Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 7-A Bài 101-135: Các con hãy yêu thương thù địch các con --------------------------------- Phúc Âm: Mt 5,38-48: "Các con hãy yêu thương thù địch các con".
Nếu hiểu trọn lành đồng nghĩa với nên thánh, thì bài đọc I, chúng ta thấy ngay từ thời Cựu ước, ngoài việc Đức Chúa Trời thiết lập giao ước và ban 10 giới răn cho dân Israel, Thiên Chúa còn kêu gọi họ: “Các con hãy nên thánh, vì Ta là Đấng thánh”(Lv 19,2).
Lời kêu gọi này xuyên suốt trong dòng lịch sử cứu độ cho đến thời Tân ước, Đức Giêsu nhắc lại mệnh lệnh này: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”(Mt 5,48).
Nương theo giáo huấn Tin mừng, các Tông đồ cũng kêu gọi các tín hữu thời Giáo hội sơ khai với nội dung tương tự. Chẳng hạn như thánh Phêrô tông đồ nói rằng: “Anh em hãy nên thánh trong cách ăn nết ở, như Đấng thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng thánh”(Pr,15-16).
Còn thánh Phaolô tông đồ nhắn nhủ: “Thánh ý Đức Chúa trời là muốn anh em nên thánh”(Ts 4,3).
Tiếp đến, Công đồng Vat II trong Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân có viết: “Hết mọi Kitô hữu đã được rửa tội trong Giáo hội Công giáo, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, hoàn cảnh nào… đều được Thiên Chúa kêu mời để đạt đến sự trọn lành thánh thiện như Thiên Chúa Cha là Đấng Thánh”(Lg 41). Tóm lại, lý do chúng ta phải nên thánh, vì đây là một lệnh truyền chứ không phải là lời khuyên.
Khi lãnh Bí tích rửa tội, chúng ta được tái sinh trong ơn làm con Chúa. Chúa là cha, là Đấng thánh, con thì nên giống cha mình. Đồng thời, chúng ta được tháp nhập vào đại gia đình Hội thánh Chúa, mà chúng ta là phần tử của Hội thánh, nên chúng ta phải nên thánh.
Thế nhưng, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta không phải nên thánh như Đức Mẹ Maria, không phải nên thánh như thánh Cả Giuse, cũng không phải nên thánh như bất cứ vị thánh nào khác, mà nên thánh như Chúa Cha trên trời, một mẫu gương tuyệt đối hoàn hảo, nhưng chúng ta có thấy Chúa Cha bao giờ đâu mà bắt chước?
Đức Giêsu trả lời cho tông đồ Philipphê: “Ai xem thấy Thầy là xem thấy Cha”. Như vậy, những ai bắt chước theo gương Đức Giêsu, và sống theo giáo huấn của Ngài dạy bảo, là chúng ta nên thánh như Chúa Cha.
Vậy thì những ai đã nên thánh rồi? Thánh Gioan Tông đồ viết: “Trong một thị kiến ban đêm tôi đã ngắm nhìn lên trời, tôi đã thấy một đoàn lũ không thể đếm được, họ thuộc mọi ngôn ngữ, màu da, lớn nhỏ…”(Kh7,9).
Như vậy, đã có vô số người nên thánh. Nói theo ngôn ngữ của thánh Âugustinô “Ông nọ bà kia đã nên thánh, thì tôi đây, tôi cũng phải cố gắng nên thánh”. Ngài nói tiếp “Khi Đức Chúa Trời tạo dựng nên ta, Ngài không cần hỏi ý kiến ta, nhưng để cứu chuộc ta, Ngài cần chúng ta cộng tác”.
Thánh Phaolô tông đồ nói: “Thánh là người sống đức ái hoàn hảo; ai chu toàn đức ái người đó chu toàn lề luật”(Rm13,1).
Một hôm có người thông luật đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy! Trong các giới răn, giới răn nào trọng nhất? Ngài đáp: “Giới răn trọng nhất đó là: ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức và hết trí khôn; và yêu tha nhân như chính mình ngươi”. Thế thì, tại sao ta phải thương yêu tha nhân?
Thưa vì: Tha nhân là hình ảnh của Chúa. Ta yêu Chúa thì phải yêu những gì thuộc về Chúa (St 1, 26).
Tha nhân là chi thể của Chúa. Đức Giêsu là đầu nhiệm thể, còn chúng ta là những chi thể trong thân mình mầu nhiệm ấy (1Cr 6,15).
Tha nhân là giá máu của Chúa Kitô. Đức Giêsu đã đổ máu ra để cứu chuộc từng người chúng ta, nên chúng ta cũng phải biết kính trọng tha nhân.
Tha nhân là đền thờ Chúa Thánh Thần. Ngày chúng ta lãnh Bí tích thanh tẩy, đã trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi ngự trị, vậy trong ánh nhìn đức tin, chúng ta phải tôn kính đền thờ sống động này (1Cr 6, 19).
Anh chị em thân mến,
Chỉ có Chúa là Đấng thánh, còn tự mình chúng ta không thể nào nên thánh được nếu không có ơn Chúa giúp, như lời Đức Giêsu nói: “Không có ơn Ta, các con không thể làm gì được”. Vậy để có ơn Chúa, chúng ta phải sống gắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các Bí Tích, đặc biệt là Bí tích Giải tội, và Thánh Thể.
Ước gì, chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa, để mỗi ngày nên trọn lành, mà hôm nay Chúa đã mời gọi chúng ta. Amen.
Hồi bé, một lần kia khi bị thằng bạn cùng lớp bắt nạt, tôi chạy về méc bà nội và hy vọng bà sẽ chặn đường nó, quất cho nó 1 trận hoặc chí ít cũng chửi cho nó nên thân, nhưng bà chỉ nhìn tôi và khuyên bảo: “Thôi tha thứ cho nó cháu ạ!”. Tôi xịu mặt tiu nghỉu và đành phải…..tha thứ, nhưng trong ấm ức…..(chẳng qua vì nó to con, tôi không thể đánh lại nó!!!).
Lớn lên, năm học lớp 12, khi đọc được những lời thơ của nhà thơ Tố Hữu diễn tả thái độ mà ta phải có trước kẻ thù, tôi cảm thấy hả hê: “Khóc nhục, rên hèn, van yếu đuối – Và dại khờ là những lũ người câm – Trên đường đi như những bóng âm thầm – Nhận đau khổ mà gửi vào im lặng”. Có thế chứ !!!: trước kẻ thù thì không có khóc lóc, không rên rỉ, không van xin, không im lặng mà phải vùng lên tranh đấu, phản kháng, bởi vì nhịn thì …. nhục, tha thì ….thiệt.
Các bạn thân mến, thương bạn – ghét thù, đó là những tình cảm hết sức tự nhiên của con người chúng ta. Thế nhưng lời Chúa ngày hôm nay mời gọi chúng ta vượt lên trên tình cảm tự nhiên ấy vì vị thế đặc biệt là con cái Thiên Chúa của mình. Là Kitô hữu, chúng ta phải thương bạn và cũng phải thương thù, bởi kẻ thù của chúng ta cũng là “hình ảnh của Thiên Chúa”, là con cái Thiên Chúa như ta. Nói cách khác, họ cũng là anh em của chúng ta. Tình thương đó, hơn thế nữa, phải được biểu lộ cách cụ thể bằng 3 việc : tha thứ, cầu nguyện và làm ơn cho họ. Tha thứ và cầu nguyện cho kẻ thù có lẽ đã được chúng ta thực hiện hơn 1 lần trong cuộc sống, nhưng việc làm ơn cho họ thì thật là khó. Việc làm ơn không chỉ trên lãnh vực tinh thần (đưa luôn má kia cho họ tát: nhịn nhục dù bị mất danh dự) mà còn cả vật chất (họ đòi lấy áo ngoài thì đưa cả áo trong). Đúng là thương thù thì thiệt thòi. Nhưng sự thiệt thòi đó sẽ được chính Thiên Chúa Cha đền đáp cho chúng ta sau này. Đó là niềm xác tín của mọi Kitô hữu và chúng ta đã, đang và sẽ sống mãi với niềm xác tín ấy.
Chúa Giêsu không dạy chúng ta bằng lời nói suông nhưng cả cuộc đời của Ngài đã thực hiện điều đó: Ngài có rất nhiều kẻ thù nhưng chưa bao giờ Ngài kết án ai. Ngài có những lời khá nặng nề với các luật sĩ và Pharisiêu “khốn cho các ngươi hỡi những kẻ giả hình…” nhưng không để trả thù mà là để cảnh tỉnh họ. Cuối cùng, trên thánh giá, Ngài đã thành khẩn xin Chúa Cha tha thứ : “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Các Thánh cũng đã noi gương bắt chước vị Thày Chí Thánh của mình: Thánh Stêphanô cầu nhuyện cho những kẻ ném đá mình; các Thánh Tử Đạo VN tha thứ cho những người tố cáo, ra lệnh giết mình; Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan-Phaolo II đã vào tận trong nhà giam để nói lời tha thứ cho Mehmet Ali Agca là kẻ đã cố ý ám sát Ngài bằng 4 phát súng lục ngày 13/5/1981….và bây giờ đến lượt chúng ta….. Chúng ta chưa phải là thánh, nhưng nếu chúng ta muốn gia nhập hàng ngũ các Thánh thì mỗi người cũng phải sống và cư xử như Đức Kitô và các Thánh đã làm: thương thù dù thiệt thân, với sự hỗ trợ đặc biệt của ơn Chúa Thánh Thần. Amen.
Cuộc sống và tình yêu là hai trạng thái khác nhau, nhưng lại không tách rời nhau, thậm chí là “nên một” với nhau. Sống để yêu, và yêu để sống.
Không thể sống mà không yêu, yêu là sống. Người ta nói vui mà thật: “Yêu thì khổ, không yêu thì lỗ. Thà chịu khổ chứ không chịu lỗ.” Không yêu thì yếu, mà yếu thì không thể yêu – tức là cần mạnh mẽ và can đảm. Vì yêu mà người ta dám chết, chết rồi lại được sống. Chúa Giêsu đã chứng tỏ điều đó, và chính Ngài xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)
Yêu thì khổ, chính cái khổ đó là chất hy sinh tiết ra để chứng minh tình yêu chân thật. Yêu không chỉ khổ mà còn phải “chết” – theo nghĩa bóng hoặc nghĩa đen. Đó là nên thánh. Người ta chết rồi mới được làm thánh, chưa chết mà sao làm thánh? Làm gì có chuyện “ngược đời” như thế chứ? Đúng như vậy. Nhưng cái NGHỊCH đó lại là cái THUẬN. Tại sao vậy? Chết rồi mà làm thánh là “chuyện nhỏ,” sống mà làm thánh mới là “chuyện lớn” và xứng đáng nỗ lực. Thực sự chứ chẳng bông đùa. Bởi vì Chúa Giêsu đã truyền lệnh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Là mệnh lệnh thì chắc chắn phải thi hành.
Là con người, chẳng ai hoàn hảo, được cái này thì mất cái nọ, đều là tội nhân, ngay cả các thánh nhân cũng đã từng lần mò tìm về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha: “Nếu Thiên Chúa chấp tội, chẳng ai được rỗi.” (Tv 130:3) Tuy nhiên, làm thánh hay không là dựa vào cuộc sống đời thường, sống sao chết vậy, có sống khôn thì mới chết thiêng. Người ta thường nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng.” Ở đây, cái “tiếng” mang ý nghĩa tích cực là “tiếng tốt.” Phàm nhân đầy “vết chàm,” tội nhân mà hoàn thiện thì nên thánh, nếu hoàn thiện ngay ở đời này thì là thánh sống. Thật vậy, Chúa Giêsu không chỉ bảo chúng ta phải làm thánh sau khi chết mà phải làm thánh ngay ở đời này – cứ hoàn thiện dần dần, bước nhỏ mà đều, bước chậm mà chắc.
Đã có các vị thánh sống trong thời đại của chúng ta – nổi bật là ĐGH Gioan Phaolô II (1920-2005) và Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997). Hiện nay, thế giới cũng đang chú ý tới ĐGH Phanxicô, một người có phong cách “ngược đời” của một thánh nhân giữa đời thường, dám nói thẳng nói thật vì công lý và chân lý, luôn khôn ngoan nói: “Xin cầu nguyện cho tôi.” Nếu thực sự muốn làm thánh thì chúng ta cũng phải có “phong cách lạ” như vậy.
Là Kitô hữu, chắc hẳn ai cũng muốn nên thánh. Nếu muốn nên thánh thì phải yêu Chúa, mức độ yêu Chúa phải được chứng minh qua việc yêu tha nhân, kể cả người không theo phe mình – yêu người là “thước đo tiêu chuẩn” về lòng yêu mến Chúa. Ai yêu Chúa thì phải từ bỏ mình, ngược lại, ai yêu mình thì mặc nhiên từ bỏ Chúa. Rất lô-gích. Phàm nhân chẳng là gì, có là gì thì chỉ là tội nhân khốn nạn, bởi vì con tim của chúng ta là “tro bụi,” hy vọng của chúng ta “hèn hơn đất,” và cuộc đời của chúng ta “tệ hơn bùn.” (Kn 15:10) Chẳng có gì đáng giá mà dám tự mãn. Thế nên phải cố gắng hoàn thiện, nỗ lực không ngừng, rán sức suốt đời – dù ngày hay đêm.
Cái gì cũng có tính liên đới, cái này liên quan cái khác: Nếu muốn nên thánh một mình thì chỉ là ích kỷ – mà ích kỷ thì không thể nên thánh, nghĩa là chúng ta phải không ngừng nỗ lực nên thánh mà còn phải giúp người khác cùng nên thánh. Kinh Koran (Kinh Thánh của Hồi giáo) xác định: “Người hoàn thiện nhất là người đã giúp ích cho nhân loại nhiều nhất.” Rất chí lý!
Tất nhiên ai cũng có thể nên thánh và phải làm thánh, dù chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn, trừ phi chúng ta không muốn. Đã có những tội nhân “lớn” nhưng đã làm thánh: Vua Đa-vít, tướng cướp Dismas (tên gian phi tốt bụng, Lc 23:39-43), binh sĩ Longinô (người cầm giáo đâm thấu tim Chúa Giêsu trên Đồi Sọ), Giáo hoàng tiên khởi Phêrô, Tông đồ Phaolô, Người Phụ nữ Tội lỗi (Lc 7:36-50),… và một người ít “bị” để ý là vua Salômôn, dù là người khôn ngoan nhất nhưng cũng đã cãi lệnh Chúa và đã từng sống trong tội lỗi. (1 V 11:1-13) Thực sự nhận biết mình yếu đuối và tội lỗi xấu xa thì mới nỗ lực hoàn lương để nên thánh, điều cần là đừng bao giờ mất niềm tin vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Tính hợp lý rõ ràng. Nếu không cố gắng hoàn thiện mà còn lần lữa thì vô ích, vì Thiên Chúa đã từng khuyến cáo: “Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu.” (Is 1:15)
Tuy nhiên, đôi khi chúng ta vẫn chú trọng hình thức nên chưa thể “lột xác” được. Giảng hay, nói giỏi, viết tốt,… có sức thu hút người khác, nhưng chính mình lại vẫn giậm chân tại chỗ, chẳng thay đổi được gì. Đó chỉ là “lẻo mép” hoặc “lẻo bút,” hoàn toàn vô ích mà thôi. Loài rắn và loài cua phải lột xác để phát triển, nếu con người không chịu “lột xác” thì không thể phát triển về tâm linh được, mà “lột xác” thì phải đau đớn, phải dứt khoát. Càng “lột xác” nhiều thì càng hoàn thiện, càng tiến bộ trên đàng nhân đức.
Trong một lần hiện ra tại Fátima, Đức Mẹ đã đặt vấn đề với ba trẻ: “Các con có sẵn lòng dâng mình cho Chúa và chịu những đau khổ mà Ngài gởi đến cho các con để xin ơn hoán cải cho các tội nhân không?” Thiên Chúa cũng đã xác định: “Mọi kẻ Ta yêu mến thì Ta răn bảo dạy dỗ. Vậy hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn!” (Kh 3:19)
Tội lỗi là thứ siêu vi độc hại, dễ nhiễm mà khó trị: “Khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi thì sinh ra cái chết.” (Gc 1:15) Và từ ngàn xưa, chính Thiên Chúa đã truyền cho ông Mô-sê: “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.” (Lv 19:1-2) Đó là lẽ tất nhiên. Thiên Chúa là Đấng thánh thì con cái Ngài cũng phải thánh, không thể khác được. Chắc chắn ai không hoàn thiện thì không được nhìn thấy Thiên Chúa và không được ở bên Ngài. Sống thì phải yêu, biết yêu thì mới sống.
Thật vậy, Thiên Chúa cho biết tính liên đới và bí quyết hoàn thiện: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa.” (Lv 19:17-18) Thấy điều trái tai gai mắt mà làm ngơ thì có thể là bao che hoặc nhát đảm, nhưng dám lên tiếng cảnh báo thì mới là can đảm bảo vệ công lý và yêu mến chân lý. Thật vậy, người bạn thân thiết là người dám phê phán chúng ta cả trăm lần chỉ vì muốn tốt cho chúng ta, ngoài ra không là “bạn” mà chỉ là “bè” mà thôi – loại “bè” thì vô số.
Đấng chí thánh là Thiên Chúa – Thiên Chúa duy nhất. Quả thật, chúng ta thực sự hạnh phúc khi nhận biết và tôn thờ Ngài, Đấng Thánh toàn năng và giàu lòng thương xót. Vì thế, chúng ta phải không ngừng tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người.” (Tv 103:1-2) Phải hành động như vậy với lý do rất minh nhiên: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà.” (Tv 103:3-4) Phàm ngôn không đủ từ ngữ để mô tả tình yêu thương của Ngài – Đấng mệnh danh là tình yêu. (x. 1 Ga 4:8 và 16)
Ngài không chỉ là Đấng chí tôn cao cả mà còn hết lòng thương xót mọi người – cả người tốt và người xấu: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.” (Tv 103:8-10, 12-13) Thật vậy, Người không đành bẻ gãy cây lau bị giập, và cũng chẳng nỡ tắt đi tim đèn leo lét. (x. Mt 12:20) Và chúng ta chỉ được phép và phải tôn thờ một mình Ngài mà thôi: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.” (Xh 20:3-4)
Là thụ tạo của Ngài, chúng ta được coi là những thánh nhân theo ba chiều kích của Giáo Hội là các thánh cùng thông công – GH khải hoàn, GH đau khổ, và GH chiến đấu hoặc lữ hành. Chắc chắn chúng ta phải nên thánh vì một lý do khác nữa, như Thánh Phaolô đã đặt vấn đề: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em.” (1 Cr 3:16-17) Thiên Chúa là Đấng Thánh thì không thể ở nơi ô uế tội lỗi. Chúng ta xấu xa, hèn hạ, khốn nạn và bất xứng như thế, vậy mà Thiên Chúa lại cho chúng ta trở thành Đền Thờ của Ngài. Thật không thể nào tưởng tượng nổi, thế nên chúng ta phải tạ ơn Ngài bằng cách cố gắng nên thành, nếu có thể thì làm thánh sống ngay ở đời này. Đó là điều hoàn toàn hợp lý, và Thiên Chúa rất muốn như vậy.
Ôi chao, có lẽ Thánh Phaolô cũng “ngược đời” khi nhắc nhở chúng ta: “Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài.” (1 Cr 3:18-20) Ít có ai dám “khác người” như vậy, bởi vì có thể người ta sẽ cho là “chạm điện,” người nào “không giống ai” như vậy sẽ bị ghen ghét, bị xa lánh, bị trù dập,… thế nhưng như vậy mới là “khôn ngoan thật” – khôn ngoan theo cách thức của Thiên Chúa. Đúng là không thoải mái – vừa khó vừa “căng” lắm!
Nhưng rồi chuyện gì cũng có bí quyết, có cách xử lý cụ thể, ngay cả những lúc khó khăn nhất tưởng chừng bế tắc. Thánh Phaolô kết luận rất cụ thể: “Đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; dù là Phaolô, hay Apôlô, hay Kê-pha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa.” (1 Cr 3:21-23) Thánh Vịnh gia xác định: “Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời.” (Tv 118:9)
Cần có luật để kiềm chế tội ác, nhưng phải được áp dụng với tình yêu thương chứ không thể xử theo kiểu luật rừng. Con người có trước, luật có sau. Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Luật ví như dây cương và hàm thiếc để điều khiển ngựa chứng. Luật cũng đa dạng, có luật hợp lòng dân hoặc mất lòng dân. Luật hợp lòng dân là luật chứa sự nhân đạo, nhằm hoàn thiện con người – như Luật Tân Ước, nổi bật là chữ NÊN; còn luật chưa hợp lòng dân là luật chỉ nhắm tới những khung hình phạt – như Luật Cựu Ước, chú trọng chữ CẤM. Luật Cựu Ước xem chừng thoải mái, dễ thực hiện hơn, và ai cũng thích: “Mắt đền mắt, răng đền răng.” Có lý lắm, vì người ta đánh mình thì mình phải “chơi tới bến” chứ không thì người ta chê mình “dở ẹc” hoặc “lép vế.” Thế thì máu tự ái bốc tới chỏm đầu thôi, chịu gì nổi. Nếu chỉ như vậy thì chẳng có gì đáng nói!
Ngược lại, Chúa Giêsu dạy sống tích cực hơn: “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin thì hãy cho; ai muốn vay mượn thì đừng ngoảnh mặt đi.” (Mt 5:39-41) Wow, thế thì “căng” quá chừng! Chúa Giêsu kỳ thí mồ, dạy những điều chi mà khó mần thế nhỉ? Tuy nhiên, đó lại là chuyện thật chứ không là chuyện bông đùa hoặc giả định.
Ngày xưa, Cựu Luật dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù.” Như thế chỉ là “chuyện nhỏ,” các loài động vật khác cũng vẫn thực hiện như vậy, chẳng riêng gì con người. Vì thế, Chúa Giêsu dạy làm những điều mà chúng ta thấy có vẻ “chói tai” vì khó lọt nghe: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5:44) Đúng là gay go thật!
Thế nhưng không thế không được. Phải vậy thôi. Bởi vì Chúa Giêsu giải thích rạch ròi: “Như vậy, anh em mới ĐƯỢC trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5:45-48) Những bí quyết Chúa Giêsu đưa ra thật thú vị, rất “khác người,” rất “ngược đời,” nhưng mà rất chí lý vì có tính cao thượng. Quả thật, có dám “khác người” thì mới khả dĩ nên thánh, có thể làm thánh sống ngay trên thế gian này. Chân trần còn chạm đất nhưng hồn vẫn thanh thoát, bay bổng.
Khi nào thực sự nhận biết mình là tội nhân, chúng ta sẽ thấy yêu quý lời dạy của Chúa Giêsu – vừa khuyến cáo vừa động viên. Ngài dạy canh tân không ngừng bằng cách cố gắng “hoàn thiện như Cha trên trời.” (Mt 5:48) Khi định hướng rạch ròi như vậy, chúng ta sẽ thoải mái làm mọi thứ chỉ vì Chúa chứ không vì bất cứ lý do nào khác, như vậy chúng ta có thể thẳng thắn và mạnh mẽ xác định như Thánh Phaolô: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi.” (2 Cr 5:14). Và có hệ lụy rất kỳ diệu: “Yêu thương là chu toàn lề luật.” (Rm 13:8 và 10)
Cuộc sống nhiêu khê hơn chúng ta tưởng – cả thể lý lẫn tinh thần. Có những thứ cần phải bỏ – buông bỏ hoặc cở bỏ vì đáng ghê tởm, có những thứ phải bám chặt vì đáng yêu quý. Nhưng phải biết BUÔNG thì mới có thể BỎ, phải biết CỞI thì mới có thể BỎ. Đây là vài điều trong Kinh Thánh:
– Chúng ta rên siết, khổ tâm vì không muốn CỞI BỎ cái này, nhưng lại muốn TRÙM thêm lên mình cái kia, để cho cái phải chết tiêu tan trong sự sống. (2 Cr 5:4)
– Anh em phải CỞI BỎ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải MẶC LẤY con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện. (Ep 4:22-24)
– Chúng ta hãy CỞI BỎ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta. (Dt 12:1)
Lạy Thiên Chúa chí thánh, con xin nhận tội, điều gian ác, con sẽ không dám làm; xin chỉ cho con điều con không thấy, nếu con đã bất công, con sẽ không tái phạm. (G 34:31-32) Con chân thành xin lỗi Ngài, bởi vì con viết nhiều và nói lắm mà chẳng sống được bao nhiêu. Xin giúp con biết tự làm khó mình mà cố gắng tích cực canh tân từng ngày theo định hướng của Ngài, nỗ lực hoàn thiện theo mỗi nhịp thở. Ngài là Đấng Chí Thánh thì con phải hoàn thiện thì mới xứng đáng. Xin thương biến đổi con theo Thánh Ý Ngài. Lạy Thiên Chúa nhân hậu, con đơn độc mình ên, xin cứu giúp con, ngoài Ngài ra, con đâu còn ai nữa! (Et 4:17t) Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Có phải yêu, ghét, giận, thương, là tình cảm tự nhiên bộc lộ làm xáo trộn tâm tính giữa tình đời tình người không ? Liệu các đấng bậc sinh thành có thoải mái, hết trách nhiệm, như lý luận của cụ Nguyễn Bính: nắng mưa là chuyện của trời, tương tư là chuyện của tôi yêu nàng ? Bậc làm cha mẹ nhiều bận tâm về con cháu, tuy nhiên, chăm sóc giáo dục chúng nên người hữu ích vẫn là ưu tiên một, vì thế: kinh nghiệm, sách vở, phương pháp truyền thống, hiện đại, luôn được quan tâm tạo nên kỹ năng sống có lý có tình. Trải qua nhiều thăng trầm, người xưa mới có thể nói lên những lời tâm huyết: lấy oán báo oán, oán chập chùng, lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan.
Được là học trò, là môn đệ của Đức Giêsu, quả là một vinh dự, nhưng khi nghe Đức Giêsu mời gọi thực hành giáo huấn yêu thương, có mấy ai không hoảng sợ ! Trong khi công bằng xã hội chủ trương: “mắt đền mắt, răng đền răng” là phải đạo lắm rồi, Thầy Giêsu lại chỉ dạy các học trò: “đừng chống cự lại người gian ác”. Khi mà ở đời họ bảo nhau hãy cẩn thận trước những thói quen xấu: được đằng chân, lân đằng đầu, Đức Giêsu lại kêu gọi: “nếu ai bị vả má bên phải, hãy giơ má bên kia ra nữa” ! Rất nhiều người thuộc lòng câu nói quen thuộc: ơn đền, oán trả, thế mà Thầy Giêsu lại muốn ai là học trò của Ngài phải sống tinh thần nên một với Thầy: “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em”.
Từ thời xa xưa, các đấng bậc sinh thành đều mơ ước biết cách giáo dục con cháu nên người tài đức, thời đại hôm nay cũng với một cách nói: hãy là người đẹp toàn diện. Giáo huấn của Thầy Giêsu trước sau vẫn như một: “hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Đức độ song toàn, xinh đẹp toàn diện, đã là tiêu chí khó đạt được rồi, Đức Giêsu kêu gọi phải nên “hoàn thiện như Cha trên trời”, đó là vấn đề không hề dễ với khả năng và sự khôn ngoan tài giỏi của con người. Dù cha ông chúng ta đã từng nói: không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, Đức Giêsu trong tư cách là Thầy dạy, Ngài mở ra cho chúng ta một lộ trình đầy hy vọng, nếu tin Chúa, hãy cậy dựa vào sức mạnh và tình yêu của Chúa.
Trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã thông, trong tình yêu, không ai phân biệt tuổi trẻ hay tuổi cao, bằng cấp nhiều tiền bạc bao la, nhưng vẫn nói đến trái tim dâng trào và hạnh phúc vỡ oà. Trong Đức Giêsu, không ai nói đến vật chất sa hoa, hờn ghen ích kỷ, nhưng là nói đến quyền năng tình yêu và sự biến đổi trở nên môn đệ, nên con cái sự sáng. Chính vì quan niệm hạnh phúc theo tinh thần của Đức Giêsu, khác với hạnh phúc thế trần luôn tính toán hơn thiệt, do đó cách cư xử với anh chị em không thể dựa trên công bằng vật chất, nghĩa là ở trong Giêsu, các thành viên gia đình Đức Giêsu chỉ có công bằng yêu thương tha thứ. Tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, mỗi người sẽ được tự do để minh chứng tình yêu của mình với Chúa và tha nhân, hầu được biến đổi nên giống Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân ái.
Tình yêu không giai cấp, không phân biệt giầu nghèo, cũng chẳng cần lắm tài nhiều đức, tình yêu đó là biết thưa vâng, là sống tín thác trong Giêsu, tình yêu nên một trong Thiên Chúa là Đấng hoàn hảo. Đức Giêsu chia sẻ rất thực tế với các học trò: “nếu anh em yêu thương người yêu mình, thì anh em nào có công chi, ngay cả những người tội lỗi cũng làm như thế sao” ? Tình yêu thật đâu có ai cần phải cân đo tính toán, người tốt bụng đâu ai nghĩ phải là người dư tiền dư của, người biết rộng lượng thứ tha cũng chưa phải là thánh nhân, đúng hơn, họ biết mình là ai, là người cần được yêu thương tha thứ. Cũng như đứa trẻ: biết bò, biết đứng, biết đi, rồi mới biết chạy, người tín hữu chúng ta phải biết mình là ai, tin Thầy, cậy dựa vào sức mạnh và tình yêu Giêsu, người môn đệ mới đủ hiểu tại sao cần phải nên trọn lành như Cha trên trời.
Kinh nghiệm của người xưa cho biết: người ta có thể sống thiếu anh chị em, nhưng không ai có thể sống hạnh phúc khi không có bạn bè. Người ta có thể sống thiếu trước hụt sau về của ăn thức uống, nhưng không ai có thể vui và bình an, khi tâm hồn nặng trĩu hờn giận ganh ghét. Thêm bạn, bớt thù, cũng là phương thế hữu hiệu giúp người ta tập luyện tha thứ và bao dung với chính con người tội lỗi đáng thương là cái tôi ích kỷ của mình. Trên mạng người ta có chia sẻ một câu chuyện về tình yêu thương như thế này: có một cậu bé mù loà ngồi ăn xin bên vệ đường với tấm bảng ghi nguệch ngoạc: “con bị mù, cần giúp đỡ”. Bên cạnh cậu bé mù là cái mũ. Một doanh nhân trẻ đi qua, ông chia sẻ 1 chút tiền vào cái mũ, tiện tay ông sửa vài chữ ở tấm bảng trước khi dời khỏi nơi cậu bé. Tiếp đến là người qua kẻ lại, cái mũ của cậu bé mỗi lúc một đầy lên.
Khi doanh nhân trẻ xong việc quay về, cậu bé có cảm giác hiểu được bước chân là của vị ân nhân giúp mình, cậu bé vội nói to: thưa chú, có phải chú là người đã cho con tiền và sửa lại vài từ ở cái bảng giúp con đó không ? Mà chú sửa như thế nào vậy ? Chú giữ lại nội dung của cháu, nhưng cách diễn đạt thì khác chút thôi: “hôm nay là ngày đẹp trời, nhưng con lại không nhìn thấy” ! Nên một tình yêu, nên một trong Giêsu sẽ luôn thiết thực với những ai muốn trở thành môn đệ, đó là vừa học vừa thực hành với Thầy Giêsu, là đang được biến đổi để biết yêu thương, để được nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành. Amen.
Trong một lần hội thảo của các bậc cha mẹ, câu hỏi được đặt ra là: Làm cha mẹ khó nhất là điều gì? Có nhiều ý kiến cho rằng việc nuôi dạy sao cho con khỏe mạnh, ngoan ngoãn, lo cho con được an toàn là khó… Cuối cùng có một chị đã nói rằng: khó nhất là làm gương.
Mà đúng là thế! Nếu quan sát chúng ta thấy khi chưa vợ, chưa chồng thì ăn uống, ngủ, nghỉ, chơi… ra sao cùng lắm chỉ bị mẹ chửi là xong. Họ có ngồi gác chân lên ghế, có vứt áo quần bừa bãi, có ăn trong nồi, ăn bốc, có nhai phùng mồm trợn mắt… thì cũng chẳng ảnh hưởng đến “thằng Tây” nào cả!
Nhưng thử hỏi khi đã có gia đình và có con cái rồi thì những đứa trẻ ngay từ trong nôi đã luôn nhìn cha mẹ như một thần tượng, một tấm gương. Mọi việc cha mẹ làm đều được phản ánh qua hình ảnh bé tí xíu đó. Có nhiều cha mẹ đã phải vừa giật mình, vừa buồn cười khi đứa con hơn một tuổi của mình lặp lại những thói quen của cha mẹ: vứt giầy dép lung tung, dùng chân lấy đồ… đến cả cách cha mẹ dùng từ khi cáu giận… cũng được lặp lại ở chính đứa con của mình!
Thế nên, dạy con những lời hay thì dễ còn làm gương cho con cái noi theo mới là điều quan trọng.
Làm sao dạy con biết yêu thương, quan tâm đến người khác, khi bản thân bố mẹ thì sống ích kỷ, chẳng biết nghĩ đến ai? Làm sao có thể dạy con tính trung thực, trong khi cha mẹ nó buôn gian bán lận, tính toán để thu lời nhiều nhất, làm những điều khuất tất chỉ cốt lấy được tiền nhiều nhất.
Đối với người Công giáo trong mắt người ngoại đạo họ cũng cần chúng ta làm gương về đời sống bác ái yêu thương. Nhiều người vẫn than phiền rằng : đạo công giáo giáo lý thì hay nhưng người Công giáo thực hành còn quá dở! Bởi vì ở đâu đó chúng ta vẫn thấy anh chị em mình sống thiếu tình thương và đầy lòng ghen ghét. Thiếu lòng bao dung và đầy hận thù. Thiếu sự cảm thông và chất chứa đầy những toan tính hẹp hỏi, ích kỷ và thờ ơ. Chính lòng ghen ghét, lòng thù hận, và thiếu cảm thông đã đẩy con người vào bể khổ trần gian với biết bao nước mắt của oan trái, đau thương.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy dùng tình yêu mà xóa bỏ hận thù. Hãy yêu kẻ thù của mình vì chính Chúa đã chọn chết để xin ơn tha thứ cho kẻ tội lỗi lầm lạc. Chúa còn bảo chúng ta nếu không yêu tha nhân như chính mình thì chúng ta không xứng đáng là môn đệ của Chúa. Chúa còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa để sống cho thanh sạch, cho công bằng và yêu mến sự thật. Chúa không chấp nhận là người ky-tô hữu mà gây nên gương mù gương xấu cho người khác vì tật xấu, vì đam mê thấp hèn, vì tội lỗi của mình. Nhất là vì sống thiếu tình yêu thương với đồng loại trong lời nói và hành động.
Đó chính là bài học mà Chúa đã dạy chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài. Chính Chúa đã sống một cuộc đời yêu thương. Yêu thương đến nỗi cho đi cả tính mạng của mình. Tình yêu thương đó Chúa trải rộng trên người lành kẻ dữ. Chúa không kết án tội của Lê-vi, tội của người phụ nữ ngoại tình. Chúa càng không kết án tội của những người làm điều gian ác mà chúng chẳng hay biết. “Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Chúa đã nêu gương yêu thương đến quên cả chính mình, và Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà yêu tha nhân. Hãy vì Chúa mà đối xử tốt với nhau. Hãy vì Chúa mà quên đi cái tôi để sống vị tha và nhân ái với nhau.
Xin cho cuộc đời ky-tô hữu của chúng ta luôn sáng ngời bài ca đức ái để xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để đẩy lùi những khổ đau và mang lại hạnh phúc cho nhân thế hôm nay. Amen.
Theo luật cũ trong Cựu ước thì một người làm lỗi phải chịu trừng phạt tuỳ theo tội nặng hay nhẹ. Nếu một người làm người khác bị thương, thì phải đền bù theo luật ác giả ác báo: mắt đền mắt, răng đền răng (Lv 24:20; Mt 5:38)).
Luật đó có nghĩa là nếu ai làm gẫy một cái răng của mình, mình có quyền bẻ gẫy lại răng của họ. Nếu ai móc mắt mình, mình cũng có quyền móc lại mắt họ. Tuy nhiên không được làm sứt môi, sứt mũi họ. Kiểu nói La tinh: Do ut des, có nghĩa là: hãy làm điều người ta làm cho mình. Chúa đến để tẩy chay luật báo oán và dạy các môn đệ luật xót thương và tha thứ. Luật bác ái vượt lên trên luật công bình và đòi hỏi tinh thần xót thương và tha thứ. Ðối với người Do Thái thời Chúa Giêsu, thì yêu kẻ thù là một điều nghịch lí, không thể hiểu được. Họ được nhồi sọ cho rằng kẻ thù là người mà ngưòi ta phải ghét bỏ và tìm cách hãm hại khi có cơ hội.
Chúa đến dạy các môn đệ phải thương yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt 5:44). Tuy nhiên Chúa không đòi buộc người ta phải yêu thương kẻ thù với cùng một độ yêu mà người ta dành cho người thân yêu và bạn hữu. Người ta không thể yêu kẻ thù với một thứ tình yêu phát xuất tự con tim, do khuynh hướng tự nhiên thúc đẩy. Chúa bảo ta phải yêu thương kẻ thù với một thứ tình yêu do động lực siêu nhiên thúc đẩy và làm quyết định không được ghét bỏ kẻ thù, mà còn phải cầu nguyện cho kẻ thù cũng được cứu rỗi.
Ðó là dấu chỉ và là đặc tính của đạo Kitô giáo. Và đó cũng là đường đưa tới hoàn thiện. Huấn lệnh của Chúa trong Phúc âm hôm nay phải được nhấn mạnh khi ta có khuynh hướng tự đóng khung trong tâm trạng cầu danh lợi trong xã hội. Việc thiện của người đời thường nhắm đến việc đền bù đáp trả. Ta giúp đỡ người khác với hi vọng họ sẽ giúp lại mình: Tôi gãi lưng anh, anh gãi lưng tôi. Sở Trang Vương khi tha cho quan Ðường Giao là nhắm sau này ông quan sẽ nhớ ơn mà bảo vệ mình. Còn ngày xưa Quan Công tha cho Tào Tháo là để nhớ lại một chút ơn xưa nghĩa cũ.
Ðiều mà Chúa dạy ta hôm nay là việc thiện phải có tính cách vô vị lợi. Người làm việc thiện phải sẵn sàng mở rộng đón tiếp người xấu số, mà không quan tâm đến việc đền ơn báo đáp. Chính Chúa đã nêu gương trước bằng cách dạy ta bài học tha thứ cho kẻ thù. Khi bị treo trên thập giá, Chúa cầu nguyện xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm (Lc 23:34). Trong một xã hội cạnh tranh, người ta cảm thấy khó lòng sống theo lời Chúa dạy để trở nên hoàn thiện. Người ta sẽ bị coi là khờ dại, mất mát và thua thiệt, nếu sống theo lời Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay. Tuy nhiên đó chính là sự khác biệt giữa cái khôn của người đời và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô gọi cái khôn ngoan của người đời là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa ( lCr 3:19).
Quan sát nếu có những cá nhân để lòng hận thù, thì cũng có những dân tộc thù dai, tuỳ theo tâm tính cá nhân, cách giáo dục gia đình và xã hội. Lòng hận thù giống như xiềng xích trói buộc người ta lại. Lòng hận thù còn có ảnh hưởng tai hại đến tâm trí, đến đời sống tình cảm, đến sức khoẻ và công ăn việc làm, đến đời sống xã giao của mỗi người. Người ta không cần nhìn xa mới tìm thấy kẻ thù. Có những hận thù xẩy ra ngay trong gia đình giữa cha mẹ, vợ chồng và con cái, giữa anh chị em và bạn bè, tựu trung cũng chỉ vì tình, vì tiền và lỗi lời hứa. Làm sao để áp dụng lời Chúa vào trường hợp hận thù trong gia đình? Những chuyện đau lòng xẩy ra trong gia đình, ta phải cố gắng làm hoà để còn có thể nhìn nhau. Rồi còn phải cầu nguyện cho người gây ra chuyện đau lòng nữa.
Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay đòi ta phải thương xót và tha thứ. Làm sao ta có thể tha thứ cho người mà ta đã làm ơn cho họ, nhưng lại phản bội mình? Tuy nhiên đó là điều mà Chúa đòi hỏi người môn đệ phải làm. Là người môn đệ của Chúa, ta bắt đầu dâng thánh lễ với lời cầu xin tha thứ trong tâm tình thống hối. Ðầu lễ ta có cơ hội xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, và trước khi rước lễ, ta cũng xin Chúa tha nợ như ta tha cho người mắc nợ mình. Ta đến dâng thánh lễ, ý thức về tội lỗi của mình và khi trở về đời sống hằng ngày, với ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa nhân từ, hằng xót thương và hay tha thứ.
Lời nguyện xin cho có được tâm hồn từ bi thương xót:
Lạy Chúa Giêsu là Ðấng nhân từ lân tuất. Con xin cảm tạ Chúa đã đến dạy bảo loài người bài học từ bi hay thương xót thứ tha. Xin Chúa tha thứ những lần con để lòng hận thù ghen ghét. Xin ban cho con một tâm hồn quảng đại, để con biết thứ tha và bỏ qua những lỗi lầm của tha nhân hầu được Chúa quên đi những lầm lỗi của con. Amen.
“Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Vì được nhận làm con cái nên Chúa Kitô truyền dạy chúng ta phải nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. Một nét hoàn thiện của Cha trên trời mà Chúa Kitô mạc khải đó là giàu lòng từ bi, chậm bất bình và hết sức khoan dung, là luôn cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn kẻ bất lương. Quả thật nếu chúng ta chỉ biết yêu thương những người dễ thương và thi ân cho những người thân thích thì có khác gì đâu nhiều anh em chưa biết Thiên Chúa và có khi còn chưa hơn gì những người được xem là tội lỗi. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để vượt qua mức công bình giao hoán kiểu “mắt đền mắt, răng đền răng…”, để sống yêu thương một cách quảng đại, vô điều kiện và đến cùng như Chúa Kitô mời gọi với kiểu nói “ngoa ngữ” là nếu bị vả má bên phải thì đưa cả má bên trái hoặc giả có ai muốn lấy áo trong của mình thì đưa luôn cho họ cả áo ngoài?
Trước hết cần phải hiểu rõ lối nói ngoa ngữ là kiểu nói phóng đại cốt chỉ nhằm muốn nhấn mạnh nội dung nói chứ không phải là dạy hình thức cách thế diễn tả. Khi bị bắt và bị điệu đến trước mặt Thượng tế Caipha, Chúa Giêsu đã bị một thuộc hạ ngài Caipha vả vào mặt thì Người đâu có đưa má bên kia cho anh ta vả thêm nhưng lại nghiêm giọng: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Với kiểu nói “má này, má kia; áo trong, áo ngoài, một dặm, hai dặm”, Chúa Kitô nhấn mạnh rằng nếu đã là yêu thì phải vô điền kiện, đã là yêu thì phải quảng đại và đi đến cùng. Và Người cho biết cái lý do duy nhất mà chúng ta được mời gọi sống yêu thương như trên đó là vì chúng ta đã được nhận làm con của Đấng là Cha của tất cả mọi người.
Nếu chúng ta tin nhận Đấng Toàn Năng là Cha của mình thì hệ quả tất yếu đương nhiên đến đó là phải nhận nhau và sống với nhau như anh chị em ruột thịt cùng chung một mái nhà. Cụm từ cùng chung một mái nhà muốn nói đến nghĩa tình huynh đệ, tỉ muội, khi còn ở trong vòng tay mẹ cha. Bởi chưng đã có đó chuyện lúc còn nhỏ thì anh bên em, khi có bánh anh lại chia, còn lớn lên có gia đình riêng thì ai giàu nấy ăn; lúc còn nhỏ thì chị ngã em nâng, nhưng khi đã lấy chồng thì có thể có trường hợp chị ngã, em lại đạp dìm luôn!
Thiết nghĩ rằng để có thể sống yêu thương nhau như lời truyền dạy của Chúa Kitô thì không gì hơn phải có niềm tin sâu sắc vào Đấng dựng nên chúng ta là Cha Toàn Năng chí ái và tiếp bước theo chân người Anh Cả Giêsu. Xin đừng quên những lời thắm thiết của Người đêm Tiệc ly: “Thầy truyền cho anh em giới răn mới là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 13,34).
Yêu thương các môn đệ, Chúa Kitô không chỉ bao bọc, chở che các ngài mà còn thẳng thắn răn bảo, sửa dạy các ngài và đã có khi quở mắng là Satan. Yêu thương người đương thời thì Chúa Giêsu không chỉ chữa lành bệnh tật mà còn xua trừ ma quỷ; Người không chỉ khoan dung tha thứ cho người tội lỗi hối cải mà còn lên án, cánh báo những người cố chấp chai lì trong tội; Người không chỉ hoá bánh ra nhiều nuôi ăn dân chúng mà còn bện dây thừng thành roi đánh đuổi những người đã biến Nhà Chúa thành hang trộm cướp hay thành nơi buôn bán… Như thế yêu thương nhau không phải chỉ là bao bọc chở che nhau mà còn phải sửa bảo nhau khi cần phải sửa dạy. Thương người có 14 mối, thế mà nhiều khi chúng ta chỉ thương nhau cách bất cập, nghĩa là còn nhiều thiếu sót có khi là đáng trách. Chỉ biết trao cho nhau cơm áo gạo tiền thì cũng chưa hẳn đã là yêu nếu không biết can đảm sửa dạy kẻ mê muội, không biết răn bảo kẻ có tội.
Lời Chúa trong sách Lêvi mà Giáo Hội trích đọc Chúa Nhật này có câu: “Người không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó.” (Lv 19,17). Một sự thật mà lắm khi chúng ta vô tình hay hữu ý không dám trực diện, đó là khi người anh em lỗi phạm mà chúng ta không can đảm quở trách thì chúng ta một cách nào đó chúng ta đang “ghét” người anh em mình. Rất có thể chúng ta không minh nhiên ghét người anh em lỗi phạm nhưng chúng ta lại không dám thương họ như lời Chúa dạy vì sợ bị bách hại, sợ phải vác thập giá.
Dõi theo chân Chúa Kitô để sống yêu thương thì luôn có đó thập giá phải gánh vác. Ai không can đảm vác thập giá mình thì không xứng đáng làm môn đệ của Người. Yêu kẻ thù không phải là nhắm mắt làm ngơ hay tự bó tay chịu trận để kẻ thù mãi đắm chìm trong tội mà phải nỗ lực làm cho kẻ thù hoán cải, đổi thay. Cầu nguyện cho những người ngược đãi chúng ta không chỉ dừng lại ở động thái “lâm râm khấn vái” mà còn phải nắm tay lại giúp họ sửa đổi cung cách hành xử tàn nhẫn, bất công của họ. Tin mừng cho chúng ta hay rằng sau khi cầu nguyện thì Chúa Giêsu không ngồi đó mà chờ đợi nhưng mau mắn thực thi thánh ý Chúa Cha bằng cả mọi nỗ lực gắng công của mình, có khi sau đó lênh đênh trên thuyền giữa sóng biển mà vẫn ngủ thiếp say li bì, có khi phải toát cả mồ hôi pha lẫn máu và đến cả khi thân thể chẳng còn hình tượng người ta nữa với trái tim bầm dập nát tan.
Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới. Đã tin nhận Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Cha Toàn Năng thì phải nên hoàn thiện ngày mỗi hơn cho xứng với phận làm con.
Có những người chúng ta ưa thích, có những người chúng ta thích ít hơn, lại có những người chúng ta không ưa, cũng chẳng thích; lại có những người chúng ta làm ngơ, coi như họ không có trong đời. Trong giao tiếp hàng ngày, rất khó tránh khỏi những xung khắc. Xung khắc đến từ khác biệt cách suy nghĩ, cách xử thế, cách giải quyết vấn đề, quan niệm sống. Chính những điều này dẫn đến việc tranh cãi, từ đó sinh ra xung khắc, đôi khi dẫn đến ẩu đả, thù hằn. Khi điều đó xảy ra chúng ta đòi công lí. Từ đó dẫn đến thưởng phạt. Để tránh cá nhân lạm dụng sức mạnh phe cánh, trong lúc nóng giận, làm hại cá nhân khác, chính phủ can thiệp, bằng cách đưa ra luật lệ bảo vệ mọi công dân, tránh trường hợp trả thù quá đáng gây thiệt hại đến nhân mạng người khác.
Đức Kitô dậy các môn đệ không nên tìm cách trả thù theo thói xã hội cho là công bằng, hợp lí. Ngài dậy các môn đệ, thứ nhất hãy yêu thương kẻ thù và thứ hai, hãy cầu nguyện cho kẻ bách hại ta. Cầu nguyện cho kẻ thù cho biết ta đã không ghét bỏ kẻ làm hại ta, mà còn cầu cho họ được bình an trong tâm hồn. Giáo huấn này vượt khỏi mọi suy luận hợp lí, công bằng, xã hội cổ võ. Đức Kitô kêu gọi ta yêu thương mọi người. Chính Ngài yêu thương tất cả, chết cho tất cả, và sống lại ban ơn cứu độ cho tất cả. Ai đón nhận Ngài đều nhận được ơn trường sinh. Ta chọn yêu người ta thích. Đức Kitô chọn yêu mọi người.
Đức Kitô dậy dùng tình yêu xoá bỏ hận thù. Hận thù gây thêm thù hận; tình yêu xoá bỏ hận thù. Tình yêu có sức mạnh xoa dịu cơn giận, làm mềm con tim chai đá, biến hận thù thành tình bạn. Có người lí luận, sức mạnh có khả năng khống chế nghịch cảnh, bất bình. Thực tế thì sức mạnh có khả năng làm lắng dịu căng thẳng. Vấn đề không được giải quyết thoả đáng, chỉ làm dịu, bớt căng thẳng, xung khắc tạm ngủ yên, khi hoàn cảnh thuận lợi thì căng thẳng lại bùng lên. Đức Kitô cho biết giải quyết vấn đề bằng sức mạnh, lắng dịu bên ngoài chỉ là giải quyết tạm thời. Giải quyết vấn đề thực sự phải đến từ con tim yêu mến, thứ tha. Con tim biết tha thứ, nhân nhượng lẫn nhau, triệt tiêu mọi xung khắc như thế vấn đề mới thực sự được giải quyết.
Thư hai, khi người bách hại ta là kẻ có quyền, có thế, hãy ôn tồn, từ tốn, nhẹ nhàng và kiên nhẫn làm giảm căng thẳng, xung đột. Đối xử nhẹ nhàng như thế kẻ thù sẽ bỏ đi, cảm thấy mình quá đáng. Như thế làm họ suy nghĩ, hy vọng dẫn đến thay đổi, thống hối. Để có thể cầu nguyện cho kẻ bách hại ta, chúng ta không thể tự mình làm điều đó, mà cần có ơn Chúa trong tâm hồn. Không thể minh xác lời cầu của ta giúp ích kẻ làm hại ta thế nào, nhưng chính ta cảm thấy an tâm hơn, tâm hồn thảnh thơi hơn, điều đó dẫn đến tha thứ, làm hoà. Tha thứ cho kẻ thù là điều kiện căn bản nhận ơn thứ tha từ Thiên Chúa, như kinh Lậy Cha chúng ta đọc. Yêu mến, cầu nguyện cho, và giao hoà, chính là làm cho người khác cảm nhận được tình yêu Chúa thật hơn, gần gũi hơn với cuộc sống mọi người. Đức Kitô yêu mến mọi người, môn đệ Đức Kitô cũng đi theo con đường đó. Yêu mến kẻ thù cho thế giới biết chúng ta là môn đệ Đức Kitô. Ngài kêu gọi ta đối xử khác với cách xã hội kêu gọi. Ngài kêu gọi đáp lại bị đối xử tàn tệ bằng cầu nguyện cho họ; thay vì trả thù, trả đũa, ta đáp lại bằng giao hoà; thay vì ghét bỏ, khinh miệt ta đáp lại bằng tình yêu mến. Những người trong vị thế lãnh đạo cảm thấy khó chịu trong giáo lí mới mẻ trên, đặc biệt là những người tự ban cho họ quyền, họ được sinh ra để người khác phục vụ. Đức Kitô cho biết nước Ngài dành cho mọi người, tình yêu Ngài tỏ lộ rõ trên thập giá và sức mạnh của Ngài diễn tả bằng ngôi mộ trống.
Trịnh Công Sơn từng viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi… để gió cuốn đi…”. Gửi tấm lòng vào gió, vị tha với cuộc đời, bạn sẽ thấy cuộc sống đẹp vô cùng, đáng yêu vô cùng.
Ta thường nghĩ, tha thứ là món quà đối với người được tha thứ. Nhưng không. Tha thứ cho bất kỳ ai lại là món quà tự tặng chính bản thân.
Tha thứ luôn là cách giúp ta thể hiện sự trân quý đối với chính cuộc sống của mình. Nó còn giúp tránh muộn phiền và cảm nhận yêu thương.
Dù đã đi qua nhiều năm và Ngoại tôi đã ra người thiên cổ, tôi vẫn chưa bao giờ quên lời Ngoại dạy. Đó là cái thuở còn sinh viên, mỗi khi bực bội ai đó, tôi lại kể cho Ngoại nghe. Lúc nào nghe xong, Ngoại cũng nhẹ nhàng bảo: “Bỏ qua được thì bỏ qua đi con. Nghĩ hoài chỉ tội mệt óc”.
Dù biết Ngoại nói đúng, tôi vẫn chống chế: “Đời này không ai thực lòng bỏ qua cho nhau đâu Ngoại à. Ngoài mặt thì tha thứ, nhưng trong bụng lại ghim gút đợi ngày trả lại cả vốn lẫn lời đó Ngoại. Ai đâu lại hiền như Ngoại!”
Ngoại lại mắng: “Nói như mày chắc ở trên đời thiên hạ đều là kẻ thù của nhau?”…
Càng lớn lên, càng hiểu biết, càng thấm thía cuộc đời, tôi lại càng khắc ghi những lời Ngoại dạy. Bởi tôi biết, chỉ có tha thứ, tâm hồn mới thông thoáng, tầm nhìn phía trước mới không vướng víu bất cứ chướng ngại nào.
Tôi biết, những gì Ngoại dạy là chính sự hấp thu của một đời Kitô hữu mà Ngoại đã trải qua. Ngoại học nơi Chúa Kitô và lắng nghe lời Chúa dạy. Bởi chính Chúa đã chấp nhận làm người, sống, chết cho một tình yêu tha thứ đến vô cùng, đến không gì có thể sánh ví. Chúa tha thứ, để mọi con người nhờ ơn tha thứ của Chúa mà đạt đến sự trường tồn muôn đời trong Nước Chúa.
Và hôm nay, lời Chúa dạy hết sức rõ ràng để mọi người khắc ghi và sống: “Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con, để các con nên con cái Cha các con ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những kẻ yêu thương các con, thì còn có công gì? Nào những người thu thuế không làm như vậy ư? Và nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con mà thôi, thì các con có làm gì hơn? Nào dân ngoại không làm như vậy sao? Vậy các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”.
Chuyện kể rằng, có hai người đi trên sa mạc. Một lần, trong cuộc tranh cãi, một trong hai không giữ nổi bình tĩnh, tát vào mặt bạn mình. Người kia lặng lẽ ghi xuống cát: “Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã tát tôi”.
Rồi cả hai cùng đi. Đến một đầm có nhiều nước, họ quyết định dừng chân. Người bạn vừa bị tát trượt chân ngã xuống bùn. Anh ta càng lúc càng lún sâu xuống. Rất may, người bạn còn lại kịp thời cứu. Ngay sau khi được cứu, anh khắc lên đá dòng chữ: “Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi”.
Và anh giải thích: “Khi ai đó làm chúng ta đau, chúng ta nên viết điều đó lên cát, nơi những cơn gió của sự thứ tha sẽ xóa tan những nỗi trách hờn. Nhưng khi chúng ta nhận được điều tốt từ người khác, chúng ta phải ghi khắc chuyện ấy lên đá nơi không cơn gió nào có thể cuốn bay đi.”
Hãy tha thứ cho những hành động lỗi phạm. Hãy buông bỏ những tư tưởng chấp nhất, hận thù, trả đũa. Chỉ có như thế lòng mới nhẹ, cuộc sống mới bình an, và từng ngày trôi qua sẽ đẹp, sẽ đáng sống.
Trong cuộc sống, lúc này lúc khác, ta sẽ khó tránh khỏi những tổn thương, thậm chí tổn thương tới mức sâu sắc.
Nếu bị tổn thương, ta đau khổ. Chính vì đau khổ, ta tưởng chừng khó có thể bỏ qua, khó có thể chôn vùi lỗi phạm của người khác trong quên lãng. Nhưng rồi mọi sự sẽ qua đi. Thời gian là liều thuốc cứu vãn tất cả.
Đàng khác, bao nhiêu lần ta đã gây tổn thương người bên cạnh. Ta buộc mình phải quên những tổn thương người khác gây ra, nhưng không được quên tổn thương mình gây cho người khác. Phải như thế, ta mới có thể nung đốt trong lòng mình một tình yêu tha thứ.
Hơn nữa, ơn Chúa ban, lời Chúa dạy, tấm gương tha thứ của Chúa, tuổi đời ngày càng cao cộng với những suy tư ngày càng chín chắn hơn của bản thân, đồng thời sức mạnh của những giờ phút cầu nguyện, những giờ phút lặng quỳ bên Thánh Thể Chúa, sẽ cho ta một kinh nghiệm diệu kỳ. Đó là xem thường những lỗi phạm của người khác, không còn muốn nghĩ đến chúng, không còn muốn mang chúng theo bên đời của mình.
Lúc bấy giờ sự tha thứ sẽ ùa về như một ân ban mà bản thân không kềm chế nổi.
Tha thứ như một tất yếu phải đến sau những đổ vỡ cần chữa lành.
Tha thứ bởi quá nhiều lần, bản thân cũng cần được tha thứ, không chỉ từ Thiên Chúa mà còn từ đồng loại xung quanh…
Người Việt Nam có câu: “Lành với Bụt chứ không ai lành với ma.” Nghĩa là, người tốt với ta thì ta cũng tốt với họ, còn nếu là kẻ làm hại ta thì ta cũng phải cho nó biết tay! Nhưng Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài bảo phải yêu cả kẻ thù.
Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy: Lấy oán báo oán thì oán thù chồng chất. Lịch sử Việt Nam đã trải qua những kinh nghiệm cay đắng cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da nấu thịt chỉ vì người ta coi nhau là kẻ thù, muốn giết kẻ thù. Và rồi, người ta nghiệm ra rằng: Như ánh sáng mới xóa tan được bóng tối, chỉ có tình thương mới xóa tan được hận thù. Biết vậy nhưng tự sức con người dường như không thể làm nổi. Nhân loại cần một sức mạnh lớn hơn đến từ bên trên là Thiên Chúa như là động lực và mục đích của việc yêu kẻ thù.
1. Tình Chúa thứ tha. Thiên Chúa yêu thương tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta như lời Đáp ca diễn tả: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu. Chúa tha thứ mọi điều ta sai lỗi. Tội ta phạm, Chúa ném thật xa.” Cảm nhận được tình Chúa thứ tha đó là động lực sâu nhất để ta có thể tha thứ cho kẻ thù.
2. Trở nên giống Chúa. Yêu kẻ thù không chỉ làm cho đời sống chúng ta được vui vẻ, tâm hồn được thanh thản, tình thân được hàn gắn, mà hơn thế nữa, nó giúp chúng ta đạt được mục đích cao cả nhất của đời người là trở nên giống Chúa là Đấng hoàn thiện ở trên trời.
Chúa Giêsu dạy chúng ta thực hành yêu kẻ thù bắt đầu bằng việc cầu nguyện cho người làm hại mình. Cầu nguyện cho người yêu mình thì ai chả làm được, cầu nguyện cho người ghét mình thì cần phải có trái tim giống Chúa mới làm nổi. Ngay giữa giây phút đau thương tột cùng vì bị kẻ thù đóng đinh vào thánh giá, Chúa Giêsu đã cầu xin tha thứ cho kẻ thù: “Lạy Cha xin tha tội cho họ.”
Khi yêu cả kẻ thù là chúng ta đang sống một tình yêu không còn nghĩ đến mình nữa, mà chỉ còn nghĩ đến hạnh phúc của người khác mà thôi. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa của tuần này giới thiệu với chúng ta chủ đề để suy tư và áp dụng vào đời sống cụ thể hằng ngày đó là “hoàn thiện trong tình yêu đối với tha nhân.”
1- Vượt trên luật “mắt đền mắt”
Bản văn mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc I trích từ sách Lêvi, là một trong năm cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước. Trong đó, Thiên Chúa phán với Ítraen, dân riêng rằng: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19,2). Như thế, dân Chúa phải sống thánh thiện bởi vị họ thuộc về Thiên Chúa và bởi vì Thiên Chúa là Đấng Thánh và sự thánh thiện này được diễn tả trong tình yêu nhưng không, một tình yêu không có sự căm thù đối với anh chị em dẫu chúng ta phải sửa lỗi, hoặc thẳng thắn góp ý cho những người anh chị em khi họ sai lỗi. Nó phải được thực hiện với lòng yêu mến, chứ không phải với một sự nóng nảy, tức tối, và càng không có chỗ cho những sự thù oán, hận thù trong trái tim chúng ta. Tuy nhiên, như chúng ta thấy, anh chị em được nói tới trong sách Lêvi thì khá giới hạn. Theo họ, những anh chị em của mình chỉ là những thành viên của Ítraen, chỉ những ai thuộc về dân thánh mà thôi.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô nói với các tín hữu ở Côrintô rằng Giáo Hội là thánh thiện, bởi vì, Chúa Thánh Thần cư ngụ ở trong Giáo Hội. Chúa Thánh Thần của Thiên Chúa là tình yêu và sự sống, làm cho cộng đoàn trở nên thánh thiện, chứ không phải nhờ vào công trạng, cũng không phải nhờ vào cố gắng luân lý của chúng ta, vì chúng ta là những tội nhân. Sự thánh thiện chính là sự cư ngụ của Chúa Thánh Thần, chính Người ở trong Giáo Hội và làm cho Giáo Hội nên thánh thiện. Tuy nhiên, để nên thánh thiện, chúng ta có trách nhiệm đối với chính mình và với Giáo Hội nếu chúng ta muốn sống sự thánh thiện của Chúa Thánh Thần. Vì thế, chúng ta phải sẵn sàng để trở nên giống những người “điên rồ” trong thế giới hôm nay vì sự khôn ngoan của Thánh Thần rất khác biệt với sự khôn ngoan của thế gian. Tình yêu của thế gian này thì rất khác biệt với tình yêu mà Chúa Thánh Thần ban tặng và ảnh hưởng trên chúng ta.
2- Yêu thương không oán thù
Điều này được minh chứng trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” Đây là sự thay đổi của bài đọc thứ nhất: “Anh em hãy nên thánh vì Ta là Đấng thánh.” Sự hoàn thiện của Thiên Chúa ở trong sự thánh thiện. Và sự hoàn thiện của những môn đệ Chúa Kitô cũng ở trong sự thánh thiện. Nhưng một câu hỏi lại xuất hiện với chúng ta ở đây: Sự thánh thiện là gì? Chúng ta nghe âm hưởng từ bài đọc I, nhưng ở đây phạm vi và ý nghĩa được Chúa Giêsu mở rộng một cách tuyệt vời. Trong phần thứ nhất, Chúa Giêsu nói về châm ngôn, hay luật Cựu Ước: “Mắt đền mắt, răng đền răng.” Luật này được chấp nhận vào thời đại đó. Bạn móc mắt tôi, tôi sẽ móc mắt bạn ra; bạn bẻ răng tôi, tôi sẽ bẻ răng bạn. Luật công lý này dựa trên sự công bằng, và nó có những giới hạn, nó mang tính trả thù, anh móc mắt tôi nên tôi sẽ móc mắt lại anh. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu nói: Không, không được làm thế, vì đây không phải là cách hành xử của những người quảng đại và cao thượng đối với những ai đã làm bạn tổn thương và Chúa Giêsu muốn đi xa hơn, là không oán thù, bạo lực giống như người đã xúc phạm đến bạn. Không có dùng bạo lực, trả thù đối với bất cứ ai để trả lời cho những ai đã làm cho bạn bị tổn thương. Thay vào đó, thay vì bạo lực, chúng ta hãy trở nên nhân từ, quảng đại, hào hiệp đối với họ: “Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,39-42). Đây là luật mới của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ của Người.
3- Yêu thương cả kẻ thù
Con người sẽ cho rằng đây là sự điên rồ, như được nói trong bài đọc II, nhưng đây là sự hoàn thiện của sự thánh thiện mà Thiên Chúa muốn các môn đệ Chúa Kitô phải sống. Nếu chúng ta bị xúc phạm, bị tổn thương, chúng ta không báo đáp lại bằng việc làm cho người khác bị xúc phạm và tổn thương một cách tương tự. Không có chỗ trong trái tim của người môn đệ Chúa để chứa đựng bạo lực, oán thù và giận hờn, chỉ có tình yêu làm cho bạn và tôi quảng đại đối với tha nhân.
Phần thứ hai của Tin Mừng làm rõ vấn đề này hơn và xem ra càng ngớ ngẩn hơn đối với thế gian và những lề luật liên quan đến những tội phạm. Bài đọc I, như chúng ta thấy, những nạn nhân được mời gọi hãy yêu thương anh chị em mình và có thể ghét kẻ thù. Các anh chị em là những thành viên của dân thánh. Ở đây, Chúa Giêsu không nói như thế: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Kẻ thù ở đây không chỉ là những người không thích chúng ta, nhưng là những người đang bách hại chúng ta, những kẻ đang tìm cách chống đối và hủy diệt chúng ta. Chúa muốn chúng ta đối xử với họ bằng tình yêu mà xem ra nó rất là ngớ ngẩn đối với thế gian, bởi vì đó không phải là cách thế của tình yêu của thế gian, nhưng là cách thế của tình yêu Chúa Cha trên trời. Nếu chúng ta đối xử với kẻ thù bằng bạo lực và thù oán, như người khác chờ đợi, Chúa Giêsu nói rằng đây là cách thế của những người đời, đó là cách thế của người tội lỗi, như thế, chúng ta không có sự khác biệt gì so với những người đó. Nhưng nếu chúng ta là con cái Thiên Chúa, thì đây là cách thế chúng ta phải sống nếu chúng ta yêu thương cách thế mà Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa yêu hết mọi người, người tốt cũng như người xấu. Người cho mặt trời chiếu xuống trên cả hai. Như thế, nếu tình yêu của chúng ta hướng đến mọi người. Nếu người này là kẻ thù của bạn nhưng bạn nhìn họ như là anh chị em mình, bạn yêu họ. Nếu những người này làm bạn bị thương tổn, bạn đừng nhìn như là người đã làm tổn thương bạn, nhưng hãy nhìn họ như là người cần đến tình yêu của bạn. Bạn sẽ nói rằng điều đó quá vô lý và ngớ ngẩn, đúng thế, nhưng đây là cách thế mà những con cái Thiên Chúa hành xử theo Chúa Cha trên trời đã thực hiện với loài người.
Chúng ta có một mẫu gương về lòng nhân từ đối với kẻ thù, đó là Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, ngài bị bắt bớ, tù đày trong nhiều năm dưới chế độ Cộng Sản. Trong nhà tù, ngài sống yêu thương những người cai tù, nên có một số người đã trở lại. Sau này, khi giữ những chức vụ quan trọng ở giáo triều Rôma, nhiều người mong muốn ngài phải tỏ ra chống đối và lên án chế độ, nhưng thay vào đó, ngài nói về hòa bình, về hòa giải và tha thứ, nhất là bày tỏ lòng yêu thương đối với những con người đã gây đau khổ cho ngài. Đó là cách hành xử, là luật mới mà Chúa Giêsu hôm nay muốn chúng ta sống và áp dụng để trở nên những môn đệ đích thực của Chúa Kitô bằng việc sống một tình yêu vô vị lợi đối với tha nhân. Amen!
Bài đọc một hôm nay trích sách Lê-vi, cuốn thứ ba trong cuốn Kinh thánh. Sách Lê-vi có nhiều luật lệ cho tư tế trong Cựu ước, và những hy lễ cử hành trong đền thờ, nhưng sứ điệp chính là kêu gọi dân Chúa sống thánh thiện. Lời kêu gọi sống thánh thiện trong chương này bao gồm 10 điều răn và những luật lệ khác, nhưng tất cả được tóm lại trong giới luật yêu người như chính mình.
Chúng ta thấy trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su, sau khi giảng dạy về Phúc thật Tám mối, đã quảng diễn các giới răn này, đặc biệt 2 giới răn, thứ nhất là sự trả thù, và thứ hai là yêu thương tha nhân, kể cả kẻ thù.
Vào một buổi tối, một người tài xế xe vận tải ghé vào nhà hàng bên đường để kiếm gì ăn. Trong lúc đang ăn, 3 người lái xe mô tô trông dữ dằn đi vào. Sau đó, không biết lý do tại sao, 3 người này tiến đến bàn chỗ người tài xế xe vận tải đang ngồi ăn, một người rắc muối lên đầu người tài xế xe vận tải, một người hất dĩa thức ăn xuống đất và người khác đổ lý cà phê vào thùng rác. Người tài xế xe vận tải đứng dậy trả tiền cho bữa ăn, không nói một lời đi ra cửa. Một người trong nhóm cười nhạo báng và nói với nhau: “Tên này không phải là đối thủ.” Một lát sau, người đàn bà chạy bàn nhìn ra cửa số thấy chiếc xe vận tải đang đè bẹp 3 xe mô tô, bà nói với nhóm này: “Ông ta cũng không phải là tài xế giỏi, đang đè bẹp 3 xe mô tô ở bãi đậu xe.” Thì ra, người tài xế xe vận tải biết mình không là đối thủ với 3 người dữ dằn này, cho nên ông đã trả thù bằng cách dùng xe vận tải đè bẹp 3 chiếc xe mô tô của họ.”
Có lẽ chúng ta cũng cảm thấy bằng lòng vui thích khi thấy những người xấu, những người độc ác, những người phạm pháp trả giá cho những hành động của họ. Và chúng ta biết khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn trả thù người làm hại hay những người gây ra những thiệt hại cho chúng ta. Sự trả thù thì thường nặng, mạnh và to hơn sự thiệt hại, cho nên chúng ta nghe nói: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại.” Chì thì nặng hơn đất, gây nguy hiểm và đau đớn hơn đất nhiều. Nhiều khi người ta còn cầu những sự dữ và thật dữ xảy đến cho người làm hại. Ngày xưa trong thời Cựu ước, luật trả thù cho phép trả thù thăng bằng vì thế chúng ta nghe: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, có nghĩa là trả thù ít hay bằng thôi, không được hơn. Nhưng Chúa Giê-su dạy: không được trả thù, mà còn phải yêu thương, tha thứ, làm ơn và hãy cầu nguyện cho những người thù oán hay làm hại chúng ta.
Tha thứ cho kẻ thù rất khó. Vì thế khi cảm thấy khó tha thứ và yêu thương kẻ thù, Chúa dạy chúng ta hãy cầu nguyện. Cầu nguyện để xin Chúa ban cho chúng ta ơn tha thứ. Khi chúng ta cảm thấy khó yêu thương, là vì chúng ta không có sự tha thứ, vì vậy chúng ta phải thành khẩn cầu xin ơn Chúa. Nếu Chúa dạy chúng ta giới luật thương yêu kẻ thù, thì chắc chắn Chúa cũng sẽ ban cho chúng ta ơn tha thứ để giúp chúng ta thực hành giới răn đó. Chúa đã làm gương khi Ngài bị đánh đòn, đóng đinh và chết trên thập giá cho chúng ta là những người tội lỗi, không xứng đáng. Chúng ta thấy Chúa đã cầu nguyện cho những người đóng đinh Ngài vào thập giá “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết điều họ làm.” Do đó, một điều quan trọng và cần thiết là chúng ta phải chân thành cầu xin ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta phải cảm nghiệm được lòng nhân từ, thương xót và tha thứ của Chúa cho chúng ta, thì chúng ta mới có ơn tha thứ để thứ tha và yêu thương người khác, nhất là kẻ thù.
Giới răn thứ hai Chúa dạy là yêu thương tha nhân, kể cả kẻ thù. Đây là giới răn cao trọng nhất và cũng là giới răn khó thực hành nhất. Một điều Chúa giảng và dạy về giới răn này mà tôi cảm thấy thực tế và dễ thực hành nhất đó là: “Cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con.” Một người đã tâm sự rằng mấy năm trước đây đã bị người khác lừa dối và làm hại, cho nên mỗi khi nghĩ đến và nhìn thấy họ thì áp huyết máu bừng lên và sự oán thù bốc lên trong lòng. Ngày kia, khi người đó cảm thấy rất giận dữ, oán thù, thì ngay lúc đó bỗng nhiên nhớ tới lời Chúa nói: “Cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con”, liền thầm cầu nguyện cho họ, cho nên bây giờ mỗi khi nghĩ đến họ, thì cầu nguyện và dần dần sự thù oán và cay đắng biến mất. Người đó cũng thú nhận rằng điều đó không làm cho họ trở nên hoàn toàn thánh thiện, nhưng cảm thấy bình an và vui.
Tóm lại, khi chúng ta cảm thấy khó tha thứ, khó yêu thương kẻ thù, Chúa dạy chúng ta ngoài việc cầu nguyện xin ơn tha thứ, chúng ta có thể đặt mình vào trong tình cảnh của người đó, hay đặt họ dưới ánh sáng mới. Một người khác cũng đã tâm sự rằng: “Nếu tôi có thể đi vào con người và tâm hồn của họ, thì tôi có thể nhận ra những nỗi đau buồn, khổ cực và bất an của họ, và cảm nhận này sẽ giúp từ từ bớt đi sự muốn trả thù và thù oán.” Chúng ta phải nhớ rằng: người giữ những sự thù oán, ghen ghét trong tâm hồn hay cuộc sống, và những người nuôi ý định trả thù thì sống trong sự bất an, và sẽ sinh ra những bệnh tật. Chắc chắn chúng ta không muốn làm hại chính chúng ta. Còn người làm hại người khác thì sẽ luôn luôn sống trong lo sợ, vì sớm hay muộn sẽ phải trả giá vì “gieo gió thì sẽ gặt bão.” Vì vậy, chúng ta phải cầu nguyện xin ơn tha thứ cho mình, chân thành tha thứ cho người làm hại chúng ta, đặt họ dưới ánh sáng mới, và nhìn nhận họ cũng là con cái của một Cha trên trời. Chúng ta phải xác tín rằng Chúa Giêsu đã chịu chết trên thập giá vì tội của họ và của chúng ta. Đức cố Hồng y Phan-xi-cô Nguyễn Văn Thuận, Người Tôi Tớ Chúa, là một gương thánh thiện và tha thứ cho chúng ta noi theo. Trong thời gian bị biệt giam trong phòng kín, ngài bị hành hạ và đối xử một cách tàn nhẫn, nhưng sau đó khi được thả ra và sống ở ngoại quốc, ngài không thù oán và không trả thù. Ngài thường chia sẻ là đã tha thứ hoàn toàn và luôn luôn cầu nguyện cho họ.
Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn quảng đại, một con tim tràn đầu yêu thương và tha thứ, để chúng ta xứng đáng là đền thờ của Chúa ngự, luôn sống trong an bình và ân sủng của Chúa.
Theo lẽ tự nhiên, những lời giáo huấn của Chúa trích trong Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay xem ra cứng cỏi và khó thực hiện: Ai muốn lấy áo trong, cho luôn cả áo ngoài; ai bắt đi một dặm, thì đi luôn hai dặm; ai vả má bên phải, cho vả luôn má trái… Tình yêu mà Chúa Giêsu đề nghị không khép kín nơi đồng bào hay những người thân nghĩa, mà còn đối với cả kẻ thù. Thật là khó! Bởi lẽ, trong tương quan con người với nhau, cách xử sự mà Chúa đề nghị trên đây sẽ bị coi là hèn hạ, yếu thế. Trong một bối cảnh xã hội đầy bon chen toan tính và loại trừ lẫn nhau, người tín hữu làm thế nào để giữ được lời dạy của Chúa? Chính Chúa Giêsu đã đưa ra lời giải thích: nếu anh em xử sự theo lẽ thông thường và theo quan niệm người đời, thì chẳng có chi đặc biệt, vì “người thu thuế và người ngoại cũng làm như thế”. Dưới mắt người Do Thái, người thu thuế và người ngoại là hai hạng người không ra gì. Họi bị khinh thường bởi họ là những người gian tham và không nhận biết Thiên Chúa. Vậy, những ai tự hào cho mình là nhận biết Thiên Chúa, thì phải sống thánh thiện và vượt lên những suy nghĩ thông thường. Lối sống của những người tin Chúa đôi khi đạt tới mức phi thường, nhờ đó mới có thể thực hiện được những gì Chúa Giêsu đã dạy trên đây. Một khi khước từ lời dạy của Chúa, cuộc đời sẽ mất an vui. Quả vậy, vì thiếu nhường nhịn mà gia đình tan vỡ, huynh đệ tương tàn, xóm giềng chia rẽ. Vì người ta còn duy trì quan niệm cổ xưa “mắt đền mắt, răng đền răng”, mà bạo lực tràn lan trong xã hội. Vì thiếu kiên nhẫn mà tình yêu vợ chồng vốn gắn kết keo sơn đã trở thành kẻ thù không đội trời chung. Những gì chúng ta thấy trong cuộc sống hôm nay là hậu quả của thiếu tình người và thiếu kiên nhẫn khoan dung. Nhờ thực thi những nhân đức phi thường Chúa dạy, người tín hữu tiến dần trong hành trình nên thánh. Nên thánh là lời kêu gọi của Chúa, đồng thời cũng là lý tưởng của mỗi chúng ta. Tác giả sách Lêvi đã ghi lại huấn lệnh này. Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh. Ngài muốn cho chúng ta nên thánh, tức là nên giống Ngài. Ngài kêu gọi và ban ơn nâng đỡ chúng ta để chúng ta có thể đạt tới mức hoàn thiện. Sau lời kêu gọi: Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh, chính Chúa đã giải thích cho chúng ta thế nào là nên thánh: không trả thù, không oán hận, trái lại, hãy yêu đồng loại như mình. Như thế, nên thánh là kết quả của những cố gắng để thực thi tình yêu thương. Nhiều người trong chúng ta có quan niệm “thánh thiện” là tình trạng của một người đã được hưởng hạnh phúc thiên đàng sau khi đã chết. Không phải vậy, nên thánh là một quá trình biến đổi để hoàn thiện chính mình, để rồi ngay ngày hôm nay, khi còn đang sống ở đời này, chúng ta đã được nếm hưởng hạnh phúc thiên đàng, qua việc được chiêm ngưỡng Chúa bằng đức tin và tình mến. Khái niệm nên thánh như đã nêu trên làm cho đời sống tín hữu không khô cứng, vô vị, nhưng luôn sống động và vươn lên không ngừng. Người ước ao nên thánh là người muốn sống ngày hôm nay tốt hơn hôm qua, và ngày mai tốt hơn ngày hôm nay. Họ không dừng lại ở một cuộc sống đơn điệu, nhưng luôn khám phá ra niềm vui của đức tin, sự hiện diện của Chúa và những ân huệ Ngài ban. Cuộc sống không có phấn đấu vươn lên sẽ giống như ao tù. Con người không có lạc quan hy vọng sẽ giống như ngõ cụt. Họ không biết mình sống cho ai và để làm gì. Người không thao thức nên thánh sẽ thấy cuộc đời đơn điệu vô nghĩa. Nên thánh là cố gắng nên giống Chúa. Tuy vậy, khởi đầu của hành trình nên thánh là ý thức và tôn trọng phẩm giá cao quý của mình trong cuộc đời này. Mỗi người chúng ta không hiện hữu như một đồ vật vô tri vô giác, cũng không như những loài động vật cỏ cây, nhưng là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (Bài đọc II). Biết được phẩm giá của mình để tôn trọng thân xác và trau dồi bản thân trong những lãnh vực khác nhau. Chỉ những ai biết yêu mến trân trọng bản thân mình, thì mới có thể yêu mến trân trọng tha nhân. Tình yêu Kitô giáo được gọi là lòng “bác ái”, tức là yêu thương rộng khắp, không phân biệt và không giới hạn. Bác ái là cốt lõi của giáo huấn Tin Mừng. Tiêu chí cho đức bác ái được chính Chúa đặt ra: yêu người như bản thân vậy. Hai ngàn năm nay, Giáo Hội đã thực hiện lời mời gọi của Chúa, cổ võ tình yêu thương, phá bỏ những ngăn cách, hòa giải những bất hòa và nâng đỡ người bé mọn. Chúng ta mỗi người đều là chi thể của Giáo Hội, có những lúc chúng ta được mời gọi thực hiện những nhân đức phi thường để nêu cao tính siêu việt của giáo huấn Tin Mừng, góp phần làm tỏa sáng sự thánh thiện giữa trần gian.
Khoan dung nói thì dễ mà thực hiện lại có mấy ai đã làm được? Khoan dung là không nhận xét dèm pha người khác một cách bất công. Khoan dung là cắt nghĩa tốt về lỗi lầm của tha nhân. Khoan dung khó nhất vẫn là học được chữ nhịn khi người khác làm nhục hay làm tổn thương đến chúng ta. Bởi vì trong con người ai cũng có cái tôi quá lớn đến nỗi không nhịn được sự tổn thương từ người khác mang tới. Xem ra Khoan dung với người khác không phải là đức tính tự nhiên mà có. Nó là kết quả của sự vun đắp dài lâu thông qua sự làm gương và những lời chỉ bảo của cha mẹ, của bề trên và sự nỗ lực tập luyện của bản thân.
Tôi nhớ hồi còn đi học có lần các bạn mách cô giáo về một bạn có tính táy máy, hay lấy đồ của các bạn trong lớp. Nhưng cô giáo đã khuyên chúng tôi: “Bạn ấy nhà nghèo mà lại ham đọc sách, thế là rất quý. Con đừng trách bạn. Một người ăn trộm sách không phải là kẻ trộm quá xấu. Con cứ nói với bạn ấy rằng đọc xong trả lại, con sẽ cho bạn ấy mượn thêm những cuốn khác nữa ”.
Quả nhiên bạn ấy đã bỏ được tính táy máy mà còn là người luôn thân thiện với mọi người.
Và có lần tôi chứng kiến một bạn trai vì bênh vực ngưòi yêu mà có lời không được lễ phép lắm với cha mẹ. Thấy tôi ái ngại ông bố đó đã ôn tồn nói rằng: “Khi người ta yêu, thì người yêu là nhất. Ai ngăn cản, tự nhiên sẽ trở thành kẻ thù. Ngày trước bọn mình yêu nhau, ông bà nội cũng không đồng ý. Có lúc hận ông bà và nghĩ sẽ bỏ nhà ra đi. Tuổi trẻ bồng bột. Sẽ có lúc nó nghĩ lại khi sóng tình đã dịu. Phải tập sống khoan dung để cho con cái có cơ hội sửa đổi”.
Nếu trong cuộc sống ai cũng biết nghĩ tích cực và nói những điều tích cực sẽ không có tổn thương, không ân oán oan gia. Nếu trong cuộc sống ai cũng biết nhịn nhường lẫn nhau thì không có lời cay đắng nói xấu hay kết án lẫn nhau. Cuộc sống sẽ là thiên đường nếu ai cũng nhường nhịn và “chín bỏ làm mười” với nhau.
Hôm nay Chúa dạy chúng ta về lòng bao dung ky-tô giáo. Chúa dạy chúng ta đừng bao giờ có kẻ thù. Hãy dùng tình yêu mà xóa bỏ hận thù. Hãy yêu kẻ thù của mình như Chúa đã từng cầu xin cho kẻ làm hại mình bằng một lời rất từ bi: “xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Chúa còn bảo chúng ta nếu không yêu tha nhân như chính mình thì chúng ta không xứng đáng là môn đệ của Chúa. Chúa còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa để sống cho thanh sạch, cho công bằng và yêu mến sự thật. Chúa không chấp nhận là người ky-tô hữu mà gây nên gương mù gương xấu cho người khác vì tội lỗi của mình. Nhất là vì sống thiếu tình yêu thương với đồng loại trong lời nói và hành động.
Đó chính là bài học mà Chúa đã dạy chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài. Chính Chúa đã sống một cuộc đời yêu thương. Yêu thương đến nỗi cho đi cả tính mạng của mình. Tình yêu thương đó Chúa trải rộng trên người lành kẻ dữ. Chúa không kết án tội của Lê-vi, tội của người phụ nữ ngoại tình. Chúa đến để thu phục người tội lỗi bằng chính hành động bao dung của mình. Chúa bẻ bánh và trao cho các môn đệ trong đó có cả Giu-đa. Chúa cúi xuống rửa chân cho các môn đệ từ Phê-rô cho tới Giu-đa. Chúa đã nêu gương yêu thương đến quên cả chính mình, và Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà yêu tha nhân. Hãy vì Chúa mà đối xử tốt với nhau. Hãy vì Chúa mà quên đi cái tôi ích kỷ để sống vị tha và nhân ái với nhau.
Có ai đó nói rằng: “Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người đều trở nên mù lòa”. Cuộc đời sẽ là thảm họa nếu thiếu lòng bao dung và yêu thương. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quên đi cái tôi để đón nhận mọi người trong yêu thương tha thứ. Xin cho cuộc đời ky-tô hữu của chúng ta luôn sáng ngời bài ca đức ái để xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để đẩy lùi những khổ đau và mang lại hạnh phúc cho nhân thế hôm nay. Amen.
Kẻ thù là ai? Người không thích ta, và ngay trong ta, cái xấu ta không thích vẫn cứ theo ta dai dẳng. Yêu kẻ thù, không được ra tay với kẻ thù khi có cơ hội trả thù. Yêu kẻ thù, việc chính yếu Chúa dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 44).
Kẻ thù, người không thích ta, người hay để ý để gièm pha ta. Kẻ thích ném đá sau lưng ta, kẻ luôn muốn phá vỡ bình an của ta. Những người ghét ta luôn luôn có. Nếu luôn để tâm đến kẻ ghét ta, ta chẳng bao giờ có sự yên tĩnh trong tâm hồn.
Kẻ thù, kẻ gây cho ta nhiều đau khổ, kẻ đàn áp ta bằng những điều bất chính. Kẻ cướp lấy những gì ta có để sống. Kẻ thù ta, những kẻ tham lam, trục lợi trên công sức của ta, làm giàu trên mảnh đời còm cõi của ta. Kẻ thù luôn có nhiều trong thời độc tài, toàn trị. Yêu kẻ thù để thức tỉnh lương tri của kẻ thù, để kẻ toàn trị trở thành những con người thật sự cần thiết cho xã hội. Chúa Giêsu dạy bài học yêu kẻ thù, kẻ làm hại mình để xây dựng một nền văn minh tình thương, một nền văn minh tái khám phá tình yêu lớn lao để có hòa bình. Trong bài diễn văn của Đức Giáo hoàng Phanxicô lại tòa Lưỡng Viện Hoa Kỳ phát biểu: “Một đất nước chỉ có thể được xem là vĩ đại, khi nó ủng hộ cho tự do như tổng thống Lincoln đã làm; khi nó cổ vũ cho nền văn hóa giúp người dân có thể ‘mơ’ về những quyền lợi chính đáng nhất cho tất cả đồng bào của mình, như mục sư Martin Luther King đã theo đuổi; khi nó dám tranh đấu cho công bình và chống lại sự áp bức, như Người-tôi-tớ-của-Chúa là bà Dorothy Day đã miệt mài thực hiện; như hoa trái Đức tin đã trở nên những cuộc đối thoại và gieo rắc hạt giống hòa bình trong lối chiêm niệm của nhà thần bí Thomas Merton.”
Kẻ thù ở trong ta.
Đó là dạng kẻ thù luôn tiềm ẩn trong cái xấu ở trong ta. Để thắng tật xấu luôn luôn tập nhân đức đối nghịch với tật xấu. Lấy điều tốt thay cho điều xấu, làm sự lành thay cho sự dữ, nói điều hay thay cho lời chế giễu dèm pha, lấy ý ngay lành thay cho ý đồ xấu… Đó là phương cách yêu kẻ thù ở trong ta. “Nếu bạn muốn người khác hạnh phúc, hãy luyện tập tâm từ bi. Nếu bạn muốn chính mình hạnh phúc, hãy luyện tập tâm từ bi.” (Đức Đạt Lai Lạt Ma).
Không nuôi thù hận, không trả thù khi có cơ hội. Tình yêu không phải là một cảm xúc nhất thời, “khi yêu củ ấu cũng tròn”, tình yêu đích thực là một thiện chí hướng tới điều cao thượng, hoán cải sự dữ ra điều lành. Yêu kẻ thù bằng con đường xây dựng đức ái trọn hảo : “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.” (1Cor 13, 4- 6).
Yêu kẻ thù không có nghĩa là thích kẻ thù. Yêu kẻ thù là yêu lấy linh hồn họ đang bị đánh mất bởi sự dữ chiếm hữu họ, và vì sự dữ nơi họ lá nguyên nhân gây ra đau khổ cho ta và người khác. Bởi thế, Chúa Giêsu dạy: “Cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình” (Mt 5, 44). Tại Brazil khi nói với các bạn trẻ Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Tôi muốn nói một điều cuối cùng, một điều cuối cùng. Ở đây, cũng như trong toàn thể nước Ba Tây, có rất nhiều người trẻ. Hỡi các người trẻ! Các con, các người trẻ thân yêu, các con đặc biệt nhạy cảm đối với những bất công, nhưng các con thường thất vọng bởi sự kiện nói về tham nhũng, về những người thay vì đi tìm công ích, lại tìm quyền lợi riêng của mình. Với các con cũng như với tất cả mọi người, cha nhắc lại: không bao giờ được chán nản, đừng mất niềm tin, đừng bao giờ để cho niềm hy vọng của các con bị dập tắt. Thực trạng có thể thay đổi, con người có thể thay đổi. Các con hãy tìm cách là những người đầu tiên mang lại điều lành, đừng học thói quen làm điều ác, nhưng đánh bại nó bằng điều lành. Hội Thánh đồng hành với các con, mang đến cho các con sự tốt lành quý giá nhất là đức tin, mang đến cho các con Chúa Giêsu Kitô, Đấng “đến để cho con người được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).” (Cộng đồng Varginha ở Rio de Janeiro, ngày 25 – 07 2013).
Kẻ thù ở bên ngoài con, ở trong con. Lạy Chúa, xin cho con biết con trong những yếu đuối và cho con biết chiến thắng được chính con, bằng con đường hoán cải của tình yêu. Xinh tình yêu của Chúa cho con được đổi mới và con có thể đổi mới những người anh chị em chung quanh con và xã hội con đang sống.
Lời khuyên Chúa dậy hôm nay, Thi hành đức ái, đẹp thay cuộc đời. Người xưa ân óan đối lời, Mắt thì đền mắt, răng rời đền răng. Thù hành đáp trả được chăng? Chi bằng tha thứ, gia tăng tình người. Nhịn ai chống cự ở đời, Nhường người hung ác, gọi mời thứ tha. Kẻ nào vả má chạm va, Cố tình đoạt áo, cởi ra biếu liền. Ai mà vay mượn số tiền, Rộng lòng quảng đại, đừng phiền khó khăn. Yêu thương thù địch làm lành, Nguyện cầu cho kẻ, thù hằn ghét ghen. Chúng con nhân chứng muối men, Trở thành ánh sáng, đài sen rạng ngời. Yêu thương tha thứ trong đời, Thực hành nhân đức, yêu người thế gian. Kẻ lành người dữ tràn lan, Yêu người yêu Chúa, chứa chan phúc lành.
Chúng ta hãy nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành. Ngày xưa người ta đối xử với nhau một cách sòng phẳng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Họ chưa có quan niệm về lòng từ bi hỉ xả. Họ chưa học biết sự yêu thương tha thứ. Có lẽ cách đối xử, ăn miếng trả miếng như thế được coi là sự công bằng. Công bằng nhưng thiếu đức bác ái, thiếu lòng nhân thì công bằng trở nên què cụt. Đây chỉ là thực hiện những hành vi tiêu cực.
Chúa Giêsu đã lên tiếng dạy bảo chúng ta những điều tích cực hơn. Chúa dạy chúng ta hãy yêu thương mọi người, yêu cả kẻ thù và còn cầu nguyện cho họ. Cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, vu khống và ghen ghét chúng con. Những điều Chúa dạy thật cao cả và khó tưởng tượng. Tình yêu không có biên giới. Sự tha thứ không có tính toán. Đôi khi thực hành điều Chúa dậy, chúng ta cảm thấy như mất mát, thua thiệt và chịu nhục nhã.
Chúa muốn chúng ta bước lên cao hơn một bước mà mọi người bình thường cư xử với nhau. Thói thường thì chúng ta nghĩ ai làm hại tôi, tôi trả lại họ như thế; ai nói hành tôi, tôi nói lại và ai lừa dối tôi, tôi lừa lại. Như thế chúng ta nghĩ rằng có qua có lại mới toại lòng nhau. Ở đời, chúng ta thường xử với nhau như thế và cho đó là có tình có nghĩa và công bằng.
Chúa dạy chúng ta hãy có thái độ cao thượng hơn. Hãy đem yêu thương vào nơi thù ghét và đem tha thứ vào chỗ lỗi lầm. Cầu nguyện và yêu thương kẻ xỉ vả, lăng nhục và nói gian nói dối về chúng ta. Chúa dạy chúng ta và chính Chúa đã hành động trước. Chúa tha thứ cho những kẻ bách hại, đánh đập và vu khống cho Chúa. Trên thập giá, Chúa cầu nguyện xin Cha tha thứ cho họ.
Thực hành đức công bằng luôn đi kèm theo đức bác ái. Trong hoàn cảnh cuộc sống hiện nay, chúng ta không bao giờ có sự công bằng đích thực, nhưng chúng ta có đức bác ái đích thực. Đức ái đó là sự yêu thương tha thứ. Tha thứ dẫn chúng ta đến sự hòa giải. Sự hòa giải dẫn đưa chúng ta đến niềm vui và hạnh phúc.
Chỉ có tình yêu mới có thể xóa đi hận thù và chúng ta có thể hưởng phúc bình an. Chúa chính là nguồn tình yêu. Xin tình yêu Chúa bao trùm cuộc sống để mỗi hành động chúng ta thực hiện trong tình yêu. Lạy Chúa, xin nâng đỡ chúng con mọi nơi và mọi lúc để chúng con sống xứng đáng là môn đệ Chúa.
‘Thiên Chúa là đấng trọn lành, thánh thiện’, điều này thật hiển nhiên và mọi người chúng ta đều sẵn sàng công nhận. Tuy nhiên nội dung của trọn lành và hoàn thiện này là gì thì có thể mỗi người nghĩ mỗi khác. Hoàn thiện thông thường được hiểu là không có một khuyết điểm nào, mọi cái đều cao đẹp, hoàn hảo…, cách hiểu này khi được áp dụng cho Thiên Chúa thời quả là chí lý: Thiên Chúa là Đấng duy nhất hoàn thiện. Do nhận thấy nơi mình đầy dẫy những khiếm khuyết (nhân vô thập toàn), nên con người suy ra: phải có một Đấng thập toàn trọn hảo (Deus bonus est). Cũng tương tự như thế khi ta gán cho Thiên Chúa nhiều yếu tính khác mà con người giới hạn không thể tìm thấy nơi mình như, Thiên Chúa toàn năng, thông minh vô cùng, ở khắp mọi nơi… Riêng về sự trọn lành và hoàn thiện của Thiên Chúa thì, trước khi Đức Giê-su xuất hiện, con người đã chỉ có thể mường tượng chứ chưa thể xác định: thực chất nó hệ tại ở điều gì. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su như muốn xác định cho chúng ta: trong nhãn quan Thiên Chúa, hoàn thiện chính xác phải được hiểu như thế nào.
“Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là đấng hoàn thiện!”
Trước đó Đức Giê-su đã từng kêu gọi các môn đệ của Người, nếu muốn được vào Nước Trời, thì hãy “ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu” (Mt 5:20). Nếu hoàn thiện có nghĩa là nên trọn lành thánh thiện, đầy đủ các nhân đức…, như chúng ta tưởng tượng Thiên Chúa có, thì đòi hỏi này hoàn toàn bất khả thi vì không một ai có thể chu toàn cho nổi; mà bất cứ đòi hỏi nào, cho dầu cao đẹp tới mấy mà bất khả thi, thì cũng đều trở thành vô nghĩa. Cũng vậy nếu ‘công chính’ hệ tại ở việc căn kẽ nắm giữ lề luật, thì đòi các môn đệ là những người bình dân phải công chính hơn cả các kinh sư và người Pha-ri-sêu là đòi một điều vô vọng; …tương tự như ngày nay bắt ‘người đời’ phải ‘thánh thiện’ hơn các tu sĩ trong việc đạo đức, giữ giờ giấc thiêng liêng hay kiêng giữ vậy.Cũng may là cuộc sống của Đức Giê-su rất nhất quán và cụ thể, cũng vậy các lời rao giảng và đòi hỏi của Người cũng rất cụ thể và luôn trong tầm với.
Từ sinh thời cho tới lúc chết trên Thập Giá – tức trọn cuộc sống – Đức Giê-su chỉ muốn làm sao cho chúng ta biết về Thiên Chúa trong yếu tính quan trọng nhất của Ngài, đó là: ‘Thiên Chúa là Đấng cứu độ và từ nhân, hay thứ tha và giầu lòng xót thương’. Đồng thời mạc khải lớn nhất đó cũng chỉ có thể tìm thấy nơi con người Đức Giê-su (Verbum Dei) trước cả những lời Người giảng dạy, vì “Không ai đã lên trời (để biết về Thiên Chúa)…, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13). Do đó sự hoàn thiện của Thiên Chúa, như Đức Giê-su đã dùng chính cuộc sống mình để minh chứng, chính là “Thiên Chúa yêu thế gian (tội lỗi) tới nỗi đã ban Con Một”. Theo Người, đón nhận ‘sự hoàn thiện’ của Thiên Chúa trước hết và trên hết là ‘tin vào Con của Người’ – Đấng đã đến xóa bỏ tội trần gian (Ga 3:16).
Và tất cả những ai tin vào Người Con ấy, Đức Giê-su khảng định, cũng sẽ sống sự hoàn thiện độc đáo của Thiên Chúa cách rất cụ thể: họ sẽ không trả thù, sẽ yêu thương thù địch, sẽ làm ơn cho những kẻ hại mình. Và lý do Người đưa ra rất đơn giản: Thiên Chúa hoàn thiện vì Người nhân từ; do đó bất cứ ai tin vào Thiên Chúa cũng phải nên hoàn thiện theo cùng một cách thức đó. Tương tự như thế, qua yêu cầu: “anh em hãy thương yêu nhau… như chính Thầy yêu thương anh em”, Đức Giê-su trưng ra sự hoàn thiện của Chúa Cha như tấm gương mà mọi Ki-tô hữu phải học đòi: “anh em hãy nhân từ… như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36). Như thế ‘hoàn thiện như Thiên Chúa’ hay ‘công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu’, mà Đức Giê-su đòi các môn đệ Người phải đạt tới, trở nên vô cùng rõ ràng, rất mới mẻ và đậm nét Tin Mừng. Trong nội dung đó, tôi thiết nghĩ, khi yêu cầu ‘nên hoàn thiện như Cha trên trời’, Đức Giê-su đã không đưa ra một yêu sách mà con người không thể thực hiện được, nhất là đối với các Ki-tô hữu, khi mà niềm tin của họ hoàn toàn dựa trên khiêm tốn nhìn nhận rằng: tự bản chất con người, mình là kẻ tội lỗi và bất toàn. Thậm chí thánh Gio-an còn dám khảng định: “Ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối” (1 Ga 4:20). Yêu hết mọi người, yêu cả kẻ thù đúng là giới răn hoàn thiện (chứ không chỉ một lời khuyên hay khích lệ) dành cho hết thảy mọi Ki-tô hữu, vì họ là những người duy nhất trên trần gian nhận biết: Thiên Chúa là Đấng nhân từ như thế nào.
Nếu tôi thật sự tin Thiên Chúa đã yêu thương và chết cho tôi, thì tôi cũng sẽ có khả năng tha thứ và yêu thương kẻ thù; và trong cách đó tôi đúng là đã trở nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng từ nhân; còn nếu như tôi không chấp nhận tha thứ và yêu thương dầu chỉ một người thù nào đó, thì chính niềm tin vào Đức Giê-su Thập Giá của tôi đang có vướng mắc nghiêm trọng. Lúc đó, cho dầu có đạt được tới độ siêu việt mọi thứ nhân đức trên đời, tôi cũng vẫn không thể xác quyết được rằng: mình đã tới gần được sự hoàn thiện của Thiên Chúa, Đấng trong Đức Ki-tô đã tha thứ và hiến mình cho các tội nhân.
Nếu thế thì trong tư cách mục tử – tu sĩ của Đức Ki-tô, tôi biết rõ: chính mình trước hết – rồi cùng những người mà tôi có bổn phận dẫn dắt, phải hướng tới sự hoàn thiện trọn lành nào!
Lạy Thiên Chúa trọn lành và thánh thiện vô cùng, khi đòi con phải trở nên hoàn thiện như Cha, Cha đã cho con một tấm gương hoàn thiện mà con hằng phải chiêm ngắm, đó là Đức Giê-su chết treo trên Thập Giá; đồng thời Cha cũng gieo vào lòng con nguồn mạch của sự hoàn thiện là Thần Khí Cha. Xin cho con luôn biết lắng nghe Thần Khí tình yêu nhắc nhở, nhất là mỗi khi gặp trái ý, thù nghịch, để con biết rộng mở cho tha thứ và yêu thương như Cha, nhờ đó con có thể trở nên hoàn thiện như Cha nhân ái trên trời. A-men.
Bộ phim ‘Chú bé Karatê’ (Karate kid) thuật lại câu chuyện về một đứa bé đến gặp một võ sư Nhật Bản để xin thụ giáo. Vị võ sư nhìn vào thằng bé và hỏi: “Con đến xin ta dạy võ để làm gì?” Chú bé thành thật trả lời: “Thưa thầy, con đến xin thầy dạy võ cho con để con về nhà trả thù”. Suy nghĩ một lát, vị võ sư trả lời: “Được, nhưng trước hết con hãy về nhà và đào sẵn 2 cái huyệt, một cái để chôn kẻ thù của con, còn cái kia để chôn chính con”. Vị võ sư đã trích dẫn câu ngạn ngữ Trung Hoa để nhắc cho đứa học trò biết rằng, khi lòng chúng ta mang nặng thù hận và không biết quảng đại tha thứ, chúng ta đang tự đào hố chôn mình.
Nên hoàn thiện như Cha trên trời.
Đây là quy chuẩn tuyệt đối và trọn hảo mà Chúa Giêsu đã nêu ra trong bài Tin mừng hôm nay. Sau khi giải thích cho các học trò về các lề luật cũ với 1 chiều kích mới, Chúa đã tóm kết bằng một định thức đơn giản: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Thánh Phanxicô Salê, vị Tiến sĩ Đức Ái cũng đã viết trong khảo luận của Ngài: “Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái là sự hoàn thiện của tình yêu.” Đức ái ở đây là thuộc tính căn bản của Thiên Chúa, như thánh Gioan đã khẳng quyết: “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,16b). Ngàyhôm nay, nhiều cá nhân hay nhiều đoàn thể vẫn hay tổ chức những việc bác ái xã hội. Điều đó rất đáng trân quý. Nhưng nếu không xuất phát từ tình yêu dành cho Thiên Chúa theo khung Đức Ái từ nơi Ngài, thì những công việc từ thiện đó chỉ mang tính hình thức bên ngoài, đôi khi rất giả tạo.
Trong 3 năm trời, Đức Giêsu đã bôn ba đi khắp các làng mạc để rao giảng và chữa lành. Những công việc này nhằm quảng diễn lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu không phải là chuyên viên đi làm công tác xã hội. Ngài chẳngbao giờ đi cứu trợ các nạn nhân lũ lụt với các bao gạo hay với các thùng mì gói. Ngài cũng không hềnhúng tay vào việc xây cấtcác nhà tình thương cho người nghèo, cũng chẳng đem tiền bạc dư thừa đến vùng quê để xây trường học hay bệnh viện. Nhưng Chúa Giêsu đã cho đi tất cả, đã hiến dâng tất cả, đã hiển thị “Đức Ái’một cách tròn đầy nhất qua chính cái chết của Ngài trên Thập giá. Một nhà tu đức nọ đã phát biểu : “Thiên Chúa đã thực hiện một giấc mơ hết sức điên rồ là phân thây xẻ thịt chính người con một yêu dấu để ban tặng chúng ta. Đó là món quà tình yêu vô giá, cao cả nhất và vĩ đại nhất. Đức Giêsu cũng đã từng nói với các môn sinh : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu (Ga 15,13). Đức Giêsu không phải là nhà mô phạm chỉ biết đứng trên bục giảng và dạy các học trò bằng lý thuyết, nhưng đã hiển thị những lời giáo huấn qua chính gương mẫu cụ thể nơi Ngài. Chúa đi bước trước để mời gọi chúng ta là những môn sinh tiếp bước dấu chân của vị Tôn sư trên con đường trọn lành : “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
Trong bài đọc 1, tác giả sách Lêvi cũng nhắc lại lề luật cũ mà Đức Chúa đã ban bố trên núi Sinai : “Các ngươi phải thánh thiện, vì ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh”. Nhưng lề luật tuyệt đối này dần dần đã bị xã hội Do Thái cắt nghĩa méo mó với nhiều giới hạn. Ví dụ,yêu mến tha nhân tức là phải thương yêu đồng loại và phải ghét kẻ thù. Điều này Chúa Giêsu đã nhắc lại trong bài Tin mừng hôm nay. Ngài đến trần gian để mặc cho lề luật cũ một chiều kích mới, đó là chiều kích thánh thiêng và tuyệt đối của Đức ái.
Trong chương 13 thơ thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô đã nêu ra những cách thức cụ thể để thực thi Đức ái. ‘Bài ca Đức Ái’ được thánh Phaolô viết ra, vang vọng lại những giáo huấn mà Chúa Giêsu nói tới trong bài Tin mừng hôm nay.
Hãy yêu kẻ thù.
Giáo huấn này xem ra có vẻ nghịch thường và rất khó chấp nhận. Con người từ xưa đến nay vẫn sống theo nguyên tắc mà triết gia Darkwin đã đềxướng : “Sống là tranh đấu”(struggle for life). Phải chiến đấu chống lại kẻ thù. Người Việt Nam vẫn thường nghe câu tục ngữ ‘Giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh’. Chẳng có ai khi bị người ta tát má bên này lại giơ cả má bên kia ‘kính mời’ đối phương tát tiếp. Qủa là những huấn giáo ngược ngạo và chướng tai. Chúng ta chẳng lạ gì khi thấy một số các môn đệ đã bỏ đi sau khi nghe Chúa Giêsu công bố những điều nghịch thường. Họ không thể chấp nhận và nói với nhau : “Lời này chói tai quá, ai nghe cho nổi”(Ga6,60).
Chỉ đi sâu vào mầu nhiệm Thập giá, chúng ta mới dần cảm thấu những nghịch lý nơi giáo huấn của Đức Giêsu. Trên con đường dẫn đến núi Sọ, Chúa Giêsu bị người ta chửi bới, bị tát vào mặt, bị nhổ nước bọt tỏ dấu khinh bỉ, bị đội triều thiên bằng gai nhọn để chế giễu,… Ngài vẫn câm nín như ‘Con chiên hiền lành bị đem đi xén lông mà không kêu ca hay mở miệng’. Trước khi tắt thở, Chúa còn ngỏ lời với Chúa Cha : “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đây là cách thái tuyệt hảo nhất để quảng diễn Đức ái mà Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta.
Kết luận.
Thời thế chiến thứ hai có một tên trùm mật vụ khét tiếng của phát xít Đức tên là Ithacos. Anh có bề dầynổi bật về những thành tích tàn phá Giáo hội, sát hại các linh mục và đập phá các nhà thờ, trong đó có nhà thờ thánh Phaolô ngoại thành. Sau năm 1945, phát xít Đức thất trận. Anh ta bị bắt và bị kết án tử hình. Trong trại giam chờ ngày hành quyết, anh đã viết thơ xin Đức Thánh Cha Piô XII tha thứ vàmong muốn được xưng tội. Đức Thánh Cha đã chấp thuận và gửimột linh mục đến giải tội cho anh ta. Ngài còn trao tặng kẻ sát nhân một cỗ tràng hạt và nhờ linh mục giải tội đem đến. Anh ta rất cảm động và nói với Cha giải tội: “ Thưa Cha, tội con đáng nguyền rủa vì đã tàn phá Giáo hội cách khủng khiếp. Con bị kết án là điều hợp lẽ công bằng. Nhưng con rất cảm động vì Đức Thánh Cha đã tha thứ cho con, và đó là điều con không bao giờ dám nghĩ tới. Xin Cha hãy đeo cỗ tràng hạt này vào cổ con vì con hoàn toàn bất xứng. Bây giờ, con cảm thấy rất bình an dù phải đón nhận cái chết”. Sự tha thứ đã giúp hoán cải một tâm hồn, cho dù người đó đã từng là kẻ thù của chúng ta.
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta vẫn lớn tiếng cất lên lời kinh ‘Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con’. Tất cả chúng ta đều là tội nhân, là ‘kẻ thù’ của Thiên Chúa, vì đã chống lại Thiên Chúa mỗi khi chúng ta phạm tội. Chúng ta đã được Thiên Chúa tha thứ và chữa lành. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta hãy khắc sâu lời giáo huấn của Chúa Giêsu ngày hôm nay: “Hãy yêu thương kẻ thù… và anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
Đế sống hoàn thiện như Chúa Giêsu dạy, chúng ta hãy thực thi đức ái, nhưng phải thực thi đức ái như thế nào?
Thức thi bác ai để khỏi bị quấy rầy chăng? Một người nghèo đói nào đó đến ăn xin ở cửa nhà ta, ta giúp họ không vì lòng thương, nhưng để họ khỏi quấy rầy,… Kẻ nghèo khó đôi khi vì tự ái không thèm nhận của ta bố thí. Thánh Phaolô dạy: “Anh em có vui lòng giúp đỡ kẻ khác, mới đẹp lòng Thiên Chúa”. Một văn sĩ nói rằng: “Cách cho có thể làm tăng hay làm giảm giá trị của cho”. Có kẻ thực thi bá ái trên loa phóng thanh. Họ thực thi bác ái theo cách của những người biệt phái: Họ khoe khaoang, họ kể công, họ không muốn “áo gấm đi đêm”. Người đời thường khoe khoang như thế, còn Chúa Giêsu dạy: “Khi chúng con làm phúc bố thí, tay mặt đừng cho tay trái biết”. Thực thi bác ái như thế mới được Chúa ghi công. Và kẻ được giúp, đỡ mặc cảm và vui lòng nhận. Hãy nhớ rằng: “Cho thì sung sướng hơn nhận”. Nên ta hãy rộng tay bố thí coh kẻ cùng khổ. Có kẻ lại thực thi bác ái theo kiểu hàng hai chiều: Nghĩa là cứ: “Bánh sáp đi, bánh qui lại”, và hễ “Ông đưa chân giò, bà thò chai rượu”. Hay “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Xử sự với nhau như thế mới chỉ là giữ đức công bằng giao hoán, và sự hoán đổi hai chiều, chứ chưa phải là thực thi bác ái. Chúa Giêsu dạy: “Người xưa bảo: Mắt thế mắt, răng đền răng! Còn Thầy dạy: Đừng chống lại với kẻ hung ác,…Nếu ai vả má bên phải của con, con hãy đưa luôn má bên trái. Ai muốn đoạt áo ngoài của con, con hãy đưa luôn cả áo trong”. Những đòi hỏi trên của Phúc âm xem ra khó thực hiện. Nhưng nếu ta thực thi được như thế, ta thực là quân tử.
Ngược lại, nếu ai chửi ta, ta chửi lại. Ai đánh ta, ta đánh lại. Ai nói xấu ta, ta nói xấu lại. “Ăn miếng trả miếng”, “nợ máu trả máu”. Đó là cách cư xử thường tình của người đời. Còn Chúa Giêsu dạy: “Đừng chống cự với kẻ hung ác. Hãy yêu thù địch. Hãy làm sự lành cho kẻ ghét con. Hãy cầu nguyện cho kẻ bắt bớ con”. Xử sự như thế, xem ra có vẻ thua, có kẻ cho là hèn nhát. Nhưng xét cho kỹ, chỉ có bậc quân tử mới xử sự được như thế.
Đức phật thích ca cũng dạy: “Hãy lấy ân mà báo oán. Nếu ta lấy oán báo oán, oán ấy chồng chất. Nhưng nếu ta lấy ân mà báo oán, oán kia tiêu tan”.
Những đòi hỏi Tin mừng hôm nay giúp chúng ta sống theo Chúa, Ngài sống hiền lành, khiêm nhường, Ngài luôn yêu thương và tha thứ.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết yêu thương hết mọi người chẳng trừ ai.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một chân lý, một chân lý duy nhất đó là “yêu thương kẻ thù”. Vâng, khác với người đời, người môn đệ của Đức Kitô phải biết tha thứ cho kẻ làm hại mình.
Một chân lý không dễ dàng, vâng đúng như vậy. Nhưng, chúng ta không làm một mình , mà chúng ta có Chúa Giêsu ở trong chúng ta. Đoạn Lời Chúa hôm nay ( Mt 5, 38 -48) không dễ thực thi, không xa lạ với người đọc. Có thể là đoạn Lời Chúa khó nhất trong tất cả. Khi dạy chân lý nầy, Chúa Giêsu đã biết rất khó đối với phàm nhân.
Vậy , ai chấp nhận và làm theo , thì người ấy là mộn đệ của Đức Kitô.
Trước khi hiểu được Lời Chúa và thực thi, chúng ta hãy tìm hiểu về dân tộc tính của người Dothai, họ là dân riêng của Thiên Chúa, là dân tộc Thiên Chúa chọn trước tiên, họ có một “ưu điểm” là rất thông thái, vì vậy, sự thông thái mà Thiên Chúa ban cho họ là ân huệ lớn lao, từ đó họ đánh mất “ lòng thương xót”, còn lại là sự ”trả đũa”, một sự “ sòng phẳng “ đến tàn nhẫn. Họ căn cứ vào luật cũ và thực thi một cách máy móc, như cỗ máy, chứ không phải “ nhân tâm “.
Và vì vậy, chính Đấng “ Cứu Thế ” là “ đối tượng” của họ bị “xử” theo luật Dothai. Lòng nhân của Thiên Chúa đứng trên tất cả mọi tội lỗi, gian ác của thế nhân. Vì thế, “phương pháp” trả thù tốt nhất là “ không thù oán “, muốn vậy, phải làm cho kẻ muốn hại mình bằng cách “thỏa mãn” cơn khát hận thù bằng sự “ tha thứ ”. Thực ra, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một “ phương pháp” đi trước một bước , có nghĩa là :sẵn lòng tha thứ cho kẻ làm haị mình, như vậy là “ chận đứng” được kẻ thù. Vậy lời Chúa hôm nay cho chúng ta hai phương pháp:
Một là : Chặn đứng kẻ thù , không tạo ra kẻ thù. Hai là: Hành động cao thượng của sự tha thứ. Sẽ làm cho kẻ thù khuất phục. Nếu chúng ta không chuẩn bị sẵn sàng cho những tâm tình trên, chúng ta rất khó thực thi Lời Chúa, đối phó với kẻ làm hại chúng ta. Vì , khi kẻ muốn đoạt của chúng ta điều gì, ngoài kẻ trộm cướp, tức sự bất ngờ, còn lại là những người thân, quen của chúng ta. Lời Chúa cho chúng ta sự phòng xa, dự bị trước, là” làm thoãn mãn” điều đối phương “ muốn “ không phải chiều theo sự ác, nhưng “ biểu lộ “ sự quãng đại, sự cho đi. Tức tránh thái độ ích kỷ, tự nhiên chúng ta không có kẻ thù.Khi chúng ta học được sự phòng bị nầy, chúng ta mới có thể dễ tha thứ cho kẻ thù.
Thường chúng ta nghĩ “ trả thù” mới là người khôn ngoan, nhưng thật ra là người “ dại dột” , bởi vì, thứ nhất chúng ta sẽ bị ” lỗ ” về thì giờ. mưu tính, hành động để tar3 thù. Nhưng, khi chúng ta tha thứ, chúng ta quên ngay “ tất cả” như vậy, chúng ta sẽ “ lời”. Như vậy, tha thứ là hành động của khôn ngoan, chứ không phải của ngu dại.
“Mắt đền mắt, răng đền răng” là sự công bằng đưa đến “ sự chết”, bởi vì, hai đối phương sẽ bị thiệt thòi, xã hội què quặt. Một xã hội đui điếc, què quặt, thương tật về mặt thể lý, tất nhiên , sẽ đau yếu về mặt tâm linh. Vì tha thứ đem lại sự sống, trả thù dẫn đến tiêu vong.
Chúa Giêsu không trả thù ai hết, nhưng biến kẻ thù phải” quỳ “ sụp lạy để tôn thờ Người là Thiên Chúa, vì hành động yêu thương, tha thứ.
Nhưng thật ra, Lời dạy của Chúa Giêsu không dễ thực thi, vì : “ Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người…” ( Gr 17, 9 ). Nhưng, người môn đệ Đức Kitô có thể thực thi, bởi vì họ có Chúa ở trong họ.
Kẻ thù là kẻ muốn “ chiếm đoạt” bất công của người khác, tùy mức độ, nhưng là kẻ gian ác. Luôn có sẵn nơi lòng người. Vì thế, khi sẵn sàng tha thứ theo Lời dạy của Chúa Giêsu, là họ biệt thay thế” lòng gian ác “ của phàm nhân ,bằng “ lòng thương xót” của Thiên Chúa.
Vậy, xã hội nào, nhà cầm quyền nào biết cổ võ Đaọ Công giáo, thì xã hội đó sẽ mạnh mẽ, hùng cường, vì không có công dân “ què quặt” thể chất cũng như tinh thần.
Cái ác xảy ra hằng ngày, nhưng luôn nằm dưới sự quan phòng của Thiên Chúa, vì lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay minh chứng cho điều ấy.
Trong năm 2016, người ta thống kê được trên thế giới có con số triệu người Công giáo bị bách hại. Như vậy, Lời Chúa quả là một sự thách thức lớn đối với người tín hữu. Nhưng, gương chứng nhân như cha Phanxico Xavie Trương Bửu Diệp là một minh chứng cho Lời Chúa hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù, vì cính là để thay thế “ con tim “ gian ác “ của họ bằng “ con tim “ nhân từ của Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết thực thi Lời Chúa dạy, ngõ hầu như đèn sáng được đặt trên giá./. Amen.
Liên tục từ Chúa nhật IV/TN-A, các bài Tin Mừng đều trích từ “Bài giảng trên núi” (Mt 5, 1-48). Chúa nhật trước (CN VI/TN-A – Mt 5, 17-37) đã có dịp suy niệm và biện giải vì sao Đức Ki-tô phải kiện toàn luật Mô-sê. Bài Tin Mừng hôm nay (CN VII/TN-A – Mt 5, 38-48) vẫn trích từ “Bài giảng trên núi”, tiếp tục trình thuật hai Lời dạy của Đức Giê-su: “Chớ trả thù” và “Phải yêu kẻ thù”. Vì sao Đức Giê-su phải nhấn mạnh đến vấn đề này? Đó chính là vì – như tuần trước đã trình bày – sự kiện ông Mô-sê biện giải Lời Chúa theo ý riêng của mình. Thực chất điều này trong Giao ước Si-nai là: “Giết người không có mưu tính trước thì được tha, nhưng cố tình thì sẽ bị giết chết (tội ngộ sát và cố sát ngày nay). Đánh đập gây thương tích nhưng không làm chết người, vẫn được tha; nhưng phải bồi thường thiệt hại cho người bị đánh (do nghỉ làm việc và tiền thuốc thang).” (Xh 21, 12-25).
Bài đọc 1 hôm nay (Lv 19, 1-2.17-18) lại thêm một bằng chứng minh họa cho vấn đề này: Điều mà Mô-sê nói “mắt đền mắt, răng đền răng” với ngụ ý nói đến luật công bằng, mà các tác giả khác lại coi là “luật báo phục (báo thù) tương xứng” (Đnl 19, 21) thực chất đã được ngôn sứ Lê-vi giải thích rõ ràng: “ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: Các ngươi không được làm điều bất công khi xét xử: không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào. Ngươi không được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết. Ta là ĐỨC CHÚA. Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là ĐỨC CHÚA.” (Lv 19. 15-18). Lời dạy này rõ ràng là dành cho những quan tòa xử án (tức là những kinh sư, luật sĩ Do-thái thời đó).
Thực ra nếu chỉ đọc Lời dạy của Đức Giê-su trong Tân Ước về vấn đề “mắt đền mắt răng đền răng” thì thấy là Luật Mô-sê đã quá khắt khe. Nhưng nếu đọc kỹ trong sách Xuất hành hay Lê-vi sẽ thấy mức độ không đến nỗi như vậy. Vấn đề này các sách viết rất dài, chỉ xin trích một đoạn ngắn nói về “mắt đền mắt răng đền răng”. Đó là: “Nếu có ai đánh vào mắt tôi tớ nam nữ của mình, và làm hư mắt đó, thì phải phóng thích nó để đền mắt. Nếu có ai làm gãy răng tôi tớ nam nữ của mình, thì phải phóng thích nó để đền răng.” (Xh 21, 26-27). Phóng thích để đền mắt, đền răng đâu có phải là “mắt đền mắt, răng đền răng” theo kiểu giải thích của Mô-sê “ăn miếng trả miếng” (làm mù mắt ai thì mắt mình phải bị làm cho mù như vậy, làm gãy răng ai thì mình cũng phải bị đánh cho gãy răng như vậy).
Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay (Mt 5, 38-48), để kiện toàn Luật Mô-sê, Đức Giê-su lại tiếp tục dạy về vấn đề thương yêu (“Chớ trả thù” – Mt 5, 38-42 ; “Phải yêu kẻ thù” – Mt 5, 43-48). Như vậy, ở bài Tin Mừng Chúa nhật trước, Đức Giê-su dạy các môn đệ “4 đừng”: “Đừng giận ghét” (Mt 5, 21-26); “Chớ ngoại tình” (Mt 5, 27-30); “Đừng ly dị” (Mt 5, 31-32); “Đừng thề thốt” (Mt 5, 33-37). Bài Tin Mừng hôm nay, Người lại dạy thêm “1 đừng” nữa: “Chớ trả thù” (Mt 5, 38-42). Vì sao con người hay trả thù? Chung quy cũng do tự ái quá cao mà thôi. Bởi tự ái là gì nếu không phải là tự yêu mình. Khi chỉ biết yêu mình một cách thái quá thì sẽ cho là mình đúng, lúc nào và trong trường hợp nào cũng đúng hết. Bởi thế nên được người khen thì chẳng nói làm gì, nhưng bị chê thì tức tối sửng cồ lên ngay. Bị phê bình trúng tim đen thì bằng mọi giá sẽ tìm cách trả đũa. Nói cách khác, khi con người tự ái quá đáng, sẽ rất dễ giận ghét và từ giận ghét sẽ đưa đến hành động trả thù.
Sau 5 lời khuyên “Đừng”, thì tiếp liền theo đó, Đức Ki-tô lại khuyên “Nên” (“Phải yêu kẻ thù”). Cả 6 điều khuyên bảo “Đừng” và “Nên”, xét cho thấu đáo, đều nằm trong luật yêu thương, mà ở đây là Luật yêu thương của Thiên Chúa (vô hạn) chớ không phải của con người (hữu hạn). Nói về luật yêu thương thì chính là nói về nguyên lý tình yêu, nguyên lý ấy xuất phát từ Thiên-Chúa-Tình-Yêu. Vâng, kể từ khi Thiên Chúa dựng nên vũ trụ, muôn loài, thì đã vì tình yêu mà Người dựng nên loài người và đặt làm chủ mặt đất. Con người đầu tiên được sinh ra chỉ có một mình, Thiên Chúa lại thương “Con người ở một mình thì không tốt” (St 2, 18), nên ban cho một người bạn khác giới tính để từ đó có thể sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất. Sự đối kháng giới tính không nhằm loại trừ nhau mà là bổ túc cho nhau, hỗ trợ nhau trở nên hoàn thiện. Cũng vì tình yêu, không những Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Người, có nam có nữ, mà Người lại ban cho con người một đặc ân là được tự do đến gần như tuyệt đối. Cũng vì được tự do như vậy, nên con người đã vượt qua giới răn của Thiên Chúa mà phạm tội. Sau khi phạm tội, con người vẫn không bị trách phạt; chẳng những thế, còn được Thiên Chúa ban Con Một xuống thế để cứu chuộc, để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi và đem lại đời sống vĩnh cửu. Nếu không vì tình yêu, thì Thiên Chúa có đối xử với con người như vậy không?
Và khi vì tình yêu, Đức Giê-su Ki-tô vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, thì Người đã thi hành sứ vụ tình yêu bằng cách khuyên răn, dạy dỗ mọi người sống với nhau bằng tình yêu đích thực, như Người đã thể hiện qua thời gian ngắn ngủi sống trên trần gian và nhất là qua cái chết trên thập tự. Tất cả những Lời truyền dạy, răn đe, những việc làm, nhất là sự hy sinh tột bậc của Người (hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người), chung quy cũng chỉ mong muốn cho con người trở nên hoàn thiện, hầu xứng đáng là một công dân Nước Trời. Mà con người muốn nên hoàn thiện, đáp lại Tình yêu Thiên Chúa thì phải làm sao? Nói gọn lại thì chính là “yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình”. Triển khai ra thì chẳng phải là “5 đừng + 1 nên” đó sao?
Nói tóm lai, bản chất con người vốn dĩ là thích yêu hơn bị ghét, và nếu có yêu thì chỉ thích yêu mình hơn cả. Còn oái oăm hơn nữa là khi thù ghét người khác thì lại không muốn người ta thù ghét mình. Nếu không vì thế, các bậc thánh hiền đã không mất công truyền dạy “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác), “ái nhân như ái thân” (yêu người như yêu mình). Thiên Chúa thì còn hơn thế nữa, tình yêu Người dành cho nhân loại đã lên tới tuyệt đỉnh: Người đã ban cả Con Một làm giá chuộc muôn người vì tình yêu. Và chính Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô – luôn luôn day: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó.” (Mt 7, 12); “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 15).
Ôi! Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con, đã ban cho con một tấm lòng, một trí khôn biết phân biệt thiện ác, biết yêu và ghét, và nhất là đã ban cho con sự tự do tuyệt đối, để con có thể tự quyết định cuộc đời của mình bằng cách lựa chọn một con đường. Con đã sai lầm trong lựa chọn để chỉ biết yêu mình trên hết, co mình vào cái vỏ ốc “ích kỷ” đến độ có thể “hại nhân” (“ích kỷ hại nhân”: lợi mình hại người). Xin Chúa đoái thương, ban cho con một tâm hồn quảng đại, một tấm lòng bao dung độ lượng; xin cho con biết yêu người như yêu chính mình, biết coi tất cả mọi người (kể cả những người thù ghét con) đều là anh em một nhà (“tứ hải giai huynh đệ”), cùng con một Cha trên trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
Chân lý cuối cùng trên cõi đời này vẫn là yêu thương (Voltaine). Khẳng định đó nói lên một sự thật, dù chúng ta có tìm kiếm địa vị, ưu tư chuyện cơm áo gạo tiền, mơ ước sống trong nhung lụa, cũng chỉ là những bước lòng vòng đầy mâu thuẫn. Xuân Diệu thì cụ thể “yêu thương” khi nói: đố ai sống được mà không yêu, không nhớ không thương một người nào. Quan điểm của cha ông chúng ta lại cho rằng: sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng. Chúa Giêsu hôm nay không chỉ các môn đệ kỹ thuật dò tìm tấm lòng của anh chị em mình, không chỉ dạy một vài điểm quan trọng ở đời, nhưng mời gọi: “hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”.
Trong khi xã hội luôn đòi hỏi tính sòng phẳng, công bằng: ơn đền oán trả, nợ ơn trả ơn, nợ tiền trả tiền, nợ máu phải trả bằng máu… Chúa Giêsu thì kêu gọi các học trò của Ngài, hãy cùng làm cho giới luật yêu thương sâu rộng, đậm đà, chi tiết và cụ thể hơn. Công lý yêu thương không giới hạn ai là người thân, ai là thù nghịch: “ai vả má bên phải các con, thì hãy đưa má bên kia cho nó ; ai xin thì hãy cho, ai vay mượn, các con đừng khước từ”. Sống trên đời, để biết yêu và được yêu đã khó rồi, Chúa Giêsu lại lưu ý chúng ta, trong yêu thương không hề có khó hay dễ, vì điểm đến của hạnh phúc là ta có tự do, có tự nguyện hy sinh cho người mình yêu không ?
Triết lý khôn ngoan ở đời là: hãy cẩn thận với những người không còn gì để mất, điều ấy không bao giờ thừa, ví như kẻ điếc nào còn sợ súng, người cùi đâu còn sợ lở loét. Hoặc khôn ngoan thì phải biết đề phòng rủi ro: thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ bần cùng liều thân. Đức Giêsu không chỉ dạy các môn đệ né tránh kẻ bần cùng liều thân, cũng không phải tự tìm kiếm đau khổ và cái chết, nhưng Ngài có ý giúp ta phân biệt hai lối sống: khôn ngoan thế gian, và khôn ngoan trong Chúa. Yêu người mình yêu, yêu bằng đầu môi chót lưỡi, đó chỉ là giả dối ; yêu bằng con tim khối óc, là phải trưởng thành hơn như Chúa Giêsu dạy: “hãy yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét các con”. Muốn trở nên con cái Cha trên trời, ai cũng phải sống theo đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa, đặt để tình yêu thương sâu đậm hơn trong đối nhân xử thế.
Ở đời nói chung, chúng ta có thể say mê danh lợi thú, mơ được tài giỏi giầu sang để giúp đời, giúp người ; không dừng lại ở mơ ước, Chúa Giêsu muốn chúng ta tiếp khám phá như thế nào là nét đẹp của tình yêu. Mở túi, mở kho lẫm, mở trí, mở tấm lòng bao dung, hoặc mở cả con tim, cũng chỉ là “mơ hồ”, nếu ta không để Chúa Giêsu hiện diện, bổ sức, thì đức công bình yêu thương của ta sẽ chỉ ở mức độ: mắt đền mắt, răng đền răng. Con người tự nhiên ai cũng có kinh nghiệm: một miếng khi đói bằng gánh khi no. Tất nhiên không phải nghèo đói mới cần ăn uống, cần được khích lệ tinh thần, chính xác là giầu nghèo, tài đức, thánh thiện hay tội lỗi, đều cần được yêu thương, cảm thông.
Cuộc sống hiện tại vẫn cho chúng ta nhiều kinh nghiệm: một kẻ thù không phải là ít, trăm người bạn tốt chưa phải là nhiều. Phương thế hữu hiệu nhất để được thêm bạn bớt thù cũng là cách nói cần nới rộng yêu thương, chứ không phải loại trừ hoặc cắt đứt liên lạc với những ai không thuận với ta. Chính vì yêu thương bị cân đo đong đếm dựa trên sự công bằng vật chất, do đó mà người ta vẫn sợ mang tiếng là hèn nhát, nhu nhược, sợ đối phương thắng thế khi thấy ta lùi bước. Chính vì quan niệm yêu thương là: có qua có lại mới toại lòng nhau, nên người ta không thể “cập nhật”được tính chất cao đẹp mà Chúa Giêsu nói tới: “hãy làm lành cho kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho kẻ vu khống các con”.
Chính tình yêu mới làm cho trái tim băng giá của chúng ta tan chảy, chứ không phải hận thù bạo lực ; chính vì yêu thương mà Thiên Chúa cho mưa ơn lành xuống trên cả người tốt người xấu. Nghịch lý trong đối nhân xử thế, một là ta yêu, hai là ta ghét, khi yêu củ ấu cũng tròn, khi ghét thì bồ hòn cũng méo. Bao dung tha thứ, dĩ hòa vi quý, một sự nhịn, chín sự lành, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm. Làm sao chúng ta có thể rộng mở tâm hồn để Đức Kitô tẩy rửa tội lỗi và tư cách thông thoáng của chúng ta ? Bằng cách nào để mỗi người biết sống quảng đại, biết xích lại gần Chúa và gần nhau hơn, nếu như chúng ta không để Đức Kitô biến đổi con người giới hạn của ta nên xứng hợp với tình yêu của Cha trên trời. Amen.
Chúa Nhật hôm nay tiếp nối Chúa Nhật vừa qua, trong bài giảng trên núi, ĐGS liên tục nói về chính tinh thần của Người là việc giữ luật và kiện toàn luật. Tuy Chúa Nhật này không đề bạt rõ giới luật nào cụ thể mà chỉ nêu lên những cho phép của người xưa là hoàn toàn không phù hợp cần phải được tu chỉnh để có được lối suy nghĩ và phong thái sống hoàn hảo dành cho những ai được gọi là môn đệ Nước Trời.
Vậy đâu là những cho phép của ngươi xưa và điều được ĐGS đưa vào thay thế để hoàn chỉnh cách sống hoàn hảo đúng đắn cho các môn đệ?
ĐGS đưa ra hai lập luận mà người xưa cho phép. Thú nhứt, trích lại khoản luật trong sách Xuất Hành: ‘Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay chân đền chân, vết bỏng đền vết bỏng, vết thương đền vết thương, vết bầm đền vết bầm’ (Xh.21, 24-25).
Với ĐGS, ‘Người dạy: Đừng chống cự người ác’ (c.39). Trái lại hãy sống tích cực với tấm lòng quả cảm quảng đại, quên đi điều họ làm khốn mình, chúc phúc cho họ. Ai xin cứ cho, ai đòi hỏi gì hãy đáp ứng để được hài hòa, tỏ dấu hào phóng như TC cho mưa nắng mãi cứ đổ xuống trên kẻ lành người dữ.
Điều thứ hai, trích lai khoản luật cho phép trong sách Lêvi. : ‘Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình (Lv.19.18).
Với ĐGS, Người dạy: ‘Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em’ ( 5,43). Đó là cách sống tích cực cũng trong hình ảnh mưa nắng đổ xuống tất cả những hữu ích cho mọi sự đều được hường dùng, cả kẻ lành người dữ. Lối sống tích cực ấy sẽ mang lại sự gặt hái phong phú lợi ích cả về phần thiêng liêng lẫn về vật chất tạm bợ trên đời như ĐGS nói: ‘Chỉ yêu thương kẻ yêu thương mình thôì thì nào có công chi?’ (c.45).
Để kết thúc phần nói về tinh thần tôn trọng luật của ĐGS cũng như tinh thần cố kiện toàn luật, Người đưa ra một lời kết: ‘Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện’ (c.45). Lời kết mang hai ý: một lời giáo huấn đầy khích lệ cổ vũ, và hé lộ để biết tính chất bất biến tự bản thể cũng như những phẩm tính tuyệt đối cao vời Đấng là chủ tể trời đất: thánh thiện, tốt lành, nhân từ, và chân thật.
Vì đâu ĐGS phải đưa ra những lập luận riêng của Người là Lời của TC hằng hữu và hằng sống như thế? Luật cũ có thiếu sót và với lý do nào cần điều chỉnh?
Điều mà con người làm ra ít nhiều có bất toàn, và như thế, ắt cần có sự điều chỉnh hoặc sửa đổi theo thời gian vì với những hoàn cảnh đổi thay hay các thế hệ sống nối tiếp nhau mang lại nhiều trào lưu tiến bộ về mọi mặt. Hơn thế, lý do nặng ký để dựa vào đó điều chỉnh những khiếm khuyết của luật cũ người xưa, ĐGS khát khao đời sống môn đệ Nước Trời thiết cần hoàn hảo về mọi mặt cũng như về mọi lãnh vực. để khỏi vấp ngã trước ‘chiếc lưới trời’ chụp xuống bất chợt: ‘thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu’. Vì đó với những lý do sau đây, luật xưa cần được kiện toàn:
Trước tiên, nhân danh Nước Trời. Nước Trời như chiếc lưới, tự bản chất, có chọn lọc, chọn cá tốt bỏ vào Nước Trời, cá xấu vất ra ngoài. Nước trời giống như hạt cải, tuy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt khác, nhưng lại có sức thể hiện mình phát triển to lớn. hình ảnh của sự khiêm nhường, thua thiệt hiện tại nhưng mang lại thành quả tương lai không có gì sánh bằng. Nước Trời giống như thuở ruộng, chủ gieo hạt giống tốt đặc sản, kẻ thù gieo cỏ lùng. Khi chủ không tỉnh táo ra ruộng nhổ cỏ lùng, có thể nhổ nhằm lúa, hành vi đó tự gây hại cho chủ. Thà cứ để đến mùa gặt, gặt cả hai và lựa ra xếp riêng. Lúa đưa vào kho lẫm, cỏ lùng gom lại bỏ vào lửa thiêu đốt.
Thứ hai nhân danh phẩm tính TC. Phẩm tính TC là những gì phát xuất từ bản thể của Ngài, đời đời tự hữu hằng có. Bản thể đó có được những phẩm chất như đã nói trên: thánh thiện, tốt lành, nhân từ và chân thật. Tất cả những gì ngược lại những phẩm tính đó đều thuộc về ác quỷ, hoặc để gây rối, để xúi giục, hoặc để kết bè lũ chống báng TC. Con người là con cái TC mang hình ảnh TC cần giải phóng các ác tính của tội dể nguyên vẹn sống hình ảnh đó đạt đến sự hoàn thiện.
Thứ ba, nhân danh điều tóm lược nơi mười điều răn: yêu TC trên hết và yêu tha nhân như chính mình. Đặt biệt yêu tha nhân như chính mình không cho phép có hành vi nào dành cho người mà chính mình lại không muốn chúng xảy ra cho mình.
Tóm lại, ĐGS dạy hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện, không có lời dạy nào phù hợp hơn dành cho những kẻ được kêu gọi vào Nước Trời. Kẻ vào được Nước Trời chính là những công dân mới, đầy đủ ý chí và tự do tha thiết tuân hành luật cũ được kiện toàn nên mới đúng điều kiện đòi hỏi của Nước Trời: ‘Không ai biết được những gì trên trời ngoài Con Người từ trời xuống’.
Lạy Chúa, này con đây, một đời ‘bé nhỏ’ sống vâng theo ý Chúa, tuy có không ít chông chênh chao đảo lắm lắm phen. Vẫn xin Chúa đoái thương đón nhận như tên đầy tớ vô dụng vẫn còn cố trung tín trong niềm tin-cậy-mến.
Hội đồng Giám mục Việt Nam có chương trình mục vụ cho 3 năm (2016-2019) với chủ đề “Mục vụ Gia đình”. Giáo phận Cần Thơ chọn năm đầu tiên (2016-2017) là “Năm Gia Đình 2017” với khẩu hiệu “Niềm Vui Tình Yêu Gia Đình”, để “chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân”. Thiết nghĩ, để chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân và để gia đình có được niềm vui, không gì khác hơn là phải sống thánh thiện như Thiên Chúa đã truyền dạy.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Lv 19, 1-2.17-18
Sự thánh thiện là một trong những ý niệm chính của Lêvi và cả Cựu ước, nó bao gồm tất cả những mầu nhiệm cao cả về Thiên Chúa, vượt lên trí mọi phẩm tính của tạo vật nói chung và con người nói riêng. Tuy nhiên Đấng cao cả ấy lại cho cho người đến với mình, sự thánh thiện của Ngài được ban cho con người: “Các ngươi phải thánh thiện vì Ta là Đấng thánh” (Lv 19, 2). Nghĩa là dân riêng của Thiên Chúa phải khác biệt với dân ngoại về ý thức mình được Thiên Chúa chọn làm dân riêng, và cả về đời sống luân lý, tức là những hành vi của con người. Ý thức và hành vi đó phải có sự hiện diện của Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Đó là sự thánh thiện.
Trong đoạn sách Lêvi 19, 17-18, Thiên Chúa chỉ dạy cho dân chúng những hành động thánh thiện trong mối tương quan với đồng loại: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em,… ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.
Tin Mừng: Mt 5, 38-48
Tiếp tục đề tài giảng dạy về cung cách của một công dân Nước Trời, hôm nay Đức Giêsu nói về việc chớ trả thù, ngược lại phải yêu thương kẻ thù: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 44b). Lý do là vì: “Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng người xấu cũng như kẻ tốt, cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5, 45). Như vậy nên thánh là phải học cung cách của Thiên Chúa để được “Nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” ( Mt 5, 42).
Việc nên thánh không phải là nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa!’’ mà phải cư xử giống cung cách của Thiên Chúa. Cung cách đó tách biệt và vượt lên trên lối hành xử của người đời. Như vậy con cái của Thiên Chúa mới được gọi là thánh, và ơn gọi của Kitô hữu là nên thánh.
Thiên Chúa chính là sự thánh thiện tuyệt đối, vì vậy con người được mời gọi nên giống Thiên Chúa hơn mỗi ngày trong suy nghĩ, lời nói và việc làm, nói chung là trong cung cách sống.
Sự thánh thiện của Kitô hữu phải chăng là luôn luôn hoàn hảo, không vướng mắc bất cứ một tội lỗi nào, không bao giờ làm điều sai trái? Hãy nghe lời giáo huấn của ĐGH Benedict XVI: “Sự thánh thiện không bao gồm việc không sai lầm hoặc không phạm tội. Sự thánh thiện làm tăng khả năng hoán cải, sám hối, sẵn sàng bắt đầu lại, đặc biệt là hòa giải và tha thứ… Như vậy, điều đó không phải là chúng ta không bao giờ sai lầm mà là có thể hòa giải và tha thứ, điều đó làm chúng ta nên thánh. Chúng ta có thể học cách sống thánh thiện”. Sự thánh thiện là khả năng để bắt đầu lại. Chính vì thế tòa giải tội là phương thế tốt nhất để nên thánh, và Bí tích giải tội là liều thuốc mà ma quỷ sợ nhất.
Nhìn vào tấm gương của các thánh, chúng ta nhận ra một điều, các ngài cũng có những sai lầm, cũng phạm tội, nhưng các ngài tiếp tục phát triển tình yêu dành cho Chúa, và cuối cùng tình yêu này trở nên sức mạnh trong cuộc đời họ. Tình yêu này trở nên mạnh hơn xu hướng phạm tội. Các thánh biết rằng tình yêu của Chúa và ước muốn của Chúa là tha thứ. Điều chính yếu là các ngài luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa. Vì vậy nên thánh không phải là chuyện của ông này bà nọ, mà tôi và bạn, chúng ta đều có thể nên thánh.
Tuy nhiên, thời nào cũng vậy, ma quỷ hoạt động rất mạnh mẽ dưới nhiều hình thức, những hình thức đó rất tinh vi và phù hợp với từng thời đại. Mục đích của nó là để con người không còn kết hợp với Chúa, vì thế họ xa cách Chúa và mất đi sự thánh thiện. Chúng ta đừng để mình mất ý thức về sự thánh thiện.
Ngày nay vẫn có những trường hợp mà người ta gọi là bị quỷ nhập khiến nhiều người tò mò. Đối với tôi, ma quỷ là có thật, nhưng quỷ nhập với hiện tượng làm cho nạn nhân mất ý thức dẫn đến những hành động lạ như la hét, quấy phá, nói những chuyện trong quá khứ… không đáng sợ bằng việc quỷ nhập mà con người ta vẫn tỉnh táo, vẫn sống, vẫn hoạt động bình thường, chỉ có điều người ta mất đi ý thức về sự thánh thiện và đang sống trong tội lỗi. Vì thế, có khi bản thân chúng ta bị quỷ nhập, có khi người thân sống bên cạnh chúng ta đang bị quỷ nhập.
Người ta tò mò và lo chạy chữa cho người bị quỷ nhập về thể lý, mà ít người quan tâm đến việc bị quỷ nhập trong tâm hồn. Nhiều người trong gia đình chúng ta vẫn không đi lễ, vẫn làm ăn bất chính, vẫn sống trong những đam mê tội lỗi của mình… Xin nhắc lại, hành động của ma quỷ là để chúng ta xa cách Chúa và quen dần với những điều xấu.
Mỗi người chúng ta hãy để cho lời Chúa vang vọng trong tâm hồn của mình: “Các ngươi phải thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 19, 2). Từ đó cố gắng giải gỡ cho mình thoát khỏi những đam mê, những tội lỗi mà ma quỷ đã ràng buộc chúng ta bằng Bí tích Giải tội; đồng thời phải có sự hiệp thông, gắn bó với Chúa trong những điều lành. Nếu tiếp cận nhiều với những giá trị linh thánh thì con người chúng ta sẽ quen dần với sự thánh thiện. Còn nếu cứ tiếp cận với những giá trị phàm tục thì con người sẽ trở thành con cái ma quỷ.
Ngoài việc nên thánh cho chính mình, chúng ta còn phải giúp những người thân trong gia đình, bạn bè và những người xung quanh thoát khỏi những ràng buộc của ma quỷ để họ cũng được nên thánh.
Tha thứ cho nhau
Để có được niềm vui trong gia đình, như lời Đức Giêsu dạy về đức công chính của người môn đệ, không phải chỉ là “Lạy Chúa! Lạy Chúa!”, mà còn phải biết thực hành lời Chúa để “tha thứ cho nhau”. Như vậy sự thánh thiện thực sự là phải gắn bó với Thiên Chúa và yêu thương con người, vì tất cả đều là con cùng một Cha trên trời. Tình yêu thương đó được Đức Giêsu cụ thể hóa trong việc tha thứ cho người khác.
Tha thứ cho người khác là đề tài muôn thuở, vì đó là lý tưởng rất dễ trong lý thuyết nhưng khó khăn trong thực hành, đến nỗi có những người đã thốt lên: “Sống để bụng, chết mang theo”.
Cha Piô Ngô Phúc Hậu kể câu chuyện 2 gia đình xích mích dẫn đến ẩu đả, một người bị trọng thương và sắp chết. Người ta rước cha sở đến ban những Bí tích sau cùng. Cha sở khuyên ông tha thứ cho gia đình bên kia, nhưng ông lắc đầu. Cha sở dùng phương pháp mạnh, cầm tượng chuộc tội giơ lên cao và nói: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, tôi truyền cho ông phải tha thứ cho người khác”. Nhưng ông quay mặt vô tường và trút hơi thở. Rõ ràng tha thứ cho những kẻ xúc phạm và làm hại mình là một chuyện rất khó. Tuy nhiên khó khăn không phải là không làm được.
Gương của Đức Giêsu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Hay như thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi cũng đã bắt chước Thầy Chí Thánh để cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Đức Thánh Cha Phanxicô đứng trước những người chống đối và nói xấu Ngài, Ngài vẫn bình tâm nói rằng: “Họ vẫn là bạn của tôi”…
Một trong những lý do khiến các gia đình đổ vỡ là vì họ không biết tha thứ cho nhau, đôi khi chỉ là một việc rất nhỏ. Vì thế để có được niềm vui trong gia đình, mọi người phải học tha thứ. Vợ chồng tha thứ cho nhau, Cha mẹ tha thứ cho con cái, con cái tha thứ cho cha mẹ, anh chị em tha thứ cho nhau.
Để có thể tha thứ, trước hết hãy nhớ mình cũng là kẻ có tội, vì vậy tha thứ để được thứ tha. Kế đến phải nhớ rằng nếu không tha thứ, chính bản thân chúng ta là người chịu thiệt vì cứ nuôi mãi những điều xấu trong lòng. Và quan trọng nhất, tha thứ để chúng ta nên giống Cha trên trời, là Đấng hoàn hảo. Vì vậy chỉ những ai có sự thánh thiện mới dễ dàng tha thứ cho người khác, vì đó là đòi hỏi để họ được nên thánh.
Từ xưa đến nay, đạo Công Giáo vẫn được biết đến như một đạo yêu thương và tha thứ. Đây cũng là nét đặc trưng giúp cho nhiều người có thể phân biệt đạo Công Giáo với các tôn giáo khác. Bởi vì, chính Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ của Ngài phải đi đến một bậc cao nhất trong tình yêu đối với anh em, đó là tha thứ. Không chỉ tha thứ cho những người thân hoặc bạn hữu, những người làm tổn thương mình, nhưng Chúa muốn chúng ta phải yêu thương, tha thứ cho cả kẻ thù và những kẻ làm khổ mình.
Đoạn Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay là điểm sáng về tình yêu thương tha thứ trong các lời dạy của Chúa được thánh Matthew ghi lại. Với những lời dạy này, Tin Mừng cho thấy sự trổi vượt trong giáo lý của Chúa Giêsu so với Cựu Ước. Anh em đã nghe Luật dạy rằng: mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì giơ cả má bên trái nữa. Thời Cựu Ước, luật Mose cho phép được báo thù ngang bằng, tương xứng: mắt đền mắt, răng đền răng. Tuy nhiên, sự báo thù này không giải quyết được vấn đề, cũng không đem đến hòa bình, trái lại, báo thù chỉ có thể đem đến bạo lực và gia tăng bạo lực mà thôi.
Trước hết, Chúa Giêsu muốn môn đệ của Ngài phải từ bỏ tất cả nguyên nhân đưa đến bạo lực, báo thù và thay thế nó bằng sự tha thứ và yêu thương: Đừng chống cự người ác, ai vả má bên phải thì đưa cho nó cả má bên trái. Việc làm này không phải là nhu nhược, cũng không phải làm ngơ cho sự ác xảy ra. Chúa Giêsu khi đứng trước dinh thầy thượng tế Anna, một tên lính vả mặt Người, Chúa Giêsu đã nói với anh ta: Nếu tôi nói sai, thì chỉ cho tôi biết sai ở chỗ nào, nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi ? Như thế, Chúa không bỏ qua sự bất công, Chúa đòi anh ta phải hành động theo chuẩn mực là sự thật.
Khi dạy: Ai vả má bên phải thì đưa cả má bên trái, điều đó có nghĩa là gì? Theo thói quen của người Do Thái, khi dùng lưng bàn tay để vả người khác, có nghĩa là làm nhục công khai; khi dùng lòng bàn tay chạm vào má bên trái là dấu chỉ của yêu thương, chúc phúc. Như thế, Chúa Giêsu muốn chúng ta không phải đưa má ra để thách thức người khác, nhưng đối xử thế nào để biến kẻ thù ghét thành người yêu thương mình, biến kẻ làm đều ác thành người làm điều lành. Để làm được như thế, cần phải có một tấm lòng quảng đại, tha thứ và yêu thương. Ai muốn lấy áo trong thì cho nó cả áo ngoài, ai muốn anh đi với nó một dặm thì hãy đi với nó hai dặm; ai xin thì hãy cho, ai vay mượn thì đừng từ chối.
Không chỉ không trả thù, Chúa Giêsu còn muốn các môn đệ của Ngài phải nói điều tốt và làm điều tốt cho những kẻ bách hại, kẻ làm khổ mình. Luật xưa dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và ghét địch thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em, hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em. Đòi hỏi này thật khó, nhưng chúng ta buộc phải đi đến mức thực hành này. Trong cuộc sống, người ta thường hay để lòng thù ghét nhau. Có những mối thù được cất giữ nhiều năm, có khi được truyền lại từ đời này qua đời khác. Chúa Giêsu không muốn chúng ta nuôi dưỡng hận thù, nhưng phải biến kẻ thù thành người được yêu thương, làm cho kẻ ghét mình trở thành người mình quan tâm, làm mọi điều tốt đẹp cho kẻ thù. Muốn thực hành được điều này, chúng ta phải dám tha thứ, bỏ qua giận hờn và không bao giờ để sự thù oán trong tâm hồn mình.
Chỉ khi thực hành được như thế, chúng ta mới xứng đáng là con Cha trên trời. Vì, không cha mẹ nào có thể an vui khi thấy con cái giận hờn, thù oán nhau. Thiên Chúa là Đấng quan phòng và thương xót tất cả mọi người, cho dù họ là người tốt hay kẻ xấu, thì không lẽ gì chúng ta lại phân biệt đối xử hoặc thù oán lẫn nhau. Nếu chúng ta chỉ cư xử với nhau theo kiểu có đi có lại, có yêu có ghét, thì chúng ta không hơn gì dân ngoại. Dân ngoại có thể yêu kẻ yêu mình, ghét kẻ ghét mình, nhưng người môn đệ của Chúa phải yêu những người không yêu mình, thích những người không thích mình; yêu những người mình không muốn yêu và thích những người mình không ưa thích. Chỉ khi hành xử như thế, chúng ta mới xứng đáng được gọi là con Cha trên trời, trở nên hoàn thiện như lời mời gọi của Chúa: Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
Trở nên hoàn thiện như Thiên Chúa là lời mời gọi đòi chúng ta phải cố gắng mỗi ngày. Con người tự nhiên bị chi phối bởi cái tôi và sự tự ái, tính ích kỷ, khiến chúng ta khó để hành xử cách quảng đại, yêu thương, tha thứ như Chúa muốn. Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta biết, có một Đấng Trợ lực và ban sức mạnh để ta có thể chu toàn được những đòi hỏi của Tin Mừng, đó là Thánh Thần. Thánh Thần đang hiện diện trong tâm hồn mỗi người như trong đền thờ của Ngài. Vì thế, mỗi khi phải đối diện với đòi hỏi yêu thương và tha thứ cho những kẻ làm khổ mình, hãy xin với Thánh Thần để Ngài ban sức mạnh trợ giúp chúng ta. Thánh Thần còn làm cho ta luôn thuộc về Chúa Kitô và giúp ta biết sống và hành động theo gương Chúa Kitô.
Trong thực tế, việc yêu thương tha thứ cho nhau vẫn là cái ngưỡng, không phải ai cũng có thể vượt qua. Sự thù oán giận dữ vẫn đang diễn ra nơi nhiều người, nhiều gia đình. Có những gia đình cha mẹ con cái không còn nhìn mặt nhau, anh chị em giận hờn thù oán từ năm này qua năm khác. Để có thể tha thứ, làm hòa, mỗi bên phải hạ mình xuống, nhìn nhận sự sai lỗi của mình, chủ động đi bước trước đến với anh em và thực tâm hòa giải. Kế đến, hãy loại bỏ khỏi mình tư tưởng và tất cả mọi hành động trả đũa trả thù, nhưng biết nói điều tốt và làm điều tốt cho nhau, cho dù người kia có làm tổn thương đến mình. Tiếp đến là hãy cư xử bao dung độ lượng và cầu nguyện cho nhau, xin Chúa giúp ta loại trừ khỏi mình sự giận dỗi để biết đón nhận người khác. Kiên trì và quyết tâm thực hiện như thế, Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ gia tăng sức mạnh và tình yêu trong ta, để ta có thể hàn gắn được rạn nứt, nối lại tương quan tốt đẹp với anh chị em.
Hãy bắt đầu thực hành việc yêu thương tha thứ từ trong gia đình. Đừng nhìn vợ, chồng mình như kẻ thù, mà hãy nhìn nhau như món quà Chúa trao tặng để biết đón nhận cách trân trọng, cho dù món quà đó không như mình mong đợi. Hãy can đảm tha thứ, yêu thương kể cả khi bị vợ, chồng xúc phạm, làm tổn thương hoặc khi bị phản bội, vì cũng đã nhiều lần chúng ta làm tổn thương hoặc phản bội người khác. Anh em trong gia đình hãy can đảm để tha thứ cho nhau những bất đồng, những hiểu lầm xích mích có thể xảy ra. Con cùng một cha, gà cùng một mẹ, chúng ta không thể thù ghét, hoặc nhìn nhau như kẻ thù, nhưng đón nhận nhau trong tình ruột thịt để yêu thương, cảm thông và quảng đại với nhau.
Xã hội ngày nay, cùng với phim ảnh, dường như đang cổ võ cho sự trả thù báo oán và bất khoan dung với nhau. Sống trong xã hội như thế, chúng ta càng phải thể hiện tư cách là những người tuyên xưng Chúa là Cha và nhìn nhận nhau là anh em qua chính cách cư xử của mình. Xã hội này sẽ trở nên hòa bình khi mỗi người loại trừ thù oán ; cuộc sống sẽ trở nên dễ chịu thoải mái khi mỗi người biết sống bao dung. Xã hội sẽ thay đổi nên tốt hơn, cuộc sống sẽ yên bình hơn khi mỗi chúng ta biết tha thứ và biến những kẻ thù thành những người đáng yêu mến.
Xin Chúa Thánh Thần thêm sức mạnh giúp chúng ta thi hành được đòi hỏi của Tin Mừng hôm nay. Amen.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su kiện toàn và dạy chúng ta giáo huấn cao trọng yêu thương và tha thứ. Nhưng yêu thương thì bao la, mênh mông bát ngát, làm sao nói hết được, làm sao diễn tả cho thấu suốt được. Chúng ta biết yêu thương qua lời nói suông, mà không đi đôi với hành động, thì không chính đáng và không thể hiện hoàn toàn giá trị giáo huấn, chân lý Chúa dạy, vì thế Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta chú ý, quan tâm đến khía cạnh yêu thương kẻ thù trong đời sống.
Như chúng ta biết trong cuộc sống hàng ngày, yêu thương những người thân thuộc như ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt, cũng như bạn bè hay những người giúp đỡ chúng ta là chuyện bình thường. Nhưng yêu thương những người thù ghét hay vu khống và làm hại chúng ta thì là một đòi hỏi không đơn giản và không dễ dàng thực hiện.
Cách đây mấy năm, một tuần báo nổi tiếng có đăng một câu chuyện rất cảm động. Điều làm cho người đọc chú ý vào câu chuyện là một tấm hình 3 đứa bé trai tuổi từ 7 đến 14, đang quì ở hàng ghế đầu trong nhà thờ. Bên dưới tấm hình có một hàng chữ “This Was Left Behind”, Xin được tạm dịch là: “Đây là phần còn lại”.
Câu chuyện kể rằng cậu bé lớn nhất tên là Jeff, có một thói quen mỗi buổi sáng sau khi thức dậy thích nghe tin tức trên TV. Sáng hôm đó TV loan tin người nào đó đã đặt một quả bom trong một chuyến bay, và máy bay đã nổ tung trên bầu trời, làm thiệt mạng tất cả mọi người. Sau khi đã mặc quần áo chỉnh tề chuẩn bị ăn sáng và đi học, cậu Jeff xuống cầu thang và khi xuống đến bậc cuối, cậu nhìn thấy bà nội và linh mục chánh xứ đang đứng dưới chân cầu thang. Cậu Jeff dừng lại một lát, nhìn vào hai người và hỏi, “Có phải cha mẹ trong số hành khách bị thiệt mạng trong chuyến bay không?” Cậu Jeff đoán đúng.
Buổi chiều ngày hôm đó, học sinh trong trường Công giáo nơi mà 3 anh em đang học, đã tổ chức một buổi cầu nguyện cho 3 em và cha mẹ mới thiệt mạng. Trước buổi cầu nguyện, linh mục chánh xứ đã gặp cậu Jeff, và hỏi cậu có đồng ý buổi cầu nguyện không. Cậu đồng ý và cũng xin mọi người cầu nguyện cho người đã giết hại cha mẹ của mình.
Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện cảm động trên đây là một minh chứng thực tế cho giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Hãy yêu thương thù địch các con. Cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con.”
Khi đọc câu chuyện này, tôi cảm thấy rất xúc động và ngạc nhiên vì nhân vật chính trong câu chuyện lại là một cậu bé. Một cách nào đó, hình như những em nhỏ hiểu được giáo huấn khó khăn của Chúa Giêsu dạy hơn những người lớn chúng ta. Có lẽ vì lý đó mà Chúa đã dạy chúng ta, “Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời.” (Mt. 18, 3)
Sự kiện này đưa ra những thách thức cho chúng ta: “Chúng ta phải làm gì khi chúng ta cảm thấy khó yêu thương kẻ thù?” “Chúng ta phải làm gì để có thể tha thứ cho họ?”
Chúng ta biết khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn trả đũa, trả thù người làm hại, người lừa dối mình, và trả thù thì thường nặng hơn mức người ta gây ra cho mình: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại.” Chì thì nặng hơn đất, nguy hiểm và đau đớn hơn đất nhiều. Nhiều khi chúng ta còn cầu những sự dữ, và thật dữ xảy đến cho người làm hại chúng ta. Nhưng Chúa dạy chúng ta: hãy yêu thương kẻ thù; hãy tha thứ, làm ơn cho kẻ ghét mình; và hãy cầu nguyện cho họ. Đó là 3 điều Chúa muốn chúng ta thực hiện trong đời sống hàng ngày, khi chúng ta cảm thấy khó yêu thương những người làm hại, lừa dối và vu khống cho chúng ta. Thứ nhất chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta ơn tha thứ. Khi chúng ta cảm thấy khó yêu thương, là vì chúng ta không có sự tha thứ, vì vậy chúng ta phải cầu xin ơn Chúa. Nếu Chúa đã cho chúng ta giới luật thương yêu kẻ thù, thì chắc chắn Chúa cũng sẽ là Người ban cho chúng ta ơn sủng tha thứ để giúp chúng ta sống giới răn đó. Chúa đã chứng tỏ ơn tha thứ khi Ngài chết trên thập giá cho và vì chúng ta là những người tội lỗi, không xứng đáng. Do đó, một điều quan trọng và cần thiết là chúng ta phải chân thành cầu xin Chúa. Chúng ta phải cảm nghiệm lòng nhân từ, thương xót, ơn tha thứ của Chúa cho chúng ta, thì chúng ta mới có ơn tha thứ để tha thứ người khác.
Điều thứ hai, như cậu bé Jeff trong câu chuyện trên, chúng ta cầu nguyện cho họ như chính Chúa Giêsu đã làm. Chúa đã cầu nguyện cho những người đóng đinh Ngài vào thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết điều họ làm.” Những người đã cầu nguyện cho kẻ thù chứng thực một điều lạ lùng đã xảy ra cho họ là thái độ thù ghét dần dần biến mất. Họ khẳng định rằng điều đó thực sự xảy ra trong đời sống của họ.
Điều thứ ba mà Chúa muốn dạy chúng ta thực hành là, ngoài việc cầu xin ân sủng tha thứ và cầu nguyện cho người làm hại mình, chúng ta có thể đặt mình vào trong tình cảnh của người đó. Một người đã tâm sự rằng, “Nếu tôi có thể đi vào con người và tâm hồn của họ, thì tôi có thể nhận ra những nỗi đau buồn, khổ cực và bất an của họ, và cảm giác này sẽ dần dần làm bớt đi sự muốn trả thù và thù oán. Và chúng ta có thể nhận ra họ cũng là con cái của một Cha trên trời, có những cách sống hay những hoàn cảnh khó khăn riêng. Chúng ta có thể nhận ra Chúa Giêsu đã chịu chết trên Thánh giá vì tội lỗi của họ và của chúng ta.”
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa dạy chúng ta yêu thương tha nhân và kẻ thù, và nếu chúng ta cảm thấy khó yêu thương hay tha thứ cho kẻ thù, cho những người vu khống, làm hại chúng ta, thì chúng ta có thể thực hành 3 điều Chúa dạy. Thứ nhất, cầu nguyện xin ơn để tha thứ cho chính mình; thứ nhì, cầu nguyện cho họ; và thứ ba, đặt mình vào hoàn cảnh và cố gắng nhìn họ qua một ánh sáng mới.
Đức cố Hồng y Phan-xi-cô Nguyễn Văn Thuận, Người Tôi Tớ Chúa, là một gương thánh thiện cho chúng ta noi theo. Ngài đã bị biệt giam, bị hành hạ và đối xử một cách tàn nhẫn, nhưng sau đó, ngài không thù oán, không trả thù. Ngài tha thứ và cầu nguyện cho họ. Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn quảng đại, một con tim tràn đầu yêu thương và tha thứ, để chúng ta xứng đáng là đền thờ của Chúa ngự, luôn sống trong an bình và ân sủng của Chúa.
Nếu Chúa nhật trước, Chúa Giêsu dạy những ai theo Chúa phải có đức công chính “trổi vượt hơn TN 7-A128
Nếu Chúa nhật trước, Chúa Giêsu dạy những ai theo Chúa phải có đức công chính “trổi vượt hơn sự công chính của các luật sĩ và người Pharisiêu”, thì Chúa nhật này, Người lại dạy chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù và cầu nguyện cho những người đã làm hại mình. Theo văn mạch Tin Mừng, những lời khuyên này đi liền theo giáo huấn của Chúa nhật trước. Qua những lời này, Chúa Giêsu khẳng định sự mới mẻ trong lời giảng dạy của Người. Người cũng mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ Người phải thay đổi não trạng, nhờ đó cuộc sống cũng được canh tân và trở nên nhân ái hơn.
Với những lời giáo huấn trong Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng lấy ác báo ác, nhưng lấy điều lành mà đối lại với điều ác. Bởi lẽ nếu lấy ác báo ác, sự ác sẽ thêm chất chồng. Luật Do Thái không chỉ đóng khung việc thực thi tình mến giữa những người đồng bào, nhưng mở ra với đồng loại, tức là với tất cả những người sống trên trái đất này. Tuy vậy, đức yêu thương – theo Luật ông Môisen – vẫn còn ranh giới, tức là chỉ là dành cho những người làm ơn cho mình. Chúa Giêsu đã quả quyết: nếu chỉ yêu thương những kẻ yêu thương mình, thì không có gì đặc biệt và cũng chỉ giống như những người thu thuế. Trong cái nhìn của người Do Thái đương thời, người thu thuế là hạng người kém đạo đức và gian dối.
“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”. Yêu thương kẻ thù, đó là tính ưu việt của Kitô giáo, nhưng lại là một điều ngược đời, thậm chí là điều không tưởng đối với nhiều người trong xã hội chúng ta. Dù biết rằng đây là điều không dễ thực hiện, nhưng Chúa vẫn kêu mời chúng ta như thế. Chính Chúa Giêsu làm gương cho chúng ta. Trên cây thập giá, vào giờ phút đau thương, Chúa Giêsu đã thều thào trong hơi thở, xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ giết mình, “vì họ không biết việc họ làm”. Noi gương Chúa, trước hết là thánh Stêphanô tử đạo, rồi biết bao Kitô hữu trong suốt bề dày lịch sử, kể cả các vị tử đạo, đã cầu nguyện và tha thứ cho những lý hình và vua quan tham dự vào việc hành hạ và giết mình. Điều đó cho thấy, lời khuyên “hãy yêu kẻ thù” là điều có thể thực hiện. Tình yêu thương mà Chúa Giêsu đề nghị là tình yêu không biên giới, không phân biệt. Đó là tình yêu rộng mở đến hết mọi người.
Nội dung giáo huấn của Chúa Giêsu không nhằm đưa ra một lời khuyên nhẫn nhịn, cam chịu trước những bất công và dối trá, như có người lầm tưởng. Nếu Chúa Giêsu đề nghị: “Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa”, thì trước toà thượng tế Caipha, khi một người lính vả vào má Chúa, Người đã hạch lại: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Sự khiêm nhường và lòng bao dung tha thứ không đồng nghĩa với thái độ hèn hạ, nhu nhược trước sự lấn át của kẻ mạnh và kẻ đối xử bất công.
Nền tảng của tình yêu không biên giới chính là vì mọi người cùng là con của Cha trên trời. Thiên Chúa là Cha chung của gia đình nhân loại. Mọi người sống trên thế gian, không phân biệt giàu nghèo, đều là con cái Thiên Chúa. Trong cuộc sống, có những người con nhận ra ơn sinh thành trời biển của cha mẹ để tôn kính và mến yêu; ngược lại, có những người con lại không nghiệm ra điều ấy và dửng dưng với việc đền đáp công ơn cha mẹ. Điều này giải thích tại sao có nhiều người không nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha. Ngài là Đấng yêu thương nhân loại. Ngài không muốn cho bất cứ thụ tạo nào phải trầm luân. Người lành người ác cũng là con Thiên Chúa. Không lẽ Thiên Chúa vì bênh vực những người lành mà lại trừ diệt những người ác, tức là trừ diệt chính con cái mình?
Lời dạy của Thiên Chúa trong Cựu ước “các ngươi (con cái Israel) phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Bài đọc I), đã được tiếp tục qua giáo huấn của Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Một cách cụ thể, thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy sống tốt lành, tôn trọng thân xác, vì thân xác là đền thờ của Thiên Chúa. Thánh nhân cũng cảnh báo chúng ta về điều mà thế gian gọi là “khôn ngoan”, vì nhiều khi đó lại là những cạm bẫy nguy hiểm. Nhờ Bí tích Thanh tẩy, chúng ta thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa. Chính Đức Kitô dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Cha, là cội nguồn của danh hiệu làm cha trên trời dưới đất, và cũng là Cha chung của mọi người.
Lời Chúa qua miệng Môsê chuyển cho Dân Chúa biết ý định của Chúa là: “Các ngươi hãy nên TN 7-A129
Lời Chúa qua miệng Môsê chuyển cho Dân Chúa biết ý định của Chúa là: “Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 19,1-2). Chúa Giêsu, Đấng để kiện toàn Lề Luật, sau khi khuyên các môn đệ hãy yêu đồng loại như chính mình và yêu luôn ngay cả địch thù, thì Người mời gọi : "Vậy các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành " (Mt 5,48). Như thế, Chúa muốn con cái biết rằng: Ngài là Thánh và Dân của Ngài phải nên thánh để xứng đáng với Ngài.
Nên hoàn thiện như Chúa
Câu hỏi được đặt ra là: Nên hoàn thiện như Chúa như thế nào?
Thưa: Hãy yêu đồng loại như chính mình (Lv 19,2). Cụ thể: “Đừng giữ lòng thù ghét anh em” (Lv 19,2). Nghĩa là đừng thù ghét anh em trong lòng. "Thù ghét" là cắt đứt mọi liên lạc đồng bào với người anh em. Chữ "trong lòng" nói lên ý nghĩa tự ý mình, chứ không căn cứ vào các điều kiện khách quan. “Đừng giữ lòng thù ghét anh em” còn được hiểu là : người trong Dân Chúa không được tự tiện cắt đứt tình đồng bào ruột thịt với người anh em, coi anh em như "kẻ ngoại". Dân Chúa chọn phải bảo vệ nhau như anh em trong cùng một dạ. Đồng bào là thế. Yêu mến đồng loại như chính mình là sống theo lẽ công bình và không để "lòng" xử tệ với anh em. Không được trả thù vì trả thù là không công nhận có công lý.
Thiên Chúa là Thánh; Chúa muốn chọn một Dân thánh. Thánh tách khỏi sự phàm. Và đương nhiên Chúa muốn Dân Ngài thánh thiện, sống với khác mọi dân. Nếu người xưa bảo "Mắt đền mắt, răng đền răng" (Xh 21,24). Như Lamek đã từng nói với hai vợ : "Vì một vết thương, ta giết một người, (Ta) trầy da, một nam nhi toi mạng. Vì Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy! " (St 4,23-24) Vậy là trả thù mãi mãi. Nay Chúa Giêsu bảo: "Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác" (Mt 5,39).
Con cái Chúa phải vượt ra khỏi vòng tròn luẩn quẩn của cái ác và sống tình huynh đệ đại đồng, nên khi Chúa Giêsu bảo các môn đệ "đưa má bên kia cho nó nữa", là Người muốn họ xây đắp tình hiệp thông anh em. Đưa má bên kia là cố tình giúp đối phương khám phá ra tình yêu và rằng thực hành bác ái là điều có thể. Đưa má bên kia còn muốn nói với kẻ ác rằng nó đã nhận được người anh em như nó là anh em. Một hành động đáng tin cậy như thế sẽ phá tan bạo lực.
Cho nó cả áo choàng, đi với nó hai dặm không phải là áp đặt, nhưng chứng minh con người luôn có sáng kiến về tình yêu. "Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ" (Mt 5,44). Từ bỏ điều có đi có lại và chủ động xây đắp tình hiệp thông trong tình yêu, dì đó là điều đẹp lòng Chúa, nên Chúa Giêsu yêu cầu gia tăng thêm tình yêu và lòng tha thứ càng nhiều càng tốt! Vì tình yêu có sức mạnh giúp đối phương xích lại gần ta hơn bằng tình người. Như thế, bằng cách trao ban, chúng ta nhận nó là anh em.
Nên thánh là trở nên giống Chúa
Hỏi: nên giống Chúa bằng cách nào?
Thưa: Tình yêu phải được thực hiện theo châm ngôn: "Hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con" (Mt 5,44). Chúa Giêsu muốn chúng ta hủy bỏ luật ăn miếng trả miếng xưa. Tình yêu không gia tăng theo kiểu có đi có lại. Người ngươi yêu mến là một người anh em ngươi, một người ngươi yêu mến là người bạn ngươi. Tình yêu là quà tặng, nhưng không dựa trên sự khác biệt tối thiểu. Sự khác biệt của tình yêu là không giống nhau, là người khác chứ không phải là người họ hàng, nhưng là người chúng ta cảm thấy gần. Như Chúa Giêsu đã nói : đó là người thân cận của ngươi.
Như thế, chúng ta đi đến cùng lời Chúa Giêsu dạy trong đời sống: "Các ngươi hãy thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh" (Lv 19,1). Bằng những lời trên, Thiên Chúa mời gọi dân Israel và cả chúng ta ngày hôm nay thể hiện lòng trung thành với giao ước Thiên Chúa đã thiết lập, đồng thời thực hành điều Chúa dạy: "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình" (Lv 19,18). Tuy nhiên, phải đi xa hơn để tình yêu của chúng ta được phổ quát nhằm cho luật cũ được kiện toàn. Khi yêu như thế, ta đang thực hiện lời Chúa mời gọi: "Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5,48).
Hãy nên thánh vì Ta là Thánh
Khi tạo dựng con người giống hình ảnh của Chúa , giống như Chúa là Chân, Thiện, Mỹ (x. St 1,26-27). Tự bản chất, chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Nhưng tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành thủa ban đầu nữa. Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa. Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những vị thánh :” Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh ” (1 Pr 1,16). Trở nên tốt lành là trở về với bản chất của mình là giống Chúa.
Lời mời gọi nên thánh vẫn là một thách thức cho chúng ta, giữa một thế giới có quá nhiều lôi kéo mời chào, cám dỗ, khiến chúng ta bị lạc lối hoặc nấn ná trước lời mời gọi sống thánh. Cái cám dỗ lớn nhất có lẽ là cái cám dỗ làm nhụt chí, nản lòng, khi chúng ta tự nói rằng: việc nên thánh là của ông kia bà nọ, của ai đó, chứ không phải của tôi! Lời thánh Augustinô là một khích lệ lớn cho chúng ta: “Ông kia bà nọ nên thánh, tại sao tôi lại không? ”
Chúng ta phải nên thôi, vì Chúa mời gọi chúng ta nên giống Ngài: “Các người hãy Thánh, vì Ta là Thánh“ (Lv 19,2). Công Ðồng Vatican II cũng khẳng định là ơn gọi của mọi người tín hữu là nên thánh. Vậy, hãy can đảm từ chối những lời ngọt ngào giả tạo, và quyết tâm sống theo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô và thực hành điều Chúa dạy là sống yêu thương.
Nguyện xin Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Ðấng trọn vẹn thánh thiện, giúp chúng con trở nên trọn lành và thánh thiện như Chúa muốn. Amen.
Khỏi cần phải suy nghĩ, câu trả lời sẽ là: KHÓ! Thế nhưng KHÓ không có nghĩa là KHÔNG THỂ! Bởi TN 7-A130
Khỏi cần phải suy nghĩ, câu trả lời sẽ là: KHÓ! Thế nhưng KHÓ không có nghĩa là KHÔNG THỂ! Bởi vì đã và đang có những người không những chỉ có THA CHO KẺ THÙ nhưng còn YÊU KẺ THÙ của họ nữa! Ví dụ:
• Thánh Giáo hoàng Phaolô Đệ Nhị, người đã tha thứ cho kẻ ám sát ngài là Ali Agca đang khi Ngài nằm trên xe cứu thương đến bệnh viện. Khi bình phục, thánh nhân còn đến tận xà lim để thăm Ali nữa.
• Ngày 8 tháng 1 năm 1990, Robert Knighton đã giết chết cha mẹ của Sue Norton. Nhưng bà Sue Norton đã tha thứ cho Robert, và sau đó bà đã cầu nguyện, đã thường xuyên đến nhà tù thăm hỏi và rao giảng phúc âm cho anh ta. Bà Sue cũng đã xin tòa án miễn án tử hình cho Robert, nhưng tòa án đã khước từ lời thỉnh cầu của bà. Trước khi bị tử hình, Robert Knighton đã ân cần nói với bà Sue Norton rằng: “I'll see you again someday. God bless you.”
• Ngày 25 tháng 8 năm 1993, Amy Biehl, một học sinh da trắng, và là một học sinh giỏi của trường Đại Học danh tiếng Stanford, bị bốn thanh niên da đen sát hại một cách dã man. Cha mẹ của Amy Biehl, Lynda và Peter đã vô cùng đau khổ khi nghe tin con gái của họ đã bị sát hại. Thế nhưng bốn năm sau đó, họ đã tuyên bố tha thứ cho những kẻ sát nhân. Sau đó, bà Lynda đã mướn Ntobeko, một trong bốn kẻ sát nhân, làm việc cho bà, và ngày hôm nay, bà Lynda coi Ntobeko như là một thành viên trong gia đình của bà vậy. Ntobeko thường xuyên tháp tùng cùng bà Lynda trong những buổi diễn thuyết khắp nơi trên thế giới để nói về sự tha thứ, sự hòa giải và ơn chữa lành.
• Sáng ngày thứ hai ngày 2 tháng 10 năm 2006, Charles Roberts đã xông vào một lớp học của cộng đồng người Amish, Nickel Mines, Pennsylvania, bắn chết 5 em học sinh, bắn bị thương 5 em khác và sau đó y tự sát. Ngay sáng hôm sau, các phương tiện truyền thông đưa đưa tin, phụ huynh của 5 em bị Roberts giết, đã tha thứ cho anh ta. Chưa hết, họ còn đem thực phẩm, đem vòng hoa đến thăm viếng, an ủi, giúp đỡ cho vợ và hai đứa con của kẻ sát nhân. Họ cũng đến tham dự lễ an táng, cầu nguyện và tiễn đưa kẻ sát nhân ra tới nơi an nghỉ cuối cùng.
Bạn thân mến, nếu bạn nhận ra rằng, việc tha thứ và yêu thương kẻ thù là việc vô cùng khó khăn, nhưng là một việc có thể thực hiện được, vì đã và đang có những người làm được, thì xin hãy cố gắng, hãy nỗ lực và hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta sự can đảm, lòng quảng đại, và lòng vị tha để nhờ vậy, bạn và tôi sẽ có khả năng để yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi [chúng mình] (Mt 5:44).
Để có thể yêu thương kẻ thù, và tha thứ cho những người bách hại mình, tôi nghĩ bạn và tôi cần phải nhận ra những lợi ích cả về phần xác, lẫn về phần thiêng liêng mà chúng mình sẽ nhận được khi chúng ta tha thứ cho kẻ khác. Có ba lợi ích lớn mà khi tha thứ, chúng ta sẽ nhận được.
1. Khi tha thứ cho ai đó, thì những áp lực tâm lý, và những căng thẳng sẽ giảm bớt trong cơ thể của tôi, và như vậy trái tim của tôi sẽ làm việc điều độ, nhẹ nhàng hơn và sẽ lâu dài hơn. Tôi sẽ ăn ngon ngủ yên, như vậy là tôi sẽ khỏe mạnh, trẻ trung và tươi tắn, nhiều người sẽ yêu mến tôi và khi đó sự an bình, hạnh phúc, và thư thái sẽ đến với tôi và với những người thân yêu của tôi.
2. Khi tha thứ cho người khác, thì lúc đó tôi đang đẩy xa ma quỷ ra khỏi tâm hồn và ra khỏi cuộc sống của tôi, bởi vì thánh Phaolô nói rằng lúc tôi sống trong hận thù và giận dữ thì lúc đó ma quỷ [sẽ]thừa cơ lợi dụng [tôi] (Ep 4:26-27).
3. Khi chúng ta tha thứ cho nhau, thì Thiên Chúa sẽ thứ tha cho những tội lỗi mà chúng ta đã trót phạm đến Chúa và đến tha nhân, bởi vì chính Ngài đã phán: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em” (Mt 6:14).
Lewis B. Smedes đã nói: “To forgive is to set a prisoner free, and discover that the prisoner was you” Tạm dịch là “Khi tha thứ là lúc đó bạn đang trả tự do cho một tù nhân, và tên tù nhân đó chính là bạn” .
Tôi tin chắc rằng, với sự trợ giúp của Thiên Chúa, cộng với sự nhận thức rằng, sự tha thứ sẽ đem lại nhiều lợi ích và tự do cho chính cá nhân tôi, cho gia đình của tôi, cho cộng đoàn dòng tu, cho giáo xứ và cho thế giới này…bạn và tôi sẽ có khả năng để tha thứ cũng như yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng mình. Bạn tin không?
Qua trình thuật Mt 5:38-48, Chúa Giêsu dạy hai điều: [1] CHỚ trả thù (≈ Lc 62:9-30), [2] PHẢI yêu TN 7-A131
Qua trình thuật Mt 5:38-48, Chúa Giêsu dạy hai điều: [1] CHỚ trả thù (≈ Lc 62:9-30), [2] PHẢI yêu kẻ thù (≈ Lc 6:27-28, 32-36). Một điều CẤM CẢN và một điều BẮT BUỘC. Một điều KHÔNG được làm và một điều PHẢI làm. Và còn liên quan tính kiên trì nữa.
Chúa Giêsu đề cập ĐIỀU CẤM trong phần một: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: ĐỪNG chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai XIN thì hãy CHO; ai muốn vay mượn thì ĐỪNG ngoảnh mặt đi.” (Mt 5:38-42) Chúa Giêsu CẤM trả thù, tức là PHẢI tha thứ.
Tấm gương tha thứ sáng chói và vĩ đại nhất là Chúa Giêsu: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23:34) Ngài đã tha thứ cho những kẻ đã giết Ngài. Có những người noi gương Chúa Giêsu và sẵn sàng tha thứ cho kẻ hại mình: Thánh Stêphanô tha cho những kẻ ném đá ngài, Thánh Maria Goretti tha cho Alessandro – kẻ đã sát hại mình, và Thánh GH Gioan Phaolô II đích thân đến tận nhà tù để tha thứ cho Mehmet Ali Ağca – thành viên của tổ chức Grey Wolves (Sói Xám, nhóm Hồi giáo cực đoan) đã ám sát ngài tại quảng trường Thánh Phêrô ngày 13-5-1981.
Thật không dễ tha thứ chút nào, nhất là khi vấn đề nghiêm trọng, nhưng PHẢI tha thứ cho nhau thì mới có thể nên thánh. William Arthur Ward (1921-1994, nhà giáo dục người Mỹ) nhận định: “Trước khi cầu nguyện, hãy tha thứ – Before you pray, forgive.” Ý tưởng rất phù hợp với ý Chúa, vì có lần Chúa Giêsu cảnh báo: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5:23-24)
Chúa Giêsu đề cập ĐIỀU BUỘC trong phần hai: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy YÊU kẻ thù và CẦU NGUYỆN cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì NẾU anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên HOÀN THIỆN như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:43-48) Rất rõ ràng, rạch ròi, chi tiết.
Tuy nhiên, tha thứ vẫn chưa đủ, còn phải yêu thương và cầu nguyện cho những người đối lập với mình, ghét bỏ mình. Kể cũng “căng” lắm, nhưng các thánh đã làm được, dù các ngài cũng là phàm nhân như chúng ta, thế thì chúng ta cũng làm được – nếu thực sự muốn nên thánh. Đức khiêm nhường giúp đè bẹp “cái tôi” để dễ dàng tha thứ.
Luật Chúa có thể tóm gọn trong một chữ YÊU mà thôi. Chữ YÊU (yêu thương, yêu mến, yêu quý) bắt đầu bằng mẫu tự Y, nhìn giống một người dang đôi tay, hình ảnh Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá. Kinh Thánh đã xác định: “Yêu thương là chu toàn lề luật.” (Rm 13:10) Điều quan trọng này cũng được đề cập trong Rm 13:8, Gl 6:2, Gc 2:8.
Luật Chúa như thế nào? Thánh Vịnh gia nhận định: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.” (Tv 19:8) Quả thật, trên cả tuyệt vời! Luật Chúa tóm tắt thành Thập Giới (Mười Điều Răn), nhưng cũng có thể tóm gọn trong một chữ YÊU – gọi là Nhất Tự Luật, và cũng là Đệ Nhất Luật.
Thánh Vịnh 119 là Bản Trường Ca đề cao Luật Chúa. Tuân giữ Luật Chúa là một trong các mối phúc: “Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời. Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý Chúa, hết lòng hết dạ kiếm tìm Người.” (Tv 119:1-2) Quốc gia nào cũng có luật pháp, ngay cả một nhóm nhỏ cũng cần có luật pháp – gọi là quy luật, quy ước, nguyên tắc, nội quy,… Người đời có luật riêng, Giáo Hội có giáo luật.
Bản chất của luật pháp phản ánh bản chất của nhà nước đặt ra nó, nhà nước kiểu nào thì luật pháp kiểu đó. Chính vì vậy, luật pháp có tính giai cấp. Luật pháp còn có tính xã hội, vì nó chứa đựng các chuẩn mực chung được đa số ủng hộ, nếu không thì luật pháp sẽ bị chống đối. Luật pháp cũng có tính dân tộc, nghĩa là phù hợp với truyền thống, tập quán, giá trị đạo đức của các dân tộc trong đất nước. Bản chất này cho phép luật pháp gần gũi với dân, được dân ủng hộ, do đó mà có hiệu quả điều chỉnh đối với các quan hệ xã hội. Luật pháp cũng có tính thời đại, nghĩa là phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của đất nước, có khả năng hội nhập với luật pháp quốc tế.
Văn hào Victor Hugo (1802-1885, Pháp quốc) nhận định: “Với nhân dân, quyền lực duy nhất là luật pháp; với cá nhân, quyền lực duy nhất là lương tâm.” Luật pháp không hề đơn giản, nhà lãnh đạo Mahatma Gandhi (1869-1948, Ấn Độ) nói: “Luật lệ bất công tự nó đã là một dạng bạo lực.”
Văn sĩ Honoré de Balzac (1799-1850, Pháp quốc) đề cập một thực tế phũ phàng: “Luật pháp là mạng nhện mà ruồi lớn thì bay qua còn ruồi con thì mắc kẹt.” Cuộc đời là thế, như tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Miệng nhà giàu có gang, có thép.” Cướp giật vài ổ bánh mì vì đói thì bị kết án tù, cướp hàng tỷ đồng thì chỉ “bị” làm kiểm điểm và rút kinh nghiệm; mua hai thớt gỗ thì bị kết tội “phá rừng,” phá cả khu rừng thì được coi là “đại gia;” hại một người thì bị kết án tù, giết cả triệu người thì cho là “vĩ đại” và nên học tập theo “gương” của họ. Những dạng luật pháp như vậy người ta gọi là “luật rừng.” Thật kinh khiếp vì quá kinh dị!
Đề cập tính bất cập của luật pháp, chính khách Benjamin Franklin (1706-1790, Hoa Kỳ) nhận định: “Luật pháp nghiêm khắc nhất đôi khi là sự bất công trầm trọng nhất.” Luật pháp của con người chỉ là tương đối, còn luật pháp của Thiên Chúa tuyệt đối và bất biến, đúng như Chúa Giêsu nói rõ: “Trước khi trời đất qua đi, một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” (Mt 5:18) Bởi vì “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.” (Tv 19:8)
Mọi luật pháp đều có hai dạng chính: CẤM làm và PHẢI làm hoặc KHUYÊN làm – dạng “phải” thì bắt buộc, dạng “khuyên” thì tùy ý, làm thì có lợi, không làm thì bất lợi. Ngày xưa, Thiên Chúa truyền cho ông Môsê: “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel và bảo chúng: Các ngươi PHẢI thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.” (Lv 19:1-2) Rõ ràng “nên thánh” là dạng BẮT BUỘC chứ KHÔNG TÙY Ý, và chắc chắn rằng không làm thánh thì làm quỷ. Chỉ có thể chọn MỘT trong hai, không có cách chọn thứ ba. Santa hoặc Satan. Muốn đặt mẫu tự N ở chỗ nào thì tùy ý.
Ngoài ra, Thiên Chúa còn mạnh mẽ truyền lệnh: “Ngươi KHÔNG ĐƯỢC để lòng ghét người anh em, nhưng PHẢI mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ KHỎI MANG TỘI vì nó. Ngươi KHÔNG ĐƯỢC trả thù, KHÔNG ĐƯỢC oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi PHẢI yêu đồng loại như chính mình. Ta là ĐỨC CHÚA.” (Lv 19:17-18) Các mệnh lệnh “không được” (cấm) và “phải” (bắt buộc) rất rõ ràng, rất rạch ròi. Chúng ta không có cách nào để tự biện hộ. Chỉ có cách YÊU thương để nên THÁNH, rút gọn cho dễ nhớ: YÊU – THÁNH.
Tuyệt đối chỉ có một cách, một lối, một hướng, một quyết định, nhưng không có nghĩa là bị triệt buộc, vì Thiên Chúa vẫn cho chúng ta hoàn toàn tự do chọn lựa. Hiểu được như vậy thì không thể không yêu. Thánh Vịnh gia đã yêu nên không thể im lặng, mà phải chia sẻ và mời gọi người khác cùng yêu, cùng tôn vinh Thiên Chúa: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà.” (Tv 103:1-4) Vâng, Thiên Chúa quá tốt lành hơn mức chúng ta có thể tưởng tượng. Vô cùng kỳ diệu!
Mặc dù chúng ta luôn nổi loạn và vô ơn bạc nghĩa, nhưng Thiên Chúa vẫn “từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương.” (Tv 103:8) Chỉ có ý sám hối là Ngài tha thứ ngay, và “Ngài không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm.” (Tv 103:10) Chúng ta có tha cho ai lầm lỗi nào thì nhớ dai lắm, đôi khi còn “nhắc đi nhắc lại” để chứng tỏ mình tốt bụng, nhưng Thiên Chúa không như vậy, Ngài tha rồi quên luôn, không còn biết quá khứ của chúng ta thế nào, Ngài chỉ biết hiện tại của chúng ta là người sám hối và mong tương lai của chúng ta sẽ trong sạch.
Thiên Chúa quên tội lỗi của chúng ta thế này: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.” (Tv 103:12-13) Tội nhân bỗng trở thành chính nhân, sống đời chính nhân tức là trở nên thánh nhân. Nhưng được như vậy là nhờ hồng ân thương xót của Thiên Chúa, chứ chúng ta chẳng làm được gì “đáng công,” vì thế đừng vội khoe mẽ khi làm được điều gì đó có vẻ “hơn” người khác.
Thánh Phaolô cho biết lý do chúng ta PHẢI nên thánh: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3:16) Cách nói nghi vấn đã ngụ ý câu trả lời, đó là dạng xác định mạnh mẽ. Bảo vệ một cái cây không chỉ là không phá hại mà còn phải chăm sóc, vun xới. Với Đền Thờ bằng vật chất cũng vậy, ngoài việc bảo trì chúng ta còn phải tu sửa. Thánh Phaolô nói rõ: “Vậy ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em.” (1 Cr 3:17) Câu này cũng có thể hiểu về việc bảo vệ sự sống (phò sinh – prolife). Phá thai, giết người hoặc hành hạ người khác là phạm tội phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, và chắc chắn Thiên Chúa sẽ hủy diệt bất cứ ai dám phá hủy sự sống.
Rất chân thành với lời khuyên của Thánh Phaolô: “Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài.” (1 Cr 3:18-23) Đừng ảo tưởng là đừng sống trên mây trên gió, đồng thời cũng chớ giả hình, phải thực tế sống đức tin từng giây phút.
Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Sẽ có nhiều NGÔN SỨ GIẢ xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì TỘI ÁC gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào BỀN CHÍ ĐẾN CÙNG, kẻ ấy sẽ ĐƯỢC CỨU THOÁT.” (Mt 24:11-13) Lời cảnh báo này thực sự rất cần cho tín nhân trong thời gian này – đặc biệt là những ngày đầu tháng 02-2023. Ma quỷ đã len lỏi vào Giáo Hội Việt Nam. GP Đà Lạt có “nhóm trừ quỷ Bảo Lộc” tung hoành, GP Vinh có vụ thầy bói JB Hồ Hữu Hòa trở thành linh mục. Ai đã “bảo kê” cho một “tội phạm mới ra tù” (vụ án Vũ Nhôm) được chịu chức tại Philippines? ĐGM JB Bùi Tuần có lần đã đề cập vấn đề “mưu mô phe cánh để làm mục tử.” Phải chăng đó là một lời tiên tri đã ứng nghiệm tại Việt Nam ngày nay?
Và chính Đức Mẹ cũng đã cảnh báo nhiều lần. Tại Fatima, lời cảnh báo tập trung vào những điều ác của cộng sản vô thần do nước Nga truyền bá. Tại Amsterdam (Hà Lan), Đức Mẹ các Quốc Gia (the Lady of all Nations) đã cảnh báo về sự thoái hóa của các quốc gia. Còn Đức Mẹ Akita (Nhật) nhấn mạnh “công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo Hội.” Trong khi các sứ điệp của 3 lần hiện ra khác nhau về điều được nhấn mạnh, chủ đề chung xuyên suốt vẫn là “nhân loại tội lỗi quá mức và đáng chịu sự trừng phạt nặng nề của Thiên Chúa.” Đức Mẹ cảnh báo: “Nếu nhân loại không ăn năn sám hối và sống tốt hơn thì Chúa Cha sẽ giáng hình phạt khủng khiếp hơn Đại Hồng Thủy thời ông Nôê mà không hề báo trước nữa.”
Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con biết sống Thánh Luật với lòng yêu mến, không miễn cưỡng. Giữa thời đại tinh vi ngày nay, xin giúp chúng con phân định đúng đắn để có thể theo Thần Khí Thánh của Ngài và tránh xa thần khí xấu của ma quỷ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Georgescu là một thanh niên Công giáo người Rumani. Anh bị tù vì là một tông đồ giáo dân tích TN 7-A132
Georgescu là một thanh niên Công giáo người Rumani. Anh bị tù vì là một tông đồ giáo dân tích cực. Do chế độ nhà tù, chẳng bao lâu anh bị bệnh lao phổi. Gia đình biết thế, đã gởi cho anh một hộp thuốc Streptomicin. Viên quản đốc gọi anh lên và bảo: “Tôi sẽ cho anh nhận hộp thuốc này với điều kiện anh thường xuyên báo cáo cho tôi về các bạn tù của anh” - “Thưa ông, tôi không thể làm chuyện này được. Vì mỗi lần nhìn vào trong gương, thấy mặt một tên phản bội, tôi chịu không nổi” - “Thành thật khen anh đã có lòng yêu thương và trung tín với bạn bè. Thế thì anh báo cáo về các kẻ thù của anh vậy. Số là trong các tù nhân, có một vài tên là “ăng-ten” (chỉ điểm) cho chúng tôi, nhưng chúng tôi cũng không thể hoàn toàn tin bọn chúng. Anh và bạn bè đã phải đau khổ vì chúng. Đây là cơ hội tốt để anh báo thù đồng thời để được lành bệnh” - “Thưa ông, tôi lại càng không thể làm chuyện này được. Vì Chúa Giê-su của chúng tôi đã dạy chúng tôi phải yêu thương ngay cả kẻ thù nữa. Trái tim chúng tôi không thể phân làm hai: nửa để yêu mến, nửa để căm thù…” Và cuối cùng, Georgescu đã chết vì lao phổi trong trại giam (Theo lời kể của Mục sư Richard Wurmbrand trong tác phẩm “Những ngục tù của tôi với Thiên Chúa” – Mes prisons avec Dieu).
1. Tại hại của việc lấy oán báo oán.
“Mắt đền mắt, răng đền răng”, đó là “luật báo thù” của Cựu Ước. Dù có vẻ gây ngạc nhiên, nó đã là một tiến bộ mênh mông đối với bản năng trả oán rất tự nhiên và thường quá đáng nơi con người (x. Xh 21,24; Lv 24,20; Đnl 19,21). Ta thấy như nó đã lỗi thời đối với thế giới văn minh. Than ôi ! Thói báo thù ngày nay đâu chỉ “ăn miếng trả miếng”: người ta “giáng trả đích đáng”, “leo thang bạo lực”. Cứ nhìn cuộc chiến Ukraina và Nga hiện thời thì rõ, nhất là việc Nga trả đũa tàn bạo trên phương tiện dân sinh, trên mạng sống dân thường.
Chúa Giê-su đã có can đảm kêu mời nhân loại tiến tới tình yêu tuyệt hảo: chớ báo thù gì hết, đừng cự lại ác nhân. Và với tính cách của một nhà giảng thuyết bình dân, cụ thể, Người cho ta bốn ví dụ.
Tại sao Người dạy ta như thế? Câu trả lời thật rõ ràng: Cái ác không bị thắng vượt khi ta đáp trả bằng một sự tàn nhẫn tương đương. Dĩ ác báo ác là đi vào trong cái vòng lẩn quẩn của bạo lực. Đức Phật trước đó cũng từng nói: “Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan”. Thật thế, sự ác ta chịu thực chất nằm bên ngoài ta… nhưng khi ta lấy nó để trả đũa, nó lại thêm một chiến thắng phụ trội, vì đã đi vào trong ta. Khi một người căm ghét và thù hận kẻ khác, thì cuối cùng đương sự gây thương tổn cho chính mình còn hơn là cho chính kẻ thù của mình nữa. Một tác giả đã cắt nghĩa điều này như sau: “Khi chúng ta ghét kẻ thù là chúng ta cho họ quyền áp đảo chúng ta. Quyền lực này xâm chiếm giấc ngủ chúng ta, khiến chúng ta bị tăng huyết áp và đe dọa luôn cả sức khỏe lẫn hạnh phúc của mình. Kẻ thù của chúng ta hẳn sẽ nhảy múa vui mừng, nếu họ biết được sự căm ghét đã xâu xé chúng ta đến thế. Lòng căm ghét của chúng ta chẳng gây thương tổn cho họ chút nào cả. Nó chỉ khiến chúng ta ngày đêm bị rơi vào hỗn loạn địa ngục. Nói cách khác, viên đạn hay lưỡi kiếm căm thù chỉ có thể làm thương tổn kẻ thù chúng ta sau khi đã xuyên qua trái tim và thân xác chúng ta trước”. Một nạn nhân của Quốc xã Đức từng phát biểu: “Tôi tha thứ cho Hitler, bởi lẽ tôi không dại mang ông ta cho đến tận nấm mồ”. Người Hy-lạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Dĩ nhiên, ta không có quyền dựa trên lời nói của Chúa để bảo lãnh cho sự bất công. Người không đưa ra ở đây những quy tắc pháp lý áp dụng y nguyên cho xã hội dân sự: như thế là khuyến khích ăn mày, bạo lực, tội ác, là bảo đảm cho kẻ bất lương chẳng bị trừng phạt. Người chắc chắn đã không muốn công nhận một tình trạng áp bức bất thường bằng cách yêu cầu những kẻ yếu đuối hãy nhẫn nhục chịu đựng, xã hội chớ có đưa ra các biện pháp cũng như luật hình, hay quốc gia chớ có đương đầu với nước láng giềng xâm lấn (Lưu ý Chúa Giê-su dùng đại từ ngôi thứ hai số ít để nhấn mạnh trường hợp cá nhân). Vì có những hoàn cảnh mà một môn đệ đích thực của Chúa Giê-su phải đấu tranh thật sự: cam chịu bất công, nhất là bất công mà nạn nhân là kẻ khác, là đồng bào (trong một chế độ độc tài toàn trị), hoàn toàn đi ngược với tinh thần của Chúa Giê-su.
2. Thiện ích của tình yêu kẻ thù.
Tình yêu đối với những kẻ làm hại chúng ta mang lại lợi ích cho cả hai phía hơn là sự đáp trả bằng căm ghét rất nhiều. Khi đáp lại bằng tình yêu, chúng ta đã tung tình yêu ra ở chỗ cần thiết nhất. Chúng ta đã chận lại phản ứng dây chuyền thù hận và thay vào đó bằng phản ứng dây chuyền yêu thương. “Đừng để cho sự ác thắng được mình, song hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12,21). Cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ ngược đãi mình, đó là một hình thức yêu thương mở ra niềm hy vọng một sự thay đổi, và để duy mình Thiên Chúa lo chuyện phán xét kẻ khác.
Nhưng xin lưu ý, người ta không thể sống Tin Mừng nếu chỉ đứng trên bình diện nhân loại. Làm điều Chúa Giê-su vừa mới xin chúng ta vượt quá khả năng chúng ta. Sở dĩ Người bảo chúng ta hãy yêu mến địch thù, đó là vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước như thế: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi : đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8). Khi đứng trước một tình yêu khó sống, hay không thể sống về mặt nhân loại, chúng ta chẳng còn có thể đứng trên bình diện tâm lý, đạo đức, xã hội thuần túy nữa… Phải đặt mình trước mặt một cây thập giá mà nói : “Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã muốn điều lành cho những người muốn cho Chúa điều dữ… Chúa đã đau khổ và chết cho những người làm Chúa chết và khổ đau… Nay xin Chúa cũng giúp con làm được tương tự”. Y như các thánh tử đạo mọi thời, cụ thể là các thánh tử đạo Việt Nam. Y như anh Georgescu trong câu chuyện mở đầu bài suy niệm. Hay như gương Đức Cha Franjo Komarica, Giám mục giáo phận Banja Luka, thuộc cộng hòa Bosnia Herzegovina, người từng bị quân Serbia quản thúc tại tòa giám mục đang khi giáo dân của ngài bị kỳ thị dữ dội. Ngài cũng đã từng nói: “Nếu tại Âu châu có một Giáo hội đau khổ, thì đó là các tín hữu của chúng tôi. Trong giáo phận của tôi, 95% các tòa nhà của Giáo hội đã bị phá hủy hoặc hư hại nặng nề trong chiến tranh… Nhưng chúng tôi thà chịu bất công hơn là làm chuyện bất công” (Radio Vatican 06-11-2021)
3. Yêu kẻ thù là bắt chước Thiên Chúa.
Lòng yêu kẻ thù chỉ có thể đến từ Thiên Chúa ! Đó là điều Người không ngừng thực hiện: “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”. Thiên Chúa đã yêu bạn như thế nào? Bằng cách không ngừng tha thứ cho bạn. Tình yêu kẻ thù bất khả như thế, Chúa Giê-su chỉ dám xin chúng ta vì Người đã sống điều đó trước chúng ta : “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Thái độ này là một cái gì hoàn toàn mới -bất khả về mặt nhân loại- và nổi bật lên trên thái độ của phần lớn loài người. Để bắt chước Thiên Chúa, ta cần đi đến cái tình yêu không đơn thuần là tình yêu tương hỗ : “Tôi yêu bạn vì bạn yêu tôi, tôi chào bạn vì bạn chào tôi…”. Điều đó, Chúa Giê-su nói, người ngoại cũng làm. Phần Thiên Chúa, trước thái độ tuyệt đối từ chối yêu trả, vẫn duy trì quyết định tuyệt đối yêu thương. Tình yêu theo Chúa Giê-su không thể giản lược vào mức độ tình cảm, thu hút, rung động. Dĩ nhiên, Người chẳng nói xấu thứ tình yêu… mà chúng ta vẫn rất cần này. Ai có thể sống thiếu âu yếm? Người chỉ bảo chúng ta là đừng dừng lại ở chỗ đó thôi.
Chúa Giê-su dạy phải yêu mến kẻ thù. Với thói quen và nghệ thuật làm dịu Tin Mừng, chắc bạn sẽ bảo: “Tôi có kẻ thù đâu…”. Thế thì hãy để ánh sáng trần trụi và dữ dội Chúa Giê-su chiếu tỏa trên cuộc sống con người của bạn, cuộc sống ghi dấu nhiều tranh chấp xung đột không thể tránh khỏi. Hết mọi kẻ không giống tôi thực ra đều tấn công tôi, động tới tôi. “Cái-tha-nhân-khác-tôi” thì cáo giác tôi, có khuynh hướng loại trừ tôi… “Cái-tính-khí-nghịch-tôi-đó” giết chết tôi, làm cho tôi căng thẳng. “Cách-nói-ấy… cách-cư-xử-ấy…” khiến tôi phát khùng. Có phải thế không bạn?
Yêu thương những kẻ không thương yêu chúng ta, đó là bắt chước Thiên Chúa. Trước cái ác, lấy cái thiện đáp trả, đó là thái độ “thần linh”. “Làm Ki-tô hữu” nghĩa là gì ? Đấy chẳng phải là đã đạt được mục đích tối cao là tình yêu phổ quát… nhưng là cố gắng vươn tới đó mỗi ngày. Chúng ta là con cái của một vị Hiền Phụ “âu yếm ôm vào lòng” người lành lẫn kẻ dữ, của một vị Thiên Chúa chẳng bao giờ trả thù bất cứ ai. Chúa Giê-su đã đạt được trên thập giá cái quyền đòi hỏi chúng ta như vậy. Người là kẻ đã nhận những cái tát… đã bị tước mất áo choàng và danh dự… đã bị buộc xuất trình cho một vụ án bất công… đã bị người ta lôi đi hai nghìn bước trên con đường Núi sọ… đã bị lột trần truồng ô nhục trước đám đông… đã phải lãnh khổ hình khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại… Nhưng Người là “kẻ bị đóng đinh không chút oán thù!”
Trong bài Tin mừng tuần trước, Chúa Giêsu sửa chữa những kiểu dạy dỗ sai lạc liên quan đến TN 7-A133
Trong bài Tin mừng tuần trước, Chúa Giêsu sửa chữa những kiểu dạy dỗ sai lạc liên quan đến Lề luật Môsê. Những gì các thầy luật sĩ và người Pharisêu đã làm vào thời của họ là điều mà chúng ta cũng muốn làm ngày nay. Chúng ta lấy mệnh lệnh của Chúa và giải thích chúng theo cách sao cho chúng ta có vẻ như đang làm đúng những gì Chúa đã dạy bảo. Chúng ta tập trung vào việc không giết người trong khi Chúa Giêsu dạy không được tức giận. Chúng ta tập trung vào việc không ngoại tình trong khi Chúa Giêsu dạy ham muốn trong lòng đã là ngoại tình. Chúng ta nói rằng có thể ly dị vì bất kỳ lý do gì trong khi Chúa Giêsu dạy: “ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình” (Mt 5: 32). Chúng ta chỉ tập trung vào việc giữ lời hứa nếu chúng ta đã thề hứa nhưng Chúa Giêsu nói rằng phải làm theo mọi lời chúng ta đã nói. Những điều này đưa chúng ta hôm nay đến Mátthêu 5:38-48 nơi Chúa Giêsu chỉ ra cho chúng ta thấy chúng ta hạ thấp tiêu chuẩn của Thiên Chúa.
Mắt đền mắt (5:38-42)
Chúa Giêsu nói rằng: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng” (Mt 5:38). Qua những gì Chúa Giêsu nói hôm nay, chúng ta thấy rõ rằng những gì các nhà lãnh đạo tôn giáo khi xưa đã dạy cũng giống như những gì người ta sống ngày nay. Nếu bạn móc mắt tôi ra, tôi sẽ móc mắt bạn ra. Bây giờ người ta phải biết rằng đây không phải là ý nghĩa đích thực của Lề luật. Thiên Chúa đã dạy rõ ràng, trong bài đọc thứ nhất trích sách Lêvi: “Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19:18). Đơn thuốc mắt đền mắt là luật của hệ thống tòa án: đưa ra là hình phạt tương xứng với tội ác, nhưng không hề là giới luật mới mà Chúa Giêsu công bố. Hôm nay, Chúa Giêsu đặt tiêu chuẩn của Thiên Chúa trở lại đúng vị trí của nó. Lề luật của Thiên Chúa là không ăn miếng trả miếng những gì người khác đã gây ra cho chúng ta. Hãy lắng nghe những lời Chúa Giêsu đưa ra: “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5:39-42). Thay vì chỉ lo cho chính mình, hãy cho đi chính mình. Không trả thù kẻ ác. Đừng đáp trả ăn miếng trả miếng. Đừng chữa cháy bằng lửa. Chúa Giêsu đưa ra những hình ảnh nhằm nói rằng không chỉ đừng trả đũa, mà còn cho đi nhiều hơn những gì người ta mong đợi. Điều này thực sự cho thấy chúng ta còn cách xa tiêu chuẩn của Chúa Giêsu như thế nào và chúng ta cố chống lại những gì Chúa Giêsu nói như thế nào. Chúng ta được kêu gọi vượt lên trên tất cả những gì người khác thường làm.
Vào thời La Mã, một chỉ huy La Mã có thể buộc dân thường mang hành lý của họ trong khoảng cách quy định là một dặm La Mã. Chúng ta có thể nhớ điều này đã xảy ra với ông Simon, bị người La Mã bắt phải vác thập giá đỡ Chúa Giêsu đến nơi hành hình. Chính quyền La Mã có thể bắt một người làm điều này trong một dặm. Chúa Giêsu nói hãy đi hai dặm khi bạn đang ở đó. Vậy Chúa Giêsu muốn nói gì? Đời sống Kitô hữu không phải là khăng khăng khẳng định quyền lợi của mình. Đời sống Kitô hữu không phải là chỉ làm điều tối thiểu cho người khác hoặc thậm chí còn ít hơn thế nữa. Chúa Giêsu nói với chúng ta đừng chỉ nghĩ về bản thân và bảo vệ chính mình. Đúng hơn, Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta hãy hiến thân và nghĩ đến người khác trước bản thân mình. Chúng ta không nói, “Tôi có quyền.” Chúng ta nhường quyền của mình cho người khác. Chúng ta cần phải vượt lên trên tất cả vì lợi ích của những người khác trước.
Tình yêu đích thực (5:43-48)
Ngay sau đó, Chúa Giêsu đề cập đến một việc dạy bảo khác có bản chất tương tự như vậy: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5:43). Rõ ràng đó không phải là điều luật Chúa đã dạy. Nhưng chúng ta lại có thể thấy rằng lời dạy đó chấp nhận cho ghét những người không yêu chúng ta. Đây là một việc dễ làm. Chúng ta chỉ muốn yêu những người yêu chúng ta. Nhưng đây không phải là tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đặt tiêu chuẩn trở lại đúng chỗ của nó: “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5:44). Chúa Giêsu muốn chúng ta đừng chỉ yêu những người yêu chúng ta, mà yêu tất cả mọi người, ngay cả kẻ thù của mình. Yêu kẻ thù đến mức thậm chí cầu nguyện cho họ.
Lý do đầu tiên khiến chúng ta làm điều tốt lành cho mọi người và yêu thương mọi người là vì đó là điều Chúa làm. Thiên Chúa khiến mặt trời mọc lên trên kẻ ác và kẻ thiện. Thiên Chúa ban mưa cho người công chính và kẻ bất công: “Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Ngài cho mặt trời của Ngài mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5:45). Người ta ít nhận ra điều này. Nhưng Thiên Chúa đang bày tỏ tình yêu và ân sủng của Ngài cho mọi người, bất kể họ như thế nào. Đó là lý do căn bản chúng ta phải làm điều tốt lành và thể hiện tình yêu đối với tất cả mọi người.
Thứ hai, chúng ta được kêu gọi để trở nên con người yêu thương, khác với thói đời ganh ghét đố kỵ, loại trừ nhau. Nếu mình chỉ yêu kẻ yêu mình, thì có khác gì người đời? Mọi người đều làm điều đó: “Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5:46-47). Thế giới ghét kẻ thù của họ. Nhưng đó không phải là tính cách của Thiên Chúa. Điều này thực sự quan trọng trong thế giới của chúng ta ngày nay, nơi người ta ghét bỏ nhau rất nhiều. Có quá nhiều sự căm ghét trong xã hội của chúng ta. Đây không thể là con người mà Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành.
Tiêu Chuẩn Chân Chính (5:48)
Rồi Chúa Giêsu kết thúc với tiêu chuẩn đích thực cho cuộc sống. “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Đừng nghĩ như cách thế gian nghĩ. Đừng làm như thế gian làm. Hãy nghĩ về cách Thiên Chúa đang làm mọi việc. Hãy làm như chúng ta đã thấy Chúa Giêsu làm. Tiêu chuẩn không phải là làm giống như những gì người khác nói và làm, “những người khác đều làm như vậy mà.” Thiên Chúa không coi những gì người khác đang làm là chuẩn mực. Ngài là Đấng Toàn Ái, người Cha đầy tình yêu thương. Yêu thương mới là chuẩn mực Ngài dạy bảo con người chúng ta. Chúng ta phải sống khác con người trần gian. Chúng ta phải sống “như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.”
Chúng ta cần phải thấy sự cao cả của lề luật Thiên Chúa. Chỉ khi nhìn thấy sự cao cả này, chúng ta mới “có tâm hồn nghèo khó”, “khóc lóc tội lỗi mình”, “hiền lành và khiêm nhường”, “khát khao nên người công chính”, “xót thương người”, “có tâm hồn trong sạch”, “xây dựng hoà bình” và được biến đổi như Chúa muốn để chúng ta được hưởng phần thưởng lớn lao Nước Trời (Mt 5:3-12). Chỉ có cách nhìn này mới giúp chúng ta nhìn nhận Thiên Chúa một cách đúng đắn và nhìn ra chính mình thực sự như thế nào. Đừng nới lỏng luật pháp hoặc hạ thấp tiêu chuẩn của Thiên Chúa.
Hiểu được những mệnh lệnh lớn lao nhất sẽ làm cho cõi lòng kiêu hãnh của chúng ta vỡ ra dần dần. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Mc 12:30). Chúng ta đã làm như thế nào? Ngoài ra, “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12:31). Chúng ta đã làm như thế nào? “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Chúng ta đã làm như thế nào? Nếu có nơi nào chúng ta có thể nhìn thấy những thất bại của mình một cách rõ ràng nhất, thì đó chính là ở lời mà Chúa Giêsu đã đưa ra: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5:44).
Tại sao những điều này lại khó thế? Vì họ không xứng đáng! Tôi không thể đi thêm một dặm, không thể đưa má bên kia, không thể cầu nguyện cho họ. Tất cả vì họ không xứng đáng! Nhưng Chúa Giêsu có ban cho tôi nhiều hơn những gì tôi xứng đáng không? Chúa Giêsu chỉ yêu những người làm điều tốt lành cho Ngài thôi sao? Tôi phải ngưng lối sống chỉ dựa trên điều tốt người khác đã làm cho tôi rồi mới làm điều tốt lành cho họ. Tôi phải ngưng biện minh cho bản thân khi chỉ yêu những người yêu lại tôi. Tôi phải yêu thương người khác, ngay cả khi không họ xứng đáng, nhưng vì Chúa yêu tôi, dù tôi không xứng đáng.
Thánh Phaolô căn dặn chúng ta: “Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài. Vậy đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào” (1 Cr 18-21). mục lục
Tuần này, chúng ta tiếp tục lắng nghe giáo huấn của Đức Giê-su trong bài giảng trên núi với TN 7-A134
Tuần này, chúng ta tiếp tục lắng nghe giáo huấn của Đức Giê-su trong bài giảng trên núi với hai phân đoạn thật khó để áp dụng vào cuộc sống. Làm sao chúng ta có thể đưa má bên trái cho người ta vả, trong khi má bên phải còn bị đau bởi cú tát trước. Tha thứ cho những ai gây ra các điều tác hại đã khó, phương chi còn phải yêu những kẻ ngược đãi mình là điều khó gấp bội. Thế mà đó lại là những huấn lịnh mà Đức Giê-su muốn chúng ta thực hành hôm nay.
Nếu chúng ta không yêu thương kẻ thù hay không yêu những kẻ làm hại chúng ta thì chúng ta cũng giống như những kẻ không có niềm tin. Điều mà Chúa Giê-su muốn chúng ta thực hiện hôm nay là phải sống khác họ, nghĩa là họ có quyền ghét chúng ta. Nhưng, phần chúng ta là công dân của Nước Thiên Chúa, con cái của Cha trên trời, chúng ta không được phép ghét họ. Sự thù ghét là mầm móng của nhiều sự ác có thể xẩy ra sau này. Nó có thể hủy diệt cả người ghét lẫn người bị ghét. Nó có thể được ví như mầm móng của các tế bào ung thư, sinh sôi nẩy nở và phá hủy các cơ năng khác trong cơ thể mình. Bởi thế cho nên, Chúa mới khuyên chúng ta phải sống yêu thương
Thật vậy, chúng ta nên yêu kẻ thù của mình vì tình yêu có sức mạnh cứu rỗi. Đó là nguồn năng lực biến đổi thế giới, trong đó có bạn và tôi. Đây là ý nghĩa của sự phục sinh mà Đức Giê-su đem lại. Có nghĩa là Người đã chết cho ý riêng để đầu phục ý muốn của Thiên Chúa là bày tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa và cầu xin Cha tha thứ cho những ai đã kết án Người.
Tuy nhiên, đây quả là một việc khó khăn để hoàn thiện như Đức Giê-su đã yêu cầu. Việc nên hoàn thiện mà Đức Chúa yêu cầu hôm nay không dựa vào việc chu toàn lề luật mà là sống theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa giới thiệu; đó là nên hoàn thiện theo gương của Cha trên trời.
Nói như thế, chúng ta có thể khẳng định rằng, cho đến cuối đời, người tín hữu vẫn còn bị chất vấn để thay đổi, để làm mới cuộc sống mình sao cho phù hợp với các yêu cầu của Đức Giê-su trong bài giảng trên núi. Có nghĩa là trong mọi giây mọi phút của cuộc sống chúng ta được mời gọi hoàn thành một cách hoàn hảo những yêu sách của Tin Mừng, đó là thực hiện giới răn yêu thương một cách trọn vẹn nhất. Nói khác đi chúng ta được gọi, được chọn để yêu tất cả mọi người, không loại trừ một ai, nhất là những kẻ bách hại và làm nhiều điều tổn hại đến chúng ta.
Muốn thực hiện được các điều này, chúng ta phải ý thức rằng tình yêu là động lực thúc đẩy mọi hành vi của con người. Và tất cả mọi người đều là người thân của ta. Việc nhìn nhận này không lệ thuộc vào mối quan hệ mà người đó dành cho chúng ta, cho dù người đó không ưa hay không cùng phe nhóm, thậm chí họ là kẻ thù của chúng ta thì theo Lời Chúa dậy hôm nay, chúng ta cũng phải yêu họ. Không có họ, tính cộng đoàn, mối dây hiệp thông hình như không được trọn vẹn. Sự hoàn hảo chỉ tìm thấy trong tình yêu của chúng ta dành cho mọi người, không có sự khác biệt; tất cả đều là anh chị em với nhau.
Trên thực tế, cuộc sống của chúng ta rất tệ trong lãnh vực này. Chúng ta có khuynh hướng chỉ yêu những người có chung một cái nhìn, một lối suy nghĩ và một cách thức hành động giống như mình; ngoài ra đều là khách lạ và có thể là kẻ thù nữa. Ở đây, Đức Giê-su đòi hỏi chúng ta bỏ luôn quyền được tự vệ, từ chối mọi cách đối kháng, cũng chẳng kháng cự và thậm chí còn đồng ý đi xa hơn mức độ giới hạn mà đối phương đề ra nữa. Làm sao chúng ta có thể thực hiện được các điều này!
Thưa anh chị em,
Một điều mà chúng ta cần nhìn ra là khả năng thực hiện điều Đức Giê-su dậy bảo hôm nay hoàn toàn tùy thuộc vào sự kết hiệp giữa ta và Chúa, có nghĩa là Chúa làm trong ta thì ta mới nên hoàn thiện được. Đức Giê-su đã không ban cho chúng ta một mớ lý thuyết suông hay một cẩm nang, cho dù đó là ‘khuôn vàng thước ngọc’ chỉ đạo cuộc sống của môn đệ. Nhưng chính Đức Giê-su đã thể hiện trong cuộc sống và sứ vụ của Người các huấn lịnh trong Bài Giảng trên Núi này.
Thật vậy, đời sống người tín hữu là sự tham dự vào sứ mạng và con người của Đức Giê-su. Chính Thần khí và sức sống của Đức Ki-tô hoạt động và thúc đẩy để chúng ta sống đúng tinh thần của Chúa hơn. Nơi Đức Giê-su mọi mầm mống gây ra chia rẽ được liên kết lại với nhau. Mọi thù hận được hòa giải trong bản thân Người. Chỉ trong Chúa, con người mới tìm được sức mạnh để tha cho nhau, không còn coi nhau như kẻ thù và sự tha thứ sẽ đạt đến mức trọn hảo như lòng Chúa mong muốn.
Nói đến đây, tôi nhớ một mẩu chuyện ngắn xẩy ra tại thành phố Munich bên Đức năm nào. Số là trong một buổi gặp gỡ khoáng đại, chị Corrie Ten Boom được mời để chia sẻ về sức mạnh của niềm tin trong thời gian chị bị giam cầm trong trại tâp trung do các nhân viên mật vụ của Đức Quốc Xã trông coi. Ngày qua ngày, sống trong cảnh thập tử nhất sinh, chị chỉ còn biết dựa vào Chúa là đấng ban cho chị sức mạnh để vượt qua các ngày khổ nạn này.
Trong lúc đang hăng say làm chứng, mắt chị ngừng lại trước một cử tọa viên đang ngồi ngay trước mắt chị. Chị không tin vào đôi mắt mình. Toàn thân chị bất động. Chị lấy khăn lau mắt và nhận ra người đang ngồi trước mặt chị là viên sĩ quan mật vụ, người đã từng hành hạ chị và các bạn trong thời gian đó.
Trước phản ứng của chị, ông cựu sĩ quan đứng dậy và tiến đến trước mặt chị và nói: “Thưa cô, tôi rất biết ơn những lời chia sẻ và cuộc sống chứng tá của cô. Tôi tin rằng Chúa Ki-tô đã rửa sách mọi tội lỗi của tôi.” Sau đó ông đưa đôi bàn tay ra để nhận sự tha thứ của chị.
Nghe tới đó, chị Corrie tiếp tục đứng bất động, mắt chăm chú nhìn vào đôi tay đang dang rộng của người đã từng hành hạ mình. Cuối cùng, chị cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, con không thể tha thứ cho anh ta. Xin Chúa, hãy cho con sự tha thứ của Người.” Khi thì thầm nói những lời đó, chị cảm thấy có một sức mạnh đẩy đôi tay của chị về phía trước, và rất tự nhiên chị đã vươn ra nắm lấy đôi tay của ông sĩ quan mật vụ này. Chị viết, “điều tuyệt vời nhất đã xảy ra. Từ trên đôi vai, dọc theo cánh tay và qua bàn tay, dường như có một dòng điện truyền từ tôi sang ông ấy. Ngay lúc đó, trong trái tim tôi nảy sinh một tình yêu dành cho ông này khiến cả tôi cũng bị choáng ngợp và không còn có phản ứng nào khác hơn là trao cho ông sự tha thứ và yêu thương từ Chúa.
Những gì xẩy ra cho chị Corrie Ten Boom nói cho chúng ta biết rằng: tất cả chúng ta đều là chi thể trong một thân thể duy nhất là Đức Ki-tô. Và chỉ có trong Người, với Người, các lịnh truyền trong bài Tin Mừng hôm nay mới được thi hành một cách triệt để và đạt đến ý nghĩa trọn lành của nó. Amen! mục lục
Đức Giêsu là một nhà sư phạm lỗi lạc, cách giảng thuyết của người rất hiện thực và uyển chuyển. Người TN 7-A135
Đức Giêsu là một nhà sư phạm lỗi lạc, cách giảng thuyết của người rất hiện thực và uyển chuyển. Người thường lấy những khung cảnh thực tế địa phương nhưng vẫn có tính phổ quát làm nền tảng cho bài giảng. Yêu là một đặc tính của con người. Yêu lại có nhiều sắc thái khác nhau tùy địa phương, hoàn cảnh, dân tộc tính và từng người. Và yêu thế nào để đáp ứng được nguyện vọng và yêu cầu của Thiên Chúa mới là vấn đề. Chủ đề của Chúa Nhật này -qua các bài đọc và bài Tin Mừng- cho thấy Lời Chúa Giêsu nói: “Ta đến không phải để phá luật mà là kiện toàn luật” lại càng trở nên cấp thiết và rõ ràng. Không chỉ yêu người mà yêu cả kẻ thù!
HÃY YÊU THƯƠNG KẺ THÙ
Về yêu, Đức Giêsu đưa ra hai giới răn: Yêu Chúa và Thương Người (Mt 22:38-39; Mc 12:30-31; Lc 10:27). Đối với người Kitô hữu, để có cuộc sống hài hòa yêu thương nhau thực sự, không có hướng dẫn nào thực tế và chính xác hơn là Yêu Chúa và Thương Người. Hai hành động này phải đi sát nhau, không thể thiếu một trong hai. Tất cả lời nói và hành động của chúng ta đều phụ thuộc vào hai phạm trù này. Khi Chúa nói “Hãy yêu thương người láng giềng” thì tự nhiên ai cũng thắc mắc, muốn vấn đề được rõ ràng hơn. Người láng giềng là ai? Thế nào là người láng giềng? Chúng ta có thể rất ngạc nhiên, đôi khi khó chịu, cho là đùa dỡn khi nghe Chúa Giêsu trả lời: “Hãy yêu kẻ thù. Hãy làm điều tốt lành cho kẻ ghét mình. Hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ vu khống anh em. Ai vả anh em má này thì hãy đưa má kia cho họ vả” (Lc 6:27-29). Những lời này nằm trong bài giảng Tám Mối Phúc Thật mà tuần trước chúng ta đã nghe, nhưng nó có tính cá nhân và ở thời Giáo Hội sơ khai.
Dân Israel / Do Thái có tinh thần đoàn kết rất keo sơn. Một người bị đau thì tất cả đều đau theo, một người vui sướng hạnh phúc thì tất cả mọi người đều mừng vui. Như ta thường nghe nói ‘một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ’. Vì cộng đồng dân Israel thường hay bị áp bức đe dọa, nên sợi dây liên kết giữa họ với nhau rất chặt chẽ. Vì lẽ sống còn đã được hun đúc ẩn chứa trong lòng người dân Do Thái đến độ họ thù oán, ghét cay ghét đắng kẻ thù. Nhưng đối với người láng giềng của họ, họ chẳng thắc mắc gì khi nghe Chúa Giêsu nói “Hãy yêu thương người láng giềng” chừng nào những người này vẫn còn là bạn hữu, đồng hương với họ. Tuy nhiên, nói trống không “hãy yêu kẻ thù của mình” thì quả là chuyện quái gở và khó có thể “nuốt”. Nếu thí dụ này không đủ để thuyết phục được mọi người, chúng ta hãy coi lại câu chuyện trong sách Samuel 1 xem Đavít tha thứ cho kẻ thù là Saul như thế nào (1Sm 26:2,7-9, 12-13,22-23).
ĐAVÍT THA CHẾT CHO KẺ THÙ
Câu chuyện Đavít tha chết cho Saul trong sách Samuel nhắc ta nhớ lại lịch sử Israel. Khi kẻ thù của Israel trở nên hùng mạnh, sức ép quân sự rất rõ ràng, nên họ kêu cứu xin một vị vua đến để hướng dẫn giúp đỡ họ. Lúc ấy Israel đã mất hết các liên bang và chi họ, lại không còn quân lực, chính phủ hiệp nhất trung ương thì yếu trong khi các quốc gia lân bang lại nắm được quyền lực dưới sự chỉ đạo của một vị vua uy dũng. Họ đi tìm một vị lãnh đạo như vậy cho đất nước họ. Giavê đã là vua lại tạo ra nhiều bất hòa giữa các giai cấp trong dân Israel. Hy vọng có một vị vua lãnh đạo đất nước đã bị tiêu tan rồi. Saul thì lại là vua đầu tiên được ngôn sứ Samuel chọn và xức dầu. Đavít tha chết cho Saul phải chăng là vì vậy.
NGƯỜI ĐƯỢC THIÊN CHÚA XỨC DẦU
Nếu có những trường hợp quyền lực trở nên tha hóa thì đó là trường hợp của Saul. Hắn là kẻ lãnh đạo bất tài, tự cảm thấy thấp kém và bị đe doa bởi Đavít, một quân vương có thế giá đang được dân chúng ủng hộ. Hắn trở nên ghen tương đố kỵ. Câu chuyện cho thấy hắn rắp tâm tìm mưu kế hãm hại Đavít với 3.000 quân lính (1 Sm 26:2), một lực lượng quân sự đáng kể trong khi Đavít chỉ có 600 quân! (1 Sm 27:2). Vào một đêm, Đavít đột nhập được vào lều của Saul trong khi Saul và quân lính vẫn còn đang ngủ say. Nếu muốn giết Saul thì quá dễ dàng, nhưng Đavít đã tôn trọng Saul là vua, là người đã được Thiên Chúa xức dầu (26:9). Dù cho Saul đã rắp tâm tìm cách giết Đavít, nhưng Đavít không thể lỗi phạm làm trái ý Chúa đã chọn Saul làm vua. Đavít đã chỉ lấy của Saul một bình nước và thanh gươm rồi biến mất vào trong đêm tối (26:12). Khi đã yên vị an toàn ở sườn đồi, Đavít mới tuyên bố sự hiện diện của mình và chủ tâm tha chết cho Saul (26:23).
Sau đó câu chuyện ra sao thì không thấy Samuel nói tiếp, nhưng chúng ta có thể đoán được là Saul đã rất nể vì và biết ơn Đavít đã tha mạng cho mình. Nhưng vấn đề không hoàn toàn là như vậy. Trong một ý nghĩa nào đó đã có sự hòa giải khi Đavít gặp Saul mặt đối mặt để xin được chúc lành. Tuy nhiên khi hai người rời nhau thì tình liên đới giữa họ vẫn không được hàn gắn.
HÃY TRỞ NÊN THÁNH, ĐỪNG LẤY OÁN BÁO OÁN
Đavít tha chết cho Saul là một trường hợp hiếm có. Bài Phúc Âm hôm nay đưa ra một thí dụ rất thực tế khi Đức Giêsu nói: “Hãy yêu kẻ thù của mình” bằng cách chia sẻ của cải, đồ vật của mình cho kẻ bất hạnh, nghèo khổ thiếu thốn. Ai muốn vay mượn mình thì đừng từ chối. Ai xúc phạm mình thì đừng trả thù. Ai vả má này hãy đưa má kia cho họ vả. Chúa Giêsu đã không nói rằng chúng ta cứ để cho thiên hạ lạm dụng, hành hạ, bôi nhọ chúng ta. Người nói rằng hận thù, nóng giận đối đáp với nhau thì chẳng bao giờ hết thù hận, ví như trái banh ném qua sân của mình rồi mình lại ném trả lại tức là ta đã xác định một sự đối đầu rõ ràng rồi. Hỏi rằng chúng ta có nên tiếp tục leo thang đáp trả qua lại như vậy để rồi biến thành bạo động qua lời nói việc làm, hay nên tự chế chấm dứt tình trạng đối đầu ấy? Chọn lựa không trả thù đương nhiên mình sẽ ở vào vị thế thượng phong. Oán báo oán là chuyện thường tình. Lấy ân báo oán mới là anh hùng.
Bài đọc 1 sách Lêvi hôm nay, Thiên Chúa kêu gọi dân Israel nên có một tâm thức khác, một tiếng gọi lương tâm thánh qua lời phán cùng Maisen rằng: “Ngươi hãy nói cho toàn thể cộng đồng con cái Israel là hãy nên thánh, vì Ta là đấng thánh, là Thiên Chúa các ngươi. Đừng giữ lòng thù ghét anh em để khỏi mang tội vì họ. Đừng lấy oán báo oán…Hãy yêu thương mọi người như yêu thương chính mình vậy. (Lv 19:1-2, 17-18).
Chúa đã từng nói một ngày nào đó chúng ta sẽ được nâng lên vượt khỏi những gì gọi là khuynh hướng “trần gian, trần tục”. Ông Adong và bà Eva là những thí dụ về nhân tính “trần gian”. Chúa Kitô là thí dụ nhân tính “trên trời”. Chúng ta là tạo vật ở trần gian, nhưng trong con người chúng ta Chúa đã ban cho một khả năng tăng trưởng để trở thành con người “trên trời” hay “thiên đàng” (1 Cr 15:45-49).
Lớn lên, phát triển không phải bỗng nhiên mà có, nó đòi hỏi phải phấn đấu. Nếu chúng ta đối sử với nhau vượt qua được khỏi cung cách của trần thế kiểu ‘mắt đền mắt, răng đền răng, oán báo oán’, chúng ta đã trở nên giống Đavít. Chúng ta tận dụng nghị lực dự trữ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta hiện đang tiềm ẩn trong tâm chúng ta, và bất thần lương tâm chúng ta nhắc nhở chúng ta là: "Hãy yêu thương tha nhân như Chúa Kitô yêu thương chúng ta vậy. Đừng lấy oán báo oán. Hãy lấy ân báo oán". Lúc đó chúng ta đã làm theo lời Chúa Giêsu là Yêu kẻ thù. Nhưng yêu kẻ thù không có nghĩa là đi theo và làm theo kẻ thù. Yêu kẻ thù cũng không có nghĩa là ghét kẻ thù của kẻ thù. Yêu như vậy là không đúng nghĩa yêu mà Chúa Giêsu đã khuyên dạy chúng ta phải “Yêu mọi người”. Đó mới kể là thực thi nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:7-12, 16, 19).
“Anh em thân mến, chúng ta hãy thương yêu nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. (1 Ga 4:7-8).
“Ta yêu mến anh em như Cha Ta yêu mến Ta, anh em hãy ở trong tình yêu thương của Ta. Nếu anh em giữ các điều răn của Ta, anh em sẽ ở trong tình yêu thương của Ta, như Ta đã giữ các giới răn của Cha Ta và ở lại trong tình thương yêu của Người.” (Ga 15:9-10).