Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 9-A Bài 1-33: Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát --------------------------------------- Phúc Âm: Mt 7, 21-27: “Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không phải tất cả những ai nói với Ta: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa!’, là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: ‘Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta’. “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên nền đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn”. - Ðó là lời Chúa. --------------------------------------
Bài Tin Mừng hôm nay là phần kết của Bài giảng trên núi ấy. Trong đoạn nay, Chúa Giêsu nhắc lại một điều quan trọng cơ bản: phải đem ra thực hành những điều đã nghe trong Bài giảng trên núi:
- “Không phải những người nói ‘Lạy Chúa lạy Chúa’ là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có những người thực hiện ý Cha Thầy trên trời mới được vào Nước Trời”.
- Kẻ nghe và thực hành thì giống như người xây nhà trên nền đá vững chắc, kẻ chỉ nghe nhưng không thực hành giống như người xây nhà trên cát.
B.... nẩy mầm.
1. “Lạy Chúa, lạy Chúa”, đó là công thức cầu nguyện, đọc kinh. Chúa Giêsu khẳng định rằng ngay cả việc đọc kinh cầu nguyện cũng chưa đủ để đưa tôi vào Nước Trời ; có một việc quan trọng hơn, thậm chí quan trọng nhất, đó là thực hành ý Chúa Cha.
- Hằng ngày tôi lấy làm thỏa mãn khi đã tham dự đầy đủ các giờ đọc kinh cầu nguyện.
- Ngay trong lúc đọc kinh cầu nguyện, tôi cũng không quan tâm tìm hiểu xem ý Chúa muốn tôi làm gì.
2. Một tu sĩ nọ sáng nào cũng thức dậy sớm để đọc kinh cầu nguyện. Nhưng một hôm ông ngủ quên. Satan đã đánh thức ông dậy và nhắc ông đọc kinh cầu nguyện. Ông ngạc nhiên hỏi lý do, Satan chỉ cười cười không đáp. Sau cùng ông nhân danh Chúa bảo Satan phải nói thật. Và Satan đã nói thật như sau:
- Những ngày ông có đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, ông cảm thấy tự mãn và do đó không đề phòng, nên tôi dễ cám dỗ ông hơn. Còn nếu ngày nào ông quên đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, ông sẽ thấy ông còn thiếu sót nên trong ngày ông cố gắng sống tốt theo ý Chúa, tôi khó mà cám dỗ ông được (Góp nhặt). 3. Người đã đọc kinh cầu nguyện nhiều nhưng không quen làm theo ý Chúa thì cũng như xây nhà trên cát. Khi gặp hoàn cảnh thử thách khó khăn, tòa nhà đạo đức của người đó sẽ sụp đổ tan tành.
4. “Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá” (Mt 7,24)
Bầu khí ồn ào của nhà bên cạnh làm tôi chú ý.
“Mẹ nói hoài sao con không nghe, bây giờ phải ráng chịu. Thật đúng là “cá không ăn muối cá ươn”.
Lát sau, tôi mới hiểu cô bé nhà bên mới thi rớt. vì ham chơi, đua đòi với chúng bạn nên cô đã không nghe lời cha mẹ khuyên bảo, hoặc có nghe nhưng rồi đâu cũng vào đấy, chừng nào tật ấy
Cũng như cô bé này, tôi nghe lời Chúa mỗi ngày nhưng tôi chẳng có để tâm thi hành.
Xin Thánh Thần Chúa xuống trên con, dạy con biết lắng nghe lời Chúa, nhận ra Thánh ý Ngài và cố gắng thi hành trong đời con. (Hosanna)
5. Một người vợ trẻ có thói quen sáng nào cũng ngủ nướng, để mặc anh chồng một mình ăn sáng và chuẩn bị đi làm. Nhưng một hôm, khi anh chồng thức dậy thì đã thấy vợ mình đang ở trong bếp dọn điểm tâm cho chồng. Anh ngạc nhiên tìm lý do, thì thấy trên bàn ngủ của vợ có một bài báo với tựa đề “Những phụ nữ châu Âu có thể làm những người vợ tốt hơn không ?” Bài báo ấy đã đánh động vợ anh và khiến chị sửa đổi.
Bạn thử tự hỏi câu nào trong những lời Chúa Giêsu dạy mà bạn thấy khó đem ra thi hành ?
Thước do đức tin của tôi là mức độ tôi đem ra thi hành những điều Chúa dạy (Mark Link, Vision 2000).
Không phải bất cứ ai thưa với Thầy:”Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!
Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành.
Với những kẻ hướng dẫn sai lạc, các thầy dạy giả dối, chúng ta có cách thử nghiệm bằng "xem quả biết cây", điều ấy nhiều khi khó khăn, phát giác giả dối người khác tuy khó, nhưng còn một khó khăn lớn lao hơn đó là phát giác được sự giả dối của chính mình.
Có một điểm lạ về đoạn Kinh Thánh này, Chúa Giêsu thừa nhận rằng nhiều tiên tri giả sẽ làm và nói những việc lạ lùng đáng ghi nhận. Chúng ta cần nhớ thế giới thời xưa như thế nào: đó là thời phép lạ được coi là rất thông thường vì nó phát xuất từ quan niệm cho rằng đau ốm là do ma quỷ. Một người đau vì có một con quỷ đã tạo được ảnh hưởng ma quái nào trên người đó, hoặc trên một phần thân thể của người đó. Do đó người ta chữa lành bằng thuật đuổi quỷ. Hậu quả là thời đó có nhiều bệnh tật và nhiều cách chữa mà nay chúng ta gọi là bệnh tâm lý. Nếu có ai tự thuyết phục mình hay lừa dối chính mình rằng mình bị quỷ ám hay đang ở dưới quyền lực của ma quỷ, người đó chắn chắn sẽ bị đau. Nhưng nếu có ai thuyết phục được người ấy tin rằng quyền lực ma quỷ trói buộc anh ta sẽ bị bẻ gãy, thì chắc chắn người ấy sẽ được lành.
Như vậy, thế giới thời xưa, một người có thể tin mình bị quỷ ám và bởi đó mang bệnh, nhưng cũng có thể tin rằng quỷ bị trục xuất và thấy mình được lành bệnh. Trong các thế kỷ đầu tiên, dường như các lãnh tụ của Hội Thánh không phủ nhận các phép lạ của người ngoại. Để giải thích phép lạ của Chúa Giêsu, Celsus trưng dẫn các phép lạ của Aeculapius và Apollo. Để trả lời cho luận cứ này, Origen không phủ nhận những phép lạ đó, ông chỉ nói:"Quyền năng chữa lành đó tự nó không tốt không xấu, kẻ vô thần cũng như người chân chất đều đạt được cả". Ngay trong Tân Ước, chúng ta cũng thấy các thầy trừ quỷ Do thái cũng thêm tên Chúa Giêsu vào bảng ghi danh của họ và cũng nhờ danh đó mà đuổi quỷ (Cv 19,13). Cũng có nhiều lang băm tin Chúa bằng đầu môi chót lưỡi và đã dùng danh Ngài gây nên những hiệu quả lạ lùng trên người bị quỷ ám. Điều Chúa Giêsu muốn nói là kẻ giả bộ xử dụng danh Ngài sẽ bị phơi bày vào ngày Chúa đến. Động cơ thật sẽ bị lột trần và người ấy sẽ bị đuổi ra khỏi mặt Chúa.
Đoạn Kinh Thánh này có hai chân lý quan trọng:
1. Chỉ có cách duy nhất chứng minh lòng chân thành của một người là qua hành động của người ấy. Những lời nói bóng bảy không thay thế được việc lành. Chỉ có một bằng chứng duy nhất của tình yêu, đó là sự vâng lời. Bảo chúng ta yêu một người nào mà lại làm những việc tan dạ, nát lòng người đó, thì thật vô nghĩa. Chúng ta thường xuyên xưng Chúa trên môi miệng nhưng lại chối bỏ Ngài trong đời sống. Đọc Kinh Tin Kính không khó gì nhưng sống đời kitô hữu mới khó. Đức tin không thực hành là mâu thuẫn và tình yêu không có sự vâng phục là điều không thể có được.
2. Sau những lời này còn nhắc đến ngày phán xét và chắc chắn ngày đó sẽ đến. Một người có thể trá hình, làm bộ và rất thành công trong một thời gian dài, nhưng rồi cũng sẽ đến ngày mọi thứ giả bộ được phơi bày. Chúng ta có thể dùng lời nói lừa dối con người nhưng không thể lừa dối Thiên Chúa "Con nghĩ tưởng gì, Chúa thấy suốt từ xa" (Tv 138, 2). Không ai có thể lừa dối Chúa là Đấng hiểu rõ lòng dạ con người.
Matthêu đưa ra một loạt những lời giáo huấn của Chúa Giêsu tới chỗ kết luận bằng cách dùng một hình ảnh về hai người xây nhà. Hình ảnh này làm nổi bật cái chân lý rằng trong cõi thiêng liêng hơn là trong cõi khác phải thực hành điều đã nghe. Chúa Giêsu là chuyên gia về cả hai phương diện. Ngài là chuyên gia Kinh Thánh. Tác giả sách Châm Ngôn gợi cho Ngài trong bức tranh “Bão táp thổi qua, gian ác chẳng còn; nhưng người công chính, nền móng đời đời” (Cn 10,25). Đây là ý tưởng về bức tranh Chúa vẽ về hai ngôi nhà và hai thợ xây cất. Ngài cũng là chuyên gia về đời sống. Ngài là người thợ giỏi, biết tường tận về xây nhà cho nên khi Ngài nói về móng nhà, Ngài biết rõ điều Ngài nói. Đây không phải là thí dụ của một học giả trong phòng nghiên cứu mà là của một con người thực tiễn.
Đây không phải là một hình ảnh khó tìm, nhưng là câu truyện thường dễ xảy ra. Ở xứ Palestine quê hương của Chúa, muốn xây cất phải suy tính trước vì có nhiều con lạch, đường nước cạn, mùa hè là một bãi cát trống nhưng đến mùa đông thì trở thành một dòng thác lũ. Đi tìm một chỗ xây nhà thì có lẽ lòng lạch là một quang cảnh đẹp mắt phẳng phiu, nhưng nếu một người thiển cận xây nhà trên bãi cát đó thì khi mùa đông đến, nước lũ sẽ càn cuốn đi hết. Người ta thường bị cám dỗ cất nhà trên một thửa đất bằng phẳng, không bận tâm đào móng sâu xuống lớp đá bên dưới. Nhưng như vậy là giang tay chờ đón tai họa. Chỉ ngôi nhà có nền móng vững chắc mới chịu nổi phong ba và chỉ cuộc sống có nền tảng mới chịu được thử thách.
Chúa Giêsu đòi hỏi hai điều:
1. Ngài đòi con người phải nghe: ngày nay một trong những khó khăn lớn chúng ta phải đương đầu là con người không biết điều Chúa Giêsu phán hay là điều Hội Thánh rao truyền. Thực tế có khi còn tệ hơn vì có người không những không biết mà còn hiểu lầm những điều Chúa dạy. Một người đứng đắn không lên án một cá nhân hay một tổ chức nào mà chưa nghe họ nói. Nhưng đó lại là điều mà ngày nay nhiều người đang làm. Bước đầu tiên vào cuộc sống Kitô là hãy để Chúa Giêsu có cơ hội phán dạy cho chúng ta nghe.
2. Ngài đòi con người phải làm: kiến thức chỉ có ý nghĩa khi nó được chuyển thành hành động. Một người rất có thể đậu ưu môn đạo đức học Kitô giáo nhưng vẫn không phải là kitô hữu. Kiến thức phải biến thành hành động, lý thuyết phải được thực hành, thần học phải được trở thành sự sống. Đi thăm bác sĩ chẳng có ý nghĩa gì nếu chúng ta không sẵn lòng tuân theo những điều ông dặn dò. Thế mà vẫn có hàng ngàn người nghe điều Chúa Giêsu dạy dỗ mỗi tuần, biết rất nhiều điều Chúa dạy nhưng lại có rất ít hay không hề có nỗ lực thực hành. Thực sự là người môn đệ Chúa Giêsu , thì chúng ta phải nghe và làm điều Ngài dạy.
Nghe và làm có thể tóm gọn vào một chữ đó là vâng lời. Chúa Giêsu đòi hỏi sự vâng lời. Học vâng lời là điều quan trọng nhất trong đời sống. Cách đây ít lâu có một báo cáo về trường hợp một thủy thủ thuộc hải quân hoàng gia Anh bị nghiêm phạt vì vi phạm kỷ luật. Hình phạt quá nặng đến độ bên ngành dân chính cho rằng quá khắt khe. Nhưng một người đã từng phục vụ nhiều năm trong hải quân đã trả lời rằng theo quan điểm của ông ta, đó không phải là hình phạt quá nặng. Ông cho rằng kỷ luật là biện pháp tối cần thiết, vì mục đích của kỷ luật là khiến con người tự động vâng phục không thắc mắc, và sự sống tùy thuộc sự vâng phục này. Ông kể lại kinh nghiệm riêng, trong một hải vụ, tàu của ông phải câu một chiếc tàu rất nặng đang khi biển động. Chiếc tàu hư được cặp vào tàu của ông bằng một sợi cáp. Thình lình giữa cơn gió bão có lệnh của thuyền trưởng "xuống". Tức khắc toàn thể thủy thủ phóng xuống hầm tàu. Ngay lúc đó, sợi dây cáp cột tàu bị đứt, quất xuống như một con rắn thép điên cuồng, trúng người nào thì người đó chắc chắn chết tại chỗ, nhưng thủy thủ đoàn đã vâng lệnh nên tất cả đã thoát hiểm. Nếu có ai dừng lại tranh luận hay hỏi lý do, chắc chắn người ấy đã chết. Sự vâng lời cứu mạng người.
Đó chính là vâng lời Chúa Giêsu đòi hỏi. Ngài tuyên bố lời Ngài là nền đá vững chắc duy nhất cho đời sống. Ngài cũng hứa rằng cuộc sống vâng phục sẽ an toàn dù phong ba bão tố đến đâu.
Với đoạn 7, câu 21 của Thánh Matthêô, chúng ta đi đến phần kết luận của bài giảng trên núi. Chúa kêu gọi phải thực thi Thánh ý Chúa như là trọng tâm hơn hết của các điều ngài truyền dạy. Vì chính Ngài cũng là con người đến chỉ vì mục đích ấy: “lúc vào trần gian, Ngài nói: Hy sinh cùng lễ vật Người đã chẳng màng, nhưng Người đã nắn nên thân xác cho con. Các lễ toàn thiêu cùng tạ tội, Người đã chẳng đoái. Bây giờ con nói: này đây, con đến để thi hành Ý muốn Người, Lạy Thiên Chúa” (Heb 10,5-7). Đó là tất cả đời sống của Chúa Giêsu: đến để thi hành Thiên Ý của Chúa Cha.
Các Tông đồ đi mua thức ăn về và mời Ngài. Ngài nói: “Lương thực của Ta làm theo ý Đấng đã sai Ta và chu toàn công việc của Ngài” (Gn 4,32-34). Ngài hằng hướng về Thiên Ý đó: “Tự Ta”, Ta không làm gì. Nhưng Cha đã dạy Ta làm sao, Ta nói vậy và Đấng đã sai Ta hằng ở với Ta, Người đã không bỏ ta một mình, vì muốn Ngài hằng vâng phục Ý Cha: “Ta không tìm ý muốn của Ta, nhưng là ý muốn của Đấng đã sai Ta” (Gn 5,30). Và như vậy, cho đến cảnh Giệtsimani, cho đến hình ảnh Thập giá: “Lạy Cha, không phải theo ý Con mà theo ý Cha” (Mt 26,39)
Chúng ta hãy học cùng Chúa Giêsu để biết tuân phục Thiên Chúa: “Không phải chỉ kêu: Lạy Chúa, Lạy Chúa là được vào nước Trời, nhưng chỉ kẻ thực thi Ý Cha trên trời mới được vào”.
Để kết thúc bài giảng, Chúa đưa ra hai hình ảnh đối nghịch nhau: Hình ảnh ngôi nhà xây trên đá cứng và ngôi nhà xây trên bãi cát. Người khôn xây nhà trên đá cứng, nghĩa là người đồ đệ chân chính không những chỉ nghe Lời Chúa mà còn đem ra thực hành trong cuộc sống. Họ xây nhà tâm hồn trên khối đá vững chắc của Phúc Âm. Họ đón nhận Lời Chúa cách thận trọng để suy niệm trong lòng và thực hành trong đời sống, cho đến cùng, cho đến chết. Máu đã đổ trên đồi Canvê, thì đời sống người tín hữu nhiều khi cũng đòi hỏi máu đổ và hy sinh.
Tóm lại, người nghe Lời Chúa mà không đem ra thực hành là người thiếu khôn ngoan, là người “xây nhà trên cát”. Ai lại xây nhà trên bãi cát, chỉ cần một cơn gió lốc, một trận mưa lũ thì nhà sẽ sập, trở nên một đống tro tàn.
Thánh Gioan Kim Khẩu chú giải: “Mưa sa, nước lũ, gió lùa là những ẩn dụ ám chỉ những tai họa và cảnh khổ ở đời như bị bỏ vạ, bị gài bẫy, bị đau khổ trong gia đình, bị kẻ khác quấy nhiễu, bị tang chế, chết chóc và mọi thứ tai vạ khác đổ xuống trên đời sống”.
Nếu tòa nhà đức Tin của chúng ta đứng vững, dực trên việc nghe Lời Chúa và thực thi Thánh Ý Chúa, thì chúng ta sẽ được vào Nước Trời.
Thánh Anphongsô, sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế, lúc về gìa, bị hai người anh em trong Dòng phản bội, bị Tòa Thánh hiểu lầm, công việc của ngài bị chia làm đôi, Đấng sáng lập bị Giáo quyền trung ương coi như không phải là một thành phần chính thức. Ngài chỉ biết cúi đầu vâng phục: “Ý Đức Thánh Cha là Ý Chúa”. Lời kinh cuối đời của Ngài là: “Lạy Chúa, con chỉ muốn điều Chúa muốn”. Ngài qua đời, với một lời Tiên tri: hãy tin chắc rằng Nhà Dòng sẽ tồn tại cho đến tận thế, vì không phải là của tôi mà là công việc của Chúa. Khi tôi còng sống, Dòng sẽ gặp khó khăn đêm tối và lăng nhục, nhưng khi tôi chết rồi, Dòng sẽ vung cánh và phát triển, nhất là ở miền Bắc. Đúng lúc ấy, từ miền Bắc, hai chủng sinh đến xin gia nhập là Thánh Clêmentê Maria Hojbauer và cha Thađêô Houbl, được coi là những vị sáng lập thứ hai của nhà Dòng.
“Lạy Chúa, này con đây” (Lời kinh cuối cùng của Thánh nhân, 1787)
Theo cách diễn tả của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng này thì sống đạo cũng giống như xây nhà. Có người xây nhà trên nền bằng cát không vững, có người xây nhà trên nền bằng đá tảng rất vững vàng.
Chúng ta hãy suy nghĩ về một số cách sống đạo, để xem đó có phải là xây nhà trên nền đá vững chắc không.
-Sống đạo bằng cách đọc kinh, dự lễ rất đầy đủ và chuyên cần. Có lẽ đa số giáo dân chúng ta theo cách này. Ngày Chúa nhật và những ngày lễ, nhà thờ chật ních. Nhiều nơi xây thêm nhà thờ mới. Nhiều nhà thờ ngày càng trở nên chật hẹp, phải nới rộng thêm. Đây cũng là cách của những người biệt phái và luật sĩ thời Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu đã nói “Không phải những ai thưa Lạy Chúa lạy Chúa mà được vào Nước Trời".
Đọc kinh dự lễ rất nhiều mà rốt cuộc không được vào Nước Trời. Đó là xây nhà trên cát.
-Sống đạo bằng cách chọn Chúa là Đấng bảo vệ che chở cho đời mình: người ta có kẻ thờ Quan Công, có người thờ thần tài, có người thờ phật Bà Quan Âm.
Nhưng tôi nhất quyết chọn Chúa vì tin rằng Ngài quyền phép hơn tất cả những thần thánh kia. Bởi thế, khi bắt đầu làm ăn, tôi cầu xin Chúa giúp; khi gặp trục trặc, tôi xin Ngài giải quyết; khi thành công, tôi dâng lễ vật tạ ơn Ngài; cho đến khi sắp chết, tôi xin Ngài rước tôi lên thiên đàng với Ngài. Thiên Chúa trở thành ô dù, là nhà tài trợ là mạnh thường quân, là lá bùa hộ mệnh. Những người này có phần "khôn khéo" vì biết chọn theo Thiên Chúa mạnh thế hơn, nhưng xét cho cùng thì cách sống đạo của họ cũng không khác gì những người thờ các thần khác. Cũng là xây nhà trên cát.
- Có những người bệnh tật không đến nhà thờ được, hoặc ở nơi không có nhà thờ. Họ không dự lễ nhiều, nhưng họ luôn cố gắng thực hành những điều Chúa dạy trong Tin Mừng, họ quan tâm tìm hiểu ý Chúa và làm theo ý Chúa. Chúng ta hãy nghe Chúa Glêsu nói về họ: "Ai nghe những lời Thầy nói đây và đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá".
2. Mưa tuôn sóng vỗ...
Nhiều Kitô hữu nghĩ rằng khi họ đặt niềm tin vào Chúa thì giống như họ xây ngôi nhà của mình trên đá. Cuộc đời của họ sẽ an toàn. Nhưng rồi, mọi chuyện không xảy ra như vậy: họ phải gặp hết khó khăn này đến đau khổ khác. Họ thất vọng. Ngôi nhà của họ đã được xây trên "đá" đức tin, nhưng tại sao nó vẫn sụp đổ?
Thực ra, những người đó đã hiểu sai, ít là ở hai điểm:
1/ Cái nền đá vững chắc mà Chúa nói không phải là tin suông mà là một đức tin thể hiên ra bằng việc làm. Đây ta hãy nghe lại cho kỹ lời Ngài nói: "Không phải những ai nói với Ta lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ có người nào thực hiện ý Cha Ta trên trời, kẻ ấy mới được vào Nước Trời”, "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem ra thực hành thì giống như người không ngoan đã xây nhà mình trên đá".
2/ Chúa không hề hứa là ngôi nhà trên đá đó sẽ không bì mưa tuôn, sóng vỗ. Điều Chúa hứa là cho dù ngôi nhà đó có bị bao nhiêu mưa tuôn và sóng vỗ đi nữa thì nó vẫn đứng vững. Nhờ đâu mà đứng vững? Nhờ sống thực hành Lời Chúa. Việc tìm hiểu kỹ lời Chúa như trên giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cuộc sống Kitô hữu: -Kitô hữu không phải chỉ là người tin Chúa. Ma quỷ còn tin Chúa hơn ta nữa, nhưng ma quỷ đâu có được vào Nước Trời!
-Là Kitô hữu không phải là được bảo hiểm khỏi mọi khó khăn gian khổ - Có khi còn gặp khó khăn gian khổ hơn nhiều người khác nữa. Nhưng Chúa hứa họ sẽ đứng vững trước mọi khó khăn gian khổ ấy, nếu họ sống thực hành Lời Chúa.
3. Hai con đường
Người ta thường nói "Chúa phạt xuống hỏa ngục". Có người hiểu giáo lý hơn nên cãi lại: “Thiên Chúa nhân từ vô cùng, không thể nào phạt ai xuống hỏa ngục được".
Đúng vậy, Thiên Chúa nhân từ chẳng phạt ai cả. Sở dĩ có người xuống hỏa ngục là vì người đó đã dùng tự do của mình mà chọn sai con đường thôi.
Như ông Môsê đã nói với dân Do thái: "Đây ta đặt trước mặt các ngươi sự chúc lành và sự chúc dữ: nếu các ngươi tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên
Chúa các ngươi ... thì các ngươi được chúc phúc ; còn nếu các ngươi không tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi ... thì sẽ bị chúc dữ”.
Cũng như cha mẹ nói với đứa con đã trưởng thành: "Cha mẹ sẵn sàng lo cho con học hành đến nơi đến chốn. Nếu con chịu khó học hành thì sẽ có một tương lai tươi sáng. Còn nếu con cứ chơi bời lêu lỏng như hiện nay thì tương lai rất đáng lo ngại".
Vì chúng ta có tự do nên Thiên Chúa và cha mẹ không thể ép buộc ta được, nhưng các Ngài sẵn sàng giúp đỡ nếu ta chọn con đường tốt.
4. Chuyện minh họa
a/ Đức tin và việc làm
Tâm là một người cứng cỏi. Khi trận lụt xảy đến trong vùng, anh trèo lên mái nhà. Một chiếc tàu đến cứu nhưng anh từ chối: "Không, cám ơn. Tôi tin vào Thiên Chúa, Ngài sẽ cứu tôi".
Sóng nước dâng cao hơn và Tâm đã trườn lên tận nóc nhà. Một chiếc tàu khác đến cứu anh nhưng anh xua đi. Anh tin là Thiên Chúa sẽ cứu anh. Khi nước chạm đến chân anh, anh lại trèo lên đỉnh ống khói. Một chiếc trực thăng xà xuống cứu, nhưng anh vẫn dựa vào Thiên Chúa. Bạn đoán xem điều gì xảy ra? Tâm chết đuối.
Trước mặt Chúa, anh phàn nàn: “Lạy Chúa, con có đức tin mạnh như thế, tại sao Ngài không cứu con?" Chúa trả lời: " Con còn muốn Ta làm gì cho con nữa?
Ta đã gởi tới con hai chiếc tàu và một chiếc máy bay!"
b/ Làm và hưởng thiên đàng
Truyện kể: một nông dân nghèo Nhật bản vào thiên đàng và điều đầu tiên ông nhìn thấy là một kệ dài với những vật rất kỳ lạ. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái tai. Chúng là của những người khi sống ở đời nghe được những điều tốt, nhưng họ không làm. Nên khi chết, tai họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không.
Một lát sau, ông lại thấy một kệ khác với những vật kỳ quái. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái lưỡi. Chúng là của những người sống ở đời bảo người khác làm điều tốt và sống tốt nhưng chính họ không làm hoặc không sống điều đó. Nên khi chết, lưỡi họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không.
Sau khi trình bày bản Hiến Chương Nước Trời trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu kể dụ ngôn xây nhà trên đá và trên cát như để xác quyết rằng:
- Nghe Tin Mừng cứu độ chưa đủ, cần phải đem ra thực hành. Biết Phúc Âm chưa đủ, còn phải sống Phúc Âm.
Môisen trong Cựu Ước cũng dạy như vậy. Sau khi ban bố giao ước Sinai, ông nói với dân chúng:
- Hôm nay ta đặt trước mắt các ngươi sự chúc lành và sự chúc dữ. Nếu các ngươi tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi mà hôm nay ta rao truyền cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được chúc phúc. Còn nếu các ngươi không tuân giữ, thì các ngươi sẽ bị chúc dữ.
Không phải cứ chịu cắt bì, thuộc về dân Israel là sẽ được thừa hưởng lời hứa, nhưng phải có lòng tin như Abraham. Vì thế Chúa Giêsu đã phán:
- Không phải tất cả những ai nói với Ta: lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời. (Mt 7,21).
Giáo lý của Chúa không phải là một mớ lý thuyết chỉ cần nhồi nhét vào đầu óc, nhưng là phải thấm nhập vào cả cuộc sống con người, để thần linh hóa nó như men trong bột.
Thế nhưng, Thiên Chúa tôn trọng công trình tay Ngài dựng nên, vì thế Ngài cũng tôn trọng tự do của con người. Con người có quyền lựa chọn sự chúc lành hay chúc dữ, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết: Ngài là đường là sự thật và là sự sống. Đồng thời Ngài cũng kêu mời mỗi người chúng ta: Hãy bước theo Ngài.
Chúng ta có thể bỏ mọi sự mà theo Chúa như các tông đồ, nhưng chúng ta cũng có thể buồn phiền cúi mặt bỏ đi như chàng thanh niên giàu có, chỉ vì những đòi hỏi của đời sống Kitô hữu quá gắt gao đối với chúng ta.
Thực vậy, không ai có thể làm tôi hai chủ, nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia, cũng vậy, không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của (Mt 6,24).
Qua lời nói này, chúng ta thấy người Kitô hữu phải dứt khoát lập trường, không thể lửng lơ, trung lập hay đi nước đôi. Phải chọn lựa giữa Đức Kitô và Satan, giữa thập giá và túi tiền. Một khi đã lựa chọn Chúa, chúng ta phải trung thành với sự lựa chọn ấy, nghĩa là chúng ta phải thực thi ý Chúa. Thánh ý Chúa phải trở nên như của ăn cho tâm hồn chúng ta.
Hãy biết chọn lựa theo thánh ý Chúa chứ không phải chọn lựa theo ý riêng mình, như lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu:
- Không theo ý Con, một theo ý Cha.
Hồi còn nhỏ, ngày kia Thánh Stanillas, đang chơi banh, mồ hôi nhễ nhãi, Cha bề trên đứng xem, liền gọi cậu ra và thử hỏi:
- Nếu sau trận banh này Chúa gọi con về thì sao?
Không ngần ngại cậu đã trả lời:
- Con cứ tiếp tục chơi như thường vì đó là thánh ý của Chúa.
Hãy thực thi thánh ý Chúa, để nhờ đó chúng ta chiếm được phần thưởng Nước Trời.
Trong cuộc hành trình theo Chúa Giêsu, những môn đệ được Chúa tuyển chọn luôn phải sống cái cốt lõi của Tin Mừng. Theo Chúa không có nghĩa là được đặc quyền, đặc lợi, được ăn trên ngồi trốc, nhưng theo người phải thực thi lời của Người, phải “ vác Thập Giá mỗi ngày mà theo Người “.
LẮNG NGHE LỜI CHÚA VÀ THỰC THI LỜI CỦA NGƯỜI:
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay, đặc biệt bài Tin Mừng Mt 7, 21-27 cho chúng ta thấy người môn đệ của Chúa phải sống Tin Mừng biểu lộ qua cuộc sống, qua lời rao giảng của mình. Suốt những năm tháng theo Chúa, Người không ngừng nhắc bảo, giáo huấn, dậy dỗ các môn đệ phải sống bản chất, cốt lõi của Tin Mừng. Cái bản chất, cái cốt lõi của Tin Mừng không chỉ sống ngoài môi miệng, sống bề ngoài mà phải sống cái đích thực của đời sống con cái Chúa là yêu thương. Bài Tin Mừng ngày hôm nay cho chúng ta hiểu rõ điều ấy. Chúa Giêsu trình bầy dụ ngôn hai ngôi nhà:
Ngôi nhà xây trên đá thì vững chắc, bền bỉ, dù mưa to, gió lớn, bão táp vẫn không thể nào làm lay chuyển được. Đây là người môn đệ đích thực của Chúa bởi vì người môn đệ chân chính không chỉ kêu ngoài môi miệng: ” Lạy Chúa, lạy Chúa “ là đủ, là hoàn thành công việc của mình,nhưng người ấy phải thực hành lời của Chúa. Người môn đệ đã lắng nghe lời Chúa, đã tin vào Người, phải biết thực thi lời của Người trong cuộc sống vì thánh Giacôbê đã viết một câu rất chí lý: ” Đức tin không có việc làm là đức tin chết “. Người môn đệ thật của Chúa là người vừa biết lắng nghe lời Chúa cách chăm chú, vừa biết sống bác ái, yêu thương như Chúa.
Ngôi nhà xây trên cát là hình ảnh người nghe lời Chúa mà không đem ra thực hành trong đời sống, chỉ nói “Giêsu” ngoài miệng lưỡi mà không yêu như Chúa đã yêu. Cái trớ trêu của Tin Mừng là thế. Lời Chúa không chỉ đọc, không chỉ nghe cho vui tai, nhằm thỏa mãn sự tò mò của con người, nhưng phải được thực thi trong đời sống của mình. Cũng vậy, bác ái không chỉ dùng nói suông, mà phải thực hành bằng những việc làm cụ thể. Chúa Giêsu đã tới trần gian, đã sống trong lịch sử con người bằng chính Con – Người - Chúa Của- Mình. Người đã sống như mọi người ngọai trừ tội lỗi. Đó là bằng chứng hùng hồn nhất Chúa làm gương cho con người, cho loài người. Chúa rao giàng Nước Trời, loan báo Thập Giá không chỉ là một mớ trừu tượng, một mớ những lý thuyết viển vông, khô cằn mà Người đã đi tới cùng tình yêu, đi tới cùng lời rao giảng của Người bằng cái chết trên Thập Giá.
NGƯỜI MÔN ĐỆ PHẢI ĐÁP TRẢ LẠI TÌNH THƯƠNG CỦA CHÚA:
Nói cho cùng không thể làm môn đệ của Chúa mà không sống và thực thi lời Chúa. Không thể rao giảng lời Chúa chỉ bằng những lời lẽ viển vông, xa lạ, máy móc. Không thể là con Chúa mà lại sống như một người máy không hồn. Không thể nói về Thập Giá mà lại không kê vai vác Thập Giá của mình mỗi ngày để theo Đức Kitô. Người môn đệ hay nói nôm na, người Kitô hữu không thể theo Chúa, sống niềm tin mà lại không dấn thân, không cố gắng mỗi ngày để trở nên hoàn thiện như Cha trên trời. Trong đời sống, chúng ta đã học hỏi được biết bao gương sáng của những môn đệ Chúa, những người nói ít nhưng sống, thực thi bác ái triệt để. Đời thường chung quanh ta đã cho ta thấy những người chỉ hô hào suông ngoài môi miệng, nói nhiều nhưng thực hành ít, nói bác ái mà sống ngược lại, đó là những người giả hình, không sống niềm tin đích thực. Một Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã luôn sống thương yêu, thiệt thòi miễn sao Chúa được vinh hiển. Một Mẹ Têrêsa Calcutta đã sống tận Tin Mừng cùng như Chúa đã yêu đối với đồng loại. Một cha sở họ Ars đã sống bác ái trọn hảo đối với mọi người và còn biết bao nhiêu là gương sống và thực thi lời Chúa chúng ta không bao giờ có thể kể cho hết được. Cuộc đời đã dậy cho chúng ta nhiều bài học cụ thể: đời sẽ qua đi, chân lý và bác ái, lòng đạo đức, thánh thiện mới tồn tại. Người môn đệ của Chúa phải luôn đáp lại tình thương vô biên của Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn biết lắng nghe lời của Chúa và thực thi lời Chúa trong đời sống chúng con. Amen. Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Câu nào là chủ đề thống nhất cả đoạn này? . Cặp "người khôn - kẻ dại" còn có trong các dụ ngôn:TN 9-A7
1. Câu nào là chủ đề thống nhất cả đoạn này?
2. Cặp "người khôn - kẻ dại" còn có trong các dụ ngôn khác không? Dụ ngôn nào?
3. Thánh Augustinô đã giải thích dụ ngôn này như sau: mưa tượng trưng cho tối tăm của mê tín, gió: tiếng than thở của con người, sông tràn: dục vọng của xác thịt. Đối với thánh Hiêrônimô, mưa tượng trưng ma quỷ, sông tràn: các phản Kitô, gió thổi: các thần dữ đây đó trên non cao. Còn theo thánh Gioan Kim khẩu, mọi hình ảnh ấy nói lên tai ương cùng khốn của nhân loại. Phải nghĩ sao về các lối giải thích đó?
1. Chỗ đứng của đoạn Tin Mừng hôm nay trong bài giáo huấn của Matthêu có thể giải thích dễ dàng: nó khai triển ý nghĩa các câu 15-20. Trong các câu này, Matthêu lột mặt nạ phường ngôn sứ giả hiệu, còn ở đây, ông nói về những. tín hữu, hay đúng hơn, mọi kẻ trong cộng đoàn thiên sai được mặc lấy sức mạnh thiêng liêng (c.22 trình bày họ như là người nói tiên tri, trừ quỷ và làm phép lạ). Ở cả hai đoạn, đều có cùng lời khiển trách, nhưng với hạn từ khác biệt; nơi cc. 15-20, hoa quả của họ bị chê là xấu; ở đây người ta trách họ đã phạm điều bất công (c.23); cả hai thành ngữ chắc hẳn đồng nghĩa với nhau trong văn mạch này; chúng giải thích cho nhau vậy. Như trong toàn bộ các chương 5-7, ở đây Chúa Giêsu bênh vực các quyền lợi của Thiên Chúa và kêu gọi con người tuân phục vô điều kiện. Thực thế, đối với Người, đời sống Kitô hữu không phải là một tôn giáo huyền bí mà sự khai đạo là tất cả, cũng chẳng phải là một học thuyết cao siêu nhưng không mấy đòi hỏi môn đồ. Ngay những kẻ xem ra không sống gần bên Chúa Giêsu đến nỗi được Người cho quyền làm phép lạ nhân danh Người, vẫn có thể bị khai trừ nếu không thực hiện thánh ý Chúa Cha.
2. Do việc dụ ngôn nói đến cái nhà sau cùng, nhiều vị chú giải đã xem nhà như là điểm chính yếu và nghĩ rằng Chúa Giêsu sẽ so sánh người môn đồ sống đức tin như nhà được xây trên đá, còn thính giả cứng lòng tin như nhà dựng trên nền cát. Tuy nhiên không phải đọc phần cuối là quên phần đầu của dụ ngôn. Người môn đồ, tin hay không tin, chẳng được so sánh với cái nhà, nhưng với người thợ xây khôn ngoan hay thiếu suy nghĩ.
3.Cả hai là những nhân vật cổ điển của các dụ ngôn. Người thứ nhất là kẻ khôn ngoan, lanh trí, làm việc thành công. Người thứ hai là kẻ khờ khạo, điên khùng, chậm hiểu, rờ đâu hư đó. Hai tình tiết trong dụ ngôn đều cần thiết xét về ý nghĩa, nhưng tình tiết sau lệ thuộc tình tiết đầu. Giản lược lại, lời so sánh có thể phát biểu như sau: người khôn là kẻ xây nhà trên đá; nên nhà có thể đương đầu với gió táp mưa sa; cũng vậy, người khôn là kẻ nghe lời Ta và đem ra thực hành, vì họ sẽ mạnh hơn mọi thử thách. Tiếp theo là lời so sánh về người khờ dại.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Lạy Chúa, lạy Chúa": Đây là lần đầu tiên Matthêu nói có những người thân thưa với Chúa Giêsu như với "Chúa" của họ. Trong cả Tin Mừng Matthêu, chỉ có các tín hữu, nghĩa là các môn đồ hay những kẻ sắp trở thành môn đồ, mới gán cho Người danh hiệu ấy: 8, 2. 6. 8. 21 so sánh với 8, 19. 25; 9, 28; 13, 27; 14, 18. 30; 15, 22. 25. 27; 16, 22; 17, 4. 15; 18, 21; 20, 30. 31. 33; 25, 11. 20. 22. 24. 37. 44; 26, 22 (so sánh với 26,25). Ở đây, cố ý nói rõ hơn về các môn đồ, vì muốn được lưu ý, nên thường xuyên kêu tên Chúa nơi miệng.
"Cha Ta": Kiểu nói này, không được dùng trong Do thái giáo bao giờ, ngụ ý rằng giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa có một sự liên hệ độc nhất vô nhị, hoàn toàn phân biệt Người với mọi tạo vật khác. Ta cũng có thể xem đây là lời khẳng định còn kín đáo thần tính của Người.
"Trong ngày ấy": Việc ám chỉ đến ngày phán xét cuối cùng (10,15; 12,36; 24,19 v.v...) và thể văn long trọng loan báo quang cảnh vĩ đại của chương 25, 31-46; chỉ có điều là nơi đây, những kẻ được phán xét biết rõ điều mình đã nói, việc mình đã làm, trong lúc ở chương 25, họ chẳng biết gì cả. Ở đây thói náo hoạt tông đồ đã làm con người quên đi các yêu sách căn bản; đó là điểm Matthêu thường hay nhắc tới (9,13; 12,7; 23,23). Nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ nhân danh Chúa Giêsu, các việc này đã làm nhiều môn đồ lơ là bổn phận sơ đẳng đối với anh em hay tha nhân. Trong các thư Tân Ước, điểm này thường vọng lại dưới nhiều kiểu nói khác nhau (ví dụ trong 1Cr 13).
"Ta không hề biết các ngươi": Thành ngữ này là một cách người Do thái bảo rằng: không phải Chúa Giêsu chẳng biết những kẻ đã từng liên hệ với Người, song là đối với Người, họ không là gì cả. Họ chẳng bao giờ biết hối cải trong tim. Họ là những anh em giả, chỉ liên hệ với các môn đồ bên ngoài hay là những kẻ dần dần mất đi tính cách môn đồ đích thật.
"Ai nghe": Bị tuyên bố là người dại kẻ nghe mà chẳng đem ra thực hành. Còn kẻ không nghe (người ngoại giáo) thì chẳng hề bị buộc tội. Vào ngày phán xét, họ sẽ đứng lên tố cáo những ai đã nghe mà không đem ra thực hiện trong đời sống (12,41).
"Mưa đổ": Trước khi trời đổ mưa, không có gì phân biệt hai ngôi nhà bên ngoài cả. Chính khi gặp thử thách mới thấy rõ nền móng của chúng.
"Như Đấng có uy quyền": Các giáo sĩ thời Chúa Giêsu chỉ đưa ra ý kiến bằng cách trích dẫn một giáo sĩ có thế giá nào đó trước mình, để yểm trợ lời mình quả quyết. Còn Chúa Giêsu Người chẳng nại đến thẩm quyền của bất cứ giáo sĩ nào. Tuy nhiên Người vẫn mạnh mẽ xác quyết các lời mình nói là nền tảng cuối cùng của ý nghĩa đời sống con người. Matthêu đã lấy uy quyền ấy của Chúa Giêsu làm thành một chủ đề quan trọng trong Tin Mừng ông: chẳng những Chúa Giêsu nói cách quyền uy (các chương 5-7; 10; 13; 18; 23-25) mà còn hành động cách uy quyền khi trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật, dẹp yên bão táp.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu chẳng có vẻ gì là một nhà ngụy biện, cống hiến cho môn đồ mình các đề tài tranh luận hay một phương pháp biện chứng nhằn khám phá ra những lời hay ý đẹp. Không! Người là vị Thầy theo nghĩa tuyệt đối nhất. Người đòi buộc một sự dấn thân trọn vẹn và dứt khoát vì học thuyết của Người chỉ hoàn toàn có ý nghĩa khi được thể hiện trong hành động mà thôi.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Người ta có thể gia nhập các phong trào Công Giáo Tiến Hành, nói về Thiên Chúa cho kẻ khác và ngay cả giúp họ ăn năn trở lại; mà đồng thời vẫn không biết Chúa Kitô, vì chẳng thực sự sống bởi Người.
2. Như hai ngôi nhà trong dụ ngôn, hai tín hữu có thể giống nhau bề ngoài, sử dụng cùng những từ ngữ, thi hành cùng một chức vụ, được cùng thứ ơn đoàn sủng trong Giáo Hội. Ta chẳng thấy họ khác biệt nhau chỗ nào, lương tâm của cả hai có lẽ cũng bình an như nhau. Thế nhưng kẻ này mềm như cát, người kia vững như bàn thạch. Chính cơn thử thách sẽ cho thấy bản chất đích thực của hai người.
3. Có vài Kitô hữu đã để mình bị xiêu ngã vì một thử thách: như luôn cầu nguyện sốt sắng mà vẫn không được nhận lời, bị người thân yêu nhất phản bội, bàng hoàng trước gương xấu của một số chủ chăn. Đó là bởi thay vì đặt niềm tin của mình trên Lời Chúa, họ đã xây nó trên tình cảm tôn giáo (mà họ lầm lẫn với đức tin), trên các quyến luyến nhân loại mà họ cho là đức bác ái) hay trên một sự nóng lòng chờ đợi các kết quả thấy được bên ngoài (mà họ đồng hóa với đức cậy trông).
4. Dù bị nhiều cơn bão tố phủ vây suốt bao thời đại, Giáo Hội vẫn luôn đứng vững kiên trì vì được xây dựng trên Lời Chúa, Lời đã được đem ra thực hành trong đời sống của biết bao Kitô hữu vô danh làm nên mối Hiệp thông các thánh.
Vào dịp tết, khi đi mua sắm, cho dù rất tinh ý, thế mà nhiều lúc chúng ta cũng đã mua phải những:TN 9-A8 (RW)
Vào dịp tết, khi đi mua sắm, cho dù rất tinh ý, thế mà nhiều lúc chúng ta cũng đã mua phải những thứ hàng “nhái”, hàng “dổm”.
Một hộp bánh cũng in nhãn hiệu thật đẹp, mua về tưởng thứ thiệt, thứ ngon, nhưng khi mở ra thi ôi thôi, chỉ toàn những thứ bánh tào lao thiên địa. Một chai “rượu tây”, cũng mang nhãn hiệu Martel, Hennessy đàng hoàng, nhưng khi khui ra thì lại nồng nặc mùi cồn. Trong những trường hợp như thế, chúng ta dở khóc dở cười, bực bội tức tối như bị lừa gạt. Đúng như người ta thường bảo:
- Hồng Kông bên hông Chợ Lớn.
Trong lãnh vực tôn giáo cũng vậy, chính Chúa Giêsu qua đoạn Tin Mừng hôm nay đã xác quyết:
- Không phải những ai nói rằng: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi mà được vào Nước Trời”.
Theo sự nhận xét thường tình, thì khi thấy một người nào đeo ảnh, một gia đình nào có bàn thờ, một giáo xứ nào có thánh đường… chúng ta sẽ kết luận ngay rằng: người đó, gia đình đó, giáo xứ đó có đạo.
Nhận xét trên tuy đúng, nhưng mới chỉ đúng được có một phần nào mà thôi, bởi vì rất có thể “cái nhãn hiệu trình tòa” ấy, cái dấu chỉ bên ngoài ấy thì đúng, nhưng tâm tình bên trong thì lại sai và họ chỉ là một loại Kitô hữu “dổm” mà thôi.
Thực tế đã cho thấy: nhiều người tuy có đạo, nhưng đời sống lại không phản ảnh cho tinh thần của đạo. Cũng cờ bạc, cũng rượu chè và trai gái, cũng gian tham và hối lộ, cũng độc ác và hận thù… đôi khi còn tệ hơn cả những anh em lương dân, khiến cho thiên hạ phải phát biểu:
- Có đạo mà cũng thế à? Tôi tưởng người có đạo thế nào, chứ như vậy thì cũng chẳng hơn gì. Tin đạo nhưng đừng tin kẻ có đạo.
Bản thân họ xấu đã đành, mà hơn thế nữa họ còn làm cho tập thể mang tiếng xấu, họ đã bôi nhọ khuôn mặt của Giáo hội và của đạo Chúa. Vỏ thì có đạo, nhưng ruột lại chẳng có đạo. Bên ngoài thì sốt đáng, nhưng bên trong lại chất đầy những ý đồ đen tối theo kiểu:
- Khẩu phật tâm xà. Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
Ông Gandhi, được coi như một vị thánh của Ấn Độ, mặc dầu đã công nhận Chúa Giêsu là Đấng tốt lành, nhưng vẫn không chịu tin theo và cũng chẳng muốn cho dân tộc mình tin theo Kitô giáo, chỉ vì ông đã tiếp xúc với những loại Kitô hữu dổm, những người giáo dân bê bối.
Đây cũng là một nhận xét đáng cho chúng ta suy nghĩ: Có đạo, nhưng cũng trộm cắp và gian tham, thì cũng chỉ là một loại Kitô hữu dổm mà thôi. Có đạo nhưng cũng thù hận, bỏ vạ và cáo gian thì cũng chỉ là một loại Kitô hữu dổm mà thôi. Có đạo nhưng cũng bê bối chuyện gia đình và phản bội trong tình yêu, thì cũng chỉ là một loại Kitô hử dổm mà thôi. Có đạo nhưng cũng rượu chè say sưa đến độ không còn giữ được nhân cách của mình, hay cờ bạc khiến cho vợ con phải nheo nhóc, thì cũng chỉ là một loại Kitô hữu dổm mà thôi.
Đeo ảnh, đi nhà thờ, làm dấu thánh giá… đó là những điều tốt, nhưng mới chỉ là những dấu hiệu bên ngoài, những nhãn hiệu trình tòa mà thôi. Muốn trở nên người Kitô hữu thứ thiệt, người Kitô hữu 100% thì việc làm phải đi đôi với lời nói và lời nói phải đi đôi với tư tưởng, có nghĩa là bên ngoài cũng như bên trong phải là một, bằng cách sống Lời Chúa và thực thi những điều Ngài truyền dạy. Người ta thường bảo:
- Chiếc áo không làm nên thầy tu.
Dấu chỉ bên ngoài không đủ để chứng minh là người Kitô hữu, nhưng phải căn cứ vào chính nếp sống. Vì thế, gần nhà thờ hay xa nhà thờ, có linh mục hay không có linh mục, được tự do hay không được tự do, những điều ấy không mấy quan trọng, bởi vì bất cứ nơi nào cũng có Chúa và cũng có thể sống đạo. Bất cứ nơi nào cũng có thể trở thành nhà thờ. Được tự do, thì chúng ta tôn thờ Chúa một cách công khai. Còn khi gặp khó khăn, thì ít nữa là chúng ta sống đạo một cách kín đáo vì Chúa luôn hiện diện trong cõi lòng chúng ta và tại đây chúng ta cũng có thể tìm gặp Ngài bất cứ lúc nào.
Có sống lời Chúa, có thực thi những điều Ngài truyền dạy, chúng ta mới trở nên người Kitô hữu thứ thiệt và mới bảo đảm cho chúng ta phần thưởng Nước Trời.
Những lời Chúa nói hôm nay khiến ta run sợ. Ngay cả những người làm được những việc phi:TN 9-A9
Những lời Chúa nói hôm nay khiến ta run sợ. Ngay cả những người làm được những việc phi thường như nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ cũng có thể bị loại ra khỏi Nước Trời. Ngay cả những người làm việc cho Chúa, cho Hội Thánh cũng có thể bị vào nơi khóc lóc nghiến răng. Tại sao thế?
Lý do thứ nhất: vì họ nói mà không làm. Điều này rất dễ xảy ra cho những ai có nhiệm vụ khuyên bảo dạy dỗ người khác. Cứ nghĩ người khác phải thực hành, còn mình được miễn. Chúa Giêsu gay gắt nên án điều này khi nói với dân chúng: “Các kinh sư và những người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23,2-3). Hôm nay Chúa nhắc lại cho chúng ta: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi”.
Lý do thứ hai: vì họ làm nhưng không có nền tảng. Có những người đã nói tiên tri, đã trừ quỷ, đã làm những việc phi thường, nhưng không được Chúa chấp nhận. Vì họ làm theo ý mình chứ không theo ý Chúa Cha. Làm không phải vì tình yêu mến thì dù những việc kinh thiên động địa cũng trở thành vô ích như Thánh Phaolô đã căn dặn chúng ta: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các Thiên Thần…, được ơn nói tiên tri…, có được đức tin chuyển núi rời non…, có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (x. 1Cr 13, 1-3)
Sau khi nên án những môn đệ giả hiệu, Chúa Giêsu cho biết căn tính của người môn đệ chân chính. Người môn đệ chân chính thao thức lắng nghe Lời Chúa và tìm thi hành thánh ý Chúa. Như thế người môn đệ chân chính sẽ có những đặc tính sau: Tìm ý Chúa trên hết mọi sự. Luôn cầu nguyện, cân nhắc để tìm thánh ý Chúa trong mọi sự. Khi tìm được ý Chúa thì mau mắn thực hành ngay.
Từ bỏ ý riêng. Luôn tìm theo ý Chúa, nên sẵn sàng từ bỏ ý riêng. Sẵn sàng chấp nhận những gì trái ý. Không tìm kiếm những thành công lẫy lừng. Nhưng chọn những việc nhỏ bé âm thầm. Chấp nhận cả những thất bại. Chấp nhận sự hiền lành khiêm nhường.
Chính những người môn đệ chân chính mới xây dựng cuộc đời vững chắc. Chính những môn đệ khiêm nhường âm thầm mới xây dựng Hội Thánh trên nền tảng vững chắc. Những thành công bề ngoài như những ngôi nhà xây trên cát, khi gặp khó khăn thử thách sẽ đổ vỡ tan tành. Những hy sinh âm thầm như những ngôi nhà xây trên nền đá vững chắc. Càng qua gian khổ càng bền vững, càng phát triển mạnh mẽ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trở thành môn đệ chân chính của Chúa, biết xây dựng Hội Thánh trên nền tảng khiêm nhường, từ bỏ ý riêng, thực hành ý Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1/ Tại sao nhiều người làm được những việc lớn lao kỳ diệu lại không phải là môn đệ Chúa?
2/ Người môn đệ chân chính phải có thái độ nào để xây Hội Thánh trên nền đá vững chắc?
3/ Chúa Giêsu đã nêu gương xây dựng nhà trên đá thế nào?
Tôi muốn viết thành chữ thật lớn lời cảnh báo của Chúa Giêsu, ánh sáng của bài suy niệm này: TN 9-A10
Tôi muốn viết thành chữ thật lớn lời cảnh báo của Chúa Giêsu, ánh sáng của bài suy niệm này: “Chưa đủ”. Cái gì chưa đủ? Xin thưa, đó là “nói”. Chúng ta đang đứng trước một trong những chủ đề lớn của Chúa Giêsu, khoảng cách xa xôi giữa nói và làm: “Không phải nói với Ta: Lạy Chúa! Lạy Chúa là đủ; còn phải làm theo ý Cha Ta nữa”.
Đó là kết luận của bài giảng mà chúng ta vừa suy niệm ngày này sang ngày khác: các chương 5, 6 và 7. Các chương này chỉ ra cho chúng ta rất rõ phải làm sao để sống với tư cách là Kitô hữu. Nhưng biết tất cả những điều trên vẫn chưa đủ, còn phải vượt qua khoảng cách nhỏ mà lớn giữa biết và làm, giữa nói và sống thực sự điều chúng ta nói. Cũng giáo lý tuyệt vời đó, cũng những bài giảng hay đó, cũng những bài đọc và những bài suy niệm đó tạo nên hai loại Kitô hữu hoàn toàn khác nhau.
Có loại người Kitô hữu tôn thờ việc nghe và đọc: “Các bạn hãy nói cho tôi nghe về Thiên Chúa! Hãy chỉ cho tôi biết quyển sách nào tốt nhất để cầu nguyện”. Họ biết tất cả những điều gì cần phải biết, nhưng thất vọng thay! thật là phiền khi thấy họ sống trong những lo toan, cay đắng, ích kỷ, châm chọc. Họ đọc hàng ngàn Kinh Lạy Cha nhưng không tha thứ gì cả. Họ tâm đắc dụ ngôn cọng rơm và xà nhà nhưng lại đi bươi móc những cọng rơm.
Chúa Giêsu nói với những người hay nói những từ ngữ Kitô giáo mà không thực hành: “Các ngươi là những kẻ điên!” Kết cục của Bài Giảng Trên Núi thật bi đát: “Những kẻ điên này xây nhà trên cát, nhà sụp đổ hoàn toàn”.
Loại người tốt, loại người đúng nghĩa, cũng thích lắng nghe Chúa Giêsu. Nhưng những Kitô hữu đó cố gắng làm điều Ngài nói. Họ xây dựng trên nền tảng thực hành. Bạn biết rằng bạn phải tha thứ? Bạn hãy tha thứ! Bạn biết rằng bạn phải tin tưởng vào Chúa Cha? Bạn hãy rũ bỏ những lo toan của bạn. Bạn biết rằng bạn phải cầu nguyện? Bạn hãy cầu nguyện! Bạn phải cho? Bạn hãy cho đi! Bạn không được nói xấu? Bạn hãy im lặng.
Chúng ta không bao giờ thiếu ánh sáng. Chúng ta có đủ ánh sáng để bước đi trên con đường của các thánh. Và chúng ta biết rằng mỗi bước chân của chúng ta sẽ mang lại thêm ánh sáng: Chúa ban ánh sáng để can đảm mà “làm”.
Sau đây là kết luận của Bài Giảng Trên Núi nổi tiếng. Như trong mọi bài thuyết giáo soạn thảo:TN 9-A11
Sau đây là kết luận của Bài Giảng Trên Núi nổi tiếng. Như trong mọi bài thuyết giáo soạn thảo kỹ lưỡng, nhà thuyết giáo, sau khi đã mang lại cho cử tọa những yếu tố để suy nghĩ, Người mời gọi chúng ta hành động và gợi ra những điểm hoán cải cụ thể trọn đời sống? Matthêu khi soạn bài giảng này đã dùng nhiều bài giảng khác của Đức Giêsu như muốn đưa chúng ta đến một quy luật của mọi đời sống tâm linh: đức tin không hành động có phải là đức tin chân thành không? Thánh Phaolô cũng đã chấm dứt các bức thư và các bài thuyết giáo của ngài bằng những lời kêu gọi hành động, trên những điểm rất xác thực về đạo đức, về những thái độ của con người.
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu”
Một lần nữa, nơi miệng Đức Giêsu, một yêu sách rất hiện đại được đưa ra: giới trẻ ngày hôm nay đòi hỏi sự chính thống... nhất là trong lãnh vực của đức tin, những bài diễn văn dài không qua nổi... "Chúng con không quan tâm đến điều mà chúng con phải tin, theo như lời cha nói, nhưng xin cha hãy nói với chúng con về điều mà cha tin, và kinh nghiệm thật sự của cha về Thiên Chúa là gì?" Đi trước thế giới hiện đại, Đức Giêsu đã từ khước việc giả bộ đọc kinh, thói đạo đức giả của việc thờ phượng không tác động đến đời sống hàng ngày, cớ làm vấp ngã của những người sùng đạo miệng lúc nào cũng kêu Chúa nhưng mà hành động không tương ứng với những lời tuyên bố đẹp đẽ.
Đức Giêsu đòi hỏi mạnh mẽ sự liên kết giữa "nói" và "làm", giữa đức tin "tuyên xưng" ngày Chúa Nhật và đức tin “sống" trong suốt tuần lễ. Người ta có thể diễn tả câu nói của Đức Giêsu như sau: "Đi lễ ngày Chúa Nhật không đủ để vào Nước Thiên Đàng...". Thế thì phải làm gì?
“Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi".
Mọi chữ trong câu đều quan trọng. Câu duy nhất này bao gồm ba khẳng định:
* “Làm” hay “thi hành”. Động từ chủ động và quan trọng này trở lại mười một lần trong kết luận của Bài Giảng Trên Núi (Matthêu 7,12-26). Đây là lời mời gọi thể hiện thật sự đức tin trong đời sống hằng ngày, trong đời sống gia đình, lao động, giải trí, trong những dấn thân xã hội, công đoàn, chính trị, dấn thân của Giáo Hội, không có gì xa lạ với đức tin.
* “Ý muốn của Chúa Cha”. Đó là sự quy chiếu bền bỉ của Đức Giêsu. Người ta có cảm tưởng Đức Giêsu chỉ nghĩ về Chúa Cha và chỉ làm những gì vui lòng Chúa Cha, trong mọi giây phút của cuộc đời Người (Ga 4, 32-34; 5,30-39). "Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26,39). Vậy "Ý muốn của Chúa Cha" ấy là gì? Thiên Chúa là Tình Yêu đó là điều Người muốn, điều ấy không để cho Người. . . nhưng cho sự phát triển, và hạnh phúc chân thật của chúng ta, là điều mà Thiên Chúa muốn cho chúng ta. Nhưng Người không áp đặt chúng ta điều đó bởi vì Người là Tình Yêu. “Ý muốn của Thiên Chúa" chính là sự thành công của bản thân chúng ta, một đôi khi dưới những vẻ bề ngoài nghịch lý của sự thất bại. Đời sống của các thánh đều là những sự thành công: Thánh nữ Béc-na-đét ở Lộ Đức, thánh nữ Têrêxa thành Lidiơ, Mẹ Têrêxa ở Can-quýt-ta… Đấng ngự trên trời, phải, Thiên Chúa Cha siêu vượt con người và vượt trên con người! Người ở “trên trời”, "trên hết mọi sự". Và sống theo ý muốn của Người là một cách sống không thể "theo thế gian”: Ngày nay trong xã hội phương tây, vô thần sâu xa và bị nhiễm độc bởi hàng ngàn khẩu hiệu dễ dãi, thì một đời sống theo Thiên Chúa chỉ có thể là "lội ngược dòng". Người nào cố gắng thực thi ý muốn của Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, không thể chấp nhận bất cứ ý tưởng nào mà dư luận truyền bá và chấp nhận, đôi khi rất rộng, về Thiên Chúa, về Đức Ki tô, về Giáo Hội và cả con người… về cách sống đời sống vợ chồng, đời sống làm cha mẹ, đời sống người công dân…
“Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?. Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!”
Trong đoạn văn trịnh trọng này, ít nhất có bốn công thức cho chúng ta thấy Đức Giêsu dám tự giới thiệu như Đại Thẩm Phán của thời Thế Mạt: "Trong ngày ấy… Lạy Chúa, Lạy Chúa... chúng tôi đã... Thầy sẽ tuyên bố với họ xéo đi cho khuất mắt...". Những công thức ấy được trình bày song song với những công thức mà người ta sẽ tìm thấy khung cảnh vĩ đại của ngày Phán Xét cuối cùng (Mt 5). Mỗi lần có vấn đề phán xét, chúng ta đứng trước những lời đáng sợ và chúng ta phải lấy đó làm nghiêm trọng.
Trong ngày ấy, Thiên Chúa sẽ tỏ hết quyền năng của Người. Người ta không còn chế giễu Người đã không trừng phạt tới cùng. Kẻ nào "làm điều xấu không thể khoe rằng mình sống đời đời với Thiên Chúa: "Xéo đi cho khuất mắt Ta!". Bản văn Hy Lạp thường dịch là: "Hãy xéo đi, quân làm điều bất chính!". Thật vậy, từ gian ác là do từ Hy Lạp "anomia" có nghĩa đen là "bất chính". Chúng ta biết rằng "luật của con người" chính là "luật của Thiên Chúa", bởi vì đó là tình yêu. Một con người “không tình yêu thương” không thể khoe rằng mình "sống với" Thiên Chúa! Sự phán xét sau cùng sẽ chỉ có thể là hình phạt, sự xác nhận một đời sống "không tình yêu”: Xéo đi cho khuất mắt Ta, là Đấng Yêu Thương, hỡi bọn không có tình yêu thương.
Nhưng ở đây điều kỳ lạ nhất và đáng sợ nhất là những kẻ bị "kết án" tranh luận với vị Thẩm Phán của họ và không đồng ý như trong chương 25 của sách Matthêu.
Tất cả đời sống của họ đã là một ảo tưởng, cho đến ngày trọng đại ấy, lúc mà chân lý bừng sáng. Đức Giêsu còn đi đến chỗ nói rằng người ta có thể hành động "nhân danh Người" nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ, nhưng những hành động ấy xấu xa, bất công và không tình yêu thương, và một cách sâu xa hoàn toàn trái ngược với Đức Giêsu Kitô. Và Đức Giêsu còn nói rằng những người như thế rất "nhiều” trong trường hợp này. Người làm chúng ta phải run sợ? Sự cảnh báo này rất quan trọng. Phải, Đức Giêsu nói: nhiều', rất nhiều ông và nhiều bà đi tìm kiếm sự ly kỳ trong tôn giáo (các lời tiên tri, phép trừ quỷ, phép lạ) và không đem tình yêu thương ra thực hành một cách khiêm tốn trong cuộc sống đời thường mỗi ngày. Rất nhiều ông nhiều bà muốn "đóng vai trò ngôn sứ "! Rất nhiều những lời tuyên bố to lớn về lý thuyết, những lời phê phán xã hội hoặc Giáo Hội . . .( của những người khác ) . . . thay vì chuyên cần hoán cải chính mình. Hỡi ôi, người ta có thể "chuyển dời những quả núi" và "làm những phép lạ" mà không có lòng yêu thương như Thánh Phaolô sẽ nói (1 Cô-rin-tô 18,1-2): và điều đó thật là vô ích.
Lạy Chúa, xin giúp đỡ chúng con sống đời sống Kitô hữu của chúng cón một cách khiêm nhường, không kèn trống, không hào quang, không tự mãn.
Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành... .
Cũng một yêu sách về tính hiện thực được kéo dài ra: "nghe" và "thực hành"... ở đây, có cùng một động từ bằng tiếng Hy Lạp "poiein" như vừa rồi chúng ta đã gặp: Phải thi hành ý muốn của Cha Thầy". Động từ tiếng Do Thái “Shâma" vừa có nghĩa "lắng nghe" vừa' có nghĩa "vâng lời.
Thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào nhà ấy cũng không sụp được vì đã xây trên nền đá...
ở đây cũng là sự kéo dài của yêu sách về tính chất xác thực chính thống: Đức Giêsu mong ước con người dù nam hay nữ phải vững vàng, phải là những nhà xây dụng biết xây cất trên tảng đá của Lời Thiên Chúa "đã được họ lắng nghe và đem ra sống. Khi người ta xây dựng một ngôi nhà thực hiện nhiều sự kiểm tra là việc làm khôn ngoan. Những cặp vợ chồng trẻ ít biết điều đó. Nhiều sự gian lận có thể được che giấu: móng không đủ sâu, trên nền đất không chắc chắn, trộn vào xi măng hoặc vôi quá nhiều cát, gạch đá xây tường chất lượng xấu, thạch cao trét tường để lạnh, thời gian đủ để xi măng cứng không được tôn trọng, v.v... Ngày nay, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta thực hiện một cuộc "kiểm tra chất lượng" trên bình diện đời đống đức tin: Chúng ta đang sống trong "ngôi nhà nào”? Những chọn lựa nhân bản của chúng ta phải chăng chỉ được quét một lớp vôi của Tin Mừng ở mặt ngoài còn thực chất ở nền tảng là ngoại giáo? Đức tin của chúng ta có phải là một sự dấn thân thực sự theo chân Đức Kitô hằng sống, hay chỉ là một lớp "son phấn", một thứ "mặt nạ”?
Một ví dụ chăng? Từ bỏ chủ nghĩa vô thần: Điều này đã khiến: nhà văn Solienitsine bị đưa đến trại cải tạo ở Xibêri và bị trục xuất khỏi quê hương ông. Còn tiếp tay cho chủ nghĩa vô thần: Điều này dẫn đến cái chết của hàng triệu người ở Campuchia và ở những nơi khác... Phần chúng ta thì sao? "Lắng nghe Đức Giêsu và đem Tin Mừng của Người ra thực hành".
“Còn ai nghe những lời Thầy nói đây mà chẳng đem ra thực hành thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát..."
Ngôi nhà trên đá… Ngôi nhà trên cát. Đúng là đời sống Kitô hữu vững chắc so với đời sống Kitô hữu mong manh. Thi hành ý muốn của Thiên Chúa không thể tùy tiện mà là một vấn đề sống hoặc chết. Kinh Thánh thường nhắc chúng ta có "Hai con đường" mở ra cho chúng ta tự do lựa chọn (Đệ Nhị Luật 11,26-28 - 30,15-20; Giê-rê-mi-a 21.8; Khôn Ngoan 5,6-7; Thánh Vịnh 1,15 - 118,29-30 - 138,24). Đó là một chủ đề của Kinh Thánh cũng thường gặp như chủ đề người "điên dại" và người "khôn ngoan": Người nào không theo ý muốn của Thiên Chúa thường được định nghĩa là "ngu dốt", "điên dại"; "ngốc nghếch"; "khờ khạo” (Thánh Vịnh 13,1 - 91,7 '; Khôn Ngoan 3,2; Matthêu 25,2).
“Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành".
Dấu chỉ của đức tin.vững chắc chính là khả năng làm cho ta "trụ vững" khi thử .thách ập đến. Lạy Chúa, xin cho chúng con chống cự nổi những sức mạnh phá hoại (đức tin). ..
Thánh thiện là thi hành ý Chúa trong những việc quan trọng hay có vẻ vặt vãnh tầm thường TN 9-A12
1) Thánh thiện là thi hành ý Chúa trong những việc quan trọng hay có vẻ vặt vãnh tầm thường.
Thiên Chúa dành tình yêu đặc biệt cho những ai hết lòng phục vụ Người trong mọi sự, bằng lời nói và khát khao đối thoại với Người. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu tuyên bố. "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi." Chúa nói đến nhiều người biến việc cầu nguyện thành một công thức hoàn toàn chẳng ăn nhập gì với cung cách giả hình và xảo quyệt của họ. Lời cầu nguyện của chúng ta phải khác. Lời cầu nguyện của bạn phải là lời cầu nguyện của người con Chúa, chứ không phải của bọn người giả hình Pharisêu là những kẻ sẽ phải nghe lời Chúa nói: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu!"
Lời cầu nguyện của bạn, qua hàng ngàn cách khác nhau trong suốt cả ngày, phải được liên kết với lòng khát khao và nỗ lực hiệu quả muốn thi hành thánh ý Chúa.
Cho dù chúng ta có thể làm được những kỳ công hay phép lạ, chẳng hạn như nhân danh Chúa nói tiên tri hay trừ quỷ - nhưng nếu chúng ta không nỗ lực thực thi ý muốn đáng yêu của Chúa thì vẫn chưa đủ. Lúc đó ngay cả sự hy sinh to lớn nhất cũng sẽ trở nên vô ích. Trái lại, như chúng ta thấy trong Thánh Kinh, Thiên Chúa yêu thương và chúc phúc cho người nào tìm cách đồng hóa mọi việc mình làm với ý muốn của Người: "Ta đã tìm được Đavít, con của Giêsê, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta". Thánh Gioan viết: "Thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi." Chính Đức Giêu tuyên bố. "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người." Đây là điều quan trọng: thi hành ý muốn của Chúa, trở nên điều Chúa muốn. Chúng ta phải càng ngày càng loại bỏ khỏi bản thân những thái độ vụ lợi và ích kỷ, để hoàn toàn nên một với điều Chúa muốn cho chúng ta.
Con đường dẫn đến thiên quốc, và đến hạnh phúc ngay trên trần gian này, là vâng phục thánh ý Chúa, chứ không chỉ là cứ mãi kêu tên Người. Cầu nguyện phải được xác nhận bằng hành động, bền bỉ khát khao thi hành ý Chúa. Thánh Têrêxa nói: "Thật là một điều kinh khủng nếu Thiên Chúa thẳng thắn bảo bạn lo liệu công việc của Người một cách nào đó nhưng bạn lại không làm, thay vào đó bạn cứ đứng trân trân nhìn Người vì điều đó mang lại cho bạn sự vui khoái hơn”. Thật đáng thương nếu Thiên Chúa muốn dắt chúng ta đi theo một con đường, nhưng chúng ta lại ngoan cố đi theo con đường riêng của mình!
Thỉnh thoảng bạn có thể nghĩ về vị Tông đồ trẻ Gioan, người Chúa Giêsu yêu mến.
Bạn có muốn xứng đáng được gọi là "người yêu mến thánh ý Chúa không? Vậy thì hãy tiến hành các bước cần thiết, ngày này qua ngày khác. Các bước này thường hệ tại ở chỗ thi hành các bổn phận nhỏ bé hằng ngày và tự hỏi nhiều lần trong ngày: Có phải hiện giờ tôi đang làm điều nên làm hay không? Chúng còn bao hàm việc chấp nhận những khó khăn thử thách trong đời thường, phấn đấu làm theo lời khuyên nhận được trong khi linh hướng, và thanh lọc ý hướng thường xuyên.
Lạy Chúa, con chỉ muốn làm điều Chúa muốn con làm, theo cách Chúa muốn con thực hiện. Con không muốn làm theo ý riêng con, theo những ý thích ngu ngốc của con, nhưng theo thánh ý Chúa. Lạy Chúa, con ước ao rằng cuộc sống của con phải là thi hành ý Chúa trong mọi sự để con có thể nói, như Chúa đã từng nói, cả trong việc lớn cũng như việc nhỏ: Lương thực của tôi, điều mang lại ý nghĩa cho đời tôi, là thi hành thánh ý Chúa Cha.
2) Chúng ta muốn điều Chúa muốn. Phó thác cho Người chăm lo
Cũng trong bàì Tin Mừng hôm nay, Đức Kitô nói với chúng ta về hai ngôi nhà, được xây cùng lúc, và bên ngoài giống hệt nhau. Nhưng điểm khác biệt lớn giữa chúng trở nên rõ rệt khi thời gian thử thách xảy đến: mưa xuống, nước lụt và gió giật. Một trong hai vẫn đứng vững vì nó dựa trên nền móng kiên cố, còn cái kia thì sụp đổ vì xây trên cát. Chúa gọi người xây ngôi nhà thứ nhất, ngôi nhà đứng vững, là người khôn ngoan. Còn kẻ xây ngôi nhà thứ hai là người ngu dại.
Ngôi nhà thứ nhất chống đỡ được những cơn gió giật và nước lụt dâng cao, không phải do thiết kế, hoặc ngay cả do mái nhà cấu kết chặt chẽ với nhau, nhưng do nền móng của nó đặt trên đá tảng. Ngôi nhà ấy tồn tại, che chở an toàn cho chủ nhân và là một mô hình kiến trúc vững chãi: Cũng như vậy đối với người xây trên đá, nghĩa là khát vọng của họ được chuyển thành hiện thực, bằng cách thi hành ý Chúa trong những việc nhỏ bé thường ngày và cả những lúc khó khăn thử thách ập đến. Ngôi nhà - đời sống của người Kitô hữu noi gương Đức Kitô bằng những hành động cụ thể - không sụp đổ, bởi vì nó được xây trên sự phó thác hoàn toàn cho thánh ý Thiên Chúa Cha. Sự phó thác này không cản trở người ấy bảo vệ mình khi phải tranh cãi đề tìm ra công lý. Người ấy cũng có quyền đòi hỏi những quyền lợi chính đáng. Tuy nhiên, tất cả những việc này phải được thực hiện với thái độ bình tâm, không dằn vặt hay cay cú chua chát.
Trong buổi cầu nguyện hôm nay, chúng ta sẽ nói với Chúa rằng chúng ta muốn buông mình trong cánh tay Người; ở đó chúng ta sẽ được an toàn tuyệt đối. Đừng khao khát điều gì vì bản thân, dù tốt hay xấu: chỉ muốn điều Chúa muốn. Khi ở bên Đức Giêsu, bạn sẽ thấy rằng điều cay đắng trở nên ngọt ngào, và những gì thô nhám biến thành dịu êm.
Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng đặt mình trong tay Chúa, giấu mặt con vào ngực Chúa, ép chặt trái tim con vào Trái Tim Chúa: Con muốn điều Chúa muốn, trong hết mọi sự.
3) Thi hành và yêu mến Ý Chúa trong mọi hoàn cảnh sống, trong việc lớn cũng như việc nhỏ
Nếu chúng ta muốn đứng vững trong những giờ phút thử thách khó khăn, chúng ta cần phải vui vẻ chấp nhận những trở ngại nhỏ nhặt xảy ra tại nơi làm việc, trong đời sống gia đình... Chúng ta phải thi hành, một cách trung tín và không vụ lợi, các nghĩa vụ của bậc sống, như việc học hành, chăm sóc gia đình... Nhờ vậy nền móng ngôi nhà của chúng ta cắm sâu hơn, và toàn bộ tòa nhà được vững chãi hơn. Trung thành trong những việc nhỏ nhặt và ít được chú ý, sẽ giúp chúng ta trung thành trong những việc lớn.
Nếu chúng ta trung thành thực thi ý muốn của Chúa trong các việc nhỏ, chúng ta sẽ tập được thói quen nhận ra Sự Quan Phòng của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mọi sự xảy đến cho mình. Những việc nhỏ có thể là các bổn phận hằng ngày hay lời khuyên mà chúng ta nhận được trong khi linh hướng, đón nhận những khó khăn không thể tránh khỏi trong đời thường. Chúng ta sẽ nhìn ra bàn tay quan phòng của Thiên Chúa trong lúc khỏe mạnh và khi ốm đau, khô khan và an ủi, bình an và thử thách, lao nhọc và nghỉ ngơi. Chúng ta sẽ học được cách dễ dàng gạt sang một bên lòng kính trọng của con người, bởi vì điều quan trọng đối với chúng ta sẽ là thi hành bất cứ điều gì Thiên Chúa muốn. Nhờ đó chúng ta sẽ được hưởng sự tự do khi luôn luôn hành động trước mặt Chúa, một cách tin tưởng, mạnh bạo, dạn dĩ, không e sợ khi phải nói về Người.
Một nền móng rộng lớn, kiên cố và không thể lay chuyển có thể chống đỡ cho cả những tòa nhà khác nữa. Khi đời sống nội tâm của chúng ta xây trên nền tảng cầu nguyện và hành động, nó trở thành nơi trú ẩn cho nhiều người, ở đó họ tìm thấy nguồn tiếp sức cần thiết mỗi khi sức lực bắt đầu cạn kiệt.
Chúng ta đừng bao giờ để mất dấu Đức Giêsu, cho dù chỉ là một giây. Khi gặp phiền toái... cũng như khi thành công, bạn hãy lặp đi lặp lại: "Lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi con, đừng bỏ con mà đi; xin hãy nâng đỡ con như nâng đỡ một đứa trẻ vụng về lóng ngóng; xin hãy luôn luôn cầm tay dắt con đi!" Và cùng với Người, chúng ta sẽ đi đến cuối con đường, ở đó chúng ta sẽ thấy Người, diện đối điện. Cùng với Đức Giêsu, chúng ta sẽ tìm thấy Đức Maria, mẹ Người, cũng là mẹ chúng ta. Ước gì Mẹ ban ơn cho chúng ta thi hành thánh ý của Con Mẹ trong mọi việc. Lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi con, đừng bỏ con mà đi; xin hãy giúp con như giúp một đứa trẻ vụng về lóng ngóng, xin hãy luôn luôn cầm tay dắt con đi!
Đứng trước thành Giêrusalem đồ sộ, thành lũy kiên cố bao quanh, Chúa Giêsu nghĩ đến một:TN 9-A13
Đứng trước thành Giêrusalem đồ sộ, thành lũy kiên cố bao quanh, Chúa Giêsu nghĩ đến một Đền Thánh khác do chính Người thiết lập.
Giêrusalem trên đất nước Do thái sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, vì nó xây trên cát. Một thứ cát kiêu kỳ cố chấp, một thứ cát giả hình gian ác. Một thứ cát bằng môi bằng miệng: lậy Chúa, lậy Chúa, mà lòng thì xa Thiên Chúa. Một thứ cát ngồi trên tòa Môsê nói tiên tri về Đấng Cứu Thế, mà chẳng nhận ra Đấng Cứu Thế thật đang sống giữa họ. Một thứ cát giữ tỉ mỉ luật rửa chén, rửa tay, mà lại khinh bỉ loại trừ lương dân và những kẻ tàn tật neo đơn. Một thứ cát phong mình là dòng dõi Abraham, dòng dõi thánh, nhưng vu khống cho người vô tội, giết hại các tiên tri, và cả gan đóng đinh Con Thiên Chúa.
Giêrusalem đã xây trên những thứ cát đó, nên đã bị hận thù, mâu thuẫn bên ngoài và bên trong dân tộc xô đẩy sụp đổ.
Thay thế Giêrusalem bằng cát đó, Chúa Giêsu đã thiết lập một Đền Thánh mới xây trên ý Cha trên trời. Đó chính là thứ đá, cho dù trời đất qua đi Lời Hằng Sống của Người vẫn không qua đi, dù một chấm, một phẩy. Một thứ đá mặc cho quỷ tung hoành, vẫn không lay chuyển. Một thứ đá không bao giờ nâng mình lên cao, nên không bao giờ bị xô đổ. Một thứ đá nhu mì, khiêm tốn, nên không lực lượng sắt đá nào đập bể như đá liệng xuống nước vậy. Một thứ đá không ngồi trên tòa, trên ngai, trên đài mà nói, nhưng đi rao giảng khắp thành phố, làng mạc, hang cùng ngõ hẻm để rao giảng Tin Mừng, lặn lội, chung đụng với những người cùi, què, đui, câm điếc, tàn tật, tê bại để chữa lành (Mt. 9, 35). Một thứ đá không kỳ thị màu da, tiếng nói, giai cấp, dân tộc, mà tất cả đều là anh em, là chi thể trong một thân thể thánh. Một thứ đá không đàn áp, vu khống, kết án ai, nhưng sẵn sàng hy sinh, chịu sỉ nhục, bắt bớ, chết đi cho mọi người được sống lại và được sống dồi dào.
Mọi vương quốc, thành trì không xây trên đá đó đều bị sụp đổ mau chóng, còn thành Thánh là Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô từ hai ngàn năm đã tồn tại cho đến nay và tới muôn đời nhờ xây trên ý Cha trên trời.
Con người chúng ta được xây vừa bằng bùn cát vừa bằng đá, nếu không biết lấy đá ngăn chặn bùn cát, nó sẽ dễ dàng trôi dạt trong đam mê dối trá, bất công, hận thù. Nếu biết lấy lòng tin vàng đá, lòng mến sắt son giữ gìn bùn cát, nó sẽ trở nên đất tốt cho bao nhiêu cây cối tốt tươi, hoa lá xinh đẹp trổ sinh hoa quả phúc đức: khoan dung, nhân hậu, quảng đại, kiên trung, nhẫn nại, can đảm, hy sinh, vui với người vui, khóc với người khóc. Xây dựng trên nền tảng đức tin và đức mến, con người sẽ không phải chết bao giờ, nhưng sẽ được sống và sống vinh quang trong tình yêu mến Chúa muôn đời (Eph. 4,17-5,14 và 1Cor. 13)
Đức tin và đức mến giúp ta luôn luôn thi hành thánh ý Chúa Cha và lời hằng sống của Chúa Con: “Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lời Ta” đó chính là đá, chỉ trên đá này, chúng ta mới xây đời sống mình một cách kiên cố và bền vững muôn đời, mặc cho trời đất qua đi.
“Lậy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai: vì chỉ Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời” (Ga. 6, 68)
Cần nói ngay tảng đá chúng ta phải xây cất trên đó công trình thiêng liêng, ngôi nhà nói trong:TN 9-A14
Cần nói ngay tảng đá chúng ta phải xây cất trên đó công trình thiêng liêng, ngôi nhà nói trong Phúc Âm là Chúa Giêsu Kitô. Người ta có thể có ý tưởng hay, ước vọng lớn, dự tính hấp dẫn, không xây cất chắc chắn trên đó được. Ngược lại một người siêu nhiên đặt nền tảng vững vàng trên Chúa Kitô, về mặt trí thức và nhất là về mặt thực tế, người ấy chắc chắn. Phúc Âm mời gọi chúng ta suy nghĩ về thái độ thực tế cần thiết của lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu là ai? Ngài là Con Thiên Chúa. Quan hệ đức tin nối kết chúng ta với Chúa Con, đồng thời cho chúng ta tới được Chúa Cha. Chúng ta được tham dự vào tương quan mật thiết khiến ý Chúa Con cũng là ý Chúa Cha. Do đó, thái độ thực tế của đức tin đòi buộc chúng ta hoàn thành như Chúa Giêsu, với Ngài và trong Ngài, thánh ý Chúa Cha.
1) Thánh ý Chúa Cha nghĩa là gì?
Chúng ta hãy gạt bỏ mọi ý tưởng quyền lực thống trị hay độc đoán. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu không có ý muốn theo nghĩa đè nén, nhưng có hảo ý. Tiếng Do thái mà Chúa Giêsu dùng trong trường hợp này mang lại cho chữ ý muốn cái nghĩa hảo ý, mỹ ý: Chúa Cha đề nghị cho tự do nhân loại những điều Ngài xét là chân thật và tốt lành. Chúa Con đáp trả đề nghị ấy của Chúa Cha cách hoàn hảo, vì vậy Ngài được Chúa Cha hài lòng mọi đàng. Chúng ta chỉ vào được Nước Trời theo mức độ chúng ta biết liên kết các đáp trả của chúng ta là những nghĩa tử, với lại sự đáp trả của Chúa Giêsu. Chúa Cha là Đấng duy nhất thẩm định được cái gì tốt cho chúng ta, cái gì góp phần vào sự thăng tiến, cái gì tạo nên hạnh phúc thật cho chúng ta. Những điều ấy Ngài muốn cho chúng ta được, nhưng Ngài không áp đặt. Mỹ ý của lòng Cha vui mừng nếu thấy chúng ta ưng nhận điều tốt Ngài đề nghị cho chúng ta. Thực ra chính nơi việc ấy, Ngài tìm thấy vinh danh vì khi ấy bản tính Cha hay thương yêu của Ngài được tỏ rõ. Không được quên rằng, chỉ với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, chúng ta mới có thể đáp trả thánh ý Thiên Chúa trong tư cách là con cái.
2) Câu: Lạy Chúa! Lạy Chúa! chẳng phải nhân danh Ngài… có nghĩa gì?
Nó nhắm đến một mầu nhiệm kỳ lạ và đáng sợ. Quả thực, người ta có thể dùng nhiều yếu tố của đức tin Kitô giáo mà làm những việc to tát. Mặc dầu vậy, chúng vẫn không phù hợp với thánh ý Chúa Cha và do đó không sinh ích gì cho Nước Trời. Những người ngày nay kêu gọi đến Phúc Âm để khơi dậy, hay đẩy mạnh những hành động nhằm thiết lập một thiên đàng hạ giới ảo tưởng nơi cuối cùng Thiên Chúa không còn chỗ; những người ấy có nguy cơ nghe Chúa phán với mình: Ta chưa hề bao giờ biết các ngươi. Người Kitô hữu chiến sĩ cán bộ, do đó không được cậy vào hành động của mình, nhưng luôn cảnh giác về những động lực thúc đẩy mình. Phải kiểm soát nền dựa xem có chắc không? Chỉ có một nền móng duy nhất, tảng đá là Chúa Giêsu Kitô. Hành động nào cẩn thận nương dựa vào Chúa Giêsu Kitô nguồn mạch phát sinh sáng kiến, dự tính, thẩm định, thì hành động ấy chắc chắn. Nên thêm rằng, không gặp được Chúa Giêsu Kitô ở đâu ngoài thực thể huynh đệ rộng lớn Chúa Cha đã muốn là Giáo Hội.
Tri cần phải chuyển thành Hành. Lý thuyết phải chuyển thành thực hành. Thần học phải:chuyển thành TN 9-A15
Chủ đề: Tri cần phải chuyển thành Hành. Lý thuyết phải chuyển thành thực hành. Thần học phải:chuyển thành cuộc sống.
Tháng tư năm 1963, có một phái đoàn gồm khoảng 20 Kitô hữu Pháp lên đường hành hương thánh địa. Họ băng qua một thung lũng hẹp có tên là Lối hẹp (The Pass). Bốn người cao niên và người tài xế ở trong xe, số còn lại thì đi bộ.
Bỗng nhiên một cơn mưa nhẹ bắt đầu rơi và vài phút sau chuyển thành cơn mưa rào dữ dội. Trong vòng nửa tiếng đồng hồ, cơn mưa trút nước xối xả xuống thung lũng từ những ngọn đồi chung quanh. Khi giòng nước va vào Lối hẹp thì nó biến nơi này thành một thác nước chảy xiết. Giòng nước đã cuốn đám người hành hương trôi đi như những miếng gỗ vật vờ. Một người chứng kiến cảnh ấy đã kể lại cho phóng viên tạp chí Time như sau: “Chúng tôi trông thấy chiếc xe nhỏ chở theo bốn đàn bà và người tài xế bị giòng nước lũ cuốn đi… Trong chớp nhoáng tất cả bọn họ đều biến mất theo con lũ chảy xiết”.
Chúa Giêsu đã hình dung ra tình cảnh trên khi Ngài đề cập đến bài Phúc Âm hôm nay.
Thánh địa rải rác đầy vực thẳm và khe đá. Đa số đất ở đây tương đối an toàn để xây dựng nhà cửa; nhưng thỉnh thoảng cũng có một cơn lụt chợt ào tới và biến các khe vực thành những giòng sông dữ dội. Nếu một người khôn ngoan xây nhà bên cạnh khe vực anh ta phải neo chặt căn nhà vào đá vì nếu không, nó có thể bị nước lụt bất chợt đến cuốn trôi giống trường hợp nhóm người Pháp đi hành hương và chiếc xe nọ. Chủ điểm của bài dụ ngôn của Chúa Giêsu là Lời Chúa phải là đá tảng, trên đó chúng ta xây dựng cuộc đời mình. Nếu chúng ta không neo chặt đời sống mình trên Lời Chúa thì sẽ có lúc chúng ta bị cuốn trôi bởi con nước dữ dội của cuộc đời. Giống như chiếc xe trong câu chuyện, chúng ta cũng sẽ bị cơn lụt cuốn trôi. Và giống như căn nhà xây trên cát trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ sụp xuống và bị tiêu hủy hoàn toàn. Lời Chúa là đá tảng trên đó chúng ta phải xây dựng cuộc đời mình. Nghe lời ấy không thì chưa đủ, chúng ta còn phải thực hành lời ấy nữa.
Có một chàng thanh niên xin dạy đạo trong một trường trung học Công Giáo ở Ấn Độ. Khi vị hiệu trưởng hỏi anh ta phải là một người Công Giáo đi thực tập không, anh liền đáp lại: “Không, tôi là một người Ấn Giáo, nhưng tôi biết rành giáo huấn Công Giáo. Suốt đời tôi, tôi đã đi đến các trường Công Giáo. Tôi rất vui nếu được ngài trắc nghiệm khả năng của tôi”. Vị hiệu trưởng bèn cắt nghĩa cho anh thanh niên trọng tâm đạo Công Giáo không hệ tại việc sống một đời Công Giáo tràn đầy đức tin. Tri thức cần phải chuyển biến thành hành động. Lý thuyết cần đem vào thực hành. Thần học cần đưa vào cuộc sống. Chúng ta không được phép chỉ là những kẻ nghe, những kẻ biết Lời Chúa mà còn phải là những kẻ thực hành lời ấy nữa. Như tác giả linh đạo vĩ đại Kenpis từng nói: “Sống khiêm nhường thì quan trọng hơn biết được định nghĩa về đức khiêm nhường”.
Bước đầu tiên để trở thành một kẻ thực thi Lời Chúa là phải trở thành một kẻ biết dùng lời ấy vào việc cầu nguyện. Chúng ta phải ghi tạc vào lòng Lời Chúa, suy niệm lời ấy và cố gắng tìm xem cách áp dụng lời ấy cho mình cũng như cho cuộc đời mình. Chẳng hạn chúng ta thử xét lấy những lời sau của Chúa Giêsu: “Đây là lệnh truyền của Ta: Các con hãy yêu thương nhau như Ta yêu mến các con” (Ga 15,12).
Bước thứ nhất để chuyển lời Chúa Giêsu thành hành động là suy niệm lời này qua việc cầu nguyện: ví dụ, chúng ta tự hỏi Chúa Giêsu sẽ sống lời ấy ra sao nếu Ngài ở vào tình cảnh chúng ta. Xét dưới khía cạnh đời sống gia đình, yêu thương lẫn nhau như Chúa Giêsu yêu thương chúng ta nghĩa là làm sao? Một cách cụ thể, Chúa Giêsu sẽ đối xử với các thành viên trong gia đình chúng ta như thế nào nếu giả sử Ngài là chúng ta?
Sau đó chúng ta tiến thêm bước nữa. Chúng ta nói với Chúa Giêsu về tình cảnh gia đình chúng ta. Chúng ta kể lại từng chi tiết cho Ngài biết những vấn đề đang nằm ở đâu và đó là những vấn đề gì. Chúng ta cầu xin Ngài soi sáng và ban cho chúng ta lòng can đảm cũng như ân sủng để đương đầu với những vấn đề ấy.
Điều này dẫn chúng ta đến bước thứ hai trong việc chuyển lời Chúa thành hành động. Bước này như sau:
Một khi chúng ta đã quyết định sẽ áp dụng Lời Chúa như thế nào vào tình cảnh cuộc sống của mình thì chúng ta phải có những bước cụ thể để chu toàn quyết định ấy. Chúng ta phải làm ngay một điều gì đó cụ thể chứ không chờ đợi vòng vo. Chúng ta phải hành động. Rõ ràng là nếu chúng ta không thực hành Lời Chúa một cách cụ thể ngay trong vòng 24 giờ đầu tiên thì có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ thực hành lời ấy cả. Rốt cuộc thì chúng ta sẽ giống gã khờ nọ trong Phúc Âm chỉ nghe Lời Chúa mà không biết đem ra thực hành.
Như thế, nếu cuộc đời chúng ta không bám neo vững chắc vào Lời Chúa, chúng ta cũng sẽ bị cuốn trôi bởi giòng thác dữ dội của gian khó và cám dỗ.
Vậy để nhắc lại, chúng ta phải thực hành hai bước trong việc chuyển đổi Lời Chúa thành hành động. Trước hết chúng ta phải ghi tạc lời ấy vào lòng rồi suy niệm và quyết định cách thức áp dụng lời ấy cho mình và cho cuộc sống của mình. Thứ đến, chúng ta phải thực hành những bước cụ thể để chu toàn việc áp dụng ấy trong cuộc sống mình. Chúng ta phải biến đổi quyết định ấy thành hành động cụ thể tức khắc.
Để kết thúc, chúng ta hãy suy niệm những lời của Môisê trong bài đọc thứ nhất hôm nay:
“Các ngươi hãy nhớ những huấn lệnh này và hãy quý chuộng chúng. Hãy cột chúng vào tay các ngươi, và mang chúng lên trán các ngươi để mà nhắc nhớ…”
“Hôm nay Ta cho các ngươi sự chọn lựa giữa việc chúc phúc và sự nguyền rủa”. Ta cho các ngươi được chọn lựa giữa sự sống và sự chết. Các ngươi hãy chọn lựa sự sống”.
Đêm nọ vị mục sư đi đóng cửa nhà thờ bỗng thấy một cậu bé nằm ngủ trên hàng ghế chót. Ong:TN 9-A16
Đêm nọ vị mục sư đi đóng cửa nhà thờ bỗng thấy một cậu bé nằm ngủ trên hàng ghế chót. Ông đến đánh thức cậu dậy, mời cậu ra để ông đóng cửa nhà thờ. Cậu bé nài nỉ ông thương cho ngủ đỡ một đêm, nhưng ông dứt khoát từ chối. Thấy cậu cố van xin quá, ông gọi điện đến hai trung tâm, nhưng cả hai nơi đều từ chối vì hết chỗ. Thế là cậu bé phải lủi thủi đi vào đêm tối, mà chẳng biết mình sẽ đi về đâu!...
Về đến phòng, vị mục sư bắt đầu đọc kinh tối và Kinh thánh như thường lệ. Hôm đó, ông đọc ngay dụ ngôn nói về người Samaritanô nhân hậu. Bỗng ông thấy cậu bé lúc nãy giống như người bị kẻ cướp, còn ông là một trong các tư tế bước qua một bên mà đi, không thương giúp người bị cướp…
Nhìn lại chính mình và tự vấn lương tâm, nhiều lúc chúng ta cũng đã hành động như vị mục sư trên đây. Chúng ta đã từng đọc và nghe Lời Chúa, nhưng hạt giống Lời Chúa không sinh hoa kết quả gì trong cuộc sống chúng ta.
Những ai nghe Lời Chúa mà không đem ra thực hành thì “giống như người dại xây nhà trên cát” (Lc 6,49). Cuộc đời này quá ngắn ngủi để chúng ta xây dựng khát vọng trường cửu của mình. Cần sáng suốt nhận định những gì chóng qua và những gì có giá trị vĩnh cửu. Phải lấy Lời Chúa làm khuôn vàng thước ngọc và nền tảng vững chắc cho cuộc sống như người xây nhà trên đá… (Theo “Sám hối và Canh Tân”).
1. “Ai nghe lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành…”:
Chúa Giêsu dùng công việc xây nhà để diễn tả giá trị đích thực đời sống đạo của người tín hữu. Sống đạo cũng giống như xây nhà. Có người xây nhà trên nền bằng cát không vững, có người xây nhà trên nền bằng đá tảng rất vững vàng.
Người môn đệ đích thực xây dựng cuộc sống mình trên nền tảng Thiên Chúa, không chỉ lắng nghe những gì Chúa Giêsu đã giảng dạy mà còn thực thi những điều ấy trong đời sống của mình nữa. Có một số cách sống đạo, cần xét mình để xem đó có phải là xây nhà trên nền đá vững chắc hay không.
- Sống đạo bằng cách đọc kinh, dự lễ rất đầy đủ và chuyên cần. Có lẽ đa số người giáo dân theo cách này. Ngày Chúa nhật và những ngày lễ, nhà thờ đông người tham dự. Nhiều nơi xây thêm nhà thờ mới. Nhiều nhà thờ ngày càng trở nên chật hẹp, phải nới rộng thêm. Đây cũng là cách của những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu đã nói “Không phải những ai thưa ‘Lạy Chúa lạy Chúa’ mà được vào Nước Trời”. Đọc kinh dự lễ rất nhiều mà rốt cuộc không được vào Nước Trời. Đó là xây nhà trên cát.
- Sống đạo bằng cách chọn Chúa là Đấng bảo vệ che chở cho đời mình. Người ta có kẻ thờ Quan Công, có người thờ thần tài, có người thờ Phật Bà Quan Âm. Nhưng tôi nhất quyết chọn Chúa vì tin rằng Ngài quyền phép hơn tất cả những thần thánh kia. Bởi thế, khi bắt đầu làm ăn, tôi cầu xin Chúa giúp; khi gặp trục trặc, tôi xin Ngài giải quyết; khi thành công, tôi dâng lễ vật tạ ơn Ngài; cho đến khi sắp chết, tôi xin Ngài rước tôi lên thiên đàng với Ngài. Thiên Chúa trở thành ô dù, là nhà tài trợ, là mạnh thường quân, là lá bùa hộ mệnh. Những người này có phần “khôn khéo” vì biết chọn theo Thiên Chúa mạnh thế hơn, nhưng xét cho cùng thì cách sống đạo của họ cũng không khác gì những người thờ các thần khác. Cũng là xây nhà trên cát.
- Có những người bệnh tật không đến nhà thờ được, hoặc ở nơi không có nhà thờ. Họ không dự lễ nhiều, nhưng họ luôn cố gắng thực hành những điều Chúa dạy trong Tin Mừng, họ quan tâm tìm hiểu ý Chúa và làm theo ý Chúa. Chúa Giêsu nói về họ: “Ai nghe những lời Thầy nói đây và đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá”.
Nhiều Kitô hữu nghĩ rằng khi họ đặt niềm tin vào Chúa thì giống như họ xây ngôi nhà của mình trên đá. Cuộc đời của họ sẽ an toàn. Nhưng rồi mọi chuyện không xảy ra như vậy. Họ gặp hết khó khăn này đến đau khổ khác. Họ thất vọng. Ngôi nhà của họ đã được xây trên “đá” đức tin, nhưng tại sao nó vẫn sụp đổ? Thực ra, những người đó đã hiểu sai, ít là ở hai điểm:
- Cái nền đá vững chắc mà Chúa nói không phải là tin suông mà là một đức tin thể hiện ra bằng việc làm. Chúa nói rất rõ ràng “Không phải những ai nói với Ta ‘lạy Chúa, lạy Chúa’ mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ có người nào thực hiện ý Cha Ta trên trời, kẻ ấy mới được vào Nước Trời”; “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem ra thực hành thì giống như người khôn ngoan đã xây nhà mình trên đá”.
Chúa không hề hứa là ngôi nhà trên đá đó sẽ không bị mưa tuôn, sóng vỗ. Điều Chúa hứa là cho dù ngôi nhà đó có bị bao nhiêu mưa tuôn và sóng vỗ đi nữa thì nó vẫn đứng vững. Nhờ đâu mà đứng vững? Nhờ sống thực hành Lời Chúa.
Một giáo dân thường biết áp dụng Lời Chúa vào cuộc sống và làm biến đổi đời sống theo tinh thần Tin Mừng thì có giá trị hơn nhà thần học, nhà Thánh Kinh mà không sống Lời Chúa. Lời Chúa được trao ban cho mỗi người như căn nhà vững chắc trang hoàng lộng lẫy, con người có thể yên tâm nương mình trong đó. Dù căn nhà có đẹp đẽ lộng lẫy mấy đi nữa, nếu chỉ xây trên cát thì khi mưa lũ đến nó sẽ chẳng tránh khỏi sự sụp đổ. Thiên Chúa ban cho con người ngôi nhà Lời Chúa để che chở họ suốt cuộc đời lưu trú ở trần gian. Bổn phận của mỗi người là phải tạo nền móng cho căn nhà này. Xây dựng nền móng bằng cách thực hành Lời Ngài dạy, phải làm sao cho Lời Chúa đâm rễ sâu và thấm nhập trong đời sống hằng ngày.
Một đời sống đạo được kết hợp bằng những hiểu biết lý thuyết, được diễn tả bằng ngôn ngữ hoa mỹ, có thể đánh lừa được người khác, hoặc tự tạo cho bản thân một cảm giác an toàn giả tạo, nhưng nó sẽ rất nguy hiểm khi mưa lũ thử thách và bão táp bách hại kéo đến, thiệt hại tất sẽ nặng nề.
Sách Cách Ngôn viết: “Bão táp thổi qua, gian ác chẳng còn, nhưng người chính trực vững như nền vạn cổ” (Cn 10,25). Người chính trực là kẻ khôn ngoan đã xây nhà trên nền đá, mưa có đổ, nước có tràn, gió có thổi nhà vẫn không sập. Bởi thế, người khôn ngoan ở đây không có nghĩa là người hiểu biết, giỏi lý luận, có thể nói về Thiên Chúa một cách lưu loát. Nhưng người khôn ngoan phải là người luôn tuân giữ lệnh truyền của Thiên Chúa, họ đón nhận hạt giống từ kho tàng Kinh Thánh, từ bàn tiệc Phụng vụ Lời Chúa và đem cấy vào cuộc sống thực tế của chính họ cũng như của người anh em bên cạnh.
Lời Chúa vốn đã tốt đẹp bền vững, không cần con người phải chải chuốt tô điểm. Bổn phận của con người là phải liên kết Lời Chúa vào đời sống của mình. Chẳng một dịp nào mà con người có thể bỏ qua mà không áp dụng vào lời dạy của Chúa Giêsu. Chẳng một câu hỏi nào mà không đòi hỏi có giải đáp đã nằm sẵn trong lời dạy của Đức Kitô.
Một đời sống đạo lý tưởng phải là lời lặp lại câu nói của thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
2. “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu…”.
Đây là tiêu chuẩn cho người môn đệ xét mình. Muốn đạt tới hạnh phúc vĩnh viễn trong Nước Trời, không phải chỉ có một lòng tin lý thuyết mà đủ, cũng không phải chỉ nghĩ hay, nói giỏi, ngay cả cầu nguyện bằng những công thức đầy ý nghĩa mà cho rằng đã hoàn hảo. Nhưng nhất thiết phải thi hành ý muốn của Thiên Chúa, là sống theo những điều Chúa Giêsu đã dạy. Điều này nhắc bảo chúng ta:
- Sống đạo không chỉ bằng lời nói: đọc kinh nhiều, hoặc bằng ý nghĩ hay: suy tưởng sâu xa, nhưng còn bằng việc làm nữa, biết chăm lo thực hành thánh ý Chúa để thánh hoá đời sống mỗi ngày.
- Lòng đạo đức đích thực không phải do những hình thức đạo đức bên ngoài, nhưng do đời sống phù hợp với Tin Mừng của Chúa. - Muốn vào Nước Trời, cần phải nỗ lực và kiên trì sống tinh thần và giáo huấn của Chúa, chứ không được tự mãn vì những hình thức sống đạo bên ngoài.
- Học, đọc, suy niệm Lời Chúa chưa đủ, mà còn phải đem áp dụng vào đời sống những giáo huấn của Chúa nữa. Lạy Chúa, con đã được Chúa ban cho căn nhà Đức tin thật vững chắc và thật rực rỡ, đến nỗi con tưởng như thế là đủ cho con. Xin cho con luôn nhớ rằng, con còn có bổn phận xây nền móng cho căn nhà bằng cách thực hành Lời Chúa dạy, để dù có phải mưa sa nước lũ trong thử thách hoặc bão táp bách hại, ngôi nhà Đức Tin của con vẫn luôn được đứng vững trong Chúa. Amen.
Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ càn khôn và Người truyền cho mọi vật phải tuân theo qui luật mà Người đã định sẵn. Nhờ đó, vạn vật được vận chuyển trong trật tự hài hoà và sự sống mới được duy trì.
Trái đất phải quay quanh mặt trời theo đúng quỹ đạo đã được qui định cho nó và cứ 365 ngày và 6 giờ thì giáp một vòng và nó đã tuân theo như thế luôn mãi không hề sai chậy một giây.
Mặt trăng phải quay quanh trái đất theo một quỹ đạo nhất định với một vận tốc không đổi và cứ 29 ngày rưỡi thì giáp một vòng và cứ thế không nhanh, chậm một giây phút nào suốt niên đại nầy sang niên đại khác.
Tất cả các ngôi sao trên trời đều di chuyển theo đúng quỹ đạo, theo đúng vận tốc đã quy định cho chúng không bao giờ sai lệch.
Chính vì các hành tinh luôn luôn vận hành theo đúng quy luật một cách tuyệt đối, nên các nhà thiên văn mới có thể xác định cách chính xác về thời gian và địa điểm các hiện tượng nhật thực hoặc nguyệt thực sẽ xảy ra trong tương lai hàng trăm năm tới.
Nói chung, mọi sự trên đời (ngoại trừ con người vì con người có tự do) đều răm rắp tuân theo các qui luật mà Thiên Chúa đã qui định cho chúng.
Nước gặp nhiệt độ cao thì phải bốc hơi, gặp lạnh thì phải đông lại; kim loại bị nung nóng thì giãn nở ra theo trị số nhất định; cây nào sinh trái đó, loài ong phải lo xây tổ, hút mật; loài kiến phải cặm cụi tha mồi; loài cá phải sống trong nước v.v...
Ngay cả ngôn ngữ của loài người cũng bị chi phối bởi qui luật, đó là ngữ pháp. Nói hay viết không theo quy luật ( tức không đúng ngữ pháp) thì sẽ gặp rối loạn trong giao tiếp. Âm nhạc cũng phải được sáng tác theo qui luật của nó, đó là nhạc lý.
2. Thuận theo quy luật thì sống, đi trái quy luật thì tiêu vong.
Nếu trái đất đi trệch ra ngoài quỹ đạo của mình, hoặc vận hành nhanh hay chậm hơn vận tốc mà Đấng Tạo Hoá đã quy định, thì lúc ấy là ngày tận thế.
Nếu các ngôi sao khác trên vòm trời “từ chối” đi theo con đường Thiên Chúa đã vạch thì đại hoạ sẽ đến với vũ trụ nầy.
Nếu máy bay, tàu biển, xe cộ không vận hành đúng quy luật hàng không, quy luật hàng hải hay quy luật giao thông đường bộ thì các phương tiện nầy sẽ ngốn nhiều nhân mạng hơn tất cả mọi cuộc chiến trên thế gian.
Thỉnh thoảng báo chí đưa tin một vài chiếc tàu lửa đi trật đường rầy nên đã gây hậu quả vô cùng thảm khốc.
Tàu lửa đi trật đường rầy gây hậu quả đau thương thế nào thì mỗi người nói riêng và loài người nói chung đi “trật đường rầy” cũng phải gánh lấy hậu quả tai hại không kém.
Chính vì thế nên Chúa Giê-su dạy: “những ai chẳng thực hành lời Thiên Chúa, được ví như người dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành”
3. Đâu là ‘quỹ đạo’ của con người?
Muôn vì trăng sao, tinh tú phải đi đúng quỹ đạo của mình thì mới khỏi gây ra va chạm, đổ vỡ và diệt vong. Loài người cũng phải đi đúng ‘quỹ đạo’ của mình mới mong được sống còn và thăng tiến.
Vậy đâu là con đường mà con người phải theo để đạt tới cùng đích đời mình?
Đó là thực hành lời Chúa, tuân giữ các giới răn.
Khi có người đến gặp và hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Chúa Giêsu đáp: “Ngươi hãy giữ các giới răn” và cũng có nghĩa là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su mạnh mẽ khẳng định rằng: chỉ có những ai đi theo con đường Thiên Chúa đã vạch, tức thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha, thì mới được cứu rỗi, mới được vào Nước Trời mà thôi: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa, lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.”
Một khi đã “đi trật đường rầy”, tức không thi hành ý Chúa, thì dù có tạo được kỳ công như nói tiên tri, xua trừ ma quỷ hay làm phép lạ cũng chỉ là không:
“Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà xua trừ ma quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều ác!”
Tuân giữ các giới răn bao gồm trong luật yêu thương là ‘quỹ đạo’ của con người, là con đường đưa chúng ta tới cùng đích của cuộc đời chúng ta.
Nếu chúng ta đi “trật đường rầy”, “ đi sai quỹ đạo”, nghĩa là làm trái điều răn của Chúa, chúng ta sẽ lãnh lấy hậu quả đau thương.
Sách Sáng thế Ký cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa tạo dựng trời đất, biển khơi, và muôn vàn TN 9-A18
Sách Sáng thế Ký cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa tạo dựng trời đất, biển khơi, và muôn vàn vạn vật bằng chính Lời của Ngài. Hãy có ánh sáng, liền có ánh sáng; hãy có cây cối và vạn vật, v.v... và mọi sự liền có như lời Ngài phán bảo. Nhưng, điều đáng chú ý là Thiên Chúa Sáng tạo nên loài người qua một tiến trình từ một cuộc thảo luận bằng lời nói đến hành động của Ngài. Chúng ta hãy tạo nên con người giống hình ảnh chúng ta. Và Ngài đã tạo nên Adam từ bụi đất và thổi hơi vào cho Adam có sự sống. Nhưng Adam lại cô đơn giữa muôn vàn vạn vật, nên Chúa đã tạo nên bà Eva từ cạnh xườn của Adam.
Những gì Thiên Chúa sáng tạo nên bởi lời của Ngài đều tốt đẹp. Thiên Chúa yêu thích những gì Ngài tạo dựng nên vì đó là công trình và kết quả của lao công của Ngài. Thánh Ênri nê đã diễn tả hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương taọ vật của Ngài qua hình ảnh của một người đang giang tay ôm ấp trọn cả tạo vật vào lòng mình. Tin Mừng của thánh Gioan cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa Yêu thế gian đến nỗi đã trao con một của Ngài để ai tin vào Người sẽ được sống vỉnh cửu. Chúa Giêsu chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, nhập thể và sống kiếp phàm nhân. Ngài kết quả của tình yêu Chúa Cha trao ban cho thế gian, là hiện diện của Nước trời nơi trần thế. Lời của Chúa Giê su chính là lời của Chúa Cha hiện diện nơi Ngài qua tác động của Chúa Thánh Linh.
Chính vì thế, bài Tin Mừng của thánh Mathew hôm nay diễn tả tầm quan trọng của Lời Chúa trong cuộc sống của con người. Nếu chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành thì cuộc sống của chúng ta sẽ vững vàng như ngôi nhà được xây trên nền đá. Dù cho thử thách, gian nan, cám dỗ và đe dọa đến mạng sống cũng không hề hấn gì. Lời Chúa mà chúng ta lắng nghe và đem ra thực hành không chỉ là những nổ lực của cá nhân chúng ta nhưng còn là sự dẫn dắt của Thánh Linh. Chính Chúa Thánh Linh là Ân Sủng trao ban cho thế gian nhưng không để dẫn dắt chúng ta đi đúng theo ý Chúa như Lời thánh Phao lô nói trong bài đọc hai. Con người chúng ta nên công chính vì chúng ta đã tin vào Đức Giê su Ky tô và thực thi lời của Ngài trong cuộc sống chứ không phải là do giữ luật nghiêm ngặt.
Nhưng làm sao chúng ta phân định Lời Chúa muốn nói với chúng ta qua cuộc sống bận bịu hàng ngày ? Ma quỷ cũng có thể bắt chước lời Chúa để cám dỗ chúng ta làm biết bao điều gian ác. Lịch sử cũng đã minh chứng nhiều sự kiện con người nhân danh Chúa và dùng Lời Chúa để làm bao điều bất công, gian ác, và để tàn sát lẫn nhau. Thánh Tê rê sa thành Avila kinh nghiệm rằng những gì đến từ Thiên Chúa thì vỉnh cửa, nhưng cũng đem lại bình an và hoan lạc thiết thực trong tâm hồn chúng ta. Những gì đến từ ma quỷ chỉ đem đến cho chúng ta sự bối rối, bất an, sự tham lam và gian ác.
Khi đọc Lời Chúa, chúng ta tin những gì chúng ta đọc và chúng ta công bố những gì chúng ta tin. Ước gì lời Chúa là ngọn đèn soi bước và dẫn đường chúng ta đi theo ý Chúa. Xin cho lời Chúa là chính lộ, là thành lũy, là núi đá che chở chúng ta trong những gian nan thử thách. Nguyện cho ý Chúa được thể hiện trong mỗi người chúng ta để vinh quang Chúa được cả sáng và nước Chúa trị đến nơi mọi nẻo đường chúng ta bước đi.
Nước gặp nhiệt độ cao thì phải bốc hơi, gặp lạnh thì phải đông lại; kim loại bị nung nóng thì giãn nở ra theo trị số nhất định; cây nào sinh trái đó, loài ong phải lo xây tổ, hút mật; loài kiến phải cặm cụi tha mồi; loài cá phải sống trong nước v.v...
1. Mọi sự đều tuân theo qui luật
Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ càn khôn và Người truyền cho mọi vật phải tuân theo qui luật mà Người đã định sẵn. Nhờ đó, vạn vật được vận chuyển trong trật tự hài hoà và sự sống mới được duy trì.
Trái đất phải quay quanh mặt trời theo đúng quỹ đạo đã được qui định cho nó và cứ 365 ngày và 6 giờ thì giáp một vòng và nó đã tuân theo như thế luôn mãi không hề sai chậy một giây.
Mặt trăng phải quay quanh trái đất theo một quỹ đạo nhất định với một vận tốc không đổi và cứ 29 ngày rưỡi thì giáp một vòng và cứ thế không nhanh, chậm một giây phút nào suốt niên đại nầy sang niên đại khác.
Tất cả các ngôi sao trên trời đều di chuyển theo đúng quỹ đạo, theo đúng vận tốc đã quy định cho chúng không bao giờ sai lệch.
Chính vì các hành tinh luôn luôn vận hành theo đúng quy luật một cách tuyệt đối, nên các nhà thiên văn mới có thể xác định cách chính xác về thời gian và địa điểm các hiện tượng nhật thực hoặc nguyệt thực sẽ xảy ra trong tương lai hàng trăm năm tới.
Nói chung, mọi sự trên đời (ngoại trừ con người vì con người có tự do) đều răm rắp tuân theo các qui luật mà Thiên Chúa đã qui định cho chúng.
Nước gặp nhiệt độ cao thì phải bốc hơi, gặp lạnh thì phải đông lại; kim loại bị nung nóng thì giãn nở ra theo trị số nhất định; cây nào sinh trái đó, loài ong phải lo xây tổ, hút mật; loài kiến phải cặm cụi tha mồi; loài cá phải sống trong nước v.v...
Ngay cả ngôn ngữ của loài người cũng bị chi phối bởi qui luật, đó là ngữ pháp. Nói hay viết không theo quy luật ( tức không đúng ngữ pháp) thì sẽ gặp rối loạn trong giao tiếp. Âm nhạc cũng phải được sáng tác theo qui luật của nó, đó là nhạc lý.
2. Thuận theo quy luật thì sống, đi trái quy luật thì tiêu vong.
Nếu trái đất đi trệch ra ngoài quỹ đạo của mình, hoặc vận hành nhanh hay chậm hơn vận tốc mà Đấng Tạo Hoá đã quy định, thì lúc ấy là ngày tận thế.
Nếu các ngôi sao khác trên vòm trời “từ chối” đi theo con đường Thiên Chúa đã vạch thì đại hoạ sẽ đến với vũ trụ nầy.
Nếu máy bay, tàu biển, xe cộ không vận hành đúng quy luật hàng không, quy luật hàng hải hay quy luật giao thông đường bộ thì các phương tiện nầy sẽ ngốn nhiều nhân mạng hơn tất cả mọi cuộc chiến trên thế gian.
Thỉnh thoảng báo chí đưa tin một vài chiếc tàu lửa đi trật đường rầy nên đã gây hậu quả vô cùng thảm khốc.
Tàu lửa đi trật đường rầy gây hậu quả đau thương thế nào thì mỗi người nói riêng và loài người nói chung đi “trật đường rầy” cũng phải gánh lấy hậu quả tai hại không kém.
Chính vì thế nên Chúa Giê-su dạy: “những ai chẳng thực hành lời Thiên Chúa, được ví như người dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành”
3. Đâu là ‘quỹ đạo’ của con người?
Muôn vì trăng sao, tinh tú phải đi đúng quỹ đạo của mình thì mới khỏi gây ra va chạm, đổ vỡ và diệt vong. Loài người cũng phải đi đúng ‘quỹ đạo’ của mình mới mong được sống còn và thăng tiến.
Vậy đâu là con đường mà con người phải theo để đạt tới cùng đích đời mình?
Đó là thực hành lời Chúa, tuân giữ các giới răn.
Khi có người đến gặp và hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Chúa Giêsu đáp: “Ngươi hãy giữ các giới răn” và cũng có nghĩa là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su mạnh mẽ khẳng định rằng: chỉ có những ai đi theo con đường Thiên Chúa đã vạch, tức thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha, thì mới được cứu rỗi, mới được vào Nước Trời mà thôi: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa, lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.”
Một khi đã “đi trật đường rầy”, tức không thi hành ý Chúa, thì dù có tạo được kỳ công như nói tiên tri, xua trừ ma quỷ hay làm phép lạ cũng chỉ là không:
“Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà xua trừ ma quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều ác!”
Tuân giữ các giới răn bao gồm trong luật yêu thương là ‘quỹ đạo’ của con người, là con đường đưa chúng ta tới cùng đích của cuộc đời chúng ta.
Nếu chúng ta đi “trật đường rầy”, “ đi sai quỹ đạo”, nghĩa là làm trái điều răn của Chúa, chúng ta sẽ lãnh lấy hậu quả đau thương.
Bản văn này được liên kết với dụ ngôn Cây tốt cây xấu được dùng làm hình ảnh tượng trưng: TN 9-A20
Bản văn này được liên kết với dụ ngôn Cây tốt cây xấu được dùng làm hình ảnh tượng trưng người môn đệ chân chính và người môn đệ giả hiệu của Đức Kitô (c. 17). Tuy nhiên, trong tổng thể, bản văn được đặt trong phần III của Bài Giảng trên núi có nhan đề là “Những khuyến khích cuối cùng: Các lời này phải được thực hành” (7,13-27), với các phân đoạn sau:
1.- Hai con đường (7,13-14), 2.- Hai loại ngôn sứ và trái cây (7,15-20), 3.- Hai loại môn đệ (7,21-23), 4.- Hai kiểu nhà (7,24-27).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Hai loại môn đệ (7,21-23); 2) Hai kiểu nhà (7,24-27).
3.- Vài điểm chú giải
- Lạy Chúa, lạy Chúa (21): Lần đầu tiên, Mt cho thấy là người ta gọi Đức Giêsu là “Chúa”. Dọc theo TM Mt, chỉ các môn đệ, tức các tín hữu, hay những người sắp trở thành môn đệ, mới gọi Người như thế (8,2.6.8.21 [// 8,19].25; 9,28; 13,27; 14,28.30; 15,22.25.27; 16,22; 17,4.15; 18,21; 20,30.31.33; 25,11.20.22.24.37.44; 26,22 [// 26,15]). Vậy ở đây hẳn các môn đệ đang liên tục gọi danh Chúa, để khiến Người quan tâm đến họ.
- Trong ngày ấy (22): gợi ý tới “ngày của Đức Chúa”, ngày phán xét chung (10,15; 12,36; 24,19; 25,31-46): Ed 7,7-27; Am 5,18-20; Xp 1,7.14-15; Ge 2,1.11-17…
- điều gian ác (23): Anomia do tính từ anomos, có nghĩa là “người không có luật; kẻ nổi loạn”. Ở Mt 13,41-42, họ được xếp chung với những kẻ gây ra cố vấp phạm, nên sẽ bị quăng vào lửa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hai loại môn đệ
Đọc trọn đoạn 7,15-23, ta thấy nói đến các “ngôn sứ giả”. Đây là các Kitô hữu, mặc dù công bố niềm tin của họ vào Chúa (x. c. 21) và làm được những hành vi ngoạn mục, như nói tiên tri, trừ quỷ và các phép lạ (c. 22), họ không thi hành ý muốn của Chúa Cha (c. 21), do họ không sống phù hợp với các đòi hỏi Đức Giêsu đã nêu ra trong Bài Giảng trên núi, họ không thi hành những điều họ nói. Họ tự lừa dối chính mình mà cho rằng mình là một môn đệ chân chính của Đức Kitô, trong thực tế họ tạo ra một hoàn cảnh gian ác (anomia, “không luật”, c. 23; x. 24,11-12; 13,41).
Ý muốn (thelêma) của Thiên Chúa chính là kế hoạch cứu độ của Ngài, được trải rộng ra đến các hành vi thuộc cuộc sống thường nhật. Cách thức để nhận biết điều Thiên Chúa muốn là quan sát những gì Ngài đang hoàn tất. Theo Kinh Thánh, các công trình ưu việt của Thiên Chúa là công cuộc tạo dựng và công cuộc cứu độ. Do đó, thi hành ý muốn của Ngài là chuyên cần và quảng đại cộng tác vào một trong hai công trình đó. Các Tin Mừng không nói nhiều về công trình tạo dựng cho bằng nói đến các can thiệp của Thiên Chúa vào trong lịch sử nhân loại hầu ban ơn cứu độ và mời gọi các tín hữu cũng làm như thế. Nói cho cùng, thi hành ý muốn của Thiên Chúa là làm cho ơn cứu độ nên hiện thực nơi chính mình và nới anh chị em đồng loại. Các lời ca ngợi tung hô Chúa (c. 21) không thay đổi chút gì nơi các sự việc. Chúng không có giá trị, chúng không thể bảo đảm cho ta được vào Nước Trời, không đưa được con người về phía Thiên Chúa để nhận được ơn cứu độ. Điều Đức Giêsu đòi hỏi là một lòng đạo đức hiện thực, có việc làm, có dấn thân.
Chúng ta cần nhớ lại lời Đức Giêsu nói về các ngôn sứ giả “đội lốt chiên” ở trên (c. 15). Ẩn dụ “con chiên” có nghĩa là các thành viên của Dân Thiên Chúa trong Cựu Ước. Các ngôn sứ giả tỏ ra như là thành viên của Dân Kitô giáo. Bởi vì con chiên hiền lành không có phương thế tự vệ là hình ảnh cổ điển đối lập với con sói tham tàn (x. Is 11,6; 65,25; Hc 13,17). Bộ áo giả chiên của họ muốn nói là họ tỏ ra hòa bình, trong thực tế, đây là những “sói dữ tham mồi”, nghĩa là những Kitô hữu xấu đang đưa một mầm mống sự chết vào trong cộng đoàn.
Tiêu chuẩn giúp khám phá ra ngôn sứ giả là tiêu chuẩn “quả” (x. cc. 16-20. Từ ngữ “quả” được nhắc đến 7 lần trong các câu này). Trong Cựu Ước, “quả” là hình ảnh thông dụng để chỉ các hành vi của con người. “Sinh quả tốt”, đó là “thi hành ý muốn của Cha Thầy” (c. 21); “sinh quả xấu”, đó là “làm điều gian ác” (c. 23), sống không luật, mà môi miệng vẫn cứ tuyên xưng niềm tin vào Chúa, thậm chí còn nhân danh Người mà làm những việc kỳ diệu. Câu “Ta không hề biết các ngươi” (c. 23) vang lên thật cay đắng cho những ai đã lặp đi lặp lại tên Giêsu biết bao nhiêu lần trong đời họ và trong hoạt động của họ. Đây là một lời long trọng từ khước, phủ nhận sự hiệp thông (x. 10,33; 25,12). Lý do duy nhất là họ đã không chu toàn ý muốn của Thiên Chúa. Tác giả gọi họ là “bọn làm điều gian ác”. Thật ra họ không phải là những tay đại gian ác, nhưng chỉ vì họ ngăn cản việc thực hiện và mở rộng Nước Thiên Chúa (x. 16,23), họ đã đáng bị gọi bằng một cái tên nặng nề như thế.
* Hai kiểu nhà
Dụ ngôn này không có lời giải thích, nhưng cũng là một lời nhắc nhớ đến các bổn phận của đời sống Kitô hữu. Đức Giêsu tấn công lối sống buông thả và vô vi. Phải vâng phục cụ thể ý muốn của Thiên Chúa chứ không buông mình theo những ảo tưởng hoặc những cơn hứng khởi kiểu đặc sủng (x. cc. 21-23). Bài học của phần trước được nhắc lại qua dụ ngôn hai người xây nhà, người khôn và người ngu. Người khôn cất nhà trên nền móng vững chắc, người ngu xây nhà trên một cái nền không vững. Đối với Đức Giêsu, nền móng chắc chắn của ngôi nhà, tức của đời sống Kitô hữu, là thực hành các giáo huấn của Người. Người đã kêu gọi “làm” (poiein) ý muốn của Chúa Cha, nay Người yêu cầu “làm” (poiein) “các lời của Người”. Lời của Đức Giêsu mà người ta nghe được trong Bài Giảng trên núi phải được lắng nghe trong niềm vui, nhưng hơn nữa, phải được diễn tả ra qua đời sống thực tiễn. Lắng nghe là điều kiện tiên quyết, nhưng điều đáng kể hơn, là thực hiện điều đã nghe được. Chỉ khi nghiêm túc sống như thế, đời sống Kitô hữu mới dựa trên một nền móng vững chắc và không sợ bị lật đổ khi gặp các thử thách hay nghịch cảnh đầu tiên.
Truyền thống kinh sư sử dụng những dụ ngôn tương tự để mô tả hai thái độ đối nghịch khi ở trước công việc nghiên cứu Torah: một thái độ đưa tới việc thực hành và một thái độ chỉ nhắm kiến thức không có việc làm. Tuy nhiên, có hai khác biệt: các dụ ngôn kinh sư nói đến tương quan học-làm, còn dụ ngôn của Đức Giêsu nói đến tương quan nghe-làm; nhất là Đức Giêsu không còn nói đến việc thực thi Torah nữa, mà là thực thi “các lời của Thầy” mà Người vừa nói ra. Đức Giêsu gán cho các lời của Người một uy tín mà Do-thái giáo gán cho Torah.
+ Kết luận
Bài diễn từ mang giọng mục vụ, chứ không phải là lịch sử hay thần học, nhằm đưa tới sự hoán cải. Dáng vẻ bề ngoài không phải là thực tại. Chúng ta cũng nhớ tới cây vả sum xuê lá cành mà không có trái (x. Mt 21,19). Đấy là một tình trạng mâu thuẫn của người khẩn cầu, chúc tụng tên Chúa cách long trọng mà không dấn thân thi hành ý muốn của Ngài. Nói rằng tiêu chuẩn quyết liệt là Kitô hữu phải xử sự phù hợp với các đòi hỏi của Bài Giảng trên núi, điều đó có nghĩa là phải ưu tiên diễn tả tình yêu ra bằng hành động. Như thế, giáo huấn của TM Mt hài hòa với giáo huấn của thánh Phaolô (x. 1 Cr 13) và của truyền thống Gioan (x. 1 Ga 4,7-8). Kết luận của bài giảng ở đây thật cứng rắn và không khoan nhượng. Khi thấy như thế, người Kitô hữu phải lô-gích với chính mình: đã chọn lựa, và biết là chọn đúng, thì ra sức sống các chọn lựa đã lấy.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Không phải chỉ cứ nói những lời tốt lành, có đức tin đúng đắn, có những khát vọng ngay lành là đủ. Không phải chỉ cần bước đi trên nẻo đường thênh thang với tư tưởng hướng về Nước Trời và thỉnh thoảng kêu tên Chúa, là đã đủ để được cứu độ (x. 6,9; 10,15). Còn phải chu toàn ý muốn của Thiên Chúa. Những người bị loại trừ rất có thể đã là những người nói giỏi, những chuyên viên Phụng vụ sắc bén, nhưng họ đã không cố gắng hoàn tất những gì họ cử hành, có khi lại còn làm ngược lại, làm điều dữ.
2. Tác giả Mt đã nhìn lại nội bộ cộng đoàn và nhận ra có những thành viên bất xứng với danh hiệu của họ. Ngài gọi họ là bọn xét đoán sai, càm ràm (7,1), đạo đức giả (c. 5), ngôn sứ giả (c. 15), cây không quả (c. 20). Cuối cùng, ngài tổng hợp tất cả lối sống gây khó chịu, vấp phạm, là xấu xa, thậm chí là thuộc về Satan. Trước sau rồi họ cũng bị lật mặt nạ và kết án. Do đó, tốt nhất họ nên xét đoán chính mình trước đi và kịp thời rút khỏi con đường xấu xa, con đường rộng rãi, thênh thang, nhưng đưa tới diệt vong (c. 13) để đi theo con đường chật hẹp đưa tới sự sống (c. 14).
3. Hội Thánh không phải là một tập thể hoàn hảo. Trong Hội Thánh, có những thợ xây khôn ngoan, và cũng có những thợ xây thiếu khôn ngoan. Những người thiếu khôn ngoan là những người nghe lời loan báo mà không quyết tâm đưa ra thi hành nghiêm túc. Đây chỉ là sự gắn bó hời hợt, không bám rễ trong tim và trong trí thông minh, nên sẽ bị hủy diệt ngay khi tiếp xúc với những sức mạnh đối nghịch.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: 'Không phải những ai nói với Ta 'Lạy Chúa:TN 9-A21
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: 'Không phải những ai nói với Ta 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là được vào Nước Trời. Nhưng chỉ có những người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào Nước Trời'. Thực ra, chúng ta nói 'Lạy Chúa' thì nhiều, nhưng thi hành ý Chúa thì quá ít.
Chúng ta cùng dâng Thánh lễ này để xin lỗi Chúa vì cách giữ đạo bằng miệng bấy lâu nay của chúng ta; và hãy tha thiết xin Chúa ban ơn giúp chúng ta từ nay sửa đổi lại để biết sống đạo bằng một cuộc sống luôn quan tâm thi hành ý Chúa.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta dễ dàng thưa 'Lạy Chúa lạy Chúa', mà không lo thi hành thánh ý Chúa.
Những khi đọc kinh cầu nguyện, chúng ta thường xin Chúa thực hiện ý chúng ta, chứ không xin Ngài cho chúng ta biết ý của Ngài.
Biết bao lần chúng ta bỏ ý Chúa để làm theo ý riêng của chúng ta. III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Đnl 11,18.26-28)
Đệ nhị luật là quyển sách ghi lại những lời được đặt vào miệng Ông Môsê nói với dân Israel trước lúc ông chết và họ sắp vào được Đất Hứa. Trong thời điểm quan trọng đó, Môsê tha thiết căn dặn dân phải ghi nhớ và thực thi những điều Thiên Chúa đã truyền dạy họ. Ông coi việc thi hành lệnh truyền của Thiên Chúa là con đường sống cho dân: 'Đây hôm nay ta đặt trước mặt các ngươi sự chúc lành và sự chúc dữ: nếu các ngươi tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi… thì các ngươi được chúc phúc; còn nếu các ngươi không tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi… thì sẽ bị chúc dữ'.
2. Đáp ca (Tv 30)
Vì tuyệt đối tin tưởng vào sự che chở của Thiên Chúa, nên tác giả Tv 30 coi Thiên Chúa là nơi trú ẩn, là Đấng giải thoát và là Đấng cứu sống.
3. Tin Mừng (Mt 7,21-27)
Đây là phần cuối của Bài giảng trên núi. Sau khi giảng dạy rất nhiều điều, Chúa Giêsu kết luận:
Việc quan trọng nhất không phải là nghe những lới giảng đó, cũng không phải là thưa lại bằng miệng 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà là đem những điều ấy ra thi hành.
Người nào nghe mà không thi hành thì giống như người ngu xây nhà trên cát; còn người đã nghe mà còn thi hành nữa thì giống người khôn xây nhà trên đá.
Chính vì điều quan trọng nhất là thi hành, cho nên có những kẻ đã từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, trừ quỷ và làm nhiều phép lạ nhưng cũng không được vào Nước Trời, bởi vì họ tuy làm rất nhiều thứ nhưng lại không thi hành ý Chúa.
4. Bài đọc II (Rm 3,21-25a.28) (Chủ đề phụ)
* Từ Chúa nhựt IX đến Chúa nhựt XXIV, bài đọc II được chọn từ thư thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma.
Giáo đoàn Rôma không do Phaolô thành lập. Nhưng ông rất muốn đến đấy, vì Rôma là thủ đô của Đế quốc. Nhưng trước khi đến, Phaolô gửi bức thư này cho họ để chuẩn bị tinh thần. Được viết trong hoàn cảnh và mục đích như thế, thư Rôma chứa đựng những chủ đề giáo lý cơ bản và quan trọng.
Đoạn thư này chứa đựng một chủ đề rất quan trọng mà thánh Phaolô quãng diễn nhiều lần trong các thư Rôma, Galát và Côlôxê: Người ta được công chính hóa không phải nhờ những việc làm, mà chỉ nhờ Đức Tin vào Thiên Chúa.
Đây cũng là điểm khác biệt giữa quan niệm của những người biệt phái và của Đức Giêsu:
Biệt phái cho rằng càng làm nhiều việc lành chừng nào thì càng trở nên công chính chừng ấy.
Phần Đức Giêsu thì dạy rằng công chính là ơn do lòng nhân từ Thiên Chúa ban cho. Vì thế phải khiêm tốn cầu xin và đón nhận ơn công chính, chứ không được ỷ lại vào công nghiệp của mình.
IV. Gợi ý giảng
1. Nền nào vững chắc?
Theo cách diễn tả của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng này thì sống đạo cũng giống như xây nhà. Có người xây nhà trên nền bằng cát không vững, có người xây nhà trên nền bằng đá tảng rất vững vàng.
Chúng ta hãy suy nghĩ về một số cách sống đạo, để xem đó có phải là xây nhà trên nền đá vững chắc không.
- Sống đạo bằng cách đọc kinh, dự lễ rất đầy đủ và chuyên cần. Có lẽ đa số giáo dân chúng ta theo cách này. Ngày Chúa nhựt và những ngày lễ, nhà thờ chật ních. Nhiều nơi xây thêm nhà thờ mới. Nhiều nhà thờ ngày càng trở nên chật hẹp, phải nới rộng thêm. Đây cũng là cách của những người biệt phái và luật sĩ thời Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu đã nói 'Không phải những ai thưa 'Lạy Chúa lạy Chúa' mà được vào Nước Trời'. Đọc kinh dự lễ rất nhiều mà rốt cuộc không được vào Nước Trời. Đó là xây nhà trên cát.
- Sống đạo bằng cách chọn Chúa là Đấng bảo vệ che chở cho đời mình: người ta có kẻ thờ Quan Công, có người thờ thần tài, có người thờ Phật Bà Quan Âm. Nhưng tôi nhất quyết chọn Chúa vì tin rằng Ngài quyền phép hơn tất cả những thần thánh kia. Bởi thế, khi bắt đầu làm ăn, tôi cầu xin Chúa giúp; khi gặp trục trặc, tôi xin Ngài giải quyết; khi thành công, tôi dâng lễ vật tạ ơn Ngài; cho đến khi sắp chết, tôi xin Ngài rước tôi lên thiên đàng với Ngài. Thiên Chúa trở thành ô dù, là nhà tài trợ, là mạnh thường quân, là lá bùa hộ mệnh. Những người này có phần 'khôn khéo' vì biết chọn theo Thiên Chúa mạnh thế hơn, nhưng xét cho cùng thì cách sống đạo của họ cũng không khác gì những người thờ các thần khác. Cũng là xây nhà trên cát.
- Có những người bệnh tật không đến nhà thờ được, hoặc ở nơi không có nhà thờ. Họ không dự lễ nhiều, nhưng họ luôn cố gắng thực hành những điều Chúa dạy trong Tin Mừng, họ quan tâm tìm hiểu ý Chúa và làm theo ý Chúa. Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu nói về họ: 'Ai nghe những lời Thầy nói đây và đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá'.
2. Mưa tuôn, sóng vỗ…
Nhiều kitô hữu nghĩ rằng khi họ đặt niềm tin vào Chúa thì giống như họ xây ngôi nhà của mình trên đá. Cuộc đời của họ sẽ an toàn. Nhưng rồi mọi chuyện không xảy ra như vậy: họ phải gặp hết khó khăn này đến đau khổ khác. Họ thất vọng. Ngôi nhà của họ đã được xây trên 'đá' đức tin, nhưng tại sao nó vẫn sụp đổ?
Thực ra, những người đó đã hiểu sai, ít là ở hai điểm:
1/ Cái nền đá vững chắc mà Chúa nói không phải là tin suông mà là một đức tin thể hiện ra bằng việc làm. Đây ta hãy nghe lại cho kỹ lời Ngài nói: 'Không phải những ai nói với Ta 'lạy Chúa, lạy Chúa' mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ có người nào thực hiện ý Cha Ta trên trời, kẻ ấy mới được vào Nước Trời', 'Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem ra thực hành thì giống như người không ngoan đã xây nhà mình trên đá'.
2/ Chúa không hề hứa là ngôi nhà trên đá đó sẽ không bị mưa tuôn, sóng vỗ. Điều Chúa hứa là cho dù ngôi nhà đó có bị bao nhiêu mưa tuôn và sóng vỗ đi nữa thì nó vẫn đứng vững. Nhờ đâu mà đứng vững? Nhờ sống thực hành Lời Chúa.
Việc tìm hiểu kỹ lời Chúa như trên giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cuộc sống kitô hữu:
Kitô hữu không phải chỉ là người tin Chúa. Ma quỷ còn tin Chúa hơn ta nữa, nhưng ma quỷ đâu có được vào Nước Trời!
Là kitô hữu không phải là được bảo hiểm khỏi mọi khó khăn gian khổ - có khi còn gặp khó khăn gian khổ hơn nhiều người khác nữa. Nhưng Chúa hứa họ sẽ đứng vững trước mọi khó khăn gian khổ ấy, nếu họ sống thực hành Lời Chúa.
3. Hai con đường
Người ta thường nói 'Chúa phạt xuống hỏa ngục'. Có người hiểu giáo lý hơn nên cãi lại: 'Thiên Chúa nhân từ vô cùng, không thể nào phạt ai xuống hỏa ngục được'. Đúng vậy, Thiên Chúa nhân từ chẳng phạt ai cả. Sở dĩ có người xuống hỏa ngục là vì người đó đã dùng tự do của mình mà chọn sai con đường thôi.
Như Ông Môsê đã nói với dân do thái: 'Đây ta đặt trước mặt các ngươi sự chúc lành và sự chúc dữ: nếu các ngươi tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi… thì các ngươi được chúc phúc; còn nếu các ngươi không tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi… thì sẽ bị chúc dữ'.
Cũng như cha mẹ nói với đứa con đã trưởng thành: 'Cha mẹ sẵn sàng lo cho con học hành đến nơi đến chốn. Nếu con chịu khó học hành thì sẽ có một tương lai tươi sáng. Còn nếu con cứ chơi bời lêu lỏng như hiện nay thì tương lai rất đáng lo ngại'.
Vì chúng ta có tự do nên Thiên Chúa và cha mẹ không thể ép buộc ta được, nhưng các Ngài sẵn sàng giúp đỡ nếu ta chọn con đường tốt.
4. Chuyện minh họa
a/ Đức tin và việc làm
Tâm là một người cứng cỏi. Khi trận lụt xảy đến trong vùng, anh trèo lên mái nhà. Một chiếc tàu đến cứu nhưng anh từ chối: 'Không, cám ơn. Tôi tin vào Thiên Chúa, Ngài sẽ cứu tôi'.
Sóng nước dâng cao hơn và Tâm đã trườn lên tận nóc nhà. Một chiếc tàu khác đến cứu anh nhưng anh xua đi. Anh tin là Thiên Chúa sẽ cứu anh. Khi nước chạm đến chân anh, anh lại trèo lên đỉnh ống khói. Một chiếc trực thăng xà xuống cứu, nhưng anh vẫn dựa vào Thiên Chúa. Bạn đoán xem điều gì xảy ra? Tâm chết đuối.
Trước mặt Chúa, anh phàn nàn: 'Lạy Chúa, con có đức tin mạnh như thế, tại sao Ngài không cứu con?' Chúa trả lời: ' Con còn muốn Ta làm gì cho con nữa? Ta đã gởi tới con hai chiếc tàu và một chiếc máy bay!'
b/ Làm và hưởng thiên đàng
Truyện kể: một nông dân nghèo Nhật bản vào thiên đàng và điều đầu tiên ông nhìn thấy là một kệ dài với những vật rất kỳ lạ. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái tai. Chúng là của những người khi sống ở đời nghe được những điều tốt, nhưng họ không làm. Nên khi chết, tai họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không.
Một lát sau, ông lại thấy một kệ khác với những vật kỳ quái. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái lưỡi. Chúng là của những người sống ở đời bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ không làm hoặc không sống điều đó. Nên khi chết, lưỡi họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa ban cho loài người chúng ta một ơn vô cùng quý giá, đó là quyền tự do. Nhưng quyền này cũng là một con dao hai lưỡi vì chúng ta có thể dùng nó để làm điều tốt đẹp lòng Chúa và có lợi cho chúng ta; nhưng cũng có thể dùng nó để làm điều xấu chống lại Chúa và hại cho chính bản thân mình.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa và tha thiết cầu xin với Ngài.
1. Hội Thánh được giao trọng trách hướng dẫn mọi người những điều tốt nên làm và những điều xấu phải tránh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử được sáng suốt để chu toàn sứ mạng cao cả của mình.
2. Xã hội ngày nay đầy dẫy những tệ đoan / Tuổi trẻ không được hướng dẫn đủ nên dễ bị lôi cuốn vào những sinh hoạt không lành mạnh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người cầm quyền / biết đề ra những biện pháp tốt để lành mạnh hóa xã hội.
3. Tự do là quyền cao quý Chúa ban cho con người / Nhưng có những người sử dụng sai quyền tự do của mình để làm điều xấu / gây hại cho bản thân và xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng và trợ lực / để những người ấy ý thức lại và chọn theo con đường tốt.
4. Cách sống đạo của giáo dân Việt Nam còn trọng về đọc kinh dự lễ / chứ chưa đi sâu vào đức tin / chưa ý thức điều quan trọng nhất là làm theo ý Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / siêng năng học hỏi Lời Chúa / và can đảm làm theo ý Chúa.
CT: Lạy Chúa là Cha nhân lành, Chúa chỉ muốn chúng con sống tốt để được hạnh phúc đời này và đời sau. Xin giúp chúng con biết dùng quyền tự do của mình để chọn Chúa và luôn làm theo thánh ý Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Người khôn ngoan xây ngôi nhà cuộc đời mình trên đá là người biết thi hành thánh ý Chúa. Trong kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy xin cho mọi người biết làm theo ý Cha, ở dưới đất cũng như trên trời.
Sau kinh Lạy Cha: '... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con khôn ngoan xây ngôi nhà đời mình trên nền đá vững chắc là những lời Con Cha đã dạy. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp...'
VII. Giải tán
Trong Thánh Lễ hôm nay, anh chị em đã nghe Lời Chúa dạy. Bây giờ Thánh lễ sắp kết thúc. Anh chị em trở lại cuộc sống hằng ngày. Hãy quan tâm thi hành những gì Chúa đã dạy anh chị em.
Con đường hẹp nằm giữa hai vách núi cheo leo. Trời mưa tầm tã. Nước từ các nơi đổ xuống tạo: TN 9-A22
Con đường hẹp nằm giữa hai vách núi cheo leo. Trời mưa tầm tã. Nước từ các nơi đổ xuống tạo nên một cơn lũ khủng khiếp. Chứng kiến cơn lũ, một phóng viên đã kể lại:
Chúng tôi nhìn thấy chiếc xe nhỏ chở bốn người đàn bà và một tài xế bị dòng nước cuốn đi. Chỉ trong chớp nhoáng, tất cả đều biến mất theo cơn lũ chảy xiết.
Rồi anh ta kết luận:
Một người khôn ngoan xây nhà trên vùng đất này, thì phải tìm cách neo chặt căn nhà của mình vào đá, nếu không thì một lúc nào đó, căn nhà ấy sẽ bị dòng nước cuốn trôi.
Từ hình ảnh trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta nhận thấy: Lời Chúa chính là đá tảng, để trên đó chúng ta xây dựng ngôi nhà cuộc đời chúng ta. Nếu chúng ta không neo chặt đời mình trên Lời Chúa, thì sẽ có lúc chúng ta bị cuốn trôi bởi cơn lũ cuộc đời.
Tuy nhiên nghe, đọc và hiểu Lời Chúa mà thôi chưa đủ, điều quan trọng là phải sống Lời Chúa, phải thực thi Lời Chúa, nghĩa là phải tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.
Cách đây vài năm, có một chàng thanh niên tình nguyện xin đi dạy giáo lý trong một trường trung học công giáo ở Ấn Độ. Ông hiệu trưởng hỏi chàng có phải là người công giáo hay không, thì chàng trả lời:
Không, tôi là một người Ấn Độ giáo, nhưng tôi biết rành về công giáo. Suốt đời, tôi đã đi đến các trường công giáo. Tôi rất vui nếu được ông trắc nghiệm khả năng của tôi.
Vị hiệu trưởng bèn cắt nghĩa:
Trọng tâm của đạo công giáo không hệ tại việc hiểu biết các chân lý, các mầu nhiệm, nhưng sự hiểu biết này cần phải được chuyển biến thành hành động, thành việc làm. Cần phải đưa Lời Chúa vào cuộc sống.
Chúng ta không được phép chỉ là những kẻ nghe, đọc và hiểu Lời Chúa, mà còn phải là những người thực hành lời ấy nữa, như một câu danh ngôn đã bảo: Sống khiêm nhường thì quan trọng hơn là biết định nghĩa xem khiêm nhường là gì.
Để biến Lời Chúa trở thành hành động thì chúng ta có hai việc cần làm ngay. Việc thứ nhất đó là hãy khắc ghi Lời Chúa vào lòng, rồi suy niệm và quyết định cách thức áp dụng lời ấy cho mình và cho cuộc sống của mình. Tiếp đến là chúng ta phải thực thi những bước cụ thể để chu toàn việc áp dụng ấy trong đời sống của mình, có nghĩa là chúng ta phải biến đổi quyết định ấy trở thành những hành động, những việc làm cụ thể và tức khắc. Có như vậy, chúng ta mới thực sự là những chứng nhân cho Tin Mừng của Chúa.
(Trích trong Mở Ra Những Kho Tàng của Charles E. Miller)
Người ta thường nói rằng “lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”: TN 9-A23
Người ta thường nói rằng “lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, vì thế người ta dễ nói nhiều, nhưng để sống những lời ấy lại là chuyện khác. Lúc đám cưới, đôi tân hôn nói với nhau: “Anh xin nhận em… mọi điều tốt cũng như xấu, lúc giàu có hoặc lúc nghèo hèn, khi mạnh khỏe cũng như khi yếu đau cho đến chết”. Những lời này chỉ đọc có một lúc nhưng đòi hỏi sự tận tụy và trung thành trong cả đời sống.
Những lời chúng ta đã nói với Thiên Chúa, mà chúng ta gọi là cầu nguyện cũng đòi hỏi sự tận tụy và trung thành trong cả đời sống. Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc cầu nguyện của chúng ta, theo nghi thức phụng vụ hay riêng tư đều phải dẫn chúng ta đến hành động. Quả thật, Người đã dạy chúng ta rằng mức xác thực của lời cầu nguyện có thể được đo lường bởi sự tận tụy thực thi ý Chúa của chúng ta.
Tất cả điều này không có nghĩa là chúng ta hạ phẩm giá quan trọng của những lời nói. Theo truyền thống đối với người Israel thì môt số từ sau đây có giá trị tuyệt đối: “Hãy nghe đây, hỡi Israel. Chúa là Thiên Chúa ngươi. Chúa duy nhất. Do đó các ngươi sẽ yêu mến Chúa Thiên Chúa các ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi”. Những lời này rất quan trọng khi Môisen dạy dân chúng: “Hãy ghi nhớ những lời của tôi vào trái tim và linh hồn các ngươi”. Tiếp đó, ông nói tiếp: “Hãy buộc chúng nơi cổ tay các ngươi như một dấu hiệu, hãy đeo chúng như đồ trang sức trên trán của các ngươi”. Những lời đó đã trở nên một tục lệ đối với những người Do Thái sốt sắng, họ viết điều luât cao cả này vào giấy da, đặt vào bên trong một hộp da nhỏ được gọi là hộp kín, có lúc được buộc nơi cổ tay, có lúc được buộc ngay trên trán.
Dĩ nhiên khi mang hộp kín bằng da đó diễn tả một sự sùng bái thật sự thì người mang nó phải thực hiện điều luật lớn lao đó. Mặc dầu những người Công Giáo chúng ta không mang hộp kín bằng da đó, một số người trong chúng ta có mang ảnh vảy hay thánh giá nhỏ, thường ở bên dưới quần áo. Khi ảnh vảy hoặc thánh giá được chúng ta đeo trên cổ với một sợi dây, nó nối kết với lòng chúng ta. Điều đó nhắc nhở chúng ta tôn giáo là một vấn đề, chứ không đơn thuần chỉ là từ ngữ nhưng là tấm lòng.
Nếu chúng ta viết ra những lời xác quyết rồi đặt vào trong một cái hộp giống như cái hộp của người Do Thái, chúng ta sẽ viết những lời nào. Cũng sẽ thích hợp thôi nếu chúng ta lấy điều luật cao cả trong Cựu Ước nhưng tôi giả thiết là sau một lúc suy nghĩ, chúng ta có thể dùng những lý tưởng để diễn tả đức tin Công Giáo của chúng ta. Tôi muốn đề nghị một số từ, đó là những lời của Chúa Giêsu đã phán trên bánh: “Đây là Thịt Ta” và Người cũng phán trên rượu: “Đây là Chén Máu Ta”. Sự dâng hiến, tâm điểm của lời cầu Thánh Thể làm hiện tại hóa và thật sự cho chúng ta hy lễ lớn lao của Đức Kitô. Bánh thật sự đã trở nên Thân Mình Người trao ban cho chúng ta. Rượu thật sự trở nên Máu Người đã đổ ra vì chúng ta. Thánh Thể làm viên mãn những lời của Chúa Giêsu: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn người…”,
Luôn giữ tình yêu của Đức Kitô trong tâm trí sẽ là động cơ thúc đẩy chúng ta sống như là những người Công Giáo chính danh. Lưu ý đến những lời dâng hiến trên cổ tay chúng ta sẽ chuyển chúng ta tới hành động và chỉ làm theo ý muốn của Thiên Chúa mà thôi. Chúng ta sẽ không bao giờ do dự khi phải kêu lên: “Lạy Chúa, Lạy Chúa”. Nhưng chúng ta phải bảo đảm là những lời ấy dẫn đến sự tận tụy và trung thành trong trót cuộc sống chúng ta.
(Trích trong Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Đời sống con người không phải chỉ có những khó khăn trước mắt. Chính cuộc sống hàng ngày: TN 9-A24
Đời sống con người không phải chỉ có những khó khăn trước mắt. Chính cuộc sống hàng ngày đã là một khó khăn; vì ngày nào ngày nào con người cũng phải cố gắng; ngưng các cố gắng này, đời sống chẳng còn ra gì nữa. Và con người phải cố gắng về nhiều mặt. Hôm nay Lời Chúa bảo chúng ta phải cố gắng về mặt đạo đức, đem Lời Người ra thực hành.
A. Lệnh Truyền Của Chúa
Bài sách Thứ luật đơn sơ vắn tắt. Nó làm vọng lại thời xưa; nhưng chân lý của nó vẫn có giá trị hiện đại. Đó là những lời Thiên Chúa trực tiếp nói với dân Israel ở thời Giao Ước núi Sinai. Đúng hơn, đoạn trích hôm nay kết thúc những chương trình bày giao ước giữa Thiên Chúa và Dân Người.
Người đã cho Dân ấy hiểu rằng chính Người đã ra tay oai hùng và mạnh mẽ cứu Dân ra khỏi đất tôi mọi. Người muốn chọn họ làm Dân Riêng của Người nếu họ bằng lòng chỉ nhận Người làm Chúa. Dĩ nhiên trăm người như một, họ đã đồng thanh hưởng ứng vì uy quyền và ân huệ của Thiên Chúa trong việc cứu Dân đang còn rõ ràng trước mắt. Họ thấy theo Người không thiệt gì cả mà chỉ có lợi, vì nếu không, nay họ đã không là một Dân có lịch sử và tương lai nhưng đã hao mòn, mạt kiếp nơi chỉ toàn gặp những chuyện bất công ức hiếp. Do đó trong lúc phấn khởi, họ đã nhận hết mọi lệnh truyền của Chúa do Môsê truyền lại. Ông đã ghi tất cả vào bia đá và sách vở. Nhưng chưa đủ. Cần thiết hơn là mỗi người phải nắm vững, và đem ra thi hành. Thế nên để kết luận, Môsê nói với Dân những lời chúng ta vừa nghe đọc.
Ông yêu cầu họ hãy đặt lệnh truyền của Chúa vào lòng, vào linh hồn; hãy buộc nó làm dấu nơi tay để luôn có thể nhìn thấy; cũng như hãy lấy nó làm khăn chít nơi trán để nhắc nhở cho nhau. Bởi vì hạnh phúc tùy thuộc ở việc tuân giữ lệnh truyền ấy. Người ta sẽ được chúc lành khi đem nó ra thi hành; ngược lại họ sẽ bị chúc dữ khi lạc xa đường lối Thiên Chúa đã vạch ra. Không tất nhiên Người phải phạt họ. Chính đường lối họ đi theo khi bỏ đường lối của Thiên Chúa sẽ đưa họ đến những bất hạnh vô cùng khốn khổ. Đó là con người của tà thần nơi các dân ngoại. Bước vào con đường đó, Israel sẽ ra khỏi Lời Hứa và mất tất cả những gì làm cho Dân ấy nên vinh dự và độc đáo. Israel sẽ ra khỏi ơn gọi làm Dân Riêng của Thiên Chúa và không còn lẽ sống đặc biệt nữa. Do đó đứng trước lệnh truyền của Chúa là đứng trước lời chúc lành hay lời chúc dữ, là đứng trước hạnh phúc hay bất hạnh, sự sống hay sự chết. Israel có quyền lựa chọn. Thiên Chúa kính trọng sự tự do của con người. Tuy nhiên không lúc nào Người không muốn Israel lựa chọn đường lối sự sống. Đến nỗi sau khi đã nhiều lần nhiều cách khuyên nhủ họ qua các tiên tri, cuối cùng Người đã phải sai chính Con Một của Người đến để giúp họ, kéo họ trở về với lệnh truyền và chúc lành của Người. Đó là Đức Yêsu Kitô mà hôm nay bài Tin Mừng cho chúng ta thấy cũng đang kết thúc Bài giảng trên Núi, giống như Môsê đã kết thúc huấn từ về Giao ước trong bài sách Thứ luật vừa nghe.
B. Hãy Xây Nhà Trên Đá
Thật vậy đoạn Tin Mừng hôm nay kết thúc một bài giảng dài trong sách Tin Mừng Matthêô. Đó là Bài giảng trên Núi, khởi đầu với các mối phúc thật. Rồi Chúa Yêsu đã đề cập đến việc cầu nguyện ăn chay và bố thí, là những việc đạo đức đặc biệt trong dân Dothái. Người cũng đề cập đến nhiều vấn đề khác nữa. Cuối cùng nhìn vào đám thính giả đang chăm chú nghe, Người như muốn nói với các cộng đồng tín hữu cử hành Phụng vụ của Người sau này. Nói đúng hơn, tác giả sách Tin Mừng nhìn thấy các cộng đồng Kitô hữu nơi đám thính giả đang chăm chú nghe Đức Yêsu. Và người muốn đặt những lời này trên miệng Chúa: “Không phải mọi kẻ nói với Ta: lạy Chúa! lạy Chúa! là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành Ý Cha Ta”.
Những ai quen biết Kinh Thánh lập tức đã nhận ra bối cảnh của ngày chung thẩm trong những lời vừa nghe. Người ta đến lay cửa Nước Trời như những trinh nữ khờ dại, không chuẩn bị dầu đèn, nên khi mọi người đã vào phòng cưới và cửa đã đóng mới chậm chân đến gõ cửa xin vào (25,11). Đức Yêsu bấy giờ không còn như lúc rao giảng ở trần gian nữa. Người đã là “Chúa”. Tước hiệu đặc biệt này Người đã nhận được khi sống lại và người ta được chiêm ngưỡng khi Người trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Sách Tin Mừng Matthêô hay dùng chữ “trong ngày ấy” để nói về thời thế mạt.
Vậy trong ngày ấy, nhiều kẻ sẽ đến nói với Đức Yêsu: Lạy Chúa, lạy Chúa! Họ làm chúng ta liên tưởng đến những con người quen đọc kinh, những người thường đọc kinh và đọc kinh nhiều, nhưng lại là những kẻ không thi hành Thánh ý Chúa. Họ giữ đạo như những người nơi dân ngoại và như dân Dothái mà các tiên tri đã nói rằng họ chỉ thờ Chúa bằng môi miệng, còn lòng họ thì ở xa Người. Dĩ nhiên những người như vậy sẽ không được Đức Kitô nhìn đến.
Ở đây, sách Tin Mừng Matthêô còn nói đến cả những người đã nhân Danh Chúa mà nói tiên tri, nhân Danh Người mà trừ quỷ, nhân Danh Người mà làm phép lạ. Đó chẳng phải là những người ở trong hàng ngũ môn đệ sao, mà sách Tin Mừng đã có lần nói rằng họ cũng được Chúa sai đi giảng đạo và họ cũng đã làm được nhiều phép lạ? Phải, có nhiều người ở trong Giáo hội, ngay cả nơi phẩm trật Hội Thánh nữa vẫn “nhân Danh” Chúa mà làm nhiều truyện. Trong ngày ấy họ đến với Chúa; họ chào Chúa: lạy Chúa, lạy Chúa; nhưng họ sẽ được trả lời: Ta không hề biết các ngươi! Nghĩa là Ta không thấy có gì mật thiết với các ngươi, Ta không thấy các ngươi là bạn hữu, vì như lời Phaolô nói: có những kẻ làm phép lạ mà không có đức mến. Những người ấy đã làm việc chiếu lệ. Và tệ hơn nữa, lời Tin Mừng hôm nay nói: họ hết thảy là phường tác quái. Tác giả Matthêô quen dùng từ ngữ này để nói đến những hành động thiếu bác ái, yêu thương (xem 13,41; 23,28; 24,12). Và như thế làm chúng ta thấy rõ những lời Chúa phán xét ở đây cũng y hệt như ở một đoạn khác, đoạn 25 trong sách Tin Mừng Matthêô nói về chung thẩm. Và Người cũng nói với những kẻ không thi hành bác ái rằng: hãy xéo đi xa Ta! y như hôm nay Người tuyên bố với hạng người không thi hành Lời Chúa.
Tuy nhiên chúng ta đừng nghĩ tưởng Nước Trời và hạnh phúc thiên đàng như một thứ phần thưởng ngoại tại sẽ được trao tặng cho những kẻ thi hành Ý Chúa. Nhưng cây xiêu đàng nào thì đổ đàng ấy. Con người không giữ Luật Chúa, thì như lời sách Thứ luật hôm nay nói, họ đã đi vào con đường bất hạnh. Và con người không làm bác ái, thì đã là phường tác quái. Đời sống và công trình của họ giống như của người xây nhà trên cát: mưa đổ, sông tràn, gió thổi, nó sập và sập đổ lớn.
Đây không phải là văn chương. Đó là những nét gợi lại cảnh hồng thủy ngày xưa và gợi lên cảnh trời long đất lở trong ngày chung thẩm. Vào ngày đó, con người tác quái sẽ thấy họ đã sống vô ích. Công việc họ làm theo thế gian đã qua đi với thế gian. Thánh Phaolô bảo trong ngày đó chỉ còn đức ái tồn tại. Và ở đây thánh Matthêô nói, chỉ còn cuộc đời bác ái mới đứng vững trước mặt Chúa. Chính Người là Đá Vững Chắc để ai gắn bó với Người mới tồn tại qua các cơn phong ba và đặc biệt trong cơn bão táp cuối cùng là thời tận thế. Thánh Yoan nói: “Ai bảo mình biết Chúa Yêsu mà không giữ lệnh truyền của Người, thì là kẻ nói láo” (1Yn 2,3-6). Lời ấy có thể giải thích vì sao “trong ngày ấy nhiều kẻ nói với Ta: Lạy Chúa, lạy Chúa... mà sẽ bị Ta tuyên bố: Ta không hề biết các ngươi”.
Do đó, giữ đạo không phải chỉ là đọc kinh xem lễ, nhưng nhất là lắng nghe Lời Chúa và thi hành Ý Người. Chính Người đã phán: chỉ những ai làm như vậy mới là mẹ, là anh, là em của Người, nghĩa là mới có tình nghĩa với Người và mới có đức bác ái.
C. Bởi Tin Chứ Không Phải Bởi Việc Làm Luật Dạy
Đọc qua, chúng ta có thể tưởng Phaolô không nhất trí với sách Thứ luật và Tin Mừng Matthêô. Người nghĩ rằng “con người mà được giải án tuyên công (= được công chính hóa) ấy là bởi tin, chứ không phải bởi việc làm Luật dạy”. Do đó người Tin Lành thường nói: chúng ta được rỗi chỉ nhờ lòng tin.
Tuy nhiên chúng ta có thể tạm phân biệt hai giai đoạn trong cuộc đời của người tín hữu: lúc họ đi từ nơi tối tăm sang nơi ánh sáng, tức là từ tình trạng tội lỗi được trở nên công chính; và cuộc đời từ đó trở đi. Ở đây thánh Phaolô muốn nói đến giai đoạn thứ nhất, lúc con người được công chính hóa, nghĩa là được tha thứ tội lỗi để nên thánh thiện, được giải án là con cái của lôi đình giận dữ để được tuyên bố là con cái của ân sủng và tình thương. Điều này không tùy vào luật nào hay việc nào, nhưng hoàn toàn chỉ nhờ bởi tin vào Đức Yêsu Kitô, Đấng mà Thiên Chúa đã bày ra trước mắt thiên hạ như phương xá tội. Chỉ nhờ ơn Người, nhờ việc cứu chuộc trong Máu Người mà mọi kẻ tin đều được công chính hóa.
Đàng khác, “tin” đối với thánh Phaolô không chỉ là một hoạt động của trí tuệ chấp nhận chân lý, nhưng tự bản chất là một hoạt động của cơ thể con người hiến thân cho mạc khải cứu độ của Thiên Chúa. “Tin” như vậy chính là “yêu”, và yêu không chỉ ở trong tư tưởng nhưng là dấn thân và hành động. Người ta tin Phúc Âm thì vâng lời Phúc Âm; và người ta tin Chúa thì phải giữ lệnh Người truyền.
Phaolô và Matthêô không nói khác nhau như thoạt đầu chúng ta tưởng. Phaolô nói đến hành vi vào đạo; đang khi Matthêô nói với một cộng đoàn đã có đạo. Nhưng trong tư tưởng của cả hai tác giả, tin vẫn là dấn thân cũng như không được kêu “lạy Chúa, lạy Chúa” mà không giữ lệnh Người truyền. Phaolô phi bác giá trị của các việc Luật dạy làm khi người ta quả quyết chúng có thể giải án tuyên công, tức là cứu chuộc con người ra khỏi tội lỗi. Vì như vậy mầu nhiệm Chúa Yêsu Kitô và việc Người hy tế sự sống mình trở nên vô ích. Còn Matthêô lại nói đến các việc làm mà đức tin đòi buộc để chứng tỏ đức tin chân thật. Phụng vụ hôm nay đọc cho chúng ta nghe lời của cả hai tác giả để chúng ta có một cái nhìn đầy đủ và hàng ngày biết sống xứng đáng với ơn gọi Kitô hữu.
Ngay trong giờ phút này, chúng ta cử hành Thánh lễ. Đức tin cần thiết biết bao! Vì chính đây là mầu nhiệm đức tin. Không tin ở lời toàn năng biến đổi bánh rượu nên Mình Máu Chúa, chúng ta không có Bí tích tình yêu ở giữa chúng ta. Chúng ta không tham dự vào mầu nhiệm Tử nạn-Phục sinh của Chúa. Chúng ta không được thêm ơn cứu độ.
Nhưng khi đức tin làm cho chúng ta biết nhìn nhận và lãnh nhận Mình Máu Chúa trong mầu nhiệm cứu thế này thì đức tin đồng thời đòi hỏi chúng ta phải chết đi cho con người cũ và sống cho con người mới. Không như vậy làm sao có thể nói tham dự vào mầu nhiệm Chúa chết và sống lại? Và khi đã tham dự vào Bí tích biến đổi như thế, ai nghĩ rằng mình có thể trở về mà cứ sống như trước đây? Hay là tất cả chúng ta đều thấy “lễ xong” chúng ta phải ra về để thi hành Lời Chúa và Luật Chúa? Đời sống Kitô hữu không phải là thực thi lệnh truyền của Chúa hay sao? Và như vậy là vì đã phát xuất từ niềm tin và luôn được niềm tin nâng đỡ. Vì thế, chúng ta hãy tin và hãy làm như Lời Chúa hôm nay dạy bảo.
Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ càn khôn và Người truyền cho mọi: TN 9-A25
Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ càn khôn và Người truyền cho mọi vật phải tuân theo qui luật mà Người đã định sẵn. Nhờ đó, vạn vật được vận chuyển trong trật tự hài hoà và sự sống mới được duy trì. Trái đất phải quay quanh mặt trời theo đúng quỹ đạo đã được qui định cho nó và cứ 365 ngày và 6 giờ thì giáp một vòng và nó đã tuân theo như thế luôn mãi không hề sai chậy một giây.
Mặt trăng phải quay quanh trái đất theo một quỹ đạo nhất định với một vận tốc không đổi và cứ 29 ngày rưỡi thì giáp một vòng và cứ thế không nhanh, chậm một giây phút nào suốt niên đại nầy sang niên đại khác.
Tất cả các ngôi sao trên trời đều di chuyển theo đúng quỹ đạo, theo đúng vận tốc đã quy định cho chúng không bao giờ sai lệch.
Chính vì các hành tinh luôn luôn vận hành theo đúng quy luật một cách tuyệt đối, nên các nhà thiên văn mới có thể xác định cách chính xác về thời gian và địa điểm các hiện tượng nhật thực hoặc nguyệt thực sẽ xảy ra trong tương lai hàng trăm năm tới.
Nói chung, mọi sự trên đời (ngoại trừ con người vì con người có tự do) đều răm rắp tuân theo các qui luật mà Thiên Chúa đã qui định cho chúng.
Nước gặp nhiệt độ cao thì phải bốc hơi, gặp lạnh thì phải đông lại; kim loại bị nung nóng thì giãn nở ra theo trị số nhất định; cây nào sinh trái đó, loài ong phải lo xây tổ, hút mật; loài kiến phải cặm cụi tha mồi; loài cá phải sống trong nước v.v...
Ngay cả ngôn ngữ của loài người cũng bị chi phối bởi qui luật, đó là ngữ pháp. Nói hay viết không theo quy luật (tức không đúng ngữ pháp) thì sẽ gặp rối loạn trong giao tiếp. Âm nhạc cũng phải được sáng tác theo qui luật của nó, đó là nhạc lý.
2. Thuận theo quy luật thì sống, đi trái quy luật thì tiêu vong.
Nếu trái đất đi trệch ra ngoài quỹ đạo của mình, hoặc vận hành nhanh hay chậm hơn vận tốc mà Đấng Tạo Hoá đã quy định, thì lúc ấy là ngày tận thế.
Nếu các ngôi sao khác trên vòm trời “từ chối” đi theo con đường Thiên Chúa đã vạch thì đại hoạ sẽ đến với vũ trụ nầy.
Nếu máy bay, tàu biển, xe cộ không vận hành đúng quy luật hàng không, quy luật hàng hải hay quy luật giao thông đường bộ thì các phương tiện nầy sẽ ngốn nhiều nhân mạng hơn tất cả mọi cuộc chiến trên thế gian.
Thỉnh thoảng báo chí đưa tin một vài chiếc tàu lửa đi trật đường rầy nên đã gây hậu quả vô cùng thảm khốc.
Tàu lửa đi trật đường rầy gây hậu quả đau thương thế nào thì mỗi người nói riêng và loài người nói chung đi “trật đường rầy” cũng phải gánh lấy hậu quả tai hại không kém.
Chính vì thế nên Chúa Giê-su dạy: “những ai chẳng thực hành lời Thiên Chúa, được ví như người dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành”
3. Đâu là 'quỹ đạo' của con người?
Muôn vì trăng sao, tinh tú phải đi đúng quỹ đạo của mình thì mới khỏi gây ra va chạm, đổ vỡ và diệt vong. Loài người cũng phải đi đúng 'quỹ đạo' của mình mới mong được sống còn và thăng tiến.
Vậy đâu là con đường mà con người phải theo để đạt tới cùng đích đời mình?
Đó là thực hành lời Chúa, tuân giữ các giới răn.
Khi có người đến gặp và hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Chúa Giêsu đáp: “Ngươi hãy giữ các giới răn” và cũng có nghĩa là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su mạnh mẽ khẳng định rằng: chỉ có những ai đi theo con đường Thiên Chúa đã vạch, tức thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha, thì mới được cứu rỗi, mới được vào Nước Trời mà thôi: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa, lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.”
Một khi đã “đi trật đường rầy”, tức không thi hành ý Chúa, thì dù có tạo được kỳ công như nói tiên tri, xua trừ ma quỷ hay làm phép lạ cũng chỉ là không: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà xua trừ ma quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều ác!”
Tuân giữ các giới răn bao gồm trong luật yêu thương là 'quỹ đạo' của con người, là con đường đưa chúng ta tới cùng đích của cuộc đời chúng ta.
Nếu chúng ta đi “trật đường rầy”, “đi sai quỹ đạo”, nghĩa là làm trái điều răn của Chúa, chúng ta sẽ lãnh lấy hậu quả đau thương.
Trước cuộc sống vô cùng phức tạp hôm nay, nhiều người đã bị lạc đường. Người ta cố gắng đi: TN 9-A26
Trước cuộc sống vô cùng phức tạp hôm nay, nhiều người đã bị lạc đường. Người ta cố gắng đi tìm thày để học khôn. Nhưng ai xứng đáng cho chúng ta chọn mặt gởi vàng ?
CON ĐƯỜNG TRƯỚC MẶT
Nhiều người chỉ xử dụng đôi tai để nghe Lời Chúa, chứ không hề đụng tới bất cứ một việc gì. Trong khi Lời Chúa vẽ ra một con đường phục vụ, họ ngại ngùng hành động. Thực tế, họ lại dễ dàng lên tiếng đòi hỏi, hạch sách. Họ nghe rất rõ lời kêu gọi của Chúa và Giáo hội, nhưng lại mơ màng sống theo đam mê. Thấy những người đang vất vả xây dựng cộng đoàn, họ trề môi bỉu mỏ: “Aên cơm nhà, vác tù và hàng xóm.” Có thể họ là những người siêng năng đi lễ, chầu Thánh Thể,và cầu nguyện sốt sắng. Không ai phủ nhận niềm tin nơi họ. Nhưng Đức Giêsu lên tiếng cảnh cáo: “Không phải bất cứ ai thưa với Thày: Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! là sẽ được vào Nước Trời cả đâu !” (Mt 7:21) Hơn nữa, Người minh họa hình ảnh thực tế của những con người ấy như sau: “Ai nghe những lời Thày nói đây mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành.” (Mt 7: 26-27) Thật là thê thảm !
Vậy bây giờ phải làm gì để tránh thảm họa đó ? Đâu là thái độ khôn ngoan của con người biết nhìn xa trông rộng ? Dù quyền uy tới và công trạng tới mấy, con người cũng không đủ điều kiện vào hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Chỉ có một điều kiện duy nhất quyết định số phận con người, đó là “thi hành ý muốn của Cha Thày là Đấng ngự trên trời.” (Mt 7:21) Cụ thể, đó là người thực hiện những gì đã nghe từ Lời Chúa (x. Mt 7:24). Như thế, thực tế bắt buộc con người phải có một lựa chọn quyết liệt, hoặc đứng hẳn về phía Thiên Chúa hay ngả theo ma quỷ, thế gian (x. Đnl 11:27.28). Tự do là đây ! Định mệnh cũng là đây !
Đức Giêsu đã nhìn thấy trước những cạm bẫy rình rập bước chân những người tín hữu. Bởi vậy, Người nhấn mạnh đến mặt thực hành Lời Chúa (x. Mt 7:24; Đnl 11:32). Không phải những lời nói hấp dẫn hay những công việc lạ lùng làm lé mắt thiên hạ có giá trị trước nhan Chúa. Nếu Đức Giêsu cũng chỉ nghe Lời Chúa Cha, mà không dấn thân hành động cho đến hi sinh mạng sống trên thập giá, thử hỏi Người có được Chúa Cha chấp nhận không ? Đối với Người, thánh ý Thiên Chúa là ưu tiên số một. Suốt đời, Người chỉ cố gắng diễn tả và tìm cách vâng phục ý Chúa Cha. Ngày chung thẩm, “chỉ có một đời sống đầy ắp tình yêu và công lý mới là điểm trổi vượt” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:647) mà thôi. Tình yêu tạo nên những liên đới cần thiết cho công cuộc xây dựng và cứu độ. Công lý đem lại hòa bình đích thực cho nhân loại. Không hành động không thể có hòa bình và công lý. Tin Chúa phải dấn thân hành động công lý và hòa bình!
Không hành động theo Lời Chúa, chắc chắn trần gian sẽ bị bóng tối che phủ và trở thành mồi ngon cho những lực lượng ác thần. Sống và hành động theo Lời Chúa là một lựa chọn khôn ngoan nhất. Chỉ có Lời Chúa mới là nền móng vững chắc nhất nâng đỡ nhân loại khỏi rơi vào cảnh tiêu vong. Lời Chúa luôn là một thách đố lớn lao đối với tín hữu. Tuy thế, không có ơn Chúa, con người cũng không thể tin, chứ đừng nói đến hành động. Nói khác, tin hay hành động đều phải do ân sủng Thiên Chúa. Không có việc chia cắt giữa đức tin và hành động. Một đức tin đích thực luôn phải đi tới hành động. “Đức tin không có việc làm là đức tin chết.” Một hành động đem lại ơn cứu độ đích thực cho nhân loại đòi phải phát xuất từ đức tin. Nói cho cùng, chúng ta “được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu.” ( Rm 3:24) Nếu không hành động để tạo nên công trình ấy, Đức Giêsu đã không đáng chúng ta bước theo. Thế nên, tin là bước theo Người để tiếp tục hành động cho ơn cứu độ nhân loại. Tự nhiên, ai cũng ngại dấn thân hành động và thích hưởng thụ. Đức Giêsu đến lôi kéo chúng ta ra khỏi cái tôi và tìm đường phục vụ mọi người. Nếu cứ khư khư bảo vệ cái tôi quá kỹ, chúng ta sẽ đánh mất tất cả, kể cả cái tôi. Nhưng nếu “ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12:25) Bởi thế, nhờ đức tin, chúng ta hành động. Nhờ hành động, chúng ta được cứu độ.
GIỜ HÀNH ĐỘNG
Trước những thúc bách của Lời Chúa và đòi hỏi của cuộc sống, chúng ta phải làm gì ? Muốn biết phải làm gì, chúng ta cần xét mình cẩn thận và học hỏi gương sáng của các anh em Kitô hữu tại Hoa kỳ, nơi chúng ta đang sinh sống.
Có lẽ nhiều người rất hãnh diện khi nghe nói các Đức Giám Mục Hoa Kỳ lên tiếng ca ngợi và biết ơn sự hiện diện của người Công Giáo Việt Nam tại đây. Họ càng có lý do coi mình là một gương mẫu cho các cộng đoàn Công giáo Hoa kỳ, khi thấy các nhà thờ Mỹ thưa bóng người, nhất là giới trẻ. Thực tế, chúng ta có học hỏi được cái gì nơi các cộng đoàn Công giáo Hoa kỳ không ?
Quả thực, chúng ta có những điểm tích cực và khởi sắc lôi cuốn các vị lãnh đạo Công giáo Hoa kỳ. Thế nhưng, càng nhìn sâu vào đời sống của giáo dân Hoa kỳ, chúng ta mới thấy mình còn thua xa họ về nhiều mặt, nhất là về suy tư và hành động. Về mặt suy tư , có ai đếm nổi những tựa sách về tín lý, thánh kinh, thiêng liêng, luân lý v.v. xuất bản mỗi năm của Giáo hội Hoa kỳ không ? Mỗi tựa sách xuất bản với số lượng bao nhiêu ? Nếu không có người đọc những sách đạo đó, các tác giả có dám viết và xuất bản nhiều như vậy không ? Trong khi sách đạo ở Việt Nam và Hải ngoại, xuất bản và tiêu thụ được một ngàn cuốn sách phải mất bao nhiêu năm trời ?
Về mặt hành động và hy sinh cho tha nhân cũng như cộng đoàn, chúng ta cũng thấy mình phải học hỏi nhiều lắm. Một truyền thống phổ biến khắp các cộng đồng Công giáo Hoa kỳ về việc đóng góp cho xứ đạo cũng như công cuộc bác ái mới đáng cho chúng ta suy nghĩ. Đây là một ví dụ cụ thể. Một họ lẻ của người Việt Nam và một xứ đạo nhỏ của người Hoa kỳ tại Houston, Texas cho chúng ta thấy một bài học rất thấm thía. Số người ở hai cộng đoàn đó hầu như ngang nhau, nghĩa là quãng trên ba trăm. Tại họ lẻ Việt nam đó, linh mục quản nhiệm có kêu gào tới mấy, mỗi tuần cũng chỉ thu chừng hơn ba trăm đô. Trong khi đó, số tiền giỏ trung bình mỗi tuần của xứ đạo Hoa kỳ đó là bốn ngàn đô. Dĩ nhiên, có thể người Mỹ giàu hơn chúng ta. Nhưng ở đây, không nói về số tiền lớn hay nhỏ. Chúng ta chỉ muốn đặt vấn đề về số tiền đóng góp đó chiếm bao nhiêu phần trăm đồng lương mỗi tuần của người tín hữu. Chúa cũng không nói về số lượng, nhưng tỷ lệ đóng góp của bà góa vào hòm tiền nhà thờ mới đáng kể. Số tiền bà đóng là một trăm phần trăm, vì “bà đã bỏ vào đó tất cả những gì bà có.”
Nhìn vào giỏ tiền nhà thờ của cộng đoàn Việt Nam, chúng ta thấy trên chín mươi phần trăm mang hình ông Washington, nghĩa là một Mỹ kim. Tại sao có hiện tượng khác biệt đó ? Có lẽ tại nếp văn hóa Việt Nam khác với văn hóa Hoa Kỳ. Sở dĩ thường bỏ một Mỹ kim vào giỏ, có lẽ vì chúng ta coi việc bỏ tiền vào giỏ nhà thờ cũng giống như việc bố thí vậy. Trong khi đó, người Mỹ coi đó là một bổn phận. Họ cảm thấy có trách nhiệm, chứ không phải là việc làm phúc.
Khi đề cập tới vấn đề tế nhị này, chúng tôi không muốn nói đến chuyện tiền bạc. Nếu đóng góp nhiều hơn cũng chỉ dành cho cộng đoàn, chứ không cho các linh mục đang coi sóc cộng đoàn. Khác với các linh mục ở Việt Nam, các linh mục ở các nước Aâu Mỹ thường có lương cố định. Một số người phê bình về thói xin lễ của giáo dân Việt Nam ở Hải ngoại. Dưới mắt họ, đó là một thói quen mù quáng và phí phạm. Họ tưởng giáo dân Việt Nam đóng góp và tốn phí quá nhiều.
Thực tế, sức đóng góp của chúng ta còn xa giáo dân Hoa kỳ nhiều lắm. Họ hơn chúng ta cả về suy tư, sức đóng góp và hành động, vì đạo đã thấm vào tận xương tủy của họ. Trong khi đó, đạo Công giáo mới vào Việt Nam chừng bốn thế kỷ nay mà thôi. Đạo chưa thấm …
Cuộc sống ta lúc nào cũng có chọn lựa: chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu, chọn lựa giữa ý: TN 9-A27
Cuộc sống ta lúc nào cũng có chọn lựa: chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu, chọn lựa giữa ý Chúa và ý riêng, chọn lựa một lối sống, lớn hơn nữa là chọn lựa nghề nghiệp hay bậc sống cho mình. Là người Công giáo, hết thảy ta đều có một chọn lựa quan trọng nhất, đó là thực hành những điều Chúa dạy ta qua Đức Ki-tô. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày sự chọn lựa của những người con cái Chúa, thời Cựu Ước cũng như thời Tân Ước. Riêng đối với ta là môn đệ Chúa Ki-tô, ta phải chọn theo Người bằng cách lắng nghe và tuân giữ lời Người.
1. Chọn lựa của Ít-ra-en trong Cựu Ước: chọn thờ phượng Đức Chúa (bài đọc Cựu Ước – Đnl 11:18.26-28)
Dân Ít-ra-en đã kết thúc cuộc hành trình bốn mươi năm trong sa mạc và chuẩn bị tiến vào Đất hứa. Trên đường lưu lạc, ngoài ảnh hưởng của Ai-cập, Ít-ra-en còn tiếp xúc với những dân tộc ngoại giáo họ đi ngang qua và họ bị lôi cuốn do những sinh hoạt tôn giáo của những nước ấy. Việc đúc bê bằng vàng để tôn thờ là một bằng chứng cho thấy lòng tin của họ vào Thiên Chúa vẫn còn dễ dàng bị lung lạc. Dân chúng thường nhẹ dạ chạy theo những lối sống mới lạ của những dân họ đã tiếp xúc. Ông Mô-sê rất am hiểu tình huống ấy và lúc nào cũng lo lắng răn bảo dân chúng phải tuyệt đối trung thành với Thiên Chúa. Hôm nay là thời điểm ông quyết liệt đòi hỏi dân chúng phải tỏ rõ lập trường trước khi ông trao cho họ “những thánh chỉ và quyết định phải đem ra thực hành trong đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông họ, đã ban cho họ để chiếm hữu mọi ngày sống trên mặt đất” (Đnl 12:1). Lập trường đó phải bắt đầu bằng chọn lựa một trong hai điều: hoặc được chúc phúc hoặc bị nguyền rủa. Nếu họ muốn được chúc phúc, thì phải “vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa”. Còn nếu muốn bị nguyền rủa thì cứ việc “không vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa”.
Chọn lựa một trong hai điều trên, theo lẽ thường ai mà chẳng muốn chọn được chúc phúc. Tuy nhiên việc chọn lựa không đơn giản đâu. Chọn lựa nào cũng phải trả cái giá của nó. Tôi muốn chọn làm bác sĩ thì phải chấp nhận học hành vất vả và nhiều năm hơn, phải tốn tiền hơn, phải ráng chịu khổ chịu sở những năm thực tập… Chọn lựa đi song song với hành động, vì chọn lựa là chọn lựa đích tới, nhưng để tiến đến mục tiêu thì phải hành động. Dân chúa muốn chọn được Chúa chúc phúc, họ “phải lo đem ra thực hành mọi thánh chỉ và quyết định” của Chúa mà hôm nay ông Mô-sê trình bày cho họ. Bộ Đệ nhị luật mà ông Mô-sê sắp truyền cho họ cốt yếu nói về việc thờ phượng Chúa và đời sống luân lý đạo đức. Ít-ra-en không được thờ phượng Chúa theo cách dân ngoại thờ phượng các thần của họ, nhất là những cách tế tự của người Ca-na-an (Đnl 12:29-31). Đời sống luân lý đạo đức phải phản ảnh lòng bác ái yêu thương của Thiên Chúa, trong đời sống gia đình cũng như ngoài xã hội. Nói tóm lại, Thiên Chúa muốn dân Người phải từ bỏ lối sống của dân ngoại và một lòng thờ phượng Thiên Chúa. Vì tính cách quan trọng của việc chọn lựa này, nên ông Mô-sê muốn nhắc nhở họ: “Những lời tôi sắp nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu”.
Nhưng Ít-ra-en có thực thi những điều ông Mô-sê dặn dò hay không, ta đã biết qua lịch sử của họ. Những bất trung, những lơ là nhẹ dạ của họ thường đã phải đánh đổi bằng những đau khổ nhục nhằn họ phải chịu do thống trị của ngoại bang, bị phát lưu làm tôi mọi cho Ba-by-lon… Lịch sử Ít-ra-en cũng là lịch sử của mỗi người con cái Chúa. Ta chọn lựa làm con cái Chúa, nhưng những sa ngã yếu đuối của ta chứng tỏ rằng ta thường chọn mục đích, nhưng lại không muốn chọn phương tiện, muốn được Chúa chúc phúc, nhưng lại không muốn sống lối sống của người Ki-tô hữu.
2. Chọn lựa của Ki-tô hữu: chọn đồng hành với Đức Ki-tô (bài đọc Tân Ước – Rm 3:21-25a.28)
Dân Do-thái tự hào về Lề Luật Mô-sê và cho rằng nguyên việc giữ luật ấy cũng đã đủ làm cho họ trở nên công chính. Họ đã đặt sai vấn đề. Làm cho ta trở nên công chính không phải là bản chất của Lề Luật, vì tự nó Lề Luật chỉ là những điều nhắc nhở ta phải làm thế này thế nọ, cũng không phải chính ta làm cho ta nên công chính khi ta tuân giữ Lề Luật, nhưng đó là công việc của một mình Thiên Chúa mà thôi. Thánh Phao-lô đã trình bày kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa trên nền tảng công chính hóa, tức là việc Thiên Chúa làm cho ta trở nên công chính. Ngài nêu lên chân lý cốt yếu của kế hoạch ấy như sau: “Người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô”.
Chân lý này vô cùng tinh tế và có thể gây hiểu lầm cho một số người. Khẳng định của thánh Phao-lô gồm có hai điều: a) Thiên Chúa làm cho ta nên công chính, và b) nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Đúng vậy, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa nhắm mục đích đưa ta đến chung phần hạnh phúc với Người. Hành trình ấy khởi đầu bằng việc làm cho ta trở nên công chính, tức là thay đổi căn tính của ta từ một kẻ thù nghịch với Thiên Chúa và không có tư cách đứng thẳng trước mặt Chúa trở thành con cái Người và được gọi Người là Abba (Cha ơi!). Người thay đổi căn tính của ta bằng cách sai Con Một là Đức Ki-tô đến và chết để chuộc tội lỗi ta. Với căn tính mới làm con cái Thiên Chúa, ta sẽ bắt đầu đồng hành với Đức Ki-tô để tiến về quê hương đích thực là nhà Cha. Nhưng làm sao ta có thể đồng hành với Đức Ki-tô nếu ta không có lòng tin vào Đức Ki-tô. Đối nghịch với chân lý này trước hết là người Do-thái phủ nhận vai trò của Đức Ki-tô và chủ trương nguyên việc giữ Luật Mô-sê đã đủ để cứu độ họ. Tiếp đến là nhiều hệ phái Tin Lành cho rằng nguyên lòng tin vào Đức Ki-tô sẽ cứu độ ta, chứ không phải chính Đức Ki-tô đã đổ máu chuộc tội và đồng hành để cứu độ ta.
Còn ta, những anh chị em Công giáo, trước hết tin rằng việc ta được trở nên công chính hoàn toàn là “do ân huệ Thiên Chúa ban không”, vì ta chẳng bao giờ xứng đáng để Chúa phải cho ta được nên công chính. Thứ hai, chính Đức Ki-tô là Đấng cứu độ ta chứ không phải việc giữ luật hoặc lòng tin của ta cứu độ ta. Lòng tin chỉ là cách ta tiếp nhận ơn cứu độ của Đức Ki-tô, hay nói khác đi, lòng tin của ta vào Đức Ki-tô là cách ta đáp trả lời mời gọi cứu độ của Thiên Chúa. Con đường cứu độ của ta bắt đầu với việc được rửa tội làm con Chúa. Thứ đến ta phải tiếp tục đồng hành với Đức Ki-tô, nghĩa là “nghe những lời Thầy nói đây mà đem thực hành” trong suốt cuộc sống trần gian của ta.
3. Từ nghe đến thực hành (bài Tin Mừng – Mt 7:21-27)
Chọn Đức Ki-tô tức là ta theo làm môn đệ Người. Môn đệ nghe lời giảng của Thầy, nhưng có thực hành lời dạy của Thầy hay không thì lại là chuyện khác. Từ nghe đến thực hành, con đường quả là dài dằng dặc. Ta nghe Lời Chúa biết bao nhiêu lần và bao nhiêu điều, nhưng sống và thực hành Lời Chúa thì được bao nhiêu? Để diễn tả hai việc, nghe Lời Chúa và thực hành, nghe Lời Chúa và không thực hành, Chúa Giê-su dùng hình ảnh xây nhà trên đá và xây nhà trên cát. Xây nhà trên đá là hình ảnh quen thuộc đối với người Do-thái, vì hầu như nơi nào cũng thấy đá, đá làm nền, đá xây tường, kể cả đá dùng để… ném người có tội! Đá cứng rắn, có đủ sức chống chọi với mưa gió và thời gian. Thánh vịnh ví Thiên Chúa như núi đá cho ta trú ẩn (Tv 28:1; 31:4), thật là chí lý và dễ hiểu. Căn nhà đứng vững hay không là nhờ nền nhà. Ta làm môn đệ Chúa giống như làm công việc xây nhà. Nghe lời Chúa và thực hành là những yếu tố nền tảng của việc làm môn đệ. Nghe mà thực hành thì là nền đá. Nghe mà không thực hành thì là nền cát. Ta kêu “lạy Chúa! Lạy Chúa!” nghĩa là ta chọn Đức Ki-tô làm Thầy. Nhưng ta nghe lời Chúa mà đem ra thực hành thì ta mới là môn đệ chân chính. Thiếu gì người chỉ muốn làm môn đệ kiểu “lạy Chúa, lạy Chúa”, môn đệ hữu danh vô thực! Thiếu gì người mang danh Công giáo, nhưng cuộc sống chẳng nói lên được căn tính Công giáo chút nào! Nghe Chúa dạy yêu thương hoặc nói về yêu thương đâu có gì khó và không đủ để chứng tỏ ta là môn đệ Chúa. Nhưng sống yêu thương mới cho người khác thấy ta thực sự là môn đệ Chúa vì ta đã sống giống như Chúa vậy.
Muốn nghe lời Chúa đâu có gì khó. Chỉ cần ta có đôi tai tốt, nếu không đã có những dụng cụ trợ thính. Nhưng muốn thực hành lời Chúa, ta cần phải nghe không chỉ bằng đôi tai, nhưng còn bằng con tim nữa. Với con tim, ta đón nhận lời Chúa với tất cả lòng khao khát mến yêu, với tình tôn kính Đấng phán dạy ta và với ý chí ta quyết tâm làm điều Chúa dạy. Ở đây Chúa Giê-su tỏ mình ra là Thiên Chúa, vì những từ “lạy Chúa, lạy Chúa” được sử dụng cho Thiên Chúa lại được Chúa Giê-su áp dụng cho chính Người. Người là Lề Luật Mới thay thế cho Luật Mô-sê. Người là con đường, sự thật và sự sống. Do đó, nghe và thực hành lời Chúa là ta đi trên con đường, nhận biết sự thật và chiếm hữu sự sống đích thực.
4. Sống Lời Chúa
Khi được rửa tội, ta chọn Chúa Giê-su làm Đấng cứu độ ta và hứa sống xứng đáng như con cái Chúa. Lời hứa rửa tội hoặc sống như môn đệ Chúa đòi hỏi ta phải lắng nghe Chúa dạy ta qua Kinh Thánh và đem những điều ấy áp dụng vào đời sống hằng ngày. Ta trả cái giá chọn lựa khi ta chống lại lối sống đi ngược với những giá trị Tin Mừng, một lối sống đầy quyến rũ của quyền lực, danh vọng và thú vui chóng qua. Thiên Chúa lấy cái chết của Đức Ki-tô để làm cho ta được trở nên con cái Người. Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu của tiến trình cứu độ. Ta cần phải sống theo lời dạy và gương mẫu của Đức Ki-tô, Con Yêu Dấu của Thiên Chúa, để hoàn tất hành trình đức tin nơi trần gian này.
Suy nghĩ: Môn đệ chân chính là những ai nghe lời Chúa mà đem ra thực hành. Còn những hạng môn đệ đầu môi chót lưỡi thì chỉ biết kêu “lạy Chúa, lạy Chúa” mà không thực hành lời Chúa, có khi còn làm ngược lại. Tôi lắng nghe lời Chúa, nhưng đã thực sự sống lời Chúa chưa? Tôi có thể sống lời Chúa rõ ràng nhất tại đâu và khi nào?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp mỗi người chúng con hằng để tâm suy nghĩ những gì thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 7 mùa thường niên).
Mỗi ngày trên các trang báo đều có những vụ tham ô, lừa đảo, lừa tình. Cuộc sống xem ra quá: TN 9-A28
Mỗi ngày trên các trang báo đều có những vụ tham ô, lừa đảo, lừa tình. Cuộc sống xem ra quá khổ đau khi mà ai cũng đặt đồng tiền lên trên mọi giao tế, trên cả tình người. Con người xây dựng đời mình trên đồng tiền nên đối xử với nhau thường phi nhân bất nghĩa. Hậu quả là thân tàn danh liệt. Kẻ tử hình. Người chung thân hay cũng bị vào trại tập trung vì đặt nền móng đời mình thiếu cái "đức" nên dễ siêu đổ trước những ma lực của đồng tiền, của danh vọng và lạc thú.
Năm 2010 được coi là năm đại hoạ đối với ngành đóng tàu của Việt Nam. 80.000 tỉ đồng nợ các ngân hàng. Đó là tổng số nợ của Vinashin mà đại diện Văn phòng Chính phủ cho biết tại cuộc họp báo ngày 2-7-10. Sự tham tiền dẫn đến tham nhũng và làm thất thoát tiền của nhân dân của các quan chức Vinashin không chỉ là thảm hoạ của ngành đóng tàu mà còn là thảm hoạ của cả dân tộc khi phải gồng gánh nhau để cùng trả nợ cho ngành kinh tế mũi nhọn Việt Nam.
Điều tệ hại nhất của Việt Nam lúc này là tình trạng "buôn hoa bán phấn". Hằng ngày trên các trang báo đều có những tin nóng về việc công an của tỉnh này hay tỉnh nọ đã kiểm tra các tụ điểm ăn chơi như: tụ điểm Karaoke, các quán bar, khách sạn. . . Họ đã bắt được rất nhiều các cô gái còn rất trẻ đang bán đời mình cho khách mua vui để đổi lấy đồng tiền và lạc thú. Họ tưởng rằng: họ có thể xây dựng đời mình trên đồng tiền dơ bẩn kiếm được từ thân xác của mình. Họ tưởng rằng nhờ đồng tiền hoen ố đó, họ có thể thay đổi vận mạng cuộc đời của mình. Tất cả đã vỡ mộng khi họ phải vào trại phục hồi nhân phẩm, nơi dành cho các cô gái nghiện ngập sa đoạ. Họ là những người đã xây dựng ngôi nhà cuộc đời mình trên cát, trên của phù dù, chỉ một cơn gió thoảng cũng đủ làm tiêu tan cuộc đời tươi trẻ của họ.
Lời Chúa hôm nay là lời cảnh tỉnh cho thái độ sống của chúng ta. Chúng ta đang sống trên nền tảng lời Chúa hay trên những của cải phù du? Chúng ta có thực sự để cho Lời Chúa nhào lặn cuộc đời chúng ta hay chúng ta đang để cho vòng xoáy của đồng tiền nhào lặn chúng ta?
Ngày xưa Adam, Eva vì quá tin lời dụ ngọt của ma quỷ để chạy theo quyền bính. Họ gạt Thiên Chúa ra bên ngoài để tự quyết định vận mạng cuộc đời mình. Họ đã lầm. Họ loại trừ Thiên Chúa là đá tảng cuộc đời nên họ chẳng còn gì để bám víu. Họ gạt bỏ Thiên Chúa nên họ cũng xa rời nhau. Adam đã kết án Eva. Cain đã giết chết Abel. Tội lỗi đã đi vào trần gian. Con người xem ra càng củng cố, xây dựng đời mình trên danh lợi thú thì càng đánh mất phẩm giá của chính mình và đánh mất tình liên đới giữa người với người. Thân phận của họ như "dã tràng xe cát biển đông". Có cố gắng vun quén, cất chứa cho đầy lòng tham của mình rồi một ngày kia: một con sóng nhỏ cũng khiến họ mất tất cả. Của "thiên trả địa". Mất cả những gì mình tích góp bằng sự bất chính và điều tệ hại nhất là cả hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Thực ra, tiền, tình, quyền là những thứ cần thiết trong cuộc sống, nhưng nó không thể là nền móng xây dựng cuộc đời chúng ta. Nó chỉ là phương tiện để phục vụ nhu cầu con người. Nó chỉ đóng vai trò điểm tô cho cuộc sống của mình thêm tốt hơn. Thế nhưng, nhiều người đã tôn sùng đến mức độ vì danh vọng, địa vi họ bỏ đạo, bỏ Chúa. Nhiều người đã tôn sùng đồng tiền đến độ bán rẻ lương tâm của mình để đổi lấy bạc tiền. Nhiều người vì đam mê lạc thú đã đánh mất phẩm giá của mình và chà đạp lên phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa cho chúng ta đủ khôn ngoan để chọn Chúa hơn là những phù hoa thế gian do ma quỷ ban tặng. Xin giúp chúng ta biết đặt nền tảng đời mình trên lề luật và lời Chúa hơn là những của cải, danh vọng trần gian. Xin lề luật của Chúa dẫn dắt chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn và Lời Chúa củng cố đời sống chúng ta luôn sông đúng phẩm giá làm người và làm con Chúa. Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Sống ở trần gian này, người ta cứ tưởng phải nói nhiều mới có tác dụng, phải nói lắm lời mới được: TN 9-A29
Sống ở trần gian này, người ta cứ tưởng phải nói nhiều mới có tác dụng, phải nói lắm lời mới được người khác nghe vv..." Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau ". Do đó, sống, tiếp xúc cư xử với nhau là cả một nghệ thuật. Biết cư xử, biết tiếp cận với nhau, biết sống với nhau luôn có một ý nghĩa quan trọng. Còn đối với Chúa, lời cầu nguyện của con người cũng phải được con người thành thực nói ra từ cõi lòng. Chúa Giêsu đã quả quyết: " Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: " Lạy Chúa! Lạy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi " ( Mt 7, 21 ).
Thực tế, lời nói mau qua, gương lành sáng chói. Ở đây, chúng ta phải nhớ rằng " Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo ". Bao giờ việc làm tốt, gương tốt luôn luôn có sức mạnh tỏa sáng, luôn thuyết phục được con người. Người Israel có truyền thống như sau: " Hãy nghe đây, hỡi Israel ? Chúa là Thiên Chúa ngươi, Chúa duy nhất ? Do đó các ngươi sẽ yêu mến Chúa là Thiên Chúa các ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi ", những ngôn từ, những lời này rất quan trọng khi Môsê dạy dân chúng: " Hãy ghi nhớ những lời của tôi vào trái tim và linh hồn các ngươi ". Và Môsê nói tiếp:" Hãy buộc chúng nơi cổ tay các ngươi như một dấu hiệu, hãy đeo chúng như đồ trang sức trên trán của các ngươi ". Đây là tục lệ của người Do Thái, một hình thức diễn tả lòng đạo đức và sốt sắng của những người Do Thái sốt sắng.
Chúa Giêsu thường lên án thói giả hình của những người Biệt phái, Kinh sư và Pharisêu. " Họ nói nhiều " " Họ ra luật tỉ mỉ ", nhưng không làm không thực hiện. Họ chất trên vai người khác những gánh nặng, còn mình thì không giơ ngón tay mà lay thử ! Đó là sự giả hình nguy hiểm. Ra đường họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo vv...Lời nói của những người giả hình không đi đôi với việc họ làm. Chính vì thế, lời nói của họ là những lời đạo đức giả, những lời không có giá trị. Thánh Phêrô, tuyên xưng: " Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống ", nhưng liền sau đó lại ngăn cản ý định cứu độ thế giới, loài người của Thầy. Hiểu được hai mặt của vấn đề này, thánh Giacôbê viết: " Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết " ( Gc 2, 26 ). Chúa Giêsu khi nào cũng làm gương cho con người. Ngài không bao giờ rao giảng điều gì mà không thi hành, không thực hiện điều ấy trước. Chúa Giêsu luôn thực thi thánh ý của Cha Ngài: " Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người " (Ga 4, 34 ). Ngài nói tiếp: " Tôi đến không phải để làm theo ý Tôi, mà là làm theo ý Đấng đã sai Tôi " ( Ga 5, 30 ). Chúng ta có thể hiểu được rằng cả cuộc đời của Chúa Giêsu là làm đẹp lòng cha, Ngài luôn sống tình con thảo đối với Thiên Chúa Cha. Ngài luôn cho chúng ta thấy Ngài đến vì thánh ý Cha Ngài và đến trần gian để thực thi thánh ý Cha của Ngài: " Này con đến để thực thi ý Cha " ( Dt 10, 7 ). Ngay trên Thập giá, Chúa Giêsu cũng luôn một mực làm theo thánh ý Thiên Chúa: " Lạy Cha, xin đừng theo ý Con mà là theo ý Cha " ( Mt 26, 39 ).
Người Kitô hữu thực sự sống sự sống của Chúa khi họ hiểu được lời truyền phép: " Đây là Mình Ta " " Đây là Máu Ta ". Từ Lời này: " Bánh trở nên Mình " và " Rượu trở thành Máu Chúa Kitô ". Bí Tích Thánh Thể làm hiện thực hóa lời xác quyết của Chúa Giêsu: " Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ).
Giữ lòng trung tín với Chúa, sống mật thiết với Chúa qua lời cầu nguyện và hiệp nhất với Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích Tình Yêu, người Kitô hữu sẽ không ngần ngại thưa với Chúa: " Lạy Chúa, Lạy Chúa ". Nhưng những lời này phải phát xuất tự cõi lòng chân thành và trung tín với Chúa của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết sống yêu thương và dám chết cho yêu thương như Chúa: " Yêu như Thầy đã yêu " ( Ga 15, 12 ). Amen.
Vào thời Chúa Giêsu ai cũng biết rằng thật là khờ dại khi xây nhà trên cát, dưới đáy thung: TN 9-A30
Vào thời Chúa Giêsu ai cũng biết rằng thật là khờ dại khi xây nhà trên cát, dưới đáy thung lũng thay vì xây trên đá ở trên cao.
Sau mỗi trận mưa lớn một dòng nước lũ được tạo thành hầu như cuốn ngay đi tất cả những gì nằm trên đường nước chảy của nó. Chúa Giêsu dùng nhận xét này để đưa ra dụ ngôn hôm nay về hai ngôi nhà, như là một dụ ngôn, có hai mặt.
"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên nền đá" (Mat 7:24-25).
Bằng một sự cân đối hoàn toàn, chỉ thay đổi vài chữ, Chúa Giêsu trình bày cùng một cảnh trí ấy cách tiêu cực: "Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn" (Mt 7:26-27).
Xây nhà của bạn trên cát có nghĩa là đặt hy vọng và niềm xác tín của bạn vào những gì không chắc chắn và không lường trước được, là những điều không đứng vững trước những vùi dập và chê bỏ của thời gian, những lần đổi ngược thời vận. Tiền tài, danh vọng, sức khỏe là những điều ấy. Kinh nghiệm chứng tỏ cho chúng ta thấy điều ấy hằng ngày: Chỉ cần một xung đột, một động mạch nhỏ bị tắc nghẽn, là tất cả sẽ bị xụp đổ, như triết gia Blaise Pascal đã nói.
Ngược lạin xây nhà của bạn trên đá nghĩa là gắn liền đời sống và hy vọng của bạn vào điều mà "kẻ trộm không lấy được và rỉ xét không soi mòn được," vào điều không thể qua đi được. Chúa Giêsu đã nói: "Trời và đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy sẽ chẳng qua đi."
Vậy xây nhà trên đá đơn thuần là xây trên Thiên Chúa. Ngài là Đá Tảng. Đá Tảng là một trong những biểu tượng mà Thánh Kinh dùng để chỉ Thiên Chúa: "Thiên Chúa chúng ta là Đá Tảng vĩnh cửu" (Is 24:6); "Ngài là Đá Tảng, các công trình của Ngài đều hoàn hảo." (ĐNL 32:4).
Ngôi nhà xây trên đá đã sẵn có; chúng ta chỉ cần bước vào trong đó! Ngôi nhà ấy chính là Hội Thánh. Đương nhiên đó không phải là ngôi nhà xây bằng gạch, vữa, nhưng bằng "những viên đá sống động," là các tín hữu, được xây trên tảng đá góc tường, là Đức Chúa Giêus Kitô. Ngôi nhà được xây trên đá là ngôi nhà mà Chúa Giêsu đã ám chỉ khi Người nói với ông Simon: "Con là Đá và trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh Thầy" (Mt 16:18).
Như thế xây đời mình trên đá có nghĩa là sống trong Hội Thánh, chứ phải không sống ở ngoài để luôn luôn chỉ tay vào những mâu thuẫn và khuyết điểm của diện nhân loại của Hội Thánh. Chỉ có một ít linh hồn được cứu rỗi trong trận Đại Hồng Thủy, là những người lên tàu ông Noe; chỉ có những người vào Hội Thánh sẽ được cứu khỏi trận Đại Hồng Thủy của thời gian là trận lụt nuốt chửng mọi sự (x. Phr 3:20).
Điều này không có nghĩa là tất cả những người ở ngoài Hội Thánh sẽ không được cứu độ; Công Đồng Vatican II nói về những người không biết Đức Kitô, nhưng sống theo tiếng lương tâm rằng có cách khác để thuộc về Hội Thánh mà "chỉ một mình Thiên Chúa biết."
Chủ đề của Lời Thiên Chúa, là trọng tâm của các bài đọc Chúa Nhật này, và là đề tài mà Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ bàn đến vào tháng Tám, đưa ra cho tôi một áp dụng thực tiễn. Thiên Chúa dùng Lời để truyền thông sự sống và mặc khải chân lý cho chúng ta. Còn chúng ta thường dùng lời để giết và che đậy chân lý!
Trong phần vào đề của tác phẩm nổi tiếng "Dizionario delle opere e dei personaggi," Ông Valentino Bompiani kể lại tình tiết sau đây. Vào tháng Sáu năm 1939, có một hội nghị quốc tế của các chủ bút mà ông được tham dự. Chiến tranh đang xảy ra trên không trung và chính quyền Nazi chứng tỏ rằng họ là sư phụ về việc thao túng lời nói để tuyên truyền. Vào ngày thứ hai trước ngày cuối cùng của hội nghị, ông Goebbels, là tổng trưởng tuyên truyền của Đức Quốc Xã đã mời các tham dự viên đến đại sảnh quốc hội. Các đại diện của các quốc gia khác nhau được mời nói lên lời chào mừng.
Một chủ bút từ Thụy Điển đi lên bục khi đến phiên ông, và đã nói những lời này với một giọng trịnh trọng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, con phải thuyết trình bằng tiếng Đức. Con không có đủ ngữ vựng và văn phạm, và khi nói đến giống và danh từ thì con hoàn toàn lạc lối. Con không biết 'tình bằng hữu' là giống cái hay 'ghét' là giống đực, hoặc có phải 'danh dự', 'trung thành' và 'hòa bình' là giống giở không. Vậy Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin hãy cất đi lời nói của chúng con và để lại cho chúng con lòng nhân đạo. Đương nhiên là chúng con sẽ có thể hiểu nhau và cứu nhau." Cả hội trường vỗ tay như sấm, trong khi đó ông Geobbels hiểu ý và tức tối rời đại sảnh.
Có một hoàng đế nước Tàu, khi được hỏi về điều gì là điều cấp bách nhất cần phải cải tiến trên thế gian, đã không ngần ngại trả lời: Hãy sửa đổi lời nói! Điều nhà vua muốn nói là: Hãy trả lại cho những lời nói ý nghĩa thật sự của chúng. Vua nói đúng. Có những lời dần dần đã hoàn toàn mất ý nghĩa nguyên thủy của nó và được người ta gán cho một ý nghĩa hoàn toàn trái ngược. Sử dụng chúng có thể làm chết người. Giống như là dán một nhãn hiệu nói rằng "rượu sau bữa ăn tối" vào mọt chai ác-xít arsenic: Thể nào cũng có một số người bị ngộ độc.
Nhiều quốc gia ra luật nghiêm khắc chống lại những người làm bạc giả, nhưng không có quốc gia nào ra luật chống lại những người dùng lời giả. Điều đã xảy ra cho từ "yêu" cũng đã xảy ra cho những từ khác. Một người đàn ông hiếp một người phụ nữ lấy cớ là anh ta làm vì yêu để bào chữa. Từ ngữ "làm tình" [ngoài hôn nhân] thường ám chỉ một hành động thô tục nhất của tính ích kỷ trong đó một người chỉ nghĩ đến việc thoả mãn xác thịt mình, coi thường người khác, và hạ giá người kia xuống thành một vật dụng.
Như chúng ta thấy, suy niệm Lời Thiên Chúa cũng có thể giúp chúng ta sửa đổi và cứu vãn những lời của loài người khỏi sự vô nghĩa.
Khôn ngoan thế gian khác khôn ngoan sự sáng. Người ta học khôn bằng cách học hỏi kiến: TN 9-A31
Khôn ngoan thế gian khác khôn ngoan sự sáng. Người ta học khôn bằng cách học hỏi kiến thức thu góp của người xưa truyền đạt lại, từ đó biến điều học trong sách vở, trong dân gian, cộng với quan sát, lí luận hợp lí, chọn lựa điều hay, loại điều dở rồi tổng hợp lại thành kiến thức riêng mình.
Không thể áp dụng nguyên tắc này để tìm kiếm khôn ngoan sự sáng. Kitô hữu cách nào đó cũng học hỏi dựa vào giáo huấn của các thánh tổ phụ, của các Kitô hữu đi trước, của Kinh Thánh và giáo huấn Giáo Hội. Phần quan trọng nhất là sự linh ứng, hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Thánh Thần Chúa đồng hành với ta qua mọi biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống. Nhìn vào các biến cố trong đời người ta nhận ra sự hiện diện của Đấng Tạo Hoá. Khi bệnh tật, chiến tranh loạn lạc, tai nạn xảy ra mấy ai dám tự hào nói nhờ tài riêng vượt thắng mọi tai nạn. Quá lắm chỉ biết dùng đến hai chữ 'may mắn'. May mắn thoát nạn, qua khỏi, may mắn sống sót. May mắn là gì mà trực tiếp can thiệp vào sự sống còn của con người. Thành tâm tìm hiểu sớm muộn gì cũng nhận biết sống sót được qua các biến cố trùng điệp trong đời không phải là may mắn suông mà có Đấng nào đó giúp đỡ. Bàn tay âm thầm nâng đỡ khỏi tan nạn, khỏi chết trong nhiều trạng huống cuộc đời chính là Thiên Chúa.
Như thế khôn ngoan sự sáng không phải tự sức, tài năng mình kiếm được mà là tinh thần khiêm nhu cộng tác với linh ứng của Thánh Thần qua cuộc sống hàng ngày. Nói cách khác khôn ngoan sự sáng có được do khiêm nhường, cởi mở và chân thành yêu mến đón nhận ơn Chúa. Thiếu các điều kiện đó sẽ không nhận được khôn ngoan sự sáng. Ơn chúa ban vì yêu ta. Tình yêu chân chính đòi hi sinh.
Hi sinh bất kể thiệt thòi, lời lỗ. Nói đến lời lỗ là nói đến thương mại. Tình yêu không thể mua bán, đổi chác. Buôn bán, đổi chác thuộc phạm vi tình dục. Xã hội thường có tệ nạn buôn bán tình dục. Không nên lầm lẫn giữa tình dục và tình yêu.
Tình yêu chân chính vô giá, không thể trao đổi, buôn bán. Tình yêu chân chính đòi hi sinh, bất kể hơn thua. Nói đến hơn thua là nói đến đấu tranh, đã là đấu tranh mấy ai chịu phần thua thiệt. Chấp nhận thua là đầu hàng làm gì còn tranh đấu.
BA GIAI ĐOẠN
Không phải hễ biết Chúa là tin Chúa. Biết và tin Chúa là hai sự kiện khác nhau. Tin và yêu mến Chúa là hai trạng thái khác nhau của tâm hồn.
Nhiều người biết Chúa, không tin Chúa. Học cho biết để nhạo báng, với mục đích lí luận, cãi lí xem ai biết về Chúa nhiều hơn mong tìm phần thắng về mình. Học biết Chúa với mục đích khoe kiến thức hơn là học để tin. Nhiều người giảng dậy Chúa cho người khác nhưng chính họ không tin. Họ coi đó như là một nghề kiếm tiền. Có người lợi dụng tiền của đến với Chúa. Trái lại có người lợi dụng Danh Chúa làm tiền thiên hạ. Biết nhiều hơn không hẳn tin nhiều hơn. Trái lại tin mãnh liệt chưa chắc đã biết nhiều.
Biết đi chung với tin là điều tuyệt hảo vì biết nhiều dẫn tới yêu nhiều. Yêu nhiều nên ham học tìm hiểu biết thêm Đấng mình yêu.
KHUÔN VÀNG
Đức Kitô đưa ra hai khuôn mẫu giúp chúng để học hỏi, bắt chước. Thứ nhất ai thi hành thánh ý Chúa Cha người đó mới thực sự yêu mến Thiên Chúa. Không ai thi hành thánh ý Chúa Cha trọn vẹn hơn Đức Kitô.
Tôi từ trời mà xuống, không phải để làm theo ý Tôi, nhưng để làm ý Đấng đã sai tôi . Gn 6,38
Thứ hai kẻ khôn ngoan sống lời Chúa. Ngoài Đức Kitô ra không ai sống lời Chúa trọn vẹn hơn Ngài.
Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm thì người Con cũng làm như vậy Gn5,19.
Đức Kitô dùng hình ảnh căn nhà đặt nền tảng trên đá để nói lên sự liên kết với Cha Ngài.
Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá.
Hình ảnh trái ngược là hình ảnh tin nửa vời nông cạn, thiếu chiều sâu vừa tin lời Chúa vừa đặt hy vọng vào thế gian.
Còn ai nghe những lời Thầy nói đây mà chẳng đem ra thực hành thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành'. Mat 7,25-27.
Khuôn mẫu chúng ta cần học, bắt chước, rập khuôn chính là Đức Kitô, Đấng luôn trung thành với ý Chúa Cha và là Đấng sống và thực hành lời Chúa. Kitô hữu được mời gọi sống theo phương thức, mô hình Đức Kitô đã sống để cùng hưởng vinh quang với Ngài.
Ba bài đọc trong Thánh lễ hôm nay như một sợi chỉ đỏ nối kết với nhau nói lên sự lựa chọn: TN 9-A32
Ba bài đọc trong Thánh lễ hôm nay như một sợi chỉ đỏ nối kết với nhau nói lên sự lựa chọn của môn đệ của Chúa, trong đó, mỗi kitô hữu chúng ta phải trả lời cho sự lựa chọn đấy. Sự lựa chọn đấy rất rõ ràng chứ không mang tính mập mờ, mang sự lập lờ, mang sự lưỡng lự. Đó là nghe và giữ và không giữ, thế thôi chứ không có sự nhập nhằng.
Trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe cho chúng ta thấy hai thái độ rõ ràng của người khôn và ngược lại.
Nghe lời mà đem ra thực hành thì là người khôn, không thực hành là người ngu dại.
Lời ấy là gì ?
Lời ấy cũng chính là lời mà Môsê mời gọi dân Israel trong sách Đệ Nhị Luật mà chúng ta vừa nghe: "Vậy anh em phải lo đem ra thực hành mọi thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi trình bày cho anh em". (Đnl 11,32)
Thánh chỉ và quyết định mà từ ngàn xưa Môsê đã truyền cho dân đó là gì ?
Đó là anh em dẹp bỏ hết mọi nơi mà các dân tộc anh em sắp trục xuất đã phụng thờ các thần của chúng, trên các núi cao, các ngọn cây và dưới mọi cây xanh. Anh em phải phá huỷ đền thờ của chúng; cột cờ của chúng, anh em phải bỏ vào lửa mà thiêu; tượng thần của chúng, anh em phải vằm nát; anh em phải xoá bỏ tên chúng khỏi nơi ấy. Anh em không được làm như vậy đối với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Anh em sẽ chỉ được tìm Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em ... (Đnl 12,2-4).
Sau đó, Môsê còn chỉ dẫn dân chúng nhiều chi tiết nữa về việc dâng cúng lễ tế, bắt chước các việc tế tự của người Canaan, đề phòng kẻo phải bị lôi cuốn bởi thần ngoại ...
Sau những lệnh truyền là những điều chúc phúc: Nếu anh em thật sự nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em mà lo đem ra thực hành tất cả những mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, thì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em sẽ cho anh em vượt trên mọi dân tộc trên mặt đất, và mọi phúc lành sau đây sẽ đến với anh em và bao trùm anh em, bởi vì anh em đã nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em (Đnl 28,1tt)
Và nếu không giữ thì sẽ bị nguyền rủa: "Nhưng nếu anh em không nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, không lo đem ra thực hành tất cả những mệnh lệnh và thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em thì những lời nguyền rủa sau đây sẽ đến với anh em và bao trùm anh em ..." (Đnl 28,15tt)
Điểm đầu tiên, điểm căn cốt của giới luật mà Môsê đưa ra cho dân đó là chỉ chỉ được tìm Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em (Đnl 12, 5).
Nhìn lại lịch sử cứu độ của Israel, có người bảo rằng dân Israel sao mà khờ thế, sao mà dại thế, sao mà chẳng giữ luật Chúa qua ông Môsê chi cả để rồi suốt cái hành trình cứu độ đấy có điều gì đó trục trặt giữa hai bên. Một bên là một Thiên Chúa thành tín và yêu thương còn một bên là con người lòng dạ bất nhất, lòng một mà dạ lại đến hai.
Chúng ta thấy có cái gì đó nó khập khiễng giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa mãi yêu thương con người còn con người thì quay lưng lại với Thiên Chúa. Có những lần, Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến để cảnh báo, để nhắc nhở mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người nhưng con người cố tình bỏ ngoài tai để rồi Thiên Chúa giận, có lần Thiên Chúa đã ví dân Israel như là một con điếm ngoại tình vậy.
Chúng ta nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta, cũng không ít lần chúng ta ngoại tình với Chúa, chúng ta đã không tôn thờ Chúa như Chúa dạy chúng ta như Chúa dạy dân Chúa qua môi miệng của Môsê.
Chúng ta vẫn thi thoảng đã bỏ Chúa ra khỏi cuộc đời của chúng ta mà chúng ta lờ như không biết, vờ như không hay vậy.
Chúa tể chúng ta như Thánh Phaolô nói nó chính là cái bụng. Từ cái bụng ấy không biết bao nhiêu là mưu mô tính toán hơn thua, tranh giành, đố kỵ. Từ những tâm tính như thế, chúng ta đẩy Chúa ra khỏi cuộc đời chúng ta, chúng ta đã đẩy anh chị em đồng loại ra khỏi cuộc đời chúng ta.
Chúa tể của chúng ta có khi là dục tình. Chúa tể của chúng ta có khi là danh vọng. Chúa tể chúng ta có khi là tiền bạc. Chúa tể chúng ta có khi là địa vị.
Nếu chúa tể chúng là những điều phù phiếm ấy là làm Chúa giận, Chúa hờn. Thế nhưng dẫu có giận, có hờn đi chăng nữa nhưng Thiên Chúa mãi mãi là một Thiên Chúa trung tín với con người. Chuyện quan trọng của mỗi người chúng ta là chúng ta có tín trung với Chúa hay không ?
Vấn đề luật mà Môsê đưa ra thật ra như Thánh Phaolô tông đồ gửi cho chúng ta trong thư gửi tín hữu Rôma: "Thưa anh em, ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môsê. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ vào lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu... Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải làm những gì Luật dạy.
Và lòng tin Thánh Phaolô nói đấy nó phải được thể hiện bằng chính đời sống của mỗi người chứ không phải chỉ nói lạy Chúa lạy Chúa là được vào nước trời như Chúa Giêsu đã nói trong đoạn tin mừng mà chúng ta vừa nghe.
Vấn đề căn cốt đó chính là niềm tin và niềm tin đấy phải được hành động chứ không phải niềm tin đấy nói trên môi trên miệng mà thôi.
Niềm tin đấy nó lồng ở trong giới luật mà Thiên Chúa đã gửi đến cho dân mà chúng ta đã nghe đó là: Anh em sẽ chỉ được tìm Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em ... (Đnl 12,4)
Thử hỏi cuộc đời của mỗi người chúng ta, chúng ta đi tìm Chúa hay đi tìm chúng ta ?
Lời của Môsê nói cho dân chúng xưa kia chính là lời mà Thiên Chúa cũng chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay.
Giữa một thế giới phát triển chóng mặt, giữa một thế giới khoa học kỹ thuật đã làm những điều kỳ diệu mà con người không thể nào ngờ được, giữa một thế giới mà người ta đã cố gắng để phục vụ sở thích, thèm muốn của con người hết sức có thể thì người Kitô hữu chúng ta, nói riêng, có còn tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa nữa hay không ? Người kitô hữu chúng ta còn thờ một Thiên Chúa duy nhất hay không ?
Vấn đề rõ ràng mà Chúa đã nói cho mỗi người chúng ta, hoặc là khôn, hoặc là khờ.
Con người phát minh nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, đã tìm ra cách chữa trị nhiều chứng bệnh nan y nhưng thử hỏi con người, cách riêng mỗi kitô hữu chúng ta có kéo dài được mạng sống của chúng ta thêm một giây phút nào không khi mà Thiên Chúa mời gọi ta về trình diện với Ngài.
Cách đây non một tháng, biến cố đau buồn tang tóc đã xảy ra cho đất nước Myanma, cho đất nước Trung Quốc. Điều bi thương này chẳng ai muốn nó xảy ra cả nhưng qua đó, chúng ta nhận chân với nhau rằng Thiên Chúa muốn nói cho con người biết rằng con người dù có giỏi dang, có thông minh, có tiến bộ mấy đi chăng nữa nhưng cũng chẳng thể nào quyết định được vận mệnh đời mình.
Làm sao mà có thể chế ngự được thiên nhiên, được bão tố, được động đất. Lẽ ra, con người phải khiêm tốn trước thiên nhiên, trước Thiên Chúa nhưng con người đã không khiêm tốn, con người đã kiêu ngạo trước sự hiện diện huyền nhiệm của Thiên Chúa. Có những người nghĩ ra một uỷ ban thật hay để rồi họ đặt tên cho cái uỷ ban đấy: Uỷ ban phòng chống lụt bão trung ương ! Quá kiêu ngạo khi mà có cả một cái uỷ ban chống Thiên Chúa tận trung ương.
Thế đấy ! Những người không tin họ đã lập nên cái uỷ ban phòng chống Thiên Chúa tận trung ương, còn mỗi người tin chúng ta trước sự hiện diện của Thiên Chúa chúng ta có thái độ như thế nào là tuỳ mỗi người chúng ta.
Chúng ta, trong đời sống thường nhật, chúng ta tin Chúa và chúng ta đáp trả lòng tin của chúng ta bằng những cách hành xử trong cuộc sống. Cách hành xử đấy sẽ bị thiệt thòi, bị thua thiệt trước những người không tin và thường thì chúng ta bị những người không tin cho là khờ khạo nhưng chúng ta hãy yên tâm vì những gì mà thế gian cho là khôn ngoan thì đối với Thiên Chúa, trước mặt Thiên Chúa đó là sự khờ dại.
Nước chúng ta, cùng đích của chúng ta là Thiên Chúa.
Chúa nói rằng những người khờ xây nhà trên cát, sóng có đến, bão có đến thì sụp đổ, còn người không xây nhà trên đá thì mua đổ, sóng cuồng hay bão táp thì không bị sụp. Thật ra, chúng ta không nên hiểu, không nên dừng trên cái căn nhà vật chất, cát đá, xi măng, cốt thép, bê tông ở trần gian này nhưng Chúa muốn mời gọi chúng ta xây căn nhà lớn hơn, căn nhà bền vững hơn và nền tảng được đặt trên chính Thiên Chúa.
Khôn ngoan của con người có đó, những căn nhà cao tầng, những khối bê tông chẳng phải đã được đặt trên những tảng bêtông thật chắc chắn chăng ? Nhưng chỉ cần một trận động đất là không còn hòn đá nào trên hòn đá nào cả.
Vậy, chuyện căn cốt, chuyện cốt lõi hôm nay Chúa mời chúng ta đặt lại cuộc đời chúng ta, chúng ta xây căn nhà cuộc đời chúng ta trên Thiên Chúa hay trên những tảng đá, những mảnh bêtông vật chất?
Nếu chúng ta xác tín cuộc đời chúng ta trường thọ và mãi mãi, căn nhà vật chất thật đẹp đấy mãi mãi là của chúng ta và khi chết chúng ta mang theo nó được về bên kia thế giới thì chúng ta cố gắng để xây dựng cho thật bền để chúng ta mang theo.
Không ! Không bao giờ có được căn nhà vĩnh cửu như nhiều và nhiều người ngày đêm cật lực, nai lưng và thậm chí hy sinh cả con người của mình để xây dựng nhưng thật bi đát là vài chục năm sau thôi thì căn nhà với biết bao nhiêu mồ hôi, biết bao nhiêu nước mắt lại dành cho người khác.
Có người đã đem hết khôn ngoan, hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điều ấy cũng chỉ là phù vân và là đại hoạ. Chuyện gì sẽ xảy ra cho con người sau bao mối bận tâm và bao gian lao vất vả mà con người phải chịu dưới ánh mặt trời ?
Bao công khó của con người chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền ! Ngay cả ban đêm, con người cũng không chắc được yên lòng yên trí.
Đối với con người, không có gì tốt hơn là ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra ! Nhưng thật sự ra những điều ấy lại đến từ Thiên Chúa, vì có ai ăn uống, có ai cảm thấy vui mừng phấn khởi mà không nhờ Thiên Chúa ban cho.
Cùng đích cuộc đời con người là thế nhưng chẳng hiểu tại sao con người lại quá vất vả với cái cùng đích hư vô của cuộc đời quá vắn vỏi, quá tạm bợ này.
Nếu chúng ta xác tín cuộc đời chúng ta thật mong manh, thật mỏng dòn thì chúng ta sẽ xây cuộc đời chúng ta trên nền móng mà cho sóng cuốn, nước trào cũng chẳng bao giờ có thể làm hư mất được.
Thật ra mà nói thì con người của chúng ta, cũng mang trong mình những yếu đuối, những mỏng dòn của phận người như dân Iarael ngày xưa. Dẫu biết rằng Thiên Chúa yêu thương mình nhưng sao mà mình cứ ngoảnh mặt với Thiên Chúa thì phải, mình cứ đạp đổ mình cứ muốn đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình thì phải.
Thế nhưng trên những cái trục trặt, những cái đổ vỡ do sự yếu đuối của con người, điều căn cốt Thiên Chúa vẫn chờ đợi, vẫm mời gọi đó là chúng ta có tin vào Chúa hay không ?
Hôm nay chúng ta thấy rất rõ giữa chuyện khôn và khờ.
Ngày còn bé, tôi vẫn nhớ chúng tôi vẫn chơi với nhau cái trò: thiên đàng địa ngục hai bên, hai bên ai dại thời khôn, thiên đàng có Chúa có Cha, phải lo để sống được lên thiên đàng.
Vâng ! khôn mới được lên thiên đàng nơi có Chúa có Cha chứ còn dại làm gì mà lên thiên đàng được.
Ai đẹp lòng Thiên Chúa, thì Người ban cho trí khôn ngoan, sự hiểu biết và niềm vui.
Chúng ta nhớ lại cả cuộc đời của ông vua Salômôn, ông chẳng xin gì với Thiên Chúa ngoài sự khôn ngoan.
Hôm nay chúng ta cũng bắt chước Salomôn để xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta ơn khôn ngoan mà nhớ xin cái ơn khôn ngoan của con cái Thiên Chúa chứ không phải cái ơn khôn ngoan của con cái loài người.
Ơn khôn ngoan của con cái Thiên Chúa sẽ không đi tìm, không đi xây cho mình những căn nhà thật to, thật đẹp, thật hoành tráng ở trần gian này. Ơn khôn ngoan của con cái Thiên Chúa sẽ đi tìm, đi xây cho mình căn nhà ở trên trời, nơi mối mọt, lũ lụt cũng chẳng bao giờ làm hư được. Đặc biệt, căn nhà trên trời ấy được xây trên nền tảng là Chúa nữa thì chúng ta hoàn toàn yên tâm.
Nguyện xin Chúa Giêsu đến và ở lại mãi trên cuộc đời mỗi người chúng ta, xin Ngài đến và làm nền móng căn nhà của chúng ta để rồi dẫu cuộc đời chúng ta có thế nào đi chăng nữa thì Chúa mãi mãi giữ vững căn nhà của chúng ta. Anmai, CSsR
Thiên Chúa không làm ra sự chết, Ngài chẳng vui gì khi con người bị diệt vong ! (x Kn 1,13). Vì thế TN 9-A33
Thiên Chúa không làm ra sự chết, Ngài chẳng vui gì khi con người bị diệt vong ! (x Kn 1,13). Vì thế, Con Một Thiên Chúa bước vào trần gian “không phải để lên án thế gian nhưng để nhờ Ngài mà thế gian được cứu độ !” (x Ga 3,17) Ai muốn được ơn cứu độ, người ấy phải tin vào Đức Giê-su và làm theo ý Ngài,cụ thể ta phải sống Đức Tin ba trong một: “TIN – SỐNG – TẾ”. Nếu không sẽ tự tiêu diệt mình!
I.PHẢI TIN VÀO ĐỨC GIÊ-SU.
Do-Thái giáo cũng như các tôn giáo khác ngoài Công Giáo nếu có giá trị, thì chỉ là chuẩn bị một phần nào giúp tâm hồn người có thiện chí, khao khát chân lý hướng lòng tin vào Chúa Giê-su là Đấng Chúa Cha sai đến, hầu được sống đời đời ! (x Ga 17,3). Vì “vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác, ngoài danh Chúa Giê-su đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ." (Cv 4,12).Thếmà dân Do-Thái nói chung, nhóm Biệt phái nói riêng, chỉ tin vào giá trị việc làm do Lề Luật, họ làm được các việc vĩ đại như: "Nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ! " Nhưng họ vẫn bị Chúa quyết liệt chối từ: “ Ta không hề biết các ngươi ; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác !” (x Mt 7,22-23: Tin Mừng).
Để hiểu được lý do Đức Giê-su gay gắt kết án như thế, chúng ta cứ nhìn vào đời sống của thánh Phao-lô, khi ông còn say sưa với Lề Luật của ông Mô-sê, nên mọi việc ông làm đều do Luật hướng dẫn, thì ông đã trở thành “phường tác quái” đi giết tất cả những ai đã tin vào Chúa Giê-su (x Cv 9). Nhưng sau khi ông được Chúa Giê-su triệu mời, ông đã trở nên chứng nhân tuyệt vời của Ngài, như lời ông xác tín với giáo đoàn Ro-ma trong Bài đọc II hôm nay: “Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Mô-sê. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Chúa Giê-su Ki-tô và do ơn huệ của Thiên Chúa ban nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Chúa Giê-su Ki-tô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai.” (Rm 3,21-24). Ông Mô-sê xưa kia đã nhân danh Thiên Chúa làm nhiều phép lạ vĩ đại trước mặt mọi người, thế mà ông vẫn không được vào đất Chúa hứa ! Điều này càng minh chứng cho lời biệt phái Phao-lô: “Luật giam chúng ta trong tội” (Gl 3,22), mà “lương bổng của tội là sự chết” (Rm 6,23a), và như thế, muốn được Chúa cứu độ đưa vào đất Hứa (Nước Trời), thì phải tin vào sự kết hợp với Chúa Giê-su (x Gl 3,24).
II. SỐNG NIỀM TIN, PHẢI LÀM THEO Ý ĐỨC GIÊ-SU.
Thánh Gia-cô-bê nói: “Nếu ta chỉ tin vào Đức Giê-su là Thiên Chúa, thì ma quỷ nó cũng tin như thế, nhưng gặp Chúa là nó run rẩy, vội tháo chạy. Cho nên, Đức Tin phải có việc làm, Đức Tin không việc làm là Đức Tin chết ! Do đó Đức Tin chung công với việc làm, nhờ việc làm Đức Tin được hoàn tất, và như thế, người ta chỉ do việc làm mà được giải án tuyên công, chứ không chỉ do Đức Tin mà thôi !” (x Gc 2,19-22.24).
Thánh Phao-lô cũng lên tiếng đòi hỏi lời nói phải đi đôi với hành động: “Bạn biết dạy người khác, mà lại không dạy chính mình! Bạn giảng: đừng trộm cắp, mà bạn lại trộm cắp!Bạn nói: chớ ngoại tình, mà bạn lại ngoại tình! Bạn gớm ghét ngẫu tượng, mà bạn lại cướp bóc đền miếu ! Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa !” (Rm 2,21-23). Vì người Tông Đồ chính danh: “Làm rồi mới dạy” (Mc 6,30). Do đó Biệt phái Phao-lô đã làm gương: “Tôi nhắm con ngươi đồng tử mà thụi vào chính thân tôi, và bắt nó phải quỵ lụy và phục tùng, kẻo lỡ ra đã làm thầy dạy người khác, mà chính tôi lại bị thải loại !” (1Cr 9,26-27 – Bản dịch của NTT).
Thánh Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 32 đã mượn lời thánh Au-gút-tin để nhắc nhở cho các chủ chăn phải ý thức sống đúng ơn gọi của mình: “Làm Giám mục cho anh em, tôi rất lo sợ, làm tín hữu với anh em, tôi rất an tâm. Giám mục là một chức vụ, tín hữu là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu mới là danh hiệu đem ơn cứu độ !”
Việc lành của của lòng tin quan trọng nhất là đến với Đức Giê-su trong tâm tình sám hối, cậy trông, như:
+ Ông Phê-rô sau khi chối Thầy, ông sám hối và chuộc lại bằng tình yêu mỏng dòn của mình ! Và bằng lòng nối tiếp sứ mệnh của Thầy chăm sóc đoàn chiên, để rồi bị đóng đinh trên thập giá giống Thầy (x Ga 21,15t).
+ Ông Phao-lô thấy mình yếu đuối và bất xứng, điều ấy không quan trọng, “mà quan trọng là được Đức Ki-tô chộp lấy!” (Pl 3,12), và lên tiếng xin Ngài cứu giúp, xót thương (x 2Cr 12,7-9).
+ Tên trộm gian ác bị treo trên thập giá thật đáng đời, nhưng anh ta biết nhận tội mình và cầu xin lòng thương xót của Đức Giê-su, nhờ đó anh là vị thánh đầu tiên vào Thiên Đàng cùng với Đức Giê-su ! (x Lc 23,43)
Những tâm tình sám hối trên đây, chính là việc cầu nguyện với Đấng Toàn Năng có quyền biến tội ra ơn huệ ! (x Rm 5,20).
III. TẾ LỄ LÀ HIỆP DÂNG THÁNH LỄ VỚI HỘI THÁNH.
Sở dĩ Đức Giê-su nói gắt: “Ta không biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác, dù chúng đã nhân danh Chúa mà giảng dạy, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa làm nhiều phép lạ” (Mt 7,22-23: Tin Mừng). Là vì họ không tin vào việc kết hợp với Chúa Giê-su Phục Sinh qua việc lãnh nhận Bí tích Khai Tâm (Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể). Vì Bí tích này tháp người ta nên một trong Chúa Giê-su, có thế mọi việc người ta làm mới “nhờ, với, trong Chúa Giê-su Ki-tô, để tôn vinh Chúa Cha” (Rm 11,36). Đó là việc làm của Thiên Chúa, có giá trị vĩnh cửu không ai phá hủy được. Trái lại, bất cứ làm việc gì, dù tốt đến đâu mà làm ngoài Chúa Giê-su, thì đó là việc của loài người, trước sau ra tro bụi” (Cv 5,38-39).
Vậy chỉ có Phụng Vụ do Chúa Giê-su thiết lập, ai hiệp dâng mới được Chúa Cha chấp nhận, sinh ơn cứu độ cho họ, như Đức Giê-su đã khẳng định với người phụ nữ miền Samari: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem.Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-Thái. Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật." (Ga 4,21-24).
Lời khẳng định này, Đức Giê-su lưu ý chúng ta hai điều: Phải thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và Sự Thật.
- Thần Khí là Lời Thiên Chúa (x Ga 6,63). - Sự Thật là Chúa Giê-su (x Ga 14,6).
Đó là hai phần chính trong Thánh Lễ. Vì chỉ khi ta hiệp dâng Thánh Lễ , ta mới thực hành Lời Đức Giê-su dạy: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5: Tung Hô Tin Mừng), và mới có thể cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn” (Tv 31/30,3b: Đáp ca).
Ai không sống “TIN – SỐNG – TẾ”, thì họ có dâng Lễ cũng bị Chúa phóng dữ xuống: “Hỡi các tư tế: nếu các ngươi không nghe và nếu các ngươi không lưu tâm mà tôn vinh danh Ta – Chúa các cơ binh đã phán – Ta sẽ phóng chúc dữ xuống trên các ngươi. Và Ta sẽ chúc dữ cho sự chúc lành của các ngươi. Phải, Ta sẽ chúc dữ cho nó. Vì các ngươi chẳng lưu tâm gì cả. Này Ta chặt cánh tay các ngươi, và Ta sẽ vãi phẩn lên mặt các ngươi, phẩn do lễ bái của các ngươi. Và làm một với phẩn ấy, người ta sẽ mang các ngươi đi” (Ml 2,1-3: bản dịch NTT). Vậy để bảo đảm ơn cứu độ, người Ki-tô hữu phải sống trọn ba điều: Tin, Sống, Tế (cầu nguyện) như kể trên. Vì nếu:
· Chỉ tin Chúa: Ta giống quỷ. · Chỉ làm lành: Ta giống người vô thần. · Chỉ cầu khẩn: Ta giống Biệt phái, cậy dựa vào Lề Luật.
Vậy phúc hay họa là do ta tự ý chọn, ông Mô-sê đã nói với dân: “Phúc hay họa do anh em chọn:
- “Muốn được Chúa chúc phúc, anh em phải nghe và thực hành mệnh lệnh Chúa truyền” (Dnl 11,27: Bài đọc I). Nhất là phải sống trọn TIN – SỐNG –TẾ, có thế mới là người khôn ngoan. Đức Giê-su gọi họlà "người khôn xây nhà trên đá.Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá” (Mt 7,24-25: Tin Mừng).
- “Kẻ tự chuốc lấy khổ nhục là do chọn thần khác ngoài Thiên Chúa, nên đã gạt bỏ lệnh Chúa truyền” (Dnl 11,28: Bài đọc I). Đó là kẻ ngu dại “xây nhà trên cát” (Mt 7,26: Tin Mừng).
Như thế, Chúa không làm ra hỏa ngục để phạt ai. Có hỏa ngục là do người ta ngu dại không làm theo Lời Đức Giê-su dạy, thì vào ngày cánh chung cả xác lẫn hồn muôn đời bị khốn khổ trong hỏa ngục, không thể kêu trách Chúa được, đời đời hối hận, tâm hồn bị giày vò nên luôn tự trách mình: “Dại quá, ngu quá!”. Dù có cất lời van xin cũng không thể thấu tới Thiên Đàng, vì giữa hỏa ngục và Thiên Đàng có một vực thẳm, ai muốn qua cũng không thể được (x Lc 16,26).
THUỘC LÒNG
Không phải mọi kẻ kêu: “Lạy Chúa, lạy Chúa” là sẽ được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi !” (Mt 7,21)