Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa TN 1-A Bài 1-50: Này là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta ---------------------------- Phúc Âm: Mt 3, 13-17: "Khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống trên mình Người".
Tục ngữ Việt Nam có câu: - Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng: TN 1-A1
Tục ngữ Việt Nam có câu:
Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Với câu tục ngữ trên, người xưa muốn bảo chúng ta rằng: qua giọng nói của người đối diện, chúng ta có thể đoán biết được phần nào tính tình của họ.
Cho dù nghe giọng noi mà bắt hình dong, nếu không được đúng trăm phần trăm, thì ít nữa cũng biết được rằng: lời nói là một kho tàng cao quí nhất của con người.
Đúng thế, lời nói là một phương tiện Chúa đã trao ban để chúng ta chia sẻ những ý nghĩ, những ước muốn, nhờ đó mà hiểu biết nhau hơn và xích lại gần nhau hơn. Vì thế, người xưa cũng đã khuyên:
- Lời nói chẳng mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Và chúng ta cũng có thể xác quyết:
- Người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói.
Nhờ lời nói, chúng ta có thể diễn đạt được bản thân chúng ta cho người khác. Nhờ lời nói, chúng ta có thể bày tỏ cho người khác những ước vọng mình đang theo đuổi. Nhờ lời nói chúng ta không phải chỉ đạt tới những điều mình muốn diễn tả, mà hơn thế nữa còn đi vào con đường tương giao mật thiết, tạo được sự cảm thông với những người chung quanh.
Dù khoảng cách giữa người nói và kẻ nghe có là một đại dương bao la chang nữa, thì người nói vẫn cảm thấy mình đang hiện diện một cách mật thiết với kẻ nghe.
Bằng cách thức ấy, Thiên Chúa cũng đã nói với mỗi người và với mọi người chúng ta. Tin mừng hôm nay kể lại rằng: Khi Chúa Giêsu vừa lên khỏi nước, thì trời mở ra và từ trời có tiếng phán:
- Này là con ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài.
Trong Cựu ước, chúng ta thấy có lần tiên tri Samuel cũng đã khao khát được nghe tiếng Chúa:
- Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe.
Còn chúng ta thì sao ? Có lẽ đôi lúc chúng ta cũng đã nhủ thầm:
- Nếu Chúa thực sự hiện diện, thì xin hãy nói với con. Nếu Chúa thực sự yêu thương, thì xin hãy xuống khỏi trời cao để nhìn xem những gì đang xảy ra trong cõi nhân sinh.
Qua biến cố Chúa chịu phép rửa ở sông Giócđan, một nhịp cầu cảm thông nối liền trời với đất được được thiết lập: Trời mở ra và tiếng nói của Thiên Chúa đã vang vọng đến tai con người:
- Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài.
Thánh Phaolô trong bức thư gửi tín hữu Do Thái cũng đã xác quyết:
- Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Con Một Ngài.
Như thế, toàn bộ cuộc đời Chúa Giêsu đã trở thành một lời tâm sự, giãi bày tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người. Chỉ với tiếng nói của Người Con yêu dấu ấy, chúng ta mới thấy được dung mạo đích thực của Thiên Chúa.
Đồng thời, nhờ bí tích Rửa tội, người Kitô hữu cũng đã lãnh nhận một sứ mệnh, đó là trở thành tiếng nói của Thiên Chúa vang lên cho người khác, bởi vì trong cuộc sống của mình, người Kitô hữu có bổn phận phải giới thiệu, phải trình bày khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa.
Nếu trời đã mở ra cho tiếng nói của Thiên Chúa được vang vọng đến con người khi Chúa Giêsu vừa bước lên khỏi nước, thì cũng vậy, qua bí tích Rửa tội, người Kitô hữu có bổn phận tiếp tục làm thế nào cho tiếng nói ấy được mọi người lắng nghe và chấp nhận. Người Kitô hữu có bổn phận làm chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa giữa lòng cuộc đời.
Có một người bị rơi xuống hố sâu, tối tăm. Anh cố gắng trèo lên, vượt ra khỏi cái hố, nhưng lại: TN 1-A2
Có một người bị rơi xuống hố sâu, tối tăm. Anh cố gắng trèo lên, vượt ra khỏi cái hố, nhưng lại bị tụt xuống. Tình cờ Đức Khổng Tử đi tới. Ngài nhìn xuống hố thấy anh bèn thương hại bảo: “Thật tội nghiệp cho con, nếu con chịu khó nghe lời ta dạy bảo, con đâu bị rơi xuống hố như vậy”. Nói rồi ngài lại tiếp tục bước đi. Sau đó Đức Phật Thích Ca đi đến. Ngài cũng nhìn xuống hố thấy anh và nói: “Thật tội nghiệp cho con, nếu con leo lên được trên này, ta sẽ giúp con”. Nói rồi ngài lại tiếp tục bước đi. Sau cùng Chúa Giêsu xuất hiện. Ngài nhìn xuống hố rồi nói: “Thật tội nghiệp cho con !” Rồi Ngài nhẩy xuống hố, nâng anh lên, và giúp anh trèo ra khỏi cái hố.
Qua phép rửa, Chúa Giêsu bước xuống dòng sông Giođan, biểu tượng cho chiều sâu của tội lỗi và sự chết, để cứu nhân loại.Đức Giêsu không cần phải chịu phép rửa vì Ngài là Thiên Chúa, nên không có tội. Hơn nữa Ngài lại tràn ngập ơn Chúa Thánh Thần ngay từ lúc đầu thai trong lòng Đức Maria. Tuy nhiên qua phép rửa, bằng sự dìm mình trong dòng nước sông Giođan:
Ngài chấp nhận và bắt đầu sứ mạng người đầy tớ đau khổ của Ngài. Ngài tự xếp mình vào số những tội nhân, và Ngài đã là “Chiên con của Thiên Chúa xóa tội trần gian”. Ngài đã làm trước kỳ hạn cuộc “rửa” bằng cái chết đẫm máu của mình… vì tình yêu, Ngài đã ưng nhận phép rửa của sự chết để tha thứ tội lỗi của chúng ta.
Ngài đã nêu gương sáng về nhân đức khiêm nhường, và đã khởi sự sứ mạng phục vụ đối với những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, và tật nguyền.
Ngài đã bày tỏ “sự hư vô hóa bản thân mình” để trọn vẹn vâng phục thánh ý Chúa Cha trong sứ mạng Thiên Sai. Vì thế, Chúa Cha đã lên tiếng nói rằng Ngài rất thỏa lòng về Con của Ngài. Đây là dấu hiệu bề ngoài chứng thực rằng Chúa Giêsu đã được chỉ định là Đấng Cứu Thế của nhân loại. Và bây giờ, Ngài sẵn sàng cho sứ mệnh của một Đấng Thiên Sai.
Nhân ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta suy nghĩ về phép rửa tội của chúng ta. Nhà chú giải Thánh Kinh nổi tiếng Raymond E. Brown, đồng thời cũng là thần học gia, đã đưa ra nhận xét: “Ngày một người được nhận bí tích Thanh tẩy thì quan trọng hơn ngày người đó được truyền chức linh mục hay giám mục”.
Theo giảng huấn của Công đồng Vatican II, phép rửa tội đã sát nhập chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô, để trở nên giống Ngài, và tham dự vào các chức vụ của Chúa Kitô: tư tế, tiên tri và vương giả.
Sách Giáo lý Công giáo số 1213 cũng nói lên sự quan trọng của phép rửa tội như sau: “Bí tích Rửa tội là nền tảng của tất cả cuộc sống Kitô giáo, là cửa mở vào sự sống trong Chúa Thánh Thần, và là lối dẫn vào các bí tích khác. Nhờ phép rửa tội, chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi, được sinh lại làm con của Thiên Chúa, được trở thành các chi thể của Chúa Kitô, được gia nhập vào thân thể Giáo Hội và tham dự vào sứ mạng của Giáo Hội. Phép rửa tội là bí tích của sự sinh lại bởi nước và trong Lời Chúa”.
Thường thường được lãnh phép rửa tội từ khi mới sinh, chúng ta dễ bị quên đi ý ngĩa sâu xa về tầm mức quan trọng của bí tích này. Đồng thời cũng đã không có cơ hội trải qua những kinh nghiệm nội tâm của ơn gọi được tái sinh, những cảm nghiệm về ơn phúc được mời gọi làm con cái Thiên Chúa, và cái giá phải trả khi quyết định lãnh phép rửa tội.
Qua Bí tích Rửa tội, mỗi người Kitô hữu đã được Thiên Chúa nhận làm con cái của Ngài rồi. Nhưng ước gì trong đời sống chứng nhân của người Kitô hữu chúng ta cũng cảm nghiệm được tiếng Thiên Chúa Cha phán riêng với chúng ta rằng: “Nầy là con yêu dấu của Ta, con đẹp lòng Ta”.
Câu chuyện đã xảy ra cách đây khá lâu. Ngôi thánh đường nhỏ bé trong một thị xã của vùng: TN 1-A3
Câu chuyện đã xảy ra cách đây khá lâu. Ngôi thánh đường nhỏ bé trong một thị xã của vùng Trung Tây Hoa Kỳ đã xưa cũ, cần phải được sửa chữa lại, nhất là ngọn tháp. Cây thánh giá trên đỉnh ngọn tháp này phải được hàn lại cho chắc chắn để chịu đựng nổi sức gió thổi và sự xoi mòn của nắng mưa sương tuyết. Nhưng giàn ráo không thể bắc lên cao cho tới cây thánh giá được, chỉ gần tới mà thôi. Có một công nhân lực lưỡng, cao ráo, vai u thịt bắp, sẵn sàng đứng chịu cho người thợ hàn leo lên vai của anh để làm việc. Việc làm này thật nguy hiểm cho tính mạng của cả hai người !
Từ bên dưới, đám đông nhìn lên nín thở. Sau cùng, công việc hàn lại cây thánh giá cũng hoàn tất. Người thợ hàn bò xuống khỏi đôi vai nở rộng và khỏe mạnh của anh công nhân. Rồi anh công nhân cũng chậm rãi leo xuống khỏi giàn ráo. Khi vừa xuống tới đất, anh nằm bật ngửa ra nền nhà. Đôi vai và hai cánh tay vạm vỡ của anh đầy những vết phỏng.
Cái gì đã xảy ra ? Trong khi người thợ hàn lại cây thánh giá, những giọt kim loại nóng bỏng đã nhiễu xuống đôi vai và hai cánh tay của anh công nhân đang cố gắng giữ chặt lấy người thợ hàn. Mặc dù đau đớn và xót xa cực độ, nhưng anh đã không dám nhúc nhích. Bất cứ một phản ứng nào cũng có thể làm cho người thợ hàn ngã xuống và chết tại chỗ. Phải mất vài tuần lễ những vết phỏng mới được lành hoàn toàn.
Qua phép rửa tội, chúng ta cũng được gọi để làm chứng minh cho Tin Mừng. Làm chứng nhân cho chân lý đòi hỏi phải hy sinh, và đôi khi phải trả giá bằng chính mạng sống của mình như Gioan tẩy giả đã làm. Làm môn đệ của Đức Kitô phải thường xuyên đấu tranh với những khuynh hướng xấu nơi bản tính của con người, chống lại sự dữ, tội lỗi và ma quỉ. Đó là cuộc tử đạo kéo dài suốt đời người.
Trong cuốn “Tiếng Chim Ca”, cha Anthony De Mello, S.J. đã dùng dụ ngôn “Tiệm Bán Chân Lý” để nói lên cái giá phải trả của những người môn đệ theo Chúa Giêsu:
Tôi hoa mắt lên khi thấy tên cửa tiệm: “Tiệm Bán Chân Lý”. Cô bán hàng rất lễ phép: tôi muốn mua loại chân lý nào đây, toàn diện hay từng phần – phiếm diện ? Chân lý toàn diện, dĩ nhiên rồi. Đối với tôi, nhất định không có lừa bịp, không có khống chế, không có giải thích quanh co. Tôi muốn chân lý của tôi phải thuần khiết và minh bạch. Cô bán hàng vẫy tay ra hiệu chỉ cho tôi phía đằng kia tiệm sách.
Cậu bán sách ở đó lấy ngón tay chỉ cái nhãn hiệu có ghi giá cả. Cậu ta nói: “Thưa ông, giá rất đắt”. Tôi hỏi: “Giá bao nhiêu ?” Vì tôi cương quyết mua cho bằng được cái chân lý toàn diện, cho dù phải trả bằng bất cứ giá nào. Cậu trả lời: “Thưa ông, giá của sự an toàn của ông đấy “. Tôi ra khỏi tiệm với con tim nặng trĩu. Tôi đang cần sự an toàn cho những niềm xác tín bất khoan nhượng của tôi.
Vì làm chứng nhân cho chân lý nên thánh Gioan Tẩy giả đã bị chém đầu, Chúa Giêsu đã phải chết trên cây thập giá. Phải trả bằng giá của mạng sống, vì thế Chúa Cha đã phán: “Nầy là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta”.
Qua Bí tích Rửa tội, mỗi người Kitô hữu đã được Thiên Chúa nhận làm con cái của Ngài rồi. Nhưng ước gì trong đời sống chứng nhân của người Kitô hữu chúng ta cũng cảm nghiệm được tiếng Thiên Chúa Cha phán riêng với chúng ta rằng: “Nầy là con yêu dấu của Ta, con đẹp lòng Ta”.
Ngày kia, có một ông vua đi săn trong rừng, bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc của trẻ thơ.: TN 1-A4
Ngày kia, có một ông vua đi săn trong rừng, bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc của trẻ thơ. Ông đi tới và thầm nghĩ:
- Chắc hẳn em nhỏ bất hạnh này bị cha mẹ bỏ rơi.
Ông ẵm đứa nhỏ lên, đem về hoàng cung, tắm rửa và mặc cho những bộ quần áo đẹp.
Khi em bé lớn lên, ông đã nói với em:
- Kể từ nay, ta sẽ gọi ngươi là con của ta và ngươi sẽ gọi ta là ba của con.
Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về lòng thương xót của ông vua, nhưng nếu suy nghĩ về bí tích Rửa tội, chúng ta còn phải ngạc nhiên hơn nữa.
Thực vậy, em nhỏ mặc dù được gọi nhà vua là cha, nhưng trong huyết quản em vẫn không có lấy được một giọt máu của hoàng tộc. Thực tế em vẫn chỉ là con của một kẻ nghèo túng.
Nhưng đối với chúng ta thì khác, nhờ dòng nước rửa tội, chúng ta được tẩy sạch khỏi mọi vết nhơ tội lỗi đã đành, mà hơn thế nữa chúng ta còn được mặc lấy tấm áo ơn sủng. Thiên Chúa thông ban cho chúng ta sự sống của Ngài, để khi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, thì đó không còn là một danh từ trống rỗng và vô nghĩa, nhưng là một sự thật:
- Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài.
Chúng ta hãy vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một địa vị cao cả như thế, và nhất là hãy cố gắng sống cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy.
Có một cậu bé hoàng tử chẳng may bị bọn cướp bắt cóc. Sau khi đã lấy hết những thứ quí giá trên mình, chúng trói câu vào một gốc cây. Nhưng may thay có một bác tiều phi đi ngang qua, đã cởi trói và đem cậu về nhà nuôi.
Nhiều năm sau, nhân một cuộc đi săn, vua cha đã dừng chân trước căn nhà nhỏ bé của bác tiều phu. Bác tiều vui rất lấy làm vinh dự được dẫn những đứa con của mình ra trình diện nhà vua. Khi đến cậu hoàng tử, bỗng nhà vua xúc động mạnh. Ông thầm nghỉ:
- Phải chăng đây chính là hoàng tử, con ta đã bị bắt cóc.
Ông hỏi bác tiều phu về gốc gác cậu bé và nói:
- Nếu ở bên vai phải có dấu ấn ta đã ghi, thì đúng là hoàng tử.
Với bàn tay run run, ông vạch chiếc áo và mừng rỡ kêu lên:
- Trời ơi, con ta.
Và cậu bé cũng kêu lên:
- Ba ơi.
Làm sao chúng ta có thể hiểu được sự đổi thay trong lòng cậu bé. Từ trước đến giờ, cậu cứ tưởng mình là con bác tiều phu nghèo nàn với quần áo rách rưới và nhà cửa xiêu vẹo. Bỗng chốc cậu nhận ra mình là hoàng tử, được sinh ra tại hoàng cung và thuộc hoàng tộc.
Kể từ nay, dù ở bất cứ nơi nào và làm bất cứ việc gì, cậu đều ý thức mình là một hoàng tử, là con của đức vua, nhờ đó cậu luôn có được những lời nói và những cử chỉ xứng hợp.
Với chúng ta cũng vậy. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta có ý thức được địa vị cao cả ấy không ?
Người nào ý thức về địa vị cao cả ấy sẽ không bảo:
- Tôi đ1i nhà thờ.
Nhưng nói:
- Tôi đi gặp gỡ và tâm sự với Chúa, bởi vì cầu nguyện chính là lúc người con thố lộ tâm tình với cha mình.
Đây là một việc làm kỳ diệu và tuyệt vời,bởi vì một con người tầm thường và xấu xí như chúng ta mà lại được tiếp xúc, trò chuyện với Thiên Chúa.
Một người luôn ý thức về địa vị cao cả ấy, thì dù có làm việc gì cũng không baso giờ quên Thiên Chúa là cha của mình. Người ấy sẽ luôn thầm nhủ:
- Tôi sẽ làm vui lòng Cha tôi ở trên trời.
Khi chiêm ngắm những cảnh sắc hùng vĩ của thiên nhiên, người đó sẽ nghĩ ngay đến Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên tất cả.
Nhờ đời sống ơn sủng được chuyển thông qua bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa. Địa vị cao cả này đòi buộc chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc phải có những lời nói và những việc làm thích hợp.
Bởi đó, phải sống làm sao cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy, để rồi trong ngày sau hết, Thiên Chúa sẽ nói về chúng ta như ngày xưa Ngài đã nói về Đức Kitô bên bờ sông Giócđan: - Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Một hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu châu, đó là sự kiện con số những người: TN 1-A5
Một hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu châu, đó là sự kiện con số những người tuyên bố rút tên khỏi Giáo Hội Công giáo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên về nghĩa vụ, rút tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải đóng thuế tôn giáo nữa. Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng sẽ tự rút phép thông công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào cac bí tích và đời sống của Giáo Hội. Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng nghỉa chối bỏ mọi cam kết khi chịu phép rửa tội.
Nói chung, thế giới phương tây vốn được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế,trong những nước có con số người theo Kitô giáo, phép rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người tây phương chỉ đến nhà thờ có ba lần, lần đầu khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô giáo. Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.
Khi Giáo Hội chỉ được mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả thật người ta chỉ mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của phép rửa. Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những nhà thờ hầu như trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đêm đông chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết đâu đám đông sốt sắng sống cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.
Khi đến nhận phép rửa của Gioan tại sông Jordan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể, Ngài muốn sống trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.
Sống như một con người như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu thương đến độ sẵn sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa Giêsu là Người Con chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn ơn gọi làm người của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người tín hữu Kitô được mời gọi để sống trọn thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống. Thật thế, chỉ trong Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao cả của con người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống cho ra người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu thương.
Thập giá vừa là biểu hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài. Với phép rửa chúng ta được ghi dấu thánh giá trên người, chúng ta làm dấu thánh giá mỗi ngày và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta treo thánh giá khắp mọi nơi, chúng ta đeo thánh giá trên người, và ước gì thánh giá ấy không chỉ là thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta, mà phải là một nhắc nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí ban mạng sống của Ngài cho chúng ta. Ước gì thánh giá luôn là động lực thúc đẩy chúng ta ngày càng sống cho ra người hơn.
Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam, những người đã thà chết hơn là bước qua thánh giá để chối bỏ Chúa Giêsu, nay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn trung thành với đức tin, thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chứng tá, đó là giá trị của Tin mừng.
Tôi thường nghe nhiều người nói với tôi rằng cuộc đời của họ không giống với những gì họ đã TN 1-A6
Tôi thường nghe nhiều người nói với tôi rằng cuộc đời của họ không giống với những gì họ đã nghĩ tưởng hoặc dự định chút nào hết. Một người bạn giới thiệu với ta một công việc mà mà mình không được chuẩn bị để làm nhưng lại mở ra những viễn ảnh bất ngờ; một biến cố không quan trọng đưa chúng ta đi xa hơn những gì mình nghĩ; cuộc gặp gỡ tình cờ với một người mang lại cho chúng ta một khả năng thăng tiến, mở ra cho ta một cuộc sống có một ý nghĩa mới mẻ. Tất cả những tình huống này có thể giúp chúng ta khám phá ra những chiều kích mình chưa biết đến, những khả năng hầu như không bao giờ ta dám nghĩ tới, và đẩy chúng ta vào một cuộc mạo hiểm hoàn toàn bất ngờ, đầy hứa hẹn và thách đố.
Việc Chúa Giêsu đến với Gioan tẩy giả có giống kinh nghiệm của bản thân chúng ta không? Chúa Giêsu có cần nghe nói Ngài là ai và từ nay Ngài phải làm gì với cuộc sống của Ngài không? Ngài đến gặp vị ngôn sứ đang rao giảng việc hoán cải. Ngài muốn nghe tiếng nói của người hô lên trong sa mạc. Ngài quyết định chịu phép rửa như tất cả các bạn đồng hương. Có lẽ với tư cách là người, Chúa Giêsu đã muốn đến tìm nơi Gioan tẩy giả ánh sáng về sứ vụ tương lai của Ngài.
Vì Chúa Giêsu không biết trọn vẹn ý định của Thiên Chúa về Ngài, như biết một sơ đồ của kiến trúc sư. Ngài không có kế hoạch chi tiết về biến cố Tin mừng. Vậy nên Ngài chuẩn bị đón nhận những dấu chỉ mà Thiên Chúa gởi đến cho Ngài. Ngài chuẩn bị nội tâm thuận lợi để có thể đương đầu với một cuộc thách thức. Chính Ngài cũng muốn gặp gỡ Vương Quốc mà Gioan loan báo. Chính Ngài đang sống một cuộc sống sinh hoa kết quả.
Chúa Giêsu đã muốn trà trộn vào đám dân chúng tội lỗi, đồng hóa với họ, khi mà Ngài bước vào một bước ngoặt quan trọng trong đời Ngài. Đây có lẻ là sự phản kháng đầu tiên chống lại giấc mơ của người Do Thái về một Đấng Mêsia chiến thắng.
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Gioan tẩy giả bắt đầu biểu lộ căn tính của Ngài. Dường như Gioan có ý thắc mắc về Chúa Giêsu, nhưng câu trả lời của Ngài có vẻ không soi sáng ho chúng ta nhiều hơn về căn tính của Ngài:
“Ta phải thực hiện mọi sự công chính”.
Trước hết là Chúa Thánh Thần đậu xuống trên Ngài như dấu chỉ cho thấy Thánh Thần ở nơi Ngài. Sau là Chúa Cha tuyên bố về tình yêu của Ngài đối với Con Một Ngài. “Ta hoàn toàn vui thỏa về người Ta đã chọn”.
Chình lời này đã định nghĩa sứ vụ và định mệnh của Chúa Kitô: Sứ vụ làm chứng rằng Ngài được Thiên Chúa yêu thương, sứ vụ làm chứng rằng mọi con người trước và sau Ngài cũng là con cái yêu dấu của Chúa Cha.
Vậy chính từ một kẻ khác, mà Chúa Kitô đã được mặc khải cho chính mình và cho thế giới, và chính điều này đẩy Ngài vào cuộc mạo hiểm lớn lao của việc cứu độ. Cũng chính từ Chúa Kitô mà chúng ta được mặc khải cho chính mình, nhờ phép rửa:
Các con hãy xem chúng ta được thương yêu dường nào, vì chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và thực sự là như vậy”
Phép rửa tội của chúng ta ban cho chúng ta một sứ vụ.
Với tư cách là con cái Thiên Chúa chúng ta được mời gọi nhìn nhận thực tại này và họa lại cuộc sống của Chúa Giêsu trong đời của chúng ta. Chúng ta phải tỏ ra sẵn sàng “thực thi mọi sự công chính”. Và dấn thân theo gót Ngài để mặc khải tình yêu của Chúa Cha. Như Chúa Giêsu khi ra khỏi nước được tràn đầy Chúa Thánh Thần và được giao cho sứ vụ, cũng vậy phép rửa dìm chúng ta vào nước, để khi ra khỏi nước chúng ta sống một cuộc sống mới. Cuộc sống mới này thúc đẩy chúng ta biểu lộ tình thương xót của Thiên Chúa đối với anh chị em chúng ta, biểu lộ lòng ưu ái đối với những người nghèo nhất và những người bị xã hội bỏ rơi. Chúng ta có ý thức về trách nhiệm này không ? Chúng ta có sẵn sàng làm chứng cho đức tin trước mặt những kẻ mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày không ? Chúng ta có sẵn sàng trở thành những chứng nhân của Lời và hành động của Chúa Kitô bằng cách cũng thực hiện những cử chỉ tha thứ, khiêm nhường, bác ái huynh đệ đó không ? Chúng ta có ý thức rằng khi chúng ta đón nhận kẻ khác trong những giới hạn, những nỗi yếu hèn của họ, là chúng ta dấn thân theo gót Chúa Kitô không ? Qua chúng ta tình yêu của Chúa Cha sẽ được mặc khải cho họ, một cuộc sống mới có thể bắt đầu đến với họ, và cuộc sống này sẽ đưa họ đi xa hơn những gì họ đã dự tính.
Những gì Chúa Cha đã nói về Chúa Kitô, Chúa Kitô cũng nói lại với chúng ta trong phép rửa tội của chúng ta. Chúng ta là những con chí ái của Chúa Cha. Ước gì chúng ta có thể tỏ ra xứng đáng với địa vị làm con Thiên Chúa. Ước gì hồng ân của phép thánh tẩy có thể sinh hoa kết quả để cho Tin Mừng luôn luôn tăng trưởng nơi chúng ta và trong cộng đoàn của chúng ta. Ước gì chúng ta có thể sinh dồi dào hoa trái tình thương, công lý, trung thành và bình an.
Tâm lý thường tình của con người là muốn mình được trọng vọng, được đề cao, được vượt trổi: TN 1-A7
Tâm lý thường tình của con người là muốn mình được trọng vọng, được đề cao, được vượt trổi hơn người khác.
Khi nói chuyện với nhau, người ta thường thích nói về mình: Tôi thế này, tôi thế nọ. Khi ở giữa đám đông, người ta thích làm nổi, thích được chú ý, thích được khen ngợi. Ở trong một tập thể, người ta thích giữ những chức vụ lớn, thích điều khiển người khác, thích làm những công việc được nhiều người biết đến. Khi hội họp, người ta muốn ý kiến của mình được tôn trọng và chấp thuận dù nó không hay bằng ý kiến của người khác… Tất cả những điều đó phản ảnh khuynh hướng kiêu căng trong lòng mỗi người. Mà kiêu căng là mối tội thứ nhất trong bảy mối tội đầu. Gọi là mối tội đầu vì nó là căn nguyên đưa tới nhiều thứ tội lỗi khác.
Thật vậy, sự kiêu căng chính là đầu mối dẫn tới rất nhiều điều tệ hại trong cuộc sống của con người: Chiến tranh bởi đâu nếu không phải bởi nước này muốn thống trị nước nọ ? Ghen tương bởi đâu nếu không phải bởi người này muốn trổi vượt hơn người khác ? Hận thù bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn đạp người khác xuống để chiến lấy vị trị của họ ? Nói hành, nói xấu, vu khống, dèm pha bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn tự quảng cáo mình tốt hơn, giỏi hơn người khác ?... Sự kiêu căng không đem lại điều gì tốt đẹp cho người kiêu căng cả. Luxiphe vì kiêu căng không muốn phục tùng Thiên Chúa đã tự loại mình ra khỏi hàng ngũ các Thiên Thần. Ông bà nguyên tổ loài người vì kiêu căng muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, và cửa trời đóng lại. Sự kiêu căng đã tạo nên hố ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người. Sự kiêu căng đã dựng nên một hàng rào không cho con người đến với nhau…
Chiêm ngắm Chúa Giêsu trong máng cỏ hôi tanh, và chiêm ngắm Người trong biến cố Người chịu phép rửa, chúng ta sẽ thấy mình lố bịch biết bao khi để cho tính kiêu căng thống trị và hướng dẫn đời sống mình.
Thật vậy,
- Chúa Giêsu là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã mặc lấy những tâm tình và cung cách sống khiêm tốn thẳm sâu.
- Là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã không đòi phải được sinh ra trong một đất nước văn minh, trong một thành phố hoa lệ và trong cung ngọc điện ngà. Trái lại, Người đã chấp nhận sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát nhất của thân phận làm người.
- Là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã không chọn cho mình một người cha, một người mẹ danh giá và giầu sang. Trái lại, Người chấp nhận làm con của một anh thợ mộc vô danh tiểu tốt và một cô thiếu nữ nhà quê khổ nghèo.
- Là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối, nhưng Người lại hạ mình đến xin ông Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi.
- Người là Thiên Chúa của muôn loài, nhưng lại hòa mình với đám đông không tên tuổi để trở thành một người vô danh như họ.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm tốn thẳm sâu của con Thiên Chúa làm người ? Ngày xưa, do sự kiêu căng của nguyên tổ loài người, cửa trời đã đóng lại. Ngày nay, do sự khiêm hạ của Con Thiên Chúa mà cửu trời lại được mở ra. Trời mở ra nghĩa là mọi ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người đã bị xóa bỏ. Con người phản bội nay đã được tha thứ, được phục hồi tước vị làm con Thiên Chúa và được đồng thừa tự gia tài Nước Trời cùng với Chúa Giêsu. Trời được mở ra cho hết mọi người có thể đi vào. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục bước vào vết chân kiêu căng của ông bà nguyên tổ, thì cách Cửu Trời ấy sẽ mãi mãi đóng lại trước mắt chúng ta.
Trong ngày kỷ niệm Chúa chịu phép rửa nơi sông Giođan, phụng vụ trình bày cho chúng ta sư: TN 1-A8
Trong ngày kỷ niệm Chúa chịu phép rửa nơi sông Giođan, phụng vụ trình bày cho chúng ta sự kiện chính Thiên Chúa Cha giới thiệu và tuyên bố Chúa Giêsu Kitô, Con của Ngài, là vị cứu tinh cho toàn thể nhân loại.
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần rõ rệt. Phần một diễn tả Gioan làm chứng về Chúa Cứu Thế, Đấng có quyền năng thanh tẩy nhân loại trong Thánh Thần, nghĩa là có sức mạnh chữa lành con người toàn diện, mở ra con đường giải thoát thiêng liêng, và nhóm lên trong lòng con người niềm hy vọng nơi quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Phần hai trình bày sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa và việc Chúa Cha chứng kiến và can thiệp.
Phép rửa mà Gioan thực hiện bằng nước chỉ là hình bóng, là hình thức minh chứng cho người đến chịu phép rửa ý muốn xưng thú tội lỗi, cải hóa nội tâm và trở về đường ngay nẻo chính. Gioan làm phép rửa trong vùng hoang địa dọc bờ sông Giođan. Từ hoang địa nhắc lại giai đoạn lịch sử khi dân Do Thái thoát khỏi ách nô lệ trở về Đất Hứa. Sông Giođan là trở ngại sau cùng mà dân Do Thái phải vượt qua để vào Đất hứa.
Khi xuống dòng sông để cho Gioan thanh tẩy, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ liên đới với nhân loại tội lỗi, một cử chỉ báo trước việc tự hạ đẫm máu của Người trên thập giá, để cho nhân loại được giao hòa với Thiên Chúa và được cứu thoát. Dòng nước chảy chỉ có năng lực thanh tẩy thực sự trong ngày Chúa Kitô xuống dòng sông để thánh hóa và ban thần lực cho nó.
Điểm chính yếu và mang nặng ý nghĩa trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa chính là lời tuyên bố của Thiên Chúa Cha, một lời tuyên bố vắn tắt, nhưng hàm xúc ý nghĩa sâu xa: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. “Là Con yêu dấu” đồng nghĩa với Con duy nhất, nhắc lại sự kiện Abraham đã hiến tế người con duy nhất là Isaac cho Thiên Chúa. “Cha hài lòng về Con” là lời tiên tri của Isaia trong bài ca về người tôi tớ đau khổ, mà Tân ước áp dụng cho Chúa Kitô Cứu thế: “Đây là người Tôi trung Ta nâng đỡ, là người ta tuyển chọn và quí mến hết lòng. Ta cho thần khí Ta ngự trên nó, nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân”. Lời tuyên bố này chứa đựng niềm tin của cộng đoàn dân ngoại đã khai sinh, ám chỉ sự nghiệp của Chúa Kitô, Đấng mà Môsê mớ sẽ đưa dân qua Biển Đỏ, là Giosuê mới sẽ lãnh đạo và đưa dân ra khỏi dòng sông Giođan, nghĩa là ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi mà vào Đất Hứa, để hưởng niểm vui vì được giải hòa với Thiên Chúa và nhận Thiên Chúa là Cha.
Sau khi ra khỏi dòng sông Giođan, Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa bốn mươi ngày để chịu ma quả cám dỗ. Được Chúa Cha ủng hộ, từ nay Chúa Giêsu can trường chấp nhận mọi khó khăn thử thách, có đủ sức để chiến thắng ma quỷ. Người Kitô hữu tin theo Chúa mỗi khi lãnh nhận bí tích rửa tội, chẳng khác nào như được dìm mình trong dòng sông Giođan, họ sẽ trở nên con cái Thiên Chúa , được lãnh nhận Thánh Thần và được tràn đầy các ân sủng của Thiên Chúa, trung thành với sứ mệnh của mình và bảo toàn nguồn ân sủng thiêng liêng đã lãnh nhận, và họ đã được Thiên Chúa yêu thương sủng mộ.
Xin Chúa cho chúng ta luôn sống kết hiệp với Chúa, để cũng có thể được nghe lời này: “Con là Con của Ta, Ta hài lòng về Con”.
Hôm nay Giáo hội tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu đến sông Giođan để chịu phép rửa. Qua: TN 1-A9
Hôm nay Giáo hội tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu đến sông Giođan để chịu phép rửa. Qua cử chỉ dìm xuống nước, Chúa Giêsu nuốn mặc lấy thân phận yếu đuối của con người, Ngài là Thiên Chúa gánh tội trần gian. Tưởng niệm biến cố này, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta nhớ lại những cam kết của phép rửa mà chúng ta đã lãnh nhận. Qua phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập, Ngài cho chúng ta được dự vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Cùng với Ngài, chúng ta chiến đấu chống lại tội lỗi và sự dữ để được tham dự vào vinh quang phục sinh của Ngài. Cử hành cái chết và sự phục sinh của Ngài trong thánh lễ này, chúng ta hãy xin Ngài tẩy rửa tâm hồn chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu chống lại tội lỗi và sự dữ trong cuộc sống của chúng ta.
Trong các dòng sông nổi tiếng trên khắp thế giới hẳng dòng sông Giođan phải là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu chúng ta. Chính tại đây Chúa Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cáh đón nhận phép rửa bởi Gioan tẩy giả cử hành. Chính tại dòng sông này, khi dìm mình xuống nước, Chúa Giêsu đã tỏ bày sứ mệnh của Ngài, đó là “gánh lấy tất cả tội lỗi của nhân loại”
Là Đấng vô tội, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa với người tội lỗi qua cử chỉ dìm mình trong dòng nước, đồng thời Chúa Giêsu loan báo chính cái chết mà Ngài sẽ trải qua. Phép rửa trong sông Giođan là hình bóng của phép rửa đích thực mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện, đó là cái chết của Ngài. Từ cạnh sườn Người khi máu và nước chảy ra, Chúa Giêsu đã khai mở một dòng sông mới để từ đó tất cả những ai đến dìm mình vào đều nhận được sức sống mới.
Tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu phép rửa bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta nhớ lại phép rửa mà chúng ta được dìm mình vào trong chính cái chết của Chúa Giêsu. Dìm mình vào trong chính cái chết của Chúa Giêsu là gì nếu không phải là tiếp tục đi lại con đường tử nạn của Ngài. Phép rửa mà chúng ta lãnh nhận không phải là một nghi thức bùa chú. Người lãnh nhận bí tích rửa tội không đương nhiên trở thành một con người thánh thiện được miễn trừ khỏi những cám dỗ và yếu đuối trong cuộc sống. Có biết bao người lãnh nhận phép rửa để mang danh hiệu là người Kitô hữu, nhưng cuộc sống của họ không bao giờ là một tiếp tục cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô đã nói với chúng ta rằng: “Người tín hữu Kitô cần phải tiếp tục những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu”. Chịu phép rửa là khởi đầu một cái chết, là bước vào một cuộc chiến đấu, chiến đấu chống lại con người cũ của tội lỗi, chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu cơn cám dỗ trong và ngoài con người của chúng ta. Chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu sức mạnh của sự chết như ích kỷ, hận thù, chia rẽ, đố kỵ…
Tưởng niệm phép rửa mà Chúa Giêsu đã lãnh nhận bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta về chính những cam kết mà chúng ta đã đoan hứa trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, đó là cùng chết với Đức Kitô để được sống lại với Ngài. Hằng ngày mỗi lần chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá là mỗi lần chúng ta được mời gọi để nhớ lại lời cam kết ấy.
Trên đường tiến về Jêrusalem, khi các môn đệ tranh luận về quyền bính, vương quốc tương lai của Ngài, thì Chúa Giêsu đã hỏi các ông: “Các con có sẵn sàng uống chén đắng mà Ta sắp lãnh nhận không ?”. Ngày nay trong từng giâh phút của cuộc sống, Chúa Giêsu cũng hỏi từng người trong chúng ta như thế: “Các con có sẵn sàng chịu phép rửa mà Ta sắp lãnh nhận không?”. Chúng ta đang trải qua không biết bao nhiêu những khó khăn, thử thách và cạm bẫy trong cuộc sống. Sống một cách thiết thực phép rửa chính là sống từng giây phút trong cuộc sống bằng sự phấn đấu, bằng tinh thần từ bỏ và lòng tín thác của Chúa Giêsu. Và chúng ta tin rằng nhờ nguồn nước từ cạnh sườn mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, chúng ta cũng được trong bị để chiến đấu và nhờ đ1o chúng ta được tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
Màn cuối cùng trong phim "Ben Hur" diễn tả cảnh bầu trời bị biến dần sau những đám mây: TN 1-A10
Màn cuối cùng trong phim "Ben Hur" diễn tả cảnh bầu trời bị biến dần sau những đám mây trời tụ hội. Cảnh ba cây thập tự vươn lên ở tận mút cùng của ngọn đồi xa xa được quay thật lâu; và rồi màn ảnh thu dần chú tâm đến Thập Tự chính giữa. Đồng lúc ánh sáng của sấm sét tỏ cho thấy một người đàn ông đang quằn quại thật thống khổ trong im lặng theo nhịp điệu của từng ánh chớp. Mưa bắt đầu rơi và rơi thật dữ dội. Cứ theo mỗi ánh chớp của sấm sét tỏ cho thấy vũng nước mưa dưới chân thập tự dần dần dâng cao và loang rộng ra xung quanh. Bất thình lình một giọt máu rớt xuống và loang rộng ra; thế rồi từng giọt máu đào tiếp tục nhỏ xuống và giờ đây biến cả vũng nước mưa thành vũng máu. Mưa vẫn rơi nặng hạt mang theo giòng máu đỏ tràn ra khắp nơi tới tất cả những vũng đọng khác. Thế rồi máu đào theo giòng nước tạo thành mạch nước nhỏ chảy tới những giòng nước lớn hơn và cứ thế chúng tạo thành một suối nước máu lớn chảy ra sông cả và hoà vào với biển khơi.
Thông điệp đó thật quá rõ ràng, nghĩa là dòng máu ấy sẽ chảy đến tất cả mọi nơi, đến tận những hoang đảo và tận cùng trái đất. Sự vĩ đại của đồi Canvê ấy là đã tỏ lộ cho chúng ta thấy tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa ban cho nhân loại. Tin Mừng cao cả của sự sống và chết này sẽ lan rộng phổ biến tới từng ngóc ngách của trần gian. Thế giới đã bắt đầu cảm nhận Chúa Kitô! Thế giới đã bắt đầu cảm nhận ơn Cứu Chuộc! Và thế giới đã bắt đầu cảm nhận ý nghĩa của lời phán ra từ Trời Cao khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: "Đây là Con Yêu Dấu của Ta, Người làm đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mt 3:17).
Đọc sách Tông Đồ Công Vụ chúng ta thấy khi Thánh Philípphê tới thành Samaria thì các sự lạ lùng đặc biệt bắt đầu xảy ra. Quỷ dữ bị trừ khử. Những người tàn tật được lành mạnh. Thánh Luca đã viết: "Cả thành phố đều hân hoan" (Acts 8:8). Có bản dịch rằng, "Sự vui mừng trong thành đó dâng lên như cơn sốt cao độ". Đó là một trong những tính cách cảm nghiệm của Kitô hữu. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được đón nhận vào làm "Con Yêu Dấu của Ta," chúng ta đã sống ơn gọi đó thế nào? Chúng ta đã cảm nghiệm sự hân hoan vui mừng được thông phần với Chúa Kitô chưa?
Một triết gia ngoại giáo vào thế kỷ 19 đã nói: "Tôi sẽ tin vào Ơn Cứu Độ Kitô Giáo nếu như những tín hữu đạo giáo đó tỏ lộ được niềm vui ơn cứu độ của họ". Đây quả là một lời chí lý! Nhưng thế nào là thấy niềm vui ơn cứu độ? Chúng ta có thể thấy sự sống động của ơn cứu độ được tỏ lộ qua nhóm người đang cử hành lễ hội và vui mừng như đến "cực điểm của cơn sốt". Chúng ta cũng có thể thấy ơn cứu độ sống động khi ta nhìn xem một người đứng bên cạnh mộ huyệt của người thân yêu với một vẻ tin tưởng rằng chết không phải là lời nói sau cùng. Chúng ta cũng có thể thấy ơn cứu độ sống động khi mọi Kitô hữu thương yêu nhau như lời Chúa Giêsu: "Nếu các con yêu mến nhau, thiên hạ sẽ nhận ra các con là môn đệ Thầy."
"Đây là con yêu dấu của Ta, Con làm đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mt 3:17). Sự thỏa lòng của Thiên Chúa cũng ngự trị trên chúng ta. Chúng ta đã được nhận vào cộng đoàn Con Yêu Dấu của Ngài qua bí tích Rửa Tội, được Chúa thỏa lòng với trách nhiệm làm theo thánh ý Ngài trên trái đất đó là: Yêu Thương Mọi Người.
Trách nhiệm chúng ta lãnh nhận là làm sao tỏ lộ phản chiếu như tấm gương hình ảnh tình yêu của Chúa cho mọi người.
Mấy năm trước đây, nhà văn Ann Landers viết một đoạn văn ngắn với nhan đề "Hãy Để George Làm" như sau:
Đây là câu chuyện về bốn người có tên: Mỗi Người, Vài Người, Ai Đó, và Không Ai. Có một công việc quan trọng cần phải hoàn thành và Mỗi Người được giao cho công việc đó. Mỗi Người nghĩ là Vài Người sẽ làm việc đó; Ai Đó có thể làm; và Không Ai hoàn thành rồi. Vài Người bực mình vì đó là việc của Mỗi Người. Không Ai thấy rằng Mỗi Người không thi hành công việc trong khi Mỗi Người nghĩ Ai Đó có thể làm rồi. Sau cùng thì Mỗi Người trách Vài Người mà đúng ra Không Ai phải hỏi Ai Đó. Nhưng đúng hơn hết, vị cao cả Vài Người của tất cả nói là không phải Mỗi Người, nhưng là Anh, rằng có công việc quan trọng cần phải hoàn thành. Hơn nữa, Không Ai nhưng là Anh được gọi làm việc đó. Chúa Giêsu không hỏi ai nhưng là Anh tìm kiếm sự cứu chuộc và hành thi hành công việc cứu độ.
Chúng ta, cộng đoàn Con Yêu Dấu cùng với Chúa Kitô, chúng ta hãy cử hành lễ hội trong sự yêu mến nhau.
Xếp hàng chung với những người thu thuế, tội lỗi, Đức Giêsu chờ đến phiên mình được Gioan: TN 1-A11
Xếp hàng chung với những người thu thuế, tội lỗi, Đức Giêsu chờ đến phiên mình được Gioan làm phép rửa.
Gioan bối rối, khước từ. Đấng ông không đáng xách dép, Đấng là thẩm phán quyền uy, Đấng sẽ ban phép rửa trong Thánh Thần, Đấng ấy lại cúi mình xin ông làm phép rửa sám hối.
Đức Giêsu mời gọi ông cứ làm, dù ông không hiểu, vì đó là điều hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Câu nói đầu tiên của Đức Giêsu trong Tin Mừng Mátthêu (3,15) tóm gọn cả cuộc đời tương lai của Ngài. Ngài chỉ muốn giữ trọn, làm trọn điều Thiên Chúa muốn.
Đức Giêsu hạ mình trước mặt Gioan, và Ngài còn dìm mình thật sâu trong dòng nước. Ngài chia sẻ cùng một dòng nước với những hối nhân. Ngài liên đới với sự hoán cải của cả dân tộc.
Chính lúc Ngài tự hạ vì vâng phục, Thiên Chúa lại muốn long trọng tôn vinh Ngài.
"Vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra." Tầng trời mở ra là dấu hiệu Thiên Chúa muốn ngỏ lời.
"Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống và ngự trên Người." Đức Giêsu đã được thụ thai nhờ Thánh Thần, nay Ngài lại nhận được Thánh Thần để bắt đầu sứ vụ.
"Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." Chúa Cha trìu mến giới thiệu cho ta Con của Ngài. Cha tấn phong Ngài làm Mêsia, nhưng theo kiểu một Tôi Tớ.
Đức Giêsu hiểu những gì Cha mới vén mở cho mình.
Qua bao năm cầu nguyện, Ngài đã được Cha tỏ lộ về căn tính và sứ mạng thiên sai của Ngài.
Nhưng hôm nay, nơi sông Giođan, Cha đã chuẩn nhận một cách long trọng và dứt khoát. Cả con người Ngài bừng lên ánh sáng và sức mạnh.
Đức Giêsu biết giai đoạn ẩn dật ở Nadarét đã kết thúc. Đã đến lúc Cha muốn Ngài lên đường.
Kinh nghiệm bên sông Giođan, Đức Giêsu chẳng thể quên. Kinh nghiệm ấy được sống và lớn lên trong suốt đời Ngài.
Ngài không chỉ đứng chung với tội nhân, Ngài còn gần gũi họ, nâng dậy và gánh tội của họ.
Ngài chết với những tội nhân và chết như một tội nhân.
Các tầng trời đã mở ra và không bao giờ khép lại. Sự hiện diện, lời nói, hành động của Ngài đã luôn là một vén mở về khuôn mặt của Thiên Chúa.
Thần Khí Thiên Chúa đã ngự trên và ngự trong Ngài. Thần Khí là bạn đường, hướng dẫn Ngài vào hoang địa, đưa Ngài đi giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật.
Thần Khí làm Ngài hớn hở mừng vui cất lời ca ngợi.
Nhờ Thánh Thần, Ngài đã luôn sống như Con của Cha, luôn làm điều đẹp lòng Cha và sống đơn sơ phó thác.
Phép rửa ở Giođan chuẩn bị cho phép rửa nơi thập giá.
Chúng ta được mời gọi sống phép Rửa mình đã lãnh nhận. Mai táng cái tôi ích kỷ và rạng rỡ trong cái tôi tự do.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là khuôn mặt của một Kitô hữu lý tưởng? Tương quan của người này với Ba Ngôi, với Hội Thánh và với thế giới có những nét đặc biệt nào?
Đối với Đức Giêsu là một chuỗi những tự hạ vì vâng phục Cha và yêu thương con người. Bạn có thể kể một số tự hạ của Ngài không? Bạn nghĩ gì về sự tự hạ của bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
Tại một thành phố bên Tiệp Khắc, giữa những di tích cổ người ta thấy có một chiếc cầy từ thế: TN 1-A12
Tại một thành phố bên Tiệp Khắc, giữa những di tích cổ người ta thấy có một chiếc cầy từ thế kỷ 18. Người ta truyền tụng câu truyện như sau: Một hôm Hoàng đế Josephh II cùng đoàn tùy tùng đến viếng thăm một ngôi làng trong vùng. Đi qua một cánh đồng, Hoàng đế thấy một nông dân đang ngồi nghỉ mệt bên một chiếc cầy. Ông đến trò chuyện với người nông dân và xin được cầy thử vài luống.
Người nông dân rất đỗi ngạc nhiên vì có một người sang trọng lại xin tra tay vào cầy và ông phá lên cười khi thấy những luống cầy vụng về. Với tất cả thành thực, người nông dân lắc đầu và nói: "Xin lỗi ông, hạng người như ông thì làm sao có thể tra tay vào cày để kiếm sống được". Nghe thế, một người trong đoàn tùy tùng mới nói nhỏ cho người nông dân biết người đang cầm chiếc cầy của ông chính là Hoàng đế. Lập tức, người nông dân như muốn độn thổ, ông không thể tưởng tượng được một vị Hoàng đế lại có thể tra tay vào cầy của ông.
Sự hạ cố của vị Hoàng đế làm cho người nông dân cảm động, thán phục đến nỗi kể từ đó ông không sử dụng đến chiếc cầy ấy nữa; ông lau chùi và đánh bóng nó, rồi cất giữ một cách trân trọng như một báu vật. Về sau chiếc cầy này được mang đến trưng bày tại một cuộc triển lãm ở Vien, Áo quốc.
Sự việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa cũng thật khó hiểu và khó chấp nhận như mầu nhiệm Thập giá. Nên ông Gioan là người đã biết Chúa Giêsu Kitô là ai, ông liền can ngăn Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép Rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi". Ở đây, Chúa Giêsu muốn chịu phép Rửa của Gioan để nhìn nhận công việc này là do Thiên Chúa như là sự chuẩn bị cuối cùng đưa vào thời đại Messia, giai đoạn mà Chúa bước vào cuộc đời công khai ra đi rao giảng ơn cứu độ. Đức Kitô biết rằng có thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha trong việc này, thì Ngài mới lập nên được nền công chính mới, đất trời mới đã giao hòa. Chính Thần khí xức dầu cho Đức Giêsu, tấn phong Người làm Đấng Messia với Lời của Thiên Chúa Cha ban tặng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người".
Chúng ta thấy trong suốt cuộc đời của Người, Ngài đã tự coi mình như "Con Người đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người". Ngài muốn tham dự vào cuộc sống của con người, muốn nói rằng Con Thiên Chúa đã thực sự đến trần gian và đã hạ mình xuống lãnh nhận Phép Rửa từ một người.
Những thái độ khiêm hạ của vị Hoàng đế trần gian và Hoàng đế Nước Trời đã làm cho dân chúng cảm phục và ngưỡng mộ khi họ nhận ra đó là một người có uy quyền trong một nước và một Vua cao trọng hơn hết các vua ở trần gian này. Một cử chỉ cao đẹp của Chúa đã làm cho cửa Trời mở ra, ơn trời tuôn đổ, ơn cứu độ được trao ban và loan truyền.
Lạy Chúa, chúng con là những người đã được lãnh nhận phép Rửa tội và từ ngày đó chúng con được tham dự vào hàng tư tế, bậc vương giả và ơn tiên tri. Xin giúp chúng con biết nhận ra những hồng ân cao cả đó để chúng con luôn vang lời ca cảm tạ, hăng say rao giảng Tin Mừng cứu độ và vui vẻ phục vụ Chúa trong hết mọi người qua các đặc ân trên.
Hôm nay Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa. Chúng ta biết Chúa Giêsu là Con: TN 1-A13
Hôm nay Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa. Chúng ta biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài là Đấng vô tội và luôn trung thành chu toàn thánh ý Chúa Cha trong suốt cuộc đời trần thế. Vậy mà tại sao Chúa Giêsu lại chịu phép Rửa bởi Gioan ở sông Giođan? Bởi vì Chúa Giêsu không tự cho mình cao trọng vượt trên người khác, Ngài muốn chứng tỏ cho chúng ta biết rằng Ngài luôn luôn liên đới với hết mọi người, bằng cách sống trung thành với lề luật và chia sẻ thân phận làm người trong mọi chiều hướng.
Sau khi Chúa Giêsu chịu phép Rửa, Ngài liền thấy trời mở ra và Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài.
Những hình ảnh "trời mở ra và Thánh Thần như chim bồ câu" có thể làm chúng ta ngạc nhiên, bởi vì thế hệ chúng ta ngày nay thích những gì có tính cách khoa học hơn là những câu văn bóng bảy nên thơ.
Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta đành chối bỏ sự hiện hữu của Thần Linh Thiên Chúa, luôn kết hiệp với Đức Kitô và cũng rất cần thiết cho cuộc đời của chúng ta. Ngay từ thuở khai thiên lập địa, Thần linh Chúa bay là trên mặt nước, giờ đây Người cũng hiện diện lúc Chúa Giêsu chịu phép Rửa.
Đồng thời, hình ảnh "trời mở ra" mang đầy ý nghĩa: các tầng trời bị che lấp bởi tội lỗi của nhân loại, giờ đây được mở ra trước mặt Đấng Cứu Thế để Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Đấng mà Thiên Chúa Cha yêu thương và gọi là "Con yêu dấu". Chúa Giêsu là Đấng đến để làm cho trần gian chúng ta đang bị khép kín vì tội lỗi phải mở toang ra để đón nhận ơn cứu độ.
Từ nay, nhờ phép Rửa của Chúa Giêsu, Thiên Chúa không còn là xa lạ, mà rất gần gũi nhân loại, đất với trời thông đạt với nhau, thiên đình và hạ giới không còn cách biệt. Những gì Chúa Giêsu đã sống như là Con yêu dấu duy nhất của Chúa Cha, thì loài người chúng ta cũng đang được mời gọi sống đúng như là con cái của Thiên Chúa.
Thông thường, sống trong hoàn cảnh xã hội thiêng liêng về vật chất, chúng ta hay có những cái nhìn thật phàm trần. Thế giới tân tiến ngày nay đe dọa đánh đổ nhân cách con người và nhìn con người trong chiều kích vật chất trần tục: hạnh phúc, tương lai, và sự cứu độ chỉ nằm trong kỹ thuật. Ví dụ: Muốn có người yêu hãy dùng loại nước hoa này, muốn giữ gìn sắc đẹp và trị các vết nhăn hãy thoa loại kem kia, muốn giàu sang hạnh phúc nên dùng phương thức nọ... nên bảo vệ môi sinh thì chúng ta sẽ sống lâu bền... hãy thay đổi quy chế xã hội thì chúng ta sẽ sống ấm no hạnh phúc v..v..
Những điều trên đây không phải là không đúng, nhưng rất hạn hẹp và giảm giá trị con người trong tầm mức vật chất, quên đi đức tính siêu việt.
Chính vì đắm chìm trong thế giới kỹ thuật vật chất trần tục, mà có nhiều người vẫn tiếp tục sống coi như là không có Thiên Chúa, sống mà không biết rằng nhờ Đức Giêsu Kitô, mọi người đều là con Thiên Chúa.
Chúng ta thử nghe câu chuyện nầy:
Dũng, một thanh niên 15 tuổi, đang học đệ tam, hỏi cha mẹ:
- Con đã được Rửa tội chưa?
Cha mẹ trả lời là chưa.
- Vậy thì ba má?
- Có chứ, và còn đi học giáo lý nữa, rồi còn làm đám cưới ở Nhà thờ nữa kia.
- Vậy tại sao ba má không xin Rửa tội cho con?
- Vì muốn con tự do lựa chọn.
- Nhưng mà làm sao biết lựa chọn, khi con không hiểu một tí gì về Thiên Chúa, phải biết mới lựa chọn được chứ!
Qua câu chuyện nầy, chúng ta thấy trong những năm gần đây, có những bậc phụ huynh, theo trào lưu Âu Mỹ hiện đại, viện cớ là vì tôn trọng tự do của đứa bé, để sau này nó tự quyết định, nên không đưa đứa bé đi Nhà thờ Rửa tội.
Ý hưởng tôn trọng tự do này được coi như đúng với điều kiện là khi lớn khôn, đứa bé phải có đủ phương tiện học hỏi, có người hướng dẫn giúp nó hiểu biết và suy nghĩ để định đoạt... bằng không thì thật nguy hại, vì đó là chính sách san bằng đoản hậu.
Làm sao đón nhận Thiên Chúa khi mà chưa được nghe nói đến Ngài? Tại sao một đàng chúng ta lại tự quyết định thay cho đứa bé bằng cách ghi danh cho nó học môn này chương trình nọ (piano, tennis v...v...) và đàng khác ta lại nói là để cho nó tự do lựa chọn. Thật là mâu thuẫn! Chúng ta đừng quên rằng đạo lý và tôn giáo không phải là việc riêng tư, nhưng có cả tầm vóc xã hội, sự chối từ đường hướng đạo đức sẽ là nguồn gốc cho sự bạo động và khước từ người khác. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi thấy thế hệ trẻ ngày nay hoặc thiếu lý lẽ sống hoặc sống trong bạo động...
Chính vì vậy mà mỗi người chúng ta cần phải nói với những người khác rằng "tất cả chúng ta không phải là con cái của tăm tối, mà chúng ta được sinh ra để nhận biết Thiên Chúa và đón nhận hồng ân của Ngài, nhờ đó chúng ta có một cuộc sống hoàn hảo, vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa."
Những bài Phúc âm không phải là những chuyện cổ tích thuộc về quá khứ, nhưng luôn mang tính cách hiện tại, chính hôm nay, bởi lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa mà các tầng trời sẽ mở ra cho chúng ta, để Thần Linh Chúa ngự xuống trên từng người một và được nghe tiếng Chúa Cha vang dội: "Này là con yêu dấu của Ta. Ta đặt trọn vẹn yêu thương trên ngươi".
Câu nói của Gio-an Tẩy giả trong bài Tin Mừng cho thấy ông là người thế nào? Có thể rút ra: TN 1-A14
1. Câu nói của Gio-an Tẩy giả trong bài Tin Mừng cho thấy ông là người thế nào? Có thể rút ra bài học gì cho những người loan báo hay rao giảng Đức Giê-su? Nếu không sống tinh thần tự hủy, thì việc loan báo hay rao giảng cuối cùng nhằm ích lợi cho ai?
2. Muốn con người thánh ở trong ta lớn lên và làm chủ, thì con người phàm phải làm gì? Hai con người ấy có thể cùng lớn lên không?
Suy tư gợi ý:
1. Tinh thần tự hủy của người rao giảng Đức Giê-su
Trong bài Tin Mừng, ta thấy có hai nhân vật chính: Gio-an Tẩy giả và Đức Giê-su. Trong hai người, Gio-an Tẩy giả là người phàm, đến trước để loan báo; còn Đức Giê-su là Thiên Chúa, là con người thần linh, đến sau để giải phóng nhân loại. Như thế ta thấy: người phàm đến trước loan báo cho con người thần linh đến sau.
Để chu toàn nhiệm vụ loan báo, Gio-an Tẩy giả phải thực hiện tinh thần tự hủy hoàn toàn, nghĩa là hoàn toàn xóa mình đi, coi mình không là gì cả, có như thế vai trò của người mình loan báo mới được nổi bật lên: «Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người»; «Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi» (Ga 3,30).
Người loan báo hay rao giảng được kêu gọi và lên tiếng không phải vì mình, nhưng vì Đấng mà mình loan báo hay rao giảng. Vì thế, muốn loan báo hay rao giảng thật sự đúng nghĩa, chúng ta cần phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình khi thực hiện công việc này. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta dễ bị cám dỗ coi việc loan báo hay rao giảng Tin Mừng như một phương tiện để làm cho mình nổi bật lên, được mọi người ca tụng là mình đạo đức, viết hay, giảng hay. Tới một lúc nào đó, chúng ta bắt đầu có khuynh hướng vì mình nhiều hơn vì Chúa. Lúc ấy, một cách nào đó, ta biến Chúa trở thành người loan báo cho ta, làm ta nổi bật lên.
Có thể ban đầu ta hoàn toàn vì Chúa, nhờ đó ta rao giảng về Ngài rất hay, mọi người ca tụng ta là người đạo đức, là «có lửa». Từ khi có danh thơm tiếng tốt ấy, ta bắt đầu bị cám dỗ bảo vệ danh tiếng ấy, và làm cho danh tiếng ấy ngày càng mạnh lên. Danh tiếng ấy có thể giúp ta dễ «thăng quan tiến chức» trong Giáo Hội hay ngoài xã hội. Ta bắt đầu ngày càng trở nên «vì mình» hơn và bớt «vì Chúa» đi. Dần dần ta trở nên kẻ háo danh lúc nào không hay. Từ háo danh đến ham quyền, từ ham quyền đến cố vị chỉ là những bước rất ngắn. Một khi đã ham quyền cố vị rồi, ta dễ dàng bị cám dỗ làm những điều tán tận lương tâm. Vì quyền bính là một con dao hai lưỡi, tuy cần thiết để phục vụ đại chúng, nhưng lại có khả năng tha hóa rất mạnh. Vì thế, những người loan báo hay rao giảng Tin Mừng – nhất là những người đã thành công trong lãnh vực này và đang nắm những địa vị quan trọng trong Giáo Hội hay xã hội – rất cần tinh thần phản tỉnh để luôn luôn tỉnh táo đối với chính mình: «Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn» (Mt 26,41; Mc 14,38). Thực tế cho thấy nhiều người khi chưa nắm quyền bính thì tinh thần phục vụ rất cao, nhưng khi đã nắm được quyền bính thì trở nên khác hẳn. Nhiều anh hùng dân tộc, nhiều chức sắc tôn giáo đã bị tha hóa vì quyền lực.
2. Phàm nhân và thánh nhân trong mỗi người
Bài Tin Mừng hôm nay còn có thể hiểu theo một chiều kích khác rất sâu xa: chiều kích tâm linh. Trong đó, Gio-an Tẩy giả và Đức Giê-su tượng trưng cho hai khía cạnh trong cùng một con người: Gio-an Tẩy giả tượng trưng cho con người phàm của ta, và Đức Giê-su tượng trưng cho con người thánh, con người thần linh, siêu phàm ở trong ta. Chính con người thần linh này trong mỗi người là yếu tố cốt yếu khiến con người là «hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,26-27; 9,6), «giống như Thiên Chúa» (St 1,26b). Đó là chính bản tính Thiên Chúa của Ngài được thông ban cho chúng ta: «Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2Pr 1,4). Chính nhờ có bản tính thần linh thánh thiện này trong bản thân mà Đức Giê-su mới có thể mời gọi ta nên thánh: «Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48).
Giữa con người với con chó, khoảng cách hữu thể tuy không xa, vì cùng là tạo vật, nhưng con chó không bao giờ có thể trở thành người như con người dù có cố gắng luyện tập đến đâu, vì trong con chó không có bản tính con người. Còn giữa con người với Thiên Chúa tuy là một khoảng cách vô tận, nhưng con người có thể nên hoàn thiện, nên thánh như chính Thiên Chúa, vì trong con người đã có sẵn bản tính Thiên Chúa mà Ngài thông truyền cho. Nếu bản thân con người không có bản tính Thiên Chúa thì lời Đức Giê-su mời gọi con người nên hoàn thiện như Thiên Chúa là tuyệt đối bất khả thi, và câu nói đó trở thành vô nghĩa.
Tuy nhiên, sống hoàn thiện như Thiên Chúa không phải dễ, vì bên cạnh con người thánh ấy luôn luôn có một con người phàm. Một danh nhân nào đó nói: «Trong lòng mỗi người, vừa có một vị thánh vừa có một con thú». Thật vậy, có những lúc ta suy nghĩ và hành động như một vị thánh, nhưng cũng có rất nhiều lúc ta lại hành động như một con thú. Và dường như vị thánh và con thú trong bản thân ta phải luôn luôn tranh đấu với nhau để dành thắng thế hầu làm chủ bản thân ta. Có người thì vị thánh thường thắng thế và làm chủ, còn lắm người thì bị con thú thường khống chế toàn bộ con người. Thánh Kinh có nói đến tình trạng trái ngược giữa hai con người này: «Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn» (Gl 5,17); «Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí» (Rm 8,5). Kết quả của hai cách sống đối nghịch ấy là: «Nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13)
a) Con người phàm thì sống theo xác thịt:
Bản chất của con người phàm là chỉ biết sống cho mình, sống ích kỷ, có khuynh hướng «phình to bản ngã». Vì thế, chỉ quan tâm tới những tham vọng hay lợi lộc ích kỷ của mình, tự coi mình là cái rốn của vũ trụ, muốn mọi người phải phục vụ mình, luôn luôn coi ý riêng của mình là quan trọng, thích lèo lái mọi người theo ý riêng của mình… Kinh Thánh nói về tính cách của phàm nhân: «Những kẻ sống theo xác phàm thì hay mơ ước những gì xác phàm đòi hỏi» (Rm 8,5); «Họ khoe mình khôn sáng nhưng đã nên điên dại» (Rm 1,22); «Ý tưởng họ hóa ra tối tăm, vì họ lìa xa sự sống Chúa Trời» (Ep 4,18); «Lòng trí họ miên man theo điều phù phiếm, họ ngu muội đắm chìm trong bóng tối tăm» (Rm 1,21).
b) Con người thánh sống theo Thần Khí:
Con người thánh là con người sống vị tha, sống theo Thần Khí, theo sự hướng dẫn của lẽ phải, của chân lý, công lý và tình thương. Hành động không bị chi phối bởi những động lực vị kỷ, dục vọng, ý muốn riêng tư, mà bởi tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Khi không còn sống cho bản thân mình nữa, con người thánh trở nên có nhiều sức mạnh tinh thần, luôn khôn ngoan, sáng suốt, can đảm, tâm hồn luôn bình an hạnh phúc, thứ bình an hạnh phúc nội tâm không ai ban được mà cũng không ai lấy mất được, ngoại cảnh không còn làm họ làm đảo điên, đau khổ nữa.
3. Phàm nhân có nhỏ lại thì thần nhân mới lớn lên được.
Nơi mỗi con người, phàm nhân được khám phá và ý thức trước tiên. Dần dần con người khám phá ra một tiếng nói, một khuynh hướng, một lực lượng thầm kín – nhiều khi rất mạnh mẽ – lôi kéo mình lên khỏi những ích kỷ cá nhân của phàm ngã. Đó là thần ngã hay con người thánh. Vấn đề là làm sao để thần ngã này lớn lên? Bài Tin Mừng cho ta một bí quyết: Gio-an Tẩy giả – tượng trưng cho phàm ngã – để tự hạ, tự hủy để làm cho Đức Giê-su – tượng trưng cho thần ngã – nổi bật lên. Chỗ khác Gio-an nói: «Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi» (Ga 3,30).
Phàm nhân lúc nào cũng muốn được nổi bật, được phình to lên, nhưng nếu ta chiều theo phàm ngã, thì phàm ngã sẽ lớn mạnh và lấn át thần ngã, làm thần ngã trở nên yếu ớt. Nhưng nếu ta sống tinh thần tự hủy, làm phàm ngã nhỏ lại, thì tự nhiên thần ngã sẽ lớn và mạnh lên. Hai lực lượng ấy luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau: lực này lớn thì lực kia nhỏ lại, lực này yếu thì lực kia mạnh lên. Vì thế, muốn thần ngã lớn lên, thì phải làm cho phàm ngã nhỏ đi. Không gì làm phàm ngã nhỏ đi bằng sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình: coi mình chẳng là gì cả, như một người nhỏ bé không có gì là quan trọng, không cố ý làm gì để lôi kéo sự chú ý của người khác. Nhất là không bao giờ đòi hỏi ý riêng của mình phải được thực hiện, mà trái lại sẵn sàng thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin hãy biến cải con thành một con người mới, con người sống theo Thần Khí chứ không theo những đòi hỏi của phàm ngã. Nhờ đó bản tính thần linh mà Cha đã gieo mầm vào trong bản thân con nẩy mầm và phát triển. Và hy vọng một ngày kia Cha có thể nói với con như xưa Cha đã nói với Đức Giê-su: «Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con». Xin giúp con đạt được điều ấy.
Phép rửa của Gioan khác với phép rửa trước đó của Do Thái giáo làm cho dân ngoại ở chỗ: TN 1-A15
1. Phép rửa của Gioan khác với phép rửa trước đó của Do Thái giáo làm cho dân ngoại ở chỗ nào? Ông làm phép rửa với mục đích gì?
2. Tại sao Đức Giêsu hoàn toàn vô tội lại yêu cầu Gioan làm phép rửa cho mình? Ngài có phi lý khi yêu cầu điều đó không?
3. Tại sao khi Đức Giêsu nói: «Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính» thì Gioan mới làm phép rửa cho Ngài? Câu đó có ý nghĩa gì?
Suy tư gợi ý:
1. Phép rửa của Gioan Tẩy Giả
Gioan Tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước xuất hiện khoảng năm 30 sau công nguyên. Trước ông, có khoảng 20 vị ngôn sứ được Thánh Kinh ghi nhận đã xuất hiện rải rác trong khoảng 450 năm, bắt đầu là ngôn sứ Êlia (khoảng năm 900 trước CN), và cuối cùng là ngôn sứ Giona (khoảng năm 350 trước CN). Kể từ ngôn sứ Giona, suốt gần 400 năm, dân Do Thái không có một ngôn sứ nào xuất hiện. Năm 63 trước CN, Do Thái bị đế quốc Rôma thống trị tàn bạo, nên từ đó dân chúng ai nấy đều nóng lòng chờ đợi Đấng Cứu Thế đến giải phóng dân Ngài. Thế rồi Gioan Tẩy giả xuất hiện như một vị ngôn sứ, ông ăn mặc giống Êlia (2V 1,8; x. Mt 3,4), rao giảng cùng một sứ điệp như Êlia về sự phán xét của Thiên Chúa, đồng thời kêu gọi «hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần» (Mt 3,2) và loan báo sẽ có một «Đấng đến sau ông, quyền thế hơn ông và ông không đáng xách dép cho Người» (Mt 3,11b). Vì thế, dân chúng cảm thấy có một cuộc phục hưng lớn về mặt tôn giáo bắt đầu xảy ra để chuẩn bị Nước Trời sắp đến. Chính Gioan cũng rất ý thức về cuộc phục hưng ấy mà ông là người góp phần vào.
Trước khi Gioan xuất hiện, phép rửa là một nghi thức mà người Do Thái vẫn thường làm cho dân ngoại khi họ trở lại Do Thái giáo. Ai đã theo Do Thái giáo rồi thì không lãnh nhận phép rửa nữa. Còn Gioan thì lại làm phép rửa cho chính người đã theo Do Thái giáo. Phải nói đó là một chuyện lạ đời đối với dân chúng. Phép rửa của ông có ý nghĩa là: Nước Trời đã gần đến, mà người khai mạc là một «Đấng đến sau ông, quyền thế hơn ông và ông không đáng xách dép cho Người» (Mt 3,11b). Để đón Nước Trời cùng với Đấng ấy, con người phải chuẩn bị bằng việc sám hối, dù đã là người Do Thái giáo. Và hình thức biểu lộ cụ thể là lãnh nhận phép rửa. Thánh Phaolô cho biết mục đích phép rửa của Gioan: «Ông Gioan đã làm một phép rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giêsu» (Cv 19,4). Tóm lại, phép rửa của Gioan nhằm giúp dân chúng sám hối hầu chuẩn bị một kỷ nguyên mới do Đức Giêsu khai mạc và thực hiện.
Ngoài phép rửa ông đang làm, ông còn giới thiệu cho dân Do Thái một thứ phép rửa khác mà ông không làm được: «Đấng đến sau tôi (…) sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa» (3,11c). Vì thế, khi Đức Giêsu đến để xin ông làm phép rửa cho Ngài, thì ông thấy yêu cầu ấy quả là nghịch lý. Ông cho rằng «Chính ông mới cần được Ngài làm phép rửa», thứ phép rửa «trong Thánh Thần và lửa» của Ngài, chứ đâu có chuyện ngược đời là ông lại làm phép rửa cho Ngài. Nhưng Đức Giêsu trả lời: «Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính». Lúc ấy Gioan mới chịu làm theo ý Ngài.
2. Tại sao Đức Giêsu lại lãnh nhận phép rửa của Gioan?
Quả thật, việc Đức Giêsu đòi Gioan làm phép rửa cho mình là một chuyện nghịch lý. Nhưng Ngài có lý của Ngài. Chắc chắn Ngài chịu phép rửa của Gioan không phải như những người Do Thái khác là để tỏ lòng sám hối tội lỗi, vì bản thân Ngài hoàn toàn vô tội. Chính phép rửa của Gioan là để chuẩn bị tâm hồn con người đón Ngài đến, thì tại sao Ngài lại chịu phép rửa của Gioan? Ngài chịu phép rửa của Gioan là vì:
– Tuy bản thân Ngài hoàn toàn vô tội, nhưng Ngài là Đấng gánh tội trần gian, nghĩa là Ngài chất đầy tội lỗi của nhân loại trên bản thân mình. Vì thế, trước mặt Thiên Chúa, với tư cách đại diện cho toàn nhân loại, Ngài phải tự liệt mình vào hàng tội nhân cần phải sám hối. Và Ngài sám hối thay cho toàn nhân loại, tương tự như Môsê (x. Xh 9,27; 32,31-32; Lv 8,14-15), Nêhêmi (x. Nkm 1,6-7), Ét-ra (x. Er 10,1.6) và Đanien (x. Đn 10,2) đã từng làm.
– Với tư cách Đấng Cứu Chuộc nhân loại, Ngài muốn hòa mình với loài người tội lỗi để cùng họ sám hối trước mặt Thiên Chúa. Đây quả là thái độ khiêm nhường và đầy tình yêu, một thái độ cần thiết phải có để được tha tội, và riêng đối với Ngài, để chuộc tội cho nhân loại trước Thiên Chúa. Thái độ này khác hẳn với thái độ của người Pharisêu, thích tự coi mình là những người thánh thiện, muốn được tách biệt hẳn với đa số dân chúng mà họ coi là tội lỗi.
– Ngài muốn đánh dấu việc bắt đầu cuộc đời công khai của mình bằng hành động sám hối thay cho nhân loại, và kết thúc cuộc đời Ngài bằng việc chết trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại. Cái chết của Ngài chính là «phép rửa bằng lửa» (x. Mt 3,11) cho những ai tin vào Ngài và sống giới răn yêu thương của Ngài. Phép rửa này có khả năng xóa sạch tội lỗi của họ trước mặt Thiên Chúa. Nhờ đó, toàn cuộc đời công khai của Ngài mang ý nghĩa sám hối và đền tội thay cho nhân loại.
– Ngài muốn ủng hộ phép rửa và chủ trương phải sám hối của Gioan. Vì muốn gia nhập Nước Trời, công việc cần thiết đầu tiên là phải sám hối, nhìn nhận tội lỗi mình trước Thiên Chúa, quyết tâm sống đời sống mới, mặc lấy những quan niệm mới và thay đổi cách sống cho phù hợp với quan niệm mới ấy… Sám hối mà Gioan đòi hỏi không chỉ là thứ sám hối xuông theo nghi thức, chỉ tỏ vẻ hối hận nhưng sau đó không có gì thay đổi cả, mà là thứ sám hối đòi buộc phải có «hoa quả chứng tỏ lòng sám hối» (Mt 3,8).
3. «Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính»
Khi Đức Giêsu yêu cầu Gioan làm phép rửa cho Ngài, Gioan một mực can ngăn, nhưng Ngài bảo: «Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính». Đức công chính đòi hỏi phải hành xử phù hợp với thực trạng của mình. Đức Giêsu đại diện cho cả nhân loại tội lỗi, đi sai trệnh đường lối Thiên Chúa, nên Ngài phải đại diện cho toàn nhân loại sám hối trước mặt Thiên Chúa. Người có tội mà nhìn nhận tội lỗi mình đồng thời sám hối và quyết tâm sửa đổi, thì người ấy mới trở nên công chính.
Sám hối không phải là nhìn nhận bản chất mình là tội lỗi, trái lại phải nhận ra bản chất mình là «hình ảnh của Thiên Chúa», «được tạo dựng giống như Thiên Chúa» (St 1,26-27), là «con cái Thiên Chúa» (Lc 20,36; Rm 8,14.16; Gl 3,26), và mang trong mình bản tính thần linh của Ngài (2Pr 1,4), nhưng lại sống không đúng với bản chất cao cả ấy của mình. Chính vì thế, chúng ta làm nhục Thiên Chúa. Tương tự như một hoàng tử, là cành vàng lá ngọc, mà lại làm những việc đê tiện, bỉ ổi khiến vua cha phải xấu hổ vì con. Thật vậy, nếu bản chất của ta là tội lỗi thì khi ta sống trong tội lỗi, ta không có gì đáng trách vì ta đã sống đúng với bản chất của mình. Tương tự như một người hạ tiện làm công việc hạ tiện thì không có gì đáng xấu hổ. Nhưng bản chất ta là thánh thiện, nếu ta lại chấp nhận vùi mình trong tội lỗi, thì ta thật đáng trách. Chẳng khác gì một người có tấm thân ngọc ngà mà lại cam lòng vùi mình vào đám phẩn hôi.
Nếu ta chưa sống đúng với bản chất thánh thiện cao cả của mình, thì sự công chính đòi hỏi ta phải sám hối. Sám hối là phải thay đổi quan niệm và trở thành «con người mới» (Ep 4,24; Cl 3,10), đúng với bản chất thánh thiện và cao cả ấy. Vì nhân loại đầy tội lỗi, Đức Giêsu đã phải thực hiện sự sám hối ấy với tư cách đại diện cho toàn nhân loại, để nhân loại nên công chính trước Thiên Chúa. Phần chúng ta, chúng ta cũng phải «làm như vậy để giữ trọn đức công chính».
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu thánh thiện và hoàn toàn vô tội, thế mà vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Ngài đã gánh lấy tội lỗi nhân loại, và tự liệt mình vào hàng những người tội lỗi cần phải sám hối. Còn con thì lại hành động ngược lại, con tuy tội lỗi nhưng lại thích được người khác tôn vinh và đối xử như một người thánh thiện. Con rất ngại phải nhìn nhận mà chỉ muốn chối phăng những tội lỗi của mình. Ôi, xin cho con biết hành xử như Đức Giêsu khi xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Trong bối cảnh Giáng Sinh, Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại qua vì sao sáng từ trời cao: TN 1-A16
Trong bối cảnh Giáng Sinh, Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại qua vì sao sáng từ trời cao hướng dẫn ba nhà Bác học từ Đông phương đến thờ lạy Ngài. Và từ đó Ngài đã sống một cưộc sống ẩn dật cho đến năm ba mươi tuổi. Trước khi khởi đầu sứ mạng, Chúa Giêsu lại tỏ mình ra lần nữa qua biến cố chịu phép Rửa. Tin mừng thánh Matthêu hôm nay công bố Ngài là Tôi tớ (Con) của Giavê. Khi Chúa tỏ mình ra lần này từ trời cao có tiếng phán: “Này là Con Ta yêu dấu...” Con yêu dấu chứa đựng một sứ mạng trở nên người Tôi tớ mà tiên tri Isaia diễn tả trong bài đọc I: “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về người... Người sẽ xét xử chư dân... không lớn tiếng... không bẻ gẫy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói... mở mắt người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm” (Is 42:1-4,6-7)
Lời diễn tả của tiên tri Isaia về sắc thái và sứ mạng của Chúa Giêsu cho chúng ta một ý niệm sâu xa hơn về con người của Ngài. Ngài là “Đấng vị tha”. Chúa Giêsu luôn sống cho tha nhân. Ngài đồng hành với tha nhân trong mọi biến cố của cuộc đời và đã thí mạng sống vì phần rỗi tha nhân. Chỉ trong tâm tình cầu nguyện chúng ta mới cảm nhận được tình yêu này và sẽ yêu mến Ngài hơn.
Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ mạng “mở mắt người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm” bằng việc chịu phép rửa. Khi chịu phép Rửa tội, bất kể lúc còn bé hay khi đã lớn, chúng ta cũng được trở nên “con yêu dấu của Thiên Chúa”, một thành phần trong Giáo hội mà Chúa Giêsu là đầu. Là thành phần của Giáo hội, chúng ta có sứ mạng cộng tác với Chúa Giêsu trong việc đem Tin mừng yêu thương đến cho mọi người. Chúng ta phải thi hành sứ mạng này tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở mỗi người phải thi hành trách nhiệm đó khi Ngài nói với Gioan: “.. chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế” (Mt 3:15). Chúa Giêsu có ý nói là mọi thành phần trong Giáo hội đều có phần trong việc truyền bá Tin mừng yêu thương. Chúng ta đừng tưởng là việc truyền bá Tin mừng là của các nhà truyền giáo, các linh mục và các tu sĩ nam nữ. Nên biết rằng mỗi người đều có bổn phận này tùy theo bậc sống của mình. Là linh mục, hãy sống đúng với vai trò chủ chăn hiền lành. Là những tu sĩ nam nữ, hãy phục vụ Chúa qua tha nhân. Là bậc cha mẹ, hãy yêu thương nhau, yêu mến và dạy bảo con cái cho đúng nghĩa. Nói cách khác là mọi người, bất kể linh mục, tu sĩ hoặc giáo dân, hãy trở nên “một con người vị tha” như Chúa Giêsu. Chúa Giêsu, Thầy của những người vị tha, đã dậy và làm gương cho ta. Trong ba năm giảng đạo, Ngài đã tỏ tình yêu của Chúa Cha cho nhân loại bằng những việc: cho người mù được thấy, người què đi được, người điếc được nghe và người chết sống lại. Ngài đem bình an và tình thương đến những người bất hạnh trong xã hội.
Là con người trưởng thành và có trí thức, ai trong chúng ta cũng phải nhận rằng cuộc sống chỉ có ý nghĩa thật sự khi sống tinh thần phục vụ tha nhân. Khi chấp nhận sứ mạng, Chúa Kitô đã trở nên “Đấng vị tha”. Chúng ta, qua bí tích Rửa tội, cũng có một sứ mạng. Mỗi người hãy tự hỏi sứ mạng của tôi là gì và tôi đã chu toàn nó như thế nào? Đừng để cho lòng ích kỷ làm lu mờ tâm trí đến độ không thể nhận ra được sứ mạng của mình. Hãy chu toàn sứ mạng trong khả năng và hoàn cảnh của mình vì Chúa Giêsu đã nhắc nhở “... chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế” (Mt 3:15) để đáng được gọi là “con yêu dấu”.
Bản thân Đức Giê-su hoàn toàn vô tội, thế mà Ngài lại sẵn sàng chịu rửa tội, một nghi thức: TN 1-A17
1. Bản thân Đức Giê-su hoàn toàn vô tội, thế mà Ngài lại sẵn sàng chịu rửa tội, một nghi thức chỉ dành cho kẻ có tội. Tại sao vậy? Ngài làm một chuyện phi lý hay giả dối chăng?
2. Qua việc chịu phép rửa, một cách nào đó, Đức Giê-su đã nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, dù bản thân Ngài hoàn toàn vô tội. Ta có bao giờ hành động như Ngài chưa? nhất là khi cần chấm dứt sự giận dữ của ai đó? hoặc cần đem lại hạnh phúc cho ai đó?
3. Là cấp lãnh đạo mà ta không dám nhận trách nhiệm về phía mình khi có chuyện đáng tiếc xảy ra trong tập thể của mình, lại hoàn toàn đổ lỗi cho người khác, thì có xứng đáng là cấp lãnh đạo không?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giê-su đại diện nhân loại tội lỗi tỏ lòng sám hối trước Thiên Chúa qua phép rửa của Gio-an.
Theo niềm tin Ki-tô giáo, Đức Giê-su là Thiên Chúa xuống làm người để cứu chuộc nhân loại, Ngài hoàn toàn vô tội, nghĩa là không vướng phải một khuyết điểm hay một tội lỗi nào, dù là nhỏ nhất. Ngài trong sạch hoàn toàn, và tuy có bị cám dỗ, Ngài không bao giờ sa ngã hay để ma quỉ chiến thắng. Thế mà trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su lại chịu phép rửa bởi ông Gio-an, người tiền hô cho Ngài. Theo sự thường, đúng ra Ngài không nên chịu phép rửa, vì phép rửa là một dấu hiệu sám hối, chỉ dành cho những kẻ có tội. Có tội lỗi thì mới cần sám hối, có dơ bẩn thì mới cần tẩy rửa, còn "ai đã sạch rồi, thì không cần phải rửa" (Ga 13:10).
Nhưng ở đây, việc rửa tội của Đức Giê-su mang một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Cá nhân Ngài tuy hoàn toàn vô tội, nhưng Ngài mang một sứ mạng đặc biệt là gánh tội trần gian, và chịu chết để đền tội cho trần gian trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, Ngài đã trở thành "hiện thân của tội lỗi", như thánh Phao-lô nói: "Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta" (2 Cr 5:21). Chính trong chiều hướng ấy, việc rửa tội của Ngài mới có ý nghĩa. Nếu không, việc ấy thật là phi lý. Nếu Ngài chịu chết để đền tội thay cho cả loài người chứ không phải cho Ngài, thì cũng vậy, Ngài tỏ lòng sám hối và rửa tội là sám hối và rửa tội thay cho cả nhân loại chứ không phải là cho bản thân Ngài. Vì thế, Thiên Chúa đã tỏ ra hài lòng về hành động khiêm nhượng ấy của Ngài, nên ngay sau đó đã phán về Ngài: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người".
Hai điều tối quan trọng để được Thiên Chúa tha tội là sám hối và đền tội. Thiếu một trong hai thì tội không thể tha được. Vì đại diện cho cả một nhân loại tội lỗi, Ngài đã tự coi mình là tội lỗi, nên Ngài thấy cần phải biểu lộ sự sám hối qua nghi thức rửa tội của Gio-an. Ngài cũng đại diện cho cả nhân loại khi đền tội cho họ bằng cái chết thảm thương trên thập giá vào trưa thứ sáu trước lễ Vượt Qua năm Ngài 33 tuổi. Như vậy giữa việc rửa tội hôm nay và cái chết của Ngài có một tương quan sâu sắc và đầy ý nghĩa.
2. Bài học từ biến cố chịu phép rửa của Ngài
Ngài là người hoàn toàn vô tội: "Nơi Người không có tội lỗi" (1Ga 3,5). Thế mà vì yêu thương nhân loại, Ngài đã sẵn sàng nhận hết tội lỗi của cả nhân loại về cho mình. Điều đó chẳng làm cho chúng ta suy nghĩ và rút ra một bài học sao?
Chúng ta ai nấy đều có tội không nhiều thì ít, thế mà rất nhiều khi ta lại không muốn nhìn nhận mình là kẻ có tội. Ta tìm đủ cách để người khác nghĩ về ta tốt hơn thực trạng hay bản chất của ta. Nhiều khi ta còn giả hình để người khác lầm tưởng rằng ta rất tốt, ta vô tội. Nếu có ai nói xấu ta, thậm chí rất đúng, ta cũng tỏ ra bực bội hay thù ghét người ấy. Ta không muốn nhìn nhận thực trạng xấu xa của mình. Trong những cuộc tranh luận, nhiều khi ta thấy mình sai trái, đuối lý, nhưng ta không có can đảm nhận phần sai trái về phía mình, mà cứ cãi chầy cãi cối để khỏi phải nhận lỗi, thậm chí còn kết án ngược lại cho người khác. Như thế, ta đã tự chứng tỏ mình thiếu thành thực và không ngay thẳng.
Khi một người khác bực bội, tức giận vì một thiệt hại nào đó mà họ nghĩ là do ta gây ra, lúc đó ta thường xử sự thế nào? Nếu ta có lỗi thật sự, ta có dám nhìn nhận mình có lỗi để người kia nguôi cơn giận không? Thiết tưởng nhận lỗi mình lúc đấy là một bổn phận của đức công bằng. Nếu không nhận lỗi, ta còn làm cho sự bất công ấy nặng thêm, vì làm cho người kia tức giận hơn nữa, tức làm khổ họ, và có thể gây hại cho họ về tâm lý hoặc thể lý. Việc can đảm nhận lỗi trong những trường hợp như thế không bao giờ làm giảm giá trị con người ta, mà còn khiến người khác thêm kính phục ta. Trái lại, có lỗi mà không chịu nhận mới đáng hổ thẹn và đáng khinh bỉ.
Nếu ta hoàn toàn không có lỗi, nhưng vì người kia hiểu lầm, nên trong cơn tức giận, họ nhất quyết đổ lỗi cho ta, thì ta xử sự thế nào? Ta có thể trước hết giải tỏa cơn giận cho họ đã, chẳng hạn bằng cách tạm thời nhận lỗi về phía mình, rồi chờ khi họ bớt giận, nghĩa là có đủ sáng suốt và khách quan, thì cho họ thấy rõ ai phải ai trái. Đó là một hành động khôn ngoan và bác ái, vì trong cơn tức giận vì bị thiệt hại quá mức, theo tâm lý thường tình, người ta có nhu cầu tâm lý là phải trút cơn giận đó lên người khác để cơn giận được thỏa mãn. Lúc đó, họ không đủ sáng suốt để nhận ra lỗi của mình, vì giận chính là tình trạng điên khùng hay mất trí trong giây lát. Những lúc đó họ chỉ biết đổ lỗi lên đầu người khác cho hả giận. Khi có người nhận lỗi, cơn giận của họ giảm đi ngay như lửa bị tạt nước vào. Biện minh cho việc mình vô tội lúc ấy thường giống như đổ thêm dầu vào lửa, chỉ làm cơn giận của họ bùng lên mạnh mẽ hơn, không làm cho họ nhận ra lỗi của họ, và cũng chẳng giải quyết được gì. Kinh nghiệm cho tôi thấy: thường sau khi họ được thỏa mãn cơn giận, tâm trí họ sáng suốt hơn, và họ dễ dàng nhận ra lỗi của họ. Thói đời là ta càng đổ lỗi cho người khác, thì họ càng có khuynh hướng chữa lỗi và tìm cách đổ lỗi lại cho ta. Còn nếu ta khiêm nhượng nhận lỗi về phía mình, thì người kia tự nhiên có khuynh hướng tự xét mình, nhờ đó dễ dàng nhận ra sai trái của họ. Và sau đó họ thường nể phục tư cách và lối xử sự của ta.
Trong mọi trường hợp, hãy bắt chước Đức Giê-su, dù hoàn toàn vô tội, vẫn sẵn sàng mặc lấy thân phận kẻ tội lỗi và chịu đối xử như kẻ có tội.
3. Dám nhận trách nhiệm về phía mình là một dấu chứng của người lãnh đạo trưởng thành
Trong các tập thể - như gia đình, xã hội, Giáo Hội - ta thường thấy những chuyện như: khi có chuyện thành công hay tốt đẹp xảy ra, người lãnh đạo thường nhận ra công của mình trong đó, và sẵn sàng đón nhận những lời tán tụng, tri ân, và những lợi lộc từ sự thành công ấy. Nhưng khi thất bại hoặc có sự cố đáng tiếc xảy ra, cấp lãnh đạo thường tìm cách đổ lỗi hoặc qui trách nhiệm cho cấp dưới, hoặc cho hoàn cảnh, còn mình thì "lấy nước rửa tay" kiểu Phi-la-tô: "Ta vô can trong vụ … này" (Mt 27,24). Và sau đó thì cấp dưới lãnh đủ những thiệt hại do sự cố đáng tiếc ấy: bị la rầy, bị phạt, mất uy tín, phải bồi thường, tù tội, v.v… Còn người lãnh đạo thì hoàn toàn vô sự, mặc dù trong thực tế sự đáng tiếc ấy chủ yếu hoặc phần nào là do sự lãnh đạo thiếu sáng suốt của mình.
Phải chăng Kinh Cáo Mình với câu "lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng" chỉ được đọc duy nhất ở trong thánh lễ và những buổi đọc kinh, chứ rất ít khi được "đọc" (=thể hiện) trong đời sống thường nhật. Đạo của chúng ta phải chăng chỉ được thực hành ở trong chứ không phải ở ngoài nhà thờ, đang khi 99% thì giờ của chúng ta lại là ở ngoài nhà thờ! Theo tinh thần Kinh Cáo Mình, ta cần nhạy bén trong việc nhận ra phần lỗi - trực tiếp hay gián tiếp - của mình trong mọi điều xấu xảy ra nơi gia đình, đoàn thể, ngoài xã hội hay trong Giáo Hội của ta. Có những việc hết sức đáng tiếc xảy ra mà ta tưởng chừng mình vô can, nhưng xét cho kỹ rất có thể ta có lỗi vì đã tỏ ra thờ ơ, không can thiệp theo lương tâm khiến cho những việc ấy xảy ra.
Không dám nhận trách nhiệm về phía mình dù là cấp lãnh đạo hay cấp dưới đều là dấu chứng của sự thiếu trưởng thành về mặt tâm linh và xã hội hay Giáo Hội. Thiết tưởng chúng ta nên suy niệm bài Tin Mừng hôm nay để chỉnh sửa lại cách hành xử sai trái ấy.
Đức Giê-su vô tội hoàn toàn, nhưng Ngài sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm của cả nhân loại về phía mình. Ngài đã hành xử như một kẻ có tội cần phải sám hối, phải xin lỗi trước mặt Thiên Chúa bằng nghi thức rửa tội. Không chỉ như thế, Ngài còn sẵn sàng đền bù với giá cao nhất là mạng sống của Ngài những tội lỗi mà Ngài đã tự qui về cho mình thay cho cả nhân loại. Hành động của Ngài thật hết sức anh hùng và dũng cảm.
Đức Ki-tô thì hành động như thế, chẳng lẽ các Ki-tô hữu, những kẻ theo Đức Ki-tô, những môn đệ của Ngài, những "Ki-tô khác" lại hành động khác với Đức Ki-tô sao? Nếu không giống Ngài 100% thì ít ra cũng phải được 50%, hay ít nhất cũng phải 40 hay 30%! Nếu không thì sao ta lại dám tự nhận mình theo Ngài? là môn đệ Ngài? Ta theo Ngài ở chỗ nào? là môn đệ Ngài ở chỗ nào? Cần xét lại xem: coi chừng kẻo ta chính là môn đệ của Phi-la-tô mà lại cứ lầm tưởng và tự xưng là môn đệ của Ngài!
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con lòng can đảm như Đức Giê-su, dám sẵn sàng nhận lỗi về phía mình, cho dẫu mình hoàn toàn vô tội! Khi có những chuyện đáng tiếc xảy ra, xin cho con đủ can đảm để dám nhận lãnh trách nhiệm về phía mình, không đổ lỗi cho người khác, nhất là cho những người cấp dưới mà con có bổn phận phải bao bọc chở che! Nếu họ có lỗi, họ sẽ chịu trách nhiệm trước con, chứ không phải trước mặt ai khác. Nhưng con phải sẵn sàng chịu trách nhiệm thay cho họ trước mặt mọi người. Amen.
Lời đầu tiên của Đức Giêsu trong Tin Mừng Mattheu là lời yêu cầu ông Gioan Tẩy giả làm phép: TN 1-A18
Lời đầu tiên của Đức Giêsu trong Tin Mừng Mattheu là lời yêu cầu ông Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho Ngài; lý do được nêu lên là để làm trọn ý của Thiên Chúa (c.15). Phép rửa mà Ngài muốn lãnh nhận không phải là điều xa lạ đối với bối cảnh văn hoá Đức Giêsu đã nhận làm bối cảnh văn hoá của mình. Nhưng ý nghĩa của phép rửa ấy so với phép rửa Đức Giêsu truyền cho các môn đệ thực hiện cho muôn dân (Mt 28,19), ý nghĩa ấy có những đặc sắc nào?
Trước thời Đức Kitô. - Phép rửa bằng nước khá thịnh hành tại Ai cập, Babilon, Ấn độ và trong một số tôn giáo gốc Hy lạp. Phép rửa ấy từng được thực hiện tại bờ sông Nilô, sông An Phát (Euphrate), sông Giang tử (Gange) của Ấn độ nhằm mục đích thanh tẩy người khỏi những bất xứng về luân lý hoặc về nghi lễ, đôi khi để tăng sinh lực và mang lại tính bất tử.
Riêng trong tôn giáo Ít-ra-en. - Dìm mình trong nước là phương tiện thanh tẩy theo luật dạy đối với người phong hủi (Lv 14,8), đối với ô uế về giới tính (Lv 15,16-18). Các đồ vật phải được rửa trước khi dùng (Lv 11,32-40). Ngoài những bó buộc theo Luật, các thầy thông luật còn đưa ra một số điều buộc khác như rửa tay, rửa chén bát, rảy nước trên những đồ mua ở chợ về v.v…(x.Mc 7,1-5).
Điều đáng lưu ý là các thầy Pharisêu còn thiết lập một số nghi thức về trong sạch, trong đó có nghi thức làm phép rửa cho người tân tòng muốn nhập đạo Do thái. Nghi thức này nhằm mục đích thanh tẩy người tân tòng mới trở lại, lý do vì người đó xuất xứ từ thế giới ngoại đạo là thế giới mà người Do thái kể là ô uế (Ga 18,28; Cv 10,28).
Phép rửa do ông Gioan Tẩy giả được thực hiện trong nước sống Giođan đối với những người nhờ nghe ông giảng nên thống hối ăn năn và xưng thú các tội của mình.
Phép rửa này ăn khớp với bối cảnh Do thái đã có sẵn những cuộc thanh tẩy được thực hiện, tuy với những đặc sắc riêng của ông Gioan. Đó là phép rửa tỏ lòng thống hối nhắm tới ơn tha tội (Mc 1,4; Lc 3,3) nên khác hẳn các nghi thức thanh tẩy chỉ nhằm đáp ứng những điều luật buộc mà thôi, không diễn tả một biến chuyển nội tâm (metanoia).
Nhưng phép rửa của ông Gioan chỉ mới loan báo Nước Thiên Chúa đang đến, còn phép rửa của Đức Kitô cho thấy Nước đó đã được khai trương nhờ Chúa Thánh Linh (Cv 19,1-6). Các sách Tin Mừng và sách Công Vụ Tông Đồ phân biệt phép rửa của Gioan là phép rửa trong nước; còn phép rửa Kitô giáo là phép rửa trong Thánh Thần (Mt 3,11; Mc 1,8; Lc 3,16; Ga 1,33; Cv 1,5;11,16).
Phép rửa Kitô giáo bắt đầu từ Đức Kitô
Phép rửa Kitô giáo bắt đầu từ Đức Kitô, Đấng đã khiêm nhường xin ông Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho mình tại sông Giođan. Tin Mừng Matthêu (3,13-17) và Máccô (1,9-11) đều thuật lại biến cố này. Tin Mừng Luca (3,21-22) chỉ nhắc tới biến cố cách thoáng qua nhưng nhấn mạnh điều xảy ra trước và sau biến cố ấy. Luca cho thấy “khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa” (3,21). Liền sau đó, đang khi Người cầu nguyện, thì từ trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha, ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con.” (c.22). Như vậy, Đức Giêsu hiện diện ngay trong hành vi tỏ lòng thống hối của toàn dân nhắm tới ơn tha tội. Một đàng, Ngài không tách rời khỏi dân trong hành vi quan trọng này; đàng khác, chính Ngài cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1,21). Bằng cách nào? Bằng cách chịu đóng đinh trên thập giá mà vẫn cầu nguyện “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,34).
Tại sao Đức Giêsu là Đấng vô tội tuyệt vời lại có thể chịu phép rửa do ông Gioan Tẩy giả là phép rửa để xin ơn tha tội? Mt 3,15 giải đáp khi nói rằng Đức Giêsu làm thế là để giữ trọn đức công chính, nghĩa là để chu toàn ý Thiên Chúa. Còn Luca cho thấy Đức Giêsu hiện diện trong hành vi đó để cầu nguyện nhắm tới sự can thiệp của Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể tha tội cho loài người. Còn Gioan (1,29) cho thấy Đức Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian.
Sự hiện diện và hành động cứu độ của Đức Giêsu vượt hẳn cử chỉ của ông Gioan Tẩy giả. Ông chỉ loan báo Đấng sẽ đến tha tội cho loài người mà thôi.
Điều quan trọng là màn thần hiệp tiếp nối biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa. Cả ba Tin Mừng Mt, Mc và Lc đều tường thuật màn thần hiện này (Mt 13,16-17; Mc 1,10-11; Lc 3,21-22). Đức Giêsu được giới thiệu là một ngôn sứ qua trung gian biểu tượng chim bồ câu hiện diện trong màn thần hiện. Điều được diễn tả là việc khai trương thời đại mới với “các tầng trời mở ra”. Từ nay chính Thiên Chúa, Con của Ngài trong vai ngôn sứ và Chúa Thánh Linh, sẽ hành động cách mới mẻ. Nơi Đức Giêsu chịu phép rửa, ta có mẫu gốc của bí tích rửa tội theo nghĩa là người chịu bí tích này sẽ trở nên con Thiên Chúa và cũng nhận được Chúa Thánh Linh ở với.
Thiên Chúa đã muốn đến với chúng ta cách rất nhân loại
Thiên Chúa đã muốn đến với chúng ta cách rất nhân loại và hữu hình. Chúng ta cảm nghiệm được Ngài qua nhân tính của Đức Kitô, qua Hội Thánh là dấu chỉ của Chúa Kitô. Nhờ đó Ngài thông ban Thánh Thần là tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa cho ta. Đó là ý nghĩa của các bí tích, ta gặp gỡ Chúa Kitô và có thể nói rằng ta đụng chạm tới Ngài.
Nhờ Đức Kitô, Lời Thiên Chúa vang lên trong Hột Thánh và mời gọi con người tin. Lời đó mạc khải cho tín hữu một kế hoạch cứu độ. Toàn thể tạo thành bao gồm mọi thọ tạo và loài người, cùng với lịch sử quá khứ, hiện tại và tương lai, đều được đưa vào kế hoạch này, để đưa tới sự hoàn thành của chúng ta. Vậy Nước Thiên Chúa được Lời Chúa loan báo, được tiếp nhận trong đức tin, trở nên hiện diện cách hữu hình, cụ thể qua các bí tích.
Phép rửa là bước gia nhập đời sống Kitô hữu và Nước Thiên Chúa, chính là bí tích thứ nhất của Tân Ước.
Để ta có được sự sống mới
Chúa Kitô đã thiết lập bí tích này để tất cả chúng ta có được sự sống mới. Ngài giao bí tích thánh tẩy cho Hội Thánh của Ngài cùng với Tin Mừng: “Các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, thánh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con.” (Mt 28,19).
Do đó thánh Phêrô đã khuyến cáo đám đông nghe Ngài trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: “Hãy hối cải và mỗi người trong anh em hãy chịu thánh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được tha thứ các tội lỗi, và anh em sẽ được lãnh ơn Thánh Thần.” Vậy những ai đã lãnh nhận lời tông đồ Phêrô thì chịu thánh tẩy... (Cv 2,38).
Thánh tẩy là bí tích của đức tin và là khởi đầu của cuộc sống mới trong Chúa Kitô. Do đó, Hội Thánh hỏi người dự tòng khi người đó xin được chuẩn bị để chịu thánh tầy: “Con xin gì cùng Hội Thánh Chúa?” “Thưa, con xin đức tin.” “Đức tin mang lại cho con điều gì?” “Thưa, sự sống đời đời.” Thế rồi, trước khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy, người dự tòng sẽ tái xác nhận chọn lựa của mình bằng cách công khai từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin của mình trước mặt cộng đoàn.
Các trẻ em mới sinh cũng được rửa tội trong đức tin của Hội Thánh.
Cha mẹ, các người đỡ đầu, các người hiện diện trong buổi cử hành bí tích thánh tẩy, đều tái cam kết về các lời hứa dịp thánh tẩy và lời tuyên xưng đức tin. Họ cũng cam kết giáo dục các trẻ em trong đời sống Kitô hữu, tới ngày các em trưởng thành để có thể khẳng định sự gắn bó riêng các em với Chúa Kitô và Hội Thánh.
Bí tích thánh tẩy luôn là một hành động của cộng đoàn Kitô hữu. Hành động ấy tập hợp người chịu phép rửa vào cộng đoàn mà Chúa Kitô, qua Thánh Thần, đã thiết lập nên mạch suối ơn cứu độ. Cộng đoàn ấy ẵm bồng con cái “mới sinh” nâng niu dìu dắt qua các giai đoạn kế tiếp của cuộc hành trình đức tin.
Nhưng, ngược dòng thời gian, mẫu gốc của bí tích thánh tẩy của Hội Thánh đã xuất hiện tại sông Giođan. Đức Giêsu, Đấng trong trắng vô tội đã khiêm nhường chịu phép rửa của ông Gioan Tẩy giả. Con Thiên Chúa vô tội đến ở giữa chúng ta là tội nhân để cứu độ chúng ta. Cử chỉ này mạc khải ý nghĩa của cả đời Ngài. Ngài chẳng cần phải sám hối và chịu thánh tẩy nhưng Ngài đã chấp nhận để cho mình bị luận án bất công và bị kết án tử chính là để cứu độ ta.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Vì sao Đức Giêsu là Đấng vô tội lại vui lòng chịu phép rửa của ông Gioan Tẩy giả, là phép rửa xin ơn tha tội?
2. Tại sao các trẻ em mới sinh mà đã được chịu phép thánh tẩy. Ai là người có trách nhiệm giáo dục đức tin cho các em? Giáo dục các em như thế nào và cho tới khi nào?
Ngày nay nói đến nên thánh, người ta dễ liên tưởng đến một Cha Piô năm dấu đạo đức thánh: TN 1-A19
Ngày nay nói đến nên thánh, người ta dễ liên tưởng đến một Cha Piô năm dấu đạo đức thánh thiện, một giáo hoàng già rồi nhưng vẫn xông xáo trong việc quảng bá Tin mừng Phúc âm cho muôn dân, hay một Mẹ Têrêsa dấn thân chăm sóc cho những người cùng khổ.
Dường như nhắc đến "thánh" là nhắc đến những khuôn mặt dấn thân, tu trì... và không thấy giáo dân đâu hết! Phải chăng làm giáo dân khó nên thánh? Không đi tu, chỉ mong "lọt" qua cửa thiên đàng là mừng, còn ngồi đâu trong đó, xa Chúa hay gần Chúa cũng được rồi chăng? Có phải vì làm giáo dân cứ phải lăn lộn với đời nên khó làm thánh?
Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận từng viết: "Giáo dân cứ nghĩ thánh là phải sốt sắng kinh nguyện, phải xa lánh thế tục, phải hãm mình hy sinh, tức là phải giống như các nhà tu thời xưa. Trong khi các tu sĩ lại nghĩ rằng thánh là phải dấn thân giúp đời, phải lăn lộn hoạt động xã hội chính trị, phải tranh đua với giáo dân mà nhập thế. Thành ra loạn xà ngầu! Giáo dân muốn sống như nhà tu, nhà tu lại muốn sống như người trần thế."
Không. Nên thánh không phải là cứ làm theo những gì mình nghĩ hay muốn. Song, nên thánh là sống những gì Chúa muốn và Chúa dạy. Chúa muốn mưa, con muốn mưa. Chúa muốn nắng, con muốn nắng. Chúa muốn vui sướng, cực khổ, thành công, thất bại, con cũng muốn như vậy.
Như thế nên thánh không phải là đạt đến giây phút được thoả mãn như ý mình vì đã làm được việc này cho Chúa hay chuyện kia cho Giáo hội, nhưng là khi Chúa được như ý nơi con người của tôi, dù khi chẳng có chút gì thành công.
Vậy nên, những ai biết đón nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời, biết cộng tác để thánh ý Ngài được thực thi, họ đều là thánh.
Chúa Giêsu được gọi là Thầy Chí Thánh hay Đấng Cực Thánh là do đâu, nếu không phải vì Ngài đã luôn hết tâm thi hành ý Cha. Đức Giêsu từng nói đi nói lại với các môn đệ: "Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Đấng đã sai Ta" (Gn 6:38); và "Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta, và chu toàn công việc của Người" (Gn 4:34).
Thi hành bổn phận của mình chính là tiến trình nên thánh chắc chắn nhất mà Lời Chúa trong ngày lễ Chúa Chịu Phép Rửa muốn nói với chúng ta.
Số là trong hôm khởi đầu sứ mạng công khai, Đức Giêsu đi đến với ông Gioan Tiền hô bên sông Giođan để xin thanh tẩy. Gioan nhận ra Ngài là Đấng vô tội, là Chiên Thiên Chúa nên vội thoái thác: "Đáng lẽ Ngài phải rửa cho tôi, chứ đời thuở nào tôi lại rửa cho Ngài." Nhưng Đức Giêsu nói với ông: "Cứ làm đi! Vì chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế."
Đây là lời nói được ghi nhận trước nhất trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Phải chăng Ngài muốn mở ra cho con người một chân trời mới: một con đường nên thánh qua việc chu toàn bổn phận Thiên Chúa trao ban.
Thế thì đâu chỉ có các linh mục, tu sĩ, thừa sai, hay giáo hoàng mới có bổn phận và mới có thể làm thánh. Đúng hơn, tất cả mọi người đều có một trách nhiệm nào đó và đều có thể thánh hoá mình trong bổn phận.
Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận có viết: "Người thợ nên thánh ở công xưởng, người lính nên thánh ở bộ đội, bệnh nhân nên thánh ở bệnh viện, học sinh nên thánh ở học đường, nông phu nên thánh ở ruộng rẫy, linh mục nên thánh trong mục vụ, công chức nên thánh ở công sở. Mỗi bước tiến là một bước hy sinh trong bổn phận" (ĐHV 24).
Bổn phận không chỉ gắn liền với công việc nghề nghiệp, nhưng còn với chức năng. Chức năng đó có thể là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, lãnh đạo, giáo dục... Không thể chỉ "mang chức" mà "từ năng" cũng như không thể chỉ có danh xưng mà nền tảng cần thiết làm nên danh xưng ấy lại không được thi hành.
Mặc khác, không thể nên thánh nếu không có Chúa. Vì Ngài là Đấng Thánh. Muốn nên thánh là phải đón nhận Chúa làm tâm điểm cuộc sống, để rồi nhờ Ngài, với Ngài, và trong Ngài, con người chu toàn và được tác thánh qua bổn phận của mình.
Có một điểm rất đáng ghi nhận từ Thánh Kinh: trong suốt quảng đời thi hành ý Cha trao phó, Đức Giêsu không ngừng gắn bó với Cha qua việc nguyện cầu. Ngài liên lỉ cầu nguyện: trong gia đình, nơi đền thánh, trên đường đi, chốn sa mạc, trong rừng vắng.... Ngài cầu nguyện ban ngày lẫn ban đêm, lúc vui cũng như khi buồn, trước phép lạ lẫn sau khi giảng dạy. Thậm chí còn cầu nguyện ngay trước lúc tắt thở: "Mọi sự đã hoàn tất" (Gn 19:30), "Lạy Cha, Con phó thác hồn con trong tay Cha" (Lc 23:46).
Nếu khi màn chiều buông xuống hay lúc ngày đời chấm dứt, tôi cất lên được lời nguyện cuối cùng của Chúa Giêsu - "Mọi sự đã hoàn tất, con xin phó thác hồn con trong tay Cha"-thì tuyệt vời và hạnh phúc cho tôi biết bao. Nguồn: NS Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
Ngày 16 tháng 10 năm 1995, khoảng 400 ngàn người da mầu về thủ đô Hoa Thịnh Đốn tham: TN 1-A20
ckgđ Ngày 16 tháng 10 năm 1995, khoảng 400 ngàn người da mầu về thủ đô Hoa Thịnh Đốn tham dự ngày “Million men march”. Cả thế giới đứng tim vì nghĩ rằng sẽ có bạo động. Nhưng thực tế đã khác hơn dự đoán. Không riêng gì ông Louis Farakhan, mà cả cộng đồng dân gốc Phi-Mỹ đều cảm thấy bất ổn và tự ti vì sắc dân của họ. Nhiều gia đình và con cái bị bỏ rơi. Tội ác tăng trưởng quá nhanh trong cộng đồng da đen. Tỷ số thanh thiếu niên bỏ học rất cao, hút sách nhiều và tù tội quá lố. Khu phố họ sống rất tệ rạc, ồn ào và thiếu vệ sinh. Công việc họ làm nặng nhọc mà lương bổng thấp. Họ thẳng thắn nhận diện khuyết điểm và quyết danh tân. Họ đã thức tỉnh, họ đã biết tự trọng, họ can đảm nhận trách nhiệm và họ được tái sinh khi quyết canh tân.
Ông Farakhan thách thức các chủ gia đình “hãy về thay đổi lối sống, hãy về chăm chỉ học hành, hãy về chăm sóc gia đình, hãy về chứng tỏ niềm tin của mình nơi Maisen, nơi Giêsu và nơi Mohamet”. Thính giả nhiệt tình hưởng ứng và ai nấy đều ra về trong một tinh thần mới: thống hối, canh tân, tự trọng và thăng tiến. Với thành quả trên, ông Farakhan đã trở nên một lãnh tụ quan trong và nổi tiếng. Vì ông đã tranh đấu cho bình đẳng, tự do và nhân quyền. Vì ông đã kêu gọi cộng đồng người da đen hãy tự trọng, tự cứu mình, tự xây dựng tương lai và nhất tề tạo cho mình một thế đứng hiển hách và oai phong trong cộng đồng nước Mỹ và trên thế giới. Tinh thần của ngày “một triệu người diễn hành” chính là hướng đi và cái mốc tối của mỗi tín hữu khi Giáo hội cử hành biến cố Đức Kitô chịu phép Rửa tại sông Jordan.
Đức Kitô không thị hiếu như một số người đi ngó xem Gioan Tẩy giả làm gì, sống ra sao và giảng dậy thế nào! Ngài khiêm tốn nối đuôi những người thiện chí đến xin Gioan cử hành phép Rửa thống hối như một quyết tâm trước khi lên đường làm sứ mạng. Gioan đã sững sờ khi nhận ra Ngài trong đám đông và hoảng hốt thân thưa: “Xin Thầy rửa tôi, tôi đâu dám rửa thầy!” và Đức Kitô khiêm tốn trả lời: “hãy chu toàn bổn phận của ông, chúng ta phải thực thi ý Chúa và giữ trọn luật.” Đức Kitô đã không cho là hèn, là tầm thưởng, là ngoại lệ khi khiêm tốn đến với Gioan. Tâm tình vâng phục và khiêm hạ này đã làm Chúa Cha hài lòng và cảm động khi ban Thánh Linh và công khai tuyên dương: “đây là Con dấu yêu của Ta, hãy nghe lời Ngài”.
Vì Ngài vâng phục, xả thân, quên mình và coi bản thân Ngài như kém Gioan một bậc, dù Ngài đã dựng nên Gioan, nên Chúa Cha đã nhủ chúng ta vâng lời và theo gương Ngài. Có lẽ chúng ta đã đọc sách thánh và nghe lời giảng dậy hay chia sẻ Lời Chúa nhiều lần. Có lẽ tâm chúng ta đã bị đánh động và quyết tâm vài lần. Có lẽ chúng ta đã có những dự án hay chương trình hành động. Nhưng tình trạng dậm chân tại chỗ, với cuộc sống tầm thường hay sút kém là dấu chỉ chúng ta chưa cố gắng đủ để vượt qua các hy sinh, chướng ngại, khó khăn và chưa thoát ra cái vỏ sò cứng ngắc hay cái tôi nhiễm đặc: “tham sân si" đang giam cầm và gậm hấm chúng ta.
Ngoan hiền trong thánh đường, nhu mì khi đến toà Hòa giải, sốt sắng khi lên rước Chúa, rộng lượng khi dâng cúng là những dấu hiệu khởi sắc và đáng khuyến khích, nhưng chưa đủ. Chúng ta không được dừng lại ở đó. Hãy đem đạo vào đời, vào công sở, vào thương trường, vào nghề nghiệp và nhất là hãy sống đạo trong khuôn viên gia đình và trong các sinh hoạt tôn giáo. Hãy để ngũ thường “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” có cơ hội trưởng thành, phát triển và sinh hoa trái. Việc tu thân đã hoàn tất và tề gia đã ổn định, chúng ta sảng khoái bước sang lãnh địa trị quốc và tự tin giang tay bình thiên hạ. Cuối cùng chúng ta sẽ như Giêsu trở thành những người con dấu yêu của Chúa Chá, được sai đi làm sứ mạng cứu nhân độ thế và làm chúng nhân cho công bình, bác ái, yêu thương và tự do giữa nhân gian.
"Vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý".
Đây là chủ đề thích hợp cho riêng Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, một lễ mở màn cho Mùa: TN 1-A21
Đây là chủ đề thích hợp cho riêng Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, một lễ mở màn cho Mùa Phụng Vụ Hậu Giáng Sinh. Bởi vì, bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm đều thuật lại sự kiện về "vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha" này, tức "về Giêsu Nazarét, Người bắt đầu từ Galilêa chịu phép rửa mà Gioan rao giảng' và về cách thức Thiên Chúa lấy Thánh Linh và quyền năng mà xức dầu cho Người" (bài đọc 2).
Theo Phúc Âm thánh Mathêu, "Chúa Giêsu từ Galilêa đến với Gioan ở sông Dược-Đăng để chịu phép rửa của ông", và "sau khi chịu phép rửa xong" thì Người được "Thiên Chúa lấy Thánh Linh và quyền năng mà xức dầu cho Người" (bài đọc 2). Ở chỗ, "Thần Linh Thiên Chúa như một chim câu đậu xuống trên Người". Thêm vào đó, Thiên Chúa còn chính thức giới thiệu "Người Con duy nhất" của mình này với loài người, mà đại diện bấy giờ là Gioan, con người tiêu biểu nhất của loài người (xem Luca 7:28), bằng "tiếng từ các tầng trời vang lên: 'Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta ái mộ Người'".
Nếu trong Phúc Âm thánh Mathêu, "Người Con duy nhất" này của Thiên Chúa đã được Ngài giới thiệu với loài người, thì trong Phúc Âm của hai thánh Matcô và Luca, "Người Con duy nhất" này lại được chính Thiên Chúa trực tiếp tỏ lòng thương mến đặc biệt, bằng lời thú nhận: "Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng vì Con (hay) Cha sủng ái Con".
Ở đây, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được mạc khải cho loài người biết qua trình thuật của Phúc Âm Nhất Lãm, trong trường hợp Đức Kitô lãnh nhận Phép Rửa ở sông Dược-Đăng. Thiên Chúa Ngôi Cha được biểu hiệu qua "tiếng phán từ các tầng trời" (Phúc Âm cả 3 năm), Thiên Chúa Ngôi Con được sống động nơi hình ảnh của con người Đức Kitô, và Thiên Chúa Ngôi Ba là "Thần Linh" (Phúc Âm năm A và B) hay "Thánh Linh" (Phúc Âm năm C) được biểu hiệu qua "hình chim câu đậu xuống trên Người" (Phúc Âm năm C).
Thật ra, theo thần tính của mình, là "Lời ở nơi Thiên Chúa" (Phúc Âm lễ Ban Ngày Giáng Sinh) đã được Thiên Chúa "phán từ các tầng trời" khi "Ngài nói với (con người) chúng ta qua Con của Ngài" (bài đọc 2 Lễ Ban Ngày Giáng Sinh), thì trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải ở đây, Thiên Chúa Ngôi Con chính là "tiếng phán từ các tầng trời", tức là "tất cả sự thật" (Jn.16:13) nơi Thiên Chúa được tỏ ra cho loài người, nơi con người của Đức Giêsu Kitô. Như thế, được ngôi hiệp với thần tính, nhân tính của Đức Giêsu Kitô chính là "đường lối" (Jn.14:6) mạc khải của Thiên Chúa.
Thế nhưng, Thiên Chúa muốn mạc khải những gì, nếu không phải là tình yêu của Ngài đối với loài người, một thân phận tạo vật được hiện thân nơi con người của Đức Giêsu Kitô, một tình yêu được mạc khải qua nội dung của "tiếng phán từ các tầng trời", đó là "Ta ái mộ Người" (Phúc Âm năm A), hay "Cha sủng ái Con" (Phúc Âm năm B) hoặc "Cha hài lòng vì Con" (Phúc Âm năm C).
Do đó, "vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha" đây không là gì khác ngoài tình trạng "đầy ân sủng và chân lý" ở nơi Người. "Ân sủng" ở đây là gì, nếu không phải là việc "Thiên Chúa yêu thương..." (Jn.3:16) hay "Thiên Chúa chứng tỏ/mạc khải tình yêu của Ngài..." (Rm.5:8' 1Jn.4:9). Và "chân lý" ở đây là gì, nếu không phải là "Thiên Chúa là tình yêu" (1Jn.4:8,16).
Chính thứ tự của câu "ân sủng và chân lý", trong đó, "ân sủng" được đặt trước "chân lý", đã nói lên động lực và thực tại nơi mạc khải của Thiên Chúa: vì yêu thương (ân sủng) Thiên Chúa đã mạc khải tình yêu là bản tính của Ngài ra (chân lý).
Vì việc mạc khải của Thiên Chúa là do "ân sủng", tức là phát xuất từ việc Thiên Chúa yêu thương nhân loại, và cũng vì cả mạc khải của Thiên Chúa còn là chính Tình Yêu của Ngài, một thực tại nói lên "tất cả chân lý" của mạc khải, mà "Thánh Linh", "Đấng An Ủi, là Thần Chân Lý" (Jn.15:26), mới nhập cuộc, xuất hiện bằng hình ảnh của "chim câu", biểu hiệu cho tâm tình "hiền lành" (Mt.11:29), liên quan đến "ân sủng", và cũng biểu hiệu cho đức tính "đơn thành" (Mt.10:16), liên quan đến "chân lý".
Như thế, nếu nhân tính của Đức Kitô, "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" này, như vừa nhận thức, là "đường lối" mạc khải của Thiên Chúa, thì "Thần Linh (hay) Thánh Linh lấy hình chim câu đậu xuống trên Người" đây chính là nguyên lý, là tác nhân mạc khải của Thiên Chúa.
Do đó, "vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" đây còn là "Thánh Linh" mà "Thiên Chúa xức dầu cho Người" (bài đọc 2), đồng thời cũng là "Thần Linh" mà Thiên Chúa "đã đặt trên Người" (bài đọc 1). Bởi đó, dưới tác động hay ảnh hưởng "quyền năng từ trên cao" (Lk.24:49) là "Thần Linh" hay "Thánh Linh" này, mà Đức Kitô, "Giêsu Nazarét... đi khắp nơi thực hiện những việc lành và chữa trị cho tất cả những ai bị ma qủi cầm buộc, và Thiên Chúa ở với Người" (bài đọc 2).
Về việc Chúa Giêsu vô tội mà lại lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền Hô: tại sao Người chịu phép rửa hay Người chịu phép rửa để làm gì?
Để có thể trả lời một cách chính xác cho vấn đề tại sao Chúa Kitô vô tội mà còn lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền Hô, trước hết, về nguyên tắc, chúng ta cần phải lưu ý đến yếu tố cốt lõi là Chúa Kitô có hai bản tính, bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại. Tuy nhiên, trong hai bản tính được ngôi hiệp nơi Đấng Thiên Sai này, bản tính Thiên Chúa là chính và bản tính nhân loại là phụ, bởi thế mới nói Người là Thiên Chúa Nhập Thể hơn là Con Người Thần Linh. Đó là lý do Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo số 466 mới xác tín: “Nhân tính của Đức Kitô không có một chủ thể nào khác ngoài ngôi vị thần linh Con Thiên Chúa, Đấng đã mặc lấy nhân tính ấy và biến nhân tính ấy thành nhân tính của mình”, và số 515 còn giải thích rõ hơn nữa như sau: “Nhân tính của Người như là 'một bí tích', tức như là một dấu hiệu và là một dụng cụ, của thần tính Người cũng như của ơn cứu độ Người mang đến, ở chỗ, những gì hữu hình nơi đời sống trần gian của Người đều dẫn đến mầu nhiệm vô hình của vai trò thiên tử và sứ vụ cứu chuộc của Người”. Số Giáo Lý 516 tóm lại thế này: “Toàn thể đời sống trần gian của Chúa Kitô - lời Người nói, việc Người làm, Người thinh lặng và Người khổ đau, cung cách Người sống động và nói năng thực sự - là Mạc Khải của Chúa Cha”.
Đó là lý do tại sao khi nói về việc Chúa Giêsu chịu phép rữa của Tiền Hô Gioan, Giáo Lý số 536 đã cảm nhận một cách hết sức sâu xa và xác đáng như sau: “Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa, về phần Người, đó là việc Người chấp nhận và mở màn cho sứ vụ của Người như là một Người Tôi Tớ khổ đau của Thiên Chúa. Người tự cho mình thuộc vào số các tội nhân; Người là 'Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian' (Jn 1:29; x. Is 53:12). Người hướng vọng tới 'phép rửa' là cái chết đẫm máu của Người (x Mk 10:38; Lk 12:50). Người đến để 'làm trọn tất cả sự chính trực', tức là, Người bắt mình hoàn toàn thuận phục ý muốn của Chúa Cha, ở chỗ, vì yêu thương Người đồng ý chấp nhận phép rửa tử nạn để xóa bỏ tội lỗi của chúng ta (Mt 3:15, x. 26:39)… Chúa Giêsu sẽ là nguồn mạch Thần Linh đổ xuống cho tất cả nhân loại. Trong lúc Người lãnh nhận phép rửa, 'các tầng trời mở ra' (Mt 3:16) - các tầng trời bị tội lỗi Adong đóng lại - và các giòng nước được thánh hóa bởi việc Chúa Giêsu dìm mình xuống cũng như bởi Thần Linh, đó là một dạo khúc mở màn cho cuộc tân tạo”.
Đối với tôi, việc Chúa Kitô lãnh nhận phép rửa không phải là vì nhân tính của Người có tội như bản tính hư hoại của loài người chúng ta, mà là để nhân tính ấy được tràn đầy Thần Linh. Cũng giống như việc Người ăn chay và chịu cám dỗ trong hoang địa 40 đêm ngày không phải là vì nhân tính của Người đầy đam mê nhục dục cần phải khổ chế và đền tội như loài người tội nhân chúng ta, mà là để nhân tính đầy Thần Linh của Người trở thành phương tiện cho Thiên Chúa sử dụng trong việc chế ngự sự dữ và cứu độ thế gian. Thật ra, nhân tính của Người đã được tràn đầy Thần Linh ngay từ giây phút nhập thể trong lòng Trinh Nữ Đầy Ơn Phúc Maria. Thế nhưng, vì Người cần phải thông ban mức độ tràn đầy Thần Linh của mình ra cho chung nhân loại cũng như cho riêng Giáo Hội của Người nữa, điển hình sau khi phục sinh từ trong kẻ chết, tức lúc nhân tính của Người hoàn toàn hiển linh, Người đã hiện ra với các tông đồ và thở hơi trên các vị để các vị “nhận lấy Thánh Linh” (Jn 20:22), mà Người cần phải tỏ mình ra Người thực sự là Đức Kitô, tức là một Đấng được xức dầu, một Đấng đầy Thần Linh, tức là một Đấng Thiên Sai. Và tác động thích hợp nhất và ý nghĩa nhất để tỏ mình đầy Thần Linh cho phần rỗi của loài người chính là việc Người lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền Hô tại sông Dược Đăng khi bắt đầu xuất thân cứu nhân độ thế.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, Cha đã sai "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý", để "Người mang công chính đến cho các dân tộc... làm giao ước của dân, làm ánh sáng cho các dân tộc..." (bài đọc 1) - xin Cha "chúc phúc cho (chúng con) trong cảnh thái bình" (đáp ca), thành phần "người mù... tù nhân... sống trong tăm tối" (bài đọc 1), đã được Người, qua Bí Tích Rửa Tội, "mở mắt (lương tri) cho... giải tỏa tình trạng (ma quỉ) cầm buộc cho... và đưa ra khỏi ngục (thế gian)" (bài đọc 1).
Sông Giođan, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống. Sông Giođan phát nguồn từ ngọn: TN 1-A22
Sông Giođan, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống. Sông Giođan phát nguồn từ ngọn núi Hermon ở độ cao 520m. Suốt 220km đường dòng sông không ngừng đi xuống. Thoạt tiên sông chảy vào hồ Halê, chỉ còn 68m trên mực nước biển. Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê nơi Đức Giêsu thường qua lại và các tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển. Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam đổ vào biển Chết. Ở đây là độ sâu 394m dưới mực nước biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.
Khi Đức Giêsu bước xuống sông Giođan để chịu phép rửa. Người đã xuống chỗ thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý, mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Bước xuống để Gioan Baotixita làm phép rửa tội, Đức Giêsu đã hoà mình vào dòng người tội lỗi cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Đức Giêsu không cho mình cái quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ. Không ai nhận ra Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.
Trong đêm Giáng sinh ta đã được chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người, làm một người nhỏ bé nghèo hèn, dường như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân loại khi nhận mình tội lỗi.
Hôm nay bắt đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng. Trước khi tiến ra gặp gỡ với quần chúng. Đức Giêsu đã tới dìm mình trong dòng sông Giođan. Để chuẩn bị ra gặp loài người. Đức Giêsu cảm thấy cần phải thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm. Đức Giêsu chưa cảm thấy mình gần gũi với nhân loại. Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người dìm mình xuống dòng sông Giođan, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả mọi dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn vương vất nơi thân xác nhân loại của Người, tẩy sạch đi tất cả những gì ngăn cách để Người thực sự là một người anh em của mọi người.
Dòng nước Giođan dù có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên Chúa làm người. Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Khiêm nhường là một phép rửa, vì khiêm nhường là tự quên mình, là chết đi một chút. Dìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy còn phải chịu một phép rửa và Thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất” (Lc 12,50). Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong Nước Người: “Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy Ta phải chịu không? (Mc 10,38). Khi nói thế Chúa Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.
Một câu châm ngôn nói: Không ai thấy được tình yêu. Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu. Bằng chứng của tình yêu đối với ta đó là: sự hạ sinh làm một em bé nghèo hèn yếu ớt, đó là sự khiêm nhường hòa mình vào đoàn lũ những tội nhân. Đến dìm mình trong dòng sông Giođan, tình yêu đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ. Mượn dòng nước sám hối xóa đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.
Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta. Nếu ta cảm thấy mình còn xa cách Chúa. Nếu ta cảm thấy mình cần phải được thanh tẩy. Đừng ngần ngại thay đổi đời sống. Hãy mạnh dạn tiến lên lãnh nhận phép rửa của Đức Giêsu, để trở nên gần gũi với Người. Nếu ta chưa thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Đức Giêsu, ta vẫn có thể thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong dòng lệ sám hối. Hãy tắm gội trong dòng nước khiêm nhường như lời vua Đavít nói: “Lễ dâng Cha là tâm hồn sám hối. Một tấm lòng tan nát dày vò. Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50).
Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm. Khiêm nhường sám hối là quay trở về với Cha, sống trọn tâm tình của người con hiếu thảo. Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha nhân hậu đang đứng chờ ta. Người sẽ nói với ta như nói về Đức Giêsu: “Đây là con Ta yêu dấu. Ta hài lòng về con”.
Lạy Đức Giêsu! xin giúp con biết đến với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối.
Phép rửa của Chúa Giêsu khởi đầu “một kỷ nguyên mới”. Kỷ nguyên mới này là một cuộc: TN 1-A23
Phép rửa của Chúa Giêsu khởi đầu “một kỷ nguyên mới”. Kỷ nguyên mới này là một cuộc sáng tạo mới trong đó Chúa Giêsu là Ađam mới.
Cô Ann Thomas có kể lại câu chuyện sau đây. Hôm đó, cô cùng bạn gái là Betty ghé một sạp bán đồ phế thải. Anh vừa lôi ra một khay đồ linh tinh. Betty bước tới hỏi:”Có đồ gì đáng gía không?” anh trả lời: “Không! Toàn là đồ “năm vố” không à!”. Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống đồ đoạn nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ hoen bẩn và nói: “Thật khó mà tin được! Tôi đã tìm được đồ quý! Cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa”. Cô bạn của Ann bèn về nhà lau chùi và đánh bóng cây thập giá. Đây quả là một vật quý”.
Ann kết thúc câu chuyện của mình bằng một câu nói: “Betty và tôi đều nhìn thấy cây thánh giá, nhưng tôi chỉ thấy đó là đồ phế thải còn cô ta lại thấy đó là một vật quý.”
Chúng ta hãy theo dõi tiếp câu chuyện trên.
Về sau đứa con trai của Betty tên là Bobby cầm cây thánh giá lên, cung kính cầm trong tay và ngắm nghía một hồi lâu. Bỗng nhiên cậu bé bắt đầu oà khóc. Betty bèn hỏi: “Con sao vậy? Bobby nói: “Con không cầm lòng được, con đang nhìn vào Chúa Giêsu bị treo trên thập giá”.
Như thế, ba người đều nhìn vào cây thánh giá, thế mà một người chỉ thấy đó là đồ “ve chai”, người khác thấy đó là vật có gía trị, còn người khác nữa lại thấy Chúa Giêsu trên đó.
Cách nhìn về cây thánh giá trên cũng tương tự cách nhìn về Phúc âm. Ba người đều nghe cùng câu chuyện Phúc âm nhưng lại phản ứng theo ba cách thức khác nhau. Ngừơi thứ nhất chỉ lắng nghe câu chuyện rồi chẳng làm gì hơn nữa. Người thứ hai cũng lắng nghe câu chuyện nhưng còn thêm một bước nữa là cố gắng học hỏi ý nghĩa câu chuyện. Còn người thứ ba thì cũng lắng nghe câu chuyện và cố gắng học hỏi ý nghĩa của nó, nhưng còn dấn thân một bước nữa là cố gắng áp dụng câu chuyện ấy vào cuộc sống.
Đó là ba bước tiếp nhận Phúc âm, gồm có: lắng nghe, học hỏi và đem áp dụng vào cuộc sống. Chúng ta hãy minh hoạ ba bước tiếp nhận này qua câu chuyện trong bài Phúc âm hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chịu phép rửa.
Bước thứ nhất: chúng ta chăm chú nghe câu chuyện và biết rằng sau khi Thánh Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì có ba sự lạ khác thường xảy ra, là: tầng trời mở, Chúa Thánh Linh hiện xuống, và có tiếng nói từ trời phán ra. Như thế trong ba bước đầu, chúng ta chỉ nghe suông câu chuyện mà thôi.
Bước thứ hai: chúng ta đi xa hơn một chút, là cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện. Nói cách khác chúng ta cố gắng tìm hiểu ý nghĩa việc trời mở ra, Thần Khí ngự xuống và tiếng nói phán ra.
Ta thử xem hình ảnh bầu trời mở ra có ý nghĩa gì? Dân Do Thái xưa thường tưởng tượng và hình dung Thiên Chúa sống ở một nơi nào đó phía trên bầu trời, và bầu trời là bức chắn phân cách trời đất. Nếu Chúa muốn đến trái đất Ngài sẽ phải xuyên thủng bức ngăn này. Điều này cắt nghĩa những lời của Isaia khi ông yêu cầu Chúa cứu trần gian khỏi tội. Ong thưa với Chúa: “Sao Chúa không xé toạc bầu trời ra và ngự xuống?” (Is 65: 1) tác giả Thánh vịnh cũng cầu nguyện với Chúa một cách tương tự: “Lạy Chúa! xin Chúa hãy xé toạc bầu trời ra và …. Hãy đến cứu con” (Tv 144: 5-7).
Hình ảnh trời mở ra gợi ý cho ta thấy Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của dân Ngài. Ngài đang đến cứu vớt họ. Nói cách khác, một “kỷ nguyên mới” sắp khởi đầu trên trái đất.
Chúng ta hãy bước sang hình ảnh thứ hai: Thần Khí bay lượn phía trên Chúa Giêsu và trên mặt nước. Hình ảnh này hầu như đồng nhất với hình ảnh trong sách Sáng Thế Ký mô tả lúc cuộc tạo dựng khởi đầu: “Thần Khí Chúa bay lượn trên mặt nước”. Hình ảnh thần khí chuyển động trên Chúa Giêsu và trên mặt nước gợi ý cho thấy kỷ nguyên mới vừa khởi sự là một cuộc “tân tạo” hoặc “tái tạo” vũ trụ.
Và hình ảnh sau cùng là có tiếng nói từ trời vọng ra: “Đây là Con Ta rất yêu dấu”. Những lời này cho thấy Thiên Chúa gọi Chúa Giêsu là Con Ngài. Chúa Giêsu là “Adam mới” của cuộc tân tạo. Thánh Phaolô đã so sánh Chúa Giêsu và Adam như sau: “Người thứ nhất tức Adam được tạo dựng là con người sống, nhưng Adam cuối cùng (tức Chúa Giêsu) lại là Thần Khí ban sự sống… Adam đầu tiên.. bởi đất mà ra, còn Adam thứ nhì từ trời mà đến… Như chúng ta đã mang ảnh hưởng con người bởi đất (tức Adam thứ nhất) thế nào thì chúng ta cũng sẽ mang hình tượng con người bởi Trời (tức Adam thứ hai, là Chúa Giêsu) như vậy (1 Cr 15: 45-49).
Vậy, chúng ta có thể tóm tắt ý nghĩa sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa như sau: Phép rửa của Chúa Giêsu tại sông Jordan khởi đầu một “kỷ nguyên mới” trong lịch sử kỷ nguyên mới này là một cuộc “tân tạo” trong đó Chúa Giêsu là một “Adam mới”
Bây giờ Chúng ta nói đến cách thức thứ ba để tiếp nhận câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa. Ngoài việc lắng nghe và tìm hiểu ý nghĩa sâu xa, chúng ta còn phải áp dụng ý nghĩa câu chuyện ấy vào cuộc sống của mình. nhưng làm cách nào áp dụng câu chuyện vào cuộc sống của mình?
Cách cần phải làm là bắt chứơc cậu bé Bobby bảy tuổi khi cậu cầm thánh giá bằng bạc lên. Chúng ta có thể suy nghĩ về câu chuyện trong trí và dựa theo đó mà cầu nguyện trong tâm hồn mình.
Chẳng hạn, chúng ta có thể nhớ lại rằng “cuộc tân tạo” bắt đầu với phép rửa của Chúa Giêsu đã trở nên một thực tế thân mật đối với mỗi người chúng ta khi chúng ta chịu phép rửa tôi. Trong một ý nghĩa rất thực, khi chúng ta chịu phép rửa tội bầu trời đã mở ra trên chúng ta, Thần Khí Chúa ngự xuống trên chúng ta và một tiếng nói vọng ra cho chúng ta: “Con là Con Ta”.
Khi mô tả điều xảy ra trong phép rửa Kitô giáo thánh Phaolô đã viết cho một nhóm Kitô hữu mới chịu phép rửa như sau: “Khi chịu phép rửa, anh chị em đã được an táng cùng với Chúa Giêsu trong phép rửa, và anh chị em cũng sẽ được sống lại cùng với Chúa Kitô.. Trước kia anh chị em đã chết về mặt thiêng liêng vì tội lỗi của anh chị em… Nhưng giờ đây, Thiên Chúa đã đưa anh chị em đến nguồn sống cùng với Chúa Kitô” (Cl 2: 12-13).
Như thế, phaolô đã trình bày thật tuyệt diệu cách thức để các Kitô hữu áp dụng phép rửa của Chúa Giêsu vào cuộc sống tức là sống phép rửa ấy.
Tôi xin kết thúc bài giảng hôm nay bằng những câu nói tuyệt vời của thánh Phaolô:
“Anh em đã sống lại cùng Chúa Giêsu, vậy anh em hãy hướng tâm hồn về những sự trên trời… Hãy hướng trí lòng vào những sự trên trời… Hãy hứơng trí lòng vào những điều đó chứ đừng vào các sự vật của trần thế này…….
Cuộc sống thực của anh em cũng sẽ cùng xuất hiện với Ngài để chia sẻ vinh quang của Ngài”. (Cl 3: 1-4).
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay thật cảm động! Đức Giêsu cùng đám đông dân chúng đứng: TN 1-A24
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay thật cảm động! Đức Giêsu cùng đám đông dân chúng đứng chen chúc trong giòng sông Hoà Giang để xin Gioan làm phép rửa...
Mở đầu cuộc đời hoạt động công khai, cử chỉ này cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã thực sự chia sẻ thân phận yếu hèn của chúng ta. Là Đấng Thánh, Người không đến với chúng ta như một cuộc trình diễn ngoạn mục, hay chỉ hóa thân làm người trong một giới hạn nào đó, mà đã làm người thực sự, gắn sâu vào thân phận con người để cảm thông và đồng hành với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của thế giới này.
Nói theo ngôn ngữ thần học, đây là việc xức dầu lần thứ hai. Lần thứ nhất khi xuất hiện trong hang lừa máng cỏ, khởi đầu chương trình nhập thể. Còn lần này ở giòng sông thanh tẩy, Người đi xa hơn, để trở nên “Đấng gánh tội trần gian”, là Đấng toàn năng, Người có trăm phương nghìn cách để cứu vớt con người. Nhưng Thiên Chúa đã chọn con đường làm người, sử dụng chính thân xác yếu hèn của con người. Kỳ diệu và tình thương là thế đó! Người muốn ra đi rao giảng, không những với tư cách là Đấng Cứu Thế, nhưng còn với tư cách là một đồng loại, đầy cảm thông và nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì thế, lời dạy của Người, đã đi vào chốn sâu thẳm nhất của lòng Người. Vừa là thầy, vừa là bạn, Người đã trở nên tất cả cho mọi người.
Phép rửa mà Đức Kitô lãnh nhận bởi tay Gioan hôm nay, chỉ là hình ảnh báo trước một phép rửa hoàn hảo và tuyệt đối hơn, vì có khả năng phục sinh, đổi mới toàn diện, đó chính là cuộc tử nạn và phục sinh của Người (Mc 10,38-39). Là Đấng vô tội, không một vết nhơ tì ố, Người đã không ngần ngại đến sống giữa nhân loại tội lỗi. Đồng hành, đồng bàn với quân thu thuế và tội lỗi (Mt 11,11). Và coi đó là sứ mạng của Người: “Tôi đến không phải kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi sám hối ăn năn”(Lc 5,31-32). Người đã cùng sám hối với con người tội lỗi, để rồi đổi mới tâm hồn họ, không phải bằng nước, mà bằng thần khí của Người.
Người tín hữu hôm nay cũng phải ý thức mình là người tội lỗi, anh em với người tội lỗi, do đó cũng phải đổi mới. Giáo hội đã nêu gương trước cho chúng ta, khi đã công khai sám hối về những lỗi lầm trong quá khứ.
Giáo hội ý thức rằng mình là người trước tiên cũng cần được thanh tẩy, cần được ơn tha thứ, để có thể thanh tẩy và tha thứ cho anh em mình. Giáo hội noi gương Đức Giêsu, đã đặt mình trong giòng sông định mệnh của toàn thể nhân loại.
Sứ mạng của Chúa Giêsu là làm Đấng Messia, một Đấng Messia vừa cao sang trong thân phận: TN 1-A25
Sứ mạng của Chúa Giêsu là làm Đấng Messia, một Đấng Messia vừa cao sang trong thân phận Con Thiên Chúa, vừa khiêm tốn như một Người Tôi tớ.
- Bài đọc I: Hình ảnh Người Tôi Tớ được mặc khải cho ngôn sứ Isaia.
- Đáp ca: "Tiếng Chúa vang rền trên sóng nước". Hai hình ảnh "nước" và "tiếng" sẽ được dùng lại trong bài tường thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa.
- Tin Mừng: Trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần đã lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, và tiếng Chúa Cha từ trời giới thiệu Ngài là Con yêu dấu của Chúa Cha.
- Bài đọc II: Thánh Phêrô hiểu biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa là lễ tấn phong Ngài làm Đấng Messia.
Minh họa
- Mille images 49 C - Đức Giêsu chịu phép rửa (Mt 3,13-17)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa là gạch nối giữa giai đoạn Chúa Giêsu sống ẩn dật với giai đoạn Ngài rao giảng công khai: sau thời gian sống với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu đi rao giảng. Việc đầu tiên Ngài làm là lãnh nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả ở sông Giođan. Như thế, lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng là gạch nối giữa mùa Giáng sinh với mùa Thường niên: Chúng ta đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố giáng sinh và hiển linh. Kể từ hôm nay chúng ta sẽ cùng sống với Ngài qua các biến cố của đời rao giảng.
Trong dịp Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần đã lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, và tiếng Chúa Cha từ trời phán xuống xác nhận Ngài là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Đó cũng chính là thân phận kitô hữu của mỗi người chúng ta: chúng ta cũng đã lãnh nhận phép rửa, cũng được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Vậy chúng ta cũng hãy noi gương Chúa Giêsu mà cố gắng sống xứng đáng là con của Thiên Chúa.
II. Gợi ý sám hối
- Do bí tích Rửa tội, chúng ta đã được nhận là con của Chúa. Nhưng chúng ta chưa sống xứng đáng với danh nghĩa ấy.
- Dù là Con Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu đã sống như một Người Tôi Tớ hạ mình phục vụ mọi người. Còn chúng ta, chúng ta không thích hạ mình, không ưa phục vụ.
- Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ngược lại chúng ta hay sống theo ý riêng.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 42,1-4.6-7):
Ngôn sứ Isaia được Thiên Chúa soi sáng đặc biệt nên đã hiểu Đấng Messia tương lai là một Người Tôi Tớ. Ông đã mô tả Người Tôi Tớ trong 4 bài thơ. Đoạn được phụng vụ trích đọc hôm nay nằm trong bài thơ thứ I:
- Đó là người được Thiên Chúa tuyển chọn và Thiên Chúa rất hài lòng.
- Người đó rất hiền lành và dịu dàng: "không lớn tiếng, không nở bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói".
- Sứ mạng của Người Tôi Tớ là: a/ Tái lập công bình ; b/ nên ánh sáng cho muôn dân ; c/ giải thoát những người khốn khổ.
2. Đáp ca (Tv 28):
Bài thơ này ca tụng Thiên Chúa uy phong. Sự uy phong của Thiên Chúa thể hiện qua việc Ngài thống trị các sức mạnh của thiên nhiên: Ngài ngự trên những ngọn thủy triều, tiếng Ngài vang rền trên sóng nước.
Chính Thiên Chúa uy phong ấy sẽ tấn phong Chúa Giêsu làm Đấng Messia của Ngài trong biến cố phép rửa.
3. Tin Mừng (Mt 3,13-17):
Mặc dù kể chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa, nhưng Thánh Marcô không chú ý mô tả cảnh chịu phép rửa, mà lại chú trọng đến những người làm chứng cho Chúa Giêsu:
a/ Chứng của Gioan Tẩy giả: Chúa Giêsu mặc dù đến sau Gioan nhưng trổi vượt hơn Gioan, Gioan không xứng đáng làm đầy tớ cuối xuống cởi dây giày cho Ngài ; mặc dù Chúa Giêsu nhận phép rửa Gioan, nhưng phép rửa trong Thánh Thần của Ngài cao trọng hơn phép rửa bằng nước của Gioan.
b/ Chứng từ trời: a/ Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Chúa Giêsu để cho thấy Ngài là Vị Ngôn Sứ đầy tràn Thánh Thần ; b/ Tiếng Thiên Chúa từ trời phán xuống xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha.
c/ Với việc Chúa Giêsu bắt đầu xuất hiện trước công chúng, "trời mở ra" để bắt đầu một kỷ nguyên mới.
4. Bài đọc II (Cv 10,34-38):
Dân do thái có quan niệm hẹp hòi cho rằng Thiên Chúa là Chúa riêng của họ, và ơn cứu rỗi của Thiên Chúa được dành riêng cho họ. Vì thế, khi thánh Phêrô rửa tội cho ông Cornêliô một người thuộc dân ngoại, một số người do thái đã thắc mắc.
Thánh Phêrô biện minh rằng ông đã làm như thế cũng chỉ là theo đúng sứ mạng của Chúa Giêsu:
- Trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, Ngài đã được Thiên Chúa tấn phong làm Đấng Messia: "Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Ngài".
- Sứ mạng Messia của Chúa Giêsu là mang Tin Mừng cho tất cả mọi người và mọi dân tộc, vì thế nên "Ngài đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người". Phêrô còn nói: "Thiên Chúa không tây vị ai. Nhưng ở bất cứ xứ nào ai kính sợ Người và thi hành sự công chính đều được Người đón nhận".
IV. Gợi ý giảng
1. Mỗi người đều có sứ mạng
Hai tiếng "sứ mạng" nghe có vẻ nghiêm trọng quá. Nhưng thực ra mọi người, mọi sinh vật, mọi thụ tạo - nói chung là mọi "hiện hữu" - đều có một sứ mạng:
- Sứ mạng của mặt trời là sưởi ấm các sinh vật trên mặt đất
- Sứ mạng của cây lúa là nuôi sống con người
- Thậm chí những con vi sinh nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thấy được cũng có sứ mạng làm phân huỷ những chất thải.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo.
Mỗi người chúng ta cũng có sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi "Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo Hội, đối với anh chị em không cùng tín ngưỡng ?"
Tôi được sinh ra trên đời là vì sứ mạng. Nếu tôi không chu toàn sứ mạng, hay tệ hơn nữa, nếu tôi không lưu tâm gì đến sứ mạng, thì sự hiện hữu của tôi là vô ích, chỉ là ăn hại. Chúa Giêsu đã nói "Nếu muối mà nhạt thì chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân".
2. "Con yêu dấu"
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua phép rửa, chúng ta cũng trở thành con Thiên Chúa. Về phần Chúa Giêsu, Ngài đã được khen là "Con yêu dấu của Cha". Thế nào là một người "con yêu dấu" ?
- là biết ý của cha mình: Chúa Giêsu luôn cầu nguyện để biết ý của Chúa Cha.
- và luôn làm theo ý cha mình: Chúa Giêsu nói "Lương thực của Ta là làm theo ý của Cha Ta". Trong vườn Cây Dầu, sau khi đơn thành tỏ cho Chúa Cha biết Ngài rất sợ chén đắng của cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu nói tiếp ngay "Nhưng xin đừng theo ý con, mà hãy theo ý Cha".
Nếu chúng ta muốn trở thành con yêu dấu của Thiên Chúa thi chúng ta cũng hãy bắt chước Chúa Giêsu: luôn cầu nguyện, khi đã thấy được ý Chúa thì sẵn sàng bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa.
3. "Nếu…"
Nếu tôi là dân do thái lúc đó, có thể tôi cũng đi từ Galilê bên Đức Giêsu suốt bốn năm ngày đường, tới sông Giođan để chịu phép rửa, mà không ngờ rằng Người là Đấng mà Gioan đang rao giảng. Khi tới nơi, chắc chắn tôi sẽ chen lấn Người để tôi được tới gần Gioan hơn. Tôi trố mắt nhìn và lắng tai. Gioan kêu gọi tôi sám hối. Tôi cảm động và rán lội tới sát Gioan. Tôi đẩy Người ra để xin Gioan rửa tôi trước, vì tôi nóng lòng mong đợi điều Gioan đang nói "Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến". Rửa xong, tôi an tâm ra về mà không ngờ Người là Đấng Cứu Thế đồng hành với tôi, đứng sát bên tôi, đã bị tôi gạt Người ra ngoài.
Thực tế hàng ngày đã xảy ra trăm ngàn lần tôi cư xử như thế đối với những người bên cạnh tôi. Tôi không ngờ rằng họ là chi thể Đấng Cứu Thế. Tôi bao nhiêu lần xô lấn những người bên cạnh tôi để tôi được hơn, được trước họ mà chẳng nhớ gì lời Chúa dạy: "Con phải kính nhường và yêu mến người bên cạnh con". Thành thử ra tôi cũng không nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở với tôi.
Nếu tôi được làm địa vị của Gioan tiền hô, thì khi vừa thấy Đấng Cứu Thế, tôi sẽ tự đắc hô to: Đấy, tôi nói có sai đâu. Ngài đến đây nè… Rồi tôi kêu gọi mọi người ủng hộ Ngài, hoan hô Ngài, đón rước Ngài, xin Ngài phất cờ giải phóng dân tộc, làm cho nước ta độc lập tự do giàu mạnh, đem quân xâm chiếm các nước, trở thành bá chủ hoàn cầu. Tôi rất phàn nàn và lấy làm tiếc vì không thể ngờ được rằng Gioan không làm như tôi mong muốn. Trái lại ông đã cúi mình xuống nhỏ nhẹ thưa với Ngài rằng "Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Tôi chỉ rửa anh em trong nước, còn chính Ngài mới rửa chúng tôi trong Thánh Thần. Vậy xin Ngài rửa cho tôi đi để tôi được ơn cứu độ". Thật là con người đầy khiêm tốn, đầy tin tưởng, để rồi Gioan đã phó thác trót mạng sống mình cho Đấng Cứu Thế: dù phải chặt đầu, ông vẫn luôn quyết tâm chu toàn nghĩa vụ Thiên Chúa trao.
Còn Đức Giêsu, Người rất từ tốn và ẩn mình tuyệt diệu hơn nữa. Người đã thưa lại Gioan: "Chúng ta cần phải chu toàn nghĩa vụ thánh như thế". Người đồng hóa mình với dân chúng, chịu những kẻ cậy sức mạnh xô đẩy, chèn ép để thông cảm với mọi nỗi xót xa của cuộc đời những kẻ thấp mũi bé miệng, neo đơn, cô thế cô thân. Người đã cúi mình trước Gioan làm phép rửa cho Người để cho những tội nhân biết cúi mình xuống trước tòa giải tội. Người đã dìm mình xuống nước để cứu vớt những kẻ chết trong dòng đời, cho họ được sống lại làm con chí ái với Người trong gia đình thiên quốc. Người chôn mình trong bản tính hư nát của loài người để cho con người được trường sinh vinh phúc.
Lạy Chúa Giêsu xin cho chúng con biết kính nhường nhau. Đó chẳng phải là kính mến Chúa sao ? Xin cho chúng con biết phó thác thân phận làm người, làm kitô hữu cho Đấng Cứu Thế. Chắc chắn chúng con sẽ được Người thanh tẩy và kết nạp chúng con vào nhà Cha chí ái trên trời.
(Linh mục Vũ Khắc Nghiêm, "Xây nhà trên đá" Năm A)
4. Mảnh suy tư
Thanh tẩy không chỉ là xối nước lên trán, chỉ một lần trong đời.
Chúng ta được thanh tẩy bởi mọi chuyện xảy ra trong đời.
Chúng ta được thanh tẩy bởi những gian truân thử thách, vì dòng nước xoáy này rửa sạch chúng ta khỏi giả dối và vô dụng.
Chúng ta được thanh tẩy bởi những đau khổ, vì dòng nước âm u này giúp chúng ta khiêm tốn và biết cảm thông.
Chúng ta được thanh tẩy bởi niềm vui, vì dòng nước róc rách này cho ta cảm nghiệm sự tốt lành của cuộc sống.
Chúng ta được thanh tẩy bởi tình yêu, vì nhờ dòng nước líu lo này chúng ta sẽ tươi nở như cánh hoa dưới ánh mặt trời.
Bí tích Thanh Tẩy giống như trồng một cây non, nó sẽ tiếp tục lớn lên suốt trọn đời ta. (Flor McCarthy)
5. Chuyện minh họa
Bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi chết và được sống đời đời". Bà đáp: "Thật là tuyệt vời. Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài." Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu: "Sinh 1825. Sinh lại 1925."
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Đức Giêsu được Chúa Cha trao ban Thánh Thần và được chính thức tấn phong làm Đấng Cứu Thế để cứu chuộc nhân loại. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa Cha và tha thiết nguyện xin.
1- Hội Thánh có trách nhiệm thông truyền sự sống của Chúa / cho những người lãnh nhận bí tích thánh tẩy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh luôn làm tròn bổn phận của mình.
2- Chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho những anh chị em dự tòng / trước khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy / là một việc hết sức cần thiết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử biết luôn cố gắng thực hiện việc quan trọng này / đúng như Hội Thánh mong muốn.
3- Ở mọi nơi và mọi lúc đều có rất nhiều người xả thân rao giảng Tin Mừng / giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em ấy / luôn được bình an trong cuộc sống chứng nhân thường ngày.
4- Dù đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy / và đã sống đạo lâu năm / người tín hữu vẫn có bổn phận phải học hỏi / đào sâu thêm giáo lý của Chúa / để củng cố niềm tin còn non yếu của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn quan tâm đến việc học hỏi Lời Chúa và giáo lý của Người.
CT: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con trở nên con cái của Chúa qua bí tích Thánh Tẩy. Xin Chúa cho chúng con luôn cố gắng sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu của mình. Chúng con cầu xin…
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Qua bí tích Rửa tội, chúng ta được làm con Thiên Chúa như Chúa Giêsu. Vậy, cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
- Sau kinh Lạy Cha: "… xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin canh tân sức mạnh Bí Tích Rửa tội trong chúng con. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp…"
VII. Giải tán
Thánh lễ đã hết, anh chị em lại trở về cuộc sống bình thường. Anh chị em hãy cố gắng sống xứng đáng là con của Thiên Chúa.
LỜI CẦU NGUYỆN CHUNG: LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Kêu mời: Anh chị em thân mến,
Theo Thánh Ý Chúa, để khởi sự rao giảng Tin Mừng cứu độ, Chúa Giêsu đã gánh hết tội lỗi trần gian vào mình và nhận chìm nó trong nước phép rửa sám hối. Để khởi sự đời sống làm con Thiên Chúa, chúng ta đã được Chúa Giêsu tẩy sạch tội lỗi trong Bí tích Rửa tội. Hôm nay, ngày đầu tuần, chúng ta hãy cùng cầu nguyện cho chúng ta luôn chừa tội và thực thi Thánh Ý Chúa:
1. Hội Thánh nhận lãnh sứ mạng tiếp nối công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu, chúng ta cầu xin cho Hội Thánh dùng tình thương và tha thứ, mà rao giảng lòng sám hối, như điều kiện để đón nhận Tin Mừng cứu độ.
2. "Nhân vô thập toàn", loài người luôn bất xứng trước Nhan thánh Chúa; chúng ta cầu nguyện cho tất cả mọi người, và mỗi người biết ý thức thân phận yếu hèn của mình, mà luôn tỏ lòng sám hối bằng việc chừa tội và ra sức làm nhiều việc lành.
3. Có những người đang sống trong tình trạng tội lỗi, đang rối hôn phối, có những người đang tìm đường giải thoát khỏi tội; chúng ta cầu nguyện cho những người này, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, nghe lời Chúa Cha giới thiệu, sớm gặp Chúa Giêsu để sống trong công chính
4. Tiếng nói từ trời: "Đây là Con yêu dấu của Ta". Đó là tiếng Chúa Cha nói về Chúa Giêsu, cho chúng ta noi theo Ngài, để cũng được trở nên con Thiên Chúa. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo biết sửa đổi đời sống mình, sao cho phù hợp với tước vị làm con Chúa.
Kết thúc: Lạy Chúa là Đấng chúng con tôn thờ, Chúa đã ban Con Chúa giáng trần để gánh tội trần gian, xin cho chúng con sám hối tội lỗi mình, quyết tâm sống theo Thánh Ý Chúa, và giúp nhau sống đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin nhờ công nghiệp Chúa Kitô, là Chúa chúng con. Amen.
Hôm nay Chúa nhật I thường niên, Giáo Hội mừng Lễ Chúa Giê-su Chịu Phép Rửa. Sau 30: TN 1-A26
Hôm nay Chúa nhật I thường niên, Giáo Hội mừng Lễ Chúa Giê-su Chịu Phép Rửa. Sau 30 năm sống âm thầm ẩn dật ở Na-da-rét Chúa Giê-su bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai về Nước Thiên Chúa. Người đến chịu phép rửa ở sông Gio-đan. Đây là sự hạ mình sâu thẳm của Đấng Thánh và là một cuộc gặp gỡ lịch sử Cưụ Ước – Tân Ước. Biến cố không chỉ loan báo trước cuộc khổ nạn của Đức Giê-su mà còn loan báo về sự Phục Sinh vinh quang của Người.
Khiêm hạ thẳm sâu
Nếu đem so sánh với sông Cửu Long mênh mang thuyền qua lại thì dòng nước Gio-đan nơi Gio-an làm phép rửa cho Đức Giê-su có thể gọi là con kênh nhỏ. Nếu đặt bên cạnh sông Hồng cuồn cuộn xiết chảy thì dòng Gio-đan chỉ là con lạch. Nếu đứng kề bên sông Hương thơ mộng lững lờ trôi thì Gio-đan chỉ là con suối nhỏ. Đứng bên bờ này sông Gio-đan ném hòn đá qua bờ kia, nó có thể đi xa hơn.
Thế mà Đức Giê-su đã chọn dòng nước bé nhỏ này, không phải như Mô-sê hay Giô-sua giơ tay cho dòng nước rẽ đôi, nhưng để dìm mình xuống dòng nước nhỏ cùng với đoàn chịu phép rửa của Gio-an Tẩy Giả.
Thiên Chúa, Đấng cho Cửu Long Giang tuôn chảy tưới mát đồng bằng miền Nam; Đấng cho sông Hồng tuôn nước lũ bồi đắp phù sa cho đồng bằng miền Bắc; Đấng cho Hương Giang lững lờ lãng mạng gợi hồn thơ đã chọn dìm mình vào dòng nước Gio-đan bé nhỏ.
Trong các dòng sông nổi tiếng khắp thế giới thì dòng sông Gio-đan bé nhỏ ấy là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Ki-tô hữu chúng ta. Chính tại đây Đức Giê-su đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cách đón nhận phép rửa bởi Gio-an Tẩy Giả.
Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” ( Mc 1, 5 ) và chịu “phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” ( Mc 1, 4 ) lại có Đức Giê-su. Ngài là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gio-an làm phép rửa sám hối ? Ngài là Đấng mà Gio-an “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy ?
Trong Đêm Giáng Sinh chúng ta đã chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người, sinh ra nơi hang đá máng cỏ, làm một người nghèo hèn bé nhỏ, dường như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Hôm nay, Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận cùng xã hội nhân loại khi đến xin Gio-an làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi. Và đã xuống bậc tận cùng khi Chúa hạ mình thẳm sâu chấp nhận chết trên thập giá vì yêu nhân loại.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm hạ thẳm sâu đó của con Thiên Chúa làm người !
2. Cuộc gặp gỡ lịch sử
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và Gio-an là lúc Tân – Cựu Ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giê-su và Gio-an là đại biểu. Gio-an, ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Ki-tô, vị Ngôn Sứ của thời kỳ mới.
Cuộc gặp gỡ này không phải là một cuộc tranh cãi dành ưu thế, nhưng thật thú vị tuyệt vời khi cả hai đại biểu đều khiêm nhường đón nhận nhau trong sứ vụ. Đức Giê-su từ tốn bước xuống dòng nước Gio-đan và xin Gio-an làm phép rửa cho mình.Gio-an hân hạnh xin Đức Giê-su rửa cho mình vì ông nhìn thấy đây mới chính là nhân vật ban phép rửa trong Thánh Thần như ông đã loan báo.
Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này, Thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mở ra, Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Con là Con Ta yêu dấu”. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao.Từ nay Đức Giê-su sẽ lên đường vào sứ vụ mới với niềm hy vọng mọi sự sẽ tốt đẹp theo thánh ý Chúa Cha.
Cuộc gặp gỡ giữa hai Đấng tại sông Gio-đan đã làm nên lịch sử và đã được Giáo Hội chọn làm khởi điểm cho Mùa Thường Niên là mùa Phụng Vụ cử hành các mầu nhiệm cuộc đời rao giảng Tin Mừng của Chúa Giê-su.
Biến cố này không chỉ là cuộc bàn giao cũ mới mà còn là điểm giao duyên giữa trời và đất, giữa Thần khí và nước, giữa Tân Ước và Cựu Ước.Từ nay nhân loại được tái sinh trong đời sống mới. Qua Bí Tích Rửa Tội của Chúa Giê-su, chúng ta nhận đước ấn tín của Chúa Thánh Thần, trở nên con cái Thiên Chúa.
3. Hãy nhớ mình đã đuợc Thanh Tẩy
Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gio-an là một sự hạ mình sâu thẳm, một sự khiêm nhường cao cả đã làm cho cửa trời mở ra, ân sủng tuôn đổ, Ơn Cứu Độ được trao ban và lan truyền. Mỗi người Ki-tô hữu qua Bí Tích Thánh Tẩy, được thần linh ngự xuống, được nghe tiếng Chúa Cha vang dội: “Này là con yêu dấu của Ta,Ta đặt trọn vẹn yêu thương trên con”. Tâm hồn mỗi người trở nên Đền Thờ Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ước mong mỗi tín hữu chúng ta luôn nhớ mình đã được xức dầu, được mặc áo trắng tinh tuyền, được trao nến sáng Phục Sinh, được thanh tẩy trong nước và Thánh Thần để sống xứng đáng mỗi ngày với ân huệ đã lãnh nhận.
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay kể lại sự kiện Đức Giê-su đến với Gio-an Tiền Hô cũng được: TN 1-A27
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay kể lại sự kiện Đức Giê-su đến với Gio-an Tiền Hô cũng được gọi là Gio-an Tẩy Giả, để xin ông làm phép rửa cho Người. Ngay sau sự kiện này xảy ra một sự kiện cực kỳ quan trọng khác: Thiên Chúa Cha xác định Đức Giê-su Na-da-rét là Con yêu dấu của Người.
Trong đoạn này, chúng ta khám phá ra Đức Giê-su là Ai ? Trước hết chúng ta nhận ra Đức Giê-su là người luôn tìm kiếm và thực thi Thánh Ý và Đường Lối của Thiên Chúa Cha, nhất là trong những gì liên quan đến vai trò, chức năng và cung cách sống của chính bản thân mình. Bằng chứng:
Chính Người tìm đến với Gio-an Tẩy Giả. Chính Người xin Gio-an làm phép rửa cho mình ( thường thì bằng cách dìm người xuống dòng sông Gio-đan ). Tuy biết rằng mình không cần đến phép rửa của Gio-an ( vì không cần phải sám hối do Người chẳng có tội gì ), Đức Giê-su vẫn tự nguyện xin Gio-an làm phép rửa cho mình vì Chúa Cha đã muốn như vậy: “Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” ( câu 15 ).
Kế đến chúng ta khám phá ra Đức Giê-su là người khiêm nhu, tự hạ và hòa nhập vào hàng ngũ các tội nhân đi tìm ơn tha thứ và cứu độ nơi vị ngôn sứ của Thiên Chúa là Gio-an Tẩy Gỉa. Đức Giê-su quả là Em-ma-nu-en ( Thiên Chúa ở cùng chúng ta ), là Đấng Thiên Chúa đến trần gian để chia sẻ thân phận ( tội lỗi ) của con người. Nói cách khác Thiên Chúa làm người để liên đới với con người, với mọi người, nhất là với những người bị khinh khi, miệt thị và loại trừ trong xã hội loài người.
Sau cùng chúng ta khám phá ra Đức Giê-su là Đấng tràn đầy Thần Khí của Thiên Chúa,là Con yêu dấu, Con tuyệt hảo của Thiên Chúa Cha, hoàn toàn làm hài lòng Chúa Cha: “Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ Trời phán ra: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” ( câu 17 ).
Từ 3 khám phá trên, chúng ta có thể khẳng định rằng: Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta 3 điều sau đây:
Tìm kiếm Thánh Ý và Đường lối của Thiên Chúa trong cuộc sống.
Sống khiêm nhu, tự hạ và hòa nhập với đồng loại.
Đón nhận Đức Giê-su và học cùng Người để sống đẹp lòng Thiên Chúa là Cha.
Chúng ta hãy chiêm ngắm Chúa Giê-su Ki-tô: Dành một khoảng thời gian để chiêm ngắm Chúa Giê-su Ki-tô với tâm tình yêu mến, trọng kính và ngưỡng mộ.
Chúng ta hãy đón nhận Chúa Giê-su Ki-tô là Con Yêu Dấu của Cha, để tôn vinh Người làm CHỦ tâm hồn, thân xác và cuộc đời của chúng ta. Nói theo cách của Phong Trào Thánh Linh Đặc Sủng là hãy ”giao chìa khóa căn nhà của chúng ta cho Chúa” ( tức giao tâm trí, tư tưởng, ước mơ, kế hoạch, lời nói và việc làm ) để Người hành động theo Ý của Người. Học cùng Chúa Giê-su Ki-tô để thực thi giáo huấn của Lời Chúa hôm nay mà sống đẹp lòng Thiên Chúa Cha:
Tìm kiếm Thánh Ý và Đường lối của Thiên Chúa trong cuộc sống: Thường thì chúng ta ít quan tâm đến việc tìm kiếm này, vì một mặt chúng ta không nhận thức được tầm quan trọng của việc ấy, mặt khác chúng ta bị bao nhiêu thứ khác lôi kéo, cuốn hút như tiền bạc và sự giàu sang, địa vị xã hội và danh vọng, lạc thú và đời sống tiện nghi dễ dãi. Cũng có thể là chúng ta thiếu kiên nhẫn nên không tìm ra Thánh Ý và Đường Lối của Thiên Chúa. Cũng có thể chúng ta không biết cách nên không nhận ra Thánh Ý và Đường Lối của Thiên Chúa. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, và Người hiện diện cách đặc biệt trong Bí Tích Thánh Thể, trong Sách Thánh, trong Cộng Đoàn Hội Thánh, trong mọi người nhất là trong người nghèo, trong các biến cố đời thường nhất là trong các biến cố liên quan tới chúng ta.
Vậy tìm kiếm Thiên Chúa thì phải đến những nơi Thiên Chúa hiện diện ấy mà tìm. Và phải để cho tâm hồn và tai mắt mình thanh thản, tự do, rộng mở thì mới nghe / nhìn thấy và nhận ra tiếng của Thiên Chúa. Còn cần phải có ơn soi sáng hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa nữa thì chúng ta mới nhận ra đâu là Thánh Ý và Đường Lối của Thiên Chúa. Vậy hãy mau mắn và kiên trì làm như vậy đi.
Sống khiêm nhu, tự hạ và hòa nhập với đồng loại: Thường thì chúng ta thích sống tự cao tự đại, khoe khoang, hợm mình và tách biệt ra khỏi những người khác. Chúng ta lầm tưởng lớn mà cho rằng chức vụ ( nhất là chức Thánh ), tuổi tác, địa vị của chúng ta đòi hay cho phép chúng ta sống và cư xử như thế. Nhưng thật ra khi hành xử như vậy, chúng ta mới chỉ giống người và cung cách thế gian chứ không hề giống Chúa Giê-su Ki-tô một tý nào. Chúa Giê-su Ki-tô chẳng những đã hòa mình vào dòng người sám hối bên bờ sông Gio-đan mà còn dám “đánh bạn” với những người thu thuế và phường đĩ điếm là hạng tội lỗi của xã hội Do Thái thời của Người. Vậy tại sao chúng ta sống biệt lập, xa cách và khinh miệt người chung quanh ?
Lạy Thiên Chúa Cha, Người là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con. Chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Cha vì Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con, và vì Cha đã cho chúng con được làm con của Cha, được gọi Cha bằng tiếng Cha ơi ( Abba ) !
Lạy Chúa Giê-su là Con Yêu Dấu của Chúa Cha, chúng con yêu mến, kính phục và ngưỡng mộ Chúa. Chúa là người Con tuyệt hảo của Chúa Cha, vì đối với Chúa chỉ có Chúa Cha và những gì liên quan tới Chúa Cha mới là điều quan trọng. Xin Chúa dạy chúng con biết sống giống như Chúa đã sống, để chúng con cũng trở thành những người con hiếu thảo của Chúa Cha, sống đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng, trong tư tưởng lời nói và hành động của chúng con.
Lạy Thần Khí Thiên Chúa, Đấng đã ngự trên Đức Giê-su và hướng dẫn Người trong khi Người thi hành sứ mạng Loan Báo Tin Mừng Cứu Độ cho nhân loại, xin Chúa Thánh Thần cũng ngự trị trên chúng con, biến đổi chúng con thành công cụ của Công Cuộc Truyền Giáo trên quê hương yêu dấu của chúng con và trên toàn thế giới hôm nay. Amen.
PHÉP RỬA CỦA CHÚA GIÊSU, CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN CUỘC CÁCH MẠNG GIÁO HỘI: CHỊU THANH TẨY NHƯ CHÚA KITÔ - Aloysius Pieris SJ - Trần Duy Nhiên dịch
Schillebeekx lưu ý rằng hành động ngôn sứ đầu tiên của Đức Giê-su là nhận phép rửa từ tay Gioan: TN 1-A28
Schillebeekx lưu ý rằng hành động ngôn sứ đầu tiên của Đức Giê-su là nhận phép rửa từ tay Gioan. Hành động này đã gây bối rối lâu dài cho thế hệ Kitô hữu đầu tiên: họ bối rối vì Đức Giê-su, Đấng mà những kẻ theo Người tôn thờ là Chúa và là Đấng Kitô, lại nghĩ rằng mình nên khởi đầu sứ mạng Messia bằng cách trở nên người môn đệ của Gioan Tẩy Giả. Hệ quả Giáo hội học của biến cố này chưa được đánh giá đúng mức trong Giáo hội hiện nay. Do đó tôi mong rút ra ít nhất là bốn nguyên tắc hướng dẫn sứ mạng của Giáo hội địa phương ở Á châu.
Thứ nhất, tôi nhận thấy rằng Đức Giê-su đứng trước nhiều dòng tôn giáo cổ truyền khi Người đáp lại tiếng gọi ngôn sứ nơi Người. Không phải loại tôn giáo nào cũng lôi cuốn Người đâu. Qua phản ứng của Người, ta kết luận rằng ý thức hệ hẹp hòi của phong trào Zêlốt không hấp dẫn Người. Đường lối gò bó khép kín của phái Essen cũng không mảy may tác động trên Người. Người phê phán không úp mở nếp sống tự mãn của những người biệt phái. Nhưng mâu thuẫn giữa Người và phái Sađuxê chứng tỏ rằng Người khó mà đồng tình với lối hành đạo mang tính chất thượng lưu của một ‘giai cấp nhàn rỗi.’Trên hết, Đức Giê-su khám phá linh đạo chân chính và điểm khởi hành thích hợp cho sứ mang ngôn sứ của mình nơi truyền thống (sát với Thứ luật), là đường lối khổ hạnh ngôn sứ mà Gioan Tẩy giả là người đại diện. Qua việc chọn lựa hình thức tôn giáo mang mầm giải phóng này và loại trừ những hình thức khác mang tính nô dịch. Người chọn một hình thức cởi mở mà những Kitô hữu chúng ta ở châu Á luôn được mời gọi thực thi, bởi vì chúng ta luôn phải đối diện với dòng ý thức hệ và tôn giáo đa dạng.
Thứ hai, qua biến cố này ta cảm thấy ngay tác động hỗ tương giữa linh đạo của bản thân Gioan và linh đạo của những người theo ông. Gioan Tẩy giả đại diện cho linh đạo ‘xuất thế’ một cách cực đoan. Ta biết rằng ông sống ‘với thiên nhiên’ hơn là ‘trong xã hội’. Thức ăn và y phục của ông – những thứ ông nhặt nơi hoang địa – là biểu tượng cho tinh thần khổ hạnh đóng kín. Nhưng Tẩy giả đã không áp đặt điều đó lên người chịu thanh tẩy. Những người này là những người thấp cổ bé miệng, những ‘người nghèo’ ở ngoài lề xã hội, những người bị lăng nhục nhưng lại là những kẻ có tội biết ăn năn, những anawim (kẻ bé mọn). Lời rao giảng và nếp sống của Gioan đánh động họ nên họ sẵn sàng đón nhận Tin mừng về sự giải phóng sắp đến: như thế, người nghèo cũng có ‘một linh đạo’ của riêng mình.
Do đó, chính tại sông Giođan này là nơi hội tụ của hai dòng linh đạo, khi Đức Giê-su đứng trước Tẩy giả và những người được thanh tẩy. Chính bản thân Đức Giê-su cũng sắp sửa đi vào kinh nghiệm hoang địa của lối sống khổ hạnh khép kín, và Người đã đến với Gioan, không phải để thanh tẩy người khác, mà để được thanh tẩy: như thế, Người đã tự đồng hoá với ‘người nghèo theo bình diện tôn giáo’, những người sống ngoài lề xã hội.
Hệ quả Giáo hội học của biến cố ‘Kitô học’ này thật là rõ ràng: các Giáo hội địa phương ở châu Á có sứ mạng trở nên giao điểm giữa linh đạo siêu vũ trụ của các tôn giáo tu hành và tôn giáo vũ trụ của quần chúng nông dân để trở nên nơi hội tụ của các lực lượng giải phóng của cả hai truyền thống, đồng thời loại trừ tinh thần vua chúa của giai cấp nhàn rỗi của các tôn giáo siêu vũ trụ và tinh thần dị đoan trong tôn giáo vũ trụ. Đây là phương pháp thi hành sứ mạng Tin mừng mà ta học được nơi Đức Kitô.
Nguyên tắc thứ ba, tôi mong đưa ra đây ý kiến giải thích vấn đề Giáo hội mất uy tín là nguyên nhân của sự khủng hoảng trong việc loan báo Tin mừng hiện nay.
Hành động ngôn sứ đầu tiên của Đức Giê-su – cũng như mọi lời nói việc làm ngôn sứ khác – là một hành động ‘tái xác định tính trung thực’ của mình. Ngôn sứ nói và hành động nhân danh Thiên Chúa và nhờ uy quyền của Người. Nếu cần phải có một biến cố chứng minh uy quyền đó, thì ngôn sứ ấy sẽ không là ngôn sứ. Đức Giê-su đã khiêm nhu đặt mình dưới phép rửa của Gioan, hành động đó làm cho các Kitô hữu tiên khởi bối rối nhưng đồng thời cũng cho họ thấy uy tín của Người trước mặt mọi người, uy tín để rao giảng một triều đại giải phóng của Thiên Chúa sắp khai hoa trên những kẻ bé mọn khiêm nhường (anawim). Chính nhờ hành động khiêm nhường này mà Thiên Chúa xác nhận trước mặt người nghèo rằng Người đáng tin tưởng: ‘hãy nghe lời Người’, giây phút này là giây phút ngôn sứ vì đó là lúc mà Người vừa ý thức về sứ mạng Messia của mình lẫn sự bảo chứng về tính khả tín của sứ mạng Người trước mặt quần chúng. Ước gì Giáo hội địa phương ở châu Á cũng khiêm nhường như vị hôn phu và Chúa của mình. Ước gì Kitô hữu chúng ta tìm cách được thanh tẩy hơn là đi thanh tẩy kẻ khác.
Còn ‘lý thuyết về sự hoàn thành viên mãn’ của các tổ phụ trong Giáo hội, cái lý thuyết giờ đây được Vaticanô II làm sống lại (mà tôi đã nhiều lần phê phán) là xếp các tôn giáo khác vào loại linh đạo ‘tiền Kitô giáo’ và cần phải được ‘hoàn thành viên mãn’ qua nỗ lực truyền giáo của Giáo hội. Dựa theo thuyết này, một vài chuyên gia truyền giáo (phương Tây) nói đến sự cần thiềt phải ‘thanh tẩy’ những tôn giáo và văn hoá ‘tiền Kitô giáo’ hơn là nói đến mệnh lệnh ngôn sứ buộc ta phải trầm mình trong dòng nước thanh tẩy của các tôn giáo châu Á, là những tôn giáo đã được khai sinh trước Kitô giáo. Thực ra, Giáo hội địa phương ở châu Á cầu được ‘nhập môn’ vào các truyền thống tiền Kitô giáo dưới sự hướng dẫn của các guru (thầy). Nếu không, Giáo hội sẽ tiếp tục là một thế giới phẩm trật đầy tràn ‘uy lực’ nhưng thiếu hẳn ‘uy tín’. Chỉ khi nào Giáo hội trầm mình trong dòng sông Giođan của tinh thần tôn giáo châu Á thì lúc đó mới được nhìn nhận là một tiếng nói đáng được mọi người lắng nghe: ‘hãy nghe lời Người’.
Khủng hoảng truyền giáo chỉ được giải quyết khi nào Giáo hội chịu thanh tẩy trong truyền thống giải phóng lưỡng diện của các bậc chân tu và của nông dân châu Á. Giống như Thầy mình, Giáo hội hãy ngồi dưới chân các bậc guru châu Á, không phải với tư cách là một ecclesia docens (Giáo hội dạy dỗ) mà là một ecclesia discens (Giáo hội học hỏi), mất hút giữa những ‘người nghèo theo bình diện tôn giáo’ ở châu Á, giữa những anawim đi đến với các guru để tìm kiếm vương quốc thánh thiện, công chính và đấy chỉ là những khởi xướng biểu trưng. Chỉ có cách là Giáo hội định chế phải tự phóng mình xuống dòng sông: nếu không, Giáo hội khó có hy vọng trở thành một lời mạc khải mà người châu Á đọc ra như dấu chỉ cứu độ khả tín.
Nguyên tắc thứ tư, sẽ là một giải đáp cho ‘vấn đề chân tính’ mà nguyên tắc thứ ba đã gợi lên. Cả phương Tây lẫn các Giáo hội địa phương (thuộc phương Tây) ở châu Á sợ rằng điều nêu trên sẽ là một đe doạ trầm trọng cho chân tính của mình, của người Kitô hữu trong cộng đoàn tín hữu. Nếu nhìn kỹ, ta sẽ thấy rằng lý do của sự sợ hãi đó là phải chọn một quan điểm chính đỉnh khi thấy rõ quá khứ (với những sai lầm) mà chưa thấy tương lai (một Giáo hội đậm chất Á châu) phải được xây dựng ra sao.
Trước kia, theo mẫu của quá khứ, chất Tây phương được kết liền với chất Kitô giáo. Vì thế trong Giáo hội tương lai người ta muốn rằng tính chất Á Đông phải được gắn liền với ‘chất Kitô giáo’. Thực chất Kitô giáo chưa bao giờ tự nó là ‘trung lập’ có thể lọc bỏ những yếu tố Tây phương và thêm vào các yếu tố Á châu. Tính chất đó phải xuất từ chính bản chất của Giáo hội địa phương, nghĩa là cùng một lúc vừa mang tính chất Giáo hội vừa mang tính chất điạ phương.
Về điểm này, cũng như mọi điểm khác, Giáo hội cần trở về nguồn: trở về với Đức Giê-su Kitô, Đấng đã dạy chúng ta nguyên tắc đánh mất bản thân để tìm lại bản thân. Điển hình rõ nhất là việc Người chịu thanh tẩy trong sống Giođan. Đấy chính là nguyên tắc thứ tư để thi hành sứ mạng, Người đã đánh mất chân tính của mình giữa những kẻ bé mọn nhưng là kẻ tội lỗi biết ăn năn và giữa những ‘người nghèo trên bình diện tôn giáo’ nơi đất nước Người. Vì thế nà Người đã phục hồi cho chính mình và cho những người quanh chân tính đó: Người là con Thiên Chúa đến giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi. Người là ‘Con rất yêu dấu’ ta cần phải lắng nghe, Người là Messia mới, đem đến một sứ điệp mới và một phép rửa mới.
Linh đạo của Gioan theo đúng truyền thống nhưng vẫn còn tiêu cực; linh đạo của Đức Giê-su tích cực và hoàn toàn mới. Gioan chúc dữ những người tự mãn trong việc hành đạo và các nhà lãnh đạo chính trị. Đức Giê-su đã thêm vào lời chúc phúc và niềm hy vọng cho người nghèo bên lề xã hội và người có tội bị lăng nhục. Gioan Tẩy giả tuyên bố tin dữ về một cuộc tuyên án sắp đến, nhưng Đức Giê-su, người đã được ông thanh tẩy, loan tin lành về một cuộc giải phóng nay mai: Người Con Chí Ái muốn ban phép Rửa qua thập giá của bản thân mình hầu thế giới được hoán cải. Gioan cho rằng cần trở nên thành viên của một cộng đoàn tuyển chọn thì sẽ được cứu rỗi và ông đòi phải có sự hoán cải cá nhân. Đức Giê-su thì biến đổi những người được hoán cải đó thành một cộng đoàn yêu thương.
Vâng, có một sự thay đổi tận gốc trong nếp sống mà Đức Giê-su chọn lựa so với nếp sống của Gioan Tẩy giả: Gioan đến không ăn không uống, Con Người đến dự tiệc cùng với người tội lỗi. Sau khi đã trầm mình trong dòng linh đạo xưa, Người đã đứng lên với sứ mạng mới của riêng mình: một cuộc thanh tẩy mới sẽ đem lại cho chúng ta thực chất Kitô giáo và tính chất mởi mẻ của Kitô giáo mà ta tìm kiếm ở châu Á. Chẳng phải vì sợ mất chân tính của mình mà Giáo hội địa phương không khám phá ra thực chất của chính mình sao? Chẳng phải vì sợ chết mà Giáo hội không sống sao? Tính chất mới mẻ của Kitô giáo châu Á chỉ lộ diện như kết quả của sự dấn thân trọn vẹn của chúng ta vào cuộc sống và khát vọng của những người nghèo, những anawim ở Á châu.
Đức Giêsu đại diện nhân loại tội lỗi tỏ lòng sám hối trước Thiên Chúa qua phép rửa của Gioan TN 1-A29
1. Đức Giêsu đại diện nhân loại tội lỗi tỏ lòng sám hối trước Thiên Chúa qua phép rửa của Gioan
Theo niềm tin Kitô giáo, Đức Giêsu là Thiên Chúa xuống làm người để cứu chuộc nhân loại, Ngài hoàn toàn vô tội, nghĩa là không vướng phải một khuyết điểm hay một tội lỗi nào, dù là nhỏ nhất. Ngài trong sạch hoàn toàn, và tuy có bị cám dỗ, Ngài không bao giờ sa ngã hay để ma quỉ chiến thắng. Thế mà Đức Giêsu lại chịu phép rửa bởi ông Gioan, người tiền hô cho Ngài. Theo sự thường, đúng ra Ngài không nên chịu phép rửa, vì phép rửa là một dấu hiệu sám hối, chỉ dành cho những kẻ có tội. Có tội lỗi thì mới cần sám hối, có dơ bẩn thì mới cần tẩy rửa, còn «ai đã sạch rồi, thì không cần phải rửa» (Ga 13,10).
Nhưng ở đây, việc rửa tội của Đức Giêsu mang một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Cá nhân Ngài tuy hoàn toàn vô tội, nhưng Ngài mang một sứ mạng đặc biệt là gánh tội trần gian, và chịu chết để đền tội cho trần gian trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, Ngài đã trở thành «hiện thân của tội lỗi, như thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta» (2Cr 5,21). Chính trong chiều hướng ấy, việc rửa tội của Ngài mới có ý nghĩa. Nếu không, việc ấy thật là phi lý. Nếu Ngài chịu chết để đền tội thay cho cả loài người chứ không phải cho Ngài, thì cũng vậy, Ngài tỏ lòng sám hối và rửa tội là sám hối và rửa tội thay cho cả nhân loại chứ không phải là cho bản thân Ngài. Vì thế, Thiên Chúa đã tỏ ra hài lòng về hành động khiêm nhượng ấy của Ngài, nên ngay sau đó đã phán về Ngài: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người».
Hai điều tối quan trọng để được Thiên Chúa tha tội là sám hối và đền tội. Thiếu một trong hai thì tội không thể tha được. Vì đại diện cho cả một nhân loại tội lỗi, Ngài đã tự coi mình là tội lỗi, nên Ngài thấy cần phải biểu lộ sự sám hối qua nghi thức rửa tội của Gioan. Ngài cũng đại diện cho cả nhân loại khi đền tội cho họ bằng cái chết thảm thương trên thập giá vào trưa thứ sáu trước lễ Vượt Qua năm Ngài 33 tuổi. Như vậy giữa việc Ngài được Gioan rửa tội bên dòng sông Giôđan và việc Ngài chết trên thập giá trên đồi Canvê có một tương quan sâu sắc và đầy ý nghĩa.
2. Bài học từ biến cố chịu phép rửa của Ngài.
Ngài là người hoàn toàn vô tội: «Nơi Người không có tội lỗi» (1Ga 3,5). Thế mà vì yêu thương nhân loại, Ngài đã sẵn sàng nhận hết tội lỗi của cả nhân loại về cho mình. Điều đó chẳng làm cho chúng ta suy nghĩ và rút ra một bài học sao?
Chúng ta ai nấy đều có tội không nhiều thì ít, thế mà rất nhiều khi ta lại không muốn nhìn nhận mình là kẻ có tội. Ta tìm đủ cách để người khác nghĩ về ta tốt hơn thực trạng hay bản chất của ta. Nhiều khi ta còn giả hình để người khác lầm tưởng rằng ta rất tốt, ta vô tội. Nếu có ai nói xấu ta, thậm chí rất đúng, ta cũng tỏ ra bực bội hay thù ghét người ấy. Ta không muốn nhìn nhận thực trạng xấu xa của mình. Trong những cuộc tranh luận, nhiều khi ta thấy mình sai trái, đuối lý, nhưng ta không có can đảm nhận phần sai trái về phía mình, mà cứ cãi chầy cãi cối để khỏi phải nhận lỗi, thậm chí còn kết án ngược lại cho người khác. Như thế, ta đã tự chứng tỏ mình thiếu thành thực và không ngay thẳng.
Khi một người khác bực bội, tức giận vì một thiệt hại nào đó mà họ nghĩ là do ta gây ra, lúc đó ta thường xử sự thế nào? Nếu ta có lỗi thật sự, ta có dám nhìn nhận mình có lỗi để người kia nguôi cơn giận không? Thiết tưởng nhận lỗi mình lúc đấy là một bổn phận của đức công bằng. Nếu không nhận lỗi, ta còn làm cho sự bất công ấy nặng thêm, vì làm cho người kia tức giận hơn nữa, tức làm khổ họ, và có thể gây hại cho họ về tâm lý hoặc thể lý. Việc can đảm nhận lỗi trong những trường hợp như thế không bao giờ làm giảm giá trị con người ta, mà còn khiến người khác thêm kính phục ta. Trái lại, có lỗi mà không chịu nhận mới đáng hổ thẹn và đáng khinh bỉ.
Nếu ta hoàn toàn không có lỗi, nhưng vì người kia hiểu lầm, nên trong cơn tức giận, họ nhất quyết đổ lỗi cho ta, thì ta xử sự thế nào? Ta có thể trước hết giải tỏa cơn giận cho họ đã, chẳng hạn bằng cách tạm thời nhận lỗi về phía mình, rồi chờ khi họ bớt giận, nghĩa là có đủ sáng suốt và khách quan, thì cho họ thấy rõ ai phải ai trái. Đó là một hành động khôn ngoan và bác ái, vì trong cơn tức giận vì bị thiệt hại quá mức, theo tâm lý thường tình, người ta có nhu cầu tâm lý là phải trút cơn giận đó lên người khác để cơn giận được thỏa mãn. Lúc đó, họ không đủ sáng suốt để nhận ra lỗi của mình, vì giận chính là tình trạng điên khùng hay mất trí trong giây lát. Những lúc đó họ chỉ biết đổ lỗi lên đầu người khác cho hả giận. Khi có người nhận lỗi, cơn giận của họ giảm đi ngay như lửa bị tạt nước vào. Biện minh cho việc mình vô tội lúc ấy thường giống như đổ thêm dầu vào lửa, chỉ làm cơn giận của họ bùng lên mạnh mẽ hơn, không làm cho họ nhận ra lỗi của họ, và cũng chẳng giải quyết được gì. Kinh nghiệm cho tôi thấy: thường sau khi họ được thỏa mãn cơn giận, tâm trí họ sáng suốt hơn, và họ dễ dàng nhận ra lỗi của họ. Thói đời là ta càng đổ lỗi cho người khác, thì họ càng có khuynh hướng chữa lỗi và tìm cách đổ lỗi lại cho ta. Còn nếu ta khiêm nhượng nhận lỗi về phía mình, thì người kia tự nhiên có khuynh hướng tự xét mình, nhờ đó dễ dàng nhận ra sai trái của họ. Và sau đó họ thường nể phục tư cách và lối xử sự của ta.
Trong mọi trường hợp, hãy bắt chước Đức Giêsu, dù hoàn toàn vô tội, vẫn sẵn sàng mặc lấy thân phận kẻ tội lỗi và chịu đối xử như kẻ có tội.
3. Dám nhận trách nhiệm về phía mình- dấu chứng của người lãnh đạo trưởng thành.
Trong các tập thể – như gia đình, xã hội, Giáo Hội – ta thường thấy những chuyện như: khi có chuyện thành công hay tốt đẹp xảy ra, người lãnh đạo thường nhận ra công của mình trong đó, và sẵn sàng đón nhận những lời tán tụng, tri ân, và những lợi lộc từ sự thành công ấy. Nhưng khi thất bại hoặc có sự cố đáng tiếc xảy ra, cấp lãnh đạo thường tìm cách đổ lỗi hoặc qui trách nhiệm cho cấp dưới, hoặc cho hoàn cảnh, còn mình thì «lấy nước rửa tay» kiểu Philatô: «Ta vô can trong vụ … này» (Mt 27,24). Và sau đó thì cấp dưới lãnh đủ những thiệt hại do sự cố đáng tiếc ấy: bị la rầy, bị phạt, mất uy tín, phải bồi thường, tù tội, v.v… Còn người lãnh đạo thì hoàn toàn vô sự, mặc dù trong thực tế sự đáng tiếc ấy chủ yếu hoặc phần nào là do sự lãnh đạo thiếu sáng suốt của mình.
Phải chăng Kinh Cáo Mình với câu «lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng» chỉ được đọc duy nhất ở trong thánh lễ và những buổi đọc kinh, chứ rất ít khi được «đọc» (=thể hiện) trong đời sống thường nhật. Đạo của chúng ta phải chăng chỉ được thực hành ở trong chứ không phải ở ngoài nhà thờ, đang khi 99% thì giờ của chúng ta lại là ở ngoài nhà thờ! Theo tinh thần Kinh Cáo Mình, ta cần nhạy bén trong việc nhận ra phần lỗi – trực tiếp hay gián tiếp – của mình trong mọi điều xấu xảy ra nơi gia đình, đoàn thể, ngoài xã hội hay trong Giáo Hội của ta. Có những việc hết sức đáng tiếc xảy ra mà ta tưởng chừng mình vô can, nhưng xét cho kỹ rất có thể ta có lỗi vì đã tỏ ra thờ ơ, không can thiệp theo lương tâm khiến cho những việc ấy xảy ra.
Không dám nhận trách nhiệm về phía mình dù là cấp lãnh đạo hay cấp dưới đều là dấu chứng của sự thiếu trưởng thành về mặt tâm linh và xã hội hay Giáo Hội. Thiết tưởng chúng ta nên suy niệm hành động của Đức Giêsu để chỉnh sửa lại cách hành xử sai trái ấy. Ngài vô tội hoàn toàn, nhưng lại sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm của cả nhân loại về phía mình. Ngài đã hành xử như một kẻ có tội cần phải sám hối, phải xin lỗi trước mặt Thiên Chúa bằng nghi thức rửa tội. Không chỉ như thế, Ngài còn sẵn sàng đền bù với giá cao nhất là mạng sống của Ngài những tội lỗi mà Ngài đã tự qui về cho mình thay cho cả nhân loại. Hành động của Ngài thật hết sức anh hùng và dũng cảm.
Đức Kitô thì hành động như thế, chẳng lẽ các Kitô hữu, những kẻ theo Đức Kitô, những môn đệ của Ngài, những «Kitô khác» lại hành động khác với Đức Kitô sao? Nếu không giống Ngài 100% thì ít ra cũng phải được 50%, hay ít nhất cũng phải 40 hay 30%! Nếu không thì sao ta lại dám tự nhận mình theo Ngài? là môn đệ Ngài? Ta theo Ngài ở chỗ nào? là môn đệ Ngài ở chỗ nào? Cần xét lại xem: coi chừng kẻo ta chính là môn đệ của Philatô mà lại cứ lầm tưởng và tự xưng là môn đệ của Ngài!
Hôm nay với cử hành phụng vụ lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, toàn thể dân Công Giáo khai mạc một giai đoạn mới trong Năm Phụng Vụ. Chu Kỳ Phụng Vụ Mùa Thường Niên. Chọn lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa để khai mạc thời gian phụng vụ nầy, Hội Thánh muốn gọi mời tất cả Dân Chúa dấn thân sâu xa hơn vào mầu nhiệm Chúa Kitô, vào sự hiện hiện diện của Ngài giữa lòng thế giới và cuộc sống, vào Tin Mừng Cứu độ mà Ngài đã loan báo cách đây 2000 năm.
Giờ đây, để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh, chúng ta hãy thành tâm sám hối
Giảng Lời Chúa:
Dẫn nhập:
Anh chị em thân mến, nếu chúng ta đáp chuyến tàu quá khứ, trở về bên dòng sông Gio-đan vào buổi sáng ngày xưa ấy, chắc chúng ta sẽ gặp một quang cảnh lạ lùng, kỳ diệu, nhưng cũng rất thân thương và cảm động: Dưới đất, một đoàn lũ đông đảo có thể nói được là ô hợp. Vì gồm nào lính tráng, dân thu thuế, những kẻ tàn tật đui què mẻ sứt, những gái làng chơi, những tay anh chị và phần đông là dân nghèo khố rách áo ôm đủ mọi ngành nghề…và đặc biệt chen lấn giữa đám dân ô hợp, tội lỗi ấy, có chàng thanh niên Giêsu nguời Nadarét, vừa từ giả quê hương miền bắc xứ Galilê đến đây để ông Gioan làm phép rửa. Trong khi đó trên trời, không trung mở ra, có tiếng Chúa Cha rền vang: “Đây là Con Ta yêu dấu…”, có Chúa Thánh Linh lấy hình Bồ Câu đáp xuống…
Quả thật bên bờ sông Giođan hôm ấy, đã xảy ra một cuộc “hiển linh” đặc biệt của Ba Ngôi Thiên Chúa, như lời thơ trong thánh thi Kinh Sách:
Danh mầu nhiệm vang ngân cứu rỗi
Cả bốn phương Giáo Hội của Người
Nơi đây hiện diện Ba Ngôi
Nhưng là một Chúa cao vời chí tôn.
Chúng ta thử dừng lại suy niệm đôi điều về mầu nhiệm nầy để cùng với toàn Dân Chúa bước trên nẽo đường phụng vụ Mùa Thường Niên với tất cả tình yêu và ý thức.
1. Thiên Chúa giới thiệu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Con Một Thiên Chúa:
Ngay từ thuở hồng hoang nơi vườn địa đàng sau tấn thẩm kịch phản bội ”An Trái Câm”, chúng ta đã nghe vang vọng một lời giao ước, một Tin Mừng cứu độ: “Ta sẽ gây mối thù giữ ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đàu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Nhưng ai sẽ là người đó ? Ai sẽ là Đấng Cứu thế đó ? Một thiên thần thiêng liêng sáng láng chăng ? Hay một Vị Vương Đế quyền uy ? Hay một Tiên tri chuyên làm những chuyện quỷ khóc thần sầu ? Mặc cho dân Ít-ra-en hy vọng và ươm mơ, những thần tượng Cứu Thế cứ trôi vào dĩ vãng: Môse, Samson, Đavít, Êlia, Giuđa Macabêô…tất cả đều mất hút trong đêm dài lịch sử, còn chăng là những chứng từ của sách vở, của những câu chuyện nhắc nhở cho nhau…Còn những lời thơ bóng bẩy và tráng lệ của Sứ Ngôn Isaia trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ thì không biêt khi nào mới trở thành hiện thực ?
Và đã có một thời cả Giêrusalem náo động xôn xao, khi có Ba Nhà Đạo Sĩ Phương Đông tìm đến và kháo láo rằng: Đấng Cưứ Thế đã xuất hiện, Ngôi Sao của Ngài đã hiển hiện bên trời đông. Nhưng sau đó tất cả lại chìm vào quên lãng. Mãi cho đên 30 năm sau, bên bờ sông Giođan rực nắng, Gioan Tẩy Giả lại mạnh mẽ rêu rao: “Ở giữa các ông có một Đấng mà các ông không biết…Tôi rửa bằng nước, nhưng Ngài sẽ rửa trong Thánh Thần…” Và quả thật hôm nay, lời rêu rao đó lại trở thành hiện thực. Chính Thiên Chúa đã quyêt định “cái Giờ” để giới thiệu, để chính thức “trình làng” Người Con Một, cho dù không bằng một nghi lễ trịnh trọng vương giả, thì cũng có một không hai, như ta đã nghe tường thuật trong bài Tin Mừng. “Trời mở ra…”.
Quả thật, hôm nay đã ứng nghiệm những lời Sấm ngôn loan báo: “Đây lời Đức Chúa phán: Đây là Người Tôi Trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên nó…” (BĐ 1). Và một chỗ khác: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Ngài đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó…”. Thánh Phêrô đã tóm kết huyền nhiện nầy bằng những lời đơn gọn: “Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới dâu Người thi ân giáng phúc tới đó…” (BĐ 2).
Quả thật, nếu không có chính Thiên Chúa giới thiệu, mặc khải, ấn chứng, không ai trong chúng ta có thể đến với Chúa Kitô, tin vào Chúa Kitô, đón nhận và yêu mến Chúa Kitô. Chính vì thế, để củng cố niềm tin vào Chúa Kitô, chúng ta hãy cầu nguyện, hãy tiếp cận lời mặc khải, phải đọc và lắng ngfhe Lời Chúa, phải đón nhận chính lời của Đức Kitô. Như hôm nay Chúa Cha đã ra lệnh “Các ngươi hãy nghe lời Người”.
2. Đức Kitô biểu lộ tình thương cứu độ của Thiên Chúa:
Để biểu lộ tình thương cứu độ của Thiên Chúa và cũng là để thực thi vai trò “thiên sai-cứu thế” của mình, Con Thiên Chúa, Đức Giêsu đã sống làm sao, đã thực hiện những gì ?
Một tình yêu vâng phục: Điều chúng ta tìm thấy đầu tiên và cũng là lựa chon căn bản của Đức Kitô để thực hiện con đường cứu nhân độ thế đó chính là “một tình yêu vâng phục dành cho Cha”: “Cha đã làm cho con một thân xác, nầy đây con đến để thực thi thánh ý Cha…” “Của ăn của ta là làm theo ý Đấng đã sai ta”..”Lạy Cha nếu có thể…”
Một tình yêu đồng hành và quảng đại cho đi. Thực thi thánh ý Chúa Cha hoàn toàn không có nghĩa bỏ rơi loài người, xa cách với nhân loại. Không, cũng chính nhờ sự liên kết mật thiết với Cha, vâng phục Cha mà Đức Kitô đã sóng trọn vẹn tình liên đới với nhân loại, với anh chị em, với từng người trong chúng ta. Việc Ngài chen vai sát cánh giữa đám tội nhân đến bên dòng sông Gio-đan để Giaon thanh tẩy phải chăng là một chứng từ rõ nét nói lên tình liên đới mật thiết nầy, nói lên ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm ‘Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Vâng, Đức Kitô của chúng ta, Đấng Cứu thế của chúng ta không phải là một vị thượng tế trên các tầng mây, nhưng là một “mục tử nhân lành” đồng hành với anh chị em, chia sẻ ngọt bùi với thân phận bọt bèo nhân thế. Đọc lại cuộc đời của Chúa Giê-su, từ hang lừa máng cỏ đến đồi Sọ Gôn-gô-ta, chúng ta thấy gần gũi biết bao, thân thương biết mấy với một Đấng Cứu Thế trong em bé Giêsu ở Bê-lemhay chàng thợ mộc Giêsu ở Na-da-rét, trong vị tiên tri Giêsu đi chân đất ở Ga-li-lê, hay tên tử tội Giêsu lê từng bước trên đường phố Giê-ru-sa-lem…Mặc dầu Vị thầy Giêsu đó có thể dùng quyền lực để chế ngự sóng gió bảo bùng, để biến vài tấm bánh và mấy con cá thành cả núi thực phẩm để nuôi dân, có thể một tiếng phán ra thì cả đám quan quân Do Thái ngã lăn ra đất, có thể phục sinh kẻ chết, cho kẻ điếc nghe, kẻ câm nói, kẻ què đi…thì Ngài vẫn không thèm vận dụng những phương thế “dấu lạ đó để chinh phục con người, nhưng lại cứ dùng cái cách kiểu giản đơn khiêm hạ: quì xuống rửa chân để làm người phục vụ, cận kề với người tội lỗi để hoán cải thứ tha, chịu tủi nhục thương đau để cho đi và tận hiến…
Một tình yêu thăng hoa đem lại sự sống. Nhưng khi thực thi sứ mệnh cứu thế theo cách kiểu đó, liệu Đức Kitô có thành công chăng ? Cho dù mãi đến hôm nay, một thế giới vẫn còn đang dang dở với tội lỗi và bất công, với sự ác và và bóng tối…thì ngay từ buổi sáng “Ngày Thứ Nhất trong tuần” cách đây 2000 năm, mọi sự trên thế gian đã bắt đầu thay đổi cùng với con tim và bờ môi ánh mắt của cô Mai-đệ-liên khi đối diện với Đấng Phục sinh từ cõi chết. Vâng, sự hiện diện của Đấng Cứu Thế vừa từ cõi chết sống lại đã mang cả nhân loại tiến vào đường sự sống, vào miền hy vọng, vào vương quốc của vui tươi. Ngài đã làm cho chân lý phúc âm trở thành Tin Mừng, đã làm cho thế giới đâu đâu cũng là “thánh điện để tôn vinh Cha”, và biến mọi anh em tự chân trời góc biển nên huynh đệ một nhà. Vâng, Ngài đã đến “để chiên được sống và được sống dồi dào”, Ngài đến không phải để kết án nhưng là cứu chữa những gì đã hư đi, Ngài đến để gọi về những đứa con hoang bụi đời lầm lỡ mà mặc cho áo mới huy hoàng…Đã 2000 năm qua, đã có không biết bao nhiêu những Gia-kê, những Lê-vi thu thuế,, những cô gái điếm Mai-đệ liên, những Phêrô phản bội, những Tôma cứng lòng, những cô phụ nữ ngoại tình, những tên ăn trộm bị kết án…vui vẻ sắp hàng theo Ngài tiến về phía trước trong hoan vui tạ ơn vì được ân thánh tái tạo..
3.Sống huyền nhiệm Bí tích Rửa tội hôm nay:
Mầu nhiệm phép rửa nơi Đức Kitô hôm qua bên bờ sông Gio-đan có liên quan gì đến chúng ta hôm nay ? Có liên quan nhiều lắm đó !
Trước hết: Hãy để Thánh Thần tác thánh và sai đi: Thật vậy, nếu Đức Kitô đã khởi sự cuộc đời rao giảng Tin mừng từ biến cố đặc biệt nầy thì Ngài cũng đang mời gọi chúng ta hãy tiếp tục “ra đi từ giếng nước rửa tội”. Bí tích rửa tội của mỗi người không chỉ là cuộc xối nước một lần của quá khứ để trở thành kỷ niệm vô hồn, mà cốt yếu đó là một “lựa chọn luôn mới mẻ và sinh động”,một ra đi, một lên đường, một dấn thân như một lời ca mà chúng ta vẫn thường hát:
…Trao cho con Lời Chúa, dù đời con hoen úa, nguyện đời con đem lời chân lý đến cho mọi nơi. Ra đi đầy nguyện ước, và này con gieo bước, nguyện đời con đem nguồn yêu mến đến cho mọi người.
…Chân đi đạp đồi non, biển đời bao sóng gió, Người đỡ nâng con dù nguy biến vẫn ở cùng con. Yêu thương làm hành trang, ngọn đèn tim thắp sáng, một đời vui như đàn chim hót suối reo đầu ngàn.
Chúng ta vừa kết thúc Năm Thánh truyền Giáo, nhưng không có nghĩa là khép lại mọi nỗ lực truyền giáo và thôi không còn thực thi sứ vụ này bằng cuộc sống. Đúng hơn, mọi sự vừa mới bắt đầu.
Và lời loan báo sống động nhất, giống cách kiểu của Đức kitô nhất đó chính là: Hãy trở nên dấu chỉ của tình yêu Đức Kitô, đồng cảm và đồng hành với Đức Kitô trên mọi nẽo đường cuộc sống. Để minh họa điều nầy, và cũng là để kết thúc những chia sẻ hôm nay, chúng ta cùng đọc lại bài thơ “Lời cầu cần thiết”:
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là tấm bánh Thánh nuôi dưỡng cho con,
Nhưng con lại có thể bẻ vụn tấm bánh đời mình cho anh em con.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa
Ngài mới là chén Máu Thánh bổ sức cho con,
Nhưng con lại có thể quảng đại mời anh em con uống lấy trọn đời con.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới trao tặng niềm tin.
Nhưng con lại có thể làm nên chứng tá sống động cho Chúa hôm nay.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới gởi đến niềm hy vọng,
Nhưng con lại có thể giúp anh em con tìm lại nguồn cậy trông.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới đốt lên được ngọn lửa mến,
Nhưng con lại có thể giúp anh em con học biết yêu thương
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới tác tạo hòa bình,
Nhưng con lại có thể ra đi gieo cấy tình đoàn kết hiệp nhất anh em.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là Đấng ban sức mạnh Thánh Linh,
Nhưng con lại có thể nâng đỡ một tâm hồn anh em đang tuyệt vọng.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là sự sống vĩnh cửu.
Nhưng con lại có thể đem đến cho nh em con niềm vui sống.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Tự Ngài đã thực sự viên mãn,
Nhưng Ngài đã ưa thích cho con được cọng tác trong công việc của Ngài,
Và Ngài lại ưa thích nương nhờ nơi con để cứu độ mọi người.
Hai tiếng "sứ mạng" nghe có vẻ nghiêm trọng quá. Nhưng thực ra mọi người, mọi sinh vật, mọi thụ tạo - nói chung là mọi "hiện hữu” - đều có một sứ mạng:
- Sứ mạng của mặt trời là sưởi ấm các sinh vật trên mặt đất
- Sứ mạng của cây lúa là nuôi sống con người
- Thậm chí những con vi sinh nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thấy được cũng có sứ mạng làm phân huỷ những chất thải. Chúa Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo.
Mỗi người chúng ta cũng có sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi "Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo Hội, đối với anh chị em không cùng tín ngưỡng?
Tôi được sinh ra trên đời là vì sứ mạng. Nếu tôi không chu toàn sứ mạng, hay tệ hơn nữa, nếu tôi không lưu tâm gì đến sứ mạng, thì sự hiện hữu của tôi là vô ích, chỉ là ăn hại. Chúa Giêsu đã nói "Nếu muối mà nhạt thì chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân".
2. "Con yêu dấu”,
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua phép rửa, chúng ta cũng trở thành con Thiên Chúa. Về phần Chúa Giêsu, Ngài đã được khen là "Con yêu dấu của Cha".
Thế nào là một người "con yêu dấu?”
-Là biết ý của cha mình: Chúa Giêsu luôn cầu nguyện để biết ý của Chúa Cha.
-Và luôn làm theo ý cha mình. Chúa Giêsu nói "Lương thực của Ta là làm theo ý của Cha Ta". Trong vườn Cây Dầu, sau khi đơn thành tỏ cho Chúa Cha biết Ngài rất sợ chén đắng của cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu nói tiếp ngay "Nhưng xin đừng theo ý con, mà hãy theo ý Cha".
Nếu chúng ta muốn trở thành con yêu dấu của Chúa thì chúng ta cũng hãy bắt chước Chúa Giêsu: luôn cầu nguyện, khi đã thấy được ý Chúa thì sẵn sàng bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa.
3. "Nếu... "
Nếu tôi là dân do thái lúc đó, có thể tôi cũng đi từ Galilê bên Đức Giêsu suốt bốn năm ngày đường, tới sông Giođan để chịu phép rửa, mà không ngờ rằng Người là Đấng mà Gioan đang rao giảng. Khi tới nơi, chắc chắn tôi sẽ chen lấn Người để tôi được tới gần Gioan hơn. Tôi trố mắt nhìn và lắng tai. Gioan kêu gọi tôi sám hối. Tôi cảm động và rán lội tới sát Gioan. Tôi đẩy Người ra để .. xin Gioan rửa tôi trước, vì tôi nóng lòng mong đợi điều Gioan đang nói "Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến". Rửa xong, tôi an tâm ra về mà không ngờ .Người là Đấng Cứu Thế đồng hành với tôi, đứng sát bên tôi, đã bị tôi gạt Người ra ngoài. . Thực tế hàng ngày đã xảy ra trăm ngàn lần tôi cư xử như thế đối với những người bên cạnh tôi. Tôi không ngờ rằng họ là chi thể Đấng Cứu Thế. Tôi bao nhiêu lần xô lấn những người bên cạnh tôi để tôi được hơn, được trước họ mà chẳng nhớ gì lời Chúa dạy: "Con phải kính nhường và yêu mến người bên cạnh con". Thành thử ra tôi cũng không nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở với tôi.
Nếu tôi được làm địa vị của Gioan tiền hô, thì khi vừa thấy Đấng Cứu Thế, tôi sẽ tự đắc hô to: Đấy, tôi nói có sai đâu. Ngài đến đây nè ... Rồi tôi kêu gọi mọi người ủng hộ Ngài, hoan hô Ngài, đón rước Ngài, xin Ngài phất cờ giải phóng dân tộc, làm cho nước ta độc Lập tự do giàu mình, đem quân xâm chiếm các nước, trở thành bá chủ hoàn cầu. Tôi rất phàn nàn và lấy làm tiếc vì không thể ngờ được rằng Gioan không làm như tôi mong muốn. Trái lại ông đã cúi mình xuống nhỏ nhẹ thưa với Ngài rằng "Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Tôi chỉ rửa anh em trong nước, còn chính Ngài mới rửa chúng tôi trong Thánh Thần. Vậy xin Ngài rửa cho. tôi đi .để tôi được ơn cứu độ". Thật là con người đầy khiêm tốn, đầy tin tưởng, để rồi Gioan đã phó thác trót mạng sống mình cho Đấng Cứu Thế: dù phải chặt đầu, ông vẫn luôn quyết tâm chu toàn nghĩa vụ Thiên Chúa trao.
Còn Đức Giêsu, Người rất từ tốn và ẩn mình tuyệt diệu hơn nữa. Người đã thưa lại Gioan: "Chúng ta cần phải chl toàn nghĩa vụ thánh như thế. Người đồng hóa mình vôi đần chúng, chịu những kẻ cậy sức mạnh xô đẩy, chèn ép để thông cảm với mọi nỗi xót xa của cuộc đời những kẻ thấp mũi bé miệng, neo đơn, cô thế cô thân. Người đã cúi mình trước Gioan làm phép rửa cho Người để cho những tội nhân biết cúi mình xuống trước tòa giải tội. Người đã dìm mình xuống nước để cứu vớt những kẻ chết trong dòng đời, cho họ được sống lại làm con chí ái với Người trong gia đình thiên quốc. Người chôn mình trong bản tính hư nát của loài người để cho con người được trường sinh vinh phúc.
Lạy Chúa Giêsu xin cho chúng con biết kính nhường nhau. Đó chẳng phải là kính mến Chúa sao? Xin cho chúng con biết phó thác thân phận làm người, làm Kitô hữu cho Đấng Cứu Thế. Chắc chắn chúng con sẽ được Người thanh tẩy và kết nạp chúng con vào nhà Cha chí ái trên trời.
4. Mảnh suy tư
Thanh tẩy không chỉ là xối nước lên trán, chỉ một lần trong đời.
Chúng ta được thanh tẩy bởi mọi chuyện xảy ra trong dời.
Chúng ta được thanh tẩy bởi những gian truân thử thách, vì dòng nước xoáy này rửa sạch chúng ta khỏi giả dối và vô dụng.
Chúng ta được thanh tẩy bởi những đau khổ , vì dòng nước âm u này giúp chúng ta khiêm tốn và biết cảm thông.
Chúng ta được thanh tẩy bởi niềm vui, vì dòng nước róc rách này cho ta cảm nghiệm sự tốt lành của cuộc sống.
Chúng ta được thanh tẩy bởi tình yêu, vì nhờ dòng nước líu lo này chúng ta sẽ tươi nở như cánh hoa dưới ánh mặt trời.
Bí tích Thanh Tẩy giống như trồng một cây non, nó sẽ tiếp tục lớn lên suốt trọn đời ta. (Flor Mccarthy)
5. Chuyện minh họa.
Bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nổi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó thì khỏi chết và được sống đời đời". Bà đáp: “Thật là tuyệt vời Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài? Cuộc trở lại của bà được tạp chí Lon don City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu: "Sinh 1825. Sinh tại 1925”
Các bài đọc Chúa nhật thứ I quanh năm nhằm mục đích giới thiệu, loan truyền con người Chúa Kitô.
Bài Cựu Ước trích sách Tiên tri Isaia. Tiên tri Isaia nhắc nhớ chúng ta Chúa Kitô là con người đầy hiền từ, nhân hậu. “Ngài không hề buốn phiền, không hề nao núng”. Chúa Kitô đã được Thiên Chúa Cha đặt làm “Ánh sáng muôn dân”, để người “mở mắt cho những người mù, giải phóng những người bị xiềng xích; đưa tự do lại cho những người bị áp bức.”
Bài Thánh thư trích sách sách Tông đồ Công vụ, thuật lại những lời Thánh Phêrô loan truền Chúa Giêsu cho công chúng:
“Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Chúa Kitô. Chúa Kitô qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám bởi vì Thiên Chúa ở với Người”.
Bài Tin Mừng cho ta thấy Chúa Giêsu chẳng những là con người được các Tiên tri loan báo, Thánh Gioan chỉ cho dân chúng Ngài đang hiện diện giữa họ, đặc biệt Thiên Chúa Cha, có sự hiện diện của Chúa Thánh thần (dưới hình thứ chim bồ câu) tuyên bố: “Này là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta”.
Trong cuộc đời công khai của Chúa: Chúa đã tuyển chọn các Tông đồ làm cột trụ cho Giáo Hội. Ngài cũng giao sứ mạng cho các vị rao truyền Ngài cho muôn dân, để muôn dân lãnh nhận ơn cứu độ.
Cũng vì thế, mà Thánh Luca đã ghi lại lời Chúa căn dặn các mân đệ, trước khi Chúa về Trời: “Các con phải là nhân chứng những sự việc này”. (Lc 24,48)
Sứ mệnh của Giáo Hội luôn luôn phải là: loan truyền Đấng Cứu Độ muôn dân. Mỗi người tín hữu chúng ta (bằng cách này hay cách khác: bằng lời nói, bằng việc làm, nhất là bằng cách sống) có nhiệm vụ loan truyền và la chứng nhân của Chúa Kitô.
Đặt biệt trong mọi thời đại, và ở khắp nơi, Chúa còn kén chọn một số vị dùng chính cái chết đầy đau khổ của các Ngài để rao truyền và minh chứng Chúa Giêsu là chính Thiên Chúa, đạo của Ngài là chân đạo, đưa lại ơn cứu độ cho loài người.
Thánh Đaminh Cẩm (tử đạo ngày 11 tháng năm 1859) tuy đang lẩn trốn, vì sợ bị bắt, nhưng khi trách nhiệm mục vụ đòi hỏi (như giải tội, rửa tội, xức dầu…), Ngài vẫn can đảm ra đi thi hành nhiệm vụ, dù biết là công việc rất nguy hiểm chi tính mạng Ngài.
Khi Ngài đã bị bắt, suốt mấy tháng liền, nhốt trong cũi chật hẹp Ngài vẫn can đảm hăng say rao giảng Tin Mừng, và khuyên những người tới thăm giữ vững đức tin, trông cậy vào Chúa.
Đầu năm 1859, khi Cha về Hà Lạng an náu, một người nhận diện Cha, liền đi tố cáo với quan. Ngày 21 tháng 1 năm 1859 Cha bị bắt giải về thị xã Hưng Yên. Trước mặt quan tuần phủ, Cha Đaminh Cẩm không chút sợ hãi, nhận mình là Linh mục Công giáo, và sẵn sàng chấp nhận mọi hình khổ, chớ không chịu chà đạp Thánh giá.
Sau nhiều lần khuyến dụ và hăm dọa không kết quả, qua tuần ra lệnh nhốt Cha vào cũi chật hẹp, suốt mấy tháng liền. Trong thời gian bị giam, tư cách và đức độ của Cha Cẩm khiến lính canh phải cảm phục, nên họ dễ dãi cho phép nhiều giáo hữu tới lui tới thăm nuôi. Cha nhân cơ hội này, tiếp tục rai giảng Tin Mừng và khuyên mọi người trung thành giữ vững đức tin. Vì có Giáo hữu liên lạc, Cha đã nhiều lần viết thư gửi vị Giám mục địa phận, là Đức Cha Vinh, bầy tỏ lòng trung kiên với dk và khao khát được phúc tử đạo. Đức Cha cho Linh mục Hương vào thăm và giải tội cho Cha ngày 30 tháng 1 năm 1859. Ngày 11 thánt 3 năm 1859, Cha Đaminh Cẩm rất vui mừng khi nhận được tin bị trảm quyết. Trên đường đến pháp trường, cạnh bờ sông Hồng, Cha hiên ngang như một chiến sĩ khải hoàn.
Bà Maria Huệ, một Giáo dân có mặt trong giờ hành quyết, làm chứng.
“Khi tới nơi xử, Cha quỳ gối cầu nguyện một lát, rồi vui vẻ ra hiệu cho lý hình làm việc phận sự. Lý hình vung gươm chém Cha ba nhát, mà đầu vẫn chưa đứt. Họ phải dùng gươm cứa lại nhiều lần, đầu Cha mới lìa khỏi thân.”
Thi thể sau được rước về an táng ở Cẩm Giang là nguyên quán của Đấng tử đạo.
Alexandrie đại đế của Hy Lạp nổi tiếng không những về lài điều binh khiển tướng mà còn ngay cả trong việc chinh phục thú vật. Theo một giai thoại thì cha ông là vua Philip có mua một con ngựa tuyệt đẹp, nhưng lại là một con ngựa bất kham, cả triều thần không ai dám đến gần nó. Thế nhưng, một hôm được phép vua cha, Alexandrie bất thần ôm chầm lấy cổ con ngựa hướng mặt nó về phía mặt trời. Alexandrie thầm nghĩ rằng: sở dĩ con ngựa bất kham là vì lúc nào nó cũng chỉ cúi mình nhìn vào cái bóng của nó. Thế là như một phép lạ, sau một hồi hướng nhìn lên mặt trời, con ngựa bất kham bỗng trở nên thuần thục. Bỏ lại đàng sau bóng tối, hướng nhìn về mặt trời để trở nên thuần thục.
Đây có lẽ cũng là một bài học mà Chúa Giêsu muốn nhắn gửi cho chúng ta hôm nay khi tưởng niệm việc Ngài chịu Phép Rửa lại sông Jordan. Thánh Matthêu đã nêu bật ý nghĩa của việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa khi ngài ghi lại chi tiết: "Các tầng trời mở ra và có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng".
Chúa Giêsu quả là một người con yêu dấu đẹp lòng Chúa Cha. Bởi vì Ngài đã khởi đầu sứ vụ công khai bằng cử chỉ vâng phục. Thật thế, ý nghĩa của việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa chính là sự vâng phục tuyệt đối của Ngài vào Thiên Chúa Cha. Qua việc dìm mình xuống sông Jordan, Chúa Giêsu loan báo cái chết mà Ngài sẽ phải trải qua. Ngài chấp nhận thân phận làm người, mang thân phận yếu đuối của con người. Điều đó có nghĩa là Ngài chấp nhận cái chết như một tất yếu của cuộc sống. Cái chết ấy đã được qui định trong chương trình cứu rỗi của Ngài, và Ngài đã thực thi chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa Cha. Do đó, Chúa Giêsu không thể không đi vào cái chết ấy bằng việc vâng phục thánh ý của Thiên Chúa.
Thật thế, qua cử chỉ dìm mình xuống sông Jordan, Chúa Giêsu đã nói lên hai tiếng "Xin Vâng" trọn vẹn vào chương trình của Thiên Chúa Cha. Điều này đã được thánh Phaolô diễn tả sự vâng phục của Chúa Giêsu bằng một công thức bất hủ: "Ngài đã vâng phục và vâng phục cho đến chết".
Vậy, qua việc vâng phục cho đến chết ấy, Chúa Giêsu đã thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người của Ngài. Ngài đã làm người thật sự, sống đúng cương vị của một con người như bao con người khác ngoại trừ tội lỗi có nghĩa là Ngài đã vâng phục và vâng phục cho đến chết.
Mặt khác, sau khi cho đánh đòn Chúa Giêsu, tổng trấn Phitatô đưa Ngài ra trước dân chúng và tuyên bố: "Này là Con Người". Một lời giới thiệu như thế gắn liền với một tấm thân đầy thương tích, hẳn phải nói lên rằng: một con người thực sự, một con người thể hiện trọn vẹn tính người, khi con người đó sống hoàn toàn cho tha nhân, khi con người đó chịu hao mòn và thương tích vì tha nhân.
Thật ra, sự vâng phục cho đến chết của Chúa Giêsu không phải là một sự vâng phục mù quáng, nhưng sự vâng phục ấy có giá trị một cách tuyệt đối. Bởi vì sự vâng phục ấy được thực thi chỉ vì tình yêu thương, với một tình yêu vô cùng. Yêu thương và yêu thương cho đến cùng chính là thể hiện sự vâng phục trọn vẹn.
Anh chị em thân mến!
Tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa lại sông Jordan, chúng ta cũng được nhắc nhở về ý nghĩa của Phép Rửa mà chúng ta đã lãnh nhận. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã mặc cho Phép Rửa của chúng ta cùng một ý nghĩa của chính Phép Rửa mà Ngài đã lãnh nhận lại sông Jordan. Vì thế, qua Phép Rửa chúng ta đi vào chính cái chết và sự vâng phục của Chúa Giêsu bằng chính sự sống của Ngài. Do đó, có thể nói được là chúng ta đã đi lại con đường vâng phục của Ngài.
Qua Phép Rửa, chúng ta bỏ lại đàng sau bóng tối của tội lỗi, của ích kỷ, của hận thù, để ngước nhìn lên trời cao và vươn lên trong yêu thương phục vụ, trong quảng đại bằng chính sự quên mình vì Chúa, vì tha nhân.
Trong "Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng", Công đường Vatican II đã khẳng định rằng: "Chỉ trong mầu nhiệm của Ngôi Lời Nhập Thể, mầu nhiệm của con người mới được sáng tỏ". Thật thế, con người chỉ thấy được ơn gọi của mình trong Chúa Gìêsu Kitô mà thôi. Chỉ qua cuộc sống của Ngài, con người mới có thể biết phải sống như thế nào cho xứng với phẩm giá của con người. Chỉ khi nhìn vào Chúa Giêsu, con người mới có thể biết thế nào là sống cho ra người.
Chúa Giêsu đã vâng phục Chúa Cha để sống yêu thương và yêu thương cho đến chết và chết một cách nhục nhã trên Thập giá. Qua một cuộc sống như thế, Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta rằng: "Sống đích thực là sống yêu thương". Như vậy, không thể có một ơn gọi hay một cung cách làm người nào khác hơn trong việc tưởng niệm và tuyên xưng cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Và cũng chỉ vì yêu thương mà Chúa Giêsu luôn luôn ở lại trong Bí tích Thánh Thể để yêu thương mọi người cho đến cùng. Ước gì lối tuyên xưng của chúng ta không chỉ đóng khung và dừng lại trong khoảnh khắc của Thánh lễ, mà phải được thể hiện bằng cả cuộc sống yêu thương của chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Ước gì Phép Rửa không chỉ mang lại cho chúng ta danh hiệu Kitô hữu, mà phải được sống, được thể hiện bằng muôn ngàn cử chỉ yêu thương quên mình trong cuộc sống thường nhật của ngày sống chúng ta: "Chỉ có một Chúa, một đức tin, một Phép Rửa". Chính trong đức tin đó mà chúng ta đã chịu Phép Rửa và đó cũng là đức tin mà chúng ta hợp nhau để tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
1. Matthêu mô tả gì trong phép rửa của Chúa Giêsu: cảm xúc tôn giáo? thị kiến? kinh nghiệm về một trật tự khác? Việc Thần khí xuống "như một chim câu (c.16) và lời nói của "tiếng từ trời có ý nghĩa gì trong hậu cảnh Cựu Ước và đối với hôm nay?
2. Việc Thần khí tấn phong Chúa Giêsu làm Messia và tiếng nói từ trời soi sáng thế nào lời gian Tẩy giả công bố về việc hối cải và Nước Trời gần bên (3,2), lời mà Chúa Giêsu lấy lại sau đó (4,17)? Làm sao cho thiên hạ nghe lời công bố ấy hôm nay? Và từ đoạn văn này, ta rút ra được điều gì giúp hiểu về phép rửa trong Giáo Hội?
3. Chúa Giêsu phủ nhận quan niệm của vị Tẩy Giả về Nước Trời và về cuộc giáng lâm của Đấng Messia trên điểm nào?
4. Làm sao giải thích thái độ Chúa Giêsu đến xin chịu phép rửa?
*******
1. Việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả dẫn ta đến phép rửa của Chúa Kitô, trung tâm đích thực của các trình thuật chương 3- 4. Về phép rửa này, Tin Mừng Nhất Lãm cống hiến cho ta 3 bản văn song song rất giống nhau. Thế nhưng đoạn văn của Matthêu lại thêm vào trình thuật một mẩu đối thoại ngắn giữa Gioan và Chúa Giêsu, một mẩu đối thoại rất có ý nghĩa xét trong nhãn giới của ông. Rồi đây chúng ta sẽ thấy nó ý nghĩa chỗ nào.
2. Khi chấp nhận liên đới với kẻ tội lỗi, Chúa Giêsu tỏ ra muốn phản đối quan niệm của vị Tẩy Giả về Nước Trời và về cuộc giáng lâm của Đấng Messia: thay vì xuất hiện như Thẩm phán cánh chung đến quét sạch sân lúa trong cơn Hỏa nộ, Chúa Giêsu lại tự hủy trong dòng nước Giođan. Trình thuật Matthêu như thế kín đáo ám chỉ cuộc Tử nạn, qua việc đồng hóa Chúa Giêsu với người Tôi tớ Giavê (Is 42,1; x. Mt 3,17), Đấng đã gánh lấy mọi yếu hèn của ta (Is 53,4; x. Mt 8,17). Chính trình thuật Tử nạn của Chúa Giêsu (27,45-56) cũng chứa đựng nhiều yếu tố của cảnh này, như chúng ta sẽ thấy về sau khi nghiên cứu cuộc Khổ nạn.
3. Thuộc văn thể nào cái trình thuật về thị kiến khai mạc của chúng ta đây, một trình thuật xem ra không mô tả một quang cảnh thấy được bên ngoài, cũng chẳng tỏ cho biết một kinh nghiệm tâm lý hay một mặc khải bên trong của Chúa Giêsu? Trước hết, trình thuật có chủ ý thần học; nó biểu lộ mối ưu tư của các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên muốn diễn tả niềm tin của họ vào Chúa Giêsu như vào kẻ đến thỏa mãn lòng mong đợi Đấng Thiên Sai, và muốn biện minh cho thái độ khó hiểu của Chúa Giêsu khi đến xin Gioan làm phép rửa. Trình thuật có những nét tương tự với các cuộc "thần hiện " (tỏ mình của Cứu Chúa) hay với những cảnh "kêu gọi ngôn sứ", thường thấy trong Cựu Ước. Nhưng đúng hơn, nó thuộc về một văn thể khác mang tính chất khải huyền, mà ta có thể gọi là văn thể "thị kiến giải thích" (vision interprétative), thường được dùng trong các Targumim. Thật vậy, các Targumim liên hệ đến lịch sử tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp, đều soi sáng lạ lùng trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa của chúng ta.
4. Trình thuật này có lẽ có có liên hệ với kinh nghiệm phép rửa Kitô giáo mà Matthêu sẽ đề cập vào cuối Tin Mừng của ông (28,19). Người chịu thanh tẩy "đi lên" khỏi nước sự chết, đón nhận Thần Khí và tỏ mình ra như "Con chí ái" của Chúa Cha, trước khi được dẫn cùng với Chúa Giêsu vào hoang địa thế gian, hầu chịu thử thách cùng chu toàn phận vụ trong đó.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Bấy giờ" (c. 13), một tiếng thường gặp trong Matthêu, ở đây tương đương với một công thức chuyển mạch thuần túy. "Xuất hiện" cũng là động từ Matthêu đã dùng để đưa Gioan Tẩy Giả nhập cuộc (3,1): ông tái nhấn mạnh mối tương quan mật thiết giữa Gioan và Chúa Giêsu vậy. "Bỏ Galilê”: Matthêu không đề cập đến Nadarét mà ông đã nói tới ở 2,23. "Để chịu thanh tẩy": mục đích rõ ràng của Chúa Giêsu. Matthêu minh bạch đặt vấn đề Chúa Giêsu chịu rửa, trước khi trả lời trong các câu kế tiếp.
Cuộc đối thoại giữa Gioan và Chúa Giêsu (cc. 14-15), mà chỉ Matthêu có, phản ảnh một khuynh hướng hộ giáo. Việc Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu đã sớm gây nhiều khó khăn cho Kitô hữu (so sánh Lc 3,21tt; Ga 1,29-34; Tin Mừng người Hy bá). Các khó khăn đó như thế này:
(1) Các vai trò xem ra đảo ngược, trái ngược với điều chính Gioan loan báo khi ông tự tuyên bố mình không đáng mở dây giày cho Đấng Messia tương lai;
(2) Phép rửa của Gioan, có việc thú tội kèm theo (3,6) được các tội nhân đón nhận, vậy Chúa Giêsu, khi cúi mình chịu, phải chăng cũng ý thức mình là tội nhân. Cuộc đối thoại giữa Gioan và Chúa Giêsu đem lại câu trả lời cho khó khăn thứ nhất, trong lúc cuộc thần hiện tiếp theo phép rửa làm giảm khó khăn thứ hai.
Gioan (c.14) nhận thấy bổn phận chuẩn bị cho Chúa Kitô đến giờ đây chấm dứt; lúc này tới phiên ông chịu rửa "trong Thánh Thần và lửa" (c. 11) và Chúa Giêsu phải là người ban phép. Nhưng Chúa Giêsu trả lời (c.15) rằng cần phải tuân theo thánh ý Thiên Chúa. Tiếng prepon (do động từ prepoin "thích hợp", và gán tương đương với dei: phải) diễn tả sự bắt buộc do thánh ý Thiên Chúa. Đoạn văn gần giống bản văn chúng ta là Dt 2, 10 (so sánh với Lc 7,30). ở đây có hai tiếng quan trọng, đặc biệt của thần học Matthêu: plêroun (làm trọn; thực hiện; hoàn thành; kết thúc) và dikaiosunê (sự công chính). Thông thường, plêloun có nghĩa là "làm trọn", theo nghĩa chấp hành tốt lề luật chẳng hạn. Nhưng trong Matthêu, nghĩa của nó phong phú hơn nhiều. Nếu dự đoán được những kết luận của cuộc phân tích Mt 5,17, ta sẽ hiểu rằng việc "làm trọn" ở đây (có hai nghĩa “bảo tồn và kết thúc”, “duy trì và kiện toàn”. Sở dĩ Chúa Kitô, khi chịu phép rửa bởi Gioan, "đã làm trọn" sự công chính, đó là vì Người vừa cúi chịu vừa siêu hóa và bày tỏ ý nghĩa tròn đầy của phép rửa ấy; cử chỉ của Người mặc khải điều đã được chứa đựng cách bất toàn trong việc người Israel cúi mình chịu phép rửa của Gioan vậy.
Tiếng thứ hai, "hệt nghĩa công chính" (Matthêu rất ưa dùng, nhất là trong Diễn từ trên núi). Trong văn mạch chung của tư tưởng tôn giáo và tư tưởng xã hội Hy bá (cả hai chỉ là một), tiếng này chỉ sự hoàn thành thánh ý Thiên Chúa; sự tuân thủ Lề luật Giao Ước dưới mọi đòi hỏi yêu sách. Việc Matthêu dùng ý niệm "công chính" nằm trong truyền thống thần học của Israel: con người trở nên công chính khi, nhờ ý thức sâu sắc về sự siêu việt và thánh thiện của Thiên Chúa, họ cố gắng sống phù hợp với tôn ý Ngài. Nhưng tại sao Thiên Chúa đã quyết định là Đấng Messia của Ngài phải nhận phép rửa của Gioan và tỏ mình như kẻ có tội? Bản văn không đưa ra một lý do sáng sủa nào để giải thích ý định thần linh lạ lùng này, trừ ra lời ám chỉ mập mờ về việc “hoàn thành mọi nghĩa công chính". Nhưng toàn thể Tân Ước có gợi lên hai lý do của đòi hỏi ấy.
Lý do thứ nhất, được nhiều nhà chú giải nhấn mạnh dựa vào Mt 20,28 và 26,28, có thể phát biểu như thế này: Chúa Giêsu phải xóa hết tội lỗi của "nhiều người". Cv 8,32-35, trích Is 53,7-8, cho thấy Chúa Giêsu như là Tôi tớ Giavê chịu đau khổ vì tội dân mình, mặc dầu chính Người không vương mắc tội Phaolô còn minh định giáo thuyết ấy hơn: qua việc nhập thể, Chúa Giêsu đã mang lấy "một xác thịt giống xác thịt tội lỗi (Rm 8,3), Người đã trở nên chi thể và thủ lĩnh của một nhân loại tội lỗi. Thành ra mặc dầu chẳng phạm tội, Chúa Giêsu cũng phải cúi chịu phép rửa thống hối vì đã muốn liên đới với mọi tội nhân (2 Cr 5, 21; Dt 2, 14- 17).
Nhưng ta có thể thấy một lý do thứ hai trong phép rửa của Chúa Giêsu, hay đúng hơn là lý do đầu, song nhìn dưới một hình thức hơi khác. Lý do ấy không nhấn mạnh đến sự đồng hóa Chúa Giêsu với tội nhân cho bằng đến việc Người đồng hóa với các tội-nhân-hối-cải. Thật vậy, đối với người Do Thái, lãnh nhận phép rửa của Gioan là một yêu sách công chính, theo nghĩa là họ phải dùng nghi thức đó mà biểu lộ sự thống hối của mình, biểu lộ lòng ước muốn trở về với Giavê và sống trung thành hơn nữa với những đòi hỏi của Giao Ước. Xét về cơ bản thì sự công chính Kitô giáo, như Matthêu hiểu, đồng nhất ý nghĩa với sự công chính của Giao Ước cũ (nhưng cũng siêu hóa nó): đó là trung thành với các yêu sách của Giao Ước mới, là thần phục Luật mới của Chúa Kitô chương 5-7). Như thế, khi "làm trọn hết nghĩa công chính" là Chúa Kitô lấy thái độ trung thành với Giao Ước của những người Israel "công chính" làm của mình, đồng thời đưa lòng trung thành đó lên tới tuyệt đỉnh hoàn thiện. Đấy chính là ý nghĩa đặc biệt của phép rửa Chúa Kitô, một phép rửa trong đó Người trở nên liên đối với dân Người đang quay đầu trở lại. Qua phép rửa, Chúa Kitô kéo hết thảy những kẻ tin đi với mình và trong mình về tùng phục lại Chúa Cha; lòng tùng phục thảo hiếu này Người sẽ bày tỏ cách đặc biệt sáng ngời trong cuộc Tử nạn. Thành ra phép rửa của Chúa Giêsu đã là dấu chấp nhận trước cuộc Tử nạn (26,39), sự hoàn thành mọi lẽ công chính. Lời đầu tiên của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthêu tóm tắt cả cuộc đời Người vậy.
Các câu 16-17 trình bày sự kiện một cách gọn gàng, đơn giản. Điểm được chú trọng là biến cố thần hiện, trung tâm của tất cả phần này. Matthêu đã nhấn mạnh rằng việc thụ thai Chúa Giêsu là công trình của Thánh Thần (1,18-20), nay ông lại cho thấy sứ mệnh Người không có nguồn gốc nào khác hơn. Chính lúc Chúa Giêsu tỏ ra vâng lời và tự hạ, thì Người được xác nhận như là ngôn sứ và Messia, nghĩa là như Thẩm phán cánh chung (mặc dầu việc tỏ mình như Thẩm phán được hồi lại vào ngày Quang lâm). Thật thế, chính sự hạ mình như là Con được Cha sai đã làm cho người trở thành Thẩm phán cánh chung, vì chính trong sự xóa mình, sự tự hủy ấy (kénose, theo cách nói của Phaolô) mà trời đến gần đất.
“Trời mở ra": Matthêu dùng cũng một động từ như Isaia đã dùng trong một đoạn thời danh: "Ước gì Ngài xé trời Ngài xuống" (Is 63,19. Bản 70): Niềm hy vọng thiên sai diễn tả qua miệng ngôn sứ bây giờ được thực hiện vậy.
“Người thấy Thần khí Thiên Chúa". Việc Chúa Cha chấp nhận sự tùng phục của Chúa Con được biểu lộ rõ ràng qua việc Thần khí đáp xuống và nhất là qua "tiếng nói từ trời". Như thế phép rửa có vẻ là cuộc tấn phong Chúa Giêsu làm vua và Messia, vì Thần khí Người lãnh nhận là Thần khí đã ngập tràn các ngôn sứ và vua chúa để ban cho họ khả năng thi hành nhiệm vụ; nhưng hơn hẳn các nhân vật quá khứ, Người lãnh nhận Thần khí một cách dư đầy. Chính Isaia đã từng tiên báo như thế về Đấng Messia: "Sẽ đậu trên Người Thần khí Giavê, Thần khí khôn ngoan và trí tuệ, Thần khí mưu lược và anh dũng, Thần khí hiểu biết và kính sợ Giavê"(Is 11,2). Ngôn sứ Gioel cũng đã tiên báo: thời Đấng Messia tới sẽ được đánh dấu bằng việc tuôn tràn Thần khí cho mọi người (3, 1-2), việc tuôn tràn này bắt đầu từ sông Giođan nhưng sẽ đạt đến mức độ viên mãn trong ngày Hiện xuống.
"Người thấy Thần khí Thiên Chúa đáp xuống như chim câu”: Trong Do thái giáo, chim câu không hề được coi là hình ảnh của Thần khí, thế nhưng một vài bản văn các giáo sĩ có so sánh chuyển động của Thần khí Thiên Chúa với cử chỉ của một con bồ câu "bay chập chững trên bầy con mà không đụng tới chúng"; Thần khí cũng "bay là đà" trên nước nguyên thủy như vậy (St 12). Trọng tâm so sánh nằm ở chỗ nhấn mạnh tới thần tính của Thần khí (Thần khí chẳng phải là một mãnh lực mưu xuất từ thiên nhiên hay con người, song là một hữu thể siêu việt), lẫn tính cách dịu dàng, gần gũi của hoạt động Ngài. Bản văn Matthêu, như Maccô, không gợi lên hình dáng (Lc) cho bằng cách thức mà Thần khí đột hiện và tác động trên Chúa Giêsu. Trạng từ ngữ “hơi như (hôsei) chim câu" bổ nghĩa cho động từ "xuống" chứ không cho danh từ "Thần khí".
"Người này là Con Ta": Tiếng phán ra là tiếng Chúa Cha; tiếng ấy lấy lại lời khẳng quyết của Tv 2,7: "Con là con Ta, hôm nay Ta đã sinh con"; nó cũng lấy lại lời Giavê ngỏ cùng người Tôi tớ đau khổ sẽ thể hiện ơn cứu độ cho thân thuộc mình: "Này đây Tôi tớ của Ta mà Ta nâng đỡ Tuyển nhân của Ta mà Ta sủng mộ. Ta đã ban Thần khí Ta trên Người ..." (Is 42, 1). Cũng có thể đối chiếu lời công bố của Thiên Chúa với nhiều bản văn Cựu ước trong đó Giavê gọi Israel là "con" Ngài (Xh 4, 22; Hs 11,1 v.v...) và một lần nữa kết luận rằng Matthêu muốn cho thấy Chúa Giêsu là Israel mới. Trình thuật Cám dỗ (4, 1-11) sẽ củng cố hơn nữa việc song đối này.
Công thức "Người này là Con chí ái Ta, kẻ Ta sủng mộ" được lấy lại từng chữ trong trình thuật Biến hình (17,5). Chắc hẳn Matthêu muốn thiết lập một sự tương đồng có tính cách thần học giữa hai biến cố. Thật vậy, cũng như cuộc biến hình là thể hiện trước việc tôn vinh Chúa Kitô khi Người sống lại tôn vinh là kết quả của tự hạ trong Khổ nạn), thì sự phê chuẩn của Chúa Cha và việc đổ đầy Thần khí cũng loan báo, theo cách thức riêng, việc tôn vinh Chúa Kitô (tôn vinh sẽ là kết quả không những của cuộc Tử nạn mà còn của cả đời sống tự hạ, bắt đầu từ việc hạ mình ngày chịu phép rửa). Hết thảy những điều này xác nhận rằng cảnh phép rửa thật là một cuộc thần hiện, y như cuộc biến hình, hơn là một thị kiến của riêng Chúa Giêsu. Cuộc thần hiện này nhắm tới các độc giả Tin Mừng đã trở thành môn đồ Chúa Giêsu (vì Matthêu không đề cập tới đám đông nào hết), y như cuộc Biến hình chỉ dành riêng cho 3 môn đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan thôi vậy.
KẾT LUẬN
Cơ cấu văn chương và thần học của tất cả phần này (ch.3-4) chỉ cho thấy nên tìm giáo huấn chủ yếu của các chương ở ngay trung tâm của chúng là 3,16-17. Thần khí Thiên Chúa xuống trên Chúa Giêsu và thánh hiến Người, không những như Ngôn sứ-tôi tớ, mà còn như kẻ hiện thân cho Nước Trời, vì Người là Đấng Messia thiên hạ đợi trông. Trong Chúa Giêsu, trời xem ra nối liền với đất, vì trong Người "Nước Trời đã gần bên" (3,2). Từ nay mọi cái đều hội tụ về Chúa Giêsu, và mỗi người đều được kêu mời nghe tiếng phán từ trời, tiếng ban ý nghĩa cho những gì xảy ra; từ nay Chúa giàu có bổn phận làm cho cuộc sống, ngôn ngữ, cử chỉ Người trở nên tiếng nói Chúa Cha ngỏ với nhân loại.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phép rửa của Chúa Giêsu cho ta thấy Người muốn sống đời mình theo viễn tượng nào, muốn được sinh động bởi não trạng nào, muốn hành động theo phương cách nào. Người đứng về phía các tội nhân mà Người đến tha thứ và cứu vớt. Người mong biến đổi nhân loại, nhưng là từ bên trong, bằng cách chia sẻ thân phận nghèo hèn và khốn khổ của họ, hơn là từ bên ngoài, bằng xét xử phán đoán. Người từ chối thống trị, chinh phục với vũ lực, bắt buộc người ta phải thừa nhận Người. Từ đầu sứ vụ Người cho thấy chỉ muốn cứu nhân loại bằng cách tự hủy mình cho đến chết trên Thập giá. Kitô hữu nào dự định thực hiện cuộc giải phóng con người cũng phải chấp nhận các phương pháp như trên.
2. Lúc Chúa Giêsu chìm dưới dòng nước sông Giođan, nghĩa là trong vũ trụ của các tội nhân, dưới tận đáy khiêm nhượng, thì Chúa Cha đến gặp Người và đặt Người làm “Kitô và Chúa” (Cv 2, 33): ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
3. Chúa Giêsu muốn liên đới với con người trong nỗi khốn cùng và sự yếu hèn của họ. Người muốn đợi chúng ta chính nơi đó. Vì thế đừng luống công làm ra vẻ quan trọng, tự đắc, cho mình xứng đáng với tình yêu của Người. Chính trong đáy vực sâu tội lỗi mà Người gặp gỡ và phục hồi ta.
4. Ai chịu thanh tẩy là đi vào đời sống nghĩa tử với Chúa Giêsu: người ấy được làm con cái Thiên Chúa theo cách riêng của mình và cũng nhận được Thần khí Chúa Cha và Chúa Con.
Ngôi thánh đường trong làng được xây cất sắp hoàn thành, chỉ còn việc gắn cây Thánh Giá lên đỉnh tháp chuông. Thế nhưng giàn ráo lại không lên tới nơi. Một thanh niên khỏe mạnh và cao tới 1m8 tình nguyện kiệu người thợ hàn trên đôi vai của mình. Mọi người đứng dưới sân nín thở theo dõi.
Sau cùng, công việc cũng đã kết thúc, cả hai đều leo xuống. Nhưng khi vừa đặt chân tới đất, chàng thanh niên lực lưỡng bị ngất xỉu, bởi vì hai tay và vai anh đều bị phỏng. Tại sao vậy? Bởi vì khi người thợ hàn cây thánh giá, chì sôi từng giọt rớt xuống trên vai anh. Mặc dầu rất đau đớn, nhưng anh không dám cử động, bởi vì bất kỳ một cử động nào trong hoàn cảnh như thế sẽ có nguy cơ làm cho anh thợ hàn rơi xuống. Phải mất mấy tuần lễ những vết phỏng mới chữa lành.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta nhận thấy một người còn nhiệt tình và can đảm hơn thế nữa. Đó là Gioan Tiền Hô.
Ông đã chịu đau khổ: Mặc áo nhặm, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ông đã chấp nhận bị chỉ trích và bị bắt bớ, cuối cùng chính ông đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho sự thật. Ông là một sứ giả, một tiền hô được sai đi trước để dọn đường cho Đấng Cứu thế. Sứ mạng của ông là là loan báo cho mọi người được biết Đức Kitô chính là Đấng Cứu Thế, được mong đợi từ hàng ngàn năm về trước. Ông đã nâng cao Đức Kitô lên để Ngài có thể cứu chuộc chúng ta bằng cây thập giá. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng được mời gọi để làm một công việc như thế.
Đoạn Tin Mừng còn cho thấy: Đức Kitô đã khởi đầu cuộc sống công khai của mình bằng cách chịu phép rửa của Gioan. Dĩ nhiên phép rửa của Gioan không phải là một bí tích mà chỉ là một nghi thức sám hối, để đánh dấu sự chỗi dậy quay trở về cùng Chúa. Sở dĩ Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa của Gioan là vì Ngài muốn đồng hóa mình với thân phận tội nhân. Ngoài ra, cũng nhờ đó, Ngài thánh hóa nước để dùng trong bí tich Thánh Tẩy sau này.
Chính vì thế, biến cố ngày hôm nay còn nhắc nhở cho chúng ta về bí tích rửa tội mà chúng ta đã lãnh nhận. Chúng ta cũng được mời gọi cộng tác với Đức Kitô, loan báo cho mọi người nhận biết Ngài chính là Đấng Cứu thế, đồng thời tiếp tay với Ngài trong công cuộc cứu độ trần gian bằng mầu nhiệm thập giá.
Là những người cha và những người mẹ, chúng ta hãy nói cho con cái chúng ta những điều Đức Kitô đã nói va đã làm. Như thế, chúng ta cũng đang loan truyền Đức Kitô cho con cái chúng ta vậy.
Là người giáo dân, chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Phúc âm, và như thế chúng ta cũng đang giúp đỡ Đức Kitô rồi đó.
Ngoài ra chúng ta còn có thể cộng tác và chia sẻ công việc với Ngài bằng cách dạy giáo lý, cầu nguyện và hy sinh cho việc truyền giáo, bố thí và giúp đỡ những kẻ nghèo đói và bất hạnh. Mỗi việc chúng ta làm nhân danh Kitô hữu là chúng ta cộng tác với Ngài để đem sức sống và sức mạnh của Ngài cho nhân loại. Cần phải có những Gioan Tiền hô để dọn đường Chúa đến. Cần phải có những người như anh thanh niên sẵn sàng hy sinh để giúp đỡ, để cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ.
Nói tóm lại, mỗi người chúng ta cần phải biết chu toàn thánh ý Ngài giữa lòng cuộc đời, để rồi trong ngày sau hết, chính Chúa Cha sẽ tuyên phong chúng ta, như ngày xưa Ngài đã tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông Giocđan: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”.
Chúa Giêsu ‘đến xin Gioan làm phép rửa’. Điều này có thể làm ta ngạc nhiên. Gioan Tẩy Giả là người đầu tiên phản đối. Con người đâu có thể thánh hóa Đấng Thánh! Nhưng Chúa Giêsu bảo cứ việc làm như Người xin, vì cần phải hoàn thành sự công chính. Sự công chính nào đây? Là sự công chính của Người Tôi Tớ muốn vâng lời. Đức Kitô đã vâng lời, đã chọn vâng lời. Ý nghĩa của phép rửa bởi Gioan là đưa loài người đến chỗ vâng phục Thiên Chúa. Đức Giêsu đi vào con đường ấy, nhưng khác với ta ở chỗ tư cách của Người là tư cách Người Con có Chúa Thánh Thần ngự xuống trên mình, và làm vui lòng Chúa Cha hoàn toàn. Việc Người xin chịu phép rửa có mục đích dẫn đưa vâng lời đến chỗ hoàn hảo, bằng cách biến nó thành niềm tuân phục của con thảo. Hành vi khởi đầu cuộc đời công khai của Chúa chứa đựng mầm mống tất cả những lời nói, việc làm sẽ được phát triển về sau, trong mầu nhiệm Đức Kitô. Thử nêu lên hai câu hỏi:
1) Chúng ta có nghĩ tới việc rửa tội của ta như một biến cố sơ khởi cần phải phát triển trong suốt cuộc đời không?
Đa số chúng ta đã được rửa tội lúc mới sinh ra. Sau đó chúng ta hấp thụ một nền giáo dục tôn giáo. Có lẽ ta trung thành giữ đạo vì thói quen hơn là vì chọn lựa ý thức, sáng suốt, tự do –sự chọn lựa mà đức tin đòi hỏi. Câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa phải làm cho ta suy nghĩ về giá trị chân thực của đời sống Kitô hữu của mình. Chẳng hạn, ta có thể dựa vào các bản văn và lời kinh trong nghi thức rửa tội, để tự đặt ra cho mình một số câu hỏi. Có bao giờ, nhân dịp nghi lễ rửa tội một em bé, ta tự nhủ: điều mà chúng ta đang tham dự đó, một ngày xa xưa đã xảy đến với ta và đã hướng ta vào một cuộc sống hiện tại hay không? Một số đề tài trong nghi thức rửa tội có thể làm đầu đề cho ta suy nghĩ như từ bỏ tội lỗi, ma quỷ, sự dữ; kết hợp với Đức Kitô; với Giáo Hội và Thánh Thể của Người; sống như con thảo với Chúa và như anh em với mọi người; thờ phượng Chúa trên hết; tinh thần trách nhiệm thiêng liêng trong Giáo Hội và trong đại gia đình nhân loại v.v…
2) Phép Rửa trong nước và Thánh Thần hướng ta về phép Rửa Tội quyết định nào?
Lâu lắm sau khi chịu phép rửa bởi Gioan, Chúa Giêsu tuyên bố: “Có một phép rửa ta cần phải nhận, và ta khắc khoải biết bao cho nó thành sự thực” (Lc 12,50). Chúa Giêsu nghĩ tới cái chết trên thập giá như là sự hoàn thành tột bậc đời sống vâng lời mà Người đã chọn lựa. Chúng tôi không nói người Kitô hữu phải hoàn thành ơn Thánh Tẩy của mình trong khắc khoải. Trái lại mới đúng. Nhưng họ phải luôn luôn tự hỏi: Mình có thực hiện thánh ý Chúa Cha, ngày lại ngày, trong suốt cuộc đời không? Ý Chúa Cha đòi buộc họ đi vào trong sự hiệp thông với đức tuân phục của Chúa Giêsu Kitô bằng cách này hay cách khác và do đó buộc họ phải chết để phục sinh. Bí tích Thánh Thể chúng ta đã chịu, hướng ta về phép rửa, quyết định được diễn tả qua tiếng ‘thưa vâng’ đối với Chúa; qua tiếng ‘thưa vâng’ cuối cùng, vào thời giờ một mình Chúa biết, sẽ niêm ấn lời ưng thuận bất di bất dịch của ta trước kế hoạch yêu đương do Chúa đề nghị với ta.
“Khi ấy Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai và đến với Gioan để được chịu phép rửa”. Bước đầu này quan trọng hơn phép rửa, Matthêu làm cho chúng ta cảm thấy điều này bằng cách đánh dấu sự dồn dập khác thường trong lối viết của mình: “Ngay khi Chúa Giêsu chịu phép rửa xong, Ngài lên khỏi nước và các tầng trời mở ra”.
Chúng ta đang tham dự vào “thần khải”, tức sự mạc khải các mầu nhiệm của Chúa. Miêu tả những điều tương tự khó đến nỗi thánh sử chỉ có thể sử dụng văn phong “thiên cảm”. Chúng ta nên tiếp nhận, không quá cụ thể nó nhưng cũng không biến nó thành sự tưởng tượng đơn thuần. Ngày ấy trên bờ sông Giócđan đã xảy ra việc lên ngôi của Đấng Cứu Thế và sự mạc khải về nhân tính của Ngài.
Lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thiên Chúa phá vỡ sự im lặng đã có từ lâu, tiếng của Chúa Cha công bố một điều gây kinh ngạc. Nhưng trước đó Thánh Thần phải can thiệp vào những lần sáng tạo và những lần xức dầu, Đấng bay là là trên mặt nước trong Sáng thế ký, Đấng làm cho Ngôi Lời nhập thể trong lòng Mẹ Maria và là Đấng phải tác động mạnh đến Ngài để làm cho Ngài thành Đấng Cứu Thế hằng được đợi trông (Is 11,1-9).
Đây là lúc: “Chúa Giêsu thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Ngài”. Ngài long trọng nhậm chức cứu thế: Ngài là Đấng được xức dầu (Đấng Cứu Thế trong tiếng Do thái và Kitô trong tiếng Hy lạp có nghĩa là được xức dầu). Giêsu Nadaret là Đấng Israel trông mong, toàn bộ Lịch sử thánh từ từ tiến tới lúc Thánh Thần tác động trên Giêsu để rồi giao cho Ngài sứ mạng của Đấng được xức dầu.
Đó là điều đã được chờ đợi. Điều bất ngờ cũng đến từ trời, tức là Thiên Chúa: “Có tiếng từ trời phán bảo: Đây là Con yêu dấu của Ta”.
Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa! Sau biết bao thế kỷ chờ đợi, người Do thái vẫn từ chối mạc khải này. Họ vẫn còn chờ đơi Đấng Cứu Thế, và đây là sự hiểu lầm to lớn nhất trong lịch sử. Giêsu-Đấng Cứu Thế, Giêsu- Kitô đã làm họ lạc hướng do những vẻ bề ngoài thực sự quá đơn sơ: “Đấng Cứu Thế là con của bác thợ mộc!”. Nhưng đồng thời Ngài làm họ ghê tởm do ý định mà họ đoán được: “Một người phàm làm ra vẻ là Con của Thiên Chúa, thật là phạm thượng!”
Chúng ta đừng vội nghĩ rằng giờ đây tất cả đối với chúng ta đều đơn giản. Mỗi tình tiết của Phúc Âm và thậm chí mỗi từ trong đó đều là những giai đoạn của một bước đầu rèn luyện rất khó khăn của chúng ta: hiểu cho được sứ mạng của Chúa Giêsu-Đấng Cứu Thế và bản thể Con Thiên Chúa của Ngài, cho đến khi chính chúng ta sống và làm cho thế giới sống cái sứ mạng đó.
Matthêu, Matcô và Luca đều bắt đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu bằng biến cố lớn lao đi vào hoạt động này, trời mở ra, Thánh Thần hiện xuống và lời tuyên bố của Chúa Cha, để chúng ta đọc toàn bộ Phúc Âm dưới hai ánh sáng. Đó là ánh sáng Cứu thế: “Ngài thấy Thánh Thần ngự xuống trên Ngài” và ánh sáng Ba Ngôi: “Đây là Con Ta yêu dấu”.
Tất cả đều được nói lên bằng rất ít lời nhưng sự suy niệm của chúng ta phải tạo cho chúng một ánh sáng mà chúng ta sẽ không bao giờ ngưng thấy nơi Giêsu Đấng Cứu Thế-Con Thiên Chúa.
Các lễ Giáng Sinh, Thánh Gia, và Hiển Linh vẫn còn thật gần gũi. Dẫu vậy, rất nhanh. Giáo Hội muốn làm cho chúng ta bỏ Tin Mừng tuổi thơ để đề cập cái chính yếu: tác vụ công khai... cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu ...
Bấy giờ Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan...
Chúng ta đừng quên những hoàn cảnh lịch sử của “biến cố" mà người ta có thể xác định thời gian vào cuối năm 27.
“Đức Giêsu” ... một người vẫn không ai biết.
“Từ miền Galilê đến" tỉnh xa xôi này một nửa ngoại giáo bị khinh để bởi những người dân cư miền Giuđê và Giêrusalem, lãnh địa linh thánh tiêu biểu mà Thiên Chúa cư ngụ. “Bất chợt... xuất hiện". Cái người vô danh này, đến từ một làng cũng tăm tối, bây giờ vào cuộc.
Chúng ta những người đang sống hơn hai nghìn năm sau, chúng ta bây giờ biết Đức Giêsu sắp thay đổi bộ mặt địa cầu. Người khoảng 30 tuổi. Người ta không biết gì về ông ấy. Một cuộc yên lặng 30 năm.
Trên bờ sông Giođan. A! Con sông này, tất cả đã khởi đầu trên bờ của nó! Một con sông độc nhất vô nhị trên thế gian, kể cả nói về mặt địa lý. Tiếng "Giođan”, trong ngôn ngữ Do Thái có nghĩa là "người đi xuống", từ gốc "yarad" "đi xuống Con sông Giođan, thực tế là con sông độc nhất phải xuống quá thấp! Nó bắt nguồn trên đồi Hécmôn, cao 520 mét, dài 220 cây số, chấm dứt ở Biển Chết, ở sâu 394m dưới mực nước biển. Thật là quá thấp!
Như thế sự xuống thấp này là cái gì vậy, con sông kỳ lạ này biểu trưng cho vực thẳm nào vậy?
Đức Giêsu đến gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình.
Thực sự việc vào cuộc này gây lắm hoang mang.
Phép rửa mà Đức Giêsu đến xin Gioan làm, đó là một phép rữa sám hối, dấu hiệu công khai chỉ là người ta hối tiếc về các lỗi lầm của mình làm, người ta muốn thay đổi cuộc đời... "Tất cả miền Giuđê và tất cả miền Giođan đều xin ông Gioan làm phép rửa đồng thời xưng thú tội lỗi mình phạm".
Tôi dành thời gian nhìn ngắm Đức Giêsu, trong hàng người đánh cá đợi đến lượt mình. Một trực giác sáng ngời và không thể lầm lẫn được, bỗng chốc đem Đức Giêsu đến đỉnh cao của tính nhân bản, nơi đó sự hiện diện của Thánh Linh linh hoạt nhất, nơi đó sự chờ đợi của Thiên Chúa sống động nhất... Đức Giêsu tức khắc đến nhập bọn với những người tội lỗi... tại chỗ mà Thiên Chúa tác động vào lòng họ, tại chỗ mà họ quyết tâm sám hối..
Phép rửa của Đức Giêsu, được cả bốn sách Tin Mừng chứng thực, là một sự kiện lịch sử không thể chối cãi được? không bao giờ những Kitô hữu đầu tiên lại bịa chuyện Đức Giêsu chịu phép rửa sám hối, quá trái ngược với ý nghĩ mà họ đang tạo dựng cho họ một Đấng Mêsia, nếu sự kiện không bắt họ phải nhận, khiến cho người ta phải hoang mang theo các luận giải của con người.
Còn tôi? Có phải tôi phán đoán những người có tội trên đỉnh cao vững vàng về đạo đức của tôi không? Có phải tôi cảm thấy có liên đới về nhân loại tội lỗi không?
Có phải tôi lên án không? Hay là phải chăng thái độ của Đức Giêsu đòi hỏi tôi... nâng đỡ, vâ cứu thoát những người làm điều xấu chung quanh tôi ư?
Gioan môt mực can Người và nói: Chính tôi mới cần Ngài làm phép rửa thế mà Ngài lại đến với tôi!
Đúng thế, Gioan được yêu cầu có sự đổi lại ý thế nào? ông báo tin có một Đấng Mêsia - quan xét, sắp sửa đốn tất cả những cây cối không sinh hoa quả và đem vào lửa đốt tất cả mọi thứ rác rưởi phù phiếm (Mt 3,7-12). Và Đức Giêsu đến Chịu phép rửa sám hối! Đó là thế giới đảo ngược. Chính ý tưởng của Thiên Chúa lật ngược. Trái ngược với mọi chờ đợi của mình, Gioan Tẩy Giả sẽ làm phép rửa cho “người con có quyền lực hơn mình" (Mt 3,11). Gioan phản đối. Đó là một sự khiêu khích! ông muốn ngăn Đức Giêsu nhận cử chỉ này.
Như thế có gì xảy ra trong phép rửa này? Có điều gì quan trong được tiết lộ trong đó? Ta đứng ngưng lại ở cái bề mặt của cử chỉ này. Chắc chắn có một sự mạc khải chờ đợi chúng ta đó.”
Nhưng Đức Giêsu trả lời: Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.
Đó là “lời nói đầu tiên" của Đức Giêsu trong sách Tin Mừng Matthêu. Nó chứng tỏ môt sự trưởng thành bản vị một cách tuyệt đối đặc biệt. Quân bình biết mấy! ý thức về sứ mệnh của mình biết mấy nơi con người này! Khi Người ta giản lược Đức Giêsu chỉ là một con người mà Giáo hội đã Thiên Chúa hóa... hay là một con người đã nhận thức dần dần mình là Thiên Chúa... thì người ta đi qua một cách hoàn toàn đơn giản cái huyền nhiệm duy nhất về bản tính của người.
Những năm tối tăm ở Nadarét không phải là những năm trống rỗng. Đức Giêsu là một người Do Thái. Như tất cả mọi người Do Thái, người thấm nhiễm bộ Torah, Lời Thiên Chúa. Và này đây, một cách hoàn toàn đơn giản, Người nói lên trong lời nói đầu tiên công khai của người. Hai tiếng xác định bản chất của người; thực thi... công chính. Hai từ Kinh Thánh cực kỳ xúc tích. Hai từ tiêu biểu trong các từ vựng của Matthêu.
“Hoàn tất", "pleroum"... "sự công chính "dikaiosunê"... Thuật ngữ công chính sẽ hay được nói đến (Mt 5,6.10.20 - 6,11.21.32). Sống công chính, tức là đáp lại chính xác ý muốn của Thiên Chúa: một hành động của con người phản ánh cái ý muốn của Chúa. "Hoàn tất" tức là một hành vi hoàn hảo, đầy tràn sự tinh tế ở chỗ là "giữ gìn trong khi biến đổi... hoàn thành trong khi bảo vệ”. Hoàn tất là một hành vi hoàn hảo nhất mà một người có thể làm. Còn chúng ta, chúng ta chiến đấu với nhau giữa những "người luôn tiến tới" và "những người giữ truyền thống", giữa những người cải tiến và những người bảo thủ. Nơi Đức Giêsu, chính người vừa trung thành với truyền thống của mọi thời đại và đồng thời người canh tân, đổi mới, làm cho đến cùng: đó chính là nguyên tắc của cuộc sống, tức là không bao giờ gián đoạn trọn vẹn với quá khứ, mà phóng đến tương lai.
Này nhé, Chúa không bao giờ là một người làm cách mạng, nhưng Người biến đổi tất cả. Người xin Gioan, người cuối cùng trong các ngôn sứ của Cựu ước, đón nhận phép rửa của người, trong chuỗi người tội lỗi, với tất cả mọi người... như tất cả mọi người.
Nhưng chú ý! Sẽ đột ngột bùng ra một cuộc canh tân.
Bấy giờ ông Gioan mới để cho Người làm.
Khiêm tốn biết mấy trong những từ quá nghèo nàn đến thế. Người ta không nói rằng Gioan đã hiểu. Chỉ đơn giản, ông để cho làm. Ông tự xóa bỏ mình đi, ông phải thay đổi cái khái niệm hiếu thắng mà ông có về Đấng Mêsia. Có lẽ ông đoán một con người huyền nhiệm đang đứng trước mặt ông chăng? Cả chúng ta, ta hãy bước vào huyền nhiệm này... bên ngoài tất cả.
Bởi vì, chính ở đó tất cả kết thúc trong câu truyện này. Ta hãy lắng nghe.
Ngay khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong. Người ở dưới nước đi lên.
Phép rửa không được miêu tả. Người ta không mô tả một cảnh tượng. Câu chuyện cực kỳ ít lời, dè dặt hoàn toàn. Matthêu chỉ kể ra sự kiện bằng một phân từ đơn giản: được làm phép Rửa... Đức Giêsu đi từ dưới nước lên. Chúng ta chỉ được nói rằng Đức Giêsu đã hoàn tất hai động tác: "Người xuống nước... Người từ dưới nước lên... động tác đi về phía sông Giođan, chỗ thấp nhất trên hành tinh này, nhưng là động tác của Thiên Chúa đến gặp gỡ loài người tội lỗi, Đức Giêsu ... Sinh ra, chịu khổ hình thập giá chết, táng trong mồ xuống nơi luyện hình... một cuộc đi xuống đến chóng mặt!... sống lại, từ trong kẻ chết và lên trời…”
Này đây các tầng trời mở ra...
Tầng trời mở ra. Thiên Chúa Hiển Linh. Cuộc hiển linh của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra. Hình ảnh hình tượng về tầng trời mở ra thường thấy trong Kinh Thánh để nói rằng một sự giao thông được thiết lập giữa thiên giới và con người được chấp nhận cho sống những bí mật của Thiên Chúa (Ex 1,1; Kh 19,11; Cv 7,56 ...)
Chúng ta, chính chúng ta cứ luôn luôn nghĩ rằng trời đóng lại, không thể tới được. Dẫu vậy tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, đều nhờ Người mà trời mở ra sẵn trên đầu họ.
Và người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người.
Chúng ta đã chú ý rằng đây không phải là việc mô tả một cảnh tượng: Đó là một huyền nhiệm... Matthêu không nói rằng đã có một con chim bồ câu. Người nói rằng Thần Khí đáp xuống có phần như một con chim bồ câu. Trạng ngữ “có phần như" không bổ nghĩa cho Thần Khí, mà là cho từ "đáp xuống”. Đó là một hình ảnh kỳ diệu mang theo ý nghĩa. Một số văn bản rabbi đã so sánh động tác của Thần Khí Thiên Chúa với động tác chim bồ câu bay lượn trên chuồng của chúng nhưng không chạm xuống, đúng bằng cách như thế Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước thời nguyên thủy (St 1,2). Mũi nhọn của sự so sánh là nhấn mạnh tính cách đồng thời đến: Tính chất khác biệt của Thần Khí, vẫn phân biệt với thế giới thụ tạo, mà Đức Giêsu là một phân tử có tính cách con người , do thân xác của Người.... Sự dịu dàng và sự gần gũi của hành vi Thiên Chúa: phân biệt với Đức Giêsu, Thần Khí vẫn ở đó, rất gần gũi như thể người bay lượn trên chuồng của Người, từ nơi đó vùng lên mầm của sự sống. Thần Khí là Chúa và Người ban cho sự sống.
Và có tiếng từ Trời phán ra: Đây là Con yêu dấu Ta, Ta hài lòng về Người.
Tất cả Phương Đông tin kính Đức Giêsu chịu phép rửa, cũng như Ba Ngôi Thiên Chúa Hiển Linh. Và Thánh Cyrillee thành Giêrusalem chú giải: "muốn có một Đức Kitô (Đấng chịu Xức Dầu), phải có một Đấng nào đó Xức Dầu cho Người, tức Chúa Cha, và một Đấng nào đó là sự Xức Dầu, tức Thánh Linh. Không có Thiên Chúa Ba Ngôi thì từ Đức Kitô đã không có ý nghĩa gì!".
Chính vì thế mà tượng Thiên Chúa hiển linh biểu thị Đức Giêsu đứng dưới sông Giođan... ở trên cao một bàn tay biểu trưng Đấng đến Xức Dầu, Chúa Cha vô hình, mà tiếng của Người làm chứng cho Đức Giêsu . Đức Giêsu là một trong những ngôi vị của Thiên Chúa Ba Ngôi Tình Yêu rất thánh: Hôm nay là sự mạc khải đầu tiên của huyền nhiệm này.
Gần nhà thờ Đức Bà là cả một quần thể panô, người ta dựng lên để quảng cáo cho những phim ảnh đang được trình chiếu tại các rạp trong thành phố. Dù muốn hay không muốn, mỗi lần đi qua, những tựa phim cứ trải ra như tấm thực đơn thơm nức mời mọc, đến nỗi một người bạn thấy thế có lần đã thốt lên câu đùa: “Nếu chịu khó xem hết những panô quảng cáo này, người ta có thể trở thành nhà điểm phim nghiệp dư đấy”. Ừ nhỉ! Không xem phim thì xem tựa phim, biết đâu lại chẳng là một cái thú?
Mấy tuần lễ gần đây, thử để ý, đã thấy xuất hiện một cuốn phim mới tựa đề “Điểm hẹn bất ngờ”. Chẳng biết nội dung thế nào, nhưng tựa phim ấy đã âm thầm đi vào bộ nhớ, để rồi chợt lóe lên khi tiếp cận với trang Tin Mừng hôm nay, đến nỗi cũng muốn gọi lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa như là một điểm hẹn bất ngờ.
1) Điểm hẹn bất ngờ giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu.
Phúc Âm Nhất Lãm đưa ra ba bản văn song song rất giống nhau về việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa, nhưng riêng bản văn của Matthêu mới có mẩu đối thoại ngắn giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu như được trích đọc trong Tin Mừng hôm nay. Và chính mẩu đối thoại tưởng như trầm chìm ấy lại là một bất ngờ lý thú làm nên điểm hẹn cho phép Rửa nơi sông Giođan.
Khi giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng, Gioan Tẩy Giả đã tuyên bố rằng mình chỉ là tiếng kêu bên ngoài, còn Đức Giêsu mới là Lời làm nên ý nghĩa; mình chỉ là cát hoang trải dài sa mạc, còn Đức Giêsu mới là Nẻo Đường thênh thang đi tới; mình dẫu đến trước nhưng lại có sau, còn Đức Giêsu dẫu đến sau nhưng hằng có trước; và mình chỉ rửa trong nước, còn Đức Giêsu mới là Đấng sẽ rửa chính thức trong Thánh Thần. Ông tự nhận mình không đáng xách dép cho Đấng Cứu Thế. Ấy thế mà, bất ngờ thay, chính Đức Giêsu lại đến với Gioan Tẩy Giả nằng nặc đòi ông làm phép Rửa cho mình: chủ sự bước xuống làm thụ nhân, còn thụ nhân lại miễn cưỡng đóng vai chủ sự.
Điều bất ngờ là điều người ta không chờ đợi. Ở đây còn mạnh nghĩa hơn, bởi điều đó Gioan Tẩy Giả không hề nghĩ tới nên dám đâu đợi chờ. Và vì thế, bất ngờ lại càng bất ngờ hơn. Nhưng chính điều bất ngờ ấy đã thành điểm hẹn giao ca thế hệ giữa Cựu Ước mà Gioan Tẩy Giả là đại biểu kết thúc với Tân Ước mà Đức Giêsu là Đấng khởi đầu.
Đồng thời, đó cũng là điểm hẹn gặp gỡ bất ngờ trong việc “chu toàn thánh ý Chúa”. Nơi Đức Giêsu, đó là việc Người sống lấy thái độ công chính của Israel, nhưng lại đưa sự công chính ấy tới đỉnh cao hoàn thiện, cũng như khi chịu phép Rửa bởi nước, Người đã thánh hóa chính nguồn nước tái sinh. Còn nơi Gioan Tẩy Giả, đó là việc ông đổ nước cho Đức Giêsu, một vinh dự đến bất ngờ, nhưng cũng chính vào giờ phút ấy, ông cảm nhận rất rõ rằng sứ vụ của mình tới đây đã mãn: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”. Hình như ông đã sẵn sàng để chịu một phép Rửa khác, cũng là điểm hẹn bất ngờ cho ông: đó là kiếp ngục tù.
2) Điểm hẹn bất ngờ giữa người Tôi Tớ đau khổ và Người Con chí ái.
Nếu bên ngoài, việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa đã là một điểm hẹn cho Gioan Tẩy Giả gặp gỡ Đấng Cứu Thế, thì đi sâu vào chính mầu nhiệm, đó còn là điểm hẹn bất ngờ giữa người Tôi Tớ mà Tiên tri Isaia đã ghi lại trong bài ca thứ nhất (bài đọc thứ nhất) và Người Con chí ái của Chúa Cha mà phần sau trích đoạn Tin Mừng đã nêu lên, làm thành một lễ Hiển Linh mới cho tất cả những ai cần được cứu độ.
Khi bước xuống dòng sông phép Rửa, Đức Giêsu tỏ mình ra không chỉ là Đấng đã đến sống giữa con người, mà còn là Đấng sống cho con người bằng cách đón nhận vào mình đời sống thực thụ của họ, để trọn vẹn liên đới với họ mọi mặt, kể cả mặt yếu đuối tăm tối đớn hèn nhất là thân phận tội nhân. Người là tôi tớ của Giavê đã tự nguyện gánh tội trần gian, đã tự hạ chịu hết mọi nỗi đau của toàn thể dân mình, và mặc dầu chẳng vướng tội nhơ, Người đã nhẫn nhục cúi xuống lãnh nhận phép Rửa thống hối chỉ vì muốn liên đới đến cùng với mọi tội nhân.
Nhưng bất ngờ làm sao, chính khi bước lên từ dòng sông phép Rửa ấy, Đức Giêsu lại tỏ mình ra trong một quang cảnh hoàn toàn khác lạ, làm thành đỉnh cao của toàn thể mầu nhiệm Hiển Linh: Người được tiếng từ trời xác nhận là Con chí ái và được Thánh Thần tấn phong làm Đấng quy tụ tất cả nhân loại về một đầu mối cứu độ. Đất bỗng gặp Trời, Người Tôi Tớ đau khổ bỗng hóa nên Người Con chí ái, và Người tự hạ xóa mình ra không lại bất ngờ nên Đấng vừa làm đẹp lòng Cha, vừa làm thỏa lòng mong ước của bao thuở đợi chờ.
Và như thế, dòng sông phép Rửa đã nên điểm hẹn bất ngờ để Chúa Giêsu tỏ mình cho nhân loại: Người vốn là Con chí ái của Chúa Cha, nhưng đã tự hạ làm người Tôi Tớ, và khi đi đến cùng trong đau khổ, Người là Đấng thuộc về Trời cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
3) Điểm hẹn bất ngờ giữa đời làm người và đời làm con Chúa.
Điểm hẹn bất ngờ nơi sông Giođan, đối với Chúa Giêsu, đã như một dự báo về công cuộc Tử Nạn và Phục Sinh, để từ đó mở ra những điểm hẹn mới cho tất cả những ai đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.
Được trở nên chi thể Chúa Kitô, được thông phần sự sống thiên linh và được trở nên con Thiên Chúa: đó là thiên chức của đời tín hữu. Nhưng thiên chức ấy không miễn chuẩn cho họ khỏi phải chu toàn những trách vụ trong đời sống trần thế mà họ là thành phần. Do đó, đời tín hữu chính là một điểm hẹn bất ngờ giữa cuộc sống đời và cuộc sống đạo, giữa phận làm con người và phận làm con Chúa, giữa sự sống nhân linh và sự sống thiên linh. Vấn đề được đặt ra ở đây là làm sao chu toàn được cả hai mặt sống trong cùng một cuộc đời, làm sao cho mặt ân sủng không bị nhận chìm vì nhu cầu cơm áo, và làm sao cho mặt đời thường được nâng lên ngang tầm với sức mạnh của thánh ân?
Sẽ là một điểm hẹn đáng buồn nếu như hai mặt sống không có sự đồng bộ, sẽ là một điểm hẹn đáng trách nếu đạo đời vẫn tiếp tục ly thân; nhưng sẽ là một điểm hẹn của niềm vui nếu như đời tín hữu là một đời biết chu toàn thánh ý Chúa, cho dẫu nhiều khi vì thánh ý mà phải chấp nhận một số thiệt thòi nào đó trong đời.
Và bởi vì việc Chúa chịu phép Rửa là một bất ngờ về tình liên đới, nên giới luật yêu thương với những hành động cụ thể cũng là một điểm hẹn đem lại những hiệu quả bất ngờ nhất cho những kẻ sống tinh thần của con Chúa trong phận kiếp của con người. Biết liên đới là biết dẹp bỏ mọi hàng rào cản lối yêu thương, và sống liên đới cũng có nghĩa là không mệt mỏi vượt qua những ranh giới vị kỷ của bản thân mình, để không chỉ đón nhận người khác mà còn quan tâm thăng tiến họ nữa.
Hôm nay Phụng Vụ khép lại Mùa Giáng Sinh, đồng thời mở ra Mùa Thường Niên. Không còn nữa những tưng bừng bên ngoài, nhưng vẫn có đó một sâu lắng niềm vui. Bởi cuộc đời Chúa Kitô là điểm hẹn giữa thiên tính và nhân tính để bất ngờ mở ra mùa cứu độ, cuộc đời mỗi Kitô hữu cũng muốn là điểm hẹn giữa ơn thánh Chúa và nỗ lực con người để xin được vươn tới những bất ngờ hạnh phúc.
Ở đời, khi người ta dựng vợ gã chồng cho con cái thường chọn nơi môn đăng hộ đối; khi chọn bạn mà chơi thì cũng chọn người hiền, bình thường ai cũng chọn cái tốt cái hay, không ai lại chọn cái xấu cái dở bao giờ.Thiên Chúa là Đấng Thánh, nếu Người vào đời mà liên đới với những bậc Thánh Hiền, với những Người Công Chính thì chẳng ai phản đối. Nhưng không, Chúa Giêsu đã gắn bó thân phận mình với loài người tội lỗi.Trước khi bắt đầu công cuộc rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ thật lạ lùng là Người tới bên bờ sông Giođan và xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Dân chúng đến xin Gioan làm phép rửa thì chúng ta hiểu được, vì mọi người đều có tội, nên đã phải thú tội để biểu lộ lòng hoán cải và xin ơn tha thứ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu, Người là Đấng vô tội, là Đấng Thánh, vì thế Gioan đã thốt lên: “Chính tôi cần phải được Ngài thanh tẩy cho, thế mà Ngài lại đến với tôi” (Mt 3,14). Gioan bối rối khước từ, bởi lẽ Đấng mà ông không đáng xách dép, Đấng là thẩm phán quyền uy, Đấng ban phép rửa trong Thánh Thần, Đấng ấy lại cúi mình xin ông làm phép rửa, thế nhưng Người đã trả lời: “Bây giờ cứ thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3,17).
Gioan đã kêu gọi dân chúng chịu phép rửa “để tỏ lòng sám hối và được ơn tha tội”.Chúa Giêsu là Đấng Thánh, Người không có tội gì để mà sám hối và Người cũng chẳng cần đến ơn tha tội. Vậy nếu Chúa Giêsu chịu phép rửa là chính bởi vì Ngài muốn dấn thân nhập cuộc liên đới với nhân loại, Người muốn đi tới cùng, chấp nhận mang vào thân kiếp người tội lỗi cần được thanh tẩy và đổi mới. Thánh Phêrô đã viết trong thư thứ nhất thật sâu sắc “ tội lỗi của chúng ta, Người đã mang lấy vào thân thể mà đưa lên cây thập giá” (1Pr 2,24). Chúa Giêsu không chỉ tha tội, xoá tội mà còn gánh lấy tội nhân loại, đem nó vào thân thể Người để biến đổi, gạn lọc, đổi mới thành hương thơm sắc đẹp. Người đã biến đổi ngay chính trong bản thân mình tất cả tội lỗi của trần gian, làm cho nó trở nên thánh đức.
Phép rửa mà hôm nay Chúa Giêsu lãnh nhận bởi tay Gioan Tẩy Giả chỉ là một hình ảnh báo trước phép rửa hoàn hảo và tuyệt đối hơn vì nó có khả năng tái sinh đổi mới con người. Khi chịu phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu đã công khai liên đới thân phận mình là Thiên Chúa, là Đấng Thánh với thân phận con người tội lỗi. Người không bao giờ phạm tội, Người không vướng một vết nhơ tội lỗi nào, nhưng đã không ngần ngại đến sống giữa nhân loại tội lỗi, đồng hành, đồng bàn ăn uống với những người thu thuế và những người tội lỗi.
Kẻ tội lỗi là kẻ đáng ghét, không ai thương người đáng ghét, nhưng Chúa Giêsu lại thương người tội lỗi, vì đối với Chúa kẻ tội lỗi đáng ghét nên đáng thương, đáng được chữa lành. Chúa Giêsu ghét tội lỗi nhưng lại thương tội nhân, Người đã hoà mình sống giữa họ, chia sẽ thân phận với họ rồi laị chia sẽ cho họ niềm vui được làm con cái Thiên Chúa và sự thánh thiện của Người. Những Giakêu, Lêvi, Mađalêna, người phụ nữ Samaria bên giếng Giacop đã được Người hoán cải đổi đời. Đó là một thái độ, một lập trường đi ngược với quan niệm thông thường của tôn giáo cũng như người đời.
Tôn giáo thì luôn tách biệt cái thánh thiêng ra khỏi cái phàm tục. Người ta luôn tôn kính các bậc thánh hiền, ông thánh này bà thánh nọ, ghét bỏ người tội lỗi. Còn Chúa Giêsu thì coi việc đến với người tội lỗi là sứ mạng của Người vì Người quan niệm rằng “người mạnh khoẻ không cần đến thầy thuốc, người ốm đau mới cần”. Bởi đó, Người đã nói: “Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”. Nhưng Chúa Giêsu không đứng ngoài hay đứng trên để kêu gọi sám hối mà người muốn cùng họ sám hối như thể thực sự Người cũng là một kẻ tội lỗi cần hoán cải. Do đó, Người đã xin chịu phép rửa của Gioan.
Nói theo Lão Tử, người sống 500 năm trước Chúa Giáng Sinh, thì việc làm của Chúa Giêsu khi chấp nhận dìm mình trong dòng nước sông Giođan chính là thực hiện lý tưởng “đồng kỳ trần” ( toả kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hoà kỳ quang, đồng kỳ trần; nghĩa là làm bớt chỗ bén nhọn, bỏ phân chia, hoà ánh sáng, đồng bụi bặm. {Đạo đức kinh IV,2; LVI,2}. Ý nói: nếu muốn hoà giải, hoà hợp với người khác thì phải bỏ óc kỳ thị phân chia, giảm bớt những gì là sắc bén nơi mình có thể gây nguy hại cho người khác, hoà cái sáng của mình với cái sáng của tha nhân, và cũng chia sẽ thân phận ‘bụi bặm” với người ta. Nói tóm lại là đừng nghĩ mình hơn người mà xa cách kỳ thị, nhưng phải thấy được cái sáng của người, đồng thời cũng thấy được cái bụi bặm nơi mình. Trích dẫn theo: Trái chín đầu mùa,trang 133. Lm Thiện Cẩm).
Trước sự hạ mình thẳm sâu của Đức Giêsu, Chúa Cha đã tôn vinh Người bằng việc sai phái Thánh Thần hiện xuống và bằng lời tuyen bố: Đây là con Ta yêu dấu.
Ba dấu hiệu mà Phúc âm nêu lên không những tiên báo sự sống lại vinh hiển của Đức Kitô mà còn tiên báo thời đại ân sủng mà Người mang đến cho loài người.
Dấu hiệu 1: Trời mở ra.
Sách Sáng thế đã nói: Ađam và Evà phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại ( St 3,23-24). Qua biết bao thế kỷ, Dân Thiên Chúa đã thiết tha cầu nguyện “Ôi ước chi Ngài xé rách các tầng trời và ngự xuống” ( Is 64,1). Nhờ Chúa Kitô, từ nay trời mở ra, một kiểu nói của Thánh kính ngụ ý là con người từ nay được sống thông hiệp với Thiên Chúa.
Dấu hiệu 2: Thánh thần ngự xuống như chim bồ câu.
Sách Sáng Thế có nói:Trước khi tạo dựng trời đất, thì “Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St1,2) như để thông truyền sức sống. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu thì ngụ ý: Đức Giêsu là con người mới và trong Người nhân loại sẽ được tạo dựng lại, sẽ được đổi mới. Chính Thánh Phaolô xác định: “ Điều quan trọng chẳng phải là việc cắt bì hay không cắt bì, nhưng là trở thành tasọ vật mới” (Gal 6,15)
- Dấu hiệu 3: Lời của Chúa Cha:” Con là con yêu dấu của Ta…”.
Qua lời tuyên bố này chúng ta nhận biết Đức Giêsu là con thật của Thiên Chúa, và sau này Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết: những ai tin vào Ngươì và nhận phép rửa nhân danh Người thì cũng được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.
Ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức tới ân huệ cao trọng mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta nhờ Phép rửa của Người. Phép Rửa tội là cửa đưa chúng ta vào sự sống mới, vào Nước trời. Đó là bí tích đầu tiên của luật mới. Đó cũng là bí tích Chúa đã trao lại cho Giáo hội cùng với Tin mừng khi Người truyền cho các Tông đồ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” ( Mt 28,19). Vì the, Thánh Tẩy là bí tích của đức tin, làm cho loài người được tham dự vào bản tính Thiên Chúa và được ơn làm nghĩa tử, khởi đầu cuộc sống mới trong Đức Kiô. Do vậy, trong nghi thức tiếp nhận, Giáo hội luôn hỏi người dự tòng: “Con xin gì cùng Hội Thánh ?”. “Thưa, con xin đức tin”. “Đức tin mang lại điều gì cho con ? ”. “ Thưa, sự sống đời đời”. Và trước khi nhận bí tích Thánh Tẩy, người dự tòng xác nhận công khai từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin trước mặt cộng đoàn.
Người Kitô hữu được thánh hiến cho Thiên Chúa, đi vào đời sống hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần qua bí tích rửa tội. Ý thức ân huệ cao trọng này để mỗi người chúng ta xây dựng đền thờ tâm hồn mình xứng đáng cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị bằng một đời sống công chính, đạo đức, trong sạch.
Ngày lễ hôm nay vừa khép lại mùa Giáng Sinh, vừa mở ra mùa Thường Niên. Biến cố Chúa Giêsu đến dòng sông Giođan chịu phép rửa của Gioan vừa là sự kiện Con Thiên Chúa hiển linh cho mọi người, vừa là sự kiện khai mở cho cuộc rao giảng công khai của Chúa Giêsu. Qua biến cố nầy, ta học được bài học khiêm hạ và yêu thương mà Chúa Giêsu đã nêu gương cho ta.
Gioan, người dọn đường cho sự xuất hiện của Con Thiên Chúa, kêu gọi mọi người hãy ăn năn sám hối. Việc làm để tỏ lòng ăn năn là đến dòng sông Giođan để chịu phép rửa. Người người lũ lượt kéo đến với Gioan... Nhưng hôm nay, sự xuất hiện của một nhân vật đã gây ngỡ ngàng, bối rối cho Gioan. Nhân vật ấy chính là Chúa Giêsu. Đấng không vướng mắc một tội nào lại đến xin ông làm phép rửa! Đấng có quyền tha tội lại đứng vào hàng tội nhân! Gioan quá ngỡ ngàng không biết phải xử sự thế nào. Nhưng Chúa Giêsu đã giúp Gioan giải quyết vấn đề: "Bây giờ cứ làm thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính" (Mt 3,15).
Việc làm của Chúa Giêsu trước tiên đã nêu ra bài học về đức khiêm nhường. Thói thường không ai thích hạ mình xuống cả, chỉ muốn vươn lên hơn người, có khi vươn lên thái quá thành kiêu căng trước mặt người đời. Có một thời người ta dùng cụm từ "câu lạc bộ những người thích nổ" để nói về những người tự tâng bốc mình lên vượt hơn cái mình có được. Chính kiêu căng đã làm cho Ađam - Eva và cả nhân loại phải khổ. Chúa Giêsu đã sửa lại thái độ kiêu căng nầy, Ngài "vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, mà đã mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2,6-7). Ngài hạ mình xuống để nâng loài người sa ngã lên. Chính thái độ khiêm hạ đứng vào hàng tội nhân của Chúa Giêsu là động lực để ta nhìn lại mình, nhận ra mình là người tội lỗi cần đến ơn tha thứ của Chúa. Từ đó, ta mau mắn chạy đến tắm mình trong dòng sông ân sủng là phép giải tội, để luôn được đứng vào hàng con cái Chúa, có Chúa Giêsu dẫn đầu.
Trong đời sống thường ngày, khiêm hạ chính là nhìn nhận giá trị thật của chính mình: có những ưu điểm cần phát huy, nhưng cũng có những khuyết điểm cần sửa chữa. Tiếc rằng ngày nay người ta lại "tốt khoe, xấu che" , luôn tìm cách che đậy những khiếm khuyết và bằng mọi cách làm cho mình nổi trội với những ưu điểm, thậm chí là những ưu điểm giả tạo. Nhận ra giá trị thực của mình mới có thể giúp mình tiến bộ hơn.
Động lực thúc đẩy Chúa Giêsu có thái độ khiêm hạ chính là tình yêu của Ngài đối với nhân loại tội lỗi đang lầm than cơ khổ. Người đời có câu: "Yêu nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau trái bồ hòn cũng méo". Khi yêu, mọi khiếm khuyết, lỗi lầm của nhau sẽ được tha thứ, xoá bỏ. Ta hãy tập có cái nhìn yêu thương đối với mọi người mọi vật thì ta sẽ thấy thế giới nầy đáng yêu làm sao! Chiến tranh, chém giết, đau khổ đều xuất phát từ lòng thù hận, ghen ghét. Yêu thương sẽ giúp ta thấy mình không còn tranh đấu, không còn nhu cầu trổi vượt mà là sống khiêm nhu, hoà đồng với người, với vật.
Tham dự thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy chiêm ngắm nhiều về lòng khiêm hạ và yêu thương của Chúa Giêsu. Để khi trở về với đời sống thường nhật, ta sống yêu thương hơn, khiêm hạ hơn. Sống trong nền văn minh sự chết, ta được mời gọi góp phần xây dựng nền văn minh tình thương. Đời thay đổi khi ta thay đổi. Hãy sống sao để khi ra trước toà Chúa, ta nhận được lời nói thân thương của Ngài: "Con là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về con" .
Người ta vẫn có cảm tưởng, suốt quãng đời ẩn dật 30 của Chúa Giêsu tại làng Nagiarét có một cái gì đó thật lặng lẽ, thật êm đềm, nếu không nói được là hầu như Người bị lãng quên. Nhân loại, con người và mỗi người vẫn chưa nhận ra được sứ mạng Thiên sai của Chúa Giêsu. Do đó, trong suốt thời gian dài dằng dặc này, Gioan Tẩy Giả vẫn tiếp tục rao giảng và làm phép rửa sám hối cho dân chúng. Rồi,tới ngày Thiên Chúa Cha định, Chúa Giêsu đã xuất hiện công khai bên bờ sông Giorđan, nơi Ông Gioan đang làm phép rửa.
MỘT BIẾN CỐ. MỘT SỨ MẠNG. MỘT CON NGƯỜI:
Có thể nói được, đây là biến cố quan trọng, trước khi khai mạc sứ mạng công khai của Chúa Giêsu bởi vì lúc ấy, Chúa Giêsu vừa tròn 30 tuổi. Chúa Giêsu đến với Gioan và xin Gioan làm phép rửa cho mình. Đây là biến cố. Một biến cố đã được chuẩn bị cả 30 năm trời ở làng Nagiarét, nơi gia đình Thánh Gia. Biến cố này được chuẩn bị kỹ càng bằng cầu nguyện, bằng sự kết hiệp mật thiết của Chúa Giêsu với Chúa Cha. Gioan đã được Chúa Thánh Thần soi sáng, Ông biết rằng Ông đang đứng trước mặt: “ Con Chiên Thiên Chúa, Đấng Thiên sai, Đấng xóa tội trần gian “. Ông cũng hiểu rằng:” Đấng xin Ông làm phép rửa bằng nước sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần “, nên Ông Gioan đã từ chối: ” Chính tôi mới phải xin Ngài rửa cho, tại sao Ngài lại xin tôi ?”. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã thuyết phục Gioan Tẩy giả: ” Hãy làm theo ý Cha của Người “. Và rồi, khi Chúa Giêsu vừa lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần Chúa lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên Người và có tiếng từ trời phán: ” Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”. Phép rửa, Chúa Giêsu lãnh nhận bởi tay Gioan trong dòng sông Giorđan, khai mào cho sứ mạng và con đường cứu độ, con đường cứu thế của Chúa Giêsu. Đó là con đường của người tôi tớ đau khổ, con đường khiêm nhu, hiền lành. Con đường yêu thương, hiệp nhất và hòa bình. Chúa Giêsu quả là người tôi tớ của Giavê Thiên Chúa. Người đã bắt đầu sứ vụ raogiảng bằng việc tự hạ xếp hàng với những tội nhân dù Người hoàn toàn vô tội. Đúng, đây là một biến cố rất ư quan trọng bắt đầu sứ mạng của một con người, một cuộc đời.Cuộc đời của con người có tên Giêsu, Đấng Thiên sai, Đấng Mêsia, Đấng cứu thế.
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA ĐỂ LÀM GƯƠNG CHO CHÚNG TA:
Phép rửa mà Chúa Giêsu thiết lập hoàn toàn khác với phép rửa của Gioan tiền hô: Thánh Gioan chỉ lấy nước mà rửa để giục lòng người ta ăn năn thống hối, còn Chúa Giêsu đã rửa người ta bằng nước và Thánh Thần. Chính thánh Gioan đã tuyên bố: ” Phần ta, ta rửa các ngươi bằng nước để lo hối cải, còn Đấng sẽ đến sau ta và ta không đáng xách dép cho Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Thánh Thần và lửa “. Chúa Giêsu đã lập phép rửa để sinh ta lại làm con cái Chúa và làm con Hội Thánh. Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế để làm đẹp lòng Cha. Người sống hoàn toàn vâng phục và luôn hiếu thảo với Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đi xuống dòng sông Giorđan để dìm mình trong dòng sông sám hối. Chúa Giêsu hòa mình với các tội nhân để chết thay cho các tội nhân. Chúa là Con Thiên Chúa mà đã chấp nhận hòa mình với các tội nhân. Do đó, chúng ta là gì mà dám tự cao, tự mãn bởi vì tất cả chúng ta đều là tội nhân. Chúa cao sang hoàn toàn thánh thiện mà đã tự hạ dìm mình trong sông Giorđan. Chúng ta là gì mà dám ngẩng cao không dám tự hạ để lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa. Sám hối là bước đầu để đổi mới. Chúng ta hãy thực lòng sám hối, tự hạ để cúi xin Chúa thương ban ơn tha thứ. Chúa đã dìm mình trong dòng sông Giorđan sám hối để làm gương cho nhân loại, cho mọi người, cho mỗi người chúng con.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con không ngừng canh tân đổi mới, để chúng con luôn sẵn sàng khiêm tốn lãnh nhận ơn tha thứ vì chỉ mình Chúa là Đấng thánh, là Đấng giầu lòng tha thứ. Amen.
Sứ điệp Chúa nhật này rất quan trọng, vì biến cố Phép Rửa được trình bày trong cả 4 phúc âm.
Các tầng trời mở ra:
Dân Do thái cổ xưa vẫn nghĩ Trời là nơi ở của Thiên Chúa, còn đất là nơi cư ngụ của con người. Giữa hai khung cảnh có một ngăn cách lớn là bầu trời. Vào thời Chúa Giê-su, dân Do Thái có cảm tưởng bị Thiên Chúa bỏ rơi, họ bị xâm lược bởi người Assyria, Babylon, Hy lạp, La mã. Trong khoảng 400 năm Chúa chẳng phái một vị vua nào hùng mạnh như David, hoặc chí ít một tướng lãnh đạo tài ba như Giô-su-ê. Vì thế tiên tri Isaia đã kêu nài: “Hãy xé toang bầu trời và xuống cứu chúng tôi” (Is 63:19; Ps 144:5-7).
Hôm nay, với Phép rửa của Chúa, bầu trời mở ra, cộng đòan dân Chúa nhận biết: một lần nữa, Thiên Chúa đã can thiệp để chấm dứt sự chia cách với con người, sau một thời gian chờ đợi lâu dài, và để mở ra một kỷ nguyên mới.
Thánh Thần lấy hình chim bồ câu:
Việc ấy nhắc chúng ta nhớ: theo sách Sáng thế, trong buổi tạo thành, Thánh Thần Chúa đã bay lượn trên nước và làm cho nước được thánh hóa. Điều ấy ám chỉ rằng con người được tái tạo gần gũi với Thiên Chúa, vì trong Chúa Giê-su, A-dam mới, Thánh Thần được ban tặng cho những ai tin vào Người, khiến họ trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa.
“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”:
Là mệnh đề diễn tả bản văn Kinh thánh giúp chúng ta hiểu về con người và sứ mạng của Đức Giê-su. Thứ nhất câu nói: “Con là con Ta, hôm nay Ta sinh ra con (Ps 2) nguyên thủy nói về Đấng thiên sai mọi người trông đợi. Thứ hai: “Con đẹp lòng Ta” diễn nghĩa từ Isaia, mô tả người tôi tớ đau khổ, kẻ làm đẹp lòng Thiên Chúa vì hoàn toàn vâng lời chịu lụy. Như thế, là chỉ về Đức Giê-su, đấng Cứu thế chịu đau khổ.
Trước khi chịu phép Thánh tẩy, chúng ta như kẻ chết trong tội. Sau khi chịu phép Thánh tẩy, chúng ta trở thành con Thiên Chúa, được tháp nhập vào thân thể Chúa Giê-su. Mừng lễ trọng hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta, những kẻ đã chịu phép Thánh tẩy biết cộng tác với ân sủng trong phẩm chức làm con Thiên Chúa. Với tình yêu, chúng ta sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, vì Chính Ngài đã tuôn đổ tình yêu vô bờ bến của Ngài trên chúng ta.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Tuy nhiên, Phúc Âm Matthêu được viết, “Bấy giờ Đức Giêsu bỏ Galilê mà đến với Gioan (Tẩy Giả) bên sông Giođan để được ông thanh tẩy cho. Nhưng ông cản Ngài nói rằng: 'Chính tôi cần phải được Ngài thanh tẩy cho, thế mà Ngài lại đến với tôi!' Đức Giêsu đáp lại và bảo ông: 'Bây giờ cứ thế đã! Vì đương nhiên là chúng ta phải làm trọn như thế hết nghĩa công chính'. Bấy giờ ông mới để mặc Ngài” (Mt. 3:13-17)
Phúc Âm Matthêu giải thích rõ về phép rửa của Gioan Tẩy Giả, “Bấy giờ Giêrusalem và cả xứ Giuđê và khắp vùng giáp cận sông Giođan trẩy đến với ông và người ta nhờ ông thanh tẩy cho trong sông Giođan mà xưng thú tội lỗi” (Mt. 3:5-6).
Như vậy, người ta đến với Gioan xưng thú tội lỗi và nhờ ông làm phép rửa để chứng tỏ lòng thống hối ăn năn. Phép rửa Gioan thực hiện là nghi thức biểu lộ nhận thức về thực trạng tâm hồn và nghi thức thanh tẩy bày tỏ lòng thống hối, quyết tâm cải thiện.
Vậy Chúa Giêsu ăn năn thống hối điều chi mà chịu phép rửa, thực hiện nghi thức thanh tẩy với Gioan? Chúa Giêsu chịu phép rửa dạy cho chúng ta bài học gì nơi phương diện nào?
Chúa Giêsu trả lời rõ ràng, “Bây giờ cứ thế đã! Vì đương nhiên là chúng ta phải làm trọn như thế hết nghĩa công chính.” Xét thế, Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan cho giống như mọi người thời bấy giờ bởi sự bày tỏ lòng thống hối ăn năn qua hành động chịu phép rửa thời ấy được quan niệm trở nên công chính. Như vậy, sự công chính phát xuất tự lòng hồi tâm chân thành kiểm điểm, đối diện với chính mình và quyết chí cải thiện những điều thiếu sót chẳng nên.
Nơi phương diện chính trị, xã hội, mỗi tổ chức nhân sinh đều có những điều lệ thành viên phải chấp nhận thi hành và những nghi thức bày tỏ quyết định chấp thuận những điều lệ chung của tổ chức. Nơi khía cạnh này, Chúa Giêsu chịu phép rửa để được dân chúng chấp nhận hầu mở lòng đón nhận Tin Mừng Nước Trời Ngài rao giảng. Ngài đã nhập thể làm người, mang thân phận kiếp người nên chấp nhận phép rửa của Gioan giống như mọi người đã đến với ông thú nhận tội lỗi và chứng tỏ lòng ăn năn thống hối này bằng phép thanh tẩy do Gioan thực hiện.
Chúa Giêsu chịu phép rửa từ Gioan vì mục đích hòa nhập với con người hầu giúp họ đón nhận Tin Mừng Nước Trời. Ngài chịu phép rửa vì lợi ích tâm linh của mọi người.
Phúc Âm thánh Gioan ghi lại lời xưng tụng của Gioan Tẩy Giả, “Phần tôi, tôi đã không biết Ngài, nhưng để Ngài được tỏ mình ra với Israel nên tôi đã thực hiện phép rửa bằng nước” (Gn. 1:31). Như vậy, dân chúng đến cùng Gioan Tẩy Giả để thú nhận tội lỗi và chứng tỏ lòng thống hối bằng cách chịu phép rửa. Đàng khác, mục đích thực hiện nghi thức thanh tẩy của Gioan chính là cơ hội để Chúa Giêsu tỏ mình ra, công khai thực hiện sứ mạng rao giảng Tin Mừng.
Những công việc loan báo, thực hiện phép thanh tẩy của Gioan chỉ với mục đích chuẩn bị tâm hồn dân chúng để đón nhận Tin Mừng Nước Trời do Chúa Giêsu rao giảng. Chúng ta có sẵn lời rao giảng của Chúa Giêsu được ghi lại nơi Phúc Âm.
Lời Chúa khuyến khích chúng ta tự hỏi Chúa Giêsu đã rao giảng những gì? Tin Mừng Nước Trời là chi được Ngài rao giảng nơi Phúc Âm?
Biến cố Chúa Giêsu lĩnh phép Rửa tại sông Giodan là một trong 3 sự kiện của việc Hiển Linh và được cả 3 Phúc âm Nhất lãm thuật lại. Sự kiện này mang nhiều ý nghĩa và nhiều bài học sâu sắc.
I. Ý NGHĨA
Chúa chịu phép Rửa tại sông Giodan để công khai chấp nhận và khai mạc sứ vụ Mesia và cũng là bắt đầu cho một phép Rửa trọng đại, mang tính quyết định cho vận mạng của nhân loại, đó chính là cái chết đẫm máu và sự Phục sinh vinh hiển của Ngài.
Chúa chịu phép Rửa tại sông Giodan mạc khải mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha, Con và Thánh Thần và công cuộc cứu chuộc là công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi(Mt 3,16-17)
Sứ mạng của Chúa Giêsu là sứ mạng của người Tôi Trung, khiêm nhu, hiền từ mà Isaia đã loan báo(Bài đọc I), một sứ mạng của Trời Cao mang tính thần linh: “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài” (Bài đọc II)
Ngài khiêm tốn, huỷ mình ra như không, xuống tận chỗ thẳm sâu của con người khi đứng chung trong hàng ngũ các tội nhân đến xin Gioan làm phép Rửa (Lc 3, 21).
Ngài là Chiên TC, gánh tội trần gian,( Jn 1,29) dìm nó xuống dòng sông An Sủng để tẩy xóa nó.
Khai mở kỷ nguyên mới cho nhân loại. Từ nay Trời mở ra (x. Mt 3,16). Từ nay, nước không chỉ để uống và tắm rửa nhưng được thánh hóa, sử dụng cho cuộc sống đời đời và nhất là toàn thể vũ trụ được tham gia vào công trình cứu độ. Đó chính là khúc mở đầu cho một cuộc tân tạo dẫn tới những con người mới trong trời mới đất mới.
Xác nhận sứ vụ tiền hô của Gioan và công nhận phép Rửa mà ông cử hành xuất phát từ ý muốn của Trời cao: Dọn tâm hồn đón nhận ơn tha thứ
II. BÀI HỌC THỰC HÀNH
“Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3, 15a).
Biến cố Chúa chịu phép Rửa nhắc nhớ lại ơn huệ làm con Thiên Chúa và sứ vụ Tiên tri, Tư tế và Vương đế mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép Thánh Tẩy.
Đức Giêsu đã “trả lại” cho TC quyền của người Cha bằng cách tôn trọng, yêu mến và vâng phục Cha hoàn toàn: “Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người”. Tôi có trả lại cho Thiên Chúa quyền được yêu mên và tôn thờ không? Tôi có luôn nghĩ cách và cố gắng làm cho Chúa vui lòng không? Tôi có ý thức vinh dự được làm con Thiên Chúa không? Tôi có luôn cảm thấy tự hào là người kytô hữu không?
Chúa Giêsu đã trả lại cho Gioan Tẩy Giả quyền được xác nhận và khuyến khích cho công việc chính đáng của mình. Ai và những công iệc nào đang cần tôi ủng hộ, khuyến khích, động viên ?
Những người chung quanh tôi, những người kém may mắn, những tội nhân là những người có quyền được yêu mến, thông cảm, nâng đỡ. Thái độ của tôi với những người này là thế nào? Xa lánh hay gần gũi?
Chúa Giêsu và Gioan đã thực hiện tốt sứ vụ của mình. Đâu là sứ vụ của tôi và tôi đã thực hiện nó cách nào?
Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống xứng đáng là những người con dấu yêu của Chúa Cha, biết công tác với Chúa trong sứ mạng cứu nhân độ thế và làm chúng nhân cho công bình, bác ái, yêu thương và tự do giữa nhân gian. Amen
Hôm nay, bên dòng sông Giodan nhỏ xíu, đã diễn ra một việc thật trọng đại: người ta kéo đến xin Gioan rửa tội để tỏ lòng sám hối cho xứng đáng đón nhận Đấng Cứu Thế đến. Hết lượt người này, đến lượt người kia. Và trong đám người ấy lại có Đức Giêsu. Sự xuất hiện của Đức Giêsu đến xin nhận phép rửa, làm cho ông Gioan bối rối, đến mức từ chối: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi” (Mt 3,14). Ông Gioan có lý để từ chối, vì Ông đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Có lần ông đã nói: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dây giày cho Người” (Ga 1,26-27). Ông Gioan không hiểu được công việc của Đấng Cứu Thế, nhưng đã thuận tình làm theo ý của Ngài: “Bây giờ, cứ thế đã. Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt. 3,15).
Để giữ trọn đức công chính của một Thiên-Chúa-làm-người thật, là thi hành đúng ý của Thiên Chúa Cha: đã đến trần gian làm người trần gian là phải là chấp nhận đồng thân phận tội lỗi của con người, mặc dầu Ngài vô tội. Đức Giêsu như người Anh cả, vì thương đàn em nhân loại, mà nhận thay tội lỗi của các em trước mặt Cha. Một nghĩa cử khiêm tốn thâm sâu và yêu thương nồng nàn. Đúng như Thánh Phaolô suy tư: "Ðấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã làm cho Ngài thành tội vì chúng ta" (2C 5,21). Như vậy đức công chính mà Đức Giêsu muốn dạy cho chúng ta là muốn cứu vớt tội nhân, phải khiêm tốn hạ mình xuống đến tận cùng để hiểu tội nhân, để đòng cảm với tội nhân, hoặc để cứu vớt người chìm trong dòng sông tội, phải dìm mình xuống nước… Đức công chính của Thiên Chúa chính là Đức khiêm tốn thẳm sâu bắt nguồn từ tình yêu. Nói như thế, đồng nghĩa với khẳng định: bao lâu còn sống trong tình trạng kiêu ngạo và ích kỷ, bấy lâu chưa tìm ra sự công chính của Thiên Chúa, của Đức Kitô mẫu mực cứu thế.
Nhìn nhận sứ vụ của anh em
Hơn nữa, việc bằng lòng để cho Gioan làm phép rửa, chính là việc khiêm tốn nhìn nhận sứ vụ tiền hô của Gioan đã nhận từ ý định Thiên Chúa Cha. Đức Giêsu cúi đầu, để Gioan chu toàn sứ vụ. Bài học Đức Giêsu chịu phép rửa cho chúng ta: không chỉ xác nhận ơn gọi của mình, sứ vụ của mình, mà còn biết xác nhận ơn gọi và sứ vụ của người khác. Và một cách tích cực hơn, tạo điều kiện để anh em phát huy ơn gọi và chu toàn sứ vụ. Đức Giêsu không giữ thế độc-tôn-cứu-thế, rồi xem thường vai trò của Gioan trong chương trình của Chúa Cha, như chúng ta vẫn thường vấp phải
Tin mừng hôm nay gửi đến các gia đình sứ điệp nhìn nhận và tôn trọng vai trò của từng thành viên trong gia đình, và khiêm tốn hổ trợ nhau chu toàn bổn phận trong yêu thương. Ơn gọi hôn nhân và sứ vụ cứu thế chia đều cho mỗi thành viên, không tập trung nơi Cha, mẹ, vợ, chồng và nhất là cũng không tập trung nơi người làm ra kinh tế. Việc tôn trọng vai trò của nhau và giúp nhau nên thánh đòi hỏi nêu gương khiêm tốn Đức Giêsu bên sông Giodan hôm nay: không xem thường sứ vụ Gioan, ngược lại, để cho Gioan chu toàn sứ vụ làm phép rửa ngay đối với một Con Thiên Chúa Vô Tội. Giúp chồng chu toàn nhiệm vụ làm Cha, giúp vợ chu toàn nhiệm vụ làm Mẹ, giúp con cái nhận ra ơn gọi và chu toàn ơn gọi của mình… tất cả đều phải được thực hiện với lòng khiêm tốn yêu thương như Đức Giêsu, ấy chính là biến sứ điệp tin mừng hôm nay thành hạnh phúc thật trong Đức Công Chính của Thiên Chúa: Ý Chúa thể hiện trong gia đình.
Cũng vậy, trong giáo hội, việc giữ tư thế độc-tôn-cứu-thế, tình trạng xem thường nhau trong việc tông đồ, phủ nhận hoặc hơn thua với nhau những đóng góp cho công cuộc rao giảng tin mừng…vẫn còn nhan nhãn. Vai trò giáo dân với ơn gọi làm tông đồ vẫn chưa được xác nhận đúng mức, có khi còn bị coi nhẹ và phủ nhận nữa là đàng khác. Còn có những linh mục bị các linh mục khác xem thường là những Gioan Vianey thời đại, huống nữa là giáo dân. Không thoát ra được cái lưới trùm của thần dữ kiêu ngạo và ích kỷ trong lòng con người làm-chứng-nhân-Chúa-Kitô, thì không thể nhìn nhận ai khác ngoài mình, và đó là tín hiệu của một cuộc suy thoái trầm trọng cho Tin Mừng Chúa Kitô. Xin ghi chú là khiêm tốn nhìn nhận nhau và tạo điều kiện cho nhau chu toàn ơn gọi, không hẳn phải là tung hô nhau, vì việc tung hô nhau lại là một chiêu bài khác của thần dữ: hãy tập cho chúng tìm vinh quang cho nhau để vinh quang của Thiên Chúa bị lu mờ!
Một Cha xứ vừa nhận xứ trước lễ Giáng Sinh vài tháng, đã tổ chức lễ Giáng Sinh thành công và trong một bản tin giáo phận có câu: “ba mươi năm qua chưa hề có”. Thấy không ổn, bản tin đã sửa lại: “Hai Cha đã thổi bùng lên ngọn lửa mà các vị tiền nhiệm đã nhen nhúm”. Xét về mặt con người, thật tội nghiệp cho các vị tiền nhiệm đã nỗ lực với bao tâm huyết dọn đường cho người đến sau, mà người đời không nhìn thấy, không biết ơn hay ca tụng theo kiểu “có mới nới cũ”; nhưng xét về chương trình của Thiên Chúa thì ấy lại là thân phận của những con người tiền hô đích thực. Tiền hô để Thiên Chúa được tung hô, danh Thiên Chúa cả sáng, để Thiên Chúa được vinh quang.
Tôi nhớ câu chuyện bà già Kiệm trong góc núi đến xin một Cha sở cho gia nhập đạo Công Giáo, Cha bảo: “Học Giáo Lý đã”.
Bà ấy thưa: “ Thưa Cha, con đã học hai năm nay rồi”.
-“Bà đùa với tôi đấy hả? Ai dạy?”
-“Thưa Cha, bà bán cháo lòng dạy. Mỗi sáng, khi đẩy xe đến nhà con là vừa hết cháo. Chị em con chuyện trò với nhau. Chị ấy thực là một người công giáo tốt”.
-“Bán cháo lòng thì biết gì mà dạy? Sáng thứ 6 hằng tuần bà phải lên đây học, tôi dạy”.
Sau mấy tuần học, Cha sở ngộ ra bà nầy không những đã học Giáo lý mà còn có đường hướng sống tinh thần giáo lý đã học. Bà Kiệm được Rửa tội, và các bí tích gia nhập Kitô Giáo, bà bán cháo lòng đỡ đầu. Trong thánh lễ, cha sở vui mừng nói lên tâm tình biết ơn bà bán cháo lòng và mời gọi mọi người sống và phát huy ơn gọi chứng nhân.
Trong thời đại nầy, có những giáo dân đã âm thầm làm sứ vụ của Gioan Tiền Hô trên mọi nẽo đường dương thế, trên mọi lãnh vực cuộc đời. Tôi nghĩ họ sẽ có niềm vui rất lớn khi biết chính Đức Giêsu đang chia sẻ sứ vụ với họ, đang hiện diện để cổ vũ, để hổ trợ cho họ chu toàn ơn gọi chứng nhân Đức Kitô. Những người làm công tác Legio chẳng hạn, họ đã tìm về biết bao con chiên lạc, họ đã giới thiệu Đức Kitô đến với biết bao người…, nhưng trong khiêm tốn, âm thầm lặng lẽ… Giáo hội nhìn nhận vai trò của Giáo dân trong đời sống chứng nhân Tin mừng. Nhưng thiết nghĩ, để những trang tông huấn ấy thành hiện thực, đòi hỏi các thành phần trong giáo hội phải ghi nhận cách sâu sắc bài học Tin mừng hôm nay: Đức Giêsu cúi đầu, để Gioan chu toàn sứ vụ.
Thiên Chúa Cha yêu thương
“Khi Đức Giêsu vừa chịu phép rửa xong, Người lên khỏi nước. Lúc ấy các tầng trời mở ra; Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về người” (Mt 3,16-17; Mc 1,10-11; Lc 3,21-22)
Đức Giêsu được Thiên Chúa Cha tôn phong là một Đấng Mêsia mới (x.TV 2,7), khi Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống và được Thiên Chúa Cha giới thiệu cho nhân loại với lời giới thiệu đầy tình thương “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người”.
Như thế Đức Giêsu đã mở đầu sứ vụ cứu thế của Ngài bằng sự khiêm tốn tự hạ, nhìn nhận và phát huy sứ vụ Gioan, và nhất là, bằng niềm vui vì được Cha yêu thương, tín nhiệm và ủy thác. Và cả ba yếu tố khởi đầu nầy đã đi suốt hành trình cứu thế của Đức Giêsu: Khiêm tốn tự hạ cho đến bằng lòng chết trên thập giá, đồng bản án tử hình với tội nhân nguy hiểm nhất; chia sẻ sứ vụ cứu thế cho các tông đồ và phát huy sứ vụ của họ bằng những giáo huấn, và cuối cùng, luôn vui sống trong tình Cha yêu thương.
Nếu hành trình đức tin của mỗi tín hữu bắt đầu bằng một cuộc sám hối-thanh tẩy, trải qua giai đoạn được soi sáng để tiến đến chung khúc kết hiệp của tình yêu, thì biến cố trọng đại trên sông Giodan hôm nay đã tiên báo và mạc khải toàn vẹn hành trình cứu thế của Đức Giêsu, mẫu mực cứu thế cho mỗi người chúng ta.
Hành trình ấy, những kỷ niệm trên sông Giodan ấy có thể được nhắc lại cho chúng ta trong mỗi thánh lễ qua các phần sám hối-Nghe lời Chúa-Rước lễ, hoặccó thể thiết lập một ngày sống trong đời bằng việc kinh đầu ngày trong khiêm tốn, ngày sống lời Chúa trong yêu thương - phục vụ - tôn trọng, và đêm bình an trong tình yêu của Thiên Chúa Cha.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chịu phép rửa vì muốn nhận thay tội lỗi nhân loại, xin cho con biết khiêm tốn nhận ra những tội lỗi thiếu sót của mình.
Chúa đã chấp nhận cúi đầu nhận phép rửa, để thánh Gioan Tiền hô chu toàn sứ vụ, xin cho con biết nhìn nhận và tôn trọng ơn gọi của anh em.
Chúa đã được Chúa Cha yêu thương và giới thiệu với nhân loại, xin cho con sống đẹp lòng Chúa mỗi phút giây trong đời.
Dường như Chúa Giê-su có duyên nợ với người tội lỗi từ đầu đến cuối. Từ ngày khởi đầu cuộc đời công khai cho đến lúc nhắm mắt tắt hơi trên thập giá, lúc nào Chúa Giê-su cũng đồng hành, cùng hoà mình với người tội lỗi. Thế nên chẳng lạ gì người đương thời gọi Ngài là “bạn bè của quân thu thuế và phường tội lỗi” (Matthêu 11, 19)
Sau quãng thời gian ẩn dật lâu dài tại Na-da-rét, Chúa Giê-su lên đường thi hành sứ vụ. Việc đầu tiên Chúa Giê-su thực hiện trong giai đoạn quan trọng nầy là đến bên bờ sông Gio-đan, trà trộn giữa những người thu thuế, những tay cướp của giết người, những người đàng điếm, những tên côn đồ và với bao nhiêu người tội lỗi khác để nối gót dòng người tội lỗi, bước xuống lòng sông Gio-đan, chịu dìm mình trong nước và nhờ Gioan làm phép rửa cho mình như thể Ngài là người lắm tội.
Đến khi tuyển chọn tông đồ, thiếu gì người có quá khứ tốt lành đức hạnh, thế mà Chúa Giê-su lại chọn Lê-vi, một người thu thuế tội lỗi làm môn đệ của mình.
Trong số những phụ nữ tháp tùng Chúa Giê-su và đoàn môn đệ “cùng rảo qua các thành phố, làng mạc để rao giảng Tin Mừng, lại có cả Chị Maria Mađalêna, người đã được Chúa Giê-su cứu chữa cho thoát đến những bảy quỷ (!) và một số phụ nữ khác” (Luca 8, 1-3). Chúa đón nhận những chị em nầy như những người bạn đồng hành trên chặng đường thi hành sứ vụ.
Có lần ngồi dự tiệc trong nhà ông Si-môn biệt phái, Chúa Giê-su để cho một phụ nữ đầy tai tiếng quỳ khóc dưới chân, lấy nước mắt tưới ướt chân Ngài, lại lấy tóc thay khăn lau chân, xức cả dầu thơm sang quý lên đôi bàn chân và thậm chí không ngớt hôn chân Ngài. (Luca 7, 36-50)
Chúa Giê-su còn tỏ ra thân thiện với cả Trưởng Ty thuế vụ thành Giê-ri-cô là Da-kêu và không ngần ngại đến trọ tại nhà con người tội lỗi khét tiếng nầy (Luca 19, 1-10)
Thái độ thân thiện, gần gũi và cởi mở của Chúa Giê-su đối với người tội lỗi khiến “họ năng lui tới với Ngài, nên những người biệt phái và kinh sư xầm xì với nhau: “Ông nầy hay đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Luca 15, 1-3), hoặc người ta còn quy kết nặng nề hơn: “Đây là tay ăn nhậu, bàn bè của quân thu thuế và phường tội lỗi” (Matthêu 11, 19) và thậm chí, người ta còn xem Ngài là kẻ bất lương: “Nếu ông nầy chẳng làm điều ác, thì chúng tôi đã không nộp cho quan”. (Gioan 18,30)
Cuối cùng, trong cuộc khổ nạn, Chúa Giê-su lại trở thành người bạn đồng hành với hai tên tử tội, cùng vác thập giá với họ trên cùng một chặng đường, cùng chịu đóng đinh với họ chung một giờ trên đồi Can-vê và cùng chia sẻ với hai tội nhân ấy cái chết vô cùng thảm khốc trên thập giá.
Tất cả những sự kiện đó chứng tỏ tình thương bao la và sâu thẳm Chúa Giê-su dành cho hết mọi người, kể cả những người tội lỗi là hạng người bị dân Do-Thái ghét bỏ, lên án và loại trừ.
Phải nói rằng tình thương của Ngài dành cho người tội lỗi trọn vẹn đến nỗi Ngài đã “yêu thương họ cho đến cùng”, chẳng khác gì đã yêu thương các môn đệ thân tín (Gioan 13, 1). Vì thế, trước khi nhắm mắt tắt hơi, Ngài vẫn xót thương họ – kể cả những kẻ lăng nhục, kết án, hành hạ và đóng đinh Ngài - nên đã khẩn thiết nài xin Chúa Cha tha thứ những lỗi lầm của họ. (Luca 23, 34).
Lạy Chúa Giê-su là Đấng cao cả thánh thiện vô cùng,
Chúa đã hoá thân làm người và mang lấy tội lỗi thế gian. Chúa đã đồng hành với người tội lỗi, đã sống chan hoà với họ và dùng tình thương, sự quý trọng để cảm hoá những tâm hồn đáng thương đó.
Xin cho con đừng bao giờ quên rằng mình cũng là một người tội lỗi cần được hoán cải và đón nhận lòng xót thương của Chúa.
Xin cho con đừng đặt mình vào vị thế người công chính, đứng lên nơi cao cách biệt các tội nhân mà lên án anh chị em sa ngã lỗi lầm.
Xin cho con trở thành một bàn tay nối dài của Chúa, biết vươn ra để nắm lấy những bàn tay của những người sa ngã đang cần cứu vớt đỡ nâng.
Câu Lời Chúa trên đây có làm cho bạn suy nghĩ nào không, chứ riêng tôi thì có suy nghĩ như thế này:
1. Ân sủng của bí tích Rửa Tội thật là vô cùng lớn lao, mà có khi trong cuộc sống chúng ta quên mất không biết cảm tạ Thiên Chúa, ân sủng đó là: làm cho chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa, và tha tội nguyên tổ cũng như những tội mà chúng ta đã phạm trước khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội.
Bí tích Rửa Tội cũng dìm chúng ta trong nước, không phải nước của sông Gio-đan, nhưng là nước được thánh hóa bởi quyền năng Thiên Chúa, nước này đủ sức rửa sạch tội lỗi của chúng ta, và trả lại cho chúng ta ơn làm con Thiên Chúa, qua sự chết và sống lại của Chúa Giê-su. Đó chính là hồng ân cao quý nhất mà Chúa Giê-su có thể ban cho chúng ta, do đó mà Chúa Cha cũng nói với chúng ta như đã nói với Chúa Giê-su: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về con.” Chúa Cha không hài lòng sao được khi chính Con Một của Ngài đã vì chúng ta mà chết trên thập giá !
2. Chúa Giê-su chịu phép rửa xong, Thần Khí Thiên Chúa ngự trên Ngài để từ đó Ngài công khai rao giảng tin mừng Nước Trời cho mọi người.
Bạn và tôi cũng như thế, chúng ta có bổn phận rao giảng Tin Mừng cho mọi người, bởi vì ân sủng của bí tích Rửa Tội không phải là một trò đùa, hay như một bùa phép làm cho có lệ, nhưng là một dấu chỉ được sai đi, một tác động của Chúa Thánh Thần để chúng ta trở nên chứng nhân trung thành của Tin Mừng trong cuộc sống hôm nay.
Bạn thân mến,
Lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa là chấm dứt mùa giáng sinh, cũng có nghĩa là chúng ta đem mầu nhiệm giáng sinh ấy làm nền tảng để làm chứng có một Đấng Cứu Thế đã đến trong thế gian, Ngài đã sống và chia sẻ thân phận với con người, và vì yêu thương nên Ngài đã chịu khổ hình thập giá, đã chết đã sống lại và đã lên trời.
Đấng Cứu Thế ấy vẫn hằng ngày hiện diện với Giáo Hội với chúng ta qua bí tích Thánh Thể, và chúng ta sẽ là những chứng nhân của Ngài...
Nam Úc châu có bức tường truyền âm thanh. Đây là bức tường hình cong khá dài, xây bằng ximăng giữ nước cung cấp cho thành phố Adelaide. Dân chúng địa phương gọi là ‘bức tường thì thầm’ do sự kiện người đứng đầu này nói người đứng đầu kia nghe rõ như nghe trong điện thoại.
Bức tường cao đến gần trăm mét tính từ lòng suối. Điều đáng nói là bức tường truyền âm khá chính xác, rõ ràng. Âm thanh không bị ảnh hưởng bởi sức gió thổi bên ngoài. Tiếng nước vỗ phía bên kia bờ tường không làm loãng âm thanh. Lạ hơn nữa là ngoài trời mưa to thế mà âm thanh truyền đi vẫn chính xác.
DI ĐỘNG
Bức tường thì thầm nổi tiếng vì không cần giây mà vẫn truyền âm chính xác nhưng từ ngày có điện thoại cầm tay thì nó trở nên bình thường. Người ta biết nhiều đến điện thoại di động. Nhiều bạn trẻ chưa bao giờ dùng điện thoại nối giây, sanh đúng thời đại khoa học kĩ thuật nhảy vọt dùng điện thoại di động hay còn gọi là điện thoại cầm tay, không giây nhợ vừa đi vừa nói chuyện nên tặng cho nó cái tên điện thoại đi động.
Chưa kịp bắt nhịp với điện thoại di động thì mạng lưới di động khai sinh tạo nên làn sóng mới. Hết phát minh này đến phát minh khác người ta có bản đồ chỉ đường di động, tivi di động, các trò chơi điện tử di động. Trong tương lai còn nhiều thứ di động ra đời.
VÔ HÌNH
Máy điện tử liên lạc với nhau bằng một bức tường vô hình mắt thường không thể nhìn thấy. Những làn sóng vô hình này chui qua các cửa đóng kín, vượt qua các rào cản đến nơi máy nhận sóng.
Không ai chối cãi bức tường điện tử hiện hữu dù vô hình vì nó quá rõ ràng trong cuộc sống. Chúng vô hình, vô dạng, vô hương, vô sắc, nhẹ đến độ vô trọng lượng đối với mắt thường nhưng lại hữu hình, hữu dạng dưới ống kính điện tử, với mắt khoa học gia. Ngoài ra còn có bức tường lửa thanh lọc tin tức theo ý muốn và trên không gian có bức tường âm thanh. Thế giới vô hình có nhiều bức tường bí mật chưa ai nghĩ đến nói chi đến thắc mắc để bàn thảo.
CON MẮT
Tìm biết sự việc chúng ta cần đến con mắt. Tùy vào sự việc mà chúng ta cần đến loại mắt nào. Để thưởng thức sắc đẹp của cánh hoa, núi cao, biển rộng, sông dài cần đến mắt thường. Thi vị hoá những cảnh đó tạo nên những áng văn, vần thơ cần đến mắt thơ phú. Nhìn cùng cảnh vật có mắt cảm nhận, nhìn thấy; có mắt không nhận ra. Đây là mấu chốt gây bất đồng về nguồn gốc vũ trụ và màu nhiệm màu nước trời. Kẻ nhìn với mắt khoa học bất đồng với kẻ nhìn dưới mắt tâm linh. Kẻ giải thích vũ trụ dựa trên khoa học thuần tuý tự giới hạn tầm nhìn của họ trong khi kẻ tin Chúa nhận biết khoa học là một phần trong chương trình sáng tạo của Chúa.
TẦM NHÌN CỦA MẮT
Khoa học nào cũng có giới hạn của nó. Ra ngoài giới hạn thì khoa đó không đưa ra câu trả lời chính xác. Khi nói về tình cảm con người khoa học phải nhờ đến khoa tâm lí. Cần giải thích về hiện tượng xã hội người ta dựa vào khoa xã hội học. Tìm biết những văn hoá cổ truyền người ta dựa vào khoa khảo cổ và nói về mầu da, ngôn ngữ, phong tục người ta lại bám lấy giải thích của khoa nhân chủng học. Khi bàn về thần học khoa học không nhờ đến khoa thần học. Phải chăng đây là mâu thuẫn căn bản của các bộ óc đặt niềm tin vào khoa học thuần tuý.
BỨC TƯỜNG THÁNH
Phúc Âm ghi ngay sau khi chịu phép rửa Chúa Giêsu lên bờ sông lúc ấy trời mở ra. Thần Khí đáp xuống như hình chim bồ câu và có tiếng từ trời phán. ‘Đây là Con Ta hằng yêu dấu’.
Lời nói phát ra từ tầng mây cao thẳm, người nghe đứng bờ sông thế mà vẫn nghe rõ lời Ngài phán. Làm thế nào Chúa biết ngày giờ, nơi chốn Con Chúa chịu phép rửa để phát ra tiếng nói.
Giải thích sự việc này phải nhờ đến khoa thần học. Khoa này tin là có sự liên kết mật thiết giữa Thiên Chúa và loài người. Mọi thông tin liên lạc qua bức tường thần linh. Bức tường này ghi lại cuộc sống con người từng hơi thở, nhịp đập của con tin. Lời nói, việc làm, cảm xúc và ngay cả ý tưởng thầm kín bức tường thần linh đều ghi nhận. Bức tường thần linh nối kết đất trời. Mọi việc dưới đất liên quan đến trời và việc trên trời đều qua Chúa Giêsu, Đấng từ trời xuống thế. Thần linh biến hoá khôn lường khi hình chim bồ câu, hình lưỡi lửa hay gió thoảng và chỉ mắt đức tin nhận ra.
Chối bỏ sự hiện hữu của bức tường thần linh không giải quyết được vấn đề. Tốt hơn là chuyên tâm nghiên cứu, tìm tòi khám phá bức tường thần linh vì bức tường đó ghi nhận từng hơi thở, nhịp đập của con tim mỗi người. Khoa học không thể phủ nhận con mắt thơ phú, phủ nhận thần giao cách cảm của giác quan thứ sáu thì khoa học cũng không thể phủ nhận sự hiện hữu tồn tại của con mắt đức tin. Phủ nhận, chối bỏ chính là chấp nhận giới hạn, tự bó tay. Những gì khoa học bị giới hạn không có nghĩa là chúng không tồn tại trên đời. Tìm được kết quả sự kiện xảy ra hàng tỉ năm trước đây sao lại đầu hàng về biến cố sống lại của Chúa Giêsu xảy ra cách đây chưa đầy hai ngàn năm. Bức tường thần linh ghi rõ từng biến cố một tìm được bức tường thần linh là có câu trả lời chính xác. Thành quả kiếm tìm giúp bộ óc khoa học nhiều hơn các tín hữu Kitô vì Kitô hữu đã nhận biết bức tường thần linh qua con mắt đức tin.
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Matthêô. Khi ấy, Đức Chúa GIÊSU bỏ xứ Galilêa mà đến với ông Gioan ở Gio-đan, để ông làm phép rửa cho. Nhưng ông Gioan can Người rằng: ”Chính con phải được Ngài rửa, thế mà Ngài lại đến với con sao?” Đức Chúa GIÊSU liền đáp lại: ”Không sao, vì chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế”. Và bấy giờ ông Gioan chìu ý Người. Đức Chúa GIÊSU chịu phép rửa, rồi bước lên khỏi nước. Này đây, các tầng trời mở ra và Người thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống như một bồ câu và đậu trên Người. Và ngay lúc ấy, có tiếng từ Trời phán: ”Này là Con Yêu Dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta” (Mt 3,13-17).
Cuộc đối thoại ngắn ngủi giữa Đức Chúa GIÊSU và thánh Gioan Tẩy Giả (Gioan Tiền Hô) dạy tín hữu Công Giáo một bài học sâu xa sống động về nhân đức tuân phục.
Đúng thế. Từng lời nói, từng hành động, từng cử chỉ nhỏ nhặt của Đức Chúa GIÊSU - nơi cuộc sống dương thế - nhất nhất đều ăn khớp và nên một trong thánh ý THIÊN CHÚA CHA. Từ lúc mặc xác phàm đến khi trút hơi thở cuối cùng trên Thánh Giá, Đức Chúa GIÊSU đã hoàn tất chương trình cứu độ do THIÊN CHÚA CHA vạch ra. Đức Chúa GIÊSU KITÔ xuống gian trần chính là để thi hành thánh ý THIÊN CHÚA CHA.
Tiếp liền mẫu gương tuân phục của Đức Chúa GIÊSU là mẫu gương của thánh Gioan Tẩy Giả, Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế. Đức Chúa GIÊSU trả lời vắn tắt cho vấn nạn của thánh Gioan như sau: ”Không sao, vì chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế”. Và bấy giờ thánh Gioan chìu ý Đức Chúa GIÊSU. . Rất có thể ngay lúc ấy, thánh Gioan không hiểu rõ hết ý nghĩa của câu nói. Nhưng không sao! Thánh nhân không chần chờ mất giờ vô ích. Ngài kính trọng ý muốn của Đức Chúa GIÊSU và mau mắn thi hành.
2 mẫu gương tuân phục trên đây thật tuyệt hảo và vô cùng khích lệ cho mọi tín hữu Công Giáo. THIÊN CHÚA CHA có ý định riêng cho từng người.
Không có niềm vui và niềm an ủi nào lớn lao hơn, nếu trong mỗi hoàn cảnh, mọi tín hữu Công Giáo đều can đảm cầu nguyện rằng: ”Lạy Đức Chúa GIÊSU, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa và xin ban cho con ơn không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Đức Chúa GIÊSU, con muốn làm điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như ý Chúa muốn và tới mức độ Chúa muốn!”
Vâng, hãy cầu nguyện và thực thi thánh ý THIÊN CHÚA, hầu có thể nói: ”Tôi không bao giờ tìm kiếm và thỏa mãn ý riêng tôi. Không, không bao giờ!” Phúc thay cho tín hữu Công Giáo nào có thể quả quyết được như thế. Bởi vì, thánh ý THIÊN CHÚA CHA đúng thật là niềm hoan lạc vô biên cho con người. THIÊN CHÚA CHA biết rõ và duy chỉ có Ngài mới biết rõ điều gì tốt lành và hữu ích cho con người.
Khi tuân phục thánh ý THIÊN CHÚA CHA, con người bày tỏ lòng tín thác vô biên nơi Ngài. Tín thác đồng nghĩa với hy vọng và yêu mến. Tuân phục là nhân đức cao trọng nhất và là tâm tình thảo hiếu sâu xa nhất mà một người con có thể biểu lộ với Cha mình. Và chắc chắn THIÊN CHÚA CHA đặc biệt yêu thương những người con biết chấp nhận thánh ý của Ngài. Ngài để tâm hướng dẫn họ cách riêng. Ngài đổ tràn ơn thánh trên các người con ấy. Và những người con được chúc phúc như thế, có thể vững chân tiến bước trên mọi nẻo đường đời.
Vậy thì, cách thức tốt nhất và khôn ngoan nhất, chính là để cho THIÊN CHÚA CHA hướng dẫn cuộc sống mỗi người. Bổn phận của mọi tín hữu Công Giáo là tìm kiếm và chu toàn thánh ý THIÊN CHÚA CHA. Mỗi người nên luôn luôn sống trong ẩn kín và khiêm tốn. Không nên tự ý tìm kiếm những vinh quang chóng qua ở đời này. Tất cả vinh quang ở trần gian chỉ là gió thoảng và mây bay. Hãy để THIÊN CHÚA CHA toàn quyền định đoạt và thưởng công các con cái Ngài, khi nào Ngài muốn.
Trong âm thầm, ước gì mỗi tín hữu Công Giáo - luôn có tâm lòng tuân phục - được diễm phúc nghe lời THIÊN CHÚA CHA tuyên phán cho riêng mình rằng: ”Này là con yêu dấu của Ta, con đẹp lòng Ta!”