Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Ðức Giêsu và các môn đệ trở về nhà, và đám đông lại kéo đến, nên Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí. Còn các kinh sư từ Giêrusalem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám, và người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ. Ðức Giêsu liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Xatan làm sao trừ Xatan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy Xatan mà chống Xatan, Xatan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. Không ai có thể vào nhà kẻ mạnh mà cướp của được, nếu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó. “Tôi bảo thật các ông: mọi tội lỗi và lời phạm thượng, dù nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng sẽ được tha cho con cái loài người. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời”. Ðó là vì họ đã nói: “Ông ấy bị thần ô uế ám”. Mẹ và anh em Ðức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”. - Ðó là lời Chúa.
Trong cc.22-30, Mc tiếp tục khai triển hai chủ đề nào? 2. Dụ ngôn “vương quốc bị chia rẽ" (cc.23-26) TN 10-B51
1. Trong cc.22-30, Mc tiếp tục khai triển hai chủ đề nào?
2. Dụ ngôn “vương quốc bị chia rẽ" (cc.23-26) đã được cảm hứng từ dụ ngôn gì trong Cựu ước?
3. Trong dụ ngôn "người mạnh", Chúa Giêsu được tượng trưng qua nhân vật nào?
4. Phải hiểu cc.28-29 ra sao xét theo văn mạch?
5. Từ ngữ “ở ngoài" phải chăng chỉ một vị trí không gian (x. 1Tx 4, 12; 1Cr 5,12-13; Cl 4,5; 1Tm 3,7)?
6. Phải chăng trong cc.31-34, Mátcô phê phán mẹ và anh em Chúa Giêsu?
7. Bản văn hôm nay đưa ra những kết luận gì cho đời sống Giáo Hội?
Kết cấu bản văn.
Toàn bộ bao gồm trong cc. 20 dến 35 của Mc 3 được cấu thành bởi hai giai thoại lồng vào nhau: câu chuyện bà con thân thích Chúa Giêsu bị cắt ngang bởi câu chuyện các ký lục Giêrusalem tố cáo người (cc.22-30). Qua phương thức văn chương quen thuộc này của ông (x. 5,21-43 ; 11,11-21; 11, 15-19.27-33; 14,1-11; 14,54-72), thánh sử kêu mời chúng ta hãy tìm ra các mối giây liên kết hai giai thoại.
Các câu 22-30.
Mátcô trình bày giáo huấn của Chúa Giêsu về vương triều Satan thư là các câu trả lời cho đoán ngôn của các ký lục: "ông ta bị quỷ Bendêbun ám ... Chính nhờ đầu mục của quỷ mà ông ta trừ quỷ" (c.22). Tuy nhiên câu trả lời không tương ứng đích xác với luận điệu tố cáo, vì khi Chúa Giêsu bảo chẳng nhắm đến nguồn gốc quyền bính của Người. Khác với bài biên soạn của Mt (12,27-28) và Lc (11, 19-20); hai ông này trực tiếp ám chỉ luận điệu tố cáo của các ký lục. Có lẽ ở đây ta mới tìm được câu trả lời đích thực của chúa Giêsu ít nhất trong câu 28 của Mt và câu 20 của Lc, câu 27 của Mt và câu 19 của Lc có thể đã được về sau thêm vào (xem G. Minette de Tillesse, Le secret messianique danh l'evangile de Marc, Paris. 1968, tr. 101, chú thích 3). Sự kiện trong Mc 3,22. Mt 12,27-28 và Lc 11,19-20, quỷ được gọi là Bendêbun trong khi nói Mc 3,23-26, nó mang tên là Satan, chứng tỏ có một bất liên tục giữa 3,22 và 3,23-26 và có lẽ một liên tục giữa Mc 3,22; Mt 12,24 và Mt 12,27-28}. phải chăng Mátcô đã không biết thánh ngôn (logion) ấy, hay đã cố tình loại nó đi vì khó thích hợp với chủ đề bí mật thiên sai của ông? Hai lối giải thích đều có vẻ tin được.
Câu 27 của Mc làm thành một thánh ngôn riêng, liên kết với văn mạch, trước nhờ giáo huấn nó chứa đựng và nhờ chữ "nhà" là chữ có thể đã đóng vai trò tiếng móc (x. c.25), vì
lẽ cũng tiếng ấy đã được gặp trong c.20 và một lần nữa được hiểu ngầm trong cc. 31-35.
Các câu 28-30 ám thành một thánh ngôn độc lập thứ 3. Như vậy Mátcô đã quy tụ ở đây ba giáo huấn của Chúa Giêsu về bá quyền của Satan, và đã cho chúng một nhập đề là lời tố cáo của các ký lục.
Mt và Lc không muốn bẻ gãy sự liên tục của Mc 3,22-26; họ đã lợi dụng chỗ đứt đoạn giữa 3,26 và 3,27 để tái lập thánh ngôn nói về nguồn gốc quyền bính Chúa Giêsu. Lc lại còn biên soạn thêm một câu để làm tăng sự mạch lạc nữa (c. 18b) (Câu 18b này có lẽ chỉ là câu Mc 3,20 bị đổi chỗ, vì không còn lý do gì để nằm sau Lc 12,10 là một câu song song với Mc 3,28-29).
Lời trả đũa của Chúa Giêsu, được Mc 3,23b-26 giữ lại, có một nghĩa tương đương với Mt 12,27-28 và Lc 11.19-20. Xem ra nó đã được thốt lên trong một hoàn cảnh tương tự. Nhập đề (c.23a) cũng như kết luận (c.30) là do Mc soạn thảo, vì cả hai chẳng có trong các bản văn song song. Hơn nữa, Chúa Giêsu không có thói quen quy tụ các ký lục quanh Người, và chữ dụ ngôn ở đây gây nhiều kinh ngạc. Vẫn biết nó có thể được hiểu theo nghĩa rộng là mashal, nhưng việc đối chiếu với 4, 11 bảo ta nên coi c.23a là một lời loan báo diễn từ bằng dụ ngôn và loan báo chủ đề của các giáo huấn khác nhau tùy theo dự kiện của các thính giả (ở chương sau) (so sánh với 7,14; 8,34; 9,28tt; 10,41 -42 v.v...)
Bối cảnh lịch sử.
Ngay từ đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã đặc biệt kêu gọi một vài môn đồ không những đã tin người mà còn muốn theo Người nữa: Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan ... Người đã rời làng Nadarét để đến định cự tại Capharnaum và rao giảng khắp vùng Galilê.
Tại Capharnaum, hình như Người ở trong nhà Phêrô (x. 1,29 ; 2,1). Mc luôn nhắc đến nhà này, gọi đó là "nhà", với một chủ ý rõ rệt: đấy là nơi Chúa Giêsu rộng tay ban ơn vật chất (1, 30-34) và phân phát lời giảng dạy (2,1-2; 3,20.33-35; 9,28.33; 10,10). Nhà của Phêrô ấy, giờ thành nhà của Chúa Giêsu và các môn đồ, chẳng phải là một hình ảnh của Giáo Hội sau (x. bài của chúng tôi: Le paralytique pardonné ét guéri (Mc 2, 1-12) trong Assemblées du Seigneur loạt 2. 38, tr.8 1 . CN 7 Quanh năm B).
Sau này, vì đám đông đổ xô đến, sự giúp đỡ của những kẻ được gọi đầu tiên không đủ để đương đầu với làn sóng tăng dần của các bệnh nhân và thính giả. Chúa Giêsu bèn quyết định mở rộng nhóm bạn hữu của Người; Người chọn "nhóm Mười Hai" để giúp việc, và còn ban cho họ một ít quyền, đặc biệt là quyền trừ quỷ (Mc 3,13-19). Dù vậy, ngay khi Người trở về "nhà ", thì suốt ngày cũng chẳng đủ để tiếp nhận số đông khách như thế: "Họ không có giờ mà ăn nữa" (Mc 3,20).
Sức lôi cuốn của Chúa Giêsu với phong trào quần chúng mà súc lôi cuốn này khơi dậy là một sự kiện quá giật gân đến nỗi tin tức vội đồn ra khắp xứ, lan nhanh tới Giêrusalem và dĩ nhiên cả Nadarét nữa. Không ai có thể dửng dưng trước sự kiện, giới giáo quyền Israel lẫn bà con Chúa Giêsu.
I. CHÚA GIÊSU VÀ BENDÊBUN
Các phép lạ Chúa Giêsu đã làm thật quá nhiều, đến nỗi chẳng ai có thể nghi ngờ được. Người ta thắc mắc không phải về tính cách xác thực, nhưng về ý nghĩa của chúng. Dân cư Nadarét sẽ đặt câu hỏi cách rõ ràng: "Bởi đâu ông ta được như thế? Và sự khôn ngoan ban cho ông cùng các phép lạ lớn lao tay ông làm kia là gì vậy (Mc 6,2; x. 11,28). Đối với chúng ta hôm nay, câu trả lời thật dễ dàng: một quyền năng siêu nhiên đích thực chỉ đến được từ Thiên Chúa. Nhưng đối với người Do thái thì không đương nhiên như vậy; có thể có hai cách trả lời: một quyền năng như thế có thể do Thiên Chúa mà cũng có thể do ma quỷ. Nói chung thì những kẻ chất phác nghiêng về giải đáp thứ nhất và đã chạy đến từng đoàn lũ (1,32-33; 2,1-3; 3,7-8.20 ...). Những người mê tín, ít học xem Người là một ngôn sứ xưa sống lại: Elia, Giêrêmia hoặc một ngôn sứ nào đó (Mc 6,14-15; x. 8,28). Hêrôđê tưởng đấy chính là Gioan Tẩy giả mà ông đã ra lệnh chém đầu: 6,16}. Còn các ký lục, thượng tế, kỳ lão, trưởng hội đườug, biệt phái v..v..nghiêng về giải đáp thứ hai: theo họ, quyền năng Chúa Giêsu không gì khác hơn là quyền năng ma quỷ đang ở trong Người (x Ga 7,20; 8,48; Mt 10,25).
Chẳng phải dân chúng không tin vào quyền lực ma quỷ đâu; họ vẫn cho nó là tác giả của nhiều thứ bệnh (x. Lc 13,16; Cv 10,8 ...). Dưới mắt người Do thái, các trường hợp quỷ ám không những đã chứng thực có ma quỷ, mà còn biểu lộ quyền năng và hành động của chúng trên loài người (Mt 4,8-9; x. Lc 14,5-6). Họ đã tìm thấy trong các chương đầu sách Sáng thế lời giải thích quyền năng đó xem Kn 2,24; Ga 8,44; 2Cr 11,3. 14-15). Quyền lực của quỷ hùng hậu đến nỗi người ta gọi nó là một vương triều. Chính Chúa Giêsu, thay vì cải chính, cũng đã nhiều lần theo quan niệm đó trong khi giảng dạy, như để xác nhận không những trong Tin mừng Nhất lãm, mà cả Tin mừng thứ tư (Ga 12,31;14,30 và 16, 11 nơi Chúa Giêsu gọi ma quỷ là, “đầu mục thế gian này").
Theo người Do thái, quyền lực của ma chỉ có thể bị quyền lực của Đấng Messia lật đổ và thay thế. Nguồn gốc quan niệm này đã có trong trình thuật tội nguyên tổ, vì tác giả đã không muốn phân tách lời loan báo hình phạt với lời loan báo ơn cứu độ; ông còn cho thấy là hậu duệ của người nữ sẽ đóng một vai trò tích cực trong việc chiến thắng con rắn, nghĩa là ma quỷ (St 3, l5). Tuy nhiên chỉ vào hai thế kỷ sau cùng trước công nguyên, ý tưởng về một cuộc đối đầu giữa Đấng Messia và ma quỷ mới được khai triển nhiều trong các sách Khải huyền (xem Đn 2,31-45: ám dụ về bức tượng bị hòn đá nhỏ, tượng trưng Đấng Messia, quật ngã. G. Gaide, Le livre de Daniel, Tours, 1969, tr.64-72),. Tuy nhiên, trong phần lần các bản văn khải huyền, các vương quốc chống lại vương triều Thiên Chúa chung chung còn được đồng hóa với các đế quốc chính trị. Bản văn ý nghĩa nhất trong chiều hướng ta đang lưu tâm ở đây chắc hẳn là "Di chúc 12 Tổ phụ" (xem P. Voltz, Die Eschato.logie do judischen Gemeinde im neutestamentliche Zeitalter, Tubingen 1934, tr.309tt; H.L. Strack-p.Billerbeck, Kemmentar Zum Neuen Testament aus Talmud und Midrash, IV 2, tr.802).
Mc khai triển song song chủ đề giao chiến giữa Chúa Giêsu với Satan, và chủ đề quyền lực của Người. Ngay từ đầu Tin mừng Mc, Gioan Tẩy giả gọi kẻ đến sau ông như là người quyền thế hơn ông (Mc 1,7). Và khi xuất hiện, Chúa Giêsu được giới thiệu như là Con Thiên Chúa, đầy quyền lực Thánh Thần, và lập tức được thánh Thần đẩy vào hoang địa đương đầu với Satan. Nhưng Mc không lần nữa mô tả các cơn cám dỗ của Chúa Giêsu ; ông chỉ ghi lại sự thất trận của ma quỷ, truyền thống Mt và Lc mới di vào chi tiết. Theo bản trình thuật của Mt, cám dỗ thứ 3 - có lẽ là cám dỗ nhiều ý nghĩa nhất - liên hệ đến phương cách chuyển nhượng vương quyền trên hết thảy thế gian từ tay Satan qua tay Chúa Giêsu Kitô: Satan cám dỗ Chúa Giêsu bằng cách hứa hẹn giao vương quyền cho Người, với điều kiện là Người thừa nhận bá quyền của nó (Mt 4,9). Dĩ nhiên Chúa Giêsu sẽ nắm vương quyền trên khắp thế gian, nhưng bằng một phương cách khác biệt. Các hành vi quyền năng đầu tiên Chúa Giêsu làm sẽ là trừ quỷ (Mc 1,22-27.33 v.v...). Như vậy Người tỏ ra mình là Đấng "quyền thế hơn” bằng cách đương đầu với những chước cám dỗ của ma quỷ và chiếm đoạt các thần dân của nó. Lũ quỷ hình như nhận ra, với sự sáng suốt hơn loài người. Ý nghĩa của thất bại chúng và tuyên bố: “Hỡi Giêsu Nadarét chúng tôi (số nhiều) với Ngài nào có việc gì? Ngài đã đến để tiêu diệt chúng tôi sao?" (1,24); “Hỡi Con Thiên Chúa, giữa chúng tôi và Ngài nào có việc gì? Ngài đến đây trước thời buổi để làm khổ chúng tôi sao?" (Mt 8,29; x. Mc 1,33 ; 3, 11-12).
Dù Mc trình bày phản ứng của ma quỷ theo cách riêng của ông, thì những lời của lũ quỷ cũng không kém nói lên bài học của các Tin mừng; cuộc chiến thắng của Chúa Kitô đã được bảo đảm; cuộc đấu tranh đã khai mào nhưng chưa chấm dứt. Việc chữa lành đứa bé kinh phong - xảy ra sau lần loan báo Khổ nạn thứ nhất và sau cố gắng của Phêrô nhằm lái Chúa Giêsu di trệch đường Chúa Cha đã vạch (Câu Chúa Giêsu trả đũa Phêrô: "Xéo đi sau Ta, hỡi Satan!" gợi lên cám dỗ thứ ba (so sánh Mc 8,33 và Mt 16,23 với Mt 4,10) và ngụ ý rằng Phêrô làm công việc của Satan) - là một cuộc trừ quỷ đầy gian khó; cả ba Tin mừng Nhất lãm đều nhấn mạnh trong đó rằng: cuộc chiến đấu trở nên kịch liệt. Nó chỉ chấm dứt bằng việc thể hiện điều Chúa Giêsu vừa loan báo: đứa bé kinh phong phải chết một cách nào đã rồi mới được chỗi dậy (phục sinh) mà lành bệnh (9,26-27).
Quyền lực của Chúa Giêsu cũng tỏ hiện qua giáo huấn Người ban "với uy quyền" (= với quyền lực), qua các hành vi và lời Người xác quyết: Người tha tội (2,5-12), người tự xưng là chủ ngày hưu lễ (2,28) và củng cố lời mình bằng nhiều phép lạ.
Nhưng Mc không chỉ xác quyết quyền lực Chúa Giêsu và cho thấy quyền lực đó đang thi thố ra; ông còn giúp chúng ta nhận thức ý nghĩa mỗi biến cố đó. Ma quỷ cố tìm cách tuyên bố ý nghĩa này để gây cản trở, nhưng Chúa Giêsu đã bắt chúng im lặng. Chính người sẽ tiết lộ mầu nhiệm song một cách tiệm tiến, trước hết "bằng dụ ngôn” (3,23). Một lần hay một loạt trừ quỷ có thể bị cho rằng là chỉ tiêu biểu một chiến thắng cục bộ mặc dầu thật ra có một tầm mức vũ hoàn. Tầm mức vũ hoàn này sắp được mặc khải cho chúng ta qua cuộc đối thoại của Người với các ký lục.
Trước những tố cáo của họ (3,22), Chúa Giêsu không trả lời bằng một biện minh cá nhân, nhưng đúng hơn bằng một sự cảnh giác mà, theo Mt 12,27-28 và Lc 11,19-20, có hình thức một song luận: dù nhờ Bendêbun hay nhờ sức mạnh của Thiên Chúa mà Ta trừ quỷ, thì các người cũng hãy coi chừng, vì “Vương quốc Thiên Chúa đã đến với các ngươi". Nếu là bởi Thần khí Thiên Chúa (Đấng Người đã lãnh nhận ở sông Giođanô), thì các cuộc trừ quỷ là dấu chỉ trực tiếp cho biết Vương quốc đã đến. Nếu là do thủ lãnh ma quỷ, thì vương quốc nó đã tự chia rẽ rồi.
1. Dụ ngôn về vương quốc bị chia rẽ (cc.23-26).
Với hai hình ảnh song song, Chúa Giêsu kêu mời các thính giả nhận thức giá trị dấu chỉ của các cuộc trừ quỷ Người làm và rút ra kết luận từ đó (so sánh Lc 21,40-45 và ss): nếu một nước phân chia thành nhiều phe đối chọi nhau thì sẽ xảy ra chuyện gì? ... Và nếu một nhà, nghĩa là một gia đình, hay đúng hơn một hoàng gia, chia năm bè bảy mối tìm cách chiếm quyền lực thì sự gì xảy ra? ...
Câu trả lời cho hai câu hỏi đầu tiên quá rõ. Việc áp dụng vào trường hợp thứ ba đương nhiên đi theo, như áp dụng một châm ngôn vào một trường hợp riêng biệt: nếu "nhà" của Satan hay Bendêbun, thủ lãnh ma quỷ, bị chia rẽ, nó sẽ sụp đổ như một nhà nứt vách. Ngày tận mạt của vương triều Satan đã gần kề. "Làm sao Satan lại trừ Satan được? ... Nếu Satan dấy lên chống lại mình và tự chia rẽ, nó không thể đứng vững"(cc. 23b.26). Đó là trường hợp nếu, như các ký lục quả quyết, Chúa Giêsu tiêu diệt ma quỷ nhờ Bendêbun: Nó đã tận số (c 26b).
Ở đây ta gặp lại, nhưng dưới một hình thức gián tiếp, giáo huấn mà Mt 12,28 và Lc 1 1,20 đã đưa ra cách rõ ràng. người ta có thể tìm lại nguồn gốc của hình ảnh Chúa Giêsu đã sử dụng không phải chăng là trong một châm ngôn bình dân nào đó? Có thể nhưng hình như Chúa Gtêsu đã đặc biệt cảm hứng từ ám dụ bức tượng khổng lồ và hỗn hợp nhiều chất của Đanien 2. Bức tượng nhân cách hóa tất cả các đại đế quốc thù nghịch với dân Thiên Chúa. Nó thật dễ sợ như Goliát, nhưng cũng mỏng dòn như hắn ta vì các chân của nó, nghĩa là nền tảng của nó, "phần là sắt, phần là sành; đó là một nước mà có phần thì mạnh, phần thì yếu sức đế quốc A-lịch-sơn bị phân tán bởi các tướng quân của ông). Chúng sẽ pha loại lai giống người với nhau nhưng chúng không ăn khít với nhau được. Vào thời các vua ấy, Thần trên trời sẽ cho chỗi dậy một nước đời đời không bị hủy diệt ... Nó sẽ nghiền tán cùng tiêu diệt mọi nước kia (Đn 2,41-44; x. 4,22-29; 5,26- -7 và 9,4). Mc sẽ lấy lại chủ đề sự chia rẽ giữa các đối thủ vương tiều Thiên Chúa như thế trong diễn từ cánh chung (13,8 x. 6,23). Chủ đề có một nguồn gốc xa xưa hơn sách Đanien nhiều; người ta sẽ gặp nó trong chuyện tháp Baben, biểu tượng đầu tiên của các đế quốc không chinh tùng phục Thiên Chúa: Tất cả đều nói một ngôn ngữ, Giavê phán ... Ta hãy xáo trộn (= chia rẽ) ngôn ngữ của chúng ... và Giavê phân tán họ ra”. (St 11,6-8)
Đối nghịch với sự chia rẽ giữa các vương quốc thù nghịch là sự hợp nhất của Vương quốc Thiên Chúa, một đặc tính do Đấng Thiên sai mang lại: Chúa Kitô dần giao hòa con người với Thiên Chúa và con người với nhau: Người quy tụ họ lại (Ga 10,16; Ep 2,14).
2. Dụ ngôn người mạnh (c.27).
Chữ "nhà” hẳn đã đóng vai trò tiếng móc giữa hai dụ ngôn. Ở đây nhà không còn chỉ một hoàng gia nữa, nhưng là một ngôi nhà thông thường. Cũng chủ đề này còn được lấy lại với hình ngôi nhà trong một dụ ngôn khác được Mt kể xa hơn (12,43-45) nhưng được Lc đặt gần với dụ ngôn đang nói (Lc 11,24-26).
Chúa Giêsu mô tả một vụ trộm trớ trêu thay, tên trộm chính là Người. Qua hình ảnh này, khi thì Người dạy về việc xuất hiện thình lình của Vương quốc (Mt 24,43), khi thì đưa ra một bài học về sự bất an toàn của các của cải trần thế (Mt 6, 19-21; x. 12,30). Ở đây trọng tâm của dụ ngôn là ý tưởng sức mạnh. Chúa Giêsu mô tả một cuộc tấn công. Tên trộm không hành động cách bất ngờ cho bằng là với sức mạnh: gặp gia chủ được vũ trang đàng hoàng, thì thay vì bỏ trốn, y đã nhảy bổ vào ông ta và trói ông ta lại. Phải can đảm lắm mới dám tấn công một người mạnh" như thế Lc thêu dệt: "một người mạnh võ trang đầy đủ” (11,21 ) và thêm một điểm dạy đời: ông ta ỷ vào vũ khí của ông" (câu 25) (Xin nhớ Phaolô thích dùng những lối so sánh với vũ khí. Mà Lc là môn đồ Phaolô). Người mạnh ở đây là ma quỷ. Nó tin tưởng vào cái gì nếu chẳng phải là vào chính mình nó? Người Kitô hữu không làm như vậy.
Tên trộm chỉ được ám chỉ kín đáo nơi Mt; phải suy đoán mới thấy. Chắc đây là hình thức sơ thủy của dụ ngôn: "Không ai có thể vào nhà của người mạnh ... !. Nhân vật chính xem ra là người mạnh. Mt đã sửa đổi và đặt tên trộm lên hàng đầu: Làm sao ai có thể vào nhà ..." Lc kém khó hiểu hơn: "Khi một người mạnh ... nhưng có người mạnh hơn..." Người mạnh hơn hiển nhiên là Chúa Kitô, động chiến thắng ma quỷ (Lc 11 ,22; x. Mc 1,7). So sánh với loài người thì quỷ rất. mạnh, vương triều nó được thiết lập vững chắc; thế gian là nhà, là sở hữu của nó. Song các dấu chỉ thời đại đã cho thấy có một cuộc phán xử; quyền năng nó dần lui; thần dân nó bị đuổi ra khỏi những người nó ám. Nó đã bị kết án rồi.
Chân lý Chúa Giêsu dạy trong các dụ ngôn vừa nói có một tầm mức vũ trụ. Viễn tượng được lấy lại trong một trình thuật thuộc riêng Luca, và nhất là bởi Tin mừng thứ bốn. Khi nhóm 72 đi truyền đạt về, và hân hoan tường trình lên Chúa Giêsu? Thưa Ngài, nhân danh Ngài thì ngay cả ma quỷ cũng tùng phục chúng tôi?", Chúa Giêsu liền đáp: “Ta đã thấy Satan rơi xuống như chớp từ trời" (Lc 10, 17-18). Và theo Ga, sở dĩ Chúa Giêsu "đến", không phải chỉ để gánh nhiều tội lỗi hay các tội lỗi của nhân loại, nhưng để gánh tội thế gian, là gạt khỏi thế gian này vốn từng là nhà, là vương quốc của nó) tên thủ lãnh thế gian (Ga1,29; 12,31 ; 14.40; 16, 11). Người đem chính ơn cứu rỗi đến cho nhân loại (4-12). Vương quốc Thiên chúa sắp thay thế vương quốc quỷ ma. Tuy nhiên, sự đảo lộn này sẽ không thể thực hiện nếu không có những trận chiến ghê gớm: dụ ngôn cái nhà bị trộm của chúng ta ngụ ý điều này.
II. NHỮNG KẺ Ở NGOÀI VÀ NHỮNG KẺ Ở TRONG
1. Các “ký lục".
Vấn dề nguồn gốc quyền bính Chúa Giêsu đã từng là một vấn đề nghiêm trọng, năng được đặt ra suốt sứ vụ của Người và đã từng bị tranh luận sôi nổi, gay gắt. Cũng vấn đề này đã được đặt ra về Gioan Tẩy giả (Ga 1,19-28; x. Mc 11 ,30) nhưng ít quan trọng hơn. Các đòi hỏi của vị Tẩy giả không vượt xa các đòi hỏi của Môisen mấy; các lời xỉ mắng của ông cũng chẳng nghiêm khắc hơn các ngôn sứ xưa. Nhưng các đòi hỏi của Chúa Giêsu thì đi xa hơn nhiều Giáo huấn của người tách hẳn giáo huấn của các ký lục vừa về nội dung và về cách thức ban bố (Mc 1,22.27) và ngoài ra còn được thêm uy tín nhờ nhiều phép lạ, nhất là các cuộc trừ quỷ. Quyền bính của các ký lục bị đe dọa; dân chúng quay về Chúa Giêsu (x. Mt 5,20tt).
Từ Giêrusalem, người ta khẩn phái một ủy ban điều tra đến (so sánh với Ga 1,18-28), không phải để hỏi thăm nhưng để phán xử. Ủy ban cố hạ uy tín Chúa Giêsu trước mặt đám đông (so sánh với Ga 9,16.24-38): đây là một kẻ bị Bendêbun ám; sở dĩ lão ta trừ được quỷ, bởi vì lão là một dụng cụ của chúa quỷ, chứ không nhờ thần lực như các ngôn sứ chân chính đâu (Mc 3,22).
Theo Mc, đoàn sứ giả là các ký lục (cũng vậy trong Mc 7,1; Mt 15,1). Có nên hiểu chữ này sát nghĩa không? (Như E. Trocmé, La formation de l'evangile se lon Marc, Paris, 1963, tr.76~80). Vì Mt thì nói là các Biệt phái (12,24; xem 9,34), còn Lc chỉ sử dụng một thành ngữ mơ hồ: " ít kẻ trong họ (11 ,15). Thực ra Mc thường hay nói ký lục, Mt nói Biệt phái, Lc nói luật sĩ và Gioan nói "người lão thái". Tựu trung, mỗi thánh sử có một cách kêu tên ưa chuộng để chỉ kẻ thù Chúa Giêsu, nghĩa là toàn thể các thủ lãnh tôn giáo: thượng tế, ký lục, Biệt phái, kỳ lão v.v... Đối với độc giả Mt, các danh từ này còn tương ứng với một cái gì rõ rệt; nhưng đối với độc giả Mc, thuộc những môi trường ngoại giáo, thì tiếng ký lục, tương đương với người học thức, mới thích hợp hơn (x. Mt 11,25).
Ngôn sứ thực hay giả?
Các "ký lục" không thừa nhận các dấu chỉ nói lên sứ mạng Chúa Giêsu, và đồng hóa chúng với các phép lạ của ma quỷ họ chỉ coi Chúa Giêsu là một tên bịp đời (xem Ga 7,12.47; Mt 27,63), một ngôn sứ giả hiệu như các tư tế Baal mà Elia đã lật tẩy và truyền giết đi như lề luật dạy (Tv 18; Đnl 18,20). Khi hứa ban bình an và của cải ảo tưởng (x.Tv 22), các ngôn sứ giả đã làm dân xa rời giao ước và làm cho vua chúa bất trung với Giavê. Các ngôn sứ thật của Gioan đã chiến đấu chống họ (xem 2V 1,2; Is 28,7-13 ; 30, 10; Mca 2, 11 ; 3,5-11 ; Cr 5,31; 14,13-16; 23,9-40; 28; v.v...). Lề luật đã cho nhiều tiêu chuẩn biệt phân, nhưng các ký lục đã giải thích những tiêu chuẩn đó theo cách của mình.
a. Theo Đnl 13,2-6 , ngôn sứ nào tìm cách lôi kéo dân chúng thờ phượng ngẫu tượng là một ngôn sứ giả, phải bị giết chết. Vì Chúa Giêsu đã chẳng thèm chú giải Lề luật như các ký lục là nhấn mạnh đến các quy tắc bên ngoài, nhưng đã ban "một giáo huấn mới (1,27), nên theo họ, đó chỉ có thể là một giáo huấn đi ngược với Lề luật (Ga 9,29). Tuy nhiên Chúa Giêsu đã tuyên bố: "Ta không đến phá hủy Lề luật hay các ngôn sứ, song để kiện toàn” (Mt 5,17). Nhưng các ký lục, vì tự xem mình như những kẻ đích thực bênh vực lề luật và các quyền lợi của Thiên Chúa (x. Mc 2,6-7; 7,15; 9,14) nên đã khư khư với lề luật và luôn tin tưởng vào các công việc của mình. (Trước các "công việc" này, Chúa Giêsu đã đưa ra các "công việc của Người, dấu chỉ của sứ mệnh Người, để đối chọi lại).
b. Để bổ túc tiêu chuẩn trên còn quá mơ hồ, Lề luật thêm rằng ngôn sứ đích thực phải được chính Giavê sai đến (Đnl 18,9tt). Làm sao kiểm chứng điều kiện này? Chính vị ngôn sứ phải làm cho người ta tin vào sứ mệnh mình bằng nhiều "dấu chỉ", hoặc bằng các phép lạ (x. Xh 4,1-9; 7-11-; Lv 18,36-40), hoặc bằng cách tiên báo những sự kiện sẽ xảy ra (Đnl 18,21-22; Gr 28,9; Ed 33,33). Đã hơn một lần, người Do thái thúc giục Chúa Giêsu ban cho họ nhiều dấu chỉ chứng minh sứ mệnh của Người (Mc 8,11-13; Mt 12,38-39; 16,1-4; Mc 11,28; Ga 2,18; 4,48; 6,30...). Vì đã ban đủ dấu chỉ, nên Chúa Giêsu thường từ chối. Nhưng họ đã sử dụng các dấu chỉ này để chống lại Chúa Giêsu bằng cách gán chúng cho quyền năng Bendêbun chúa quỷ. Từ đó, họ đóng kín trước ơn cứu độ Thiên Chúa không ban cho họ. Họ lộng ngôn phạm đến Thần Khí mà nhờ đó Chúa Giêsu đã thực hiện các phép lạ của Người (Mt 12,28).
Mọi tội khác, kể cả tội lộng ngôn - dù tội lộng ngôn bị Lề luật lên án tử (Xh 22,27; Lv 24,11-16) - đều có thể được tha nếu người ta nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến và xin người tha thứ tội lỗi. Giả sử đã từ chối Chúa Giêsu, người ta vẫn còn có thể được cứu, nếu thống hối ăn năn (Mc 14,72; Lc 22,61) [Dt 6,4-8 và 10,26-31 hình như xét đến trường hợp của những kẻ đã chối đạo và không muốn trở về với Chúa Kitô. Nơi 10,29, hãy ghi nhận mối tương quan giữa tội này và Thần khí, như nơi Mc 3,29. Có lẽ đó cũng là thứ tội được nói đến troug 1Ga 5,16-17]. Nhưng nếu từ chối tin và Chúa Giêsu, cho các công việc Người làm nhờ Thánh Thần là do sự trợ lực của "thần ô uế" bên trong (Mc 3.30), thì lúc đó người ta đã lộng ngôn đến Thánh Thần người ; ta tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, bởi vì Chúa Giêsu là Đấng trung gian duy nhất (1Tm 2,5) và không có ơn cứu độ khác ngoài người (Cv 4, 12).
2. Thân nhân Chúa Giêsu (cc.21 .31-33).
Không chỉ có giáo truyền Giêrusalem, cả gia đình Chúa Giêsu cũng quan tâm đến các tin tức tại Capharnaum (x.Lc 4,23). Phản ứng của họ không mấy thuận lợi. theo họ, Chúa Giêsu quá say sưa với công việc chữa trị của Người "Người mất trí rồi", họ bảo thế (c.21). Và họ quyết định đi bắt Người để đem về lại cuộc sống thường nhật. [Để tránh sự khó khăn do câu 21 này gây ra; một vài người đã muốn hiểu theo nghĩa chỉ trống: "Vì người ta bảo: Người đã mất trí rồi nhưng lối dịch này không chắc là trung thành đủ. Đã có một lần, lúc lên 12 tuổi, Chúa Giêsu đã tự ý lẩn trốn tại Giêrusalem, nhân cuộc hành hương lễ vượt qua ở đó. Khi ấy, Người đã trả lời cách bí nhiệm trước các nhận xét của mẹ Người, tuy vậy Người vẫn trở về Nadarét tiếp tục lại đời sống đơn sơ của một đứa con phục tùng cha mẹ (Lc 2,41-51). Lần này, chắc Người cũng sẽ phục tùng nữa, Maria đã có thể tưởng thế !
Không nên ép nghĩa thành ngữ "đã mất trí rồi, (c.21). Vẫn biết Mc muốn đặt song song lời phán đoán của thân nhân Chúa Giêsu với phán đoán của các ký lục: "ông ta bị quỷ ám” (c 22) nhưng điều này chẳng chứng tỏ là hai thành ngữ tương đương với nhau. Mất trí không nhất thiết là do quỷ ám, mà có thể là hậu quả của một lòng hăng say phi thường hoặc quá ngạc nhiên trước các sự kiện kỳ lạ. Vẫn hay ý nghĩa mạnh là "điên" thường gặp trong các bản văn cổ điển, nhưng không hề có trong Tân ước. Trên tổng số 17 lần sử dụng trong Tân ước, từ ngữ luôn luôn có nghĩa là "ngạc nhiên", trừ ra nơi 2Cr 5,13 mới có nghĩa là "hăng say thái quá", hăng say đến độ thực hiện được nhiều chuyện lạ lùng (Nguyễn thế Thuấn dịch là “mất trí"). Thành ý nghĩa sau cùng này thích l.lợp nhất ở đây. Mẹ và anh em Chúa Giêsu đến Capharnaum. Như ta biết, trong tiếng Hy bá cũng như trong nhiều ngôn ngữ, chữ "anh em" vùa chỉ anh em ruột thịt vừa chỉ anh em họ hàng, không phân biệt (x. St 13,8; 14,14; 24,48; 29,12; Lv 10,4; 1Sk 9,6), Chẳng hạn như Giacôbê và Giuse, vốn được Mt 13,35 liệt vào số "anh em Chúa Giêsu", thì trong Mt 27,56 được gọi là con của một bà Maria nào đó không phải là mẹ Chúa Giêsu. [Xem Lc 8,25. Không kể Giacôbê và Giuse (hay Giôsê), trong nhóm Mười hai còn có "anh em" khác của Chúa Giêsu nữa là Simon và Giuđa (Mt 13,55). Mt 13,56 cũng đề cập đến các “chị em" Người mà chẳng nêu danh tính].
Theo trình thuật Mc thì khi đến Capharnaum, Maria và "anh em" thấy có lắm kẻ vây quanh Chúa Giêsu? nên không thể vào nhà Người đang ở được Một cảnh tương tự cũng được mô tả trong Mc 2,2. Người ta báo tin cho Chúa Giêsu hay là thân nhân Người đến và đang muốn gặp Người (3,31).
Thánh sử chẳng cho biết Chúa Giêsu đã ra gặp họ hay là đã từ chối. Tuy nhiên không có gì cấm ta nghĩ rằng sau khi nói những lời được ghi lại ở Mc 3,33-35, Chúa Giêsu đã ra gặp mẹ và anh em Người; và chính vì lời họ xin là Người đã về Nadarét để chu tất sứ vụ mà Tin mừng Nhất lãm có đề cập (Mt 13,54-58 và song song; xem lời ám chỉ các phép lạ Capharnaum trong Lc 4,23).
3. Những kẻ ở trong.
Ngỏ vớt các thân nhân, câu trả lời của Chúa Giêsu có lẽ có một nghĩa tiêu cực ("không phải quý bà con là mẹ, là anh em tôi"). Ngỏ với "các kẻ quanh người", câu đó là một giáo huấn tích cực (cc.32 và 34). Ngồi (bệt xuống đất) chung quanh ai, nơi người Do thái, đó là vị thế của môn sinh quanh thầy (x. Cv 22,3; Lc 10,39; 4,20; Mt 23,2; 26.25).
Chúa Giêsu lợi dụng hoàn cảnh để ban một giáo huấn mà Người nhấn mạnh tầm quan trọng bằng cách đặt một câu hỏi dưới hình thức bí ngữ (mashal): "Ai là mẹ Ta? là anh em Ta?” (c.33; so sánh với Mc 10, 18).
"Rồi đưa mắt nhìn những kẻ ngồi vòng quanh mình...". Mc đã nhiều lần ghi nhận các kiểu nhìn của Chúa Giêsu: cái nhìn buồn sầu và giận dữ (3,5; 11,11), cái nhìn thương yêu (10, 21 x. 1Sm 1,11 ; Lc 1,48), cái nhìn chỉ để quan sát (5,32; 12,41) hay để thêm sức nặng cho lời mình thốt ra (10,23.27) [Phần lớn các ghi nhận này là của Mc. Mt 19,26 lấy lại Mc 10 27. Lc 6,10 (=Mc 3,5) không nói rõ là cái nhìn của Chúa Giêsu biểu lộ sự giận dữ. Trái lại, ông là người duy nhất nhắc đến cái nhìn của Chúa Giêsu trên Phêrô: 22,61}. Ở đây rõ ràng là một cái nhìn yêu thương: những kẻ Chúa Giêsu nhìn đều thực là mẹ, là anh em chị em Người. Vì sao? chúa Giêsu giải thích: "Ai làm theo ý Thiên Chúa, người đó là anh chị ern và là mẹ Ta" (c.35). Khi vâng phục Cha Người, Chúa Giêsu đã tỏ mình ra là Con Thiên Chúa (Mt 4,3-10); cũng với cách thức như vậy, người ta sẽ tỏ ra mình là con Thiên Chúa, là anh chị em của Chúa Giêsu, Con đầu lòng. Và thực thi thánh ý Thiên Chúa, là trước tiên tin vào Chúa Giêsu, Đấng Ngài đã sai, Con của Ngài, vị Cứu Thế (Ga 6,29).
Chúa Giêsu mặc khải mối liên lạc sâu đậm nối kết Người với những ai thực thi thánh ý Thiên Chúa; đó là một hiệp thông sự sống, sự sống của chính Thiên Chúa Cha (Mt viết ,”Cha" nơi nào Mc đã viết "Thiên chúa Những lời Người phán về việc phải tái sinh bổ túc, tăng sức và cụ thể hóa giáo huấn này (Ga 3,3-5; xem 1,13; Tt 3,5). Như thế, Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta một phương thế để kết hiệp với Người một cách còn sâu xa hơn là mối dây do sự sinh ra bởi huyết nhục.
Mc không bảo mẹ và anh em Chúa Giêsu chẳng thực thi ý Thiên Chúa ; tuy nhiên không thể phủ nhận việc ông đã muốn đối chọi? Một cách nào đó, chính họ và những kẻ bao quanh Chúa Giêsu. Hai lần ông cố ý sử dụng thành ngữ chuyên môn "Những kẻ ở ngoài" là thành ngữ trong Giáo Hội thời các sứ đồ chỉ những người không phải là Kitô hữu (xem 1Tx 4, 12; 1 Cl 5, 12-13,14,5 ; 1Tm 3,7). Mẹ và anh em Chúa Giêsu đứng ở ngoài" (c.31 ), "đang ở ngoài" (c.32), trong lúc môn đồ Người thì ở trong và đang nghe Người nói. Những kẻ này, đặc biệt là nhóm Mười hai, tin vào người là giúp Người thi hành sứ vụ; còn những kẻ kia không tin Người, chỉ muốn cản trở sứ mệnh Người thôi.
Chút nữa, Mc sẽ trở lại lối phân chia loài người như thế trước mặt Chúa Giêsu: với những kẻ đang ở quanh Người cùng nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu bảo: "Đã ban cho các ngươi mầu nhiệm Vương quốc Thiên Chúa; nhưng cho những kẻ ở ngoài thì mọi sự đều đến bằng dụ ngôn" (4,11).
Mt đã chẳng xóa bỏ lối phân biệt của Mc giữa những kẻ ở trong và những kẻ ở ngoài, mà còn xen và giữa câu Chúa Giêsu trả lời các ký lục và việc thân nhân Người đến một thánh ngôn (logion) nhấn mạnh sự phân chia: "Ai không đi với Ta tức là chống lại Ta" (Mt 12,30) (Nơi Mc logion này nằm trong một văn mạch khác và dưới hình thức tích cực). Nhưng ông đã bỏ phần dẫn nhập gây nhiều rắc rối của Mc 3,20-21. Còn Lc vì linh cảm sẽ có những kết luận rút ra từ trình thuật của hai ông kia về vai trò Maria, nên đã sửa đổi bài biên soạn của họ. Ông bỏ chữ "này là" của Mc 3,34 là chữ xem ra gạt Maria và anh em Chúa Giêsu ra khỏi gia đình đích thực của Người, và thay thế thành ngữ “Ai làm theo ý Thiên Chúa" bằng một thành ngữ khác tương đương bao hàm cả Maria: "Những kẻ nghe lời Thiên Chúa"; những kẻ này là ai nếu trước tiên không phải là người nữ đã thưa vâng trước lời mời gọi của Chúa (Lc 8,21 ; x.1,38 và 45). Hơn nữa, Lc còn đặt thánh ngôn trong một văn mạch khác hẳn: ông ghép nó vào dụ ngôn Người gieo giống (x.8, 15).
Nhưng trình thuật Mc vẫn còn đó. Nó đặt ra một vấn đề tế nhị. [Quả là một lối thoát giả tạo nếu chủ trương phân tách Maria khỏi anh em Chúa Giêsu trong trình thuật Mátcô, bởi vì mỗi lần bà đều được đề cập trước hết). Để giải quyết thỏa đáng vấn đề, cần phải phân biệt trong việc biên soạn đều là chủ ý của thánh sử. Mátcô không quan tâm, như Lc sau nầy, về con người của Maria. Ông chỉ tìm cách cho ta hiểu, qua nhiều hình ảnh hoặc so sánh, là môn đồ Chúa Giêsu kết hiệp với Chúa Gtêsu mật thiết đến độ nào. Mátcô không chủ ý phê phán Maria và "anh em Chúa", nhưng là cho thấy cái mà Chúa Kitô ban tặng cho những kẻ tin Người. Môn đồ Chúa Giêsu ở chung một nhà và san sẻ cuộc sống Người, không những như một người bạn (x. 3,14) mà còn như một phần tử trong cùng gia đình, gia đình Thiên Chúa, Cha Chúa Giêsu (x. Mt 12,50).
Mc không loại bỏ việc Maria và anh em Chúa Giêsu đã trở nên môn đồ Chúa Giêsu; chắc chắn ông đã biết nhóm quan trọng gồm những anh em Chúa Giêsu trong Giáo Hội thời Hiện xuống (Cv 1,14; 1Cr 9,5 ; Gl1,19), Bộ ông đã chẳng hay sự hiện diện của Maria dưới chân thập giá và trong nhà Tiệc ly sao? (Ga 19,25; Cv 1,14). Dù vậy, ông buộc chúng ta phải quan niệm đức tin Maria như một đức tin cần phát triển dần dần. Không phải ngay từ lúc Nhập thể mà Maria đã hiểu Con mình là Thiên Chúa. Lc không nói ngược điều này, vì theo ông, Maria đã chẳng hiểu câu Chúa Giêsu trả lời cho bà tại Đền thờ lúc 12 tuổi (Lc 2,50). Bây giờ cũng vậy Maria tưởng mình phải dùng mẫu quyền của bà để đưa Chúa Giêsu về lại cuộc sống đơn sơ ở Nadarét, vì lẽ giáo quyền Do thái xem ra chống lại con bà. Chính là dần dần, qua việc "nghe lời Thiên Chúa” và thực thi thánh ý Ngài, mà Maria đã lớn lên trong đức tin, một đức tin ngày càng chiếu sáng. Như thế, mẫu tính của bà đã tìm được một chiều kích mới mẻ, cho đến độ trở thành Mẹ Giáo Hội.
KẾT LUẬN: TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI
1. Cuộc chiến còn tiếp tục.
"Ngài đến để tiêu diệt chúng tôi", ma quỷ đã nói với Chúa Giêsu như thế (Mc 1,24). Chúa Giêsu đã thực thi sứ mệnh này bằng cách chiến đấu chống ma quỷ trong suốt sứ vụ (Cv 10,38). Cuộc Phục sinh đã công nhận chiến thắng của Người (Ga 16,33), nhưng đối phương chỉ sẽ thất trận cách dứt khoát vào ngày cánh chung. Sau Chúa Giêsu, môn đồ Người cũng sẽ chiến đấu như vậy (x. Lc 22,36) với niềm xác tín là Chúa của họ đã chiến thắng, và với nhiều quyền năng mà Người đã ban cho Chúa Giêsu đã chọn nhóm Mười hai "để sai đi rao giảng, với quyền năng trừ quỷ" (Mc 3,14-15). Quyền này là dấu chỉ đầu tiên trong các dấu chỉ sẽ tháp tùng các kẻ tin, sau ngày Chúa Giêsu ra đi (Mc 16,17; so sánh với Ga 13,35).
Nhưng đối phương không ở thụ động: nó tìm cách chận đứng các sứ giả Tin mừng. Nó ngăn cản Phaolô đến Thêxalonica (ltx 2,l8), gieo cỏ lùng vào ruộng của Cha gia đình (Mt 13,39) và "lấy mất lời đã gieo" trong lòng những người không bền chí (Mc 4, 15). Chính nó là Tên cám dỗ (1Tx 3,5), đứa gây ra gương xấu. Nó tìm mọi cách để phân rẽ Chúa Kitô với những kẻ đã tin nhận Người.
2. Tại Rôma
Khi Mc viết Tin mừng của ông, thì Rôma đang bách hại Giáo Hội. Phêrô đã bị tống giam. Các kẻ bắt bớ tìm cách làm cho Kitô hữu bỏ đạo của mình. Rôma, kinh thành mạnh mẽ và thống trị "toàn thể thiên hạ" (x. Lc 2, 1) xem ra được đồng hóa với vương quốc thù nghịch cùng Vương quốc Thiên Chúa.
Nhưng Kitô hữu không nên sợ hoặc xiêu lòng, vì Chúa Giêsu là người "mạnh hơn"; họ cũng sẽ mạnh hơn (Mc 3,27). Tuy nhiên có một vài kẻ sa vào tội bội giáo. Tình trạng họ không phải là tuyệt vọng: nếu họ ăn năn thống hối, tội phạm thượng này sẽ được thứ tha (Mc 3,28-29)
Trong cơn biến loạn, loài người đã phân làm hai. Chính giữa lòng các gia đình, niềm tin vào Chúa Kitô đã chia rẽ: kẻ theo Người, kẻ chống Người và chống các tín hữu (Mt 10,34- 36). Bị xâu xé trong xác thịt, "trong tâm hồn" (x. Lc 2,35), các môn đồ không được mất can đảm, nhưng hãy nhớ rằng Chúa Giêsu cũng đã gặp sự chống đối trong chính quê hương Người, đến cả giữa những bà con gần gũi nhất (3,20-21) [Mục tiêu huấn đức này có thể đã khiến Mt tô đậm đường nét của bức tranh 3,20tt. luận đề cho rằng Mátcô muốn bút chiến chống lại anh em Chúa Giêsu, đặc biệt Giacôbê, là một giả thuyết mong lanh và quá hệ thống]. Bị gia đình của mình loại bỏ. Kitô hữu được một gia đình khác (3,33-35) mà mối dây liên kết mật thiết hơn các mối dây đầu đến nỗi ngay ở đởi này họ đã được gấp trăm (10,29-30). Sau cùng, cuộc bách hại không phải là phần thưởng (10,30), phần thường hứa và ban cho Phêrô (x. Ga 21,18-19), phần thưởng cao quý vì liên kết ta với Chúa Kitô cách sâu xa nhất đó sao?
Ai mất một gia đình sẽ gặp một gia đình hoàn hảo hơn nữa; ai mất mạng sống vì Chúa Kitô, sẽ chiếm được nó (8,35); ai mất một nhà (10,30) sẽ được một nhà vững chắc hơn. Nhà của Phêrô ở Capharnaum, giờ trở thành "nhà", nhà của Chúa Giêsu, nhà phân tách nhân loại thành kẻ ở trong" với kẻ ở ngoài, chẳng phải là hình ảnh của ngôi nhà mà Chúa Giêsu đã hứa cho Phêrô làm nền móng đó sao (Mt 16,18)? Nhà đó chả phải là nhà Phêrô xây dựng ở Rôma, là cộng đoàn Kitô hữu đang giao chiến với "các cửa hỏa ngục", nhà được hứa ban ơn cứu rỗi đó sao?
3. Hôm nay
Hôm nay trận chiến vẫn còn tiếp tục, dưới nhiều hình thức khác nhau: ở đây bách hại công khai, kia là cám dỗ từ từ. Kitô hữu hãy biết nhận ra đối phương (x.1Pr 5,8) và chống cự lại nó. Chiến thắng của họ sẽ chẳng có vẻ như một cuộc trừ quỷ, nhưng cũng không kém thực sự đâu. Họ hãy múc lấy trong niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh một niềm lạc quan không thể lay chuyển; họ hãy xem Giáo Hội là ngôi nhà và gia đình của mình.
(Gilles Gaide, Assemblées du Seigneur 41 , tr.39-53)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa Giêsu đã hoàn toàn hy sinh chính mình để thực hiện sứ mệnh: bị thân nhân hiểu lầm, bị giới hữu trách phê phán chê bai... Hãy xem "Chúa Giêsu đến đâu cũng có một số người sống chết cho Người, và cũng có một số người quyết giết chết người. Sao con muốn mọi người yêu con ? Sao nao núng khi có người ghét con (ĐHV 692), "đường con đi có hoa thơm, có cảnh đẹp, có chông gai, có thú dữ, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, khi nắng cháy... chuyện không thể tránh được con cứ đi, miễn là lòng đầy Chúa; đi như Phanxicô, như Cyrillô, như Athanasiô...Đừng mất giờ dừng lại đừng lo sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khèn (ĐHV 693).
2. Chúng ta nên để ý đến sự kiện này: suốt lịch sử Giáo Hội, người đời cho là "khùng", là "điên" những ai muốn sống sát Tin mừng. Hãy nhớ lại Phanxicô thành Assisi, Bernađetta, Charles de Foucault. Riêng về mức thấp kém của tôi, tôi đừng lấy làm lạ, nếu vì trung tín với Tin mừng, mà người ta cho tôi là "trật quy tắc" của môi trường, rồi quy về cho tôi những nhận xét khó chịu, và nếu người ta cố đưa tôi trở lại cách sống gọi là hợp lý của mọi người.
3. Chúa Giêsu không phải là một người bi hùng, dầu vậy Người tuyên bố những lại đượm mầu thê thảm. Đặc tính của bi kịch là kết thúc bằng một thảm trạng vô phương cứu chữa. Chúa Giêsu dùng toàn con người của Người và dồn tất cả sức mạnh vô song của tình yêu vào việc cứu độ con người, và cứu con người ra khỏi tình trạng bất hạnh. Nhưng có một biên giới nào đó mà quyền năng của Người không vượt qua, đó là biên giới của thứ tự do nhất quyết chống đối, nhất quyết đóng kín, nhất quyết chối từ. Tội phạm đến Thánh Thần không thể tha thứ vì tội ấy phủ nhận chính Đấng có quyền thứ tha. Tội ấy đóng chặt vào trí và vào lòng, vô phương cứu chữa. Tội ấy phương hại đến một phạm vi nào đó của hữu thể, hầu như động đến mầu nhiệm sự chết, và có lẽ đó là điều giải thích cái chết của Chúa Kitô. Trong toàn bản văn Mátcô, tội phạm đến Thánh Thần là lột sự từ chối trở lại, từ chối đến nội quy về cho Satan những việc mà Chúa Giêsu đã dùng sức mạnh Thánh Thần mà làm. Theo kiểu nói bình dân, lòng trí của các ký lục hoàn toàn bất trị và méo mó.
4. Làm sao con người có thể đi tới đó được? Đến đây chúng ta đứng trước ngưỡng cửa của một mầu nhiệm lớn. Chúng ta nên để ý việc Chúa nói đến tội phạm thượng chống Thánh Thần khi trả lời cho những người Do thái nhắc đến tên quỷ Satan. Có một mầu nhiệm về quỷ Satan. Satan, một tạo vật tự do, lạnh lùng từ chối Thiên Chúa. Làm sao nó bén mảng đến một tạo vật khác cũng tự do như con người để xúi giục từ chối Thiên Chúa? Tin mừng cho chúng ta biết sự kiện nhưng không giải thích. Tin mừng chỉ dạy: Satan không thể hành hạ ai có lòng trí ngay thẳng, trong trắng và tin vào Chúa Kitô: “Hãy vững lòng, Ta đã thắng thế gian và thủ lãnh của nó".
5. Ở đây chúng ta gặp một trường hợp là qua một thực tại nhân bản (gia đình), Chúa Giêsu hé mở cho thấy một thực tại nằm bên kia, một thực tại làm sự thành đạt trọn vẹn của con người. Thế gian bên kia được Chúa Giêsu hé mở, là con người đtrợc gia nhập vào gia đình Thiên Chúa. Con người mang trong mình một ơn gọi, một tiếng mời, một nhu cầu vượt cả tầm vóc con người.
Không có bà mẹ nào mà lại không thương con, nhất là những đứa con bị khiếm khuyết cách này TN 10-B52
Không có bà mẹ nào mà lại không thương con, nhất là những đứa con bị khiếm khuyết cách này hay cách khác!
Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Đức Mẹ và người thân của Đức Giêsu đến tìm Ngài và khuyên Ngài từ bỏ con đường sứ vụ để trở về, vì có tin đồn đoán rằng Đức Giêsu bị điên!
Ôi một sự thật đau lòng! Vì yêu thương, Đức Giêsu làm tất cả mọi việc miễn làm sao để cho Thiên Chúa được vinh quang và con người được hạnh phúc, thế nhưng người Pharisêu lại phao tin Ngài bị điên! Họ muốn đánh vào uy tín của Đức Giêsu, và, đứt dây đương nhiên đụng đến rừng, tức là nếu Đức Giêsu bị điên thì mẹ của Ngài sẽ như thế nào khi sinh ra một đứa con điên? Anh em của Ngài sẽ còn uy tín gì nữa không khi trong dòng tộc của mình lại xuất hiện một kẻ khùng! Và, nhất là những lời giảng của Đức Giêsu từ nay không còn khả tin nữa, bởi vì không ai dại gì mà đi nghe theo lời của một người điên!
Đây là một đòn thâm hiểm mà những người Pharisêu đánh vào Đức Giêsu và thân nhân của Ngài.
Tuy nhiên, khi thấy Mẹ và anh em đến tìm mình, Đức Giêsu đã thốt lên và chỉ vào những người đang ngồi quanh Ngài mà nói rằng: ai là mẹ tôi, ai là anh chị em tôi? Thưa chính là những người thực hành ý muốn của Cha tôi, người đó là mẹ tôi và anh chị em tôi.
Một câu nói nhằm mặc khải cho mọi người biết một thực tại khác vượt lên trên suy nghĩ thuần túy của con người. Sự gắn bó với Thiên Chúa và thi hành Lời của Người là điều quan trọng, và chính trong mối liên hệ này mà chúng ta được trở nên nghĩa thiết, thân tình với nhau. Mặt khác, Đức Giêsu cũng ngầm giới thiệu cho mọi người xung quanh biết rằng: chính Đức Maria là người đã thi hành thánh ý Thiên Chúa, nên Mẹ xứng đáng trở thành mẫu gương cho chúng ta về việc thực thi Lời Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chú tâm đến việc thực thi Lời Chúa hơn là những chuyện bề ngoài. Khi đã thực thi thánh ý Chúa, chúng ta không quan trọng chuyện người ta nói này hay nói kia để bêu dếu, làm mất thanh danh tiếng tốt của ta. Ngược lại, chỉ có một điều đáng làm cho chúng ta sợ, đó là khước từ Lời Chúa và chạy đua những thứ mau qua, chóng hết ở đời, làm cho chúng ta xa dời hạnh phúc đích thực là sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết lắng nghe Lời Chúa; đồng thời biết đem Lời Chúa ra thực hành, dù có phải chịu khốn khổ vì Lời Chúa thì vẫn một mực trung thành. Amen.
Cách nay ít năm, tại bệnh viện Milwankee, có một bé sơ sinh mù và còn bị chuẩn đoán là đần TN 10-B53
Cách nay ít năm, tại bệnh viện Milwankee, có một bé sơ sinh mù và còn bị chuẩn đoán là đần độn bẩm sinh do bại liệt não. Sau khi sanh ít ngày, người mẹ đã nhẫn tâm bỏ đứa con sơ sinh tật nguyền. May mắn cho em, một chị y tá tên là May Lempke, thấu hiểu tình trạng bé sơ sinh bị bỏ rơi đồng nghĩa với cái chết, đã nhận em về nuôi.
Chị May cùng chồng đặt tên cho đứa con nuôi đặc biệt của mình là Leslie. Họ thay nhau xoa bóp cho Leslie hằng đêm, cầu nguyện cho Leslie hằng ngày. Chị May khóc suốt vì Leslie đau đớn. Leslie càng lớn, sự chăm sóc Leslie càng nhiêu khê: chị May phải khéo léo cột Leslie vào chiếc ghế để em khỏi té nếu chị muốn rời em.
Một ngày nọ, May thấy dường như Leslie có những biểu hiện khác thường khi nghe những bản nhạc. Thế là, vợ chồng chị mua một cây đàn piano cũ và tranh thủ đánh đàn cho Leslie nghe; mua nhiều băng đĩa hoà tấu hy vọng Leslie được vui.
Bỗng vào một đêm đông năm 1971, vợ chồng May nghe thấy ai đó đang chơi bản hoà tấu dương cầm số 1 của Tchaikovsky. Họ thức dậy để xem tiếng đàn lạ từ đâu. Họ sửng sốt thấy Leslie đang vẹo mình trước đàn và chơi nhuần nhuyễn bản nhạc. Từ đó, các bản nhạc Leslie đã nghe như đã tồn trữ trong óc và nay đang tuôn ra trên đôi tay của cậu. Leslie giờ đây đã 28 tuổi, đi lại vẫn khó khăn, nói năng vẫn ngọng ngịu, nhưng là một tài năng âm nhạc. Các bác sĩ giải thích: Leslie bị chậm phát triển về trí tuệ do não bị tổn thất nhưng lại cực kỳ tài năng. Tài năng đó được duy trì và bộc phát nhờ tình yêu đặc biệt của cha mẹ nuôi là vợ chồng chị May Lempke (theo Reader’s Digest).
Đứng trước nghịch cảnh Leslie, liên hê do máu huyết đã chào thua liên hệ do đức ái. Hôm nay trong Tin Mừng, Đức Giêsu đang giới thiệu mối liên hệ đức ái đó. Một cách nào đó, Đức Giêsu đã gọi mối liên hệ này là họ hàng của Ngài.
Thiết lập họ hàng thiêng liêng
Trong xã hội có nhiều mối liên hệ. Rộng nhất là mối liên hệ đồng loại, rồi đến chủng tộc màu da. Hẹp hơn là mối liên hệ đồng bào. Nhỏ hơn là mối liên hệ đồng hương liên kết những người chung nơi chôn nhau cắt rốn. Cuối cùng là mối liên hệ họ hàng huyết tộc nảy sinh do sự đồng một dòng máu di truyền. Ngoài ra còn có mối liên hệ đồng môn, đồng nghiệp, đồng chí, đồng cảnh ngộ và bạn kết nghĩa…
Trong các mối liên hệ ấy, mối liên hệ họ hàng huyết tộc là phổ biến nhất, cụ thể nhất và xét trong lãnh vực tự nhiên thường là bền chặt nhất. Thế mà, khi đề cập đến mối liên hệ này, Đức Giêsu đã đặt vấn đề: “Ai là mẹ, là anh em ta ?”. Mẹ và anh em theo nghĩa thường thì một em bé còn bế ngửa cũng biết và cảm nhận được ! Sao Chúa lại hỏi vậy ? Ở đây, Đức Giêsu đang mạc khải một mối liên hệ, đối với Ngài, mật thiết nhất và bền vững vĩnh cửu mà mối liên hệ máu huyết đứng bên sẽ trở nên quá nhỏ bé. Đó là mối liên hệ họ hàng thiêng liêng phát sinh do đức Tin, phát triển nhờ đức Ái và kiên trì nhờ đức Cậy trông. Chất lượng của mối dây liên kết họ hàng thiêng liêng này hệ tại mức độ của sự thực hành lời Chúa. Một người con càng thương cha mẹ thì càng dễ vâng lời và càng vâng lời thì tình nghĩa con cái với cha mẹ càng thêm chất lượng. Cũng vậy, một người chỉ thực sự là con cái Chúa khi biết đón nhận thánh ý Chúa và càng thực thi thánh ý Chúa thì tình nghĩa với Chúa càng thêm chất lượng. Đức Giêsu gọi người đó là mẹ và là anh em của Ngài.
Khi Đức Giêsu đưa tiêu chuẩn xác định họ hàng dựa trên việc biết nghe và thực hành lời Chúa thì đồng thời Ngài cũng mặc nhiên cảnh báo có những trường hợp ngỡ là gần Chúa mà thật ra lại xa Ngài vời vợi. Quả thế, những người có họ hàng máu huyết với Chúa, biết rõ về Chúa, gặp gỡ Chúa thường xuyên nhưng không bước theo Chúa bằng việc thực thi đường lối Chúa chỉ dạy vẫn mãi mãi là kẻ xa lạ với Chúa.
Cuộc đời Đức Giêsu diễn tả cho ta thấy một Thiên Chúa mê say con người: Ngài quên ăn quên nghỉ vì phần rỗi anh em (x. Ga 4, 5-34); Ngài nỗ lực đẩy lui Satan, không để cho ma quỷ tác oai tác quái nơi thế giới con người như kẻ “múa gậy vườn hoang”. Ai không đồng cảm với Chúa, không cùng Ngài trên một chiến tuyến chống lại Satan bằng việc nói không với Satan và nói có với Ngài trong đời sống… người đó luôn là kẻ xa lạ, thậm chí chống lại Ngài dù bề ngoài xem ra họ rất gần Ngài. Kết cục, có lắm người phải ngã ngửa khi nghe Ngài kết luận: “Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác !”. Trong số đó có người là đồng hương, quá gần gũi với Chúa và có cả những kinh sư, luật sĩ, những người vẫn mang danh là chuyên viên trong đạo.
Phá vỡ họ hàng thiêng liêng
Nếu vâng nghe lời Chúa giúp ta nên họ hàng nghĩa thiết với Chúa thì ngược lại, bất tuân lệnh là biến mình thành kẻ xa lạ với Ngài. Sự bất tuân khởi đi bằng sự thiếu tín nhiệm. Adam – Evà trước khi giơ tay hái quả cấm thì trong lòng đã dấy lên sự không tin Chúa tốt lành (x St 3, 1-6). Anh em họ hàng của Chúa trước khi đi bắt Chúa thì lòng họ đã không tin việc Chúa làm là bình thường, là khôn ngoan. Chỉ có lòng tín nhiệm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa mới giữ con người sống trong đạo lý Chúa. Mất tín nhiệm đồng nghĩa với khởi sự phản bội. Không trung thành với đường lối Chúa biến người ta đang là kẻ nghĩa thiết họ hàng với Chúa thành kẻ xa lạ và hơn nữa thành kẻ thù của Tình Yêu. Adam – Evà sau khi trái lệnh Chúa, đã đánh mất tình thân với Chúa, chẳng còn cảnh ngày ngày gặp Chúa đàm đạo thân tình nữa (x. St 3, 8-10).
Thiếu lòng tin vững chắc vào sự sống đời sau dễ làm cho ta trái ý Chúa ở đời này. Đúng vậy, mọi lỗi phạm thường do ta thiển cận, chỉ thấy cái được trước mắt mà không thấy cái mất lớn lao đằng sau. Người ta sẵn sàng chịu thương chịu khó để hy vọng được mùa lúa bội thu; người ta chấp nhận khổ luyện để hy vọng chiến thắng. Cũng vậy, khi đã xác tín vào phần thưởng phục sinh vinh quang vô tận Chúa dành cho kẻ nghĩa thiết với Chúa thì bằng mọi giá ta sẽ duy trì mối liên hệ họ hàng với Chúa. Mọi sự từ bỏ ở đời này để vâng ý Chúa sẽ là chuyện nhỏ khi ta đã thấy được vinh quang lớn lao mai sau.
Howard kelly là một nhà sinh vật học nổi tiếng kiêm bác sĩ. Lần kia, sau một ngày nghiên cứu, ông đến một nhà nghèo xin nước uống. Một bé gái xuất hiện và ân cần biếu ông một ly sữa tươi mát. Ông cám ơn và mong có dịp đền ơn bé. Ít lâu sau, mẹ bé đau nặng, người ta chuyển mẹ bé tới một bệnh viện trên thành phố. Cuối cùng bà khỏi bệnh nhưng không biết lấy tiền đâu để trả viện phí. Như một phép lạ, bác sĩ chữa bệnh xuất hiện trên tay cầm phong bì bên trong viết: Viện phí đã được thanh toán để trả ơn một ly sữa. Ký tên – Bác sĩ Kelly.
Hy sinh cả đời thì có đáng gì so với vinh hạnh được là họ hàng của Chúa.
Chúa ra rao giảng Tin Mừng, Đoàn dân phấn khởi, nổi bừng khắp nơi. Người người tuốn đến nghe Lời TN 10-B54
Chúa ra rao giảng Tin Mừng, Đoàn dân phấn khởi, nổi bừng khắp nơi. Người người tuốn đến nghe Lời, Chữa hồn khỏe xác, gọi mời canh tân. Xua trừ ma quỉ trong dân, Chữa lành bệnh tật, thế nhân tội tình. Vài người xấu miệng phê bình, Chúa nhờ tướng quỉ, xua rình quỉ con. Nói lời xúc phạm Chúa Con, Gây thù báo oán, họ còn phân chia. Nơi nào chia rẽ xa lìa, Sa-tan phân rẽ, ra rìa đấu tranh. Sống còn đoàn kết lòng thanh, Cộng đoàn mạnh sức, nêu danh ở đời. Truyền ban chân lý Ngôi Lời, Ai mà vâng giữ, sống đời yêu thương.
Chúa Giêsu phán rằng: Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại là sao được? Chúa Giêsu dùng nhiều dụ ngôn để diễn tả về Nước Trời. Nuớc Trời nhưng thể hiện dưới đất. Nước nào cũng cần có sự tổ chức và có con dân kết hợp làm nên một tập thể. Tập thể cần sự đoàn kết và liên đới với nhau thì mới bền vững. Chúa khởi sự ra rao giảng Nước Trời. Chúa dùng quyền năng mình để chữa các bệnh tật và trừ các loại thần ô uế đang quấy rối con người.
Nhiều người đã nhận ra quyền năng Chúa. Họ tin tưởng và phó thác vào tình yêu của Chúa giải thoát họ. Họ vui mừng phấn khởi vì nhận biết Chúa đã viếng thăm dân của Ngài. Tuy nhiên, cũng có nhiều người lòng hẹp hòi và thiên kiến, họ đã dèm pha, ganh tị và tẩy chay việc Chúa làm. Có cả những người thân sống gần cận bên Chúa cũng không biết rõ về Ngài. Họ đã dùng những từ xúc phạm và nói rằng: Ngài mất trí. Còn những người Luật sĩ và Biệt phái thì luôn tìm cách bắt bẻ và hạ nhục danh Chúa. Họ hiểu và thấy rất rõ quyền năng Chúa thực hiện qua việc chữa lành. Họ không muốn chấp nhận sự thật. Họ luôn tìm cách hạch hỏi và chống lại giáo lý của Chúa.
Chúa dùng quyền năng để trừ qủy. Các Luật sĩ lại gán ghép cho Chúa là dùng quyền tướng qủy để trừ. Thật là ngạo mạn! Chúa giải thích cách tường tận rằng: Nếu một nhà phân tán, thì nhà đó không đứng vững được. Tại sao qủy lại trừ qủy. Chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới loại trừ các qủy dữ ra khỏi con người. Nuớc trời đã được thiết lập dưới thế gian đi ngược lại với Nước của Satan. Con dân Nước Chúa không thể chia rẽ để ma qủi có cơ hội lợi dụng xâm nhập. Mọi người phải hợp nhất với nhau như Chúa đã cầu nguyện với Chúa Cha rằng: Xin cho chúng nên một như Chúng Ta là một.
Gia nhập vào Nước Trời, chúng ta là công dân của nước Chúa. Chúng ta có bổn phận thi hành những điều Chúa dạy bảo. Thực hành ý Chúa, chúng ta sẽ là người nhà của Chúa, là anh chị em và là mẹ của Chúa. Hãy tin tưởng uy quyền của Chúa, qua sự chết và sự sống lại Chúa đã toàn thắng thế gian và ma qủi. Chúng ta hãy kết hợp với nhau trong tình yêu của Chúa. Tình yêu chính là chất keo gắn liền chúng ta lại với nhau và với Chúa. Chúa Giêsu đang mở đường dẫn dắt chúng ta vào cõi phúc trường sinh.
Trong đoạn Tin mừng này, Chúa Giêsu chữa lành cho những người bị quỷ ám. Các luật sĩ không TN 10-B55
1. Trong đoạn Tin mừng này, Chúa Giêsu chữa lành cho những người bị quỷ ám. Các luật sĩ không tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên cho rằng Ngài lấy quyền của tướng quỷ Bengiêbút mà trừ quỷ. Nhưng Chúa nói cho họ biết: nước nào tự chia rẽ thì làm sao tồn tại được. Ma quỷ cũng vậy, nếu nó chia rẽ, nó sẽ tiêu vong. Còn nếu Ngài nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ thì ma quỷ đã tự chia rẽ nhau rồi, làm sao nó đứng vững được?
2. Các luật sĩ nói Chúa Giêsu bị quỷ vương Bengiêbút ám và dựa vào thế quỷ vương để trừ quỷ. Theo Chúa Giêsu, lời tố cáo đó là một điều vô lý. Quả thật, Satan không thể chống Satan. Nước nào, nhà nào chia rẽ thì sẽ đi tới chỗ diệt vong. Satan cũng vậy. Marcô 3,27 cho thấy: chẳng những Chúa Giêsu không bị quỷ chi phối, không theo phe quỷ, Ngài còn chống quỷ; quỷ là người mạnh, Chúa Giêsu còn mạnh hơn quỷ nữa” (Chú thích của bản dịch nhóm CGKPV).
3. Những luật sĩ ấy chẳng những không nhìn nhận quyền phép Chúa Giêsu trong việc Ngài trừ quỷ mà còn xuyên tạc rằng Ngài dựa thế quỷ vương. Thái độ ấy bị Chúa Giêsu gọi là tội phạm đến Chúa Thánh Thần và là thứ tội duy nhất không được tha. Chúa Thánh Thần là nguồn bảy ân sủng, là Đấng được ban để tha tội qua công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Vì vậy, phạm đến Chúa Thánh Thần, nghĩa là khước từ ơn thánh và khước từ được cứu độ. Chúng ta chỉ được cứu độ nhờ đón nhận, còn khước từ thì Chúa cũng chịu vì sự tự do Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta từ chối thì chúng ta mất linh hồn, không phải là Chúa không tha, mà là chúng ta khước từ sự tha thứ đó. Thánh Augustinô từng dạy: “Chúa dựng nên ta không cần ta, nhưng Chúa muốn cứu chuộc ta thì cần có ta cộng tác”. Chúa Thánh Thần hoạt động trong ta, mà ta xúc phạm đẩy Ngài ra để chỗ cho tà thần, thì làm sao được cứu độ? (Mỗi ngày một tin vui).
4. Có lẽ chúng ta không đến nỗi “tệ” tới mức “nghi” Chúa Giêsu bị quỷ Bengiêbút ám, nhưng nghi sự trái cho người khác, hoặc thấy việc tốt người khác làm, không khen ngợi thì chớ, lại còn “tán chuyện” ra để đàm tiếu thì phải chăng đó là “chuyện thường ngày ở...” sở làm, trong xóm ngõ của chúng ta? Để không mắc tội phạm đến Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy nhìn nhận việc tốt của người khác một cách trân trọng, và nếu cần phải phân định việc gì hãy làm với tinh thần bác ái.
5. Trong thời đại hôm nay nhiều giá trị, nhiều nguyên tắc đạo đức và luân lý đang bị đảo lộn khắp các tầng lớp xã hội. Nếu đưa mắt nhìn quanh, người ta sẽ thấy trong các tầng lớp xã hội, gia đình và tôn giáo đều có sự chia rẽ. Bao nhiêu giáo phái Kitô giáo khác nhau trên thế giới được tìm thấy xuất hiện, phái nào cũng mạo nhận là theo gót chân Chúa một cách trung thực. Ngay cả trong một giáo phái, cũng có sự chia rẽ và phe phái. Chính điều này đã làm cho nhiệm thể Chúa Kitô bị phân rẽ và tổn thương. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cảnh báo điều đó khi trả lời cho người Do thái kết án Người là lấy quyền tướng quỷ đè bẹp lính quỷ.
6. Những người luật sĩ bị coi là phạm đến Chúa Thánh Thần vì họ chối bỏ chân lý, không chấp nhận sự sám hối thì làm sao có thể tha tội được. Qua lời phân định của Chúa Giêsu về mức độ tội trạng được tha và không được tha, mỗi người chúng ta, một đàng ý thức về tội trạng của mình khi xét mình trước mặt Chúa để khơi dậy lòng thống hối; đàng khác phải luôn luôn bảo vệ và phát triển lòng tin cùng kính mến Chúa để tránh những xúc phạm đến Chúa. Nếu đã đã trót phạm tội mà ăn năn sám hối thì tội bao nhiêu cũng được tha. Cứ vững lòng tin.
7. Truyện: Không nghi ngờ và thất vọng
Người ta kể: một hôm có một chàng thanh niên đến gặp cha Placido Vicardi, dòng Biển Đức, ở Italia, để xin xưng tội. Chàng thanh niên này quỳ xuống và thưa với cha Vicardi:
- Thưa cha, con là kẻ tội lỗi khốn nạn nhất, vì con đã phạm đủ mọi thứ tội.
Cha Vicarđi đáp:
- Đúng, con đã phạm đủ mọi thứ tội, nhưng con không phải là kẻ có tội khốn nạn nhất, vì có một tội nặng nhất mà con đã không phạm tội ấy.
Chàng thanh niên ngẩng đầu lên nhìn cha Vicardi ngạc nhiên hỏi:
- Thưa cha, làm sao cha biết? Tội đó là tội nào vậy?
Cha Vicardi trả lời:
- Tội nặng nhất mà con đã không phạm, đó là con đã không nghi ngờ và thất vọng về lòng từ bi của Chúa. Sở dĩ cha biết như thế, vì nếu không, thì con đã không đến đây để xin lãnh nhận Bí tích Giải tội. Vậy, nhân danh Đấng giàu lòng từ bi và yêu thương mà con vẫn hằng tin tưởng cậy trông, cha tha thứ hết mọi tội lỗi cho con. Con hãy về, và cố gắng đền đáp lòng yêu thương tha thứ của Chúa nhá.
(Suy niệm của Lm. Trọng Hương - Trích trong ‘Hạt Giống Nảy Mầm’)
A. Hạt giống...
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 chuyện: a/ Chúa Giêsu trừ quỷ và bị các luật sĩ xuyên tạc: “Các kinh TN 10-B56
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 chuyện:
a/ Chúa Giêsu trừ quỷ và bị các luật sĩ xuyên tạc:
“Các kinh sư nói Đức Giêsu bị quỷ vương Bêendêbun ám và dựa vào thế quỷ vương để trừ quỷ. Theo Đức Giêsu, lời tố cáo đó là một điều vô lý. Quả thật, Xatan không thể chống Xatan (3,23b). Nước nào, nhà nào chia rẽ thì sẽ đi tới chỗ diệt vong (3,24-25); Xatan cũng vậy (3,26). Mc 3,27 cho thấy: chẳng những Đức Giêsu không bị quỷ chi phối, không theo phe quỷ, Ngài còn chống quỷ; quỷ là người mạnh, Đức Giêsu còn mạnh hơn quỷ nữa” (Chú thích của bản dịch nhóm CGKPV).
b/ Lúc Chúa Giêsu đang giảng thì thân nhân của Ngài đến xin gặp:
Ta hãy chú ý chung quanh Chúa Giêsu có 2 vòng người:
a/ Vòng phía trong gần gũi với Ngài là những người đang nghe Ngài giảng. Họ “đang ngồi chung quanh Ngài”.
b/ Vòng ngoài là những người bà con của Ngài. Những người này đứng đó không phải để nghe giảng, mà để “gọi Ngài ra”. Văn mạch phía trước (Mc 3,20-21) còn cho biết mới đây họ còn muốn bắt Ngài về quê không cho Ngài giảng nữa vì nói Ngài đã mất trí.
Rõ ràng Chúa Giêsu coi trọng những người ở vòng trong hơn vòng ngoài: chẳng những Ngài không bỏ việc giảng để ra ngoài gặp bà con, mà còn nói những kẻ đang nghe Ngài giảng mới là gia đình thật của Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Chuyện thứ nhất nhắc ta hai sự thật: a/ Quả thực có hoạt động của Xatan trong thế giới này và trong bản thân mỗi người, sức hoạt động này rất mạnh; b/ Nhưng quả thật, Chúa Giêsu mạnh hơn. Chuyện này cũng làm ta liên tưởng tới những lời chia xẻ kinh nghiệm của thánh Phaolô: “Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay... Tôi thật là một người khốn nạn ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?” (Rm 7,21.24); “Thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xatan được sai đến vả mặt tôi để tôi khỏi tự cao tự đại... Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, đề sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi... Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,7.10)
2. Đây là nội dung cuộc nói chuyện giữa hai em nhỏ:
- Nếu Satan đến cám dỗ, bạn làm sao chống trả?
- Mình biết Satan đến để cám dỗ, nhưng khi nó gõ cửa lòng mình, mình bảo: Có phải đức Giêsu gõ cửa đấy không ạ? Khi Satan nghe tên Giêsu là nó biến ngay !
Người mạnh nhất cũng không thể một mình chống lại Satan (Góp nhặt).
3. Câu Tin Mừng Luca 4,13: “Và sau khi chấm dứt mọi cám dỗ, quỉ bỏ đi chờ đợi thời cơ” phải hiểu cho đúng. Câu đó không có nghĩa là sau khi ma quỉ cám dỗ, nó để cho ta yên một thời gian. Cũng không phải là nó để ta có giờ nghỉ ngơi hầu lấy lại sức mạnh cho cuộc chiến sau. Cũng không phải Chúa ngăn cản, không để quỉ cám dỗ ta trong một thời gian. Dịch cho đúng câu đó có nghiã là: quỉ tạm lánh vào bóng tồi, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại và tiếp tục tấn công. Nên khi quỉ thôi cám dỗ ta, chính là lúc nó đang tìm cách để đánh úp ta. (Góp nhặt)
4. Chúa Giêsu nói những kẻ nghe Lời Chúa chính là anh chị em và là mẹ Ngài. Đây không chỉ là một cách nói để khuyến khích, mà là sự thật: các thánh được Chúa coi như người nhà của Ngài; và không vị thánh nào không siêng năng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa.
5. Trong vườn, một gốc nho héo úa giữa bao cây xanh tươi mơn mởn. Tưới bao nhiêu phân cũng chẳng thấy khá hơn. Cuối cùng, người chủ đào gốc lên xem, thì thấy có miếng gỗ nằm chắn ngang gốc nho.
Có lẽ đời ta cũng vậy. Nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng sẽ tàn úa (Góp nhặt)
6. Một bà kia rất thường đọc Sách Thánh và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một thí dụ để giải thích:
Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại tới 5 lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó (United Presbyterian).
AI THI HÀNH Ý MUỐN THIÊN CHÚA LÀ ANH CHỊ EM, LÀ MẸ TA Suy niệm:
(Mc 3,20-21)
Ðức Giêsu có được tôn kính trong gia đình bạn không? Tại sao những người thân của Ðức Giêsu TN 10-B57
Ðức Giêsu có được tôn kính trong gia đình bạn không? Tại sao những người thân của Ðức Giêsu quá bực tức khi Người khởi đầu sứ mạng công khai của mình? Vào một dịp, Ðức Giêsu đã lên tiếng rằng kẻ thù của chính mình sẽ là người nhà (Mt 10,36). Tin mừng Máccô ghi lại phản ứng của những người thân của Ðức Giêsu khi người trở về làng: họ đến bắt Người. Rõ ràng, họ nghĩ rằng Ðức Giêsu nhất định bị điên rồ hay trở nên quá cuồng tín. Làm thế nào một người chỉ ru rú ở nhà làng Nagiarét rời bỏ nghề thợ mộc để trở thành một nhà giảng thuyết lưu động?
Ðức Giêsu đã bỏ qua sự an phận của một đời sống tĩnh lặng và đáng kính đối với gia đình và những người thân của mình. Rất có thể Người gặp một số chống đối hay phản ứng từ những người cầm quyền tôn giáo ở Giêrusalem. Tuy nhiên, sự chống đối lớn nhất có thể đến từ một số người thân cận với chúng ta, thậm chí từ những người ruột thịt. Ðức Giêsu đương đầu với sự chống đối bằng ơn sủng và quyết định hoàn thành ý định của Chúa Cha. Bạn có sẵn sàng vâng phục và bước theo Chúa thậm chí nếu có người khác chống đối bạn làm điều đó không?
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con đặt để Chúa trên tất cả mọi suy nghĩ và quan tâm của con. Chớ gì con luôn luôn tìm kiếm niềm vui trong việc thực thi ý Chúa, thậm chí trong những lúc khó khăn hay chống đối.
(Mc 3,22-30)
Khi sự nguy hiểm ẩn núp, bạn tìm kiếm sự bảo vệ nào? Ðức Giêsu đến để giải thoát chúng ta khỏi sự nguy hiểm đáng sợ nhất – sức mạnh đồi bại của ma quỷ làm hủy hoại chúng ta từ bên trong và làm cho chúng ta trở thành những nô lệ cho tội lỗi và Satan (Ga 8,34). Sự xấu không là tác động trừu tượng tự nhiên xuất hiện. Nó có tên tuổi và có mặt mũi, và nó tìm kiếm để thống trị mọi tâm hồn trên trái đất (1Pr 5,8-9). Kinh thánh xác định Ma Quỷ bằng nhiều danh tánh: “Satan”, “Beelzebul – hoàng tử của những ma quỷ”, “Ma Quỷ”, “Kẻ Lừa Dối”, “Cha những kẻ dối trá”, và “Luxiphe”, là thiên thần sa ngã đã rời bỏ hàng ngũ với Thiên Chúa và thiết lập lực lượng và vương quốc riêng của mình để chống lại Thiên Chúa. Ðức Giêsu đã tuyên bố rằng Người đến để lật đỗ quyền lực của Satan và vương quốc của hắn (Ga 12,31).
Việc trừ quỷ vô số của Ðức Giêsu đem lại sự giải thoát cho nhiều người bị rối loạn và áp bức bởi tác động của những thần dữ. Chính Ðức Giêsu đã đương đầu với sự chống đối cá nhân và trận chiến với Satan khi Người bị thử thách trong hoang địa trước khi sứ mệnh công khai của Người (Mt 4,1; Lc 4,1). Người đã thống trị Ma Quỷ ngang qua sự vâng phục của Người trước ý Chúa Cha.
Vài người lãnh đạo Do thái phản ứng kịch liệt trước những việc chữa lành và trừ quỷ của Ðức Giêsu. Họ chống đối Người với sự phỉ báng độc ác. Làm thế nào Ðức Giêsu có thể có quyền năng để giải thoát người ta khỏi ảnh hưởng và kiểm soát của Satan? Họ cho rằng Người thông đồng với Satan. Họ nghĩ quyền lực của Satan hơn quyền lực của Thiên Chúa. Ðức Giêsu khẳng định rằng không có vương quốc nào chia rẽ tự bản chất lại có thể tồn tại lâu dài được.
Chúng ta đã chứng kiến rất rõ về những cuộc nội chiến trong thời kỳ của mình để chứng minh sức mạnh hủy hoại về con người và đất đai. Nếu Satan mượn quyền lực của mình để chống lại những lực lượng của chính mình thì đời hắn đã tàn. Cyril thành Alexandria, một giáo phụ của Giáo hội ở thế kỷ thứ 5 giải thích về sức mạnh của sự tranh luận của Ðức Giêsu:
Các vương quốc được thiết lập bởi lòng trung thành của các thần dân và sự tùng phục của những ai dưới quyền cai trị của nhà vua. Gia đình được thành lập khi những người thuộc về họ không có bất kỳ điều gì nào cản trở nhau, nhưng trái lại, hòa thuận trong ý chí và hành động. Tôi cho rằng nó vương quốc của Beelzebub cũng được thiết lập như vậy, nó đã xác định loại bỏ tất cả những gì mâu thuẫn với chính mình. Làm thế nào Satan trục xuất Satan? Hệ quả là ma quỷ không rời khỏi người ta một cách tự nguyện, nhưng rút lui một cách miễn cưỡng. Người nói “Satan không chiến đấu với chính mình.” Hắn không quở trách các tôi tớ của chính mình. Hắn không cho phép mình làm tổn thương các chiến sĩ của chính mình. Ngược lại, Hắn đã giúp vương quốc của mình. “Nó vẫn còn đó để bạn có thể hiểu rằng tôi đè bẹp Satan bằng sức mạnh của Thiên Chúa”. [Chú giải về Luca, Bài giảng 80]
Ðức Giêsu quả quyết quyền năng của Người xua đuổi ma quỷ là dấu chỉ rõ ràng về triều đại của Thiên Chúa. Uy quyền của Thiên Chúa rõ ràng bày tỏ trong những lần trừ quỷ mà Ðức Giêsu thực hiện và chúng đưa ra bằng chứng rằng vương quốc của Chúa đã đến.
Loại nguy hiểm hay tác hại thiêng liêng nào chúng ta phải xa tránh bằng mọi giá? Ðức Giêsu đã sử dụng minh họa của một người mạnh khỏe có nhà cửa và các tài sản được canh giữ an toàn. Làm thế nào một người như thế bị khống chế và cướp mất những tài sản của mình nếu không phải bởi người nào đó mạnh mẽ hơn họ đó sao? Satan, là kẻ thù của chúng ta và kẻ thù không đội trời chung với Thiên Chúa, mạnh mẽ hơn chúng ta. Nếu chúng ta không được sức mạnh của Thiên Chúa bao bọc, chúng ta không thể chống cự lại Satan bằng sức riêng của con người.
Điều mà Satan mong muốn lấy đi nơi chúng ta là đức tin và lòng trông cậy của chúng ta nơi Thiên Chúa và sự sẵn sàng của chúng ta bước theo các giới luật của Người. Satan là kẻ nổi loạn và là kẻ lừa dối. Satan chỉ có thể có sức mạnh hay chiếm hữu trên chúng ta nếu chúng ta nghe lời lừa dối của nó và khuất phục ý của nó, là ý luôn trái ngược với ý của Thiên Chúa. Ðức Giêsu tuyên bố dứt khoát rằng không có phe trung lập trong thế giới này. Chúng ta ủng hộ Ðức Giêsu hay chống đối Người, ủng hộ vương quốc của Thiên Chúa hay chống lại nó. Cuối cùng chỉ có hai vương quốc đối lập nhau – vương quốc của Thiên Chúa và vương quốc của bóng tối do Satan thống trị. Nếu chúng ta không vâng phục lời Chúa, chúng ta mở cửa cho quyền lực của tội lỗi và tác động của Satan đến cuộc đời của mình. Nếu chúng ta muốn sống trong sự giải thoát đích thật khỏi quyền lực của tội lỗi và Satan, thì “căn nhà” của chúng ta – tâm trí và bất cứ điều gì chúng ta cho phép kiểm soát những tham dục và ước muốn của mình – phải được Ðức Giêsu Kitô chiếm hữu và thống trị, nơi đó Người được tôn phong là Chúa và là Đấng cứu độ. Bạn có biết sự bình an và an toàn của cuộc đời vâng phục Thiên Chúa và lời của Người không?
Tội không thể tha thứ nào mà Ðức Giêsu dạy chúng ta phải xa tránh? Ðức Giêsu biết rằng các môn đệ sẽ bị thử thách và Người bảo đảm với họ rằng Chúa Thánh Thần sẽ ban cho họ bất kỳ ơn sủng và sự trợ giúp cần thiết trong thời gian nghịch cảnh của họ. Tuy nhiên, Người cảnh báo họ rằng người ta có thể chống lại ơn sủng Thiên Chúa và chối bỏ niềm tin của mình vì sự hèn nhát hay không tin. Tại sao tội lộng ngôn chống lại Chúa Thánh Thần lại đáng khiển trách? Tội nói lộng ngôn bao gồm việc nói chống lại Thiên Chúa, trong lòng hay ngoài miệng, những lời lẽ hận thù, chỉ trích, hay thách thức. Nó trái ngược với lòng tôn kính Thiên Chúa và thánh danh Người. Ðức Giêsu nói tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội không thể tha thứ. Ðức Giêsu nói về tội này ngay sau khi các kinh sư và những người Pharisêu quy chiếu các phép lạ của Người là công việc của ma quỷ thay vì của Thiên Chúa. Tội không thể được tha thứ chỉ khi nào người ta không chịu thống hối ăn năn. Nếu họ cứ tiếp tục nhắm mắt với Thiên Chúa, bịt tai trước tiếng nói của Người, và khước từ lời Người, họ sẽ đi đến chỗ không còn nhận ra Thiên Chúa nữa khi họ vẫn có thể nhìn thấy và lắng nghe. Họ sẽ trở nên mù quáng thiêng liêng và nói “xấu thành tốt và tốt thành xấu” (Is.5,20).
Tuy nhiên, sợ hãi tình trạng tội lỗi và sự mù quáng thiêng liêng như thế là dấu chỉ cho thấy người ta chưa chết đối với Chúa, và vẫn còn ý thức về sự cần thiết ơn sủng, lòng thương xót và sự trợ giúp của Chúa. Lòng thương xót Chúa không có giới hạn, ngoại trừ những ai từ chối nhận thức và xưng thú tội lỗi của mình và cầu xin Chúa ban ơn tha thứ, chối từ ơn ban quảng đại của Thiên Chúa về lòng thương xót, ơn tha thứ, ơn sủng, và sự chữa lành. Ngang qua sự kiêu ngạo bướng bỉnh của chính họ, họ khước từ Thiên Chúa, chối từ ơn sủng và sự trợ giúp của Người để xa tránh tội lỗi, và chống lại sức mạnh biến đổi của Chúa Thánh Thần để chữa lành và phục hồi mọi sự cho họ. Thiên Chúa luôn luôn ban đầy đủ ơn sủng và giúp đỡ tất cả những ai khiêm tốn khẩn cầu Người. Mất lòng trông cậy Chúa và từ chối từ bỏ tội lỗi cùng với sự cứng tin là kết quả của sự kiêu ngạo và mất hy vọng vào Thiên Chúa.
Đâu là nền tảng của niềm hy vọng và lòng tin vào Thiên Chúa? Qua cái chết của ứức Giêsu trên thập giá và cuộc chiến thắng của người trên sự chết, khi Người sống lại vào ngày thứ ba, Satan đã bị đánh bại và sự chết đã bị chế ngự. Giờ đây chúng ta chia sẻ sự chiến thắng của Đức Kitô trên tội lỗi và Satan và được nhận làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Ngang qua ơn sủng của Chúa Thánh Thần, Chúa giúp chúng ta sống một đời sống mới trong tình yêu và sự giải thoát khỏi sự nô lệ cho tội lỗi. Chúa Giêsu là nơi nương ẩn và sức mạnh của chúng ta bởi vì Người ở với chúng ta (Ga 15,4), và ban cho chúng ta sức mạnh và sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Bạn có ẩn thân nơi Chúa và cho phép Người làm Ðấng cai quản cuộc đời bạn không?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là niềm hy vọng và ơn cứu độ của con. Xin Chúa hãy làm vua cai trị hồn con và làm Chủ của gia đình con. Chớ chi không một điều gì trong cuộc đời con mà không ở dưới sự cai quản của Chúa.
(Mc 3,31-35)
Bạn thích và yêu thương ai nhất? Thiên Chúa không có ý định cho chúng ta sống một mình nhưng sống với những người khác. Người ban cho chúng ta nhiều cơ hội để phát triển những mối quan hệ với gia đình, bạn bè, hàng xóm, và đồng nghiệp. Tại sao Ðức Giêsu có vẻ như phớt lờ những người bà con của mình khi họ muốn gặp Người? Tình yêu và lòng kính trọng của Ngài dành cho Mẹ và bà con thân thuộc thì thật là chắc chắn. Ðức Giêsu không bao giờ để mất một cơ hội để dạy các môn đệ bài học và chân lý thiêng liêng về nước Thiên Chúa. Trong dịp này, khi nhiều người đến nghe Ðức Giêsu, Ngài đã nói đến thực tại khác cao hơn về những mối quan hệ, đó là mối quan hệ với Thiên Chúa và những ai thuộc về Người.
Đâu là yếu tố căn bản của người Kitô hữu? Chắc chắn nó còn hơn cả học thuyết, những khái niệm, và những mệnh lệnh. Đó chính là mối quan hệ đầu tiên và trên hết – mối quan hệ về sự tin cậy, tình cảm, lời cam kết, lòng trung thành, lòng khoan dung, sự quan tâm, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, sự trợ giúp, sự khích lệ, sự ủng hộ, sức mạnh, sự bảo vệ, và nhiều phẩm chất khác trói buộc người ta với nhau trong tình yêu và sự hiệp nhất. Thiên Chúa ban cho chúng ta những mối quan hệ lớn lao nhất – sự kết hiệp của lòng, trí, và linh hồn với chính Người là Tác giả và Nguồn mạch của tình yêu (1Ga 4,8.16). Tình yêu Thiên Chúa không bao giờ tàn lụi, không bao giờ quên lãng, không bao giờ làm tổn thương, không bao giờ lừa dối, không bao giờ để chúng ta bị đè bẹp hay thất vọng. Tình yêu của Người luôn kiên định, không thay đổi, không điều kiện, và không bao giờ hết. Không gì có thể ngăn cản Người rời bỏ chúng ta, phớt lờ chúng ta, hay đối xử tệ bạc với chúng ta bao giờ. Người vẫn mãi yêu thương chúng ta cho dù thế nào đi nữa. Đó chính là bản tính yêu thương của Người. Đó là lý do tại sao Người tạo dựng nên chúng ta – để kết hiệp với Người và chia sẻ tình yêu của Người và sự hiệp nhất với người khác (1Ga 3,1). Thiên Chúa có 3 Ngôi vị: Cha, Con, và Thánh Thần, là một cộng đồng tình yêu. Đó là lý do tại sao Ðức Giêsu thách đố các môn đệ và thậm chí những người bà con thân thuộc của mình nhận ra rằng Thiên Chúa chính là nguồn gốc thật sự của tất cả mọi mối quan hệ. Thiên Chúa muốn tất cả mọi quan hệ của chúng ta phải được ăn rễ trong tình yêu của Người.
Ðức Giêsu là hiện thân tình yêu Thiên Chúa – tình yêu Thiên Chúa thể hiện cách minh nhiên trong xác phàm (1Ga 4,9-10). Đó là lý do Ðức Giêsu mô tả chính mình như người mục tử tốt lành, người dám hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên, và là người mục tử đi tìm con chiên lạc. Thiên Chúa giống như người cha chờ mong đứa con hoang đàng quay về nhà và thiết đãi bữa tiệc lớn cho người con, khi hắn đổi lòng và trở về (Lc 15,11-32). Ðức Giêsu dâng hiến mạng sống mình trên thập giá vì phần rỗi chúng ta, để chúng ta có thể được tha thứ và được phục hồi sự kết hiệp và tình bằng hữu với Thiên Chúa. Ngang qua Ðức Giêsu mà chúng ta trở nên dưỡng tử của Thiên Chúa. Đó là lý do Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng họ sẽ có nhiều bạn bè và những mối quan hệ gia đình trong nước Người. Ai thực hiện ý Thiên Chúa là bạn hữu của Chúa và là thành viên trong gia đình của Người – những người con đã được mua chuộc bằng giá máu châu báu của Đức Kitô.
Một tín hữu tử đạo thời xưa đã nói rằng “Bà con thân thuộc của người tín hữu chính là các thánh” – tức là những người đã được cứu chuộc bằng giá máu của Đức Kitô và được làm dưỡng tử của Thiên Chúa. Những ai đã được thanh tẩy trong Đức Giêsu Kitô và những ai sống như những người môn đệ của Người sẽ được gia nhập vào một gia đình mới, một gia đình của “các thánh” tại đây ở thế gian và trên Thiên đàng. Đức Giêsu thay đổi trật tự của những mối quan hệ và bày tỏ cho thấy rằng mối quan hệ họ hàng thật sự không chỉ dựa trên vấn đề thân xác và huyết thống. Ơn làm con Thiên Chúa biến đổi tất cả mọi mối quan hệ của chúng ta và đòi hỏi một trật tự mới của lòng trung thành với Thiên Chúa trước hết và với vương quốc công chính và bình an của Người. Bạn có muốn lớn lên trong tình yêu và tình bằng hữu không? Hãy để cho Thần Khí Chúa biến đổi lòng, trí, và ý chí các bạn để giúp bạn yêu thương cách tự do và quảng đại như Người yêu thương.
Lạy Cha trên trời, Cha là nguồn mạch tất cả mọi mối quan hệ và tình yêu. Trong tất cả mọi mối quan hệ của con, chớ gì tình yêu của Cha là sự hướng dẫn liên tục của con trong việc chọn lựa những gì tốt lành và khước từ những gì trái ngược với ý Cha.
Người Việt Nam vẫn có câu: “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Điều này như muốn nói những TN 10-B58
Người Việt Nam vẫn có câu: “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Điều này như muốn nói những người ở gần chúng ta, họ hiểu chúng ta, họ biết và cảm thông với chúng ta đôi khi tình cảm của họ còn hơn cả anh em họ hàng nhưng ở xa. Họ là những người “tối lửa tắt đèn có nhau” nên đã trở thành một phần trong gia đình của mình.
Có những người hàng xóm mà “tình như thủ túc” còn trân quý hơn cả anh em họ hàng. Ngược lại có những người họ hàng lại làm cản trở bước chân của ta đôi khi còn gây đau khổ cho chúng ta.
Có một bé gái đã sung sướng khi giúp một bạn nghèo trong lớp. Hạnh phúc quá, em về khoe với mẹ. Không ngờ mẹ mắng: “Không được chơi với đứa khố rách áo ôm đó.” Nụ cười trên môi em bé chợt tắt, em thất vọng trước sự cố gắng làm điều tốt nhưng không được khuyến khích.
Đôi khi những người thân lại làm chúng ta thất vọng. Thất vọng vì họ không có niềm tin nơi ta. Thất vọng vì họ coi thường ta. Thất vọng vì họ cản bước tiến của ta. Đáng lẽ, những người thân là cha mẹ, anh em, bè bạn phải là người luôn khích lệ chúng ta, nhưng nhiều khi họ lại quá coi thường và là vật cản tiến bước của chúng ta.
Chúa Giê-su cũng bị những người thân cản trở trong sứ vụ. Họ không nhận ra giá trị việc làm của Chúa. Họ nghe dư luận để rồi hùa theo dư luận kết án Chúa. Chính vì thế, Chúa đã không đề cao nhóm người này mà Ngài lại đề cao một gia đình thiêng liêng gồm những người lắng nghe lời Ngài. Đây mới chính là gia đình của Ngài. Đây mới chính là kẻ nghĩa thiết với Ngài.
Gia đình mới của Chúa Giê-su phải kể đầu tiên là Mẹ Maria. Mẹ là một thành viên gia đình Chúa. Mẹ xứng đáng được gọi là Mẹ Chúa Giê-su vì trước tiên Mẹ hằng lắng nghe và thực thi lời Chúa. Các môn đệ và những người đi theo Chúa đã từng chứng kiến biết bao phép lạ Ngài làm bởi quyền năng Thiên Chúa nên đã tin và đi theo Ngài cũng trở thành một phần trong gia đình của Ngài. Và biết bao người nhờ tin vào Chúa Giê-su mà được khỏi bệnh, được hoán cải và bước đi theo Chúa.
Lời Chúa hôm nay như muốn mời gọi chúng ta hãy sống theo sự thật. Hãy đánh gía con người của nhau theo khả năng. Đừng đánh giá nhau theo tình cảm để rồi tâng bấc những kẻ xấu làm cha mình, làm thần tượng mình, và đừng ngược đãi nhau chỉ vì họ không cùng quan điểm, không cùng phe cánh mà kết án vô cớ cho nhau.
Ở đời ta vẫn thấy sự trớ trêu ấy. Người xấu vẫn được ca tụng. Người tốt thì bị dìm hàng. Người dùng tiền để mua bạn hữu, có lắm bề trên bề dưới gần kề, dù biết rằng đó là những đồng tiền bất chính. Kẻ không tiền thì bị bỏ rơi xem thường.
Ở đời ta vẫn thấy những người trong gia đình lại thiếu tôn trọng nhau. Vợ xem thường chồng chẳng ra tích sự gì! Chồng chê vợ đểnh đoảng, lôi thôi. Cha mẹ xem thường con cái, vì nó không làm theo ý mình.
Điều đáng tiếc là những nhận xét về nhau đa phần là theo tình cảm. Có tình cảm thì “chín bỏ làm 10”. Không có tình cảm thì “bới lông tìm vết” để hạ bệ và làm nhục nhau.
Chúa Giê-su hôm nay nói tội không được tha chính là tội phạm đến Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần đã cho chúng ta biết thế nào là sự thật nhưng vẫn cố tình không sống theo sự thật gọi là “minh tri cố phạm’ thì sẽ không bao giờ được tha.
Xin cho chúng ta được trở thành thành viên của gia đình Chúa qua việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Xin đừng vì tình cảm mà mù quáng làm hại người công chính và ca tụng người xấu, nhưng hãy biết can đảm sống và làm chứng cho sự thật. Amen.
Sau khi ông Ađam và bà Eva bị con rắn cám dỗ ăn trái cấm trong vườn địa đàng, Đức Chúa đã TN 10-B59
Sau khi ông Ađam và bà Eva bị con rắn cám dỗ ăn trái cấm trong vườn địa đàng, Đức Chúa đã lên án con rắn: “ Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đạp vào đầu mi và mi sẽ cắn gót nó.” ( St 3: 14-15)
Bắt đầu cuộc công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ, Đức Giêsu đã trải qua những giây phút ngỡ ngàng của dân chúng và ngay cả đến người thân của Ngài qua các hoạt động rao giảng Tin Mừng, chữa bệnh và trừ quỷ. Đám đông đã bám sát đến nỗi Ngài đã phải yêu cầu các môn đệ dành cho Ngài một chiếc thuyền để khỏi bị đám đông chen lấn. Nhiều bệnh nhân đã đổ xô đến sờ vào Ngài. Các thần ô uế, hễ thấy Ngài, thì sấp mình dưới chân Ngài và kêu lên : “ Ông là Con Thiên Chúa!” Rồi Ngài lập nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và để Ngài sai các ông đi rao giảng với quyền trừ quỷ. Danh tiếng nổi lên như cồn. Khi trở về nhà, đám đông lại kéo đến thành thử Ngài và các môn đệ không sao ăn uống được. Trước tình hình như thế, thân nhân của Ngài liền đi bắt Ngài vì họ nói rằng Ngài mất trí. Còn các kinh sư từ Giêrusalem đến khi thấy Ngài trừ qủy thì lại bảo Ngài dựa thế quỷ vương mà trừ qủy. Vì thế, đang giảng dạy cho dân chúng, nghe tin mẹ và anh em đến tìm Ngài, Đức Giêsu không mấy quan tâm, vì Ngài biết họ đến với Ngài không phải vì mục đích chính đáng. Nhưng qua đó, Ngài lại muốn giới thiệu cho đám đông biết những người thân thuộc đích thực của Ngài là những ai. Đưa tay chỉ những người đang ngồi nghe Ngài giảng dạy, Ngài nói: “ Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi.” ( Mc 3:34-35)
Bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu gần như đáng mất quan hệ tự nhiên, nhưng Ngài lại có một mối tương quan gia đình khác, đó là gia đình các môn đệ. Sứ vụ của Đức Giêsu với Cha trên trời còn quan trọng và cần thiết hơn. Nhớ lại lúc mới 12 tuổi, nhân dịp cả gia đình trẩy hội lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua, cậu bé Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ không hay biết. Khi tìm thấy con, Mẹ Ngài trách: “ Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Và Ngài đáp lại: “ Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Hôm nay, khi nghe tin có mẹ và anh em tìm Ngài, không phải vô tình, nhưng qua đó, Ngài muốn cho chúng ta thấy ngoài quan hệ về thể xác, Ngài còn có một quan hệ khác quan trọng hơn đó lá nhiệm vụ đối với Cha trên trời. Nhiệm vụ ấy là chứng minh cho dân chúng thấy: tất cả những tạo vật đều thuộc về gia đình Thiên Chúa. Người nghe và thực hành ý muốn của Cha trên trời là thuộc gia đình Thiên Chúa và những ai thuộc về gia đình ấy mới thực sự là mẹ và anh chị em của Đức Giêsu. Không biết đây có phải là dịp cho Thiên Chúa nhắc lại lời mà Ngài đã nói với con rắn xưa kia chăng!
Đức Giêsu đã hoàn toàn đánh đổ quyền lực của Satan và thiết lập Nước Thiên Chúa. Những người tin vào Thiên Chúa và thi hành ý muốn của Ngài, đã hình thành một mối thân tộc mới trong gia đình Thiên Chúa. Với hiệu quả của ơn cứu chuộc, chúng ta không chỉ là tạo vật của Thiên Chúa mà còn là thành viên của gia đình Thiên Chúa. Mối dây liên kết thân tình và mật thiết trong gia đình Thiên Chúa là nghe lời Thiên Chúa và thực thi ý muốn của của Ngài: “ Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” ( Mc 3:31-35) Huyết tộc của gia đình Thiên Chúa là thi hành ý muốn của Chúa Cha. Đức Giêsu luôn vâng nghe và thực thi ý muốn của Chúa Cha. Ngài là người Con yêu dấu và đẹp lòng Chúa Cha. Để trở thành anh chị em trong gia đình Thiên Chúa, chúng ta cũng phải mang huyết tộc của gia đình ấy là thi hành thánh ý Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN X/TN-B – Mc 3, 20-35) trình thuật Đức Ki-tô bị đám kinh sư Do TN 10-B60
Bài Tin Mừng hôm nay (CN X/TN-B – Mc 3, 20-35) trình thuật Đức Ki-tô bị đám kinh sư Do Thái cho rằng Người bị qủy vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ. Sở dĩ vậy, vì Đức Ki-tô đã chữa lành cho rất nhiều bệnh nhân mắc đủ thứ bệnh; đồng thời Người còn trục xuất những thần ô uế ra khỏi bệnh nhân, khiến chúng nhìn thấy Người là hô lên: “Ông là Con Thiên Chúa”, nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai (Mc 3, 10-12).
Chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ chữa bệnh, trừ quỷ… do Đức Ki-tô thực hiện, nhất là thấy dân chúng đi theo Người rất đông; đám kinh sư, luật sĩ Do Thái liền “rình xem Đức Giê-su có chữa người bệnh trong ngày sa-bát không, để tố cáo Người…, nhóm Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su.” (Mc 3, 2-6). Vì nhóm kinh sư luật sĩ bất cứ chuyện gì, bất cứ lúc nào, chúng cũng gài bẫy hoặc tìm cớ giết Đức Ki-tô, chuyện đó còn khả dĩ hiểu được; nhưng đến như những thân nhân của Người cũng đi bắt Người vì cho rằng Người đã mất trí (“Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” – Mc 3, 20-21), thì quả thật “hết biết”!!!
Riêng về chuyện đám kinh sư cho rằng Đức Giê-su bị quỷ ám (“Còn các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ… Ông ấy bị thần ô uế ám.” – Mc 3, 22.30), Đức Ki-tô “liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó.” (Mc 3, 23-27). Cuối cùng, Đức Ki-tô nói thẳng cho họ biết: họ nói Người bị thần ô uế ám thì mặc nhiên họ đã xúc phạm đến Chúa Thánh Thần và như thế thì không tha thứ được (“Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời.”
Thánh sử Mat-thêu và Lu-ca cũng nói rõ: “Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau.” (Mt 12, 31-32); “Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha.” (Lc 12, 10). Khi đi chia sẻ tại các huynh đoàn Đa Minh mà gặp phải bài Tin Mừng như hôm nay, chúng tôi thường bị chiếu bí: “Xin cho biết tại sao tội “nói phạm thượng (phạm đến Chúa Cha), tội nói phạm đến Con Người (Đức Giê-su), thì được tha hết; duy chỉ có nói phạm đến Thánh Thần là không được tha? Xúc phạm đến Ngôi Cha và Ngôi Con thì được tha mà Ngôi Ba lại không được tha – Lạ lùng quá!!!”
Quả thật là hết sức lạ lùng! Bị chiếu bí, về cố gắng lục tìm tài liệu thì chỉ tìm được trong sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 1864): “Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha.” (Mt 12, 31) (x. Mc 3, 29; Lc 12, 10). Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, nhưng ai cố tình không hối cải và khước từ lòng Thiên Chúa thương xót thì cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho (x. DV 46). Lòng chai dạ đá như thế có thể đưa tới chỗ không hối cải trong giờ sau hết và phải hư mất đời đời.” Vẫn chưa thấy rõ ràng, đành lại mò mẫm trên mạng để cố tìm cho ra đáp số. Cuối cùng thì cũng tạm thỏa mãn. Xin được trình bày:
Kinh Thánh nói đến Chúa Thánh Thần bằng nhiều danh xưng như: Thần Khí, Thần Chân Lý, Đấng Bào Chữa, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ… (Giáo lý HTCG số 691-693). Vì là Ngôi Ba Thiên Chúa kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Con, nên Thánh Thần đã hiện diện cả trong Cựu Ước và Tân Ước, suốt dọc quá trình lịch sử cứu độ từ khởi nguyên đến tận cùng. Ngay từ tạo thiên lập địa, Thánh Thần đã hiện diện trong sáng tạo vũ trụ và loài người của Thiên Chúa (“Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.” – St 1, 1-2; “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khívào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” – St 2, 7-8).
Thời kỳ Cựu Ước cũng vậy, Thánh Thần luôn hiện diện để soi sáng và hướng dẫn các tiên tri, ngôn sứ – nói chung là dân Chúa – trong mọi trường hợp, điển hình như “Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí ĐỨC CHÚA nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.” (1Sm 16, 1-13); “Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông Ê-li-sa.” (2V 2, 15) v.v… Không chỉ có sách Sa-mu-en và sách Các Vua như vừa dẫn, mà hầu hết các sách Cựu Ước đều trình thuật những sự kiện chứng minh có sự tác động rất mạnh của Thần Khi vào những việc Thiên Chúa thực hiện thông qua các ngôn sứ, tư tế hay các vua (xc. St 1, 2; G 33, 4; Ed 37, l4; G 34, 14-15; Dcr 7, 12; Mk 3, 8; Ds 11, 16-17.25-26; Ds 27, 28-33; Đnl 34, 9 v.v…),
Đến thời Tân Ước thì phải nói một điều Chúa Thánh Thần luôn hiện diện trong tất cả mọi sự kiện diễn ra trên trái đất, cụ thể là nơi vùng đất được tuyển chọn (It-ra-en). Chính Đức Giê-su cũng luôn luôn nhắc đến vai trò đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng chính là Thiên Chúa vì “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4, 24). Không những Đức Ki-tô giảng dạy cho các môn đệ hiểu về sức mạnh và sự cần thiết của Chúa Thánh Thần trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng; mà chính Người cũng luôn chịu sự tác động của Thánh Linh khi Người chịu phép rửa tại sông Gio-đan (Mt 3, 13-17), khi Người được Thần Khi dẫn vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ (Mt 4, 1-11), khi Người giảng dạy (Mt 10, 19-20 ; Ga 7, 38-39 ; Ga 14, 16-18 ; Ga 15, 26 ; Ga 16, 7-8…) và thậm chí cả khi Người chịu chết trên thập tự rồi sống lại hiển vinh (“Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết.” – Rm 8, 11; – xc thêm Mt 22, 43-44; Tv 110; Cv 1, 16; Cv 28, 15; 1Pr 1, 10-11; 2Pr 1, 20-21; 2Tm 3, 16; Dt 3, 7 v.v…).
Nếu không có sự phù giúp vô cùng hữu hiệu của Chúa Thánh Thần, Giáo hội không thể lớn lên trong sự thánh thiện và khôn ngoan, cũng như không thể chu toàn được sứ mệnh mà Chúa Ki-tô đã trao phó trước khi Người về trời. Vì thế, Giáo hội luôn cầu xin ơn Thánh Linh trước khi làm bất cứ việc lớn nhỏ nào. Và phong trào, đoàn thể nào có mục đích xin ơn Chúa Thánh Thần để canh tân đời sống thiêng liêng, thêm yêu mến Chúa Ki-tô và ơn cứu độ của Người, thì đều được Giáo hội khuyến khích, nâng đỡ. Nói chung, toàn thể Ki-tô hữu (bao gồm tất cả Giáo sĩ và Giáo dân) đều rất cần ơn Chúa Thánh Linh để sống và tuyên xưng đức tin và mời gọi thêm nhiều người khác nhận biết và tin Chúa Ki-tô, là Đấng duy nhất cứu chuộc loài người qua Hy tế Thập giá.
Điều đó cho thấy, nếu con người còn tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, thì mọi tội lỗi đều có thể được tha thứ. Vậy, nếu nhờ Thánh Thần mà nhận biết Đức Chúa là Cha nhân lành để chạy đến xin tha thứ mọi lỗi phạm vì yếu đuối, vì lầm lạc; thì điều kiện để được tha thứ là phải nhìn nhận tội lỗi của mình và đặt hết tin tưởng nơi lòng thương xót, thứ tha của Thiên Chúa. Ngược lại, nếu chối từ Thiên Chúa, thất vọng hoàn toàn về tình thương tha thứ của Người, cũng như không còn tin và yêu mến Ngôi Cha và Ngôi Con nữa, là xúc phạm nặng nề đến chính Chúa Thánh Thần là Đấng đã giúp người tín hữu nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân hậu, nhận biết công trình cứu chuộc vô giá của Chúa Ki-tô, cũng như giúp mọi người nhìn nhận tội lỗi đã phạm.
Chúa Thánh Thần cũng là Đấng đã nung lửa yêu mến Thiên Chúa trong lòng mọi tín hữu. Do dó, xúc phạm đến Chúa Thánh Thần là không tin mọi công việc Người đã làm trong linh hồn mỗi người tín hữu và trong Giáo hội của Chúa Ki-tô. Tắt một lời: xúc phạm đến Chúa Thánh Thần là xúc phạm đến cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Căn cứ vào những phân tích ở trên, có thể nói tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội mang nội dung: * Hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa là Cha nhân lành giầu lòng thương xót và tha thứ. * Từ khước ơn cứu chuộc của Chúa Ki-tô. * Phủ nhận Chân Lý mà Thần Khí Chúa đã mạc khải cho con người. * Không còn nhìn nhận tội lỗi đã phạm để xin được tha thứ. * Thất vọng về ơn cứu rỗi của mình. * Ngoan cố trong tình trạng tội lỗi. * Thà chết mà không chịu hối cải.
Tóm lại, khi con người đã có những định kiến sai lầm cộng với thái độ ngoan cố như nêu trên, nhất là khi được ơn hiểu biết thông suốt mọi tội lỗi đã mắc phạm, nhưng vẫn không sám hối khi còn tại thế, thì điều tất yếu sẽ là: “không được tha thứ cả đời này lẫn đời sau” (“ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” – Mc 3, 29; “ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau” – Mt 12, 32). Điều này chứng tỏ khi xúc phạm đến Chúa Thánh Thần tức là cùng lúc xúc phạm đến cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói cách cụ thể là khi đã biết là có tội nặng, người ta vẫn không chịu thống hối ăn năn trong giờ lâm chung, nghĩa là người ta đồng ý chết trong tội trọng. Tội này không những đã không được tha ở đời này vì người ta từ chối việc đền tội, mà ở đời sau cũng chẳng được tha, vì ở đó (nơi hỏa ngục) không còn cơ hội đẻ hưởng ơn cứu chuộc.
Trong Thông điệp về Chúa Thánh Thần “Dominum et Vivificantem” (số 46), Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II cũng nói về tội phạm đến Chúa Thánh Thần: “Tội phạm đến Chúa Thánh Thần không phải chỉ đơn thuần xúc phạm đến Người bằng lời nói mà hệ tại sự chối từ nhận lãnh ơn cứu chuộc mà Thiên Chúa ban cho con người qua Chúa Thánh Thần hoạt động qua quyền lực của Cây Thập Giá.” Hiểu được như vậy, người Ki-tô hữu hãy luôn luôn nhìn lại mình để nhận biết những sai phạm, tội lỗi đã vướng mắc, cầu xin Đức Ki-tô ban Thánh Linh soi sáng tâm trí và thêm lòng can đảm, ngõ hầu thực hiện nghiêm chỉnh việc “sám hối và canh tân” trong suốt hành trình tiến về quê hương đích thực. Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa là nguồn phát sinh mọi điều thiện hảo, xin đáp lời con cái nài van mà soi sáng cho biết những gì là chính đáng, và giúp chúng con đủ sức thi hành. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN X/TN-B).
Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc chúng ta, vì chúng ta là kho tàng vô giá không thể thiếu TN 10-B61
Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc chúng ta, vì chúng ta là kho tàng vô giá không thể thiếu được đối với Thiên Chúa.
Câu chuyện:
Có một vị tướng danh xưng là nhân từ dẫn một đại quân ra trận. Sau nhiều ngày chiến đấu với địch, quân đội ông đã chiến thắng. Địch thất bại thê thảm; tướng, lính chạy tán loạn về nước. Vị tướng nhân từ dẫn quân đi thu chiến lợi phẩm. Trong khi đào bới đống gạch đổ nát, ông phát hiện có một cô gái trong đó, mặt mày lấm lem trông rất xấu, tay chân có nhiều vết thương. Ông cõng cô về doanh trại, cho cô tắm và mặc đồ của ông. Cô ngại và thấy mình không xứng đáng đón nhận tình thương của vị tướng nhân từ. Cô xin về nhà tìm người thân. Vị tướng ấy bảo: “Sức khỏe cô không được tốt cần nghỉ ngơi bổ dưỡng một thời gian mới đủ sức đi tìm người thân”. Cô ngạc nhiên hỏi: “Tại sao ông đối xử tốt với tôi như vậy? Tôi với ông đâu có thân quen, trái lại tôi là người dân bên kia chiến tuyến của ông mà”. Vị tướng trả lời: “Ta đối đãi tốt với cô như vậy, vì cô là kho tàng vô giá không thể thiếu được đối với ta”.
1. Tổ tông sa ngã Thiên Chúa hứu cứu.
“Cô là kho tàng vô giá không thể thiếu được đối với ta”, hay đó chính là lời Thiên Chúa nói với con người: con là một kho tàng vô giá không thể thiếu được đối với Ta. Đối với Thiên Chúa con người là kho tàng vô giá nên dẫu con người có bị vùi dập trong đống bùn nhơ tội lỗi Người vẫn yêu thương mang về tắm rửa, làm cho mới, cho xinh đẹp. Bài đọc một đã cho chúng ta thấy điều ấy. Thiên Chúa đã đặt tổ tông trong tình trạng hạnh phúc tràn đầy (ở trong Vườn địa đàng), nhưng sau một trận chiến với ma quỷ tổ tông đã thất bại một cách ê chề: thấy mình xấu hổ vì trần truồng; chạy trốn Thiên Chúa, vợ chồng trở nên xa lạ. Điều này được thể hiện khi Adam trả lời câu hỏi của Thiên Chúa: “Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?” Adam trả lời: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy”. Adam nói: “người đàn bà” chứ không nói: “đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Thiên Chúa đúng thật là vị tướng nhân từ mà câu chuyện trên muốn diễn tả. Người không những không chấp tội bất tuân mà còn hứa cứu nguyên tổ ra khỏi tội lỗi và sự chết. Người còn nguyền rủa ma quỷ (con rắn): “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà… dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”. Người phạt con rắn (ma quỷ) bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày.
2. Chúa Giêsu thực hiện lời hứa của Thiên Chúa.
Lời hứu cứu rỗi của Thiên Chúa được chính Chúa Giêsu thực hiện khi giờ của Người đến. Chúa Giêsu đã đến, dùng cái chết và sự phục sinh của Người cứu tổ tông và những ai tin Người là Đấng cứu thế, là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần gian. Người đã trỗi dậy từ cõi chết cũng sẽ làm cho chúng ta trỗi dậy và đặt chúng ta bên hữu Người.
Ma quỷ luôn gây chiến với loài người, dụ loài người vào bẫy của tội lỗi để chống lại Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu trừ quỷ cho nhiều người và bị những kinh sư cho là bị quỷ ám, hay dùng tướng quỷ mà trừ quỷ. Trước những lời khinh khi, nhục mạ như thế, Chúa Giêsu luôn tỏ ra nhân từ, thương xót, vì họ cũng là kho tàng vô giá không thể thiếu được đối với Ngài. Ngài đã khuyên dạy họ, mời gọi họ tin vào quyền năng Thiên Chúa: “Xa tan làm sao trừ xa tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững”. Những lời ấy của Chúa Giêsu nhằm gieo niềm tin vào lòng họ để họ cũng được ơn cứu rỗi, vì Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi: “Tôi bảo thật các ông: mọi tội lỗi và lời phạm thượng, dù nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng sẽ được tha cho con cái loài người”(Mc 3,28).
Đã qua 2000 năm tính từ ngày Chúa Giêsu nhập thể, Ngài vẫn luôn đi tìm tội nhân để chữa, để cứu. Qua bí tích hòa giải Ngài cho hối nhân lãnh nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, đồng thời muốn họ đón nhận một cách năng động và tích cực, nghĩa là thụ nhân phải đi vào vĩ đạo lòng thương xót của Ngài. Khi chúng ta đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa thì chúng ta cũng biết thương xót tha nhân.
3. Tâm tình của chúng ta hôm nay.
Tâm tình của chúng ta hôm nay là tâm tình tạ ơn. Tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân đức tin mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Nhờ hồng ân này mà có đông người hơn dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn vinh Người. Nhờ hồng ân này mà chúng ta có mối huyết thống thiêng liêng với Chúa Giêsu: Là mẹ, là anh em, là chị em với Ngài khi chúng ta thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Ý muốn của Thiên Chúa là chúng ta đừng chán nản trong cuộc chiến với ma quỷ, đừng chán nản với con người bên ngoài cũ kỷ dễ tiêu tan, nhưng kiên trì trong cuộc chiến chống các chước cám dỗ của ma quỷ, dẫu nó có như sư tử rảo quanh tìm chúng ta để cắn xé. Để chiến thắng trong cuộc chiến với ma quỷ chúng ta hãy chấp nhận gian truân tạm thời trong hiện tại, để con người chúng ta được đổi mới, không còn chú tâm đến vật chất hữu hình, nhưng chú tâm đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những vật chất hữu hình là tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn, là vinh quang vô tận. Đó là ơn Chúa, đó là ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời do tay Thiên Chúa làm nên.
Chúa Giêsu là vị tướng nhân từ luôn tìm kiếm chúng ta là tội nhân và đưa về ngôi nhà do Thiên Chúa dựng nên. Ngài không muốn ai trong chúng ta phải hư mất, vì chúng ta là kho tàng vô giá không thể thiếu được đối với Thiên Chúa.
Đâu phải tự nhiên mà cha ông chúng ta có câu: lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, miệng không TN 10-B62
vành méo mó tứ tung. Cũng không phải tất cả mọi người sẽ đủ kiến thức để phân biệt “ngọc quý” khác với những viên đá trải đường ở điểm nào. Thực tế thì sự giới hạn, hay cá tính của mỗi người không giống nhau, do đó người ta dễ suy nghĩ và nhận định vấn đề hay dở, nông sâu, thường mang tính chủ quan. Trước vấn nạn nghèo đói, túng thiếu, cần được yêu thương, thiết tưởng người giầu là người đầu tiên phải bận tâm đến việc chia sẻ và phát huy tinh thần bác ái, với số tài sản họ đang có. Biết bao đứa trẻ vì nghèo, hiện không được đến trường, trách nhiệm đó thuộc về gia đình hay xã hội ? Cũng không thiếu những tâm hồn quảng đại dấn thân vì muốn được đóng góp một chút công sức, tiền của, thời gian, nhưng khi gặp phải nhiều cản trở, và họ thật sự đã thấm thía hơn với câu thành ngữ: làm phúc phải tội.
Chỉ vì muốn cho con cháu có một tương lai rạng rỡ, các bậc làm cha mẹ phải hy sinh nhiều công sức thời gian để theo sát con cùng học, cùng sống, đã là một chuyện, tuy nhiên, vì biết con cháu làm việc tốt, làm việc thiện, mà ra sức cấm cản, hẳn đó là bất thường ! Người đời cho rằng: cây cầu khó khăn nhất để qua lại đó là cây cầu kết nối giữa trái tim với trái tim, cha mẹ có thể yêu con, và rất cần minh chứng bằng một tình yêu vô vị lợi, con cái chỉ thuyết phục được bậc sinh thành, khi con tim của chúng cùng phát tín hiệu yêu thương. Trong khi Đức Giêsu và các học trò đang tất bật với sứ mạng cứu chữa người đau ốm, nghèo khổ đang ở bên cạnh, lẽ thường những kẻ xung quanh có điều kiện phải tự giác để giúp thầy trò Đức Giêsu, họ không đoái hoài lại còn tung tin xấu, Đức Giêsu đã bị mất trí, quả là đáng tội chết ! Đúng ra, các kinh sư là những vị uy tín, họ dư biết không thể có sự mâu thuẫn giữa một người vừa nhân danh Chúa để hoạt động làm việc thiện, lại vừa chơi với quỷ dữ để quấy phá gây thiệt hại cho con người.
Sứ mạng của Thầy-trò Đức Giêsu thời nào cũng bị chống đối, bị quyền lực thế gian gây sự, dù sứ mạng loan báo tin mừng của giáo hội hôm nay có thuận tiện hơn xưa, nhưng sứ giả của Chúa vẫn phải đau khổ, mất mạng, vì bị vu khống, cáo gian, đâu phải là chuyện hiếm ! Con người cao hơn nhau ở cái nhìn, quý hóa ở chỗ có tâm an, và thành đạt ở chỗ nhận biết mình là ai. Thầy-trò Đức Giêsu không thể hình dung ra những con người khẩu phật tâm xà, họ đang tâm dùng miệng lưỡi thế gian mà làm cho số người nhà của Đức Giêsu tin Ngài bị quỷ ám ! Nếu như các chuyên gia về tâm lý nói rằng: thuốc duy nhất có thể chữa được bệnh tình vẫn là tình yêu, thì quả thực, những mưu mô quỷ quyệt của thế gian, chúng chỉ bị khuất phục khi từng ngày tình yêu của Chúa Giêsu tiếp tục lên tiếng. Kinh nghiệm cho thấy, những kẻ dối trá, đặt điều bôi nhọ danh thơm tiếng tốt làm mất danh dự người ta, những kẻ đó sẽ không bao giờ tìm thấy sự bình an và hạnh phúc nơi công việc xấu xa họ đang làm.
Đức Giêsu không dùng lý lẽ để chứng minh thầy-trò chúng tôi không hề mất trí, không phải bị thế lực của quỷ vương khống chế, trói buộc, Ngài đã sử dụng thời giờ, tình yêu, để minh xác cho sứ mạng Thiên Chúa ủy thác. Ngày hôm nay, có thể không ít người vẫn đang tự mâu thuẫn với chính mình, lời nói, việc làm, vô tình đang tố giác con người thật của họ: cá không cắn câu thì nói cá dại, cá mắc câu rồi lại nói cá tham ăn ! Các kinh sư là những người đạo đức, hàng ngày chuyên lo cầu nguyện, nghiên cứu và chờ đón Đấng cứu thế đến, nhưng xem ra họ thêm điều đặt chuyện, cũng với ý tưởng trù dập tất cả những ai không sống theo truyền thống đạo đức của họ. Ở đời người ta vẫn thủ thân thủ thế, sợ giảm sút uy tín địa vị, sợ mất ảnh hưởng do những bậc hiền tài sống sát gần, vì thế mà người ta ghen ăn tức ở nên có những câu đại loại như: trâu buộc thì ghét trâu ăn, quan võ thời ghét quan văn quần dài.
Tinh thần phục vụ của thầy-trò Đức Giêsu, sự khôn ngoan của thế gian, sẽ không gặp nhau, chính lý lẽ của tình yêu sẽ nói lên tất cả, dù tai chúng ta bị lãng, mắt chúng ta hơi kém, trái tim yêu thương của Chúa Giêsu vẫn đủ thông biết để phát tín hiệu. “Tôi bảo thật anh em: mọi tội lỗi của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm nhiều đến mấy đi nữa, cũng còn được tha, nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời”. Ca dao có câu: hoa thơm trồng cạnh bờ rào, gió nam, gió bắc, gió nào cũng thơm. Chúa Cha đã gieo hạt giống Tin mừng vào mảnh đất tâm hồn của mỗi người, dù niềm tin của chúng ta còn hời hợt, niềm vui và ơn ban vẫn đến. Chúa Giêsu chính là Tin mừng được ban cho con người, Chúa Giêsu chính là hiện thân của tình yêu Chúa Cha gởi đến nhân loại, không thế lực nào ngăn cản được dấu chỉ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, mỗi người chúng ta đều có tự do chọn lựa, có thể nghe lời yêu thương của Chúa, đặc biệt có thể sống tinh thần mến yêu phục vụ mà Đức Kitô đã truyền dạy. Nét đẹp của kitô giáo là yêu thương phục vụ, tính phong phú của hoạt động loan báo tin mừng là mọi đối tượng, già trẻ, linh mục tu sĩ, người tín hữu đều mang chung một sứ mạng với Chúa Giêsu. Đây đó, người tin theo Chúa vẫn còn phải đối diện với nhiều thách thức khác nhau, nhưng ai bền đỗ đến cùng người ấy sẽ được ; ai thực thi muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi như lời Chúa Giêsu đã hứa vẫn mãi là sự thật. Amen.
Có câu truyện đã xảy ra vào cuối năm 1976 tại Việt Nam về một em bé gái nghèo chừng mười lăm TN 10-B63
Có câu truyện đã xảy ra vào cuối năm 1976 tại Việt Nam về một em bé gái nghèo chừng mười lăm tuổi. Vì gia đình rất nghèo và vì tình cảnh khốn khổ thời đó, cho nên tuy còn trẻ nhưng em không được đi học và phải làm công việc giúp việc nhà cho một gia đình giàu có. Gia đình này nhờ thời cơ trở nên giàu có và vừa mới mua được một bức tranh thêu công phu tuyệt đẹp có giá trị. Bà chủ nhà quyết định tháo bức tranh sơn son thếp vàng, có mấy chữ mạ vàng khá lớn nhưng đã cũ, lâu nay được treo ở phòng khách xuống, nhường chỗ cho bức tranh thêu quý giá mới mua này.
Trong thâm tâm, vì không biết xuất xứ của bức tranh, cho nên bà chủ nghĩ rằng những chữ trong bức tranh mạ vàng giả rẻ tiền nên giá trị chẳng là bao. Vì thế, bà chủ cho bức tranh sơn son mạ vàng cho cô bé gái giúp việc đem về nhà tuỳ ý sử dụng. Em bé gái đem về cho các em chơi. Chơi chán rồi chúng dẫm đạp và xé vụn bức tranh, xả rác đầy nhà, khiến người mẹ phải mất công quét dọn và đổ vào thùng rác chờ đêm tối đốt đi.
Đến chiều tối khi đốt rác, bà mẹ em bé phát hiện những nét chữ vàng trên bức tranh không bị cháy mà lại sáng ngời lên trong lửa, và kết tụ lại thành những miếng nhỏ ngời sáng lóng lánh. Hoá ra những chữ trên bức tranh được làm bằng vàng thật chứ không phải là mạ vàng! Thế là người mẹ hăm hở bới móc, sàng sảy đống tro để tìm kiếm và cuối cùng thu lại được năm chỉ vàng! Cả gia đình em bé vui mừng quá đỗi, vì vào những năm tháng khó khăn đó, kiếm được chừng ấy vàng thì chẳng khác gì trúng nhiều số lô độc đắc, cứu vãn gia đình em bé qua cơn khốn khó cơ cực, và sau này gia đình còn có cơ hội vượt biên tìm tự do qua sinh sống trên đất Hoa kỳ này.
Chúng ta thấy nhờ ngọn lửa đốt những chữ vàng lâu năm cũ kỹ kia đã trở nên có giá trị và hữu dụng. Mỗi người Ki-tô hữu chúng ta cũng trở nên có giá trị trước mặt Chúa nhờ ánh sáng soi của Chúa Thánh Thần. Chúng ta thấy nếu không có ngọn lửa Chúa Thánh Thần thì làm sao Mẹ thánh Têrêsa Calcutta có thể hy sinh dâng hiến cả cuộc đời phục vụ giúp đỡ và yêu mến những người nghèo khổ, bệnh tật hấp hối bên lề đường. Nếu không có sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần thì sẽ không có thánh Phanxicô Xaviê từ bỏ công danh, dấn thân truyền giáo nơi miền đất Á Châu xa xôi. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì làm sao thánh Phan-xi-cô có thể từ chối sự giàu sang của gia đình để lại, sống cuộc sống khó nghèo phục vụ những người bệnh tật nghèo khổ, và nếu không có Chúa Thánh Thần thì làm sao có những người can đảm dám tin theo Chúa, Người mà những người thân thuộc của Chúa cho rằng Ngài là người “mất trí” và những người Pha-ri-sêu cho rằng Ngài là người bị “quỷ vương Bê-en-dê-bun ám.”
Bài Tin mừng cho chúng ta biết sau khi nghe những lời rao giảng và chứng kiến phép lạ Chúa Giê-su chữa cho một người bị quỉ ám hại thái độ dân chúng nói chung đều kinh ngạc cảm phục trước uy quyền của Chúa. Họ tin và ca tụng Ngài, nhưng vẫn có những người chống đối giải thích với ác ý, nhằm bêu xấu, chỉ trích và hãm hại Ngài. Họ tuyên truyền dối trá với dân chúng là Chúa phải cậy nhờ đến quyền năng của tướng quỉ Bê-en-dê-bun để trừ quỉ.
Để trả lời, chúng ta thấy Chúa đã giải thích và minh chứng nhiều điều quan trọng. Thứ nhất. Không bao giờ tướng quỉ lại để Chúa dùng quyền của nó mà trừ các quỉ khác. Quỉ mà trừ quỉ là chúng chia rẽ nhau, chống đối nhau, một điều không bao giờ xảy ra. Như vậy những người Pha-ri-sêu nói Chúa nhân danh Bê-en-dê-bun, thủ lãnh các quỉ mà trừ quỉ là không đúng.
Thứ hai. Muốn chiến thắng ma quỉ thì phải có quyền năng hơn chúng. Ma quỉ, tự bản tính thiêng liêng, mạnh sức hơn con người chúng ta. Tự con người chúng ta không thể nào trừ nổi. Chỉ có Đấng quyền năng là Thánh Thần mới có thể trừ được chúng, và Chúa Giê-su đã nhờ quyền năng của Thánh Thần mà xua trừ ma quỉ.
Thứ ba. Những người Pha-ri-sêu dám nói Chúa nhân danh và dùng quyền năng thủ lãnh của quỉ mà trừ quỉ, tức là họ đã nói phạm đến Thánh Thần, một thứ tội nặng mà Chúa Giê-su nói là sẽ không tha được. Tại sao? Bởi vì đây là tội chai đá, cứng lòng, cố chấp, không ăn năn sám hối thì làm sao có thể nhận được ơn tha thứ. Không phải vì Chúa không đủ quyền năng hay không có lòng thương xót để tha thứ, nhưng vì người phạm tội đó không có điệu kiện để được Chúa tha thứ, để nhận được lòng thương xót của Chúa.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta nhiều bài học quan trọng cho đời sống đức tin Ki-tô giáo. Thứ nhất. Đừng bao giờ cắt nghĩa sai hay cố tình vu xấu cho người khác, nhất là những người trong cộng đoàn, như vậy là ác ý và lỗi đức bác ái. Đồng thời gây chia rẽ trong đời sống cộng đoàn, trong Thân Thể Chúa Ki-tô. Thứ hai. Chúng ta phải luôn ý thức rằng ma quỉ có sức mạnh hơn con người, và chúng ta chỉ có thể thắng được ma quỉ nhờ quyền năng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần, vì thế chúng ta phải luôn gìn giữ một sự liên kết mật thiết với Chúa Giê-su qua việc năng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể và can đảm sống Lời Chúa dạy. Và thứ ba. Đừng bao giờ cố chấp, cứng lòng, nhưng hãy khiêm nhường nhìn nhận sự yếu đuối và giới hạn để biết tìm đến Chúa và để được Chúa tha thứ, thương xót và ban ơn, nhất là ơn bình an.
Chúa Giê-su vì yêu thương và để thi hành thánh ý Chúa Cha, cho nên Chúa đã phải trải qua và chịu nhiều sự khốn khó, bị vu khống, hiểu lầm, thù oán, cũng như chịu chết trên thập giá để cứu độ chúng ta. Để trở thành những Ki-tô hữu chân chính, và để đời sống đức tin sinh nhiều sự hữu ích, hoa trái tốt, chúng ta cũng sẽ phải trải qua hay nhận chịu những sự gian nan, khó khăn và thử thách, như lửa thử vàng. Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận ra sức mạnh và quyền năng của Chúa Thánh Thần mà Chúa Giê-su đã ban tặng cho mỗi người chúng ta, để nhờ đó chúng ta can đảm sống đức tin, thành tâm lắng nghe tiếng Chúa và can đảm thực thi thánh ý Ngài.