhưng khủng hoảng là ách đang đè trên vai họ, là gậy của kẻ lạm thu họ chưa bị bẻ gẫy và đang thao túng nên ánh sáng chưa tỏ rạng đủ cỡ. Ánh sáng ấy sẽ chỉ thực sự tỏ soi khi những giầy trận, những áo choàng rướm máu, những ách gông nặng hay nói chung là các khủng hoảng trở thành mồi lửa. Khi ấy mọi dân và cả những ai đang ngồi trong bóng tối sự chết mới thấy một ánh sáng vĩ đại và huy hoàng. Hoa trái của ánh sáng huy hoàng sẽ là "đồng tâm hiệp nhất... "và kết đoàn trong một thần trí và một tâm tình (bài đọc 2). Thiếu đồng tâm, hiệp nhất, một thần trí và một tâm tình thì tứ phương còn đang bị thiêu đốt bởi khủng hoảng!!!
Chuyện kể một nhà buôn nọ rất sùng đạo. Mặc dầu vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ: TN 3-A16
Chuyện kể một nhà buôn nọ rất sùng đạo. Mặc dầu vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ bỏ việc khấn vái với thần thánh. Gặp kỳ cạnh tranh gay gắt trong công việc, anh ta càng gia tăng lời khẩn cầu gấp bội.
Động lòng trắc ẩn, một hôm thần tiên hiện ra với anh và nói: "Thấy nhà ngươi thành tâm cầu xin nên ta không nỡ chối từ. Thôi thì bây giờ cứ cho ta biết ngươi muốn gì, ta sẽ ban cho... và đồng thời để tỏ cho nhân gian biết lòng quảng đại của ta thì hễ ban cho ngươi điều chi, ta cũng ban cho đồng nghiệp hay hàng xóm của ngươi như thế... và có khi gấp đôi luôn".
Nghe thần phán, lòng anh thương gia chuyển từ vui mừng hân hoan qua sầu buồn lo lắng. Anh tự nhủ: "Nếu bây giờ mình xin một chiếc Lexus thì mấy thằng bạn... chúng nó sẽ được hai chiếc. Ái dà, thế thì không được! Nhưng nếu mình xin cho được trúng số 5 triệu thì mấy nhà hàng xóm... họ sẽ được tới 10 triệu. Thế lại càng không được! Còn nếu mình xin cho có vợ đẹp con khôn thì coi chừng đồng nghiệp sẽ có vợ đẹp gấp đôi vợ mình, con khôn gấp đôi con mình. Đó là chưa nói tới chuyện chúng nó được hai vợ, trong mình chỉ có một... Thời buổi cạnh tranh như thế này thì phải làm sao cho hơn người chứ. Nhưng xin như thế thì làm sao mà hơn được".
Chàng thương gia nhíu mày đắn đo. Một lát sau, chợt anh ta reo lên như vừa tìm ra điều gì thú vị. Anh đến quì xuống và thưa với thần: "Lạy ngài, xin vui lòng cho tôi đui một con mắt".
Quả là một lời khẩn cầu quái lạ! Không xin cho mình được may mắn vì sợ người khác trỗi hơn. Song lại xin cho mình rủi ro để kẻ khác sẽ bị tổn hại nhiều hơn. Xin cho mình đui một con mắt để kẻ khác mù luôn. Đây quả là tiểu nhân và quá dã tâm.
Thế nhưng, nếu thành thật rà soát lòng mình thì không chừng tính chất dã nhân và tiểu tâm kia, tức là những đố kỵ, ghen ghét, nhỏ nhen, tàn bạo lại đang ẩn nấp đâu đó trong người tôi, để rồi nếu được thành công may mắn hơn ai thì nó sẽ nằm im bất động. Thảng hoặc, nó còn tỏ ra "quảng đại" và "thương xót" kẻ không may. Nhưng nếu ai đó trổi vượt hơn mình thì cái chất tiểu tâm và dã nhân kia sẽ bùng lên khó lòng dập tắt.
Chính cái chất đố kỵ, ghen tương, so bì kia đã là mầm mống của boa chia rẽ, bè phái, tranh chấp, phân ly, giận hờn, đui chột, mù loà trong cộng đồng nhân loại. Lắm người chẳng chịu nhường bước ai; điều gì của mình cũng đúng hơn, đẹp hơn, tốt hơn, và như thế kẻ khác tất phải sai hơn, xấu hơn, và dở hơn.
Tình trạng hơn thua làm nảy sinh phe nhóm bè phái, cùng với bao tranh chấp ghét ghen, không chỉ xảy ra ngoài đời, trong các đoàn thể chính trị xã hội, nhưng phải đau lòng mà nói: có khi nó còn xuất hiện trong những tổ chức manh danh có đạo, hay thuộc về Giáo hội.
Và đâu phải chỉ có trong Giáo hội của thời đại hôm nay, nhưng từ thời sơ khai, hiện tượng tranh chấp, phe nhóm, cũng đã xảy ra: "Tôi, tôi về phe Appolo. Tôi, tôi về phe Phaolô. Còn tôi, tôi về phe Kêpha Phêrô".
Sự phân chia phe nhóm trong cộng đoàn thế kia, một phần là do các sở thích và tình cảm cá nhân quá nặng. Một số thấy Phaolô là con người cương trực, ăn thẳng nói ngay, nên phục và mến lắm. Nhưng số khác thì không chịu nổi tính khí đó, nên đã chạy theo Phêrô, vị này vừa là thủ lãnh tông đồ lại vừa "dễ dãi, sao cũng được". Thơ Galat có kể rằng khi vắng mặt các thành viên Do thái trong cộng đoàn thánh Giacôbê, Phêrô đã ngồi ăn chung, uống chung với dân ngoại, nhưng khi thấy họ đến thì ông lại tránh đi. Thế nên một lần kia Phaolô đã trách Phêrô trước mặt mọi người: "Nếu ông, một người Do thái, ông còn sống như người ngoại chứ không như người Do thái, thì làm sao ông lại thúc bách người ngoại sống như Do thái được?" (Gal 2:14).
Có lẽ vì Phêrô "dễ dãi" như thế nên nhiều người thích và đi theo ủng hộ. Trong khi đó một số người khác lại khoái Apollo. Ông này ăn nói lưu loát, có khả năng diễn thuyết hùng hồn, bao biện luận để minh chứng Chúa Giêsu là Đức Kitô thật là sắc bén và chí lý. Thế nên họ thích nghe hơn, và rồi cái gì Apollo nói cũng đúng, cũng hay; còn Phaolô thì cứng quá, và Phêrô lại mềm mỏng quá.
Những khuynh hướng lưu luyến và tình cảm nặng tính cá nhân đó đã tạo nên phân rẽ trầm trọng trong cộng đồng Dân Chúa thời sơ khai, đến nỗi Phaolô đã kêu lên: "Nhân danh Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng tâm hiệp ý với nhau. Đừng chia rẽ, nhưng hãy đoàn kết trong cùng một thần trí và một tâm tình". (1 Cor 1:10).
Thiết tưởng, lời kêu gọi đó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay, trong mọi cơ cấu tổ chức của giáo xứ, cộng đoàn, và gia đình. Hãy đồng tâm ý hiệp với nhau. Đừng vì khuynh hướng, sở thích, quan điểm, hay tình cảm cá nhân chi phối mà ủng hộ, hợp tác với người này người nọ hoặc chống đối, chê bai, lạnh lùng với người kia.
Lời thánh Phaolô vẫn còn đó: Đức Kitô bị phân chia rồi sao? Chân lý và Tin mừng của Đức Kitô bị xé mãnh rồi sao? Và Tin mừng làm sao có được trong ghen ghét, tị hiềm, đố kỵ, phân ly, xâu xé. Có chăng chỉ là tin buồn thôi.
"Nhân danh Đức Kitô, tôi nài xin anh em hãy liên kết trong cùng một thần trí và một tâm tình". Thần trí đó là thần trí yêu thương, và tâm tình đó là tâm tình khiêm hạ. Chớ ao ước những điều bất chính, khổ đau cho kẻ khác. Đừng muốn mình chột để người ta bị mù. Nhưng hãy cầu cho nhau những sự may lành. Hãy "vui với người vui", vì điều đó đôi khi còn khó hơn "khóc với người khóc". Hãy tạ ơn Thiên Chúa cho nhau. Và điều quan yếu, hãy hiệp nhất với nhau.
Hiệp nhất chính là tinh thần và sứ mạng của Chúa Giêsu mà những ai tự xưng là môn đệ của Ngài phải tiếp nối. Bởi lẽ Chúa Giêsu đến thế gian không mục đích nào khác hơn là gieo trồng hiệp nhất: hiệp nhất con người lại với Thiên Chúa, hiệp nhất con người lại với nhau, hiệp nhất bao tan vỡ tâm hồn hầu qua đó tình thương của Thiên Chúa, bình an từ trời cao, và niềm vui ơn cứu độ được tuôn trào đến khắp trần gian. Tình thương, bình an, và niềm vui đó cũng chính là phần thưởng muôn đời cho những ai can đảm bước trên con đường mà Đức Giêsu đã đi.
Ngay sau khi được tin thánh Gioan Tẩy giả bị Hêrôđê Antipa giam tù, Chúa Giêsu từ làng: TN 3-A17
Ngay sau khi được tin thánh Gioan Tẩy giả bị Hêrôđê Antipa giam tù, Chúa Giêsu từ làng quê Nazarét chuyển đến phía tây bắc của biển hồ Galilê là thành Caphácnaum để rao giảng Tin mừng. Nếu việc Gioan bị bắt giữ được xem là dấu chỉ kết thúc thời đại của Lề luật và Ngôn sứ, thì sự xuất hiện của Chúa Giêsu được xem là sự khai mở của thời đại mới -thời đại sẽ được hoàn tất trong Đức Kytô; đồng thời đó cũng là lời tiên báo cho những bách hại mà Chúa Giêsu sẽ phải gánh chịu sau này.
Thánh sử Mátthêu đã ghi lại rất rõ địa danh mà Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng, đó là Caphácnaum nằm trên phần đất Dơvulun và Náptali thuộc miền Galilê. Chúng ta nhớ lại, độc giả mà Mátthêu nhắm tới là những người Dothái nói tiếng Aram và vì thế nói đến địa danh này, không người Dothái nào lại không biết đến lịch sử của nó. Theo sách Các Vua, thì vào năm 732BC, vua Tíchlát Pilexe người Átsua đánh chiếm toàn bộ xứ Náptali, lập nên một tỉnh thuộc đế quốc Atsua (x. 2V 15, 29). Theo Ngôn sứ Isaia, chính vùng đất này sẽ được hưởng ơn cứu độ và Tin mừng sẽ được loan báo trước tiên cho cư dân nơi đây (x. Is 8, 23-9,1).
Như thế, thánh sử Mátthêu không chỉ xác định chính xác nơi Chúa Giêsu loan báo Tin mừng mà còn cho chúng ta biết lời Ngôn sứ xưa kia đã được ứng nghiệm. Ngay trên chính mảnh đất được mệnh danh là “đất dân ngoại”, miền đất của tối tăm và tội lỗi, Chúa Giêsu đã chọn để gieo hạt giống Tin mừng. Người không ngừng kêu gọi mọi người sám hối bởi Nước trời đã đến gần.
Cũng chính nơi đây, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ để cộng tác vào sứ vụ rao giảng Tin mừng. Các ngài sẽ là những trụ cột của Giáo hội sau này. Trình thuật về ơn gọi của các môn đệ xem ra có vẻ đơn giản, không cầu kỳ như ta vẫn thường thấy đó đây trong Kinh thánh. Chúng ta dễ dàng nhận ra trong hành trình của mọi ơn gọi luôn luôn phát xuất từ hai chiều, từ trên xuống và từ dưới lên.
Từ trên xuống, đó là sáng kiến của Thiên Chúa, mà cụ thể là chính Đức Kytô. Chính Chúa Kytô đã đi bước trước trong mọi ơn gọi. Người đến bên các ông và nói: “Các anh hãy theo tôi”. Lời mời gọi nói lên lòng ưu ái của Thiên Chúa trước sự mỏng dòn yếu đuối của con người. Thiên Chúa mời gọi các môn đệ bước theo Người để làm cho các ông trở nên “những kẻ lưới người”, tiếp tục sứ mệnh của Người nơi trần thế này.
Mặt khác, đó cũng còn là sự đáp trả về phía người được gọi mà ta gọi là chiều đi từ dưới lên. Trước lời mời gọi của Chúa Giêsu, những môn đệ tiên khởi đã mau mắn đáp trả cách quảng đại và dứt khoát. Các ông bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu không phải chỉ theo để học hỏi, nhưng còn để cộng tác, để làm chứng cho nước Thiên Chúa. Theo Chúa Giêsu, có nghĩa là các ông không chỉ từ bỏ tất cả mà còn phải chấp nhận vác thập giá mình, từ bỏ chính mình ngay cả mạng sống để trung tín với Thầy và Tin mừng. Như thế, theo Chúa Giêsu không để làm vinh danh mình nhưng để làm vinh danh Nước Thiên Chúa. Bước đi với Chúa Kytô không để làm lợi cho mình mà làm lợi cho Nước Trời, đó là cộng tác, làm chứng để đưa nhiều người nhận biết Thiên Chúa và bước vào vương quốc của Người, dù phải hy sinh cả mạng sống.
Ước gì lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta nhận thức tầm quan trọng của ơn gọi mà mỗi người chúng ta đã lãnh nhận trong ngày lãnh nhận bí tích Thánh tẩy. Dù sống trong bậc sống nào, qua bí tích rửa tội, chúng ta đều được Chúa mời gọi trở nên những người cộng tác với Thiên Chúa, trở thành “những kẻ lưới người” hầu làm rạng danh Thiên Chúa.
Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha tuyển lựa, sai vào thế gian để thực hiện công cuộc cứu rỗi: TN 3-A18
Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha tuyển lựa, sai vào thế gian để thực hiện công cuộc cứu rỗi nhân loại. Việc Người đản sinh với hình hài của một con người bằng xương bằng Thịt xem ra bình thường, nhưng lại mặc một ý nghĩa phi thường. Chúa có thể thực hiện việc cứu thế một cách khác thường, một cách thần tiên như trong những câu chuyện thần thoại Cổ tích. Người có thể là cô Tấm, cô Cám hay như Thạch Sanh Lý Thông, Phù Đổng Thiên Vương hay như những anh hùng dân Tộc Lê Lợi, Lê Lai, Alexandre Đại Đế, Napoléon vv… Nhưng Chúa Giêsu đã sống, đã lớn lên với một nền giáo dục gia đình thánh tuyệt hảo để qua 30 năm ẩn dật, Người đã ra đi, mở đầu sứ vụ công khai tại Galilêa để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã loan báo trước. Chúa không chọn Nagiarét, nơi Người sinh trưởng, nhưng Người đã chọn một nơi thuận tiện gần biển hồ Galilêa vì nơi đó phát xuất những Lời Tin Mừng làm đảo lộn thế giới, nhân loại …
I. VẪN LÀ LỜI…
Lời của Gioan Tẩy Giả xưa vẫn còn âm vang mãnh liệt:"Hãy sám Hối và tin vào Tin Mừng ".
Lời đó đã dẫn Chúa Giêsu hòa nhập vào đoàn tội nhân bên dòng sông Giođan để xin Gioan thánh tẩy cho mình,nhưng cũng chính lúc đó Thiên Chúa Cha đã xác nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,là Con một của Người yêu dấu,đồng thời Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đậu xuống trên Chúa Giêsu đã tôn vinh nhân tính thần linh của Người. Việc Người ăn chay trong sa mạc bốn mươi đêm ngày để nhận lãnh ý định Của Thiên Chúa Cha khai mạc sứ vụ cứu thế của Người.Chúa chọn Galilêa,một miền đất bị người Do Thái coi là vô đạo,vùng đất ở lề,ở bên ngoài. Đối với người Do Thái vùng đất phải chọn là Giêrusalem vì họ cho rằng họ là người ở trong, là người có đạo, là người hiểu biết Thiên Chúa và chính họ đang nắm giữ lề luật của tổ tiên, của cha ông.
Nhưng cái nghịch lý, cái trớ trêu vẫn là Chúa không bao giờ chiều ý con người và như
Thánh Phaolô nói:"Sự giàu có,khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường
Nào! Quyết định của Người,ai dò cho thấu ! Đường lối của Người,ai theo dõi được !"(Rm 11,33 ).Chúa đã chọn Galilêa để loan báo Tin Mừng đầu tiên.Galilêa không phải là nơi con người ngoan đạo,siêng năng đọc kinh,giữ luật,giữ đạo:đây là vùng đất bị coi là khô khan,là nơi lạc lõng của các chiên lạc nhà Israen.Chúa chọn vùng đất này vì thương xót dân,họ bơ vơ,vất vưởng không người dậy dỗ,họ lang thang phiêu bạt,mò mẫm tìm tòi chân lý,tìm tòi lẽ sống. Chúa đến đó để nói cho họ và mọingười hay rằng:"Chúa chạnh thương họ,Chúa muốn cứu họ vì họ chưa được nghe loan báo Tin Mừng,chưa được ai củng cố lòng tin.Họ không có phẩm trật,không có cơ cấu,họ quả thực bơ vơ và lạc lõng giữa biển đời muôn vàn sóng gió,trăm ngàn thử thách.Lời Chúa vang lên:"Hãy sám hối vì triều đại Thiên Chúa đã gần "(Mt 4,17).Lời Chúa vang vọng là Lời thúc bách nhân loại,thúc bách mọi người hãy quay trở về, hãy sống công chính,hãy sống tốt lành để Chúa ngự trị nơi con Người. Nước Chúa đang ở đó, Nước Chúa đang hiện diện, tình thương sẽ làm cho nước Chúa sáng lên. Nơi đâu có tình thương,nơi đó có thiên đàng. Nơi đâu hận thù xâm lấn, nơiđó hỏa ngục dấy loạn.
Chúa đến để qui tụ, để cứu độ mọi người. Chỉ nơi Thập Giá,chúng ta mới nhận được ơn Cứu độ của Chúa. Quan niệm, chỉ có những kẻ ở trong mới có ơn cứu rỗi, xem ra không vững vì tình thương và lòng nhân từ của Chúa trải rộng trên mọi người, trên mọi dân tộc.
Quan niệm khư khư cho mình là đúng, là nắm chân lý không còn chỗ đứng nơi lòng Chúa nhân từ…
II. CHÚA MỜI GỌI MỘT SỐ MÔN ĐỆ TIẾP TỤC SỨ MẠNG RAO GIẢNG CỦA CHÚA
Tại Galilêa,Chúa đã kêu gọi những môn đệ tiên khởi đi theo Người, Chúa không phân biệt vùng đất ở trong hay ở ngoài. Chúa cho thấy,tất cả đều do Chúa, tất cả đều là hồng ân của Chúa. Bên biển hồ, các ngư phủ đang thi thố tài năng đánh bắt cá; Chúa gọi họ, tất cả đều nhất loạt bỏ mọi sự để đi theo Chúa Giêsu:"Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành ngư phủ đánh bắt người ". Các môn đệ giờ đây, trong giờ quyết định linh thiêng sẽ không chỉ còn là những tay thợ lanh nghề bắt cá: biết chỗ nào có cá, chỗ nào không có cá, chỗ nào nước sâu, chỗ nào nước cạn. Không, giờ đây,họ sẽ được Chúa huấn luyện, đào tạo để nhất nhất gầy dựng họ trở thành những ngư phủ cứu rỗi con người. Chúa yêu thương họ, Chúa muốn họ tiếp nối công cuộc cứu rỗi của Chúa khi Chúa hoàn tất ý định của Chúa Cha là hy sinh mạng sống của mình làm giá cứu chuộc nhiều người."Không có tình yêu nào cao vời bằng Tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu "(Ga 15,13 ). "Khi nào Ta bị treo lên,Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta ".
Chúa đã chọn đất Galilêa,một vùng đất bị người Do Thái ở Giêrusalem khinh bỉ để khai mạc sứ vụ công khai. Chúa đã chọn những chàng trai chài lưới, ít học, ít trí thức để trở nên môn đệ của Người. Ơn cứu độ không dành riêng cho ai, cho dân tộc, cho một quốc gia nào.
Có những chuyện xem ra to tát, có những cuộc phô trương rước sách, kinh kệ, lễ lạy linh đình, rầm rộ lại là những dấu hiệu ít giá trị thiêng liêng. Chúa thích sự khiêm nhượng, đơn sơ hơn là những cuộc phô trương lộng lẫy. Một cử chỉ tử tế của một nữ tu trong bệnh viện giúp một bệnh nhân cùi, sida, một cử chỉ bác ái chia sẻ của một người tầm thường đối với một người nghèo khổ, neo đơn đều mang một giá trị cứu rỗi. Một cử chỉ của Mẹ Têrêsa Calcutta đối với người hấp hối, một sự tận tụy yêu thương giải tội cho các hối nhân của một Linh mục, tất cả đều có giá trị trước mặt Chúa. Làm những việc nhỏ bé với tấm lòng trong sáng, hối cải và vì Chúa sẽ làm cho mọi người hiểu ra rằng: tất cả đều vì vinh danh Chúa, tất cả cho nước Chúa trị đến.
Ta hãy nói như thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu:" Tôi sẽ làm mưa Hoa Hồng xuống trần Gian " "Tôi chọn tất cả và cho tất cả ".
Lạy Chúa Giêsu, Con đường con đi qủa là huyền nhiệm.Con nhớ cách đây 2002 năm, Chúa đang cầu nguyện. Con chiêm ngưỡng Chúa, con nhìn vào Chúa, Chúa cầu nguyện thâu đêm, cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện không ngừng. Con không biết lúc đó, Chúa đã nói gì với Chúa Cha. Nhưng sự liên kết mật thiết giữa Chúa với Thiên Chúa Cha chỉ cho con hay rằng:"Việc Chúa đang sửa soạn là điều tối quan trọng ". Ơn gọi mà Chúa đang mời một số đi theo Chúa có tính nhưng không. Chúa muốn chọn, muốn gọi ai là tùy ý Chúa. Không ai có quyền bắt Chúa phải gọi người này, chọn người kia. Chúa cầu nguyện để cho mọi người thấy tự sức riêng con người không thể làm gì được, tự sức lực của mình con người sẽ thất bại ê chề ! Không cầu nguyện,con người sẽ sa lầy trong yếu đuối, tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cẩn thận hỏi ý Chúa Cha và Chúa chỉ trao sứ vụ cho nhóm mười hai sau khi đã thức suốt đêm để cầu nguyện. Vâng, Chúa đã gọi và chọn mười hai người mà Chúa đích danh gọi họ là tông đồ: Apostoloi,tiếng Hy Lạp có nghĩa là người được sai đi. Các tông đồ vì là những người được chính Chúa Giêsu trao sứ vụ và sai đi, nên họ lệ thuộc vào Chúa, trở thành ngôn sứ của Chúa, và trung thành với sứ mạng Chúa nhờ họ thực hiện trong nhân loại, nơi Giáo Hội.
Biến cố Chúa chọn và thiết lập nhóm mười hai là biến cố lịch sử của nhân loại, đặc biệt của Giáo Hội. Từ đây, nghĩa là từ giây phút Chúa gọi đích danh nhóm mười hai là Tông đồ. Giáo Hội Chúa kitô đã hình thành nơi trần thế này và Hội Thánh Chúa vẫn tồn tại tới muôn đời:"Con là đá,và trên tảng đá này,Ta sẽ xây dựng Hội Thánh của Ta "(Mt 16,18 ).
Lạy Chúa Giêsu, giây phút long trọng nhất, linh thiêng nhất vào một đêm, Chúa thức trắng để cầu nguyện, hỏi ý Chúa Cha cách đây 2002 năm và ý định của Chúa mời gọi những người thành tâm thiện chí đi theo Chúa để được Chúa gọi là Apostoloi,vẫn còn kéo dài cho tới cùng lịch sử. Chúa gọi, Chúa sai con người ra đi rao giảng nhưng Chúa luôn tôn trọng sự tự do của mỗi người.Hư đi hay tồn tại là do sự quyết định hết sức tự do của mỗi người và đây là sự huyền nhiệm nhất,bí nhiệm nhất.
Chúa chọn ngay vài môn đệ đầu tiên nơi giải đất ngoại đạo Galilêa để minh chứng rằng Người không giới hạn sứ mạng trong không gian, thời gian và nơi chốn.
Xin chúa cho chúng con và mọi tông đồ của chúa hiểu rõ sứ vụ mình đã lãnh nhận là do Chúa. Ơn gọi của mỗi người là do Chúa. Tất cả đều do sự chọn lựa nhưng không của Chúa.
Xin Chúa cho chúng con nhận ra rằng không có Chúa, không nương tựa vào Chúa, chúng con sẽ té ngã. Có Chúa ở trong lòng, có Chúa ở bên cạnh, mọi thử thách, mọi chông gai, cam go rồi sẽ qua đi.
Xin cho chúng con và mọi tông đồ luôn ý thức, luôn cảm nghiệm:"Ơn cứu độ dành cho mọi người.Chúa không loại trừ bất cứ người nào ". Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu hai việc làm quan trọng của Đức Giêsu, đó là: rao giảng về: TN 3-A19
Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu hai việc làm quan trọng của Đức Giêsu, đó là: rao giảng về Nước Thiên Chúa (cc.12-17) và kết nạp những môn đệ đầu tiên (cc.18-22)
Rao giảng về Nước Thiên Chúa. - Tin Mừng Matthêu cho thấy Đức Giêsu được công khai giới thiệu là Con Thiên Chúa về cuối trình thuật Người chịu phép rửa (3,13-17). Kế đến, Người đã tỏ ra hoàn toàn gắn bó với ý của Thiên Chúa qua các cơn cám dỗ nơi sa mạc (4,1-11). Chính qua thử thách Đức Giêsu tỏ rõ Người mật thiết với Thiên Chúa như thế nào trong tư cách là Con Thiên Chúa.
Từ Giuđê, Đức Giêsu xuống Galilê để thi hành thừa tác vụ của mình cách công khai (4,12-17). Sự kiện ông Gioan Tẩy Giả bị tiểu vương Hêrôđê bắt bỏ tù chưa phải là lý do chính yếu để Đức Giêsu thi hành sứ vụ tại Galilê thay vì tại Giuđê. Lý do chính yếu là ý của Thiên Chúa, như được loan báo trong sách ngôn sứ Isaia 9,1-2.
Cốt lõi của lời Đức Giêsu rao giảng về Nước Thiên Chúa được tóm gọn trong câu 17: “Anh em hãy sám hối vì Nước Thiên Chúa đã đến gần.” Gioan Tẩy giả đã từng rao giảng nguyên văn cũng lời đó (3,2).
Sám hối (metanoia trong Hy ngữ) là thay đổi não trạng. Không chỉ dứt bỏ hành động tội lỗi nhưng dứt bỏ tâm trạng hướng ta tới hành động đó. Cần thống hối để trở về đường thiện, tức là trở lại (epistrephein trong Hy ngữ).
Nhưng tại sao cần phải sám hối? Lý do vì Nước Thiên Chúa đã đến gần. Nước Thiên Chúa chỉ về quyền lực và cuộc phán xét do Ngài, cũng như chỉ về quyền thống trị của Ngài trên mọi thọ tạo. Ta sẽ thấy cuộc chiến thắng tối hậu của Thiên Chúa được khai trương nơi tác vụ của Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Chính Thầy đã chọn anh em để anh em đi và mang lại nhiều hoa trái
Kết nạp những môn đệ đầu tiên. - Trình thuật của Matthêu về cuộc kết nạp này cũng giống như trong Mc 1,16-20. Theo kế hoach tổng quát, Matthêu giới thiệu ba môn đệ trở thành bộ ba thân cận nhất trong nhóm Mười Hai, đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bộ ba này sẽ có mặt khi Đức Giêsu cho một người đã chết sống lại (Mc 5,37), khi Người biến hình trên núi (Mt 17,1) và khi Người cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37).
Các môn đệ sẽ là những người đến gần Đức Giêsu khi Người giảng bài giảng trên núi, bài giảng này được kể như hiến chương về Nước Thiên Chúa (Mt 5,1). Chính từ những người được gọi là môn đệ, Đức Giêsu sẽ thiết lập nhóm Mười Hai (Mt 10,1-4). Và nhóm Mười Hai này sẽ là nhóm được giao sứ mạng đi đến với muôn dân và làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Đức Giêsu (Mt 28,19).
Giữa nhóm Mười Hai, nổi bật nhất là ông Simon, được Đức Giêsu gọi bằng danh xưng mới là Phêrô. Khi ông Simon tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Đức Giêsu liền nói với Simon: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” (Mt 16,16-18).
Vậy mọi Kitô hữu đều phải trở nên môn đệ của Đức Giêsu, môn đệ theo nghĩa họ phải tuân giữ mọi điều Đức Giêsu đã dạy. Những điều ấy nhóm Mười Hai có nhiệm vụ truyền lại cho muôn dân (Mt 28,20). Chính nhờ gương sáng của các tông đồ, là các môn đệ đầu tiên, người Kitô hữu nhận ra mình được mời gọi để tiến triển như thế nào trong ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu.
Cựu Ước hầu như không có ý niệm về người môn đệ theo cái nhìn của Chúa Giêsu. Trước thời lưu đày Babylon (597-538 B.C), dân Ít-ra-en còn có một số ngôn sứ với đồ đệ tháp tùng, như ngôn sứ Êlia có Êlisêu là môn đệ. Sau thời lưu đày, tại Ít-ra-en, người ta thấy xuất hiện các thầy Rápbi thay thế các ngôn sứ. Các thầy này dạy người ta các luật phải giữ trong Do thái giáo dựa theo các truyền thống khác nhau. Các thầy rápbi không chọn học trò để truyền kiến thức; chính các học trò chọn đến với thầy rápbi nào họ muốn.
Chính Thầy đã chọn anh em (Ga 15,16). - Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy chính Đức Giêsu đã chọn các moan đệ đầu tiên (cc.19.21). Sau này, Người còn gọi ông Lêvi (Mt 9,9). Người cũng gọi ông Philipphê (Ga 1,43). Tóm lại, “Người gọi đến với Người những kẻ Người muốn” (Mc 3,13). Trong Tin Mừng Gioan, điều đó được Đức Giêsu khẳng định rất rõ: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái anh em tồn tại” (Ga 15,16).
Với xã hội Do thái, chọn học với một thầy rápbi là xây dựng cho mình một nghề, nghề đó bảo đảm cho học viên chỗ đứng đáng ước ao trong xã hội. Với Đức Giêsu, điều hứa hẹn khác hẳn. Trở nên môn đệ của Đức Giêsu là để ở lại với Người để chia sẻ cuộc sống và sứ mạng của Người. Cốt lõi của ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu là cuộc dấn thân vào sự sống và vào sứ mạng của Người.
Bước theo Đức Giêsu là bước trên đường Thập Giá đưa tới vinh quang
Đó chính là điều Chúa Giêsu phục sinh nói với hai môn đệ đi Emmau: “Nào Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (Lc 24,26). Ai đến học với một thày rápbi đạo Do thái, không bao giờ chấp nhận điều kiện như vậy. Người đó không buộc phải từ bỏ điều gì thuộc về nghề nghiệp và chỗ đứng của mình trong xã hội.
Ngược lại, người môn đệ Đức Giêsu phải nhận lấy cái nhìn của Đức Giêsu làm cái nhìn của mình về mọi sự. Lý do vì Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đến thiết lập Nước của Ngài trên mọi thọ tạo. Toàn thể tạo thành phải được điều khiển theo ý Ngài và ý đó chính Đức Kitô là Con Thiên Chúa, biết rất rõ: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ Người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho.” (Mt 11,27).
Đức Kitô mạc khải cho các môn đệ ý của Thiên Chúa không qua một bài báo hoặc một cuốn sách. Tất cả các sách Tân Ước sau này mới được viết ra. Đó là khi trọn ý của Thiên Chúa đã được chu toàn qua lời nói và việc làm của Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhờ Chúa Thánh Linh soi sáng, các môn đệ là những người được gọi để ở lại với Đức Giêsu từ khi Người công khai rao giảng về Nước Thiên Chúa cho tới khi Người tắt thở và được phục sinh, khi ấy mới rõ ý Thiên Chúa đã trở nên sống động nơi cuộc đời của Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Nền giáo dục mà các môn đệ của Đức Giêsu được hấp thụ là một nền giáo dục thiết thân với sự sống, nỗi chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Các ông được khuyến cáo đảm nhận lấy nền giáo dục đó: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng nhân hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-29).
Luật Cựu Ước xưa trở nên ách nặng nề cho dân Thiên Chúa. Nay Đức Giêsu là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa, đến làm cho mọi sự trở nên nhẹ nhàng nhờ sức mạnh của yêu thương. Chính Ngài hy sinh để muôn dân được hạnh phúc. Ngài mời gọi họ trở nên môn đệ Ngài và đi trên cũng một con đường yêu thương chính Ngài lãnh đạo.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn hiểu thế nào về sám hối khi nói: Sám hối đòi ta không chỉ dứt bỏ hành động tội lỗi mà còn phải dứt bỏ não trạng hướng ta tới những hành động đó?
2. Bạn hiểu thế nào khi nói: Bước theo Đức Giêsu là bước trên đường thập giá đưa tới vinh quang?
Thành ngữ “Galilê các dân ngoại (4,15) gợi lên điều gì đối với người đương thời của Chúa:TN 3-A20
1) Thành ngữ “Galilê các dân ngoại (4,15) gợi lên điều gì đối với người đương thời của Chúa Giêsu và Matthêu? Phải chăng đó là một sự khai mở có tính cách phổ cập, theo viễn tượng đã được phác họa ở chương 2?
2) Matthêu muốn diễn tả gì khi đặt ngay đầu sứ vụ Chúa Giêsu trình thuật quá giản lược về việc gọi bốn môn đồ đầu tiên (4, 18-22)? Đặc biệt đâu là mối liên lạc giữa nó với bản toát lược hoạt động của Chúa Giêsu (4, 23-25) và với diễn từ kế tiếp (ch. 5-7)?
Xét về phương diện văn chương, đây là một bản toát lược trước hoạt động của Chúa Giêsu suốt cả giai đoạn tương ứng với phần đầu Tin Mừng Matthêu (4, 18-16, 20) Matthêu trình bày cho thấy Người khai mạc sứ vụ tại Galilê, sau biến cố quyết định là việc tống giam Gioan Tẩy giả. Chính trong giai đoạn sứ vụ tại Galilê này mà các tác giả Nhất Lãm đã thu gộp lại điểm chính yếu của những gì các ông tường thuật về ngôn hành của Chúa Giêsu.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
* "Nghe tin Gioan bị tống giam", dịch sát chữ: "Nghe nói Gioan đã bị nộp" (so sánh với Mt 10, 4; 17,22; 20, 18-19; 26, 2: trong tất cả các đoạn vừa kể, Matthêu dùng chữ "bị nộp", parêdothê để nói về Con Người như ở đây, điều đó ngụ ý Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu có chung một số phận): Thể thụ động ngầm bảo rằng biến cố xảy ra do ý muốn Thiên Chúa; chương trình của Thiên Chúa hoàn tất nơi Gioan, như nơi Chúa Giêsu sau này. Hơn nữa, cả hai sứ vụ đều liên kết làm một trong chương trình Thiên Chúa: Chúa Giêsu khởi đầu hoạt động công khai của Người vào lúc Thiên Chúa chấm dứt hoạt động Gioan.
* "Người trở lại", dịch sát chữ: "Người lui về" (anachoreô): Tại Giuđê, Chúa Giêsu như ở trong pháo đài của Do thái giáo chính thức, mà đại diện là nhóm Saducêo và Biệt phái. Hạng người sau, tích cực hơn dịch thủ họ nhiều, hằng quan tâm gây ảnh hường tôn giáo trên dân và tỏ ra nghi ngại những ai không xuất thân từ trường của họ. Để chống lại Chúa Giêsu, họ đã vạch trần gốc tích Galilê của Người (x. Ga 7,52: "Không một ngôn sứ nào đến từ Galilê cả"). Việc tống giam Gioan Tẩy giả có thể đã khuyến khích họ loại trừ Người nữa luôn. Thấy mình ở trong một vùng bất an, Chúa Giêsu có lẽ đã quyết định khai mạc thực sự sứ vụ Người tại Galilê. Trong vùng này, là vùng cách biệt Giuđê về phương diện địa dư và chính trị, ảnh hưởng của Hội đồng Công tọa và của Biệt phái khá yếu ớt. Khi lại sử dụng ở đây động từ anachoreô (rút lui, lui về) có lẽ Matthêu muốn ngụ ý (như ở 2,12; 9,24; 12,15; 15,21 v.v) rằng sự cứng lòng của miền Giuđê (do ảnh hưởng Biệt phái), biểu lộ qua việc khước từ Gioan Tẩy giả, đã bắt buộc Chúa Giêsu phải ngỏ lời với "Galilê của dân ngoại”.
* "Rời Nadarét", dịch sát chữ: "Bỏ Nadarét", không có nghĩa là Chúa Giêsu, khi trở về Galilê, viếng Nadarét trước rồi sau đó bỏ quê hương. Matthêu chỉ nhấn mạnh Người “không" muốn chọn quê hương mình như khởi điểm xuất phát sứ vụ, nhưng là Capharnaum. Chi tiết này chắc hẳn không phải chỉ là một chú thích địa dư. Nó nhắm chuẩn bị cho sấm ngôn Isaia nơi các 13-14, y như chi tiết “ven bờ biển" vậy.
* "Trong địa hạt Dabulôn và Nepthali": Capharnaum ngày xưa nằm trong vùng định cư của hai bộ lạc Dabulôn và Nepthali (Gs 19, 10-16. 32-39). Vào thời Chúa Giêsu, không còn lối phân chia lãnh thổ như thế nữa; do đó sẽ chẳng hiểu được lời quy chiếu này nếu không có câu trích dẫn Isaia đi liền theo sau đề cập tới đất Dabulôn và đất Nepthali.
Sở dĩ Matthêu muốn móc nối với Isaia ở câu 14 như vậy, là vì muốn trả lời cho một vấn nạn về Galilê, khởi điểm và sân khấu chính của hoạt động Chúa Giêsu. Tại sao Chúa Kitô đã dành phần lớn thời gian Người cho cái vùng heo hút này, nơi đã chẳng có một ngôn sứ nào của Thiên Chúa xuất thân? Thưa vì theo kế đồ Thiên Chúa (được công bố qua sấm ngôn Isaia), Đấng Messia phải thi hành sứ vụ Người tại Galilê.
Các câu 15-16 trích dẫn Is 8,23 - 9,1 là đoạn trực tiếp liên hệ đến hay bộ lạc cổ Israel dã chiếm giữ phần lớn miền Galilê và đã bị quân Assyri sáp nhập năm 734. Dưới ách Hy-Lạp vào thời các vua nhà Séleucos, họ bị dân ngoại bao vây tứ bề. Công cuộc giải phóng mà ngôn sứ loan báo cho họ, Matthêu thấy được thực hiện trong sứ vụ Chúa Giêsu; Thật vậy, trong Isaia 8 và 9, không chỉ có vấn đề giải phóng quân sự và chính trị, nhưng còn giải phóng khỏi "tối tăm" và “sầu khổ" do việc các bộ lạc cổ ấy hoàn toàn bị lương dân xâm nhập. "Galilê các dân ngoại" là tên biểu thị đám dân hỗn tạp của vùng Galilê này, đối nghịch với chủng tộc tinh tuyền của miền Giuđê. Ở đây "Galilê các dân ngoại" xuất hiện như biểu tượng của việc triệu tập phổ quát: đó là đất hứa được phô bày cho Chúa Giêsu, Israel đích thực, sau thời gian Người cư trú ở hoang địa và vượt qua sông Giođan. Ta gặp nơi đây một trong các chủ đề ưa thích của Matthêu: sứ vụ của Chúa Giêsu trước tiên được dành cho "các chiên lạc nhà Israel" (10,6; 15,24) nhưng vẫn liên hệ sâu xa với dân ngoại. Câu "Dân ngồi trong tối tăm" tóm tắt một cách tượng trưng tình trạng ngoại giáo hóa ấy của vùng Galilê, tức tình trạng thiêng liêng của những người Do thái trong vùng. Một ánh sáng lớn lao": "ánh sáng" xuất hiện ở đây tại Galilê và tỏ lộ cho các môn đồ trong cuộc Biến Hình (17,2) là ánh sáng tiên báo cuộc Phục sinh của Chúa Kitô.
* "Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu...": câu này đánh dấu khởi điểm chính thức của sứ vụ Chúa Giêsu và sự viên mãn của thời gian. Thành ngữ sẽ chỉ trở lại nơi 16,21 để loan báo cuộc khởi hành của Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để chịu tử nạn. Do đó, đối với Matthêu, việc loan báo Nước Trời đã nằm vào trong lộ trình đau khổ.
* "Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên": Kiểu nói tổng hợp này của Matthêu giống y kiểu nói ở 3,2 (Gioan Tẩy giả) và ở 10,7 (huấn thị cho môn đồ sắp đi truyền giáo). Nó khẳng định tính cách liên tục giữa việc rao giảng của Gioan, là bước chuẩn bị cho việc Chúa Giêsu rao giảng, với việc rao giảng của các môn đồ, là sự tiếp nối sứ điệp của Thầy họ.
Thành ngữ lạ lùng "Nước Trời" (hầu hết như vậy trong Matthêu) phản ảnh não trạng Do thái đương thời, cái não trạng tránh đọc tên Thiên Chúa vì tôn kính Ngài. Như thế có lẽ nó sao lại thành ngữ Chúa Giêsu đã dùng. Còn "Nước Thiên Chúa " (Mc và Lc) hình như phát xuất từ việc sửa đổi thành ngữ nguyên thủy để thích ứng với thế giới Hy lạp. Chủ đề này có nét nổi bật là quyền cai trị của Thiên Chúa và do đấy đương nhiên bao hàm ý tưởng một cộng đoàn được Thiên Chúa điều khiển. Chúa Giêsu đã công bố Nước Thiên Chúa ấy sẽ đến (Mc 14,25; Lc 11,2..) nhưng cũng đã tới rồi trong sứ vụ và trong bản thân của Người (Lc 7, 18-23; 10,23tt...). Hai lý thuyết cực đoan hiện thời, cánh chung luận tương lai (hậu kết) vây cánh chung luận hiện tại, đều đưa vào loạt bản văn đầu hay loạt bản văn sau (về ý niệm nước Trời" này, xin xem chú thích dài của BJ).
Eggiken, thì quá khứ của động từ eggizô, là một trong những tiếng của Tân Ước được tranh luận nhiều nhất hiện nay. Phải dịch nó là "đã gần bên” hay "đã tới rồi”? Eggizô (do egguạ, "gần ") tự nó có nghĩa là "đến sau, tới gần", nghĩa tán trợ cho lối dịch thứ nhất. Song C.H.Dodd lại quả quyết eggiken là tiếng phiên dịch. từ một động từ Aram có nghĩa "đến, đạt thấu". Lối giải thích của Dodd, "Nước trời đã tới", cũng có thể đúng, nhưng phần lớn các nhà chú giải thích kiểu dịch "Nước Trời đã gần" hơn.
* "Hãy hối cải": Việc Chúa Giêsu khai mạc Nước Trời tạo thành giây phút tột đỉnh của lịch sử cứu rỗi. Trước lời mời gọi ấy của Thiên Chúa, mỗi người đều bị bó buộc phải dứt khoát chọn lựa. Việc đáp lại lời Ngài phải biểu lộ ra bằng lòng thống hối và đức tin.
Việc kêu gọi các môn đồ đầu tiên (cc.18-22) được tường thuật lại với thể văn "kêu gọi ngôn sứ" của Cựu Ước, chẳng hạn việc Elia kêu gọi Elidê (IV 19, 19): Trình thuật này hoàn toàn loại trừ khía cạnh tâm lý (như cảm xúc của những kẻ được gọi, việc nhấn mạnh đến tính cách nghiêm trọng của giờ v.v...) để làm nổi bật lời kêu gọi của vị Tôn sư và câu đáp trả đầy gắn bó tin tưởng của các môn đồ. Do đấy có thể bảo bản phác họa này vẽ ra mối tương quan kiểu mẫu giữa Chúa Giêsu và người môn đồ lý tưởng, kẻ từ bỏ mọi sự không chút do dự hay biện bạch để theo Người ngay từ lời mời gọi đầu tiên. Chúa Giêsu chỉ đòi hỏi các môn đồ tương lai trước hết hãy sống với Người và theo Người. Công việc tông đồ của họ sẽ bắt đầu sau này, lúc họ đã chứng kiến cuộc Tử Nạn-Phục Sinh của Người (trái lại Mc 6, 12-13 và Lc 9,6 thì có tường thuật một chuyến truyền giáo của các môn đồ trước Tử Nạn-Phục Sinh; Matthêu im lặng có lẽ vì muốn nhấn mạnh tính cách độc nhất của con người vị Tôn sư) Các sứ đồ sẽ thành "ngư phủ bắt người", nghĩa là thành kẻ rao giảng và chứng nhân Nước Trời. Thành ngữ này có lẽ ám chỉ tới một sấm ngôn của Edêkien (Ed 47,10). Dầu sao, có thể bảo rằng, theo một ý nghĩa nào đó, Nước Trời đã như được thiết lập qua việc gọi các môn đồ đầu tiên ấy, vì Nước Trời tự bản chất là một cộng đoàn gồm những người quy tụ quanh Chúa Giêsu trong mối thông hiệp với Chúa Cha.
* "Khắp xứ Galilê": Việc du hành thuyết giáo này của Chúa Giêsu tương ứng với một khía cạnh quan trọng trong sứ vụ của Người; Người không nhắm mục đích xây dựng một nguyện đường khép kín với một nhóm môn đồ như các giáo sĩ, cũng chẳng phải là quy tụ các kẻ tinh tuyền vào sa mạc như ông Thầy phái Essêni, song là rao giảng cho toàn dân trong khắp xứ.
* "Giảng dạy... chữa lành": Lối tiếp liên này, được dùng lại với cùng những hạn từ trong 9,35, cho thấy phải hiểu cơ cấu toàn bộ của Tin Mừng Matthêu ra sao. Trái với quan niệm của nhiều nhà chú giải thừa nhận kiểu tiếp liên trình thuật-diễn từ vì muốn lấy các chương 5 - 7 soi sáng 3 - 4, và chương 10 soi sáng 8-9), hình như ta có thể bảo: qua thành ngữ "giảng dạy... chữa lành”, Matthêu muốn gợi ý rằng lối tiếp liên diễn từ-trình thuật là cơ cấu của Tin Mừng của ông, nên phải lấy các chương 8- 8, thay vì 3- 4, để soi sáng 5- 7, và lấy 11- 12 soi sáng chương 10 v.v.. Thật vây việc giải thích toàn bộ Matthêu theo cách thứ hai này xem ra thỏa đáng hơn nhờ ánh sáng của các cuộc nghiên cứu gần đây theo chiều hướng đó (Krentz, Rolland, Radennakers v.v...).
* "Chữa lành mọi tật nguyền bệnh hoạn": ý tưởng "Thiên Chúa bảo vệ kẻ công chính và cho họ khỏi bệnh tật rủi ro" đầy dẫy trong văn chương khải huyền thời Chúa Giêsu (x. Thánh vịnh Salomon). Thành thử hoạt động chữa bệnh của Người đáp lại một nỗi mong chờ nào đó của dân chúng, và đặc biệt thực hiện lời tiên báo của Isaia mà Matthêu áp dụng cho Chúa Giêsu (8,17) về Người Tôi Tớ mang lấy bệnh tật dân mình (53,4): Chính vì sấm ngôn ấy, mà quyền lực chữa bệnh của Chúa Giêsu làm cho địch thù Người khó chịu: bị bắt buộc phải thừa nhận sự kiện, họ không còn cách gì hơn là gán việc đó cho Bêelzêbul (12,24). Đừng tổng quát hóa lời minh xác Chúa Giêsu chữa lành mọi bệnh nhân; toàn bộ trình thuật Tin Mừng cho thấy Người không nhắm mục đích chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, như thể muốn cho thiên hạ hưởng nhờ quyền năng làm phép lạ của mình nhiều ngần nào có thể; đúng ra Người chỉ chữa trị một vài bệnh nhân để mặc khải ý nghĩa Nước Trời và uy quyền riêng của Người.
KẾT LUẬN
Trái với Gioan Tẩy Giả chuyên đứng bên bờ sông Giođan để làm phép rửa cho những kẻ đến với ông, Chúa Giêsu, ngay từ đầu sứ vụ, đã tỏ ra là một diễn giả lưu động, rảo khắp miền Galilê và đâu đâu cũng tuyên bố Nước Trời đến gần. Người muốn mình tức khắc là Mục Tử tốt nao nức đi tìm "chiên lạc nhà Israel". Và vì ưu tư đảm bảo hiệu lực lâu bền cho công việc mình, Người đã quy tụ ngay các "ngư phủ bắt người". Đầu tiên để họ tiếp tục việc loan báo Nước Trời khắp nơi, cho mọi người thuộc mọi thời đại.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Ngày nay Chúa vẫn còn loan báo Nước Người cho ta qua việc công bố Lời Người giữa lòng cộng đoàn phụng vụ. Ta biết rằng cách thức nghe lời đó là "hối cải", là tiêu trừ những gì đê tiện, của lòng mình, là mở rộng con tim theo những viễn tượng, phổ quát của Người. Bấy giờ, việc loan báo ấy sẽ chữa lành tâm hồn ta và đổ vào đó một niềm hân hoan vĩ đại. Ta sẽ vượt lên khỏi chính mình và khám phá được ánh sáng rạng ngời của Thiên Chúa.
2) Chẳng phải các môn đồ đã chọn Chúa Giêsu, song chính Người đã chọn gọi họ, đã bắt lấy họ nơi họ đang làm lụng, nơi họ bận rộn với công việc trần thế. Ngày nay cũng vậy Chúa Kitô đến tìm ta giữa công việc, niềm vui, nỗi nhọc của ta. Người muốn lôi ta theo Người không phải bằng cách đòi ta bỏ mọi sự để rao giảng Nước Trời (điều ấy, Người chỉ xin một vài kẻ thôi) nhưng một cách thiêng liêng bằng cách yêu cầu ta từ bỏ chính mình, bỏ lòng ích kỷ và chai đá, để sống với Người cuộc sống hằng ngày của ta trong siêu thoát và tình yêu.
3) Việc hối cải Chúa Giêsu yêu cầu không phải là một cái gì có thể hoàn thành trong giây lát, trong một ngày và một lần thay cho tất cả. Chắc chắn ngay lúc đầu nó đòi hỏi một sự kiên định lập trường và đôi lúc một sự cắt đứt đau đớn. Nhưng nhất là nó đòi hỏi một cuộc lấy lại không ngừng chính mình để kiên nhẫn và khiêm tốn đi theo Chúa Giêsu, cho dù yếu đuối đến đâu. Vì tiếng nói của Chúa Giêsu vẫn luôn vang vọng trong cuộc đời chúng ta: "Hãy theo Thầy".
Trong tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô giáo, mỗi Kitô hữu được mời gọi cầu nguyện: TN 3-A21
Trong tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô giáo, mỗi Kitô hữu được mời gọi cầu nguyện cho các Kitô hữu được hiệp nhất. Nhiều cố gắng của nhân loại trong lịch sử loài người được hướng về sự hiệp nhất. Hiệp nhất giữa các quốc gia, hiệp nhất trong gia đình, trong đạo giáo xem ra là cái đề tài thường được bàn đến và cứu xét, nhất là trong cái thời đại mà nhiều giá trị, nhiều nguyên tắc đạo đức và luân lý đang bị đảo lộn trong khắp các tầng lớp xã hội. Nếu đưa mắt nhìn quanh, người ta sẽ thấy trong các tầng lớp xã hội, gia đình và tôn giáo đều có sự chia rẽ. Bao nhiêu giáo phái Kitô giáo khác nhau trên thế giới được tìm thấy xuất hiện, phái nào cũng mạo nhân là theo gót chân Chúa một cách trung thực. Ngay cả trong một giáo phái, cũng có sự chia rẽ và phe phái.
Cái vấn đề phe phái đã xẩy ra trong giáo đoàn Corintô cách đây hơn 2000 năm. Hôm nay thư của thánh Phaolô gửi giáo đoàn này ghi lại: Giáo dân chia thành 5 bè, 7 nhóm: "Tôi thuộc về Phaolô, tôi về phe Appolô, còn tôi về phe Phêrô, và tôi thuộc về phe Chúa Kitô.Vậy Chúa Kitô bị phân chia rồi sao?"(1 Cor 1:12). Những vấn đề tranh chấp giữa họ không thuộc phạm vi tín lý hay luân lý, nhưng chỉ là những khác biệt về tính tình, sở thích. Khi đã đến lúc phải chận đứng vấn đề phe nhóm trong giáo đoàn, thánh Phaolô bảo họ: Người lãnh đạo của anh chị em là Đức Kitô chứ không phải tôi hay Appolô. Và anh em chịu phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, chứ không phải nhân danh Phaolô hay Appolô ( 1 Cor 1:13-15).
Thánh Phaolô là người hơn ai hết hiểu thấu được ý niệm của nhiệm thể Chúa Kitô. Khi bị quật ngã khỏi lưng ngựa, Phaolô nghe có tiếng phán bảo: Saolê, Saolê, tại sao nhà ngươi bách hại ta (Cv 9:4). Thực sự Phaolô chỉ bách hại người Kitô hữu mà thôi. Sau này nhờ suy niệm và cầu nguyện và được ơn thánh linh soi sáng, Phaolô hiểu được người Kitô hữu là những phần thân thể trong Nhiệm thể mầu nhiệm mà Chúa Kitô là đầu. Cắt nghĩa theo ý niệm thần học của thánh Phaolô thì bách hại người Kitô giáo là bách hại Chúa. Trong bữa tiệc ly Chúa đã cầu nguyện cho các Tông đồ và cho tất cả những người nghe theo lời giảng dạy của các Tông đồ được hiệp nhầt trong một Giáo hội mà Chúa đã thiết lập trên nền tảng đá Thánh Phêrô.
Thực tế thì thế giới Kitô giáo (Thiên Chúa giáo) ngày nay đã bị phân tán nhiều. Ngoài Giáo hội Công giáo, còn có Giáo hội Chính thống (Orthodox Church), các Giáo hội Đông phương (Eastern Rites), và cả hàng trăm các giáo phái Tin lành khác nhau (Protestant denominations). Việc phân tán giữa thế giới Kitô giáo là một cớ vấp phạm cho những người không tin Chúa, hoặc chưa tin theo Chúa. Sứ vụ của người Kitô giáo là cầu nguyện cho việc hiệp nhất giữa những người tin theo Chúa, nhất là trong tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất Giáo hội. Người Công giáo cũng không quên cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong chính Giáo hội Công giáo nữa. Những người đầu tiên lập ra các giáo hội hoặc giáo phái Kitô giáo, cũng nằm trong Giáo hội Công giáo. Vì những lý do khác nhau như bất đồng quan điểm bất phục tùng, hoặc vì tham vọng cá nhân, đã tách rời khỏi Giáo hội Công giáo để lập các giáo phái riêng.
Người Kitô giáo cần nhận thức rằng việc chia rẽ phân tán trong thế giới Kitô giáo nói chung, và trong Giáo hội Công giáo nói riêng đang làm suy yếu nhiệm thể Chúa Kitô, làm cho việc rao giảng sứ điệp Phúc âm ít hấp dẫn đối với những người ngoài Kitô giáo. Ở Việt Nam người ta ít nghe nói, ít biết đến các giáo phái Kitô giáo không phải Công giáo. Thời Pháp thuộc có một số nhỏ người VN Tin lành ở Faifo, Quảng Nam. Thời Mỹ sang Việt Nam, xuất hiện nhiều người Tin lành hơn. Tuy nhiên Tin lành vẫn luôn là thiểu số. Cũng như Chúa đã cầu nguyện cho các tông đồ được hiệp nhất, người tín hữu cũng cần cầu nguyện cho các giám mục được hiệp nhất với Đức Giáo hoàng là người kế vị thánh Phaolô. Người tín hữu còn phải cầu nguyện cho các linh mục được hiệp nhất với giám mục bản quyền. Lịch sử Giáo hội đã chứng minh: nếu người ta không ở lại trong Giáo hội mà chính Chúa Kitô đã thiết lập, người ta sẽ tiếp tục phân tán thành nhiều giáo phái khác nhau.
Trong một cuộc oanh tạc miền Bắc Việt Nam, một chiến đấu cơ đã bị bắn rớt, và anh phi công: TN 3-A22
Trong một cuộc oanh tạc miền Bắc Việt Nam, một chiến đấu cơ đã bị bắn rớt, và anh phi công bị bắt. Trong sáu tháng đầu, anh bị biệt giam trong một căn phòng hoàn toàn tối tăm. Chỉ sau hai tuần, anh bắt đầu cảm thấy như mất trí, và hầu như mất hết nghị lực để sống. Một hôm anh tình cờ nhìn thấy một tia sáng lờ mờ chiếu qua một lỗ rất nhỏ trên tường. Nhờ tia sáng lờ mờ đó, tâm trí anh từ từ trở lại bình thường, và anh tìm lại được sức mạnh để sống.
Ánh sáng rất cần thiết cho con người, đặc biệt cho con người ngày nay. Những ai đã từng phải chịu cảnh mất điện sau những cuộc động đất hay những trận bão mới cảm thấy khó chịu đến thế nào, nhất là phải chịu cảnh tối tăm khi đêm về. Xét về mặt tự nhiên, con người đã cần ánh sáng, sự cần thiết còn thiết thực hơn trong đời sống siêu nhiên.
Từ khi con người phạm tội, nhân loại bị chìm sâu trong bóng đêm của tội lỗi và những hiệu quả của tội. Họ mãi chờ mong cho đến ngày được giải thoát. Nhưng khi sự giải thoát đó đến trong Đức Kitô, thì con người lại chối từ ánh sáng Chúa ban, vì con người thích sống trong bóng tối tội lỗi hơn trong ánh sáng ơn nghĩa Chúa (Jn 3:19). Ngày Adong và Evà phạm tội là khởi đầu của một lịch sử con người trốn tránh Thiên Chúa, thay vì tìm đến Người để được ơn tha thứ. Ma quỉ thật khôn lanh trong vấn đề kìm kẹp con người với xích xiềng của tội lỗi. Lúc đầu hắn cám dỗ cho con người phạm tội; sau khi phạm tội rồi, hắn gieo vào lòng tội nhân những tư tưởng thất vọng, vì cảm thấy không xứng đáng được ơn tha thứ hay không thể thoát vòng tội lỗi. Rồi từ đó, hắng làm cho tội nhân không còn cảm thấy áy náy khi phạm tội. Lần đầu đánh bạc, mất mấy chục đã cảm thấy chua sót, nhưng rồi từ từ mất xe, mất nhà cũng chẳng thấy áy náy là bao.
Chính vì thế, để tiến vào ánh sáng, việc đầu tiên là phải nhận ra thực trạng tội lỗi và bất toàn của mình. Vì chỉ khi đó, con người mới được tận hưởng sự tự do của con cái Chúa vì không những họ sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, mà còn được ánh sáng huy hoàng của Chúa đem hy vọng cho tâm hồn, đem ý nghĩa đến cho cuộc đời, và sau cùng, được dự phần vĩnh phúc quê trên trời.
Trước hết, ánh sáng Chúa Kitô giải thoát con người khỏi tội lỗi. Nhân loại từ nay đã đổi chủ. Trước kia, con người làm nô lệ cho tội lỗi; nay nhờ sự chết và phục sinmh của Chúa Kitô, Thiên Chúa đã bẻ gãy xiềng xích tội lỗi, để từ nay con người có Thiên Chúa là Cha. Tin mừng cứu độ của Chúa soi sáng cho con người biết đâu là thiện ác, vì Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và Sự Sống. Trong mọi cảnh huống của cuộc đời Chúa soi sáng cho tâm hồn biết chọn điều thiện và tránh điều ác. Chính Chúa cũng là sức mạnh giúp con người chiến thắng tội lỗi.
Ánh sáng Chúa cũng đem lại niềm hy vọng cho những ai đang bị đè bẹp bởi những khổ đau của cuộc đời. Thế kỷ 21 này đem lại nhiều tiện nghi vật chất cho con người, nhưng những cảnh khổ đau, chiến tranh, hận thù, đói khát, vẫn còn xuất hiện khắp nơi. Chúa Kitô luôn kêu mời con người hãy đến với Người: "Hỡi những ai mỏi mệt và gánh nặng hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho các ngươi" (Mt 11:28). Chúa ban niềm hy vọng cho những ai phải đón nhận số phận phải chết, vì Chúa hứa ban phúc trường sinh cho họ (Jn 6:40). Trong những giây phút khổ sầu này, chính ánh sáng Chúa sẽ đem lại sự bình an và ý nghĩa cho cuộc đời con người.
Cũng như một tia sáng nhỏ cũng đủ đem lại tia hy vọng và sức sống cho một tu nhân, ước chi ánh sáng Chúa Kitô giải thoát chúng ta khỏi bóng đêm tội lỗi, và đem lại nguồn hy vọng và sức sống cho cuộc đời của chúng ta.
Một vùng kia ở nước Ịức, người ta kể cho nhau nghe một câu truyện thần thoại như sau: TN 3-A23
Một vùng kia ở nước Đức, người ta kể cho nhau nghe một câu truyện thần thoại như sau:
Có một Hoàng tử kia rất thích mặc những áo quần diêm dúa, thắt những đai lưng bằng vàng lộng lẫy và đeo những chiếc nhẫn quý giá. Đó là trang phục của ông mỗi lần ông ra mắt dân chúng vào những lúc bình minh ló rạng.Những ánh nắng của buổi ban mai làm tăng thêm nét đẹp trên khuôn mặt khôi ngô tuấn tú của ông. Mỗi lần như thế ông cảm thấy hạnh phúc tuyệt vời đang bao trùm đời sống ông, thêm vào những tiếng hoan hô vang dội, ca ngợi của dân chúng, làm ông rất hãnh diện về địa vị của ông.
Nhưng một ngày kia không biết vì lý do gì, hoàng tử đã ra chào dân chúng trễ hơn thường lệ, tức là lúc mặt trời đã đổ bóng nên lần đầu tiên ông đã nhìn thấy bóng mình in trên sân. Ông bực tức vì cái bóng đen đó. Ông liền lên ngựa muốn đi khỏi ngay nơi đây và tới một miền chỉ có ánh sáng chiếu tỏa, một nơi chỉ có những vẻ đẹp và tràn đầy hạnh phúc. Thế rồi ông đã ra đi về nơi ông mơ ước, cho tới ngày nay Hoàng tử đó vẫn còn đang trên đường rong ruổi.
Bài Tin mừng hôm nay cũng nhắc tới sự tối tăm, bóng chết, những cụm từ này mang trong cuộc sống chúng ta nhiều ý nghĩa khác nhau. Tối tăm, bóng tối sự chết có thể là bệnh tật thân xác nặng, nhẹ, những bệnh nan y: những sự buồn sầu, lo âu trong tâm trí, những thất vọng, những nỗi tuyệt vọng trong đời sống hằng ngày v...v... Đó là những lúc chúng ta đi trong quãng đường tăm tối, có những lần chúng ta cảm thấy phải mò mẫm lâu dài dường như không kiếm được lối thoát.
Nhưng qua bài Phúc âm, các Ngôn sứ đã đưa đến cho chúng ta một niềm hy vọng, một ánh sáng phá tan màn đêm, đó là chính Đức Kitô, người đã đến sống giữa nhân loại. Chúng ta chỉ cần biết lắng nghe Lời Người và đem ra thực hành trong cuộc sống thì chúng ta sẽ đến được nơi tràn ngập ánh sáng hạnh phúc vĩnh cửu mà Hoàng tử kia còn đang mải miết tìm kiếm.
Mỗi người hôm nay hãy nghe tiếng Ngài nhắc nhở: Hãy hối cải... để rồi chúng ta sẽ được vào đoàn dân mà các Ngôn sứ đã loan truyền: Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết.
Phụng Vụ Lời Chúa của Lễ Thánh Gia cách đây bốn tuần, như được phân tích, đã nói lên ba khía: TN 3-A24
Phụng Vụ Lời Chúa của Lễ Thánh Gia cách đây bốn tuần, như được phân tích, đã nói lên ba khía cạnh về ý nghĩa của lễ này: Chu kỳ Phụng Vụ Lời Chúa Năm A chú trọng đến vai trò bảo hộ của gia trưởng Giuse, Năm B đến thân phận đau thương của Mẹ Maria gắn liền với số phận khổ nạn của Chúa Giêsu Con Mẹ, và Năm C đến phận sự vâng lời của Chúa Giêsu là con trong Thánh Gia. Phụng Vụ Lời Chúa của chu kỳ Năm A, B và C cho Chúa Nhật Thứ III Mùa Thường Niên tuần này, nếu phân tích kỹ lưỡng về mối liên hệ của cả ba năm, cũng cho chúng ta thấy các khía cạnh khác nhau nơi ý nghĩa của Mầu Nhiệm Chúa Kitô: Phụng Vụ Lời Chúa Năm A nhấn mạnh đến khía cạnh về đối tượng phổ quát của sứ vụ Chúa Kitô đó là Dân Ngoại, Năm B đến khía cạnh về phương tiện để Chúa Kitô có thể vươn tới đối tượng này đó là việc tuyển mộ các môn đồ, (phải chăng chính vì lý do này mà trong bài Phúc Âm Năm A hôm nay, dù có đoạn về việc tuyển mộ các môn đệ tiên khởi, Giáo Hội cũng không buộc đọc, vì việc tuyển môn đệ này liên quan đến chủ đề của Năm B), và Năm C đến khía cạnh về tác nhân để Chúa Kitô có thể hiện thực sứ vụ của mình đó là Thánh Thần.
Thật vậy, Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật III Mùa Thường Niên hôm nay thực sự đã nhấn mạnh đến khía cạnh đối tượng phổ quát của sứ vụ Chúa Giêsu. Đối tượng đó là gì, nếu không phải là tất cả mọi dân nước. Bởi vì, Phúc Âm Thánh Mathêu đã mở màn sứ vụ của Chúa Giêsu khi thuật lại điểm xuất phát của Người từ miền đất Dân Ngoại như thế này: "Khi nghe thấy Gioan bị tống ngục, Chúa Giêsu liền rút về Galilêa. Người rời Nazarét mà đến sống ở Capernaum ven biển, gần địa hạt Zebulun và Naphtali, để hoàn tất những gì đã được tiên tri Isaia đã nói". Tiên tri Isaia đã nói như thế nào đều được Giáo Hội trích lại ở bài đọc một, những lời cũng đã được Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay trưng dẫn: "Đất Zebulun, đất Naphtali dọc theo biển bên kia sông Dược Đăng, phần đất Galiêa thuộc dân ngoại, đó là thứ dân sống trong tăm tối đã được thấy ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đã mọc lên trên những ai ở trong vùng đất tối tăm sự chết".
"Ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đã mọc lên trên những ai ở trong vùng đất tối tăm sự chết" đây là gì, tuy tiên tri Isaia không nói rõ, song theo chiều hướng của bài Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay, thì đó là chính Chúa Giêsu. Ngay câu mở đầu bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu cho chu kỳ phụng vụ Năm A (cũng như chu kỳ Năm B) hôm nay đã cho chúng ta thấy rõ điều này, thấy rằng Chúa Giêsu thực sự là "ánh sáng" như được tiên tri Isaia nói tới, ở chỗ, Thánh Mathêu viết: "Khi nghe thấy Gioan bị tống ngục, Chúa Giêsu liền rút về Galilêa". Thật vậy, đèn chỉ được tắt đi hay bị lu mờ đi khi ánh sáng bắt đầu lên thế nào, thì Chúa Giêsu cũng chỉ bắt đầu công khai tỏ mình ra "khi nghe thấy Gioan bị tống ngục", tức khi Gioan Tẩy Giả (Jn 5:35) "là đèn soi" một thời của dân Do Thái đang bị nhục dục con người (nơi Hêrôđê) dập tắt. Cho dù có bị quyền lực loài người dập tắt đi nữa, tinh thần của Gioan Tẩy Giả đã được phản ảnh nơi câu đầu của bài Đáp Ca trích Thánh Vịnh 27 hôm nay: "Chúa là ánh sáng và là ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ chi ai?" Và tia đầu tiên phát ra từ "Ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đã mọc lên trên những ai ở trong vùng đất tối tăm sự chết" là gì, nếu không phải là những lời đầu tiên mở màn cho sứ vụ của Chúa Giêsu, những lời làm nên tất cả sứ điệp Phúc Âm của Người, một sứ điệp Người đã loan báo tại miền đất của Dân Ngoại này, tức là sứ điệp Người có ý muốn gửi cho chung tất cả loài người, chứ không phải cho riêng dân Do Thái. Sứ điệp đó là: "Hãy cải thiện đời sống! Nước Trời đã đến".
Lời Loan Báo Tiên Khởi: Ý Nghĩa
Trong sứ điệp thực sự làm nên tất cả Phúc Âm của Chúa Giêsu này, chúng ta thấy rõ ràng có hai vế hay hai yếu tố: vế nhân sinh (cải thiện) và vế thần linh (Nước Trời), hay yếu tố đức tin (cải thiện) và yếu tố mạc khải (Nước Trời). Nếu "mạc khải" là tỏ ta, là tỏ cho thấy, thì với tư cách là "Ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đã mọc lên trên những ai ở trong vùng đất tối tăm sự chết", Chúa Giêsu chính là Mạc Khải Thần Linh, là "tất cả sự thật" (Jn 16:13) Thiên Chúa muốn tỏ cho loài người biết về bản thân Ngài cũng như về ý định cứu độ của Ngài, đến nỗi, như chính Người khẳng định: "Ai thấy Thày là thấy Cha" (Jn 14:6).
Như thế, nếu Chúa Giêsu "đến để làm chứng cho chân lý" (Jn 18:37) tức là Người đến để đồng thời vừa làm chứng về chính mình Người, vừa để "tỏ Cha ra" (Jn 1:18) qua chứng từ của Người và bằng chứng từ của Người. Đó là lý do trong Phúc Âm của Thánh Gioan ở đoạn 6 câu 38, Người đã tuyên bố với dân Do Thái rằng: "Tôi từ trời xuống không phải để làm theo ý riêng của mình mà là ý của Đấng đã sai Tôi". Nếu "Nước Trời" là tất cả Mạc Khải Thần Linh, tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ ra và muốn hiện thực nơi loài người, thì Chúa Giêsu cũng chính là "Nước Trời". "Nước Trời đã đến" đây tức là Đấng Thiên Sai đã đến. Phúc Âm theo Thánh Marcô thuộc chu kỳ phụng vụ Năm B hôm nay cho chúng ta thấy rõ hơn về mối liên hệ bất khả phân ly đến độ đồng hóa giữa Đấng Thiên Sai và Nước Trời đây, khi lập lại lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu dài hơn lời của Người trong Phúc Âm theo Thánh Mathêu. Lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Marcô là: "Thời điểm đã trọn. Nước Thiên Chúa đã đến! Hãy cải thiện đời sống và tin vào phúc âm". Lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Marcô này, nhất là phần đầu, phần liên quan đến Mạc Khải Thần Linh, đã được phản ảnh qua lời xác tín của Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái, đoạn 1 câu 2, về thời điểm tột đỉnh của Mạc Khải Thần Linh cũng như về nội dung của tất cả Mạc Khải Thần Linh như sau: "Vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua Con của Ngài".
Trong Thông Điệp Redemptoris Missio, ban hành ngày 7/12/1990, kỷ niệm 25 năm Sắc Lệnh của Công Đồng Chung Vaticanô II về việc truyền giáo "ad gentes - cho muôn dân", ĐTC Gioan Phaolô II, ở đoạn 15.2 và 18.2, đã xác định rõ ràng mối liên kết Nước Trời, hay Nước Thiên Chúa với Mạc Khải Thần Linh cũng như với bản thân của chính Chúa Giêsu như sau: "Nước Thiên Chúa là trọn vẹn dự án cứu độ của Thiên Chúa được biểu lộ và hiện thực" (15.2); "Nước Thiên Chúa không phải là một quan niệm, một tín lý hay một hoạch định muốn cắt nghĩa sao cũng được, mà trước hết là một con người, với dung nhan và danh xưng Giêsu Nazarét, hình ảnh của Thiên Chúa vô hình".
Nếu lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Marcô đi từ vế thần linh hay từ yếu tố mạc khải là "thời điểm nên trọn và Nước Thiên Chúa" đến vế nhân sinh hay đến yếu tố đức tin là "cải thiện và tin vào", thì lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Mathêu đã đi ngược lại với thứ tự này, tức đi từ vế loài người hay từ yếu tố đức tin là "cai thiện" trước rồi mới đến vế thần linh hay đến yếu tố mạc khải là "Nước Trời" sau. Tuy nhiên, chính cái ngược nhau về thứ tự nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu nơi hai Phúc Âm ấy đã làm cho vế nhân sinh hay yếu tố đức tin nơi lời loan báo tiên khởi này mặc một vai trò quan trọng không ít. Tức là, theo thứ tự nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Mathêu, thì con người cần phải có đức tin đã họ mới có thể nhận biết Đấng Thiên Sai, tức mới có thể tiếp nhận Nước Trời hay mới có thể vào Nước Trời: Đức Tin được thể hiện qua việc "cải thiện đời sống" chính là đường dẫn đến Mạc Khải Thần Linh, đến "Nước Trời". Cũng thế, theo thứ tự nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Marcô, thì dù Thiên Chúa đã đến lúc mạc khải tất cả mọi sự cho con người biết nơi Con Một của Ngài và qua Con Một Ngài, Đấng như Nước Thiên Chúa ở giữa loài người (x Lk 17:21), như "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt 1:23), con người cũng cần phải có đức tin, được thể hiện qua việc "cải thiện đời sống và tin vào phúc âm" nữa mới được cứu độ. Vì, "tin vào phúc âm" đây là gì, nếu không phải là trực tiếp tin vào chính Chúa Giêsu, vào Đấng Cha sai, và gián tiếp tin vào Thiên Chúa, vào Đấng sai Người, Đấng Người đến để "tỏ ra" (Jn 1:18) cho loài người biết qua chứng từ của Người, hay qua việc Người làm chứng về mình, tức qua việc "Nước Cha trị đến" vậy.
Vấn đề thực hành sống đạo:
Tại sao Kitô hữu giáo đoàn Côrintô, trong Thư thứ nhất Thánh Phaolô gửi cho họ cho biết là, chia rẽ nhau? "Phải chăng", như Thánh Phaolô đặt vấn đề với họ, "Chúa Kitô đã bị phân mảnh?" Thật ra, nếu tự mình Chúa Kitô chỉ là một, thì dù là Phaolô hay Appôlô hoặc Cêpha cũng chỉ rao giảng một Chúa Kitô duy nhất, một mạc khải thần linh duy nhất, một phúc âm duy nhất. Sở dĩ xẩy ra tình trạng chia rẽ nhau nơi họ là vì vấn đề đức tin nơi người thụ lãnh, đúng hơn, là vì con người lãnh nhận đức tin chưa hoàn toàn gắn bó với đức tin của mình, hay chưa thấu triệt đức tin của mình, cứ tưởng hay cứ đòi Chúa Kitô phải như mình nghĩ mới được. Như thế, nếu Kitô hữu chúng ta thời nay chia rẽ nhau khi cùng nhau hoạt động tông đồ thì không phải là chúng ta đã phân mảnh Chúa Kitô rồi hay sao? Nghĩa là chúng ta vẫn còn bị confused, bị lầm lẫn về Người. Đó là lý do chúng ta cần phải "cải thiện đời sống" để có thể và mới có thể chẳng những chấp nhận "Nước Trời" trong tâm hồn mình, mà còn phát triển "Nước Trời" bằng chứng từ truyền giáo của mình nữa!
Dù không phải là “khai quốc công thần”, nhưng sự chọn lựa của Chúa Giê-su đã làm cho 4: TN 3-A25
Dù không phải là “khai quốc công thần”, nhưng sự chọn lựa của Chúa Giê-su đã làm cho 4 Môn Đệ hôm nay trở thành “tứ trụ” cho việc thực hiện xây dựng Giáo Hội. Ta sẽ thấy ngoài An-rê, thì Phê-rô và hai anh em con ông Dê-bê-đê luôn là bộ ba được Chúa Giê-su đem theo ở những nơi riêng tư nhất: đỉnh Ta-bo, Vườn Cây Dầu. Ở đây, chúng ta muốn nhìn tới khía cạnh mà câu khôn ngoan của cha ông Việt Nam vẫn dặn dò: ”thuyền tam, bộ nhị”. Nó không chỉ nhắc nhở sự cẩn trọng, khôn ngoan về mặt tự nhiên, thể chất và cả tinh thần. Nó là kết tinh của những kinh nghiệm sống. Và Chúa Giê-su đã tôn trọng “luật” này, khi Người sai cứ hai Môn Đệ sát cánh với nhau đi vào mỗi làng, mỗi thành. Chúng ta cũng được sai đi và câu gần đây nhất mà vị đại diện của Người trên trần thế, Đức Gio-an Phao-lô 2, cũng kêu gọi: “Duc In Altum. Hãy ra khơi !”
Trước hết, ta sẽ nêu ra ba câu cho các tình huống:
Một là, không ai nắm chặt tay được suốt ngày, cho dù đó chỉ là một động tác đơn giản nhất. Nếu muốn giữ tư thế ấy lâu dài, thì phải để tâm liên tục và sự chú ý ấy mau chóng làm ta mệt mỏi, căng thẳng. Cũng thế, dù chỉ là một tờ giấy mỏng, nhẹ, thì khi đi đường xa, lâu giờ, ta vẫn phải liên tục đổi tay. Tự sức con người đơn độc thật mỏng dòn vậy thay !
Hai là, cho dù tài giỏi và khoẻ mạnh đến đâu, chẳng ai tự nắm tóc mình, rồi tự nhấc mình lên cao khỏi mặt đất, dẫu chỉ là một phân. Trong vô số điều của cuộc sống, nhất là giữa xã hội, con người càng thấy mình bị hạn chế về khả năng và ngày càng lệ thuộc vào người khác, không chỉ để hoàn thiện, mà ngay cả để sống còn.
Ba là, đi trong rừng rậm thì già phải theo trẻ, nhưng đi trong cuộc đời, thì rõ ràng trẻ phải dõi theo bước chân già. Đó là ý nghĩa của câu người xưa vẫn nói: khôn đâu phần trẻ, khoẻ đâu tới già !
Tóm lại, càng sống, càng suy tư, hành động, con người càng thấy mình bị hạn chế. Giảm thiểu những hạn chế ấy ra sao ? – Đó là điều ta cần xét !
Con người không phải là cái máy hoặc là robbot, mà cái máy hoặc robbot thì cũng hoàn toàn bị giới hạn trong một số động tác, chức năng được thiết kế, lập trình sẵn. Cái gọi là “trí thông minh”. Kể cả nay mai đi tới chổ biểu lộ một số tình cảm - cũng là được lập trình, cài đặt sẵn. Câu La-tinh “errare humanum est” rất có thể hiểu: là con người, sao khỏi lầm lỗi khiếm khuyết ! Tự khiếm khuyết, cho ta thấy con người và là xuất phát điểm của sự canh tân, hoàn thiện: những khả năng chỉ có nơi người ! Vì vậy, thiếu sót, lầm lỗi, yếu đuối, kể cả tham sân si và hỉ nộ ái ố không phải là những thứ hạ thấp giá trị con người, hoặc gây tuyệt vọng, chán nản, buông xuôi. Trái lại, nó cho ta ý thức hơn về thân phận người và sự lệ thuộc vào Thiên Chúa, thấy rõ hơn để củng cố lòng tin nơi quyền năng Chúa, tiếp đến nơi lòng nhân hậu của Chúa và sau cùng là nơi sự quảng đại bao dung của Người đối với loài phàm hèn tội lỗi là chúng ta.
Song điều Chúa còn muốn chúng ta để tâm hơn nữa. ấy là sự liên đới và các tương quan giữa người với người, xuất phát từ các tình huống cụ thể, vật chất, rồi đến tinh thần và tâm linh. Chúa đến cứu độ nhân loại, phải cần đến sự cộng tác của Mẹ Ma-ri-a. Chúng ta nhận Chúa và đem Chúa đi, đều làm trong Hội Thánh, với Hội Thánh và nhờ các Bí Tích mà Chúa đã trao cho Hội Thánh. Chính Hội Thánh cũng hoạt động nhờ Chúa Thánh Thần hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Giê-su, trong khi không được bỏ quên vai trò của Mẹ Ma-ri-a. Vì vậy việc suy nghĩ, hành động như chỉ có một mình, không liên kết với ai, thì hoa trái, nếu có, cũng chẳng có chút giá trị cứu rỗi nào, ngoài sự kiêu ngạo, là điều mà ma qủy rồi tổ tông xưa đã sa vào: nhận biết Sự Dữ và Sự Lành, nhưng chỉ nhận được Sự Dữ và tâm trí nghiêng chiều theo Sự Dữ !
Giáo Hội Duy Nhất, Thánh Thiện, nhưng Giáo Hội không phải là một bức tranh toàn cảnh hoàn chỉnh, gồm và từ những miếng ghép hoàn chỉnh. Người tín hữu cũng không phải là những miếng ghép được định hình sẵn. Trái lại, phải mài những góc cạnh, phải điều chỉnh thế nào, để có thể ăn khớp tròn trịa với ô trống dành cho mình, hoà nhập và hoà hợp với hết thảy mọi ô trống khác, mà không làm kẻ thân cận xây xát, đau khổ, phải thích ứng theo mình. Giáo Hội còn là con thuyền, ở đó không có chỗ cho những người ích kỷ, làm theo ý riêng, bởi vì sẽ làm cho mọi người khốn khó lao đao. Trên biển trần gian, hơn nơi nào hết, phải có sự tương trợ.
Vì thế, một Giáo Dân sống chỉ biết mình, ích kỷ, bất chấp lợi ích tinh thần và linh hồn của anh em khác, thì chưa kể gây hại cho cộng đoàn, mà chính bản thân tự mâu thuẫn, tự chuốc lấy đau khổ, thiếu thốn. Một Linh Mục nghĩ mình là “vua” một cõi, thì ngoài sự “vô sinh” trong mục vụ, còn tự gây hại to lớn cho mình, khi thiếu khôn ngoan chiến đấu chống lại thế lực vô cùng mạnh mẽ, tinh khôn của hoả ngục. Phần thua đã rõ mười mươi !
Tạ ơn Chúa, vì chính những khiếm khuyết nơi con người chúng ta, về thể chất và về tinh thần, để chúng ta bớt sự kiêu căng và để chúng ta thấy gần nhau, cần nhau, trong cuộc sống cho dù ở bậc nào, nhưng nhất là trong việc xây dựng Nước Chúa, xây dựng Giáo Hội. Tự ái, tự mãn, tự kiêu là những điều chỉ xảy đến với những người quên mất tầm quan trọng, ý nghĩa và cách làm của chính Chúa Giê-su: thuyền tam, bộ nhị ! Đó là căn bản để thực hiện mọi sứ mệnh !
“Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” ( Mt 4, 19 ).
Lời mời gọi của Đức Giê-su đã làm thay đổi số phận của những con người lênh đênh trên biển: TN 3-A26
“Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” ( Mt 4, 19 ). Lời mời gọi của Đức Giê-su đã làm thay đổi số phận của những con người lênh đênh trên biển hồ Ga-li-lê ngày trước. Họ đã bỏ chài lưới, bỏ thuyền, bỏ cả cha mẹ lại mà đi theo Người làm nghề “lưới người”. “Hãy theo tôi”, 4 Môn Đệ đầu tiên: Phê-rô, An-rê, Gio-an, Gia-cô-bê đã đáp trả tiếng gọi, đi theo Đức Giê-su và trở nên cột trụ của Giáo Hội.
Phê-rô được Chúa chọn làm Tảng Đá “Đức Giê-su đã nhìn ông Si-mon và nói: “Anh là Si-mon, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” ( Ga 1, 42 ). “Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời.” ( Mt 16, 17 ).
Chúa Nhật 3 hôm nay, Phúc Âm kể về ơn gọi của bốn Môn Đệ đầu tiên. Xin được suy niệm về Thánh Phê-rô, vị Tông Đồ trưởng, vị Giáo Hoàng tiên khởi của Giáo Hội, một con người với nhiều lầm lỗi, yếu đuối nhưng rất nhiệt thành, can đảm, xác tín, chân thành và tràn đầy lòng mến.
Có thể chia cuộc đời Thánh Phê-rô làm hai phần: Cuộc đời phần một từ khi theo Chúa Giê-su ở biền hồ Ga-li-lê ( Mt 4, 12 – 23 ) đến lúc chối Thầy ( Ga 18, 25 – 27 ). Cuộc đời phần hai từ khi theo Thầy ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a ( Ga 21, 1 – 19 ) cho đến cuối đời tử đạo ở Rô-ma ( x. “Cô đơn và sự tự do”, Lm Nguyễn Tầm Thường, Dòng Tên ).
1. Cuộc đời phần một
Cuộc đời phần một của Phê-rô có đặc điểm là đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác. Góp nhặt những đoạn Phúc Âm nói về Phê-rô sẽ thấy một mảnh đời phần một của Ngài có nét chân dung: vị Tông Đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.
- Mắng lần thứ nhất: Quân yếu tin ! ( Mt 14, 31 ). Vào một đêm, Chúa Giê-su hiện ra đi trên biển. Chưa có ai đi trên biển bao giờ. Các Môn Đệ thấy vậy liền hoảng hốt la lên: “Ma kìa !” Chúa Giê-su bảo không phải là ma mà là Thầy đây. Các Môn Đệ bán tín bán nghi, Phê-rô thách đố: “Nếu là Thầy thật, hãy truyền cho tôi đi trên mặt nước mà đến với Thầy”. Người ấy truyền cho Phê-rô: Hãy đến ! Phê-rô liền bước xuống biển đi nhẹ nhàng, nhưng rồi ông ngờ vực nên bị chìm xuống. Sợ hãi quá đỗi, Phê-rô van xin: “Lạy Thầy, xin cứu con”. Đưa tay cứu Phê-rô lên, Chúa mắng: “Quân yếu tin !”
- Mắng lần thứ hai: Ngu tối ! ( Mt 15, 16 ). Có lần tranh luận với các Pha-ri-sêu về tập tục rửa tay trước khi ăn, Chúa Giê-su nói: “Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế nhưng cái từ miệng xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế” ( Mt 15, 11 ). Chúa ám chỉ tâm địa trong lòng xác định tốt xấu chứ không phải hình thức tập tục bên ngoài. Có Môn Đệ lại hỏi: “Xin Thầy giải nghĩa cho chúng con !” – “Đến bây giờ rồi anh em còn ngu tối đến vậy sao ?” Người bị mắng đó là Phê-rô. Cụm từ “Đến bây giờ rồi” cho ta cảm tưởng là đã hoài công dạy dỗ mà vẫn không khá, nghĩa là chậm hiểu, cho đến bây giờ mà vẫn còn chậm như thế.
Mắng lần thứ ba: Xa-tan ! ( Mc 8, 33 ). Lần này Chúa mắng Phê-rô một cách thê thảm. Chúa bảo Phê-rô là Xa-tan khi Phê-rô can ngăn Chúa đừng lên Giê-ru-sa-lem chịu khổ nạn.
Đọc Phúc Am, ta thấy càng ngày Chúa càng mắng Phê-rô nặng hơn. Đến cuối đời còn mắng thêm một lần nữa. Chuyện xảy ra lúc các thượng tế, binh lính cùng gậy gộc đến bắt Chúa trong Vườn Cây Dầu, Phê-rô rút gươm. Nhưng Chúa đã trả lời hành động ấy: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Hay ngươi tưởng Ta không thể cầu cứu với Cha Ta cấp cho Ta ngay mười hai cơ binh thiên thần sao ?” ( Mt 26, 52 ).
Nhìn lại cuộc đời Phê-rô, thấy Chúa mắng nhiều hơn khen. Chỉ có một lần khen, khi Chúa hỏi các Môn Đệ: “Các con nghĩ Thầy là ai ?” Phê-rô tuyên tín: “Thầy là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa khen: “Này anh Si-mon, con ông Giô-na, anh thật có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trênTrời” ( Mt 16, 16 – 17 ). Như vậy là Thần Khí Chúa nói, nếu không do Thần Khí thì Phê-rô không biết sẽ nói Chúa là ai.
Môn Đệ đi theo Chúa bị mắng nhiều hơn khen. Lần nào Chúa cũng mắng Phê-rô trước đám đông. Điều lạ lùng là Phê-rô không bao giờ giận Chúa, không lúc nào bỏ Chúa mà vẫn luôn xác tín ”Bỏ Thầy con biết theo ai ?” Điều hết sức huyền nhiệm là Chúa lại chọn kẻ bị mắng ấy làm Tảng Đá để xây dựng Giáo Hội và trao chìa khoá Nước Trời.
Thánh Phê-rô là con người yếu đuối hay lầm lỗi nhưng rất chân thành và tràn đầy lòng yêu mến Thầy. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, Thánh Phê-rô đã bộc lộ sự yếu đuối và lòng mến của mình cách rõ ràng nhất. Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phê-rô đã chối Thầy đến ba lần. Phê-rô chối Thầy vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy. Trước cái chết của Thầy, Phê-rô rùng mình sợ hãi, tìm đường chạy trốn. Lúc bình tĩnh lại, đối diện với sự yếu đuối và vấp ngã của mình, Phê-rô đã khóc lóc hối hận, nước mắt ăn năn nhạt nhoà khuôn mặt hốc hác hằn những nếp nhăn. Gà gáy lần thứ ba, Phê-rô nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông oà khóc nức nở như một đứa trẻ, khóc thoả thích, khóc cho vơi hết bao sầu muộn chất chứa trong lòng.
Cuộc đời Thánh Phê-rô là sự giằng co giữa yếu đuối và dũng cảm, giữa trọn vẹn và dang dở. Trái tim Ngài có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Sứ vụ Tông Đồ có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Chính trong sự vấp ngã vì yếu đuối, cuộc đời phần một của Thánh Phê-rô vẫn luôn có một tấm lòng yêu mến, gắn bó với Chúa.
2. Cuộc đời phần hai
Cuộc đời phần hai là một thiên anh hùng ca. Sứ mạng theo Đức Ki-tô nơi phần hai của cuộc đời Thánh Phê-rô là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca được khởi đầu từ sự kiện Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra và ban cho các Môn Đệ mẻ cá lạ lùng ( Ga 21, 1 – 19 ).
Chúa hỏi Phê-rô: “Anh có yêu mến Thầy không ?” Phê-rô đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Phê-rô trả lời câu hỏi ấy với tất cả chọn lựa cân nhắc. Chúa hỏi Phê-rô đến ba lần: “Con có yêu mến Thầy không ?” Phê-rô xác định cả ba lần, càng về cuối càng cương quyết hơn. Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến chối nặng thì Phê-rô ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu. Sau ba lần đáp lại là một bình minh rửa tội quá khứ. Sau ba lần đáp trả lòng mến chân thành của Phê-rô Chúa Giê-su giao phó sứ o6”Hãy chăn dắt đoàn chiên của Thầy”.
Nhìn lại cuộc đời của Thánh Phê-rô, chúng ta thấy một điều rất rõ là trong trái tim vị Tông Đồ lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo Phê-rô là Xa-tan thì Phê-rô cũng không giận Chúa. Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phê-rô cũng yêu mến Chúa. Không phải Phê-rô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phê-rô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng Đá.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa Giê-su không trao Giáo Hội cho một người trí thức thông thái, có tài lãnh đạo, có uy tín, mà Chúa lại trao Giáo Hội cho Phê-rô, một Tông Đồ nhiều khuyết điểm, bị la mắng nhiều hơn khen ngợi ? Chắc chắc nơi Phê-rô có một lòng mến Chúa thiết tha. Sau ba lần hỏi: “Con có yêu mến Thầy không ?” Và sau ba lần Phê-rô xác định tình yêu ấy, Chúa Giê-su trao Giáo Hội cho Ngài. Ngài vâng lời Chúa về Giê-ru-sa-lem, bài giảng đầu tiên hùng hồn mang về cho Chúa 3.000 người xin rửa tội. Kể từ đó Ngài đi vào cánh đồng truyền giáo bao la là thành đô Rô-ma. Đối diện với gian nguy bắt bớ tù đày, Thánh Nhân đã can trường làm chứng cho Đức Giê-su Phục Sinh. Ngài đã lấy máu đào tử đạo minh chứng cho lòng yêu mến Thầy. Ngài đã viết nên trang sử vàng, hào hùng, vẻ vang cho Giáo Hội sơ khai.
Lòng khiêm nhường, lòng mến Chúa của Thánh Phê-rô, kinh nghiệm về ơn tha thứ của Chúa, tất cả đều dẫn đưa Thánh Nhân đến với tình yêu của Chúa. Nhờ tình yêu Chúa dẫn lối mà Ngài đã đi bất cứ nơi nào Chúa muốn, cho dẫu nơi đó là ngục tù, là cái chết, bởi lẽ vì tình yêu của Chúa lớn hơn tất cả.
Lòng mến Chúa sẽ mở cửa cho người tín hữu chúng ta đi vào Nước Trời. Chúa không đòi hỏi nơi mỗi người sự khôn ngoan, tài năng. Chúa chỉ cần lòng mến “con có yêu mến Thầy hơn những người này không ?” Khi yêu mến Chúa chúng ta sẽ làm mọi sự đẹp lòng Chúa. Lòng mến là thước đo cho mọi giá trị đạo đời.
Nếu CN tuần trước phụng vụ giới thiệu cho chúng ta một Đức Kitô là Tôi Tớ khiêm hạ của Thiên: TN 3-A27
Nếu CN tuần trước phụng vụ giới thiệu cho chúng ta một Đức Kitô là Tôi Tớ khiêm hạ của Thiên Chúa, là Đấng đến để phục vụ chương trình cứu độ trong tư thế của một Người Con khiêm nhu, vâng phục, hy sinh…, thì CN hôm nay, PV giới thiệu cho chúng ta một Đức Kitô Ngôn Sứ, một Đức Kitô loan báo Tin Mừng, một Đức kitô truyền giáo, một Vị Thừa Sai, một Nhà Giải Phóng. Vâng, Đức Kitô đến để giải phóng chúng ta, để giải phóng nhân loại khỏi vòng tăm tối của quỉ ma, tội lỗi và sự chết, để đem tất cả vào sự sáng của niềm vui ơn cứu độ. Niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu-Kitô là như thế; và đó cũng chính là niềm hy vọng, là lẽ sống, là chân lý vĩnh hằng mà chúng ta sẽ không gặp được ở bất cứ một nơi nào khác.
Giảng Lời Chúa:
1. Một thế giới luôn có bóng tối
Sau biến cố Tổ tông loài người sa ngã, cửa địa đàng đóng lại, có thiên thần cầm gươm lửa đứng canh, tổ tông loài người bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng để lầm lũi bước đi trong thương đau khổ lụy…để rồi sau đó phải chứng kiến nào bạo lực, nào rẻ chia, nào hồng thủy, nào chiến tranh loạn lạc…
Mấy lời kinh thánh đơn sơ đó đã diễn tả thân phận loài người và thế giới mà loài người sinh sống ngay từ đầu đã mang dấu vết của bất toàn, của đổ vỡ, của lầm than của bóng tối.
Mới đây, ngày 26.12 vừa qua, một đợt sóng thần khủng khiếp đã khiến trên 200.000 ngàn con người trong tích tắc đã bỏ mạng, hàng triệu người trở thành chiếu đất màn trời, hàng ngàn trẻ thơ vô tội biến thành mồ côi…Và mỗi ngày, trên hành tinh nầy, cúng ta chứng kiến bao nhiêu chuyện đáng buồn cứ liên tục xảy ra, liên tục phát triển: khủng bố, chiến tranh, phá thai, ly dị, cướp bóc, hận thù, và bao nhiêu tội ác ngập tràn…Quả thật, thế giới của chúng ta hôm qua, hôm nay và ngày mai là một thế giới đã hằn sâu vết thương của tội nguyên tổ, một thế giới đang bị những thế lực của bóng tối, của tội lỗi và ma quỷ quậy phá, lũng đoạn.
2. Một thế giới được nâng lên, được cứu chuộc:
Nhưng chính trong thế giới nầy, chứ không một thế giới nào khác, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm nguời, đã cắm lều cư ngụ giữa chúng ta:
- Ngài sinh ra trong chế độ của một bạo chúa: Hêrôđê.
- Ngài lớn lên trong một đất nước đang bị ngoại bang xâm lăng: It-ra-en đang thời bị đế quốc Rôma đô hộ.
- Ngài sống trong một xã hội mà tôn giáo đang xuống cấp và phân rẽ, bạo lực gia tăng, giàu nghèo cách biệt, bệnh hoạn tật nguyền tràn ngập khắp nơi…
Chính Tin mừng Matthêô hôm nay đã ấn chứng thêm điều đó khi tường thuật việc Chúa Giêsu đến với vùng dân ngoại bên kia bờ sông Giođan, dân Náp-ta-li, dân Dơ-vu-lon, để loán báo tin Mừng cho họ. Phải chăng đó cũng chính là điều mà bài đọc 1 hôm nay, I-sa-ia đã tiên báo: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiéu rọi…”
Chính trong bối cảnh đó, Đức Giêsu thành Na-da-rét đã công bố một Tin Vui: “Nước Thiên Chúa đã đến đây rồi”, “lời ngôn sứ hứa hẹn tiên báo ngày xưa nay đã trở thành hiện thực”. Và điều kiện để gặp được, để đi vào Vương Quốc đó lại chính là một cuộc “cách mạng nội tâm”, một cuộc “đổi đời từ căn bản”, một cuộc hoán cải trở lại, metanoia dứt dạc, tận cùng từ trái tim đến hành động, từ quan niệm đến thực hành:
- Thay vì ích kỷ thủ lợi cho mình hãy biết quảng đại cho đi
- Thay vì tham lam thu vén cho đầy túi hãy biết gạt bỏ để sống siêu thoát, khó nghèo giản đơn.
- Thay vì nhầy nhụa vẫn đục dâm ô, hãy vươn cao với cõi lòng thanh tao trong sáng.
- Thay vì khao khát nắm quyền để đàn áp bóc lột, cầm quyền sinh sát, hãy biết quỳ xuống khiêm hạ rửa chân và phục vụ anh em.
- Thay vì bạo loạn, gây hấn, chuốc oán hận thù, hãy làm lành làm phúc, xây dựng hòa bình…
Cứ chấp nhận những đòi hỏi ấy đi, cứ thực hành các nguyên tắc của “Tám Mối phúc thật” đi, tức khắc một thế giới mới sẽ được khai sinh, một nhân loại mới sẽ được cứu chuộc.
Kể từ buổi chiều Thứ Sáu cách đây 2000 năm trên ngọn đồi Can-Vê ngoại thành Giê-ru-sa-lem, khi Đức Kitô công bố Tin Vui cuối cùng: “Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với ta”, thì mỗi giờ, mỗi ngày đều có một thế giới mới được khai sinh, một “vương quốc của sự thật, sự sống, công bình và yêu thương” dần dần ló dạng ở cuối chân trời.
- Vâng, một thế giới mới khai sinh cùng với Hội Thánh khi Hội Thánh họp nhau cử hành phụng vụ.
- Một thế giới mới được khai sinh cùng với bao tâm hồn thánh thiện đã sống trọn vẹn con đường của Phúc âm.
- Một thế giới mới sẽ tiếp tục được khai sinh với bao thế hệ chứng nhân tông đồ hăng say lên đường thực thi sứ vụ truyền giáo.
- Và một thế giới được khai sinh cùng với bao cuộc đời âm thầm khiêm hạ chắt chiu từng giọt mến Chúa, từng giây yêu người trong những tăm tối đời thường nhưng vẫn hân hoan trong niềm tin yêu hy vọng.
Vâng, bao lâu còn có những người Kitô hữu, còn có những con người biết sống xả kỷ yêu thương, biết phục vụ quên mình, biết trung thành với ơn gọi và sứ mệnh là bấy lâu bóng tối của sự dữ sẽ bị đẩy lùi để nhường chỗ cho một thế giới mới tràn ngập ánh vinh quang của Thiên Chúa.
Sứ điệp phụng vụ hôm nay không cho phép chúng ta sống tiêu cực và nản lòng trước một thế giới đầy thương tích, một cuộc sống vẫn dở dang…Bởi vì Thiên Chúa không thể cứu độ con người theo kiểu “mì ăn liền”, mà Ngài gọi mời chúng ta cọng tác, dấn thân và lao mình về phía trước. Điều quan trọng cũng cần chúng ta lưu ý mà thư thánh Phaolô gởi giáo đoàn Cô-rinh-tô trong bài đọc hôm nay đang nhắc khéo đó chính là: phải hiệp nhất, yêu thương, nên một, phải liên kết như cành nho trong thân nho, như chi thể trong thân thể, để làm nên một sức mạnh tổng hợp, một thế đứng mạnh mẽ. Bởi vì không phải A-pô-lô hay Phaolô nhưng chính Thiên Chúa và công cuộc cứu độ của Ngài mới là cùng đích.
Sau hết, nếu chúng ta đã cố gắng hết mình mà sao thấy cuộc đời nầy, thế giới nầy vẫn chưa có gì chuyển biến, thì ta hãy học kinh nghiệm này của Ludovic Giraud qua mấy dòng cuối của lời kinh của ông:
Và khi trên cánh đồng truyền giáo
Con đã không ngừng gieo vãi
Thế mà không thấy gì mọc lên,
Thì xin Chúa cho con giữ trọn niềm vui,
Xác tín rằng một ngày nào đó,
Vào giờ của Chúa
Nhờ lời nói và những cố gắng của con,
Rốt cuộc thì Chúa sẽ thống trị trên vũ hoàn. Amen.
Bài Tin Mừng này gồm 2 đoạn: a. Tóm lược nội dung lời rao giảng của Chúa Giêsu: Ngài nói: TN 3-A28
Bài Tin Mừng này gồm 2 đoạn:
a. Tóm lược nội dung lời rao giảng của Chúa Giêsu: Ngài nói “Nước Thiên Chúa đã đến gần” ; Ngài cho biết điều kiện để được vào Nước ấy là “Hãy sám hối”.
b. Ơn gọi của những môn đệ đầu tiên. Qua đó ta biết được những điểm chính yếu của một ơn gọi:
- Chúa Giêsu “thấy” (động từ đầu tiên của cả 2 bài tường thuật): ơn gọi xuất phát từ sáng kiến của Chúa.
- “Hãy theo tôi”: được gọi tức là được mời đi theo Chúa Giêsu, chia xẻ sứ mạng của Ngài.
- “Lập tức”: mau mắn đáp trả lời Chúa gọi.
- “Hai ông bỏ (bài đầu “Bỏ chài lưới” ; bài sau “bỏ cha”) mà đi theo Ngài”: theo ơn gọi thì phải từ bỏ, kể cả tất cả những gì thân thiết nhất.
B.... nẩy mầm.
1. Sám hối: Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời.” Chúa nói: “Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa ?”. (Góp nhặt)
2. Paddy đang hồi phục sau ca mổ, ba bạn thân ghé thăm để khích lệ anh. Ngoài chuyện thăm hỏi, họ kể cho anh về những ca mổ họ nghe biết.
Một người nói: “Tôi nghe có một ca mổ họ để quên cái gạc trong bụng bệnh nhân và phải mổ để lấy ra”.
Người khác kể về ca mổ bác sĩ để quên kéo bên trong và bệnh nhân phải mổ lần nữa để lấy ra. Vừa nói xong, bác sĩ thực hiện ca mổ cho Paddy thò đầu vào cửa gọi lớn: “Có ai thấy mũ của tôi không ?” Và Paddy ngất đi.
Một lần xưng thú không chân thành giống như một ca mổ tồi tệ. Một vài thứ bị để quên và phải thực hiện một ca mổ khác để lấy ra. (Góp nhặt)
3. Người ta thường hiểu ơn gọi theo nghĩa hẹp là ơn gọi làm Linh mục, Tu sĩ. Nhưng thực ra mọi kitô hữu cũng đều được Chúa gọi để làm kitô hữu xứng đáng trong bậc sống của mình.
4. Khi Chúa gọi ai, việc đầu tiên là Ngài bảo người đó từ bỏ. Ơn gọi đầu tiên trong Cựu Ước là như thế: Thiên Chúa nói với Abraham “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi nhà cha ngươi...” (St 12,1). Ơn gọi đầu tiên trong Tân Ước cũng như thế: 4 môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu “lập tức bỏ chài lưới (bỏ thuyền, bỏ cha mẹ lại) mà theo Ngài” (Mt 4,20.22). Tất cả những ơn gọi khác cũng phải như thế thôi.
5. Hai người giáo dân đứng ngoài chợ nói chuyện với nhau:
- Anh nghĩ xem chúng ta có cần tiếp tay với Cha xứ để lo việc họ đạo không ? Người thứ nhất hỏi.
- Tôi cũng thường nghĩ đến điều đó. Nhưng khi tôi thấy chung quanh cha chỉ có một nhóm nhỏ những người thân tín thì tôi không muốn gia nhập nhóm nhỏ ấy nữa. Nảy giờ đứng bên cạnh đã nghe hết, anh chen vào:
- Đúng thế, chung quanh cha xứ chỉ có một nhóm nhỏ thôi. Nhưng các anh có biết tại sao không ?
- Tại sao ? Tại sao ? Xin cho chúng tôi biết với.
- Hồi cha mới đến xứ đạo, cha đã kêu mời mọi người cộng tác. Nhưng sau đó chỉ có một ít người đáp lời thôi. Đó là những người biết nói “VÂNG”. (Góp nhặt)
6. Có người hỏi nhà tâm lý Abraham Maslow tại sao số người dám bỏ tất cả để đi theo một lý tưởng quá ít. Ông giải thích rằng đó là vì họ sợ trở thành điều mà họ có thể trở thành. Trước một khả năng, họ vừa hứng thú mà cũng vừa sợ hãi.
Phần tôi, trước lời mời gọi dấn bước trong đức tin để theo Chúa Giêsu cách gần gũi hơn, tôi đáp ứng thế nào ?
7. “Tôi là gì, đó là quà tặng Chúa ban cho tôi. Tôi trở thành gì, đó là quà tặng tôi dâng lại cho Chúa.” (Vô danh).
Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um,một thành thuộc ven biển hồ Ga-li-lê,thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a nói: Này đất Dơ-vu-lun, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan, hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại ! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong bóng tối tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng:"Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần".
Trước hết và trên hết, Matthêu viết Phúc âm cho người Do thái, một người Do thái trước thuật: TN 3-A29
Trước hết và trên hết, Matthêu viết Phúc âm cho người Do thái, một người Do thái trước thuật để thuyết phục người Do thái, Matthêu chủ ý chứng minh rằng tất cả các lời tiên tri Cựu ước đều được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, bởi đó Ngài phải là Đấng Cứu Thế (Messia). có một câu thường được lặp đi lặp lại suốt cả sách đến 16 lần như một điệp khúc:"việc xảy ra như vậy để ứng nghiệm lời Chúa dùng đấng tiên tri mà phán rằng..."
Đức Giêsu là Vua Cứu Thế được tiên báo. Với biến cố lãnh phép rửa, Matthêu trình bày Ngài là Con Trời đến thi hành công tác cứu nhân độ thế. Với cám dỗ trong sa mạc, Matthêu cho thấy Ngài dùng phương pháp nào để thi hành công tác được trao cho. Với phân đoạn Phúc Âm hôm nay, Matthêu giới thiệu Chúa Giêsu bắt tay thực hiện công tác ấy.
Thời điểm để Con Trời bắt đầu chức vụ là việc Gioan bị cầm tù. Nhiệm vụ dọn đường của ông đã xong, vai phụ lui vào hậu trường để nhân vật chính xuất hiện. Chúa Giêsu biết đã đến lúc Ngài phải bắt tay vào việc.
Cần chú ý đến nơi Chúa Giêsu đi vào, Ngài đi vào xứ Galilê để bắt đầu chức vụ. Chúa Giêsu biết Ngài đang làm gì. Galilê là cực bắc của xứ Palestine, nó trải dài từ sông Litany ở phía bắc đến đồng bằng Ách-xa-lon ở phía nam. Về phía tây nó không được giáp bờ biển Địa Trung Hải vì dải đất ven biển thuộc quyền sở hữu của dân Phênixi. Đông bắc giáp với Syri, và giới hạn miền Đông là biển Galilê. Xứ Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam dài khoảng 60cs, nhưng dân cư sống đông đúc vì là miền đất phì nhiêu nhất Xứ Thánh. Đất hẹp, người đông, thời Giosephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15 ngàn dân. Chúa Giêsu đã khởi sự thi hành chức vụ trong vùng đất có rất đông người được nghe Ngài. Kết quả là đại đa số quần chúng được nghe Tin Mừng.
Galilê không những là xứ đông dân cư nhưng dân cư ở đó cũng có một cá tính đặc biệt. Galilê sẵn sàng mở cửa đón nhận những ý niệm mới. Giosephus nói về người Galilê:"bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích cãi vã. Tuy nhiên họ cũng là những người hào hùng nhất". Đặc tính bẩm sinh của người Galilê khiến việc truyền giảng cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới là do một số yếu tố:
- Tên Galilê trong tiếng Hêbơrơ là Galil, có nghĩa là vòng tròn. Toàn xứ còn gọi là Galilê của dân ngoại. Sở dĩ có tên đó là do sự kiện Galilê được người ngoại bang bao quanh. Phía tây có người Phênêxi, phía bắc và đông có người Syri, phía nam là địa phận của người Samari. Galilê là phần đất không tránh khỏi tiếp xúc với ảnh hưởng và tư tưởng dân ngoại trong toàn cõi Xứ Thánh Galilê buộc phải mở cửa để đón nhận những tư tưởng mới mà không nơi nào khác trong toàn cõi xứ Palestine bị như vậy.
- Những đường lớn của thế giới đều đi ngang qua Galilê. Con đường dọc biển chạy từ thành Đamas băng qua Galilê dẫn xuống Ai cập và Phi châu. Con đường về hướng Đông chạy qua Galilê đến những biên giới xa xôi. Sự lưu thông của thế giới băng qua Galilê. Xa tít về phía Nam thì Giuđê thu nhỏ lại vào một góc, cô lập, ẩn dật. Người ta thường nói:"Giuđê không có đường đi đâu hết, còn Galilê đi khắp nơi". Giuđê có thể dựng nên một hàng rào để chặn đứng những ảnh hưởng và tư tưởng ngoại bang, còn Galilê không bao giờ làm được như vậy. Galilê là miền dành cho những điều mới mẻ xâm nhập.
- Địa lý của Galilê cũng ảnh hưởng đến lịch sử của nó. Nhiều lần nó bị xâm lăng và những ngọn sóng ngoại bang tràn qua nhận chìm xứ. Nguyên thủy, vùng Galilê được chia cho phái Asê, Néptali và Giabulon khi dân Is-ra-en vào Xứ Thánh, nhưng những chi phái này không bao giờ thành công hoàn toàn trong việc đánh đuổi thổ dân Canaan, và ngay từ đầu dân cư Galilê đã là dân tạp chủng. Nhiều lần những cuộc xâm lăng của dân ngoại ở phía Bắc và phía Đông và từ Syri tràn xuống. Vào thế kỷ thứ 8 TC, người Assyri đã xâm chiếm hoàn toàn Galilê. Phần lớn dân cư bị lưu đầy và người ngoại bang đến định cư trong xứ. Dân Galilê không khỏi bị tiêm nhiễm một số lớn dòng máu ngoại bang... Lịch sử đã bắt buộc Galilê mở cửa đón nhận những dòng máu mới, những tư tưởng mới và những ảnh hưởng mới.
Những cá tính tự nhiên của người Galilê và sự chuẩn bị của lịch sử đã khiến Galilê thành một vùng trong xứ Palestine để một giáo sư mới, một sứ điệp mới có cơ hội được người ta nghe. Chính nơi đó Chúa Giêsu đã bắt đầu chức vụ và khởi sự loan báo sứ điệp của Ngài.
Thói quen của Matthêu là tìm trong Cựu ước điều gì có thể đúng như một lời tiên tri cho từng biến cố trong đời Chúa Giêsu. Ông đã thấy lời tiên tri như thế trong Isaia 9,1-2. Lời tiên tri đó nói về sự giải phóng những phần đất bị xâm chiếm, còn Matthêu lại thấy lời tiên tri đó tiên báo về ánh sáng Chúa Giêsu sẽ mang đến. Ánh sáng ấy được chiếu dọi qua sứ điệp được thu gọn:"hãy ăn năn vì Nước Trời đã gần đến". Sứ điệp bao gồm một mệnh lệnh đòi hỏi một tình huống mới là "hãy ăn năn". Ngài phán: hãy bỏ đường riêng mà trở về cùng Thiên Chúa. Hãy quay khỏi đất mà hướng về mặt trời. Hãy đổi hướng, đừng đi xa Chúa mà hãy tiến đến với Ngài! Mệnh lệnh đó trở nên cấp thiết vì thời trị vì của Chúa đã bắt đầu. Cõi vĩnh cửu đã xâm nhập thời gian. Thiên Chúa qua Chúa Giêsu đã xâm nhập thế giới, vì thế điều quan trọng hơn cả là con người phải chọn đúng phía và đúng hướng. Muốn thế thì phải nghe và theo Chúa Giêsu.
Có nhiều người nghe Ngài, nhưng Ngài chú ý tới hai cặp anh em. Họ đều là những ngư phủ hành nghề trên biển Galilê. gọi là biển nhưng chỉ dài 30 km và rộng 12 km, nên một người chu du nhiều nơi trên thế giới như Luca không gọi là biển nhưng chỉ gọi là hồ. Nó có hình bầu dục, phía trên rộng hơn phía dưới, và nằm trong vết nứt của vỏ địa cầu. Nó thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải tới 200 mét nên khí hậu ấm áp và miền phụ cận đất rất phì nhiêu. Đây là một trong những hồ đẹp nhất thế giới. Chúa Giêsu đang đi trên bờ hồ. Đang lúc đi Ngài gọi Phêrô và Anrê, rồi Giacôbê và Gioan. Không phải lần đầu tiên Ngài thấy họ hay họ thấy Ngài. Gioan kể lại ít nhất có vài người trong họ đã từng là môn đệ của Gioan Tẩy Giả, và đã được thầy mình giới thiệu về Ngài. Chắc chắn họ đã từng trò truyện với Ngài, nhưng giờ đây một lời thách thức quyết liệt đến với họ, thách thức họ cùng chia sẻ số phận với Ngài.
Thật lý thú khi chúng ta biết họ là hạng người nào. Họ không phải là những học giả uyên bác, hoặc những người có ảnh hưởng lớn, họ không giàu sang, không có địa vị trong xã hội. Họ cũng không phải là những người nghèo mạt mà chỉ là những công nhân bình thường không thân thế quan trọng mà chắc chắn cũng không có tương lai sán lạn. Chúa Giêsu đã chọn lựa những người tầm thường này tự hiến dâng mình. Với những người như thế Ngài có thể dùng họ làm bất cứ công tác nào. Họ là những người đánh cá, nhiều học giả cho rằng những ngư phủ lành nghề có một số đức tính thiết yếu sau đây để trở thành những tay đánh lưới người:
- Kiên nhẫn: phải biết kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi cá cắn mồi, nếu cứ sốt ruột và dời chỗ luôn thì không bao giờ thành người thợ câu được. Một tay lưới người giỏi cũng cần phải kiên nhẫn. Công việc truyền giảng và dạy dỗ rất hiếm có kết quả nhanh chóng. Chúng ta phải học tập chờ đợi.
- Bền chí: người ấy phải học không bao giờ ngã lòng, nhưng luôn luôn thua keo này bày keo khác. Thầy giảng dạy không được phép ngã lòng khi công việc dường như chẳng có kết quả gì. Thầy phải sẵn sàng làm lại!
- Can đảm: người Hi lạp thuở xưa, khi cầu khẩn các thần phù hộ, thì thường nói:"thuyền tôi quá nhỏ mà biển cả thì quá lớn". Người đánh cá phải liều mình đương đầu với sóng to gió lớn. Người giảng đạo tốt phải ý thức rằng bao giờ cũng có sự nguy hiểm trong việc nói chân lý cho người đời. Người rao giảng chân lý phải sẵn sàng hy sinh sự sống và danh dự của mình.
- Thấy thời cơ: người đánh cá khôn ngoan biết rõ thời điểm không có cá. Người ấy phải biết khi nào nên và khi nào không nên thả lưới. Người giảng đạo tốt phải biết chọn thời điểm. Có khi người đời hoan nghênh chân lý có lúc lại chối bỏ. Có khi chân lý cảm hóa lòng họ mà cũng có lúc khiến lòng họ cứng cỏi chống đối. Thầy khôn ngoan biết lúc nào phải nói và lúc nào nên yên lặng.
- Biết dùng mồi thích hợp: cá này ưa mồi này, cá khác thích mồi khác. Phaolô nói:"Tôi trở nên mọi cách đối với mọi người để may ra được một vài người". Người thầy khôn ngoan biết rằng cùng một cách trình bày thì không thể thuyết phục được hết mọi hạng người. Người ấy phải biết và thừa nhận những hạn chế của mình, phải khám phá ra những địa hạt mình có thể làm và địa hạt nào mình bị giới hạn.
- Biết ẩn mình: nếu ngư phủ lộ diện, dầu chỉ là cái bóng, cá cũng không cắn câu. Thầy giảng dạy khôn ngoan không bao giờ tìm cách giới thiệu mình mà giới thiệu Chúa Giêsu. Mục đích của thầy là khiến mắt người ta không chăm chú vào mình mà chăm chú vào chính Chúa Giêsu.
Để khởi đầu chức vụ Chúa Giêsu đã chọn lựa Galilê là miền đất được chuẩn bị kỹ lưỡng để tiếp nhận hạt giống Tin Mừng. Nơi phân đoạn Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu ý thức rõ rệt mình là Đấng Thiên Sai, biết Sứ mạng cứu nhân độ thế, biết phương cách để thi hành sứ mạng đó: đúng giờ, đúng nơi, đúng người. Nói kiểu Đông phương chúng ta: thiên thời, địa lợi, nhân hòa...
Sau khi trình bầy cuộc đời mai ẩn ở Nagiarét và sự xuất hiện của Chúa bên bờ sông Giođan: TN 3-A30
Sau khi trình bầy cuộc đời mai ẩn ở Nagiarét và sự xuất hiện của Chúa bên bờ sông Giođan, với những biến cố quan trọng như việc Chúa chịu phép rửa, việc chay giới trong sa mạc, Matthêô mở màn bước vào giai đoạn công khai rao giảng Tin Mừng.
Trước tiên, Mathêô cho ta thấy khung cảnh hoạt động tông đồ của Chúa. Chúa không chọn Nagiarét vì Nagiarét ở xa trục lộ giao thông và “không có tiên tri nào được trọng vọng trong chính quê hướng mình”
Chúa chọn một thành nhỏ sát biển hồ xứ Galilêa, một cảng nhỏ nằm về phía tây bắc gọi là Caphanaum, nhìn ra mặt biển từ đây được gọi là “biển của mọi dân tộc”, vì từ dây phát xuất một cuộc cách mạng đảo lộn cả thế giới.
Tiếng sấm sét của Gioan tiền hô đã tắt hẳn trong ngục tù Macheronte thì tiếng Chúa Giêsu lại vang vọng lên giữa núi đồi Galilêa: “Hãy ăn năn trở lại vì nước Trời đã gần đến”.
Tất cả Phúc âm đều ở đó: “Hãy ăn năn trở lại". Rồi đây, sau ngày Hiện xuống, các tông đồ lại công bố tiếp cục sứ điệp. Đây không phải là một lối tuyên truyền. Đây là đề tài rao giảng của các tiên tri, nhất là của Giêrêmia. Đây là đề tài của Chúa Giêsu. Dưới nhãn giới của các tiên tri “ trở lại" là một sự thay đổi định hướng, một quay trở về vô điều kiện với Thiên Chúa. Đối với Chúa Giêsu và Giáo Hội tiên khởi đây là một cuộc cách mạng tòan diện con người, một sự đổi mới hoàn toàn trong tư tưởng và hành động, một sự thanh tẩy tâm hồn.
Muốn vào Nước Trời, không phải trình thẻ mà trình một trái tim mới, một tinh thần mới. Trở lại là thay đổi một tâm trạng, một tinh thần. Tội lỗi làm cho chúng ta xa Chúa thì Chúa Giêsu đến đem chúng ta trở về.
Đây, như một ngư phủ đi ven bờ hồ tìm một nơi thuận tiện để thả lưới, Chúa Giêsu đi tìm... người. Ngài nhìn thấy hai thanh niên vạm vỡ đang thả lưới, Ngài gọi: "Này, hai anh hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các anh trở nên những kẻ đi bắt người”. Xa hơn một khoảng, Ngài gặp hai anh em đang sửa lưới, cũng một tiếng gọi và tất cả đã bỏ chài lưới, bỏ tất cả đi theo Ngài. Đó là Phêrô và Anrê. Đó là Gioan và Giacôbê. Phải chăng là một tiếng sét ái tình. Đúng hơn là một tiếng sét của ân sủng, được truyền cảm cho họ từ lâu. Nay là giờ quyết định. Ngài muốn có những cộng tác viên sống chết với Ngài hơn là những người chỉ nghe suông, những đồ đệ dám theo Ngài cho đến Giêrusalem, cho đến thập giá (Mt 16,24). Và, để được như vậy, phải bỏ tất cả: nghề nghiệp, gia đình, của cải. Bốn người thanh niên ấy đã chấp nhận một ‘cuộc trở lại” Họ đã tin rằng với Chúa Giêsu, Nước Trời đã đã đến.
Tiếng sét ân sủng ấy còn vang vọng qua các thời đại.
Tại Assise, người ta còn lưu giữ một tượng Thánh giá Hy Lạp (4 góc bằng nhau) treo giữa nhà thờ. Nơi đây, Phanxicô đã đến câu nguyện. Từ trong tượng Thánh giá có tiếng phán ra: Hỡi Phanxicô, con hãy đi chống đỡ Nhà Ta, vì nhà đó đang bị nghiêng ngả !
Lạy Chúa, xin cho con một cuộc trở lại thật, để con cũng góp phần xây dựng và chống đỡ Nhà Chúa.
* Từ Chúa nhât thứ 3 mùa thường niên cho đến Chúa nhât 34, chúng ta đọc liên tục Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu.
GỢI Ý GIẢNG
1. Cuộc Phiêu lưu vĩ đai từ một vùng đất bị khinh khi
Đối với dân thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ. Đối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng: TN 3-A31
Đối với dân thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ. Đối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng ngờ vực. Đó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày.
Trong khi những tín đồ chính thống ở kinh đô nghiền ngẫm sự khinh khi, chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc, thì Đức Messia, Cứu Chúa, ánh sáng muôn dân, tới cư ngụ tại Capharnaum, bên bờ hồ. Xa khỏi kinh đô vĩnh hằng, khỏi thói ngạo mạn, tự tôn, và sự mù quáng của họ.
Chính trên bờ hồ chứ không phải trên các bậc cấp của đền thờ, giữa đám ngư phủ bận rộn chứ không phải nơi những vị tư tế chuyên lo phụng tự mà Đức Giêsu sẽ chọn các môn đệ của Người. Đúng là một nước cờ ngược lại mọi logic.
Chính những người ít khả năng nhất, được chuẩn bị nhất lại là những người đầu tiên nhận được ánh sáng và đi theo Đấng là "đường, sự thật và sự sống".
Ngay tức khắc, thành phần lay động đơn sơ chất phác nhưng có trái tim nhạy bén đã tin tưởng vào ngôn sứ. Những người tội lỗi bỗng nhiên bị chất vấn, đã cảm thấy ánh sáng mà ngay. những kẻ rắc rối khó tính nhất cũng phải nhượng bộ... và họ đã đi theo Người.
Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần, của Thiên Chúa.
2. Con đường sáng
Cuộc đời chúng ta đầy dẫy bóng tối:
-Tối tăm về sự thật: cho dù có nhiều phương tiện truyền thông, Nhưng khó mà biết sự thật. -Tối tăm về tương giao: ngay cả những người sống cạnh nhau cũng chưa hiểu nhau. -Tối tăm do tội lỗi, do mù quáng, do cố chấp hẹp hòi... -Tối tăm do hoàn cảnh bên ngoài nhiều bất công, gian dối, thù hận...
Trong khung cảnh tối tăm ấy, chúng ta hãy nhớ những lời của Đức Giêsu: "Ta là ánh sáng thế gian”(Ga 9,12); "Hãy tin vào ánh sáng và các ngươi sẽ trở thành con cái sự sáng" (Ga 12,36).
Nhưng tin vào ánh sáng là gì? Là tin vào mặc khải của Đức Giêsu, cũng như 4 môn đệ đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ đã nghe tiếng gọi của Ngài, đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài. Ngài sẽ giải đáp cho tất cả những băn khoăn thắc mắc của chúng ta; Ngài sẽ cho ta biết ý nghĩa cuộc đời ta là gì; Ngài cho chúng ta biết chúng ta có một người Cha trên trời hết lòng yêu thương chúng ta; Ngài sẽ dạy cho chúng ta biết sống yêu thương như thế nào; và cuối cùng Ngài sẽ dẫn chúng ta về nhà Cha trên trời.
3. Sư hiệp nhất các Kitô hữu
Chúa nhựt hôm nay nằm trong tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu. Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay cung cấp nhiều chất liệu cho chúng ta suy nghĩ về sự hiệp nhất này:
-Bài đọc 1: Đức Giêsu là ánh sáng bừng lên giữa thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các anh em ly khai, những người lạc giáo, những người lương và những người vô thần...
-Bài đọc 2: Đức Giêsu đã chịu chết vì mọi người và cho mọi người. Nếu các Kitô hữu chia rẽ nhau thì chẳng khác gì Đức Giêsu bị chia năm xẻ bảy sao!
-Bài đáp ca: "Điều tôi tìm kiếm không xin, là luôn được ở trong nhà Chúa tôi". Tại sao những anh em cùng tin Đức Kitô lại không sống hòa thuận với nhau trong cùng một ngôi nhà của Chúa?
-Bài Tin Mừng: "Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần". Tất cả mọi người, dù là công giáo hay tin lành, chính thống v.v. đều phải sám hối về những tội lỗi của mình để có thể được vào Nước Chúa.
4. Chuyện minh họa: "Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng"
a/ Làm phép nhà
Một bà kia mời Linh mục đến làm phép nhà mình. Bà hướng dẫn Cha đi rảy nước thánh mọi nơi trong nhà: phòng khách, phòng ngủ, nhà bếp, phòng ăn... Cha thấy chỗ nào cũng sạch sẽ và ngăn nắp. Cho nên chỗ nào Cha cũng rảy nước thánh, kể cả cầu thang. Ngay cả hai con mèo đang nằm ngủ trên một bậc thang cũng được Cha rảy nước thánh, khiến nó giật mình thức dậy kêu meo meo và chạy vội đi nơi khác, và mọi người hiện diện phải phì cười.
Sau khi làm phép xong mọi nơi ở nhà trên thì đến hầm kho. Bà chủ nhà chần chừ không muốn dẫn Cha xuống. Vị Linh mục hỏi:
-Sao thế? -Dưới đó dơ lắm. -Càng dơ thì càng phải làm phép chứ. -Nhưng nó lộn xộn lắm. -Càng lộn xộn càng phải làm phép. -Và nó tối tăm lắm. -Cho nên phải mang ánh sáng đến cho nó.
Lời bàn: Con người chúng ta cũng giống như một gian nhà. Những nơi mình muốn che dấu nhất chính là những nơi tối tăm xấu xa nhất. Nhưng đó cũng là những nơi cần mang ánh sáng tới nhất.
b/ Mang ánh sáng đến chỗ tối tăm
Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melboume, Austraha. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn.
Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên: "Cứ để yên mọi thứ cho tôi”. Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Đèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi:
-Sao lâu nay ông không thắp đèn lên? -Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai. -Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm ông không? -Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên.
Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy: -Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng.
Thánh sử Matthêu đã tường thuật khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu với ghi chú: "Ông Gioan đã: TN 3-A32
Thánh sử Matthêu đã tường thuật khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu với ghi chú: "Ông Gioan đã bị nộp”. Khi ông Gioan Tìên Hô đã chấm dứt nhiệm vụ của mình, cũng là lúc Chúa Giêsu bắt đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng. Chương trình cứu dộ của Thiên Chúa đã thực hiện nơi Gioan, cũng sẽ thành tựu mỹ mãn nơi Chúa Giêsu. Cả hai sứ vụ đều liên kết trong một chương trình duy nhất của Thiên Chúa, Tuy nhiên, Gioan chỉ là khởi đầu, là báo trước, là dọn đường. Chúa Giêsu đến sau Gioan, mới là người thực hiện lời loan báo, là Đấng làm cho ứng nghiệm lời các ngôn sứ, là Con Người đến để kiện toàn Lề luật. Vì thực ra, ông Gioan "không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng"(Ga 1,8.) Giờ đây, ánh sáng đã xuất hiện: “Tôi là ánh sáng thế gian" (Ga 8,12). Ánh sáng đã bừng lên từ Mtền đất Galilê, và vẫn còn chiếu rọi mọi người chúng ta.
1. GALILÊ, MTỀN ĐẤT CỦA DÂN NGOẠI
Sau hai cuộc phát lưu vào thế kỷ 8 trước Công Nguyên do đế quốc At-sua, vương quốc Mtền Bắc đã hoàn toàn sụp đổ. Những đám dân ngoại ô hợp được đưa đón định cư thế chỗ cho những người Israel bị lưu đày ở Babylon. Galilê Mtền Bắc của Palettin, đã trở thành Mtền đất của dân ngoại. Galilê là Mtền đất của dân ngoại không chỉ vì gồm dân ngoại sống chung với các người Israel còn lại (về phương diện chính trị), mà còn vì xa cách Đền thờ Giêrusalem và lơ là với những truyền thống cha ông (về phương diện tôn giáo). Mtền đất của dân ngoại này, theo cái nhìn của Do thái giáo, là Mtền đất của "đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần". Đến với Galilê dân ngoại trong cảnh tối tăm, Chúa Giêsu được giới thic và tôn vinh như là "Anh sáng huy hoàng bừng lên chiếu rọi". Tại sao Chúa lại đến với Galilê dân ngoại, mà lại không phải là Giuđê nguyên tuyền? Tại sao Caphátnaum lại được chọn làm trung tâm loan báo Tin Mừng, mà lại không phải là thủ đô Giêrusalem nơi có đền thờ thánh thiên?
Ngôn sứ Isaia đã loan báo ánh sáng sẽ bừng lên chiếu rọi dân đang dân bước giữa tối tăm (bài đọc I). Đó là dân miền Galilê, dân Israel chung sống với dân ngoại. Và như vậy ánh sáng là ánh sáng cho muôn dân, chứ không dành riêng cho một dân nào. Ông Dacaria đã loan báo " Vầng đông soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối " ( x Lc 1, 78 - 79 ). Rồi ông Simêon đã tuyên xưng Hài Nhi Giêsu là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2, 32). Sau cùng chính Chúa Giêsu đã tự xác nhận: "Tôi là ánh sáng thế gian".Như vậy lý do thứ nhất Chúa Giêsu đến và hoạt động tại Galilê là để xác định Người là Cứu Chúa duy nhất của mọi nước mọi dân (x Cv 4,2) và cho thấy Thiên Chúa "muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân ]ý"(1 Tm 2,4). Đàng khác, người đau ốm mới cần đến thầy thuốc, chứ người khỏe mạnh đâu có cần! (x Mt 9,12). Cũng như người đau ốm không những cần đến thầy thuốc, mà còn là dịp để thấy thuốc thi hành chức năng và nổi tiếng, thì những người ngồi trong bóng tối không những cần đến ánh sáng, mà còn làm cho ánh sáng được huy hoàng rạng rỡ hơn. Đêm tối vẫn hướng về và mong chờ ngày sáng bừng lên. Tội lỗi như một tiếng kêu gào bi đát để được ơn giải thoát. Galilê dân ngoại đã sẵn sàng đón nhận Đấng cứu độ muôn dân.
2.HÃY SÁM HỐI VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN
Để được ánh sáng huy hoàng rạng chiếu, để đón nhận ân sủng cứu độ, và để gặp go Đấng Kitô của Thiên Chúa, con người cần có một thái độ thích hợp. Đó là sám hối. Sám hối là ra khỏi bóng tối của tội lỗi, là vượt lên trên những tính toán tự nhiên và khôn ngoan trần thế, là đi xa cái hiện tại tầm thường của bản thân. Sám hối như vậy luôn đòi hỏi phải dứt bỏ, phải lìa xa tất cả những gì không thích hợp với Chúa Trời, không xứng đáng với Tin Mừng. Và công việc sám hối không phải chỉ một lần hay lâu lâu (khi đi xưng tội chẳng hạn) lập lại.
Trái tại cần phải sám hối mỗi ngày, mỗi lúc, mỗi giây phút. Bởi vì tội lỗi vẫn còn đó, bóng tối vẫn bao phủ, và khuynh hướng dễ dãi muốn sống tầm thường lại là cám dỗ thường xuyên.
Nước Trời đã hiện diện nơi con người và cuộc sống củaChúa Giêsu. Nước Trời đã gần, nghĩa là Chúa Giêsu đã có mặt. Đi vào Nước Trời là đi vào trong tương giao chân tình với Chúa Giêsu, là trở thành môn đệ bước theo Thầy chí Thánh. Mà "ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 6,24). Công việc từ bỏ chính mình phải thực hiện suốt đời, và phải vác thập giá mình hàng ngày. Đó là sám hối liên tục, có thể gọi là tình trạng sám hối.
Bốn môn đệ đầu tiễn thuộc Galilê dân ngoại, đã lập tức bỏ chài lưới, thuyền bè và cha mẹ để đi theo Chúa Giêsu. Các ông đã sám hối trước lời mời gọi của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, đây mới là sám hối khởi đầu. Suốt cuộc đời môn đệ, các ông đã không ngừng sám hối để trở nên môn đệ hơn, để theo sát Thầy hơn và để trung thành với Thầy cho đến chết.
3. NGƯỜI MÔN ĐỆ HÔM NAY
Tin Mừng luôn mang tính thời sự. lời Chúa Giêsu mời gọi sám hối vẫn còn khẩn thiết cho mọi người hôm nay, nhũng kẻ ở xa cũng như những kẻ ở gần. Sám hối không những cần thiết cho những ai muốn trở nên môn đệ, mà còn là một đòi hỏi thiết yếu cho những ai muốn sống đời môn đệ. Lời Chúa rực sáng trong đêm tối. Những ai ở trong đêm tối mới cần ánh sáng và sẵn sáng đón nhận ánh sáng. Những ai ý thức mình mù lòa tăm tối mới mong được mở mắt để nhìn thấy. Còn những người tưởng mình vẫn thấy, vẫn nghe, là tự giam mình trong đêm tối, là ở lỳ lại trong tội lỗi (x Ga 9,39-41). Lời Thần Khí Thiên Chúa nói với Hội Thánh Xácđê đã nhận định: “Ta biết các việc ngươi làm biết ngươi được tiếng là đang sống mà thực ra đã chết" (Kh 3,1)
Kết Luận
Năm nay 1999, là năm hướng về Chúa Cha, năm hành trình về Nhà Cha. Hành trình về Nhà Cha trước hết là ân sủng Cha ban nơi Chúa Giêsu Con Một trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần. Chúa Cha đã đi bước trước là tặng ban Thánh Thần đề lôi kéo chúng ta đến với Người Con Một đã được cha sai đến (x Ga 6,44-65). Chúa Giêsu là con Đường duy nhất đưa đến Cha. Đi trên đường là một hành trình. Như vậy hành trình về Nhà Cha là chính hành trình đến với Chúa Giêsu Kitô, Đấng Trung gian duy nhất. Bởi vì "ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”, "Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy " (Ga 14,9-10). Hành trình đến với Chúa Giêsu Kitô để gặp được Chúa Cha, là những bước đi liên tục không ngừng trong suốt cuộc đời người môn đệ. Khởi đầu của những bước đi trong mỗi giây phút, mỗi biến cố cuộc đời, là ra đi, là vượt lên, là bỏ lại đàng sau. Ánh sáng Lời Chúa không ngừng chiếu tỏa trong suốt hành trình là sự thúc đẩy, là lời mời gọi người môn đệ lữ hành sám hối liên tục.
Ngày nay, Chúa Giêsu còn loan báo Vương Quyền của Ngài cho chúng ta qua việc công bố Tin: TN 3-A33
Ngày nay, Chúa Giêsu còn loan báo Vương Quyền của Ngài cho chúng ta qua việc công bố Tin Mừng được cử hành trong các nghi thức Phụng Vụ. Nhưng chúng ta chỉ có thể nghe được Tin Mừng của Ngài bằng con đường thống hối" mà thôi. Nghĩa là chúng ta phải tiêu diệt sự “nhỏ nhen" nơi con người chúng ta và "mở rộng" con tim cho phù hợp với nhãn quan phổ quát của Chúa Giêsu. Lúc đó việc công bố Tin Mừng của Chúa Giêsu mới "chữa lành” được các vết thương trong con tim chúng ta, và mới làm cho chúng ta được đầy tràn niềm vui. Chúng ta chỗi dậy khỏi cái tôi hẹp hòi của mình để khám phá ra "ánh sáng" của Thiên Chúa.
Các nhà Tâm Lí Học nói với chúng ta rằng (và chính kinh nghiệm bản thân của chúng ta cũng nói như vậy), con người nhân loại của chúng ta chỉ có thể lớn lên khi chúng ta "phá vỡ" được chính mình. Một bào thai chỉ có thể phát triển và lớn lên được sau 9 tháng ở trong lòng mẹ, rồi nó "phá vỡ" để ra khỏi lòng mẹ. Sau đó, người con phải rời gia đình đến trường học, đi qua các giai đoạn của nhà trường. Lúc trưởng thành, phai rời bỏ gia đình, cha mẹ. Cuộc sống là một chuỗi những "phá vỡ” và “từ bỏ" như vậy. Cái cuối cùng phải thực hiện trong việc phá vỡ và từ bỏ là cái chết, để rồi lại vượt qua chính cái chết là công việc phá vỡ và từ bỏ cuối cùng để vào sự sống mới, sự sống vĩnh cửu.
Ở bài Tin Mừng hôm nay có 5 con người đã từ bỏ gia đình để sống một cuộc sống mới, như chính Chúa Giêsu cũng rời Nadarét để ra đi.
Với chúng ta, mọi biến cố trong cuộc sống đâu có thể là lời mời gọi để chúng ta lớn lên hơn nữa. Thế nhưng sự lớn lên đó sẽ gặp nhiều đau đớn. Chúng ta có dám chấp nhận những đớn đau như thế không ? Điều có thế giúp chúng ta chấp nhận những nỗi đau đớn như vậy là nhìn vào kết cục của Đức Giêsu Phục Sinh, đấng đã đi từng bước đường của những khổ đau, để lớn lên, đem vinh quang đến cho con người. Chúa Giêsu như muốn nói với chúng ta: "Hãy chia sẻ với Ta trong nỗi đau để sẽ chung phần với Ta trong vinh quang".
Việc hoán cải mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta không phải là một công việc có thể thực hiện trong một ngày một giờ, nhưng là công việc đòi hỏi ta kiên vững, khởi từ những dấn thân ban đầu đến những quyết định cương quyết, khiêm tốn và trung thành với Chúa Giêsu, dù chúng ta có yếu đuối thế nào chăng nữa. Luôn luôn vẫn có một tiếng nói ở bên tai chúng ta: hãy theo ta".
Cuối cùng, ta cũng phải hiểu rằng, không phải ta chọn Chúa Giêsu, mà chính Ngài chọn ta. Ngài gọi ta ngay trong cái hằng ngày của ta, Ngài gọi ta không phải để theo Ngài như nghĩa đen của từ ngữ "Hãy theo ta”, nhưng là từ bỏ sự ích kỷ của ta, từ bỏ con tim chai đá của ta, để có thể sống với Ngài trong cái hằng ngày của ta, với một con tim dâng hiến và yêu mến đến hơi thở cuối cùng:
Trong bối cảnh của ngày mồng hai Tết, chúng ta cầu nguyện cho ông bà cha mẹ. Chúng ta vẫn có thể hiểu bài Tin Mừng này theo hướng các môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu: khi họ phải từ bỏ cha mẹ đề theo Ngài, thì lúc đó họ thể hiện hơn hết lòng yêu mến chân thành của họ đối với những người thân yêu. Không phải chỉ có mối dây ruột thịt mới làm nên mối tương quan của con người, nhưng ngược lại, với Đức tin Kitô giáo, chính Chúa Giêsu mới là mối dây nối kết tình thân yêu trong gia đình. Nếu chúng ta chưa hiểu được như vậy, cuộc sống của chúng ta hoàn toàn trơ trọi là cuộc sống trần thế, không có sự sống thần linh là nguồn mạch mọi sự sống và các mối tương quan.
Bài Tin Mừng Thánh Matthêu ta vừa nghe, Chúa bỏ Nazaret, bắt đầu sống cuộc đời công khai: TN 3-A34
Bài Tin Mừng Thánh Matthêu ta vừa nghe, Chúa bỏ Nazaret, bắt đầu sống cuộc đời công khai, đi rao giảng đi rao giảng cho dân chúng và bài giản đầy tiên của Ngài: “Thống hối”. Thánh Marcô trong Tin Mừng chương I câu 14 cũng cho ta biết bài giảng đầu tiên của Chúa là “Thống hối”
Sự thống hối quả thực rất quan trọng và cần thiết. Chúng ta đã nhiều lần nhắc tới tầm quan trọng này. Các Tiên tri, trong Cựu Ước, luôn luôn rao giảng việc thống hối; Chúa Giêsu mở đầu bài cỉang của Ngài bằng vịc khuyên mọi người phải thống hối. Trước khi bỏ cuộc sống trần để lên trời, Chúa còn căn dặn các môn đệ phải đi rao giảng sụ thống hối để được ơn tha thứ (Lc. 24,47). Các Tông đồ luôn luôn nhắc tới việc thống hối, và Giáo Hội cũng luôn luôn khuyên nhủ, thúc gịuc chúng ta phải thống hối.
Thánh Phêrô, vị thủ lãnh của Giáo Hội đã phạm tội nặng nề, chối Chúa ba lần, nhưng rồi Ngài thành thực thống hối, nên đã được tha thứ.
Trong các Thánh Viện nam: Thánh Tôma Toán (tử đạo ngày 27.6.1840, 76 tuổi) cũng đã công khai chối Chúa hai lần, nhưng rồi Ngài đã dùng việc thống hối, chấp nhận mọi đau khổ để đền bù tội lỗi, chẳng những Ngài đã được Chúa thứ tha tội lỗi, mà Ngài còn được Giáo Hội phong lên bậc hiển Thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988. Câu truyện của Ngài như sau:
Sau khi bị bắt, thầy Tôma Toán được kêu ra tòa, ban đầu thầy can đảm xưng xưng đạo trước mặt các quan nhưng bị tra tấn quá dã man khiến tuổi già không chịu nỗi, Thầy đã bước qua ảnh Thánh một lần, ngày 19.1.1840. Song Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh chưa tha cho về, còn muốn thử xem thầy có thật lòng bỏ đạo hay không. Khi trở về ngục, cha Thánh gise Hiền ân cần khuyên thầy ăn năn hối cải và trở lại với Chúa. Cha Phêrô Quyền, quản lý nhà chung Trung Linh, cũng gửi cho thầy một bức thư khuyên nên suy nghĩ lại. Được ơn Chúa đánh động, lại được hai cha khuyên bảo, thầy Tôma ăn năn thống hối, và từ đó không thôi than khóc rằng: “Lạy Chúa, tôi là kẻ khốn nạn dại dột đã trót phạm đến Chúa, song từ nay tôi sẽ không phạm tội rất nặng này nữa”. Cha Giuse giải tội cho thầy, khuyên thầy vững tin đến cùng.
Ngày 18 tháng 4, Trịnh Quang Khanh gọi thầy Toán ra tòa, bắt thầy phải bước qua Thánh giá song thầy cương quyết không nghe. Để hạ cơn giận quan truyền căng lọc thầy ra đánh, rồi tống giam ở một nơi rất dơ bẩn tanh hôi để bất cứ ai qua lại được tự do trên trọc sỉ vả. Quan còn sai hai người đã xuất Giáo đến quyến rũ thầy cho bằng được, nếu không họ cũng phải chết. Một lần nữa thầy lại chối đạo. Song Chúa lại giúp thầy đứng dậy ngay, thầy khóc lóc thảm thiết đêm ngày như không ai có thể an ủi được nữa. Mười lăm ngày sau, Cha Đaminh Trạch được dẫn tới ở chung một ngục với thầy. Cha an ủi thầy Tôma và giải tội cho thầy. Từ lúc ấy, thầy trở thành người mới, để đón nhận người cơn thử thách nặng nề hơn trước. Nghe biết thầy Tôma lại thống hối trở lại với Chúa, Trịnh Quang Khanh nói khôi hài với lính của ông: “Dẫn thằng Toán ra đây cho ta, để nó bước qua Thập tự kẻo nó quên”. Lần này thầy gan dạ lạ lùng, sau một hồi bị đòn tưởng chết, lính khiêng thầy qua Thập tự tức thì thầy vùng dậy quỳ phục trên Thánh giá khóc lóc thảm thiết và đọc kinh ăn năn tội to tiếng nghe rất thảm thiết. Quan quát tháo: “Thằng già này ăn phải cái búa gì mà nó muốn làm trâu ngựa, chó má như vậy”. Rồi ông ra lệnh cho lính giam thầy ở một nơi khác và không cho ăn uống nữa.
Quan còn cho phép lý hình muốn bầy trò gì làm khổ thầy cũng được. Chúng lột hết quần áo thầy, buộc hai Thánh giá vào hai bàn chân, bắt thầy đứng nắng lần thứ nhất suốt 13 ngày liền, và lần thứ hai 5 ngày. Trong khi đó, chúng trêu chọc thầy, bứt râu, bứt tóc, búng tai, bóp mũi, vỗ bụng, khạc nhổ… Thầy đã có thể nói như Tiên tri Isaia:
“Tôi đã giơ lưng cho người đánh đập và chìa má cho kẻ nhổ râu. Tôi đã không giấu mặt tránh nhục nhằn và khạc nhổ. Thiên Chúa sẽ hộ vực tôi… khiến tôi mặt mày trơ trơ như đá cuội”. (Is 50,6-7)
Phải lúc thầy quá đói, Trịnh quang Khanh biểu dọn một mâm cơm rượu thịt rất ngon: “Ăn đi rồi bước qua Thập tự nghe”. Thầy trả lờ: “Nếu ăn để bỏ đạo thì tôi không ăn”. Quan nói tiếp: “Đã vậy ta sẽ không cho mày ăn uống gì nữa”. Thấy thầy Tôma chịu đói khát khổ cực quá, một giáo dân và một binh lính ngoại đạo có lòng tốt, chạnh lòng thương tìm cách cho thầy ăn uống, vì thế mới sông thêm được ít bữa.
Ngày 9 tháng 5, thầy cùng với Cha Giuse Hiền ra tòa lần chót, và bị hai con voi lớn nạt nộ, lấy vòi cuốn vào thầy. Nhưng thầy không bị nó quật chết.
Sau đó, Cha Giuse được đưa đi xử, thầy còn bị tống giam và cấm cốc trăm trăm phần trăm. Trong những ngày chờ chết, thầy Tôma khóc lóc, thống hối ăn năn tội đêm ngày và cầu xin Chúa thứ tha tội lỗi và xin ơn bền đỗ đến cùng. Song thầy chưa chết, vì anh Thám vẫn lén lút cho thầy ăn uống. Không ngờ một việc bác ái như thế cũng bị quan cấm đoán và trừng phạt. Từ đấy, thầy phải chịu đói khát cho tới khi ngã gục và tắt thỉ ngày 27 tháng 6. Chỉ có anh Thám chứng kiến cái chết của thầy và nói với thầy rằng: “Khi nào cụ về nước trời, xin cụ nhớ đến cháu”. Xác thầy người ta đem chôn lẫn với các tử tội, một tháng sau anh Phêrô Dậu đến cải lên đem về an táng tại Lục Thủy chung với các Đấng tử đạo khác.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII (lúc còn nhỏ Hồng Y giáo chủ Venies) cấm phòng chung với các Giám mục Vénétie tại Torreglia từ ngày 2 tới ngày 7 tháng 6 năm 1957. Ngài có ghi trong tập nhật ký của Ngài:
“Có hai cửa mở vào thiên đàng: cửa vô tội và cửa thống hối. Con người yếu đuối đáng thương, đâu dám nghĩ tới cửa vào thứ nhất, tuy nhiên cửa vào thứ hai cũng rất bảo đảm. Chính Chúa Giêsu cũng đã qua cửa này, với Thập tự vác trên vai, để đền tội cho ta, và mời gọi ta hảy theo Ngài. Theo Ngài có nghĩa là, thốn hối, biết chịu nhục nhã, hy sinh, và chính mình cũng phải tử đạo cho mình, những hy sinh…”
Johnie học lớp 3, Jimmy học lớp 2. Gia đình chúng ở cách xa nhau chừng một cây số ở miền quê: TN 3-A35
Johnie học lớp 3, Jimmy học lớp 2. Gia đình chúng ở cách xa nhau chừng một cây số ở miền quê. Chúng thường chơi chung với nhau sau buổi học ở trường. Một buổi chiều, chúng chơi lâu hơn mọi khi. Trời u ám, gió lớn nổi lên. Bất thình lình trời mưa to, sấm chớp vang rền. Không có ai dẫn Johnie về nhà. Em đứng run rẩy ở cổng trường, không dám đi về nhà.
Thế rồi có ánh sáng chiếu rọi trên đường, ánh sáng lại hứơng về chỗ Johnie đang đứng. Anh cả Bill cầm đèn bấm và con chó đi theo, đến dẫn Johnie về nhà.
Chúa Kitô là Anh cả của chúng ta, Ngài đã đến chỉ cho chúng ta con đường lên trời. Chúng ta vừa đọc trong bài Tin Mừng: “Dân ngồi trong bóng tối đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết. Những ai là dân đang ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết ? Họ là những người sống trước khi Chúa Kitô đến. Thế giới ở trong tối tăm. Người ta không biết làm thế nào để trở về nhà, chính nơi mà họ đã ở.
Chúa Kitô đến như ánh sáng vĩ đại, xé tan tối tăm soi sáng cõi lòng người ta. Ngài là ánh sáng. Lúc này chúng ta đã nghe bài sách tiên tri: “Dân chúng đi trong tối tăm, đã thấy một ánh sáng vĩ đại”.
Chúng ta cầu nguyện trong bài đáp ca: “Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi”. Trong kinh thánh, ánh sáng là một từ khác để chỉ về Thiên Chúa như chúng ta đã tuyên xưng khi đọc kinh Tin Kính: “Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa... Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng...”
Chúa Giêsu cũng đã tuyên bố với đám dân chúng: “Tôi là áng sáng cho trần gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Gio 8,12). Sự cần thiết tuyệt đối về ánh sáng cả thể lý lẫn tinh thần đã được nhắc đi nhắc lại trong Cựu ước. Anh sáng cho thế gian hầu như không cần cho bằng ánh sáng cho tâm hồn. Chúa Kitô không chỉ mang đến thứ ánh sáng nội tâm này. Ngài là chính ánh sáng.
Chúa Kitô là ánh sáng cho ban và cho tôi như thế nào ? Tất cả những vấn nạn sâu xa của đời sống được giải quyết trong ánh sáng của Chúa Kitô. Điều gì là thật, điều gì là giả, điều gì là thiện, điều gì là ác ? Làm thế nào để tôi được hạnh phúc thật ? Trong cả lịch sử, những giải đáp tốt nhất, những giải đáp duy nhất, đã được đưa ra là nhờ ánh sáng thế gian – Chúa Kitô.
Thế giới này là cái gì ? Tôi là ai ? Tại sao tôi hiện hữu ? Tôi là cái gì ? Chúa Giêsu giúp tìm kiếm và soi sáng cho tôi tất cả những vấn nạn này. Cái chết có phải là chấm dứt mọi sự ? Toàn thể thế giới, người ngoài Kitô giáo cũng như người Kitô hữu, đều muốn biết. Với ánh sáng phục sinh huy hoàng của Ngài, Chúa Giêsu ban cho một giải đáp thỏa đáng duy nhất.
Ai trong chúng ta không có vấn đề về sức khỏe, tài chính, cá tính, bất công, sự cô đơn, sự vô ơn, tình yêu không được đáp trả ? Trong ánh sáng rực rỡ của những điều Chúa Giêsu đã nói và đã làm, chúng ta nhìn thấy con đường đi qua những vấn đề phức tạp này. Thực vậy, chúng ta, những người bước theo Chúa Giêsu, không đi trong tối tăm, nhưng trong ánh sáng.
Anh sáng đó lại được đổi mới, lại được thắp lên ngay phải đây, trên bàn thờ này. Ước gì chúng ta đổi mới tình yêu của chúng ta đối với ánh sáng thế gian – là Chúa Giêsu Kitô.
Hoán cải hồn, thay đổi lối sống để được ơn cứu độ và bình an hạnh phúc, đó là lời Chúa Giêsu: TN 3-A36
Hoán cải hồn, thay đổi lối sống để được ơn cứu độ và bình an hạnh phúc, đó là lời Chúa Giêsu và Mẹ Giáo Hội khẩn thiết kêu mời chúng ta trong Phụng vụ Chúa Nhật III Thường NIÊN năm A hôm nay. Biến cố thánh Gioan Tẩy Giả bị tống ngục và việc Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng Tin Mừng Nước Trời, như thánh Matthêu ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay là khởi điểm mới trong lịch sử cứu độ. Chúa Giêsu Kitô là luồng ánh sáng lớn bùng lên và chiếu soi rạng ngời chân trời đen tối của thế giới. Ánh sáng ấy bắt đầu chiếu sáng từ Galilêa là nơi có đông dân ngoại sinh sống. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa trao ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người, chứ không phải chỉ có dân tộc Do Thái mới được cứu rỗi.
Nhưng muốn đạt được ơn cứu độ, con người phải hoán cải tâm hồn và tin vào Tin Mừng của Chúa Giêsu. Nói cách khác, Chúa Giêsu tiếp tục phát động cuộc cách mạng tâm linh và rao giảng cuộc đổi đời tinh thần. Nước Thiên Chúa, nước công bằng và hoà bình, nước yêu thương và hạnh phúc đã bắt đầu hiện diện ngay giữa trần gian này.
Thật vậy, qua món quà đầu tiên mà Thiên Chúa cống hiến cho con người, đó là ơn tha tội. Ơn này đã giúp con người thự hiện một cuộc cách mạng thật khó khăn, nhưng cũng lớn tao nhất, Đó là thay đổi lòng trí và cung cách suy tư hành xử của mình.
Biến cố hoán cải đổi đời ấy được diễn tả một cách cụ thể qua việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn bác thuyền chài làm tông đồ. Chúa Giêsu nhìn họ trước khi Ngài mời gọi bước theo Ngài. Cái nhìn của Chúa Giêsu cũng giống như cái nhìn của Thiên Chúa, nó biến người hay vật được nhìn trở thành dễ thương và tốt lành hơn, và nó chuẩn bị tâm trí những người sắp được tuyển chọn. Vì thế, lời Chúa Giêsu nói: "Hãy theo Ta" cũng chất chứa tất cả những thái độ đòi buộc dấn thân vì Nước Trời, đó là nỗ lực hoán cải tâm hồn.
Trong trường hợp của bốn tông đồ tiên khởi, thì kết quả trước hết của thái độ dấn thân hoán cải là từ bỏ gia đình và nghề nghiệp sinh sống của mình, nghĩa là từ bỏ tất cả để đi theo Chúa. Họ bẻ gãy quá khứ và khước từ cuộc sống cậy dựa trên các an ninh bảo đảm lo toan cho chính bản thân mình và gia đình, để bước vào cuộc phiêu lưu cứu độ với Chúa Giêsu và tham dự vào chính cuộc sống của Ngài.
Nói cách khác, từ nay họ bắt đầu một cuộc sống mới với một tâm thức mới. Họ đã từ bỏ tất cả để lãnh nhận được tất cả. Được sinh ra trong tình yêu của Thiên Chúa và tham gia vào sức mệnh cứu thế giới của Chúa Giêsu, cũng giống như bốn tông đồ tiên khởi, các tín hữu được mời gọi vượt lên trên các liên hệ ruột thịt để sống tinh thần đại đồng giữa các thành phần gia đình mới, dân riêng mới của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến!
Theo Chúa Giêsu và trở thành môn đệ của Ngài, có nghĩa là sống tinh thần đại đồng ấy và cộng tác với Chúa để rao truyền Tin Mừng cứu độ đến cho mọi người. Cùng với lời rao giảng, Chúa Giêsu còn chữa lành bệnh tật cho con người. Ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta là ơn cứu độ toàn diện. Khi trao ban sự sống và lời Ngài, Chúa Giêsu giải phóng chúng ta khỏi mọi thứ bệnh tật của thân xác và của linh hồn, khỏi tất cả những gì giam cầm chúng ta trong kiếp sống nô lệ. Ơn giải phóng khỏi kiếp sống nô lệ áp bức cũng đã được ngôn sức Isaia loan báo cho dân Do Thái xưa kia, như đã ghi trong lời sấm ở chương 9. Để diễn tả ơn giải phóng ấy, ngôn sức Isaia dùng một loạt các hình ảnh và ý niệm thần học, rồi sắp xếp chúng theo lược đồ phản đề tăng trưởng. Trước hết là vùng đất bị xâm tăng từ tình trạng khổ nhục, bị chèn ép và thống trị, nó.sẽ được vinh hiển rạng ngời giữa các dân nước. Tiếp đến là người dân từ tình trạng sống trong bóng tối buồn thương, họ sẽ được bước đi trong ánh sáng và niềm vui. Và sau cùng là Thiên Chúa, Đấng đã giải phóng họ khỏi áp bức, Đấng đã biến đổi kiếp sống nô lệ thương đau của họ thành hạnh phúc vui tươi. Đấng đã lôi họ ra khỏi cảnh thất bại và trao ban chiến thắng cho họ.
Anh chị em thân mến!
Qua lời sấm với những hình ảnh trên đây, ngôn sứ Isaia muốn khẳng định với dân Do Thái rằng: Thiên Chúa là Đấng hoạt động trong lịch sử loài người và lịch sử thế giới, đồng thời Ngài là Đấng cứa độ toàn năng. Ngài có thể biến đổi cuộc sống tuyệt vọng nhất của con người và xoay vần cục diện tăm tối nhất của lịch sử thế giới thành sự tốt đẹp an bình, hạnh phúc.
Ngài sẽ giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của ngoại bang và trao ban cho họ các vùng đất thuộc vương quốc Mtền Bắc được an bình thịnh vượng chảy tràn mật sữa.
Nhưng Thiên Chúa triệt để tôn trọng sự tự do của con người. Ngài không áp đặt ơn cứu độ cho con người, Ngài để tự do cho mỗi người muốn lãnh nhận hay từ chối. Nói cách khác, để xứng đáng hưởng ơn quí trọng ấy, người tín hữu phải nỗ lực thay đổi tâm thức và kiểu cách sống của mình, nghĩa là từ bỏ mọi tư tưởng và hành động đen tối của tội lỗi để bước đi trong ánh sáng công chính và thánh thiện.
Cùng lồng khung trong Tin Mừng giải phóng này, ngôn sứ Isaia muốn nêu bật sự thật thần học khác nữa, đó là ơn cứu độ không chỉ được dành để cho dân Do Thái hay chỉ dừng lại trong ranh giới đền thờ hoặc thành thánh Giêrusalem, mà còn được Thiên Chúa trao ban cho các dân tộc khác nữa. Lời sấm giải phóng cứu độ trên đây của ngôn sức Isaia đã hiện thực trong chính con người và Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, như thánh sử Matthêu đã chứng Mtnh.
Trong cuộc sống cụ thể của Giáo Hội, con đường dẫn đến niềm vui và ánh sáng đã bảo đảm cho tín hữu đạt được cuộc sống triển nở hạnh phúc ấy là sự hiệp nhất như thánh Phaolô khẳng định trong (I Cor 1. 10-13). Sự kiện các tín hữu có nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau, không được trở thành cớ gây chia rẽ và kéo bè kết đảng chống đối nhau giữa các thành phần trong Giáo Hội.
Tình trạng chia rẽ có thể xảy ra trong cộng đoàn Côrintô ngày xưa cũng như trong bất cứ cộng đoàn Kitô hữu nào ngày nay, là vì các Kitô hữu không thấm nhuần giáo huấn của Chúa và sống xa tinh thần Tin Mừng. Một số tín hữu chỉ đề cao vinh quang của Chúa Phục Sinh mà gạt bỏ khía cạnh Thập giá khổ đau ra một bên; một số khác để cho các trào lưu tư tưởng nhân loại làm loá mắt. Người khác nữa thì chạy theo cái khôn ngoan của con người trần gian và nhiều người còn có tâm thức quá trần tục, bị danh lợi chi phối và lèo tái nên họ đã quên rằng mình thuộc về Chúa Kitô và Chúa Kitô là thủ lãnh duy nhất của mọi người.
Thật thế, người Kitô hữu dễ rơi vào tâm thức kéo bè kết đảng để đề cao lãnh tụ, khép kín độc quyền đặc sủng, chống đối và đánh phá nhau, khiến cho cộng đoàn Giáo Hội bị tán loạn. Do đó, thánh Phaolô đã khẳng định một cách chắc chắn rằng: "Phương thức duy nhất giúp Giáo Hội hiệp nhất và hài hoà hạnh phúc trong cộng đoàn là mỗi người Kitô hữu hoán cải trở về với quyền tối thượng của Chúa Giêsu Kitô, và lấy Ngài làm điểm tham chiếu duy nhất cho tư tưởng, lời nói và cung cách hành xử trong đời sống của mình".
Nghĩa là tất cả mọi người đều phải có cùng một đức tin duy nhất vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc con người. Đó là đức tin mà mọi người chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính. -------------------------------------------
Chúng ta luôn nghĩ rằng thời đại của chúng ta là một thời đại xáo trộn nhất với những vụ bạo:TN 3-A37
Chúng ta luôn nghĩ rằng thời đại của chúng ta là một thời đại xáo trộn nhất với những vụ bạo lực, bắt cóc tin, giết người tấn công có vũ trang. Vả lại, Tin Mừng của Matthêu giới thiệu với chúng ta thời đại của Đức Giêsu như một thời đại bi đát. Đúng vào lúc mà chính quyền bắt giam người anh họ của Người, không cho ông giảng dạy nữa, Đức Giêsu quyết định tiếp lục sự giảng dạy đó! Phải có lòng can đảm, Đức Giêsu mới dám lao vào một cuộc phiêu lưu cũng sẽ đưa Người đến cùng một số phận bi thảm. Ở đây Matthêu sử dụng cùng một từ ngữ như trong cuôc khổ nạn: "Nghe tin ông Gioan đã bị nộp". Trong vài tuần lễ nữa, Đức Giêsu sẽ nói: "Này chúng ta lên Giêrusalem. Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư ; họ kết án tử hình Người và nộp Người cho dân ngoại" (Mt 20,18 - 26,2).
Đời sống của tôi cũng thế, có lẽ khó sống. Những cuộc xung đột mà tôi phải sống chẳng phải là cơ hội để tôi hiệp thông với Đức Giêsu sao?
Người lánh qua miền Galilê...
Từ "lánh qua” lui về, là từ đặc biệt của Tin Mừng Matthêu. Thánh sử nhấn mạnh rằng Đức Giêsu (vốn là Thiên Chúa!) là một hạng người bị cấm cách, lưu đày lúc nào cũng phải chạy trốn, và bị những kẻ thù ghét truy nã (Matthêu 12,15 - 14,13 - 15,21). Cũng với những công thức ấy Matthêu đã cho thấy Giuse chạy trốn khỏi miền Giuđê lui về miền Galilê vì Áckêlao nguy hiểm đã kế vị vua cha (Mt 2, 22-23).
Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum. Một thành ven biển hồ Galilê. thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali.
Đức Giêsu dời chỗ. Người rời bỏ ngôi làng nhỏ nơi Người đã sống thời thơ ấu. Nói đến ở một "thành phố trong thế kỷ cơ động của chúng ta, tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu cũng đã phải làm quen với những láng giềng mới, tạo ra các mối quen hệ mới, thay đổi môi trường! Vậy, Đức Giêsu đã chọn thành phố nào để ở như sau này người ta sẽ nói "thành phố của Người” (Matthêu 9,1). Caphácnaum ! Đó là thành phố của Simon Phêrô. Nhưng sự khai quật gần đây đã khám phá ra ngôi nhà khiêm tốn của người ngư dân đó, rất gần cảng... Đức Giêsu đã đến cư ngụ trong ngôi nhà đó. Caphácnaum là một thành phố biên giới, nằm trên đường biên giới của hai quốc gia của Hêrôđê và của Philípphê. Thành phố này có một trạm thu thuế, rnột đội quân La mã đồn trú. Khác với Nadarét là một thị trấn nhỏ, nằm ẩn khuất sau những đồi núi, Caphácnaum là nơi qua lại và tụ tập nhiều dân là địa điểm quan trọng trên con đường ven biển nối liền Đamát, cửa vào sa mạc, đến Xêsarê cửa ra biển Địa Trung Hải. Đức Giêsu không dời chỗ mà không có lý do. Sự chọn lựa này có một ý nghĩa.
“Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: "Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi".
Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Đức Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha: Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Đức Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người: vì thế có sáu mươi sáu lời trích dẫn của Cựu Ước trong Tin Mừng của Matthêu. Nhưng chúng ta có thể thấy ở đây một ý chí có cân nhắc Đức Giêsu: Người đi đến với những người xa Thiên Chúa nhất.
Miền đất Galilê là một tỉnh pha trộn nhiều sắc dân, một sứ sở mở rộng cho các đoàn thương nhân. Đức Giêsu đến ở đó! Người không định rao giảng trước tiên cho thành Giêrusalem, và miền đất thánh Giuđê... nhưng trong miền đất phía Bắc, mở ra cho các ảnh hưởng ngoại giáo và do đó bị giới lãnh đạo Do Thái nghi ngờ và khinh bỉ như miền đất lạc giáo không nhiều thì ít. Giáo Hội ngày nay có mang tính chất truyền giáo như Đức Giêsu không?
Phần tôi thì sao? Những phản ứng sâu xa của tôi là gì? Có phải tôi chỉ lui tới thân mật với những người suy nghĩ giống tôi? Có phải tôi tránh tiếp xúc với những người ngoại giáo và vô thần? Có phải theo bước Đức Giêsu. Tôi đến chỗ ngã tư đường chỗ giao lưu với dân ngoại? Có phải tôi sẽ mạnh dạn đến xứ sở của “bóng tối và sự chết", để đưa vào đó một chút “ánh sáng"?
Tôi chiêm ngắm Đức Giêsu rời bỏ ngôi làng nhỏ của người... đến cư ngụ ở Caphácnaum...
Từ lúc đó Đức Giêsu bắt đầu rao giảng, và nói rằng: "Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần".
Đức Giêsu tiếp tục việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả không thay đổi một lời (Mt 3,2) Và Đức Giêsu đến lượt mình bị giết chết, Phêrô sẽ lặp lại cùng một sứ điệp (Cv 2,38). "Anh em hãy sám hối, hãy thay đổi!”. Chúng ta có xác tín rằng chúng ta một sự đổi hướng phải thực hiện không? Chúng ta không tự phát quay hướng Thiên Chúa, Tha Thể tuyệt đối cũng như về người khác… Theo tính tự nhiên, chúng ta lấy mình làm trung tâm. Nếu chúng ta sáng suốt, chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta có một sự đổi hướng hoàn toàn phải thực hiện… để Thiên Chúa thật sự ngự trị trong lòng chúng ta... để Nước Thiên Chúa được ở đây trong đời tôi.
Một cách cụ thể, sự sám hối, hoán cải nào mà Thiên Chúa đòi hỏi tôi trong lúc này?
Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simon, chúng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá".
Cảnh nầy lầ một cảnh tầm thường và hoàn toàn đơn giản theo thể cách của Matthêu. Không có gì là phi thường, đặc biệt. Theo Matthêu, hành động đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một phép lạ nhưng là một lời kêu gọi. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội, cuộc cách mạng đã thay đổi bộ mặt của trời đất, đã bắt đầu như thế... trong hoàn cảnh tầm thường của các ngư dân làm công việc mỗi ngày của họ. Chúng ta hãy lưu ý tầm quan trọng đó: Đức Giêsu “kêu gọi" các tông đồ của Người không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh... nhưng ở giữa đời sống mỗi ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp!
Quả Đức Giêsu có sự táo bạo? Chính Người đã khởi xướng, chính Người đã kêu gọi. Xem ra Người hoàn toàn biết rõ Người muốn đi đến đâu! Người lôi kéo người ta đi theo Người. Người điềm nhiên nói rằng mọi người được dựng nên cho Người, phải đi đánh lưới họ, như người ta đi lưới cá.
Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
Ngày nay, có sự thiếu ơn gọi. Tin Mừng ngày hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Chắc chắn, Chúa vẫn tiếp tục gọi. Ai sẽ chấp nhạn sống cuộc phiêu lưu trong hoạt đọng tông đồ như trong thời kỳ đó? Lúc đó, những người được gọi đã đáp lại vô điều kiện... Còn tôi?
Đi một quãng nữa: Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với Cha lã ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.
Sự đáp lại ơn gọi quả mau lẹ đối với chúng ta xem ra như không có thật. Chúng ta chớ nên quên rằng những người như Gioan và Giacôbê đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị về mặt tâm lý và lịch sử. Vả lại đây không phải là lần đầu tiên họ gặp Đức Giêsu. Họ đã gặp Người ở bờ sông Giođan (Ga 1,35-50). Tuy nhiên, chúng ta không nên giảm nhẹ những yêu sách triệt để của Đức Giêsu: Câu chuyện được xây dựng trên sơ đồ ngôn sứ Êlisa cũng đã đốt cày của ông, nướng bò của ông "để không bao giờ còn quay lại đàng sau. Chúng ta không đơn thuần trong một quan hệ “bình thường" của môn đệ với rápbi hay giáo trưởng của họ. Không phải Giacobê và Gioan, cũng không phải Phêrô và Anrê đã tìm kiếm Đức Giêsu mà chính Đức Giêsu với sự cao cả của Người đã có sáng kiến mời gọi họ.
Và nếu đó là Thiên Chúa mời gọi tôi? Tôi sẽ làm gì?
Thế rồi Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân. Matthêu tóm lược ở đây mọi hoạt động của Đức Giêsu. Thánh sử nói lại nguyên văn câu này trước lúc Nhóm Mười Hai bắt tay vào việc truyền giáo (Mt 9,35). Tôi phải dành thời gian để chiêm niệm trong thinh lặng và kéo dài về Đức Giêsu. Tôi tưởng tượng Người, đang bước đi trên mọi nẻo đường, từ làng này sang làng khác.
Người rao giảng Tin Mừng. Ở đây có từ ngữ "kêrussôn" mà nghĩa theo mặt chữ là cao rao (kêu gào) Tin Mừng. Từ này gợi ý một anh mõ làng (một người rao tin) đến gần để công bố một tin: Nước Thiên Chúa đã đến! Người cũng giáo huấn dạy dỗ. Từ dùng ở đây là "didaskôn" gợi ý một hoạt động được triển khai nhiều hơn và mang tính sư phạm nhiều hơn. Giờ đây chúng ta tưởng tượng Đức Giêsu được vây quanh bởi những kẻ mà người kể cho nghe những dụ ngôn, ví dụ là như thế. Một số nhà chú giải Kinh Thánh nghĩ rằng Đức Giêsu đã sử dụng các phương pháp giảng dạy của các giáo trưởng thời đại Người... tức là bắt họ học thuộc lòng những bản văn mà họ không được quên. Sau cùng, Người chữa lành. Và chúng ta còn ghi nhận từ ngữ Hy Lạp mà người nào biết tiếp Pháp sẽ nhận biết dễ dàng: "thérapeuôn". Đức Giêsu là một người đầy lòng nhân hậu, Người luôn chạnh lòng thương vì tất cả những đau khổ mà Người gặp trên con đường Người đi qua.
Lạy Chúa, xin chữa lành chúng con! Xin cứu chúng con! và làm cho chúng con thành những người cứu độ với Chúa.
Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samari:TN 3-A38 FB
Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuốn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả thượng phẩm. Có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria, coi Samaria là ngoại đạo vì người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garidim. Người ở Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.
Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.
Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.
Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái. Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh nhiều bông hạt.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1) Chúa Giêsu có những lựa chọn khác với thường tình. Tại sao? 2) Tại sao Chúa không bắt đầu rao giảng tại thủ đô Giêrusalem, nhưng lại bắt đầu từ Galilêa, vùng đất dân ngoại? 3) Tại sao Chúa lại chọn tông đồ giữa đám thuyền chài thất học?
Matthêu thích tạo nên những toàn thể. Trước khi cống hiến cho chúng ta Bài:TN 3-A39
Matthêu thích tạo nên những toàn thể. Trước khi cống hiến cho chúng ta Bài Giảng Trên Núi đầy ấn tượng, ngài tổng hợp công việc truyền giáo của Chúa Giêsu trong cái bước đầu nhiều sóng gió, trong đó cái nhìn khám phá ra những chân trời càng ngày càng rộng lớn hơn. (Tôi đọc đến đoạn 23 bởi vì cắt đứt một bố cục hoàn toàn như vậy là điều đáng tiếc).
Động thái thứ nhất: Chúa Giêsu lui về Galilê, rời Nagiarét để lấy Caphanaum làm cơ sở hoạt động và bắt đầu giảng dạy.
Động thái thứ hai: Chúa Giêsu đi trên bờ hồ và nói với bốn người: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con trở thành những kẻ đánh lưới người. Từ bỏ tất cả, họ theo Ngài”. Thế là khai sinh một Giáo Hội có bản chất truyền giáo.
Động thái thứ ba: Ngài rảo “khắp” miền Galilê. “Khắp” là từ mấu chốt. “Danh tiếng của Chúa Giêsu đồn ra khắp miền Syri; người ta đem đến cho Ngài tất cả những ai đau ốm; rất nhiều người theo Ngài”. Tầm nhìn không ngừng mở rộng ra và lời trích dẫn tiên tri Isaia rất có ý nghĩa: “Galilê của các dân tộc!”.
Galilê là ngã ba đường nơi có nhiều người qua lại, người ngoại giáo sống lẫn lộn với người Do Thái. Trong khi xác định rằng Chúa Giêsu chọn Galilê để truyền giáo, Matthêu muốn lưu ý ngay tầm vóc của sự cứu độ của Đấng Cứu Thế. Trước tiên được dành riêng cho người Do thái, sự cứu độ sẽ lan tỏa tới tất cả mọi người.
“Ánh sáng đã xuất hiện trên những người ngồi trong bóng tối và sự chết”.
Trước khi lắng nghe chi tiết những lời nói của Chúa Giêsu trước khi xem Ngài hành động, sự suy niệm của chúng ta cần phải có tầm cỡ cần thiết để không bao giờ thu hẹp bất cứ cái gì thuộc về sự cứu độ. Tôi không biết đã đọc ở đâu: “Chúa Kitô ở nơi nào mà không có gì đóng kín, nơi mà không có người nào bị loại trừ”. Tôi vui mừng, nhưng sau đó cảm thấy nực cười: trong lịch sử, nhân danh chính Chúa Kitô, có biết bao nhiêu là bức tường và biết bao nhiêu sự loại trừ.
Những người trẻ tuổi khó mà hiểu được những chia rẽ giữa những người Kitô hữu và những hình thức loại trừ. Ít nhất trên đểm này họ là những người thầy của chúng ta do sự cảm nhận Tin Mừng tế nhị hơn của họ. Biết bao lần tôi đã nghe những người Kitô hữu ở tuổi trưởng thành tỏ ra khinh bỉ một loại người nào đó. Họ nói “Bọn họ!”. Giống như thể có những người được Chúa thương riêng, những người Công Giáo và nhất là những người hành đạo, sau đó là vô số người bị Chúa quên lãng, những người mọi rợ, những quái nhân, những kẻ vô luân, những kẻ không tin có Chúa.
Không, “không tin có Chúa” chỉ có nghĩa khi nói về những người từ chối Thiên Chúa (nhưng họ từ chối Thiên Chúa nào?). Trước mặt Chúa, chỉ có những con cái của Ngài mà thôi. Điều này có khó chấp nhận hay không? Do đâu mà có sự loại trừ cuồng nhiệt như thế?
Có thể là do quan niệm “dân tộc được chọn” ít được giải thích cho sáng tỏ. Ở đây, tôi sẽ không tránh né một câu hỏi làm tôi luôn bối rối: ‘tại sao có sự chọn lựa của Thiên Chúa’. Tôi thường gặp câu hỏi này trong những bài phỏng vấn tôi, khi thì dưới dạng một sự khắc khoải, khi thì đầy tức giận. Người ta nói với tôi: ‘Bạn được sinh ra trong một gia đình Công Giáo, còn tôi được sinh ra trong một gia đình cộng sản triệt để vô thần. Do đó bạn có đức tin, còn tôi thì không. Tại sao Chúa của bạn cho những người này tất cả còn những người khác thì không cho gì hết?’. Tôi không trả lời được. Tôi không biết tại sao thế giới được chia ra thành người Do Thái, người Kitô hữu, người Hồi Giáo, người Phật Giáo, người theo thuyết không thể biết và người vô thần.
Tôi có thể nói lên hai điều. Trước hết khẳng định rằng Chúa ban tất cả hoặc không ban gì hết là sai. Những điều Ngài cho thì khác nhau và Ngài để cho những khác biệt đó hoạt động. Tạo vật của Ngài là một thế giới những sự khác biệt. Những nơi nào có con người hiện hữu thì nơi đó Chúa để mắt nhìn đến người đó. Ngài ban cho người đó những ơn sủng phù hợp với điều người đó làm nhằm hoàn thành nhiệm vụ làm người của ho, cho dù người đó sống vào thời kỳ nào, ở đâu và có nền văn hoá nào.
Tiếp đến, tất nhiên đã có một dân tộc được chọn: dân tộc Do Thái. Và một dân tộc thứ hai được chọn, đó là những người Kitô hữu nối tiếp dân tộc Do Thái (Matthêu nhấn mạnh rất nhiều trên sự liên tục này). Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế được các sứ ngôn loan báo. Ngài là Môisê mới của một dân tộc không biên giới. Người Kitô hữu chỉ được cứu độ để trở thành những kẻ cứu độ, để trở thành những dấu chỉ của sự cứu độ của Chúa Giêsu Kitô được trao ban và được sống bằng nhiều cách mà không có kẻ nào bị loại trừ cả.
Ý tưởng Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người sẽ giúp chúng ta tránh được việc co mình lại cố thủ và loại trừ. Chúng ta chỉ có quyền gọi Chúa Giêsu là “Đấng Cứu độ chúng con” nếu điều đó muốn nói với chúng ta: Đấng Cứu độ mọi người. Trong miền Galilê của các dân tộc đã bắt đầu một sự quy tụ mà không ai có quyền giới hạn cả.
Ngày hôm nay thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu kêu gọi một số tông đo: TN 3-A40
Ngày hôm nay thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu kêu gọi một số tông đồ. Ngài có thể kể câu chuyện này cách chung chung, nghĩa là chỉ thông báo cho chúng ta biết Chúa Giêsu tụ họp một số môn đệ ở chung quanh Người, thay vì ngài trình bày như thế, thánh Matthêu đã cho chúng ta biết tên của các vị tông đồ được Chúa Giêsu kêu gọi. Các tông đồ đó là Simon (sau này tên là Phêrô) và Andrê em của ông. Giacôbê và Gioan em ông. Có một điều gì đó đặc biệt nơi cái tên của chúng ta.
Trên một “sô” diễn trên tivi, có một bài hát diễn tả tình cảm thật đẹp khi chúng ta đi đến một nơi mà mọi người đều biết tên của bạn. Thật hồi hộp và cảm động biết bao khi bốn người dánh cá nghe thấy Chúa Giêsu gọi tên họ, mời gọi họ đi theo Người. Họ phải bịn rịn lắm khi từ bỏ nghề nghiệp, gia đình và nhà cửa để đi theo Chúa Giêsu. Họ đã thấy nơi Chúa Giêsu có điều gì đó rất khác với những chứng nhân trước đó. Phải có ánh sáng đức tin trợ giúp họ, để họ nhìn thấy Chúa Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa. Nhưng lúc ban đầu ánh sáng ấy không mạc khải cách kỳ diệu như tiên tri Isaia đã tiên tri khi ông viết: “Dân chúng đi trong tối tăm nay đã thấy ánh sáng lớn lao”. Nhưng đó mới chỉ là một ánh sáng mờ nhạt, một ánh sáng cho phép họ có những lúc vẫn còn nghi ngờ ở Chúa Giêsu, có lúc còn chối Chúa, hay bỏ rơi Chúa trong cuộc thương khó của Người. Nhưng ánh sáng đó không hề tắt bao giờ. Đúng hơn, nó đang dần dần lớn lên và khi Chúa Thánh Thần ngự đến vào ngày lễ Hiện Xuống, ánh sáng đó đã trở thành một ngọn lửa chiếu sáng và ấm áp. Sự tận tuỵ đã thay đổi sự nghi hoặc.
Những điều đó cũng đã xảy ra cho chúng ta như thế. Qua Giáo Hội, lúc chúng ta chịu phép rửa tội, Đức Kitô đã gọi đích danh tên của mỗi người chúng ta. Người nói qua giọng vị linh mục: “Anna (hoặc Anrê) Linh (hoặc Long) (hay bất cứ tên nào) Cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Chúng ta được trao cho một ngọn nến cháy sáng, biểu hiện cho đức tin của chúng ta. Cho dù lúc đó chúng ta là những đứa bé hay những người đã trưởng thành, chúng ta lãnh nhận ánh sáng đức tin. Đầu tiên ánh sáng ấy chỉ là một đốm sáng mờ nhạt nhưng với bí tích Thêm Sức, bí tích này kiện toàn phép rửa tội, ánh sáng đó trở nên sáng rực.
Với đức tin chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Chúa Cha đã sai đến trong thế gian, được thụ thai trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúng tôi tin Chúa Giêsu đã đi rao giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa, Tin Mừng mà chúng ta vẫn tiếp tục lắng nghe Thánh Kinh và những lời giáo huấn khác của Giáo Hội. Chúng ta biết rằng sứ vụ truyền giáo đã dẫn Người lên Giêrusalem, nơi mà Người phải chịu đau khổ, chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta. Đức tin của chúng ta dạy rằng nhờ việc chúng ta thông dự vào tiệc Thánh Thể, chúng ta được chia sẻ sự kỳ diệu của sự chết và sự sống lại của Con Thiên Chúa.
Chúng ta theo Đức Kitô bởi chúng ta là thành phần của thân xác Người, thân thể mầu nhiệm của Người là Giáo Hội. Chúng ta có thể cảm nghiệm được tâm tình của Thánh Vịnh 27: “Chúa là ánh sáng và là Đấng Cứu Độ tôi, tôi còn sợ chi ai? Chúa là nơi nương ẩn của đời sống tôi, tôi còn sợ gì ai?”
Thánh Vịnh viết tiếp: “Một điều tôi xin Chúa, một đều tôi kiếm tìm, đó là được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi”. Chúng ta phải luôn luôn trung thành với ơn gọi phép Rửa của chúng ta, để được ở lại trong nhà Chúa là Giáo Hội của Người và đừng bao giờ nghi hoặc, hoặc bỏ rơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã kêu gọi đích danh tên chúng ta để chúng ta trở nên những người tiếp bước của Người.
Tuần trước, phụng vụ cho chúng ta nghe “đại ngôn” của Isaia về Israel, tôi trung của Thiên Chúa:TN 3-A41
Tuần trước, phụng vụ cho chúng ta nghe “đại ngôn” của Isaia về Israel, tôi trung của Thiên Chúa: “Nếu ngươi là tôi trung của ta, để tái lập các chi tộc của Giacóp, để dẩn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẩn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cỏi đất”. Lúc Isaia viết những lời này, chẳng ai có thể tưởng tượng đây là sự thật, vì đất nước Do Thái đang bị đế quốc Assyria giày xéo, và dân chúng đang sống trong kiếp nô lệ tồi tệ nhất trong lịch sử. Nhưng nếu chúng ta áp dụng vào Chúa Giêsu và các bài đọc hôm nay thì đoạn văn trên là sự thật rỏ ràng: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đả thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu soi. Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hảy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”.
Như vậy các bài đọc của hai Chúa Nhật liên kết chặt chẻ với nhau. Và tín thư của chúng tràn đầy an ủi và hy vọng. Chúng ta có thể khai triển cho tình hình tối tăm của thế giới hôm nay, đặc biệt ở địa phương mình. Chủ đề hiển linh của Chúa Giêsu còn tiếp tục: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng”.
Thực vậy, thánh sử Matthêu tăng tốc các biến cố để mau chóng dẩn đến sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng cho muôn dân. Khi Đức Giêsu nghe ông Gioan đã bị nộp, Ngài bỏ Nazareth đến ở Capharnaum, một thành phố ven biển hồ Galilea thuộc hạt Dơvulun và Náptali. Như vậy Matthêu cho thấy rằng Chúa Giêsu làm tròn lời tiên tri Isaia rao giảng niềm hy vọng cứu độ cho dân Do Thái. Giửa lúc Hêrôđê tác yêu tác quái trên Gioan, thì Chúa Giêsu rao giảng ơn cứu rổi Nước Trời. Chúng ta không được Matthêu cho biết Đức Giêsu nghĩ thế nào về biến cố. Liệu Ngài có sợ củng sẻ bị bắt như Gioan, vì anh em liên kết chặt chẻ với nhau trong sứ vụ của Thiên Chúa. Liệu Hêrôđê cũng tìm cách tiêu diệt Chúa Giêsu như ông đã giết Gioan, ngỏ hầu chấm dứt hiểm hoạ cho ông?
Dầu sao thì Chúa Giêsu tới đúng nơi mà Isaia hứa là: “Dân đang ngồi trong bóng tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng”. Và thay vì ẩn náu, Ngài bắt đầu rao giảng. Sứ vụ của Ngài khởi sự, tất nhiên tiếng tăm của Ngài cũng sẻ nổi lên. Tuy Ngài sẻ bị bắt và bị giết, nhưng chưa phải lúc này, và ở nơi chốn này. Bóng thánh giá dần dần tỏ hiện. Đức Giêsu biết thế và Ngài chấp nhận hậu quả của lời mình rao giảng: “Anh em hảy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Suy nghĩ về sự kiện này, chúng ta thấy rõ lòng can đảm của Chúa Giêsu và ý nghĩa sâu xa của Nước Trời cùng sự cần thiết của lòng sám hối. Chẳng hiểu mọi tín hửu có ý thức được và sống xứng đáng với Tin Mừng không?
Thôi thì dầu sao các nơi chốn của Phúc âm đều mang một ý nghĩa hết sức biểu tượng trong tâm thức người có đạo. Galilea, Capharnaum, Dơvulun, Naptali cũng nằm trong chiều hướng ấy. Chiều hướng đời đời, tự do và ơn thánh. Tâm hồn chúng ta là Galilea hay Capharnaum, Dơnvulun hay Naptali? Điều này thì tuỳ suy nghĩ và nếp sống mổi người, không ai quyết đoán được.
Galilea là một phần của đất hưá. Nhưng nằm trong giao điểm buôn bán quốc tế và rất dễ bị ngoại bang xâm chiếm. Nhiều thương gia và khách ngoại kiều đến đó làm ăn và cư trú, nên những người Do Thái chính thống thường gọi đó là Galilea dân ngoại. Đức Giêsu chọn nơi đây làm nơi rao giảng Tin Mừng đầu tiên, có nghĩa là sứ điệp của Ngài không chỉ dành riêng cho dân Do Thái, mà còn cho mọi dân tộc. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa đến với mọi quốc gia, tiếng nói. Như vậy sứ mệnh của Đức Giêsu mang tính chất phổ quát. Sứ mệnh của Hội Thánh cũng vậy, nhưng đến chúng ta thì hình như đã nhuốm màu sắc kỳ thị. Làm sao chúng ta tự gọi mình là môn đệ Chúa?
Đức Giêsu khởi sự sứ mệnh của Ngài giửa một cộng đồng những người ô hợp và tan nát. Đúng như Isaia tiên báo: “Dân ngồi trong bóng tối tăm đã nhìn thấy ánh sáng chiếu soi”. Thời gian chờ đợi và dự cảm đã chấm dứt. Chúa không phải là “một ngôn sứ” nào đó, mà chính là Đấng mà tiên tri đã báo trước. Ngài không bảo dân chúng hảy chờ đợi và hy vọng vì lúc này ánh sáng đang chiếu rọi. Nước Trời đã tới và đang hiện diện giữa họ. Lời Thiên Chúa hứa đã được nên trọn. Vậy thì đối với những người rao giảng, các giáo lý viên, các đấng hướng dẫn tuần phòng, các cha “linh hồn” không còn gì để mà “hứa”, nhưng thực tại đã ngay trước mắt. Đời sống họ phải giải bày thực tại đó, bằng không thì chỉ là “bánh vẻ” (pie in the sky). Thánh Phaolô không viết cho tín hửu thành Côrintô hôm nay rằng ông là người rao giảng lợi khẩu nhất, thông thái nhất, khôn ngoan nhất, mà là kẻ được sai đi để rao giảng “thập giá Đức Kitô”: “Đức Kitô chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẻ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô không trở thành vô hiệu”. Thì ra sứ mệnh của các nhà rao giảng của mọi thời là như vậy. Họ phải làm thế nào nói được như Chúa Giêsu: “Anh em hảy sám hối, Nước Trời đã đến gần”. Bằng không thì chỉ là huyênh hoang kiểu thanh la chủm chọe.
Tôi có tham dự một buổi chia sẻ Lời Chúa hôm nay. Chúng tôi dừng lại ở câu văn này. Một ai đó đặt câu hỏi: “Nước Trời đã đến gần nghĩa là gì?”. Có người trả lời: “Là Thiên Chúa đã xem thấy những nhu cầu của nhân loại và giơ tay cứu giúp. Ngài chẳng cần tài khéo của chúng ta”. Một câu nói tóm tắt tất cả sứ vụ của Chúa Giêsu. Câu văn sẽ theo sát Đức Kitô trong toàn bộ Phúc âm. Nơi đâu Ngài đi, nơi ấy Ngài mang sự hiện diện của Thiên Chúa cho dân chúng, cho những ai cần thay đổi cuộc sống, dĩ nhiên, không phải tự sức riêng họ, mà là từ Đấng ăn nói có “thẩm quyền”. Qua Đức Kitô vương quyền và luật pháp của Thiên Chúa được công bố và nhân loại được ban cho khả năng để thay đổi nếp sống. Những gì củ kỷ, sa đoạ, nhơ bẩn phải được bỏ đi và thay thế bằng cái gì mới, thanh cao, trong sạch vì Nước Trời đã đến gần. Kể ra ý kiến không phải quá tệ, phải không thưa quý vị rao giảng?
Đúng vậy, Đức Giêsu không làm sánh sáng một mình. Phần thứ hai của Tin Mừng, Matthêu kể lại Chúa bắt đầu mời gọi những nhân viên cộng tác: Trước hết là Phêrô và Anrê: “Người đang đi dọc theo biển hồ Galielea thì thấy hai anh em kia, là ông Simon cũng gọi là Phêrô và người anh ông là Anrê đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá”. Người bảo các ông: “Các anh hảy đi theo tôi. Tôi sẻ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người”. Sau đó là Gioan và Giacôbê. Bốn người môn đệ đầu tiên.
Các nhà rao giảng bây giờ nghĩ thế nào về sự kiện này? Liệu họ có đủ khả năng thu hút thiện hạ không? Muốn được như vậy cuộc đời họ phải là chiếc nam châm đã. Nam châm của tin cậy mến. Nam châm bằng nghèo nàn thánh thiện, vâng lời từ bỏ, thanh sạch siêu thoát. Nam châm của tám mối phúc. Xét như vậy thì thật khó biết bao? Chúng ta phải thành thật chấp nhận chân lý và quyết tâm làm môn đệ thực sự của Chúa.
Xin hảy nhìn đến các cộng tác viên của Chúa hôm nay. Chúa mời họ cộng tác với Ngài làm “ánh sáng muôn dân, đem ơn cứu độ đến tận cùng trái đất”. Nhưng họ là những ai? Là những ngư phủ nghèo nàn dốt nát, chẳng có chi cao sang để mà vổ ngực huênh hoang, giống như Phaolô: “Rao giảng không phải bằng lời lẻ khôn ngoan, kẻo thập giá Đức Kitô trở nên vô hiệu”. Tức là không có hiệu quả khi chúng ta dùng phương tiện thế gian. Khi được Thánh Thần trợ giúp, các tông đồ Chúa rao giảng hoàn toàn bằng quyền năng Thiên Chúa, họ chỉ tin cậy vào Chúa mà thôi, chứ không bằng sức riêng mình, hay bằng sự thông thái của mình.
Sứ vụ Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi vào tăm tối linh hồn loài người, loài người ở đây là toàn thể nhân loại, chứ không riêng một ai. Nhưng để tiếp nhận ánh sáng ấy chúng ta phải ý thức được sự tối tăm của linh hồn mình và khao khát xua tan chúng đi, bằng không thì vô ích. Nói cách khác người ta phải ước ao thay đổi nếp sống xấu xa, các thói quen cố hửu, kiêu căng, ưa tiện nghi, tham lam tiền bạc.
Thực sự loài người còn nhiều bóng tối lắm. Bóng tối của tội lổi, chiến tranh, kỳ thị, cô đơn, tôn thờ vật chất, lợi lộc tiền tài, quyền lực kinh tế – chính trị, chẳng ai có thể liệt kê hết. Phải nói như Isaia: “Đang ngồi trong bóng tối tử thần”. Người môn đệ Chúa phải mau mắn từ bỏ tất cả để đáp lời Thiên Chúa, rao giảng ánh sáng cho muôn dân. Trước hết phải thay đổi nếp sống của mình, ngày một trở nên thánh thiện hơn, nghèo khó hơn, khiêm tốn hơn. Nghĩa là phải luôn ý thức về nhu cầu cần thay đổi của mình, rồi mới có thể thu hút kẻ khác. Quả thực thế giới đang có nhu cầu cấp thiết về ánh sáng, nhất là ánh sáng siêu nhiên. Liệu các môn đệ Chúa sẵn lòng cho Ngài mượn chân tay miệng lưỡi, thân thể, trí tuệ, để Ngài tỏ bày ánh sáng cho thế gian? Để Ngài tỏ bày chay tịnh, bác ái, khiêm nhường, khổ chế cho hàng xóm láng giềng, bạn hửu, người thân kẻ sơ trong gia đình, khu xóm, làng mạc, đất nước bạn? Chúng ta hảy cầu xin cho có nhiều tay thợ lành nghề trong vườn nho Chúa. Ước chi lời cầu nguyện của chúng ta được Thiên Chúa nhận lời. Nhất là trong tuần lể hiệp nhất này. Amen.
Qua bài Tin Mừng CN 3TN, thánh Matthêu quả là tài tình khi phác họa được những nét nổi bật: TN 3-A42
Qua bài Tin Mừng CN 3TN, thánh Matthêu quả là tài tình khi phác họa được những nét nổi bật về Nhân Vật mà “ông đã đứng dậy đi theo Người”, chỉ vì một lời mời gọi ngắn gọn “Anh hãy theo tôi!” (Mt 9, 9), và chỉ bởi ánh mắt nhìn của Người tựa “ánh sáng huy hoàng” “bừng lên chiếu rọi” con tim khốn khổ của một người thu thuế, mà hầu như mọi người tự cho mình là công chính thời đó đã coi ông là người “đang ngồi trong bóng tối của tử thần” tức một người tội lỗi (Mt 4, 16).
Trước khi chấm phá những nét nổi bật của Đức Giêsu, Người đã kêu gọi đi theo Người, thánh Matthêu đã khẳng định chương trình cứu độ của Thiên Chúa bằng cách khéo léo dẫn chứng những câu Kinh Thánh mà ngôn sứ Isaia đã được mặc khải trước đó đã hơn 600 năm về ánh sáng huy hoàng tức về Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ muôn dân. Rồi dựa vào những bước chân ra đi chuyển hướng của Đức Giêsu, ngài cũng đưa ra nội dung chính yếu trong giảng dậy của Người bằng lời tóm gọn rất ư là thú vị nhưng thực sự hàm súc là:
“Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 4, 17)
Lời giảng dậy của Người, theo cảm nghiệm của tôi, rất tuyệt vời, bởi như Gioan thánh sử đã chiêm niệm trong phần Lời Tựa rằng:
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Ngưới. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1, 9-11)
Sự việc “người nhà chẳng chịu đón nhận” được minh chứng một phần bằng biến cố “khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp” (Mt 4, 12) mà “ông Gioan đến để làm chứng và làm chứng vế ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga 1, 7-8) Do sự chối bỏ người làm chứng về ánh sáng thật đó mà Đức Giêsu đã thiết lập một Dân Mới với những môn đệ nồng cốt mà Người gọi là tông đồ để cùng với Người thi hành sứ vụ Đấng Cứu Thế mà thánh Matthêu đã phác họa bằng vài chữ rất súc tích:
“Thế rồi Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dậy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyện của dân.” (Mt 4, 23)
Cũng thế, sau biến cố “ông Gioan Tẩy Giả đã bị nộp”, hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả là Anrê và Gioan đã phải trở về hành nghề đánh cá cùng với hai người em và anh của hai ông là Phêrô và Giacôbê, với một tâm tình chắc chắn đã trao đổi cùng với nỗi chán nản và buồn khổ về lòng chai dạ đá của Hêrôđê mà thầy của các ông đã phải bị ngồi tù. Còn các ông biết đâu một ngày nào đó cũng có thể bị dính líu vào cùng với thầy của mình. Các ông nào có khác gì như “những người ngồi trong bóng đêm của tử thần” cùng với thầy của mình.
Hơn nữa, Đức Giêsu là người mà Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu rất thâm hậu: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”(Ga 1, 29). Thế cho nên, các ông đã mau mắn đi theo Người sau khi được kêu gọi vì biến cố đau lòng mà các ông đã và đang trải qua. Cũng giống như Matthêu, người đã phải cay đắng khốn khổ vì bị coi khinh là người tội lỗi. Nhưng một khi biết Đức Giêsu là người đã sống gần gũi, hòa đồng vớí mọi người, nhất là những người thu thuế và tội lỗi, như ông đã phải ghi lại rằng: “Thật vậy, những người Pharisêu nói với các môn đệ Người rằng: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?” (Mt 9, 11), thì ông đã dứt khoát liền “đứng dậy đi theo Người”.
Suy tới đây, tôi nhớ lại hành trình gặp gỡ Ánh Sáng Huy Hoàng Là Đức Kitô của một phụ nữ còn khá trẻ, thông minh, duyên dáng và đầy lòng nhân ái mà tôi đã có dịp gặp, rồi tâm sự vài lần tại Mái Ấm Phan Sinh, nơi dành cho những người mang chứng bệnh liệt tủy sống, nhân dịp mừng kính Giáng Sinh năm 2007 vừa qua...
Khi còn là sinh viên, chị đã yêu một người bạn trai khá thắm thiết, khá thân tình. Nhưng sau khi biết được người bạn trai đó đã có người yêu từ trước đó 4 năm, chị đã tự nguyện chia tay, dù đã phải vật lộn với mối tình đang nồng thời xuân xanh nhưng pha chút trái ngang này. Sự hy sinh của chị không ngoài lòng yêu thương người bạn gái kia đã là người đến trước. Chị đã thể hiện được lòng cao thượng đối với người khác vì không muốn đánh mất hạnh phúc mà họ đang có với nhau. Còn chị, chị đón nhận phần mất mát về mình nhằm đem lại niềm vui cho người khác.
Rồi sau khi ra trường Y, chị kết hôn với một doanh nhân khá thành đạt, với bao thăng trầm của cuộc đổi đời trong xã hội thời mở cửa. Qua 7 năm sống với nhau và có một cậu con trai, chị không ngờ tình yêu chân tình của chị đã bị chồng phụ bạc, bỏ bê để chạy theo những thác loạn trong đời sống đã có nhiều đổi thay trong nấc thang giầu nghèo. Chị cảm thấy chán nản vì tình yêu chân thành mà chị đã hiến dâng nay đã gần như trôi dần vào quên lãng bằng những lần đi hoang, đàn đúm, sa đọa trong rượu chè và trác táng của người chồng mà chị đã từng quí yêu, tin tưởng.
Trứơc những biến động về một tình yêu bị xem thường, chị bỗng gặp lại người tình thời trai trẻ. Quả là, “tình cũ không rủ cũng đến”. Hậu quả của cuộc tình “trở về chốn xưa” này làm chị điên đảo, hao mòn. Chị cảm thấy tâm hồn và trí tuệ bị giao động, bị stress đến cao độ. Lắm lúc chị như muốn bất chấp tất cả để sống thỏa mãn như con tim réo gọi. Nhưng rồi, với tâm hồn cao thượng mà trước kia chị đã sống qua, lại níu kéo chị một lần nữa thăng hoa. Cứ thế, thời gian làm chị quay cuồng điên lọan, nhưng lại chẳng tìm ra được lối thoát hòan hảo nào, kể cả trong các trang sách triết lý siêu thoát hoặc tâm sinh lý hiện đại.
Nhân một chuyến đi chơi về Bãi Dâu, Vũng Tầu do một vài người bạn Công Giáo hiểu và khuyên nhủ chị hãy tìm đến với Mẹ của Đấng Cứu Thế, chị đã bất ngờ khóc nức nở dưới chân tượng Đức Mẹ bởi sự yếu hèn quá đắng cay của chị đã không thể nào từ bỏ vừa là sự trả thù, vừa là cách hận đời đen bạc vì thiếu tình yêu thương tha thứ. Và sau chuyến đi ân sủng đó, chị đã quyết định tìm đến với Phúc Âm.
Dù là một người không tôn giáo chỉ sống theo đạo ông bà, nhưng chị đã miệt mài kiên trì tìm niềm an ủi nơi những trang Tin Mừng và dần dà rồi chị cũng nguôi ngoai sau một thời gian âm thầm cầu nguyện đơn sơ với Đấng Cứu Độ mà vài người bạn Công Giáo đã chỉ vẽ, giúp đỡ, khích lệ. Cho đến một ngày, chị nghe được Ánh Sáng Lời Đức Giêsu nhắn bảo chị rằng: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “rabbi” vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau.” (Mt 23, 8)
“Còn tất cả anh em đều là anh em với nhau”. Lời này đã giúp chị nghiền ngẫm, giúp chị tỉnh táo hơn và rồi nhờ ân ban từ Đấng mà chị bắt đầu tin và yêu mến qua cầu nguyện lặng lẽ, đã biến đổi tâm hồn và trái tim của chị. Với chồng, chị cũng đã biết yêu thương trở lại như một người anh em và không còn thù hận về những gì đã xẩy ra trong quá khứ. Kể cả với người tình năm xưa, chị cũng đã không còn có những rung động mặn mà như trước đây nữa. Ngoài ra, chị cũng đã nhìn mọi người khác, nhất là những người bệnh hoạn khốn khổ, khuyết tật đều cùng là anh em với nhau của chị.
Rồi cách nay một năm, chị đã lãnh nhận phép Thánh Tẩy làm con cái Chúa. Đồng thời, chị đã dành nhiều thời gian rảnh rỗi để đến chia sẻ với những người bệnh tật vừa bằng vật chất và tinh thần. Chính nhờ vào Ánh Sáng Lời Chúa chiếu rọi mà chị đã thoát ra khỏi vũng lầy của tội ngoại tình. Không những thế, chị còn biết cho đi thời gian, của cải cũng như đôi chân, đôi tay để hàn gắn những nỗi khổ đau của nhiều người bất hạnh là những người anh em của chị, là con cùng một Cha trên trời. Nơi cửa hàng mắt kiếng của chị, tất cả những người khuyết tật đều được chị giảm 30% chi phí khám và cắt kiếng.
Từ câu chuyện hoán cải trên do ân ban từ Lời Hằng Sống, tôi liên tưởng đến lời ĐTC Bênêđictô XVI ban huấn từ cho các đan sĩ Xitô Thánh Giá tại Áo. Ngài xác tín rằng:
“Thiên Chúa, Đấng Tự Hữu, không đặt để nhân loại chúng ta trong tối tăm kinh khủng, trong đó chúng ta phải mò mẫm, tìm kiếm một ý nghĩa tối hậu của mình một cách tuyệt vọng. Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta trong sa mạc hư vô, vô nghĩa, chỉ có chết chóc chờ đợi chúng ta. Không phải vậy, Thiên Chúa đã soi sáng những nơi tối tăm của chúng ta bằng Ánh Sáng của Người là Đức Giêsu Kitô. Trong Chúa Con, Thiên Chúa đã đi vào thế giới chúng ta với tất cả sự sung mãn của Ngài.”
Lạy Cha Chí Thánh,
Xin ban cho chúng con sự kiên trì học hỏi, suy niệm cùng cầu nguyện Lời Chúa.
Xin mở mắt tâm hồn để chúng con nhìn “thấy Ánh Sáng Huy Hoàng luôn bừng lên chiếu rọi” trong cuộc đời chúng con còn có quá nhiều “những vùng bóng tối của tử thần”. Amen.
Chúa Nhật 3TN, ngày 27/01/2008 Phêrô Vũ văn Quí CVK64 Email: peterquivu@gmail.com
Sau khi cḥu phép rửa tại sông Giodan và sau khi ông Gioan Tẩy giả làm chứng về Người, Chúa Giêsu:TN 3-A43
Sau khi cḥu phép rửa tại sông Giodan và sau khi ông Gioan Tẩy giả làm chứng về Người, Chúa Giêsu bắt đầu công khai rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa.
Để thực hiện sứ mạng lớn lao ấy, Chúa Giêsu kêu gọi một số người cộng tác với Ngài. Những người được kêu gọi đó chính là các tông đồ và bài Tin Mừng hôm nay kể lại sự kiện đó. Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên, đó là các ông Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Ơn gọi của các tông đồ là cộng tác với Chúa Giêsu, là với Chúa để trở thành “những kẻ lưới người như lưới cá”. Tuy nhiên, nếu đọc một cách chậm rãi, chúng ta sẽ khám phá ra mầu nhiệm của ơn gọi ngay trong những lời đầu tiên của bài Tin Mừng: “Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp”.
Tại sao Thánh sử Matthêu lại không nói là: Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị bắt? Quả thực là ông Gioan đã bị bắt chứ có một Giuđa khác để nộp ngài đâu? Thế mà thánh Matthêu lại gọi sự kiện ngài bị bắt ấy là bị nộp. Đây chính là chủ ý của Thánh Sử. Khi nói thánh Gioan bị nộp, Thánh Matthêu muốn công khai tuyên bố ơn gọi tông đồ của thánh Gioan Tẩy Giả. Đó là một sứ mạng bởi trời chứ không phải là một công việc trần tục hay một việc làm chính trị. Đó là một sứ mạng bởi Thiên Chúa và giờ đây, chính Thiên Chúa đã phó nộp ngài để ngài làm chứng cho sự thật. Cũng giống như sau này, chính Thiên Chúa lại một lần khác phó nộp Con yêu dấu của mình cho thế gian để Người làm chứng cho chân lý. Cả thánh Gioan và Chúa Giêsu đều là những người thực thi Thánh Ý Thiên Chúa, đều sẵn sàng và can đảm để Thiên Chúa hướng dẫn cuộc đời mình. Chính cuộc đời của các Ngài như một lời mách bảo: làm sự lành mà thiệt thân, bảo vệ sự thật mà bị bắt, đấy mới chỉ là người dám sống theo tiếng gọi của lương tâm. Nhưng làm việc thiện, dám can đảm bênh vực sự thật mà bị nộp, đấy là sống và làm việc theo tiếng gọi của Thiên Chúa, là sống theo sự hướng dẫn của Ngài.
Việc Chúa Giêsu công khai rao giảng Tin Mừng đi liền với việc thánh Gioan bị nộp hé mở cho chúng ta thấy: rồi sau này Chúa Giêsu cũng sẽ chung một số phận như vậy. Sẽ có ngày chính Chúa cùng bị nộp. Số phận của Chúa sẽ chung một số phận với thánh Gioan, tức là có trắc trở, có khó khăn, có chống đối, có thù nghịch, có bách hại và có đổ máu. Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian nên sẵn sàng phó nộp những con người đức hạnh, lương thiện và ngay cả Con yêu dấu của Ngài để thế gian nhờ đó mà được sống. Thế giới càng bất công, bạo tàn và tội lỗi, Thiên Chúa càng phó nộp tớ trai tớ gái của Ngài để cải thiện thế giới. Và vì để thế giới này ngày một tốt đẹp hơn, thiên đàng hơn, Thiên Chúa đang phó nộp các tín hữu, đặc biệt là các giáo sĩ, cho thế gian này. Ơn gọi của người tông đồ là thế, tông đồ giáo dân và nhất là tông đồ giáo sĩ, là chấp nhận để mình bị nộp cho thế gian ngõ hầu thánh hóa thế gian.
Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con có thể thốt lên: “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa”.
Tin Mừng Chúa Nhật 3 Thường Niên: Sự chữa lành thật của Chúa Kitô
VietCatholic News (Thứ Bảy 26/01/2008 10:19)
Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchin, là vị giảng Phủ Giáo Hoàng, đã giải thích những bài đọc:TN 3-A44
ROME (Zenit.org). Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchin, là vị giảng Phủ Giáo Hoàng, đã giải thích những bài đọc Thánh Lễ Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật thứ ba mùa Thường Niên kết thúc bằng những lời này: “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân.”
Gần một phần ba bài Tin Mừng liên quan với những chữa lành do Chúa Giêsu thực hiện trong thời gian ngắn cuộc đời công khai của Người. Không thể loại bỏ những phép lạ này hay là ra sức đưa ra một giải thích tự nhiên cho những phép lạ ấy mà không tách riêng ra toàn thể Tin Mừng và làm cho Tin Mừng nên khó hiểu.
Những phép lạ của Tin Mừng có các đặc tính không thể lầm lẫn. Những phép lạ đó không bao giờ được thực hiện để gây sửng sốt hay là thăng tiến người làm phép lạ. Một số người ngày nay để mình bị say mê bởi những kẻ có phép bay lên, hay là kẻ có phép làm những đồ vật xuất hiện rồi biến mất, hay là kẻ có thể làm những sự khác như thế. Ai hưởng lợi từ những kiểu phép lạ này nếu cho đó là những phép lạ? Chỉ những người làm những sự đó; họ chiêu mộ các môn đệ và làm tiền.
Chúa Giêsu làm phép lạ vì thương xót, bởi Người yêu thương dân chúng. Người cũng làm phép lạ để giúp họ tin. Rút cục, Người chữa lành để công bố Chúa là Thiên Chúa của sự sống và, cuối cùng, với sự chết, bệnh hoạn cũng sẽ bị đánh bại và sẽ không còn than khóc nữa.”
Không những Chúa Giêsu là người chữa bịnh, nhưng Người cũng truyền các môn đệ làm cũng một việc đó sau Người: “Người sai các ông đi rao giảng Nuớc Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Luca 9:2). “Hãy rao giảng rằng Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành những người đau yếu” (Mt 20: 7ff.) Chúng ta luôn gặp hai sự liên kết; việc rao giảng Tin Mừng và việc chữa lành bệnh nhân.
Con người có hai đàng để cố gắng chiến thắng những bịnh của mình: thiên nhiên và ân sủng. Thiên nhiên chỉ trí khôn, khoa học, thuốc men, kỹ thuật; ân sủng chỉ sự chạy đến Chúa, qua đức tin và sự cầu nguyện và các bí tích. Các bí tích là những phương tiện Giáo Hội có sẵn để “chữa lành bịnh nhân.”
Sự dữ bắt đầu khi chúng ta cố gắng đi con đường thứ ba: con đường ma thuật, tức là con đường cậy nhờ những phép cho là bí ẩn của một người, không dựa trên khoa học cũng không trên đức tin. Trong một trường hợp như thế, hoặc là chúng ta có quan hệ với một thày lang băm và ảo giác hay là, tệ hơn, với kẻ thù của Chúa
Không khó mà xác định khi nào chúng ta xử lý với một ân huệ thực sự chữa lành và khi nào đó là một sự giả mạo ma thuật. Trong trường hợp thứ nhất con người không bao giờ gán những thành quả đạt được cho những quyền phép của mình, nhưng cho Chúa; trong trường hợp thứ hai người ta không làm gì hơn là phô trương những “phép lạ lùng” được bịa ra là của mình.
Khi anh đọc những quảng cáo khẳng định rằng người phù thủy đó “thành công khi mà đối với những kẻ khác thì thất bại,” “giải quyết mọi vấn đề,” “được công nhận là có những phép mầu,” “trừ quỉ, chữa anh khỏi mắt xấu,”. Bạn không cần phải nghi ngờ gì: (hẳn nhiên) bạn đang xử lý một trò giả đối. Chúa Giêsu nói ma quỉ bị khua trừ bằng “ sự ăn chay và cầu nguyện,” không phải bằng sự cho người ta tiền!
Nhưng chúng ta phải tự hỏi mình một câu hỏi khác: Cái gì xảy ra về những người không được chữa lành, dầu đã làm mọi cách? Bạn nghĩ sao? Họ không có đức tin sao? Chúa không thương họ sao?
Nếu sự kéo dài của một cơn bịnh là dấu chỉ một người không có đức tin, hay là Chúa không thương họ, chúng ta phải nói rằng các thánh có lượng đức tin kém nhất và các thánh ít được Chúa thương hơn hết, bởi vì một số các Thánh đã trải qua suốt cuộc đời trên giường. Cho nên câu trả lời phải là khác.
Quyền phép của Chúa không được tỏ hiện chỉ một cách, nghĩa là, trong sự loại trừ sự dữ hay là trong sự chữa lành. Quyền phép Chúa cũng tự tỏ hiện trong sự ban khả năng, và thỉnh thoảng niềm vui, để vác thánh giá chúng ta với Chúa Kitô và trong sự bổ sung điều gì thiếu trong những đau khổ của Người.
Chúa Kitô cũng cứu chuộc sự đau khổ và sự chết. Đó không còn là dấu chỉ sự tội, sư tham gia trong lỗi của Adong nữa, nhưng đúng ra đó là khí cụ của sự cứu rỗi.
Cộng đoàn Kitô Côrintô là một cộng đoàn khá nổi tiếng trong Tân Ước. Một trong những lý do đã: TN 3-A45
Cộng đoàn Kitô Côrintô là một cộng đoàn khá nổi tiếng trong Tân Ước. Một trong những lý do đã khiến cộng đoàn Côrintô trở thành bất tử liên quan tới những tranh chấp giữa những tín hữu thời tiên khởi của giáo xứ Côrintô. Theo như Tông Đồ Công Vụ 18, sau một thời gian chia sẻ ngọt bùi với những tân tòng mới được nhận ánh sáng Tin Mừng, Phaolô cất bước rời khỏi thành phố, tiếp tục những bước chân truyền giáo tới những thị trấn và thôn làng của đế quốc La Mã. Nhưng không ai ngờ, sau khi nhà truyền giáo rời bước khỏi tân giáo xứ do chính tay ông vừa thành lập tại phố cảng Côrintô của Hy Lạp, những người tân tòng bắt đầu tranh chấp và chia rẽ ra làm bốn nhóm của bốn phương bốn hướng. Nói theo một cách khác, đang cơm lành canh ngọt, xưng huynh huynh đệ đệ, tỷ tỷ muội muội trong Đức Kitô, bỗng dưng vào một giây phút không ai ngờ, tín hữu Côrintô trừng mắt nhìn nhau, chia rẽ đông tây nam bắc. Nhóm đứng ở hướng đông tự xưng mình thuộc Đức Kitô. Nhóm đặt mình ở hướng tây tự xưng mình thuộc về cựu ngư phủ Biển Hồ Phêrô. Nhóm của hướng nam xếp mình vào nhóm thuộc về Apôlô—một Kitô hữu nổi tiếng về tài hùng biện xuất thân từ phố cảng Alexander của Ai Cập (Tông Đồ Công Vụ 18). Nhóm cuối cùng của hướng bắc thẳng thắn tuyên bố chúng ta thuộc về Phaolô (1Cor 1:11 -12). Nhận được những bản báo cáo về hiện tình chia rẽ đông tây nam bắc của giáo xứ, Phaolô quyết định viết lá thư thứ nhất gửi tới Cộng Đoàn Côrintô. Không kìm chế được cơn giận, Phaolô buông bút đặt xuống giấy trắng mực đen hàng chữ, “Uả, vậy là Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bẩy rồi sao?” (1Cor 1:13 ).
Có lẽ hiện tượng chia rẽ đông tây nam bắc đã ăn sâu vào trong máu của con người, cho nên không lạ chi những chương đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu độ cũng đã bắt đầu bằng những câu chuyện chia rẽ của cá nhân và của tập thể. Theo như Sáng Thế Ký 4, sau khi được Giavê Thiên Chúa mời ra khỏi Vườn Địa Đàng, vợ chồng anh chàng Đất sinh ra hai người con trai. Anh làm nghề nông, tên Cain. Em làm nghề chăn nuôi, tên Abel. Mùa gặt tới, hai anh em cùng dâng lên Giavê Thiên Chúa của lễ đầu mùa. Không hiểu sao Thiên Chúa chỉ nhận lễ vật của người em. Thấy vậy, người anh không hài lòng; không hài lòng nẩy sinh dòng máu chia rẽ đông tây nam bắc; dòng máu chia rẽ phun lửa đỏ đốt cháy tình nghĩa anh em. Thế là người nhà nông quyết định đoạn tuyệt tình nghĩa, chia đôi bắc nam bằng cách rủ người chăn nuôi ra ngoài cánh đồng. Giữa đồng không mông quạnh, người anh giơ cao bàn tay. Người em ngã xuống, máu đỏ nhuộm hồng đất đen.
Câu chuyện của chia rẽ trong Sáng Thế Ký chưa chấm dứt ở đây, nhưng được tiếp nối với câu chuyện của tháp Babel, câu chuyện của một ngọn tháp dở dang đã giải thích lý do tại sao nhân gian phân tán ra khắp bốn hướng đông tây nam bắc trên mặt quả địa cầu. Theo như Sáng Thế Ký 11, hiện tượng phân chia bốn phương đông tây nam bắc đã bắt nguồn từ thái độ thách thức của người trần thấp bé đối với trời cao vời vợi. Thế là người ta tay búa tay kềm, dự tính dựng cao ngọn tháp chọc thủng trời xanh. Từ trời cao Giavê Thiên Chúa nhìn xuống, Ngài khiến những người thợ xây ngọn tháp nói tiếng khác nhau! Thế là con người của một khối, thôi không còn là một khối, nhưng chia năm xẻ bẩy, phân tán ra khắp bốn phương trời đông tây nam bắc. Theo vết chân của những người thợ xây ngọn tháp Babel, dòng máu chia rẽ đông tây nam bắc tiếp tục nhân lên, lan tràn khắp nơi trên mặt quả địa cầu.
Suy Niệm
Có lẽ bởi dòng máu chia rẽ của tổ tiên dựng xây ngọn tháp dở dang Babel luân lưu trong người, người tân tòng Kitô Côrintô cuối cùng quyết định chia năm xẻ bẩy hóa ra bốn nhóm Kitô, Phêrô, Apôlô, và Phaolô.
Có lẽ bởi dòng máu chia rẽ bắt nguồn từ thời ông tổ Cain, hiện tượng chia rẽ đông tây nam bắc không chỉ xẩy ra trong những cộng đồng và đoàn thể, nhưng ngay cả trong từng cá nhân. Câu danh ngôn nổi tiếng, “Chuyện gì bạn làm được hôm nay, đừng để ngày mai hãy làm” đề nghị một phương cách sống. Nhưng câu danh ngôn này cũng đã phản ảnh tình trạng thường xuyên tự động chia rẽ trong tâm trí của con người trần. Đã bao nhiêu lần, tương tự như Phaolô, chúng ta đã than phiền, oán trách, hờn giận chính mình, bởi có những chuyện chúng ta phải làm, nên làm, nhưng mình lại không làm. Đã bao nhiêu lần rồi, chính chúng ta đã tự thúc đẩy, tự phân chia tâm trí mình ra bốn hướng đông tây nam bắc. Bởi tự phân chia ra làm bốn phương, mình trở thành những người bại liệt, không phải về thể xác, nhưng về phần tinh thần. Nhiều người trong chúng ta không còn tự chủ được mình nữa khi đứng trước một lon bia, một ly rượu. Nhiều người không kìm chế được chính mình, hóa thành thiêu thân lao vào ánh sáng của đèn xanh đèn đỏ chớp sáng từ những sòng bài Casinô. Như những chú chuột say với khói thuốc, nhiều người lao đao vật vờ với mầu trắng ngọt ngào của khói thuốc, của thuốc E (Ecstasy), và của thuốc lắc. Cái tài và cái sắc của người đối diện đã giết chết hạnh phúc, phá hoại gia cang của biết bao nhiêu gia đình. Và gần đây nhất, ngũ đổ tường của internet và chatroom đã khiến cho bao nhiêu người, thân bại danh liệt.
Đứng trước hiện tượng chia rẽ đông tây nam bắc, nhiều người vầng trán hằn sâu, có người quỳ xuống cầu nguyện xin trời cao soi sáng dẫn đường tìm kiếm cho một giải pháp.
Thái Dương hệ của trái đất gồm có chín hành tinh liên tục quay chung quanh tâm điểm là mặt trời. Thật vậy, trong Thái Dương hệ, mặt trời là nguồn sáng và sức hút duy nhất lôi cuốn mời gọi chín hành tinh lơ lửng quay tròn chung quanh. Đặc biệt hơn nữa, nếu không có ánh sáng mặt trời, đời sống trên Trái Đất biến tan. Mặt trời tắt sáng đồng nghĩa với ngày cuối cùng của nhân loại.
Ngôn sứ Isaiah trong Isaiah 8:23b-9:3 và thánh sử Mátthêu trong Matt 4:12-23 đã minh họa và diễn tả Đức Kitô như một luồng sáng mới chiếu rọi mặt quả địa cầu. Luồng sáng mới này, dưới lăng kiếng thần học, đã chiếu rọi và xóa tan đêm đen bóng tối của nhân loại và của những mảnh tâm hồn vỡ vụn vì hiện tượng chia rẽ đông tây nam bắc. Theo như ngôn sứ Isaiah, năng lượng của Ánh Sáng Kitô mạnh mẽ đến nỗi Ngài sẽ bẻ gẫy, đập tan tất cả những gông cùm xiềng xích của ngũ đổ tường và của thói hư tật xấu đã khiến tâm hồn và thể xác chúng ta trở thành tê liệt bại xụi (Isa 9:3). Đặc biệt hơn nữa, theo như thánh sử Mátthêu, bởi Đức Kitô là Mặt Trời, bốn hành tinh Phêrô, Anrê, Giacôbê, và Gioan của bốn thiên thể cá biệt, khác tính tình, khác vóc dáng, đã đồng lòng đứng lên, bỏ lại đằng sau lưng những đường bay cũ (Matt 4:18-22). Và bắt đầu từ đó, đông tây nam bắc Phêrô Anrê Giacôbê Gioan không còn là những riêng biệt lẻ loi, nhưng hợp quần của bốn hành tinh đầu tiên quay tròn vòng quay vũ trụ chung quanh Mặt Trời Giêsu của Thái Dương Hệ Kitô giáo. Mặc dầu Phêrô vẫn là Phêrô, Anrê vẫn là Anrê, Giacôbê vẫn là Giacôbê, Gioan vẫn là Gioan, cả bốn người đã thôi không còn phân chia bốn phương bốn hướng. Nhưng họ tụ lại với nhau thành một trong nhóm Mười Hai Tông Đồ của Đức Giêsu.
Thật vậy, chỉ với niềm tin chân thành vào Đức Kitô, trong Đức Kitô, và cho Đức Kitô, người ta sẽ thôi không chia rẽ đông tây nam bắc. Bởi ánh sáng của Mặt Trời Kitô chiếu rọi, hiện tượng chia rẽ, một loại băng giá của tâm hồn, sẽ từ từ tan biến, tương tự như ánh sáng mặt trời bừng sáng đốt tan băng tuyết của giá lạnh mùa đông.
Lời Nguyện
Lạy Chúa, xin hãy tiếp tục chiếu sáng những khoảng tối đen trong tâm hồn của con. Xin dạy chúng con hướng về Chúa như những hành tinh của Thái Dương hệ tiếp tục xoay tròn chung quanh Mặt Trời Giêsu.
Thánh Kinh Cựu ước và Tân ước có liên hệ mật thiết với nhau. Có thể nói những gì ghi chép trong Cựu:TN 3-A46
Thánh Kinh Cựu ước và Tân ước có liên hệ mật thiết với nhau. Có thể nói những gì ghi chép trong Cựu ước đều được ứng nghiệm trong Tân ước. Ngôn sứ Isaia trong Cựu ước hôm nay tiên báo: Dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng (Is 9:1). Trong Phúc âm, thánh sử Mát-thêu nhận ra Ðức Kitô đã đến để hoàn thành lời ngôn sứ Isaia: Ðoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng (Mt 4:16). Ðức Kitô đến mang ánh sáng chiếu soi để loại trừ bóng tối: bóng tối lầm lạc và tội lỗi, gồm tội chia rẽ.
Thánh Phaolô nhận ra tín hữu Corintô đã làm lu mờ ánh sáng Ðức Kitô bằng cách phân tán thành bè phái trong cộng đoàn. Hôm nay thư thánh Phaolô gửi tín hữu Corintô ghi lại, giáo dân chia thành năm bè, bảy nhóm: Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Khêpha, tôi thuộc về Ðức Kitô (1 Cr 1:12). Ðiều đó khiến thánh Phaolô thắc mắc: Thế ra Ðức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi sao (1 Cr 1:13)? Những vấn đề tranh chấp giữa họ không thuộc phạm vi tín lý hay luân lý, nhưng chỉ là những khác biệt về tính tình và sở thích. Khi đã đến lúc phải chận đứng vấn đề phe nhóm trong giáo đoàn, thánh Phaolô bảo họ: Anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phaolô sao? (1 Cr 1:13). Thánh Phaolô muốn nói với họ rằng họ chỉ chịu phép rửa nhân danh Ðức Kitô mà thôi.
Thánh Phaolô là người hơn ai hết hiểu được ý niệm thần học của nhiệm thể màu nhiệm Chúa Kitô. Trên đường đi xin uỷ nhiệm thư để bách hại người Kitô giáo, một luồng sáng từ trời chiếu toả quanh người, khiến Phaolô bị choáng váng, ngã xuống đất, ông nghe có tiếng phán bảo: Saolê, Saolê, tại sao nhà ngươi bách hại ta (Cv 9:4). Thực sự thì Phaolô chỉ bách hại người Kitô hữu mà thôi. Sau này nhờ suy niệm, cầu nguyện và được ơn thánh linh soi sáng, Phaolô hiểu được người Kitô hữu là phần chi thể trong nhiệm thể màu nhiệm mà Chúa Kitô là đầu. Cắt nghĩa theo ý niệm thần học của thánh Phaolô thì bách hại người Kitô hữu là bách hại chính Chúa Kitô. Trong bữa tiêc li, Chúa cầu nguyện cho các tông đồ và cho tất cả những người nghe theo lời giảng dạy của các tông đồ được hiệp nhất trong một Giáo hội mà Chúa đã thiết lập trên nền tảng đá thánh Phêrô. Người còn làm hơn nữa ngoài việc cầu nguyện. Người đã chịu chết để họ được hiệp nhất.
Nếu đưa mắt nhìn quanh, ta thấy bao nhiêu giáo phái Kitô giáo khác nhau trên thế giới được tìm thấy xuất hiện. Phái nào cũng mạo nhận là theo gót chân Chúa một cách trung thực. Ngoài Giáo hội Công giáo, còn có các Giáo hội Chính thống, các Giáo hội Ðông phương không hiệp thông với Giáo hội Công giáo và cả hàng trăm giáo phái Tin lành khác nhau. Nhiều người lập ra những giáo hội hay giáo phái Kitô giáo không hiệp thông với Giáo hội công giáo lúc đầu cũng nằm trong Giáo hội Công giáo. Vì những lý do khác nhau như bất đồng quan điểm hoặc bất phục tùng, hoặc vì đam mê hoặc tham vọng cá nhân, đã tách rời khỏi Giáo hội Công giáo để lập những giáo phái riêng. Lịch sử giáo hội cho thấy nếu không ở lại hiệp nhất với Giáo hội mà chính Chúa đã thiết lập, người ta còn tiếp tục chia rẽ thêm nữa.
Trong tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô giáo, mỗi người Kitô giáo cần nhận thức rằng việc chia rẽ phân tán trong thế giới Kitô giáo nói chung, và trong Giáo hội Công giáo nói riêng, đang làm suy yếu nhiệm thể Chúa Kitô, khiến cho việc rao giảng sứ điệp Phúc âm ít hấp dẫn đối với người ngoài Kitô giáo. Vậy sứ vụ của người Kitô giáo là cầu nguyện cho việc hiệp nhất giữa những người tin theo Chúa.
Người tín hữu cũng cần cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong chính Giáo hội Công giáo. Nếu muốn cổ võ sự hiệp nhất trong thế giới Kitô giáo, trước hết ta cần cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong Giáo hội: Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Ðể được hiệp nhất, người công giáo cần tôn trọng quyền giáo huấn chính thức của giáo hội. Người tín hữu cần cầu nguyện cho các giám mục được hiệp nhất với Ðức Giáo hoàng là người kế vị thánh Phêrô. Người tín hữu còn cần cầu nguyện cho các linh mục được hiệp nhất với Giám mục bản quyền. Và người tín hữu cần biểu lộ sự hiệp nhất bằng lời nói, hành động và lời cầu nguyện.
Ðể được bước đi trong ánh sáng - ánh sáng chân lí - Chúa dạy phải sám hối (Mt 4:17), nghĩa là phải loại trừ bóng tối lầm lạc và tội lỗi. Sám hối theo nghĩa thánh kinh có nghĩa là từ bỏ nếp sống tội lỗi. Có những tội mà người ta phạm, và sở dĩ người ta phạm những tội đó, là vì người ta có vấn đề. Khi mà người ta đối đầu với vấn đề, người ta cần đem vấn đề ra ánh sáng. Trước hết người ta phải thú nhận rằng người ta có vấn đề, hay nói trắng ra là người ta có bệnh, thường là bệnh tâm lí. Không nhận mình có bệnh thì không thể nào được chữa khỏi. Khi người ta nhận mình có bệnh là người ta đã được chữa lành một phần. Bời vì khi nhận mình có bệnh, người ta mới tìm gặp thầy thuốc tâm linh để được chữa trị, hoặc người ta sẽ đọc sách tìm hiểu sao mình mắc bệnh đó và người ta cầu nguyện xin Chúa giải thoát mình khỏi bệnh.
Ðể đối chất với vấn đề, người ta cần đi qua ba giai đoạn. (1) Thứ nhất tìm ra căn nguyên cội rễ tại sao mình có bệnh phạm tội đó. Lí do có thể là vì cô đơn, hoặc vì tò mò, ham muốn, tham lam, ghen tuông, đánh giá thấp về mình (low self-esteem), hoặc tự ti mặc cảm về phương diện nào đó, hoặc chưa thoả hiệp với chính mình, với những gì mình có, hoặc ước muốn chưa được toại nguyện.. Do đó mà người ta mới phạm tội để mong được toại nguyện. Người ta không ý thức được rằng tìm cách toại nguyện kiểu này thì không bao giờ toại nguyện được. (2) Thứ hai tìm cách phát triển những tài năng hay ưu điểm mình có để mình cũng có gì để hãnh diện, cũng có một thế đứng nào đó trong nhóm, hay trong cộng đồng hay trong xã hội, để mình có thể mãn nguyện về mình về phương diện nào đó. Người ta cũng có thể tình nguyện làm những việc bác ái xã hội nào đó để đem lại sự thoải mái về tinh thần hay thoải mái thiêng liêng cho đời sống. (3) Khi không phát triển được tài năng hay ưu điểm nào để được mãn nguyện, người ta phải học để chấp nhận: chấp nhận bản thân và hoàn cảnh, và học để biết đầu hàng ý mình, ý muốn và tham vọng của mình trước ý Chúa. Từ đó mình học để thiết lập mối liên hệ cá biệt và gần gũi với Chúa, hầu có thể cảm nghiệm được tình yêu của Chúa đối với mình.
Lời cầu nguyện xin cho ánh sáng chiếu rọi vào bóng tối lầm lạc và tội lỗi:
Lạy Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa!
Chúa xuống thế chịu chết để giao hoà đất trời.
Chúa thiết lập Giáo hội trên nền tảng các tông đồ,
và đặt Phêrô làm người lãnh đạo.
Xin cho các giáo phái Kitô giáo được hiệp nhất
trong một nhiệm thể mà Chúa là đầu
để làm chứng cho chân lí Phúc âm.
Xin chiếu rọi ánh sáng vào tâm trí và đời sống con
để con biết tìm ra đâu là sự thật, đâu là giả trá. Amen.
“Đức Giê-su đến ở Ca-phác-na-um, để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a.”
Bạn thân mến,
Trước Chúa Giê-su sinh ra khoảng sáu trăm năm, ngôn sứ I-sai-a đã loan báo việc Chúa Giê-su sẽ đến ở:TN 3-A47
Trước Chúa Giê-su sinh ra khoảng sáu trăm năm, ngôn sứ I-sai-a đã loan báo việc Chúa Giê-su sẽ đến ở Ca-phác-na-um rồi, và giờ đây lời tiên tri ấy đã ứng nghiệm: Chúa Giê-su đã đến ở Ca-phác-na-um, và chính nơi đây Ngài đã loán báo tin mừng Nước Trời. Ngài chính là ánh sáng, là Nước Trời và là tình yêu.
1. Chúa Giê-su là ánh sáng đã đến trong thế gian, dân Ca-phác-na-um và những vùng lân cận đang sống trong nô lệ của tội lỗi, trong bóng tối của tử thần đã nhìn thấy ánh sáng là Chúa Giê-su và họ đã đi theo Ngài, bởi vì lời giảng dạy của Ngài có sức mạnh làm cho kẻ yếu đuối nên mạnh mẽ, người thất vọng có hy vọng, và người đau khổ tìm được niềm an ủi và niềm vui.
2. Chúa Giê-su là Nước Trời không những đã đến gần, mà còn đến trong thành Ca-phác-na-um và những vùng lân cận, Ngài rao giảng: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Chính Ngài là Đấng từ trời xuống, không phải để cai trị nhưng để phục vụ; không phải để la mắng thóa mạ, nhưng là để dạy dỗ và loan báo tin vui Nước Trời...
3. Chúa Giê-su là tình yêu đã đến trong thế gian, ở đâu có tình yêu là có Nước Trời, và Nước Trời chính là Ngài, tình yêu cho đi luôn cả mạng sống của mình để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Ngài đã đến ở Ca-phác-na-um là để thực thi tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại, và từ Ca-phác-na-um này, Ngài đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên để tiếp nối công việc rao giảng của mình.
Bạn thân mến,
Bạn có lúc nào nghĩ rằng tại sao bạn ở thành phố không ? Có lúc nào bạn nghĩ rằng tại sao mình ở đây (công xưởng, công ty, nhà trọ, giáo xứ, trường học.v.v...) và làm nghề (công nhân, thầy giáo, bác sĩ, kỷ sư, nhân viên, lao động, học sinh, sinh viên.v.v...) này không ?
Tôi tin chắc là bạn không nghĩ như thế đâu, nhưng với cảm hứng của bài Phúc Âm hôm nay, về việc Chúa Giê-su đến ở Ca-phác-na-um, tôi tin rằng bạn sẽ suy nghĩ: tôi ở đây là vì Chúa muốn tôi dùng đời sống của mình để rao giảng, làm chứng cho Ngài; Chúa muốn tôi ở đây, trong hoàn cảnh này để tôi có ơ hội tiếp xúc, làm việc với người khác, và qua đó tôi sẽ dùng cuộc sống của người Ki-tô hữu để giới thiệu Chúa Giê-su cho mọi người...
GỢI Ý SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT III TN.A Mt 4,12-23
Tiên tri Isaia đã thành công trong việc đem một dấu nhạc vui,tràn đầy ánh sáng, vào giữa một: TN 3-A48
Tiên tri Isaia đã thành công trong việc đem một dấu nhạc vui,tràn đầy ánh sáng, vào giữa một tình huống đặc biệt khó khăn. Đất nước Ngài bị chiến tranh xâu xé. Các vua Israel dấn thân vào những giao ước xấu xa. Các lãnh thổ Zabulon và Nephtali bị những đạo quân Assyri khủng khiếp tàn phá vào năm 734 trước CN.
Mặc dù sự tàn sát xảy ra rộng khắp và dân chúng điêu đứng lầm than, nhưng Tiên tri Isaia lo lắng hơn về những tai ương tinh thần đang dày vò dân tộc nầy. Ngài củng cố lại lòng dũng cảm của mỗi người và dùng các ẩn dụ ánh sáng, niềm vui,mùa gặt,tự do để nói.
Đoạn phúc âm của Thánh Matthêu nhắc lại rõ ràng kỷ niệm của thời kỳ nầy và lời tiên tri nỗi tiếng nầy. Theo trình thuật của bài Phúc Âm, dường như sau khi trở lại sau thử thách 40 ngày trong hoang mạc, Chúa Giêsu vừa được tin Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị bắt giam. Người quyết định rời bỏ các bờ sông Gióc-đa-nô để cư ngự tại phía bắc hồ Tibêriat, ở Capharnaum.
Thánh Matthêu vội vàng nhấn mạnh rằng Người thiết lập chỗ cư ngụ trong lãnh thổ Zabulon và Nephtali, xưa kia bị người Assyri tàn phá. Hơn tất cả các vùng khác, những vùng nầy đã cảm thấy nhu cầu cấp thiết của Đấng Giải Phóng đã được hứa ban. Trung thành với truyền thống Do Thái giáo, Thánh Matthêu tránh kể ra Danh Thiên Chúa: Đấng Messi đến lập nên “Vương Quốc Nước Trời”,một cấu trúc xã hội nơi chính Thiên Chúa sẽ cầm quyền để thiết lập một xã hội,nơi tất cả mọi người sẻ có quyền có phần hiưởng hạnh phúc chính đáng của mình
Chúa Giêsu giảng dạy ở bờ hồ và công bố sự cải hối tiếp sau Thánh Gioan Tẩy Giả:” Hãy ăn ăn thống hồi,vì Nuớc Trời đã rất cận kề”. Và qua nhiều thế kỷ nối tiếp nhau không ngừng, dân tộc nầy chờ đợi một Vị sứ giả có khả năng khai trương triều đại Thiên Chúa nầy. Lần nầy, mọi người được nghe sứ điệp của Người.
Một vài ngư phủ đang bận rộn công việc trên bờ, nghe tiếng Người nói và đi với Người. Cảnh tượng xảy ra mau lẹ, trông chẳng giống thật. Được gọi, hai ngư phủ bỏ thuyến trên bờ để đi theo Người. Xa hơn chút nữa, haoi ngư phủ khác bỏ người cha,cùng với tất cả ngư cụ và đi với Người.
Bernard Lafrenière, C.S.C
BTGH chuyển ngữ
· Người ta xác định năm sinh của tiên tri Isaia vào năm 765 trước CN và Ngài được gọi vào năm Vua Ozias băng hà, vào năm 740 trước CN.
“Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mt.4:19)
Bạn thân mến!
Trên đây là lời mời gọi của Chúa Giêsu nói với các môn đệ đầu tiên khi Ngài tuyển chọn: TN 3-A49
Trên đây là lời mời gọi của Chúa Giêsu nói với các môn đệ đầu tiên khi Ngài tuyển chọn các ông, khi Ngài nhìn thấy các ông đang đánh cá bên biển hồ Galilê. Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật rằng: khi nghe tiếng Chúa mời gọi, “Lập tức, các ông bỏ lưới bỏ thuyền, bỏ cha mẹ vợ con lại mà đi theo Người” (Mt.4:22)
Trong cuộc sống hôm nay, Chúa vẫn gởi đến ta lời mời gọi. Ngài gọi tôi, Ngài gọi bạn giống như xưa kia Ngài đã từng mời gọi các môn đệ, nhưng nhiều khi ta giả vờ như không nghe thấy tiếng Chúa để khỏi phải đáp lại, khỏi phải từ bỏ và hy sinh. Có nhiều điều đang bám dính lấy đời ta, làm ta không dễ gì gỡ ra được: tiền bạc, sự ổn định, sự thoái mái tiện nghi, chút tiếng tăm địa vị, chút thỏa mãn nơi thân xác… Làm sao ta có thể từ bỏ để theo Chúa? Từ bỏ là đặt mọi sự dưới Chúa, coi Ngài là giá trị cao nhất, vượt lên trên mọi giá trị.
Phải có tình yêu lớn lao mới có thể hy sinh từ bỏ những gì ta đang ôm ấp dính bén. Từ bỏ trở thành thước đo tình yêu của tôi đối với Thiên Chúa.
Tôi phải gắn bó với điều tốt, nhưng cũng phải sẵn sàng từ bỏ điều tốt ấy để chọn một điều tốt hơn theo ý Chúa muốn. Có lẽ Chúa không mời gọi bạn và tôi phải từ bỏ đời sống gia đình để sống đời thánh hiến tu trì, phải từ bỏ cuộc sống sinh hoạt hằng ngày để làm những điều cao cả vĩ đại. Nhưng Chúa mời gọi ta phải từ bỏ sự ích kỷ và cứng cỏi của lòng mình để sống yêu thương hơn, phải bỏ chính bản thân mình, bỏ cái tôi của mình, bỏ mặt mũi danh dự và những ước mơ dính bén của mình, để cho vinh quang của Chúa mỗi ngày được rực sáng hơn
Chỉ vì yêu thương, Chúa đã đến bên ta. Ngài tìm kiếm ta và tuyển chọn ta làm môn đệ của Ngài. Chúa mời gọi ta bước đi theo Ngài, mời gọi ta cùng cộng tác trong “Công Trình Cứu Chuộc” của Ngài. Bước đi theo Chúa có nghĩa là không mang theo gì cả ngoại trừ chính con người của mình. Bước đi theo Chúa là sống trọn vẹn cho Chúa và làm theo Thánh Ý của Ngài.
Khi Ngài lên tiếng mời gọi ta bước đi theo Ngài cũng là lúc Ngài muốn chứng tỏ tình yêu của Ngài dành cho ta, chứng tỏ Ngài chấp nhận con người của ta, chấp nhận cả những yếu đuối và tội lỗi của ta nữa.
Theo Ngài là cùng chia sẻ với Ngài một sứ mạng, là cùng thao thức và đồng cam cộng khổ với Ngài trong “Công Trình Cứu Chuộc”. Nhưng muốn nghe được tiếng mời gọi thì thầm của Chúa, ta phải siêng năng đi vào trong thinh lặng và cầu nguyện với Ngài, phải gắn bó và sống thân mật với Ngài trong tâm tình của người con thảo.
***
“Hãy theo Ta! “ Đó là lời mời gọi lên đường mà Chúa đã gởi đến cho các môn đệ bên bờ hồ Galilê xưa kia. Lời mời gọi ấy không ngừng lại với các môn đệ, nhưng vẫn còn tiếp tục vang vọng hằng ngày trong cuộc sống của con hôm nay. Xin cho con biết lắng nghe và đáp trả lời mời gọi của Chúa, biết từ bỏ và mạnh dạn lên đường như các môn đệ xưa kia.
Lạy Chúa, có những niềm vui Chúa muốn trao cho con hôm nay. Có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại trong con. Ước gì con cảm thấy yên vui hạnh phúc, vì biết mình được Chúa yêu thương, và được sai đi để thông truyền tình yêu thương ấy cho anh chị em xung quanh con. Amen.
Tổng hợp từ R. Veritas (BĐ1:Is Is 9, 1-4– BĐ2: 1 Cr 1, 10-13. 17- PÂ:Mt.4: 12-23)
Như chúng ta đã biết nỗi ưu tư số một trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu là tìm: TN 3-A50
Như chúng ta đã biết nỗi ưu tư số một trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu là tìm những người cộng tác với mình trong công cuộc rao giảng Tin Mừng và cứu độ trần gian. Chính vì thế mà ngay khi bắt đầu cuộc sống công khai, Ngài đã chọn cho mình những môn đệ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, đang lúc đi dọc theo bờ biển, Ngài đã gọi Phêrô và Andrê: Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Liền sau đó, Ngài cũng đã gọi Giacôbê và Gioan. Thái độ của những môn đệ đầu tiên này thật là mau mắn và dứt khoát. Các ông đã bỏ chài lưới, bỏ ghe thuyền, bỏ cha già mà đi theo Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Ngày hôm nay Chúa không hiện ra để kêu gọi chúng ta hay truyền dạy chúng ta phải làm điều nọ, điều kia, nhưng tiếng Chúa vẫn âm thầm gởi đến với chúng ta qua các sự kiện, qua các biến cố cuộc đời. Bởi vì mỗi biến cố là một dấu chỉ của thánh ý Chúa. Mỗi sự việc là một bài toán mà đáp số là sứ điệp Chúa muốn chúng ta đón nhận. Vì thế, cần phải tỉnh thức để nhận ra ý Chúa và sứ điệp của Ngài.
Thực vậy có nhiều người đã nghe được tiếng Chúa, một thứ tiếng vọng lên từ bên trong, tuy âm thầm nhưng rất rõ, mời gọi nhưng không kém phần thúc thách. Đáp lại tiếng Chúa là bước vào một khúc quanh mới của đời mình và từ đó bản thân được đổi khác.
Ơn gọi của Mẹ Têrêsa Calcutta là một thí dụ. Mẹ sinh năm 1910 tại Nam Tư. Năm 18 tuổi Mẹ nhập dòng Đức Bà Lorettô ở Ái Nhĩ Lan. Sau đó được cử sang Ấn Độ để vào tập viện. Mẹ đã cống hiến gần 20 năm trời cho việc dạy môn địa lý tại một trường của nhà dòng dành cho các thiếu nữ thuộc những gia đình khá giả. Nếu Chúa không lên tiếng gọi, thì chắc cuộc đời Mẹ sẽ trôi đi êm đềm bên đám học trò giàu có. Thế rồi vào một ngày nọ, nhân đi qua một đường phố ở Calcutta, Mẹ bắt gặp một người đàn bà đang hấp hối trên vỉa hè. Chuột và kiến đã kéo đến gặm nhấm con người bất hạnh đó. Mẹ liền vực người thiếu phụ tới nhà thương. Mẹ nhất định cứ đứng ở trước cổng cho đến khi người ta mở cửa đón nhận bệnh nhân sắp chết. Từ biến cố này Mẹ cảm nhận được lời mời gọi của Chúa, muốn Mẹ hiến mình cho những kẻ bị bỏ rơi. Và thế là Mẹ xin ra khỏi dòng, đến sống ở một khu vực tăm tối của thành phố. Chắc hẳn lúc đó, Mẹ không ngờ mình sẽ là người sáng lập một hội dòng mới chuyên lo việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ.
Lắng nghe và tìm biết ý Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện đã đành. Điều quan trọng hơn là có dám đáp trả lời mời gọi của Ngài hay không. Nhiều khi chúng ta đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ như không hề nghe thấy tiếng Chúa, để khỏi phải đáp trả, khỏi phải từ bỏ. Bởi vì chúng có quá nhiều những sợi dây vấn vương quấn chặt lấy cuộc đời và bản thân, khiến chúng ta không dễ gì tháo gỡ được. Những sợi dây vấn vương ấy là tiền bạc, địa vị, vui thú... Từ bỏ là đặt mọi sự dưới Chúa, coi Chúa là giá trị tuyệt đối, vượt lên trên tất cả. Và như thế phải có tình yêu mãnh liệt mới có thể từ bỏ lập tực những gì chúng ta đang ôm ấp bởi vì từ bỏ là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Chúa.