Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 34-ABC Bài 151-200 Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ --------------------------------------
Năm A: Phúc Âm: Mt 25,31-46: “Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. “Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”. “Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta”. “Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!” “Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?” Khi ấy Người đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm B: Phúc Âm: Ga 18, 33b-37: “Quan nói đúng: Tôi là Vua”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” Chúa Giêsu đáp: “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” Philatô đáp: “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?” Chúa Giêsu đáp: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này”. Philatô hỏi lại: “Vậy ông là Vua ư?” Chúa Giêsu đáp: “Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm C: Phúc Âm: Lc 23, 35-43: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
Đại hội trẻ thế giới tại Pháp, hàng trăm ngàn thanh niên nô nức, tiến về thủ đô Paris dự đại hội: TN 34-ABC151
Đại hội trẻ thế giới tại Pháp, hàng trăm ngàn thanh niên nô nức, tiến về thủ đô Paris dự đại hội để gặp gỡ, lắng nghe, và hiệp thông với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đấng thay mặt Đức Kitô ở trần gian. Hệ thống xe điện ngầm Métro nổi tiếng của Paris dường như lúc nào cũng chật ních người. Hôm ấy, một cụ già ăn xin mù lòa cũng cố chen lên một toa xe nhờ chú chó dẫn đường. Cụ vừa đi, vừa chìa cái đĩa nhôm để kêu gọi lòng hảo tâm của giới trẻ. Tuy ồn ào nhưng người ta cũng nghe được những tiếng kêu loảng xoảng của những đồng các rơi vào đĩa. Đi ngược chiều với cụ, một cô bé xanh xao gầy còm cũng ngửa nón xin mọi người giúp đỡ. Khi hai người bất hạnh gặp nhau, cô bé tránh qua một bên cho người hành khất mù lòa tiến bước. Và đầy kinh ngạc, các bạn trẻ không thể tin vào mắt mình, cô bé đã dốc hết số tiền kiếm được của mình đổ tất cả vào cái đĩa nhôm kia.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn ngắm thế giới : gồm 6 tỷ người đang sống trên đó. Với bao cảnh thất nghiệp, nghèo đói, lạc hậu, bất công. Với bao tệ nạn tham nhũng, ma túy, mafia, sida. Với bao nhiêu thiên tai lũ lụt, động đất, cháy rừng… Thế lực của sự dữ và tội lỗi đang tung hoành khắp nơi.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên Vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng treo trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng dựa trên tình yêu thương. Một vị vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người. Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của sự thật : “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng Tôi”. Sống theo sự thật chẳng dễ dàng chút nào, vì người thành thật thường thua thiệt, và kẻ dối trá lại được coi là khôn ngoan. Nhưng chỉ có những ai dám nói sự thật, chấp nhận sự thật, và sống theo sự thật mới được sống trong vương quốc của Người.
Vương quốc của Vua Giêsu còn là vương quốc của tình yêu : “Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ hiến mạng sống cho nhiều người”. Yêu mình, yêu thân nhân bạn bè thì dễ dàng; yêu người xa lạ, yêu kẻ thù, mới thật là khó. Nhưng Chúa chính là vua tình yêu, nên chỉ những ai sống yêu thương mới đích thực là thần dân của Người. Cô bé ăn xin trên xe điện ngầm trong câu chuyện trên đây, đã biết cho đi tất cả những gì mình có, những gì mình cần thiết nhất để sống mà không tính toán so đo. Đó mới thật là công dân của Nước Trời, là thần dân đích thực của Giêsu, vua Tình yêu. Đối với người tín hữu, công dân tương lai của Nước Trời, thì yêu thương là lẽ sống của mọi cá nhân, gia đình, và cộng đoàn. Dường như sống yêu thương sẽ thấy đời đơn giản, cuộc sống nhẹ nhàng thênh thang. Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời. Có Chúa trong tâm hồn, họ luôn cảm thấy bình an và hạnh phúc. Còn mọi thứ khác chỉ là kiểu cách, rườm rà, câu nệ, phô trương, giống như thanh la, não bạt hay tiếng muỗi vo ve mà thôi.
Chúng ta mừng lễ Đức Giêsu làm vua. Đáng lẽ Tin mừng phải diễn tả quang cảnh tôn vinh Đức: TN 34-ABC152
Chúng ta mừng lễ Đức Giêsu làm vua. Đáng lẽ Tin mừng phải diễn tả quang cảnh tôn vinh Đức Giêsu như một ngày lễ phong vương long trọng theo phong cách lễ nghi tôn vương của các vua trần gian. Nhưng Tin mừng chỉ kể lại phiên tòa xét xử Đức Giêsu. Trên ngai, chánh án toàn quyền Philatô ; dưới quảng trường nguyên cáo là các thượng tế và dân chúng ; đứng trước vành móng ngựa, bị cáo là Đức Giêsu đầu đội triều thiên gai, hai tay bị trói.
Chánh án hỏi : “Ông có phải là vua dân Do thái không ?”. Bị cáo hỏi lại Chánh án : “Ông tự ý nói điều ấy hay có ai khác nói với ông về tôi ?”. Chánh án đáp : “Tôi đâu có phải là người Do thái, dân ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi”.
Toàn quyền Philatô đại diện hoàng đế La mã, cai trị nước Do thái. Thời đó, đế quốc La mã thống trị 8 nước Âu châu (Ý, Pháp, Anh, Đức, Áo, Nam Tư, Romani, Hy Lạp) 5 nước Á châu (Thổ Nhĩ Kỳ, Syrie, Lyban, Palestine, Do thái) và 5 nước Phi châu (Ai cập, Lybie, Tunisi, Algêrie, Marốc). Chánh án Philatô hỏi bị cáo Giêsu, Đức Giêsu không trả lời, nhưng hỏi lại Philatô và Philatô đã phải trả lời : “Tôi đâu có phải là người Do thái, dân ông và các trưởng tế đã nộp ông cho tôi”.
Câu trả lời của Philatô đã cho thấy ông thú nhận ba điều :
Thứ nhất : Philatô là chánh án xét xử Đức Giêsu, nhưng Đức Giêsu không bị dồn vào thế bị động, không bị xét xử, Người đã chủ động, đứng ra xét xử Philatô. Rõ ràng Philatô đã phải thú nhận mình không biết gì về Đức Giêsu, ông chỉ nghe dân chúng và các thượng tế tố cáo Đức Giêsu nổi loạn làm vua. Toàn quyền Philatô là chánh án không biết bị cáo có tội gì, không biết sự thật mà dám xét xử thì làm sao có công lý.
Thứ hai : Toàn quyền Philatô nắm giữ quân đội La mã hùng mạnh để giữ gìn an ninh trật tự, để chiến đấu dẹp những kẻ nổi loạn chống lại hoàng đế ; thế mà ông không hề phải dùng quân lính dẹp loạn, quân ông không phải chiến đấu với Đức Giêsu. Như vậy, Đức Giêsu có nổi loạn đâu ! Sao ông dám kết án Đức Giêsu nổi dậy làm vua ? Ông đã xét xử mù quáng.
Thứ ba : Philatô thay mặt hoàng đế cai trị dân Do thái, như vậy, ông cũng là vua nước nhỏ, vua dân Do thái. Vua phải biết thương dân. Ông chưa biết người dân có tội, đã bắt trói, cầm tù, đánh đập, đội mạo gai, ông thật là thứ vua tàn ác, dã man. Quả thực, mấy năm trước đó, Philatô đã đóng đinh hàng ngàn người thuộc phái Nhiệt thành cuồng tín (Zelotes) nổi loạn (Lc. 13, 1-3).
Sau khi Philatô thú nhận tội lỗi của mình, Đức Giêsu mới tuyên bố : “Nước Tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước Tôi thuộc về thế gian này, thì người của Tôi đã chiến đấu không để Tôi bị nộp cho người Do thái”.
Trước hết, Đức Giêsu đã phân biệt nước Người không thuộc về thế gian này. Nước thế gian như đế quốc La mã, vua có binh hùng tướng mạnh, đi xâm lăng thống trị các dân tộc yếu hơn, bắt họ làm nô lệ cho đế quốc. Vua tha hồ bóc lột đàn áp để giết người cướp của. Vua độc tài, độc tôn muốn làm gì thì làm, muốn giết ai thì giết, muốn phong ai thì phong, dù là kẻ bất tài, thất đức.
Thứ đến, nước Đức Giêsu cũng không phải nước dân Do thái mong đợi. Nước Do thái mong ước là nước con vua Đa vít : bách chiến bách thắng để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, và còn thống trị muôn dân nữa. Vua Cứu thế sẽ khôn ngoan hơn Salomon để các vua chúa vương hầu khắp thiên hạ phải tôn vinh Ngài và “đổ về thủ đô Giêrusalem, nguồn phong phú biển cả, và của cải muôn dân đến cho ngươi. Lạc đà đàn đàn che rợp đất, tải vàng với hương trầm, hết thảy kéo lại cho ngươi” (Is. 60, 5-6). “Ngươi sẽ được gọi là Cố vấn kỳ diệu, thần Anh dũng, Cha muôn thuở, Vua thái bình, quyền bính vô tận trên ngai Đa vít” (Is. 9, 5-6).
Sau cùng, nước Đức Giêsu là nước không thuộc về thế gian này, không có quân tướng, vũ khí nên Người sẵn sàng nộp mình cho người Do thái. Nước Người là nước huyền nhiệm, nước trời muôn thuở, vô biên, không có lãnh thổ, không thuộc trần gian, nhưng có từ nguyên thủy đến tận cùng thế giới (Alpha và Ômêga), nước thuộc về Đấng đã có, đang có và sẽ đến.
Tiếp đến, Đức Giêsu nói : “Tôi sinh ra, đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật, ai đứng về phía sự thật đều nghe tiếng Tôi”. Sự thật đó là gì ? Sự thật đó là đường cứu độ đưa con người đến sự sống muôn đời. “Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Nước Đức Giêsu khác hẳn nước thế gian. Nước thế gian chỉ đưa đến nô lệ, bất công, chiến tranh và chết chóc.
Đức Giêsu đã kêu gọi Philatô nghe tiếng Người đứng về phía sự thật. Nhưng bị đắm chìm trong quyền bính, danh vọng, Philatô đã đứng về phía gian ác của phường bất chính đổ vạ cáo gian nên đã trao Người cho lý hình đóng đinh và đâm thâu vào Thánh Tâm Người (Ga. 19, 34). Thánh Tâm đầy lòng thương xót đã rộng lòng khoan dung tha thứ :
“Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết”. Nhận ra vua sự thật, vua tình thương, anh trộm lành đã nói : “Ông này có làm điều gì sai trái đâu !”. Và anh đã cầu nguyện với Người : “Lạy Đức Giêsu, khi nào vào nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Anh chỉ dám xin nhớ, không dám xin cứu, không dám xin được vào nước Người vì anh thấy mình quá bất xứng, quá tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu thấy lòng thông cảm khiêm tốn của anh, Người đã dịu dàng nói với anh : “Tôi nói thật, hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên nước thiên đàng” (Lc. 23, 41-42).
Nhận ra vua sự thật, vua tình thương, viên đại đội trưởng đã tuyên xưng tôn vinh Thiên Chúa : “Người này quả thật là công chính”. Và tất cả đám người đã tụ tập đông đảo xem thấy cảnh tượng ấy, đều đấm ngực trở về nhà (Lc. 23, 47-48).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận biết Chúa là vua sự thật để chỉ đường chân thật cho chúng con đi, là vua nhân ái, đến hy sinh hiến mạng sống cho chúng con được sống muôn đời.
Trước tòa án của quan tổng trấn Philatô, Đức Giêsu đã cho biết về Vương Quốc của Người. Vương Quốc: TN 34-ABC153
Trước tòa án của quan tổng trấn Philatô, Đức Giêsu đã cho biết về Vương Quốc của Người. Vương Quốc ấy có những đặc tính khác với các nước trần gian. Chẳng hạn : Vương Quốc ấy thiêng liêng không thuộc về thế gian, không có quân đội và không có biên giới. Đức Giêsu cũng khẳng định Người là Vua, nhưng là Vua Thiên Sai, đến nhằm mục đích làm chứng cho sự thật. Thần dân cũa người là những ai thuộc về sự thật và sẵn sàng vâng nghe lời Người.
2) CHÚ THÍCH :
- Ông Philatô trở về dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người : “Ông có phải là vua dân Do thái không ?” Đức Giêsu đáp : “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi ?” (Ga 18,33-34) :
+ Ông Philatô trở về dinh, cho gọi Đức Giêsu : Sau khi bị bắt tại một khu vườn mà thầy trò thường đến, Đức Giêsu đã bị điệu ra xét xử trước tòa án tôn giáo của thượng tế Khan-na, và sau đó tòa án của thượng tế Caipha ngay trong đêm hôm ấy. Đến sáng sớm hôm sau, Người lại bị điệu từ nhà Caipha đến dinh quan tổng trấn Philatô. Philatô làm tổng trấn xứ Giuđê từ năm 26 đến 36. Vậy người Do thái đã không vào trong dinh Philatô ngoại giáo, để tránh bị ô uế và không ăn mừng lễ Vượt Qua được. Do đó, Philatô đã phải ra ngoài dinh gặp dân chúng để hỏi họ lý do nộp Đức Giêsu cho ông. Khi biết ý họ muốn ông kết án tử hình Đức Giêsu, Philatô quay trở vào trong dinh và truyền điệu Đức Giêsu ra thẩm vấn.
+ “Ông có phải là vua dân Do thái không ?” : Các đầu mục Do thái vì có ý đồ muốn cho quan tổng trấn kết án tử hình cho Đức Giêsu, vì họ bị người Rôma tước mất quyền lên án tử như vậy (x. Ga 18,31), nên họ phải vu cáo Người về chính trị là làm loạn, chống lại nhà cầm quyền Rôma, khi xưng mình là “Vua”. Philatô đã hạch hỏi Đức Giêsu về vấn đề này.
+ “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi ?” : Đức Giêsu không trực tiếp trả lời điều vu cáo ấy là đúng hay sai, mà Người yêu cầu Philatô xác định : Tự ông nói như thế hay có ai khác tố cáo với ông như thế ? Điều này hàm ý rằng :
** Nếu tự ý quan muốn hỏi để biết sự thật, thì quan hiểu chức vị vua theo nghĩa thế tục. Như vậy Người không phải là vua.
** Nhưng nếu có ai khác là các đầu mục Do thái đã tố cáo với ông như thế, thì chức vị vua được hiểu là Vua Thiên Sai, và quả thật Người là Vua như vậy.
- Ông Philatô trả lời : “Tôi là người Do thái sao ? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ong đã làm gì ?” (Ga 18,35) :
+ Tôi là người Do thái sao ? : Philatô cho biết ông không quan tâm đến những vấn đề nội bộ thuộc tôn giáo Do thái vì ông đâu phải là người Do thái !
+ Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi : Philatô cho biết dân chúng và các đầu mục Do thái đã tố cáo Đức Giêsu và yêu cầu ông ta xét xử.
+ Ông đã làm gì ? : Philatô tra hỏi Đức Giêsu xem Người đã làm gì khiến dân Do thái phải tố cáo Người như vậy ?
- Đức Giêsu trả lời : “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này.” (Ga 18,36) :
+ “Nước tôi không thuộc về thế gian này” : Đức Giêsu không chối mình là vua, nhưng Người xác định mình không phải là ông vua theo nghĩa thế gian. Vì Nước của Người không thuộc về thế gian này. Vương Quốc của Người không nhắm mục tiêu chính trị, cũng chẳng xử dụng những phương thế trần gian như bạo lực đàn áp, nhưng chỉ dùng tình thương mời gọi người ta gia nhập.
+ “Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái” : Lời này cho thấy sự khác biệt giữa Vương Quốc thế gian và Vương Quốc Thiên Chúa. Khác nhau về tinh thần cai trị (x. Mt 20,24-28), về hiến pháp (x. Mt 5,1-12), về điều kiện làm công dân Nước Trời (x. Mt 7,21; Ga 3,5), về sự tồn tài vĩnh viễn của Nước Trời (x. 1 Ga 2,17; Mt 25,46), về mối tương quan thân tình giữa vua với dân trong Nước trời (Ga 13,12-15).
+ “Nước tôi không thuộc chốn này” : Nước của Đức Giêsu phát xuất từ trời và uy quyền của Người do Chúa Cha trao ban : “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18).
- Ông Philatô liền hỏi : “Vậy ông là vua sao ?” Đức Giêsu đáp : “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này : Đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37) :
+ “Vậy ông là vua ư ?” : Đặt câu hỏi này, Philatô chỉ tòmò muốn biết thêm về chức vị vua thiêng liêng của Đức Giêsu trong Nước Trời, chứ ông không nghĩ Người là vua trần tục. Philatô biết rõ Đức Giêsu không làm loạn, vì Người không có quân đội hay vũ khí để tự vệ khi bị người Do thái đến bắt.
+ “Chính ngài nói : tôi là vua” : Đức Giêsu xác nhận Người là vua. Nhưng Người từ chối làm vua trần tục phong kiến. Người là ông Vua Tình yêu, sẵn sàng hiến thân chịu chết đền tội thay cho thần dân. Người làông Vua Mục Tử tốt lành : hiểu biết từng con chiên (x.Ga 10,14), chăm sóc nuôi dưỡng đàn chiên (x. Ga 10,3), đi tìm những con chiên lạc (x. Ga 10,16), bảo vệ bầy chiên khỏi bị sói rừng đến cắn xé và cuối cùng sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đoàn chiên (x. Ga 10,11.15). Người đến “để cho chiên được sống và được sống dồi dào” (x. Ga 10,10).
+ “Tôi đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật” : Sứ mệnh của Đức Giêsu được Chúa Cha trao phó là để làm chứng cho sự thật.
** Làm chứng trong tiếng Hy-lạp nghĩa là tử đạo. Đức Giêsu làm chứng cho Sự Thật bằng việc sẵn sàng chịu chết trên cây thập tự. Sẵn sàng đổ máu ra để nói lên tình yêu tột cùng của Người đối với nhân loại chúng ta.
** Sự Thật ở đây không phải là sự khôn ngoan hay thông minh, nhưng là chính Ngôi Lời là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là “Người Con Một đầy ân sủng và sự thật” (Ga 2,15; 14,6). Sự thật cũng chính là nội dung mặc khải của Đức Giêsu về Thiên Chúa Cha : Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4,16), là người Cha giàu lòng thương xót và hay tha thứ (x. Lc 15,20-24). Ngài đã sai Con Một đến để mặc khải sự thật về Ngài, và dạy loài người biết phải đáp trả tình yêu của Ngài như thế nào cho đẹp lòng Ngài (x. Mt 3,16-17; 6,9; 11,25; 17,5).
+ Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” : Sự thật của Chúa Giêsu đòi phải được đáp ứng. Đức Giêsu đến không chỉ cứu độ dân Do thái là dân được tuyển chọn, mà Người còn cứu cả “Những ai đứng về phía sự thật và sẵn sàng lắng nghe lời Người”. Đó là những người thành tâm thiện chí, luôn để tâm tìm kiếm Thiên Chúa, tin nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, và quyết tâm thực hành những Lời Người giảng dạy, nhất là sống Giới Răn Mới Yêu Thương của Người như dấu chỉ môn đệ đích thực của Người (x. Ga 13,34).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA :
1) Lời Chúa : “Tôi là vua” (Ga 18,37) :
2) Câu chuyện 1:
Hồng y Đề-săng (Deschamps), Tổng Giám Mục thành Mơ-lin (Mailines), khi còn là thanh niên, đã có ý muốn học hành thật giỏi để đạt được một địa vị cao trong hàng ngũ các quan chức triều đình. Một hôm, Đề-săng đã được chứng kiến lễ đăng quang lên ngôi vua cách long trọng của nhà vua Bỉ. Từ cửa sổ của một nhà cao tầng, Đề-săng chăm chú theo dõi diễn tiến của buổi lễ từ đầu tới cuối. Có thể nói đó là một buổi lễ hội vừa tưng bừng náo nhiệt với cờ xí và biểu ngữ bay rợp trời, và tiếng trống dồn dập và tiếng kèn đồng thổi lên inh ỏi với hàng vạn người đến tham dự. Trọng tâm buổi Lễ là nghi thức tấn phong hoàng thái tử lên ngai vàng kế vị vua cha mới băng hà, với việc đội vương miện và nhận phủ việt. Buổi lễ kết thúc bằng một cuộc diễn hành của hoàng gia cùng vời đoàn tùy tùng. Đoàn rước đi theo hàng đôi kéo dài cả cây số. Sau khi cuộc lễ kết thúc, quảng trường trở lại bầu khí bình lặng như mọi khi. Đề-săng tự nhủ mình rằng : “Thế là một ông vua đã qua đi!”. Rồi được ơn Chúa kêu gọi. Đề-săng đã suy nghĩ nhiều ngày sau đó và cuối cùng đã quyết định như sau : “Tôi không muốn phục vụ cho một ông vua sẽ qua đi. Tôi muốn phục vụ ông vua tồn tại mãi mãi là Vua Giêsu”. Đề-săng đã dứt khoát từ bỏ giấc mơ danh vọng chức quyền thế gian như trước đây anh mơ tưởng, để xin gia nhập vào một dòng khổ tu và khoác vào mình chiếc áo tu sĩ. Sau một thời gian tu học, thầy Đề-săng đã được thụ phong linh mục, rồi sau đó được tấn phong Giám Mục và cuối cùng được phong tước vị Hồng Y Giáo Chủ, trở thành Niên Trưởng của hàng Giám Mục Bỉ.
3) Câu chuyện 2 :
Lịch sử nước Anh có kể câu chuyện về một ông vua có lòng khiêm nhường và đạo đức tên là Kê-nắt đệ am (Canut III). Là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông lúc nào cũng có những nịnh thần ca tụng tâng bốc. Một hôm, trong một buổi triều yết, các nịnh thần thi nhau tâu với nhà vua : “Muôn tâu Thánh Thượng ! Thánh Thượng là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa !”. - “Thánh Thượng có toàn quyền cả trên đất liền cũng như trên đại dương bao la !”. Nghe vậy nhà vua muốn dạy cho họ một bài học, nên đã mời tất cả quan chức triều đình đi du lịch một chuyến tại một bãi biển dành riêng cho hoàng gia. Khi mọi người đi theo nhà vua xuống bãi tắm đang có sóng vỗ rì rào. Nhà vua liền tuyên bố như sau : “Hỡi biển cả kia. Nhiều người nói ta là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy hỡi biển cả hãy nghe đây : Ta truyền cho sóng biển không được tràn tới nữa !”. Nhưng dù nhà vua đã ra lệnh, nhưng nước biển vẫn tiếp tục dâng lên và từng đợt sóng vẫn thi nhau đổ tới tấp vào bờ, làm ướt cả áo cẩm bào của nhà vua cùng quần áo của các quan chức triều đình ! Sau đó nhà vua dẫn quần thần đến nguyện đường gần đó. Vua đến quì gối trước tượng Thánh Giá Chúa Giêsu, lấy ra chiếc vương miện bằng vàng đội lên đầu Chúa và cầu nguyện rằng : “Lạy Chúa Giêsu. Chỉ có Chúa mới là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa. Chỉ có Chúa mới có quyền trên cả đất liền cũng như biển khơi. Con xin ngợi khen Chúa Allêluia !”
4) Suy niệm :
+ Hôm nay là ngày Chúa Nhật cuối cùng trong năm phụng vụ. Giáo Hội long trọng mừng kính Chúa Giêsu Kitô là Vua Vũ Trụ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã khẳng định như sau : “Tôi là Vua”.
+ Đức Giêsu là Vua, vì Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa, Đấng xưa đã tác tạo vũ trụ vạn vật chỉ bằng những Lời ra lệnh : “Phải có ánh sáng !” liền có ánh sáng (x. St 1,3). Người thực là Vua, vì đã chiến thắng ma quỉ, tội lỗi và sự chết bằng Lời quyền năng của Người. Chẳng hạn : “Câm đi, hãy xuất khỏi người này !” (Mc 1,25-27) : “Này con, con đã được tha tội rồi” (Mc 2,5) : “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ !” (Ga 11.43).
+ Người tuyên bố : Nước Người không thuộc về trần gian này. Vương Quyền Người không dựa trên sức mạnh của vũ khí quân đội mà dựa trên tình yêu. Bao nhiêu vua chúa, bao nhiêu triều đại đã vang bóng một thời, thì đều đã bị rơi vào sự quên lãng và cuối cùng dẫn đến điêu tàn và tiêu vong. Còn Đức Giêsu thì luôn tồn tại và hiển trị trên các tâm hồn.
5) Sống Lời Chúa : Chris-tus Vincit : Chúa Kitô chiến thắng! Chris-tus Regnat : Chúa Kitôtrị vì ! Chris-tus Imperat : Chúa Kitô hiển trị đến muôn đời !
Tôn kính Đức Kitô Vua, không hệ tại ở những hành vi bề ngoài như : dâng hương, bái quì hay mở miệng tung hô danh Chúa…Nhưng là : Lắng nghe Lời Chúa; Suy niệm để tìm hiểu ý Chúa; Quyết tâm canh tân đời sống dựa theo lời dạy của Người; Sống kết hiệp mật thiết với Người; Góp phần kiến tạo một Trời Mới Đất Mới, để mọi người đều được ấm no hạnh phúc, sống với nhau chan hòa yêu thương trong đại gia đình của Thiên Chúa.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng. Thế giới này còn bao điều thiếu sót dở dang mà chúng con được trao trách nhiệm hoàn thành. Còn bao điều đang nằm ngoài vòng tay yêu thương của Chúa. Chúa đâu muốn đến để tiêu diệt những kẻ có tội, nhưng muốn cho họ ăn năn sám hối và được sống. Chúa không muốn bị lạc mất hay bỏ rơi bất cứ một người nào, nhưng luôn đi tìm con chiên lạc để đưa về sum họp trong một đàn chiên dưới quyền một chủ chăn duy nhất.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa: để xây dựng một thế giới mới công bình và yêu thương, vui tươi và hạnh phúc…để đến ngày Chúa lại đến, sẽ trở thành một ngày vui trọn vẹn cho hết mọi người và cho cả hoàn vũ. Xin nuôi dưỡng nơi chúng con một đức tin vững vàng, một niềm hy vọng nồng cháy, một con tim chất chứa yêu thương…để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm góp phần xây dựng Nước Chúa mau đến.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, ngày nay rất nhiều bạn trẻ đã chọn cho mình một thần tượng để tôn sùng, noi gương bắt chước và luôn chạy theo các mốt thời trang mới. Người khác thì mê vua bóng đá Pê-lê, có người lại chạy theo vua nhạc rốc Mai-côn Giắc-sân (Michael Jackson). Có những cô gái tối ngày chỉ lo trang điểm, ăn mặc để giống như cô ca sĩ này, hay người mẫu nọ…Còn chúng con là môn đệ Đức Giêsu. Chúng con phải nói được như thánh Phêrô : “Bỏ Thầy con biết theo ai ? Vì chỉ Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68-69).
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con biết noi gương Đức Giêsu là Vua Sự Thật. Xin cho chúng con luôn biết nói thật, nhưng không phải nói ra hết mọi sự thật. Xin cho chúng con tránh nói những lời dối trá lừa đảo. Trong quan hệ buôn bán giao tiếp, xin cho chúng con tránh thái độ đạo đức giả hình bề ngoài của các người Pharisêu và kinh sư đã bị Chúa quở trách nặng lời (x. Mt 23,13-36). Xin giúp chúng con biết buôn ngay bán thật, không nói rước nói thách, không tham lam gian dối, ăn bớt ăn xén bất công và lường gạt kẻ khác. Xin Mẹ giúp chúng con luôn giữ được tính trung thực trong lời nói cũng như hành động, để con xứng đáng được nhận là thần dân của Chúa là Vua Sự Thật.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Tại sao Giáo Hội lại tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Vua của vũ trụ? Ngài có quyền hành gì: TN 34-ABC154
1. Tại sao Giáo Hội lại tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Vua của vũ trụ? Ngài có quyền hành gì trên vũ trụ vạn vật?
2. Ngài là vua, nhưng có gì khác biệt với những vị vua bình thường? Ngài cai trị bằng gì?
3. Ngài là vua của vũ trụ, nhưng điều ấy ích lợi gì cho tôi, nếu Ngài không phải là vua tâm hồn tôi? Vậy tôi phải làm gì để Ngài trở nên vua của tâm hồn tôi?
Suy tư gợi ý:
1. Chú giải đoạn Tin Mừng
Philatô hỏi Đức Giêsu: «Ông có phải là vua dân Do Thái không?». Nếu người Do Thái hỏi Ngài câu ấy, thì câu ấy nghĩa là: ông có phải là Đấng Mêsia không? Nhưng khi Philatô hỏi, thì câu ấy có nghĩa là: ông có phải là kẻ cầm đầu xui giục dân Do Thái phản loạn không? Theo não trạng của dân Do Thái, thì đấng Mêsia tức vị Cứu Tinh của dân tộc ắt phải là một thủ lãnh của đoàn quân nổi loạn chống lại Rôma để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc. Nếu Ngài là người nổi loạn chống lại Rôma, thì dân Do Thái sẽ theo Ngài. Nhưng họ thấy Ngài không phải là người nổi loạn như ý muốn của họ, mà lại có những ý tưởng lạ đời đi ngược lại tư tưởng truyền thống của chính tôn giáo của họ, nên họ muốn tiêu diệt Ngài. Nhưng họ không dám ra tay giết Ngài, mà muốn dùng bàn tay của người Rôma để giết Ngài. Để làm điều ấy, họ chụp mũ Ngài là người phản loạn, chống lại Rôma.
Nhưng Philatô nhận ra ngay là: nếu Đức Giêsu là kẻ đứng về phía người Do Thái để chống lại Rôma, thì họ đã chẳng nộp Ngài cho ông. Vì thế, câu ông hỏi Chúa Giêsu chỉ hỏi cho có lệ, chứ ông ta đã biết Ngài vô tội, và chỉ vì ghen ghét mà dân chúng nộp Ngài cho ông. Nhưng cũng chính nhờ ông ta hỏi điều ấy mà chúng ta được mạc khải một chân lý quan trọng: Đức Giêsu chính là vua. Nhưng Ngài không phải là vua của một nước trần gian. Chính Ngài xác nhận: «Tôi được sinh ra để làm vua». Thật vậy, có những dấu hiệu báo trước điều ấy: chẳng hạn, khi Đức Giêsu vừa sinh ra, đã có ngôi sao lạ ở phương Đông báo tin cho các vị đạo sĩ đến chiêm bái Ngài như một vị vua mới sinh (x. Mt 2,2). Ngài đã được tung hô như một vị vua khi vào thành Giêrusalem (x. Mt 21,4.9).
2. Đức Giêsu là vua
Nếu Đức Giêsu không phải là vua của một nước trần gian, thì nước của Ngài ở đâu? Ngài là vua của ai?
Làm vua có thể có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình… mới là vua. Người ta vẫn nói: «vua dầu lửa», «vua xe hơi», «vua bóng đá», v. v… mặc dù những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Đức Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ «vua».
Trước hết, Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết: «Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành» (Ga 1,3; xem 1,10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25,34).
Thế gian này có nhiều nước, mỗi nước có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Vua của muôn vua.
3. Ngài thống trị bằng tình yêu
Đức Kitô là vua. Nhưng Ngài khác với các vua khác ở chỗ: để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (xem Ga 10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh chết trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.
4. Đức Giêsu là vua các tâm hồn
Đức Giêsu không chỉ là vua vũ trụ, vua của cả trần gian, mà Ngài còn là vua của tâm hồn mỗi người. Vì yêu thương, vị vua ấy ngự ngay trong thâm cung tâm hồn của mỗi người để sẵn sàng thi ân giáng phúc, ban sức mạnh, thánh hóa, làm cho họ ngày càng tốt đẹp, mạnh mẽ và hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, Ngài có làm được điều đó hay không còn tùy thuộc vào sự tự do chấp nhận và sự tự nguyện cộng tác của chúng ta. Ngài sẽ không làm được gì cho chúng ta nếu chúng ta không muốn Ngài làm, hoặc nếu chúng ta hoàn toàn thụ động không cộng tác gì vào công việc mà Ngài muốn làm cho ta.
Để Ngài có thể hành động biến đổi con ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần tôn Ngài làm vua tâm hồn mình, bằng cách:
– Trước tiên, phải thường xuyên ý thức về sự hiện diện của Ngài ở trong ta.
– Kế đến là ý thức rằng Ngài là tình thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và sẵn sàng làm tất cả những gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta.
– Đồng thời ý thức Ngài là sức mạnh toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi ta.
– Vì thế, ta nhường quyền làm chủ bản thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta. Ta không còn hành động theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo ý của Ngài.
– Vì Ngài yêu thương ta, sáng suốt và khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm tất cả những gì Ngài muốn, nên ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Ngài.
– Và cuối cùng là luôn luôn sống trong bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu thương và phù trợ. Hãy hưởng niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần gian này yêu thương và quan tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng nhờ quyền năng của Ngài, tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều trở nên vô cùng tốt đẹp cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ: «Thiên Chúa làm cho mọi sự phối hợp lại thành ích lợi cho những ai yêu mến Người» (Rm 8,28).
Nắm vững điều đó, ta sẽ thấy có Đức Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một «cây đèn thần» trong tay, một «bùa hộ mạng» an toàn, một «vị thần bảo trợ» hữu hiệu, một «người tình chung thủy» luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung sướng cảm nghiệm được như thánh Phaolô: «Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13).
CẦU NGUYỆN
Lạy Đức Kitô, Chúa là Vua của vũ trụ, của nhân loại, và nhất là của tâm hồn con. Con xin phó thác tất cả mọi sự của con trong tay Chúa: mạng sống, tình yêu, hạnh phúc, ý muốn, khát vọng, những người thân yêu của con, hiện tại cũng như tương lai của con, v. v… Con xin phó thác cho Chúa tất cả, và hoàn toàn để Chúa quyết định mọi sự theo ý muốn của Chúa. Xin hãy giúp con ngày càng tin vững vào tình yêu và quyền năng của Chúa hơn. Amen.
Khi quan Phi-la-tô hỏi Chúa Giê-su xem Người có phải là vua dân Do-thái không? (Ga 18:33): TN 34-ABC155
Khi quan Phi-la-tô hỏi Chúa Giê-su xem Người có phải là vua dân Do-thái không? (Ga 18:33), Chúa liền trả lời đó là ý tưởng của ông quan. Phi-la-tô đã phải hiểu câu trả lời của Chúa là lời chối từ. Tuy nhiên Phi-la-tô vẫn cố tình không muốn hiểu cho nên cứ cho khắc chữ treo trên thánh giá Chúa với lời : Giê-su Na-gia-rét, vua dân Do thái. Thực ra thì bảng chữ trên thánh giá là một tính toán sai lầm của Phi-la-tô, bởi vì các thày cả thượng phẩm của người Do thái không muốn Chúa Giê-su làm vua của họ. Và chính Chúa cũng không muốn tước hiệu là vua của người Do thái. Theo sau phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, dân chúng muốn tôn người làm vua. Tuy nhiên Chúa không muốn can dự vào việc cai trị nước trần thế.
Rồi quan Phi-la-tô lại hỏi Chúa: Vậy ông là vua sao? (Ga 18:37). Chúa Giê-su mặc nhiên xác nhận câu hỏi của Phi-la-tô. Vậy thì vương quốc của Chúa ở đâu? Đây chính là câu trả lời của Chúa: Nước tôi không thuộc về thế gian này (Ga 18:36). Và đâu là những đặc tính của nước Chúa? Xa xưa trước cả khi Chúa cứu thế giáng sinh, các tiên tri đã loan báo cho dân chúng là đấng cứu thế sẽ đến thiết lập một vương quốc hoàn cầu : một vương quốc công chính theo tiên tri A-mốt; một vương quốc yêu thương và nhân từ theo tiên tri Hô-sê; một vương quốc thánh thiện và phổ quát theo tiên tri I-sai-ABC; một vương quốc ngự trị trong tâm hồn loài người theo tiên tri Giê-rê-mi-ABC. Trong bài trích sách tiên tri Đa-ni-en hôm nay, vị tiên tri trong một thị kiến ban đêm đã nhìn thấy Đấng Thiên sai thiết lập một vương quốc vĩnh cửu. Tất cả các dân tộc đều phải phục tùng dòng dõi Đa-vít và Giê-ru-sa-lem sẽ trở nên như kim nam châm có sức thu hút mọi dân tộc. Tuy nhiên vị tiên tri có ý nói về một vương quốc thiêng liêng. Khi loan báo cho trinh nữ Maria là con bà sẽ ngồi trên ngôi báu Đa-vít, và sẽ làm vua thống trị nhà Gia-cóp đến muôn đời và vương quốc của Người sẽ vô tận, sứ thần Gáp-ri-en cũng ám chỉ một vương quốc thiêng liêng (Lc 1:33).
Vậy nước Chúa được khởi sự như thế nào? Dụ ngôn hạt cải giúp ta hiểu sự lớn lên và bành trướng của nước Chúa, lúc đầu chỉ nhỏ bé như hạt cải, quá nhỏ đến nỗi khó có ai nhận ra. Việc khởi sự khiêm tốn của nước Chúa với việc chọn lựa có mười hai tông đồ là một cớ vấp phạm cho người Do thái. Đa số các tông đồ lại là những người thuyền chài ít học, còn một người làm nghề thu thuế. Và đó là một trong những điểm khác biệt giữa nước Thiên Chúa và nước trần gian. Như vậy ta thấy sự bành trướng của nước Chúa không tuỳ thuộc vào tài năng và địa vị xã hội của loài người, nhưng là tuỳ thuộc vào quyền phép của Thiên Chúa và sự cộng tác của loài người.
Vậy những người thực thi công chính, những người tỏ lòng xót thương, những người tìm kiếm sự thật, những người kiến tạo hoà bình, những người sống đời thánh thiện là những người đi tìm kiếm nước Chúa. Sự bành trướng của nước Chúa phải được bắt đầu từ trong tâm hồn và đời sống người tín hữu, rồi được lan rộng ra cho người hàng xóm, cho sở làm, cho xã hội. Là người Ki-tô giáo, ta có hai quyền công dân: công dân của nước trần thế và công dân của nước trời. Là công dân của nước trời ta có thêm bổn phận vượt trên bổn phận của công dân trần thế. Chúa muốn ta công bố nước Người bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng việc rao giảng tin mừng cứu độ, bằng việc thiện hảo, bằng việc cổ võ công bình bác ái. Những bổn phận của người công dân nước trời có thể được tóm tắt trong hai giới răn là mến Chúa và yêu người.
Sự thật chiếm một địa vị độc tôn trong cuộc sống con người. Chính nhờ sự thật, con người: TN 34-ABC156
Sự thật chiếm một địa vị độc tôn trong cuộc sống con người. Chính nhờ sự thật, con người được giải thoát khỏi tất cả những khổ đau và ngu dốt. Không tôn trọng sự thật, đó là nguyên nhân sinh ra bao nhiêu chết chóc và áp bức. Cuộc đời là một hành trình đi tìm sự thật. Thất bại trong hành trình này sẽ dẫn tới thảm họa cho cá nhân và xã hội. Đã đến lúc nhân loại phải nhìn nhận Đức Giêsu là sự thật (Ga 14:6). Có thế, nhân loại mới thực sự được tự do và bình an.
LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT
Bình an là đặc điểm trổi bật nhất trong Nước Chúa. Nhưng bình an chỉ tìm được trong chân lý. Một thứ bình an xây dựng trên sự giả tạo không thể bền vững. Chính vì vậy, Đức Giêsu xác quyết về sứ mạng đời mình : “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này : làm chứng cho chân lý” (Ga 18:37). Chắc chắn Philatô phải kinh ngạc trước những lời quả quyết về một vương quốc siêu trần thế. Đức Giêsu vẫn khẳng quyết có một vương quốc chân lý dưới quyền cai trị của Người : “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36), nhưng thuộc thiên giới, nơi Thiên Chúa Cha đang thống trị bằng sức mạnh tình yêu và chân lý. Người đến mạc khải tất cả sự thật về tình yêu kỳ diệu ấy như một sức mạnh cứu độ con người.
Lời quả quyết đó vượt ngoài tầm hiểu biết của những người chỉ quan tâm tới lãnh vực trần giới. Khi Philatô hỏi: “Ông đã làm gì ?”, Đức Giêsu đã khẳng quyết : “Làm chứng cho chân lý.” Đức Giêsu đã xác định được hướng đi và mục đích cuộc đời mình một cách dứt khoát và rõ ràng. Như thế tất cả ý nghĩa và giá trị cuộc đời Người đều xoay quanh lời chứng đó. Lời chứng đó phải vô cùng mạnh mẽ mới có sức thuyết phục người ta nhận ra dung nhan vô hình của Thiên Chúa Cha. Chính vì vậy, Người đã phải chết để làm chứng cho chân lý. Người đã tự xưng : “Chính Thày là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). Như vậy Đức Giêsu vừa là sự thật vừa là người làm chứng cho sự thật. Nhưng Người không độc diễn trong lời chứng này. Quả thực, Người khẳng quyết : “Tôi làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi” (Ga 8:18). Cả người Do thái lẫn Philatô đều điếc trước những lời Người khẳng quyết về chứng từ và chân lý.
Tất cả lời chứng và sự thật về lòng nhân hậu của Thiên Chúa đã được mạc khải trên thập giá. Người “đã lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người” (Kh 1:5-6). Vương quốc của Người gồm những người biết lắng nghe sự thật. Thật vậy, Đức Giêsu nói : “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Khi đóng đinh Người vào thập giá, người Do thái đã vô tình xác định mình “không đứng về phía sự thật,” nghĩa là không thuộc về vương quốc của Người. Sự thật đã chia đôi ánh sáng và bóng tối. Đó là bi kịch cuộc đời.
Những ai đón nhận chân lý, họ sẽ có một sức mạnh lớn lao. Chính Đức Giêsu đã nói đến sức mạnh nơi con người đón nhận chân lý : “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này : `Rời khỏi đây qua bên kia !' nó cũng sẽ qua, và chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17:20). Sức mạnh đó bắt nguồn từ Đức Giêsu. Vì sau khi Phục sinh, Người đã được Chúa Cha “trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị ; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người” (Dn 7:14). Quyền bính Người bao trùm toàn thể vũ trụ. Mọi quyền bính trần thế đều giới hạn và sẽ chấm dứt với thời gian. Trái lại, “quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một ; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Dn 7:14). Thế nên ai thuộc về vương quốc Người sẽ tồn tại muôn đời. Ai tin vào Người sẽ được chân lý giải thoát và dẫn đưa con người vào miền chan hòa ánh sáng và sự sống. Vì “vương quyền cánh chung do Đức Giêsu khai mạc ở trần gian sẽ được thực hiện nhờ thái độ đón nhận sự thật” (TKTƯ 1995:476).
ĐỐI THOẠI : CON ĐƯỜNG ĐI TỚI SỰ THẬT
Sau công đồng Vatican II, Giáo Hội đã mở ra con đường đối thoại với thế giới. Con đường đó đã được thử lửa với thời gian và đã đem lại những kết quả rất tốt đẹp trên đường tìm về chân lý. Đặc biệt tại miền đất đa văn hóa và đa tôn giáo nhất thế giới như Á châu, không đối thoại, không thể biết sự thật. Lý do vì theo Công đồng Vatican II, chúng ta có thể tìm thấy ánh sáng Thánh Linh trong các nền văn hóa và tôn giáo cao đẹp đó. Từ chối hay lười biếng đối thoại là phủ nhận ánh sáng đó và không tôn trọng con người. Hơn nữa nơi nào có Thánh Linh, nơi đó có Đức Kitô. Bởi đó, không đối thoại không thể biết được sự thật là Đức Giêsu Kitô.
Công cuộc truyền giáo tại Á châu gặp bế tắc và trì trệ vì Giáo Hội tại Á châu không quan tâm đến vấn đề đối thoại. Bởi vậy Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu mới sực tỉnh trước đòi hỏi khẩn cấp của Giáo Hội Á châu : “Đối thoại là con đường mới để Giáo Hội hiện hữu tại Á Châu”. Đối thoại là một nhu cầu bức thiết của Giáo Hội. Nhìn lại quá trình lịch sử truyền giáo tại Á châu và Việt Nam, chúng ta thấy biết bao nhiêu ngộ nhận và thiếu hiểu biết giữa các tôn giáo và văn hóa. Nhưng muốn tồn tại và phát triển, Giáo Hội phải đấm ngực mình trước hết. “Toàn thể cộng đồng Công giáo phải thành thật xét mình, phải can đảm hòa giải và tiếp tục dấn thân đối thoại” (Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu, số 24). Phải đối thoại mới có thể Phúc Âm hóa Á Châu và hoàn thành ơn gọi và sứ mệnh đích thực của Giáo Hội (GHTAC, số 29). Cố thủ trong pháo đài hay bốn bức tường nhà thờ sẽ khiến Giáo Hội không thể đuổi kịp những thay đổi nhanh chóng trên thế giới và không thể hiện hữu như bí tích cứu độ.
Tin Mừng Mác-cô không bao giờ đặt ra vấn đề vương quyền của Đức Ki-tô. Tin Mừng này: TN 34-ABC157
Tin Mừng Mác-cô không bao giờ đặt ra vấn đề vương quyền của Đức Ki-tô. Tin Mừng này chỉ khẳng định rằng vinh quang của Đức Giê-su được tỏ bày trên thập giá. Vì thế, trong ngày lễ kính Đức Giê-su Ki-tô Vua Vũ Trụ, phụng vụ sử dụng một đoạn văn trích trong Tin Mừng Gio-ABCn: bản văn này là một suy tư rất phong phú về đề tài trên.
Hai con người ở trước mặt nhau : một người là bị cáo, người kia là quan toà. Một cuộc gặp gỡ có vẻ bình thường như bao cuộc gặp gỡ khác của con người. Thế nhưng, đây lại là một cuộc đối thoại lạ lùng, có một không hai. Trong cuộc đối thoại này, vương quyền của người này lại là cơ hội và đối tượng để người kia đặt câu hỏi.
Buổi sáng sớm ...
Những người muốn nhân danh luật Do-thái để kết án Đức Giê-su điệu Người đến trước mặt tổng trấn Phi-la-tô. Đức Giê-su vừa trải qua một đêm đầy cực hình. Người đã bị tra vấn trước tòa Khan-na rồi Cai-pha, và còn bị các lính gác hành hạ.
Tổng trấn hỏi những người điệu Đức Giê-su : "Các người tố cáo người này về tội gì?" Một câu hỏi hợp lý, phù hợp với nghề nghiệp của vị tổng trấn, nhưng những người nghe câu hỏi này lại có cảm tưởng như ông khinh thường họ. Họ trả lời : "Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan." Họ la to để che giấu sự giả tạo đồng thời để tạo áp lực hầu vụ án mau kết thúc, vì lễ Vượt Qua đã gần tới.
Chính vì gần đến lễ Vượt Qua mà những người Do-thái phải đứng ngoài cửa dinh tổng trấn. Họ sợ bị nhiễm uế và như vậy không được cử hành các nghi lễ ban chiều. Thật là lạ lùng. Họ không dám vượt qua ranh giới của nghi thức, nhưng họ lại không ngần ngại vượt qua ranh giới của sự dối trá, bất công và thù hận. Họ nghĩ rằng chỉ cần tuân giữ những nghi thức là lòng họ được trong sạch.
Về phần mình, tổng trấn Phi-la-tô đá trả trái banh lại cho người Do-thái : "Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người." Ông nghĩ rằng chẳng qua đây cũng chỉ là một vụ cãi vã về tôn giáo như đã xảy ra nhiều lần, và ông không nên xen mình vào. Nhưng những kẻ tố cáo biết rõ rằng nếu đem Đức Giê-su đi xử theo luật Do-thái, họ không có quyền giết chết Người. Họ trả lời ông : "Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả." Như thế, tổng trấn bị dồn vào chỗ đích thân ông phải xét xử, bởi vì ông có quyền ra lệnh xử tử. Tuy nhiên, ông không muốn kết án mà không biết lý do tại sao: án lệnh phải tương ứng với một tội trạng rõ ràng. Ông tự hỏi, tại sao người ta lại kết án con người này ?
2. "Ông là Vua sao ?"
Người Do-thái đã tố cáo Đức Giê-su : "Chúng tôi phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-ABC, là Vua nữa" (Lc 23,2). Do đó, viên tổng trấn hỏi Đức Giê-su : "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
Ông Phi-la-tô đã đặt mình vào vị thế chính trị: ông đặt mình vào vị thế mà các địch thù của Đức Giê-su đã đưa ra để khơi lên vụ án, vì họ biết rằng ông là người duy nhất có quyền đại diện, thay mặt hoàng đế. Như thói quen, Đức Giê-su đã trả lời ở một tầm mức cao hơn người hỏi. Câu hỏi xuất phát từ một viên chức, còn câu trả lời lại ngỏ với một con người: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay có ai khác đã nói với ngài về tôi?" Đức Giê-su đáp lời Phi-la-tô, nhưng lại trở thành người đặt câu hỏi: Người buộc ông phải bày tỏ quan điểm của ông về sự việc: đó là quan điểm của một người luôn nghi ngờ, và chỉ tin vào quyền bính hữu hình.
Trong thực tế, câu hỏi của Đức Giê-su cũng có liên hệ đến dân Do-thái nữa. Từ thời ngôn sứ Sa-mu-en, dân Do-thái đã đòi cho có một ông vua cai trị, và từ đó người ta đã đặt ra vấn đề bản chất của ông vua cũng như nhiệm vụ của ông (x. 1 Sm 8). Từ thời kỳ ấy, vị ngôn sứ đã tố giác nguy cơ mà quyền lực có thể gây ra: ông vua là người nắm giữ vai trò của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, vị ngôn sứ đã nhượng bộ trước đòi hỏi của dân chúng, điều này cũng do lệnh Chúa truyền. Như thế Kinh Thánh cho thấy rằng con người phải trải qua một bước đường cùng (vương quyền của Ít-ra-en bị đem ra làm trò cười: Đức Giê-su bị treo trên thập giá và bị chế nhạo là "Vua dân Do-thái". Thế nhưng bước đường cùng cũng là thời điểm để sự thật được mặc khải cách trọn vẹn: chính trong hoàn cảnh bi đát nhất của mình, Đức Giê-su chứng tỏ Người thực sự là Vua, là người đại diện của Thiên Chúa, là tôi tớ làm chứng cho sự thật. "Giê-su Na-da-rét, Vua dân Do-thái" (Ga 19,19): tấm bảng mà ông Phi-la-tô cho treo trên thập giá không ngờ lại là một sự xác nhận: Đức Giê-su là Vua, nhưng theo một ý nghĩa khác.
Đức Giê-su là Vua: vấn đề vẫn chưa được vượt qua. Vấn đề này vẫn còn được nêu lên mỗi ngày, nhất là ngày nay. Không chỉ người Do-thái hay ông Phi-la-tô, nhưng là tất cả mọi người, từng người đều được hỏi về ông vua của mình. Phải chăng ông vua là người dân chúng coi là toàn năng hay là người được đón nhận là đến từ Thiên Chúa và tự bày tỏ trong sự yếu đuối của nhân loại, nhưng lại trong sức mạnh của Thần Khí ?
3. "Đây là Người"
"Vậy ông là Vua sao ?"
Ông Phi-la-tô đã nêu lên câu hỏi này với con người đang đứng trước mặt ông, một con người "cô đơn", một con người "bị tước đoạt" tất cả. Con người trong tình trạng bi đát và tang thương nhất.
Ông Phi-la-tô đã nhìn thấy điều gì trong đôi mắt của người bị kết án ? Tại sao ông lại chần chừ, không muốn thỏa mãn ngay đòi hỏi của người Do-thái ?
Tại sao con người ấy lại nhận mình là Vua ?
Tại sao trong thời điểm mà mọi sự coi như mất hết, con người ấy lại nhận mình là Vua ? Trong cuộc đời Đức Giê-su, đã có những thời điểm thuận lợi hơn nhiều : sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng đã đi tìm Đức Giê-su để tôn Người làm vua; nhưng Người đã trốn lên núi, một mình ...
Rồi khi các con ông Dê-bê-đê đến xin một chỗ tốt trong Vương Quốc, Đức Giê-su cũng chẳng nhận làm Vua.
Đức Giê-su chưa khi nào muốn làm vua cả, thế mà giờ đây, trong giây phút muộn màng này, Người lại chấp nhận danh hiệu Vua, tại sao thế ?
Tin Mừng Gio-ABCn giúp độc giả khám phá ra rằng con người này càng tự hạ, thì vương quyền của Người càng được bày tỏ. Vòng gai nhọn trở thành triều thiên. Cây sậy trở thành vương trượng. Sự thích thú của đám lính khi chế giễu con người này là hình ảnh báo trước niềm hân hoan tột cùng của tất cả những người được cứu độ. Cái áo choàng đỏ quân lính khoác lên mình Người trở thành long bào, thành áo choàng vinh quang, mang màu máu.
Một con người bị khinh bỉ, không danh tính - "Đây là Người" (Ga 19,5) trở thành Con Người Vinh Quang, từ mây trời mà đến, như cách diễn tả của ngôn sứ Đa-ni-en. Cái ghế nơi ông Phi-la-tô ngồi để tuyên án trở thành ngai vàng để Đức Giê-su ngồi xét xử trần gian. Đức Giê-su càng tự hạ, Người càng được nâng cao ...
Đó là cách thế Người sử dụng để đi vào vương quốc của Người. Đó cũng là cách thế duy nhất để mỗi người có thể tiến vào vương quốc. Ngay từ những ngày đầu, Đức Giê-su đã tuyên bố: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó ... hiền lành ... sầu khổ ... bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ mọi điều xấu xa, vì Nước Trời là của họ" (x. Mt 5,3-12).
Còn trong các dụ ngôn, Đức Giê-su là một "ông vua luôn mời gọi". Những ai bước theo Người đều được cùng với Người trở thành vua, thành nữ hoàng.
Chính vì thế, người tín hữu thường gọi Đức Ma-ri-ABC là Nữ Vương.
Chính vì thế, Hội Thánh được dẫn tới Quân Vương (Tv 44) và được gọi là Hiền Thê.
Cũng vậy, tất cả những ai tham dự vào cuộc khổ hình của Chúa cũng đều trở thành những người ở trong vương quốc, những tư tế.
3. Làm chứng cho sự thật
Nếu ta hiểu vương quyền của Đức Giê-su theo nghĩa chính trị như các kẻ tố cáo Người đã đưa ra, thì "Nước tôi không thuộc về thế gian này". Đức Giê-su đến trần gian để làm chứng cho sự thật. Người là Vua với sứ mạng làm chứng cho sự thật. Chính vì điều này mà Người đã sinh ra và sắp chịu chết.
Thế nhưng Đức Giê-su làm chứng không phải cho thứ sự thật trừu tượng, thuộc ý niệm, cũng không phải để đem sức mạnh thiêng liêng của Người mà phục vụ những ý thức hệ của chúng ta, hay biến Tin Mừng thành động lực củng cố những tham vọng của nhân loại, nhưng là để làm chứng cho lòng trung tín của Thiên Chúa đối với thế gian luôn từ khước ơn cứu độ của Người.
Đối với chúng ta ngày nay, khi chấp nhận sống theo ánh sáng và sự thật của Đức Giê-su là chúng ta được tham dự vào Vương Quốc mà Hội Thánh vẫn không ngừng quy tụ thêm giữa các nhóm xã hội khác nhau, và chúng ta trở thành những người làm chứng cho sự thật, như vị Vua của chúng ta.
Các Quốc gia trên thế giới dù nhỏ bé đến đâu thì cũng có một người đứng đầu, vị đó được gọi: TN 34-ABC158
Các Quốc gia trên thế giới dù nhỏ bé đến đâu thì cũng có một người đứng đầu, vị đó được gọi là Tổng Thống, Thủ Tướng, Chủ Tịch, hay Vua. Vua của mỗi nước có thể là nhà lãnh đạo độc tài, bóc lột và cướp hết quyền tự do của người dân, hoặc là người thương dân hết mình. Có vua với có nhiều tham vọng, muốn làm vua thống trị cả thế giới, nên đem quân chinh phục các nước khác bắt phục quyền mình như đã xảy ra trong những thế kỷ trước đây. Gần đây nhất, Thế Giới Đại chiến thứ 2 đã giết hại hàng triệu người, nhưng cuối cùng những kẻ độc tài đầy tham vọng cũng chẳng làm chủ được ai.
Nhận thấy sự cao ngạo của con người đã chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa là Vua trên hết các vua, và Chúa trên hết các chúa, Đức Giáo Hoàng Piô thứ XI đã thiết lập Lễ Kính Chúa KITÔ Vua vào năm 1925 để nhắc nhở cho mọi người biết rằng Chúa Kitô là Vua thật. Người là Alpha và Ômêga (là nguyên thủy và cùng tận), Đấng đang có, đã có và sẽ đến, Đấng là Thiên Chúa (KH:1, 8). Ngài là con Thiên Chúa, Đấng sáng tạo vũ trụ, những vật hữu hình và vô hình, Đấng tạo dựng nên con người chúng ta. Ngài là Vua đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Ngài đã sống lại vinh hiển. Ngài trị vì nước của Ngài không bằng vũ khí bạo lực, không bằng quyền uy hay sức mạnh, cũng không bằng sự giầu sang phú quý mà bằng TÌNH YÊU.
Chỉ có Tình Yêu mới hoán cải được lòng người. Chúa Kitô yêu nhân loại nên "Ngài đã không nghĩ phải dành cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa. Song Ngài đã hủy bỏ mình ra không, là lĩnh lấy thân phận tôi đòi; đem thân phận đội lốt người phàm" (Philip 2, 6-7).
"Ta là Vua", đó là câu trả lời của Chúa cho Philatô. Chúa Giêsu không chỉ là vua của tình yêu mà còn là vua của Sự Thật, vì Ngài rao giảng sự thật, và những gì Ngài hứa là sự thật: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về chân lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi" (Gioan 18, 37).
Chúng ta biết: chân lý của Chúa là tình Yêu, đạo của Chúa là đạo Yêu, mọi người được dạy Yêu Chúa và Yêu anh em. Nếu chúng ta thật sự nhận Chúa là Vua của mình thì hãy thực hành luật của Ngài là Yêu.
Lậy Chúa Giêsu, Chúa là Vua lòng con, là vua gia đình con, tổ quốc con và vua nhân loại, xin cho con luôn nhớ và thực hành luật yêu thương Chúa đã dậy con. Vì Chúa là tình yêu và ở đâu có yêu thương thì ở đó có Chúa, và nơi nào có Chúa thì có bình an và hạnh phúc.
NS. Trái Tim Đức Mẹ - Trích dongcong.net - Pt. Trần Luận
Kể từ khi nghe theo lời xúi bẩy của Satan - con rắn già hỏa ngục - ngang nhiên chống lại giới: TN 34-ABC159
Kể từ khi nghe theo lời xúi bẩy của Satan - con rắn già hỏa ngục - ngang nhiên chống lại giới lệnh của Thiên Chúa, ăn trái cấm, và trở thành những người con phản nghịch, Nguyên Tổ đã bị đuổi ra khỏi cảnh Diệu Quang, và đi vào một hành trình gian khổ của kiếp người, bị chi phối bởi quyền lực của bóng tối, của sự chết. Nhưng chính trong những giây phút ấy, tình thương Thiên Chúa đã rạng chiếu như ánh quang đầy hy vọng. Ngài phạt tội, nhưng không nỡ phạt người có tội. Do đó, Ngài đã sai Ngôi Hai xuống trần chuộc tội cho nhân loại. Sự xuất hiện của Chúa Giêsu như mặt trời công chính xua tan bóng đêm, đem hơi nóng và sức sống lại cho con người. Tuy nhiên, sự xuất hiện ấy chỉ hoàn tất khi Ngài đem tất cả về cho vinh quang Thiên Chúa như Tiên Tri Danien đã tiên báo: “Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài; quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất. Vương quốc Ngài không khi nào bị phá hủy” (Dan 7:14). Trong ý nghĩa ấy, Ngài trở thành vua muôn dân và vua muôn loài thụ tạo.
Giáo Hội đã rất ý nghĩa khi đặt đầu niên lịch phụng vụ bằng việc bắt đầu những tuần lễ của Mùa Vọng, như dấu chỉ của vui mừng và hy vọng. Và niềm hy vọng ấy chỉ nên trọn khi Đức Kitô trở thành vua thống trị mọi loài thay cho sự thống trị của Satan.
“Con vua thì lại làm vua. Con bác sãi chùa lại quyét lá đa”. Đó là nhận xét tự an ủi của phần đông những kẻ sinh ra bởi những cha mẹ thuộc thành phần dân giả, thấp cổ bé miệng, những người mà xã hội nhìn họ bằng cặp mắt không mấy thiện cảm. Dầu vậy, câu nói này cũng không bảo đảm là hễ cha mẹ mình là vua, thì chắc chắn mình cũng sẽ được làm vua. Cảnh tranh dành ngôi thứ, cảnh hưng phế trong lịch sử đã cho biết rằng một thái tử hôm nay có thể trở thành thường dân ngày mai, và một người hôm nay là vua, ngày mai có thể trở thành một tội phạm. Nhưng trường hợp Chúa Giêsu thì khác, Ngài đã xác định một cách công khai về thân thế mình với Philatô khi ông này do dự hỏi Ngài: “Thế ông là vua sao” bằng câu trả lời: “Tôi là vua” (Gio 18:37).
Ngài làm vua, nhưng không giống bất cứ một vua trần gian nào khác. Vương quốc ngài là vương quốc tinh thần, vương quốc tâm linh vượt trên tất cả vương quốc trần gian. Thần dân Ngài là những tâm hồn thiện chí, những tâm hồn trong trắng, và có tinh thần xây dựng hòa bình. Vương quốc đó được gọi là nước Thiên Chúa, những ai sống trong vương quốc ấy được gọi là dân riêng của Chúa. Giáo Hội đã vui mừng dâng lên lời hoan ca trong Kinh Tiền Tụng hôm nay: “Nhờ đó, Người tự hiến thân làm lễ vật tinh truyền và giao hòa trên bàn thờ thập giá, để hoàn tất mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại, qui phục mọi loài dưới quyền bính mình và đặt dưới uy quyền vô hạn của Chúa một vương quốc bao la vĩnh cửu: vương quốc sự thật và sự sống, vương quốc thánh thiện và ân sủng, vương quốc công chính, yêu thương và an bình”. Điều này cũng do chính Chúa xác nhận khi Philatô muốn biết thêm về vương quốc của Ngài: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Gio 18:36).
Nhưng dường như nhân loại trải qua muôn thế hệ đã không mấy niềm nở đón nhận sứ điệp và Tin Mừng này. Nhiều người đã không muốn chấp nhận Chúa Giêsu là vua của mình. Lịch sử đã minh chứng điều đó và qua Thánh Kinh đã ghi lại rằng khi Philatô muốn tha cho Chúa Giêsu và muốn giới thiệu với người Do Thái lúc bấy giờ vị vua của họ, lập tức họ đã phản ứng: “Đóng đinh nó đi. Đóng đinh nó vào thập giá” (Gio 19:6), và “chúng tôi không có vua nào khác ngoài vua Caesar” (Gio 19:15).
Caesar là tượng trưng của sự thống trị, đau khổ, và đầy ải. Chấp nhận Caesar cũng là chấp nhận sống trong nô lệ. Thái độ chọn lựa ấy, ngày nay vẫn thấy xuất hiện trong sinh hoạt tôn giáo, và trong niềm tin của nhiều người. Người ta chấp nhận sống trong nô lệ của đam mê, dục vọng, trong nô lệ và sự thống trị của bóng tối Satan. Chấp nhận sống trong khóc lóc, thảm sầu của vòng tội khiên, nhưng không chấp nhận Chúa Giêsu là vua bình an, là vua hòa bình, vua đầy lòng yêu thương và tha thứ. Sự lựa chọn ấy đã và còn đang đẩy đưa con người vào những tranh chấp nội tâm, và sự thù hận ấy đã bùng lên trong những giao tế thường ngày của nhân loại. Người sát hại người, chiến tranh lan tràn đó đây, bóng tối và hơi hám tử thần như đang che rợp bầu trời nhân sinh.
Chúa Giêsu là vua. Ngài không những là vua thống trị muôn loài, Ngài còn là vì vua đã chiến thắng tội lỗi và quyền lực hỏa ngục. Ngài là vua kẻ lành, người công chính. Ngài cũng là vua cả đối với những kẻ gian ác, bị luận phạt. Uy linh Ngài bao trùm cả hỏa ngục vì theo Thánh Phaolô, thì mọi đầu gối trên trời, dưới đất, hay trong hỏa ngục đều phải quì gối khi nghe tên Ngài. Vương quyền của Ngài vượt thời gian và không gian, xuyên thấu và ngự trị trong cõi đời đời. Nhưng như Ngài đã nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về chân lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi” (Gio 18:36-37). Phần chúng ta hãy tự hỏi mình, tôi có muốn là thần dân của vương quốc mà Giêsu là vua không. Nếu có, tôi đã nghe được tiếng Ngài chưa?!!
Ngày 12.10.1931 kỷ niệm tìm ra Tân Thế Giới, tại kinh thành Rio nước Brazil, người ta đã tổ: TN 34-ABC160
Ngày 12.10.1931 kỷ niệm tìm ra Tân Thế Giới, tại kinh thành Rio nước Brazil, người ta đã tổ chức một buổi lễ thật vĩ đại và long trọng, khánh thành pho tượng Chúa Kitô Vua khổng lồ: Tượng cao 30 mét, đầu dài 3 mét 75, hai tay giang ra từ phải qua trái 30 mét, sừng sững đứng trên một ngọn núi cao 700 mét, buổi lễ diễn ra rất tưng bừng náo nhiệt, sốt sắng và trang nghiêm. Pho tượng được tài nghệ điêu khắc hiện đại, khéo diễn tả sự uy nghi cao cả của Chúa Kitô Vua, hòa hợp với lòng nhân từ hiền dịu và khả ái của một Hiền Phụ, tỏa ra muôn ánh hào quang sáng ngời bởi muôn ngàn ánh điện lung linh diệu huyền, khiến du khách thập phương say mê ngưỡng mộ, ca ngợi và lòng được tràn đầy niềm hân hoan vui sướng tôn phụng Vương Quyền Chúa Kitô là Vua vũ trụ, Vua trên muôn vua, Vua mọi tâm hồn.
I. VƯƠNG QUYỀN CHÚA BAO TRÙM VŨ TRỤ
Sứ Điệp Tin Mừng hôm nay, Thánh Sử Luca đã vắn gọn tường thuật cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và tổng trấn Philatô. Sau khi nghe Philatô hỏi: "Ngài có phải là Vua dân Do Thái không?" Chúa đã trịnh trọng tuyên bố: "Quan nói đúng, Ta là Vua, Ta sinh ra và đến trần gian này để làm chứng về chân lý đó. Ai thuộc về chân lý đó thì nghe tiếng Ta !" (Jn 18:37). Nhưng Chúa còn minh xác với Philatô: "Vương Quốc Ta không thuộc về thế gian này! Vì nếu Vương Quốc Ta thuộc về trần gian này, thì thần dân Ta sẽ chiến đấu, để Ta khỏi lọt vào tay người Do Thái" (xem Jn 18:36).
Là Ngôi Hai Thiên Chúa cao cả, Vương Quyền Chúa Kitô không chỉ giới hạn trong một Quốc Gia hay trong một thời đại nào, nhưng Vương Quyền Chúa bao trùm khắp vũ trụ, trải dài mọi thời đại và trong mọi lãnh vực. Mọi loài trên trời dưới đất và trong hỏa ngục đều thuộc quyền thống trị của Chúa, và là sở hữu của Người. Không một thụ tạo nào mà không do quyền toàn năng của Ngài sáng tạo, an bài, săn sóc và quản trị. Mọi loài mọi vật đều nhờ Ngài mà được hiện hữu, được tồn tại và được sinh động. Ngoài Ngài ra, không một vật nào được tạo thành, Ngài có toàn quyền trên mọi loài thụ tạo, mọi vật đều tùy thuộc Ngài, không vật nào có thể thoát khỏi quyền thống trị của Ngài.
Do đó, mọi Thần Thánh trên Thiên Quốc, mọi Đế Vương dưới trần gian, mọi quyền lực trong hỏa ngục, mọi loài mọi vật trong hoàn vũ đều phải thuần phục Vương Quyền thống trị của Chúa Kitô, vì Ngài là Vua trên muôn vua, là Chúa trên các chúa.
II. NGHĨA VỤ PHẢI CÓ ĐỐI VỚI VUA KITÔ
Nghĩa vụ khẩn thiết của mọi thụ tạo là phải hướng về Chúa Kitô như cùng đích, như cứu cánh, vì Ngài là Alpha và Omega, là khởi điểm và là kết thúc. Đặc biệt nhân loại là loài hữu trí có hồn thiêng bất tử, được Chúa tạo dựng giống hình ảnh Chúa, phải hết lòng tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa như một nghĩa vụ khẩn thiết tuyệt đối. Không những loài người phải chu toàn nghĩa vụ khẩn thiết tuyệt đối đó, mà còn có nghĩa vụ phải ca ngợi tôn vinh Chúa thay cho các loài thụ tạo khác.
Dù là một nghĩa vụ khẩn thiết, nhưng Chúa muốn cho loài người tự tình phụng sự, tôn thờ, yêu mến Ngài, bằng tấm lòng biết ơn, hiếu nghĩa với tấm lòng con ngoan thảo, không phải vì miễn cưỡng ép buộc. Vì Chúa ban cho con người có tự do, như một đặc ân Chúa ban tặng nhưng không. Con người cần biết xử dụng ơn ban đó để tự nguyện và vui sướng đáp trả lòng Ngài yêu thương, cân xứng với nghĩa vụ là thần dân của Vua cao cả, là thụ tạo của Đấng Tạo Hóa, là con ngoan thảo của Hiền Phụ.
III. VƯƠNG QUỐC HỮU HÌNH CỦA CHÚA KITÔ
Vương Quốc hữu hình của Chúa nơi trần gian, bao gồm tất cả những người tin Chúa Kitô rải rác trên khắp thế giới. Tất cả những tôi trung con thảo đó được qui tụ làm nên một Đoàn Chiên của một Vị Chủ Chăn, một Dân Thánh của một Vị Thủ Lãnh tối cao, một Giáo Hội duy nhất dưới quyền Đấng Đại Diện Chúa Kitô là Đức Giáo Hoàng.
Giáo Hội đó chính là Thân Thể Huyền Nhiệm của Chúa Kitô, có Chúa là Đầu, là Thủ Lãnh Tối Cao, là Vị Sáng Lập Giáo Hội mà Đức Giáo Hoàng là Đấng kế vị Thánh Phêrô, là Đại Diện hữu hình của Chúa nơi trần gian.
Đây là một Vương Quốc được tổ chức theo thần quyền, có phẩm trật quyền bính được thông ban từ Thiên Chúa; không theo một thể chế chính trị quân chủ hay dân chủ; không làm chính trị, không dùng võ lực để bành trướng thế lực hay chiếm đoạt của cải trần gian. Đó là một Siêu Quốc Gia, một Vương Quốc siêu việt, được tổ chức với mục đích siêu nhiên là tiếp tục Sứ Mạng Cứu Thế của Chúa Kitô, rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, chinh phục về cho Chúa các linh hồn, làm nên thần dân trong Vương Quốc của Chúa.
Đấng Đại Diện Chúa Kitô, thủ lãnh tối cao của Vương Quốc Chúa là Đức Giáo Hoàng, kế vị Thánh Phêrô, thủ lãnh tiên khởi được Chúa ủy thác. Quốc sách cai trị là tình yêu thương, lòng nhân từ tha thứ, như phương thế thần diệu để chinh phục, giáo huấn và thánh hóa các linh hồn. Thần dân của Chúa là các linh hồn, biên cương của Vương Quốc Chúa là tất cả mọi quốc gia trên thế giới.
Kết Luận
Toàn thể vũ trụ với muôn loài muôn vật trên trời, dưới thế và trong hỏa ngục đều phải thuần phục Vương Quyền của Chúa Kitô, phải hết lòng tôn thờ, suy phục và phụng sự yêu mến duy một mình Ngài.
Toàn thể Giáo Hội Chúa Kitô trên trần gian, như một hàng Tư Tế vương giả, Chủng Tộc thánh thiện, Dân Riêng của Chúa, hằng ngày có nhiệm vụ thay thế cho tất cả, tái diễn Lễ Hy Sinh của Chúa Kitô trên Thánh Giá xưa, dâng lễ tạ ơn, tôn thờ Thiên Chúa bằng tất cả tấm lòng con ngoan thảo tự tình tự nguyện như lòng Chúa khát khao: "Con hãy dâng trái tim con cho Cha".
Đó chính là một nghĩa vụ khẩn thiết duy nhất, cân xứng để tỏ lòng thuần phục, tôn nhận Vương Quyền Chúa Kitô, Vua toàn thể vũ trụ, Vua trên muôn vua, Chúa trên các chúa.
Niên sử thời Trung Cổ còn ghi lại một sự kiện khá kỳ lạ và rất gợi ý: Việc xẩy ra trong một hầu: TN 34-ABC161
Niên sử thời Trung Cổ còn ghi lại một sự kiện khá kỳ lạ và rất gợi ý:
Việc xẩy ra trong một hầu quốc gần bờ sông Rhin nước Pháp. Vua của lãnh thổ này, vừa qua đời, sau một thời gian đất nước loạn lạc và chinh chiến. Dân chúng chán cảnh chiến tranh và đòi một người kế vị yêu chuộng hoà bình. Nhưng các quan trong triều đình có trách nhiệm chọn người kế vị lại bối rối, khó xử, vì vị vua vừa qua đời có để lại 2 đứa bé còn nằm trong nôi và đứa nào cũng dễ thương hết. Làm thế nào biết được em nào sẽ là con người yêu chuộng hoà bình? Lúc đó, một vị quan có trách nhiệm lựa chọn đưa ra ý kiên là "Hãy quan sát kỹ 2 em đang nằm ngủ trong nôi như 2 thiên thần". Ông thấy bé thứ nhất ngủ mà tay mở ra trong khi đứa thứ hai nắm chặt tay lại. Không do dự, ông chọn ngay bé thứ nhất. Và sử đã ghi lại rằng đó là vị Hoàng Tử đầy từ tâm và nhân ái dịu hiền.
Đây là hình ảnh kỳ diệu của Đức Giêsu dịu hiền và tốt lành, Vua và trung tâm của mọi tâm hồn. Vì Người cũng thế, lúc ở trong máng cỏ cũng như khi ở trên cây Thập Giá. Người đưa tay ra cho chúng ta. Người mở rộng đôi tay trong dáng điệu đón nhận một trong muôn vàn lời nói cũng như sách viết để giải thích và cắt nghĩa vương quyền của Chúa Giêsu, chúng ta phải kể đến đoạn sách Khải Huyền trong bài đọc thứ nhất hôm nay: "Chúa Giêsu Kitô là chứng tá trung thành, là trưởng tử kể chết, là Thủ lãnh các vua trần thế......". Với 20 chữ này đã cho chúng ta 3 sự thật căn bản và mời gọi chúng ta vui mừng phấn khởi trong ngày lễ Chúa làm Vua hôm nay.
1. Là chứng tá trung thành: Chúa Giêsu là chứng tá của Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài đã công bố vương quốc của Ngài với cuộc sống đầy vinh quang kéo dài vô tận. Qua sự chết của Ngài, Ngài đã chứng minh tình yêu thương tha thứ của Ngài đối với mọi người chúng ta. Ngài cai trị thần dân không phải bằng quyền lực và vinh quang như các vua chúa trần gian, nhưng là bằng đau khổ và thánh giá. Bằng tình yêu thương và tha thứ. Ngài không chọn những người khôn ngoan, thông thái vào trong nội các của Ngài mà là những người bình dân, đơn sơ chất phác với những nghề tầm thường trong xã hội Ngài sống.
2. Là trưởng tử kể chết: Trong sự chiến thắng sự chết, Ngài đã công bố sự sống lại. Và Ngài đã cho chúng ta biết cuộc sống mai sau trong vương quốc của Ngài sẽ bền lâu, sự chết không còn bén bảng tới đó được nữa. Quyền lực của Ngài vượt trên mọi thần lực tối tăm của mồ mà chết chóc. Nhờ quyền lực ấy, Ngài để lại cho chúng ta một mẫu mực để được tái sinh trong cuộc sống đời đời. Ngài đã dùng sự chết đau thương và sống lại vinh hiển như là một dấu chỉ, một nhịp cầu để mở đường cho chúng ta tiến vào cuộc sống ngàn thu.
3. Là Thủ lãnh các vua trần thế: Người là Vua trên muôn vua, Chúa trên các chúa. Vương quốc của Ngài không như các lãnh thổ trần thế mà là tâm hồn mỗi người tin vào Ngài. Vương quốc ấy không bị giới hạn bởi bất cứ quyền lực chính trị nào. Các vua chúa trần gian một ngày nào đó sẽ không còn, nhưng Ngài tồn tại muôn đời như lời Ngài đã phán với Philatô: "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong trần gian này là chĩ để làm chứng về Chân Lý. Ai thuộc về Chân Lý thì nghe tiếng tôi". Ngài là Vua, nhưng là Tình Yêu, vua nhẫn nại đợi chờ và tha thứ cho thần dân.
Chúa Kitô là Vua tâm hồn mỗi người chúng ta. Ngài phải chiếm chỗ nhất trong đời sống của ta. Ngài phải làm chủ và điều hành các công việc trong cuộc sống của chúng ta. Vậy thái độ thế nào đối với Ngài trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta có dám xưng mình là lính của của Ngài qua việc chu toàn các luật lệ, các điều Ngài khuyên dạy qua Giáo hội của Ngài không?
Giáo Hội cử hành trọng thể Lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật hôm nay để kết thúc năm Phụng vụ, để rồi một năm Phụng vụ mới lại bắt đầu từ Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng. Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi chia sẽ vinh quang trong vương quốc của Vua Kitô vì Ngài luôn là Đường, là sức mạnh để chúng ta chiến thắng thần dữ, là Sự Thật làm vững mạnh Đức tin chúng ta, là chứng tá trung thực cho cuộc sống mai sau của chúng ta, là Sự sống để đưa chúng ta về hưởng cuộc sống đời đời với Ngài trên nơi vĩnh phúc.(11.2003).
& Xây dựng Vương quốc của Chúa trong trần gian - Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Năm Phụng vụ kết thúc với Lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ, vì chung cuộc của tạo dựng và cứu độ: TN 34-ABC162
Năm Phụng vụ kết thúc với Lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ, vì chung cuộc của tạo dựng và cứu độ là mọi người nhìn nhận, chúc tụng Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người làm Vua vũ trụ vạn vật và loài người. Nhìn nhận Chúa Giêsu là Vua đối với người tín hữu cũng có nghĩa là nỗ lực xây dựng Nước Thiên Chúa trong trần gian này.
I. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1.1 Bài đọc 1: Dn 7,13-14: Là tường thuật một thị kiến của ngôn sứ Đanien về vương quyền, vương quốc của một nhân vật huyền bí được gọi là Con Người: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; Vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.” Trong đoạn Kinh Thánh trên nổi bật hai nhân vật: Con Người và Đấng Lão Thành. Con Người vừa có nghĩa là một người, vừa có nghĩa là một con người hết sức đặc biệt vì đã được Thiên Chúa trao mọi quyền thống trị trên trời dưới đất và trong cõi âm phủ. Trong các Sách Phúc âm, nhất là trong Phúc âm Máccô, Đức Giêsu đã nhiều lần tự xưng mình là Con Người theo cả hai nghĩa nêu trên. Còn Đấng Lão Thành là chính Thiên Chúa Cha, Đấng đã trao mọi quyền uy và vinh quang cho Con của Người là Đức Giêsu Kitô.
1.2 Bài đọc 2: Kh 1,5-8: Là một đoạn quan trọng trong Sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ, nói về chân dung và hành động cứu thế của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: “ Đức Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết trỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người& Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người.” Về chân dung hay căn tính của Chúa Giêsu Kitô, Thánh Gioan nêu 3 chức danh: Chứng Nhân, Trưởng Tử và Thủ Lãnh. Về mối quan hệ giữa Chúa Giêsu với loài người, Thánh Gioan nhấn mạnh tình yêu thương cứu chuộc của Người và về sự kiện vô cùng quan trọng là Người sẽ đến trong đám mây tức trong tư cách là Thiên Chúa và mọi người -kẻ dữ người lành- cũng đều nhìn thấy Người. Đó là ngày Cánh Chung, ngày Thiên Chúa hoàn tất mọi công trình của Người. Trong ngày ấy, Chúa Giêsu sẽ đóng vai quan án phán xử toàn thể nhân loại (xem Mt 25).
1.3 Bài Tin Mừng: Ga 18,33b-37: Là tường thuật của Gioan về giây phút quyết định trong phiên tòa của Philatô. Đức Giêsu biết rất rõ những hậu quả sẽ xẩy ra sau cuộc thẩm vấn lịch sử này và Người đã nói những gì phải nói với kẻ có quyền giết hại Người. Chúng ta đọc lại đoạn hỏi cung Đức Giêsu tại Dinh Tổng trấn: - Ong có phải là Vua dân Do Thái không?
- Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi?
- Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ong đã làm gì?
- Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này.
- Vậy ông là vua sao?
- Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.
Nếu chỉ đọc qua những câu đối đáp trên, chúng ta dễ có cảm tưởng là cuộc hỏi cung Đức Giêsu diễn ra y hệt là “ông nói gà bà nói vịt”. Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?” thì Đức Giêsu không trả lời vào câu hỏi mà hỏi lại Philatô: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi?” Khi Philatô hỏi Đức Giêsu một lần nữa: “Vậy ông là vua sao?” thì Đức Giêsu lại không trả lời thẳng: “Phải, tôi là vua” mà lại nói: “Chính ngài nói rằng tôi là vua.” Rồi Đức Giêsu nói về một vương quốc nào đó của Người và về sứ mạng làm chứng cho sự thật là những điều vượt ra ngoài tầm hiểu biết và mối quan tâm của Philatô. Kết cục là vì sức ép của dân chúng và các thượng tế Do Thái và vì sợ rằng Đức Giêsu sẽ là mối đe dọa cho quyền hành, địa vị và quyền lợi của mình, Philatô đã quyết định án tử hình thập giá cho Đức Giêsu Nadarét mà chúng ta tuyên xưng là Đấng Kitô, là Chúa Cứu Thế của chúng ta và của mọi người.
II. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
2.1 Chúa Giêsu Kitô là Vua toàn thể nhân loại và vũ trụ vạn vật.
Nghĩa là Chúa Giêsu là Chúa Tể, là Thủ Lãnh của toàn vũ. Đối với vũ trụ vạn vật Người cai trị bằng các định luật tự nhiên được in sâu trong bản tính các thụ tạo. Đối với con người, tuy là thủ lãnh, nhưng Chúa Giêsu không lấy quyền mà cai trị hay đàn áp, trái lại Người cư xử với mọi người như kẻ hầu hạ và hiến mạng sống mình cho hạnh phúc con người. Vương quyền ấy, Chúa Giêsu muốn hết mọi người - có đạo và lương dân- vì đó là điều kiện để con người có được hạnh phúc thật. Trở lại cuộc hỏi cung Đức Giêsu trong bài Tin Mừng, chúng ta có cảm tưởng là Đức Giêsu không chỉ muốn được dân Do Thái nhìn nhận là Vua mà rõ ràng Người còn muốn được cả Philatô nhìn nhận Người là vua. Philatô là quan tổng trấn đất nước Palestin lúc đó, là đại diện của triều đình La Mã tức quyền bính trần gian, và tượng trưng cho thế giới kẻ ngoại. Như vậy thì Vương quyền của Đức Giêsu bao trùm cả dân riêng lẫn dân ngoại, cả đền thờ (tôn giáo) lẫn ngai vàng (thế quyền).
2.2 Vương quốc của Thiên Chúa.
Đối với Đức Giêsu thì có một thực tại hết sức quan trọng trong cuộc sống trần thế của Người: đó là Nước Trời, Nước Thiên Chúa hay Vương Quốc của Thiên Chúa. Thật vậy lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu Kitô là: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17), “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Chính vì thế mà trong bài giảng trên núi, Người đã long trọng công bố Bản Hiến Chương Nước Trời gồm tám điều được coi là phúc thật cho những người muốn sống theo Tin Mừng. Sau này, trong những năm tháng giảng dậy và huấn luyện các môn đệ, Đức Giêsu đã truyền dạy Kinh Lạy Cha là kinh có mối liên quan chặt chẽ với Thiên Chúa và Vương Quốc của Người “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho Danh Thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10). Và để giúp người ta hiểu thế nào là Nước Trời, Đức Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh, nhiều dụ ngôn khác nhau: người gieo giống, cỏ lùng,hạt cải, men trong bột, kho báu và ngọc quí, chiếc lưới, thợ làm vườn nho, hai người con, tiệc cưới& (Xin mời đọc Đề tài V: Đức Giêsu rao giảng Nước Trời, trong GIÁO DÂN TRUYỀN GIÁO, trang 69-78).
2.3 Nhìn nhận Vương quyền của Chúa Giêsu Kitô và xây dựng Vương quốc của Thiên Chúa.
Mục đích của các bài Thánh Kinh trong Phụng vụ của Hội Thánh hôm nay -cũng là mục đích của việc Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người- là (1o) mọi người nhìn nhận Vương quyền của Chúa Giêsu Kitô và (2o) những ai tin Chúa Giêsu Kitô là Vua thì phải xây dựng Vương quốc của Thiên Chúa trong trần gian này.
* Nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô là Vua là sống theo tinh thần, giới luật và sống bằng sự sống của Người. Tinh thần là tinh thần bát phúc. Giới luật là điều răn yêu thương, bác ái, vị tha và phục vụ. Sự sống của Chúa Kitô là Thần Khí của Thiên Chúa. Nhìn nhận bằng nhiều cách khác nhau: nhìn nhận cách thầm kín và công khai; nhìn nhận trong tư tưởng, lời nói và việc làm; nhìn nhận có tính cá nhân và cộng đồng.
* Còn xây dựng Nước Thiên Chúa là xây dựng Vương Quốc, Triều Đại của Công Lý, Hòa Bình và Yêu Thương trong tâm hồn mình và tâm hồn mọi người cũng như trong các cơ chế xã hội, quốc gia và quốc tế. Ở nơi nào và khi nào mà tinh thần Bát Phúc, giới luật Yêu Thương và Thần Khí của Thiên Chúa hiện diện thì ở nơi đó, vào lúc đó Vương Quốc của Thiên Chúa được hình thành. Chính trong tinh thần này mà mới đây Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II khuyến khích các giáo dân dấn thân vào đời sống chính trị để làm chứng cho Tin Mừng và xây dựng Nước Thiên Chúa trong các môi trường kinh tế, văn hóa xã hội và chính trị, là những môi trường rất dễ vắng bóng Thiên Chúa.
III. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con xin nhận Chúa là Chúa, là Vua, là Thủ Lãnh của chúng con. Xin Chúa hãy ngự trị trong tâm hồn chúng con và trong tâm hồn mọi người! Xin Chúa ngự trị trong gia đình chúng con và trong các gia đình khác! Xin Chúa hãy ngự trị trong các cơ cấu xã hội, quốc gia và quốc tế.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con dâng Chúa quyết tâm của chúng con hôm nay là dùng hết khả năng tài trí, sức lực của mình để xây dựng Vương quốc của Thiên Chúa là Vương Quốc của Công Lý, Hòa Bình và Yêu Thương trong tâm hồn con người và trong các môi trường xã hội xung quanh chúng con. Xin Chúa ban ánh sáng và sức mạng Thánh Thần cho chúng con. Xin Chúa đồng hành tức cùng đi và cùng hành động với chúng con. Amen!
Hôm nay chúng ta suy niệm bài Tin Mừng trích trong đoạn văn kể lại việc Philatô xử án Chúa: TN 34-ABC163
Hôm nay chúng ta suy niệm bài Tin Mừng trích trong đoạn văn kể lại việc Philatô xử án Chúa Giêsu. Chỉ là một đoạn văn ngắn thôi, nhưng thánh Gioan cho ta biết đến hai lần Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Dothái không?”. Lần đầu Chúa Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi của Philatô. Nhưng thay cho câu trả lời, Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho chính Philatô, hỏi ngược lại Philatô: “Quan tự ý nói hay có người nói cho quan nghe về tôi?”. Bằng câu hỏi này, Chúa Giêsu đã lật ngược phiên tòa: Kẻ coi mình là người có quyền xử án, lại là người phải trả lời câu hỏi của “bị cáo”. Philaô, kẻ tự coi mình là người có quyền xử án Chúa Giêsu, lại trở thành người bị tra hỏi. Ông trả lời câu hỏi của Người: “Tôi không phải là người Dothái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho tôi”. Vậy thánh Gioan có ý gì khi ghi lại chi tiết này? Thánh Gioan muốn nói rằng: người có quyền không phải là Philatô, mà là chính Chúa Giêsu. Quyền bính không thuộc về con người, nhưng xuất phát từ Thiên Chúa. Rõ ràng một phiên tòa bị lật ngược.
Vì Chúa Giêsu chưa trả lời câu hỏi của Philatô, lần thứ hai ông lại thắc mắc: “Vậy ông là Vua à?”. Lời hỏi này chưa hẳn là lời xác quyết, nhưng vẫn cho thấy lòng Philatô có một chút gì đó là khởi đầu của sự tin tưởng. Vì có khi chính lúc người ta nghi ngờ là lúc người ta bắt đầu tin! Vì thế, trước câu hỏi của lần này, Chúa Giêsu trả lời dứt khoát, sau khi lật ngược phiên tòa: “Ông nói đúng, tôi là Vua”. Bài Tin Mừng chỉ đến đây, nhưng nếu ta đọc tiếp, sẽ thấy, ở cuối phiên tòa, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh một lần nữa về vương quyền của Ngài, qua đó càng cho ta thấy rõ, Philatô không có quyền gì nơi Chúa Giêsu hết, nếu Thiên Chúa không muốn như vậy: “Ông không có quyền gì trên tôi nếu từ trên không ban xuống cho ông”.
Đến lúc Chúa Giêsu chết trên thánh giá, lại một lần nữa, dù không ý thức, Philatô tuyên xưng vương quyền của Chúa Giêsu, khi sai người đóng một tấm bảng trên đầu thánh giá: “Vua dân Dothái”. Lần tuyên xưng sau cùng này hết sức ý nghĩa và mang tính quan trọng: đây không còn là câu hỏi nữa mà là một lời khẳng định: “Vua dân Dothái”! Giống như khi nói chuyện với một người nào đó, tôi hỏi anh ta: “Anh có phải là thầy giáo không?”, trong câu hỏi của tôi chưa chắc chắn. Nhưng nếu tôi nói: “Người này là thầy giáo”, thì tôi đã khẳng định đúng như vậy. Hai lần hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là Vua không?”, cho thấy Philatô còn lưỡng lự, còn nghi ngờ. Nhưng lần tuyên xưng sau cùng được viết trên tấm bảng “Vua dân Dothái”, cứ y như là một lời tuyên xưng chắc chắn, được viết ra thành văn bản hẳn hòi. Nó trở thành một lời tuyên xưng, hết lưỡng lự, hết nghi ngờ.
Nhưng theo dõi suốt phiên tòa xử án Chúa Giêsu, tôi bỗng nhận ra một điều: Philatô là người ngoại giáo, lại có những lời tuyên xưng vương quyền Chúa Kitô. Trong khi đó, người Dothái là dân của Chúa, dân riêng Chúa chọn, thì lại nộp Chúa của mình cho kẻ ngoại xử án. Và một mực đòi chính quyền phải đóng đinh Chúa của mình vào thập giá!
Đó là bài học cho mỗi chúng ta. Vì biết đâu, ở trong nhà thì lại trở thành kẻ bên ngoài, còn người ngoài, người chưa nhận biết Chúa, nhưng vì thái độ thành tâm tìm Chúa của họ, thay thế hoàn toàn chính chỗ đứng của chúng ta. Bởi vậy, để đừng rơi vào nỗi bi đát mà người Dothái, do thái độ đố kỵ, cứng lòng tin của mình, đã đánh mất ơn cứu độ, chúng ta hãy tin tưởng và phó thác hoàn toàn mạng sống, cuộc đời, sức lực, tài năng, sự khôn ngoan, thời gian, ngay cả những yếu đau, bệnh tật, bất toàn& của mình cho Chúa. Chỉ có tín thác mãnh liệt như thế, ta mới không rơi vào dấu chân xưa không lấy gì làm tốt đẹp của người Dothái. Vì khi tín thác cho Chúa, thì ngay trong ý nghĩa của sự tín thác đã hàm chứa một lòng vâng phục, lòng mến yêu, sự cậy trông. Và qua một đức tin tín thác trọn vẹn, còn cho ta thấy cả một sự khôn ngoan lớn lao, vì tín thác chính là không ngoan. Sau nữa, lòng tín thác cũng là thái độ mềm mỏng, dám chấp nhận để Chúa thực hiện và thể hiện thánh ý của Người trên cuộc đời mình. Cuối cùng, ta hãy thâm tín rằng, chỉ một mình Thiên Chúa là chủ cuộc đời ta, và Chúa Giêsu chính là lẽ sống, là nguồn ơn cứu độ ta. Tín thác cho Người là tuyên xưng Vương Quyền của Người.
Chúa nhật Chúa Kitô Vua: Jesus Christ the King Lời Chúa cho hôm nay : NƯỚC TÔI KHÔNG THUỘC THẾ GIAN = * My Kingdom does not belong to this world *
Bài này nói về Con Người đứng trước Giavê để nhận quyền năng và thống trị mọi dân tộc: TN 34-ABC164
* BÀI ĐỌC 1 : Daniel 7, 13- 14= Bài này nói về Con Người đứng trước Giavê để nhận quyền năng và thống trị mọi dân tộc./ Its peaks of the Son of Man standing before the ancient one (Yahweh) and dominion over the nations.
* BÀI ĐỌC 2 : Khải huyền 1, 5- 8= Đức Giêsu là người đầu tiên trong những người được chỗi dậy từ cõi chết. Ngài là vua trên hết các Vua./ Jesus is the first of those who will rise from the dead. He is the true King of kings.
* TIN MỪNG (Gospel) Gioan 18, 33- 37= Đức Giêsu không đến thế gian này để thiết lập một nước chính trị hay giải phóng người Do Thái khỏi cai trị Lamã/ Jesus did not come. ..to establish a political kingdom or to free the Jew...
A. Bạn và tôi cùng Cảm-Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên : ( Reflections, live out and share )
1/ Đức Giêsu trả lời ông Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu.” Nước Chúa không nhằm mục tiêu chính trị hay dùng sức mạnh để giải phóng dân tộc. Nước của Người là Hòa bình, Công chính và Yêu thương. Ngày nay các nước dùng đủ mọi cách để xâm chiếm nhau, nhưng đều thất bại! Tôi đã đóng góp được gì để xây dựng xã hội? (Hành đạo)
“My Kingdom does not belong to this world. If. ..belong to this world, my attendants would be fighting... (Ga. 18, 36)
2/ Đức Giêsu nói thêm: “...Tôi sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” Chúa đã nói rõ với bạn: Thầy là đường, là sự thật và là sự Sống. Ngài muốn bạn sống sự thật cho chính mình và mọi người. Bạn đã nghe tiếng Chúa để làm gì? (Sống đạo)
“I was born and for this I came into the... to testify to the truth. Everyone...the truth listens to my voice.” (Ga. 18, 37 )
3/ Trong bài đọc 1, tiên tri Đa-ni-en được nhìn thấy: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc...đều phải phụng sự Người.” Đấng Lão Thành đây chính là Chúa Cha đã vinh danh Người. Tôi có Sống như lời mình vân hát: nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta sẽ cùng Sống với Người...Tôi chia sẻ những hy sinh lớn nhỏ trong gia đình? (Tu luyện)
“The Ancient One was presented, He received dominion, glory and kingship, all poeple, nations...serve Him.” (Đn. 7, 14)
4/ Sách Khải Huyền viết về tình Chúa yêu tôi: “...Người đã lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành Vương quốc và hàng Tư tế.” Bạn thật là hạnh phúc vì được tham dự làm Quân vương, Tư tế và Ngôn sứ của Vương quốc của Thiên Chúa, bạn cũng được cai trị mọi loài với Đức Kitô để cùng tạo vật dâng hiến, tạ ơn Chúa Cha. Nói những Cảm Nghiệm bạn đang Sống hôm nay? (Thánh thiện)
“He loves us, has freed us our sins by His blood, He has made us into a Kingdom, Priest for His God Father.” (Kh. 1, 5- 6)
B.Câu Kinh Thánh đánh động bạn và tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần naỳ : (The Best GodỴs Word)
“ TÔI SINH RA VÀ ĐẾN THẾ GIAN VÌ ĐIỀU NÀY: ĐÓ LÀ ĐỂ LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT.”
I was born and for this I came into the world to testify to the Truth (Gioan 18, 37) Vatican II: Phần các chủ chăn có chức thánh, các ngài phải nhìn nhận nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của mọi Tín hữu trong Giáo hội. (Mầu nhiệm Giáo hội # 37)
Gương Mẹ Maria: Sứ thần nói: “Vui mừng lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. (Lc.1, 28)
C. Ngay bây giờ bạn và tôi phải làm gì để thực hành Lời Chúa: ( So what am I doing / For Action )
1/ Thực hiện đúng 3 chức năng: Tư tế, Ngôn sứ và Quân vương. 2/ Can đảm nói sự thật nơi mình sống.
D.Tôi cầu nguyện với Lời Chúa và Sống lời tôi cầu xin: (I pray and practice / Pray in Action)
Lạy Đức Kitô, Chúa đã nói: Tôi đến thế gian là để làm chứng cho sự thật. Xin cho con can đảm sống và làm theo Lời Chúa dạy, không vì lợi ích riêng tư, quyền lợi ích kỷ cá nhân để bóp méo sự thật là Lời Chúa.
Hoa thơm cỏ lạ: CHÚNG TA BÀY TỎ TÌNH YÊU CHÚA KHI CHIA SẺ TÌNH YÊU CỦA NGÀI CHO NGƯỜI KHÁC
“We show our love for God when we share His love with others”
Tin mừng mà Giáo hội muốn cho mỗi người chúng ta suy niệm nhân lễ Chúa Kytô Vua được: TN 34-ABC165
Tin mừng mà Giáo hội muốn cho mỗi người chúng ta suy niệm nhân lễ Chúa Kytô Vua được đặt trong bối cảnh Chúa Giê-su bị người Dothái điệu từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn. Như thế có nghĩa là Chúa Giê-su sau khi bị xử ở tòa án Dothái, thì giờ đây Người còn phải ra trước toà án Rô-ma mà đại diện là tổng trấn Pon-xi-ô Phi-la-tô - làm tổng trấn xứ Giu-đa từ năm 26-36. Đỉnh cao của phần thẩm vấn giữa một bên là quan toà Phi-la-tô và một bên là “bị cáo” Giê-su liên quan đến điều mà cáo trạng của kẻ thù nghịch nêu lên để chống lại Chúa Giê-su với tội danh Người tự xưng là vua.
Tại sao phải nại tới tòa án Rô-ma? Chúng ta biết là quyền xử án và thi hành án của tòa án Thượng hội đồng Do thái rất giới hạn trong phạm vi tôn giáo. Tòa án Thượng hội đồng chỉ được xử án những tội với mức xử là đánh đòn hay giam tù mà thôi. Còn kết án tử hình thì tòa án Thượng hội đồng không được phép thi hành bản án mà phải chuyển sang tòa án Rô-ma thực thi bản án này. Vì thế chúng ta thấy trong phiên tòa xử Chúa Giê-su, tòa án Thượng hội đồng Dothái kết án tử hình Chúa Giê-su vì tội phạm thượng. Nhưng với tội phạm thượng này, tòa án Rô-ma không thể xử và thi hành được vì đây là tội thuộc phạm vi tôn giáo chứ không thuộc tội chính trị. Thế nên người Do thái bèn nẩy “sáng kiến” khiến Chúa Giê-su phải bị tử hình dưới tòa án Rô-ma. Từ tội danh phạm thượng chỉ thuần túy mang tính tôn giáo, giờ đây người Do thái chuyển sang tòa án Rô-ma và chụp mũ Chúa Giê-su với ba tội danh “chết người”, đó là 1/ Xách động quần chúng; 2/ Ngăn cản nộp thuế cho hoàng đế và 3/ Tự xưng là Vua!
Sở dĩ chúng ta biết rõ tội của người Dothái là vì đứng trước lời thẩm vấn của Phi-la-tô : “Ông có phải là vua dân Dothái không?”, Chúa Giê-su đã truy tìm nguồn gốc của lời kết án này và chính Phi-la-tô đã cho biết đó chính là người Dothái đã tố cáo.
“Nuớc tôi không thuộc về thế gian này”. Điều mà Chúa Giê-su khẳng định một lần nữa cho thấy nước Chúa không như cách người Dothái hay như Phi-la-tô hình dung và mong đợi. Người Dothái dưới thời đế quốc Rô-ma thống trị vẫn thường xen lẫn ý nghĩ là mong chờ Đấng Cứu Thế (Mê-si-ABC) đến để đem lại sự thống nhất đất nước cho dân tộc Dothái đang bị đế quốc đô hộ.
Vâng, nước của Chúa Giê-su không giống như cách con người quan niệm là phải của thành phần thống trị nhờ có sức mạnh về quân sự, mở mang bờ cõi, xâm chiếm các quốc gia khác,& Nước của Chúa Giê-su không nhằm mục tiêu chính trị, vì thế Người không bao giờ là Đấng phải đến theo quan niệm trần thế là chỉ để thực thi công cuộc giải phóng, chấn hưng đất nước. Nước của Chúa đến từ nơi khác, từ nơi mà Người đã sinh ra từ đời đời và cũng từ đó mà Người đã đến thế gian.
Chính vì Người đã đến thế gian nên sứ mạng của Người nơi trần gian là “làm chứng cho sự thật”. Làm chứng cho sự thật không gì khác hơn là tử đạo (Martyr). Chính cái chết của Người trên Thập giá là bằng chứng và là dấu ấn cho việc làm chứng đó.
Nước của Chúa Giê-su được thiết lập không phải nhờ sức mạnh quân sự, vũ khí hạt nhân, tiền và mưu lược, nhưng chính là nhờ lời mạc khải từ Thiên Chúa và công dân của nước đó là tất cả những ai đón nhận và thực thi Lời mạc khải.
Là Vua, nhưng Vua Giê-su không giống như vua trần thế là để được người ta hầu hạ, cung phụng, nhưng Người đến để hầu hạ và nâng đỡ kẻ yếu hèn; quyền lực của Vua Giê-su cũng không phải là quyền lực của thế trần. Nghĩa là một thứ quyền lực của kẻ quyền thế, một quyền lực theo kiểu “trên giáng xuống, dưới chịu đựng” mà quyền lực của Người là quyền lực của tình yêu; sức mạnh của Vua Giê-su không đến từ đội quân hùng hậu, trang bị vũ khí hiện đại mà chính là sức mạnh của lòng tha thứ; thành công của Vua Giê-su không phải là thứ thành công của kẻ thắng trận, của kẻ mạnh mà chính là thành công do thập giá và máu, tra tấn và tù đày, khinh chê và nhục mạ vì chân lý, vì Tin mừng.
Và cuối cùng, mũ triều thiên của Vua Giê-su không được nạm bằng ngọc bích, bằng vàng ròng mà là mũ triều thiên trên đó được gắn những đớn đau, tội lỗi của thế trần, được chạm trỗ bởi tình yêu và sự vâng phục.
Lạy Chúa Giê-su là Vua, chớ gì môi miệng chúng con tuyên xưng Chúa là Vua và tâm trí chúng con luôn hướng về Chúa như là Đấng Quân Vương của Chân - Thiện - Mỹ; nhờ đó, chúng con luôn dấn bước theo Chúa, đồng hành với Chúa giữa dòng đời để rao giảng tình yêu của Chúa cho mọi người.
Bước vào bất cứ ngôi nhà thờ nào, hay bất cứ một gia đình kitô hữu nào, có lẽ chúng ta đều: TN 34-ABC166
Bước vào bất cứ ngôi nhà thờ nào, hay bất cứ một gia đình kitô hữu nào, có lẽ chúng ta đều thấy có cây Thánh giá được đặt nơi trang trọng nhất, và trên mỗi đầu cây Thánh giá đều có tấm bảng ghi bốn chữ I.N.R.I. Đây là những từ viết tắt của tiếng La tinh: Iesus Nazareus Rex Iud orum, nghĩa là Jésus, người Nazareth, Vua dân Do thái. Những chữ này do Philatô truyền viết và đóng trên thập giá của Đức Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài (x. Ga 19, 19-22). Khi cho viết những chữ này, Philatô có ý mỉa mai, và chọc tức người Do thái vì vua của họ bị đóng đinh, nhưng ông không ngờ rằng, Thiên Chúa đã dùng ông để báo cho mọi người biết rằng Đức Giêsu đích thực là vị Vua mà Thiên Chúa đã hứa ban cho nhà Israel. Mặt khác, tấm bảng này lại được viết bằng ba thứ tiếng phổ thông lúc bấy giờ trên toàn đế quốc là: Hipri, Latinh và Hy lạp, như muốn nói rằng: Đức Giêsu cũng đích thực là vua của muôn dân.
Như thế, giờ phút Đức Giêsu bị treo lên thập giá, chính là lúc Vương quyền của Ngài được tỏ lộ. Ngài chính là vị Vua trên các vua, Chúa trên các chúa như lời sách Khải huyền: Ngài là “thủ lãnh các vua trần thế”. Do đó, trong giờ này, dưới ánh sáng của lời Chúa, chúng ta cùng tìm hiểu vài nét về vương quyền của Đức Kitô.
1. Vương quyền của Đức Kitô:
Ngay trong cuộc xét xử của mình, câu hỏi đầu tiên Philatô đặt ra cho Chúa Giêsu là: “Ông có phải là Vua dân Do thái không?” Trong trình thuật khổ nạn, đây là lần đầu tiên tước hiệu Vua được đề cập đến. Tước hiệu này được cả bốn Phúc Âm cùng ghi lại, cho chúng ta thấy đây là điểm rất quan trọng. Giờ Đức Giêsu bị xét xử, giờ Đức Giêsu bị treo lên thập giá, nhìn bên ngoài có vẻ là giờ phút thất bại nhất trong cuộc đời của Ngài, thì đó lại là lúc Đức Giêsu được tôn dương, vương quyền của Ngài được tỏ lộ như lời Ngài đã nói trước: “một khi Ta được giương cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta” (Ga 12, 32).
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không trả lời trực tiếp cho câu hỏi của Philatô, nhưng Ngài đã hỏi lại: “Quan tự mình nói thế hay là có người khác nói với quan về tôi?”. Khi hỏi câu này, Đức Giêsu muốn làm rõ nghĩa câu hỏi của Philatô. Nếu tự Philatô hỏi, thì tước hiệu “Vua dân Do thái” mang nghĩa chính trị. Còn nếu như do những người Do thái nói, thì tước hiệu trên sẽ mang ý nghĩa tôn giáo. Ta thấy tước hiệu vua theo nghĩa tôn giáo, ngay từ đầu đã được Nathanael nói tới: “Rabbi, Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Vua Israel” (Ga 1, 42).
Và rồi như để tránh hiểu lầm, Đức Giêsu giới thiệu về Nước của Ngài trước khi trả lời cho câu hỏi của Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp vào tay người Do thái”. Sau khi đã minh định rõ đặc tính của Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu mới trả lời câu hỏi của Philatô: “Quan nói đúng: Tôi là Vua”. Đây là một khẳng định long trọng của Đức Giêsu. Tiếp đó, Ngài còn nhấn mạnh hơn về sứ mạng Vua Thiên Sai của Ngài qua khi nói: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là chỉ để làm chứng về Chân lý”. Hay nói một cách khác, Đức Giêsu là Vua Sự Thật, vì Ngài chính là Sự Thật tuyệt đối, như lời Ngài khẳng định: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14, 6a). Vương quốc của Ngài cũng là Vương quốc của Sự thật. Do đó, bất cứ ai muốn trở thành công dân trong Nước của Vua Giêsu, thì cũng phải sống trong Sự Thật, như lời Ngài khẳng định: “ai thuộc về Chân lý, thì nghe tiếng tôi”.
Như thế, Nước của Đức Kitô không mang màu sắc chính trị, không tổ chức theo cung cách các nước ở trần gian, không dựa vào sức mạnh của quân sự, tiền bạc. Nước của Ngài không có biên giới về mặt địa lý, nhưng ở đâu có Tình yêu, có Sự Thật, thì đó là Nước của Ngài. Và không chỉ là vua dân Do thái, vương quyền của Đức Kitô còn trải rộng trên khắp cả muôn dân, như lời ngôn sứ Daniel báo trước: “Con Người đến trong mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão& Vị nầy ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài; quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất, vương quốc của Ngài không khi nào bị phá huỷ”. Hơn nữa, vương quyền của Đức Giêsu không phải bây giờ mới bắt đầu, nhưng thực ra đã có từ muôn đời, trước khi có đất trời như lời ca tụng của tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca: “Chúa hiển trị đầy vẻ uy linh,&Ngai của Ngài đứng vững tự ban sơ, Ngài có tự muôn đời muôn thuở”.
Chính vì thế, bây giờ cho dù trước mắt Đức Giêsu có bị treo trên thập giá đi chăng nữa, thì cũng sẽ tới lúc Ngài đến để thực thi quyền bính của Ngài trên khắp muôn dân, và trên cả những người hôm nay nộp và xử án Ngài, như lời báo trước của thánh Gioan trong sách Khải huyền: “Kìa, Người đến trong đám mây, mọi con mắt đã nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm Người cũng nhìn thấy Người”.
2. Chúng ta hôm nay:
Phần chúng ta, từ khi lãnh bí tích Rửa tội, chúng ta cũng được tham dự vào chức tư tế và vương đế của Đức Kitô nhờ máu của Người, như lời thánh Gioan trong bài đọc hai: “Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người”
Được là công dân của Vua trên các vua, Chúa trên các chúa là một hạnh phúc vô cùng lớn lao. Thế nhưng, trong thực tế, lắm khi tôi và quý ông bà anh chị em không cảm nhận được điều này. Giờ đây, nhìn lại cuộc sống của mình sau nhiều năm, thử hỏi chúng ta còn thuộc về vương quốc của Đức Giêsu không? Tiêu chuẩn của một công dân Nước Thiên Chúa được Đức Giêsu nêu lên thật rõ ràng: “Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi”. Chúng ta có còn thuộc về Chân lý, thuộc về Sự Thật chăng? Chúng ta có chân thật trong suy nghĩ, lời nói, hành động không?
Và nếu chúng ta thuộc về vương quốc của Đức Kitô, chúng ta đã làm gì để bảo vệ và mở rộng vương quốc ấy? Chúng ta có sẵn sàng sống và làm chứng cho sự thật không? Việc làm chứng cho sự thật đòi hỏi mỗi người chúng ta một sự can đảm, chấp nhận thiệt thòi có khi phải đổ máu nữa. Bởi vì, Đức Kitô, người Thầy và là Vua của Vương Quốc Sự Thật đã đổ máu mình để làm chứng cho Chân lý, thì chúng ta là môn đệ chắc chắn sẽ không hơn Thầy của mình (x. Mt 10, 24-25). Nhưng cho dù có phải đổ máu vì Chân lý đi chăng nữa, thì chúng ta cũng chắc chắn một điều là tâm hồn chúng ta sẽ luôn được tự do và bình an như lời Ngài phán: “Sự thật sẽ cho các ngươi được tự do” (Ga 8, 32).
Chớ gì ngay từ giờ phút này, mỗi người chúng ta quyết tâm sống Chân Thật từ trong tư tưởng, lời nói cho đến hành động. Nhờ đó, vào ngày Đức Giêsu tái lâm, từng người chúng ta đang hiện diện nơi đây cùng được thống trị với Người. Amen.
Đức Ki-tô là A-đam Mới. Người là kiểu mẫu mới của nhân loại. Trong Chúa có toàn thể những: TN 34-ABC167
Đức Ki-tô là A-đam Mới. Người là kiểu mẫu mới của nhân loại. Trong Chúa có toàn thể những tính chất đặc thù của mọi người. Nơi Chúa, mọi người có thể tìm lại kích thước thần thánh bị A-đam đầu tiên làm mất.
Ở đây, một câu hỏi được nêu ra: tại sao Đức Ki-tô có quyền trên khắp dòng giống con người ? Thưa, vì Chúa là kiểu người mới, giống như A-đam là kiểu người đầu tiên. Thật vậy, ông A-đam người đầu tiên, là kiểu mẫu chứa đựng dòng giống toàn thể nhân loại sẽ là con cháu của ông. Cũng vậy, Đức Ki-tô là A-đam thứ hai đích thật, là kiểu người mới, trong Chúa có đủ những yếu tố đặc thù của toàn thể nhân loại.
Chúng ta biết rằng, theo ngôn ngữ kỹ thuật ngày nay, “kiểu mẫu” là từ ngữ dùng để chỉ một mẫu máy được chế tạo trước tiên, nó là cơ bản, là khởi điểm cho cả một thể loại, một dòng họ máy. Hiểu theo một nghĩa nào đó, “kiểu mẫu” chứa đựng tất cả các máy sẽ được xản xuất theo khuôn của nó, “kiểu mẫu” sẽ ở trong tất cả các máy con, máy cháu. Người ta gặp những yếu tố đặc thù của “kiểu mẫu” trong dòng họ máy từ nó đã được chế tạo ra. Nếu “kiểu mẫu” có khuyết tật, nếu nó bị kẻ ác chủ tâm ý phá họai ngầm, thì tất cả các máy rập theo khuôn của nó cũng sẽ mang tỳ vết, chúng sẽ không hoàn chỉnh như ý viên kỹ sư thai nghén sáng chế ra nó.
Để sửa sai, phải phác họa rồi chế tác một kiểu mẫu mới, kiểu này sẽ là một thành tựu hoàn toàn, sẽ đóng góp vào việc sửa chữa chỗ hư của những máy đã được xản xuất theo kiểu đầu tiên. Những máy được hoàn chỉnh sẽ đạt được mục đích của chúng, sẽ có một ý nghĩa. Cũng như kiểu đầu tiên, kiểu thứ hai chứa đựng dòng giống những chiếc máy chế tạo từ đó về sau.
Trên đây chỉ là một sự so sánh khập khiễng về mặt vật chất. Tuy nhiên, nó cũng giúp mở rộng thêm một chút tầm hiểu biết của chúng ta.
A-đam, kiểu mẫu đầu tiên của nhân loại, đã làm sai lệch công cuộc mà Thiên Chúa đã thực hiện trong bản thể ông. Ông đã sai trái trong khi thực thi quyền tự do của mình, ông tưởng rằng thái độ không cần đến Thiên Chúa là “bảnh”, là tỏ ra mình cũng có quyền đây. Ông đã muốn tự lực xây dựng cuộc sống theo ý mình. Quỷ đã thì thầm bên tai ông: “cả hai ông bà sẽ trở thành những vị thần”. Vì muốn vượt quyền Thiên Chúa, ông đã tự để cho tính độc tài của mình chi phối, ông đã biến thành nô lệ cho sự dữ và tà thần.
Có thể đó là một sự nô dịch vàng son như sau này dân Do-thái đã từng liên hoan ca múa trước tượng con bê bằng vàng khối. Có thể dòng giống A-đam cảm thấy thoải mái dưới cái ách đó. Nhờ trí tuệ tiến hoá không ngừng, con người làm chủ vạn vật, chinh phục thiên nhiên, có thể thành đạt, có thể sung sướng. Tuy nhiên, con người bị gắn chặt vào kích thước sinh lý của một sinh vật thông minh. Y đã đánh mất kích thước thần thánh, đánh mất “thiên đàng” vốn là một hình ảnh, một từ ngữ người ta dùng để mô tả sự thân mật, âu yếm, hồn nhiên cư xử và sống với Thiên Chúa như con với cha.
Đức Ki-tô, kiểu mẫu thứ hai của nhân loại, xuất hiện trong thế giới và trong lịch sử. Chúa mang trong bản thể ơn tha thứ của Thiên Chúa và quyền năng được thông truyền đời sống thần linh cho nhân loại. Là người như mọi người, Chúa mặc lấy xác phàm yếu đuối. Vì tình liên kết với nhân loại, Chúa gánh lấy một trách nhiệm nặng nề nhất về tội của nhân loại, và mở một cuộc chiến dứt điểm để giải phóng nhân loại là anh em của Người.
Để làm công việc ấy, Chúa đứng về phía đối lập với A-đam, con người nổi loạn. Ngay từ lúc giáng sinh, Chúa đã chấp nhận tất cả mọi điều kiện sinh hoạt của loài người. Chúa sống như một người thường, vào một thời rõ rệt, tại một xứ sở, trong một ngôi làng nhỏ bé ai cũng biết, sinh hoạt trong một hoàn cảnh và làm một nghề có ghi rõ sau này trong lịch sử.
Chúa đã biết rõ những gì là thiết yếu cho đời sống con người, Chúa ăn uống nghỉ ngơi như người ta. Hơn nữa, Chúa còn hạ mình làm một kẻ hầu hạ, một nô lệ, một con tin chết thay cho kẻ đích phạm. Chúa đi tới giới hạn cuối cùng, tới cùng kiệt của sự hạ mình. Bị phản bội, bị mọi người bỏ rơi, cả những môn đệ yêu quý cũng trốn mất, bị phỉ báng tra tấn, bị vu tội là đã mượn tay Xa-tan để trừ quỷ, Chúa nhận lấy tất cả tội lỗi của thế giới và lịch sử. Và Chúa hoàn tất hy lễ của “kẻ tôi đòi bị nhục mạ” để chuộc cái tội của A-đam, “thủ lãnh một dòng giống nổi loạn”, đã xúc phạm Thiên Chúa.
Tới giai đoạn này, sự dữ và tà thần chẳng còn chỗ nào để nắm giữ nhân loại, chúng hoàn toàn bất lực. Tội đã bị đánh bại, bị nhổ tận gốc trốc tận rễ. Thế là xong ! Tức khắc, cái chướng ngại ngăn cản nhân loại không vào được bối cảnh của Thiên Chúa đã được tháo gỡ, loài người lại tìm thấy chiều kích thần thánh. Bời vì, Thiên Chúa đã chấp nhận lễ vật của “kẻ tôi đòi bị nhục mạ”, Thiên Chúa chứng minh rằng Người đã tha thứ bằng cách cho Đức Ki-tô sống lại.
Trích FAITES LE PASSAGE, P. THIVOLLIER, bản dịch của cụ Lê Văn Lộc
Chủ đề: Chúa Kitô Vua đã trở nên như chúng ta để phục vụ chúng ta và dạy chúng ta phục vụ nhau.
Soren Kierkegaard là một triết gia cũng là Thần học gia sống tại Đan Mạch cách đây khoảng: TN 34-ABC168
Soren Kierkegaard là một triết gia cũng là Thần học gia sống tại Đan Mạch cách đây khoảng 150 năm. Trong một tác phẩm nọ của ông, ông có kể câu chuyện của một vị vua nọ đắm say một nàng thôn nữ. Nhà vua thừa hiểu rằng ngài hầu như không thể cưới cô nàng làm vợ được, bởi vì vua chúa thường không bao giờ cưới giới nông dân. Họ thưòng chỉ cưới những công nương vương triều mà thôi.
Tuy nhiên, ông vua này thế lực đến nỗi ngài biết rằng ngài có thể phớt lờ mọi trở lực để cưới cô gái ấy. Nhưng rồi một ý tưởng khác chợt loé ra trong đầu: Nếu ngài cưới cô gái thôn dã này mà vẫn làm vua, thì luôn luôn sẽ có một thiếu sót nào đó trong tương quan giữa hai người.
Có thể cô gái vẫn luôn thán phục đức vua, nhưng sẽ chẳng bao giờ cô có thể thực sự yêu ngài. Khoảng cách giữa họ qúa lớn lao; cô nàng sẽ luôn luôn ý thức rằng ngài là vị vua còn nàng chỉ là một thôn nữ thấp kém: Thế là nhà vua lại quyết định một kế hoạch khác:
Ngài quyết định sẽ từ bỏ ngôi vua để trở nên một nông dân hèn kém. Lúc đó ngài sẽ dâng tình yêu của mình cho nàng y hệt như một nông dân hèn kém dâng tình yêu cho một thôn nữ tầm thường vây. Dĩ nhiên, đức vua cũng nhận thức rằng nếu ngài làm điều này tình hình có thể bùng nổ theo nhiều hướng xấu. Có thể chẳng những ngài mất ngôi vua mà còn mất cả cô gái ấy nữa. Cô nàng có thể sẽ chối bỏ ruồng rẫy ngài, nhất là nếu nàng cho rằng ngài thực điên rồ khi từ bỏ ngôi vua. Và như thế lại có vấn đề đặt ra cho nhà vua. Vậy Ngài nên làm điều gì đây?
Cuối cùng, nhà vua quyết định: vì ngài yêu thương người thôn nữ ấy vô cùng, nên ngài sẽ liều mọi sự để giữa hai người có được một tình yêu đích thực.
Kierkegaard đã không kể hết cho ta biết câu chuyện kết thúc ra sao. Ông cũng chẳng kể cho biêt cô gái ấy có chấp nhận tình yêu của đức vua hay là ruồng bỏ tình yêu ấy. Ông chẳng kể xem họ có lấy nhau và có sống hạnh phúc với nhau về sau không? Kierkegaard đã không kể phần kết thúc của câu chuyện là vì hai lý do:
Thứ nhất, đó chẳng phải là điểm chính yếu của câu chuyện. Điểm chính yếu của câu chuyện chính là tình yêu Đức vua dành cho người thôn nữ hèn kém ấy. Tình yêu này lớn lao đến nỗi ngài dám từ bỏ vương quyền và ngai báu vì nàng.
Lý dó thứ hai khiến Kierkegaard không kể phần kết của câu chuyện là vì câu chuyện đó vẫn chưa kết thúc. Nó vẫn còn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về Tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta. Đây là một câu chuyện có thực mà đoạn kết vẫn chưa được viết. Vị vua trong câu chuyện chính là Thiên Chúa, còn cô thôn nữ nọ là mỗi người chúng ta.
Tuy nhiên vẫn có hai sự khác biệt cần nêu rõ: trước hết, Thiên Chúa là Thần linh, nên ngài cao trọng hơn vị vua kia, và sau đó, tình yêu Chúa dành cho chúng ta là vô hạn, Ngài yêu thương chúng ta nhiều hơn vị vua kia từng yêu cô thôn nữ nọ. Nhưng phần còn lại của câu chuyện thì giống hệt nhau. Lẽ ra Chúa đã có thể yêu chúng ta mà vẫn giữ nguyên trạng thái thần linh của Ngài. Nhưng như thế giữa Ngài và chúng ta sẽ có một khoảng cách quá lớn lao đến nỗi chúng ta sẽ khó lòng tự do yêu mến Ngài.
Vì vậy, qua Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã quyết định trở nên một người như chúng ta, Ngài quyết định trở nên một con người thấp hèn: và bầy tỏ tình yêu của Ngài dành cho chúng ta để chúng ta có thể thấu hiểu tình yêu đó và đáp trả tình yêu đó một cách tự do, không bị cưỡng ép.
Từ đó chúng ta hiểu được lý do thứ hai khiến Kierkegaard đã không kể lại phần kết của câu chuyện trên, bởi vì câu chuyện tình yêu giữa Chúa và ta vẫn còn đang tiếp diễn., bởi vì câu chuyện tình giữa Chúa và ta vẫn chưa kết thúc.
Mỗi người chúng ta đang viết tiếp đoạn kết của riêng mình cho câu chuyện ấy. Mỗi người chúng ta đang quyết định xem mình sẽ chấp nhận hay chối từ Tình yêu của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta đang quyết định xem mình có muốn sống hạnh phúc bên Chúa mãi mãi về sau không?
Tóm lại, Đức Giêsu Kitô thực sự là vị vua đầy uy quyền. Ngài đã trở nên giống như chúng ta để có thể yêu thương và phục vụ chúng ta . Ngài đã phán: “Con Người không đến để được phục vụ, Ngài đến để phục vụ và hiến mạng để cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10 : 45)
Thánh Phaolô có bàn về mầu nhiệm khôn tả này trong thơ gởi tín hữu Philipphê như sau;
“Đức Giêsu Kitô&. vốn là Thiên Chúa từ bản tính, nhưng&. Ngài đã tự nguyện từ bỏ tất cả những gì mình có, để mặc lấy thân phận tôi tớ. Ngài đã trở nên đúng như một con người&. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao trọng tuyệt vời, và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Vì thế, để tôn vinh danh hiệu Giêsu, mọi loài mọi vật trên trời cũng như dưới đất, và cả trong âm phủ, đều phải quì gối, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa, làm vinh hiển cho Thiên Chúa Cha” (Pl 2 : 5-11)
Chúng ta Phải áp dụng tất cả những điều trên vào đời sống thực tế của chúng ta như thế nào?
Ngay sau khi chúng ta được rửa tội, vị linh mục lấy dầu thánh xức lên đầu chúng ta và đọc lời nguyện này:
“Đức Kitô được xức dầu tôn phong làm Tư tế, Tiên tri và vua, nên ước gì anh em luôn luôn sống đúng là một chi thể của thân thể Người hầu được tham dự vào sự sống đời đời”.
Nói cách khác, qua bí tích rửa tội mỗi người chúng ta đều tham dự vào vương quyền của Đức Kitô thủ lĩnh chúng ta.
Chúng ta có thể áp dụng tư tưởng trên vào đời sống thực tiễn của chúng ta. Chúa Kitô không còn đi đây đó trên trái đất để dạy dỗ và chữa lành dân chúng như Ngài đã từng làm nữa, Ngài chỉ có thể làm được điều đó thông qua thân thể mầu nhiệm của Ngài. Chúng ta là tay, là chân, là miệng lưỡi, là trái tim của Ngài. Nói cách khác, vương quốc Thiên Chúa mà Chúa đã thiết lập khi Ngài còn ở dương trần này sẽ phải được chính chúng ta bổ túc bằng cuộc sống trần gian của chúng ta. Và như thế, lễ Chúa Kitô Vua mời gọi chúng ta tự vấn xem mình đã làm một điều gì cụ thể để góp phần xây dựng vương quốc Chúa trên trái đất này chưa?
Ngày tận thế, Chúa Giêsu sẽ trở lại trần gian như một vị vua, Thánh Matthêu viết trong Phúc Âm ngài như sau:
“Khi Con Người đến như một vị Vua... Ngài sẽ ngồi trên ngai báu và muôn dân sẽ tụ tập trước mặt Ngài. Đoạn Ngài sẽ phân họ ra thành hai nhóm.... Ngài sẽ đặt những người công chính bên tay mặt, Còn những kẻ còn lại bên tay trái.
Rồi Đức vua sẽ nói với đám người phía bên tay phải: Hãy đến ,hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc... vì xưa Ta đói các ngươi cho đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ các ngươi đã đón tiếp, Ta trần trụi các ngươi đã mặc áo cho Ta... vì bất cứ khi nào các ngươi làm việc này cho một trong những kẻ bé mọn nhất thuộc anh em Ta đây là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25: 31-36,40)
Đức Hồng Y Đề-săng (Deschamps), Tổng Giám Mục Malines, khi còn trẻ đã chứng kiến cuộc đăng: TN 34-ABC169
Đức Hồng Y Đề-săng (Deschamps), Tổng Giám Mục Malines, khi còn trẻ đã chứng kiến cuộc đăng quang long trọng của vua Bỉ. Từ cửa sổ một cao ốc, Đề-Săng đứng xem cuộc lễ diễn ra, rồi cuộc diễn hành trang trọng của hoàng gia và đoàn tuỳ tùng. Sau khi mọi việc đã hoàn tất, các nẻo đường phố trở lại bình thường như mọi ngày, chàng trai mỉm cười nói; Thế là một vị vua đã đi qua. Rồi nhờ ơn Chúa chàng suy nghĩ tiếp: Tôi không muốn phục vụ cho một vị vua sẽ qua đi. Tôi muốn một vị vua ở mãi với tôi. Và chàng nghĩ tới Đức Kitô, chàng từ bỏ địa vị đầy hứa hẹn và trở thành một tu sĩ, một linh mục và một niên trưởng Giáo hội nước Bỉ.
Chúa Giêsu đã nhận mình là vua, lời tuyên bố của Chúa được thốt lên ngay trong vụ án người ta đang xét xử Chúa. Chúa bị tố cáo vì xưng mình là Vua. Khi Philatô hỏi Chúa; Ông có phải là vua không? Thì Chúa lại quả quyết. Người thực là vua. Danh hiệu vua có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác biệt.
Trước hết, một vị vua theo quan điểm chính trị giống như Hoàng đế La Mã. Ông tìm cách thống trị và đòi người ta làm nô lệ cho mình. Còn một vị vua theo quan điểm Đấng Thiên Sai mà người Do Thái trông chờ, đó là người kế vị ngai toà Đavid. Người sẽ chiến thắng kẻ thù và giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc.
Còn khi Chúa Giêsu nói với Philatô Tôi là Vua, thì chức vị Vua ở đây hoàn toàn khác biệt. Chúa là Vua mà không hề bó buộc ai theo mình, một vị vua để người ta bắt nộp mà không chống cự, không có quân đội, không có vũ khí. Một vương quốc như vậy làm ngạc nhiên các chính trị gia và các người chỉ huy quân sự.
Chúa Giêsu thực là Thiên Chúa: “Ai thấy Ta là thấy Cha”. Chúa để thiết lập một vương quốc nhưng đó là một vương quốc Thiên Chúa. Một vương quốc giấu ẩn như hạt cải nhỏ xíu nhưng rồi sẽ phát triển thành cây lớn& như một nấm men vùi trong bột làm cả thúng bột dậy men& như hạt lúa mì mục nát trong đất và đem lại mùa màu tốt đẹp. Chúa Giêsu là vua, nhưng là Vua theo kiểu Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải một Thiên Chúa cai trị như Thánh vịnh ca tụng (Tv.46,9; 54,20;58,14;92,1;96,1&). Chúa dạy ta cầu nguyện hàng ngày cho “Nước Chúa trị đến”. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ thù, không ép buộc con người tin theo. “Người cho mặt trời soi chiếu cho người công chính và kẻ bất lương, cho người vô thần cũng như cho các tín hữu” (Mt.5,43-48). Thiên Chúa yêu những kẻ không yêu mến Người. Và Chúa đòi ta cũng hành động theo lối Người.
Philatô hỏi: “Vậy ông là Vua sao?”. Sau khi đã xác định cung cách làm Vua của Chúa khác với quan niệm người trần, Chúa công bố với Philatô: “Ông nói đúng, tôi sinh ra để làm Vua, để làm chứng cho chân lý”. Chúa làm Vua theo lối khác, Chúa không nói khác biệt thế nào nhưng sự kiện đã chứng tỏ. Người ta giết Chúa, Chúa vẫn cai trị, vẫn chiến thắng. Chúa bị treo trên thập giá là lúc Chúa đăng quang, là lúc Người lên ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
Vậy ai là thần dân của Chúa? Chúa bảo: “Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi”. Chúa cai trị những người nghe tiếng Chúa, những người tín thác vào Lời Chúa, tin hoặc không tin. Như vậy, cả nhân loại và công dân của Nước Chúa, không một ai có thể thoát khỏi quyền cai trị của Chúa.
Tôn kính Đức Kitô Vua, không phải là dâng hương, là cử hành nghi lễ tung hô& Nhưng trước hết là nghe tiếng Chúa, và điểu chỉnh cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp, xã hội theo Lời Chúa.
Lạy Chúa là Vua Vũ Trụ, xin làm cho mọi người nhận biết quyền năng và tình thương của Chúa để tất cả được trở nên công dân trong Nước Chúa, Nước yêu thương, an bình bất diệt. Amen.
Thánh Yoan Cantio sinh tại Balan năm 1390. Khi còn là một cậu bé, Ngài đã tỏ ra thông mình: TN 34-ABC170
Thánh Yoan Cantio sinh tại Balan năm 1390. Khi còn là một cậu bé, Ngài đã tỏ ra thông mình và tử tế. Khi làm linh mục Ngài dạy Kinh Thánh tại Đại học Cracow và cũng làm cha sở mấy năm. Người ta nhớ sự thông thái và lòng nhiệt thành của Ngài đối với người nghèo khó. Người đã đi bộ hành hương Rôma bốn lần, đeo hành trang trên lưng. Một lần trong cuộc hành hương, bọn cướp lấy bóp của người, hỏi người còn tiền không. Vị thánh trả lời người chỉ có bấy nhiêu, bọn cướp cho người đi.
Đi được một quãng xa, Người nhớ ra mấy miếng vàng giấu trong gấu áo, Người vội vàng trở lại, đưa vàng cho bọn cướp, năn nỉ họ tha thứ cho người vì người đã nói dối họ.
Bọn cướp ngỡ ngàng, lặng thinh và lấy làm thích thú bọn chúng trả lại cho Người tất cả tiền nong đã lấy của Người.
Hôm nay chúng ta tôn thờ Đức Kitô là vua của chúng ta. Chúng ta nghe Chúa Kitô nói với Philatô: “Vương quyền của tôi không thuộc về trần gian”. Chúa Giêsu nhận rằng Người là vua nhưng không phải là vua của các vua.
Người không phải là một nhà lãnh đạo chính trị hay quân sự. Người không phải là ông vua giàu có, danh vọng và quyền thế. Vậy Người là loại vua nào? Vương quốc Người ở đâu? Vương quốc Người là gì? Bài kinh Tiền Tụng trong Thánh lễ hôm nay trả lời cho các câu hỏi ấy.
“Người hiến thân trên thập giá& Người đã hoàn thành mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại& Người đã qui phục mọi loài dưới quyền bính và đặt dưới uy quyên vô hạn của Chúa. Một vương quốc sự thật và sự sống, một vương quốc Thánh thiện và ân sủng, một vương quốc công bình, tình thương và hoà bình.”
Mỗi lần chúng ta hành động vì những điều quí giá này chân lý sự sống, sự thánh thiện, ân sủng, sự công bình tình thương và hoà bình, là chúng ta hành động cho Chúa Kitô làm cho Chúa Kitô là vua của chúng ta.
*Sự thật: Như Thánh Yoan Cantio, bạn hãy nói sự thật dù phải trả bằng mọi giá và bạn phục vụ Chúa Kitô Ợ Vua sự thật.
*sự sống: Chúa Kitô đến để chúng ta được sống, những kẻ theo Chúa phải phát triển sự sống. Thí dụ: Bạn hãy làm mọi cái có thể, để ngăn ngừa sát hại hàng triệu em bé vô tội vì phá thai.
Thánh thiện và ân sủng: Mọi cái chúng ta làm đều gia tăng sự sống của Chúa trong chúng ta. Thí dụ; tham dự Thánh lễ này là một việc phục vụ Chúa Kitô, nguồn mạch sự thánh thiện.
Công bình: khi chúng ta cố gắng khiêm nhường đối với Chúa, với người lối xóm và với chúng ta, chúng ta bỏ phiếu bầu Chúa Kitô là vua, làm nhà lãnh đạo chúng ta.
Tình yêu: Mỗi lần chúng ta cố gắng làm đẹp lòng Chúa giúp đỡ anh em chúng ta minh chứng dấu chỉ đặc biệt việc phục tùng Chúa Kitô là vua.
Hoà bình: bạn hãy cố gắng xây dựng hoà bình mọi nơi và bạn chứng tỏ rằng bạn thuộc về vương quốc hoà bình của Chúa Kitô. “Nước Cha trị đến” chúng ta cầu nguyện trong kinh Lay cha. Trong ngày lễ Chúa Kitô là vua, chúng ta thề hứa phát triển trong đời sống cá nhân và cộng đoàn, đặc tính thâm sâu và thiêng liêng này để thực sự nhận Chúa Kitô là Vua.
Chính quyền La mã đàn áp dã man bất cứ dân tộc nào nổi loạn để tôn xưng một người làm: TN 34-ABC171
Chính quyền La mã đàn áp dã man bất cứ dân tộc nào nổi loạn để tôn xưng một người làm vua. Người La mã đặc biệt sợ người Do Thái nổi loạn, vì họ sợ xuất hiện vị vua thiên sai mà người dân nào cũng hằng mong mỏi chờ đợi. Nên khi nghe các đối thủ của Đức Giêsu tố cáo Ngài, Philatô hỏi Ngài ngay: "Ông có phải là vua Do Thái không?". Đức Giêsu thấy rõ cạm bẫy trong câu hỏi đó, nên như thường lệ, Ngài đã trả lời bằng một câu hỏi: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi?". Nhà cầm quyền Lamã cảm thấy khó chịu khi bị chất vấn ngược, ông ta mau mắn đưa người bị cáo về chỗ của mình: "Ông đã làm gì?". Nhưng Đức Giêsu không trả lời ông ta, Ngài trở lại vấn đề đã đặt ra lúc trước.
Đức Giêsu đã bình thản tuyên bố với kẻ cầm sinh mạng của Ngài trong tay: "Nước tôi không thuộc vè thế gian này...". Philatô không giữ nổi bình tĩnh nữa, vặn lại Chúa bằng một từ đáng sợ, có thể đưa Ngài đến án tử: "Vậy ông là vua sao?" để buộc Chúa phải xác nhận: một là có hai là không. Nhưng ý đồ của viên toàn quyền Lamã lại vấp phải sự tinh tế của Chúa: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi sinh ra và đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật".
Đức Giêsu đã nhiều lần từ chối, không muốn để đồng bào mình tôn làm vua, lại vừa mới nhận danh hiệu vua từ miệng một người ngoại bang. Nhưng với ý nghĩa khác biết bao! Nước Ngài không thuộc thế gian này, không phải là vương quốc kết cấu với quyền lực, uy danh và thống trị. Nhưng là vương quốc đặt cơ sở trên sự thật, nghĩa là, trên sự trung tín vững bề của Thiên Chúa, như Kinh Thánh thường định nghĩa sự thật. Đức Giêsu là vua, vì Ngài là chứng nhân của Thiên Chúa, là Đấng luôn luôn trung tín.
Chính trong niềm trung tín với Thiên Chúa thật gần mà Đức Giêsu đã đi đến cùng con đường sứ mạng của Ngài, là làm vua phục vụ, vua - giải phóng, vua tình yêu hiến dâng tất cả, thứ tha tất cả. Chính vì vậy mà Ngài đã phải chịu đòn roi, phỉ báng, đội mũ gai trên đầu. Một vị "vua giả" bị nhạo cười, một nạn nhân vô tội, một người bị bách hại. Khi Thiên Chúa đến để khai mở vương quốc của Ngài, lễ đăng quang lại xảy ra nhuốc nha như vậy sao? Tuy nhiên tất cả các quyền lực đã bị rung động. Ánh sáng chói lọi đã nóng bỏng trên con đường vương đạo thập giá.
Hôm nay Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, chúng ta tôn vinh Đức Giêsu Kitô là Vua toàn thể vũ: TN 34-ABC172
Hôm nay Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, chúng ta tôn vinh Đức Giêsu Kitô là Vua toàn thể vũ trụ. Nói đến vua trong thời đại dân chủ ngày nay chắc là không phù hợp. Nhưng nếu xem các bộ phim truyền hình Trung Quốc nói về các thời đại phong kiến chúng ta thường bắt gặp hình ảnh các vị vua, nó giúp cho chúng ta hiểu thế nào là một ông vua. Vua là người có quyền tối thượng trong vương quốc của ông ta. Vua được người ta xem là Thiên tử, nghĩa là con trời. Vua rất giàu sang, bên cạnh ông ta có hàng trăm kẻ hầu người hạ. Một lời ông vua nói ra được xem là Thánh chỉ nên ai cũng phải tuân lệnh. Lịch sử nhân loại ghi nhận, có những ông vua tốt biết chăm lo cho dân nước,thương dân như con, nhưng đồng thời cũng không thiếu những ông vua chuyên bóc lột dân nghèo. Vậy khi nói Đức Giêsu là Vua, chúng ta thấy Ngài là vị vua như thế nào ?
1. Đức Giêsu-Vị vua cao cả
Đức Giêsu là một vị vua. Điều này hoàn toàn đúng. Thật thế, Đức Giêsu có dư những điều kiện mà một ông vua trần thế có. Ngài là Thánh tử của Thiên Chúa, Ngài được trao ban mọi quyền hành trên trời dưới đất, Ngài đang điều khiển mọi hoạt động của vũ trụ, Ngài được muôn người tùng phục, chúc tụng. Đức Giêsu là vua trên hết các vua. Vương quốc của Ngài rất rộng lớn. Đó là một vương quốc tập hợp mọi vương quốc. Vương quốc vượt lên trên mọi vươg quốc trần thế. Vua hơn hết các vua.
Không những thế, Đức Kitô là vị vua cao cả bởi vì triều đại của Ngài sẽ tồn tại muôn đời, và không bao giờ tiêu tan. Khi tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là vua, chúng ta được nhắc nhở đến thực tại cánh chung. Khi đó thế giới sẽ đến ngày tận cùng, Đức Giêsu sẽ trở lại lần nữa để xét xử nhân loại. Khi đó Ngài sẽ đóng vai trò thủ lãnh nhân loại. Khi đó nước trời sẽ tỏ lộ một cách rõ ràng cho những ai tốt lành sẽ được vào nước ấy.
Nói về vương quyền của Đức Giêsu bài đọc 1 trích sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en hôm nay nhắc đến như sau : “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quanh và vương vị, muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu không bao giờ mai một, vương quốc của Người chẳng bao giờ suy vong”.
2. Đức Giêsu- Vị vua bị xét xử
Quyền năng là thế, vương quốc rộng lớn đến như vậy, nhưng Đức Giêsu là một vị vua không giống ai. Vị vua phục vụ thần dân cho đến nỗi chết. Vị vua hạ mình thấp nhất hơn tất cả mọi người. Và hôm nay Tin Mừng Gioan trình thuật, Đức Giêsu là vị vua bị xét xử. Ngài bị quan tổng trấn Philatô tra vấn về vương quyền của Ngài. Philatô hỏi thẳn thừng “Ngài có phải là vua không ?” Đức Giêsu khẳng định : “Quan nói đúng tôi là Vua”. Lời khẳng định này rất hiếm thấy trong Tin Mừng. Thậm chí nhiều lần Đức Giêsu còn trốn tránh những lúc dân Do-thái muốn tôn Ngài làm Vua. Đúng hơn, Đức Giêsu là vị vua của tình yêu và sự thật. Tình yêu của Ngài cao vời đến độ dám hy sinh vì con người. Ngài bị xét xử cũng cỉ vì đã yêu thương. Ngài đến trong thế giới để chứng minh một điều Thiên Chúa là Tình yêu. Mọi việc Ngài làm chỉ vì yêu thương con người. Tình yêu và sự thật là hai đặc điểm nỗi bậc trong vương quốc của Chúa Giêsu. Đó là tiêu chuẩn cho những ai muốn để trở thành thần dân của nước Ngài.
Liền sau lời khẳng định mình là vua Đức Giêsu lại nói : “Nước tôi không thuộc về thế gian này” Đây là điều Ngài muốn nói với Philatô và với cả chúng ta hôm nay. Ngài đến trong thế giới để làm vua không phải là cạnh tranh với các vị vua trần thế. Ngài không đến để chiếm đất mở mang bờ cõi, hay chinh phục các nước khác. Ngài vẫn là vua, nhưng nước của Ngài là một thực vương thiêng liêng. Chỉ những ai sống trong yêu thương và sự thật sẽ là công dân của nước Ngài.
Từ xưa đến nay nhiều người vẫn cứ lầm tưởng về vương quyền của Đức Giêsu. Cả dân Do-thái, các tông đồ và chúng ta ngày nay cứ mong muốn Ngài là vua theo kiểu trần tục. Ngài phải đem đến cho chúng ta quyền bính, Ngài sẽ có hùng quân dũng mãnh giải cứu chúng ta trong những hoàn cảnh khó khăn. Cho nên chúng ta sẽ thất vọng khi không thấy Ngài hiện diện trong những lúc chúng ta đang cần đến Ngài. Thật ra nước của Chúa không thuộc về thế gian này có nghĩa là chúng ta đừng đi tìm kiếm quyền lực trần thế, những thực tại mau tan biến, dễ bị mất, song phải biết xây dựng một thế giới mới. Trong đó tình yêu và sự thật sẽ là tiếng gọi Chúa đang thôi thúc muôn người đến với Ngài.
Sống trong tình yêu là biết yêu thương tha nhân như chính bản thân mình để thuộc về nước của Chúa. Sống làm chứng cho sự thật là nói một cách trung thật về Thiên Chúa. Khi đó nước Chúa sẽ bắt đầu ngay từ cuộc sống này
Lạy Chúa, con tôn vinh Chúa là Vua với một niềm tin mạnh mẽ bởi chúng con biết rằng chỉ có theo Chúa là điễm tựa vững chắc của đời sống con, ờ Ngài con mới bước vào vương quốc Tình yêu và Sự thật.Xin cho con biết nghe tiếng Chúa gọi. Khi đó Chúa sẽ thay đổi trái tim xơ cứng của con để con biết đồng cảm và chia sẽ với tha nhân. Và Chúa đốt lên trong con ngọn lửa bừng cháy của sự thật để con sẽ làm chứng cho Chúa trọn suốt cuộc đời này.
Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội cho chúng ta nghe bài Tin Mưng của Thánh Gioan: TN 34-ABC173
Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội cho chúng ta nghe bài Tin Mưng của Thánh Gioan, kể lại cuộc đối đáp của Chúa Kitô và Philatô. Đây là ngày chóp đỉnh của mùa thường niên, Giáo Hội muốn nhắc nhớ và đưa chúng ta -những người Kitô hữu- đến một chân lý duy nhất, triết lý tuyệt vời của Kitô Giáo, để rồi chúng ta sẽ nhìn thấy và chấp nhận giá trị siêu việt đó như là con đường một chiều của cuộc sống.
Trên thế gian này nói đến vua chúa là nói đến uy quyền, sự giàu sang…, các vị vua thường ví mình là “Thiên Tử”, con của Trời. Hôm nay chúng ta nói đến vị “Trời” đầy quyền uy đó. Một Ông Trời kỳ lạ, không ai hiểu nổi, một ông Vua có đến hai quốc gia, một Vương quốc không vũ khí, không binh mã. Một ông Vua Từ Ái lạ lùng, hành động của Ngài trí khôn loài người không nghĩ thấu. Chẳng hạn như khi chúng ta giận dữ với con cái mình, vì chúng sai phạm một điều gì đó quá nặng nề, dĩ nhiên chúng ta sẽ xử phạt chúng với hình phạt nặng nhất. Theo bạn thì cơn giận này sẽ kéo dài bao lâu ? Đến chừng nào thì bạn nguôi giận để rồi tha cho nó ? Mời các bạn đọc Sách Sáng Thế (3, 12-18) : sau khi nguyên tổ phạm tội, đáng lẽ Chúa tuyên phạt họ trước, rồi mới tha bằng cách hứa ban Đấng Cứu Thế. Nhưng thật lạ lùng khi Chúa tuyên phạt con rắn và hứa ban Đấng Cứu Thế, trước khi Ngài tuyên phạt Adam và Êvà. Có bao giờ chúng ta nghĩ rằng lại có kẻ nào đó làm được điều xem ra vô cùng nghịch lý này : tức là Chưa Phạt Mà Đã Tha không !
Ông Vua Chí Thánh của chúng ta đúng là một ông Vua của các vua, cao cả hơn mọi ông vua ở thế gian này. Vì Ngài không thiết lập vương quốc của mình bằng binh hùng, tướng mạnh, bằng vũ khí tối tân hay đảng này phái nọ, những thứ mà vua thế gian thường dùng. Nhưng Ngài thiết lập vương quốc của mình bằng Giao Ước Tình yêu. Ai chấp nhận giao ước này sẽ trở thành thần dân của Ngài, được đón nhận vào vương quốc của Ngài. Vì bản tính của Ngài là Tình Yêu, nên mọi hoạt động của Ngài đều ứ tràn tình yêu dành cho nhân loại. Ngài đã yêu thương chúng ta hết sức, nên nghĩ đến một phương pháp tuyệt diệu cho con cái mình, đó là thiết lập một vương quốc ngay trên dương thế này : Hội Thánh. Qua Hội Thánh này, thần dân của Ngài sẽ được tôi luyện, diễn tập các nhân đức, chuẩn bị đầy đủ để có thể trở thành công dân thực sự của Nước Trời.
Chúng ta không thể phủ nhận điều này : Chúa Kitô và Giáo hội là một, bởi vậy bất cứ việc làm nào tôn vinh Giáo hội, tức là tôn vinh Chúa Kitô; hành động nào làm cho khuôn mặt Giáo hội được rạng rỡ trước mắt nhân loại, cũng làm cho khuôn mặt của Chúa được tỏ hiện rõ ràng trong thế gian. Giáo Hội hấp dẫn được chúng ta nhờ Chân lý, mà Chân lý thì chỉ có một, nên nhiệm vụ loan truyền Chân lý là bổn phận của từng thành viên trong Giáo hội. Điều này đã được Chúa khẳng định với Philatô “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng Tôi”.
Chúa Kitô là Vua, bởi vì Ngài là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng nên vũ trụ, đã ban cho chúng ta sự sống. Ngài là Đấng bảo đảm cho tương lai, vận mạng chúng ta. Vương quốc của Ngài không thuộc thế gian này, vì đó là vương quốc của ân sủng và của nhân đức. Hãy để Ngài thống trị linh hồn, trí khôn, ước muốn và tâm hồn mỗi người. Cuộc sống của chúng ta là con đường một chiều bước theo dấu chân Ngài, làm theo sự dạy bảo của Ngài -qua Giáo Hội là vương quốc của Ngài ở trần thế, là nơi chắc chắn chúng ta sẽ được ơn cứu độ-, ở trong Giáo Hội của Ngài chúng ta có thể rèn luyện, diễn tập và phát triển tất cả các nhân đức, những nhu cầu cho một công dân Nước Trời sau này.
Tóm lại, ngày lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, thiết nghĩ mỗi người tín hữu chúng ta lưu ý, nhắc nhớ nhau ba điều : Thứ nhất /- “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, Giáo Hội mong muốn không ai được sống bê bối, hãy sống đàng hoàng,vì chúng ta là con cái Hội Thánh, công dân nước Chúa. Ai đang lầm lỡ, lạc bước hãy ngừng lại, hãy quay về, vì cả hai vương quốc đang chờ đợi bạn. Thứ hai/- Luôn nhớ rằng mình thuộc về Thiên Chúa, Vị Chúa Tể càn khôn, Vua của các vua, vương quyền của Ngài luôn luôn hiện hữu trên mặt đất, chính Ngài cũng hiện diện thật sự trong Bí Tích Thánh Thể. Ngài là nơi chúng ta cậy trông và phó thác, cội nguồn của mọi nhân đức. Chúng ta hãy học tập nhân đức yêu thương không bờ bến của Ngài : yêu thương đến nỗi Chưa Phạt Đã Tha; trước khi tắt hơi trên thập giá, Ngài lại tha, cũng như xin cho nhân loại được tha một lần nữa. Thứ ba /- Là thành viên của Giáo Hội, chúng ta cố thực thi nhân đức bác ái, yêu thương; có nhiệm vụ đóng góp và làm cho Giáo Hội được phát triển về mọi mặt, phẫm cũng như lượng. Chúng ta phải luôn phục tùng, sống trung tín và xứng đáng với danh xưng là con cái Hội Thánh, công dân Nước Trời. Nếu “Con vua sẽ được làm vua”, ước gì chúng ta là con cái Chúa, rồi có ngày sẽ được gặp gỡ, chung sống thân mật với Ngài, như chính Ngài đã hứa nhiều lần.
Có một điểm buồn trong lịch sử nhân loại là lòng tham của vua chúa trần gian. Họ chẳng bao giờ: TN 34-ABC174
Có một điểm buồn trong lịch sử nhân loại là lòng tham của vua chúa trần gian. Họ chẳng bao giờ vừa lòng với giới hạn của mình về đất đai, về ảnh hưởng chính trị. Họ đánh đấm nhau liên miên để giành giật chủ quyền, lợi lộc. Thành thử hàng nhiều triệu sinh linh bị giết chết hoặc lâm cảnh điêu đứng, đúng như nhà thơ Nguyễn Du đã viết: “Đống xương vô định đã cao bằng đầu”. Lòng tham vô đáy của con người thúc đẩy các lãnh chúa, vua quan tổ chức những cuộc xâm lược, trả thù lên đến hàng trăm năm, tiêu tốn cạn kiệt tài nguyên quốc gia để tranh hùng, xưng bá. Những cuộc chinh phục quân sự, những âm mưu chính trị độc ác với những mục tiêu chiếm hữu nhiều đất đai, lãnh thổ hơn, thu phục nhiều thần dân, lá cờ ngạo nghễ tung bay trên đất nước người khác, bất chấp ý muốn và quyền lợi của đối thủ: chiến lợi phẩm thuộc về kẻ chiến thắng (To the victor belong the spoils). Hiệu lệnh của các vua chúa xưa nay là vậy.
Cho nên tiêu đề của ngày lễ hôm nay có lẽ làm phiền lòng nhiều người. Nhân dân thế giới đã quá ngán ngẩm với những kẻ cầm quyền đồi bại. Tuy nhiên khi quan Philatô hỏi thì Chúa Giêsu xác nhận mình là vua và nước Ngài không thuộc về thế gian này. Vừa nghe thấy từ “vua” vị thái thú Rôma giật mình, bụng dạ nghi ngờ người tù đối diện, ông vội vàng hỏi dồn: “Thực ông là vua ư?” Đoán được ý nghĩ của quan muốn điều tra mình về chính trị, Chúa Giêsu trả lời cho quan yên lòng: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật”. Ngài không từ chối mình là vua, nhưng từ ngữ “vua” theo nghĩa khác, nghĩa làm chứng cho sự thật chứ không phải chính trị giả dối. Quan chỉ nghe người ta đồn thổi về Ngài, còn sự thật ra sao thì quan đâu có tường. Nếu Ngài có các bề tôi trung thành, nếu Ngài là vua thì do dân chúng chấp nhận Ngài như Người rao giảng và sống đúng sự thật. Việc đó chẳng nguy hiểm gì cho địa vị của quan. Những ai nói và làm theo sự thật, thì chấp nhận sự thật Ngài rao giảng và thuộc về vương quốc của Ngài. Xin đừng nhầm lẫn hai lĩnh vực vương quyền! Chẳng biết thái thú Philatô hiểu được quan điểm của Chúa Giêsu không?
Đó là chuyện riêng cá nhân ông quan, còn chúng ta ngày nay thì sao? Chúng ta liên minh với ai? Quyền bính nào? Cái gì trị vì chúng ta? Mỗi ngày chúng ta phục vụ ai? Sống cho cái gì? Chúng ta bái lạy bàn thờ nào? Đây là những nội dung cần bàn bạc! Chúng ta đã tôn phong điều chi lên ngôi để cai trị mình, quỳ gối thờ phượng ai? Tiền bạc, sắc dục, địa vị, quyền bính, cờ bạc, tiện nghi,… ? Ngay cả các linh mục, tu sĩ nam nữ cũng không tránh khỏi sai lầm trong những lãnh vực này. Đúng ra, xưng tụng Đức Kitô là vua, chúng ta phải giữ vững đường lối của Ngài trên biển đời trần gian. Triều đại Ngài hệ tại điều chi? Thánh Phaolô trả lời rõ ràng từ 2000 năm nay: “Không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17), tức là ở đâu người ta sống sự thật, thì ở đó là vương quốc của Ngài, tâm hồn và địa dư. Ngoài ra chỉ là dối trá chính trị. Xin nhớ trong phúc âm thánh Gioan từ “thế gian” có nghĩa đặc biệt, gần như đối nghịch với vương triều Thiên Chúa. Những gì thuộc thế gian là giả trá và tối tăm, khước từ sự thật và ánh sáng. Những ai lựa chọn thế gian là quyết định sống ngoài ơn thánh Thiên Chúa ban qua Đức Kitô. Do đó, tinh thần của ngày lễ hôm nay kêu gọi mọi người từ bỏ não trạng xâm lược, thành kiến, cạnh tranh, bất công mà thế gian ưa chuộng, để chấp nhận con đường chân lý Đức Kitô Vua đã khai mở: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc chốn này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu, không để tôi bị nộp cho người Do Thái”. Hiện thời trên thế giới nhan nhản những cuộc chém giết nhau: chiến tranh ý thức hệ, sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh giành giật đất đai, biên giới, tài nguyên, thị trường. Chẳng phải đường lối Thiên Chúa nếu chúng ta cứ tiến hành cướp bóc, hù doạ, chiếm đoạt của nhau như vậy. Chúa Giêsu chỉ có thể làm vua, nếu thần dân sống hoà thuận, thương yêu, nhường nhịn nhau. Đường lối của Ngài là thế này: Nuôi dưỡng kẻ đói nghèo, chăm sóc cô nhi quả phụ, băng bó những vết thương thể xác cũng như tinh thần, không xây dựng võ khí, không chế tạo bom thông minh (smart bombs). Chịu trách nhiệm cao về an toàn, sức khoẻ, tính mạng của nhau, không ôm bom tự sát, không khủng bố, trả thù. Tóm lại chỉ có yêu thương bác ái, thực hiện những điều tốt lành cho nhau. Một quả bom nguyên tử trong tay người con Chúa không nguy hiểm bằng thanh sắt nhỏ trong tay kẻ đâm thuê chém mướn.
Chúa Giêsu làm vua, Ngài thâu nhận thần dân không phải bằng hù doạ hay cưỡng ép như kiểu thế gian. Chúng ta nhận ra sự thật nơi Ngài và bị thu hút bởi sự thật đó, mời Ngài ngự trị trong linh hồn. Sự thật luôn luôn có sức mạnh vô địch, không cưỡng lại được. Chỉ điên khùng mới từ chối sự thật. Bởi nó là của ăn cho trí khôn, đúng như âm thanh là lương thực của thính giác, ánh sáng của con mắt và thức ăn của dạ dày. Bởi vậy còn nhiều đường hướng khác người ta đến với Chúa Giêsu. Thí dụ như chán chường, thất vọng, giữ đạo theo thói quen, nghi ngờ, lạnh nhạt, chưa thực tâm tìm kiếm Chúa. Những nếp sống ấy không phải là đường lối Tin Mừng, cần chỉnh đốn, đổi thay. Con đường sự thật là độc nhất để chúng ta đến với Chúa như Ngài nói với Philatô: “Ai đứng về phe sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Bài đọc hai trích sách Khải Huyền, nhắc nhở các tín hữu Đức Kitô là thủ lãnh duy nhất và chân thật của vũ trụ. “Ngài là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại. Là Alpha và Omega, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng toàn năng.” Những lời này phản ánh hình ảnh “Con Người” trong sách tiên tri Daniel. Các tín hữu tiên khởi tìm thấy nơi Đức Kitô ứng nghiệm đầy đủ lời vị tiên tri loan báo: “Kìa Người ngự đến giữa đám mây ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế!Amen!”. Vì vậy những kẻ đang cầm quyền trên mặt đất sẽ bị tiêu diệt. Mọi người phải chết, mọi quyền bính tiêu tan, mọi vẻ hào nhoáng sẽ lu mờ. Chỉ có Đấng chịu đóng đinh, qua cái chết trỗi dậy, sẽ không bao giờ chết nữa, Ngài sống muôn đời. Thủ lãnh thế gian tranh thủ quyền bính là để thống trị, duy Chúa Giêsu để yêu thương đến thí mạng sống mình vì chúng ta.
Do đó, thánh Gioan khích lệ các tín hữu trông lên hình ảnh “Con Người” sẽ đến, mà kiên trì chờ đợi. Bất chấp những điều tồi tệ trong xã hội hiện thời: Chiến tranh, nghèo khổ, đói khát, dịch bệnh, thiên tai, bão lụt, bất công, lạm dụng quyền bính, dối trá lừa đảo. Mọi sự rồi sẽ có ngày thay đổi nên tốt hơn. Vua Giêsu sẽ trở lại. Đấng là khởi thuỷ và tận cùng sẽ ngự trị trong vinh quang và an bình. Chúng ta vững tâm tin tưởng vào đường lối Chúa Kitô, tiếp tục thi hành sứ vụ rao giảng và làm tốt công việc hàng ngày. Đó chính là dấu ấn môn đệ trung thành của Chúa trong cuộc sống và phân biệt chúng ta khỏi dòng giống gian tà. Xin đừng quên ý chính của bài đọc hai hôm nay, thánh Gioan nhắn nhủ rằng, bằng máu Ngài, Đức Kitô đã thu thập chúng ta thành một vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người. Nghĩa là từ nay không phải chỉ bậc tư tế thượng phẩm hay những kẻ được tuyển chọn đặc biệt mới có quyền tiến gần Thượng Đế để dâng lễ vật và tế phẩm, mà mọi tín hữu đều là những tư tế trong nước Thiên Chúa. Công đồng Vatican II đã xác nhận điều này. Mọi tín hữu đều có chức tư tế trong Giáo Hội, có quyền dâng lên Thiên Chúa phẩm vật dâng hiến. Do đó, thánh lễ không phải của riêng ai mà của toàn thể Hội Thánh. Không được dâng lễ tuỳ tiện nhưng phải nhân danh Giáo Hội Chúa Kitô. Ngoài ra những công việc lành thánh, những cố gắng lao nhọc, trong gia đình, nơi làm việc, học đường, bạn bè đều là những lễ tế thánh thiện dâng tiến Đức Chúa Trời. Hiệu quả của nếp sống, những công việc chúng ta đang thực hiện hàng ngày phải biểu lộ được Thiên Chúa đang hiện diện giữa thế giới.
Khi đọc kinh “Lạy Cha” chúng ta lớn tiếng: “Xin cho nước Cha trị đến” chẳng phải chúng ta chỉ liên tưởng đến ngày cánh chung, khi Chúa ngự đến lần thứ hai. Mà ngay bây giờ, lúc này và tại đây. Thế thì phải giải trình làm sao ở Phi Châu, những lính trẻ con 14 tuổi đã được dạy cho biết kỹ thuật chém giết, hành hạ người khác? Chắc chắn đó là một tội ác, một sự dữ ghê tởm! Tuy nhiên còn nhiều thể loại xấu xa khác nữa mà người ta cố tình làm ngơ, thậm chí cổ võ, tuyên truyền như giết người êm dịu, phá thai, ngừa thai nhân tạo, làm cạn kiệt tài nguyên trái đất, gây độc môi trường, dùng bạo lực giải quyết tranh chấp, tiêu tốn tiền bạc vào chiến tranh, hận thù, thay vì mua thức ăn cho người nghèo đói, thuốc uống cho kẻ bệnh tật. Bản liệt kê dài vô tận. Những điều này chắc chắn không phải là ý Chúa muốn cho thế gian. Chúng chính là cạm bẫy của Satan cướp bóc linh hồn nhân loại. Làm sao tôi dám khẳng định như vậy? Bởi lẽ Đức Kitô rao giảng con đường khác hẳn: Con đường yêu thương bác ái. Bằng lời rao giảng và hành động, Ngài mặc khải lãnh địa và quyền bính của mình, khác hẳn với những điều mà chúng ta kinh nghiệm trên thế giới hôm nay.
Cho nên lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng: “Nước tôi không thuộc về chốn này”, luôn nhắc nhớ chúng ta phải biết sống thế nào cho phù hợp với tôn chỉ của nước đó. Nó cật vấn lương tâm mỗi người đã hành động ra sao trước tôn nhan Vua muôn thuở? Liệu lời nói, việc làm của chúng ta phản ánh tâm tình phục tùng nước Chúa? Liệu chúng ta xứng đáng là thần dân của một vương quốc tư tế thánh thiện? Trước bàn thờ Thánh Thể hôm nay, chúng ta khấn xin Chúa, một lần nữa tuôn đổ tinh thần của Ngài vào linh hồn mình. Ngõ hầu có thể vững tâm kêu cầu: “Xin cho nước Cha mau ngự đến”. Amen.
Raymond E. Brown : Thái thú Philatô xem ra không hiểu ý nghĩa từ “vương quốc” mà Chúa Giêsu nói với ông. Theo thói quen ông nghĩ ngay tới tham vọng chính trị. Vì vậy ông cưỡng ép Chúa phải thú nhận mình là vua. Chúa không từ chối tước vị đó, nhưng trong nghĩa khác hẳn. Ngài đến thế gian để làm chứng cho sự thật, sự thật về Thiên Chúa và nhân loại. Ngài là vua. Nhưng chỉ những ai thuộc về sự thật mới hiểu được vương quốc của Ngài. Đấy là lý do Ngài bị trao nộp cho Philatô. Ngài là Vua Chân Lý đem bằng chứng tố cáo thế gian.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã xác quyết: Phải, Ta là vua, nhưng Nước Ta không thuộc về: TN 34-ABC175
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã xác quyết: Phải, Ta là vua, nhưng Nước Ta không thuộc về thế gian này. Đúng thế, nhìn vào xã hội ngày hôm nay, chúng ta sẽ thấy Nước Chúa không có một thế lực chính trị, không có một sức mạnh quân sự nào cả. Nước Chúa không có xe tăng và đại pháo, mà chỉ có các linh hồn. Nước Ngài là nước thiêng liêng triển nở trong cõi lòng chúng ta. Và như vậy, Ngài là vua của tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên một khi đã tuyên xưng Ngài là vua, thì điều quan trọng, đó là chúng ta phải thuộc về Ngài. Thế nhưng, chúng ta phải thuộc về Ngài như thế nào ?
Chúng ta không thuộc về Chúa bằng cách chỉ có tên trong sổ Rửa tội, bằng cách chỉ mang danh hiệu là người Kitô hữu, nhưng chúng ta phải thuộc về Ngài bằng chính đời sống kitô hữu của chúng ta. Đây quả thực là một điều cay đắng và chua xót, bởi vì: xét theo tên gọi, thì nhiều người Kitô hữu đã thuộc về Ngài, nhưng xét theo đời sống, thì họ lại chối bỏ Ngài. Họ tới nhà thờ ba lần trong đời. Lần thứ nhất đễ lạnh nhận bí tích Rửa Tội, lần thứ hai để cử hành bí tích Hôn Phối và lần thứ ba để ra đi đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Mặc dù tin Chúa, nhưng họ lại chẳng bao giờ sống niềm tin của mình. Họ chấp nhận Đức Kitô là vua, nhưng lại chẳng bao giờ tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, khiến anh em lương dân đã phải thốt lên: Đi đạo thì tin đạo, chứ đừng tin kẻ có đạo. Họ chỉ là một thứ Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực mà thôi. Họ giống như mồ mả bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, hay ốp lát cẩm thạch hay đá quí, nhưng bên trong thì lại chất chứa đủ mọi thứ giòi bọ và xú khí. Đức tin của họ chỉ là như một bộ quần áo đẹp, mặc vào để tới nhà thờ, rồi sau đó thì cởi ra và treo và tủ. Họ chỉ giữ đạo ở trong nhà thờ mà chẳng sống đạo giữ lòng cuộc đời. Tại nhà thờ họ là những con chiên ngoan, nhưng bước xuống cuộc đời họ bỗng hóa kiếp thành một loài lang sói, cũng gian tham, cũng độc ác… Với chúng ta thì khác. Giữa một xã hội chối bỏ Thiên Chúa để chạy theo vật chất và hưởng thụ, thì những người Kitô hữu, bằng một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, phải trở nên chứng nhân cho Tin mừng tình yêu của Đức Kitô, phải trở nên nắm men làm cho cả đấu bột xã hội dậy men đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, phải trở nên muối mặn ướp cho một môi trường khỏi ươn thối, phải trở nên ánh sáng chiếu trong một thế giới bị phủ đầy bóng tối. Tất cả những điều ấy muốn nói lên rằng mỗi người chúng ta cần phải có một đức tin sống động, thì mới có thể cẳm hóa được thế giới ngày nay, một thế giới đang xa lìa khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống này, không thiếu gì những người vỗ ngực tự xưng là đạo gốc, là đạo dòng, nhưng lại thiếu mất một đức tin sống động. Họ nói: Nếu tôi không có đức tin, thì tôi chẳng cần phải ăn ngay ở lành, chẳng cần phải để ý tới linh hồn làm chi ? Với chúng ta thì khác, nếu chúng ta có một đức tin sống động, thì liệu chúng ta có thể bỏ bê linh hồn, trốn tránh việc đi xưng tội và lười biếng việc rước lễ được hay không ? Chắc chắn là không.
Nếu kiểm điểm lại đời sống và tự vấn lương tâm, có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà rằng: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng…Bởi vì chúng ta mới chỉ là những người Kitô hữu trong sổ sách, những người Kitô hữu trên môi trên miệng, chứ chưa thực sự là những người Kitô hữu trong việc làm, trong cuộc sống với một đức tin mạnh mẽ và nhiệt thành.Với lời nói, chúng ta là những người Kitô hữu, nhưng với việc làm chúng ta lại là những kẻ ngoại đạo. Với miệng lưỡi, chúng ta là những người có đạo, nhưng với đời sống, chúng ta lại là những kẻ vô đạo. Với ngôn ngữ, chúng ta là những người tin Chúa, nhưng với tư cách chứng nhân, chúng ta lại là những kẻ chối bỏ Chúa, đúng như tục ngữ đã diễn tả: Khẩu Phật tâm xà. Miệng Na mô, bụng bồ dao găm. Đức Kitô là vua cõi lòng chúng ta. Vì thế, chúng ta phải nói, phải làm và phải sống thế nào để trói cả cuộc đời chúng ta là một lời tuyên xưng vương quyền của Ngài và bản thân chúng ta xứng đáng mang danh hiệu là công dân nước trời.
Chúa Giêsu thật là ngược đời. Khi làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, dân chúng hân hoan phấn khởi TN 34-ABC176
Chúa Giêsu thật là ngược đời. Khi làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, dân chúng hân hoan phấn khởi, muốn tôn Ngài làm vua thì Ngài không muốn. Ngài phản đối bằng cách trốn đi. Cũng như hôm vinh quang vào thành Giêrusalem, dân chúng hân hoan, cởi áo lót đường, cầm cành lá phất phơ đón chào. Hôm ấy mà Chúa xưng vương thì quá thuận lợi. Thế mà Chúa phản đối bằng cách cỡi con lừa bé nhỏ, yếu ớt. Còn hôm nay, phận tội đồ đứng trước mặt quan án, bị dân chúng khinh khi chối bỏ, thân tàn ma dại, chẳng còn hình tượng con người nữa, thì Ngài lại hiên ngang xưng mình là vua. Chẳng phải vô tình, nhưng là cố ý. Hôm nay, đối diện với cái chết, đối diện với quyền lực và đối diện với sự hận thù, Chúa Giêsu muốn xưng vương trong hoàn cảnh này để làm chứng cho sự thật.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là có một vương quốc khác, vượt xa mọi vương quốc trần gian. Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu: Ngoài cuộc đời này còn có một cuộc đời khác. Ngoài thế giới này còn có một thế giới khác. Đó là vương quốc của Chúa. Đó là Nước Trời. Vương quốc ấy là vương quốc sự sống vì sẽ không còn bóng dáng cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Đức Giêsu không xưng vương. Nay cận kề cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta biết vương quốc của Ngài “không thuộc thế gian này”. Sự sống trần gian này chẳng đáng giá gì so với sự sống trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là quyền năng của Chúa là trên hết. Khi một mình yếu đuối nhưng vẫn hiên ngang đối diện với Philatô tượng trưng cho quyền lực của đế quốc La mã bao trùm thiên hạ, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi quyền năng như Ngài đã trả lời Philatô: “Ông có quyền không bởi tự mình mà có, nhưng từ thành công ban cho”. Thánh nữ Xêxilia cũng nói: “Quyền uy ở đời giống như quả bong bóng. Nó không triển nở ở tự nó. Nó không tự mình tròn trịa được. Phải nhờ đến không khí. Nhưng chỉ một mũi kim cũng làm nó xẹp xuống”. Quyền uy trần gian mau tàn. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới bền vững. Chính vì thế Đức Giêsu không xưng vương khi tràn đầy uy tín, khi được dân chúng ngưỡng mộ. Vì nếu Ngài xưng vương khi được dân chúng tung hô vạn tuế, khi làm những việc kỳ lạ lớn lao, khi tràn đầy uy tín, thì vương quyền ấy chẳng hơn gì vương quyền của vua chúa trần gian khác. Nhưng hôm nay, khi mất hết mọi uy tín, không còn ai tung hô ủng hộ, Đức Giêsu xưng vương để cho ta thấy Ngài siêu thoát mọi quyền lực và vinh quang theo thói thế gian. Ngài chỉ trông cậy vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì thế những ai muốn vào vương quyền của Ngài phải biết coi thường mọi vinh quang quyền thế ở trần gian.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là tình thương chiến thắng thù hận. Khi một mình đối diện với những ghen ghét thù hận của đám đông, Đức Giêsu muốn dạy ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trên trần gian. Vì yêu thương mà Ngài đã xuống trần gian. Ngài đã yêu thương cho đến chết vì yêu. Đó là tình yêu lớn lao nhất như lời Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu”. Dù những thù hận vây bọc, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương. Hôm nay đơn thân độc mã trong vòng vây của hận thù, Đức Giêsu vẫn xưng vương để cho ta thấy: tình yêu thương đã chiến thắng. Hận thù đem lại chết chóc, chỉ có tình yêu thương mới cứu được thế giới.
Đức Giêsu đã chiến thắng. Ngài là Đấng đầu tiên từ trong kẻ chết sống lại. Với chiến thắng, Đức Giêsu mở cửa vương quốc của Ngài. Đó là vương quốc của Sự Thật. Chỉ những ai thuộc về sự thật mới được vào. Và những ai thuộc về sự thật phải biết chiến thắng sự giả trá. Sự giả trá đó là sự chết, đó là những vinh hoa phú quý trần gian và đó là lòng thù hận ghen ghét. Hiểu biết sự thật, đập tan sự dối trá, ta mới tiến vào Nước Sự Sống theo bước Đức Giêsu Kitô. Với chiến thắng Ngài thật sự là Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống muôn đời.
Lạy Đức Giêsu là Vua của chúng con, xin cho chúng con được làm dân của Chúa, được thuộc về Nước Chúa, nước đầy tràn Sự Thật và Sự Sống, nước công chính và tình yêu muôn đời.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Chúa Giêsu cho biết gì về vương quốc của Chúa? 2- Chúa Giêsu cho biết gì về quyền năng của Chúa? 3- Chúa Giêsu cho biết gì về cuộc chiến giữa tình thương và thù hận? 4- Muốn sống trong vương quốc của Chúa, ta phải làm gì?
Trong một ngày lễ Chúa Kitô Vua, chúng tôi đã mời gọi dân chúng ở Tagalog tôn vinh Chúa: TN 34-ABC177
Trong một ngày lễ Chúa Kitô Vua, chúng tôi đã mời gọi dân chúng ở Tagalog tôn vinh Chúa Giêsu bằng những tiếng chúc tụng và ca khen “Chúa Kitô muôn năm”. Khi tung hô ai như vậy, chúng ta muốn nói rằng tôi ước ao cho ngài được trường thọ. Đó vừa là lời chúc mừng vừa là lời hoan hô đầy phấn khích, là một lời kêu cầu và cũng là một cử hành tôn vinh chính sự sống.
Khi chúng ta nói: “Chúa Kitô muôn năm”, chúng ta dùng câu đó như một lời khẩn cầu, một lời kính tôn đối với Đức Vua nhân từ của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng diễn tả trong câu đó một lời tán dương đối với Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng diễn tả một nỗi khát vọng, mong ước Chúa đến và sống mãi mãi trong tâm hồn chúng ta cũng như trong tâm hồn mọi người tin vào Chúa.
Thầy Brian Morton có kể lại câu chuyện sau đây :
“Một nữ tu trẻ khởi sự ngày đầu tiên làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sơ rất lo lắng. Sơ thấy những người hấp hối nằm trên các giường bệnh. Sơ thấy các sơ khác đang đi từ giường này sang giường khác, rót nước ở chỗ này, phát thuốc ở chỗ kia.
Bất thình lình Mẹ Têrêxa đến bên sơ, mỉm cười và nói: “Này chị, đến với tôi. Tôi muốn chị gặp một người”. Nữ tu trẻ đi theo Mẹ Têrêxa. Chẳng mấy chốc họ đến bên một cái giường nằm ở góc xa nhất của khu nhà. Nằm trên giường là một ông lão gầy giơ xương. Đôi mắt của ông sâu hoắm. Đầu ông cao trọc. Ông chỉ còn một cái răng duy nhất trong miệng.
Mẹ Têrêxa ôm khuôn mặt của ông lão trong đôi bàn tay của mình và quì xuống bên giường. Mẹ gọi người nữ tu trẻ tuổi: “Chị Anna, tôi muốn chị gặp Chúa Giêsu”.
Chúng ta cần mời gọi Chúa Kitô đến cư ngụ trong chúng ta để những qui tắc, lối sống của Người trở thành qui tắc vào lối sống của chúng ta. Chúng ta cần Người đến sống trong và với chúng ta để chúng ta hành động, ứng xử như Người. Chúa Kitô đang sống trong mỗi người chúng ta. Và chúng ta phải để cho Chúa hướng dẫn chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong những người chung quanh chúng ta. Chúa Kitô muôn năm ! Xin Chúa sống mãi mãi trong tâm hồn chúng con.
Cách đây hai ngàn năm, nước Do Thái, một tiểu quốc bên bờ Địa Trung Hải, đã ngậm đắng nuốt: TN 34-ABC178
Cách đây hai ngàn năm, nước Do Thái, một tiểu quốc bên bờ Địa Trung Hải, đã ngậm đắng nuốt cay, sống dưới chế độ hà khắc của đế quốc Rôma. Tại Galilê, miền bắc Do Thái, những người đế quốc đã đặt Hêrôđê, một con người vô lương tâm làm vua, để tận diệt vương tộc Đavid, còn ở Giuđê, miền nam Do Thái, Rôma trực tiếp đô hộ, dưới sự thống trị của tổng trấn Philatô và quân đội của ông. Cũng như trong các nước bị chiếm đóng, đô hộ, người Do Thái thời bấy giờ chia ra nhiều phe đảng chống đối nhau và kình địch nhau, cụ thể là hai đảng Sađốc và Pharisêu. Đảng Sađốc thì cộng tác với quân đội chiếm đóng, ngược lại, đảng Pharisêu tha thiết với nền độc lập quốc gia, họ sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc và đẩy lui đế quốc, họ luôn nhắc nhở cho dân chúng niềm hy vọng ngày giải phóng mà Thiên Chúa đã hứa.
Trong khi đất nước đang bị phân hóa như vậy thì Chúa Giêsu xuất hiện với những quyền lực vô song, Ngài đã làm những việc mà không ai có thể làm được. Trước những sự kiện đó, người Do Thái hồ hởi phấn khởi tin chắc Ngài là vị cứu tinh Thiên Chúa gửi đến và ngày giải phóng đã gần. Vì thế, ngày lễ lá, dân chúng rầm rộ đón rước Chúa vào thành đô như một vị đại tướng thắng trận trở về lên ngôi. Họ lũ lượt kéo nhau đi như biểu tình, miệng ca hát: “Vạn tuế con vua Đavid”. Như vậy, dân chúng đã nhận ra Ngài là vị vua Thiên Sai khiêm tốn, ngồi trên lưng lừa, đúng như ngôn sứ Dacaria đã loan báo năm thế kỷ trước. Họ reo vang hô lớn: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, Người chính là vua”. Hôm ấy Chúa Giêsu không cải chính, cứ để họ tiếp tục tung hô như vậy.
Nhưng dân Do Thái đã thất vọng, vì Chúa Giêsu từ chối vương quyền họ trao cho Ngài, từ chối việc giải phóng dân Do Thái khỏi ách đô hộ của Rôma. Ngài tuyên bố Ngài là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, là vị cứu tinh, là Vua Do Thái, nhưng không như người Do Thái quan niệm. Thời giờ đã điểm, Ngài không còn giấu diếm như trước nữa, Ngài công khai chấp nhận và tuyên bố Ngài là Đấng Cứu Thế. Thế là việc gì phải đến đã đến: ngày thứ Năm, cũng trong tuần lễ đó, chính những người đã reo mừng tung hô Ngài trước đây, bây giờ lại xuống đường biểu tình, điệu Ngài đến nhà cầm quyền để tố cáo giết Ngài. Họ điệu Ngài đến tổng trấn Philatô, Philatô ra gặp họ, Chúa Giêsu và Philatô đối diện nhau. Philatô quay về phía đám đông đang gào thét và hỏi họ: “Các ngươi tố cáo người này về tội gì ?”. Nếu họ tố cáo Chúa là đã nói xúc phạm vì tự xưng là Thiên Chúa, thì Philatô chỉ mỉm cười bỏ qua, nhưng lời tố cáo của họ là “Chúa đã xúi giục dân nổi loạn, cấm nộp thuế cho Xêda, và tự xưng mình là vua”. Nghe vậy, Philatô hỏi Chúa: “Ông là vua à ?”. Chúa trả lời: “Ông nói đúng, tôi là vua”. Nhưng Ngài nói thêm ngay: “Vương quyền của tôi không đến từ thế gian này”, vương quyền ấy chủ yếu hệ tại ở việc “làm chứng cho sự thật”. Đây là điều Philatô không thể nào hiểu được.
Đúng vậy, Chúa Giêsu không phải là vua Do Thái theo nghĩa chính trị để tranh giành quyền thế với hoàng đế Xêda, Ngài là vua theo nghĩa Ngài là Đấng chăn chiên dẫn người ta vào sự thật của Thiên Chúa, Ngài đến làm chứng cho sự thật, ai thuộc về Ngài thì nghe tiếng Ngài, Ngài là vua thật, vì Ngài dẫn người ta đến sự sống thật. Nói khác đi, Chúa Giêsu đến trần gian không phải với sứ mạng giải phóng dân Do Thái và nhân loại khỏi ách nô lệ của đế quốc, Ngài cũng không đến để giải thoát chúng ta khỏi đói khát và chiến tranh. Tất cả sứ mạng của Ngài là giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi. Vì thế, Chúa Giêsu đã đi vào tận đáy thân phận con người để bộc lộ vương quyền thật của Ngài, Ngài chỉ muốn cai trị tâm hồn người ta. Do đó, tất cả những ai muốn được giải thoát khỏi tội lỗi, tin theo Ngài và sống theo những lời Ngài dạy, họ sẽ là thần dân của Ngài và được hội nhập vào nước của Ngài.
Trong thời đại này, chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là vua vẫn là một điều hợp thời, hợp tình, hợp lý. Vấn đề là chúng ta hiểu đúng nội dung và bản chất vương quyền của Chúa. Ngài đến trần gian để làm chứng cho sự thật và đưa chúng ta vào sự thật. Sự thật đây là ơn cứu rỗi và hạnh phúc. Như vậy, tất cả chúng ta hãy cùng nhau vung tay lên hô lớn: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua” như người đàn bà trong câu truyện sau: Đức giám mục thành Pam-lo-ra kể lại rằng: người ta mới mang về đây thi thể của một chiến sĩ đã chết vì Chúa và vì tổ quốc. Một quả lựu đạn nổ tung làm cho xác người chiến sĩ đó nát bấy, các bạn bè nhận ra xác đó nên đem về chôn cất tử tế, trước khi chôn, bà mẹ của người chiến sĩ đó xin mở quan tài ra, bà ta có một người con đầu lòng cũng chết như vậy, khi mở quan tài ra, bà chỉ thấy có một đống thịt nát và một cánh tay còn nguyên, bà cầm cánh tay đó đưa lên cao và nói: “Anh con trước khi chết đã kêu lên: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua”, nếu con chết mà chưa kịp kêu lên như vậy, thì bây giờ con hãy kêu lên với mẹ”. Nói xong, bà giơ cánh tay con mình lên và hô ba lần: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua”.
Xin Chúa cho chúng ta, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn luôn xác tín Chúa Kitô là vua, Ngài luôn quan tâm đến chúng ta là những thần dân yêu quý của Ngài, Ngài sẽ trợ giúp chúng ta luôn đi trong sự thật và sống trong sự thật của Ngài, với điều kiện chúng ta phải luôn tin Ngài và đặt Ngài làm vua tâm hồn và cuộc đời chúng ta.
Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Có lẽ chúng ta phải thú nhận: chúng ta chưa sống, chưa rao giảng, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Bởi vì cuộc sống đầu tắt mặt tối, đầy lo toan, vất vả, bon chen dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa… Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện… có lẽ sẽ bị đánh giá là không giống ai, là người lội ngược dòng nước, nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại là cách làm chứng cho Chúa, làm chứng cho sự thật có ý nghĩa và giá trị nhất.
Vua chúa trần gian có một lãnh thổ mà họ thống trị và họ tìm cách mở rộng; Chúa Giêsu Kitô: TN 34-ABC179
Vua chúa trần gian có một lãnh thổ mà họ thống trị và họ tìm cách mở rộng; Chúa Giêsu Kitô không có nơi gối đầu. Vua chúa trần gian cho phát hành tem và đồng tiền mang hình ảnh của họ, như thể họ muốn kiểm soát mọi thư từ và mọi việc buôn bán vậy; Chúa Giêsu không có như vậy. Những kẻ quyền thế ở đời có quân đội và cảnh sát, bom và súng đạn, và sử dụng chúng khi cần. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Kitô chỉ có hai thanh gươm và cấm Phêrô sử dụng. Vua chúa và những người làm lớn ở đời này cai quản dân tộc của họ bằng sự khéo léo, mưu mô và những thủ đoạn, thậm chí đôi khi bằng dối trá, bất công và tội ác nữa; Chúa Giêsu Kitô không thể dùng phương tiện nào trong những phương tiện ấy, vì Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Nếu Chúa Giêsu Kitô không có chút gì trong những điều làm nên các vị vua, vậy có thể thực sự xưng Ngài là vua không? Kinh Tin Kính trả lời chúng ta: “Nước Người sẽ không bao giờ cùng”. Và tất cả Tin Mừng cũng nói như vậy: Thiên sứ Gabriel loan tin cho Đức Maria rằng con của bà sẽ lên ngôi Đavít; Ba vua thờ lạy Ngài như một vị vua; suốt ba năm Chúa Giêsu không ngớt nói về vương quốc.
Tuy nhiên, các sách Tin Mừng kể lại một sự kiện lạ lùng, đó là thái độ của Chúa Giêsu đối với quyền làm vua. Khi dân chúng hăng say muốn tôn Ngài lên làm vua, Ngài đã từ chối. Trái lại trước mặt Philatô, trong lúc không ai đặt Ngài làm vua cả, Chúa Giêsu lại khẳng định vương quyền của Ngài. Ngài nhất thiết đòi cho được vương quyền, trong lúc không ai muốn trao cho Ngài cả. Khi người ta hiến dâng nó cho Ngài thì Ngài lại tránh né. Thái độ lạ lùng thật. Khi có thể dễ dàng làm vua, thì Ngài từ chối. Khi điều này không thể xảy ra thì Ngài lại cố đòi cho được. Chúa Giêsu quả là một vị vua lạ lùng.
Chứng nhân cho sự thật.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu khẳng định Ngài là vua ở điểm này: “Tôi đến để làm chứng cho sự thật”. Sự thật mà Ngài tuyên bố là độc nhất, đó là ý định cứu rỗi của Thiên Chúa: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến để cứu độ thế gian. Mỗi lần bằng lời nói và việc làm, Chúa Giêsu biểu lộ ý định này, là mỗi lần Ngài thực thi quyền làm vua của Ngài. Có thể nói rằng cuộc đời của Ngài là cuộc đời vương giả, vì nó hoàn toàn diễn tả ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân, mù, què, bất toại, phong cùi, những hành động này đối với dân chúng là dấu hiệu cho thấy vương quốc đã đến gần tức là Thiên Chúa đang can thiệp. Cũng vậy, khi, bởi quyền năng của Thiên Chúa, Ngài trừ quỷ là Ngài minh chứng về sự hiện diện hữu hiệu của Thiên Chúa nơi dân Ngài. Khi Ngài lui tới với những người thu thuế, khi Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình là Ngài biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa không muốn cho kẻ tội lỗi phải chết. Khi Ngài khóc thương Giêrusalem, Lagiarô là Ngài biểu lộ lòng ưu ái của Chúa Cha đối với những nỗi khốn khó của loài người chúng ta.
Một hôm, Chúa Giêsu tuyên bố là có phúc những kẻ bất hạnh đủ loại: nghèo, đói, khát, buồn rầu, bị bách hại. Ngài không khôi hài đâu, nhưng Ngài loan báo cho họ rằng họ sẽ là những người đầu tiên được hưởng Nước Trời sắp đến. Đối với những kẻ bị trói buộc bởi những luật lệ tỉ mỉ, Ngài nói một lời giải phóng: “Ngày sabat được đặt ra vì con người …”. Trong các dụ ngôn, như dụ ngôn về người con hoang đàng, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh của Thiên Chúa và những mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
Làm chứng cho sự thật bằng cuộc sống của mình, Ngài lại càng làm chứng hơn nữa bằng cái chết. Vì những giá trị mà Ngài đề cao chính là nguyên nhân của cái chết này. Vì làm chứng như vậy về Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu chống lại những tư tưởng quen thuộc, Ngài thay đổi những cách đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân. Ngài làm cho các chức trách tôn giáo căm thù. Tóm lại Ngài trở thành kẻ xách động. Người ta nói với một kinh sư rằng Đức Mêsia đã đến. Ông chạy ra cửa sổ nhìn và trở về lắc đầu mà nói: “Không tôi không thấy gì thay đổi cả”. Kinh sư này có lý. Chúa Giêsu là vua khi sự việc thay đổi nhân danh Tin Mừng. Và trước hết là lòng con người. Chúa Giêsu là vua khi con người hoán cải theo các mối phúc thật và từ bỏ các giá trị theo tinh thần thế gian: Nghèo còn hơn là bóc lột. Bị bách hại còn hơn là bách hại. Hiền lành còn hơn hung ác. Thà khóc còn hơn làm cho kẻ khác khóc. Tha thứ hơn là được giải oan.
Khi con người biết Tin Mừng họ sẽ không thể dửng dưng đối với những gì thuộc lãnh vực chính trị. Họ không dửng dưng khi chính phủ kỳ thị chủng tộc, tạo nên bất bình đẳng, áp bức kẻ yếu hoặc bóc lột thế giới thứ ba. Nhân danh Tin Mừng, người Kitô hữu có một cái nhìn phê phán trên tất cả những điều này. Chúa Giêsu đã từ chối quyền bính chính trị, nhưng Ngài đã để lại những nguyên tắc hướng dẫn lương tâm chính trị. Hôm nay chúng ta hãy nhớ rằng Ngài chỉ làm vua theo mức độ chúng ta sống theo chân lý của Ngài mà thôi.
Hôm nay là chủ nhật cuối cùng kết thúc năm phụng vụ, kết thúc để bắt đầu một năm phụng vu: TN 34-ABC180
Hôm nay là chủ nhật cuối cùng kết thúc năm phụng vụ, kết thúc để bắt đầu một năm phụng vụ mới với tất cả tâm tình mới của Giáo Hội, và của mỗi người trong chúng ta là con cái của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay thánh Gioan thánh sử đã cho chúng ta nghe thấy cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với quan Philatô về vương quốc và vương quyền của Ngài, để cho chúng ta biết rằng: Đức Giêsu Kitô là vua trên các vua, và vương quyền của Ngài vô cùng tận – vĩnh hằng, vì Ngài là Thiên Chúa.
Vương quốc của Chúa Giêsu không giới hạn từ đông sang tây, trên trời hay dưới đất hoặc trong biển khơi, nhưng vô tận, bởi vì tất cả vạn vật đều do Ngài dựng nên; con dân của Ngài không những chỉ là những người đã tin và đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Ngài mà thôi, nhưng Ngài còn muốn “tập hợp tất cả đoàn dân lại như gà mẹ tập hợp đàn con dưới cánh”, nghĩa là trong ý định của Thiên Chúa, tất cả mọi người trên thế gian đều là con dân của Ngài.
Chúa Giêsu không những là vua trên hết các vua, mà còn là tôi tớ của các tôi tớ đầy lòng khiêm tốn khi tự hạ làm con người như chúng ta. Ngài là vua trên các vua vì Ngài là Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, Ngài là tôi tớ của các tôi tớ vì Ngài đã tự huỷ mình ra không, chấp nhận và gánh vác tội lỗi của nhân loại hơn một nô lệ thấp hèn, để cứu chuộc chúng ta. Đó chính là điều khó hiểu cho quan tổng trấn Philatô đầy quyền lực sinh sát, nhưng lại không nhận ra chân lí là cái gì khi đối diện với chân lí là Đức Giêsu Kitô.
Alpha và Omega –khởi đầu và chung kết- chính là Chúa Kitô, bởi vì “Nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, mà mọi vinh quang đều quy về Thiên Chúa là Cha toàn năng, cùng với Chúa Thánh Thần đến muôn đời muôn thuở. Amen”. Đó chính là lời chúc tụng của Giáo Hội, của tất cả mọi miệng lưỡi trên trời và dưới đất dành cho Ngài là vị vua cao cả và uy quyền.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta là những công dân của Nước Trời vì chúng ta đã lãnh nhận bí tích rửa Tội, nhưng không có nghĩa là chúng ta quên mất bổn phận của một công dân trần thế, nhưng khi chúng ta cùng nhau góp phần xây dựng hạnh phúc, công bằng, bác ái cho tha nhân trong một tổ quốc ở trần gian, là chính khi đó chúng ta đã thực hành bổn phận của công dân của Nước Trời.
Hãy hãnh diện và ngẫng đầu cao vì mình là công dân của Nước Trời, mà Chúa Giêsu chính là vua và là Thiên Chúa của chúng ta, chính Ngài đã dẫn đưa chúng ta đến vương quốc của hằng sống bằng chính cái chết trên thập giá của Ngài.
Câu gợi ý :
1. Ngày lễ Chúa Giêsu Kitô vua vũ trụ, tôi có thói quen kiểm điểm lại đời sống đức tin của mình trong năm qua ?
2. Là người Kitô hữu, tôi có ý thức được mình là công dân của Nước Trời khi tham gia xây dựng tổ quốc ở trần gian ?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta. Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Theo định nghĩa của Wiktionary, CẢO THƠM do chữ phương cảo, nghĩa là pho sách thơm,pho: TN 34-ABC181
Theo định nghĩa của Wiktionary, CẢO THƠM do chữ phương cảo, nghĩa là pho sách thơm,pho sách hay. Người ta cũng gọi những câu chuyện đạo đức,thảo hiếu, vị tha,dũng cảm của một người hiền,một vị thánh, một anh hùng,là những “cảo thơm”. Chắc chắn sách Tin Mừng,đặc biệt là bốn Phúc Âm là những “cảo thơm” và cũng chắc chắn cuộc đời Chúa Giêsu,nhất là những thời khắc Cuộc Khổ Nạn của Người là những “cảo thơm”. Tin Mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta về một “Vua – Giêsu Kitô” không phải do người trần tôn lên,không mặc lấy những vinh quang trần tục,nhưng là qua đau thương và cái chết: một vụ án vô tiền khoáng hậu,vẫn luôn nhức nhối, vẫn luôn mới mẻ. Cảo thơm nầy xin lần giở dưới ánh sáng Chúa Thánh Linh,để hiểu một phần ý nghĩa vâng lời và khiêm hạ
Năm 1939, khi Đức giáo hoàng Piô XII lên ngôi, một nhà báo Ý ngưỡng mộ Người và muốn tôn vinh Giáo Hội Công giáo, đã viết một bài báo lấy tựa đề :”Hỡi Nêrông, bây giờ ông đang ở đâu?”. Ý muốn nói giờ đây Nêrông phải trầm luận địa ngục,còn hậu duệ những kẻ bị Nêrông bách hại, nay vinh hiển trên ngai nơi “kinh thành muôn thuở”, vốn là thủ đô của đế quốc La – Mã rộng lớn (bằng diện tích hai mươi quốc gia ngày nay) và hùng mạnh, đã sụp đổ và trở thành “thủ đô” của Hội Thánh Công giáo. Đức Thánh Cha Piô XII đã viết mấy dòng cám ơn thịnh ý của nhà báo nhưng nói thêm rằng : Việc hoàng đế Nêrông nay ở đâu, thì chỉ có Chúa biết! Philatô là nhân vật đầu tiên và chủ chốt trong “cảo thơm” chúng ta đang mở. Cũng như với Nêrông, và để công bằng, chúng ta không tự quyền nói hoặc nghĩ về Philatô như nhà báo Ý lên án Nêrông.
Ta hãy nghe một đoạn trong bài viết của Gianfranco Ravasi,”Những gì Kinh Thánh Chưa Kể Lại” , - dĩ nhiên là theo các ngụy thư, - bởi vì chính cuộc sống về sau của Philatô đã làm bùng nổ trí tưởng tượng của các nguỵ thư, kể cả ở thời hiện đại, như là “Tổng Trấn Giuđêa” của [nhà văn] Anatole France. “ Quan điểm về Phongxiô Philatô “ của Paul Claudel, “Bà Vợ của Philatô” của Gertrud von Le Fort; “Ponce Pilate” của Roger Caillois, “Pilate” của Friedrich Durrenmatt,” và còn nhiều nữa. Mặt khác, truyền thống nguỵ thư Kitô giáo còn ca tụng sự trở lại đạo của Philatô, người chết tử vì đạo, bị xử trảm theo lệnh của Tibêriô và được Chúa Kitô đón tiếp ở trên trời. Không phải vô cớ mà Giáo hội Êthiôpia đã khắc ghi vào lịch phụng vụ của mình vị tổng trấn La mã,mà họ sùng bái như là vị thánh. Như thế ta sẽ có cái nhìn bớt gay gắt hơn về Philatô trong “vụ oan án Giêsu Kitô”, không rơi vào thái cực để rồi như chế độ nầy suýt ‘ăn cháo đá bát’ khi định bỏ tên đường Alexandre de Rhodes, hoặc sau hàng chục năm lên án triều Nguyễn ‘cõng rắn cắn gà nhà’, đã nhìn ra sự thật và tôn vinh nhiều vị vua,nhiều công trình và công trạng của một triều đình ‘phong kiến’ mà họ từng thù ghét.
Chính Philatô đã năm lần dùng danh hiệu “Vua’ với và về Chúa Giêsu. Lần thứ nhất là một lời thẩm vấn : "Ông có phải là vua dân Do Thái không?" (Ga 18,33 b). Lần thứ hai là câu hỏi của một quan toà để nghe bị cáo xác nhận lại điểm chính trong lý lịch:"Vậy ông là vua sao?" (Ga 18,37) Và lần thứ ba là lời gián tiếp công nhận người mà ông cho lệnh đóng đinh thập giá :”Giêsu Nazaret,Vua dân Do Thái” (Ga 19,19),mặc cho người Do Thái phản đối. Hai lần khác Philatô nhấn mạnh với người Do Thái: “Đây là Vua các ngươi” (Ga 19,15) và “Chẳng lẽ ta lại đóng đinh Vua các ngươi sao?”. Từ thái độ hống hách của một quan toàn quyền,Philatô đã đi hết ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác trước thái độ,cử chỉ và lời nói đầy uy nghiêm và xác tín của Chúa Giêsu. Rõ ràng quan toà Philatô bối rối trước bị cáo Giêsu, nhất là khi chính ông lại là người bị đặt câu hỏi:” Quan tự mình nói,hay người khác nói điều đó với quan?”.(Ga 18,19). Câu hỏi ngược như mời gọi Philatô suy tư và đối thoại và cũng mời gọi chúng ta bày tỏ thái độ, lập trường của mỗi người trước sự việc Chúa Giêsu Kitô là Vua. Không thể ‘ba phải’ lập lại hoặc hùa theo đám đông,để hô lên,hét lên rằng Chúa Giêsu là Vua, nhưng rồi khi ở một mình,khi cần làm chứng nhân rằng Chúa Giêsu thật sự là Vua,khi phải hy sinh một số lợi ích,thú vui cá nhân để chứng tỏ Chúa Giêsu mới thật là Vua, thì lại rụt đầu lẩn tránh hoặc làm ngơ. Chúa Giêsu buộc Philatô và cả chúng ta phải nhìn rõ bản chất Vương Triều của Người :”Nước tôi không thuộc về thế gian nầy!” (Ga 18,22). Chỉ bấy nhiêu thôi, người làm chính trị và nhà binh chuyên nghiệp như Philatô hiểu ra ngay: Vương triều nầy không có bạo lực,hận thù,không gây chiến, mà chỉ lấy lòng nhân từ - chữ ‘nhân’ - để thu phục nhân tâm. Điều nầy hẳn Philatô đã theo dõi và nghe nhiều báo cáo của chân tay, mà ông sai đi do thám tình hình trong nước Do Thái nói chung, và cách riêng về con người,những lời nói,những việc làm của Chúa Giêsu.
Người Do Thái có thể vì ghen tức,sợ hãi,mà tìm mọi cách hại Chúa Giêsu (và bằng chứng là họ đã thành công hôm nay,khi điệu được Chúa Giêsu đến để buộc ông kết án tử,một lời tuyên án đã định sẵn trong đầu họ), còn ông thì biết rõ Chúa Giêsu hoàn toàn vô hại với đế quốc La Mã và với việc cai trị nước Do Thái của ông. Vì thế, căn cứ vào câu trả lời nóng giận,kèm ít nhiều hối hận, với người Do Thái :”Điều ta đã viết,là đã viết” (Ga 19,22), thì việc Philatô đã cho ghi vào tấm bảng đóng trên phía đầu Chúa Giêsu :”Người nầy là Vua Dân Do Thái” (Ga 19,19), không hề là ngẫu nhiên hoặc có ý khác. Bị bắt, bị trói,bị xỉ nhục,bị đánh đòn,bị ấn lên đầu mũ gai nhọn,’chẳng còn hình tượng người ta nữa”, nhưng từ nơi Chúa Giêsu toát ra sự cao thượng, nét uy nghi lẫm liệt không thể tìm thấy ở đâu ngoài những người mang dòng dõi qúy tộc,vương giả và chính xác hơn, nơi một vị Vua, điều mà Philatô biết rõ là bản thân ông hoặc hoàng đế Tibêriô cũng không thể có được. Có thể nói không sai Philatô là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu là Vua, cho dù chắc chắn không cùng nghĩa,cùng hạng với Hêrôđê hay những tiểu vương đương thời chỉ biết xu nịnh, sống xa hoa trác táng và tham ô độc ác và cũng không như ý nghĩa của từ ‘Vua’ đối với Kitô hữu.
Philatô đã chết. Những người Do Thái đương thời với Chúa Giêsu đã chết. Con cháu họ thì nay làm lơ, bắt chước Philatô phủi tay vô can, trong khi chính miệng cha ông họ gào thét :”Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (Mt 27,25). Những người Do Thái thời nay hoặc chối bỏ cha ông, hoặc không ngay thẳng hoặc mặc nhiên thú nhận cha ông họ sai lầm. Người Do Thái hoặc có trí nhớ rất tồi hoặc rất vô ơn bạc nghĩa, khi phủ nhận công lao vô cùng to lớn và đầy hy sinh của Đức Thánh Cha Piô XII,Đấng đã đem cả tính mạng Người lẫn sự sống còn của cả Hội Thánh để cứu người Do Thái khỏi tay Đức quốc xã. Không khác gì lời tiên tri Êlia nói :”con chẳng hơn gì cha ông của con” (I V 19,4). Philatô ít nhiều cũng đã được biện hộ. Người Do Thái rồi cũng sẽ phải chấp nhận những chứng cứ lịch sử hiển nhiên, như họ sẽ phải hối hận, biết ơn và tạ lỗi với hương hồn đức Piô XII (điều mà nhiều học giả,giáo sĩ và người Do Thái đã làm, qua các công trình nghiên cứu sự thật, qua những bài viết và thuyết trình, nhất là bằng việc đón nhận đức tin Phục sinh Công giáo).
Còn chúng ta thì sao?
Câu hỏi bỏ lững,không có lời đáp, vì mọi sự đã quá rõ ràng và vì một câu trả lời tập thể chẳng có chút giá trị gì. Tập thể, cộng đoàn,cả Giáo Hội, cả hoàn vũ,cả vũ trụ tung hô Chúa Giêsu là Vua, Vua muôn Vua,Vua Vũ Trụ, là chính đáng. Nhưng tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Vua, thì đó là việc của mỗi tín hữu Công giáo, không ai làm giúp,chẳng ai gánh vác giùm được. Những lời tung hô như trong bài Te Deum chẳng hạn, khi được xướng long trọng theo bình ca (nhạc Grêgôriô) : “Tu Rex gloriae,Christe” (Lạy Chúa ,Người là Vua vinh quang), dễ gây xúc động và gợi tâm tình thờ lạy. Nhưng như thế là chưa đủ. Không thể đa mang cả quốc tịch thiên quốc lẫn quốc tịch thế gian. Không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn thần Mammôn. Không thể có chuyện đặt Chúa Giêsu ‘bằng vai phải lứa’ với một mớ hỗn độn những thứ tạp nham dơ bẩn đang chiếm gần kín tâm hồn trí não. Những thần tượng thoả lòng đam mê đều được người ta “phong vương”: có vua bóng đá,bóng rỗ,thì cũng có vua nhạc rock,nhạc pop và cả vua cờ bạc, vua ma túy,…và trong lòng nhiều người, danh lợi,dục vọng ngự trị vững vàng như những vị vua. Vì thế,Chúa Giêsu Kitô chỉ thực sự là Vua,khi mỗi người mở rộng thân xác linh hồn đón thập giá Chúa và sống tinh thần vâng lời,khiêm hạ (x. Pl 2, 2 -6),những cái đã làm cho Chúa Kitô được siêu tôn và ban cho danh vượt trên mọi danh ( Pl 2, 6 -9), là Chúa các Chúa, Vua muôn Vua, Vua Vũ Trụ.
Và đây nữa,lời Chúa nghiêm khắc cảnh cáo :”Còn bọn thù địch củ Ta,những người không muốn Ta LÀM VUA CAI TRỊ chúng,thì hãy dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt Ta’ (Lc 19,27)
Truyện cổ nước Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung cổ, Hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa: TN 34-ABC182
Truyện cổ nước Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung cổ, Hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng Alexis rất hiểu nổi cơ cực của thần dân và cảm thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một số giờ để thăm họ. Nhưng dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi.
Ngày kia, có một người lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là bác sĩ, anh săn sóc những người già cả, bệnh tật. Đặc biệt, bác sĩ không lấy tiền thù lao, và còn phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân. Bác sĩ ấy trở thành người của xóm nghèo, được mọi người yêu mến kính phục. Bác sĩ trẻ ấy chính là Hoàng tử Alexis, người thừa kế ngai vàng để làm vua nước Nga, và cũng là người đã bỏ cung điện giàu sang đến sống với thần dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.
***
Bạn thân mến! Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến chữ “vua”. Đó là lời tra hỏi của Philatô dành cho Chúa Giêsu:“Ông là vua sao ?” (Ga.18:36). Để trả lời, Chúa Giêsu đã không phủ nhận, Ngài chỉ nói: “Chính quan nói rằng tôi là vua” (Ga.18:36). Ngài cũng nói với Philatô về nhiệm vụ và mục đích của Ngài nơi trần gian này là: ”Tôi đã sinh ra và đã đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi".(Ga.18:37).
Chúa Giêsu là vua vũ trụ. Ngài đã được Chúa Cha ban cho mọi quyền năng trên trời dưới đất (Mt.28:18). Nhưng Ngài đã sống như một người tôi tớ phục vụ. Ngài biết mình là Con Thiên Chúa. Thế nhưng cả cuộc đời Ngài là một sự phục vụ không ngừng nghỉ. “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị họ, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân... Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ hầu bàn, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ gì? Thế mà Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người hầu bàn” (Lc. 22:25-27). Chúa Giêsu tự nhận mình là người phục vụ như một kẻ hầu bàn, chỉ mong cho thực khách được ngon miệng. Kiểu làm vua của Chúa Giêsu là phục vụ, chứ không phải là được người ta phục vụ. Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để làm cử chỉ hầu hạ của người nô lệ: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga.13:14).
Với Chúa Giêsu, cử chỉ yêu thương phục vụ là một việc làm bình thường gắn liền với quyền bính và cai trị. Quyền bính đích thực đồng nghĩa với phục vụ, và phục vụ cho đến hy sinh mạng sống của mình. Cử chỉ phục vụ cao cả nhất, khiêm hạ nhất của Chúa Giêsu là cái chết của Ngài trên thập giá.
Cần chiêm ngưỡng vị vua bị đóng đinh trên thập giá để hiểu được cách làm vua của Ngài. Một vị vua lạ lùng! Không ngai vàng, chỉ có thập giá. Không vương miện, chỉ có vòng gai. Không cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không quan quân đứng hầu, chỉ có người qua kẻ lại nhiếc móc, chế nhiễu, lăng mạ. Một vị vua không có chút quyền lực, cũng chẳng áp bức ai. Một vị vua của vâng phục và yêu thương tha thứ tất cả. Thập Giá vừa đưa Chúa Giêsu xuống vực thẳm của trần gian, vừa nâng Người lên cao chót vót ở trên trời. Chúa Giêsu trở thành vua vũ trụ nhờ đi vào con đường thập giá, con đường tử bỏ mình để khiêm tốn phục vụ, con đường hẹp nhưng lại là con đường dẫn đến vinh quang.
Chúa Giêsu đã dùng thập giá làm ngai vàng, dùng mão gai làm triều thiên. Nhờ cạnh sườn của Ngài bị đâm thủng mà suối nguồn tình yêu luôn tuôn chảy cho nhân loại đang khao khát tình yêu. Yêu là trao ban và trao ban đến cùng. Tình yêu là món qùa cao qúy mà Thiên Chúa đã trao tặng con người. Chúa Giêsu đã lấy tình yêu và phục vụ làm quyền bính cai trị. Ngài đã trở nên gương mẫu đích thực cho các nhà lãnh đạo, cho các người cầm quyền. Ai biết yêu thương và phục vụ như Ngài thì mới được tham dự vào vương quyền của Ngài, vì “Phục vụ là cai trị” vậy.
***
Lạy Chúa Giêsu! Ngài là vua của chúng con, là vua của trời đất vũ trụ, là vua của muôn vua và là Chúa của mọi tâm hồn… Xin cho chúng con được làm dân của Chúa, được thuộc về Nước Chúa, nước của Sự Thật và Sự Sống, nước của công chính và tình yêu muôn đời. Xin Chúa đến và ngự trị trong cung lòng tâm hồn của mỗi người chúng con. Amen.
Ngày nay, người ta thường gán chức vua cho những ai thành công trong một lãnh vực nào đó: TN 34-ABC183
Ngày nay, người ta thường gán chức vua cho những ai thành công trong một lãnh vực nào đó, chẳng hạn như ông Honda là vua xe máy, vì ông rất thành công trong việc chế tạo các loại xe tự động vừa bền lại vừa đẹp. Ông Henri Ford là vua xe hơi. Cầu thủ bóng đá Maradona là vua sân cỏ. Còn Đức Kitô, khi chúng ta tuyên xưng Ngài là vua, thì Ngài là loại vua nào? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta có thể xác quyết mạnh mẽ mà không sợ lầm lẫn: Ngài là Vua, nhưng lại là Vua Tình Yêu, vì Ngài đứng đầu trong lãnh vực yêu thương phục vụ.
Thực vậy, không một ai đã yêu thương như Ngài. Vì yêu thương, Ngài đã chịu chết ngay cả khi chúng ta là kẻ tội lỗi. Cái chết của Ngài là một bằng chứng hùng hồn, là một đỉnh cao tuyệt vời của tình yêu như lời Ngài nói: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Vì yêu thương, Ngài đã tự xoá bỏ mình đi, hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài đã hiến thân như người mục tử hy sinh tính mạng để bảo vệ cho đoàn chiên.
Ngài cảm thông thân phận yếu đuối của chúng ta nên không nghiêm khắc kết án. Ngay cả người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài nhân từ dạy chúng ta: Hãy nghiêm khắc với bản thân và rộng rãi với người khác. Không bới lông tìm vết, không nguyền rủa chửi bới. Hãy yêu thương kẻ thù và tha thứ cho nhau mãi mãi. Ngài đề cao phục vụ và kêu gọi chúng ta phục vụ, vì thế Ngài nói: Ta không đến để được phục vụ, nhưng đến để phụv vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Ngài muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài, cũng sống tình bác ái yêu thương và phục vụ.
Và để cho việc yêu thương không chỉ là một lời khuyên tuỳ ý, nhưng là một mệnh lệnh có tính cách bắt buộc, Ngài đã ban bố giới luật yêu thương: Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Và tình yêu thương đã trở thành một giới răn quan trọng nhất như là lòng kính mến Thiên Chúa.
Tình yêu thương của Chúa Giêsu đã trở nên nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao nhiêu sáng kiến, bao nhiêu tổ chức, bao nhiêu phong trào, bao nhiêu dòng tu chuyên lo việc yêu thương phục vụ. Chúng ta thử thưởng tượng xem: Thế giới này sẽ ra sao, nếu đã không có những người, những phong trào, những tổ chức, những dòng tu như thế. Nhân vật hiện nay đang được cả thế giới ngưỡng mộ, tôn vinh đó là Mẹ Têrêsa Calcutta. Vì sao? Vì Mẹ đã noi gương Đức Kitô và thực hành lời Ngài dạy, đó là đem tình thương đến cho những người nghèo khổ và bất hạnh.
Quả thực, trong lịch sử nhân loại, không có một nhân vật nào giàu lòng nhân từ thương xót như Đức Kitô. Thật lạ lùng vì mặc dù là Đấng Tối Cao, Ngài vẫn tự nguyện làm người tôi tớ, phục vụ chúng ta. Và còn lạ lùng hơn nữa vì mặc dù Ngài không cần ai, song Ngài lại muốn cần đến chúng ta và tình yêu của chúng ta. Và sau hết, điều lạ lùng hơn cả vì mặc dù là Thiên Chúa, Ngài lại khao khát trở nên bạn hữu của chúng ta và chờ mong chúng ta tiếp nhận Ngài qua những kẻ khổ đau và bất hạnh.
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Canut III. Ông là: TN 34-ABC184
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Canut III. Ông là vua của một cường quốc, nên xung quanh ông hay có những quan nịnh thần ton hót. Một hôm trong một buổi triều yết, các nịnh thần tâu: "Thánh Thượng" là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và trên biển cả. Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả đi ra ngoài biển. Đứng trước đại dương, ông tuyên bố: Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được trờ tới. Nhưng nước vẫn dâng lên, sóng vẫn trờ tới làm ướt áo cẩm bào của vua cũng như triều thần. Nhà vua đi vào trong một thánh đường đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện đội lên đầu Chúa và nói: "Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các Vua, là Chúa trên hết các Chúa".
Hôm nay, Giáo hội kêu mời chúng ta tôn vinh và nhìn nhận Chúa là Vua, Vua cá nhân, gia đình và xã hội. Giáo hội chọn ngày Chúa nhật sau hết của năm Phụng vụ, để tôn vinh Chúa, như chóp đỉnh của vũ trụ. Trong cả năm, chúng ta mừng các mầu nhiệm về Chúa, mừng sự toàn thắng của các thánh. Nhưng khi chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của các Thánh là chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của Chúa nơi các Thánh. Nên để kết thúc năm Phụng vụ, Giáo hội mời chúng ta hướng về Chúa Giêsu là trung tâm của vũ trụ, là Đấng Thánh, Đấng qui tụ vạn vật để trao lại cho Đức Chúa Cha: "Mọi sự đã nhờ Ngài mà có và không Ngài thì không gì đã thành sự" (Ga 1,3). Ngài là Vua vũ trụ.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã xác định: "Ta là Vua". Ngài là Vua vì Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật. Ngài là Vua vì đã chiến thắng tội lỗi và ma quỉ, nhờ sự chết và sự sống lại vinh quang. Nhưng Ngài tuyên bố rõ ràng: Nước Ngài không phải ở trần gian này. Vương quyền của Ngài không dựa trên vũ khí thế lực. Vương quyền của Ngài dựa trên tình yêu. Bao nhiêu vua chúa, bao nhiêu triều đại vang bóng một thời, rồi đi vào quên lãng và điêu tàn sụp đổ. Còn Ngài, Ngài vẫn chiến thắng, vẫn hiển trị trên các tâm hồn. Không ai đòi hỏi như Ngài dám đòi hỏi, nhưng cũng không ai được yêu mến như Ngài được yêu mến. Chúa là Vua các Thánh Đồng Trinh, là Vua các Thánh Tử Đạo, là Vua mọi tâm hồn.
Đấng là Vua vinh hiển ấy, tiên tri Danien đã nhìn thấy "như Con Người đến trong đám mây trời... quyền năng vĩnh cửu" (Dan 7,13), và Gioan, cụ già trên đảo Patmos đã được thị kiến: "Đấng là Alpha và Ômêga là nguyên thủy, là cùng tận, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Đấng là Thiên Chúa" (Kh 1,8). "Ngài làm cho chúng ta thành một vương quốc tư tế, để phụng sự Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa và Cha của Ngài".
Christus Vincit: Chúa Kitô toàn thắng. Christus Regnat: Chúa Kitô cai quản. Christus Imperat: Chúa Kitô thống trị muôn đời. Amen.
Lê Quang Độ (Ricardo Conelo) từ nhỏ vẫn được ba má yêu quí, đến trường tỏ ra là người học: TN 34-ABC185
Lê Quang Ðộ (Ricardo Conelo) từ nhỏ vẫn được ba má yêu quí, đến trường tỏ ra là người học trò xuất sắc. Nhưng bầu khí nơi trường học không được lành mạnh. Ở tuổi lên 10, em Ðộ đã ghiền xì ke. Em nhớ không có lý do gì để ghiền cả ngoài tính tò mò.
Khởi sự em hút cần sa. Kế đến em nhập băng nhóm đi cướp giật. Lên 12 tuổi Ðộ đã được cảnh sát thành phố Sao Paolo của nước Braxin biết đến. Bố em tưởng có thể nhốt em trong phòng nhưng vô ích vì Ðộ luôn tìm ra cách thoát khỏi bàn tay của bố, với những gì có thể ăn cắp được nơi gia đình để tiếp tục hút. Chưa thất vọng, bố em dời gia đình đi nơi khác, nhưng Ðộ vẫn tìm cách nhập vào một băng nhóm ghiền Cocaine và những thứ nặng hơn nữa. Bố em hết chịu nỗi đành phải đuổi em đi để cứu nguy cho gia đình.
Không chỗ tựa, Ðộ càng sa lầy. Nhưng nếu người thiếu niên đáng thương này có cơ may làm lại cuộc đời thì nhờ sức mạnh nào? Ai là người cuối cùng sẽ hoán cải được em để em nên người hữu ích cho xã hội?
Bị đuổi khỏi gia đình, Ðộ trở nên mồi ngon cho tổ chức buôn ma tuý bất hợp pháp trong vùng. Tối đầu tiên đến với nhóm, Ðộ được mời tới dự bữa ăn, trong đó kẻ tố cáo bạn với cảnh sát đã bị bắn ngay nơi bàn ăn khiến Ðộ cũng bị bắn lây vào cẳng. Chàng liền chạy vào bệnh viện. Tưởng thoát khỏi sự truy lùng nhưng cảnh sát đã xuất hiện ngay bên giường. Họ chuyển Ðộ sang nhà tù dành cho thanh thiếu niên.
Chính ở đây Ðộ may mắn nhận sự giúp đỡ của Trung Tâm Hy Vọng, là tổ chức thiện nguyện giúp phục hồi niềm hy vọng nơi người ghiền ma tuý. Sau này Ðộ mới biết đó là tổ chức do linh mục Hoàng Tâm Phú (Haus StapelP là thân hữu của phong trào Focolare điều khiển. Ðộ được an ủi nhiều do bầu khí đón tiếp nồng hậu của Trung Tâm ngay tối hôm đầu tiên đến đó.
Ðộ sống chung với mười hai người trẻ khác, mà Ðộ là người trẻ nhất, nhưng lại là kẻ cứng đầu nhất, luôn gây chuyện và chơi khăm người khác, luôn hành động thiếu đắn đo.
Hãy còn có Chúa đón nhận con
Ba tháng sau người ta phải đưa Ðộ tới trung tâm dành cho thanh thiếu niên ghiền nặng hơn. Chính ở đây Ðộ khám phá những điều cơ bản nhất về bản thân. Lần đầu tiên Ðộ thốt lên lời than thở với Ðấng em gọi là Thiên Chúa nhưng thực ra chưa bao giờ em được học biết Ngài. Cha mẹ em chỉ là người Công Giáo theo danh xưng mà thôi vì chưa bao giờ họ đi nhà thờ. Vậy em đã xin Chúa cho em cơ hội để bỏ hút xì ke, đổi mới cuộc đời và nên giống những người trẻ mà Ðộ biết là đã thành công theo lý tưởng sống vì người khác.
Quả thật, em đã được ban cho cơ hội giúp người khác là Lâm Ðình Ái (Claudio). Ðó là một bạn trẻ mắc bệnh AIDS ngủ cùng phòng với Ðộ. Bệnh nhân chỉ còn chờ chết, không thể tự mình lo lấy mình nữa. Ngày kia Ðộ đã xin Chúa để được thấy dung mạo Chúa nơi dung mạo bệnh nhân trẻ này. Thế rồi em được giao việc tắm rửa, cạo râu và giúp người bệnh này ăn uống. Ðiều em không thể cắt nghĩa được là em nghiệm thấy sự sống mới đang lớn lên nơi tâm hồn em nhờ mối tương quan sống động giữa em và Thiên Chúa.
Từ từ em khám phá ra nơi bản thân một tấm lòng quảng đại như thuộc bản năng đang được triển nở. Những người chung quanh em khó lòng tin được rằng điều gì đó thực sự đang xảy ra khiến em trở nên con người khác trước kia. Chẳng hạn, buổi tối hôm ấy em muốn đưa lời Tin Mừng ra thực thi, lời Tin Mừng mà Trung Tâm này sử dụng để chữa trị bệnh nhân, là "Hãy làm cho người khác điều bạn muốn người khác làm cho bạn." Vậy tối hôm ấy em sắp bàn tử tế, đặc biệt để mừng sinh nhật một bạn trẻ ở Trung Tâm. Khi bạn ấy xuất hiện, em Ðộ đã niềm nở đưa bạn ấy ra ngoài và tặng chiếc áo mà chính Ðộ rất thích mặc để diện.
Người nhận được quà cảm động đến rơi lệ khiến Ðộ cũng rưng rưng hai hàng lệ. Ðó là những con người chưa bao giờ nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, nay khám phá ra điều đó qua cử chỉ cho và nhận quà.
Em Ðộ nghiệm thấy ơn bình an như được gia tăng mỗi khi em làm điều này điều kia cho người khác. Tự nhiên em sốt sắng tham dự thánh lễ mỗi ngày.
Khi ấy em lên 17 và được giao việc chăm sóc bệnh nhân mới được Trung Tâm tiếp nhận để chữa trị. Trong nhóm này có một người đã 40 tuổi mà ai cũng nhìn nhận là người khó tính. Thế mà Ðộ đã thành công trong việc chinh phục người ấy.
Nhiều lần Ðộ trở về thăm gia đình nhưng chưa ai tỏ ra chú ý tới sự kiện là em không còn như trước nữa, kể cả mẹ em là người đã quá khổ vì em. Nhưng lần kia người anh của Ðộ đã trách mắng Ðộ cách thậm tệ trước mặt mọi người trong một cuộc họp mừng của gia đình. Người anh ấy rất ngỡ ngàng thấy Ðộ điềm tĩnh khác thường. Hơn nữa, còn xảy ra là khi Ðộ dọn đồ mà người anh ấy tỏ dấu ưa thích thứ thuốc thơm thoa xức sau khi cạo râu, em liền tặng lọ thuốc đó cho anh ấy!
Cứ như vậy Ðộ tìm lại được tình thương của gia đình để không còn phải trở về với Trung Tâm nữa. Nhưng quan trọng hơn vẫn là ơn Chúa thúc đẩy lòng em khiến em được thanh lọc khỏi những đam mê hầu sống sự sống hoàn toàn mới của Tin Mừng, để trở nên người hữu ích cho xã hội. Hiện em sống bình thường trong nghề giáo viên.
Cuộc hoán cải của Lê Quang Ðộ làm nổi bật tình thương của Thiên Chúa và sự ưu ái của Ngài dành cho những kẻ bé mọn. Thiên Chúa không bỏ rơi một ai, ngược lại, kẻ càng bị người đời khinh chê và gạt sang bên lề, thì Ngài càng ưu ái tìm kiếm và đưa vào Vương Quốc của Ngài.
Cựu Ước không thiếu lời khẳng định về tình yêu trước sau như một của Thiên Chúa đối với thọ tạo. Thánh vịnh gia nói: "Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có Chúa đón nhận con" (Tv 26,10). Tác giả sách Huấn Ca còn nói "Thiên Chúa nhân từ và biết vật Người nắn lên. Người không huỷ, không bỏ, nhưng dung tha." (17,21). Còn sách Khôn Ngoan dạy: "Quả thật những gì có trong vạn vật, Người đều yêu mến. Vì Người nắn nên gì Người không ghét bỏ. Vả lại có gì tồn tại được nếu Người không muốn? Làm sao nó được bảo tồn điều Người đã không gọi (đến tên)? Với mọi vật, Người xử khoan dung vì chúng là của Người, lạy Chúa Tể hiếu sinh!" (12,24-26).
Thực ra Nước của Thiên Chúa là Nước mang lại cảnh hoà bình cho trăm họ, nhưng sự công chính của Thiên Chúa chủ yếu không khởi đi từ việc phân phối của cải để ai nấy nhận được những gì thuộc về mình. Tất cả những gì mà con người có cũng đều do Thiên Chúa ban nhưng không, dù là ngang qua cha mẹ hay do chính mình làm nên, cuối cùng cũng do chính Chúa là cội nguồn. Vậy sự công chính của Thiên Chúa khởi đi từ lòng ưu ái của Người dành cho dân nghèo. Cho nên Thánh Vịnh gia khi nói tới việc xét xử dân theo công lý thì nói ngay tới việc bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn và ra tay cứu độ kẻ nghèo khó (x. Tv 71,1-4)
Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đoàn chiên
Với Ðức Giêsu trong Tân Ước, sự ưu ái của Thiên Chúa dành cho người nghèo càng khiến ta phải ngỡ ngàng. Một trăm con chiên chỉ có một con bị lạc, chủ chiên cũng tập trung hết sự chăm chú của mình vào chiên lạc đó cho tới khi tìm được; người đó sẽ vác nó lên vai đưa về và mở tiệc mừng. Mười đồng bạc mà một đồng bị mất thì người mất cũng thắp đèn tìm cho kỳ được; người đó còn mời bạn bè xóm ngõ tới mừng vì đã tìm thấy. Phương chi người cha có hai con mà một đứa đi bụi đời này về, nào người cha đó lại không mở tiệc ăn mừng con trở về hay sao? Ðó là ba dụ ngôn trong Tin Mừng Luca (15,1-32) về lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với tội nhân, là người nghèo cần Chúa thương xót. Tin Mừng Gioan cũng cho thấy lòng thương xót đó của Thiên Chúa, nhưng nhấn mạnh về cái giá Người sẵn sàng trả là chính mạng sống của Con Thiên Chúa làm người. Sau khi chữa người bại liệt, Ðức Giêsu bị người Do Thái tìm cách giết (x. Ga 5,18). Khi người mù từ tuổi mới sinh được Ðức Giêsu chữa lành, người đó liền bị cha mẹ bỏ rơi và giới lãnh đạo Do Thái giáo trục xuất (x. Ga 9,21 và 34) Nhưng Ðức Giêsu đã không bỏ rơi anh, Người đã tìm đến với anh và tự mạc khải bản thân Người cho anh (cc 35-38). Người còn tuyên bố "Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11). Ðó chính là ý nghĩa mà Tin Mừng Gioan hiểu về lời tuyên bố của thượng tế Caipha khi nói "thà một người chết thay cho dân còn hơn toàn dân bị tiêu diệt" (Ga 11,50).
Bài Tin Mừng hôm nay với lời tuyên bố của Ðức Giêsu là "Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi." (c.37). Tin Mừng Gioan cho biết phản ứng của ông Philatô là nêu câu hỏi "Sự thật là gì?" (c.38). Nhưng ông đã không muốn nghe Ðức Giêsu trả lời. Ông đã ra ngoài để gặp người Do Thái nên ông đã không đứng về phía sự thật là chính Ðức Giêsu Vua Tình Yêu, hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với cả loài người.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn tâm đắc gì về câu "Dầu cha mẹ có bỏ con?.(Tv 26,10)? Thiên Chúa không huỷ, không bỏ, nhưng đã dung tha (Hc 17,21)? Những gì có trong vạn vật, Người đều yêu mến? 2. Bạn hiểu thế nào về Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu?
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm: TN 34-ABC186
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô, văn võ song toàn và có khí phách anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại sống yêu thương gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, một người cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử thông minh đĩnh đạc, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được. Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em.
Khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người đều mang lốt sư tử, mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú điên cuồng. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết!
Thế rồi đấu thủ cao người bất thần vung đao nhanh như chớp chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử của y, để lộ ra một khuôn mặt... rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã giao chiến với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
Hình ảnh hai anh em ruột thịt giao đấu một mất một còn trong câu chuyện trên đây là một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân loại. Ngay giờ nầy, nhiều nơi trên thế giới cũng đang xảy ra những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn y như thế.
Chính ma quỷ, kẻ thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua Faroux độc ác kia, đã trùm lên mỗi người một thứ “lốt sư tử, lốt chó sói” khiến người ta xem “người là lang sói của người – homo homini lupus” (ngạn ngữ La-tinh), hay lầm tưởng “tha nhân là hỏa ngục” (theo triết gia JP Sartre) hay là “người xa lạ” (theo Albert Camus) của mình. Vì thế, con người không còn nhận ra nhau là anh em một nhà; mà xem người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt không thương tiếc.
Đứng trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của các tổ chức quốc tế đều bó tay!
Khi hai bên đã say máu chiến tranh, nếu người ta tước súng đạn của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu...Nếu bị tịch thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có tịch thu hết gậy gộc, gạch đá thì đôi bên có thể tấn công nhau bằng nắm đấm hoặc dùng đôi hàm răng để cắn xé nhau…
Giải pháp nào để chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hoà bình cho nhân loại?
Muốn cho đôi bên tự động ngưng chiến và sống chung hòa bình thì giải pháp tốt nhất không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho họ biết rằng: đối thủ của họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt con cùng một cha.
Chính Vua Giê-su đến thế gian để thực hiện điều đó. Ngài tuyên bố trước toà Philatô: "Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật" Gioan 18, 37). Và sự thật hàng đầu mà Chúa Giê-su đem đến là soi sáng cho mọi người biết Thiên Chúa là Cha nhân ái và tất cả mọi người đều là con cái của Người và là anh chị em với nhau. Với sự thật nầy, “lốt ác thú” mà ma quỷ trùm lên mỗi người sẽ bị tước bỏ, để lộ khuôn mặt thân thương của người anh em.
Mừng lễ Chúa Giê-su Vua, chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên khắp thế giới biết mở lòng đón nhận sự thật tuyệt vời do Chúa Giê-su mang đến. Chỉ có sự thật nầy mới có thể giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là nền tảng đem lại hòa bình, thịnh vượng và phát triển cho mọi dân tộc và cho hết mọi người.
Đã qua rồi chế độ phong kiến nên không được chứng kiến những cuộc “vi hành” những cuộc thăm: TN 34-ABC188
Đã qua rồi chế độ phong kiến nên không được chứng kiến những cuộc “vi hành” những cuộc thăm dân của nhà vua. Hình ảnh của nhà vua khi ra đường hay khi triều yết chỉ còn trên phim ảnh, trên sách báo mà thôi.
Khi xem lại những phim cũ thì thi thoảng được nghe: “Hoàng thượng giá lâm ! Vạn tuế ! Vạn vạn tuế !”
Binh lính, thần dân, đám lâu la điếu đóm cho nhà vua phải hét cho thật là to chứ không coi chừng bị xử trảm. “Vạn tuế ! Vạn vạn tuế !” nghe cũng hay đấy chứ nhưng thử hỏi có ông vua nào ở trần gian được vạn tuế vạn vạn tuế đâu ?
Thi thoảng, người ta muốn diễn tả vị trí của những người có trách nhiệm, có chức có quyền rất mong manh vắn vỏi bằng câu: “vua một thuở - dân vạn đại”.
Đúng như vậy, làm vua thì cùng lắm được một thuở thôi còn làm dân thì muôn muôn đời. Làm vua mà tốt với dân, lo cho nước thì may ra tại vị được lâu lâu một chút chứ có vấn đề gì đó thì phải nhường ngôi cho người khác như chúng ta đã từng thấy trong lịch sử, cách riêng lịch sử Việt Nam.
Khi còn tại vị, khi còn đương chứng thì chúng ta thấy vua oai phong lẫm liệt nhưng cuối cùng, chẳng là gì cả. Chúng ta vẫn nhìn thấy những vị vua trang hoàng cho mình những trang sức thật đẹp, thật lộng lẫy, nhất là cái vương triều của nhà vua. Vương triều ấy được sơn son thếp vàng hẳn hoi, được trang trí hết sức lộng lẫy nhưng thử hỏi nay còn đâu ?
Vương triều của những vị vua ở trần gian đến một ngày nào đó cũng suy vong. Một bằng chứng thực tế diễn ra trong cuộc đời của chúng ta khi đọc lại lịch sử. Tất cả những vị vua, vị chúa giờ đây đã đi vào dĩ vãng, có mấy ai còn nhớ đến họ. Vua của trần gian là như vậy.
Ngày hôm nay, kitô hữu mừng lễ Chúa Giêsu làm vua: vua vũ trụ. Vua vũ trụ mà ngày hôm nay chúng ta mừng mới thật là một vị vua mà có vương triều vững bền mãi đến thiên thu vạn đại. Vị vua ấy xuất hiện đã làm cho những vị vua ở trần gian phải khiếp oai.
Có một điều hết sức nghịch lý và buồn cười nhưng chẳng mấy ai nhận ra nhất là các vị vua chúa. Những vị vua Chúa trần gian thì canh cánh trong lòng và lo tìm đủ mọi cách, đủ mọi phương thế để củng cố cho địa vị của mình nhưng cuối cùng cũng mất. Các vua trần gian tìm đủ mọi cách và thậm chí cách giết người dã man để giành ngôi cũng làm luôn. Không còn coi lương tri, không còn coi luân thường đạo lý của con người ra làm sao cả.
Chắc chúng ta còn nhớ hình ảnh của vua Hêrôđê. Không chỉ một mình ông mà các triều đại kế tiếp ông trong cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu. Những vị vua ấy đã canh cánh trong lòng nỗi sợ hãi bị mất ngôi và đã tìm đủ mọi cách để tiêu diệt Vua Giêsu. Khi nghe tin con trẻ Giêsu sinh ra ở Bêlem xứ Giuđê và nhất là khi nghe được tin con trẻ ấy sẽ lên trị vì dân chúng thì không cần biết điều gì cả, chỉ cần biết là sát hại trẻ em ấy và ông đã ra chiếu chỉ cho giết hại tất cả các con trai dưới hai tuổi. Thà giết lầm hơn bỏ sót vì sợ hài nhi Giêsu chiếm ngôi của mình. Cái chiếu chỉ của Hêrôđê đã giết hại không biết bao nhiêu là trẻ thơ vô tội.
Hêrôđê giết hại các hài nhi vô tội cuối cùng cũng chết, để lại ngôi cho con của ông. Con của ông cũng chẳng khá gì hơn cha của mình. Ông cũng đi theo con đường ác độc của cha mình để giữ ngôi. Không chỉ có Hêrôđê mà còn có cả Philatô, một vị vua có máu mặt thời Chúa Giêsu.
Đứng trước vụ án Chúa Giêsu, Philatô đã không can đảm đứng về phía sự thật để bênh vực sự thật là nạn nhân Giêsu. Ông hoạch hoẹ người vô tội cho đã cuối cùng ông lại đẩy đưa người vô tội để cuối cùng người vô tội là Vua Giêsu đã phải chết và chết nhục hình trên thập giá.
Trang tin mừng ngắn ngủi mà chúng ta vừa nghe thánh Gioan thuật lại thật là hay. Philatô hoạch hoẹ Chúa Giêsu đủ thứ đủ điều.
Sau khi thỉnh vấn Chúa Giêsu, Chúa Giêsu khẳng khái trả lời cho ông biết rằng nước của Chúa không thuộc về thế gian. Nếu như nước Chúa thuộc về thế gian và Chúa là vua của trần gian này thì như Chúa nói, Chúa sẽ kêu gọi ít là 12 đồ đệ và cả ngàn người theo Chúa bảo vệ Chúa và sẽ không bao giờ có cái cảnh vua phải bị điệu ra trước toà như Thánh Gioan vừa thuật lại. Chúa Giêsu đã khẳng định cho Philatô biết rằng Chúa đến thế gian này để làm chứng cho sự thật. Quanh co một hồi, Philatô có lẽ không sống thật, không đứng về phía sự thật nên đã không can đảm bênh đỡ người thật và cuối cùng, thật bi đát ! Ông đã rửa tay để nói lên rằng mình vô can trong vụ án này. Làm sao có chuyện vô can được khi mình đã góp một phần trách nhiệm trong vụ án Giêsu Nagiaret.
Philatô cũng như những ai không sống theo sự thật thì làm gì có được bình an. Vì lý do này lý do khác mình không làm chứng cho sự thật, không sống cho sự thật thì làm sao bình an và có ân sủng được.
Vua Giêsu, chính là vị chứng nhân trung thành, là Trưởng Tử của mọi loài. Giêsu ấy đã làm chứng cho sự thật để rồi ai sống trong sự thật, ai sống theo sự thật sẽ có được ân sủng và bình an trong cuộc đời mình.
Thánh Phaolô vừa dâng lên tâm tình tha thiết: xin Đức Giê-su Ki-tô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và bình an.
Thánh Phaolô còn khẳng định: Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men!
Vua Giêsu đã đến trong trần gian và mọi người cùng tung hô:
Ôi Giêsu ! Chúa Giêsu là vua ! Chúa muôn thuở là Chúa Ôi Giêsu ! Khi nghe tên thánh Chúa Giêsu các tần trời bừng sáng các tà thần chạy trốn khắp trái đất khiếp run
Ôi Giêsu, nơi thiên cung tiếng hát tung hô, nơi dương gian uốn gối lạy thờ, thờ lạy Chúa Giêsu, Người là Chúa các Chúa.
Ôi Giêsu ! Chúa Giêsu là vua, Chúa muôn thuở là vua muôn vua.
Chúa Giêsu mãi mãi là vua trên các vua và chúa trên các chúa. Vị vua ấy đã đến thế gian, đã sống cho sự thật, làm chứng cho sự thật, đã chiếu ánh sáng vào trong thế gian đầy tăm tối để rồi những ai không sống theo sự thật, những ai sống trong tối tăm sẽ không có chỗ trong vương quốc sự thật và ánh sáng của Vua Giêsu. Những ai sống theo lập trường, sống theo con đường của sự thật, của ánh sáng cũng sẽ không thoát khỏi con đường thập giá, con đường đau khổ mà Vua Giêsu đã đi, Vua Giêsu đã sống.
Thực tế diễn ra trước mắt chúng ta, ngay trong thời đại của chúng ta. Cũng chẳng biết là may mắn hay kém may mắn khi sự giằng co giữa sự thật và gian trá, ánh sáng và bóng tối mãnh liệt hơn bao giờ hết. Những biến cố Thái Hà, Khâm Sứ, Tam Toà … là bằng chứng lịch sử và thiết thực nhất cho mọi người.
Rõ ràng, nơi những mảnh đất Thái Hà, Khâm Sứ, Tam Toà đều là những mảnh đất thiêng, là nơi nhà Chúa, là nơi để phụng sự Chúa nhưng rồi vì tối con mắt, vì lòng tham nên người ta đã bằng mọi cách để chiếm lấy nó để đoạt lấy nó. Lịch sử sẽ không bao giờ xoá nhoà được sự thật nơi những mảnh đất thiêng thánh ấy. Chỉ đáng thương cho những người đã không can đảm sống về phía sự thật, làm chứng cho sự thật, đứng về phía sự thật.
Thái Hà, Khâm Sứ, Tam Toà … là những điển hình cho quyền lực của những “vua, chúa” trần gian và Vua Giêsu. Dù người ta dùng quyền lực, dùng bạo tàn để thắng nhưng cuối cùng Vua Giêsu mới là người chiến thắng, những ai theo Chúa Giêsu mới là người thắng.
Cuộc chiến đấu, cuộc giằng co giữa sự thật và sự gian xảo, giữa bóng tối và ánh sáng vẫn đang còn tiếp diễn trong cuộc đời của mỗi người. Sống cho ánh sáng, sống cho sự thật sẽ bị lên án, sẽ bị sỉ vả và thậm chí bị mất cả mạng sống. Nhưng những ai theo sự thật, theo ánh sáng dù có mất mạng ở đời này nhưng mạng ở đời sau được bảo đảm vì những người ấy tôn thờ Vua của Sự Thật, vua của Vĩnh Cửu. Những ai đồng loã với bóng tối, những ai đồng loã với sự gian dối thì đời này có thể có chút quyền lợi, có chút địa vị ấy nhưng những quyền lợi và địa vị ấy rồi cũng qua đi, sẽ không còn.
Cuộc chiến đầu giằng co giữa vật chất và tinh thần, giữa sự thật và gian dối vẫn còn giằng co mỗi người chúng ta trong hành trình làm người. Vẫn còn đó cám dỗ của con người về sự thật và gian dối. Có những lúc chúng ta sẽ ngã lòng chạy theo vật chất, chạy theo tiền bạc, chạy theo danh vọng để chúng ta lìa xa sự thật và chạy theo sự giả tạo.
Trước khi kết thúc giờ kinh tối, các em nhỏ nội trú trong trường khuyết tật vẫn thường hát:
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu là vua cai trị trần gian Lạy Trái Tim Chúa Giêsu là vua cai trị lòng con suốt đời.
Như các em nhỏ, ta cũng xin Chúa Giêsu đến cai trị lòng của ta suốt đời chứ đừng để vật chất, danh vọng làm vua cai trị lòng ta. Chỉ có vua sự thật mới làm chủ cuộc đời ta vĩnh viễn mà thôi.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua, là Chúa của Sự Thật đến và ở lại trong lòng chúng ta để chúng ta can đảm sống theo sự thật, làm chứng cho sự thật để mai kia chúng ta cũng được hưởng phúc vinh quang với Vua của Sự Thật trong Vương Quốc Vĩnh Cửu của Ngài.
Ngày nay, trên thế giới, đa phần các nước không còn chế độ quân chủ “Vua – Tôi”. Lãnh đạo các: TN 34-ABC189
Ngày nay, trên thế giới, đa phần các nước không còn chế độ quân chủ “ Vua - Tôi”. Lãnh đạo các quốc gia thưởng là vị Tổng thống hoặc Chủ tịch nước.
Thế nhưng, trong ngày Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ Hội Thánh lại tuyên xưng Chúa Giê-su Ki-tô là vua vũ trụ và mời gọi các tín hữu hướng đến vương quốc của Người.
Một cách tự nhiên, ta có thể hỏi:
• Chúa là vua thế nào? • Vương quốc của Người ra sao?
I. CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ LÀ VUA
Theo lẽ tự nhiên, vua là người đứng đầu quốc gia cai trị thần dân; vua có quyền trên mạng sống của dân và có trách nhiệm phục vụ dân.
Vì thế việc tuyên xưng Chúa Giê-su Ki-tô là vua vũ trụ vũ trụ có thể nói được là một cách diễn tả lòng thần phục suy tôn quyền năng và tình thương của Người. Quyền năng ấy là “quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu không bao giờ mai một.” (Bài đọc I: Dn 7, 14).
Quyền năng ấy sẽ giải thoát con người (x. Ga 8, 32) khỏi quyền lực ma quỉ, kẻ đã trói buộc họ trở thành nô lệ cho: danh vọng, vật chất, thú tính, áp lực và mặc cảm… để đưa họ vào Vương quốc “chẳng hề suy vong” (Dn 7, 14): vĩnh cửu vô biên, đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương công lý và bình an…
II.VƯƠNG QUỐC CỦA CHÚA
1. Vương quốc Giê-su
Lần nọ, trả lời cho sự thắc mắc của đám đông dân chúng về Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su đã nói: “Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17, 21).
Theo lời này, vương quốc Thiên Chúa là chính Chúa Giê-su đã đến và hiện diện trong trần gian.
Thế nên, Công đồng Vatican II đã xác quyết: Nước Thiên Chúa “chiếu sáng trước mặt mọi người qua lời nói, hành động và sự hiện diện của Chúa Ki-tô” (x. LG 5). Trình thuật Tin Mừng (Ga 18, 33b-37) diễn tiến:
Lời nói của Đức Giê-su là lời chủ động: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” (Ga 18, 34). Ở đây tình thế đảo ngược, Đức Giê-su, người bị xét xử lại ở thế chủ động chất vấn Philatô viên quan đang xét xử mình.
Hành động của Chúa là hành động xác quyết mạnh mẽ về ơn cứu độ: “Tôi sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi (Ga 18, 37).
Sự hiện diện của Chúa là sự hiện diện tự do, không lệ thuộc vào luật lệ trần thế: “Nước tôi không thuộc về thế gian này… Nước tôi không thuộc về thế chốn này ” (Ga 18, 36).
Từ những diễn tiến vừa nêu, ta càng tin tưởng lời xác quyết của Hội Thánh:“Nước Thiên Chúa biểu lộ trong chính Con Người Chúa Ki-tô, con Thiên Chúa và con loài người”(LG 5).
2. Vương quốc Tự do
Trước tòa án Phi-la-tô, Đức Giê-su đã hỏi ngược lại ông ta: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” (Ga 18, 34). Như vậy, Vương quốc Đức Giê-su không bị ảnh hưởng bởi những dư luận của con người.
Tiếp theo, Đức Giê-su đã quả quyết: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36). Rõ ràng, Vương quốc của Đức Giê-su là vương quốc tự do, không bị giới hạn bởi thời gian, không gian hay quy luật trần thế. Trọn đời dương thế, Đức Giê-su cũng đã nêu gương một đời sống tự do, không bị ràng buộc bởi vật chất, danh vọng và cái tôi kiêu ngạo (x. Mt 4, 1, 11).
Rất tự do và tràn đầy tình yêu, Người đã đi vào trần gian và đã bước lên thập giá và đi vào cái chết (x. Mt 26, 39). Chính giờ khắc tưởng chừng như vô vọng đó, Thiên Chúa Cha đã tặng ban Người danh hiệu vuợt trên mọi danh hiệu, để từ đây khi nghe đến danh của Người mọi gối phải bái quỳ và thưa lên: Giê-su Ki-tô là Chúa (x. Pl 2, 6-11).
3. Vương quốc yêu thương
Sau khi chất vấn Philatô, Đức Giê-su khẳng định:“Tôi sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi (Ga 18, 37).
Chúa Giê-su đã đến thế gian, làm chứng cho sự thật bằng con đường yêu thương như lời Người dạy: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13).
Khi tình yêu đã đến đỉnh điểm, Chúa đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13, 4 tt), chữa lành cho kẻ bắt Người (x. Lc 22, 51), đã nhìn và tha thứ cho người môn đệ chối Thầy (x Lc 22, 61), đã tha thứ cho người trộm lành biết ăn năn (x. Lc 23, 43) và nhất là tha thứ cho những người giết mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Tình yêu Chúa đã hóa giải hận thù, đã mạc khải sức mạnh và quyền năng vô biên của Thiên Chúa.Trên thập giá, trong giờ phút Chúa Giê-su trút hơi thở cuối cùng thì chính viên đại đội trưởng, người chỉ huy cuộc hành quyết Đức Giê-su phải quỳ xuống thốt lên: “Quả thật, ông này là con Thiên Chúa” (Mt 27, 54).
Thật là một tình yêu bao la, lan tỏa khắp nơi.
III. ÁP DỤNG
1. Vương quốc Giê-su
Tôn thờ Chúa Giê-su là vua vũ trụ, ta thêm lòng xác tín vương quốc Thiên Chúa biểu lộ nơi chính Chúa Giê-su, Đấng là chủ của thời gian, của lịch sử “là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng toàn năng” (Bài đọc I: Kh 1, 8).
2. Vương quốc Tự do
Tôn thờ Chúa Giê-su là vua vũ trụ, ta thêm lòng xác tín và sống niềm hạnh phúc được làm thần dân của Chúa. Một dân đã được giải thoát khỏi những nô lệ, những ràng buộc bởi quyền lực, vật chất hầu trở nên “hàng tư tế mà phụng thờ Thiên Chúa là Cha của Người” (Bài đọc I: Kh1, 5-6).
3. Vương quốc yêu thương
Tôn thờ Chúa Giê-su là vua vũ trụ, ta cảm nhận tình yêu thương và ơn tha thứ của Chúa, Người đã “yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta” (Bài đọc I: Kh1, 5). Nhờ vậy, ta cũng được mời gọi sống yêu thương. Hẳn khi yêu thương thì tâm hồn ta trở nên miền đất nơi vương quốc Thiên Chúa đang hiển trị.
KẾT
Vương quốc Thiên Chúa biệu lộ nơi chính Chúa Giê-su (x. LG 5), Đấng là “Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết sống lại” (Kh 1, 5). Vương quốc ấy trường tồn vĩnh cửu không hề suy vong (x. Dn 4, 14).
Nhờ ơn cứu độ của Chúa Giê-su, ta đã được lãnh nhận vương quốc bền vững và không lay chuyển. Ai ai cũng được mời gọi “trở thành hàng tư tế mà phụng thờ Thiên Chúa là Cha của Người” (Kh1, 6) bằng đời sống tốt lành thánh thiện, mở rộng tâm hồn cho vương quốc Thiên Chúa ngự trị.
Trong niềm hân hoan và biết ơn ta hãy kính sợ và phụng thờ Thiên Chúa “kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời Amen” (Kh 1, 6).
Ngày nay còn rất ít quốc gia theo chế độ quân chủ, hoặc quân chủ lập hiến. Danh từ “Vua Chúa”: TN 34-ABC190
Ngày nay còn rất ít quốc gia theo chế độ quân chủ, hoặc quân chủ lập hiến. Danh từ “Vua Chúa” thường được coi như những quyền lực bóc lột và thống trị và là những thể chế đã lạc hậu… Tuy nhiên, con người ngày nay lại tôn thờ nhiều thứ ‘Vua Chúa’ trần gian, sống theo danh vọng, tiền bạc và lạc thú, mà bỏ chính Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng con người và cứu chuộc con người bắng chính sự hy sinh chết trên Thập Giá. Hơn nữa, lại có những tư tưởng triết học, các phong trào tự cho là trí thức, và những người cộng sản đã tuyên tuyền chủ nghĩa vô thần, phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã chết rồi!”, “Con người là Thiên Chúa của con người!” v.v… Như thế, họ đã “Giết chính Đấng đã ban sự sống và cứu chuộc cho mình (Sách Công Vụ 3:15).
Sau khi đã hạ bệ Thiên Chúa, con người mỗi ngày mỗi sống thác loạn, coi thường luân thường đạo lý, sống tự do luyến ái, tự do ly dị, phá thai, nam lấy nam, nữ lấy nữ mà được công nhận như vợ chồng! Lại được cả chính quyền ở một số nơi và cả một số giáo phái công nhận và thực hành!
Đứng trước những trào lưu vô thần, vô luân và sống thác loạn đó, Giáo Hội đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Là Vua Vũ Trụ để các tín hữu ý thức cuộc sống của mỗi người, và tự đặt câu hỏi với chính mình: Ai đang làm vua của tôi, Thiên Chúa hay Tiền Bạc, hay Danh Vọng hay Lạc Thú?
Chúa Nhật XXXIV là Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ, Giáo Hội dành để kính Chúa Giêsu Là Vua Vũ Trụ. Trong Bài Phúc Âm( Năm B: Gioan 18: 33-37) Chúa Giêsu đã trả lời Philatô: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng về Chân Lý. Ai sống theo Chân Lý thì nghe tiếng tôi!” Bài Đọc I (Daniel 7:13-14): Tiên Tri Daniel, trong một thị kiến, đã được soi sáng nói tiên tri về Đấng Thiên Sai: “Ngài được ban cho quyền năng, vinh dự và vương quốc. Quyền năng của Ngài vĩnh cửu, và vương quốc của Ngài tồn tại mãi mãi.” Bài Đọc II (Sách Khải Huyền 1:5-8) cũng nói đến Đấng Thiên Sai đã đến trần gian, đã dùng máu mình đổ ra để rửa sạch tội lỗi chúng ta và quy tụ chúng ta thành một vương quốc của Chân Lý và Tình yêu.
Như vậy, Chúa Giêsu làm Vua vụ trụ và loài người chúng ta. Ngài đã hy sinh cả cuộc đời trần gian để rao giảng Phúc Âm Tình Thương và con đường Chân Lý, con đường sống cho chúng ta, và quy tụ chúng ta thành một trong Nước Chúa. Nhưng Nước Chúa không phải là nước thế gian như Chúa Giêsu đã nói thẳng với Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này…” (Gioan 18:36). Nước Chúa là chính mỗi tâm hồn tín hữu chúng ta, những người luôn cố gắng sống theo con đường yêu thương Chúa đã chỉ dạy trong Phúc Âm. Nước Chúa không thống trị bằng bạo lực, nhưng bằng tình thương; vì Thiên Chúa là Tình Yêu, ai sống trong tình yêu thì sống trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy.” (1 Gioan 4:16). Nước Chúa là nước thiêng liêng, vĩnh cửu, không bị hạn chế bởi thời gian và không gian.
Sống trong một xã hội đầy bôn chen, tranh chấp và thác loạn, chúng ta hãy dành nhiều thời giờ để cầu nguyện, để tĩnh tâm, dâng Thánh Lễ để chúng ta có thể giữ vững Đức Tin nơi Chúa là Cha yêu thương, là Đấng đã tạo dựng chúng ta, đã chết để cứu chuộc chúng ta. Đặc biệt trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta cùng hiệp lời cầu nguyện xin Chúa cho tâm trí chúng ta luôn sáng suốt và can đảm vượt thắng mọi quyến dũ của các phong trào vô thần, vô luân hiện nay, quyết tâm bảo vệ sự sống, bảo vệ tình yêu và những giá trị cao cả của gia đình. Xin Chúa luôn ngự trị trong tâm hồn mỗi người chúng ta, trong gia đình chúng ta, thế giới chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống yêu thương, sống công chính và chỉ tôn thờ Thiên Chúa mà thôi.
Một cách thực tế, mỗi gia đình chúng ta phải có một Bàn Thờ Thiên Chúa nơi trang trọng nhất trong nhà, nơi đó chúng ta cần có những giây phút cầu nguyện và tôn thờ Chúa chung với nhau để cùng nâng đỡ nhau sống tinh thần đạo đức yêu thương. Mọi gia đình cũng cần có cuốn Thánh Kinh, những sách vở và báo chí đạo để chúng ta và con cháu chúng ta học hỏi thêm về Lời Chúa và những hướng dẫn sống đạo cụ thể của Giáo Hội
Xin cũng đừng quên cầu nguyện cho các Chủ Chăn và các Linh Mục luôn được ơn Chúa Thánh Thần thánh hóa và hướng dẫn trong Năm Linh Mục này để các ngài được sáng suốt và can đảm dẫn dắt chúng ta đi theo con đường Sự Thật và Sự Sống của Chúa.
Có 4 bà mẹ ngồi tán ngẫu với nhau. Các bà huyên thuyên nói về những đứa con của mình: TN 34-ABC191
Có 4 bà mẹ ngồi tán ngẫu với nhau. Các bà huyên thuyên nói về những đứa con của mình.
Một bà khoe: Thằng Tí nhà tôi thế nào lớn lên cũng làm kỹ sư. Hễ nhà có món đồ nào mới mua về, thì nó cũng tìm cách tháo tung ra để coi máy móc bên trong chạy ra sao.
Bà thứ nhì nói: Thằng Tèo nhà tôi, đoán chắc sau này nó sẽ trở thành luật sư. Ai nói gì nó cũng cãi cho bằng được!
Bà thứ ba than: Thằng con tôi có lẽ cũng sẽ trở thành họa sĩ, vì tường nhà không có chỗ nào mà không có nốt vẽ của nó!
Bà cuối cũng góp chuyện, sau khi suy nghĩ: Thằng nhỏ nhà tôi số nó sẽ trở thành bác sĩ thôi. Chà! Hễ có việc gì kêu nó thì chả bao giờ nó tới ngay cho người ta nhờ!
Vâng, mong con thành đạt là ước mơ chung của cha mẹ. Người mẹ nào mà không mong cho con mình mau khôn mau lớn. Người cha nào mà không mong cho con mình mai sau công thành danh toại. Nhiều gia đình chấp nhận nghèo đói để có tiền cho con ăn học. Nhiều gia đình sẵn sàng bất chấp mọi phương tiện như: biếu xén, qùa cáp, chạy chọt cho con được một thứ hạng, một bằng cấp cho dù là ảo hay không thực lực với tài trí con mình. Xem ra con người ngày nay nhắm đầu tư vào trí hơn là đức. Câu khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” đã lỗi thời hay chỉ còn là một sáo ngữ không còn phù hợp với văn minh con người hôm nay.
Thiếu đầu tư vào giáo dục đức dục con người như đang vong thân, xa rời với xã hội và tự khép mình trong hoang đảo cô đơn và lạnh lùng. Phát triển trí tuệ nhưng nhân đức không được trau dồi cân xứng, người ta sẽ dễ dàng đối xử với nhau “có lý mà không có tình”. Mọi quan hệ giưã người với người đều phải hạch toán, lời mất, được thua. Con người hôm nay tính toán sòng phẳng với nhau hơn là sống tương thân tương ái, “tối lưả tắt đèn có nhau” mà chỉ là “đèn nhà ai – nhà ấy rạng” hay an phận thủ thường theo chủ nghiã “mackeno” cho xong.
Một xã hội đang chuyển mình như thế, liệu người kytô hữu chúng ta có dám lội ngược dòng để sống theo đòi hỏi của Tin mừng hay không? Tin mừng đòi hỏi chúng ta hãy yêu tha nhân như chính mình và sẵn lòng phục vụ tha nhân. Chính Đức Giê-su Ngài đã đến không phải để được phục vụ mà là để cúi mình phục vụ tha nhân. Chính Ngài đã chấp nhận tan biến đời mình để nên nguồn sống cho nhân trần.
Hôm nay, lễ suy tôn Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp nhất yêu thương nơi những người con của Chúa có chung một Cha trên trời. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Điều đó còn mời gọi chúng ta phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự thật giữa thế gian còn quá nhiều bất công và gian dối. Sự hiệp nhất yêu thương còn mời gọi chúng ta sống tương thân, tương ái với nhau, sống nâng đỡ và chia sẻ vui buồn với nhau trong tình nghĩa anh em một nhà.
Vâng, cuộc đời hôm nay có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau. Cuộc sống này sẽ bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời có thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người kytô hữu không vì thế mà đánh mất bản tính của mình là sống thánh giữa đời để kiến tạo một nền công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban thưởng hạnh phúc trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi giáo huấn của Ngài.
Vì thế, dù rằng chúng ta đang sống trong một thế giới thiếu vắng tình người, một thế giới đầy bóng tối của đam mê lầm lạc. Chúng ta phải can đảm thắp lên giữa dòng đời này. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để nhạy cảm trước cảnh khốn cùng của tha nhân. Ánh sáng của bao dung để cảm thông nâng đỡ nhau hầu xoá bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà các thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi gia đình không thể mất ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng niềm tin để mọi người tin tưởng nhau. Gia đình cũng cần có ánh sáng tình yêu, để mọi người biết phục vụ lẫn nhau và xây dựng hạnh phúc cho nhau. Gia đình cũng cần sự tha thứ để cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống chứng nhân cho tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế giới hôm nay. Amen
Nói đến Vua, người ta nghĩ ngay đến quyền lực, đến sự thống trị. Có những những người được: TN 34-ABC192
Nói đến Vua, người ta nghĩ ngay đến quyền lực, đến sự thống trị. Có những những người được tôn lên làm vua theo kiểu cha truyền con nối “Con vua lại được làm vua”. Cũng có người do công trạng, được dân tín nhiệm. Lại cũng có người tự xưng mình là vua. Nhưng trong lịch sử, cũng không thiếu những kẻ cướp ngôi vua dành quyền cai trị đất nước bằng cách bất chính hoặc bằng muôn hình vạn trạng quỷ kế trên trường chính trị. Có thể có những điểm khác biệt về cách làm vua, cách cai trị dân nước… nhưng có một điểm chung là không có triều đại nào, chế độ nào “muôn năm” cả.
Thử nhìn lại lịch sử thế giới, có thể thấy, ở nước nào cũng thế, hết triều đại này đến triều đại khác, hết chế độ nầy, đến chế độ khác, không có triều đại nào, không có chế độ nào bền vững- vì triều đại nào, chế độ nào, cũng đầy dẫy những bất toàn ngay ở giai đoạn đầu và thối nát ở giai đoạn cuối. Ai cũng muốn cho triều đại, cho chế độ của mình “muôn năm”, nhưng đó chỉ là một ảo vọng! Hai từ muôn năm bỗng đồng nghĩa với vài chục năm trong khi cơn khát khao, nỗi thèm thuồng quyền lực vẫn còn cháy rực trong lòng. Vì thế, triều đại nào, chế độ nào cũng muốn củng cố quyền lực của mình bằng đủ mọi cách có thể, kể cả những cách vô luân thường, vô đạo lý, vô kỷ luật… không sợ mất lòng dân, chỉ sợ mất quyền cai trị, không sợ dân chết, chỉ sợ mình chết. Và khi đã đến lúc ngọn đèn sắp tắt, thì không ngại gì mà nó không phực lên để chứng tỏ cái sinh khí cuối cùng trong thân thể rệu rã của nó.
Khác với những vị vua ở trần thế, hôm nay, chúng ta Suy Tôn Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, “Người là vua trên hết các Vua, Người là Chúa trên hết các Chúa”, vì người thống trị cả vũ hoàn không phải chỉ dựa vào quyền lực toàn năng của Thiên Chúa Tạo Thành, nhưng còn nhờ Lòng Thương Xót vô cùng của Thiên Chúa Cứu Chuộc.
Ngài vâng lời Thiên Chúa Cha để đến trần gian cho trần gian được yêu thương, được cứu rỗi, được giải thoát khỏi sự chết muôn đời, được đoàn tụ trong vương quốc của Ngài đến muôn đời. Ngài được suy tôn là Vua, Ngài làm Vua, không giống cách làm vua của những vua chúa, hay những nhà cầm quyền thế gian, nhưng cách làm Vua của Ngài là “vâng lời cho đến chết” như Thánh Phaolô xác quyết: “Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên Thập Giá. Vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên muôn danh hiệu” (Phil 2, 8-9).
Câu chuyện Tin Mừng thánh Gioan hôm nay kể việc Chúa Giêsu có trát của Philato đòi. Chắc chắn có quân lính áp giải, có dùi cui, có súng ống gậy gộc, nhưng không thấy thánh Gioan nói đến việc Chúa Giêsu bị bịt miệng, nên Ngài đã đứng trước vành móng ngựa và khẳng khái xác nhận: “Vâng, quan nói đúng, Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là để làm chứng cho sự thật. Ai yêu chuộng sự thật thì nghe Tôi.” (Ga 18,37)
Vâng, đó là thân phận và trách nhiệm của Con Một Thiên Chúa đầy quyền năng và đầy lòng thương xót đến để khởi đầu một Triều Đại của Thiên Chúa giữa dân Ngài, triều đại của Chân Lý: Có Thiên Chúa uy quyền và đầy lòng xót thương. Con Thiên Chúa không đàn áp, bóc lộc dân Ngài, nhưng Ngài để dân đàn áp bóc lộc Ngài như cối chày giã nát những hạt thóc, rồi xay nghiền hạt gạo thành bột thành bánh thơm ngon. Ngài cũng không lừa đảo, cũng không quy hoạch chiếm đoạt đất đai tài sản, nhưng Ngài để dân Ngài chiếm đoạt Ngài làm gia sản muôn đời. Ngài nhường lầu vàng gác tía, biệt thự nguy nga có then cài cổng khóa cho dân Ngài, còn Ngài “không có nơi gối đầu qua đêm” (Lc 9,58). Ngài không bắt bớ bỏ tù dân Ngài, nhưng ngài chịu bắt bớ, chịu bỏ tù cho dân Ngài được tự do! Và cuối cùng, Ngài không muốn cho dân Ngài phải chết để Ngài được sống, nhưng Ngài đã chết cho dân Ngài được sống, và sống muôn đời. Ngài là vị vua yêu thương và phục vụ dân đến cùng. Ngài chết cho con dân của Ngài được sống.
Đã có biết bao thể chế cũng biết tận dụng đường lối yêu thương và phục vụ “chết cho dân được sống”, của Chúa Giêsu vào đường lối cai trị của mình, bằng khẩu hiệu “đầy tớ của nhân dân”, nhưng đó là khẩu hiệu mỵ dân, vì họ nói mà không làm. Họ không sống trong tinh thần sự thật. Họ còn giả vờ không biết sự thật, vì sự thật không đem lại lợi ích phàm tục nào cho họ. Câu hỏi “sự thật là chi?” (Ga 18,38), chẳng khác nghĩa với câu “sự thật có ích gì?”, “Thiên Chúa có ích gì?”.
Thiết tưởng, các Kitô Hữu Công Giáo Việt Nam, đặc biệt là những người đang sống trong GH tại địa phương, họ là những người được Thiên Chúa yêu thương cách riêng, như dân riêng của Chúa giữa lòng Châu Á, được sống trong một đất nước gần như là luôn luôn phải tử đạo, từ khi hạt giống đức tin được gieo trồng cho đến nay. Họ đã đọc những trang sử oai hùng của Giáo Hội thời các vua chúa quan quyền bức bách đạo, và họ cũng đang nghe tận tai những khẩu hiệu gian dối, phĩnh lừa, họ chứng kiến tận mắt thời đại của những người vô thần cai trị đất nước. Họ có đủ chứng từ đối chiếu cách làm vua và cách cai trị của Vua thế gian và Vua Giêsu Kitô để xác nhận được Vua nào là Vua Muôn Đời, chế độ nào là muôn năm. Vì thế, không có một thế lực nào có thể lay chuyển niềm tin của họ, nếu không phải là một thế lực “sống, học tập và làm việc theo gương Đức Giêsu Kitô, Vua vĩ đại”.
“Vâng, quan nói đúng, Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là để làm chứng cho sự thật. Ai yêu chuộng sự thật thì nghe Tôi.” (Ga 18,37)
Đại Hội Dân Chúa Việt Nam 2010 sẽ là một cơ hội ngàn vàng để Dân Chúa, một lần nữa, sẽ khẳng định Vua Đích Thực, Vua Muôn Đời của Dân Chúa tại Việt Nam là ai. Chắc chắn và mãi mãi là Vua Giêsu Kitô, Người đã đến “là để làm chứng cho sự thật”. “Sự Thật” vô cùng cao quí ấy là sự thật “có Thiên Chúa”.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là tấm gương anh dũng soi chiếu cho dân Chúa trong đại hội và hậu đại hội về việc làm chứng cho sự thật. Vì nếu không tin nhận Thiên Chúa, không tin nhận Đức Giêsu là Vua Muôn Đời trong Nước Vinh Quang muôn đời của Ngài, thì đã chẳng có ai dám liều mình hy sinh mạng sống cách oan uổng. Hơn nữa, tình yêu Chúa Kitô thúc bách các Ngài cùng Chúa Kitô nói với những người không tin Thiên Chúa rằng “nước tôi không thuộc về thế gian này”.
Mừng lễ Chúa Kitô Vua, noi gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam Tôn Vinh Chúa Giêsu là Vua, mọi thành phần trong giáo hội sẽ làm chứng cho sự thật:
dứt khoát nói không với cơn cám dỗ đàn áp bóc lộc lẫn nhau, nhưng bảo bọc che chở cho nhau trong tình huynh đệ, trong chân lý;
dứt khoát nói không với chia rẽ, tỵ hiềm, bôi nhọ để yêu thương, chân thành, hiệp nhất;
dứt khoát nói nói không với đồng lõa, thỏa hiệp với gian tà để quyết tâm sống ngay chính theo đường sự thật của Chúa Giêsu;
dứt khoát nói không với tất cả những gì chống lại Thiên Chúa, chống lại công lý, sự thật, để quyết tâm sống đời sống của Thiên Chúa giữa một xã hội “không tin có Thiên Chúa” hay là chưa muốn tin một Đấng Thiêng Liêng hằng có đời đời.
Một vài nơi vẫn có lệ mời các cấp chính quyền tham dự lễ Đặt Viên Đá, lễ Giáng Sinh, lễ mở tay…. Ước gì họ được mời tham dự một thánh lễ Mừng Trọng Thể Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, để họ được biết cách làm vua, cách cai trị của một Vị Vua trên hết các Vua, một vị Vua Muôn Đời: “Vị vua chấp nhận chết để con dân được sống”.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ, Vua của lòng con, Chúa đã chấp nhận cái chết để con dân được sống. Chúng con suy tôn Chúa là Vua Muôn đời. Xin cho chúng con cũng biết chấp nhận hy sinh mỗi ngày để làm chứng cho Nước Thiên Chúa giữa trần gian, và nhất là trên quê hương thân yêu của chúng con. A men.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng kết thúc năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua: TN 34-ABC193
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng kết thúc năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ. Điều đó nói lên rằng, Đức Giêsu Kitô, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Chúa Cha trao phó , được Chúa Cha trao quyền cai trị muôn loài trên trời dưới đất và sẽ kết thúc lịch sử loài người trong vinh quang để mọi sự sẽ được “restaurare in Christo”.
Trong suốt quãng đường đi truyền giáo, Đức Giêsu chỉ đi rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền cho người ta. Chưa bao giờ Đức Giêsu dám nhận mình là vua, mặc dầu dân chúng hồ hởi tôn vinh Ngài. Nhưng về cuối đời, trong cuộc thương khó, Ngài đã công khai xác nhận vương quyền của Ngài trước mặt quan Philatô:”Ngài nói đúng, Tôi là vua”(Ga 18,37), nhưng để tránh ngộ nhận, Ngài nói thêm:”Nhưng nước tôi không thuộc thế gian này”(Ga 18,36).
Vậy nếu Đức Giêsu không có lấy một tấc đất để cắm dùi thì nước của Ngài ở đâu ? Thần dân của Ngài là ai ? Vương quyền này được thiết lập và thực hiện bằng những phương tiện nào ?
Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta đã được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô, chúng ta có nhiệm vụ phải bảo vệ và làm cho vương quyền của Ngài được mở rộng để tất cả mọi nguời nhận biết Đức Giêsu là vua vũ trụ và hết lòng tin theo Ngài.
I. LỊCH SỬ LỄ CHÚA KITÔ VUA.
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan :”Homo homini lupus” : con người là lang sói của con ngươiø. Con người đã trở nên một thú dữ hay tấn công, cắn xé và giết chóc. Lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp. Hai cuộc thế chiến thứ nhất và thứ hai đã cướp đi sinh mạng của gần 50 triệu người, không kể những người bị thương, mất tài sản và thiệt hại vật chất khôn lường.
Cho nên ngày 12.11.1927, Đức Giáo hoàng Piô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu cho loài người thôi đừng buông theo thú tính mà cắn xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà gây chiến với nhau.
Đàng khác, thế giới đang dần rời bỏ Chúa, muốn khai trừ Chúa ra khỏi các tâm hồn, các gia đình, các xã hội, thế giới muốn xây xã hội trên nền tảng thuần túy nhân loại. Trong trường hợp đó, Đức Giáo hoàng muốn công bố những quyền bất khả xâm phạm của Chúa Kitô : Ngài là vua vũ trụ, vua các thiên thần và loài người.
Ngoài ra, Đức Giáo hoàng cũng nghĩ rằng cần phải phản ứng lại mấy sự lệch lạc trong quan niệm đạo đức tân thời phát sinh ngay trong Công giáo tiến hành ở một số nơi. Người ta đang có khuynh hướng nhìn nơi Đức Giêsu chỉ là người Anh Cả, người bạn và đối xử với Chúa bằng vai,…là bạn đường, bạn làm việc… Lễ Chúa Kitô Vua nhắc cho người ta rằng : Đức Giêsu còn là Đấng Toàn Năng, Đấng vô cùng vô biên, Vua các vua. Ngài còn là Đấng Hữu, ta có là nhờ Ngài, và bổn phận chính yếu nhất là Thờ Lạy Ngài (Trần văn Khả).
II. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA.
1. Đức Giêsu khẳng định.
Trước toà án, Philatô hỏi Đức Giêsu :”Ôâng có phải là vua dân Do thái không”? Đức Giêsu có thể trả lời là có hay không, tùy theo ý của người hỏi.
Nếu người Do thái hỏi Ngài câu ấy, thì câu ấy có nghĩa là : ông có phải là Đấng Messia không ? Nhưng khi Philatô hỏi thì câu ấy có ý nghĩa là : ông có phải là kẻ cầm đầu xúi giục dân Do thái phản loạn không ? Theo não trạng của người Do thái, thì Đấng Messia , vị cứu tinh của dân tộc ắt phải là một thủ lãnh của đoàn quân nổi loạn chống lại Rôma để giải phóng dân Do thái khỏi ách thống trị của đế quốc. Nếu Ngài là người nổi loạn chống lại Rôma, thì dân Do thái sẽ theo Ngài. Nhưng họ thấy Ngài không phải là người nổi loạn như ý muốn của họ, mà lại có những ý tưởng lạ đời đi ngược lại tư tưởng truyền thống của chính tôn giáo của họ, nên họ muốn tiêu diệt Ngài. Để làm điều ấy, họ chụp mũ Ngài là người phản loạn, chống lại Rôma.
Nhưng Philatô nhận ra ngay là : nếu Đức Giêsu là kẻ đứng về phía người Do thái để chống lại Rôma, thì họ đã chẳng nộp Ngài cho ông. Vì thế, câu ông hỏi Đức Giêsu chỉ hỏi cho có lệ, chứ ông đã biết Ngài vô tội, và chỉ vì ghen ghét mà dân chúng nộp Ngài cho ông. Nhưng cũng chính nhờ ông ta hỏi điều ấy mà chúng ta được mạc khải một chân lý quan trọng : Đức Giêsu chính là Vua như Ngài đã xác nhận :”Tôi được sinh ra là để làm vua”.
Tuy Đức Giêsu xác định Ngài là vua, nhưng với tước hiệu là vua mà Philatô đang muốn điều tra, ít nhất có ba cách làm “Vua”:
a) Vua theo nghĩa chính trị, theo kiểu Rôma : người ta thống trị kẻ khác bằng nô lệ hoá họ :”Một ngàn năm đô hộ giặc Tầu, một trăm năm đô hộ giặc Tây”(Trịnh công Sơn).
b) Vua theo nghĩa Thiên sai, theo kiểu mong đợi của người Do thái : một người thuộc dòng dõi vua Đavít chính thức lên ngôi, và chiến thắng kẻ thù của Israel, của Chúa bằng cách đè bẹp chúng.
c) Sau hết, Vua theo cách của Đức Giêsu : một vương quyền huyền bí, không ép buộc ai, không đè bẹp ai như “bạn có muốn theo tôi không”, “Các bạn cũng muốn bỏ đi sao” ? Một vương quyền mà lại để “Vua” bị giao nộp cho kẻ thù mà không chống cự, một tổng thống mà không có “vệ binh” để bảo vệ mình, không cận vệ để bao bọc trước đám dông (Noel Quesson).
2. Vương quốc của Đức Giêsu.
a) Nước Ngài không thuộc thế gian này.
Khi Philatô hỏi Đức Giêsu:”Ông có phải là vua dân Do thái không”? Đức Giêsu trả lời:”Tôi là vua, nhưng không phải của nguời Do thái như ông hiểu vì nước tôi không thuộc thế gian này”(x. Ga 18,33-36). Nếu Đức Giêsu không phải là một vua của một nước trần gian, thì nước của Ngài ở đâu ? Ngài là vua của ai ?
Làm vua có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình… mới là vua. Người ta vẫn nói:”vua dầu lửa”, “vua xe hơi”, “vua bóng đá”,v.v… mặc dầu những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai . Đức Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ “vua”.
Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết:”Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành”(Ga 1,3 ; x. 1,10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung thẩm, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25,34).
Thế gian này có nhiều nước, mỗi nuớc có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa.
Truyện : Nước Ta chỉ có trên thế gian này.
Ông SELMA LAGERLOP có viết một câu truyện như sau : Ở thành La mã, trong một đền thờ dâng kính Đức Mẹ, gần đồi Capitole, có một tượng Chúa Hài đồng rất đẹp. Chung quanh vòng hào quang có khắc câu Phúc âm rằng:”NƯỚC TA CHẲNG CÓ TRÊN THẾ GIAN NÀY”(GA 18,38).
Một hôm, một phụ nữ thượng lưu, người Anh, tới viếng đền thờ, và tượng Chúa Hài đồng đã lọt mắt bà. Bà liền nài nẵng chuộc cho kỳ được. Khổ thay ! Không ai đồng ý cả. Bà ta mới thuê thợ gọt một tượng khác, giống y như tượng Chúa Hài đồng bà đã trông thấy. Rồi một hôm dùng thủ đoạn, đem đổi lấy tượng thật.
Nhưng không biết là vô tình hay hữu ý, thay vì viết vào vòng hào quang rằng “Nước Ta chẳng có trên thế gian này”, thì bác thợ kia lại viết :”Nước Ta chỉ có trên trần gian này”. Ít lâu sau, không hiểu tại sao, tượng thật Chúa Hài đồng bỏ lâu đài của chủ mới, trở về đền thờ cũ lại như xưa.
Mưu mô bại lộ ra. Người coi đền thờ liền đem tượng giả ném xuống chân đồi Capitole. Người phụ nữ kia, buồn tiếc, đi tìm, gặp được và trở về nước với pho tượng giả, còn nguyên vẹn với vòng hào quang ngạo mạn kia. Từ ấy, tượng giả cứ chuyền tay nhau, người này sang người khác, hết thành nọ đến thành kia…
Một hôm tượng ấy tới thành Paris. Quân Cách mạng mới đem đi biểu diễn qua các đại lộ, và hiệu triệu dân chúng rằng:”Nước Ta chỉ có trên thế gian này. Hãy mau mau phân chia tài sản cho nhau, để mọi người được bình đẳng vui sống. Nước Ta chỉ có trên thế gian này. Chết là sự đổ vỡ vô phương cứu vãn” !(Vũ minh Nghiễm, Vươn, 1966, tr 54-55).
b) Vương quốc của sự thật.
Philatô hỏi Ngài :”Thế thì ông là vua sao” ? Ngài đáp ngay:”Đúng thế, chính vì thế mà tôi đã sinh ra và đến trong thế gian này, đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”(Ga 18,37).
Vương quốc sự thật chính là nước của Ngài. Nước đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của vua César. Nước của César chỉ cai trị thể xác của loài người, còn vương quốc của Ngài chiếm hữu những tấm lòng. Thế lực của César là binh đội, khí giới, thành trì, nhưng sức mạnh của vương quốc của Chúa là những nguyên tắc, tình cảm và tư tưởng. Công dân của đế quốc César chỉ được hưởng an toàn bên ngoài và bảo đảm tài sản vật chất, nhưng phước hạnh trong Nước Chúa là an lạc và vui mừng trong Thánh Thần”(x. Rm 14,17). Dù là rộng lớn, đế quốc Rôma cũng bị giới hạn, nhưng vương quốc của Chúa vô biên và được quyền thiết lập tại mọi nơi. Cũng như hầu hết các nước thuộc về đất, đế quốc Rôma rồi sẽ chấm dứt, còn vương quốc Sự Thật sẽ tồn tại muôn đời.
c) Vương quốc tình yêu.
Vương quốc của vua Giêsu là vương quốc của Tình yêu :”Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người”(Mc 10,45). Đức Kitô là vua, nhưng Ngài khác với những vua khác ở chỗ : để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi nguời, mọi con dân của Ngài như một mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của con chiên (x. Ga 10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.
d) Vương quốc của phục vụ.
Mừng lề Đức Giêsu Kitô , Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền lực, nhưng dựa trên tình yêu thương, phục vụ. Một vị vua không có lãnh thổ, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người. Một vị vua chỉ biết dấn thân phục vụ.
Truyện : Hoàng tử Alexis.
Truyện cổ Nga thuật lại rằng : Vào thời Trung cổ, hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng, Alexis rất hiểu nỗi cơ cực của thần dân và cảm thương họ. Ôâng bỏ ra mỗi ngày một ít thời giờ để thăm họ. Nhưng, dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi.
Ngày kia, có một người lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là Bác sĩ, anh săn sóc những người già cả, bệnh tật. Đặc biệt Bác sĩ không lấy tiền thù lao, và còn phát thuốc miễn phí cho thần dân.
Bác sĩ ấy trở thành người của xóm nghèo, được mọi nguời yêu mến kính phục. Ngày ngày, anh dàn xếp những cuộc cãi vã, tranh giành, hoà giải những thù oán, và giúp đỡ họ sống đúng với phẩm giá con nguời.
Bác sĩ trẻ đó chính là Hoàng tử Alexis, người đã bỏ cung điện giầu sang đến sống với thần dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.
Đức Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy quyền. Ngài đã trở nên giống chúng ta, để yêu thương phục vụ chúng ta. Ngài đã phán:”Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc cho nhiều người”.
3. Chỉ có Đức Giêsu là Vua.
a) Tuy trước toà án Philatô, Đức Giêsu đã chính thức tuyên bố và xác nhận Ngài là vua, nhưng thực sự danh hiệu Vua ấy đã được tiên báo như tiên tri Daniel đã nhìn thấy “như là Con Người đến trong đám mây trời… quyền năng vĩnh cửu”(Dn 7,13; và Gioan, cụ già trên đảo Patmos đã được thị kiến :”Đấng là Alpha và Oâmêga là nguyên thủy, là cùng tận, Đấng đang có, đã có và sẽ đến, Đấng là Thiên Chúa”(Kh 1,8). Ngài làm cho chúng thành một vương quốc tư tế, để phụng sự Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa và là Cha của Ngài”.
b) Nhìn ra vua sự thật, vua tình thương, anh trộm lành đã nói :”Ông này có làm điều gì sai trái đâu” ? Và anh đã cầu nguyện với Ngài:”Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Anh chỉ dám xin nhớ, không dám xin cứu, không dám được xin vào nước Ngài vì anh thấy mình quá bất xứng, quá tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu thấy lòng thông cảm khiêm nhường của anh, Ngài đã dịu dàng nói với anh:”Tôi nói thật hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên nước thiên đàng”(Lc 23,41-42).
c) Cái lý do khiến Đức Giêsu làm vua đã được thánh Phaolô nói rất xác đáng trong đoạn văn gủi cho tín hữu Côlôssê:”
“Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử giữa mọi thụ sinh. Vì trong Ngài vạn vật đã được tạo thành, chốn trời cao và nơi dương thế, vật hữu hình, vật vô hình, dù là thiên toà, hay thiên chủ, dù là thiên phủ hay uy linh : mọi sự đã được tạo thành nhờ Ngài và cho Ngài ! Và Ngài có ưu thắng trên mọi sự, và mọi sự đếu tồn tại trong Ngài. Và Ngài là đầu của thân mình, tức là Hội thánh, Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử giữa các vong nhân, ngõ hầu trong muôn sự Ngài là đệ nhất vô song ! Vì chưng Thiên Chúa đã quyết ý cho tất cả Viên mãn đậu tại trong Ngài và đã giảng hoà cả vạn vật nhờ Ngài và cho Ngài, đã ban lại bình an nhờ bửu huyết đổ nơi thập giá của Ngài cho mọi vật dù ở dưới đất hay trên trời”(Cl 1,15-20).
Truyện : Chỉ có Chúa là Vua
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Cannut III. Ôâng là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông hay có những quan nịnh thần ton hót. Một hôm trong một buổi triều yết, các nịnh thần tâu:”Thánh Thượng” là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và biển cả. Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả đi ra bờ biển. Đứng trước đại dương, ông tuyên bố:”Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được trở tới”. Nhưng nước vẫn dâng lên, sóng vẫn trở tới làm ướt hết áo cẩm bào của vua cũng như triều thần. Nhà vua đi vào trong một thánh đuờng đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện đội trên đầu Chúa và nói:”Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa”.(Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa năm B, tr 169).
III. HÃY TIN THEO ĐỨC KITÔ VUA.
1. Không đuợc bắt cá hai tay .
Câu tục ngữ này có ý nói : hai tay đều thò xuống bắt cá, không phải là hai tay định bắt một mà mỗi tay bắt một con cá. Câu này thường để chỉ người mưu một lúc cả hai việc, hy vọng rằng hễ hỏng việc này thì còn việc kia. Vì thế người ta nói :
Thôi đừng bắt cá hai tay, Cá thì xuống bể, chim bay về ngàn.(Ca dao)
Trong việc tin theo Chúa, Đức Giêsu đã khẳng định”Không ai có thể làm tôi hai chủ vì hoặc ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc gắn bó chủ này mà khinh chủ nọ. Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa tiền tài”(Mt 6,24 ; Lc 16,13). Chúng ta phải dứt khoát trên đường theo Chúa, không thể trung lập được, hoặc chọn Thiên Chúa, hoặc chọn thần Mammon, nếu không thì sẽ mất cả chì lẫn chài. Người xưa đã nói :”Trung thần bất sự nhị quân” : tôi trung không thểà thờ hai vua, vì trong thực tế, câu ngạn ngữ này lúc nào cũng đúng :”Thiên vô nhị nhật, dân vô nhị vương”.
Truyện : Đức Hồng y Deschamps
Hồng y Deschamps, Tổng giám mục Mailines, khi còn là thanh niên, đã có ý muốn học hành thật giỏi để đạt được một địa vị cao trong hàng ngũ các quan chức triều đình. Một hôm, Deschamps đã được chứng kiến lễ đăng quang lên ngôi vua cách long trọng của nhà vua Bỉ. Từ cửa sổ của một nhà cao tầng, Deschamps chăm chú theo dõi diễn tiến của buổi lễ từ đầu đến cuối. Có thể nói đấy là một buổi lễ hội vừa tưng bừng náo nhiệt với cờ xí và biểu ngữ rợp trời, và tiếng trống dồn dập và tiếng kèn đồng thổi lên inh ỏi với hàng vạn người đến tham dự.
Trọng tâm buổi lễ là nghi thức tấn phong hoàng thái tử lên ngai vàng kế vị vua cha mới băng hà, với việc đội vương miện và nhận phủ việt. Buổi lễ kết thúc bằng một cuộc diễn hành của hoàng gia cùng với đoàn tùy tùng. Đoàn rước đi theo hàng đôi kéo dài cả cây số. Sau khi cuộc lễ kết thúc, quảng trường trở lại bầu khí bình lặng như mọi khi. Deschamps tự nhủ mình rằng:”Thế là một ông vua đã qua đi”. Rồi được ơn Chúa kêu gọi. Deschamps đã suy nghĩ nhiều ngày sau đó và cuối cùng đã quyết định như sau :”Tôi không muốn phục vụ cho ông vua sẽ qua đi. Tôi muốn phục vụ ông vua tồn tại mãi mãi là Vua Giêsu”.
Deschamps đã dứt khoát từ bỏ giấc mơ danh vọng chức quyền thế gian như trước đây anh mơ tưởng, để xin gia nhập vào một dòng khổ tu và khoác vào mình chiếc áo tu sĩ. Sau một thời gian tu học, thầy Deschamps đã đuợc thụ phong Linh mục, rồi sau đó được tấn phong Giám mục và cuối cùng được phong tước vị Hồng y Giáo chủ, trở thành niên tưởng của hàng Giám mục Bỉ.
2. Làm gì để xây dựng Nước Chúa.
Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta đã được trở thành công dân Nước Trời, chúng ta được ở trong một Vương quốc: “Vương quốc vĩnh cửu và vô biên , vương quốc tràn đầy sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an”(Kinh Tiền tụng lễ Chúa Kitô Vua) . Đức Kitô cai trị trên những ai chấp nhận chân lý Ngài mạc khải cho : tình yêu của Chúa Cha. Ngài làm người để chiếu toả tình yêu ấy, để con người có thể nhận ra và tiếp nhận, và như thế những ai nhận biết vương quốc và vương quyền của Đức Kitô thì thần phục Ngài là Vua vũ trụ muôn đời.
Khi chịu phép Rửa tội, các tín hữu đã được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô. Chúa Kitô không còn đi đó đây trên mặt đất để dạy dỗ và chữa lành dân chúng như Ngài đã từng làm nữa, Ngài chỉ có thể làm được điều đó thông qua thân thể mầu nhiệm của Ngài . Chúng ta là tay, là chân, là miệng lưỡi, là trái tim của Ngài. Nói khác đi, vương quốc Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã thiết lập khi Ngài còn ở duơng trần này sẽ phải được chính chúng ta bổ túc bằng cuộc sống trần gian của chúng ta. Điều cốt yếu là chúng ta phải theo những giá trị mà Tin mừng Chúa đã đề ra : sống theo lương tâm ngay chính, sống hoà thuận, thương yêu, làm những việc lành… Càng có thêm người sống như thế thì Nước Chúa càng mở rộng; và khi nào tất cả loài người biết sống như thế thì Nước Chúa đã trị đến. Và khi đó là thời thái bình, hạnh phúc.
Truyện : Pho tượng Chúa Giêsu Vua.
Trên đỉnh ngọn núi Corovado ở Nam Mỹ, người ta đã dựng một pho tượng Chúa Giêsu vua. Ở xa trông lại, du khách trông như pho tượng chạm trời, vì tượng cao hơn 30 mét. Đứng sừng sững, bao quát cả một vùng bát ngát mênh mông, pho tượng đã làm tăng thêm vẻ đẹp cho kinh thành Rio de Janeiro, thủ đô nước Brasil. Bạn thử nghĩ biết bao công phu mới dựng được pho tượng ấy ! Chuyên chở vật liệu từ chân lên đỉnh núi, sườn núi lởm chởm. Nhưng người ta chưa thỏa mãn. Trong không trung đã có tượng Chúa Giêsu Vua, người ta còn muốn dựng một pho tượng ở đáy biển để chứng tỏ vương quyền khắp nơi của Chúa Giêsu Tạo hóa hình như cũng chiều lòng người đã dành cho họ một nơi đẹp đẽ để thực hiện ý tưởng cao qúi ấy. Ở biển Italia, không xa Napoli, làn nước trong xanh, lăn tăn gợn sóng, chính chỗ đáy biển ấy người ta đã chọn để dựng tượng Chúa Giêsu Vua. Biết bao công lao. Có những tầu đánh cá nối đuôi nhau ra đó để tung hoa chào mừng Chúa. Còn những tầu ngầm cũng lượn quanh viếng thăm Chuá. Tuy nước trong đẹp nhưng rêu xanh thường rủ nhau đến bám tượng đá. Nên hằng năm người ta phải tổ chức một cuộc cạo rêu và tắm rửa cho tượng. (Ngọc Miện, Phút chiều tà, 1957, tr 83) Lm. Giuse Đinh lập Liễm
Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" Chúa Giêsu đáp: "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?" Philatô đáp: "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?" Chúa Giêsu đáp: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này".
Philatô hỏi lại: "Vậy ông là Vua ư?"
Chúa Giêsu đáp: "Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".
SUY NIỆM
Bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay cho chúng ta thấy rõ Đức Giêsu đã xưng mình là Vua: TN 34-ABC194
Bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay cho chúng ta thấy rõ Ðức Giêsu đã xưng mình là Vua trong một hoàn cảnh rất đặc biệt, không thể tưởng tượng được khiến chúng ta cũng phải thay đổi hết mọi quan niệm thông thường khi nghĩ đến tước hiệu làm Vua của Chúa Giêsu Kitô. Làm như vậy chúng ta không ngại mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nhưng đồng thời nhờ vậy chúng ta cũng biết phải tránh những gì có thể gây nên những sự hiểu lầm về mầu nhiệm Chúa Giêsu là Vua.
Ðể nắm vững vấn đề, chúng ta hãy sáng suốt nghe Lời Chúa dạy bảo hôm nay.
1. Một Thị Kiến
Daniel kể lại một thị kiến ban đêm. Thực ra thị kiến này đi sau một thị kiến khác. Nhà tiên tri trên giường nằm đã thấy chiêm bao. Ông đã viết lại và đại khái ông nói như thế này:
Tôi thấy bốn gió trời khuấy động biển cả. Và bốn mãnh thú to lớn khác nhau từ biển đi lên... Mãnh thú thứ tư dễ sợ đáng kinh và mạnh quá đỗi... Tôi mãi nhìn cho đến khi ngai được đặt hành và Ðấng cao niên ngồi xuống... Pháp đình an tọa và sổ sách mở ra Mãnh thú kia bị giết và thây nó bị hủy và phó cho lửa thiêu. Còn những mãnh thú khác, chúng bị tước hết quyền bính.
Nếu chúng ta đã nhớ những điều đã nói trong Chúa nhật trước về sách Daniel, chúng ta có thể dễ nhận ra ngay ý nhà tiên tri đang muốn nói gì. Biển cả trong quan niệm của các dân miền Cận Ðông là nơi phát xuất ra nhiều sinh vật, nhưng lại toàn là các mãnh thú, tượng trưng cho sự dữ. Bốn mãnh thú ở đây là những sức mạnh chính trị thời bấy giờ, thay lượt nhau thống lãnh các dân tộc và đặc biệt dân riêng của Chúa. Mãnh thú thứ tư dữ dằn hơn hết chính là Antiôkô, vị vua bắt đạo làm đổ máu người lành. Sự dữ tung hoành như vậy cho đến khi trời mở ra. Ngày của Chúa đến. Người ngự trên ngai; tổ chức pháp đình; sổ sách công tội được mở ra. Các kẻ dữ lần lượt chịu tội.
Ðó là thị kiến thứ nhất. Nói đúng ra đó là phần đầu của một chiêm bao còn tiếp diễn. Nó diễn tả các sự dữ xảy ra ở đời này, cho đến khi Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Lúc này sẽ là phần thị kiến sau. Daniel thấy với mây trời như thể một Con Người đến. Ngài tiến lại Ðấng cao niên và được ban tặng quyền bính, vinh dự và vương triều.
Ngài là ai mà quyền bính sẽ không bị hủy và tất cả các dân phải làm tôi Ngài? Theo Daniel, đó là dân thánh của Chúa. Họ không sinh ra từ biển, tức là không bởi sự dữ mà có. Trái lại, họ đến với mây trời, ám chỉ họ bởi chính Thiên Chúa mà ra vì mây trời vẫn là một trong những hình ảnh để chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Có lẽ theo Daniel nữa, thì họ là những người lành thánh đã "giữ mình" trong thời bắt bớ của Antiôkô, và là các thánh nhân đã đổ máu vì Thiên Chúa trong cuộc bắt đạo này. Ðến ngày của Người, họ sẽ được đưa lên gần Thiên Chúa. Và Người sẽ ban tặng họ vinh dự, quyền uy, vương triều. Họ được chia sẻ quyền cai trị của Thiên Chúa và quyền bính của họ sẽ vô tận.
Ðó là cái nhìn đức tin của Daniel về thời cuộc lúc bấy giờ. Về sau, người ta có thói quen lấy vinh dự của toàn thể đặt nơi vị thủ lãnh của mình. Và danh từ Con Người không được hiểu về toàn dân thánh nữa, nhưng được dành riêng cho Ðức Kitô, vị Thiên Sai cứu thế. Là vì theo quan niệm thời xưa, cái gì vị thủ lãnh được cũng là để toàn thể hưởng. Dù sao cũng vì quan niệm này mà bài sách hôm nay đã được dùng để gợi lên vương triều của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta chấp nhận, nhưng không được quên ý của Daniel. Vương triều chỉ được ban cho những ai đã có công phấn đấu, đến cả thí mạng mình nữa. Và chỉ được ban trong ngày của Chúa, tức là trên bình diện Nước Trời, chứ không phải ở trần gian này. Những điều này rất cần để hiểu bài Tin Mừng hôm nay.
2. Một Cuộc Tra Hỏi
Thánh Gioan cho chúng ta thấy Ðức Giêsu bấy giờ đang ở trước tòa Philatô. Ông này rất lúng túng. Người Dothái không chịu vào phủ đường vì sợ mắc uế không ăn lễ vượt qua chiều hôm ấy được. Do đó Philatô lúc phải ra gặp họ ở ngoài phủ đường, lúc lại phải đi vào trong, tra hỏi riêng Ðức Giêsu. Ông lúng túng lúc ra lúc vào. Nhất là ông không biết phải xử vụ này ra sao. Người Dothái đòi xử tử Ngài... Còn Ngài nào có tội lỗi gì? Ðứng về quan điểm hành chính Rôma, chỉ có việc họ cáo Ngài là Vua là đáng kể. Nhưng không lẽ một con người như vậy mà lại là vua? Thành ra ông bắt đầu hỏi Ngài:
Ông mà lại là Vua dân Dothái sao? Ông hỏi mà không tin ở lời mình. Rõ ràng ông rất lúng túng. Có lẽ vì vậy mà thay vì trả lời,
Ðức Giêsu lại hỏi ông:
Tự mình ông, ông nói thế, hay đã có ai khác nói với ông về tôi?
Dường như Người muốn giúp ông biện phân ra sự thật. Nhưng ông lại không muốn. Ông vừa muốn nói sự thật vừa không. Ông lấp lửng trả lời theo kiểu nghi vấn: "Tôi là Dothái hay sao?". Có nghĩa là người Dothái nào nói với tôi điều đó? Thế thì sao ông không nhận quách đi, chính ông nghĩ như vậy. Nhưng thật sự ông không có ý tưởng như thế. Và nếu có, ông không hỏi nữa, hay có hỏi cũng sẽ có giọng tra hỏi hơn. Ðàng này, ông đã hỏi chỉ vì người Dothái đã cáo Ngài là Vua... mà như ông thấy, điều đó không thật được. Thế nên ông lúng túng...
Ðể ra khỏi thế khó xử này, Philatô chuyển sang chuyện khác. Ông nói rằng người Dothái đã nộp Ngài cho ông, thì hỏi Ngài để làm gì? Nhưng Ðức Giêsu không muốn bước sang chuyện ấy. Không gỡ được nghi vấn lúc đầu cho ông, lương tâm ông chỉ có thể cứ rối thêm mãi. Ðàng khác Ngài cần thực hiện mọi lời Kinh Thánh. Mà Kinh Thánh bảo: Ðấng Thiên Sai là Vua. Cho đến nay Ngài từ chối danh hiệu này kẻo người ta hiểu lầm. Nay đến lúc phải làm trọn lời sách thánh. Daniel không tiên báo Con Người là Vua trước pháp đình, như chúng ta đã thấy ở trên sao?
Do đó, Ðức Giêsu đã tuyên bố: "Nước Tôi không thuộc về thế gian này..." để nói lên rằng Người không phủ nhận mình là Vua, nhưng đồng thời lại khẳng định Người không là Vua theo kiểu thế gian. Philatô có thể đã giựt mình. Ông hỏi lại cho chắc: "Vậy thì Ông là Vua sao?". Ðức Yêsu khẳng định một lần nữa: "Ông nói đó: Tôi là Vua". Tức là Người thấy Philatô không còn hoài nghi như lúc đầu nữa. Ông đã bắt đầu tin Ngài là Vua. Nhưng để ông đừng hiểu lầm, Ngài đã nói thêm: Ngài không làm Vua theo kiểu thế gian để cai trị trên người ta, nhưng để làm chứng cho sự thật. Philatô chắc chắn hiểu được phần đầu trong câu trả lời; vì ông vẫn nghĩ rằng theo quan điểm thế gian Ngài không thể nào là Vua được. Ngài không có bá quan văn võ, cũng chẳng có binh lính. Và chẳng thiết đến vấn đề này. Có bao giờ Ngài lộ ra ý tưởng muốn tổ chức một triều đình đâu? Vua gì mà để mình bị bắt nộp như thế này? Ðàng khác, Ngài uy nghi, sáng suốt, không thể có đầu óc điên đến nỗi tưởng mình làm Vua theo nghĩa bình thường được. Philatô đồng ý Ngài không là Vua theo kiểu thế gian.
Còn câu Ngài xác định sứ mệnh làm Vua của Ngài là làm chứng về sự thật, thì Philatô vừa không hiểu vừa không muốn hiểu. Người ta nói rằng ông có quan điểm triết học hoài nghi, tức là không nghĩ rằng có sự thật, vì theo ông sự thật chẳng là gì cả.
Tiếc thay, ông không nhớ mình đang đứng trước một Con Người tôn giáo, chứ không phải con người triết học. Ðức Giêsu không nói triết lý, nhưng nói tư tưởng Thánh Kinh. Thế mà sách Samuel quyển 2 chương 14 khẳng định Salomon, con Ðavít không những có quyền trị dân mà còn được ơn khôn ngoan. Vị hoàng đế lý tưởng là người biết được ý Thiên Chúa để đem ra cai trị. Thế nên sáng sáng ngài phải có tấm lòng của môn đệ để đón nhận Lời khôn ngoan của Chúa để biết đàng biện phân phải trái cho dân. Ở đây, Ðức Giêsu còn muốn nói xa hơn nữa vì Người còn hơn Salomon và là Con Ðavít sâu xa hơn vua này. Người sinh ra để đem chân lý, tức là sự thật trọn vẹn xuống mạc khải cho loài người. Người đem sự khôn ngoan của Thiên Chúa đến. Người là chính sự khôn ngoan ấy. Người là mạc khải của Ðức Chúa Cha để cứu chuộc và nuôi sống người ta. Người là Vua khi đưa người ta vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Và việc này chỉ xảy ra trong mầu nhiệm thập giá, là sự điên rồ trước mắt thế gian nhưng lại là sự khôn ngoan cao cả được giấu kín cho đến thời sung mãn.
Những ý tưởng này Philatô làm sao nhận được? Nhưng ông đã nhận Ngài là Vua. Ông để cho lính tráng chế diễu Ngài là Vua. Ông không nói gì khi chúng đội triều thiên gai và khoác áo đỏ hoàng đế cho Ngài. Chính ông sẽ còn đặt Ngài ngồi trên tòa ở nơi gọi là Gabbata và giới thiệu Ngài với dân Dothái: này là Vua các ngươi. Và cuối cùng chính ông truyền đóng bản án "Giêsu Vua Do Thái" lên đầu thập giá và khăng khăng bảo phải cứ để như vậy. Ông đã thi hành nhiều việc theo ý Chúa mà ông không biết. Chính Ðức Giêsu nói: Ngài sẽ kéo mọi người lên khi được treo lên. Thế mà Philatô lại đặt Ngài ngồi trên tòa và kéo Ngài lên cây thập tự. Ông đã giúp Ngài làm Vua trong mầu nhiệm Thánh giá theo như sách Daniel đã gợi lên.
Nhà tiên tri này đã mô tả Con Người được trao vương triều khi sự dữ đã bị đánh bại và Con Người đã ở trong mây trời. Những điều đó đã xảy ra trong mầu nhiệm Vượt qua của Ðức Giêsu cứu thế, là mầu nhiệm tiêu diệt tội lỗi và đi vào vinh quang Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Kitô làm Vua theo nghĩa đó... Nhưng không phải để cho mình, mà là để cho mọi người. Ðó là điều mà bài sách Khải huyền muốn nói lên.
3. Một Dân Vương Ðế
Thật ra thì bài sách Daniel đã nói rồi.
Con người được lãnh vương quyền trong bài tiên tri đọc hôm nay thoạt đầu là toàn dân thánh của Thiên Chúa. Về sau người ta mới đặt nó nơi Vị Thủ Lãnh như nơi kết tinh mọi vinh dự tập thể. Ở đây tác giả sách Khải huyền cho thấy sự thật thì chính Vị Thủ Lãnh của đạo mới thông đạt vương quyền của Ngài cho toàn dân.
Chắc chắn quan điểm của ông đúng hơn. Vì vương quyền nói đây không phải là cái gì của trần gian, nhưng là một đặc quyền của Thiên Chúa mà người ta được tham dự. Chính Ngài mới là Vua theo nghĩa tuyệt đối và cao siêu. Ngài chủ sự tất cả, và nhất là cứu thế là công trình của Ngài. Người ta chỉ có thể tham dự vào vương quyền của Ngài khi được giải thoát khỏi tội lỗi, để được đưa ra khỏi Nước tối tăm mà vào trong Nước sáng láng, thánh thiện của Ngài. Thế mà mọi người chỉ có thể được tha tội nhờ Ðức Giêsu và trong Ðức Giêsu . Chính Máu Ngài đã cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi và đã làm ta thành một vương quốc tư tế cho Thiên Chúa.
Chúng ta đội ơn Ngài nhưng không được quên kết hiệp với Ngài. Ðó là điều kiện tiên quyết để được tham dự quyền bính của Ngài. Người ta đã khởi sự kết hiệp với Ngài trong bí tích Rửa tội là mầu nhiệm thánh giá Chúa Kitô. Nhưng còn phải ở trong mầu nhiệm ấy không ngừng để có thể mãi mãi là Con Người của sách Daniel, đang tiến lại gần Thiên Chúa để được trao ban vương triều.
Giờ đây cả cộng đoàn tín hữu cũng làm thành người Con Người ấy. Chúng ta tiến lên mầu nhiệm bàn thờ để được Con Người là Ðức Giêsu Kitô Cứu thế kéo lên. Chúng ta được ra khỏi Nước tối tăm của tội lỗi để được đưa vào Nước sáng láng của ân sủng. Chúng ta có thể và phải giữ ơn "làm Vua" ấy trong tất cả đời sống, khi chúng ta sống mầu nhiệm thánh giá trong mọi sinh hoạt của cuộc đời. "Con Người" mà Daniel đã nhìn thấy trong chiêm bao, thật sự đang hiện thân nơi chúng ta, nhờ ơn của Chúa Yêsu Kitô là Vua trên thánh giá đã kéo chúng ta lên gần Thiên Chúa để chúng ta được trao ban Vương triều. Chúng ta hãy suy nghĩ những điều ấy và đem ra thi hành... Cuộc đời của chúng ta sẽ là tiếng tung hô không ngừng: Chúa Yêsu Kitô Vua muôn năm!
Trong lịch sử nhân loại, không thiếu gì những ông vua bị đem ra xét xử và bị đem ra hành: TN 34-ABC195
Trong lịch sử nhân loại, không thiếu gì những ông vua bị đem ra xét xử và bị đem ra hành quyết. Nhưng khi một ông vua bị đem đi hành quyết thì ông ta đã bị truất quyền hay bị cướp quyền. Đối với những kẻ hành quyết hay lên án ông, thì ông không còn được nhìn nhận là vua nữa. Đó là trường hợp vua Louis 16 của nước Pháp chẳng hạn. Vì thế, người ta không bao giờ nói xử tử vua Louis 16 mà xử tử một người với cái tên thật của người ấy chứ không phải là tên hiệu.
Trường hợp Chúa Giêsu thì khác hẳn. Trước khi bị điệu ra trước tòa án Philatô, Ngài chưa bao giờ thực sự là vua, theo kiểu các vua chúa trần gian, tuy rằng Ngài đã có cơ hội lên ngôi nếu như Ngài muốn. Trái lại chỉ khi bị bắt và bị giải ra trước tòa tổng trấn Philatô, Ngài mới dõng dạc tuyên bố công khai: Phải, tôi là vua, tôi đã sinh ra và đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật.
Thực ra thì Chúa Giêsu không bao giờ trực tiếp khẳng định Ngài là vua, nhưng Ngài nói với Philatô: Nước tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng quả thật, nước tôi không thuộc về thế gian này.
Câu trả lời muốn nói lên rằng Chúa Giêsu có một vương quốc, thế nhưng vương quốc đó ở đâu? Ở trên trời hay ở một hành tinh nào khác? Hay là vương quốc ấy chỉ có ở đời sau? Chúa Giêsu không bảo rằng: Nước tôi không ở thế gian này, mà Ngài nói: Nước tôi không thuộc về thế gian này.
Cũng như các môn đệ tuy ở giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, chúng ta có thể nói: Nước Thiên Chúa ở ngay giữa thế gian này, nhưng lại không thuộc về thế gian này. Bởi vì như thánh Phaolô cũng đã xác quyết: Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.
Điều ấy có nghĩa Nước Thiên Chúa là một thực tại tâm linh đã bắt đầu hình thành ngay giữa lòng thế giới hiện đại, nhưng không thuộc về trật tự hay những lãnh vực trần gian, do đó người ta không thể nói rằng: Nước Thiên Chúa đây này hoặc kia kìa, mặc dầu nước ấy đang thực sự ở giữa chúng ta.
Vương quốc của Chúa Giêsu không phải là một lãnh thổ, mà trước hết là cộng đoàn những con người tin theo Chúa và sống tinh thần bác ái yêu thương đối với mọi người. Bởi đó, những ai sống theo chân lý của tình thương, nghĩa là xác tín rằng chỉ có tình thương mới thực sự đem lại công lý hòa bình và hoan lạc cho loài người. Một khi xác tín như vậy, chúng ta sẽ đem hết tài năng, sức lực và thời giờ vào công trình xây dựng một cộng đồng huynh đệ bác ái: tất cả những người ấy sẽ tạo nên nước Đức Kitô ngay hôm nay, ở trong thế giới này.
Thế nhưng, không một công trình xây dựng nào mà lại không đòi hỏi mồ hôi nước mắt và đôi khi cả xương máu nữa. Bởi vì để hạt giống có thể trở thành cây lúa đâm bông kết trái, thì hạt giống đó phải chết đi, đó chính là lý do khiến Đức Kitô đã lấy chính thân mình làm nền tảng, làm nguyên lý hay làm mầm phát sinh vương quốc Ngài muốn thiết lập.
Bởi thế, cây thập giá chính là ngai Ngài đã chọn để lên ngôi, mạo gai là vương miện Ngài chọn cho lễ đăng quang và trái tim Ngài bị đâm thâu và mở rộng là biểu tượng của vương quốc mở ra cho mọi người.
Đoạn Phúc Âm hôm nay cho chúng ta dự khán một hồi trong cuộc thương khó, Chúa sắp bị Philato: TN 34-ABC196
Đoạn Phúc Âm hôm nay cho chúng ta dự khán một hồi trong cuộc thương khó, Chúa sắp bị Philatô lên án tử hình. Để hiểu rõ bản văn, cần nhớ rằng Chúa và Philatô ở hai mức độ khác biệt. Khi Philatô nói lên tiếng ‘vua’, ông nghĩ đến một vương quyền chính trị. Khi Chúa tự nhận là Vua, Người nói đến vương quyền Cứu Thế của Người. Chúng ta diễn giải rõ hơn. Chúa xưng mình là Vua Cứu Thế với một ý nghĩ vô cùng rộng lớn so với quan niệm của cấp lãnh đạo Do Thái, Chúa đặt câu hỏi: Tự mình ông, ông nói thế, hay có ai khác đã nói với ông về tôi? Để cho Philatô biết rằng Người là Vua, nhưng không theo quan niệm của ông, cũng không theo dự tính của người Do Thái. Vì thế, sau câu đáp của Philatô, Chúa nói: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Thật là một xử án lạ đời. Người Do Thái muốn cho Chúa bị kết án vì Người tự nhận từ 1 thế giới khác mà đến, tức là được Thiên Chúa sai đến. Đối với Philatô, đó không phải là cớ để buộc tội Chúa. Vì vậy người Do Thái đưa ra một cớ khác, mà trớ trêu thay, cớ này lại chính là điều Chúa không muốn chút nào, là làm một ông vua đối lập với hoàng đế La mã. Chúa bị kết án theo hai thẩm quyền xét xử. Thẩm quyền pháp lý La-mã dựa theo một đế quyền thế gian, tuy nhiên Philatô nhận thấy Chúa bác khước quyền đó. Thẩm quyền pháp lý Do Thái buộc tội Chúa vì lẽ Người tự nhận là từ Thiên Chúa mà đến, mà chính vấn đề pháp lý này lại chẳng liên quan gì đến Philatô.
Minh định xong điểm rắc rối đó, chúng ta tự hỏi: Khi mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta tôn vinh điều gì?
1) Vương quyền của Chúa làm chứng về sự thật.
Chúa không phải là Vua của thế gian. Nhưng là vua trong thế gian và trong thế gian Người làm chứng cho một thực tại thần linh. Thật vậy, cần hiểu rõ nghĩa ‘sự thật’ ở đây. Trong Phúc Âm theo thánh Gio-ABCn, sự thật không chỉ là sự hiểu biết của trí tuệ phù hợp với điều có thật. Sự thật là thực tại của Thiên Chúa đến trong con người. Con người do đó được thấm nhuần tất cả bản thể và tất cả đời mình. Tuy nhiên muốn được như vậy, phải nghênh đón thực tại của Thiên Chúa. Nghênh đón không chỉ bằng trí tuệ mà cả bằng tấm lòng, bằng ý chí, bằng tất cả bản thể mình. Chúa làm chứng cho sự thật, bởi vì trong tư thế một con người được thấm nhuần và biến hóa nhờ một cuộc thực nghiệm thần linh, Chúa đề nghị với tất cả mọi người hãy tiến tới một sự hiệp thông có hiệu năng thần hóa, đó là sự hiệp thông với Chúa, vì lẽ Người đích thật là Con Thiên Chúa. Chúa là Vua khi mà trong nhân loại, quá nhiều phen làm phản chống lại Thiên Chúa, cũng vẫn còn những kẻ nghênh đón ‘lời chứng’, nghĩa là dâng hiến Chúa niềm tin và tư hiến mình để được Chúa thần hóa.
2) Phàm ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi
Vậy ‘thuộc về sự thật’ là gì? Là có tâm hồn sẵn sàng đón nhận thực tại thần linh do Chúa đem đến cho loài ngừoi. Về thực tế, đối với chúng ta ngày nay, điều đó là sự ăn ở ngay thẳng đối với Lời Thiên Chúa, là theo chân Chúa Giêsu mà ta gặp trong Phúc Âm, trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong anh em đồng loại. Vương quyền Chúa chẳng giống chút nào một sự thống trị của loài người, tuy nhiên Vương quyền đó trở nên hữu hiệu khi nào con người, về mặt bản thân và về mặt xã hội, trong đời sống thật sự, đạt tới chỗ hiểu biết rằng mình từ Thiên Chúa mà đến và về với Thiên Chúa, để rồi trong hướng nghĩ đó biết cư xử và hành động làm cho nhân loại nhận biết sự thật với những nét đẹp nhất, đó là dung mạo tuyệt vời của Tình yêu.
Không còn nữa hình ảnh của những vì vua oai phong lẫm liệt như trong chế độ quân chủ ngày: TN 34-ABC197
Không còn nữa hình ảnh của những vì vua oai phong lẫm liệt như trong chế độ quân chủ ngày nào, nhưng thay vào đó là một lớp những nhà vua mới lên ngôi thần tượng, không ngai vàng mà nhiều khi cũng đầy uy lực: vua dầu hoả, vua xe hơi, vua trò chơi, vua bóng đá. Mỗi thời có những kiểu đăng quang riêng, và mỗi lĩnh vực cũng có những nhà vua riêng của mình.
Thuật ngữ “Vua” xem ra đã có nhiều biến thể. Phổ cập hơn nhưng cũng mong manh hơn, thời sự hơn và cũng đời thường hơn. Trong bối cảnh đó, lễ Chúa Kitô Vua lại trở về, vừa khép lại năm Phụng Vụ cũ vừa mở sang năm Phụng Vụ mới. Phải chăng đây cũng chỉ là một lễ đăng quang tương tự như các nhà vua trần thế? Hay là một lễ của niềm tin yêu hy vọng vào Chúa Kitô – Đấng làm Vua bằng cách làm chứng, hiến thân đến cùng trong tình yêu để mở ra triều đại cứu độ?
1) Chúa Kitô không làm Vua như những vua trần thế.
Có lẽ khi tự ý cho treo tấm bảng “Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái” lên đầu Thập giá, Philatô đã không nghĩ đến điều gì khác ngoài lợi thế chính trị cho ông, bất kể phải chơi khăm những người Do thái, nhưng có một điều ông không bao giờ nghĩ tới, mà điều đó lại thật quan trọng trong lợi thế đức tin của người Công giáo, đó là tấm bảng kia trong ý định của Thiên Chúa lại là một tuyên xưng không thể xoá nhoà.
Chúa Kitô không chỉ làm Vua một thời, mà là Vua vĩnh cửu. Dù trong đời sống công khai, có lần Người đã nặng lời quở trách Phêrô khi ông này chỉ muốn thấy nơi Người hình ảnh của một Đấng Messia dễ dãi đồng nghĩa với vị vua phàm trần, và Người cũng đã từng trốn chạy khỏi đám đông cuồng nhiệt khi họ muốn bắt Người làm vua sau phép lạ hoá bánh nhiều. Nhưng, trước mặt Philatô, Người đã công khai tuyên bố mình là Vua, để rồi trên Thập giá, chính lúc tưởng rằng chết đi, Người cho thấy mình còn sống mãi, và chính khi tưởng rằng bị huỷ diệt, Người cho thấy mình vẫn muôn thuở tồn tại. Thời gian là đại lượng dành cho những vị vua trần thế, còn Người vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Chúa Kitô không chỉ làm Vua dân Do thái mà là Vua phổ quát. Với cái chết của Người trên Thập giá trong tư cách Đấng Cứu Thế, một dân mới đã được khai sinh không phải giới hạn trong một vùng lãnh thổ địa lý mà đã mang lấy tầm vóc của cả thế giới vũ hoàn. Trong máu của Người, giao ước mới phổ quát đã hình thành vượt trên giao ước cũ vốn giới hạn nơi dân Do thái. Và trong công cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, những gì cũ phải qua đi để nhường chỗ cho một triều đại mới vượt trên tất cả.
Người là Vua phổ quát vì Nước Người chẳng thuộc trật tự trần thế. Người là Vua vũ trụ bởi chính Người là Thủ Lãnh sẽ quy tụ mọi sự về một mối: “Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta”.
Và nếu theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất và thứ hai với hình ảnh của “Đấng đến giữa mây trời” thì vương quyền của Chúa Kitô đã khác xa một trời một vực so với các vương quyền trần thế khác. Vương quyền trần thế dẫu có lan tràn khắp mặt đất cũng vẫn có thể đo lường được, còn vương quyền của Chúa Kitô vì vượt trên tất cả nên cũng vô phương dò thấu. Người là Vua muôn Vua.
Không phải vô tình mà phiên toà lễ Vượt Qua đã đặt Chúa Giêsu đối diện với Philatô, mà chính trong tư thế đối diện cộng với những đối chất qua lại đã làm nổi bật lên cái nghịch lý mầu nhiệm của Giờ Tử Nạn. Vào chính lúc quyền bính thế gian xem ra thắng thế còn quyền bính trời cao dường như hạ bệ, thì Chúa Giêsu đã tuyên bố mình là Vua. Lời tuyên bố như thế lẽ ra đẩy Philatô vào thế đối thủ, nhưng – Chúa Giêsu đã nhanh chóng khẳng định Nước Người chẳng thuộc trật tự chính trị thế gian, nên Tổng trấn Rôma dầu quyền uy là thế vẫn chỉ là chiếc bóng mờ nhạt đứng đó trong vai trò của một đối chứng hơn là một đối thủ để làm nổi bật lên dung mạo của Chúa Giêsu – Vua muôn Vua. Hơn nữa, bởi Philatô là một người ngoại nên tầm vóc của lời tuyên bố kia đã vượt xa giới hạn đạo giáo để trở thành phổ quát cho cả muôn người. Và hệ luỵ là quyền bính Philatô bởi thuộc về thế gian nên cũng qua đi với thế gian, còn vương quyền Chúa Kitô vẫn tồn tại mãi bởi thuộc về trật tự tâm linh để không gì có thể đặt giới hạn cho Người. Người là Vua vĩnh cửu.
2) Chúa Kitô làm Vua bằng cách làm chứng.
Dẫu vào Giờ Tử Nạn, Chúa Giêsu mới tuyên bố mình là Vua để khởi đầu cho một triều đại mới trong “sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công chính, yêu thương và an bình” (Kinh Tiền Tụng), nhưng thực ra đó chỉ là đỉnh cao của một đời lựa chọn và là điểm đến của một quá trình thực thi sứ mệnh làm chứng cho sự thật: “Tôi sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật”. Nếu sự thật là chính Thiên Chúa, là thực tại thần linh, là “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình” như một kiểu nói của thánh Gioan hoặc là ơn cứu độ, thì trót cuộc đời của Chúa Giêsu là một công cuộc liên lỉ minh chứng.
Qua Nhập Thể, Người đã mang lấy bộ mặt đớn hèn của cả nhân loại. Qua Tử Nạn, Người đã nhận vào mình thân phận loài người tội lỗi. Qua Thập giá, Người đã sẵn sàng chấp nhận cái chết để cứu độ toàn thế giới. Và đỉnh cao Phục Sinh tôn vinh chỉ có được khi Người đã trải qua nẻo đường Thương Khó đến cùng trong số phận của “Người Tôi Tớ đau khổ”.
Rõ ràng là nơi Đức Kitô, làm Vua có nghĩa là làm chứng và làm chứng không chỉ bằng lời mà bằng chính cuộc đời của Người, trải dài từ Nhập Thể qua Tử Nạn cho đến Phục Sinh. Nói cách khác, làm chứng cho sự thật cũng là sống và chết cho sự thật ấy, và làm chứng cho hiện thân của Thiên Chúa ở giữa thế gian cũng chính là sống và chết để cho hiện thân tình thương được triển nở cách hiện thực sống động và viên thành.
Thảo nào vương quốc và vương quyền của Chúa Kitô thật khác lạ. Chẳng cần đến lực lượng để mà thiết lập, chẳng cần đến vũ lực để mà cai trị, cũng chẳng cần đến quân sự để mà bảo tồn. Như vậy, điều mà mọi vị vua trần thế mong ước là trải dài vương quốc trong không gian và thời gian, thì chỉ duy Chúa Kitô mới thực hiện được, không phải bằng vũ trang mà là bằng một tình thương không mệt mỏi hiến thân làm chứng cho sự thật. Và đó là phương thế duy nhất để thiết lập một Vương quốc phổ quát và vĩnh cửu.
Trong ý hướng ấy, bài đọc thứ hai là một tiến trình mạch lạc không thể đảo ngược: chỉ khi nào sống trọn vai trò chứng nhân trung thành, Đức Kitô mới nên Trưởng Tử kẻ chết và làm Vua muôn vua.
3) Ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô.
Đức Kitô, Người làm Vua như thế đó. Nên mục đích của Thánh lễ hôm nay đối với mọi kẻ tin là: “tôn vương” Chúa Kitô trong cuộc sống của mình.
Thực ra thì cử hành lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối năm Phụng Vụ cũng nói lên niềm tin vào vương quyền Chúa Kitô như tinh thần của Thông điệp Quas Primas mà Đức Piô XI đã ban hành ngày 11 tháng 12 năm 1925, nhưng niềm tin vốn là một sự sống, nên chỉ khi thể hiện niềm tin bằng cuộc sống, tín hữu mới có thể an lòng là thần dân trong Vương quốc của Đức Kitô.
Không thể nhận mình là dân của Vua Kitô trong khi cuộc sống cá nhân và gia đình lại nghiêng theo lối sống thế tục làm vẩn đục vũ trụ quan Kitô giáo, dần dà xa rời Giáo Hội và có nguy cơ chối bỏ vương quyền Chúa Kitô mà không hay biết.
Cũng không thể nhận mình ở trong Vương Quốc của Đức Kitô mà hằng ngày một cách nào đó mình vẫn dửng dưng với sự hiện diện của Người trong cuộc sống con người như coi thường nhân phẩm, khinh rẻ người nghèo… càng không thể nhận mình sống trong Vương Quốc Đức Kitô khi mà cuộc sống chung riêng vẫn gây ra những oán thù, ghen ghét, gian tham, bất công, gương xấu, tội lỗi…
Càng không thể nhận mình thuộc về vương quyền của Đức Kitô khi mình chưa thực sự hiến thân một cách nào đó để thể hiện tinh thần chứng nhân. Đức Kitô đã lấy cái chết để làm chứng, Kitô hữu cũng phải đi vào lối sống hy sinh mới có thể trở thành chứng nhân cho đức tin được. Đừng quên, chứng nhân có nghĩa là tử đạo và sống đạo một cách anh hùng cũng chính là chứng nhân.
Nhưng ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô và ai thuộc về Đức Kitô thì hãy để Người sống và lớn lên trong cuộc đời mình và chấp nhận để Người biến đổi toàn diện. Đồng thời, chính mình cũng cần nỗ lực “làm chứng” sao cho niềm tin luôn luôn vươn lên, mà cũng không quên nhiệt tình tông đồ là làm cho những người lân cận nhận biết và tin yêu Chúa Kitô nữa. Như thế là tin vào vương quyền Chúa Kitô, là “tôn vương” Chúa Kitô trong cuộc sống của mình và cũng là cùng với mọi người tích cực hoạt động cho công cuộc truyền giáo nhằm “quy tụ mọi sự trong Chúa Kitô”.
Ở Bãi Sau Vũng Tàu, có một tượng Chúa Kitô Vua thật lớn dựng trên triền núi quay mặt ra biển, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân quanh đó kể lại rằng những khi ra khơi, họ vẫn căn cứ vào đó để mà định hướng đi về, và nhiều lần sóng gió họ cũng hướng về đó để mà cầu nguyện xin ơn bình an.
Giữa trùng dương cuộc sống, Kitô hữu biết rằng Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện như một chuẩn đích để định hướng tin yêu hy vọng. Xin Người cũng làm Vua quy tụ mọi sự trong Vương Quốc vĩnh cửu của Người.
Lạy Chúa Kitô, cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng con lặp lại niềm tin của mình vào Vương Quyền của Chúa. Xin chúc lành cho những ước nguyện chúng con dâng lên, để khi quyết tâm xa lìa tội lỗi và sống thánh thiện, chúng con được trở nên chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
(Trích trong ‘Mở ra những kho tàng’ – Charles E. Miller)
Vào năm 1925 Đức Giáo Hoàng Piô XI thiết lập lễ tôn kính Đức Kitô Vua, lễ này được đặt vào: TN 34-ABC198
Vào năm 1925 Đức Giáo Hoàng Piô XI thiết lập lễ tôn kính Đức Kitô Vua, lễ này được đặt vào ngày chúa nhật cuối tháng 10. Giáo Hội qua nhiều thế kỷ đã tôn kính Đức Kitô như là Vua trong cuộc rước vào ngày Lễ Lá nhưng Đức Giáo Hoàng thấy có nhu cầu thiết lập một lễ đặc biệt, để chống lại chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất của kỷ nguyên này. Trong xứ sở Hoa Kỳ, kỷ nguyên được gọi là tiếng gầm thứ hai mươi.
Đức Giáo Hoàng Piô XI đã đặt lễ vào Chúa nhậ cuối tháng 10 và tiếp đó là lễ Các Thánh. Sự nhận biết của phụng vụ mừng các môn đệ đã bước vào trong vương quốc trên trời. Công đồng Vatican II đã đổi mới và chuyển lễ Kitô Vua vào chúa nhật cuối năm phụng vụ như đặt một biểu hiệu của vương quốc, mặc dầu đang hiện diện giữa chúng ta và vẫn còn đang đến: “Chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng ngày Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta sẽ đến”. Đấng sẽ mang lại vương quốc của Ngài tới sự hoàn hảo khi Ngài trở lại trong vinh quang cho ngày Phục Sinh chung.
Theo sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô XI vào năm 1925 liên quan đến Đức Kitô Vua, Ngài muốn làm cho cả thế giới chú ý tới nhu cầu thiết lập những giá trị tinh thần như là những hướng dẫn cho đời sống. Những lời của Đức Giáo Hoàng hầu như không được mấy ai chú ý đến. Nước Mỹ đặc biệt vẫn tiếp tục tinh thần tham lam, nhấn mạnh là mọi người đều có thể trở nên giàu có, có thể có tài sản mà không cần làm việc. Người ta có nhiều cấp độ kinh tế khác nhau, “ngay cả những chàng trai đánh giày” cũng như một sử gia đã nói “cũng lao vào chợ hàng hóa”. Cuộc khủng hoảng vào năm 1929 đã đổ vỡ là một điều không thể tránh được.
Thất là đau buồn khi nhận biết rằng sắc lệnh đã được viết bởi Đức Giáo Hoàng vào năm 1925, có thể là bản chúc thư mà ngài đã sáng tác vào những tuần cuối đời Giáo Hoàng của ngài. Chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất đi đến sự thất bài trong cuộc khủng hoảng tài chính vào năm 1929, dẫn đến trong thời đại của chúng ta một hậu quả khôn lường, đó là khủng hoảng về tiết kiệm và những món nợ chồng chất trong những năm gần đây. Việc cử hành phụng vụ của chúng ta về Đức Kitô là Vua, thách đố chúng ta bất chấp những thất bại trong lãnh vực tài chính hoặc trong thái độ thiêng liêng của chúng ta, điều quan trọng nhất không phải sự tham lam đã dẫn tới sự sụp đổ tài chính nhưng chính việc loại bỏ những giáo huấn và gương mẫu của Đức Kitô Vua.
Chủ nghĩa thế tục nhấn mạnh rằng, đất nước giàu có thì ở trên mặt đất này. Nó loại bỏ mọi hình thức của đức tin tôn giáo và thờ phượng. Chủ nghĩa vật chất rao giảng giáo lý tìm sự an ủi, vui thú và giàu có như là những mục đích cao nhất của đời sống. Chúa của chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất thì không đụng móng chân đến thánh giá hy sinh nhưng là chìm vào trong ăn uống xa hoa và những ăn chơi dâm dật.
Trái lại, làm nhân chứng cho sự khôn ngoan của Phúc Âm Kitô giáo; họ là những công dân của Nước Trời. Họ trình bày cho chúng ta về tính vô vị lợi, là con đường hạnh phúc còn con đường tham lam là không, những thực tại thiêng liêng là thật sự và những tạm bợ của những chủ nghĩa thế tục là không, và tôn giáo là phần thưởng tuyệt đối còn chủ nghĩa vật chất là không.
Kinh Tiền Tụng ngày chúa nhật hôm nay tuyên bố rằng Đức Kitô Vua cai trị một vương quốc đời đời, một vương quốc của sự thật và sự sống, một vương quốc của sự thánh thiện và ân sủng, một vương quốc của sự công chính tình yêu và bình an. Đó là vương quốc ngự trị mãi mãi.
Một lời nài xin cho được trung thành với Đức Kitô Vua. Ngày chúa nhật hôm nay là thời gian thích hợp để nài xin trung thành với Đức Kitô Vua. Theo hình thức đề nghị được rút ra từ kinh Tiền Tụng, kinh nguyện Thánh Thể trong lễ trọng này có thể dùng tại Thánh Lễ hoặc mọi người có thể lập lại những lời nài xin theo sau vị linh mục chủ tế của họ.
Chúng con nài xin sự trung thành với Đức Kitô Vua. Chúng con trân trọng vương quốc đời đời và phổ quát của Người. Chúng con nhận biết vương quốc của Ngài là vương quốc của chân lý và sự sống. Của sự thánh thiện và ân sủng.
Chúng con ước mong làm những gì chúng con có thể làm trong cầu nguyện và hành động.
Để mang lại cho thế giới này vương quốc của Người. Một vương quốc của sự công chính và tình yêu bình an.
Đây là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Sau diễn từ cuối cùng quan trọng trước công: TN 34-ABC199
Đây là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Sau diễn từ cuối cùng quan trọng trước công chúng trong đó Đức Giêsu loan báo rằng, giữa “thời tai họa”, Người sẽ đến quy tụ toàn thể loài người để hưởng “một mùa hè tươi đẹp” Đức Giêsu đề cập đến cái chết của người và Người bước vào cuộc thương khó: Đó là phần kết và là đỉnh cao của "Tin Mừng" theo Thánh Máccô, mà chúng ta đã đọc suốt năm nay.
Chúa nhật cuối cùng này, chúng ta thay đổi thánh sử. Đây là một trang Tin Mừng của Thánh Gioan, nhưng đúng ra chúng ta vẫn ở trong cùng một mạch văn cũ, là trong cùng một kết luận. Thánh Gioan chỉ đưa ra tước hiệu là Vua trong cuộc thương khó, vừa đau khổ vừa vinh quang. Bỗng nhiên, liên tiếp ông nói về "Vua”, "Vương quyền" (Ga 18,33.36.37.39; 19,3.12.14.15.19.21) nhưng đó là một ông Vua bị đóng đinh mà vương miện của Người là những gai nhọn. Vậy thì rõ ràng là "Vương quyền" của Đức Giêsu ở trên một bình diện hoàn toàn khác với bình diện chính trị.
Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: "Ông có phải là vua dân Do thái không?
Đức Giêsu bị buộc tội. Người bị ra tòa. Phiên xử này là phiên xử danh tiếng nhất trong mọi thời đại!
Thẩm phán là ông Philatô, lãnh tụ của đạo quân La Mã đang chiếm đóng. Ông là viên toàn quyền của một đế quốc đã từng đô hộ và để dấu ấn trên thế giới. La Mã lúc bấy giờ ngự trị nước Ý, Pháp, Tây Ban ba, Anh và một phần nước Đức, Ao, Nam Tư, Rumani, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Xyri, Libăng, Palextin, Ai Cập, Li bi, Tuynidi, Angiêri, Ma -Rốc. Hoàng đế lúc bấy giờ là Tibêriô, thừa kế của Augustô. Philatô là quan toàn quyền có nhiệm vụ chận đứng những vụ nổi loạn thướng chớm nở trong dân Do Thái. Người ta treo lên thập giá người Dêlôtê ngoài cổng thành. Hàng ngàn người đã bị treo lên thập giá, để áp đặt quyền lực của La Mã.
Bị cáo hôm đó; đối với Philatô là một "ông Giêsu nào đó" Mà cách đây ba năm chỉ là một anh thợ mộc giản dị và âm thầm tại Nagiarét, một thôn làng nhỏ, chính quyền cũng không biết tới họa chăng mới có một đội tuần tiễu đi qua.
Tôi nhìn ngắm hai người đối diện; Philatô và Chúa Giêsu, quan tòa và bị cáo.
Đức Giêsu hỏi lại ông ấy.
Thật là một điều quá đáng? Bị cáo bây giờ lại "hạch hỏi quan tòa". Có phải vai trò bị đảo ngược không? Táo bạo thật, người bị cáo đáng thương! Người ấy là ai vậy? Đức Giêsu đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?
Đức Giêsu thật tuyệt vời. Người biết rằng quan tòa này là toàn quyền. Tuy nhiên, Chúa muốn ông có một tương quan cá nhân, cố dẫn ông ra khỏi một cuộc tranh luận pháp lý, để bày tỏ một lập trường của riêng ông, "này, ông Philatô, có phải chính ông nói rằng tôi là Vua không?". Phần lớn các vấn đề của thế giới kỹ thuật, hệ thống hóa, hành chánh hóa của chúng ta có lẽ đang nằm ở trong thái độ trên đây của Đức Giêsu, một con người đang- cố thoát khỏi mối liên hệ "quan tòa - bị cáo" để bước sang tương quan "người và người". Chúng ta không ngừng đóng những vai trò" và ưa đeo mặt nạ: Chủ - thợ, y sĩ - bệnh nhân, thông gia - khách hàng, trợ lý xã hội với người được trợ giúp linh mục - con chiên, cha mẹ - con cái, thầy dạy - học trò, Giáo Hội giáo huấn và Giáo Hội thụ huấn. Này Philatô, hãy bỏ mặt nạ ra! Hãy nhìn thẳng vào mặt Ta. Ông hãy nói, ông nghĩ gì về Ta? ông đừng trả lời những bài đã học ở kẻ khác. Chính ông phải có lập trường. Chính ông phải "tuyên xưng Đức tin".
Ông Philatô trả lời: "Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?
Ta cảm thấy quan tòa hơi bực mình. Ông ta có ý tiến công. Ông ta khước từ không muốn bị kêu gọi bước vào lương tâm mình. ông quyết định trở lại với vai trò, với “mặt nạ" của mình. Tôi không phải ngồi đây để nói tôi nghĩ gì mà là để xử vụ án. "Ông đã làm gì?" Đức Giêsu đã cố gặp “một người". Nhưng Philatô đóng vai trò "một nhân vật" Dù sao thì Philatô cũng đang "thống trị ", chính ông mới có uy quyền. Người thợ ở làng Nagiarét không thể có lý trước mặt César. Ai có thể nói hôm đó rằng, không phải là César, với gót giày của đạo quân bách chiến bách thắng, sẽ trở nên khuôn mẫu cho thế giới mai sau... nhưng lại là anh thợ mộc thấp bé, bị khinh khi. Từ người thợ mộc này sẽ phát sinh một nhân loại mới cho nhiều ngàn năm.
Đức Giêsu trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này
Đức Giêsu không trả lời câu hỏi của quan tòa "ông đã làm gì?". Chính Đức Giêsu không có ý thắng người đối thoại nhưng chỉ hướng cuộc đối thoại theo đề tài mà Người muốn bàn cãi.
Đức Giêsu giải tỏa mọi sự hiểu lầm về tước hiệu "Vua” mà Philatô đang tìm cách điều tra ít nhất có ba cách làm “Vua". 1. Vua theo nghĩa chính trị, theo kiểu La Mã: Người ta thống trị kẻ khác bằng cách nô lệ hóa họ.
2. Vua theo nghĩa Thiên sai, theo kiểu mong đợi của dân Do Thái: Một người thuộc dòng dõi Vua Đa-vít chính thức lên ngôi, và chiến thắng kẻ thù của Israel, của Chúa bằng cách đè bẹp chúng.
3. Sau hết, Vua theo cách của Đức Giêsu: Một vương quyền huyền bí, không ép buộc ai, không đè bẹp ai "bạn có muốn theo tôi không?" "Các bạn cũng muốn bỏ đi hay sao?". Một vương quyền mà lại để "Vua" bị "Giao nộp" cho kẻ thù mà không kháng cự một tổng thống mà không có “vê binh" để bảo vệ mình, không có cận vệ để bao bọc trước đám đông. Một vương quốc không quân đội, không thiết giáp không hỏa tiễn.
(Một lãnh tụ Xô Viết trước kia đã hỏi một cách ngây ngô xem Đức Giáo Hoàng có được bao nhiêu sư đoàn thiết giáp!)
Đức Giêsu luôn hành động như Đấng có "Toàn quyền": Người đã đuổi quỷ ra khỏi con người, đã đánh bại sự dữ, đã chế ngự biển khơii đang xung động, đã đổi mới cách giảng dạy Luật Do Thái với một uy quyền không ai sánh được. Nhưng trong khi làm như vậy, Người đã không bao giờ cưỡng bức ai.
Chúa là vị Thầy đã để cho chúng ta được hoàn toàn tự do, mà còn tự "Giao nộp" để cho chúng ta tấn công Người. (Tôi suy niệm về từ "Giao nộp” mà chính Chúa đã dùng ở đây). Đức Giêsu là chính dung mạo của Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (2 Cr 4,4). "Kẻ nào thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14,8-11; Cl 1,15). Không ai đã thấy được Thiên Chúa, nhưng Con Một đã mạc khải Người cho chúng ta" (Ga 1,18). Trong nội dung rao giảng của Người được ghi lại trong ba Tin Mừng. Nhất lãm, Đức Giêsu đã không ngừng nói về "Nước Trời", "Nước của Thiên Chúa", nhưng đó không phải là một vương quốc như những vương quốc trần thế.
Đó là một vương quốc ẩn dật như một hạt cải nhỏ bé sẽ trở nên một cây lớn, như một nhúm men, người đàn bà trộn vào bột, như hạt lúa mì chết đi trong lòng đất để mang lại bông hạt. Đức Giêsu là "Vua", vâng, nhưng theo cách của Thiên Chúa. Và rõ ràng Thiên Chúa không phải như chúng ta tưởng tượng Thiên Chúa "trị vì", Thánh Vịnh đã hát lên như thế (Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1; 96,1; 98,14; 145,10) và Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha "Xin cho Nước Cha trị đến". Thiên Chúa không đè bẹp kẻ thù của Người. Thiên Chúa không bắt buộc con Người phải tin nơi Người. Người cho mặt trời mọc lên trên cả người công chính lẫn người bất lương, trên kẻ ác cũng như người lành, trên người vô thần cũng như trên các tín hữu (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu thương những người không yêu thương mình mà Người yêu cầu chúng ta cũng làm như vậy. Người không phải là "Vua"! Không, tuyệt đối không phải là "Vua"! Người không giống bất cứ một ông Vua nào của trần gian.
Nhưng không! Nước Tôi không thuộc về thế gian này.
Sau khi đã phân biệt rõ ràng vương quyền của Người với tất cả vương quyền khác, bây giờ Đức Giêsu có thể tuyên bố Người là Vua..., bởi vì từ bây giờ trở đi không ai có thể hiểu lầm về ý nghĩa của vương quyền nữa. Vương quyền này không dính líu gì với những quyền lực dưới thế gian này.
Người quả quyết, Vương quyền này từ "nơi khác" đến. Người cảm thấy không cần nói rõ "nơi khác" mà từ đó Người đến. Người ta có thể giết Chúa, nhưng Chúa vẫn thắng, vẫn hiển trị. Cái nghịch lý của "nơi khác" thần thiêng này là Vinh quang của Người không thể bị suy giảm bởi những thử thách hay thất bại trên thế gian. Vương quyền (thần thiêng!) của Người không tránh cho Người phải chết về mặt thể xác. Vinh quang của Người là vinh quang được “nâng lên khỏi mặt đất" trên thập giá, và lên ngự bên phải của Chúa Cha.
Ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?
Trên môi miệng của Philatô, đại danh từ "ông” được đặt sau động từ, trong bản văn Hy Lạp rất có ý nghĩa: “Vua ông".
Sao? ông, người mạo danh, ông, mà người ta sắp xóa bỏ bằng một nét bút. Ông là người; mà tôi, sắp cho tiêu diệt ông, là người tù đáng thương không thể tự vệ được:
Đức Giêsu đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật.
“Đã đến". Người đã nói "Tôi đã đến", từ một ‘nơi khác’, đã đến thế gian.
Trong bài đọc 2 được đọc trong Chúa nhật này, chúng ta đã nghe Gioan định nghĩa Đức Giêsu như là "nhân chứng trung thực". Chữ "Chứng nhân" này dịch từ chữ Hy Lạp "Martyr" do đó có chữ Pháp là "Martyr" có nghĩa tử đạo.
Người đã trả giá cho vương quyền của Người! cho việc làm chứng của Người!
Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi
Vậy thì vương quyền của Chúa Kitô Vua hệ tại điều gì? Đó là quy tụ lại để cùng lắng nghe "một giọng nói" tất cả những ai thuộc về sự thật". Người "trị vì" nhờ Đức tin mà chúng ta dâng cho Người, nhờ thái độ tín thác mà chúng ta đặt vào Lời của Người, nhờ nếp sống hằng ngày của chúng ta luôn phù hợp với "Tiếng nói của Người. Không ai có thể thoát khỏi "Vương quyền" này.
Là con người, chúng phải chọn lựa thái độ theo hay chống lại "Sự thật". Làm vinh danh Chúa Kitô Vua, không phải là đốt hương trầm cho Người, không phải là tổ chức những lễ long trọng mừng Người, giống như những danh vọng hư ảo của các Vua Chúa trần gian. Nhưng chính là lắng nghe tiếng nói của Người, và làm sao cho cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp và xã hội hoàn toàn phù hợp với "Tiếng nói đó"
Ta đang tham dự vụ án xử Đức Giêsu trước toàn án Rôma, Giêrusalem trong dinh tổng trấn Philatô: TN 34-ABC200
Ta đang tham dự vụ án xử Đức Giêsu trước toàn án Rôma, Giêrusalem trong dinh tổng trấn Philatô ông làm tổng trấn xứ Giuđê từ năm 26 đến 36.
Ngay lúc đầu cuộc thẩm vấn do Philatô đứng xét hỏi, phía nghịch đã nêu lên cáo trạng chống lại Đức Giêsu, tìm cách chuyển vụ án sang lãnh vực chính trị để đạt được mục đích của là lên án tử hình cho Đức Giêsu. Vậy quan tổng trấn hỏi: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”.
X. Léon-Dufour giải thích: "Cần lưu ý rằng, dưới thời đế quốc Roma cai trị, dân Do Thái thường xen lẫn ý nghĩ chờ đợi Đấng Mêsia với lòng mong mỏi độc lập cho quốc gia, do Đấng Mêsia thiết lập (Cv 1,6) và khởi đầu một thời đại mới. Trong Tin Mừng thứ bốn, ta thấy hai giai thoại phản ánh bầu khí này. Đó là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông dân chúng Galilê đã muốn lấy "vị Ngôn sứ" để tôn lên làm vua; bấy giờ Đức Giêsu phải lên núi mới thoát khỏi (Ga 6,14-15). Rồi sau khi Chúa cải tử hoàn sinh cho Ladarô, niềm phấn khởi của quần chúng đối với Giêsu biểu lộ bằng việc từng đoàn lũ cầm cành vạn tuế, biểu hiệu của thắng trận, đi đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là "Vua Israel”, vì họ coi Ngài như vị cứu tinh giải phóng quốc gia. Bấy giờ Chúa đã tỏ rõ sự bất đồng tình của Người và tố giác sự ngộ nhận của cuộc đón rước bằng cách chọn một con lừa nhỏ để cỡi." ("Lecture de l'evangile selon Jean", tập IV, Seuil. 1996, tr. 82). Một lần nữa Đức Giêsu gạt phăng mọi hiểu lầm.
Trước hết, Chúa dùng một câu hỏi, truy tìm nguồn gốc của lời tố cáo này: "Ngài tự ý nói điều đó, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi?”. Philatô nhìn nhận đó là cuộc tranh luận nội bộ của người Do Thái, nên trả lời: "Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”.
- Sau đó, Chúa đã dùng câu trả lời phủ quyết. Nếu Ngài là vua, thì không theo kiểu cách của trần gian này, không theo kiểu cách các vua Amônê, là những người trị vì Israel trước khi đế quốc Rôma xâm chiếm. Nếu Ngài là vua, thì Ngài không phải là địch thủ của Xêda, và vương quyền của Ngài không có màu sắc chính trị; nó không thuộc thế trần: "Nước tôi không thuộc về thế gian này”.
A. Marchadour quảng giải: "Nước Chúa vừa không phải như dân Do Thái trông đợi, cũng không như Philatô hình dung, cũng không như nước của loại người thống trị nhờ sức mạnh quân đội và nhờ cuộc chinh chiến mở rộng biên cương. Nước của Người đến từ nơi khác, đến từ "xứ sở" nơi Đức Giêsu "sinh ra”, và từ đó Người "đã đến thế gian”, vì Người đã hiện hữu từ muôn thuở. Nước ấy được thiết lập không nhờ sức mạnh, nhưng nhờ trình bày lời mặc khải. Những ai đến nhận Lời thì trở nên công dân của Vương quốc, không chỉ ở cuối đời, mà ngay lúc này" ("L'evangile de Jean", Centurion, trang 227).
2. Đức Giêsu là vua, nhưng để làm chứng cho chân lý.
Bởi vì Philatô gạn hỏi: "Vậy ông là vua ư?”, Đức Giêsu phá tan mọi hiểu lầm bằng một câu xác quyết long trọng. Sứ mạng của Người nơi trần gian là "làm chứng cho chân lý" (từ "làrn chứng" trong tiếng Hy lạp là "martyr": tử đạo). Chân lý này chính điều đã được nói đến trong chương Nhập đề của Tin Mừng thứ bốn ("Người Con duy nhất đầy ân sủng và chân lý"): Chân lý về Thiên Chúa, Chân lý cho biết Thiên Chúa là ai: Thiên Chúa là tình thương, Thiên Chúa cứu độ, mà Đức Giêsu là Người mạc khải, Người đã đến trần gian để đề nghị cho con người ơn thông hiệp vào đời sống thần linh. Người làm chứng bằng hành động, đến mức đổ máu để đóng ấn cho việc làm chứng. Đức Giêsu không chỉ đến cứu dân tuyển chọn mà thôi, nhưng để cứu "bất cứ ai thuộc về chân lý”.
Sứ mạng của Người, và có thể nói vương quốc của Người, đang thuộc về thế gian này, nhưng nó hoạt động ở thế gian này, trên thế giới này: nó mặc khải cho bất cứ người nào Chân lý về Thiên Chúa. Người làm việc đó ở đâu, bao giờ? Khi mà Người được nâng lên khỏi đất, được ngự trên tòa thập giá. Mọi người rồi phải tỏ rõ lập trường: “ Hễ ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi" Nếu Đức Giêsu thi hành quyền bính, thì chỉ bằng cách từ trên trời cao,thập giá Người lôi kéo người ta đến bằng đức tin và lòng yêu mến. Người không cai trị, nhưng chỉ mời gọi người ta tự nguyện đi theo người. Ta không thể lẩn trốn như Philatô, bằng cách đặt câu hỏi: Chân lý là gì?" ("Célébrer" tạp chí của Trung tâm phụng vụ toàn quốc, số 243, trang 42).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Đức Giêsu, một vị vua đảo ngược mọi điều người ta suy diễn.
(x. Léon-Dufour, trong "Lecture de l'evangile selon St Jean", cuốn 4, Seuil, trang 21).
Phụng vụ tung hô Đức Kitô là "Vua Vũ Trụ”, một danh xưng xứng hợp, đoạn văn của Gioan là "một cuộc hiển linh của vi vua" Nhưng Đức Giêsu là vua theo nghĩa nào, đó là điều mà Gioan đã minh định bằng nhiều cách. Vị vua của dân Do Thái đến theo truyền thống của vua Mêsia mà Giao ước thứ nhất đã trông đợi, nhưng đã chu toàn việc chờ đợi này trên một bình diện khác. Suốt cuộc đời công khai của Người, vương quốc mà Đức Giêsu loan báo, thì thuộc về một trật tự khác. Lúc này, đối diện với quan tổng trấn Rôma, Đức Giêsu cả quyết rằng vương quốc của Người không đến từ thế gian, và nó chủ yếu là để làm chứng cho chân lý. Vị vua là "người"vừa bị đánh đòn, bị khoác áo đỏ và đội vòng gai làm triều thiên. Vị vua bị trưng bày như vua hề này ngày nay có còn cho phép người ta khoác lên vai tấm vải lừa dối, ảo tưởng nữa không? Vị vua này bị treo lên thập giá, bị mọi người ruồng rẫy. Vương quốc của Người được tước bỏ mọi giới hạn địa lý hoặc dân tộc: bởi vì "chân lý" mà Người công bố, liên quan đến mọi người. Gioan đồng quan điểm với Matthêu, tác giả trong dụ ngôn về cuộc phán xét cuối cùng chỉ rõ, người ta có thể gặp vị vua " ấy ở đâu: Vua vinh quang phán: "Điều gì anh em làm cho một người nhỏ nhất trong các người thân của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta" (Mt 25,40): để có thể tìm thấy "vua”, tôi cần phải tìm nơi người nghèo mà tôi gặp. Giêsu, người Nagiarét, vua dân Do Thái: bản án treo trên đầu thập giá mang tầm vóc toàn cầu. Trong câu 4,22 Đức Giêsu đã cả quyết với người phụ nữ Samari rằng, ơn cứu độ đến từ dân Do Thái. Trưng bày danh hiệu "vua dân Do Thái" phản ánh theo cách thế của Chúa sự tin tưởng của Người. Như vậy là đã công bố cho toàn cầu rằng lời hứa về "vị vua" đã được thực hiện: nó thành hiện thực nơi Đức Giêsu, người Nagiarét: ở nơi Người, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với loài người đã được đóng ấn.
2. Đức Giêsu, phản vua (L'antiroi)
“Nước tôi không thuộc về thế gian này”, Đức Giêsu còn nhắc lại cho những người lính binh thánh giá và những. kẻ ham hố của mọi thời đại. Nước tôi không thiết lập do việc trưng cầu dân ý, cũng không do đi chinh phục. Nó không theo lề thói trần thế cũng không tuân theo luật lệ thế gian. Nó không tuân theo bắt cứ tiêu chuẩn tự phụ nào. Nó chỉ tuân theo chân lý, nó luôn là nó.
Philatô đã không hiểu gì. Những thượng tế cũng vậy, còn các môn đệ, những người đã tranh cãi để chiếm địa vị cao vì mơ tưởng ngày vinh quang, thì cũng không hiểu bao nhiêu.
Ngày nay cũng vậy, chúng ta còn cảm thấy khó hiểu được thái độ của Đức Giêsu, và còn thấy khó hơn để chấp nhận. Đức Kitô một phản vua, giống như người ta nói về phản-ABCnh-hùng (antithéros) hoặc phản-siêu-sao (antivedettes). Người rất gần gũi, đơn giản và thân thiện.
Lòng tôn kính đối với Người không phải là tôn kính bằng sự vật và lời nói, cũng không chỉ là những định ước lễ nghi. Nó phải là tự trái tim. Quyền lực của Người là quyền lực của tình thương là sức mạnh là sức mạnh của tha thứ. Chinh phục của Người là mời gọi, và các môn đệ trung thành nhất của Người là những ai làm chứng cho chân lý... giống như Người.
Thành công của Người, cũng như những thành công của các bạn hữu Người, thường mang bộ mặt thất bại thảm thương. thập giá và máu, bạo hành và gông cùm. Tin Mừng bị nghi ngờ, phúc thật bị từ khước, canh tân và sám hối bị chê bỏ. Đức Kitô, là đầu của thân thể, không phải là cái đầu đột mão triều thiên, và Hội Thánh là thân thể của Người cũng không thoát khỏi bị bầm dập và chê cười. Cái thân thể này, nếu muốn là thân thể, chỉ cần làm một dấu lạ, như một mặt nạ gây phá sản che giấu sự trống rỗng và mời gọi người ta tôn thờ vẻ bề ngoài - chân lý bị lừa gạt.
Vương quyền của Đức Kitô nẩy mầm ở trong tâm trí và trong tâm hồn. Những cột cái nâng đỡ vương quốc là những người lính vô danh, những người trộm cướp bị treo thập giá, và những đại đội trưởng ngoại giáo. Cuộc sắc phong diễn ra tại Golgotha.