Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 10-A Bài 1-36 Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi --------------------------------------------- Phúc Âm: Mt 9, 9-13: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi”.
Đọc lại Phúc Âm, chúng ta thấy Matthêu không phải là một con người đạo đức. Ông làm nghề: TN 10-A1
Đọc lại Phúc Âm, chúng ta thấy Matthêu không phải là một con người đạo đức. Ông làm nghề thu thuế. Và dưới mắt người do Thái, những kẻ làm nghể thu thuế bị đồng hóa với phường tội lỗi, bởi vì họ cộng tác với đế quốc La Mã, với quân xâm lược mà bóc lột đồng bào của mình.
Thế nhưng, như một câu danh ngôn đã bảo :
- Dù là một tên tướng cướp, thì trong lồng ngực của hắn cũng chất chứa một mảnh tim vàng.
Và mảnh tim vàng của Matthêu, đó là ông luôn băn khoăn, trăn trở để ra khỏi tình trạng tội lỗi của mình. Ông muốn tìm lấy cho tâm hồn mình một sự bình an thư thái.
Ông đã từng nghe biết Chúa Giêsu có quyền tha tội. Ông mong ước được gặp Ngài. Và rồi hôm nay, niềm mong ước này đã trở thành sự thật. Chúa Giêsu đi ngang qua bàn thu thuế, nơi ông làm việc. Ngài nhìn ông và lên tiếng gọi :
- Hãy theo Ta.
Không cần suy nghĩ cũng như không chần chừ đắn đo, ông đã từ bỏ tất cả, đứng lên và bước theo Chúa.
Từ câu chuyện trên, chúng ta rút ra được một kết luận, đó là hãy thận trọng trong việc phê phán người khác.
Chúa là Đấng thấu suốt tận tâm can, nên Ngài sẽ đánh giá mỗi người theo những tình cảm và thiện chí tự bên trong. Còn chúng ta thì khác, chúng ta thường đánh giá theo những ghi nhận từ bên ngoài. Vì thế, sự đánh giá của chúng ta vốn thường phiến diện và sai lạc.
Thực vậy, làm sao chúng ta biết được người phạm tội đã từng chống trả mãnh liệt trước khi sa ngã. Làm sao chúng ta biết được người phạm tội đã sai lỗi chỉ vì người khác đã quyến dũ và lôi cuốn. Nếu ở trong hoàn cảnh ấy, liệu chúng ta có còn trung thành với Chúa hay là đã vấp phạm còn nặng nề hơn thế nữa. Làm sao chúng ta biết được người vấp phạm đã bị thúc đảy bởi những đam mê mù quáng xuất phát từ di truyền. Làm sao chúng ta biết được những giọt nước mắt sám hối đã từng chảy xuống trên gò má.
Bở đó, phải thận trọng trong việc xét đoán người khác và nhất là hãy có thái độ khoan dung đối với tội nhân, bởi vì chính nhờ thái độ khoan dung ấy, Chúa Giêsu đã cảm hóa được Mađalêna, từ một cô gái tội lỗi trở nên một vị thánh, cũng như đã cảm hóa được Matthêu, từ một kẻ thu thuế đầy gian tham trở nên một vị tông đồ đầy nhiệt thành.
Điều cần phải nghiêm khác, đó là hãy nghiêm khắc đối với chính bản thân mình, bởi vì bản thân chúng ta cũng đã chất chứa nhiều sai lỗi, nhiều khuyết điểm. Chúng ta nên đấm ngực mình mà rằng :
- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.
Tiếp tục đoạn Tin mừng hôm nay : để đánh dấu ngày trọng đại, ngày dứt bỏ nếp sống cũ để bắt đầu nếp sống mới, ngày lột xác và đổi đời, Matthêu đã làm một bữa tiệc mừng. Thấy Chúa Giêsu và các môn đệ ngồi ăn uống với phường thu thuế, bọn biệt phái đã lên tiếng trách cứ với các môn đệ :
- Tại sao Thầy các ông lại ngồi cùng bàn với những kẻ tội lỗi ?
Và Chúa Giêsu đã trả lời :
- Không phải những người khỏe mạnh mà là những kẻ đau yếu mới cần đến thầy thuốc. Các ngươi hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì : Ta muốn tình yêu chứ không muốn lễ vật. Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng đến để kêu gọi kẻ tội lỗi.
Nhiều lúc chúng ta cũng đã đối xử với người khác một cách nghiêm khắc và bất công như bọn biệt phái.
Vì thế, hãy hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống. Hãy nhìn thẳng vào lương tâm của mình và chúng ta sẽ thấy mình cũng đã từng sai lỗi và vấp phạm nặng nề.
Bởi đó, phải biết khiêm nhường trước mặt Chúa. Tất cả chúng ta đều là những người đang rất cần đến thầy thuốc. Hãy sám hối ăn nay chạy đến nơi tòa cáo giải và chúng ta sẽ được chữa lành.
Một khi đã được Chúa tha thứ, thì bây giờ đến lượt mình, chúng ta cũng phải biết đối xử khoan dung và tha thứ cho những người anh em của chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay thánh Matthêu vắn tắt ghi lại ơn gọi của mình. Chúa Giêsu thấy ông: TN 10-A2
Bài Tin Mừng hôm nay thánh Matthêu vắn tắt ghi lại ơn gọi của mình. Chúa Giêsu thấy ông ngồi tại bàn thu thuế và Chúa nói : “Anh hãy theo tôi”, lập tức ông đứng lên, đáp lại lời kêu gọi của Chúa. Trước khi từ bỏ tài sản, gia đình để lên đường theo Chúa, ông đã khoản đãi một bữa tiệc mời Chúa, các môn đệ và bạn bè tới dự, họ là những người thu thuế, đồng nghiệp với ông và nhiều kẻ tội lỗi khác. Trước sự kiện đó, những người Pharisêu có phản ứng ngay : họ khó chịu vì Chúa cùng ăn uống với những người thu thuế và những người tội lỗi. Chính qua thái độ khó chịu và phiền trách của những người Pharisêu mà Chúa đã để lại một câu nói bất hủ, một câu nói làm cho chúng ta thấy rõ sứ mạng và tâm tư của Chúa : “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau yếu mới cần. Tôi đến không phải để kêu gọi người công chính mà là kêu gọi người tội lỗi”.
Tại sao những người Pharisêu lại khó chịu khi thấy Chúa Giêsu cùng dự tiệc với những người thu thuế và tội lỗi ? Theo phong tục Do Thái thời Chúa Giêsu, khi cùng ăn uống với ai, đó là dấu hiệu một sự hiệp thông, một sự chia sẻ tư tưởng, tình cảm và là một cữ chỉ thân thiết và quan tâm của mình đối với người ấy, vì trong bữa tiệc, người ta dễ dàng cởi mở, tự nhiên, dễ dàng bộc lộ tình cảm với nhau hơn, và trong phép xã giao ngày nay cũng vậy, khi cùng ngồi ăn uống với nhau, thì không những tình nghĩa có thể trở nên thắm thiết hơn mà cả những hiềm khích, hiểu lầm cũng có thể được giải tỏa và thông cảm nhau. Như thế ngồi cùng bàn với nhau để chung vui trong một bữa tiệc là một điều tốt, không có gì đáng chê trách cả.
Tuy nhiên, những người Pharisêu cho rằng : đối với những người tội lỗi, nhất là những người thu thuế, thì không được cùng ngồi ăn uống với họ, mặc dù luật Mosê không cấm, nhưng các kinh sư đã cấm, vì sự chung đụng như thế có nhiều nguy hiểm, và việc cấm đã được coi như một thông lệ. Từ quan niệm đó, một người Do Thái ngoan đạo hết sức ý tứ, không giao du với những người mà họ coi là tội lỗi, nhất là không bao giờ ăn uống cùng bàn với họ để khỏi bị lây nhiễm hoặc bị ô uế. Vì thế, họ khó chịu và phiền trách Chúa, vì họ không biết Chúa là Thiên Chúa, không biết sứ mệnh của Chúa, và nhất là họ khó chịu vì Chúa đi ngược lại với những lời giảng dạy và nếp sống giả hình của họ.
Tuy nhiên, Chúa đã nhiều lần tuyên bố : “Tôi đến trần gian không phải vì người công chính nhưng vì người tội lổi”, Tôi đến không phải để kết án nhưng để bênh đỡ”, “Tôi đến không phải để trói buộc nhưng để cởi mở”, “Tôi đến để kiếm tìm chứ không phải để lẩn trốn chạy thoát”, “Tôi đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất”. Những lời tuyên bố đó có nghĩa là : chính vì những người tội lỗi mà Chúa nhập thể, bỏ trời xuống thế, chính vì họ mà Chúa được sai đến trần gian. Vậy muốn giải thoát thế gian khỏi tội lỗi và muốn cứu những người tội lỗi thì phải đến và tiếp xúc với họ, cũng như không có thầy thuốc hay bác sĩ nào có thể chữa bệnh nếu bệnh nhân không đến với ông ta hoặc ông ta không đến và tiếp xúc với bệnh nhân, hoặc như người mất chiên, mất tiền, nếu không đi tìm thì làm sao thấy lại được.
Do đó, chúng ta thấy thật là có ý nghĩa khi Chúa tự so sánh mình với thầy thuốc : Thầy thuốc là người có sứ mạng gìn giữ người ta khỏi mang bệnh bằng cách ngăn ngừa bệnh hoặc chữa bệnh. Chúa Giêsu là thầy thuốc đầy tình thương của Thiên Chúa. Ngài đến để tiêu diệt tội lỗi, là nguyên nhân của đau khổ, và tận cùng của đau khổ là sự chết.
Bệnh và chết phần xác là những dịp để thầy thuốc đến chăm sóc, cố gắng làm giảm bớt đau đớn và cầm cự cho sự chết không tới sớm. Bệnh và chết thiêng liêng cũng là những dịp để thầy thuốc thiêng liêng đến cứu chữa, Ngài đem ơn cứu độ cho họ, nghĩa là đem Tin Mừng và chỉ cho họ con đường đi tới sự sống muôn đời. Tóm lại, những người đau yếu, bệnh tật mới cần đến thầy thuốc, thì những người xấu, những người tội lỗi mới cần đến Chúa, nên Chúa tiếp xúc và dự tiệc với những người thu thuế và tội lỗi để đem Tin Mừng cho họ, giải thoát họ khỏi tội lỗi và đưa họ về với Chúa.
Đối với chúng ta hôm nay, nếu chúng ta tự cảm thấy mình yếu đuối, dễ bị ảnh hưởng, thì xa lánh người xấu, người tội lỗi, trước hết đó là một sự khôn ngoan thông thường cần thiết để đề phòng. Thứ hai là một sự khiêm tốn, vì tự cảm thấy mình yếu đuối, dễ bị sự xấu làm ô nhiễm, dễ bị sa ngã, nên phải xa lánh, đó là điều tốt và có thể chấp nhận được. Nhưng trái lại, xa lánh vì khinh dể thì không thể chấp nhận được, vì là thái độ kiêu căng và thiếu bác ái. Tuy nhiên, việc xa lánh chỉ là thái độ tiêu cực trong việc sống đạo, chúng ta cần phải noi gương Chúa Giêsu sống tích cực hơn, vẫn đi lại, tiếp xúc với những người tội lỗi, nhưng không chấp nhận tội lỗi và không đồng lõa để phạm tội, mà phải làm gương sáng và sống xứng đáng người Kitô hữu. Bởi vì chính việc tiếp xúc với những người tội lỗi không phải là xấu và tự nó cũng không làm cho chúng ta ra xấu, điều xấu là do lương tâm chúng ta mà ra.
9 Bỏ nơi ấy, Ðức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mátthêu đang ngồi đó. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi!" Ông đứng dậy đi theo Người. 10 Ðức Giêsu đang dùng bữa trong nhà, thì kìa, nhiều người thu thuế và người tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. 11 Thấy vậy, những người Pharisêu nói với các môn đệ Người rằng: "Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?" 12 Nghe thấy thế, Ðức Giêsu nói: "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. 13 Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi".
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Từ một cộng đoàn tu sĩ ở Sàigòn, một bài chia sẻ được gửi tới các bạn trẻ cùng Dòng ở Manila. Bài: TN 10-A3
Từ một cộng đoàn tu sĩ ở Sàigòn, một bài chia sẻ được gửi tới các bạn trẻ cùng Dòng ở Manila. Bài chia sẻ dưới nhan đề "Viết về Anh và Những Người Con của Anh" khởi sự như sau:
"Những ngày gần đây, tôi được nghe nhiều về anh, trên báo chí, trên những thông tin của cộng đoàn. Những câu chuyện về "gia đình trăm con" của anh và biết bao nhiêu tấm lòng ngưỡng mộ dành cho anh. Tôi tự hỏi, liệu từ một giáo dân bình thường, làm sao những việc phi thường ấy lại có thể thành sự được? Làm sao anh có thể là điểm tựa của biết bao tâm hồn trẻ? Làm sao anh có thể nuôi nổi bầy con của mình? Ðâu là động lực thúc đẩy anh làm điều ấy?... Và rất nhiều thắc mắc."
Cuối cùng tôi đã gặp được anh, một con người nhỏ bé, khiêm tốn, ánh mắt nhân hậu với giọng nói tràn đầy tình thương và những câu chia sẻ tràn đầy ý nghĩa. Một tâm hồn đầy niềm tin, tin vào Thiên Chúa nên tin vào người, nhất là người trẻ. Như một người bố tất tả vì công việc để nâng đỡ cuộc sống của các con. Như một người mẹ để yêu thương, lắng nghe, kiên nhẫn và tha thứ."
"Anh bắt đầu những tâm tình của mình bằng một câu chuyện về chính tuổi trẻ của anh, tuổi trẻ của một cậu bé con nhà nghèo, không đủ tiền vào học trường của các cha SDB (Saint Don Bosco) hoặc đi tu Dòng ấy. Nhưng tuổi trẻ vất vả và ước mơ chưa tròn của anh đã được Chúa sử dụng làm bệ phóng cho công trình của Người sau này. Nhân xem một cuốn phim về cha thánh Don Bosco, anh thấy mình được thôi thúc để làm một điều gì tương tự. "Lửa đã được ném vào lòng anh!"
"Lửa ấy âm ỉ cháy xuyên qua những năm trung học tại trường kỹ thuật trước kia của dòng Don Bosco và xuyên qua cuộc hôn nhân với một cựu đệ tử Dòng Con Ðức Mẹ Phù Hộ nữ Don Bosco. Chúa đã nối kết họ trong đời hôn nhân, để họ làm nên một gia đình rộng mở và tràn đầy lòng thương."
"Sau khi học xong nghề, anh được điều đi làm ở tận La Ngà, để chị ở lại tần tảo mưu sinh trên chiếc xe đạp cọc cạch với bó chỉ dệt phía sau rong ruổi từ Tam Hà, Khiết Tâm... để kiếm chút tiền lời. Ba người con ra đời không có sự chứng kiến của bố. Nhưng anh đã nói với chị: "Chúng ta ôm ấp gia đình nhỏ bé này mà thôi thì lãng phí ơn huệ của Chúa quá. Chúng ta được mời gọi ôm ấp cả giáo xứ, cả đất nước này, Giáo Hội và mọi người!" Anh chị đã đồng ý và dốc tâm mổ rộng cửa đón nhận và đi đến với mọi người."
Ðứa con quê ở La Ngà
Thế là "gia đình trăm con" bắt đầu. Ở đây chỉ nói tới một trong số trăm đứa con, đó là đứa con quê ở La Ngà, được anh kể lại như sau:
"Anh có quen một người bạn quê ở La Ngà. Người bạn này mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối. Trước khi mất, anh bạn đến thăm anh và trao phó đứa con quậy phá của mình, vì anh bạn không còn khả năng đối thoại với nó nữa và nhất là không thể ra đi mà chưa giải quyết chuyện con cái. Ngày đưa tang bạn anh, anh đã hứa trước linh cữu là sẽ cố gắng giáo dục em và hết lòng yêu thương như một người cha.
"Thế nhưng chuyện đó không phải đơn giản vì cậu này đã từng có tiền án trong một vụ giết người ở cầu La Ngà, và cậu đã bỏ đi khỏi nhà anh bốn lần! Anh vẫn kiên nhẫn, tha thứ và đón nhận vô điều kiện, không tra xét, không trừng phạt đến nỗi nó phải kêu lên: "Tại sao bố lại tin con đến như thế!"
"Ðể giúp con làm lại cuộc đời, anh thuê hẳn một người thợ bông sắt cửa sổ với giá 1,600,000đ/1 tháng về dạy cho con, vì anh kinh nghiệm không thể gởi nó đi làm chung ở xưởng kẻo nó lại nhiễm biết bao thói xấu của đám bạn đồng môn. Ðồng thời anh đi mượn ba cuốn catalogues mẫu cửa sổ cho con thực hành. Kết quả là 96 bộ cửa sách ra đời mà không có ai đặt hàng. Mặc kệ! anh chịu hết. Sau vài tháng cậu đã học xong nghề. Cậu không thể tin là có ai đầu tư cho cậu đến như vậy. Anh trả lời cậu: "Bố tin ở con và bố đầu tư cho con, để con có thể về lại La Ngà mở tiệm. Bố thấy ở đó chưa có ai làm nghề này; và bố nghĩ con sẽ có nhiều hàng để làm, bố mong con hạnh phúc!"
"Cậu thanh niên La Ngà này đã trở về nhà và thay đổi hẳn cuộc sống. Anh nói thỉnh thoảng cậu vẫn gửi tiền cho anh để phụ giúp nuôi dưỡng em khác."
Qua bài chia sẻ "Viết về Anh và Những Người Con của Anh", đặc biệt là người con La Ngà, ta thấy thấp thoáng hình ảnh của chính Ðức Giêsu. Nhưng Ngài đến không chỉ để gầy dựng "gia đình trăm con" mà là để thiết lập "gia đình con Chúa". Ðó là gia đình rộng mở, không từ khước bất cứ một con người nào.
Ðiều rất ý nghĩa là sau khi chọn bốn môn đệ đầu tiên, là Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan (Mt 4,18-22), người thứ năm được chọn là Mátthêu (Mt 9,9-13). Mátthêu là nhân viên thu thuế. Xét về chính trị, ông được kể là "Do Thái gian" dưới mắt đồng bào ông, bởi lẽ ông cộng tác với chính quyền thực dân Roma để bóc lột đồng bào. Về tôn giáo, ông bị coi là ô uế vì thường xuyên chung đụng với dân ngoại đạo trong nghề thu thuế.
Bất chấp hoàn cảnh nói trên, Ðức Giêsu đã thân hành đi ngang qua trạm thu thuế để gọi Mátthêu vào Nhóm Mười Hai thân cận nhất của Ngài. Mátthêu liền đứng dậy đi theo Ðức Giêsu.
Tin Mừng Luca còn cho biết ông Lêvi, tức Mátthêu, làm tiệc lớn để khoản đãi Ðức Giêsu, có đông đảo người thu thuế và những người khác nữa cùng ăn (Lc 5,29). Ðó là lúc người Pharisêu đã lên tiếng chỉ trích: "Sao Thày các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?" Và Ðức Giêsu đã phản ứng với lời tuyên bố bất hủ là: "Hãy về học cho biết ý nghĩa câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9,13).
Cả Nhóm Mười Hai thân cận chẳng phải là những vị thánh một sớm một chiều. Phêrô trưởng nhóm sau này sẽ chối Thày ba lần. Tất cả các ông đều bỏ chạy khi Thày bị bắt và bị giết chết.
Nhưng khi chỗi dậy khỏi sự chết, Ðấng Phục Sinh đã qui tụ các môn đệ trở lại và ban cho họ Thánh Thần của Ngài để họ tha tội cho ai thì người đó được tha (Ga 20,22-23).
Cuối cùng trước khi về trời, Ðức Giêsu Phục Sinh đã sai Nhóm Môn Ðệ thân cận của mình đi đến với muôn dân để làm cho muôn dân trở thành môn đệ và trở thành gia đình con Chúa, tức Nước của Thiên Chúa (Mt 28, 16-20).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn tâm đắc được gì về bài chia sẻ "Viết về Anh và Những Người Con của Anh"? Riêng đứa con quê La Ngà có chút gì giống Mátthêu, nhân viên thu thuế chăng? Hay có khi bạn chẳng thấy có gì giống nhau cả?
2. Bạn hiểu thế nào về lời Chúa Giêsu tuyên bố "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế"? làm sao áp dụng lời này vào đời sống của bạn?
3. Hay có khi bạn chú ý hơn về câu "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi". Bạn hiểu thế nào về câu này?
Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài
Nhà điêu khắc Donatello, một hôm từ chối không sử dụng khối đá cẩm thạch vì nó rạn nứt. Người: TN 10-A4
Nhà điêu khắc Donatello, một hôm từ chối không sử dụng khối đá cẩm thạch vì nó rạn nứt. Người ta mang khối đá này đến cho điêu khắc gia nổi tiếng Michel-Ange.
Xem xét khối đá, Michel-Ange cũng thấy những vết rạn nứt đó. Nhưng ông lại coi đó là một thách thức cho tay nghề của mình. Ông nhận khối đá và ra công đẽo gọt. Nhờ đó mà thế giới mới có được bức tượng vua Đavid, một công trình nghệ thuật sáng giá nhất từ trước tới nay.
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu chọn gọi Matthêu làm môn đệ, một kẻ thu thuế, bị liệt vào hàng tội lỗi. Matthêu cũng giống như khối đá cẩm thạch rạn nứt, ông có rất nhiều tì vết : nào là bóc lột dân nghèo, tiếp xúc với người La mã ngoại giáo, nên thường xuyên bị ô uế, phải loại ra khỏi hội đường. Tóm lại, ông là kẻ tội lỗi công khai. Đức Giêsu đã không nhìn ông với cái nhìn ấy, Người đã không khước từ, không phán đoán, không chê bỏ. Trái lại, Người chấp nhận ông với tất cả tội lỗi và tai tiếng nơi ông. Người không một chút do dự cho ông gia nhập vào Tông đồ đoàn, để huấn luyện ông trở thành môn đệ của Người, để ông nên một trong mười hai trụ cột của Giáo Hội như Phêrô, Giacôbê và Gioan…
Thiên Chúa luôn chấp nhận chúng ta với đầy tì vết và khiếm khuyết, đầy tội lỗi và bất toàn, miễn là chúng ta mau mắn đứng dậy đi theo Người. Theo Người không chỉ trong đôi ba ngày, nhưng theo Người suốt cả cuộc đời. Theo Người không chỉ trong lúc thuận buồm xuôi gió, nhưng cả trong cơn bão táp phong ba. Theo Người không chỉ trong cuộc sống công chính, nhưng còn cả trong lúc sa ngã phạm tội. Vì chính Người đã nói :”Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, chỉ người đau ốm mới cần”.
Vâng, chính Người là vị thầy thuốc, không chỉ chữa bệnh phần xác, mà nhất là điều trị bệnh tâm hồn. Người không ngại ngồi đồng bàn với kẻ tội lỗi. Người không sợ phải chạm vào vết thương lỡ loét. Người mau mắn tìm đến những tội nhân. Người thâu nạp những con người hèn mọn. Vì chính Người đã tuyên bố: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi”. Thật là an ủi biết bao cho chúng ta khi được nghe những lời ấy, vì chúng ta vốn đã là những tội nhân.
Vâng, người môn đệ chân chính của Đức Giêsu là người cần được chữa lành. Căn bệnh thật sự của họ chính là tội lỗi. Mục đích của Người khi xuống trần gian cũng là để cứu chuộc con người lỗi lầm. Tuyệt đỉnh nơi cái chết cao đẹp của Người trên thập giá, chính là lời xin tha cho những kẻ hành hạ Người. Vì thế mọi thánh lễ trần gian đầy dẫy những lời xin tha thứ. Kinh Lạy Cha sẽ trở nên vô nghĩa khi người đọc không thật lòng tha thứ cho anh em. Bởi vì :”Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế”.
Vâng, người môn đệ chân chính của Đức Giêsu là người cần được tha thứ. Không tội lỗi nào mà Người chẳng thứ tha. Người không bao giờ tuyệt vọng trước các tội nhân, nhưng luôn tin tưởng và hy vọng. Giáo Hội không phải là một cộng đoàn thánh thiện, nhưng là tập thể những tội nhân được hoán cải mỗi ngày.
Nếu có bình minh là có đổi mới. Đã bước đi theo Người là có thay đổi. Từ Lêvi thu thuế trở thành Matthêu tông đồ, từ Saolê bắt đạo trở nên Phaolô tông đồ dân ngoại, từ Simon chối Thầy biến thành Phêrô đá tảng Giáo Hội. Cuộc đời tưởng chừng như đã khép lại với các ngài, nhưng nay đang rộng mở thênh thang. Điều kiện để được đổi mới chính là trung thành bước theo Đức Kitô và ngoan ngoãn thực thi giáo huấn của Người. Theo Đức Kitô thì bước chân nào cũng mang dấu vết của thân thiện và nở hoa yêu thương. Thực thi giáo huấn của Người như thấy cỏ cây xanh tươi hơn, nắng chan hòa ấm cúng, con tim reo vui hạnh phúc.
Thiền sư Muju kể lại rằng : Một buổi chiều kia khi thiền sư Shichiri Kojun đang tụng kinh thì: TN 10-A5
Thiền sư Muju kể lại rằng :
Một buổi chiều kia khi thiền sư Shichiri Kojun đang tụng kinh thì một tên cướp cầm gươm bước vào và bảo Shichiri đưa tiền cho hắn, nếu không hắn sẽ giết chết.
Thiền sư Shichiri nói với hắn :
- Đừng có làm phiền ta. Tiền trong ngăn kéo kia, anh có thể lấy đi.
Rồi Shichiri tiếp tục tụng kinh. Một lát sau Shichiri bảo tên cướp :
- Đừng có lấy hết nghe. Ta cần một ít để mai đóng thuế. Tên cướp nhặt gần hết số tiền và chuồn đi. Shichiri nói với theo :
- Hãy cám ơn người ta khi anh nhận quà chứ.
Tên cướp cám ơn ông rồi ra đi.
Ít ngày sau tên cướp bị bắt. Giữa đám đông hắn khai đã ăn cướp của Shichiri. Khi Shichiri được mời đến ông nói :
- Người này không phải ăn cướp, ít nhất là của tôi. Tôi đã cho anh ta tiền và anh ta đã cảm ơn tôi.
Sau khi mãn tù, tên cướp đến thăm Shichiri và trở thành một đệ tử của ông.
Lòng nhân từ của vị thiền sư đã cứu vớt được một con người khỏi vòng lao tù và nhất là đã cứu cho cuộc đời anh khỏi hư mất. Phải chăng vị thiền sư đã phản ảnh được phần nào nhân cách của Chúa Giêsu ?
Thật vậy, Chúa Giêsu không chỉ xử nhân từ với một người mà với tất cả mọi người. Người không chỉ xử nhân từ một vài lần nhưng là mãi mãi. Chính nhờ lòng nhân từ của Người mà biết bao nhiêu người đã được cứu thoát. Câu chuyện Tin mừng hôm nay là một bằng chứng. Chúa Giêsu không bao che cho những tội lỗi của ông lêvi. Trái lại, Người xác nhận ông là kẻ tội lỗi. Người không bao giờ phong thánh cho ông vì những tội lỗi của ông. Nhưng chính vì tội lỗi của ông mà Người đã tìm đến với ông và kêu gọi ông :”Tôi không đến để kêu gọi người công chính mà là để kêu gọi người tội lỗi”.
Trái với thái độ nhân từ của Chúa Giêsu là thái độ nghiêm khắc của những người biệt phái. Họ nghiêm khắc với ông Lêvi, một người bị liệt vào hàng tội lỗi. Đối với họ, những kẻ tội lỗi không đáng được Thiên Chúa yêu thương. Hơn thế nữa, những kẻ tội lỗi chính là thủ phạm đã kéo cơn giận của Thiên Chúa xuống. Những người biệt phái cũng không tin vào khả năng hoán cải của những kẻ tội lỗi. Đối với họ, sẽ không có con đường nào khác mở ra cho những con người này. Kẻ tội lỗi sẽ phải chết trong tội lỗi của mình. Không chỉ nghiêm khắc với những người tội lỗi, người biệt phái còn nghiêm khắc cả với Chúa Giêsu nữa. Họ không chấp nhận việc Chúa Giêsu hòa đồng với bọn tội lỗi đến độ liều lĩnh đặt mình vào nguy cơ lây nhiễm sự ô uế của bọn tội lỗi ấy.
Khi chọn một người thu thuế làm môn đệ của mình, Chúa Giêsu đã làm đảo lộn tất cả những quan niệm của người đương thời về tội lỗi và về sự thánh thiện. Người có cách chọn lựa của riêng Người. Đối với Người, kẻ thánh thiện không phải là kẻ chỉ biết tuân giữ một cách máy móc những lề luật của Thiên Chúa. Còn cần phải có lòng nhân từ để cảm thông, để tha thứ những lỗi lầm của người khác nữa. Đồng thời cũng cần phải tin vào khả năng sám hối của những con người tội lỗi và tạo điều kiện để họ có thể ăn năn trở về. Chúng ta thường phân chia thế giới, phân chia cộng đoàn của mình thành hai phe. Phe thiện và phe ác. Và chúng ta thường liệt mình vào phe thiện để rồi kết án những người mà ta cho là thuộc phe ác. Trước nhan Thiên Chúa mọi người đều là tội nhân. Người Kitô hữu chân chính không phải là người tốt hơn những người khác, nhưng là người ý thức mình tội lỗi và muốn đến gần Chúa Giêsu để được chữa lành. Chúa Giêsu đến trong thế gian để kêu gọi và chữa lành tất cả mọi người trong đó có chúng ta. Do đó, chúng ta đừng ảo tưởng về sự thánh thiện cũng như đừng thất vọng về tội lỗi của mình. Cả hai điều ấy sẽ ngăn cản chúng ta đón nhận ơn tha thứ và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Hơn nữa, nếu như Thiên Chúa không chấp tội, không đóng đinh bất cứ ai trong những lỗi lầm mà họ đã vấp phải, trái lại, Người tin vào khả năng đổi đời của tất cả mọi người thì chúng ta không có lý do gì để khóa chặt cuộc đời người khác trong tội lỗi của họ và cho rằng họ là đồ bỏ đi, là đồ hết xài.
Sự đối xử nhân từ với tha nhân chính là chìa khóa mở cửa Nước Trời cho chúng ta.
Có một vị ẩn sĩ kia sống tịnh niệm và chay tịnh đến độ suốt ngày không động đến thức ăn và: TN 10-A6
Có một vị ẩn sĩ kia sống tịnh niệm và chay tịnh đến độ suốt ngày không động đến thức ăn và nước uống. Từ trên đỉnh núi cao, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày, đó là dấu hiệu trời cao chấp thuận của lễ hi sinh của ông. Một hôm, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đang leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi theo. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng ông lại giục cô bé hãy uống nước. Cuối cùng, không ai chạm đến nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô bé không nỡ uống một mình.
Họ càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Đến một lúc, vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn quại trong cơn khát. Cuối cùng, ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy bình nước đưa lên miệng uống và lúc bấy giờ cô bé cũng mỉm cười uống nước với ông. Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, trước sự ngạc nhiên vỡ lở của ông, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi, ông thấy có hai vì sao lấp lánh như mỉm cười với ông.
Để mạc khải cho chúng ta bộ mặt thông cảm, nhân từ, yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã không ngần ngại đến ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi. Bài tin mừng hôm nay đã ghi lại rằng : khi đi qua dãy bàn thu thuế, Ngài đã nhìn thấy Matthêu. Ngài đã kêu gọi ông và cho ông nhập vào số các tông đồ của Ngài. Là một người thu thuế, mặc nhiên Matthêu là kẻ thù của những người Do thái thời đó. Trước hết là vì những người thu thuế thường lạm dụng nghề nghiệp để làm giàu cho chính mình. Và thứ hai là cộng tác với quân ngoại xâm để bóc lột chính đồng bào, đồng chủng của mình.
Đối với Chúa Giêsu, khi nhìn thấy matthêu, Ngài đã có một cái nhìn khác. Ngài đã khám phá ra những điểm tích cực nơi ông chứ không vơ đũa cả nắm để nghi kị xa lánh ông. Hơn nữa, Ngài còn quăng cho ông một cái phao để cứu ông khỏi vũng bùn nhơ. Ngài đã kêu gọi ông. Và đúng như sự tin tưởng của Chúa, Matthêu đã can đảm đứng lên dứt khoát đi theo Chúa.
Rồi trong bữa tiệc do Matthêu khoản đãi, những người bạn thu thuế của ông ngồi đồng bàn với Chúa Giêsu. Thấy thế, những người Pharisêu đã tỏ ra khó chịu. Chúa Giêsu đã nói với họ :”Không phải những người khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, mà chính là những người đau yếu. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này : Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi”.
Với một cái nhìn thiết thực, với một câu nói tích cực, Chúa Giêsu đã biến kẻ thù thành bạn, biến kẻ gian dối thành môn đệ, biến kẻ chỉ biết dùng đôi tay để đếm tiền, dùng khối óc để tìm mánh khéo làm điều bất chính thành người dùng đôi tay mình, dùng khối óc mình để viết Tin mừng. Ngoài ra, không những Chúa Giêsu đã có cái nhìn tích cực với từng cá nhân mà Ngài còn có cái nhìn tích cực với một lớp người, với một đoàn thể. Vì thế, Ngài đã tiếp xúc, ngồi ăn uống với những người bị xã hội thời đó, nhất là những người phariseu, khinh thường và bị lên án là những kẻ tội lỗi. Ngài đã biện minh cho hành động của ngài : Ngài là một y sĩ, trước hết phải tìm đến với bệnh nhân. Nhưng điều kiện để đến gần mọi người, tiếp xúc với mọi người là phải có cái nhìn tích cực về họ, vì tin tưởng rằng mọi người đều có những khía cạnh tốt, những đức tính hay; mọi người đều có thể hoàn thiện và hoán cải cuộc sống; mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương và có thể yêu thương.
Như vậy, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cốt lõi của Tin Mừng, cốt lõi của đạo chính là tình thương. Thực thi bác ái là việc ăn chay có giá trị nhất, là của lễ cao đẹp nhất mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa. Nếu chỉ có một vì sao mọc lên để chứng giám cho một hành động khổ chế, thì sẽ có hai vì sao hiện ra để xác nhận cho họ một hành động bác ái. Thật ra, bác ái đích thực cũng là một hành động khổ chế, bởi vì nó đòi hỏi con người phải chết cho bản thân, phải ra khỏi chính mình để đến với người khác.
Chúng ta đọc kinh, dâng lễ, ngắm đàng thánh giá, lần hạt mân côi, ăn chay… tốt lắm, nhưng nếu không có lòng bác ái yêu thương thì vẫn chưa đủ, vẫn thiếu sót, nhất là thể hiện tình yêu thương đối với những người yếu đuối, lầm lỡ, tội lỗi. Chúa Giêsu luôn có cái nhìn tích cực về mọi người, hơn nữa, Chúa đã hòa mình với mọi người để đưa mọi người về với Chúa. Chúng ta hãy noi gương Chúa. Xin Chúa cho chúng ta luôn có cái nhìn tích cực về mọi người để khám phá những điểm hay, điểm đẹp, điểm tốt nơi họ; và cũng xin Chúa cho chúng ta biết đối xử với nhau bằng tình yêu thương trong mọi hoàn cảnh.
Những người Pharisêu khinh miệt tội nhân, nhưng Đức Giêsu đối xử tốt với họ. Vấn đề không: TN 10-A7
Những người Pharisêu khinh miệt tội nhân, nhưng Đức Giêsu đối xử tốt với họ. Vấn đề không phải chỉ là một ít lời nói tử tế, một vài cử chỉ của Người. Người liên kết với tội nhân, ăn uống với họ. Người không chỉ khoan dung với họ. Người còn tiếp đón họ. Trong sự hiện diện của Người, họ cảm thấy được chấp nhận và yêu thương như chính họ là thế. Vì vậy, không nên ngạc nhiên nếu nhiều người trong số họ quan tâm đến sứ điệp của Người và thay đổi đời sống của họ. Matthêu là một ví dụ.
Thái độ của Đức Giêsu đối với tội nhân là một thái độ nhân ái và thuyết phục hơn là lên án và tố giác. Người không chờ tội nhân hối cải trước khi trở thành bạn của họ. Không, Người đối xử tốt với họ khi họ còn trong tình trạng có tội. Đó là điều gây phẫn nộ cho các nhà cầm quyền tôn giáo : họ thấy Người kết giao với tội nhân và vui vẻ với họ trong khi họ vẫn còn là những tội nhân. Cho đến hôm nay một số người cho rằng thương xót tội phạm là sự phản bội nạn nhân. Vì thế những người Pharisêu nhìn thấy Đức Giêsu thương xót tội nhân là một người phản bội nhân đức.
Sự biện hộ của Đức Giêsu rất thẳng thắn : Người nói Người đến nơi nào cần Người nhiều nhất. Khi kết giao với những người tội lỗi, người không tha thứ hoàn cảnh của họ. Đúng hơn, Người cố gắng chỉ ra cho họ một đời sống mới. Nhưng Người không thể làm điều ấy nếu không kết giao với họ và thông cảm với họ. Bạn không thể cải thiện con người bằng cách xa lánh họ. Khi gần gũi họ, Đức Giêsu biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Đức Giêsu đã không thiếu các nguyên tắc đạo đức khi ngồi chung bàn và hòa hợp với các tội nhân. Đúng ra nhân tính của Người phong phú và sâu xa đủ để Người tiếp xúc với cốt lõi của lòng tốt mà người ta tìm thấy trong mọi tâm hồn và trên đó, một tương lai phải được xây dựng. Người đặt họ tiếp xúc với cốt lõi ấy trong chính họ. Lòng tốt của Người gợi lên lòng tốt trong họ.
Hẳn sẽ dễ dàng hơn, an toàn hơn và đại chúng hơn nếu Người đi chung với những người tốt. Nhưng Người không nghĩ về mình. Người nghĩ về người khác và về sứ mạng mà Chúa Cha đã giao cho Người. Người không đến để kêu gọi những người đạo đức mà kêu gọi những người tội lỗi phải hối cải.
Có một người sống trên cùng một con đường với một ông bác sĩ. Chừng nào sức khỏe ông ta còn tốt, ông không có lý do gì đến nhà ông bác sĩ. Vì thế, ông không biết tí gì về ông bác sĩ. Ông bác sĩ dường như là một người tử tế, ông ấy nghe một người đã được bác sĩ giải phẫu cho nói rằng ông bác sĩ là một người nhân từ và tốt bụng.
Thế rồi ông ấy bị bệnh và lập tức ông ấy đến gặp bác sĩ. Bác sĩ tiếp đón ông, nói với ông một cách lịch sự và khám bệnh cho ông với sự nhẫn nại và tỉ mĩ.. Bác sĩ định bệnh và viết toa thuốc cho ông. Trong vòng một tuần lễ ông khỏe trở lại.
Giờ đây, ông trực tiếp biết bác sĩ là hạng người nào. Trước đây, ông chỉ biết bác sĩ qua lời người khác nói. Giờ đây ông đã có kinh nghiệm về lòng nhân lành của ông bác sĩ và điều đó chỉ xảy ra khi ông bị bệnh. Sau này, ông nói với một người láng giềng :”Không ai muốn bị bệnh. Nhưng nếu bị bệnh thì thật là thú vị khi biết rằng có một ông bác sĩ như ông ấy ở gần mình”.
Nếu chúng ta là những người có tội và ai trong chúng ta không phạm tội? – Đức Kitô không vì thế mà yêu thương chúng ta ít hơn. Được yêu thương vì hoàn hảo không làm cho chúng ta tốt nhiều hơn. Chúng ta cần được chấp nhận và yêu thương chính xác vì chúng ta là những tội nhân.
Chúng ta cảm nghiệm lòng nhân từ và thương xót của Đức Kitô trong và qua tội lỗi của chúng ta. Nếu chúng ta không bao giờ phạm tội, chúng ta không bao giờ biết được ơn tha thứ của Người. Đó không phải là một lời bào chữa cho việc phạm tội. Nhưng thật thú vị khi biết rằng đó là cách mà Đức Giêsu đón nhận những người tội lỗi.
Các thánh là những chứng nhân của Thiên Chúa – điều đó thì hiển nhiên. Nhưng những tội nhân hối cải cũng là chứng nhân của Thiên Chúa. Đó là một loại chứng tá khác hẳn, nhưng rất chân thực và luôn luôn cần thiết. Các thánh làm chứng về ân sủng và lòng trung tín của Thiên Chúa. Còn các tội nhân làm chứng về tình yêu và lòng thương xót của Người. Hơn thế nữa, Đức Giêsu chấp nhận những tội nhân hối cải được phục vụ như : Maria Mađalêna, Phêrô, Tôma, Matthêu.
Ngày hôm nay, Jean Vanier được biết đến trên khắp địa cầu. Trong giai đoạn đầu của đời ông: TN 10-A8
Ngày hôm nay, Jean Vanier được biết đến trên khắp địa cầu. Trong giai đoạn đầu của đời ông, ông có được một công việc tốt ổn định, trả lương cao, ông làm giảng viên đại học. Nhưng rồi ông bỏ tất cả và quyết định cống hiến đời mình cho người mắc bệnh tâm thần. Tại sao? Vì công việc giảng dạy không làm ông thỏa mãn. Đời ông như thiếu một cái gì. Ông nói “Điều tôi muốn không phải là một việc làm mà là một việc gì đem lại cho tôi cảm giác say mê. Tôi thích giúp đỡ mọi người, đặc biệt là những người bệnh tâm thần”.
Khi Đức Giêsu đi ngang qua chỗ thu thuế, Người thấy có một người thu thuế tên là Mattheu ngồi đó. Người dừng lại và nói chuyện với ông. Người không đe dọa cũng không khen thưởng. Người nói một cách đơn giản “Anh hãy theo tôi!” Và Mátthêu lập tức đứng dậy đi theo Người. Chúng ta giải thích điều đó như thế nào? Vì Tin mừng không cho chúng ta lời giải thích nào về quyết định của Mátthêu đi theo Đức Giêsu, nên chúng ta chỉ có thể đoán. Điều xảy ra cho Jean Vanier rất xác thực.
Vào thời đó, những người thu thuế bị dân chúng ghét bỏ. Có thể Mátthêu không thỏa mãn với công việc. Có thể công việc đem lại cho ông ta mọi thứ và ông tìm kiếm một thách đố mới. Có thể có một sự trống rỗng trong đời sống của ông. Có thể ông đã đi đến chỗ phải suy nghĩ về mình trong đời “Đời sống phải có cái gì hơn thế này chứ”.
Vả lại, có lẽ ông đã theo một nghề làm hư hỏng linh hồn. Vì thế khi Đức Giêsu cho ông cơ hội để làm một điều gì đó tốt hơn cho cuộc đời mình, ông đã nắm lấy ngay với cả hai tay. Xem ra ông đau khổ và khát vọng điều thiện hảo không được thỏa mãn. Lời kêu gọi của Đức Giêsu có thể làm ông nhớ lại giấc mơ mà có lần ông mơ thấy là làm một điều gì đáng giá với cuộc đời mình.
Dù sự đáp lại của ông xuất phát từ lý do nào thì việc ấy không dễ dàng với ông. Nghề thu thuế là một công việc ổn định và có nhiều lợi lộc. Tuy nhiên, ông nhận được nhiều hơn ông từ bỏ. Trước khi gặp gỡ Đức Giêsu, ông có một nghề nghiệp. Sau cuộc gặp gỡ đó, ông có một ơn gọi.
Một nghề nghiệp và một ơn gọi khác nhau dù không loại trừ nhau. Chúng ta có thể thực hiện ơn gọi qua một nghề chuyên môn – thầy cô giáo, y tá, bác sĩ… Nhưng một ơn gọi có thể không bao giờ bị giản lược vào những hoạt động ấy. Ơn gọi là một điều sâu xa hơn. Nó bao hàm một quan điểm, một động lực, một sự hiến dâng. Một nghề nghiệp thường có nghĩa là thăng tiến chính mình. Ngưng một ơn gọi có nghĩa là phục vụ những người khác.
Bữa tiệc theo sau sự trở lại của Mátthêu là bữa tiệc của những người tội lỗi và dành cho những người tội lỗi. Nhưng sự hiện diện của Đức Giêsu đã biến đổi bữa tiệc thành một cơ hội của niềm vui và một dịp cử hành lễ tế.
Mỗi ngày Chúa nhật, chúng ta cử hành bữa tiệc Thánh Thể. Đức Giêsu là chủ nhà, chúng ta những người có tội là khách. Trong bữa tiệc đó, chúng ta được nuôi dưỡng bằng lời Chúa và bánh Sự Sống. Và giống như Mátthêu, chúng ta được kêu gọi đến một điều gì tốt hơn – không nhất thiết là một nghề mới, nhưng là một cách sống mới.
Nếu có ai hay có việc gì làm chúng ta nhận thức sự trống rỗng của đời sống chúng ta, chúng ta không nên tuyệt vọng, đúng hơn, chúng ta phải vui mừng. Có thể đó là tiếng Thiên Chúa gọi chúng ta đến với một điều tốt hơn. Con người ổn định, thỏa mãn thiếu sự phát triển xa hơn. Vì thế, hãy chú ý đến điều gì bạn cảm thấy mơ hồ trong thâm tâm cho dù bạn không muốn cảm thấy nó.
Khi kêu gọi một người như Mátthêu. Đức Giêsu chứng tỏ Người không chỉ nhìn một con người đang là gì nhưng cũng nhìn đến con người mà người ấy có thể trở thành.
Thật đáng buồn khi nhìn thấy những người có đạo thiếu mất một thuộc tính nhân bản đứng đầu: TN 10-A9
Thật đáng buồn khi nhìn thấy những người có đạo thiếu mất một thuộc tính nhân bản đứng đầu là lòng thương xót người khác. Đó là khuyết điểm chính của người Pharisêu. Tàn nhẫn và đứng đắn, họ nghiêm khắc thực hành nhân đức trong lúc lại lên án những người khác không đánh giá theo những tiêu chuẩn của họ.
Ngày xưa, có một tu viện trưởng rất thánh thiện tên là Anastasius. Thực vậy, ông được các bạn ẩn tu coi ông như một vị thánh. Một ngày kia, khi một tu sĩ có tên là James phạm tội và phải rời khỏi cộng đoàn. Anastasius đến cùng James và nói: “Tôi cũng là một người tội lỗi”. Tuy nhiên, James không hoán cải mà còn sa ngã nhiều hơn. Nhiều năm sau, James đến thăm Anastasius khi ông này đang đọc kinh chiều.
“Xin lỗi Cha vì đã làm gián đoạn sự cầu nguyện của cha và làm cha lỗi luật”: James nói
“Không sao đâu” Anastasius đáp lại “Luật của tôi là tiếp đón anh với lòng hiếu khách”.
Và ông đã cho James lương thực và chỗ ở qua đêm. Bấy giờ Anastasius có một bản chép lại Kinh thánh đã cũ và chỉ đáng giá một ít tiền. Khi thấy cuốn sách ấy James lấy trộm và đem theo mình sáng hôm sau khi rời tu viện. Khi Anastasius biết cuốn sách đã bị lấy trộm, ông không đi theo James vì sợ rằng ông sẽ làm cho James mắc thêm tội thề dối ngoài tội trộm cắp. Phần James, ông này đem cuốn sách đến một thương gia gần đó để bán và đòi giá cao.
“Hãy để tôi giữ cuốn sách trong một thời gian ngắn để xem nó có giá cao như thế không?” Người thương gia trả lời.
Rồi người thương gia đem cuốn sách đến Anastasius. Ông này ngắm nghía cuốn sách rồi nói”Phải, đây là một cuốn sách tuyệt vời, thật ra nó đáng giá nhiều hơn”. Người bán hàng quay về và nói với kẻ trộm những điều Anastasius đã nói :
James hỏi “Ông ấy chỉ nói có thế phải không? Ông ấy không có nhận xét gì khác chứ?”
“Không” người bán hàng nói “Ông ta không nói thêm điều gì khác”.
Khi nghe những lời đó, James xúc động sâu xa và nói :”Tôi đã đổi ý rồi, tôi không muốn bán cuốn sách này nữa”. Rồi ông ta vội vàng chạy đến Anastasius xin tha thứ và trả lại cuốn sách đã lấy cắp. Anastasius tiếp đón James với tất cả lòng tốt như trước đây.
Ông nói một cách đơn sơ. “Tôi tha thứ cho anh. Hãy giữ lấy cuốn sách. Mỗi ngày hãy đọc một ít để cầu xin Đức Kitô, Đấng đã tiếp nhận những người tội lỗi như chúng ta và đưa họ về với tình yêu của Thiên Chúa và sự thân ái của Người. Giờ đây anh hãy ra đi bình an”.
Những người bạn tu sĩ của ông ngạc nhiên khi thấy ông lãng phí thời gian vì một con người như James. Nhưng ông nói :”Hãy nói tôi nghe, nếu chiếc áo chùng của anh em bị rách, anh em có vất nó đi không?”. Họ đáp “Không, chúng tôi sẽ vá lại và mặc lại nó”. Vậy ông nói :”Nếu anh em còn chăm sóc cho chiếc áo như thế, Thiên Chúa há không thương xót một người mang hình ảnh của Người sao?”
Và sự nhân từ của Anastasius đã được đền bù. James đã thay đổi đời sống mình. Ông trở lại đời sống tu trì và sau này ông trở thành một người tốt lành thánh thiện.
Anastasius đã đặt lòng nhân từ, hiếu khách và thương xót đối với anh em đồng loại bên trên sự thực hành sám hối và tuân giữ luật. Ông làm theo gương mẫu của Đức Giêsu. Đức Giêsu ngồi ăn với những kẻ phạm tội, điều này có nghĩa là Người trở thành bạn họ.
Khi một người kết hợp tôn giáo chân thật với lòng nhân ái, bạn sẽ có được một sự kết hợp mạnh mẻ. Nó giống như gỗ cẩm lai được đánh bóng. Ở đây bạn có được sự thánh thiện chân thật. Những người như thế là những Đức Kitô khác.
Dâng của lễ cho Thiên Chúa là một điều cao cả. Nhưng bày tỏ lòng thương xót đối với người anh em đồng loại là một việc còn cao cả hơn và khó khăn hơn. Sau khi dâng của lễ chúng ta cảm thấy tốt lành, chúng ta đã làm một điều gì, ghi được công trạng nào đó. Bày tỏ lòng thương xót không dễ, nhất là khi người liên quan đáng bị trừng phạt, và khi chúng ta có quyền để trừng phạt người ấy.Có một điều nâng đỡ chúng ta là niềm xác tín chính chúng ta ở trong lòng thương xót của Thiên Chúa mỗi ngày. Phúc thay ai xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Chúa nhật hôm nay dạy chúng ta suy niệm về lòng nhân từ hay thương xót của Chúa. Tiên tri Osê: TN 10-A10
Chúa nhật hôm nay dạy chúng ta suy niệm về lòng nhân từ hay thương xót của Chúa. Tiên tri Osê, trong bài đọc thứ nhất, là người đầu tiên đã ví tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại như mối tình giữa hai vợ chồng. Một mối tình như đám mây ban sáng, như sương phủ ban chiều. Nhà Tiên tri mô tả tình yêu của Thiên Chúa dực trên mối tình phu phụ mà ông đang sống để tìm hiểu mối tình sâu xa và cao cả của Thiên Chúa đối với chúng ta. Điều mà Chúa muốn là một sự hiến dâng hồn xác chứ không phải là những nghi lễ bên ngoài: “Ta muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu”. Đối với Osê, các tội lớn lao hơn cả là tội ngoại tình, phụ bạc đối với Thiên Chúa như sự phản bội của hai người phối ngẫu.
Tình thương phải được đần đáp bằng tình thương. Thánh Phaolô kêu gọi sự đền đáp bằng một đức Tin mạnh mẽ, cao thượng, phó thác như tổ phụ Abraham đã có. Ông tin tưởng vào Chúa. Ông trông cậy vào quyền năng thi hành điều Người đã hứa. Abraham là gương mẫu cho chúng ta trong niềm tin cậy vào Thiên Chúa. Ông nhìn thầy miêu duệ mà Chúa đã ban, mặc dầu tuổi già tàn tạ. Điều mà Abraham đã nhìn thấy thực hiện thì chúng ta càng có lý do để tin cậy và phó thác: đó là Chúa Giêsu đã chịu chết và cứu chuộc chúng ta, và Ngài đã từ trong cõi chết Phục sinh sống lại để chúng ta được rỗi, “được công chính hóa”.
Bài Phúc Âm, về ơn gọi Chúa dành cho ông Lêvi-Matthêô, là để nêu lên một gương sáng cho chúng ta phải đáp lại tình thương của Chúa như thế nào.
Matthêô đang ngồi bên két bạc, Chúa đi qua và phán: “Hãy theo Ta”. Ông đứng dậy đi theo Ngài. Lời của Chúa có một sức mạnh nhiệm mầu hoán cải trong nháy mắt tâm hồn của một người. khi tiếng Chúa vọng lên thì mọi mưu toan phàm tục lắng xuống: “Người ấy đứng dậy đi theo Ngài”. Và không phải theo một thời gian, năm ba tháng, mà theo suốt đời.
Phúc Âm lại cho biết tình trạng của người được gọi. Đó là một người “publicanô”, một người làm việc cho người ngoại bang, một người thu thuế, một người mà dân chúng vẫn coi là phường tội lỗi. Thế mà Chúa Giêsu không màng đến dư luận, còn kết nạp vào tập đoàn Tông đồ.
Nhân một bữa tiệc Matthêô khoản đãi Chúa và bạn hữu trước khi “bỏ mọi sự” để theo Thầy, Chúa Giêsu càng tỏ cho thấy lòng khoan nhân độ lượng của ngài đến mức độ nào! Người Biệt phái tự coi là những cảnh sát viên của lề luật, đến nói với các môn đệ: “Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?” Chúa trả lời thay cho họ: “Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu!…Ta không đến để kêu gọi những người công chính, chưng kêu gọi những người tội lỗi”.
Chúa là một thầy thuốc đến để chữa lành bệnh tật thân xác và nhất là của linh hồn. Người Do thái tự cho mình là lành mạnh, vì họ nghĩ rằng sốt sắng giữ lề luật thì Thiên Chúa phải ban cho họ sức mạnh. Ngờ đâu: “Chúa muốn lòng nhân lành chứ không phải hy lễ”. lời Tiên tri Osê đã được thực hiện nơi Ngài: “Ta chỉ muốn tình yêu”.
Khi tỏ trái tim cho Thánh Nữ Margarita, Chúa phán: “Đây là trái tim thương loài người quá bội và loài người đã vô tình và tệ bạc”.
Lạy Chúa, xin cho con biết nhanh chóng đáp lại tình yêu của Chúa như Matthêô.
Không có ứng viên nào khó vào chức tông đồ cho bằng Matthêu. Matthêu là một người thu: TN 10-A11
Không có ứng viên nào khó vào chức tông đồ cho bằng Matthêu. Matthêu là một người thu thuế, ông là công chức của ngành thuế vụ, thu tiền bạc của dân chúng vào công quĩ.
Chính quyền La mã lúc bấy giờ đặt ra hệ thống thu thuế hiệu quả và đỡ tốn kém nhất: họ cho đấu thầu thu thuế ở các khu vực. Một người mua được quyền thu thuế ở một địa phận nào phải chịu tránh nhiệm với chính quyền La mã về một số tiền thỏa thuận. Nếu người đó thu thuế cao hơn thì có quyền giữ, xem như tiền hoa hồng. Rõ ràng hệ thống này sinh ra những lạm dụng nghiêm trọng. Vào thời ấy, chưa có báo chí, chưa có máy truyền thanh, chưa có phương tiện truyền thông rộng rãi, người ta không biết sự thật mình phải đóng bao nhiêu mà cũng chẳng có quyền khiếu nại người thu thuế. Kết quả là nhiều người thu thuế trở nên giàu có do sự cưỡng thu bất hợp pháp. Hệ thống này đưa đến sự lạm dụng đến nỗi phải hủy bỏ tại xứ Palestine trước thời Chúa Giêsu . Tuy nhiên thuế vẫn cứ phải đóng và tất nhiên vẫn còn nhiều lạm dụng.
Những người thu thuế đều bị dân chúng ghét vì họ phục vụ những kẻ xâm chiếm xứ sở và thâu góp của cải làm giàu trên sự bất hạnh của đất nước. Dùng ngôn ngữ hiện đại thì họ là đồ "phản quốc". Họ là những người gian trá, chẳng những họ bóc lột đồng bào mình mà còn dùng đủ mọi cách lừa gạt chính phủ, họ có lợi tức rất lớn bằng cách nhận hối lộ của những người giàu có muốn trốn thuế. Ở đâu cũng ghét bọn thu thuế, nhưng với người Do thái sự khinh ghét tăng gấp bội. Người Do thái là người quốc gia cuồng tín, điều thôi thúc dân Do thái hơn cả là niềm tin tôn giáo rằng chỉ Thiên Chúa là Vua, và nộp thuế cho nhà cầm quyền là vi phạm quyền lợi của Thiên Chúa và làm sỉ nhục cho sự oai nghiêm của Ngài. Theo luật Do thái, người thu thuế bị cấm không được vào nhà hội, người ấy bị coi là vật vô tri, là thứ không tinh sạch. Họ bị cấm không được làm nhân chứng cho bất cứ trường hợp nào, "các kẻ trộm cướp, sát nhân, người thu thuế" đều bị xếp chung một loại (Lev 20,5).
Khi Chúa Giêsu gọi Matthêu thì Người đã kêu gọi một người mà ai cũng ghét. Đây là một trong những việc lớn nhất trong Tân Ước về quyền năng của Chúa Giêsu . Ngài không chỉ biết một người đang như thế nào mà còn thấy được họ sẽ trở nên như thế nào. Chưa từng ai dám tin về khả năng thay đổi con người cho bằng Chúa Giêsu .
Không biết Matthêu đã từng gặp Chúa Giêsu chưa nhưng chắc đã từng nghe nói người Galilê này đã đến với một sứ điệp hoàn toàn mới lạ và phán dạy với một uy quyền chưa ai từng thấy, Người đã kết bạn với những kẻ bị người chính thống ghê tởm lánh xa. Chắc chắn Matthêu đã nghe đám đông bàn tán và thấy lòng mình rung động. Có lẽ ông tự nhủ: nếu bây giờ lên đường tìm kiếm một thế giới mới, lìa bỏ cuộc sống cũ, những hổ nhục cũ và làm lại cuộc đời chắc chắn cũng chưa muộn. Ông thấy Chúa Giêsu đứng trước mặt mình, ông nghe Ngài thách thức và Matthêu chấp nhận lời thách thức đó, đứng dậy bỏ mọi sự mà theo Ngài.
Chúng ta phải để ý đến điều Matthêu đã mất và điều ông đã tìm được. Ông đã mất công ăn việc làm thuận lợi nhưng đã được cuộc đời. Ông đã mất lợi tức nhưng tìm được danh dự. Ông mất sự an ninh thoải mái nhưng tìm được cuộc phiêu lưu mình chưa bao giờ mơ tưởng... Có thể khi chấp nhận lời thách thức của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy mình nghèo hơn về vật chất, và có lẽ chúng ta phải từ bỏ những tham vọng trần gian. Nhưng chắc chắn chúng ta sẽ tìm gặp được sự bình an, vui mừng cùng những hứng khởi của cuộc đời mà trước kia ta chưa từng biết. Trong Chúa Giêsu , chúng ta tìm được sự giàu cón hơn hẳn mọi điều mình phải bỏ vì cớ ngài.
Chúng ta cũng phải lưu tâm điều Matthêu đã từ bỏ và điều ông ấy mang theo. Ông rời bỏ bàn thu thuế nhưng đem theo cây bút viết. Đây là một thí dụ sáng chói về việc Chúa Giêsu xử dụng bất cứ khả năng nào con người đem dâng cho Chúa. Có lẽ các người khác trong nhóm mười hai môn đệ không quen thuộc lắm với cây bút viết. Các ngư phủ Galilê không có tài viết lách như Matthêu có, và ông đã chép cuốn sách đầu tiên về giáo huấn của Chúa Giêsu , đáng liệt vào sách quan trọng nhất thế gian.
Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi Matthêu làm người đi theo Ngài mà thực sự Ngài đã đến ngồi đồng bàn với những người giống như Matthêu, các kẻ thu thuế và tội nhân công khai. Hành động này trái tai gai mắt giới luật sĩ và biệt phái. Nói chung trong xứ Palestine nhân dân phân chia làm hai thành phần: những người giữ luật pháp cách nghiêm chỉnh, tỉ mỉ là người theo phe chính thống, bên cạnh họ là những người không giữ luật lệ chi tiết như vậy. Hạng thứ hai này được kể là dân mất gốc, người ta cấm người chính thống không được đi với họ, không được buôn bán kinh doanh chung với họ, không cho họ làm gì và cũng không nhận gì của họ, không được khoản đãi họ như khách trong nhà. Đối với những người như thế, Chúa Giêsu đã làm điều người tin kính đương thời không bao giờ làm.
Luận cứ biện minh của Chúa Giêsu rất đơn giản: Chúa phán: Ngài chỉ đến nơi nào cần Ngài hơn hết. Ngài sẽ là bác sĩ tầm thường nếu chỉ thăm viếng những người khoẻ mạnh. Chỗ của bác sĩ là nhà của những người đau, sự vinh hiển và công tác của Ngài là đến với những ai cần Ngài.
Diogens là một trong các triết gia nổi tiếng của Hi lạp thuở xưa, là người chuộng đức hạnh và có óc phê phán sắc bén. Ông không bao giờ chán so sánh sự suy đồi của Athen với sự bình dị của Sparta. Một hôm có người bảo: "Nếu ông đánh giá cao về Sparta và quá thấp về Athen, tại sao ông không bỏ Athen và đến ở Sparta?" Ông đáp: "Điều tôi muốn làm là tôi phải ở nơi nào người ta cần tôi hơn hết". Chính người có tội cần Chúa Giêsu nên Ngài đã ở giữa vòng tội nhân.
Khi Chúa Giêsu phán: "Ta đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng kêu gọi người có tội" thì chúng ta cần hiểu điều Ngài muốn nói. Chúa không bảo có người quá tốt đến nỗi không cần đến Ngài, lại càng không phải Ngài có ý nói Ngài không quan tâm đến những người tốt. Hiểu như thế là quá gượng ép. Chúa Giêsu phán: "Ta không đến kêu gọi những người tự mãn, tin vào nhân đức riêng đến nỗi không cần đến ai. Ta đến để kêu gọi những người ý thức về tội lỗi mình và thật cần đến một Chúa Cứu Thế". Ngài muốn nói rằng: chỉ những kẻ ý thức họ cần Ta mới có thể tiếp nhận lời kêu gọi của Ta.
Ngày nay quan điểm về tôn giáo của các thầy luật sĩ và biệt phái vẫn chưa chết:
1. Họ rất quan tâm đến việc giữ gìn đạo đức riêng hơn là giúp đỡ người khác về vấn đề tội lỗi. Họ giống các bác sĩ từ chối thăm viếng kẻ đau vì sợ nhiễm trùng lây bệnh. Họ ghê tởm lùi lại, tránh người tội, họ không muốn liên hệ gì với người như thế. Tôn giáo của họ chủ yếu là ích kỷ, chỉ lo cứu linh hồn họ hơn là cứu linh hồn kẻ khác, nhưng họ đã quên rằng đó là con đường chắc chắn nhất làm mất linh hồn chính mình.
2. Họ quan tâm đến chỉ trích hơn là khuyến khích. Họ chỉ lo phơi bày những lỗi lầm của người khác chứ không vượt thắng những lỗi lầm đó. Thấy một chứng bệnh ghê tởm có thể khiến người khác buồn nôn, vị lương y chẳng những không sợ mà lại sẵn lòng cứu giúp. Thái độ đầu tiên của chúng ta là không bao giờ lên án tội nhân, trái lại phải cứu giúp họ.
3. Họ thực hành lòng nhân đức mà kết quả lại là lên án thay vì tha thứ và thông cảm. Họ để mặc người ta ở trong chỗ bùn nhơ hơn là giúp người ta ra khỏi đó. Họ giống như các bác sĩ rất quan tâm đến sự chẩn đoán bệnh nhưng chẳng chẳng để tâm giúp chữa cho lành. Họ chỉ lo nhìn cách khinh thị chứ không có thiện cảm giúp đỡ.
4. Họ thực hành một tôn giáo bao gồm vẻ chính thống bên ngoài hơn là giúp đỡ cách thiết thực. Chúa Giêsu trích câu Kinh Thánh trong Ôsê 6,6 rằng: Chúa Trời ưa sự thương xót chứ không ưa thích của lễ, và Ngài trích dẫn nhiều lần (Mt 12,7). Một người có thể siêng năng theo đúng nghị quyết tin kính chính thống, nhưng nếu chẳng bao giờ chịu đưa tay ra cứu giúp tội nhân, người thiếu thốn, thì người ấy không phải là người tin kính.
Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài đã bắt đầu công cuộc truyền giáo để cứu rỗi nhân loại bằng việc: TN 10-A12
Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài đã bắt đầu công cuộc truyền giáo để cứu rỗi nhân loại bằng việc kêu gọi một số người theo Ngài để trở thành lạnh tụ. Lời kêu mời của Chúa thật là giản dị. Ngài chỉ nói :"Hãy theo Ta", một tiếng gọi thật ngắn gọn nhưng đầy sức mạnh phi thường, vì đã khiến bao người bỏ cơ nghiệp mà theo Chúa. "Hãy theo Ta", một tiếng gọi không hứa hẹn điều gì cả, nhưng kêu mời họ bước vào một lối sống khác. Một tiếng gọi đòi hỏi từ bỏ tất cả mà không một lãnh tụ nào dám gọi như thế. Ít ra họ cũng phải trình bày đường lối hoạt động, trình bày sách lược và tư tưởng đạt tới. Chúa Giêsu ngược lại, Ngài đòi hỏi đi theo Ngài trước rồi học hỏi sau, hiểu đường lối và kinh nghiệm sau.
Samuen được gọi ngay từ còn nhỏ và cậu đã đáp lại :"Lạy Chúa Con đây". Moisen được Chúa gọi khi đã trưởng thành trong khi đang làm chú chăn cừu cứng đầu: "Lạy Chúa xin xá lỗi cho con, con không phải là người lợi khẩu...miệng con cứng, lưỡi con không dẻo...." Chúa phán :"Hãy đi, vì chính Ta ở miệng con và dạy con điều con phải nói...". Chúa gọi Phan xicô Savier :"Hãy đi rao giàng Phúc Âm" Chúa không ra thời khóa biểu, không vạch kế hoạch, Chúa để cho ngài tự sáng kiến, vượt biển đi Ấn Độ, Malaxia, Nhật Bổn, Trung quốc và Mông Cổ và cho ngã bệnh giữa lúc đang thành công. Chúa gọi Gioan Vianey, một người không sáng trí, ịại kém tài nhưng thánh thiện, thiện chí. Chúa gọi chị Celine :"Muốn theo Ta ... hãy theo". Đường lối Chúa sáng tỏ, tiếng gọi Chúa không úp mở. Chị đã theo Chúa trong chức vụ âm thần (Giữ cửa nhà khách suốt 40 năm trường, chỉ biết có chải chổi và kêu gọi người khác) "Tôi được gọi là để gọi người khác". Phaolô Tarsô đã từng bắt bớ Kitô hữu trược khi gặp được Chúa Giêsu trên đường Damas và đã trở nên một tông đồ vĩ đại nhất thế giới. Chúa Giêsu kêu gọi đóng một vai trò quan trọng trong việc mở rộng nước Chúa trên trái đất: không điều khiện" để làm việc với điều kiện "Trung thành đến cùng sẽ được rỗi".
Bài Phúc Âm hôm nay còn cho thêm chúng ta một mẫu người khác cũng giống như thế, đó là thánh Matthêu, một nhân vật thâu thuế. Để hiểu được tại sao một viên thu thuế lại trở nên một ứng viên môn đệ, chúng ta cần tìm hiểu đôi điều về loại người thu thuế này.
Người thu thuế là đám dân Do Thái làm việc cho người Rôma, cũng giống như người Việt làm việc cho Pháp thời bị trị. Họ chạy chọt để được chức vụ thu thuế bằng cách đút lót mua lấy chức vị thu thuế. Đến khi được rồi, họ lợi dụng kiếm chác, buộc người dân phải đóng thuế nặng hơn, hoặc hối lộ mặt hàng khỏi phải đóng thuế để lấy tiền bù lại điều mình đã chạy chọt.
Cũng có lý do thứ hai khiến dân Do Thái khinh bỉ hạng người này là họ tin rằng chỉ nộp thuế cho một mình Thiên Chúa là vua vũ trụ, nay lại phải nộp thuế cho sezar là hoàng đế Roma, là kẻ xâm lăng, là kẻ tội lỗi, ăn cướp quyền hành của Thiên Chúa. Nay Chúa lại gọi Mathêu là kẻ theo bè theo lũ tội lỗi nên họ khiển trách Chúa Giêsu. Họ đâu có biết được đường lối của Chúa, đâu có thể nhìn vượt khỏi khả năng của Mathêu. Mathêu có tấm lòng thật, sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu mà không luyến tiếc.
"Hãy theo Ta" một lời mời gọi dành cho tất cả mọi người, mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội. Ai cũng có thể hưởng ứng, một tiếng gọi duy nhất giải phóng con người để đưa mọi người đến cùng Thiên Chúa, đến cùng nguồn sự sống, để được sống trong nguồn hạnh phúc. Chúa Giêsu đang kêu gọi đích tên anh, đích tên tôi, tên bạn... Theo Chúa là sống trong một cuộc đời với một con người được thay đổi. Tin nhận Chúa thì được thay đổi. Theo Chúa là sống dưới ánh sáng của sự thật, của sự sống, để không bị trần thế mê hoặc, lôi cuốn. Người hưởng ứng tiếng gọi của Chúa sẽ theo Chúa hết lòng, thương yêu nhân loại và hy vọng một ngày gặp Chúa vinh quang ở nơi thiên đàng.
Nhiều lần đọc Thánh Kinh tôi thấy Thiên Chúa thích làm việc ngược đời, tức ngược với lý luận: TN 10-A13
Nhiều lần đọc Thánh Kinh tôi thấy Thiên Chúa thích làm việc ngược đời, tức ngược với lý luận tự nhiên của chúng ta. Thí dụ chọn ông tổ làm cha một dân tộc đông đảo thì Ngài chọn ông Abraham son sẻ, đến khi có một con trai duy nhất thì lại truyền đem sát tế. Tưởng ai ra nghêng chiến với tướng khổng lồ Goliát không ngờ lại là Davit trẻ tuổi, chưa có kinh nghiệm chiến trường, vũ khí là cái chạng bắn đá. Chọn thủ lãnh Tông đồ và làm đầu Giáo Hội thì Chúa lại chọn Phêrô đã từng chối Ngài 3 lần. Tông đồ đoàn ngoài một số vị quê mùa, chất phác làm nghề đánh cá thì hôm nay qua Phúc Âm Chúa lại chọn thêm Máthêu, một người mang tiếng là tội lỗi. Ấy, những cái ngược đời của Thiên Chúa tưởng là vô ích không ngờ lại thành công lớn. Mátthêu không những là tông đồ trung kiên mà còn là thánh sử để lại cho nhân loại những trang Phúc âm giá trị.
Mátthêu là nhân viên thu thuế. Thời kỳ Chúa Giêsu sống thì người Rôma đang cai trị nước Do thái nên họ bắt người Do thái phải đóng thuế. Rôma định gía cho thành phố nào đó trong năm phải nộp bao nhiêu tiền thuế rồi sau đó họ trao cho người Do thái đấu thầu. Nhóm người Do thái thầu thuế tăng số tiền thuế lên cao để kiếm lời và chỉ đóng cho Rôma số tiền thuế đã được qui định, vì thế người Do thái rất ghét nhân viên thu thuế vì đã làm tai sai cho ngoại bang bóc lột dân mình. Người ta thường gán cho nhân viên thu thuế đồng hạng với quân trộm cắp, với hạng tội lỗi, với dân ngoại đạo, với bọn đĩ điếm, với phường gian tham (Mt 9:10, 18:17 và Lk 18:11, 19:7).
Chúa Giêsu kêu gọi Mátthêu đi theo Ngài đã là một dị nghị cho nhóm Biệt Phái rồi, và hơn thế nữa Chúa còn ngồi ăn đồng bàn với Mátthêu và bạn bè ông cũng là nhân viên thu thuế thì càng làm "ngứa mắt" cho nhóm Biệt Phái hơn vì tại vùng Cận Đông, mời ai ăn cơm là một vinh dự, tỏ ra muốn hòa bình, thân thiện, tin tưởng và tha thứ (2 vua 25:27-29).
Chúa Giêsu không làm việc theo hứng hay vô lý. Ngài làm việc có chủ đích. Chủ đích Chúa gọi và ngồi ăn với Mátthêu là Chúa tự ví mình như thầy thuốc đi tìm đối tượng là bệnh nhân, Chúa là Đấng Cứu Chuộc đi tìm đối tượng là tội nhân. Ở cả hai cương vị thày thuốc và Đấng Cứu Chuộc này thì lòng NHÂN TỪ là cao điểm, nghĩa là Thiên Chúa thương xót để chúng ta được cảm hóa, Thiên Chúa tha thứ để chúng ta được trở về, Thiên Chúa quan tâm để chúng ta được bảo vệ, Thiên Chúa kiên nhẫn để chúng ta được cứu độ. Nghĩa là dù chúng ta thế nào đi nữa thì Thiên Chúa vẫn không ngừng yêu thương, vẫn không ngừng theo đuổi, vẫn không chịu đầu hàng. Thiên Chúa xếp đặt cho chúng ta nhiều cơ hội trong cuộc đời để chúng ta trở về và được cứu độ.
Cái mù tối của nhóm Biệt Phái là không nhận họ có tội, họ luôn nghĩ họ là công chính, họ không cần đến tình thương của Thiên Chúa, đã thế khi Chúa thi thố tình thương của Ngài cho ai thì họ lại chất vấn, tức tối, bất mãn. Biết đâu đấy cũng là cái nguy hiểm của chúng ta khi mình tự mãn, tự tôn, tự cho mình là công chính, không cần đến Thiên Chúa. Chẳng ai vô tội trước một Thiên Chúa rất thánh thiện và trong sạch. Chẳng ai xứng đáng để tự mãn, tự tôn.
Hạnh phúc cho Mátthêu dù biết mình có tội nhưng vẫn can đảm đi theo Chúa để được Chúa yêu thương và tha thứ.
Hạnh phúc cho chúng ta khi còn nhìn ra mình là bệnh nhân để được Thầy Thuốc Giêsu chữa lành, khi còn nhìn ra mình là tội nhân để được Thiên Chúa yêu thương và tha thứ.
Cách đây ít năm, một vở kịch do Eugene O'neil đóng có tên là "Lazarô Cười" được trình diễn: TN 10-A14
Cách đây ít năm, một vở kịch do Eugene O'neil đóng có tên là "Lazarô Cười" được trình diễn tại sân khấu Broadway. Vở kịch dựa trên phần Tân Ước nói về Lazarô bị chết và được chôn trong mồ đá. Ba ngày sau, Chúa Giêsu đã làm cho Lazarô sống lại. Kinh nghiệm của sự chết đã làm cho Lazarô biết hoan hỉ đón nhận điều cao quý của đời sống, và nhìn mọi sự ở đời bằng một quan niệm mới. Anh ta có thể nhìn tất cả những giao dịch của nhân loại trong ánh nhìn bao quát rộng lớn hơn; và điều đáng để ý là anh ta hay cười. Lazarô không thể kềm hãm không cười khi nhìn thấy người ta lo lắng, tranh đấu, và cách thức đối xử với nhau. Anh thường hỏi, "Tại sao mắt anh lại cứ nhìn người khác với vẻ ngờ vực vậy?"
Cũng như Lazarô, chúng ta cũng phải tự hỏi: Tại sao tôi lại cứ nhìn tha nhân bằng con mắt ngờ vực? Tại sao tôi lại cứ có ác cảm với mọi người? Tại sao tôi cứ lên án người ta?
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu biết người Pharisiêu có ý tưởng phán xét nên nói với họ: "Hãy đi và học cho biết câu, 'Ta muốn lòng nhân lành chứ không muốn hy tế'". Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng luật đức ái thì cao trọng hơn tất cả những luật khác. Chúa Giêsu trong Phúc Âm đã nhắn nhủ chúng ta hãy tránh phán xét người khác và cũng đừng có truyền tai nhau sự phán xét của chúng ta. Việc chúng ta làm sẽ quay trở ngược lại với chúng ta. Chúa Giêsu đã lên án việc phán xét bằng việc dùng hình ảnh một người giả hình nhìn thấy cái dằm trong mắt người khác mà cái xà trong mắt anh ta thì lại không thấy.
Chúng ta có thể đưa ra ba lý do chính đáng chứng tỏ rằng việc phán xét kẻ khác rất là một hành vi hủy diệt. Lý do thứ nhất, chúng ta còn tệ hơn của người khác. Vậy tại sao chúng ta lại có thể phán xét người khác? Chúng ta là ai mà dám phán xét người ta? Một câu truyện nhắc nhở chúng ta là câu truyện người đàn bà tội lỗi bị bắt gặp quả tang được đám đông đem đến trước mặt Chúa Giêsu. Trong đám đó ai cũng sẵn sàng cầm đá để ném người đàn bà kia, nhưng họ cũng có tội giống y như người đàn bà kia. Ai cũng có tội cả. Lý do thứ hai, Thiên Chúa toàn năng Đấng đã tạo dựng nên chúng ta và đã tha thứ tất cả những tội lỗi của chúng ta một cách quá mức mà chúng ta có thể diễn tả nổi. Không kể lòng ích kỷ của chúng ta, sự phán xét kẻ khác, và sự phản bội Ngài, Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta tất cả. Chúng ta là ai mà lại dám nhìn nhau để mà chấp nhất và phán xét nhau, hoặc không tha thứ cho nhau những lỗi lầm khuyết điểm. Chắc hẳn chúng ta còn nhớ câu truyện một người nợ chủ mình một món tiền lớn, và anh đã được ông chủ tha nợ cho. Sau đó, chính anh ta lại không biết tha thứ cho người khác nợ anh chỉ một món tiền nhỏ. Chúng ta vẫn được Thiên Chúa yêu thương tha thứ rất nhiều, nhưng chúng ta lại không biết làm như thế với đồng loại. Lý do thứ ba là trong suốt cả cuộc đời Chúa Giêsu tại dương thế, Ngài đã dạy chúng ta rằng mối tương quan của chúng ta đối với Thiên Chúa là điều quan trọng nhất trong cuộc sống của chúng ta. Mối tương quan này lại rất liên quan với mối tương quan của chúng ta với tha nhân. Khi chúng ta yêu thương kẻ khác thì tình yêu của Thiên Chúa sẽ tuôn chảy qua chúng ta. Thế nhưng, khi chúng ta phán xét, nghĩ xấu, hoặc có những hành vi hủy diệt đức ái đối với tha nhân thì chúng ta cũng đồng thời tạo nên mối xa cách giữa Thiên Chúa và chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng con biết yêu thương và tha thứ cho người khác như chính Chúa đã làm cho chúng con.
Nhiều người trong chúng ta, mỗi khi bất ngờ gặp phải những tai ương hoạn nạn, chẳng hạn như sấm sét, bão táp… thường kêu lên :
- Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi.
Thế nhưng, khi tai ương hoạn nạn qua đi, thì những ý nghĩ tốt lành và đạo đức ấy cũng chấp cánh bay cao. Họ chẳng còn nhớ gì đến Chúa, cũng như chẳng còn lo lắng gì tới những tội lỗi của mình nữa.
Có một cô bé bảy tuổi đã làm cho mọi người phải ngạc nhiên. Số là tối hôm đó, sấm chớp bỗng nổi lên đùng đùng. Đang lúc mọi người lo lắng sợ hãi, thì em lại vui mừng. Người ta hỏi em tại sao lại vui mừng, em đã đơn sơ trả lời :
- Sở dĩ cháu vui mừng, bởi vì ít nữa trong giây phút này, những kẻ tội lỗi không còn phỉ báng Chúa nữa.
Người ta cũng nhận thấy : trong thời chiến, một số những người lính măn mắn được ở lại hậu phương, lại chỉ biết ăn chơi phè phỡn, lộng ngôn phạm thượng. Thế nhưng, khi bị đưa ra vùng hỏa tuyến, đối diện với những nguy hiểm từng ngày, họ bỗng trở nên dè dặt và khôn ngoan hơn.
Với chúng ta cũng vậy, trong đêm đen chúng ta mới nhìn thấy những ánh sao lấp lánh, mà bình thường dưới ánh nắng mặt trời chúng ta không thể nhìn thấy. Nhiều người đã được ơn ăn năn sám hối trở về cùng Chúa khi những tai nan và khổ đau đổ xuống trên bản thân và cuộc đời họ.
Trong Kinh thánh, người Do Thái đến với Chúa và kêu xin Chúa điều nọ điều kia, nhưng họ lại chẳng hề sám hối ăn năn. Tình yêu của họ thật nông cạn và hời hợt, giống như một giải sương mù chóng tan và chóng hết.
Bởi đó, nhiều lúc Chúa đã phải đánh đập, đã phải cắt tỉa để ngăn chặn không cho tội ác tràn lan. Qua môi miệng các tiên tri, Chúa đã xác nhận :
- Điều làm cho Chúa hài lòng, đó là tình yêu chứ không phải là lễ vật…Chúa chẳng bao giờ chê bỏ những tấm lòng tan nát khiêm cung, .
Chúa luôn nhắc đi nhắc lại cho họ sự thất ấy, để họ tránh đi thói bôi bác giả hình, sính những nghi lễ bên ngoài, mà cõi lòng thì lại băng giá và chai đá. Chúa thấu suốt tâm can chúng ta. Ngài đánh giá dựa vào những tâm tình bên trong, trong khi chúng ta chỉ nhìn thấy những dáng vẻ bên ngoài. Chính tâm hồn, chính cõi lòng, chính trái tim mới là điều Ngài tìm kiếm.
Quan niệm trên đây, một lần nữa được thể hiện qua đoạn Tin mừng hôm nay. Thực vậy, thoạt nhìn thấy Matthêu đang ngồi ở bàn thu thuế, Chúa đã lên tiếng gọi :
- Hãy theo Ta.
Cách thức hành động của Chúa hoàn toàn khác biết với cách thức hành động của chúng ta. Thực vậy, Ngài đã chọn một kẻ thu thuế làm môn đệ của mình. Và như chúng ta cũng đã biết : kẻ hành nghề thu thuế, dưới mắt những người Do thái, chỉ là kẻ tội lỗi, nối giáo cho giặc, cộng tác với ngoại bang để bóc lột đồng bào của minh.
Chúa Giêsu không phải chỉ kêu gọi Matthêu, mà hơn thế nữa, ngay ngày hôm ấy, Ngài lại còn đến dùng bữa tại nhà ông cùng với những kẻ tội lỗi và thu thuế khác nữa.
Đối với bọn biệt phái, thì đây là một thách thức, một sự việc không thể nào chấp nhận được. Thay vì trực tiếp chỉ trích Chúa, họ quay ra phê bình các môn đệ. Và như vậy, cũng là gián tiếp chỉ trích Chúa. Chúa Giêsu biết thế và Ngài đã trả lời cho họ về thái độ của minh.
Lý do thứ nhất : như một ông bác sĩ cố gắng hết khả năng để chạy chữa cho người bệnh, Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài là vị bác sĩ của tâm hồn, Ngài đến với những kẻ tội lỗi để giúp họ biết chổi dậy, quay trờ về với đường ngay nẻo chính.
Lý do thứ hai : Ngài đã mượn lời tiên tri Osê để xác quyết với họ rằnt : Ngài cần tình yêu hơn lễ vật.
Bởi đó, phải chu toàn thánh ý Chúa, tuân giữ những điều Ngài truyền dạy hơn là những nghi thức, những lễ lạt bên ngaoi.
Lý do thứ ba : sứ mạng của Ngài ở trần gian là gì, nếu không phải là để cứu độ kẻ tội lỗi. Ngài cứu rỗi họ không phải bằng cách chạy trốn họ, cũng không phải bằng cách khinh bỉ họ, nhưng bằng cách đi đến với họ, gặp gỡ họ, như người mục tử nhân lành, bỏ 99 cho chiên lại một chỗ, để lên đường tìm kiếm một con chiên lạc.
Từ đó, chúng ta hãy tin tưởng vào lòng nhân từ và lượng khoan dung của Chúa, để rồi ăn năn sám hối quay trở về với Ngài. Dù tội lỗi chúng ta có năng nề tới đâu chăng nữa, chắc chắn Chúa cũng sẽ tha thứ cho chúng ta, như lời Ngài đã phán :
- Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi để họ biết đường sám hối ăn năn.
Bệnh nhân nào cũng muốn tìm được danh y, bác sĩ nổi tiếng cứu chữa mình. Matthêu đã tìm được danh y muôn thuở đó.
Đức Giêsu đã đến cứu chữa Matthêu. Người gọi ông “Hãy làm theo Tôi”. Ông đứng dậy đi theo Người ngay không chần chờ, do dự. Thật kỳ lạ ! đang làm ăn béo bở ngon lành mà bỏ đi, không tiếc xót ! Bỏ đi theo một người không có chỗ tựa đầu !
Bạn bè có cho ông khờ dại, man mát không ? Người ta tự hỏi: Đây có phải là “tiếng sét ái tình” không ? hay thần lực nào đã thôi miên ông ?
“Anh hãy theo Tôi” không phải là một câu thần chú thôi miên. Nó chỉ là một câu nói thực tế thông thường. Đức Giêsu hoàn toàn tôn trọng tự do con người. Matthêu hoàn toàn tự do sáng suốt lựa chọn theo Người. Matthêu đã có ẩn ý trả lời cho những ai thắc mắc về quyết định của ông đi theo tiếng gọi của Đức Giêsu trong đoạn Tin mừng trước đoạn này.
Matthêu đã kể : “Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng : Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo Thầy”. Đức Giêsu đã cho anh thấy : “con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu !”.
Theo Người là thế đó! Chẳng được gì ? Anh muốn theo, tùy ý anh chọn lựa. Ngay sau đó Đức Giêsu gọi một anh khác anh thưa : “Xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã”. Người bảo : “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết” (Mt. 8, 18-22 ; Lc. 9, 57-60). Điều kiện theo Người khó như thế đó. Phải đắn đo suy nghĩ kỹ để chọn lựa : “Đừng tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đằng sau thì không thích hợp với nước Thiên Chúa” (Lc. 9, 62).
Như thế, Matthêu nói cho người ta biết, ông hoàn toàn tự do sáng suốt đi theo Chúa. Sáng suốt vì ông đã biết về Đức Giêsu trước khi gọi ông. Matthêu đã kể : Người đã chữa người phong cùi, người đầy tớ tê bại của đại đội trưởng thành Caphanaum nơi ông đang thâu thuế, chữa mọi kẻ ốm đau, cứu hai người bị quỷ ám khét tiếng, tha tội và chữa người bại liệt, Người còn bảo : “Đứng dậy vác giường về nhà” (Mt. 9, 1-8)
Matthêu đã thấy và đã tin, chỉ chờ cơ hội thuận tiện để đi theo Người. Dịp may hiếm có Người đang đi ngang qua trạm thâu thuế. Ông nhìn Người và Người thấy ánh mắt sáng ngời tin tưởng và trìu mến của ông. Người thấy thiện chí của ông và Người gọi : “Anh hãy theo tôi”. Lập tức Lêvi đứng dậy đi theo Người. Ông còn mở tiệc ăn mừng trước sự hiện diện của Người với đông đủ bạn bè.
Phải chăng đây là lễ tạ ơn lớn nhất đời ông ? Ông tạ ơn Người vì Người đã thương gọi ông, thương đến thân phận hèn hạ tội lỗi của ông. Ngay cả thường dân cũng khinh miệt ông, nói chi đến những thầy kinh sư, biệt phái, thượng tế đến nỗi họ không thể chịu nổi khi thấy Đức Giêsu ngồi ăn với ông và bạn bè thu thuế. Họ chẳng kính trọng gì Đức Giêsu, thế mà họ cũng trách Người ngồi ăn với quân thu thuế và tội lỗi, ra vẻ dạy Người phải xa tránh quân đó.
Ông hết lòng tạ ơn Đấng đã chữa bao nhiêu bệnh tật, tội lỗi, quỷ ám, nay đến chữa lành cho ông khỏi mọi tì ố, nhơ nhuốc. Ơn trời biển hơn nữa : Ông chẳng những được đồng bàn với Người, mà còn được đồng thân đồng phận với Người trong cuộc hành trình cứu độ muôn dân.
Ôi Người quả là một lương y vĩ đại. Đấng Cứu thế giàu lòng thương xót, quyền năng vô biên, “Tình thương nhân từ của Người xuất hiện như vừng đông, đến với chúng ta như mưa xuân thuận hòa” ( Bài I – Ôsê 6, 3-6).
Để đáp đền ơn thái sơn, ơn biển cả mênh mông ấy, Matthêu đã noi gương tổ phụ Abraham xưa, từ bỏ những quyến rũ của dân ngoại, những tham lam của bạn bè. Ông vững tin và thiết tha đi theo Đấng vô cùng nhân ái (Bài II – Rm. 4, 18-25). Dù Người không có chỗ tựa đầu, Matthêu vẫn tựa đầu vững chắc vào lòng nhân ái của Người.
“Đổi mới, sửa đổi, làm chứng cho lòng thương xót của Chúa, Matthêu đã từ bỏ đời sống bất chính, lối sống chèn ép, bóc lột để mặc lấy tâm tình yêu thương của Chúa, trở nên ân phúc của Chúa cho mọi người. Matthêu trao ban lòng nhân từ của Chúa đến mãi tận các dân tộc xa lạ Đông phương. Matthêu còn trở nên vị thánh sử đầu tiên của Giáo hội, ngài đã in sâu lòng thương xót của Chúa vào sử sách cho muôn thế hệ được hưởng hạnh phúc trong tình yêu của Thiên Chúa” (Lm. Nguyễn văn Châu - Báo Công Giáo và Dân Tộc - số 629).
Lạy Chúa, xin đừng để con tựa đầu vào bất cứ đâu, dù đó là bàn tiền thu đầy vàng bạc, dù đó là chỗ dựa sang giàu quyền thế, dù đó là chỗ êm ái hoan lạc mê hồn. Xin Chúa cho con chỉ biết tựa đầu vào Trái tim nhân ái thương xót, dịu dàng và khiêm nhường của Chúa mà thôi. Amen.
Suy nghĩ về các Tông đồ, ta không hiểu tại sao. Chúa chọn Phê-rô làm Giáo hoàng trong khi Ong ít học, lại có nhiều khuyết điểm và nhất là đã phạm tội chối Chúa. Cũng như hôm nay, việc Chúa gọi Mát-thêu khiến nhiều người ngỡ ngàng. Mát-thêu là người thu thuế. Thời ấy, đế quốc Rô-ma đô hộ nước Do thái. Người thu thuế bị coi là tiếp tay với đế quốc, và gian tham bóc lột người dân. Vì thế người thu thuế bị coi là người tội lỗi bị mọi người lên án, khai trừ. Thế mà Đức Giê-su lại gọi ông làm môn đệ Người. Chẳng ai có thể ngờ. Cả bản thân Mát-thêu có nằm mơ cũng chẳng dám nghĩ tới.
Ơn gọi quả thật là một mầu nhiệm. Đó là mầu nhiệm tình yêu. Chúa chọn một người không phải vì người đó xứng đáng. Chúa chọn con người vì lòng yêu thương của Người. Tình yêu của Chúa là tình yêu quan tâm. Chúa quan tâm tới từng người, kể cả người tội lỗi. Qua các dụ ngôn "con chiên lạc", "đồng bạc đánh mất", ta thấy Chúa quan tâm tới cả những người bé nhỏ nghèo hèn, đi tìm một con chiên bé bỏng lạc mất, đốt đèn quét nhà vì một đồng tiền chẳng có bao nhiêu gía trị. Sự quan tâm khiến Chúa nhìn lên cây sung tìm kiếm ông Gia-kê. Sự quan tâm khiến Chúa để mắt nhìn ông Mát-thêu dù ông đang ngồi tại bàn thu thuế, nơi mà người Do thái không bao giờ thèm ghé mắt nhìn. Tình yêu của Chúa là tình yêu tha thứ. Chúa biết rõ người ta yếu đuối hay sa ngã. Nhưng tình yêu Chúa mạnh hơn sự yếu đuối của con người. Ân sủng Chúa lớn lao hơn sự dữ của tội lỗi. Lòng thương xót Chúa lớn hơn trí tưởng tượng của con người. Nên Chúa có thể tha thứ tất cả. Cả những người bị đồng loại kết án vẫn nằm trong trái tim Thiên chúa. Nên Chúa đã tha thứ cho Mát-thêu dù ông chưa bao giờ xin lỗi Chúa.
Tình yêu của Chúa là tình yêu tin tưởng. Vì yêu nên tin. Tin người yếu đuối có thể nên vững mạnh. Tin người lạc lối có thể trở lại đường ngay. Tin người lỡ lầm có thể làm lại cuộc đời. Vì tin nên mời gọi và trao nhiệm vụ. Tin tưởng mời gọi ta cộng tác vào công trình cứu độ. Tin tưởng trao vào tay ta cả kho tàng ơn thánh. Tin tưởng trao cho ta vận mệnh các linh hồn. Tôi là ai mà được Chúa tin tưởng đến thế ? Tình yêu của Chúa hướng về tương lai. Quên hết những lỗi lầm quá khứ. Không bao giờ nói đến quá khứ. Không bao giờ mất thời giờ trách móc những lỗi lầm đã qua. Tình yêu Chúa mở cho ta một chân trời mới. Tình yêu Chúa đóng lại quá khứ, mở cửa tương lai. Tình yêu Chúa cho ta cơ hội mới để làm lại cuộc đời. Tình yêu Chúa thật lớn lao nhưng cũng thật dịu dàng. Tình yêu Chúa trân trọng con người. Tình yêu Chúa đem lại tự do. Tình yêu Chúa đi những bước sáng tạo đầy bất ngờ. Ai đã cảm nhận được tình yêu của Chúa sẽ không thể chối từ lời Người mời gọi. Mát-thêu đã cảm nhận được tình yêu đó qua ánh mắt nhân từ của Chúa. Ông đã cảm nhận được sự trân trọng qua lời nói dịu dàng của Chúa. Nên Ông đã lập tức đáp lại lời mời gọi của Chúa. Ông còn tổ chức tiệc mừng vì được theo Chúa. Ông mừng vì dứt bỏ được quá khứ đen tối đè nặng tâm hồn. Ông mừng vì gặp được Đấng Cứu độ, đưa tâm hồn ông vào tình yêu, vào khung trời tự do. Ông mừng vì Chúa tin tưởng, trao vào tay ông cả một tương lai tươi đẹp với ơn gọi tông đồ, với trách nhiệm cứu nhân độ thế. Hôm nay Chúa cũng đang quan tâm tới mỗi người. Chúa nhìn ta. Chúa tin tưởng ta. Chúa trao vào tay ta một tương lai mới. Chỉ cần ta đóng lại cánh cửa quá khứ và sống theo lời Người, ta sẽ bắt đầu đỗi mới cuộc đời.
Lạy Chúa con tin Chúa yêu thương con. Xin cho con nhận biết tình yêu của Chúa. Amen
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Có khi nào bạn nghĩ rằng những người tu trì là bất xứng ?
2- Thái độ của Chúa đối với Mát-thêu dạy ta phải đối xử với tha nhân thế nào, nhất là những người ta coi là tội lỗi ?
3- Chúa quên hết quá khứ và tin tưởng vào bạn? Tâm đắc điều nay, bạn sẽ sống thế nào ?
Chủ đề: "Chúa Giêsu đã kêu gọi những ứng viên không ngờ để chia sẻ sứ vụ loan truyền nước trời. Tuy họ phải từ bỏ nhiều sự, nhưng họ còn thu lại được nhiều hơn."
Douglas Hyde từng là chủ bút tờ The Communist Daily Worker (Công nhân cộng sản hàng ngày) ở Anh Quốc trước khi ông gặp được Chúa Giêsu và trở nên đại tông đồ của Kitô giáo. Piri Thomas từng là tay buôn ma tuý, trộm cắp và mưu sát khi ông gặp được Chúa Giêsu rồi trở thành một mục sư và sáng tác được những bản nhạc tuyệt vời như bản Amazing Grace (An sủng gây kinh ngạc). Phaolô Tarso từng bắt bớ các Kitô hữu trước khi gặp được Chúa Giêsu tên đường đi Damas và trở nên một trong những tông đồ vĩ đại nhất mà thế giới đều biết tiếng. Mẫu số chung của bốn mẫu người trên đó là mỗi người đều đã là những ứng viên không ngờ được Chúa Giêsu kêu gọi đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng Nước Chúa trên trái đất này.
Bài Phúc âm hôm nay còn cho thêm chúng ta một mẫu người khác cũng giống thế đó là Thánh Matthêu, một nhân viên thu thuế. Dễ hiểu được tại sao một viên thu thuế lại là một ứng viên không ngờ đối với phận vụ một tông đồ, chúng ta cần hiểu biết đôi điều về loại người thu thuế này.
Các người thu thuế là đám dân Do Thái làm việc cho Rôma. Họ chạy chọt được quyền thu thuế bằng cách thức y hệt đám gác cửa trong các khách sạn loè loẹt ngày nay chạy chọt được việc làm, tức là họ phải đút lót tiền để mua chức vụ. Vì thế một khi có được chức vụ họ liền kiếm chác lợi để bù lại. Thời xưa có đủ mọi thứ thuế má, từ thuế thu nhập và thuế thân đến thuế sử dụng một số đường sá và thuế mang một số hàng hoá từ vùng này qua vùng khác.
Bởi vì làm việc cho Rôma, nên các người thu thuế cũng cậy dựa vào sự hợp tác với Rôma. Chẳng hạn, một người thu thuế và một sỹ quan Rôma có thể chặn một người lại trên đường, truyền cho người ấy tháo mở đồ đạc trên xe và đánh thuế người ấy về bất cứ thứ gì mà họ muốn. Nếu người ấy từ chối không chịu nộp tiền, tên lính sẽ cho anh ta nếm mùi sự hiện diện của hắn ngay. Nếu người ấy không có tiền nộp thì viên thu thuế sẽ trở thành người cho kẻ ấy vay tiền để thu lãi cao.
Điều làm cho vấn đề tồi tệ hơn là ngày xưa dân chúng chẳng có báo chí thu thanh, truyền hình gì cả để tường trình lại những lạm dụng của hệ thống thuế má. Họ chỉ biết chịu đựng chúng mà thôi.
Một văn sĩ thời xưa có ghi lại một sự ngạc nhiên nho nhỏ khi gặp thấy một cái bia ghi nhớ một người thu thuế lương thiện. Người lương thiện trong nghề này hiếm hoi quá đến nỗi khi tìm được một người như thế dân thành liền dựng nên một cái bia để ghi nhớ lòng đạo đức của kẻ ấy.
Tuy nhiên còn có lý do thứ hai khiến dân Do Thái khinh bỉ những người thu thuế. Dân Do Thái tin rằng chỉ mình Thiên Chúa là Vua, nộp thuế cho hoàng đế Rôma là trao cho ông ta quyền hành đúng ra chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa mà thôi… điều này giúp chúng ta hiểu đựơc tại sao những kẻ thu thuế bị khai trừ khỏi nguyện đường và bị xếp đồng loại với đám người tội lỗi, trộm cắp.
Khi Chúa Giêsu kêu gọi Matthêu, một kẻ thu thuế, để làm một trong những cộng sự thân cận nhất của Ngài thì quả thật đáng ngạc nhiên. Điều này nêu thêm được một ví dụ về khả năng của Chúa Giêsu trong việc nhìn vượt quá hiện tại của con người để thấy được điều họ sẽ trở thành nếu như họ cố gắng. Chúa Giêsu đã nhìn thấy điều đó mà kẻ khác đã không thấy được nơi Thánh Matthêu.
Và điều này dẫn chúng ta đến thẳng với chính Thánh Matthêu. Rõ ràng khi chấp nhận lời mời bước theo Chúa Giêsu để thở thành một trong những cộng sự thân tín nhất của Ngài, Thánh Matthêu đã phải từ bỏ rất nhiều sự. Tuy nhiên Thánh Matthêu cũng được đền bù trở lại rất nhiều. Matthêu từ bỏ một đời sống tiện nghi, có thể dự đoán trước để đổi lấy một đời sống vô định đầy mạo hiểm. Ngài phải từ bỏ một nguồn thu nhập tốt để bù lại được sự thoả mãn khi biết rằng điều mà Ngài đang làm sẽ mãi trường tồn và có ý nghĩa. Ngài đã từ bỏ một cuộc sống sẽ chấm dứt trong vòng quãng hai mười năm sau để đổi lấy một cuộc sống bất tận.
Cuối cùng, thánh Matthêu đã từ bỏ nghề thu thuế của mình để đổi lấy nghề ghi chép lại cho mọi thế hệ, mọi người, mọi dân tộc những tin tức tuyệt vời nhất mà thế gian chưa hề có.
Đám thuyền chài Galilê ít có hoặc không có tài ghi chép hoặc diễn tả ý nghĩ của mình để cho các thế hệ tương lai suy niệm và nguyện cầu. Matthêu đã làm được điều này.
Ngày mà Matthêu rời bỏ nghề thu thuế để bước theo Chúa Giêsu là một ngày vui mừng không chỉ cho Matthêu mà còn cho cả nhân loại.
Tất cả điều trên tác dụng thực tế đến chúng ta như thế nào ?
Trước hết, nó cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã không luôn luôn chọn những người tốt nhất, giỏi nhất hoặc những người thích đáng nhất để làm kẻ cộng sự gần gũi nhất với Ngài. Ngài thường chọn những kẻ xem ra khó có thể tưởng tượng nổi, ít là dưới con mắt chúng ta.
Thứ đến, nó cho chúng ta biết Chúa Giêsu có thể nhìn vượt khỏi hiện trạng chúng ta để thấy được điều chúng ta có thể trở thành. Ngài không chú trọng quá khứ cho bằng tương lai của chúng ta. Ngài không chú trọng khả năng chúng ta đang làm được gì mà là khả năng sẽ làm được gì. Ngài không chú trọng đến tài năng của chúng ta cho bằng sự sẳn sàng của chúng ta.
Cuối cùng nó cho chúng ta biết mỗi người chúng ta không trừ ai điều là ứng viên được Chúa Giêsu kêu gọi làm việc với Ngài một cách đặc biệt để mở rộng nước Chúa trên trái đất này. còn chúng ta có trả lời cho tiếng gọi của Ngài hay không lại là chuyện khác.
Điều chắc chắn là nếu chúng ta đáp lại tiếng gọi ấy, chúng ta sẽ phải bỏ một số điều, nhưng đồng thời cũng nhận lại một số điều khác. Và điều chúng ta sẽ lãnh nhận sẽ vượt xa điều chúng ta đã từ bỏ. Chúa Giêsu đã hứa với chúng ta như thế. Ngài bảo các môn đệ : “ kẻ nào theo Ta thì sẽ nhận được hơn gấp trăm lần và sẽ được ban cho sự sống đời đời” . ( Mt 19 : 29 )
Lạy Chúa Ngài đang đi đâu thế ?
Phài chăng đi rao giảng nơi vùng Galilê ?
Xin cho con cùng theo Ngài với !
Lạy Chúa Ngài đang đi đâu thế ?
Phải chăng đang đi chữa bệnh trên bờ biển ?
Xin cho con cùng theo Ngài với !
Lạy Chúa Ngài đang đi đâu thế ?
Phài chăng Ngài đang đi chịu khổ nạn và chết mãi trên đồi Canvê ?
Xin cho con cùng theo Ngài với !
Lạy Chúa Ngài đang đi đâu thế ?
Phải chăng Ngài đang đi đến Phục Sinh và sống mãi muôn đời.
Thánh Matthêu tường thuật về việc Chúa Giêsu kêu gọi chính ông : - Ông là một người thu thuế: N10-A19
Thánh Matthêu tường thuật về việc Chúa Giêsu kêu gọi chính ông :
- Ông là một người thu thuế tội lỗi.
- Chính Chúa Giêsu là người đi bước trước tới với ông : “Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy… Ngài phán bảo ông…”
- Bởi thế ông rất mừng và nhanh chóng đáp lời : “Ông đứng dậy và đi theo”.
- Ông mừng đến nỗi ngay sau đó mở tiệc khoản đãi Chúa Giêsu và các bạn thu thuế của mình.
- Qua kinh nghiệm này, Matthêu hiểu Chúa Giêsu là thầy thuốc của những kẻ tội lỗi bệnh tật linh hồn : “Ta đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng để kêu gọi người tội lỗi”.
B.... nẩy mầm.
1. Bản thân tôi cũng là một người tội lỗi đã được Chúa thương kêu gọi đi theo Ngài. Lẽ ra tôi phải luôn nhớ mãi hồng ân ấy và cũng quảng đại với những người tội lỗi như tôi. Thế nhưng hình như khi tôi được Chúa gọi rồi thì tôi liền quên ngay chuyện đó. Tôi tự coi mình là công chính và lên mặt khó chịu với những kẻ tội lỗi. Tôi không muốn Chúa kêu gọi thêm người tội lỗi nào nữa cả.
2. Trước lúc Chúa gọi, Matthêu “ngồi” (tư thế không muốn thay đổi) tại “bàn thu thuế” (môi trường sống tội lỗi). Nhưng ngay khi được Chúa gọi, ông đã nhanh chóng “đứng dậy” và “đi theo”. Thái độ này biểu lộ một sự dứt khoát thay đổi, một hành trình mới.
3. Chúa Giêsu là Thầy thuốc chữa trị những nỗi đau của con người ; Ngài đến là nhằm kêu gọi những kẻ tội lỗi ; Ngài bảo “Ta muốn lòng nhân”. Bây giờ tôi là đại diện của Chúa. Tôi phải sống và cư xử thế nào để người ta hiểu Chúa của tôi là như thế ? Tôi thấy có cần sửa đổi hay điều chỉnh gì không trong cách sống và cư xử của tôi ?
4. Đồ phế thải và người phế thải : Abbé Pierre chuyên giúp những người nghèo và vô gia cư để họ tự lực cánh sinh từ những vật dụng phế thải. Cha kể lại câu chuyện sau đây : Có một cựu tù nhân sống lang thang không nhà không cửa nên thất vọng dùng dao cắt mạch máu của mình. Có người gọi điện thoại cho cha. Cha lập tức đến nơi. Cha không một lời an ủi nhưng nói với ông như ra lệnh : “Anh đừng tự vẫn. Còn quá nhiều người kém may mắn đang cần đến sự giúp đỡ của tôi. Tôi cũng đang bệnh và cần sự giúp đỡ của anh”. Nghe những lời đó, đôi mắt lờ đờ của người đàn ông sáng lên, và từ đó ông trở thành một trong những cộng sự viên đắc lực nhất của cha. (Chờ đợi Chúa)
5. Chúa tìm ta
Một bé gái chơi trò cút bắt với các bạn. Cô tìm một chỗ thật kín để trốn. 5 phút sau, không ai tìm được cô. 10 phút sau cũng không ai đến tìm. Sau cùng cô biết ra rằng các bạn đã nghỉ chơi và đã đi nơi khác. Cô bé ngồi khóc và cho rằng đám bạn đã chơi xấu cô. Một người lớn thấy vậy an ủi và dạy cô bé : “Cháu đã học được một bài học quý giá giúp cháu hiểu được Chúa cảm thấy thế nào khi chơi với loài người. Ngài chờ loài người đến tìm Ngài nhưng người ta đã nghỉ chơi từ lâu không đến tìm Ngài nữa” (Mark Link, Vision 2000)
6. “Nếu ta bước một bước để đi tìm Chúa, thì Ngài nhảy 10 bước đến tìm ta” (Vô danh)
1. Đức Giê-su đã gọi Ong Mát thêu và dùng bữa tại nhà ông với các người thu thuế:
Trong xã hội Do-thái thời Đức Giê-su người thu thuế là một thành phần xã hội bị coi khinh một: TN 10-A20
1.1 Trong xã hội Do-thái thời Đức Giê-su người thu thuế là một thành phần xã hội bị coi khinh một cách đặc biệt. Vì hai lý do: một có tính chất chính trị, một có tính chất tôn giáo.
Họ là một thứ công chức của Nhà Nước Rô-ma đô hộ là Nhà Nước ngoại bang vơ vét tiền bạc của dân Ít-ra-en để phục vụ lợi ích của đế quốc mình. Nên những người thu thuế cho Nhà Nước ấy bị coi là kẻ thù của dân tộc và Tổ quốc Do-thái.
Với nghề thu thuế, họ thường áp bức dân chúng và bớt xén tiền bạc cho riêng mình. Ngày nay chúng ta gọi tội của những người thu thuế ấy là tội biển thủ công quĩ. Đó cũng là một tội lớn trong các tội mà Mười Giới răn của Thiên Chúa ngăn cấm.
Chính vì thế mà người Pha-si-sêu – những người tự cho mình là đạo đức – xa lánh và khinh khi những người thu thuế, gọi là là “phường” thu thuế, coi họ là “quân” tội lỗi.
1.2 Đức Giê-su – dù biết rất rõ tình trạng xã hội trên – vẫn gọi ông Mát-thêu một nhân viên thu thuế, làm môn đệ Người và vẫn đến dùng bữa tại nhà ông. Vì sao ?
Khi được Đức Giê-su nhận làm môn đệ, chắc chắn ông Mát-thêu đã rất vui mừng và hãnh diện vì hồng ân ấy. Nên ông mới mời Đức Giê-su và các môn đệ khác của Đức Giê-su đến nhà ông ăn cơm. Đức Giê-su đã nhận lời mời của ông để tỏ tình nghĩa thày trò yêu thương, gắn bó với ông.
Dĩ nhiên trong dịp hiếm có này, ông Mát-thêu không thể không mời bạn bè thân thiết và đồng nghiệp của ông đến cùng dự tiệc. Đây là dịp để những người Pha-si-sêu bộc lộ quan điểm của mình. Có thể nói vì họ coi thường ông Mát-thêu và các người thu thuế bạn ông, nên họ cũng coi thường Đức Giê-su và các môn đệ Người, khi thấy Đức Giê-su đã kết bạn với những người mà họ coi khinh. Đây cũng là cơ hội ngàn vàng để Đức Giê-su bộc lộ quan điểm của mình cũng chính là quan điểm của Thiên Chúa.
1.3 Quan điểm của những người Pha-ri-sêu ngược hẳn với quan điểm của Đức Giê-su: Người Pha-ri-sêu coi khinh, xa lánh và lên án những người thu thuế và tội lỗi, trong khi Đức Giê-su lại yêu thương, gần gũi, kết thân, bênh vực và cứu vớt họ. Người Pha-ri-sêu xét đoán theo bên ngoài và dựa vào lề luật trong khi Đức Giê-su nhìn thấu tâm can con người và dựa vào Tình Yêu Thương Cứu Độ của Thiên Chúa. Hai quan điểm xa nhau một trời một vực là thế ! Và ngôn sứ Hô-sê đã khuyên chúng ta phải tìm biết Thiên Chúa và đón nhận quan điểm của Người.
2. Từ giáo huấn của Lời Chúa hôm nay, chúng ta rút ra được những bài học quí giá sau đây phù hợp với hoàn cảnh xã hội và Giáo Hội Việt Nam hiện nay:
Bài học thứ nhất: Trước mặt Thiên Chúa và Đức Giê-su mọi người đều có gía trị như nhau, đều là con cái của Người và là anh chị em của nhau, mọi người đều được mời gọi sống yêu thương, san sẻ và tôn trọng lẫn nhau. Những người càng có nhiều ( sức khỏe, tài năng, của cải, địa vị, chức quyền, đặc sủng ) càng có trách nhiệm lớn đối với cộng đồng, đối với anh em, nhất là đối với những người kém may mắn, túng thiếu, bất hạnh.
Bài học thứ hai: Không ai có quyền xét đoán người khác. Quyền đó thuộc về một mình Thiên Chúa. Không ai được coi khinh, xua đuổi, lên án người khác. Đức Giê-su và Thiên Chúa luôn đứng về phía những người yếu thế cô thân, những người nghèo túng, bất hạnh, bị áp bức, bóc lột trong cộng đồng.
Thế mà trong xã hội Việt Nam ta hiện nay, có không ít thành kiến tạo bức tường ngăn cách giữa người này với người nọ, giữa thành phần này với thành phần kia của dân tộc: gốc gác Bắc Trung Nam; người kinh, người thiểu số; Công Giáo, Tin Lành, Phật Giáo, Nho Giáo, đạo ông bà và vô thần; cán bộ và không cán bộ; cộng sản và không cộng sản; người giầu và người nghèo; quyền thế và thường dân... Làm sao chúng ta bỏ được những thiên kiến sai lầm và tai hại về nhau để mọi người, mọi thành phần yêu thương tôn trọng nhau và chân thành cộng tác với nhau xây dựng một tương lai tốt đẹp cho cả dân tộc ?
Tương tự như thế, trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ta hiện nay, cũng có không ít thành kiến tạo bức tường ngăn cách giữa người này với người nọ, giữa thành phần này với thành phần kia của Giáo Hội: gốc gác Bắc Trung Nam; tiến bộ hay bảo thủ; thân nhà nước hay không thân nhà nước; học tây hay học ta; hội đoàn này hay hội đoàn nọ; người giầu hay người nghèo; lãnh đạo hay giáo dân thường...
Điều tai hại khôn lường xẩy ra trong khoảng hai ba chục năm nay là có một số người “nhẹ dạ” hay quá “ngây thơ” tin vào những luồng dư luận thâm độc “nghe người ta nói”: nghe người ta nói thế này, nghe người ta nói thế kia, về người này người nọ thuộc Giáo Hội. Những tin đồn ấy càng làm cho hố ngăn cách, nghi ngờ đã có sẵn trong một số tâm hồn càng sâu hơn.
Làm sao chúng ta bỏ được những thiên kiến sai lầm và tai hại về nhau để mọi thành phần Dân Chúa yêu thương, tôn trọng nhau và chân thành cộng tác với nhau để xây dựng Giáo Hội thành một Cộng đoàn Hiệp Thông của Chúa Giê-su Phục Sinh và của Chúa Thánh Thần nhằm phục vụ Nước Trời đang phát triển trong lòng dân tộc Việt Nam này ?
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã gọi ông Mát-thêu làm môn đệ Chúa. Chúa cũng gọi chúng con và tất cả mọi người làm môn đệ Chúa. Xin Chúa giúp chúng con trở thành môn đệ thân tín của Chúa. Xin Chúa giúp mọi người xóa tan mặc cảm để đáp lại lời mời gọi của Chúa !
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã đến dùng cơm tại nhà ông Mát-thêu cùng với các môn đệ của Chúa và các bạn bè thu thuế của ông chủ nhà. Chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã bộc lộ cõi lòng và quan điểm của Chúa trong bữa ăn ấy khi Chúa lên tiếng bênh vực những người bị khinh khi và xác định sứ mạng cứu nhân độ thế của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con thấu hiểu và đón nhận quan điểm của Chúa. Cũng xin Chúa dạy chúng con biết coi trọng mọi người, không phán xét kết án anh em !
Phải nói ngay: hai thứ này – mẫu mã và chất lượng – các môn đệ mà Chúa đã gọi và hôm nay: TN 10-A21
Phải nói ngay: hai thứ này – mẫu mã và chất lượng – các môn đệ mà Chúa đã gọi và hôm nay trong danh sách có thêm một anh thu thuế, đều không có được thứ nào cho ra hồn. Đã kém chất lượng, lại thua về mẫu mã: Bất cứ loại hàng hoá nào sản xuất ra, mà thiếu một trong hai thứ – chứ chưa nói là thiếu cả hai – thì cầm chắc từ thua tới lỗ.
Những “khách hàng” khó tính như nhóm Pha-ri-sêu, những chuyên gia về xoi mói và xét nét mẫu mã chất lượng, đã không thể bỏ qua dịp may tấn công Chúa Giê-su: rõ ràng là sau đám ngư phủ dốt nát, nay Chúa Giê-su lại thâu nạp luôn cả “phường tội lỗi” như Mát-thêu, hạng người mà dân Do-thái vừa ghét, vừa ghen và sợ. Chúa Giê-su không phản bác lời phê phán cay độc, nhưng không sai sự thật này. Người muốn cho thấy Tình Thương và Quyền Năng của Người thực hiện nơi các môn đệ nói chung và nơi anh thu thuế “tội lỗi” Mát-thêu cách riêng. Chính Tình Thương và Quyền Năng của Người sẽ làm biến đổi tất cả, để rồi sau một thời gian ngắn, rất ngắn cho việc đào tạo, nhóm môn đệ “ô hợp” này sẽ trở thành đồng nhất và rực rỡ cả về mẫu mã lẫn chất lượng.
Chúng ta hãy trở lại câu chuyện hôm nay. Trong lãnh vực chính trị, sau nhiều năm tháng tự “đánh bóng” mình cả về mẫu mã lẫn chất lượng và sau nhiều ngày tháng vất vả tốn kém, để vận động tranh cử và được bầu, thì công việc đầu tiên không kém quan trọng và gian nan, sẽ quyết định phần lớn thành bại của một ông tân thủ tướng hay tân tổng thống, đó là trình làng một nội các với mỗi thành viên là một “ngôi sao” về ngành việc được mời phụ trách. Mỗi bộ trưởng trong nội các mới đều phải trải qua vô số cuộc “giải phẫu” khắt khe: người dân, nhất là phe đối lập, không bận tâm nhiều tới “mẫu mã”. Đơn giản là vì mỗi người được đề cử ra đều thông minh sáng láng, bằng cấp, gia thế đều ngon lành. Người ta tập trung xoi mói về chất lượng: quá trình xử lý công việc mà tân bộ trưởng sẽ đảm trách; những điều chưa hoặc không rõ ràng trong đời tư, liên quan đến tình cảm và nhất là tiền bạc: chỉ một chút hồ nghi, là sự nghiệp của cá nhân người đó tiêu tan, mà tân nội các cũng ảnh hưởng không ít.
Châm ngôn Pháp có câu: ”Hãy cho tôi biết anh thường lui tới với ai, tôi sẽ nói cho hay anh là hạng người nào”. Ở đây, đối với Chúa Giê-su, không phải là chuyện nội các của người đời, nhưng nếu tạm so sánh với một nội các, có thể nói Nhóm Môn Đệ tin cẩn của mà Chúa Giê-su thành lập chưa đủ thành viên, đã bị chỉ trích gắt gao. Khi nói “Thầy các anh”, Nhóm Pha-ri-sêu gián tiếp hạ uy tín Chúa Giê-su trước mặt cả các Môn Đệ lẫn đám đông dân chúng: rõ ràng là Thầy nào, trò nấy ! Nhóm Pha-ri-sêu cố tình gây chia rẽ trong các Môn Đệ, đặc biệt là tạo sự “phản cảm” và mất tin nơi dân chúng.
Chúa Giê-su đã không dùng thước đo và tiêu chí của thế gian, để chọn lựa Môn Đệ. Tình Thương của Người chỉ đòi hỏi duy nhất một điều: sẵn sàng bỏ tất cả để đi theo Người. Chỉ cần đáp ứng điều kiện ấy, càng mau mắn nhiệt thành – điều mà các môn đệ đã tỏ hiện – càng tốt; còn lại là công việc của Quyền Năng Người. Cách làm ấy, Chúa Giê-su vẫn sử dụng qua hơn hai ngàn năm, bằng lời mời gọi của Giáo Hội đối với tất cả những ai thiện tâm, với mỗi người trong chúng ta. Không cần Pha-ri-sêu hay kẻ đối nghịch Giáo Hội chỉ mặt đặt tên, chúng ta cũng tự biết mình là người tội lỗi; nhưng điều chúng ta tin tưởng và an tâm, ấy là chỉ cần chúng ta thành tâm thiện ý, thì Quyền Năng từ ân sủng các Bí Tích sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta có được mẫu mã sáng láng đẹp đẽ là một trong những chi thể Giáo Hội; còn chất lượng bên trong là con cái của Thiên Chúa, được nhận ra và gọi Thiên Chúa là Cha.
Chúa Giê-su hành động khác người ! Cách làm của Người không chỉ “chướng tai gai mắt”, mà còn đi ngược lô-gích, với khởi đầu bằng những sự việc và những con người khiến kẻ thương mến không an tâm, làm cho kẻ bàng quan nhìn vào cũng thấy hồ nghi, trong khi kẻ ghen ghét lại được dịp chỉ trích bêu xấu. Thực ra câu trả lời của Chúa đã tỏ tường ba năm sau, với những môn đệ được biến đổi kỳ lạ còn hơn cả trong chuyện thần thoại, sau khi lãnh nhận Ơn Thánh Linh ngày Lễ Ngũ Tuần.
Sự biến đổi kỳ diệu ấy vẫn tiếp diễn không ngừng mãi tới ngày nay và cho đến tận thế: Chúa Giê-su đã không có “bột”, mà vẫn “gột nên hồ” vời đầu ra là mẫu mã và chất lượng cao. Và câu trả lời rõ ràng, dứt khoát, vĩnh viễn, là: Sự biến đổi kỳ diệu ấy – cách nay hai ngàn năm và mãi đến tận thế – không lệ thuộc bất cứ ở khiá cạnh nào vào tài năng của đối tượng được chọn gọi, mà duy nhất chỉ do Tình Thương và Quyền Năng của Thiên Chúa.
Một cách nào đó, mấy người Pha-ri-sêu đã có công nhắc nhở tất cả những ai đi theo Chúa – từ khi Chúa chọn các Môn Đệ cho đến tận thế – một sự thật phũ phàng, sống sượng: tất cả đều là “phường tội lỗi”. Nó trở thành bài học vỡ lòng, mà chúng ta không được quên, bởi vì ân sủng Tình Thương và Quyền Năng Chúa chỉ có thể thực hiện nơi và với những ai có lòng khiêm nhường, tin tưởng và cậy trông. Huênh hoang tự đắc về “mẫu mã” hoặc “chất lượng” của mình, tệ hại nhất là còn tự nâng mình lên và hạ thấp anh em, cũng đồng nghĩa với việc phủ nhận hoặc giảm thiểu tác động thánh hoá và ban ơn của Chúa Thánh Linh, qua các Bí Tích và qua Hội Thánh.
Ðối với người Do thái, thuế vụ dưới thời La mã đô hộ là một điều đáng trách. Người Do thái coi thuế: TN 10-A22
Ðối với người Do thái, thuế vụ dưới thời La mã đô hộ là một điều đáng trách. Người Do thái coi thuế vụ thời thuộc địa La mã không những là bất công mà còn mang tính cách phò ngoại bang, mặc dầu dưới thờ vua Hêrôđê, một phần tiền thuế được dùng vào việc xây dựng lại đền thờ Giêrusalem. Người La mã cai trị người Do thái thời bấy giờ không đánh thuế dân bị trị một cách trực tiếp. Họ cho dân bản xứ đấu thầu những trạm thuế trọng yếu khác nhau tại mỗi địa phương. Ai đấu giá thầu cao nhất thì người đó được quyền thu thuế cho họ. Người trúng thầu phải nộp cho chính quyền La mã số tiền thuế được ấn định. Thường thì người thu thuế thu nhiều hơn số tiền thuế ấn định và họ còn bỏ túi số tiện thặng dư. Vì thế mà người thâu thuế bị dân chúng coi rẻ và khinh miệt vì họ đánh thuế cắt cổ mà còn thu thuế cho chính quyền ngoại bang đang cai trị họ. Những người thu thuế trong Phúc Âm bị khinh miệt trong xã hội và còn bị liệt vào phường tội lỗi. Họ bị coi là phản dân, phản nước vì họ cộng tác với chính sách thuộc địa.
Dưới cặp mắt đánh giá của người đời, Mathêô là một ứng viên kém giá nhất cho việc làm môn đệ của Chúa. Mặc dù không phải là chủ thầu thuế, mà chỉ là tuỳ phái viên thu thuế miền Caphácnaum, Mathêô cũng bị coi là tay sai của dân thuộc địa và bị coi là phường tội lỗi. Trước lời mời gọi của Chúa: Hãy theo tôi (Mt 9:9), phản ứng thứ nhất của Mathêô là việc đáp trả lời mời gọi ngay tức khắc giống như trường hợp những người thuyền chài bỏ mọi sự để đi theo Chúa. Trong phúc âm hai thánh sử Marcô (2:14) và Luca (5:27), Mathêô còn có tên là Lêvi. Phúc âm thánh Máthêô được viết cho chính người Do thái là những người coi rẻ mình. Chủ đích của Phúc âm thánh Máthêô là làm chứng cho người Do thái nhận ra rằng Chúa Giêsu là Ðấng Thiên sai, thuộc dòng dõi Davít. Người đến để hoàn thành lề luật và các tiên tri. Luật mới của Chúa đòi hỏi một sự hoán cải tâm hồn, một cuộc trở lại nội tâm hơn là chỉ giữ luật theo hình thức bề ngoài.
Việc đáp trả thứ hai của viên thu thuế Mathêô là một hành động hiếu khách. Ông mời Chúa đến dự tiệc tiễn biệt bạn bè của ông, trong đó có cả những người thâu thuế và tội lỗi. Theo phong tục Do thái cổ xưa, việc ngồi ăn uống đồng bàn là cơ hội để tỏ tình thân thiện, chia sẻ cùng quan điểm và lập trường với khách dự tiệc. Tuy nhiên việc Chúa ngồi ăn đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi khiến nhóm người Pharisêu tỏ thái độ khó chịu và phiền trách. Họ than phiền với các môn đệ Chúa: Tại sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi (Mt 9:11).
Người Do thái thời bấy giờ, nhất là nhóm người Pharisêu coi những thành phần thu thuế và tội lỗi là cặn bã của xã hội và cố tránh xa việc tiếp xúc. Nhóm người Pharisêu hãnh diện về việc giữ luật Môsê và những việc dâng lễ vật hi sinh, đôi khi có tính cách ràng buộc và nông cạn, nhưng lòng họ xa Chúa và xa giới luật yêu thương của Người. Họ còn có khuynh hướng giữ luật bề ngoài, mà lòng họ xa lìa khỏi tinh thần luật pháp bằng cách sống đời bất công.
Việc họ chống đối Chúa ngồi ăn uống với người thu thuế và tội lỗi khiến Chúa phản ứng bằng lời nhận định tuyệt vời: Người lành mạnh không cần thày thuốc, nhưng là người đau yếu. (Mt 9:12). Tuy nhiên người Pharisêu lại không chịu nhận là họ mắc bệnh về phương diện thiêng liêng như kiêu căng, tự phụ, khinh người, giả hình và cần thày thuốc tâm hồn. Có bệnh hay có tội hoặc là tội trong tư tưởng, lời nói hay việc làm mà không chịu nhận mình mắc bệnh thì không mời và cũng không chịu tiếp nhận thày thuốc thiêng liêng. Họ là những người vô phương cứu chữa. Phản ứng của Chúa được dẫn chứng bằng lời trích dẫn trong sách Hôsê: Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần lễ tế (Hos 6:6). Lời trích dẫn đây có nghĩa là Chúa muốn loài người đối xử với đồng loại với lòng nhân từ hay thương xót hơn là việc dâng của lễ tế.
Lời nguyện xin cho được tìm đến thầy thuốc phần hồn:
Lạy Chúa Giêsu là Ðấng nhân từ hay thương xót thứ tha.
Con xin tạ ơn Ngài đã đến trong thế gian
kêu gọi người lầm đường lạc lối ăn năn trở lại.
Xin thứ tha những lần con tỏ thái độ kiêu căng:
cho mình là tốt lành đạo đức hơn ai,
lại còn xét đoán và khinh miệt người khác.
Xin cho con biết chấp nhận thân phận yếu hèn
và tội lỗi của chính mình con, để con tìm đến thầy thuốc tâm hồn
hầu được Chúa đoái thương tha thứ và chữa trị. Amen.</< I>B>
Chúa Giê-su kết thúc Tin mừng hôm nay bằng câu trích dẫn sách tiên tri Hôsê : “Ta muốn lòng nhân: TN 10-A23
Chúa Giê-su kết thúc Tin mừng hôm nay bằng câu trích dẫn sách tiên tri Hôsê : “Ta muốn lòng nhân hậu chứ đâu cần lễ tế”, để bênh vực cho trường hợp của Ngài và các môn đệ dự tiệc do ông thu thuế Mattheo khoản đãi. Theo thói tục của người Do thái, thì đây là một vịêc làm chướng tai gai mắt, tiếp xúc với phường tội lỗi. Người Biệt phái đạo đức không bao giờ làm. Thực ra toàn thể biến cố Tin mừng hôm nay, phản ánh cái nhìn và linh đạo của vị ngôn sứ Hôsê, tư tưởng trở lại cùng Thiên Chúa, phải tìm kiếm Ngài và nhận biết Ngài là tình yêu tuôn đổ muôn ân phúc xuống trên dân phản loạn. “Con cái Israel bảo nhau: Chúng ta phải biết Đức Chúa, phải ra sức nhận biết Người.” Nhưng sự nhận biết này chỉ có thể là hình thức bề ngoài như lên đền thờ thường xuyên dâng lễ vật, chứ không có tâm tình yêu mến bên trong. Nói cách khác, vì những lợi ích trước mắt, để được sự che chở phần xác, của cải, mùa màng, sức khoẻ, an ninh, v.v. “Tình yêu của các ngươi khác nào mây buổi sáng, mau tan tựa sương mai.” Điều Thiên Chúa muốn là người ta tìm kiếm Ngài với sự hiểu biết của tâm hồn, khám phá ra các kế hoạch quan phòng của Ngài, dự tính cho cá nhân, xã hội, những ơn gọi riêng biệt, những nhu cầu luân lý để thăng tiến nhân loại. Tìm kiếm Ngài còn bao gồm sự tiếp xúc cá nhân với Ngài qua kinh nguyện, thánh lễ, phụng vụ, công việc bác ái. Nếu có ai không gặp Ngài là vì sự tìm kiếm của họ không thành thật, họ bỏ qua những thời gian, những cơ hội thuận tiện. Còn những người tìm kiếm Ngài chân thực với tâm hồn sùng mộ thì bao giờ họ cũng được thoả lòng vì Thiên Chúa là tình yêu bao bọc hết những ai tìm kiếm Ngài. Đó là sứ điệp của Hôsê trong bài đọc thứ nhất.
Bài đọc thứ ba thuật truyện ông Lêvi (Mattheo) trở lại theo Chúa Giê-su. Một con người tội lỗi đứng trước Thiên Chúa nhân lành. Chúa Giê-su đã ngang qua bàn thu thuế của ông với một lời kêu gọi dứt khoát “Hãy theo Ta”. Lêvi đã đứng lên và theo Chúa tức khắc, bỏ lại hết, gia đình, vợ con, danh vọng, tiền tài, quá khứ. Chúng ta không nghe thấy ông tiếc nuối điều chi. Ông đã chọn Chúa Giê-su trên tất cả giàu sang thế gian. Một sự từ bỏ rất hào hiệp để đi vào tương lai vô định do Chúa dẫn dắt. Đây quả thực là sự sống lại của một tâm hồn và là bằng chứng cụ thể sứ vụ của Chúa Giê-su đang mạng lại hoa quả cho những ai ngay thẳng. Sứ vụ của Ngài giống như cơn mưa mùa xuân làm cho đất đâm chồi nảy lộc. Tiếng gọi của Ngài mang lại ơn cứu rỗi cho những ai khao khát được Thiên Chúa yêu thương. Nhiệm vụ của con người là phải có lòng tin vững chắc nơi Thiên Chúa, tựa như tổ phụ Apraham mà thánh Phaolô chưng ra làm ví dụ trong bài đọc thứ hai.
Trước khi khai triển tư tưởng thâm sâu của thánh nhân, chúng ta nên biết chút ít về bối cảnh giáo đoàn Rôma mà phụng vụ hôm nay trích đọc. Giáo đoàn này gồm nhiều thành phần sắc tộc và văn hoá. Họ là những cư dân Rôma gồm các tín hữu gốc Do thái và tín hữu gốc dân ngoại. Họ là thương gia mới nhập cư hoặc công dân kỳ cựu, đàn ông đàn bà thuộc nhiều tầng lớp xã hội, trí thức, luật gia, nômg dân, thương nhân, giàu có, nghèo khổ, tự do, nô lệ. Dĩ nhiên, họ là thành phần thiểu số trong dân cư thành phố. Đức tin của họ khác hẳn với các tầng lớp khác trong xã hội Rôma. Họ cần sự hướng dẫn luân lý, thần học để có thể sống còn giữa những tư tưởng ngoại giáo, những giá trị hoàn toàn trần tục. Như vậy, họ phải đối mặt với vấn đề nội bộ, đồng thời chống trả các căng thẳng xã hội. Như vậy, khi viết thư cho họ, thánh Phaolô phải tính đến những yếu tố này. Nói chung, thư từ là để giải quyết các khó khăn đặc thù trước mắt. Cho nên, chúng ta không thể tìm thấy toàn thể giáo thuyết của thánh Phaolô trong một lá thư, đáp ứng nhu cầu tức thời và trả lời những câu hỏi của Giáo hội địa phương ấy đặt ra.
Tuy nhiên, các lá thư được giữ lại và truyền tay nhau đọc trong các địa phương khác. Bởi vì, thường thường thánh Phaolô bàn giải về những đề tài lớn có thể áp dụng cho toàn thể Giáo hội. Thí dụ, trở nên một tạo vật mới, chết và sống lại với Đức Ki-tô, sự sống trong Thánh thần, cụ thể hoá Phúc âm trong những hoàn cảnh riêng lẻ. Như vậy, mặc dù ngài viết vì nhu cầu của một Giáo hội, chúng ta vẫn có thể tìm ra điểm chung thuộc về gia sản toàn cầu của Hội thánh. Vấn đề của lá thư Rôma là sự căng thẳng nội bộ giữa các tín hữu Do thái và các tín hữu dân ngoại. Những người Do thái lấy làm xúc phạm khi các tín hữu dân ngoại không giữ luật Môsê, hơn nữa nhiều khi có sự xoá bỏ hoàn toàn như việc ăn uống những thứ mà người Do thái không bao giờ bỏ vào miệng, không cắt bì cho trẻ nam sơ sinh như luật Môsê dạy. Tín hữu dân ngoại cho rằng những luật lệ đó không hợp với ý muốn của Chúa Giê-su. Các tín hữu Do thái đòi mọi người tiếp tục tuân giữ Ngũ kinh như tiêu chuẩn đời sống tôn giáo để được nên công chính. Ngược lại, các tín hữu dân ngoại nhấn mạnh sự công chính nhờ ơn thánh mà thôi. Đúng theo tinh thần của ngôn sứ Hôsê và Chúa Giê-su trong Tin mừng, thánh Phaolô cũng đặt con người trước Thiên Chúa mà trả lại tự do cho các tín hữu khỏi gánh nặng lề luật. Trường hợp của Apraham, ông được kể là người công chính rất lâu trước khi có lề luật Môsê, nguyên chỉ do đức tin vào Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín : “Điều gì Thiên Chúa đã hứa, thì Người có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế, ông được kể là người công chính.” Không mạnh mẽ như các thư gửi tín hữu Galata và Côrintô, ở đây thánh nhân chỉ củng cố người Rôma về đức tin của mình và giúp đỡ hàn gắn những chia rẽ do các lập trường khác nhau gây nên. Ông nhắc nhở họ, cả hai bên, Do thái và dân ngoại, đều có nhu cầu cứu rỗi, bởi vì “tất cả đều đã phạm tội”(3, 24). Thánh nhân nghiêng về phía tín hữu gốc dân ngoại, bởi họ cũng giống như Apraham có đức tin tinh tuyền vào Thiên Chúa. Ông nói : “Dù thế nào đi nữa, thì đối tượng đức tin của chúng ta bây giờ là một, cho cả Do thái và dân ngoại, đó là Đức Giê-su Ki-tô.” Qua bí tích Rửa tội, chúng ta kết hợp với nguồn ơn cứu rỗi duy nhất là Đức Giê-su thành Nazareth, vì thế chúng ta đã thực sự chết đối với tội lỗi. Cho nên, không còn thuộc về lề luật nữa mà chỉ duy vâng phục Thiên Chúa qua Thần khí Đức Ki-tô.
Lề luật trói buộc chúng ta vào “xác thịt”, mọi người đều dễ tổn thương do lề luật. Xác thịt không phải là tội lỗi, nhưng đối với thánh nhân là thành phần yếu đuối nhất của bản tính nhân loại, bản tính đã hư hỏng và làm tôi cho quyền lực satan. Thánh nhân nhắc nhở, khi chúng ta nhượng bộ cho các cám dỗ và thói xấu thế gian là chúng ta đã sống theo xác thịt. Chính thánh nhân trước kia đã sống theo kiểu này, tức sống theo lề luật. Nhưng khi trở lại chấp nhận Đức Ki-tô làm Chúa đời mình, thì quan điểm của ông về ơn cứu rỗi hoàn toàn thay đổi. Ông đối diện trực tiếp với Thiên Chúa qua tinh thần Đức Ki-tô, chứ không phải qua lề luật nữa. Ông hy vọng cộng đồng tín hữu Rôma cũng sẽ liên kết với nhau qua quan điểm mới, tức đời sống trong Đức Ki-tô. Vậy thì tính đa dạng của cộng đồng Do thái, Hy lạp, nô lệ, tự do, đàn ông, đàn bà, không còn là yếu tố chia rẽ, nhưng là một dấu chỉ cánh chung của điều mai ngày sẽ trở thành viên mãn, tức triều đại của Thiên Chúa, gồm đủ mọi dân tộc trên địa cầu. Những dân tộc này cũng cần được kêu gọi và cứu rỗi như trường hợp của Mattheo và cũng cần được tình yêu Chúa bao bọc như linh đạo Hôsê : Tìm kiếm Thiên Chúa và được nhận biết Ngài như tình yêu thắm thiết và vô biên.
Thánh Phaolô đã chỉ rõ ràng đức tin của Apraham là yếu tố dẫn ông đến trạng thái được Thiên Chúa coi là công chính. Ông đã tin cậy Thiên Chúa sẽ hành động cho tương lai của dòng dõi ông với cùng quyền năng của Đấng sáng tạo vũ trụ. Thiên Chúa sẽ làm nảy sinh sự sống nơi cái chết. Thánh Phaolô biết : “Ông (Apraham) đã gần một trăm tuổi, nhưng ông vẫn tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Sara đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa.” Đấng tạo thành vũ trụ sẽ lập lại hành động tạo dựng và mặc dù chỉ là thân xác hết đường sinh nở, hai ông bà vẫn được Chúa cho sinh con. Apraham hy vọng chống lại khả năng mơ ước của loài người, nói cách khác, hy vọng hão huyền, theo lối hiểu biết của chúng ta. Sau này, thánh nhân áp dụng tư tưởng ấy vào đức tin của các tín hữu : Thiên Chúa sẽ cho sự sống nảy sinh nơi kẻ chết : “Thiên Chúa sẽ nâng con của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta trỗi dậy từ cõi chết.” Đối với người Do thái, không ai dám nghi ngờ tổ phụ họ là đấng công chính theo lề luật, tức giữ luật trong sự vâng phục Thiên Chúa, mặc dù ông sống nhiều thế kỷ trước lề luật. Ong đã vâng lời Thiên Chúa sẵn sàng hy sinh đứa con duy nhất theo lời hứa là Isaac. Ông được Kinh thánh Do thái kêu là cha của nhiều dân tộc. Như vậy, thánh Phaolô có ý ám chỉ chẳng cần cắt bì, chẳng cần lề luật Môsê, Apraham vẫn là người công chính, tổ phụ của những kẻ có lòng tin, Do thái hay dân ngoại. Như vậy, những ai theo Chúa Giê-su và Tin mừng của Ngài thành thực vẫn là những người công chính, không cần qua lề luật Do thái. Thánh Phaolô đã làm một cuộc cách mạng theo ân soi sáng lật đổ tư duy vụ luật của người Do thái. Và các tín hữu an tâm khi có đức tin như Apraham, tin vào lời hứa của Thiên Chúa, được tỏ hiện nơi Đức Giê-su, thì đều được tuyên bố là “công chính”.
Đức tin của Apraham sắt đá, không chi lay chuyển nổi, mặc dù là ông đã chết, bụng dạ vợ ông đã chết, về đàng sinh nở. Tuy nhiên, ông vẫn vững lòng tin Thiên Chúa cho sinh con. Và đức tin ấy không đặt căn bản trên loài người, nhưng hoàn toàn trên quyền năng của Thiên Chúa. Do đó, người tín hữu chúng ta phải noi gương Apraham tin vững mạnh vào Thiên Chúa, Đấng dẫn dắt chúng ta qua mọi khó khăn, đến sự sống mặc dù chúng ta đang sống dưới quyền năng của sự chết : chiến tranh, ngừa thai, phá thai, khủng bố. Chúng ta không được phép ngã lòng. Chính thánh Phaolô đề nghị chúng ta noi gương các tổ phụ Do thái, tin kính vững mạnh vào Thiên Chúa, Đấng ban sự sống ngay cả khi hoàn toàn thất vọng. Đấng đã ban cho Apraham và Sara sinh con, Đấng nâng Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, Đấng cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại để được sống muôn đời.
Trong buổi phụng vụ hôm nay và trong suốt cuộc đời chúng ta, lời kêu gọi của thánh Phaolô có ảnh hưởng ra sao ? Đúng lý, đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa, Đấng tạo hoá, Đấng đã cho Đức Ki-tô phục sinh, Đấng ban Thần khí cho muôn loài, phải đủ khả năng dẫn đưa chúng ta qua những khó khăn chồng chất. Thí dụ những gương mù gương xấu của hàng giáo sĩ, của người tín hữu không can đảm tuyên xưng danh Chúa giữa những môi trường vô đạo, các tham lam, lừa đảo trong cuộc sống hằng ngày. Mặt khác, chúng ta cũng từng được chứng kiến những gương can đảm của các tín hữu nhiệt thành, họ giữ đạo bằng đời sống, chứ không nguyên bằng môi miệng. Vài tuần qua, trên tờ nhật báo New York Time, có một bảng cáo phó cái chết của luật sư Thomas J. Concannon, qua đời vì bệnh ung thư. Khi còn trẻ, anh ta đã đi du lịch ở Afghanistan, một đêm hè anh ta bị sốc mạnh vì một quang cảnh đẹp. Một người cưỡi lạc đà dẫn đàn vật của mình qua sa mạc. Bóng của đàn vật in lên nền trời đầy sao. Sự đơn sơ và vẻ huy hoàng của cảnh đẹp làm anh ngây ngất và thay đổi hẳn quan niệm về sự sống. Sống không phải để hưởng thụ, nhưng để giúp đỡ và tô vẽ cho đời thêm tươi sáng. Anh quyết định học luật dân sự và thi hành nghề bênh đỡ những người nghèo khổ ở toà án New York. Nhiều năm anh ngồi trong ghế luật sư của những người nghèo khổ, bất chấp căn bệnh quái ác đang đến ngày phát triển cuối cùng. Được hỏi tại sao anh không nghỉ ? Anh trả lời : “Đằng nào thì cũng chết, cố gắng ngày nào hay ngày đó, đến tận cùng thì thôi.” Ai có thể ban nghị lực cho anh nếu không phải là Thiên Chúa, Đấng đã giúp anh dù phải đối diện với cái chết, cũng tìm ra can đảm để giúp đỡ tha nhân ? Sự sống nảy sinh từ cõi chết.
Trên bắc bán cầu chúng ta đang ở tháng 6 dương lịch, thiên nhiên đang bừng lên sự sống mới. Điều mà xem ra không có khả năng sau một mùa đông dài. Cây cối chết khô, cành lá trơ trịu, mặt đất u sầu toàn màu chết chóc. Vậy mà chỉ thoáng qua một đêm, sự sống lại bùng lên, như con bươm bướm thoát ra từ tổ kén. Quyền năng của Thiên Chúa, Đấng tạo hoá, quá rõ ràng. Nó ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng thánh Phaolô trong bài đọc hai, không chỉ nói đến sự đảo ngược của thiên nhiên, mà còn cho chúng ta hay bằng con mắt đức tin vào Chúa Ki-tô, chúng ta phải nhìn thấy sự sống trong những hoàn cảnh chết chóc của thế giới, chiến tranh, nghèo đói, bạo lực, aids, xì ke, ma tuý, đĩ điếm, …. Chúng ta được kêu gọi đối phó với những sự kiện ấy bằng cuộc sống nhân chứng bền bỉ và chân thành, bày tỏ cho thiên hạ thấy rõ nội dung niềm tin của mình. Bởi lẽ, Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải của kẻ chết.
Nhưng kẻ chết là thế nào ? Là những người câm lặng khi phải nói ra. Là kẻ tiêu thụ cho mình quá nhiều khi người khác đang trong nhu cầu cấp thiết. Là khách bàng quan khi nạn nhân cần giúp đỡ. Là kẻ vô cảm trước đau khổ của tha nhân. Là người tham lam thu tích khi thiên hạ gặp cơn đói khát, cơ cực. Là kẻ phung phí khi cần đến tiết kiệm. Là người keo kiệt khi rộng rãi được cần đến để cứu giúp các nạn nhân thiên tai, dịch hoạ. Là kẻ ươn lười khi phải chăm chỉ để có cơm ăn áo mặc. Là người sống nhung lụa khi cần đến ăn chay hãm mình, khổ chế. Là người ưa sai bảo khi phục vụ là bổn phận của mình. Làm thế nào để những loại người này ra khỏi mồ chôn và chiến thắng sự chết ? Thánh Phaolô viết : “Tạ ơn Thiên Chúa, qua Đức Giê-su Ki-tô”, hay như bài đọc hôm nay : “Đức tin vào Đấng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta từ cõi chết sống lại”. Gương của ông Lêvi thu thuế, đứng dậy may mắn theo Chúa Giê-su, thúc đẩy chúng ta hành động tương tự. Amen.
Lm. Jude Siciliano, OP
Thánh Margaret Cortona là một Maria Madalena của thời đó, thế kỷ 13. Cô là một thiếu nữ: TN 10-A24
Thánh Margaret Cortona là một Maria Madalena của thời đó, thế kỷ 13. Cô là một thiếu nữ duyên sắc, con của một nông dân miền Tuscany, nước Ý. Một đêm kia, một chàng thanh niên vạm vỡ quyến dụ cô Trốn đến ở với chàng trong lâu đài của chàng. Chàng hứa cưới cô, nhưng không bao giờ chàng thực hiện. Qua 9 năm cô sống như người tình của chàng, gây ra gương xấu lớn lao.
Một ngày kia, người được gọi là người yêu của cô đi săn và thanh tra tài sản. Chàng đi mà không trở về. Cuối cùng con chó của chàng đã trở về và dẫn Margaret tới chỗ xác người yêu của cô bị giết chặt ra từng mảnh.
Cảnh tượng đó đã thay đổi hẳn đời sống cô. Cô nhận ra đây là tiếng gọi cô thống hối, và cô đã thống hối thật. Cô đã qua một năm trong cầu nguyện, thống hối và săn sóc cho người nghèo khổ nhất. Thay vì coi cô là người phụ nữ tội lỗi, dân chúng ở Cortina bây giờ nhìn nhận cô là vị thánh sống.
Chắc chắn Chúa Giêsu đã nghĩ tới những người như Maria Madalêna và Margaret Cortina khi Ngài nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi”. Đấng hoàn toàn vô tội không chỉ tiếp đón những người tội lỗi và nói chuyện với họ, Ngài còn ngồi ăn với họ, tha thứ cho họ và biến đổi cuộc đời họ. Thường thường khi Ngài chữa lành bệnh tật cho ai thì Ngài cũng chữa lành cả bệnh tật linh hồn người đó nữa. Ngài còn chết với tội nhân ở bên cạnh, một người thống hối, một người không. Điều Chúa Giêsu đã làm trong cuộc sống trần gian thì Ngài vẫn tiếp tục làm nhờ Giáo hội. Giáo hội công giáo là một nhóm tội nhân, và vì tội nhân, người ta đã tố cáo Chúa Kitô liên kết với những người tội lỗi, thì cũng tố cáo Giáo hội của Ngài như vậy. Chúng ta chấp nhận điều đó, chúng ta tiếp đón tội nhân vì rằng: tất cả là con người. Bài hát chủ đề của Giáo hội có thể là: kêu gọi mọi tội nhân.
Chúng ta hiến dâng những khả năng làm phát triển tình thân hữu của Thiên Chúa. Hãy lãnh nhận bí tích Hòa giải. Chỉ có Thiên Chúa giàu lòng thương xót biết được bao nhiêu người đã được hoàn lại tình thân hữu với Thiên Chúa nhờ phơng tiện ân phúc này. Bạn hãy sử dụng vô vàn những giúp đỡ khác cho tội nhân: hiệp lễ thường xuyên, tham dự thánh lễ hàng ngày, bàn hỏi với những người khôn ngoan, như với cha sở, về những điều thiết yếu của tinh thần, liên tục nhắc nhở những gì Thiên Chúa muốn và không muốn, ý tưởng rõ rệt về điều đúng và đều sai, cả đến chính ý tưởng về sự tội.
Nhiều người chỉ trích lầm lạc, chế nhạo lòng tôn kính các thánh. Tuy vậy, còn gì có thể khích lệ cho một tội nhân hơn là mẫu gương của một vài người tội lỗi như Maria Madalena và Margaret Cortona mà đã trở nên những vị thánh lớn ?
Chẳng hạn như trong thời chúng ta ngày nay, có những phụ nữ nào đang sống như Margaret trong tình trạng hôn nhân bất hợp pháp, thì cha mẹ và cả ban bè của những phụ nữ bất hạnh ấy hãy cầu xin Vị thánh trong câu chuyện giúp đỡ, ban nghị lực để họ quay về cùng Thiên Chúa giao hòa với Thiên Chúa canh tân đời sống Thiên Chúa trong chúng ta là nỗ lực hàng ngày của chúng ta. Các thánh sẽ phù giúp chúng ta.
Chúa Kitô giúp đỡ chúng ta, thánh lễ này không chỉ là một lễ hy sinh mà cũng còn là bữa ăn, một bữa tiệc thánh, chúng ta ăn với Chúa Kitô và Ngài ăn với chúng ta như Ngài làm trong cuộc sống trần gian. Chúng ta kêu mời mọi tội nhân tham dự với chúng ta trong bữa tiệc trên trời này.
Bạn đã thấy Thầy của bạn ngồi cùng bàn với ai chưa? Thật là gương mù gương xấu! Còn bạn:TN 10-A25
- Bạn đã thấy Thầy của bạn ngồi cùng bàn với ai chưa? Thật là gương mù gương xấu! Còn bạn, môn đệ của Ngài, bạn nghĩ gì về điều đó?
Bạn bối rối về điều gì? Nếu tôi từ chối lui tới với những người không thể giao du được, tôi có bình thường hay không?
Chúa Giêsu vừa mới gọi Matthêu, một trong những người thu thuế thường bị khinh bỉ và đối xử như là những kẻ tội lỗi công khai: họ hợp tác với những người Roma chiếm đóng (những kẻ ngoại đạo!) và nghề nghiệp làm cho họ cứng rắn và không phải lúc nào cũng liêm khiết. Và đây Chúa Giêsu không chỉ chọn một trong số những người đó làm môn đệ mà còn chấp nhận ăn cơm tại nhà ông cùng với những kẻ cùng hội cùng thuyền với ông nữa. “Đó là những kẻ tội lỗi!”, những người Pharisêu tức bực nói như thế. Những người thân cận với Chúa Giêsu thì im lặng. Trả lời như thế nào đây? Họ đã luôn luôn đi theo Thầy, nhưng sự giận dữ của những người Pharisêu làm họ ý thức rằng ăn uống với những kẻ “tội lỗi” này là hoả hiệp với sự ác. Vào thời kỳ đó bữa ăn có một ý nghĩa gắn bó và hiệp thông mạnh hơn đối với chúng ta nhiều.
Với cái nhìn xoáy tận tâm can, Chúa Giêsu nhìn xuyên qua các nhãn hiệu trong xã hội và các thanh danh. Ngài nhìn những người Pharisêu chắc chắn mình là những vị thánh này, những kẻ xét đoán không thể sai lầm được: “Đây là một người tốt, còn đây là một người xấu”.
Chúa Giêsu đã đến vì tất cả mọi người nhưng Ngài cảm thấy rằng thật khó mà truyền giáo cho những “người công chính” này. Bởi vì họ thật sự là những người công chính. Họ thực sự có ý muốn trở nên công chính. Họ biết các luật lệ và cố gắng tuân giữ. Nhưng họ bỏ qua điều cốt lõi: lời mời gọi yêu thương. Lòng kiêu ngạo cho mình là những tín đồ và sự ghê tởm đối với người tội lỗi biến họ thành những kẻ tự phụ và khô khan, không có khả năng nhìn những “bệnh nhân” với đôi chút thiện cảm.
Chúa giêsu âu yếm nhìn những “bệnh nhân” này, những người ăn uống cười đùa hơi thô lỗ và đáng ngờ, chẳng chút bận lòng về lề luật, nhưng bộc trực và nhanh chóng nắm bắt lấy tiếng gọi của Tin Mừng. Đây là bằng chứng: Matthêu đừng dậy ngay khi nghe: “Hãy theo Ta”. Chúa Giêsu cố gắng phá vỡ những trái tim chai đá của người Pharisêu:”Các ông hãy cố mà hiểu”. Và Ngài nói lên một chân lý sáng ngời mà chúng ta miệt mài làm cho mờ tối: “Không phải những người mạnh khoẻ cần đến thầy thuốc, mà là những người bệnh tật”.
Chúng ta chỉ thực sự hiểu được điều đó nếu chúng ta có một cái gì đó thánh thiêng: lòng nhân từ. Đây là sự cân bằng kỳ diệu giữa lòng tốt đối với kẻ tội lỗi và sự lên án rõ ràng tội lỗi. Nói thì dễ, và thậm chí gần với khẩu hiệu, nhưng thực hành mới là khó. Hoặc chúng ta là những người rất tốt và yếu đuối, gần như rộng lòng, hoặc là những quan toà không thương xót: “Tôi không lui tới với hạng người đó”.
Sự thường chúng ta hay quanh co, bất định: phải nhắm mắt làm ngơ hoặc lên án? Để đấu tranh chống lại sự lây lan, gìn giữ đạo đức, sống giữa những người trong sạch, đáng tin cậy.
Hơn bao giờ hết, Chúa Giêsu là Thầy của chúng ta, Ngài khẳng định rằng phải có lòng thương xót: “Hãy đi mà học cho biết câu này có nghĩa là gì: ta muốn lòng nhân chứ không muốn của lễ”. Nhưng Ngài cũng tỏ cho chúng ta biết lòng nhân từ là một lòng tốt không có sự đồng loã.
Nếu Ngài trà trộn với những người tội lỗi chính không phải là để tán thành họ mà là để giúp đỡ họ. Ngài không loại bỏ ai cả và dầu vậy Ngài không chiều theo bất cứ sự bó buộc nào. Nơi Ngài chúng ta có thể học cách trở nên tốt lành mà không hèn nhát, cứng rắn mà không loại trừ. Không gì có thể làm chúng ta đến gần Ngài hơn: khi chúng ta thương xót thì đã có Chúa ở trong ta rồi.
Nhưng chúng ta không phải là Thiên Chúa. Lòng nhân từ của Chúa Giêsu vô cùng trong sáng, còn lòng nhân từ của chúng ta luôn luôn hơi yếu hoặc, trầm trọng hơn, nhuốm màu tự phụ. Do đó phải dứt khoát loại bỏ ý tưởng cho mình là công chính, ở vào đúng vị trí của những người công chính. Chỗ thực sự của chúng ta là ở nơi tạp nham. Và mạc khải lớn lao (hơi khó chấp nhận) chính là ở trong nơi tạp nham có tất cả! đó là những ai tin rằng mình là công chính, những kẻ tội lỗi mà lòng thanh thản và những người đấu tranh chống lại tội lỗi một cách khiêm hạ. Nhưng tất cả chúng ta, không trừ ai, là những bệnh nhân cần đến thầy thuốc.
Tại sao Matthêu chèn vào cặp câu chuyện này? Đâu là tầm mức và ý nghĩa của câu trích dẫn:TN 10-A26
1) Tại sao Matthêu chèn vào cặp câu chuyện này? Đâu là tầm mức và ý nghĩa của câu trích dẫn sách Hôsê?
2) Tại sao Chúa Giêsu ưu tiên lưu tâm đến hạng thu thuế và tội lỗi? Phải chăng vì Người thấy họ dễ mến? Vì khám phá nơi họ một sự tươi sáng bình dân hay một lòng khiêm tốn có chân giá trị?
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Tên ông là Matthêu": Đây chắc là cùng một nhân vật với Lêvi trong Mc 2,14 và Lc 5,27, dù từ thời Origène, người ta ‘thường hay phủ nhận’. Là nhân viên thu thuế ở Capharnaum, Matthêu không trực tiếp phục vụ người Rôma, nhưng phục vụ Hêrôđê Antipas; nhờ chức vụ này mà có lẽ ông có một đời sống khá giả khiến có thể mời Chúa Giêsu và môn đồ Người đến ăn; người ta cũng đã nhận xét là ngoài tiếng Aram, tức tiếng mẹ đẻ, ông còn biết tiếng Hy lạp, thứ ngôn ngữ hành chánh đương thời, đồng thời là người có trật tự và chính xác. Hết thảy những nhận xét này đã được đưa vào trong cuộc tranh luận về vấn đề tác giả của Tin Mừng thứ nhất, nơi người ta cũng tìm thấy các tính cách nói trên. Nhưng về cuộc đời ông, ta không biết một tí mảy may nào.
"Và ông đứng dậy đi theo Người": Như mọi lần, kẻ được gọi luôn lập tức đáp lời, nhưng không có gì trong con người này có được một giải thích thái độ đó. Chỉ có uy quyền của Chúa Giêsu mới cắt nghĩa được sự biến đổi cách nhanh chóng đời sống một người hư đốn như vậy thôi.
“Đến ngồi đồng bàn": Ở đây chẳng nói rõ ngày giờ bữa ăn, trong lúc ở Lc 5,29 nó như thể là bữa cơm tối giã từ (sở quan thuế) để khai mạc một đời sống mới. Các loài tiệc này chúng ta quá quen thuộc. Vì thế đừng lấy làm ngạc nhiên khi thấy tụ họp quanh cùng một bàn ăn các bạn bè cũ và mới của Matthêu. Chỉ có sự hiện diện của Chúa Giêsu, một rabbi, là không hợp mà thôi.
“Tại sao Thầy các ông lại ăn với quân thu thuế và tội lỗi”: Quy định vô số của các giáo sĩ về các bữa ăn (là những việc rốt cục cũng có ý nghĩa tôn giáo) cho ta lượng được cơn bất bình của Biệt phái khi thấy Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với kẻ tội lỗi là những người, theo định nghĩa, không tôn trọng các quy định trên. Thành thử câu nói của Biệt phái chẳng phải là một chất vấn nhưng là một lời buộc tội.
"Lương y": việc dùng hình ảnh vết thương để ám chỉ tội lỗi và lương y để nói lên ơn tha thứ là điều thường thấy trong Cựu ước (Đnl 32, 39; Is 1, 6; 19, 22; 30, 26; 57, 18 – 19; 33, 6; Hs 5, 13; 7, 7 v.v...).. Ngay cả ý tưởng cho rằng tình trạng của tội nhân được tha thứ sẽ trổi vượt hơn tình trạng họ đã nằm trong đó trước khi phạm tội, cũng là chủ đề cốt yếu của các sấm ngôn Thiên sai (Hs 14, 2- 9; Is 30, 26; 35; 40; 55; 60, 19; Ed 36, 23- 38). Thành ra tội nhân là đối tượng của một tình yêu vĩ đại hơn lúc ông ta hãy còn là người công chính chưa phạm tội.
"Ta chuộng nhân nghĩa chứ không phải là lễ tế": Dịch như vậy chưa phản ảnh đúng ý tưởng nguyên thủy của Hs 6,1. Chúa Giêsu không tìm lối biện minh thái độ của mình bằng cách nại đến lòng nhân từ của Thiên Chúa, là Đấng thích tội nhân ăn năn hoán cải hơn là cứng đầu chẳng chịu sám hối. Do đó Biệt phái không khiển trách Chúa Giêsu đã hoán cải tội nhân, cho bằng trách Người đã dùng các phương pháp xem ra coi thường các qui định về nghi lễ. Họ không chịu được cảnh Người hòa đồng với tội nhân đến độ đặt mình vào tình thế nhiễm lây sự ô uế chiếu luật của những hạng này. Vì vậy Chúa Giêsu mời họ đọc lại ngôn sứ Hôsê, kẻ từng khiển trách Israel là đã tỉ mỉ tuân giữ các quy định nghi lễ trong lúc lại phạm nhiều bất công xã hội tầy trời. Trước cảnh đó, Hôsê đã đặt vào miệng Giavê lời khẳng định này: "Ta muốn tình yêu chứ không muốn hy tế", nghĩa là muốn một tình yêu chân thành đối với tha nhân chứ không phải là các nghi lễ. (Khi dịch hạn từ Hy bá hésèd, "tình yêu, lòng trắc ẩn" ra eloas, nhân nghĩa, mật chỉ biết theo bản 70; khổ thay, hạn từ Hy lạp lại quá yếu so với hạn từ Hy bá): Thành thử qua lời trích dẫn Hôsê, Chúa Giêsu cho Biệt phái thấy rằng: khi lưu tâm đến kẻ tội lỗi, Người chỉ thực thi tình yêu mến tha nhân, là thứ tình yêu phải được đặt lên "trên mọi quy định về trong sạch chiếu luật - điều mà người biệt phái không làm. Lòng trung thành bên ngoài với Lề luật của họ đã dẫn họ đến chỗ khinh miệt tha nhân vậy.
"Ta không đến kêu gọi những người công chính mà là những kẻ tội lỗi": Theo truyền thống Biệt phái, chỉ có người công chính mới được Thiên Chúa yêu thương. Còn hạng tội lỗi chỉ kéo xuống trên bản thân cũng như trên tập thể cơn giận của người ta còn đi đến chỗ hồ nghi cả khả năng sám hối của họ nữa (Kn 12, 10). Do đó mấy tiếng này của Chúa Giêsu đã hoàn toàn đảo lộn vũ trụ quan của Biệt phái. Đây không chỉ là đặt lại vấn đề một tín điều đơn lẻ, nhưng còn nhắm đến chính bản chất của lòng đạo đức theo Lề luật và do đó đụng đến cảm thức sâu xa nhất về giá trị của tôn giáo cổ truyền. Điều tệ hại nhất là Chúa Giêsu đã dựa trên một nền tảng tôn giáo khách quan (câu trích dẫn Hôsê) để đảo lộn các giá trị đó. Thành ra không phải chỉ mình Người, mà còn chính Thiên Chúa phán xét như vậy.
Tuy nhiên cần lưu ý là không khi nào Chúa Giêsu phong thánh cho tội nhân và tội lỗi cả. Người chấp nhận với nhóm Biệt phái rằng hạng thu thuế-trộm cắp kiểu Matthêu là tội lỗi. Người cũng chẳng bảo là tội nhân giá trị hơn chính nhân đâu. Người không phân biệt đức công chính thực sự, chẳng hạn như của Abel, kẻ duy nhất được ‘người gọi là công chính’, x. Ml 23, 35 - với đức công chính giả hiệu của nhóm Biệt phái; nếu phân biệt, có lẽ Người sẽ đặt Biệt phái ngang hàng với hạng thu thuế hay còn thấp hơn nữa! ở đây Người chỉ muốn lấy lại thuật ngữ của Biệt phái mà chẳng phê bình, để họ hiểu được điều Người muốn nói.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu đến cứu vớt tất cả mọi người. Ai cũng có chỗ trong con tim Người và có chỗ trong Nước Thiên Chúa. Vấn đề là họ đừng tự đắc cho mình là công chính, có quyền đòi hỏi Thiên Chúa cứu rỗi, song là chân thành thân hối, từ giã quá khứ tội lỗi để bước đi theo Chúa Giêsu. Như thế, dầu xưa kia họ đã thuộc hạng xấu xa nào, họ vẫn có thể trở thành môn đồ thân tín của Người được.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thiên Chúa thường có những cách chọn lựa khiến tâm trí ta phải chưng hửng, ngạc nhiên. Ngài có những đường lối canh tân đời sống Giáo Hội một cách bất ngờ, qua trung gian những con người mà ta có khuynh hướng khinh rẻ, gạt sang một bên. Đường lối phong phú của Ngài, của Thánh Thần, vượt quá mọi phê phán, dự định của ta vậy.
2. Nếu chúng ta muốn theo Chúa Kitô, chúng ta cần phải đón nghe tiếng gọi của người và chấp nhận nhiều dứt bỏ. Vì theo Chúa Kitô không phải chỉ là trở nên như môn đồ của một ông thầy nào đó, chấp nhận giáo huấn, học thuyết của ông, là gắn bó vào con người của Người, giá trị tuyệt đối hơn.
3. Chúng ta phải biết cho những người đang cần Chúa những dấu hiệu thích hợp của tình huynh đệ, những dấu hiệu làm họ cảm nhận được tính cách cao cả và dịu dàng của việc giải với Thiên Chúa trong Chúa Kitô.
4. Chúng ta thường có khuynh hướng phân chia thế giới làm hai phe: Phe thiện (trong đó có chúng ta) và phe ác. Quả thật, thiện và ác chống đối nhau một cách trường kỳ, song là ở trung chính tâm hồn ta kia. Chúa Giêsu cũng thấy có hai phe như vậy. Nhưng Người không thấy có kẻ lành kẻ dữ, vì tất cả đều là tội nhân. Có kẻ tự coi mình là công chính, kẻ khác tự nhận mình là tội nhân. Chúa Giêsu đến kêu gọi những kẻ tội lỗi va Người bất lực trước những ai tự xem mình công chính.
5. Người ta thường bảo: Kitô hữu không tốt hơn những kẻ khác. Thực ra, cái đặc trưng Kitô hữu không phải là ở chỗ tốt hay xấu hơn. Người Kitô hữu là người chấp nhận đón nghe một tiếng gọi lớn hơn trái tim của mình theo nghĩa này, Kitô hữu có thể vượt lên, không phải trên những người khác, mà là chính mình, vì họ thừa nhận một tiếng gọi mà họ muốn đón nhận như ân sủng). Đồng thời, họ tự coi mình là kẻ tội lỗi, vì tiếng gọi đó cũng là lời phán xét họ.
6. Nhưng lời "phán xét" này chẳng những mặc khải tội lỗi của chúng ta. Nó đồng thời mặc khải tình yêu kiên nhẫn của Thiên Chúa, Đấng kêu mời chúng ta hãy sống và phát triển cái tốt nơi mình. Hơn nữa, Ngài còn đặt trong chúng ta một niềm hy vọng lớn lao mà chúng ta không hề tưởng đến: Ngài đổ Thánh Thần trong ta.
Thành Caphácnaum ngày nay chỉ còn lại những cảnh đổ nát nhưng vào thời Đức Giêsu là một:TN 10-A27
Thành Caphácnaum ngày nay chỉ còn lại những cảnh đổ nát nhưng vào thời Đức Giêsu là một đô thị sầm uất. Nằm ở ngã tư các con đường Bắc-nam và Đông-tây, thành ấy là một nơi trung chuyển, ở lối vào các lãnh địa của Hêrôđê, là nơi đến của các đoàn thương nhân từ Phương Đông. Người ta còn biết rằng đó là một thành phố có đủ loại nhân viên thuế quan và người thu thuế tô.
…thấy môt người tên là Mátthêu.
Trong hai cảnh, được trình bày song song của các sách Tin Mừng nhất lãm, có sự khác nhau về tên người: Người ấy tên là Lê vi, con ông An phê trong Máccô (2,14) và Lê vi trong Luca (5,27). Từ thời cổ đại, những nghi vấn đã nổi lên và sự đồng nhất giữa Matthêu và Lêvi... và về tác giả của Tin Mừng thứ nhất với ông Matthêu này. Tuy nhiên truyền thống từ thời cổ đại đã cho rằng chính Matthêu là người đã viết bản văn mà chúng ta đọc hôm nay. Từ đó, chi tiết này phải chăng là một sự bảo đảm?
…đang ngồi ở trạm thu thuế.
Đối với chúng ta ngày nay, nghề thu thuế không có gì là nhục nhã Nhưng phải đưa về tâm thức của thời đại Đức Giêsu Những người "thu thuế” bị mọi người bêu riếu sự bất lương thật sự hoặc giả định của họ: Họ phải trả cho chính quyền sử dụng họ một khoản tiền nào đó … và họ được tự do giữ lại mọi thứ họ muốn của những người bị trị! Trong thực tế, họ "bóc lột" dân nghèo. Hơn thế nữa, họ thường xuyên tiếp xúc với những người La Mã, với những người ngoại giáo, họ sống trong tình trạng thường xuyên bị ô uế theo Luật. Và với danh nghĩa ấy, họ bị loại khỏi mọi cuộc hội họp để cầu nguyện: đó là những kẻ tội lỗi công khai.
Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi!”. Ông đứng dậy đi theo Người .
Khi chọn một người thu thuế bị mọi người ghét bỏ, Đức Giêsu đã làm một hành động khiêu khích, có hại đến thanh danh, có thể làm cho mọi tín hữu tình cờ của cộng đoàn mới mẻ mà Người định thành lập bỏ đi. Phải có nhiều can đảm và nhân cách, Đức Giêsu mới có thể đi ngược chiều với mọi dư luận của thời đại mình. Đức Giêsu là một con người tự do! Hành động cách mạng này phải có một tầm quan trọng cao cả để Người dám thực hiện khi vượt lên trên mọi quy ước của tôn giáo và xã hội. Chốc nữa, chúng ta sẽ thấy ý nghĩa và Đức Giêsu đem lại cho hành động điên rồ đó. Còn giờ đây, chúng ta thử nhận định sự táo bạo của cử chỉ ấy: Đức Giêsu đã đưa vào trong "cộng đoàn các Tông Đồ" một con người tai tiếng, một viên chức tội lỗi và bị ghét bỏ … để làm cho người ấy thành một trong mười hai trụ cột của Giáo Hội cùng với Phêrô, Anrê, Gioan và những người khác Đức Giêsu là một con người có tầm nhìn cao cả? Còn chúng ta? Chúng ta có khả năng thoát khỏi cái “người ta sẽ nói gì đây" để khẳng định một số xác tín quan trọng? Chúng ta có phải là những người xếp loại và đóng khung một số người dưới những nhãn hiệu đáng khinh? Chúng ta có thể vượt qua những rào chắn của xã hội đến mức độ nào, những rào chắn làm chúng ta tách lìa những con người nam cũng như nữ có lẽ đang cần đến chúng ta?
Đức Giêsu đang dùng bữa trong nhà, thì kìa, nhiều người thu thuế và người tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ.
Matthêu đã ăn mừng ơn gọi của mình bằng việc tổ chức một bữa ăn (Lc 5,29). Dĩ nhiên có những đồng nghiệp của ông, cả một đám người "người' thu thuế" bẩn thỉu và những "'con người đáng ghét". Và người ta ăn, uống, ca hát."Thật là một cớ gây vấp ngã? Luca sẽ kể cho chúng ta một câu chuyện giống như thế với một đồng nghiệp thu thuế khác có tên là Dakêu: Đức Giêsu đã phải bắt đầu lại những “cú” như thế nhiều lần (Luca 19,1-10). Và người ta không thể quên điều đó.
Thấy vậy những người Pharisêu nói với các môn đệ Người rằng: "Sao Thầy các anh lại ăn uống với .. bọn thu thuế, và quân tôi lỗi như vậy?”
Phải, Đức Giêsu không bằng lòng với việc "kêu gọi" một kẻ tội lỗi trở thành tông đồ... Người còn dám "ngồi cùng bàn, ăn cùng mâm" với người ấy. Vậy mà Người còn “tái phạm" thường xuyên đến nỗi Người mang tiếng gây vấp ngã đối với những người suy nghĩ đàng hoàng chín chắn: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" (Mt 11,19). Để hiểu ý nghĩa sâu xa thái độ này của Đức Giêsu, phải biết những tập tục của người Do Thái. Mời một người đến ăn chung hoặc đến ăn chung với một người nào không phải là một thái độ- không quan trọng. Đó là chấp nhận sự thân mật với người đó “Bữa ăn" hoàn toàn là một biểu tượng. Người ta không ăn bất cứ món gì nhưng chỉ ăn những món ăn theo nghi thức. Người ta không ăn với bất cứ ai, nhưng chỉ với những người mà người ta có thể trở thành bạn bè và những người “thanh khiết" theo nghi thức. Vậy, một cách chính đáng, những người Pharisêu đã đặt ra cho Đức Giêsu một câu hỏi hoàn toàn bình thường. Chúng ta không có quyền: lên án họ. Dẫu sao họ chỉ muốn trung thành với đức tin và các tập tục tôn giáo. Và điều đó luôn luôn đáng được khâm phục. Nhưng thế thì Đức Giêsu phải giãi bày thôi. Thái độ của Người có ý nghĩa gì?
Nghe thấy thế, Đức Giêsu nói: "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần".
Đức Giêsu không hay đến những nơi mang tiếng xấu chỉ để tạo ra xúc động khó chịu, hoặc bởi môt thái độ hàm hồ, nhưng để "giúp đỡ"... như một người thầy thuốc dám đụng vào những vết thương có mủ nhưng tránh không để bị lây nhiễm ngõ hầu chữa lành người bệnh.
Chúng ta phải chiêm niệm điều mà câu nói ấy mạc khải cho chúng ta ngôi vị, tấm lòng, và sứ vụ của Đức Giêsu không những tội lỗi không làm Đức Giêsu chán nản, nhưng Người còn cảm thấy những nỗi thống khổ của chúng ta lôi kéo Người đến gần, cũng như người thầy thuốc đến gần bệnh nhân. Trong Kinh Thánh từ ngữ "thầy thuốc" này thường được áp dụng cho Thiên Chúa, chỉ Thiên Chúa mới có thể cứu chữa dân Người, băng bó vết thương và đem lại cho dân sức khỏe (Is 30,26; Xh 15,26). Chúng ta còn nhận thấy tính chất rất hiện đại trong cách đối xử người tội lỗi như một "người bệnh". Có những thời kỳ người ta đã phán xét rất nhiều, và quy kết tính chất tội lỗi cho... những người làm điều xấu. Ngày nay, hầu như người ta có xu hướng ngược lại khi giả định rằng mọi kẻ tội lỗi đều không có trách nhiệm. Tư tưởng của Đức Gìêsu quân bình 'hơn’ điều xấu vẫn là một điều xấu... nhưng phải tấn công để chữa trị nó. Đức Giêsu không để cho tội lỗi gây ra bất cứ sự tổn hại nào: Người không nói rằng những thu thuế bóc lột người nghèo là đúng. Nhưng thay vì kết tội họ từ bên ngoài, người cho họ cơ hội để được chữa lành.
Có cả ngàn cách để ‘lên án’ những người khác. Có cả ngàn cách để trở thành Pharisêu. "Tôi như các ông biết đấy tôi không phải là người hành đạo, nhưng tôi còn "ngon lành hơn ông này, bà kia siêng năng đi lễ …". Hoặc ngược lại: “tôi, như các ông biết đấy, tôi không bao giờ bỏ lễ". Trong cả hai trường hợp trên, người ta tự coi mình như một người tốt lành! Người môn đệ chân chính của Đức Giêsu, là một người "tự biết mình là người tội lỗi" và thường đến gần Đức Giêsu Thầy Thuốc - để được chữa lành. Những Kitô hữu chân chính không phải là những người tốt hơn những người khác, đó là những người -dù nam hay nữ- biết mình là "những người bệnh": căn bệnh thật sự, chính là tội lỗi … và chúng ta đều là những kẻ tội lỗi. Mọi thánh lễ đều đầy ắp những lời cầu xin tha thứ.
Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế".
Khi đụng chạm những ‘người tu hành nhất’ của thời đại Người, Đức Giêsu không vi phạm một cách độc đáo đạo đức thông thường mà người ta vẫn nghĩ rằng được dựa trên chính Luật mà Thiên Chúa ban cho Môsê. Người hành động như thế không do sự thúc đẩy bởi một quan điểm cá nhân ít nhiều có sự khoan dung, mà bởi lòng trung tín với Thiên Chúa, Người lui tới với những người tội lỗi. Chính vì thế, Người đã thuật lại cho họ một Lời của Thiên Chúa rút ra từ Kinh Thánh, cuốn sách mà họ tự hào tuân theo một cách tỉ mỉ. Đối với Đức Giêsu, câu ấy trong sách ngôn sứ Hôsê (6,6) phải có một tầm quan trọng cao cả. Nó được nhắc lại hai lần trong Tin Mừng (Mt 9,13-12,7).
Đức Giêsu khẳng định sự ưu tiên của tình yêu trên phụng tự, và của lòng nhân hậu trên lễ tế. Khi nói như thế Người tự đồng hóa với Thiên Chúa chữa lành và tha thứ
Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.
Nghe những lời ấy đối với chúng ta tốt lành biết bao, chúng ta vốn là những người tội lỗi! Đức Giêsu không bao giờ tuyệt vọng vì một người tội lỗi. Đức Giêsu tiếp tục hy vọng rằng con người dù tồi tệ nhất có thể thay đổi đời sống. Vậy bản thân chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa nhìn chúng ta với tình yêu thương hoặc dù chúng ta chán nản, thất vọng, vì chính sự ghê tởm tội lỗi của mình xâm chiếm tâm hồn chúng ta. Nhưng đối với những ngườikhác cũng thế, chúng ta phải giữ niềm hy vọng họ sẽ biến đổi: dù họ là người bạn đồng nghiệp, thành viên trong gia đình chúng ta, đứa con trai, đứa con gái, người phối ngẫu.
Tôi không đến để kêu gọi người công chính, người đạo đức" Mỗi lần chúng ta khinh bỉ những ‘người tội lỗi’, chúng ta phản bội chính Đức Giêsu Kitô. Giáo Hội của Đức Giêsu không có quyền trở thành một Giáo Hội của những siêu Kitô hữu mà là Giáo Hội của những người tội lỗi.
Sau khi đã trình bày bài diễn từ đầu tiên (Bài Giảng trên núi: ch. 5–7), tác giả TM I chuyển sang phần tường thuật chứng tỏ uy quyền của Đức: TN 10-A28
Sau khi đã trình bày bài diễn từ đầu tiên (Bài Giảng trên núi: ch. 5–7), tác giả TM I chuyển sang phần tường thuật chứng tỏ uy quyền của Đức Giêsu (ch. 8–9): Người có thể cứu chữa mọi người ở bên lề xã hội, những người bị loại trừ, và kiến tạo một cộng đoàn các môn đệ gồm những con người đã được Người cứu chữa. Truyện Đức Giêsu gọi Mátthêu nằm trong bối cảnh này: Mátthêu là một người thu thuế, tức là một người ở ngoài vòng xã hội Do-thái, một con người bị coi là tội lỗi; Đức Giêsu đã gọi ông làm môn đệ, nên đã gây ra sự bất bình; nhưng Người chứng minh cho biết vì sao Người làm như thế.
Chủ đề của phân đoạn là quyền lực của lời Đức Giêsu: lời có sức cứu chữa và kiến tạo.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu gọi Mátthêu ((9,9);
2) Tranh luận giữa nhóm Pharisêu và nhóm Đức Giêsu (9,10-11);
3) Lập trường của Đức Giêsu (9,12-13).
3.- Vài điểm chú giải
- một người tên là Mátthêu (9): Hầu chắc người có tên Mátthêu này cũng là Lêvi trong Mc (2,14) và Lc (5,27) và là một thành viên của tông đồ đoàn (x. 10,3). Ông thu thế tại Caphácnaum; như thế, ông không trực tiếp làm việc cho người Rôma, mà là cho vua Hêrôđê Antipa.
- trạm thu thuế (9): Trong Luật Rôma, các nhân viên thu thuế được gọi là publicani, còn những phụ tá của họ giúp thu gom tiền của được gọi là partitores. Cả hai nhóm đều bị coi như là quân trộm cắp và bóc lột, nên bị mọi người khinh bỉ. Sự khinh bỉ lan sang cả thân nhân của người thu thuế (x. Mt 5,46; 18,17; 21,31; Lc 18,11). Theo Luật Do-thái, người thu thuế không được làm chứng tại tòa án. Nếu muốn hoán cải, họ phải hoàn trả lại tất cả những gì họ đã thủ đắc bất chính, cộng với hai mươi phần trăm của cải của họ.
- dùng bữa tại nhà ông (10): Bên Đông Phương (và dĩ nhiên tại Paléttina), việc ăn uống với nhau không chỉ để giải quyết nhu cầu dinh dưỡng, nhưng còn là một nghi thức biểu tượng diễn tả sự gần gũi và sự nhất trí của các người đồng bàn. Một trong những điều không xứng đáng mà một người môn đệ của Do-thái giáo chính thức phải nhớ, đó là ăn chung với đám dân quê mùa, không biết tuân thủ tất cả các nghi thức được truyền thống các tôn sư quy định.
- thầy thuốc (12): Coi tội lỗi là các vết thương, hoặc bệnh tật, và sự tha thứ là việc săn sóc của thầy thuốc để chữa lành, là một lối sánh ví ẩn dụ quen thuộc trong Cựu Ước (x. Đnl 32,39; Is 1,6; 19,22; Hs 5,13; 7,7;…). Đề tài chính của các sấm ngôn về Đấng Mêsia là tình trạng của người tội lỗi được tha thứ sẽ khá hơn tình trạng của họ trước khi phạm tội (x. Hs 14,2-9; Is 30,26; Ed 36,23-38). Vậy kẻ tội lỗi là đối tượng của một tình yêu lớn lao hơn tình yêu họ nhận khi còn là người công chính (trước khi phạm tội). Đấy là chân lý mà thánh Phaolô đã nhận ra khi nói: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20). Ngài không có ý nói là cứ việc phạm tội đi, để được nhận thêm ân sủng; ngài muốn nói rằng có ý thức mình có tội, mới thấy mình được ân sủng của Thiên Chúa che phủ đến thế nào.
- Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế (13): Tác giả TM dùng từ eleos, “lòng nhân”, của Bản LXX. Từ này dịch từ Híp-ri [k]hesed (x. Hs 6,1). Từ [k]hesed có ý nghĩa rộng hơn từ eleos nhiều: “lòng tốt”, theo nghĩa là “ý chí có sự sẵn sàng chiếu cố đến [một người]” (x. St 47,29; Gs 2,12-14; 1 Sm 20,14-15; R 1,8; 3,10). Nhưng nghĩa ưu tiên là lòng tốt, lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với con người; do đó, có khi còn có thể dịch là “lòng từ bi thương xót”, “ân sủng, ân huệ”; “sự sủng ái, sự chiếu cố”… Trong Tân Ước, có một từ có thể diễn tả được tất cả các sắc thái của [k]hesed là agapê, “bác ái”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu gọi Matthêu (9)
Bản văn cho thấy, giống như ở 4,23, Đức Giêsu là một ngôn sứ, một nhà thừa sai (“đi ngang qua”) loan báo Lời Chúa và thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tới (“thấy”) những con người mà Người gặp, để rồi mời họ bước theo Người. Sức mạnh của Lời Người được chứng tỏ bằng việc tức khắc tạo những thay đổi nơi con tim kẻ được gọi. Mátthêu tức khắc bỏ nghề nghiệp mà đi theo Người. * Tranh luận giữa nhóm Pharisêu và nhóm Đức Giêsu (10-11)
Luật về sạch và dơ của người Pharisêu đã dạy phải tránh mọi quan hệ với những người không có tiếng tốt, những người phong cùi, những người có tội công khai. Đức Giêsu nhất quyết điều chỉnh lối thực hành này, bởi vì trước mặt Thiên Chúa, bất cứ sự phân biệt đối xử nào cũng là võ đoán và bất công. Do đó, Người đã “ngồi với” (meta) những người thu thuế, hầu như giống một người trong họ. Người vẫn tỏ ra là thầy, hiện diện với tất cả phẩm cách, nhưng không làm cho bầu khi vui tươi của bữa tiệc trở nên nặng nề bằng những lời trách móc hoặc bằng những thái độ tự cao, hay bằng một sự thinh lặng để lôi kéo sự chú ý. Người thân mật ngồi với họ, cùng ăn cùng uống với họ, tham gia vào những câu chuyện của họ, tức là bề ngoài y như họ (“bạn” của họ: 11,19). Người Pharisêu không chấp nhận được cách xử sự này.
* Lập trường của Đức Giêsu (12-13)
Đức Giêsu đã biện minh cho cách xử sự của Người trước tiên bằng một câu tục ngữ (c. 12), rồi sau đó bằng một câu trích Kinh Thánh (c. 13a) và kết luận bằng một câu châm ngôn tóm tắt đường lối truyền giáo của Người (c. 13c). Đức Giêsu không hành động như thế để khích bác người Pharisêu, nhưng vì những lý do sâu xa hơn. Nếu Người quan hệ với những người thu thuế và người tội lỗi, là bởi vì họ cần sự hiện diện và sự giúp đỡ của Ngài hơn, cũng như người bệnh cần thầy thuốc hơn là người khoẻ mạnh. Những người thu thuế và tội lỗi, cho dù họ không tự nghĩ về mình như vậy, đang là những người bệnh, nghĩa là những người về phương diện luân lý là không lành mạnh hoặc không hạnh phúc, nên cần được chăm sóc và chữa trị.
Câu trích Hs 6,6 chính là chìa khóa giúp hiểu chương trình làm việc của Đức Giêsu và các môn đệ Người. Kế hoạch hành động này phải thấm nhuần ân sủng và lòng từ bi thương xót, chứ không cứng cỏi, không nhắm bề ngoài, không vụ hình thức. Đức ái có quyền ưu tiên trên mọi luật lệ tích cực của loài người.
Lời cuối cùng, “tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (c. 13), có giọng điệu mỉa mai. Bởi vì người Pharisêu tự coi mình là “công chính”, thì họ đâu có cần được cứu độ! Chỉ những ai tội lỗi mới cần ơn cứu độ mà thôi. Nhưng nếu vậy, lời này cũng là một lời khuyến cáo người Pharisêu hãy đi xuống khỏi vị trí cao ngạo phân biệt đối xử hiện nay, để thấy mình cũng chỉ là con người tầm thường như bất cứ ai và cũng cần được tha thứ, cứu chữa. Những người thu thuế là những người bệnh mà không biết; người Pharisêu cũng là những người bệnh dù cảm thấy mình công chính. Hoàn cảnh của họ còn tệ hơn. Bởi vì để nhận được lời kêu gọi ân sủng, người ta phải cảm thấy mình tội lỗi. Khả năng đón nhận ơn cứu độ tỷ lệ với tình trạng nghèo khó và túng cực con người ý thức về mình khi ở trước nhan Thiên Chúa (x. Mt 5,3). + Kết luận Bản văn không có mục đích thông tin cho chúng ta về các hoàn cảnh của ơn gọi Mátthêu, nhưng nhằm cho thấy qua tấm gương của ông, thái độ mà người tín hữu phải có đối với Đức Giêsu, đó là sẵn sàng đáp lại tiếng Người mời gọi.
Không bao giờ Đức Giêsu “phong thánh” cho những kẻ tội lỗi. Người đồng ý với người Pharisêu rằng những người thu thuế như Mátthêu đúng là “quân tội lỗi”. Người cũng không bao giờ bảo rằng những kẻ tội lỗi đáng trọng hơn những người “công chính”. Người chỉ giới thiệu Nước Trời và sứ mạng của Người là cứu mọi người không trừ ai, bởi vì mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương (x. 5,45).
Bữa tiệc tại nhà Mátthêu chính là hình ảnh của Họi Thánh mà tác giả Tin Mừng I muốn để lại cho cộng đoàn của ngài, một cộng đoàn gồm đa số là những Kitô hữu gốc Do-thái.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay đã là tín hữu, tu sĩ, linh mục rồi, tôi rất có thể nghĩ rằng tôi đã đáp lại tiếng Đức Giêsu kêu gọi, nên chẳng có gì phải bận tâm nữa. Thật ra, Đức Giêsu vẫn đang tiến đi, và vẫn đang mời gọi tôi bỏ mọi sự mà bước theo Người. Bởi vì ngày qua ngày, tôi lại có thể rơi vào cám dỗ muốn dừng lại nơi một “trạm thu thuế” nào đó, để nghỉ ngơi, để thụ hưởng. Trong khi đó, cuộc hành trình mà Đức Giêsu đã đưa tôi bước vào không cho phép tôi ngừng lại. Hoặc là tiếp tục bước đi, hoặc là phản bội.
2. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa quan tâm đến con người, đi tìm con người. Cứ nghĩ đến lời Đức Giêsu bảo để lễ vật lại nơi bàn thờ mà đi tìm người anh em bị xúc phạm (x. Mt 5,24) thì hẳn chúng ta lại hiểu hơn nữa bài học trong bài Tin Mừng hôm nay. Nói ra thì có vẻ vô phép, và phạm thượng nữa, nhưng nếu cứ đi theo dòng suy luận của Đức Giêsu, thì dường như con người quan trọng cũng bằng, nếu không phải là hơn Thiên Chúa! Bởi vì Thiên Chúa có thể chờ được, còn con người thì không.
3. Đứng xa xa, kết án người khác theo những tiêu chuẩn của mình, thì dễ, vì lúc đó, mình cảm thấy mình sạch tay, mà mình không phải hy sinh, thiệt thòi gì cả. Đi vào chia sẻ cuộc sống với người ta, để cứu người ta ra khỏi tình trạng bần khốn, thảm hại, thì khó hơn, bởi vì tay chân mình sẽ phải lấm bùn. Nhưng nếu không làm như thế, người tín hữu không phải là con của một vì Thiên Chúa đã nói “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế”, cách rất cụ thể, nơi Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể.
4. Nhóm môn đệ của Đức Giêsu hẳn là phải học lấy bài học này: Họ được gọi không phải vì họ có vô số tài năng, cao dày đức độ, nhưng chỉ vì Đức Giêsu muốn bày tỏ lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa cho họ. Điều này, các môn đệ của Đức Giêsu sẽ hiểu thấm thía, vào ngày họ nghe các phụ nữ từ mộ Đức Giêsu về mà nhắn lời Thầy rằng: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (Mt 28,10; x. c. 7). Họ hiểu là họ đã được tha thứ (thêm một lần nữa!), và được mời gọi làm chứng về tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa mà họ đang được hưởng nhờ.
Suy nghĩ về các Tông đồ, ta không hiểu tại sao Chúa chọn Phêrô làm Giáo hoàng trong khi ông:TN 10-A29
Suy nghĩ về các Tông đồ, ta không hiểu tại sao Chúa chọn Phêrô làm Giáo hoàng trong khi ông ít học, lại có nhiều khuyết điểm và nhất là đã phạm tội chối Chúa.
Cũng như hôm nay, việc Chúa gọi Matthêu khiến nhiều người ngỡ ngàng. Matthêu là người thu thuế. Thời ấy, đế quốc Rôma đô hộ nước Do thái. Người thu thuế bị coi là tiếp tay với đế quốc, và gian tham bóc lột người dân. Vì thế người thu thuế bị coi là người tội lỗi bị mọi người lên án, khai trừ. Thế mà Chúa gọi ông làm môn đệ Người. Chẳng ai có thể ngờ. Cả bản thân Matthêu có nằm mơ cũng chẳng dám nghĩ tới.
Ơn gọi quả thật là một mầu nhiệm. Đó là mầu nhiệm tình yêu. Chúa chọn một người không phải người đó xứng đáng. Chúa chọn con người vì lòng yêu thương của Người.
Tình yêu của Chúa là tình yêu quan tâm. Chúa quan tâm tới từng người, kể cả người tội lỗi. Qua các dụ ngôn “con chiên lạc”, “đồng bạc đánh mất”, ta thấy Chúa quan tâm tới cả những người bé nhỏ nghèo hèn, đi tìm một con chiên bé bỏng lạc mất, đốt đèn quét nhà vì một đồng tiền chẳng có bao nhiêu giá trị. Sự quan tâm khiến Chúa nhìn lên cây sung tìm kiếm ông Giakêu. Sự quan tâm khiến Chúa để mắt nhìn ông Matthêu, dù ông đang ngồi tại bàn thu thuế, nơi mà người Do thái không bao giờ thèm ghé mắt nhìn. Tình yêu của Chúa là tình yêu tha thiết. Chúa biết rõ người ta yếu đuối hay sa ngã. Nhưng tình yêu Chúa mạnh hơn sự yếu đuối của con người. Ân sủng Chúa lớn lao hơn sự dữ của tội lỗi. Lòng thương xót Chúa lớn lao hơn trí tưởng tượng của con người. Nên Chúa có thể tha thứ tất cả. Cả những người bị đồng loại kết án vẫn nằm trong trái tim Thiên Chúa. Nên Chúa đã tha thứ cho Matthêu dù ông chưa bao giờ xin lỗi Chúa.
Tình yêu của Chúa là tình yêu tin tưởng. Vì yêu nên tin. Tin người yếu đuối có thể nên vững mạnh. Tin người lạc lối có thể trở lại đường ngay. Tin người lỡ lầm có thể làm lại cuộc đời. Vì tin nên mời gọi và trao nhiệm vụ. Tin tưởng mời gọi ta cộng tác vào công trình cứu độ. Tin tưởng trao vào tay ta cả kho tàng ơn thánh. Tin tưởng trao cho ta vận mệnh các linh hồn. Tôi là ai mà được Chúa tin tưởng đến thế? Tình yêu của Chúa hướng về tương lai. Quên hết những lỗi lầm quá khứ. Không bao giờ nói đến quá khứ. Không bao giờ mất thời giờ trách móc những lỗi lầm đã qua. Tình yêu chúa mở cho ta một chân trời mới. Tình yêu Chúa đóng lại quá khứ, mở cửa tương lai. Tình yêu Chúa cho ta cơ hội mới để làm lại cuộc đời.
Tình yêu Chúa thật lớn lao nhưng cũng thật dịu dàng. Tình yêu Chúa trân trọng con người. Tình yêu Chúa đem lại tự do. Tình yêu Chúa đi những bước sáng tạo đầy bất ngờ. Ai đã cảm nhận được tình yêu của Chúa sẽ không thể chối từ lời Người mời gọi.
Matthêu đã cảm nhận được tình yêu đó qua ánh mắt nhân từ của Chúa. Ông đã cảm nhận được sự trân trọng qua lời nói dịu dàng của Chúa. Nên Ông đã lập tức đáp lại lời mời gọi của Chúa. Ông còn tổ chức tiệc mừng vì được theo chúa. Ông mừng vì dứt bỏ được quá khứ đen tối đè nặng tâm hồn. Ông mừng vì gặp được Đấng Cứu độ, đưa tâm hồn ông vào tình yêu, vào khung trời tự do. Ông mừng vì Chúa tin tưởng, trao vào tay ông cả một tương lai tươi đẹp với ơn gọi tông đồ, với trách nhiệm cứu nhân độ thế.
Hôm nay Chúa cũng đang quan tâm tới mỗi người. Chúa nhìn ta. Chúa tin tưởng ta. Chúa trao vào tay ta một tương lai mới. Chỉ cần ta đóng lại cánh cửa quá khứ và sống theo lời Người, ta sẽ bắt đầu đổi mới cuộc đời.
Lạy Chúa con tin Chúa yêu thương con. Xin cho con nhận biết tình yêu của Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1) Có khi nào bạn nghĩ rằng những người tu trì là bất xứng?
2) Thái độ của Chúa đối với Matthêu dạy ta phải đối xử với tha nhân thế nào, nhất là những người ta coi là tội lỗi?
3) Chúa quên hết quá khứ và tin tưởng vào bạn? Tâm đắc điều này, bạn sẽ sống thế nào?
Trong lịch sử Dân Thiên Chúa và Hội Thánh, năm từ ngữ Lề Luật, ân sủng, Đức Tin, việc làm và công chính đã là những đề tài gây ra nhiều tranh: TN 10-A30
Trong lịch sử Dân Thiên Chúa và Hội Thánh, năm từ ngữ Lề Luật, ân sủng, Đức Tin, việc làm và công chính đã là những đề tài gây ra nhiều tranh luận và tranh chấp sôi nổi giữa những người Biệt Phái và Chúa Giêsu, giữa những người Do Thái tòng giáo và Dân Ngoại tòng giáo thời các Thánh Tông Đồ, rồi giữa những người Tin Lành Cải và Công Giáo như trong nửa kỷ nguyên qua.
Trong Bài Phúc Âm tuần này, một số người Biệt Phái thấy Chúa Giêsu đồng bàn với những người thu thuế nên đã thắc mắc rằng tại sao Người lại ngồi ăn với những người tội lỗi. Sở dĩ họ thắc mắc như thế vì họ cho rằng chỉ có họ là những người công chính bởi họ lúc nào cũng mang theo Lề Luật trên mình như Thiên Chúa truyền cho ông Môsê trong Bài Đọc Thứ Nhất tuần trước (Đnl 11, 18. 26-28), và giữ Lề Luật ấy cách rất tỉ mỉ. Họ tin rằng nhờ làm theo Lề Luật mà họ đã được nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Rồi họ dùng chính mình làm thước đo sự công chính của người khác. Họ cho rằng tất cả những ai không làm giống như họ đều là người bất chính, kể cả Chúa Giêsu.
Còn người thu thuế Matthêu chắc chắn là trước khi được Chúa gọi đã biết ít nhiều về Chúa, và được ơn Chúa cảm hóa tận đáy lòng nên đã tin vào Chúa, nhưng vì thấy mình tội lỗi nên không dám đi theo. Chỉ cần Chúa gọi một tiếng là “Hãy theo Ta” thì ông sẽ lập tức bỏ tất cả mà theo Chúa. Và hôm nay ông đã được toại nguyện, vì Chúa không những đã gọi, mà còn đến nhà ông để đồng bàn với ông cùng bạn hữu ông, và từ nay ông được đồng hành và đồng bàn với Chúa mỗi ngày trong đời ông như một trong những người bạn nghĩa thiết nhất của Chúa. Ân sủng của Thiên Chúa đã giúp ông Tin, và nhờ Đức Tin mà ông đã được Chúa coi là công chính, và nhờ đồng hành cùng đồng bàn với Chúa mà ông đã thật sự trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa vì ông đã học cùng Chúa Giêsu để mỗi ngày một nên giống Chúa hơn.
Trong bài Thánh Thư tuần trước, Thánh Phaolô nói rằng “con người nhờ đức tin mà được công chính hoá, chứ không phải bởi việc làm theo lề luật” (Rom 3:28). Trong bài đọc Chúa Nhật này Thánh Phaolô đưa lòng tin của ông Abraham ra làm gương mẫu cho chúng ta. Một lòng tin không nao núng… Ông đã không cứng lòng hồ nghi lời hứa của Thiên Chúa, trái lại, ông vững tin mà làm sáng danh Thiên Chúa, ông biết chắc chắn rằng Thiên Chúa có quyền năng thi hành điều Người đã hứa. Bởi đấy, ‘việc đó đã được kể cho ông là sự công chính’. Và Thánh nhân nhắn nhủ chúng ta rằng chúng ta cũng được nên công chính vì tin vào Đức Kitô, tin rằng Người đã “từ cõi chết sống lại, Người đã bị nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã sống lại để chúng ta được công chính hoá” (x. Rom 4:18-25).
Trong thời các Thánh Tông Đồ, những người Do Thái tòng giáo đã cho rằng mình công chính hơn những Dân Ngoại tòng giáo nên đã bắt họ phải giữ Luật Môsê, đến nỗi các Thánh Tông Đồ phải triệu tập Công Đồng Giêrusalem và công bố rằng: “Quyết định của Chúa Thánh Thần và chúng tôi là không đặt trên anh em một gánh nặng nào khác hơn những điều cần thiết này; là anh em hãy kiêng ăn những gì đã cúng cho ngẫu tượng, tiết, và thịt loài vật bị chết ngạt, và tránh gian dâm. Nếu anh em tránh những điều này, là anh em làm điều tốt rồi.” (TĐCV 15:28-29). Lại có những người bóp méo các Thư Thánh Phaolô và cho rằng con người chỉ cần Đức Tin là được nên công chính, đến nỗi Thánh Giacôbê phải viết rằng: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (x. Gc 2:14-17), và Thánh Phêrô phải nhắc nhở các tín hữu rằng: “Trước hết, anh em phải hiểu điều này, không một lời tiên tri nào trong Sách Thánh được giải thích theo ý riêng” (2 Phr 1:19), và ngài nói về các Thư của Thánh Phaolô rằng: “Trong các thư đó, có vài điều khó hiểu, mà những kẻ vô học và nông nổi xuyên tạc, cũng như với những câu Kinh Thánh khác, để đưa chúng đến chỗ diệt vong” (2 Phr 3:16).
Trong thời Cải Cách Tin Lành, Lutherô cũng cho rằng con người được công chính hóa nhờ Đức Tin mà thôi chứ không cần đến việc làm. Ông dạy rằng nhờ Đức Tin, Thiên Chúa lấy chính sự công chính của Đức Kitô mà che phủ lên con người tội lỗi, và từ đó người ấy “được kể là công chính trước mặt Thiên Chúa”, dù bên trong lòng vẫn đầy tội lỗi. Bao lâu người ấy còn Đức Tin là bấy lâu người ấy còn chắc chắn được cứu độ. Còn John Calvin thì cũng tin như Lutherô, nhưng ông còn dạy rằng, khi một người đã được công chính hóa nhờ Đức Tin thì người ấy chắc chắn được cứu độ, không thể mất linh hồn được nữa. Nhiều người Công Giáo lại cho rằng mình được nên công chính nhờ làm những việc lành, nên họ cũng như những người Biệt Phái, dựa theo việc làm bề ngoài mà phán đoán những người khác.
Theo giáo huấn của Hội Thánh từ thời các Giáo Phụ thì công chính hóa là một tiến trình. Thiên Chúa thật sự muốn chúng ta nên công chính, nên thánh, chứ không phải chỉ lấy sự công chính của Đức Kitô mà phủ lên trên chúng ta như Lutherô dạy. Hội Thánh dạy rằng không ai có thể nhờ sức riêng mình mà nên công chính trước mặt Thiên Chúa cả. Ơn công chính hóa là ơn chúng ta lãnh nhận cách nhưng không nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ nên Ngài ban ơn để những ai tin vào Lời Ngài mà chịu Phép Rửa thì được tha hết mọi tội lỗi và trở nên công chính trước mặt Ngài nhờ công nghiệp của Đức Kitô. Sau khi đã trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa, Ngài tiếp tục ban ơn để thánh hóa chúng ta. Nhưng vì Ngài tôn trọng sự tự do của chúng ta và không bắt buộc chúng ta phải nên thánh, cho nên chỉ những ai hợp tác với ơn Chúa bằng cách cố gắng sống theo gương Đức Kitô thì sau cùng sẽ được thật sự trở nên công chính.
Để giúp quý bạn hiểu thêm về ơn công chính hóa, chúng tôi xin tóm tắt Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo như sau.
I. Đức Tin và Ơn Công Chính Hóa
Công chính hóa là ân sủng Chúa Thánh Thần làm cho ta nên công chính nhờ tin vào Ðức Kitô qua bí tích Thánh Tẩy, và nhờ kết hợp với cuộc Vượt Qua của Người bằng cách chết cho tội lỗi. Công trình đầu tiên Chúa Thánh Thần thực hiện nơi ta là sự hoán cải. Dưới tác động của ân sủng, ta từ bỏ tội lỗi mà quay về với Thiên Chúa, nhờ đó được ơn tha thứ và sự công chính. Khi được công chính hóa, ta được hòa giải với Thiên Chúa, được giải phóng khỏi tội lỗi và được chữa lành. Sự công chính ở đây chỉ sự công minh chính trực của tình yêu Thiên Chúa. Cùng với ơn này, Ngài ban cho ta đức tin, đức cậy, đức mến, và ơn biết vâng theo thánh ý Ngài. Ta được công chính hóa nhờ cuộc khổ nạn của Ðức Kitô, Ðấng đã dâng mình trên Thánh Giá làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa, và Máu Người trở nên phương tiện đền tội cho mọi người. Ơn này giúp ta sống phù hợp với sự công chính của Thiên Chúa.
Ơn công chính hóa mở đầu cho sự cộng tác giữa ân sủng Thiên Chúa và sự tự do của con người. Về phía con người, ơn này được biểu lộ qua sự bằng lòng tin theo lời Thiên Chúa mời gọi hoán cải, và cộng tác bằng đức ái với tác động của Chúa Thánh Thần. Con người phải hợp tác với Chúa Thánh Thần khi đón nhận tác động này mà họ có thể từ chối. Tuy nhiên, không có ân sủng Chúa, họ không thể nhờ ý chí tự do của mình đạt tới sự công chính trước mặt Ngài. Chúa Thánh Thần là vị thầy nội tâm. Ơn công chính hóa khai sinh "con người nội tâm" và đem lại ơn thánh hóa toàn thể con người. (x. GLCG 1987-1995)
II. Ân Sủng
Chúng ta được công chính hóa nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Ân sủng là một ân huệ, một sự trợ giúp nhưng không mà Chúa ban để ta trở thành con cái Ngài. Ân sủng cho ta tham dự vào sự sống Thiên Chúa. Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta thành chi thể của Nhiệm thể Đức Kitô, và thành nghĩa tử Thiên Chúa, được gọi Ngài là "Cha". Chúng ta lãnh nhận sự sống của Chúa Thánh Thần. Ân sủng của Ðức Kitô là ân huệ nhưng không, qua đó Thiên Chúa ban cho ta sự sống của Ngài. Ðó là ơn thánh hóa hay thần hóa ta nhận được trong bí tích Thánh Tẩy. Ơn này là một trạng thái siêu nhiên bền vững, hoàn thiện hóa linh hồn để chúng ta có thể sống với Thiên Chúa và hành động nhờ tình yêu của Ngài. Chúng ta phân biệt ơn thường sủng và ơn hiện sủng. Ơn thường sủng là trạng thái thường xuyên để sống và làm theo tiếng gọi của Thiên Chúa, còn ơn hiện sủng là những can thiệp của Thiên Chúa lúc khởi đầu cuộc hoán cải hoặc trong quá trình thánh hóa (x. GLCG 1996-2000).
Chuẩn bị con người đón nhận ân sủng cũng là một công trình của ân sủng. Việc chuẩn bị này cần thiết để khơi dậy và nâng đỡ sự cộng tác của ta vào việc công chính hóa nhờ đức tin, vào việc thánh hóa nhờ đức ái. Thiên Chúa tự do đi bước trước, và Ngài muốn con người tự do đáp trả. Chỉ khi tự nguyện, con người mới có thể bước vào hiệp thông tình yêu (x. GLCG 2001-2002).
Ngoài mục đích thánh hóa chúng ta, ân sủng cũng gồm các ơn giúp ta có khả năng cộng tác vào việc cứu độ tha nhân và phát triển Hội Thánh. Ðó là các ân sủng bí tích, mỗi bí tích ban ơn riêng. Ngoài ra, còn có đặc sủng qui hướng về ơn thánh hóa và có mục đích phục vụ lợi ích chung của Hội Thánh. Trong các đặc sủng, có các ơn chức phận được ban cho người thi hành các nhiệm vụ của đời Kitô hữu và các thừa tác vụ trong lòng Hội Thánh. Vì ân sủng thuộc bình diện siêu nhiên, nên vượt tầm kinh nghiệm của ta, và chỉ nhận biết được bằng đức tin, nên ta không thể dựa vào tình cảm hay các việc làm để kết luận rằng ta đã được công chính hóa và được cứu rỗi. Tuy nhiên, việc suy niệm về các ơn Chúa trong đời ta và các thánh, cho ta một bảo đảm rằng ân sủng đang hoạt động trong ta, giúp cho đức tin của ta thêm lớn mạnh, và tín thác hơn vào Thiên Chúa (x. GLCG 2003-2005).
III. Công Phúc hay Việc Làm
Theo đúng nghĩa, chúng ta chẳng có công gì trước mặt Thiên Chúa. Nhưng vì Ngài đã tự do an bài cho ta cộng tác với ân sủng nên ta có thể lập công trước mặt Ngài. Công đầu tiên thuộc về ân sủng của Thiên Chúa. Khi nhận ta làm nghĩa tử, Ngài cho ta "đồng thừa tự" với Ðức Kitô. Công trạng của ta là hồng ân của Ngài. Trên bình diện ân sủng, không ai lập được công để đáng nhận ân sủng mở đầu cho các ơn hoán cải, tha thứ và công chính hóa, vì đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Sau đó, dưới tác động của Chúa Thánh Thần và đức ái, ta mới có thể lập công để đáng lãnh nhận cho mình và tha nhân những ân sủng hữu ích cho việc thánh hóa, gia tăng ân sủng và tình yêu, cũng như đạt được sự sống đời đời. Theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể lập công để đáng lãnh nhận những lợi ích trần thế như sức khỏe, tình bạn…. Các Kitô hữu vẫn cầu xin Thiên Chúa ban cho mình các ân sủng và lợi ích này. Lời cầu nguyện có thể làm Thiên Chúa thương nghe và ban ân sủng cần thiết giúp chúng ta làm những việc đáng thưởng. Tình yêu Ðức Kitô trong ta là nguồn mọi công trạng của ta trước mặt Thiên Chúa. Ân sủng kết hợp ta với Người trong tình yêu, bảo đảm tính siêu nhiên của các việc ta làm, do đó bảo đảm công trạng trước mặt Thiên Chúa và người ta. Các thánh luôn ý thức rằng công trạng của các ngài hoàn toàn do ân sủng (x. GLCG 2006-2011).
IV. Sự thánh thiện của Kitô hữu
Tất cả mọi Kitô hữu đều được kêu gọi nên thánh. Ðể nên thánh, chúng ta phải dùng các sức lực mà Đức Kitô đã ban để làm theo thánh ý Chúa Cha trong mọi sự. Chúng ta phát triển đời sống thiêng liêng để càng ngày càng kết hợp mật thiết hơn với Ðức Kitô. Sự kết hợp này được gọi là "thần bí", vì nhờ các bí tích và các mầu nhiệm thánh, ta được tham dự vào mầu nhiệm Ðức Kitô, và trong Người, ta được tham dự vào mầu nhiệm của Ba Ngôi. Con đường tiến đến hoàn thiện phải qua Thập Giá. Không tài nào đạt được sự thánh thiện, nếu không từ bỏ chính mình và chiến đấu nội tâm. Sự tiến bộ thiêng liêng đòi phải tu luyện và khổ chế. Là con cái của Mẹ Hội Thánh, chúng ta hy vọng Thiên Chúa là Cha sẽ ban ơn giúp chúng ta bền đỗ đến cùng và ban phần thưởng cho các việc, mà nhờ ân sủng của Ngài, chúng ta đã làm trong sự kết hợp với Ðức Kitô. Vì cùng sống theo một quy luật, ta được chia sẻ "niềm hy vọng hồng phúc" với những người mà Thiên Chúa đã quy tụ trong "thành thánh Giêrusalem mới từ trời" (x. GLCG 2012-2029).
Kết Luận
Ngày hôm nay, trong Hội Thánh, trong các giáo xứ và cộng đoàn Công Giáo Việt Nam khắp nơi, cũng vẫn có những xung đột giữa những người tự cho mình là công chính và những người khác. Có những người tham gia công việc chung mà quên cả bổn phận của mình đối với gia đình, và cho rằng như thế là công chính. Có những người sống ở nước ngoài, nhưng đòi những người trong nước, kể cả Hội Đồng Giám Mục, phải can đảm đứng lên tranh đấu cho nhân quyền theo ý họ. Có những người chỉ mới đi dự được một “buổi tĩnh tâm” hay một khóa “Thánh Kinh” đã tự cho là chỉ có khóa tĩnh tâm mình đi là tốt nhất, chỉ có mình là được ơn Chúa, là phải học Thánh Kinh như mình mới đúng, rằng chỉ có mình là biết Thánh Kinh và chê bai cả các linh mục là đã giảng sai hết. Vì tự cho mình là công chính, họ dùng việc làm của họ, sự hiểu biết của họ và quan niệm của họ làm thước đo sự công chính của người khác. Nếu người khác không làm như họ thì là những người bất chính. Mà một khi đã nghĩ rằng mình công chính thì tự đặt mình về phía những người Biệt Phái, là những người đã lành bệnh rồi, không cần Thầy Thuốc Giêsu nữa.
Lạy Chúa, xin giúp con luôn luôn ý thức rằng mình là người yếu đuối, không làm được việc gì công chính nếu không có ơn Chúa, để con luôn luôn biết đi theo Chúa và bám chặt lấy Chúa. Xin cho con có nhiều dịp đồng bàn với Chúa cùng các bạn bè con là những người mà Chúa trao cho con trong gia đình, ở sở làm và trong giáo xứ của con. Amen.
“Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”
Bạn thân mến,
Bạn có vui không khi đọc đoạn Phúc Âm trên đây ? Bạn có nhảy mừng lên không khi nghe Chúa Giê-su: TN 10-A31
Bạn có vui không khi đọc đoạn Phúc Âm trên đây ? Bạn có nhảy mừng lên không khi nghe Chúa Giê-su nói với những người Biệt Phái: “Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” Chắc chắn bạn rất vui mừng, và mọi người đều vui mừng, bởi vì những người tội lỗi chính là đối tượng kêu gọi và chữa lành của Chúa Giê-su, trong đó có bạn và tôi.
Chúa Giê-su đến để tìm bạn và tôi là những người tội lỗi, Ngài đi tìm chúng ta như mục tử đi tìm con chiên lạc: Ngài trèo non lội suối, Ngài đi khắp các nẻo đường, Ngài ngổi nghỉ bên vệ đường rồi tiếp tục đứng lên và đi tìm chúng ta, rồi vì để cứu chúng ta mà Ngài phải chịu tử hình chết trên Thánh Giá. Cái giá đi tìm và chuộc tội cho chúng ta thật quá đắc phải không bạn, nhưng Chúa Giê-su đã không màng đến giá đắc ấy, Ngài chỉ muốn tìm và đưa chúng ta vào trong trái tim yêu thương của Ngài mà thôi.
Bạn và tôi đều là những người mắc phải nhiều bệnh nan y: bệnh kiêu ngạo đã làm cho chúng ta thấy mình là trổi vượt trên mọi người; bệnh ích kỷ đã làm cho nhiều anh em khốn khổ vì mưu mô tính toán tư lợi của mình; bệnh thờ ơ của mình đã làm cho nhiều người khác phải thất vọng.v.v...Tất cả những bệnh nan y đó của chúng ta, ngày hôm nay Chúa Giê-su đã tuyên bố Ngài đến để chữa lành và tìm kiếm tội nhân, không bằng lời nói suông, mà bằng chính cái chết yêu thương nhân loại của Ngài.
Bạn thân mến,
Chúa Giê-su đã tìm bạn, tìm tôi và tìm những người tội lỗi khác để tha thứ, chữa lành. Ngài cũng muốn bạn và tôi học nơi Ngài tình thương ấy, để chúng ta cũng đi tìm và chia sẻ với những anh chị em bất hạnh khác, những người đồng cảnh ngộ là tội nhân như chúng ta, bằng chính những hy sinh, phục vụ cách thiết thực nhất, bởi vì chỉ có tin tưởng vào lời của Chúa Giê-su, mà chúng ta mới có niềm hy vọng và yêu thương để đi phục vụ tha nhân mà thôi.
Thiếu gì người tốt lành, thánh thiện, có học thức, có trình độ trong xã hội Do-Thái thời bấy giờ, thế tại:TN 10-A32
Thiếu gì người tốt lành, thánh thiện, có học thức, có trình độ trong xã hội Do-Thái thời bấy giờ, thế tại sao Chúa Giê-su không mời gọi họ làm tông đồ mà lại mời một người thu thuế thuộc diện tội lỗi như Matthêu?
Phải chăng Chúa Giê-su muốn tỏ cho chúng ta thấy rằng dù một ai đó bị xem là người hèn kém tội lỗi, thậm chí là kẻ đáng bị loại trừ như Matthêu, thì cũng có thể trở nên những người tốt lành thánh thiện, nếu những người chung quanh tạo cho người ấy một cơ hội để phục hồi nhân phẩm và vươn lên.
Có lần tôi lật một tảng đá lên và thấy có một cây nhỏ èo uột nằm bên dưới. Hình như nó nằm dưới tảng đá nầy đã nhiều năm, vừa bị khối đá ngăn chặn không cho vươn lên, vừa bị che chắn hết ánh sáng mặt trời, không thể quang hợp, nên trông nó rất bạc nhược, khẳng khiu. Sau khi tảng đá được lật qua bên, chỉ vài năm sau là nó vươn lên thành cây lớn.
Có một số cây muồng mọc trên đồi lâu nay bị những cụm cây bàn chải um tùm vây bọc chung quanh nên nó chỉ lớn lên được chừng gang tay rồi đứng ỳ ra đó không phát triển được. Sau đó, có người chặt phá lùm cây bàn chải đi, chúng mới được thông thoáng và vươn lên tươi tốt.
Nhìn vào con người, chúng ta cũng thấy điều tương tự. Có những người bị xã hội lên án, bị những người chung quanh khinh chê miệt thị hay bị vây bọc bởi bạn bè xấu, nên cứ trơ lì trong tật xấu thói hư, như trường hợp những cây non bị những cụm cây bàn chải vây bọc tư bề, nên họ không vươn lên thành người tốt được.
Nếu có ai đó gỡ bỏ những thứ cản trở đó đi, thì bản chất tốt trong con người họ sẽ vươn lên mạnh mẽ, họ sẽ trở thành người tốt như bao nhiêu người khác.
Tin Mừng hôm nay chứng tỏ điều đó.
Matthêu là nhân viên thu thuế cho Đế quốc Rô-ma, bị người Do-Thái thời Chúa Giê-su xem là người bóc lột, bị xếp vào hàng ngũ những người tội lỗi, bị gạt ra bên lề xã hội.
Chúa Giê-su cảm thương thân phận bị vùi giập của Matthêu. Người tạo cho Anh một cơ hội để chỗi dậy và vươn lên. Thay vì nhìn Matthêu bằng khoé mắt khinh miệt như những người Do-Thái thường làm, Chúa Giê-su tỏ ra tin cậy Anh, mời gọi Anh làm môn đệ của Người. Sau đó Người còn ở lại dùng bữa thân mật với Anh và bạn bè Anh.
Thế là bằng thái độ trân trọng và quý mến, Chúa Giê-su đã lật qua bên ‘tảng đá’ khinh dể đang đè nặng lên cuộc đời Matthêu, đã gỡ ông ra khỏi những thứ ‘gai góc’ che phủ, vây bọc cuộc đời Anh. Thế là từ đây, Matthêu chỗi dậy, đi theo Chúa Giê-su, trở thành tông đồ của Người và lại trở thành tác giả sách Tin Mừng thứ nhất. Từ đó, Matthêu được muôn người tôn kính trong suốt dòng lịch sử Hội Thánh.
Người mà thiên hạ tưởng là đồi bại xấu xa, hết thuốc chữa, đáng bị loại trừ… thật ra vẫn có mầm tốt bên trong, nhưng mầm tốt đó còn bị cản trở bởi nhiều lực cản nên chưa vươn lên được. Vậy thay vì khinh chê, loại trừ, phế bỏ, chúng ta hãy tạo cho họ một cơ hội để vươn lên.
Chỉ bằng cái nhìn thiện cảm, cái vỗ vai thân mật, một lời nhắn nhủ ân cần, Chúa Giê-su đã tạo cho Lê-vi lầm lạc một cơ hội để trở nên người cao cả.
Biết bao người lầm lạc hôm nay cũng đang cần những cử chỉ trìu mến và trân trọng như thế để vươn lên đổi đời, để trở thành người mới có phẩm chất cao đẹp, vậy tại sao chúng ta lại chối từ?
Khi thấy người sắp chết đuối ngoi ngóp dưới giếng sâu, chúng ta sẵn sàng thòng giây cứu vớt; vậy khi thấy một con người sa đoạ đang chênh vênh bên bờ vực thẳm, xin vui lòng cho họ một cơ hội để phục hồi nhân phẩm và vươn lên thành người cao đẹp như mọi người.
“- HÃY THEO TÔI ! Ông đứng dậy và đi theo Người” (Mt. 9:9)
Bạn thân mến !
Trên đây là dòng chữ ngắn ngủi tường thuật về việc Chúa Giêsu kêu gọi Mát-thêu khi Ngài đi: TN 10-A33
Trên đây là dòng chữ ngắn ngủi tường thuật về việc Chúa Giêsu kêu gọi Mát-thêu khi Ngài đi ngang qua phòng thu thuế, nơi ông đang làm việc. Khi nghe tiếng Chúa mời gọi, Mát-thêu đã làm gì ? Ông phản ứng ra sao? Xin thưa: Ông đã bàng hoàng ngơ ngác, không nói được nửa lời, nhưng đã tức khắc đứng lên, bỏ mọi sự để đi theo Ngài.
Mát-thêu là người thu thuế, ông bị dân chúng khinh chê xỉ vả, chòm xóm lẩn tránh, những người đạo đức lạnh nhạt với ông, họ lên án và buộc tội ông là đứa hợp tác với La Mã, là quân ăn cướp, là kẻ bóc lột, lưu manh... nhưng Chúa Giê-su đã tìm kiếm ông, đã chọn và mời gọi ông làm môn đệ của Ngài.
Phải chăng việc Chúa Giê-su đi ngang qua trạm thu thuế, nơi Mát-thêu đang làm việc là chuyện tình cờ ? Phải chăng Chúa Giê-su mời gọi Mát-thêu là chuyện ngẫu nhiên, không chuẩn bị trước ? Không phải thế, vì chính Ngài đã lên tiếng nói về Công Trình Cứu Độ của Ngài với các người Pharisêu tại nhà ông Mát-thêu: ”Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần... Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi" (Mt. 9:13)
Khi Mát-thêu được Chúa đến, Ngài lên tiếng mời gọi ông: “Hãy theo tôi”. Ông đã tức khắc đứng lên đi theo Chúa. Phải chăng việc đứng lên tức khắc để theo Chúa là một hành động nông nổi không suy tính trước ? Phải chăng việc mau mắn bước đi theo Chúa, rồi mời Chúa về nhà ăn uống và còn giới thiệu Chúa cho bạn bè của mình là một hành động hoang tưởng và không thực tế … Không phải thế. Vì “tất cả là tình yêu và do tình yêu”. Chính tình yêu đã mời gọi và hoán cải ông, tình yêu đã biến đổi phận người. Tình yêu chân thành đã vang lên tiếng mời gọi: "Hãy theo Tôi" và Mát-thêu đã bỏ bàn thu thuế tội lỗi để lên đường.
Tình yêu đã biến đổi ông từ cái tên cũ là “Lê-vi thu thuế” trở thành cái tên mới là “Mát-thêu Tông đồ”. Mát-thêu trong tiếng Do-Thái cũng có nghĩa là “Ân phúc từ Thiên Chúa”
Tình yêu đã thôi thúc để ông từ bỏ những làm ăn bất chính, từ bỏ cuộc sống sung túc vật chất do những đồng tiền không lương thiện mang lại… Ông phải từ bỏ tất cả để bước đi theo tiếng gọi của tình yêu, bước đi theo Đấng là nguồn mạch của tình yêu . Đấng ấy chính là Thầy Giêsu của ông.
Khi nhận ra lời mời gọi ”Hãy theo tôi” của thầy Giêsu, Mát-thêu đã nhanh chóng đứng dậy và bước đi theo Ngài. Lời mời gọi Chúa nói với Mát-thêu xưa kia vẫn còn tiếp tục vang vọng cho đến ngày nay. Bạn và tôi, chúng ta có nghe được tiếng mời gọi của Ngài không? Chúng ta sẽ làm gì, sẽ phản ứng ra sao trước lời mời gọi của Chúa ?
Chúa mời gọi ta không phải vì ta xứng đáng hay tài giỏi, không phải vì ta thánh thiện đạo đức hay ngoan hiền, nhưng vì tình yêu thương và sự quan tâm săn sóc của Ngài dành cho ta, cho mỗi một người trong chúng ta, vì Ngài là Đấng hay thương xót và vì ân sủng của Ngài luôn là quà tặng ban xuống dồi dào trên cuộc đời của ta.
Chúa mời gọi ta vì Ngài luôn tin tưởng ta, Ngài tin người yếu đuối có thể trở nên vũng mạnh. Tin người lạc lối có thể trở lại đường ngay. Tin người lầm lỡ có thể làm lại cuộc đời. Vì tin nên Ngài mời gọi và trao nhiệm vụ. Ngài tin tưởng và mời gọi ta cộng tác vào công trình cứu độ của Ngài. Tin tưởng trao vào tay ta cả kho tàng ơn thánh. Tin tưởng trao cho ta vận mệnh các linh hồn. Tôi là ai mà được Chúa tin tưởng đến thế? Tôi phải làm gì để đáp lại sự tin tưởng và tình yêu thương mà Ngài đã dành cho tôi ?
* * *
Lạy Chúa, Xin cho con biết noi gương bắt chước thánh Mát-thêu, biết lắng nghe và từ bỏ để bước đi theo tiếng Ngài mời gọi. Amen .
Ông ngồi trong trạm của mình dựng bên đường. Trạm của ông nằm ở khu ngoại ô thành phố:TN 10-A34
Ông ngồi trong trạm của mình dựng bên đường. Trạm của ông nằm ở khu ngoại ô thành phố Capharnaum, một trong những trạm chạy từ Đamas đến Israel. Ngoài những khoản thuế tùy thân của những người trong vùng, những khách hàng đi ngang qua cũng phải dừng lại đóng thuế hàng hóa trước khi tiếp tục chuyến đi...
Giờ này đã sắp đến giờ đóng cửa. Ông sắp xếp lại giấy tờ, đếm tiền bạc, kiểm lại các biên lai, làm kết toán số tiền thu được. Ông nghĩ: "Chà không đến nỗi tệ, công việc càng ngày càng khá, cứ đà này chỉ vài năm nữa là..."
Ông thường nghĩ ngợi về đồng tiền: "Có tiền mua tiên cũng được". Có tiền mọi người sẽ kính trọng ông, và ông quyết định phải kiếm cho được nhiều tiền. Đấy là vấn đề quan trọng. Ông không cần giàu sụ nhưng ông muốn làm ra tiền, có đủ tiền để sống thoải mái, đủ để xin về hưu sớm và hưởng thụ cuộc đời... Ông đủ khôn ngoan để thực hiện ý định của mình. Ông có một trí thông minh đặc biệt về mặt tính toán. Lúc bé, ông đã tỏ ra thông minh... Người ông gầy ốm, ông không phải là một thể tháo gia ông không có sức mạnh thể chất... Trán ông khá cao, dấu hiệu của "sự khôn ngoan và hiểu biết" Ông biết rằng ông thông minh, đủ thông minh để kiếm ra tiền. Vì thế, ông xin được làm người thu thuế.Sao lại không ? Đấy là một công việc không nặng nhọc mà lại dễ kiếm tiền. Ông đã nghe rằng những người thu thuế là những người không tim những kẻ đói tiền, những kẻ vô luân... Nhưng ông nghĩ: sự thật đâu đến nỗi, Dù sao họ cũng là người Do Thái, đa số là người Do Thái. Đâu phải vì họ làm việc cho chính quyền La Mã trong việc thu thuế mà họ trở thành hạng người vứt đi... Dĩ nhiên, dân chúng tố cáo rằng: Những người Publicano, những người thu thuế, đánh thuế quá nặng... Nhưng ai biết được chính quyền lấy bao nhiêu, còn họ giữ lại bao nhiêu ? Có thể có người lấy từ 20 tới 25%, Ông thì ông quyết giữ lại 15% Điều hiển nhiên là ai ai cũng kiếm kế sinh nhai, dù cho người đó làm việc cho La Mã... Xét cho cùng, Ông là một con cháu đích thực của Abraham, Ông hãnh diện về nguồn gốc Do Thái, Ông không bao giờ phủ nhận điều đó, dù ông làm việc cho La Mã... Ông đau lòng những lần lên Đền Thờ dự lễ. Từ ngày ông trở thành Publicano, họ vẫn cho phép ông đến dự lễ ở Đền Thờ... Nhưng họ đã lạnh nhạt với ông, Ông hiểu điều đó, ông cảm thấy điều đó, Và ông thôi không dự lễ nơi Đền Thờ Do Thái nữa... Vả lại, ông cũng bận rộn, bận vì công việc làm ăn. Sau này khi giải nghệ, ông sẽ trở lại Đền Thờ... Lúc bấy giờ, ông sẽ cầu nguyện và thờ phượng Chúa, Giờ đây, ông ngồi cộng sổ, quyết toán, Ông sắp sửa đóng cửa trạm thuế. Ông không thấy tinh thần thoải mái.
Ông có cảm giác mọi người qua lại mắng nhiếc ông: “Quân ăn cướp, Quân lưu manh..."
Có người còn nói thẳng mặt ông hôm nọ: "Quân bóc lột." Ông trả lời: "Tôi làm nhiệm vụ của tôi, nếu không phải tôi, thì cũng có người khác thu thuế..." Ông muốn cho tinh thần thoải mái, nhưng không được. Ông luôn luôn bứt rứt, không ai hiểu ông. Ông thao thức hằng đêm, Những tiếng nguyền rủa đồn về trong hành lang ký ức: “Quân đốn mạt, Quân ăn cướp, Quân bóc lột, Quân lưu manh..."
Dân chúng xỉ vả ông, chòm xóm lẩn tránh ông, Những người đạo đức lạnh nhạt với ông, họ coi ông như một cô gái giang hồ, họ buộc tội ông là: “Đứa hợp tác với La Mã, Đứa phản bội dân tộc Israel..." Ông không cho mình là kẻ phản bội dân tộc, Ông không bao giờ muốn phản bội dân tộc... Ông thấy mình không còn một người bạn thân nào, Nghĩa là bạn ông chỉ là những người Publicanô như ông... Nhưng ngay những người Publicanô cũng không là bạn thân đúng nghĩa, ông cảm thấy như vậy. Ngày nào ông còn tiền thì họ còn chấp nhận ông. Nếu chẳng may ông mất hết, ông nghĩ rằng không một ai trong số đó sẽ còn thân thiện với ông... Họ có vẻ ích kỷ, tất cả những gì họ làm đều vụ lợi... Còn ông, ông có kiến thức hơn họ, ông đã học tiếng Hy Lạp, ông đã học văn chương, nhưng ông thể bàn về văn học với họ... Câu chuyện của họ chỉ toàn xoay quanh tiền bạc và du hí, dĩ nhiên, nhưng nhất là tiền bạc...
Đầu óc ông rối bời. Ông nghĩ rằng nếu không cố gắng tập trung tư tưởng để cộng những con số này, chắc hẳn cuộc đời vô vị sẽ cứ trải dài trước mặt ông...
Thế rồi, ông thấy Đức Yêsu đến. Người bước đi trên đường với một vài người bạn. Ông đã thấy Người một vài lần rồi, đó là người thợ mộc ở Nazareth vẫn đến đóng tiền thuế đều đặn mỗi năm. Người đóng tiền, nhìn ông lặng lẽ rồi ra đi và năm sau trở lại với số tiền để đóng...
Giờ đây, Đức Yêsu đang đi về phía trạm của ông. Ông đã nghe nói rằng Người đã rời bỏ nhà mình để đến xin chịu phép rửa ở sông Yordan. Người đến cư ngụ tại Capharnaum... Có bao nhiêu lời bàn tán về Người. Người đã chữa những kẻ phong hủi và đuổi quỷ trừ ma. Dân chúng đi theo Người và nghe Người giảng...
Ông cũng nghe được câu này: Con Loài Người có quyền tha tội dưới đất." (Mt 9,6). Con Loài Người ư ? Có quyền tha tội ư ? Ông suy tư mãi về điều này... Ông là kẻ có tội, ông biết chứ, Cuộc đời đói tiền của ông, Triết lý: "Có tiền mua tiên cũng được" của ông... Cuộc đời và quan niệm ông rõ ràng là sai lầm. Ông vẫn tiếp tục công việc của mình, Nhưng không thể quên những lời đã nghe: "Con Loài Người có quyền tha tội dưới đất."
Thế rồi, ông cảm được, ông không cần ngước mắt lên nhìn, ông biết rằng Con Loài Người đang đứng trước mặt...
Rồi cuối cùng, ông cũng phải ngẩng đầu lên... Và cặp mắt đã nhìn ông bao lần, giờ đây đang nhìn thẳng vào ông, xuyên lòng ông, xuyên qua cả sổ sách ông, xuyên qua mọi tính toán của ông... xuyên suốt cuộc đời sống rỗng của ông. Giờ phút này, ông bỗng cảm thấy mình dơ bẩn, bên trong chỉ toàn là cặn bã, rác rến... Con người đó sắp gọi ông bằng cái tên mọi người thường gọi chăng? Ông bồn chồn bất an, ông chờ đợi những tiếng nguyền rủa... Nhưng không... Thay vì vậy thì Người mỉm cười và bảo: "Hãy theo Thầy" (Mt 9,9) Theo Người ư ? Người muốn tôi theo Người ư ? tôi, một người Publicano ? một người bóc lột ? một quân ăn cướp ? Người tin tôi đến thế sao ? Người muốn chọn tôi làm môn đệ ư ? Matthêu không còn tin vào điều mình nghe nữa...
Và rồi thoáng chốc, ông thấy phấn khởi tràn đầy. ông không còn thấy mình dơ bẩn nữa, ông được rửa sạch, tha thứ, bình an: "Con Loài Người có quyền tha tội dướt đất."
Đúng rồi... Ông xếp giấy tờ lại, rời bàn làm việc, đóng cửa trạm thuế. Và thế là người Publicano này, người thu thuế này, người bị loại trừ khỏi xã hội này, đã thức tỉnh và quyết định thay đổi trọn cuộc sống... Từ một Matthêu thu thuế, ông đã trở thành tông đồ Chúa Yêsu. Đối với người đời, Chúa Yêsu chọn một người Publicanô là một hành động điên rồ... Mọi người đều liệt hạng thu thuế ngang hàng với kẻ buôn phấn bán hương, Những người thu thuế là những kẻ bất lương, những người tham lam, ham mê tiền bạc... Họ không thể đến Đền Thờ một cách thoải mái, không có quyền làm chứng nơi công nghị... Đâu phải Đức Yêsu không biết chuyện ấy. Người biết Matthêu sẽ làm bạn với ai, sẽ sống với ai và cộng đoàn nhỏ sẽ ảnh hưởng tới ông như thế nào. Người biết cao vọng, mục đích và ước mơ của Matthêu...
Khi có một thầy ký lục đầy kiến thức tôn giáo đến xin theo thì Chúa Yêsu tỏ ra ngăn cản:
"Con chồn có hang, con chim có tổ, nhưng Con Loài Người không có chỗ gối đầu." (Mt 8,20)...
Thế mà, đối với Matthêu, không có mảy may dấu hiệu từ khước, ngược lại, Chúa Yêsu thật tích cực kêu gọi: "Hãy theo Thầy"
Cái dĩ vãng bê bối của Matthêu không quan trọng gì đối với Chúa. Điều Người chú ý, chính là khả năng phát triển tương lai:
Matthêu thông minh, sáng suốt, ngăn nắp. Matthêu có một mục đích để tiến lên, và, Matthêu đã đạt được mục đích. Matthêu thấy đời mình trống rỗng khi chạy theo bạc tiền... Matthêu muốn tiến lên...
Dưới khía cạnh con người chọn Matthêu là một hành động dại dột, Dưới khía cạnh Thiên Chúa, chọn Matthêu là một hành động tuyệt vời. Bằng cớ đâu ? Bằng cớ chính là Phúc âm theo thánh Matthêu. Cuốn sách đầu tiên của bộ Tân Ước là tác phẩm của Matthêu, dưới ngòi bút điêu luyện của ông, một ngòi bút sẵn sàng phục vụ...
Kể từ ngày được gọi, bất cứ lúc nào Chúa rao giảng, Chúa dạy dỗ, đều có Matthêu bên cạnh.
Ngòi bút xưa kia cộng những con số chết, nay ghi chép những Lời Hằng Sống. Đầu óc mạch lạc của ông được dùng để chuyển đạt lại cho hậu thế những của ăn tâm hồn
Chúng ta cũng nên để ý điểm này: suốt cuốn Phúc âm ông viết, ông không bao giờ nhắc đến mình cả. Ông nhắc đến Phêrô, Giacôbê và Gioan, nhưng không hề nói về mình...
Khiêm nhường là dấu hiệu của một cuộc trở lại chân chính. Chỉ có một dịp nhỏ có liên quan đến ông nhưng ông lại khiêm nhường không ghi tên mình... Khi so sánh với Luca và Maccô, ta mới biết tên ông là Lêvi. Trong Phúc âm của ông, ông là “Matthêu, người thu thuế".
Sau giây phút gặp gỡ, ông mời Chúa Yêsu về nhà dùng bữa. Những người mang danh đạo đức đã chỉ trích Chúa Yêsu và Người đã trả lời họ: "Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi những kẻ tội lỗi...". Và có lẽ Matthêu đã vui mừng hiểu rằng Chúa muốn nói đến chính ông: "Con Loài Người có quyền tha tội... Ta đến để cứu vớt kẻ có tội..."
Matthêu đã được cứu vớt, cứu vớt khỏi tội lỗi, cứu vớt khỏi cuộc đời trống rỗng của ông, cứu vớt khỏi cuộc đời chạy theo bạc tiền, cứu vớt khỏi cái triết lý "có tiền mua tiên" của ông, cứu vớt khỏi cuộc đời vô vị ông đã chọn và đã chán ngán... Ông đã tìm được viên ngọc, Ông đã cảm nghiệm được ân sủng và tình yêu tràn ngập đời ông... Còn chúng ta ? Chúng ta cần cứu vớt chăng ? cứu vớt khỏi đời sống tội lỗi, cứu vớt khỏi đời sống vị kỷ, cứu vớt khỏi một triết lý nghèo nàn và khô cằn, cứu vớt khỏi một cuộc sống trống rỗng, vô nghĩa, không mục đích. cứu vớt khỏi một cuộc đời thiếu vắng Thiên Chúa?
Nếu Chúa Yêsu đã muốn gọi một người bết bát như Matthêu, thì các bạn và tôi, chúng ta có quyền hy vọng... Nếu Chúa đã mở cửa cho một người như Matthêu, thì Chúa cũng mở cửa cho mọi người... Mà quả thật, Người đã đến để kêu gọi kẻ tội lỗi ăn năn...
Matthêu đã nói lên điều đó với tất cả tâm can mình: "Con Loài Người có quyền tha tội dưới đất..." Và Matthêu biết điều đó là sự thật. Ông đã có kinh nghiệm, Ông đã được cứu vớt, Ông biết rằng mỗi một người chúng ta cũng có thể có được kinh nghiệm đó Và khi ông chép lại Phúc Âm,
Hẳn ông rất muốn viết bằng mực đỏ đoạn văn sau đây:
"Nếu một người có 100 con chiên, mà một con bị lạc, há người ấy không bỏ 99 con trên núi mà đi tìm con chiên lạc kia sao ?
Mà nếu tìm được, thì quả thật, Thầy bảo anh em: Người ấy mừng rỡ vì nó hơn là 99 con không bị lạc... Cũng vậy, Cha anh em, Đấng ngự trên Trời không hề có ý để mặc một người nào đó trong những kẻ nhỏ nhất này phải hư đi..." (Mt 18,12-24)
Vâng, không một người nào, Dù cho người ấy là Matthêu đi nữa, Dù cho người ấy là bạn hay là tôi đi nữa...
Giáo Hội tiên khởi cho chúng ta biết rằng: sau khi Chúa Yêsu sống lại, thánh Matthêu đã rao giảng cho dân Do Thái. Chúng ta có thể tin được điều này. Dù lịch sử ít cho chúng ta dữ kiện nhưng Phúc Âm theo thánh Matthêu cũng đủ cho chúng ta thấy rõ như vậy.
Thánh Matthêu giới thiệu Chúa Yêsu như Đấng Thiên sai: Đấng Messia, Đấng được hứa đến để cứu thoát dân Do Thái. Người là con của Abraham, con của Đavít, Con Loài Người, Đấng nghiệm đúng lời tiên tri trong Cựu Ước. Ông trích dẫn Cựu Ước thường xuyên, từ Môsê đến các tiên tri. Ta có thể đếm được 51 lần trích dẫn trong 28 chương của ông.
Đức Yêsu là Vua dân Do Thái... Ba Vua phương Đông đến thờ lạy Người... Philatô xác nhận vương quyền cúa Người: "Đây là Yêsu Vua dân Do Thái."
Đối với Matthêu, Đức Yêsu là Đấng Thiên sai đến để cứu dân Do Thái, đến để kêu gọi mọi người ăn năn vì Nước Trời đã gần.
Theo truyền thống, Matthêu chọn dân tộc mình làm cánh đồng truyền giáo và, với nhiệt tình của một người hối cải, ông trình bày Đấng Messia như Đấng đến để cứu vớt kẻ tội lỗi thấp hèn...
Đọc đi đọc lại, rồi suy niệm bài tường thuật Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, tôi cảm nghiệm trước:TN 10-A35
Đọc đi đọc lại, rồi suy niệm bài tường thuật Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, tôi cảm nghiệm trước hết về lòng nhân từ của Chúa Giêsu vì “Người không đến để kêu gọi người tự cho mình là công chính, mà là đến để kêu gọi người tội lỗi.” Sau đó, và cũng làm tôi vui thích hơn cả, là Chúa Giêsu đưa ra một phương thức tuyệt hảo để mời gọi những người tự cho mình là công chính. Đó cũng là một giáo huấn rất ư nhẹ nhàng uyển chuyển nhưng thể hiện lòng khoan nhân, từ ái bao la, sau khi Người đã thấu hiểu những triệu chứng của căn bệnh “giả hình, vụ luật” đã ăn sâu vào tâm trí của họ.
Từ cảm nhận này, tôi nhìn vào cuộc sống và nhớ lại câu chuyện biến đổi một phần đời sống tâm linh của chị Hồng.
Gia đình chị Hồng có được nhiều thuận lợi trong cuộc sống vật chất. Cha mẹ và các anh chị em của chị đều đang định cư tại Mỹ. Trong thời gian chờ đợi để đi theo diện bảo lãnh, gia đình chị đã chuyển về sinh sống tại Saigòn. Riêng chị, là một bổn đạo gốc, chị rất siêng năng đi lễ mỗi ngày và cũng có tham gia vài hội đoàn, nhóm trong giáo xứ. Trong một lần sinh hoạt với nhóm “cầu nguyện Kinh Thánh” do tôi đã hướng dẫn được 3 tháng, chị mạnh dạn chia sẻ với tôi cùng anh chị em về hoàn cảnh hiện tại lúc đó đang làm chị “khổ tâm, rối trí”. . .
Số là, vì cảm thông hòan cảnh thiếu vốn làm ăn của gia định nọ, chị đã hảo tâm giúp cho họ vay mượn một số tiền khoảng 40 triệu được chia làm 3 đợt. Thời gian đầu, mọi sự đều trôi chảy êm thắm. Nhưng khi cần lại số tiền như đã giao ước thỏa thuận với nhau, và vì nhu cầu trang trải những chi tiêu cần thiết cho gia đình, chị đã bị rơi vào một trạng thái mà chị cho là “làm ơn mắc oán”. Sự cố trên đã làm chị buồn phiền, khốn đốn, rồi sinh ra bực tức, kháu khỉnh vì món nợ khó đòi. Mỗi lần gặp mặt con nợ, lòng chị như sát muối, miệng lưỡi như muốn co giật. Nhưng lương tâm thì lại bừng tỉnh như hối thúc: vừa cảm thông, vừa chờ đợi. Trước tình huống buồn khổ day dứt trên, chị đề nghị tôi và mọi người giúp ý kiến cho chị cần phải làm gì để thu hồi được vốn và cần phải xử trí thế nào để lòng được thanh thản. Sau một lúc thinh lặng, tôi cũng ôn tồn trình bầy với chị:
- Theo ý riêng tôi, và cũng là kinh nghiệm của tôi, chị tạm thời đừng nhớ đến khoảng tiền đó và cũng cố gắng đừng chạm mặt người đã gây cho chị buồn phiền, khó chịu. Thay vào đó, chị cần thường xuyên đến đây với anh chị em mỗi ngày, vào 3 giờ chiều để cùng với nhóm lắng nghe, chia sẻ Lời Chúa, quyết tâm sống theo thánh ý Chúa như chúng ta đang ra sức thực hiện. Đặc biệt cần thiết là mỗi lần rước Mình Máu Thánh Chúa vào lòng, chị tha thiết xin Chúa Giêsu Thánh Thể ban cho chị có trái tim tự hiến yêu thương, hầu chị đủ ơn khôn ngoan cùng sức mạnh mà vượt qua giai đoạn thử thách hiện tại. Còn tôi và anh chị em ở đây sẽ hiệp ý với chị để chị lắng nghe và tuân giữ thánh ý của Người.
Bẵng đi hơn 3 tháng, với nét mặt rạng rỡ tươi vui hơn, chị bộc bạch vừa là lời chứng, vừa là niềm vui bình an. Chị hớn hở nhìn tôi trong buổi chia sẻ thường ngày:
- Cám ơn anh và mọi người... Cho đến giờ này, tôi đã thực sự không còn nhớ đến khoảng tiền đã cho mượn nữa. Bởi sau nhiều ngày trôi qua, tôi đã nhận ra mình được Chúa tha thứ cho biết bao nhiêu những lỗi lầm xúc phạm; lại còn được Ngài cho quá nhiều những ưu đãi vượt trội hơn nhiều người, cả về của cải vật chất lẫn ơn thánh Chúa ban cách riêng. Tôi không chỉ quên tiền bạc, mà tôi còn được Chúa Giêsu Thánh Thể cho tôi biêt rộng rãi với người đã gây buồn khổ cho tôi nữa. Mới đây, khi gặp người bạn này, tôi đã vui vẻ thẳng thắn nói với chị ta rằng: “Chị đừng bận tâm về khỏan nợ mà chị đã mượn. Mọi sự đã có Chúa lo, vì tôi đã học và biết lắng nghe tiếng Chúa dậy tôi cầu nguyện là “xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khõi mọi sự dữ.” .... Một lần nữa, xin tạ ơn Chúa và xin cám ơn anh chị em đã cầu nguyện cho tôi, vì tôi không chỉ đã thoát ra khỏi sự ghen ghét giận hờn với người đã làm xáo trộn sự bình an trong tâm hồn tôi, mà Chúa còn ban cho tôi biết yêu mến Lời và Mình Máu Thánh Chúa nữa.
Nhớ lại câu chuyện tha thứ nhờ vào quyền năng của Chúa nơi chị Hồng, tôi có thêm niềm xác tín rằng: “Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần tế lễ” mà Chúa Giêsu đưa ra cho những người Pharisêu giả hình, vụ luật là một thần dược để chữa bệnh cho những người ốm đau như chị Hồng và bản thân tôi.
Quả thật, “Học cho biết” chính là lời mời gọi lắng nghe và tuân giữ để có sự sống đời đời, như Chúa Giêsu đã nói trong “lời nguyện hiến tế” rằng:
“Sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô.” (Ga 17, 3) Chính thần dược “lắng nghe và tuân giữ” này được thể hiện minh bạch nơi ơn gọi của thánh Matthêu, vị thánh sử đã cô đọng lại với chỉ vài câu chữ nhưng lột tả diệu kỳ:
“Bỏ nơi ấy, Đức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Matthêu đang ngồi ở đó, Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người.” (Mt 9, 9)
Như vậy, thần dược “Học cho biết” cũng chính là ân ban chứ không phải do tự sức mình mà có. Nhìn vào ơn gọi của thánh Matthêu cũng như khi nhìn vào cuộc sống hiên tại nơi chị Hồng, tôi có thêm niềm vui sống và vững tin vào kinh nghiệm sống thiết thực của tác giả thư Do Thái, khi ngài viết:
“Nhờ Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy luôn luôn dùng lời ngợi khen làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa, tức là dùng miệng lưỡi mà ca tụng Danh Thánh. Anh em chớ quên làm việc từ thiện, giúp đỡ lẫn nhau, vì Thiên Chúa ưa thích những hy lễ như thế.” (Dt 13, 15-16) Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu,
Khi Chúa thấy những triệu chứng của căn bệnh giả hình, chuộng hình thức bên ngoài của những người tự cho mình là công chính, Chúa đã mời gọi những người đó cũng như chúng con của thời hiện tại, một phương thuốc chữa lành tuyệt hào là “học cho biết ý nghĩa của Lời Chúa”.
Vậy giờ đây, xin Chúa ban cho chúng con ơn gọi biết lắng nghe và tuân giữ như thánh Matthêu đã nghe được tiếng Chúa mời gọi: “Anh hãy theo tôi!” và mau mắn “đứng dậy đi theo Người.” Amen.
“Ta muốn lòng nhân lành, chớ không phải là hy lễ”. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:13).
Trong số những người tôi quen biết có một người được coi như hết sức đạo đức. Tham dự thánh lễ:TN 10-A36
Trong số những người tôi quen biết có một người được coi như hết sức đạo đức. Tham dự thánh lễ mỗi ngày. Sinh hoạt trong nhiều hội đoàn. Không buổi hồi tâm, cấm phòng nào mà không có mặt, kể cả những buổi hồi tâm hội thảo mà nếu muốn tham dự, người tham dự phải đóng hằng trăm hoặc hai trăm Mỹ Kim. Nhưng ngoài những sinh hoạt ấy, nếu có ai nói đến việc đóng góp hoặc giúp đỡ vào những công tác bác ái, xã hội thì đều được nghe câu trả lời: “Muối bỏ bể. Đóng góp và dâng cúng thì cho đến bao giờ mới vừa!”
Ngược lại, tôi cũng có một người thân khác, tuy không là người Công Giáo. Không tham dự thánh lễ, không nhà thờ, không tham gia những buổi hồi tâm, hội thảo, nhưng bất cứ một hoạt động bác ái xã hội nào, người này cũng đều đóng góp. Hơn thế nữa, đóng góp một cách hết sức quảng đại. Gần đây chúng tôi muốn bán vé tham dự buổi gây quỹ yểm trợ cho các nữ tu St. Paul già yếu ở Việt Nam. Khi được mời, người này cầm tấm vé rồi đưa lại cho chúng tôi và nói: “Tôi đã có chương trình riêng nên tiếc là không tham dự được buổi tiệc gây qũy này. Vả lại tôi cũng không phải là người Công Giáo, nhưng tôi xin được đóng góp 20 Mỹ Kim như giá vé này để giúp đỡ phần nhỏ cho các soeur già cả.”
Hai hình ảnh trên cho tôi một so sánh khá rõ ràng giữa hy lễ và lòng nhân lành. Có thể nói những buổi hồi tâm, hội thảo, những sinh hoạt tôn giáo được coi như những hương thơm của hy lễ chiều hôm làm ngát thơm ngai tòa Thiên Chúa. Những hành động ấy cho thấy được tấm lòng sốt sắng nhiệt thành với những việc làm dẫn tôi đến gần Ngài. Nhưng lòng nhân lành, thương người, và bác ái đó là những việc làm thực tế, là những đóng góp bằng tài lực, bằng những gì mình đang có. Hành động này phản ảnh cách trung thực lòng thương xót vô biên của chính Thiên Chúa, Đấng đã kêu mời tất cả chúng ta đến với Ngài dù xứng đáng hay không xứng đáng.
Thật vậy, nếu tôi có hỏi Chúa Giêsu xem rằng Ngài hài lòng hơn về hành động của ai giữa hai hành động trên, chắc chắn Ngài sẽ trả lời rằng lòng nhân lành đã vượt qua hy lễ. Bởi vì những hành động thương giúp anh chị em mình, thái độ mở rộng lòng mình ra trước những nỗi đau khổ, túng thiếu, và cơ cực của người khác giá trị hơn những buổi hồi tâm, hội thảo, ngay cả những buổi cầu kinh, tham dự thánh lễ. Vì một bên là tìm kiếm cho mình, tích lũy cho mình cái mà mình mong muốn có. Còn một bên là cho đi những gì mình đang có. Là hành động giống như Đấng đã rộng mở tấm lòng và vòng tay đón tiếp chính chúng ta.
Tình thương. Lòng nhân lành. Đức bác ái. Đó là những việc làm phát xuất từ con tim biết rung động và xót thương. Đó cũng là những hành động mà Thiên Chúa ưa thích và muốn nhìn thấy chúng nở hoa trong sinh hoạt tâm linh cũng như đời thường của những ai tin nhận Ngài.
Đi lễ, đi nhà thờ. Đọc kinh, cầu nguyện. Tham dự những buổi hồi tâm, hội thảo. Tất cả những hành động đó là điều tốt, và cần thiết để chúng ta mật thiết và tìm gặp Thiên Chúa. Hay nói một cách rõ ràng, đó là những điều đòi hỏi mà bất cứ một Kitô hữu nào cũng phải làm, và cần thiết phải làm. Đó là những hy lễ nhỏ mọn mà chúng ta dâng lên Thiên Chúa. Nhưng tận cùng của những hành động ấy là gì, nếu không phải là để chúng ta có thể tiếp cận được với Thiên Chúa, đón nhận những hồng ân của Ngài, để rồi, chúng ta mở rộng lòng mình ra trước những nhu cầu thể xác và tâm linh của anh chị em mình. Điều mà Chúa Giêsu gọi là lòng nhân lành, là đức bác ái, là tình thương.
“Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:13). Đối với chúng ta là những kẻ được Thiên Chúa kêu gọi và tuyển chọn, thì điều này cũng cho chúng ta khám phá ra nhu cầu bác ái hằng ngày mà chúng ta cần phải làm đối với anh chị em mình như một dấu chứng lòng chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Đấng đã nghĩ đến và tuyển chọn chúng ta mặc dù chúng ta không xứng đáng: “Vì Ta không đến ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:13). Điều này cũng có nghĩa là nếu chúng ta được chọn, thì chẳng qua chỉ vì lòng nhân lành của Thiên Chúa, bởi vì chúng ta chẳng có gì để đáng Ngài thương chọn, ngoài trừ sự yếu hèn và tội lỗi rất đáng xót thương của chúng ta. Trước con mắt của Thiên Chúa, ai trong chúng ta dám tự nhận mình xứng đáng được kể là công chính. Ngược lại, tất cả đều là những tội nhân đáng thương trước mặt Ngài. Và nếu chúng ta được Ngài kêu gọi, thì đến phần chúng ta, chúng ta cũng phải mở rộng lòng mình ra với nhưng khuyết điểm và với những bất toàn, thiếu thốn của anh chị em mình. Chính Mathêu cũng là một người ở trong số nhỏ bất toàn đã được Chúa Giêsu kêu gọi ấy, và ông đã kể lại câu truyện của đời mình.
“Ta muốn lòng nhân lành, chớ không phải là hy lễ” (Mt 9:13). Lòng nhân lành và hy lễ. Đâu là những hy lễ thơm tho chúng ta dâng lên trước ngai thiêng Thiên Chúa. Và đâu là những của lễ làm đẹp lòng Ngài. Đó là lòng nhân lành. Là trái tim mở rộng. Là vòng tay thân ái mà chúng ta trao cho nhau, cho những anh chị em đang cần đến chúng ta như 20 Mỹ Kim của người bạn khi nghĩ đến những nữ tu già yếu, mặc dù không phải là người Công Giáo.