Này là Chiên của Thiên Chúa": Người ta bảo rằng cái lập luận vững vàng bênh vực lập trường: TN 2-A51
"Này là Chiên của Thiên Chúa": Người ta bảo rằng cái lập luận vững vàng bênh vực lập trường "Con chiên Vượt Qua tiên trưng con Chiên mà Gioan Tẩy Giả làm chứng ở đây" phát xuất từ chính thánh sử, từ chính trình thuật Tử nạn (19, 36-37). Vì theo thời biểu của Gioan, Chúa Giêsu chết vào chính lúc hoàn tất nghi thức sát tế chiên dành cho bữa ăn Vượt qua trong Đền Thờ. Người ta lại còn phỏng đoán Gioan đã thay đổi thời biểu với chủ ý ngầm bảo độc giả rằng Chúa Kitô chịu sát tế thay thế chiên Vượt Qua của Cựu Ước.
Từ ngày khám phá các thủ bản ở Biển Chết, vấn đề thời biểu trên lại được tranh luận hơn nữa. Nhưng hình như có thể bỏ qua. Thật vậy, lời giải thích mà chính thánh sử đưa ra về các hoàn cảnh của cái chết Chúa Giêsu tự nó đã dứt khoát. Đặc biệt ông thấy việc không bẻ gẫy xương (Ga 19,36b) và nhát lưỡi đòng (Ga 19, 37b) là dấu hoàn thành một sấm ngôn Cựu Ước. Người ta bảo bản văn đầu đưa ta về lại một chi tiết đặc biệt trong pháp chế liên hệ đến chiên Vượt Qua trong Xh 12, 46 và Ds 9, 12. Nhưng ta cũng có thể thấy đó là một câu trích dẫn Thánh Vịnh 34, 2. Thật vậy, bản văn Gioan tương hợp với bản văn Thánh vịnh hơn nhiều. Lại nữa, ngoại trừ câu 19,37 (= Dcr 12, 10), 6 câu trích dẫn khác trong phần 2 của Gioan đều xuất phát từ sách Thánh Vịnh. Nhận xét này cho ta một dấu hiệu đáng lưu tâm. Ngoài ra, ý tưởng được trình bày trong Thánh Vịnh đặc biệt ăn khớp với bản văn ta đang nghiên cứu và với toàn thể thần học Gioan.
Thật vậy, Thánh Vịnh quả quyết Giavê sẽ bảo vệ người công chính bị bách hại, đến nỗi chẳng một xương nào của ông bị dập gãy. Trong Ga 19, Chúa Cha không để cho thân xác Chúa Giêsu ra hư hoại do việc đánh gãy xương, vì nó cần phải nguyên vẹn để được phục sinh. Vào giờ chết, trong lúc Chúa Giêsu xem ra hoàn toàn bị ruồng rẫy, thì Chúa Cha không bỏ rơi Người: Gioan thích diễn đạt tư tưởng ấy (8,29; 16,32). Cái ý tưởng sự chết dẫn đến chiến thắng đó cũng nằm trong câu trích dẫn Dcr 12,10. Bản văn Hy Bá nguyên thủy kém sáng sủa, nhưng câu trích dẫn trong Gioan không có gì mơ hồ. Các kẻ đâm Chúa Giêsu sẽ phải nhìn lên Người, như nhìn một vị chiến thắng, để đón nhận từ Người, từ cạnh sườn họ đã đâm thâu, ơn cứu độ nhờ nước và máu, biểu tượng của phép Thanh Tẩy và Thánh Thể.
Thành thử hai câu trích dẫn của Ga 19, 36-37, điều hợp với nhau, hình như không đưa ta đến sự song đối kiểu mẫu với con chiên Vượt Qua; trái lại chúng ám chỉ tới khuôn mặt người Tôi tớ đau khổ và được tôn vinh nhờ nỗi khổ đau của mình.
"Đấng khử trừ": Động từ Hy Lạp airoin có nghĩa là nâng lên và do đó có nghĩa là mang lấy, gánh lấy trên mình hoặc mang đi, cất đi, làm biến đi. Ga thường sử dụng động từ theo nghĩa sau cùng (x. 2, 16; 5, 8- 12; 10, 18; 1 Ga 3, 5).
"Tội thế gian": Kiểu nói số ít này nhắm toàn thể các tội lỗi của thế gian trong trương độ và hàm súc của chúng.
KẾT LUẬN
Cho đám đông tội lỗi mà ông đã dẫn đến chỗ ý thức các tội phạm của mình cùng ao ước một sự thanh tẩy đích thực mà phép rửa bằng nước của ông không thực hiện được, Gioan giới thiệu Chúa Giêsu như kẻ được chỉ định để ban ơn cứu độ thiêng liêng đích thực bằng cách thực hiện các sấm ngôn về người Tôi tớ khổ đau: "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng khử trừ tội thế gian” hay nói cách khác: đây là người Tôi tớ thời danh của Thiên Chúa, Đấng sẽ chấp nhận từ bàn tay Thiên Chúa, cách ngoan ngoãn và vô tội như một con chiên, mọi thử thách cần thiết để cứu rỗi các tội nhân.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Gioan Tẩy Giả nói đến một người tên là Giêsu. Đấy chẳng có gì lạ lùng, mặc dù đức tin của ta vào Chúa Kitô thường hay bỏ quên mầu nhiệm nhập thể. Khi nghĩ tới Người, ta dễ hình dung ra một loại nhân vật thần thoại, không phải người cũng chẳng phải Thiên Chúa, hoàn toàn đứng riêng ra, thoát khỏi sự truyền nhiễm của tội ác, là do đấy được ưu đãi đến độ không còn gì chung với chúng ta nữa. Thế mà, khởi điểm của chứng tá ta nghe hôm nay chính là: con người Giêsu ấy đã được sinh ra từ một người nữ như bao kẻ khác, "đã được Thiên Chúa nắn đúc từ lòng mẹ” như Isaia xác định (49,5), vì sự che chở đặc biệt không bớt đi tí gì thực tại nhân loại của Người. Nhưng con người ấy có một định mệnh đặc biệt: Isaia sẽ gọi Người là "Tôi tớ". Gioan Tẩy Giả còn cho Người tước hiệu lạ kỳ hơn: "Chiên Thiên Chúa". Và ông làm điều ấy một cách cụ thể, rõ ràng: khi Chúa Giêsu đi qua, Gioan Tẩy Giả chỉ Người mà bảo: "Đây là Chiên Thiên Chúa".
2. Hai thành ngữ "Tôi tớ" và "Chiên Thiên Chúa", dù trông khác nhau, đều nói lên rằng Chúa Giêsu sẽ vừa là Đấng vô tội vừa bị con người trừng phạt như một tội nhân. Khi gọi Người như vậy, Isaia và Gioan Tẩy Giả muốn công bố sự công chính, đức vâng phục lệnh Thiên Chúa và định mệnh hy lễ cứu chuộc của Người. Trong thư của ông, Phêrô sẽ nói "máu của Người châu báu như máu con chiên vô tật vô tì" (1Pr 1,19). Chúa Giêsu là người công chính sẽ trả nợ cho nhân loại, sẽ bị vây bắt, hành hạ và giết chết bởi những kẻ Người đến cứu vớt. Khi gọi Người như Con Chiên và Tôi tớ của Thiên Chúa, hai vị ngôn sứ đều muốn bảo Người là kẻ thừa kế, là kẻ thực hiện mọi lời Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ.
3. Đó là điều Gioan Tẩy Giả khám phá lúc bấy giờ khi giải thích cho ta hay làm sao ông đã "nhận biết" Chúa Giêsu. Dù là anh em họ, ông đã không biết Người trong chính thực thể của Người. Nhưng Chúa Thiên Chúa đã cho ông một dấu hiệu: "Ngươi thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại trên ai, thì chính Người...". Và Gioan đã tuyên bố: tôi đã thấy Thần khí, như một chim câu, từ trời đáp xuống và lưu lại trên Người. Rồi tiếp đó ông thản nhiên bảo: tôi đã thấy và xin đoan chứng: chính người là “Tuyển nhân của Thiên Chúa". Việc mô tả Chúa Giêsu dần dà trở nên rõ hơn dưới sự linh ứng của Thiên Chúa: "Chúa Giêsu là Tuyển nhân của Thiên Chúa". Về sau thánh Phaolô sẽ gọi Người là "Chúa chúng ta, Chúa của họ cũng như của chúng ta" (1Cr 1,2). Kể từ lời khẳng quyết này, các từ ngữ không thể đi xa hơn nữa và trí óc của ta chỉ còn có thể tìm những tiếng tương đồng, những thành ngữ cắt nghĩa được nhiều hay ít những gì vừa nói mà thôi.
4. Chúa Giêsu là một con người, một ngươi công chính bị hiểu lầm, bị khai trừ và sau cùng bị giết bỏ; và Đấng công chính ấy là Chúa của nhân loại. Đó là lời khẳng định chính yếu ban bố cho ta hôm nay, một lời khẳng định dị thường đến nỗi khó tưởng tượng rằng có một ai khác đã sáng tác ra, trừ phi được chính Thiên Chúa soi sáng.
5. Gioan Tẩy Giả lại giải thích điều ấy trong một ngôn ngữ khá lạ lùng. Ông nói đến Đấng tới sau ông. Đó là Chúa Giêsu, trẻ hơn ông một chút, nhưng chưa ai biết tên tuổi, trong lúc ông, Gioan, đã nổi tiếng như cồn khắp xứ Palestine và đã thành công rực rỡ. Đấng ấy vượt lên trước ông, vì Người ngày càng trở nên quan trọng trong lúc ông, với nhiệm vụ giới thiệu Người, sắp dần dần lui vào bóng tối. Phải như vậy "vì Người đã có trước tôi". Thành ra không phải nhờ nhân đức, quyền năng chữa bệnh hay tài hùng biện của Người, nhưng là nhân bản tính của Người vậy. Mặc dầu sinh sau Gioan, Chúa Giêsu đã hiện hữu trước ông. Gioan biết điều đó nhờ một ơn soi sáng đặc biệt và ông đã nói ra cho mọi người.
6. Gioan Tẩy Giả dùng hai thành ngữ khác nhau để nói về sứ mệnh của Chúa Giêsu: "Người khử trừ tội thế gian" và "Người thanh tẩy trong Thánh Thần". Người khử trừ, Người cất đi tội lỗi như thể đó là một gánh nặng, một chướng ngại. Ngôn ngữ của vị ngôn sứ này gởi lên hình ảnh Chúa Kitô đến thực hiện một cuộc giải phóng và cho thấy con người như thể bị giới hạn trong tư tưởng hay trong hành động bởi những trở ngại nặng nề cản ngăn họ đi đến cùng đích số mệnh. Vì thế Chúa Kitô đến cất đi các xiềng xích đang trói buộc trái tim con người trong ích kỷ, tham vọng, chai đá, nhục dục, ghen tương, oán hờn, thụ động. rồi "Người thanh tẩy trong Thánh Thần". Chúng ta biết rằng hạn từ "thanh tẩy" có nghĩa là: dìm sâu.
Chúa Kitô sắp tái tạo con người bằng cách dìm nó trong Thần khí Thiên Chúa, bằng cách làm cho nó thấm nhuần Thánh Thần của Ngài. Nhờ vậy, con người sẽ được biến đổi một cách sâu xa; ta có thể bảo rằng sở dĩ nó được cứu, là vì nó đã bị hủy tiêu và thay thế bằng một kẻ khác dầu sao vẫn tốt hơn chính nó.
7. "Phần tôi, tôi đã không biết Người". Câu này giúp ta nhìn sâu vào định mệnh Gioan Tẩy Giả. Vị Tiền hô đã làm việc, đã rao giảng một thời gian lâu dài, trong ý thức đơn sơ là vâng theo một sứ mạng, thế mà chẳng biết Đấng mình loan báo. Phải chăng đó là một trong những nét của ơn gọi đích thực? Ai có sứ mệnh dọn đường cho Chúa Kitô đến trong một tâm hồn, trong một môi trường, trong thế giới, đừng tưởng rằng mình sẽ biết chắc Chúa Kitô đứng đấy. Không! Phải nhẫn nại làm việc trong đức tin và để mặc Chúa chọn thời cơ thuận tiện để biểu lộ dấu chỉ của việc Thần khí đáp xuống. Nếu lòng trung thành nhẫn nại của Gioan Tẩy Giả sau cùng đã được ân thưởng bằng thị kiến ở sông Giođan, thì lòng trung tín của ta cũng sẽ được ân thưởng bằng một sự hiểu biết ngày càng sống thực hơn về Chúa, và sau cùng bằng thị kiến diện đối diện với Đấng mà chúng ta vẫn hằng mong gặp.
Hằng ngày, qua các phương tiện truyền thông hay qua người này người kia chúng ta nhận được: TN 2-A52
Hằng ngày, qua các phương tiện truyền thông hay qua người này người kia chúng ta nhận được nhiều sự giới thiệu khác nhau. Có khi chúng ta nhận được sự giới thiệu về con người. Cũng có khi chúng ta nhận được sự giới thiệu về đồ vật. Những lời giới thiệu ấy hầu như là những lời tốt đẹp. Dầu vậy, thực chất nhiều khi những con người hay những sự vật ấy lại làm cho chúng ta hoàn toàn thất vọng. Bởi lẽ, những lời giới thiệu ấy chỉ được truyền qua từ người này sang người nọ. Cho nên mức độ chính xác nhiều khi không còn được bảo đảm. Nói cách khác những lời giới thiệu ấy được truyền đi vì không bằng chính kinh nghiệm sống.
Đoạn Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh những lời giới thiệu của Thánh Gioan về Chúa Giêsu cho một số tư tế và mấy thầy Lêvi. Họ đến hỏi ông có phải là Đấng Kitô không. Ông xác nhận với họ ông không phải là Đấng Kitô mà chỉ là người dọn đường cho Ngài. Và mở đầu đoạn Tin mừng hôm nay chúng ta thấy: "Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian" (Ga 1, 29)
Đây là lời giới thiệu đầy xác tín của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là Đấng đến đem ơn cứu rỗi đến cho toàn thể nhân loại. Người là "con chiên" vô tội đến gánh tội thay cho cả trần gian đầy tội lỗi. Tuần trước với lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta đã được Chúa Cha giới thiệu cho biết Chúa Giêsu chính là Con yêu dấu của Ngài. Vì qua biến cố ấy Chúa Giêsu chính thức ra đi thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó. Sứ mạng ấy là loan báo Tin mừng và đem sự giải thoát đến cho nhân loại.
Người ta thường nói: Không ai cho cái mình không có. Đúng vậy, qua thời gian ăn chay nhiệm nhặt trong hoang địa Thánh Gian đã được Thiên Chúa soi sáng cho biết mình phải làm gì để dọn đường cho Đấng Cứu Thế Giêsu. Do đó, những lời giới thiệu của Thánh Gioan là sự thật vì phát xuất từ kinh nghiệm sống thiêng liêng quý báu của mình.
Một trong ba sứ mạng của những người đã được lãnh nhận Bí tích Rửa tội là tiên tri. Với sứ mạng này chúng ta được mời gọi giới thiệu về tình yêu của Chúa Giêsu cho những người xung quanh. Làm sao có thể giới thiệu về Chúa cho được nếu chúng ta không có hay chưa có kinh nghiệm sống thiêng liêng về Người. Muốn có được kinh nghiệm sống thiêng liêng về Chúa Giêsu không cách nào khác đòi hỏi chúng ta phải thật sự gắn bó với Người. Siêng năng lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí Thánh Thể là phương thế tốt nhất để chúng ta có được kinh nghiệm sống thiêng liêng về Chúa Giêsu. Nhờ đó, qua cách sống của mình chúng ta mới thật sự có được những lời giới thiệu sống động về Người cho anh chị em xung quanh.
Mỗi hình ảnh, mỗi cụm từ đều mang một ý nghĩa nào đó. Mỗi câu , mỗi dụ ngôn, mỗi: TN 2-A53
Mỗi hình ảnh, mỗi cụm từ đều mang một ý nghĩa nào đó. Mỗi câu , mỗi dụ ngôn, mỗi huyền thoại cũng đều nói lên một sứ điệp nào đó. Cụm từ "Con Chiên" trong Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay là hiện thân của sự thật. Sự thật là Đấng cứu thế đã hiến thân vì nhân loại như lời Người đã tuyên bố: "không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" (Ga 15,13). Đấng cứu thế là Đức Giêsu Kitô mà Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu với môn đệ ông: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian" (Ga 1,29). Chiên Thiên Chúa gợi lên hình ảnh của chiên vuợt qua, chiên xoá tội, chiên hiền lành và khiêm nhường như Isaia đã nói về người tôi tớ đau khổ.
- Chiên Vượt qua: Biến cố Thiên Chúa sát hại các con đầu lòng người Aicập nhưng không sát hạt các con đầu lòng người Do thái nhờ dấu máu chiên bôi trên cửa.
- Chiên xoá tội: con chiên gánh tội của dân. Vị tư tế đặt tay trên đầu con chiên với ngụ ý đem hết tội lỗi của dân đặt trên mình con chiên và sau đó đánh đuổi nó vào sa mạc.
- Sau cùng, hình ảnh trung thực nhất về Đấng cứu thế là hình ảnh người tôi tớ đau khổ. "Đức Chúa đã đổ trên đầu Người tội lỗi của tất cả chúng ta. Bị ngược đãi, Người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca. Như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người không mở miệng kêu ca" (Is 53,6-7). Đây là điều mà Gioan tẩy Giả muốn giới thiệu và ám chỉ tới "người tôi tớ hiền lành và khiêm nhường".
Nhiều người quan niệm rằng: Thiên Chúa đã cứu chuôc chúng ta nên chúng ta có phạm tội đến đâu Chúa cũng tha. Họ nghĩ Chúa đã tha thư rồi nên mình chẳng cần phải làm gì. Con thiên Chúa xuống thế làm người cứu chuộc chúng ta không phải bằng cách gánh tội thay cho chúng ta để rồi ta chỉ "ngồi chơi xơi nước". Chúa không đối xử với ta như một đứa trẻ nhưng đối xử với ta như một người trường thánh có ý thức, tự do và ý chí. Ngài cứu chuộc chúng ta bằng cách mở cho chúng ta con đường dẫn tới Thiên đàng. Đó là con đường Giêsu, "Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống". Bất cứ ai tin và theo lối ấy thì đạt tới Thiên đàng. Suy nghĩ và cầu nguyện, tôi thấy con đường này có hai đặc điểm, cũng là những gì Gioan tẩy giả đã giới thiệu cho chúng ta: con đường hiền lành và khiêm nhường; "các ngươi hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng".
- Hiền lành không có nghĩa là nhu nhược. Nhưng hiền lành là không lấy ác báo ác, không làm ngơ trước điều ác nhưng hãy lấy yêu thương mà đối xử với nhau. Ai hiền lành thì được Thiên Chúa và mọi người thương mến.
- Khiêm nhường là nhìn nhận sự thậ về mình. Người khiêm nhường được Chúa thương, dễ dàng đến với Chúa và đón nhận ý Chúa. Câu hai người lên đền thờ cầu nguyện (người biệt phái và người thu thuế) cho ta thấy rõ điều đó. Người biệt phái kiêu ngạo đã không được tha; người thu thuế khiêm nhường được tha thứ. Hơn nữa, Người khiêm nhường dễ dàng chấp nhận mình, đón nhận anh em và vâng lời bề trên. Ngoài ra, khiêm nhường còn đem tới nhiều ích lợi khác nữa.
Câu thánh Clement: Thánh nhân thường đi xin để giúp các em mồ côi. Một hôm thánh nhân đi vào một quán ăn. Khi thánh nhân đến một bàn có nhiều thanh niên đang ngồi ăn để xin thì bị một thanh niên xỉ nhục và nhổ nước bọt vào mặt. Thánh nhân hết sức bình tĩnh trả lời: "cám ơn anh! đó là cái anh cho tôi. Vậy phần của các em mồ côi đâu?" Anh thanh niên nọ xấu hổ quá buộc phải móc hầu bao đưa cho. Hiền lành và khiêm nhường còn là những nhân đức cốt lõi nhất giúp ta sống các nhân đức khác. Có một vị linh mục lớn tưổi rất đạo đức tốt lành. Một giáo dân thấy cha đạo đức thánh thiện nên mới hỏi: Cha có bí quyết nào mà sống được như thế? Cha xứ ôn tồn trả lời: Bí quyết của tôi là sống hiền lành và khiêm nhường như Chúa Giêsu.
Để kết thúc, tôi xin mượn lời đức HY Fx. Nguyễn Văn Thuận để gởi đến quý OBACE: "Thử thách cay đắng nhất là chấp nhận giới hạn của mình. Chịu đóng đinh vào một thánh giá hẹp, con càng đau đớn hơn. Nếu thánh giá rộng con còn được thoải mái hơn phần nào!". Nghĩa là càng khiêm tốn thì càng hạnh phúc hơn. Cầu chúc quý OBACE luôn biết sống hiền lành và khiêm nhường để luôn được an vui hạnh phúc trong cuộc sống mình và mai sau được hạnh phúc vĩnh cửu.
Chủ đề của bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên Năm: TN 2-A54
Chủ đề của bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên Năm A hôm nay thực sự là lời của Thánh Gioan Tiền Hô chứng nhận về Đấng đến sau mình là "Đấng Thiên Chúa tuyển chọn". Khi gọi Chúa Giêsu là "Chiên Thiên Chúa" Gioan xác nhận sự vô tội và tinh tuyền thánh thiện của Chúa Giêsu. Khi nói Chúa Giêsu là "Đấng xóa tội trần gian" Gioan chỉ cho mọi người thấy Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế, Đấng Messia, là "tôi tớ đau khổ của Giavê" như tiên tri Isaia từng nói đến trong Cựu ước.
Vào thời trước khi Chúa Cứu thế Giáng sinh, người Do Thái mong đợi Đấng Cứu thế đến để giải thoát họ khỏi kiếp lưu đày, khỏi cảnh nô lệ lầm than khốn khổ của người ngoại bang. Họ mong đợi Đấng Cứu thế đến như một tướng tài giỏi, bách chiến, bách thắng. Họ nuôi hy vọng Đấng Cứu thế sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, giàu có và hùng mạnh, để đưa dân tộc họ lên làm bá chủ hoàn cầu. Và đó là những quan niệm sai lầm của họ về Đấng Cứu thế, cũng như về bản chất của đạo giáo. Vì thế, Phúc âm hôm nay thuật lại Gioan Tiền hô sửa sai quan niệm của họ về Đấng Cứu thế. Gioan Tẩy Giả làm chứng rằng Đấng Kitô là Chiên Thiên Chúa, được sai đến để xóa tội trần gian (Ga 1, 29). Chiên là hình ảnh nói về tôn giáo hơn. Trong thời Cựu ước, chiên được dùng để làm lễ vật hy sinh dâng lên Thiên Chúa. Bằng việc gọi Chúa Kitô là Chiên Thiên Chúa, Gioan chỉ cho thấy đời sống của Chúa Kitô được dâng cho Thiên Chúa như là lễ vật hy sinh đền tội thay cho nhân loại. Khi Gioan Tiền hô xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, ông được dân chúng tôn sùng, coi Gioan như là chính Đấng Cứu Thế phải đến. Ông có sức lôi cuốn mãnh liệt. Tuy nhiên Gioan Tiền hô ý thức được căn tính của mình, và thể hiện đúng vai trò của mình. Gioan chỉ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa, đi dọn đường cho Đấng Cứu thế đến mà thôi, và không xứng đáng cởi giây giày cho Người.
Mặc dù chúng ta là những người tội lỗi, nhưng đã được rửa bằng máu của Con Chiên Thiên Chúa để được tham dự vào bàn tiệc của Nước Trời. Bởi chính Chúa Giêsu đã đến trần gian để mời những tội nhân ngồi vào bàn tiệc với Ngài. "Tôi không đến kêu gọi những người công chính, nhưng kêu gọi những người tội lỗi".
Với tình yêu vô biên Đức Giêsu đã đóng vai trò Con Chiên Thiên Chúa, hy sinh mạng sống Ngài "để tha thứ tội lỗi" (Mt 26, 28) cho nhân loại. Vì thế khi một người tội lỗi trở về, đã trở về bằng giá máu của Con Chiên Thiên Chúa, nên cả triều đình trên trời đều vui mừng (Lc 15, 7). Chúng ta cũng phải có thái độ khoan dung đối với người tội lỗi như Thiên Chúa là Cha Nhân lành đã có. Càng yêu thương tội nhân bao nhiêu, chúng ta càng phải ghét tội lỗi bấy nhiêu (2Tx 3, 6-15; 1Cr 5, 5-13).
Người tín hữu thường được gọi là "con chiên của Chúa". Danh hiệu đó ngầm chứa ý nghĩa: người tín hữu được xếp vào loại "chiên" trong ngày phán xét. Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa. Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Uớc mong những chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn là chính Chúa Giêsu đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên sống để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.
Để đi theo đường lối của Chúa Giêsu, là chiên con của Ngài, trước hết, chúng ta phải noi gương Chúa Giêsu là "Chiên của Thiên Chúa" qua việc cố gắng sống thánh thiện và xa lánh mọi tội lỗi. Kế đến, chúng ta phải nổ lực trở nên giống Ngài bằng cách vui nhận khó khăn, đau khổ, thử thách trong cuộc sống để kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu và cầu nguyện xin Chúa tha thứ tội lỗi cho tha nhân, nhất là những người đang làm ta đau khổ cách này hay cách khác. Sau cùng, chúng ta quảng đại tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, dấn thân hơn trong việc bác ái, biết chấp nhận thực chất về mình, ưu và khuyết điểm, không giả tạo, không khoe khoang tự phụ mà biết sống ngay thẳng đi theo đường lối của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống đời thường, thỉnh thoảng chúng ta nhìn thấy những chiếc xe cứu thương chở: TN 2-A55
Trong cuộc sống đời thường, thỉnh thoảng chúng ta nhìn thấy những chiếc xe cứu thương chở những bệnh nhân từ nơi nầy đến nơi khác. Bệnh nhân được chở đi vì nơi đó không đủ điều kiện, nên cần đưa đến một nơi khác có đủ điều kiện hơn để cho bệnh nhân được phục hồi nhanh chóng. Nếu nơi không đủ điều kiện mà nhà điều trị không cho bệnh nhân được chở đi, không giới thiệu nơi khác, mà cố trì hoãn để giữ bệnh nhân cho mình thì sẽ nguy hiểm cho cả hai: nguy hiểm cho người điều trị, vì không đủ khả năng, nhưng vì ích kỷ, sợ mất uy tín, mất quyền lợi nên không muốn cho bệnh nhân đi nơi khác. Ngoài ra còn nguy hiểm cho bệnh nhân, vì không được điều trị đúng cách. Cả hai đều phải lãnh hậu quả mà thực ra không ai muốn như thế. Nếu nhà điều trị biết được khả năng của mình, để biết giới thiệu cho bệnh nhân đến đúng nơi, thì mọi việc sẽ có kết quả hết sức tốt đẹp.
Gioan tẩy giả nhìn thấy được sứ mạng mà mình được trao phó như thế nào. Ông cũng nhận ra được giới hạn của sứ mạng. Đồng thời Ông cũng nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa trong sứ mạng của ông. Lúc đó uy tín của ông đã đầy tràn, mọi người rất ngưỡng mộ ông, nhưng ông không màn đến. Ông biết bỏ đi những gì không thích hợp, để nhận thức cách đúng đắn sự việc hiện tại. Sứ mạng của ông chỉ là loan báo để mọi người đến với Chúa, đem mọi người về với Chúa và giới thiệu Đấng Cứu Thế cho mọi người. Ông không ngần ngại, chuyển tất cả những gì mình có đến nơi an toàn hơn, thích hợp hơn, vì nó không hợp với khả năng của ông nữa. Ông giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người. Ông rút lui vì đã hoàn thành sứ mạng, rút lui cách khiêm nhường trong vâng phục.
Mỗi người có một tài năng riêng biệt. Tất cả mọi người đều cố gắng để tài năng của mình được phát triển tối đa. Nhưng cho dù con người có tài giỏi đến đâu chăng nữa, thì cũng có giới hạn. Mỗi người chỉ làm được một số công việc nào đó trong phạm vi hiểu biết và khả năng của mình. Ngoài ra, con người phải biết chấp nhận giới hạn của mình, có như thế, con người mới chấp nhận được khả năng của người khác và cuộc sống mới được phong phú và có ý nghĩa hơn. Nếu không nhìn thấy người khác, không biết chấp nhận người khác, và nếu càng không nhìn thấy được giới hạn của chính mình thì thật là nguy hiểm, vì như thế sẽ có một ngày mình không còn gì hết, mất tất cả và mất luôn chính mình.
Mỗi người trong chúng ta, Thiên Chúa đã trao ban cho một sứ mạng, đồng thời Ngài cũng ban cho tài năng để thi hành sứ mạng cho tốt đẹp. Mỗi người được ở trong một hoàn cảnh mà chúng ta ngỡ rằng đó là việc tự nhiên. Chúng ta được những điều may mắn, có lúc dường như bất ngờ. Chúng ta được ưu đãi hơn những người chung quanh. Mỗi người cũng có chút tài năng, chút địa vị. Mỗi người cũng đang có một công việc ổn định, và có lẽ trong việc làm, trong giao tiếp, chúng ta cũng được nhiều người mến mộ. Tất cả những điều đó chúng ta cho là rất bình thường, rất tự nhiên, nên chúng ta cứ sống cách bình thản. Nhưng có khi nào, chợt thoáng qua trong cuộc đời, chúng ta nhìn thấy tất cả những gì mình đang có và đang sống: đó là sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó và chúng ta phải có trách nhiệm chu toàn. Nếu nghĩ được như thế, chúng ta sẽ thấy được sự bình an trong tâm hồn cho dù những thất bại có xảy đến, chúng sẽ được nhẹ nhàng cho dù có những mất mát về vật chất cũng như tinh thần, chúng ta sẽ được vui mừng khi người khác được hạnh phúc. Khi đó chúng ta đang thi hành sứ mạng giống như Gioan Tẩy Giả. Ông biết nhìn thấy chính mình, biết giới thiệu nguồn sống đích thực cho mọi người, và điều quan trọng là ông ta biết trở về đúng vị trí mà sứ mạng được trao phó cho ông.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết nhìn thấy chính mình, chấp nhận những giới hạn, nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó để biết bằng lòng với những gì hiện tại và hoàn thành tốt đẹp.
Người Việt Nam chúng ta dễ tin lắm, nhất là nông dân mộc mạc chất phát. Mỗi khi đau bệnh: TN 2-A56
Người Việt Nam chúng ta dễ tin lắm, nhất là nông dân mộc mạc chất phát. Mỗi khi đau bệnh, nghe ai bày thuốc này thuốc nọ, ta hay tin, hay nghe theo. Ta tin cả những ông thầy lang vườn, rất nhiều khi chẳng có kinh nghiệm y học, thuốc men chi cả... Mấy năm gần đây, ở An Điền có Ông thầy Ba Phú, cả xóm, cả làng ở đây không ai biết ông làm thầy, vậy mà ở Sài Gòn, Bến Nghé đi xe hơi cứ xuống tìm ông ấy ào ào, để xin chữa bệnh, để xin coi quẻ... Cách đây ba năm, có một Cô ở Tân Xuân, còn rất trẻ, nghe nói có bà con với Ông Chín Qưới, có bệnh thần kinh, tự dưng ứng lên làm thầy, chữa bệnh cho người ta bằng cách vô nước biển. Thực ra Cô đâu có vô nước biển, chỉ biểu người ta nằm dài đó một hồi, rồi nói, vô nước biển nghe...một lát sau nói rồi, là rồi đó. Mấy ông mấy bà trong đạo mình ở An Điền và Ba Tri, đi tới Cô này nhiều lắm....Bất nhơn, bệnh gì cũng cho vô nước biển...hết hay không.... không biết!!... mà nhiều người về nhà rồi chết cũng ào ào...
Có một người giới thiệu cho chúng ta một vị Thầy có tài chữa bệnh thể xác, và cả bệnh linh hồn nữa: đó là thánh Gioan Tẩy giả, ông là người sẵn sàng giới thiệu và làm chứng cho chúng ta biết, để không lầm lẫn. Đó chính là chủ đề suy niệm của ngày Chúa Nhật hôm nay.
a/. Chúng ta thử đọc lại bài Tin mừng này và rút ra từng lời chứng của Gioan:
Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, (Gioan nói khi thấy Chúa Giêsu đi đến ...) chính Người là Đấng tôi đã nói: có Đấng đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì Người có trước tôi.
Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Chính Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước bảo tôi: ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, Người đó sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Trước hết chúng ta đã thấy thánh Gioan tuyên xưng Chúa Giêsu là Chiên của Thiên Chúa , ám chỉ Đấng Cứu thế, Đấng đã được Thiên Chúa hứa trong Cựu Ước, và dân chúng đang mong đợi... Kế đến Gioan nhìn nhận tuy Chúa Giêsu đến sau, nhưng Người trổi vượt hơn, và vì Người có trước Gioan nữa. Ở đây, Gioan không hề nói thêm cho mình; ngược lại Gioan còn tự hạ mình nữa. Rồi thánh Gioan kể lại dấu chứng: Chúa Giêsu được Thánh Thần từ trời xuống và ngự trên mình; cũng chính Thánh Thần nói cho Gioan biết: Thánh thần ngự xuống trên ai, kẻ ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần...
b/. Thánh Gioan sau khi ra rao giảng và làm phép rửa bên bờ sông Giodan, không bao lâu, danh ông đã nổi như cồn. Chính vì thế, có nhiều người, nhiều phái sai người đến hỏi Gioan: Ông có phải là Đấng Cứu thế không? Tuy hỏi như vậy, họ vẫn muốn ông trả lời là phải, vì họ rất kính nể ông. Nhưng Gioan lại trả lời: không phải ... làm mọi người thất vọng. Họ hỏi vặn mãi, Gioan mới trả lời: "tôi chỉ là tiếng người hô trong sa mạc: hãy dọn đường cho Chúa..." Gioan đã phủ nhận: mình không phải là Đấng Cứu thế, và cũng không đáng xách dép cho Người... theo thói đời, người ta lạm dụng danh nghĩa người khác, để lấy uy tín cho mình; ở đây Gioan không làm điều đó, và càng cảm nhận mình không xứng đáng nữa là khác. Gioan rất chân thật và cũng quá khiêm tốn...
Kế đến, như trong bài Tin mừng hôm nay thuật lại, Gioan sẵn sàng làm nhân chứng cho mọi người tin nơi Chúa Giêsu, dù phải trả giá như thế nào. Chúng ta biết, vì công chính và tôn trọng sự thật, mà Gioan đã kích tội của vua Hêrođê, là cướp vợ của anh mình, nên Gioan đã bị giết cách đau thương. Chính vì thế Gioan mới nói, tôi chỉ là tiếng hô trong sa mạc... tôi sẵn sàng làm chứng để cho anh em tin vào Chúa Giêsu, là Chiên Thiên Chúa...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Thánh Gioan Tẩy Giả dùng cả con người, cả cuộc đời của mình để làm chứng cho chúng ta, rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế. Ta có tin không? Hay ta còn đợi người nào khác? Ước gì câu hỏi này mỗi người chúng ta phải tự trả lời thành thật trước mặt Chúa...
Nhiều người đã thắc mắc phải hiểu như thế nào về câu nói của Gioan khi nhìn thấy Đức Giêsu: TN 2-A57
Nhiều người đã thắc mắc phải hiểu như thế nào về câu nói của Gioan khi nhìn thấy Đức Giêsu tiến về phía mình: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian". Thông thường người ta chỉ hiểu lời giới thiệu đó như một tiếng ám chỉ chiên vượt qua hoặc chiên hy tế của đền thờ, hay "Tôi tớ Giavê" Trong sấm ngôn Is 53,7 kẻ được hình dung như con chiên bị đem đi giết, như con cừu được thợ xén lông, và mang lấy nỗi khổ cùng các hành vi bất công của chúng ta "Người đã bị sát tế vì chúng ta" (1Cr 5,7) , và như vậy, Người đã trở nên Chiên Vượt Qua, Đấng xoá tội trần gian cho tất cả những ai tin vào Người (Ga, 1,29) (Từ điển Công Giáo Phổ thông)
Hai thành ngữ "Tôi Tớ" và "Chiên Thiên Chúa" dù trông khác nhau, đều nói lên rằng Chúa Giêsu là Đấng vô tội mà lại bị con người trừng phạt như một tội nhân, khi gọi người như vây, Isaia và Gioan Tẩy giả muốn công bố sự công chính đức vâng phục vâng lệnh Thiên Chúa và hy lễ cứu chuộc của Người. Trong thư của Phêrô nói: "Máu của người châu báu như con chiên vô tật vô tì" ( 1Pr 1,19). Từ "Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian", chúng ta thật khó hiểu hết ý nghĩa của từ "xoá" Vì "xoá" mới có nghĩa như đứng bên ngoài, ở ngoài tham gia vào, nên chưa thấy được thâm sâu tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Tiếng Latinh dùng từ "tollit" có nghĩa là nhận lấy vào mình gánh lấy, vác lấy. Có lẽ nên dịch là Chiên Thiên Chúa Đấng "gánh" lấy tội nhân loại thì chính xác hơn. Đức Giêsu đã tự hiến thân hoà mình với nhân loại và cuối cùng đã chết thay cho nhân loại, đã gáng lấy tội lỗi của con người. Chính vì con người đáng lẽ phải chịu phạt mà Thiên Chúa lại gánh lấy để con người được thứ tha, Người hạ mình xuống để ta được nâng lên, Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có, Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa, Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ, Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang, Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do, Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.
Chỉ có tình yêu cao cả và sự vâng phục tuyệt đối đã làm cho Đức Giêsu trở thành con chiên, thành của lễ hy sinh tuyệt vời Người là Con Thiên Chúa, Người sống cho mọi người. Nhất là qua những cử chỉ hành động lời nói của Đức Giêsu như động lực thúc đẩy con người cũng hãy biết hy sinh cho nhau. Để sống với và sống trong Chúa một cách cụ thể, đòi ta phải biết sống với người khác, phải tha thiết với sự sống còn và sự phát triển tươi đẹp của anh em mình, và như Đức Kitô, tôi phải dám chia sẻ bằng chính sự sống của mình, để có thể dám hy sinh cho tha nhân, ta phải sống cho tình yêu như chính Chúa đã sống cho nhân loại, chỉ khi nào cảm nhận được tình yêu thì chúng ta mới dám hiến thân và cho đi tất cả vì tình yêu. Con người không thể sống mà không có tình yêu thương người khác. Chính vì thế, ta tìm thấy tình yêu không phải nhờ được yêu mà biết sống cho tình yêu. Càng quên mình để sống cho tình yêu thì chúng ta lại càng được tình yêu, vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh ( kinh Hoà Bình).
Lời giới thiệu của Gioan cho ta thấy và cảm nhận được hồng ân bao la mà Thiên chúa đã ban cho mình. Vì "không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga 15,13), để từ đó con người biết tạ ơn Thiên Chúa vì kế hoạch đầy tình thương của Người. Người đã ban Đức Giêsu Kitô cho ta để làm người Tôi Tớ để thực hiện kế hoạch ấy, và Đức Giêsu Kitô lại tha thiết mời gọi chúng ta quy tụ vào thân thể mầu nhiệm của Người, để Người sai ta đem ân sủng và bình an đi, tiếp nối sứ mang của Người Tôi Tớ. Dĩ nhiên muốn thực hiện sứ mạng này, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, vì chính sự hy sinh mới nói lên được một tình yêu chân thành, sâu thẳm đối với Chúa và tha nhân. Tình yêu không hy sinh là tình yêu trá hình. Tình yêu không dựa vào lời nói hay những cử chỉ trìu mến, nhưng phải được chúng tỏ qua sự hy sinh sống động để làm bằng chứng. Sự hy sinh càng cao độ thì càng diễn tả được chiều kích sâu xa của tình yêu, càng mang lại bầu khí an vui cho mình và những người xung quanh.
Lạy Chúa, xin cho con dám hy sinh cho tha nhân cũng như Chúa đã từng hy sinh cho chúng con. Amen.
Có một đứa bé sống ở một vùng xa xôi hẻo lánh nọ. Một hôm, cậu bé thấy có một chiếc phi cơ: TN 2-A58
Có một đứa bé sống ở một vùng xa xôi hẻo lánh nọ. Một hôm, cậu bé thấy có một chiếc phi cơ khá lớn bay qua ngôi làng của cậu. Cậu bé say sưa nhìn ngắm chiếc máy bay cho đến khi nó khuất dạng trên bầu trời. Cậu bé liền chạy vào nhà và hỏi ngay ông bố rằng: "Bố ơi, làm sao người ta có thể bay lên trời để vào chiếc máy bay được hả bố?" Ông bố trả lời với cậu rằng: "Không phải người ta bay lên trời để bước vào máy bay đâu con, nhưng chiếc máy bay phải đáp xuống thì người ta mới có thể bước vào đó được." Và cậu bé đã hiểu!
Câu đó cũng phần nào cho ta hiểu được Mầu nhiệm nhập thể làm người của Con Thiên Chúa. Con người không thể nào có thể bay lên trời để gặp được Thiên Chúa hay bước vào cung lòng của Thiên Chúa được. Nhưng Thiên Chúa phải bước vào thế gian để cho con người có thể bước vào cung lòng của Thiên Chúa được. Đó cũng chính là mầu nhiệm sâu xa mà chúng ta cần để tâm suy gẫm. Vì yêu con người, Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm, trở nên hoàn toàn giống như con người ngoại trừ tội lỗi để con người được gặp gỡ Thiên Chúa, được bước vào cung lòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa từ trời cao bước xuống gian trần để con người gian trần được bước lên trời cao. Đây quả là một mầu nhiệm tình yêu quá lớn lao!
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa bước vào lịch sử của con người để cho con người được đón nhận sự thật về Thiên Chúa. Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa sai đến để làm chứng về sự thật: Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa đã đến trần gian để xoá tội cho con người và cứu chuộc con người. Ông thừa nhận là ông đã không biết Đức Giêsu trong căn tính thật của Ngài: "Tôi đã không biết Ngài". Cách nói "không biết" ở đây không có ý nói rằng Đức Giêsu của Gioan Tẩy giả đối với Đức Giêsu cũng giống như việc "không biết" Đức Giêsu của người Do thái: "ở giữa các ông có một Đấng mà các ông "không biết". Như vậy, muốn nhận biết Đức Giêsu, chúng ta cần phải có ánh sáng của đức tin soi dẫn, cần được giới thiệu và nhất là cần có tấm lòng sẵn sàng mở ra để đón nhận sự thật.
Gioan Tẩy Giả không phải là sự thật, nhưng ông được sai đến để làm chứng cho sự thật. Chính Đức Giêsu Kitô mới là sự thật, là ánh sáng và là sự sống. Khi Gioan Tẩy giả nói về Chúa Giêsu rằng: "Đây là chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian" thì ông đã nói lên sự thật về sứ mạng của Đức Giêsu. Đó là sứ mạng cứu chuộc con người tội lỗi và mở đường sự sống cho họ. Tiên tri Isaia đã tiên báo về Đấng Messia chính là người tôi tớ được Thiên Chúa tuyển chọn. Sứ mạng của Ngài là mang những tội nhân trở về với Thiên Chúa, về quê hương đích thực của mình.
Đức Giêsu đã khẳng định rằng: "sự thật sẽ giải thoát các ngươi", mà sự thật là chính Đức Giêsu. Nói cách khác, chỉ có Đức Giêsu mới có thể giải thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi sự nô lệ của tử thần. Vì thế, con người phải tìm đến với Đức Giêsu, phải khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình để được Ngài là Sự Thật xuất phát từ Sự thật giải thoát và cứu chuộc chúng ta.
Sự thật đã đến trần gian này hơn 2000 năm, nhưng ta phải nhìn nhận rằng, con người chưa tin vào Đức Giêsu còn quá nhiều. Con người vẫn còn sống trong tội lỗi, trong nô lệ của tội lỗi quá nhiều; sự gian trá hình như càng ngày càng lớn mạnh và lan rộng khắp nơi.
Tin mừng hôm nay là một nhắc nhở cho chúng ta phải siêng năng tiếp cận với Sự Thật, năng tìm đến với Sự Thật để được Sự Thật giải thoát chúng ta mỗi ngày. Và một khi đã được tìm thấy Sự Thật, chúng ta cũng hãy biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả tận tình giới thiệu cho người khác biết và tìm đến với Sự Thật, để họ cũng được hưởng những ân ban do chính Thiên Chúa ban tặng.
Hình ảnh con chiên trở nên rất gần gũi với người Do thái. Người ta nuôi chiên thành từng đàn lớn: TN 2-A59
Hình ảnh con chiên trở nên rất gần gũi với người Do thái. Người ta nuôi chiên thành từng đàn lớn, mục đích đầu tiên vẫn là kinh tế. Chiên cho lông, cho sữa, cho thịt. Thế rồi con chiên đã đi vào sinh hoạt tôn giáo, nó lại mặc lấy nhiều ý nghĩa khác nhau. Chiên được dùng làm lễ vật trong dịp lễ Tạ ơn. Chiên mang tội lỗi con người để chết thay cho người. Máu chiên đã trở nên dấu hiệu cần thiết để con cái Israel không bị sát hại trong ngày dân Do thái xuất hành khỏi Ai Cập.
Gioan tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian. Lời giới thiệu có vẻ quá vắn tắt cho một con người đặc biệt, nhưng chắc hẳn ai cũng hiểu Gioan Tẩy Giả muốn nói gì về Chúa Giêsu: Người đang đến với các ngươi đây, chính Đấng ấy sẽ gánh lấy tội lỗi của trần gian, chết thay cho moị người. Thân xác Người sẽ trở thành lễ vật hy sinh dâng lên Thiên Chúa đền thay tội lỗi chúng ta.
Lông chiên đem đến cho con người những bộ áo ấm, giúp con người thoát khỏi cái rét lạnh của những ngày đông thì Chiên Thiên Chúa đến cũng mang cho con người sự ấm áp, ấm áp trong tình thương. Những người ngheò khổ đã tìm được chỗ tựa nương, người đau buồn đã tìm được nguồn an ủi, người đau bệnh đã được quan tâm, chữa khỏi. Những kẻ bị xã hội gạt bên lề giờ đã được đoái nhìn. Vai trò Chiên Thiên Chúa có sức mạnh nối kết những xa cách trở thành gần gũi. Những phân cách chia ly giờ được nối lại gần. Sự quan tâm đúng lúc, việc chữa bệnh kịp thời của Chúa Giêsu làm cho những thành phần yếu thế đã trở nên mạnh mẽ và có thể gần gũi mọi người cách tự nhiên không còn phân biệt đối xử.
Sữa và thịt chiên đem cho người ta sự no thỏa trong cuộc đời. Chúa Giêsu đến cũng xoa dịu bao khao khát của nhân loại. Người đã hoá bánh để nuôi dân chúng được ăn no. Người đã cho nước lã thành rượu ngon để thực khách hưởng dùng. Và rồi, chính Chúa Giêsu muốn tất cả những ai ăn thịt và uống máu Người thì không hề đói khát bao giờ. Đây là một sáng kiến diệu kỳ của Chúa Giêsu khi Người lập Bí tích Thánh Thể.
Máu chiên ngày xưa dùng bôi lên cửa nhà như là dấu hiệu để khỏi phải chết, thì máu Chiên Thiên Chúa đã đỗ ra để xoá tội bao người, mang đến cho con người sự sống vĩnh cửu. Máu Chúa Giêsu đã đổ ra mang lại cho cho người một sự tái sinh trong Bí Tích Hoà Giải. Tội lỗi con người đã được tẩy xoá nhờ máu của Chúa Giêsu. Điều đáng nói ở đây, Đấng xoá tội không dùng quyền bính của mình để tha tội nhưng lại dùng máu của mình, nghĩa là phải qua cái chết để tha tội con người.
Chúa Giêsu đã đóng trọn vai trò của con chiên chịu sát tế để cứu độ con người. Ta không thể phủ nhận những gì mà Con Chiên Thiên Chúa đã chết thay cho chúng ta. Chính Ngài đã tự huỷ đi niềm vui, niềm hanh phúc, sự an lành của bản thân mình để mưu cầu sự sống cho kẻ khác. Ai bước trên con đường Đức Chúa Giêsu đã đi đó là con đường dẫn tới đồng thoại thực sự. Hạnh phúc, niềm vui nào cũng phải trả giá bằng vất vả hy sinh. Quả thật, hạnh phúc và niềm vui không đến với ta qua con đường bùa chú. Nó đòi hỏi một sự hy sinh hết mình, một sự dấn thân không ngại ngần để phục vụ người khác.
Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta. Ngài luôn đóng vai trò con chiên để cứu độ chúng ta, giúp chúng luôn sống trong bình an và hạnh phúc. Vì thế chúng ta cũng hãy đến với anh em đồng loại trong sự hy sinh, dấn thân phục vụ, mang đến niềm vui, tình thương mến cho mọi người.
Một trong bốn cái ngu mà dân gian thường ví von: nghề mai mối (làm mai, lãnh nợ, gát cu: TN 2-A60
Một trong bốn cái ngu mà dân gian thường ví von: nghề mai mối (làm mai, lãnh nợ, gát cu, cầm chầu). Bởi vì cặp uyên ương nào hạnh phúc thì ông mai bà mối được tiếng thơm, nhưng nếu cặp nào cơm không lành canh không ngọt thì mọi lỗi lầm trút lên họ. Ngày xưa, cô dâu chú rể ít khi được biết mặt nhau thì ông mai bà mối phải thật dẻo mồm, nói sao để vừa lòng cả hai họ. Ngày nay thì đỡ vất vả hơn do đôi trai gái đã có thời gian tìm hiểu nhau. Tuy vậy, người mai mối vào thời nào cũng không thể thiếu trong cưới xin. Bởi đây là người trung gian giúp hai bên thông gia dễ dàng đến với nhau hơn.
Với Lời Chúa hôm nay, ta cũng gặp thấy hình ảnh nhân vật trung gian. Ngoài Đức Giêsu là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người trong công trình cứu rỗi, ta cũng thấy nhiều gương mặt được Đức Kitô mời gọi tham dự vào sứ vụ của Ngài, trong đó có Gioan Tiền Hô, một người được nói đến nhiều trong các Chúa Nhật mùa Vọng trong tư cách là một người dọn đường và giới thiệu Đức Kitô cho muôn dân.
Khi Gioan làm phép rửa cho dân chúng thì Đức Giêsu xuất hiện, Gioan ngại ngùng không dám "rửa" cho Đức Giêsu vì ông biết chính Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng vì vâng ý Chúa mà ông làm theo, và chính trong hoàn cảnh này mà ông đã giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian..." (Gn 1,29-30).
Trái với thái độ ngại ngùng khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan đã mạnh dạn tuyên bố sau đó: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Bởi vì ông đã được Thần Khí mách bảo: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần" (Gn 1,34). Gioan đã thấy, đã tin và đã làm chứng. Đó không chỉ là sứ vụ mà còn là một ân ban cho Gioan. Gioan trở thành ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước và nên như một bản lề mở ra thế giới Tân Ước. Gioan là chứng nhân đầu tiên cho Đức Giêsu. Ông chấp nhận vai trò tiền hô bằng tất cả lời nói và hành động. Gioan không chỉ giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng, cho các môn đệ của ông mà còn chấp nhận để môn đệ mình theo Đức Giêsu (x. Gn 1,35-42). Cuối cùng, Gioan đã chết để giữ trọn đức công chính, cái chết dưới con mắt người đời xem ra quá oan ức, nhưng đó là cái chết anh hùng: anh hùng vì dám chết cho sự thật. Gioan hoàn toàn thanh thản chấp nhận cái chết vì đến đây sứ vụ của ông đã hoàn tất. Ông ra đi để Đức Giêsu "lớn lên". Thiên Chúa, qua cái chết của ông, đã tôn vinh ông.
Ca ngợi Gioan như thế không hẳn quá lời. Tuy nhiên, không phải duy nhất thánh Gioan được Chúa mời gọi làm người "mai mối" cho Ngài đến với nhân loại, mà tất cả chúng ta cũng được mời gọi. Không chỉ Gioan mới có khả năng làm chứng cho Thiên Chúa, mà tất cả chúng ta đều được trao ban khả năng đó. Tuy nhiên, có bao giờ bạn thấy bận tâm hay ít ra là thoáng nghĩ đến vấn đến này chưa? Sống giữa một thời đại mà con người đang muốn loại trừ Thiên Chúa, đang cố gắng quên đi những giá trị Kitô giáo, bạn có thấy đức tin của mình cũng đang lung lạc không? Bạn có cảm thấy đau lòng khi nghe ai đó nói rằng: "Nó có đạo mà cũng như không"? Bạn đang cố tâm để duy trì, bảo vệ hình ảnh thiện mỹ của Đấng bạn đang tôn thờ hay chính bạn cũng đang chẳng biết, chẳng nghe, chẳng hiểu gì về Đấng ấy?
Còn nhiều, nhiều lắm những vấn nạn mà cả bạn và tôi đều cần phải định tâm lại để suy cho thông, cho sáng. Tôi biết bạn chẳng bao giờ muốn bỏ Chúa của bạn nhưng có lẽ bạn chưa đủ tự tin, chưa bạo dạn dấn thân đó thôi. Bạn đang được mời gọi để làm sáng lên hình ảnh Thiên Chúa trong chính bạn, để ơn cứu độ của Người đến được với mọi người. Vậy bạn hãy làm ông mai bà mối cho Thiên Chúa với những ai chưa biết Người bằng chính cuộc sống tốt lành của bạn.
Ngày kia, tôi được một người bà con giới thiệu để làm quen với một người bạn. Không ngờ: TN 2-A61
Ngày kia, tôi được một người bà con giới thiệu để làm quen với một người bạn. Không ngờ sau khi tìm hiểu và trao đổi với nhau, cả hai chúng tôi cảm thấy rất hợp nhau. Dần dần chúng tôi đã trở nên tri kỉ với nhau. Gặp bất cứ vui buồn gì chúng tôi đều chia sẻ với nhau. Nhất là khi gặp khó khăn thì bên này sẽ tìm cách giúp đỡ bên kia. Sau mỗi lần giúp nhau vượt qua khó khăn, chúng tôi đều thầm cám ơn người bà con đã giới thiệu cho chúng tôi quen biết nhau.
Tuần trước với lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa chúng ta đã được Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu cho chúng ta: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người". (Mt 3, 17b). Bởi vì, Chúa Giêsu đã đón nhận Thánh ý Chúa Cha một cách vui vẻ. Hôm nay, chúng ta được Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu cho chúng ta một nét quan trọng của Người nữa: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian". (Ga 1, 29).
Con Chiên là một con vật rất hiền từ. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Chúa Giêsu đã nói: "Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói". (Mt 10, 16). Trước nhất Thánh Gioan cho ta biết Chúa Giêsu là Đấng hiền từ và nhân ái. Người đến thế gian để đem ơn cứu độ đến cho con người. Hơn nữa, hình ảnh Con Chiên này nhắc ta nhớ đến con chiên của người Do thái trong Cựu ước. Chính nhờ máu chiên bôi trước cửa mà người Do thái đã được cứu. Do đó, hằng năm họ đã mừng lễ Vượt Qua rất lớn. Và ngày nay chúng ta cũng nhờ chính máu của Chúa Giêsu mà được cứu khỏi chết đời đời. Chúa Giêsu đã chấp nhận trở nên con người yếu đuối để chúng ta lấy lại quyền làm con Thiên Chúa. Quyền mà chính tổ tông chúng ta đã từ chối.
Ông bà ta có nói: "Vô tri bất mộ". Được Chúa Cha và Thánh Gioan giới thiệu cho chúng ta biết thật về Chúa Giêsu. Như thế, có lẽ gì mà chúng ta không tin vào Người.
Hình ảnh con chiên này cũng được ví cho mỗi người tín hữu chúng ta. Là con chiên của Mục Tử Giêsu, thử hỏi chúng ta đã có biết sống ngoan hiền chưa. Hay là còn nhiều lần chúng ta phải làm cho Chúa và Giáo Hội phải đau khổ và mỏi mệt vì ta. Xin cho chúng ta nhớ rằng khi chúng ta biết sống ngoan hiền như Chúa Giêsu là chúng ta đang giới thiệu Chúa cho anh chị em xung quanh. Vì lẽ còn rất nhiều anh chị em xung quanh chúng ta còn chưa được may mắn biết Chúa như chúng ta.
Đức Kitô xuất hiện bên dòng sông Giođăng và không phải ai cũng nhận ra Ngài. Tuy nhiên: TN 2-A62
Đức Kitô xuất hiện bên dòng sông Giođăng và không phải ai cũng nhận ra Ngài. Tuy nhiên, duy chỉ có Gioan Tẩy Giả là người đã nhận ra Chúa Giêsu. Từ “ Con Chiên “ mà thánh Gioan Tẩy Giả dùng để chỉ Chúa Giêsu, Đấng hiến mình vì nhân loại, Đấng cứu độ thế gian, con người. Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Giêsu với các môn đệ của Ông:” Đây là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian “ ( Ga 1, 29).
Đối với dân Do Thái, Chiên Thiên Chúa mà thánh Gioanm Tẩy Giả nói lên gợi lại trong tâm trí họ toàn bộ giáo lý đức tin của dân riêng Thiên Chúa. Quả thực, Chiên Thiên Chúa làm cho dân Do Thái nhớ tới máu chiên trong ngày lễ Vượt Qua được bôi trên trước cửa nhà, nhờ đó họ được Thiên Chúa cứu và giải thoát toàn thể dân lưu đầy ra khỏi đất Ai Cập và đưa họ vào đất hứa để hưởng tự do, hạnh phúc. Chúng ta nhận thấy hằng năm vào dịp lễ Vượt Qua, dân Do Thái tưởng nhớ và mừng lễ Vượt Qua một cách trọng thể và hết sức trân trọng bởi vì Thiên Chúa đã giải thoát cha ông và dân tộc của họ khỏi ách nô lệ.
Chúa Giêsu là Đấng vô tội, là Con Chiên tinh tuyền, vẹn sạch mới có thể đổ máu ra để cứu chuộc nhân loại và chết thay cho các tội nhân. Máu của Chúa đổ ra trên thập giá tẩy xóa tội lỗi nhân loại và ban ơn thánh hóa cho con người để con người trở nên tinh tuyền, vẹn sạch. Qua lời chứng của Gioan, chúng ta hiểu được mỗi lần cử hành thánh lễ, chúng ta được hiệp thông với cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô. Mình và Máu Chúa Kitô giúp chúng ta hiểu rõ mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại. Mình và Máu của Chúa Kitô là lương thực nuôi sống con người, nuôi sống loài người. Mỗi lần Linh mục đọc:” Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian “. Chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô:” Đấng đã chết, đã sống lại, và Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang “.
Chúa Giêsu đã cứu chuộc nhân loại, cứu độ con người bằng giá máu của Ngài. Chúng ta phải đáp trả lại tình yêu vô cùng cao quí của Ngài bởi vì “ Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Chúng ta đáp trả lại tình yêu của Ngài không chỉ bằng việc thiết tha yêu mến Người, mà còn phải quyết tâm phấn đấu sống như Người.
Tổ phụ, cha ông những người Do Thái đã tưởng niệm lễ Vượt Qua hằng năm với lòng tin vững chắc. Ngày nay, khi nhớ lại những điều người Do Thái đã làm xưa, chúng ta được mời gọi sống Bí tích Thánh Thể cách thâm sâu:” Lạy Chúa Giêsu Kitô khi chúng con ăn bánh và uống chén này, chúng con tuyên xưng việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến “.
Chúng ta những Kitô hữu mỗi lần nghe nói:” Đây Chiên Thiên Chúa “ là chúng ta làm chứng cho sự chết và sự sống lại của Chúa chúng ta. Làm chứng cho Chúa cũng có nghĩa là chúng ta quảng đại đáp trả lại tình thương cứu độ của Chúa. Vâng, tất cả chúng ta đều được mời dự bữa tiệc Nước Trời, bữa tiệc cưới của Con Chiên Thiên Chúa trên thiên đàng nơi mà các tín hữu của Chúa mừng giao ước tình yêu và trung tín ( Kh 19, 9 ).
Con Chiên Thiên Chúa là danh xưng cao quí nhất giúp nhân loại, con người và chúng ta nhận ra Đấng Cứu Độ, đã tự hiến thân để giải thoát con người khỏi tội, Đấng đã nói:” Khi nào Ta được giương cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta “.
Con Chiên Thiên Chúa làm chúng ta hiểu rõ hơn và tham dự tích cực hơn, đầy đủ hơn nơi Bí tích Thánh Thể của Chiên Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Con Chiên Thiên chúa, Đấng xóa bỏ tội lỗi nhân loại, xin thương xót chúng con. Xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con càng ngày càng yêu mến Bí tích Thánh Thể. Amen. Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
"Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian".
Khi ấy, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình liền nói: "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Này tôi đã nói về Ngài: Một người đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Ngài cao trọng hơn tôi. Và tôi, tôi đã không biết Ngài, nhưng để Ngài được tỏ mình ra với Israel, nên tôi đã đến làm phép rửa trong nước". Và Gioan đã làm chứng rằng: "Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Ngài. Về phần tôi, tôi đã không biết Ngài. Nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: "Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần". Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa".
Giới Thiệu Ngày Chúa Nhật
Thật sự không có mùa Thường niên, mà chỉ có những ngày Chúa nhật với những tuần lễ "thường: TN 2-A63
Thật sự không có mùa Thường niên, mà chỉ có những ngày Chúa nhật với những tuần lễ "thường", tức là không quy về một lễ lớn nào. Ngày xưa, người ta gọi đó là những Chúa nhật và tuần lễ sau Hiển linh hay sau Hiện xuống. Ngày nay chúng ta muốn gọi vắn tắt là Mùa Thường Niên; nhưng không ổn lắm vì có cả một Mùa Chay và một Mùa Phục sinh khá dài nằm trong thời gian đó và chia nó thành hai khúc không cân đối. Do đó, tốt hơn nên đơn sơ dùng từ ngữ: các Chúa nhật và các tuần lễ "thường". Và để mở đầu, nên tìm hiểu ý nghĩa phụng vụ của các ngày Chúa nhật này.
Các sách Tin Mừng thuật lại: vào ngày thứ Nhất trong tuần, Chúa Yêsu đã sống lại. Người hiện ra với một số phụ nữ, rồi với Phêrô. Người cũng đến đi đường với hai môn đệ tới Emmau, khiến hai ông đã nhận ra Người khi Người bẻ bánh. Và cũng chính hôm đó, Người hiện ra với các Tông đồ, ăn với họ và tuyên bố: Như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các con. Rồi Người thổi hơi vào họ và nói: Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, người ấy sẽ được tha.
Bằng ấy sự kiện đã xảy đến trong ngày thứ Nhất trong tuần và toàn là những sự kiện đầy ý nghĩa trong Lịch sử cứu độ: Chúa sống lại; Người hiện ra; Người dùng bữa với các Tông đồ, ban Thánh Thần tha tội và sai họ đi truyền giáo. Thành ra, chẳng ai lạ gì khi thấy tám ngày sau các môn đệ lại họp nhau. Và Chúa lại đến. Người cho Thôma xem các vết thương tử nạn của Người và biến ông thành con người được đức tin.
Từ đó cứ tám ngày sau, tức là vào ngày thứ Nhất trong tuần, các môn đệ lại hội họp. Chúa không hiện đến nữa, vì không cần thiết nữa. Người đã ở giữa họ rồi, vì chính Người đã phán: Khi nào hai, ba anh em họp nhau cầu nguyện, thì Người sẽ ở giữa; và Người ở với các môn đệ hàng ngày cho đến tận thế. Nhất là lễ nghi bẻ Bánh khi cộng đoàn hội họp nhau cho phép họ có Mình và Máu Người ở trong tay và trong lòng mọi người. Họ trở thành những con người tin tưởng mãnh liệt hơn và muốn sống xứng đáng hơn với đức tin của mình.
Thói quen hội họp như vậy đã trở thành thông lệ. Nhiều chỉ dẫn trong Tân Ước cho thấy các cộng đoàn tín hữu vẫn cử hành ngày thứ Nhất trong tuần: 1C 16,2; Cv 20,6-12. Nhiều tài liệu giáo phụ cũng làm chứng như thế: xem thư thánh Ignaxiô thành Antiokia (+107) gửi tín hữu Magnêsia; xem sách Minh giáo của thánh Yustinô (+165). Thư của Pline le Jeune gửi hoàng đế Trajan cũng khẳng định: người Kitô hữu có thói quen hội họp ca hát vào "ngày nhất định", mà ai cũng hiểu là ngày Chúa nhật. Nhưng cảm động hơn cả là lời chứng của các Tử đạo ở Tunisie. Ngày 12.2.304, có 31 đàn ông và 18 phụ nữ đã bị bắt vì tụ họp bất hợp pháp. Họ đều khẳng định: "Chúng tôi có luật phải cử hành Ngày của Chúa... Chúng tôi không thể sống mà không cử hành Ngày của Chúa...".
Như vậy cùng với thói quen hội họp, danh từ "Ngày của Chúa" dần dần đã được thông dụng để gọi ngày thứ Nhất trong tuần, hay là ngày thứ tám sau ngày thứ Nhất. Ngày nay chúng ta gọi: "Ngày Chúa nhật" là vì lẽ đó. Tuy nhiên cần phải nhớ, chữ "Chúa" ở đây không nói về "Thiên Chúa" nhưng về Chúa Yêsu, Đấng đã sống lại, tập họp chúng ta, ban cho chúng ta Thánh Thần tha tội và sai ta đi đem Tin Mừng khắp thế gian, trong ngày đó. Nhưng trong nhiều thứ tiếng (Anh, Đức) danh từ gọi tên Ngày Chúa nhật không gợi lên ý tưởng về Chúa (Sunday, Sonntag), mà về mặt trời; vì lẽ hoàng đế Constantinô tán thành và cổ võ cả hai thứ tôn thờ: Chúa Kitô và Mặt Trời. Và ông ra lệnh nghỉ "việc" trong ngày ấy.
Từ đó, ngày Chúa nhật không những trở thành lẽ sống của người tín hữu, mà còn ảnh hưởng tới sinh hoạt của người ngoài Giáo hội. Các Công đồng trong những thế kỷ tiếp đã ấn định luật dự lễ và nghỉ việc trong ngày Chúa nhật, nhưng chẳng thêm yếu tố thần học nào hơn những điều chúng ta đã nói ở trên.
Việc cử hành ngày Chúa nhật rõ ràng đã đưa Giáo hội Chúa Kitô ra khỏi phụng vụ Dothái giáo; và việc giáo dân hội họp ngày Chúa nhật đã khiến họ biệt lập với cộng đồng cử hành ngày Sabat. Nhất là đang khi đạo cũ nhấn mạnh đến sự nghỉ việc trong ngày Sabat, thì Đạo Mới trong ngày Chúa nhật lại tập trung cố gắng vào việc cử hành mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh.
Thế nên ngày đó thật là Ngày Chúa nhật, tức là ngày của Chúa Kitô, ngày Người sống lại hiện diện ở giữa các môn đệ để chuyển biến họ thành tín hữu hoàn toàn hơn khi cho họ xem các vết thương vinh hiển của Người và ban cho họ được Thánh Thần để tha tội và truyền giáo.
Ngày Chúa nhật vừa là ngày thứ Nhất vừa là ngày thứ tám trong tuần. Cả hai lối gọi đều đúng; nhưng ý nghĩa hơi khác nhau. Ngày thứ Nhất gợi lên ý tưởng khởi nguyên của nếp sống mới; còn ngày thứ Tám nói lên ý nghĩa trở lại của sự sống đời đời: chúng ta cử hành ngày đó cho đến khi Chúa trở lại. Nhưng dù được gọi bằng danh từ nào, Ngày Chúa Nhật vẫn là ngày kính nhớ mầu nhiệm Phục sinh, trong niềm trông đợi việc Chúa trở lại, nhờ việc cử hành mầu nhiệm hiện diện Bí Tích của Người trong Thánh Thể. Ba chủ đề đó phải được nổi bật trong phụng vụ Thánh Lễ Chúa Nhật của ta. Và ta hãy cử hành các nghi thức đặc biệt của Phụng vụ Chúa nhật cho ý nghĩa:
* Trước hết việc rảy nước Thánh nhắc nhở và làm sống lại ơn thánh tẩy mà mọi tín hữu đã lãnh nhận trong niềm tin mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh của Chúa. Đó là cửa mở đưa chúng ta vào Nhà Chúa. Hơn thế nữa, đó là ơn tái sinh chúng ta thành tạo vật mới, trở nên con cái Chúa và được sát nhập vào cơ thể Đức Kitô là Đền thờ của Đạo Mới để chúng ta có thể dâng lễ.
* Bài giảng lễ có tính cách bó buộc để cả chủ tế lẫn cộng đồng tín hữu suy nghĩ về Lời Chúa vừa nghe đọc, để Lời ở miệng Chúa phán ra nuôi sống con người và đưa mọi người đến việc đón nhận Ngôi Lời trở thành Thịt Máu.
* Lời nguyện giáo dân phải diễn tả được cảm nghĩ và ước vọng của Dân Chúa, để qua lời phát biểu, người ta có thể thấy cộng đoàn đang thao thức những gì; và như vậy sẽ lôi kéo mọi người vào một sự hiệp thông cụ thể.
* Việc quyên tiền trong thánh lễ khó đạt được mục đích chia sẻ bác ái hữu hiệu của nó, vì sự đóng góp thường không đáng kể so với yêu cầu của sinh hoạt cộng đoàn. Tuy nhiên nó vẫn phải giữ nguyên vẹn ý nghĩa thiêng liêng cao cả mà Chúa đã nói lên khi đáng giá việc người góa phụ bỏ đồng tiền nhỏ vào hòm tiền cúng: người ấy muốn dâng mạng sống mình cho Chúa. Và chỉ có thái độ ấy mới khiến ta xứng đáng cử hành mầu nhiệm Chúa ban Thịt Máu Người cho ta.
Tất nhiên, những việc trên không quan trọng nhất trong phụng vụ ngày Chúa nhật, nhưng là những việc mà chúng ta thường chỉ làm trong ngày đó và chúng ta hãy thánh hóa tối đa mọi việc chúng ta làm.
Ước gì việc nhắc lại lịch sử và nội dung thần học của ngày Chúa nhật cũng như ý nghĩa những việc trên đây giúp chúng ta quan tâm sống phụng vụ các ngày Chúa nhật nhiều hơn, để những ngày đó trở thành những ngày của Chúa thật sự, tức là thật sự ban Đức Kitô phục sinh cho chúng ta. Chúng ta sẽ được như các Tông đồ: tiếp xúc với Chúa sống lại đức tin của họ cũng đã sống lại; họ được lãnh nhận Thánh Thần và ra đi làm chứng cho Tin Mừng cứu độ, tạo nên những nếp sống mới và những xã hội mới.
Suy Niệm:
Chúa Nhật II Thường Niên A
(Ys 49,3.5-6; 1 C 1,1-3; Yn 1,29-34)
Ba bài Kinh Thánh hôm nay cho phép ta gọi tên Chúa Nhật này là "Chúa Nhật Người Tôi Tớ". Không những bài sách Isaia rõ ràng nói đến Người Tôi Tớ của Chúa; mà cả bài Tin Mừng Yoan cũng chỉ rõ nghĩa khi hiểu Đức Kitô theo các bản văn Cựu Ước nói về Người Tôi Tớ. Và cuối cùng, mấy câu mở đầu thư I gửi người Côrinthô sẽ phong phú nếu chúng ta hiểu mình cũng là những người được ơn gọi trở nên tôi tớ trung thành của Chúa.
Vậy chúng ta hãy suy nghĩ về chủ đề Người Tôi Tớ nơi Cựu Ước, nơi Đức Kitô và nơi mỗi người chúng ta. A. Nơi Cựu Ước
Isaia không phải là tác giả duy nhất nói đến Người Tôi Tớ của Đức Yavê. Nhiều sách khác trong Cựu Ước, đã gọi Môsê, Đavít, các tiên tri và nhiều người khác là Tôi tớ của Thiên Chúa. Nhưng trong sách Isaia phần II (gồm các chương 40-55) có bốn đoạn đặc biệt nói về Người Tôi Tớ (42,1-7; 49,1-9; 50,4-9; 52,13-53,12). Đó là bốn Bài ca về Người Tôi tớ, mà chúng ta chỉ có thể hiểu được khi đọc trong bối cảnh của cả phần II của sách ấy.
Trước hết chúng ta nên biết, ngày nay không còn mấy ai nghĩ rằng Isaia là tác giả của những chương sách này. Các nhà chú giải nhất trí bảo đó là tác phẩm của một tác giả khác. Ông cũng là tiên tri, sống vào khoảng cuối thời lưu vong, tức là vào hạ bán thế kỷ VI trước Công nguyên. Ông tuyên cáo Lời Chúa về vận mạng của Dân. Ngài sẽ ra tay cứu độ. Dân sẽ được giải phóng như hồi ở Aicập. Và còn hơn cả thời bấy giờ nữa. Ngài sẽ dùng sứ mạng của một Người Tôi Tớ. Ai là con người này?
Chính tác giả cũng không rõ ràng. Câu đầu tiên trong bài hôm nay nói, Người Tôi Tớ sẽ là cả dân Israel; nhưng trong những câu sau, người ấy lại là một cá nhân đặc biệt nào đó. Ý thực của tác giả muốn gì? Đối với ông, Israel vẫn là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa. Người đã chọn dân làm sở hữu, gọi họ là Dân của Người, không những để chia sẻ tình thân mật với Dân, mà còn mạc khải kế hoạch cứu độ của Người cho Dân, để họ trở thành Người Tôi Tớ tín cẩn thực hiện kế hoạch đó cho Người.
Nhưng sứ mạng giao cho toàn dân, Người lại muốn thể hiện nơi và qua một số ít, gọi là "số sót của Israel", và cuối cùng, nơi và qua Một Con Người tiêu biểu. Chỉ người này đáng gọi tên là "Người Tôi Tớ của Đức Yavê".
Tất nhiên chẳng ai trong Cựu Ước đã thực hiện được sứ mạng như "Isaia" mô tả, vì chẳng ai "đã đem được Yacob về cho Chúa và quy tụ được Israel lại quanh Người". Còn nói gì đến việc "trở thành ánh sáng các dân tộc và trở nên cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng trái đất". B. Nơi Đức Yêsu Kitô
Thế nên thật là ý nghĩa, việc phụng vụ dùng bài tiên tri Isaia này để đọc trong thánh lễ hôm nay. Lập tức chúng ta đã hiểu: Người Tôi tớ làm vinh danh Thiên Chúa, được Người hình thành ngay từ trong lòng mẹ, để trở nên ánh sáng cứu độ muôn dân, chính là Đức Yêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng mà chúng ta đã thấy sinh ra trong mùa phụng vụ trước đây và sẽ thấy Người cứu thế trong mùa Chay và Phục sinh. Mùa này, Người đang ở giữa chúng ta, nhưng chưa được nhiều người biết. Phụng vụ qua bài sách Tiên tri Isaia muốn giới thiệu Người là Người Tôi Tớ đích thực của Đức Yavê để chúng ta vui mừng vì ơn cứu độ đã gần. Nhưng chính bài Tin Mừng mới thật sự làm chứng điều đó.
Thật ra thì Yoan Tẩy giả đã không trực tiếp giới thiệu Đức Yêsu là Người Tôi Tớ. Ông nói Người là "Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian". Mặc dầu hình ảnh con chiên có thể gợi ngay đến ý tưởng về chiên vượt qua, chiên tế vật, nhưng liền sau đó, Yoan đã nói đến Đấng xóa tội trần gian, Đấng đến sau ông nhưng lại có trước ông và cao trọng hơn ông, nhất là Đấng ấy lại được xức dầu bằng Thánh Thần... khiến chúng ta phải hiểu Yoan đã mượn lại mọi tư tưởng trong sách Isaia về Người Tôi Tớ.
Isaia, trong đoạn 53, tức là ở Bài ca IV về Người Tôi Tớ đã vẽ ra hình ảnh con người bị khinh khi, phế bỏ, vì đã mang lấy các bệnh tật của chúng ta; người bị tra tấn, nhưng không hề mở miệng như cừu bị dẫn đến lò sát sinh, như chiên mẹ ngậm câm, để nhờ các vết hằn người chịu, chúng ta được chữa lành; người đã mang lấy tội lỗi nhiều người và đứng ra bầu chữa cho những kẻ ngỗ nghịch.
Trước đó, trong Bài ca I, Isaia đã viết: "Này đây Tôi Tớ của Ta, Người Ta đã chọn và hồn Ta sủng mộ, Ta đã ban Thần Trí trên Người". Và đó là điều Yoan muốn gợi đến khi ông tuyên chứng đã nhìn thấy Thánh Thần lấy hình bồ câu đậu xuống trên đầu Đức Yêsu.
Yoan đã nhìn thấy nơi Đức Kitô hình ảnh Người Tôi Tớ trong sách Isaia. Bề ngoài, Người có vẻ thua kém ông, khi đến xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng khi Yoan thấy Thánh Thần xuống trên Người, ông biết ngay, đây là Đấng mà mình có sứ mạng đi trước dọn đường như một người đầy tớ. Chính Người là Đấng cao trọng, Đấng mà Thánh Thần xuống ngự ở trên, nhưng bề ngoài rất khiêm nhu, đúng là Người Tôi Tớ mà sách Isaia đã tiên báo. Và phép rửa mà Người mới chịu là hình ảnh về cuộc khổ nạn mà Người Tôi Tớ phải chịu để đưa nhà Israel về với Chúa và đem ơn cứu độ của Chúa đến tận cùng trái đất. Yoan đã thấy như vậy và ông tuyên chứng để chúng ta hết thảy tin Đức Yêsu Kitô thật là Người Tôi Tớ và là Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa. Người đã đến thế gian, đóng vai trò Người Tôi Tớ để, như lời sách Isaia viết, Người giải án tuyên công cho nhiều người, hầu ý định của Thiên Chúa được nên trọn. Thế nên, sau khi đã tin Người là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, chúng ta còn phải xem Người chấp nhận sứ mạng ấy để làm gì? Và câu trả lời, chúng ta đã gặp thấy trong bài thư Phaolô hôm nay nói về chúng ta. C. Nơi Chúng Ta
Thánh Phaolô ý thức: ngài được gọi là Tông đồ của Đức Yêsu Kitô, do thánh ý của Thiên Chúa. Đồng thời ngài khẳng định: chúng ta và mọi người kêu cầu Danh Chúa Yêsu Kitô cũng được gọi để nên thánh, hầu mọi người đều được ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha và của Đức Yêsu Kitô.
Chúng ta không thể không cảm thấy lòng hân hoan của thánh Phaolô khi viết những dòng thư này. Ngài thấy rõ Thiên Chúa thật tốt lành. Người có cả một ý định thánh thiện, đầy yêu thương đối với mọi người. Ý định đó, Người đã nhờ Đức Yêsu Kitô thực hiện, như trên ta đã nói và như bài thư Phaolô đây khẳng định. Chính nhờ Đức Yêsu Kitô và trong Đức Yêsu Kitô mà chúng ta hết thảy được gọi nên thánh thiện và làm tông đồ, để mọi người được ân sủng và bình an của Thiên Chúa. Tức là mọi người chúng ta cũng được gọi đi vào trong sứ mạng của Đức Yêsu Kitô, để tham dự, chia sẻ và tiếp nối sứ mạng ấy.
Khi đáp lại tiếng Người kêu gọi mà chạy đến kêu cầu Danh Người, mọi tội lỗi của ta sẽ được chính đôi vai Người gánh lấy. Người là Người Tôi Tớ đau khổ, là Chiên của Thiên Chúa xóa tội trần gian: Người làm cho chúng ta nên thánh thiện, để chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa, và như vậy Người đưa nhà Yacob trở về và quy tụ nhà Israel về với Chúa.
Khi ấy chúng ta sẽ được thừa tự sản nghiệp Lời Hứa, được trao ban sứ mạng của Dân được chọn. Và như trên đã nói, đó là sứ mạng trở thành người tôi tớ thân tín để thực hiện chương trình tốt đẹp của Thiên Chúa, tức là trở nên ánh sáng muôn dân, đem ơn cứu độ đến tận cùng trái đất, trở thành tông đồ của Đức Yêsu Kitô cũng là trở thành Người Tôi Tớ của Thiên Chúa vậy.
Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì kế hoạch đầy tình thương của Người. Người đã ban Đức Yêsu Kitô cho ta để làm Người Tôi Tớ thực hiện kế hoạch ấy. Và Đức Yêsu Kitô giờ đây trong thánh lễ này lại tha thiết kêu gọi mọi người chúng ta quy tụ vào Thân Thể mầu nhiệm Người, để Người sai ta đem ân sủng và bình an đi, tiếp nối sứ mạng của Người Tôi Tớ. Dĩ nhiên muốn thực hiện sứ mạng này, chúng ta phải giơ vai ra gánh lấy hết mọi khổ đau nhọc nhằn của đồng bào. Thế mà nhiều người còn từ chối chung vai gánh vác những nghĩa vụ hiện này với đồng bào. Họ sợ nặng ư? Nhưng chính Chúa đã nói: gánh của Chúa vừa nhẹ vừa êm, bởi vì Thánh Thể Chúa luôn sẵn sàng bổ sức cho những ai yếu nhọc. Thế thì chúng ta hãy sốt sắng cử hành mầu nhiệm Thánh Thể này để có sức mạnh thực hiện sứ mạng của Người Tôi Tớ.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 1:29-34)
Thiên Chúa Cha đã giới thiệu Chúa Giê-su với nhân loại khi Người đến chịu phép rửa của ông: TN 2-A64
Thiên Chúa Cha đã giới thiệu Chúa Giê-su với nhân loại khi Người đến chịu phép rửa của ông Gio-an Tẩy Giả. Giờ đến lượt ông Gio-an giới thiệu Chúa Giê-su với dân chúng. Ông Gio-an đã làm công việc giới thiệu ấy như sau:
Trước hết ông nói về sứ mệnh của Chúa Giê-su: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Chiên là tế vật được sử dụng trong nghi lễ Xá tội của dân Ít-ra-en. Máu chiên được rảy trên dân chúng để nói lên sự hòa giải giữa họ với Thiên Chúa. Khi giới thiệu Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa, rõ ràng ông Gio-an cho thấy việc hòa giải ấy khởi đầu từ phía Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dùng chính Con Một Người làm hy lễ sát tế để xóa đi mọi tội lỗi ngăn cách nhân loại với Người. Từ nay, thượng tế không còn phải vào Cung thánh mỗi năm một lần để xin Chúa xá tội cho toàn dân nữa. Nhưng Chiên Thiên Chúa là Chúa Giê-su đã chết một lần trên thập giá thay cho các con chiên bị sát tế trên bàn thờ và Người lấy cái chết đền bù ấy để chuộc nhân loại khỏi vòng nô lệ tội lỗi (xem Do-thái 10:11-18). Chỉ một hình ảnh Chiên Thiên Chúa đã đủ để giới thiệu sứ mệnh cao cả của Chúa Giê-su.
Tuy nhiên sau khi giới thiệu con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su rồi, ông Gio-an Tẩy Giả còn muốn làm chứng nhân cho Người nữa. Để làm chứng cho Chúa, ông không dựa vào thế giá của cá nhân ông, mà dựa vào uy quyền của Chúa Thánh Thần. Tuy ông xuất hiện trước khi Chúa Giê-su đến, nhưng so với Chúa thì Người “trổi vượt hơn ông vì Người có trước ông”. Do đó, ông hoàn toàn căn cứ vào chứng nhân có đủ tư cách, đó là Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần đã linh hứng cho ông để ông giới thiệu Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa. Giờ đây Thánh Thần lại bảo ông: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Chứng từ của ông là do mắt thấy tai nghe. Ông quả quyết: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. Phải, chính Thiên Chúa đã tuyển chọn Con Một Người cho sứ mệnh cao cả là xóa bỏ tội trần gian. Nhiệm vụ của Gio-an là thấy sao nói vậy và ông làm chứng qua việc thấy và nghe Chúa Thánh Thần.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Cũng như ông Gio-an Tẩy Giả, sứ mệnh của chúng ta hôm nay là tiếp tục giới thiệu Chúa cho thế giới và những người chung quanh chúng ta. Tuy nhiên để thi hành sứ mệnh ấy, chúng ta không thể không xác tín về con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su. Xác tín đó phải xuất phát từ tâm hồn nhận biết rằng chúng ta cần được Chúa cứu độ và chỉ có Chúa Giê-su là Đấng cứu độ duy nhất. Nhưng nhận biết chưa đủ, vì việc cứu độ chỉ được thể hiện qua việc cộng tác giữa chúng ta với Chúa. Mà đã cộng tác thì đó phải là một tương quan giữa chúng ta với Người. Chúa không bảo chúng ta cứ ngồi yên đấy, để Người lo từ A tới Z, nhưng Người dạy chúng ta “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”, nghĩa là hãy để cho tương quan với Chúa biến đổi con người chúng ta thành một tạo vật mới. Chúng ta phải chủ động trong việc thay đổi con người mình. Theo mẫu gương của Chúa Giê-su, chúng ta phải loại bỏ đi những gì trái ngược với mẫu gương ấy và học với Người, nhờ đó chúng ta được trở nên “đồng hình đồng dạng với Người”.
Chúa Giê-su, Chiên Thiên Chúa, muốn xóa bỏ tội lỗi chúng ta. Nhưng nếu chúng ta không chịu buông tội lỗi ra thì Chúa cũng đành chịu, vì Người không muốn xúc phạm tự do của chúng ta! Đây thực là một tiến trình thay đổi để trở nên tạo vật mới, kéo dài suốt cuộc đời.
Ngoài ra, song song với việc thay đổi con người, Chúa cũng muốn chúng ta tiếp tục vai trò giới thiệu và làm chứng cho Chúa như ông Gio-an đã làm. Cách làm chứng tốt nhất, đó là biểu lộ lòng tin của chúng ta vào Chúa Giê-su, Chiên Thiên Chúa.
Chưa bao giờ nhân loại cần đến sự tha thứ như bây giờ. Nhân loại đứng trước một thách đố: TN 2-A65
Chưa bao giờ nhân loại cần đến sự tha thứ như bây giờ. Nhân loại đứng trước một thách đố lớn lao. Một là tha thứ hai là chết. Bởi vậy cần phải tìm về nguồn cội của sự thứ tha để thấy được hướng đi tới cho toàn thể nhân loại.
CHIÊN THIÊN CHÚA.
Đức Giêsu đã được ông Gioan Tẩy giả giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:29) Ông đã công bố cho mọi người biết về bản chất sứ mệnh của Đức Giêsu, đồng thời nói lên tất cả tình yêu tuyệt vời nơi con người kỳ diệu ấy. Tình yêu Thiên Chúa mang một chiều cạnh thực tế vô cùng lớn lao. Đã đến lúc Thiên Chúa không thể che dấu lòng bao dung vô bờ bến của mình nữa. Chính ông Gioan đã mạnh mẽ làm chứng ơn cứu độ đã đến với con người Đức Giêsu. Nói khác, đã đến lúc Thiên Chúa tha thứ cho nhân loại.
Ai có thể tha thứ cho nhân loại nếu không phải là Thiên Chúa ? Tha thứ là một việc vô cùng khó khăn. Bởi vậy, Thiên Chúa đã phải chuẩn bị rất kỹ cho công cuộc lớn lao đó. Chính ông Gioan đã nêu lên tất cả chiều kích siêu việt và sức mạnh kỳ diệu nơi con người sẽ thực hiện công cuộc cứu độ: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người.” (Ga 1:32) Đó là dấu chỉ cho ông thấy “người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” (Ga 1:33) Hình ảnh lộng lẫy đó cũng mạc khải Ba Ngôi Thiên Chúa hợp lực với nhau để tha thứ cho nhân loại. Không có sức mạnh Thánh Linh, không thể thực hiện được công cuộc tha thứ. Chỉ có phép rửa trong Thánh Thần mới thực sự mang lại ơn tha thứ cho nhân loại. Đó là nét trổi vượt của thời kỳ Tân Ước. Chính ông Gioan đã thú nhận: “Chính Người là Đấng tôi đã nói khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” (Ga 1:30) Trổi hơn vì chính “Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1:34)
để thực hiện tất cả ý muốn hòa giải của Thiên Chúa. Trổi hơn vì chỉ mình Người mới có thể “xóa bỏ tội trần gian,” (Ga 1:29) hầu giải phóng nhân loại khỏi mọi thứ nô lệ.
Sau khi được tràn ngập Thánh Linh, Đức Giêsu trở thành Đấng Kitô, Đấng được xức dầu. Sứ mệnh Người chỉ hoàn thành khi tất cả nhân loại được tha thứ. Người đã tha thứ vô điều kiện. Lượng tha thứ vô cùng vô tận. Không ai có thể tha thứ như Người. Chính vì thế, Người mới có thể mời gọi chúng ta “hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5:44) Lòng yêu thương kẻ thù là gì, nếu không phải là sự tha thứ ? Tội lỗi đã biến nhân loại thành kẻ thù của Chúa và tạo một khoảng cách vô cùng giữa Thiên Chúa và con người. Xa Thiên Chúa là xa nguồn sống, là đi vào cõi tiêu diệt. Thế nhưng chính Thánh Linh trong Đức Giêsu đã mạc khải cho mọi người biết tình yêu mạnh hơn sự chết. Aân sủng đã lấp đầy hố thẳm.
Từ nay con người không còn phải thất vọng vì tội lỗi, nhưng tràn đầy niềm vui vì được tình yêu Thiên Chúa giải thoát. Thế mới biết “không phải tội lỗi, nhưng tình yêu Thiên Chúa mới là điều căn bản” (The New Dictionary of Catholic Spirituality, 1993: 407) cho mọi suy tư và hành động nhân loại. Giải thoát khỏi tội lỗi cá nhân chỉ là một phần trong chương trình cứu độ. Đúng hơn, sau khi được tha thứ, con người được hướng dẫn vào đường# công chính. Nói khác, “hành động vì công lý và hòa bình là hệ quả chính sau khi nhận thức về tình yêu Thiên Chúa và nhu cầu cần được tha thứ của nhân loại.” (The New Dictionary of Catholic Spirituality, 1993: 407)
THA THỨ VÀ HÒA BÌNH NHÂN LOẠI.
Thế nhưng ngày nay, nhiều người còn nhân danh Thiên Chúa khoan nhân để đối xử bất bao dung với anh em. Thật là một xỉ nhục đối với Thiên Chúa. Họ không thể tha thứ cho anh em, vì họ tưởng có thể kéo Thiên Chúa về phe mình và biến Người thành phương tiện thực hiện những mưu đồ đen tối của mình. Một cái nhìn hẹp hòi như thế cần phải dẹp tan. Theo ĐGH Gioan Phaolô II, các nhà lãnh đạo tôn giáo có trách nhiệm phải “từ chối và cô lập những người lợi dụng danh Thiên Chúa vào những mục tiêu và những hành động thực tế xúc phạm đến Người.” (CWNews, 21/1/2002)
Nếu thực sự hiểu biết và tôn thờ Thiên Chúa, con người không thể không tha thứ cho nhau. Không tha thứ cho nhau, không thể có hòa bình. Thực tế cho thấy cuộc chiến ngày càng leo thang giữa Palestine và Israel. Những cuộc khủng bố trả đũa nhau khiến cho bất cứ sáng kiến hòa bình nào cũng lâm vào bế tắc. Đã đến lúc cần phải nhìn vào “Chiên Thiên Chúa” để tìm ra phương hướng cho những vấn đề tranh chấp hôm nay. Nếu chỉ dựa trên những tính toán tự nhiên, không bao giờ con người có thể tha thứ cho nhau. Tự nhiên ai cũng muốn ăn miếng trả miếng. Đó là sự khôn ngoan loài người. Không làm như thế sẽ bị đối phương chê là ngu dại. Người ta chỉ lo ăn thua, ngay cả trong đời sống hôn nhân và gia đình!
Nếu muốn chung sống hòa bình, nhân loại hôm nay cần hiểu biết lẫn nhau và thắt chặt mối giây thân ái. Đó là một công cuộc lớn lao và rất phức tạp. Các nhà lãnh đạo tinh thần và tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong công cuộc đó. Thực vậy, theo ĐGH Gioan Phaolô II, “tất cả các nhóm tôn giáo phải nhận thức rằng họ có chung một cam kết kiến tạo hòa bình và công lý.” (CWNews 21/1/02) Công cuộc xây dựng hòa bình không phải chỉ thuộc về các nhà chính trị, ngoại giao. Không ai có thể đứng ngoài các cuộc tranh chấp hôm nay. Nhất là khi các tên khủng bố nhân danh Thượng Đế để sát phạt anh em, các nhà lãnh đạo tôn giáo càng thấy rõ vai trò của mình hơn. Dù khác biệt nhau về niềm tin, nhưng họ đều có trách nhiệm khám phá và trình bày một Thiên Chúa đầy lòng bao dung tha thứ. Từ cái nhìn trung thực về Thiên Chúa như thế, nhân loại sẽ dễ dàng đi đến với anh em.
Nhưng việc kiến tạo hòa bình không chỉ là trách nhiệm của các nhà lãnh đạo tinh thần. Trái lại, tất cả mọi người đều phải cầu nguyện cho tinh thần bao dung của Thiên Chúa thấm nhuần vào đại gia đình nhân loại. Thật vậy, ĐGH Gioan Phaolô II cho rằng “nhân loại phải chung lời cầu nguyện để vượt qua ‘những nguy cơ của những đối kháng mới’ sau vụ khủng bố 11/9. ‘Bây giờ là lúc khẩn thiết phải cầu nguyện cho hòa bình.’ Người thúc đẩy đặc biệt các cộng đoàn tôn giáo hãy đoàn kết cầu nguyện cho hòa bình vào ngày đã ấn định.” (CWNews 21/1/02) Đúng hơn, cần phải cầu xin Thiên Chúa hoán cải lòng người để sẵn sàng tin tưởng vào Thiên Chúa tình thương và chấp nhận tha nhân như những người anh em cùng chia sẻ một tình thương Thiên Chúa. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho nhân loại. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể làm cho nhân loại sống bao dung và tha thứ như Người. Con người thực sự chỉ hạnh phúc và sống hòa bình với nhau khi khôi phục được hình ảnh Thiên Chúa bao dung nơi chính mình và cộng đoàn. Không thể nào khôi phục được hình ảnh tươi sáng đó, nếu con người không hết tình tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho họ.
Hơn ai hết, các Kitô hữu là những “Chiên Thiên Chúa” giữa thời đại hôm nay. Họ là những người đã được xức dầu như Đức Kitô. Họ cũng đã lãnh nhận đầy đủ sức mạnh Thánh Linh để thực hiện công cuộc hòa giải giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nhân loại chưa hòa bình, vì còn nhiều Kitô hữu chưa nhận thức mình là “những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh,” (1 Cr 1:2) và “làm ánh sáng muôn dân, để đem ơn cứu độ (của Ta) đến tận cùng cõi đất.” (Is 49:6)
Phụng vụ Lời Chúa lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa đã mở đầu cho mùa Thường niên bằng: TN 2-A66
Phụng vụ Lời Chúa lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa đã mở đầu cho mùa Thường niên bằng cách giới thiệu Chúa Giê-su lên đường thi hành sứ vụ Thiên Chúa trao phó. Từ nay trong các Chúa Nhật quanh năm, Lời Chúa sẽ mời gọi ta suy niệm về sứ vụ của Chúa Giê-su qua lời giảng và việc làm của Người. Vậy sứ vụ ấy là gì?
1. Chúa Giê-su đem ơn cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng trái đất (bài đọc Cựu Ước – I-sai-a 49:3.5-6)
Bài ca “người tôi trung” thứ hai diễn tả một khía cạnh đặc biệt sứ vụ của Chúa Giê-su. Có bốn bài ca về người tôi trung (Is 42; 49; 50 và 53) trong sách ngôn sứ I-sai-a, mỗi bài được Phụng vụ Lời Chúa sử dụng tùy theo mùa hoặc lễ. Bài ca hôm nay ghi lại lời Thiên Chúa khẳng định sứ vụ của người tôi trung như sau: “Này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất”. Quả thực là một sứ vụ hết sức lớn lao, vượt trên mọi khả năng con người. Nhưng Thiên Chúa đã có kế hoạch, theo đó người tôi trung sẽ được Người chuẩn bị từng bước một.
Trước hết Thiên Chúa đã “nhào nặn” ngài ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Công tác đầu tiên của ngài là “đem nhà Gia-cóp về cho Thiên Chúa và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người”. Tuy nhiên đó chỉ là bước đầu, vì sứ vụ của ngài không chỉ đóng khung trong lãnh vực Ít-ra-en. Thiên Chúa có viễn tượng lớn lao hơn nhiều. Người đoái thương nhìn xuống thân phận của toàn thể nhân loại đang trên đường bị hư mất. Do đó, nếu chỉ cứu vớt dân Ít-ra-en thôi, thì thực là “vẫn còn quá ít”. Thiên Chúa muốn ôm tất cả nhân loại trong vòng tay yêu thương của Người. Cho nên Người muốn người tôi trung phải đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.
Chúa Giê-su đã thực hiện trọn vẹn những điều ngôn sứ I-sai-a nói về người tôi trung (Mt 12:15-21). Thực vậy, khi Chúa khởi đầu thi hành sứ vụ, địa bàn hoạt động chính là miền Ga-li-lê, rồi xuống Giu-đê. Đã có lần Người xác định với các môn đệ: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” (Mt 15:24). Rồi Người căn dặn họ: “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Sa-ma-ri. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en” (Mt 10:5-6). Vậy có phải Chúa Giê-su thực sự không muốn đến với người ngoài Ít-ra-en hay sao? Không phải vậy. Người không có ý loại bỏ họ, nhưng chỉ muốn nói lên việc đến với Ít-ra-en là việc phải làm trước nhất, để rồi từ đó sẽ đi đến với dân ngoại. Điều ấy hợp lý, vì việc truyền giáo phải khởi sự từ chính gia đình và xứ sở mình trước đã. Thánh Phao-lô cũng theo đường lối của Chúa Giê-su. Ngài cùng với ông Ba-na-ba nói với người Do-thái tại An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại” (Cv 13:46). Các ngài đã đem “ánh sáng muôn dân” đến cho những chưa biết Chúa Ki-tô.
2. Chúa Giê-su xóa bỏ tội trần gian (bài Tin Mừng – Ga 1:29-34)
Thi hành sứ vụ cứu độ muôn dân, Chúa Giê-su không cư xử như một vị thần linh quyền năng, vung đôi đũa thần để thay đổi cục diện thế giới. Nhưng Người đóng một vai trò tầm thường ta không thể tưởng tượng nổi. Đó là làm Chiên Thiên Chúa để xóa bỏ tội trần gian. Thánh Thần đã linh hứng cho ông Gio-an Tẩy giả nhận ra thân phận đích thực của Chúa Giê-su và sứ mệnh của Người. Ông đã nói cho dân chúng biết Chúa Giê-su là ai: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Nhưng đáng buồn là dân chúng thờ ơ trước lời giới thiệu ấy, vì ai ai cũng nghĩ Đấng xóa bỏ tội trần gian phải là vị anh hùng cái thế, chứ đâu tầm thường như con người đang tiến về phía ông Gio-an. Cũng may là vài người môn đệ của ông Gio-an đã nghe lời chỉ dạy của thầy mà đi theo Chúa (Ga 1:35-39).
Hình bóng ám chỉ Chiên Thiên Chúa chính là con chiên vượt qua, máu nó đã cứu dân Ít-ra-en thoát cái chết bao trùm khắp nơi bên Ai-cập và thoát khỏi ách nô lệ của Pha-ra-ô. Máu con chiên bôi trên khung cửa đã cứu dân It-ra-en khỏi nanh vuốt của Thần Tru Diệt (Xh 12:21-23). Là Chiên Thiên Chúa, Chúa Giê-su đã đổ máu ra trên thập giá để đền bù tội lỗi nhân loại, cứu ta thoát khỏi cái chết đời đời. “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của Người, Người vào chỉ một lần thôi và đã lãnh được ơn cứu độ vĩnh viễn cho chúng ta… Đức Ki-tô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xóa bỏ tội muôn người” (Dt 9:12.28). Để diễn tả cái chết hy sinh của Chiên Thiên Chúa, ngôn sứ I-sai-a đã viết: “Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta. Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53:6-7).
Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa. Nhưng mấy ai để ý tới hình ảnh và ý nghĩa của Chiên Thiên Chúa? Ở đoạn Tin Mừng này, ta như đọc được nỗi ưu tư đó của ông Gio-an Tẩy giả. Ông chỉ muốn bằng mọi cách làm chứng cho chân lý Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa. Mắt thấy tai nghe đối với ông chưa đủ, cho nên ông phải nại đến Thánh Thần truyền cho ông phải làm chứng cho Chúa Giê-su. Bài học làm chứng cho Chiên Thiên Chúa không chỉ cho riêng ông Gio-an, nhưng cho tất cả các Ki-tô hữu, nhưng người có bổn phận phải giúp người khác thấy: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian”.
3. Trong Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta được hiến thánh và được kêu gọi làm dân thánh (bài đọc Tân Ước – 1 Cr 1:1-3)
Thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Chúa Giê-su Ki-tô đã rao giảng Tin Mừng, chết và sống lại vinh hiển. Tuy nhiên kế hoạch ấy cần phải được tiếp tục cho tới khi mọi sự được viên mãn trong Người (Cl 1:19-20). Vậy Chúa Giê-su tiếp tục công cuộc cứu độ của Người như thế nào? Trong lời chào thăm tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phêrô Tông đồ đã cho ta thấy vai trò của Chúa Giê-su khi Người tiếp tục cứu độ ta. Chúa Giê-su đã lấy máu mình chuộc ta lại cho Thiên Chúa, giao hòa ta với Thiên Chúa. Điều này mới chỉ khởi đầu cho việc cứu độ của ta, cho ta một căn tính mới, tức là ta lại được làm con cái Thiên Chúa giống như A-đam và E-và trước khi sa ngã. Thánh Phao-lô gọi việc này là “chúng ta được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giê-su”, hoặc từ thần học là “sự công chính hóa”. Bước kế tiếp là ta phải “làm dân thánh”, nghĩa là sống như một tạo vật mới, sống theo Thánh Thần, sống như Đức Ki-tô đã sống và thuộc về Người. Thánh Tông đồ đưa ra một nguyên lý căn bản: “Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô” (Rm 8:9).
Lời chào của thánh Phao-lô thường nói đến hai điều: ân sủng và bình an. Quả thực đây là hai yếu tố chính của ơn cứu độ. Ân sủng nguồn cội là chính Đức Ki-tô, quà tặng của Thiên Chúa ban cho ta, và những hồng ân tiếp nối hết ơn này đến ơn khác (Ga 1:16). Bình an là mối quan hệ tốt đẹp và thân mật giữa ta với Thiên Chúa cần phải được bảo trì và phát triển không ngừng cho tới khi nhắm mắt lìa đời. Tất cả những điều này chỉ có thể được thực hiện “trong Đức Giê-su Ki-tô mà thôi.
4. Sống Lời Chúa
Suy niệm về sứ mệnh của Chúa Giê-su không giống như tìm hiểu sự nghiệp của một vĩ nhân trần thế, nhưng là một sứ mệnh liên hệ đến mỗi người. Sứ mệnh của một vĩ nhân có hay không cũng không mấy ảnh hưởng đến ta, nhất là về phương diện thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh của Chúa Giê-su thì hoàn toàn cần thiết cho mọi người, vì không thể có ơn cứu độ ngoài Đức Ki-tô. Cả ba bài đọc đã trình bày những khía cạnh khác nhau của sứ mệnh ấy.
Suy nghĩ: Thánh Gio-an Tiền hô quả quyết khi làm chứng về Chúa Giê-su, ngài nói: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. Thánh Gio-an đã thấy Thần Khí ngự xuống trên Chúa Giê-su. Vậy những người chung quanh nhìn vào tôi, liệu họ có thấy gì để chứng thực rằng tôi là người Công giáo, là con cái Chúa không?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con nhận biết Đức Ki-tô, Con Một Chúa, xuất hiện như người phàm và mặc lấy thân xác giống hệt chúng con. Xin Chúa làm cho tâm hồn chúng con được đổi mới và trở nên giống hình ảnh Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa).
· Is 49,3.5-6: (6) Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta, (7) để ngươi mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.
· 1 Cr 1,1-3: (3) Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an. · TIN MỪNG: Ga 1,29-34
Lời chứng của Gioan
(29) Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: «Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. (30) Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.
(31) Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ítraen, tôi đến làm phép rửa trong nước». (32) Ông Gioan còn làm chứng: «Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. (33) Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. (34) Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Việc sát tế chiên trong đạo Do Thái bắt nguồn từ đâu, có ý nghĩa gì? Sự việc ấy có liên quan gì: TN 2-A67
1. Việc sát tế chiên trong đạo Do Thái bắt nguồn từ đâu, có ý nghĩa gì? Sự việc ấy có liên quan gì đến danh xưng «Chiên Thiên Chúa» mà Gioan Tẩy Giả dùng để giới thiệu Đức Giêsu?
2. Việc Đức Giêsu làm «chiên bị sát tế» trên thập giá cho ta bài học gì? Trong lễ toàn thiêu thập giá này, có sự liên hệ gì giữa việc thờ phượng Thiên Chúa và việc yêu thương nhân loại không? Phải chăng Ngài thờ phượng Thiên Chúa bằng cách chết cho nhân loại?
Suy tư gợi ý:
1. Chiên bị sát tế để hy sinh đền tội thay cho con người
Người Do Thái có tục sát tế chiên trên bàn thờ để thờ phượng, cảm tạ Thiên Chúa, để xin ơn và để đền tội. Tục lệ này bắt nguồn từ thời Abel, con trai thứ của Ađam: «Aben làm nghề chăn chiên» (St 4,2), nên để thờ phượng và tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa, «Aben dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng» lên Ngài (St 4,4). Đến thời dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ, Môsê ra lệnh cho mỗi nhà người Do Thái phải sát tế một con chiên, bôi máu lên khung cửa (x. Xh 12,2-7). Đêm ấy, tất cả những nhà trên đất nước Ai cập không có máu chiên trên khung cửa, đều bị chết đứa con trai đầu lòng (x. Xh 12,29-30). Chỉ có người Do Thái nhờ máu chiên trên khung cửa mà không bị như thế. Từ đó việc sát tế chiên mang thêm ý nghĩa: chiên chết thay người. Về sau, theo sách Xuất hành (Xh 29,38-46) thì tại đền thờ, các tư tế Do Thái đều sát tế mỗi ngày hai con chiên làm của lễ toàn thiêu: sáng sớm một con, chập tối một con, để dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội cho dân. Đúng ra ai phạm tội thì chính người ấy bị phạt, mà phạm đến Thiên Chúa thì chỉ có hình phạt chết mới xứng đáng. Nhưng Thiên Chúa nhân lành không muốn con người phải chết: «Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống» (Ed 18,23). Luật công bằng đòi hỏi tội phải đền; nên để con người còn được sống mà ăn năn hối cải, Ngài chấp nhận cho con người lấy chiên đền mạng. Như vậy chiên bị sát tế là để hy sinh chết thay cho con người lẽ ra phải chết vì tội lỗi mình.
2. Đức Giêsu là «Chiên Thiên Chúa» bị sát tế để cứu nhân loại
Theo lẽ thường, gọi Đức Giêsu là chiên thì quả là xúc phạm. Nhưng để cứu chuộc nhân loại, theo kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa, Đức Giêsu phải bị giết chết để đền tội thay cho con người, tương tự như những con chiên bị sát tế trong đền thờ để chết thay cho người tội lỗi. Gioan đã thấy trước số phận tương lai của Đức Giêsu như thế, nên ông giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người: «Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian». Sách Khải Huyền cũng dùng rất nhiều lần từ «Con Chiên» để chỉ về Đức Giêsu.
Thánh Phaolô viết: «Nếu máu các con dê, con bò còn thánh hóa được con người, làm cho họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy» (Dt 9,13-14). Hiệu lực đến nỗi Ngài chỉ cần chết một lần là đủ xóa được tội lỗi toàn nhân loại: «Chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ» (Dt 10,10), vì Ngài là «Con Chiên vẹn toàn, không tỳ vết» (1Pr 1,19), nhất là vì Ngài cũng chính là Thiên Chúa, nên giá trị cứu chuộc của Ngài là vô cùng. «Máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu Aben» (Dt 12,24). «Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời» (Cl 1,20).
3. Cách thờ phượng mới của Đức Giêsu đối với Thiên Chúa
Lễ toàn thiêu – mà chính Đức Giêsu là của lễ, là chiên bị sát tế, đồng thời cũng chính là chủ tế, lấy thập giá làm bàn thờ – được thực hiện để thờ phượng và tôn vinh Thiên Chúa. Trong lễ toàn thiêu này, Ngài đã chịu đau khổ tột cùng và bị giết để cứu chuộc nhân loại, để nhân loại «được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10). Tất cả chỉ vì yêu thương con người đến tận cùng của tình yêu (x. Ga 13,1). Trong lễ toàn thiêu này, Đức Giêsu đã thờ phượng và tôn vinh Thiên Chúa bằng chính tình yêu hoàn toàn vị tha và vô bờ bến của Ngài đối với nhân loại, được thể hiện cụ thể bằng cái chết thê thảm của Ngài. Đó chính là cách thờ phượng mới của Ngài.
Ngài không thờ phượng Thiên Chúa bằng những lễ toàn thiêu, trong đó chỉ có chiên bị giết chứ chủ tế hay người dâng lễ chẳng bị thiệt hại mảy may. Ngài không tôn vinh Thiên Chúa bằng những lời ca tụng, đề cao Thiên Chúa đến tận mây xanh, mà người tôn vinh chẳng phải mất mát điều gì. Ngài không thờ phượng và tôn vinh Thiên Chúa bằng những thể thức vắng bóng tình yêu đối với tha nhân. Trái lại, Ngài đã bầy tỏ lòng yêu mến của Ngài đối với Thiên Chúa bằng chính tình yêu của Ngài đối với tha nhân. Yêu Thiên Chúa được thể hiện thành yêu tha nhân. Nơi Ngài, yêu Thiên Chúa và thương tha nhân chỉ là một tình yêu duy nhất, không độc lập hay tách biệt nhau. Ngài thờ phượng Thiên Chúa bằng cách phục vụ và chết cho tha nhân. Đó là cách yêu mến, thờ phượng và tôn vinh Thiên Chúa của Ngài.
Còn cách yêu mến, thờ phượng và tôn vinh Thiên Chúa của chúng ta dường như độc lập và tách biệt hẳn với việc yêu mến, hy sinh và phục vụ tha nhân. Chúng ta có thể yêu mến, thờ phượng và tôn vinh Thiên Chúa một cách hết sức nhiệt tình, sốt sắng mà không hề nghĩ gì đến những những người chung quanh chúng ta đang cần đến tình yêu, sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh của chúng ta. Ai động chạm đến quyền lợi hay tự ái của ta là ta nổi xung lên và quyết chí ăn thua đủ. Ai vượt trội hơn ta, nổi tiếng hơn ta, được mọi người đề cao hơn ta thì ta bực bội và muốn tìm cách chê bai, hạ nhục người ấy. Ai túng nghèo, khổ cực, bệnh tật, bị áp bức bất công thì ta coi ấy như không liên can gì đến ta cả. Liệu yêu mến, thờ phượng và tôn vinh Thiên Chúa như thế có giá trị gì trước mặt Ngài không?
Thiên Chúa đã trả lời cho chúng ta qua ngôn sứ Isaia: «Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta, nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm! (…) Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sabát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu. Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ» (Is 1,11-17).
Chính Đức Giêsu cũng nói: «Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế» (Mt 9,13; 12,7). Ngài đặt nặng tình yêu và sự hòa thuận đối với tha nhân hơn cả việc dâng của lễ toàn thiêu lên Thiên Chúa: «Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình» (Mt 5,23-24).
Cách đây 2700 năm, ngôn sứ Isaia đã cảnh báo về kiểu thờ phượng Thiên Chúa độc lập với tình yêu tha nhân; và cách đây 2000 năm, chính Đức Giêsu cũng lập lại tinh thần ấy của Isaia. Nhưng tiếc thay, cho đến nay, sau mấy ngàn năm, rất nhiều người trong chúng ta vẫn chưa học được bài học của các ngài. Thật đáng tiếc! Trách nhiệm này thuộc về ai?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu đã trở nên «con chiên bị sát tế», đã chết cách thê thảm để cứu chuộc nhân loại cũng vì tha thiết yêu thương nhân loại. Và sự hy sinh ấy chính là cách Ngài thờ phượng và bày tỏ tình yêu đối với Cha. Xin cho con cũng biết thờ phượng và yêu mến Cha theo cách thức ấy. Nếu không thể hy sinh một cách lớn lao cho tha nhân chung quanh con thì hãy giúp con quảng đại hy sinh cho tha nhân trong những nhỏ nhặt và cụ thể của đời sống, đó là cách biểu lộ tình yêu đối với Cha mà Cha yêu thích nhất.
Chúa Giê-su đến lãnh nhận phép rửa của Gio-an và đó là cơ hội để Thiên Chúa Cha chính thức: TN 2-A68
Chúa Giê-su đến lãnh nhận phép rửa của Gio-an và đó là cơ hội để Thiên Chúa Cha chính thức giới thiệu Con Một Người với nhân loại. Mặc dù mùa Thường niên Phụng vụ năm A sử dụng Tin Mừng Mát-thêu, nhưng Chúa Nhật này Giáo Hội lại mượn đoạn Tin Mừng Gio-an để bổ túc thêm cho việc giới thiệu Chúa Giê-su Đấng Cứu Thế, tức lời giới thiệu của Gio-an Tẩy giả. Trong biến cố Chúa Giê-su nhận phép rửa của Gio-an, lời giới thiệu của Chúa Cha là: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3:17). Còn ông Gio-an thì giới thiệu Người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1:29). Mỗi lời giới thiệu mang một tâm tình đặc biệt và nhìn sứ vụ của Chúa Giê-su theo một góc độ riêng: như người Cha đầy tin tưởng Con mình sẽ hoàn tất sứ vụ được trao phó trong sự vâng phục tuyệt đối, hoặc như con người vui mừng nhận ra Đấng Cứu Độ đến với họ sau bao nhiêu mong chờ. Tâm tình của Gio-an cũng là tâm tình Giáo Hội hôm nay mời gọi ta phải có để ta tiếp nhận Chúa Giê-su và lắng nghe Tin Mừng của Người. a) “Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình”
Mỗi ngày có hằng trăm người tới gặp ông Gio-an tại dòng sông Gio-đan. Họ đến với ông như những người cần đến ông và lời khuyến dụ của ông. Nhưng ông không “thấy” ai cả, nói khác đi, ông chưa gặp được Đấng là đối tượng của sứ vụ ông đã thi hành từ bấy lâu nay. Ông vẫn mong đợi Người đến để có cơ hội giới thiệu Người với dân chúng đến với ông và cùng ông sống niềm mong chờ.
Thánh sử Gio-an đã khéo léo cho ta những mốc thời gian để ta dễ dàng hiểu được ý nghĩa của biến cố. Ngài viết: “Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình”. Vậy hôm trước ông đã làm gì hoặc truyện gì đã xảy ra? Truyện xảy ra hôm trước là khi trả lời những người được giáo quyền ở Giê-ru-sa-lem cử xuống để hỏi cho rõ lý lịch của mình, ông Gio-an đã thẳng thắn trả lời họ: ông không phải là Đấng Ki-tô, ông Ê-li-a, hay một vị ngôn sứ, nhưng ông chỉ là tiếng hô trong hoang địa. Hoang địa thanh vắng nên ai ai cũng có thể nghe thấy tiếng hô. Lời hô độc nhất của ông là: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Ông biết Đức Chúa đang đi, đang tiến về phía ông và mọi người. Cao điểm sứ vụ của ông chính là lúc này, lúc Chúa Giê-su từ xa tiến về phía ông. Ông đã hô hào người ta hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, thì quả thực hôm nay Đức Chúa tới và Người muốn đi vào tâm hồn mỗi người. Ông Gio-an lợi dụng những giây phút cuối cùng này để giúp người ta chuẩn bị tiếp nhận Đức Chúa bằng cách giới thiệu cho người ta biết Đức Chúa là Đấng nào. Ông giới thiệu ngắn gọn nhưng đầy đủ và rõ ràng cho dân chúng biết về Chúa Giê-su và sứ mệnh của Người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa bỏ tội trần gian.” Nhưng làm sao ông biết được Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian? b) “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu tự trời xuống và ngự trên Người”
Chính Thiên Chúa Cha đã ban cho ông Gio-an một dấu chỉ để ông nhận ra Đấng Thiên Chúa tuyển chọn. Dấu chỉ ấy là Thần Khí ngự trên Chúa Giê-su. Chúa Giê-su là Đấng “làm phép rửa trong Thánh Thần.” Phép rửa của ông Gio-an không xóa bỏ được tội lỗi, mà chỉ giúp cho tội nhân ý thức mình cần được cứu thoát khỏi tội lỗi. Chỉ có “phép rửa trong Thánh Thần” mới có khả năng xóa bỏ tội lỗi ta, vì phép rửa ấy tuôn đổ xuống trên ta Thánh Thần là dòng nước đem lại sự sống, nhờ đó ta được tái sinh và sống đời sống mới với Chúa Giê-su. Sau này, thánh sử Gio-an ghi lại lời khẳng định Chúa Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:5).
Lời chứng Gio-an nhìn thấy Thánh Thần ngự trên Chúa Giê-su cũng nói lên một khía cạnh khác về sứ mệnh của Người. Đó là phong cách Chúa Giê-su sẽ thi hành sứ vụ. Để làm Chúa Cha hài lòng, Người sẽ sống và hành động hoàn toàn dưới ảnh hưởng của Thánh Thần, tức là lúc nào cũng sống và hành động theo tinh thần của Thiên Chúa. Trong sự hướng dẫn của Thánh Thần, Chúa Giê-su sẽ làm đẹp lòng Chúa Cha trong mọi sự, cho dù phải đóng vai trò Chiên Thiên Chúa, chịu sát tế để xóa bỏ tội lỗi nhân loại. c) “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”
“Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20:8). Những điều ta thấy phải đưa ta đi xa hơn, nghĩa là tới niềm tin. Nhìn thấy băng vải và khăn che mặt Chúa trong mộ, người môn đệ yêu dấu của Chúa Giê-su đã tin Người sống lại. Cũng thế, nhìn thấy Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Chúa Giê-su, ông Gio-an Tẩy giả đã tin Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ. Trong Tin Mừng Gio-an, đức tin luôn luôn là điều Chúa Giê-su đòi hỏi người ta phải có. Tiếp đến, đức tin đưa người ta tới việc làm chứng cho Người. Đó chính là điều ông Gio-an Tẩy giả đã làm. Hôm nay, ông hăng say chỉ cho người ta biết Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ. Rồi ông vẫn tiếp tục rao giảng về sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện nơi con người Chúa Giê-su và kêu gọi người ta sám hối, thay lòng đổi dạ để tiếp nhận Tin Mừng. Lời giảng ngay thẳng của ông khiến nhiều người mất lòng nên họ tìm cách bắt bớ và bách hại ông. Ông đã hùng hồn làm chứng cho sự công chính, bằng cái chết thảm khốc của ông dưới tay vua Hê-rô-đê.
Như thế, ông Gio-an Tẩy giả quả thực đã cho chúng ta một mẫu sống: Ki-tô hữu phải là người thấy, tin và làm chứng rằng Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian. d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Trong cuộc sống Ki-tô hữu, tôi phải luôn sử dụng con mắt đức tin để nhận ra Chúa Giê-su đang tiến về phía tôi để gặp gỡ tôi. Vậy Chúa đến với tôi qua những ai và những gì? Tôi đã làm gì để tiếp đón Người?
Chúa Giê-su thi hành sứ vụ cứu thế dưới sự hướng dẫn và ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần. Có phải đó cũng là lối sống Ki-tô tôi phải noi theo không? Tôi đã sống theo tinh thần con cái Chúa như thế nào? Hay tôi vẫn để cho tinh thần thế gian lèo lái?
Có khi nào tôi chỉ cho người khác biết Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian không? Tôi chỉ bằng cách nào? Cầu nguyện:
“Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giê-su, Con Cha. Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giê-su, họ cũng là những người đã được cứu chuộc. Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, niềm vui và bình an của mình cho tha nhân, và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giê-su cho thế giới. Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng. Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên, giúp họ quen biết Đức Giê-su và tin vào Ngai, qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con. Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo. Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái. A-men.”
Trong các Thư thuộc Tân Ước, thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô được sử: TN 2-A69
Trong các Thư thuộc Tân Ước, thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô được sử dụng nhiều nhất, 19 Chúa Nhật thuộc ba chu kỳ Phụng vụ Lời Chúa mùa thường niên. Riêng năm A, từ Chúa Nhật 2 đến 8, các bài đọc Tân Ước trích dẫn 1 Cr 1:10-4:21. Vậy để hiểu được tầm quan trọng của chủ đề giáo lý trong đoạn thư này, chúng ta thử xem thánh Phao-lô muốn nhắm điều gì trong đó.
Vấn đề chính được đề cập đến trong 1 Cr 1:10-4:21 là tình trạng chia rẽ và phe phái trong giáo đoàn Cô-rin-tô. Do đó, Phao-lô muốn giúp cho những tín hữu tân tòng của ngài đừng rơi vào nạn phe phái nếu họ cứ bám lấy một vị tông đồ nào đó, có thể là Phê-rô, hoặc A-pô-lô hay chính ngài. Vậy ngài trình bày như sau:
Đức Ki-tô chịu đóng đinh chính là kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa. Như thế, những gì thế gian cho là điên rồ và yếu kém (tức là sự kiện Chúa Ki-tô bị đóng đinh) thì đó lại là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngược lại, những gì thế gian cho là khôn ngoan thì đối với Thiên Chúa lại là yếu kém và điên rồ. Để chứng minh chân lý này, Phao-lô trưng dẫn việc Thiên Chúa tuyển chọn tín hữu Cô-rin-tô. Người tuyển chọn họ không phải vì họ khôn ngoan hay quyền quý, nhưng vì Người muốn chọn người yếu để đánh bại kẻ mạnh. Thánh Phao-lô cũng trưng dẫn trường hợp của chính ngài. Ngài đến hoạt động truyền giáo tại Cô-rin-tô không phải như một nhà hùng biện, nhưng ngài "thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy." Sức mạnh của sứ vụ ngài là hoàn toàn do Thiên Chúa chứ không phải do nơi ngài. Cho nên, vấn đề là nếu tín hữu Cô-rin-tô hiểu được nghịch lý của thập giá chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, thì họ sẽ ý thức được rằng những người rao giảng Tin Mừng không phải là những người thuộc về họ, sở hữu của họ. Nói khác đi, cá nhân vị tông đồ không có gì là quan trọng, nhưng quan trọng chính là Thiên Chúa, Đấng sai các tông đồ đi rao giảng sứ điệp nghịch lý về Chúa Ki-tô chịu đóng đinh. Nếu hiểu được như vậy, họ sẽ vui chịu đau khổ và nhạo cười của thế gian, giống như các tông đồ đang chịu hằng ngày vì Tin Mừng. Bám víu vào một mình Chúa, họ sẽ hóa giải được tất cả những động lực, lý do tạo lập phe phái và gây chia rẽ cộng đoàn.
Sau khi đã hiểu được hoàn cảnh giáo đoàn Cô-rin-tô và mạch văn của đoạn thư 1 Cr 1:10-4:21, chúng ta có thể nhận ra ý nghĩa của lời chào thăm thánh Phao-lô viết cho tín hữu Cô-rin-tô ở đầu bức thư thứ nhất của ngài.
Khi viết thư này, chắc chắn ưu tư của thánh Phao-lô là làm thế nào tận diệt được tình trạng phe phái chia rẽ tại Cô-rin-tô. Với lời chào thăm, tuy ngắn gọn, nhưng Phao-lô muốn đi thẳng vào tận gốc vấn đề, vào nguyên nhân sâu xa nhất của lý do gây bè phái chia rẽ. Nguyên do sâu xa nhất của mọi thứ phe phái chia rẽ là vì:
- Mỗi phần tử không hiểu rõ căn tính đích thực của mình, và
- Không biết rõ căn tính của cộng đồng mình đang thuộc về.
Vậy thánh Phao-lô đã muốn nói đến hai nguyên nhân này trong lời chào thăm, khi ngài gọi giáo đoàn Cô-rin-tô là "Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô" và anh chị em tín hữu Cô-rin-tô là "những người được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giê-su, được gọi là thánh." Xưng hô như thế, ngài nhắc nhở tín hữu Cô-rin-tô hãy nhìn nhận lại căn tính của mình và của giáo đoàn.
Khi suy nghĩ về căn tính của mình, thánh Phao-lô viết là ngài "được gọi làm tông đồ của Đức Ki-tô Giê-su." Với Phao-lô, làm tông đồ là một ơn gọi, chứ không phải bởi hiếu động hay vụ lợi. Ngài còn coi ơn gọi làm tông đồ như là điều do Thiên Chúa tiền định (Gl 1:15). Để đáp lại hồng ân ấy, Phao-lô đã bất chấp mọi khó khăn và sẵn sàng hy sinh mạng sống để rao giảng Tin Mừng cho Dân ngoại, vì "tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc" (2 Cr 5:14).
Nói về căn tính của Ki-tô hữu, Phao-lô coi họ là những người được hiến thánh. Gọi họ là "thánh", dĩ nhiên ngài không có ý nói họ đã là những người hoàn hảo, nhưng ngài muốn ám chỉ phẩm giá cao quý của họ vì đã được Thiên Chúa tuyển chọn và làm con cái Thiên Chúa, đồng thời vì họ được tham dự vào Hội Thánh là một tổ chức thánh thiện.
Khi định nghĩa "giáo đoàn Cô-rin-tô" là "Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô", thánh Phao-lô muốn nói lên điều giáo lý này: Hội Thánh thực sự nhập thế, đâm rễ ở địa phương; nhưng dù bất cứ ở đâu, vẫn là Hội Thánh của Thiên Chúa (xem chú thích c) ở chương 1, Thư 1 Cô-rin-tô, bản dịch Nhóm Phiên dịch PVGK). Như thế chúng ta thấy thực là tức cười khi nghe nói: tôi đi lễ ở nhà thờ cha A, nhà thờ cha B... Chẳng khác gì tín hữu Cô-rin-tô ngày xưa: "Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông A-pô-lô, tôi thuộc về ông Kê-pha..." Tuy là nói theo thói quen, nhưng có lẽ nó phản ảnh một cái nhìn thiếu sót về Hội Thánh!
Nếu hiểu rõ căn tính Ki-tô hữu của mình và căn tính của cộng đoàn mình, lấy Đức Ki-tô làm tâm điểm, chúng ta sẽ tránh được não trạng và thảm cảnh phe phái kình chống nhau trong cùng một cộng đoàn hay một giáo xứ.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Chia sẻ một vài kinh nghiệm về phe phái, chia rẽ trong cộng đoàn của tôi. Tôi rút được bài học gì?
Cách hiểu của thánh Phao-lô về "Ki-tô hữu là ai?" và "Giáo đoàn Cô-rin-tô là gì?" hoặc "Giáo xứ là gì?"sẽ giúp tôi thay đổi cái nhìn về tôi, về anh chị em và về Giáo Hội như thế nào?
Nhóm và tôi có thể làm gì để làm bớt đi những chia rẽ, nghi kỵ, ganh ghét trong nhóm, hội đoàn, giáo xứ?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát bài "Ở đâu có bác ái và thương mến", hoặc "Xin hiệp nhất chúng con..."
Lời Chúa trong sách ngôn sứ Isaia hôm nay là một trong những lời đẹp nhất của Kinh Thánh: TN 2-A70
Lời Chúa trong sách ngôn sứ Isaia hôm nay là một trong những lời đẹp nhất của Kinh Thánh nói về thân phận và sứ mạng Dân Thiên Chúa. Chúng ta khó có thể gặp được ở đâu khác tâm tình trân trọng, yêu mến nồng nàn của Thiên Chúa dành cho Dân Người hơn những lời này "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cob, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về thì vẫn còn qúa ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất." Tuy nhiên dường như lời tiên tri ấy đã bị chôn vùi trong quên lãng suốt 7 thế kỷ lịch sử Israel cho đến ngày Đức Giêsu Kitô xuất hiện. "Một hôm, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình liền nói "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian...tôi...xin chứng thực Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn". Kể từ ngày đó "những người đã được hiến thánh trong Đức Giêsu Kitô, được kêu gọi làm dân thánh..." tất cả theo Phaolô đều là "những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa" "làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa... cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng bản thân, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ."
Trong tuần lễ trước, cùng Đức Thánh Cha trong tông huấn Giáo Hội tại Á Châu số 9, chúng ta đã cảm nhận được sức sống linh họat của những cộng đòan tín hữu Á Châu tiên khởi đã đưa Ánh Sáng đến cho muôn dân từ Đông chí Tây, từ Bắc chí Nam địa cầu trong tầm mức họ có thể vươn tới. Đức Thánh Cha còn mời gọi chúng ta theo dấu chân các tín hữu Á Châu tiên khởi ấy đến tận Trung Hoa vào thế kỷ thứ 5 kéo dài đến 2 thế kỷ sau đó. Hòan cảnh lịch sử đã thay đổi đáng buồn khi sự sống của Giáo Hội tại những miền đất này trở nên sa sút, để rồi 6 thế kỷ sau đó mới có một đợt truyền giáo mới tại đây. Thế nhưng, cũng như những đợt truyền giáo kế tiếp đã không thu họach được kết qủa tại Châu Lục này là vì "sự cô lập về địa lý, và cũng vì thiếu thích nghi với các nền văn hóa địa phương, và có lẽ trên hết là do thiếu chuẩn bị để gặp gỡ các tôn giáo lớn tại Á Châu".
Rút từ kinh nghiệm đau thương ấy, Giáo Hội phải khẳng định lại thân phận và sứ mạng của mình theo cách nhìn của Phaolô: đó là thân phận và sứ mạng "Ân Sủng và Bình An" của Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu trong Tin Mừng đã xuất hiện như là một người "đang tiến về phía" Gioan, chính là Ngài đang tiến về niềm say mê và hy vọng mà tòan dân đặt để nơi Gioan. Ngài còn đón nhận phép rửa của Gioan, điều đó cũng là đón nhận tất cả niềm hy vọng của thời đại Ngài, Ngài muốn đồng hành với dân tộc, với xã hội, với hết mọi người thiện chí. Và điều quan trọng hơn chính là "Ngài gánh tội trần gian" như Gioan làm chứng, trên tất cả con người và cuộc sống Người, con người và cuộc sống được đồng hóa với con chiên bị sát tế để xóa tội muôn dân. Nếu 5 thế kỷ đầu tiên, Giáo Hội tại Á Châu đã chứng thực được sức sống kỳ diệu giữa mọi dân tộc, là vì Giáo Hội ấy luôn sống đúng tư cách "người tôi trung" mà Isaia đã mô tả, để trở nên "khí cụ Ân Sủng và Bình An" giữa mọi xã hội và mọi quốc gia. Ngược lại, trong những thế kỷ kế tiếp đó, khi Giáo Hội tại Á Châu trở thành những cộng đòan bị cô lập về mặt địa lý, về mặt văn hóa, trở thành như người ta thường nói "những pháo đài", không còn là biểu tượng và khí cụ của "Ân Sủng và Bình An", thì Giáo Hội không còn là Ánh Sáng cho muôn dân. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam cũng minh chứng điều ấy. Ngay từ đầu, Giáo Hội Việt Nam trong thân phận chỉ là kẻ lữ hành ngược xuôi trên mọi nẻo hành trình của dân tộc này, Giáo Hội ấy chiếu tỏa sức sống Ân Sủng và Bình An bên cạnh những số kiếp người lam lũ cơ cực, Giáo Hội nhận được sự quý mến và tin cậy. Và Giáo Hội phát triển rất nhanh. Nhưng sức sống ấy bị khựng lại khi Giáo Hội trở thành những "pháo đài tiêu biểu cho một nền văn hóa độc tôn" Giáo Hội đã khiến cho xã hội cũng như người khác phải e dè, và lo sợ.
Anh chị em rất thân yêu,
Bài học lịch sử của Giáo Hội tại Á Châu phải đưa chúng ta trở về với Đức Giêsu, với Phaolô để ngay từ trong mọi cảnh huống của Gia Đình, của xứ đạo, của xã hội, mỗi người mãi mãi phải là "người tôi trung", là khí cụ của "Ân Sủng và Bình An", là "chiên Thiên Chúa".
Mùa hè năm nào vua Duy Tân cũng ra nghỉ mát ở cửa Tùng, một cửa biển đẹp, yên tĩnh, bãi: TN 2-A71
Mùa hè năm nào vua Duy Tân cũng ra nghỉ mát ở cửa Tùng, một cửa biển đẹp, yên tĩnh, bãi tắm bằng phẳng, cát trắng mịn màng.
Một hôm nhà vua từ bãi tắm lên, hai tay còn dính cát, viên thị vệ bưng lại một thau nước ngọt mời vua rửa tay. Nhà vua vừa rửa vừa hỏi đùa:
- Tay bẩn lấy thì lấy nước mà rửa, còn 'nước' bẩn lấy gì mà rửa?
Viên thị vệ lúng túng chưa biết trả lời sao thì Vua hỏi tiếp:
- "Nước bẩn thì làm thế nào cho sạch? ".
Người thị vệ vẫn không trả lời được. Vua Duy Tân bèn nói:
- Nước bẩn thì lấy máu mà rửa!"
Nhà vua khéo chơi chữ, chuyển từ nước rửa tay sang một thứ nước khác ngàn lần đáng quý trọng là đất nước, là quê hương.
Khi đất nước bị làm nhục, làm bẩn bởi ngoại bang, không có thứ nước nào có thể rửa được, mà phải rửa bằng máu. Về sau, vua Duy Tân đã đứng lên hô hào toàn dân khởi nghĩa, lấy máu đào rửa cho sạch cái nhục vong quốc.
Nhìn theo góc độ thánh kinh, tội lỗi cũng là một vết nhơ trầm trọng không có thứ nước nào có thể tẩy xoá được mà phải cần đến... máu!
Chiên đền tội
Trong thời cựu ước, người có tội cần nhờ đến một con bò, dê hay chiên đổ máu đền tội thay cho mình. Sách Lê vi chép: "Nếu một người vô ý phạm tội, làm một trong những điều mà ĐỨC CHÚA cấm làm... thì vì tội đã phạm, nó sẽ đưa đến một con dê (hoặc chiên) làm lễ tiến. Nó sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế lễ vật tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu con vật và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ.... Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy, và người ấy sẽ được tha. (Lê-vi 4, 27-32)
Nhưng thực ra, máu bò, máu chiên không thể trừ khử được tội lỗi của mọi thời, thế nên, Ngôi Hai Thiên Chúa chấp nhận đầu thai xuống thế làm người, trở nên một Con Chiên, Chiên của Thiên Chúa, đổ máu mình rửa sạch tội lỗi thế gian:
"Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con. (Dt 10, 4-7)
Ngay từ đầu, ông Gioan Tẩy giả đã nhận ra vai trò làm Chiên đền tội của Chúa Giê-su nên "khi thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi." (Gioan 1, 29-30)
Thế là Chúa Giê-su cam phận làm Chiên mới để hiến thân chịu chết và đổ máu mình rửa sạch tội lỗi thế gian.
Chiên Vượt Qua
Để giải phóng dân Ít-ra-en thoát khỏi kiếp nô lệ bên Ai-cập, Mô-sê truyền cho dân Ít-ra-en, mỗi nhà giết một con chiên đực, lấy máu bôi lên khung cửa nhà mình. Đến nửa đêm, thiên thần sẽ rảo qua toàn cõi Ai-cập, sát hại mọi con đầu lòng người Ai-cập; còn dân Ít-ra-en, nhờ vết máu được bôi lên khung cửa làm dấu, thiên thần sẽ vượt qua và để cho họ được an toàn.
Thế là nhờ máu chiên vượt qua mà con đầu lòng dân Ít-ra-en được cứu sống và toàn dân thoát khỏi kiếp nô lệ Ai-cập. (Xuất hành, 12, 1-13)
Thánh Phao-lô nhận ra Chúa Giê-su chính là Chiên Vượt Qua mới, ngài viết: "Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta" (I Corinto 5,7)
Mang thân phận chiên vượt qua, Chúa Giê-su chịu đổ máu để rửa chúng ta khỏi vết nhơ tội lỗi, chịu sát tế để mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Thế nên, vào đúng thời điểm dân Ít-ra-en thọc tiết chiên để mừng lễ vượt qua vào chiều thứ sáu, thì trên thập giá, Chiên Vượt Qua mới là Chúa Giê-su cũng bị tên lính đâm thủng cạnh sườn. (Gioan 19, 34)
Hôm nay, tội lỗi của riêng bản thân chúng ta cũng như của nhân loại còn đang chất ngất. Thế nên, Chúa Giê-su vẫn tiếp tục hiến mình làm chiên xoá tội trong hy tế thánh thể hằng ngày. Trong mỗi thánh lễ, khi nâng cao Mình thánh Chúa Giê-su cho tín hữu tôn thờ, linh mục dùng lại lời của thánh Gioan tẩy giả để giới thiệu Chúa Giê-su là Chiên Mới đang tiếp tục hiến tế cứu độ thế gian: "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian".
Được trở thành chi thể của Chúa Giê-su nhờ bí tích rửa tội, được hiệp thông nên một với Chúa Giê-su qua hy tế thánh lễ mỗi ngày và nhất là được thông dự vào chức tư tế của Chúa Giê-su, mỗi người chúng ta đều được mời gọi trở nên chiên Thiên Chúa với Chúa Giê-su, để cùng Ngài dâng hiến cuộc đời chúng ta làm hy tế cứu độ thế gian.
Trở nên chiên Thiên Chúa để cùng hiến tế với Chúa Giê-su không chỉ là một lời mời gọi mà là một sứ vụ không thể tách lìa của mỗi người kitô hữu.
Lạy Chiên Thiên Chúa, xin giúp chúng con thực hiện sứ mạng rất cao quý và cũng rất nặng nề nầy. (LM Inhaxiô Trần Ngà )
Trong Thánh Kinh có nhiều hình ảnh có thể áp dụng vào Đức Kitô: Sư tử nhà Giuđa (St 49,9): TN 2-A72
Trong Thánh Kinh có nhiều hình ảnh có thể áp dụng vào Đức Kitô: Sư tử nhà Giuđa (St 49,9), Ngôi sao nhà Giacóp (Ds 24,17), Con vua Đavít (2 Sm 7,12), Chồi non từ gốc Giêsê (Is 11,1), Thủ lãnh hoà bình (Is 9,5), Chồi non chính trực (Gr 23,5)… Các tước hiệu này xem ra “hoành tráng” hơn hình ảnh con chiên. Dầu vậy, Tin Mừng Gioan cũng như sách Khải Huyền đã nhiều lần dùng con chiên để chỉ Chúa Giêsu.
Chiên là một con vật hiền lành: như con chiên hiền lành… Không như dê bị coi là con vật ương ngạnh hay sói là con vật hung dữ. Chiên biết chủ trong khi dê không biết ai là chủ. Hơn nữa, chiên là con vật phục vụ sự sống của con người. Ngôn sứ Ezekiel tố cáo các mục tử Israel mặc áo lông chiên, uống sữa chiên, ăn thịt chiên mà không chăm sóc đoàn chiên. Khi người ta muốn dâng tế lễ Thiên Chúa thì người ta lại bắt chính con chiên giết đi làm của lễ. Đặc biệt trường hợp con chiên Vượt Qua: máu chiên bôi trên cửa là dấu hiệu được cứu. Và Hội Thánh đã đọc những bài Sách Thánh liên hệ trong Tuần Thánh.
Tin Mừng Gioan nhấn mạnh Chúa Giêsu bị kết án tử hình vào trưa ngày áp lễ Vượt Qua (Ga 19,14): đó chính là giờ sát tế chiên Vượt Qua ở đền thờ. Và sau khi Chúa tắt thở, lính đã không đánh giập ống chân Chúa (Ga,12). Chúa Giêsu là con chiên Vượt Qua đích thực, đó là sứ điệp thánh Gioan muốn gửi đến chúng ta. Và Hội Thánh hằng ngày giới thiệu Chúa Giêsu Thánh Thể: Đây Chiên Thiên Chúa…
Một Thiên Chúa trở thành con chiên Vượt Qua cho nhân loại: Hội Thánh là đoàn chiên của Thiên Chúa cũng được mời gọi cùng với Chúa Giêsu trở thành đoàn chiên Vượt Qua cho cả nhân loại. (Lm Cosma Hoàng Văn Đạt SJ)
1. Lời giới thiệu đầu tiên của Gio-an về Đức Giê-su
Đức Giê-su bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức sám hối thay cho cả nhân loại: TN 2-A73
Đức Giê-su bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức sám hối thay cho cả nhân loại qua phép rửa của Gio-an, và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức đền tội thay cho cả nhân loại qua cái chết thê thảm trên thập giá. Và hôm nay, ít ngày sau khi Gio-an rửa tội cho Đức Giê-su, ông liền giới thiệu cho dân chúng biết Ngài là ai, và một phần nào báo trước cái chết của Ngài: «Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian!». Muốn hiểu hết ý nghĩa lời giới thiệu ấy, ta cần biết tập tục sau đây của người Do Thái:
Theo truyền thống Do Thái trong sách Xuất Hành (Xh 29,38-42), thì mỗi ngày, vào sáng sớm và chiều tối, các tư tế trong đền thờ phải sát tế mỗi buổi một con chiên nhỏ cỡ một tuổi làm của lễ toàn thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy tội lỗi của cả dân chúng mỗi buổi đều đổ hết lên đầu con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết để đền tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng được khỏi tội trước Thiên Chúa. Tội lỗi của dân chúng đối với Thiên Chúa đáng lẽ phải trả giá bằng sinh mạng của chính con người, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận để con chiên chết thay con người. Đức Giê-su đã trở thành chiên hy sinh như thế: «Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta» (1Cr 5,7)
Lời giới thiệu của Gio-an còn ngầm nói lên bản tính Thiên Chúa của Đức Giê-su: «Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi». Theo lời thiên thần nói khi truyền tin cho Đức Ma-ri-a, ta biết khi Đức Ma-ri-a thụ thai thì bà Ê-li-sa-bét, đã có thai Gio-an được 6 tháng (x. Lc 1,36b). Nghĩa là xét về mặt thể chất, Gio-an đã ra đời trước Đức Giê-su nửa năm. Nhưng Gio-an lại giới thiệu Đức Giê-su là Đấng «có trước» mình. Như vậy từ ngữ «có trước» ở đây không thể hiểu theo nghĩa thể chất, mà phải theo nghĩa tâm linh, nghĩa là ông ám chỉ nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su.
2. Gio-an, người dọn đường cho Đức Giê-su
Để chuẩn bị xa cho việc Đức Giê-su đến với nhân loại, Thiên Chúa đã nhờ các ngôn sứ tiên báo biến cố ấy hàng mấy trăm năm trước, bằng cách này hay cách khác. Để chuẩn bị gần, Ngài dùng một người tiền hô, có nhiệm vụ dọn đường và giới thiệu. Người đó là Gio-an Tẩy Giả.
Gio-an là bà con với Đức Giê-su, vì mẹ của ông Gio-an là chị họ của Đức Giê-su (x. Lc 1,35a). Vì thế, chắc chắn ông Gio-an và Đức Giê-su đã quen biết nhau, nhưng Gio-an không biết hoặc biết không chắc chắn Giê-su là Đấng Thiên Sai. Chỉ khi Đức Giê-su đến với ông xin chịu phép rửa và sau đó có những dấu chứng từ trời cao, ông mới biết điều đó cách chính xác. Vì chính Thiên Chúa đã báo trước cho ông điều ấy: «Chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần"». Khi đã biết đích xác Đức Giê-su là ai, Gio-an bắt đầu làm chứng về Ngài.
3. Những ngôn sứ của Thiên Chúa
Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho ta thấy: những người làm ngôn sứ trong các thời đại, luôn luôn có sự giao tiếp với Thiên Chúa, và được chính Thiên Chúa kêu gọi, sai phái, không nhất thiết phải qua một trung gian người nào (xem Is 6,1-12; Gr 1,5-19). Lời kêu gọi đó có những trường hợp khó có thể chối từ như trường hợp của ngôn sứ Gio-na (x. Gn 1,1-2,11). Các ngôn sứ cũng được Ngài soi sáng, cho biết hết kế hoạch của Ngài (x. Am 3,7), được Ngài hướng dẫn cụ thể những việc phải làm (rất nhiều câu bàng bạc trong các sách ngôn sứ chứng tỏ điều ấy). Nhờ sự rõ ràng đó, các ngôn sứ mới tin tưởng vào sứ mệnh và lời chứng của mình, và lời chứng của họ mới có sức mạnh thuyết phục. Nếu không, lời chứng của họ chỉ là những xác quyết thiếu căn cứ, dựa trên những tin tưởng rất chủ quan, hoặc chỉ là những lời tuyên xưng xuông (không thực tín). Nếu chỉ dựa trên những tin tưởng chủ quan, không dựa trên những nền tảng chắc chắn mà lại dám lấy cả mạng sống mình để làm chứng thì thật là ngu dại, thậm chí có thể khiến những kẻ nghe mình đi vào sai lầm trầm trọng.
Tương tự như Đức Giê-su và Gio-an Tẩy Giả, các ngôn sứ thường không thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo. Nhiều trường hợp, các ngôn sứ còn lên tiếng quở trách, kết án, chỉ dẫn và sửa sai chẳng những hàng chức sắc này (x. Is 56,10-12; Gr 23,1-4; Ed 34,1-31; 44,15-31; Hs 4,4-10; 5,1; đặc biệt Mt 23,13-32), mà cả vua chúa quan quyền nữa (x. Is 10,1-3; 10,5.12; 14,24-27, đặc biệt Mt 14,4). Điều này chứng tỏ không phải cứ thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo thì ngoại trừ bề trên mình là chức sắc cao cấp hơn, không còn ai có quyền chỉ dạy hay sửa sai mình.
Và đã là ngôn sứ thật, thì phải dám nói lên tiếng nói của chân lý, công lý và tình thương, đồng thời dám chịu đau khổ và dám chết vì lời chứng của mình giống như Gio-an. Đó là đặc điểm không thể thiếu của những ngôn sứ thật đến từ Thiên Chúa. Người vì sợ liên lụy đến bản thân nên không dám bênh vực cho Thiên Chúa và tha nhân, cho chân lý, công lý và tình thương, thì chắc chắn không phải là ngôn sứ thật, dù họ có mang danh là đại ngôn sứ đi chăng nữa! Đó là dấu chứng chắc chắn để phân biệt thật giả. Và cũng chính vì yếu tố đặc trưng này mà luôn luôn số phận của các ngôn sứ thật là bị «ném đá» và bạc đãi, còn ngôn sứ giả thì được ưu đãi, trọng vọng, được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi do những thế lực phản công lý dành cho để thưởng công cho sự im lặng rất lợi hại của họ (xem Lc 6,22.26).
4. Ngôn sứ phải sống vì Thiên Chúa và tha nhân, không vì mình
Trong cách giới thiệu của Gio-an về Đức Giê-su, ta thấy ông luôn luôn làm cho Đức Giê-su nổi bật lên, đồng thời tự làm cho mình lu mờ đi: «Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi» (Ga 3,30). Chẳng hạn: «Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi», «Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người» (Ga 3,28), «Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người» (Ga 1,27). «Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi» (Mt 3,11), «Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần» (Mc 1,8). Khi đã hoàn thành nhiệm vụ, Gio-an rút lui vào bóng tối, để Đức Giê-su đóng trọn vẹn vai trò của Ngài.
Đây cũng là một dấu chứng của ngôn sứ thật. Người ngôn sứ thật phải từ bỏ được chính «cái tôi» của mình, và thể hiện được tinh thần quên mình, tự hủy như Đức Giê-su (Pl 2,6-8). «Không làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình; không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác» (Pl 2,3-4). Một người coi cái tôi của mình quá lớn chắc chắn không phải là ngôn sứ thật. Họ không thể sống vì Chúa, vì tha nhân được, mặc dù họ có thể tạo được cái vẻ như vậy: «có vẻ yêu Chúa, có vẻ yêu người».
Rất nhiều người làm ngôn sứ, làm tông đồ, rao giảng Tin Mừng, làm nhiều việc lành phúc đức, bố thí một cách rộng rãi... nhưng không do lòng yêu mến Chúa hay tình thương đối với tha nhân thúc đẩy, mà do tính ham được tiếng khen, lời ca tụng, muốn nổi danh là đạo đức, là có lòng thương người, v.v... Họ đã dùng danh nghĩa Thiên Chúa để tạo nên danh thơm tiếng tốt cho mình, để có những cấp bậc cao sang trong Giáo Hội và xã hội. Tâm lý này đã được Đức Giê-su vạch mặt: «Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen» (Mt 6,1), Và thánh Phao-lô cho biết sự vô giá trị của những hành động như vậy: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,3). Tính chất khoa trương, thích «phình to bản ngã» này, Đức Giê-su gọi là «men Pha-ri-siêu»: «Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả» (Lc 12,1, x. Mt 16,6.11; Mc 8,15). Là người Ki-tô hữu, là ngôn sứ, chúng ta cần phải tránh loại «men» rất khó tránh này.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giê-su đã đến để thiết lập Giáo Hội, tức một dân tộc ngôn sứ cho Cha ở trần gian. Giáo Hội không chỉ có sứ mạng «tư tế» (thờ phượng Thiên Chúa), mà còn có sứ mạng «vương đế» (làm chủ bản thân, tập thể, ngoại cảnh, lịch sử), và sứ mạng «ngôn sứ» (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương) nữa. Nhưng Giáo Hội đã làm tròn sứ mạng «ngôn sứ» ấy trước mặt các dân tộc chưa? Xin cho chính bản thân con, cũng như mọi Ki-tô hữu khác ý thức được sứ mạng «ngôn sứ» tức «làm chứng» của mình trong môi trường mình sống, trong xã hội và Giáo Hội, nhất là khi chân lý, công lý và tình thương bị coi thường, bị chà đạp. Xin cho con đức can đảm phải có của một ngôn sứ như Gio-an Tẩy Giả, để con thực hiện tốt sứ mạng ngôn sứ của mình. Amen. Nguồn vietcatholic.org
Ngày xưa, trong cuộc đàm đạo với Dighanakha, Đức Phật nói: “Giáo pháp của tôi là một: TN 2-A74
Ngày xưa, trong cuộc đàm đạo với Dighanakha, Đức Phật nói: “Giáo pháp của tôi là một phương tiện đi vào thực tại chứ không phải là để miêu tả thực tại, cũng như ngón tay chỉ lên mặt trăng không phải là mặt trăng. Người khôn khéo phải nương vào ngón tay để thấy được mặt trăng. Nếu cố chấp vào ngón tay, nếu cho ngón tay là mặt trăng thì sẽ không có cơ hội nào thấy được mặt trăng cả.”[1] Còn hình ảnh nào diễn tả con đường tìm chân lý tuyệt vời hơn?!
Trên bầu trời, mặt trăng vẫn còn đó. Nhưng có lẽ ngày nay thiếu một ngón tay chỉ mặt trăng. Phải cấp thiết tìm ra ngón tay chỉ mặt trăng. Nhưng tìm đâu bây giờ? May thay, trong Tân Ước, một ngón tay kỳ diệu đã chỉ cho nhân loại không phải thấy mặt trăng, nhưng Mặt Trời Công Chính. Ngón tay đó là ông Gioan Tẩy giả. Mặt Trời Công Chính là Chúa Giêsu Kitô. Nương theo ngón tay đó, chắc chắn chúng ta sẽ thấy Mặt Trời Công Chính đang chiếu sáng, dù mây mù bao phủ trái đất.
NGÓN TAY GIOAN
Một con người kỳ lạ như Gioan không dễ kiếm thấy trên trần gian. Ông có một lối sống khác hẳn mọi người. Lời chứng của ông vượt xa các ngôn sứ trong Cựu ước. Không phải chỉ có lời chứng, nhưng cả phép rửa, ông cũng nhắm ‘mạc khải’ về Chúa Giêsu. Quả thực, chính ông quả quyết: “Tôi đến làm phép rửa trong nước, để Người được tỏ ra cho dân Israel.” (Ga 1:31) Để củng cố lời chứng của mình, ông còn cho biết chính mắt ông đã chứng kiến một cảnh tượng khác thường nơi con người Đức Giêsu: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.’ Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn." (Ga 1:32-34)
Như thế, trên đường tìm đến sự thật, ông Gioan đã được Thiên Chúa củng cố và dẫn dắt để có thể nhận diện Chúa Giêsu và giới thiệu cho mọi người. Riêng cá nhân ông đã phải chuẩn bị rất nhiều. Sau bao nhiêu năm tu luyện trong hoang địa, ông đã có sẵn một tâm hồn khiêm nhường để đón nhận sự thật. Bởi đó, Thiên Chúa đã không vẽ đường chỉ lối tường tận cho ông. Có ngôn sứ nào được vinh dự lớn lao đến thế?!
Nếu không có khiêm tốn và chân thành, chắc chắn Gioan đã không thể mở rộng tâm hồn đón nhận sự thật. Thời đó ông đang nổi tiếng khắp nơi. Bao nhiêu vinh dự và lợi lộc có thể dễ dàng đến với ông. Mọi người hâm mộ đến nỗi tưởng ông là vị Thiên Sai. Nhưng ông cương quyết khước từ. Ông chỉ nhằm một mục đích: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.” (Ga 3:30) Ai có thể từ bỏ như ông Gioan? Ông biết mình chỉ là ngón tay nhỏ bé trước một mặt trời vô cùng lớn lao là Chúa Giêsu Kitô. Nhưng nếu không có ngón tay nhỏ bé đó, làm sao nhân loại thấy được vừng trăng hay mặt trời? Chúa Giêsu quả quyết với người Do thái: “Ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông.” (Mt 21:32) Ông đã chết trên con đường công chính đó.
Từ chỗ nhận biết sự thật về con người Chúa Giêsu, ông Gioan còn phóng tầm nhìn tới tương lai của Chúa. Giờ đây, ông không còn là vị tiền hô nữa. Ông mời gọi mọi người nhìn thẳng vào Con Người đang đến: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian.” (Ga 1:29) Từ việc xác định vị trí của Chúa trong Kinh Thánh đến việc báo trước công cuộc cứu độ do Chúa thực hiện, ông Gioan đã làm cho mọi người kinh ngạc. Kinh ngạc không phải do ông có lòng khiêm tốn, nhưng vì ông phóng cái nhìn về một biến cố rất xa, xa tới tận đồi Canvê, nơi Chúa Giêsu sẽ chịu đóng đinh để cứu độ nhân loại. Hơn hẳn con chiên trong Cựu Ước, Con Thiên Chúa đã đích thân đổ máu hy sinh chính mạng sống mình để lập giao ước mới. Như thế, Chúa đã họa lại giao ước giữa Thiên Chúa và con người.
Khi giới thiệu Chúa là “Chiên Thiên Chúa xóa bỏ tội trần gian,” ông Gioan nghĩ ngay đến những tội nào, nếu không phải là những tội bất công con người đã phạm đến Thiên Chúa và đồng loại? Tất cả những lời giảng của ông và của Chúa sau này cũng xoay quanh những tội vô cùng nặng nề đó. Cả Chúa và ông đều là nạn nhân của những cơ chế bất công. Nhưng nhờ chết như thế, ông mới hoàn thành sứ mạng làm chứng cho Sự Thật và Chúa mới đem lại sự công chính cho nhân loại.
Nếu không nhờ Gioan, chắc chắn nhân loại không thể sớm nhận ra sự thật nơi Chúa Giêsu. Không những ông đã cho thấy sứ mệnh cứu độ, nhưng cả vị thế của Chúa nơi cung lòng Chúa Cha nữa. Ông còn quả quyết: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn." (Ga 1:34) Những chứng từ của Chúa Cha và Thánh Linh càng củng cố lập trường của ông về Chúa Giêsu và làm cho mọi người tin tưởng vững chắc vào vai trò đang lên của Đấng đến sau ông, nhưng có trước ông. Như thế, ông đã trở thành con đường cho mọi người đi đến với Chúa Giêsu.
CÔNG LÝ: ĐƯỜNG DẪN TỚI CHÂN LÝ
Nếu theo ngón tay Gioan, con người sẽ khám phá thấy Chúa Giêsu là nguồn sống. Cuối cùng, chính Chúa Giêsu cũng là con đường dẫn đến Thiên Chúa Cha. Con đường ấy được chính Chúa Cha tuyển chọn và Chúa Thánh Linh bồi đắp. Ai đi trên con đường ấy, chắc chắn sẽ gặp được mạch sống dồi dào và sự thật giải thoát.
Có Chúa Giêsu là có cả một nguồn ánh sáng, vì Người đã được Thiên Chúa đặt “làm ánh sáng muôn dân, để đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.” (Is 49:6) Ơn cứu độ đã đem đến cho con người một phẩm vị mới, phẩm vị làm Con Thiên Chúa. Quả thực, “trong Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và cho chúng ta thấy con đường đi lên và mục tiêu chúng ta phải cố gắng vươn tới.”[2] Nhân phẩm là một quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa, nhưng cũng là một giá trị cao cả con người phải dầy công mới có thể tạo lập.
Nhân phẩm đã được chính Thiên Chúa đề cao khi truyền lệnh: “Ngươi phải yêu thương tha nhân như chính mình.” (Mc 12:31) Tình yêu đòi sự kính trọng tương xứng. Không ai giải thích được tại sao nơi trái tim con người có một mối tương liên với Thiên Chúa và một chiều kích mở ra với tha nhân bằng một tình yêu cụ thể. Tình yêu này đòi ta phải đối xử với tha nhân như một tha ngã, dù họ là kẻ thù (x. Mt 5:43-44)[3] Chính Chúa Giêsu đã mở ra chiều hướng mới cho ta nhìn thấy tha nhân như người anh em cần được phục vụ một cách vô điều kiện. Chỉ khi nào hoàn toàn thoát khỏi cái tôi như Chúa Giêsu, ta mới có thể phục vụ tới mức chết cho người mình yêu, bất chấp mình có được yêu hay không. Quả thực, “Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa. Trong Người và nhờ Người, thế giới và con người đạt đến chân lý thực sự và trọn vẹn. Nhờ biến cố Chúa Giêsu Nhập Thể, hiến mình trên thánh giá, từ bỏ đến chết, Thiên Chúa gần gũi vô cùng với con người. Mầu nhiệm ấy cho thấy càng nhìn các thực tại nhân loại dưới ánh sáng kế hoạch Thiên Chúa và sống hiệp thông với Người, họ càng được mạnh sức và giải thoát ngay trong bản tính đặc biệt và tự do của họ.”[4] Đạt tới tình trạng đó, Kitô hữu sẽ trở thành con đường dẫn tha nhân đến sự thật là Chúa Kitô. Họ có thể thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa nhờ những nỗ lực xây dựng công lý và hòa bình.
Kế hoạch đó nhằm “biến cải các tương quan xã hội nhằm đáp ứng các đòi hỏi của Nước Thiên Chúa. Sự biến cải đó không dứt khoát gắn chặt vào những hoàn cảnh cụ thể. Đúng hơn, đó là công tác Chúa ủy thác cho cộng đoàn Kitô hữu phát triển và thực hiện khi họ phản tỉnh và thực hành nhờ Tin Mừng. Chính Thánh Linh đang hướng dẫn dân Thiên Chúa, cùng lúc thẩm nhập vào vũ trụ. Đôi khi Thánh Linh cũng gợi mở ra những con đường mới mẻ và thích hợp để họ thực thi trách nhiệm một cách sáng tạo.”[5] Thánh Linh đang tung ra bao nhiêu sáng kiến cho Kitô hữu đáp ứng những nhu cầu khẩn thiết của thời đại.
Nhu cầu khẩn thiết của thời đại chính là lòng khát khao công lý. Nỗ lực tranh đấu cho công lý là làm chứng cho Chúa Kitô. Không có công lý, không thể có nhân quyền. Công lý là con đường đưa tới chân lý. Nhưng ngược lại, không có chân lý, cũng không thể nhìn rõ bản chất và đặc chất của công lý. Con đường công lý phải được xây dựng bằng máu và nước mắt. Công lý bị xúc phạm nặng nề nhất khi người ta không coi trọng phẩm chất tâm linh nơi con người. Khi chà đạp quyền tự do tôn giáo, người ta coi thường tất cả mọi thứ nhân quyền.
Quyền tự do tôn giáo đã được Bản Hiến Chương LHQ nhìn nhận từ lâu. Nhưng bao giờ con người mới chịu nhìn nhận quyền cơ bản đó của anh em đồng loại? Phải sống trong một thế giới tự do thực sự, chúng ta mới hiểu được tất cả nét cao đẹp của nhân quyền trong lãnh vực tôn giáo.
Ngày 16/01/2008 vừa qua, đứng giữa thế giới Hồi giáo vắng bóng tự do tôn giáo, TT Bush thẳng thắn tuyên bố: “ Tổng Thống Thomas Jefferson coi tự do thờ phượng là một trong những hồng ân lớn nhất của nước Mỹ. Theo ông, ở các nước khác, tự do thờ phượng bị xem như không phù hợp với việc cai trị đúng đắn. Thế nhưng kinh nghiệm chúng tôi cho thấy tự do thờ phượng là nguồn trợ lực tuyệt hảo cho chính quyền.” [6]
Từ nay, hy vọng ngày 16/01 mỗi năm sẽ là dịp nhắc nhớ mọi người về quyền tự do căn bản và cao quý nhất của con người trên mặt đất. Không hiểu tại sao một quyền cơ bản như thế lại bị chối từ trong các nước đang mong phát triển và ổn định về mọi mặt, nhất là Việt nam?! Tại sao tôn giáo ở nước này được nhìn nhận như một con đường đưa tới hạnh phúc phú cường, thì ở nước khác lại bị coi là thuốc phiện mê hoặc hay một kỳ đà cản mũi tiến bộ?
ĐƯỜNG CHÚNG TA ĐI
Những ngày sôi động đang diễn ra trên quê hương chúng ta. Điểm nổi bật nhất thời gian này là sự tranh đấu cho công lý đang bừng lên nơi dân oan ngoài đời cũng như trong đạo. Giáng Sinh 2007 đánh dấu một bước ngoặt trong GHVN.
Sau khi tỉnh giấc nồng, GHVN thấy mình cũng là dân oan! Trong cuộc tranh đấu hôm nay không phải GHVN chỉ đòi lại đất đai của mình, nhưng còn muốn tranh đấu cho công lý nữa. Con đường công lý sẽ dẫn đến chân lý. GHVN đang đóng vai Gioan Tẩy Giả thời đại! Hy vọng GHVN sẽ là ngón tay chỉ cho mọi người thấy Mặt Trời Công Chính! Sáng Chúa Nhật 30/12/2007, ngón tay TGM Ngô Quang Kiệt đã chỉ rõ Tòa Khâm Sứ, biểu tương của GHCG ở Việt Nam. Không biết ông Thủ Tướng và cả chế độ có thấy gì không?
Giữa nhà nước và GHVN đang có một cuộc đối đầu tại Hà Nội và Sàigòn. Cuộc đối đầu đã nổ tung thành những buổi cầu nguyện phản kháng bất bạo động. Nhưng GHVN đang phải nói truyện với những kẻ điếc. Càng ngày càng thấy rõ công lý bị chà đạp. Nhưng công lý không bao giờ đứng về phía bạo quyền. Trong vụ Tòa Khâm Sứ Hà Nội và Giáo xứ Thái Hà, nhà nước cũng cũng tự nhận mình là “dân oan” không những không được thông cảm (?!), lại còn bị GHVN “lấn lướt.” Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo! Thật là nực cười !!!
Nhưng làm sao nhà nước đủ sức lừa bịp thiên hạ mãi?! Thử lắng nghe một mẩu đấu lý giữa hai bên để xem công lý thuộc về ai. “Uỷ Ban Nhân Dân Hà Nội cũng quy kết Giáo xứ Thái Hà đã để xẩy ra vi phạm pháp luật về đất đai, trật tự xây dựng, giao thông công cộng. Và đe doạ sẽ kiên quyết xử lý nghiên minh..
Việc này hãy nghe Tòa Tổng Giám Mục trả lời: Các cơ quan chức năng đã thiên lệch khi bênh vực những người vi phạm. Trường hợp nhà thờ Thái hà cũng thế. Từ hơn 10 năm nay Dòng Chúa Cứu Thế đã làm đơn xin lại khu đất trước kia của nhà dòng, bị công ty may Chiến Thắng bỏ không sử dụng từ lâu. Và cả hai bên đều không có động thái gì. Đột nhiên đầu năm 2008, có hàng rào thép gai, có nhân viên công an đến bảo vệ cho công ty may Chiến Thắng xây dựng. Giáo dân bức xúc phản đối. Chiều ngày 07-01-2007, Chính quyền đã đến trấn an giáo dân khi hứa sẽ ngừng mọi việc xây dựng tại đây. Thì như một gáo nước lạnh, sáng ngày 08-01-2008, Uy ban Nhân dân Thành phố Hà nội ra văn thư cho phép công ty may Chiến Thắng tiếp tục xây dựng.
Vậy thì ai vi phạm? ai sẽ bị xử lý nghiêm minh?” [7]
Tòa TGM dùng chữ “thiên lệch,” nhưng thực ra là “bất công” để diễn tả thái độ cai trị của nhà nước. Đó là nguyên nhân những xáo trộn và bất an trong xã hội. Bởi vậy, Trong thánh lễ mùa Giáng Sinh 2007, tại Nhà Thờ Chính Tòa Hà Nội, TGM Ngô Quang Kiệt mời mọi người có chức quyền và đặc biệt chính quyền các cấp hãy thực thi công lý thì mới có hòa bình bền vững. Trước hàng ngàn giáo dân tham dự, Ngài đã giải thích và xác quyết rằng hoà bình đích thực mà Chúa muốn là thứ Hoà Bình xây dựng trên Công Lý để mọi người sống an vui hài hòa và mọi quyền căn bản của người dân được tôn trọng.[8] Mặt trời công chính đang nhú lên ...
Tóm lại, nhờ thánh Gioan Tẩy Giả, nhân loại nhận biết Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian. Ngón tay Gioan đã chỉ cho chúng ta thấy rõ sức mạnh nơi Chúa. Từ lúc Thánh Linh ngự xuống trên Người, không kẻ thù nào có thể đè bẹp con người nữa. Giáo hội hôm nay đang cố gắng trở thành ngón tay chỉ cho mọi người thấy Mặt Trời Công Chính là Chúa Kitô. Chính khi nỗ lực tranh đấu cho công lý, Giáo Hội đang xây dựng một con đường dẫn đến Chúa là Hòa bình của nhân loại.
Lạy Chúa, xin cho GHVN chúng con đủ sức mạnh làm chứng cho Chúa trong giai đoạn khó khăn này. Xin cho chúng con đừng bao giờ hèn nhát đầu hàng cơ chế bất công, kẻo chúng con làm ô danh Chúa. Amen. (đỗ lực 20.01.2008)
________________________________________
[1] Thích Nhất Hạnh, Đường Xưa Mây Trắng, 1999:200.
[2] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 17.
[3] ibid., 40.
[4] ibid., 45.
[5] ibid., 53.
[6] http://www.assistnews.net/STORIES/2008/s08010110.htm
[7] http://www.vietcatholic.net/News/Html/51134.htm
[8] x. http://www.vietcatholic.net/News/Html/51202.htm
Vào một đêm ghi nhớ cách đây mấy năm, mười một tổng trưởng tài chánh của mười một nước: TN 2-A75
Vào một đêm ghi nhớ cách đây mấy năm, mười một tổng trưởng tài chánh của mười một nước trong thị trường chung Âu Châu đã họp nhau ở thủ đô nước Bỉ, mở rượu sủi bọt kêu đôm đốp để chúc mừng nhau khai mào một kỷ nguyên "vĩ đại" cùng thỏa hiệp sài chung một loại tiền Âu, đó là đồng Euro. Dẫn đầu là các nước Pháp, Đức, Ý, Bỉ, Áo, Ái, Lục, Bồ, Phần Lan, Hà Lan, Tây Ban Nha. Dân hồng mao Anh vốn là mẫu quốc của Mỹ tuy hai mà một, vẫn còn đi hai hàng với chú Sam. Thụy Điển và Đan Mạch ở xa cũng thấy chưa mắc mớ gì mà phải rộn lên! Hy Lạp và mấy nước Đông Âu mới được "ơn trở lại" thì còn phải đứng vòng ngoài chầu rìa!
THỜI ĐIỂM ĐỒNG ÂU EURO TRANH MỐI
Sở dĩ mấy ông Tây ông Đức vốn thù nghịch với nhau nay phải ngồi lại là để có sức mà đương đầu với ông thần đô-la quá quyền năng thao túng thế giới chả còn coi ai ra cái thá gì cả. Ai đời thuở nào, các nước Âu châu đã từng tự phong vai trò mang "ánh sáng văn minh" thực dân đi khai phá chiếm đoạt các nước "tối tăm tiểu nhược" bên Á, bên Phi, bên Mỹ kể cả nước Mỹ... một thời bá chủ hoàn cầu mà nay lại bị chú Sam chơi gác quá. Vậy là phải tự ái rồi. Dù sao Âu câu cũng là cha đẻ của văn minh hiện đại. Thị trường chiếm tới một phần năm thế giới chứ ít gì của.Vậy không thể để mất mặt "bầu cua" mãi được! Hăng hái nhất trong vụ này là ông Pháp , ông Đức và ông Ý, vốn cay cú từ lâu, nay mới có dịp ra tay.
Nghe tin này xong có người thở dài phát ngôn ngay: lại một màn tranh mồi, tranh mối và tranh gáy nữa. Thì cũng là để chèn nhau miếng to miếng bé, chỗ cao chỗ thấp. Cứ trông cảnh tám anh nhà giầu nhất thế giới xếp hàng chụp hình ở cái gọi là thượng đỉnh kinh tế, thì chú Sam bao giờ cũng phải đứng giữa như mặt trời cười toe toét cho các hành tinh khác tung hấng hào quang vòng quanh theo thứ bậc lớn nhỏ. Mấy thế kỷ trước các nước Âu chèn cựa chia chác thuộc địa để kiếm mồi, vênh vang lên mặt, thì thời mới người ta đã thấy rõ một "trật tự mới" khác ngay từ lúc ba ông chóp bu xếp đặt chia chác trên một chiếc tàu đậu ngoài khơi đảo Malta ở Địa Trung Hải trong lúc đại chiến thứ hai gần kết thúc. Đó là các ông Roosevelt của Mỹ, Churchill của Anh, và Stalin của Nga. Rồi sau đó là các "ông thần" nhiều râu được đúc nặn ra để chỉ tay dẫn đạo thế giới hết chiến tranh nóng, đến chiến tranh lạnh, hết bom bẩn đến bom sạch... Thôi thì đủ bùa đủ phép! Chỉ tội cho bao nhân mạng cứ phải làm con vật thí nghiệm tế thần cho những tham sân si khốn khổ của cái kiếp người.
PHAN LẠC TIẾP VỚI QUÊ NHÀ 40 NĂM TRỞ LẠI
Đây là tập bút ký những tâm tình trong chuyến về thăm Việt Nam sau bao năm xa cách. Cũng như những dòng suy tư "Cánh Vạc Lưng Trời" lờ lững bâng khuâng không biết bay về đâu trên khung trời vô định, những ghi nhận này lại từ những thực tế xót xa, bùi ngùi... nhiều chỗ đọc mà muốn khóc. Nhất là chương cuối cùng chất chứa nhiều xúc động.
" Tôi, lúc này tôi trở về, nhớ quá mà phải về, tuổi đã già, tài lại chẳng có và hoàn cảnh thì khác. Cuộc chiến tranh dài dặc đầy tàn khốc:
Sống trên đời ghê gớm quá
Vậy mà ta sống có kỳ không.
(thơ Tô Thùy Yên)
Vâng, sống được đã là lạ. Đất nước đổ nát, lòng người đổ nát, ở đâu cũng thấy những chua xót, đắng cay, và kinh sợ..." (trang 258)
Đắng cay chua xót nhất phải kể đến cảnh ghé lại Vườn Hoa Canh Nông thuở trước. Người Pháp chiếm Việt Nam xong thì xây ở vườn hoa này một đài lớn: hai người Tây cao lớn đặt tay lên đầu một người An-nam thấp nhỏ đen đủi quì dưới chân mà lãnh nhận ơn dạy dỗ khai phá. Người dân Việt uất hận khi nhìn bức tượng này, nên sau khi Pháp cuốn gói chạy, dân chúng ùa ra kéo đổ xuống "để mở đầu cho một giai đoạn mới, giai đoạn đi tìm độc lập, giai đoạn của bao nhiêu máu đổ, xương rơi, chia lìa, thù hận. Bây giờ, sau gần 50 năm, tôi trở lại Hà Nội, cảnh trí có thay đổi, nhưng nơi đây tôi vẫn còn nhận ra. Một pho tượng khác, một người Tây nào đó đứng kia..." (trang 262)
Mấy "ông thần" râu xồm đến từ bên Tây chỉ tay cho dân mình tiến lên đỉnh cao sao mà khủng khiếp quá! Người mình được dạy đổ nhiều máu đi làm lịch sử với những chiến thắng thần kỳ. Bên Đông Âu nhiều tượng "thần" đã bị lôi cổ xuống. Bây giờ ông thần Euro có vùng vẫy xây tượng lại thì chắc cũng không còn giá bao nhiêu. Vậy chắc dân ta lại phải rước ông thần đô-la màu xanh tươi trở lại cho thêm rạng rỡ. Ông thần này có sức vạn năng vần vũ tạo ra văn hóa và kinh tế toàn cầu theo "trật tự mới" (Novus Ordo Seclorum) với cái ấn vĩ đại (the Great Seal) được in công khai trên tờ một đồng đô-la, do bàn tay lông lá của nhóm Hội Kín siêu quyền lực. Ông thần này có mắt sáng trên đỉnh cao của đền thờ Kim Tự Tháp thời mới mà lãnh đạo thế giới. Lại thêm một "ông thần nhiều râu" đặt tay dạy dỗ chỉ đường nữa!
Thế là mình vẫn chưa sao ra khỏi được cái vòng quẩn tự đầy đọa. Thì đây là những dòng cuối cùng của cuốn sách, chảy xuống như dòng nước mắt vật vã của bao bà mẹ ôm xác con, của cả dân tộc mình tang tóc đổ vỡ và nhục nhằn thua kém, của bao uất nghẹn sau những gì phi lý lãng nhách, của bao hụt hẫng mất mát ê chề và bi thảm tột cùng.
" Tôi buồn quá, chua xót quá. Tôi bảo các cháu tôi, các em tôi: "Thôi đừng đi đâu nữa, chẳng cần xem gì nữa...". Chúng tôi trở lại trung tâm Hà Nội, ngồi bên Hồ Gươm, trong nhà Thủy Tạ. Mọi người nghỉ mệt. Lòng tôi ngao ngán, và mệt mỏi lạ lùng. Tôi nhìn ra mặt hồ, nước vẫn xanh ngắt, lớp lớp sóng xô, gió thổi trùng trùng. Mọi người ăn trưa, nâng ly rượu lên mời. Tôi cũng nâng ly rượu lên mời. Ly lạnh, bọt rượu chảy ra ngoài ly ngoằn ngoèo như hàng lệ chảy. Tôi cúi xuống, lòng tôi chùng và bỗng nhớ đến câu thơ của một người bạn, Tô Thùy Yên, sau cuộc chiến, nằm trong rừng sâu của "trại cải tạo", đã viết:
Nước mắt ta tuôn khi nghĩ đến
Những người đã chết, chết như rơm.
TIN VUI TỪ NHỮNG DẤU LẠ
Bằng ấy khốn cùng đã đủ cho con người tìm ra một con đường nào khác sống an bình và có ý nghĩa hơn vào thời điểm này không? Đang khi các nước nghèo lóa mắt lên cơn sốt chạy theo các loại thần cứu mạng do các quyền lực với các mớ lý thuyết kinh tế đổ rác sang từ Âu Mỹ, thì các nước Tây phương lại mệt mỏi đi tìm một cái gì khác. Chả lẽ làm người sinh ra trên mặt đất này cũng chỉ để lo tìm mồi nhét cho đầy dạ dầy theo nhu cầu chung như một động vật, dù là duy vật hay duy lợi thì cũng giống nhau.
Bằng chứng là trong khoảng hai chục chiều hướng sở thích mà con người vào thời điểm này đang tìm tới, do tờ The Times-Picayune vùng New Orleans nêu ra dịp đầu năm, thì có mấy điểm cuối rất đáng chú ý:
1. Con người bắt đầu thích đề cao tuổi trưởng thành hơn là chỉ tô điểm và ham hố tuổi trẻ. Cơn ám ảnh về trẻ đẹp thân xác nay nhường chỗ cho sức mạnh nội tâm và sự giầu sang của tình nghĩa qua những tháng ngày tận tụy phục vụ, thích đề cao những giá trị tinh thần hơn là những khoe mẽ bề ngoài hay những đòn phép lọc lừa. Sách của cựu tổng thống Carter bán chạy trong chiều hướng này. Và những sách của lớp trung tuổi viết ra với kinh nghiệm chín mùi sau khi đã thấm mệt cuộc đời "thấy vậy mà chẳng phải vậy".
2. Nhiều người thích tìm đến những tiệm sách đạo thay vì những sách báo dâm ô đã truyền độc làm ung thối rã rời tan hoang. Và thích những nhà khảo cứu Thánh Kinh hơn những tay hùng biện trên màn ảnh Tivi buôn nước miếng.
Vào thời điểm Đức Giêsu xuất hiện tại Do Thái, nhiều người cũng đi vào sa mạc để "tầm sư học đạo", để tìm cho ra vị Cứu Tinh, con đường giải thoát, trong đó có Anrê và một môn đệ khác của Gioan Tẩy Giả. Nhưng rồi mọi người như đi vào ngõ cụt tù mù, vì sư phụ nào cũng chẳng làm toại nguyện. Đọc được tâm trạng của họ, một hôm Gioan thấy Đức Giêsu đi tới thì giới thiệu ngay với lời quả quyết:
" Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian... Tôi đã thấy Thánh Linh tựa như chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài. Tôi đã không biết Ngài, nhưng Đấng sai tôi đi làm phép rửa bằng nước, đã căn dặn tôi: "Chừng nào ngươi thấy Thánh Linh ngự xuống và dừng lại trên ai, thì đó là vị sắp làm phép rửa bằng Thánh Linh." (Gioan 1: 29, 32-33)
PHÚT TỊNH TÂM
Đúng vậy. Giá phải trả cho những đánh đấm ý thức hệ trong vũng lầy vật chất nhầy nhụa cũng đã quá đủ. Tìm về giá trị tinh thần, tìm ra nét giầu có của nội tâm, lấy lại được sinh lực niềm tin, là dấu chỉ của thời đại. Nói như kiểu của một người trung tuổi thấm đòn cuộc đời khác là thánh Âu-cơ-tinh:
" Chúa đã dựng nên con cho Chúa, vì thế tâm hồn con khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Chúa".
Chúa mới là Đường, là Sự Thật, và là Sức Sống. Chúa mới là vị Cứ Tinh giải thoát, gánh lấy tội đới, rửa cho sạch mọi oan khiên ám ảnh làm méo lệch biến chất người, để hình ảnh con người thật hiện lên theo với Thánh Linh như hình ảnh chim bồ câu thanh thoát bay bổng thảnh thơi. Hình ảnh chim bay vốn là biểu tượng của hồn sống. Ở hai bên tường những ngôi mộ cổ Ai Cập vẫn được vẽ hình những con chim bay, nói lên chiều kích vươn lên đích thực của con người.
Trong sách Khải Huyền của Kinh Thánh, từ Con Chiên được nhắc tới 28 lần. Từ truyền thống Chiên Vượt Qua của dân Do Thái, Con Chiên đây là chính Chúa Giêsu đã bằng lòng chết thế mạng cho ta được sống, mà sống một cách sung mãn. Con Chiên đã hạ mình xuống tột cùng thì nay đuợc tôn vinh lên cao độ: "Vì vương quyền, uy lực và vinh quang là của Chúa đến muôn đời."
Vậy điều khẩn thiết lúc này là phải để thời giờ hơn cho đời sống nội tâm, xếp lại những ưu tiên tinh thần, so với những lăn lộn đang áp đặt! Lúc này đây, mình trở lại với chính mình, tìm cho mình một phút giây tĩnh lặng. Mình muốn xả bỏ những gì đang vây bọc đầy đọa kéo ghì mình xuống. Và kìa, hình ảnh một con chim bồ câu đang bay vụt lên từ trong tâm, nhẹ nhàng thanh thản, tươi mát hân hoan, có sức bật sáng lung linh, chuyển sinh khí trổi dậy một con người mới.
(từ tác phẩm Khúc Sáo Ân Tình, Thời Điểm xuất bản) Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
Đã hơn một tháng nay Giáo Hội cũng như thế giới đón mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Hôm nay: TN 2-A76
Đã hơn một tháng nay Giáo Hội cũng như thế giới đón mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Hôm nay (những ngày đã qua) thánh Gioan lại có dịp tuyên xưng “Đức Giêsu ngôi Lời Nhập Thể la Đấng xoá tội trần gian”. Gioan nghĩ gì khi tuyên bố lời đó? Khi tuyên xưng Chúa Kitô đã xóa tội trần gian?
Nhìn lại lịch sử các dân tộc, vào thời tiền sử đều nhận có những vị thần hộ thủ quốc gia. Để nguôi cơn giận của thần, vua phải hiến tế cho thần những lễ vật thật cao giá như: Cổ Hy Lạp đã dùng người trinh nữ để tế thần. Việt Nam đã dùng súc vật như bò để tế ở đàn Nam Giao. Các tổ phụ lại dùng con chiên một năm như tổ phụ Abraham….
Dùng của lễ là trút hết lòng thành vào đó để dâng, để mọi bất chính, mọi tắc loạn vào con vật để đốt cho con vật chết.
Trên nóc nhà thờ Verden nước Đức còn thấy một tảng đá khắc hình con chiên do: anh thợ đá đang làm việc trên mái, bị đứt sợi dây an toàn, anh té nhào xuống đất. May thay anh rớt trúng một con chiên, con chiên bị chết, còn anh không hề bị thương. Để nhớ ơn con chiên đã cứu mạng, anh khắc hình con chiên và gắn lên nóc nhà thờ.
Con chiên Thiên Chúa cũng đã chết để cứu độ chúng ta và làm cho chúng ta được sống trong ân sủng của Chúa. “Ngài đã thí mạng để cứu chuộc chúng ta”.
Sách Khải Huyền đã có tới 27 lần nhắc đến con chiên Thiên Chúa. Ngài gọi là chiên đã chết cho mọi người, mọi thời, mọi nơi.
Hình ảnh con chiên Thiên Chúa còn thấy nơi hang Toại Đạo, nơi thánh địa, đại thánh đường Rôma….
Bài sách thánh thứ hai có nói đến đặc ân Thiên Chúa vô cùng thương loài người là Ngài lấy máu chính mình và cái chết trên thập giá để đền tội và cho chúng ta khỏi chết.
Nhiều người đã quên ơn Thiên Chúa, cố tình quên ơn Chúa, chạy theo sự vật ở đời, cố tình gạt bỏ lương tâm mình, để sống theo lạc thú.
Lời Thánh Kinh: ”Người mẹ có bao giờ quên con mình được. Nếu họ có quên nữa thì ta cũng không quên được”.
Anh chị em chính là con chiên, xin đừng lãng quên Chúa, đừng khước từ Chúa, nhưng hãy luôn thưa: “Lạy Chúa, này con xin đến đẻ thực thi ý Chúa”. (16.1.2005)
Thời đại nào cũng vậy, khi con người đương đầu với thử thách đau khổ trong cuộc sống thì luôn: TN 2-A77
Thời đại nào cũng vậy, khi con người đương đầu với thử thách đau khổ trong cuộc sống thì luôn hy vọng có một giải pháp hay một người nào đó có đủ tài năng đức độ giúp cho xã hội thoát khỏi cảnh đau thương cùng khốn. Vì thế người Do Thái mong đợi vị cứu tinh của họ đến để giải thoát khỏi ách đô hộ của người La Mã.
Tiên tri Isaia đã nói đến ơn cứu độ của Chúa không nhằm giải thoát con người khỏi sự kìm kẹp của chế độ này hay chế độ khác mà giải phóng con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi.
Do đó, khi Gio an thấy Chúa Giêsu đến gần đã lớn tiếng kêu lên: "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Này tôi đã nói về Ngài..." Quả thật Chúa đến như vị cứu tinh giải thoát con người khỏi vòng xiềng xích của tội lỗi. Vì qua bí tích rửa tội chúng ta đã được giải thoát khỏi tội lỗi và trở nên một tạo vật mới, qua bí tích rửa tội chúng ta đã trở nên phần thân thể Chúa Giêsu, được mời gọi làm con Chúa. Mỗi người chúng ta phải nhận thức được sự cao quý của bí tích rửa tội đã cho chúng ta tham dự vào công cuộc cứu chuộc của Chúa.
Khoa học ngày càng tiến bộ để phục vụ con người, giúp cho con người có đời sống thoải mái, dễ chịu hơn. Nhưng thực tế khoa học đã và đang làm cho con người xa Chúa vì thích hưởng thụ, không muốn bị lệ thuộc, và quên đi Đấng Tạo Hóa là Thiên Chúa; Đấng đã sáng tạo nên mọi sự. Khoa học cũng gây nên nhiều tội ác khác khiến cho con người sống trong lo âu, sợ hãi.
Một tội ác ghê gớm là giết hại thai nhi đã được tòa án tối cao của Hoa Kỳ cho phép vào tháng Giêng năm 1973. Kể từ đó đến nay mỗi năm có hơn một triệu thai nhi đã bị cướp mất sự sống, các thai nhi bị đầu độc, cắt xén và ném vào thùng rác. Thân thể Chúa Kitô đang bị xúc phạm nặng nề vì hành động vô luân này. Tội ác này sẽ còn kéo dài đến bao giờ?
Chúa đến như một con chiên hiền lành, con chiên của công lý, con chiên của bình an. Nhưng bầy sói dữ đã không để cho con chiên được sống. Máu chiên đã đổ ra để rửa sạch tội lỗi. Chúa đã chết như con chiên hiền lành được thiêu đốt làm của lễ dâng cho Đức Chúa Cha để đền bù tội lội của nhân loại.
Là chi thể Chúa Kitô, chúng ta không thể ngồi chờ để nhìn xem có người nào đó sẽ hành động, mà chính chúng ta phải hành động bằng cách sống công bằng, thực thi đức bác ái, lên tiếng chống lại các tệ đoan của xã hội, tham gia các đoàn thể để đời sống đạo đức mỗi ngày thêm tốt lành hơn, siêng năng cầu nguyện và nên gương sáng cho mọi người trong gia đình. Mỗi người chúng ta hãy mạnh dạn thưa: "Lạy Chúa, này tôi xin đến, để thực thi ý Chúa" (TV 39:8a)
“Làm sao người ta tin Đấng họ không được nghe? Làm sao nghe được nếu không có ai rao giảng? Làm sao rao giảng nếu không được sai đi?... Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng!” (Rm 10:14-15)
Thánh Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa sai đi rao giảng kêu gọi người ta sám hối và nhận phép: TN 2-A78
Thánh Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa sai đi rao giảng kêu gọi người ta sám hối và nhận phép rửa để tỏ lòng sám hối, dọn sẵn con đường cho Đức Chúa... (Jn 1:23). Khi Chúa Giêsu xuất hiện, Ông đã giới thiệu: ''Ngài là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội thế gian... Ngài rửa chúng ta bằng Thánh Thần...''(Jn 1: 29-33)
Làm phép rửa trong Thánh Thần, chỉ công việc thiết yếu của Đức Giêsu là xoá bỏ tội lỗi bằng cách tuôn đổ Thánh Thần là dòng nước đem lại sự sống mới xuống những ai lãnh nhận phép rửa. Và chính Thánh Thần đã sức dầu Đức Giêsu làm Đấng Mê-si-a. Làm Kitô hữu không chỉ là tuân giữ các giới răn, xa lánh tội... chúng ta đã được sức dầu Chúa Thánh Thần để được sai đi, để thi hành sứ mạng ngôn sứ, rao giảng về Thiên Chúa và ơn cứu độ cho mọi người. Chúa Thánh Thần làm cho ta trở nên ánh sáng cho trần gian, để ơn cứu độ của Ngài được loan truyền khắp hoàn cầu. Và đời sống của một Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trọn vẹn khi thi hành sứ mạng ngôn sứ cho người khác. Và chỉ trong Thánh Thần chúng ta mới có thể rao giảng, và sự rao giảng của ta mới đem lại hoa trái. Vì Thánh Thần ban cho ta sự hiểu biết, khôn ngoan, sức mạnh, Tình yêu và can đảm để rao giảng. Có những người rao giảng bằng cách thuyết giảng, dâng Thánh Lễ, có những người thi hành sứ mạng bác ái, dạy học, có những người chuyên cầu nguyện, có những linh mục rao giảng cho các tù nhân... nhưng quan trọng nhất là sự rao giảng phải được kết hợp bằng chính cuộc sống đức tin, tình yêu, và sự tha thứ của mình.
Phim ''Les Miserables'' diễn tả một tên tù khổ sai vượt ngục và trốn vào nhà một vị Giám mục. Vị Giám mục đã dọn cho anh ăn tối, dọn phòng cho anh ngủ. Đang đêm, anh lẻn sang phòng vị Giám mục, tưởng là ngài đã ngủ say, lấy trộm mấy đồ thánh bằng vàng. Vị Giám mục chỉ biết nhìn anh cách thương cảm và để anh tự do trốn đi. Nhưng trên đường đi anh đã bị cảnh sát chận bắt và dẫn anh đến để vị Giám mục xác nhận tội ăn cắp đồ thánh của nhà thờ. Vị Giám mục chỉ cười và nói: “Những đồ vật này tôi đã tặng anh ấy.” Với tài sản ấy anh đã từ từ tạo dựng cơ nghiệp và giúp đỡ những người nghèo khổ. Anh luôn biết ơn vị Giám mục nhân từ đã cho anh cơ hội tạo dựng lại cuộc đời.
Qua tình yêu của chúng ta người đời nhận biết một Thiên Chúa yêu thương mà chúng ta tôn thờ, chúng ta rao giảng, ôm ấp trong con tim và trong cuộc sống
Dòng sông Giođan có lẽ là một dòng sông đặc biệt nhất trên thế giới. Không phải là do vị trí: TN 2-A79
Dòng sông Giođan có lẽ là một dòng sông đặc biệt nhất trên thế giới. Không phải là do vị trí chiến lược, kinh tế, hay do vẻ đẹp có tính cách thơ nhạc của nó. Nét trổi vượt nhất của nó chính là ở dòng sông này, đã có một lần Con Chúa Trời giáng thế, Đấng Cứu Độ nhân loại đã tới, và đã trầm mình dưới dòng nước của nó qua hình thức một phép rửa. Nước của nó, do đó, đã một lần rửa sạch và cuốn trôi bao lỗi lầm, bao dằn vặt, và bao đau thương, nước mắt của những người Do Thái thời bấy giờ qua phép rửa thống hối của GioanTiền Hô. Nhưng ngược lại, nước ấy đã làm cho Đấng Vô Tội trở thành “có tội” khi Ngài lãnh nhận phép rửa của Gioan; vì như vậy, Ngài đã mang lấy tất cả tội lỗi, vết nhơ, đau thương, nước mắt, dằn vặt, và tội lỗi của nhân loại.
Chúa Giêsu đến sông Giođan không phải là chịu phép rửa, mà đúng hơn là để lãnh lấy tất cả cái hậu quả tai hại do tội lỗi nhân loại trên mình. Vì dòng nước tha thứ mà Gioan dùng tẩy rửa những ai đến với Ông, đã quyện lấy thân mình thanh khiết và tâm hồn vô tội của Ngài, để Ngài đem nó lên đồi Canvê trong ngày Chịu Nạn đốt cháy, và thiêu rụi cùng với Ngài trong một phép rửa duy nhất của lịch sử cứu độ. Do cái chết thống khổ, nhục nhã, và đớn đau của Ngài trên thập giá. Ngài đã tế lễ mình cho Thiên Chúa Cha vì tội lỗi nhân loại. Ngài là Con Chiên bị sát tế như chính lời Gioan Tiền Hô đã nói: “Đây chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian” (Gio 1:29).
Trên dòng sông ấy, nhân loại đã thấy một trời mới, đất mới được khai mở. Con người tội lỗi, vô vọng đã thấy được các tầng trời mở ra, và đã nhìn thấy được vinh quang của Thiên Chúa tỏ hiện. Họ đã được nghe loan báo về Tin Mừng sẽ được rao giảng: “Đây là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt 3:17), và lời của Người là lời có sức ban sự sống: “Lậy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời” (Gio 6:68).
Trên dòng sông ấy, đã khai mở một phép rửa mới, thay thế cho phép rửa của Gioan Tiền Hô như chính lời của Ông đã nói: “Phần tôi, tôi rửa anh em bằng nước trong phép rửa thống hối, nhưng một đấng sau tôi, cao trọng hơn tôi, tôi không đáng xách giầy cho ngài. Đấng ấy sẽ rửa anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa” (Mt 3:11). Phép rửa này mới có khả năng tẩy sạch mọi tội lỗi để nhân loại có thể trở thành con Thiên Chúa. Một phép rửa, làm cho con người không còn mang tỳ vết nào khiến Thiên Chúa không nhìn ra họ. Phép rửa mà sau này Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông Đồ và môn đệ của mình: “Các con hãy đi khắp thế gian, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Mt 28:19).
Chúa Giêsu, sau khi lên khỏi nước của sông Giođan, thì chính Ngài đã trở thành một dòng sông mới, dòng sông ân sủng, bình an, và cứu độ. Vì từ nơi Ngài, một mạch nước hằng sống đã tuôn trào, đã vọt lên, để cho tất cả những ai đến với Ngài đều được tẩy sạch, được tha thứ và bình an. Trên con đường hành đạo, sau khi chịu phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu quả thực đã trở nên dòng sông hạnh phúc, bình an, và tẩy sạch cho mọi người. Người què đi được, người điếc nghe được, người mù thấy được, người cùi hủi được sạch, người chết sống lại, và Tin Mừng của Ngài được loan truyền đến tất cả mọi tâm hồn thiện chí. Cũng kể từ ngày ấy, Ngài trở nên một dòng sông để không những nước của nó xóa bỏ mọi vết dơ bẩn trên thân xác con người, mà còn có khả năng tẩy sạch mọi tội khiên của con người. Tất cả những ai trầm mình trong dòng sông này, hoặc rửa sạch con người mình trong dòng sông ấy đều cảm thấy được an bình, được hạnh phúc, và được cứu độ. Như nước sông Giođan không có khả năng tha tội cho ai, nước giếng rửa tội đổ trên đầu người lãnh nhận tự nó cũng không có sức tẩy rửa mọi lỗi lầm của người đó, nhưng nó phải được liên kết với nước của dòng sông Giêsu và cũng là chính Chúa Giêsu mới tẩy sạch và đem lại sức sống tâm hồn và thể xác cho tất cả những ai đến với Ngài.
Có ai đến với Ngài mà bị từ chối, và phải ra về tay không đâu. Có ai đến với Ngài mà không được Ngài nâng đỡ, ủi an, và chữa lành. Vì chính Ngài đã tình nguyện lãnh nhận và mang vác lấy đất cát, nhơ bẩn tâm hồn và thể xác của chúng ta trên dòng sông Giođan, và đã rửa sạch chúng bằng chính máu Ngài đổ ra trên thập giá. Là dòng sông ân sủng, Ngài còn dẫn chúng ta đến gặp biển cả bao la của tình yêu Thiên Chúa. Biển cả yêu thương ấy không những đem lại cho tâm hồn con người được vui mừng, sảng khoái, và bình an, mà nó cũng chính là viên mãn của hạnh phúc đời sau. Như những giọt nước hòa tan trong đại dương mênh mông, những ai tin nhận Chúa Giêsu, và để mình được chìm lặn trong dòng sông ân tình của Ngài, Ngài cũng dẫn họ đến với đại dương của tình yêu Thiên Chúa, và được hòa tan vào biển rộng mênh mông của tình Ngài. Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa, là anh em với nhau, và sẽ cùng nhau chung hưởng hạnh phúc nước trời.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ nhân trần vô tội đã nhận lấy thân phận tội nhân của con người qua phép rửa của Gioan Tiền Hô. Ngài cũng đang xin chúng ta như đã xin với Gioan để được chịu phép rửa, tức là để cho Ngài được mang vác lấy tội lỗi, khuyết điểm và yếu đuối của chúng ta để rửa chúng trong biển tình yêu thương của Thiên Chúa. Ngài xin chúng ta cho Ngài được làm ấy một cách tự nguyện, vô điều kiện vì tình thương mà Ngài dành cho mỗi người chúng ta, miễn là chúng ta mở rộng tâm hồn mình đón nhận Ngài như trầm mình trong một dòng sông hạnh phúc. Nhưng liệu có bao nhiêu người đã mở rộng lòng mình, và đã đón nhận Ngài.
Trên dòng sông Giođan, Chúa Giêsu đã gánh lấy tội nhân loại, đã mang nó vào mình để rửa nó bằng chính bửu huyết Ngài đổ ra trên thập tự giá và để trở thành dòng sông cứu độ cho tất cả những ai đến rửa sạch tội mình trên đó. Chúa Giêsu – dòng sông ân sủng, cứu độ - dòng sông mát mả và trong lành, nhưng nếu chúng ta chỉ đứng trên dòng sông ấy mà nhìn, hoặc không muốn rửa sạch mình trên dòng sông ấy, thì mãi mãi chúng ta vẫn không được rửa sạch, không được mát mẻ, không được bình an, và ơn cứu độ vẫn không thuộc về chúng ta. (Ts.Trần Quang Huy Khanh-2005)
"Tôi rửa các ngươi bằng nước, nhưng có đấng đến sau tôi cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cởi dây giầy cho ngài. Ngài sẽ rửa các ngươi bằng lửa và Thánh Thần" (Luca 3:16).
Đối với chúng ta, đây là nền tảng của ơn gọi và đời sống Kitô hữu. Qua ơn gọi và đời sống này: TN 2-A80
Đối với chúng ta, đây là nền tảng của ơn gọi và đời sống Kitô hữu. Qua ơn gọi và đời sống này, chúng ta tiếp cận và gặp gỡ Đức Kitô. Trở thành những bạn thân và là chứng nhân của Ngài giữa thế giới hôm nay.
Gioan rửa bằng nước. Chúa Giêsu rửa bằng lửa và Thánh Thần.
Khi tay, chân, hoặc thân mình bị dơ bẩn, cách duy nhất để trở nên sạch sẽ, thơm tho là đi rửa tay, rửa chân, hoặc đi tắm. Hình ảnh thông thường này tất cả chúng ta đều biết, và đều đã có kinh nghiệm. Nhưng qua phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu còn đi xa hơn bằng cách thiết lập một phép rửa mới, phép rửa của đức mến, tức lửa và Thánh Thần.
Như lửa khác với nước và như khả năng con người khác với quyền năng của Thiên Chúa, phép rửa mà chúng ta có hôm nay hoàn toàn khác với phép rửa mà Gioan đã làm khi ông chuẩn bị cho Đấng Thiên Sai, người mà ông gọi là Đấng đến sau ông thực hiện. Phép rửa không chỉ bằng nước mà bằng lòng yêu mến. Lòng yêu mến của con người, và lòng yêu thương của Thiên Chúa.
Ngọn lửa lòng mến:
Ngọn lửa mà qua hình ảnh Gioan đã mô tả ấy là gì, nếu không phải là lòng mến của chúng ta đối với Thiên Chúa. Thiếu ngọn lửa yêu mến này, dù chúng ta có dìm mình dưới dòng sông Giođan như những người Do Thái đương thời Chúa Giêsu đã đến với Gioan và đã được ông dìm dưới dòng sông Giođan, chúng ta vẫn không được trong sạch, không đủ tư cách để đến gần với Chúa được. Chúng ta vẫn không thể làm môn đệ của Ngài được. Và chúng ta vẫn không thể là chứng nhân cho Ngài được. Bởi vì yếu tố yêu mến là ngọn lửa nung nấu, và thiêu đốt chúng ta qua những hy sinh, vất vả vì Chúa. Và cũng chính ngọn lửa yêu mến ấy, sẽ rửa sạch tâm hồn chúng ta để chúng ta có thể đến với Ngài, và hòa nhập vào Ngài được.
Chúng ta có thể tìm thấy hình ảnh này qua ngọn lửa trong lò luyện kim. Nó sẽ làm tan biến tất cả những bụi bặm, dơ bẩn bám chung quanh một khối lượng kim loại. Để rồi, sau khi đã thanh luyện và đốt cháy, nó sẽ tiếp tục làm cho khối lượng kim loại ấy tan chẩy. Và nếu có hai khối lượng kim loại để gần nhau, thì chúng sẽ hòa tan và biến thành một hợp kim đến nỗi, dù muốn cũng không ai có thể tách rời hoặc chia rẽ được.
Thánh Phaolô đã bị ngọn lửa này thiêu đốt. Đối với Phaolô thì tình yêu Đức Kitô đã làm cho ngài phải hao mòn, phải vất vả, phải lao đao, và sau cùng phải bị chém đầu: "Ai có thể tách tôi ra khỏi tình yêu Đức Kitô" (Rom 8:35). Thánh nhân kể ra một lô những chướng ngại có thể đã làm nhiều người vấp nga: thiên thần, quỉ thần, đau khổ, thử thách,đói khát, trần truồng, tù ngục, thiên đàng, hỏa ngục, và cả sự chết. Đối với Phaolô, tất cả những thứ ấy đều không thể và không là gì để có thể tách biệt ngài với Đức Kitô. Lý do duy nhất vì hợp kim Giêsu-Phaolô đã tan chẩy và quyện lẫn với nhau do hai khối lượng kim loại Giêsu và Phaolô mà sức nóng của lòng yêu mến đã làm cho tan chảy và hòa tan với nhau.
Ngọn lửa Thánh Thần:
Tiếp tới ngọn lửa Thánh Thần, tức là tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dùng ngọn lửa này để tự thiêu hủy, và tự làm tan biến chính Ngài để hòa tan với con người. Ngọn lửa cần thiết và có sức mạnh để khiến cho Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, trở nên con người, và vì thế con người có thể kề cận và tiếp xúc được với Ngài.
Không có ngọn lửa Thánh Thần, mãi mãi Thiên Chúa vẫn là xa vời, và con người không bao giờ có thể đụng chạm được với Ngài. Bởi vì con người không thể lên được, đến được, và hiểu được Thiên Chúa. Ngay cả sau khi Thiên Chúa hiện thân qua hình hài một con trẻ, một thanh niên, và một Đấng Thiên Sai, nhiều người cũng đã không nhận ra Ngài. Vì vậy cần ngọn lửa Thánh Thần để đem Thiên Chúa lần lại hơn với con người, soi dọi, và đưa con người đến để hòa nhập với Ngài.
Chính Thánh Thần này đã được Cha sai xuống với nhân loại sau khi Chúa Giêsu đã về trời. Ngài là nguồn sống của Giáo Hội và cũng là hơi thở - tức sức sống - của mỗi Kitô hữu.
Phép rửa của lòng mến:
Cả ba ơn gọi tiên tri, tư tế, và vương giả đều bắt nguồn từ phép rửa. Từ sự thanh luyện và biến đổi con người thành Thiên Chúa, và Thiên Chúa thành con người. Thiên Chúa trở thành "Emmanuel" hay Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nếu không có phép rửa ấy, con người không thể động chạm đến được Thiên Chúa. Mãi mãi không thể hiểu biết Thiên Chúa là gì. Cũng không biết phải tôn thờ Thiên Chúa như thế nào. Và cũng không biết phải làm gì để loan báo và chỉ cho những người khác biết về Ngài.
"Ngài sẽ rửa các ngươi bằng lửa và Thánh Thần" (Luca 3:16). Rửa bằng lửa và Thánh Thần là rửa bằng tình mến. Tình yêu con người đối với Thiên Chúa. Tình yêu vô bờ bến Thiên Chúa dành cho con người. Đó là ý nghĩa của phép rửa, bí tích Thiên Chúa dùng để tha thứ, thanh luyện để đem con người vào với tình yêu và cuộc sống Thiên Chúa, và biến con người trở thành con Thiên Chúa. (Trần Mỹ Duyệt)
Giới thiệu là một nghệ thuật đã được các nhà thương mại tận dụng tối đa, qua các phương tiện: TN 2-A81
Giới thiệu là một nghệ thuật đã được các nhà thương mại tận dụng tối đa, qua các phương tiện truyền thông như báo chương, truyền thanh, truyền hình, các bảng quảng cáo khắp đó đây. Nghệ thuật giới thiệu trình bày đó đã trở thành một phân khoa dạy trong các trường đại học, giúp cho các nhà chuyên môn biết cách giới thiệu trình bày thế nào cho hấp dẫn, để dễ lôi kéo thu hút được sự chú ý và hâm mộ của khách mộ điệu và giới tiêu thụ.
Do đó, phải giới thiệu thế nào cho đúng với tư cách xã hội, tùy theo cách thế, hoặc thông thường hoặc trang trọng, sao cho hợp tình hợp cảnh, đúng nơi đúng lúc, đúng với địa vị chức vụ của mỗi người, lại phải hợp với phong tục tập quán của mỗi miền, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, và nếu cần còn phải theo đúng nghi lễ xã giao quốc tế... Hội đủ các điều kiện đó, việc giới thiệu mới đạt được thành quả tốt đẹp.
I. SỨ MẠNG CỦA THÁNH GIOAN TIỀN HÔ
Thánh Gioan là một tiên tri đã được Thiên Chúa tuyển chọn và thánh hóa ngay từ khi còn trong lòng mẹ, được ủy thác một sứ mạng cao cả và quan trong vô cùng là làm vị Tiền Hô giới thiệu Chúa Kitô, là Đấng Thiên Chúa sai đến trần gian, cứu độ nhân loại, bằng việc rao giảng phép rửa sám hối, kêu gọi mọi người bỏ đàng tội lỗi bất chính, giúp nhân loại đón nhận Chúa Cứu Thế, hầu xứng đáng lãnh nhận Ơn Cứu Độ của Người.
Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Sử Gioan tường thuật: Khi ông Gioan thấy Chúa Giêsu đang tiến lại với mình, liền giới thiệu với mọi người: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian" (Jn 1:29).
Để thực thi sứ mạng cao cả này, Thánh Linh đã mạc khải cho Gioan nhận biết Đấng mà thánh nhân được chọn làm sứ giả giới thiệu Ngài, như lời thánh nhân đã tuyên xưng: "Một Đấng đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Người cao trọng hơn tôi. Và tôi vốn không biết Người". Thánh nhân còn xác quyết: "Tôi đã thấy Thánh Thần Chúa như chiên bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Người. Về phần tôi, tôi vốn chưa biết Người, nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần Chúa ngự trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Tôi đã thấy, đã nhận biết và tôi xin làm chứng: Chính Người là Con Thiên Chúa" (Jn 1:29-34).
Thánh Gioan đã chu toàn sứ mạng làm Tiền Hô giới thiệu Chúa Kitô cho nhân loại, với tất cả sự hiểu biết, niềm xác tín vững mạnh và thâm sâu, mà ngài đã công khai tuyên xưng như một chân lý bất hủ. Hơn nữa, ngài còn sống niềm tin, tận tình phụng sự, và hết tình yêu mến Đấng mà ngài có sứ mạng giới thiệu. Thánh nhân đã tự thú nhận mình: "Không đáng quỳ xuống cởi giây giầy cho Người" và cố gắng tìm mọi cách tự xóa nhòa mình đi, để Chúa được tôn vinh như lời ngài quả quyết: "Người cần phải trổi lên, còn tôi cần phải hạ xuống". Sau cùng, Thánh nhân còn lấy làm sung sướng được hy hiến chính mạng sống mình, để làm chứng cho Đấng ngài giới thiệu và rao giảng.
II. SỨ MẠNG CỦA TẤT CẢ CON CÁI CHÚA
Là con cái Chúa, như Thánh Gioan tất cả chúng ta đều được Chúa tuyển chọn, tùy theo ơn gọi, chức phận và địa vị của mỗi người, Chúa cũng ủy thác cho chúng ta sứ mạng làm chứng nhân, làm sứ giả giới thiệu Chúa Cứu Thế cho nhân loại, cho những người chúng ta có nhiệm vụ, cho hết mọi người chúng ta có liên hệ và giao tiếp trong đời sống hằng ngày. Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia cần được áp dụng cho mỗi người chúng ta, cũng như cho toàn thể Giáo Hội, Dân Riêng của Chúa: "Đây Ta đặt con như ánh sáng các dân tộc, để con đem Ơn Cứu Độ của Ta tràn lan khắp địa cầu" (Is 49:6).
Để được giới thiệu trong phương diện trần thế đạt được hiệu quả tốt, còn cần phải được áp dụng đúng nghệ thuật, đúng khoa học, hợp tình hợp cảnh, hợp thời hợp lúc; thì để thi hành sứ mạng cao cả giới thiệu Chúa Kitô cho tha nhân, còn cần phải hội đủ các điều kiện, các tư cách và đức tính khẩn thiết hơn muôn phần.
Do đó, vị sứ giả giới thiệu Chúa Kitô cho người khác, đòi buộc phải hiểu biết thâm sâu về Chúa, phải đồng hóa nên một với Chúa, phải sống bằng sự sống của Chúa; và hơn nữa, phải chiếm hữu được Chúa. Có như thế, tha nhân mới dễ dàng chấp nhận được chân lý chúng ta rao giảng; cảm nhận được sức sống thần linh và sự hiện diện đích thực và sống động của Chúa nơi chính bản thân của vị sứ giả, khiến người ta khát mong chiếm hữu Chúa là hạnh phúc, là cùng đích của họ.
Chính Chúa đã phán với chúng ta: "Các con là ánh sáng trần gian", và Chúa truyền dạy: "Ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mọi người, để mọi người nhận biết Cha các con trên trời", Đấng các con có nhiệm vụ giới thiệu Người, làm chứng nhân cho Người.
Kết Luận
Mẹ Maria là Vị Tôn Sư, là Nhà Giáo Dục huấn luyện đào tạo nên các vị Tông Đồ, thừa sai, sứ giả giới thiệu Đấng Thiên Sai là Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ.
Tại hang Belem xưa, Mẹ đã giới thiệu Chúa Hài Nhi cho các mục tử là những tâm hồn đơn sơ chất phác; Mẹ cũng đã giới thiệu Chúa Hài Nhi cho các nhà đạo sĩ thông thái từ Đông Phương đến triều bái Chúa; Mẹ cũng đã giới thiệu Chúa cho cụ già tiên tri Simêon và bà tiên tri Anna trong Đền Thờ, và Mẹ cũng đã giới thiệu Chúa cho toàn thể nhân loại.
Hiền Mẫu Maria là Mẹ các Tông Đồ, Mẹ là mẫu gương phản chiếu chân dung đích thực của Chúa Giêsu Con Mẹ; Mẹ đã chiếm hữu được Chúa cách sung mãn tràn đầy, để chính Mẹ trở nên nguồn thác thông ban Chúa cho các tâm hồn.
Xin Mẹ dạy cho chúng con học biết khoa học cao cả này, để chúng được xứng đáng cùng với Mẹ giới thiệu Chúa, rao giảng Chúa, trao ban Chúa cho nhân loại và cho mỗi tâm hồn. Lm. Minh Vận, CMC
Nhờ có Lời Tựa và lời chứng giải thích của Gioan, chúng ta được chuẩn bị đón Đức Giêsu đến. Bây: TN 2-A82
Nhờ có Lời Tựa và lời chứng giải thích của Gioan, chúng ta được chuẩn bị đón Đức Giêsu đến. Bây giờ tác giả TM thông tin lần đầu tiên cho chúng ta biết Người xuất hiện. Ông chưa mô tả công việc Người làm, mà chỉ cho biết là Gioan thấy Người đến và làm chứng cho Người thế nào mà thôi. Lời chứng này về Đức Giêsu có tầm quan trọng đặc biệt. Quả thật, ta không thấy ngay được là Người thật sự là ai. Không phải chỉ cần nhìn thấy Người là đã đủ để hiểu Người là ai và mang đến điều gì. Do đó, Gioan đã được phái đến để làm chứng về Người.
2.- Bố cục
Bản văn được kết cấu theo dạng chuyển hoán như sau:
c. 29
c. 34
Gioan thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: Đây là Chiên Thiên Chúa
Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (là Con TC?)
c. 30
c. 33b
Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi
Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần
c. 31
c. 33a
Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước
Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi
c. 32
Gioan còn làm chứng: Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người
Cả khối có tính thống nhất nhờ được đóng khung bởi hai câu làm chứng của Gioan, cc. 29 và 34. Đỉnh cao hoặc khúc ngoặt là c. 32 (Thần Khí). Vậy, do cấu trúc, đoạn văn này tập trung vào thị kiến về Chúa Thánh Thần từ trời xuống và ngự trên Đức Giêsu, mà Đức Giêsu là đối tượng để Gioan làm chứng. 3.- Vài điểm chú giải
- Tôi đã không biết (31.33a): Hai câu 31 và 33 đóng khung c. 32: Gioan đã không biết (oida) Đấng mà ông phải làm chứng cho. Trong TM IV, có hai động từ “biết”:
Ga
I, II, III Ga
Kh
ginôskein
56
26
04
eidenai (oida)
85
16
12
Gioan ưa dùng động từ oida hơn: trong các bản văn Ga, không hề có danh từ gnœsis (sự hiểu biết). Theo các nhà chú giải (như I. de la Potterie, Spicq, Abbott), ginôskein có nghĩa là “đạt được hiểu biết về”, còn eidenai (oida) là “biết rõ về”. Ginôskein thường được Ga dùng để nói về sự hiểu biết bằng những phương tiện con người (x. Ga 4,1; 6,15); còn eidenai (oida) thường được dùng để nói về sự hiểu biết sâu xa, hiểu biết bằng trực giác (c. 31). Tuy nhiên, có những khi tác giả dùng cả hai động từ theo cùng một cách như nhau: Đức Giêsu biết Cha (eidenai trong 7,29; 8,55; ginôskein trong 10,15; 17,25); Đức Giêsu biết mọi sự hoặc mọi người (eidenai trong 16,30; 18,4; ginôskein trong 2,24); “nếu các ông biết tôi thì hẳn cũng biết Cha tôi” (eidenai trong cả hai phần của 8,19; ginôskein và eidenai trong 14,7); thế gian không biết Cha hoặc Đức Giêsu (eidenai trong 7,28; 8,19; 15,21; ginœskein trong 1,10; 16,3; 17,25; 1 Ga 3,1.6).
Dù sao, ở đây, tác giả không có ý nói rằng Đức Giêsu chỉ là một người xa lạ đối với Gioan, mà muốn nói rằng ông chỉ không biết Người trong tư cách Mêsia: ông chưa nhận được ánh sáng đức tin, ông chưa thấy được Người là Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn. Về điểm này, Gioan còn ở trong tình trạng tương tự với người Do Thái (Ga 1,26), họ cũng chưa biết gì về chân tính của Đấng đang ở giữa họ. Câu truyện sông Giođan có vai trò mạc khải, đưa lại cho Gioan cái nhìn đức tin.
Việc Gioan thấy Thần Khí có hai mục tiêu: kéo ông ra khỏi tình trạng tăm tối (không biết) và đặt để ông trong ơn gọi đích thật. Khi đó, từ tư cách người làm phép rửa trong nước, ông trở thành chứng nhân của Thần Khí, hoặc đúng hơn, chứng nhân của Đấng có Thần Khí ngự trên. Chính vì việc này mà ông đã đến. Phép rửa trong nước chỉ là giai đoạn chuẩn bị cho vai trò chủ yếu này. Điều này được diễn tả bằng luật ngữ pháp: So sánh Ga 1,31, “Tôi đến làm phép rửa (baptizôn: phân-từ hiện tại diễn tả một sự kiện) với Ga 1,7, “ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng” (mệnh đề chỉ mục đích) và với Ga 1,31, “Tôi đến làm phép rửa trong nước để (hina) Người được tỏ ra cho Ít-ra-en”. Thị kiến đã lôi Gioan ra khỏi tình trạng không biết, lại tỏ bày cho ông biết sứ mạng đích thực của ông, đồng thời giúp ông có khả năng hoàn tất sứ mạng ấy.
- Tôi đã thấy Thần Khí (32): Lời chứng của Gioan bắt đầu với lời tuyên bố này ở c. 32, “Tôi đã thấy (tetheamai) Thần Khí”, và ở c. 34: “Tôi đã thấy (heôraken [horan] và tôi làm chứng” (= vì tôi đã thấy, tôi làm chứng). Vậy việc làm chứng được đặt trên một việc “thấy” (Ga 3,11.32; x. 1 Ga 1,2; 4,14).
Thật ra, cái nhìn khả giác cũng quan trọng, nhưng là để giúp người ta biết một điều người ta không thấy và làm chứng về thực tại ẩn giấu này. Tại sông Giođan, Gioan đã thấy một sự kiện bên ngoài: Thần Khí xuống và ngự trên Đức Giêsu (Ga 1,32), nhưng điều ông làm chứng là tư cách Mêsia của Đức Giêsu. “Thấy” ở đây không phải là một cái nhìn tầm thường, nhưng là cái nhìn đưa tới đức tin, cái nhìn khám phá ra rằng biến cố là một dấu chỉ. Người nào đã thấy thì làm chứng về ý nghĩa của biến cố được kể lại. Có thể nói người ấy làm chứng về ý nghĩa đó như đã thấy trong biến cố. Tác giả diễn tả những sắc thái này qua 5 động từ đều có nghĩa là “thấy” sau đây:
(1) blepein: “Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình” (c. 29). Động từ này diễn tả một tri giác thị giác mà thôi.
(2) theasthai: “Tôi đã thấy Thần Khí” (c. 32). Động từ này diễn tả việc “thấy” như một sự chiêm ngưỡng, quan sát biến cố đang diễn tiến để khám phá ra ý nghĩa. Nó diễn tả một sự tiệm tiến về tri giác: “Tôi đã thấy Thần Khí xuống (phân từ katabainon) … và ngự (aorist lối trình bày[1][1] emeinen)”.
(3) horan: Động từ này diễn tả việc “thấy” kèm theo hiểu biết thật sự. “Ngươi thấy Thần Khí…” (c. 33b): động từ ở thì aorist lối tiếp thuộc đệ nhị[2][2] để diễn tả điều ông sắp được thấy. “Tôi đã thấy nên xin chứng thực” (c. 34): động từ ở thì quá khứ hoàn thành lối trình bày[3][3] để diễn tả rằng Gioan đã nhạn được mạc khải về tư cách Mêsia của Đức Giêsu ở mức sâu sắc đến nỗi kể từ nay, ông có thể làm chứng cách đảm bảo và bền bỉ.
(4) theôrein: “Nhìn” có sự tập trung, phải mất nhiều giờ hơn blepein, từ đó có một sự hiểu biết sâu xa hơn blepein: cái nhìn này đưa tới việc chấp nhận Đức Giêsu là Đấng làm những điềm thiêng dấu lạ, một con người kỳ diệu, nhưng đấy chưa phải là đức tin thật sự (x. 2,23; 4,19; 6,2). Thật ra cũng có những luật trừ: a) nghĩa “nhận thức sâu xa” (6,40; 17,24); b) nghĩa thể lý, tức tương tự blepein (20,12.14; 14,17; x. 1 Ga 3,17).
(5) idein: tương tự horan, tức là “thấy” kèm theo sự hiểu biết thật sự (4,48; 6,14.30). Nhưng có khi idein cũng được dùng để nói về cái nhìn thể lý (1,39; 5,6; 6,22.24; 7,52; 12,9; x. 1 Ga 5,16; 3 Ga 14).
R.E. Brown cho rằng nếu đi từ dạng vật chất nhất của cái nhìn đến dạng cao siêu nhất, thì nên xếp theo thứ tự: blepein, theôrein, horan, idein (eidon), theasthai, với bảng thống kê sau:
Ga
1, 2, 3 Ga
Kh
TƯ
blepein
17
1
13
theôrein
24
1
2
58
horan
31
8
7
114
idein (eidon)
36
3
56
theasthai
6
3
22
- Thần Khí: Đối tượng trung tâm của thị kiến là Thần Khí, giống như trong các TMNL: Mt 3,16 (Thần Khí Thiên Chúa: Theou, không quán từ); Lc 3,22 (Thánh Thần); Mc 1,10 (Thần Khí); Ga 1,32 (Thần Khí, nhưng thêm “từ trời” [ex ouranou, không quán từ] để nói về nguồn gốc thiên giới, tức là Thần Khí Thiên Chúa, là Thánh Thần).
- ngự trên Người (32): Ga, cũng như Mt và Lc, nói rằng Thần Khí ngự xuống “trên (epi) Đức Giêsu” (Mc: eis). Điều tuyệt đối thuộc về Ga, đó là Thần Khí “ngự (ở lại) trên” Người (menein epi: cc. 32.33). Các nhà chú giải thường nghĩ đến Is 11,2: “Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này (anapausetai ep’auton) …”. Chỉ có điều là Bản LXX dùng động từ anapausetai (to rest upon). Tác giả TM IV chọn động từ menein (to dwell) có lẽ do ngài quen sử dụng động từ này theo nghĩa thần học. Cũng như sự kiện Thần Khí ngự trên mầm non nhà Đavít trong Is 11,2, động từ menein trong Ga 1,32-33 là một dấu chỉ được ban cho vị Tẩy Giả biết về quan hệ thường hằng, thân mật và hoàn hảo giữa Thần Khí Thiên Chúa và Đức Giêsu. Động từ “ở lại” có tính cách tĩnh, nối với epi để diễn tả đặc tính sống động của quan hệ này (F. Godet).
- tựa chim bồ câu từ trời (32): Cả ba TMNL đều nói đến điểm này, với hôs (as; like) để so sánh (Mt dùng hôsei để nhấn mạnh). Lc xác định rằng Thần Khí đã ngự xuống “dưới một hình dáng” (sômatikê eidei; in bodily form: Lc 3,22). Còn tại sao con bồ câu lại trở thành biểu tượng của Thần Khí, thì không hoàn toàn rõ ràng. Rất có thể hành động bay lượn của Thần Khí trên mặt nước nguyên thủy trong St 1,2 đã gợi ra hình ảnh một cánh chim bay lượn (tương tự trong Đnl 32,11), nhưng bản văn ấy không hề nói là một con bồ câu (trừ một bản văn thuộc truyền thống kinh sư). St 8,8 thì nói rằng Nôê đã thả một con bồ câu, nhưng không hề khẳng định rằng con bồ câu này là Thần Khí. X. Léon-Dufour gợi ý con bồ câu có thể gợi ra tình yêu của Thiên Chúa (x. Dc 2,14; 5,2) hoặc cuộc tạo dựng mới (x. St 1,2).
Trong truyền thống Do Thái, con bồ câu có một ý nghĩa biểu tượng, liên hệ đến Israel, đặc biệt với Israel đang lưu đày (Hs 7,11; 11,11; Is 60,8; Tv 55,7-8; 68,13; 74,19; Dc 1,15; 2,14; 5,2; 6,8) và cũng được các nền văn chương ngụy thư hoặc kinh sư sử dụng. Từ đó A. Feuillet cho rằng con bồ câu đi xuống và ngự trên Đức Giêsu tượng trưng và tiên báo điều sẽ là hoa trái chính của cuộc đổ tràn Thần Khí: đó là việc thành lập Israel mới, cộng đoàn hoàn hảo của thời đại ân phúc. Vậy, điều được diễn tả không phải trực tiếp là Thần Khí, mà là hậu quả đối với dân Thiên Chúa khi Thần Khí hiện diện nơi Đức Giêsu. Cũng như vào ngày lễ Ngũ Tuần, các lưỡi lửa không trực tiếp tượng trưng Thần Khí, nhưng là các ngôn ngữ mà các Tông Đồ được ơn Thánh Thần soi sáng sẽ nói ra, và sâu xa hơn, tượng trưng công việc phúc-âm-hóa thế giới, thì cũng vậy, con bồ câu trong Phép Rửa diễn tả ý tưởng này là Dân thiên sai phải chọn điểm khởi hành nơi bản thân Đức Giêsu-Mêsia, là Vua và Tôi tớ của Đức Chúa (Yhwh).
- Chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần (33b): Đây là công thức cung cấp chìa khóa chú giải cho thị kiến, vì công thức này giải thích ý nghĩa của bản thân Đức Giêsu trong tương quan với Israel. Công thức này cũng có trong các TMNL và trong Cv, nhưng có khác biệt đáng kể: trong Mt (3,11) và Lc (3,16), lời loan báo phép rửa trong Thánh Thần được liên kết với hình ảnh lửa và quay hướng về Đấng “mạnh hơn” sắp đến, đó là Đấng Mêsia đến để thực hiện cuộc phán xét cánh chung. Trong viễn tượng ấy, Thần Khí, vì được liên kết chặt chẽ với lửa, là sức mạnh của Thiên Chúa, là hơi thở vô địch, sẽ thực hiện cuộc phán xét này (x. Is 4,4tt). Đây là trận gió vũ bão sẽ giết chết những kẻ gian ác (x. Is 11,4).
Tuy nhiên, công trình này cũng là công trình ân phúc, nhằm thiết lập Dân Thiên Chúa của thời cánh chung, Dân được thanh luyện và thánh thiện (Mc 1,8 không nói đến lửa; x. Cv 1,5). TM IV cũng ở trong chiều hướng này, nhưng điều nổi bật vẫn là bản thân Đức Giêsu:
(1) Bằng ba lần Gioan xác định tư cách của mình (Ga 1,26.31.33), tác giả không nhắm đối lập hai phép rửa mà là hai nhân vật Gioan – Giêsu;
(2) Bằng việc sử dụng phân-từ hiện tại với quán từ xác định để diễn tả một chức năng lâu bền và tiêu biểu, chứ không chỉ là một hành động đúng lúc: “Chính là Đấng làm phép rửa (ho baptizôn, “le baptisant”) trong Thánh Thần” (1,33b).
Vậy có hai nhân vật được đặt đối lập trong vai trò lịch sử, chứ không phải là hai vai trò: Gioan có vai trò làm chứng; Đức Giêsu có vai trò làm phép rửa trong Thánh Thần.
Bởi vì không có quán từ đứng trước “Thánh Thần”, ta hiểu tác giả không muốn lưu ý về chính Thánh Thần, nhưng lưu ý về hành động, ảnh hưởng của Ngài. Do đó có thể dịch: “trong quyền lực Thánh Thần”. Nhưng công thức này có nghĩa gì?
(1) Trong viễn tượng của TM IV, phép rửa trong Thánh Thần ấy không có nghĩa là cuộc phán xét cánh chung theo truyền thống Mt–Lc;
(2) Đây cũng không phải là phép rửa được nói đến ở Ga 3,22 và 4,1, bởi vì phép rửa ấy không phải là phép rửa trong Thánh Thần.
Vậy, phải chăng là phép rửa Kitô giáo? Rất có thể, theo nghĩa gián tiếp; nhưng ở đây viễn tượng được mở rộng hơn nhiều. Phép rửa trong Thánh Thần nhắm đến và xác định hoạt động, công trình của Đức Giêsu, nhìn toàn bộ. Sứ mạng của Đức Giêsu đối với loài người chủ yếu sẽ là một phép rửa “trong Thánh Thần”. Hầu như các nhà chú giải đều đồng ý quy chiếu công thức ấy về các bản văn Cựu Ước loan báo cuộc tuôn đổ Thần Khí Thiên Chúa xuống trên cộng đoàn vào thời cánh chung (Is 32,15tt; 44,3tt; Ed 36,25-29; Ge 3,1tt). Mục tiêu là để có một dân tộc thánh thiện, quy phục lề luật Chúa, một dân tộc “nhận biết” Ngài (x. 1 QS IV,19-23…). Do có Thánh Thần ngự xuống và cư ngụ nơi mình, Đức Giêsu được coi là người thực hiện cuọc tuôn đổ Thần Khí thời cánh chung. Chính Người thực hiện việc này. Điều mới mẻ trong mạc khải Tân Ước là Đức Giêsu, Đấng Mêsia, được làm một công việc mà Cựu Ước dành riêng cho Thiên Chúa (x. Cv 2,32tt).
- Chiên Thiên Chúa (29.36): Tác giả nghĩ đến con chiên Vượt Qua, hay là con chiên được sát tế tại Đền Thờ, hoặc Người Tôi Tớ Đức Chúa trong sấm ngôn Is 53,7? Dường như khó có thể cho rằng đây là con chiên Vượt Qua hoặc con chiên của hy lễ thường ngày, bởi vì không có chỗ nào cho thấy chúng đền tạ tội lỗi. Riêng quan niệm đây là “con chiên Vượt Qua” thì cũng khó vững, tuy có câu “không một khúc xương nào sẽ bị đánh dập” được cho là của Xh 12,46 (x. Ga 19,36). Bởi cũng có câu Tv 34,21: “Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không dập gãy”, mà câu này thì nói về những người hiếu trung được Thiên Chúa bảo vệ. Đàng khác, những câu trích Cựu Ước trong phần II của TM IV, ngoại trừ Dcr 12,10 (x. Ga 19,37), đều xuất phát từ Bộ Thánh Vịnh (Tv 41,10 = Ga 13,18; Tv 35,19 và 69,4 = Ga 15,25; Tv 22,18 = Ga 19,24; Tv 22,16 = Ga 19,28), khiến chúng ta dễ cho rằng tác giả đang nghĩ tới Tv 34 hơn là Xh 12.
Người ta có thể nghĩ đến liên hệ với Is 53: bởi vì cả hai bản văn đều trình bày lễ hy sinh dưới dạng một con chiên gánh lấy tội lỗi thế gian. Tuy nhiên, trong sấm ngôn Is, con chiên được sử dụng không phải để nói đến thân phận hy lễ, nhưng để nói đến sự hiền lành, chịu đựng, phục tùng của Người Tôi Tớ. Hơn nữa, động từ airein (“xóa bỏ”; take away) của Ga không tương đương với động từ pherein (“mang lấy, gánh chịu; to bear) của Is 53,4. Cũng nên ghi nhận rằng quan niệm về một Đấng Mêsia chịu đau khổ hoàn toàn xa lạ với thời ấy (x. quan niệm của Gioan Tẩy Giả trong Mt [3,12; 11,2-3] và Lc [3,17; 7,18-19]), và sự kinh ngạc của các tông đồ khi nghe loan báo Khổ Nạn (Mc 9,32; Lc 24,21…).
Do đó, tuy có những học giả (x. NJBC) cho rằng hình ảnh “con chiên” tổng hợp Xh và Is, ta có thể diễn tả như sau: Vào giờ Đức Giêsu chết, trong khi dường như Người hoàn toàn bị bỏ rơi, Chúa Cha không bỏ rơi Người. Ga thích diễn tả tư tưởng này (Ga 8,29; 16,32). Đoạn Dcr 12,10 cũng diễn tả một cái chết đưa tới chiến thắng. Những ai đã đâm Đức Giêsu sẽ phải nhìn lên Người như nhìn một vị chiến thắng, để từ nơi cạnh sườn đã bị đâm thủng, họ nhận được ơn cứu độ bởi nước và máu, tức những biểu tượng của bí tích Rửa tội và Thánh Thể (ý tưởng của Is 53).
- Xóa bỏ: Động từ airein có nghĩa là “nâng lên”, từ đó vừa có nghĩa là “mang, vác trên mình”, vừa có nghĩa là “lấy đi, cất đi, làm biến mất”. Tác giả TM IV thường dùng động từ này theo nghĩa thứ hai (x. Ga 2,16; 5,8-12; 10,18; 1 Ga 3,5).
- Tội trần gian: Cụm từ này ở số ít nhắm đến toàn bộ tội lỗi của thế gian trong tất cả chiều rộng lẫn những hậu quả. 4.- Ý nghĩa của bản văn
Công việc làm chứng của Gioan, tác giả đã nói đến trong Lời Tựa (Ga 1,6-8.15) và trong phần đầu của TM. Gioan làm chứng trước mặt phái đoàn được gửi đến từ Giêrusalem (1,19-28) và trước các môn đệ của ông nữa (1,35-37). Ở đây, mọi sự tập trung vào nội dung lời chứng của ông. Ông nói cho biết Đức Giêsu là ai và Người sẽ làm gì, và cho thấy chính ông đã được Thiên Chúa làm cho có khả năng nêu ra chứng từ ấy.
Gioan bắt đầu và kết thúc việc làm chứng bằng cách chỉ cho thấy Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” (1,29) và là “Con Thiên Chúa” (1,34). Ông cho thấy hai hành vi căn bản của Đức Giêsu là nhận lấy nơi mình tội lỗi trần gian và ban phép rửa trong Thánh Thần. Con Thiên Chúa đến như là Chiên Thiên Chúa: công thức này cho thấy bản chất của việc Người đến, tương quan của Người với loài người và với Thiên Chúa, và công trình của Người cho loài người. Đức Giêsu không đến với quyền lực lật đổ mọi sự và ánh sáng chói loà: Người đang ở giữa loài người, nhưng loài người không biết Người (1,26). Gioan cũng chẳng biết Người trước khi được mạc khải (1,31.33). Do đó, Đức Giêsu có thể dễ dàng bị bỏ quên như một con chiên. Người đến với loài người, không phương thế tự vệ, không quyền lực hay sức mạnh (x. Mt 10,16). Người muốn chinh phục lòng tin và sự ưng thuận tự ý của họ, chứ không ép buộc hoặc lấn lướt họ; cũng vì thế, Người có thể phải gánh chịu bạo lực và ý thích của loài người. Nhưng trong tư cách là Chiên Thiên Chúa, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa; Thiên Chúa là mục tử của Người, nên Người hoàn toàn được an toàn.
Công việc của Chiên Thiên Chúa hệ tại việc nhận lấy nơi mình tội lỗi của thế gian và xóa nó đi. Trước mặt Người là một thế giới mang dấu ấn của tội lỗi, của lối cư xử sai lạc đối với Thiên Chúa. Bởi vì đối với các thọ tạo, chỉ đạt được ý nghĩa tròn đầy của cuộc sống và thành công nếu chúng sống trong tương quan đúng đắn với Thiên Chúa, thì tội lỗi chính là đánh mất ý nghĩa của cuộc đời và phải chết. Trước tiên, Đức Giêsu được nhìn nhận như là Đấng mang trên mình tất cả tội lỗi và giải thoát toàn thể tạo thành khỏi tình trạng mất hướng và khỏi phải chết (Ga 4,42; x. 3,17). Sứ mạng của Người khiến nhớ tới Bài ca IV về Người Tôi Trung, trong đó có câu Is 53,12: “Người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi”. Đức Giêsu sẽ hiến dâng mạng sống theo lệnh của Chúa Cha (Ga 10,17-18), và khi đã bị treo trên thập giá, Người trở thành dấu chỉ ơn cứu độ (3,14-15). Trong tư cách Chiên Thiên Chúa và Con Thiên Chúa, Đức Giêsu hành động như Thiên Chúa và cất đi tội lỗi của thế gian: bằng cách đó, Người tỏ bày lòng thương xót của Thiên Chúa. Cũng có thể nói chính Thiên Chúa, qua Con của Ngài, tỏ bày lòng thương xót và tình yêu của Ngài đối với thế gian trong khi thế gian lại rất thiếu sót đối với Ngài (x. 3,16).
Đấng đến trong sự khiêm nhường và không vũ khí đó lại có một phẩm giá vô song. Gioan đã tuyên bố là ông không xứng đáng làm một việc phục vụ khiêm tốn nhất của nô lệ cho Người (Ga 1,27); bây giờ ông lấy lại lời chứng trước đó (1,15) để nói về Người: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (1,30). Tất cả mọi sự đã được tạo thành nhờ Người (1,3.10) và Người cũng đã can thiệp vào trong lịch sử Israel (x. 8,56; 12,41). Nền tảng của tất cả những điều này là đời sống của Người luôn luôn hiệp thông với Chúa Cha (x. 1,1-2).
Gioan cũng có khả năng nhận biết Đức Giêsu và loan báo Người là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần (Ga 1,33). Đức Giêsu không chỉ cất đi tội lỗi và củng cố lại tương quan với Thiên Chúa, mà còn nhờ Thánh Thần, ban sự sống không bao giờ cạn kiệt của Thiên Chúa và thiết lập một tương quan mới với Ngài. Phép rửa của Người có sức thanh luyện và tái sinh. Ai nhận phép rửa của Người thì đạt tới sự sống thần linh do Chúa Cha và Chúa Con dẫn tới. Nếu Đức Giêsu làm được như thế là vì Người là Con Thiên Chúa (1,34), Người sống từ muôn đời trong sự hiệp thông bình đẳng với Thiên Chúa.
Gioan cho thấy tư cách chứng nhân của ông là hợp pháp. Bởi vì có hai lần ông đã nhận định rằng ông đã không biết Đức Giêsu bằng sức riêng (Ga 1,31-33); ông không biết Đức Giêsu bằng đầu óc hoặc cảm hứng riêng. Chính Đấng đã sai phái Người, đã dạy cho ông biết dấu chỉ hầu nhận biết Người, đó là việc Thần Khí ngự xuống (1,33). Như thế, Gioan không chỉ làm chứng về điều ông đã thấy, nhưng cả về ý nghĩa của điều đó: phẩm giá và hoạt động của Đức Giêsu.
+ Kết luận
TM IV không tường thuật phép rửa của Đức Giêsu, nhưng nhắc tới phép rửa này dưới dạng một lời chứng của Gioan về Đức Giêsu, dựa theo sự hướng dẫn của Thánh Thần: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực”. Các bản văn cổ nhất (x. Mc) gợi ý rằng cuộc thần hiển sau phép rửa được dành cho riêng Đức Giêsu mà thôi. Ngoài ra, lời tuyên bố từ trời, các thính giả không thể hiểu được, bởi vì họ chưa nghe Đức Giêsu giảng. Tuy nhiên, tác giả TM đã liên kết Gioan vào kinh nghiệm này vì muốn cho thấy ông là vị tiền hô của người môn đệ, là kẻ thấy và tin. Đối với tác giả, trước tiên không phải là tiếng nói của Chúa Cha giới thiệu Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng là sự hiện diện của Thánh Thần trong Người.
Chính là đi từ điểm này mà tác giả TM xác định tính chân thực của phép rửa Đức Giêsu mang lại, là phép rửa ban sự sống của Thần Khí (x. Ga 3,5). Người tín hữu có thể chú ý đến sự phong phú của phép rửa Kitô giáo: nhờ phép rửa này, ta được đi vào trong đời sống thần linh bởi sự sống mà Con Thiên Chúa đổ vào lòng ta nhờ Chúa Thánh Thần.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nội dung của lời chứng Gioan cho thấy vị trí tuyệt đối duy nhất và sứ mạng của Đức Giêsu. Ở đầu và ở cuối TM IV, tác giả nhấn mạnh về sự cần thiết phải có việc làm chứng để có thể đến với Đức Giêsu, bởi vì Người không cho người ta nhận biết Người qua các thị kiến, các soi sáng bên trong hoặc những bằng chứng bên ngoài. Gioan, vị chứng nhân, đã đưa các môn đệ đến với Đức Giêsu (Ga 1,35-37); tới lượt mình, các ông này cũng trở thành chứng nhân (x. 1,41.45; 19,35) và được mời gọi làm chứng (x. 17,18; 20,21).
2. Đức Giêsu đến như là Người Tôi Trung của Đức Chúa. Chúng ta nhớ lại một vài câu của Is 53 nói về nhân vật huyền bí này: “Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta. Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng. […]. Người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53,6-7.12). Đức Giêsu sẽ thay mọi người gánh lấy tội lỗi và các hậu quả của tội lỗi. Người im lặng, không hề phản kháng, Người mang trên mình tất cả những đau khổ và hiến dâng chính mạng sống mình. Nhờ đó, Người có thể đưa lại ơn cứu độ và đời sống ân sủng cho chúng ta. Chúng ta tưởng niệm công trình cứu độ Đức Giêsu đã thực hiện và học lấy bài học của Người khi ra đi tìm cách cứu thế với Người.
3. Trước khi lên rước lễ, chúng ta nhắc lại câu nói của Gioan: “Đây Chiên Thiên Chúa”. Điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Phải chăng đây chỉ là một hình ảnh thi vị, lãng mạn, nhưng xa lạ với dân Á-đông (con chiên) khiến chúng ta phải nghĩ đến việc tìm một hình ảnh thay thế (hội nhập văn hóa!)? Hay là đây là một hình ảnh đầy ắp những ý nghĩa thuộc Cựu Ước, những ý nghĩa liên quan đến việc cứu độ chúng ta? Có nhận thức rằng Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, chúng ta mới khiêm tốn thưa, như viên sĩ quan (Mt 8,8): “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…”.
4. Chúng ta cũng suy nghĩ về cung cách làm chứng của Gioan. Ông biết tư cách của mình và biết công việc phải chu toàn. Được Thiên Chúa hướng dẫn qua các dấu chỉ, ông đã nêu lên một chứng từ đơn giản và rõ ràng về Đức Giêsu. Người tín hữu bắt chước vị Tiền Hô, cứ làm chứng trong mức độ hiểu biết lúc này. Qua dòng thời gian, Thiên Chúa sẽ tiếp tục dạy dỗ để người ấy có thể nêu lên một chứng từ rõ nét và sắc bén hơn về Đức Giêsu.
Như ba Tin Mừng nhất lãm, Tin Mừng của Gioan mở đầu sứ vụ của Đức Giêsu bằng sứ vụ: TN 2-A83
Như ba Tin Mừng nhất lãm, Tin Mừng của Gioan mở đầu sứ vụ của Đức Giêsu bằng sứ vụ của Gioan Tẩy Giả trên bờ sông Giođan. Những, như những Thánh sử khác, và còn hơn thế, Gioan khởi đi từ sự kiện lịch sử này (xảy ra khoảng năm 27) để cho chúng ta một suy tư thần học (mà ngài có thời gian nghiền ngẫm đến chín muồi đến khoảng năm 95 lúc biên soạn).
Gioan không mô tả "phép rửa" của Đức Giêsu, ngài chỉ dùng một từ để gợi ra ý đó." Gioan không nói rộng việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả kêu gọi hoán cải. Sau phần lời tựa (Ga 1,1-18) là một thứ thi ca về Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, Gioan "xây dựng" một thứ "tuần lễ đầu tiên" của Đức Giêsu, nhắc lại tuần lễ cao trọng đầu tiên của việc Sáng Thế: ngày đầu tiên (Ga 1,19): chứng từ tiêu cực của Gioan Tẩy Giả: tôi không Phải là Đấng Kitô... nhưng kìa người đến ở giữa các ông". ngày thứ hai (Ga 1,29): chứng từ tích cực của Gioan Tẩy Giả đây là một đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay. Ngày thứ ba (Ga 1,35): theo sự chỉ dần của Gioan Tẩy Giả, bốn môn đệ của ông đi theo Đức Giêsu. Ngày thứ tư (Ga 1,43): ơn gọi của Philípphê. Và của Na-tha-na-en. Ngày thứ bảy (Ga 2,1): "Ba ngày sau những cảnh diễn ra ở bờ ông Giođan gần với Gioan Tẩy Giả, có tiệc cưới ở Cana miền Galilê và Mẹ Đức Giêsu cũng ở đó, và Đức Giêsu cũng được mời các môn đệ" "Dấu chỉ" đầu tiên!
Trong suốt tuần lễ khai mạc này, và chắc chắn không phải bởi sự ngẫu nhiên, Gioan tích lũy những "tước hiệu” thần học mà những Tin Mừng khác tiết lộ tuần tự sau này.
Qua lởi tựa, Gioan đã tức khắc kéo chúng ta lên đỉnh cao. Đức Giêsu là "Ngôi Lời đã trở thành người phàm" (Ga 1,1-2-14) "Ánh sáng của thế gian” (Ga 1,4-9) "Con Một của Thiên Chúa Cha mà không một ai đã thấy bao giờ” (Ga 1,14-18) "Chiên Thiên Chúa" (Ga 1,29-36) “Đấng có trước" (Ga 1,15-30) "Con của Thiên Chúa có Thần Khí từ trời xuống và ngự trên Người" (Ga 1, 32.33.34) “Thầy hay Rápbi” (Gioan 1,38-49) "Đấng Mêsia hay Kitô" (Ga 1,41) "Đức Giêsu Nagiarét con ông Giuse" (Ga 1,45) "Đấng mà Luật pháp vàcác Ngôn sứ đã nói" (Ga 1,45) "Con Thiên Chúa và Vua Israel" (Ga 1,49); và sau hết là Con Người (Ga 1,51). Bản văn rữc rỡ này, hoàn toàn đốt mọi giai đoạn mà các môn đệ phải từ từ khám phá ra căn tính của Đức Giêsu; nó báo cho chúng ta biết rằng chúng ta không thể giữ mãi một cách đọc và lý giải nông cạn và có tính giai thoại.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con vượt qua những vẻ bề ngoài. Biết bao lần, chúng ta không biết nhìn những người sống với chúng ta, và khư khư với những sự đánh giá mặt ngoài.
Rất nhiều người vào thời Đức Giêsu. đã không hiểu Người là ai. Vậy chúng ta hãy lắng nghe những chứng từ của Gioan Tẩy Giả kèm theo một loại "phát xạ" bổ sung mà Gioan nhà thần học và là chứng nhân đã đưa vào bằng sự suy niệm lâu dài của ngài. Bởi vì lúc đó, Gioan Thánh sử cũng có mặt trên bờ sông Giođan ấy.
Ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”.
"Đây là" không chỉ là môt tiếng bình thường, một từ dùng để chỉ. Từ gốc Do Thái " in neh" hoặc "zeh" là một từ ngữ Kinh Thánh rất thường gặp để chỉ "một mặc khải", bắt người ta phải tin: Chúng ta không trông mong gì, nhưng rồi đây là "Này (Đây là) trinh nữ sẽ thụ thai" (Is 7,14). "Đây là Môsê, chúng ta không biết điều đã xảy đến với ông" (Xh 32,1). "Đây là người sẽ nắm quyền trên dân Ta" (1 Sm 9,17).
“Chiên Thiên Chúa" "Đấng xóa bỏ tội trần gian"
"Chiên"! "Tội"! Hai tiếng ấy không đi vào trong những phạm trù trí tuệ của con người hiện đại hậu công nghiệp. Những từ mà chúng ta lặp lại và ca hát nhiều lần ở mỗi thánh lễ. Tuy nhiên, đó là những từ "phát xạ" nếu như chúng ta biết nhận ra sự tỏa sáng của chúng. Những từ dùng để tuyên xưng đức tin của các cộng đoàn đầu tiên.
Những từ chứa đựng cả một nền thần học cả một quan điểm về lịch sử và về con người. Những từ mà người ta không thể chỉ lấy ý nghĩa ngây thơ của chúng: sự hiền lành, yếu đuối và âu yếm của con chiên nhỏ. Những từ ấy chỉ có thể hiểu được trong sự sâu sắc của Kinh Thánh, bằng việc chấp nhận nền văn hóa mà những từ ấy chuyển chở. Chúng ta hãy thử để cho mình được "chiếu xạ" bởi sức chứa nóng bỏng của chúng, nhưng vẫn luôn ở trong hiện tại.
Đối với các thính giả Do Thái, sự ám chỉ về "chiên” xuất hiện rõ ràng ở đền thờ Giêrusalem, mỗi ngày, người ta hiến sinh một con chiên để thanh tẩy tội lỗi của dân. Với máu của một con chiên vượt qua bị cắt cổ vào mùa xuân khi sự sống hồi sinh sau mùa đông, người ta bôi máu đó lên cửa nhà; để nhớ lại kỷ niệm bồn chồn của ngày giải phóng khỏi sự áp bức của Ai Cập (Xh 12). Theo sau Giêrêmi, các ngôn sứ đã so sánh Israel bị lưu đầy với chiên con vô tội để người ta đem đi sát tế mà không mở miệng nói một lời nào (Is 53,7; Gr 11,19). Các giáo trưởng đã giới thiệu Đấng Mêsia sẽ đến như một con cừu đực vinh quang, với cặp sừng mạnh mẽ, sẽ quật ngã những kẻ thù của Thiên Chúa. Phải chăng chúng ta không còn có những chuồng chiên dịu dàng. Chúng ta bị chìm ngập trong tính thời sự khắp nơi. Bạo lực, đàn áp đủ loại. Mọi thời đại và thời đại của chúng ta cũng thế, niềm hy vọng giải phóng luôn chỗi dậy: NGÀY HÔM NAY. Khoa học tiến bộ kỹ thuật, những cuộc đấu tranh xã hội và chính trị được đẩy tới mức huyền thoại hóa những lãnh tụ đấu tranh thành những người cứu độ. Than ôi! Những cuộc cách mạng, khi đã hoàn thành thường chỉ là đổi chỗ những bất công và những sự chuyên chế áp bức. Và con người vẫn còn mãi đói khát một sự giải phóng, một sự cứu độ triệt để.
“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian". Cơ cấu áp bức bên ngoài chỉ là sự biểu hiện một sức mạnh khác ở nội tâm: cái xấu, ác ở bên trong; trong tôi, trong bạn, trong họ. Tôi ở đây là danh từ dùng ở số ít, không phải là nhỏ mà phải hiểu là toàn thể! Đức Giêsu sẽ gánh lấy, và làm biến mất toàn thể tội lỗi của thế gian trong một cuộc chiến đấu đẫm máu, Người sẽ đổ hết máu mình làm vật hiến tế trước những tay đao phủ. Đức Giêsu, Cứu Chúa của chúng ta! Đấng cất bỏ tội lỗi. Ơ đây Thánh Gioan dùng một từ ngữ Hy Lạp có nghĩa kép mà thánh sử thích dùng cả hai: “airein”, vừa có nghĩa “gánh vác, lãnh nhận” vừa có nghĩa “cất đi, lấy đi làm biến mất” Đức Giêsu không phát triển công cuộc giải phóng bằng cuộc chiến đấu bên ngoài theo kiểu “đội đặc công” trả đũa áp bức bằng bạo lực; nhưng bằng cách lãnh nhận trên chính người, bằng cách chịu đựng trong sự liên đới với mọi người bị áp bức của thế giới.
Bạn hỡi! khi bạn hát đến những lời này trong thánh lễ, bạn hãy để cho những lời ấy làm bạn tỏa sáng, mà chớ dừng lại ở bề mặt các từ ngữ và cử chỉ. Đồng thời, nếu bạn làm một cử chỉ chúc bình an hãy nghĩ đến sự súc tích của cử chỉ ấy: Sự hòa giải chân thật, tình huynh đệ chân thật tình yêu thương chân thật với người đối diện. Mọi nỗ lực hiểu biết người khác không ở trong tầm tay của bạn, dù khi bạn luôn giơ tay mình ra. Đó là một ơn mà bạn phải nhận từ Thiên Chúa và mọi nỗ lực của bạn tuy cần thiết cũng không thể kiến tạo sự hiểu biết ấy. Bạn hãy mở bàn tay bạn ra. Bạn hãy nhận lấy Mình Chúa bi nộp vì bạn. Bạn hãy tiếp nhận Golgotha vào lòng bạn.
Chính Người là Đấng mà tôi đã nói tới khi bảo rằng: "Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi. Tôi đã không biết Người. Nhưng để Người được tỏ ra cho dân Israel. tôi đến để làm phép rửa trong nước".
Về mặt lịch sử và con người, Gioan Tẩy Giả đã được thụ thai và sinh ra trước Đức Giêsu. Nhưng phải vượt qua những vẻ bề ngoài, những sự hiển nhiên duy lý. Đức Giêsu đến từ nơi khác. Nếu Người có thể “cứu chúng ta một cách triệt để, bởi vì Người hơn một con người. Lấy lại sự suy niệm của lời tựa, Gioan nói lại với chúng ta sự có trước của Ngôi Lời. "Nhờ Người, vạn vật được tạo thành", được Chúa Cha sinh ra từ thuở đời đời. Đức Giêsu thực hiện lại hành động Sáng Thế. Vũ trụ, bị tội lỗi làm hư hỏng, bị bao lực làm tổn thương, bị sự không có tình yêu làm cho nhiễm độc; sẽ được "tái tạo" toàn bộ, từ đầu đến cuối: Đó là “tuần lễ đầu tiên" của sự canh tân. "Tôi đã không biết Người" Gioan Tẩy Giả nói. Tuy nhiên đó là em họ của ông. Chúng ta không biết Đức Giêsu chừng nào chúng ta vẫn còn ở lại trên bình diện con người.
Ông Gioan còn làm chứng: tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuồng và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần".
Đàng sau vẻ bề ngoài tầm thường của con người Nagiarét, Cả một mầu nhiệm được che giấu. Người được xức dầu, thánh hiến, được thấm nhuần. Thần Khí của Thiên Chúa xuống trên Người và ở lại trong Người! Sự hiện diện không ai biết. được che giấu. Tôi đã không biết Người. "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng đón nhận" (Ga 1,5-10). Đôi khi chúng ta thường nghĩ rằng mình biết Đức Giêsu, thật ra chúng ta không bao giờ hết chấm phá ra Người. Chúng ta phải hoàn toàn nhỏ bé, nghèo khó, hoàn toàn mở ra cho sự mạc khải.
Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.
Một vài thủ bản cho bản văn mà các nhà chú giải thấy đúng hơn và bản dịch tiếng Việt theo bản văn đó: “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" thay vì "Con Thiên Chúa". Cách diễn tả này tương đương với "Người yêu dấu” "Con yêu dấu” "Con Một"; ám chỉ đến các bài thơ của Người Tôi Tớ mà chúng ta đọc hôm nay và Chúa nhật vừa qua trong bài đọc một (Is 42,1 - 49,5).
Bạn hỡi, vào lúc mà con yêu dấu bắt tay thực hiện một sự sáng thế mới, giải thoát mọi người khỏi tội lỗi đã bắt sự sáng thế đầu tiên phải hàng phục, lúc ấy bạn sẽ để cho mình được tái tạo. Phải chăng bạn sẽ chấp nhận Đức Kitô tái tạo bạn. Bạn sẽ chấp nhận phép rửa và sự nhúng chìm mình trong Chúa Thánh Thần, bạn sẽ để mình đổi mới từ bên trong; bạn sẽ để mình được nhân bản hóa đến cùng trong sự "tham dự vào bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Ngày nay, hai thanh niên gặp nhau đó là Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu. Một thế giới mới bắt đầu; một thế giới của tình yêu thương.
1. LỜI CHÚA: Gio-an thấy Đức Giê-su tién về phía mình liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trằn gian"... Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" (Ga 1,29.33-34).
2. CÂU CHUYỆN: ĐƯỢC SỐNG NHỜ CON CHIÊN
Một anh thợ nề kia đang làm việc trên mái nhà thờ Verden nước Đức. Khi anh đang đu mình trên: TN 2-A84
Một anh thợ nề kia đang làm việc trên mái nhà thờ Verden nước Đức. Khi anh đang đu mình trên tường cao để sửa lại phần mái của nhà thờ để chống dột thì dây an toàn anh đang mang đã bị đứt do sử dụng lâu ngày bị mục nên anh thợ bị rơi từ độ cao 20 mét xuống sàn nhà thờ. Nhưng rất may một con chiên đang ăn cỏ ở vườn sau nhà thờ, đột nhiên chạy đến ngay chỗ anh thợ đang làm việc ở phía trên, và anh ta đã thoát chết nhờ ngã đè lên con chiên ấy. Về sau, để tỏ lòng biết ơn con chiên ấy, người ta đã làm một bức tranh tượng bằng đá quý khắc hình con chiên với hàng chữ "Con Chiên Cứu Độ". Hiện nay bức tranh tượng bằng đá nói trên vẫn được gắn tren tường nhà thờ Verden để kỷ niệm câu cảm động nói trên. Tuy nhiên hình ảnh con chiên mói trên chỉ là hình bóng của Đức Giê-su là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng đã bị sát tế trên bàn thờ thập giá để tẩy xóa tội lỗi trần gian chúng ta.
3. SUY NIỆM:
Trong Tin mừng hôm nay ông Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giê-su với các môn đệ của ông như sau: "Đây Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa bỏ tội trần gian" (Ga 1,29). Qua đó, Gio-an đã giới thiệu Đức Giê-su chính là Con Chiên cứu độ và là lễ vật đền tội thay thế lễ vật chiên cừu theo Luật Mô-sê:
1) Đức Giê-su là Con Chiên lễ Vượt Qua:
Thời kỳ Xuất Hành, để thi hành sứ mạng giải phóng con cái Ít-ra-en khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập, ông Mô-sê đã phải thi thố mười dấu lạ trước mặt triều thần Ai Cập. Nhưng phải đến dấu lạ thứ mười, Pha-ra-ô Ai Cập mới chịu khuất phục và bằng lòng cho con cái Ít-ra-en ra đi. Mô-sê liền truyền cho mỗi nhà Ít-ra-en giết một chiên đực một tuổi để ăn thịt chiên với bánh không kịp ủ men. Họ phải lấy máu con chiên đó quét lên thành cửa nhà mình. Đêm hôm ấy, thần sứ hủy diệt của Đức Chúa sẽ đánh phạt các con đầu lòng của người Ai-cập và vượt qua nhà có bôi máu chiên là nhà con cái It-ra-en. Như vậy các con đầu lòng con cái Ít-ra-en đã được cứu khỏi phải chết nhờ máu con chiên Vượt Qua đã chịu chết thay. Về sau, tông đồ Phao-lô đã ví con chiên lễ Vượt Qua là hình bóng của Đức Giê-su là Con Chiên Thiên Chúa như sau: "Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế chúng ta đừng lấy men cũ là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng Đại lễ" (1 Cr 5,7-8).
2) Đức Giê-su là Đấng xóa bỏ tội trần gian:
Theo Luật Mô-sê, mỗi ngày hai lần sáng và chiều, các tư tế phải giết một con chiên trước bàn thờ làm lễ vật hiến tế dâng cho Đức Chúa để đền tội thay cho con cái It-ra-en (x. Xh 29,38). Nhưng máu bò, máu dê cừu thực sự không thể xóa bỏ được tội lỗi nên Con Thiên Chúa đã chấp nhận xuống thế làm người, trở nên Con Chiên mới của Thiên Chúa, đổ máu mình ra để tẩy rửa tội lỗi trần gian. Khi giới thiệu Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa (x. Ga 1,29), Gio-an Tẩy Giả cho thấy Người mới là lễ vật hoàn hảo được dâng lên Thiên Chúa để thay thế lễ vật chiên cừu thời Cựu Ước (x. Ds 28,3-8). Tác giả thư Do thái đã diễn tả về việc đền tội này như sau: "Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ" (Dt 10,8-10). Ngày nay trong thánh lễ sau bài Vinh Tụng Ca, chủ tế cũng giới thiệu Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa như Gio-an: "Đây Chiên Thiên Chúa, Đây Đấng xóa bỏ tội trần gian".
3) Kết hiệp với Đức Giê-su Chiên Thiên Chúa để góp phận cứu độ trần gian:
- Ngôn sứ I-sai-a đã ví Người Tôi Tớ của Đức Gia-vê hiền lành và khiêm nhường như con chiên bị đem đi làm thịt mà không kêu lên một tiếng. Gioan Tẩy giả trong Tin mừng hôm nay cũng giới thiệu Người Tôi Tớ của Đức Chúa đó chính là Đức Giê-su con chiên cứu độ: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian" (Ga 1,29). Con chiên là con vật hiền lành, ngoan ngoãn sống theo bầy đàn và vâng lời người mục tử chăn dắt chúng. Chiên còn hy sinh để phục vụ sự sống của chủ chiên. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tố cáo các mục tử dân Ít-ra-en tội ích kỷ khi họ chỉ lo tìm hưởng lợi nơi đàn chiên mà lại tỏ ra vô trách nhiệm đối với sự an nguy của chúng như sau: "Sữa chiên các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt" (Ed 34,3). Thời Mô-sê con chiên cũng được chỉ định dùng làm lễ vật để sát tế dâng cho Đức Chúa và làm lễ vật đền tội thay cho dân chúng trong lễ xá tội.
- Ngày nay Hội Thánh chính là đoàn chiên của Thiên Chúa cũng được mời gọi kết hiệp với Đức Giê-su là Con Chiên Vượt Qua cứu độ nhân loại. Nhờ bí tích thánh tẩy, mỗi tín hữu được trở thành chi thể của Chúa Giê-su và được tham phần vào chức vụ tư tế của Người nên chúng ta cũng được mời gọi làm con chiên đền tội, để cùng với Người, chúng ta dâng trót đời mình làm hy lễ cứu rỗi thế gian. Mỗi tín hữu cần luôn hiệp thông với Chúa Giê-su bằng việc mỗi ngày chu toàn việc bổn phận, dâng lên Chúa các việc hy sinh hãm mình, việc bác ái, các đau khổ gặp phải khi bị người chung quanh hiểu lầm chống đối... để kết hiệp với của lễ trên bàn thờ là Chúa Giê-su Con Chiên Thiên Chúa, Đấng đã chịu chết trên bàn thờ thập giá để xin ơn tha tội cho mọi người. Hình bóng của con chiên Cựu Ước đã được nên trọn trong Đức Giê-su Chiên Thiên Chúa thời Tân Ước.
2) Khi bị hiểu lầm, bị vu khống oan uổng, bạn sẽ làm gì để noi gương Đức Giê-su ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết noi gương thánh Gio-an Tẩy Giả biết giới thiệu Chúa là Con Chiên Thiên Chúa bằng lời nói và hành động trước mặt mọi người. Mỗi lần dự lễ, xin giúp chúng con biết dâng lên Thiên Chúa những sự hy sinh vất vả, những công việc tông đồ bác ái để kết hiệp với lễ vật Mình Máu Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được tẩy xóa tội lỗi và được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
Chúng ta vừa kết thúc phụng vụ Mùa Giáng Sinh. Những trang trí hoa đèn của mùa Noel đã được: TN 2-A85
Chúng ta vừa kết thúc phụng vụ Mùa Giáng Sinh. Những trang trí hoa đèn của mùa Noel đã được tháo gỡ và hạ xuống. Bầu khí khu thánh đường trở lại vẻ lặng lẽ và bình thường trong khí trời tuyết lạnh. Giờ đây chúng ta bắt đầu tiếp tục suy gẫm về sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu. Chúng ta được thánh Gioan Tiền Hô giới thiệu: Khi ấy, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình liền nói: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian (Ga 1, 29). Khai mở một triều đại mới của Nước Trời. Chúa Giêsu đã hiện diện đồng hành với Dân Người. Chúng ta cần học hiểu về ý nghĩa thần học của con chiên. Chúa Giêsu được ví như cửa chuồng chiên, người chăn chiên tốt lành và chủ chiên. Chủ chiên đi trước và đàn chiên bước theo sau. Trong Cựu Ước hình ảnh quen thuộc của những con chiên tinh tuyền bị hiến tế, con chiên gánh tội, con chiên hiền lành bị xén lông và bị giết để lấy máu chiên đuợc bôi trên cửa, rảy trên dân chúng và thịt chiên nướng làm của ăn.
Tiên tri Isaia đã tiên báo nhiều điều về Đấng sẽ ban ơn cứu độ. Ngài là ánh sáng và nguồn qui tụ mọi con dân về một mối: Người đã phán: "Làm tôi tớ Ta chẳng có là bao, để tái lập các chi họ Giacóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về; này đây Ta đặt ngươi như ánh sáng các dân tộc để ơn cứu độ của Ta tràn lan khắp địa cầu" (Is 49, 6). Khoảng 600 năm trước Chúa Giêsu, Isaia đã có những thị kiến ngưỡng vọng về một tương lai huy hoàng. Thiên Chúa sẽ qui tụ mọi con cái đang tản mát khắp nơi về một nguồn sống. Ơn cứu độ sẽ lan tràn khắp chốn và vinh quang của Thiên Chúa sẽ được chiếu tỏa khắp mọi nơi: Chúa đã phán cùng tôi: "Hỡi Israel, ngươi là tôi tớ Ta, vì Ta được vinh danh nơi ngươi" (Is 49, 3).
Gioan Tẩy Giả là vị tiên tri sau cùng nối kết giữa Cựu Ước và Tân ước. Chương trình cứu độ được thể hiện qua dòng dõi của một Dân tộc mà Chúa đã chọn. Trải qua thời gian, cho dù dân chúng có ngỗ nghịch, ương ngạnh và từ bỏ Chúa, Thiên Chúa vẫn tín trung giữ lời đã giao ước với các cha ông. Gioan được sai đến như vị tiên hô để chứng dám và giới thiệu cho toàn dân về Đấng Cứu Thế: Và Gioan đã làm chứng rằng: "Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Ngài. Về phần tôi, tôi đã không biết Ngài (Ga 1, 32). Gioan đã chu toàn sứ mệnh tiền hô và chuẩn bị lòng dân đón Chúa. Ông đã được nhìn xem tận mắt và chứng kiến Đấng đến sau ông và ông không xứng đáng cúi xuống cởi giây giầy cho Ngài.
Gioan kêu gọi mọi người hãy chuẩn bị đường lối của Chúa cho ngay thẳng. Có nhiều người đã chạy đến với Gioan xin lãnh nhận phép rửa sám hối. Một số người thật lòng sám hối ăn năn và sửa đổi đời sống. Cũng có những vị tai mắt trong dân thuộc nhóm Biệt Phái và Xa-đốc chạy đến với Gioan xin nhận phép rửa, nhưng Gioan đã đọc được tâm tư của họ, ông nói với họ: Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? (Mt 3, 7). Gioan đã mạnh mẽ rao giảng sự thật giúp mọi người chuẩn bị đón nhận Nước Trời. Ông đã không vị nể người quyền thế, nhưng đã dám đối diện thách thức các vị chức sắc trong xã hội và tôn giáo. Gioan đã vạch rõ con đường nội tâm phải sửa đổi cho ngay thẳng và chân thành.
Có một vị giảng thuyết ngoài đường phố đặt một thùng xà phòng ở một góc đường có đông người qua lại. Ông ta can đảm rao giảng về Chúa và sự cần thiết có Chúa trong đời sống, nhưng người qua kẻ lại chỉ đáp lại với thái độ thờ ơ lãnh đạm. Đột nhiên, ông thay đổi cách thế rao giảng. Kìa có một viên chức trong văn phòng biệt thự đi ra ngoài để ăn trưa, vị giảng thuyết nhìm chăm chăm vào mắt ông và đưa ngón tay chỉ thẳng vào mặt ông và la lớn: Có tội. Rồi ông giữ im lặng vài giây, chọn từ khác 'nạn nhân' để cố gắng kéo sự chú ý của vị khách. Ông đưa cánh tay phải lên và chỉ ngay mặt và la to: Tội phạm. Sự đáp trả rất ngoạn mục, khi mới khởi đầu ra rao giảng, sự đáp trả chỉ là một sự khinh rẻ và cười nhạo hay chỉ là vô tư. Tuy nhiên, bây giờ, sự trả lời là một sự quấy động nội tâm và mỗi vị trong các viên chức văn phòng thực sự bắt đầu cảm thấy có điều lỗi. Có vẻ như là vị giảng thuyết đang đụng chạm tận cửa nhà và hình như người ta nghĩ vị giảng thuyết đã biết những sự thầm kín của họ.
Tuy thời gian không dài nhưng ông Gioan Tẩy giả đã hoàn thành được sứ mệnh của người dọn đường. Ông đã xác tín một điều mà muôn dân đợi trông: Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa" (Ga 1, 34). Ngày nay chúng ta có cơ hội học biết về toàn thể lịch sử ơn cứu độ. Chúng ta có một bức tranh diễn tiến qua từng giai đoạn đón chờ của Dân Thánh. Chúng ta học biết một cách rõ ràng hơn về cách thế Thiên Chúa đã dẫn dắt lịch sử. Chúng ta biết rằng dân Do-thái thuở xưa đã phải lần bước trong đêm tối của đức tin với niềm hy vọng. Ngày nay có rất nhiều người Do-thái vẫn còn trong tâm tình chờ đợi. Những lời tiên báo, những dấu chỉ và sự xuất hiện của Ngôi Lời đã đến cách đây cả hai thiên niên kỷ. Đôi khi chúng ta tự hỏi: Tại sao nhiều người Do-thái trong thời đó đã không nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng xóa tội trần gian? Vì Chúa Giêsu đã ẩn mình xuống thế làm người như chúng ta.
Chiên Thiên Chúa đã xuất hiện và đã làm rất nhiều phép lạ để tỏ bày uy quyền trên mọi tạo vật. Có rất nhiều người đã được ơn chữa bệnh, được ăn bánh, cá và được nhìn xem những dấu chỉ lạ thường, nhưng họ vẫn không tin. Từ dòng dõi này qua dòng dõi kia, họ vẫn còn trong tâm tình chờ đợi khao khát ơn cứu độ. Thánh Gioan Tẩy Giả đã đọc được những tâm tình của những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Các thượng tế nắm chặt truyền thống và trung thành với Giáo Ước cũ. Nhưng lạ thay, các nhà chiêm tinh ngoại giáo đã nhìn thấy dấu chỉ và tìm đến cung đình để hỏi vua Hêrôđê về Vua của Dân Do-thái. Vua Hêrôđê đã tụ họp các Thượng tế và Kinh sư cẩn thận tìm hiểu lời tiên báo của các ngôn sứ nói về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế: Phần ngươi, hỡi Belem, miền đất Giuđa, người đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì người là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời (Mt 2, 6).
Chúa Giêsu Kitô đã đến và rao giảng tin mừng Nước Trời. Trong thời gian ngắn ngủi, Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời do miệng các tiên tri đã phán dậy. Ngài đã hiến thân mình như con chiên hiền lành bị đem đi giết. Chính Ngài đã hiến dâng mình để cứu độ và giải thoát con người khỏi tội lỗi, sự tối tăm và sự dữ. Ngài đã chiến thắng tử thần, đã sống lại từ cõi chết và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Danh thánh của Ngài được truyền rao qua mọi thế hệ. Trong thơ của thánh Phaolô tông đồ gởi cho giáo đoàn Corintô đã trình bày: Kính chào Hội Thánh Chúa ở Côrintô, những người được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi nên thánh, làm một với tất cả mọi người khắp nơi đang kêu cầu thánh danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta (1 Cor 1, 2). Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng: Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian xin thương xót chúng con. Chúa Chiên Lành đã yêu thương ẵm vác trên vai những con chiên bị thương tích và đưa dẫn chiên lạc lối trở về. Xin cho chúng con biết dõi theo lối bước của Chúa đến đồng cỏ xanh tươi, có nguồn suối mát và chúng con sẽ được nghỉ ngơi an bình.
Người đời thường ham danh, hám lợi. Địa vị và bổng lộc luôn là cơn cám dỗ của con người qua: TN 2-A86
Người đời thường ham danh, hám lợi. Địa vị và bổng lộc luôn là cơn cám dỗ của con người qua mọi thời đại. Đời nào cũng có những Thạch Sanh và Lý Thông. Đời nào cũng có những tranh giành ảnh hưởng dẫn đến loại trừ lẫn nhau. Vì ham danh, hám lợi nên người ta thường tìm vinh quang cho bản thân của mình, người ta thường đề cao chính mình một cách kiêu hãnh, đôi khi ảo tưởng về bản thân của mình. Nhất là trong những thành công là dịp để kẻ ham danh hám lợi tự dương tự đắc về mình. Đôi khi lại còn cướp công trạng người khác. Khi thành công người ta đua nhau báo cáo công trạng. Ai cũng muốn dành lấy công trạng về mình, ai cũng cho rằng mình có công, có sức để đem lại thành công. Ngược lại, khi thất bại hay khi công việc không êm xuôi, người ta thường đổ lỗi lên nhau và thoái thác trách nhiệm. Ở Việt Nam trong năm vừa qua rất nhiều công trình đang làm dở dang đã bị đổ xập hoặc chưa nghiệm thu đã xuống cấp thê lương, thế nhưng có mấy ai dám nhận lấy lấy trách nhiệm để sửa sai, có mấy đoàn thể hay cơ quan nào đã dám đấm ngực thú nhận vì lỗi của mình mà hàng tỷ đồng cùng với bao nhiêu nhân mạng phải chôn vùi dưới cát bụi cuộc đời? Thảm hoạ lớn nhất của Việt Nam chính là tai nạn giao thông. Theo thống kê nằm 2010 có hơn 11.000 người chết và hơn 10,000 người tàn phế suốt đời. Gọi là thảm hoạ vì trung bình 1 tháng có hơn 2000 người chết và tàn tật. Nhưng đáng tiếc là không ai dám nhận trách nhiệm về thảm hoạ này? Phải chăng xã hội mà chúng ta đang sống đã không còn những con người can đảm nhận lãnh trách nhiệm trước cái sai về mình? Phải chăng chỉ có những con người bé mọn mới phải gánh chịu những phận số hẩm hiu và những cay nghiệt của dòng đời?
Lời Chúa hôm nay, gợi lên cho chúng ta hai hình ảnh thật đẹp về hai lối sống mà xem ra xã hội hôm nay đã không còn. Đó chính là lối sống khiêm nhường của thánh Gioan và hình ảnh Chiên gánh tội của Chúa Giêsu. Thánh Gioan Baotixita tượng trưng cho sự khiêm tốn còn Chúa Giêsu tượng trưng cho lòng quảng đại hy sinh. Thánh Gioan đã biết chỗ đứng của mình chỉ là kẻ dọn đường. Ngài không tìm vinh quang cho mình. Ngài đã chấp nhận mình cần nhỏ bé để Chúa được lớn lên trong Ngài. Ngay chính lúc ngài được nhiều người ngưỡng mộ, ngài vẫn can đảm quên đi cái tôi của mình để nói về Chúa cho anh em: "Có người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi". Còn Chúa Giêsu đã được Gioan giới thiệu như là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian. Ngài là Thiên Chúa nhưng đã từ bỏ địa vị Thiên Chúa để mặc lấy thân phận con người. Ngài mang lấy thân phận con người nên cũng đồng hoá mình với các tội nhân. Ngài không có tội nhưng lại mang tội vì chúng ta. Ngài đã đi vào kiếp người để gánh chịu những đau khổ thể xác và tinh thần như là hậu quả của tội tổ tông. Ngài đã thực sự sống một kiếp người truân chuyên để nên đồng hình đồng dạng với chúng ta, qua đó Ngài chuyển giao ơn thánh đến cho con người, để từ nay con người nhờ sự kết hợp với Ngài cũng được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong tư cách là con Thiên Chúa. Vì Ngài là Thiên Chúa đã mang lấy thân phận con người để con người trở thành con cái Thiên Chúa (I-rê-nê)
Cuộc đời của Thánh Gioan là một cuộc đời đẹp vì Ngài sống để tìm vinh quang cho Thiên Chúa. Cuộc đời ngài càng rạng rỡ hơn khi ngài khiêm tốn quên mình để Chúa tỏ hiện ra trong cuộc sống của ngài.
Cuộc đời Chúa Giêsu là cuộc đời đẹp vì ngài đã dám mang lấy tội nhân gian. Ngài có thể đứng ngoài cuộc. Ngài không nhất thiết phải là người mới có thể cứu độ con người. Thế nhưng, Ngài đã mang lấy thân phận con người để đền tội nhân gian. Ngài đi vào kiếp người để chia sẻ những đắng cay ngọt bùi cũng chỉ vì yêu thương nên muốn nên một với chúng ta.
Đó cũng là cách sống mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy sống cho thế giới hôm nay. Một thế giới có quá nhiều kẻ ham danh, ham lợi mà lại quá ít kẻ dám gánh lấy trách nhiệm. Một thế giới có quá nhiều kẻ kiêu hãnh, thích ăn trên ngồi chốc thiên hạ nhưng lại quá ít người khiêm tốn để phục vụ tận tụy và hy sinh. Một thế giới có quá nhiều kẻ tham lam ích kỷ, chỉ lo vun quén cho bản thân mà lại quá ít người rộng lượng đế cứu nhân độ thế. Xem ra người tốt chỉ là những ánh sao lẻ loi trên bầu trời đêm tối mà mây đen che kín khung trời. Dầu vậy, một ánh sao vẫn đủ để xoá tan bóng đêm của sợ hãi lo âu và khơi lên một niềm hy vọng, vì "sau cơn mưa trời lại sáng".
Thế giới hôm nay không cần kẻ kiêu hãnh, vì người kiêu hãnh chỉ làm hại người hại đời. Thế giới hôm nay rất cần những con người khiêm tốn mới có thể dễ dàng cúi mình phục vụ anh em trong mọi nơi, mọi lúc và mọi công việc. Thế giới hôm nay rất cần những con người dám sống liên đới trách nhiệm với nhau để xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương. Ước gì là người kytô hữu chúng ta dám sống như Gioan luôn khiêm tốn sống với anh em và như một Giêsu, dám hy sinh cả mạng sống mình vì hạnh phúc của anh em. Ước gì lời mời gọi của Thầy Giêsu "hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng" luôn là kim chỉ nam cho đời kytô hữu sẵn lòng hiến dâng để phục vụ tha nhân. Amen.
Trên nóc một ngôi nhà thờ ở bên Đức, người ta nhìn thấy bức tượng hình con chiên được tạc bằng: TN 2-A87
Trên nóc một ngôi nhà thờ ở bên Đức, người ta nhìn thấy bức tượng hình con chiên được tạc bằng đá. Nguồn gốc bức tượng ấy như sau: Một anh công nhân đang làm việc trên mái nhà thờ này thì dây an toàn bị đứt, thế là anh ta bị rớt xuống sân. Mà sân thì lại đang chất toàn những đống đá lớn. Thế nhưng anh ta không bị thương nặng, chỉ vì lúc bấy giờ có một con chiên đang gặm cỏ giữa hai đống đá. Anh ta rớt xuống trên con chiên, đè nó chết nhưng anh ta thì lại được sống. Để nhớ ơn, anh ta đã chạm trổ một con chiên bằng đá và đặt ở trên nóc nhà thờ, anh nghĩ đó là một cách tốt nhất để bày tỏ lòng biết ơn đối với con vật đã cứu mạng cho anh mà nó lại chẳng hề biết.
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta phải biết ơn sâu xa đối với Đức Kitô, con Chiên Thiên Chúa đã cứu chúng ta khỏi cái chết đời đời. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã hy sinh mạng sống như lời thánh Gioan Tiền Hô đã xác quyết: Đây Con Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian.
Với người Do Thái thời bấy giờ, con chiên trong Cựu Ước thường được dùng làm hy tế. Khi Gioan giới thiệu Chúa Giêsu là Con Chiên, thì có nghĩa là Ngài sẽ trở thành lễ vật hiến tế để giao hoà con người với Thiên Chúa.
Hình bóng của Cựu Ước đã được nên trọn vẹn nơi Tân Ước. Không chỉ qua đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta mới thấy Đức Kitô được gọi là con chiên. Hơn thế nữa, thánh Gioan trong sách Khải Huyền đã gọi Đức Kitô là con chiên những 27 lần, ngoài ra thánh Gioan còn xác quyết: Đức Kitô đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta.
Giáo Hội ngay từ thời sơ khai cũng đã nhiều lần dùng hình ảnh con chiên để nói về Đức Kitô trong những tác phẩm của mình. Đặc tính của con chiên là sự ngây thơ, hiền lành, nhẫn nhục, trong sạch. Đó là những đức tính quý báu của Đức Kitô, con chiên không tì vết.
Là người kitô hữu, chúng ta không ngừng cầu khẩn Ngài với danh hiệu con Chiên Thiên Chúa. Lát nữa đây, trước khi rước lễ, chúng ta sẽ hát lên: Lạy Chiên Thiên Chúa. Anh công nhân Đức đã tạc tượng kỷ niệm để nhớ ơn con chiên đã cứu mạng cho anh mà nó chẳng hề sẵn sàng. Còn Đức Kitô vì yêu thương chúng ta, đã sẵn sàng chịu chết vì chúng ta.
Thế nhưng chúng ta đã làm được những gì để biểu lộ lòng biết ơn và lòng yêu mến của chúng ta đối với Ngài?
Vào một buổi tối năm 1741, người ta thấy người nhạc sĩ già Hallmen lang thang trong một phố nghèo: TN 2-A88
Vào một buổi tối năm 1741, người ta thấy người nhạc sĩ già Hallmen lang thang trong một phố nghèo lênh đênh bên Anh Quốc. Người nhạc sĩ già như đang nuốt từng nỗi đắng cay mà triều đình đã dành cho ông. Từ hơn 40 năm qua, ông đã đem tất cả tài năng và sự hăng say của mình để phục vụ triều đình. Thế nhưng, giờ đây ông cảm thấy mình giống như một trái chanh đã vắt hết nước.
Bốn năm trước đó, ông đã bị chứng xuất huyết não làm cho ông bị bại hẳn một bên, khiến ông không còn đi đứng bình thường và sáng tác được. Nhưng dần dần nhờ ý chí sắt đá, ông đã thu hồi được khả năng đi lại và bắt đầu sáng tác lại. Nhưng giờ đây với cái tuổi 60 và với khí trời lạnh như cắt của nước Anh, ông cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Tình cờ, khi đi qua một ngôi Thánh Đường, ông bỗng nghe vọng lên trong tâm hồn ông chính tiếng kêu của Chúa Giêsu: Lạy Chúa con, lạy Chúa trời con. Sao Chúa bỏ con".
Như có một sự thôi thúc lạ lùng, người nhạc sĩ quay về nhà, trong đám giấy vứt ngổn ngang trên bàn làm việc, ông đọc được câu Kinh Thánh như sau: "Người đã bị khinh bỉ và bị mọi người phế bỏ". Nguồn cảm hứng tưởng đã cạn nay lại trải cuộn trên từng trang giấy, hết trang này đến trang khác, những nốt nhạc cứ thế mà tuôn trào. Sau hai mươi bốn ngày làm việc liên lỉ, nhạc sĩ Hallmen đã hoàn thành tác phẩm để đời tựa đề là: "Đấng Cứu Thế". Từ đó, cứ mỗi dạo Giáng Sinh và Phục Sinh người ta lại có dịp nghe được tác phẩm tuyệt trác để đời.
Anh chị em thân mến!
Người ta thường ví sự chào đời của một tác phẩm với sự cưu mang, cũng như một người mẹ mang nặng đẻ đau thì nhà nhạc sĩ cũng cưu mang ý tưởng để rồi với không biết bao nhiêu nhọc công và cố gắng, tác phẩm mới được chào đời. Hơn bất cứ ai trong trường hợp nào, tiếng khóc Đấng Cứu Thế đã được nhạc sĩ Hallmen cưu mang để rồi sinh ra với muôn nghìn đớn đau của ông. Hơn ai hết, chính khi cảm nghiệm được thế nào là sự bỏ rơi để có thể diễn tả được tâm tình ấy, đúng hơn ông đã để cho chính sự bỏ rơi của Chúa Giêsu được nhập thể trong tâm hồn ông, nên một với nỗi lòng của ông.
Tin Mừng hôm nay có lẽ cũng mời gọi chúng ta hãy cưu mang những tâm tình ấy. Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu với chúng ta hai tước hiệu tóm gọn với tước hiệu Nhập Thể: "Chúa Giêsu vừa là Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian vừa là Con Thiên Chúa". Chúa Giêsu, Người là Đấng Cứu Thế bởi vì Ngài vừa là Con Người, vừa là Thiên Chúa. Đó là mầu nhiệm trọng đại mà chúng ta được mời gọi để chiêm ngắm trong suốt Mùa Giáng Sinh này. Thiên Chúa đã trở thành một con người, Thiên Chúa đã sống trọn vẹn kiếp sống của con người, Thiên Chúa đã từng cảm nghiệm được những niềm vui nỗi khổ của con người và cuối cùng Ngài đã chết như một con người.
Đó là tất cả những gì chúng ta có thể nói khi suy niệm về mầu nhiệm Nhập Thể. Mầu nhiệm Nhập Thể một cách nào đó cũng được hiểu qua cuộc sống của người tín hữu. Thánh Phaolô đã diễn tả tuyệt hảo chân lý đó khi Ngài nói: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Để cho Chúa Giêsu sống trong chúng ta, có nghĩa là kết hiệp với Ngài qua các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Để cho Ngài sống trong chúng ta có nghĩa là trong từng tâm hồn, từ những suy nghĩ và hành động, chúng ta luôn mặc lấy chính tâm tình của Ngài. Một cách cụ thể trong mỗi một phút giây, người tín hữu nên một với Đức Kitô đến độ luôn tự hỏi: Nếu Đức Kitô là tôi thì trong giây phút này đây Ngài sẽ làm gì, suy nghĩ gì và hành động như thế nào?
Nguyện cho Đấng đã sinh ra cách đây hơn 2.000 năm cũng sinh lại trong tâm hồn chúng ta để chúng ta cùng được lớn lên với Ngài và đạt được tầm mức viên mãn của Ngài. Amen.
Trong những ngày này, ngang qua Lời Chúa trong các bài Tin Mừng, Giáo Hội tiếp tục trình bày: TN 2-A89
Trong những ngày này, ngang qua Lời Chúa trong các bài Tin Mừng, Giáo Hội tiếp tục trình bày cho chúng ta chân dung của thánh Gioan Tẩy Giả, như là chứng nhân của Đức Kitô, Đấng là Sự Sống và Ánh Sáng.
Xin Chúa cũng khơi dậy nơi chúng ta lòng ước ao trở thành chứng nhân của Đức Kitô, bằng cách đón nhận sự sống mỗi ngày của chúng ta từ Ngôi Lời, và sống sự sống của chúng ta như là ánh sáng, thay vì như là bóng tối. Bởi vì Ngôi Lời là Sự Sống và ở nơi Người Sự Sống là Ánh Sáng.
* * *
Trả lời cho câu hỏi về căn tính “ông là ai?”, thánh Gioan tuyên bố thẳng thắn, mình không phải là Đấng Kitô. Nhưng điều phải làm cho chúng ta ngạc nhiên, đó là ông cũng không tự cho mình là Elia hay là một ngôn sứ:
Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không? ” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng? ” Ông đáp: “Không”.
Trong khi đó, Đức Giêsu sẽ nói về ông như là vị ngôn sứ lớn nhất và như chính ngôn sứ Elia trở lại: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả… Và nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gioan chính là Êlia, người phải đến (Mt 11, 11-15 và 17, 10-13). Nhưng về phần thánh Gioan, ngài chỉ tự nhận mình như là tiếng hô hoàn toàn hướng về Đức Chúa: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói”. Xin cho chúng ta có lòng ước ao có được tâm tình khiêm tốn này của thánh Gioan:
Như thánh Gioan đã trở thành điều mà lời ngôn sứ Isaia đã loan báo. Cũng vậy, chúng ta được mời gọi để cho lời Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi cuộc đời của mình. Xin cho Lời Chúa mà chúng ta đọc, lời nguyện Thánh Vịnh mà chúng ta hát dâng lên Chúa hàng ngày cũng được ứng nghiệm, được thực hiện nơi cuộc đời và trong mỗi ngày sống của chúng ta.
Như thánh Gioan, chúng ta được mời gọi sống sự sống của mình, sống thời gian Chúa ban, sống đời mình và ơn gọi của mình như một lời mời gọi, không phải mời gọi qui về mình, nhưng là qui về Đức Kitô.
Như thánh Gioan, chúng ta cũng tự mình không thể biết Đức Kitô, nhưng đó là ơn huệ của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thực vậy, thánh nhân nhấn mạnh:
Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước”,“Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”.
Như thế, sự hiểu biết Đức Kitô của thánh Gioan hoàn toàn là ơn huệ: của chính Thiên Chúa Chúa Cha, vì Người đã thúc đẩy thánh Gioan đi tìm kiếm Đức Kitô; của Chúa Thánh Thần, vì dấu chỉ để nhận biết Đức Kitô, là sự hiện diện của Thần Khí; và cuối cùng là của chính Đức Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa đến tỏ mình ra cho thánh Gioan:
Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
Cũng vậy, lời chứng của chúng ta về Đức Kitô, cũng hoàn toàn đến từ kinh nghiệm được đích thân gặp gỡ Đức Kitô và giới thiệu Người cho mọi người, như thánh Gioan sẽ giới thiệu Đức Kitô cho hai môn đệ của mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
* * *
“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Lời tuyên xưng này chất chứa cả một mầu nhiệm cứu độ và vì thế, trở thành bất hủ, vì được tuyên xưng tới bốn lần trong mỗi Thánh Lễ: sau khi chúng bình an, cộng đoàn phụng vụ đọc hay hát: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian…” (3 lần); tiếp đến, linh mục chủ tế dâng cao Mình Thánh trên chén (hoặc dĩa) thánh, long trọng công bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…”.
Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội, nhưng lại mang vào mình mọi tội lỗi của từng người và loài người chúng ta, như Người Tôi Tớ Đau Khổ, để ban cho chúng ta sự vô tội của Ngài.
Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội bị sát tế, để bày tỏ sự tín thác tuyệt đối vào đức công chính và sự sống mạnh hơn sự chết nơi Thiên Chúa, và để trở thành đường đi và sự sống cho chúng ta.
Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên hiền lành, diễn tả khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa là tình yêu và chỉ là tình yêu mà thôi.
Như thánh Gioan, xin cho chúng ta cũng khao khát gặp gỡ, hiểu biết và yêu mến Đức Kitô, để có thể nói cho mọi người, ngang qua chính đời sống hằng ngày của chúng ta: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.
Trong thời buổi mà người ta ngóng trông Đấng Cứu Thế, Gioan đã xuất hiện, rao giảng và làm: TN 2-A90
Trong thời buổi mà người ta ngóng trông Đấng Cứu Thế, Gioan đã xuất hiện, rao giảng và làm phép rửa. Mọi người đều ngỡ rằng ông Gioan là đấng phải đến, đấng Mê-si-a họ hằng mong đợi. Tuy nhiên, Gioan đã không dùng uy tín đó để nâng cao chính mình, ngược lại, ông đã dùng uy tín của ông để làm chứng và giới thiệu Đức Giêsu cho người khác.
Chúa Giêsu không cần lời chứng từ một con người, nhưng vì lợi ích của con người, Ngài cần có một người làm chứng. Ngài nói: Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ (Ga 5,34). Dưới mắt con người, uy tín của những người danh giá vẫn giá trị hơn nhiều lời của những con người chưa có một tiếng tăm nào.
Khi Đức Giêsu mới ra mắt dân chúng thì Gioan đã có một uy tín khá lớn. Vì thế, lời chứng của Gioan hết sức giá trị. Uy tín của Gioan đã được chứng thực bởi chính đời sống của ông. Đời sống đó đã làm chứng cho ông về những công việc ông làm và những lời ông rao giảng. Khi đã có được uy tín đối với dân chúng, ông dùng chính uy tín đó để thi hành sứ mạng. Thay vì ngày càng tích lũy uy tín và vụ lợi cho riêng mình, Gioan đã dùng nó để lót đường chuẩn bị cho Đấng thật sự phải đến.
Gioan làm chứng với uy tín của ông, nhưng ông đã không làm chứng cho Đức Giêsu nhân danh con người, nhưng nhân danh Thiên Chúa. "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần". Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn". Ông đang rao giảng về Thiên Chúa và giờ đây ông nhân danh Thiên Chúa để giới thiệu và làm chứng về một Con Người được Thiên Chúa tuyển chọn.
Gioan đã giới thiệu ai và giới thiệu gì để ông phải tuyên bố long trọng đến thế? Quả thật, Gioan đã giới thiệu một người với một nội dung chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Ông nói về Đức Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Hình ảnh con chiên gợi lên cho người ta nhiều điều.
Trước hết, lùi lại thời Thiên Chúa giải phóng dân Israel ra khỏi Ai Cập, nhờ máu chiên bôi trên cửa mà các con trai đầu lòng của Israel được bảo vệ. Trong đêm họ thoát khỏi Ai Cập, thiên sứ đã đi sát hại các con đầu lòng người Ai Cập, và máu của con chiên bôi trên cửa nhà là dấu chỉ để biết là có người Israel ở đó, và thiên sứ sẽ vượt qua; nhờ đó họ thoát được cơn hủy diệt (Xh 12, 11-13). Đức Giêsu được ví như Chiên Thiên Chúa, và chỉ một mình Ngài mới có thể giải thoát cho chúng ta.
Kế đến, hình ảnh con chiên gợi nên hy lễ mỗi ngày được hiến tế trong Đền Thờ. Dù đời sống có bao nhiêu thiếu thốn, người ta vẫn hiến tế chiên con trong Đền Thờ mỗi ngày để làm lễ chuộc tội. Con chiên được đem đi hiến tế để đền tội thay cho dân. Vì thế, Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, hiến tế chính mình để trở nên lễ đền tội thay mọi người.
Thêm vào đó, nét đặc trưng của con chiên là sự hiền lành. Ngôn sứ Isaia đã loan báo về Đấng Mê-si-a hiền lành: Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng (Is 53, 7). Điều này sẽ được ứng nghiệm cách hoàn hảo trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài trở thành một con Chiên hiền lành bị đem đi làm thịt mà không một tiếng kêu ca. Ngài lại còn xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm (Lc 23,34).
Đức Giêsu quả thật là Chiên Thiên Chúa, Ngài còn là Đấng xóa bỏ tội trần gian. Ngài đã gánh vào mình tội lỗi của tất cả nhân loại, để qua cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài, Ngài đã xóa đi gánh nặng tội lỗi đè nặng lên con người.
Có một câu chuyện thương tâm rằng: Một cô gái đang có người yêu bị một kẻ lạ mặt hãm hiếp và đã có thai. Cô khổ tâm vô cùng vì bị người yêu khước từ và gia đình ngờ vực. Cô đã đến gặp Đức Cha Fulton Sheen than thở với ngài và hỏi ngài: "Tại sao con phải ra nông nỗi này?" Sau khi lắng nghe với tất cả sự cảm thông, Đức Cha ôn tồn trả lời cô gái: "Vì chị đã phải gánh tội của một người". Rồi Đức Cha Sheen kết luận: Nếu chỉ vì phải gánh tội của một người mà cô gái kia phải đau khổ buồn sầu như thế, thì khi phải gánh chịu tội của cả nhân loại Chúa Giêsu đã phải chịu đau khổ buồn sầu biết chừng nào!
Gánh lấy hết tội lỗi con người mà mang vào thân mình, đó là cái giá mà Con Thiên Chúa đã phải trả cho tình yêu đối với con người. Chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, Đấng đã trở nên Chiên Thiên Chúa để xóa bỏ tội trần gian, chúng ta cũng được mời gọi tháp nhập vào Con Chiên Giêsu để trở nên những con chiên của Thiên Chúa, và sống xứng đáng với ơn gọi của mình là một con chiên của Thiên Chúa.
Thánh Gioan tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, và ông rất vinh dự được làm người: TN 2-A91
Thánh Gioan tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, và ông rất vinh dự được làm người dọn đường cho Đấng Cứu Thế sắp đến. Hôm nay, khi thấy Đức Giêsu đến với ông, ông đã mạnh mẽ công bố với mọi người Do Thái rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”.
Ông Gioan tẩy giả làm chứng về Đức Giêsu đích thực là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha tuyển chọn, thánh hiến bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần để thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại, trong tư cách là Đấng Messia.
Ông Gioan tẩy giả đã sử dụng đến hai biểu tượng tuyệt đẹp, đó là con chiên: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Con chiên là một con vật quen thuộc đối với dân Do Thái ngày xưa, được nhắc nhiều lần trong Kinh Thánh. Hình ảnh con chiên rất có ý nghĩa, nhằm mô tả Đức Giêsu là con chiên chiến thắng, con chiên như người tôi trung, và con chiên như con chiên trong Lễ Vượt Qua.
Đức Giêsu là con chiên chiến thắng. Theo sách Khải Huyền thánh Gioan tông đồ, con chiên đã chiến thắng quyền lực sự dữ trên trái đất (x. Kh 17,14). Thánh Gioan còn khẳng định: “Bây giờ anh em biết Đức Giêsu đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi” (1Ga 3,5); và “Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá hủy công việc của ma quỷ đã làm” (1Ga 3,8). Như vậy, quả không sai khi ông Gioan tẩy giả mô tả Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa là Đấng phá bỏ tội lỗi của thế gian.
Đức Giêsu là con chiên như người tôi trung, như sách ngôn sứ Isaia mô tả trong chương 42 và 53. Người Tôi Trung đã gánh hoặc chuộc những tội lỗi của nhiều người (x.Is 53,4-12). Cũng vậy, bằng cái chết của Người, Chúa Giêsu đã xóa tội hoặc đã gánh tội cho thế gian. Nhờ những vết thương của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn và sự chết của Người, đã chữa lành tội lỗi của chúng ta (1Pr 2,25; Is 53,5).
Đức Giêsu là con chiên như con chiên trong Lễ Vượt Qua. Đức Giêsu bị kết án tử vào ngày lễ Vượt Qua (Ga 19,14). Người là con chiên mà dân Do Thái bôi lên cửa, làm dấu để được cứu thoát, nói đến trong sách Xuất Hành (12,46), con chiên đã hy sinh (Kh 5,9), con Chiên đổ máu mình trên thập giá tẩy rửa tội lỗi nhân loại và giải thoát khỏi sự chết.
Tóm lại, con chiên được ông Gioan tẩy giả mô tả, như một lời giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại. Mặc dầu Người vô tội, nhưng lại chấp nhận gánh lấy tội lỗi của nhân loại vào thân thể của Người, đến độ, Người đã dùng chính cái chết của mình để giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết. Hôm nay, Gioan tẩy giả đã làm chứng và lời chứng của ông đã thành hiện thực trong công trình cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô.
Hôm nay, trong mỗi Thánh lễ, chủ tế đều nhắc lại lời của thánh Gioan tẩy giả: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”, và mời gọi người Kitô hữu đón nhận Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta có Chúa Kitô ngự trong lòng, và sự sống của Người ở trong chúng ta.
Chúng ta hãy chiêm ngắm tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã dành cho chúng ta đến độ chết vì chúng ta. Chúng ta hãy làm chứng về tình yêu cứu độ của Người cho nhân loại. Chúng ta hãy sẵn sàng cộng tác với Giáo Hội bằng cách giúp đỡ cho người ta được thoát khỏi sự dữ và tội lỗi đang lan tràn trong gia đình, trong xã hội. Chúng ta hãy giúp cho những người xung quanh chúng ta sống niềm tin và hy vọng vào Chúa Giêsu là Đấng giải thoát và cứu chuộc của mọi người.
Có một câu chuyện đời xưa, mang tên “cây kiếm gỗ”, nội dung thế này: Ngày xưa, có một vị vua: TN 2-A92
Có một câu chuyện đời xưa, mang tên “cây kiếm gỗ”, nội dung thế này:
Ngày xưa, có một vị vua ngày đêm lo lắng về sự an nguy cho vương quốc của mình, về kho báu của mình, và đặc biệt về ngai vàng của mình. Ông không tìm thấy bình an trong cuộc sống; các vị quan trở nên mối nghi ngờ, và tương lai trở nên nỗi ám ảnh sợ hãi cho ông.
Từ chốn cung điện nhìn xuống đám dân nghèo, ông cảm thấy như thèm muốn được như họ, vì ông thấy họ toát lên nỗi đơn sơ, chất phát và không lo lắng cho tương lai. Quá tò mò lối sống của dân nghèo, vị vua quyết định hóa trang thành người ăn mày để tìm hiểu nguyên nhân nào đã làm cho những dân nghèo được bình an và không lo lắng.
Ngày kia, vị vua giả dạng người ăn mày gõ cửa một người nghèo để xin ăn. Người nghèo mời người ăn mày vào và cùng chia sẻ một ổ bánh mì với thái độ hạnh phúc và yêu đời.
Vị vua giả dạng hỏi:
- “Điều gì đã làm ông hạnh phúc như vậy?”
Người nghèo đáp:
- “Tôi có một ngày rất tốt. Tôi sửa giày và kiếm đủ tiền để mua ổ bánh cho buổi tối nay.”
Vị vua giả dạng hỏi tiếp:
- “Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu ngày mai ông không kiếm đủ tiền mua bánh mì?”
- “Tôi có niềm tin vào mỗi ngày. Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Người nghèo đáp.
Sau khi ra về, vị vua muốn thử niềm tin người thợ giày. Ông ra lệnh cấm những người sửa giày dép hành nghề. Khi biết mình bị cấm hành nghề sửa giày dép, người thợ giày nhủ thầm: “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Ngay lập tức ông thấy một vài phụ nữ đang gánh nước ra chợ bán rau, ông xin được gánh nước thuê cho họ. Và hôm đó, ông kiếm đủ tiền để mua bánh mì cho buổi tối.
Tối đến, vị vua dưới dạng người ăn mày thăm người nghèo. Người nghèo vẫn thái độ ung dung, hạnh phúc với ổ bánh mì của mình. Hôm sau, vua ra lệnh cấm không cho phép hành nghề gánh nước thuê. Và cứ như thế, người nghèo đã thay đổi nhiều nghề khác nhau, nhưng nơi ông vẫn luôn có sự bình an và tin tưởng vào triết lý sống từng ngày cùa mình. Còn vị vua vẫn không thể nào hiểu nổi sự bình an và niềm tin của người nghèo kia. Mỗi lần bị cấm hành nghề, người nghèo vẫn thản nhiên tin rằng, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.”
Vì quá tò mò trước triết lý sống của người nghèo này, vị vua ra lệnh và dàn xếp để người nghèo làm lính cho cung điện. Thật đáng thương, người nghèo không được phát lương hằng ngày, nhưng hằng tháng. Dầu vậy, ông đã bán lưỡi gươm và có đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Tối đến, ông vẫn có bánh mì và vẫn hạnh phúc.
Vị vua giả dạng thăm ông và hỏi:
- “Hôm nay ông làm nghề gì mà kiếm tiến mua bánh mì?”
- “Tôi được làm lính cho vua.” Người nghèo đáp. Ông cũng đơn sơ kể rằng: “Làm lính nhận lương mỗi tháng, nên tôi đã bán lưỡi gươm thật và đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Sau khi có lương, tôi sẽ chuộc lại lưỡi gươm và như thế tôi sẽ có cuộc sống tốt hơn. Hiện nay tôi đang dùng lưỡi gươm bằng gỗ.”
Nhà vua giả dạng hỏi tiếp:
- “Nhưng nếu ông phải rút gươm ra vào ngày mai thì sao?” Người nghèo vẫn thản nhiên, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.”
Quả thật, hôm sau người ta bắt được một tên trộm và bị kết án xử chém. Vua yêu cầu người nghèo trong trang phục lính thực hiện việc này. Vì nhà vua biết rằng, với lưỡi kiếm gỗ, người nghèo này sẽ không thể thực hiện được việc này, và như thế để xem thử niềm tin vào triết lý sống từng ngày của ông có thể giúp ông hay không.
Tên tử tội quì mọp xuống chân anh lính và thống thiết van xin được tha mạng vì còn vợ và con nhỏ. Anh nhà nghèo trong tranh phục lính nhìn đám đông xung quanh và hô lớn tiếng:
- “Lạy Đấng Tối Cao, nếu người sắp bị hành quyết này là người có tội, thì xin cho con được phép thi hành lệnh của vua. Nếu người này vô tội, xin hãy biến lưỡi gươm này thành gươm gỗ.”
Ngay tức khắc, anh rút lưỡi gươm và lưỡi gươm anh cầm trên tay là lưỡi gươm gỗ. Đám đông đồng thanh la lên:
- “Đây là phép lạ,” và người bị kết án được tha.
Vị Vua truyền lệnh tha tên ăn trộm đồng thời tiến đến người lính nghèo thú nhận rằng:
- “Trẫm chính là người ăn mày mỗi tối tại nhà ngươi. Từ nay trở đi, trẫm muốn ngươi là bạn và là quân sư cho trẫm”.
Dòng đời bất an.
Trong cuộc sống, thế nào cũng có lúc ta cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng giữa dòng đời. Điều đó khó có thể tránh được, nhất là những lúc ta đau khổ. “Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì’. Người ta cố gắng đi tìm ý nghĩa đích thực của kiếp người ngắn ngủi, nhưng xem ra, tiếng than thở thì nhiều, niềm vui không có bao nhiêu. “Ngày vui ngắn chẳng tày gang” (ND), thế nên, triết lý sống hiện tại là “hưởng thụ”. Hưởng thụ để bù lại những thiệt thòi mất mát vì sự hữu hạn của kiếp người, để tự tạo cho mình thứ hạnh phúc tạm bợ chóng qua thay vào hạnh phúc khát vọng mà con người không thể nào với tới được.
Nhưng càng chạy theo hưởng thụ, con người càng hụt hẫng, chới với. Tham vọng thì vô bờ, và cuối cùng, đời người là tiếc nuối.
Tìm hạnh phúc chỉ với hưởng thụ, chỉ với sở hữu vật chất, con người không thể nào có hạnh phúc. Dấu hiệu của sự vắng bóng hạnh phúc là sự bất an. Sự bất an ở trong lòng mỗi người đi đến bất an của nhân loại, bất an của thế giới.
Ai cho ta sự bình an?
Trong thế giới đã từng có những vĩ nhân góp phần thay đổi thế giới. Thay đổi bằng nhân sinh quan mới mẽ hay bằng chiến tranh chinh phục. Thay đổi bằng những phát minh khoa học, những khám phá phát triển kinh tế, những sáng kiến thành lập những tổ chức toàn cầu để cuộc sống con người được tốt đẹp hơn.
Rõ ràng, thế giới đã có nhiều thay đổi: giàu có hơn, văn minh hơn, gần gũi nhau hơn... Nhưng, thật đáng tiếc, thế giới cũng bất an hơn: vũ khí tân tiến hơn, phương tiện chiến tranh hiện đại hơn, tốc độ phát triển vũ khí giết người hàng loạt nhanh hơn, tranh chấp, phân tán, chia rẻ nhiều hơn, khủng bố, giết người... Bất an đáng sợ nhất đó là đạo đức sa đọa ngày một cao hơn: thứ bình an trong tội lỗi!
Thế nên, điều cần làm ngay, đó là con người cần thay đổi chính mình.
Thay đổi theo đường hướng nào? Theo chỉ nam nào? Theo mẫu mực nào? Con người cần có một vị Thầy dạy dỗ và dìu dắt.
Người đó chính là Ngài – Giêsu.
Gio-an Tẩy Giả đã giới thiệu: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian.”(Ga.1,29).
Chỉ với một lời giới thiệu ngắn gọn, chứa đựng trọn vẹn chân lý cuộc sống và niềm hy vọng của con người.
Ở nơi Giêsu - Con Người là “Chiên Thiên Chúa” - nhân loại nhận ra bài học của Thầy chí Thánh Giêsu bài học Tình Yêu. Đấng dạy cho nhân loại Tình yêu Thiên Chúa, giá trị nhân phẩm của con người là Con Thiên Chúa, và bình an của con người là tình huynh đệ cùng là con Thiên Chúa.
Ở nơi Giêsu, nhân loại nhận biết và tin vững con người từ đâu đến, sống để làm gì, và rồi, con người sẽ đi về đâu.
Ở nơi Giêsu, con người thấu hiểu được vì sao nhân loại bất an, và hạnh phúc phù phiếm chóng qua. Con người biết mình phải làm gì để thoát khỏi tuyệt vọng.
Ở nơi Giêsu, con người mới thấy đâu là chân giá trị kiếp nhân sinh, vì con người bước đi trong ánh sáng.
Ở nơi Giêsu, con người tìm thấy tất cả những câu giải đáp cho thân phận của mình.
Và, con người vững tin nơi Giêsu, vì bài học của Giêsu không phải là bài học lý thuyết suông được viết bằng giấy mực, mà được viết bằng chính cuộc đời của Ngài. Một cuộc đời yêu thương con người, và chết cho con người. Đó là một cuộc đời Hiến Tế vì nhân loại và cho nhân loại. Ngài là Đấng Cứu Thế. Giêsu, “Đây là Chiên Thiên Chúa”.
Người đó chính là Ngài – Chúng ta bước theo Ngài. “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (Ga.1,25).
Người đó chính là Ngài – Ta an tâm phó thác. “Đức Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người, và kìa biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền. Nhưng Người vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Người và nói: “Thưa Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!”. Đức Giêsu nói: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!” Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ” (Mt.8,23-26).
Người đó chính là Ngài – Ta vững lòng cậy trông. “Khi đến Đồi Sọ, họ đóng đinh Người vào Thập Giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. (Lc.23,33-34).
Người đó chính là Ngài – Ta về đến bến bờ hy vọng. “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang với con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian đã tạo thành” (Ga.17,24).
Người đó chính là Ngài – Giêsu, Hạnh phúc đời ta. Không có ai khác, hay bất cứ điều gì khác có thể thay thế được Ngài. “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga.6,68).
Và, bên Giêsu, ta bình an thanh thản tâm hồn xiết bao!
Lạy Chúa Giêsu, Chiên Thiên Chúa! Lòng con bình an trong Chúa. Con tin vào Ngài. Amen.
Trong thời buổi mà nhiều người còn có tâm hồn trung nghĩa hôm nay, ngày ngày vẫn phải rên: TN 2-A93
Trong thời buổi mà nhiều người còn có tâm hồn trung nghĩa hôm nay, ngày ngày vẫn phải rên than là “vàng thau” đang quá trời “lẫn lộn” này, thì với một người có đủ điều kiện và thừa sức mạo xưng danh tánh của người khác! Mạo phạm sự nhân nghĩa của người khác! Mạo nhận những thành công của người để vơ vào làm của mình, thì cách minh định của thánh Gioan Tẩy giả trước sự xuất hiện của Chúa Giêsu khi khởi đầu sứ vụ của Người, quả thật vẫn mang tính thời sự cần thiết cho tới hôm nay: xác định đúng vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mình: “không đánh lận con đen”. Không nhập nhằng để người khác ngộ nhận. Không dùng những quỷ kế để bảo vệ uy tín của mình. Không nuôi tham vọng để triệt hạ người khác. Và cũng sẵn sàng lùi bước, chấp nhận cuộc sống ẩn dật mà không hề tiếc nuối, kể công: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Chính Người là Đấng mà tôi đã nói: có người đến sau tôi, nhưng có trước tôi, vì Người cao trọng hơn tôi. Phần tôi, tôi đã không biết Người, nhưng để Người tỏ mình ra cho dân Israel nên tôi đã đến làm phép rửa trong nước” (Ga 1, 25-31). Một gương khiêm tốn lạ lùng! Hiếm có! Không chỉ cần trong thời gian xa xưa đó, mà ngay chính trong cuộc sống hôm nay, bài học ấy lại còn rất cần, rất thiết thực hơn bao giờ hết! Tôi chợt nghĩ cho mình:
I/ Để biết khiêm tốn: phải hiểu chính mình:
Gần năm năm sống với cha sở An Long, giáo hạt Cao Lãnh, giáo phận Mỹ Tho, tôi luôn tâm đắc một điều mà với tình anh em đồng hướng, ngài đã từng tâm sự với tôi: “Trung ơi! Anh nói thiệt với em, điều đáng sợ nhất trong cuộc sống hôm nay, không chỉ cho riêng hai anh em mình, mà còn cho bất cứ ai trong bất cứ cương vị, chức vụ, tuổi tác, giới tính nào đi nữa, anh vẫn thấy không gì nguy hiểm cho bằng mình không hiểu được vị trí của mình! Không biết khả năng thật sự đang có của mình! Không ý thức được vai trò trách nhiệm bổn phận và tầm ảnh hưởng của mình trong phong cách, trong ngôn từ, trong ứng xử đối với người trên mình, người ngang mình, người dưới mình mà mình quan hệ, giao tiếp, ứng xử hàng ngày… sơ hở một chút là dễ dàng bị sụp đổ lắm em! Đành rằng ước muốn thì ai cũng muốn tốt, nhưng cá tính nếu không được nhìn lại, được rèn giũa, được tự nguyện uốn nắn thường xuyên, nhiều khi tự ái nổi lên, mình trở tay không kịp vì không lường trước tác hại của nó đâu em!”- Một kinh nghiệm xương máu mà đời tôi cũng đã không ít lần nếm trải! Giờ được một linh mục đàn anh chia sẻ, tôi càng hiểu chính tôi hơn!
II/ Để sống khiêm tốn: phải biết ứng dụng:
Rất nhiều người thích nghe kinh nghiệm của người khác, nhưng lại quá tự tin, tự tôn, tự cao, tự đại, để rồi có lúc phải ngã bật ngửa! Phải vấp ngã mang thương tích. Phải sụp hố sâu đến lút đầu lút cổ chính từ những kinh nghiệm mà mình đã từng được tâm sự, từng được nhủ khuyên, từng được ngăn ngừa! Nghe nhiều, đọc nhiều, mà không hiểu đúng, hiểu sâu, nên không biết đường ứng dụng! Rồi thêm sự kiêu căng bởi tự phụ cho là những khó khăn mà thiên hạ vướng vấp chỉ là chuyện nhỏ! Mình đủ sức đối đầu! Dư sức khắc phục! Thừa bản lĩnh vượt qua! Bởi “sóng sau cao hơn sóng trước” mà! Tại họ khoái “lớn thuyền” nên mới bị “lớn sóng” vậy thôi! Ai biểu họ “thuyền đua, bè sậy cũng đua; thấy rau muống vượt, rau dừa vượt theo” làm chi cho khổ? Mình cứ tà tà “liệu cơm gắp mắm” là khỏe re! Nhưng họ quên một điều: “lỗ nhỏ đắm thuyền”! không gì nguy hiểm bằng mình tự phụ mà mình không hay! Mình tự kiêu mà mình không biết! Mình đang tự đào lỗ chôn mình mà mình không ngờ! Sống khiêm tốn không dễ chút nào nếu chỉ biết nghe, biết nhìn, biết đọc mà không biết ứng dụng kịp thời, đúng lúc, hợp tình! Kiến thức vững phải khởi đi từ chiều sâu kinh nghiệm, từ nền tảng ban sơ, từ vấp váp khiếm khuyết, lỡ lầm của người đi trước để lại. Bản lĩnh là ở chỗ đó! Trưởng thành là ở chỗ đó! Thành công cũng là ở chỗ đó. Khiêm tốn là nét đẹp! Nhưng cũng mang lại những kết quả vượt sức ta mong chờ, hy vọng.
Thánh Gioan Tẩy giả đã giúp tôi ý thức thân phận của mình hơn: không mặc cảm! Không trục lợi! Không sang đoạt! Không oán trách! Không chà đạp! Mình sống và làm việc bằng chính nén bạc Chúa trao và phấn đấu để đạt được đồng lời Chúa muốn phát sinh tương xứng với đồng vốn ấy! Không ganh tỵ! Không cản đãng! Không chỉ trích! Không mạo danh mạo nhận mạo phạm tới bất cứ ai! Thợ làm vườn nho cho Chúa: sáng- trưa- chiều, đồng lương vẫn như nhau. Chúa không đòi tôi chạy theo chỉ tiêu để rồi “dụng mưu vận kế” để lấy của người khác làm thành quả của mình, rồi lên mặt dạy đời thiên hạ. Những người mà họ thừa khả năng dạy cho tôi những bài học nhớ đời mà tôi cứ tưởng họ dở, họ khùng, họ đui, họ điếc! Họ không hề hay biết sự háo danh, háo thắng của tôi. Bởi tôi dẽo miệng, tôn vinh, ca ngợi cấp trên và sẵn sàng “bán bụi tre, đè bụi hóp” để “diễu võ dương oai”, mắng mỏ, chụp mũ, đâm thọc cho người ngang, kẻ dưới phải bị dập vùi hầu tôi dễ tiến thân mà quên “đời không cho không ai bất cứ điều gì không xứng tầm với họ”. Giá phải trả vô lường!
Thấm thía hơn cho tôi là ở một lần khác trước đó, vị Tiền Hô đã nói: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người” (Mt 3, 13). Đến bao giờ, tôi mới đủ khiêm tốn để hiểu được chính tôi ? Để sống đúng cương vị Chúa định cho tôi ? Để bài ca yêu thương sẽ xóa tan mọi đảo phách bất hợp lý vẫn đang luân chuyển trong Tâm Khúc đời tôi?
Trong cuộc sống, chúng ta quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn. Gioan cũng thế, trong bài Tin: TN 2-A94
Trong cuộc sống, chúng ta quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn.
Gioan cũng thế, trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, hai lần ông khẳng định: "Tôi đã không biết Người" (Ga.1,31-33). Cho đến khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan thú nhận mình vẫn chưa “biết” Ngài.
Dù Đức Giêsu là bà con họ hàng của ông (Lc.1,36), dù ông đã có một số thông tin về Ngài, và dù ông biết Ngài cao trọng hơn mình (Mt.3,14), nhưng cái biết ấy, ông vẫn chưa coi là biết thật sự.
Được Thiên Chúa mách bảo, ông kiên nhẫn đợi chờ. Làm phép rửa trong nước là cách giúp ông khám phá ra Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần. Ai được Thần Khí ngự xuống và ở lại, Người ấy là “Đấng Thiên Chúa Tuyển Chọn”. Gioan đã thấy Thần Khí ở lại trên Đức Giêsu lúc Ngài được ông làm phép rửa. Bây giờ ông mới có thể nói: ông đã biết Đức Giêsu. Ông đã “biết” sau khi ông đã “thấy”.
Nếu biết là đi vào một mầu nhiệm, thì mầu nhiệm ấy cứ vẫy gọi người ta tiến sâu hơn. Càng tiến sâu, cái biết càng được thanh luyện. Gioan đã thấy, đã biết, đã làm chứng cho Đức Giêsu. Làm chứng cho Đức Giêsu khiến ông trở nên tay trắng. Ông vui khi giới thiệu Đức Giêsu cho môn đệ của mình. Ông mừng khi thấy dân chúng tuốn đến với Ngài (Ga.3,26). Ông sung sướng khi trở nên lu mờ đi để Ngài được nổi bật lên (Ga.3,30).
Từ cái biết nhờ thấy, Gioan đã trở nên người làm chứng cho Đức Giêsu. Hành trình chứng nhân của Gioan cũng là của bạn và tôi hôm nay: “thấy, biết rồi làm chứng”.
Biết một người là chuyện khó. Biết Đức Giêsu còn khó hơn. Tôi chẳng thể nào múc cạn được con người Giêsu, Đấng đã là đích điểm giao hòa giữa trời và đất; Đấng là tạo hóa nhưng lại hòa đồng với tạo vật, và cũng là Đấng đã liên kết giữa thần linh thánh thiện và con người tội lỗi.
Để biết Đức Giêsu, ta cần thấy Ngài tỏ mình ra. Nhưng không phải ta sẽ thấy một thị kiến huy hoàng long trọng. Không hẳn Ngài sẽ xuất hiện trong sức mạnh quyền năng. Ngài vẫn tỏ mình xuyên qua những việc xảy ra trong cuộc sống hằng ngày, qua những con người đơn sơ ta vẫn gặp. Ta cần tập nhìn thấy Ngài tiềm ẩn sau lớp vỏ bọc xù xì của thực tế đời thường.
Cần thường xuyên làm mới lại “cái biết” về Đức Giêsu để mối tương quan của ta với Ngài mỗi ngày trở nên thâm trầm hơn, thân mật hơn. Nếu biết là thấy, là có kinh nghiệm riêng tư, là hiệp thông, là gặp gỡ, là chia sẻ chính cuộc đời của Ngài, là để “ta sống trong Ngài và Ngài sống trong ta”, thì cái biết đó phải là nỗ lực của cả một đời người Kitô.
Và lúc này đây, mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy dành ra đôi ba phút ngắn ngủi để đi vào lòng mình; để tìm gặp khuôn mặt Giêsu: Ngài đang ở đâu, ở chỗ nào trong cuộc sống của tôi? Tôi phải làm gì để nhận ra Ngài, bắt gặp Ngài đang sống bên tôi trong cuộc đời tạm bợ này?
Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là "Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian."(Ga.1,29). Còn bạn và tôi, chúng ta sẽ giới thiệu Đức Giêsu như thế nào cho những người xung quanh ta hôm nay?
***
Lạy Chúa Giêsu! Xin cho con thấy Chúa thật lớn lao, để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ vô nghĩa.
Xin cho con cảm nhận tình Chúa thật bao la sâu thẳm, để con luôn được sống trong tình yêu thương sâu thẳm bao la ấy.
Xin cho con biết Chúa thật nhân từ và bao dung, để mỗi khi con vấp ngã trên đường đời, con luôn biết chỗi dậy và trở về cùng Chúa. Giêsu ơi! Xin Ngài hãy đến và cư ngụ trong lòng con luôn mãi, để không còn là con nữa, mà là chính Ngài đang sống trong con. Amen
(29) Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian. (30) Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, vì có trước tôi. (31) Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước”. (32) Ông Gio-an còn làm chứng: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. (33) Tôi không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. (34) Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.
2. Ý CHÍNH:
Đây là lời chứng thứ hai của Gio-an Tẩy Giả về Đức Giê-su. Ông xác nhận Đức Giê-su là Con Chiên: TN 2-A95
Đây là lời chứng thứ hai của Gio-an Tẩy Giả về Đức Giê-su. Ông xác nhận Đức Giê-su là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian. Người là Đấng mà ông có sứ mệnh đi trước dọn đường. Gio-an nhận ra Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai nhờ dấu chỉ mà Thiên Chúa đã cho biết như sau: “Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần”. Ông đã thấy điều ấy nơi Đức Giê-su khi làm phép rửa cho Người tại sông Gio-đan, và ông đã làm chứng rằng: “Người thực là Con Thiên Chúa”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 29-30:
+ Đây là Chiên Thiên Chúa: Chiên Thiên Chúa hay Chiên Vượt Qua thời kỳ Xuất Hành (x. Xh 12,3-46). Tin Mừng Gio-an đề cập đến ba điểm liên quan giữa Đức Giê-su và Chiên Vượt Qua: Một là tòa án Phi-la-tô xét xử Đức Giê-su vào Giờ Thứ Sáu (tức 12 giờ trưa) trong ngày áp lễ Vượt Qua (x. Ga 9,14), đó là lúc các tư tế bắt đầu giết chiên để mừng lễ Vượt Qua tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Hai là cành hương thảo: Người Do thái lấy một bó hương thảo, nhúng vào chậu đựng máu chiên và quét lên khung cửa nhà. Điều này tương ứng với một tên lính lấy miếng bọt biển thấm giấm, buộc vào cành hương thảo đưa lên miệng Đức Giê-su (x. Ga 19,29). Ba là chỉ thị không được đánh gãy xương con chiên Vượt Qua đã được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su, khi quân lính không đánh dập ống chân Người (x. Ga 19,34).
+ Đấng xóa bỏ tội trần gian: Thánh Gio-an thường dùng chữ “xóa” theo nghĩa “làm mất đi” (x. 1 Ga 3,5). Và như vậy “xóa tội” ở đây có nghĩa là giải thoát khỏi tội lỗi. Trong cuộc Vượt Qua, nhờ máu chiên được sát tế và quét lên khung cửa nhà mà các con trai đầu lòng của người Do thái được khỏi phải chết (x. Xh 12,23). Cũng vậy, nhân loại nhờ việc Đức Giê-su chịu chết sẽ được giải thoát khỏi ách tội lỗi, giống như bỏ đi cái gánh nặng đang phải mang vác.
+ Có người đến sau tôi, vì có trước tôi: Xét về thời gian: Đức Giê-su sinh sau Gio-an 6 tháng (x. Lc 1,24.26). Nhưng xét về bản tính Thiên Chúa: Người vẫn hằng có trước khi Gio-an ra chào đời. Nói câu này Gio-an gián tiếp ám chỉ Thần tính của Đức Giê-su.
- C 31-32:
+ Tôi đã không biết Người: Kiểu nói “không biết” có nghĩa là Gio-an đã không nhận ra Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Cái “không biết” của Gio-an cũng giống như sự “không biết” của người Do thái trong câu Gio-an nói: “Ở giữa các ông có Đấng mà các ông không biết” (Ga 1,26).
+ Nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en: Việc Gio-an làm phép rửa cho Đức Giê-su chính là cơ hội để Người tỏ mình là Đấng Thiên Sai cho dân Do thái nhận biết.
+ Ông Gio-an còn làm chứng: Do những dấu chỉ “Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người”, mà Gio-an đã nhận ra Đức Giê-su chính là “Con Thiên Chúa”, là “Đấng Thiên Chúa đã tuyển chọn”. + Thánh Thần như chim bồ câu: Kiểu nói này không khẳng định Thánh Thần hiện ra dưới hình của chim bồ câu, nhưng đáp xuống trên Đức Giê-su giống như tiếng rung nhè nhẹ của loài chim ấy.
+ Và ngự trên Người: Việc “Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và lưu lại trên Đức Giê-su” tượng trưng cho hiệu quả của việc tuôn đổ ơn Thánh Thần, ban sự sống để thiết lập một dân Ít-ra-en mới là Hội Thánh. Cũng vậy, trong ngày lễ Hiện Xuống, “Lưỡi Lửa” không trực tiếp tượng trưng cho Chúa Thánh Thần, nhưng tượng trưng cho việc các Tông Đồ được Thánh Thần ban cho “nói tiếng lạ” để công bố Tin Mừng khắp thế gian.
- C 33-34:
+ Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: Câu này được lặp lại để nhấn mạnh việc Gio-an không tự nhận biết Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa nhưng do Thiên Chúa là Đấng sai ông làm phép rửa đã dạy.
+ Đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần: Làm phép rửa trong Thánh Thần là một thành ngữ ám chỉ công việc chính của Đức Giê-su là “xóa bỏ tội lỗi” bằng cách tuôn đổ ơn Thánh Thần xuống trên những kẻ tin và lãnh nhận phép rửa để được tha tội (x. Ga 3,5-8).
+ Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn: Gio-an xác định việc ông làm chứng “Đức Giê-su là Đấng Thiên Chúa đã tuyển chọn” là do Thiên Chúa soi sáng. “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” đồng nghĩa với “Con Thiên Chúa”, như lời sấm của ngôn sứ I-sai-a: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn…” (Is 42,1). Việc Đức Giê-su được Thiên Chúa tuyển chọn gắn liền với việc Người được ban Thần Khí để chu toàn sứ mạng Thiên Sai.
4. CÂU HỎI:
1) Nội dung lời chứng thứ hai của Gio-an Tẩy Giả về Đức Giê-su như thế nào ?
2) Ba điều Tin Mừng Gio-an nêu ra chứng minh Đức Giê-su là con chiên cứu độ là gì ?
1. LỜI CHÚA: Gio-an thấy Đức Giê-su tién về phía mình liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trằn gian”… Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,29.33-34).
2. CÂU CHUYỆN: ĐƯỢC SỐNG NHỜ CON CHIÊN
Một anh thợ nề kia đang làm việc trên mái nhà thờ Verden nước Đức. Khi anh đang đu mình trên tường cao để sửa lại phần mái của nhà thờ để chống dột thì dây an toàn anh đang mang đã bị đứt do sử dụng lâu ngày bị mục nên anh thợ bị rơi từ độ cao 20 mét xuống sàn nhà thờ. Nhưng rất may một con chiên đang ăn cỏ ở vườn sau nhà thờ, đột nhiên chạy đến ngay chỗ anh thợ đang làm việc ở phía trên, và anh ta đã thoát chết nhờ ngã đè lên con chiên ấy. Về sau, để tỏ lòng biết ơn con chiên ấy, người ta đã làm một bức tranh tượng bằng đá quý khắc hình con chiên với hàng chữ “Con Chiên Cứu Độ”. Hiện nay bức tranh tượng bằng đá nói trên vẫn được gắn tren tường nhà thờ Verden để kỷ niệm câu chuyện cảm động nói trên. Tuy nhiên hình ảnh con chiên mói trên chỉ là hình bóng của Đức Giê-su là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng đã bị sát tế trên bàn thờ thập giá để tẩy xóa tội lỗi trần gian chúng ta.
3. SUY NIỆM:
Trong Tin mừng hôm nay ông Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giê-su với các môn đệ của ông như sau: “Đây Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Qua đó, Gio-an đã giới thiệu Đức Giê-su chính là Con Chiên cứu độ và là lễ vật đền tội thay thế lễ vật chiên cừu theo Luật Mô-sê:
1) Đức Giê-su là Con Chiên lễ Vượt Qua:
Thời kỳ Xuất Hành, để thi hành sứ mạng giải phóng con cái Ít-ra-en khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập, ông Mô-sê đã phải thi thố mười dấu lạ trước mặt triều thần Ai Cập. Nhưng phải đến dấu lạ thứ mười, Pha-ra-ô Ai Cập mới chịu khuất phục và bằng lòng cho con cái Ít-ra-en ra đi. Mô-sê liền truyền cho mỗi nhà Ít-ra-en giết một chiên đực một tuổi để ăn thịt chiên với bánh không kịp ủ men. Họ phải lấy máu con chiên đó quét lên thành cửa nhà mình. Đêm hôm ấy, thần sứ hủy diệt của Đức Chúa sẽ đánh phạt các con đầu lòng của người Ai-cập và vượt qua nhà có bôi máu chiên là nhà con cái It-ra-en. Như vậy các con đầu lòng con cái Ít-ra-en đã được cứu khỏi phải chết nhờ máu con chiên Vượt Qua đã chịu chết thay. Về sau, tông đồ Phao-lô đã ví con chiên lễ Vượt Qua là hình bóng của Đức Giê-su là Con Chiên Thiên Chúa như sau: “Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế chúng ta đừng lấy men cũ là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng Đại lễ” (1 Cr 5,7-8).
2) Đức Giê-su là Đấng xóa bỏ tội trần gian:
Theo Luật Mô-sê, mỗi ngày hai lần sáng và chiều, các tư tế phải giết một con chiên trước bàn thờ làm lễ vật hiến tế dâng cho Đức Chúa để đền tội thay cho con cái It-ra-en (x. Xh 29,38). Nhưng máu bò, máu dê cừu thực sự không thể xóa bỏ được tội lỗi nên Con Thiên Chúa đã chấp nhận xuống thế làm người, trở nên Con Chiên mới của Thiên Chúa, đổ máu mình ra để tẩy rửa tội lỗi trần gian. Khi giới thiệu Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa (x. Ga 1,29), Gio-an Tẩy Giả cho thấy Người mới là lễ vật hoàn hảo được dâng lên Thiên Chúa để thay thế lễ vật chiên cừu thời Cựu Ước (x. Ds 28,3-8). Tác giả thư Do thái đã diễn tả về việc đền tội này như sau: “Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10,8-10). Ngày nay trong thánh lễ sau bài Vinh Tụng Ca, chủ tế cũng giới thiệu Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa như Gio-an: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”.
3) Kết hiệp với Đức Giê-su Chiên Thiên Chúa để góp phận cứu độ trần gian:
-Ngôn sứ I-sai-a đã ví Người Tôi Tớ của Đức Gia-vê hiền lành và khiêm nhường như con chiên bị đem đi làm thịt mà không kêu lên một tiếng. Gioan Tẩy giả trong Tin mừng hôm nay cũng giới thiệu Người Tôi Tớ của Đức Chúa đó chính là Đức Giê-su con chiên cứu độ: ”Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Con chiên là con vật hiền lành, ngoan ngoãn sống theo bầy đàn và vâng lời người mục tử chăn dắt chúng. Chiên còn hy sinh để phục vụ sự sống của chủ chiên. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tố cáo các mục tử dân Ít-ra-en tội ích kỷ khi họ chỉ lo tìm hưởng lợi nơi đàn chiên mà lại tỏ ra vô trách nhiệm đối với sự an nguy của chúng như sau: “Sữa chiên các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt” (Ed 34,3). Thời Mô-sê con chiên cũng được chỉ định dùng làm lễ vật để sát tế dâng cho Đức Chúa và làm lễ vật đền tội thay cho dân chúng trong lễ xá tội.
-Ngày nay Hội Thánh chính là đoàn chiên của Thiên Chúa cũng được mời gọi kết hiệp với Đức Giê-su là Con Chiên Vượt Qua cứu độ nhân loại. Nhờ bí tích thánh tẩy, mỗi tín hữu được trở thành chi thể của Chúa Giê-su và được tham phần vào chức vụ tư tế của Người nên chúng ta cũng được mời gọi làm con chiên đền tội, để cùng với Người, chúng ta dâng trót đời mình làm hy lễ cứu rỗi thế gian. Mỗi tín hữu cần luôn hiệp thông với Chúa Giê-su bằng việc mỗi ngày chu toàn việc bổn phận, dâng lên Chúa các việc hy sinh hãm mình, việc bác ái, các đau khổ gặp phải khi bị người chung quanh hiểu lầm chống đối… để kết hiệp với của lễ trên bàn thờ là Chúa Giê-su Con Chiên Thiên Chúa, Đấng đã chịu chết trên bàn thờ thập giá để xin ơn tha tội cho mọi người. Hình bóng của con chiên Cựu Ước đã được nên trọn trong Đức Giê-su Chiên Thiên Chúa thời Tân Ước.
4. THẢO LUẬN:
1) Tước hiệu Chiên Thiên Chúa gợi lên tình yêu, sự hy sinh và sự khải hoàn. Bạn sẽ làm gì để xứng đáng nhận được ơn cứu độ mà Con Chiên Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, đã vì yêu thương sẵn sàng chịu chết để đem lại sự sống đời đời cho bạn ? 2) Khi bị hiểu lầm, bị vu khống oan uổng, bạn sẽ làm gì để noi gương Đức Giê-su ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết noi gương thánh Gio-an Tẩy Giả biết giới thiệu Chúa là Con Chiên Thiên Chúa bằng lời nói và hành động trước mặt mọi người. Mỗi lần dự lễ, xin giúp chúng con biết dâng lên Thiên Chúa những sự hy sinh vất vả, những công việc tông đồ bác ái để kết hiệp với lễ vật Mình Máu Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được tẩy xóa tội lỗi và được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
TN 2-A96: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội của trần gian
Suy niệm Chúa nhật II - Năm A
(Ga 1, 29-34)
Phụng vụ Chúa nhật II thường niên A làm cho chúng ta nhớ lại chủ đề của tuần trước, Lễ Chúa: TN 2-A96
Phụng vụ Chúa nhật II thường niên A làm cho chúng ta nhớ lại chủ đề của tuần trước, Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Nhưng Isaia trình bày về người Tôi Tớ cách mới mẻ hơn (Bài đọc I) và Phúc Âm cũng thế, nói về phép rửa của Chúa Giêsu nhưng trong bản văn của Gioan. Tại sao có sự lặp lại này, khi chúng ta bước vào một mùa phụng vụ mới?
Có lúc chúng ta cần phải nghe một lần nữa, để bổ sung hay làm sáng tỏ các mầu nhiệm. Tuần trước, lời Chúa mời gọi chúng ta sống chức phận làm con. Đó là điều cần thiết. Tuần này, lời Chúa mời gọi chúng ta đặt mình vào vị trí của Gioan Tẩy Giả để thấy được kế hoạch của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Tin Mừng hôm nay trình bày nhân vật Gioan Tẩy Giả như sau: " Khi ấy, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình" (Ga 1, 29). "Thấy Chúa Giêsu tiến về mình", đây là một hành động tương lai, tiếng Hy bá còn diễn tả ‘ngày mai’. Nhưng tương lai này có sự liên tục với Giao Ước cũ, vì Gioan Tẩy Giả đã không nói về chính mình, lời của ông được rút ra từ Cựu Ước đan vào nhau để làm sáng tỏ các mầu nhiềm. Bằng từ ‘ngày mai’, chúng ta cử hành một ngày mới bắt đầu, Năm Phụng vụ mới bắt đầu. Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Giao Ước mới tiến lên thì nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian."
Đây là Chiên Thiên Chúa
Gioan Tẩy Giả khẳng định, Chúa Giêsu là Chiên duy nhất chết thay cho đoàn chiên là nhân loại chúng ta. Không những thế, Ngài còn phục hồi tất cả những người sống trên trần gian này và cứ chuộc mang về cho Thiên Chúa Cha. Một người chết thay cho toàn dân, để tất cả vâng phục Thiên Chúa ; chỉ một mình Người đã chịu chết để cứu chuộc muôn người… Thật thế, con người đã trở nên hư hỏng, sống trong tội lỗi và đây là lý do tại sao Chúa Cha đã cho Con của Ngài tới làm giá chuộc tội cho toàn dân ( Ga 3,16; Mc 10, 45), vì Người là đầu và tất cả mọi sự ở trong Người. Để tất cả chúng ta sống trong Người, Người đã vui lòng chịu chết và hiến tế vì chúng ta, Người đã chết thay cho chúng ta, và sống lại vì chúng ta. Ngài là Chiên thật xóa bỏ tội trần gian.
Đấng xóa tội trần gian
Tội lỗi là nguồn gốc và là căn nguyên của sự chết, làm thế nào thoát khỏi cái chết đời đời ? Chắc chắn phải hủy diệt sự chết. Con Chiên đã chịu chết và sống lại, mầm mống sự chết bị tiêu tan, tội lỗi được tẩy xóa, còn tội nào khiền chúng ta phải chết nữa không ? Khi cử hành lễ hy sinh của Con Chiên trong niềm vui, thánh Phaolô nói rằng: "Hỡi sự chết, chiến thắng của ngươi ở đâu ? Hỡi sự chết, nọc đâu của người ở đâu ? "(1 Cor 15,55 ; Os 13,14... " Ðức Kitô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật " (Gal 3, 13), để chúng ta có thể thoát khỏi lời nguyền của tội lỗi.
Gioan là mẫu người đi tìm Chúa
Gioan Tẩy Giả là một tiên tri, biết nhận ra Thiên Chúa giữa loài người. Nhưng làm thế nào ông biết Thiên Chúa ẩn tàng trong nhân loại? Ông thừa nhận là: "Tôi đã không biết Ngài". Tuyên bố của ông thật là lạ, vì Chúa Giêsu và Gioan là anh em họ hàng với nhau, hai bà mẹ đã viếng thăm nhau, Chúa Giêsu và Gioan đã gặp nhau, ấy vậy mà ông vấn lặp đi lặp lại cách khẳng định điệp từ: "Tôi đã không biết Người."
Có hai yếu tố: Gioan biết phân biệt ngày hoàn tất lời các ngôn và ngày Giêsu người anh em họ với mình tỏ mình là Chiên Thiên Chúa. Ông quan sát dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Gioan không phải là người lặp lại lời ngôn sứ Isaia. Ông đọc đi đọc lại Thánh Kinh và sách các ngôn sứ, nhưng ông đã làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần: "Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi". Quả thật, Ngôi Lời Thiên Chúa lần đầu tiên mặc khải trong xác phàm, vậy là câu Gioan nói "Tôi đã không biết Người", cho thấy, trước khi biết Đấng hoàn tất lời hứa, cần phải đón nhận lời các ngôn sứ và Thánh Kinh. Gioan đã thất bại khi tuyên xưng: "Tôi đã không biết Người". Ông bối rối khi vẫn chưa chính thức công nhận người thực hiện lời hứa, ông xác định rõ ràng Chúa Giêsu là Ngôi Lời làm người, lời hứa của Thiên Chúa để cứu chuộc nhân loại. Thì ra, khi con người bất lực, ân sủng của Chúa Thánh Thần là ngọn đuốc chiếu sáng tâm linh. Gioan quả là mẫu người lý tưởng trong sự nhận biết và đi tìm Chúa. Ông đã trở thành "Tẩy Giả" thực hiện đầy đủ ơn gọi của mình, ông không nói như là tiếng vọng của tiên tri Isaia, Gioan đã viết lời tiên tri một lần nữa và tham gia trong việc thực hiện lời hứa. Có như vậy, ông mới thực sự biết Thiên Chúa và sống đến cùng ơn gọi của mình và làm chứng cho mọi người biết rằng: "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian".
Gioan là người lồng tiếng truyền đi sứ điệp mà ông đã được ủy thác. Sứ điệp Gioan truyền thật là một công thức đẹp và độc đáo, được lặp đi lặp lại ở tất cả các Bí tích Thánh Thể, được thể hiện dưới ánh mắt thân mật và yêu thương nhất của Thiên Chúa. "Đây là Chiên Thiên Chúa". Đây sự tuyển chọn Abraham và giao ước với nhà Đavid, đây là người Tôi Tớ đau khổ và là Chiên Vượt Qua. Đây là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi. Đây là Con Thiên Chúa.
Gioan kết luận: "Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Người là Con Thiên Chúa". Đó là lời chứng và cũng là lời giải thích của Gioan về sự nhận biết và tôn thờ cũng như đón nhận Lời Chúa để thông phần vinh quan với Người ; hành động đức tin biến chúng ta thành người tôi tớ hợp nhất với người môn đệ dưới chân Thánh Giá: "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian." Ngôi Lời bị ăn, vị linh mục dương cao Mình Thánh Chúa lên cho chúng ta thờ lạy, chúng ta sẵn sàng công bố: "Đây là mầu nhiệm đức tin."...
Trong một dịp ghé thăm điểm truyền giáo của các cha dòng Chúa Cứu Thế tại Chư Sê - Gia Lai, tôi: TN 2-A97
Trong một dịp ghé thăm điểm truyền giáo của các cha dòng Chúa Cứu Thế tại Chư Sê - Gia Lai, tôi được gặp một linh mục đáng kính cả về tuổi đời lẫn tuổi truyền giáo tại khu vực này. Trong buổi chia sẻ, ngài nói: “Tôi nhớ những năm đầu tiên đến điểm truyền giáo này, tôi gặp phải không ít khó khăn ở đây. Có những khó khăn rất tế nhị. Nhưng có lẽ khó khăn hơn cả là lòng dân ở đây sẵn có tục lệ và tín ngưỡng lâu đời, nên họ khó chấp nhận một tôn giáo mới. Tuy nhiên, dần dần, một phần vì tò mò, một phần vì cảm nghiệm được lối sống của các vị thừa sai, nên có một người anh em dân tộc đến hỏi về đạo”. Họ hỏi: “Tại sao ông lại sống như thế?” Vị linh mục trả lời: “Tao sống như vậy là vì Chúa của tao dậy tao sống thế!” Họ hỏi tiếp: “Vậy Chúa của mày là ai? Có thương bọn tao không?” Ngài trả lời: “Có chứ!” Anh bạn đó tiếp: “Vậy Chúa của mày là ai?” Không chần trừ, vị thừa sai trên Miền Thượng này đã đưa cho họ hình ảnh cây Thánh Giá có tượng Chúa chịu đóng đinh và nói: “Chúa của tao đây. Vì yêu thương, Ngài luôn bênh vực những người nghèo, chống lại những kẻ áp bức, bóc lột, nên bị chết như thế này đấy”. Anh bạn người dân tộc đó gật gù và nói: “Nếu Chúa của mày tốt như thế và yêu thương bọn tao thì tao sẽ về và nói cho bản của tao, nó đến và mày giới thiệu về Chúa của mày cho chúng nó nghe nhé”. Vị linh mục đó nói “Sẵn sàng”, và một ngày gần đó, ngài đã rửa tội cho hàng ngàn người. Tính đến thời điểm này, mỗi vị thừa sai trên Miền Thượng từ những giai đoạn đầu đến nay đã rửa tội được khoảng trên dưới 40.000 người.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một vị ngôn sứ mà có lẽ không ai mà không biết đến, ông đã giới thiệu cho dân chúng về Đấng luôn yêu thương họ, Đấng ấy đã được tiên báo từ lâu, Ngài là: “Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Vị ngôn sứ đó là chính Gioan.
Chiên Thiên Chúa là ai?
Chiên Thiên Chúa mà Gioan hôm nay loan báo chính là vị Tôi Tớ, hiền lành, khiêm nhường và chịu đau khổ mà trong Cựu Ước, tiên tri Isaia đã tiên báo. Ngài được ví như: “Con chiên bị đem đi giết mà không một lời oán trách thở than".
Còn tiên tri Giêrêmia thì dùng chính hình ảnh của mình để tiên trưng về một Đấng Mêsia, là Cứu Chúa của nhân loại khi nói: “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều ác chống lại tôi”.
Hình ảnh con chiên gợi lên sự hiền lành, dễ dạy, thậm chí có vẻ quá yếu đuối và dễ bị đàn áp.
Những lời loan báo và hình ảnh đó hôm nay được Gioan vén mở cho dân thấy khi nói: “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”(Ga 1,29). Ngài quả là Ðức Giêsu, Người Tôi Tớ Ðau Khổ của Giavê.
Gioan mạnh dạn và giới thiệu cho dân chúng về sứ vụ của Đấng Mêsia như vậy là vì ông đã được mặc khải cho biết: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người ấy chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Ngài đến để cứu chuộc con người và là Đấng xóa tội trần gian.
Tuy nhiên, để hiểu được Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa bỏ tội trần gian, thì trước tiên phải hiểu được hình ảnh con chiên trong Cựu Ước.
Con chiên trong Cựu Ước được biết đến như là một lễ vật để đền tội thay cho dân. Trong sách Xuất Hành, con chiên được nói đến nhiều hơn cả. Theo truyền thống Tư tế, thì hằng ngày, người ta sát tế hai con chiên, một con buổi sáng và một con ban chiều. Khi sát tế như thế, họ dâng nó lên Giavê để cầu xin ơn tha tội cho mình và đồng loại (x. Xh 29,38-42). Hình ảnh con chiên mang tội của dân được diễn tả khi kẻ có tội tiến đến bên cạnh con chiên chuẩn bị để làm của lễ, úp hai tay mình lại và đặt lên đầu chúng. Sau đó, vị Tư tế đại diện cho người có tội sẽ sát tế con chiên đó hoặc thả chúng vào rừng. Trong truyền thống của người Do Thái thì đây là hình thức xóa tội cho mình và anh em: “Suốt thời gian sắp tới, mỗi ngày các ngươi hãy hiến tế trên bàn thờ hai con chiên tuổi được một năm, một con hiến tế vào buổi sáng , con kia vào buổi chiều”(Xh 29,38-39).
Khi giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, một mặt Gioan muốn nói đến sứ vụ của Đức Giêsu là Đấng đền tội cho dân, mặt khác, ngài muốn nói đến vai trò cứu chuộc của Đức Giêsu nữa. Dưới tước hiệu “Chiên của Thiên Chúa”, Đức Giêsu chính là Đấng vô tội và thánh thiện, dưới tước hiệu “Đấng xóa tội trần gian”, Ngài chính là Đấng đã được Cựu ước loan báo như là Vị Tôi Tớ đau khổ, trung thành và chết thay và đền tội cho dân.
Nếu Đức Giêsu không phải là Chiên vô tội thì không thể cứu chuộc được nhân loại. Ngài là Đấng thánh thiện, tinh tuyền, khiêm tốn và tự hủy cho nên Ngài đã trở thành Vị Tôi Tớ của Giavê mà tiên tri Isaia đã loan báo, là Đấng xóa bỏ tội trần gian.
Chính nhờ Đấng Trung Gian đã giao hòa thế gian với Thiên Chúa bằng chính cái chết của mình nên Ngài đã trở thành Ađam mới, đã hoàn tất sứ mạng của mình bằng con đường hy sinh, gánh lấy tội lỗi của cả nhân loại để rồi đem lên trên cây thập giá và cùng với của lễ là chính bản thân để đền tội và tẩy xóa cho nhân loại.
Sứ điệp Lời Chúa
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Gioan được hiện lên như là một nhân chứng vĩ đại của Đức Giêsu, bởi vì ông đã thấy và ông xin làm chứng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng được đón nhận sứ mạng ngôn sứ này ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Vì thế, chúng ta cũng phải giới thiệu Chúa cho người khác.
Thật vậy, mỗi người mỗi hoàn cảnh, chẳng ai giống ai, nhưng chúng ta đều chung một sứ mạng là làm chứng cho Chúa. Lời chứng ấy cũng có thể bằng gương sáng, là men là muối trong đời sống thường ngày.
Thật vậy, nếu là ông chủ, hãy cư xử với nhân viên cách công bằng; nếu là công nhân, hãy làm việc vì bổn phận và tránh sự bất cẩn để thiệt hại cho người khác; nếu là bác sĩ, hãy sống đúng với lương tâm một vị: “Lương y như từ mẫu”. Đừng vì tiền, vì chiếc ghế chức quyền mà đi ngược lại với bản chất để đang tâm giết chết những thai nhi vô tội; nếu là thầy cô giáo, hãy dạy cho con em sự thật thà, thay vì nói dối, dạy cho con em: “Tiên học lễ - hậu học văn”; nếu là quan trường thì hãy yêu thương dân, không đàn áp, bóc lột và tham nhũng để dân phải đói khổ và ân hận...
Tuy nhiên, hãy học cách giới thiệu của Gioan, ông đã luôn sống sự khiêm nhường thẳm sâu để cho Đức Kitô được nổi bật lên. Chúng ta cũng vậy, muốn chu toàn sứ vụ tốt đẹp, chúng ta cũng không còn cách nào khác bằng cách khiêm tốn, hiền hậu để khuôn mặt của Đức Giêsu được lộ hiện lên trên khuôn mặt, qua những công việc của chính chúng ta. Amen.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 1:29-34)
Làm chứng là thấy sao nói vậy. Cách ông Gio-an Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giê-su là cách ông làm chứng: TN 2-A98
Làm chứng là thấy sao nói vậy. Cách ông Gio-an Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giê-su là cách ông làm chứng về Người. Tuy nhiên qua đoạn Tin Mừng hôm nay, ngoài những điều ông thấy được bằng hiểu biết riêng của mình, ông còn giới thiệu Chúa bằng những gì ông được biết nhờ mặc khải của Thiên Chúa Cha. Vậy chúng ta hãy xem ông Gio-an nói gì về Chúa Giê-su.
Trước hết chúng ta phải ngạc nhiên trước điều ông Gio-an nói về Chúa Giê-su khi ông thoạt trông thấy Người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Hình ảnh Chiên Thiên Chúa chắc chắn tự ông không thể “chế” ra được, nhưng phải là do Thiên Chúa mặc khải cho ông và nhờ miệng ông nói ra. Con chiên Vượt Qua trong Cựu Ước đã được sát tế để đền tội cho dân chúng, giờ đây được áp dụng cho Chúa Giê-su, để diễn tả sứ mệnh của Người là đến để xóa bỏ tội trần gian. Không những Thiên Chúa mặc khải cho ông Gio-an biết sứ mệnh của Chúa Giê-su, mà cả về thân thế của Người nữa. Chúa Giê-su “trổi hơn” ông và “có trước” ông, hay nói khác đi, Chúa Giê-su là chính Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Ông khiêm tốn thú nhận mình “đã không biết Người”, nghĩa là ông chỉ nói lên những gì ông đã được mặc khải. Ngoài ra ông cũng khẳng định rõ ràng sở dĩ ông làm phép rửa cho Chúa Giê-su không phải giống như các người khác, nhưng mục đích chỉ là “để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en”.
Vậy ngoài những điều đã được mặc khải, ông Gio-an làm chứng thế nào cho Chúa Giê-su bằng những gì ông đã thấy? Thiên Chúa Cha đã sai Gio-an đi thi hành sứ mệnh làm phép rửa và Người còn cho ông một dấu chỉ để nhận ra Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Làm phép rửa trong Thánh Thần cũng là công việc thiết yếu của Chúa Giê-su, tức là xóa bỏ tội trần gian. Ông đã thấy và ông làm chứng Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa.
Qua việc làm chứng của Gio-an Tẩy Giả, thánh sử Gio-an chỉ muốn trình bày một chân lý thần học quan trọng nhất về Chúa Giê-su và sứ mệnh của Người. Như trong lễ Vượt Qua đầu tiên, nhờ máu chiên được sát tế bôi lên khung cửa, người Do-thái tại Ai-cập thoát khỏi cái chết, thì giờ đây, nhờ cái chết của Chúa Giê-su vào giờ thứ sáu, tức là giờ sát tế chiên lễ Vượt Qua trong Đền Thờ, trần gian chìm đắm trong bóng tối và thù nghịch với Thiên Chúa được thoát khỏi tội lỗi như một gánh nặng đè trên nhân loại.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Lời chứng của ông Gio-an Tẩy Giả đơn sơ và chân thành giống hệt như cá tính của ông. Thiên Chúa dạy ông làm gì thì ông làm, thấy điều gì xảy ra thì nói là mình thấy. Ông khiêm nhường thú nhận mình không biết Chúa Giê-su, nhưng hoàn toàn dựa vào những điều Thiên Chúa tỏ ra cho ông, nên ông đã có thể tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.
Ngày nay chúng ta có thể không được Chúa Cha mặc khải như Người đã mặc khải cho ông Gio-an, nhưng chúng ta vẫn có thể theo gương Gio-an để làm chứng là vì chúng ta đã thấy. Phải, chắc chắn chúng ta đã thấy xảy ra nhiều điều có thể làm chứng Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian. Khi đến với Bí tích Giải tội, chúng ta tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng xóa bỏ tội lỗi chúng ta. Khi chúng ta tha thứ cho anh chị em là chúng ta tiếp tay với Chúa Giê-su để xóa bỏ lỗi lầm của người khác.
Ông Gio-an tuyên bố: “Tôi đến làm phép rửa trong nước để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en”. Ông đã ý thức mục đích khi thi hành sứ mệnh là để làm chứng cho Chúa Giê-su. Đây là sứ mệnh tất cả chúng ta đều có thể làm. Cuộc sống chúng ta có rất nhiều cơ hội làm chứng cho Chúa Giê-su và lời dạy của Người: yêu thương, tha thứ, giúp đỡ, ủi an, cầu nguyện… Tất cả những gì chúng ta giúp cho người khác nhận ra “Đức Ki-tô sống trong chúng ta” đều là những chứng từ nói lên rằng: “Tôi đã sống, nên xin chứng thực rằng Chúa Giê-su là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. Thánh Gio-an Tẩy Giả đã làm chứng cho Chúa Giê-su hôm qua. Hôm nay đến lượt chúng ta cũng làm chứng cho Người!
Gio 1:29-34: 29 Hôm sau, ông thấy Ðức Giêsu đến với ông, thì ông nói: "Này là Chiên của Thiên Chúa, Ðấng khử trừ tội của thế gian. 30 Chính Ngài là Ðấng tôi đã nói: "Sẽ đến sau tôi, một người đã vượt trước tôi, vì Ngài đã có trước tôi." 31 "Phần tôi, tôi đã không biết Ngài, nhưng để Ngài được tỏ mình ra cho Israel, mà tôi đã đến thanh tẩy bằng nước". 32 Và Yoan đã đoan chứng rằng: "Tôi đã trông thấy Thần khí như chim câu đáp xuống tự trời và đã lưu lại trên Ngài. 33 Tôi chưa hề biết Ngài, nhưng Ðấng đã sai tôi đến thanh tẩy bằng nước, chính Người đã nói với tôi: Ngươi thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại trên ai, thì chính Ngài là Ðấng thanh tẩy trong Thánh thần. 34 Và tôi đã được xem thấy, và xin đoan chứng: Chính Người là Con Thiên Chúa".
Vai trò làm chứng của Gioan về Chúa Giêsu để mọi người có thể tin vào Người đã được nói từ đầu: TN 2-A99
Vai trò làm chứng của Gioan về Chúa Giêsu để mọi người có thể tin vào Người đã được nói từ đầu trong Lời Tựa (1:6-8.15). Từ 1:19 Lời Tựa chuyển sang thể văn tường thuật. Phần còn lại của chương 1 nầy (1:19-51) gồm ba đoạn: 1:19-28; 29-34; 35-51. Ba đoạn nầy liên kết với nhau rất chặt chẽ chung quanh chủ đề “làm chứng”: Gioan làm chứng trước những người được phái đến từ Giêrusalem là ông không phải là Đấng Kitô, mà là Đấng đến sau ông (1:19-28); ông làm chứng trực tiếp về Chúa Giêsu cho dân Israel (1:29-34); và ông làm chứng cho hai môn đệ của ông về Chúa Giêsu (1:35-37).
Trong đoạn 1:29-34 nầy, Gioan tuyên bố Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” khi ông thấy Người đi ngang qua đó (1:29); rồi ông làm chứng về thị kiến Thánh Thần ngự xuống trên Người; sau cùng ông làm chứng Người là “Con Thiên Chúa” (1:34). Trung tâm của trình thuật là Chúa Giêsu, Người được Gioan làm chứng. Bố cục của đoạn có thể phân chia thành hai phần, do động từ “làm chứng” ở các câu 1:32 và 34: - Chiên của Thiên Chúa (1:29-31); - Con của Thiên Chúa (1:32-34). Đoạn nầy được đóng khung bởi “Con Chiên của Thiên Chúa (1:29) và “Con của Thiên Chúa” (1:34), và được giới hạn bởi chỉ dẫn thời gian “Hôm sau” (1:19.25).
Chiên Thiên Chúa (1:29-32). Chỉ dẫn thời gian “Hôm sau” mở đầu một màn mới (1:29.35.43). Ở phần kết thúc của mỗi đoạn đều có một quả quyết rất quan trọng (1:34.43.51). Việc làm chứng của Gioan bắt đầu bằng việc “thấy”. Ba động từ “nhìn thấy” blepein (c. 29) - “chiêm ngắm” theōrein (c. 32) - “thấy” horan (c. 34) chỉ những thay đổi tinh tế về việc “thấy” trong những khoảng nối tiếp nhau. Khi Chúa Giêsu đi đến phía ông, Gioan “nhìn thấy”. Khi Thánh Thần ngự xuống trên Người, ông “chiêm ngắm”. Và sau khi đã chứng kiến mọi sự, ông nói là “đã thấy” Người. Với động từ “thấy” horan, Gioan đã quả quyết trong Lời Tựa là “Thiên Chúa không ai thấy bao giờ” (1:18); thế mà bây giờ Gioan đã thấy Người (1:29 “Kìa”; 1:34.36). Cũng thế, chỉ khi Lời mặc lấy xác phàm, “chúng ta mới chiêm ngắm, theōrein, vinh quang của Người” (1:14).
Đối tượng của việc “thấy” là Chúa Giêsu, Người đang đến. Tên “Giêsu” trong lần đầu tiên qui chiếu về “Đấng sẽ đến” (x. 1:15.27). Lần nầy “Giêsu” được xác định rõ hơn về căn tính của Người. Người là “Chiên Thiên Chúa”. Tước hiệu nầy được dùng lại lần nữa khi Gioan nói với hai môn đệ của ông (1:26). “Chiên Thiên Chúa” gắn liền với sứ mạng “mang lấy tội trần gian”. Trong sách Công vụ Tông đồ, “Chiên Thiên Chúa” được áp dụng cho Chúa Giêsu (8:32-35). Tước hiệu nầy làm nghĩ đến “Người Tôi Tớ” trong Is 53:7-8. Về Người Tôi Tớ nầy, ngôn sứ Isaia viết: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng. Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu. Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới? Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt”. “Con chiên” trong Isaia chịu đau khổ vì tội lỗi của dân. “Chiên Thiên Chúa” không chỉ như thế, mà còn mang lấy tội lỗi ấy (x. 19:31-37). Tội lỗi mà Gioan dùng ở số ít, chỉ một tội duy nhất: đó là tội không tin vào Chúa Giêsu khi Người đến trần gian nầy (16:8-9). Điều nầy phù hợp với khẳng quyết là Ánh Sáng đến trong trần gian, nhưng trần gian không nhận biết Người (1:9-10). “Con Chiên” là “của Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng ban Con Chiên nầy cho trần gian; tương tự như “bánh của Thiên Chúa”, nghĩa là Bánh do Thiên Chúa ban cho (x. 6:33). Động từ “đến” (c.30) chỉ sứ mạng cứu chuộc của Chúa Giêsu khi Người đến trần gian.
Cụm từ “Tôi đã không biết Người” (1:31.33) muốn nói là khi chưa gặp Người thì Gioan đã không biết Người. Động từ “biết” ở đây chỉ sự kiện “đã không hề biết”. Trong khi ở câu 1:26, Gioan nói với những người đến với ông là họ đã không biết và ngay cả bây giờ họ cũng không biết. Gioan chỉ mới biết Chúa Giêsu và làm chứng cho Người khi ông được Thiên Chúa sai đến làm phép rửa cho Người. Phép rửa ông làm cho Người có mục đích là “để Người được tỏ mình ra cho dân Israel”. Tương tự trong 1:24-27, trong đó Gioan trả lời cho những Người thắc mắc về chân tính của ông khi ông làm phép rửa. Trong câu 1:32 Gioan sẽ quả quyết về “phép rửa trong Thánh Thần” Chúa Giêsu sẽ làm. Trong tin mừng Gioan, “dân Israel” ám chỉ dân của Thiên Chúa (1:29. 49; 3:10; 12:13); trong khi “Do thái” chỉ những người đại diện cho thế giới chống lại Thiên Chúa (1:19; 2:6.13.18.20…). Mục đích của việc tỏ mình ra là để người ta có thể tin vào Người: các môn đệ đã tin vào Người trong phép lạ đầu tiên tại Cana (2:11; 17:6; 21:1.14); những người sống trong sự thật đến cùng ánh sáng (3:21). Còn thế gian nầy không tin vào Người nên Người không tỏ mình ra cho họ (7:4-5).
Con Thiên Chúa (1:32-34). “Phép rửa” liên kết hai phần với nhau. Đoạn nầy được đóng khung bởi động từ “làm chứng” (c. 32.34). Việc làm chứng của Gioan trong phần nầy cụ thể hơn. Trong phần nầy sẽ nói đến một phép rửa khác. Đó là phép rửa trong Thánh Thần. Điều kiện để Chúa Giêsu có thể làm phép rửa trong Thánh Thần là Thánh Thần phải ngự xuống trên Người trước và ở lại trong Người. Khác với các tin mừng nhất lãm nói là Chúa Giêsu thấy Thánh Thần ngự xuống trên Người. Trong tin mừng Gioan, chính Gioan có thị kiến về việc nầy; như thế chính ông cũng tham dự vào thị kiến nầy.
Cảnh Thánh Thần ngự xuống như hình chim bồ câu trên Người và ở lại với Người có nhiều cách giải thích. Có thể nghĩ hình ảnh chim bồ câu liên quan đến cuộc tạo dựng (Kn 1:2), và là dấu hiệu của một thời kỳ mới (Kn 8:10-11; Nhã ca 2:11-12). Việc Chúa Giêsu đến mở ra thời kỳ cứu độ mới. Ai muốn trở nên thành phần trong dân mới Israel đều phải lãnh phép rửa trong Thánh Thần. Việc Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu đưa Gioan đến kết luận trong lời chứng là chính Người là Con Thiên Chúa (x. 11:27). Tước hiệu “Con Thiên Chúa” xuất hiện lần cuối cùng vào cuối tin mừng Gioan, và cho biết mục đích của tin mừng nầy được viết ra: “Các điều đã viết đây, là để anh em tin rằng: Ðức Giêsu chính là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa; và bởi tin thì anh em được có sự sống nhờ Danh Ngài” (20:31).
Lời chứng của Gioan được nối tiếp bằng những điều ghi lại trong tin mừng theo thánh Gioan. Lời chứng nầy luôn mời gọi lòng tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa để được sự sống đời đời.
Tội, có thể nói là điều ghê tởm mà con người xa lánh. Nói đến kẻ có tội, càng khiến người ta khó chịu.: TN 2-A100
Tội, có thể nói là điều ghê tởm mà con người xa lánh. Nói đến kẻ có tội, càng khiến người ta khó chịu. Nhưng phạm tội, thì lại chẳng loại trừ ai. Lỗi lầm con người mắc phải, kẻ thì chê ghét, người lại coi thường. Nhiều kẻ dường như chẳng biết sợ tội là gì. Và cứ vậy đời nọ đến đời kia, hậu quả của tội khiến nhân loại bất hạnh đến chừng nào.
Trước những khốn quẫn của tội lỗi đem lại, con người cần biết bao đến sự cứu giúp. Trong hoạn nạn, rủi ro, người ta cần biết bao đến sức mạnh quyền lực đến ngoài mình. Và loại trừ Thiên Chúa, ai có thể cứu nhân loại thoát khỏi ách thống trị của tội lỗi ?
Nếu nói nhân loại tự sức mình không thể nào hạnh phúc, nếu cứ cậy dựa vào của cải vật chất, chức tước, địa vị, tiền tài, sự nghiệp… thì muôn đời chẳng bao giờ hết tội, cũng chẳng bao giờ hạnh phúc đích thực, thì Thiên Chúa chính là hạnh phúc, là chốn giải thoát. Ngài yêu nhân loại đến nỗi ban chính Con Một đến thế gian làm vật hi sinh, vật hiến tế, đền thay tội lỗi muôn người.
Khi gặp khó khăn vì tội, có người bênh vực, cứu hộ mình, thì còn gì hạnh phúc sung sướng cho bằng. Đó chỉ là những thử thách vụn vắn, hạnh phúc nho nhỏ. Niềm vui mà Thiên Chúa ban cho con cái loài người cao lớn hơn biết chừng nào. Giá máu Đức Giêsu đổ ra để cứu chuộc nhân loại ban cho họ hạnh phúc đời đời, niềm vui vĩnh cửu mà chẳng ai, chẳng gì có thể lấy mất được, thật cao lớn biết bao nhiêu.
Và chính ông Gioan được sai đến để loan báo và làm chứng về sứ mệnh cứu độ của Đức Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” ( Ga 1, 29 ). Niềm tin và niềm xác tín mạnh mẽ ấy không phải ai ai cũng có được. Chính Gioan đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời ngự xuống trên Đức Giêsu nên ông đã tin: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” ( Ga 1, 34 ). Còn niềm tin của mỗi người chúng ta ngày nay thì sao ?
Thế giới vật chất, con người trần gian không tin Thiên Chúa đã đành, người tín hữu Kitô, được khoác trên mình tấm áo làm con cái Thiên Chúa, mang lấy hình ảnh của Ngài, được cứu chuộc bằng chính giá máu của Đức Giêsu, cũng không tin điều ấy hay sao ? Thiên Chúa còn phải làm gì hơn nữa để nhân loại tin đây ?
Tin và sống, kẻ không tin đã vậy, người có tin cũng chẳng ra sao. Hơn bao giờ hết, nhân loại đang đứng trước vực thẳm của Niềm Tin và Lòng Mến. Nếu đã một lần được sinh ra làm người, được lớn lên và trưởng thành, chắc chắn không ít lần họ được mặc khải cho biết quyền năng và tình thương nhưng-không của Thiên Chúa, nhưng chẳng biết đến bao giờ, người ta mới có thể tuyên tín: Tôi đã thấy, tôi xin làm chứng…
Lạy Chúa, con đã nhìn thấy biết bao tình thương và lòng nhân hậu Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên cuộc đời con. Cảm ơn Ngài đã hy sinh chết cho con, cứu chuộc con khỏi vũng lầy tội lỗi. Chỉ cần sống để mà trả bấy nhiêu ơn ấy thôi cũng chưa đủ, nói gì đến những hồng ân Chúa ban tặng hằng ngày.
Xin giúp con, hãy quên đi những vất vả lao động, những bất toàn của cuộc sống, chỉ vì ân huệ Thiên Chúa trao tặng cao vời hơn biết bao nhiêu. Chỉ cần nghĩ được như vậy, cũng đủ minh chứng cho người thân cận nhận biết Đấng Thiên Chúa sai đến chính là Thiên Chúa cứu độ.