Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 6-A Bài 101-111: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn ----------------------------------- Phúc Âm: Mt 5, 17-37: "Người xưa đã bảo như thế, còn Ta, Ta bảo thật các con thế này".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai hủy bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; Trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời. Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.
Các con đã nghe dạy người xưa rằng: Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án. Còn Ta, Ta bảo các con: Bất cứ ai phẩn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là ngốc, thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với ngươi, thì ngươi hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hòa với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa ngươi ra trước mặt quan tòa, quan tòa lại trao ngươi cho tên lính canh và ngươi sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho ngươi biết: "Ngươi sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng bạc cuối cùng!"
Các con đã nghe nói với người xưa rằng: "Chớ ngoại tình". Còn Ta, Ta bảo các con: "Hễ ai nhìn xem phụ nữ mà ước ao phạm tội với họ, thì đã ngoại tình với họ trong lòng rồi. Nếu con mắt phải của con nên dịp tội cho con, thì hãy móc nó mà ném xa con; vì thà mất một chi thể còn lợi hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Và nếu tay phải con nên dịp tội cho con, thì hãy chặt mà ném nó xa con; vì thà mất một chi thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục".
Cũng có lời dạy rằng: "Ai ly dị vợ mình, trừ trường hợp tà dâm, thì làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ đã ly dị, cũng phạm tội ngoại tình".
Ý hướng sống năm nay theo tinh thần thư chung của các Đức giám mục Việt Nam là gia đình TN 6-A101
Ý hướng sống năm nay theo tinh thần thư chung của các Đức giám mục Việt Nam là gia đình sống tình yêu hôn nhân gia đình. Giờ đây thử nhìn lại, chúng ta đã sống tình yêu hôn nhân trong gia đình mình, và tình yêu hôn nhân của các bạn một cách trọn vẹn đúng như Lời Chúa chưa? Nếu đúng thì ở mức độ nào? Sống hết mình cho Lời Chúa đòi hỏi không? Hay chỉ là sống theo cảm tính: thương thì chín bỏ làm mười, mà ghét nhau nắng dãi mưa dầm mặc nhau. Yêu nhau con mắt liếc qua, ghét nhau ném đá chửi đổng nhau ra. Tết năm nay tôi đến tới đâu, nhà nào… hay nhiều người gọi điện nói với tôi rằng Cha ơi, năm nay nhà con bóc Lời Chúa đầu năm đúng ngay tim đen, hay lắm. Tôi mới nói lại họ rằng anh chị nhớ sống Lời Chúa dạy đó hằng ngày trong cuộc sống nghe, Lời Chúa thì lúc nào không hay, không đúng nếu mình sống hay, sống đúng với Lời Chúa mới đem lại phúc lộc cho gia đình anh chị không chỉ năm nay mà cả đời sau nữa đó.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống đời sống tình yêu hôn nhân ngay trong gia đình tương lai hay hiện tại: tình yêu không giận hờn ghen ghét vì đó là cớ dẫn đến tội: ngoại tình, ly dị, bạo lực gia đình nên Chúa Giêsu răn dạy tiếp: chớ ngoại tình, đừng ly dị, đừng thề thốt và chớ trả thù. Vì vậy, trước hết, trong tình yêu hôn nhân chớ có giận hờn ghen ghét vì chúng ta biết giận là một trong thất tình của con người, tức bảy tình cảm của con người Chúa phú bẩm cho: hỷ (vui), nộ (giận), ái (thương), ố (ghét), ai (buồn), ô (sướng, khoái), dục (muốn). Giận là tức. Khi giận thường mất khôn và nói quá lời, cho nên ông bà nói: “giận mất khôn”. Tức ai thì nói cho đã tức nhưng sau đó lại hối hận, nhưng muộn rồi. Làm sao để chừa hay từ bỏ tính nóng giận của mình không? Từ bỏ hẳn thì không, vì nó thuộc bản năng con người, nhưng làm chủ được nó thì có thể vì chúng ta có trí khôn. Một người biết mình nóng tính, nên thường ngày tập sống tha thứ, tập sống dịu dàng, vui vẻ với mọi người; từ từ người đó sẽ làm chủ được những cơn nóng giận của mình tránh khỏi tai hại kinh khủng trong hôn nhân gia đình. Còn ghen ghét là một trạng thái cảm xúc tâm lý của con người phản ánh những suy nghĩ mang tính tiêu cực được biểu hiện bằng cảm giác bất an, sợ hãi, bực tức, ích kỷ, cảm thấy mình thua kém và lo lắng về một sự mất mát.
Sau khi con người bỏ Thiên Chúa, thì lòng yêu mến nhau đã bị thương tổn nặng nề (Rm 3: 10tt), và sự ganh ghét xâm nhập vào thế gian. Khởi đầu là việc ghen ghét của Cain với em mình là Abel nên anh giết em, cả hai là con trai của tổ tông Adam. Rồi đến vụ bà Sara vợ của tổ phụ Abraham, Sara đã ghen tức với Hagar vì người nữ tỳ có con với ông Abraham đàng khi mình vợ chính lại không có con. Trong Tân Ước, khi Gioan và Giacôbê được mẹ dẫn đến gặp Đức Giêsu để xin địa vị cho hai con mình, một ngồi bên tả một ngồi bên hữu Đức Giêsu trong vinh quang Nước của Ngài, các tông đồ khác nghe được thì ghen tức với hai ông kia (Mt 20: 24). Còn trong lịch sử loài người, việc ghen ghét giữa vợ chồng, con cái anh em trong nhà xảy ra tràn lan khắp đó đây như cơm bữa.
Cuộc sống gia đình có những lúc êm ấm hạnh phúc, nhưng cũng có những lúc bất hoà, cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt. Dù vợ chồng có yêu nhau thắm thiết, nhiều lúc vẫn xảy ra những bất hoà. Những bất hoà đó có thể làm cho tình yêu bị sói mòn và có thể đưa đến những đổ vỡ tai hại dẫn đến chia tay, ly thân, ly dị, ngoại tình... Tuy nhiên, nếu biết cách giải quyết, chúng sẽ là cơ hội giúp đội bạn hay vợ chồng hiểu nhau hơn và tình yêu mỗi ngày một thêm triển nở và hạnh phúc dài lâu và đương nhiên sẽ không có chuyện: “Em ơi! hết rồi hết rồi. Chẳng còn chi nữa đâu em. Yêu thương như nước trôi qua cầu Như đàn trỗi cung sầu. Còn gì nữa đâu? Tôi thề tôi chẳng yêu ai. Vì người ta cứ phụ tôi hoài. Bây giờ tôi chẳng còn tin. Trong nhân gian có kẻ chung tình. Tôi giận tôi đã ngây thơ. Đem tình yêu hiến dâng cho người hết. Nên giờ tôi chẳng còn chi. Khi người ngoảnh mặt mà đi”.
Thế nhưng, làm sao để tình yêu dành cho nhau mỗi ngày một thêm triển nở không có chuyện trái ngang, ghen ghét, ly thân hay ly dị? Làm sao để sống lời cam kết ngày thành hôn được thêm sâu xa hơn, để tình nghĩa vợ chồng ngày càng thêm đậm đà và bền chặt? Lời Chúa trong bài đọc 1 nói: Thiên Chúa không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội nên đôi bạn hay vợ chồng cần phải: (1) Tôn trọng nhau vì chưng trong ngày thành hôn, anh chị cầm tay nhau cam kết sẽ yêu thương và tôn trọng nhau không chỉ một năm, hai năm, năm năm, mà là “mọi ngày suốt đời”. Vợ kính trọng chồng, chồng tôn trọng vợ qua việc nhìn nhận và đón nhận nhau. Vợ không phải là người hầu hoặc nô lệ của chồng, mà là người bạn đời. Nam và nữ khác biệt nhau, nhưng bình đẳng với nhau vì cả hai đều là hình ảnh Thiên Chúa, được tạo dựng để trở thành trợ tá của nhau, bổ túc cho nhau và hiệp thông với nhau đồng thời đón nhận những ưu điểm, những khuyết điểm, những khác biệt về cách suy nghĩ, cảm nhận... qua việc trao đổi, lắng nghe, để hiểu biết con người của nhau hơn, nhờ đó giúp nhau mỗi ngày một nên hoàn thiện. (2) Hy sinh cho nhau vì hạnh phúc của vợ, của chồng, của con.
Hạnh phúc gia đình được xây dựng bằng những điều nhỏ mọn, bằng những hy sinh liên lỉ hằng ngày của cả đôi bên, chẳng hạn như trong việc sử dụng tiền bạc, thời giờ, mua sắm, giải trí... Sự hy sinh còn được biểu lộ qua việc quan tâm đến nhau, chăm sóc, lo lắng cho nhau, không quản ngại vất vả, gian khổ vì nhau, nhất là khi người bạn đời gặp thử thách, bệnh tật, khó khăn. (3) Đối thoại với nhau vì chưng đối thoại là yếu tố quan trọng giúp duy trì và củng cố hạnh phúc trong gia đình. Nhờ đối thoại, vợ chồng, cha mẹ và con cái hiểu nhau hơn, giảm bớt những bất đồng. Những chuyện quan trọng trong gia đình vợ chồng cần phải chia sẻ, bàn bạc cùng nhau. (4) Làm tròn bổn phận vợ chồng vì chưng, Thánh Phaolô khuyên các cặp vợ chồng: “Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy” (1 Cr 7,3-5). Và cuối cùng, cầu nguyện với nhau và cầu nguyện cho nhau vì chưng Thiên Chúa là Tình yêu. Ngài luôn muốn đồng hành với hai vợ chồng để giúp họ yêu thương nhau và xây dựng cuộc sống hôn nhân và gia đình hạnh phúc như Ngài mời gọi họ. Vì thế, phải thường xuyên cầu nguyện với nhau và cầu nguyện cho nhau. Hạnh phúc của gia đình là có Chúa hiện diện trong nhà, chia sẻ mọi biến cố vui buồn. Ngài ở giữa như nút dây nối kết hai vợ chồng, giúp họ lắng nghe nhau, hiểu nhau, thuỷ chung với nhau và cùng nhau tiến bước, vượt qua mọi gian nan thử thách của cuộc sống.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa giúp mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta quyết tâm sống Tâm Thư của HĐGM VN mời gọi: các Gia đình công giáo hãy yêu thương bằng tình yêu hợp nhất thủy chung, xuất phát từ Thiên Chúa Tình Yêu. Mối tương quan giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái cũng như giữa anh chị em với nhau, phải là dấu chỉ sống động của Tình Yêu Thiên Chúa. Vì thế, các gia đình công giáo phải loại bỏ mọi thứ ghen ghét, bạo hành, hội chứng ly thân hay ly dị nhưng “hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13) nhờ đó hạnh phúc và tình yêu hôn nhân gia đình mỗi ngay triển nở và dài lâu. Amen.
Tin Mừng hôm nay xoay quanh một ý tưởng duy nhất là “kiện toàn Lề Luật”. Chúa Giêsu tuyên bố TN 6-A102
Tin Mừng hôm nay xoay quanh một ý tưởng duy nhất là “kiện toàn Lề Luật”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”. Kiện toàn phải hiểu như thế nào? Tại sao Luật Chúa phải được kiện toàn?
Thiên Chúa muốn dẫn đưa con người sa ngã trong tội, chịu ảnh hưởng của tội nguyên tổ, về với Ngài để cùng được hạnh phúc với Ngài. Ngài muốn con người chia sẻ hạnh phúc của Ngài sau khi đã phản bội. Ngài giáo dục họ tuần tự, tùy theo mức độ tiến hóa của họ. Vì thế Ngài đi từ việc dễ đến việc khó. Ngài tỏ ý muốn của Ngài tuần tự theo thời gian chứ không đốt giai đoạn. Chính Chúa Giêsu cũng nói với các môn đệ: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng anh em sẽ không chịu nổi. Thánh Thần sẽ đến sẽ nhắc anh em nhớ những gì Thầy dạy và sẽ dạy anh em hiểu tất cả”. Vì thế, kiện toàn là giai đoạn cuối của một tiến trình lâu dài được kết thúc nơi Ngài. Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”. Ngài mặc xác phàm, nhận lấy thân phận con người như chúng ta, sống như mọi người trừ tội lỗi, sống trong Lề Luật để cứu vớt những người sống dưới Lề Luật. Ngài kiện toàn Lề Luật vì sự yếu đuối của con người. Ngài phải tùy theo khả năng của con người để dẫn họ đến toàn thiện.
Kiện toàn là đề nghị một lối sống mới, một cách giữ Luật, không bằng những việc làm chiếu lệ, mà giữ Luật bằng con tim. Đối với Ngài, Lề Luật không là những chữ viết trên giấy hay khắc trên bia đá, mà khắc trong con tim, là ý muốn của Chúa Cha. Giữ Luật tức là vâng lời trong tình con thảo. Chúa Giêsu đã vâng phục Chúa Cha đến nỗi Ngài có thể nói: “Thầy làm mọi sự theo ý Đấng đã sai Thầy”. “Của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy”. Sự vâng phục tuyệt đối đó được thể hiện trên thập giá: “Ngài đã vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá”.
Kiện toàn chính là nội tâm hóa cách giữ Luật. Chúa Giêsu nói đến người Pharisêu: “Nếu anh em không công chính hơn nhưng người Pharisêu thì sẽ chẳng vào được Nước Trời”. Vì sao thế? Vì theo đa số người Pharisêu, giữ Luật là làm đúng như Luật dạy mà không cần chú ý đến tinh thần. Ăn chay, bố thí… chỉ cần làm như Luật dạy là đã giữ Luật rồi, nghĩa là ăn chay thì không cần phải đạo đức; bố thí thì cứ bỏ tiền vào thùng mà không nghĩ đến việc mình làm. Như thế là công chính rồi. Vì thế Chúa Giêsu không thể chấp nhận cách giữ Luật hình thức như thế. Trong dụ ngôn người thu thuế và người Pharisêu lên Đền thờ cầu nguyện, người Pharisêu kể ra những việc đạo đức mình làm và tự thỏa mãn vì đã làm đúng Luật, tự cho mình là đạo đức. Thực ra họ không phạm tội gì, nhưng không phải vì thế mà có thể cho mình là công chính.
Chúng ta có hơn người Pharisêu không? Cũng cần nhìn lại cách thế chúng ta giữ luật. Chúng ta dự lễ, xưng tội, cầu nguyện như thế nào? Chúng ta làm lấy lệ, lấy có mà tâm hồn không liên hệ gì đến Chúa. Chúa Giêsu đã từng nói: “Không phải chỉ nói lạy Chúa! lạy Chúa! mà được vào Nước Trời đâu, nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy… mới được vào mà thôi”. Nước Trời không dành cho những người chỉ nói bằng miệng mà không thi hành một cách hoàn hảo những ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu kiện toàn Lề Luật bằng chính nếp sống của Ngài, bằng sự vâng phục triệt để ý muốn của Chúa Cha. Ngài nhận lấy thân phận con người như chúng ta để chúng ta có thể nhìn nơi Ngài mẫu gương tuyệt hảo của vâng phục. Ngài sống như chúng ta, cũng lệ thuộc vào những điều kiện vật chất như chúng ta. Ngài cũng phải lao động kiếm sống, vất vả từng ngày như chúng ta, nhưng luôn làm đẹp ý Cha trên trời.
Ngài kiện toàn Lề Luật khi giúp những người yếu đuối trở về con đường vâng phục. Giakêu, Matthêu, Mađalêna, người nữ Samari… Những người đó là những người đã theo Ngài, chuyển hóa đời sống mình theo mẫu gương của Ngài. Và trở nên những con người thành toàn.
Chính Ngài trở nên Luật cho chúng ta. Ngài chính là người Con mà Chúa Cha đã chấp nhận: “Con là Con Yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Con”. Ngài muốn chúng ta cũng trở thành con thảo của Chúa Cha như Ngài.
Hơn nữa, Ngài ban một luật mới, đó là luật tình yêu. Tình yêu chính là lề luật duy nhất, tất cả đều quy hướng về tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài muốn chúng ta sống trong tình yêu của Ngài và sống với mọi người anh em trong tình yêu đó. Đó chính là chóp đỉnh của Lề Luật. Thánh Phaolô cũng đi theo đường lối đó: “Tình yêu kiện toàn mọi Lề Luật”. Và đúng thế. Mười điều răn Chúa chỉ quy tụ chung quanh tình yêu. Ba điều răn đầu là yêu mến Chúa, bảy điều răn sau quy hướng về con người và đòi hỏi yêu thương mọi người. Mười điều răn đều tóm vào hai điều là mến Chúa và yêu người.
Chúa Giêsu kiện toàn Lề Luật bằng cách nêu lên cho mọi người thấy phải giữ Luật Chúa như thế nào. Chính Ngài tuyên bố: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ giết người, còn Thầy… Thầy bảo…”. Điều này cho chúng ta thấy quyền tuyệt đối của Chúa Giêsu. Ngài chính là Đấng ra luật. Chúng ta không mấy khi để ý đến cách nói như thế. Ngài nói một cách mạnh mẽ, quyết liệt: “Còn Thầy, thầy bảo anh em…” Ngài chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa ngay từ khi mới khởi đầu rao giảng. Chính Ngài ra luật chứ không mượn một uy quyền nào khác. Ngài có quyền ra luật.
Ngài kiện toàn Lề Luật khi dạy cho người ta giữ luật đến mức trọn lành. Luật cũ dạy: “Chớ giết người”. Giết người mới là tội đáng chết. Ngài bảo: chỉ cần xem anh em là ngu ngốc thì cũng đáng bị lên án rồi. Chỉ cần một tư tưởng thôi cũng đủ bị lên án.
Chớ ngoại tình. “Thầy dạy anh em: bất cứ ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”. Sự trong sạch phải đạt đến mức tế nhị tối đa. Phải trong sạch cả trong ý muốn. Và những lề luật khác cũng vậy. Phải đạt đến mức vẹn toàn chứ không chỉ căn cứ vào hành động.
Và điều Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thi hành triệt để là “phải trọn lành như Cha chúng con ở trên trời là Đấng trọn lành”. Đó là đỉnh trọn lành phải đạt đến. Chúng ta nghĩ sao? Nhiều người bảo rằng, tôi không có tội gì nặng, nhưng trong lòng vẫn còn những tư tưởng xấu, còn hận thù, còn tham lam ganh ghét… Một nhà đạo đức nói: “Nếu bạn không làm như bạn nghĩ, thì bạn sẽ nghĩ như bạn làm”. Chúng ta bằng lòng với sự ươn lười của chúng ta, không cần cố gắng. Chúng ta không còn tâm thức về tội. Phạm tội mà không bao giờ biết mình đã làm sai. Tự tha thứ cho mình. Chúng ta thuộc hạng người chỉ nói: “lạy Chúa! Lạy Chúa”. Nước Trời không rẻ tiền như chúng ta tưởng: “Chỉ có những người dũng cảm mới được vào” Chúa nói như thế. Thánh Phaolô cũng không nhân nhượng đối với những người giữ đạo lấy có lấy rồi. Phải vác thập giá, phải bỏ mình. Những lời ấy không chỉ là những lời nói suông. Chúng ta cần chỉnh lại cuộc sống. Can đảm rủ bỏ những gì là tội lỗi và “mặc lấy khí giới của ánh sáng”.
Chúa Giêsu là lề luật sống của chúng ta. Nhìn Ngài để theo gương Ngài. Ăn lấy Ngài để sống với Ngài trong một mối tình không sứt mẻ, để “vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời”. Chóp đỉnh của đời sống và hạnh phúc là có thể nói như Chúa Giêsu vào giây phút cuối cùng: “Mọi sự đã hoàn tất”.
Khi đọc lại nhiều Thánh vịnh chúng ta mới cảm nhận được hết vẽ đẹp của đức tin sâu xa nơi TN 6-A103
Khi đọc lại nhiều Thánh vịnh chúng ta mới cảm nhận được hết vẽ đẹp của đức tin sâu xa nơi Dân Cựu ước, một dân tộc nói được là say mê Thánh luật của Chúa, như cách diễn tả của Tv 118, thánh vịnh dài nhất với 176 câu, mà chúng ta vừa hát lên trong phần đáp vịnh ca:
Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp CHÚA TRỜI Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý Chúa, hết lòng hết dạ kiếm tìm Người…
Nhưng để hiểu được tại sao dân Ít-ra-en yêu mến và trân trọng Lề luật như thế, chúng ta thử ngược dòng thời gian trở về thời họ còn là một bộ lạc lang thang trong hoang mạc …
Sau khi dân Ít-ra-en được Mô-sê dẫn ra khỏi đất Ai Cập, thoát khỏi cuộc đời lầm than nô lệ, thì Thiên Chúa muốn họ hướng về tương lai trong một niềm hy vọng ngút ngàn để xây dựng cuộc đời mới trong tự do, tươi sáng.
Và để làm nền tảng cho cuộc sống mới của Đoàn Dân Được Tuyển Chọn, Chúa đã trao ban cho họ một “bảng hiến pháp” tuyệt vời, đó là MƯỜI ĐIỀU RĂN, mà Ngài đã long trọng khắc ghi vào bia đá, giao cho Mô-sê từ trên đỉnh núi Si-Nai trong khung cảnh uy hùng khói bốc, lửa dậy.
- Kể từ đây, họ sẽ được tự do thờ phượng một Thiên Chúa đích thực mà không còn phải nô lệ cho những thần tượng giả tạo hay những thứ mê tín dị đoan của người Ai Cập và dân ngoại. (Điều răn I)
- Kể từ đây, họ sẽ chọn Thiên Chúa là Cha đang đồng hành và hiện diện giữa họ, để họ có thể gặp gỡ và thân thưa cách thân tình, phụ tử, chứ không còn là một thần tượng xa vời, kết buộc con người bằng những lời thề thốt giả tạo. (Điều răn II).
- Kể từ nay, họ có một ngày nghĩ lễ Sabat tuyệt vời trong tuần để dành riêng thờ Chúa và sống đậm đà tình huynh đệ cộng đoàn, chứ không phải nơm nớp lo sợ cúi đầu để thờ phượng lung tung những thần tượng trống rỗng và bị trói buộc mỗi phút mỗi giây trước những quyền lực phù phiếm và trần tục. (Điều răn III)
- Kể từ nay giữa cộng đồng và giữa xã hội Do Thái không còn có thể xảy ra việc giết người, ngoại tình, trộm cướp, làm chứng gian, cáo tội đồng loại… (Các điều răn V, VI, VII, VIII)
- Kể từ nay trong cộng đồng và trong xã hội Do Thái không ai còn nghĩ đến chuyện ham muốn nhà cửa hay mê vợ của kẻ khác, hoặc muốn chiếm hữu tớ trai tớ gái hoặc bò lừa và bất cứ vật gì của người đồng loại…. (Điều răn IX, X)
Đây quả thật là giấc mơ cho tương tai hoàn toàn được giải phóng và tự do, giải phóng khỏi sự sợ hãi của những tộc ác và tự do khỏi những cơn cám dỗ, khỏi những khuynh hướng làm ác.
Mục đích đó đã được Sách Huấn Ca hôm nay nhắc lại: “Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội” (Bđ 1)
Nhưng rồi, qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, cho tới thời Chúa Giêsu, Bản Luật Mười Điều Răn đó, đã được người Do Thái chú giải, bày đặt, thêm thắt thành hàng trăm khoản luật nhỏ (613 khoản với 365 điều cấm và 248 điều phải làm), đến độ biến thành một “mớ bòng bong lề luật” truyền khẩu chi li, rườm rà, gần như che khuất hết vẽ đẹp rạng ngời và trong sáng thánh thiện của Mười Điều Răn. Thay vì Giới Luật của Chúa nhằm để giải thoát và cho con người được tự do trong tình yêu, lề luật đã trở thành những thứ giây chằng chịt trói buộc, biến mối tương quan giữa người và Thiên Chúa trở nên xa cách và người với người trở nên lạnh lùng.
- Vì luật họ để mặc những anh chị em bị phung cùi chết dần chết mòn trong hoang mạc với cuộc sống hoàn toàn bị cách ly, gạt bỏ.
- Vì luật, họ chẳng thèm giao tiếp với những anh chị em thu thuế, những người Samari, những bà con lương dân thấp cổ bé miệng.
- Vì luật họ khinh thường và loại trừ những hạng người như cô gái làng chơi Maria Mađalêna, hay chàng Gia-kê trưởng ty thuế vụ, hoặc người mù từ lúc mới sinh lê lết bên bờ cuộc sống…
Họ đã biến tôn giáo mặc khải trở thành tôn giáo của luật lệ, và biến lề luật trở thành những chữ viết vô hồn trong sách vở của họ hay trên những tua áo họ mang trên mình mà hoàn toàn không còn chút sức sống của tình yêu, của con tim để dành cho Thiên Chúa là Cha và cho mọi người là anh em. Chính Đức Ki-tô đã phê phán nặng nề thái độ nầy của đám biệt phái, luật sĩ đương thời: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa” (Mt 15,3). Đức Ki-tô đã đến để đem lại sức sống và vẽ đẹp tuyệt vời cho lề luật. Hôm nay, Ngài chính thức tuyên bố với những tay biệt phái bảo thủ, từng theo dõi mọi lời rao giảng và mọi hành vi của Ngài (họ soi mói việc các môn sinh của Ngài bức lúa ăn trắc trong ngày Sabat, không rửa tay trước khi ăn, không ăn chay, chữa bệnh ngày Sabat, giao tiếp với người thu thuế, gái điếm, đụng chạm đến những kẻ phung cùi, bệnh tật…), những điều mà họ hoàn toàn dị ứng và không chấp nhận được.
Tuy nhiên, Đức Kitô đã long trọng xác quyết: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.”. Và điều cốt yếu mà Đức Ki-tô muốn thiết lập để kiện toàn Lề Luật đó chính là Tình Yêu. Tình yêu dành cho Thiên Chúa và Tình Yêu đối với con người. Mọi luật lệ đều phải quy chiếu vào nội dung cơ bản nầy. Đức Ki-tô muốn những ai là môn sinh của Ngài phải chu toàn Lề Luật trong tinh thần đó: “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”. Sự công chính mới mà Ngài muốn các môn sinh của Ngài thực hiện không được dừng lại trên việc tuân thủ cách hình thức và đúng mực theo quy định của Lề Luật; nhưng tiên vàn đó là thái độ tinh thần và con tim làm nền tảng và định hướng cho mọi ứng xử.
“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy, nếu anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. …”
“Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi…”
Qua những lời tuyên bố cụ thể đó, Chúa Giê-su muốn nội tâm hóa lề luật, để con người không chỉ dừng lại trước việc thực thi và tuân thủ máy móc; nhưng là phải có một trái tim, một tinh thần, một tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân, một thứ luật “được ghi khắc trong trái tim” như ngôn sứ Giêrêmia: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta” (Gr 31,33), một loại “điều răn mới” mà Ngài đặt tên là “Anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).
Đó cũng chính là điều mà Thánh Phaolô cũng đã khẳng định sau khi Tin Mừng của Chúa Giêsu đã vượt qua biên giới Ít-ra-en để đến với thế giới: "Ai yêu thương thì đã chu toàn lề luật" (Rm 13,8), và Thánh Nhân đã gọi đó chính là “lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa” (Bđ 2); sau nầy thánh Giáo Phụ Augustinô cũng nhắc lại “quy luật nền tảng nầy” bằng một cách diễn tả khác: "Bạn hãy yêu thương đi rồi làm theo ý bạn muốn” (Ama et fac quod vis).
Trong những ngày này, cả thế giới đang hoang mang lo lắng; riêng thành phố Vũ Hán của Trung quốc đang chìm trong bóng tối của sự chết: sự chết do con virus Covid-19 nhưng cũng là sự chết do biết bao hành xử ích kỷ, đố kỵ, bất khoan dung và vô cảm của con người đối với nhau. Tuy nhiên, trong giữa cảnh đen tối đầy thất vọng đó, vẫn loé sáng lên những “thiên thần áo vàng” là các tín hữu Kitô, sẵn sàng lang thang không biết mệt mỏi trên những con đường phố chết, để phân phát khẩu trang và chia sẻ Tin Mừng cũng như niềm hy vọng và sự tín thác vào Chúa Giêsu; vẫn sáng lên mẫu gương anh hùng của bác sĩ Lý Văn Lượng, một chứng nhân của Tin Mừng giữa một Vũ Hán tối tăm, khi sẵn sàng dấn thân để phục vụ đến đổi hy sinh mạng sống.
Phải chăng, đó là những con người đã thấm nhuần và thực thi trọn hảo những lời của chính Đức Ki-tô dạy bảo: “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”. Chính những mẫu gương rạng ngời đó đang gọi mời chúng ta phải là chứng nhân cho một thế giới mới, một thế giới được giải thoát khỏi những tội ác và hổn loạn vì thiếu tình thương, khỏi u mê lầm lạc của mê tín dị đoan và nô lệ cho những thần tượng giả mạo; một thế giới đầy tình huynh đệ yêu thương, chia sẻ trong mái nhà của con cái cùng một Cha chung duy nhất; và mái nhà đó, địa chỉ đó, không đâu xa lạ, chính là cộng đoàn của chúng ta đây…
Và con đường để thực thi đời sống chứng tá đó không gì khác là cùng nhau tuân giữ và thực hành Lề Luật của Thiên Chúa trong tinh thần yêu thương mà Đức Ki-tô đã dạy. Khoản luật đó sẽ không bao giờ trở thành xưa cũ đối với chúng ta, với thế giới. Amen.
Không biết từ bao giờ, cha ông chúng ta đã biết lưu ý con cháu: khôn cho người ta vái, dại cho TN 6-A104
Không biết từ bao giờ, cha ông chúng ta đã biết lưu ý con cháu: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Đâu phải tự nhiên mà các công trình xây dựng, thường thấy xuất hiện câu châm ngôn: an toàn là trên hết. Cũng đâu phải tình cờ mà các đấng bậc lại quả quyết: không phải hễ thứ gì long lanh sáng đều là vàng, không phải cứ trái đỏ đều chín. Người ta có thể đói khát do lười biếng, có thể thành đạt vì ý chí tốt quyết tâm cao, nhưng chắc chắn nhờ kiến thức rộng, người ta tự tin giải gỡ biết bao bài toán khó nơi cuộc sống. Đâu là cơ hội để làm giầu, phương pháp học nào, giúp ta trở thành người khôn ngoan, bằng suy nghĩ rất riêng tư, ai cũng có câu trả lời, nhưng thành bại, khôn hay khờ ra sao, lại là điều vô cùng mông lung. Đâu là đường lối khôn ngoan, nhiều người vẫn mơ được, ước thấy, căn bản hơn cả đó là được bình an hạnh phúc ở hiện tại và tương lai.
Mọi người mọi thời đều có thể nói một cách xác tín, bậc cha mẹ nào cũng yêu thương và muốn con cháu mình: đi đúng đường, về đúng lối. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài đã từng thân thưa: “lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha”. Trong tư cách là thầy dạy đức tin, Đức Giêsu hôm nay đã nói với các học trò: “chúng con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật và các ngôn sứ, Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”. Rõ ràng Chúa Giêsu gián tiếp cho thấy Ngài tôn trọng lời răn dạy của tiền nhân, vì tất cả đều đến từ Thiên Chúa. Khôn ngoan đối đáp người ngoài, nhiều người vẫn cho đó là “khôn lỏi” ; khôn ngoan không loại trừ nhau, biết coi nhau là “huynh đệ”, biết cùng nhau tiến tới niềm vui thật, đạt tới sự sống và hạnh phúc thật, đó mới đáng gọi là khôn ngoan.
Xưa kia các môn đệ là những học trò trực tiếp nghe lời quả quyết của Đức Giêsu: “cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm một phết trong lề luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Đức Giêsu có nghiêm khắc không, “giáo hội” của Đức Giêsu hôm nay có cứng quá không, khi đòi buộc những ai thuộc về Đức kitô, người tín hữu muốn đạt tới sự khôn ngoan thật, đều phải biết duy trì tính bất di dịch việc sống đức tin: mến Chúa yêu người. Đồng ý rằng, cái gì mới cũng đẹp, điều gì hợp lý cũng thu hút được đám đông, nhưng đường lối khôn ngoan dẫn đưa đến hạnh phúc phải là “nền tảng vững chắc” cho đạo làm người, đạo làm con Chúa. “Đường lối chuẩn mực” chính là lề luật, là hàng rào che chắn để sự xấu không xâm phạm không làm hại ai.
Hẳn Đức Giêsu rất muốn các học trò hiểu luật lệ do ông Môisê chỉ dạy, qui định do các ngôn sứ loan báo đều đến từ Thiên Chúa, đó là đường lối khôn ngoan, là con đường dẫn tới sự sống đời đời. Đức Giêsu kiện toàn, làm mới, bằng cách mời gọi mọi người hãy đặt tình yêu thương vào trong lề luật, trong qui định mà Thiên Chúa qua các đấng bậc hướng dẫn chia sẻ cho chúng ta. Không những nghiêm túc với lời răn dạy của người xưa, Đức Giêsu còn nói: “nếu các người không công chính hơn các luật sĩ biệt phái, các ngươi sẽ không được vào Nước Trời”. Nhìn xem, phân biệt thật giả tốt xấu đã là khó, biết tiên liệu, cân nhắc điều đẹp ý Chúa để tập luyện, để sống, còn phức tạp biết bao !
Truyện cổ tích Thạch Sanh – Lý Thông, từ xa xưa đã phản ánh một chân lý ở hiền gặp lành, Thạch Sanh luôn nghĩ tốt, sống tốt với mẹ con Lý Thông ; dù bị hại nhiều lần, Thạch Sanh vẫn được giải oan, được cứu thoát, và đạt tới hạnh phúc. Ngày hôm nay, người trẻ vô cùng bi quan khi nói: lấy vợ lấy chồng là hên xui, kết hôn chỉ là bổn phận, vì Thạch Sanh thì hiếm, người tình trong mơ thì mãi là cuộc tình đẹp không xuất hiện. Cổ nhân có câu: sang trọng đâu phải đợi khi có chức tước, giầu có đâu phải đợi khi tủ đầy tiền. Có khi nào bạn và tôi ước ao sẽ là người hiền đức chưa, liệu tôi và bạn có dám quảng đại, xả thân, sống như người quân tử không ? Chúa Giêsu mời gọi các thành viên gia đình nhân loại hãy quyết tâm, hãy can đảm: “nếu tay nên dịp tội, nếu mắt nên dịp tội, hãy loại bỏ, chẳng thà các chi thể bị khiếm khuyết mà vào nước Thiên Chúa còn hơn có đủ mà phải vào chốn cực hình”.
Ngày hôm nay, giáo hội, xã hội, đều kêu gọi mỗi người hãy tôn trọng nhân phẩm con người, và chúng ta không thể dửng dưng đợi chờ người anh chị em nghĩ tốt sống tốt với mình, rồi ta mới bác ái yêu thương họ. Cũng không thể đợi tới lúc già lão bệnh tật ta mới ăn chay hãm mình ; không thể nói người ta sống sao, tôi sẽ cư xử với họ như vậy, vì đường lối khôn ngoan phải là biết nghĩ tốt, sống đúng đẹp với thiên luật, là không lỗi phạm đạo lý căn bản: tốt đạo – đẹp đời. Sau hết, Chúa Giêsu còn lưu ý chúng ta, đừng thề thốt chi cả, vì con người giới hạn, hãy cậy dựa vào tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa, để chúng ta biết nói có với Chúa và tha nhân, và nói không với ma quỷ. Amen.
Hội Đồng Giám Mục tại nước Đức vừa qua đã gây lo ngại sâu sắc cho Giáo Hội, khi họ tổ chức TN 6-A105
Hội Đồng Giám Mục tại nước Đức vừa qua đã gây lo ngại sâu sắc cho Giáo Hội, khi họ tổ chức một công nghị trên toàn quốc để bàn về các giáo huấn của Giáo Hội. Một số vị cho rằng luật của Chúa và Giáo Hội quá khắt khe, họ muốn tìm ra một số những “giải pháp mục vụ” để nới lỏng các luật của Giáo Hội. Những vấn đề được đặt ra cho hội nghị này là việc nới lỏng luật độc thân của các linh mục, vấn đề các linh mục chúc lành cho những cặp hôn nhân đồng tính và nới lỏng những vấn đề liên quan đến luật bất khả phân ly của hôn nhân trong Giáo Hội cũng như phong chức linh mục cho phụ nữ. Toà Thánh đã lên tiếng cảnh báo, nhắc nhở Đức Hồng Y chủ tịch và cả công nghị về những sai lầm nghiêm trọng họ đang gây ra và có nguy cơ làm tổn thương đến sự hiệp nhất của Giáo Hội. Tuy nhiên, một số trong Hội Đồng Giám Mục vẫn phớt lờ cảnh báo của Toà Thánh và tìm cách biện minh cho quan điểm của mình.
Thiên Chúa không ép con người phải tin theo Ngài, Ngài để cho con người hoàn toàn tự do chọn lựa và quyết định. Một khi đã tin và chọn Chúa thì sẽ phải chấp nhận những điều kiện và lề luật của Chúa. Ai dám chọn thực thi theo giới răn lề luật của Chúa thì sẽ được sống, ai từ chối sẽ tự mình đi vào chỗ huỷ diệt. Bài đọc một sách Huấn Ca đã nói lên ý tưởng này: “Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn mà trung tín làm đẹp ý Người. Trước mặt con là nước và lửa…là cửa sinh và cửa tử, ai thích gì sẽ được cái đó.” Tác giả sách Huấn Ca cũng cho thấy Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan thượng trí, Ngài nhìn thấu cõi lòng con người, mọi hành động của con người đều bày ra trước mặt Chúa. Ai sống làm sao Chúa sẽ trả cho như vậy, ai chu toàn luật Chúa với lòng yêu mến, Chúa sẽ bênh vực và bảo vệ người ấy.
Những luật sĩ và Biệt Phái Do Thái ngày xưa giữ luật cách vô hồn, họ giữ luật mà không biết mình giữ luật để làm gì, vì thế luật trở nên nặng nề đối với họ. Đức Giêsu đến rao giảng Tin Mừng, mời gọi mọi người sống tương quan Cha – con với Thiên Chúa thay vì tương quan chủ và đầy tớ; chu toàn luật Chúa là để cho mình nên xứng đáng là con của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều người nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ cải tổ, sẽ lược bớt hoặc huỷ bỏ luật của Môsê. Vì vậy, hôm nay Chúa Giêsu công khai nói lên quan điểm của Ngài: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Thầy bảo anh em, trước khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong lề luật cũng không qua đi.”
Không chỉ chu toàn mọi lề luật, Đức Giêsu còn làm cho lề luật nên trọn vẹn nhờ thái độ tuân giữ lề luật của Ngài. Đức Giêsu dành cả cuộc đời để chu toàn thánh ý Thiên Chúa; làm cho mọi lời Kinh Thánh nói về Ngài được nên trọn vẹn, cho dù vì thế mà Ngài bị kể vào số các phạm nhân và phải chết một cách đau đớn nhục nhã. Vì vâng phục hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và đặt Ngài làm thủ lãnh, làm chủ mọi loài trên trời dưới đất. Như thế, thái độ tuân giữ lề luật sẽ làm nên giá trị và đem lại kết quả hữu ích cho con người, chứ không phải chỉ chu toàn lề luật cách máy móc. Chúa Giêsu đã nói: “Ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất và dạy người khác làm như thế, thì sẽ bị coi là kẻ nhỏ nhất…Còn ai tuân hành (đầy đủ) và dạy mọi người làm như thế, thì sẽ được gọi là người lớn trong nước trời.”
Các kinh sư và người Biệt Phái là những kẻ chỉ chu toàn lề luật để được mọi người ca tụng là bậc đạo đức. Họ giữ luật không phải vì Thiên Chúa mà vì bản thân mình, vì muốn tìm tiếng khen của người đời. Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài thoát khỏi lối sống hình thức, háo danh đó. Ngài muốn các môn đệ phải đi vào chiều sâu của luật, ý thức rằng luật được đặt ra không phải để kìm hãm con người, nhưng là phương thế giúp con người đứng vững và trở nên xứng đáng với tư cách là con Thiên Chúa: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các luật sĩ và Biệt Phái, thì anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời.” Như thế, Chúa Giêsu muốn chúng ta phải dám sống khác hơn, tốt hơn và thật lòng với Chúa hơn các luật sĩ và Biệt Phái thì mới có thể vào Nước Trời.
Chúa Giêsu cũng cho thấy đòi hỏi của Tin Mừng thì cao hơn, xa hơn luật cũ: “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” So sánh này của Chúa Giêsu cho thấy mức độ, đòi hỏi, của Tin Mừng quyết liệt hơn, cao hơn luật cũ. Nếu như luật cũ dừng lại bởi luật công bằng thông thường: giết người sẽ bị trừng phạt, luật của Tin Mừng còn đòi loại trừ nguyên nhân đưa đến tội ác, đó là thù oán, nóng giận, chửi bới nặng lời. Một người có tâm hồn thanh thản bình an, sẽ loại trừ được sự nỏng nảy giận hờn, thoá mạ khi trái ý; khi tâm hồn thanh thản bình an thì mới có thể đến với Chúa cách chân thành được. Chúa muốn chúng ta trước khi đến với Chúa cần giải gỡ mọi mối bất hoà dù mình gây ra hay người khác gây ra với mình: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.”
Chúa Giêsu đưa ra một số ví dụ để cho thấy luật của Tin Mừng hoàn toàn trổi vượt hơn luật của Môsê: Tội ngoại tình là tội phản bội lại tình yêu của người bạn đời, làm đổ vỡ mối dây thuỷ chung một vợ một chồng. Theo luật của Tin Mừng, tội ngoại tình được bắt đầu từ trong suy nghĩ, sự thèm muốn. Như thế, dù chỉ nhìn người khác giới mà đem lòng khát khao thèm muốn thì đã là tội trong tư tưởng rồi.
Cũng vậy, Luật Tin Mừng đòi mỗi người phải sống ngay thẳng thật thà trong lời nói, việc làm, gạt bỏ khỏi mình tất cả các hình thức gian tham, dối trá. Khi mỗi người tín hữu sống thật, nói thật và làm thật, thì không cần phải thề và cũng không cần nhân danh ai mà thề. Khi đó, lời nói của người tín hữu được bảo đảm bằng chính phẩm giá và tư cách là người tín hữu con của Chúa. Ngược lại ai nuôi dưỡng trong mình sự gian tham dối trá, nói dối, làm dối, kẻ đó thuộc về ma quỷ: Vì “có” thì nói “có”, “không” thì nói “không”; thêm điều đặt chuyện là do ác quỷ.
Có nhiều người, nhất là dân ngoại cho rằng đòi hỏi của luật Chúa quá khắt khe, khó có thể thực hiện. Thánh Phaolô trong thư Côrintô cho biết giáo lý Tin Mừng mà Ngài rao giảng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian và thế gian không thể hiểu được, nhưng là sự khôn ngoan nhiệm màu của Thiên Chúa, đã được tiền định cho chúng ta. Chỉ những ai tin và dám sống theo những đòi hỏi của luật Tin Mừng, thì mới là kẻ khôn ngoan đích thực. Thần Khí của Thiên Chúa sẽ thêm sức mạnh và thôi thúc để ta có thể chu toàn vuông tròn giới răn lề luật của Chúa.
Thưa quý OBACE, những đòi hỏi của giới răn lề luật của Chúa luôn là lời mời gọi và là thách đố cho chúng ta. Nhiều người đã tìm cách sống dễ dãi, lách luật bằng nhiều cách, có người lại muốn chỉ giữ một vài đòi hỏi tối thiểu của luật. Trong đời sống hôn nhân gia đình, một số người đã tự mình chối bỏ luật Chúa bằng việc tự ý bỏ nhau, nhiều người khác coi thường luật Chúa, đem nhau ra toà đời ly dị, để huỷ bỏ luật Chúa cách công khai trước mặt người đời. Đó là việc vi phạm luật Chúa hết sức nghiêm trọng.
Trong làm ăn, nhiều người đã nhắm mắt làm ngơ trước đòi hỏi sống công bằng, ngay thẳng, thật thà theo Tin Mừng. Họ biện minh cho sự gian dối của mình bằng nhiều cách để đánh lừa lương tâm của mình.
Xin Chúa giúp chúng ta biết đón nhận lề luật và giáo huấn của Chúa và Hội Thánh với lòng yêu mến. Xin cho chúng ta luôn xác tín rằng, yêu mến luật Chúa là chọn sống khôn ngoan và chu toàn luật Chúa sẽ đưa chúng ta đến gần Chúa hơn. Amen.
Sau bài giảng trên núi về Tám Mối Phúc Thật, rồi sang Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu nói về TN 6-A106
Sau bài giảng trên núi về Tám Mối Phúc Thật, rồi sang Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu nói về bản chất và sứ vụ của các môn đệ là muối và ánh sáng cho trần gian. Hôm nay, Ngài đi thêm một bước nữa để dạy cho các ông về thái độ cần có đối với Lề Luật. Mặt khác, Đức Giêsu cũng làm toát lên vai trò Thiên Sai của mình khi đến để kiện toàn Lề Luật cũ và làm cho nó hoàn thiện hơn.
Tại sao phải kiện toàn Luật cũ?
Phải kiện toàn Luật cũ, bởi vì Luật cũ đã làm cho người ta cảm thấy nặng nề, sợ hãi và thất vọng. Vai trò của Luật trong Cựu Ước không còn giúp cho con người được hạnh phúc, trái lại, nó làm cho người phải thi hành luật thêm đau khổ và thất vọng.
Đức Giêsu đến, Ngài đã mang lại cho Luật cũ một giá trị mới, nhằm kiện toàn cho tốt hơn. Vì thế, Ngài minh định: “Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ Lề Luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn” (Mt 5,17). Thật thế, Đức Giêsu không hủy bỏ Lề Luật, nhưng Ngài giúp cho nó hoàn thiện hơn.
Tại sao Luật cũ cũng là Luật của Thiên Chúa truyền qua Maisen và các tiên tri mà lại phải hoàn thiện! Điều đó thật dễ hiểu, vì Luật cũ chỉ nắm vai trò dẫn đường, chuẩn bị, khai mở mà thôi, mặt khác, nó đã bị những người nắm giữ vai trò giải thích Luật lạm dụng và làm cho nó trở nên nặng nề như cái gông cái ách quá nặng để đè lên vai con người, mặc dù những người đó không đủ sức mang vác.
Vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài cần phải kiện toàn và bổ xung cho hoàn chỉnh; đồng thời cũng giúp cho các môn đệ hiểu và sống cho đúng tinh thần của Luật chứ không chỉ hiểu theo nghĩa đen, nghĩa thuần túy của chữ.
Đức Giêsu đã đưa các môn đệ đi vào chiều kích mới của Luật, để con người đạt được sự viên mãn và cùng đích của Luật là tình yêu.
Như vậy, Luật tình yêu được Đức Giêsu đề cập đến cụ thể trong bài Tin Mừng hôm nay là gì?
Tinh thần mới trong Lề Luật cũ Trước tiên, hiểu về vấn đề giết người:
Nếu trong Cựu Ước, giới răn thứ 5 dạy chớ giết người (x. Xh 20,13; Đnl 5,17), nhưng không có tính cách triệt để, và án tử hình được chấp nhận khi con người phạm vào một số tội trọng (x. Ds 35,16-21). Cũng vậy, trong luật chiến tranh, Maisen chấp nhận được chém giết đối phương (x. Đnl 20,13.16).
Còn Đức Giêsu, Ngài đi xa hơn nữa để dạy cho các ông hiểu rằng: khi xúc phạm tới anh em mình như chửi rủa, giận giữ hay la rày, mạt sát là đã phạm tội rồi. Bởi vì: Luật cũ dạy: “Chớ giết người”, còn Đức Giêsu dạy: “Ai giận anh em mình” thì như đã phạm tội giết người. Vì thù oán anh em là đã tiêu diệt họ ngay trong lòng mình, tuy chưa giết họ thực sự, nhưng đã giết chết họ trong trái tim. Thánh Gioan Tông đồ cũng viết: “ Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1Ga 3,15).
Thứ đến, hiểu về lời thề và làm chứng:
Trong Cựu Ước, điều răn thứ 2 dạy chớ kêu tên Ðức Chúa Trời vô cớ (x. Lv 19,12) và thứ 8 dạy chớ làm chứng dối (x. Xh 20,16). Luật cũ cho phép thề, nhưng “chớ bội thề”. Còn Đức Giêsu bảo: “Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Ðừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Ðừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Ðừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Ðức Vua cao cả. Ðừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hóa trắng hay đen được. Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 34-37; x. 2Cr 1,17; Gc 5,12).
Tiếp theo, hiểu về tội ngoại tình:
Luật Maisen dạy rằng: ngoại tình là một điều sai quấy và không được phép (x. Xh 20,14; Xh 20,17b; Đnl 5,18). Còn Đức Giêsu thì nhấn mạnh đến cái tâm con người, tức là tự đáy tâm hồn: không ai biết, nhưng Thiên Chúa biết mọi sự từ thâm cung bí hiểm của con người. Vì thế, Ngài nói: “Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 28). Đức Giêsu coi suy tưởng để dẫn đến ngoại tình nó như là một mầm mống, để rồi từ đó sẽ mọc lên cây non và hình thành nên một lối sống. Vậy muốn diệt thì phải diệt tận gốc chứ không chỉ có cái ngọn.
Như vậy, trong vai trò Thiên Sai, Đức Giêsu đến để kiện toàn và làm cho nó tốt hơn, hoàn hảo hơn, nhân bản và đạo đức hơn nhờ vào cái gốc là bác ái và yêu thương.
Lời dạy của Đức Giêsu không đi ngược những gì Maisen đã dạy, nhưng Ngài muốn dẫn đưa con người đến mức độ trưởng thành nhằm hướng tới niềm vui trọn vẹn từ trong tâm, toát ra nơi lối sống qua mọi mối tương quan.
Sau khi chứng minh cho việc trung thành giữ Luật của mình để các môn đệ hiểu, Đức Giêsu chính thức đi xa hơn để dạy cho các ông bài học về tinh thần mới trong Luật cũ, đồng thời mời gọi các ông đi trên con đường ấy để được hoàn thiện, Ngài nói: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”(Mt 5,20).
Sứ điệp Lời Chúa
Trong cuộc sống, nơi gia đình hay bất kể một cộng đoàn lớn nhỏ nào, nếu chỉ có luật và người ta dùng luật để làm thước đo giá trị tâm linh, thì cộng đoàn ấy, gia đình đang tụt hậu và đi xa đường lối của Thiên Chúa. Họ đánh mất đi tình yêu và mất luôn bản chất của Đạo.
Thật vậy, nếu chỉ vì luật, người ta sẽ xử với nhau như beo cọp, gọi nhau bằng mệnh lệnh, và cấp dưới sẽ vì sợ mà phải thi hành. Một gia đình hay một cộng đoàn như vậy thì đâu khác gì một địa ngục ở trần gian? Bởi vì trong địa ngục thì không có tình yêu.
Có một linh mục tâm sự rằng: “rất nhiều người siêng dâng lễ, đọc kinh, tuần nào tiết ấy, nhưng thực chất họ làm những chuyện đó chỉ để cho người khác khen mình là người đạo đức, là tốt lành, hoặc coi những công việc đó như là chiếc bình phong để che đậy những điểm xấu xa bởi những thủ đoạn ám muội của mình gây ra, hoặc dựa trên những việc đạo đức giả tạo đó để rồi lên mặt dạy ông nọ, chửi bà kia và vênh vang với đời”.
Những người như vậy, họ giống như cái “xác vô hồn”, hay “thùng rỗng kêu to” hoặc như một “đàn gà công nghiệp”. Họ giống như những “mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế!” (Mt 23, 27-28); lòng họ không có lòng mến, nên tất cả chỉ là giả tạo theo kiểu: “Khẩu Phật tâm xà”; hay “bên ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Mong thay, mỗi chúng ta luôn nhớ rằng: việc giữ Luật không chỉ có biểu hiện bề ngoài, mà còn từ bên trong tinh thần. Cái bên ngoài chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy từ ý hướng ngay lành ở bên trong.
Cũng thế, muốn bình an, thanh thản và an vui thực sự, con người cần phải thanh tẩy tận căn từ bên trong tâm của mình. Bởi vì: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Nguyễn Du).
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cho chúng con biết sống thật với lòng mình, để đáng được gọi là con Chúa và là anh chị em của nhau. Luôn có cái nhìn bao dung với người đồng loại, và mưu cầu hạnh phúc cho những người chúng con gặp gỡ. Amen.
Thi sĩ Xuân Diệu nói:”Đố ai định nghĩa được tình yêu”. Đúng thế, cho đến nay chúng ta chưa TN 6-A107
Thi sĩ Xuân Diệu nói:”Đố ai định nghĩa được tình yêu”. Đúng thế, cho đến nay chúng ta chưa có được một câu định nghĩa nào về tình yêu khả dĩ có thể bao hàm được mọi khía cạnh của tình yêu. Thi sĩ Hồ Dzếnh cũng chỉ nói được như thế:”Yêu là khó nói cho xuôi, bởi ai hiểu được sao trời lại xanh”. Thánh Gioan cũng chỉ có thể nói:”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 13,7). Đức Giêsu chỉ khuyên người ta yêu nhau mà không hề định nghĩa tình yêu là gì, vì Ngài không muốn dùng đến những từ ngữ hay những tư tưởng trừu tượng mà chỉ khuyên người ta thực hành tình yêu thôi.
Với những lời tạ từ trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu chỉ dùng những lời thân tình mà khuyên các môn đệ:”Nếu các con yêu mến Thầy, các con hãy giữ các điều răn của Thầy”(Ga 14,15). Nói như thế, Đức Giêsu không chấp nhận một thứ tình yêu trừu tượng, mông lung, hoa mỹ hoặc văn vẻ như trong tiểu thuyết, thi ca hay trong các nghệ thuật thứ bảy. Ngài muốn một tình yêu sinh động và cụ thể đối với Ngài và đối với nhau. Theo đó, tình yêu của chúng ta đối với Ngài là vâng phục theo đường lối của Chúa, tức là tuân giữ các điều răn Ngài truyền, vì chính Ngài đã yêu mến Chúa Cha bằng cách vâng phục và thi hành mệnh lệnh của Cha Ngài (Ga 15,10).
Kitô hữu đích thực là dồn tất cả tham vọng của mình vào việc mô phỏng theo Đức Kitô. Người ta thường nói:”Kitô hữu, đó là Đức Kitô khác: “Alter Christus”. Không có định nghĩa nào chính xác và hay đẹp hơn. Khi đã theo Đức Kitô thì phải đi theo con đường khổ giá mà Ngài đã đi. Tuân theo thánh ý Chúa và giữ các điều răn của Đức Kitô là đang đi trên con đường khổ giá và con đường này sẽ dẫn chúng ta đến vinh quang.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Cv 8,5-8.14-17.
Các tín hữu của cộng đoàn Giêrusalem bị các người Do thái bách hại đã lánh sang vùng Samaria của dân ngoại. Thầy phó tế Philipphê được sai đến rao giảng Tin Mừng. Dân chúng hoan hỉ đón nhận Tin Mừng này, và tiếng tăm đã đồn đến tai các tông đồ. Các ngài liền cử ông Phêrô và Gioan đến đặt tay ban Thánh Thần cho họ vì họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu.
+ Bài đọc 2: 1Pr 3,15-18
Thánh Phêrô gửi thư cho các tín hữu đang bị bách hại vì đạo Chúa để chỉ dạy cho họ cách thức thể hiện niềm tin và hy vọng của mình trước mặt lương dân. Người ta sẽ chất vấn về niềm tin của họ, thì phải trả lời cho họ bằng hai cách sau đây:
a) Hãy trả lời cho họ bằng những lời lẽ ôn hòa và trong sự kính trọng.
b) Hãy ăn ở công minh chính trực khiến cho những kẻ bách hại phải xấu hổ vì đã bách hại.
+ Bài Tin Mừng: Ga 14,15-21.
Đức Giêsu biết trước việc Ngài ra đi sẽ làm cho các môn đệ xao xuyến nên trước khi đi vào cuộc tử nạn, đã yên ủi các ông một cách chân tình. Ngài khuyên các ông hãy yên tâm vì Ngài không để các ông sống chơ vơ như những đứa con mồ côi đâu, Ngài sẽ sai Đấng Phù trợ khác đến ở với họ luôn mãi. Đấng Phù trợ khác mà Chúa Cha sẽ ban cho đây, chính là Chúa Thánh Thần mà các ông sẽ được lãnh nhận vào dịp lễ Ngũ tuần. Chúa Thánh Thần sẽ làm cho các tông đồâ yêu mến Chúa và thi hành lời Ngài dạy.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. NHỮNG LỜI NHẮN NHỦ THÂN TÌNH.
Trong bữa Tiệc ly, sau khi truyền cho các môn đệ phải yêu mến nhau và đặt việc yêu mến nhau như là dấu chỉ để mọi người nhận ra họ là môn đệ đối với Ngài. Mở đầu đọan trích Tin mừng hôm nay theo thánh Gioan, Đức Giêsu nói:”Nếu các con yêu mến Thầy thì các con sẽ tuân giữ mệnh lệnh Thầy”(Ga 14,15).
Việc yêu mến đó được Đức Giêsu liên kết với việc tuân giữ và thực hành Lời Chúa. Những ai yêu mến Đức Giêsu và giữ Lời Ngài sẽ được ở trong cộng đồng tình yêu của Thiên Chúa:”Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ ra cho người ấy biết Thầy”(Ga 14,21).
Ở đây cho thấy Đức Giêsu không chấp nhận một thứ tình yêu trừu tượng, chỉ bằng tình cảm mông lung, Ngài chủ trương một thứ tình yêu sống động và được biểu lộ trong sự tuân phục theo đường lối của Chúa, tức là tuân giữ các giới răn Ngài truyền. Chính Đức Giêsu cũng đã yêu mến Chúa Cha bằng cách giữ các lệnh truyền của Chúa Cha (Ga 15,10).
Lúc này, chắc các môn đệ đã cảm nhận được những việc sắp xẩy ra. Họ hẳn đã cảm nhận được chuyện bi thảm đang tới gần. Nhưng Đức Giêsu đã yên ủi họ:”Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng bầu chữa khác đến với các con luôn mãi… Thầy không để cho các con mồ côi đâu”(Ga 14, 16.18). Từ ngữ “Mồ côi” dùng ở đây có nghĩa là không có cha, từ ngữ này cũng được dùng để chỉ đám môn sinh, đám học trò mất thầy, mất đi những lời dạy bảo của thầy thân yêu. Lúc Socrate chết, Platon nói về các môn sinh của Socrate rằng:” Họ nghĩ họ sẽ phải sống mồ côi suốt quãng đời còn lại như những đứa con mất cha, và họ sẽ chẳng biết phải làm gì”.
Nhưng Đức Giêsu bảo các môn đệ rằng, trường hợp của họ thì không như thế. Ngài phán: Thầy sẽ trở lại”. Ngài có ý nói về sự phục sinh và việc Ngài luôn có mặt bên họ sau khi phục sinh. Nhưng sự hiện diện của Ngài không thể dùng giác quan mà thấy nhưng phải dùng con maắt đức tin bởi vì Ngài hiện diện một cách vô hình.
Sau cùng, Đức Giêsu kết luận:”Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới lả kẻ yêu mên thầy… và sẽ được Cha Thầy yêu mến”(Ga 1421). Đây là một mạc khải của Đức Kitô về tình yêu của Chúa Cha. Mạc khải này cũng hé mở cho ta hiểu thêm về tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa thật thâm sâu, mật thiết trên mọi bình diện (Ga 4,34; 6,38).
II. YÊU NHAU SINH TỬ CŨNG LIỀU.
Yêu mến và hành động. Đức Giêsu luôn yêu thương các môn đệ của Ngài cả khi Ngài vắng mặt. Ngài hứa không để cho các ông sống vất vưởng như những đứa con mồ côi, nhưng sẽ sai Đấng Phù trợ đến ở với các ông để yên ủi, soi sáng, khích lệ và nâng đỡ các ông. Đáp lại, Đức Giêsu cũng đòi buộc các ông phải yêu Ngài. Tình yêu đối với Ngài không phải chỉ là những tình cảm hay một cảm xúc bồng bột nhất thời, nhưng tình yêu này phải được xây dựng trên ý chí, nghĩa là phải vâng theo lời Ngài, phải thực hiện lời Ngài trong cuộc sống vì ngài đã nói rõ:”Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ vâng giữ lời Thầy” (Ga 14,23).
Chữ “nếu” đây không phải là một việc làm tùy nghi nhưng là một điều kiện thiết yếu, một điều kiện mà tiếng La tinh gọi là “conditio sine qua non”, không có không được. Từ ngữ “nếu” đây liên kết hai vế của “yêu Chúa” và “giữ lời Ngài”, hễ không có vế này thì không có vế kia. Giữ lời hay giữ giới răn không phải là một loạt những điều tùy nghi trong nhiệt tình tình yêu của chúng ta hướng về Chúa Kitô. Đây thậm chí không phải là một điều logic: nếu tôi yêu mến Chúa Kitô, tôi phải giữ các giới răn của Ngài. Tiếng “nếu” liên kết chặt chẽ hơn lòng chúng ta yêu mến Chúa Giêsu với cách ăn ở của chúng ta trong cuộc sống: tôi chỉ yêu thương khi tôi vâng lời Ngài bởi vì tình yêu thực sự, cụ thể của tôi chính là đều mà tôi làm. Nhưng thất bại của chúng ta có nguồn gốc tại đây: từ chối hiểu rằng tình yêu không phải là một từ, một giấc mơ, cũng như một nhịp đập của tim, mà là một cách cư xử (André Sève, Tin Mừng Chúa nhật, năm A, tr 164).
Tình yêu phải thể hiện ra bằng việc làm cụ thể, chính việc làm ấy mới bảo đảm cho tình yêu thật. Nếu yêu mà không thể hiện bằng hành động thì tình yêu chỉ ở trên đầu môi chóp lưỡi, hay chỉ là một cảm xúc nhất thời. Hành động đó phải được thể hiện ra trước mặt người yêu để người ấy vui lòng, và hành động theo ý người mình yêu ngay cả khi người ấy không có mặt. Nếu không người ta sẽ nói:
Thương thương nhớ nhớ thương thương, Nước kia muốn chảy mà mương chẳng đào.
(Ca dao)
Trong cuốn sách The Living Stone có một câu truyện như sau: Jonathan làm được những việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thầy khả kính. Ngày vị thầy này sắp lìa trần, ông cho gọi Jonathan trở về để gặp thầy lần cuối. Jonathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ. Nhưng lời trăn trối cuối cùng của ông chỉ vỏn vẹn mấy chữ:”Hãy hành động vì lòng mến”.
Trong Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, Đức Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ, Ngài cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản của lòng mến:”Ai nghe và vâng giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”. Đức Giêsu không đòi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính, dù rằng đó cũng là điều qúi gía cho phép chúng ta tin tưởng rằng chúng ta đang yêu mến Chúa. Tuy nhiên một tình yêu đúng nghĩa là luôn tìm cách làm đẹp lòng người yêu, sẵn sàng cho đi tất cả, chứ không dừng lại ở những rung cảm của thân xác phần nào nói lên tính vị kỷ của mình (Mỗi ngày một tin vui, Phục sinh, tr 253).
Với thánh Gioan, chỉ có một cách để trắc nghiệm tình yêu thương là sự vâng lời. Đức Giêsu đã chứùng minh Ngài yêu Chúa Cha bằng sự vâng lời. Ông Barett nói:”Thánh Gioan chẳng bao giờ cho phép biến tình yêu thành một thứ cảm xúc. Tình yêu được bộc lộ dưới tính cách đạo đức, bầy tỏ ra bằng sự vâng lời”.
Chúng ta biết nhiều người chỉ yêu thương qua đầu môi chót lưỡi, đồng thời lại làm cho những người họ yêu phải đau đớn, khổ tâm. Có những thanh thiếu niên bảo chúng yêu thương cha mẹ, nhưng lại gây buồn khổ, lo âu cho cha mẹ. Có những ông chồng bảo yêu vợ, có những bà vợ bảo yêu chồng, nhưng lại hay cộc cằn, gắt gỏng, thô lỗ, nhỏ nhen, vô tâm vô tính, làm cho chồng hay vợ mình phải đau khổ. Vớùi Đức Giêsu, tình yêu thương chân thật không phải là điều dễ dàng, tình yêu chân thật chỉ có thể chứng minh bằng “sự vâng lời chân thật”.
Hành động như thế nào. Một người nọ đã từng trông thấy một thiên thần đi bộ xuống phố, tay cầm bó đuốc, tay kia cầm xô nước. Người ấy liền hỏi:”Ngài làm gì với bó đuốc và xô nước vậïy” ? Vị thiên thần đột ngột đứng lại nhìn vào người ấy nói:”Ta sẽ thiêu rụi các tòa nhà trên trời bằng bó đuốc và sẽ dập tắt lửa hoả ngục bằng xô nước. Lúc đó chúng ta sẽ thấy được ai là kẻ thực sự yêu mến Thiên Chúa”. Chủ ý của vị thiên thần muốn nói là nhiều người vâng theo lệnh Chúa là vì sợ hỏa ngục hoặc vì hy vọng phần thưởng Nước Trời. Họ không giữ huấn lệnh ấy vì yêu thương như Đức Giêsu đã nêu ra trong Tin Mừng hôm nay:”Nếu các con yêu mến Thầy, các con sẽ vâng giữ lời Thầy”.
Có hai loại tình yêu: tình yêu vô vị lợi hay vị tha và tình yêu vị lợi hay vị kỷ.
a) Tình yêu vô vị lợi.
Đây là thứ tình yêu vị tha, một thứ tình yêu chỉ biết cho đi, chỉ lo tìm hạnh phúc cho người yêu, tình yêu không so đo tính toán, tình yêu quảng đại; và tình yêu vị tha lên đến chóp đỉnh là sẵn sàng chết cho người mình yêu như Chúa Giêsu đã nói:”Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu của người chết cho người yêu” (Ga 15,13). Tình yêu này là tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người và đã được thực hiện nơi đức Giêsu chịu treo trên thập giá.
Người đời cũng nói lên được một phần nào thứ tình yêu vô vị lợi ấy:
Yêu anh cốt rũ xương tàn, Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh.
hoặc:
Yêu nhau mỗi thứ mỗi cho, Ghét nhau thì mảnh quạt mo cũng đòi. (Ca dao)
Truyện: cha Maximilien Kolbe
Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con tôi”.
Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dãy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trưởng trại. Mọi người nín thở: chuyện chưa từng có ! Viên trưởng trại đặt tay lên súng:
– Anh muốn gì ?
– Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.
Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho người có vợ và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đó chính là Maximilien Kolbe, một Linh mục công giáo. Cha đã được Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1982 tại Roma.
b) Tình yêu vị lợi (vị kỷ).
Đây là thứ tình yêu trá hình, Đối tượng của tình yêu không phải là người được yêu mà là chính mình. Người yêu chỉ lợi dụng người được yêu để tìm lợi ích cho mình, cho hạnh phúc của riêng mình ; còn người được yêu chỉ là phương tiện được dùng để người yêu khai thác. Tình yêu trá hình này đã được nhà thơ ngụ ngôn La Fontaine diễn tả trong câu truyện con thỏ và con cọp.
Câu truyện đó là con cáo không may bị rơi xuống hố sâu, không cách nào lên được. May thay, một con cọp đi qua, con cáo xin cứu đưa lên. Con cọp tỏ ra thương hại muốn cứu vớt nhưng với điều kiện: khi lên bờ cáo phải chịu cho cọp ăn thịt. Cáo đồng ý. Cọp nhảy xuống hố. Cáo nhảy lên lưng cọp và nhảy ngay lên bờ, biến mất. Cọp lên bờ buồn rầu than:”Chị đã thương em đến thế mà em không biết ơn”.
Như vậy, cọp đâu có thương con cáo, chỉ biết thương mình thôi, đã thương sao lại còn đòi ăn thịt cáo ? Con người chúng ta đôi lúc cũng vậy. Nhiều khi việc làm của chúng ta có vẻ lo cho người khác, nhằm ích lợi cho người khác, tạo hạnh phúc cho họ, nhưng trong thực tế, họ chỉ có một tình yêu giả tạo. Tình yêu đó được người ta gói ghém trong câu ca dao:
Thương thay những kẻ quạt mồ, Hại thay những kẻ lấy vồ đập săng. (Ca dao)
Thái độ của ta đối với Chúa. Nếu thánh Giacobê nói:”Đức tin không có việc làm là đức tin chết” thì chúng ta cũng có thểû nói được: tình yêu mà không được thể hiện ra bằng hành động cụ thể thì chỉ là thứ tình yêu trên mây gió, một tình yêu èo uột, một tình cảm phớt qua, có khi là một tình yêu trá hình, giả tạo. Tình yêu chân thật đòi hỏi hy sinh như Pierre l’Ermite nói:”nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật”.
Thánh Gioan tông đồ nói:”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16). Nếu yêu là hy sinh, mà giữ luật Chúa là hy sinh, thì yêu là giữ luật Chúa. Tam đoạn luận này rất chặt chẽ, nó nối kết giữa việc yêu Chúa và giữ luật Chúa lại với nhau.
Vậy giữ giới răn Chúa là gì ? Giữ giới răn Chúa, nói nôm na ra là giữ đạo, là sống đạo, sống nhân đức tin mà Chúa ban cho chúng ta ngày chịu phép Rửa tội. Chúa nhắc lại đến hai lần:”Nếu các con yêu mến Thầy, các con hãy giữ giới răn của Thầy”, và sau đó Ngài thêm:”Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con thực hành điều Thầy truyền dạy”.
Qua lời mời của Chúa, chúng ta thấy rằng giữ giới răn, sống đạo, có thể có hai tâm trạng và hai thái độ: một là giữ đạo vì vụ lợi, giữ đạo cho có lệ gọi là có ; hai là giữ đạo vì yêu mến Chúa… Chắc chắn ai cũng giữ đạo vì yêu Chúa, yêu Chúa là chính, còn các mục tiêu khác chỉ là phụ tùy. Đối với từng người, tình yêu đối với Chúa cũng có cấp độ nên việc giữ giới răn cũng có cấp độ. Ta tạm chia thành ba cấp:
* Một là có đạo: Những người đã được chịu phép rửa tội đều được gọi là có đạo vì họ đã được thanh tẩy, đã được gia nhập Hội thánh Chúa. Nhưng họ sống hời hợt , chỉ có danh nghĩa là Kitô hữu, còn cuộc sống của họ nhiều khi như người ngoại đạo, thậm chí tệ hơn nữa, họ sống như người vô thần. Có những người chỉ đến nhà thờ 3 lần trong đời họ: ngày chịu phép rửa tội, ngày lễ hôn phối và ngày lễ an táng.
* Hai là giữ đạo: Những người này là những Kitô hữu bình thường, giữ luật Chúa, thi hành các bổn phận của một người Kitô hữu như đọc kinh, xem lề, xưng tội rước lễ, ăn chay kiêng thịt …không có gì đáng trách trong việc giữ đạo… Nhưng họ chỉ sống theo mức bình thường, mức tối thiểu, chưa vươn lên cao hơn.
* Ba là sống đạo: Những người này là những người sống trọn nhiệm vụ của những người Kitô hữu bình thường, nhưng họ còn vươn lên cao hơn, cuộc sống của họ là chứng nhân, những hiện thân của Chúa Kitô. Họ xứng đáng được gọi là Alter Christus. Cuộc sống của họ đã trở nên muối và ánh sáng cho đời. Họ thực hiện lời Chúa Giêsu đã phán:”Sự sáng của các con phải chiếu tỏa ra chung quanh để người ta trong việc lành các con làm mà phải ngượi khen Cha các con ở trên trời”.
Có một bài đồng dao tôi thuộc từ khi còn bé: “Thiên đàng hỏa ngục hai bên, ai khôn thì về TN 6-A108
Có một bài đồng dao tôi thuộc từ khi còn bé: “Thiên đàng hỏa ngục hai bên, ai khôn thì về ai dại thì sa. Đêm nằm nhớ Chúa nhớ Cha, đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn. Linh hồn phải giữ linh hồn, đến khi ngày chết được lên thiên đàng”.
Dù gì đi chăng nữa, điều cuối cùng của chúng ta vẫn là muốn được rỗi linh hồn, muốn được lên thiên đàng ; và sợ phải sa hỏa ngục, phải mất linh hồn. Thế cho nên cái khôn của người Kitô hữu là làm mọi cách để được lên thiên đàng, và cái dại của những người có đức tin là vất vả cả đời để cuối cùng phải sa hỏa ngục.
Sự khôn – dại của mỗi người xuất phát từ sự chọn lựa của chính họ: đâu là lý tưởng cho cuộc đời. Điều đó là tự do, ơn ban cao quý của Chúa cho thiên thần và cả loài người. Song song với tự do là trách nhiệm để nhận lấy hậu quả mình đã chọn. Chính tự do này mà một số thiên thần đã phản nghịch cùng Chúa nên bị phạt trở thành ma quỷ, Satan; nhưng cũng nhờ tự do này mà một số thiên thần đang được hưởng hạnh phúc với Chúa. Cũng chính tự do này giúp cho ông bà nguyên tổ hạnh phúc trong thời gian đầu khi chọn nghe theo Thiên Chúa; nhưng thời gian sau họ đã chọn nghe theo ma quỷ nên mất đi hạnh phúc.
Sự tự do đó được tác giả sách Huấn Ca nói đến trong bài đọc thứ nhất: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì hãy đưa tay ra mà lấy” (Hc 15, 16). Nhưng hãy nhớ một điều: “Trí khôn của Đức Chúa thật lớn lao, Người mạnh mẽ uy quyền và trông thấy tất cả” (Hc 15, 18). Điều căn bản trong sự khôn ngoan của Thiên Chúa và ranh giới cho tự do của con người là: “Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội” (Hc 15, 20).
Cho nên cái khôn của con người là biết đi theo đường lối Chúa, vì Chúa là Đấng khôn ngoan. Còn cái dại là đi ra ngoài đường lối đó và sống theo đường lối của ma quỷ, của người đời.
Chính vì thế trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu muốn các môn đệ của mình phải lo kiện toàn lề luật, sống theo lề luật bằng tất cả tình yêu của mình, vì lề luật là tình yêu của Chúa dành cho họ. Bởi vì theo lời của đệ nhất phu nhân Eleanor Roosevelt của nước Mỹ: “Rốt cuộc thì chúng ta luôn phải gánh chịu mọi trách nhiệm về chính sự lựa chọn của mình”. Vì thế chúng ta có nền tảng là lề luật của Chúa, để sư chọn lựa của chúng ta khỏi phải lạc hướng.
Hơn thế nữa, Tông huấn mới nhất của Đức Giáo Hoàng Phanxicô gởi tất cả mọi người, đặc biệt là các bạn trẻ mang tên: “Christus Vivit – Chúa Kitô đang sống” cho thấy chúng ta không sống một mình, chúng ta không lựa chọn đơn độc, mà có Đức Kitô cùng sống, cùng lựa chọn mọi giá trị với chúng ta. Vì thế những ai sống với Đức Kitô, gặp gỡ Đức Kitô thì sẽ biến đổi cuộc đời mình vì sự lựa chọn của chúng ta là đúng đắn và chắc chắn sẽ “giữ được linh hồn”, “đến khi ngày chết được lên thiên đàng”.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xem lại sự lựa chọn những giá trị trong cuộc sống hằng ngày, vì chính sự lựa chọn đó làm cho chúng ta trở nên khôn hay dại.
Trong đời sống đức tin, nhiều người đã lựa chọn hành động như không có Chúa, như người vô đạo; hành động mà không sợ mình phải gánh lấy hậu quả, không sợ bị mất linh hồn.
Covid-19 làm chấn động cả thế giới. Nhưng nếu nhìn lại một cách sâu xa, và bằng cái nhìn đức tin chúng ta sẽ thấy rằng trước hết đó là hậu quả của việc không tin có Thiên Chúa, là kết quả của việc chọn lựa theo phe của ma quỷ chứ không theo những giá trị Chân-Thiện-Mỹ.
Vấn đề của chúng ta hiện giờ là dù có Covid-19 hay không thì mỗi người chúng ta cũng hãy biết chọn lựa sống theo đường lối của Chúa, để trở nên “hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện (Mt 5, 48). Mỗi người một hoàn cảnh khác nhau, chắc chắn chúng ta có đủ lý trí và tự do để biết mình phải chỉnh sửa điều gì; và thái độ chỉnh sửa hiện tại chính là sự lựa chọn của chúng ta để đứng về phía Thiên Chúa hay ma quỷ.
Kế đến phải tập cho trẻ nhỏ tiếp cận với những giá trị linh thánh ngay từ nhỏ, để khi lớn lên các em sẽ chọn lựa những gì đem lại hạnh phúc vĩnh cửu hơn là chọn lựa những giá trị nhất thời. Cụ thể là giúp cho các em sống trong môi trường cầu nguyện, tập cho các em những việc hy sinh, cùng với các em làm những việc bác ái… Đó cũng là những chọn lựa của chúng ta ngay từ bây giờ để mai này được lên thiên đàng.
“Thiên đàng hỏa ngục hai bên, ai khôn thì về ai dại thì sa. Đêm nằm nhớ Chúa nhớ Cha, đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn. Linh hồn phải giữ linh hồn, đến khi ngày chết được lên thiên đàng”
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã nhiều lần tỏ ra bất chấp lề luật, như khi chữa người bị bại tay TN 6-A109
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã nhiều lần tỏ ra bất chấp lề luật, như khi chữa người bị bại tay trong ngày Sabát, điều mà Luật Môsê cấm không được làm trong ngày dành cho Thiên Chúa. Tin Mừng Matthêu đã kể lại chi tiết: Đức Giêsu đi vào hội đường của người Do Thái, tại đây, có người bị bại một tay. Người ta hỏi Đức Giêsu rằng: “Có được phép chữa bệnh ngày sabát không ?”. Họ hỏi thế là để tố cáo Người. Người đáp: “Ai trong các ông có một con chiên độc nhất bị sa hố ngày sabát, lại không nắm lấy nó và kéo lên sao ? Mà người thì qúy hơn chiên biết mấy ! Vì thế, ngày sabát được phép làm điều lành”. Rồi Đức Giêsu bảo người bại tay: “Anh giơ tay ra ! Người ấy giơ tay ra và tay liền trở lại bình thường lành mạnh như tay kia” (Mt 11,10-13). Tin Mừng Máccô còn ghi thêm qủa quyết vững chắc của Đức Giêsu: “Ngày sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn ngày sabát” (Mc 2,27).
Nhưng cũng trong Tin Mừng Mátthêu, Đức Giêsu lại hết lời bênh vực Lề Luật: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các Ngôn Sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Ngài còn đi xa hơn: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người ; ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt” (Mt 5, 21-22).
Chúng ta cần ghi nhận những điều quan trọng Đức Giêsu muốn nói với chúng ta:
Đức Giêsu không mâu thuẫn trong giáo lý và Giới Luật mới Yêu Thương của Ngài: Trong cả hai đọan Tin Mừng xem ra như đối nghịch, mâu thuẫn, Đức Giêsu đều nhấn mạnh giới luật Yêu Thương: đoạn Tin Mừng chữa người bại tay trong ngày Sabát là ngày Luật Môsê cấm làm việc, Đức Giêsu đã tuyên bố: ngày Sabát được làm ra cho con người, và ưu tiên ở đây là thực hiện đức ái đối với người bị bại tay đang cần được cứu chữa. Nói cách khác, bất cứ lề luật nào, bất kỳ khoản luật nào của bộ luật sẽ chỉ có giá trị khi quy chiếu về tình yêu phục vụ, bởi theo Đức Giêsu: lề luật được làm ra là để phục vụ hạnh phúc của con người, chứ con người không làm nô lệ cho lề luật.
Cũng trong ý hướng duy nhất đó, Đức Giêsu đi đến tận nguồn cội, cốt lõi của giới luật mới Tình Yêu, khi đòi buộc chúng ta phải quan tâm, lưu ý đến cả những chi tiết của tình yêu, những việc nhỏ trong giới luật Tình yêu, những chi tiết và việc nhỏ mà luật Môsê không để ý, cũng không đề cập đến, nhưng trong thực tế lại là nguyên nhân làm người khác bị tổn thương, đau khổ nhiều và thường xuyên như giận dỗi anh em, mắng nhiếc anh em là đồ ngu ngốc, chửi rủa anh em là đồ phản đạo (x. Mt 5,22).
Tính cách luôn tích cực của Giới Luật mới Yêu Thương:
Lề Luật Môsê chỉ dừng lại ở Công Bình, với nguyên tắc: “Mắt đền mắt, răng đền răng” (x. Mt 5,38), cũng như “chớ giết người ; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà” (Mt 5,21), nghiã là nếu anh giết người thì anh sẽ bị ra toà, và quan toà sẽ nhân danh luật “máu đòi máu, mạng đền mạng” để bắt anh phải chết, nhưng Luật cũ Môsê không đi xa hơn, không vươn cao hơn, không chủ động tích cực, để có thể vượt ngưỡng Công Bình bước vào Bác Ái, mà thực hiện đòi hỏi của Đức Ái sâu thẳm và nền tảng như “khi sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Cũng như “nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm” (Mt 5,39-41).
Qủa thực, chuyện “bỏ của lễ lại đó trước bàn thờ mà đi làm hoà với anh em”, đi xin lỗi người mình xúc phạm, làm buồn lòng, chuyện người ta tát má phải lại chừa thêm má trái, ai xin áo ngoài, cho cả áo trong, ai đòi dẫn đi một cây số, sẽ không ngại đi hết cây số thứ hai với họ, thì chỉ có Giới Luật mới Yêu Thương của Đức Giêsu mới đề cập và đòi buộc, chỉ có người đi theo Đức Giêsu mới dám dấn thân thực hiện, và chỉ với ơn của Thánh Thần Tình Yêu, người tín hữu của Đức Giêsu mới có thể sống trọn vẹn tinh thần của giới luật yêu thương.
Tinh Thần của Lề Luật:
Một điều rất quan trọng khác Đức Giêsu muốn nói trong đọan Tin Mừng này là: chân trời của Lề Luật phải được mở ra cho tương quan giữa con người với con người. Điều này có nghiã: tất cả khoản luật trong luật Môsê phải được hướng đến Giới Luật mới của Tân Ước, tức Luật Yêu Thương giữa con người với con người của Đức Giêsu, mà chân trời của Giới Luật này là hạnh phúc của con người được Thiên Chúa yêu thương, cứu độ, và nhờ đó, tất cả mọi người hoà giải được với nhau và sống với nhau trong tình yêu, khi tuân giữ giới luật của chính Thiên Chúa ban cho con người: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Lề Luật từ nay không còn là những khoản luật lạnh lùng mà con người phải chu toàn một cách máy móc, trong trạng thái đầy lo âu, sợ sệt như sẽ bị trừng phạt, nếu sai phạm, thiếu sót, nhưng là tinh thần phân định để sống Luật Yêu Thương của Thiên Chúa là Tình Yêu dưới cái nhìn của Thiên Chúa và Lời Ngài. Tinh thần phân định này là ơn sủng của Thần Khí, như thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côrinthô đã viết: “Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho Thần Khí. Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1 Cr 2, 10). Chính tinh thần phân định đượcThần Khí ban đã giúp chúng ta sống Lề Luật một cách trọn hảo, và đẹp lòng Thiên Chúa.
Sau cùng, Lề Luật từ nay không chỉ là những tội danh được gọi tên như giết người, ngoại tình… nhưng là sống tinh thần hoà giải của lề luật, sống sự thật của tâm hồn, sống trung thành với Lời hằng sống, và như thế Lề Luật luôn mang tính giải phóng, thăng tiến, xây dựng con người dưới bầu trời yêu thương, quan phòng của Thiên Chúa.
Vâng, Đức Giêsu không phá hủy Lề Luật Môsê của Cựu Ước, vì Luật này đã được làm nên cho Dân riêng của Thiên Chúa, với mục đích chuẩn bị cho Giới Luật mới Yêu Thương của Đức Giêsu sẽ được công bố trong Tân Ước, cũng như Ngài không xóa bỏ lời các ngôn sứ, bởi các ngôn sứ đã được sai đến để loan báo công cuộc Nhập Thể và Cứu Độ của Con Thiên Chúa trong thời kỳ mới, ở đó Thiên Chúa lấy chính máu của Con duy nhất mình mà ký Giao Ước mới với nhân loại.
Thực vậy, Đức Giêsu không hủy bỏ, nhưng kiện toàn, và làm cho nên hoàn hảo bằng ban cho Luật cũ một tinh thần mới của Thần Khí, Thần Khí của Thiên Chúa là Tình Yêu, để từ nay chỉ còn một Giới Luật mới là “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Trong ngày Chúa Nhật VI thường niên năm A, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về TN 6-A110
Trong ngày Chúa Nhật VI thường niên năm A, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về chủ đề “tuân giữ luật Chúa phát xuất từ con tim chân thành.” Việc tuân giữ luật Chúa không chỉ là thực hành luật Chúa hay ý Chúa một cách bề ngoài và hình thức, nhưng phải được bắt đầu với một trái tim mà ở đó có sự vâng phục, việc làm theo thánh ý Thiên Chúa được thực hiện.
Trong bài đọc I, sách Huấn Ca nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta tự do để vâng phục Thiên Chúa. Sự vâng phục không phải là điều gì đó ép buộc chúng ta. Nó cũng không phải là điều gì áp đặt trên chúng ta, nhưng nó là một phần của món quà tự do mà Thiên Chúa ban cho trái tim con người, nó phát xuất từ trong sâu thẳm của tâm hồn chúng ta. Quả thế, nhờ tự do, chúng ta có thể trung thành với Thiên Chúa, nhưng cũng nhờ tự do mà chúng ta có thể nói không với Thiên Chúa. Hy vọng mỗi người chúng ta có thể sử dụng tự do này, như một phần chính yếu của tâm linh con người, của trái tim con người để sống và trung thành với lề luật của Thiên Chúa.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô nói với các tín hữu Côrintô về sự khôn ngoan của Thần Khí mà mỗi người có thể có nhờ sự trưởng thành tu đức. Sự khôn ngoan này rất khác biệt với sự khôn ngoan của thế gian; nó cũng khác biệt với sự khôn ngoan của những người lãnh đạo thế giới này. Sự khôn ngoan của thế gian thường đưa ra những yêu, họ bắt phải làm điều này, buộc phải làm điều kia, nhưng chúng ta đều biết rằng nghe theo những mệnh lệnh của những người lãnh đạo trần thế, hay của sự khôn ngoan thế gian có thể dẫn chúng ta tới sự diệt vong, trái lại, chúng ta được mời gọi tuân theo sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Bởi vì Thiên Chúa đổ vào lòng chúng ta Thánh Thần tình yêu và sự khôn ngoan của Người. Chúa Thánh Thần, Đấng thấu suốt mọi mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, sẽ là Thần Khí ngự trong lòng chúng ta, hướng dẫn đời sống chúng ta. Người là tiếng nói nội tâm, Người nói trong lương tâm chúng ta, nhờ đó, chúng ta có thể làm lành lánh dữ; chúng ta có thể vâng phục thánh ý Thiên Chúa và trung thành với Thiên Chúa bằng việc sống theo giới răn của Người.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu tuyên bố rằng Người đến không phải để hủy bỏ lề luật, cũng không phải đến để dạy chúng ta sống bất tuân lề luật. Không! Người đến để hoàn tất lề luật và chỉ cho chúng ta biết lề luật sẽ được hoàn tất như thế nào. Người nói với chúng ta về ba điều liên quan đến ba giới răn. Và ở đây, đối với Chúa Giêsu rõ ràng việc vi phạm lề luật Thiên Chúa không chỉ xảy ra khi chúng ta đã có những hành động bên ngoài chống lại lề luật của Thiên Chúa. Nói một cách khác, chúng ta có thể nói rằng sự vâng phục đối với thánh ý Thiên Chúa hay với lề luật Thiên Chúa không chỉ xảy ra khi chúng ta có hành động một cách bề ngoài. Sử dụng những hành vi bên ngoài để giải thích như là sự vâng phục thôi thì chưa đủ. Không! Đối với Chúa Giêsu, yếu tố của sự chu toàn lề luật phải được bắt đầu từ trái tim, nơi mà mọi sự phát xuất, một trái tim được Thiên Chúa ban tặng sự tự do và với tự do đó, thánh Phaolô nói với chúng ta rằng tâm hồn chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần và là nơi mà sự khôn ngoan Thiên Chúa ngự trị. Như thế, việc chu toàn lề luật không chỉ được đánh giá theo thước đo này là tôi đã tránh được tội lỗi một cách bên ngoài như thế nào, nhưng chúng ta phải đi vào bên trong, nơi lòng của chúng ta là căn nguyên của thiện ác, lành dữ, để chúng ta xem sự vâng phục và sự tuân giữ lề luật được thực hiện như thế nào.
Điều liên quan đến giới răn thứ nhất của lề luật đó là không được giết người. Nhưng Chúa Giêsu nói: nếu trong lòng, bạn nóng giận với anh chị em của mình, thì tội giết người đã bắt đầu rồi. Việc dùng ngôn ngữ để chửi bới đã là một tội giết người và nếu bạn không sẵn sàng để hòa giải với anh chị em, là những người đã đôi lần có điều gì đó xúc phạm đến bạn, lúc đó, bạn cũng đã vi phạm đến lề luật Thiên Chúa là không được giết người, không được làm hại người khác. Vì thế, việc giết người không chỉ dừng lại ở hành vi bên ngoài, tôi không có hành vi giết người bên ngoài nào cả, nên tôi không có tội gì. Nhưng Chúa Giêsu quả quyết đó không phải là ý nghĩa của việc chu toàn lề luật Thiên Chúa. Hãy đi vào cõi lòng bạn, ở đó nếu có giận hờn, ghen ghét, thù hận đang hướng dẫn bạn sử dụng ngôn ngữ bạo lực đối với tha nhân và sự cứng lòng không muốn hòa giải với tha nhân.
Điều thứ hai đó là tương quan với phụ nữ, người không có liên hệ với tôi, một người phụ nữ không phải là người vợ của tôi và với một người phụ nữ khác là người liên hệ với tôi như là vợ của tôi. Vâng, tôi không có tình nhân nào cả, nên tôi không có vi phạm đến luật Chúa liên quan đến điều này, tôi không có phạm tội ngoại tình. Nhưng Chúa Giêsu nói rằng: Nếu bạn nhìn một người phụ nữ không phải là vợ của anh, mà ước muốn trong lòng, bạn đã phạm tội ngoại tình với người đó rồi, bạn đã phạm tội rồi.
Nếu bạn ly dị vợ mình, bạn đuổi vợ mình ra khỏi nhà và bạn lại sống với một người phụ nữ khác chưa lấy chồng, khi đó bạn cũng đã bắt đầu lỗi phạm đến luật Chúa rồi. Như thế, ở đây, tất cả tội lỗi chúng ta bắt nguồn từ trong lòng của mình.
Cuối cùng sự chân thành với chân lý không cần phải những người làm chứng, bạn và tôi không cần phải dùng những lời hoa mỹ hay tất cả mọi hình thức bên ngoài để che dấu sự dối trá hay thiếu chân thật của mình. Nhưng Chúa Giêsu mời gọi bạn và tôi phải một lòng thành thật, có thì nói có, không thì nói không, gian dối là do ma quỷ.
Như thế, sự chu toàn lề luật phải được bắt đầu từ trong chính trái tim của chúng ta, đó là trái tim chứa đựng một tình yêu vô vị lợi đối với tha nhân. Đó là một trái tim chứa đầy sự kính trọng đối với tha nhân, đặc biệt là đối với phụ nữ, một trái tim chân thành và trung tín. Đó là nơi mọi sự lành hay dữ phát xuất. Đó cũng là nơi mà sự vâng phục hay bất tuân phát xuất.
Như thế, Lời Chúa hôm nay trình bày sứ vụ của Chúa Giêsu là hoàn tất lề luật, Người tóm tắt lề luật vào trong giới răn mến Chúa và yêu người. Chúng ta cử hành ngày “valentine day,” ngày lễ của tình yêu. Đây là ngày mà mỗi người yêu nhau bày tỏ tình yêu, hay làm mới lại tình yêu. Đây là ngày tuyệt vời dành cho những ai đang yêu nhau.
Nếu chúng ta không có cơ hội để tổ chức những bữa tiệc, những cuộc đi chơi lãng mạn, những chuyến du lịch bằng tàu cruise trên biển để bày tỏ tình yêu, thì bạn hãy nhìn vào trái tim mình và hãy tự hỏi mình rằng: tôi có đối xử với tha nhân và những người mình yêu thương với sự kính trọng, với lòng trong sạch, hay với sự chân thành không? Khi đó, bạn sẽ biết thế nào là tình yêu. Amen!
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).
Vậy Chúa kiện toàn lề luật như thế nào? 1. Chúa Giêsu nâng cao lề luật của Cựu Ước. Từ khi TN 6-A111
Vậy Chúa kiện toàn lề luật như thế nào?
1. Chúa Giêsu nâng cao lề luật của Cựu Ước.
Từ khi ban luật Tân Ước, Chúa Giêsu mặc cho lề luật giá trị cao siêu:
– Không cần đợi đến sát nhân thì mới phải ra tòa. Từ nay chỉ cần ai giận ghét anh chị em, chửi mắng, rủa xả, thóa mạ họ, đã đáng trầm luân nơi hỏa ngục. – Luật mà Chúa Giêsu dạy nhằm bảo vệ và cổ võ thực thi bác ái giữa đồng loại với nhau. Giữ luật mà không nhắm đức bác ái là sai tinh thần luật. – Luật mà Chúa Giêsu dạy đòi người giữ nó phải luôn khiêm tốn. Bởi nếu không khiêm tốn, người giữ luật sẽ cho rằng mình trọn hảo, mình tốt lành và dễ đánh giá người khác theo cái nhìn chủ quan của bản thân.
2. Luật là phương tiện chứ không phải mục đích.
Đã là phương tiện, phải nhằm phục vụ mục đích. Để đạt một mục đích, có nhiều phương tiện. Phương tiện mà không thể đạt mục đích hay lệch mục đích thì phương tiện không còn cần thiết.
Mục đích của Kitô hữu là tìm kiếm và đạt tới hạnh phúc. Giữ luật mà như gánh nặng, việc giữ luật ấy thất bại. Do đó, ta cần tinh thần tự do để giữ luật.
Ví dụ: Hai người đàn ông cuốc đất để trồng cây trên hai mãnh đất có diện tích như nhau. Nhưng một người là tù binh, người kia không hề bị giam cầm.
Chắc chắn cây trái trên mãnh đất của người tự do sẽ tốt hơn nhiều, xanh tươi hơn nhiều, cho ra kết quả lớn hơn nhiều.
Người bị tù không trông mong quyền lợi bản thân trên mãnh đất mà anh trồng tỉa. Hơn nữa, anh chỉ trồng vì ép buộc, kỹ luật, hoàn toàn thiếu tự do, chắc chắn vườn cây của người bị cầm tù không sánh nổi vườn cây của người tự do.
Cũng vậy, giữ luật trong đức tin vì mục đích yêu mến Chúa, muốn thăng tiến bản thân trên đường nhân đức, việc giữ luật ấy tốt đẹp, hạnh phúc. Trường hợp này, luật là phương tiện đưa người gắn bó với nó tiến xa trên đường đạo đức.
Nhưng ai không có lòng mến, chỉ giữ luật như bị buộc, suốt đời Kitô hữu sẽ không có niềm vui. Ngày qua ngày, luật chỉ là gánh nặng, chỉ là sự cồng kềnh…
3. Giữ luật phải đưa tới ơn nên thánh.
Chúa muốn ai sống lề luật là phải nên thánh. Giữ luật là phải đạt tới mục đích nên thánh. Giữ luật mà không đưa tới ơn nên thánh, việc giữ luật ấy sai, phải chỉnh đốn lại.
Vì thế, người tín hữu cần xem lề luật như là đường lối dẫn mình đi về phía Chúa, đi về cõi đời đời trong ơn nghĩa Chúa.
Người tín hữu cần có luật để bảo đảm con đường mình đi là con đường của đức tin, củng lòng mến Chúa.
Luật mà mình mang theo suốt đời là ánh sáng soi tâm hồn, là cách để mình nhắm đúng hướng, khi phải sống giữa cuộc đời trần thế còn nhiều khó khăn, dễ làm chúng ta trật đường.
4. Đặt luật vào đúng vị trí của nó: Có hai thứ: Thiên luật và nhân luật.
Thiên luật là luật do Thiên Chúa ấn định và trao ban. Thiên luật thì trên hết, bất di bất dịch, mọi người đều phải tuân giữ và ưu tiên trên mọi ưu tiên.
Còn nhân luật là luật do con người làm ra, có tính tương đối. Luật của con người có thể thay đổi và cần được thay đổi.
Ví dụ: Bảo vệ sự sống con người là Thiên luật. Do đó, không ai có quyền sát hại hay cho phép sát hại con người từ khi bắt đầu thành thai đến khi chết bằng một cái chết tự nhiên.
Trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta khẳng định rằng, luật của con người phải nhắm phục vụ luật của Thiên Chúa. Do đó, luật của con người cần phải lấy luật của Thiên Chúa để quy chiếu và không được trái với luật của Thiên Chúa.
Vì thế, giữ luật phải đưa tới tình yêu. Tình yêu là luật bất di bất dịch đến từ Thiên Chúa. Giữ luật mà làm cho tình yêu, sự cảm thông, lòng bác ái bị chèn ép, thì đó là giữ luật sai, cần chỉnh đốn lại.
5. Luật yêu thương là luật tối thượng.
Chúa Giêsu đã nhiều lần minh định: Phải kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình (x. Mt 22, 34-40; Mc 12, 28-34; Lc 10, 25-28).
Dù xác định mến Chúa yêu người là giới răn trọng nhất, nhưng chúa Giêsu đã phân thành hai điều trên dưới khác nhau: mến Chúa và yêu người. Chính nhờ biết kính mến Thiên Chúa nên chúng ta mới có thể yêu thương tha nhân vượt quá cảm tính thường tình để rồi có thể yêu thương cả kẻ thù, yêu thương người bắt bớ, làm hại mình (x. Mt 5, 43-48).
Trong Giáo huấn của Chúa Giêsu, yêu thương không dừng lại ở những cấm đoán (không được: ngoại tình, trộm cắp, rẫy vợ, giết người…), nhưng tiến xa hơn bằng thực thi việc tốt cho tha nhân, đến mức yêu tha nhân như bản thân.
Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta về việc Người hy sinh chính bản thân của Người để chết cho ta.
Ước mong từng người Kitô hữu luôn biết thanh tẩy tâm trí mình để sống đúng tinh thần luật mà Chúa Giêsu đã dạy và nêu gương. Ước mong mỗi Kitô hữu luôn ý thức, giữ luật không là thể hiện bên ngoài, mà là đào tạo cõi tâm theo tinh thần luật. Nếu tinh thần luật có được thể hiện ra bên ngoài, thì nó đã thật đầy trong tâm.