Một giai đoạn mới của Tin Mừng Thánh Matthêu bắt đầu từ hôm nay. Sau giai đoạn đầu tiên tập trung xung quanh Bài Giảng Trên Núi, trong đó: TN 11-A51
Một giai đoạn mới của Tin Mừng Thánh Matthêu bắt đầu từ hôm nay. Sau giai đoạn đầu tiên tập trung xung quanh Bài Giảng Trên Núi, trong đó Đức Giêsu đã trình bày những nền tảng sứ điệp của Người và bắt đầu biểu lộ quyền bính độc nhất mà người có khi thực hiện một vài "dấu chỉ mầu nhiệm" đặc thù... Giờ đây là một giai đoạn mới tập trung xung quanh Bài giảng về sứ mệnh truyền giáo mà Đức Giêsu sẽ kêu gọi con người cọng tác vào sứ vụ của Người.
Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương
Đôi mắt của Đức Giêsu! Cái nhìn của Đức Giêsu! Cái nhìn tuyệt vời ấy mà một số ảnh thánh đã vẽ lại trong đôi mắt to. Có nhiều cách "nhìn". Một nhân viên vô danh của một thương xá, đã quen với cái nhìn lãnh đạm, nói với một bà khách hàng: "Bà đã nhìn tôi không như mọi người, tôi đoán rằng có "cái gì đó" trong lòng bà...".
Đức Giêsu "chạnh lòng thương". Động từ Hy Lạp “esplanchmzô" có nghĩa đen là "xao xuyến trong gan ruột" và gợi lại một từ ngữ Do Thái rất quan trọng "rahamim", thể hiện vừa "lòng mẹ" vừa "tình yêu” . Trong Tin Mừng, từ ngữ ấy dành riêng cho Thiên Chúa và Đức Giêsu (Lc 10,33; 7,13; 15,20; Mc 9,22; Tv 51,3; Gr 31,20; Is 54,7 Ds 27,16-17). Đức Giêsu để mình xúc động đến ruột gan: Tại sao? Người đã thấy cảnh tượng gì làm cho đôi mắt to của Người bao phủ bóng mờ của lòng thương cảm?
…vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.
Đôi khi lầm than vất vưởng còn được dịch là mệt mỏi, lả đi. Những con người kiệt sức, không còn có thể làm được gì! Một sự chán nản to lớn, sự chán ghét sâu xa trước cuộc đời phi lý không có ý nghĩa gì. Những đám đông không có mục tử. Những con người không có Thiên Chúa. Một nhân loại kiệt sức một cách vô ích trên những nẻo đường không dẫn đến đâu cả… như một bầy chiên đi lang thang bất định...
Phải chăng thân phận của người nghèo trên thế giới đã thay đổi nhiều từ thời Đức Giêsu? Cái nhìn hiện nay của Đức Giêsu trên nhân loại phải chăng rất khác với cái nhìn lúc đó? Còn chúng ta thì sao? Chẳng phải chúng ta được mời gọi để nhìn đến những đám đông đó sao? Những nỗi thống khổ mênh mông của hàng tỉ con người và những trẻ em thiếu ăn trên hành tinh chúng ta. Những nỗi khổ tinh thần của tất cả những người đã thất bại, đã bị bỏ rơi, không cảm thấy mình được yêu thương. Sự suy sụp của những người sống buông xuôi, sử dụng ma túy, hóa rồ dại và tự hủy hoại mình dần dần...
Lạy Chúa! Xin giúp các môn đệ của Chúa chấp nhận cái nhìn của Chúa!
Toàn thể thế giới từ nay ở dưới ánh mắt chúng ta qua màn hình của vô tuyến truyền hình. Những cuộc du hành của chúng ta trong những nước thuộc thế giới thứ ba không chỉ là du lịch. Và trong những thành phố lớn, ngay trước cửa nhà chúng ta, có một thế giới thứ tư của những con người bị đè bẹp. Chúng ta hướng về các thực tại ấy với cái nhìn nào?
Có phải chúng ta sẽ ở trong số những người… dửng dưng, chán chường, thụ động không? Và Đức Giêsu làm gì trước những cảnh tượng đó?
Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặp lại ít”.
Đức Giêsu không phải là một người chán chường. Người nhìn nhân loại như một cánh đồng lúa chín dập dờn dưới làn gió mùa hè. Mùa gặt kia rồi, tất cả đã sẵn sàng. Người ta vui mừng vì mùa gặt đến, nhưng thợ gặt lại ít. Đức Giêsu thừa nhận công việc của Người rất nhiều. Người muốn có những người cộng tác. Ai sẽ đứng dậy để hành động với Người?
Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.
Sự cầu nguyện là hành động truyền giáo đầu tiên. Tại sao?
Tại sao "chủ mùa gặt" tức Thiên Chúa không trực tiếp sai các thợ gặt cần thiết? Tại sao Người yêu cầu chúng ta cầu nguyện"? Người tôn trọng trách nhiệm to lớn của con người: Thiên Chúa cần đến những con người! Mầu nhiệm to lớn của việc cần thiết phải can thiệp bằng sự cầu nguyện, mở ra cho chính chúng ta công việc phải làm ở cánh đồng đó. Nếu bạn cầu nguyện thì người thợ găt đầu tiên mà Thiên Chúa có ngay trong tay Người, chính là bạn. Bạn không chỉ cầu nguyện để gởi những người khác đến công trường, mà bạn hãy đi đến đó! “Lạy Chúa, này tôi đây, tôi xin Chúa hãy sai tôi” (Is 6,8). Người ta lo lắng rất nhiều về trách nhiệm to lớn của việc Tin Mừng hóa. Trên hết, người ta quan tâm về các phương pháp. Nhưng trước khi để cách làm “thế nào" thôi miên, chẳng phải trước tiên người ta cần ý thức lại bản chất sâu xa của “sứ vụ” đó sao. Nhiệm vụ làm tông đồ của chúng ta tùy thuộc vào Đấng Tha Thể Tuyệt Đối (Đấng Khác) sai chúng ta đi…
Đó không phải công việc "của chúng ta". Chúng ta không làm việc bởi sức mình. Chúng ta ở trong cánh đồng của Thiên Chúa, trong mùa găt của Người, "Đấng muốn rằng nhân loại được cứu” (1Tm 2,4). Từ đó, có sự ưu tiên của việc cầu nguyện trên mọi phương pháp. Và phải chăng khủng hoảng của ơn gọi thực ra chỉ là một khủng hoảng của sự cầu nguyện?
Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
Đức Giêsu không có ý định một mình thực hiện công việc của Thiên Chúa: Người trao dự án và quyền bính của Người cho "một ít người", mười hai người mà Người chọn trong số hàng trăm môn đệ đi theo Người: Chức tư tế thừa tác bắt nguồn từ đây, trong ý muốn tổ chức Giáo Hội của Người.
Con số "mười hai" là con số tượng trưng. Nó ám chỉ mười hai bộ tộc của Israel tạo thành "dân Thiên Chúa" và bảo đảm việc phụng tự mỗi tháng, trong mười hai tháng của năm âm lịch. Vì thế con số mười hai này biểu thị toàn bộ miền "đất hứa", vì toàn bộ "thời gian".
Sau đây là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông; sau đó là ông Giacôbê con ông Dêbêđê, và ông Gioan, em của ông, ông Philípphê, và ông Batôlômêô; ông Tôma và ông Mátthêu người thu thuế, ông Giacôbê con ông Anphê và ông Tađêô; ông Simon thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giuđa Iscarios chính là kẻ nộp Người.
Các sách Tin Mừng đưa ra cho chúng ta danh sách này bốn lần: với một vài sự khác nhau nhỏ nhưng với sự phù hợp tối đa. Matthêu đã tập họp tất cả các tên ấy “từng đôi một". Đây không phải là chuyện ngẫu nhiên. Việc thành lập "đội quân" của Đức Giêsu rất có ý nghĩa: Người đã chọn làm những người cộng tác mật thiết cùng lúc một người ‘thu thuế’ bởi nghề nghiệp mà thỏa hiệp với quân chiếm đóng La Mã… và một người thuộc nhóm ‘quá khích’, theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chống lại người La Mã. Một sự phối hợp dễ bùng nổ, Matthêu nhấn mạnh: đây không phải do sự ngẫu nhiên…
Chẳng phải là Giáo Hội chủ yếu phải "đa nguyên", để có thể đảm đương những điểm khác nhau và những xung đột của thế giới… để: giải quyết chúng trong một sự hiệp thông cao cả hơn. "Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Còn Thầy, Thầy bảo thật anh em: "Hãy yêu kẻ thù” (Mt 5,43-48). Sau hết, chúng ta cũng đoán ra Giáo Hội phải có sự khiêm nhường nào. Trong những người có trách nhiệm, Giáo Hội lúc đó bao gồm "người' đứng đầu", Simon Phêrô, người đã chối Đức Giêsu, và "người đứng cuối", Giuđa, là người đã nộp Chúa cho các đao phủ. Quả là một đội quân đáng thương. Nó chỉ mạnh bởi sự chọn lựa mầu nhiệm mà Chúa Giêsu đã thực hiện: "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa nhưng là bạn hữu” (Ga 15,15).
Đức Giêsu sai mười hai ông ấy đi và chỉ thị rằng: "Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samari. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc anh nhà Israel”.
Đức Giêsu sai họ đi! Nào anh em hãy đi! Hãy lên đường! Nhưng chúng ta nhận thấy rằng "môi trường hoạt động" rất hạn chế, trái ngược với sứ vụ bao quát cả hoàn vũ mà Người sẽ truyền lệnh sau khi Người sống lại: "Vậy anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Tại sao sứ vụ đầu tiên này ở Galilê có những sự hạn chế? Có lẽ để nói rằng Thiên Chúa trung tín với điều hứa của Người và Israel phải là người đầu tiên đón nhận Tin Mừng (đó là điều Thánh Phaolô sẽ làm). Nhưng cũng bởi vì xét về phương diện con người, người ta không thể làm tất cả mọi sự: phải bắt đầu và không được ẩn náu trong sự to lớn của nhiệm vụ để không làm gì cả!
Nào anh em hãy đi! Hãy lên đường! Anh em được sai đi. Mỗi sự quy tụ của các Kitô hữu phải hoàn thành trong sự sai đi này: Ite, missa est! Cộng đoàn Giáo Hội, dưới khía cạnh phụng vụ, là một cuộc tập hợp tạm thời phải được chuẩn bị để đi vào thế giới ngõ hầu cùng với mọi người, tín hữu hoặc không phải là tín hữu, tạo thành một "cộng đoàn nhân loại". Giáo Hội được quy tụ vì Thánh Thể có tính chất "ngôn sứ": Giáo Hội "nói lên" dự án của Thiên Chúa là "quy tụ lại trong sự hiệp nhất mọi con cái của Thiên Chúa đã bị phân tán". Giáo Hội nói lên rằng nhân loại từ nhiều phải được làm nên một, theo hình ảnh của Ba Ngôi. "Để tất cả nên một như Chúng Ta, như vậy thế gian sẽ tin" (Ga 17,21). "Sứ vụ”, "sự sai đi" là yếu tính của Giáo Hội. Nhiệm vụ đầu tiên của Giáo Hội không phải là tuyển mộ: "Anh em hãy đến gặp chúng tôi!" mà là công bố: "Nước Trời ở đây rồi”; “Thiên Chúa ở với anh em, nơi anh em đang ở". Trước tiên, phải Tin Mừng hóa, phải rao giảng Tin Mừng.
Dọc đường hãy rao giảng rằng: "Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”.
Đây là những công thức tượng trung để diễn tả "Dự án" của Thiên Chúa. Mọi đời sống con người đã được Thiên Chúa cư ngụ và có được một ý nghĩa vượt qua chính nó: “bạn sẽ không chết”. Cưới nhau và sinh con cái chính là tin rằng sự sống vượt qua sự chết. Triều đại của Thiên Chúa "đã bắt đầu". Sự khác nhau giữa người tín hữu và kẻ vô thần, đó là người tín hữu lắng nghe ở đáy lòng, "ý nghĩa" của điều mình sống, và người ấy biết điều đó dẫn đến đâu. Người ấy "tin rằng" Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử và người ấy tham gia vào lịch sử ấy với nhiều ý thức nhất khi làm cho sự sống chiến thắng
1) Tinh khẩn thiết của sứ mạng tông đồ: mùa màng thì nhiều mà thợ gặt lại ít
Bài Tin mừng trong Thánh lễ hôm nay vẽ ra một cảnh tượng mà chắc chắn đã thường xuyên xảy ra mỗi khi Chúa Giêsu rảo bước qua các thành:TN 11-A52
Bài Tin mừng trong Thánh lễ hôm nay vẽ ra một cảnh tượng mà chắc chắn đã thường xuyên xảy ra mỗi khi Chúa Giêsu rảo bước qua các thành thị và làng mạc để rao giảng Nước Trời đang đến gần. Khi nhìn đám đông, Người chạnh lòng thương; Người đã xúc động trước cảnh ngộ khốn khổ của họ vì thấy họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9,36). Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,37). Ngày nay hoàn cảnh cũng tương tự như thế, có quá ít nhân lực để thực hiện một công trình to tát. Hoa mầu có thể thất thu vì không có người ra đồng mà gặt. Vì thế có một nhu cầu thúc bách các Kitô hữu sống trung tín đơn thành hiệu quả và vui tươi với Hội Thánh và ý thức được những việc cần phải làm. Tất cả chúng ta đều can dự vào công việc này, vì Thiên Chúa đang cần những công nhân, sinh viên đem Đức Kitô đến công trường hay vào giảng đường bằng uy tín và tinh thần tông đồ của họ. Thiên Chúa cần những giáo viên sống mẫu mực, truyền bá nhân sinh quan Kitô giáo, những giáo viên biết tận tụy dành thời giờ cho sinh viên, những giáo viên chính hiệu. Thiên Chúa cũng cần những bậc làm làm mẹ biết quan tâm đến việc giáo dục và đức tin của con cái và đóng một vai trò tích cực trong hội đồng nhà trường, các ủy ban và hiệp hội địa phương.
Khi chúng ta thấy nhiều người đang đi vào con đường sai trái, cuộc đời họ luôn thiếu vắng Thiên Chúa và trong lòng chỉ quan tâm tới của cải vật chất hay khao khát muốn chiếm hữu những của cải ấy, chúng ta không thề cứ ù lì, bất động, “bình chân như vại” mãi được. Vì mặc dù bề ngoài họ có vẻ dửng dưng, nhưng thâm sâu trong tâm hồn, họ vẫn khát khao tìm Thiên Chúa. Họ mong muốn có ai đó nói với họ về Thiên Chúa và những chân lý cứu độ. Nếu các Kitô hữu không lấy tinh thần hy sinh ra mà giải quyết vấn đề này, thì những lời tiên tri của ngôn sứ Giôen ngày xưa sẽ trở thành sự thật mất thôi: Đồng ruộng bị tàn phá, đất đai cũng u sầu như thể chịu tang, vì lúa mì bị tàn phá, rượu mới đã cạn khô, dầu tươi chẳng còn nữa. Hỡi nhà nông, hãy thẹn thùng xấu hổ, kẻ trồng nho, hãy rú lên nào, tiếc cho lúa miến, lúa mạch, vì đồng ruộng chẳng còn gì để gặt hái. Nho cằn cỗi, vả héo tàn, cả lựu, cả chà là lẫn táo, mọi cây cối ngoài đồng đã chết khô. Thế là đã cạn hết niềm vui của con cái loài người (Ge l,1-12). Thiên Chúa mong mỏi hoa mầu được thu hoạch nhưng chúng lại thất thoát chỉ vì sự chểnh mảng của đám thợ gặt mà thôi.
Những lời Chúa Giêsu nói, lúa chín thì nhiều nhưng thợ gặt thì ít, đáng cho chúng ta hôm nay suy gẫm, và hàng ngày xét mình xem: hôm nay chúng ta đã làm cho Danh Chúa được tỏ hiện cho mọi người chưa ? Tôi đã nói với ai về Đức Kitô chưa? Tôi đã làm được một việc tông đồ nào chưa? Tôi có quan tâm đến ơn cứu độ của bằng hữu và đồng nghiệp? Tôi có nhận thức rằng nhiều người có thể đến gần Thiên Chúa hơn nếu như tôi dạn dĩ hơn và gương mẫu hơn trong việc chu toàn những nghĩa vụ bổn phận hàng ngày?
2) Không được viện cớ thoái thác.
Thiên Chúa kêu gọi mọi người làm tông đồ. Cầu nguyện là phương thế cần thiết và hiệu nghiệm nhất để thực thi sứ mạng ơn gọi này.
Người ta có thể đưa ra nhiều lời bào chữa cho việc đã không mang Đức Kitô đến với tha nhân - nào là thiếu nhiều phương tiện, chưa chuẩn bị tương xứng, không có thời giờ, nào là vì chúng ta đang sống ở xó xỉnh này có quen biết được bao nhiêu người đâu hay vì chúng ta sẽ phải đi thật xa, hay cho dù ngay trong vùng chúng ta đang sống cũng phải đi thật nhiều. Tuy nhiên Thiên Chúa tiếp tục nhắc nhở tất cả chúng ta, và đặc biệt hơn trong thời đại mà người ta quá dửng dưng với tôn giáo này, rằng mùa màng thì nhiều mà thợ gặt lại ít. Hoa màu không thu hoạch kịp sẽ bị hư thối. Những lời vàng ngọc của thánh Gioan Kim khẩu sau đây cũng có thể giúp chúng ta thấy được là trong khi cầu nguyện, chúng ta có quá dễ dàng thoái thác lời kêu gọi cao quý đến nỗi từ chối làm tông đồ theo như thánh ý Chúa. Không có ai lạnh lùng nn tâm hơn một Kitô hữu mà chẳng biết quan tâm đến ơn cứu độ của tha nhân. Anh em không được dùng sự nghèo khổ mà biện bạch. Bà góa dâng cúng vào đền thờ vài xu kia sẽ tố cáo bạn cho mà xem. Chính thánh Phêrô cũng nói: "Vàng bạc thì Ta chẳng có " (Cv 3,6). Còn Thánh Phaolô còn nghèo đến độ lắm phen phải chịu cảnh đói khát thiếu thốn mọi phương tiện cần thiết để sống, Đừng viện cớ hoàn cảnh khiêm hạ bình dân để biện minh chữa mình. Các Ngài cũng xuất thân từ đám người khiêm hạ nhất đấy thôi. Cũng đừng phân trần kêu ca mình thiếu kiến thức này kia. Các Ngài cũng mù chữ thất học cả đấy. Dù có là nô lệ tôi đòi, hay là khách kiều cư di dân lập nghiệp, anh em phải làm tất cả những gì có thể làm. Ônêsimô trước vẫn thế, và hãy khôn ngoan trong ơn gọi của mình... Đừng kêu ca ốm đau bệnh hoạn để biện minh chữa mình. Timôthê cũng thường xuyên đau ốm đấy thôi... Mỗi người trong chúng ta đều có thể có ích cho những người chung quanh nếu như chúng ta làm tất cả những gì chúng ta có thể làm. Chúng ta muốn trung tín với Thiên Chúa. Chúng ta sẽ mãi tín trung với Ngài nếu chúng ta làm tất cả những gì chúng ta có thể.
Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Thánh Gregoriô chú giải thế này: Khi nghe câu này, chúng ta không thể không cảm thấy buồn, vì chúng ta biết rằng có nhiều người muốn nghe Tin mừng, nhưng cái đang thiếu là thiếu những người đi loan báo cho những tin vui này.
Vì thế để có nhiều người vai kề vai, mỗi một người trong vị trí riêng của mình, cùng nhau làm việc trên thế giới này, chúng ta chỉ có một cách là đi theo con đường chính Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta: Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về (Mt 9,37). Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cầu xin Thiên Chúa đánh thức ước muốn, trong nhiều tâm hồn, được góp phần to lớn hơn vào công cuộc cứu độ. Cầu nguyện là những phương tiện hiệu quả nhất để thu phục những tông đồ mới và giúp con người khám phá ra ơn gọi của mình. Trong kinh nguyện dâng lên Thiên Chúa, ước muốn có thêm những tông đồ phải được chúng ta bộc bạch với Ngài trước mọi điều khác: nài xin khiêm tốn, tín thác và liên lỉ. Tất cả mọi Kitô hữu cần cầu xin Thiên Chúa sai thợ ra gặt lúa về. Nếu chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban nhiều ơn gọi, thì chính chúng ta sẽ cảm thấy thôi thúc hơn, bạo dạn hơn trong công tác tông đồ của chúng ta, vì thế cũng có thể thu hút thêm nhiều thợ gặt mới cho vụ mùa.
3) Cầu xin Thiên Chúa ban nhiều ơn gọi
Bằng cách sai các môn đệ đi trước, Chúa Giêsu đã chuẩn bị xa cho những chuyến đi của Người tới những làng mạc thị thành khác. Công việc ấy mới chỉ là chuẩn bị nhưng cũng là công tác tông đồ cả đấy. Các tông đồ đã đi vào các làng mạc nơi chính Chúa Giêsu sẽ đến. Mọi công tác tông đồ chẳng qua đều là nhắm đến mục tiêu chuẩn bị cho người ta đón nhận Thiên Chúa đến với họ.
Lúa chín vẫn cứ nhiều... chúng ta cứ phải tiếp tục cầu xin Thiên Chúa đánh thức tâm hồn mọi Kitô hữu nam cũng như nữ để họ nhận ra được ý nghĩa ơn gọi trong cuộc đời mình. Họ sẽ nhận thức rằng mình không chỉ muốn sống lương thiện tốt lành, mà còn phải tập tành làm thợ gặt trong cánh đồng của Thiên Chúa, mỗi khi quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu. Nam hay nữ, trẻ hay già đều sống tận hiến cho Thiên Chúa trên đời này; nhiều người độc thân làm tông đồ; cả những Kitô hữu bình thường, trong khi cùng sinh hoạt với mọi người trong xã hội, lại là những người mang Đức Kitô vào tận giữa lòng cuộc đời này.
Hãy cầu xin chủ mùa gặt... chúng ta cũng phải cầu xin cho có nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ, những ơn gọi đầy hân hoan thánh thiện và trung tín, những ơn gọi rất đỗi cần thiết cho Hội Thánh.
Chúa Giêsu, một mình Người vẫn có thể thực hiện trọn vẹn ơn cứu độ trên thế gian này, nhưng lại muốn cậy dựa vào các môn đệ đi trước mình vào các làng mạc thị thành, và nay là các đại học, các công trường nhà máy, để loan báo những kỳ công, dấu lạ, điềm thiêng và những yêu sách đòi hỏi của Vương quốc Thiên Chúa đang ngự đến. Rõ ràng là Hội Thánh Mẹ chúng ta đang cần những người dấn thân vào con đường tận hiến thánh thiện này. Các Đức giáo hoàng Rôma đã không ngừng nhắc nhở chúng ta nhớ đến nhu cầu khẩn thiết cần có những ơn gọi làm tông đồ, vì công cuộc phúc âm hóa thế giới này đang nằm trong tay những ơn gợi ấy.
Hãy cùng tôi kêu lên: “Lạy Chúa Giêsu, các linh hồn!... các tâm hồn tông đồ! Ho thuộc về Chúa, họ sống cho Chúa, cho Vinh Danh Chúa”. Cuối cùng anh em sẽ thấy Ngài sẽ nhậm lời chúng ta.
Phần tôi, tôi đang làm gì để thu nhận những ơn gọi này? Những ơn gọi này sẽ xuất hiện giữa con cái, anh em, chị em, họ hàng, bằng hữu và người quen biết của chúng ta. Chúng ta đừng quên Thiên Chúa muốn gọi nhiều người. Chúng ta hãy xin Ngài ban ơn thúc đẩy và khuyến khích ơn thiên triệu cho những người chúng ta tiếp xúc hằng ngày.
Chúng ta cũng cầu xin Đức Maria giúp chúng ta lắng nghe nghiêm túc Lời Chúa hôm nay và quyết tâm làm tất cả những gì chúng ta có thể, với ý thức khẩn trương và liên tục nhờ vậy để chúng ta sẽ được thấy nhiều thợ gặt đến làm việc trong cánh đồng Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Ngài ban cho mình niềm vui được làm dụng cụ cho Chúa Giêsu mời gọi người khác. "Tin vui đây: một "gã khùng” khác sắp vào nhà thương điên đây... Và tất cả mọi chuyện đều trở nên hồ hởi phấn khởi qua lời lẽ của anh thuyền chài nọ... Xin Thiên Chúa làm cho những mẻ lưới của anh em đầy tràn."
Thiên Chúa không bao giờ quên được ‘anh chàng thuyền chài’ đó đâu.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta không khỏi xúc động,cảm kích về thái độ, cử chỉ và con người của Đức Kitô. Thực sự, có một cái gì: TN 11-A53
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta không khỏi xúc động,cảm kích về thái độ, cử chỉ và con người của Đức Kitô. Thực sự, có một cái gì rất diệu kỳ và linh thánh khi nói về Chúa Giêsu. Ngài sinh ra nơi trần gian không chỉ để sống kiếp làm người như mọi người khác, nhưng việc nhập thể của Chúa cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta hiểu thật rõ về Con Người-Chúa của Ngài. Ba mươi năm sống với cha mẹ của Ngài ở làng quê Nagiarét đã hun đúc con người lao động, chiêm niệm và chuẩn bị sứ vụ công khai của Ngài. Chúa Giêsu đã tiếp xúc hàng ngày với nhiều lớp dân, nên Ngài đã hiểu nhu cầu thực tế của họ. Thánh Matthêu viết:” Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”( Mt 9,36 ). Với lòng nhân từ, Chúa Giêsu gợi ý để các môn đệ suy nghĩ: ” Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” ( Mt 9, 37 ).
NHU CẦU CỦA DÂN CHÚNG VÀ CÁNH ĐỒNG LÚA MÊNH MÔNG:
Tin Mừng của thánh Matthêu gợi lên hình ảnh rất thực tế của Chúa Giêsu:” Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” ( Mt 9, 35 ). Nhờ đi đây đi đó, tiếp xúc với dân chúng, Chúa Giêsu hiểu rõ những nhu cầu của dân. Đám đông dân chúng không chỉ đói khát lương thực, không chỉ thiếu thốn vật chất, nhưng dân chúng quả đang khát khao lắng nghe lời rao giảng của Chúa và các mộn đệ của Ngài. Dân chúng đang thiếu các vị chủ chăn, đang thiếu những người lãnh đạo để dậy dỗ họ và yêu thương họ. Điều này cho chúng ta hiểu rõ hơn về quan niệm Cựu Ước: “ hình ảnh các mục tử rất quen thuộc với nền văn hóa du mục “. Tổ tiên của dân Cựu Ước cũng là những người chăn chiên, như Môsê, Đavít, Giêrêmia và Ezêkiel đã loan báo trước cho dân là chính Thiên Chúa sẽ trở nên người chăn dắt đàn chiên của Ngài. Lời tiên báo của các ngôn sứ đã được thực hiện nơi chính Đức Giêsu Kitô, Con Một duy nhất của Thiên Chúa, vị Mục tử hiền lành chạnh thương và chăm sóc mọi con chiên của Ngài, đến nỗi hy sinh cả mạng sống cho chúng. Do đó, dân chúng cảm thất an tâm vững dạ, tiến bước vì có Chúa là Mục Tử dẫn dắt họ. “ Tôi chính là Mục Tử nhân lành.Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên”( Ga 10,11 ) hoặc “ Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”( Ga 10, 10 ). Tiếp xúc với dân, hiểu rõ dân, Chúa Giêsu thấy nhu cầu truyền giáo bao la: lúa chín đầy đồng, ruộng đồng mênh mông. Chính vì thế, công việc cứu độ, việc loan báo Tin Mừng, Chúa không làm một mình. Chúa muốn có nhiều người cộng tác với Người trong công cuộc cứu độ. Do đó, Chúa đã kêu mời nhóm mười hai đi theo Ngài để Ngài huấn luyện, uốn nắn, biến đổi họ thành những tay thợ lành nghề trong cánh đồng truyền giáo bao la của thế giới. Chúa đã tuyển chọn nhóm mười hai để tiếp tục sứ mạng cứu thế của Ngài.
CHÚA THIẾT LẬP GIÁO HỘI Ở TRẦN THẾ ĐỂ TIẾP TỤC CHƯƠNG TRÌNH CỨU RỖI CỦA CHÚA:
Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay đưa chúng ta về những bước khởi đầu của việc thiết lập Giáo Hội. Trong thời kỳ công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã giảng dậy trong các hội đường Capharnaum va nhiều hội đường khác. Danh tiếng của Ngài đã được rất nhiều người biết tới. Những lời rao giảng, những phép lạ của Ngài đã làm danh tiếng Ngài vang đi khắp nơi. Ngài nhìn thấy trước công cuộc cứu rỗi của Ngài. Do đó, để thực hiện chương trình cứu rỗi, Chúa đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài để rao giảng, loan báo Tin Mừng. Trong số các môn đệ, Chúa Giêsu đã chọn mười hai người để làm tông đồ và trở thành cột trụ của Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Giáo Hội của Chúa từ thời các tông đồ cho tới ngày hôm nay vẫn luôn tồn tại, phát triển không ngừng dù rằng Giáo Hội không ít gian nan, thử thách. Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng của các tông đồ mà đứng đều là thánh Phêrô và các Đấng kế vị Ngài. Do đó, chấp nhận quyền bính trong Giáo Hội, phẩm trật của Giáo Hội cũng chính là chấp nhận quyền bính mà Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ. Hội Thánh của Chúa ở trần gian là Hội Thánh duy nhất, thánh thiện và tông tuyền.Khi tuyên xưng như thế có nghĩa là mọi Kitô hữu sống trong sự hiệp thông với Hội Thánh trong đó các Đức Giám Mục mà Vị Thủ Lãnh là Đức Giáo Hoàng, Đấng kế vị thánh Phêrô làm thành một phẩm trật hết sức thánh thiêng và hiệp nhất. Hội Thánh đã được Chúa Giêsu ủy thác cho các tông đồ, các tông đồ lại truyền lại cho các người kế tục và cứ như thế cho đến ngày viên mãn chung cục…
CẢM NGHIỆM VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA VÀ TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN HỘI THÁNH:
Thánh Matthêu đã vẽ lại bức tranh tuyệt đẹp về con người của Chúa Giêsu. Đây là sự mạc khải tuyệt vời về lòng thương xót của Chúa. “ Thấy đám đông thì Chúa chạnh lòng thương”. Chúa Giêsu đã sống đích thực sự sống của con người, một người có trái tim nhạy bén, trái tim biết nói, trái tim người nhưng đầy thần khí của Chúa. Chúa xót thương con người, thương yêu dân chúng vì họ đói khát lời của Chúa. Và Ngài đã chỉ thị cho các môn đệ phải tiếp tục loan báo Nước Trời, rao giảng lời Chúa. Như năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã nuôi nhiều ngàn người ăn. Dân chúng bơ vơ, đói khát cả về vật chất lẫn tinh thần, Chúa yêu thương nuôi sống họ và Chúa sẽ để lại chính Thịt Máu của Ngài làm lương thực nuôi sống con người. Hội Thánh của Chúa sẽ tiếp tục sứ mạng của Chúa và tin tưởng Chúa Thánh Thần sẽ luôn tác động, đổi mới để làm cho Giáo Hội Chúa càng ngày càng trổ sinh hoa trái tốt đẹp.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta có ý thúc vai trò, nghĩa vụ của mình là xây dựng Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương mỗi ngày một đạo đức, thánh thiện hay không ? Mỗi người Kitô hữu phải là một viên đá sống động động để Chúa xây dựng Hội Thánh Chúa ở trần gian này. Như các tông đồ chúng ta tung cánh khắp mọi nơi để loan báo Chúa Giêsu Kitô và rao giảng Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con hiểu rõ rằng nơi đâu có người công giáo là nơi đó có Giáo Hội Chúa. Amen.
Tinh khẩn thiết của sứ mạng tông đồ: mùa màng thì nhiều mà thợ gặt lại ít Bài Tin mừng trong Thánh lễ hôm nay vẽ ra một cảnh tượng mà chắc:TN 11-A54
Tinh khẩn thiết của sứ mạng tông đồ: mùa màng thì nhiều mà thợ gặt lại ít Bài Tin mừng trong Thánh lễ hôm nay vẽ ra một cảnh tượng mà chắc chắn đã thường xuyên xảy ra mỗi khi CGS rảo bước qua các thành thị và làng mạc để rao giảng Nước Trời đang đến gần. Khi nhìn đám đông, Người chạnh lòng thương; Người đã xúc động trước cảnh ngộ khốn khổ của họ vì thấy họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9,36). Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,37). Ngày nay hoàn cảnh cũng tương tự như thế, có quá ít nhân lực để thực hiện một công trình to tát. Hoa mầu có thể thất thu vì không có người ra đồng mà gặt. Vì thế có một nhu cầu thúc bách các Kitô hữu sống trung tín đơn thành hiệu quả và vui tươi với Hội Thánh và ý thức được những việc cần phải làm. Tất cả chúng ta đều can dự vào công việc này, vì TC đang cần những công nhân, sinh viên đem ĐKT đến công trường hay vào giảng đường bằng uy tín và tinh thần tông đồ của họ. TC cần những giáo viên sống mẫu mực, truyền bá nhân sinh quan Kitô giáo, những giáo viên biết tận tụy dành thời giờ cho sinh viên, những giáo viên chính hiệu. TC cũng cần những bậc làm làm mẹ biết quan tâm đến việc giáo dục và đức tin của con cái và đóng một vai trò tích cực trong hội đồng nhà trường, các ủy ban và hiệp hội địa phương. Khi chúng ta thấy nhiều người đang đi vào con đường sai trái, cuộc đời họ luôn thiếu vắng TC và trong lòng chỉ quan tâm tới của cải vật chất hay khao khát muốn chiếm hữu những của cải ấy, chúng ta không thề cứ ù lì, bất động, “bình chân như vại” mãi được. Vì mặc dù bề ngoài họ có vẻ dửng dưng, nhưng thâm sâu trong tâm hồn, họ vẫn khát khao tìm TC.
Họ mong muốn có ai đó nói với họ về TC và những chân lý cứu độ. Nếu các Kitô hữu không lấy tinh thần hy sinh ra mà giải quyết vấn đề này, thì những lời tiên tri của ngôn sứ Giôen ngày xưa sẽ trở thành sự thật mất thôi: Đồng ruộng bị tàn phá, đất đai cũng u sầu như thể chịu tang, vì lúa mì bị tàn phá, rượu mới đã cạn khô, dầu tươi chẳng còn nữa. Hỡi nhà nông, hãy thẹn thùng xấu hổ, kẻ trồng nho, hãy rú lên nào, tiếc cho lúa miến, lúa mạch, vì đồng ruộng chẳng còn gì để gặt hái. Nho cằn cỗi, vả héo tàn, cả lựu, cả chà là lẫn táo, mọi cây cối ngoài đồng đã chết khô. Thế là đã cạn hết niềm vui của con cái loài người (Ge l,1-12). TC mong mỏi hoa mầu được thu hoạch nhưng chúng lại thất thoát chỉ vì sự chểnh mảng của đám thợ gặt mà thôi. Những lời CGS nói, lúa chín thì nhiều nhưng thợ gặt thì ít, đáng cho chúng ta hôm nay suy gẫm, và hàng ngày xét mình xem: hôm nay chúng ta đã làm cho Danh Chúa được tỏ hiện cho mọi người chưa ? Tôi đã nói với ai về ĐKT chưa? Tôi đã làm được một việc tông đồ nào chưa? Tôi có quan tâm đến ơn cứu độ của bằng hữu và đồng nghiệp? Tôi có nhận thức rằng nhiều người có thể đến gần TC hơn nếu như tôi dạn dĩ hơn và gương mẫu hơn trong việc chu toàn những nghĩa vụ bổn phận hàng ngày?2) Không được viện cớ thoái thác. TC kêu gọi mọi người làm tông đồ. Cầu nguyện là phương thế cần thiết và hiệu nghiệm nhất để thực thi sứ mạng ơn gọi này. Người ta có thể đưa ra nhiều lời bào chữa cho việc đã không mang ĐKT đến với tha nhân - nào là thiếu nhiều phương tiện, chưa chuẩn bị tương xứng, không có thời giờ, nào là vì chúng ta đang sống ở xó xỉnh này có quen biết được bao nhiêu người đâu hay vì chúng ta sẽ phải đi thật xa, hay cho dù ngay trong vùng chúng ta đang sống cũng phải đi thật nhiều.
Tuy nhiên TC tiếp tục nhắc nhở tất cả chúng ta, và đặc biệt hơn trong thời đại mà người ta quá dửng dưng với tôn giáo này, rằng mùa màng thì nhiều mà thợ gặt lại ít. Hoa màu không thu hoạch kịp sẽ bị hư thối. Những lời vàng ngọc của thánh Gioan Kim khẩu sau đây cũng có thể giúp chúng ta thấy được là trong khi cầu nguyện, chúng ta có quá dễ dàng thoái thác lời kêu gọi cao quý đến nỗi từ chối làm tông đồ theo như thánh ý Chúa. Không có ai lạnh lùng nn tâm hơn một Kitô hữu mà chẳng biết quan tâm đến ơn cứu độ của tha nhân. Anh em không được dùng sự nghèo khổ mà biện bạch. Bà góa dâng cúng vào đền thờ vài xu kia sẽ tố cáo bạn cho mà xem. Chính thánh Phêrô cũng nói: "Vàng bạc thì Ta chẳng có " (Cv 3,6). Còn Thánh Phaolô còn nghèo đến độ lắm phen phải chịu cảnh đói khát thiếu thốn mọi phương tiện cần thiết để sống, Đừng viện cớ hoàn cảnh khiêm hạ bình dân để biện minh chữa mình. Các Ngài cũng xuất thân từ đám người khiêm hạ nhất đấy thôi. Cũng đừng phân trần kêu ca mình thiếu kiến thức này kia. Các Ngài cũng mù chữ thất học cả đấy. Dù có là nô lệ tôi đòi, hay là khách kiều cư di dân lập nghiệp, anh em phải làm tất cả những gì có thể làm. Ônêsimô trước vẫn thế, và hãy khôn ngoan trong ơn gọi của mình... Đừng kêu ca ốm đau bệnh hoạn để biện minh chữa mình. Timôthê cũng thường xuyên đau ốm đấy thôi... Mỗi người trong chúng ta đều có thể có ích cho những người chung quanh nếu như chúng ta làm tất cả những gì chúng ta có thể làm. Chúng ta muốn trung tín với TC. Chúng ta sẽ mãi tín trung với Ngài nếu chúng ta làm tất cả những gì chúng ta có thể. Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Thánh Gregoriô chú giải thế này: Khi nghe câu này, chúng ta không thể không cảm thấy buồn, vì chúng ta biết rằng có nhiều người muốn nghe Tin mừng, nhưng cái đang thiếu là thiếu những người đi loan báo cho những tin vui này. Vì thế để có nhiều người vai kề vai, mỗi một người trong vị trí riêng của mình, cùng nhau làm việc trên thế giới này, chúng ta chỉ có một cách là đi theo con đường chính CGS đã chỉ cho chúng ta: Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về (Mt 9,37). CGS mời gọi chúng ta cầu xin TC đánh thức ước muốn, trong nhiều tâm hồn, được góp phần to lớn hơn vào công cuộc cứu độ. Cầu nguyện là những phương tiện hiệu quả nhất để thu phục những tông đồ mới và giúp con người khám phá ra ơn gọi của mình.
Trong kinh nguyện dâng lên TC, ước muốn có thêm những tông đồ phải được chúng ta bộc bạch với Ngài trước mọi điều khác: nài xin khiêm tốn, tín thác và liên lỉ. Tất cả mọi Kitô hữu cần cầu xin TC sai thợ ra gặt lúa về. Nếu chúng ta cầu xin TC ban nhiều ơn gọi, thì chính chúng ta sẽ cảm thấy thôi thúc hơn, bạo dạn hơn trong công tác tông đồ của chúng ta, vì thế cũng có thể thu hút thêm nhiều thợ gặt mới cho vụ mùa. 3) Cầu xin TC ban nhiều ơn gọi Bằng cách sai các môn đệ đi trước, CGS đã chuẩn bị xa cho những chuyến đi của Người tới những làng mạc thị thành khác. Công việc ấy mới chỉ là chuẩn bị nhưng cũng là công tác tông đồ cả đấy. Các tông đồ đã đi vào các làng mạc nơi chính CGS sẽ đến. Mọi công tác tông đồ chẳng qua đều là nhắm đến mục tiêu chuẩn bị cho người ta đón nhận TC đến với họ. Lúa chín vẫn cứ nhiều... chúng ta cứ phải tiếp tục cầu xin TC đánh thức tâm hồn mọi Kitô hữu nam cũng như nữ để họ nhận ra được ý nghĩa ơn gọi trong cuộc đời mình. Họ sẽ nhận thức rằng mình không chỉ muốn sống lương thiện tốt lành, mà còn phải tập tành làm thợ gặt trong cánh đồng của TC, mỗi khi quảng đại đáp lại lời mời gọi của CGS. Nam hay nữ, trẻ hay già đều sống tận hiến cho TC trên đời này; nhiều người độc thân làm tông đồ; cả những Kitô hữu bình thường, trong khi cùng sinh hoạt với mọi người trong xã hội, lại là những người mang ĐKT vào tận giữa lòng cuộc đời này. Hãy cầu xin chủ mùa gặt... chúng ta cũng phải cầu xin cho có nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ, những ơn gọi đầy hân hoan thánh thiện và trung tín, những ơn gọi rất đỗi cần thiết cho Hội Thánh. CGS, một mình Người vẫn có thể thực hiện trọn vẹn ơn cứu độ trên thế gian này, nhưng lại muốn cậy dựa vào các môn đệ đi trước mình vào các làng mạc thị thành, và nay là các đại học, các công trường nhà máy, để loan báo những kỳ công, dấu lạ, điềm thiêng và những yêu sách đòi hỏi của Vương quốc TC đang ngự đến. Rõ ràng là Hội Thánh Mẹ chúng ta đang cần những người dấn thân vào con đường tận hiến thánh thiện này. Các Đức giáo hoàng Rôma đã không ngừng nhắc nhở chúng ta nhớ đến nhu cầu khẩn thiết cần có những ơn gọi làm tông đồ, vì công cuộc phúc âm hóa thế giới này đang nằm trong tay những ơn gợi ấy. Hãy cùng tôi kêu lên: “Lạy CGS, các linh hồn!... các tâm hồn tông đồ! HoÏ thuộc về Chúa, họ sống cho Chúa, cho Vinh Danh Chúa”. Cuối cùng anh em sẽ thấy Ngài sẽ nhậm lời chúng ta.
Phần tôi, tôi đang làm gì để thu nhận những ơn gọi này? Những ơn gọi này sẽ xuất hiện giữa con cái, anh em, chị em, họ hàng, bằng hữu và người quen biết của chúng ta. Chúng ta đừng quên TC muốn gọi nhiều người. Chúng ta hãy xin Ngài ban ơn thúc đẩy và khuyến khích ơn thiên triệu cho những người chúng ta tiếp xúc hằng ngày. Chúng ta cũng cầu xin Đức Maria giúp chúng ta lắng nghe nghiêm túc Lời Chúa hôm nay và quyết tâm làm tất cả những gì chúng ta có thể, với ý thức khẩn trương và liên tục nhờ vậy để chúng ta sẽ được thấy nhiều thợ gặt đến làm việc trong cánh đồng TC. Chúng ta hãy cầu xin Ngài ban cho mình niềm vui được làm dụng cụ cho CGS mời gọi người khác. "Tin vui đây: một "gã khùng” khác sắp vào nhà thương điên đây... Và tất cả mọi chuyện đều trở nên hồ hởi phấn khởi qua lời lẽ của anh thuyền chài nọ... Xin TC làm cho những mẻ lưới của anh em đầy tràn." TC không bao giờ quên được ‘anh chàng thuyền chài’ đó đâu.
Một sứ mạng bắt nguồn từ “lòng thương xót” của Đức Giêsu. Sau những hoạt động truyền giáo của ĐGS tại Galilê, câu 35 cho một cái nhìn:TN 11-A55
1) Một sứ mạng bắt nguồn từ “lòng thương xót” của Đức Giêsu. Sau những hoạt động truyền giáo của ĐGS tại Galilê, câu 35 cho một cái nhìn tổng quát về hoạt động này: "ĐGS rảo khắp các thành phố, làng mạc, rao giảng trong các hội đường. Công bố Tin Mừng Nước TC, chữa mọi bệnh hoạn, tật nguyền, nay đến giờ tổng kết, để tạo một đà lực mới cho sứ mạng. Nguồn mạch của đà lực mới cho sứ mạng này phát xuất từ cái nhìn của ĐGS, từ trái tim Mục Tử nhân hậu của Người, từ "lòng thương xót" của Người đối với "đám đông mệt mỏi rã rời", tệ hơn nữa, bị những người có trách nhiệm hướng dẫn - Luật sĩ và Biệt phái - bỏ rơi vì những vị này khép lòng lại trước tính chất mới mẻ của Nước Chúa. Họ bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt. Thấy nhiệm vụ quá lớn lao mà phương tiện lại nghèo nàn, trước khi cất tiếng kêu gọi và sai các tông đồ lên đường sứ mạng, Đức Giêsu hướng tầm mắt các môn đệ về phía "ông chủ mùa gặt": “Hãy cầu nguyện xin chủ ruộng sai nhiều thợ gặt đến” .
2) Một sứ mạng không khác sứ mạng của ĐGS Nhân việc Đức Giêsu kêu gọi "mười hai môn đệ", tác giả Phúc âm phong cho họ tước hiệu "tông đồ" nghĩa là "được sai đi". Simon được gọi là "Phêrô" đứng đầu, Matthêu người thu thuế “ở chương 9,9; "Giuđa", “kẻ nộp Người". Việc kêu gọi đi liền với việc sai đi truyền giáo được diễn tả dưới hình thức diễn từ, đó là diễn từ thứ 2 trong 5 diễn từ quan trọng của Phúc âm thứ 1 mà ta sẽ đọc Chúa nhật XII và Chúa nhật XIII sắp tới. Đoạn Phúc Âm hôm nay trả lời hai vấn nạn: Họ được sai đến với ai ? Sứ mạng của họ là gì ? Đến với ai? Với cuộc hẹn cuối cùng tại Galilê, ĐGS phục sinh đã mở chân trời truyền giáo ra tới "mọi dân tộc" (28,19). Còn hiện tại, những người được sai đi trước hết: "với những chiên lạc nhà Israel". Sứ mạng gì? Y hệt sứ mạng của Đức Giêsu. Như Người họ sẽ loan báo việc Nước TC đến. Họ sẽ thực hành những cử chỉ nhân hậu của Chúa, những dấu chĩ mà tác giả Phúc âm, ở 11,2, gọi là "những công việc ĐGS”. Khi nhớ lại rằng họ chỉ hành động như vậy nhờ Đức Giêsu ban các quyền năng của Người cho họ một cách nhưng không, họ đã đi đến một thái độ sống nghèo "Anh em đã lãnh nhận nhưng không, hãy ban nhưng không”.
BÀI ĐỌC THÊM
1) Chính nơi trái tim ĐGS ta tìm thấy động lực cho việc truyền giáo, sứ mạng của ta (Mgr. L. Daloz, le Règne de Diêu s'est approché DDB). Cho tới nay, ĐGS chưa trao cho những kẻ kêu gọi một nhiệm vụ nào. Giờ đây Người sắp trao cho họ và sai họ đi. Trước đó, Matthêu đã cho ta thấy nguồn cội của sứ mạng của họ: Thấy đám đông, Người động lòng thương, vì họ mệt mỏi rã rời như bầy chiên không người chăn dắt. Rất nhiều lần, Phúc âm đã nói về lòng thương của ĐGS đối với đám đông. Nguồn cội của việc sai đi, của sứ mạng truyền giáo là tình thương của ĐGS, tình thương mà ta gọi là lòng thương xót, không phải là sự hạ cố, nhưng vì tình thương ấy đã nhìn thấy đám đòng mệt mỏi rã rời" và ĐGS đã xúc động…
Từ ngừ Hi Lạp còn nói mạnh hơn: Người đau thắt ruột lại. Chính nơi trái tim ĐGS, nơi sự âu yếm của Người, nơi sự xúc động tâm can của Người, ta tìm thấy động lực của sứ mạng truyền giáo của ta. Có lẽ ta nghĩ rằng lời kế tiếp sẽ là lời mời gọi lên đường làm việc thu hoạch mùa màng, vì có quá ít thợ ! Nhưng ĐGS lại không nói điều đó với các môn đệ. Hãy nghe Người: Các con hãy xin Chủ ruộng sai thợ gặt đến. Tự nguyện chưa đủ. Quảng đại chưa đủ. Còn phải hiệp thông với tình yêu của Chúa Cha, ông chủ ruộng nữa. "Lòng thương xót" của ĐGS diễn dịch tình yêu của TC đối với nhân loại lầm lạc. Vâng, thật cần thiết, những người muốn làm việc cho mùa gặt, loan báo Nước Trời, làm chứng Phúc âm, đi kín múc từ nguồn tình yêu làm cho hoạt động của họ có ý nghĩa. Lời kêu gọi trước hết là theo ĐGS. Hiểu biết Đức Giêsu, nhận biết Người là Đấng Cứu Thế, Đấng đến nhân danh Chúa Cha, để Người khai tâm mở trí, chiêm ngắm người, năng lui tới với Người, khám phá bằng nghe Người nói, nhìn Người hành động không mỏi mệt, và tặng ban chính sự sống của Người, thấy Người xúc động vì "thương xót" đến mức nào, thổn thúc vì khổ đau của nhân loại... và như thế, chia sẻ sự bao la, sự sâu xa của tình yêu TC, một tình yêu không giới hạn cháy bỏng: TC muốn nhân loại vào một cuộc xuất hành khác với cuộc xuất hành do Mosê hướng dẫn, muốn ban cho nhân loại một cuộc giải phóng vĩ đại hơn! Đó là tất cả điều kiện của một sứ mạng thực sự, không phải là trước khi lên đường, nhưng không ngừng, ở nền tảng của sứ mạng. Trước đây, không biết diều đó, ta vẫn có thể xúc động trước nỗi khổ của con người, trước sự thiếu thốn của họ và dấn thân phục vụ họ, can đảm hành động. Điều đó rất quan trọng, và đó cũng là công việc của Thánh Thần TC. Nhưng Phúc âm còn đưa ta đi xa hơn: Nó mạc khải tình yêu mà chính TC mang đến cho nhân loại, say mê, không mỏi mệt. Đời sống và cái chết của ĐGS là bằng chứng hùng hồn về điều đó. Người mời gọi ta đến chia sẻ tình yêu ấy làm tôi tớ phục vụ tình yêu ấy cho anh em ta, bắt tay vào hành động vì Người sai ta đi truyền giáo truyền giáo không phải là tác phẩm của ta. Cũng không do sáng kiến của ta truyền giáo đâm rễ sâu trong lời cầu nguyện làm trái tim và ý chí ta phù hợp với tình yêu trong trái tim TC. Truyền giáo không thể tách rời cầu nguyện: Hãy cầu nguyện xin chủ ruộng sai thợ gặt đến.
2. Chúng ta là Giáo Hội (L. Sintas, Parole de Diêu pour la méditation ét lhomélie, Médias Paul). Sứ mệnh trao ban cho các tông đồ cũng là sứ mệnh trao ban cho ta hôm nay. Giáo hội hôm nay chính là chúng ta. Vậy đến lượt ta phải loan báo Nước TC đã đến. Chắc rằng ta không đi tìm mặt trời giữa đêm khuya. Xuyên qua hoạt động hằng ngày, cuộc sống gia đình, nghề nghiệp, ta có thể, hoặc trở nên tôi tớ của Vương quốc sự dữ khi ta gieo rắc chia rẽ, vun trồng ghen tương, ích kỷ, hoặc trở nên chứng nhân cho hoạt động của TC khi trở thành men tình bạn, men bình an, men hoà giải. Cần cầu nguyện để nhắc nhở những gì TC đã làm cho ta dù ta tội lỗi. Nhưng cầu nguyện còn có mục đích giúp ta kiên vững trong sứ mệnh là tác nhân hoà bình, chữa lành bệnh và hiệp thông. Muốn là Kitô hữu, phải làm cho cách hành động của ta phù hợp với niềm tin. Đó là cách duy nhất để trở thành tông đồ, làm cho Giáo Hội nên sống động và có sức hấp dẫn. Thực vậy, đối với những người không cùng chia sẻ niềm tin với ta, thành phần hữu hình của GH mà họ thấy được chính là GH một khuôn mặt của TC, khuôn mặt ấy có sức lôi cuốn mọi người sống quanh ta. Đó là loan báo Nước TC đã đến
3. Cầu nguyện và truyền giáo (Mgr. R. Coffy)Truyền giáo là lãnh nhận trước khi là hành động. Truyền giáo chỉ là hành động nhân danh Đấng sai đi. Được sai đi chính là hành động nhân danh ai. Nó giả thiết mối quan hệ quen thuộc thông thường giữa người sai và kẻ được sai, trong sứ mạng tông đồ, đó là cầu nguyện. Hoạt động truyền giáo không dựa trên cầu nguyện sẽ có nguy cơ trở nên hoạt động thuần tuý nhân loại chứ không còn là hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi con người. Nói về truyền giáo mà không nói trong cầu nguyện, có thể vi phạm tính cách chân thực của sứ mạng.
Ngày xưa, khi chọn lựa Mô-sê làm lãnh tụ đưa dân ít-ra-en ra khỏi kiếp nô lệ lầm than để lên đường tiến về Hứa Địa, Gia-Vê Thiên Chúa đã tuyên TN 11-A56
Ngày xưa, khi chọn lựa Mô-sê làm lãnh tụ đưa dân ít-ra-en ra khỏi kiếp nô lệ lầm than để lên đường tiến về Hứa Địa, Gia-Vê Thiên Chúa đã tuyên bố lý do rằng: “Ta đã thấy nổi khổ của Dân ta bên Ai Cập…, và Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập và đem chúng vào vùng đất tốt tươi… Bây giờ ngươi hãy đi !Ta sai ngươi đến với vua Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai Cập” (Xh 3, 7-8).
Môsê đã vâng lệnh ra đi thi hành thánh vụ. Cho dù ông luôn cảm nhận sự yếu đuối và giới hạn của bản thân.
Hơn ngàn năm sau đó, cũng tại quê hương nầy, có một Mô-sê mới lại ngậm ngùi xúc động: “Ta thương xót đám dân nầy, vì họ bơ vơ vất vưởng như đàn chiên không mục tử…” (Mt 9,36); và Ngài đã sai các môn sinh phân phát những tấm bánh và con cá để sẻ chia tình yêu của Ngài (Mt 14, 13-16); và nhất là sau khi chết, sống lại, về trời để cụ thể hóa tình thương cứu độ của Thiên Chúa, Ngài đã long trọng ban hành sứ mệnh: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15).
Như thế, cả lý do xuất phát và tiêu đích hướng về của sứ vụ Tông đồ cũng chỉ là một nội dung duy nhất: Tình Thương cứu độ của Thiên Chúa, hay theo ngữ cảnh của Lời Chúa được công bố hôm nay thì đó chính là sự “rung động đầy lòng xót thương” của Thiên Chúa.
Và chúng ta cũng biết được rằng: ở trung tâm của sự “rung động đầy lòng xót thương” đó chính là một Giao Ước. Giao Ước Si-Nai là trọng tâm của tình thương giải thoát Ít-ra-en khỏi kiếp nô lệ Ai Cập. Giao ước nầy chính là hình bóng của Giao Ước mới bằng Máu của Đức Kitô, Giao ước Núi Sọ, Giao ước của tình thương cứu độ vĩnh viễn, là “sự cụ thể hóa tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho Dân Ngài, là sự bảo đảm tuyệt đối cho sự trung thành của Trái tim Thiên Chúa bất chấp sự bội phản vong ân của trái tim con người. Và đó chính là sự thật, một sự thật mà thánh Phaolô trong BĐ 2 hôm nay đã cố gắng thuyên giải: khi chúng ta còn là tội nhân Thiên Chúa đã trao ban Con Một hy sinh chịu chết để tái lập sự hòa giải và ban ơn cứu độ…
Trong ý nghĩa đó, chúng ta có thể định nghĩa thêm: “ơn gọi Tông đồ” chính là sự gặp gỡ của tình yêu. Đúng hơn, đó chính là tia nhìn yêu thương của Thiên Chúa chiếu trên thân phận khổn khổ lạc loài của tất cả loài người chúng ta. Làm Tông đồ phải chăng là đi loan báo tình thương cứu độ của Thiên Chúa, là đoan chứng rằng: Thiên Chúa đã thấy nổi khổ của chúng ta, Thiên Chúa đã thấy nổi bơ vơ lạc loài của chúng ta, Thiên Chúa đã xót thương chúng ta và Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta bằng chính tình yêu tự hiến của Ngài.
Lịch sử cứu độ phải chăng là một bản trường ca của những lời loan báo và làm chứng như thế. Kể từ Môsê đến dân Ít-ra-en, đến các ngôn sứ, rồi từ Đức Kitô đến các Tông đồ và Dân Chúa của hai ngàn năm lịch sử...không bao giờ vắng những bước chân Tông Đồ, những bước chân đi loan truyền tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Đẹp thay những bước chân như thế !
2. Căn tính của “Nhóm Mười hai”.
Nhưng những ai là người xứng đáng với ơn gọi và sứ mệnh cao quý nầy ?
Những bậc công hầu khanh tướng ? Những kẻ tài ba ? Những nhà trí thức ?
Không nhất thiết. Thiên Chúa đã từng nói với tiên tri Samuel: “Con người đánh giá theo cái nhìn bên ngoài, nhưng Thiên Chúa lại nhìn thấy tận cõi lòng”. Và theo tiêu chí đó, thay vì các bào huynh to con lớn xác, chàng Đa-vít út ít, nhỏ con nhưng “có đôi mắt xanh có gương mặt đẹp” đã được xức dầu tấn phong làm vua của Ít-ra-en để ông ta lên đường đưa Dân Chúa sang một bước ngoặc mới của chuơng trình cứu rỗi.
Cũng y chang cung cách đó, Đức Kitô đã tuyển lựa các dân chài xứ Ga-li-lê để kế tục sự nghiệp Ngài trên trần gian và làm cho công trình tình yêu bằng cái chết và sự sống lại của Ngài được tồn tại và phát triển trên mọi miền thế giới. Thiên Chúa chọn gọi và huấn luyện theo cung cách của riêng Ngài, miễn sao khi đã trở thành Tông Đồ, những người ấy trung thành với thân phận “được sai đi” và với sứ mệnh “loan báo Tin Mừng”. Người ta minh họa ý nghĩa trên bằng câu chuyện ngụ ngôn sau:
Sau những đêm dài cầu nguyện, Chúa Giêsu rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào để thiết lập nhóm Tông Đồ. Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện Ngài cũng không chọn được ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất giờ vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường thả bộ ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy một đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hồn vào công việc. Ngài nghĩ thầm họ là những người có quả tim yêu thương. Và thế là Ngài chọn họ làm tông đồ của Ngài…
Tông đồ, trước hết, phải là người có trái tim yêu thương.
Đó là trái tim biết cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa: Thiên Chúa yêu thương tôi và đang gọi mời tôi cùng lên đường cho dù tôi chỉ là kẻ tội lỗi, bất xứng.
Đó là trái tim biết khiêm hạ đáp trả và ngoan ngùy vâng phục tiếng gọi mời của Thiên Chúa.
Chúng ta đừng quên khi đọc lại lịch sử thánh: nếu cả một đoàn dân ô hợp, ngựa chứng, hay bất trung bội phản như dân Ít-ra-en mà Thiên Chúa vẫn bao dung chịu đựng, tận tình chăm sóc dìu đưa…thì Hội Thánh hôm nay nào có khác gì: Một tập hợp lộn xộn hổ lốn, không bỏ sót một thành phần nào: lương thiện hay bất hảo, tốt lành thánh thiện hay ác độc dã man….tất cả đều có chỗ của mình để được chăm sóc và yêu thương, khoan dung và tha thứ. Bởi vì “Ta đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng là kẻ tội lỗi”.
Tuy nhiên, cộng đoàn Tông Đồ hay như ngôn ngữ của Tin Mừng, “Nhóm Mười Hai” cũng đồng nghĩa với nhóm của hiệp nhất, yêu thương, cảm thông và phục vụ. Cho dù tai tiếng, gian ác, bán nước chạy theo ngoại bang như Mathêô thu thuế hay, cuồng nhiệt đối kháng cách mạng như Si-mon nhiệt thành, yếu đuối, bốc đồng, bất nhất chối Thầy như Phêrô, hay cứng lòng, duy lý như Tôma...tất cả khi “trở thành Nhóm Mười Hai” thì cái tôi kiêu căng hợm hĩnh, ích kỷ, ghét ghen... phải nhường chỗ cho khó nghèo, khiêm hạ, yêu thương và hiệp nhất. Phải chăng đó chính là căn tính của người Tông đồ, của ơn gọi Tông đồ muôn nơi và muôn thuở, mà nếu không giữ được, hay quay lưng chối từ căn tính đó, cũng đồng nghĩa với sự phản bội, đào ngũ mà hình tượng Giuđa ít-ca-ri-ốt được nhắc tới trong Tin Mừng hôm nay luôn là một điển hình đậm nét.
Với dòng nước của bí tích Thánh Tẩy, mọi Kitô hữu đều được gọi mời gia nhập “Nhóm Mười hai”. Như thế, chúng ta hãy xem lại căn cước Kitô hữu của chính mình có còn giữ được chút nào cái chất “Nhóm Mười Hai”, hay đã biến chất và trở thành nhóm của Giuđa Ít-ca-ri-ốt!
3. Còn cần thiết không những bước chân Tông đồ ?
Ngày xưa, “Chúa Giêsu gọi 12 môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trước các thần ô uế, để các ông trừ khử chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1)
Vào thời đó, người ta quan niệm người bị tật nguyền là người tội lỗi vì đã làm điều ô uế. Nhưng theo Chúa Giêsu, những người đó được sinh ra để làm sáng danh Chúa, và chính Ngài đã từng chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền thể xác: mù thấy, què đi, câm nói, điếc nghe, phung cùi lành sạch, loạn huyết, quỷ nhập trở lại an lành...Và nhiều người khác được chữa khỏi những căn bệnh tâm hồn. Mai-đệ-liên cô gái làng chơi trở nên thiếu nữ tốt lành, Gia-Kê quan thuế tham lam, gian ác, trở nên công chính, quảng đại...
Ngày nay, thế giới vẫn là mảnh đất của sự tranh chấp giữa bóng tối và ánh sáng, giữa những thế lực của ma quỷ, tội ác và của vương quốc yêu thương, công bình thánh thiện. Chính trong bối cảnh phức tạp đó, sự ô uế đang hiện diện gần như ở khắp hang cùng ngỏ hẻm của cuộc sống: dối trá, tham lam, trộm cắp, ăn chơi sa đoạ, giết người, ngoại tình, ly dị, phá thai…. Cánh cửa của sự ô uế vẫn luôn mở và tồn tại song song với cánh cửa Nước Trời.
Tuy nhiên, cũng như ngày xưa, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã ban cho các Tông Đồ ra đi công bố Tin Mừng với hành trang là những đặc ân: trừ khử mọi ô uế và chữa lành mọi bệnh tật. Thì hôm nay, đặc ân ấy cũng được trao ban cho mọi tín hữu khi mỗi người nhờ hồng ân của các Nhiệm tích, lãnh nhận nhiệm vụ trừ khử ô uế nơi chính mình và giúp anh em thoát khỏi mọi điều ô uế mà theo ngôn từ của Đức Cố Giáo Hoàng G.P. II đó chính là công cuộc xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống để xua tan nền văn minh sự chết.
Thế giới vẫn còn may mắn vì hằng ngày, trong cái chợ đời xô bồ, huyên náo vẫn không thiếu những vị Tông đồ rao giảng tình thương cứu độ của Thiên Chúa bằng chính những hành vi, những cách ứng xử thấm đẩm tình yêu thương như câu chuyện cảm động sau đây:
Lúc ấy, vào khoảng giữa khuya, cô đang lơ mơ ngủ chợt cảm thấy hình như có người lẻn vào nhà. Chắc chắn không phải chồng cô rồi, vì tối nay anh trực đêm mà. Vậy thì ai nhỉ? Cô điếng người lo sợ. Kẻ ấy chắc nghĩ chủ nhà đã ngủ say nên đi đứng có phần bất cẩn, không biết cô đang bị chứng mất ngủ hành hạ cả tuần nay rồi, chỉ cần một tiến động nhẹ là tỉnh ngay.
Nín thở theo dõi, cô thấy bóng người tay cầm dao đang lục tung mọi thứ. Trong khoảnh khắc đó, cô mở to mắt nhìn trừng trừng, lòng bình tĩnh lạ thường. Trong tình thế này, tuyệt đối không được la lên, nếu không, mạng sống của cô và con trai ở phòng bên sẽ gặp nguy hiểm. Cô lặng lẽ quan sát trong bóng tối, thấy tên trộm kia thò tay lấy hộp trang sức, bên trong có đôi lắc là của hồi môn bà ngoại để lại cho mẹ, đến khi cô lấy chồng thì mẹ chuyển giao cho cô. Đó là đôi lắc gia bảo, có gắn đá quí rất đắc tiền. Nhưng cô vẫn nằm nín lặng, chờ đến khi tên trộm bỏ đi.
Tên trộm đi rồi, cô lập tức chạy vội vào phòng con trai, nhìn thấy con đang ngủ yên lành, cô rưng rưng nước mắt, biết rằng trên đời này đối với cô không có gì quí giá hơn con trai cưng cả. Vàng bạc châu báu có nghĩa lý gì so với tính mạng con mình.
Song, chuyện bất ngờ đã xảy ra.
Tên trộm kia bị dân phòng tóm cổ lúc đang trèo tường định tẩu thoát. Hai anh dân phòng trói gô hắn lại, dẫn độ vào nhà cô.
Dưới ánh đèn, lúc này cô mới nhìn rõ tên trộm, một gương mặt còn non choẹt, chừng 15-16 tuổi là cùng. Đôi mắt đứa trẻ phản ánh tâm trạng lo sợ thất thần.
Một anh dân phòng chìa tang vật ra hỏi khổ chủ: “Đây có phải là đôi lắc của chị không?”
Cô đáp nhẹ: “Vâng”
“Tên trộm này đã lấy cắp nó trong nhà chị rồi trèo tường định trốn đấy.” Anh hăng hái tường thuật.
Cô biết chứ. Chính cô đã chứng kiến từ đầu tới cuối quá trình phạm tội của nó mà. Cô quay qua nhìn tên trộm và bỗng sững sờ, ánh mắt đứa trẻ như đang khẩn cầu, van xin một cách tuyệt vọng.
Trong phút chốc, tự nhiên cô thấy mềm lòng, không nỡ tố cáo thằng bé. Một ý nghĩ lướt qua cô bất ngờ quyết định: “Các anh thả nó đi đi, nó không lấy trộm đâu, đôi lắc này lá tự tôi đưa nó đấy.”
Hai anh dân phòng há hốc mồm, đứa trẻ tội đồ cũng tròn mắt lên, ngạc nhiên không kém.
“Là tôi đưa nó đấy!” Cô nhắc lại.
Lúc này thì đứa trẻ kia mắt đã đẫm lệ.
Hai anh dân phòng vừa đi khỏi, cậu bé liền quì xuống, vừa khóc vừa nói: “Cô ơi, sao cô lại cứu cháu?”
Cô ân cần đỡ nó dậy, khẽ nói: “Bởi vì tuổi thanh xuân của cháu còn quí giá hơn nhiều so với hai chiếc lắc kia. Cô muốn dùng đôi lắc để cứu rỗi linh hồn lạc hướng của cháu.”
Cô cười hiền từ, đoạn nói tiếp: “Cháu chỉ bằng tuổi con trai cô thôi, cháu ạ. Lúc nãy tay cháu đang cầm dao, cô sợ nguy hiểm đến con trai nên đã không la lên đấy chứ!”
Cuối cùng, cô nói nho nhỏ, như lời an ủi: “Lần này cô giúp cháu, để không còn lần sau nào như thế nữa cháu nhé!”
Đứa trẻ kia nước mắt ròng ròng, vô cùng hối lỗi và biết ơn người phụ nữ có tấm lòng vàng.
Thưa ông bà anh chị em,
Khoan dung tha thứ để mở lối cho một con người hoán cải, trở về nẻo chính đường ngay, cho dù phải thiệt thòi, mất mát về mình, đó phải chăng là hành vi Tông Đồ, là việc thực hành sứ mệnh loan báo tình thương cứu độ của Thiên Chúa, mà nhân loại hôm nay đang rất cần để xã hội tốt hơn, để con người sống ngay lành đạo đức hơn.
(Cha Raniero Cantalamessa, OFM, giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng)
Tin Mừng Chúa Nhật XI năm A, giới thiệu nhóm Mười Hai: "tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là Phêrô …". Ở đây TN 11-A57:
Tin Mừng Chúa Nhật XI năm A, giới thiệu nhóm Mười Hai: "tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là Phêrô …". Ở đây vai trò nổi bật của Phêrô. Tin Mừng không liệt kê, thứ nhất Phêrô, thứ hai Andrê, thứ ba Giacôbê. Phêrô được nêu lên trước tiên theo ý nghĩa là người đứng đầu, là xướng ngôn viên và đại diện cho cả nhóm mười hai. Chúa Giêsu, sau này cũng trong Tin Mừng Matthêu, khẳng định rõ ràng hơn khi Ngài nói: "anh là Phêrô, nghĩa là Đá, trên đá này thầy sẽ xây dựng Hội Thánh của Thầy".
Tuy nhiên, động lực thúc đẩy Chúa Giêsu chọn gọi và sai nhóm mười hai đi rao giảng là điều đáng quan tâm. Tin Mừng thuật lại như sau: "Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt". Chúa Giêsu thấy đoàn người đông đảo và chạnh lòng thương: đó chính là động lực thúc đẩy Ngài chọn gọi và sai họ nhóm mười hai đi rao giảng.
Điều này cho thấy Giáo Hội không hiện hữu cho chính mình, cho nhu cầu và ơn cứu độ của chính mình; mà hiện hữu vì tha nhân, cho thế giới, cho con người, nhất là những ai đau khổ và lầm than. Công Đồng Vatican II đã dành riêng hiến chế Gaudium et spes (Vui Mừng và Hy Vọng) để trình bày Giáo Hội là ánh sáng cho muôn dân. "Niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và đau khổ của nhân loại hôm nay, của người nghèo, nhất là những ai khổ đau, chính là niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và đau khổ của các môn đệ Chúa Kitô, và tất cả đều tìm thấy nơi con tim của Giáo Hội".
"Thấy đám đông, Người chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn". Các mục tử thời đại này, từ ĐTC cho đến các cha xứ, phải hiện lên ánh sáng này tiếp tục chăn dắt đoàn chiên như Chúa Kitô chạnh lòng thương đoàn chiên mình. ĐHY FX Văn Thuận, người đã trải qua 13 năm trong tù ở Việt Nam, trong bài giảng phòng cho ĐTC và giáo triều Roma đã nhấn mạnh rằng: "Tôi ước mơ rằng có một Cửa Thánh luôn luôn mở rộng, đầy lòng thương xót, ôm lấy toàn thể đau khổ của nhân loại; một Giáo Hội luôn bảo vệ, an ủi và hướng dẫn mọi dân tộc hướng về Chúa Cha, Đấng yêu thương họ".
Giáo Hội phải tiếp tục sứ mệnh của Thầy mình: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng". Đó chính là dung mạo của Giáo Hội: hoà giải và tha thứ. Cha Thánh Pio V gọi bệnh viện ngài thánh lập ở S. Giovanni Rotondo (Italia) là "ngôi nhà nâng đỡ những ai khổ đau". Giáo Hội cũng phải trở thành niềm an ủi và là ngôi nhà nâng đỡ những ai đau khổ.
"Anh em đã được cho không thì anh em cũng phải cho không như vậy".
“Sau khi gọi mười hai môn đệ, Chúa Giê-su đã sai các ông đi truyền giáo.”
Bạn thân mến,
Tên mười hai tông đồ được viết rất rõ ràng, danh chính ngôn thuận, không hề lầm lẫn người này với người nọ, bởi vì thánh Mát-thêu là một người TN 11-A58
Tên mười hai tông đồ được viết rất rõ ràng, danh chính ngôn thuận, không hề lầm lẫn người này với người nọ, bởi vì thánh Mát-thêu là một người thu thuế, thu thuế thì cần phải rõ ràng từng nét chữ, từng con số, bằng không sẽ gây thiệt hại cho mình và cho người khác. Chúa Giê-su gọi đích danh từng tông đồ và sai họ đi truyền giáo, tức là ra đi làm cho nhiều người cũng trở thành môn đệ của Chúa Giê-su như các ngài.
- Bạn và tôi cũng được Chúa Giê-su gọi đích danh qua Giáo Hội trong ngày lãnh bí tích Rửa Tội, khi linh mục hỏi cha mẹ: “Ông bà đặt tên cho em bé là gì ?” và cha mẹ chúng ta đều trả lời: “Thưa, tên em bé là Giu-se” (là Maria, là Phê-rô.v.v...) và Chúa Giê-su đã chính thức trao sứ mạng truyền giáo cho chúng ta...
- Bạn và tôi cũng được Chúa Giê-su gọi đích danh để ban Chúa Thánh Thần trong bí tích Thêm Sức: “Phê-rô (Maria...), con hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần” và sai chúng ta ra đi làm chứng nhân cho Tin Mừng Nước Trời trong cuộc sống của mình...
- Bạn và tôi cũng được Chúa Giê-su gọi đích danh từ ngày lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh qua giám mục và bề trên của mình: “Xin mời tiến chức X...tiến lên.” Và Chúa Giê-su đã trao cho chúng ta sứ mạng truyền giáo trong thiên chức linh mục của mình...
- Bạn và tôi cũng được Chúa Giê-su gọi đích danh trong ngày lãnh nhận bí tích Hôn Phối, qua Giáo Hội khi linh mục chủ tế tuyên bố: “Anh Giu-se Nguyễn Thanh V...và chị Maria Nguyễn Thi T...hôm nay đến trước bàn thờ...” và thế là Chúa Giê-su trao cho chúng ta sứ mạng truyền giáo trong đời sống hôn nhân gia đình...
Dù bạn sống đời linh mục hay sống đời sống hôn nhân, thì bạn cũng đều là môn đệ của Chúa Giê-su, chính Ngài đã kêu đích danh bạn và tôi trong bí tích Rửa Tội để trở thành môn đệ của Ngài; chính Ngài gọi đích danh bạn và tôi trong bí tích Thêm Sức để sai đi làm chứng nhân cho Tin Mừng; chính Ngài gọi đích danh bạn và tôi trong bí tích Truyền Chức Thánh để trao cho sứ mạng truyền giáo làm cho nhiều người được sinh ra ơn nghĩa Chúa nhờ bí tích Rửa Tội; chính Ngài cũng đã gọi đích danh bạn và tôi trong bí tích Hôn Phối, để chúng ta cũng rao truyền Lời Chúa trong gia đình của mình...
Bạn thân mến,
Sứ mạng truyền giáo của chúng ta được kèm theo những quyền hạn mà Chúa Giê-su ban cho không phải quyền trên các thần ô uế, cũng không phải quyền chữa trị các bệnh tật, nhưng là quyền làm cha làm mẹ (hôn phối), quyền giáo huấn, cai quản và thánh hóa (chức thánh), quyền làm con của Chúa (rửa tội), quyền làm chứng nhân cho Nước Trời (thêm sức). Do đó, chính bạn và tôi phải biết mình là ai và phải sống như thế nào để mọi người tin vào Chúa Giê-su qua cuộc sống của mình ?
Sống đúng bổn phận của mình chính là cách truyền giáo hữu hiệu nhất trong xã hội hiện nay, bởi vì con người thời nay quá ngám ngẫm trước những bất công và lừa dối, nên họ cần sự công bằng và chân thật; bởi vì con người thời nay mất niềm tin vào nhau, nên họ cần nững con người có đức tin đem lại niềm tin yêu cho họ. Và chính bạn và tôi là những người mà con người thời nay rất cần đến, bởi vì chúng ta là những môn đệ của Chúa Giê-su, tức là những người luôn đem bình an và hạnh phúc của Chúa Giê-su đến cho mọi người, bằng chính đời sống yêu thương và hy vọng của mình.
Khoảng cuối tháng 9 năm 2007, anh Nghĩa, người bạn bị liệt chân trái, chở tôi trên chiếc xe Wave 2 bánh đến cơ sở xe lăn tay Kiến Tường để lắp TN 11-A59
Khoảng cuối tháng 9 năm 2007, anh Nghĩa, người bạn bị liệt chân trái, chở tôi trên chiếc xe Wave 2 bánh đến cơ sở xe lăn tay Kiến Tường để lắp thành xe máy 3 bánh dành cho người khuyết tật. Chiếc xe này là quà tặng của một vài anh chị em trong lớp Thánh Kinh 100 tuần. Riêng chi phí chuyển đổi từ 2 bánh sang 3 bánh là do cha giáo của lớp yểm trợ. Trong khi chờ đợi tại đây, tôi lại gặp được chị Hải, một học viên của lớp, đem chiếc xe Charly 3 bánh cũ kỹ của chị đến sửa.
Chị Hải cũng vào hàng ngũ tuần như 2 anh em chúng tôi. Chị bị liệt cả 2 chân do chứng bệnh Polio từ tấm bé. Thế nhưng chị không đầu hàng trước số phận, mà luôn biết vượt lên để tự nuôi bản thân mình, từ việc bán vé số, sách báo và các loại đĩa CD nhạc đạo. Ngoài ra, chị yêu mến học hỏi Kinh Thánh và hăng say tham gia các nhóm như nhóm cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa và Đức Mẹ Mễ Du. Trong giờ nghỉ trưa của cơ sở, chị mon men đến gần tôi trên miếng gỗ có gắn 3 bánh xe bằng sắt cỡ nhỏ để di chuyển. Chị nhìn tôi rồi hồn nhiên mỉm cười nói nhỏ nhẹ với tôi:
- Này anh, nhân dịp gặp anh ở đây, tôi muốn nhờ anh cho ý kiến về trường hợp vô duyên của tôi. – Ngập ngừng trong giây lát, chị chậm rãi kể - Số là thế này.... Tôi đang sinh hoạt trong một nhóm cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa và anh chị em có ý định tổ chức một buổi tĩnh tâm nhằm nới rộng thành phần tham dự. Phần tìm những người mới, tôi cũng tình nguyện nhận một số giấy mời. Thế nhưng, anh thấy tôi vô dụng không cơ chứ! Bởi những ngừơi tôi mời chẳng ai đón nhận cả. Còn những người khác mời, thì chẳng ai chối từ. Như vậy, tôi quả thực là một người bất tài, bất xứng, chưa thể nào làm sứ giả của Chúa được. Xin anh giúp tôi ý kiến nhé!
Trước những lời chân tình của chị, tôi nhớ lại một thời tôi cũng vấp ngã như thế. Nghĩa là, theo cảm nhận ban đầu của tôi, thì chỉ cần Trái Tim Nhân Hậu của Chúa đụng chạm đến trái tim yếu hèn của mình là y như rằng tôi cũng sẽ mau mắn trở nên môn đệ, là nhân chứng của Ngài. Và từ đó, tôi như mình muốn gì được nấy, như “được quyền trên các thần ô uế”, hoặc “được quyền chữa hết các bệnh họan tật nguyền.” (Mt 10, 1) Nhưng rồi nhờ chuyên cần bền chí suy niệm, học hỏi Kinh Thánh, nhất là nhìn vào mẫu gương của thánh Phaolô khi chiêm niệm các thư của ngài, tôi đã thấm nhuần được phần nào về những phép lạ chữa lành mà Chúa Giêsu và các tông đồ thực hiện, bởi chúng chỉ là những dấu chỉ thực thụ hướng tâm hồn con người đến chính Thiên Chúa, bởi chúng chỉ là một yếu tố phụ trong toàn thể phạm vi hoạt động cứu rỗi các linh hồn của Người. Chỉ trở-nên-một với Thiên Chúa mới có thể là tiến trình thật trong việc chữa lành con người.
Nhờ trải qua những thăng trầm trong cuộc sống tâm linh, nên tôi đễ hiểu và dễ dàng cảm thông sự nhiệt tình ban đầu quá hăng say của chị. Tôi chia sẻ:
- Chị Hải à, tâm tình của chị cũng chính là tâm tình của tôi khoảng 4 năm về trước. Tôi cứ lầm tưởng như chị vậy, cứ ngỡ rằng lời mời gọi, lời góp ý của mình sẽ được người khác vui vẻ lắng nghe và thuận theo ý của mình. Nhưng rồi nhờ vào ơn Chúa ban qua đọc, suy niệm thêm các sách thiêng liêng, tôi đã chững chạc hơn trong nhận thức về những đặc sủng. – Tôi ngừng trong giây lát, rồi nhìn vào mắt chị để tìm phản ứng. Sau đó, tôi cảm thấy an tâm, khi chị vẫn còn muốn được chia sẻ. Tôi tha thiết hơn:
- Chị biết thánh Phaolô, sau khi được Đức Giêsu Kitô Phục Sinh chộp bắt trên đường Đamas, ngài đã đi vào vùng sa mạc Ả Rập ròng rã 3 năm để sống kết hợp với Người. Sau đó, ngài mới thực sự bình an ra đi rao giảng... Tôi còn nhớ lời tâm sự về ơn gọi của ngài gửi cho ông Timôthê. Tôi đã thuộc lòng đọan này là:
“Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức trong lúc chưa có lòng tin. Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người.”
Hy vọng chị sẽ kiên trì như thánh Phaolô là liên lỉ sống kết hợp với Người bằng vào việc đọc, suy niệm và cầu nguyện Lời Chúa mỗi ngày, để rồi đến một ngày đó, Người sẽ ban cho chị cả về “đức tin và đức mến”, như ý Người muốn. Hơn nữa, khi chị mời người khác không đón nhận, chị cũng đừng tư ti mặc cảm mình yếu kém. Điều quan trọng hơn cả là tôi và chị, chúng ta cần âm thầm đến với nhóm bằng sự cố gắng vượt lên trên đôi chân bại liệt của mình. Vì dân gian vẫn thường nói: “Lời nói thì lung lay, nhưng gương bày mới lôi kéo!” Cầu Chúa chúc lành cho chị qua lời chuyển cầu của thánh Phaolô.
Nói xong, tôi chào chị để cùng với anh Nghĩa, chúng tôi dìu nhau đi ăn trưa.
Nhờ chiêm ngắm ơn gọi của thánh Phaolô cũng như nhìn ra những non kém trong nhận thức về Lời Chúa của tôi và chị Hải, mà tôi cảm nghiệm thích thú về lệnh truyền ra đi của Chúa Giêsu trong bài tường thuật Chúa Nhật hôm nay.
Chúa Giêsu đã gọi Nhóm Mười Hai từ trái tim chạnh lòng thương của Người, bởi các tông đồ cũng chỉ là “những người lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9, 36). Rồi Ngừơi “gọi đến với Người những kẻ Người muốn” để họ “ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng.” (Mc 3, 13-14)
Nhiệm vụ đầu tiên của “Những kẻ Người muốn” là phải ở với Người để có thể biết được Người, để có thể đạt được sự hiểu biết tường tận về Người. “Nhóm Mười Hai” phải ở với Ngừơi để có thể nhận ra tính duy nhất của Người với Chúa Cha và vì thế, trở thành các chứng nhân về mầu nhiệm của Người. Nhờ đó, các ngài mới thấu hiểu được lệnh truyền cầu nguyện là: “Anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt 9, 38). Rồi sau đó mới được Người sai đi rao giảng cho dân chúng ánh sáng của Lời ban sự sống, sứ điệp của Con Thiên Chúa làm người. Đây cũng là chiêm niệm và là lẽ sống của thánh Phaolô, khi ngài viết:
“Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo, hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa.” (1Cr 2, 2-4)
Qua việc loan báo Tin Mừng bằng quyền năng Thiên Chúa mà các tông đồ đã dẫn dắt những ai nghe họ, gặp gỡ và tin vào Đức Giêsu Kitô, trong một thế giới đang có nhiều quyền lực thần thánh. Điều này được Tông Đồ Dân Ngoại minh chứng như sau:
“Thật thế, mặc dầu người ta cho là có những thần ở trên trời hay dưới đất – quả thực, thần cũng lắm mà chúa cũng nhiều – nhưng đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta; và cũng chỉ có một Chúa là Đức Giêsu Kitô, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và nhờ Người mà chúng ta được hiện hữu.” (1Cr 8, 5-6)
Những lời này ám chỉ một quyền lực giải thoát tuyệt vời, lời trừ quỷ cao cả thanh luyện thế gian. Dù có bao nhiêu chúa trong thế gian đang tự do chăng nữa, chỉ có Thiên Chúa là Đấng Duy Nhất. Đấng Duy Nhất là Chúa. Nếu những ai nghe lời rao giảng và tin vào Người, thì tất cả mọi điều khác sẽ mất đi quyền lực của nó. Chúng mất đi sức quyến rũ thần linh. Một khi dân chúng đã từ bỏ những thần minh của họ để rồi tin vào một mình Thiên Chúa và dùng những quyền năng lý trí để phục vụ con người là họ đã được chữa lành trọn vẹn cả xác lẫn hồn.
Tôi rất hạnh phúc vì tôi cảm nghiệm được rằng Chúa đã gọi tôi quay trở về với Ngài, tức chữa lành trọn vẹn con người hèn kém của tôi bằng trái tim hay chạnh lòng thương của Ngài. Để rồi từ lòng thương xót này, tôi cũng đến với anh em khác bằng chính trái tim đã được Chúa biến đổi. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã nói trong lời cuối cùng của bài Tin Mừng hôm nay:
“Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 8)
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu,
Con xin cảm tạ ngợi khen Trái Tim hay chạnh lòng thương của Chúa đã gọi con quay trở về.
Xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa để chúng con cũng biết yêu thương những người nghèo khổ khác như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
Con người và xã hội càng văn minh tiến bộ thì người ta càng đề cao tính đặc thù riêng biệt của mỗi người, mỗi nhóm người. Chúng ta biết dân TN 11-A60
Con người và xã hội càng văn minh tiến bộ thì người ta càng đề cao tính đặc thù riêng biệt của mỗi người, mỗi nhóm người. Chúng ta biết dân tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc lớn nhỏ tạo nên và mỗi một dân tộc có đặc thù riêng về ngôn ngữ, văn hóa, xã hội, gia đình… Xét về tôn giáo thì mỗi tôn giáo có tính đặc thù riêng. Riêng dân Kitô giáo hay dân công giáo có đặc thù rất riêng: đó là dân đã được hiến thánh và năng cấp thành dân tư tế (bài đọc 1), là dân được sai đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ (bài Phúc âm).
Nhung trên thực tế, phải nhìn nhận là nhiều giáo dân, nhất là giáo dân Việt Nam chưa ý thức đủ về tính đặc thù riêng biệt của mình, nên đời sống của những người giáo dân ấy ít thánh thiện và lười ra đi. Đó là lý do tại sao Giáo Hội chậm mở rộng và ít ảnh hưởng trên đời sống xã hội. Lỗi của cộng đồng và của mỗi người chúng ta là rất lớn. Hy vọng đọc và suy niệm các bài Thánh Kinh hôm nay sẽ giúp chúng ta chỉnh sửa suy nghĩ và hành động của mình!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Xh 19, 2-6a): "Đối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế, một dân tộc hiến thánh" Trong những ngày ấy, con cái Israel đi đến hoang địa Sinai, và đóng trại ở đó. Israel cũng dựng nhà xếp trên triền núi. Còn Môsê thì lên cùng Thiên Chúa. Từ trên núi, Chúa gọi ông và bảo: "Ngươi hãy nói với nhà Giacóp và thông báo cho con cái Israel thế này: Chính các ngươi đã thấy những gì Ta làm cho người Ai-cập. Ta đã mang các ngươi trên cánh phượng hoàng và đem các ngươi đến với Ta. Từ nay, nếu các ngươi nghe lời Ta và giữ giao ước Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta được tách biệt khỏi mọi dân, vì cả trái đất là của Ta. Đối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế, một dân tộc hiến thánh".
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 5, 6-11): "Nếu chúng ta được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của Ngài" Anh em thân mến, Chúa Kitô theo kỳ hẹn đã chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay người công chính, hoạ chăng có những người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. Vậy phương chi bây giờ, chúng ta đã nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng, nếu khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô, và không những thế, chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hoà.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 9, 36 - 10, 8): "Sau khi triệu tập mười hai môn đệ, Người sai các ông đi" Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng, liền động lòng xót thương họ: vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
Và Người liền triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Đây là tên của mười hai tông đồ: trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em ông; Giacôbê con của Giêbêđê và Gioan em ông; Philipphê và Bartôlômêô; Tôma và Matthêu người thu thế; Giacôbê con của Alphê và Tađêô; Simon người Cananêô và Giuđa Iscariốt, kẻ nộp Người. Chúa Giêsu sai mười hai ông này đi và truyền lệnh cho các ông rằng:
"Các con đừng đi về phía dân ngoại, và đừng vào thành các người Samaritanô. Nhưng tốt hơn, các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: 'Nước Trời đã đến gần'. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không"
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa
- Là Thiên Chúa, Đấng đã giải thóat dân Israel ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập và đưa họ vào Đất Hứa. Tại Xinai là trạm dừng chân quan trọng Thiên Chúa đã mạc khải cho Môsê (và dân Israel) biết nhửng điều tối quan trọng: "Ngươi hãy nói với nhà Giacóp và thông báo cho con cái Israel thế này:ới cá Chính các ngươi đã thấy những gì Ta làm cho người Ai-cập. Ta đã mang các ngươi trên cánh phượng hoàng và đem các ngươi đến với Ta. Từ nay, nếu các ngươi nghe lời Ta và giữ giao ước Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta được tách biệt khỏi mọi dân, vì cả trái đất là của Ta. Đối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế, một dân tộc hiến thánh".
- Là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã yêu thương các môn đệ dân chúng lầm than vất vưởng nên đã sai các môn đệ của Người đền cứu giúp họ: “Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng, liền động lòng xót thương họ: vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
Chính Chúa Giêsu Kitô đã chết để cứu chuộc mọi người: “Chúa Kitô theo kỳ hẹn đã chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi”.
- Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn hiệp thông và hành động với Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu, nhất là trong chương trình Cứu độ nhân loại. Đối với các tín hữu Kitô thì Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ mới và Đồng Hành với các Kitô hữu trong hành trình được sai đi của họ.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là căn tính (ID=Identity) hay nhân thân cao trọng và sứ mạng cao cả của những người đã nhận Phép Rửa của Chúa Kitô trong Thánh Thần. Căn tính hay nhân thân cao trọng là dân thánh hiến, dân tư tế, dân riêng của Thiên Chúa. Còn sứ mạng cao cả là “được sai đi” loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa!
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và biết ơn, vì những nét đặc thù mà chúng ta đã được Chùa ban cho.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay giáo huấn của Lời Chúa hôm nay, chúng ta phải làm 2 việc sau đây:
(1°) Ý thức và trân quý căn tính hay nhân thân và sứ mạng riêng biệt của mình.
(2°) Thể hiện tư cách của dân riêng và thực thi sứ mạng được sai đi của người môn đệ.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 “Đối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế, một dân tộc hiến thánh” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các cộng đoàn công giáo, chính thống và tin lành ý thức căn tính và sứ mạng riêng biết của mình mà sống cho xứng họp.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Kitô - nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để các vị ấy và mọi giáo dân chứng tỏ tình yêu của mình đối với Chúa Kitô và với tha nhân sống xung quanh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 “Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng, liền động lòng xót thương họ: vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa” Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, để mọi người biết được rằng Chúa Giêsu Kitô xót thương họ và chăm lo cho họ cả phần xác lẩn phần hồn.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 “Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không” Chúng ta hãy câu nguyện cho mọi Kitô hữu và những người thành tâm thiện chí để những người ấy ý thức được rằng Chúa Giêsu Kitô đang chờ sự hiến dâng của họ.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Đọc bài Phúc âm Chúa Nhât XI Thường Niên A hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu thương yêu đám đông quần chúng như thế nào và tại sao TN 11-A61
Đọc bài Phúc âm Chúa Nhât XI Thường Niên A hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu thương yêu đám đông quần chúng như thế nào và tại sao. Chúng ta cũng thầy Chúa Giêsu trao trọng trách lớn lao cho các môn đệ của Người là cầu xin Thiên Chúa sai thợ gặt đến đồng lúa và thi hảnh nhiệm vụ của những người thơ gặt được chính Chúa sai đến cánh đồng.
Bài Phúc âm mởi gọi các Kitô hữu chúng ta ngước mắt nhìn vào những cánh đồng lúa chin vàng là những con người sống xung quanh mình đang chờ bàn tay thợ gặt và cũng thúc giục các Kitô hữu chúng ta là hãy sắn tay vào công việc thu hoạch.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM:
(Mt 9,36 -10,8):
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng, liền động lòng xót thương họ: vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
Và Người liền triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Đây là tên của mười hai tông đồ: trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em ông; Giacôbê con của Giêbêđê và Gioan em ông; Philipphê và Bartôlômêô; Tôma và Matthêu người thu thế; Giacôbê con của Alphê và Tađêô; Simon người Cananêô và Giuđa Iscariốt, kẻ nộp Người. Chúa Giêsu sai mười hai ông này đi và truyền lệnh cho các ông rằng:
"Các con đừng đi về phía dân ngoại, và đừng vào thành các người Samaritanô. Nhưng tốt hơn, các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: 'Nước Trời đã đến gần'. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không"
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM
Mt 9,36 -10,8:
3.1 Đám đông quần chúng được Chúa Giêsu yêu thương: vì hai lý do: một là Chúa Giêsu đến trần gian để mạc khải Thiên Chúa là Tình Yêu và cứu chuộc các tội nhân nên Chúa Giêsu yêu thương hết mọi người, nhất là những người nghèo; hai là vì đám đông quần chúng là những người nghèo hèn, bị coi thường và bị gạt ra ngoài lể xã hội loài người. Họ bơ vơ, vất vưởng, lạc hướng… nên Chúa Giêsu yêu thương họ cách đặc biêt, không phải vì họ tốt lành hơn những người khác, (người nghèo thí cũng có người tốt người xấu giống như những người giầu vậy) mà vì nếu Thiên Chúa không yêu thương họ thì chẳng có ai yêu thương họ.
3.2 Các môn đệ được Chúa Giêsu giao trọng trách: Chúa Giêsu không chỉ thể hiện sự quan tâm và yêu thuơng của riêng Người đối với những người nghèo hay đám đông quàn chúng mà Chúa Giêsu còn huy động cả một lớp người vào voệc quan chăm chăm lo cho người nghèo, đó là các môn đệ và các Kitô hữu. Vì thế mà Chúa Giêsu mới triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền và dặn dò cần thận: “Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không"
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM
Mt 9,36 -10,8:
4.1 Chúng ta hãy càm tạ Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta: Đó là việc đầu tiên chúng ta phải làm trước Tình Yêu bao la cao cả của Chúa Giêsu đối với chúng ta. Thật ra chúng ta không đáng được Chúa Giêsu yêu thương, vì chúng ta chỉ là tạo vật hèn mọn, tội lỗi Chúa Giêsu yêu thương chúng ta cách nhưng không tức không có công trạng gì mà hoàn toàn là do lòng Chúa yêu mà thôi.
4.2 Chúng ta hãy thi hành lời sai đi và những lời căn dặn của Chúa Giêsu: Việc tiếp theo chúng ta phải làm trước Tình Yêu bao la cao cả của Chúa Giêsu là chúng ta hãy mau mắn thi hành lời sai đi và những lời căn dặn của Chúa Giêsu. Đó là cách thể hiện lòng biết ơn của chúng ta đối với Chúa Giêsu.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã xót thương những con người nghèo hèn trong xã hội loài nguời và đã giao sứ mạng gặt lúa cho các mộn đệ vá các Kitô hữu chúng con. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
1.- «Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng, liền động lòng xót thương họ: vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho càng ngày càng có nhiều người trong đoàn lũ dân chúng nhận đươc Lòng Xót Thương của Chúa Giêsu Kitô.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ và tất cả giáo dân để mọi người biết cách đáp lại lời kêu gọi của Chúa Giêsu mà quan tâm đến cánh đồng lúa chín vàng.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Và Người liền triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu nhận được hồng ân của Chúa Giêsu mà cứu giúp người xung quanh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho các Kitô hữu và những người thành tâm thiện chí để họ biết đáp lại lòng quảng đại của Thiên Chúa mà chia sẻ mọi ân huệ với những người thiếu thốn.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con; Người đã xót thương người nghèo và sai các môn đệ và chúng con vào cánh đồng lúa chín vàng .
Chúng con xin Cha ban cho chúng con một lòng nhiệt thành để chúng con chu toàn công việc Chúa Giêsu giao phó, Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Sàigòn ngày 17 tháng 06 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Chúng ta họp nhau lại đây để dâng Thánh lễ, tức là để nghe Lời Chúa hướng dẫn chúng ta đi vào mầu nhiệm giao ước mới, ký kết trong Mình và TN 11-A62
Chúng ta họp nhau lại đây để dâng Thánh lễ, tức là để nghe Lời Chúa hướng dẫn chúng ta đi vào mầu nhiệm giao ước mới, ký kết trong Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, hầu trở thành Dân Thiên Chúa ở giữa trần gian một cách hoàn toàn hơn. Như vậy thì những bài đọc Thánh Kinh vừa nghe rất thích hợp để suy nghĩ về quá khứ, hiện tại và tương lai của chúng ta.
A. Quá Khứ, Chúng Ta Là Dân Ðược Tuyển Chọn
Quả vậy, trước đây chúng ta là gì? Chúng ta không tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn hay sao? Chúa Yêsu đã nhìn thấy chúng ta như thế. Và Người thương chúng ta, như lời bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe đọc.
Chúng ta có thể kiểm chứng một cách dễ dàng. Trước khi vào nhà thờ này, chúng ta không phải mỗi người một ý hay sao? Tâm trí chúng ta khác nhau hết thảy. Và tâm hồn chúng ta thật lộn xộn bơ vơ. Hằng trăm ưu tư lo lắng dày vò chúng ta mỗi người mỗi cách. Một lũ chiên bơ vơ có lẽ còn ít vấn đề và ít khác nhau khác nhau hơn là chúng ta. Bởi vì những con chiên vô linh tính kia không có những lương tâm xâu xé như tâm hồn đôi khi nhiều tội lỗi của chúng ta. Thánh Phaolô viết: trước đây chúng ta là những kẻ có tội. Phải, không nhiều thì ít quá khứ của chúng ta đã có nhiều nét buồn thảm. Chúng ta không khác dân Dothái bao nhiêu, hồi họ còn ở Aicập. Cuộc đời nô lệ lam lũ của họ là hình ảnh của lúc chúng ta sống trong tội lỗi.
Nhưng như bài sách Xuất hành hôm nay nói: chính chúng ta đã thấy Chúa làm những gì cho chúng ta ở trong quá khứ. Ðối với dân Dothái, Người đã bồng họ lên đôi cánh phượng hoàng mạnh mẽ của Người để đưa họ ra khỏi Aicập. Còn đối với chúng ta trước đây sống trong tội lỗi, thì thư thánh Phaolô nói, Chúa Yêsu đã phải giang hai cánh tay chịu chết trên Thánh giá để cứu chúng ta ra khỏi tội lỗi. Và Người đã phải thiết lập Giáo hội các Tông đồ để xua trừ ma quỷ, phục sinh chúng ta và đưa chúng ta vào nếp sống mới.
Quả thật, quá khứ của chúng ta không tốt đẹp bao nhiêu. Dĩ vãng của mỗi người được mô tả trong dĩ vãng của Dân Chúa. Và quá khư của Giáo hội hay giáo xứ chúng ta được phác họa trong lịch sử dân Dothái. Xưa kia họ là những tên nô lệ bị bóc lột đến tận xương tủy. Vất vả lầm than và nhục nhã ê chề. Họ không biết nhau cũng chẳng hề biết tới một vị thủ lãnh nào có thể tập họp và ban sức mạnh để họ có thể ra khỏi chốn lưu đày khổ sở. Nhưng chính Chúa đã có sáng kiến; Người sai Môsê đến kêu gọi họ ra khỏi cảnh lầm than. Thoát ách nô lệ, họ còn là mớ người khố rách áo ôm đi lang thang trong sa mạc. Từ đỉnh núi Sinai, Chúa lại hiện xuống nói với Môsê tập họp họ lại, ban cho họ một giao ước để họ làm thành dân, một dân đặc biệt giữa muôn dân nước.
Lịch sử đó là lịch sử của mỗi người và của tất cả chúng ta trước khi được nhận vào Giáo hội và một phần nào đó, trước khi vào nhà thờ này để cử hành lễ giao ước. Chúng ta thật như chiên lạc bơ vơ, lo lắng mỗi người mỗi lối. Nhưng Thiên Chúa đã tập họp chúng ta lại ở đây, làm thành Giáo hội, làm nên Dân của Người để hiện tại chúng ta không còn như trước nữa, và tương lai lại còn huy hoàng hơn nhiều. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn vào hiện tại.
B. Hiện Tại, Chúng Ta Là Dân Ðược Sai Ði
Ở đây hình ảnh dân Dothái trong quá khứ cũng giúp chúng ta hiểu biết thân phận của mình. Sách Xuất hành viết, ở dưới núi Sinai, Thiên Chúa đã phán với dân Dothái: nếu các ngươi nghe và giữ Lời Ta, các ngươi sẽ là kỷ phần của Ta ở giữa các dân tộc. Các ngươi sẽ là một nước tư tế và một dân thánh thiện của Ta.
Những lời thật rõ ràng và cương quyết. Giao ước Sinai chỉ gồm những câu khẳng định này: nếu Dân giữ Lời Chúa thì họ sẽ là phần đặc biệt của Người giữa các dân tộc. Họ sẽ là dân tư tế và thánh thiện của Người. Chúng ta tạm không nói tới điều kiện Chúa đòi hỏi Dân phải nghe và giữ Lời Chúa. Chúng ta tìm hiểu Chúa đã hứa gì với họ.
Người sẽ coi họ là phần riêng của Người ở giữa các dân tộc. Nghĩa là đang khi mọi dân tộc đều thuộc về Chúa và là của Người hết thảy, Người sẽ cho Israel một chỗ đứng riêng biệt; Người coi họ là phần riêng, là gia sản độc đáo của Người. Người sẽ đổ dồn tình thương và ân sủng xuống nơi họ, không phải để các dân tộc không còn được gì nữa, nhưng để mọi dân nước chỉ được chúc phúc với Abraham và dòng dõi ông.
Chúng ta thử suy nghĩ! Israel trước đây là những tên nô lệ chẳng có một chút giá trị nào. Thế mà bây giờ được thành dân ưu việt, không những hơn mọi dân khác, mà còn trở nên nguồn mạch phúc lành của Chúa các dân tộc ban cho mọi dân nước.
Tuy nhiên địa vị ưu việt sánh với các dân vẫn không đáng kể bằng giá trị của Israel ở trước mặt Thiên Chúa. Ðó là con cưng của Người. Là dân tư tế. Là dân thánh thiện. Phải có cả lịch sử sau này mới triển khai được những vinh dự phong phú ấy. Hiện tại chúng ta thấy Israel là Dân được Chúa săn sóc đặc biệt, khác mọi dân ngay cả về tổ chức. Ðang khi các dân có vua quan cai trị, những người đứng đầu Dân trong nếp sống trung thành với Giao ước. Thế nên Samuel đã khó chịu khi thấy Dân muốn một vị vua lên cai trị Dân để giống như mọi dân khác. Vì giống như các dân thì không còn là dân ưu việt nữa.
Ðồng thời dân ưu việt cũng là dân thánh thiện, tức là thuộc về Ðấng Thánh và tham dự vào sự sống siêu đẳng của Người. Nhưng chúng ta biết, dân Dothái đã không nghe và giữ Lời Chúa. Họ muốn tổ chức như các dân khác và như vậy cũng đã trở thành dân tội lỗi như mọi dân. Ðến nỗi khi Ðức Yêsu Kitô đến, Người đã nhìn thấy cảnh tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn. Và bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Người đã thiết lập chúng ta nên Dân Mới của Người.
Người gọi 12 môn đệ đến, tượng trưng cho tổ phụ của 12 chi họ trong Dân Mới. Người cho họ quyền làm được công việc mà Môsê xưa đã làm một cách bề ngoài. Vì chúng ta biết, trước khi tập họp Dân đến dưới Sinai để đón nhận giao ước, ông đã làm lễ thanh tẩy cho Dân. Bây giờ Chúa Yêsu ban quyền cho 12 môn đệ xua được xua đuổi tà thần và chữa lành mọi bệnh tật là hình ảnh tội lỗi dơ nhớp tâm hồn.
Chúa đặt họ làm Dân Mới, làm người đứng đầu Dân Mới của Người với sứ mạng đi rao giảng Nước Trời. Họ sẽ không trị dân như vua quan nơi mọi dân nước. Họ là hàng tư tế thánh. Họ sẽ làm nên một dân thánh thiện vì họ sẽ ra đi chữa lành ngay cả những người phung và phục sinh kẻ chết, chứng tỏ họ sẽ tạo nên một nếp sống mới, thánh thiện ở mọi nơi.
Tất cả những gì Thiên Chúa đã muốn làm cho dân Israel và họ đã để mất, thì nay Người làm cho Giáo hội và cho chúng ta. Giờ này chúng ta đã được triệu tập lại đây để nghe Lời Chúa. Người sẽ ký kết Giao ước mới với chúng ta trong Máu Thánh của Con Người để chúng ta trở nên Dân được chọn làm sở hữu; chúng ta tham dự vào lễ tế của Ðức Kitô và chịu lấy Mình Thánh Người để chúng ta là dân tư tế, được nuôi sống, lãnh đạo nhờ sứ vụ tư tế ở trong Giáo hội; chúng ta trở nên thánh thiện, tham dự vào mầu nhiệm thánh, lãnh nhận các ơn thánh để ra đi thánh hóa các dân tộc.
Ở Sinai, Lời Chúa đã nhấn mạnh đến việc giữ Giao ước. Còn ở đây, Chúa sai chúng ta ra đi ban phát nhưng không những gì chúng ta đã đón nhận nhưng không ở nơi này, tức là ơn thánh hóa đời sống và tâm hồn, ơn tham dự vào mầu nhiệm lễ tế của Ðức Kitô Thượng tế, ơn trở thành Dân ưu việt của Thiên Chúa chúng ta.
Hiện tại chúng ta là thế, còn ngày mai sẽ thế nào?
C. Tương Lai Chúng Ta Ðã Ðược Bảo Ðảm
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay không hồ nghi tí nào về tương lai của Giáo hội và của chúng ta. Niềm tin của người có cơ sở vững vàng. Người nói khi chúng ta còn là tội lỗi mà Thiên Chúa cũng đã chết cho chúng ta thì huống hồ bây giờ khi chúng ta đã được công chính hóa, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của Ðức Yêsu Kitô.
Chúng ta không thể nào không đồng ý với lập luận của thánh Tông đồ. Khi chúng ta còn trong tội lỗi, Thiên Chúa đã chứng tỏ một lòng nhân nghĩa lạ lùng. Người ta có thể chết cho một lý tưởng và hy sinh đời mình cho một bậc cao trọng, chứ chẳng có ai lại nhận chết cho một người có tội. Thế mà Thiên Chúa đã làm công việc như thế cho chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân.
Người đã yêu thương chúng ta khi còn tội lỗi, thì không lẽ Người lại không quý chuộng chúng ta hơn nữa lúc chúng ta đã được công chính hóa nhờ sự chết của Con Một Người.
So sánh như vậy đã cho phép thánh Phaolô đi sang một so sánh thứ hai. Trước đây lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa đã biểu lộ ra trong sự chết của Ðức Yêsu Kitô để công chính hóa chúng ta, thì bây giờ lòng nhân nghĩa ấy phải được diễn tả ra trong sự sống của Ngài: nghĩa là nếu chúng ta đã được giải thoát khỏi tội lỗi nhờ việc Ðức Kitô chết trên Thập giá, thì bây giờ chúng ta phải đáng được sống trong ơn của mầu nhiệm Ðức Kitô phục sinh nơi vinh quang Thiên Chúa.
Về sự sống phục sinh này, biết nói làm sao cho hết và diễn tả thế nào được bằng ngôn ngữ loài người? Thánh Phaolô chỉ biết nói rằng chúng ta sẽ được vinh hiển trong Thiên Chúa, vì sự sống hiện tại của Ðức Kitô phục sinh là sự được vinh hiển trong vinh quang thần tính. Dĩ nhiên có nhiều đoạn văn Kinh Thánh khác đã cố gắng mô tả vinh quang để dành cho chúng ta sau này trong tương lai. Nhưng tất cả vẫn chỉ là niềm tin. Và giá trị của niềm tin ấy căn cứ vào hạnh phúc hiện tại chúng ta đang nắm giữ: đó là đã được giao hòa với Thiên Chúa trong Máu Ðức Kitô để trước đây chúng ta như chiên bơ vơ lạc lõng nhưng bây giờ chúng ta đã nên phần riêng của Thiên Chúa, trở thành dân tư tế và thánh thiện của Người. Chúng ta là lúa chín mà Chúa đã sai các Tông đồ đến gặt để đưa vào gia sản của Thiên Chúa.
Mà thực vậy, giờ đây chúng ta sắp được thu lại để dâng lên bàn thờ. Chúng ta mỗi người mỗi khác và có thể nói rời rạc bơ vơ. Nhưng tất cả chúng ta, đời sống chúng ta, buồn vui của mỗi người, ưu tư của mọi cá nhân, sẽ được dâng lên trên đĩa thánh, sẽ được đem pha vào chén rượu như giọt nước để cùng với Ðức Kitô chúng ta được trở nên một thân thể, làm thành một Dân Chúa. Sự sống và phúc lành chan chứa của Thiên Chúa sẽ được trao sang cho chúng ta, để chúng ta là Dân được tuyển chọn, là Dân tư tế được Chúa dẫn dắt, là Dân thánh thiện được Ngài sai đi. Không phải chúng ta sẽ làm được gì cho người khác, nhưng nếu chúng ta để Lời Chúa, sự sống của Chúa, tình yêu của Chúa thoát ra trong đời sống ngôn ngữ và hành động của chúng ta, thì chắc chắn sự sống của Ðức Kitô phục sinh, tức là ơn Chúa Thánh Thần sẽ chảy ra từ lòng chúng ta, làm cho chúng ta cảm thấy đời mình không những êm ái mà còn phong phú, bảo chứng hạnh phúc tương lai đã khởi sự ngay từ hiện tại. Chúng ta hãy sốt sắng dự lễ trong niềm tin ấy.
Thiên Chúa yêu thương”, đó là điểm nhấn quan trọng của mạc khải. Ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh Cựu ước, ý tưởng này đã được TN 11-A63
“Thiên Chúa yêu thương”, đó là điểm nhấn quan trọng của mạc khải. Ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh Cựu ước, ý tưởng này đã được nhắc tới. Vì yêu thương mà Thiên Chúa sáng tạo và cứu độ con người. Cũng vì yêu thương mà Thiên Chúa luôn nâng đỡ chở che con người, như gà mẹ ấp ủ đàn con, như phượng hoàng mang con trên cánh. Nếu có thể rút gọn nội dung Kinh Thánh trong một câu văn, thì đó chính là khẳng định: “Thiên Chúa yêu thương”.
Nội dung sách Xuất Hành nói với chúng ta tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa, được thực hiện qua cuộc giải phóng ngoạn mục của dân Do Thái, khỏi ách nô lệ kéo dài hơn 400 năm tại Ai Cập. Bài đọc Cựu ước trong Thánh lễ hôm nay diễn tả dân Do Thái như một dân được ưu đãi đặc biệt. Đó là dân riêng của Thiên Chúa, là sản nghiệp của Ngài. Ý tưởng “sản nghiệp” cho chúng ta thấy hình ảnh của những người chủ trang trại thời xưa, sở hữu một phần lớn hoa màu, chiên cừu và súc vật. Đó là sở hữu riêng của ông. Ông rất tự hào về sản nghiệp này. Thiên Chúa cũng rất “tự hào” về sản nghiệp riêng của Ngài là Israel. Công thức: “Ta đã dùng cánh tay hùng mạnh mà dẫn đưa các ngươi ra khỏi Ai Cập”, hoặc “Ta đã mang các ngươi như trên cánh chim bằng” được sử dụng nhiều lần sau này, nhất là trong các sách Thánh vịnh và Ngôn sứ. Công thức này diễn tả một hoài niệm về quá khứ huy hoàng, để qua đó dân Israel nhớ lại với lòng biết ơn. Thiên Chúa không chỉ can thiệp trong đời sống người Do Thái, mà còn đặt họ lên địa vị cao cả, danh dự. Tước hiệu một “vương quốc tư tế”, “một dân thánh” sau này được triển khai trong tư tưởng của thánh Phêrô: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế, vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người” (1Pr 2, 9). Thánh Gio-an Tông đồ cũng diễn tả một ý tưởng ấy: “Người (Đức Giê-su) đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. Amen! (Kh 1,5-6).
Nếu tác giả sách Xuất Hành trình bày Thiên Chúa là Đấng giải phóng Dân tộc Do Thái và chọn dân này làm dân riêng, thì Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người lại ban phát ơn cứu độ cho hết thảy nhân loại mọi nơi mọi thời. Qua Đức Giê-su, tình thương của Thiên Chúa không còn giới hạn nơi một dân tộc, nhưng lan toả đến tận cùng thế giới. Nói các khác, hết thảy những ai tin vào Đức Giê-su đều được kể là dân riêng, là dân tư tế. Họ là những người được mời gọi cố gắng mỗi ngày để bước ra khỏi miền u tối và bước vào ánh sáng kỳ diệu của Người. Những ơn này, chúng ta có được là nhờ sự chết của Đức Giê-su trên thập giá. Thánh Phao-lô đã khẳng định trong Bài đọc II: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa thương yêu chúng ta.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Chúa Giê-su đã so sánh nhân loại như một cánh đồng rộng lớn mênh mông. Trên cánh đồng này, có rất nhiều người thành tâm thiện chí. Họ là những mảnh đất tốt, đợi hạt giống Chân lý được gieo vãi, để nảy nở và trổ bông chín vàng.
Tại sao Chúa Giê-su lại cần đến những “thợ gặt”? Chúa là Đấng quyền năng có thể làm được mọi sự. Tuy vậy, Người lại cần đến những người cộng tác. Lý do vì chúng ta, những người đã được lãnh nhận phép Thanh Tẩy đều là những tư tế và những tông đồ, theo mẫu Nhóm Mười hai, là những người được chọn và sai đi. Được Thiên Chúa yêu thương, đến lượt chúng ta lên đường loan báo tình thương của Chúa, để những anh chị em khác cũng được đón nhận tình thương của Ngài. Đó là sứ mạng cao cả của người Ki-tô hữu.
Hôm nay, nhiều nhà thờ cử hành lễ kính Thánh Tâm Chúa Giê-su. Tôn vinh Thánh Tâm Chúa Giê-su là tôn vinh quyền năng và tình yêu của Chúa Cha, vì chính Chúa Cha đã sai Con Một của Ngài đến trần gian để thực hành công trình cứu độ. Hôm nay cũng là ngày cầu xin ơn thánh hoá các Linh mục. Chúng ta hãy cầu xin cho các Linh mục trên toàn thế giới biết sống thánh thiện với Hồng ân cao cả đã lãnh nhận, để trở nên những chứng nhân của tình Chúa yêu thương, và những “thợ gặt” nhiệt tình tâm huyết, đem nhiều lúa chín về cho Chúa chúng ta. Amen.
Tình yêu không chỉ hệ tại nơi lời nói, nhưng chính yếu qua việc làm (1Ga.3, 18; LT.230). Thiên Chúa đã yêu chúng ta đến độ chết cho chúng ta TN 11-A64
Tình yêu không chỉ hệ tại nơi lời nói, nhưng chính yếu qua việc làm (1Ga.3, 18; LT.230). Thiên Chúa đã yêu chúng ta đến độ chết cho chúng ta ngay lúc chúng ta còn là tội nhân, và Ngài đã làm mọi sự vì yêu thương chúng ta.
Nếu các ngươi giữ giao ước của Ta...
Giữ giao ước là giữ giới răn của Chúa, giữ thập giới.
Nếu dân Dothái giữ giới răn Chúa, dân Dothái sẽ là “của riêng” của Chúa, sẽ được tách biệt khỏi mọi dân, sẽ là một dân thánh, dân tư tế. Dân tư tế là dân đại diện mọi dân khác để dâng lễ tế lên Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương dân, cưng chiều dân, như đang mang dân trên cánh phượng hoàng!
Ngày nay, Hội Thánh là dân riêng của Chúa. Chúng ta là dân thánh, dân tư tế!
Ngay trong lúc chúng ta là tội nhân, Đức Kitô đã chết vì chúng ta.
Hành vi tội làm biến dạng con người! Ngay trong lúc mình là tội nhân, nghĩa là, lúc mình đang “xấu như quỷ”, thì Đức Yêsu cũng đã vẫn chết cho mình! Ôi tình Chúa yêu thương mình tuyệt đến như thế nào!
Tại sao Thiên Chúa yêu thương con người đến như vậy? Con người có gì đẹp mà Thiên Chúa vẫn yêu thương dù con người đang ở trong tình trạng tội? Chắc hẳn con người phải có nét đẹp nào đó, đến nỗi Thiên Chúa yêu thương như vậy, vì chỉ có “nét đẹp” mới đáng yêu thôi! Con người được tạo dựng “giống hình ảnh Thiên Chúa”! Thiên Chúa tuyệt mỹ, vậy hình ảnh Thiên Chúa “cũng đẹp”!
Con người “rất đẹp”, có lẽ Thiên Chúa là Đấng đầu tiên và cuối cùng biết con người đẹp đến thế nào! Ước gì chúng ta nhận ra nét đẹp của con người, khi nhìn Đức Yêsu trên thập giá. Đức Yêsu là Đấng tuyệt đẹp, và con người cũng đẹp vì nếu không, Thiên Chúa đâu chết cho con người?!
Tất cả cho con người
“Đức Yêsu thấy đám đông dân chúng, tất tưởi bơ vơ như chiên không người chăn”! Người thương họ, “Ngài động lòng thương xót họ”. Ngài đã triệu tập môn đệ, sai các ông đi, để họ xua đuổi thần dữ và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền!
Đức Yêsu đã đến trần gian vì con người. Ngài sai các môn đệ đi cứu giúp con người. Ngài yêu con người đến chấp nhận cái chết, đến độ ban mình máu người làm của ăn cho người. Ngài yêu con người dù có bị con người phản bội, từ chối! Trái tim bị đâm thâu, là bằng chứng tình yêu vô cùng của Thiên Chúa nơi Đức Yêsu.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi cộng tác để phục vụ con người! Các môn đệ tài năng như thế nào mà được Chúa dùng, Chúa sai đi? Họ đã làm được gì? Hôm nay tôi có sẵn sàng để Chúa sai tôi đi chăng? và tôi sẵn sàng làm điều gì để phục vụ con người? tôi có sẵn sàng để Chúa dùng tôi vào bất cứ việc gì để phụng sự Chúa nơi con người ngày nay không?
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Được Chúa coi là “của riêng”, thì được gì? 2. Xin bạn kể những nét đẹp của con người! 3. Gần đây, có bao giờ bạn rung động trước nỗi khổ của con người không? Bạn có thể làm gì để phục vụ họ?
Dân chúng khao khát nghe Đức Yêsu giảng dạy. Đức Yêsu đã động lòng thương, Ngài giảng dạy họ; và hơn nữa, Ngài đã sai các tông đồ đi TN 11-A65
Dân chúng khao khát nghe Đức Yêsu giảng dạy. Đức Yêsu đã động lòng thương, Ngài giảng dạy họ; và hơn nữa, Ngài đã sai các tông đồ đi rao giảng: “Nước Trời đang đến gần”.
1. Dân chúng hoang mang và bị bỏ rơi
Dân chúng từ nhiều nơi tuôn tới nghe Đức Yêsu rao giảng. Qua sự kiện này, người ta nhận ra con người của mọi thời đại vẫn tốt. Ngày xưa, dân chúng tìm đến với Đức Yêsu, để mong được nghe Ngài giáo huấn, để mong tìm được của ăn tinh thần, để được định hướng đời mình, để an bình trong cuộc sống.
Mỗi thời đại, đều có những tiên tri và thày dạy giả hiệu, đã làm dân chúng hoang mang và bấn loạn. Người ta sống bất an, không biết đâu là đúng đâu là sai. Sứ mạng của các tiên tri và những bậc thầy chân chính của mọi thời đại, là hướng dẫn dân chúng, giúp họ nhận ra sự thật, giúp họ sống bình an hạnh phúc.
Điều gây hoang mang, luôn luôn là điều có vẻ là đúng. Nếu rõ ràng là sai, chẳng có ai theo, và cũng chẳng làm người ta hoang mang bấn loạn. Những tiên tri và thầy dạy giả hiệu, là những người “đánh lộn con đen”, lèo lái dư luận, làm dân chúng không nhận ra điều đúng thật. Ở thời Đức Yêsu, những hình thức nô lệ lề luật mà không giữ tinh thần luật làm dân chúng không được tự do và hạnh phúc thật sự. Đức Yêsu không đến để huỷ bỏ lề luật, nhưng để làm nên trọn. Ngài không muốn con người “thờ phượng Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, nhưng lòng lại xa Chúa”.
2. Đức Yêsu động lòng thương
Đức Yêsu đã động lòng thương dân. Lòng “thương cảm”, là nét của Thiên Chúa. Đức Yêsu thấy dân chúng tốt lành, vì họ khao khát chân lý và đi tìm. Họ không thoả mãn với những gì họ có, họ mong ước được nghe một vị thầy dạy chân chính, với hy vọng được bình an hạnh phúc hơn.
Qua những thao thức khắc khoải của dân chúng, người ta nhận ra những nỗ lực đi tìm sự thật. Những ước vọng này có thể bị mê hoặc bởi những thần tượng giả hiệu, những hướng dẫn sai lầm. Hậu quả là họ mất bình an, hoang mang lo sợ, mất niềm tin vào Thiên Chúa và con người, không hạnh phúc. Tuy vậy, qua sự kiện dân chúng khao khát đi tìm sự thật, người ta cũng nhận ra Thánh Thần Thiên Chúa vẫn luôn tác động nơi lòng con người, làm họ khao khát và đi tìm chân lý. Thiên Chúa vẫn luôn ở với con người trong mọi thời và mọi hoàn cảnh.
Đức Yêsu thương cảm con người. Họ như chiên không người chăn. Họ không được hướng dẫn đúng đắn. “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống”. Lối sống của Đức Yêsu là đường; lời dạy của Đức Yêsu giúp con người nhận ra sự thật, và làm cho con người được sống.
3. Đức Yêsu sai các môn đệ đi rao giảng
Đức Yêsu giảng dạy những người tìm đến với Ngài; và Ngài còn thương cảm cả những người không có cơ hội tới với Ngài, để họ mở lòng đón nhận sự thật. Ngài đã sai các tông đồ đi rao giảng.
Các tông đồ rao giảng: “Nước Thiên Chúa đang đến gần”. Các tông đồ rao giảng điều gì nữa, hay chỉ đơn sơ có thế? Người ta có thể rao giảng bằng lời, nhưng người ta cũng có thể rao giảng bằng chính cuộc sống của họ. Khi Đức Yêsu và các tông đồ rong ruổi hết nơi này tới nơi khác, thì chính cách sống và hành vi rong ruổi của các ngài cũng là một lời rao giảng, và là lời rao giảng có sức thuyết phục nhất.
Chúa cũng sai mỗi Kitô-hữu rao giảng về Chúa cho những người sống chung quanh mình. Có những người được ơn để rao giảng bằng lời; nhưng mỗi người đều có bổn phận phải rao giảng bằng chính cuộc sống của mình. Lời rao giảng của Kitô-hữu gặp phản chứng nếu đời sống của họ không thể hiện Tin Mừng của Đức Yêsu. Là Kitô-hữu, mỗi người phải sống vui tươi và an bình trong mọi hoàn cảnh. Các Kitô-hữu sơ khai, tuy dù bị bách hại, vẫn an bình và vui tươi. Chính cách sống như vậy đã lôi cuốn sự chú ý và có sức thuyết phục người khác đón nhận Tin Mừng Đức Yêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có nhận ra nét đẹp của con người ngày nay không? Xin cho ví dụ. 2. Ngày nay, dân chúng bị hoang mang và bấn loạn về điều gì? 3. Theo bạn, đâu là điều Thiên Chúa muốn những bậc thầy dạy và tiên tri hướng dẫn dân trong hoàn cảnh này?
Nếu công đồng Vatican II khẳng định “bản tính của Hội thánh là truyền giáo” thì mọi Kitô hữu cũng chính là những sứ giả Tin mừng, cũng có TN 11-A66
Nếu công đồng Vatican II khẳng định “bản tính của Hội thánh là truyền giáo” thì mọi Kitô hữu cũng chính là những sứ giả Tin mừng, cũng có trách nhiệm như Hội thánh. Những lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ ngày xưa vẫn còn vang vọng nơi chúng ta, vẫn còn có tính cách thời sự của nó. Chúa muốn chúng ta đi vào cánh đồng truyền giáo rộng rãi bao la bát ngát để đem nhiều người về cho Chúa. Cảm xúc của Chúa Giêsu đứng trước cánh đồng lúa chín vàng ối “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” cũng phải là cảm xúc của chúng ta đứng trước tình hình thế giới hiện nay: chúng ta hãy xin Chúa sai nhiều sứ giả Tin mừng đến cánh đồng truyền giáo, đồng thời chúng ta cũng có thể góp phần vào công việc loan báo Tin mừng bằng chính cuộc sống chứng tá của chúng ta.
Hãy nhớ lại lời thánh Phaolô: “Khốn cho tôi, nều tôi không rao giảng Tin mừng”.
B.. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc l: Xh 19, 2-6.
Khi ra khỏi Ai cập, tiến tới sa mạc Sinai, con cái Israel cắm trại đối diện với núi. Thiên Chúa gọi ông Maisen lên núi để tỏ cho ông biết Ngài muốn chọn Israel làm dân riêng của Ngài. Họ sẽ trở nên một dân riêng thuộc về Thiên Chúa, trở nên dân tư tế và được thánh hiến. Thiên Chúa sẽ thực hiện điều đó nếu dân biết nghe tiếng Ngài và nắm giữ giao ước của Ngài ký kết với dân qua trung gian ông Maisen.
Trong thực tế, dân Israel đã được chọn làm dân riêng của Thiên Chúa, được sống trong tình thân mật với Ngài, được Ngài nâng niu như trên cánh phượng. Nhưng không vì thế mà Thiên Chúa tách họ ra khỏi các dân tộc khác. Là dân tư tế, họ có trách nhiệm làm chứng cho Chúa bên cạnh các dân tộc khác và tỏa chiếu sự hiện diện của Chúa nơi họ.
+ Bài đọc 2: Rm 5,6-11.
Trong thư gửi cho tín hữu Roma, thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Mặc dầu chúng ta là những người tội lỗi, là thù nghịch với Ngài, nhưng Ngài vẫn yêu thương. Tình yêu đến tột đỉnh là sai Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô xuống thế chịu chết chuộc tội cho chúng ta. Nhờ cái chết của Con Ngài mà chúng ta được rửa sạch mọi vết tích tội lỗi, được giao hòa với Thiên Chúa, được công chính hoá và thừa hưởng Nước Trời. Sở dĩ Ngài yêu chúng ta như vậy chỉ vì “Ngài là Tình yêu”.
Để đáp lại tình yêu ấy, chúng ta có trách nhiệm làm cho người khác biết về tình yêu ấy bằng cách góp phần vào việc loan báo Tin mừng bởi vì chúng ta “đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưng không”.
+ Bài Tin mừng: Mt 9,36-10,8.
Trong khi đi rao giảng Tin mừng cho dân chúng, Chúa Giêsu thấy thương dân vì họ đang bơ vơ tất tưởi như đàn chiên không có người chăn dắt. Ngài muốn trao cho các Tông đồ sứ mạng loan báo Tin mừng cho người Do thái, loan báo cho họ biết về tình yêu của Thiên Chúa và Nước Chúa đã gần đến. Vì thế, Chúa Giêsu đã chọn 12 tông đồ như những cán bộ nồng cốt, sai các ông đi rao giảng cho người Do thái biết “Nước trời đã gần đến”, chuẩn bị cho họ sẵn sàng đón nhận những lời Chúa Giêsu sẽ rao giảng.
Mười hai Tông đồ này có những nguồn gốc và thành phần khác nhau. Điều đó nói lên việc loan báo Tin mừng không dành cho riêng một ai hay cho một thành phần nào mà dành cho mọi người, càng nhiều càng tốt vì “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”.
C.THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lúa chín nhiều, thợ gặt ít
I. CHÚA KÊU MỜI
1. Tin Mừng Nước Trời.
Trong suốt ba năm, Chúa Giêsu đã đi rao giảng Tin mừng Nước Trời. Thánh Matthêu đã tóm tắt trong một câu rất gọn: “Đức Giêsu rao giảng khắp các thành, các làng, giảng dạy trong các hội đường của họ và loan Tin mừng về Nước Trời cùng chữa lành mọi tật nguyền bện hoạn”(Mt 9,35).
Trong khi đi rao giảng như thế, hình như Chúa Giêsu có cái nhìn và cái cảm nghĩ không mấy lạc quan. Ngài thấy dân chúng mệt mỏi về thể xác, tinh thần bạc nhược vì thiếu sự săn sóc của chủ chăn. Giáo lý của các nhà Biệt phái rỗng tuếch, nhạt nhẽo mà lại quá phức tạp. Dân chúng có cảm nghĩ bị bỏ rơi, các vị chủ chăn chỉ lo săn sóc những chiên béo tốt xén lông và được danh dự.
Thánh Matthêu cho ta biết cái cảm nghĩ của Chúa Giêsu trước tình trạng dân chúng đó: “Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng liền động lòng thương xót họ””(Mt 9,36). Chúa thương họ như con chiên không có người chăn, như cánh đồng lúa chín không người gặt. Vì thế, Chúa bảo các môn đệ: “Lúc chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến”.
Để giải quyết hoàn cảnh đáng thương đó, Chúa đã chọn 12 tông đồ làm những cộng sự viên, sai họ đi truyền giáo, đến những nơi mà Ngài sẽ đến. Chúa ban cho các ông quyền hành rộng rãi:làm nhiều phép lạ... kể cả việc làm cho kẻ chết sống lại. Còn đề tài rao giảng của các ông là: “Nước Trời đã gần”, đấy cũng là đề tài rao giảng của thánh Gioan Tẩy giả, và cũng là đề tài của chính Chúa Giêsu đang rao giảng.
2. Giáo huấn của Giáo hội.
Công đồng Vatican II khẳng định: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Bản tính Giáo hội là truyền giáo tức là đem Tin mừng cứu rỗi cho nhân loại. Nhiệm vụ đó buộc tất cả mọi phần tử của Giáo hội tức là mọi người đã được rửa tội. Công đồng đặc biệt chú trọng đến phương diện tông đồ giáo dân: “Giáo dân làm tông đồ tức là tham gia vào chính sứ mạng cứu rỗi của Hội thánh. Chính Chúa – do phép rửa tội và phép thêm sức – giao cho tất cả mọi người bổn phận tông đồ ấy” (LG số 33).
Đức thánh Cha Gioan Phaolô II cũng quả quyết: “Không một ai trong những người tin vào Chúa Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu độ, 3).
3. Đồng lúa chín kêu gọi.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Đấy là một lời báo động và cũng là một lời kêu gọi tha thiết và khẩn thiết. Chúng ta đang ở trong thời kỳ gặt lúa. Nhìn cánh đồng lúa chín vàng ối ai lại không thích? Nhưng không may, ở đâu thiếu người gặt mà để cho đồng lúa bị lụt lội hay bão táp tàn phá làm hư hỏng thì ai không tiếc?
Nhìn vào cánh đồng truyền giáo rộng bao la bát ngát, Giáo hội có một ưu tư lớn lao: lấy ai ra mà gặt cánh đồng này? Trên thế giới có tới hơn 6 tỷ người, mà số tín hữu Công giáo mới có gần 1,1 tỷ. Nếu kể cả những anh em tin theo Chúa Kitô thì mới được 2 tỷ. Còn lại hơn tỷ nữa. Riêng Á châu chiếm một nửa dân số thế giới, mà mới được 3% người biết Chúa. Ở Việt nam thân yêu của chúng ta, dân số lên tới 84 triệu người mà mới có 6 triệu người Công giáo. Cánh đồng truyền giáo của quê hương thân yêu chúng ta cũng còn rất rộng. Trách nhiệm của những người Việt nam Công giáo cũng còn rất nặng. Chúa kêu gọi mọi người cộng tác vào công việc truyền giáo này.
Truyện: Ta không có tay.
Câu truyện xẩy ra tại Đức vào khoảng cuối thế chiến thứ hai. Tại một ngôi làng kia, một toán binh sĩ Mỹ tình nguyện giúp dân chúng xây dựng lại cuộc sống của họ. Nhưng họ không xin thực phẩm, thuốc men, nông cụ, mà chỉ xin tái thiết một pho tượng bị đổ nát vì bom đạn.
Từ nhiều thế kỷ qua, pho tượng là niềm tự hào của họ, giờ đây, chỉ còn là những mảnh vụn. Liệu những binh sĩ Mỹ có thể làm được công việc khó khăn này không? Qua bao ngày tìm tòi vất vả, họ cũng đã nhặt lại được từng mảnh và dựng lại pho tượng, chỉ có điều là có hai phần trong pho tượng họ không thể tìm thấy.
Họ dựng pho tượng lên giữa quảng trường ngôi làng và phủ lên bằng tấm vải lụa, tấm vải này chỉ được mở ra bằng một nghi thức do ông Thị trưởng chủ tọa.
Khi dân chúng trong làng tề tựu đông đủ, ông Thị trưởng đọc diễn văn cảm ơn các binh sĩ Mỹ và cho mở tấm lụa ra. Mọi người ồ lên với tất cả kinh ngạc, vì pho tượng tuyệt đẹp nhưng lại không có đôi cánh tay. Dưới chân pho tượng mọi người đọc được hàng chữ lớn: “Ta không có tay, các ngươi có thể cho ta mượn cánh tay của các ngươi không”?
Trước khi về trời, Chúa Giêsu, qua các Tông đồ, đã trao phó cho Hội thánh tiếp tục sứ mạng của Ngài cho đến tận thế. Vì vậy, Hội thánh chính là Chúa Kitô nối dài. Và một cách nào đó, Chúa Kitô đang xử dụng đôi cánh tay của Hội thánh để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Ngài. Chúng ta cũng là cánh tay nối dài của Hội thánh nên chúng ta cũng phải cộng tác vào trong việc cứu rỗi này.
II. TA ĐÁP TRẢ.
Chúng ta hãy đáp trả lời kêu gọi của Chúa Giêsu bằng cách SỐNG ĐỜI CHỨNG NHÂN. Có nhiều cách rao giảng Tin mừng, nhưng cách rao giảng Tin mừng hay nhất là sống đời chứng nhân vì nó phù hợp với hết mọi người, mọi nơi, mọi lúc. Qua kinh nhgiệm, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Người thời nay không thích những thầy dạy cho bằng những chứng nhân”.
Người ta thường nói: “Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình”, trăm nghe không bằng một thấy. Nghe thì biết vậy, người ta vẫn còn bán tín bán nghi. chưa có tính cách thuyết phục cao. Ví dụ: người ta thường dọa trẻ con là đừng có khóc kẻo “ông Ba Bị chín quai, mười hai con mắt, bắt trẻ bỏ bồ”! Còn bé chúng ta tin lắm, nhưng làm gì có ông Ba Bị như thế! Khi đã nhìn thấy, trông thấy rõ ràng, khi đã “kiến kỳ hình” một người hay một sự việc rồi thì người ta không thể phủ nhận được, người ta phải chấp nhận một sự kiện ngay cả khi lòng không muốn.
Chúng ta có thể sống “đời chứng nhân” theo hai phương diện tích cực và tiêu cực:
1. Phương diện tích cực.
a) Trở nên muối đất và ánh sáng thế gian.
Ta là Kitô hữu, đó là người được mang danh Chúa Kitô. Nhưng người ta có thể thắc mắc có thật là có Chúa Kitô không hay chỉ là một huyền thoại? Hay ít ra, người ta không biết Chúa Kitô như thế nào, cần chúng ta phải phác họa cho họ đôi nét về Chúa Kitô. Chúng ta có thể họa cho họ đôi nét trong đời sống được không?
Người Kitô hữu có nhiệm vụ họa lại khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô và cả con người của Ngài bằng đời sống cụ thể của mình để người ta có thể có vài hình ảnh tốt đẹp về Chúa Kitô. Chúng ta phải thể hiện con người của Đức Kitô ra trong con người của chúng ta để chúng ta dám nói như thánh Phaolô: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Chúa Kitô”! Nói như thế là thánh Phaolô có ý nói rằng Ngài đã được “Kitô hóa” rồi, vì Ngài đã nói: “Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà Chúa Kitô sống trong tôi”.
Muốn được thế, cuộc sống của người Kitô hữu phải trở nên muối đất và ánh sáng cho trần gian. Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ: “Chính anh em là muối cho đời, nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng trần gian... Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm. mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,13-16).
Hai hình ảnh xem ra khác nhau nhưng đều giống ở sức tác động tốt:
- Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối giữ cho môi trường chung quanh nó khỏi hư, lại mặn mà.
- Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi sáng cho người ta biết đường đi, nhận rõ các đồ vật.
Cả hai đều phải chịu sự hao mòn hy sinh thì mới gây tác động: muối tan dần đi, ngọn đèn nến ngày càng lụn xuống.
Lý do tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt: nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa và phải bị vất đi.
Thân phận và hoàn cảnh của mỗi Kitô hữu khác nhau: có người âm thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là Kitô hữu nữa.
Chính con người của ta phải thể hiện hình ảnh Chúa Kitô ra trong đời sống hằng ngày, để thực sự con người ta là tấm gương phản chiếu Chúa Kitô cho người khác. Qua cuộc sống tốt đẹp của ta, người ta sẽ thấy Chúa tốt đẹp như thế nào. Nếu ta đã tốt đẹp như thế, thì Chúa còn tốt đẹp biết dường nào. Đúng là:
Xem mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon. (Ca dao)
Truyện: nhà bác học Louis Pasteur.
Trên chuyến xe lửa tiến về Paris, người sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tầu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong sự cầu nguyện.
Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng không còn đủ kiên nhẫn, anh ta mới lên tiếng:
- Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí à?
Cụ già thản nhiên trả lời:
- Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên cười ngạo mạn quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao mà tôi có thể tin vào những chuyện ấy được. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hãy quẳng chuỗi hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.
Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên:
- Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều này không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho địa chỉ, tôi sẽ gửi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ say mê đi vào thế giới phong phú của khoa học.
Cụ già từ từ lấy trong túi áo ra một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: Louis Pasteur, Hàn lâm viện khoa học Paris.
b) Gia đình củng cố ơn kêu gọi.
Trước tiên gia đình hãy cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Mỗi ngày hãy thêm vào trong giờ kinh tối lời nguyện cầu xin cho ơn kêu gọi. Điều này có tác dụng như một lời nhắc nhở tế nhị cho con em chúng ta cân nhắc ơn gọi đi tu.
Tiếp đến, mỗi gia đình vun trồng ơn kêu gọi Linh mục và tu sĩ, lo cho gia đình của mình có nhiều người tận hiến đi truyền giáo, như gia đình ông bà Martin cha mẹ của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu. Để được vậy cha mẹ hãy lo sống đạo đức, làm gương sáng. Năng gợi tư tưởng dâng mình cho Chúa với con cái mỗi khi trò chuyện thân mật, sau những buổi kinh tối gia đình.
2. Phương diện tiêu cực.
Phải tránh cách sống giả hình mà người ta gọi là “tốt mã giẻ cùi”, chỉ có cái mã bên ngoài, còn bên trong thì chẳng ra cái gì. Phải tập sống trung thực với lòng mình, phải làm cho danh và thực đồng nhất, có thì nói có, không thì nói không. Đừng theo lối sống giả hình như bọn Luật sĩ và Biệt phái, chính cách sống giả hình làm cho họ mất uy tín. Phải sống theo nguyên tắc:
Hữu ư trung, xuất hình ư ngoại.
Đừng bao giờ để cho “ngôn hành bất nhất”, đừng để cho cách sống bên ngoài phá hoại đời sống bên trong, làm cho người ta mất tin tưởng. Giả hình sẽ bị lột mặt nạ: cái kim giấu trong túi áo có ngày sẽ lòi ra vì như người ta nói: đi đêm có ngày gặp ma.
Phải đóng đúng vai trò của mình, vai nào đóng đúng vai đó, càng đúng càng hay: vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha ra cha, con ra con... theo như đường lối giáo dục của Khổng Tử: “Quân, thần, phụ, tử”. Đóng đúng vai trò thì được khen, ngược lại thì người ta chê và làm hỏng vai trò mình đóng, lại còn tác hại đến cả vở kịch nữa.
Truyện: Bộ mặt của anh hề.
Có một gánh xiếc bị hỏa hoạn, ông chủ gánh xiếc sai anh hề chạy đi kêu dân chúng trong làng đến tiếp tay chữa cháy, chẳng vậy lửa bốc to có thể lan sang khu vực họ đang ở. Anh hề vội vàng chạy đi, nhưng anh càng gào thét, múa máy bao nhiêu dân chúng lại càng cười lớn bấy nhiêu, vì họ nghĩ rằng anh hề đang diễn một màn hài hước.
Thấy không ai tin mình, anh hề giật râu, giật tóc và bật khóc nức nở, khiến khuôn mặt đầy phấn sáp của anh càng lọ lem hơn. Gào thét hết cả hơi sức, nhưng chẳng có ai tin anh, cuối cùng ngọn lửa cháy lớn lan tới thiêu hủy cả làng ra tro.
Sống đạo là truyền đạo. Ai cũng biết rằng không có lời rao giảng nào hùng hồn hơn chứng tá của cuộc sống; không sứ điệp nào đáng tin hơn là gương sáng. Không gì khôi hài bằng đi loan báo tin buồn với khuôn mặt một anh hề, và cũng không gì khôi hài bằng mang tin vui với bộ mặt u buồn của người đi đưa đám.
Nhiều khi trong cuộc sống đạo, chúng ta cũng mang lấy bộ mặt của những anh hề. Sứ điệp mà chúng ta loan báo không được đón nhận, bởi vì cung cách chúng ta không phù hợp với nội dung của sứ điệp ấy. Chúng ta loan tin vui cứu độ, nhưng chúng ta có bộ mặt của những người không được cứu rỗi. Chúng ta loan báo tin vui của bác ái, hòa bình, nhưng cuộc sống chúng ta lại chỉ có những hành động của oán thù, ích kỷ, chiến tranh, hận thù (Chờ đợi Chúa, tr 147).
Để kết thúc, chúng ta hãy nghe một đoạn văn trích từ lá thư thánh Phanxicô Xavie gửi cho thánh Inhaxiô Loyola, bề trên của ngài:
“Con thường cảm thấy bị thôi thúc muốn đi đến các đại học Âu châu đặc biệt là đại học Sorbonne ở Paris và la lên như một gã điên cho những kẻ giầu tri thức hơn là thiện chí để yêu cầu họ sử dụng tri thức của họ sao cho có lợi ích... Phải chi trong khi nghiên cứu về các nhân văn họ cũng đồng thời nghiên cứu sổ kế toán mà Thiên Chúa sẽ đòi hỏi họ về tài năng Ngài đã ban cho họ! Lúc đó nhiều người hẳn sẽ xúc động thốt lên: “Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn bảo con làm gì”?
Thiên Chúa đã chọn dân Irael và nói với họ rằng: “Nếu các ngươi nghe lời Ta và giữ giao ước Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta được tách biệt TN 11-A67
Thiên Chúa đã chọn dân Irael và nói với họ rằng: “Nếu các ngươi nghe lời Ta và giữ giao ước Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta được tách biệt khỏi mọi dân, vì cả trái đất là của Ta. Đối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế và một dân tộc hiến thánh” (Xh 19,).
Những lời thật rõ ràng và cương quyết cho thấy Chúa đã chọn dân Chúa là dân riêng của Chúa ở giữa các dân tộc, là gia sản độc đáo của Chúa, cho họ tham dự vào sự sống siêu đẳng của Chúa. Chúa sẽ đổ dồn tình thương và ân sủng xuống nơi họ, không phải để các dân tộc không còn được gì nữa, nhưng để mọi dân nước chỉ được chúc phúc với Abraham và dòng dõi ông.
Chúa chọn mười hai tông đồ và sai đi
Đoạn Tin Mừng hôm nay mô tả cảnh Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, giống như cánh đồng lúa chín vàng không thợ gặt. Chúa gọi mười hai môn đệ đến, tượng trưng cho tổ phụ của mười hai chi họ trong Dân Mới, cho họ quyền làm được công việc mà Môsê xưa đã làm một cách bề ngoài. Vì chúng ta biết, trước khi tập họp Dân đến dưới Sinai để đón nhận giao ước, ông đã làm lễ thanh tẩy cho Dân. Bây giờ Chúa Giêsu ban quyền cho mười hai môn đệ xua đuổi tà thần, chữa lành ngay cả những người phong và phục sinh kẻ chết.
Chúa chọn gọi chúng ta
Được Thiên Chúa tạo dựng trong yêu thương giống hình ảnh Chúa là Chân, Thiện, Mỹ, con người được Thiên phú cho một sứ mệnh thể theo sự quan phòng của Thiên Chúa nhân hậu từ bi. Đây là ơn chung cho hết thảy mọi người. Bởi vậy, trong mỗi quyết định, chúng ta hãy tự hỏi: Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Câu trả lời chắc chắn: Chúa muốn chúng ta, những người chịu phép Rửa tội hãy vâng nghe lời Chúa sai đi rao giảng rằng: “Nước Trời đã gần” (Mt 10,6).
Thiên Chúa cất tiếng ngỏ lời với con người, và mong một ngày nào đó con người đáp trả. Đây là tiếng gọi từ muôn thuở, từ khi chưa có trời cao, chưa có vầng trăng với ngàn sao… Ngài gọi từng người, đặt vào một bậc sống nào đó và trao ban một sứ vụ. Lịch sử cứu độ minh chứng, Abraham được gọi để trở thành tổ phụ của một dân tộc. Chúa phán: “Hỡi Abraham, hãy bỏ quê hương bà con thân thuộc, bỏ nhà Cha ngươi để đến xứ mà Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ của một dân tộc” (St 12,1). Môsê, một con trẻ thuộc dòng dõi Lê-vi được gọi để trở thành người giải phóng dân tộc Do Thái, dù ông viện cớ: “Tôi là ai mà dám đi gặp vua Pharaon… Xin lỗi Ngài tôi không có tài ăn nói. Miệng tôi thô sơ, lưỡi tôi nặng nề” (Xh 4,10). Samuel được gọi để trở thành ngôn sứ và thủ lãnh. David, cậu bé chăn cừu được gọi để trở thành vua một dân tộc. Giona bị gọi bắt làm ngôn sứ trong sự chối từ và giận dỗi. Chúa sai ông đi, nhưng ông: “lại chạy trốn sang Tarsis, xa Đức Giavê” (Gio 1,1-2). Maria, một thôn nữ được chọn gọi để trở thành Mẹ Thiên Chúa. Mathêu, kẻ đang ngồi bên két bạc, Chúa đi qua và nói: “Hãy theo Ta” (Mt 9,9).
Loan báo Tin Mừng là sứ mạng của Thiên Chúa, được Chúa Giêsu thi hành trước, rồi trao cho các Tông đồ và Giáo Hội qua lệnh truyền: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loại thọ tạo” (Mc 16,15). Chúng ta phải lấy làm vinh dự được cộng tác vào sứ mạng cao quý này. Mỗi người là một sứ mạng.
Nhiệm vụ của mỗi Kitô hữu, ngày nay hơn bao giờ hết, là loan báo Tin Mừng cho một thế giới bị thương tổn, không loại trừ ai, như là người chia sẻ niềm vui. Chúng ta hãy để cho lòng mình bừng cháy, nhanh chân tiến bước đi loan báo Tin Mừng. Tất cả chúng ta có thể đóng góp phần mình bằng những lời cầu nguyện và hoạt động, bằng những đóng góp vật chất và dâng những đau khổ của chúng ta, và bằng chứng tá cá nhân của chúng ta. Chúng ta cùng thưa với Chúa : Lạy Chúa, này con đây, xin sai con đi.
Trong một cuộc chuyện trò thân tình giữa các cha giáo với nhau, hầu hết cha nào cũng hỏi đại loại câu: Giáo phận cha còn ơn gọi không? Và rồi TN 11-A68
Trong một cuộc chuyện trò thân tình giữa các cha giáo với nhau, hầu hết cha nào cũng hỏi đại loại câu: Giáo phận cha còn ơn gọi không? Và rồi đâu đó nghe tiếng thở dài đáp lại: Vẫn còn, nhưng chẳng còn bao nhiêu!
Nhìn chung ơn gọi trên toàn thế giới, thì tại Châu Phi, Nam Mỹ và một số nước Châu Á vẫn còn khá nhiều ơn gọi; tuy nhiên, tại những nước Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Đại Dương thì sụt giảm đáng kể, nếu không muốn nói chẳng còn ai tha thiết với việc đi tu.
Quả thật, việc thiếu hụt linh mục, ơn gọi ngày càng ít ỏi không chỉ diễn ra trong thời nay, mà đã xảy ra vào thời Chúa Giê-su. Chỉ vỏn vẹn mười hai Tông đồ được chọn và được sai đi đến với toàn dân Is-ra-el bấy giờ. Hơn thế, Đức Giê-su nêu rõ ra thực trạng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9, 37-38). Thực tế thiếu ‘thợ gặt’ là vậy, nhưng Người dạy thêm “anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Do đó, tiên vàn, ‘thợ gặt’ phải được ‘chủ mùa gặt’ gửi đến và sai đi. Nói cách khác, ơn gọi xuất phát từ Thiên Chúa. Người kêu mời, chọn lựa và sai đến với những cánh đồng truyền giáo bát ngát mênh mông.
Thế nhưng, chẳng phải vậy mà ‘thợ gặt’ thụ động đứng chờ, hoặc không làm gì cả! Với sự thương cảm, thấu hiểu sâu sắc, Đức Giê-su “chạnh lòng thương, vì thấy đám đông lầm than, vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt” (x. Mt 9, 36). Nhìn cánh đồng vàng óng, mà chẳng thấy thợ gặt đâu, tâm hồn ai mà không thổn thức, nhất là ‘Chủ mùa gặt’ - Thiên Chúa chúng ta. Quả vậy, “Người đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban chính Con Một Người chịu chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi” (x. Rm 5, 8). Hơn thế, “…chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra” (Rm 5, 9), và “…nhờ Người, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5, 11). ‘Chủ mùa gặt’ hằng liên lỉ mời gọi, thúc giục, và sai ‘thợ gặt’ ra đi đến với những cánh đồng bát ngát, cũng như vùng ngoại biên; nhưng ‘thợ gặt’ hoặc ‘ứng viên thợ gặt’ có khi từ chối, do dự bước theo Lời Người. Đôi khi, tinh thần ra đi rao truyền, lửa nhiệt huyết truyền giáo đang dần tắt lịm, dẫn đến thái độ an vị, hoặc chỉ lựa chọn những nơi thuận tiện mà đi, v.v…
Thực tế là thế, nhưng ân sủng làm chứng cho Chúa, sứ mệnh rao truyền Nước Trời lớn lao hơn nhiều. “Rồi Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10, 1). Được trao ban đặc sủng, ơn thánh để ra đi thực hiện sứ vụ, chứ chẳng phải để tích luỹ công trạng hay thanh danh. Cụ thể hơn, “anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10, 8). Là thừa tác viên có chức Thánh, chúng ta can đảm nhìn nhận mình vẫn còn vô vàn thiếu sót, còn do dự trong việc chia san ơn thiêng, còn rụt rè đảm đương những thách đố hiện tại trên cánh đồng truyền giáo, còn chọn lựa nơi tiện lợi và chưa dám ra khỏi vùng an toàn của bản thân. Đối với giáo dân, chúng ta cũng soi xét mình: từ trước tới nay, tôi đã hiểu thế nào về sứ mạng rao giảng Tin Mừng? Tôi vẫn đứng ngoài lề bàng quan, và xem đó không phải là bổn phận của mình? Tôi đã được Chúa ban cho rất nhiều (đơn cử: thời gian, tài nguyên, tài năng, sức khoẻ, khả năng vận dụng tâm trí, lý trí, tự do, phán đoán, lên kế hoạch, v.v…), mà tôi đã biết tận dụng để chia san, đóng góp, xây dựng cộng đoàn, Giáo hội và xã hội chưa?
Trên hết, là những ‘thợ đang gặt’ trên cánh đồng truyền giáo bát ngát hôm nay, xin cho lửa nhiệt huyết ngày càng bừng cháy, lan toả khắp nơi. Là những ‘thợ gặt tương lai’, xin cho họ ý thức sứ mạng làm chứng, trau dồi tâm-thể-trí lực dám đảm đương, chấp nhận mọi thách đố của thời đại mà dấn thân không ngừng, vì chưng “anh em đã được lãnh nhận nhưng không, thì cũng phải cho đi như vậy” (x. Mt 10, 8). Amen!
Tình thương được biểu lộ trước hết qua cái nhìn như Tin mừng hôm nay ghi nhận: “Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng, liền động lòng thương xót TN 11-A69
Tình thương được biểu lộ trước hết qua cái nhìn như Tin mừng hôm nay ghi nhận: “Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng, liền động lòng thương xót họ vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn …” Chúa Giêsu thấy nhu cầu tâm linh của đám đông dân chúng, Chúa thương yêu rồi Chúa hành động để chứng tỏ tình thương đó: cụ thể Chúa đã rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa cho dân, đã chữa lành bệnh tật, đã xua trừ ma quỉ, đã hóa bánh ra nhiều cho dân được ăn no trước khi giải tán họ về…
Nhưng tình thương Chúa còn đi xa hơn khi Chúa cần có những người cộng tác với Chúa trong đồng lúa Nước Trời nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa về”. Đồng lúa là của Thiên Chúa, các thợ gặt là do Chúa sai đến và Chúa muốn chúng ta cộng tác với Chúa trong việc thu hoạch Đồng lúa này. Cộng tác bằng cách nào? Trước hết là bằng lời cầu nguyện. Đây chính là lời mời gọi của Chúa chứ không phải là lời của Giáo hội hay của ai khác. Vậy chúng ta hãy quan tâm tới việc cầu nguyện và có lời cầu nguyện đi trước việc truyền giáo cũng như đang khi làm việc tông đồ, bác ái.
Không phải chỉ có linh mục hay tu sĩ mới là thợ gặt mà mọi người tín hữu đều được Chúa kêu gọi tham gia sứ mệnh này bằng cách chúng ta quan tâm tới nhu cầu chính đáng của anh em và cố gắng đáp ứng. Chúng ta sẽ trở thành thợ gặt giỏi cho Nước Chúa khi biết gắn kết với Chúa và lo cho lợi ích của anh em từ trong gia đình ra ngoài xã hội. Ai nấy theo cách của mình đều được gọi và làm việc ở cánh đồng lúa chín Nước Trời.
Hôm nay Chúa cũng dạy các môn đệ và mọi người tín hữu chúng ta về tinh thần phải có khi tham gia là thợ gặt trong đồng lúa Nước Trời đó là: “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không”. Nước Trời là quà tặng Chúa ban. Chúa đã ban nhưng không cho mỗi người chúng ta thì đến lượt chúng ta cũng phải biết trao đi cho anh em cách nhưng không như vậy. Các môn đệ được Chúa ban quyền rao giảng, quyền trừ quỉ, chữa lành bệnh tật nay các ông phải thi hành quyền đó cách nhưng không. Nhiều người được Chúa ban cho nhưng không lại có tâm lí: “Hòn đất ném đi hòn chì ném lại” tức là bắt người ta phải trả công cho mình như vậy là không đúng với tinh thần Chúa muốn. Chúa Giêsu có lời dạy được ghi trong sách Công vụ tông đồ: “Cho thì có phúc hơn nhận (Cv 20, 35)”. Nếp sống văn hóa Chúa muốn dạy chúng ta là văn hóa cho đi thay vì văn hóa chiếm hữu. Tinh thần Chúa dạy các thợ gặt trong đồng lúa Nước Trời là tinh thần thanh thoát, khó nghèo, không vụ lợi và biết phó thác cho Chúa, ra đi gieo niềm vui và bình an của Chúa đến cho những người chúng ta có cơ hội tiếp xúc. Một khi đã yêu mến Chúa thì cũng yêu mến những con chiên bơ vơ vất vưởng của Chúa. Thánh Fanxicô Assidi đã bị đánh động rất nhiều khi đọc đoạn Tin Mừng này và Ngài cố gắng sống và ra đi rao giảng Tin mừng với hành trang là những lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng này.
Câu chuyện : Có một vị bá tước giầu có ngày kia cho thánh Gioan Thiên Chúa 25 đồng vàng để giúp người nghèo khổ. Đến chiều bá tước đó giả làm người ăn xin tới bệnh viện xin giúp đỡ. Động lòng thương, Gioan Thiên Chúa lấy ra 25 đồng vàng mới nhận được ban sáng và trao cho người nghèo đó kèm theo những lời khích lệ ân cần. Hôm sau bá tước tới thú nhận và xin lỗi vì đã thử lòng thánh Gioan Thiên Chúa. Trước khi từ giã, bá tước đưa 150 đồng vàng và trả lại 25 đồng vàng đã cho hôm trước. Rồi sau đó hằng tuần ông cho đem tới bệnh viện tiền bạc, thuốc men, lương thực, quần áo để giúp thánh Gioan Thiên Chúa trong việc bác ái từ thiện, đặc biệt là giúp các bệnh nhân nghèo.
Chúng ta nguyện noi gương Chúa Giêsu có cái nhìn động lòng thương đối với những anh em khốn khó để đem tình thương của Chúa đến cho họ qua lời cầu nguyện cũng như qua những gì ta có thể làm được hầu mưu ích cho anh em về phần xác cũng như phần hồn. Amen.
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Sử Mathêu tỏ cho chúng ta thấy lòng yêu thương tha thiết của Chúa dành cho Dân Riêng Người và cho TN 11-A70
toàn thể nhân loại. Ngài viết: "Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng, liền động lòng thương họ; vì họ tất tưởi bơ vơ, như những con chiên không có người chăn dẫn". Do đó, Người phán với các môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa" (xem Mt 9:36-38).
I. THIẾU TÔNG ĐỒ TRUYỀN GIÁO
Với cái nhìn khách quan, có lẽ không ai lại không thấy nhu cầu cần thiết phải có nhiều thợ gặt của Tin Mừng, nhiều vị tông đồ truyền giáo.
Trước thực trạng của thế giới hôm nay, đôi khi phải kể là bi đát, vì Giáo Hội có nhiều kẻ thù, kẻ thù hữu hình cũng như vô hình. Satan lợi dụng mọi mưu mô xảo quyệt để khuynh đảo niềm tin, ru ngủ lòng người. Hắn huy động nhiều cán bộ làm tay sai, lợi dụng ngay cả con cái trong Giáo Hội để bày ra nhiều đòn tâm lý, nhiều triết thuyết lầm lạc để đả phá Giáo Hội, chống đối Thiên Chúa. Hắn lợi dụng những kẻ nắm quyền bính trong dân để chấp nhận, để ban hành những đạo luật vô luân, thừa nhận và khuyến khích tội ác, khiến cho thế giới này dần dần trở nên nhơ nhớp, trên cơn nghĩa nộ Thiên Chúa... Thế mà, nhiều người vốn giả điếc làm ngơ, không thiết tha gì đến sự hưng thịnh của Giáo Hội và thế giới.
Lại có những người tỏ ra mình biết quan tâm đến nhu cầu cần thiết của Giáo Hội khi phát biểu cách trái mùa: Vì nạn thiếu Tông Đồ, nên tại sao Giáo Hội cứ khư khư giữ cái truyễn thống lỗi thời, không cho những người có gia đình hay phụ nữ làm Linh Mục. Những thứ người đó tỏ ra thiết tha đến Giáo Hội, nhưng thực sự lại là những kẻ chống đối Giáo Hội, vì họ đã phản lại Đấng Đại Diện tối cao của Chúa và các giáo huấn cũng như tinh thần của Giáo Hội.
Như chúng ta được biết: Ngay trong nội bộ của Giáo Hội tại Âu Châu, phát hiện một tuyên ngôn của 165 nhà thần học nói tiếng Đức, 63 nhà thần học và trí thức người Ý, 130 nhà thần học nói tiếng Pháp lên tiếng phản đối Tòa Thánh Vatican về cái mà người ta chụp mũ cho là "Trung ương tập quyền" hoặc "Khuynh hướng bảo thủ". Đó thực là một nguy cơ đang đe dọa tình hiệp nhất của Cộng Đồng Kitô Giáo ngay từ trong lòng Giáo Hội, ấy là chưa kể đến các kẻ thù bên ngoài luôn bày ra nhiều mưu kế để khiêu khích và tấn công Giáo Hội, khi ngấm ngầm lúc công khai.
II. SỰ MẠNG KHẨN THIẾT CỦA GIÁO HỘI
Là con cái của Giáo Hội, nhất là những linh hồn được tuyển chọn sống Đời Thánh Hiến trong ơn gọi Tu Sĩ hay Linh Mục, chúng ta cần ý thức sứ mạng cao cả Chúa đã ủy thác cho Giáo Hội, cũng như cho mỗi người chúng ta tùy theo bậc sống và ơn gọi riêng của mình.
Chúng ta hãy nhắc lại giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II: "Mỗi môn đệ của Chúa Kitô, tùy theo địa vị mình, đều có bổn phận góp phần truyền bá Đức Tin, làm trọn lời Chúa phán qua miệng tiên tri Malachia: Từ Đông sang Tây, danh Ta sẽ được lẫy lừng khắp muôn dân, khắp nơi đều sát tế và dâng lễ vật thanh sạch kính tôn danh Ta" (Lumen Gentium #17).
Vì: "Làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mạng của Giáo Hội. Mỗi Tín Hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ qua việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy và Thêm Sức" (Lumen Gentium #33). "Do đó, ơn gọi làm Kitô Hữu tự bản chất cũng gọi là ơn gọi làm tông đồ" (Lumen Gentium #17).
Nhưng chúng ta phải làm tông đồ bằng cách nào? Chúng ta hãy nghe thêm giáo huấn của Công Đồng: "Người Giáo Dân thực thi việc tông đồ bằng mọi công việc của họ, để rao giảng Tin Mừng và thánh hóa nhân loại, đem tinh thần Tin Mừng thấm nhuấn và hoàn hảo hóa những việc thuộc phạm vi trần thế, sao cho công việc của họ thuộc lãnh vực này, làm chứng tỏ tường về Chúa Kitô và góp phần vào việc cứu độ nhân loại. Vì bản chất riêng biệt của người Giáo Dân là sống giữa đời và làm việc đời, nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi, để một khi tràn đầy tinh thần Kitô Giáo, họ làm tông đồ giữa đời như men trong bột" (Apostolicam Actuositatem #2).
III. TÔNG ĐỒ ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA
Lời Chúa phán với các Tông Đồ xưa: "Thầy thương đoàn dân này, vì họ tất tưởi bơ vơ, như những con chiên không có người chăn dẫn" và: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin Chủ Ruộng sai thợ đến gặt lúa" (Mt 9:36-38). Lời đó hôm nay Chúa cũng đang tha thiết phán với mỗi người chúng ta. Nhưng tinh thần thâm sâu của Lời Chúa còn âm vang tha thiết hơn nữa vào tận tầng sâu thẳm của linh hồn chúng ta: "Các con hãy cầu xin Chúa sai nhiều Tông Đồ đích thực, Tông Đồ chính danh, Tông Đồ tràn đầy tinh thần Tin Mừng và lửa mến Chúa tha thiết ra đi khắp nơi để chinh phục các linh hồn về cho Cha".
Nạn thiếu Tông Đồ là khẩn thiết, nhưng còn khẩn thiết hơn nữa, đó là những Tông Đồ đích thực; vì nếu không, họ sẽ chỉ là những tiên tri giả, những kẻ hữu danh vô thực, hay nói đúng hơn, họ là những kẻ quấy rối, những kẻ phá hoại, hay nói đúng hơn là những kẻ phá đạo.
Đây chúng ta hãy nghe một đoạn trích trong bức thư của Thánh Phanxicô Xavier từ Ấn Độ gởi về cho Thánh Ignatiô Loyola ở Âu Châu, là Bề Trên của ngài: "Nhiều người ở đây không được trở thành Kitô Hữu chỉ vì không có ai được chuẩn bị để đảm nhận sứ vụ giảng dạy cho họ... Con thường cảm thấy bị thôi thúc muốn đến các đại học ở Âu Châu, đặc biệt là đại học ở Sorbonne Balê, để la lên như một thằng điên cho những kẻ giầu trí thức hơn là thiện chí, yêu cầu họ hãy sử dụng trí thức của họ làm sao cho lợi ích... Phải chi trong khi nghiên cứu các môn nhân văn, họ cũng nghiên cứu sổ kế toán về những điều Thiên Chúa đòi hỏi họ qua tài năng Ngài đã ban cho họ! Lúc đó nhiều người hẳn sẽ xúc động thốt lên: Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn bảo con làm gì?"
Kết Luận
Mùa gặt Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay là gì? Chúng ta hãy đưa ánh mắt tinh thần nhìn xem thế giới: Biết bao người, không chỉ ở nơi các xứ truyền giáo, mà ngay tại các quốc gia chúng ta đang sống, họ đang khát khao tìm kiếm chân lý, tìm kiếm lẽ sống, tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc đời. Chúng ta hãy nghe lời một em nhỏ, vừa tốt nghiệp tại trường trung học nọ, đã được hầu hết các báo chí trong nước từng ca ngợi. Lời em nói như tiêu biểu cho khát mong của mọi người: "Cuộc đời còn có những cái cao quí hơn tiền bạc, television, tiệc tùng, danh vọng nữa!"
Còn thợ gặt Chúa nói với chúng ta hôm nay là gì? Là chính mỗi người chúng ta tùy theo ơn gọi riêng của mình, hãy trở nên chứng nhân cho Chúa, bằng chính cuộc sống thánh thiện của chúng ta, để như tấm men làm dậy thúng bội, như ánh sáng chiếu soi trong đêm tối, như muối ướp trần gian khỏi hư thối vì tội lỗi, hầu làm cho Chúa được tôn vinh, nhân loại được cứu độ.
Nhiều vị Tông Đồ tưởng rằng: Giới trẻ ngày nay có cái thị hiếu thích ồn ào náo động, cần phải có văn nghệ hát xướng rùm beng, với các ca sĩ thượng thặng khiến họ sùng mộ. Hơn nữa, cần phải đề cập nhiều tới tình yêu nam nữ, về phái tình, về sinh lý với những câu truyện tình tứ tiếu lâm mới có sức thu hút được họ!
Các vị đó đã lầm, giới trẻ không khát mong điều đó, mà có khi họ còn cười thầm và chê bai chúng ta sau lưng, đàm tiếu với nhau khinh thường chúng ta nữa là khác. Chúng ta hãy xem Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đi đến biết bao quốc gia trên thế giới, nhất là trong các dịp Đại Hội Giới Trẻ thế giới. Ngài toàn đề cao tình thần Chúa Kitô trong Tin Mừng, thế mà người ta cứ ùn ùn tuôn đến nghe lời ngài. Từng triệu người trẻ tới bu quang và say mê đón nhận lời giáo huấn của ngài, như là lời của chính Thiên Chúa nói với họ. Sau khi Đức Thánh Cha nói với họ về tinh thần của Chúa, ngài đã hô lớn tiếng: "Hỡi các bạn trẻ, Đức Kitô cần chúng con, cần đến tấm lòng trinh trong, cần tình yêu quảng đại của chúng con, để giúp Ngài hoàn thành sứ mạng, nâng nhân loại lên và mang Ơn Cứu Độ của Ngài đến cho thế giới. Đó là sứ mạng của Đức Kitô và Ngài chia sẻ sứ mạng này cho chúng con".
Sau khi Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ, Ngài ban quyền năng trên các ông và sai các ông ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành các bệnh tật TN 11-A71
Sau khi Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ, Ngài ban quyền năng trên các ông và sai các ông ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành các bệnh tật “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy cho đi nhưng không”.
Ngài là chủ vườn nho, là cây mà Thiên Chúa đã trồng. Thiên Chúa đã chuẩn bị đất đai, hoa màu, hạt giống, khí hậu thuận lợi để cây mọc lên và muốn cho cây đó lớn cùng bờ cõi trái đất, bao trùn hết mọi dân tộc, nên cây đó đến lần sai các đệ tử ra đi tỉa cấy, vun trồng, gieo vãi.
Chúng ta là dân Chúa, là Giáo Hội, có nhiệm vụ làm cho Giáo Hội triển nở. Các môn đệ ra đi gieo vãi, chữa lành và kết quả gấp bội, các ngài hớn hở vui mừng về khoe với Chúa. Chúng ta có thái độ nào trong việc xây dựng Giáo Hội? Chúng ta có thái độ như Phạm ngũ Lão không?
Phạm ngũ Lão người làng Hưng Yên, mồ côi cha từ còn nhỏ, nhà nghèo. Một hôm ông đang ngồi đan sọt ở vệ đường mà lòng mải nghĩ về đất nước. Quân lính đi qua lấy giáo đâm thủng đùi ông mà ông không hay. Hưng đạo cho người hỏi mới biết ông là người tài liền đưa ông về dinh. Ông đã đánh thắng quân giặc rất nhiều trận. Về sau ông bình cả quân Lào và chiêm thành nữa nên vua phong ông làm võ đại tuớng bình Chiêm.
Sự đóng góp của chúng ta dù bé mọn nhưng cũng là góp cho Giáo Hội thêm tiến triển. Đời sống chúng ta nếu tội lỗi thì sẽ ảnh hưởng đến Giáo Hội (một con sâu làm rầu nồi canh). Một người không sống đạo đức thánh thiện cũng có ảnh thưởng đến tất cả, đừng nghĩ một việc nhỏ nhoi không có giá trị gì. Đức thánh cha Piô 12 nói: ”Sự cứu rỗi của nhiều người còn tùy thuộc vào lời cầu nguyện và hy sinh của mỗi phần tử Giáo Hội”.
Chúng ta như vậy là có trách nhiệm phải sống tốt lành. Cha mẹ luôn tạo nên sự kính trọng trong gia đình. Người trẻ luôn kính trọng người trên. Người khoẻ biết kính trọng người yếu như thế làm nên một dây chuyền tốt lành làm phát triển Giáo Hội.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống thánh thiện đạo đức, làm gương sáng cho mọi người, như thế con làm ích cho Giáo Hội của con luôn mãi.
Thánh Mátthêu đã diễn tả diễn tả một thực tế cuộc đời mà con người gặp phải, đó là một tâm lý thiếu vắng tình thương, thiếu vắng hy vọng: “Họ TN 11-A72
Thánh Mátthêu đã diễn tả diễn tả một thực tế cuộc đời mà con người gặp phải, đó là một tâm lý thiếu vắng tình thương, thiếu vắng hy vọng: “Họ lang thang như những con chiên không người chăn” (Mt 9:36). Và điều này đã khiến Chúa Giêsu phải bồi hồi, thổn thức. Ngài đã không cầm nổi xúc động, và đã để cho những cảm tình ấy được bộc lộ như Mátthêu đã bắt gặp, và đã ghi lại: “Khi thấy lũ đông dân chúng, Ngài động lòng thương xót họ, vì họ lang thang và vất vưởng như chiên không người chăn” (Mt 9:36).
Nếu Chúa Giêsu có mặt trên trái đất hôm nay, hẳn là Ngài còn xúc động hơn nữa. Hơn chục triệu thai nhi bị giết ngay trong lòng mẹ mỗi năm. Hàng trăm, ngàn, vạn thiếu nữ bị lợi dụng, bị đối đãi tàn tệ, và bị đẩy vào những dịch vụ buôn bán người. Phân nửa những cuộc hôn nhân bị tan vỡ. Hiện tượng đồng tính luyến ái và hôn nhân đồng tính. Hiện tượng chối bỏ căn tính Kitô giáo tại các quốc gia Âu Châu. Khủng bố, chiến tranh, và bạo loạn. Nhân loại như đang bị đày đọa, và chìm sâu vào hố diệt vong, vô vọng, và cùng cực. Cái nghèo đói tâm linh còn khủng khiếp hơn sự nghèo đói vật chất. Một sự nghèo đói đã dẫn con người đến chỗ trở thành thù địch với Thiên Chúa, thù địch với chính mình, và thù địch với tha nhân. Tất cả đã nói lên rằng nhân loại hôm nay đang thiếu vắng tình thương, thứ tình thương mà Chúa Giêsu đã để lộ ra mà Mátthêu đã ghi lại. Lý do đưa đến sự thiếu thốn này đến từ thái độ con người chối bỏ tình yêu Thiên Chúa, và thái bộ chôn bám vào thế giới hữu hình.
- Chối bỏ tình yêu Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và lòng trí tôi vui mừng trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc trọng đại” (Lc 1:47,49). Đó là tâm tình cảm tạ và biết ơn của Mẹ Maria trước muôn ơn lành mà Mẹ đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Vì khi nghe Mẹ chúc tụng hồng ân Thiên Chúa, người nghe Mẹ không những muốn nhìn lên Mẹ để coi xem đó là những ơn trọng đại nào. Đồng thời cũng muốn nhìn vào mình để xem coi tình thương Chúa đã tác động như thế nào nơi cuộc sống của chính mình.
Trong khi nhìn lên Mẹ và nhìn vào mình, những tâm hồn thiện chí cũng khám phá ra điều này, đó là muôn vàn ân huệ mà Thiên Chúa đã và đang thực hiện nơi mỗi người. Và cũng như Mẹ Maria, mỗi Kitô hữu cũng phải khiêm tốn mà ca lên rằng: “Chúa đã làm cho tôi những sự trọng đại” (Lc 1:49). Ngài làm thế vì vinh danh Ngài, và vì lòng Ngài thương ta vô bờ bến.
Những ơn trọng đại Ngài ban cho chúng ta trong cuộc sống, bao gồm sức khỏe, tài năng, công ăn việc làm, thành đạt, và ngay cả những thử thách, khó khăn, và thiếu thốn, tất cả làm nên một bức tranh tuyệt vời về đời sống của mỗi cá nhân, từ tâm hồn đến thể xác, và bức tranh toàn bộ nhân loại. Những ơn này, đến từ trái tim nhân lành, một trái tim biết thổn trước những cực nhọc, vất vả, và truân chiên của kiếp người chúng ta. Đức Bênêđíctô XVI, khi đề cập đến trái tim Chúa Giêsu trong bài nói chuyện với khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô hôm 5 tháng 6 vừa qua, Ngài đã nói: “Trong từ ngữ Thánh Kinh, “trái tim” chỉ về trung tâm điểm của một con người, nơi ngự trị của những tình cảm và ước muốn. Trong trái tim của Đấng Cứu Thế, chúng ta tôn thờ tình yêu nhân loại của Thiên Chúa, ý muốn cứu độ toàn nhân loại của Ngài, lòng thương xót vô cùng của Ngài”. Như vậy, khi Ngài thổn thức và bồi hồi về cuộc sống con người lang thang, vất vưởng như những con chiên trong hoang địa, là Ngài đã thổn thức và chia sẻ tận cùng với những nỗi vất vả, truân chiên của chúng ta, và cho biết, Ngài không quên chúng ta, dù chúng ta có lạc xa Ngài, như con chiên lạc, mà Ngài đã vội vàng đi tìm kiếm để rồi khi tìm được, thì vác trên vai.
- Chôn bám vào thế giới hữu hình: Nhưng nếu tình yêu Ngài theo dõi, bao bọc con người, tại sao con người còn gặp trăm ngàn nỗi đắng cay và thử thách. Như vậy, thì tình yêu ấy không đủ sức mạnh để thắng vượt những cái xấu xa, và tiêu cực đang khống trị con người và trái đất này sao? Như vậy, Ngài không còn phải là Thiên Chúa đã thắng được tội lỗi và sự chết nữa hay sao? Tại sao đau khổ, chết chóc, hận thù, bệnh tật, và tai ương vẫn tiếp tục đổ xuống trên con người, mà phần đông là những người vô tội.
Không. Ngài đã thắng thế gian. Và tình yêu Ngài vẫn mãi mãi là tình yêu muôn thuở. Trái tim Ngài vẫn luôn luôn thao thức bên những nỗi thống khổ và lầm than của con người. Ta có thể cảm nhận được điều này khi đối diện với Ngài một mình trong thánh đường, trước nhà tạm hay nhìn lên thập giá.
Và điều mà con người người ngày nay đang phải đối diện, đó chính là kết qủa của hành động con người đã không biết nhìn nhận và biết ơn trước tình yêu bao la phát xuất từ trái tim nhân lành của Ngài. Thay vì hạnh phúc với Ngài, con người lại tự mình chôn bám vào những vật chất, và những cái thuộc về thế gian này. Điều này không những chỉ làm con người phải lãnh nhận hậu quả sự dữ, đau khổ và chết chóc, mà nó còn làm cho trái tim Chúa phải thổn thức. Vì Ngài biết những gì Ngài làm cho con người là tốt đẹp, nhưng con người lại muốn tự mình vượt quá khỏi tầm tay yêu thương Ngài.
Mátthêu đã ghi lại điều Ngài thổn thức bao gồm cảm tình Ngài: “Họ như những con chiên lang thang, vất vưởng, không có kẻ chăn”. Và lời nguyện truyền giáo tiếp theo sau đó: “Hãy xin chủ ruộng sai nhiều thợ gặt đến làm mùa của mình” (Mt 9:38). Điều này cũng nói lên rằng chúng ta thật sự cần được Ngài chăn nuôi, và cũng phải trở nên những bạn đồng hành tốt đối với anh chị em mình trong sứ mạng truyền giáo tùy theo ơn gọi và hoàn cảnh sống của mỗi người. Hãy trở nên những nhà truyền giáo, những tay thợ cho mùa màng của Thiên Chúa bằng cách biết đón nhận hồng ân Ngài, và giới thiệu với anh chị em mình tình yêu bao la của Ngài. Tình yêu lớn lao vượt trên tất cả sự dữ, tội lỗi, và sự chết.
Trong một thế giới dẫu bị cuốn hút bởi ma lực cạnh tranh không thương tiếc, con người hôm nay lại rất nhạy cảm với những cảnh bị đầy đoạ, đói TN 11-A73
Trong một thế giới dẫu bị cuốn hút bởi ma lực cạnh tranh không thương tiếc, con người hôm nay lại rất nhạy cảm với những cảnh bị đầy đoạ, đói nghèo, áp bức và bỏ rơi. Người ta dễ bị lôi cuốn bởi những tấm gương hy sinh và quảng đại bao bọc những con người phận nhỏ. Hôm nay, 16.6.2002, tại Roma sẽ diễn ra việc Tôn Phong Hiển Thánh cho Cha Pio, khuôn mặt chứng nhân tiêu biểu của thời đại, khuôn mặt thật gần gũi với thế giới tăm tối của nhân loại. Sự gần gũi đấy ắp sự yêu thương và lòng nhân hậu cảm thông. Và điều ấy được Lời Chúa hôm nay mở ra như là lối vào Nước Trời dành cho Dân Người.
Thực vậy, ngay từ ngàn xưa, Dân Chúa đã được thừa hưởng Lòng Thương Xót Cứu Ðộ của Giavê, khi còn là những kẻ nô lệ trên đất Ai Cập. Thiên Chúa đã mang họ "như trên cánh chim bằng". Hơn thế, Người còn muốn "giao ước" với họ, cho họ "là một vương quốc tư tế, một dân thánh". GIAO ƯỚC và LỄ TẾ cũng như chính sự THÁNH THIỆN của Thiên Chúa, VƯƠNG QUỐC TƯ TẾ, DÂN THÁNH đó là những vấn đề trọng tâm của toàn bộ mạc khải, tất cả đều có liên hệ đến thế giới tăm tối của nhân loại, vì tất cả là LÒNG THƯƠNG XÓT của Chúa để cho Dân Chúa được "VÀO CÕI SÁNG", "ÐƯỢC SỐNG VÀ SỐNG DỒI DÀO". Nhiều lần trong Kinh Thánh đã khẳng định giao ước, lề luật, lễ tế tất cả chỉ nhắm tới việc công bố con đường "HÒA GIẢI", sự tha thứ, để cho tội nhân được sống. Và do đó, chẳng bao giờ con người có thể khẳng định mình trung thành với giao ước, với lề luật, chẳng bao giờ con người có thể dâng một lễ tế chân thực, nếu đồng thời họ lại không khoan dung yêu thương và tha thứ cho các tội nhân. Và vì thế, Dân mới được Chúa Giêsu thiết lập cũng đã được sai "đến với các con chiên lạc nhà Israel".
Thánh Phaolô trong khi chiêm ngưỡng mầu nhiệm sự sống nơi Ðức Kitô, coi đó là "bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta", đã tóm tắt mầu nhiệm ấy trong một kiểu nói đặc biệt "Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi." Trong ngữ cảnh của Tin Mừng, thế giới tối tăm, thế giới tội lỗi, thế giới "chiên lạc", cũng là thế giới của "thần ô uế, của bệnh hoạn tật nguyền". Và Chúa Giêsu đã thông ban cho môn đệ quyền năng "chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết chỗi dậy, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ".
Ngày nay, với khoa học tiến bộ, không mấy ai còn tin rằng những cảnh đen tối cơ cực của nhân loại là sự thao túng của các thế lực tối tăm, người ta đã "GIẢI THIÊNG" thế giới, và mọi người chỉ tin rằng phải cấp bách nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, phải điện khí hóa nông thôn, vùng sâu vùng xa... mới có thể tạo nên một "xã hội tự do,dân chủ, công bằng và văn minh". Không còn ai tin rằng giữa cái bệnh tật, cái nghèo, kể cả cái chết lại có liên hệ gì với thần lực tối tăm, với ma quỷ...với tội lỗi nữa. Chính vì cách nhìn duy lý và duy vật như vậy, con người bằng những giải pháp của mình đã chỉ làm cho thế giới, không riêng thế giới nhân sinh, mà ngay cả thế giới vũ trụ thiên nhiên càng ngày càng rơi vào những khủng hoảng trầm trọng hơn. Ngày nay người ta đang nói tới những "cách mạng xanh", những "ô nhiễm môi trường", những "độc hại của thuốc lá", "những khủng bố sinh học"... Nhưng tất cả hoàn toàn tuỳ thuộc vào thiện chí của mỗi con người, mỗi quốc gia... Trong khi đó một khi "THIỆN CHÍ" lại tuỳ thuộc QUYỀN LỢI cá nhân, cho dù là CÁ NHÂN LỚN như một quốc gia, thì vấn đề chẳng bao giờ có một giải đáp đúng mức. Khi QUYỀN LỢI cũng đồng nghĩa với QUYỀN PHÁ THAI, QUYỀN NHÂN BẢN VÔ TÍNH, QUYỀN CHẾT ÊM DỊU, QUYỀN LY DỊ, QUYỀN CHỐNG KHỦNG BỐ...thì thế giới này đúng chỉ là "BẦY CHIÊN KHÔNG NGƯỜI CHĂN DẮT", nó bị phó mặc cho những tham vọng vô đáy của những cá nhân đầy quyền lực, và những tập đoàn ôm mộng bá chủ. Thế giới này vì vậy cần hơn bao giờ hết MỤC TỬ NHÂN LÀNH VÀ HAY THƯƠNG XÓT.
Người Mục Tử hôm nay phải là hiện thân của NƯỚC TRỜI ÐANG ÐẾN theo gương MỤC TỬ TỐI CAO, "hoà giải chúng ta với Thiên Chúa". Người mục tử thiết lập trong cuộc sống của mình và với mọi người một nỗ lực "CHẠNH LÒNG THƯƠNG", có nghĩa là một sự nhạy cảm với cảnh "lầm than vất vưởng" của mọi người do tình trạng "không người chăn dắt" để luôn ý thức và sống trung thực với sứ vụ được sai đến để loan báo "sự hòa giải trong Ðức Giêsu". Người mục tử không thể quên rằng, lời loan báo luôn chỉ có giá trị khi nó xuất phát từ một sự hiến dâng "Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy." Trong bối cảnh việc tôn phong hiển thánh Cha Piô, chúng ta có thể khẳng định, cho dù cũng có nhiều kẻ chăn thuê, nhưng Thiên Chúa chẳng bao giờ để cho đàn chiên mình thiếu những Mục Tử xứng đáng do lời cầu nguyện không ngừng của Hội Thánh theo lời dạy của Ðức Giêsu "Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về".
Chủ đề “quyền bính" (quyền năng) có được nhắc lại trong đoạn văn này không? 2. Con số 12 ở đây có ý nghĩa gì đặc biệt? 3. Hình ảnh đoàn chiên TN 11-A74
1. Chủ đề “quyền bính" (quyền năng) có được nhắc lại trong đoạn văn này không? 2. Con số 12 ở đây có ý nghĩa gì đặc biệt? 3. Hình ảnh đoàn chiên không người chăn và hình ảnh mùa gặt có phải là do Chúa Giê-su tạo ra không? 4. Phải hiểu thế nào lời Chúa Giêsu ra lệnh cho các sứ đồ đừng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại? 5. Trong Mt, sau Diễn từ về sứ mệnh, ta có thật chứng kiến một chuyến truyền giáo của nhóm 12, như trong Mc và Lc không? Tại sao?
***
1. Với đoạn văn hôm nay, ta vượt qua một giai đoạn quan trọng trong tình thuật Mt. Theo bố cục căn bản của Tin Mừng này, ta đang đến bài huấn thị dài thứ hai của Chúa Giêsu trong bài huấn thị làm thành 5 mốc chủ yếu của Tin Mừng. Sau khi mô tả sự “công chính" mới hay sự trung tín của Nước Trời (ch. 5- 7), và trước khi diễn tả mầu nhiệm" của nó trong các dụ ngôn ở chương 13, tác giả giới thiệu các truyền lệnh sứ của Nước ấy với các huấn thị mà họ nhận được từ Chúa Giêsu. Tất cả đều nằm trong quan niệm sư phạm và thần học của Mt. Ta dễ dàng ghi nhận mối liên hệ về văn chương cũng như về tư tưởng giữa bản văn với những gì đi trước: Nếu các chương 5 đến 7, với phần trình thuật bổ túc là các chương 8 và 9, bị chi phối bởi ý tưởng Chúa Giê-su có quyền bính trong việc giải thích Lề luật và trong mối liên hệ với giáo quyền (Biệt phái) cũng như quỷ thần (bệnh tật) của thời Người và của dân Người, thì phần này lại trình bày cho thấy quyền năng đó đã được Chúa Giêsu ban (10, 1) cho sứ đồ Ngài.
2. Thật là đầy ý nghĩa khi Simon được nêu danh trước mọi sứ đồ khác với cái tên thứ hai là Phêrô. Nhưng lâu về sau, Mt mới ghi lại các hoàn cảnh của việc ông nhận tên ấy (16, 18). Đây là một bản danh sách chính thức trong đó tên thứ hai của Simon được ghi vào. Tiếp theo ông, người ta nêu danh hai nhóm anh em (câu chuyện kêu gọi họ đã được ghi lại trên kia, 4, 18- 22), những kẻ mà thời đầu Giáo Hội chắc đã coi như là những người được hiệu triệu trước tiên. Còn các tên khác, Tin Mừng chỉ nêu ra chi tiết về hai người: Matthêô (Lêvi) nhân viên thu thuế, kẻ được gọi khi đang hành nghề (9,9), và Giuđa, tên phản bội. Tin Mừng thứ tư ghi thêm vài chi tiết liên hệ đến ông Philipphê, Batôlômêô và Tôma nữa (Ga 1, 43- 51; 6, 5-7; 14, 8- 10). Nhưng từng ấy không đáng kể tí nào. Nên chẳng lạ gì khi thấy về sau người ta đã thêu dệt thêm các dữ kiện ít ỏi đó hầu lắp đầy những lỗ trống lớn của bản văn Tin Mừng. Nhưng tác giả bản văn ta đang nghiên cứu đã không tìm cách thỏa óc hiếu kỳ hay các loại tình cảm đạo đức; ông chỉ muốn mọi cái đều tập trung vào điểm thiết yếu: Chúa Giêsu, Đấng Mê-si-a. Ngay cả những kẻ được trao phận vụ tối thượng là làm sứ đồ cũng chỉ có giá trị nhờ Người, với Người và trong Người mà thôi.
3. Tuy thế, việc đơn giản nêu danh cũng cho ta một vài nhận xét, đặc biệt về thành phần cấu tạo của nhóm Sứ đồ. Có các tên Hy lạp và Do thái cho thấy mấy ông thuộc nhiều miền khác nhau trong xứ Palestin; vài ngư phủ chất phác đứng bên cạnh một đảng viên đảng cấp tiến tên là Nhiệt Thành (Simon nhiệt.Thành); rồi có môn đồ của Gioan Tẩy giả nữa (Giacôbê và Gioan.). Tóm lại, nhóm thật mang nhiều sắc thái. Rõ ràng là Chúa Giê-su không tìm cách quy tụ quanh mình các phần tử dễ tính và học thức, cũng chẳng muốn liên kết với những kẻ nịnh bợ xu thời. Người phải khổ sở vất vả với họ và hình như đã chẳng thâu lượm mất kết quả khả quan. Tuy nhiên, ngày họ thực sự hoán cải và lãnh nhận Thánh Thần, họ đã biến thành những nhân chứng sẵn sàng đổ máu, và trở nên cột trụ nền tảng của tòa nhà Giáo Hội.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Thấy dân chúng, Người chạnh lòng thương họ": khởi điểm sứ mệnh tạm thời của nhóm 12 và khởi điểm toàn thể sứ mệnh của Giáo Hội là lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu... Đây là một thứ tình cảm sâu đậm (chữ Hy lạp gợi lên hình ảnh tâm thần xao xuyến) mà Cựu ước đã gán cho chính Thiên Chúa (Xh 34, 6; Tv 103, 8- 13; Tv 103, 8- 13; Hs 2, 2- 3; Gr 31, 20; Is 54, 7) và các Tin Mừng dành riêng cho Chúa Giêsu (Mt 14, 14; 15, 32; 20, 34; Mc 6, 34; 8, 2; 9, 22; Lc 7, 13) hay cho các nhân vật dụ ngôn tượng trưng Người hay Thiên Chúa (Lc 15, 20; Mt 18, 27; x. Lc 10, 35).
"Vì họ bơ phờ vất vưởng như chiên không người chăn giữ” ở đây điều làm Chúa Giêsu âu yếm xót thương là tình cảnh quẫn bách của những đoàn lũ "bơ phờ", "yếu liệt", "nằm sòng sãi ", như một đàn chiên không có chủ chăn. Hình ảnh thôn dã này mượn từ Cựu ước, mà bản văn gần giống nhất là Ds 27, 16-17: Môien thưa với Giavê rằng: Lạy Giavê, xin Ngài đặt một ai đó trên cộng đoàn, để ra trước chúng và vào trước chúng để đem chúng ra và đem chúng vào, hầu cộng đoàn của Giavê khỏi như chiên không người chăn giữ ". Đàn chiên của Thiên Chúa, trong suốt giòng lịch sử, đã từng bị những tên lái buôn "bóc lột và phân tán” (Dcr 11, 7. 11; x. 1 V 22, 17; Gr 23, 1- 2; 50, 6; Ed 34, 1- 10; Is 56, 11); và bây giờ vẫn còn những kẻ hướng đạo đui mù (Mt 15, 14; 23, 16. 24) dùng môn học thuyết sai lạc của họ (16, 12) làm lạc hướng đàn chiên, vẫn còn những hạng chăn thuê vô liêm sỉ làm chiên tan tác (Ga 10, 12tt). Vì thế Chúa Giêsu, chủ chăn vương giả mà Edêkien laon báo (34, 23tt), mục tử tuẫn nạn mà Dacaria đệ nhị đã thoáng thấy mơ hồ (13, 7 = Mt 26, 31), sắp ủy thác cho nhóm 12 trách vụ quy tụ đàn chiên từ mọi chuồng chiên khác (Ga 10, 16) như ngày xưa Môisen đã ủy thác dân cho môn đồ mình là Giosuê chăm nom (Ds 27,17). Đây thật là một vinh dự lớn lao và cũng là một trách nhiệm nặng nề cho nhóm 12 môn đồ của Môisen mới…
"Mùa màng nhiều, thợ gặt ít”: Mùa gặt là một hình ảnh cổ điển Cựu ước thường dùng để chỉ cuộc Chung thẩm của Thiên Chúa (Is 27, 12; Ge 4, 13 v.v...). Trong. Tân ước mùa gặt này thường phân làm hai, gồm giai đoạn đầu được đánh dấu bởi thời gian của Chúa Giê-su và của Giáo Hội và giai đoạn hay lịch sử chấm dứt, lúc Con Người sẽ thu lúa vào lẫm (Mt 13, 30) và đốt cỏ lùng (13, 30. 41tt): đó sẽ là mùa gặt sau hết (Mc 4, 29; Kh 14, 14tt), là “ngày tận thế" (Mt 13, 39), ngày chung thẩm (25, 31- 46) và bấy giờ thợ gặt sẽ là chính Chúa Ki-tô với các thiên thần của Người (13, 39; x. Kh 14, 14- 19). Nhưng trong khi chờ đợi ngày tận cùng đó, thì kể từ cuộc giáng lâm lần thứ nhất của Chúa Kitô, rõ ràng phải cần một vụ gặt qua sự kiện là đã có sự phân biệt giữa hạt giống tốt và xấu, khi Tin Mừng đòi buộc con người phải tuyên bố theo hay chống Chúa Ki-tô (Mt 10, 13- 16. 40; Ga 3, 18tt). Đấy là công việc chuẩn bị trong đó Chúa Giêsu đã đóng vai trò gieo giống (Mt 13, 1- 8ss; 13, 37; Ga 4, 36tt), còn nhóm 12 sẽ là những người thu hoạch.
Chính mùa gặt tiên trưng này là mùa mà nhóm 12, khi thụ hưởng các thành công đầu tiên của Chúa Giêsu, thấy mình được Người ủy thác cho tại Galilê, và chính về nó mà ta có thể áp dụng trước tiên câu nói của Chúa Giêsu trong Gioan: "Thầy đã sai các con đi gặt nơi các con đã không vất vả làm ra: có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các con chỉ đến thừa hưởng công lao của họ" (Ga 4, 38). Tuy nhiên sứ vụ ở Galilê chỉ là mào đầu và là hình ảnh của những mùa lúa chín vàng (Ga 4, 35) và phì nhiêu (Mt 9, 37) mà các sứ đồ cùng bao thợ khác của Tin Mừng, thừa hưởng công lao khó nhọc và hoa quả của hy tế Chúa Giêsu (x. Ga 4, 6; 12, 24), sẽ thu vào lẫm (so sánh Ga 4, 37tt và Cv 8, 15tt) từ ngày Hiện xuống.
“Chữa mọi tật nguyền bệnh hoạn": Ở đây Mt dùng lại cùng những hạn từ đã sử dụng để nói lên quyền năng tràn đầy mà chính Chúa Giêsu đã được trao ban (9, 35); qua cách đó ông cho thấy các sứ đồ hoàn toàn in hệt Người và họ phải trở nên như cánh tay nối dài của Người vậy. Họ sẽ hoàn tất các công thành giống như của Người và sẽ củng cố lời rao giảng của họ bằng cách làm phép lạ. Uy quyền của Chúa Giêsu được chuyển qua cho môn đồ của Người vậy.
"Mười hai sứ đồ ": Đây là lần duy nhất Mt dùng thành ngữ này; nơi khác, ngoài thành ngữ "nhóm 12" (10, 5; 20, 17; 26, 14. 20. 47), ông sẽ viết "12 môn đồ " (10, 1; 11, 1; x. 28, 16) hay các môn đồ " (13, 10; 14, 15; 26, 8. 56 v.v...), vì hơn Mc và Lc, Tin Mừng thứ nhất ưa lẫn lộn môn đồ và sứ đồ với nhau. Kiểu nói bất thường của đoạn văn chúng ta sử dụng chữ "sứ đồ" theo chính xác được dùng trong Giáo Hội sơ khai để chỉ nhóm 12 và một vài nhân chứng chính thức khác của việc Chúa phục sinh.
“Đừng lên đường đến các dân ngoại": Mấy chữ này rõ ràng là kiểu nói cổ xưa (như kiểu nói "thành của người Samari" để chỉ tỉnh Samari), có căn ngữ Aram (kết quả nghiên cứu Schurmann, Cerfàux) cũng chắc chắn phát xuất từ một nguồn trước Mt; và bởi thế ta hiểu được rằng Mc và Lc đã dùng đến vì nể các độc giả lương dân của họ. May thay còn lại các chữ đó, vì chúng là bằng chứng cho thấy các Ki-tô hữu đầu tiên đã xem việc truyền giáo ở Galilê là một sự kiện lịch sử, đáng ghi nhớ. Ông không xem đó như là lời phát biểu một nguyên tắc ngàn đời của việc truyền giáo, vì như vậy mâu thuẫn với mệnh lệnh sau cùng mà ông có ghi lại: các con hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân" (28, 19), nhưng xem như là lời diễn tả một kế hoạch tạm thời, mà tất cả thái độ của Chúa Giêsu đã làm chứng cho thấy, một kế hoạch mà theo đó Tin Mừng phải được dành riêng cho "con cái của Vương quốc” (8, 12) Trong một thời gian đầu, nghĩa là cho đến cuộc chiến thắng phục sinh, cái biến cố sẽ tạo nên khí cụ cứu rỗi cho tất cả mọi người, tạo nên chủ đề chính yếu của lời rao giảng và khởi điểm của việc rao giảng khắp vũ hoàn. Mt đã nghĩ rằng độc giả của ông đủ thông minh để phân biệt, trong mớ tài liệu sưu tập của chương 10, cái gì đã chỉ có giá trị đối với việc truyền giáo ở Galilê và cái gì áp dụng được cho mọi thời đại của Giáo Hội.
“Hãy loan báo... hãy chữa lành”: Việc rao giảng của Chúa Giêsu và của các sứ đồ ở Galilê đã quy hướng cái nhìn của Israel về sự can thiệp dứt khoát cận kề của Thiên Chúa, được hứa thực hiện trong thời sau hết (Is 52, 7; Dcr 14, 9; Đn 2, 44 v.v...). Và các phép lạ cùng các việc trừ quỷ của Chúa Giêsu, đi đôi với lời người rao giảng (Mt 4, 23; 9, 35; Lc 9, 11...) làm nên khởi nguyên (Mt 12, 28; Lc 17, 20) cũng như dấu chỉ của Vương quyền cứu độ này của Thiên Chúa. Đó cũng là vai trò của các phép lạ và việc trừ quỷ do nhóm 12 thực hiện. Ngoài ra Mt còn ghi thêm lệnh phục sinh kẻ chết và tẩy sạch người phung hủi; như thế ông đã đưa ra được bản liệt kê các dấu chỉ thiên sai, cảm hứng từ Is, gần giống với bản liệt kê trong câu Chúa Giêsu trả lời cho Gioan Tẩy giả (11, 4).
Sau này, các sứ đồ sẽ tiếp tục rao giảng Nước Trời (Cv 19, 8; 20, 25; 28, 23. 31), nhưng sẽ thêm vào đó (Cv 8, 12) tên của Đấng đã chết để giải thoát ta khỏi ách kìm kẹp của Satan, tội lỗi và sự chết, đã được tôn phong làm Chúa trên trời (Cv 2, 30- 36; Pl 2, 11; Kh 19, 16) và sẽ trở lại hoàn thành Vương quốc (1Cr 15, 20- 28. 50; Cv 3, 21…). Để củng cố lời rao giảng Tin Mừng (Mc 16, 15- 18; Cv 4, 29tt), họ sẽ tiếp tục chữa lành bệnh tật (Cv 3, 1- 10; 5, 15tt; 8, 7; 9, 32- 35; 19, 12), phục sinh kẻ chết (Cv 9, 36- 42; 20, 7- 12), xua trừ ma quỷ (Cv 8, 7; 16, 16) và tỏ ra bất vụ lợi hoàn toàn (1Tx 2, 2- 12; Cv 8, 19tt). Tiếp tục trách vụ của họ, Giáo Hội truyền giáo sẽ không thể tách rời việc rao giảng Tin Mừng với các hoạt động bác ái vô vụ lợi, vì cả hai đều ban phát cho mọi người ơn cứu độ hoàn toàn Chúa Giêsu đã đạt được.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu đã động lòng xót thương đàn chiên bơ vơ lạc lõng trước mặt Người cũng như các con chiên bơ vơ Người thoáng thấy trong muôn thế hệ về sau. Trước khi hiến thân để chỉ con "một đàn chiên, một chủ chiên" (Ga 10, 16), Người đã chọn và sai nhóm 12, thủ lãnh của một dòng dõi những kẻ phục vụ Tin Mừng, để họ rao giảng Tin Mừng, xua đuổi Tà thần, chữa lành bệnh tật, nghĩa là ban phát cho toàn thể con người ơn cứu độ mà Người đã tạo được nhờ lao nhọc gieo vãi và cứu chuộc Giáo Hội, thành thánh đặt cơ sở trên 12 móng, mỗi móng mang tên của một trong 12 sứ đồ của Con Chiên (Kh 21,14), có trách vụ tiếp tục cho đến tận thế sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và ân cần chăm sóc hết những ai đau khổ. Nhưng vì thợ gặt ít, nên Chúa Giêsu xin ta cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy sai thợ gặt đồng lúa của Ngài!
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Khi hạn định sứ mạng của mình trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu đã tuân theo một trật tự, một tiến trình cứu rỗi đã được tiên liệu chiếu theo quyết định của Thiên Chúa: bắt đầu từ dân Do thái đi đến dân ngoại. Người đã hiểu sứ mệnh mình như thế và đã nghiêm túc tuân theo. Có lẽ Người đã đau khổ vì sự hạn chế này. Sự vâng phục này nằm trong sự từ bỏ sâu xa và hoàn toàn của Con Thiên Chúa, mà nhờ đó la được cứu chuộc. Giữa bao lao nhọc truyền giáo và mục vụ, ta chớ bao giờ quên rằng: điều quan trọng không phải là số lượng công việc đã làm, đường xa đã đi, số người đã ảnh hường, tính cách bao la của công trình, nhưng là thi hành thánh ý Thiên Chúa trong các giới hạn mà thánh ý Ngài đã ấn định.
2. Thiên Chúa đã muốn cần đến con người để tiếp nối hành động Ngài trong thế gian. Ngài có thể bất cần sự hợp tác đó thế nhưng Ngài đã muốn cho con người tham dự vào cuộc tạo dựng thứ hai (việc rao giảng Tin Mừng làm lại con người một cách khác từ cái chết do tội) sau khi đã kết nạp họ vào cuộc tạo dựng thứ nhất ("Hãy nên đầy dấy trên đất và hãy bá chủ nó ", St 1, 28).
3. Những kẻ Thiên Chúa gọi, thì Ngài gọi cách tự do, chứ không chiếu theo danh nghĩa đặc biệt nào (giai cấp xã hội, quốc tịch, chính kiến, thông minh...). Tuy nhiên Ngài ưa tiên lưu tâm đến những người đơn sơ chất phác, nghèo hèn, ít học... Điều Ngài đòi hỏi là sự cởi mở, quảng đại, sẵn sàng. Nếu có các đức tính đó, Ngài có thể làm những việc kỳ diệu, dù họ vẫn còn nhiều khuyết điểm và yếu đuối của con người.
4. Lòng thương xót trắc ẩn của Chúa Kitô thúc bách Người lắng lo cho các chiên không chủ chăn thời đó. Ngày nay phải chăng đã đổi hoàn cảnh? Không! Đọc bất cứ tờ báo nào, nghe bất cứ đài phát thanh nào, ta đều chứng kiến bao cảnh biểu lộ sự bối rối hay thất vọng trước nỗi khó khăn, phi lý của cuộc đời. Nhìn đám đông trong thành phố, dưới vỉa hè hay trên xe cộ, hình như ta cũng có cùng cảm thức như Chúa Giêsu khi đứng trước đám người Do thái ở Galilê. Đôi lúc chính các Ki-tô hữu ngày nay không còn biết tin tưởng vào ai, theo vị thầy nào. Chúa Kitô sai Kitô hữu đến thế gian để tiếp nối sứ vụ chủ chiên nhân lành của Người bên cạnh con người thế kỷ XX.
5. Vào mỗi thời kỳ khó khăn hay chuyển hướng của lịch sử Giáo Hội, thì chủ mùa gặt, để đáp lại lời cầu xin của biết bao người hèn mọn, yếu đuối, vô danh, đã luôn làm chỗi dậy nam nữ sứ đồ. Những kẻ này xuất hiện như là những vị giảng đạo của thời đại, những chứng nhân cho một Vương quốc duy nhất có thể biểu lộ sức mạnh của mình bằng nhiều cách. Nhưng chỉ nhờ lời cầu nguyện mới có các chứng nhân đó.
Hôm ấy, Ðức Cha Thể (Théphanô Théodore Cuenot sinh 1802 tại Pháp, chết tử đạo 1861 tại Việt Nam) gọi thày Do lên và hỏi thẳng thày về cách TN 11-A75
Hôm ấy, Ðức Cha Thể (Théphanô Théodore Cuenot sinh 1802 tại Pháp, chết tử đạo 1861 tại Việt Nam) gọi thày Do lên và hỏi thẳng thày về cách thày sẽ thực thi mệnh lệnh truyền giáo như thế nào:
- Thày phải mở qua ngõ An Sơn, tức Tây Sơn, một con đường để đi truyền giáo cho các dân tộc thiểu số: Thày sẽ làm thế nào để hoàn thành việc đó?
- Thưa Ðức Cha, con sẽ làm lái buôn, Thày Do đáp lời, để trong vai lái buôn, con sẽ tiến sâu vào phía bên kia ranh giới nơi những lái buôn chưa từng vượt qua. Một khi khảo sát xong địa hình, con sẽ trở về đưa một vị thừa sai đến vùng đó.
- Quá tốt, Ðức Cha Thể nói tiếp, Cha mong đợi rất nhiều ở Thày.
Thế là thày Do được trang bị bằng phẩm chất của hai thánh Têphanô và Lorensô xưa, tức chịu chức phó tế. Không tậu ngay được môn bài làm lái buôn, thày Do xin làm người giúp việc cho lái buôn. Sau thời gian ngắn, người chủ hết sức hài lòng về anh giúp việc này liền thăng chức cho anh được làm đầu bếp. Thày sáu Do, vai mang gùi chứa đựng nồi niêu chén bát, tháp tùng ông chủ lái buôn đi hết làng này sang làng khác. Thày kiên trì hỏi han anh em dân tộc về ngôn ngữ, phong tục, tập quán của họ.
Sau sáu tháng sống đời phiêu bạt, thày sáu Do đã biết tạm đủ thổ ngữ dân tộc để dùng trong trường hợp phiêu lưu một mình. Không còn lý do để ở làm đầu bếp lâu hơn nữa cho ông chủ lái buôn người kinh, thày sáu Do bỏ An Sơn về Gò Thị, trình báo mọi sự lại cho Ðức Cha Thể. Nay thày muốn làm lái buôn thực thụ để có thể đi sâu vào những buôn làng dân tộc mà các thương gia người kinh khác chưa tới bao giờ. Ðức Cha Thể tán thành ý kiến và cho bốn chủng sinh đi theo thày Do.
Ðoàn thương gia của thầy sáu Do hoàn toàn di chuyển ban đêm. Với nhiều thận trọng khôn khéo, họ đã an toàn đến với bộ lạc Hà Ðrông. Nhưng trước kia thầy sáu Do làm người đầu bếp nên không ai chú ý tới thầy làm chi. Nay thầy đóng vai ông chủ buôn người kinh, thầy liền bị người Hà Ðrông để ý muốn chiếm lấy hàng hoá mà họ tưởng là rất quý giá; họ đồng thời còn muốn bắt chủ buôn và các phụ tá để bán sang Lào làm nô lệ! May thay thầy Do biết được ý định đen tối của chủ nhân Hà Ðrông hiếu khách một cách giả dối. Thầy và các phụ tá đã kịp thời chạy trốn lúc đêm khuya, bỏ lại đàng sau tất cả hành lý và đồ đạc. Khi bọn cướp kéo đến bao vây nhà trọ, phái đoàn của thầy đã cao chạy xa bay trên đường về Gò Thị báo cáo cho Ðức Cha Thể biết kết quả.
Trước hết như đã thấy ở trên, thầy sáu Do đã biết được một ít thổ ngữ dân tộc, đó là điều cơ bản; kế đến và nhất là thầy đã khám phá ra con đường độc đạo, hiểm trở, ngoài các con đường thông thường của các thương gia người kinh sử dụng, mà qua đó các vị thừa sai có thể kín đáo đến được các vùng rừng núi phía Tây. Con đường này hết sức cam go và vất vả, lại dài hơn những lối đi khác, bởi vì phải đi một vòng quanh rộng lớn theo hướng Bắc trước khi rẽ sang hướng Tây. Ðó là lối đi an toàn, bởi lẽ không một thương gia người kinh nào có can đảm dấn bước vào đó. Sau khi xem xét chu đáo. Ðức Cha Thể đã chọn lối đi này.
Câu chuyện vừa kể phần nào nói lên ý chí cương quyết của Ðức Cha Thể đối với mệnh lệnh truyền giáo là làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Ðức Giêsu (Mt 28,19). Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ý chí cương quyết ấy khởi đi từ chính Giavê Thiên Chúa. Chính Người đã chạnh lòng thương khi thấy dân Người vất vưởng như bầy chiên không có người chăn nên đã sai Con Người đến như người Mục Tử nhân lành. Vị Mục Tử này hôm nay sai phái các môn đệ lên đường săn sóc dân Người. Do đó mới có những con người như Ðức Cha Thể là người kế nghiệp các thánh Tông Ðồ, và những người như thày sáu Do là người tích cực tham dự vào sứ mạng truyền giáo.
Thiên tình sử xuyên qua Ðức Giêsu đến ta hôm nay
Bài Tin Mừng hôm nay gợi ý cho thấy cả một thiên tình sử trước Ðức Giêsu, trong thời Ðức Giêsu và sau đó cho đến thời đại chúng ta hiện nay. Thiên chúa luôn là tình yêu sống động. Loài người càng vất vả lầm than thì Thiên Chúa càng xót thương và ra tay cứu độ.
Trước Ðức Giêsu. - Ngay từ ngày con cái nhà Giacóp còn sống trong cảnh lầm than nơi Ai Cập, Giavê Thiên Chúa đã chạnh lòng thương nên đã sai Môsê đến giải thoát họ, đưa họ về đất hứa: "Tiếng rên siết của con cái Israel đã thấu tới Ta; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu. Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Vua Pharaô để đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai Cập." (Xh 3,9-10)
Thế là thiên tình sử của Cựu Ước đã bắt đầu từ sách Sáng Thế, nay trở nên quyết liệt trong sách Xuất Hành. Thiên Chúa tình thương luôn đứng về phe người bị áp bức để giải thoát họ khỏi cảnh bạo tàn. Xưa tiếng máu của Abel bị Cain là anh giết, vang thấu tới Thiên Chúa (St 4,10), nay tiếng rên siết của con cái Israel, Thiên Chúa cũng không bỏ qua.
Hình ảnh mục tử trong văn chương phổ quát trên thế giới đã từng được áp dụng cho những nhân vật chính trị hoặc tôn giáo. Trong Cựu Ước hình ảnh ấy có khi được áp dụng cả với Giavê Thiên Chúa, như thấy trong các sách Ngôn Sứ (Is 40,10tt; Gr 23,1-4; Ed 34,2-10; M 4,6tt). Thiên Chúa nói: "Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc Ta sẽ đưa về; con nào bị thương Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật Ta sẽ bồi dưỡng; con nào béo mập, con nào khỏe mạnh Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng." (Ed 34,1-16)
Trong thời Ðức Giêsu. - Bài Tin Mừng hôm nay chỉ phản ảnh phần nào hoạt động của Ðức Giêsu với tư cách là Mục Tử nhân lành. Tự bản chất, Ðức Giêsu chính là hiện thân của lòng ưu ái của Giavê Thiên Chúa ưu tiên dành cho người nghèo. Người được sai đến là thành phần của một gia đình nghèo làng Nadarét, để trở nên bạn của người nghèo ở mọi nơi và trong mọi thời đại. Người được sai đến rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó (Lc 4,18). Người quý chuộng người nghèo đến nỗi chọn ở giữa họ nhóm Mười Hai Tông Ðồ. Ðó là những người được trao quyền trừ quỷ và chữa lành mọi bệnh tật (c.1). Trong tương lai họ sẽ được ban Thần Khí để chính họ tha tội cho ai thì tội người ấy được tha (Ga 20,22-23). Trong khi chờ đợi họ là những người môn đệ thân cận nhất sống bên Ðức Giêsu. Họ được hấp thụ một nền giáo dục thiết thân hầu có khả năng Phúc Âm hoá cả thế giới nhờ có Ðức Giêsu phục sinh luôn ở với họ. "Anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,19-20).
Từ đó cho đến thời đại chúng ta hiện nay. - Các Tông Ðồ và những người thừa kế các ngài luôn phải kết hợp với Ðức Giêsu phục sinh còn ở lại mãi trong Giáo Hội, để thực thi những điều Người muốn. Mục tiêu của các cuộc Phúc Âm hoá qua các thời đại luôn là công trình hiện thực hóa Nước Thiên Chúa nơi xã hội loài người. Nước đó chỉ được hoàn tất trong ngày sau hết, nhưng đã phải bắt đầu hiện hữu giữa thế giới chúng ta đang sống. Các Kitô hữu nam nữ đều tham gia việc làm cho Nước Thiên Chúa hiện diện dưới sự lãnh đạo của Chúa Kitô bằng đời sống chứng tá hàng ngày, bằng việc góp phần làm cho Tin Mừng của Chúa Giêsu được lãnh hội và được sống, dĩ nhiên phải xuyên qua nền văn hoá phức tạp của con người, xuyên qua cuộc đối thoại liên vị và không thể bỏ qua việc thăng tiến công bằng gắn liền với việc Thiên Chúa ngay từ ban đầu đã muốn giải phóng dân Người thoát khỏi mọi hình thức bất công. Ðiểm cuối cùng này được Ðức Gioan Phaolô II nhấn mạnh khi nói: "Lao tác cho Nước Chúa hiển trị là nhận biết và cổ võ hành động của Thiên Chúa đang hiện diện và biến đổi lịch sử loài người. Xây dựng Nước Chúa có nghĩa là lao tác nhằm giải phóng khỏi sự dữ dưới mọi hình thức. Tắt một lời, Nước Thiên Chúa chính là việc bày tỏ và hiện thực hoá kế hoạch cứu độ trong tất cả mức tròn đầy của kế hoạch đó." (Thông điệp Sứ Mạng củ Ðấng Cứu Thế, số 15)
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ những người Công Giáo của những dân tộc thiểu số vùng Cao Nguyên Việt Nam ngày nay có thể cảm thấy lòng biết ơn đối với những người sau đây về những điều mà họ mắc nợ: Ðức Cha Thể, Thầy Sáu Do? Các vị Thừa Sai Ba Lê? Riêng bạn có mắc nợ ai về ơn đức tin mà qua họ bạn lãnh nhận chăng, chẳng hạn: người dạy giáo lý cho bạn? Người làm gương sáng cho bạn? Một cuốn sách bạn đọc? Gương của một vị thánh? Một số các vị thừa sai đầu tiên đến rao giảng Tin Mừng cho người Việt Nam, mà bạn nhớ tên?
2. Loài người càng vất vưởng lầm than thì Thiên Chúa càng xót thương và ra tay cứu độ. Bạn biết gì về lòng thương xót đó của Thiên Chúa trước thời Chúa Giêsu, trong thời Chúa Giêsu sống nơi trần gian và sau thời đó cho đến ngày hôm nay?
Đôi khi Thiên Chúa có vẻ như ở rất xa. Chúng ta không nhìn thấy Người và chúng ta không nghe tiếng của Người. Sau hết, chúng ta có thể suy TN 11-A76
Đôi khi Thiên Chúa có vẻ như ở rất xa. Chúng ta không nhìn thấy Người và chúng ta không nghe tiếng của Người. Sau hết, chúng ta có thể suy nghĩ rằng, Người phải rất bận rộn từ khi Người sáng tạo nên vũ trụ này và Người có trách nhiệm chăm sóc chúng. Có thể nào Người đặc biệt quan tâm đến tinh cầu nhỏ xíu mà chúng ta gọi là trái đất trong vũ trụ mà Người đã sáng tạo này không? Tại sao Người lại có vẻ quan tâm đến những con người nghèo nàn và tội lỗi, trong khi Người có vô số các thiên thần đáng kính chầu chực trươc ngai của Người trên thiên đàng để ca ngợi Người suốt đêm ngày?
Có thể chúng ta không hiện diện đơn độc trong vũ trụ này đâu. Có thể có những thái dương hệ khác với một mặt trời và nhiều hành tinh khác còn huy hoàng rực rỡ hơn cả hành tinh của chúng ta nữa. Có lẽ có nhiều hành tinh khác cũng đông đúc các tạo vật mà nhiều khi họ còn siêu việt hơn cả chúng ta và luôn luôn trung thành với Thiên Chúa nữa. Còn nhiều vấn đề khác mà chúng ta còn chưa biết. Nhưng những gì chúng ta biết thì cũng đủ cho chúng ta lắm rồi. Chúng ta ý thức được chân lý không thể hiểu thấu là tại sao Con Thiên Chúa đã đến nơi thế gian này, không đơn giản chỉ sống ở đây mà thôi, nhưng Người còn chịu đau khổ vì chúng ta, đau khổ cho đến chết và chết vì chúng ta là một nhân loại tội lỗi.
Ngày hôm nay thánh Matthêu đã vẽ lại bức tranh Chúa Giêsu mạc khải sự thương xót của Người. Thánh nhân viết: “Nhìn đám đông dân chúng, Chúa Giêsu động lòng thương xót họ”. Chúa Giêsu xúc động bởi vì “thấy họ bơ vơ mệt mỏi vì kiệt sức giống như đàn chiên không có người chăn”. Đây là điều diễn tả một trái tim nhân loại được đầy tràn tình yêu thần linh.
Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành, Người thí mạng sống vì con chiên. Thánh Phaolô đã kinh ngạc khi ngài suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu để cứu độ chúng ta. Ngài diễn tả sự ngạc nhiên của mình trong lá thư gởi tín hữu Roma: “Hiếm khi thấy ai hiến mạng sống mình vì người công chính dù rằng có thể có người tốt dám can đảm để chết. Chính vì điều này mà Thiên Chúa đã chứng mình tình yêu của Người dành cho chúng ta, đó là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta”. Cái chết của Chúa Giêsu là trung tâm cho sự hiểu biết và cảm kích của chúng ta về sự chăm sóc yêu thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta khi chúng ta cử hành việc đó trong mỗi hy tế Thánh Thể. Chúng ta được mời gọi để kêu lên rằng: “Khi chúng tôi ăn bánh và uống chén này, chúng tôi tuyên xưng sự chết của Chúa Giêsu Kitô cho tới khi Chúa lại đến trong vinh quang”.
Cái chết cứu độ của Chúa Giêsu đã trở thành một thực tại cho chúng ta nhờ việc chúng ta cử hành hy tế Thánh Thể chứ không hề là một việc xa cách hay lạnh lùng. Chúa Giêsu đã không chết cho chúng ta nếu như chúng ta là một đàn chiên vô danh. Người biết rất rõ mỗi người chúng ta. Người gọi tên từng người trong chúng ta khi chúng ta chịu phép rửa tội như Người đã gọi tên mười hai người để trở nên tông đồ của Người. Đó là lý do vì sao chúng ta phải bước vào Thánh Lễ cách hiểu biết, sống động và sinh hoa kết quả bằng hành động (xem Hiến chế về phụng vụ, số 11).
Chúng ta không biết những gì đã xảy ra trong vũ trụ nhưng chúng ta biết Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian này và đã chết để cứu độ chúng ta. Chúng ta không biết những gì đang xảy ra trong giây phút này trong những ngân hà xa xăm khác, nhưng chúng ta biết rằng cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu trên bàn thờ đã trở nên một thực tại cho chúng ta thông dự vào. Không bao giờ chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa của chúng ta ở xa xôi lắm. Ngay cả khi chúng ta không nhìn thấy hoặc nghe tiếng Người, chúng ta vẫn cảm nghiệm được tình yêu thần linh của Người trong việc cử hành hy tế Thánh Thể là tái diễn cái chết và sự Phục Sinh của Con Thiên Chúa.
Bây giờ chúng ta hãy thử nhắm mắt lại và tưởng tương ra một cánh đồng bao la với những bông lúa chín vàng, nhấp nhô theo gió. Mùa màng thật TN 11-A77
Bây giờ chúng ta hãy thử nhắm mắt lại và tưởng tương ra một cánh đồng bao la với những bông lúa chín vàng, nhấp nhô theo gió. Mùa màng thật trúng, thế mà vì không có thợ gặt, nên những bông lúa ấy bị rơi rụng. Và chúng ta tiếc xót cho bao công lao vất vả, bao mồ hôi nước mắt đổ xuống trên ruộng đồng.
Có một chiếc thuyền đánh cá ra khơi vào một đêm tối trời, chẳng may gặp dông bão. Những con sóng bạc đầu cùng với những trận gió giận dữ của trận cuồng phong đã làm cho con thuyền ngâp nước và chìm dần, Những người trên thuyền hốt hoảng và tuyệt vọng. Có lẽ chúng ta không bao giờ thấy được một cảnh tượng kinh hoàng và khiếp hãi như vậy.
Đã hai ngàn năm, Chúa Giêsu đến trong trần gian và công bố Tin mừng Phúc âm, thế nhưng nhân loại vẫn còn chìm trong tăm tối, vẫn còn là như một cánh đồng bát ngát thiếu những người thợ lành nghề là những vị tông đồ nhiệt thành đến gặt những bông lúa chín vàng, rồi chất vào kho lẫm của Thiên Chúa. Cho tới ngày hôm nay, nhân loại vẫn còn kêu cứu giữa những cơn phong ba bão táp trần gian. Hằng tỷ người vẫn còn lầm lũi bước đi trong lầm lạc. Mỗi phút giây có hàng ngàn người chết đi mà vẫn chưa nhận biết Đức Kitô. Cho tới ngày hôm nay, lời Chúa vẫn còn nói lên một thực trạng đen tối: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.
Cho tới ngày hôm nay, lời Chúa vẫn còn là một lệnh truyền thôi thúc chúng ta lên đường, thôi thúc chúng ta dấn thân cho việc tông đồ truyền giáo: Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân…
Thế nhưng nói đến việc tông đồ, chúng ta thường mường tượng ra những vị thừa sai rời bỏ quê hương để đi tới những vùng đất xa xôi hẻo lánh mà truyền bá giáo lý của Chúa cho những sắc dân man di mọi rợ… hay ít nữa, chúng ta nghĩ rằng đó là việc dành riêng cho các linh mục, tu sĩ, chứ còn chúng ta, nhưng người giáo dân bình thường, suốt ngày những quần quật làm ăn, kiếm sống cho bản thân và gia đình thì làm sao có thời giờ dành cho những công việc truyền giáo. Thế nhưng việc tông đồ không phải là việc dành riêng cho một số người nào đó, trái lại còn là bổn phận của mỗi người chúng ta, còn là việc chung của mọi phần tử trong Giáo Hội, bởi vì bất cứ trong hoàn cảnh nào, chúng ta đều có thể và phải là những tông đồ nhỏ của Chúa Giêsu. Vậy để trở thành những tông đồ nhỏ, chúng ta phải làm gì?
Phương thế thứ nhất để trở nên tông đồ nhỏ của Chúa Giêsu đó là hãy cầu nguyện và hy sinh. Thực vậy, cầu nguyện là phương thế thông thường để lãnh nhận ơn Chúa. Và hy sinh cũng là một phương thế không kém hiệu nghiệm. Chúa Giêsu đã đổ máu ra để cứu chuộc chúng ta, nếu không có đổ máu, thì không thể có chuyện tha tội. Vì thế, chúng ta có thể cộng tác với Chúa trong công cuộc cứu độ bằng cách hòa trộn những giọt máu hy sinh của chúng ta với giòng máu cao cả của Chúa Giêsu trên thập giá.
Giữa bốn bức tường nhà kín, thánh nữ Terêxa đã âm thầm cầu nguyện và chịu đựng những hy sinh thay cho các vị thừa sai, để những cố gắng của Giáo Hội trên cánh đồng truyền giáo gặt hái được nhiều thành quả tốt đẹp. Chỉ mình Chúa mới biết được những ơn ích mà thánh nữ đã thực hiện. Nhưng chúng ta có thể nhân ra tầm mức rộng lớn khi thấy Giáo Hội tuyên phong thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Theo tương truyền thì số người trở lại do lời cầu nguyện và những hy sinh của thánh nữ cũng đông không kém những người trở lại của thánh Phanxicô Xaviê, một người đã dành suốt cả đời mình lăn lộn trên cánh đồng truyền giáo tại Á châu.
Năm 1683, Chúa Giêsu đã hiện ra với thánh nữ Magarita và xin thánh nữ cầu nguyện cho những tội nhân biết ăn năn trở lại. Ngài nói với thánh nữ:
- Một linh hồn công chính có thể xin ơn tha thứ cho hàng ngàn kẻ tội lỗi.
Khi hiện ra tại Lộ Đức, Mẹ Maria cũng đã nói với chị Bernadette:
- Phải cầu nguyện cho các tội nhân.
Cùng với lời cầu nguyện, chúng ta hãy thêm vào đó những hy sinh. Có một ông đại úy hồi hưu sống trong tình trạng khô khan nguội lạnh. Khi ông lâm bệnh nặng và không còn hy vọng sẽ qua khỏi, vị linh mục mời ông xưng tội, nhưng ông đã từ chối một cách dứt khoát. Lần sau, vị linh mục lại tìm đến nhưng người ta đã cấm không cho vào. Trở về nhà, bỗng vị linh mục nảy ra một ý định là dâng một gìơ kinh và hy sinh một ly cà phê thường lệ ở bữa ăn sáng để cầu nguyện cho bệnh nhân. Và vị linh mục đã thực hiện như thế. Một vài ngày sau, điện thoại reo vang, người ta mời vị linh mục đến giải tội cho ông đại úy vì ông ta đã đổi ý.
Sự hy sinh tự nó không quan trọng, nhưng sẽ đem lại những hậu quả to lớn, nếu chúng ta biết hy sinh vì Chúa, biết kết hiệp với những đớn đau của Chúa Giêsu trên thập giá.
Những chiếc rễ mặc dù nhỏ bé và chúng ta không nhìn thấy, nhưng lại rất cần thiết vì chúng hút nhựa sống từ lòng đất làm cho cây cối được lớn lên, đâm bông và kết trái. Cũng thế, những lời cầu nguyện và hy sinh là như những chiếc rễ nhỏ làm cho Giáo Hội không ngừng được phát triển và sống động.
Phương thế thứ hai để trở thành tông đồ nhỏ của Chúa Giêsu đó là hãy làm gương sáng. Thực vậy muốn rao giảng Tin mừng, chúng ta không cần phải làm Linh mục hay tu sĩ, nhưng chúng ta vẫn có thể và phải rao giảng bằng chính đời sống gương mẫu của chúng ta vì như tục ngữ đã bảo:
- Lời nói như gió lung lay,
việc làm như tay lôi kéo.
Biết đâu nhờ đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta mà làm cho người khác trở về cùng Chúa, hay ít nữa cũng đặt ra trong đầu óc họ một câu hỏi: Tại sao chúng ta lại dễ thương đến thế?
Ngày kia, thánh Phanxicô Assie gọi một thày dòng đến và bảo:
- Này thày, chúng ta cùng nhau đi giảng đạo nhé.
Hai cha con ra đi, rảo qua các đường phố một vòng rồi trở về. Thày dòng bỡ ngỡ và hỏi:
- Thưa cha, bao giờ chúng ta mới đi giảng đạo?
Thánh nhân trả lời:
- Chúng ta đã đi giảng đạo rồi đó.
Thày dòng thắc mắc:
- Lạ thật, mới chỉ đi một vòng phố, có nói lời nào đâu?
Nhưng thánh nhân đã cắt nghĩa:
- Chúng ta đã giảng đạo bằng chính thái độ nghiêm trang và tề chỉnh của chúng ta.
Thế giời hôm nay không thiếu những bài diễn văn hùng hồn và nảy lửa. Thế nhưng những bài diễn văn ấy là như tiếng nhạc chúng ta nghe thoảng ngoài tai, nhưng không đủ sức thúc đảy chúng ta hành động. Thế giới hôm nay không thiếu những nhà hùng biện tài ba, nhưng thiếu rất nhiều nhưng người làm gương sáng.
Thời Chúa Giêsu, dân Do thái sống trong cảnh không có người đứng đầu phần đời cũng như phần đạo. Thực vậy, chính quyền thuộc về đế quốc TN 11-A78
Thời Chúa Giêsu, dân Do thái sống trong cảnh không có người đứng đầu phần đời cũng như phần đạo. Thực vậy, chính quyền thuộc về đế quốc Rôma. Họ vô cùng đau đớn và nhục nhã phải thờ hai chủ: chủ đế quốc và tay sai của đế quốc là bè phái Hêrôđê, Sađốc, và bọn biệt phái.
Phái Hêrôđê gồm tất cả con cháu, họ hàng vua Hêrô đe đại đế người xứ Dumê phía nam Do thái. Phái Sađốc thuộc giòng dõi thượng tế Sađốc từ vua Salômon truyền lại. Họ là hàng quý tộc, thượng tế với tư tế. Họ độc quyền thu hoa lợi của đền thờ và liên kết với đế quốc để thống trị, bóc lột nhân dân. Tuy họ giữ luật Môisê nhưng lại sống phóng khoáng giao du với dân ngoại, nhiễm tinh thần văn hóa thần tượng Hy Lạp và Rôma. Trái lại, bọn Biệt phái hoàn toàn biệt lập, bài ngoại và bài đế quốc. Họ giữ luật cổ truyền, nhất là những tập tục của tiền nhân. Họ coi tập tục tiền nhân hơn luật Môisê. Họ cắt nghĩa luật truyền khẩu rất tỉ mỉ và bắt dân giữ rất khắt khe. Họ tự coi mình là tiến sĩ bảo tồn lề luật của tiền nhân. Họ cho đó là cách bảo vệ tôn giáo và đất nước tốt nhất. Thực sự họ đã chồng chất lên dân chúng những gánh nặng gông cùm dưới danh nghĩa tôn giáo. Họ đã biến tôn giáo thành thứ quốc giáo cuồng tín, hẹp hòi, kích động lòng ái quốc mù quáng. Sống giữa cảnh lãnh đạo mù quáng và mâu thuẫn, chống đối và thù hận nhau của phái Sađốc và Biệt phái. Dân chúng thật bơ vơ, lạc hướng. Có lần Chúa Giêsu đã cảnh cáo họ: “Mù dắt mù xuống hố”, “các ông thật lầm lạc”.
Để thực hiện chương trình cứu độ, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ, ít nữa là phải thương dân.Thương dân không được đàn áp bóc lột như phái Hêrôđê. Họ dùng quyền sai lính bắt dân làm đầy tớ cho họ sống vinh thân phì gia: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Đáng lý ra, ở địa vị chính quyền, họ phải lo sống chân chính chăm lo hướng dẫn, giúp dân sống sung túc văn minh tiến bộ. Người xưa như Aristote và Khổng tử đã khuyên chính quyền phải là người hiền đức biết mưu hạnh phúc tốt nhất cho nhân dân: “Quý dân như con đỏ”, tôn trọng dân hơn việc làng xã: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi”. Thương dân, tránh thái độ tời ơ lãnh đạm của phái Sađốc. Họ chỉ lo bảo vệ địa vị, quyền lợi cụa họ và chỉ tìm lợi lộc cá nhân, đến nỗi họ đã biến “nhà Cha ta thành chọ búa, thành hang trộm cướp”. Dân nghèo đói, khổ sở, sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi. Thương dân, môn đệ phải theo gương Thày lăn lộn với dân chúng nghèo khổ, bệnh tật, nhất là những chiên lạc bị sói rừng hãm hại trong tội ác, đem tin mừng nước trời đến cứu chữa họ. Thương dân, không chất trên vai dân những gánh nặng tập tục của loài người như những biệt phái giả hình bên ngoài. Nhưng môn đệ sẵn sáng vác gánh nặng, để gánhnặng của người dân trở nên êm ái nhẹ nhàng, nhất là những gánh nặng của tội lỗi. Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống để cứu cuộc nhiều người.
Đây là tên của mười hai tông đồ...”. Chúng ta biết bốn vị được ưu đãi: Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Những vị khác rất quen thuộc đối với TN 11-A79
“Đây là tên của mười hai tông đồ...”. Chúng ta biết bốn vị được ưu đãi: Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Những vị khác rất quen thuộc đối với chúng ta là: Philipphê, Tôma, Matthêu, Giuđa. Nhưng còn Batôlômêô, Tađêô, con của Anphê, người yêu nước cuồng nhiệt.
Đàng khác, tất cả các tông đồ đều bị lu mờ do tính cách của Chúa Giêsu và sự say mê của riêng họ: họ chỉ nhìn thấy Ngài, cách Ngài yêu thương, nhất là yêu thương trẻ nhỏ. Cái nhìn của mười hai tông đồ vào Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết về Ngài, và về sự phục sinh của Ngài. Chúng ta là một Giáo Hội “tông truyền”.
Từ đó phát sinh sự vững vàng và nóng bỏng của đức tin chúng ta. Những tôn giáo khác có những bản văn đẹp, những truyền thuyết hay, nhưng duy chỉ người Kitô hữu mới có thể nhìn xem và lắng nghe Thiên Chúa, được làm cho thấy rõ nhờ một người đã sống ở chỗ nọ, vào thời kỳ đó và đã nói những điều hết sức rõ ràng. Nhờ các tông đồ, tức mười hai nhân chứng, chúng ta mới biết được Con Người đó. Chúng ta có thể nuôi dưỡng đức tin của chúng ta không phải ở nơi nào khác, mà chính là bằng cách không ngừng đi lại con đường của chính họ. Con đường đó đi từ Chúa-Giêsu-con-người đến Chúa-Giêsu-Thiên-Chúa: Ngài đã như thế này, Ngài đã hành động theo cách này, Ngài đã nói...
Cũng nhờ nhóm Mười Hai mà chúng ta mới đi vào trong Giáo Hội, một tập thể đông đúc mà ngày nay chúng ta thích gọi là Dân Chúa hơn. Mỗi Chúa nhật chúng ta lại tiếp xúc với khía cạnh chủ yếu của đức tin chúng ta, đó là sống thành một dân tộc, trong và nhờ Giáo Hội của Chúa Kitô cũng là Giáo Hội của các tông đồ: “Tôi tin Giáo Hội tông truyền”.
Lập tức, Chúa Giêsu đã muốn điều này: tái lập một dân tộc. Việc chọn mười hai bạn đồng hành gợi lại mười hai người con của Giacóp và mười hai chi tộc Israel, nghĩa là toàn thể mọi người. Chúa Giêsu đã đến vì mọi người. Lệnh ban ra cho các tông đồ: “Hãy đi tới với các chiên lạc nhà Israel” đơn giản đánh dấu bước đầu của sự quy tụ, đánh dấu lời kêu gọi dân cũ sẽ phải nhanh chóng tạo lập dân mới. Nhưng câu cuối của Tin Mừng mở cửa toàn thể thế giới cho các tông đồ: ”Các môn đệ thuộc tất cả các dân tộc”.
Khi tìm kiếm một người thay thế Giuđa, Phêrô đã nói: “Chúng ta hãy chọn một trong những người đã đi theo chúng ta trong suốt thời gian Chúa Giêsu thường lui tới với chúng ta cho đến ngày Ngài lên trời. Người này sẽ cùng chúng ta làm chứng Ngài đã sống lại” (Cv 1, 21-22). Lời này mở rộng nhóm mười hai. Không phải họ là những người duy nhất vây quanh Chúa Giêsu. Cho nên Tin Mừng cũng nói đến 72 người. Nếu vai trò của nhóm mười hai là duy nhất theo tư cách là nền tảng của Giáo Hội, thì chính khái niệm tông đồ được mở rộng ra cho mọi Kitô hữu, và bao gồm hai tính chất chủ yếu, đó là cùng đồng hành với Chúa Giêsu và đức tin thông truyền do sự Phục sinh: “Ngài đã sống lại!”
Chúng ta thuộc về động thái phát sinh vào ngày mà Chúa Giêsu muốn nhóm mười hai sống với Ngài. Nếu chúng ta không hài lòng về Giáo Hội, về Giáo Hoàng, về các Giám Mục và về cha sở của chúng ta, chúng ta hãy xem xét vấn đề... cùng với Chúa Giêsu. Chúng ta có thể phê bình và đôi khi chúng ta phải làm như thế vì là một thành phần sống động trong Giáo Hội. Nhưng điều cũng làm cho chúng ta quan tâm đó là toàn thể Giáo Hội là một tập thể rất sống động chung quanh Chúa Giêsu và là một lời loan báo Tin Mừng của Ngài rất sống động.
Khi tình yêu Giáo Hội và nhiệt tình truyền giáo hiện diện nơi một Kitô hữu thì người đó đang đi theo bước chân các tông đồ và Chúa Giêsu xem người đó là người thân của Ngài.
Chúa Giê-su chạnh lòng thương trước hiện trạng của con người vất vưởng lầm than, mà những bậc làm “thầy” Do-thái không giải quyết được cho TN 11-A80
Chúa Giê-su chạnh lòng thương trước hiện trạng của con người vất vưởng lầm than, mà những bậc làm “thầy” Do-thái không giải quyết được cho họ. Họ như rắn mất đầu, thiếu vắng đời sống tâm linh. Trong bản tính nhân loại, một mình Chúa cần sự cộng tác của các môn đệ cùng làm công việc của Người như một “mục tử” và “lương y”.
Trước sự bao la của hoạt động tông đồ, điều đầu tiên mà Chúa Giê-su yêu cầu các môn đệ là cầu nguyện: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít! Các con hãy xin Chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”. Cầu nguyện là hình thức dấn thân đầu tiên của các môn đệ cho sứ vụ. Bởi vì nếu người ta tin vào tầm quan trọng của sứ vụ mà người ấy phải thực hiện, thì mọi việc đều có thể làm được để nó sẽ không chết cùng với chúng ta, mà đúng hơn là nó vẫn tiếp tục với những người khác qua chúng ta và sau chúng ta.
Chúa Giê-su sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ qua những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho. Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo hội qua các thời đại trong lịch sử đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người.
1. Chọn các Tông Đồ
Chúa gọi và chọn chứ họ không tự cho mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị thế cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế, điều kiện đầu tiên để trở thành Tông Đồ là do được Chúa chọn. Các môn đệ lại với Người, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn…
Trong Giáo hội, việc được chọn làm công việc này, chức vụ nọ, là do Chúa chọn qua sự tuyển lựa của Hội thánh, chứ không phải cha truyền con nối hay mình tự ứng cử, vì thế luôn phải đặt ý Chúa lên trên hết và dù hợp với chúng ta hay không thì cũng phải biết thuận theo ý Chúa. Riêng với những ai được chọn, dù là Giáo Hoàng hay Giáo Lý Viên thì cũng đều phải cố gắng sống tốt hơn so với mặt bằng chung, xứng với địa vị của mình.
2. Ban năng quyền rao giảng và chữa lành
“Chúa Giê-su gọi mười hai Tông Đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật”.
Có thể hiểu đến năng quyền được ban cho các mục tử qua các Bí tích để sức mạnh của ma quỷ không thể cản trở được công việc loan báo Tin Mừng. Đặc biệt, qua Bí tích Hòa giải, các mục tử chữa lành bệnh tật và thương tích tâm linh cho các tâm hồn.
Rao giảng và chữa lành là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Hay nói cách khác, Tin Mừng và cuộc sống liên kết với nhau, đời sống tôn giáo và phát triển xã hội cùng song hành.
Chức vụ đi đôi với sứ vụ, khi chúng ta lãnh nhận một chức vụ gì, không phải ngồi đó để thụ hưởng mà phải ra đi đến với những người chúng ta có trách nhiệm, để phục vụ và làm chứng về Chúa cho họ.
“Hãy nói với họ rằng Nước Trời đã gần đến”. Rao giảng Tin Mừng là làm cho muôn dân trở thành môn đệ, trở về làm con Chúa, trở thành anh em một nhà… và như vậy, vương quốc Nước Trời đã chính thức hình thành ngay trên trần gian này.
Đời sống tôn giáo và sự phát triển xã hội là nét mới được khám phá nơi chủ đề Tin Mừng hôm nay: Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta mang trên mình sứ vụ làm công việc của Chúa, công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Đồng thời, khi rao giảng Lời Chúa thì cũng không thể lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em.
Lạy Chúa Giê-su, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng con mang trên mình sứ vụ làm công việc của Chúa, công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Xin cho chúng con khi rao giảng Lời Chúa thì cũng không thể lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em. Amen.
BVL “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy cho đi nhưng không”
Ý nghĩa Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay
Có thể nói nội dung của Phụng Vụ Lời Chúa (cả ba bài đọc: Cựu Ước, Tân Ước và Phúc Âm) cho Chúa Nhật XI Năm A hôm nay ở ngay câu đáp TN 11-A81
Có thể nói nội dung của Phụng Vụ Lời Chúa (cả ba bài đọc: Cựu Ước, Tân Ước và Phúc Âm) cho Chúa Nhật XI Năm A hôm nay ở ngay câu đáp ca: “Chúng ta là dân của Người, là chiên thuộc đàn của Người” (We are his people: the sheep of his flock).
Trước hết, ở bài đọc một, Sách Xuất Hành cho thấy lời Thiên Chúa nói với Moisen trên một ngọn núi trong sa mạc Sinai về việc Ngài chăn dắt dân Ngài và vì thế Ngài cũng đã kêu gọi họ hãy sống theo sự hướng dẫn của Ngài như sau: “Vậy ngươi phải nói cho nhà Giacóp; hãy bảo cho dân Do Thái biết rằng: Các người đã chính mắt thấy Ta đã đối xử với những người Ai Cập ra sao, và Ta đã mang các người trên đôi cánh đại bàng thế nào, để đích thân đưa các người đến đây. Bởi thế, nếu các người lắng nghe tiếng của Ta và giữ giao ước của Ta, các người sẽ là sở hữu đặc biệt của Ta, quí hóa hơn tất cả mọi dân tộc khác, mặc dù tất cả trái đất là của Ta”. Đáp lại, Thánh Vịnh 100 trong bài Đáp Ca, câu thứ hai, đã ý thức được việc Thiên Chúa chăn dắt như sau: “Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa; Ngài đã tạo nên chúng ta, chúng ta thuộc về Ngài; Ngài chăn dắt dân của Ngài, chăn dắt đàn chiên của Ngài”.
Sau nữa, bài Phúc Âm cũng cho chúng ta thấy Thánh Ký Mathêu ghi nhận về thái độ của Vị Thiên Chúa Duy Nhất trong Cựu Ước này tiếp tục chăn dắt đàn chiên Do Thái qua chính Con Ngài là Chúa Giêsu như sau: “Khi thấy đám đông dân chúng, Chúa Giêsu động lòng thương”. Tại sao? Thánh Ký cho biết ngay sau đó: “Họ bơ vơ vất vưởng như chiên không được ai chăn dắt”. Vậy Người tỏ lòng thương ra sao? Thánh Ký Mathêu trình thuật tiếp phản ứng của Chúa Giêsu thế này: “Người đã nói với các môn đệ của mình rằng: ‘Mùa màng thì tốt tươi nhưng lại hiếm hoi thợ gặt. Hãy xin chủ mùa sai thợ đến làm mùa của Ngài’”. Chưa hết, Chúa Giêsu chẳng những thúc giục các môn đệ cầu xin chủ mùa sai thợ đến làm mùa, chính Người còn sử dụng các vị như thợ đến làm mùa nữa, một biến cố được bài Phúc Âm tiếp tục kể: “Đoạn Người triệu tập 12 môn đệ lại và ban cho các vị quyền trừ khử các thần ô uế và chữa lành đủ mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền… Chúa Giêsu đã sai những con người này đi như Nhóm 12 Người với những lời căn dặn như sau: ‘Các con đừng ghé vào lãnh thổ của thành phần dân ngoại, cũng đừng vào các thôn thị của người Samaria. Song các con hãy đến với con chiên lạc của nhà Yến Duyên’…”.
Vấn đề ở đây là tại sao đàn chiên Do Thái vốn có người chăn dắt, đó là thành phần Hội Đồng Do Thái bấy giờ, với một lực lượng hùng hậu bao gồm các kỳ lão, trưởng tế và luật sĩ, mà Chúa Giêsu lại thấy “Họ bơ vơ vất vưởng như chiên không được ai chăn dắt”? Phải chăng đó là lý do Người đã căn dặn Nhóm 12 rằng: “Các con đừng ghé vào lãnh thổ của thành phần dân ngoại, cũng đừng vào các thôn thị của người Samaria. Song các con hãy đến với con chiên lạc của nhà Yến Duyên…”. Xin lưu ý ở đây nữa là Chúa Giêsu không căn dặn Nhóm 12 đến với đàn chiên Do Thái “không được ai chăn dắt” mà là “đến với con chiên lạc của nhà Yến Duyên”. Có nghĩa là đàn chiên Do Thái quả thực được chăn dắt, song chăn dắt theo con đường sai lạc, và giờ đây tình trạng của họ như bị “bơ vơ vất vưởng như chiên không được ai chăn dắt” để có thể biết đường mà quay trở về đường ngay nẻo chính. Như thế, đàn chiên Do Thái “không được ai chăn dắt” ở đây nghĩa là không được ai chăn dắt như vị chủ chiên nhân lành Thiên Sai. Đó là lý do Chúa Kitô đã khẳng định với dân Do Thái rằng: “Tất cả những ai đến trước Tôi đều là trộm cắp và cướp giật, thành phần không được chiên nghe theo” (Jn 10:8). Đó cũng là lý do, khi thấy Gioan Tẩy Giả, đàn chiên Do Thái đã “tuốn đến với ngài” (Mk 1:5) mà hỏi “chúng tôi phải làm gì?” (Lk 3:10), nhất là tuốn đến với Đấng tới sau Gioan Tẩy Giả (xem Jn 3:26), như hình ảnh đám đông xuất hiện trước mắt Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Chính vì tình trạng đàn chiên Do Thái bơ vơ vất vưởng không người chăn như thế mà họ đã trở thành một cơ hội tốt, một vụ mùa thuận lợi cho các môn đệ Chúa Kitô đi gặt hái.
Chiều kích Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay
Đúng thế, vì Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh theo chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô Sự Sống Tái Sinh qua Chứng Từ Giáo Hội, mà Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cần phải hiểu theo ý nghĩa Tông Đồ truyền giáo hay Giáo Hội truyền giáo. Vẫn biết, đối tượng của cuộc Tông Đồ truyền giáo được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại hôm nay đây nhắm vào một mình đàn chiên Do Thái, và chủ đề rao giảng của cuộc Tông Đồ truyền giáo này cũng chỉ là chủ đề Gioan Tẩy Giả (xem Mt 3:2) và Chúa Giêsu (xem Mt 4:17) rao giảng ở Đất Do Thái và cho Dân Do Thái, đó là “Triều đại Thiên Chúa đã đến!”, như thành phần thừa sai trong bài Phúc Âm hôm nay được căn dặn. Tuy nhiên, cuộc Tông Đồ truyền giáo lần này đã có một hình thức và tính cách Tân Ước, tính cách Giáo Hội, tính cách Phục Sinh, tính cách Hiện Xuống, ở chỗ, như Thánh Ký Mathêu ghi nhận trong bài Phúc Âm hôm nay: “Chúa Giêsu đã sai những con người này đi như Nhóm 12 Người”. Nhóm 12 Người này có hình thức và tính cách Tân Ước, vì được Con Thiên Chúa “triệu tập” và “sai đi”. Nhóm 12 Người này có hình thức và tính cách Giáo Hội, vì Giáo Hội Chúa Kitô được xây trên nền tảng tông đồ này (xem Eph 2:20), nhất là trên tảng đá Phêrô (xem Mt 16:18). Nhóm 12 Người này có hình thức và tính cách Phục Sinh, vì vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần, (cho dù chỉ còn 11 vị), các vị đã nhận được Thánh Linh từ thân xác phục sinh của Chúa Kitô (xem Jn 20:22), để nhờ đó có thể làm chứng cho Người (xem Lk 24:48). Nhóm 12 Người này có hình thức và tính cách Hiện Xuống, vì chung các vị và riêng từng vị đã được tràn đầy Thánh Linh trong Ngày Lễ Ngũ Tuần (xem Acts 2:4), và đã cùng nhau (xem Acts 2:14) hiên ngang đứng lên bắt đầu loan báo Tin Mừng Phục Sinh bằng Bài Giảng Tiên Khởi.
Tuy nhiên, xét cho cùng, thì chủ đề “Triều Đại Thiên Chúa đã đến” trong cuộc Tông Đồ truyền giáo cho “thành phần chiên lạc nhà Yến Duyên”, và chủ đề của Bài Giảng Tiên Khởi cũng chỉ là một chủ đề duy nhất. Bởi vì, Bài Giảng Tiên Khởi này được thực hiện tại Giêrusalem, giáo đô của dân Do Thái, và được ngỏ với đủ mọi thành phần Do Thái, kể cả những người còn ở quốc nội cũng như từ quốc ngoại về, thành phần bấy giờ đang cùng nhau tụ họp tại Giêsurusalem để Mừng Lễ Ngũ Tuần (xem Acts 2:9-11). Có thể nói, chủ đề “Triều Đại Thiên Chúa đã đến” là phần mở, còn chủ đề của Bài Giảng Tiên Khởi là phần kết, hay chủ đề “Triều Đại Thiên Chúa đã đến” là vòng ngoài, còn chủ đề của Bài Giảng Tiên Khởi là trọng tâm. Bởi vì, “Triều Đại Thiên Chúa đã đến” đây là gì, nếu không phải là Đấng Thiên Sai đã đến: “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), và Đấng Thiên Sai này, như cốt lõi của Bài Giảng Tiên Khởi chứng thực cho thấy, thực sự từ Thiên Chúa mà đến, vì Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại sau khi bị họ dùng tay dân ngoại đóng đanh vào thập giá (xem Acts 2:22-24), và Người là “Đấng đã sống lại vì sự công chính của chúng ta”, như Thánh Phaolô, cũng qua thư Vị Tông Đồ Dân Ngoại gửi cho Giáo Đoàn Rôma trong bài đọc thứ hai tuần trước đã kết thúc với niềm xác tín như thế.
Vấn đề sống đạo ở đây theo chiều kích của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay là Kitô hữu chúng ta phải làm sao ý thức được những gì Thánh Phaolô đã nhắc nhủ Kitô hữu Giáo Đoàn Rôma trong bài đọc thứ hai: “Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta ở chỗ, đang khi chúng ta còn là những tội nhân thì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta”. Phải, chỉ khi nào Kitô hữu chúng ta thực sự cảm nghiệm được sự thật này, sự thật là một tạo vật chẳng những vô cùng bất xứng mà còn đáng đời đời trầm luân như chúng ta đây lại được Đấng vô cùng toàn mãn và toàn thiện để ý tới, được Ngài hết lòng yêu thương đến ban chính bản thân của Ngài là Chúa Giêsu Kitô Con Ngài (x Jn 3:16), Kitô hữu chúng ta mới có thể trở thành Tông Đồ truyền giáo, hay trở thành Chứng Nhân Tông Đồ của Ngài, ở chỗ, chúng ta đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ (xem Mt 20:28), tức là, chúng ta thực hiện đúng như lời Chúa Giêsu kết thúc những gì căn dặn Nhóm 12 trong bài Phúc Âm hôm nay: “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy cho đi nhưng không”.
Ở thời đại nào Giáo hội cũng luôn thao thức ‘Làm cách nào để con người có thể đón nhận và tin vào Tin Mừng’. Trở về với cội nguồn là Đức TN 11-A82
Ở thời đại nào Giáo hội cũng luôn thao thức ‘Làm cách nào để con người có thể đón nhận và tin vào Tin Mừng’. Trở về với cội nguồn là Đức Giê-su để chúng ta học lấy cách thức truyền giáo của Ngài. Thật vậy “Nói đi đôi với làm”, nghĩa là lời nói và việc làm phải song hành và nhất quán với nhau. Đây là cách thức hữu hiệu mà Đức Giê-su thi hành trong sứ mạng của mình. Vì thế, cặp từ “rao giảng và chữa lành” Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh là hai việc mà Đức Giê-su đã thực hiện trong hành trình đem Tin Mừng đến với con người. Các môn đệ tiếp tục thực hiện việc rao giảng và chữa lành đó của Thầy mình.
Chúa Giê-su đến rao giảng điều gì? Tin Mừng ghi lại rất vắn gọn lời rao giảng của Chúa Giê-su “rao giảng Tin Mừng Nước Trời” (Mt 9,35). Đây cũng là lệnh truyền lúc Chúa sai các môn đệ ra đi “Dọc đường anh em hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần” (Mt 9,7). Tin Mừng về Nước Trời là nội dung cốt yếu trong lời rao giảng của Người từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc sứ mạng trên trần gian. Người dùng chính ngôn ngữ của con người, dùng dụ ngôn, hình ảnh quen thuộc của cuộc sống để giảng dạy, giải thích, diễn tả cho họ hiểu về Nước Chúa. Hình ảnh về Nước Trời được Chúa Giê-su công bố là một thời đại công lý và hòa bình ngự trị mà chính ngôn sứ I-sai-a đã loan báo thuở xưa. Ngôn sứ Isaia đã tiên báo rằng Đấng Mêsia sẽ đến trong quyền năng của Chúa Thánh Thần để đem tự do và sự sống mới cho tất cả những ai bị giam cầm bởi đau khổ, bệnh tật, tội lỗi và ma quỷ (Is 61,1-2). Nơi đó, người nghèo được nghe Tin Mừng, kẻ giam cầm được tha, kẻ câm nói được, người mù được sáng mắt, kẻ bị áp bức được tự do…(x.Lc 4, 17-19). Lời loan báo về Nước Trời khi Người đến sẽ được khai mở không phải để mị dân hay ảo tưởng về một cuộc sống tươi đẹp xa vời nào đó, mà về một cuộc sống viên mãn đích thực trong Người và nơi Người.
Thực tại về Nước Trời không phải chỉ được rao giảng trên môi miệng nhưng được Chúa Giê-su hiện tại hóa qua việc chữa lành “Người chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (Mt 9,35). Chúng ta dễ dàng thấy các việc làm của Chúa qua các trang Tin Mừng: chữa nhiều kẻ ốm đau (Mt 8,16; Mc 1,32-34; Lc 4,40-41), cho bà mẹ vợ ông Phê-rô khỏi sốt (Mt 8,14-15; Mc 1,29-31; Lc 4,38-39); cho người đàn bà khỏi bệnh băng huyết (Mt 9,20-21; Mc 5,25-34; Lc 8,43-48); cho người mù sáng mắt (Mt 9,27-30; 20,29-34; Mc 8,22-26; Ga 9,1-41); chữa bệnh phong (Mt 8,1-4; Mc 1, 40-45; Lc 5,12-14); người bại liệt (Mt 9,1-8; Mc 2,1-12; Lc 5,17-26); cho người câm nói được (Mt 9,32-34), diệt trừ ma quỷ (Mt 8,28-34; Mc 5,1-20; Lc 8,26-39), cho con trai bà góa thành Na-in (Lc 7,11-17), con gái ông Gia-ia (Mt 9,18-26; Mc 5,21-24.35-42; Lc 8,40-56) và La-za-rô (Ga 11,1-44) chết sống lại…Như vậy, những gì người rao giảng về Triều đại của Người thì chính Người thực hiện một cách cụ thể, rõ ràng trước mặt toàn dân. Chúa Giê-su đã khai mào Nước Thiên Chúa ngay giữa trần gian. Chính Chúa Giê-su cũng muốn các môn đệ của mình tiếp nối những công việc đó “Anh em hãy chữa lành kẻ đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ” (Mt 10,8). Chúng ta còn nhớ sách Công vụ Tông đồ ghi lại việc Phê-rô chữa cho một người què đi được tại Cửa Đẹp Đền thờ (Cv 3,1-10), tại Lốt ông chữa cho một người tê bại (Cv 9,32-35) ở Gia-phô cho bà Ta-bi-tha chết sống lại (Cv 9,35-42); tại Sa-ma-ri,Phi-líp-phê chữa cho nhiều người bị thần ô uế ám, nhiều người tê bại và tàn tật được ông chữa lành (Cv 8,7); sau này tại Trô-a, Phao-lô vị Tông Đồ dân ngoại cũng cho một thiếu niên chết sống lại (Cv 20,7-12).
Thật vậy, sứ điệp mà Đức Giê-su rao giảng và các phép lạ chữa lành mà Người thực hiện đều nhằm mục đích đem Tin Mừng Nước Chúa đến gần với con người, tuyên bố về vương quốc sắp đến của Thiên Chúa nơi bản thân Người là sự hoàn thành trực tiếp những điều các ngôn sứ đã tiên báo nhiều thế kỷ trước (Is 29,18-19; 35,5-6; 61,1). Người đã rao giảng về Nước Chúa thế nào thì việc chữa lành củng cố và hiện thực hóa như vậy. Nhờ đó họ tin tưởng vào một Đấng không chỉ là Thầy dạy mà còn mang trong mình Uy quyền của Thiên Chúa. “Thiên hạ sửng sốt về lời dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng coa thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22).
Nhìn vào đời sống hôm nay, mỗi người chúng ta thử xem chúng ta sống đạo thế nào để đem Tin Mừng Chúa đến cho những người xung quanh? Chúng ta vẫn tuyên xưng đức tin nhưng lại không thực hành đức tin. Thánh Gia-cô-bê Tông đồ nói rằng “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Đức tin của mỗi người và sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội có sống được và trổ sinh hoa trái là nhờ công việc rao giảng và chữa lành. Chúng ta không ra đi bằng không gian địa lý nhưng trong hoàn cảnh và bậc sống của mình chúng ta cũng có thể đem Tin Mừng đến cho người khác. Rao giảng bằng lời nói và gương sống “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Chữa lành không chỉ là cho đi của cải, vật chất nhưng còn cho đi thời gian, công sức và cả chính mình nữa.
Lạy Chúa, sống tâm tình chờ đợi của Mùa Vọng chúng con lại càng được thôi thúc để sống cho sứ điệp của Chúa là mong cho muôn dân nhận biết Ngài. Chúng con chờ đợi Ngài trong hạnh phúc vì một niềm hy vọng chắc chắn thì xin cho chúng con cũng biết sống cho niềm hy vọng ấy cách sinh động, vui tươi. Amen.
Khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu muốn mời gọi các môn đệ cùng cộng tác với Ngài. Trước hết là cộng tác gián TN 11-A83
Khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu muốn mời gọi các môn đệ cùng cộng tác với Ngài. Trước hết là cộng tác gián tiếp bằng việc ‘xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa’. Chính Chúa là chủ mùa gặt, là Đấng điều khiển công cuộc loan báo Tin mừng nên các thợ gặt phải do Ngài sai đến và làm việc theo ý Ngài. Tiếp đến là cộng tác cách trực tiếp bằng việc ‘loan báo Nước Thiên Chúa đã gần đến’. Đây là việc người môn đệ phải luôn để tâm khi thi hành sứ mạng Chúa trao. Sau cùng là cộng tác cách cụ thể bằng việc ‘chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền’ như là dấu chỉ của sự chăm sóc đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu thấy dân chúng là những con người đang "tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn" (Mt 9,36). Và khi Chúa nhìn thấy tình trạng đó, nên Chúa động lòng thương dân. Lòng thương của Chúa không dừng lại ở nơi tình cảm chóng qua, mà còn thôi thúc Chúa đi đến chỗ hành động để biểu lộ tình thương. Tin Mừng ghi: Ngài kêu gọi các môn đệ lại và nói với họ: "Các con hãy xin với chủ ruộng sai thợ gặt đi gặt lúa của Ngài" (Mt 9,38).
Rồi cụ thể hơn nữa, Ngài tập hợp các môn đệ lại, ban cho các ông quyền năng trên các thần ô uế, và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền rồi sai các ông đi đến với những con chiên đang bơ vơ lạc lõng ấy.
Trái tim Chúa Giêsu luôn thao thức về con người, luôn rộng mở đón nhận con người, nên dễ chạnh lòng thương trước cảnh bơ vơ, khốn cùng của con người. Tình thương của Chúa Giêsu không phải là thứ tình mơ mộng viễn vông, than mây khóc gió, nhưng là một tình thương mãnh liệt dẫn đến những hành động cụ thể. Khi nhìn thấy đám đông tất tưởi, bệnh tật, đói khát, Ngài lập tức an ủi, chữa lành, và nuôi dưỡng. Việc Ngài an ủi, chữa lành, nuôi dưỡng đám đông không chỉ là những hoạt động do cảm tính nhất thời, nhưng là cả một kế hoạch rộng lớn, và lâu dài. Chính vì thế, Người đã chọn 12 Tông đồ, huấn luyện, sai họ đi nối tiếp sứ mệnh của Người.
Tin Mừng hôm nay khắc họa một “Chúa Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương.” Ngài thấy họ “như bầy chiên không người chăn dắt.” Vì thế, Ngài đã gọi mười hai môn đệ lại và sai các ông đi, với lệnh truyền: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” Người môn đệ Chúa Giê-su, vì thế, luôn luôn vẫn có cái gì đó để cho đi một cách vô điều kiện.
Thiên Chúa Cha, vì cảm thương thân phận tội lỗi đau khổ của loài người chúng ta nên đã sai Chúa Giêsu xuống trần gian. Chúa Giêsu, cũng đã vì cảm thương đám đông tất tưởi, bơ vơ, nên đã sai các môn đệ ra đi, tiếp tục sứ mệnh gieo rắc tình thương khắp nơi. Việc truyền giáo như thế là kết quả của lòng thương yêu vô biên của Thiên Chúa. Tình yêu thương khởi đầu từ nơi trái tim của Thiên Chúa phải được tiếp nối, đẩy mạnh, và nhân rộng trong cuộc đời này. Cứ yêu thương rồi tình yêu sẽ hướng dẫn ta biết phải làm gì.
Tất cả chúng ta là những người con của Chúa. Tất cả chúng ta được Chúa mời gọi làm nhân chứng cho Chúa. Chúng ta hãy học theo gương của Đức Giêsu biết nhìn người khác với ánh mắt cảm thông, biết cảm thương những con người đau khổ. Như thế là chúng ta đã bắt đầu làm việc truyền giáo rồi.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi người chúng ta tham gia vào sứ vụ cứu thế của Ngài bằng những việc làm cụ thể như: cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, loan báo Nước Thiên Chúa bằng đời sống chứng tá cho Chúa và yêu thương chăm sóc những người đau khổ, bệnh tật… Mỗi người chúng ta đáp trả sự tín nhiệm của Chúa và thi hành sứ mạng này như thế nào?