Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng, liền động lòng xót thương họ: vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”. Và Người liền triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Ðây là tên của mười hai tông đồ: trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em ông; Giacôbê con của Giêbêđê và Gioan em ông; Philipphê và Bartôlômêô; Tôma và Matthêu người thu thế; Giacôbê con của Alphê và Tađêô; Simon người Cananêô và Giuđa Iscariốt, kẻ nộp Người. Chúa Giêsu sai mười hai ông này đi và truyền lệnh cho các ông rằng: “Các con đừng đi về phía dân ngoại, và đừng vào thành các người Samaritanô. Nhưng tốt hơn, các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: “Nước Trời đã đến gần”. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”. - Ðó là lời Chúa. -----------------------------------
Hẳn chúng ta đều biết SOS là ba chữ viết tắt trong tiếng Anh bởi câu: Save our soul, có nghĩa là hãy cứu lấy linh hồn chúng tôi. Đây là một tín hiệu khẩn cấp. Đúng thế, khi một chếc tàu bị lâm nguy, thì lập tức vị thuyền trướng phải dùng máy vô tuyến điện gửi đi những tín hiệu khẩn cấp ấy. Và theo luật làng hải quốc tế, thì bất kỳ chiếc tàu nào nhận được tín hiệu này, đều có bổn phận phải chạy đến tiếp cứu.
Cách đây mấy năm, một đoàn thám hiểm dùng khinh khí cầu khởi hành đi bắc cực. Lúc trở về, họ gặp phải cơn bão lớn. Khinh khí cầu của họ bị cuốn đi như một chiếc lá. Sau cùng đã rớt xuống một vùng băng tuyết, cách xa làng mạc hàng trăm cây số.
Nghe có tiếng kêu cứu khẩn cấp phát ra từ một đài vô tuyến, người ta hối hả tổ chức đoàn cấp cứu. Những chiếc tàu phá băng được gửi tới nơi xảy ra tai nạn. Những chiếc phi cơ bay đi tìm đoàn thám hiểm mắc kẹt trên vùng băng giá. Sau cùng, họ đã tìm thấy và đã cứu thoát những người gặp nạn.
Ngăm 1932, có một phi cơ bị rớt giữa sa mạc Sahara. Suốt một tuần lễ, cả miền bắc Phi được đặt trong tình trạng báo động, sẵn sàng lên đường để cứu giúp chiếc phi cơ lâm nạn.
Chúng ta ca tụng những nghĩa cử cao đẹp ấy, thế nhưng nếu suy nghĩ, con người chúng ta gồm có hồn và xác. Phần hồn thì cao trọng hơn phần xác bội phần. Thế nhưng giờ đây có biết bao nhiêu linh hồn đang kêu cứu, đang gửi đi những tín hiệu khẩn cấp SOS, song lại không có một ai đã đến để giúp đỡ họ, không có một ai đã ném cho họ chiếc phao cứu độ. Hay nói theo Chúa Giêsu:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít.
Thực vậy, Đức Kitô đã chết để cứu chuộc chúng ta hai mươi thế kỷ rồi, thế mà ngày hôm nay mới có khoảng 30% dân số nhân loại nhận biết Ngài. Riêng những người công giáo thì chiếm khoảng 17%. Và như vậy còn biết bao nhiêu người đang ngồi trong bóng tối, chưa được đón nhận ánh sáng Tin mừng. Giáo hội luôn đưa mắt nhìn họ, đồng thời sai phái những người con dũng cảm nhất của mình đến với họ.
Ngay tại quê hương Việt Nam, trong số 70 triệu dân thì mới có khoảng hơn sáu triệu là người công giáo, tỷ lệ chưa tới 10%. Rồi lại còn biết bao nhiêu xứ đạo hẻo lánh, vùng sâu vùng xa, vắng bóng các linh mục và tu sĩ, vì thế đức tin dần dần bị xói mòn và mai một. Đúng thế, bên cạnh chúng ta còn có biết bao nhiêu anh em lương dân chưa nhận biết Chúa. Có ba em nhỏ cùng ngắm nhìn bức ảnh chuộc tội trong một gian hàng. Cả ba em cùng ngạc nhiên. Em thứ nhất bảo: - Coi kìa, người ta đã tạo cho ông ấy một vẻ mặt thật đau khổ. Em thứ hai liền hỏi: - Tại sao đầu ông ấy lại gục xuống.
Em thứ ba trả lời:
- Hình như ông ấy khóc.
Các em dùng hai tiếng “ông ấy” vì em không biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa đã chịu chết vì chúng ta và cho chúng ta. Qua những lời lẽ chân thành và đơn sơ ấy, chúng ta thấy các em mò mẫm tìm hiểu, nhưng không một ai đã dẫn đường chỉ lối cho các em. Rồi trong số hơn sáu triệu người công giáo Việt Nam, tự hỏi có bao nhiêu người đã thực sự sống đức tin của mình ? Có bao giờ chúng ta, những người công giáo, đã lắng tai nghe những tiếng kêu khẩn thiết của các linh hồn hay chưa ? Liệu trái tim chúng ta có thể dửng dưng trước hằng triệu người đang lao mình vào cõi chết hay không ? Chúng ta đã thực sự hiểu được giá trị của một linh hồn hay chưa ?
Mỗi linh hồn chính là một người con cưng của Thiên Chúa, được Ngài dựng nên giống hình ảnh Ngài, được Ngài nuôi dưỡng bằng Mình Máu thánh Ngài, được Ngài cứu chuộc bằng những giọt máu đổ ra trên thập giá.
Hiểu như thế nên các thánh không ngần ngại chấp nhận mọi gian nan cực khổ để rao giảng Tin mừng hầu cứu vớt những kẻ đang bị tội lỗi vùi dập và cuốn trôi.
Một Phanxicô Xaviê, sau nhiều tháng lênh đênh trên biển cả, mới đặt chân lên đất Ấn độ. Người đầu tiên thánh nhân gặp trên bãi biển là một thiếu phụ nghèo túng, ẵm đứa con sắp chết trong tay. Thánh nhân tiến lại, giảng giải và ban bí tích rửa tội, rồi qui xuống cảm tạ Thiên Chúa đã ban tặng cho mình niềm an ủi lớn, đó là đã gửi được một thiên thần về quê hương vĩnh cửu.
Một vị tông đồ tại bắc cực đã phát biểu:
- Trên miềm băng giá này vẫn có những thương gia lặn lội tìm mua da gấu, thế mà không có một linh mục, một tu sĩ hay một giáo dân thiện chí nào đến tìm kiếm các linh hồn.
Một Martinô đã thưa cùng Chúa:
- Lạy Chúa, nếu con còn làm ích cho anh em, thì con sẽ không từ chối bất cứ lao nhọc nào.
Một Catarina muốn được đứng trước cửa hỏa ngục để ngăn chặn không cho các linh hồn rơi vào đấy.
Một Vianney đã nói:
- Nếu tôi đã đặt được một chân vào thiên đàng mà bỗng nhìn thấy một người cần cứu vớt, thì tôi sẽ không ngần ngại trở về trần gian để cứu vớt người ấy.
Thánh nữ Têrêxa cũng đã nói:
- Để cứu một linh hồn khỏi tội lỗi và hỏa ngục, tôi sẵn sàng hy sinh mạng sống của tôi đến muôn ngàn lần.
Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta đã làm được những gì để góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công cuộc rao giảng Tin mừng, truyền bá Đức tin của Giáo hội ?
Ruddell Norris là một chàng trai cần mẫn, nhưng lại có tính nhút nhát. Nói chuyện với kẻ khác chàng đã thấy khó khăn rồi, huống chi phải bàn chuyện tôn giáo với họ. Thế rồi một ngày kia, chàng nảy ra một ý kiến.
Ruddell đọc sách khá nhiều và chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức tin Công giáo. Vì vậy chàng quyết định dành ra một phần tiền tiết kiệm hàng tuần để mua những cuốn sách ấy. Ruddell để những cuốn sách ấy ở những nơi mà chàng nghĩ người ta có thể cầm lên đọc để giết thời giờ. Chẳng hạn như ở những phòng đợi khám bệnh và phòng tiếp khách.
Ngày kia, có một phụ nữ vốn là bạn của gia đình chàng kể cho cha mẹ chàng biết vợ chồng cô ấy đã theo đạo Công giáo như thế nào. Cô nói:”Tất cả bắt đầu do một cuốn sách nhỏ mà tôi đã tìm thấy tại phòng đợi ở bệnh viện”.
Có nhiều linh mục, tu sĩ và ngay cả giáo dân, thay vì tặng quà hay phát thưởng bằng những món quà vật chất, họ lại trao gởi những cuốn sách thiêng liêng, sách đạo đức, sách giáo dục như những món quà đầy ý nghĩa và hữu ích cho đời sống tâm linh của con người. Đó là một trong những cách hữu hiệu để thi hành sứ mệnh truyền giáo mà hôm nay Đức Giêsu kêu gọi:”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”.Qua lời Đức Giêsu dạy, thì cầu nguyện chính là nguồn mạch, là nền tảng, và là công việc truyền giáo đầu tiên. Nếu chúng ta cầu nguyện cho việc truyền giáo, thì những thợ gặt đầu tiên mà Thiên Chúa có trong tay, chính là chúng ta. Như ngôn sứ Isaia, chúng ta cũng thưa cùng Chúa:”Lạy Chúa, này con đây, xin Chúa hãy sai con”.
Không chỉ xin Chúa sai chúng ta đi truyền giáo mà thường xuyên chúng ta phải cầu xin Chúa thôi thúc các bạn trẻ quảng đại dấn thân trong ơn gọi linh mục và tu sĩ.
Không chỉ xin Chúa ban thêm nhiều người tận hiến mà thường xuyên chúng ta cầu xin Chúa thôi thúc các gia đình rộng tay giúp đỡ tài chánh cho các công cuộc truyền giáo.
Không chỉ xin Chúa mở rộng đôi tay mà còn tha thiết xin Người mở rộng trái tim mọi thành phần dân Chúa, để có nhiều nhà truyền giáo tình nguyện dấn thân mở mang nước Chúa.
Nếu cầu nguyện là nguồn mạch của công việc truyền giáo, có nghĩa là nó phải được ưu tiên trên bất cứ chương trình, kế hoạch hay phương pháp truyền giáo nào.
Nếu cầu nguyện là nền tảng của hoạt động truyền giáo, thì chúng ta phải xem sự khủng hoảng ơn gọi chính là vì thiếu sự chuyên tâm cầu nguyện.
Nếu cầu nguyện là việc đầu tiên của công cuộc truyền giáo, thì chúng ta phải hiểu là sứ vụ tông đồ chỉ có hiệu quả khi chúng ta biết không ngừng cầu nguyện cho những người mà chúng ta muốn lôi cuốn. Công đồng Vaticanô II đã khẳng định:”Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng quả quyết:”Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” Sứ mạng truyền giáo ấy, hôm nay đã được Đức Giêsu trao cho 12 tông đồ, cột trụ của Giáo hội, để tiếp tục sứ mạng cứu rỗi của Người. Chính vì thế mà thánh Phaolô Tông đồ luôn tự nhắc nhở mình rằng:”Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”.
Nhưng phải rao giảng những gì? Cho ai? Và bằng cách nào? Đức Giêsu dạy:”Hãy đi rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh và khử trừ ma quỉ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”. Như thế, nội dung của sứ điệp là Nước trời, hành trang là Lời Chúa, đối tượng là người nghèo khổ, bị bỏ rơi bên lề xã hội, phương pháp là yêu thương và cho đi. Thật vậy, chính sự cho đi vô vụ lợi, yêu thương mà không mong đền đáp là bí quyết thành công trong việc truyền giáo. P. Babin đã nói:”Người ta chỉ có thể tin vào Đức Giêsu Kitô khi người ta tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.
Ý thức được sứ mạng truyền giáo ấy, trong sứ điệp kết thúc hội nghị Hồng Y đoàn lần thứ sáu, ngày 24 tháng 05 năm 2001, đã nhấn mạnh:”Cần xây dựng một Giáo hội cầu nguyện nhiều hơn, truyền giáo nhiều hơn, nghèo khó hơn, liên đới với nhân loại hơn, cách riêng với những người đau khổ, túng cực, bị loại ra ngoài lề xã hội”.
Chỉ cần một buổi tối theo dõi chương trình thời sự quốc tế, thời sự trong nước và thời sự các địa phương trên đài truyền hình, chúng ta sẽ thấy được rất nhiều vấn đề lớn nhỏ đang xảy ra trên toàn thế giới. Nào là chiến tranh, nào là kỳ thị chủng tộc, kỳ thị màu da, ngôn ngữ, kỳ thị tôn giáo. Nào là các thứ tệ đoan và tội ác. Nào là đói nghèo, bệnh tật và chết chóc... Tất cả những điều đó như là những bóng tối che phủ cuộc sống của con người. Tất cả những thảm họa đó là những chứng từ cho thấy sự hiện diện và hoạt động tích cực của ma quỉ. Không phải chỉ hôm nay, nhưng ngay từ thời Chúa Giêsu, thậm chí ngay từ thuở ban đầu của cuộc tạo dựng, ma quỉ đã có mặt và không ngừng hoạt động để phá hủy công trình tạo dựng của Thiên Chúa và lôi kéo con người chống lại Người. Con người đang trở thành những kẻ nô lệ khốn khổ cho quỉ dữ mà vẫn tưởng mình đang tự do. Con người đang là những công cụ đắc lực trong bàn tay ma quỉ mà vẫn tưởng mình là chủ nhân của thế giới này. Con người đang sống trong lầm than mà vẫn không hay biết gì.
Nhưng Chúa Giêsu thấy và biết tất cả. Người xúc động và xót xa cho số kiếp lầm than, khốn khổ của con người. Thánh Matthêu đã viết:”Chúa Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng như chiên không người chăn dắt”. Chính vì thế, dù ở đâu hay đi đến đâu, Người cũng vẫn luôn ra tay cứu gỡ con người khỏi ách thống trị của ma quỉ và của quyền năng sự dữ. Người đã chữa lành các bệnh tật đang hủy hoại con người và xoa dịu những khổ ải đang đè bẹp con người.
Tất nhiên chỉ một mình Chúa Giêsu cũng có thể làm tất cả những gì Người muốn để giải thoát con người. Nhưng Người đã không làm một mình. Người muốn con người cộng tác vào sứ mệnh giải thoát ấy. Người muốn con người bày tỏ sự tự do trong việc đón nhận ơn giải thoát cho chính mình, đồng thời ý thức trách nhiệm liên đới trong việc giải thoát anh chị em mình. Để thực hiện ý muốn này, Người đã chọn 12 tông đồ và sai các ông ra đi. Người ban cho các ông quyền năng trên ma quỉ và chữa lành các bệnh tật. Điều đó cũng có nghĩa là Người trao ban cho các ông sứ mạng đẩy lùi sự xấu và sự ác, cũng như đẩy lùi khổ đau đang hoành hành trên mặt đất này. Sứ mạng ấy, ơn gọi ấy không chỉ được trao ban cho 12 tông đồ mà còn cho mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: “Lúa chín đầy đồng, thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin xhủ ruộng sai thợ ra gặt lúa về”.
Thật vậy, Chúa Giêsu đã gọi đích danh chúng ta và trao cho chúng ta sứ mạng ban phát ơn cứu độ mà Người đã thiết lập. Ban phát ơn cứu độ cũng có nghĩa là mỗi người cần nỗ lực đẩy lùi sự dữ, sự ác trong môi trường sống của mình và ra tay giúp đỡ để anh chị em mình bớt khổ đau. Là một nông dân trên ruộng đồng hay là một công nhân bốc vác trong nhà máy, là một tài xế hay là một giáo viên trong nhà trường, là một học sinh trong lớp hay là một y tá, một bác sĩ trong bệnh viện, là một người gác cổng cơ quan hay là một thư ký trong văn phòng... tất cả đều nhận được một sứ mệnh như nhau. Sứ mệnh ấy là làm cho Tin mừng của Chúa Kitô thấm nhập vào từng con người, vào mỗi công việc, và vào mọi nơi mọi chốn. Tin mừng càng lan rộng bao nhiêu thì sự dữ càng bị thu hẹp lại bấy nhiêu.
Đừng ai nói mình không có trách nhiệm làm tông đồ. Đừng ai nói mình không có khả năng. Đừng ai nghĩ mình không có kiến thức. Đừng ai nói mình nghèo khổ. Đừng ai nói mình không phải là thánh nên không thể rao giảng Tin mừng. Nói như thế, nghĩ như thế là thoái thác trách nhiệm. Các tông đồ ngày xưa cũng chỉ là những con người đơn sơ bé mọn, nghèo khó, có khi là những con người toị lỗi nữa. Nhưng trừ một mình ông Giuđa, tất cả những người còn lại đã không phụ tình Chúa yêu thương và sự tín nhiệm của Người.
Lời kết thúc thánh lễ:”Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an” không chỉ là một lời chúc nhưng còn là một lệnh truyền, một bài sai ra đi gieo rắc Tin mừng bình an.
Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi mọi người hãy đưa mắt nhìn đồng lúa chín vàng. Đồng lúa ấy có thể là cả thế giới, có thể là đất nước Việt Nam, có thể là giáo phận, nhưng cũng có thể là khu xóm, nơi chúng ta sinh sống, làm việc... và ai là thợ gặt trong cánh đồng lúa ấy? Phải chăng đó chỉ là trách nhiệm của giám mục, linh mục, tu sĩ, các nhà truyền giáo, còn người giáo dân chỉ cần đi lễ, đọc kinh, tu thân, lo cho mình được ơn cứu rỗi? Sau đây tôi xin gợi ý chia sẻ một ít điều để chúng ta cùng suy nghĩ. Thực vậy, ngay từ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, được làm con Chúa, được gia nhập dân riêng của Chúa, người Kitô hữu được trao cho chiếc áo trắng đánh dấu một cuộc đời mới, đồng thời cũng được trao một cây nến sáng được đốt từ cây nến phục sinh, tượng trưng cho Đức Kitô là ánh sáng. Ánh sáng ấy đến thế gian để chiếu soi bóng tối. Ai tiếp nhận ánh sáng thì cũng trở nên đèn sáng soi cho người khác. Như thế, biểu tượng trao nến sáng nói lên nhiều ý nghĩa: người lãnh bí tích Rửa tội tiếp nhận ánh sáng trong niềm vui vì đã tìm thấy ánh sáng chân thật. Đàng khác, cũng nói lên trách nhiệm phải trở nên đèn sáng cho những người chung quanh bằng cách sống trong ánh sáng. Như vậy, ngay từ lúc được Rửa tội, ngay từ lúc tiếp nhận ánh sáng, người Kitô hữu cũng trở nên đèn sáng, cũng nhận sứ mạng ra đi rao giảng Tin mừng. Nói cách khác, bản chất của người Kitô hữu là đèn sáng, là người được sai đi thực hiện công trình của Chúa đến từng người ở mọi nơi mọi thời, không phân biệt mầu da, tín ngưỡng, địa vị xã hội. Và hơn nữa, ở nơi nào càng khó khăn, nguy hiểm, thì người Kitô hữu càng được sai đi, ở nơi nào càng có thế lực sự dữ ngự trị, thì lệnh truyền ấy càng khẩn thiết, bởi vì những người mạnh khỏe không cần thày thuốc, chỉ những người bệnh tật mới cần. Ta không đến gọi các người công chính, nhưng kêu mời những kẻ tội lỗi ăn năn trở lại.
Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta phải từ bỏ tất cả và ra đi đây đó như những tông đồ chuyên nghiệp, nhưng chúng ta có nhiều cách và nhiều hình thức để làm tông đồ trong xã hội hôm nay: tông đồ bằng đau khổ, tông đồ bằng chứng tích, tông đồ bằng tiếp xúc, tông đồ bằng cầu nguyện, tông đồ bằng chia sẻ... Nói tóm lại, hình thức tông đồ tốt nhất, có sức thuyết phục nhất, được Giáo hội đề cao và cổ võ nhất, là làm tông đồ bằng chính đời sống tốt lành, tốt đẹp của chúng ta. Chúng ta đừng nghĩ làm tông đồ bằng những việc to lớn rầm rộ mà chỉ chú ý đến những việc đơn giản: thắp một ngọn nến, thắp một tia hi vọng cho người tuyệt vọng, mang bình an cho người đang chơi vơi lo lắng, mang tình yêu thương đến cho người đang đau khổ tinh thần hay thể xác...
Trong thánh lễ hôm nay, sau khi nghe lời Chúa và rước Mình Thánh Chúa, chúng ta nhận được bình an của Chúa. Ước mong khi ra về chúng ta trở nên những người gieo rắc bình an cho những người khác.
Mỗi một cuộc chiến tranh đều là một bài học cho nhân loại. Đây có lẽ là lúc thế giới nên nhìn lại những gì đã diễn ra trong những năm qua. Khi đệ nhị thế chiến vừa kết thúc, thủ tướng Anh Quốc, ông Winton Churchill đã thốt lên như sau:”Chiến thắng nào cũng buồn thảm cả, không có ai thắng mà cũng chẳng có ai bại, chỉ có chết chóc, đổ vỡ hoang tàn mà thôi”.
Vào giữa lúc tiến bộ khoa học ngày càng là những bước tiến khiến cho chúng ta phải choáng váng, thì tại nhiều nơi trên thế giới, chiến tranh, chết chóc vẫn cứ tiếp diễn, đói khổ vẫn còn đó, và nhất là những quyền tự do cơ bản nhất của con người vẫn còn bị chối bỏ và chà đạp. Chúa Giêsu mời gọi Giáo hội và các tín hữu Kitô chúng ta nhìn vào thế giới ấy bằng chính ánh mắt của Ngài. Tin mừng hôm nay nói với chúng ta rằng, cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giêsu đã nhìn vào thế giới mà đám đông đi theo Ngài là đại biểu, Ngài đã nhìn vào thế giới ấy và chạnh lòng thương vì họ vất vưởng bơ vơ như chiên không có người chăn dắt. Đám đông ấy Chúa Giêsu đã nhân bánh và cá ra hai lần để cho họ được ăn uống no nê. Ngài cũng đã chữa lành bệnh tật cho nhiều người, Ngài cho người què được đi, người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm được nói, Ngài còn làm cho kẻ chết sống lại nữa.
Những người Do thái thời Chúa Giêsu và có lẽ nhiều người ngày nay nghĩ rằng, thế giới của chúng ta sẽ là thiên đàng nếu Chúa Giêsu chỉ cần vung cây đũa thần của Ngài ra làm đủ các phép lạ để cho loài người không phải đổ mồ hôi sôi con mắt mới có của mà ăn, mà nhất là không còn bệnh tật ốm đau và chết chóc nữa. Họ mong đợi một thứ thiên đàng ấy, cho nên không những đã khước từ Chúa Giêsu mà còn treo Ngài trên thập giá. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không đến như một kinh tế gia hay một vị lương y, một vị thủ lãnh thế gian, Ngài đến làm cho con người được sống một cuộc sống dồi dào, Ngài đã loan báo sự sống sung mãn ấy và đã thể hiện sự sống sung mãn ấy bằng cả một cuộc đời hiến thân hy sinh mà cái chết trên thập giá là biểu hiện tột đỉnh.
Quả thực, con người chỉ thực sự sống sung mãn nếu cùng đi theo con đường của Chúa Giêsu mà thôi, nhưng tiếc thay từ hơn 2000 năm qua nhân loại vẫn như một đám đông thời Chúa Giêsu, họ vất vưởng bơ vơ như chiên không có người chăn, họ đi tìm kiếm những của cải khác với những giá trị mà Chúa Giêsu đã mang đến. Chiến tranh, đói khổ, chết chóc vẫn còn đó. Kỳ thực, trái đất của chúng ta không bao giờ thiếu lương thực cho cả nhân loại, thế giới cũng không bao giờ thiếu tiền, thiếu của, người ta đã chẳng thừa tiền, thừa bạc để sản xuất những loại khí giới đó sao? Thế giới của chúng ta rất túng đói là túng đói sự công bình, túng đói tình người, túng đói tình liên đới.
“Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và mọi sự khác sẽ được ban dư đầy cho các con”. Chúa Giêsu đã sai các môn đệ ra đi để loan báo về nước ấy. Ngày nay Ngài cũng ủy thác sứ mệnh ấy cho mỗi một người tín hữu Kitô chúng ta. Truyền giáo nghĩa là được sai đi để loan báo Nước trời, không phải chỉ một số người nào đó, hay chỉ là thành phần ưu tuyển nào đó trong Giáo hội, mà là nghĩa vụ của tất cả những ai đã lãnh nhận một cách nhưng không ơn đức tin. Thực thế, sứ mệnh truyền giáo ấy trong môi trường của chúng ta đang sống hiện nay, cụ thể là tại Việt Nam của chúng ta, không gì khác hơn là sống cho đến cùng và triệt để những giá trị của Tin mừng.
Chúng ta phải làm chứng cho niềm tin nào? Chúng ta sẽ loan báo nước nào nếu chúng ta cũng sống như mọi người nghĩa là chúng ta cũng gian lận trong mánh mung, cũng đút lót, cũng tham lam và ích kỷ, cũng như thỏa hiệp với các sinh mệnh của sự dữ, để mặc ai nấy sống và tìm lợi lộc cho cá nhân. Giáo hội của chúng ta không có lấy một sư đoàn nào trong tay, Giáo hội của chúng ta cũng chẳng có khả năng chuyên môn, phương tiện để làm kinh tế, nhưng nếu tất cả mọi người tín hữu Kitô chúng ta đều triệt để tìm kiếm và xây dựng những giá trị của Nước trời, thì chắc chắn chúng ta sẽ góp phần rất lớn vào việc thay đổi bộ mặt của xã hội.
Trong cuốn sách nổi tiếng, Anh em nhà Karamazov nhà văn Nga Dostoevsky cho chúng ta một bức chân dung của Đức Kitô. Bối cảnh xảy ra ở Seville thời kỳ Pháp đình tôn giáo. Đức Kitô đã đến thăm dân Người trong cảnh khổ đau. Mới ngày hôm trước, một trăm người dị giáo đã bị thiêu sống theo lệnh của Hồng Y, Đại Pháp quan.
Mặc dù Đức Giêsu đã đến không kèn không trống nhưng dân chúng lập tức nhận ra Người. Họ xúm lại xung quanh Người. Người bước đi ở giữa họ với một sự biểu lộ cao thượng trên khuôn mặt Người. Người đưa tay ra và chúc phúc cho họ. Nhiều người được lành bệnh khi sờ vào áo Người.
Người dừng lại ở tam cấp của nhà thờ lớn khi một cỗ quan tài còn mở nắp với thi thể của một cô gái nhỏ được đưa ra khỏi nhà thờ. Một sự im lặng bao trùm lên đám đông. Rồi một tiếng thì thầm nổi lên: “Người sẽ làm cô bé sống lại”. Và Người đã làm. Tuy nhiên ngay sau đó, vị Đại Pháp quan đã đến quảng trường. Khi ông thấy sự việc xảy ra như thế, ông ra lệnh bắt giữ người lạ mặt và nhốt vào nhà tù.Đêm hôm ấy, Đại Pháp quan vào xà lim thăm tù nhân của mình “Có phải ông là Chúa thật không?” ông ta hỏi Người. Người không đáp, ông ta liền nói: “Ông không cần phải nói thêm điều gì cả. Trước đây ông đã nói tất cả rồi. Tôi không biết ông có phải là Chúa thật không. Mọi điều tôi biết là ngày mai ông sẽ bị thiêu sống như một tên dị giáo tệ hại nhất, và người nào hôm nay đã hôn chân ông, ngày mai sẽ bị ném sống vào lửa. Ông có biết điều đó không?”Ông ta chờ đợi một câu trả lời nào đó, nhưng không có. Bấy giờ người lạ mặt đến gần ông và với một sự cao thượng tuyệt vời, ôm chầm lấy ông. Đó là câu trả lời của Người. Vị Đại Pháp quan già nua bối rối trong một lúc. Nhưng ông ta liền lấy lại sự bình tĩnh ông bước đến cửa xà lim, mở ra và nói cùng Người. “Ông hãy đi đi, và đừng bao giờ quay trở lại, đừng bao giờ!”. Rồi ông để cho Người đi ra và Người biến mất trong những đường phố tối tăm của thành phố ngủ yên.
Chúng ta có thể quên Đức Kitô giống gì. Giáo hội có thể quên. Giáo hội Có thể đặt học thuyết và tín lý luật lệ cùng qui định của Giáo hội trước dân chúng. Cá nhân có thể đặt lòng sùng tín riêng tư của mình theo cách sống của Đức kitô. Ngày nay, có một mối quan tâm ngày càng tăng đối với những mạc khải và sự hiện ra. Dù thế nào, ngày nay cũng có một khát vọng về Đức Kitô của Tin mừng. Chúng ta cần nhớ lại Đức kitô như thế nào lúc chúng ta trở lại với Tin mừng. Tin mừng trong thánh lễ hôm nay cho chúng ta một hình ảnh đẹp về hành động thương xót của Đức Kitô.Các nhà lãnh đạo tôn giáo đã không đem lại điều gì cho dân thường trong cảnh khổ của họ – không có sự hướng dẫn, cả an ủi lẫn sức mạnh. Thật vậy, họ không quan tâm đến dân chúng. Nhưng Đức Giêsu hoàn toàn khác. Khi Người nhìn đến dân thường, Người không nhìn thấy một đám đông nhưng là một tập thể những cá nhân, mỗi người có những vấn đề và lo lắng vui mừng và sầu khổ. Và không hề khinh miệt họ. Người tỏ lòng thương xót họ, một cách chính xác hơn bởi vì họ bị tổn thương và cần được giúp đỡ.
Trước hết, Người ban chính Người cho họ. Nhưng biết rằng mùa gặt rất lớn nên Người quyết định kêu gọi các người phụ giúp. Từ những môn đệ của Người, Người chọn ra mười hai người để họ trở thành những bạn đồng hành theo những phương thế đặc biệt. Người gọi họ là những tông đồ – những người được sai đi. Họ thuộc về những tầng lớp khác nhau và không một ai đã qua đào tạo. Mỗi người có cá tính riêng, có những điểm yếu, điểm mạnh, những sự yếu đuối. Ở giữa họ, đã có những ganh tị, căng thẳng.
Đức Giêsu yêu thương họ và ngược lại họ yêu mến Người, Người huấn luyện họ tuy nhiên không phải theo hình thức mà bằng cuộc sống của Người với họ, Người đồng hành với họ và trở thành một gương mẫu cho họ. Họ học làm những việc Người làm. Rồi Người sai họ đến với những người khác. Họ biết sứ vụ của họ là gì: họ là nhân tố của lòng thương xót của Người cho những người khác, đặc biệt cho những người nghèo và những người đau khổ.
Ngày hôm nay, Đức Giêsu trông mong ở chúng ta. Để trở thành một tông đồ của Chúa, chúng ta không cần phải trở thành một người đặc biệt, tức là còn thua xa một vị thánh (ít ra lúc mới đầu là thế). Tất cả điều mà con người cần có là sự tự nguyện và một tấm lòng rộng mở.
Philip là một con người rất đáng mến. Giờ đây ở tuổi sáu mươi ông tốt bụng khôi hài, nhân từ và quảng đại. Nếu bạn quan sát ông trong ngày họp mặt hàng năm của gia đình mở rộng, bạn có thể nhìn thấy điều này. Ông không kéo sự chú ý về mình. Ông chỉ có mặt một cách tuyệt diệu. Cười nói và hòa đồng, ông làm cho mọi người cảm thấy thoải mái. Ông lôi cuốn mọi người đến với ông. Mục đích duy nhất của ông dường như là giúp đỡ những người khác. Ông không có một suy nghĩ nào về mình.
Nhưng ông không như thế trước đây. Ít năm trước, ông hầu như ngược lại. Sự hiện diện của ông trong ngày họp mặt gia đình hàng năm là một điều bối rối đặc biệt cho vợ và các con ông. Tại sao? Bởi vì lúc đó ông là người nghiện rượu. Từ sáng sớm ông đã uống rượu. Dường như ông chỉ quan tâm đến một mình ông thôi. Ông không thể giúp đỡ một ai. Người ta tránh xa ông và nói chuyện với ông càng ít càng tốt. Điều làm cho vấn đề tệ hơn là, khi ông say, ông trở nên thô tục.
Bây giờ, ông dễ mến vì ông đã bỏ rượu và thay đổi cuộc đời. Thật vậy, bạn không thể không yêu mến ông, khi ông còn uống rượu. Quả thật, hầu như không thể mến yêu ông lúc đó. Dù sao qua những năm tháng tối tăm ấy khi ông còn uống rượu, vợ con ông tiếp tục yêu thương ông. Tình yêu thương và sự quan tâm của họ, làm ông có khả năng đối diện những vấn đề của ông, và đi tìm sự giúp đỡ. Chính tình yêu của họ làm cho ông trở lại.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô nói:”Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng”. Thánh nhân nói tiếp rằng chứng cứ thật sự Thiên Chúa yêu thương chúng ta là Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những con người tội lỗi.
Được yêu thương vì mình công chính không có gì đáng kể. Không có gì xứng đáng hơn. Nhưng được yêu thương khi mình có tội là một kinh nghiệm tuyệt vời.
Nếu chúng ta là người tội lỗi, và ai trong chúng ta không phạm tội? – Vậy mà Đức Kitô yêu thương chúng ta nhiều hơn. Chúng ta không được yêu thương nhiều đến thế vì hoàn hảo. Chúng ta cần được chấp nhận và được yêu thương chỉ khi chúng ta có tội.
Nhiệm vụ của Kitô hữu không phải là chiếm đoạt tình yêu của Thiên Chúa nhưng đáp lại tình yêu ấy. Và cách tốt nhất để đáp trả là yêu thương người khác dù họ có lỗi hay phạm tội.
Cách tốt nhất để tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa về tình yêu mà Người biểu lộ với chúng ta qua Đức Giêsu là chia sẻ tình yêu ấy với người khác. Đức Kitô đã chọn các tông đồ và gởi họ đến những người khác. Giờ đây Người muốn chúng ta đưa tay cho những người khác theo cách nào mà chúng ta có thể. Nhiệm vụ của chúng ta đơn giản: chúng ta phải là những nhân tố đem lòng thương xót của Người đến cho người khác.
Sau những hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu tại Galilê, câu 35 cho một cái nhìn tổng quát về hoạt động này: “Đức Giêsu rảo khắp các thành phố, làng mạc, rao giảng trong các hội đường. Công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa, chữa mọi bệnh hoạn, tật nguyền”, nay đến giờ tổng kết, để tạo một đà lực mới cho sứ mạng.
Nguồn mạch của đà lực mới cho sứ mạng này phát xuất từ cái nhìn của Đức Giêsu, từ trái tim Mục Tử nhân hậu của Người, từ “lòng thương xót” của Người đối với “đám đông mệt mỏi rã rời”, tệ hơn nữa, bị những người có trách nhiệm hướng dẫn - Luật sĩ và Biệt phái - bỏ rơi vì những vị này khép lòng lại trước tính chất mới mẻ của Nước Chúa. “Họ bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt”.
- Thấy nhiệm vụ quá lớn lao mà phương tiện lại nghèo nàn, trước khi cất tiếng kêu gọi và sai các tông đồ lên đường sứ mạng, Đức Giêsu hướng tầm mắt các môn đệ về phía “Ông chủ mùa gặt": “Hãy cầu nguyện xin chủ ruộng sai nhiều thợ gặt đến”.
2. Một sứ mạng không khác sứ mạng của Đức Giêsu.
Nhân việc Đức Giêsu kêu gọi “mười hai môn đệ”, tác giả Phúc Âm phong cho họ tước hiệu “tông đồ” nghĩa là “được sai đi”. Simon được gọi là “Phêrô” đứng đầu nhóm. “Matthêu” người “thu thuế” ở chương 9,9; “Giuđa”, “kẻ sẽ nộp Người”.
Việc kêu gọi đi liền với việc sai đi truyền giáo được diễn tả dưới hình thức diễn từ, đó là diễn từ thứ 2 trong 5 diễn từ quan trọng của Phúc Âm thứ I mà ta sẽ đọc tiếp ở Chúa nhật XII và Chúa nhật XIII sắp tới. Đoạn Phúc Âm hôm nay trả lời hai vấn nạn: Họ được sai đến với ai? Sứ mạng của họ là gì ?
- Đến với ai? Với cuộc hẹn cuối cùng tại Galilê, Đức Giêsu phục sinh đã mở chân trời truyền giáo ra tới “mọi dân tộc” (28,19). Còn hiện tại, những người được sai đi đến trước hết: “với những chiên lạc nhà Israel”.
- Sứ mạng gì? Y hệt sứ mạng của Đức Giêsu. Như Người, họ sẽ loan báo việc Nước Thiên Chúa đến. Họ sẽ thực hành những cử chỉ nhân hậu của Chúa, những dấu chỉ mà tác giả Phúc Âm, ở 11,2, gọi là “những công việc của Đức Giêsu”. Khi nhớ lại rằng họ chỉ hành động như vậy nhờ Đức Giêsu ban các quyền năng của Người cho họ một cách nhưng không, họ đã đi đến một thái độ sống nghèo: “Anh em đã lãnh nhận nhưng không; hãy ban phát nhưng không”.
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Chính nơi trái tim Đức Giêsu ta tìm thấy động lực cho việc truyền giáo, sứ mạng của ta. (Mgr. L. Daloz, le Règne de Dieu s'est approché DDB).
Cho tới nay, Đức Giêsu chưa trao cho những kẻ Người kêu gọi một nhiệm vụ nào. Giờ đây Người sắp trao cho họ và sai họ đi. Trước đó, Mt đã cho ta thấy nguồn cội của sứ mạng của họ: Thấy đám đông, Người động lòng thương, vì họ mệt mỏi rã rời như bầy chiên không người chăn dắt. Rất nhiều lần, Phúc Âm đã nói về lòng thương của Đức Giêsu đối với đám đông. Nguồn cội của việc sai đi, của sứ mạng truyền giáo là tình thương của Đức Giêsu, tình thương mà ta gọi là lòng thương xót, không phải là sự hạ cố, nhưng vì tình thương ấy đã nhìn thấy đám đông “mệt mỏi rã rời” và Đức Giêsu đã xúc động... Từ ngữ Hi Lạp còn nói mạnh hơn: Người đau thắt ruột lại. Chính nơi trái tim Đức Giêsu, nơi sự âu yếm của Người, nơi sự xúc động tâm can của Người, ta tìm thấy động lực của sứ mạng truyền giáo của ta...
Có lẽ ta nghĩ rằng lời kế tiếp sẽ là lời mời gọi lên đường làm việc thu hoạch mùa màng, vì có quá ít thợ! Nhưng Đức Giêsu lại không nói điều đó với các môn đệ. Hãy nghe Người: Các con hãy xin Chủ ruộng sai thợ gặt đến. Tự nguyện chưa đủ. Quảng đại chưa đủ. Còn phải hiệp thông với tình yêu của Chúa Cha, ông chủ ruộng nữa. “Lòng thương xót” của Đức Giêsu diễn dịch tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại lầm lạc. Vâng, thật cần thiết, những người muốn làm việc cho mùa gặt, loan báo Nước Trời, làm chứng Phúc Âm, đi kín múc từ nguồn tình yêu làm cho hoạt động của họ có ý nghĩa. Lời kêu gọi trước hết là theo Đức Giêsu. Hiểu biết Đức Giêsu, nhận biết Người là Đấng Cứu Thế, Đấng đến nhân danh Chúa Cha, để Người khai tâm mở trí, chiêm ngắm Người, năng lui tới với Người, khám phá bằng nghe Người nói, nhìn Người hành động không mỏi mệt, và tặng ban chính sự sống của Người, thấy Người xúc động vì “thương xót” đến mức nào, thổn thức vì khổ đau của nhân loại... và như thế, chia sẻ sự bao la, sự sâu xa của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu không giới hạn cháy bỏng: Thiên Chúa muốn nhân loại vào một cuộc xuất hành khác với cuộc xuất hành do Môsê hướng dẫn, muốn ban cho nhân loại một cuộc giải phóng vĩ đại hơn! Đó là tất cả điều kiện của một “sứ mạng thực sự” không phải là trước khi lên đường, nhưng không ngừng, ở nền tảng của sứ mạng. Trước đây, không biết điều đó, ta vẫn có thể xúc động trước nỗi khổ của con người, trước sự thiếu thốn của họ và dấn thân phục vụ họ, can đảm hành động. Điều đó rất quan trọng, và đó cũng là công việc của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng Phúc Âm còn đưa ta đi xa hơn: Nó mạc khải tình yêu mà chính Thiên Chúa mang đến cho nhân loại, say mê, không mỏi mệt. Đời sống và cái chết của Đức Giêsu là bằng chứng hùng hồn về điều đó. Người mời gọi ta đến chia sẻ tình yêu ấy, làm tôi tớ phục vụ tình yêu ấy cho anh em ta, bắt tay vào hành động, vì Người sai ta đi truyền giáo. Truyền giáo không phải là tác phẩm của ta. Cũng không do sáng kiến của ta. Truyền giáo đâm rễ sâu trong lời cầu nguyện làm trái tim và ý chí ta phù hợp với tình yêu trong trái tim Thiên Chúa. Truyền giáo không thể tách rời cầu nguyện: Hãy cầu nguyện xin chủ ruộng sai thợ gặt đến.
2. Chúng ta là Giáo Hội (L. Sintas, Parole de Dieu pour la méditation et l'homélie, Médias Paul).
Sứ mệnh trao ban cho các tông đồ cũng là sứ mệnh trao ban cho ta hôm nay. Giáo Hội hôm nay chính là chúng ta. Vậy đến lượt ta phải loan báo Nước Thiên Chúa đã đến. Chắc rằng ta không đi tìm mặt trời giữa đêm khuya. Xuyên qua hoạt động hằng ngày, cuộc sống gia đình, nghề nghiệp, ta có thể, hoặc trở nên tôi tớ của Vương quốc sự dữ khi ta gieo rắc chia rẽ, vun trồng ghen tương, ích kỷ, hoặc trở nên chứng nhân cho hoạt động của Thiên Chúa khi trở thành men tình bạn, men bình an, men hoà giải. Cần cầu nguyện để nhắc nhớ những gì Thiên Chúa đã làm cho ta dù ta tội lỗi. Nhưng cầu nguyện còn có mục đích giúp ta kiên vững trong sứ mệnh là tác nhân hoà bình, chữa lành bệnh và hiệp thông. Muốn là Kitô hữu, phải làm cho cách hành động của ta phù hợp với niềm tin. Đó là cách duy nhất để trở thành tông đồ, làm cho Giáo Hội nên sống động và có sức hấp dẫn. Thực vậy, đối với những người không cùng chia sẻ niềm tin với ta, thành phần hữu hình của Giáo Hội mà họ thấy được chính là các Kitô hữu cụ thể ở làng ta, trong khu phố ta ở. Là chính chúng ta. Chính ta có trách nhiệm tạo cho Giáo Hội một khuôn mặt của Thiên Chúa, khuôn mặt ấy có sức lôi cuốn mọi người sống quanh ta. Đó là loan báo Nước Thiên Chúa đã đến.
3. Cầu nguyện và truyền giáo (Mgr. R. Coffy, cine Ezlia qui célèber et quiprie, Le Centurion).
Truyền giáo là lãnh nhận trước khi là hành động. Truyền giáo chỉ là hành động nhân danh Đấng sai đi. Được sai đi chính là hành động nhân danh ai. Nó giả thiết mối quan hệ quen thuộc thông thường giữa người sai và kẻ được sai, trong sứ mạng tông đồ, đó là cầu nguyện. Hoạt động truyền giáo không dựa trên cầu nguyện sẽ có nguy cơ trở nên hoạt động thuần tuý nhân loại chứ không còn là hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi con người. Nói về truyền giáo mà không nói trong cầu nguyện, có thể vi phạm tính cách chân thực của sứ mạng.
Cách đây mấy chục năm, một cuốn phim đen trắng được chiếu tại các rạp thành phố (Sài gòn), cuốn phim tuy không hấp dẫn, nhưng nó đã nêu lên một số cuộc tranh biện, và nhất là làm cho những người hiểu biết về đạo phải suy nghĩ, đó là cuốn phim: “Dieu a-tôi-it besoin de I’homme?” (Thiên Chúa có cần tới con người không?)
Thực ra theo lý thuyết, hay nói cho đúng hơn, theo luận lý tin quyết (a- priori) thì Thiên Chúa có quyến phép vô cùng, không cần tới con người. Nhưng (a posteriori) theo lý luận hậu nghiệm, theo nhiệm cục tạo dựng, và nhiệm cục cứu chuộc, thì quả thực là Thiên Chúa cần con người, rất cần con người. Nói rõ họn, do ý mầu nhiệm và sự an bài của Thiên Chúa, trong nhiệm cục Cứu chuộc hiện tại, nhiệm cục Ngôi Lời xuống thế làm người, chết Thánh thê thảm trên Thập giá để Cứu chuộc chúng ta, thì Chúa muốn và bắt buộc con người phải chung tay với Thiên Chúa, cầu nguyện cho việc mở mang nước Chúa, góp của, góp công cho việc truyền bá Phúc Âm, và nhất lá lo việc đào tạo những thợ gặt cho cánh đồng truyền giáo.
Trong các vị Thánh Việt Nam, ta thấy nhiều vị Thánh dù sống trong thời bắt hại, cấm cách, cũng đã kiên trì lo lắng cho việc đào tạo chủng sinh, những thợ gặt tương lai của cánh đồng lúa Việt Nam.
Thánh Phêrô Khanh (tử đạo ngày 12-7-1842, 62 tuổi) sinh quán tại làng Nguyên Kiệt, xã Hoa Duệ, tỉnh Nghệ An. Được gởi cậu vào trong nhà xứ để được đào tạo thành thầy giảng, nhưng vì nhiệt thành với Giáo Hội và thấy rõ nhu cầu dân Chúa, thầy Khanh xin bề trên cho học thêm để lên chức Linh mục. Suốt 14 năm liền, thầy Khanh kiên trì tự học, tìm các Linh mục để học hỏi thêm và thầy thụ phong Linh mục năm 1819, khin đã 39 tuổi.
Tuy bận rộn với công tác mục vụ, cha Khanh đem hết khả năng của mình vào việc đào tạo Linh mục tương lai.
Theo sự điều động của địa phận, cha phục vụ tại nhiều nơi: họ Trại Lê, họ Quỳnh Lưu, rồi các xứ Thọ Kỳ, Thọ Ninh, Long Trương, Ngàn Sâu. Ở bất cứ nhiệm sở nào, bất cứ lúc nào, nhà cha cũng là một tiểu chủng viện thu hẹp. Cha nuôi một số thanh thiếu niên, dạy Giáo lý, hướng dẫn các em theo ơn gọi làm Linh mục. Bằng Tình yêu của người cha, với sự thận trọng tinh tế của một nhà giáo, cha chú tâm vào việc đào tạo những bậc lãnh đạo tương lai trong Giáo Hội. Ngoài những bài học và huấn đức, chính đời sống cha là mẫu gương sống động cho họ.
Khi cha dâng Thánh lễ, mọi người như gặp được Thiên Chúa. Khi cha giảng, mọi người đều cảm thấy sốt sắng them lên. Vì lợi ích các linh hồn, cha tận tình chu toàn các công tác không một lời ca thán. Giữa đêm khuya, nếu có gọi đi giúp bệnh nhân, cha nhanh nhẹn lên đường ngay. Trong giai đoạn khó khăn, các chủng viện bị giải tán, việc đào tạo phải thực hiện các lén lút và riêng tư từng người một, nhưng cha đã đào tạo được tất cả 8 Linh mục.
Cuối tháng 1 năm 1842, khi theo cha chính Masson đi công tác ở Hà Tĩnh, cha bị lính chận lại, khám xét rồi bắt giam.
Mới vào tù ít bữa, cha được mọi người, kể cả lính canh gác quí mấn vì tính vui vẻ và hòa nhã. Uy tín của cha gia tăng nhờ có đôi chút khả năng về y khoa, nhất al sau một lần chữa bệnh nổi tiếng.
Vì mến phục vị Linh mục, các quan tìm cách cứu cha khỏi chết. Các ông đề nghị cha giấu chức vụ Linh mục, trước sau cứ khai nghề thầy lang, thì các ông sẽ tìm cách xin ân xá. Nhưng cha không chấp nhận sự khai man đó. Thế là bản án của cha được gởi vào Huế xin vua Triệu Trị ký duyệt.
Ngày 11-7-1842, bản án trở lại thị Trấn Hà Tĩnh kết án cha là “một kẻ điên rồ, mù quáng và ngu xuẩn đáng chém đầu.”
Ngay sáng hôm sau, 12 tháng 7 bản án được thi hành. Thi thể đấng tử đạo được đưa về Kẻ Gòn, cha chính Masson cử hành Thánh lễ trọng thể với sự tham dự đông đảo của giáo dân.
Lê Văn Lộc (tử đạo ngày 13-2-1859, 29 tuổi), sinh tại làng An Nhân, tỉnh Gia Định. Mồ côi cha mẹ từ năm 10 tuổi, cậu Lộc được Cha sở nhận nuôi và cho theo học chủng viện Cái Nhum trong hai năm. Năm 1843, Đức Cha Ngãi (Lefèbre) gởi cậu sang học thần học tại Pénang. Cậu được các giáo sư Pénang viết thư về đại phận, khen là cậu có tương lai đầy hứa hẹn. Trở về nước, Phaolô Lộc tận tụy dạy Giáo lý và phụ trách việc huấn luyện các chủng sinh. Ngày 2 tháng 7 năm 1857, thầy Phaolô được Đức Cha Ngãi truyền chức Linh mục và bổ nhiệm làm Giám đốc tiểu chủng viện Thánh Giuse Thị Nghè. Khi chủng viện Thị Nghè phải giải tán, cha Lộc còn cố lán lại Sài Gòn, nay đây mai đó, để lo cho các chủng sinh tản mát, bơ vơ. Cuối năm 1858, cha Lộc đến tạm trú tại nhà của một chủng sinh (thầy giáo Ngôn). Dầu khó khăn nguy hiểm, cha vẫn tìm cách tiếp tế cho các chủng sinh, đang lưu lạc. Việc đó đưa cha tới phúc tử đạo.
Một phụ nữ ngoại giáo nhận diện cha, liền trình báo quan… Khi bị bắt, cha lộc khéo léo đối đáp, nên quan đối xử với cha cách tử tế, lại còn muốn tha cha, nếu cha bỏ đạo. Nhưng vì cha cương quyết, không bỏ Chúa, nên các quan tâu vua xin trảm quyết.
Ngày 13 tháng 2 năm 1859, cha Phaolô Lộc bị điệu đến Trường Thi (góc đường Hai Bà Trương và Hồng Thập Tự) và bị hành quyết tại đó. Phải chờ tới đem, ggiáo hữu mới lén đến đưa thi hài vị tử đạo (vẫn còn bị troiở cột) về mai táng ở Chọ Quán, sau được cải táng về nữ tu viện dòng Thánh Phaolô Sài gòn. Hiện nay hài cốt đấng tử đạo được tôn kính trong Vương Cung Thánh Đường Sài gòn.
Bài Phúc Âm hôm nay mô tả sứ mạng Chúa trao cho các Tông đồ, sứ mạng sai đi rao giảng Tin Mừng.
Sứ điệp sai đi trước tiên phát xuất từ tâm hồn của Chúa, từ cái nhìn bao la của Ngài trước cảnh “đàn chiên không có kẻ chăn”, cảnh “đuầng lúa chín vàng” mà thiếu thợ gặt. Sứ điệp ấy cũng là sứ điệp của Đức Chúa Cha, là chủ cả đoàn chiên, chủ cả mùa gặt. Vì thế cần phải cầu xin Ngài gửi thợ gặt đến.
Sứ điệp sai đi cũng phát xuất từ con tim của Chúa Giêsu, “cảm xúc vì từng đoàn người yếu sức và mệt nhọc”. Đây là điểm khác biệt với các thầy thông thái trong dân Israel. Họ chỉ đến với hạng người học thức quyền thế. Chúa Giêsu, Ngài đến với đoàn chiên thất lạc và bị bỏ quên. Ngài tuển chọn các Tông đồ, không phải để học đối thoại trong các cuộc tranh luận vòng vo, mà để cho các ông đồng lao cộng tác, chia sẻ công việc Tông đồ của Ngài.
Vì thế, Chúa chọn 12 Tông đồ. Trong khi hai vị Thánh sử khác lập danh sách các Tông đồ khi Chúa kêu gọi họ (x Marcô 3,16-19; Lc 6,14-16), thì Matthêô đặt vào lúc Chúa sai họ đi truyền giáo, chú trọng cách riêng đến công vụ được trao phó.
Họ là ai? Họ là những người bình dân, được chọn không phải vì có chút học thức, có ít địa vị, mà do một ơn đặc biệt của Chúa. Matthêô nêu danh từng hai người một, gọi Phêrô là “người đầu tiên”, Giuđa Iscariô là người cuối cùng, “kẻ sẽ nộop Chúa”, và không dự vào cuộc sai đi hoàn vũ (Cv 28,16). Đây là một cộng đoàn bé nhỏ đầy khuyết điểm của con người, nhưng được trao cho quyền năng của Con Thiên Chúa và là hình ảnh Nước Trời mà Chúa Giêsu sẽ kiện toàn, trong cảnh thăng trầm của lịch sử.
Sau khi đã tuyển chọn, Chúa sai họ đi truyền giáo. Họ đi từng nhóm, hỗ trợ nhau, dùng lời nói, dùng phép lạ để thuyết phục. Ở đây, Chúa dạy các ông đi với dân Israel trước đã, đợi một ngày kia sẽ tung cánh bay đến tận cùng thế giới: “Chúng con hãy đi giảng dạy muôn dân”. Theo vết chân các Tông đồ, các vị thừa sai của Chúa sẽ đi tới chân trời góc bể.
Thánh Phanxicô Xaviê đến Ấn Độ. Miệng giảng Lời Chúa, nhưng tay cầm hai ảnh tượng, một tay cầm cây Thánh giá Chúa cứu chuộc , một tay kia cầm mẫu ảnh Đức Mẹ nhân lành, để nhờ Mẹ xoa dịu hình ảnh người con đau khổ mà người dân chưa hiểu. Ngày Rửa tội hơn một triệu người. Và sau khi đã lập nên Giáo Hội Nhật Bản, Ngài muốn đem Tin Mừng cho nước Tàu vĩ đại. Nhưng vừa đến hòn đảo Thánh Gioan, ngoài khơi Hồng Kông, thì lâm bệnh và qua đời, mình dựa vào một gốc cây và mắt nhìn vào nước Tàu vĩ đại. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không”; “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân… Giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 16,19-20).
Lạy Chúa, này con đây, hãy sai con đi vào cánh đồng lúa của Chúa.
Tuần tự và khéo léo Matthêu khai mở câu chuyện về Chúa Giêsu . Trong lễ rửa do tay ông Gioan, ông cho thấy Chúa Giêsu chấp nhận công tác của Ngài. Lúc Chúa chịu cám dỗ, Matthêu cho thấy phương pháp Ngài xử dụng để thi hành công tác. Trong Bài Giảng Trên Núi, ta nghe lời khôn ngoan của Chúa Giêsu . Trong đoạn 8, ta thấy việc quyền năng. Trong đoạn 9, sự chống đối ngày càng gia tăng. Bây giờ chúng ta thấy Chúa chọn lựa người của Ngài. Một thủ lãnh sắp sửa dấn thân vào một việc quan trọng thì điều trước tiên cần làm là lựa chọn bộ tham mưu. Hiệu quả trước mắt và sự thành công tương lai của công trình đều tùy thuộc vào họ. Ở đây Chúa Giêsu lựa chọn ban tham mưu của mình, chọn những cánh tay mặt, những người sẽ giúp đỡ Ngài lúc còn ở thế gian và sẽ tiếp tục công tác của Ngài khi Ngài lìa thế gian để trở về nơi vinh quang.
Có hai sự kiện về những người này khiến ta chú ý ngay:
1. Họ là những người tầm thường:
Họ không có của cải, không học thức cao, không có địa vị trong xã hội. Họ được chọn từ trong dân gian, những người chỉ làm việc thường, không được giáo dục đặc biệt, không có lợi thế xã hội. Người ta nói Chúa Giêsu không tìm những người phi thường, Ngài tìm những người tầm thường để làm việc một cách rất phi thường. Chúa Giêsu nhìn mỗi người, không phải chỉ để thấy họ thế nào, mà cũng để thấy Ngài có thể khiến họ trở nên như thế nào. Chúa Giêsu lựa chọn những người này không những vì họ thế nào nhưng còn vì họ có thể trở nên như thế nào dưới ảnh hưởng và quyền năng Ngài. Không ai nên nghĩ mình không có gì để dâng cho Chúa. Chúa Giêsu có thể lấy điều một con người tầm thường hơn hết dâng lên để xử dụng trong việc trọng đại.
2. Họ là một nhóm ô hợp dị thường nhất:
Có Matthêu, người thu thuế. Tất cả mọi người đều coi Matthêu là người phản quốc, như một người làm tay sai cho chủ nhân chiếm xứ mình để cầu lợi, trái ngược với một người ái quốc thương dân. Cùng với Matthêu có Simon, Luca (6,16) gọi ông là Simon Dêlốt, tức nhiệt thành. Sử gia Giosephus gọi những người Dêlốt (cuồng tín nhiệt tâm này) là đảng thứ bốn của người Do thái (ba đảng kia là: Biệt phái, Xađuxê và Khổ hạnh (Esennes). Ông nói rằng họ có một lòng tự do không gì sánh nổi, vì họ nói Thiên Chúa là Đấng cai trị và Chúa của họ. Họ chuẩn bị đương đầu với mọi cái chết cho xứ sở và không hề chùn bước khi thấy người thân yêu chết trong cuộc đấu tranh dành tự do. Họ từ chối, không chịu tôn tặng một người nào trên thế giới danh hiệu là vua. Họ có một quyết tâm chịu bất cứ sự đau đớn nào, họ chuẩn bị để thi hành những vụ sát nhân bí mật để tìm cách loại bỏ quyền lực ngoại bang khỏi xứ họ. Nếu Simon, người cuồng tín gặp Matthêu ở một nơi nào khác ngoài tập thể của Chúa Giêsu , thì chắc chắn ông đã đâm cho một nhát dao găm rồi. Tại đây có một chân lý trọng đại là những người thù ghét lẫn nhau lại có thể thương yêu lẫn nhau khi cả hai cùng thương yêu Chúa Giêsu . Nhiều khi tôn giáo là cớ chia rẽ người đời, nhưng trong sự hiện diện của Chúa Giêsu thì họ đem họ lại với nhau, những con người trước đây chia rẽ vì không có Ngài.
Để chung ba bản thuật ký về sự kêu gọi mười hai Tông Đồ, chúng ta sẽ thấy vài điểm nổi bật:
a) Ngài lựa chọn họ:
Luca (6,13) nói Chúa Giêsu gọi các kẻ theo Ngài rồi chọn mười hai người trong họ. Dường như mắt Chúa rảo quanh đám đông đi theo Ngài và một nhóm nhỏ bằng lòng ở lại với Ngài khi quần chúng đã tan đi, dường như lúc nào Ngài cũng đang tìm kiếm những người Ngài có thể giao công tác cho. Có người đã nói: "Thiên Chúa luôn luôn tìm kiếm những bàn tay để xử dụng" Ngài luôn luôn phán: "Ta sẽ sai ai? Ai sẽ đi cho chúng ta?" (Is 6,8). Có nhiều công tác trong Nước Trời, công tác cho người đi ra, công tác cho người ở lại nhà, công tác cho người phải xử dụng đôi tay, công tác cho người phải xử dụng tâm trí, công tác mọi người đều thấy và công tác không ai thấy được. Đôi mắt của Chúa Giêsu luôn luôn tìm trong đám đông xem có người nào sẽ làm công tác của Ngài. b) Chúa kêu gọi họ:
Chúa Giêsu không ép buộc ai làm công việc cho Ngài, Ngài hiến công việc cho họ, nhưng không ép buộc họ. Ngài mời gọi, chứ không chưng dụng. Ngài muốn có những người tình nguyện. Mỗi người được hoàn toàn tự do trung thành hay không. Lời mời gọi đều đạt đến mọi người, ai muốn chấp nhận hoặc từ chối tùy ý.
c) Ngài chỉ định họ:
Chỉ định một người vào một chức vụ. Chúa Giêsu giống như một ông vua chỉ định người làm bộ trưởng, như vị tướng tư lệnh giao công tác cho cấp chỉ huy. Phục vụ Chúa không phải là một tình cờ may rủi mà là được chỉ định chính xác vào chức vụ. Người ta rất hãnh diện nếu được vua thế gian chỉ định vào một công tác. huống chi được chỉ định bởi một Vua các vua thì còn đáng hãnh diện hơn biết bao!
d) Những người này được chỉ định trong số các môn đệ:
Môn đệ là kẻ học hỏi. Người Chúa Giêsu cần và ưa thích là người sẵn sàng học hỏi. Một tâm trí khép kín không chịu học hỏi không thể nào phục vụ Chúa. Tôi tớ của Chúa Giêsu phải sẵn sàng học hỏi thêm mỗi ngày, mỗi ngày phải bước gần Chúa Giêsu và Thiên Chúa hơn.
đ) Ngài chọn để họ ở với Ngài:
Nếu họ phải làm công việc Ngài trong thế gian thì họ phải sống trong sự hiện diện của Ngài trước khi đi vào thế gian, họ phải đi từ sự hiện diện của Chúa Giêsu đến sự hiện diện của con người. Nhiều khi trong những sinh hoạt phức tạp của Hội Thánh hiện đại, chúng ta bận rộn với việc điều hành cốt để cho guồng máy quay đều, nhưng chúng ta lại quên rằng tất cả những việc này không quan hệ, nếu không được thực hiện từ những người đã ở với Chúa Giêsu trước khi đến với loài người.
e) Họ được gọi là Tông Đồ (Sứ Đồ):
Là người được sai đi. Chữ dùng để chỉ một phái viên, một đại sứ. Kitô hữu là sứ giả của Chúa Giêsu đến với loài người. Họ bước vào sự hiện diện của Chúa Giêsu để có thể từ đó đến với loài người , mang theo vẻ đẹp của Chúa Giêsu .
g) Họ được gọi là người rao giảng:
Họ được lệnh phải giảng đạo. Người kitô hữu là người rao truyền Chúa Giêsu , đó là lý do tại sao phải ở lại với Chúa Giêsu. Sứ giả không truyền đạt ý của mình, nhưng đem một sứ điệp thiêng liêng chắc thật từ Chúa Giêsu . Người đó không thể mang sứ điệp đó nếu trước hết không nhận được từ việc ở với Ngài.
1. Chúa Giêsu thương đám đông như đoàn chiên không người chăn, như đồng lúa chín rộ mà không có thợ gặt, nên Ngài kêu gọi các môn đệ hãy cầu xin Thiên Chúa sai thợ gặt đến.
2. Tiếp theo, Ngài sai chính nhóm 12 ra đi làm thợ gặt trên cánh đồng truyền giáo. Ngài ban quyền cho họ: Họ có quyền trên các thần ô uế và quyền chữa lành các bệnh tật.
3. Liệt kê danh sách 12 tông đồ. Họ xuất thân từ nhiều nơi và nhiều thành phần khác nhau, đa số là nghèo, ít học và không có địa vị cao trong xã hội.
4. Những chỉ dẫn đầu tiên về cách cư xử: 1/ Đừng đến với dân ngoại nhưng chỉ đến với các chiên lạc nhà Israel ; 2/ Nội dung rao giảng: Nước Trời đã đến gần”.
B.... nẩy mầm.
1. “Bấy giờ Người nói với các môn đệ rằng ‘Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,37-38)
Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối, nhưng vẫn có những đốm sáng rực rỡ: khi con người ngồi gần lại nhau để giải quyết tranh chấp, tìm kiến hòa bình ; khi cả thế giới lo chung một mối lo bảo vệ trái đất, ngăn chận sida, tận diệt ma tuý ; khi có những người nghèo quan tâm đến những người nghèo hơn ; khi trẻ thơ và người già được chăm sóc ; khi những hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ ; khi không còn kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, màu da ; khi những tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho con người sống hạnh phúc ; khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau, liên đới với nhau và chịu trách nhiệm về nhau, sống trên cùng một hành tinh, dưới mái nhà bầu trời.
Lạy Chúa, thế giới hôm nay còn cần rất nhiều người thiện tâm thiện chí để xây dựng một thế giới huynh đệ hơn. Xin cho có nhiều người trẻ can đảm dấn thân cho một thế giới mới. (Hosanna)
2. Chúa Giêsu không chọn những người tài cao học rộng giàu sang và có địa vị xã hội cao, mà chọn những người có tấm lòng và thiện chí. Hai điều này là đủ, mọi điều khác Chúa sẽ lo.
3. Một tác giả tưởng tượng việc Chúa chọn các tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào. Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện Ngài cũng không chọn được ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất giờ vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường thả bộ ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy một đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hồn vào công việc. Ngài nghĩ thầm họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm tông đồ của Ngài (Chờ đợi Chúa)
4. Chúa cũng chọn Giuđa, cũng ban quyền cho Giuđa và cũng sai Giuđa đi rao giảng Tin Mừng. Nghĩa là Chúa cũng tin tưởng và đặt hy vọng nơi Giuđa. Nhưng Giuđa đã không đáp lại niềm tin tưởng và hy vọng của Chúa.
Chúa cũng tin tưởng và hy vọng nơi con. Xin cho con đừng phụ lòng Chúa.
5. Sứ mạng của người giảng Tin Mừng là đẩy lùi sự xấu (xua đuổi các thần ô uế) và cứu chữa những khổ đau (chữa lành những người bệnh).
Đó cũng là sứ mạng của tôi. Vậy tôi đã làm gì để giảm bớt sự xấu trong môi trường tôi đang làm việc ? Tôi đã làm gì đề cứu chữa các anh em tôi ?
6. 12 tông đồ còn rất non yếu nên Chúa Giêsu không sai họ đến với những đối tượng khó khăn (dân ngoại) mà chỉ đến với những người Israel. Chúa không giao sứ mạng quá sức con người đâu. Cho nên tôi đừng e ngại và sợ hãi gì cả.
7. “Chúa Giêsu gọi 12 môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trước các thần ô uế, để các ông trừ khử chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1)
Vào thời Chúa Giêsu, người ta quan niệm người bị tật nguyền là người tội lỗi vì đã làm điều ô uế. Nhưng theo Chúa Giêsu, những người đó được sinh ra để làm sáng danh Chúa, và chính Ngài đã từng chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Ngài cũng đã cảm hoá được nhiều người tội lỗi trở về với Chúa Cha.
Ngày nay, sự ô uế hiện ở nhiều mặt: dối trá, tham lam, trộm cắp, ăn chơi sa đoạ…. Cánh cửa của sự ô uế vẫn luôn mở và tồn tại song song với cánh cửa Nước Trời. Chính vì thế, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ đặc ân là trừ khử mọi ô uế và chữa lành mọi bệnh tật.
Đặc ân ấy ngày nay không chỉ dành riêng cho 12 tông đồ mà cho mọi tín hữu. Mỗi người kitô hữu phải nhận lấy nhiệm vụ trừ khử ô uế nơi chính mình và giúp anh em thoát khỏi mọi điều ô uế.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho các tông đồ quyền trừ khử mọi ô uế nhằm làm sáng danh Chúa, thì xin Chúa cũng ban cho chúng con thêm sức mạnh để trừ khử ô uế nơi chính mình, sống tốt hơn và yêu mến Chúa luôn. (Hosanna)
Đã có bao giờ bạn nghe nói về một gia đình có sáu linh mục và năm nữ tu chưa ? Đức hồng y Hebert Vaughan, tổng giám mục Westminste, nước Anh, đã xuất thân từ một gia đình như vậy. Gần 20 năm, thân mẫu Ngài quì cầu nguyện trước Thánh Thể một giờ mỗi ngày để xin Chúa cho các con bà trở thành linh mục.
Khi Đức hồng y tương lai ở tuổi 21, Ngài đã mô tả đời sống Chúa của thân mẫu Ngài: “Trong ngày, mẹ tôi thường ở trước Thánh Thể. Trước bữa điểm tâm... mặt người tươi tắn và bình thản... trong những ngày này tôi quá cảm ích về tình yêu nồng hiệt và lòng sùng kính của mẹ tôi đối với bí tích Thánh Thể”.
Và Thiên Chúa đã đáp lại lời cầu xin của người mẹ phi thường này thế nào ? Tất cả năm cô con gái của bà đã trở thành nữ tu – và 6 trong số tám người contrai của bà đã trở thành linh mục. Ba trong sáu linh mục ấy trở thành giám mục, và một trong ba Giám mục ấy được tấn phong hồng y.
Chúng ta phải nhận đây là câu chuyện hiếm có nhưng nó nhắc nhở như Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”.
Câu chuyện đó nhắc nhở như chúng ta thấy ngày nay rất cần nhiều linh mục, và những tôi tớ đặc biệt khác của Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều biết sự cần đến nhiều người được huấn luyện và được truyền chức để mang Thiên Chúa đến cho con người, và con người cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể làm gì để tăng triển số người dâng hiến đời sống cho việc đem Chúa Kitô đến cho thế giới ?
Nhiều phương thế cổ võ ơn kêu gọi mở ra cho chúng ta. Tiếng gọi phụng sự Thiên Chúa vang vọng rõ ràng trong thán phục. Sự can đảm của học sinh mới tới và của Tom Brown đã làm cho những người bạn cùng phòng và cả trường thán phục.
Đó là một mẫu gương mà Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay. Ba lần Chúa bảo các tông đồ, cả bạn và tôi nữa: “Đừng sợ !” Ngài không nói sợ chung chung vậy. Ngài nói về một loại sợ đặc biệt mà người Kitô hữu cảm thấy khi được mời gọi nói hay làm điều gì tỏ ra là người tin theo Chúa Kitô.
Chúng ta thường do dự nói những lời giống Chúa Kitô, làm như Chúa Kitô, vì chúng ta sợ người khác chê cười châm chọc, sợ bị gọi là người lên mặt đạo đức, hay một vị thánh, sợ bị ngược đãi như chiếc giày liệng vào đầu.
Chúa Giêsu đã không nói là không có lý do sợ hãi. Ngài biết rõ một số người chế nhạo những kẻ theo Ngài, có nguy hiểm mất bạn bè, mất việc làm, mất thăng chức, có hàng triệu người theo Ngài đành chịu chết còn hơn là chối bỏ niềm tin vào Ngài.
Có những lúc chúng ta có thể tỏ ra mình là người tin theo Chúa Kitô. Như Tom Brown, chúng ta có thể sợ đọc kinh cầu nguyện, sợ bị vỡ dầu hay sợ làm dấu thánh giá khi đi ngang qua nhà thờ, sợ đổi đề tài khi có người kể những chuyện tầm phào, thô tục, sợ từ chối đồ uống say sưa. Khi bạn bè đưa ra những khêu gợi ô uế, bạn có sợ mất tình bằng hữu vì phải khước từ không ? Khi Giáo hội Chúa Kitô bị tra tấn một cách bất công, khi Giáo hội của Chúa Kitô bị nhạo cười ở lớp học, trong văn phòng, nơi công xưởng, bạn nhớ “Đừng sợ”, nhưng bênh vực đức tin không ? Bạn có thể nghĩ đến nhiều hoàn cảnh khác trong đời sống mà bạn cần phải nhớ lời Chúa Kitô: “Đừng sợ”.
Bạn hãy xem xét điều này cho xác thực. Chúa Kitô hứa với chúng ta hôm nay: “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời”. Hay nói cách khác: bạn chối Chúa Kitô thì Ngài cũng chối bạn.
Sư hiện diện của bạn trong thánh lễ này là bằng chứng bạn không sợ công khai tuyên xưng Chúa Kitô. Ước mong thánh lễ này ban cho chúng ta sức mạnh tuyên xưng Chúa Kitô luôn mãi.
Sau khi đi rao giảng Tin mừng khắp các thành thị, làng mạc, hội đường và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền, Đức Giêsu đã chứng kiến tận mắt cảnh dân chúng lầm than, vất vưởng như bầy chiên không người chăn.
Thời Chúa Giêsu, dân Do thái sống trong cảnh không có lãnh đạo chân chính về tôn giáo cũng như về chính quyền. Chính quyền thuộc về đế quốc Rôma cai trị. Họ vô cùng đau đớn và nhục nhã phải thờ hai chủ: Chủ đế quốc và tay sai của đế quốc là bè phái Hêrôđê và Sađốc.
Phái Hêrôđê gồm tất cả con cháu, họ hàng vua Hêrôđê đại đế (37-11 av. Jc) người xứ Dumê phía nam Do thái.
Sađốc thuộc dòng dõi thượng tế Sađốc từ thời vua Salômon truyền lại. Họ là hàng quý tộc, thượng tế với tư tế. Họ độc quyền thu hoa lợi của Đền thờ Giêrusalem và liên kết với đế quốc để thống trị, bóc lột dân. Tuy họ giữ luật Môisê (Torah) nhưng lại sống phóng khoáng giao du với dân ngoại, nhiễm tinh thần văn hoá thần tượng Hy Lạp và Rôma.
Trái lại, biệt phái (Pharisiêu) hoàn toàn biệt lập, bài ngoại và bài đế quốc. Họ giữ luật cổ truyền, nhất là những tập tục của tiền nhân.
Họ coi tập tục tiền nhân hơn luật Môisen. Họ cắt nghĩa luật truyền khẩu rất tỉ mỉ và bắt dân giữ rất khắt khe. Họ tự coi mình là những tiến sĩ luật, những ký lục bảo tồn lề luật của tiền nhân. Họ cho đó là cách bảo vệ tôn giáo và đất nước tốt nhất. Thực sự họ đã chồng chất lên dân chúng những gánh nặng gông cùm dưới danh nghĩa tôn giáo. Họ đã biến tôn giáo thành thứ quốc giáo cuồng tín, hẹp hòi, kích động lòng ái quốc mù quáng.
Sống giữa cảnh lãnh đạo mù quáng và mâu thuẫn, chống đối, thù hận nhau của phái Sađốc và biệt phái. Dân chúng thật bơ vơ, lạc hướng. Có lần Chúa Giêsu đã cảnh cáo họ: “mù dắt mù xuống hố”, “các ông thật lầm lạc”.
Dân ngoại và dân Samari không bị những hệ phái tôn giáo xâu xé tinh thần như dân Israel, có lẽ đây là lý do chính cho ta hiểu tại sao Đức Giêsu dậy các tông đồ đi đến nhà Israel. Phải cứu Israel trước, vì họ cực khổ hơn các dân khác, cũng như phải cứu chữa những con chiên lạc, những người Israel đau yếu, tật nguyền, quỷ ám trước những người Israel khác.
Để thực hiện chương trình cứu chiên lạc, Đức Giêsu căn dặn các tông đồ ít nhất là hai điều cần thiết: thứ nhất là phải biết chạnh lòng thương những người lầm than. Thầy chạnh lòng thương họ thế nào, môn đệ cũng phải thương họ như vậy.
Thương dân không được đàn áp bóc lột như phái Hêrôđê. Họ dùng quyền sai lính bắt dân làm đầy tớ cho họ sống vinh thân phì gia: “một người làm quan cả họ được nhờ”. Đáng lý ra, ở địa vị chính quyền, họ phải lo sống chân chính chăm lo hướng dẫn, giúp dân sống sung túc văn minh tiến bộ mọi mặt tích cực. Người xưa như Aristote và Khổng tử đã khuyên chính quyền phải là người hiền đức biết mưu hạnh phúc tốt nhất cho nhân dân: “quý dân như con đỏ”, tôn trọng dân hơn việc làng xã “dân vi quý, xã tắc thứ chi”. Cụ thể hơn, sách Xuất Hành đã nêu gương Môisê là người lãnh đạo dân phục vụ dân hết lòng, hết cuộc đời như Thiên Chúa muốn: “Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai cập thế nào và đã mang các ngươi như trên cánh phượng hoàng mà đem đến với Ta. Ta coi các ngươi như tư tế, như dân thánh” (Bài I).
Thương dân, tránh thái độ thờ ơ lãnh đạm của phái Sađốc. Họ chỉ lo bảo vệ địa vị, quyền lợi họ, họ tìm lợi lộc cá nhân đến nỗi họ “biến nhà Cha Ta thành chợ búa, thành hang trộm cướp”, Dân nghèo đói, khổ sở, sống chết mặc bay. Thương dân, môn đệ phải theo gương Thầy lăn lộn với dân chúng nghèo khổ bệnh tật, nhất là những chiên lạc bị quỷ dữ hãm hại trong sự ác tội lỗi, đem Tin mừng nước Trời đến cứu chữa họ.
Thương dân, không chất trên vai dân những gánh nặng tập tục của loài người như những Biệt Phái giả hình bên ngoài. Nhưng môn đệ sẵn sàng vác gánh nặng, để gánh nặng của người dân trở nên êm ái và nhẹ nhàng, nhất là những gánh nặng tội lỗi. Ước chi môn đệ thí mạng sống chết vì dân, chết thay cho kẻ tội lỗi để chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương họ, Thiên Chúa giao hảo với họ, cứu sống họ muôn đời (Bài II – Rm. 5, 6-11).
Cách đây khoảng 100 năm, Giáo Hội Truyền Giáo Lyon nước Pháp sai một lớp đầu tiên gồm 10 linh mục đi sang Dohomey, Phi Châu để làm việc truyền giáo. Ba năm sau, cả 10 người đều bị giết chết. Thế nhưng, dù rừng sâu, nước độc, dù dân chúng lạc hậu, có nhiều ác cảm, hàng hàng lớp lớp các nhà truyền giáo vẫn hăng hái ra đi. Người này ngã xuống, người khác đứng lên. Đến nay sau hơn một thế kỷ, những giọt máu pha lẫn mồ hôi của các ngài đã đâm bông kết trái: Giáo Hội Dohomey đã vươn lên mạnh mẽ, lại hân hạnh có được vị Hồng Y bản xứ tiên khởi là Bernard Gantin.
Câu chuyện trên diễn tả lại cảnh Chúa Giêsu triệu tập mười hai môn đệ và sai họ đi rao giảng Tin Mừng cho muôn người. Các môn đệ đã trải qua những cuộc tập luyện thấm mồ hôi để có một cái nhìn hướng về tương lai. Các môn đệ đã bị nhiều thử thách, đã bị nhiều người đánh giá thấp kém khi họ ra đi rao giảng Tin Mừng. Hầu hết các ngài đã bị đẫ máu đào và kết quả là hạt cải nhỏ bé đã trở nên một cây lớn lao cho chim trời đến đậu mà chúng ta gọi là Đạo Kitô Giáo. Cây cải nhỏ bé đã xum xuê cành lá, đã vươn dài trên khắp thế giới và đã làm cho nhiều tâm hồn được ơn trở lại.
Chúng ta có thái độ nào trong việc xây dựng Giáo Hội ? Mỗi người chúng ta có thể làm một điều gì để đến với mùa gặt? Tại sao ngày nay có ít thợ gặt hơn trước đây ?
Chúng ta có thể nêu lên ba lý do sau đây:
Thứ nhất: vì chúng ta không thực hành điều Chúa truyền dạy "Hãy cầu xin chủ ruộng sai thợ đến". Điều cần thi hành trước nhất là lời cầu nguyện cho việc truyền giáo, cầu nguyện để Chúa thôi thúc các bạn trẻ đáp lại tiếng Chúa mời gọi ra đi làm Linh Mục Tu Sĩ, xung phong vào công cuộc truyền giáo. Lại nữa, mỗi gia đình chúng ta cần làm gương sáng, sống đạo hoàn hảo để nên gương cho nhiều người xung quang. Cần giúp đỡ tài chánh cho Giáo Hội bằng bất cứ cách nào để đáp ứng nhu cầu của việc truyền giáo. Lý do thứ hai khiến ngày nay có ít thợ dấn thân vào mùa gặt hơn trước kia là vì gia điình không còn la vườn ương ơn gọi, cha mẹ ít khuyến khích, ít trình bày, ít khuyên răn con em mình lựa chọn đời sống tu trì, đời sống hiến thân phục vụ cho Giáo Hội. Cuối cùng, ly do liên quan đến cá nhân mỗi người chúng ta: Nếu bạn là thanh niên nam nữ, có bao giờ bạn mở lòng cho Chúa gõ cửa lòng bạn trong mỗi dịp tĩnh tâm ? Hay lại đóng cửa lòng theo tiếng gọi của đời ? Nếu chúng ta là người lớn tuổi, có bao giờ nghiêm chỉnh tự vấn xem mình có thể làm gì để "dấn thân vào mùa gặt" không ? Có bao giờ nghĩ đến việc gì trực tiếp dân thân giúp cho chủ ruộng trong vấn đề gặt lúc không ?
Điều mà các gia đình có thể thực hiện hôm nay là thêm một lời cầu nguyện cho ơn gọi vào giờ kinh gia đình. Gia tăng việc làm gương sáng sống đạo cho người trong gia đình. Khuyên nhắc con cái cầu nguyện xin Chúa ban ơn kêu gọi và sốt sáng dâng cúng, khuyên góp cho việc truyền giáo...(2002).
Chúa Giêsu mở đầu cuộc sai đi truyền giáo bằng những lời mang tính chất tự nhiên, nên thơ, dễ hiểu và rất thực tế:
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa". (Mt. 9,37-38)
Lời Chúa hôm nay có chiều kích rộng rãi cả về thời gian lẫn không gian. Từ cổ chí kim ở khắp mọi nơi trên thế giới, tất cả những ai sử dụng được trí khôn đầy đủ đều nhận biết được Thiên Chúa. Định luật sơ đẳng đời sống của mọi người là nhận có "Ông Trời". Đó là ơn quan phòng Chúa chẳng để ai thiếu. Từ nhận thức đơn giản ấy con người còn khao khát tìm tòi, suy nghĩ, lắng nghe, đón nhận thêm những hiểu biết về Thiên Chúa. Chứng nghiệm cụ thể khi Chúa Giêsu đi rao giảng qua các làng mạc, thành thị, tới đâu Ngài cũng thấy dân chúng ở vào trường hợp đáng thương. Họ như bầy chiên vô chủ, họ theo Chúa vào tận nơi hoang địa, mải miết nghe lời Chúa đến quên ăn; và tới bữa cơm Chúa phải làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ dùng bữa, vì họ chẳng có gì để cầm thực.
Chắc hẳn nhiều người còn nhớ câu chuyện ở Kaisaria trong sách công vụ các tông đồ: Có một người tên là Cornêliô, làm đại đội trưởng trong cơ binh Italia, ông là người đạo đức và kính sợ Thiên Chúa. Ông cùng cả gia đình luôn cầu nguyện và rộng tay làm phúc bố thí cho dân. Nhờ đó Thiên Chúa đã dủ lòng thương, sai thiên sứ nói với ông đi mời Thánh Phêrô đến tận nhà để ông được nghe giảng dạy đạo Chúa và chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô.
Thời gian vẫn trôi theo dòng lịch sử cứu độ, đồng lúa bát ngát của Thiên Chúa làm xúc động các tâm hồn nhưng nhiều người chỉ biết thương cảm trong lòng, vì họ khiêm tốn nghĩ rằng việc gặt hái những bông lúa cho Giáo Hội là việc của hàng linh mục, tu sĩ. Thực ra ơn gọi tông đồ gắn liền với ơn gọi Kitô hữu. Trong nhiệm thể Chúa Kitô, mỗi chi thể đều có công dụng riêng từng phần khiến cho thân thể được tiến triển. Tùy theo cách thức khác nhau mà Kitô hữu có thể thực hiện việc tông đồ một cách hữu hiệu, tất cả hệ tại ở sự thánh thiện nội tâm, vì linh đạo của Giáo Hội là con đường dẫn đến sự thánh thiện. Một việc bác ái dù chỉ nhỏ mọn, một nụ cười thân ái, một lời an ủi, một thái độ cởi mở vui vẻ hay một trái tim hiền dịu như "ma sơ" quả là phúc lợi biết bao! Những việc ấy đều có sức lôi cuốn người ta nhận biết Đức Kitô. Nhất là: "Nếu các con thương yêu nhau, thiên hạ cứ dấu ấy mà nhận biết các con là môn đệ thầy" (Jn. 13,35). Còn các linh mục không phải lúc nào cũng có dịp thuận tiện gần gũi mọi người và linh mục lại càng khó khăn đi lại hơn nữa trong những miền xa xôi hẻo lánh, những miền mà tự do của Giáo Hội bị cản trở trầm trọng. Trong khi đó giáo dân luôn gần kề với mọi tầng lớp trên thế giới qua những tương quan xã hội: Học đường, nghề nghiệp, đồng hương, giao tế v.v. Nhiều đoàn thể tông đồ với sự hỗ trợ dìu dắt của các linh mục tu sĩ, công việc hoạt động đó lại càng thêm phong phú hữu hiệu:
-Các hội từ thiện đã đề cao lòng thương xót đối với người bệnh tật, nghèo đói. Họ tìm đến những người thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mặc, thiếu nhà ở, thiếu thuốc men, thiếu việc làm, thiếu những phương tiện cần thiết để sống xứng đáng thân phận con người. Họ tìm đến những người đau khổ, bị lưu đày, ngục tù. Ở đó đức bác ái Kitô giáo đã được thực hiện bằng việc ân cần, săn sóc, ủi an với tấm lòng yêu thương chân thành.
-Các nhóm giáo lý viên đã vào cả những nơi hang cùng ngõ hẻm để ủy lạo tinh thần cho những người sầu muộn. Họ tranh đấu ác liệt với tà thần để giành giật các linh hồn trong giờ phút nguy tử. Họ vào các nhà thương cứu sống hoặc rửa tội cho những thai nhi bị phá cách oan uổng. Họ đem chân lý Phúc Âm đến mọi nơi mà không hề phân biệt chủng tộc, giai cấp, giầu nghèo; thậm chí những nơi liều mình có thể mất cả mạng sống để đáp ứng nguyện vọng của Giáo Hội, theo lời truyền của Chúa là Phúc Âm phải được rao giảng khắp mọi nơi trên thế giới.
Thế rồi việc cầu nguyện là rất cần thiết cho việc truyền giáo. Lời cầu nguyện sốt sắng liên lỉ vọng lên từ trong các dòng tu, đặc biệt các dòng tu chiêm niệm; lời cầu nguyện hằng ngày tại các nơi cung thánh trên toàn thế giới của Giáo Hội. Nhất là lời cầu nguyện phải được phát xuất từ con tim yêu mến ôm ấp mọi người nơi tâm hồn của các nhà truyền giáo. Đặc biệt trong những tình huống khó khăn cam go của việc chinh phục các linh hồn; có những lúc con người mệt mã, nản chí, sờn lòng...Khi ấy nhờ cầu nguyện Thiên Chúa lại ra tay uy hùng cách rõ rệt để trợ giúp cho sự mỏng dòn yếu đuối của con người. Chính Chúa Giêsu vẫn thường vào nơi thanh vắng để cầu nguyện cho thế giới, cho các tông đồ, cho Hội Thánh.
Lời kêu mời của Chúa trong tin mừng hôm nay đã được Giáo Hội hưởng ứng mạnh mẽ. Trải qua nhiều thế hệ, các nhà truyền giáo đã đi rao giảng khắp năm châu. Nhiều vị tông đồ đã hy sinh cả mạng sống vì sứ vụ của mình. Và các tín hữu trong muôn ngàn cách đã cùng cộng tác đắc lực vào việc tông đồ. Gương Đức Mẹ lại càng ngân vang muôn thủa.Sau khi Mẹ nhận được Chúa Giêsu trong lòng, Mẹ đã đem Chúa đến cho chị họ Isave. Mẹ xin Chúa làm phép lạ cho nước hóa thành rượu để củng cố lòng tin của các tông đồ. Mẹ đã lên đồi Canvê để cùng Đồng Công với Chúa cứu rỗi nhân loại. Như bà mẹ đỡ đầu Đức Mẹ đã chuẩn bị cho các tông đồ lãnh phép rửa bởi Chúa Thánh Thần trong ngày hiện xuống v.v. Mẹ đã là tông đồ của các tông đồ.
Trong khi làm việc mục vụ thăm các gia đình Việt Nam, tôi có dịp gặp một số cụ bà Việt Nam sống rất quảng đại đối với người nghèo. Các cụ không có nhiều tiền lắm của nhưng tấm lòng thì luôn mở rộng. Các cụ giúp đỡ người nghèo, người phong cùi, hoặc nâng đỡ các chủng sinh tiến tới chức linh mục với những đồng tiền khiêm tốn. Một cụ chia sẽ rất chân thành và cảm động: "Tất cả con có là của Chúa ban. Chúa cho con nhiều thì con chia sẽ lại cho những người kém may mắn hơn con."
Các bà cụ Việt Nam đã sống và thực hiện lời Chúa trong bài Phúc Âm Matthêu hôm nay: "Các con lãnh nhận nhưng không thì hãy trao ban nhưng không."
Những lời nói trên được Chúa Giêsu nói đến khi Người sai mười hai tông đồ đi rao giảng. Trước khi đi rao giảng, Chúa Giêsu ban cho các môn đệ quyền trừ quỉ, chữa bệnh nhân và ngay cả làm cho người chết sống lại. Tuy nhiên những ơn mà Chúa ban cho các tông đồ không phải chỉ giữ riêng cho cá nhân hay tìm lợi ích riêng cho họ. Mục đích chính của các ơn này là phải mang lại lợi ích cho người khác.
Chúng ta cũng vậy. Tất cả những khả năng chúng ta có đuợc là do Thiên Chúa ban, nhưng không chỉ giữ riêng cho chúng ta. Chúng ta có thể trau dồi, mài dũa làm cho các khả năng mà chúng ta đang có trở nên tốt và hoàn hảo hơn, nhưng nguồn gốc của nó vẫn là do Thiên Chúa ban nhưng không cho chúng ta. Thánh Phaolô đã khẳng định rằng tất cả những gì các con có mà không phải bởi Chúa đâu. Chúng ta chỉ là những người được uỷ thác cai quản, trông nom và làm sinh hoa lợi chúng. Giống như các tông đồ trong bài Phúc âm hôm nay hay các cụ trong câu chuyện ở trên, chúng ta có nhiệm vụ dùng những khả năng mà chúng ta đang có để mưu cầu ích lợi và hạnh phúc cho tha nhân.
Nếu chúng ta chỉ giữ lại những khả năng chúng ta đang có cho riêng chúng ta thôi thì những khả năng đó sẽ không bao giờ hoàn thành đầy đủ mục đích của nó. Nhưng nếu chúng ta biết đem những khả năng chia sẻ với người khác thì nó sẽ được hoàn thành trọn vẹn ý nghĩa của nó. Giống như cái ghế chưa đạt được mục đích của nó nếu nó không được sử dụng.
Chúng ta có thể không có nhiều tiền lắm của để làm những việc đại sự. Chúng ta không có khả năng siêu việt như làm phép lạ chữa bệnh, trừ quỉ, hay cho người chết sống lại như các tông đồ khi Chúa Giêsu sai họ đi rao giảng. Nhưng chúng ta có những khả năng nhỏ nhoi mà có thể mưu cầu lợi ích và hạnh phúc cho người khác.
Bạn có khả năng trao ban nụ cười cho người khác chứ? Mẹ Têrêsa Calcutta, Đấng Sáng Lập Dòng Nữ Tử Bác Ái chuyên phục vụ người nghèo khó, khi còn sống đã cho chúng ta một lời khuyên, một triết lý sống đơn sơ: "Hãy trao cho nhau nụ cười. Chồng hãy trao cho vợ nụ cười, vợ hãy trao cho chồng nụ cười; cha mẹ hãy trao cho con cái nụ cười. Chúng ta hãy trao cho nhau nụ cười. Nụ cười sẽ giúp chúng ta lớn lên trong tình yêu thương với mọi người... Hãy bày tỏ sống động sự quan tâm, thân ái của Thiên Chúa nơi bạn - sự thân ái, quan tâm trên khuôn mặt bạn, trong đôi mắt bạn, trên nụ cười tươi, trong sự chào đón nồng ấm và cởi mở của bạn tới tha nhân."
Nhiều người Mỹ nhận định rằng người trẻ Việt Nam có nhiều khả năng lắm. Thật thế, nhìn chung vào các cộng đoàn, giáo xứ Việt Nam nhiều người trẻ có nhiều khả năng lắm; họ đã hy sinh thời giờ, đem các khả năng mình đang có đóng góp, dấn thân trong cộng đoàn, giáo xứ trong các lãnh vực như tham gia ca đoàn, phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể, thăm viếng những người già cô đơn tại các hưu dưỡng, tổ chức gây quĩ giúp người nghèo, trẻ em nghèo tại Việt Nam và các hoạt động khác... Rất cảm phục và hoan hô. Bạn thân mến, ai trong chúng ta chắc chắn đều có những khả năng nào đó. Tuy nhiên, chúng ta có muốn trao ban, chia sẽ nhưng không những cái mà chúng ta đang có hay không mới là điều quan trọng.
1. Tình trạng "họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt" chỉ có vào thời Đức Giê-su, hay vẫn còn tồn tại đến ngày nay? Bạn có cảm thấy mình có trách nhiệm khi tình trạng này đang tồn tại trong xã hội và Giáo Hội không?
2. Những người được Đức Giê-su chọn làm môn đệ có gì đặc sắc, xuất chúng không? Tại sao họ lại làm nên lịch sử như thế?
3. Trước tình trạng thiếu "thợ gặt", bạn có nghe thấy lời mời gọi của Đức Giê-su ngỏ với chính bạn không? Bạn có đáp lại không?
Suy tư gợi ý:
1. "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít"
Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay là câu: "Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt". Ta ngạc nhiên tự hỏi: Tại sao thế? Đạo Do Thái đã đào tạo nên biết bao tư tế, kinh sư, luật sĩ, Pha-ri-siêu, họ là những người lãnh đạo tinh thần, lãnh đạo tôn giáo. Sao lại có tình trạng "họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt"? Như thế thì các tư tế, kinh sư, luật sĩ, Pha-ri-siêu có mặt trong xã hội Do Thái để làm gì? Đức Giê-su nói như thế có động chạm gì đến họ không?
Nói xưa lại nghĩ đến nay, liệu ngày nay, sau khi Đức Giê-su xuống thế 20 thế kỷ, tình trạng ấy có còn hay không, khi mà trong Giáo Hội có biết bao nhiêu là linh mục, giám mục, tu sĩ? Liệu tình trạng thừa kinh sư, thừa luật sĩ, nhưng vẫn thiếu những người chăn dắt có còn không? Nghĩa là có tình trạng thừa linh mục, thừa giám mục, thừa tu sĩ, nhưng vẫn thiếu tông đồ, thiếu ngôn sứ, thiếu mục tử, thiếu người thật sự lo cho dân chúng chăng? Đây là câu hỏi mà mỗi người Ki-tô hữu từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân nên tự suy nghĩ và trả lời trước mặt Chúa. Nếu quả thật có tình trạng ấy, thì ngay cả người giáo dân nhỏ bé nhất trong Giáo Hội cũng có trách nhiệm. Tương tự như câu "quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách"!
Thiết tưởng chúng ta cần phải xin Thiên Chúa sai đến trong xã hội những tông đồ, mục tử hay ngôn sứ đích thực, biết thật sự yêu thương dân chúng, quan tâm và sẵn sàng hy sinh lo cho đời sống tâm linh cũng như thể chất của họ, dám nói sự thật để bênh vực họ là những kẻ bị đàn áp và thiệt thòi nhất trong xã hội, nghĩa là biết sẵn sàng "hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11). Chứ không chỉ xin Chúa ban cho Giáo Hội những linh mục hay giám mục chỉ biết làm các bí tích và giảng! hay các tu sĩ chỉ biết học hành, nghiên cứu, cầu nguyện trong nhà dòng! Có lẽ cần phân biệt hai loại phạm trù, vì tông đồ và mục tử không nhất thiết cứ phải là linh mục hay giám mục, và linh mục hay giám mục không hẳn lúc nào cũng là những tông đồ hay mục tử! Thiết tưởng, Giáo Hội, cụ thể là các chủng viện, cần ý thức sứ mạng của mình là đào tạo nên những tông đồ, những mục tử, những ngôn sứ đích thực, hơn là chỉ tạo nên những con người… hành nghề linh mục, chỉ biết quan tâm làm một số công việc cố định nào có thù lao hay quyền lợi mà thôi!
Sự thường và theo lý thì các linh mục, các giám mục cũng là những tông đồ, mục tử hay ngôn sứ, và mọi người đều rất có lý khi hiểu như thế. Nhưng dẫu sao cũng phải đau lòng mà công nhận rằng trong Giáo Hội vẫn có những linh mục hay giám mục không phải là tông đồ, chẳng phải mục tử hay ngôn sứ như thiên chức đã lãnh nhận đòi buộc. Đương nhiên trong các tôn giáo khác cũng có tình trạng tương tự như thế. Tình trạng ấy dường như luôn luôn xảy ra ở mọi nơi, mọi thời!
2. Cách chọn môn đệ của Đức Giê-su
Để đáp ứng tình trạng thiếu "thợ gặt", Đức Giê-su đã mời gọi nhiều người làm tông đồ, làm mục tử, ngôn sứ và trực tiếp đào tạo họ. Nhưng cách lựa chọn của Ngài không giống như cách của loài người. Đức Giê-su là một ông đạo, một đạo sư hoàn toàn không trường lớp, không được đào tạo về tôn giáo, về Kinh Thánh hay Lề Luật theo kiểu loài người như các thầy tư tế, luật sĩ và người Pha-ri-siêu. Do đó Ngài không có một bằng cấp gì về tôn giáo cả (x. Ga 7,15). Và các môn đệ Ngài chọn đều là những người ít học (x. Cv 4,13), đa số làm nghề đánh bắt cá, một nghề không cần trình độ văn hóa. Ngài cũng không chọn và mời gọi một ai trong số các tư tế, luật sĩ và người Pha-ri-siêu - là những người có bằng cấp về tôn giáo - làm môn đệ Ngài cả. Theo cách nghĩ của trần thế, xem ra Ngài chẳng khôn ngoan tí nào, vì những người không trình độ như thế thì làm nên trò trống gì?!
Đó là xét về khả năng. Còn về luân lý đạo đức thì mấy tông đồ cũng chẳng có gì đặc biệt. Cứ nghe mấy ông tranh nhau về việc ngồi bên hữu bên tả Đức Giê-su khi Ngài làm vua (Mt 20,21-23; Mc 10,37-40), hay thấy mấy ông trốn chạy hết khi ngài bị bắt (Mt 26,56b; Mc 14,50), thậm chí Phê-rô sẵn sàng chối Thầy những ba lần trước một phụ nữ yếu đuối (Mt 26,69-75), v.v… ta thấy về mặt nghĩa khí các ông còn thua xa những người như Trần hưng Đạo, Lê Lai, Bùi thị Xuân, v.v… Khó hiểu nhất nhất là trường hợp chọn Mát-thêu, một người thu thuế mà nói chung bị xã hội khinh bỉ, mặc dù có thể ông rất giàu có.
Trái với suy nghĩ của con người, những môn đệ có vẻ tầm thường, mà cũng có thể thật sự tầm thường này đã làm thay đổi thế giới, các ông đã làm được những việc hết sức vĩ đại. Cách Thiên Chúa làm quả thật rất khác với cách của con người! Còn những kẻ có vẻ đầy khả năng, có vẻ đạo cao đức cả như những tư tế, luật sĩ, Pha-ri-siêu kia thì nhiều lắm là làm được một số những việc cao hơn bình thường một chút, đôi khi cũng lạ thường, nhưng chẳng thể so sánh được với các tông đồ. Điều này khiến chúng ta phải thay đổi cách quan niệm của mình về cách nhìn người hay dùng người, nhất là cách Chúa dùng chính chúng ta trong công việc của Ngài.
3. Vì sao những người tầm thường ấy lại trở nên vĩ đại?
Thiên Chúa rất cần và cần rất nhiều người cộng tác với Ngài để cứu độ và phục vụ thế giới, để biến đổi và đem hạnh phúc đến cho thế giới. Công việc của Ngài thật vĩ đại. Ngài có thể mời gọi bất kỳ ai Ngài muốn, theo sự tự do của Ngài, để cộng tác với Ngài trong công việc vĩ đại này. Ngài có thể mời gọi những người rất tài giỏi, đạo cao đức cả, mà cũng có thể mời gọi những người rất tầm thường cả về tài năng lẫn đạo đức. Và không nhất thiết ai sẽ làm được việc hơn ai!
Để làm được việc cho Ngài, điều quan trọng không phải là tài năng hay đạo đức cá nhân của ta. Mà trước hết là thái độ nhanh nhẹn và quảng đại đáp lại lời mời gọi của Ngài. Kế đó là tinh thần tự hủy, khiêm tốn, ngoan ngùy của ta trong tay Ngài, để Ngài tự do biến đổi và sử dụng ta như một dụng cụ hoàn toàn theo ý Ngài. Các tông đồ của Đức Giê-su ai cũng nhanh nhẹn đáp lại lời mời gọi của Ngài, không so đo tính toán (x. Mt 4,20.23; 9,9; Ga 1,43-51). Các ông sẵn sàng bỏ cả công ăn việc làm, bỏ cả cha mẹ, vợ con, anh em, bỏ mọi sự (x. Mt 19,27; Mc 10,28) đi theo Đức Giê-su sống bụi đời, bữa đói bữa no, vất vả, nay đây mai đó khắp đất nước Do Thái, để nghe Ngài nói, để được Ngài dạy dỗ, huấn luyện.
Về tài năng, đức độ, rất có thể các ông kém chúng ta, nhưng về sự quảng đại và nhanh nhẹn đáp lại lời mời gọi của Đức Giê-su, về niềm tin vào Ngài ngay từ khi mới gặp Ngài đến hết cuộc đời, thì các ông đáng là gương mẫu cho chúng ta. Chính nhờ sự quảng đại, niềm tin, sự trung thành và phó thác đó, các ông đã lãnh nhận được Thần Khí của Đức Giê-su, nhất là khi Thánh Thần hiện xuống trên các ông sau khi Đức Giê-su về trời. Nhờ hoàn toàn để mặc Thánh Thần tự do biến đổi theo ý Ngài, các ông đã trở nên những con người phi thường, có tài năng và tình yêu hơn những người mà trước đó đã từng hơn các ông vượt bậc. Vậy, điều quan trọng để trở nên tông đồ, mục tử hay ngôn sứ đích thực của Thiên Chúa không phải là tài năng hay đức độ cho bằng sự quên mình, hủy mình, để mặc Thánh Thần Ngài tự do biến đổi ta. Cha sở họ Ars - thánh Gio-an Vi-an-ney - là một bằng chứng hùng hồn cho điều này.
Ý thức được tình trạng thiếu thốn tông đồ, mục tử hay ngôn sứ đích thực trong Giáo Hội và thế giới, chắc chắn chúng ta sẽ nghe thấy lời mời gọi của Đức Giê-su. Cho dù ta là giáo dân, giáo sĩ hay tu sĩ, Ngài cũng vẫn mời ta trở nên những tông đồ, những mục tử hay ngôn sứ để làm việc cho Ngài ngay trong môi trường chúng ta đang sống. Đừng bao giờ nghĩ rằng là giáo dân thì không thể làm tông đồ, mục tử hay ngôn sứ được! Chính Đức Giê-su, Mẹ Ma-ri-a, các tông đồ, các ngôn sứ xưa có mấy ai ở trong hàng ngũ tư tế hay tu sĩ Do Thái đâu! Nhưng chính các Ngài mới là những tông đồ, mục tử hay ngôn sứ tuyệt hảo nhất! Các Ngài có cần phải vào chủng viện hay đi tu, chịu chức linh mục hay giám mục rồi mới có thể trở nên như thế đâu?
Trước tình trạng thiếu "thợ gặt" hiện nay, Đức Giê-su đang mời gọi chính bạn đấy! Bạn có đáp lại lời mời gọi ấy như các tông đồ xưa không?
CẦU NGUYỆN
Có lần tôi nghe Đức Giê-su nói với tôi: "Tại sao anh lại nghĩ một giáo dân như anh thì không thể làm tông đồ, mục tử hay ngôn sứ? Anh vẫn có thể trở nên như thế, một cách vô danh nhưng đích thực, mà không cần phải làm linh mục hay tu sĩ gì cả. Chắc gì khi anh là linh mục hay tu sĩ thì anh sẽ là tông đồ, mục tử hay ngôn sứ đích thật?! Thầy mời gọi anh đấy! Miễn là anh cứ để Thầy biến đổi anh theo ý Thầy, đừng xen ý riêng của anh vào thì mọi sự đều tốt đẹp".
Chúa Giêsu đã về trời từ hơn 2000 năm nay, nhưng mệnh lệnh truyền giáo của Người hãy còn rất cấp bách. Theo thông kê trong cuốn Niên Giám 1999 của Toà Thánh, được đệ trình lên Đức Thánh Cha ngày 20.2.1999, tổng số người Công giáo trên thế giới tính đến ngày 31.12.1997, là 1 tỉ rưỡi người. Tuy nhiên, con số xem ra đông đảo ấy chỉ chiếm 17,3% dân số hoàn cầu. Các lục địa có số người Công giáo đông nhất là Mỹ Châu (62,9%), rồi đến Âu Châu (41,1%) và Úc Châu (27,5%). Riêng Phi Châu chỉ có 14,9% và Á Châu: 3%! (Theo CGDT số 1197)
Tại Việt Nam, theo con số thống kê của các giáo phận vào năm 1995, trên toàn quốc có 4,646,575 người Công giáo số với tổng số dân của cả nước hơn 70 triệu người, tức chỉ chiếm dưới 7%. (Theo cuốn Công Giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm: 1945-1995, do CGDT xuất bản năm 1996, trang 509). Như vậy, nếu không tính con số anh chị em Tin Lành trong nước, thì cứ 100 người sống trên mảnh đất Việt Nam, có tới 93 người chưa tin Chúa! Một tỉ lệ khiến chúng ta phải suy nghĩ!
Câu chuyện “Xóm Chùa”
Cộng đoàn nhỏ bé gồm 3 người của Thầy Sáu Sơn vừa mua một căn nhà ở Xóm Chùa. Người dân trong khu vực gọi tên xóm ấy như thế vì xóm ở gần một ngôi Chùa; vả lại hầu hết bà con trong xóm đều là Phật giáo. Đến sống ở Xóm Chùa, Thầy Sơn học biết thêm nhiều điều về những người láng giềng “bên lương” của Thầy.
Điều làm Thầy Sơn ngại ngùng nhất khi mới tiếp xúc với bà con trong xóm, là sự kính trọng đôi lúc thái quá mà họ dành cho Thầy. Về sau Thầy hiểu ra rằng truyền thống Á Đông ta vốn trọng khổ hạnh và thoát tục, vì vậy cũng dễ hiểu tại sao bà con kính trọng các bậc tu hành, dù các vị thuộc tôn giáo nào. Cũng qua việc chung sống với bà con, Thầy nhận ra họ là những người hiền hoà, trọng nhân nghĩa. Qui tắc luân lý của họ là phải ăn ngay ở lành, phải có lòng NHÂN và tôn trọng sự sống, không chỉ nơi con người mà còn cả nơi các thụ tạo khác: “Thiên địa đại đức viết sinh” - nhân đức cao cả nhất trong trời đất là sự sống.
Với một lương tâm bình an, thanh thản khi sống theo triết lý hoà hợp đó, những người láng giềng của Thầy Sơn dường như không cảm thấy cần thiết phải đi tầm đạo ở đâu khác. Họ cũng chẳng bận tâm tìm hiểu xem đạo giáo của Thầy có gì đặc sắc, mặc dầu họ vẫn một mực kính trọng Thầy và thỉnh thoảng còn mang xôi chè biếu Thầy vào những dịp rằm lớn.
Thánh đố
Câu chuyện Xóm Chùa trên đây phản ánh một thách đố chung cho công cuộc truyền giảng Tin Mừng ở Á Châu, một lục địa đã ăn sâu cắm chặt vào những truyền thống nhân bản và tâm linh tự ngàn đời của nó, đến độ sau 4 thế kỷ chinh phục, Kitô giáo chỉ chinh chiếm lĩnh được tâm hồn của 3% dân số châu lục này. Trong những năm gần đây, hầu chuẩn bị cho Giáo Hội bước vào Ngàn Năm Thứ Ba, Đức Gioan Phaolô II đã triệu tập các Thượng Hội Đồng Giám Mục của từng châu lục, để duyệt lại các công việc và cách thức truyền giảng Tin Mừng trên các châu lục ấy. Tại kỳ họp của THĐGM Châu Á đầu năm 1998, các Giám Mục Á Châu đã cố phân tích những nguyên nhân khiến việc Tin Mừng hóa ở lục địa này chậm phát triển. Một trong những lý do chính yếu được nêu lên là Giáo Hội trong quá khứ đã quá chậm trễ trong việc mở ra và đối thoại với các truyền thống văn hóa và thiêng liêng lâu đời của Á Châu, để tìm ra nơi đó những phương thế thích hợp cho việc truyền đạt những giá trị của niềm tin Kitô giáo.
Vì vậy, tại Việt Nam chẳng hạn, trong suốt nhiều thế kỷ, người Công giáo Việt Nam hầu như đã sống bên lề văn hoá của quê hương mình, bởi lẽ khi chịu phép rửa tội, họ không còn được phép giữ phần lớn những tập tục của truyền thống mà Giáo Hội thời đó cho là không phù hợp với đức tin Công giáo (như thờ kính tổ tiên, ma chay, tục lệ ngày tết...). Hơn thế, những giáo dân đó còn bị coi là “tây hoá” từ việc xây cất nhà thờ, nghi thức phụng vụ, cho đến cả cách sống và nếp suy nghĩ.
Một cơ hội bị bỏ lỡ
Nói như thế không có nghĩa là, trong quá khứ, Giáo hội không có nhưng mẫu gương hội nhập vào văn hóa bản xứ một cách đặc sắc hầu giúp đẩy mạnh việc Truyền giáo. Xin đơn cử ở đây trường hợp Cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes - Thế kỷ XVII), người đã có công đưa đức tin công giáo vào hoà hợp với những giá trị văn hoá Việt Nam. Chẳng hạn cha biên soạn chữ quốc ngữ để quảng bá đức tin dễ dàng hơn. Vì biết người dân Việt ưa chuộng chèo, hát, cha đã cho sáng tác những bài vè, bài thơ về Phúc Âm, về giáo lý, tổ chức ngắm đứng trong Mùa Thương Khó và cho Dâng Hoa tôn kính Đức Mẹ. Ngoài ra, vì nhận thấy người Việt rất trọng luân thường đạo lý, cha đã khởi sự cuốn giáo lý “Phép Giảng Tám Ngày” bằng việc dạy Mười Điều Răn, về đời sau; sau đó mới đề cập đến các mầu nhiệm về Thiên Chúa. Cũng vậy, ý thức rằng dân quê Việt Nam rất mê tín, đâu đâu cũng thấy thần thánh, lại thích những gì cụ thể để diễn tả các tâm tình tôn giáo, cha đã phổ biến rộng rãi việc dùng nước phép, nến phép, các ảnh tượng thánh và tổ chức những lễ nghi linh đình. Cuối cùng, cha Đắc Lộ yêu mến và đề cao những gì là Việt Nam; cha chủ trương hết sức giữ nguyên những tập tục gia đình, xã hội, văn hoá nghệ thuật của địa phương, chỉ trừ những gì thật sự mê tín và trái với Tin Mừng. Ngài cũng tin tưởng ở lòng đạo của người bản xứ, đến mức đã xin Toà Thánh đặt các Giám Mục người Việt để cai quản Giáo Hội bản xứ trong thời buổi cấm đạo mà các thừa sai ngoại quốc khó xuất đầu lộ diện.
Đáng tiếc là những sáng kiến hội nhập văn hoá của cha Đắc Lộ đã không được đón nhận kịp thời. Vì thế Giáo Hội đã để lỡ cơ hội đưa đức tin Kitô giáo ăn sâu bén rễ vào các nền văn hoá lớn ở Á Châu như Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam. Ngày nay, với công cuộc canh tân của Công Đồng Vaticanô II (1962-1965), người Công giáo Việt Nam (cũng như người Công giáo ở khắp nơi) đã được phép cử hành các nghi thức phụng vụ bằng tiếng mẹ đẻ của mình; đồng thời họ được khuyến khích hội nhập các giá trị truyền thống của văn hoá bản xứ vào việc truyền giảng đức tin. Tuy nhiên, công cuộc trở về với truyền thống sau nhiều thế kỷ bị phân cách không phải là con đường phẳng phiu, như lời nhận xét sau đây của Đức Cha Nguyễn Như Thể tại THĐGM Á Châu: “Ngày nay, Toà Thánh đã cho phép thờ cúng tổ tiên, nhưng muộn mất rồi, vì người Công Giáo không quen nữa nên khó chấp nhận.”
Truyền giáo khởi đi từ việc sống Đức Ái
Vượt trên mọi hình thức hội nhập văn hoá, có một đòi hỏi hội nhập nền tảng hơn hết: đó là HỘI NHẬP TÌNH YÊU, hội nhập của “văn hoá đức ái”. Thật vậy, trong chỉ thị liên quan đến Truyền Giáo ở cuối bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dã sai các đồ đệ của Người đi để loan báo Tin Mừng, đồng thời để chữa lành mọi tật bệnh của người khác (c.10,8). Như thế, loan báo Phúc Âm và thăng tiến đời sống những người nghèo khổ, bị bỏ rơi đều là những đòi hỏi cấp bách của Đức Ái. Hơn nữa, một chứng từ tình yêu siêu việt sẽ có sức mạnh thuyết phục hơn bất cứ một lời giảng thuyết hùng biện suông nào. Chính Mẹ Têrêsa Can-cút-ta, chẳng hạn, đã chọn cách thức “nói” về Thiên Chúa (tức Truyền Giáo) khởi đi từ việc sống Đức Ái.
Quả thật, Mẹ Têrêsa đã theo sát gót bước Chúa Giêsu khi mẹ “chạnh lòng thương” trước những người nghèo khổ, bệnh tật, hấp hối, không được ai chăm sóc trên các vỉa hè của thành phố Can-cút-ta. Chắc hẳn tâm hồn Mẹ đã bị dằn vặt nhiều trước những con người không có cơ hội sống và chết xứng đáng với nhân phẩm là con cái Thiên Chúa. Cuối cùng, Mẹ đã đặt mình để được Chúa sai đi chăm sóc những con chiên không có người chăn đó, không phải bằng lời nói, nhưng trước hết và trên hết bằng những cử chỉ bác ái siêu vượt.
Chắc hẳn không phải mọi Kitô hữu đều có thể trở nên những Thừa Sai Bác Ái như Mẹ Têrêsa; nhưng tất cả những ai đã chịu phép rửa để thuộc về Chúa Kitô, cũng đều phải thực thi Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa dạy ta trước tiên, phải cầu xin cùng Thiên Chúa, để chính Người sai ta đi. Một khi kiên trì cầu xin điều ấy, chính Chúa sẽ giúp ta mở cõi lòng hầu có thể yêu tha nhân như chính mình. Nhờ đó ta có thể dễ dàng nói về Chúa cho mọi người hơn.
Ta cũng không quên cầu nguyện cho những người đang âm thầm làm chứng tá cho Chúa trên quê hương Việt Nam (như Thầy Sáu Sơn và cộng đoàn của Thầy), để nhờ việc gắn liền với Chúa Giêsu là thân nho, công việc của các vị đó cũng mang lại nhiều hoa trái cho đất nước Việt Nam, như Mẹ Têrêsa đã mang lại biết bao thành quả cho cánh đồng truyền giáo trên thế giới.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Có bao giờ bạn nghĩ rằng một số người đã dửng dưng với đạo Công giáo và không màng tìm biết về Chúa vì họ có một số thành kiến, hay một số hiểu lầm về Đạo và về những người có Đạo không? Liệu có cách nào giúp họ vượt qua những trở ngại đó?
2. Theo bạn, cách thức “Truyền Giáo khởi đi từ việc sống Đức Ái” như Mẹ Têrêsa sẽ hữu hiệu như thế nào với môi trường bạn sống?
3. Bạn có thể góp phần vào công cuộc truyền giáo như thế nào qua cầu nguyện, qua việc làm cụ thể, qua giáo dục ý thức truyền giáo cho con cái?
Trong suốt thời gian tại thế,nhất là ba năm rao giảng về Nước Trời, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân chúng, tiếp xúc với dân, Ngài đã hiểu rõ đời sống thực tế của dân , càng gần gũi dân, Chúa Giêsu càng hiểu rõ họ, càng yêu mến họ và càng lúc Ngài càng lưu tâm, để ý tới họ . Dân chúng trong thời Chúa Giêsu sống cũng gặp biết bao thảm cảnh: đói khát về thể xác, thiếu thốn về tinh thần . Tin Mừng thánh Matthêu trong trích đoạn hôm nay đã cho chúng ta thấy rõ nhu cầu của dân chúng:
"Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương , vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt " ( Mt 9, 36 ). Rõ ràng Chúa Giêsu chạnh lòng thương dân chúng vì họ bơ vơ , đói khát , nên Ngài gợi ý với các môn đệ đang ở bên Ngài: " Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít " ( Mt 9, 37 ) .
I. CHÚA GIÊSU CHỈ RA CHO MÔN ĐỆ THẤY DÂN CHÚNG THẬT ĐÁNG THƯƠNG
Khi theo Chúa, nghe Chúa giảng dậy, chứng kiến các phép lạ Chúa làm, dân chúng như say mê với lời Chúa, hăng hái ngồi nghe Chúa, quên hết mọi ưu tư , phiền muộn . Tuy nhiên, Chúa Giêsu thấy rõ đám đông, Ngài đã tiếp xúc với họ, đã chia sẻ với họ cả niềm vui lẫn nỗi buồn , Ngài đã hiểu thấu nỗi bận tâm của dân chúng. Dân đang nghe Chúa giảng, đang trố mắt nhìn Chúa với tâm hồn nhiệt tình, đạo đức . Họ đói lòng, nhưng tai họ thì tràn đầy Lời Chúa . Chúa hiểu rõ tâm tư , nguyện vọng của họ . Họ thích đón nhận nước trời , họ muốn nghe lời Chúa và muốn có người hướng dẫn . Chúa thấy rõ điều ấy, nên Ngài thương họ thật tình, tình thương phát xuất tự con tim đầy yêu thương của Chúa .
Chúa biết rõ dân xưa trong thời cựu ước, Thiên Chúa Cha của Người đã sai nhiều vị lãnh đạo tới hướng dẫn, chỉ vẽ, hướng dẫn dân . Một Abraham với một dòng tộc lớn lao, Thiên Chúa tặng ban cho Ông để qua Ông 12 dòng tộc Israen được thiết lập . Thiên Chúa đã dùng Môsê, Đavít để chăn dắt, lãnh đạo dân như những mục tử thật tốt lành . Đời sống của dân ngày nay cũng rất cần các mục tử dẫn dắt, hướng dẫn , lãnh đạo. Các ngôn sứ thời cựu ước đã loan báo chính Chúa sẽ đến và trở thành người dẫn dắt dân, trở thành Mục Tử tốt lành , yêu thương chiên , hy sinh mạng sống vì chiên của mình ( Ga 10, 11 ) .Dân đông đảo, dân bơ vơ , dân đói khát nhưng họ có thể tin tưởng vững bước vì Chúa là Mục Tử của họ . Hình ảnh đồng lúa chín vàng gợi lên cánh đồng truyền giáo bao la, mênh mông , rộng lớn . Chúa đã đi bước trước khi Người rảo khắp các làng mạc, thành phố, rao giảng trong các hội đường . Công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa, chữa mọi bệnh hoạn, tật nguyền, xua trừ ma quỉ ( Mt 9, 35 ) . Nước Chúa đã đến: thế giới rộng mênh mông , nhiều người, nhiều linh hồn muốn trở về với Chúa .
II . CHÚA KÊU GỌI 12 MÔN ĐỆ TIẾP NỐI SỨ MẠNG CỦA CHÚA GIÊSU:
Trước một cánh đồng lúa chín vàng, thế giới gồm biết bao nhiêu người rải rác khắp nơi , Chúa muốn con người cộng tác vào việc cứu thế của Chúa . Công việc cứu độ m ột mình Chúa là đủ, nhưng Người muốn con người tiếp tay với Người trong công việc truyền giáo cho một thế giới bao la . Nên , Chúa đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài để tiếp tục công việc của Ngài loan báo Tin Mừng cứu độ . Chúa Giêsu đã chọn nhóm 12 làm môn đệ , Ngài đã gọi đích danh từng người và nhất nhất các môn đệ được gọi, được chọn đã cương quyết theo Ngài .Tuy nhiên, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ một cách nhưng không, Ngài muốn chọn ai tùy ý Ngài và ơn gọi, sự chọn lựa chỉ được thực hiện , sau khi Chúa Giêsu đã cầu nguyện lâu giờ , hỏi ý Chúa Cha. Chọn môn đệ , gọi họ là tông đồ ( Apostoloi ), nghĩa là được sai đi . Các môn đệ vì tùy thuộc vào Chúa, họ phải thực thi lệnh truyền của Chúa. Simon gọi là Phêrô, được Chúa đặt làm đầu nhóm và trở nên vị giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh do Chúa thiết lập . Tất cả các tông đồ đều thực hiện lời gợi ý của Chúa: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít "( Mt 9, 37 ) và các ông đều hướng về lệnh của Chúa trước khi Ngài về trời tại Galilêa:" Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…"( Mt 28, 19 ). Còn bây giờ, các môn đệ , những người được Chúa sai đi đã tới trước hết với " những con chiên lạc nhà Israen ". Các môn đệ tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu: loan báo nước trời đã đến , thực hiện những điều Chúa Giêsu đã làm, giảng dậy , chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỉ và ban bình an cho con người . Các Ngài đã được trao sứ vụ phục vụ con người như Chúa Giêsu đã phục vụ " Thầy đến để phục vụ, chứ không để được hầu hạ " . Các môn đệ muôn người như một đã luôn noi gương Thầy mình "…Vác Thập giá để theo Chúa Giêsu " và các ông đã luôn hướng về đồng lúa thế giới mênh mông để xin Chúa Cha sai thợ ra gặt lúa về ( Mt 9, 38 ). Các môn đệ luôn ý thức rằng các ông đã nhận nơi Chúa nhiều ân huệ nhưng không, các ông cũng phải cho lại nhưng không . Sứ mạng của các tông đồ sẽ trải dài mãi cho đến ngày cùng tận và mọi người đều vững mạnh, tin vào lời Chúa hứa:" Ta sẽ ở cùng các con mọi Ngày cho đến tận thế " ( Mt 28, 20 ).
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con luôn biết yêu mến Giáo Hội,
xây dựng Giáo Hội và cầu nguyện luôn cho Giáo Hội .
Xin cho mỗi người chúng con luôn noi gương bắt chước các tông đồ
để loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người .
Xin cho chúng con luôn biết cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng,
các Đức Giám Mục, các Linh Mục và các phẩm trật của Hội Thánh
Tháng 8 năm 1985, tại miền bắc Camerun, gần thành phố Garoua, ĐTC Gioan Phaolô II chủ sự thánh lễ trước sự hiện diện của nửa triệu người. Nhiều người mặc y phục cổ truyền, cắm lông chim trên mũ, tay cầm thuẫn, giáo mác và cung tên, phụ nữ mặc y phục sặc sỡ. Bầu không khí thật tưng bừng. ĐTC cảm động hỏi ĐHY Christian Tumi, TGM giáo phận Garoua sở tại, đang đứng cạnh:
- Tất cả dân chúng ở đây có phải là tín hữu Kitô không?
- Thưa ĐTC, - ĐHY đáp-, có lẽ chỉ có khoảng 5% là tín hữu Kitô thực sự.
Ngạc nhiên, ĐTC hỏi: "Vậy tại sao họ đến đây tham dự thánh lễ?" ĐHY đáp:
"Thưa vì họ muốn trở thành tín hữu Kitô. Nhiều người đã xin học đạo để được chịu phép rửa tội, nhưng con không có đủ linh mục, không đủ nữ tu và chỉ có một ít giáo lý viên. ĐTC có thấy những làng ở trên núi xa xa kia không? Tất cả dân làng đó, từ nhiều năm nay, vẫn chờ đợi một giáo lý viên đến dạy đạo cho họ, họ chờ đợi chúng con mở nhà nguyện và trường học, họ xin được rửa tội, nhưng tiếc là con không có đủ nhân sự và tài lực để đáp ứng nguyện vọng của họ (Gesù su Rai Uno, Casale Monferrato, 1994, p.106)
Có lẽ cảm tưởng của ĐTC khi nghe những lời trên đây của ĐHY Tumi cũng giống như tâm tình của Chúa Giêsu trong trình thuật của bài Phúc Âm hôm nay: Chúa Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy các con hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về".
Quả vậy, có những xứ đạo ở Mỹ châu la tinh với 180 ngàn dân nhưng chỉ có một linh mục duy nhất. Các giáo dân cũng tích cực hoạt động, nhưng tình trạng thiếu Linh Mục trầm trọng như thế khiến cho nhiều tín hữu Công Giáo không được săn sóc đầy đủ về tinh thần, vì thế không lạ gì khi có nhiều người bị các giáo phái chiêu dụ. Cụ thể, tại ngoại ô Santo Domingo, chỉ có một giáo xứ Công Giáo duy nhất, nhưng có tới 57 nhà thờ tin lành hoặc các trung tâm thờ phượng khác của các giáo phái.
Do vậy, cần có những tín hữu tích cực cộng tác vào việc khơi dậy, nuôi dưỡng và nâng đỡ ơn gọi linh mục và tu sĩ, bằng lời cầu nguyện, bằng cuộc sống gương mẫu và bằng những đóng góp cụ thể. Nhất là các cha mẹ có một vai trò hết sức quan trọng. Rất nhiều người quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa nhờ sự khuyến khích của cha mẹ, như chân phước Alois Stepinac, HY TGM giáo phận Zagreb, bị cộng sản bách hại, đã từng tâm sự rằng tất cả những ơn phúc ngài nhận được trong đời là nhờ mẹ hiền ăn chay và cầu nguyện.
Lời Chúa hôm nay cũng là lời mời gọi tất cả mỗi Kitô hữu chúng ta khi lãnh nhận bí tích rửa tội, trở nên chứng tá của Chúa trong môi trường cụ thể của cuộc sống.
Lạy Chúa, trước một thế giới thật bao la, chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực. Dù Chúa đã đến thế giới này từ 2000 năm, nhưng nhiều nơi còn vắng bóng Chúa. Cách riêng Kitô giáo ở Việt Nam sau gần 4 thế kỷ vẫn chưa phát triển mạnh. Phải chăng vì đức tin chúng con đã nhạt nhòa, vì đời sống chúng con chẳng có gì đáng nói hoặc là vì "men" đã mất phẩm chất?….
Xin Cha ban cho chúng con ngày càng có những Tông đồ nhiệt thành có quả tim bao dung và nhân hậu như Con Cha. Ước chi mỗi người chúng con biết chia sẻ niềm tin, an bình và hạnh phúc cho người khác, để có thể mở ra đến vô cùng trước những đòi hỏi của Cha và nhu cầu của anh em. Amen.
Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay là câu: "Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt". Ta ngạc nhiên tự hỏi: Tại sao thế? Đạo Do Thái đã đào tạo nên biết bao tư tế, kinh sư, luật sĩ, Pha-ri-siêu, họ là những người lãnh đạo tinh thần, lãnh đạo tôn giáo. Sao lại có tình trạng "họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt"? Như thế thì các tư tế, kinh sư, luật sĩ, Pha-ri-siêu có mặt trong xã hội Do Thái để làm gì? Đức Giê-su nói như thế có động chạm gì đến họ không?
Nói xưa lại nghĩ đến nay, liệu ngày nay, sau khi Đức Giê-su xuống thế 20 thế kỷ, tình trạng ấy có còn hay không, khi mà trong Giáo Hội có biết bao nhiêu là linh mục, giám mục, tu sĩ? Liệu tình trạng thừa kinh sư, thừa luật sĩ, nhưng vẫn thiếu những người chăn dắt có còn không? Nghĩa là có tình trạng thừa linh mục, thừa giám mục, thừa tu sĩ, nhưng vẫn thiếu tông đồ, thiếu ngôn sứ, thiếu mục tử, thiếu người thật sự lo cho dân chúng chăng? Đây là câu hỏi mà mỗi người Ki-tô hữu từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân nên tự suy nghĩ và trả lời trước mặt Chúa. Nếu quả thật có tình trạng ấy, thì ngay cả người giáo dân nhỏ bé nhất trong Giáo Hội cũng có trách nhiệm. Tương tự như câu "quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách"!
Thiết tưởng chúng ta cần phải xin Thiên Chúa sai đến trong xã hội những tông đồ, mục tử hay ngôn sứ đích thực, biết thật sự yêu thương dân chúng, quan tâm và sẵn sàng hy sinh lo cho đời sống tâm linh cũng như thể chất của họ, dám nói sự thật để bênh vực họ là những kẻ bị đàn áp và thiệt thòi nhất trong xã hội, nghĩa là biết sẵn sàng "hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11). Chứ không chỉ xin Chúa ban cho Giáo Hội những linh mục hay giám mục chỉ biết làm các bí tích và giảng! hay các tu sĩ chỉ biết học hành, nghiên cứu, cầu nguyện trong nhà dòng! Có lẽ cần phân biệt hai loại phạm trù, vì tông đồ và mục tử không nhất thiết cứ phải là linh mục hay giám mục, và linh mục hay giám mục không hẳn lúc nào cũng là những tông đồ hay mục tử! Thiết tưởng, Giáo Hội, cụ thể là các chủng viện, cần ý thức sứ mạng của mình là đào tạo nên những tông đồ, những mục tử, những ngôn sứ đích thực, hơn là chỉ tạo nên những con người… hành nghề linh mục, chỉ biết quan tâm làm một số công việc cố định nào có thù lao hay quyền lợi mà thôi!
Sự thường và theo lý thì các linh mục, các giám mục cũng là những tông đồ, mục tử hay ngôn sứ, và mọi người đều rất có lý khi hiểu như thế. Nhưng dẫu sao cũng phải đau lòng mà công nhận rằng trong Giáo Hội vẫn có những linh mục hay giám mục không phải là tông đồ, chẳng phải mục tử hay ngôn sứ như thiên chức đã lãnh nhận đòi buộc. Đương nhiên trong các tôn giáo khác cũng có tình trạng tương tự như thế. Tình trạng ấy dường như luôn luôn xảy ra ở mọi nơi, mọi thời!
2. Cách chọn môn đệ của Đức Giê-su
Để đáp ứng tình trạng thiếu "thợ gặt", Đức Giê-su đã mời gọi nhiều người làm tông đồ, làm mục tử, ngôn sứ và trực tiếp đào tạo họ. Nhưng cách lựa chọn của Ngài không giống như cách của loài người. Đức Giê-su là một ông đạo, một đạo sư hoàn toàn không trường lớp, không được đào tạo về tôn giáo, về Kinh Thánh hay Lề Luật theo kiểu loài người như các thầy tư tế, luật sĩ và người Pha-ri-siêu. Do đó Ngài không có một bằng cấp gì về tôn giáo cả (x. Ga 7,15). Và các môn đệ Ngài chọn đều là những người ít học (x. Cv 4,13), đa số làm nghề đánh bắt cá, một nghề không cần trình độ văn hóa. Ngài cũng không chọn và mời gọi một ai trong số các tư tế, luật sĩ và người Pha-ri-siêu - là những người có bằng cấp về tôn giáo - làm môn đệ Ngài cả. Theo cách nghĩ của trần thế, xem ra Ngài chẳng khôn ngoan tí nào, vì những người không trình độ như thế thì làm nên trò trống gì?!
Đó là xét về khả năng. Còn về luân lý đạo đức thì mấy tông đồ cũng chẳng có gì đặc biệt. Cứ nghe mấy ông tranh nhau về việc ngồi bên hữu bên tả Đức Giê-su khi Ngài làm vua (Mt 20,21-23; Mc 10,37-40), hay thấy mấy ông trốn chạy hết khi ngài bị bắt (Mt 26,56b; Mc 14,50), thậm chí Phê-rô sẵn sàng chối Thầy những ba lần trước một phụ nữ yếu đuối (Mt 26,69-75), v.v… ta thấy về mặt nghĩa khí các ông còn thua xa những người như Trần hưng Đạo, Lê Lai, Bùi thị Xuân, v.v… Khó hiểu nhất nhất là trường hợp chọn Mát-thêu, một người thu thuế mà nói chung bị xã hội khinh bỉ, mặc dù có thể ông rất giàu có.
Trái với suy nghĩ của con người, những môn đệ có vẻ tầm thường, mà cũng có thể thật sự tầm thường này đã làm thay đổi thế giới, các ông đã làm được những việc hết sức vĩ đại. Cách Thiên Chúa làm quả thật rất khác với cách của con người! Còn những kẻ có vẻ đầy khả năng, có vẻ đạo cao đức cả như những tư tế, luật sĩ, Pha-ri-siêu kia thì nhiều lắm là làm được một số những việc cao hơn bình thường một chút, đôi khi cũng lạ thường, nhưng chẳng thể so sánh được với các tông đồ. Điều này khiến chúng ta phải thay đổi cách quan niệm của mình về cách nhìn người hay dùng người, nhất là cách Chúa dùng chính chúng ta trong công việc của Ngài.
3. Vì sao những người tầm thường ấy lại trở nên vĩ đại?
Thiên Chúa rất cần và cần rất nhiều người cộng tác với Ngài để cứu độ và phục vụ thế giới, để biến đổi và đem hạnh phúc đến cho thế giới. Công việc của Ngài thật vĩ đại. Ngài có thể mời gọi bất kỳ ai Ngài muốn, theo sự tự do của Ngài, để cộng tác với Ngài trong công việc vĩ đại này. Ngài có thể mời gọi những người rất tài giỏi, đạo cao đức cả, mà cũng có thể mời gọi những người rất tầm thường cả về tài năng lẫn đạo đức. Và không nhất thiết ai sẽ làm được việc hơn ai!
Để làm được việc cho Ngài, điều quan trọng không phải là tài năng hay đạo đức cá nhân của ta. Mà trước hết là thái độ nhanh nhẹn và quảng đại đáp lại lời mời gọi của Ngài. Kế đó là tinh thần tự hủy, khiêm tốn, ngoan ngùy của ta trong tay Ngài, để Ngài tự do biến đổi và sử dụng ta như một dụng cụ hoàn toàn theo ý Ngài. Các tông đồ của Đức Giê-su ai cũng nhanh nhẹn đáp lại lời mời gọi của Ngài, không so đo tính toán (x. Mt 4,20.23; 9,9; Ga 1,43-51). Các ông sẵn sàng bỏ cả công ăn việc làm, bỏ cả cha mẹ, vợ con, anh em, bỏ mọi sự (x. Mt 19,27; Mc 10,28) đi theo Đức Giê-su sống bụi đời, bữa đói bữa no, vất vả, nay đây mai đó khắp đất nước Do Thái, để nghe Ngài nói, để được Ngài dạy dỗ, huấn luyện.
Về tài năng, đức độ, rất có thể các ông kém chúng ta, nhưng về sự quảng đại và nhanh nhẹn đáp lại lời mời gọi của Đức Giê-su, về niềm tin vào Ngài ngay từ khi mới gặp Ngài đến hết cuộc đời, thì các ông đáng là gương mẫu cho chúng ta. Chính nhờ sự quảng đại, niềm tin, sự trung thành và phó thác đó, các ông đã lãnh nhận được Thần Khí của Đức Giê-su, nhất là khi Thánh Thần hiện xuống trên các ông sau khi Đức Giê-su về trời. Nhờ hoàn toàn để mặc Thánh Thần tự do biến đổi theo ý Ngài, các ông đã trở nên những con người phi thường, có tài năng và tình yêu hơn những người mà trước đó đã từng hơn các ông vượt bậc. Vậy, điều quan trọng để trở nên tông đồ, mục tử hay ngôn sứ đích thực của Thiên Chúa không phải là tài năng hay đức độ cho bằng sự quên mình, hủy mình, để mặc Thánh Thần Ngài tự do biến đổi ta. Cha sở họ Ars - thánh Gio-an Vi-an-ney - là một bằng chứng hùng hồn cho điều này.
Ý thức được tình trạng thiếu thốn tông đồ, mục tử hay ngôn sứ đích thực trong Giáo Hội và thế giới, chắc chắn chúng ta sẽ nghe thấy lời mời gọi của Đức Giê-su. Cho dù ta là giáo dân, giáo sĩ hay tu sĩ, Ngài cũng vẫn mời ta trở nên những tông đồ, những mục tử hay ngôn sứ để làm việc cho Ngài ngay trong môi trường chúng ta đang sống. Đừng bao giờ nghĩ rằng là giáo dân thì không thể làm tông đồ, mục tử hay ngôn sứ được! Chính Đức Giê-su, Mẹ Ma-ri-a, các tông đồ, các ngôn sứ xưa có mấy ai ở trong hàng ngũ tư tế hay tu sĩ Do Thái đâu! Nhưng chính các Ngài mới là những tông đồ, mục tử hay ngôn sứ tuyệt hảo nhất! Các Ngài có cần phải vào chủng viện hay đi tu, chịu chức linh mục hay giám mục rồi mới có thể trở nên như thế đâu?
Trước tình trạng thiếu "thợ gặt" hiện nay, Đức Giê-su đang mời gọi chính bạn đấy! Bạn có đáp lại lời mời gọi ấy như các tông đồ xưa không?
Mọi sinh vật đều cần không khí để thở, sống và phát triển. Không có không khí trong vòng ba phút trí não con người không thể suy nghĩ, cơ thể: TN11-A23
Mọi sinh vật đều cần không khí để thở, sống và phát triển. Không có không khí trong vòng ba phút trí não con người không thể suy nghĩ, cơ thể trở nên trì trệ và có thể bị ngất xỉu. Buồng phổi cần không khí như bao tử cần cơm bánh nước uống cho cơ thể. Không khí cần cho con người, cho súc vật, cho cây cối, hoa qủa mùa màng...
Không khí là của châu báu Trời ban cho địa cầu.
Con người cần không khí để sống. Và trong không khí chúng ta cảm thấy có cái gì khó diễn tả bằng lời hay bằng hình ảnh cụ thể. Điều-Khó-Diễn -Tả đó chính là Sức Sống. Sức sống tựa như làn gío, như cơn giông bão thổi vào con người, khiến trở nên sinh động mạnh dạn hoạt bát.
Các Môn Sinh Chúa Giêsu ngày xưa, vì sợ hãi sống co ro trong nhà, khóa cửa chặt chẽ. Các Ông sống thiếu không khí, thiếu sức sống. Vì thế tinh thần bị giảm thiểu hầu như gần tàn lụi! Nhưng bỗng nhiên Chúa hiện ra giữa các Ông. Ngài mang Không Khí, Sức Sống đến cho họ. Có Sức Sống các Ông thành người khỏe mạnh, hoạt bát mở tung cửa, đi ra chung sống với đời, làm nhân chứng cho Thầy mình.
Chúa Giesu ngày xưa khi đến với các Môn sinh , Ngài chúc Schalom, bình an và mang Sức Sống mới cho họ. Ngày nay cũng thế, nếu muốn sống Schalom, Bình an với Chúa, cũng phải sống Schalom, Bình an tha thứ làm hòa với anh chị em mình: Schalom ở cùng Ông, Bà, anh ,chị, em, con, cháu... !
Mang Sức Sống của Chúa đến cho người khác, là mở cửa lòng mình đến với anh chị em. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là lễ Cánh Cửa mở rộng mang Schalom,Bình an đến mọi nơi!
Ánh sáng tràn vào nơi tối tăm đóng kín, khi cánh cửa mở rộng. Từ nơi tối tăm đóng kín tôi nhìn thấy ánh sáng, khi cánh cửa mở rộng. Khi cánh cửa mở rộng ánh sáng, đường đi đến với thế giới không còn bị ngăn cản chặn lại. Cánh cửa mở rộng là lời mời gọi ánh sáng đến với nơi bị đóng kín. Và ánh sáng đến với bóng tối.
Cánh cửa đời tôi, đời mỗi người được mở ra vào mỗi giai đoạn cuộc đời: sinh ra, vườn trẻ, nhà trường , nghề nghiệp, hôn nhân, gia đình, theo ơn gọi sống đời tu trì, đổi nghề xoay hướng sống, tỵ nạn... Và còn nhiều cánh cửa mở rộng mời gọi tôi đi vào: nhà thờ, nhà thương, nhà thầy thuốc, siêu thị, nhà người quen thân thuộc, nhà bạn bè, nhà người hàng xóm.
Tôi đến hoặc để chung vui, chia buồn chúc bình an, hoặc để xin tha thứ làm hòa. Cánh cửa mở rộng đón tôi, người đi vào, như lời Chúa thầm nói :" Con là con Cha yêu qúy!"
Cánh cửa mở rộng cũng thầm nhắn nhủ người đi vào: Cha chính là Cửa ra vào (Ga 10,9) đón chào con. Con đừng sợ có Cha hằng ở bên con. Con đến với anh chị em con, chính là đến với Cha.
Khi được phái đi giảng dạy ở các xứ thừa sai thường các tu sĩ buộc phải gởi bản tường trình đều đặn về cho bề trên dòng tu của mình. Bản tường trình này liên quan đến không chỉ diễn tiến công việc mà còn đến cả cuộc sống riêng tư của họ nữa.
Đây là một đoạn trích từ một bản tường trình viết ra cách đây bốn trăm năm do Thánh Phanxicô từ An Độ gởi cho thánh Ignatio Loyola ở Au Châu.
Sau khi tường trình về sự nghèo đói thê thảm của đám dân, Thánh Phanxicô viết tiếp: "Nhiều người ở đây không được trở thành Kitô hữu chỉ vì không có ai được chuẩn bị để đảm nhận sứ vụ giảng dạy cho họ … Con thường cảm thấy bị thôi thúc muốn đi đến các trường đại học Au Châu đặc biệt là đại học Sorbonne ở Balê để la lên như một gã điên cho những kẻ giàu trí thức hơn là thiện chí. Yêu cầu họ xử dụng trí thức của họ làm sao cho lợi ích.. phải chi trong khi nghiên cứu các môn nhân văn, họ cũng nghiên cứu sổ kế toán về những điều Thiên Chúa sẽ đòi hỏi họ qua tài năng Ngài đã ban cho họ! lúc đó nhiều người hẳn sẽ xúc động… thốt lên: "Lạy Chúa này con đây. Chúa muốn bảo con làm gì?"
(trích trong phụ chương Dòng Tên gởi cho Thánh Bộ- trang 96-99).
Lá thư trên làm vọng lại những lời Chúa Giêsu trong Phúc âm hôm nay: "Mùa màng thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Các con hãy cầu xin chủ ruộng sai thợ đến gặt mùa màng của mình" (Mt 9: 37-38).
Và điều xác thực vào thời Chúa Giêsu cũng như thời thánh Phanxicô Xavier thì càng xác thực gấp đôi trong thời buổi hôm nay "Mùa màng thì nhiều mà thợ gặt thì ít". Điều này nêu lên một vấn nạn: "Tại sao ngày nay có ít thợ đến gặt hơn trước đây?" tuy nhiên, trước khi trả lời cho vấn nạn trên, có lẽ chúng ta nên trả lời cho câu hỏi này trước: Mùa gặt Chúa Giêsu đề cập đến là gì? Và ai là thợ gặt mà Chúa Giêsu muốn nói đến?
Trước hết, Chúa Giêsu nói đến mùa gặt nào?- Đó là số thiên hạ đông đúc không chỉ ở các xứ truyền giáo mà ở ngay trong đất nước chúng ta, những người hiện đang tìm kiếm chân lý, hiện đang tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống. Họ là những người giống cậu bé tốt nghiệp trung học nọ mà báo chí trong nước từng nêu lên khi ta nói: "Cuộc đời còn có những cái quí hơn tiền bạc, tivi, tiệc tùng và danh vọng".
C
òn những người thợ mà Chúa Giêsu đề cập đến là ai?
- Họ không chỉ là những học sinh tốt nghiệp trung học vào những năm vừa qua thường đi tu hàng đám, mà còn có cả những sinh viên tốt nghiệp đại học nữa. Theo ghi nhận, hiện có nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học đi tu hơn là những học sinh tốt nghiệp trung học cho dù lớp người tốt nghiệp trung học đông đúc hơn lớp trước rất nhiều.
Và cuối cùng, đám thợ Chúa Giêsu đề cập tới là tất cả chúng ta đây. Mỗi người ở đây đều có thể làm một điều gì để đến với mùa gặt".
Điều này dẫn chúng ta trở lại vấn nạn ban đầu: "Tại sao ngày nay có ít thợ "đến với mùa gặt" hơn là trước đây?"
Chỉ cần xét ba lý do sau đây thì sẽ rõ.
Thứ nhất, sở dĩ thế là vì chúng ta không thực hành điều Chúa Giêsu truyền bảo chúng ta "Hãy cầu xin chủ ruộng sai thợ gặt đến". Chúa Giêsu đã đặt trong tay chúng ta mọi thứ chúng ta cần để "dấn thân vào mùa gặt" nhưng chúng ta đã không sử dụng nguồn mạch nền tảng nhất tức là lời cầu nguyện. Chẳng hạn, có bao nhiêu người trong chúng ta đây thường xuyên cầu xin Chúa thôi thúc tâm hồn các bạn trẻ để họ nghiêm chỉnh đáp lại ơn gọi làm tu sĩ hoặc linh mục? Có bao nhiêu người trong chúng ta đây thường xuyên cầu xin Chúa thôi thúc tâm hồn những người đã lập gia đình để họ nghiêm chỉnh dấn thân vào mùa gặt bằng lời cầu nguyện, sự giúp đỡ tài chính hoặc bằng bất cứ việc gì? Và cụ thể hơn, hãy xét xem lần sau cùng mà chúng ta cầu xin "Chủ ruộng sai thợ gặt" là lúc nào?
Tuy nhiên, còn có lý do thứ hai khiến ngày nay có ít thợ dấn thân vào mùa gặt hơn trước kia. Lý do này liên quan đến các gia đình. Gia đình không còn là vườn ươm ơn kêu gọi đi tu. Một lần nữa, nói cho cụ thể, lần sau cùng chúng ta nói cho con em mình về việc lựa chọn đời sống tu từ phục vụ là lúc nào?
Cuối cùng là lý do thứ ba. Lý do này liên quan đến cá nhân mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy suy nghĩ về điều này như sau: Giả sử chúng ta là một thanh niên, liệu có bao giờ chúng ta mở lòng dâng hiến cho Chúa trong cuộc sống tu sĩ không? Hoặc chúng ta lại thuộc về một trong những kẻ mà Thánh Phanxicô từng nói: "Phải chi trong khi nghiên cứu về các môn nhân văn, họ cũng biết nghiên cứu đến sổ kế toán về những gì mà Chúa sẽ đòi hỏi qua tài năng Ngài đã ban cho họ".
Và giả sử chúng ta là người lớn tuổi, chúng ta có bao giờ nghiêm chỉnh tự vấn xem mình có thể làm gì để "dấn thân vào mùa gặt" không? Có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc phải làm một điều gì đó trực tiếp giúp cho chủ ruộng trong vấn đề gặt, chẳng hạn bằng lời cầu nguyện, sự giúp đỡ tài chính hoặc một sự dấn thân cá nhân thực sự nào đó không?
Bài Phúc âm hôm nay đặt ra trước mỗi người chúng ta một sự thách thức. Chúng ta sẽ đương đầu với nó như thế nào?
Bước tối thiểu đầu tiên các gia đình phải làm là tăng thêm một lời nguyện cho ơn gọi vào giờ kinh trong các bữa ăn và giờ kinh tối. Điều này có tác dụng như một lời nhắc nhở tế nhị cho con em chúng ta để chúng nó có thể cân nhắc ơn gọi đi tu.
Tương tự thế, những kẻ không sống trong cơ cấu gia đình cũng nên gia tăng một lời cầu trong kinh nguyện hằng ngày với cùng một ý hứơng như trên.
Để kết thúc, chúng ta hãy nghe lại lần nữa một đoạn văn trích từ lá thư thánh Phaxicô Xavier gởi cho thánh Ignatiô Loyola:
"Con thường cảm thấy bị thôi thúc muốn đi đến các đại học Au Châu đặc bịêt là đại học Sorbonne ở Balê và la lên như một gã điên cho những kẻ giàu tri thức hơn là thiện chí để yêu cầu họ sử dụng tri thức của họ sao cho có lợi ích… Phải chăng trong khi nghiên cứu về các nhân văn họ cũng đồng thời nghiên cứu sổ kế toán mà Thiên Chúa sẽ đòi hỏi họ về tài năng Ngài đã ban cho họ! lúc đó nhiều người hẳn sẽ xúc động thốt lên: "Lạy Chúa, này con đây. Chúa muốn bảo con làm gì?"
(GNCĐ)
Mark Linhk S.J.
Tình yêu bắt đầu từ đôi mắt. Nhưng ngày nay người ta ít có thời giờ nhìn nhau, nên tình yêu không đến. Người ta quá bận rộn vì cuộc sống ngày càng vội vã. Ra đường là đi như chạy để tranh thủ thời gian. Nên không có thời giờ nhìn, hỏi han, trò truyện, thông cảm. Và vì bận rộn nên nhiều lần ta lẩn tránh không muốn nhìn những thảm cảnh chung quanh, ngay trước mắt ta.
Đức Giêsu thì không như thế. Người nhìn thấy đám đông và chạnh lòng thương. Nếu nhìn một đám đông thoáng qua thì khó mà chạnh lòng thương. Chạnh lòng thương là tức là đã nhìn kĩ từng người, thấy rõ hoàn cảnh đáng thương của từng người. Đứng trước một đám đông, Đức Giêsu vẫn có thời giờ nhìn kĩ từng người, vì Đức Giêsu qua tâm đến số phận của từng người.
Khi nhìn ngắm kĩ lưỡng, sẽ hiểu rõ. Khi hiểu rõ sẽ dễ chạnh lòng thương. Tuy nhiên từ ánh mắt đến trái tim là một khoảng cách rất gần và cũng rất xa. Trái tim con người thật khó hiểu. Khi mở ra thì bao la ngàn trùng. Nhưng khi khép lại thì vô cùng chật hẹp. Một hạt bụi cũng khó lọt qua. Khi thao thức thì vô vùng nhanh nhậy, chỉ một thoáng nhìn, chỉ một âm thanh mơ hồ cũng đã đủ làm xao xuyến, rộn ràng. Nhưng khi ngủ yên thì vô cùng chai cứng, chậm chạp, dù có đập vào mắt, dù có la vào tai, cũng lạnh lùng dửng dưng.
Trái tim Đức Giêsu luôn thao thức về con người, luôn rộng mở đón nhận con người, nên dễ chạnh lòng thương trước cảnh bơ vơ, khốn cùng của con người. Tình thương của Đức Giêsu không phải là thứ tình mơ mộng viển vông, than mây khóc gió, nhưng là một tình thương mãnh liệt dẫn đến những hành động cụ thể. Khi nhìn thấy đám đông tất tưởi, bệnh tật, đói khát, Người lập tức an ủi, chữa lành, nuôi dưỡng. Việc Người an ủi, chữa lành, nuôi dưỡng đám đông không chỉ là những hoạt động do cảm tính nhất thời, nhưng là cả một kế hoạch rộng lớn, lâu dài. Chính vì thế, Người đã chọn 12 Tông đồ, huấn luyện, sai họ đi nối tiếp sứ mệnh của Người.
Với bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn dạy tôi ba bài học.
Bài học thứ nhất là: hãy biết nhìn người khác bằng ánh mắt cảm thông. Ở Việt Nam phong trào đô thị hoá ngày càng mạnh. Các thành phố ngày càng phình ra vì dân cư từ quê đổ ra tỉnh tìm đường làm ăn sinh sống. Thành phố trở nên đông đúc chật chội. Người sống trong thành phố đang trở thành những con số vô danh, chìm mất giữa đám đông vội vã. Không ai biết ai. Không ai nhìn ai. Không ai quan tâm tới ai. Vì ai cũng bận lo cho bản thân mình. Hãy nhìn các đám đông trong chợ búa, ở trường học, ở công sở. Hãy quan sát đám đông trong vùng kẹt xe hay ở ngã tư đèn đỏ. Có biết bao linh hồn cô đơn buồn khổ. Có biết bao thể xác đang bị bệnh tật bào mòn. Có biết bao trái tim đang tan nát vì thất vọng. Hãy nhìn và hãy cảm thông như Ðức Giêsu nhìn đám đông và cảm thương họ.
Bài học thứ hai là: hãy có một trái tim biết cảm thương.
Đời sống ngày càng vất vả. Nhu cầu ngày càng nhiều. Vì thế con người ngày càng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân hoặc gia đình mình. Chính vì thế trái tim thường dễ khép lại, trở thành lạnh lùng, xơ cứng. Khi trái tim xơ cứng, ta không thể đón nhận được những thông tin từ ánh mắt đem lại. Và con đường từ ánh mắt đến trái tim trở thành muôn trùng diệu vợi. Hãy mở lòng ra. Hãy biết rung động. Hãy để lòng mình thổn thức nỗi đau của người. Hãy biết khóc thương những số phận hẩm hiu. Hãy âu lo cho những cuộc đời bế tắc. Hãy để cho niềm cảm thương dâng tràn trái tim như trái tim Đức Giêsu đã cảm nghiệm.
Bài học thứ ba là: công cuộc truyền giáo phải bắt đầu bằng tình thương. Đức Chúa Cha, vì cảm thương thân phận tội lỗi đau khổ của loài người đã sai Đức Giê-su xuống trần gian. Đức Giêsu, vì cảm thương đám đông tất tưởi, bơ vơ, đã sai các mộn đệ ra đi, tiếp tục sứ mệnh gieo rắc tình thương khắp nơi. Việc truyền giáo như thế là kết quả của lòng thương yêu vô biên của Thiên Chúa. Tình yêu thương khởi đầu nơi trái tim Thiên Chúa phải được tiếp nối, đẩy mạnh, nhân rộng trong cuộc đời. Vì thế người làm nhiệm vụ truyền giáo không bắt đầu bằng rao giảng, cũng không bắt đầu bằng cử hành bí tích mà phải bắt đầu bằng yêu thương. Cứ yêu thương rồi tình yêu sẽ hướng dẫn ta biết phải làm gì.
Tất cả chúng ta là những người con của Chúa. Tất cả chúng ta được Chúa mời gọi làm nhân chứng cho Chúa. Ta hãy học theo gương của Đức Giêsu biết nhìn người khác với ánh mắt cảm thông, biết cảm thương những con người đau khổ. Như thế chúng ta đã bắt đầu làm việc truyền giáo rồi.
Lạy trái tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Bạn có để giờ nhìn kỹ những người thân trong gia đình không? Bạn có thực sự hiểu hết những uẩn khúc trong tâm hồn những người thân yêu không?
2- Mỗi khi gặp một hoàn cảnh đáng thương, bạn có cụ thể làm ngay một việc gì để giúp đỡ không?
3- Sống chan hòa yêu thương là truyền giáo. Bạn nghĩ gì về điều này?
Gm Giuse Ngô Quang Kiệt
Mỗi người tín hữu đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội được gọi để làm môn đệ Chúa và làm chứng cho Phúc âm bằng lời cầu nguyện, gương sáng, hy sinh, và việc từ thiện bác ái. Người được nhận biết Chúa trước có bổn phận đem Chúa đến cho người khác tùy theo phương tiện và khả năng có thể. Mỗi người cần tận dụng tài năng, phương tiện và sức lực có thể để mở rộng nước Chúa. Người đã nhận lãnh Đức Tin được kêu gọi chia sẻ Đức Tin với người khác.
Người Công giáo chấp nhận Đức Tin khi lãnh nhận Phép Rửa tội. Có người có thể cho rằng họ lãnh nhận Đức Tin cách vô thức khi còn nhỏ bé. Tuy nhiên cha mẹ và người đỡ đầu và cả cộng đoàn dân Chúa đã chấp nhận Đức Tin thay cho họ. Khi lãnh nhận Phép Thêm Sức, họ tự phê chuẩn đức Tin khi chịu Phép Rửa tội. Họ làm mới lại lời hứa Đức Tin khi ta lãnh nhận Phép Cáo giải. Họ lập lại lời hứa Đức Tin khi tham dự thánh lễ.
Đức Tin mà người Công giáo lãnh nhận không phải là cái riêng tư, nhưng có tính cách cộng đồng. Vì thế tin mà thôi chưa đủ. Họ cần chia sẻ Đức Tin với người chưa tin, và nâng đỡ niềm tin của người yếu Đức Tin. Và đó chính là ý nghĩ a lời Chúa: Ân huệ mà chúng con đã được cho không, hãy cho không như vậy (Mt 10,8).
Lời Chúa trong Phúc âm hôm nay nói lên tính cách khẩn thiết của việc tông đồ. Chúa phán: Lúa chín đầy đồng, mà thiếu thợ gặt. Vậy chúng con hãy xin chủ mùa gặt sai thợ đến gặt lúc (Mt 9,37-38). Theo nghĩa rộng thì tất cả mọi tín hữu được gọi để làm thợ gặt. Còn theo nghĩa hẹp thỉ chỉ Linh mục và Tu sĩ mới được gọi để gặt cánh đồng truyền giáo.
Phúc Âm hôm nay cho thấy Chúa chọn có mười hai người làm môn đệ thân cận, nghĩa là làm Tông đồ. Vậy là sao để nhận ra ơn gọi làm Linh mục, Tu sĩ nam nữ, hay làm Tông đồ giáo dân?
Theo Sắc lệnh về chức vụ và đời sống Linh mục của Công Đồng Vaticanô II thì chính Chúa đã cắt đặt các tín hữu một số thừa tác viên, nhờ chức thánh, họ được trao quyền tế lễ và tha tội trong cộng đoàn tín hữu, và nhân danh Chúa Kitô, họ chính thức thi hành chức vụ cho loài người. Bởi vậy, Chúa đã sai các Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, và rồi qua các Tông đồ, Người gọi các đấng kế vị là các Giám mục cũng được tham dự việc hiến tế vào sứ mệnh của Người. Người lại trao ban cho các Linh mục chức vụ thừa hành ở một cấp độ kế tiếp để một khi gia nhập hàng Linh mục, họ là những cộng tác viên của hàng Giám mục để chu toàn một cách tốt đẹp sứ mệnh Tông đồ mà Chúa trao phó.
Như vậy ta thấy Chúa đã thiết lập một loại quyền bính trong Giáo hội, bắt đầu từ việc chọn 12 Tông đồ, ban cho họ quyền bính, đặt Phêrô làm người lãnh đạo. Mục đích là để liên kết và hiệp nhất người tín hữu trong cùng một Đức tin. Nếu không, thì như lời Chúa phán, họ như đàn chiên mà không người chăm sóc.
Vậy làm sao để có được ơn kêu gọi làm Linh mục Tu sĩ nam nữ?
Cha Franklyn M. Mcafee đưa ra bảy điểm nhận xét làm sao để ấp ủ và làm phát sinh ơn kêu gọi làm Linh mục Tu sĩ trong gia đình tại Hoa Kỳ. Cha đề nghị gia đình sống và thực hành những việc đạo hạnh sau đây:
1. Khi con cái thầy gia đình đi dâng thánh lễ Chúa nhật, có sửa soạn trước, đi sớm và ở lại mấy phút tạ ơn sau lễ.
2. Khi con cái thấy gia đình cầu nguyện, lần chuỗi chung ban tối, và đọc kinh trước bữa ăn.
3. Khi con cái thấy trong gia đình có lòng tôn sùng người Mẹ của các Linh mục cách riêng một cách sống động.
4. Khi con cái được nghe những chuyện nhân đức của các thánh như Thánh Don Bosco, Thánh Gioan Vianney.
5. Khi con cái được nghe những chuyệt tốt, tích cực về các Linh mục; khi được nghe về Linh mục nọ làm phép cưới cho cha mẹ, Linh mục kia rửa tội cho con.
6. Khi con cái được nghe nói về tinh thần hi sinh, thay vì chỉ nghe chuyện làm tiền và hưởng thụ. Một lý do khiến ơn kêu gọi giảm sút là khi con cái có thói quen nhận lãnh tất cả những gì chúng muốn, nên thường cảm thấy khó cho đi và khó từ bỏ.
7. Khi con cái thường nghe nói về Đức Giáo Hoàng, cầu nguyện cho Ngài và thấy hình Ngài trong nhà.
Nếu gia đình hội đủ những yếu tố trên, mà không thấy ơn kêu gọi làm Linh mục Tu sĩ trong gia đình, thì cha mẹ vẫn đạt được đích chung trong việc cổ võ và sống lý tưởng người Công Giáo. Những người con mặc dầu lập gia đình cũng sẽ hướng dẫn giáo dục con cái như cha mẹ mình. Và biết đâu ơn kêu gọi sẽ đến trong thế hệ sau.
Lm Trần Bình Trọng
Trên dòng đời xuôi ngược, Thiên Chúa dùng trăm ngàn cách tìm kiếm con người, mời gọi con người và không ngừng ra dấu cho con người đi làm tông đồ cho Ngài. Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu tha thiết kêu mời mỗi một người chúng ta hãy ý thức những dấu chỉ Chúa dùng qua đời sống hằng ngày, và hãy quảng đại đáp lại lời mời gọi của Ngài, cũng như đáp trả những nhu cầu cần thiết mà Giáo Hội Chúa đang cần đến. "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại thiếu. Vậy các con hãy mau mau xin chủ mùa gặt sai thợ gặt ra gặt lúa về." (Mt 9,37).
Một lời mời gọi như khẩn cấp, thôi thúc các Tông đồ ngày xưa cũng như cho chính mỗi một người chúngta hôm nay: Hãy ra đi, rao giảng Tin Mừng của Chúa! Hãy kêu gọi mọi người thành tâm ăn năn thống hối vì "Nước Thiên Chúa đã gần đến". Hành động của Chúa hôm nay không ngoài mục đích để yêu thương nhân loại đang khốn cùng. Chúa Giêsu chính là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa Cha trao gởi đến cho con người. Ngài muốn sưởi ấm đoàn chiên của Ngài khỏi lầm than cơ cực, bệnh hoạn tật nguyền. Chính vì lý do đó mà Ngài đã sai các Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, hầu ban cho họ một sức sống dồi dào hơn. "Anh em hãy chữa lành người đau yếu làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, khử trừ ma quỉ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy" (Mt 10,8).
Thật vậy, mỗi người chúng ta từ bởi nhưng không mà Chúa làm cho có nhờ tình thương của Ngài. Chúng ta còn được diễm phúc sống trong ơn gọi làm con cái Chúa. Bởi thế chúng ta không thể không có bổn phận đem Chúa đến với mọi người. Dù chúng ta đang ở bất cứ môi trường nào, trong hoàn cảnh nào. Trong bậc sống nào đối với Chúa đều quan trọng cho việc làm chứng nhân cho Ngài, vì tất cả đều là ơn gọi, là hồng ân mà Chúa ban cách riêng cho mỗi người. Tuy chúng ta không được Chúa ban cho những đặc ân, những quyền chữa bệnh, quyền trên các thần ô uế như các tông đồ xưa, nhưng một cách nào đó với niềm tin sâu xa vào quyền năng Chúa khi đối diện với những người đau khổ, lầm than vất vưởng, mất niềm tin, chúng ta có thể xoa dịu và nâng đỡ họ.
Một cử chỉ đẹp chúng ta làm nhân danh Chúa, có thể làm cho họ hồi sinh sau khi tưởng mình đã chết. Một lời nói thân thương, một nụ cười thiện cảm cũng có thể xoa dịu những nổi đau thẳm sâu trong tâm hồn họ. Một cái nhìn thông cảm tha thứ tràn đầy yêu thương của ta có thể hâm nóng con tim của họ trở lại sau những năm tháng lầm lạc xa cách Chúa. Thực hiện được những việc đơn sơ nhỏ bé này một cách thiết thực theo mẫu gương và lời dạy dỗ của Đức Kitô trong mỗi ngày sống, thì cuộc đời làm con Chúa của chúng ta có ý nghĩa biết bao!
Lạy Chúa Giêsu, với niềm tin yêu phó thác, cậy trông vào Chúa, xin cho mỗi người chúng con dám can đảm đi lại con đường mà Chúa và các Tông đồ đã đi xưa.
Ước gì mỗi một người chúng con sẽ trở nên một tay thợ gặt gầm thường, nhưng rất đắt lực, hăng say và nhiệt thành của Chúa ở thế gian này, để rồi chúng con có thể đem nhiều thợ gặt đến cho Chúa mỗi ngày một hơn.
Xin cho chúng con luôn biết nhạy cảm trước những nổi khổ đau và những nhu cầu cần thiết của những người xung quanh, và tỏ lòng yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng con một cách nhưng không.
Phúc Âm ghi lại rất rõ tại sao Đức Giê-su chọn và sai 12 Tông Đồ đi rao giảng Nước Trời: “Đức Giê-su thấy đám đông, Người chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.” Cũng chính vì yêu thương thế gian mà Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, mà Ngôi Lời đã nhập thể làm người để chia sẻ kiếp người và để chỉ vẽ cho con người con đường tìm được Hạnh Phúc thật. Vì yêu thương con người mà Đức Giêsu đã lặn lội khắp hang cùng ngõ hẻm xứ Ga-li-lê, Giu-đê và cả Sa-ma-ri, vừa chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, vừa rao giảng và dạy dỗ dân chúng. Vì yêu thương con người mà Đức Giê-su đứng về phía những người nghèo hèn trong xã hội, những người bị khinh miệt và loại trừ, những người bị coi là tội nhân. Chính vì chọn lựa ấy mà Đức Giê-su đã bị người ta ghen ghét, bắt bớ, kết án và giết chết trên thập giá như một tên tử tội! Tình yêu vô bờ ấy cứu độ chúng ta!
Đức Giê-su muốn các Tông Đồ chia sẻ sứ mạng của mình nên Người đã chọn 12 ông và sai họ đi. Nhưng trước hết và trên hết điều Đức Giê-su muốn truyền lại cho các ông là lòng yêu thương đồng loại. Lòng yêu thương ấy phải là động lực của mọi hoạt động của người Tông Đồ.
2. ĐƯỢC CHÚA GIÊ-SU SAI ĐI RAO GIẢNG CÁC TÔNG ĐỒ PHẢI LÀM NHỮNG GÌ ?
Ngoài lòng yêu thương là động lực hoạt động Tông Đồ, Nhóm Mười Hai còn được Đức Giê-su căn dặn đủ điều trước khi lên đường thực thi Sứ Vụ:
2.1 Cầu nguyện cho Cánh Đồng Truyền Giáo: Cánh Đồng đã chín vàng cần thợ gặt, người TôngĐồ phải biết chia sẻ với mối bận tâm của Ông Chủ mà xin Ông gửi thêm thợ gặt đến, vì công việc rất nhiều, không ai có thể làm hết được. “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.”
2.2 Không đến các làng mạc thuộc dân ngoại, mà chỉ đến với con cái nhà Ít-ra-en mà thôi vì lúc này chưa phải là lúc đem Tin Mừng đến cho dân ngoại. Việc ấy sau này các Tông Đồ sẽ phải thực hiện: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các con. Bấy giờ các con sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” ( Cv 1, 8 ).
2.3 “Dọc đường hãy rao giảng rằng: “Nước Trời đã đến gần”: nội dung của lời rao giảng là sự hiện diện của Nước Trời giữa trần thế, trong xã hội con người. Nước Trời xuất hiện cùng với và nơi Đức Giê-su Na-da-rét.
2.4 “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và trừ khử ma quỷ”: Lời rao giảng phải được việc làm đi kèm. Đó là những việc cứu nhân độ thế, đáp ứng nhu cầu và sự mong đợi của những người nghèo khổ trong xã hội.
2.5 “Đừng sắm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày hay cầm gậy”: Hành trang của người Tông đồ không được cồng kềnh mà phải gọn nhẹ cho dễ bước. Hành trang đó là một nếp sống thanh thoát đối với của cải vật chất vàng bạc và tin cậy phó thác ở Đấng đã chọn và đã sai đi.
3. CHÚNG TA THỰC THI MỆNH LỆNH CỦA CHÚA NHƯ THẾ NÀO NGÀY HÔM NAY ?
Trong sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 1995, Đức Gio-an Phao-lô II nhắn nhủ toàn thể các tín hữu: “Giáo Hội đón nhận Tin Mừng như một lời loan báo, như một niềm vui và nguồn cứu độ. Giáo Hội đón nhận Tin Mừng như ân sủng từ Đức Giê-su, Đấng được Cha sai đến “để mang Tin Mừng cho người nghèo khó” ( Lc 4, 18 ). Giáo Hội đón nhận Tin Mừng nhờ các Tông Đồ mà Chúa đã sai đi khắp thế gian ( x. Mc 16, 15; Mt 28, 19 – 20 ). Được sinh ra từ hành động loan báo Tin Mừng này, Giáo Hội cảm thấy hàng ngày vang lên lời cảnh cáo của Thánh Tông đồ: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng !” ( 1 Cr 9, 16 )”. Cũng chính Đức Gio-an Phao-lô II, trong “Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á”, nhấn mạnh hai điều quan trọng sau đây đối với công cuộc loan báo Tìn Mừng ở Châu Á: 3.1 Vừa loan báo vừa cầu nguyện: “Cộng đoàn Ki-tô hữu càng đâm rễ sâu trong kinh nghiệm về Thiên Chúa... thì cộng đoàn ấy càng đáng tin hơn khi loan báo cho người khác về Nước Thiên Chúa đã được hoàn thành nơi Đức Giê-su Ki-tô” ( số 23 ). Loan báo Tin Mừng là chúng ta tiếp nối công việc và Sứ Vụ của Chúa Giê-su. Vì thế mà lời loan báo của chúng ta luôn luôn phải xuất phát từ một đời sống cầu nguyện, từ một mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa.
3.2 Loan báo bằng chính cuộc sống:
“Việc công bố Tin Mừng là một sứ mạng đòi phải có những người nam nữ thánh thiện, để có thể làm cho người khác nhận biết và yêu mến Đấng Cứu Thế qua chính đời sống của mình” ( số 23 ). Đời sống thánh thiện của người Tông Đồ không thể thiếu 3 tính chất này (1) Siêu thoát đối với của cải vật chất (2) Tin tưởng, phó thác đối với Chúa là Đấng đã giao Sứ Vụ cho chúng ta và (3) Cảm thông với nỗi khổ của tha nhân và xả thân vì anh em đồng loại là con một Cha, anh em một nhà !
Được ơn biết Chúa cứu đời, Ta chia sẻ với khắp nơi mọi nhà. Tạ ơn lòng Chúa thương ta, Ra đi loan báo Chúa là Cứu Tinh.
Lạy Cha là Chủ Ruộng, là Chủ Vườn Nho, là Đấng đã sai Con Một Cha đến trần gian để loan báo và xây dựng Nước Trời. Chúng con cảm tạ Cha vì đã cho chúng con hồng ân đón nhận Con Cha và Lời Rao Giảng của Người. Chúng con cảm tạ Cha vì Cha đã chọn chúng con làm thợ gặt, thợ vườn nho của Cha trong xã hội Việt Nam thân yêu hôm nay. Chúng con xin Cha ban cho chúng con: Sự Nhiệt Thành, Lòng Cậy Trông và Đời Sống Thánh Thiện... để chúng con thực hiện Sứ Vụ Con Cha đã giao.
"Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với nhân loại đang lúc họ còn là tội nhân," Thánh Phaolô xác quyết như thế.
Thử hỏi có ai đã liều chết cho kẻ thù hay người phản bội. May ra mới có chuyện người ta dâng hiến đời mình cho một lý tưởng hay hy sinh sự sống cho một nhân vật đáng kính đáng yêu. Chứ có ai lại huỷ mình cho các tội đồ. Ấy thế mà, vì yêu thương, Thiên Chúa đã làm công việc không tưởng đó. Ngài hiến dâng Người Con duy nhất là Đức Giêsu để chuộc lại sự sống cho toàn nhân loại-- những kẻ đóng đinh Con Thiên Chúa.
Yêu người "không đáng yêu" là tình yêu đi đến tận cùng. Yêu nên bất chấp lầm lỗi thiếu xót. Yêu nên mở ngỏ cho phong phú kiện toàn. Tình yêu đó không chỉ được tỏ bày trên thập giá, nhưng đã bàng bạc trong mọi ngày đời của Đức Giêsu. Việc kêu gọi và chọn lựa các tông đồ tiên khởi là một minh chứng điển hình.
Mười hai tông đồ là 12 con người bất toàn, thậm chí có người còn phạm trọng tội. Thế nhưng Đức Giêsu đã kêu gọi và tiếp nhận họ vào chương trình chuyển trao tình yêu Thiên Chúa đến cho mọi người.
Phêrô là người có tính khí nóng nảy bộp chộp khác thường. Khi thì kiên vững như đá, nhưng có lúc lại mềm nhão hơn bùn. Hôm thì thề quyết theo Chúa đến cùng, nhưng có ngày lại quá run sợ mà chối phăng.
Giacôbê và Gioan con của Giêbêđê là những người nóng nảy. Họ từng xin Chúa cho kêu lửa trời xuống thiêu sạch bọn người Samari hổn láo. Không những thế hai ông còn mang ít nhiều tham vọng riêng tư, muốn được ngồi nơi những vị trí tốt nhất trong vương quốc của Đức Kitô, khiến cho xung đột nảy sinh trong hàng ngũ tông đồ.
Matthêô xuất thân từ tầng lớp bị xã hội khinh khi ghét bỏ, một người bị xếp đồng hàng với gái điếm vì bán mình làm kẻ thâu thuế cho ngoại bang.
Simon nhiệt thành là người thuộc phái Zealot, đang âm mưu lật đổ chính quyền đô hộ Rôma để dành lại độc lập tự do cho dân tộc, bất chấp thủ đoạn, miễn sao đạt được mục đích chính trị là sách lược của phái Zealot. Ấy là chưa nói đến Giacôbê con của Anphê và Thađêo là những người dễ có khuynh hướng cực đoan quá khích.
Tôma thì cứng lòng. Khó tin tưởng một ai. Điều gì cũng đòi phải có chứng minh hẳn hoi, chứ "trăm nghe không bằng mắt thấy." Còn Giuđa Iscariot, bên ngoài rất thanh liêm ngay chính, nhưng bên trong đầy tham lam thủ đoạn, sẵn sàng phản bội để tìm kiếm lợi riêng.
Những con người thiếu sót, lầm lỗi là thế nhưng Đức Giêsu lại triệu tập để trao cho họ một sứ mạng lớn lao. Như thế, không phải chỉ có những ai hoàn hảo, đầy tài năng mới được mời gọi, và không phải khi nào tự thấy xứng đáng, tôi mới lên tiếng đáp trả. Nhưng đúng hơn, tình yêu Thiên Chúa đón nhận tất cả, dù là con người tầm thường yếu đuối, miễn sao tôi có được tâm hồn rộng mở cho ơn Ngài.
"Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt lại ít" (Mt 9:37). Lúa đã chín, mùa gặt đã về! Đây là thời kỳ hân hoan. Giọng ca tiếng cười sẽ vang lên khắp cánh đồng. Thế nhưng, lúa đầy đồng mà thợ gặt lại thiếu. Đức Giêsu xác định công việc nhiều lắm và cần người cộng tác biết bao! Nhưng cộng tác thế nào?
"Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa" (Mt 9:38). Thế ra, cầu nguyện là việc làm trước nhất của tiến trình "gặt lúa." Người khởi sự cầu nguyện cho ơn gọi chính là người thợ gặt đầu tiên mà Thiên Chúa có được cho cánh đồng bao la của Ngài.
Một tác giả nhận định rằng: "Khủng hoảng của ơn gọi thực ra chỉ là khủng hoảng của đời sống cầu nguyện." Không cầu nguyện sẽ không có ơn gọi. Khi cộng đoàn hay gia đình sa sút việc cầu nguyện, hạt giống ơn gọi sẽ không thể nảy sinh, nếu không nói là sẽ chết dần chết mòn. Thế nên, bạn hãy xin, và đó là điều Thiên Chúa muốn.
Thiên Chúa cần con người cộng tác, nhưng để trở nên kẻ cộng tác chân chính, người ta lại phải cầu xin Thiên Chúa. Đây là mối liên hệ song phương giữa Thiên Chúa và con người trong tiến trình tuôn đổ và đón nhận ơn cứu độ. Thiên Chúa rất cần, nhưng con người phải xin. Xin để thấy được việc cộng tác với Đức Giêsu, rao giảng Tin Mừng cho tha nhân, là một ơn vô cùng cao quí. Nếu mọi cộng đoàn xứ đạo hay các gia đình khởi sự cầu xin cho ơn gọi, thợ gặt sẽ đến và mùa gặt sẽ thành công.
Trước khi kêu gọi các tông đồ, Đức Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm trên núi, không phải chỉ cho công việc tuyển mộ nhưng còn cho cả người được tuyển mộ, cầu cho những tâm hồn thiếu xót bất toàn và tội lỗi biết quảng đại mở rộng cho tình Chúa.
Như thế cầu nguyện cho ơn gọi cũng có nghĩa là cầu nguyện cho người được gọi. Khi cầu nguyện cho người được gọi là khởi sự cảm thông và cộng tác vào sứ vụ mở mang Nước Trời.
Thay vì làm thui chột bao hạt giống ơn gọi trong gia đình xứ đạo qua thái độ chỉ trích, nói xấu người được gọi, thiết tưởng tôi nên cầu nguyện, xây dựng, và đỡ nâng. Có như thế, hạt giống sẽ hình thành, lòng khát khao dấn thân sẽ nảy sinh, chờ đợi ngày lớn lên mang lại hoa trái thơm ngon cho khắp nơi.
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Một mình tôi không thể cắt hết lúa trên cánh đồng, nhưng chắc hẳn cánh đồng sẽ còn sót lại nhiều gié lúa vàng vì thiếu phần đóng góp của tôi. Biết chân thành cầu nguyện và quảng đại hy sinh cho ơn gọi là tôi đã bắt đầu gieo rắc hoa trái yêu thương cho thế giới và mang lại niềm vui ơn cứu độ cho muôn người.
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu đã động lòng thương xót và Ngài đã đưa ra hai hình ảnh để nói lên tình trạng đáng thương của họ. Đó là hình: TN 11-A30
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu đã động lòng thương xót và Ngài đã đưa ra hai hình ảnh để nói lên tình trạng đáng thương của họ. Đó là hình ảnh đàn chiên và hình ảnh cánh đồng lúa chín.
Trước hết là hình ảnh đàn chiên. Thực vậy, đàn chiên mà thiếu vắng người chăn, thì rồi sẽ như thế nào ? Những con chiên ấy làm sao biết được con đường dẫn tới đồng cỏ non và dòng suối mát. Những con chiên ấy làm sao chống trả được với nanh vuốt sói rừng. Những con chiên ấy làm sao tìm được nơi nghỉ ngơi an toàn qua đêm. Phải, nếu không có người chăn, chắc chắn đàn chiên sẽ bị tan tác.
Tiếp đến là hình ảnh cánh đồng lúa chín. Thực vậy, lời cảnh báo của Chúa Giêsu, từ ngàn xưa và cho tới ngày hôm nay, vẫn còn là một sự thật:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ sai thợ đi gặt lúa về.
Trong những năm gần đây, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã thay thế lúa mùa bằng lúa thần nông. Mà đã cấy lúa thần nông, thì hầu như vào cùng một thời điểm, nhà nhà đều xuống giống và nhà nhà đều thu hoạch. Vì thế, kiếm được thợ để xuống ruộng gặt lúa, đôi khi đã trở thành một vần đề nan giải. Lúa đã chín mà không có thợ, bị rơi rụng trên ruộng đồng, nhìn thấy mà xót xa.
Dĩ nhiên qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói đến một mùa gặt thiêng liêng, cũng như muốn nói đến những người thợ vừa thành tâm, vừa thiện chí, lại vừa có đủ khả năng để đem lại những lợi ích cho các linh hồn. Bởi đó, chúng ta hãy cầu xin để có được nhiều người nhiệt tình đáp trả lời mời gọi của Chúa trên cánh đồng truyền giáo.
Tôi nghĩ rằng ơn gọi thì không thiếu. Cái thiếu duy nhất đó là sự quảng đại của con tim để đáp trả. Nhu cầu truyền giáo mỗi ngày một khẩn thiết, bởi vì rất nhiều người sẽ bị hư đi chỉ vì thiếu vắng các mục tử, các chủ chăn.
Hoàn cảnh hôm nay của chúng ta thật khác xa với hoàn cảnh của các môn đệ ngày xưa. Thực vậy, ngày xưa chính Chúa Giêsu đã qui tụ các ông, sai các ông đi và trao ban cho các ông những quyền hành đặc biệt, để được dễ dàng hơn trong việc thi hành sứ mạng của mình.
Đúng thế, chính Ngài đã phán:
- Các con hãy làm cho những người bệnh được khỏi, hãy làm cho những người chết được sống lại, hãy làm cho những người phong cùi được lành sạch và hãy xua trừ ma quỉ…
Sở dĩ như vậy là để mọi người có thể nhận ra rằng sứ mạng của các ông là sứ mạng xuất phát từ trời cao, xuất phát từ Thiên Chúa. Nếu như ngày hôm nay, các linh mục, tu sĩ hay các nhà truyến giáo cũng có được những quyền hành như thế, chắc hẳn việc rao giảng Tin mừng sẽ dễ dàng hơn và sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Thế nhưng, đó chỉ là một giấc mơ, hay chỉ là một phép lạ. Đúng thế, đừng mơ mộng nữa mà phải trở về với thực tế. Thời buổi buổi bây giờ phép lạ rất họa hiếm và chỉ xảy ra trong những trườn họp đặc biệt mà thôi.
Trở lại với các môn đệ. Trước hết Chúa Giêsu sai các ông đến với những người Do Thái, những con chiên lạc của nhà Israen, rồi sau đó, đến với các dân tộc. Các ông đã lên đường và hăng hái rao giảng:
- Nước Trời đã đến gần.
Trải qua hai ngàn năm, sứ mạng truyền giáo, sứ mạng rao giảng Tin Mừng vẫn còn là một sứ mạng cấp bách, bởi vì trên toàn thế giới mới chỉ có hơn 30% dân số nhận biết Đức Kitô, trong đó người công giáo chỉ chiếm có 17% mà thôi. Còn tại Việt Nam, số người công giáo chưa được 10%.
Sứ mạng truyền giáo, sứ mạng rao giảng Tin Mùng không phải là một sứ mạng được dành riêng cho các linh mục và tu sĩ. Trái lại, phải là một sứ mạng chung của mọi Kitô hữu. Bởi vì đã là Kitô hữu, chúng ta đều có bổn phận phải làm cho thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô, tức là Giáo hội, được phát triển, được lớn lên. Tuy nhiên, chúng ta đã thực thi sứ mạng trọng đại ấy như thế nào ? Chúng ta đã góp phần vào công cuộc truyền bá đức tin của Giáo hội ra làm sao ? Đừng hỏi rằng Giáo hội đã làm được những gì cho tôi, nhưng hãy tự vấn lương tâm xem tôi đã làm được những gì cho Giáo hội ?
Một chàng thanh niên quí phái đang thong thả bước đi trên một con đường tại vùng quê nước Ý, đi ngược chiều, có một bà già quê ăn mặc rách: TN 11-A31
Một chàng thanh niên quí phái đang thong thả bước đi trên một con đường tại vùng quê nước Ý, đi ngược chiều, có một bà già quê ăn mặc rách rưới. Cảm động vì thân hình tiều tụy ấy, chàng thanh niên bước tới ân cần nhã nhặn an ủi, rồi chàng lấy ví ra tặng cho bà cụ tất cả số tiền mang theo. Cử chỉ nhân ái và món quà của chàng thanh niên đã khiến bà cụ xúc động, và khi được biết chàng thanh niên đó là người Công giáo, bà hứa mỗi ngày đọc một tràng chuỗi cầu nguyện cho anh được làm linh mục. Ngày tháng trôi qua, chàng thanh niên đã quên hẳn, không còn nhớ gì chuyện gặp bà cụ ấy, nhưng ít năm sau, lời cầu nguyện chân thành của bà cụ nghèo khổ ấy đã được Chúa chấp nhận. Anh trở thành linh mục, và còn hơn thế nữa, trở thành một Đức Giáo Hoàng thời danh, đó là Đức Lê-ô XIII.
Kể lại câu chuyện trên tôi muốn nói rằng: tất cả chúng ta hãy cầu nguyện, hãy cầu xin Chúa ban nhiều thợ gặt, vì lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Hơn nữa, chúng ta cũng cầu xin cho các thợ gặt của Chúa trở thành những thợ gặt lành nghề, những thợ gặt nhiệt tâm làm cho nhiều người biết Chúa và đưa nhiều linh hồn về kho lẫm Nước Trời.
Quả thật, cánh đồng lúa thật bao la mênh mông, hàng triệu triệu người chưa biết Chúa, nhưng ai sẽ đem Tin Mừng cứu rỗi cho những người ấy ? Ai sẽ mang Chúa đến cho những tâm hồn chưa biết Chúa ấy ? Ai sẽ là chứng tá sống động của Thiên Chúa giữa một thế giới ngày càng lãnh đạm đối với những lời giảng dạy của Chúa ? Chúng ta hãy cầu xin chủ ruộng gửi thêm thợ gặt. Thiên Chúa là chủ ơn cứu chuộc. Muốn có nhiều người xung phong vào cánh đồng phì nhiêu kia, Chúa bảo chúng ta phải cầu nguyện. Cầu nguyện để Chúa ban nhiều thợ gặt và nhiều thợ gặt lành nghề, đó là công việc của mỗi người. Chúng ta có thể làm công việc đó bất cứ lúc nào và không bao giờ có gì giới hạn cả. Hơn nữa, chúng ta phải coi việc cầu nguyện này như một bổn phận thường xuyên, một nhiệm vụ hàng ngày của chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì đã có những người ưng thuận làm linh mục, làm thừa sai để giúp đỡ chúng con, nếu các vị đó cũng thích đời sống dễ dãi, thích có một gia đình ấm cúng như chúng con, thì không biết hiện giờ thân phận linh hồn chúng con sẽ ra sao ? Và nếu đâu đâu cũng vậy, thì thế giới này sẽ như thế nào ?
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa đã ban cho các linh mục ý chí can đảm để sẵn sàng hy sinh, nhờ các ngài mà chúng con có bánh trường sinh nuôi dưỡng linh hồn, nhờ các ngài mà chúng con thành lập được những gia đình vững chắc, nhờ các ngài mà chúng con được tẩy sạch trong bí tích Giải tội, nhờ các ngài mà chúng con được chết bình an.
Lạy Chúa, chúng con cầu cho công việc của các linh mục. Xin Chúa cho các ngài thành công, nhưng đừng cho các ngài khải hoàn. Nếu các ngài có gặp thất bại, xin Chúa đừng để các ngài thất chí, bởi vì biểu hiệu một công việc đẹp lòng Chúa không phải tại thành công hay thất bại, nhưng chính là tình yêu Chúa. Xin Chúa gìn giữ các linh mục trong tình yêu Chúa.
Lạy Chúa, chúng con xin Chúa cho các linh mục trở thành những nhà mô phạm đối với trẻ em, những nhà chuyên môn về vấn đề gia đình, những nhà tâm lý uyên thâm đối với thanh thiếu niên, những nhà thông thái và đầy kinh nghiệm trong tòa giải tội. Xin cho các linh mục biết đáp lại tất cả mọi lời chào, không phân biệt của ai, khi gặp họ ở đường phố, và nhất là biết trả lời cho tất cả mọi người với nụ cười luôn nở trên môi, cho dù trong lòng đang xao động vì phong ba và thể xác đang rã rời vì công vụ.
Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con biết phê bình các linh mục với tất cả tấm lòng quảng đại, vì công việc của các ngài quá nhiêu khê, phức tạp. Xin Chúa ban cho chúng con ơn biết tha thứ những khi các ngài lầm lỗi và thông cảm những khi các ngài nóng nảy, gắt gỏng.
Lạy Chúa, xin cho chúng con bền chí cầu nguyện cho các linh mục, bởi vì cầu nguyện cho các ngài là ơn quí trọng nhất đối với chúng con và hữu ích nhất đối với các ngài.
Trên báo Dấn Thân số 6 tháng 6 năm 2003, Trần Duy Nhiên tâm sự về “Mẹ Giáo Hội: Tự Hào và Xót Xa” như sau: “Họ đã vẽ lên một cơ chế: TN 11-A32
Trên báo Dấn Thân số 6 tháng 6 năm 2003, Trần Duy Nhiên tâm sự về “Mẹ Giáo Hội: Tự Hào và Xót Xa” như sau: “Họ đã vẽ lên một cơ chế quyền bính, hẹp hòi và áp bức. Không ít lần tôi có dịp gặp những linh mục đường hoàng là “cha: người ta, với quyền sinh sát thiêng liêng: các ngài ấy sẵn sàng giải tội khi tín đồ xúc phạm đến Chúa, và cũng chóng vánh “rút phép thông công” khi người ta xúc phạm đến bản thân mình, đến uy quyền mình. Tôi đã nhìn thấy những thánh đường nguy nga giữa đám giáo dân nghèo hèn rách nát, và ngày ngày đám dân nghèo ấy phải đến thờ phượng một Thiên Chúa vô tâm, thật cao vời nhưng cũng thật dửng dưng trước cái khốn cùng của con người”.
Đọc bài chia sẻ này tôi rất “xót xa”, vì tác giả đã đưa ra những nhận xét thực tế trái ngược với những điều Chúa Giêsu đã làm và giảng dạy trong bài Phúc âm hôm nay.
Sứ vụ thiên sai của Chúa Giêsu phát xuất từ một tình yêu thương tha thiết đối với nhân loại. Chúa Giêsu thương dân Do Thái khi Ngài nhìn thấy đám đông không có người lãnh đạo. Những quyền lực chính trị và tôn giáo đặt ra những loại thuế và luật lệ quá nặng nề để bóc lột dân chúng vì ích lợi cá nhân của những người lãnh đạo. Dân chúng lúng túng và hoang mang: “Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”.
Theo William Barclay, chỉ “splangchna” đã được dùng để diễn tả lòng thương xót của Chúa Giêsu, là tiếng mạnh mẽ nhất trong ngôn ngữ Hy Lạp. Nó có nghĩa là ruột, diễn tả sự sâu xa nhất của con người. Ngôn ngữ Việt Nam cũng nói “máu chảy ruột mềm” để diễn tả tình nghĩa cha mẹ, anh em với nhau. Nếu một người đau ốm hoặc chết đi, cả nhà đều đau khổ như chính mình bị đứt từng khúc ruột vậy !
Các Phúc âm đã diễn tả những hoàn cảnh làm cho Chúa Giêsu phải chạnh lòng thương khi đứng trước đau khổ của con người: đối với người bệnh, người mù, người bị quỉ ám ; trước nỗi buồn: của bà góa thành Nain khóc thương con trai đã chết ; trước sự đói khát của dân chúng ; trước nỗi cô đơn, bị bỏ rơi của người bệnh phong.
Tôi trông thấy người đàn bà ngồi ngủ trước thềm nhà thờ khi đã đóng cửa. Mùa hè bà biến mất. Lúc sang đông, gió lạnh, bà ngồi co ro trong chiếc áo lạnh dài màu xám, đầu cuốn khăn len, chân đi giầy bút cao trên mắt cá, với một túi đồ có mấy tờ báo. Bà không nói chuyện với ai, chẳng thèm nhìn ai, lặng lẽ ngồi gục đầu xuống ngủ trước những con mắt dòm ngó của khách qua lại bên đường. Tôi đoán bà vô gia cư, nhưng không bao giờ nói chuyện hay xin ai cái gì, lại có vẻ bất cần đời.
Bà đã ngồi ngủ mỗi buổi tối ngoài trời giá lạnh như vậy khoảng mấy tuần lễ rồi. Tôi thắc mắc bà ấy từ đâu đến ? Ở đâu ? Muốn gì ? Ăn uống ra sao ? Đi vệ sinh ở đâu ? Bà giải quyết thế nào đối với những nhu cầu tối thiểu của một con người cần phải có để sống ? Sự hiện diện của bà trước ngôi thánh đường, và trước tòa nhà xứ ba lầu làm tôi áy náy lương tâm mỗi khi đi qua lại nhìn thấy bà. Tôi liên tưởng đến dụ ngôn ông nhà giầu và anh Ladarô trong Phúc âm của Luca 16, 19-31.
Đôi lần tôi thử chào, bà làm thinh. Có một lần tôi dừng lại hỏi thăm, bà xua tay như đuổi tà ! Trời về khuya, mùa đông lạnh, tôi vào nhà xứ nằm trên giường nệm ấm áp, nhưng tiếng nói từ bên trong tâm hồn vẫn thôi thúc tôi phải làm gì. Có lẽ không bao giờ thay đổi được cuộc đời của bà, nhưng cũng đừng quên lãng hoàn toàn sự hiện diện của bà. Hãy có sự xúc cảm của con tim. Hãy tỏ ra có lòng thương xót. Đừng hững hờ kẻo sẽ trở nên chai đá !
Sau mấy lần “Hello”, bà có vẻ cởi mở hơn. Bà đưa tay vẫy chào mỗi khi tôi qua lại. Tôi đưa tiền bà không lấy, lại còn xua đuổi tôi hơn nữa: “Đi đi, đi đi !” Tôi chưa nghe bà nói câu nào, chỉ diễn tả bằng cử chỉ tránh né và từ chối. Có một lần thấy bà đang uống lon “coke”, tôi dúi vào tay bà 5 đôla và chỉ vào lon “coke”. Bà gật đầu như nói cám ơn, nhưng cũng e ngại như muốn nói hãy để tôi yên. Tôi không muốn làm bà cảm thấy bất an, đành bỏ đi. Sau đó tôi không thấy bà xuất hiện nữa.
Đôi khi suy nghĩ về bà, tôi tự hỏi tại sao tôi đã không làm gì hơn nữa để tỏ lòng thương xót ? Cho bà một hay hai bữa ăn chẳng hạn, nhưng còn những ngày khác trong suốt cuộc đời bà thì sao ? Có rất nhiều người trên thế giới cần đến sự giúp đỡ, nhưng phải bắt đầu từ đâu ? Giúp bao nhiêu thì đủ ? Lòng thương xót có một khởi đầu, nhưng có kết thúc không ? Chắc chắn rằng chỉ một nỗ lực làm phước cho một người không phải là điều Chúa Giêsu muốn kêu gọi tôi hôm nay trong bài Phúc âm.
Lòng thương xót đối với dân chúng là động lực cho sứ vụ Thiên Sai của Đức Kitô. Chính Ngài đã chết và hy sinh cho nhân loại. “Chạnh lòng thương” tiếng Anh dịch là “compassion”, nguyên gốc từ tiếng La tinh “cum-patior”, có nghĩa là cùng chịu đau khổ với, Mẹ Têrêsa Calcutta đã khuyên rằng:
“Chúng ta hãy cho đi, hãy ban phát tình yêu chúng ta đã lãnh nhận cho những người xung quanh. Hãy cho đi, cho đến khi nó trở thành một việc hy sinh vì tình yêu đích thực luôn đòi hỏi hy sinh. Đó là lý do vì sao các bạn phải yêu cho đến khi chính tình yêu đó làm các bạn đau khổ”.
Trước khi chọn 12 môn đệ, Chúa Giêsu cho họ nhìn thấy một viễn tượng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Mẹ Têrêsa Calcutta đã cụ thể: TN 11-A33
Trước khi chọn 12 môn đệ, Chúa Giêsu cho họ nhìn thấy một viễn tượng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Mẹ Têrêsa Calcutta đã cụ thể hóa viễn tượng này trong thế giới ngày nay như sau:
Người nghèo khổ bất hạnh “không phải vì thiếu ăn thiếu mặc. Không, họ là những người đói khát tình thương mến, đói khát một sự cảm thông, một tình bằng hữu. Họ đau khổ vì sự cô độc, vì mặc cảm không được ai ưa, bị khước từ, họ là những người nghèo khổ trong tâm hồn. Những đói khát này còn đau khổ hơn nhiều sự đau khổ vì thiếu ăn thiếu mặc, hoặc vì nghèo tiền nghèo của”.
Nhận xét về thực trạng của thế giới ngày nay, Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Người ta không có thì giờ để ý đến những người nghèo, sự kiện này là nguyên nhân gây nhiều đau khổ. Ôi còn một nỗi cô đơn khủng khiếp nữa đang giam hãm người già cả trong một căn phòng nhỏ, họ hoàn toàn bị gia đình và bạn bè bỏ rơi… Tôi nghĩ đây là bi kịch thảm hại nhất đang xảy ra trong nhân loại ngày nay”.
Sau khi đối diện với một viễn tượng thiếu thốn tình thương của dân chúng và sự hững hờ của con người, Chúa Giêsu đã chọn ra 12 môn đệ để các ông cho đi và ban phát tình yêu. Mười hai tông đồ có vẻ như biểu tượng cho mười hai bộ lạc của Israel, con số hoàn hảo của một Israel mới. Trong số họ có những con người bình thường làm nghề đánh cá như Simon Phêrô và Andrê, Giacôbê và Gioan. Trong việc lựa chọn những người này, William Barclay đã đưa ra nhận xét:
“Họ là những người rất bình thường. Họ không có của cải, không có bằng cấp cao, không có địa vị xã hội. Họ được chọn ra từ những con người tầm thường trong xã hội.
Chúa Giêsu đã chọn những con người tầm thường làm những điều bình thường một cách khác thường, Ngài nhìn thấy trong mỗi người, không phải cái mà người đó đang có, nhưng cái họ có thể trở nên dưới sức mạnh và ảnh hưởng của Ngài. Không ai được phép nghĩ rằng mình không có gì để dâng hiến cho Chúa Giêsu, vì Ngài có thể dùng cái tầm thường nhất mà con người dâng hiến để thực hiện những việc vĩ đại”.
Có một cuốn phim diễn tả về cuộc thế chiến thứ hai mang tựa đề là “The Dirty Dozen”. Câu chuyện kể về một người sĩ quan Mỹ, do Lee Marvin đóng vai này, được lệnh phải giải thoát một nhóm người lính Mỹ đang bị nhốt trong trại tù của Đức Quốc Xã. Công tác nguy hiểm này được cấp trên định giá là chỉ có 10/o thành công mà thôi. Do đó thay vì lựa chọn những người lính xuất sắc và tinh nhuệ nhất của Mỹ, Marvin đã tới nhà tù và lựa chọn những tên ăn trộm, giết người… đã ở tù lâu năm, có kẻ đã lãnh án tử hình nữa. Sau khóa huấn luyện căn bản, họ đã chọn ra mười hai người, vì thế cuốn phim mới mang tên “The Dirty Dozen”.
Khi xem phim chúng ta có thể nhận thấy sự khôn ngoan của người sĩ quan đã thực hiện sự chọn lựa này. Tất cả những con người này đã có một bản năng tự vệ sống còn rất mãnh liệt. Họ có một giác quan thứ sáu để biết cách thoát khỏi nguy hiểm. Mỗi người cũng có những tài năng đặc biệt rất hữu ích cho sứ mạng. Người thì có thể mở khóa nhà tù, người khác có võ thuật chiến đấu bằng tay chân… Tất cả đều có thể nằm yên bất động mà đối phương không thể nhận ra họ.
Một phần nào của cuốn phim cũng nói lên sự thành công của những người bị xã hội coi là cặn bã. Dưới sự hướng dẫn của vị sĩ quan, những con người bị thua này đã trở thành những anh hùng.
Chúa Giêsu đã chọn 12 tông đồ không phải hoàn toàn là những người bị coi là thua cuộc trong xã hội, nhưng họ cũng không phải là những người thắng cuộc. Họ không phải là những người ưu tú trong xã hội Do thái. Không có ai trong họ đã hoàn tất công việc gì được xếp vào loại đặc biệt. Thánh Matthêu đã không liệt kê ra những khả năng trí tuệ hay phẩm hạnh đặc biệt của họ. Thế nhưng họ đã rao giảng và dân chúng trở lại với Chúa. Họ đã dạy và dân chúng đã nghe. Họ đã chữa lành bệnh tật và trừ được ma quỉ. Họ đã thi hành chức vụ thừa tác vụ tông đồ với lòng yêu thương dân chúng.
“Thương người như thể thương thân” Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ tham gia vào sứ vụ của Ngài từ nguyên tắc đạo lý nhân bản này. Ngài cũng kêu gọi tất cả chúng ta. Sứ vụ tông đồ bắt đầu từ lòng thương xót đối với dân chúng. Có lẽ chúng ta không đủ các tiêu chuẩn khác, nhưng khả năng yêu thương của con tim thì ai cũng có. Chúa chỉ kêu gọi chúng ta biết mở rộng tâm hồn, biết hy sinh và cho đi: “Anh em đã được cho không thì cũng phải cho không như vậy. Đừng sắm vàng bạc, hay tiền đồng để thắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày hay cầm gậy”.
Những tin tức về cuộc chiến tại Yugoslavia cho biết, Liên Minh Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương đã ngưng ném bom xuống Yugoslavia, quân: TN 11-A34
Những tin tức về cuộc chiến tại Yugoslavia cho biết, Liên Minh Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương đã ngưng ném bom xuống Yugoslavia, quân đội cảnh sát và các lực lượng bán quân sự của Secbia đã bắt đầu rút lui ra khỏi Kosovo, chấm dứt cuộc thanh lọc chủng tộc đánh vào những người thuộc địa sắc tộc Albani. Các lực lượng dàn giải hòa bình có mặt tại Kosovo để bảo đảm cho người tỵ nạn Albani được trở về quê hương bình an. Cuộc chiến tại Yugoslavia xem như đã kết thúc.
Mỗi một cuộc chiến tranh đều là một bài học cho nhân loại. Đây có lẽ là lúc thế giới nên nhìn lại những gì đã diễn ra trong những năm qua. Khi Đệ Nhị Thế Chiến vừa kết thúc, thủ tướng Anh Quốc, ông Winton Churchill đã thốt lên như sau: "Chiến thắng nào cũng buồn thảm cả, không ai thắng mà cũng chẳng có ai bại, chỉ có chết chóc, đổ vỡ hoang tàn mà thôi".
Liên Minh Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương đã tỏ rõ được sức mạnh của khí giới, của quân sự, liên minh này đã đạt được mục tiêu mong muốn, và dường như muốn đưa ra một tiên liệu rằng, bạo động là phương thế hữu hiệu nhất để giải quyết những cuộc tranh chấp của con người. Thế nhưng, phải chăng sử dụng bạo động để giải quyết các cuộc tranh chấp giữa con người không là một thất bại của nhân loại? Những gì đã diễn ra tại Yugoslavia, rồi ra có lẽ sẽ được lặp lại một nơi nào đó trên trái đất của chúng ta.
Vào giữa lúc tiến bộ khoa học ngày càng là những bước tiến khiến cho chúng ta phải choáng váng, thì tại nhiều nơi trên thế giới, chiến tranh, chết chóc vẫn cứ tiếp diễn, đói khổ vẫn còn đó, và nhất là những quyền tự do cơ bản nhất của con người vẫn còn bị chối bỏ và chà đạp. Chúa Giêsu mời gọi Giáo Hội và các tín hữu Kitô chúng ta nhìn vào thế giới ấy bằng chính ánh mắt của Ngài. Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng, cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giêsu đã nhìn vào thế giới mà đám đông đi theo Ngài là đại biểu, Ngài đã nhìn vào thế giới ấy và chạnh lòng thương vì họ vất vưởng bơ vơ như chiên không có người chăn dắt. Đám đông ấy, Chúa Giêsu đã hai lần thực hiện phép lạ làm cho bánh và cá biến ra nhiều để cho hằng ngàn người được ăn uống no nê. Ngài cũng đã chữa lành bệnh tật cho nhiều người, Ngài cho người què được đi, người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm được nói, Ngài còn làm cho kẻ chết sống lại nữa.
Những người Do Thái thời Chúa Giêsu và có lẽ nhiều người ngày nay nghĩ rằng, thế giới của chúng ta sẽ là thiên đàng nếu Chúa Giêsu chỉ cần vung cây đũa thần của Ngài ra làm đủ các phép lạ để cho loài người không phải đổ mồ hôi sôi con mắt mới có của mà ăn, mà nhất là không còn bệnh tật ốm đau và chết chóc nữa. Họ mong đợi một thứ thiên đàng ấy, cho nên không những khước từ Chúa Giêsu mà còn treo Ngài trên thập giá. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không đến như một kinh tế gia hay một vị lương y, một vị thủ lãnh thế gian, Ngài đến làm cho con người được sống một cuộc sống dồi dào, Ngài đã loan báo sự sống sung mãn ấy và đã thể hiện sự sống sung mãn ấy bằng cả một cuộc đời hiến thân hy sinh mà cái chết trên thập giá là biểu hiện tột đỉnh.
Quả thật, con người chỉ thực sự sống sung mãn nếu cùng đi theo con đường của Chúa Giêsu mà thôi, nhưng tiếc thay từ hơn 2,000 năm qua nhân loại vẫn như một đám đông thời Chúa Giêsu, họ vất vưởng bơ vơ như chiên không có người chăn, họ đi tìm kiếm những của cải khác với những giá trị mà Chúa Giêsu đã mang đến. Chiến tranh, đói khổ, chết chóc vẫn còn đó. Kỳ thực, trái đất của chúng ta không bao giờ thiếu lương thực cho cả nhân loại, thế giới cũng không bao giờ thiếu tiền, thiếu của, người ta đã chẳng thừa tiền, thừa bạc để sản xuất những loại khí giới đó sao? Thế giới của chúng ta rất túng đói là túng đói sự công bình, túng đói tình người, túng đói tình liên đới. "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và mọi sự khác sẽ được ban dư đầy cho các con". Chúa Giêsu đã sai các môn đệ ra đi để loan báo về Nước ấy. Ngày nay Ngài cũng uỷ thác sứ mệnh ấy cho mỗi một người tín hữu Kitô chúng ta. Truyền giáo nghĩa là được sai đi để loan báo Nước Trời, không phải chỉ một số người nào đó, hay chỉ là thành phần ưu tuyển nào đó trong Giáo Hội, mà là nghĩa vụ của tất cả những ai đã lãnh nhận một cách nhưng không ơn Đức Tin. Thực thế, sứ mệnh truyền giáo ấy trong môi trường của chúng ta đang sống hiện nay, cụ thể là tại Việt Nam của chúng ta, không gì khác hơn là sống cho đến cùng và triệt để những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải làm chứng cho niềm tin nào? Chúng ta sẽ loan báo nước nào nếu chúng ta cũng sống như mọi người nghĩ là chúng ta cũng gian lận trong mánh mung, cũng đút lót, cũng tham lam và ích kỷ, cũng như thỏa hiệp với các sinh mệnh của sự dữ, để mặc ai nấy sống và tìm lợi lộc cho cá nhân. Giáo Hội của chúng ta không có lấy một sư đoàn nào trong tay, Giáo Hội của chúng ta cũng chẳng có khả năng chuyên môn, phương tiện để làm kinh tế, nhưng nếu tất cả mọi người tín hữu Kitô chúng ta triệt để tìm kiếm và xây dựng những giá trị của Nước Trời, thì chắc chắn chúng ta sẽ góp phần rất lớn vào việc thay đổi bộ mặt của xã hội.
Đức Giêsu thấy đám đông theo Ngài, vất vưởng bơ vơ như chiên không người chăn dắt. Người chạnh lòng thương. Lòng thương bắt nguồn từ con: TN 11-A35
Đức Giêsu thấy đám đông theo Ngài, vất vưởng bơ vơ như chiên không người chăn dắt. Người chạnh lòng thương.
Lòng thương bắt nguồn từ con tim biết nhói đau trước nỗi khổ của người khác.
Đức Giêsu đã làm tất cả để xoa dịu, đỡ nâng và mời gọi các môn đệ cộng tác trong công cuộc ấy. Trước một thế giới buồn, Ngài sai họ rao giảng Tin Mừng về Nước Trời gần đến. Trước một thế giới bệnh hoạn, Ngài cho họ khả năng chữa lành. Trước một thế giới bị nô lệ cho thần ô uế, Ngài cho họ quyền đem lại tự do. Trước một thế giới đầy chết chóc, Ngài cho họ quyền trả lại sự sống.
Đức Giêsu sai các môn đệ đi vào cuộc đời, đi hai người một để nâng đỡ nhau. Ngài không chọn những người giỏi giang, học thức, nhưng chọn những người đánh cá đơn sơ và quảng đại.
Trước hết, Ngài sai họ đến với chính dân tộc của họ, để rồi sau này đến với cả thế giới.
Đức Giêsu muốn họ cho đi tất cả những gì đã nhận mà không đòi hỏi chút quyền lợi hay đặc ân nào.
Hôm nay, Đức Giêsu mời chúng ta nhìn thấy đám đông gần 6 tỉ người trên mặt đất. Ngài mời chúng ta thấy 50 ngàn trẻ em chết đói mỗi ngày. Từ 12-18 triệu người chết đói một năm. 1,3 tỉ người sống trong cảnh đói nghèo cùng cực. 800 triệu người thất nghiệp, một tỉ người lớn mù chữ.
Ngài mời chúng ta thấy những trẻ em bị sida ở Châu Phi, những người trẻ trí thức bị bơ vơ ở Nhật, những sa đọa và hưởng thụ, ma tuý và tội ác, những hố sâu hơn giữa các nước giàu và nước nghèo, giữa người giàu và người nghèo, ngay cả trong các nước tiên tiến.
Ngài mời chúng ta nhìn thế giới này bằng đôi mắt của Ngài, nhìn thấy mà chạnh lòng thương. Chính cái nhìn đầy chạnh thương đưa ta lên đường.
Thế giới hôm nay cũng như hôm qua, vẫn là một thế giới cần đến ơn cứu độ. Người nghèo cần được tôn trọng phẩm giá, người giàu cần mở ra để thấy đời mình có ý nghĩa.
Chúng ta không bi quan trước thế giới hôm nay mênh mông nỗi đau, tràn ngập sự ác.
Tôi phải làm gì để chữa lành một thế giới bị thương?
Tôi phải nói gì với một thế giới không biết mình nô lệ?
Chỉ xin lên đường với Chúa Giêsu trong tin yêu, và xin Cha cho có nhiều người cùng tiếp bước.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thế giới hôm nay là một thế giới mang nhiều vết thương và đổ vỡ. Bạn phải làm gì để hàn gắn và chữa lành chúng trong khả năng của bạn?
Khoa học kỹ thuật giải quyết được một số vấn đề, nhưng lại đưa đến những vấn đề mới, phức tạp hơn. Bạn có thấy như vậy không? Làm sao để sự tiến bộ về vật chất không làm bạn bị thụt lùi về tinh thần?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin; vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống; vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống; vẫn có những người sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong... Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha. Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Hãy đi loan báo Tin Mừng” vừa là lời mời gọi khẩn thiết, vừa là lệnh truyền. Lời mời gọi này không phải chỉ có từ trong Tân Ước khi Chúa Giêsu: TN 11-A36
“Hãy đi loan báo Tin Mừng” vừa là lời mời gọi khẩn thiết, vừa là lệnh truyền. Lời mời gọi này không phải chỉ có từ trong Tân Ước khi Chúa Giêsu gọi nhóm 12 (Mt.10,1-8), mà đã có từ trong Cựu Ước, như Moisen, một con người không có tài ăn nói và cà lăm, nhưng Chúa dạy “ hãy đi, chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói những gì”(Xh.4,12), hoặc như tiên tri Giêrêmia “Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi. Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói”(Ger.1,7), mặc dầu tiên tri nại lý do còn trẻ, nhưng Thiên Chúa bắt phải thi hành, con người không có quyền từ chối. Như thế người được tuyển chọn làm xướng ngôn viên cho Thiên Chúa là người đã được tuyển chọn theo ý định của Thiên Chúa.
Khởi điểm cho sứ mạng truyền giáo của nhóm 12 cũng như của Giáo Hội là lòng xót thương của Chúa Giêsu. Xót thương là một cảm tình sâu sắc và mạnh mẽ mà Cựu Ước thường gán cho Đức Giavê Thiên Chúa (Xh.34,6; Hs.2,2-3; Ger.31,20…), trong Tân Ước từ ngữ này để nói về Chúa Giêsu, Ngài xót thương đòan lũ người nghèo nàn, đói khát, bị xao xuyến, sợ hãi như con chiên không người chăn giữ, nên Ngài gia ân giáng phúc cho họ và trao phó cho nhóm 12 nhiệm vụ tập họp đòan chiên lại(Jn.10,16). Đây qủa thật là một vinh dự lớn lao, nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm nặng nề. Chúa Giêsu đòi những người được sai đi cũng phải có tâm tình xót thương, nhân hậu như Ngài, và sẽ được Ngài ban cho quyền chữa lành mọi bệnh họan tật nguyền. Các ông là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, các ông chứng thực lời rao giảng bằng các phép lạ, và uy quyền của các ông là của chính Chúa Giêsu. Hãy mau mau tiếp nối sứ mạng của Ngài vì “ mùa màng nhiều, thợ gặt ít”(c.37).
Người tông đồ là người được sai đi, trước tiên đó là sáng kiến của Thiên Chúa được nhìn nhận qua sự tuyển chọn của Chúa Giêsu. Rồi sau đó Ngài sai phái họ đi truyền giáo. Về phía người tông đồ họ chỉ trở thành người tông đồ khi chấp nhận sự tuyển chọn đó bằng cách lắng nghe và vâng phục lời mời gọi ấy trong cuộc sống cụ thể mỗi ngày.
Người được sai đi hãy nhớ lời Chúa Giêsu nhắc nhở “ các ngươi đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy cho nhưng không”(Mt.10,8). Vâng, nhóm mười hai đã nhận được ơn gọi của Thiên Chúa để trở thành tông đồ trong khi các ông không đáng được. Rồi các ngài đã được sai đi truyền giáo, được có quyền năng như Chúa Giêsu. Các ông đã được một cách nhưng không vì tất cả là ơn ban của Thiên Chúa, vậy thì họ phải cho lại một cách nhưng không, không đòi hỏi điều gì ngòai việc biết rằng mình thực thi huấn lệnh của Chúa.
Chúng ta, những người đang tiếp nối sứ mạng của các tông đồ, chúng ta cũng phải có tinh thần phục vụ vô vị lợi ấy, vì những gì chúng ta đang có đều do hồng ân Thiên Chúa ban tặng nhưng không, nếu đem so sánh với nhiều người khác thì chúng ta chả là gì để đáng được gọi và sai đi, mặc dầu ngày nay việc tiếp tục chữa lành bệnh tật, trừ quỉ không như xưa, nhưng Giáo Hội truyền giáo sẽ không bao giờ tách biệt lời rao giảng với các dấu chỉ của lòng bác ái, vì đó là sức mạnh ban cho lòai người ơn cứu độ qua Đức Kitô.
Người được sai đi không vàng bạc, không tiền thắt lưng, đó là chân dung của người tông đồ từ bỏ mọi sự để sống cho Tin Mừng và vì Tin Mừng. Cho Tin Mừng và vì Tin Mừng là quyền năng của Thiên Chúa, người tông đồ phải cậy dựa vào sức mạnh ấy, chứ không phải vật chất. Vì thế, người được sai đi không mang theo bất cứ hành trang nào có thể gây vướng víu cho Tin Mừng, vì Tin Mừng. Không có gì phòng thân, chúng ta mới dễ dàng cậy dựa vào Thiên Chúa quan phòng, và khi thành đạt chúng ta mới nhận ra rằng: Đó là việc Thiên Chúa làm chứ không phải tôi làm ! Và nên nhớ: Người tông đồ rao giảng Tin Mừng thì sẽ sống nhờ Tin Mừng, dựa vào quyền năng của Chúa thì Chúa sẽ cung cấp cho mọi sự: vì làm thợ thì đáng nuôi thân.
Lạy Chúa, tình yêu đích thực luôn mời gọi chúng con mở rộng tâm hồn để đón nhận tình yêu thương của Thiên Chúa và sẵn sàng đem Chúa đi vào thế giới đầy những biến động như hiện nay. Xin cho chúng con có tâm hồn xót thương của Chúa và sẵn sàng xả thân vì anh em, để mọi người được đón nhận Tin Mừng cứu độ.
Khi nói đến vấn đề truyền giáo, có lẽ theo thói quen, tôi và quý ông bà anh chị em thường nghĩ ngay đến các nhà thừa sai đang làm việc tại các: TN 11-A37
Khi nói đến vấn đề truyền giáo, có lẽ theo thói quen, tôi và quý ông bà anh chị em thường nghĩ ngay đến các nhà thừa sai đang làm việc tại các nơi hẻo lánh, xa xôi. Cùng với suy nghĩ đó, một cách mặc nhiên, chúng ta coi công việc này là của các Linh mục, tu sĩ hay một số người nào đó, chẳng liên quan gì đến chúng ta. Thế nhưng, ngay từ đầu lịch sử của Giáo Hội thì không phải như thế, sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Còn những người bị phân tán, thì đi qua đâu, họ đã giảng Lời Tin mừng ở đó” (Cv 8, 4). Như thế, tất cả các kitô hữu đầu tiên đã thực hiện việc loan báo Tin mừng, hay nói một cách khác, họ là sứ giả của Tin mừng cho tất cả những ai họ gặp gỡ, nhất là những người chưa tin. Nếu truyền giáo là như thế, thì ngay tại địa bàn của chúng ta đang rất cần thực hiện công việc loan báo Tin mừng này.
Theo cuốn Niên Giám 2004 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thì số tín hữu Công Giáo năm 2003 trên toàn quốc là 5.572.525 người trên tổng số dân Việt Nam là 80.175.578, chiếm tỉ lệ khoảng 6,95%. Một tỉ lệ thật khiêm tốn. Và cũng chẳng đâu xa, ngay tại địa bàn giáo xứ Hải Đăng của chúng ta đây với số giáo dân khoảng 1400 người (1322 người theo báo cáo 2004) so với khoảng 5000 người tạm trú (1100 nhà trọ), chiếm tỉ lệ khoảng 28%, nghĩa là cứ 100 người đang cùng sống với chúng ta, thì có 72 người chưa tin vào Thiên Chúa.
Như thế, còn rất nhiều người đang sống quanh ta chưa biết đến Tin mừng tình yêu của Nước Thiên Chúa và, tôi thiết nghĩ, nếu Chúa Giêsu sống ở thời đại chúng ta, chắc hẳn Ngài cũng “động lòng thương xót họ; vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn” (Mt 9, 36). Và rồi, Ngài cũng sẽ sai chúng ta lên đường như đã sai các môn đệ khi xưa.
1. Bổn phận truyền giáo của người kitô hữu
Bài Tin mừng hôm nay, cho chúng ta thấy lòng thương xót của Đức Giêsu đối với đám đông dân Do thái theo Chúa khi xưa. Họ đang khao khát nghe lời Chúa dạy. Họ mong ước được Chúa giải thoát cho họ khỏi gánh nặng của lề luật mà các Luật sĩ, kinh sư chất trên vai họ. Đứng trước tình cảnh đó, Chúa đã chọn gọi các tông đồ và sai các ông cùng cộng tác với Ngài trong việc loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Chắc hẳn chúng ta còn nhớ lệnh truyền cuối cùng của Đấng Phục Sinh trước khi Ngài về Trời: “Các ngươi hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân … dạy chúng giữ hết mọi điều Ta đã truyền cho các ngươi” (Mt 28, 19). “Cũng như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các ngươi” (Ga 20, 21).
Khi được rửa tội, chúng ta cũng được tuyển chọn làm môn đồ của Chúa, nhưng để thực sự là môn đồ của Chúa, chúng ta cần phải nghe và tuân giữ lời của Ngài như lời cảnh báo của Chúa trong bài sách Đệ Nhị Luật “nếu các ngươi nghe lời Ta và giữ giao ước Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta được tách biệt khỏi mọi dân,… Đối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế, một dân tộc hiến thánh” (Đnl 19, 5-6). Và nếu là môn đồ của Ngài, tôi và quý vị cũng được Ngài chia sẻ sứ mạng và sai chúng ta đi làm sứ giả loan báo Tin mừng cứu độ của Ngài.
Như thế, sứ mạng loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa không phải là một việc làm tuỳ ý hay theo sở thích của chúng ta, nhưng là một sứ mạng của tất cả những ai mang danh là kitô hữu vì chúng ta đã nhận được ân huệ nhưng không của Thiên Chúa, chúng ta cũng có bổn phận phải cho nhưng không (x. Mt 10, 8). Thế nhưng, chúng ta phải loan báo Tin mừng nào cho anh em chúng ta?
2. Sự chết và sống lại của Đức Kitô: Tin mừng cần loan báo Khi sai các môn đệ lên đường, Đức Giêsu trao cho các ông các sứ điệp cần rao giảng, đó là: “Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ” (Mt 10, 7-8a).
- Trước hết, “Nước Trời đã đến gần”: mà ở đâu có Thiên Chúa, thì ở đó là Nước Trời, là Nước Thiên Chúa. Như thế, nhiệm vụ đầu tiên của người môn đệ là phải chứng tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa trần gian, hay nói một cách khác, nhiệm vụ đầu tiên của người môn đệ là loan báo cho mọi người biết về Đức Kitô, vì Ngài chính là sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa ở trần gian này (x. Ga 1, 18). Ý thức điều đó, trong lời rao giảng của mình, thánh Phaolô đã coi việc Đức Kitô chết cho chúng ta theo kỳ hẹn, ngay khi chúng ta còn là tội nhân là một biểu tỏ cụ thể của tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta (x. Rm 5, 6-8).
Kế đó, Đức Giêsu dặn dò chúng ta: “chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung”, tức là Ngài muốn quý ông bà anh chị em và tôi hãy đem niềm vui và hy vọng đến cho những ai đang sầu khổ, thất vọng, giúp họ vượt qua những thử thách, gian truân trong cuộc sống; hãy nâng đỡ anh chị em, không phân biệt người đó là ai, vượt qua mọi thành kiến, giúp họ hoà nhập vào đời sống cộng đoàn trong tình yêu của Thiên Chúa.
Hay nói một cách khác, Ngài muốn các ông loan báo cho mọi người Tin mừng về sự bình an, và hoà bình; nói cho mọi người biết về Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, một tình yêu cứu độ, giao hoà chúng ta lại với Thiên Chúa nhờ cái chết của Đức Kitô. Và không chỉ cho những người xa lạ, mỗi người chúng ta cũng phải trở thành sứ giả loan báo Tin mừng cho những người trong gia đình chúng ta.
Trong thế giới hôm nay, để chu toàn nhiệm vụ là một sứ giả của Tin mừng, tôi thiết nghĩ, điều đầu tiên là cần có một đời sống cầu nguyện như lời căn dặn của Chúa Giêsu: “Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”. Cầu nguyện, nghĩa là chúng ta ý thức mọi sự là do Chúa.
Kế đó, là hãy sống trước điều chúng ta rao giảng bởi vì: “lời nói thì lung lay, nhưng gương bày mới lôi kéo”. Do đó, một gia đình thuận hoà, vợ chồng biết yêu thương, nhường nhịn, chia sẻ gánh nặng cuộc sống cho nhau. Cha mẹ biết quan tâm hướng dẫn dạy dỗ con cái trở nên những thành viên tốt trong cộng đoàn giáo xứ, khu xóm để chúng không bị bơ vơ như đàn chiên không người chăn. Hay một cộng đoàn giáo xứ mà trong đó, các bạn trẻ, các thanh thiếu niên biết kính trên, nhường dưới, sẵn sàng thông cảm và cộng tác trong mọi công việc của gia đình, của giáo xứ với tinh thần trách nhiệm và vui vẻ. Và nếu toàn thể giáo xứ chúng ta cùng nhau sống một tinh thần liên đới thật sự “mình vì mọi người”, mỗi người không chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình mà luôn đặt lợi ích và quyền lợi của tha nhân, của cộng đoàn lên trên, thì thiết nghĩ, đó là những lời loan báo hữu hiệu và thiết thực nhất.
Chớ gì, nhờ sức mạnh của Thánh Thể mà chúng ta sắp lãnh nhận đây, mỗi người chúng ta sẽ sống xứng đáng là một sứ giả của Tin mừng Nước Thiên Chúa. Nhờ đó, trong từng gia đình, khu xóm của chúng ta không còn những “con chiên bơ vơ, vất vưởng vì không có người chăn”. Amen.
Lúc 16 tuổi, tôi không biết mình cận thị. Một giáo viên cứ thấy tôi nheo mắt nhìn bảng đen, ông đề nghị tôi đi khám ở một bệnh viện gần đấy: TN 11-A38
Lúc 16 tuổi, tôi không biết mình cận thị. Một giáo viên cứ thấy tôi nheo mắt nhìn bảng đen, ông đề nghị tôi đi khám ở một bệnh viện gần đấy. Tôi làm theo và hởi ơi quả là một khai sáng khi người y sĩ lựa chọn cho được một cặp kính vừa mắt. Tôi có thể nhìn rõ những chữ nổi lên từ khoảng cách trước kia là những nét mờ mịt. Xin cảm ơn vị giáo viên tốt bụng đã khám phá ra bệnh của tôi và đề nghị đi thử mắt. Cám ơn ông vì tôi được nhìn rõ những nét mà tôi phải bỏ qua vì mắt kém. Đây chỉ là vài hàng khai mào cho Tin mừng hôm nay. Xin lưu ý đoạn đầu: “Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”. Rõ ràng Chúa Giê-su không kém mắt. Ngài nhìn rõ những nhu cầu của đám đông mà quyền bính tôn giáo lúc ấy không thấy. Ngày nay chúng ta cũng vậy chỉ nhìn những gì mình ưa: tiền tài, danh vọng, xác thịt, còn các nhu cầu khác của giáo dân phần lớn không thấy. Chẳng hiểu chúng ta có cận thị không ? Phần Chúa Giê-su, Ngài không những động lòng về dáng dấp nghèo nàn bên ngoài: quần áo tả tơi, bệnh tật đầy mình, thiếu thốn cơm ăn. Ngài còn nhìn ra những hoàn cảnh tồi tệ luân lý như đĩ điếm, ngoài lề, di dân, hành khất lang thang. Ngài truyền cho các môn đệ mời mọc họ vào nhà Thiên Chúa bởi những người này cũng là con cái Thiên Chúa. Chúng ta có bổn phận tìm kiếm họ và sắp đặt bàn tịêc cho họ. Chúa Giê-su có tầm nhìn mà chúng ta lãng quên. Nếu chúng ta muốn trở nên cộng tác viên thành thật của Chúa, thì phải để Ngài mở mắt cho.
Cứ theo nguyên ngữ Hy lạp thì Chúa Giê-su còn sâu sắc hơn nhiều, không những Ngài thấy đám đông thì chạnh lòng thương, mà “lòng thương” của Ngài cụ thể hơn từ ngữ chúng ta dùng. Tiếng Hy lạp là splanchnizien, chỉ cái bụng dạ con người. Chúng ta có thể dịch nguyên văn: Chúa Giê-su cảm thương đám đông bằng lòng dạ của mình. Đó là một thứ tình cảm nhanh chóng, tự phát, không cần đắn đo suy nghĩ. Nó cho thấy Ngài thương xót họ theo bản năng trực giác, thấy là thương vì họ khốn khổ. Như vậy, Ngài không thấy bằng mắt mà thôi nhưng bằng cả con người của mình. Ngài mô tả họ như đàn chiên không người chăn. Một lối mô tả đầy chất thơ về những con người thất lạc, bối rối và dễ bị tổn thương. Đối với người Do thái, lối tả chân này có ý nghĩa tôn giáo. Nó gợi nhớ Kinh thánh. Khi tuyển dân không có chủ chăn tốt hay chủ chăn thoái hoá, thì sách Ezechiel viết: “Chiên đau yếu các ngươi không làm cho mạnh, chiên bệnh tật các ngươi không chữa cho lành, chiên đi lạc các ngươi không đưa về, chiên bị mất các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc.”(34, 4) Sau đó, Chúa ban lời hứa sẽ cứu chữa chúng và cho chúng một mục tử tốt lành như lòng mong ước. Sự thương cảm của Thiên Chúa trong sách Ezechiel hôm nay được thể hiện nơi Chúa Giê-su. Phúc âm nói rõ: “Chúa Giê-su trông thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt.” Chúa Giê-su đúng là mục tử được Thiên Chúa sai đến chăn dắt loài người lạc lõng và khốn đốn. Thiên Chúa đã làm tròn lời hứa, ban cho nhân loại mục tử tốt lành.
Về phần các môn đệ, họ đã thấy chi khi có đám đông trước mắt ? Một nhu cầu khổng lồ không thể đáp ứng: người thì đau yếu, người khác nghèo khổ, thất nghiệp, bơ vơ, dốt nát, mù chữ, không biết tôn giáo, lề luật, thói xấu xã hội, đĩ điếm, trộm cắp, lừa đảo, lường gạt, đủ mọi bất hạnh trên đời. Nuôi nấng giáo dục họ cho nên người có nhân phẩm, thì thật là một công tác không ai gánh vác nổi, kể cả các chính phủ, hay quyền bính đạo đời. Ngày nay chúng ta cũng đang ở hoàn cảnh này. Giáo hội đã, đang và sẽ gồng mình chịu đựng với bao nhiêu tổ chức từ thiện, nhưng cũng chỉ làm được phần rất nhỏ, hầu như chưa có chi trước nhu cầu. Tuy nhiên, Chúa Giê-su nhìn ra hết và còn cả những phương tiện để chữa lành. Ngài nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” Lúc ấy trong đền thờ không thiếu thợ gặt được phong chức hẳn hoi. Cả một hàng tư tế đông đảo, rồi trong nhân dân, tầng lớp Biệt phái kể có tới hàng ngàn hàng vạn. Vậy mà Chúa Giê-su vẫn nói với các môn đệ cầu nguyện xin Thiên Chúa cho thêm thợ gặt, vì còn thiếu. Chẳng lẽ các pharisêu, tư tế không phải là thợ gặt sao ? Phúc âm kể tiếp: “Đức Giê-su gọi 12 môn đệ lại, ban cho các ông quyền trên thần ô uế, để các ông trừ khử chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.” (10, 1) Như vậy, hàng tư tế cũ đã bị loại bỏ. Thiên Chúa thiết lập các cộng sự viên mới. Họ là những tông đồ hay kẻ được sai đi rao giảng, làm chứng và chữa lành như Chúa Giê-su.
Chúng ta có thể nhìn câu chuyện ở một góc độ khác. Thiên Chúa mặc thân xác loài người, chịu đựng những giới hạn của loài người. Ngài cảm thấy bị áp đảo trước công việc khổng lồ, trái tim tràn ngập tình thương xót dân cùng khổ. Ngài muốn quyền năng Nước trời được tức khắc thiết lập trên dân chúng nghèo khổ, cho nên đã ban quyền cho các ông khu trừ quỷ dữ, chữa các bệnh tật. Ngài không đòi hỏi những điều kiện tiên quyết để ban phát Nước trời. Thí dụ, các ông phải coi xem họ có đủ tuổi tác, quốc tịnh, giai cấp, học thức,.. . để chữa lành và thâu nhận vào Nước Thiên Chúa. Chuyện các ông phải nhìn ra là nhu cầu chứ không phải loại người nào. Ngày nay, chúng ta cần suy gẫm kỹ bài Phúc âm hôm nay để biết đường tránh xa thái độ độc tài, đặt ra những tiêu chuẩn nọ kia, rồi bắt thiên hạ rập theo, nếu không, từ chối ban bí tích cho họ, nhiều vị còn bảo hoàng hơn vua, vượt lên trên cả giáo luật. Ngày xưa, vua Louis 14 của nước Pháp nói một câu danh tiếng cả thế giới khiếp sợ: “La loi c’est moi = luật pháp là tôi”. Câu này ngày nay vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi, tuy hoàn cảnh khác đi nhiều. Chúa Giê-su không bắt buộc các môn đệ phải lượng giá trước những kẻ “xứng đáng” để giúp đỡ, trái lại, nếu có nhu cầu thì Ngài chạnh lòng thương. Trong Phúc âm thánh Gioan chương 13, Chúa truyền cho những ai ăn uống đồng bàn với Ngài phải nên như đầy tớ cho kẻ khác: “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”(c. 14). Chúa Giê-su cũng nói tương tự ở đây nhưng dưới hình thức khác: “Anh em hãy chữa lành cho người đau yếu, làm cho kẻ chết chỗi dậy, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ.”(c. 8) Nghĩa là hãy đến với những ai có nhu cầu và chăm sóc họ. Bằng hành động, hãy nói cho họ hay Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự lành mà họ đang được hưởng. Ngôn ngữ của Chúa Giê-su trong Tin mừng có khác, nhưng nội dunglà một: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nứơc trời đã gần đến.”
Câu hỏi ra là nhóm môn đệ vừa mới được thâu gom, không chuyên môn thì làm thế nào chăm sóc chu đáo cho đám đông bơ vơ, vất vưởng ? Câu trả lời hiển nhiên là họ phải cậy nhờ vào Chúa ban tài năng và sức mạnh, họ không thể tự thân làm được công tác khó khăn này. Hơn nữa, họ phải quan sát hành vi của Chúa cho đến lúc ấy. Ngài đã đối xử ra sao với đám dân lầm than ? Ngài chạnh lòng thương họ như bầy chiên không người chăn dắt. Các môn đệ sẽ được Chúa ban tài năng nhìn rõ những nhu cầu thể xác, phần hồn của đám đông, như tôi được khai sáng sau khi có đôi kính cận. Ngoài ra, đây là điều hết sức quan trọng, họ phải cầu nguyện chủ ruộng ban những thợ gặt mới nhiều khả năng và đạo đức. Nghĩa là họ hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, tin tưởng Ngài trợ giúp tương lai, không kiêu căng tự mình hoàn thành sứ vụ. Chẳng may điều này là não trạng phổ thông của rất nhiều thợ gặt tân thời. Họ lên kế hoạch, thi hành chương trình không cần Thiên Chúa trợ giúp, khi thất bại họ tìm cách đổ lỗi cho Thiên Chúa. Chúa Giê-su dạy các môn đệ phải cậy nhờ vào Thiên Chúa và phải làm như Chúa Giê-su hôm nay, chọn lựa nhiều thợ gặt hơn nữa và sai phái vào mùa màng.
Liệu những lời cầu xin thêm thợ gặt của Hội thánh có được nhận lời ? Theo ý kiến của tôi thì có. Thiên Chúa vẫn hằng ban thêm thợ gặt cho cánh đồng lúa chín của Ngài. Bất chấp những khó khăn về ơn kêu gọi, tôi thấy ngày nay các văn phòng mục vụ vẫn đầy đủ nhân viên hơn xưa. Các giáo xứ, các trung tâm giáo dục, thiêng liêng, linh thao, tôi đến giảng phòng không thiếu nhân viên phụ trách. Trên cánh cửa của các văn phòng hoặc trung tâm mục vụ đều thấy đề “Giám đốc thanh niên Công giáo, Giám đốc phát triển đức tin, Giám đốc điều hành tài chính, Giám đốc bác ái, Giám đốc thánh nhạc,.. . ” Hồi tôi còn nhỏ làm gì có những chức vụ đó. Cho nên buộc lòng tôi phải nhận định lời cầu xin của Giáo hội thêm nhiều thợ gắt hằng được nhận lời và nhận lời một cách rỗng rãi. Quý vị giảng thuyết phải công nhận điều này, kẻo nữa chúng ta chỉ biết than phiền một cách máy móc hay giả tạo, không nhìn thấy thực tế. Chúng ta nên khuyến khích nhau làm việc thánh thiện và có hiệu quả, kẻo lãng phí ơn Chúa. Không nên phó mặc trách nhiệm phát triển Nước trời vào tay những viên chức chuyên nghiệp hoặc các tình nguyện viên. Bất cứ người được rửa tội nào cũng được Chúa trao nhiệm vụ: “Chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết chỗi dậy, cho người mắc bệnh phong được sạch, và trừ khử ma quỷ.” Lời cầu khẩn của chúng ta ngày nay là phải tạ ơn chủ ruộng, công nhận Ngài đã ban nhiều ơn, nhiều thợ gặt, rồi ra đi chia sẻ rộng rãi với tha nhân, bởi nhận thức rằng Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa giàu lòng từ bi nhân ái, chậm bất bình và hay tha thứ. Xin nhớ: nhóm môn đệ của Chúa Giê-su chẳng tài giỏi gì. Ngược lại, toàn là những thường dân quê mùa chất phác, tính tình nóng nảy, hay ghen tỵ lẫn nhau. Điều họ có được là lòng tin cậy vào Chúa và cố gắng thi hành bổn phận một cách anh hùng, không tháo lui, không sợ sệt, trung thành cho tới mức tử đạo. Hội thánh thật diễm phúc khi được các ngài làm gương, thụ hưởng ân phúc của các ngài.
Họp nhau nơi đây để làm việc thờ phượng, chúng ta cũng được ký ức về các ngài đốt cháy, mặc dù nhiều người thu hẹp bổn phận tôn giáo của mình vào việc đi dự lễ ngày Chúa nhật, rửa tội cho con cái và đưa chúng đến trường học để giáo dục về tín ngưỡng tổ tiên. Điều mà họ không trông thấy là trách nhiệm mà Chúa Giê-su trao cho các môn đệ trong Tin mừng hôm nay: “Dọc đường anh em hãy rao giảng rằng: Nước trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết chỗi dậy, cho người mắc bệnh phong cùi được sạch, và khử trừ ma quỷ.” Nội dung của sứ điệp thật bao la và cao cả. Chúng ta phải hoạt động nhiều hơn nữa thì mới đáp ứng. Chúa Thánh Thần sẽ ban khả năng cho những ai nghiêm chỉnh thực thi nhiệm vụ này, bởi lệnh truyền của Chúa Giê-su không chỉ có ý nghĩa trên giấy trắng, nhưng thực tế phải xảy ra đúng như Chúa nói. Thiên hạ sẽ được hưởng các phép lạ, nếu chúng ta làm đúng lệnh Chúa truyền. Tiếc thay ít ai đủ can đảm và hoàn thiện để thi hành, ngoại trừ các đấng thánh. Trong khu Raleigh, chúng tôi có ngôi nhà thờ rộng lớn với đầy đủ cơ quan phụ thuộc như nhà giữ trẻ, thư viện, nhà thể thao, hồ bơi, sân bowling, v.v. khá đầy đủ và hiện đại. Nhưng khi các thành viên bàn tán về đức tin của mình, liệu họ có nhiệt thành như khi họ nói về các lợi lộc xã hội mà nhà thờ được hưởng, hoặc liệu họ có cảm thấy được Thần khí hướng dẫn vào một tương qua sâu xa hơn với Chúa Giê-su và các môn đệ khác ? Liệu họ có kinh nghiệm ơn gọi cá nhân để nhìn tỏ những nhu cầu vật chất, tinh thần của đám đông như Chúa Giê-su đã nhìn ? Liệu đức tin của chúng ta giúp chúng ta tiến bộ trong đời sống hằng ngày ngoài việc đi tham dự thánh lễ Chúa nhật này qua Chúa nhật khác ? Tôi có nhìn rõ hơn rằng Chúa gọi mình, ban khả năng cho mình để phục vụ những kẻ khốn khổ và bị bỏ rơi ? Lời cầu nguyện của chúng ta trước Thánh thể hôm nay phải là: “Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con nhìn thế giới với đôi mắt của Chúa Giê-su. Xin chữa lành bệnh mù của chúng con đối với hàng xóm láng giềng, những kẻ bất hạnh trong khu dân cư. Xin làm cho đôi mắt chúng con sáng hơn, trái tim chúng con nhạy bén hơn để biết đáp ứng. Xin gửi chúng con đến mùa màng của Ngài, bởi vì chúng con là những thợ gặt mà Chúa đã lựa chọn theo ý định của Con Chúa, Đấng mục tử tối cao. Chúng con cầu xin trong danh Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng con.”
Điểm lưu ý cuối cùng. Chúa Giê-su xem ra hạn chế hoạt động của các tông đồ: “Anh em đừng đi tới các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của người Samari. Tốt hơn là hãy đến với các chiên lạc nhà Israel.” Đoạn này chỉ có trong Phúc âm thánh Mátthêu, không có trong các Tin mừng khác. Nó phản ánh cộng đoàn tín hữu Mátthêu lúc ấy đang chịu bách hại nặng nề, nhất là ở các địa phương kể trên. Cộng đoàn gồm hầu hết là người Do thái. Họ chỉ muốn thân cận của mình nghe rao giảng Tin mừng và chia sẻ niềm tin với nhau, như chúng ta ngày nay với thân nhân. Lệnh truyền không có ý ám chỉ phải ngưng phục vụ nhu cầu của dân chúng, bởi vì Mt 28, 19 truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy ... ” Ước mong chúng ta quán triệt ý muốn của Chúa và không mắc sai lầm. Amen.
Trong một dịp giúp Tĩnh Tâm một nhóm nhỏ anh em y bác sĩ Công Giáo trẻ ở Sài-gòn, tôi có ý muốn thuyết phục anh em chịu khó bớt chút thời: TN 11-A39
Trong một dịp giúp Tĩnh Tâm một nhóm nhỏ anh em y bác sĩ Công Giáo trẻ ở Sài-gòn, tôi có ý muốn thuyết phục anh em chịu khó bớt chút thời giờ giữa bao nhiêu công việc chuyên môn bộn bề để đọc Tin Mừng, gọi là bồi đắp thêm cho tâm linh, tôi đã nảy ra sáng kiến... không giống ai: sao anh em không thử dựa vào nội dung Tin Mừng để... khám và định bệnh bằng chuyên môn y khoa của mình cho Chúa Giê-su ? Anh em có vẻ hào hứng lắm...
Khá lâu sau, tưởng chuyện đã chìm đi đâu đó giữa đời thường, không ngờ lác đác có 5, 6 cái E-Mails gửi về liệt kê đủ thứ bệnh của Chúa Giê-su kèm theo nguyên do được các sách Tin Mừng chứng giám:
Viêm loét tá tràng và dạ dày, do quá ưu tư lo nghĩ đến người khác, làm việc đến kiệt sức mà lại không chịu ăn uống đúng giờ đúng giấc và đủ chất, xập tối rồi vẫn chưa lót dạ cho đỡ đói lại đi cầu nguyện riêng, đang cầu nguyện thấy có bệnh nhân tìm tới lại vội ra chăm sóc giúp đỡ họ ngay...
Viêm đa khớp dạng thấp, do lang thang khắp mọi nẻo đường sương gió, thỉnh thoảng có về gia đình Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô ở làng Bê-ta-ni-a nghỉ ngơi được một tý, còn lại thì chẳng có nơi chốn dừng chân ổn định, lắm lúc phải ngủ bờ ngủ bụi, đến viên đá để gối đầu cũng không !
Thiếu máu cơ tim cục bộ đưa tới nhồi máu cơ tim, hễ cứ gặp gỡ, cứ trông thấy đám đông dân chúng nghèo đói và bị bỏ rơi là lại chạnh thương, lại thấy nhói đau rất sâu trong lồng ngực. Có thể còn bị hở van tim, hoặc hẹp van tim 2 hoặc 3 lá nên đến lúc chết rồi, bị đâm một nhát thẳng vào tim, tức thì máu cùng nước phụt ra !
Có bác sĩ còn ghi rõ: cứ cái đà như thế, nếu Chúa Giê-su không bị giết oan ở tuổi 33 thì rồi cũng sẽ không thể thọ nổi quá... năm mươi với đủ thứ di chứng khốn khổ...
Ngẫm nghĩ một chút thấy không sai ! Tội nghiệp cho Chúa Giê-su ! Giả như đến tận thời đại hôm nay Ngài mới nhập thể làm người, lại sinh ra với quốc tịch Việt Nam thì chắc Ngài còn có thể bị thêm nhiều hội chứng khác với mức độ trầm trọng hơn. Nhưng thôi, cứ dừng lại ở căn bệnh... mạch vành có thể gây nhồi máu cơ tim mà bài Tin Mừng Chúa Nhật lần này đã nêu với chi tiết: “Đức Giê-su thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt...”
Mỗi lần chạnh thương trước những đói ăn khát uống, bệnh tật ngặt nghèo, mất mát bất hạnh, y như rằng Chúa Giê-su đã làm ngay những việc cần làm. Thế nhưng Ngài không dừng lại ở những phép lạ hy hữu để... “xóa đói giảm nghèo”, sâu xa hơn, Ngài còn chạnh thương với những bi kịch tâm linh tinh thần của con người.
Nếu coi cái ăn cái uống, cái sức khỏe thể chất là “hạ tầng cơ sở” thì phần “thượng tầng kiến trúc” chính là con đường cứu độ được định hướng, là nẻo đi giải thoát được chỉ rõ. Vì thế, Chúa Giê-su đã thực hiện cả một chuỗi những phép lạ cho con người mà đỉnh cao tột cùng là Thập Giá và Phục Sinh.
Cái độc đáo tuyệt vời là trong mỗi phép lạ ấy, cả những “hạ tầng cơ sở” lẫn “thượng tầng kiến trúc”, Chúa Giê-su đều không bao giờ làm một mình, cho dù Ngài dư sức. Luôn luôn Ngài muốn kéo cả các Môn Đệ vào cuộc, luôn muốn có sự cộng tác trực tiếp tích cực của các Tông Đồ: “Hãy dọn cho họ ăn” ( Mt 14, 16; Mc 6, 37; Lc 9, 13... ); “Hãy đến với các chiên lạc Nhà Ít-ra-en... Hãy rao giảng... Hãy chữa lành...” ( Mt 10, 6 tt ).
Ngài còn lập ra một tổ chức... phi chính phủ ( NGO ) đầu tiên trên thế giới để lo chuyện cứu trợ cả vật chất lẫn tinh thần, nhất là tinh thần, đó là Nhóm Mười Hai. Bao nhiêu gia sản quyền năng Thiên Chúa Cha trao phó Ngài, Ngài ủy thác lại hết cho Nhóm, Ngài “ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”, để nhờ vốn liếng không bao giờ vơi cạn ấy, các cộng tác viên thiện nguyện của Ngài có thể vừa “rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần”, lại vừa “chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ”.
Và cứ thế, Hội Thánh tiếp nối với bao nhiêu thế hệ Tông Đồ, bao nhiêu Nhóm, bao nhiêu Đội, và cả những cá nhân đơn lẻ tình nguyện viên “không phân biệt chủng tộc”, “không biên giới” của Chúa Giê-su, nhân lên, nhân lên mãi. Họ đã tâm thành làm việc với chủ trương phi lợi nhuận vì vẫn mãi nhớ lời dặn dò của vị Sáng Lập: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”.
Thiết nghĩ, những con người ấy của Hội Thánh trong gần 20 thế kỷ đã ảnh hưởng lên thế giới nhân sinh này nhiều lắm ở cái nết đã nhận không thì cũng cho không, chỉ phục vụ chứ không nhắm được phục vụ. Nhất là thời đại ngày nay, toàn cầu như một ngôi làng lớn, các dân tộc cố gắng xóa đi những cách biệt để nhích lại gần nhau hơn qua và nhờ những tổ chức xã hội và quốc tế chân chính. Những tổ chức này, trên lý thuyết, dù vô tình hay hữu ý đã sao chép lại mô hình Nhóm Mười Hai của Chúa Giê-su như: Hồng Thập Tự, UNESCO, WHO, FAO, MSF ( Thầy Thuốc Không Biên Giới – Médecins Sans Frontière )...
Dù vậy, đây đó vẫn có những trách cứ, ta thán hoặc chế giễu mỉa mai của người đời đối với những “con sâu làm rầu nồi canh”. Ngay tác giả sách Tin Mừng Mát-thêu còn chú thích một cách chua chát xót xa về nhân vật Giu-đa Ít-ca-ri-ốt: chính là kẻ đã nộp Chúa Giê-su !
Nộp Chúa Giê-su không chỉ là chuyện bán đứng Ngài với giá mấy chục đồng tiền vàng ngày xưa mà còn là chuyện một số không ít Giáo Sĩ và Tu Sĩ đáng lẽ phải noi gương “servus servorum” ( tôi tớ của các tôi tớ ) như các vị Giáo Hoàng thường khiêm tốn viết kèm theo với chữ ký, thì lại chễm chệ ăn trên ngồi trốc, vinh thân phì gia, quan liêu cửa quyền, xa cách quần chúng, lăng nhăng lít nhít, thậm chí... buôn thần bán thánh, nuốt cả những đồng tiền của bà góa con côi !
Lại cũng có không ít Giáo Dân với bản chất là Môn Đệ, là cánh “thợ gặt” được Chúa Giê-su sai đi, chỉ biết co ro giữ Đạo, sáng Lễ, chiều Chầu, đêm Kinh Hạt, bàng quan thờ ơ với việc bác ái, với việc truyền giáo, hoặc tệ hơn, sống ngược hẳn những giá trị Tin Mừng !
Thôi thì trong một thân mình Hội Thánh của Chúa Giê-su vẫn luôn có chỗ này hư, chỗ kia hỏng. Chẳng ai dám chỉ trỏ xét nét người khác mà tự cho mình đúng, mình tốt, mình trung thành trăm phần trăm với linh đạo của Chúa Giê-su. Thay vì vỗ ngực thì vẫn cứ phải đấm ngực xét mình từng ngày mà sám hối. Cám dỗ chúng nó tinh vi lắm, lơ tơ mơ là sa bẫy ngay !
Hình như khi Mùa Chay đã qua, Mùa Phục Sinh đã kết thúc, dồn dập mấy ngày Lễ đặc biệt, bây giờ chuyển về lại Mùa Thường Niên, con người ta cũng dễ đâm ra lơi lỏng buông thả để rơi trở lại sự tầm thường của tham sân si, tụt trở lại cái mức sống Ki-tô hữu lè tè sát mặt đất.
May quá, Lời Chúa vẫn cứ vang lên không ngớt, người tỉnh táo nhắc cho kẻ ngủ mê: “Lúa chín đầy đồng” rồi đấy ! Thợ gặt sao mất tăm ? “Nước Trời đã gần đến” rồi đấy ! Anh mõ đi rao sao chẳng thấy ? Thật ra, thợ gặt và anh chị mõ làng đâu có thiếu, chỉ thiếu cái sự ngộ cho ra tinh thần “nhận không thì cũng hãy cho không” !
Quanh đây chỗ nào cũng là cánh đồng chín vàng đang cần thu hái.
Quanh đây đâu đâu cũng thấy đầy những người đau yếu đang cần được chữa lành, những kẻ hấp hối đang cần được vỗ về, những người phong hủi và AIDS đang cần được đón nhận, những kẻ bị ma ám quỷ đeo đang cần được giải thoát...
Ấy vậy, chúng ta, vâng, chúng ta chứ còn ai vào đây nữa, toàn là cánh thợ gặt với lại mõ làng cả, hãy bắt đầu cựa quậy nhúc nhích đi thôi !
Riêng bản thân tôi, vốn lâu nay bị xếp vào type người hay ngọ nguậy, đi đây đi đó, ôm đồm lắm việc nhưng rồi đôi lần bình tâm tĩnh trí ở tuổi U50 mới giật mình nhận thấy: cũng đã xin tự nguyện làm thợ gặt đấy, mà sao chểnh mảng để cho cái lưỡi hái của mình bị mòn vẹt đi lúc nào không biết; cũng xin hóa thân làm anh mõ làng rồi đấy, mà sao đểnh đoảng để cho chiếc loa tăng âm của mình bị rè đi từ lâu. Dịp này nghe dội vào lòng giọng Chúa Giê-su vừa mời gọi vừa truyền bảo, tôi như thể được lên giây cót lại, mau mau chỉnh đốn tay nghề và vực dậy tinh thần cho thừa tác vụ thiêng liêng đã lãnh nhận.
Tôi bắt gặp trong sổ tay một bài thơ giống như một lời tâm nguyện, nói với quả địa cầu nhưng chính là ngỏ với con người, viết từ năm 1982 mà chắc vẫn chưa đến nỗi lỗi thời. Xin được chia sẻ với tất cả các bạn thợ gặt và mõ làng làm chút quà đường xa:
Hỡi tinh cầu dễ thương, Giữa vũ trụ vô thường, Bạn là một chấm nhỏ, Là hạt cát trên đường... Hỡi tinh cầu dễ thương, Vẫn quay mãi không ngừng, Tiễn hoàng hôn ngả bóng, Đón mặt trời đẫm sương... Hỡi tinh cầu dễ thương, Tôi gọi là quê hương, Là cảnh đời sinh động, Là cõi rộng khôn lường... Hỡi tinh cầu dễ thương, Trên khắp mọi nẻo đường, Tôi xin làm sứ giả Đi ca hát yêu thương... Hỡi tinh cầu dễ thương, Tóc bạn là nương vườn, Tim bạn là lòng đất, Máu bạn là đại dương... Hỡi tinh cầu dễ thương, Đã sống bao năm trường, Trên vai ngàn thế kỷ, Vẫn muôn đời ngát hương... Hỡi tinh cầu dễ thương, Trong trời đất phi thường, Tôi chỉ là tro bụi, Nên xin được khiêm nhường... Hỡi tinh cầu dễ thương, Là một cõi thiên đường, Cho tôi làm trẻ nhỏ, Phiền muộn có chi vương... Hỡi tinh cầu dễ thương, Một mai đến cuối đường, Tôi chia tay bạn nhé, Về với Chúa cội nguồn...
Có nhiều người thích mọi sự phải sòng phẳng, mình đối xử với mọi người cũng như mọi người đối xử với mình ! Song sự “sòng phẳng” ấy lại: TN 11-A40
Có nhiều người thích mọi sự phải sòng phẳng, mình đối xử với mọi người cũng như mọi người đối xử với mình ! Song sự “sòng phẳng” ấy lại chỉ theo cách nghĩ, cân đong đo đếm và tiêu chuẩn của riêng họ.
Sẽ như thế nào, nếu Chúa cũng “sòng phẳng” lại với chúng ta ?
Ngày nay, điều mà các ông bầu show ca nhạc, các nhà cầm quân bóng đá ngán sợ nhất, ấy là “bệnh sao”: diễn viên, cầu thácm vừa nổi lên một chút, là tự cho mình thành “sao”, và ngoài đủ thứ yêu sách đòi hỏi được đối xử cưng như trứng, hứng như hoa, thì tiền thù lao, tiền lương, tiền chuyển nhượng cũng cao ngất.
Sử sách nhiều quốc gia mọi thời đã nêu bật nạn công thần: ỷ công lao phò giá, giúp vua dựng nên nghiệp vương hoặc lấy lại ngai vàng, mà quay lại coi thường, lấn át, lộng quyền, hạch sách quấy nhiễu dân chúng. Lịch sử Việt Nam ghi nhận nạn kiêu binh thời bà Đặng Thị Huệ:
Đem những hình ảnh này để so sánh với các Ki-tô hữu, nhất là những người làm việc Tông Đồ Truyền Giáo, e rằng đi quá xa và võ đoán chăng ?
Sòng phẳng, nói nôm na là “ú đi, dì lại” theo cách xử thế ở đời, đến độ đôi bên may lắm chỉ còn nghĩa, mà chẳng mắc ơn huệ gì nhau: sòng phẳng cả trong vật chất lẫn tinh thần. Hai người tự nguyện đến với nhau, sống đời hôn nhân, thề non hẹn biển, tưởng rồi “sông có cạn, núi có mòn” thì tình của hai người vẫn mãi sắt son, nhưng rồi khi thấy đến lúc cần giải quyết “sòng phẳng”, thì họ lạnh lùng ly dị ! Họ cho rằng chỉ cần “sòng phẳng” với nhau, còn ai khác chịu ảnh hưởng hay thiệt hại, thì họ chẳng mảy may bận tâm, quên rằng họ cũng phải “sòng phẳng” với con cái, gia đình, xã hội. Đó là chưa kể đến mặt đạo đức và niềm tin.
Một hôm, ông giám đốc thư viện Orchard Park nhận được một cuốn sách khá cũ và một tấm ngân phiếu trị giá 2.190 USD từ một độc giả ở bang New York. Người này cho biết đã mượn cuốn sách vào năm 1981, nay mới gửi trả được. Nhưng thay vì nộp 15 USD tiền phạt, ông độc giả sòng phẳng quá mức này đã tính cả vốn lẫn lãi và mọi khoản khác.
Vâng, hãy ít ra làm được như vậy, nếu muốn nói về “sòng phẳng”. Nhưng khi ấy, vốn bao nhiêu và lãi sẽ là bao nhiêu ? “Các con đã nhận nhưng-không, hãy cho nhưng-không !”
Để chúng ta không ấm ức vì muốn sòng phẳng mà vẫn không thực hiện được, hãy kiểm kê lại những gì là của ta, những gì ta nhận từ Chúa, thì mới thấy lạnh cả người: hoá ra chúng ta chào đời với bàn tay trắng và khi từ giã cõi đời thì cũng ra đi với đôi tay trắng, còn trần trụi hơn cả khi vào đời. Vốn riêng của chúng ta bằng không, trong khi lãi cứ tăng lên từng ngày với số “vốn” mà Chúa liên tục rót xuống cho chúng ta, bởi không vay nợ, thì làm sao có thể tồn tại ? Nợ tất phải trả. Nhưng Chúa không đòi ta trả nợ cho Người, đơn giản là vì nếu phải làm như thế, – tức là trả nợ trực tiếp cho Chúa – thì Chúa “làm khó” cho ta quá đỗi, bởi làm sao mà trả được, dù chỉ một phần. Chúa muốn ta dùng số lãi để giúp cho anh em: cho anh em, thì sẽ dễ dàng hơn; và cho anh em, ngoài việc được coi như cũng là trả nợ cho Chúa, lại còn được ơn ích trước mặt Chúa. Ta dùng vốn liếng của Chúa, dùng cả tiền lãi, để gom cho mình gia tài hợp pháp.
Nếu phân tích kỹ, thì Tin Mừng cũng chỉ nói về chuyện vay-trả, trả-vay, cho ta nhận ra món nợ khổng lồ của chúng ta: nợ máu ! Món nợ mà nhân loại không thể trả, thì chính Ngôi Hai Con Chúa tự hạ, nhập thể, chịu chết để đền trả thay. Cũng vì thế, mà Chúa đòi hỏi ta trả nợ cho Chúa bằng việc kính trọng, yêu mến, tha nợ cho anh em. Nội dung Kinh Lạy Cha, kinh của mọi kinh, lời cầu nguyện của mọi lời cầu nguyện, cũng chỉ dạy như vậy: “và tha nợ chúng con; như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”, vì ơn phúc cũng được lãnh nhận hoặc ơn tha thứ được ban cho, đều là nhưng-không, và chủ nhân của tất cả, chính là Thiên Chúa.
Làm sao và lấy gì để có thể “sòng phẳng” với Chúa và anh em, khi cuộc đời chỉ gồm những gì là “nhưng-không” từ Chúa ? Tạ ơn Chúa vì đã chỉ cho ta một phương thế trọn tình vẹn nghĩa: hãy cho nhưng-không !
ĐI TÌM ĐÁP SỐ TÌNH YÊU số 104, CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Nha Trang
ROME (Zenit.org).- Trong bài giải thích của ngài về các bài đọc Chúa nhật hôm nay 12/6, Linh Mục Raniero Cantalamessa dòng Capuchine, người giảng trong Phủ Giáo Hoàng, đã nói về việc Chúa Kitô chọn các tông đồ của Người và xây dựng Giáo Hội trên nguyên lý phục vụ, chớ không dựa trên uy quyền.
* * *
Matthew 9:36-10:8
Người đã chọn nhóm12 và sai các ông đi
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật này Chúa Giêsu "kêu gọi" nhóm 12 theo Người và đặt các ông làm "Tông đồ." Do đó Người "sai" các ông đi: TN 11-A41
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật này Chúa Giêsu "kêu gọi" nhóm 12 theo Người và đặt các ông làm "Tông đồ." Do đó Người "sai" các ông đi làm điều Người đã làm: rao giảng nước trời, chăm sóc người đau yếu, giải thoát dân chúng khỏi sợ hãi và khỏi những quyền lực ma quỉ. Người nói với các ông: "Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không."
Ngày đó Chúa Giêsu đã quyết định khai mạc cấu trúc tương lai Giáo Hội Người. Giáo Hội phải có một phẩm trật, một chính quyền, nghĩa là, những người được Người "gọi" và "sai đi" " để tiếp nối công việc của Nguời. Do đó mà Giáo Hội được định nghĩa là "duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền," bởi vì được xây dựng trên các Tông đồ..
Nhưng tất cả những khái niệm về mùa gặt và thợ gặt, đàn chiên và người chăn chiên, các người cai quản và các kẻ bị cai quản, không được báo chí ca ngợi ngày nay. Chúng ta sống trong một bầu khí dân chủ và bình đẳng giữa những con người. Nếu có ai phải thi hành quyền bính họ phải làm vậy, chúng ta tưởng, nhân danh chúng ta, theo mức độ mà chính chúng ta, qua cuộc bầu cử, ủy quyền cho họ. Do đó mới có sự loại bỏ hay chê bai phẩm trật của Giáo Hội: Đức Giáo Hoàng, các giám mục, các linh mục.
Người ta luôn luôn gặp những người, nhất là các học sinh và sinh viên, sáng chế ra thứ Kitô giáo riêng cho mình. Thỉnh thoảng, họ có một cảm giác tôn giáo đáng kể, những tâm tình cao đẹp. Họ nói rằng, nếu họ muốn, họ trực tiếp tiếp xúc với Thiên Chúa; nhưng họ không muốn nghe nói về Giáo Hội, về các linh mục, về việc đi Thánh lễ và những sự khác. Khẩu hiệu của họ: "vâng đối với Chúa Kitô, nhưng không đối với Giáo Hội."
Chắc chắn Giáo Hội có thể và phải dân chủ hơn, tức là, hàng giáo dân phải có tiếng nói lớn hơn trong sự chọn lựa các mục tử và trong phương cách họ thi hành nghĩa vụ của mình. Nhưng Giáo Hội không thể hoàn toàn qui về một xã hội được cai trị cách dân chủ, với những quyết định từ dưới đưa lên. Giáo Hội không phải là một cái gì do những con người thiết lập theo sáng kiến riêng của mình, vì lợi ích cho mình. Nếu Giáo Hội chỉ có vậy thôi, sẽ không cần đến Giáo Hội chút nào nữa; nhà nước hay một xã hội từ thiện cũng là đủ!
Giáo Hội là thể chế của Chúa Kitô. Uy quyền Giáo Hội không đến từ sự đồng thuận của những con người; đó là một ân huệ từ cao. Vi vậy, dầu trong hình thức dân chủ nhất chúng ta có thể muốn cho Giáo Hội, Giáo Hội luôn luôn có quyền và sự phục vụ tông đồ. Điều này không có, hay sẽ không bao giờ có, tính cách bề trên và quyền lực, nhưng là sự phục vụ "tự do", sự thí mạng mình cho đàn chiên, như Chúa Giêsu đã nói khi nói về người mục tử tốt lành.
Trong đa phần các trường hợp, điều làm một số người xa lánh Giáo Hội thể chế là, những sự khuyết điểm, những tính chất không nhất quán và những lầm lỗi của các nhà lãnh đạo: những toà án trừ tà, những sự truy tố, việc lạm dụng quyền lực và tiền của, những gương xấu. Đáng buồn thay, tất cả những sự này là đúng sự thật, dầu thường bị cường điệu và bị nhìn bên ngoài bối cảnh lịch sử. Chúng ta các linh mục là những người đầu tiên phải ý thức về tình trạng khốn khổ và không nhất quán của chúng ta, và phải chịu đau khổ về điều đó.
Các thừa tác viên của Giáo Hội được "tuyển chọn giữa những con người" và chịu những cơn thử thách và mắc những yếu hèn của tất cả mọi người. Chúa Giêsu không có ý xây dựng một xã hội những người hoàn hão. Con Thiên Chúa--văn sĩ Bruce Marshall người Scottish nói--đã đến trong thế gian này và, như người thợ mộc giỏi được đào tạo trong trường học của Thánh Giuse, đã thu tập những tấm vàn méo mó và sù sì nhất và dùng đó mà đóng một chiếc tàu là Giáo Hội-- chiếc tàu này, bất chấp mọi sự, đã chống chọi với biển cả suốt 2.000 năm rồi!
Những linh mục "khoát áo yếu hèn" có một điều lợi. Họ được chuẩn bị hơn để thương cảm những người khác, để không bị kinh ngạc bởi bất cứ tội lỗi hay sự khốn khổ nào, nói chung là để nên, nhân hậu, có lẽ đó là một đức tính quí nhất của một linh mục. Cũng có lẽ chính vì điều này, Chúa Giêsu đã đặt Simon Pherô, người chối Chúa ba lần, làm đầu các tông đồ: ngài đã học tha thứ "bảy mươi lần bảy."
Đức Ông Nguyễn Quang Sách
Theo truyền thống, hàng năm vào dịp kỷ niệm ngày thành lập, thị trấn Bình Minh mở một ngày hội tưng bừng với các trò chơi dân gian rất lôi TN 11-A42
Theo truyền thống, hàng năm vào dịp kỷ niệm ngày thành lập, thị trấn Bình Minh mở một ngày hội tưng bừng với các trò chơi dân gian rất lôi cuốn. Năm nay, để thắt chặt tình hiệp thông giữa các cư dân trong thị trấn, ông thị trưởng tổ chức một bữa tiệc vui và kêu gọi mỗi người tham dự mang theo một chai rượu thật ngon, đem đổ chung vào một bồn chứa lớn để mọi người cùng thưởng thức với nhau.
Sáng kiến nầy được mọi người hưởng ứng nồng nhiệt. Đến ngày hội, ai nấy đều mang chai rượu của mình theo, cùng rót hết vào bồn lớn nằm giữa toà thị sảnh. Ai cũng hy vọng kỳ nầy mình sẽ được thưởng thức hương vị tuyệt vời do nhiều thứ rượu ngon pha trộn với nhau.
Khi cuộc liên hoan bắt đầu, từng người lần lượt mở vòi lấy rượu từ bồn chứa vào ly riêng, nâng ly mừng ngày hội lớn; và rồi ai nấy đều nhăn mặt khó chịu khi vừa nếm ngụm rượu đầu tiên: nhạt thếch! Toàn là nước lã!
Hoá ra, ai nấy đều có chung ý tưởng lớn: có cả ngàn người đều mang rượu ngon đổ vào bồn, mình có mang theo chai nước lã đổ vào đó thì có sao đâu! Có Trời mới biết là mình mang nước thay vì rượu. Thế là vừa khỏi tốn tiền mua rượu mà lại được thưởng thức rượu ngon miễn phí do người khác góp vào.
Não trạng người đời là thế: muốn nhận nhưng không mà chẳng chịu cho nhưng không.
Người đời muốn được thụ hưởng miễn phí những thành quả, những cống hiến của xã hội mang lại cho mình, còn bản thân mình thì chẳng muốn cống hiến bất cứ điều gì miễn phí cho ai.
Trong lãnh vực truyền giáo cũng vậy, chúng ta muốn thụ hưởng nhưng không công lao và thành quả do các giáo sĩ Tây phương cống hiến cho dân tộc mình suốt nhiều thế kỷ qua, nhưng nếu được kêu gọi đem công lao, sức lực để truyền giáo cho các dân tộc ở những nơi khác thì dường như chúng ta không hề mong muốn.
Đó là biểu hiện của não trạng muốn nhận nhưng không mà chẳng chịu cho nhưng không.
Khi nhìn thấy đoàn lũ dân chúng đông đảo bao quanh mình như đoàn chiên vất vưởng không người chăn, Chúa Giê-su kêu mời các môn đệ cũng như chúng ta hãy cầu xin chủ mùa sai thợ đến làm việc trên cánh đồng của Chúa: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.'
Đáp lời mời gọi của Chúa Giê-su, chúng ta đã nhiều phen cầu xin cho có thêm thợ làm việc trong cánh đồng truyền giáo, nhưng chúng ta ‘quảng đại’ cầu xin cho kẻ khác, chứ không phải cho chính mình, được ơn trọng ấy!
Thông thường, khi cầu xin cho được no đủ hay giàu sang, được sức khoẻ hay bình an… chúng ta luôn luôn cầu xin cho mình trước. Còn khi xin cho có nhiều người đến làm việc trong cánh đồng của Thiên Chúa thì chúng ta lại xin cho những những khác, chứ không xin cho mình.
Tương tự như thế, khi có giặc xâm chiếm, tàn phá quê hương, chúng ta cầu xin cho những người khác trở thành những chiến sĩ dũng cảm xông ra chiến trường gìn giữ biên cương, còn ta thì ước gì Chúa đừng ban cho ơn ấy. Hoặc khi cần có đội quân tình nguyện lên đường cấp cứu những nạn nhân động đất, sóng thần, dịch bệnh ở những vùng xa xôi nào đó… thì chúng ta cũng cầu cho những người khác được ưu tiên chọn lựa lên đường thi hành sứ mạng, còn chúng ta thì xin Chúa khỏi nhọc công ban ơn đó.
Nếu ai cũng cầu nguyện như thế, và nếu Chúa cũng chấp thuận những lời cầu như thế tìm đâu ra người cứu nguy, cứu khổ cho bao người!
Đó là biểu hiện của não trạng muốn nhận nhưng không mà chẳng chịu cho nhưng không.
Vậy hôm nay, khi hưởng ứng lời mới gọi của Chúa Giê-su xin Chúa Cha ban cho nhiều người đến làm việc trong cánh đồng của Chúa, chúng ta hãy cầu xin cho mình xông pha đi trước.
Lạy Chúa, biết đến bao giờ con mới dám cầu xin cho con được ơn làm thợ gặt cho Chúa, trước khi xin ơn ấy cho những người chung quanh.
Biết đến bao giờ não trạng muốn nhận nhưng không mà chẳng chịu cho nhưng không mới được xoá bỏ khỏi đầu óc con.
Ngay trên quê hương Việt Nam chúng con, còn hơn bảy chục triệu người chưa biết Chúa; ngay sát nách nhà chúng con hay kề cận giáo xứ chúng con, có rất nhiều đứa con còn chưa biết mặt Cha mình. Đó là cánh đồng mênh mông đang trông chờ thợ gặt cách khẩn thiết. Xin cho con có can đảm cầu xin cho chính bản thân mình được sai đi vào cánh đồng của Chúa.
“Thấy đoàn lũ dân chúng, Chúa Giêsu liền động lòng thương xót họ”“Ho tất tưởi bơ vơ như những con chiên không người chăn”
Đàn chiên giữa bầy sói dữ: không được bảo vệ, không được nuôi nấng, chăm sóc..sẽ là mồi ngon cho thú dữ. Mọi thời đại đều tồn tại những thử: TN 11-A43
Đàn chiên giữa bầy sói dữ: không được bảo vệ, không được nuôi nấng, chăm sóc..sẽ là mồi ngon cho thú dữ. Mọi thời đại đều tồn tại những thử thách khác nhau, những cạm bẫy tinh tế và ngọt ngào khác nhau.Bởi trần gian nhiều gai chông và với nhiều ma mãnh luôn là những cái bẫy sập khiến con người chúng ta dễ bị đánh lùa và sa ngã.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”
Khát vọng của con người hướng về chân thiện luôn luôn còn đó. Khơi dậy khát vọng cho họ luôn thiếu những tay thợ lành nghề. Tìm được những người thợ chăm chỉ, biết thương con người, chấp nhận chịu thua thiệt vì con người, vì phần rỗi của anh em mình, thật không dễ.
“Hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đi gặt lúa”
Cầu xin cho thật nhiều thợ gặt:biết đi gặt lúa, biết cần mẫm, chăm chỉ và sống có trách nhiệm..mãi mãi vẫn là lời cầu nguyện không ngừng trong đời sống của Giáo Hội. Xin cho Giáo hội trong mọi thời đại có được những “tay thợ lành nghề”.
“Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”
Những gì chúng ta có đều đến từ Thiên Chúa. Biết trao ban, sẻ chia nó sẽ là cơ hội để chúng ta thực sự giầu có trước mặt Chúa.
Lời cầu nguyện:Lạy Chúa, Chúa muốn mọi người chúng con thuộc về Chúa và chỉ thuộc về một mình Chúa thôi.Tình thương Chúa luôn “động lòng”,luôn cảm thấy xót xa khi thấy chúng con bơ vơ, lạc lõng, bị đe dọa trước nanh vuốt của ma quỷ, thế gian, xác thịt.
Xin thương ban cho Giáo Hội luôn có được “những người mục tử như lòng Chúa mong ước” để biết sống và chết cho đàn chiên của Chúa. Amen.
Lm JB Phan Kế Sự
Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít” là lời cảnh báo của Chúa Giêsu cho thế hệ của các tông đồ và qua mọi thời đại cho đến hôm nay, lời của: TN 11-A44
“Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít” là lời cảnh báo của Chúa Giêsu cho thế hệ của các tông đồ và qua mọi thời đại cho đến hôm nay, lời của Chúa Giêsu vẫn cứ tiếp tục vang lên trong Giáo Hội, nơi mỗi người có trách nhiệm và nơi mỗi một Kitô hữu chúng ta. Truyền giáo là mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ, mà môn đệ không nhất thiết là các glám mục, linh mục, phó tế hay các tu sĩ nam nữ, nhưng là tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội.
“Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít”
Lúa nhan nhãn khắp nơi chung quanh chúng ta: nơi ga xe lửa, nơi chợ búa, trong siêu thị, nơi trường học, công sở.v.v...ở đâu cũng lúa cũng nhiều, lúa nhiều đang chờ đợi người thợ gặt đến, lúa đang chờ những người thợ nhiệt thành vì Phúc Âm đến gặt, lúa đang bị gió hưởng thụ thổi đong đưa muốn ngã rạp xuống, lúa đang bị cuồng phong tà thuyết đến lùa đi, lúa đang bị phong trào tục hóa làm mất đi hương thơm đồng nội vốn có của mình, lúa đang bị những thế lực trần gian o ép cường bạo...
Không đi đến đâu xa để gặt lúa, lúa ở ngay chung quanh mình, chỉ cần chúng ta mở tấm lòng nhiệt lành của mình ra là lúa có thể đem về; chỉ cần chúng ta với ý thức mình là môn đệ của Chúa Giêsu có bổn phận phải rao giảng tin vui Nước Trời, là có thể đứng lên, ra đi và làm việc trên cánh đồng lúa mênh mông.
Công cụ gặt lúa là đức ái
Gặt lúa mà không có liềm hái thì thật uổng công và mất công, dù khoa học phát triển đến mức cơ giới hóa nông nghiệp: cày bừa, gieo cấy, gặt, thu hoạch đều là máy móc, nhưng người ta vẫn không bỏ quen cái liềm hái thô sơ, bởi vì nơi góc ruộng máy móc không gặt trọn vẹn, mà phải dùng đến công cụ liềm hái.
Làm việc tông đồ cần có trí thức, kiến thức, cần tận dụng tất cả những phương tiện để Lời Chúa được mọi người đón nhận, nhưng trên hết, Đức Ái vẫn là công cụ tuyệt hảo nhất để làm việc tông đồ. Không có Đức Ái thì tất cả các phương tiện khoa học hiện đại chỉ là tiếng phèng la kêu to rỗng tuếch mà thôi, đức ái là công cụ gặt hái thành công trên cánh đồng truyền giáo, và cũng là dấu hiệu to lớn và đẹp nhất để người ta nhận ra Thiên Chúa đang hoạt động trong vũ trụ qua người Kitô hữu.
Lúa chín đầy đồng nhưng thợ gặt lại ít, bởi vì chúng ta cứ khoán trắng cho Thiên Chúa mà không cộng tác với Ngài, bởi vì chúng ta cứ đặt quyền lợi của mình phía trước ngực và đức ái phía sau lưng, nên lúa cứ bị gió thổi đong đưa và có khi ngã rạp.
Anh chị em thân mến,
Lời nói của Chúa Giêsu vẫn còn đó, Ngài kêu gọi chúng ta -những người Kitô hữu- hãy trở nên thợ gặt trong cánh đồng lúa của Ngài, đó cũng là bổn phận, trách nhiệm và vinh dự của chúng ta.
Mấy việc làm cụ thể:
- Mĩm cừơi với người hàng xóm và những người không thích mình.
- Mỗi ngày cố gắng làm một việc thiện.
- Bỏ ra một vài phút trong ngày để cầu nguyện hoặc viếng Thánh Thể.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật XI thường niên tại nhà thờ Thánh Tâm-Taiwan.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
“Đức Giêsu thấy đám đông thì Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.” (Mt.9:36)
Bạn thân mến!
Trên đây là những lời mở đầu của Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Đức Giêsu chạnh lòng thương khi nhìn thấy dân chúng, lòng thương bắt nguồn:TN 11-A45
Trên đây là những lời mở đầu của Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Đức Giêsu chạnh lòng thương khi nhìn thấy dân chúng, lòng thương bắt nguồn từ con tim biết nhói đau trước nỗi lầm tha khổ cực của người khác. Ðức Giêsu đã làm tất cả để xoa dịu, đỡ nâng và mời gọi các môn đệ cùng cộng tác trong công việc ấy. Người nói với môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về".(Mt.9:37-38)
Trước một thế giới buồn, Ngài sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng về Nước Trời gần đến. Trước một thế giới bệnh hoạn, Ngài cho họ khả năng chữa lành. Trước một thế giới bị nô lệ cho các thần ô uế, Ngài cho họ quyền đem lại sự tự do. Trước một thế giới đầy chết chóc, Ngài cho họ quyền mang lại sự sống.
Ðức Giêsu sai các môn đệ đi vào cuộc đời, đi hai người một để nâng đỡ nhau. Ngài không chọn những người giỏi giang, học thức, nhưng chọn những người đánh cá đơn sơ và quảng đại. Trước hết, Ngài sai họ đến với chính dân tộc của họ, để rồi sau này đến với cả thế giới. Ðức Giêsu muốn họ cho đi tất cả những gì mà các ông đã nhận mà không đòi hỏi chút quyền lợi hay đặc ân nào.
Hôm nay, Ðức Giêsu cũng mời gọi mỗi người chúng ta nhìn vào đám đông gần 6 tỉ người trên mặt đất. Ngài mời chúng ta nhìn thấy hàng ngàn trẻ em chết đói mỗi ngày, hàng triệu người chết đói mỗi năm. Hàng triệu người sống trong cảnh đói nghèo cùng cực. Hàng triệu người thất nghiệp, mù chữ hoặc bệnh tật ….
Ngài mời gọi chúng ta nhìn thấy những trẻ em bị bệnh Sida- HIV ở Châu Phi, những sa đọa và hưởng thụ, ma tuý và tội ác, những hố sâu ngăn cách giữa các nước giàu và nước nghèo, giữa người giàu và người nghèo. Ngài mời chúng ta nhìn thế giới này bằng đôi mắt của Ngài, nhìn thấy mà chạnh lòng thương. Chính cái nhìn đầy tình thương ấy sẽ đưa ta lên đường.
Thế giới hôm nay cũng giống như hôm qua, vẫn là một thế giới mênh mông nỗi đau, tràn ngập sự ác. Tôi phải làm gì để góp phần chữa lành một thế giới bị thương? Tôi phải nói gì với một thế giới không biết mình nô lệ? Tôi phải làm gì để người nghèo được tôn trọng phẩm giá, và người giàu biết mình phải “mở ra và cho đi” để thấy đời còn có ý nghĩa ?
***
Lạy Chúa, thế giới hôm nay cũng giống như hôm qua: vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin; vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống; vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế: ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm… vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống… vẫn có những người sống bên lề xã hội, dù không phải là người bị bệnh phong... Xin Chúa cho con “con mắt của Chúa” để con có cái nhìn giống Chúa. Xin cho con “con tim của Chúa” để con cũng biết chạnh lòng thương như Chúa. Amen
Con ơi, ngày xưa Thầy thấy dân chúng Do Thái bơ vơ như đàn chiên không người chăn, Thầy động lòng thương, nên đã an ủi, dạy dỗ và chữa TN 11-A46
Con ơi, ngày xưa Thầy thấy dân chúng Do Thái bơ vơ như đàn chiên không người chăn, Thầy động lòng thương, nên đã an ủi, dạy dỗ và chữa lành họ. Dù là Con Thiên Chúa, Thầy vẫn đêm đêm thổn thức cầu nguyện cùng Cha Thầy xin Ngài sai Thánh Thần xuống ở với họ mãi mãi để họ khỏi bơ vơ. Chắc con thắc mắc là tại sao Thầy không dùng quyền năng của Thầy để thay đổi mọi sự, mà lại phải thổn thức, phải cầu nguyện với Cha Thầy. Rồi con sẽ hiểu. Ngày nay Thầy cũng thương chúng con như thế!
Sở dĩ Thiên Chúa không dùng quyền phép của Mình mà làm cho con người được hạnh phúc vì Chúng Ta tôn trọng sự tự do của con người. Không ai muốn bị bắt buộc. Dùng quyền Thiên Chúa mà áp đặt hạnh phúc trên họ là phạm đến tự do của họ. Thầy chỉ đem hạnh phúc xuống qua tình yêu của Thầy, qua Lời Thầy giảng dạy, qua việc Thầy làm. Qua cái chết của Thầy, Thầy ban chính mình Thầy cho họ để họ được sống với Thầy và trong Thầy. Thầy tha thiết mời gọi họ và ban ân sủng để họ có sức mà đến với Thầy. Muốn có hạnh phúc, họ chỉ cần đáp lại lời mời của Thầy, hợp tác với ân sủng của Thầy mà đến với Thầy và phó thác mọi sự cho Thầy! Họ chỉ cần cho phép Thầy yêu họ, và họ yêu Thầy. Thầy không cần phải cưỡng bách họ.
Con hỏi tại sao Thầy lại phải cầu nguyện. Thực ra thì Cha Thầy với Thầy là một, nên Thầy không cần cầu nguyện vì lúc nào Thầy cũng kết hợp mật thiết với Cha. Nhưng nhiệm vụ của Thầy là Thầy của con, là người đồng hành với con. Thầy cầu nguyện để con học theo Thầy. Vì con chưa kết hợp đủ với Thầy, nên con cần cầu nguyện liên lỉ để được kết hợp với Thầy như Thầy kết hợp với Cha. Nếu Thầy không làm gương trước bằng cách cầu nguyện thâu đêm thì làm sao con hiểu được phải cầu nguyện thế nào và cầu nguyện cần thiết ra sao? Con ơi cầu nguyện chính là hơi thở của linh hồn con. Khi nào con ngưng cầu nguyện, con sẽ nghẹt thở và sẽ chết. Đó là lý do tại sao Thầy đã gọi Nhóm Mười Hai để họ ở với Thầy, đồng hành với Thầy, cầu nguyện như Thầy và học cùng Thầy. Đó là lý do tại sao hôm nay Thầy bảo họ cầu nguyện để “xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”.
Hôm nay Thầy cũng muốn con cầu nguyện cho có nhiều chủ chăn tốt, chủ chăn thánh thiện và nhân lành biết hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Nhưng con đừng tưởng chỉ có linh mục mới là chủ chăn. Tất cả chúng con đều có nhiệm vụ chăn chiên của Thầy. Là giám mục thì một giáo phận, là linh mục thì một giáo xứ, là giáo ly viên thì một lớp học, là cha mẹ thì một gia đình, là công chức thì có đồng nghiệp, là sinh viên học sinh thì có đồng bạn. Thầy muốn dùng chúng con như những cánh tay của Thầy, như những bàn chân của Thầy, như trái tim Thầy, như đầu óc Thầy, như môi miệng Thầy, để dạy dỗ chúng con và sai chúng con đi vào thế gian thay cho Thầy mà chăm sóc và thánh hóa nó. Thầy muốn chúng con cũng động lòng thương đồng loại chúng con như Thầy đã làm. Trước hết là những người trong đàn chiên bé nhỏ mà Thầy đã trao cho chúng con, rồi đến mọi người, đặc biệt là những người tội lỗi và những người chưa biết đến Thầy.
Thầy ban cho con “quyền hành chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung hủi, và xua trừ ma quỷ,” để con có thể chu toàn nhiệm vụ. Nhiều ngươì chung quanh con đang sống mà dường như đã chết, vì đời họ không còn hy vọng. Nhiều người trông xinh đẹp bên ngoài mà linh hồn thì thật là ghê tởm xấu xa còn hơn cả người phong hủi. Nhiều người bên ngoài có vẻ đạo đức, tốt lành, nhưng trong lòng đầy mưu mô thâm độc. Thầy sai con đi để chữa lành họ. Con chỉ làm được những việc đó nếu con ở trong Thầy và kết hiệp với Thầy. Nên nhớ rằng con không có gì hết ngoại trừ tội lỗi và sự yếu đuối của con, nhưng Thầy đã ban cho con mọi sự, kể cả mạng sống, sức khỏe, tài năng, của cải của con. “Con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không.” Đừng tiếc gì hết, đừng giữ gì lại cho mình, vì Thầy sẽ ban thêm cho con.
Thầy rất buồn vì ngày nay thế gian đang thắng chúng con. Trong lúc ma quỷ tìm đủ mọi mánh khoé để làm hại các con chiên khờ dại của Thầy, thì có một số khá đông chủ chăn của Thầy hình như đang mê ngủ. Có những chủ chăn lười biếng, chỉ biết làm Lễ mỗi ngày và thăm hỏi qua loa vài kẻ liệt rồi đắm mình vào những việc vô ích. Họ không bỏ thì giờ học thêm về các giáo huấn của Thầy và Hội Thánh, họ không soạn bài giảng, không mở các lớp Thánh Kinh cùng đào luyện giáo dân, và nhất là không cầu nguyện. Có những chủ chăn đặt nặng cơ sở vật chất cách quá đáng mà không tha thiết gì đến linh hồn của chiên mình. Họ coi trọng người giàu và khinh rẻ người nghèo. Họ quên rằng Đền Thờ trong tâm hồn quan trọng hơn nhà thờ vật chất. Có những chủ chăn tìm danh vọng như những người thế gian, họ coi Chức Thánh là phương tiện để họ làm quan, để làm khanh tướng, để được người khác phục vụ, chứ không phải là phương tiện giúp họ làm đầy tớ khiêm nhường phục vụ người khác như Thầy đã làm. Có những chủ chăn kiêu căng phách lối, cứ nghĩ rằng mình biết tất cả, cứ coi mình như Thiên Chúa, và coi thường những chuyên viên giáo dân mà Thầy gửi đến để giúp đỡ họ, đôi khi những giáo dân này đáng tuổi cha chú của họ. Họ không biết rằng càng học càng thấy mình ngu, nên họ lúc nào cũng trịch thượng, coi mình là “Cha” thiên hạ, là túi khôn của loài người, mà không cần nghe ai cả. Có những chủ chăn nhút nhát, không dám giảng dạy về luân lý vì sợ mất lòng giáo dân. Họ quên rằng Thầy đã chết để làm chứng cho chân lý. Vì giáo dân không biết về giáo huấn của Hội Thánh nên Thầy mới trao cho họ quyền dạy dỗ để họ dạy chân lý cho dân. Vì chỉ có chân lý mới giải thoát được người ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, xác thịt và ma quỷ mà thôi. Bao lâu người ta chưa biết chân lý, bấy lâu người ta còn làm nô lệ. Họ không ý thức rằng nếu vì họ không chu toàn sứ vụ tiên tri của họ mà giáo dân không biết giáo huấn của Thầy để đào luyện lương tâm, thì chính họ là những người phải chịu trách nhiệm về những việc làm sai luân lý của giáo dân họ.
Hôm nay Thầy muốn con cầu nguyện thật nhiều cho các linh mục. Thầy không muốn có nhiều linh mục, mà chỉ muốn có nhiều linh mục thánh thiện. Nếu Thầy muốn có nhiều linh mục thì Thầy đã chọn cả ngàn tông đồ thay chỉ vì vỏn vẹn có mười hai. Nhiều linh mục mà là linh mục xoàng thì chỉ gây ra nhiều gương mù gương xấu chứ có ích chi. Thầy không muốn có những linh mục tài giỏi thông minh mà chỉ muốn có những linh mục thánh thiện. Nếu Thầy muốn người giỏi thì Thầy đã chọn những người Biệt Phái và Luật Sĩ rồi, chứ tại sao Thầy lại chọn những tên ngư phủ và một tên thu thuế. Người ta càng giỏi thì càng thêm kiêu ngạo và bất phục tùng. Có những linh mục như thế để làm gì? Thầy cũng không muốn các linh mục nổi danh, mà chỉ muốn các linh mục thánh thiện. Nếu Thầy muốn các linh mục nổi danh, Thầy đã chọn những Tiến Sĩ thời danh như Gamaliên, như Philô, hay những hoàng thân của nhà vua rồi. Một khi nổi danh thì rất khó giữ đức khiêm nhường, khó khăn và trong sạch. Mà không giữ được những nhân đức này thì họ sẽ đưa chiên của Thầy về đâu?
Chỉ có các linh mục thánh thiện mới có thể chu toàn được sứ vụ mà Thầy trao phó. Thánh thiện là học sự khiêm nhường và hiền lành của Thầy. Thánh thiện là dâng mình cho Thiên Chúa cùng với Thầy mỗi ngày trong Bí Tích Thánh Thể. Thánh thiện là luôn kết hợp với Thầy, là quên mình để cho Thầy sử dụng, là trở nên mọi sự cho mọi người. Thánh thiên là không đem “cái tôi” ra làm bức tường ngăn cản giữa Thầy và giáo dân của Thầy. Thánh thiện là biết phó thác hoàn toàn cho Thầy, tin tưởng hoàn toàn vào Thầy đến nỗi không cần phải “mang theo vàng, bạc, hay đồng ở thắt lưng,” không cần phải “mang bị đi đường, mặc hai áo, đi dép hay cầm gậy,” chứ đừng nói đến việc đi khắp nơi quyên góp thật nhiều tiền để xây cất cơ sở đồ sộ giữa xóm dân nghèo, để mua hai ba xe hơi sang trọng giữa những người không có một chiếc xe đạp mà đi. Thánh thiện là sẵn sàng chết cho Thầy và chiên của Thầy. Thánh thiện là luôn làm theo Thánh Ý Thầy.
Chỉ cần mỗi giáo xứ có một cha sở như Gioan Vianney của Thầy ngày xưa thì tất cả giáo dân đều nên thánh. Chỉ cần mỗi giáo phận có một linh mục như Gioan Vianney của Thầy ngày xứa thì cả thế gian này sẽ được đổi mới! Mà nếu không được thế thì con hãy xin cho mỗi quốc gia có một linh mục như vậy thì Thầy cũng đủ toại nguyện rồi.
Thánh Phanxicô Xaviê, trong một bản tường trình đã viết như sau: “Nhiều người ở đây đã không thể trở thành Kitô hữu, chỉ vì chẳng có ai:TN 11-A47
Thánh Phanxicô Xaviê, trong một bản tường trình đã viết như sau:
“Nhiều người ở đây đã không thể trở thành Kitô hữu, chỉ vì chẳng có ai được chuẩn bị để đảm nhận sứ vụ giảng dạy cho họ. Con cảm thấy bị thôi thúc muốn đến các đại hoạc Âu Châu, đặc biệt là đại học Sorbonne ở Paris, để la lên, như một gã điên, cho những người giàu trí thức hơn là thiện chí, yêu cầu họ xử dụng trí thức của họ làm sao cho lợi ích. Phải chi trong khi nghiên cứu các môn nhân văn, họ cũng nghiên cứu sổ kế toán về những điều Thiên Chúa sẽ đòi hỏi họ qua tài năng Ngài đã ban cho họ. Lúc đó nhiều người hẳn sẽ xúc động kêu lên:
- Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn con phải làm gì?”
Lá thư trên khiến cho chúng ta nhớ tới lại Chúa phán:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của mình (Lc 10,2).
Lời phán dạy này, cho đến hôm nay, vẫn còn mang tính cách thời sự nóng bỏng của nó. Tuy nhiên, trước khi đi vào sứ mạng truyền giáo, chúng ta nên tìm hiểu về mùa gặt và thợ gặt.
Vậy trước hết mùa gặt là gì? Tôi xin thưa mùa gặt, hay lúa chín là tất cả những người hiện đang tìm kiếm Chúa, tìm kiếm chân lý, tìm kiếm mục đích và ý nghĩa cuộc đời.
Còn thợ là những ai? Tôi xin thưa là tất cả chúng ta, bởi vì mỗi người chúng ta đều có thể và phải là một người thợ gặt được sai đến trên cánh đồng truyền giáo.
Thế nhưng, tại sao ngày hôm nay lại có quá ít thợ gặt như vậy?
Lý do thứ nhất là vì chúng ta không thực hành điều Chúa đã truyền: Hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của mình (Lc 10,2). Thực vậy, có bao nhiêu người trong chúng ta, thường xuyên cầu nguyện xin Chúa thôi thúc tâm hồn các bạn trẻ để họ nghiêm chỉnh đáp trả ơn gọi của Chúa. Có bao nhiêu người trong chúng ta thường xuyên cầu nguyện xin Chúa thôi thúc tâm hồn những người đã lập gia đình để họ nghiêm chỉnh dấn thân vào mùa gặt bằng lời cầu nguyện và bằng những giúp đỡ tài chính hoặc làm bất cứ việc gì.
Lý do thứ hai khiến ngày nay có ít thợ gặt liên quan đến các gia đình. Liệu gia đình chúng ta có còn là thửa vườn ươm trồng ơn gọi hay không? Là những bậc cha mẹ, chúng ta đã nói cho con em chúng ta về việc chọn lựa đời sống tu trì như thế nào?
Sau cùng, lý do thứ ba liên quan đến cá nhân mỗi người chúng ta, đó là chúng ta có sẵn sàng hiến dâng cho Chúa trong nếp sống tu sĩ, khi chúng ta còn là một thanh niên hay không? Còn nếu như đã lớn tuổi thì liệu chúng ta đã làm gì để dấn thân vào mùa gặt. Có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc phải làm một điều gì đó để trực tiếp giúp cho việc truyền giáo.
Để hiểu đoạn Phúc Âm này, chúng ta hãy phân tích làm ba phần. Trước hết Chúa Giêsu cho các môn đệ Ngài cảm nhận rằng những người được Thiên:TN 11-A48
Để hiểu đoạn Phúc Âm này, chúng ta hãy phân tích làm ba phần. Trước hết Chúa Giêsu cho các môn đệ Ngài cảm nhận rằng những người được Thiên Chúa thương xót, giống như một mùa gặt bao la, nhưng thợ gặt lại thiếu, sau đó Ngài lại sai các môn đệ đi làm mùa gặt ấy. Cuối cùng Ngài dạy cho các ông biết phải làm gì. Chúng ta xét phần thứ nhất:
1) Lúa chín đầy đồng, nhưng thợ gặt thì ít…
Theo thói quen, Chúa Giêsu dùng một hình ảnh thông thường để giảng dạy một giáo lý cao siêu. Mùa màng tốt đẹp là một ơn lành quý giá đối với người Do thái và để mất một vài nắm hạt cũng được gọi là một thiệt hại đáng tiếc. Vì vậy lúc đó cần có nhiều nhân công để thu hoạch cho đúng thời. Nhân loại giống như mùa gặt ấy và các nhân công tinh thần có bổn phận tập họp người ta vào Vương Quốc thì ít. Do đó cần phải xin Chủ mùa, Cha nhân loại, sai các nhân công cần thiết là các tông đồ đến với nhân loại ấy.
2) Vậy hãy cầu xin Chủ mùa sai thợ đến gặt đồng lúa của Ngài.
Tại sao Chúa Cha không tự mình sai nhân công đi? Có lẽ vì hai lý do: trước hết vì Chúa đã quyết định rằng ơn cứu độ phải chuyển qua trách nhiệm của con người, nghĩa là thông qua dân Do thái trước kia, thông qua Giáo Hội ngày nay. Giáo Hội chịu trách nhiệm về ơn cứu độ, ý thức tầm mức bao la của công việc, nên cầu xin Thiên Chúa cho có nhiều thợ loan truyền sự cứu chuộc. Ở đây chúng ta gặp mầu nhiệm của lời kinh cầu bầu. Giáo Hội liên kết với Chúa Giêsu để xin Chúa Cha ban ơn cứu độ cho mọi người. Lý do thứ hai, Chúa Cha muốn cho lời kinh của chúng ta tạo được một kết quả mà chúng ta ít khi nghĩ đến. Lời kinh giúp ý thức mạnh mẽ hơn tầm quan trọng của điều khẩn cầu và chuẩn bị chúng ta thực hiện điều ấy. Khi cầu xin Chúa Cha sai các môn đệ đến thế gian, chúng ta hiểu được việc ấy hết sức quan trọng và chúng ta mở lòng ra để biết rằng, chính chúng ta phải làm tông đồ. Như thế người ta càng cầu xin, và càng là tông đồ càng cảm thấy cần cầu xin.
3) Phải mau lẹ thu mùa màng về, thời giờ thúc bách.
Trong Kinh Thánh có nhắc đến bằng nhiều cách bổn phận phải biết dùng thời giờ để hoàn thành công việc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc nhở: Nước Thiên Chúa đã gần kề. Phải xin Chủ mùa sai thợ đến không những vì mùa màng đầy tràn, mà còn vì thời giờ cấp bách, hạn kỳ ngắn ngủi. Các vị tông đồ chân chính buồn lòng khi thấy trong Giáo Hội số thời giờ bỏ phí để bàn luận mọi thứ vấn đề ít hay nhiều giả tạo, trong khi nhân loại là một mùa gặt đang sắp hư hại. Một lần nữa lại thấy nhu cầu phải cầu nguyện, vì chỉ có sự cầu nguyện cho thấy các khẩn cấp chân chính. Chúng ta không xét đoán giá trị thực của những tìm kiếm và thử nghiệm mục vụ, nhưng cần tự hỏi chúng ta có lo cầu xin Chúa Cha sai những tông đồ đến thế giới chúng ta không? Lời cầu nguyện có biến đổi chính chúng ta nên những tông đồ ý thức rằng thời giờ thúc bách hay không?
Chúng ta biết bốn vị được ưu đãi: Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Những vị khác rất quen quen thuộc đối với chúng ta là: Philipphê, Tôma, Matthêu:TN 11-A49
Chúng ta biết bốn vị được ưu đãi: Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Những vị khác rất quen thuộc đối với chúng ta là: Philipphê, Tôma, Matthêu, Giuđa. Nhưng còn Batôlômêô, Tađêô, con của Anphê, người yêu nước cuồng nhiệt.
Đàng khác, tất cả các tông đồ đều bị lu mờ do tính cách của Chúa Giêsu và sự say mê của riêng họ: họ chỉ nhìn thấy Ngài, cách Ngài yêu thương, nhất là yêu thương trẻ nhỏ. Cái nhìn của mười hai tông đồ vào Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết về Ngài, và về sự phục sinh của Ngài. Chúng ta là một Giáo Hội “tông truyền”.
Từ đó phát sinh sự vững vàng và nóng bỏng của đức tin chúng ta. Những tôn giáo khác có những bản văn đẹp, những truyền thuyết hay, nhưng duy chỉ người Kitô hữu mới có thể nhìn xem và lắng nghe Thiên Chúa, được làm cho thấy rõ nhờ một người đã sống ở chỗ nọ, vào thời kỳ đó và đã nói những điều hết sức rõ ràng. Nhờ các tông đồ, tức mười hai nhân chứng, chúng ta mới biết được Con Người đó. Chúng ta có thể nuôi dưỡng đức tin của chúng ta không phải ở nơi nào khác, mà chính là bằng cách không ngừng đi lại con đường của chính họ. Con đường đó đi từ Chúa-Giêsu-con-người đến Chúa-Giêsu-Thiên-Chúa: Ngài đã như thế này, Ngài đã hành động theo cách này, Ngài đã nói...
Cũng nhờ nhóm Mười Hai mà chúng ta mới đi vào trong Giáo Hội, một tập thể đông đúc mà ngày nay chúng ta thích gọi là Dân Chúa hơn. Mỗi Chúa nhật chúng ta lại tiếp xúc với khía cạnh chủ yếu của đức tin chúng ta, đó là sống thành một dân tộc, trong và nhờ Giáo Hội của Chúa Kitô cũng là Giáo Hội của các tông đồ: “Tôi tin Giáo Hội tông truyền”.
Lập tức, Chúa Giêsu đã muốn điều này: tái lập một dân tộc. Việc chọn mười hai bạn đồng hành gợi lại mười hai người con của Giacóp và mười hai chi tộc Israel, nghĩa là toàn thể mọi người. Chúa Giêsu đã đến vì mọi người. Lệnh ban ra cho các tông đồ: “Hãy đi tới với các chiên lạc nhà Israel” đơn giản đánh dấu bước đầu của sự quy tụ, đánh dấu lời kêu gọi dân cũ sẽ phải nhanh chóng tạo lập dân mới. Nhưng câu cuối của Tin Mừng mở cửa toàn thể thế giới cho các tông đồ: ”Các môn đệ thuộc tất cả các dân tộc”.
Khi tìm kiếm một người thay thế Giuđa, Phêrô đã nói: “Chúng ta hãy chọn một trong những người đã đi theo chúng ta trong suốt thời gian Chúa Giêsu thường lui tới với chúng ta cho đến ngày Ngài lên trời. Người này sẽ cùng chúng ta làm chứng Ngài đã sống lại” (Cv 1, 21-22). Lời này mở rộng nhóm mười hai. Không phải họ là những người duy nhất vây quanh Chúa Giêsu. Cho nên Tin Mừng cũng nói đến 72 người. Nếu vai trò của nhóm mười hai là duy nhất theo tư cách là nền tảng của Giáo Hội, thì chính khái niệm tông đồ được mở rộng ra cho mọi Kitô hữu, và bao gồm hai tính chất chủ yếu, đó là cùng đồng hành với Chúa Giêsu và đức tin thông truyền do sự Phục sinh: “Ngài đã sống lại!”
Chúng ta thuộc về động thái phát sinh vào ngày mà Chúa Giêsu muốn nhóm mười hai sống với Ngài. Nếu chúng ta không hài lòng về Giáo Hội, về Giáo Hoàng, về các Giám Mục và về cha sở của chúng ta, chúng ta hãy xem xét vấn đề... cùng với Chúa Giêsu. Chúng ta có thể phê bình và đôi khi chúng ta phải làm như thế vì là một thành phần sống động trong Giáo Hội. Nhưng điều cũng làm cho chúng ta quan tâm đó là toàn thể Giáo Hội là một tập thể rất sống động chung quanh Chúa Giêsu và là một lời loan báo Tin Mừng của Ngài rất sống động.
Khi tình yêu Giáo Hội và nhiệt tình truyền giáo hiện diện nơi một Kitô hữu thì người đó đang đi theo bước chân các tông đồ và Chúa Giêsu xem người đó là người thân của Ngài.
Thấy dân chúng, Người chạnh lòng thương họ": khởi điểm sứ mệnh tạm thời của nhóm 12 và khởi điểm toàn thể sứ mệnh của Giáo Hội là lòng:TN 11-A50:
“Thấy dân chúng, Người chạnh lòng thương họ": khởi điểm sứ mệnh tạm thời của nhóm 12 và khởi điểm toàn thể sứ mệnh của Giáo Hội là lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu... Đây là một thứ tình cảm sâu đậm (chữ Hy lạp gợi lên hình ảnh tâm thần xao xuyến) mà Cựu Ước đã gán cho chính Thiên Chúa (Xh 34, 6; Tv 103, 8-13; Hs 2, 2-3; Gr 31, 20; Is 54, 7) và các Tin Mừng dành riêng cho Chúa Giêsu (Mt 14, 14; 15, 32; 20, 34; Mc 6, 34; 8, 2; 9, 22; Lc 7, 13) hay cho các nhân vật dụ ngôn tượng trưng Người hay Thiên Chúa (Lc 15, 20; Mt 18, 27; x. Lc 10, 35).
"Vì họ bơ phờ vất vưởng như chiên không người chăn giữ” ở đây điều làm Chúa Giêsu âu yếm xót thương là tình cảnh quẫn bách của những đoàn lũ "bơ phờ", "yếu liệt", "nằm sòng sãi", như một đàn chiên không có chủ chăn. Hình ảnh thôn dã này mượn từ Cựu Ước, mà bản văn gần giống nhất là Ds 27, 16-17: “Môisen thưa với Giavê rằng: Lạy Giavê, xin Ngài đặt một ai đó trên cộng đoàn, để ra trước chúng và vào trước chúng để đem chúng ra và đem chúng vào, hầu cộng đoàn của Giavê khỏi như chiên không người chăn giữ". Đàn chiên của Thiên Chúa, trong suốt giòng lịch sử, đã từng bị những tên lái buôn "bóc lột và phân tán” (Dcr 11, 7. 11; x. 1V 22, 17; Gr 23, 1-2; 50, 6; Ed 34, 1-10; Is 56, 11); và bây giờ vẫn còn những kẻ hướng đạo đui mù (Mt 15, 14; 23, 16.24) dùng môn học thuyết sai lạc của họ (16,12) làm lạc hướng đàn chiên, vẫn còn những hạng chăn thuê vô liêm sỉ làm chiên tan tác (Ga 10, 12tt). Vì thế Chúa Giêsu, chủ chăn vương giả mà Êdêkien loan báo (34, 23tt), mục tử tuẫn nạn mà Dacaria đã thoáng thấy mơ hồ (13, 7 = Mt 26, 31), sắp ủy thác cho nhóm 12 trách vụ quy tụ đàn chiên từ mọi chuồng chiên khác (Ga 10, 16) như ngày xưa Môisen đã ủy thác dân cho môn đồ mình là Giosuê chăm nom (Ds 27,17). Đây thật là một vinh dự lớn lao và cũng là một trách nhiệm nặng nề cho nhóm 12 môn đồ của Môisen mới…
"Mùa màng nhiều, thợ gặt ít”: Mùa gặt là một hình ảnh cổ điển Cựu Ước thường dùng để chỉ cuộc Chung thẩm của Thiên Chúa (Is 27, 12; Ge 4, 13 v.v...). Trong Tân Ước mùa gặt này thường phân làm hai, gồm giai đoạn đầu được đánh dấu bởi thời gian của Chúa Giêsu và của Giáo Hội và giai đoạn hay lịch sử chấm dứt, lúc Con Người sẽ thu lúa vào lẫm (Mt 13, 30) và đốt cỏ lùng (13, 30. 41tt): đó sẽ là mùa gặt sau hết (Mc 4, 29; Kh 14, 14tt), là “ngày tận thế" (Mt 13, 39), ngày chung thẩm (25, 31-46) và bấy giờ thợ gặt sẽ là chính Chúa Kitô với các thiên thần của Người (13, 39; x. Kh 14, 14-19). Nhưng trong khi chờ đợi ngày tận cùng đó, thì kể từ cuộc giáng lâm lần thứ nhất của Chúa Kitô, rõ ràng phải cần một vụ gặt qua sự kiện là đã có sự phân biệt giữa hạt giống tốt và xấu, khi Tin Mừng đòi buộc con người phải tuyên bố theo hay chống Chúa Kitô (Mt 10, 13-16. 40; Ga 3, 18tt). Đấy là công việc chuẩn bị trong đó Chúa Giêsu đã đóng vai trò gieo giống (Mt 13, 1-8ss; 13, 37; Ga 4, 36tt), còn nhóm 12 sẽ là những người thu hoạch.
Chính mùa gặt tiên trưng này là mùa mà nhóm 12, khi thụ hưởng các thành công đầu tiên của Chúa Giêsu, thấy mình được Người ủy thác cho tại Galilê, và chính về nó mà ta có thể áp dụng trước tiên câu nói của Chúa Giêsu trong Gioan: "Thầy đã sai các con đi gặt nơi các con đã không vất vả làm ra: có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các con chỉ đến thừa hưởng công lao của họ" (Ga 4, 38). Tuy nhiên sứ vụ ở Galilê chỉ là mào đầu và là hình ảnh của những mùa lúa chín vàng (Ga 4, 35) và phì nhiêu (Mt 9, 37) mà các sứ đồ cùng bao thợ khác của Tin Mừng, thừa hưởng công lao khó nhọc và hoa quả của hy tế Chúa Giêsu (x. Ga 4, 6; 12, 24), sẽ thu vào lẫm (so sánh Ga 4, 37tt và Cv 8, 15tt) từ ngày Hiện xuống.
“Chữa mọi tật nguyền bệnh hoạn": Ở đây Matthêu dùng lại cùng những hạn từ đã sử dụng để nói lên quyền năng tràn đầy mà chính Chúa Giêsu đã được trao ban (9, 35); qua cách đó ông cho thấy các sứ đồ hoàn toàn in hệt Người và họ phải trở nên như cánh tay nối dài của Người vậy. Họ sẽ hoàn tất các công việc và thành quả giống như của Người và Ngài củng cố lời rao giảng của họ bằng cách làm phép lạ. Uy quyền của Chúa Giêsu được chuyển qua cho môn đồ của Người.
"Mười hai sứ đồ ": Đây là lần duy nhất Matthêu dùng thành ngữ này; nơi khác, ngoài thành ngữ "Nhóm mười hai" (10, 5; 20, 17; 26, 14. 20. 47), ông viết "Mười hai môn đồ" (10, 1; 11, 1; x. 28, 16) hay “các môn đồ" (13, 10; 14, 15; 26, 8. 56 v.v. ..), vì hơn Maccô và Luca, Tin Mừng thứ nhất ưa lẫn lộn môn đồ và sứ đồ với nhau. Kiểu nói bất thường của đoạn văn chúng ta sử dụng chữ "sứ đồ" theo chính xác được dùng trong Giáo Hội sơ khai để chỉ nhóm Mười Hai và một vài nhân chứng chính thức khác của việc Chúa phục sinh.
“Đừng lên đường đến các dân ngoại": Mấy chữ này rõ ràng là kiểu nói cổ xưa (như kiểu nói "thành của người Samari" để chỉ tỉnh Samari), có căn ngữ Aram (kết quả nghiên cứu Schurmann, Cerfàux) cũng chắc chắn phát xuất từ một nguồn trước Matthêu; và bởi thế ta hiểu được rằng Maccô và Luca đã dùng đến vì nể các độc giả lương dân của họ. May thay còn lại các chữ đó, vì chúng là bằng chứng cho thấy các Kitô hữu đầu tiên đã xem việc truyền giáo ở Galilê là một sự kiện lịch sử, đáng ghi nhớ. Ông không xem đó như là lời phát biểu một nguyên tắc ngàn đời của việc truyền giáo, vì như vậy mâu thuẫn với mệnh lệnh sau cùng mà ông có ghi lại: “các con hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân" (28, 19), nhưng xem như là lời diễn tả một kế hoạch tạm thời, mà tất cả thái độ của Chúa Giêsu đã làm chứng cho thấy, một kế hoạch mà theo đó Tin Mừng phải được dành riêng cho "con cái của Vương quốc” (8, 12) Trong một thời gian đầu, nghĩa là cho đến cuộc chiến thắng phục sinh, cái biến cố sẽ tạo nên khí cụ cứu rỗi cho tất cả mọi người, tạo nên chủ đề chính yếu của lời rao giảng và khởi điểm của việc rao giảng khắp vũ hoàn. Matthêu đã nghĩ rằng độc giả của ông đủ thông minh để phân biệt, trong mớ tài liệu sưu tập của chương 10, cái gì đã chỉ có giá trị đối với việc truyền giáo ở Galilê và cái gì áp dụng được cho mọi thời đại của Giáo Hội.
“Hãy loan báo ... hãy chữa lành”: Việc rao giảng của Chúa Giêsu và của các sứ đồ ở Galilê đã quy hướng cái nhìn của Israel về sự can thiệp dứt khoát cận kề của Thiên Chúa, được hứa thực hiện trong thời sau hết (Is 52, 7; Dcr 14, 9; Đn 2, 44 v.v...). Và các phép lạ cùng các việc trừ quỷ của Chúa Giêsu, đi đôi với lời người rao giảng (Mt 4, 23; 9, 35; Lc 9, 11...) làm nên khởi nguyên (Mt 12, 28; Lc 17, 20) cũng như dấu chỉ của Vương quyền cứu độ này của Thiên Chúa. Đó cũng là vai trò của các phép lạ và việc trừ quỷ do nhóm 12 thực hiện. Ngoài ra Matthêu còn ghi thêm lệnh phục sinh kẻ chết và tẩy sạch người phung hủi; như thế ông đã đưa ra được bản liệt kê các dấu chỉ Thiên sai, cảm hứng từ Isaia, gần giống với bản liệt kê trong câu Chúa Giêsu trả lời cho Gioan Tẩy giả (11, 4).
Sau này, các sứ đồ sẽ tiếp tục rao giảng Nước Trời (Cv 19, 8; 20, 25; 28, 23. 31), nhưng sẽ thêm vào đó (Cv 8, 12) tên của Đấng đã chết để giải thoát ta khỏi ách kìm kẹp của satan, tội lỗi và sự chết, đã được tôn phong làm Chúa trên trời (Cv 2, 30-36; Pl 2, 11; Kh 19, 16) và sẽ trở lại hoàn thành Vương quốc (1Cr 15, 20-28. 50; Cv 3, 21…). Để củng cố lời rao giảng Tin Mừng (Mc 16, 15-18; Cv 4, 29tt), họ sẽ tiếp tục chữa lành bệnh tật (Cv 3, 1-10; 5, 15tt; 8, 7; 9, 32-35; 19, 12), phục sinh kẻ chết (Cv 9, 36-42; 20, 7-12), xua trừ ma quỷ (Cv 8, 7; 16, 16) và tỏ ra bất vụ lợi hoàn toàn (1Tx 2, 2-12; Cv 8, 19tt). Tiếp tục trách vụ của họ, Giáo Hội truyền giáo sẽ không thể tách rời việc rao giảng Tin Mừng với các hoạt động bác ái vô vụ lợi, vì cả hai đều ban phát cho mọi người ơn cứu độ hoàn toàn Chúa Giêsu đã đạt được.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu đã động lòng xót thương đàn chiên bơ vơ lạc lõng trước mặt Người, cũng như các con chiên bơ vơ Người thoáng thấy trong muôn thế hệ về sau. Trước khi hiến thân để chỉ còn "một đàn chiên, một chủ chiên" (Ga 10, 16), Người đã chọn và sai nhóm Mười Hai, thủ lãnh của một dòng dõi những kẻ phục vụ Tin Mừng, để họ rao giảng Tin Mừng, xua đuổi tà thần, chữa lành bệnh tật, nghĩa là ban phát cho toàn thể con người ơn cứu độ mà Người đã tạo được nhờ lao nhọc gieo vãi và cứu chuộc. Giáo Hội, thành thánh đặt cơ sở trên 12 móng, mỗi móng mang tên của một trong 12 sứ đồ của Con Chiên (Kh 21,14), có trách vụ tiếp tục cho đến tận thế sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và ân cần chăm sóc hết những ai đau khổ. Nhưng vì thợ gặt ít, nên Chúa Giêsu xin ta cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy sai thợ gặt đồng lúa của Ngài!
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Khi hạn định sứ mạng của mình trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu đã tuân theo một trật tự, một tiến trình cứu rỗi đã được tiên liệu chiếu theo quyết định của Thiên Chúa: bắt đầu từ dân Do thái đi đến dân ngoại. Người đã hiểu sứ mệnh mình như thế và đã nghiêm túc tuân theo. Có lẽ Người đã đau khổ vì sự hạn chế này. Sự vâng phục này nằm trong sự từ bỏ sâu xa và hoàn toàn của Con Thiên Chúa, mà nhờ đó ta được cứu chuộc. Giữa bao lao nhọc truyền giáo và mục vụ, ta chớ bao giờ quên rằng: điều quan trọng không phải là số lượng công việc đã làm, đường xa đã đi, số người đã ảnh hường, tính cách bao la của công trình, nhưng là thi hành thánh ý Thiên Chúa trong các giới hạn mà thánh ý Ngài đã ấn định.
2) Thiên Chúa đã muốn cần đến con người để tiếp nối hành động Ngài trong thế gian. Ngài có thể bất cần sự hợp tác đó thế nhưng Ngài đã muốn cho con người tham dự vào cuộc tạo dựng thứ hai (việc rao giảng Tin Mừng làm lại con người một cách khác từ cái chết do tội) sau khi đã kết nạp họ vào cuộc tạo dựng thứ nhất ("Hãy nên đầy dấy trên đất và hãy bá chủ nó", St 1, 28).
3) Những kẻ Thiên Chúa gọi, thì Ngài gọi cách tự do, chứ không chiếu theo danh nghĩa đặc biệt nào (giai cấp xã hội, quốc tịch, chính kiến, thông minh...). Tuy nhiên Ngài ưu tiên lưu tâm đến những người đơn sơ chất phác, nghèo hèn, ít học... Điều Ngài đòi hỏi là sự cởi mở, quảng đại, sẵn sàng. Nếu có các đức tính đó, Ngài có thể làm những việc kỳ diệu, dù họ vẫn còn nhiều khuyết điểm và yếu đuối của con người.
4) Lòng thương xót trắc ẩn của Chúa Kitô thúc bách Người lắng lo cho các chiên không chủ chăn thời đó. Ngày nay phải chăng đã đổi hoàn cảnh? Không! Đọc bất cứ tờ báo nào, nghe bất cứ đài phát thanh nào, ta đều chứng kiến bao cảnh biểu lộ sự bối rối hay thất vọng trước nỗi khó khăn, phi lý của cuộc đời. Nhìn đám đông trong thành phố, dưới vỉa hè hay trên xe cộ, hình như ta cũng có cùng cảm thức như Chúa Giêsu khi đứng trước đám người Do thái ở Galilê. Đôi lúc chính các Kitô hữu ngày nay không còn biết tin tưởng vào ai, theo vị thầy nào. Chúa Kitô sai Kitô hữu đến thế gian để tiếp nối sứ vụ chủ chiên nhân lành của Người bên cạnh con người thế kỷ XXI.
5) Vào mỗi thời kỳ khó khăn hay chuyển hướng của lịch sử Giáo Hội, thì chủ mùa gặt, để đáp lại lời cầu xin của biết bao người hèn mọn, yếu đuối, vô danh, đã luôn làm chỗi dậy nam nữ sứ đồ. Những kẻ này xuất hiện như là những vị giảng đạo của thời đại, những chứng nhân cho một Vương quốc duy nhất có thể biểu lộ sức mạnh của mình bằng nhiều cách. Nhưng chỉ nhờ lời cầu nguyện mới có các chứng nhân đó.