Phúc Âm: Mc 13, 24-32: “Người sẽ quy tụ những người được tuyển chọn từ khắp bốn phương trời”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất. Nhìn vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này. Khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến. Cũng vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật các con: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi. “Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Suy nghĩ về cái chết, về đời sau vẫn là vấn nạn lớn mà con người muôn thời đã ưu tư, thắc: TN 33-B1
Suy nghĩ về cái chết, về đời sau vẫn là vấn nạn lớn mà con người muôn thời đã ưu tư, thắc mắc tự hỏi, tự giải quyết và nhờ người khác giúp hiểu hơn, thấu triệt hơn để bình an mà vui sống. Phụng vụ chúa nhật 33 thường niên trình bầy, gợi lên, vén lộ những giá trị con người có thể bắt gặp được trong mầu nhiệm cao sâu và hết sức huyền diệu này.
Con người muôn thời không sao tránh khỏi cái chết: “đó là mầu nhiệm, đó là chân lý của đức tin. Con người ai cũng phải chết: sinh quí tử qui, sống ở thác về”. Tuy nhiên, sau cái chết còn có cái gì hơn nữa. Bài đọc I trích bản văn Đanien 12, 1-3 cho thấy “sau cuộc sống ở trần gian, còn có một sự sống khác”. Thiên Chúa ban cho con người sau cái chết một sự sống mới để phạt kẻ ác và thưởng kẻ lành vì muôn vàn ơn phúc, muôn vàn việc thiện họ đã làm ở trần gian khi họ còn sống. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái bài đọc 2 đã trình bầy cái chết của Chúa Giêsu. Chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá có giá trị đổi mới, thanh luyện và thánh hóa các môn đệ khi các Ngài liên kết, biến tan trong mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Bài Tin Mừng Mc 13, 24-32 nói về diễn từ của Chúa Giêsu về thời cùng tận, thời cánh chung hay nói nôm na là ngày tận thế. Diễn từ này được Chúa Giêsu trình bầy vào những ngày giờ cuối cùng của Ngài ở trần thế, vì sau đó ít ngày, Chúa Giêsu bị bắt, bị kết án và bị giết chết trên thập giá. Lối diễn tả về ngày cùng tận là lối văn khải huyền và thánh Marcô đã dùng nhiều hình ảnh của các ngôn sứ, đặc biệt là của Đanien... Thánh sử Marcô đã cho thấy cái chết quả thực đau khổ. Nhưng cái cùng tận của Chúa Giêsu không phải chỉ chấp nhận cái chết như người bình thường mà chóp đỉnh tiến về công trình cứu độ của Ngài là cái chết thập giá “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Thập giá là cùng tận của mạc khải về lòng thương xót của Chúa Giêsu. Thập giá là nơi giao hòa giữa con người và Thiên Chúa. Thập giá cũng là nơi Đức Giêsu Kitô được tôn vinh bên hữu Thiên Chúa. Chính cái chết cứu chuộc của Chúa Giêsu, thế giới, nhân loại bước vào một giai đoạn mới, một thời kỳ được Thiên Chúa cứu độ và thế giới con người thuộc về Thiên Chúa.
Qua cái chết của Chúa Giêsu, Ngài khích lệ các môn đệ đang bị bách hại, đang gặp khó khăn hãy kiên vững vì như cái chết của Ngài là khởi điểm chiến thắng là vinh quang rạng ngời, thì cái chết của các môn đệ đang khi họ bị bách hại cũng là niềm hy vọng vinh quang cho một cuộc sống mới phục sinh. Chúa Giêsu biết ngày Ngài sắp rời bỏ các môn đệ: những hiện tượng tang tóc, mặt trời, vũ trụ, tinh tú sẽ rơi rụng, quyền lực sẽ bị lung lay vv...là một cách nói muốn đề cập đến một sự chuyển mình, thay đổi từ một trạng thái cũ, sang một trạng thái mới. Đây không phải như là lời báo trước về những gì sẽ xẩy ra vào ngày tận thế. Vì ngày tận thế không ai biết được sẽ xẩy đến vào giờ nào, lúc nào, nhưng với cái chết và phục sinh, tôn vinh của Đức Kitô, nhân loại sẽ có một cuộc sống mới vinh quang vì ơn cứu chuộc đã đẩy lui mọi bóng dáng của tội lỗi và tình thương cứu độ của Chúa đổ tràn trên mọi người. Chúa tiếp tục củng cố, động viên, khích lệ các môn đệ trước khi Ngài sống biến cố đau thương của thập giá để các môn đệ kiên tâm, can đảm trong cơn bách hại kéo dài sau khi Chúa sống lại. Cuộc quang lâm của Chúa phục sinh sẽ là nguồn an vui và niềm hy vọng cho các môn đệ được an ủi, nâng đỡ.
Người Kitô hữu cũng như các môn đệ của Chúa Giêsu chỉ có thể đứng vững khi họ sống đức tin để đẩy lùi tội lỗi, tránh xa những thế lực của sự dữ, satan, ma quỉ, triệt hạ những ngẫu tượng, đẩy lùi những tính hư nết xấu, ích kỷ, tham lam, và nhất quyết góp tay xây dựng một thế giới đầy tình người trong đó hận thù, chia rẽ sẽ nhường chỗ cho yêu thương, quảng đại, cảm thông và chia sẻ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một con tim mới để chúng con luôn sẵn sàng phục vụ Chúa và tha nhân, đồng thời luôn biết chấp nhận cái chết như ý định tuyệt vời nhất của Chúa nơi mỗi người.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Bạn hiểu thế nào về ngày tận thế ?
2. Theo bạn cái chết là gì ?
3. Bạn cảm nghiệm thế nào về cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá ?
Cách đây ít năm, một chiếc máy bay hàng không Nhật bản đã tông vào núi, cả 520 người: TN 33-B2
Cách đây ít năm, một chiếc máy bay hàng không Nhật bản đã tông vào núi, cả 520 người thiệt mạng. Chỉ tích tắc có một vài phút trước khi chiếc máy bay tông vô thành núi thì các hành khách được báo là chiếc máy bay sẽ tận số. Ngay sau đó thì cái tai ương đã xảy ra.
Khi các nhân viên cấp cứu đến chỗ chiếc máy bay bị rớt thì họ tìm thấy một cuốn lịch nhỏ bỏ túi của một thương gia người Nhật. Trong cuốn lịch nhỏ đó, người thương gia đã ghi lại một vài mấy hàng chữ vội vàng trong giây phút cuối cùng trước khi chết. Thí dụ như, "Chúng tôi không thể thoát được rồi... tôi buồn quá!"
Hàng chữ khác thì cho gia đình của ông ta, "Tôi nghĩ rằng bữa tối hôm qua là bữa ăn cuối cùng với nhau."
Hàng chữ khác ghi cho ba người con của ông, "Hãy sống tốt, làm việc hăng say, mà giúp đỡ mẹ các con."
Những hàng chữ viết vội vàng là những hàng chữ của một người sắp chết. Không có một điệu nhạc nào kéo dài cả giờ hay cả ngày để báo trước cho ông biết cái tai ương này. Nó đến bất chợt giống như tên trộm cắp trong đêm.
Bài Phúc Âm hôm nay diễn tả cho chúng ta cách Chúa Giêsu chuẩn bị cho con người về những tin tức xấu. Ngài nói với họ rằng một tai ương sẽ xảy ra vào thời đại của họ. Hơn nữa, nó sẽ được báo trước bằng những dấu chỉ.
Theo như lịch sử thì cái tai ương mà Chúa Giêsu nói đến đây là sự sụp đổ của Đền Thờ Thành Giêrusalem. Cái tai ương này đã xảy ra sau 40 năm từ lúc Chúa Giêsu chịu chết.
Điều này cũng nhắc nhở cho chúng ta đến cái ngày mà toàn thể thế giới phải đến: đó là ngày tận thế. Cái ngày này là cái ngày mà Giáo Hội muốn nhắc nhở cho chúng ta hôm nay.
Không một ai trên thế gian này có thể biết được ngày nào hoặc giờ nào sẽ xảy ra, nhưng chỉ có Chúa Cha.
Tuy nhiên, sẽ có những điềm báo trước ngày tận thế. Một số người cho rằng những điềm báo trước đã xảy ra cho nên ngày tận thế sắp đến.
Một trong những điềm đó là sự phát triển nhanh chóng của các loại vũ khí, đặc biệt nhất là một số quốc gia đang gặp chiến tranh. Thí dụ như trên thế giới ngày nay có đến cả hàng chục quốc gia, với những mưu toan chiến tranh, chất chứa những chất nổ nguyên tử có thể làm cho thế giới trở nên tối tăm. Chỉ cần một lầm lỗi hoặc một người nào đó tức giận thì cả hàng triệu người, thậm chí cả thế giới, có thể sẽ biến mất. Không một người khôn ngoan nào có thể gây ra những điều điên khùng như vậy.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra trước mắt chúng ta hai chủ đề. Thứ nhất, cuộc sống của chúng ta có thể kết thúc bất chợt, và thứ hai, sự chuẩn bị cho kết cuộc đó.
Đó là lý do tại sao Giáo Hội lại đặt để những chủ đề này vào cuối năm Phụng Vụ.
Hai chủ đề trên nhắc nhở chúng ta, như Chúa Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ Ngài trước khi Ngài rời bỏ thế gian, rằng cuộc sống ngắn ngủi ở thế gian này chỉ là một sự chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu sau này.
Vì thế, chúng ta không nên dính líu quá sâu vào vào cuộc sống thế gian này mà đánh mất đi cái nhìn về cuộc sống mai sau.
Không một ai biết được lúc nào thì cuộc sống của mình sẽ chấm dứt hoặc lúc nào là tận thế, nhưng chỉ có một mình Thiên Chúa Cha biết mà thôi. Vì thế, chúng ta hãy luôn luôn tỉnh thức chuẩn bị để đón chờ giây phút tận cùng đó. Nó sẽ đến khi chúng ta không ngờ. Nó sẽ đến cách bất chợt mà chúng ta chỉ có một ít thời gian hoặc là không có thời gian để chuẩn bị.
Đây là điều mà chính Chúa Giêsu đã nhắc đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Không một ai trong chúng ta có thể biết được khi nào thì cuộc sống của chúng ta sẽ chấm dứt. Vì thế, chúng ta hãy luôn luôn sẵn sàng.
Trong những ngày cuối đời Chúa Giêsu đã nói tiên tri về hai biến cố, đó là sự tàn phá Giêrusalem: TN 33-B3
Trong những ngày cuối đời Chúa Giêsu đã nói tiên tri về hai biến cố, đó là sự tàn phá Giêrusalem và ngày Con Người trở lại trong vinh quang. Trước hết là về sự tàn phá Giêrusalem.
Thành phố này đã giết Đấng Cứu Thế để chạy theo những thần tượng giả trá cũng như có những lời nói lộng ngôn phạm thượng. Thảm cảnh bắt đầu từ việc họ chống lại binh đội La mã, để rồi tướng Titus đã đem quân vây hãm thành vào năm 70. Cùng với cuộc vây hãm này là một nạn đói thê thảm xảy ra trong thành vì mọi con đường tiếp tế đều bị cắt đứt khiến cho những người mẹ có khi phải ăn thịt chính đứa con của mình.
Khi đoàn quân của Titus đã làm chủ tình hình và thành phố hoàn toàn thất thủ thì có đến gần một triệu người bị giết, hơn một trăm ngàn người bị bắt làm nô lệ, đến nỗi một sử gia đã ghi lại: Không có đủ thập giá để hành quyết và không có đủ chỗ để dựng thập giá lên.
Tiếp đến là ngày tận cùng của vũ tru, ngày Con người ngự đến trong vinh quang.
Chúa Giêsu đưa ra hai loại dấu chỉ. Loại thứ nhất là những dấu chỉ trong phạm vi luân lý: Sẽ có những tiên tri giả, họ là những dụng cụ của ma quỉ nhưng lên tiếng nói về Thiên Chúa. Sẽ có những Kitô giả, nhờ quyền phép ma quỉ để làm những việc lạ lùng hầu lung lạc đức tin của những môn đệ Chúa. Họ là loài lang sói mặc lốt chiên để rồi cắn xé đoàn chiên.
Loại thứ hai là những dấu chỉ trong phạm vi vật chất: Mặt trời sẽ trở nên tăm tối, mặt trăng sẽ không còn chiếu sáng. Các vì sao sẽ rơi xuống và sức mạnh của trời đất sẽ rung chuyển.
Bấy giờ Chúa Giêsu sẽ ngự đến trên đám mây với tất cả quyền năng và vinh quang của Ngài. Những người chết sẽ sống lại để chịu phán xét. Cuộc phán xét này bổ túc cho cuộc phán xét riêng tư khi cùng với cái chết chúng ta giã từ cuộc sống. Người lành đứng bên phải còn kẻ dữ đứng bên trái. Tất cả đều lắng nghe phán quyết của Đấng Tối Cao. Hạnh phúc muôn đời hay khổ đau mãi mãi. Tại sao lại có cuộc phán xét chung xảy ra như thế ?
Lý do thứ nhất là để Chúa Giêsu tỏ lộ quyền năng và vinh quang của Ngài.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã khiêm nhường chịu đựng mọi khổ đau, đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Nhiều người tưởng rằng Ngài đã thất bại. Rồi từ đó đến nay, Ngài không ngừng bị xua đuổi, bị bách hại và cấm cách, thì giờ đây Ngài xuất hiện trước mặt mọi người như là vua muôn vua với tất cả quyền năng và vinh quang của Ngài.
Lý do thứ hai là để vạch mặt những kẻ tội lỗi.
Thực vậy, sống trên trần gian họ đã khéo léo che dấu những tội lỗi của mình và không chừng còn được người đời tung hô. Giờ đây những chiếc mặt nạ ấy sẽ bị rơi xuống, để con người thực của họ được phô bày. Họ sẽ xấu hổ và tuyệt vọng mà kêu lên:
- Tôi đã lạc đường và ánh sáng công lý không còn chiếu tỏa cho tôi. Tiền bạc và địa vị trần gian ích gì cho tôi trong giây phút đớn đau này.
Và sau cùng là để ân thưởng vinh quang cho những người lành thánh.
Rất có thể trong cuộc sống họ đã bị khinh bỉ, bị chèn ép, bị bóc lột. Tội ác đã chiến thắng, những chiến thắng của nó chỉ thoáng qua trong chốc lát. Giờ đây họ được vinh hiển trước mặt những kẻ mà xưa kia đã từng khinh bỉ, chn ép và bóc lột họ. Họ sẽ chiến thắng cho đến muôn ngàn đời vì Chúa Giêsu đã phán với họ:
- Hỡi những kẻ đã được Cha Ta chúc phúc hãy đến lãnh lấy phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thưở đời đời…
Đừng để đến ngày mai vì e rằng ngày mai thì đã quá muộn nhưng ngay từ hôm nay, hãy chọn cho mình con đường dẫn tới Chúa và hãy can đảm bước theo Ngài.
Theo lịch phụng vụ, Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật 33 Thường niên. Chúa nhật tới là Chúa: TN 33-B4
Theo lịch phụng vụ, Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật 33 Thường niên. Chúa nhật tới là Chúa nhật 34 Thường niên, là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, được dành đặc biệt để mừng kính Chúa Kitô Vua. Vì thế, phụng vụ lời Chúa hôm nay, được coi như là Chúa nhật cuối cùng, nên Giáo Hội muốn hướng tâm trí chúng ta về ngày cuối cùng, ngày tận thế, ngày cánh chung, ngày chấm dứt lịch sử nhân loại.
Tất cả chúng ta đều nhìn nhận rằng: bất cứ cái gì ở trần gian, nếu đã có lúc khởi đầu thì chắc chắn sẽ có lúc chấm dứt, và như vậy tức là có lịch sử. Đối với chúng ta là những người sống trong trần gian và là những người tin theo Chúa Kitô, chúng ta có hai lịch sử: lịch sử trần thế và lịch sử cứu rỗi. Hai lịch sử này song hành với nhau. Hay nói đúng hơn, lịch sử có hai mặt chìm và nổi khác nhau. Lịch sử trần thế là lịch sử các dân tộc, các triều đại, các nền văn minh với các định chế xã hội, các biến cố chính trị, các hoạt động kinh tế, các tiến bộ khoa học kỹ thuật… Đây là mặt nổi ai cũng có thể thấy được hay quan sát được. Còn lịch sử cứu rỗi là lịch sử sinh hoạt siêu nhiên, thánh hóa các tâm hồn nhờ ân sủng và tác động của Thánh Thần, xây dựng nước Thiên Chúa trong lòng người. Lịch sử này đang khai triển âm thầm dưới chiều sâu, trong các tâm hồn, theo nhịp của ân sủng. Đây là mặt chìm mà chỉ những ai có đức tin mới nhận ra.
Đức tin giúp chúng ta nhận ra rằng: có một lịch sử thánh xuyên qua lịch sử trần thế. Nhờ đó lịch sử loài người có ý nghĩa. Lịch sử loài người có giới hạn. Chúng ta không thể biết bao giờ lịch sử sẽ chấm dứt, nhưng chắc chắn sẽ có ngày kết thúc. Đúng vậy, theo Kinh Thánh, cục diện trái đất này sẽ qua đi, nghĩa là thế giới vật chất này sẽ tan biến đi để nhường chỗ cho một thế giới mới. Và khi lịch sử chấm dứt là lúc Chúa Giêsu trở lại thu hợp toàn thể loài người và toàn thể vũ trụ, để mọi người và mọi sự được hoàn tất trong Ngài.
Chúng ta nói “Chúa Giêsu trở lại”. Đó chỉ là một kiểu nói mà thôi. Thực ra Ngài không trở lại, vì Ngài luôn hiện diện trong trần thế và trong lịch sử. Tuy nhiên, hiện nay Ngài hiện diện một cách vô hình, che giấu, chúng ta không thể thấy Ngài bằng giác quan. Ngài chưa bộc lộ quyền năng và vinh quang của Ngài. Vương quyền của Ngài còn âm thầm kín đáo. Vì thế, Chúa Giêsu trở lại có nghĩa là Chúa Giêsu biểu dương quyền năng và vinh quang của Ngài. Tình trạng ẩn danh của Ngài trong lịch sử chấm dứt.
Ngày Chúa Giêsu trở lại hay quang lâm, tái lâm được gọi bằng nhiều cách: ngày cuối cùng, ngày của Chúa, ngày Chúa đến, ngày của Đức Kitô, ngày viếng thăm, ngày xét xử…Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến ngày tái lâm này. Ngày đó được mô tả như ngày đổ vỡ của thế giới vật chất. Tuy nhiên, không ai biết bao giờ sẽ đến ngày đó, kể cả Chúa Giêsu về mặt nhân tính, tức là với tư cách là người, Chúa Giêsu cũng không biết được. Ngày đó sẽ xảy đến bất ngờ. Theo nhiều dụ ngôn, Thiên Chúa sẽ đến giữa lúc không ai nghĩ tới, đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn thể nhân loại. Dầu vậy, chúng ta có thể nói rằng: ngày cánh chung đối với cả nhân loại có lẽ còn lâu mới tới. Trong khi chờ đợi, mỗi người phải nỗ lực xây dựng nước Thiên Chúa dưới trần. Mặt khác, đối với riêng mình, mỗi người phải coi như ngày của Chúa đang tới gần.
Như vậy, để trả lời câu hỏi của các môn đệ cũng là câu hỏi của mọi thế hệ, Chúa Giêsu đã chẳng làm thỏa mãn sự tò mò của con người sống trong lịch sử, nhưng Ngài chỉ muốn dạy một thái độ sống trong lịch sử. Nghĩa là thay vì tò mò băn khoăn vô ích về ngày lịch sử kết thúc, hãy sống cho tròn đầy tất cả những gì lịch sử cho mình. Nói khác đi, đứng trước những vấn đề tương lai, con người tò mò muốn biết trước, Chúa Giêsu đã khước từ không cho biết trước, nhưng bảo cho biết thái độ phải có, đó là đừng bận tâm khi nào tận thế, nhưng hãy lo sống cho đàng hoàng trong hiện tại và hãy kiên trì. Cũng đừng tin những lời đồn đại xuyên tạc trước những biến cố khủng khiếp của lịch sử. Điều quan trọng duy nhất là trung thành làm chứng cho Chúa, và làm thế nào để mỗi ngày sống, mỗi hành động của chúng ta đều chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa quang lâm.
Tóm lại, tất cả những điều tìm hiểu trên nhắc bảo cho chúng ta biết: lịch sử luôn đưa chúng ta về phía trước. Nhưng nó không phải là một khoảng không, nó là con đường chúng ta phải đi để tiến về phía trước. Vì thế, chúng ta luôn hướng về tương lai, chờ đợi lời hứa cứu rỗi đã được thực hiện trong lịch sử sẽ được hoàn tất. Chờ đợi, hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng là yếu tố giúp cho chúng ta sống và phấn đấu trong tin tưởng. Hy vọng luôn gắn liền với niềm tin. Hy vọng là phần thưởng của lòng tin. Lòng tin là nền tảng cho hy vọng. Ai thấy rõ đường đi thì càng vững tâm mà đi. Ai thấy trước tương lai tốt đẹp đang chờ đợi mình, thì càng nóng lòng góp phần làm cho thế giới này chóng tốt đẹp hơn. Con đường ấy chúng ta phải bước đi bằng cách sống cho thật tích cực, sống cho thật tròn đầy mọi trách nhiệm của mình đối với Thiên Chúa, đối với anh em, đối với loài người, đối với thế giới vật chất đãđược Thiên Chúa trao vào tay chúng ta.
Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Đó là những lời của Đức Giêsu: TN 33-B5
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Đó là những lời của Đức Giêsu mà chúng ta nghe trong Tin Mừng hôm nay.
Trong một cuộc đời, chúng ta nghe rất nhiều lời, và cũng nói nhiều lời. Dù chúng ta có thể quên phần lớn những lời chúng ta nghe, có những lời chúng ta cần giữ lại mãi. Thật vậy, một số lời tan biến trong ký ức của chúng ta, mà cho đến ngày chúng ta chết, chúng ta chưa chắc đã nhớ lại. Có những lời làm chúng ta bị tổn thương vẫn luôn ám ảnh chúng ta. Những lời khác là những lời an ủi vẫn tạo cảm hứng cho chúng ta.
Lời nói có thể rất xúc phạm, và làm đau buồn sâu sắc, vết thương đó còn nhức nhối lâu dài. Tuy nhiên, đôi khi không phải chính lời nói, mà là cách chúng được nói ra gây thương tổn.
Một phụ nữ nhớ lại: “Khi chúng tôi còn trẻ, có những lúc mẹ chúng tôi nói những lời rất xúc phạm đến chúng tôi, những lời mỉa mai, phê bình, lên án. Và bà cũng không bao giờ xin lỗi vì những lời đó. Nhiều năm sau, khi chúng tôi nêu vấn đề ấy ra, bà xin lỗi và nói: “Nhưng mẹ không bao giờ muốn nói những lời ấy”. Và chúng tôi kinh ngạc: “Thôi được, nếu mẹ không muốn nói những lời ấy, vậy tại sao mẹ đã nói ra ?”
Những lời nói có thể luôn tạo cảm hứng cho chúng ta. Một nữ tu đã tham dự một lớp học thần học nhớ lại:
“Trong suốt khóa học về các bài giảng thần học, tôi đã nghe được nhiều điều. Với thời gian tôi đã quên phần lớn những lời ấy. Dĩ nhiên, tôi đã quên nhiều điều. Nhưng có một lời mà một giáo sư đã nói tôi sẽ không bao giờ quên. Ông nói: “Tình yêu thương có khuôn mặt nhìn nghiêng và thấp. Tôi biết rằng điều này có vẻ là một điều đơn giản, tuy nhiên nó đi thẳng vào tâm hồn tôi và từ đó ở lại mãi mãi”. Tình yêu thương có khuôn mặt nhìn nghiêng và thấp.
Lời nói rất quan trọng và rất mạnh mẽ. Một khi được nói ra, nó có một đời sống của riêng nó, tốt hoặc xấu. Chúng có thể đem lại một lời chúc lành hoặc một lời nguyền rủa, một sự chữa lành hay làm tổn thương, sự sống hay sự chết. Lời nói có thể tiếp tục làm hại chúng ta hoặc giúp đỡ chúng ta trong nhiều năm sau khi đã được nói ra. Vì thế chúng ta phải cẩn thận trong cách sử dụng lời nói.
Khi chúng ta tức giận, tốt hơn nên giữ im lặng. Lời được nói ra là sự giận dữ có thể gây ra thương tổn sâu xa và làm cho sự hòa giải rất khó khăn. Khi chọn sự sống thay vì cái chết, sự chúc lành thay vì nguyền rủa – thường người ta phải bắt đầu bằng việc giữ im lặng, hoặc bằng việc lựa lời để mở ra con đường chữa lành. Như có người đã nói: “Đôi khi yêu thương người khác có nghĩa là giữ im lặng và để họ là họ”.
Đức Giêsu nói: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Những lời của Đức Giêsu được duy trì đến ngày nay, an ủi, hướng dẫn và thách đố chúng ta. Lời Chúa làm đảo lộn những giá trị của chúng ta. Một khi đã nghe, thì người ta sẽ không bao giờ quên được.
Nhưng vì thế, nếu chúng ta hành động theo Lời Chúa, thì Lời Chúa sẽ sinh lợi ích cho chúng ta. Lời Chúa là những hạt giống quí giá. Nếu cất giữ ở trong kho, lời ấy vẫn cứ thế như bao nhiêu hạt giống khác. Nhưng được đưa ra ngoài để gieo trồng, chúng sẽ trổ sinh mùa gặt bội thu.
Không có gì chắc chắn hay trường tồn trong thế gian này khi so sánh với đức tin. Những quan điểm của con người cắm rễ trong những vẻ bề ngoài và thay đổi từ ngày này qua ngày khác, những lời của Đức Giêsu không thay đổi và qua đi. Chúng ta phải xây dựng ngôi nhà đời sống chúng ta trên Lời Người.
Mỗi ngày Chúa nhật, trong ngôi nhà thờ này, chúng ta lắng nghe Lời của Đức Giêsu, những lời: TN 33-B6
Mỗi ngày Chúa nhật, trong ngôi nhà thờ này, chúng ta lắng nghe Lời của Đức Giêsu, những lời mà các Kitô hữu tiên khởi đã ghi chép lại và được Hội thánh giữ gìn cho chúng ta trải qua bao thế kỷ. Vậy, lời hứa của Đức Kitô đã trở thành sự thật: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”.
Tin Mừng bao gồm một loạt các câu chuyện, tất cả được liên kết lại để tạo thành một câu chuyện lớn – câu chuyện của Đức Giêsu. Chúng ta thích nghe những câu chuyện nhưng chúng ta sẽ chán nếu nghe kể đi, kể lại cùng một câu chuyện. Khi điều này xảy ra, chúng ta sẽ tắt đài ngay. Sự việc như thế có thể xảy ra với câu chuyện Tin Mừng. Nó có thể trở nên cũ kỹ, nhạt nhẽo và không sự sống.
Chúng ta làm thế nào để cho sự quen thuộc không còn mang ý nghĩa cũ kỹ, chán ngắt ? Chúng ta phải cố gắng nghe câu chuyện cao cả nhất được kể lại qua mọi thời đại. Và chúng ta cần nắm bắt lại sự kỳ diệu của nó. Chúng ta cần giải phóng năng lượng chứa trong đó, nếu chúng ta muốn cảm nghiệm sức mạnh lôi cuốn, làm ngạc nhiên, gây xúc cảm, thách đố và tạo cảm hứng của Tin Mừng.
Chúng ta cần lắng nghe Tin Mừng theo cách chúng ta được chiếu sáng và như nghe chính câu chuyện của chúng ta khi điều đó xảy ra, những câu chuyện của chúng ta kết hợp với câu chuyện của Tin Mừng và được Tin Mừng chiếu sáng.
Mọi việc chúng ta cần đều chứa đựng trong Tin Mừng. Ở đó, chúng ta có lời của chính Đức Giêsu. Những người chép lại cuốn sách này của Thầy xác nhận những điều họ viết không bao giờ lầm lạc.
Trở lại Tin Mừng trong những khi bất hạnh chưa đủ. Trở lại Tin Mừng như một đối tượng để tôn thờ (như cuốn sách của Kells) cũng chưa đủ. Chúng ta phải xem xét đời sống chúng ta đối chiếu với những lời trong cuốn sách ấy. Những lời này thắp lên một ngọn lửa trong tâm hồn chúng ta và người khác cũng cảm thấy sự ấm cúng của ngọn lửa đó.
Tin Mừng chỉ chứa đựng những điều tốt nhất và sâu xa nhất trong đời sống. “Những người khác băn khoăn lo lắng những phần Kinh Thánh mà họ không hiểu được. Còn tôi băn khoăn lo lắng về những phần mà tôi hiểu được” (Mark Twain).
Có một vị thánh luôn tự hỏi mình bất cứ lúc nào ông đối diện với một quyết định khó khăn: Sách thánh sẽ khuyên bảo điều gì ? Lời đáp đến từ nội tâm sâu thẳm của ông: bạn phải làm điều gì đúng và tốt nhất. Vì thế Sách thánh có một ảnh hưởng to lớn trên ông. Nó làm cho ông mạnh mẽ trong những lúc yếu đuối. Nó tạo cảm hứng cho ông trong những lúc quảng đại. Nó làm cho ông hổ thẹn trong những lúc hèn nhát. Nhưng qua mọi việc ấy, ông đã nắm chắc điều chủ yếu là Tin Mừng phải được sống.
Tin Mừng là sách chỉ nam cho mỗi người Kitô hữu. Những quan điểm của con người cắm rễ trong những cái bề ngoài và thay đổi từ ngày này qua ngày khác, những lời của Đức Giêsu không qua đi. Chúng ta sẽ xây dựng vững chắc ngôi nhà đời sống chúng ta trên Lời Người.
Một phụ nữ vội vã trở về nhà từ sở làm. Đêm nay cô sẽ có một dạ tiệc. Thình lình, cô phát: TN 33-B7
Một phụ nữ vội vã trở về nhà từ sở làm. Đêm nay cô sẽ có một dạ tiệc. Thình lình, cô phát hiện một anh chàng giương cao một tấm bảng có ghi: Ngày Tận Thế Đã Đến Gần. Cô đến gặp anh chàng và nói:
“Anh nói ngày tận thế đã đến gần”. “Đúng thế, thưa cô”, anh ta đáp. “Nhưng anh có chắc chắn không ?” “Hoàn toàn chắc chắn, thưa cô” “Và anh nói đã gần rồi” “Vâng, thưa cô” “Gần làm sao ?” “Ồ, rất gần” “Anh có thể nói chính xác hơn không ?” “Ngay đêm nay, thưa cô”
Cô ngừng lại một lúc để suy nghĩ về điều đó. Rồi với một giọng đầy lo lắng, cô hỏi: “Này cậu, hãy nói cho tôi rõ. Tận thế sẽ xảy ra trước hay sau bữa dạ tiệc ?” Chúng ta đang sống trong một thế giới rất bất ổn. Dường như nó chao đảo từ khủng hoảng này sang khủng hoảng khác. Một cách mơ hồ, điều này có thể gây ra những nỗi sợ hãi và lo lắng to lớn. Ở giữa thế giới bất ổn và thay đổi ấy, chúng ta cần có một sự gì vững chắc để trông cậy phó thác. Đối với người Kitô hữu, điều đó chỉ có nghĩa là tin vào Thiên Chúa. Thánh vịnh trong thánh lễ hôm nay cũng nói về điều đó: “Tôi luôn luôn nhìn lên Đức Chúa còn Người ở bên tay phải của tôi. Tôi sẽ đứng vững vàng”. Và dĩ nhiên chúng ta có Lời của Đức Giêsu: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Đó là tất cả những gì chúng ta có. Nhưng đó là tất cả những gì chúng ta cần. Sự bảo đảm là tất cả những điều ấy đều ở trong bàn tay Thiên Chúa. Vả lại kế hoạch của Người cho chúng ta và cho thế giới sẽ được hoàn thành. Đức Kitô sẽ trị vì. Thiên Chúa sẽ trị vì. Chúng ta sẽ trị vì với Người trong đời sống vĩnh cửu. Nhiều người đã yêu cầu muốn biết khi nào tận thế sẽ đến. (Yêu cầu này xem ra đã trở nên liều lĩnh khi chúng ta vừa kết thúc một thiên niên kỷ để bắt đầu một thiên niên kỷ mới). Một số người yêu cầu Thiên Chúa hoặc Đức Maria ban cho họ một mạc khải đặc biệt, một số người khác lấy Kinh Thánh ra để tính toán ngày tận thế. Tất cả những yêu cầu ấy quả là dốt nát. Tin Mừng ngày hôm nay cho chúng ta một sứ điệp đúng lúc về ngày tận thế. Đức Giêsu nói với chúng ta rằng không một ai biết được khi nào tận thế trừ Chúa Cha trên trời. Và hướng về ngày tận thế, chúng ta phải hy vọng mà đừng sợ hãi. Thiên Chúa dựng nên chúng ta là để cứu chuộc chứ không phải để kết án chúng ta. Đức tin cho chúng ta niềm xác tín rằng thế giới này không hướng về sự chấm dứt, một tai họa không thể thay đổi được. Nó cũng không hướng về một chung cuộc nào đó, mà nó hướng về một sự thành tựu viên mãn. Bởi vinh quang Phục sinh, Đức Giêsu đã chiến thắng sự ác và sự chết. Chúng ta nên lo lắng nhiều hơn về chung cuộc đời mình khi chết đó là một điều chắc chắn thay vì lo lắng về ngày tận thế là một điều ở ngoài tầm tay.
Tại sao Phụng vụ lại chọn bài Tin Mừng này để đọc trong ngày hôm nay ? Hôm nay là Chúa: TN 33-B8
Tại sao Phụng vụ lại chọn bài Tin Mừng này để đọc trong ngày hôm nay ? Hôm nay là Chúa nhật áp chót của năm Phụng vụ. Tuần tới sẽ là Chúa nhật cuối cùng. Sau đó là qua Mùa Vọng bắt đầu một năm Phụng vụ khác. Vậy trong ngày Chúa nhật áp chót, Phụng vụ chọn đọc bài Tin Mừng nói về ngày cùng tận thì cũng là hợp lý.
Thời giờ thắm thoát thoi đưa, nó đi đi mãi có chờ chờ ai !
Thế giới này không phải là vô tận, thế nào rồi cũng có ngày tận cùng.
Cuộc đời con người cũng không phải là vĩnh cửu, thế nào rồi cũng có ngày chấm dứt. Một năm trôi qua là thế giới càng tiến gần đến ngày tận cùng của nó. Một năm trôi qua, đời người cũng càng tiến gần đến ngày cuối cùng của mình. Ngày cùng tận ấy sẽ đến lúc nào ? Không ai biết. Nó sẽ diễn ra như thế nào ? Cũng chẳng ai biết trước được. Chỉ biết chắc là ngày đó Chúa sẽ đến. Chúa sẽ đến với mọi người để kiểm điểm đời sống mỗi người, để đánh giá xem mỗi người đã sử dụng thời gian Chúa ban như thế nào.
Người ta thường ví cuộc đời như một chuyến đi, thời gian như một con đường, và con người như một kẻ lữ hành. Người lữ hành thực hiện chuyến đi cuộc đời trên con đường thời gian. Và cũng như con đường phải dẫn đến một đích điểm, thì người lữ hành phải biết tận dụng thời gian để nhanh chân tiến bước đến đích điểm ấy. Không thể là một người lữ khách lang thang, cứ vô tình bước những bước vô định, không biết đã đi qua đâu mà cũng chẳng biết sẽ đi về đâu.
Hết một năm là hết một đoạn đường. Giáo Hội muốn chúng ta hôm nay tạm dừng chân lại để kiểm điểm cuộc hành trình của mình.
Một năm qua, thế giới đã có những bước tiến tốt đẹp: Nhiều nước thù nghịch nhau đã tiến gần tới nhau để hòa giải hòa hợp với nhau. Một năm qua, đất nước chúng ta cũng có nhiều bước tiến, có đổi mới nhiều mặt để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Còn cuộc đời mỗi người chúng ta, một năm qua có tiến bước gì không ?
. Đối với bản thân: con người chúng ta có trở nên tốt hơn không.
. Đối với tha nhân: liên hệ giữa chúng ta có công bình hơn, bác ái hơn ?
. Đối với Chúa: sau một năm chúng ta có đến gần Chúa hơn không ? Có thuộc về Chúa, gắn bó với Chúa nhiều hơn không ? Đức tin của chúng ta có vững vàng hơn không ? Đức cậy chúng ta có chắc chắn hơn không ? Và đức mến của chúng ta có nồng nàn hơn không ?
Hôm nay Giáo Hội muốn chúng ta tạm dừng chân để suy nghĩ về những điểm trên, để nếu cần thì điều chỉnh lại cho cuộc hành trình của mình được vững bước hơn. Có như vậy chúng ta mới có thể sẵn sàng và vui mừng hân hoan đón Chúa khi Ngài đến.
Khi Ađam bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, ông phải khổ cực vất vả tìm kiếm miếng cơm manh áo: TN 33-B9
Khi Ađam bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, ông phải khổ cực vất vả tìm kiếm miếng cơm manh áo.
Một lần kia, trên đường lao dịch, Ađam vấp phải cái xác bất động của Abel. Ông nâng con dậy, vác trên vai, đem về đặt trong lòng Eva. Ông bà lay gọi, nhưng Abel không đáp lại. Trước đây, Abel đâu có trầm lặng như vậy! Eva nâng tay đứa con yêu quý lên, bàn tay lại rơi xuống vô hồn. Trước đây không hề thấy như thế bao giờ! Ông bà nhìn vào đôi mắt trắng đã vô tư một cách bí mật. Trước đây đôi mắt của Abel có vô tình như thế đâu? Ông bà rất đỗi kinh ngạc. Nỗi kinh ngạc càng tăng dần cho đến lúc ông bà chợt nhớ lại lời Ðức Chúa Trời: "Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ chết". Ðó là cái chết đầu tiên trên thế giới.
***
Cái chết của Abel là cái chết đầu tiên trên trái đất.
Còn cái chết cuối cùng của nhân loại sẽ là ai? Ở đâu? Vào lúc nào? Ðiều đó không ai được biết, và cũng không cần biết.
Sách Tông đồ Công Vụ có viết: "Anh em không cần phải biết thời gian và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt" (Cv.1,7).
Tin mừng hôm nay (TN 33-B) cũng quả quyết: "Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên sứ trên trời hay người Con cũng không hề biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi" (Mc.13,32).
Khi được hỏi bao giờ đến ngày tận thế?
Thánh Augustinô đã trả lời dứt khoát: "Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha". Nói khác, ngài còn nói: "Ðức Giêsu không cho biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người".
Ðứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ sống thích hợp nhất của chúng ta là: Vì thân phận con người mỏng dòn và yếu đuối, chúng ta hãy sống trong "tỉnh thức và cầu nguyện", trong niềm mong chờ "ngày Chúa đến sẽ xảy ra bất cứ lúc nào".
Chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới,nhưng chúng ta biết chắc ngày ấy phải đến.
Ðó không phải là tai nạn trong chương trình của Thiên Chúa, nhưng đó là một ngày mà Thiên Chúa dọn sẵn chỗ ở mới, một thế giới mới cho nhân loại. Nơi đó, công bằng sẽ ngự trị, hạnh phúc sẽ ngập tràn, và niềm vui sẽ trọn vẹn cho những ai "bền đỗ đến cùng".
Với cái nhìn đầy tin tưởng, Seneca (một tên tuổi lớn của văn học La Mã) đã nói:
"Ngày mà bạn cho là cùng tận của mọi sự, lại là ngày khởi đầu của vĩnh cửu".
Chúng ta không biết ngày nào Chúa sẽ đến trong vinh quang, nhưng chúng ta biết chắc: để được vào vương quốc ấy, con người phải nhìn lại chính mình, sắp xếp lại cuộc sống, và tích cực xây dựng một gia đình nhân loại đầy yêu thương, công lý và hòa bình.
Cha Mark Link viết: "Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao".
Vì tình yêu là ngôn ngữ của Thiên Đàng, nên chỉ những ai biết yêu thương mới được bước vào. Chính lòng nhân ái là tấm thẻ căn cước không thể thiếu của những công dân Nước Trời.
***
Lạy Chúa, Xin hãy đến, cho những người được tuyển chọn tập họp chung quanh Người. Xin hãy đến, để trong mọi biến cố kinh hoàng, chúng con vẫn một niềm cậy tin: Chúa là Ðấng cứu độ chúng con.
Trong giây phút định mệnh của mỗi người, xin cho chúng con nghe được tiếng Chúa: "Con sắp trở về cùng Cha". Amen.
Chúng ta đã tới Chúa Nhật cuối năm Phụng vụ. Các Chúa Nhật trước chúng ta lần bước theo: TN 33-B10
Chúng ta đã tới Chúa Nhật cuối năm Phụng vụ. Các Chúa Nhật trước chúng ta lần bước theo Đức Giêsu nói các dụ ngôn, chữa mọi bệnh tật, trừ khử quỷ ám, trả lời các kinh sĩ, đào tạo môn đệ. Chúng ta tưởng đã biết rõ về Đức Giêsu. Thực ra, chỉ có Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu mới mặc khải cho chúng ta thấy chân dung Ngôi Vị của Người rõ nét nhất.
“Khi Người ra khỏi đền thờ để không bao giờ trở lại đó nữa thì một môn đệ thưa Người rằng: Thưa Thầy, Thầy xem: những tảng đá đẹp tuyệt vời ! Công trình kiến trúc vĩ đại chừng nào ! Đức Giêsu đáp: Tại đây, sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, tất cả đều sẽ bị phá tan tành”.
Lúc Đức Giêsu đến ngồi trên núi Ôliu, đối diện với đền thờ, ông Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê hỏi riêng Người: Xin Thầy cho chúng con biết bao giờ các sự ấy xảy ra ? Đức Giêsu đã trả lời bằng một bài giảng về ngày tàn phá Giêrusalem, ngày tận thế và ngày Con Người ngự đến trong vinh quang, cũng gọi là ngày Quang lâm. Đức Giêsu loan báo ba tai họa xảy đến trước ngày tàn phá đền thờ (Mc. 13, 5-13):
1. Những tiên tri giả và Kitô giả làm lung lạc nhiều người. 2. Những tai họa, chiến tranh, động đất, đói kém. 3. Các môn đệ bị bắt bớ.
Tiếp đến, những ngày cực khốn cho đền thờ. Lịch sử đã cho biết đền thờ Giêrusalem đã bị quân La mã dưới quyền tướng Titô phá hủy vào năm 70 và dân Do thái mất nước, đi tản mát khắp nơi, mãi tới 1945 một số người trở về lập quốc, nhưng vẫn bị chiến tranh tàn sát.
Về ngày tận thế, Đức Giêsu loan báo vũ trụ đều sụp đổ từ mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao đến các quyền lực trên trời. Đây là kiểu nói ám chỉ không thể diễn tả được sự biến đổi phi thường từ “trời cũ đất cũ sang trời mới đất mới” (Kh. 21, 1). “Cái cũ qua, cái mới đã tới” (2Cor. 5, 17). Ví như lúc chưa dựng nên trời đất, chỉ là đen tối mông lung: “Chaos” để biến sang một cuộc sáng tạo mới: Con Người ngự đến trong vinh quang.
Từ khi sinh ra khó nghèo trong máng cỏ bò lừa ở Belem đến ngày này, Đức Giêsu chưa bao giờ nói về mình như thế. Bỗng chốc, Ngài trở nên vĩ đại, vinh hiển trên nền trời bao la, cao xanh thăm thẳm ! Ngài tuyên bố: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”.
Ngài tuyên bố mình là Chánh Án tối cao của ngày tận thế, ngày phán xét chung. Vai trò phán xét xử muôn dân đó chỉ dành riêng cho Thiên Chúa, mà chính Đức Giêsu đang nắm quyền. Mấy ngày sau đó, Người lại tuyên bố y như thế trước những quan tòa của Thượng hội đồng Do thái (Mc. 14, 62).
Danh xưng Con Người đã quá quen tai chúng ta rồi, nhưng theo bản văn, danh xưng ấy luôn luôn tiên báo về cái chết của Đức Giêsu. Người đã dùng danh xưng ấy để nhắc nhở đến lời tiên tri thời danh của Daniel (7, 13-14). Sách tiên tri Daniel đã quả quyết sự chiến thắng của Thiên Chúa trong cuộc chống lại sự bách hại dưới thời Antiôkút 4 Êpiphan. Nay, Đức Giêsu muốn báo cho muôn thế hệ biết: các lực lượng sự dữ, những bọn bách hại dân lành, những quân dữ không thể có chiến thắng cuối cùng trong lịch sử. Chiến thắng cuối cùng sẽ về phía Thiên Chúa và kẻ lành.
Đó là niềm hy vọng làm vang lên lời cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến” của các tín hữu ban đầu, và ngày nay trong Thánh lễ, sau truyền phép, chúng ta đồng thanh dâng lên lời cầu xin tha thiết như thế: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”.
Theo truyền thống Khải huyền, những thiên tai trong vũ trụ báo trước những hình phạt nặng nề của Thiên Chúa chống lại kẻ dữ nhưng với Đức Giêsu, thì không phải thế: Đó chỉ là lúc “Người sẽ sai các thiên sứ đi và Người tập họp những kẻ được tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Đó là lúc Người ngự đến trong vinh quang, ngày đại hội quang lâm của muôn dân, ngày tôn vinh Đức Giêsu là Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết để sống lại vinh phúc. Những ai theo Người thì cũng được chiến thắng tội lỗi và sự chết để sống lại vinh phúc với Người.
Chấm dứt mọi tai họa, chiến tranh, bách hại, kỳ thị, ghê tởm, thảm khốc và những tàn phá, tục hóa và bội giáo của kẻ dữ.
Đó là một phép lạ tuyệt diệu nhất. Vậy hãy tỉnh thức và cầu nguyện (Mc. 13, 37). Phúc cho kẻ bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát (Mt. 24, 13).
Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến. Trong cơn gian nan, trong cơn khủng khiếp, tất cả đều qua đi, đều chết đi. Vâng, lạy Chúa, chúng con biết rằng mùa hè trong sáng tươi đẹp sẽ đến cho cây cối đâm bông kết trái. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến cho những người được tuyển chọn tập họp lại chung quanh Chúa. Amen (Phỏng theo Parole de Dieu, Noel Quesson)
Đức Giê-su cùng với các môn đệ ra khỏi Đền thờ sau khi đã giảng dạy dân chúng. Một môn đệ: TN 33-B11
Đức Giê-su cùng với các môn đệ ra khỏi Đền thờ sau khi đã giảng dạy dân chúng. Một môn đệ của Người trầm trồ khen ngợi công trình kiến trúc vĩ đại của ngôi Đền thờ. Chúng ta biết Đền thờ mà Chúa Giê-su cùng các môn đệ đang chiêm ngưỡng là Đền thờ được tái thiết lần thứ hai (lần thứ nhất là sau cuộc lưu đày) do vua Hê-rô-đê Cả trùng tu từ năm 20 trước công nguyên và kéo dài tới thời tổng trấn Rô-ma Albinus khoảng năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành và bị tàn phá vào năm 70. Như thế, thời Chúa Giê-su, Đền thờ vẫn chưa hoàn thành, vậy mà các môn đệ hết lời ca ngợi đủ cho thấy Đền thờ khi hoàn tất phải đẹp cỡ nào.
Trả lời cho môn đệ, Chúa Giê-su loan báo việc Đền thờ sẽ bị phá huỷ. Lời tiên báo của Chúa được ứng nghiệm vào năm 70 sau những cuộc nổi dậy của phong trào nhiệt thành cực đoan ở Pa-let-tin vào những năm 40, cuộc chiến tranh Dothái những năm 66-70 và bị đế quốc Rô-ma đàn áp và phá huỷ năm 70.
Sau đó Thầy trò lên núi Ô-liu, ngọn núi này nằm ở phía đông Đền thờ. Tại đây có thể quan sát toàn cảnh thành phố Giê-ru-sa-lem cũng như Đền thờ. Bốn môn đệ đầu tiên đi theo Chúa mới lo lằng đến hỏi nhỏ Người về việc Người loan báo khi nào xảy ra. Trả lời cho lo lắng của các môn đệ, Chúa Giê-su lần lượt loan báo những điều liên quan đến ngày tàn của Giê-ru-sa-lem và ngày thế mạt.
Trong diễn từ này, cái nhìn của Chúa Giê-su hướng đến sự phá huỷ Đền thờ pha lẫn với cái nhìn hường về ngày thế mạt. Tin mừng được giáo hội chọn cho Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ được trích một phần trong loạt bài diễn từ đó nói về cuộc quang lâm của Con Người và dụ ngôn cây vả.
Tiếp theo sau những biến cố “Đồ ghê tởm khốc hại”, “kytô và ngôn sứ giả” (ở dưới đất), các hiện tượng thiên nhiên trên trời như mặt trời, mặt trăng và tinh tú sẽ biến đổi. Thánh Mác-cõ dùng lối văn khải huyền truyền thống để cho thấy Thiên Chúa mới là đấng chiến thắng sự dữ. Khi đó Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang. Chúa Giê-su tự giới thiệu mình là Con Người - một nhân vật bí nhiệm- đến trong vinh quang và quyền năng để xét xử và cứu độ nhân loại như tiên tri Đa-ni-en đã loan báo (x. Đn 7, 13-14).
Chúa Giê-su dùng dụ ngôn cây vả để trả lời cho các môn đệ về ngày giờ thế mạt. Chúng ta biết cây vả đâm chồi nảy lộc vào mùa xuân và sinh hoa kết quả vào mùa hè. Điều đó thật hiển nhiên. Nhưng ngày tận thế là ngày nào, thật không dễ trả lời. Chúa Giê-su đã ví tất cả những biến cố xảy ra vào thời thế mạt được sánh ví như cây vả dâm chồi nảy lộc vào mùa xuân, báo hiệu sinh hoa kết trái vào mùa hè. Như thế, các biến cố kia xảy ra chỉ là khởi đầu cho ngày tận thế, nhưng chưa phải là ngày tận thế.
Chúa Giê-su muốn cho các môn đệ của Người hiểu rằng ơn cứu độ sẽ được thực hiện nhưng không phải vào lúc này. Vì thế cần phải có lòng kiên nhẫn đón chờ. Chắc chắn một điều ngày tận thế sẽ đến, nhưng đó lại là một bí mật. Đây là kế hoạch của Chúa Cha và vì thế bí mật cũng thuộc về Chúa Cha. Chúa Giê-su chỉ loan báo để mọi người sẵn sàng đón nhận. Chúa Cha sẽ là Đấng thực hiện ngày đó.
Tin mừng hôm nay không làm cho mỗi người chúng ta run sợ, trái lại, trong khi đợi chờ ngày thế mạt xảy đến, Giáo hội mời gọi chúng ta lắng nghe Lời Chúa, tin tưởng vào Lời Chúa; đồng thời ra sức tỉnh thức, siêng năng thực thi những điều Chúa truyền dạy, sống công bình bác ái, chu toàn bổn phận trong yêu thương và trách nhiệm đối với gia đình, giáo hội và xã hội.
Chết có phải là điều chắc chắn nhất sẽ xảy ra cho ta không? Chết là gì, có phải là chấm hết hoàn: TN 33-B12
1. Chết có phải là điều chắc chắn nhất sẽ xảy ra cho ta không? Chết là gì, có phải là chấm hết hoàn toàn không? Nếu không thì có gì đáng ta lo ngại? 2. Đời ta chắc chắn có ngày tận cùng. Còn đời sống của thế giới thì sao? Có tận cùng không? Có những dấu hiệu nào báo trước ngày tận cùng đó? 3. Thiên Chúa có thường xuyên nhắc nhở để ta ý thức và chuẩn bị cho cái chết của mình không? Ngài nhắc nhở ta thế nào? bằng những dấu hiệu nào? 4. Cách tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Chúa là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Một chân lý chắc chắn nhất trong cuộc đời: ta sẽ chết
Có một điều mà ta có thể quả quyết chắc chắn hơn tất cả mọi điều, đó là sẽ có ngày ta phải chết, phải từ giã cõi đời, lìa bỏ mọi người kể cả những người thân yêu nhất mà ta không bao giờ muốn rời xa. Đây là một chân lý mà ta vẫn thường xuyên chứng nghiệm mỗi khi gặp đám ma hay dự lễ an táng của một ai đó. Đó là một chân lý chắc chắn nhất trên đời, nhưng nhiều khi ta sống như thể không hề có chân lý ấy, như thể chúng ta sẽ không bao giờ chết, mà cứ sống mãi sống hoài cùng với trời đất. Mỗi lần thấy có ai qua đời, thiết tưởng ta nên nghĩ rằng một ngày nào đó sẽ tới phiên chúng ta. Và ngày ấy không ai có thể xác định được: có thể là 30,40 năm nữa, nhưng cũng có thể là 10,5 hay 1 năm nữa, và cũng rất có thể là tháng sau, tuần sau, ngày mai, hay chút xíu nữa. Nhiều người đã chết bất đắc kỳ tử, những người này thường không ngờ được mình lại chết sớm và nhanh như vậy! Còn ta, ta không thể quả quyết rằng mình không thuộc số những người này! Và ngày ta chết chính là ngày cùng tận của riêng ta!
Nếu cá nhân mỗi người đều có ngày cùng tận, thì toàn thế giới hay toàn nhân loại này cũng có ngày cùng tận của nó. Và đó cũng là một chân lý chắc chắn không kém gì sự chết cá nhân. Vì trong thế giới hiện tượng, cái gì có sinh thì cũng có diệt theo định luật «thành, trụ, hoại, không». Và bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở ta về chân lý bất di dịch này, đồng thời cho ta biết những dấu hiệu báo trước ngày tận diệt ấy.
2. Những dấu hiệu báo trước
a) Ngày tận cùng của cá nhân
Theo niềm tin Kitô giáo, chết là bắt đầu một đời sống khác, và đời sống mai hậu ấy là một đời sống vĩnh cửu. Điều hết sức nghiêm trọng là đời sống mai hậu ấy nếu hạnh phúc thì là hạnh phúc vĩnh cửu, và nếu đau khổ thì cũng là đau khổ vĩnh cửu. Mà hạnh phúc hay đau khổ trong đời sống ấy hoàn toàn tùy thuộc vào cách ta sống, cách ta tin, cách ta hành xử trong đời sống hiện tại. Vì thế, cách ta sống trong đời sống hiện tại này thật quan trọng, nó quyết định số phận vĩnh cửu của ta. Chính vì đời sống hiện tại có tính quyết định vĩnh cửu như thế, nên vì yêu thương ta, Thiên Chúa thường xuyên gửi đến ta những sứ điệp cảnh báo ngày chết của ta. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta coi thường những sứ điệp ấy để rồi cuối cùng phải lâm vào tình trạng đau khổ vĩnh cửu.
Sau đây là những sứ điệp của Thiên Chúa nhắc nhở ngày tận số của ta:
a) Những đám ma, những lễ an táng mà ta gặp hay tham dự là những dấu hiệu nhắc nhở ta rằng chắc chắn một ngày nào đó sẽ tới phiên ta từ giã cuộc đời như người trong đám ma ấy.
b) Những dấu hiệu của cơ thể suy thoái như tóc bạc, răng long, đau lưng, mệt mỏi, bệnh tật, hay những biến cố đến từ bên ngoài như tai nạn, dịch tễ… đến với chính ta hay người khác đều là những sứ điệp của Thiên Chúa gửi đến để cảnh báo ta.
Liệu khi Thiên Chúa gọi ta ra khỏi cuộc đời, ta sẽ xuất hiện trước Thiên Chúa trong tình trạng nào? tốt lành thánh thiện hay xấu xa tội lỗi? đáng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu hay đáng chịu trầm luân mãi mãi? Tự hỏi như thế thì còn quá xa vời. Hãy tự hỏi: nếu ngay bây giờ Chúa gọi tôi đi thì tôi sẽ ra đi trong tình trạng nào? tôi đã sẵn sàng mọi sự để xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu chưa? Cách tốt nhất để bảo đảm là ta sẽ ra đi trong tình trạng tốt đẹp là luôn tỉnh thức để luôn luôn trong tình trạng đẹp lòng Thiên Chúa (x. Mc 13,33; Lc 21,36). Hãy luôn luôn tự nhủ: bất kỳ một tư tưởng xấu, một hành động xấu nào trong đời ta cũng đều ảnh hưởng tai hại đến tình trạng cuối cùng của cuộc đời ta, là tình trạng lúc ta ra khỏi thế gian này. Tình trạng này quyết định số phận cuộc đời mai hậu của ta. Người ta vẫn nói: «Cây xiêu đằng nào, đổ đằng nấy». Vết mực một khi đã dính vào áo thì dù có giặt kỹ đến đâu cũng không tránh khỏi làm áo bị cũ, bị hoen ố, bị kém giá trị đi.
b) Ngày tận cùng của thế giới
Ngày tận cùng của thế giới cũng có những dấu hiệu báo trước: dưới đất thì động đất, mất mùa, đói kém, lũ lụt… trên trời thì mặt trời mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống, «các quyền lực trên trời bị lay chuyển»… nhân tâm thì điên đảo, chiến tranh và bạo lực lan tràn, các ngôn sứ giả (tự xưng là ngôn sứ mà bản chất thì không phải) xuất hiện… Hiện nay ta thấy những hiện tượng ấy đang xẩy ra ngày càng trở nên rõ rệt, quy mô, có hệ thống và khốc liệt. Điều đó cho thấy ngày tận cùng của thế giới đã gần kề.
Điều đáng lo ngại cho thế giới này chính là sự sa đọa và tội lỗi của nhân loại ngày càng gia tăng. Con người dường như ngày càng mất đi cảm thức về tội lỗi. Người ta chỉ biết quan tâm chạy theo những quyến rũ của vật chất, của quyền lực, của thú vui xác thịt… Con người trở nên ích kỷ hơn bao giờ hết. Các tôn giáo - kể cả Kitô giáo - có khuynh hướng chỉ chú tâm đến những lễ nghi hay hình thức bên ngoài mà quên đi tinh thần phải có ở bên trong. Vì thế, khả năng soi sáng và hướng dẫn thế giới của các tôn giáo không mấy hữu hiệu. Giới tăng lữ bị tục hóa đến nỗi nhiều người chỉ coi tác vụ của mình như một nghề nghiệp để sinh sống… Đó là những điều khiến Đức Giêsu đã đoán trước và lo ngại cho thế giới này: «Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?» (Lc 18,8).
3. Thái độ cần phải có
Trước sự chắc chắn và bất ngờ của sự chết, của việc Chúa quang lâm, thiết tưởng mỗi người kitô hữu cần phải tỉnh thức và sẵn sàng: «Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến» (Mt 24,44; Lc 12,40). Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng ấy phải được thể hiện một cách thực tế bằng sự tôn trọng và
thực hiện «chân lý, công lý và tình thương» (x. Mt 23,23b). Tình thương đòi hỏi ta không chỉ biết lo lắng cho số phận đời đời của mình, mà còn cho số phận của những người sống chung quanh ta nữa. Trước một thế giới sa đọa và tội lỗi như hiện nay, nếu ta không cảm thấy một sự lo ngại nào, và cũng không thấy mình cần phải làm gì, điều đó chứng tỏ tình thương và ý thức liên đới của ta còn rất yếu kém.
Trong ngày phán xét cuối cùng, điều chủ yếu mà Thiên Chúa phán xét ta chính là tình yêu của ta đối với tha nhân và những việc ta làm để thể hiện tình yêu ấy (x. Mt 25,31-46). Điều tốt lành nhất ta có thể làm cho tha nhân chính là giúp họ trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa: Ngày ấy, «những ai làm cho người người nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao» (Đn 12,3). Đó cũng chính là cách tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, ai cũng chắc chắn 100% rằng mình sẽ chết. Nhưng chẳng ai chắc chắn được chút nào về ngày giờ chết của mình. Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, thậm chí không mấy ai ngờ trước được. Vì thế, con muốn chuẩn bị thật chu đáo ngày con ra trước tòa Cha. Con muốn ngày ấy phải là ngày hạnh phúc nhất của con. Con muốn chuẩn bị bằng cách: ngày nào hay giờ nào con cũng sống như thể ngày đó hay giờ đó là ngày hay giờ cuối cùng cuộc đời con. Hy vọng với cách đó, con sẽ luôn luôn sẵn sàng trở về với Cha bất cứ giây phút nào. Xin giúp con sống thật sự tinh thần chuẩn bị đó.
Vào cuối năm phụng vụ, Giáo hội chọn những bài đọc thánh kinh nói đến những biến cố của: TN 33-B13
Vào cuối năm phụng vụ, Giáo hội chọn những bài đọc thánh kinh nói đến những biến cố của ngày thẩm phán, khiến ta liên tưởng đến ngày tận thế. Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Chúa nhật tới là lễ Chúa Ki-tô Vua. Chúa nhât sau nữa là Chúa nhật thứ nhất mùa vọng, đánh dấu ngày đầu năm của giáo hội trong niên lịch phụng vụ. Tuy nhiên chủ đề của ba Chúa nhật này đều có những điểm tương đồng. Chúa Ki-tô là trung tâm điểm của lịch sử loài người. Chúa đến để khởi sự kỷ nguyên Ki-tô giáo và người sẽ đến để kết thúc lịch sử loài người, để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Tất cả thế giới đều dùng niên hiệu về ngày sinh nhật của Chúa cứu thế. Vì thế người ta nói năm nọ trước Chúa giáng sinh hay năm kia sau Chúa giáng sinh.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dùng loại ngôn ngữ biểu tượng đặc biệt. Đó là loại ngôn ngữ mà ta nghe tiên tri Đa-ni-en tiên báo là sẽ có ngày thẩm phán hay ngày tận thế trong thế gian. Ngày tận thế đây được hiểu theo nghĩa của cái ngày kết thúc đời sống của mỗi người tại thế, hoặc ngày kết thúc lịch sử loài người nói chung. Việc phán xét trong ngày tận thế dựa trên căn bản là ta có chấp nhận và sống lời Chúa không. Theo khuynh hướng tự nhiên loài người, ta thường sống thờ ơ, lãnh đạm, nghĩ rằng ta có nhiều giờ để sửa soạn tâm hồn. Sự thực thì ta không biết ngày nào, giờ nào Thiên Chúa sẽ gọi ta ra khỏi thế gian. Vậy thì ta phải có thái độ nào đối với ngày tận thế? Có những người nghĩ rằng ngày tận thế sẽ đến nay mai. Một số giáo phái cũng chủ trương như vậy. Họ nghĩ rằng ngày tận thế sắp xẩy đến cho nên lúc nào họ cũng lo âu, sợ hãi, yếm thế. Họ tích trữ nến hay đèn cầy để đốt trong những ngày đen tối. Có những người khác lại nghĩ rằng ngày sau hết không bao giờ đến, và đời sống họ sẽ kéo dài mãi mãi. Dĩ nhiên cả hai quan điểm đều không thực tế và vô trách nhiệm. Trong bài trích sách ngôn sứ Đa-ni-en, ngôn sứ nói về cái thời gian trong tương lai khi mà thời giờ và lịch sử sẽ đi vào vĩnh cửu, khi mà người công chính sẽ được chiếu sáng.
Tư tưởng cũng như văn chương ta dùng chứa đày những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc. Thời giờ thấm thoát thoi đưa. Thường ta nhìn đi thì tấy lâu, nhất là khi ta đang mong đợi một cái gì đó. Nhưng khi nhìn lại, ta lại cảm thất thời giờ đi rất mau lẹ, nhất là khi phải gò bó vào công việc làm trong xã hội kỹ nghệ hoá. Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa cũng bàn đến quan niệm về thời giờ: Còn về ngày đó và giờ đó, thì không ai biết được (Mc 9:32). Ngày đó và giờ đó là ngày giờ kết thúc đời sống cá nhân của mỗi người, hoặc kết thúc lịch sử loài người. Đó là điều chắc chắn. Đối với người Ki-tô giáo, khi nào ngày giờ đó đến và đến như thế nào, thì không phải là điều quan trọng. Ta không thể làm gì được về thời giờ và cách thế xẩy ra trong ngày tận thế, hay cái ngày ta lìa bỏ thế gian. Điều quan trọng là ta cần phải sửa sọan cho ngày đó. Việc sửa soạn này có ích lợi cho đời sống thiêng liêng, giúp ta tăng cường sức mạnh thiêng liêng hầu chống trả cám dỗ.
Như vậy cái ý tưởng hàm chứa trong Phúc âm là mỗi người sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa. Và nếu là người khôn ngoan, ta phải hoà giải tâm hồn với Chúa vì mỗi ngày tháng trôi qua là mỗi lúc ta tới gần cuối đời. Xét về đời sống vật chất, ta đều sửa soạn và dự liệu cho tương lai, cho lúc về hưu. Ta sửa soạn cho tương lai của con cháu. Tuy nhiên không ai có thể tiên đoán rằng ta sẽ sống đến lúc nào năm nào. Những người làm nghề thày chiêm, thày bói đã xuất hiện trên mặt địa cầu hàng chục thế kỷ. Cái nghề của họ cũng khá ăn khách bởi vì khuynh hướng loài người là tò mò, muốn biết về tương lai thế nào, duyên số và sự nghiệp ra sao. Tuy nhiên xét về phương diện ta gặp gỡ Chúa trong ngày sau hết thì không ai biết được ngày giờ nào thiên thần Chúa sẽ đến gõ cửa nhà tâm hồn.
Chương 13 Tin Mừng Máccô (thường được gọi là "Diễn từ Cánh chung", kể từ câu 5 đến hết) đã được trích đọc vào Chúa nhật 1 Mùa Vọng (cc. 33-37) để khai mạc năm phụng vụ B, mà cũng được trích đọc hôm nay để kết thúc năm phụng vụ này. Bài Tin Mừng hôm nay là thành phần của Diễn từ Cánh chung đó.
Sau các câu 5-13 bàn tới các nguy hiểm khác nhau và các câu 14-23 mô tả cơn thử thách tột đỉnh của các tín hữu là đến đoạn văn ta đang suy niệm. Trên cái nền u tối vừa thấy, bản văn diễn tả cuộc chiến thắng cuối cùng của Con Người, cuộc quy tụ vĩ đại của toàn thể nhân loại; nó đồng thời trở lại với câu hỏi đã khiến Đức Giêsu nêu lên diễn từ cánh chung: "Bao giờ các sự việc ấy xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước?" (c.4).
Bản văn sử dụng ngôn ngữ khải huyền (đã có từ trong Cựu Ước) là một ngôn ngữ có những nét đặc trưng: không được hiểu các chi tiết theo mặt chữ, bao giờ cũng hướng về tương lai, hướng về chung cục, "ngày của Giavê", lúc Thiên Chúa toàn thắng, và sau hết nhắm mục đích giúp tín hữu vượt qua các quẫn bách hiện thời.
1. Đức Kitô đang đến với chúng ta
Trước tiên, Đức Giêsu nói: "Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống". Đó sẽ là kết thúc của một lịch sử rất dài, vốn đã khởi đầu với "big-bang", vụ nổ lớn nguyên thủy làm phát sinh vũ trụ. Kinh Thánh đã kể điều không thể kể này với nhiều từ của loài người: "Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời và đất. Người làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao" (St 1,1.16). Cũng với các từ của loài người chúng ta mà Đức Giêsu đã gợi lên cảnh tận thế trong thể văn khải huyền truyền thống, với cùng bộ tam: mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, nghĩa là thế giới, vũ trụ. Lúc khởi đầu đã nổi lên một thế giới với không gian và cuộc tiến hóa của nó qua bao thế kỷ. Lúc cùng tận sẽ nổi lên một thế giới khác, trong một không gian khác và sẽ tồn tại đời đời.
Xuyên qua những dò dẫm, những đảo lộn, những khốn khổ, thậm chí những đại họa, lịch sử của vũ trụ luôn quy hướng về Con Người đang đến. Cuộc "tiến hóa" vật chất vô sinh rồi hữu sinh đã dẫn tới sự xuất hiện của con người. Với nội lực là tinh thần, con người từ đó thực hiện cuộc "văn hóa", cố gắng biến mọi sinh hoạt của mình nên tốt (thiện), đúng (chân) và đẹp (mỹ). Nhưng công cuộc này đã chẳng mấy thành công, duyên do là vì cái chết và tội lỗi. Cần phải có một nội lực mới mẻ, nội lực Thánh Thần, đã được Ngôi Lời nhập thể mang lại, để nâng đỡ cuộc văn hóa và chuyển nó thành cuộc "thánh hóa". Công cuộc thánh hóa này đưa con người tới con người mới (Ep 2,15), hay nói cách khác tới Con Người mà trong đó tất cả nhân loại được quy tụ, về với Thiên Chúa là Chân, Thiện, Mỹ đích thực.
Và đó là điều mà bản văn Kinh Thánh hôm nay muốn cho trình bày cho ta. Nó không tìm cách làm chuyện khoa học (như ta có thể thoạt nghĩ qua những hình ảnh mô tả) nhưng làm chuyện tôn giáo, nó mạc khải dự định của Thiên Chúa là: như đã có một khởi đầu, Sáng tạo, thì cũng sẽ có một kết thúc và một tái khởi đầu in dấu cuộc Quang lâm (đến trong vinh quang) của Đức Giêsu: "Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn". Đây là điều chủ yếu, là không gian mới, là lịch sử mới: mọi người đều sống vĩnh cửu với Đức Giêsu.
Một Đức Giêsu mặc lấy những chiều kích đích thực của mình: chính Người là kết điểm của thế giới chúng ta, chính Người là khởi điểm của thế giới mới, chính Người là vĩnh cửu. Máccô đã viết Tin Mừng của ông để nói với ta rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Làm sao diễn tả điều ấy tốt hơn nữa? Thì với nhãn quan này: Đức Giêsu sẽ đến, Người sẽ tổ chức lại mọi sự, và đó sẽ là sự sống vĩnh cửu.
Không quan trọng mấy những điểm tối tăm, khó hiểu ở cuối bản văn: như việc Đức Giêsu chẳng biết ngày giờ cùng tận và nghĩa chính xác của thành ngữ "thế hệ này". Chớ hoang mang về chuyện vô tri này, đó chỉ là cực điểm của mầu nhiệm Nhập thể: Đức Giêsu sẽ là vĩnh cửu của chúng ta, nhưng khi nói ở đây, ngay trước khi bước vào cái chết, Người không biết ngày và giờ của big-bang cuối cùng được! Dầu sao chỉ có một chuyện đáng kể: "Thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự trong đám mây mà đến". Cuộc Sáng tạo đã được thực hiện là để hướng về cuộc Quang lâm. Lịch sử đi qua một tiến trình "tam hóa": từ tiến hóa sang văn hóa rồi đến thánh hóa, một công cuộc kết thúc với việc ĐKT tái xuất hiện huy hoàng.
Nhân loại được sinh ra cho buổi sáng rạng ngời nầy. Lịch sử của loài người là sự cưu mang, là sự chuẩn bị cho cuộc đản sinh thứ hai và chung quyết của họ, sinh vào thế giới của Đức Giêsu, thế giới của Thiên Chúa. Trong lúc chờ đợi, bất chấp những nước mắt, những đêm tối và những tiếng kêu thét, loài người đang sống một mùa xuân, phải dám khẳng định điều này, cành cây uốn mềm và lá cây xuất hiện. Chỉ Thiên Chúa mới có thể thấy điều đó và mới có thể nói một ngày kia: "Ta sắp làm mùa hè cho các con rồi".
2. Chúng ta đang tiến đến cùng Người
Phần chúng ta, chúng ta phải tin vào mùa hè, tin rằng Đức Giêsu "ở ngay ngoài cửa". Theo nghĩa là hết thảy những gì được loài người sống từ khởi thủy đang tiến đến ngày và giờ sẽ biến mất thế giới cũ và sẽ khởi đầu một thế giới mới, thế giới mà Cha chúng ta trên trời đã mơ ước cho loài người và đã tổ chức chung quanh Đức Giêsu.
Chúng ta đang tiến về cùng tận. Trước hết về cùng tận của riêng mình. Dẫu chúng ta già hay trẻ, Đức Giêsu vẫn đứng ngoài cửa chúng ta; mỗi ngày đều loan báo ngày sau hết, mỗi ngày biên giới giữa đời này với đời sau càng trở nên mỏng hơn nữa. Đây chẳng phải là một cái nhìn đầy hãi sợ song là một cái nhìn thanh thản, nếu quả thật là chúng ta tin vào mùa hè. Mùa hè của chúng ta khi chúng ta đặt chân vào thế giới của Đức Giêsu, một mùa hè kỳ diệu khi nổi lên trống kèn loan báo cuộc đại phục sinh của toàn thể vũ trụ.
Nhưng đâu là mùa xuân hiện thời của tôi? "Anh em hãy tỉnh thức!" (Mc 13,37), Đức Giêsu nói vào cuối diễn từ. Có nghĩa là ở trong tình trạng chuẩn bị cho mùa hè vĩnh cửu. Người đã mạc khải cho ta ý nghĩa của thời kỳ ta đang sống: đó là thời kỳ chờ đợi, trong đó môn đệ phải là kẻ canh thức, trông ngóng chủ trở về (13,35). Đó là thời kỳ đầy mơ hồ cần biết phân định, và chúng ta được mời gọi phải canh phòng cẩn mật, chớ để mình bị phỉnh gạt chạy theo những kitô giả trá (13,6.22). Đó là thời kỳ phấn đấu và chịu bách hại (13,9-13), thời kỳ chuyển bụng của một thế giới đang đau đớn trước khi sinh con. Đó là thời kỳ được ban cho các chứng nhân để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân mọi nước (13,10). Đó là thời kỳ của Thần Khí, Đấng hướng dẫn miệng lưỡi các vị tử đạo (13,11). Đó là thời kỳ để thực thi lòng bác ái hầu chuẩn bị cho thế giới yêu thương của Cha trên trời.
Vậy phải chăng các cành của tôi trở nên xanh tươi nhờ tình yêu đối với anh em? nhờ lòng can đảm bênh vực sự thật? nhờ ý chí chống lại thế gian dối trá? Phải chăng các hành vi công bình và quảng đại của tôi đã đâm chồi, các thái độ hiên ngang vì công lý và cương quyết chống bạo quyền của tôi đã nảy lộc? Lạy Chúa Giêsu, chỉ mình Chúa mới có thể làm cho các ngày sống của con thành những ngày vừa đầy sự sống vừa đầy chờ đợi. Xin biến chúng con thành những người canh thức cho thế giới, những kẻ nhắc nhân loại biết sẽ có ngày tất cả sẽ được tính sổ, thanh tẩy và hoàn thiện. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến, xin hãy đến mỗi sáng trước buổi sáng vĩ đại cuối cùng. Maranatha!
Trong những ngày cuối năm Phụng vụ, Giáo hội mời mọi người suy nghĩ về ngày tận thế không phải để bàng hoàng sợ hãi, nhưng để biết cách sống đời thường như thế nào, để có thể vui mừng đứng vào hàng ngũ những người được Thiên Chúa tuyển chọn khi Đức Kitô quang lâm. Lời Chúa trong Thánh lễ Chúa nhật XXXIII thường niên hôm nay dẫn đường chỉ lối để cuộc sống của mỗi chúng ta được nên trọn vẹn.
Bài đọc I trích từ sách Tiên tri Daniel nói đến ngày đó như một thời kỳ khốn khổ nhất; sau đó sẽ có sống lại và một số người được cứu thoát, được hưởng phúc trường sinh, còn số khác sẽ phải tủi nhục muôn đời.
Còn bài trong Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng diễn tả ngày ấy như cảnh khốn cực và xáo trộn đến tột cùng; rồi Con Người sẽ xuất hiện và sai các thiên thần đi quy tụ những người được tuyển chọn. Chúa Kitô không mặc khải cho các môn đệ biết ngày giờ xảy đến tận thế và phán xét chung, nhưng Ngài dạy cách nhận xét bằng những dấu chỉ của thời đại; đó là những xáo trộn trong xã hội của loài người và trong thiên nhiên; khi thấy dấu chỉ đó thì mọi người phải biết rằng:"Con Người đã đến gần ngoài cửa rồi". (x. Mc 13,29b). Vả lại việc biết trước thời diểm tận thế không quan trọng, mà điều quan trọng là hãy tỉnh táo, hãy sống cho trọn vẹn đời thường hôm nay, để sẵn sàng tiếp đón Đức Kitô khi Ngài đến vào lúc ta không ngờ.
Trong lời tung hô sau truyền phép, các Kitô hữu xác tín rằng: "Trong vinh quang, Ngài lại đến, đón chúng con lên trời về về với Chúa Cha". Lời xác tín nói lên khát vọng của mỗi chúng ta là mong muốn được thông chia sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa trong Nước Trời, vì thế cuộc sống hiện tại, chính ta chẳng đường lữ thứ phải vượt qua để về với cội nguồn. Và do đó tất cả những gì làm nên cuộc sống đời ta, từ niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc, đau khổ, danh vọng tất cả chỉ có một giá trị tương đối, khi Chúa đến trong ngày tận thế và đặc biệt trong giờ phút cuối cùng của đời ta.
Ngày Chúa đến sẽ là niềm vui và hạnh phúc bất tận cho ta, nếu trong cuộc sống, ta biết lưu tâm tìm kiến Nước Trời và sự công chính trước đã.(x. Mt 6,33a)
Ngược lại, đó sẽ là ngày đen tối, ngày khổ đau, nếu ta chỉ loay hoay với những giá trị tương đối, coi đó như mục đích của đời mình mà quên đi giá trị vĩnh cửu.
Vì thế, trong cuộc vật lộn với chén cơm manh áo, phải không ngừng hướng về Chúa, hướng về cứu cánh của đời mình mà khẩn nguyện:" Xin mở lòng nhân hâu mà hướng dẫn chúng con, để khi biết cách dùng những của cải chóng qua đời này, chúng con đã gắn bó với của cải muôn đời tồn tại". (x. Lời nguyện CN XVIII)
Giữa tháng 11 năm 1997, hãng điện thoại vào loại lớn nhất của Mỹ là MCI bán cho WorldCom 37 tỷ tiền Mỹ, hợp chung lại thành hãng MCI WorldCom, mạnh lắm. Tháng trước đó, ngân hàng lớn vùng New Orleans là First National Bank of Commerce bán cho Banc One để hợp lại trở thành ngân hàng bá chủ trong miền. Tiệm bán thực phẩm đang chạy là Superstore lại đi bán cho anh chàng khổng lồ Schwegmann. Những hãng nhỏ hợp lại thành hãng lớn đã trở thành như một hiện tượng về kinh tế trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20. Và chắc chắn đây cũng là điềm thời đại:biên giới của những xé lẻ đang bị xóa đi nhường chỗ cho những nối kết rộng hơn trong một nhãn quan mới.
CÁI THẤY CỦA CON KIẾN
Quan sát một con kiến đang bò trên mặt một tờ giấy, đang ra sức bò từ đầu này sang đầu kia. Thấy nó bò như vậy vừa hết trang giấy thì mình liền nẩy ra ý tưởng vui vui là thử gấp tờ giấy lại xem sao. Con kiến lấy làm lạ là nó lại gặp lại chỗ nó đã khởi hành. Nét mặt nó xem chừng đăm chiêu đang cố tạo ra "triết thuyết chủ nghĩa" xã hội hay hiện sinh gì đây để làm đỉnh cao trí tuệ loài kiến!
Đối với con kiến thì thế giới của nó là cái mặt phẳng hai chiều: chiều ngang và chiều dọc. Nó không thể hiểu và thấy được chiều kích thứ ba gọi là không gian: chiều đứng. Vì đối với nó thì mặt phẳng đù là chiều đứng cũng chỉ là mặt phẳng hai chiều, và "thế gian" chỉ vỏn vẹn trong tầm mắt trên tờ giấy. Nếu có người bỏ một miếng mỡ nhỏ vào trên mặt giấy thì nó khoái trá mò đến kiếm ăn, nhưng nó không thể "hiểu" từ đâu tới. Đối với nó, việc miếng mỡ nhỏ "hiện ra" trên mặt giấy là một phép lạ. Hình ảnh này cũng giúp hiểu một điều xem ra rất mâu thuẫn trong đạo là việc tin Chúa ở khắp mọi nơi "Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế" và việc Chúa hiện ra. Chúa vẫn ở đây chứ, nhưng chỉ thấy Chúa "hiện ra" thực khi nhìn với con mắt trong một chiều kích cao hơn mắt con kiến, tức là con mắt của tâm linh.
CÁI THẤY CỦA KHOA HỌC THỜI CẬN ĐẠI
Quả thực, Newton và Descartes đã ghi mốc cho một nền văn minh gọi là khoa học kỹ thuật từ Âu Châu tiến đến tột đỉnh ở Mỹ như ngày nay. Sự vật được nhìn như những "thực thể" tách rời biệt lập, để được đo lường cân lượng, để trở thành những kết luận, những định luật, định lý.
Cái nhìn và cái thấy mới được gọi là "văn minh" này có thể diễn tả đơn giản là con kiến trước đây chỉ biết bò trên mặt phẳng, bây giờ biết bò trong một cái hộp vuông có chiều đứng, gọi là chiều không gian. Nó liền vênh mặt lên tự hào đã bá chủ được "vũ trụ". Cho đến một hôm nó cố gắng mò mẫm lên được mặt trăng, chưa kịp gáy để khoe mẽ thì bỗng dưng cụt hứng khi nhìn về trái đất và thấy một sự thật khác: tất cả những đo lường, những dinh thự chọc trời, những "sự nghiệp vĩ đại" ở dưới trái đất kia sao mà nhỏ bé li ti thế ! Rồi nhìn ra chung quanh: vũ trụ bát ngát bao la. Con người bằng ấy năm "văn minh" mà sao lệt bệt quá vậy? Cứ tưởng tượng xem: văn minh gì mà cứ phải bò lết trên mặt đường bằng những phương tiện mà loài người gọi là xe hơi, dù là xe láng hay xe tàn. "Con kiến" người như vừa thức tỉnh vượt lên khỏi cảnh "ếch ngồi đáy giếng" với một cái nhìn mới trong một chiều kích mới.
Tổng thống Vavlav Havel của Tiệp Khắc quả là đã nhìn thấy điềm thời đại khi nói: "thời đại mới bắt đầu bằng việc khám phá ra đất Mỹ thì cũng sẽ chấm dứt tại đất Mỹ. Đó là năm 1969 khi người Mỹ lên được mặt trăng lần đầu..."
Mà đúng vậy. Lần đầu tiên vượt cái nhìn ra khỏi hộp vuông, con người bỗng thấy một chiều kích mới. Cái mà mình vẫn gọi là cái tôi không chỉ bị giam hãm trong cái bị đầy thịt xương như thân xác của mình lúc này, mà đang cố thoát mọc cánh vươn lên một cách vất vả. Thì ra chưa bao giờ con người cảm thấy nhỏ bé và yếu hèn như trong thời đại văn minh kỹ thuật này. Nhiều khi thua cả con vật, thua cả máy móc. Con người tự tạo ra cho mình như vậy để tự hành hạ đầy ải mình khi tự nhốt giam mình vào trong một hộp vuông vật chất, tách rời khỏi nguồn sống tinh thần.
HẸN AI NHÉ NĂM 2000 SẼ
Thế kỷ 20 được ghi dấu bằng hai chủ nghĩa kình chống nhau: chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa xã hội. Nhưng tựu trung ra thì chủ nghĩa xã hội của Karl Marx cũng chỉ là một hình thái cực đoan của chủ nghĩa cá nhân mà thôi. Vì cũng chỉ là một bọn người nắm quyền sinh sát coi đại chúng là "những con vật kinh tế" để nhằm đạt mục tiêu duy lợi cho nhóm mình. Cả hai tranh nhau miếng mồi để ăn. Chúa tể là cái dạ dầy. Cả hai đều bị giam hãm trong những túi thịt bầy nhầy duy vật như những con vật, không sao thoát lên làm người được, vì thiếu chiều kích tâm linh. Vào ngàn năm mới, con người đang mở ra một nhãn quan mới. Cũng là một cuộc trở về với nhân vị đích thực của mình, trở về với sự giàu có của cõi tâm. Nhạc sĩ Phạm Duy đã gióng lên viễn kiến này trong Rong Khúc Hát Cho Năm 2000:
Hẹn em nhé! Năm 2000 sẽHai bên cửa hé, cho anh trở về.Từ ngày đi, theo cuộc tỉnh mêTrăm năm nhỏ bé, trăm năm bộn bềNào ngờ đâu trong cuộc được thuaTrăm năm vật vã trăm năm hận thù.
Khoa vật lý mới nhất đang hé mở ra một cái nhìn mới và một cái thấy mới. Từ Max Planck, Albert Einstein đến David Bohm, trời-đất-người không còn là những thực thể tách biệt nhau, mà chỉ là một sinh lực duy nhất (unified field), và theo ngôn ngữ của bác sĩ Deepak Chopra, giám đốc viện quốc gia nghiên cứu chữa bệnh bằng hòa nhập vào sinh lực đất trời (quantum healing) thì mọi trật tự lạ lùng đều do "Đấng Toàn Tri" điều khiển. Mọi vật và ngay cả thân xác con người cứ tưởng là những thể đặc tách rời nhau, nhưng khoa vật lý lượng tử (quantum physics), dịch thoát là vật lý vũ trụ nhất thể, cho thấy chỉ là những phân tử năng lượng nhảy múa trong biển lực mênh mông. Phân tử là yếu tố nhỏ nhất gọi là hiện hữu làm nên nguyên tử nhưng không thể thấy được. Cái lạ lùng là tất cả xem ra lung tung rối loạn thì đang qui hướng có mục đích, như cái nhìn của nhà khoa học và thần học Teilhard de Chardin: tất cả đang nhảy múa hướng tới một đích điểm như một ca đoàn trong bài ca vũ trụ "hymn of the universe". Chính cái lực này, cái sức sống duy nhất mà ta gọi là tâm linh này đang là yếu tố chữa được nhiều bệnh ung thư như bác sĩ Chopra chứng nghiệm qua chương trình "quantum healing" của ông. Đó chính là lực Thần Linh Chúa nối kết và chữa trị mọi sự xem ra rời rã để điều hướng "qui tụ thâu về trong một mối".
Thấy gì bên kia cửa tử trong những trường hợp những người chết rồi bỗng sống lại, đang là một đề tài khảo cứu rất ăn khách. Bà Betty Eadie trong cuốn "Đước Ánh Sáng Ấp Ủ" tự thuật lại chuyện đã thấy gì khi chết đi 4 tiếng đồng hồ: Tôi thấy những người tôi xúc phạm cũng là chính tôi, và những người tôi giúp đỡ cũng là chính tôi. Điều mà đạo sống Việt gọi là "thương người như thể thương thân", vũ trụ nhất thể; và đạo Chúa gọi là Nhiệm Thể Chúa Kitô. Vì thế mà Đức Kitô đã dạy yêu người như chính mình.
Tại sao điều xấu lại xảy ra cho những người tốt? Đó là tựa đề cuốn sách bán chạy "best seller" trong nhiều năm của Kushner. Cũng giống như cỏ lùng vô tích sự lại mọc lẫn trong ruộng lúa tốt. Người bi quan thì hỏi: thế Chúa đã không gieo giống tốt trong ruộng mình sao; thế Chúa đã không dựng nên mọi sự tốt đẹp sao?! Nhưng Chúa thì lại bảo cứ để vậy cho đến mùa gặt rồi sẽ phân định.
Mùa gặt là ngày sau hết của một đời người, lúc mà con người biết nhìn với con mắt của chiều thứ tư, vượt khỏi giới hạn của không gian và thời gian, vượt bờ sinh tử. Qua những khảo cứu về trường hợp những người chết rồi bỗng sống lại, khi chết rồi, tất cả cuộc sống của mình đã qua bỗng diễn ra sống động trong nháy mắt ngay trước mặt. Ngôn ngữ trong đạo Chúa gọi là ngày phán xét.
Trong "Được Ánh Sáng Biến Đổi" của Melvin Morse thì Olaf thấy: "đang trôi trong vũ trụ vô bờ bến... Vũ trụ như những bọt xa bông đang qui về trọng tâm theo một hình thái phức tạp, nhưng tôi hiểu được trọn vẹn, thấy được mọi sự đều có nghĩa... cảm thụ được toàn thể vũ trụ..." (trang 12-13). Hàn Mặc Tử cũng đã được khả năng lạ lùng này, là thấy mọi trắng đen đỏ vàng, trầm bổng cuộc đời không phải là những mảnh vỡ vô nghĩa hay những cù lao trôi nổi phi lí, mà đều qui tụ thâu về trong một mối, mang trọn ý nghĩa trong một chương trình mầu nhiệm như lời Kinh Thánh:
"Chúng ta biết rằng mọi sự đều đi liền với nhau sinh ích cho những ai được Chúa yêu thương, tức là những người được Chúa kêu gọi theo chương trình của Người" (Roma 8:28).
Lạy Chúa Trời là Nguồn Sống đời con. Con tin rằng đời con đang đi về một hướng rõ rệt. Mọi chuyện buồn vui đắng ngọt đời con nhiều khi phi lí cũng như những màu sắc trắng đen đỏ vàng xem ra rời rạc, nhưng khi được nối kết lại thì thành cầu vồng rực rỡ. Biết nhìn như vậy, con sẽ được khai mở con mắt của tâm như Hàn Mặc Tử thấy được những kỳ lạ của mùa gặt đời con:
Những cù lao trôi nổi chốn mênh mangSẽ qui tụ thâu về trong một mốiVà tư tưởng không bao giờ chắp nốiLà vì sao? Vì sợ kém thiêng liêng.Trí vô cùng lan nghĩ rộng vô biênCắt nghĩa hết những anh hoa huyền bí.
Điềm lạ thế mạt luôn là một mầu nhiệm đối với con người ngày nay khi triết lý và khoa học hình như có thể giải thích tất cả. Tuy nhiên có một điều không thể giải thích nổi mà chính khoa học cũng phải công nhận là mặt trời đang nguội dần đi có nghĩa là một ngày kia sẽ không còn sự sống trên thế gian. Người Do Thái luôn chờ đợi ngày quang lâm của Chúa trong những thời điểm mà hình như Thiên Chúa bỏ rơi họ nghĩa là trong những khi dân bị đầy đọa hay bị lưu đầy. Và nhiều tiên tri nhất là Danien đã loan báo bằng những từ ngữ có tính cách Khải huyền về ngày trở lại của Chúa.
Trong kinh Tin Kính chúng ta đọc: và người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, như thế việc trở lại của Chúa quá hiển nhiên. Trước hết trong đời sống cá nhân mỗi người và trong cả lịch sử thế giới. Kẻ dữ hình như đang hoành hành trong thế gian, con cái Chúa đang bị vùi dập bách hại khắp nơi. Hình như Chúa đã đi xa khỏi thế giới này và những hành động ngôn từ của giới truyền thông càng ngày càng có tính cách lộng ngôn và xúc phạm không những đến giáo hội, mà cả ngay Chúa Giêsu và những thành phần cao quí của giáo hội đang giúp cho nhân loại được là nhân loại đích thực nghĩa là được sống đúng phẩm giá con người.
Cái nguy hại là nhiều người trong giáo hội lại a dua và đang biến giáo hội thành một tổ chức buôn bán và chính trị. Đa số thầm lặng vẫn chịu đựng để cho một thiểu số lớn tiếng kêu đòi hỏi những chuyện như cho phụ nữ làm linh mục cho linh mục được lấy vợ hay cho những người "gay" được bình thường hóa. Có cả những giám mục cũng đi biểu tình với họ mới đây ở Canada trong một tư thế muốn ủng hộ hay nịnh bợ những người có lối sống Sodoma của những ngày trước khi lửa từ trời xuống thiêu đốt. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng ? Những người công chính vẫn muôn đời bị bách hại và thầm lặng để cho thiên hạ quay cuồng trong kiêu căng và hợm hỉnh. Maranatha tiếng nói cuối cùng của Kinh Thánh phải chăng là lời kêu gọi thống thiết hình phạt của Thiên Chúa để trả lại lẽ công bình cho thế gian và giáo hội. Ngay từ thời Chúa Giêsu và trong thời nguyên thủy của Giáo hội người ta vẫn thống thiết mong chờ Chúa trở lại. Và ngày nay nhiều tiên tri giả lợi dụng lòng tin của giáo dân cũng đang loan báo ngày đó sắp đến để trục lợi chứ không phải để kêu gọi sự thống hối đích thực.
Bao giờ Chúa trở lại ? Chúa Giêsu nói rõ hôm nay Chỉ mình Thiên Chúa biết ngày đó. Tuy nhiên thánh Phêrô trong thơ ngài đã mở ra một viễn cảnh mới: một trời mới đất mới cho những người yêu Chúa. Những công trình những cái hay đẹp của nhân loại sẽ không mai một nhưng sẽ mang bộ mặt tinh khôi trong thế giới mới sau khi Chúa trở lại. Trong khi chờ đợi ngày đó tin mừng dậy ta chỉ có một điều: hãy tỉnh thức. Như đầy tớ không ngoan chờ đợi chủ về trong đêm. Như năm cô trinh nữ mang dầu đầy trong đèn. Như người yêu đợi tân lang trong đêm ngà ngọc. Nghĩa là phải tin tưởng và trong sạch. Phải hân hoan và hy vọng. Phải chứng tỏ cho thế gian hay ngay từ bây giờ là Chúa sẽ trở lại: hưởng thụ như không hưởng thụ, ở thế gian mà không thuộc về thế gian: như bông sen giữa bùn lầy. coi mọi sự là thua thiệt chỉ mình tình yêu Thiên Chúa và sự trung tín của Ngài là có giá trị. Hãy xin với Chúa ngày hôm nay: maranatha.
Đã gần kết thúc năm phụng vụ, phải chăng cuộc đời người Ki-tô hữu cũng sẽ xoay vòng như chu kỳ thời tiết, như những nền phụng tự cổ xưa mà Ki-tô giáo vẫn chống lại, hay như phụng vụ Do-thái vẫn chỉ hiến dâng cũng những hy lễ ấy, mà thư gửi tín hữu Do-thái đã diễn tả ? Theo bài Tin Mừng hôm nay, hình ảnh vòng tròn này không phải là hình ảnh về Nước Thiên Chúa, bởi vì Nước Thiên Chúa là sự xuất hiện của một thế giới mới.
Quả thực, đây là một cuộc sáng tạo mới. Theo thánh Mác-cô, cuộc sáng tạo này đã được thực hiện trong Hội Thánh, bởi vì Hội Thánh là một cuộc quy tụ đám đông nhân loại đã được biến đổi ở giữa lòng thế giới. Nhưng điều đã xảy ra lại đang báo trước tương lai sẽ đến, đó là sự quy tụ chung cuộc. Như thế, con người sẽ không còn bị nhốt kín trong một tiến trình vô tận.
Để nói về tương lai này, Đức Giê-su nhắc đến cách so sánh liên quan đến cây cối. Người không nói đến hoa quả, nhưng là những chồi non, những lộc mới xuất hiện. Quả đã được trao cho thế giới. Còn lá và hoa là dành cho Nước Thiên Chúa. Thời kỳ phát triển đã kết thúc và đến thời gian bắt đầu cuộc lễ.
Con Người đã đến gần, Người đang đứng ngoài cửa. Đức Giê-su đã dùng tước hiệu Con Người để nói về chính mình. Tước hiệu này có liên hệ với sách Đa-ni-en: trong chương 7, vị ngôn sứ đã nhìn thấy một con người xuất hiện trong vinh quang để thiết lập vương quyền của Thiên Chúa. Tuy thế tước hiệu này cũng hướng người nghe đến hình ảnh người Tôi Tớ đau khổ trong sách ngôn sứ I-sai-a (53).
Như vậy, Đức Giê-su đề cập đến cả việc tự hạ lẫn việc tôn vinh, cả việc phục vụ lẫn vinh quang. Con Người đã đến gần, đó là một khẳng định cho thấy sự mâu thuẫn rõ ràng sắp được giải quyết. Bởi vì Con Người đã đến trong Đức Giê-su, hay nói cách khác, Con Người chính là Đức Giê-su. Thế nhưng, Người sắp mặc khải về ý nghĩa sâu xa của tước hiệu này, Người sẽ cho các môn đệ hiểu Con Người như thế nào, đồng thời hiểu về vinh quang đích thực của Con Người: đó là đi đến tận cùng của sự tự hạ. Đó là cái chết trên thập giá. Với cái chết này, tất cả đều trở nên rõ ràng.
Do đó, tất cả những gì có vẻ như vững chắc và không thay đổi nay bị đặt thành vấn đề. Lời của con người sẽ trôi qua và được quên đi, còn lời Chúa vẫn tồn tại. Đó là lời hứa về tương lai. Lời hứa này đến và phá vỡ xiềng xích vẫn ràng buộc con người trong thế giới chật hẹp của mình, để dẫn đưa họ vào trong thế giới rộng mở, bao la của Thiên Chúa.
Đến để quy tụ
Khi nào và thế nào: hai câu hỏi mà thế hệ Ki-tô giáo đầu tiên không ngừng nêu lên về ngày Đức Ki-tô trở lại. Khi các môn đệ ca tụng cảnh hùng vĩ và đồ sộ của Đền Thờ, Đức Giê-su báo trước cho các ông về sự sụp đổ của Đền Thờ và các ông đã hỏi Người: "Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước ?"
Thánh Mác-cô viết cho các môn đệ đã được khai tâm về điểm cốt yếu trong sứ điệp Tin Mừng. Ông nhắc lại điều Đức Giê-su đã cố gắng mặc khải cho các môn đệ theo một ngôn ngữ đượm nhiều hình ảnh phù hợp với thời đại đó.
Đã đến lúc chấm dứt thời kỳ êm ả loan báo Tin Mừng. Giờ đây là giai đoạn cấp bách: các địch thù của Đức Giê-su bao vây Người và dồn Người đến chỗ chết.
Vấn đề vẫn được nêu lên trong toàn bộ Tin Mừng, giờ đây được nhấn mạnh: con người này là ai ?
Lần này, Đức Giê-su vén lên bức màn: con người khiêm tốn và gần gũi với kẻ bé mọn, thật ra lại ngang hàng với Chúa Cha và hết mực yêu mến Chúa Cha. Vào ngày Người trở lại, Người sẽ bày tỏ Người là Thiên Chúa, rất uy nghi vinh hiển. Người sẽ ngự giá mây trời mà đến tức là được đầy tràn sự hiện diện của Thiên Chúa. Người sẽ xuất hiện, đầy uy nghi vinh hiển. Cựu Ước vẫn dùng từ này để nói về Thiên Chúa, có các thiên sứ, tức là những tôi tớ của Thiên Chúa hầu cận. Ngày trở lại trong vinh quang sẽ là cuộc quy tụ tất cả những ai đáp lại lời mời gọi của Người. Khi ấy, chính Đức Giê-su sẽ là thẩm phán xét xử nhân loại, dựa trên tiêu chuẩn là tình yêu và lòng thương xót, như Người đã loan báo và đã sống khi còn ở dương thế.
Đây quả là một nghịch lý của Ki-tô giáo.
Như đời thường của nhân loại, cuộc đời của Đức Giê-su đã trôi qua thật bình thường, với những giới hạn của con người. Thế nhưng cuộc đời ấy mỗi ngày vẫn là một cuộc trao đổi tình yêu với Thiên Chúa. Và chính cuộc đời ấy mở ra một tương lai mới: cuộc đời của Đức Giê-su mời gọi nhân loại sống cuộc đời trần gian của mình một cách tích cực, để chuẩn bị cho cuộc sống mới, cuộc sống với Thiên Chúa, bất chấp những lo lắng, phiền muộn và mâu thuẫn.
Đức Giê-su vẫn một lòng tuân phục thánh ý Chúa Cha, nhưng chính Người không biết được bao giờ xảy ra ngày chung cuộc. Tuy nhiên, như các môn đệ người Ki-tô hữu biết rằng Chúa Cha đã làm cho Đức Giê-su chỗi dậy từ cõi chết và đã trao phó tất cả mọi sự trong tay Người.
Trái đất và bầu trời sẽ qua đi. Đó là điều chắc chắn. Khi nào và thế nào ? Như Đức Giê-su, người Ki-tô hữu không biết. Điều họ biết được, đó là trái đất và bầu trời này đang chuẩn bị cho ngày chiến thắng của tình yêu, chuẩn bị trong những nỗi khó khăn, trong nỗi đau đớn và trong sự hoành hành của sự dữ.
Tin Mừng đã canh tân ngay từ bên trong thế giới cũ kỹ và đã ra hư hỏng vì tính kiêu căng và lòng hận thù. Hôm nay những ai đang bị sỉ nhục và bỏ rơi trong bóng tối, thì trong tương lai sẽ được vinh hiển trong ánh sáng: tình yêu ẩn giấu nơi Thiên Chúa có sức mạnh vượt trên sự dữ và sự chết.
Bao giờ đến ngày tận thế ?
Chúng ta có thể rút ra áp dụng nào từ bài Tin Mừng hôm nay ?
Có lẽ chúng ta cũng nêu lên những câu hỏi như các môn đệ, cũng dồn ba biến cố thành một: Đền Thờ bị phá huỷ, ngày tận thế và Đức Ki-tô trở lại. Tác giả sách Tin Mừng đã cho chúng ta thấy câu trả lời của Đức Giê-su không phân biệt ba biến cố này, nhưng những lời của Đức Giê-su có thể áp dụng cho biến cố này hoặc biến cố kia, có khi lại áp dụng cho cả ba biến cố.
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã bị phá hủy vào năm 70. Biến cố này không chỉ có ý nghĩa bên ngoài, nhưng còn có ý nghĩa thiêng liêng: biến cố này tượng trưng cho việc chuyển từ giao ước cũ sang giao ước mới, chấm dứt vai trò ưu tiên của dân Do-thái và khẳng định vai trò của Hội Thánh do Đức Giê-su thiết lập. Thiên Chúa dùng những biến cố lịch sử để thực hiện chương trình cứu độ của Người.
Những sự kiện liên quan đến ngày tận thế: tất cả đều được vay mượn từ cách diễn tả truyền thống của các ngôn sứ và khải huyền Do-thái. Đức Giê-su sử dụng những hình ảnh này để cho thấy chính Người và vương quốc của Người vượt lên trên cả vũ trụ và mọi tạo vật. Chỉ mình Người là có giá trị đối với các tín hữu, họ phải chờ đợi Người. Cuộc chiến thắng vinh hiển của Đức Ki-tô và việc quy tụ những người được chọn là những biến cố thiêng liêng, vượt ra khỏi lịch sử, ra khỏi không gian và thời gian.
Cuối cùng, điều mà chúng ta nhận thấy rõ nhất đó là Đức Giê-su quan tâm tới hiện tại hơn là tới tương lai. Ở đây chúng ta gặp lại tư tưởng của thánh Gio-an: một cách nào đó, cuộc sống vĩnh cửu đã được khởi đầu, và án lệnh đã được công bố, bởi vì trong ánh sáng của Thiên Chúa, chúng ta tự xét xử chính mình. Chính ngày hôm nay mà Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta; mỗi ngày của chúng ta đều là ngày của Thiên Chúa. Do đó chúng ta phải tỉnh thức để chờ đợi. Chúng ta phải tỉnh thức trong đức tin và đức mến để nghe được tiếng gõ cửa của Thiên Chúa. Tiếng gõ cửa đó vẫn đang vang lên hôm nay và mỗi ngày sống của chúng ta. Nếu như có gặp thấy những điều mà chúng ta nghĩ rằng vững chắc, nay đang thay đổi, thì chúng ta vẫn tin chắc vào những lời của Đức Giê-su, Đấng không ngừng đến để gõ cửa tâm hồn chúng ta, để gặp gỡ chúng ta.
Nhiều người đã có kinh nghiệm sâu xa về niềm vui đoàn tụ gia đình. Bao ngày tháng chờ đợi hồi hộp. Bao lo âu tan biến khi thấy ngày vui ló dạng với những bước chân người thân đâu đó đang lang thang nơi phi trường. Đến khi gặp gỡ, niềm vui bùng vỡ như lần đầu tiên được thấy mặt người yêu trên cõi đời. Thực ra niềm vui lớn lao này phải dành cho ngày gặp gỡ “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13:26).
KHI CON NGƯỜI NGỰ ĐẾN
Trần gian đang đến hồi kết thúc. Những ngày kết thúc đó thật bi thảm, vì “mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển” (Mc 13:24-25). Nghĩa là sẽ không còn sự sống trên trần gian. Cảnh đổ nát tiêu điều sẽ tràn ngập khắp nơi. Tiếng than khóc, kêu la sẽ vang lên từ mọi góc biển chân trời. Người lạc quan nhất cũng phải thất vọng về tương lai nhân loại. Bao nhiêu xây dựng đều đổ sông đổ biển.
Nhưng giữa cảnh tượng khủng khiếp đó, một tia hi vọng đã lóe sáng. Vì Thiên Chúa quyền năng sẽ giải thoát nhân loại khỏi mọi thất vọng. Vinh quang sẽ đưa tất cả vào hạnh phúc vĩnh cửu. Sự xuất hiện của Người đem lại ý nghĩa và giá trị sâu xa cho cuộc sống con người. Sẽ không còn đau khổ, chết chóc nữa. Thật vậy, “lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13:27). Một cảnh đoàn tụ chưa từng thấy ! Niềm vui lớn lao vô cùng ! Họ được tuyển chọn vì đã lắng nghe lời Thiên Chúa: “Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2:10). Ơn cứu độ sẽ đến với những người được tuyển chọn. Bình an sẽ tràn ngập tâm hồn và cuộc đời họ. Thiên Chúa sẽ thực hiện tất cả những gì đã hứa. Mọi người sẽ thấy một tương lai rực rỡ huy hoàng, bù lại những tháng ngày gian khổ.
“Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12:3), vì vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa chói ngời trên dung nhan Đức Giêsu. Chỉ họ mới tìm thấy được lẽ sống và nền tảng vững vàng giữa lúc vũ trụ tàn lụi. Giữa bao đổ vỡ của cuộc sống và của chính bản thân, họ vẫn tìm được một cứ điểm vững chắc nhất. Nếu không có Người, tất cả đều trở thành vô nghĩa và phi lý. Bởi vì, “sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời” (Dt 10:12). Chính từ bên hữu Thiên Chúa, Người có đầy quyền năng để tái tạo những gì hư nát vì tội lỗi. Người trả lại cho tất cả vũ trụ và vạn vật sức sống mới. Quyền năng Người lớn lao hơn sức mạnh thần chết. Vinh quang Người xua tan mọi bóng đêm tội lỗi và thất vọng. Bởi vậy, tất cả nhân loại sẽ tràn ngập niềm vui vì ngỡ ngàng thấy “Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh háo được nên hoàn hảo” (Dt 10:17). Không ngờ con người có thể được cứu thoát giữa cơn tuyệt vọng của vũ trụ.
ƠN CỨU ĐỘ HÔM NAY
Khi chiêm ngắm vũ trụ và con người, biết bao triết gia hiện sinh và vô thần đã thở dài não nuột trước cảnh phi lý và vô nghĩa của cuộc đời. Tin hay không tin, chúng ta đều phải đồng ý vũ trụ và con người đang đi đến chỗ tận diệt. Con người sinh ra để chết. Cuộc đời vô nghĩa thật nếu không tìm được một hướng đi và một cứ điểm đích thực. Chết là cuộc tận thế của mỗi người. Nếu thế, tại sao không suy nghĩ về cuộc tận thế rất gần của mình ? Tại sao không tìm một hướng đi để thấy ý nghĩa và giá trị cuộc đời giữa những đổ nát hôm nay ?
Chẳng cần đợi đến tận thế hay lúc chết mới thấy cảnh đổ nát. Chúng ta chứng kiến và kinh nghiệm cảnh đổ nát đó hằng ngày. Sống thêm một giờ là bớt đi một giờ hiện hữu trên trần gian. Sự già nua cũng là một dấu hiệu cho thấy cảnh đổ nát đó trong thân xác. Thiên nhiên cũng cho thấy những dấu hiệu thay đổi của trời đất. “Thí dụ cây vả khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nẩy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần” (Mc 13:28). Thật là một hình ảnh đẹp lột tả cơn sốt vỡ da trong thiên nhiên. Nhưng chính vì thay đổi đau đớn đó, thiên nhiên mới chứng kiến một cảnh tượng rực rỡ. Kinh nghiệm đó trùng hợp với cảnh phượng vĩ hay “lựu phun lửa hạ” tại Việt Nam. Dấu hiệu thiên nhiên giúp con người tiên đoán những sự việc sắp xảy ra. Cây vả đã báo cho mọi người chuẩn bị quần áo, lương thực khác mùa xuân hay mùa đông. Khi cây vả hay phượng vĩ đâm chồi nẩy lộc, mùa hạ đã đến gần lắm rồi.
Từ điềm báo thiên nhiên, Đức Giêsu mở mắt cho các môn đệ: “Khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13:29). Người đến không phải như ngáo ộp hay hùm xé xác và nuốt chửng con người. Trái lại, Người xuất hiện như một Thiên Chúa uy quyền và vinh quang. Vinh quang và uy quyền Thiên Chúa không chỉ tỏ hiện vào giây phút cuối cùng, nhưng hằng ngày trong cuộc sống. Tất cả mọi giây phút đều thấy bóng Đức Giêsu, vì Người là chủ thời gian. Không còn ai đáng tin hơn Người. “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại để chúng ta nhờ vào đó mà được cứu độ” (Cv 4:12). Tóm lại, mọi giá trị và ý nghĩa cuộc sống đều được tái tạo trong Người. Quả thực. “ý muốn cứu độ phổ quát của một Thiên Chúa Ba Ngôi được ban tặng và hoàn thành dứt khoát một lần trong mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Con Thiên Chúa” (Dominus Jesus, số 14,1).
Công Chúa Touwan bên Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 trước Thiên Chúa Giáng sinh: TN 33-B21
Công Chúa Touwan bên Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 trước Thiên Chúa Giáng sinh, nhưng người sinh sống cùng thời với bà có một niềm tin là xác bà sẽ nguyên vẹn trường cửu vì bà được liệm xác trong một quan tài bằng Ngọc Thạch. Chồng bà cũng đã lìa đời 9 năm trước đó và cũng được liệm xác trong một quan tài tương tự như của bà.
Hai vợ chồng đều được an nghỉ trong hai ngôi mộ xây cất trong một vùng đồi núi hoang vu. Mãi đến năm 1969, người ta mới khám phá ra và cả thế giới đều ngạc nhiên về sự giầu sang của thời đại ấy được biểu lộ bằng 2800 của lễ được dâng tặng lúc cử hành lễ an táng. Đặc biệt hơn nữa là hai cỗ quan tài, mỗi cái gồm 2000 hạt Ngọc Thạch nhỏ dát quang quan tài và kết chung với nhau bằng một sợi chỉ vàng ròng 24 cà rá.
Những người sống đồng thời trong thời đại của Công Chúa đều tin rằng Vàng và Ngọc Thạch là hai loại quí nhất vì không bị thời gian làm hư hại. Vì thế chúng được coi là bảo chứng an toàn giữ cho thân xác được nguyên vẹn trường cửu, không bao giờ bị phải rữa và như thế bà sẽ sống muôn kiếp sau cái chết ở trần gian.
Không phải chỉ có con người ngày xưa mới khiếp cái chết, mà con người ngày nay cũng không thích gì chết. Họ không thích quan niệm "sinh ký tử qui - sống gửi thác về". Họ không muốn nghe đến tiếng "chết chóc, bệnh nạn, yếu đau". Họ muốn có liều thuốc tiên "sống khỏe không già" và nếu có chết người ta phải trang điểm cho khác hẳn sự chết, để người nhìn vào khỏi sợ sự thật của chính mình. .. Bởi thế Thiên Chúa luôn phải nhắc nhở chúng ta về "cái chết của chúng ta" để sửa soạn và canh chừng cuộc sống.
Trên ba vòng hoa bán nguyệt của khung cửa sổ nhà thờ Milanô bên nước Ý có khắc ba dòng chữ:
- Phía dươi vòng bán nguyệt của vòng hoa hồng có chử "Mọi hạnh phúc trần gian chỉ kéo dài trong chốc lát".
- Bên vòng bán nguyệt của cửa thứ hai, dưới hình thánh giá có khác chữ "Mọi đau khổ, cực hình trần gian, chẳng mấy chốc sẽ qua".
- Vòng thứ ba của khung cửa giữa dẫn vào Vương cung Thánh đường có khắc chữ:"Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng".
Người thời xưa quan niệm dùng ngọc thạch để ướp cho được trường sinh.
Người sống vật chất ngày nay quan niệm cuộc đời chấm dựt bằng cái chết. Còn người theo Chúa Trời quan niệm chết là ngưỡng cửa đi về cuộc sống vĩnh cửu và chính cuộc sống này mới thật sự quan trọng. Bởi thế chúng ta xây dựng cuộc sống vĩnh cử ấy bằng những giây phút sống tốt, sống thật ở hiện tại. Bằng cách áp dụng hai đạo luật vàng: "Phụng sự Chúa hết tâm hồn và yêu thương mọi người như yêu chính mình". Thực thế, chỉ có những gì được làm bằng tình yêu thương mới có giá trị vĩnh cửu mà thôi.
Hạnh phúc trần gian chỉ kéo dài trong chốc lát. Đau khổ, cực hình trần gian chẳng mấy chốc sẽ qua. Và chỉ có hy sinh vì Chúa và phục vụ vì yêu thương mới trường tồn vĩnh cửu. (11.2003).
Sau khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, tổ tiên Adong chúng ta phải làm lụng cực nhọc để: TN 33-B22
Sau khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, tổ tiên Adong chúng ta phải làm lụng cực nhọc để kiếm ăn. Và trên đường đi lao dịch đó, ông đã thấy xác của con ông là Abel đã bị giết chết bỏ ngoài đồng. Ông lo sợ quá, xốc cậu lên, vác về cho bà Eva. Hai ông bà lay động cậu, kêu gọi cậu, nhưng cậu vẫn nằm bất động, không đáp lại lời nào. Ông bà mới nhớ lại lời Chúa phán trước khi ông bà ăn trái cấm: “Hết mọi cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi phải chết” (St. 2,16-17).
Cái chết của Abel con ông bà đây là hậu quả tội của ông bà và cũng là cái chết đầu tiên trên thế giới! Còn cái chết sau cùng của loài người là ai? Lúc nào? Không ai biết được như Chúa Giêsu nói trong tin mừng hôm nay: “Còn về ngày giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc.13,32).
Thế là không ai có thể chối cãi nổi việc con người phải chết, lời Chúa nói rõ như ban ngày, con người ai cũng cảm nghiệm điều đó và sự chết xảy ra sờ sờ trước mắt mọi người. Ngày tận thế sẽ là nỗi sợ hãi kinh hoàng cho những kẻ bất chính, là sự tiếc nuối cho những người chưa cải tà qui chính. Nhưng ngày tận thế sẽ là ngày vui mừng cho những kẻ công chính vì họ sẽ đón nhận sự trường sinh vĩnh cửu trên Thiên Quốc. Sự sống trần gian dù ta có thèm khát mấy đi nữa, chúng vẫn không thể so sánh được một tí nào so với sự sống đời sau.
Nói chung ngày tận thế không biết khi nào mới xảy ra và không biết tất cả chúng ta có sống được tới ngày đó không? Nhưng ngày tận cùng của mỗi người lại lúc nào cũng gần kề. Con người hôm nay còn, mai đã mất. Có người chết chỉ vì một viên đạn, người kia bị tai nạn. Có người bị chết thiêu, người bị chết chém. Có người ban tối lên giường nằm ngủ đến sáng mai đã ra đi vĩnh viễn. Một cơn bệnh nhồi máu cơ tim hay tai biến mạch máu não là đủ cho con người từ gĩa thế trần.
Mới đây vận động viên xe đạp Đỗ Xuân Tâm 21 tuổi, đã qua đời vào lúc 23g40 ngày 10.10.2003 trong dịp thi đấu cho Thành Phố Hồ Chí Minh tại giải Vô Địch Quốc Gia, chuẩn bị cho Sea Game thứ 22 sẽ diễn ra ngày 5.12.2003.
Anh Đỗ Xuân Tâm nghiến răng nhấn bàn đạp trên chiếc xe bị bể vỏ trong khi chỉ còn gần 1.000m nữa là tới đích. Xuống hết khe núi cuối cùng, đoạn đường lên dốc bỗng nhiên dài như vô tận. Lên hết dốc, chút sức lực cuối cùng trong anh Tâm cũng cạn sạch. Anh ngã vật ra, bất tỉnh. Bộ cấp cứu đưa anh vào bệnh viện ngay sau đó, nhưng anh vẫn từ từ đi vào lòng đất của thế giới.
Sự chết không ai có thể tránh nổi, vậy chúng ta phải chuẩn bị dọn mình chết lành hay nói một cách lạc quan và tích cực hơn là chuẩn bị lãnh nhận sự sống muôn đời mà Đấng Tạo Thành muốn dành cho thụ tạo.
1.Chuẩn bị cho sự chết: Chúng ta sống lâu có lợi gì khi mà cứ lăn mình vào vết nhơ tội lỗi, để rồi chuốc lấy án phạt đời sau. Khi đến giờ chết trang sách tâm hồn được mở ra trước Đấng Tối Cao, người ta phải chịu cực hình những tội mình đã phạm, đó là lẽ công bằng phải có. Tốt hơn hết chúng ta luôn rửa sạch tội lỗi và tu sửa nết xấu ngay ở đời sống hiện tại còn hơn phải chịu đền bù cực hình gay gắt đời sau. Lúc giờ chết một lương tâm trong sạch sẽ nhẹ nhàng thanh thản biết chừng nào, họ yên tâm ra trình diện trước toà án chí công.
2.Chuẩn bị về Thiên Quốc: Những tâm hồn thánh thiện với đức tin tinh ròng, họ coi sự chết là một cuộc thay đổi cuộc sống hiện tại để đi vào sự sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Vì thế người lành luôn tích cực cải thiện đời sống, tập tành các nhân đức, lập công phúc để làm gia nghiệp cho đời sống mai sau. Sự sống đời này là bản sao chép sống động cho sự sống đời sau. Đức mến Chúa yêu người là nhiên liệu đốt cháy lửa tình yêu mãi mãi trên nước trời. Khi chết họ sẽ đến với Chúa xem sổ vàng công phúc họ đã lập để lãnh nhận phần thưởng do kết quả khó nhọc ở đời này.
Hôm nay Tin Mừng mở ra một viễn tượng của ngày tận thế để chúng ta luôn sẵn lòng chờ đợi canh thức, đón nhận sự sống mới. Sự sống sẽ bùng lên trong ngày Chúa đến. Kế hoạch toàn cầu của Thiên Chúa sẽ tập hợp những người được tuyển chọn. Những người được Thiên Chúa yêu thương sẽ hưởng hạnh phúc bền vững muôn đời. Sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu Kitô đã phá vỡ cái vòng luẩn quẩn của những biến cố xoay vần bất tận, đồng thời Ngài mở ra cho loài người một chân trời tươi sáng. Như Thánh Phaolo đã viết cho giáo đoàn Côrinto: “Thế giới cũ qua đi và một thế giới mới đã sinh ra”. Thế nên dù muốn dù không con người trên trần đời ai cũng phải qua đi, cũng như vũ trụ này sẽ có ngày tan biến (Tv.102,27. Is. 24,18). Mà lời Chúa lại chắc như đinh đóng cột: “Trời đất sẽ qua đi nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Như vậy con người không thể bám víu gì được nơi trần thế mau qua này mà luôn sống rảo bước tiến nhanh về quê trời là quê hương hạnh phúc muôn đời: “Thế gian không phải là nhà. Thuyền con xuôi bến ấy là thế gian”. Trích dongcong.net - Br. BM Thiện Mỹ, CMC
Sống trong thế kỷ này chúng ta thấy người ta đã đang xôn xao bàn tán tiên đoán ngày tận thế: TN 33-B23
Sống trong thế kỷ này chúng ta thấy người ta đã đang xôn xao bàn tán tiên đoán ngày tận thế đã gần kề. Điều xôn xao bàn tán tiên đoán này không lạ vì đã từng xảy ra trong lịch sử nhân loại.
Năm 960 một thần học gia người Đức đã tiên đoán năm 992 là năm tận thế và càng gần đến ngày người ta càng xôn xao lo sợ, nhưng ngày đó đã không tới. Năm 1665 một người Anh tên là Solomon Eccles bị giam tù vì tội chạy trần truồng ngoài đường, trên đầu ông đội một cái chậu lửa đang cháy đốt chất lưu huỳnh và tiên báo ngày tận thế đến. Ngày tận thế đã không đến nhưng một trận lửa cháy dữ dội xảy ra tại thành phố London năm 1666.
Đến năm 1874, Charles Taze Russell, vị sáng lập giáo phái Nhân Chứng Giêhovah tuyên bố ngày Chúa tái quang lâm đã được xác định, người ta có 40 năm kể từ năm 1874 cho đến năm 1914, để một là chấp nhận đức tin hai là bị tiêu diệt. Sau đó, ông sửa đổi lại là một ngày rất gần sau năm 1914.
Rồi năm 1999 có thể nhiều người trong chúng ta đã đọc được bài báo khoa học cho rằng có vụ nổ mặt trời và một miếng vỡ ra rớt trúng trái đất vào tháng 9 làm cho nước biển sôi lên bốc hơi làm thành làn mây mù che khắp mặt đất, ánh nắng mặt trời không chiếu qua được khiến trái đất bị đông lạnh và khoảng 70, 80 phần trăm các sinh vật trên mặt đất bị chết hết. Rồi đến cuối năm với con bọ Y2K, nhiều người không dám đi đâu vì sợ tận thế.
Tuy nhiên, theo ước tính khoa học, giống như bóng đèn sau một thời gian cháy sáng bóng đèn sẽ tắt, mặt trời sau đây 5 tỷ năm sẽ không còn chiếu sáng nữa và sẽ làm tiêu hủy luôn trái đất và cả thái dương hệ, nhưng điều đó không có nghĩa là tiêu hủy cả vũ trụ. Có những tinh tú khác còn kéo dài khoảng 15 tỷ năm. Và như vậy theo khoa học nếu không có gì ngoại thường xảy ra cho trái đất thì còn lâu mới tận thế.
Bao giờ tận thế? Qua bài tin mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu bảo: "Còn về ngày đó hay giờ đó thì không ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con cũng chẳng biết, chỉ trừ một mình Thiên Chúa Cha biết mà thôi."Qua lời trên, Chúa bảo chúng ta: Chúng ta không ai rõ được tương lai. Nhìn lại lịch sử con người hiện đại, có ai trong chúng ta cách đây 50 năm dám quả quyết là con người sẽ lên được mặt trăng và người ta có thể theo dõi qua truyền thanh truyền hình? Hoặc cách đây 10, 15 năm về trước, có ai biết được kỹ thuật điện toán, computer, máy fax, internet, màng lưới điện toán, đã đang ảnh hưởng chi phối đời sống con người như thế nào, và sau đây 20, 30 năm cứ với đà tiến của kỹ thuật điện toán hôm nay, thế giới này sẽ ra sao? Hay có ai nghĩ được chế độ Cộng Sản Nga sô và Đông Âu cũng như bức tường Bá Linh lại bị xụp đổ nhanh chóng như vậy?
Chúng ta không biết được tương lai, nhưng Thiên Chúa biết. Thiên Chúa biết và lo liệu sắp xếp điều tốt nhất cho chúng ta. Chúng ta thường nghe mình tính không bằng trời tính. Chuyện kể rằng một chiếc tàu chẳng may bị bão táp đánh chìm, tất cả đều chết trừ ra một người sống sót trôi dạt vào một hoang đảo. Ông cầu nguyện xin Chúa cứu giúp và hằng ngày ông đưa mắt nhìn ra ngoài khơi với sự tuyệt vọng. Dần dần ông dựng một cái chòi để ở, và rồi một hôm ông vào rừng trở về thấy cái chòi của mình đang cháy, ông đau khổ và tức giận. Tuy nhiên, ngày hôm sau một chiếc tàu ghé hòn đảo và cứu vớt ông. Ông hỏi họ: "Làm sao các người biết tôi ở đây mà cứu giúp?" Họ trả lời: "Chúng tôi nhìn thấy khói lửa cháy bốc lên."
Chúng ta không biết được tương lai của thế giới và ngày tận thế của đời mình, nhưng Chúa biết và Chúa yêu thương lo liệu cho chúng ta, điều chúng ta cần làm là sống cuộc sống hiện tại hàng ngày một cách ý nghĩa bình an với niềm tin tưởng vào sự quan phòng yêu thương của Chúa Mẹ. Có người ước tính rằng trung bình một người Mỹ hoang phí 40 giờ nhàn rỗi một tuần. Trong số đó, 15 giờ ngồi trước Tivi. Việt Nam mình dùng để luyện phim chưởng đến độ có khi bị tẩu hỏa nhập ma. Nếu để số giờ đó đi bộ thì trong một năm đã có thể đi được từ Đông sang Tây, từ Boston sang California, hoặc đầu tư vào việc học hành thì sẽ lấy được bằng Cao học Quản Trị Thương Mại trong 2 năm.
Như chúng ta rõ, thế giới hôm nay thay đổi quá nhanh quá lẹ, máy móc điện tử mua chưa kịp xài, chưa kịp hiểu hết công dụng đã lỗi thời, nhiều công ty đang thu nhỏ lại, cắt giảm những nhân viên quản trị hoặc những người thợ thiếu tài năng. Nhiều người đang lo ngại quỹ trợ cấp xã hội của chính phủ liên bang Hoa Kỳ không biết còn kéo dài được bao lâu. Chúng ta không rõ những gì sẽ xảy đến, nhưng có một điều chúng ta biết rõ được rằng nếu chúng ta chuẩn bị kỹ lưỡng, chúng ta có cơ hội sống còn nhiều hơn. Do đó mỗi người chúng ta được mời gọi lợi dụng thời giờ Chúa ban để đầu tư để sinh lợi, và người ta bảo rằng có hai điều đầu tư sinh lợi nhiều nhất. Điều thứ nhất là đầu tư thời giờ vào gia đình bạn bè. Trong một xã hội cạnh tranh chúng ta cần có nhau, cần nâng đỡ khích lệ lẫn nhau, và điều thứ hai là thời giờ dành cho Thiên Chúa với những công việc bác ái phục vụ. Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta khi phải đối diện với một tương lai không rõ, không biết.
Maurice Druon bảo rằng: "Người nào cũng có hai bàn tay, nhưng chỉ rất ít người biết điêu khắc. Người nào cũng có cơ hội, nhưng chỉ rất ít người biết nắm lấy cơ hội, lợi dụng cơ hội." Thiên Chúa trao ban cho mỗi người thời giờ cũng như những cơ hội, và phải chăng chúng ta đã biết dùng thời giờ và lợi dụng cơ hội để sống cuộc sống hôm nay đầy an bình hạnh phúc, và chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống mai sau, để rồi khi giờ chết đến không phải ân hận tiếc xót vì tất cả đều đã quá muộn đối với chúng ta?
NS. Trái Tim Đức Mẹ Trích dongcong.net - Lm. Louis Minh Nhiên, CMC
Bài đọc nhất và bài Tin Mừng hôm nay đã tiên báo về Ngày Chung Thẩm, ngày tận cùng của: TN 33-B24
Bài đọc nhất và bài Tin Mừng hôm nay đã tiên báo về Ngày Chung Thẩm, ngày tận cùng của thế giới hữu hình này. Tiên tri Đaniel đã viết: "Đó là thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ". Chính Chúa Giêsu cũng phán với các môn đệ: "Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các quyền lực trên các tầng trời sẽ bị lay chuyển". Ngày Chung Thẩm nói đây cũng được hiểu về ngày sau hết của mỗi người chúng ta, ngày mà chúng ta sẽ vĩnh biệt trần gian, để ra đi về thế giới bên kia trong cuộc sống vĩnh cửu.
I. HIỆN TƯỌNG PHI THƯỜNG CHƯA HỀ CÓ
Ngày Chung Thẩm với những hiện tượng vĩ đại chưa từng có trong lịch sử nhân loại đó, sẽ khiến chúng ta phải kinh hoàng khiếp sợ hay sẽ làm cho chúng ta được hân hoan vui sướng đều tùy thuộc ở cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Chúng ta hãy nghe lời tiên tri Đaniel: "Khi ấy, Đức Tổng Thiên Sứ Micae sẽ chỗi dậy can thiệp cho con cái Dân Chúa. Nếu ai được ghi tên trong sách hằng sống sẽ được cứu thoát. Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ chỗi dậy: Có người sẽ được hưởng phúc trường sinh, có kẻ sẽ phải tủi nhục muôn đời".
Và đây, chính lời Chúa Giêsu đã quả quyết: "Bấy giờ người ta sẽ thấy Con Người ngự đến trong đám mây với quyền năng cao cả và vinh quang. Rồi Người sai các Thiên Thần đi qui tụ những kẻ được tuyển chọn từ khắp bốn phương tới tận cùng trái đất".
Tiên tri Đaniel còn diễn tả vinh quang của con cái Chúa tuyển chọn bằng những lời này: "Những người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ khuyên dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại muôn ngàn đời trong Vương Quốc của Chúa".
II. NGÀY KHỦNG KHIẾP HAY HÂN HOAN
Qua những lời Thánh Kinh trên đây tỏ cho chúng ta thấy một chân lý xác thực này: Ngày Chung Thẩm sẽ là ngày kinh hoàng khủng khiếp cho các tội nhân, những người cố tình dầm dìa trong tình trạng tội lỗi, sống phản lại luật Chúa và những giáo huấn của Người, hoặc bội phản lại các ân huệ Chúa ban. Khi đó, Chúa sẽ là Vị Thẩm Phán công bình, luận xử họ. Trái lại, Ngày Chung Thẩm sẽ là ngày hân hoan vui mừng cho các Thánh Nhân và những người công chính, vì các ngài hằng mau mắn, cặn kẽ tuân giữ luật Chúa truyền dạy và trung thành với các ân huệ Người ban; Chúa sẽ tỏ mình như Chúa tình thương với các tôi trung con thảo của Người; hơn nữa, Chúa còn tỏ mình như Cha Nhân Từ, hằng yêu đương ra đón tiếp những con cái ngoan hiền thảo hiếu về hiệp hoan với Người, để được tận hưởng gia nghiệp vĩnh cửu, Chúa đã sắm sẵn cho các con cái mến yêu của Người trong vinh quang muôn đời.
III. ĐỂ ĐƯỢC ÂN THƯỞNG MUÔN ĐỜI
Khi tiên báo cho nhân loại biết về Ngày Chung Thẩm, với những biến cố vĩ đại xảy ra trong vũ trụ, Chúa không có ý đe dọa, khiến nhân loại phải kinh hoàng khiếp sợ, nhưng là để cho chúng ta được xác tín rằng: Trần gian chỉ là nơi lữ hành, là đàng đưa chúng ta tới Quê Hương Vĩnh Cửu; của cải trần gian chỉ là phù vân chóng qua mau hết, để chúng ta khỏi quyến luyến những sự vật đời này và khát khao tìm kiếm những của cải bất diệt nơi Quê Hương Vĩnh Phúc, Chúa đã sắm sẵn cho con cái trung thành với những giáo huấn của Chúa và luôn biết chu toàn thánh ý Người, như chính lời Chúa đã tuyên phán trong Sách Khải Huyền: "Con hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Cha sẽ ban cho con triều thiên sự sống".
Để chúng ta được đạt tới Quê Hương Vĩnh Cửu, được Chúa ân thưởng trong ngày sau hết, chiếm hữu được sự sống muôn đời, là chính sự viên mãn thánh thiện của ơn gọi làm con cái Chúa, Chúa muốn chúng ta phải đặt trót niềm tin tưởng vào Chúa Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến trần gian để dẫn đưa nhân loại trên đường về với Chúa, tỏ cho nhân loại biết thánh ý Chúa Cha và ban cho nhân loại được hưởng tình yêu thương vô cùng của Thiên Chúa ngay khi còn sống trên trần gian này.
Một buổi chiều tháng giêng năm 1951, trong một thị trấn nhỏ ở Nhật Bản, một em bé gái ăn mặc đơn sơ, đến bên cửa nhà tù và trao cho người lính canh một gói quà kèm theo một bức thư và nói: "Xin bác làm ơn trao gói quà và bức thư này cho một tù nhân nào cũng được".
Viên lính canh trao gói quà và bức thư này cho một phạm nhân đã bị kết án tử hình vì tội ác rất nặng tên là Sakuiche Yamada. Nhận được gói quà và bức thư, mở ra, phạm nhân này nhận ra đó là một cuốn sách đạo đức và một bức thư rất chân thành với lời kết rất an ủi sau đây: "Trước nhan Thiên Chúa, dù là một tội nhân đại hình cũng là con yêu dấu của Chúa". Ký tên: Một em học trò nhỏ.
Đọc xong bức thư của em nhỏ, phạm nhân mang án tử hình rất xúc động và sung sướng, khiến chàng cảm nghiệm được lòng Chúa yêu thương tha thứ với hai hàng châu lệ chan hòa, chàng đầy lòng tin tưởng nơi ơn Chúa thứ tha, quyết tâm cải thiện đời sống làm hòa với Chúa và sẵn sàng lãnh nhận án tử hình để đền bù tội lỗi và được Chúa đoái thương thứ tha. Chàng đã khiêm tốn viết bức thư phúc đáp em nhỏ, trong đó có đoạn như sau: "Tôi là một phạm nhân xấu xa tội lỗi, tôi rất run sợ trước cái chết đang chờ đón tôi. Nhưng nay, cơn sợ hãi của tôi đã biến tan vì tôi cảm thấy và tin chắc rằng lòng từ bi nhân hậu của Chúa đối với tội nhân như tôi thật lớn lao... Xin Chúa chúc lành cho em".
Kết Luận
Là một tội nhân đáng trầm đọa hỏa ngục trước tôn nhan Thiên Chúa, và đáng lãnh nhận án tử hình trước mặt nhân loại, mà còn được an vui chờ đón cái chết, vì cảm nghiệm được tình Chúa nhân từ tha thứ, thì đối với chúng ta:
Là những con cái ngoan thảo hết lòng trung thành với luật Chúa và các giáo huấn của Người, chúng ta càng có lý do để được hưởng niềm an vui hạnh phúc đón chờ ngày Chúa đến với mỗi người chúng ta, để gọi chúng ta về với Chúa, nếu mỗi chúng ta biết chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón chờ Người.
Giả như chúng ta là những tội nhân đáng trầm đọa, thì chúng ta càng có lý do để được Chúa nhân từ đoái thương, nếu chúng ta biết đón nhận tình yêu thương, lòng nhân từ tha thứ của Người.
Hơn nữa, là những linh hồn được tuyển chọn sống Đời Thánh Hiến cho Chúa, chúng ta sẽ có thái độ nào khi Chúa đến?
Chúa nhật 33 Thường niên B / 33rd Sunday in Ordinary Time
Lời Chúa cho hôm nay: NGÀY CÙNG TẬN CỦA THẾ GIỚI = * The End of the World *
Sach Tiên tri Daniel nói đến Micael, người chỉ huy tối cao đứng lên đánh một trận lớn với: TN 33-B25
* BÀI ĐỌC 1: Đaniel 12, 1- 3 = Sach Tiên tri Daniel nói đến Micael, người chỉ huy tối cao đứng lên đánh một trận lớn với sự xấu./ The book of Daniel, it speaks of Michael, the archangel who will fight a great battle the force of evil.
* BÀI ĐỌC 2: Dothái 10, 11- 14; 18 = Khi cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, tư tế không lặp lại sự hy sinh của Chúa Giêsu một lần nữa./ When we celebrate the Eucharist, the priest not repeating the sacrifice of Jesus one more time.
* TIN MỪNG (Gospel): Mac-cô 13, 24- 32 = Đức Giêsu nói cho mọi người biết hãy nhìn các dấu chỉ, nhưng không cho họ biết ngày giờ./ Jesus tells His listerbers to look for the signs, but He also tell them that no one knows when...
A. Bạn và tôi cùng Cảm-Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: (Reflections, live out and share )
1/ Đức Giêsu nói về ngày tận cùng của trái đất như sau: “...mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống...” Các biến cố xảy ra ngày nay như mưa bão, lụt lội, chiến tranh...cùng các việc vui buồn lờn nhỏ đến trong đời tôi và Gia đình. Tôi có ý thức được do tại mình hay Chúa cho xảy đến cảnh cáo mọi người. Tôi đang làm gì để có sẵn hành trang khi Chúa đến? (Hành đạo)
“The sun will be darkened, thae moon will not gives the light, the stars will be failing from the sky...” (Mc. 13, 24- 25)
2/ Chúa gợi ý cây vả để bạn biết có sự thay đổi, Chúa nói tiếp:”...khi thấy những điều ấy xảy ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. Những biến cố thời cuối cùng coi như sắp xảy ra, biến cố này dựa trên nền tế tự Do Thái tới hồi kết thúc. Vì không biết rõ được lúc nào Chúa đến nên bạn cần tỉnh thức và sẵn sàng trong cách ăn ở. Chia sẻ những việc tỉnh thức của bạn trong Gia đình? (Sống đạo)
“Amen, I say to you: this generation will not pass away until all these things have taken place.” (Mc. 13, 29- 30)
3/ Nói về sống lại để thưởng phạt, sách Tiên tri Đaniel viết: “...nhiều người sẽ chỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời.” Như vậy công phúc và hình phạt sẽ đến với tôi sau này không ai thoát được. Tôi đang quyết tâm tu luyện hàng ngày thế nào? (Đào luyện)
“Many of those who sleep...shall awake; some shall live forever, others shall be an everlasting horrer... (Đn. 12, 2)
4/ Thánh Phaolô cho bạn biết về tư tế trong đền thờ dâng đi dâng lại cũng chẳng bao giờ xóa được tội lỗi, vì thiếu thành thật. Còn Đức Kitô thì: “Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ đã thánh hóa được nên hoàn hảo.” Các ngôn sứ quả quyết là máu chiên, dê, bò làm tế lễ đều vô hiệu, vây lòng chân thành và sám hối của bạn rất cần. Cần sửa đổi cách giữ đạo hiện tại nào của bạn? (Học đạo)
“For by one offering He has made perfect foever those who are being consecrated. (Dothái 10, 14)
B. Câu Kinh Thánh bạn và tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best GodỴs Word)
...ANH EM HÃY BIẾT LÀ NGƯỜI ĐÃ ĐẾN GẦN, Ở NGAY NGOÀI CỬA RỒI . (Mc. 13, 29)
. ..When you see these things happening, know that He is near, at the gates.
Vatican II: Những buổi tĩnh tâm, khóa hoc tập, linh thao... đều giúp các Tín hữu trau giồi về Kinh Thánh cũng như về Giáo lý, giúp họ nuôi dưỡng đời sống tâm linh. (Tông đồ Tín hữu số 32)
Gương Mẹ Maria: Riêng mẹ Người thì ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. (Luca 2, 51)
C. Thực hành Lời Chúa:(For Action): Tôi cần tỉnh thức bằng cách tập nết tốt, bỏ ngay các tật xấu...
D. Tôi cầu nguyện luôn và Sống cầu nguyện: (Pray and practice) Con vẫn được nghe Lời Chúa hàng ngày qua nhiều cách, nhưng con không thực hành. Xin giúp con biết lắng lòng nghe để áp dụng mỗi ngày.
Lời hay ý đẹp: CHÚA SẼ CHO TA CHIẾN THẮNG, NHƯNG TA PHẢI SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU
“God will give us the victory, but we must be willing to fight”
Trong ngày cuối cùng, chỉ có hai điều là đáng kể, là tinh thần phục vụ và tình thương ta dành: TN 33-B26
Trong ngày cuối cùng, chỉ có hai điều là đáng kể, là tinh thần phục vụ và tình thương ta dành cho tha nhân.
Bộ phim Occurrence at Owl Creek Bridge (biến cố xảy ra ở cầu Owl Creek) kể lại chuyện một người đàn ông sắp bị treo cổ. Bọn lính địch của anh dẫn bộ anh ra một chiếc cầu bắc ngang qua sông Owl Creek. Chúng lấy một tấm ván đặt một phân nửa lên cầu còn phân nửa kia để lòi ra khỏi thành cầu. Đoạn một tên lính đứng lên nửa tẩm ván trên thành cầu, còn người tử tội bị dẫn ra đứng trên nửa tấm để lòi ra khỏi thành cầu. Kế đó, người ta cột chặt tay chân người tử tội, đoạn thòng một sợi dây từ đỉnh cầu xuống quấn vào cổ anh ta. Khi mọi sự đã sẵn sàng, viên chỉ huy sẽ ra hiệu lệnh thì người lính sẽ nhảy ra khỏi tấm ván, lập tức người tử tội bị hất xuống phía dưới với sợi dây siết vào cổ anh.
Ngay bấy giờ một điều kỳ lạ đã xảy ra. Sợi dây bị đứt và người tử tội rơi tỏm xuống lòng sông. Anh ta chìm sâu dưới nước. Lúc bấy giờ anh ta ý thức được mình vẫn còn sống và anh cố gắng tháo gỡ dây trói nơi tay và chân ra. Thật kỳ diệu thay, anh đã tự cởi trói cho chính mình được. Thế rồi khi nhận ra mình có cơ may sống sót, anh ta bắt đầu lặn sâu xuống. Sau đó, anh bơi ngang qua một cành cây đang bềnh bồng trên mặt nước. Anh xúc động vì vẻ đẹp của những tàu lá cây. Anh sững sờ vì những đường gân phức tạp nơi tàu lá. Một lúc sau, anh nhìn thấy một chú nhện đang giăng lưới. Anh lại xúc động trước vẻ đẹp của nàng nhện và những giọt nước bám vào đó lấp lánh không khác gì những hạt kim cương. Anh cảm thấy mình sũng nước, anh liền ngước lên nhìn vào bầu trời xanh biếc, đối với anh, chưa bao giờ thế giới lại xinh đẹp thế!
Bỗng nhiên đám lính đứng trên đầu cầu bắt đầu nhả đạn xuống. Anh liền cố gắng lướt tới dưới làn mưa đạn, bơi nhanh nhẹn như một chú rắn nước băng qua nhiều ghềnh thác. Cuối cùng, anh cũng bơi được vào bờ và hoàn toàn kiệt sức. Anh ngã xuống cát, lăn qua lăn lại. Khi ngước nhìn lên anh trông thấy một bông hoa. Anh liền bò tới đưa mũi ngửi và thầm nhủ: Ôi! Mọi sự sao mà đẹp thế ! được sống sót quả là một điều vĩ đại biết bao! Nhưng ngay sau đó có tiếng đạn rít qua các tàng cây; anh vội đứng lên và bắt đầu co giò chạy tiếp. Anh chạy hoài chạy mãi tới khi đến được một căn nhà có hàng rào trắng bao quanh. Những cánh cổng bỗng mở ra một cách kỳ diệu. Anh không thể nào tin vào mắt mình: thế là anh đã về được đến nhà bình an. Anh gọi tên vợ anh và nàng vội chạy thật nhanh ra cổng giang tay chào đón anh.
Ngay khi họ vừa ôm nhau, máy quay phim mang chúng ta trở lại chiếc cầu Owl Creek. Bây giờ, chúng ta lại không thể tin được vào mắt mình khi nhìn thấy xác của chính anh ta bị treo thòng xuống đang đong đưa qua lại với sợi dây siết quanh cổ. Té ra anh đã chết rồi!
Quả thực ai cũng cảm thấy sững sờ: thế là mọi nỗ lực trốn chạy và cơ may được sống sót chỉ là sản phẩm thuần tuý của trí tưởng tượng thôi. Người đàn ông ấy chả hề chạy thoát được chút nào. Anh ta chỉ tưởng tượng ra điều ấy trước giây phút cảm thấy cái chết cận kề. Anh mơ thấy mình có cơ may được sống lần thứ hai. Và bỗng dưng anh cảm nhận sự sống ấy bằng đôi mắt hoàn toàn mới lạ.
Lần đầu tiên, người tử tội cảm thấy thế giới này quả là một nơi tuyệt hảo. Lần đầu tiên anh ta thấy cuộc sống quả là món quà quí báu mà anh và những người thân yêu của anh cũng được hưởng. Phải chi anh đã thực sự trốn thoát được và có một dịp may được sống sót lần thứ hai. Lúc đó chắc hẳn anh sẽ sống cuộc sống mới này một cách khác thường biết bao!
Điều này gợi lên cho ta một câu hỏi. Tác giả bộ phim đã nghĩ gì trong trí ông dựng một câu chuyện này. Ông muốn nói gì với khán giả? Nói cách khác tại sao tác giả đã cố ý phỉnh gạt chúng ta? Tại sao ông lại dựng nên một sự thất vọng khủng khiếp đến thế? Tại sao ông lại làm cho chúng ta tưởng rằng người tử tội ấy có được cơ may sống sót?
Theo tôi, điều nằm trong tâm trí tác giả bộ phim cũng chính là điều nằm trong tâm trí Chúa Giêsu qua bài Phúc Âm hôm nay. Tác giả cuốn phim nói với chúng ta: “Người tử tội trong câu chuyện của tôi là chính các bạn. Anh ta đã không có may mắn được sống sót, nhưng nhờ chia xẻ Kinh nghiệm của anh ta mà các bạn chắn chắn sẽ có được cái cơ may đó”. Tác giả nói tiếp: “Rồi một ngày nào đó các bạn cũng sẽ phải chết giống như người tử tội trên. Không ai biết được bao giờ mình sẽ chết, nhưng chắc chắn giờ đó sẽ đến cũng như nó đã đến với người tử tội trên”.
Cách đây vài năm, bà bác sĩ Kubler-Ross thuộc trường Đại học Chicago có viết cuốn sách nhan đề: Chết và hấp hối (Death and Dying). Cuốn sách được viết ra là vì bà thường xuyên tiếp xúc với những bệnh nhân sắp chết. Bàn về những cảm nghĩ của những bệnh nhân ấy về cuộc sống lúc họ nhìn ngược lại quá khứ khi đối diện với cái chết, bà viết: “Khi phân tích mọi sự lần cuối cùng, họ thấy rằng chỉ có hai điều này là quan trọng thôi: Tình yêu đối với tha nhân, và tinh thần phục vụ tha nhân. Tất cả những gì khác mà ta đã từng cho là quan trọng, chẳng hạn như danh tiếng, tiền bạc, uy tín, quyền lực, thì đều là vô nghĩa”. Nhận xét này hoàn toàn phù hợp với điều Chúa Giêsu dạy bảo lúc Ngài còn ở dương trần. Ngài nói: “Con Người không đến để được phục vụ, mà Người đến để phục vụ” (Mc 10: 45) và Ngài cũng nói: “Các con hãy yêu thương nhau như ta yêu thương các con” (Ga 15: 12)
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ đến lúc chúng ta sẽ phải gặp Chúa Giêsu vào cuối đời chúng ta hoặc vào lúc tận cùng thế giới - bất kể lúc nào xảy ra trước. Bài Phúc Âm này mời gọi chúng ta tự vấn chính mình xem liệu vào lúc ấy, tinh thần phục vụ và tình tình yêu của chúng ta có được kể là thoả đáng không?
Không giống như người tử tội trong câu chuyện, chúng ta có được dịp may còn sống để chuẩn bị cho giờ phút ấy, bắt đầu ngay từ bây giờ. Chúng ta sẽ làm gì với dịp may này của chúng ta? Chúng ta có chân thành nỗ lực yêu thương như Chúa Giêsu đã làm không? chúng ta có chân thành nỗ lực phục vụ tha nhân như Chúa Giêsu đã làm không?
Chỉ chúng ta mới có thể tự trả lời cho câu hỏi ấy, câu trả lời rất quan trọng, có thể là quan trọng nhất trong tất cả những câu trả lời của con người.
Trước khi kết thúc, tôi xin đọc một đoạn văn trích trong tác phẩm GodỴs Trombones (Tiếng kèn của Chúa) của tác giả Weldon Johnson, trong đó ông mô tả cái chết của một phụ nữ thánh thiện.
“Chị đã thấy những cái chúng ta không thấy được. Chị đã thấy Thần Chết. Chị đã thấy ông ta đến như một ngôi sao băng. Nhưng cái chết đâu có làm cho chị nữ tu Caroline sợ hãi. Chị đã nhìn Thần Chết như một người bạn thân, như một vị khách qúi. Chị đã thì thầm nói với chúng tôi: “Tôi đang trở về nhà tôi”. Rồi chị mỉm cười nhắm mắt lại”.
Khi Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ngã bệnh nặng, các bác sĩ không nói gì về bệnh tình, nhưng: TN 33-B27
Khi Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ngã bệnh nặng, các bác sĩ không nói gì về bệnh tình, nhưng người biết mình khó sống và thường nói: “Tôi đã sắp sẵn hành trang”. Vào ngày cuối cùng, vị thư ký riêng tới bên giường hôn tay Đức Giáo Hoàng và hỏi thăm xem ngài biến chuyển ra sao. Đức Gioan trả lời;
- Cha thấy dễ chịu và an bình trong tay Chúa, nhưng cũng hơi lo.
Vị thư ký nói:
- Cha không phải lo. Nhưng chúng con đang lo đây. Chúng con mới nói chuyện với các bác sĩ&
Đức Giáo Hoàng ngắt lời hỏi:
- Họ nói với con thế nào?
Vị linh mục thư ký nghẹn ngào nói:
- Thưa Đức Thánh Cha, con phải nói sự thật: Hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay Cha sẽ về Thiên đàng.
Nói xong, vị thư ký quỳ xuống bên giường ôm mặt khóc. Đức Giáo Hoàng âu yếm xoa đầu vị thư ký và ôn tồn nói;
- Mọi khi con can đảm lắm, sao giờ mềm yếu vậy? con vừa cho ta nghe những lời hay đẹp nhất mà một vị linh mục có thể nói: Hôm nay Cha sẽ về Thiên Đàng.
Phải có một niềm tin vững mạnh, người ta mới có thể bình thản như vậy lúc từ giã cõi đời. Kết thúc cuộc sống trần gian cũng như ngày tận thế mà Chúa muốn được thưởng thì phải qua thử thách, và cũng chắc chắn nếu ta cầu xin và cố gắng, Chúa sẽ ban ơn để ta thắng vượt cơn thử thách này.
Những thử thách trước tận thế thuộc ba loại; Trước hết là các ngôn sứ giả hiệu và cả Mêsia giả nữa, họ tìm cách lừa dối, lung lạc niềm tin các tín hữu. Rồi đến các tai nạn tự nhiên, đói khát, chiến tranh, thiên tai động đất& Sau cùng các Kitô hữu sẽ bị bách hại.
Những thử thách này cốt luyện niềm tin các tín đồ, người nào trung kiên sẽ được vui mừng đón Chúa trong vinh quang. Ịây là lần đầu tiên Chúa nói tới quyền uy của Người: Chúa sẽ ngự trên mây cao xét xử trần gian. Kiểu nói này vốn dành cho Thiên Chúa, và như vậy Chúa Giêsu đã xưng mình là Thiên Chúa.
Trong bài giảng này Chúa nói về hai biến cố một lúc: biến cố phá huỷ thành đô Gialiêm và việc tận thế. Người Do Thái coi việc phá huỷ Gialiêm là hình ảnh ngày thế mạt. Khi thánh Marcô viết Tin Mừng thì việc đó xảy ra rồi. Nhưng trong tư tưởng người Do Thái lúc đó, thì ngày thế mạt cũng sắp tới, và trong kinh nguyện các tín hữu, ta thường nghe nhắc lại lời cầu xin: Xin Chúa đến! Mọi người nóng lòng chờ ngày Chúa quang lâm như lịch sử đã ghi nhận Chúa xuống trần. Chúa đến lại lần thứ hai như người cha đi vắng trở về nhà, như ông chủ đã gieo vãi hạt giống Tin Mừng, bây giờ tới thu hoạch hoa lợi.
Chúng ta là môn đệ Chúa, chúng ta mong chờ gặp lại Chúa là phải. Tuy Chúa không xa cách chúng ta, nhưng chúng ta mong được thấy Chúa trong vinh quang của Người. Tuy nhiên muốn có được lòng mong chờ như vậy, chúng ta phải có đủ tư cách, phải sẵn sàng để không ngại đối diện với Chúa. Phải là đứa con thảo, phải là người môn đệ trung thành với Lời Chúa, sống theo Tin Mừng, theo đường lối Chúa vạch định. Phải là người đầy tớ nhận tiền vốn Chúa để lại và đã sinh lợi như Chúa muốn.
Lạy Cha, xin giúp chúng con sẵn sàng chờ đón Chúa, với tâm hồn trong sạch và cuộc sống bác ái, như người tôi trung, như người con thảo, mong được Cha đón nhận vào vinh quang Chúa muôn đời.
Jim mới được 10 tuổi, một nhóm thiếu niển trong tuổi 15 đã làm em khổ sở. Chúng đẩy em: TN 33-B28
Jim mới được 10 tuổi, một nhóm thiếu niển trong tuổi 15 đã làm em khổ sở. Chúng đẩy em xuống đường, làm em trượt té trên sân trường, và còn lấy cắp tiền ăn trưa của em nữa. Chúng doạ đánh em, đâm em bằng con dao sáng loáng. Jim không bao giờ nói cho ai hay. Một hôm, đám du côn làm quá, em phải thốt lên: “Tao sẽ méc anh tao cho tụi bay”. Chúng chế nhạo: “Đem nó lại đây, càng lớn té càng đau”.
Ít ngày sau, đám du côn thấy Jim đi phố, bên cạnh một người lực lưỡng, cao một mét tám trong bộ đồng phục nhà binh với những giây chiến thắng. Đó là anh của Jim tên Bob. Bất thần Bob ra lệnh: “Nhãi con, trả tiền cho em tao” chúng móc hết túi ra và còn phải hứa trả tiền ăn cắp còn lại.
Chợt nhớ câu chuyện khi chúng ta nghe bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói về Người trong bài phán xét chung; “Họ sẽ thấy con Người đến trong mây trời với uy quyền và vinh quang”.
Thường thường ý tưởng về ngày phán xét chung gợi cho chúng ta lòng kính sợ Chúa. Như hôm nay, tôi nghĩ rằng; “Ngày phán xét chung cho những người phụng sự Chúa; một hy vọng lớn lao, một niềm cậy trông vui mừng, một cái gì giông giống niềm hy vọng của Jim: Anh của Jim làm sáng tỏ vấn đề.
Với chúng ta, những người theo Chúa Kitô: ý tưởng và ngày phán xét tận cùng phải là một ngày hạnh phúc, vui mừng.
Đó là dề tài của lời cầu nguyện sau Kinh Lay cha trong Thánh lễ:” Trong lòng nhân từ của Cha, xin giữ chúng con khỏi tội lỗi và che chở chúng con khỏi mọi nỗi lắng lo. Trong khi chúng con trông đợi, trong hy vọng hân hoan sự trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con”.
Rồi linh mục và giáo dân hô to: “Vì nước trời, uy quyền và vinh quang là của Cha. Bây giờ và mãi mãi”.
Lời Kinh nguyện thứ ba dùng thành ngữ: “Sẵn sàng đón mừng Người khi Người trở lại”.
Cũng trong lời kinh nguyện ấy. Trong việc tưởng nhớ Người chết, chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô sẽ làm cho thân xác hay chết của chúng ta trở nên giống thân xác của Người trong vinh quang& Chúng con hy vọng được chia sẻ vinh quang của Chúa. Khi mọi nước mắt của chúng con được lau sạch”.
Chúng ta trông đợi trong niềm cậy tin và hy vọng hân hoan sự trở về của người anh cả: Đức Giêsu đầy quyền uy và vinh quang với tình yêu vô hạn đối với em nhỏ của Người là bạn và tôi. Người chỉ đáng sợ đối với những kẻ khinh thường Người; Những kẻ coi nhẹ Người và các kẻ không theo Người. Nhưng Người đầy uy quyền và vinh quang đối với những kẻ ca tụng Người, tôn vinh Người và theo Người như chúng ta hôm nay và ngày mai.
Năm phụng vụ B chỉ còn một tuần nữa là hết. Chúng ta sẽ bước sang vần C, năm cuối của: TN 33-B29
Năm phụng vụ B chỉ còn một tuần nữa là hết. Chúng ta sẽ bước sang vần C, năm cuối của chu kỳ 3 năm. Vì vậy các bài đọc của chúa nhật hôm nay thay đổi cung điệu, chúng nói đến thời kỳ khốn đốn cùng cực (bài đọc 1). Chúa Giêsu, vị Thượng Tế tối cao đứng trên các tầng mây đợi chờ mọi kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân (bài đọc 2). Và Con người sẽ trở lại, trước đó thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển (bài đọc 3). Những lời này của Kinh Thánh là chân lý không thể sai lầm. Nó sẽ xảy ra và khoa học ngày nay chứng minh điều đó có thật. Cho nên khi nghe các bài đọc tôi vừa thấy hy vọng, vừa lo lắng sợ hãi.
Lo lắng sợ hãi, bởi vì trật tự trên trời sẽ sụp đổ, kèm theo tất cả mọi tổ chức loài người, không còn một cơ cấu nào có thể đứng vững. Gian nan xảy ra trước khi Chúa ngự đến. Lời Kinh Thánh luôn luôn đúng, cho nên tai hoạ là điều không tránh khỏi. Sẽ có một thời kỳ khốn khổ và những tai ương khủng khiếp sẽ ập xuống nhân loại, tương tự như sự phá huỷ thành Giêrusalem năm 70. Do đó số phận của loài người là chờ đợi một cuộc tàn phá khốc liệt khác, có lẽ bằng lửa chứ không phải bằng nước như thời ông Noe. Các vũ khí huỷ diệt hàng loạt như bom hạt nhân (bom A) hoặc bom kinh khí (bom H) vẫn đe doạ xã hội nhân loại. Mặc dầu người ta cố gắng ngăn chặn, nhưng chắc gì thành công. Một nhà khoa học thông thái người Anh, ông Stephens Hopkins mới đây đưa ra lý thuyết: Nhân loại sẽ bị tiêu tan bằng một con virus. Cho nên, nếu chúng ta đặt tương lai vào những điều giả dối chóng qua, chắc chắn chúng ta sẽ gặp thất vọng khi chúng đổ nát. Vậy, đây là thời kỳ thuận tiện để xem xét các mơ ước của lòng mình và thay đổi chúng nếu cần. Nhưng nói đến thay đổi thì quả là điều khó khăn, còn khó hơn đổi núi dời non. Bởi nó đã cắm rễ sâu vào nếp sống mỗi người. Trong lịch sử, hoạ lắm mới gặp được sự thay đổi có ý nghĩa, như của thánh Phaolô, Augustinô, Charles de Foucault, Thomas Merton,& ngoài ra thì hoàn toàn là cố chấp, bảo thủ. Âu cũng là thói thường tình. Có lẽ chúng ta chẳng thể sống đủ lâu để trông thấy những điềm thiêng dấu lạ và sự trở lại của Chúa Giêsu. Nhưng lời lẽ các bài đọc hôm nay đủ rõ ràng, mạnh mẽ để thúc đẩy chúng ta thực hiện những thay đổi cần thiết trong cuộc sống mình. Một trí thức đương thời đã cảm thấy như vậy nên sáng tác lời cầu nguyện đại ý như sau: Lạy Chúa, xin cho con đủ khiêm tốn để chấp nhận những gì không thể thay đổi, và đủ can đảm để thay đổi những chi cần đổi thay. Chúng ta lấy đó làm tiêu chuẩn để nhận ra giới hạn của mình. Có những vấn đề không nên thay đổi theo tính nông nổi con người, như chân lý ngàn đời, mặc khải của Thiên Chúa, định luật tự nhiên,& Chúng ta phải chấp nhận. Nhưng cũng có những hủ tục lỗi thời, những thói quen xấu, nếp sống tham lam cần phải đổi thay thì can đảm tiến hành. Có như vậy các bài đọc hôm nay mới đem lại ích lợi cho linh hồn. Mặt khác các bài đọc khơi dậy niềm hy vọng, chúng tiên báo tương lai tốt đẹp cho loài người. Sự dữ đang tung hoành khắp thế giới, tác oai tác quái trong các quốc gia, xã hội, gia đình sẽ bị đẩy lui. Sự thiện hiện thời bị trù dập sẽ toàn thắng. Tiếng nói cuối cùng thuộc về Đấng đã đánh bại thần chết. Thiên Chúa sẽ lớn tiếng bênh vực những kẻ bị nhân loại chà đạp, khi “Con Người” xuất hiện trên các tầng mây (từ Con Người mang nhiều ý nghĩa hơn là “con của loài người”). Ngài sẽ thu thập mọi nhân tâm về với Ngài. Lời hứa của Chúa chiên lành sẽ mang đầy đủ nội dung, hình ảnh đẹp đẽ trong vũ trụ: “Con đã canh giữ và chẳng để một ai trong họ phải hư mất” (Ga 17,12). Khi trở lại, Chúa Giêsu làm tròn lời hứa đầy vui mừng phấn khởi đó.
Cho nên văn chương của Daniel và Marcô có tính chất khải hoàn, nhờ nó chúng ta đoán ra được các giáo đoàn của hai tác giả đang ở trong cơn bách hại ghê gớm. Các tín hữu đang trong tình trạng lo âu, sợ hãi. Bởi vì các Ngài viết về tương lai tươi đẹp, điều mà các giáo đoàn khao khát mong đợi. Thí dụ sách Daniel viết vào thế thứ 2 trước công nguyên, lúc mà dân Do Thái bị vua Babylon là Nabucôđônôxô tru diệt. Tác giả khích lệ tuyển dân can đảm trung thành với đạo lý của cha ông, từ chối tế thần ngoại bang và lối sống buông thả của đế quốc. Tác giả sống ở thời kỳ mà người Hy Lạp cố gắng hợp nhất thế giới họ đã chinh phục, bằng cách xoá bỏ những phức tạp địa phương, chỉ chấp nhận một hệ thống chính trị và văn hoá duy nhất của họ, những người Do Thái cưỡng lại đều bị giết chết (xem sách 1,2 Mcb). Tác giả Marcô cũng viết cho giáo đoàn Rôma đang bị hoàng đế Nêrô bắt bớ và giết chóc. Cuộc bách hại này nổi tiếng dữ dằn trong lịch sử Phương Tây. Những độc giả đương thời dễ dàng nhận ra hình ảnh và ngôn ngữ tác giả dùng. Họ còn có thể nhớ đến lời loan báo của các ngôn sứ Cựu Ước. Ngày của Chúa sẽ là một biến cố kinh thiên động địa, gây hãi hùng khiếp sợ. Mọi sự sẽ rơi vào đổ nát và hỗn loạn. Sau đó “Con Người” mầu nhiệm sẽ xuất hiện, thu thập những linh hồn lành thánh từ khắp bốn phương thiên hạ vào vương quốc của Ngài. Chẳng có chi thoát khỏi bàn tay công thẳng của Đấng Tối Cao. Đấng đã tạo dựng vũ trụ từ hỗn loạn ban đầu, sẽ lập lại trật tự cho thế giới. Tất cả đều nằm trong quyền phép của Ngài. Tuy nhiên “còn về ngày hay giờ thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay Người Con cũng không, chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (13,32).
Giống như tác giả Daniel, thánh sử Marcô cũng không chủ ý nói về tương lai mà là hiện tại, trước hoàn cảnh tối tăm của giáo đoàn Rôma. Ông viết để khích lệ tinh thần của họ, ủi an họ trong cơn khốn quẫn. Khi viết thánh Marcô không quan tâm nhiều đến những biến cố xảy ra trên các tầng mây, đúng hơn ông lo lắng về những sự kiện các tín hữu phải gánh chịu trước mắt. Thay vì khuyến khích họ nhìn lên trời quan sát, suy đoán trăng sao, thời tiết, ông kêu gọi họ coi lại cảnh quan của mỗi cuộc đời. Chúng ta đang sống thế nào, ăn ở ra sao trên con đường theo Chúa? Ông không có ý hù doạ để ai phải khuất phục, nhưng chia sẻ hy vọng vào chương trình của Thiên Chúa. Chương trình luôn tốt đẹp cho mọi người, dù rằng hiện tại còn gặp nhiều gian truân. Nếu như chúng ta trung thành với ơn Chúa, tiếp tục dõi theo đường lối của Ngài, là thánh Marcô đã đạt được mục tiêu đề ra. Thêm vào đó, nếu các tín hữu luôn sẵn sàng chờ ngày Chúa trở lại, chỉnh đốn nếp sống của mình cho phù hợp với thánh ý Chúa, chẳng cần tính toán chính xác ngày Chúa trở lại, thì tự nhiên chúng ta đã là cộng đoàn chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa cho thế giới, quan tâm đến hết mọi linh hồn, nhất là những kẻ bé mọn trong xã hội.
Năm phụng vụ năm 2003 đang lui vào dĩ vãng. Các bài đọc Chúa nhật này thúc bách mọi người xem lại nội dung đời sống. Liệu mọi sự ở đúng trật tự không ? Tại sao không ? Vậy thì phải làm thế nào sửa chữa? Khả năng, tiền bạc, thời giờ, sức khoẻ, đã được đầu tư đúng hướng chưa? Hay tiêu xài vô ích, phí phạm vào những thứ “ mối mọt có thể đục khoét ? “. Nếp sống tân thời quá vội vã, xô bồ, chúng ta có ít thời gian để xét mình. Nhiều người chỉ biết sống bằng hiện tại mà không quan tâm đến tương lai, không quan tâm đến các hậu quả của công việc, ý nghĩa của cuộc đời. Kinh Thánh mặc khải rằng chúng ta sẽ gặp thất bại khi hiện tại sụp đổ. Cho nên người tín hữu phải luôn tỉnh thức xem xét đời mình. Các bài đọc hôm nay cũng vậy, chúng mạnh mẽ biểu lộ chương trình và mục tiêu Thiên Chúa dự định cho loài người. Chiến tranh không có tiếng nói cuối cùng. Nghèo đói không đàn áp mãi mãi. Chủ nghĩa bành trướng, phân biệt chủng tộc, dục vọng giới tính chẳng thể múa nhảy cùng nhau đến thiên thu. Satan và những đồ đệ của hắn nhất định thất bại, cay đắng trở về hỏa ngục tay không. Tuy nhiên mỗi người tín hữu phải dự phần vào chiến thắng đó. Lời Thánh Kinh nói rõ: Thượng Đế hằng dùng ngôn sứ, các tôi tớ trung thành của Ngài, kêu gọi chúng ta sống thánh thiện để đầy lùi sự dữ. Đức Giêsu Kitô khi rao giảng cũng hành động tương tự, Ngài sai các môn đệ đi khắp các làng mạc, loan báo Nước Trời, chữa lành bệnh nhân, hòa giải thù nghịch. Vậy thì Lời Chúa hôm nay không phải là bánh vẽ (pie in the sky), nhưng mặc khải Thiên Chúa thực sự đang hành động giữa nhân loại, biến các giấc mơ trong lòng tín hữu trở thành hiện thực. Văn chương Khải Huyền không chỉ có ý nghĩa tương lai, nhưng cả về hiện tại. Thế giới này phải trở nên thánh thiện và hạnh phúc. Chương trình của Đức Chúa Trời là làm lợi cho chúng ta, dù rằng hiện tại đang gặp bất hạnh. Cuộc chiến giữa thiện và ác sẽ kết thúc bằng chiến thắng thuộc về Thiên Chúa. Kinh Thánh nhiều lần bảo đảm như vậy. Chúng ta không được phép nghi ngờ và thất vọng. Trái lại, phải đứng vững trên các nẻo đường Đức Kitô chỉ dạy và Thiên Chúa luôn đồng hành bên cạnh.
Hình ảnh mở đầu bài tin mừng Chúa nhật này, xem ra đầy tăm tối: “Trong những ngày ấy, sau cơn gian nan lớn lao, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực bị lay chuyển&”. Tuy nhiên, nhiều người đã quen thuộc với hiện tượng này trong đời sống của mình: Cha mẹ qua đời, thất nghiệp, bệnh tật, bạn bè phản nghịch, con cái chết yểu, sức khoẻ suy tàn& Hơn nữa thiên hạ từng chứng khiến biết bao người tốt gặp hoạn nạn. Bệnh viện miễn phí hết ngân quỹ phải đóng cửa, thuốc men cạn kiệt, trợ cấp trường học, người nghèo bị cắt giảm để hỗ trợ chiến tranh, phúc lợi xã hội không hoạt động hữu hiệu. Toàn là những kết thúc bi thảm! Đúng như các tín hữu tiên khởi kinh nghiệm: thế lực đạo đời giành giật Đức Kitô yêu dấu khỏi tay họ, đem đi đóng đinh, cộng đoàn nhỏ bé vừa được thành lập đã phải phân tán.
Tuy nhiên họ sẽ được xem thấy “Con Người” đầy quyền năng và vinh hiển ngự đến trong đám mây. Kinh thánh xác định và sẽ xảy ra đúng như vậy. Đó là tin mừng của Thánh Marcô cho tín hữu thành Rôma đang chịu bách hại và cho toàn thể thế giới hôm nay trước những tin tức bi thảm. Chúng ta sẽ được chứng kiến Ngài ngự đến “tập hợp những kẻ được người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Tin lời này và hy vọng vào tương lai tươi sáng, chúng ta tích cực chu toàn nhiện vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa bằng lời nói và việc làm, bất chấp những khó khăn gian khổ hiện tại. Ngài sẽ ngự đến, chẳng ai biết bao giờ và tại đâu, nhưng chắc chắn Ngài sẽ ngự đến. Amen.
NHỮNG KẺ ĐƯỢC NGƯỜI CHỌN TUYỂN CHỌN TỪ BỐN PHƯƠNG.
Mc 13, 24-32
.Anh chị em thân mến,
Gần cuối năm phụng vụ, Giáo Hội cho chúng ta nghe và suy niệm lại bản văn về ngày cuối: TN 33-B30
Gần cuối năm phụng vụ, Giáo Hội cho chúng ta nghe và suy niệm lại bản văn về ngày cuối cùng của nhân loại, hay nói cách khác, ngày Chúa Giêsu xuống thế lần thứ hai và cũng là ngày Ngài tỏ sự công bình của Ngài cho nhân loại thấy qua việc phán xét người sống kẻ chết, để cho chúng ta suy gẫm và kiểm điểm lại đời sống của mình -cho đến hôm nay- có phù hợp với Tin mừng của Chúa hay không ?
Ngày 21.9.1999 miền trung và các vùng phụ cận trong đảo quốc Taiwan bị động đất nặng nề, một biến cố chưa từng xảy ra từ một trăm năm trở lại, mọi người đều kinh hoàng vì những tai hại và mất mát khủng khiếp, và rồi hình như ai cũng có cùng một ý nghĩ: tận thế đến nơi rồi...
Nhưng, như Chúa Giêsu đã loan báo đó không phải là ngày tận thế, nhưng là báo trước ngày Con Người xuất hiện để phán xét, để thưởng công và luận tội. Càng có những điềm thiêng dấu lạ, càng có những hiện tượng khủng khiếp thì càng nhận ra tình thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại, bởi vì Thiên Chúa là tình yêu, cho nên trong những trận động đất khủng khiếp, trong những trận hoả hoạn tàn khốc và chiến tranh khốc liệt xảy đến, đều là lời của Thiên Chúa cảnh báo cho chúng ta: hãy làm hoà với Thiên Chúa, hãy ăn năn sám hối và thay đổi cuộc sống, nếu không, chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt cách khốn nạn hơn thế nữa. Thiên Chúa không hấp tấp khi trừng phạt, nhưng rất mau mắn trong việc tha thứ và chữa lành cho chúng ta là những con người luôn phản bội lại tình yêu của Ngài.
Con người thời nay biết dùng các phương tiện khoa học tối tân để đề phòng và chặn đứng các phi đạn từ trên không trung, con người cũng biết dùng khoa học để dự báo thời tiết và các công trình khác về vũ trụ cũng như về những việc có liên quan đến đời sống của con người... Nhưng nhân loại không chịu dùng trí khôn của mình để nhận ra ngày giờ của Thiên Chúa gần đến qua những biến cố xảy ra trên thế giới, đó chính là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay vậy.
Anh chị em thân mến,
Ngày Chúa Giêsu đến trong vinh quang của một vị Thiên Chúa chưa xảy ra, nhưng trong cuộc sống hàng ngày, Ngài đã rất nhiều lần đến viếng thăm chúng ta qua người bạn lâu năm gặp lại; Ngài cũng đã nhiều lần đến nhờ chúng ta rộng tay giúp đỡ qua người nghèo khó; Ngài cũng đang rên đau đớn nơi các bệnh nhân đang cần sự an ủi của chúng ta...
Nếu hôm nay chúng ta biết dùng trí khôn và lòng bác ái để nhận ra Thiên Chúa qua các hoàn cảnh ấy, thì ngày quang lâm của Ngài, chúng ta nhất định sẽ không bị hổ ngươi bẻ mặt...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 33 thường niên tại nhà thờ Chúa Thánh Thần-Taiwan -Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Bấy giờ Con Người sẽ ngự đến, đầy uy nghi và cao cả. Đó là một vài nét chấm phá về ngày: TN 33-B31
Bấy giờ Con Người sẽ ngự đến, đầy uy nghi và cao cả. Đó là một vài nét chấm phá về ngày phán xét chung, ngày Chúa ngự đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, ngày linh hồn chúng ta sẽ lộ hết chân tướng.
Đúng thế, vào ngày lễ Giáng sinh năm 1541, người ta mở tấm màn che phủ bức tranh khổng lồ của Michel Ange. Bức tranh về ngày phán xét chung. Nếu được nhìn ngắm, hẳn chúng ta sẽ rùng mình khiếp hãi. Khuôn mặt của Chúa Giêsu không còn là khuôn mặt của vị mục tử nhân lành, nhưng là khuôn mặt của một vị quan tòa oai nghiêm. Trong bức tranh, có đến hơn 300 hình ảnh: nào là các thánh Tông đồ, nào là các thánh Tử đạo,nào các thánh Tiến sĩ, nào là các Đức Giáo hoàng, nào là những người giáo dân…Theo tiếng kèn thiên sứ, những người chết chỗi dậy và ra khỏi mồ. Cha mẹ âu yếm nhìn lại con cái của mình. Bạn bè tay bắt mặt mừng. Thế nhưng, trong ánh mắt của họ hiện rõ một sự lo âu sợ hại vì số phận đời đời sắp được ấn định. Nhưng đó mới chỉ là một bức tranh do óc tưởng tượng của nhà nghệ sĩ.
Nếu những điều Chúa tiên báo về số phận bi thảm của Giêrusalem đã được thực hiện vào năm 70, khi tướng Titus đem quân vây hãm và tàn phá, đến mỗi không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, thì những lời Chúa nói trước về ngày tận thế chắc chắn cũng sẽ xảy ra. Thế nhưng, có những người đã tự lừa dối mình khi nói: Thiên Chúa nhân lành, Ngài không nỡ trừng phạt chúng ta trong lửa đời đời. Họ đã lầm. Đúng thế, lòng nhân lành của Thiên Chúa không phải là một cái gì nhu nhược và yếu đuối và bản thân Ngài cũng không phải là kẻ thiếu khả năng, không thực hiện được những ý định của mình. Mặc dù là một người cha giàu lòng thương xót, nhưng Ngài vẫn là một vị thẩm phán công bằng, trừng trị những kẻ phản bội Ngài bằng án phạt hỏa ngục muôn kiếp.
Trong khi tạc một một bức tượng, nhà nghệ sĩ thường dùng màn để che phủ, nhưng lúc đã tạc xong, ông ta sẽ vén bức màn đó lên để mọi người chiêm ngắm. Trong ngày phán xét chung cũng vậy, búc màn che dấu cuộc đời chúng ta cũng sẽ được vén lên và lúc đó câu hỏi duy nhất được đặt ra cho mỗi người, đó là hàinh ảnh Thiên Chúa có rõ ràng và sáng chói trong tâm hồn chúng ta hay không ? Trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã dùng áo quần và son phấn cũng như địa vị xã hội để che dấu con người thực sự và ngay cả những người bạn thân thiết nhất cũng không thể nào nhìn thấy khuôn mặt thật của chúng ta. Nhưng khi giờ phán xét đến, tất cả bức màn ấy sẽ bị rơi xuống, để chúng ta hiện nguyên hình trước tôn nhan Thiên Chúa. Mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta, dù thầm kín nhất cũng sẽ bị phơi bày dưới ánh sáng của Thiên Chúa. Chúng ta không thể nào chạy tội hay chối cãi được nữa. Đó là một giây phút quyết liệt, giây phút đứng trước tòa án tối cao của Thiên Chúa, Ngài sẽ không hỏi chúng ta đã sống được bao nhiêu năm, nhưng sẽ hỏi chúng ta đã sống như thế nào ?
Lúc bấy giờ sứ thần Chúa sẽ mở cuốn sổ cuộc đời chúng ta. Bao nhiêu ngày là bấy nhiêu trang. Đây là những ngày chúng ta còn thơ ấu với những trang được viết bằng nét chữ vàng ghi nhận những giờ kinh sốt sắng, những lần rước lễ thật trang nghiêm và những tâm tình sám hối ăn năm. Sứ thần Chúa tiếp tục mở những trang kế tiếp. Không một tư tưởng, không một lời nói cũng như không một việc làm nào bị quên sót. Tất cả những việc tốt cũng như những việc xấu.
Nhưng rồi nét mặt của vị sứ thần Chúa bắt đầu buồn bã và chúng ta lo sợ. Trên những trang giấy ấy, đã xuất hiện những vết đen đầu tiên, đó là những lầm lỗi của chúng ta. Tiếp đến là một trong đen kín, đó là tội trọng đầu tiên chúng ta đã vấp phạm. Rồi lại đến những trang đen kín khác và ngay cả trang cuối cùng cũng đen kín. Sứ thần Chúa bỏ đi, nước mắt chan hòa và ma quỷ tiến đến. Nó thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, là vị thẩm phán công minh. Chính Chúa đã xuống thế làm người vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã chịu lạnh rét nơi hang đá Bêlem cũng vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã sống nghèo hèn suốt 30 năm cũng vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá cũng vì kẻ tội lỗi này. Thế nhưng, kẻ tội lỗi này vẫn ngoan cố, không chịu phụng sự làm tôi Chúa, nhưng đã chạy theo tội lỗi. Vậy xin Chúa phán quyết xem: hắn thuộc về Chúa hay là thuộc về tôi ?
Bởi đó, hãy thuộc về Chúa trong giây phút hiện tại, để rồi chúng ta sẽ thuộc về Chúa mãi mãi trong cuộc sống vĩnh cửu, và chúng ta sẽ không còn lo sợ khi Chúa đển để xét xử chúng ta.
Khi còn ở Tập Viện, một hôm thánh Louis Gonzaga đang chơi với các bạn thì một người bạn: TN 33-B32
Khi còn ở Tập Viện, một hôm thánh Louis Gonzaga đang chơi với các bạn thì một người bạn hỏi ngài rằng: “Giả sử bây giờ chỉ còn ít phút nữa bạn sẽ chết, bạn sẽ làm gì ?” Thánh Louis dừng lại một chút rồi mỉm cười trả lời: “Tôi sẽ tiếp tục chơi”.
Nhiều người ngày nay lo sợ về ngày tận thế. Bởi vì có nhiều dấu hiệu giống như những điều đã được tiên báo trong các sách Tin Mừng. Chẳng hạn như loạn lạc chiến tranh, tình trạng hỗn độn, nạn đói kém, các dịch bệnh, động đất và việc xuất hiện các ngôn sứ giả (Mt 24:4…) Đó là những dấu chỉ của những ngày sau cùng và chúng liên hệ đến các biến cố trong thời đại của chúng ta. Đây không phải là một giả định. Với tư cách là những Kitô hữu, theo quan điểm của Giáo hội, niềm tin của chúng ta là chúng ta đã và đang sống những ngày sau cùng từ hai ngàn năm nay rồi. Bắt đầu từ ngày Chúa Giêsu Kitô chịu chết và phục sinh, cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang, thời gian này được gọi là những ngày sau cùng.
Đối với những người Kitô hữu chúng ta, sự kiện tận thế không phải là sự hủy diệt trái đất mà chúng ta đang sống, như một số nhà khoa học tin như thế, nhưng là việc Chúa Giêsu Kitô đến lần thứ hai. Đó là lúc kẻ chết sống lại và mọi người đều phải trình diện trước Chúa Kitô để chịu phán xét. Chúng ta gọi biến cố này là ngày của Chúa, bởi vì ngày đó chấm dứt sự hoành hành của Thần Dữ. Nó đã bị đánh bại.
Vì thế, bạn đừng lo lắng chuyện tận thế, nhưng vấn đề là ở chỗ bạn có giữ vững đức tin của mình không ? Bạn có sống đúng là một Kitô hữu hay không ? Thay vì phí mất thời giờ quí báu để lo lắng về chuyện tận thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Kitô khuyên chúng ta hãy sống đúng tư cách là người Kitô hữu trong hiện tại. Vấn đề là ở chỗ này.
Theo Kinh Thánh, ngày phán xét chúng ta chỉ bị hỏi một câu thôi: “Con đã làm gì cho những anh chị em nhỏ mọn nhất của Ta ?”
Lạy Chúa, xin cho con sống mỗi ngày như thể là ngày sau hết của đời con.
Cứ gần hết chu kỳ phụng vụ, Hội Thánh lại hướng nhân loại, hướng người Kitô hữu nhìn về: TN 33-B33
Cứ gần hết chu kỳ phụng vụ, Hội Thánh lại hướng nhân loại, hướng người Kitô hữu nhìn về tương lai của mình, về ngày cùng tận của lịch sử cứu rỗi, ngày cánh chung, đồng thời cũng là ngay quang lâm của Chúa Kitô để đưa nhân loại vào Nước Trời, Nước vinh quang vĩnh cửu của Ngài.
Ý NGHĨA CÁC BÀI ĐỌC:
Bài sách Đaniên trích đoạn 12, 1-3 gợi lên cho dân Chúa sự khích lệ của Chúa đang lúc dân chúng gặp cảnh đau khổ, chiến tranh, bần cùng. Vua Antiochus Epiphane vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên đã ra tay tàn sát, bách hại dân Do Thái một cách tàn bạo. Ngôn sứ Đaniên đã lên tiếng bảo dân hãy hy vọng, đặt niềm tin vào Thiên Chúa, chắc chắn Ngài sẽ can thiệp và giải thoát dân khỏi ách bạo tàn của vua Antiochus Epiphane. Những người đã chết, Ngài cho sống lại:” Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ thức dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời “. Bài đọc 2, thánh Phaolô viết cho tín hữu Do Thái 10, 11-14.18 vẫn cho người Kitô hữu hiểu về chức tư tế của Cựu ước, của dân Do Thái chỉ tạm bợ và qua đi, còn chức tư tế của Chúa Giêsu vững bền và trường tồn:” Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo. Vì nơi nào đã có ơn tha tội, thì đâu cần lễ đền tội nữa “ ( Dt 10, 14 ). Hai bài đọc thứ I và thứ 2 dẫn người tín hữu đi vào cốt lõi của đoạn Tin Mừng Mc 13, 24-32. Bài Tin Mừng của thánh Marcô hôm nay nói rõ về lời của Chúa Giêsu loan báo về ngày cùng tận, ngày cánh chung. Chúa Giêsu cũng đã hiểu rất rõ lời của ngôn sứ Đaniên trong bài đọc I và Ngài cũng muốn nói cho nhân loại, cho mọi Kitô hữu hiểu về sự hy vọng mà Ngài sẽ mang lại cho mọi người. Ý tưởng của đoạn Tin Mừng này gợi lên cho người tín hữu:” Thế giới cũ, thế giới tội lỗi sẽ bị tiêu diệt; một thế giới mới sẽ xuất hiện nhưng không ai biết lúc nào, bao giờ những sự việc ấy sẽ xẩy ra cho nhân loại “.
CHÚA GIÊSU NÓI GÌ VỀ NGÀY TẬN THẾ:
Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Marcô hôm nay, người Kitô hữu được làm quen với lối văn Khải Huyền, lối văn của Cựu ước quen thuộc với người đương thời của Chúa Giêsu hơn người Kitô hữu đang sống trong thế giới ngày nay. Do đó, người Kitô hữu hiện thời không được hiểu lời Chúa theo nghĩa đen.” Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các tinh tú bầu trời bị lay chuyển”, tất cả những hình ảnh được diễn tả, những thứ tưởng sẽ tồn tại vĩnh viễn thì cũng có ngày bị tan tành, không còn hiện diện nữa. Tuy nhiên, giữa những hình ảnh, những hiện tượng khủng khiếp ấy, xuất hiện một ánh sáng chói ngời vinh quang. Hình ảnh của Đấng ngự trên mây trời mà đến, là một hình ảnh rất quen thuộc của Kinh Thánh diễn tả những thực tại tâm linh.” Người sẽ sai các thiên sứ tập hợp những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” ( Mc 13, 27 ). Hình ảnh Con Người ở đây giống hình ảnh Người mà ngôn sứ Đaniên đã nói tới trong bài đọc I, Ngài sẽ ngồi toà xét xử mọi người và thiết lập một vương quốc vĩnh cửu, trường tồn. Hình ảnh cây vả đâm chồi nẩy lộc tiên báo sức sống mới. Cây vả lá rụng hết trước mùa hè và lá non đâm chồi nẩy lộc xanh tươi báo trước mùa hè tới. Ngày cùng tận sẽ không chỉ là ngày tai họa được giáng xuống nhưng ngày đó còn là ngày hy vọng…Cũng như cây vả đâm chồi, nẩy lộc xanh tốt tiên báo mùa hè tới..thì những tai ương như bão táp, động đất, đói kém, chiến tranh cũng loan báo:” Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi “ ( Mc 13, 29 ). Đoạn Tin Mừng của thánh sử Marcô như muốn nói rằng ngày tận thế đã tới gần rồi. Tuy nhiên, phần cuối của đoạn Tin Mừng này quả quyết: “ Còn về ngày hay giờ đó, thì dù là các thiên sứ trên trời, hay cả Người Con đi nữa, cũng không ai có thể biết được, trừ một mình Chúa Cha mà thôi “ ( Mc 13, 32 ). Như thế, Chúa Giêsu nói với mọi người:” Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào ngày ấy đến” ( Mc 13, 33 ).
Sứ điệp mà các bài đọc của Chúa nhật 33 nhắm tới:” Mọi người Kitô hữu có quyền hy vọng khi họ tin vào sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, khi họ đọc kinh tin kính và tuyên xưng:” Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau” hoặc lời tung hô sau truyền phép:” Tôi tuyên xưng Chúa đã chết đi, tôi tuyên xưng Người đã sống lại và tuyên xưng Chúa lại đến trong vinh quang “. Những lời tuyên xưng ấy giúp người Kitô hữu tin tưởng và hy vọng. Tin tưởng và hy vọng vì mình cũng được phục sinh với Chúa sống lại vì sự chết đối với người Kitô hữu chỉ thay đổi chứ không mất đi và hệ luận là người Kitô hữu luôn luôn hy vọng:” Không sợ đau khổ, không sợ chết “ vì niềm hy vọng của họ có bảo đảm, có sự sống mới của Đấng phục sinh. Do đó, người Kitô hữu luôn hiên ngang hướng tới ngày quang lâm vinh hiển của Chúa…Ngài sẽ đến đưa con người vào vinh quang vĩnh cửu của Ngài trong Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con luôn biết sẵn sàng đón chờ ngày quang lâm vinh hiển của Chúa. Amen.
A- Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc sau: (Reflection&Share)
Nàng tìm kiếm len và vải gai, rồi vui vẻ ra tay làm việc./A Worthy Wife. (câu 13): TN 33-B34
Bài đọc 1: Châm ngôn (31:10-13;19-20;30-31). “Nàng tìm kiếm len và vải gai, rồi vui vẻ ra tay làm việc./A Worthy Wife. (câu 13)
a/ Câu Châm ngôn này có ý nói gì với mọi Tín hữu Kitô hôm nay?
b/ Bạn thường làm những việc gì để chứng tỏ sinh lời cho Chúa?
Bài đọc 2: 1 Tx (5: 1-6). “Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác; nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ.”/ The Day of the Lord. (câu 6)
a/ Ngoài việc dâng lễ cầu nguyện, hàng ngày tôi còn phải làm gì?
b/ Những nhân đức nào để người Tín hữu thắng được bóng tối tăm?
Tin Mừng: Mt (25: 14-30). “Được giao ít mà trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh, hãy vào mà hưởng niềm vui…”/ The Faithful of Servant. (câu 21)
a/ Vốn liếng Chúa ban cho tôi là những gì, vã đã sinh lời bao nhiêu?
b/ Trong lãnh vực Nước Trời, bạn đã quản lý cuộc đời mình thế nào?
c/ Trong dụ ngôn này dạy tôi về điều gì? Chúa sẽ tuyên án những ai?
B- Ý Chúa muốn nói gì với tôi qua ba bài trên: Creative Fidelity.
Today, God’s question to me is: “Do I practice “creative fidelity”
1/ Người vợ chung thủy: Sách Châm ngôn đưa ra hình ảnh một người vợ chung thủy là Nàng Khôn Ngoan, với những nết đẹp tuyệt vời như: nàng làm cho chồng hết lòng tin tưởng, luôn đem lại hạnh phúc, kiếm len thêu dệt, đem lương thực về, thức khuya dậy sớm, giúp người nghèo khổ, kính sợ Thiên Chúa. Tất cả những nết tương tự như trên, tôi cần phải có để tỏ lòng trung thành với ơn Chúa, mình đã lãnh nhận từ bao năm qua.(Be faithful to your marital commitment)
2/ Ngày giờ Chúa đến: Thánh Phaolô cho tôi biết những hình ảnh Chúa đến với tôi như: kẻ trộm, bình an, yên ổn biết bao! Tai họa bất chợt ập xuống, giống cơn đau bụng của người đàn bà có thai, chẳng ai trốn được!. Tôi đang sống trong ánh sáng là theo Lời Chúa hay đi trong bóng tối là đam mê tội lỗi? Là con cái sự sáng hay con cái tối tăm? Tôi cần sống tỉnh thức, ăn ở tiết độ, không nên ngủ mê trong các dục vọng là Tham --Sân -Si. (Stay awake and sober)
3/ Kẻ biết làm sinh lời: Mỗi người đã lãnh nhận những nén bạc Chúa trao là ân sủng của Ngài, bạn đã quản lý đúng là sinh lời, giúp ích cho mình và tha nhân, để khi ông chủ đến thu hồi là ngày quang lâm của Chúa. Nếu bây giờ bạn không biết dùng ơn Chúa, bạn sẽ bị lấy đi, để ban cho người biết làm sinh hoa lợi. Còn bạn dùng hết thì với ơn Chúa ban, bằng cách trau giồi, học hỏi, tu luyện, chia sẻ không ngừng, thì Ngài sẽ ban thêm để bạn dư dật. Còn nếu bạn dùng ơn Chúa để hưởng thụ. trục lợi, hà hiếp,..,bạn sẽ bị vào chốn tối tăm, là hoả ngục đời đời. (Chech yourself on “what I have failed to do”.
C- Câu Kinh Thánh thúc đẩy tôi Sống tuần này(The Best God’s Word)
VÌ PHÀM AI ĐÃ CÓ, THÌ ĐƯỢC CHO THÊM VÀ SẼ CÓ DƯ THỪA
“Those who have, will get more until they grow rich” (Mt 25, 29)
D- Bạn và tôi phải làm gì bây giờ: (So what am I doing / For Action)
1/ Tôi đọc lại những câu hỏi gợi ý ở phần A để áp dụng vào đời sống.
2/ Tùy theo ơn Chúa ban, bạn làm việc cụ thể để sinh lời cho Chúa.
E- Bạn và tội dựa vào Lời Chúa để cầu nguyện: (Pray and Practice)
Lạy Cha, Đức Giêsu đã nói: Ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Xin Mẹ Maria giúp con mỗi ngày luôn làm nhiều việc lành theo ơn Chúa đã ban, không ngừng nghỉ và lười biếng, vì Chúa sẽ đến không biết lúc nào, để con xứng đáng là đầy tớ trung thành của Chúa.
Hoa thơm cỏ lạ: HÃY LÀM CHO TỪNG GIÂY PHÚT CÓ GIÁ TRỊ CHO CHÚA KITÔ./ Make every moment count for Jesus Christ
“CHÚA PHẢI ĐƯỢC LỚN LÊN, CÒN TÔI NHỎ ĐI” (Ga 3,30)
Lời Chúa: Dan 12:1-33; Heb 10:11-14,18; Mk 13:24-32
Chủ Đề: Hãy luôn sẵn sàng
Suy Niệm: “Khi Con Nguời ngự đến… Ngài sai các thiên thần đi quy tụ những kẻ được tuyển chọn từ khắp bốn phương.” (Mk 13:26-27)
Khi cả thế giới đang chuẩn bị đón giây phút giao thừa bước sang năm 2000, mọi nguời đều sống: TN 33-B35
Khi cả thế giới đang chuẩn bị đón giây phút giao thừa bước sang năm 2000, mọi nguời đều sống trong hồi hộp. Chờ từng phút, đợi từng giây để đón nhận một tương lai vô định. Có thể các biến cố không tốt bất ngờ xảy đến! Trong lúc bàng hoàng như vậy, kẻ thì ngước mắt đếm sao trời và quan sát sự vận hành của các tinh thể để tính toán cơ may. Nguời thì bôn ba đi cầu khẩn bất cứ nơi nào có tiếng là linh thiêng! Còn các khoa học gia và chuyên viên điện toán thì lo sợ ‘con bọ’ phá hủy hệ thống máy tinh vi của họ! … và có nhiều điều toan tính khác nữa. Riêng các Kitô hữu thì biết nhận định thời cuộc và dùng những giây phút linh thiêng còn lại để tạ ơn Chúa đã ban muôn phúc lộc cho họ và tổ tiên trong những thế kỉ qua! Vì không ai có thể xin ‘thời gian ơi dừng lại, chờ tôi một chút thôi’! Kitô hữu biết rằng chiếc xe thiên mệnh cứ chuyển cuộc đời theo thời gian, đưa con nguời mỗi giây phút gần tới ngưỡng cửa thế giới vĩnh cửu. Dù tin hay chống, từng nguời sẽ được tử thần lần luợt gọi tên! Có thể bất chợt. Những Kitô hữu đã sẵn sàng thì vui vẻ chuẩn bị tính sổ đời trước thiên nhan. Lúc đó, sự phán xét sẽ phân xử:’Có nguời sẽ được hưởng phúc trường sinh, có kẻ phải tủi nhục trong lửa hỏa ngục muôn đời !”(Dan 12:2)
Thực Hành: “Xin bảo toàn con, lạy Chúa! Vì con tìm nương tựa nơi Chúa.”(TV 15:1) Không có biến cố nào chung quanh thế giớ lại quan trọng hơn những biến động trong tâm hồn! Không có dấu hiệu nào báo tin rõ cho tôi hơn là tình trạng thiện hay ác của linh hồn tôi. Chỉ có tình yêu với Thiên Chúa là chỗ nương thân an toàn nhất cho cuộc đời làm nguời của tôi trên đường về cõi vĩnh cửu.
Vũ trụ này đã có một lúc khởi đầu thì cũng sẽ có một lúc kết thúc. Con người ta có sinh thì: TN 33-B36
Vũ trụ này đã có một lúc khởi đầu thì cũng sẽ có một lúc kết thúc. Con người ta có sinh thì cũng phải có tử. Kể từ khi con người xuất hiện trên mặt đất cho đến hôm nay, thời gian kéo dài hằng trăm triệu năm. Thế nhưng, thời gian ấy chẳng là gì cả so với khoảng thời gian vô biên của Thiên Chúa, như lời thánh vịnh đã nói: Ngàn năm đối với Chúa cũng chỉ là như một thoáng mây bay.
Tuy nhiên, có điều chúng ta cần lưu ý, đó là nhân loại này luôn luôn được chia làm hai giới tuyến, tin và không tin. Đón nhận và từ chối lời Ngài. Hai giới tuyến này vẫn tồn tại và tồn tại mãi cho đến ngày tận cùng của trời đất. Đúng thế, trong ngày tận cùng của trời đất Đức Kitô sẽ xuất hiện, không phải với thân phận nô lệ, nhưng với tất cả quyền năng của Ngài để phân xử ngay cả những tư tưởng thầm kín nhất của chúng ta.
Chính lúc ấy, hai giới tuyến này mới thực là rõ rệt. Một bên thì sáng ngời và hạnh phúc vì họ là những người đã trung thành gắn bó với Chúa… Còn một bên thì khổ đau và tuyệt vọng, bởi vì họ đã từng là những kẻ thù, chống đối và phỉ báng Chúa.
Lúc bấy giờ, tất cả sẽ bị phơi bày, tất cả sẽ bị tỏ lộ. Tâm hồn họ tối tăm hơn cả đêm đen, kinh hoàng hơn cả vực thẳm. Họ sẽ nghe thấy phán quyết tối cao của Chúa: Ta hằng yêu thương và chăm sóc cho ngươi như người mẹ chăm sóc và yêu thương đứa con của mình, thế mà ngươi đã chối bỏ Ta và từ khước tình thương của Ta. Thì giờ đây, hình phạt đời đời sẽ chờ đón ngươi.
Trong khi đó những người lành thì hân hoan vui sướng, bởi vì họ đã trung thành gắn bó với Chúa, không bao giờ họ bán rẻ đức tin của mình cho những đam mê và những khát vọng trần tục. Bấy giờ Chúa sẽ phán với họ: Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần gia nghiệp Nước Trời đã được chuẩn bị cho các ngươi từ trước muôn đời. Bấy giờ cánh cửa Nước Trời được mở rộng để họ tiến vào, ở đó họ sẽ được hưởng niềm hạnh phúc tuyệt vời với Chúa, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những điều Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Ngài.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta hãy xác tín rằng Nước Trời mới là quê hương đích thật, mới là nơi cư ngụ vĩnh viễn của chúng ta. Còn trần gian thì chỉ là quán trọ mà chúng ta là những lữ khách. Bởi đó, không được từ khước một hy sinh, một gian khổ nào. Trái lại, bằng mọi giá phải chiếm cho được quê hương Nước Trời.
Hãy nghĩ đến Nước Trời mỗi khi chúng ta gặp phải những cám dỗ và thử thách. Hãy nghĩ đến Nước Trời giữa những vất vả và mệt mỏi, giữa những buồn phiền và cay đắng của cuộc sống thường ngày. Hãy nghĩ đến Nước Trời trong những lúc nghèo túng, bệnh tật và cô đơn. Bởi vì Nước Trời trổi vượt trên mọi thực tại trần gian.
Đừng bán quyền trưởng nam bằng một bát cháo. Đừng bán cuộc sống vĩnh cửu bằng một vài giây phút vui thú chóng qua. Đời sống thì ngắn ngủi. Danh vọng và vui thú thì chóng tàn. Việc quan trọng chúng ta cần phải làm trước tiên, đó là tìm kiếm Nước Trời như lời Chúa đã nói: Sau cuộc sống trần gian này, thì hạnh phúc Nước Trời đang chờ đón chúng ta, thế nhưng chúng ta đã làm được những gì để chúng ta xứng đáng được Chúa đón nhận vào chốn quê hương vĩnh cửu?
Thời kỳ thánh Marco chép Phúc Âm, loại văn chương mệnh danh là văn chương mạc khải được: TN 33-B37
Thời kỳ thánh Marco chép Phúc Âm, loại văn chương mệnh danh là văn chương mạc khải được những giới Do Thái nào đó ưa chuộng, coi là hợp thời trang. Có những tập sách được lưu huỳnh, thường gồm những đoạn mô tả những tai họa thảm khốc, nhắm mục đích mạc thị về Đấng Cứu Thế sẽ quang lâm, để lãnh đạo Israel dân Người. Hai thắc mắc: Ngay chính Đức Kitô có dùng thứ ngôn ngữ mạc khải đó không trong những bài giảng về ngày tận thế? Trong chừng mực nào thánh Marco đã sử dụng loại văn thể đó? Điều ấy không quan hệ lắm ở đây. Ta ghi nhận rằng không nên hiểu những đoạn trong bài giảng của Chúa theo nghĩa đen và cụ thể. Người ta có quyền nghĩ rằng Chúa Giêsu loan báo trực tiếp thảm họa năm 70 sẽ tàn phá Giêrusalem. Nhưng quan trọng hơn nữa là cần khai triển ý nghĩa thiêng liêng bài đọc hôm nay.
Chúng ta đứng trước một vấn đề. Thật vậy, nếu bài đọc cho ta thấy ẩn hiện bóng dáng một thảm họa sẽ xảy đến lúc chung cục trong vũ trụ hữu hình, thì ta cũng có thể nhờ Lời Chúa trong Phúc Âm theo thánh Lc soi sáng để hiểu thêm về đoạn Phúc Âm hôm nay: Con Người quang lâm có sẽ tìm thấy đức tin trên trái đất không?
Chúng ta đối diện với một bí nhiệm đáng cho ta khiếp sợ. Mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, các tinh tú từ trời sa xuống, tất cả ám chỉ những gì diễn ra ngày cánh chung trong lĩnh vực đức tin? Chúng ta ao ước phỏng đoán tương lai Giáo Hội như là một sự tiến dần của nhân loại đến ánh sáng. Như vậy, vào ngày tận cùng, tương lai đó sẽ kết liễu trong một thảm họa mịt mùng ư? Trong viễn tượng đó, làm thế nào để bảo toàn niềm hy vọng? Để dễ dàng trả lời, chúng ta đặt câu hỏi rõ hơn. Hy vọng của chúng ta phải hướng về mục tiêu nào? Hy vọng thúc giục chúng ta phải có thái độ thực tiễn nào?
1) Hy vọng của chúng ta phải hướng về sự hiển trị của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trong ngày sau hết. Người ta sẽ thấy Con Người đến với quyền năng cao cả và vinh quang. Những kẻ nào làm cho ánh sáng đức tin ra tối tăm sẽ bị khai trừ, không được hiệp thông vinh hiển với Đức Kitô. Trái lại, những ai thành tâm thiện chí tin vào Đức Giêsu, những kẻ ‘được tuyển chọn’ sẽ được thu họp từ bốn phương, từ tận cùng mặt đất đến tận cùng chân trời, để được hiển trị với Chúa. Do đó, bất kể những thăng trầm trong lịch sử loài người, và cả trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta hãy đặt niềm hy vọng của chúng ta trên sự kiện Đức Giêsu Kitô, Chúa tể vũ trụ. Người tác động để nhân loại nhìn nhận Người là tâm điểm vũ trụ. Ngày tận cùng, sự kiện cơ bản ấy sẽ hiển hiện trong khải hoàn, và sẽ là niềm hân hoan của những kẻ được chọn.
2) Về thực thực tế, chúng ta nắm chắc được phần nào của sự hy vọng? Chúng ta có trách nhiệm xây dựng tương lai nào? Chúng ta xây dựng tương lai chúng ta và tham dự tương lai Giáo Hội trên sự thật hiện hữu nào? Thưa, trên điều sau. Trong con người chúng ta, một thế giới phải cáo chung để Chúa hiện đến. Thế giới phải chấm dứt đó là tập thể gồm nhiều lầm lạc, những ảo tưởng, những ích kỷ, những tội lỗi của chúng ta. Điều chúng ta cần quan tâm không phải là những việc lành phúc đức, những nhân đức, những chiến thắng trong việc tông đồ của chúng ta, nhưng chính là niềm hy vọng và ước nguyện Chúa sẽ hiển hiện trong chúng ta, xuyên qua chúng ta, nhờ vào sức cường nhiệt của đức tin và đức ái chúng ta lúc này.
3) Ludwig Van Beethoven là một tác giả vĩ đại của mọi thời. Trong lúc ông vẫn còn đang tạo ra những kiệt tác thì ông cảm thấy mình dần dần mất đi thính giác, ông không còn nghe thấy. Sau khi ông đã trở thành hoàn toàn điếc, ông sáng tác ra bản giao hưởng số 9. Ông đã không nghe một nốt nào. Một số người nào đó nói những thiên tài thì bất tử bởi vì công trình của họ. Họ tin rằng Beethoven đang sống trong âm nhạc của mình. Shakespeare thì ở trong vở kịch của mình và Edison ở trong phát minh của mình. Beethoven biết tốt hơn. Khi ông sắp chết, ông nói: “Tôi sẽ nghe nhạc ở trên trời”. Ông ta nói rất đúng.
Chúng tôi tin rằng Beethoven bây giờ đang nghe, không chỉ nghe những tác phẩm của chính mình, nhưng là âm nhạc của vị thầy vĩ đại là chính Thiên Chúa của ông. Beethoven đã được đặc ân hiệp nhất với các thiên thần và các thánh để ca bài ca vui mừng vô tận. Shakespeare biết rằng tất cả những lời trong tác phẩm của ông chỉ là một tiếng vang mờ nhạt với Lời đời đời được nói bởi Cha trong cõi đời đời. Lời đó chính là Con Thiên Chúa. Edison liều lĩnh phát mình ra ánh đèn điện nhưng bây giờ ông đã tắm trong ánh sáng rực rỡ của thị kiến vinh phúc. Bây giờ ông hiểu rằng chân lý trong sách bài đọc từ sách Đanien. Nền tảng của sách đó là dân Israel đã bị chiếm đóng bởi Syrie, họ cố áp đặt trên người Do Thái một ngôn ngữ ngoại quốc, một nền văn hóa và tôn giáo ngoại quốc. Nhiều người Do Thái đã chọn lấy cái chết hơn là bị bắt cầm tù. Tác giả của sách đã hiến tặng môt sứ điệp hy vọng cho những người sống sót bởi tuyên bố: “Người khôn ngoan sẽ chiếu sáng… những người đó sẽ được dẫn tới sự công chính và những người công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao mãi mãi”. Sự phát minh của Edison ngay cả khi nó phát triển nó cũng chỉ là mờ nhạt khi so với ánh sáng của sự sống đời đời, đặc ân lớn lao của Đức Kitô đã ban xuống khi Ngài đến một lần nữa, Ngài đến lần thứ hai khi Ngài Phục Sinh từ cõi chết sống lại.
Shakespeare sẽ không bao giờ tưởng tượng ra cảnh Đức Kitô, Con Thiên Chúa sẽ đến trong đám mây với quyền năng lớn lao và vinh quang, cũng không bao giờ tìm thấy đủ từ ngữ để miêu tả sự kiện ấy. Và cả chúng ta cũng như thế nữa. Chúng ta đã hầu như không hiểu lời của những từ ngữ mà trong bài Phúc Âm ngày hôm nay. Đó là tất cả những gì mà chúng ta muốn trở nên hay cả khi nó xảy ra chỉ có Cha trên trời mới biết được.
Trong lúc chúng ta không giống như những người Israel đang chịu đau khổ trên miền đất của mình bởi sự chiếm đóng của người Syrie. Chúng ta đang bị bao quanh bởi đạo quân văn hóa của sự chết, đạo quân này gây chiến tranh trên giá trị và nhân phẩm của đời sống con người. Nó tấn công chính tình bạn con người khi họ rất dễ tổn thương: khi chúng bắt đầu đời sống trong dạ mẹ, và khi gần chấm dứt cuộc sống trong tuổi già. Họ loại bỏ những người hầu như cần tới sự giàu có của quê hương chúng ta để cho họ được sống sót: là những kẻ không nhà, những kẻ đói ăn, những kẻ lãnh trợ cấp và những dân nhập cư.
Trong lúc chúng ta vẫn trung thành với đức tin Công giáo và những giáo huấn giá trị của Giáo Hội, chúng ta không phải chết đau khổ; ít nhất cũng là như thế. Nhưng chúng ta bị nguy hiểm khi cho phép chính mình bị ảnh hưởng một cách tinh tế, bởi những giá trị thế tục như là ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, sự tham lam. Để kháng cự lại những ảnh hưởng này, chúng ta phải suy niệm về lời hứa sự sống đời đời cho những kẻ còn giữ được lòng trung thành. Chúng ta sẽ nhớ rằng bí tích Thánh Thể là một lời nài xin và một lời hứa của sự sống đời đời sẽ là động cơ thúc đẩy chúng ta trung thành mãi mãi. Đức Kitô sẽ làm viên mãn những lời của bài đọc ngày hôm nay: “Những ai được dẫn tới sự công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao trên trời”. Bên cạnh sự chiếu sáng như những vì sao chúng ta sẽ nghe thấy và sẽ nhìn thấy chính Thiên Chúa.
Tại đây chắc chắn là Chúa Giêsu đang đề cập sự tái lâm của Ngài. Điểm quan trọng là Ngài: TN 33-B38
Tại đây chắc chắn là Chúa Giêsu đang đề cập sự tái lâm của Ngài. Điểm quan trọng là Ngài khoác lên ý niệm của Ngài ba hình ảnh vốn là những phần của cơ cấu liên hệ với Ngày Của Chúa.
1/ Ngày của Chúa sẽ đến sau một thời gian chiến tranh. Trước ngày của Chúa sẽ có: “Động đất nhiều nơi, các dân tộc náo loạn. Các nước mưu đồ, các lãnh tụ bối rối, các vua chúa lo âu”.
“Vào giữa số dân chúng sống trên mặt đất, sẽ có sự kinh ngạc sửng sốt. Họ âm mưu gây chiến tranh với nhau, thành phố này chống lại thành phố nọ, địa điểm này chống địa điểm khác, dân nọ chống dân kia, vương quốc chống với vương quốc”.
Sách Các Sấm ký của Sybille thấy trước: “vua này cướp đất và bắt vua kia làm tù binh, dân tộc này cướp phá dân tộc khác và áp bức nhân dân, các nhà cầm quyền trên đất xông vào xứ của nhau, và đất nước biến thành người và một đế quốc dã man sẽ tàn phá Hellas và lấy đi sự giàu có của vùng đất phì nhiêu của nó, và người ta sẽ đối mặt để tranh chiến nhau” (3,633-647).
Sách Barúc 27,5-13 kể ra 12 việc sẽ đến trước kỷ nguyên mới “Trước hết sẽ có sự náo động khởi đầu, thứ hai sẽ có các nhân vật quan trọng bị giết. Thứ ba sẽ có nhiều người chết và thứ tư, gươm sẽ được gửi đi khắp nơi. Thứ năm sẽ có đói kém, hạn hán. Thứ sáu sẽ có động đất và nhiều chuyện kinh hoàng (trong bản thảo có một khoảng để trống), thứ tám sẽ có một đám đông vô số những bóng ma và sự tấn công của ma quỷ. Thứ chín, sẽ có lửa sa xuống. Thứ mười sẽ có cướp bóc và nhiều áp bức. Thứ mười một sẽ có sự gian ác và loạn dâm. Thứ mười hai sẽ có hỗn loạn vì tất cả những gì đã được nói trên đây đều hòa lẫn vào nhau”.
“Toàn dân trên đất đều bị thúc đẩy để chống nghịch lẫn nhau” (48,31). Và họ sẽ thù ghét nhau, gây chiến với nhau… Và ai thoát được chiến tranh thì lại chết vì động đất. Ai thoát khỏi động đất sẽ bị lửa thiêu rụi. Và ai thoát được lửa sẽ bị đói kém tiêu diệt”.
Rõ ràng khi Chúa Giêsu đề cập chiến tranh và tiếng ồn ào của chiến tranh là Ngài dùng các hình ảnh từng là những phần về các viễn ảnh tương lai của dân Do Thái.
2/ Trước ngày của Chúa, mặt trời, mặt trăng sẽ tối tăm. Chính Cựu Ước cũng đầy dẫy những câu như thế (Am 8,9; 2,10; 3,15; Is 13,10; 34,4).
Một lần nữa rõ ràng Chúa Giêsu đã sử dụng phần ngôn ngữ phổ thông mà ai cũng biết.
3/ Một phần của hình ảnh vẫn thường xuất hiện, là dân Do Thái từ bốn phương trời sẽ được thâu gọn về Palestine. Cựu Ước vốn đầy những ý niệm như vậy (Is 27,13; 35,8-10; Mk 7,10; Dcr 10,6-11). Nền văn chương đại chúng cũng rất thích ý niệm đó “Hãy thổi kèn trong Siđôn để kêu gọi các thánh, hãy làm cho trong cả Siđôn, người ta đều nghe tiếng Đấng đem Tin Mừng đến, bởi Thiên Chúa đã thương xót dân Israel và thăm viếng họ. Hãy đứng trên đỉnh núi, hỡi Giêrusalem và nhìn xem con cái Người từ phương Đông và phương Tây được Đức Chúa tập họp lại (Tv 11,1-3).
Khi đọc những lời lẽ đầy hình ảnh của Chúa Giêsu về sự tái lâm, chúng ta phải nhớ Ngài không hề ban cho chúng ta một bản đồ về cõi đời đời hay một thời biểu cho tương lai, nhưng Ngài chỉ dùng ngôn ngữ và các hình ảnh người Do Thái đã từng biết và sử dụng từ nhiều thế kỷ trước Ngài.
Nhưng điều vô cùng lý thú là những điều Chúa Giêsu tiên báo đã thật sự xảy ra. Ngài nói tiên tri về chiến tranh và trên thực tế, đạo quân đáng sợ của dân Batthê đang gây áp lực tại các biên giới của đế quốc Roma. Ngài đã nói tiên tri về động đất thì trong vòng bốn mươi năm, thế giới thuộc đế quốc Roma đã phải kinh hoàng vì cơn động đất tàn phá Laodikia và vụ núi Vesuvius phun lửa và phun thạch chôn vùi thành phố Pompeii. Ngài nói tiên tri về đói kém, thì dưới thời Claudius, thành phố Roma đã bị nạn đói. Thật đó là một thời kỳ đầy kinh hoàng, đến nỗi lúc Tacitus bắt đầu viết sử, ông đã bảo dường như mọi chuyện sắp xảy ra đều chứng tỏ các thần đang tìm cách báo thù chứ không phải cứu vớt đế quốc Roma.
Trong đoạn này, điều duy nhất chúng ta phải giữ là sự kiện Chúa Giêsu đã nói trước rằng Ngài sẽ tái lâm.
HÃY TỈNH THỨC (13,28-37)
Trong đoạn này có hai điểm cần đặc biệt cần ghi nhận.
1/ Thỉnh thoảng có người nghĩ rằng Chúa Giêsu bảo các việc này xảy ra trong vòng một thế hệ là Ngài nói sai. Nhưng Chúa nói đúng, vì câu này không hề ám chỉ tái lâm. Câu này không thể nói như thế vì ngay câu tiếp theo đó, Ngài bảo không có ai biết ngày giờ nào việc ấy sẽ xảy ra. Nó ám chỉ về những lời tiên tri của Chúa Giêsu và việc thành Giêrusalem thất thủ và Đền Thờ sẽ bị tàn phá, là những việc đã ứng nghiệm.
2/ Chúa Giêsu bảo rằng Ngài không biết ngày nào giờ nào Ngài sẽ tái lâm. Có nhiều điều Ngài giao trọn vào tay Thiên Chúa mà không thắc mắc. Không có lời cảnh cáo và quở trách nào nghiêm trọng hơn cho những kẻ muốn tính ngày giờ cho việc Chúa tái lâm. Chắc chắn nếu chúng ta muốn truy tìm, tra vấn cho ra điều mà chính Chúa bằng lòng không tìm biết, thì tội đó quả là tội phạm thượng.
3/ Cho nên Chúa Giêsu rút ra một kết luận thực tiễn. Chúng ta cũng giống như những người đầy tớ, biết chủ mình sẽ về nhưng không biết lúc nào. Chúng ta đang sống trong bóng tối của cõi đời đời. Không có lý do gì để sợ hãi hoặc suốt ruột chờ trông. Điều có ý nghĩa nhất là hàng ngày chúng ta chu toàn bổn phận của mình, chúng ta phải sống, coi việc Ngài tái lâm lúc nào là việc rất bình thường. Ngài đã giao cho chúng ta nhiệm vụ quan trọng là mỗi ngày phải làm việc để Ngài sẽ xem xét, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để gặp mặt Ngài mặt đối mặt. Cả đời sống chúng ta là việc chuẩn bị để gặp Vua!
Khi mở Phúc Âm Maccô 13, chúng tôi nói ngay đây là chương sách khó hiểu, nhưng cuối cùng một chân lý để lại cho chúng ta, vài điểm của chân lý đó là:
1/ Nó cho chúng ta biết chỉ có người của Chúa mới nhìn vào những bí mật của lịch sử. Chúa Giêsu đã thấy số phận của Giêrusalem mặc dù những người khác mù quáng, chẳng thấy gì. Một chính khách thật sự phải là người của Chúa. Một người muốn hướng dẫn xứ sở thì chính mình phải được Chúa hướng dẫn. Chỉ có người biết Chúa, mới có thể tham gia phần nào trong kế hoạch của Chúa.
2/ Nó cho ta biết hai điều về giáo lý Chúa tái lâm. (a) Đoạn này cho biết nó hàm chứa một sự kiện mà nếu ta quên hoặc xem thường, sẽ vô cùng nguy hiểm. (b) Nó cho biết bức tranh chứa đựng là hình ảnh của thời Chúa Giêsu, cho nên suy đoán về nó là điều vô ích, khi chính Chúa Giêsu cũng bằng lòng với sự không biết. Điều ta có thể chắc chắn là lịch sử phải đi về một điểm nào đó, phải có một kết thúc xảy ra.
3/ Nó cho ta biết trong mọi sự, việc làm điên dại hơn hết là quên Chúa mà đắm chìm trong thế gian. Người khôn ngoan không bao giờ quên rằng mình phải sẵn sàng để nghe tiếng kêu gọi. Nếu chúng ta sống và luôn luôn nhớ rõ như vậy thì kết cục sẽ không kinh khủng, nhưng là niềm vui đời đời.
Trong những ngày ấy, sau một cơn khốn quẫn…” (c.24a), những chữ này đánh dấu sự liên tục TN 33-B39
“Trong những ngày ấy, sau một cơn khốn quẫn…” (c.24a), những chữ này đánh dấu sự liên tục cũng như đứt đoạn với những điều đã nói trước đó. Từ trước tới đây, diễn từ của Chúa Giêsu chỉ chú tâm nhiều nhất đến các dấu chỉ phải xảy tới “trước khi” tận thế. Ngài lưu ý đến “Đồ-Ghê-Tởm-Khốc-Hại” sẽ đến. Và nếu muốn, ta có thể gọi nó là “phản Kitô” (13,14-24). Bây giờ vấn đề là: điều gì sẽ xảy ra “sau” các biến cố đó? Từ ngữ “bấy giờ”, dù mơ hồ, vẫn chỉ về những ngày giờ cuối hết: thời giờ đã hết rồi. Ta cũng không ngỡ ngàng khi thấy thời ấy khởi đầu bằng một loại tai họa (c. 24b-25). Đó chính là một cuộc đảo lộn mang tính vũ trụ. Mặt trăng và mặt trời tắt lụi đi. Tinh tú quay cuồng rối loạn. Nhưng độc giả ngày nay phải đặt mình vào tâm trạng người Do Thái sống ở thế kỷ 1 mới hiểu thấu đáo được các điều ấy.
Vào thời đó, trong các vững bền đề cập đến tận thế, sự hỗn loạn như thế trong thiên nhiên không có gì đáng ngạc nhiên cả. Đấy là thứ ngôn ngữ truyền thống thường dùng để loan báo rằng Con Thiên Chúa sẽ can thiệp, Ngài sẽ chiến thắng các thế lực sự dữ (x. Is 13,10; 34,4). Thực vậy, chớ quên rằng đối với các dân tộc cổ đại Đông phương (trừ dân Israel) thì tinh tú là các vị thần chủ chốt của vũ trụ. Do đó nếu cho rằng Mặt Trời và Mặt Trăng tắt lụi đi, các tinh tú bị sa xuống có nghĩa là xác nhận sự chiến thắng của Thiên Chúa độc tôn đối với các ngẫu thần ngoại giáo. Thế giới cũ kỹ phải biến đi hầu nhường chỗ cho thế giới mới. Tin Mừng loan báo việc “Con Người” đến trong vinh quang, sau khi thế giới tội lỗi đã bị triệt hạ. Hình ảnh này được lấy từ sách tiên tri Daniel, ở đó ta thấy hình ảnh bí ẩn của “Con Người” –một người-vinh quang tiến gần Thiên Chúa (Đnl 7,13-14). Đặc tính huyền nhiệm của vị này khiến ta phải nghĩ đến lối nhìn theo sách khải huyền. “Con Người” được mây trời che phủ và xuất hiện trong khung cảnh thiên giới. Thiên Chúa đã ban cho Ngài một uy quyền tối thượng hầu đánh bại hoàn toàn các thế lực gian tà. Ở bước ngoặt thời đại chúng ta, hình ảnh con người được phác họa thành Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã giao phó nhiệm vụ phải thiết lập Vương Quốc của Ngài trên thế gian này. Ta thấy rằng Chúa Giêsu đã tự nhận tước hiệu này hơn mọi tước hiệu khác (2, 10.28; 8,31; 9,31; 10,33,45). Ở đây Ngài công bố việc Ngài sẽ đến trong khải hoàn để xét xử và cứu chuộc vào thời cuối cùng. Trong thực tế, hành động cứu độ của Ngài được vạch ra tức khắc (c. 27). Sự cứu chuộc thường được coi là sự quy tụ các tín hữu trên toàn trên toàn thế giới quanh Đấng Mêsia quang vinh. Đó chính là sự thực hiện cách triệt để lời đã hứa với dân Israel trong Cựu ước, sau khi họ bị phân tán đi khắp nơi (x, Dt 30,3-5; Dcr 2,10-17).
Lời công bố Con Người sẽ đến trong khải hoàn để cứu chuộc vũ trụ chính là một nốt nhạc chủ đạo của bài ca bắt đầu từ câu 5 chương 13. Cho dù các tín hữu có chịu thử thách nặng nề tới đâu chăng nữa – kể cả bị đem ra trước Tòa án Tối cao (14-20) – thì tất cả những điều tệ hại đó đều phải quy hướng hoàn toàn về mục đích hạnh phúc này là: Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang để cứu độ loài người. Nhưng “khi nào” thì việc đó xảy ra? Câu hỏi này vẫn hằng ám ảnh mọi người. Và đây là lần đầu tiên các bài diễn từ Chúa mới trả lời họ (c. 28-37).
Dụ ngôn ngắn gọn về cây vả nói lên nhiều điều (c. 28). Cây vả này ra trái trễ (11,13). Nhưng không ai có thể lầm nó cả, chồi lá xuất hiện là dấu chỉ chắc chắn rằng mùa hè đã đến gần. Mùa hè là mùa nóng bức và là mùa hoa trái. Dụ ngôn này như thế là quá rõ ràng: thời gian tiếp tục trôi đi, tiến về phía chung cuộc. Nhưng thật khó mà áp dụng (c. 29). Những chữ “những điều đó” rất mơ hồ. Trong tiếng Hy Lạp, chúng ở hình thức số nhiều. Có thể nó thay cho “những biến cố” vừa kể đến trên đây. Hoặc là về sự phá hủy đền thờ? Hoặc những đảo lộn khác nhau mà cốt đinh là sự bắt bớ khốc liệt? (c. 14-23). Tất cả những biến cố đó đều có thể so sánh được với sự đâm chồi của cây và trong mùa xuân. Dưới vẻ lộn xộn bề ngoài, chúng hẳn loan báo một thời kỳ mới.
Một lần nữa, ta thấy văn bản Phúc Âm này gạt bỏ lối chú giải “về các tai họa” dành cho Tin Mừng loan báo. Con Người đang đến, sự cứu độ của Ngài đã “gần kề, trong tầm tay”. Ngay đến Chúa Giêsu cũng trịnh trọng xác nhận điều này (c. 30). Sự gần kề của ơn cứu độ còn được quả quyết chính xác hơn: sẽ xảy ra ngay trong “thế hệ này” đã qua rồi mà vẫn chưa có gì xảy đến. Người ta cũng đã thấy có một lần khác (x. 9,1). Chúa Giêsu nói như thể là thời buổi tận cùng sắp xảy đến tới nơi rồi. Có lẽ Chúa Giêsu nói thêm công thức khái quát này để xua tan sự mong chờ đó (c. 31).
Ý niệm về trời đất phải qua đi là một ý niệm chung cho mọi văn bản nói về “tận thế” (x. Kh 21,1). Nhưng niềm mong chờ một thế giới mới, Nước Chúa, được dựa trên lời Chúa Giêsu: ở đây Ngài đã nói nhân danh uy quyền của Thiên Chúa chí thánh (Is 40,8). Tuy có xác định thời điểm cận kề của việc kết thúc lịch sử nhưng Chúa Giêsu không bỏ quên thời điểm lúc bấy giờ (c. 32). Luca đã bỏ câu gây nhiều rắc rối này đi, còn Mathêu lại xóa đi. Chỉ riêng Maccô giữ lại. Nó nói rõ ràng không ai biết chính xác được ngày giờ tận thế. Ngay cả “Chúa Con” cũng không biết. Chính sự “bất tri” của “Con” làm các nhà thần học cũng phải lúng túng. Đó là xét về mặt nhân tính của Chúa Giêsu. Theo Maccô thì đó chính là lý lẽ hỗ trợ cho việc chấm dứt các tính toán vô bổ, các thắc mắc vô ích về “thời điểm tận thế”. Ngày giờ tận thế mãi mãi là một bí mật tuyệt đối của Chúa Cha, còn người phàm trần không thể biết trước được.
Đó chính là lý do Chúa Giêsu kêu gọi, phải tỉnh thức (c. 33). Không nên vì sự trễ nải mà bỏ qua việc này. Trái lại càng phải tỉnh táo hơn. Kiểu nói “coi chừng” trong tiếng Hy Lạp mang một ý nghĩa cụ thể hơn: “Hãy mở mắt ra” (13,5.9.23). Chính vì không có sự xác định chính xác thời điểm mà ta càng phải tỉnh thức hơn. Chúa Giêsu kể thêm một dụ ngôn ngắn để nói rõ hơn về việc tỉnh thức ấy (c. 34). Lối so sánh này của Maccô rất gần gũi với Luca (12,36-40). “Hãy bắt chước những tôi tớ đợi chờ chủ đi dự tiệc cưới về hầu ra mở cửa ngay khi nghe tiếng gõ cửa... bởi vì Con Người sẽ đến vào ngày giờ không ngờ”. Còn Tin Mừng Maccô thì lại nói ông chủ trẩy đi xa (chắc là đi ra nước ngoài). Người ta hiểu trước rằng ông sẽ vắng mặt lâu dài. Nhưng không nên lơ là tỉnh thức. Bởi lẽ ông có thể trở về thình lình, không báo trước. Dụ ngôn vừa mới được kể sơ sơ, lại bị ngắt quãng một lúc để nhắn nhủ độc giả (c. 35-36). Phải tỉnh thức luôn, bởi vì ông chủ sẽ trở về vào lúc không ngờ đến. Maccô nhắc đến bốn thời điểm: chiều tối, nửa đêm, lúc gà gáy, tảng sáng. Như thế đêm đó người ta chẳng chợp mắt được tí nào. Người ta phải thức trắng đêm không phải để chờ đợi một biến cố đơn giản, mà chờ đợi một Đấng nào đó, kể từ 13,24-25, Đấng ấy ám chỉ cho chính Chúa Giêsu, Ngài là Con Người chắc chắn sẽ quang lâm.
Thánh sử kết luận bằng cách trích dẫn lời khuyến dụ của Chúa Giêsu “Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là phải canh thức!” (c. 37). Diễn từ trước đó là dành riêng cho các môn đệ (13,3-4), Ngài muốn thông tri cho một ít người thôi. Đó là cách thức hoàn toàn mang tính “cánh chung”, được mã hóa và cố tình sử dụng kiểu nói bí ẩn. Chỉ những người bị bắt bớ mới hiểu được, còn kẻ ra tay áp bức thì không! Nhưng ở đây, lúc kết thúc, lời khẩn cấp kêu gọi phải tỉnh thức lại nói với “tất cả mọi người”, bởi vì nó liên quan đến nhiều thế hệ sau nữa.
Đã đến lúc phải kết thúc chương 13 của Maccô. Khi nhìn lại một lượt, ta sẽ thấy rõ hơn những điểm chính trong bài diễn từ của Chúa Giêsu. Trong thực tế, hầu như ta không thể nào không lẫn lộn giữa lời do Chúa Giêsu đã nói với những suy tư nảy sinh trong cộng đoàn Kitô hữu của Maccô. Câu hỏi đầu tiên của các môn đệ về sự phá hủy đền thờ: khi nào xảy ra chuyện đó? Câu trả lời vượt quá câu hỏi đó nhiều lắm. Tóm lại, người ta không còn xem Đền thờ là nơi quy tụ nữa. Nó sẽ bị sụp đổ cùng với thế giới. Mọi người phải hướng về Đấng cao trọng hơn Đền thờ, Ngài sẽ quy tụ nhân loại đã được cứu thoát khỏi sự Ác: Ngài là Chúa Kitô Quang Vinh Phục SInh.
Cách nhìn đầy hạnh phúc này không cho phép người ta loại đi được mối ám ảnh về ngày “tận thế”, là một đại họa cho vũ trụ, cho toàn thể thế giới. Bí nhiệm của sự dữ và những tai họa xấu xa do nó đem lại đã là một phần không thể tách khỏi lịch sử. Nếu đọc “các dấu chỉ thời đại” và xem chúng là những biến cố “tiên báo” cho ngày tận thế thì thật là vô bổ. Rất nhiều người đã phạm sai lầm này trong những lúc lịch sử khủng hoảng trầm trọng (sự hoảng sợ năm 1000 chẳng hạn). Và rất có thể nó lại sắp sửa xảy ra khi nhân loại đang tiến gần đến thiên niên kỷ thứ 3 này. Tuy nhiên ta thấy đó, việc Chúa Kitô quang lâm là hoàn toàn nằm trong bàn tay Thiên Chúa, chỉ phụ thuộc độc nhất vào quyền tự do của Ngài. Thiên Chúa là chủ tể tuyệt đối của lịch sử. Chỉ duy một mình Ngài biết được ngày giờ.
Toàn bộ diễn từ về ngày tận thế nói lên một cách dứt khoát bản chất lạc quan của nó. Dĩ nhiên có những thời lỳ sự Ác thắng thế. Nhưng nó không thể tạo mầm mống khai sinh ra một thế giới mới. Chỉ nhờ sự sống lại của Chúa Kitô và nhờ Thánh Thần ban cho, một mầm mống mãnh liệt sẽ khai sinh một vũ trụ mới. Ta cũng đừng quên rằng kiểu văn chương “cánh chung” bao giờ cũng kể về các tai họa u ám chồng chất để làm nổi bật lên ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa. Ước gì độc giả đừng bối rối khi đọc thấy sự Ác lan tràn dữ dội. Mà nên nhớ rằng một sứ điệp tràn đầy hạnh phúc đang triển nở.
Bấy giờ Con Người sẽ ngự đến, đầy uy nghi và cao cả.
Đó là một vài nét chấm phá về ngày phán xét chung, ngày Chúa ngự đến trong vinh quang để phán: TN 33-B40
Đó là một vài nét chấm phá về ngày phán xét chung, ngày Chúa ngự đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, ngày linh hồn chúng ta sẽ lộ hết chân tướng.
Đúng thế, vào ngày lễ Giáng sinh năm 1541, người ta mở tấm màn che phủ bức tranh khổng lồ của Michel Ange. Bức tranh về ngày phán xét chung. Nếu được nhìn ngắm, hẳn chúng ta sẽ rùng mình khiếp hãi. Khuôn mặt của Chúa Giêsu không còn là khuôn mặt của vị mục tử nhân lành, nhưng là khuôn mặt của một vị quan tòa oai nghiêm. Trong bức tranh, có đến hơn 300 hình ảnh: nào là các thánh Tông đồ, nào là các thánh Tử đạo,nào các thánh Tiến sĩ, nào là các Đức Giáo hoàng, nào là những người giáo dân…Theo tiếng kèn thiên sứ, những người chết chỗi dậy và ra khỏi mồ. Cha mẹ âu yếm nhìn lại con cái của mình. Bạn bè tay bắt mặt mừng. Thế nhưng, trong ánh mắt của họ hiện rõ một sự lo âu sợ hại vì số phận đời đời sắp được ấn định. Nhưng đó mới chỉ là một bức tranh do óc tưởng tượng của nhà nghệ sĩ.
Nếu những điều Chúa tiên báo về số phận bi thảm của Giêrusalem đã được thực hiện vào năm 70, khi tướng Titus đem quân vây hãm và tàn phá, đến mỗi không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, thì những lời Chúa nói trước về ngày tận thế chắc chắn cũng sẽ xảy ra. Thế nhưng, có những người đã tự lừa dối mình khi nói: Thiên Chúa nhân lành, Ngài không nỡ trừng phạt chúng ta trong lửa đời đời. Họ đã lầm. Đúng thế, lòng nhân lành của Thiên Chúa không phải là một cái gì nhu nhược và yếu đuối và bản thân Ngài cũng không phải là kẻ thiếu khả năng, không thực hiện được những ý định của mình. Mặc dù là một người cha giàu lòng thương xót, nhưng Ngài vẫn là một vị thẩm phán công bằng, trừng trị những kẻ phản bội Ngài bằng án phạt hỏa ngục muôn kiếp.
Trong khi tạc một một bức tượng, nhà nghệ sĩ thường dùng màn để che phủ, nhưng lúc đã tạc xong, ông ta sẽ vén bức màn đó lên để mọi người chiêm ngắm. Trong ngày phán xét chung cũng vậy, búc màn che dấu cuộc đời chúng ta cũng sẽ được vén lên và lúc đó câu hỏi duy nhất được đặt ra cho mỗi người, đó là hàinh ảnh Thiên Chúa có rõ ràng và sáng chói trong tâm hồn chúng ta hay không? Trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã dùng áo quần và son phấn cũng như địa vị xã hội để che dấu con người thực sự và ngay cả những người bạn thân thiết nhất cũng không thể nào nhìn thấy khuôn mặt thật của chúng ta. Nhưng khi giờ phán xét đến, tất cả bức màn ấy sẽ bị rơi xuống, để chúng ta hiện nguyên hình trước tôn nhan Thiên Chúa. Mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta, dù thầm kín nhất cũng sẽ bị phơi bày dưới ánh sáng của Thiên Chúa. Chúng ta không thể nào chạy tội hay chối cãi được nữa. Đó là một giây phút quyết liệt, giây phút đứng trước tòa án tối cao của Thiên Chúa, Ngài sẽ không hỏi chúng ta đã sống được bao nhiêu năm, nhưng sẽ hỏi chúng ta đã sống như thế nào?
Lúc bấy giờ sứ thần Chúa sẽ mở cuốn sổ cuộc đời chúng ta. Bao nhiêu ngày là bấy nhiêu trang. Đây là những ngày chúng ta còn thơ ấu với những trang được viết bằng nét chữ vàng ghi nhận những giờ kinh sốt sắng, những lần rước lễ thật trang nghiêm và những tâm tình sám hối ăn năm. Sứ thần Chúa tiếp tục mở những trang kế tiếp. Không một tư tưởng, không một lời nói cũng như không một việc làm nào bị quên sót. Tất cả những việc tốt cũng như những việc xấu.
Nhưng rồi nét mặt của vị sứ thần Chúa bắt đầu buồn bã và chúng ta lo sợ. Trên những trang giấy ấy, đã xuất hiện những vết đen đầu tiên, đó là những lầm lỗi của chúng ta. Tiếp đến là một trong đen kín, đó là tội trọng đầu tiên chúng ta đã vấp phạm. Rồi lại đến những trang đen kín khác và ngay cả trang cuối cùng cũng đen kín. Sứ thần Chúa bỏ đi, nước mắt chan hòa và ma quỷ tiến đến. Nó thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, là vị thẩm phán công minh. Chính Chúa đã xuống thế làm người vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã chịu lạnh rét nơi hang đá Bêlem cũng vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã sống nghèo hèn suốt 30 năm cũng vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá cũng vì kẻ tội lỗi này. Thế nhưng, kẻ tội lỗi này vẫn ngoan cố, không chịu phụng sự làm tôi Chúa, nhưng đã chạy theo tội lỗi. Vậy xin Chúa phán quyết xem: hắn thuộc về Chúa hay là thuộc về tôi?
Bởi đó, hãy thuộc về Chúa trong giây phút hiện tại, để rồi chúng ta sẽ thuộc về Chúa mãi mãi trong cuộc sống vĩnh cửu, và chúng ta sẽ không còn lo sợ khi Chúa đển để xét xử chúng ta.
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”.
Đó là những lời của Đức Giêsu mà chúng ta nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong một cuộc: TN 33-B41
Đó là những lời của Đức Giêsu mà chúng ta nghe trong Tin Mừng hôm nay.
Trong một cuộc đời, chúng ta nghe rất nhiều lời, và cũng nói nhiều lời. Dù chúng ta có thể quên phần lớn những lời chúng ta nghe, có những lời chúng ta cần giữ lại mãi. Thật vậy, một số lời tan biến trong ký ức của chúng ta, mà cho đến ngày chúng ta chết, chúng ta chưa chắc đã nhớ lại. Có những lời làm chúng ta bị tổn thương vẫn luôn ám ảnh chúng ta. Những lời khác là những lời an ủi vẫn tạo cảm hứng cho chúng ta.
Lời nói có thể rất xúc phạm, và làm đau buồn sâu sắc, vết thương đó còn nhức nhối lâu dài. Tuy nhiên, đôi khi không phải chính lời nói, mà là cách chúng được nói ra gây thương tổn.
Một phụ nữ nhớ lại: “Khi chúng tôi còn trẻ, có những lúc mẹ chúng tôi nói những lời rất xúc phạm đến chúng tôi, những lời mỉa mai, phê bình, lên án. Và bà cũng không bao giờ xin lỗi vì những lời đó. Nhiều năm sau, khi chúng tôi nêu vấn đề ấy ra, bà xin lỗi và nói: “Nhưng mẹ không bao giờ muốn nói những lời ấy”. Và chúng tôi kinh ngạc: “Thôi được, nếu mẹ không muốn nói những lời ấy, vậy tại sao mẹ đã nói ra?”
Những lời nói có thể luôn tạo cảm hứng cho chúng ta. Một nữ tu đã tham dự một lớp học thần học nhớ lại:
“Trong suốt khóa học về các bài giảng thần học, tôi đã nghe được nhiều điều. Với thời gian tôi đã quên phần lớn những lời ấy. Dĩ nhiên, tôi đã quên nhiều điều. Nhưng có một lời mà một giáo sư đã nói tôi sẽ không bao giờ quên. Ông nói: “Tình yêu thương có khuôn mặt nhìn nghiêng và thấp. Tôi biết rằng điều này có vẻ là một điều đơn giản, tuy nhiên nó đi thẳng vào tâm hồn tôi và từ đó ở lại mãi mãi”. Tình yêu thương có khuôn mặt nhìn nghiêng và thấp.
Lời nói rất quan trọng và rất mạnh mẽ. Một khi được nói ra, nó có một đời sống của riêng nó, tốt hoặc xấu. Chúng có thể đem lại một lời chúc lành hoặc một lời nguyền rủa, một sự chữa lành hay làm tổn thương, sự sống hay sự chết. Lời nói có thể tiếp tục làm hại chúng ta hoặc giúp đỡ chúng ta trong nhiều năm sau khi đã được nói ra. Vì thế chúng ta phải cẩn thận trong cách sử dụng lời nói.
Khi chúng ta tức giận, tốt hơn nên giữ im lặng. Lời được nói ra là sự giận dữ có thể gây ra thương tổn sâu xa và làm cho sự hòa giải rất khó khăn. Khi chọn sự sống thay vì cái chết, sự chúc lành thay vì nguyền rủa – thường người ta phải bắt đầu bằng việc giữ im lặng, hoặc bằng việc lựa lời để mở ra con đường chữa lành. Như có người đã nói: “Đôi khi yêu thương người khác có nghĩa là giữ im lặng và để họ là họ”.
Đức Giêsu nói: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Những lời của Đức Giêsu được duy trì đến ngày nay, an ủi, hướng dẫn và thách đố chúng ta. Lời Chúa làm đảo lộn những giá trị của chúng ta. Một khi đã nghe, thì người ta sẽ không bao giờ quên được.
Nhưng vì thế, nếu chúng ta hành động theo Lời Chúa, thì Lời Chúa sẽ sinh lợi ích cho chúng ta. Lời Chúa là những hạt giống quí giá. Nếu cất giữ ở trong kho, lời ấy vẫn cứ thế như bao nhiêu hạt giống khác. Nhưng được đưa ra ngoài để gieo trồng, chúng sẽ trổ sinh mùa gặt bội thu.
Không có gì chắc chắn hay trường tồn trong thế gian này khi so sánh với đức tin. Những quan điểm của con người cắm rễ trong những vẻ bề ngoài và thay đổi từ ngày này qua ngày khác, những lời của Đức Giêsu không thay đổi và qua đi. Chúng ta phải xây dựng ngôi nhà đời sống chúng ta trên Lời Người.
Phụng niên của Giáo Hội bao giờ cũng được kết thúc với tuần lễ Chúa Kitô Vua. Nếu Phụng: TN 33-B42
Phụng niên của Giáo Hội bao giờ cũng được kết thúc với tuần lễ Chúa Kitô Vua. Nếu Phụng Niên được mở màn với Mùa Vọng, thời điểm Giáo Hội trông đợi Chúa Kitô đến, không phải đến lần thứ nhất, vì Người thực sự đã đến rồi, thì Lễ Chúa Kitô Vua ở Chúa Nhật kết thúc Phụng Niên của Giáo Hội hằng năm là mục tiêu ngưỡng vọng của Giáo Hội, là tột đỉnh của Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Đấng đã Nhập Thể, Vượt Qua, Thăng Thiên và chắc chắn sẽ Tái Giáng. Nếu Chúa Kitô không phục sinh, đức tin Kitô giáo là đồ bỏ, là mê tín dị đoan, là điên cuồng ngu xuẩn (x. 1Cor 15:13-15), thì nếu Chúa Kitô không tái giáng, việc Người phục sinh quả thực, đúng như tin đồn trong dân Do Thái, chỉ là một câu chuyện giả tạo do thành phần môn đệ của Người lấy xác của Người đi vậy thôi, cho ứng nghiệm những gì Người phán khi còn sống (x Mt 28:11-15). Tuy nhiên, biến cố Phục Sinh lịch sử của Đấng Tử Giá còn có thể chứng minh bằng chứng từ là ngôi mồ trống cộng với các lời tiên tri (nhất là của chính Đấng Phục Sinh), còn biến cố Người tái giáng sẽ xẩy ra của Người, cũng trong lịch sử của loài người, lại hoàn toàn không có gì chứng thực cả, chỉ hoàn toàn phát xuất từ lòng tin tưởng được căn cứ vào mạc khải thần linh là những gì được ghi lại trong Phúc Âm vậy thôi, như được thấy trong bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật 33 tuần này, Chúa Nhật ngay trước Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua kết phụng niên tuần tới.
Thật vậy, bài Phúc Âm cho Chúa Nhật 33, dù ở chu kỳ phụng vụ nào, bình thường cũng đều là bài Phúc Âm nói tới ngày tận thế hay tả cảnh tận thế, tức những gì xẩy ra trước khi Con Người đến trong vinh quang, trừ chu kỳ năm A, vì chu kỳ này có bài Phúc Âm thuật lại cảnh phán xét chung ở Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua rồi. Tuy nhiên, nếu liên kết ba bài Phúc Âm của cả ba chu kỳ A, B, C cho Chúa Nhật 33 lại với nhau, chúng ta thấy ý nghĩa về ngày thế mạt xẩy ra hay diễn tiến rất ăn khớp với nhau như sau: Chúa Kitô sẽ trở lại sau một thời gian vắng bóng là để tính sổ với bày tôi của mình (Phúc Âm năm A), và khi Người trở lại sẽ có những biến động trên không trung, những gì xẩy ra ngay trước khi Người xuất hiện (Phúc Âm năm B), cùng với những biến loạn xẩy ra nơi xã hội loài người, nhất là cảnh thành phần môn đệ của Người bị thử thách về đức tin (Phúc Âm năm C), thành phần phải thanh toán trách nhiệm với Người và trình nộp lợi nhuận cho Người khi Người đến (Phúc Âm năm A).
Riêng về bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật 33 tuần này chúng ta thấy có bốn điểm chính theo thứ tự sau đây: Thứ nhất, hiện tượng biến động trên không trung xẩy ra ngay trước khi Con Người đến; thứ hai, sự kiện Con Người tái xuất hiện là để triệu tập thành phần được tuyển chọn; thứ ba, biến cố thế mạt được Người khẳng định là chắc chắn sẽ xẩy ra; thứ bốn, biến cố này xẩy ra khi nào cũng được Người xác nhận là chỉ có một mình Cha biết mà thôi.
Bài suy niệm này vừa viết xong thì tin tức thiên văn cho biết Hiện Tượng Nguyệt Thực, Sao Băng và Nhật Thực trong Tháng 11/2003 như sau. Mỹ Châu, Âu Châu và Phi Châu sẽ được thấy vầng trăng rằm trở thành một bầu tối hồng vào cuối tuần này Thứ Bảy ngày 8/11/2003, khi mặt trăng lướt qua vùng tối của trái đất trong biến chuyển mới nhất của bầu trời năm nay. Hiện tượng nguyệt thực này sẽ kéo dài trong vòng 24 phút và lên tới hết cỡ của nó vào lúc 8 giờ 6 phút EST, lúc mặt trăng, trái đất và mặt trời chập vào nhau và mặt trăng băng ngang qua vùng tối nhất của Trái Đất. Hiện tượng nguyệt thực không gây tác hại cho mắt trần của người coi, không giống như hiện tượng nhật thực. Hiện tượng nguyệt thực diễn ra với nhiều mầu sắc, từ nâu đậm và đỏ đến mầu cam sáng, vàng và nâu, tùy theo nhiều ít mây và bụi trong không khí của trái đất lúc ấy. Vào cổ thời hiện tượng nguyệt thực này được cho rằng bị gây ra bởi con quái vật nào đó làm cho mặt trăng đẫm máu, dấu hiệu tai họa xẩy ra. Nếu mây mù che khuất biến cố Thứ Bảy này, người ta sẽ không phải đợi chờ lâu để thấy được một trận mưa sao băng Leonid xẩy ra hằng năm. Ở Tây Á, Nam Dương và Úc Đại Lợi sẽ thấy trận mưa sao băng này vào sáng sớm ngày 14/11/2003. Còn ở vùng Tây Phi, Tây Âu, Bắc Mỹ và những phần đất phía tây của Nam Mỹ sẽ được thấy trận mưa sao băng này vào ngày 19/11/2003. Cảnh mưa sao băng này xẩy ra rất ngoạn mục với cả hằng trăm ngôi sao chuyển chỗ trên bầu trời trong một tiếng đồng hồ. Ngày 23/11 cũng sẽ diễn ra hiện tượng nhật thực mà chỉ thấy được ở Nam Cực Cầu thôi.
Ở đây chúng ta không bàn đến vấn đề thiên văn mà là suy nghĩ và các vấn đề liên quan đến 4 câu của Lời Chúa phán trong bài Phúc Âm như sau: “Bấy giờ (tức sau biến động trên không trung), người ta sẽ thấy Con Người đầy quyền uy và vinh hiển đến trên mây trời”; “Người sẽ sai các sứ giả của Người đi triệu tập thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời”; “Thày nói thật với các con biết thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi những điều ấy xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”; và “về ngày giờ đích xác thì không ai biết được, kể cả các thần trời lẫn Người Con ngoại trừ một mình Cha mà thôi”. Nói chung, nếu hai lời đầu liên quan đến chính ngày tận thế thì hai lời sau liên quan đến đức tin đối với ngày tận thế này. Vậy chúng ta cần phải hiểu thế nào về 4 lời chân thật “sẽ không qua đi” này của Chúa Giêsu về ngày thế mạt.
“Bấy giờ, người ta sẽ thấy Con Người đầy quyền uy và vinh hiển đến trên mây trời”:
Qua câu lời Chúa này chúng ta biết được, trước hết, ngày tận thế xẩy ra rồi Con Người mới đến, chứ không phải khi Người xuất hiện thì bấy giờ là ngày tận thế. Ngày tận thế là ngày không trung xẩy ra biến động, ở chỗ “mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các tinh tú sẽ rơi rụng, và các cơ ngũ trên trời bị rung chuyển”. Và những biến động trên không trung đây, những biến động cuối cùng trong ngày tận thế và vào chính ngày tận thế đây, chỉ xẩy ra sau những biến loạn trên trái đất mà thôi: “Sau các cuộc thử thách đủ mọi thứ xẩy ra vào giai đoạn đó”, như được Thánh Ký Marcô thuật lại ở phần Phúc Âm, cùng đoạn 13, từ câu 5 đến câu 23 ngay trước bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, giai đoạn biến loạn trên trái đất, với hiện tượng tiên tri giả, chiến tranh loạn lạc, động đất đói khát và bách hại sát đạo. Cũng qua câu lời Chúa trên, chúng ta còn hiểu được rằng, sau ngày tận thế, thân xác con người ta sẽ được phục sinh, và bấy giờ, với con mắt của thân xác phục sinh, con người, dù lành hay dữ, mới có thể thấy được chính Đấng Phục Sinh đầy uy quyền và vinh hiển đến trên mây trời. Vấn đề được đặt ra ở đây là cái gì đã khiến cho không trung bị biến loạn để thế gian phải đi đến ngày cùng tháng tận của mình vô cùng kinh hoàng như thế? Chính không trung chi phối trái đất, (trái đất xoay quanh mặt trời chứ không phải mặt trời quay quanh trái đất), chẳng lẽ lại bị tình trạng biến loạn trên trái đất xẩy ra trước đó chi phối đến bị biến động gây ra thế mạt hay sao? Thật ra, nếu tất cả mọi sự trên thế gian này được Thiên Chúa dựng nên vì loài người và cho loài người thì mọi sự quả thực lệ thuộc vào loài người, đến nỗi, như Thánh Phaolô nhận thức và diễn tả: “Tất cả mọi tạo vật ngong ngóng trông đợi cuộc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa. Tạo vật bị làm tôi cho hư hoại, không phải tự chúng, mà là bởi Đấng bắt chúng phải chịu như thế, song không phải là không có hy vọng, vì chính thế gian sẽ được giải thoát khỏi cảnh làm tôi cho hư hoại hầu được thông phần vào quyền tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8:19-21). Vậy có thể suy ra rằng, một khi lòng người hay xã hội loài người hoàn toàn băng hoại hay băng hoại hết cỡ, đến nỗi, đối với văn minh vô thần duy vật của họ, mặt trời công chính là Chúa Kitô đã trở nên tối tăm, mặt trăng Giáo Hội không còn chiếu sáng được ảnh hưởng của mình nữa, các người lành thánh như những vì tinh tú cũng sẽ rơi rụng vào thời kỳ chưa từng có từ tạo thiên lập địa ấy, một thời kỳ nếu không được rút vắn lại thì kẻ lành cũng sẽ bị hư đi (x Mk 13:19-20), và các cơ ngũ trên trời là tất cả mọi thứ lề luật tự nhiên cùng với các nguyên lý luân lý phổ quát bị rung chuyển, thì cũng là ngày cùng tháng tận của thế gian này, hay nói theo đức tin Kitô giáo, cũng là ngày thế gian cần phải được hay đến lúc được canh tân biến đổi, để trở thành một trời đất mới, nơi công lý của Thiên Chúa ngự trị (x 2Pt 3:13).
“Người sẽ sai các sứ giả của Người đi triệu tập thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời”:
Câu lời Chúa này cho chúng ta thấy lời Thánh Tông Đồ Phaolô khẳng định quả là chí lý: “Người sẽ xuất hiện lần thứ hai không phải để xóa bỏ tội lỗi nữa mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người” (Heb 9:28). “Những ai thiết tha trông đợi Người” đây không phải chỉ là những ai sống vào ngày cùng tháng tận, những ai bền đỗ đến cùng trong những ngày khủng khiếp vô tiền khoáng hậu ấy (x Mk 13:13), bởi vì, như trên đã nhận định, tận thế rồi Chúa Kitô mới xuất hiện, tức mọi người chết hết rồi và sống lại rồi bấy giờ Người mới tới, chứ không phải chỉ tới với những kẻ chưa chết nói chung, nhất là những kẻ thiết tha trông đợi Người nói riêng. Dụ ngôn 10 cô phù dâu đều thiếp ngủ như nhau, nhưng Chúa Kitô chỉ mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người là những cô phù dâu khôn ngoan mang dầu hy vọng theo với cây đèn đức tin để có thể thắp sáng đức mến để ra nghênh đón Đấng bất chợt đến vào lúc nửa đêm mà thôi (x Mt 25:1-13).
Đúng thế, Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai là để cứu những ai thiết tha trông đợi Người, thành phần được Người cứu độ qua phép rửa, từ lúc Người thăng thiên (đi xa) cho tới khi Người lại đến (trở về), như ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật 33 chu kỳ năm A cho thấy. Tuy nhiên, vì ơn cứu độ của Người là một ơn cứu độ phổ quát, ơn cứu độ được Thiên Chúa Hóa Công hứa cho tất cả loài người ngay sau nguyên tội (x Gen 3:15), mà tất cả những ai, dù sinh ra trước khi Lời hóa thành nhục thể, hay sau khi Chúa Kitô Vượt Qua song chưa được tái sinh bởi Giáo Hội Người qua Phép Rửa cứu rỗi (x Mk 16:16), một khi biết thiết tha trông đợi Người, được tỏ ra qua việc họ sống chân chính hợp với lương tâm ngay lành và lề luật luân lý phổ quát, cũng sẽ được Người giải cứu (x Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 16). “Thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời” đây có thể được hiểu hay cần phải được hiểu theo nghĩa này.
“Thày nói thật với các con biết thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi những điều ấy xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”:
Như trên vừa nhận định, chính vì Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai là để mang ơn cứu độ cho thành phần thiết tha trông đợi Người, từ tạo thiên lập địa cho tới tận thế, mà ba chữ “thế hệ này” ở đây không chỉ áp dụng cho những người đương thời với Chúa Kitô, với các tông đồ, thành phần dân Do Thái bấy giờ, mà là cho chung nhân loại. Qua lời Chúa Giêsu khẳng định trên đây, chúng ta thấy rằng tận thế là một sự thật chứ không phải chỉ là một lời đe dọa, một cái gì không thể nào xẩy ra hay không bao giờ xẩy ra. Triết lý và khoa học cũng không thể chối cãi được sự thật cùng tận này. Theo triết lý và luận lý, ai dám cho rằng tất cả mọi sự hữu hình và vật chất này sẽ kéo dài đến vô hạn, bằng không chính vật chất hữu hạn này là Thiên Chúa, là Hóa Công, vô thủy vô chung, vô cùng bất tận. Theo khoa học, ai có thể chứng minh được rằng mọi sự tự dưng mà có, hay chỉ có thể biết được, qua các giả thuyết, rằng thiên nhiên vạn vật ngay từ đầu từ từ được biến đổi mà thành hình; thế nhưng, không ai dám cả quyết một cách chắc chắn 100% như chân lý rằng trời đất này sẽ không bao giờ hoàn toàn qua đi, sẽ luân hồi không bao giờ cùng, tức sẽ muôn đời tồn tại thiên thu vạn đại, tức không có vĩnh hằng, không có đời sau, không có thiên đàng hỏa ngục…
Thực tế cho thấy, con người luôn khao khát và tìm kiếm chân thiện, tìm kiếm những gì vĩnh hằng bất biến. Kẻ gian dối nhất, đánh lừa cả thiên hạ, cũng vẫn không muốn bị đánh lừa, cũng vẫn muốn biết sự thật. Kẻ chán đời đến tự tử đi nữa, cũng vẫn, qua chính quyết định tử tử và việc tử tự của họ, cho thấy họ hết sức khao khát được sống hạnh phúc, một hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc thực sự, một thứ hạnh phúc họ không tìm được ở đời này. Vậy nếu con người chân nhận là có sự thật, và sự thật tối hậu là một thực tại bất biến, một thực tại toàn thiện, sự thật làm thỏa mãn tất cả mọi khát vọng của loài “nhân linh ư vạn vật”, một sự thật sẽ làm sáng tỏ tất cả mọi tranh chấp và phải trái của loài người, thì quả thực là thế gian này, vũ trụ này, lịch sử này sẽ có ngày cùng tháng tận, thời gian có thủy có chung tự nó không phải là vĩnh hằng và sẽ đi đến ngày cùng tháng tận. Chỉ có sự thật hay những gì là sự thật mới là thực tại duy nhất vĩnh hằng. Nếu tất cả những gì Chúa Giêsu đã truyền dạy về luân lý đều không bao giờ lỗi thời, đến nỗi những gì con người không làm theo như lời Người dạy sẽ không bao giờ được bằng an và phúc thật, thì những gì Người nói về ngày tận thế cũng là sự thật, chắc chắn sẽ xẩy ra. “Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”, vì lời Thày là sự thật, là thực tại, một sự thật bao gồm tất cả mọi sự, cho thấy tất cả mọi sự; và mọi sự được tỏ hiện theo lời của Người và như lời của Người, cho thấy rằng lời Người quả là sự thật, vì mọi sự từ từ được hiện thực trong thời gian, được lịch sử ghi nhận. Nếu thời gian là tiến trình sáng tỏ sự thật thì lịch sử chính là chứng nhân cho sự thật. Vì thời gian là tiến trình tỏ hiện sự thật mà một khi sự thật hoàn toàn được sáng tỏ thì cũng là lúc năm cùng tháng tận. Vì lịch sử là chứng nhân ghi nhận sự thật mà tận cùng thời gian phải là một cảnh chung thẩm cho thấy tất cả sự thật.
“Về ngày giờ đích xác thì không ai biết được, kể cả các thần trời lẫn Người Con ngoại trừ một mình Cha mà thôi”:
Nếu thực sự có ngày tận thế thì những gì Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta biết, như được các Phúc Âm Nhất Lãm ghi lại, không phải phát xuất từ sự suy đoán của Người, như chúng ta vừa suy diễn trên đây về vấn đề có ngày tận thế hay chăng. Bởi vì, Chúa Giêsu chẳng những đã mạc khải cho chúng ta biết có ngày tận thế, một sự thật hợp với lập luận của triết lý cũng như khoa học, mà còn cho chúng ta biết ngày tận thế ấy sẽ xẩy ra hay sẽ diễn tiến trước sau ra sao nữa. Như thế, chẳng lẽ chính Người, như Người đã khẳng định ở cuối bài Phúc Âm Chúa Nhật 33 Thường Niên tuần này, cũng không biết rõ được ngày giờ dứt khoát và nhất định xẩy ra sự thật về ngày cùng tháng tận này hay sao? Nếu Cha đã ban cho Con tất cả mọi sự, kể cả sự sống là những gì cao quí nhất (x Jn 3:35, 5:26), thì chẳng lẽ chi tiết về ngày cùng tháng tận của thế gian này lại quan trọng đến nỗi giấu cả Con của mình hay sao, Đấng phải biết trước ngày giờ Người sẽ vinh hiển đến trên mây trời, chứ không phải tới ngày giờ mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha trông đợi Người rồi mà Người vẫn không biết, vẫn phải đợi cho đến khi Cha Người công khai ra lệnh thì Người mới biết! Nếu Chúa Giêsu quả thực biết đích xác ngày giờ như Cha Người biết thì chẳng lẽ lời Người khẳng định ở cuối bài Phúc Âm về việc chính Người cũng không biết là giả dối, đánh lừa thiên hạ sao, hay ít là Người cố ý nói thế để tránh né những câu hỏi cặn kẽ đầy tò mò của các tông đồ bấy giờ? Phải chăng Người biết hết mọi sự về ngày giờ thế mạt như Cha, song không phải để tỏ lộ cho bất cứ con người nào biết, nên những gì Người biết cũng kể như không biết? Tương tự trường hợp tôi giữ một đồ vật của người khác, và khi có ai thấy món đồ ấy thì xin tôi, tôi nói với họ rằng tôi không có vậy.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây, quan trọng không phải là biết được ngày cùng tháng tận, mà là biết sẵn sàng đón chờ ngày đó, thì ngày đó đến bất cứ lúc nào cũng được. Ngày đó ở ngay trong lòng của con người khao khát Chúa, luôn sống trước nhan Chúa, phó thác mọi sự trong tay Chúa. Ngày đó là chính sự thật họ đang sống. Những ai sống trong sự thật là sống một Ngày vô tận, cửa không đóng, đêm không về (x Rev 21:25).
Vào tháng 9 năm 2005, qua một ngày đêm mưa bão, lụt lội, động đất..... tại Pakistan, Ấn Độ: TN 33-B43
Vào tháng 9 năm 2005, qua một ngày đêm mưa bão, lụt lội, động đất..... tại Pakistan, Ấn Độ, đã nuốt sống đi trên 100,000 (một trăm ngàn) người trong nháy mắt. Vụ sóng thần bên Mã Lai, Á Châu, đã xua dồn trên 200,000 (hai trăm ngàn) người làm chấn động cả thế giới, qua một đêm không kịp sửa soạn. Vào mấy tháng trước đây, một vụ phi cơ Boing của hãng Southwest bị không nạn với trên 500 hành khách bỏ mạng một cách nhanh chóng trong nháy mắt.
Bài Phúc Âm hôm nay diễn tả cho chúng ta về một cách quy tụ dân Chúa không ngờ qua biến cố vận chuyển của trời đất bốn phương, như ngày ỀTa sẽ quy tụ những người Ta tuyển chọn trên khắp bốn phươngỂ. (Mc. 13:24-32). Không một ai trên thế giới này biết được ngày giờ sẽ xẩy đến. Điều đó nhắc nhở chúng ta ngày Chúa quy tụ các dân lại đã gần đến, chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng, chúng ta đừng dính lứu quá sâu vào cuộc sống mà mất đI cáI nhìn về cuộc sống mai sau.
Không ai biết được cuộc sống của mình sẽ chấm dứt lúc nào. Điều chắc chắn là sẽ có ngày chúng ta nhắm mắt lìa đời, là cuộc chung thẩm của mỗi người; Hãy luôn luôn tỉnh thức, ăn ở ngay lành, sống bác ái với tha nhân, hóa bình trong tâm hồn, để chờ đón phút cuối cùng đó.
Hầu hết chúng ta đều rất sợ chết, vì chết là sự ra đi vĩnh viễn của một người hay nhiều người: TN 33-B44
Hầu hết chúng ta đều rất sợ chết, vì chết là sự ra đi vĩnh viễn của một người hay nhiều người – tức là tận thế. Và mỗi khi tin đồn về ngày tận thế được đăng tải trên các báo chí, hoặc nghe truyền tai nhau, thì hầu như mọi người ai ai cũng hồi hộp và theo dõi một cách rất kỹ.
Đã có một thời tất cả những tiệm tạp hóa, những siêu thị quanh vùng tôi ở đều bán hết sạch không còn một cây nến (bạch lạp hay đèn cầy). Và các linh mục tha hồ mà làm phép. Được hỏi, thì tất cả đều trả lời tương tự rằng: “Sẽ có tối ba ngày, ba đêm”. Hơn thế nữa, trong những ngày tăm tối ấy, ma quỉ từ hỏa ngục sẽ xổ lồng lang thang khắp thế gian. Nhà nào không có nến làm phép đốt lên, nhà ấy sẽ bị chúng xâm nhập và giết sạch.
Rồi cũng có một thời, những tiệm tạp hóa, những siêu thị quanh vùng tôi ở cũng bỗng dưng hết sạch không còn một ly mỳ, một hộp mỳ gói, hay những bó bún khô. Và những thùng nước lọc cũng biến mất khỏi các siêu thị và các tiệm tạp hóa. Được hỏi thì cũng một câu trả lời tương tự: “Chuẩn bị sắp tận thế!”
Lạ thật! Tối ba ngày ba đêm phải cần nến làm phép thì còn tạm hiểu được, nhưng để chuẩn bị cho ngày tận thế mà mua mỳ gói, mỳ li, hoặc nước lọc thật là khó hiểu. Khó vì sự ngu ngơ và ngớ ngẩn của nó. Thử hỏi ngày tận thế đến, khi mà mọi người cùng chết thì mình chạy đi đâu mà sống với mấy ly mỳ, mấy gói mỳ và mấy chia nước lọc ấy? Nhất là sống với ai? Chúa Giêsu đã diễn tả về biến cố này và được Thánh Ký Marcô ghi lại như sau: “Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống, và các quyền lực trên các tầng trời sẽ bị lay chuyển” (Mc 13:24-25).
Vậy nếu những hiện tượng ấy sẩy tới thì chắc chắn mấy cây nến làm phép, mấy gói mỳ, mấy thùng nước lọc sẽ không cứu sống nổi những người mua nó lấy một ngày. Nhưng rồi giả như nếu sống được, thì lúc đó người ấy chỉ sống có một mình giữa cảnh hoang tàn, khủng khiếp và như vậy sống cũng như chết! Trên trời làm gì còn mặt trời để tạo ra hơi ấm. Giá băng sẽ ngập phủ địa cầu. Khi mặt trăng và các tinh cầu không còn nữa thì bầu trời chỉ là một màn đêm thăm thẳm, âm u rùng rợn. Nhất là khi các ngôi sao trên trời rơi xuống và chạm vào trái đất này, lập tức trái đất sẽ nổ tung, tan biến thành mây khói.
Nhưng lời Chúa và những gì ngài nói về ngày tận thế vẫn đúng cho từng người và mọi người. Ngài khẳng định: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xẩy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời ta nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13:30-31). Và như vậy, việc chuẩn bị để mỗi người chúng ta và nhân loại đối diện với biến cố tận thế là cần thiết và là một việc phải làm nghiêm chỉnh. Một chuẩn bị tâm linh chứ không phải là những chuẩn bị có tính cách vật chất.
CHẾT: Thật vậy, chết chính là sự tận cùng và là một hành trình vĩnh viễn của một người về với vĩnh hằng. Đây là “tận thế” của một người, vì những gì Chúa Giêsu đã diễn tả về ngày tận thế không những được áp dụng cho người ra đi mà cả người ở lại nữa.
Buồn, chán, thất vọng, sợ hãi, đau khổ, mất mát. Tất cả những điều này sẽ xẩy ra cho một người trước giờ chết, và ngay sau khi chết; đặc biệt, là cái chết ngoài ơn cứu độ. Giáo lý Công Giáo đã khẳng định rằng chết ngoài ân sủng, ngoài tình yêu Thiên Chúa là một cái chết kinh hoàng, tuyệt vọng và mất mát lớn lao nhất của một người. Không những bị cắt mất mạng sống thể xác mà còn mất luôn sự sống đời đời. Bầu trời hạnh phúc, mặt trời hy vọng, mặt trăng thanh bình, những tinh tú lấp lánh trên bầu trời tâm linh trong phút chốc tan biến, nhào lộn, và đẩy đưa linh hồn vào vùng tăm tối ngàn thu. Đời đời trâm luân. Tận thế đã đến với họ.
Nhưng với những ai tin theo và sống Phúc Âm của Ngài, thì những gì Ngài nói chỉ là một cảnh giác cần thiết. Và hình ảnh cây vả trổ sinh hoa trái chính là hình ảnh một đời đời hạnh phúc cho những tâm hồn thánh đức bên kia thế giới.
TẬN THẾ: Nếu cái chết là một tận thế đối với cá nhân của một người, thì ngày chung thẩm, tận thế là cái chết của vũ trụ, của toàn thể nhân loại. Cái chết của một người ứng với lời Chúa nói: “ùThế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xẩy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời ta nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13:30-31).
hưng cái chết của cả nhân loại thì đó vẫn là một mầu nhiệm. Ngài nói: “Còn về ngày đó hay giờ đó thì không ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con cũng không biết, chỉ có mình Cha biết” (Mc 13: 32).
CHUẨN BỊ: Như vậy, rõ ràng là Chúa Giêsu muốn chúng ta phải chuẩn bị một cách cẩn thận và nghiêm chỉnh cho biến cố cuối cùng của cuộc đời mình. Bằng cách nào?
Bằng việc thắp sáng ngọn đèn đức tin với dầu yêu mến là lòng mến Chúa và thương yêu tha nhân.
Bằng cách tránh xa những cám dỗ như những cơn gió mạnh có thể làm vụt tắt ngọn đèn đức tin của mình.
Bằng cách không để những gương xấu, những khủng hoảng chung quanh cuộc sống làm cho mình phải băn khoăn, lo lắng, và hoang mang.
Thế lực các tầng trời, mặt trời, mặt trăng, ngôi sao rơi xuống theo Thánh Augustine là những giáo thuyết sai lạc, những sự sa đọa và gương xấu của các giám mục, giáo sĩ, tu sĩ. Họ chính là những mặt trời, mặt trăng, và tinh tú trên bầu trời tâm linh và giáo hội. Và những sa ngã của họ sẽ tạọ nên những rung chuyển làm hoang mang, sợ hãi cho nhiều tâm hồn thánh thiện.
Chuẩn bị cho ngày tận thế như vậy là chuẩn bị đúng cách, và đúng với tinh thần Tin Mừng. Một khi tâm hồn người Kitô hữu đã sẵn sàng, và lòng yêu mến thiết tha bừng cháy, thì khi gặp gỡ Đức Kitô tức là ngày chết, hay tận thế, sẽ không làm cho họ kinh hãi, hoảng sợ, ngược lại được bằng an và hạnh phục vì họ từ bỏ cõi đời tạm bợ này để về với quê hương vĩnh cửu, mà người đến đưa họ về lại chính là Đức Kitô, người mà họ suốt đời phụng sự và yêu mến.
(Sách tiên tri Daniel 12,1-3; Hipri 10,11-18; Marcô 13,24-32)
Phúc Âm: Mc 13, 24-32
"Người sẽ quy tụ những người được tuyển chọn từ khắp bốn phương trời". Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất. Nhìn vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này. Khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến. Cũng vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật các con: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi.
"Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi". Suy Niệm:
Chúa Nhật XXXIII Thường Niên Năm B
Sách tiên tri Daniel 12,1-3; Hipri 10,11-18; Marcô 13,24-32
Hai tuần lễ tới đây là những ngày cuối cùng của năm phụng vụ này. Thế nên không có gì ngạc nhiên: TN 33-B45
Hai tuần lễ tới đây là những ngày cuối cùng của năm phụng vụ này. Thế nên không có gì ngạc nhiên, khi thấy Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về thời gian sau hết cũng gọi là cánh chung. Chúng ta thường nôm na gọi đó là thời tận thế.
Ước gì từ nay chúng ta bỏ hết mọi suy đoán của loài người, mọi điều thường được gọi là bí mật bà thánh này ông thánh kia, hoặc của nơi hành hương này chỗ thánh điện khác, để chỉ giữ lấy Lời Chúa và các mạc khải của Người. Khi ấy chúng ta sẽ thấy bình tĩnh hơn, sáng suốt hơn và sống chân thật hơn. Chúng ta sẽ sống bằng đức tin của Hội Thánh, chứ không nghe những chuyện nhảm nhí. Và chúng ta sẽ làm cho người khác kính trọng niềm tin của chúng ta hơn.
Vậy, phụng vụ hôm nay cho chúng ta biết những gì về cánh chung, hay là tận thế? Bài tiên tri Daniel, bài Tin Mừng Marcô, bài thư Hipri, tuy không bao gồm hết mọi lời trong Kinh Thánh về vấn đề, nhưng có thể nói đã nói lên hầu hết. Chúng ta hãy lần lượt đọc lại. 1. Bài Sách Daniel
Daniel là một trong bốn sách tiên tri lớn, tức là dài, và là tác phẩm khó. Người ta cứ tưởng nó giống như các sách Ysaia, Yêrêmia, Êzekiel, được viết vào thời lưu đày Babylonia và về hoàn cảnh đó. Nhưng ngày nay người ta đã thấy nó ra đời muộn hơn nhiều. Có lẽ nó được viết vào khoảng năm 164 trước kỷ nguyên. Phần đầu tác giả nói đến những biến cố xảy ra ở Cận Ðộng và trong Dân Chúa sau thời gian lưu đày. Một số người đã được hồi hương, cố gắng dựng lại giang sơn tổ quốc cũ. Nhưng hết bị Batư cai trị, lại bị Hylạp thôn tính, Dân Chúa gặp một cơn bắt đạo khủng khiếp dưới thời Antiôchô. Ðền thờ bị biến thành nơi thờ thần dân ngoại. Truyền thống Dothái bị ngăn cấm. Nhiều người bị bắt. Tiếng các Tử đạo vang lên tới Chúa.
Người mạc khải ý định của Người trong phần hai của sách Daniel. Ðó là một viễn tượng đầy trông cậy. Nhưng đọc kỹ người ta dễ nhận ra ngay đó chỉ là niềm tin rất cổ điển: sự dữ còn gia tăng... cho đến lúc chín mùi. Lúc ấy Thiên Chúa sẽ can thiệp. Sứ thần của Người sẽ được sai đến giao tranh với thần dữ, cứu vớt những người lành, phục hồi các thánh nhân.
Ðọc Daniel hôm nay nằm trong phần thứ hai này. Nhà tiên tri được báo cho biết: đến thời cứu độ, Mikael vị tướng cả của Thiên Chúa sẽ được sai đến biểu lộ sức mạnh của Người để gìn giữ con cái của Chúa. Vì lúc ấy sẽ là thời quẫn bách, thời thử thách xưa nay chưa từng thấy xảy ra. Chỉ những kẻ nào đã được tiền định mới thoát nguy. Họ đã có tên ghi trong cuốn sách hằng sống ở trên trời. Và điều an ủi nhất cho Daniel và trả lời trực tiếp cho thắc mắc của dân Chúa thời bấy giờ, là sẽ có sự sống lại. Người thánh sẽ được sống đời đời, bậc lãnh đạo dân Chúa sẽ chói sáng; và kẻ truyền đạo, đưa người khác trở về đàng công chính, sẽ như tinh sao muôn kiếp.
Với những lời lẽ này, Daniel đã an ủi Dân Chúa không ít. Họ đang trong cơn bắt đạo, thấy máu của nhiều người lành chảy ra. Họ tự hỏi về định mệnh của các thánh nhân; và đồng thời cũng nêu lên nghi vấn: có bõ công tiếp tục đi trong đàng ngay chính để có ngày bị bắt và bị giết hay không? Daniel chẳng có lời tiên tri nào nói với họ cả, theo nghĩa hứa hẹn cho người ta một tương lai sáng sủa nào ở trần gian này hết. Ông tuyên xưng niềm tin "chính thống" và cổ điển của mình: Thiên Chúa mới có tiếng nói cuối cùng; Người sẽ can thiệp, lúc đó người lành được gìn giữ, còn kẻ dữ sẽ bị tiêu diệt. Rồi sẽ có sự sống lại cho người thánh đã chết; còn kẻ dữ cứ tiếp tục bị trừng phạt.
Như vậy Daniel cũng đã có góp thêm một phần mới mẻ vào kho tàng mạc khải. Trước ông, như trong Êzêkiel chẳng hạn, người ta đã được biết sẽ có sự sống lại. Nhưng dường như đó chỉ là việc phục sinh phục hồi của dân đang bị tiêu diệt và nghiền nát. Cánh đồng xương khô lấy lại gân cốt và da thịt để sống lại trong Êzêkiel là một hình ảnh về cuộc phục hưng dân Chúa sau thời gian tiêu điều, hơn là một phát biểu niềm tin về sự sống lại trong ngày sau hết.
Ở đây, Daniel rõ ràng nói đến sự sống lại không phải của hết thảy mọi người, nhưng riêng chỉ có những người lành. Cũng như ông đã khẳng định khi ngày của Chúa đến, chỉ những người thánh mới được gìn giữ, còn bao nhiêu kẻ dữ sẽ bị tiêu diệt. Nói đúng ra theo Daniel, kẻ lành sẽ được sống muôn đời, còn kẻ dữ sẽ phải chết. Trong ngày của Chúa, ai lành thánh sẽ không phải chết, và cho dù đã chết, cũng sẽ sống lại; còn kẻ tội lỗi cho dù đang sống cũng sẽ chết, huống nữa là khi những kẻ ấy đã chết rồi. Niềm tin của Daniel xác định công trạng của mỗi người, nhưng chưa nghĩ đến sự xác thịt sống lại như chúng ta đọc trong kinh Tin Kính. Ông cũng đã chú ý riêng đến những người có công với dân và so sánh vinh quang bất diệt của họ sau này như những tinh sao muôn đời muôn kiếp.
Ý kiến của Daniel nhất định đã thổi một luồng gió tin tưởng mạnh mẽ vào trong tâm hồn nhiều người. Họ sẽ cương quyết trung thành với đức tin hơn và hoàn toàn phó thác định mệnh cuối cùng của mình trong tay Chúa. Sách của ông được các thế hệ sau dùng rất nhiều, như bài Tin Mừng hôm nay sẽ cho chúng ta thấy; nhưng chẳng ai có thể lợi dụng tư tưởng của ông để thêu dệt những chuyện nhảm nhí về thời cánh chung. 2. Bài Tin Mừng Ðức Yêsu
Trong đoạn sách Marcô hôm nay, cũng nói với chúng ta về thời kỳ cuối cùng này. Dường như Người đề cập tới sau khi nói về thời Yêrusalem bị tàn phá. Chúng ta biết hôm các môn đồ trỏ cho Người thấy cảnh huy hoàng của Ðền thờ. Mà rực rỡ thật khi thánh điện Yêrusalem được ánh mặt trời chiếu vào! Nhưng cảnh ấy có ngày sẽ không còn nữa và sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào của Ðền thờ hiện nay, vì Yêrusalem không biết đón nhận ngày Thiên Chúa đến viếng thăm mình.
Ðức Yêsu đã nhìn thấy trước ngày tàn phá đó. Người dùng những hình ảnh về thời kỳ chiến tranh, cũng như các công thức về thời cánh chung trong các sách tiên tri, để mô tả cảnh tàn phá của Yêrusalem. Rồi từ đó, Người nói sang thời kỳ cùng tận.
Nhưng lời của Người lại được các tác giả thánh diễn lại sau khi đã được chứng kiến ngày Ðền thờ sụp đổ và đã từng sống những ngày thánh Hội Thánh bị bắt bớ vì danh Chúa. Do đó, bài sách Marcô hôm nay chẳng hạn, thu góp tất cả mọi nhân tố trên làm cho việc đọc trở nên phức tạp và khó hiểu. Ở đây chúng ta chỉ nói đến những tư tưởng trong bài đọc hôm nay.
Trước hết có những câu nói về sự suy sụp thay đổi trong trời đất: mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống và các thiên thể lay chuyển. Có lẽ chính ý tưởng cuối cùng này lại phải để ý đến trước hết. Là vì theo các tác giả thánh, mỗi khi có hiển linh là trời đất rung chuyển. Vậy hiện tượng các thiên thể lay chuyển là điềm báo Chúa đến, là dấu hiệu của ngày cuối cùng. Còn việc mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống, chẳng qua muốn nói rằng vũ trụ này sẽ qua đi và biến mất. Tất cả như lại trở về lúc khởi nguyên, lúc còn hỗn mang và chưa có ánh sáng gì cả. Và như thế, với nhiều hình ảnh mượn lại trong các sách tiên tri, ở đây thời sau hết được xác định như là thời thay đổi vũ trụ này, để rồi sẽ có một cảnh mới với trời mới và đất mới. Và người ta không phải chờ lâu. Sách Marcô đã viết ngay: bấy giờ người ta sẽ thấy Con Người đến trong mây... Rõ ràng tác giả mượn lại chương 7 sách Daniel, câu 13. Nhưng ông đã đem vào một nội dung mới.
Trong tiên tri Daniel, Con Người chỉ đến sau, khi triều đình thiên quốc đã bày biện xong. Thiên Chúa đã ngự trên ngai rồi, thì bấy giờ Con Người mới tiến lại. Người là ai? Theo Daniel đó là dân thánh của Thiên Chúa đến lãnh phần thưởng đời đời của mình. Về sau nhiều người đã đồng hóa Người với Ðấng Cứu thế Con Một Thiên Chúa. Ở đây, trong sách Marcô, Người là chính Ðức Yêsu Kitô Cứu thế.
Như vậy, "ngày của Chúa" không còn phải là ngày của Thiên Chúa nữa sao? Vì ở đây, người ta không thấy Thiên Chúa hiện đến, mà chỉ có Ðức Yêsu được mệnh danh là Con Người. Thật ra, khi nói Người đến trong mây, tác giả không có ý tưởng trong mây như là xa giá đưa Con Người đến. Nhưng cùng với công thức viết sau nói rằng: Người đến trong quyền năng cao cả và vinh quang, hình ảnh mây trời ở đây chỉ có ý nhấn mạnh đến tính cách "hiển linh" của việc Người đến. Và như vậy Con Người sẽ đến với Thần Tính và như là "Thiên Chúa bởi Thiên Chúa" khiến "ngày của Chúa" bây giờ trở thành "ngày của Thiên Chúa đến trong Con Người và nhờ Con Người".
Rồi khác với nhiều tác giả, thánh Marcô không nhắc đến việc phán xét và trừng phạt kẻ dữ. Người chỉ mô tả diện tích cực của ngày Chúa đến. Người sai các Thiên Thần đi khắp cùng mặt đất thâu họp những kẻ được chọn lại, dĩ nhiên là để đưa họ vào vinh quang của Người.
Và như vậy cái nhìn của Marcô về cánh chung rất bình an và đẹp đẽ. Nó đem tin tưởng lại cho lòng người ngay và tạo nên một cảm giác hạnh phúc.
Nhưng khi nào điều ấy xảy ra? Ðó là thắc mắc của mọi thế hệ loài người. Theo thánh Marcô, thì Ðức Yêsu trỏ tay bảo các môn đệ cứ xem cảnh vật thiên nhiên. Cây vả khi trổ lá thì báo tin mùa hè sắp đến sao? Cũng vậy, khi các điều kia xảy ra, thì phải biết Con Người đã gần bên cửa.
Trước hết, Người đã khéo léo gợi đến danh từ mùa hè. Ðó là mùa gặt hái. Và hình ảnh mùa gặt hái vẫn được Kinh Thánh dùng để nói đến thời cánh chung và chung thẩm. Còn khi Người nói "các điều kia" thì phải hiểu như thế nào?
Trên đây, Người đã nói đến việc Ðền thờ bị phá, chiến tranh nổi lên, Kitô giả xuất hiện, niềm tin trở nên lạnh lẽo... và các tầng trời bị lay chuyển v.v... Do đó mỗi khi thấy các điều trên xảy ra, người ta đã tưởng tận thế đến rồi. Hơn nữa sau đó, Ðức Yêsu còn nói: "Thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi mọi điều ấy xảy đến". Người ta càng tin những ngày tận cùng không còn xa.
Nhưng có lẽ người ta không để ý đủ đến lời cuối cùng của Người: "Về ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được... cả Con Người nữa, trừ phi là Chúa Cha".
Dĩ nhiên có vấn đề: có phải chính Ðức Yêsu đã nói tất cả những điều trên đây không và trong cùng một văn mạch không? Hay đó là những lời nói ở những hoàn cảnh khác nhau và đã được xếp gần lại để diễn tả ý kiến về một vấn đề? Nếu thế thì ở đây chúng ta có thể thấy tác giả vừa muốn khẳng định thời kỳ cánh chung đã gần, vừa không gần vì hiện nay đã có những dấu hiệu như cảnh chiến tranh tàn phá, lòng tin ra nguội lạnh, nhiều sự dữ lộng hành, nhiều người lành khổ sở... nhưng chưa chắc đã là điềm báo cuối cùng, vì dù sao cũng chẳng ai biết được giờ nào, ngày nào, vì đó là bí mật Chúa Cha không muốn tiết lộ cho ai... Vì thế thái độ chân thực là luôn luôn phải sẵn sàng và tỉnh thức.
Thánh Marcô đã kết luận như vậy. Và chúng ta, không nên thêm gì vào ý kiến của người. Chúng ta chỉ cần nhớ: vũ trụ này sẽ được biến đổi khi Con Người đến trong vinh quang. Người sẽ tập họp các kẻ được chọn lại. Người không muốn cho ai biết ngày nào giờ nào. Nhưng Người mong muốn ai nấy cũng hãy sẵn sàng và bền vững cho đến cùng.
Bài thư Hipri có thêm gì cho chúng ta không? 3. Ðức Kitô Ðang Chờ Ðợi
Tác giả còn so sánh vị Thượng tế đạo mới với các tư tế đạo cũ. Những người này, như người ta thấy hằng ngày vẫn đứng nơi bàn thờ để dâng những của lễ không hoàn toàn. Họ tỏ ra rộn ràng; vì thế "đứng" là cung cách làm việc vất vả. Và công việc của họ không kết quả vì cứ phải làm mãi, không xóa bỏ được tội lỗi là điều họ mong muốn.
Trong khi đó, Ðức Kitô chỉ dâng lễ một lần trong mầu nhiệm Vượt qua, và đã lên ngồi ngự bên hữu Thiên Chúa. Chứng tỏ lễ dâng của Người đã hoàn toàn và tẩy xóa được tội lỗi. Người không còn vất vả nữa và chỉ còn ngồi chờ đợi mọi người hàng phục để kết nạp họ vào sự thánh thiện của Người.
Tác giả không suy đoán. Thánh Kinh cũng nói rõ như vậy vì trong Thánh vịnh 110, Thiên Chúa đã đặt vị Kitô của Người làm Vua và làm Thượng tế theo kiểu Melkisedek, đợi ngày quân thù của Người quy phục dưới chân. Chúng ta chẳng nên hiểu quân thù nói đây là ai khác những sức mạnh tội lỗi mà Người đang muốn dẹp bỏ ở nơi mỗi người để tất cả chỉ còn ở trong sự thánh thiện của Người.
Như vậy, lời thư Hipri có thể bổ túc cho những điều chúng ta đa biết về thời cánh chung qua các bài sách Daniel và Tin Mừng theo thánh Marcô. Thời sau hết thực ra đã khởi sự từ khi Ðức Yêsu tiến vào cung lòng Thiên Chúa. Sức mạnh của Thiên Chúa đã biểu lộ nơi sự phục sinh của Người. Ơn Thánh Thần mà Người gửi xuống cho môn đệ không thực tế hơn hình ảnh Ðức Mikael đến bảo vệ những người được Chúa chọn sao? Các người thánh đang được thâu họp lại từ khắp mặt đất để được tham dự vào sự thánh thiện của thân thể mầu nhiệm Ðức Kitô. Họ được lấy ra từ bao thử thách và gian khổ, khỏi những sự mê hoặc của các Kitô giả khác. Và cùng với Ðức Kitô, họ đang chờ đợi ngày Nước Cha trị đến... Và như vậy quả thực thời cánh chung đã đến và chưa đến. Thế hệ nào cũng sẽ không qua đi trước khi những điều này xảy tới, kể cả thế hệ chúng ta.
Mầu nhiệm cánh chung giờ đây không những cũng được chúng ta tuyên xưng trong bản kinh Tin Kính. Nhất là nó sẽ được nổi lên trong mầu nhiệm Thánh Thể, trong đó chúng ta tuyên xưng Ðức Yêsu đã chết và đã sống lại để rồi sẽ lại đến. Và trong khi chờ Người đến trong vinh quang, chúng ta tin Người đang đến trong Thánh Thể để thâu nạp chúng ta vào sự thánh thiện của Người. Một cảnh sống mới, làm ra một trời mới và một đất mới, tức là xây dựng một quê hương mới và một dân tộc mới, có theo sau thánh lễ này hay không? Ðiều đó còn tùy ở cố gắng của chúng ta hết thảy.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Giữa các chương nói về hoạt động công khai của Đức Giêsu (Mc 1–12) và những chương tường: TN 33-B46
Giữa các chương nói về hoạt động công khai của Đức Giêsu (Mc 1–12) và những chương tường thuật cuộc Khổ Nạn (Mc 14–16), chúng ta gặp bài Diễn từ cánh chung (Mc 13). Bài này khởi đi từ lời Đức Giêsu loan báo rằng Đền Thờ Giêrusalem huy hoàng tráng lệ như thế đó sẽ bị tàn phá và từ câu hỏi bao giờ sẽ xảy ra chuyện ấy. Bài Diễn từ này được ngỏ với bốn môn đệ Đức Giêsu đã gọi đầu tiên (x. 13,3 và 1,16-20), nhưng có một giá trị tổng quát (13,37). Bài không chỉ liên hệ đến cuộc tàn phá Giêrusalem, nhưng còn nhìn tổng quát về tương lai. Đức Giêsu phác ra những đường nét lớn cho các môn đệ thấy tương lai sẽ mang lại cho họ điều gì (13,5-27) và họ sẽ phải ứng xử thế nào (13,5.21-23.28-37). Chúng ta có thể chia bài diễn từ này thành ba phần:
1) Khi nào (cc. 5b-8.9-13.14-23); 2) Dấu chỉ: Cuộc quang lâm (cc. 24-27); 3) Giờ chính xác (cc. 28-32.33-37).
2.- Bố cục
Bản văn đọc hôm nay có thể chia thành hai phần:
1) Cuộc Quang Lâm (13,24-27); 2) Thời gian (13,28-32).
3.- Vài điểm chú giải
- Nhưng trong những ngày đó, … các ngôi sao từ trời sa xuống (24-25): Với liên từ “nhưng”, tác giả đưa độc giả tới khúc quanh quan trọng. Ngài mở ra một viễn tượng phổ quát bằng cách dùng những hình ảnh thuộc Cựu Ước nói về Ngày của Yhwh (Đức Chúa) (Is 13,10; 34,4; Ge 2,10–3,4; 4,15t.). Trong Cựu Ước, các hiện tượng này là những hoàn cảnh đi theo cuộc xét xử trong thịnh nộ, “ngày của Yhwh”. Theo những bản văn Isaia, việc phán xét nhắm đến Babylon và Êđôm. Trên cái nền Kinh Thánh này, các hình ảnh được vận dụng để minh họa cuộc phán xét trên các kẻ gian ác.
- Con Người (26): Trên tấm phông là một vũ trụ bị rung chuyển, Con Người xuất hiện, được mô tả bằng những từ ngữ của Đn 7,13tt. Các đám mây cho hiểu là Người thuộc về thiên giới, thuộc về Thiên Chúa. Khi Đức Kitô tỏ bày quyền năng và vinh quang của Người ra, mọi người sẽ được thấy: không mơ hồ như những tiếng đồn được lưu ý ở 13,22 (x. Mt 24,27t). Quyền lực lớn lao và vinh quang của Người bao quanh Người, nêu bật vẻ uy nghiêm của Người, khiến Người nổi lên rõ ràng trên bóng tối và tình trạng hỗn độn của vũ trụ. Mục tiêu Người nhắm khi đến thì chưa rõ. Hình thái của bài Diễn từ không liên quan đến ai rõ ràng khiến phải kết luận rằng ở chỗ này, bài được ngỏ với các đối thủ, các kẻ gian ác và tội lỗi. Đối với họ, Con Người đến là để phán xét.
- tập họp của những kẻ được tuyển chọn (c.27): Trong Cựu Ước, chính Thiên Chúa quy tụ (Đnl 30,3-4 [LXX]; Dcr 2,10; Is 27,12; 43,5tt) nhờ các thiên thần (Tv 17/18,11; 103/104,4; Đn 7,10): Ngài quy tụ về Thánh địa tất cả những người Do Thái đang bị phân tán, đưa về cho hiệp thông với Ngài. Ở đây, Con Người được giới thiệu là Đấng thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa cho dân Do Thái (x. Ga 14,3).
- từ bốn phương, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời: dịch sát: “từ bốn gió, từ mút cùng đất đến mút cùng trời”. Các hình ảnh này là cách cổ điển mà Kinh Thánh và người Hy Lạp dùng để nói về thế giới.
- thí dụ cây vả (28): Trong Cựu Ước, mùa hè và cuộc thu hoạch là những hình ảnh diễn tả sự cùng tận, cuộc giải phóng và phán xét chung cuộc (x. Ge 4,17; Am 8,1tt; Is 28,4; Gr 8,20). Những gì xảy ra với cây vả được dùng để ví những dấu chỉ xảy ra nhằm báo cho biết Đức Kitô đã đến gần (c. 29).
- thế hệ này (30): “Thế hệ này”, dù là “thế hệ gian ác” (Mc 8,38; 9,19; Mt 12,39.45) gồm những người không tin Đức Kitô hoặc sứ điệp của Giáo Hội, thì cũng là thế hệ đương thời với tác giả Mc. Khi nghe đọc đoạn văn này, các tín hữu càng được củng cố trong nỗi niềm chờ mong Đức Chúa của mình ngự đến.
- mọi điều ấy: Dựa trên câu hỏi của các môn đệ ở c. 4b và cùng với tauta (“các điều ấy”) được lấy lại từ c. 29, có thể quy về toàn thể các biến cố được mô tả trong bài Diễn từ cho đến điểm này, tức cũng quy về cuộc Quang Lâm của Con Người. Dựa theo câu nói này, ta nhận ra một sự chờ đợi nôn nóng trong một thời gian ngắn.
- những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu (31): Đức Giêsu xác định những lời Người nói có cùng một sự chắc chắn và một uy tín như những lời của Yhwh trong Cựu Ước (Is 40,8; 51,6; 54,10; Gr 33,25t; x. Kh 22,6; Mt 5,18).
- không ai biết được, ngay cả Người Con …, chỉ có Chúa Cha mới biết (32): Câu này là một crux interpretum (thập giá của các nhà chú giải). Lời này dường như mâu thuẫn minh nhiên với Mt 11,27: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con…”. Người ta thường giải quyết bản văn khó này như sau. Mt 11 nói về sứ mạng mạc khải của Đức Giêsu để cứu độ thế gian: để đạt được mục tiêu này, Người đã được Thiên Chúa ban cho toàn quyền mạc khải và mọi hiểu biết cần thiết. “Nhưng Người đã có thể không biết một số điểm thuộc về chương trình sau này của Thiên Chúa, như Ngài khẳng định ở đây một cách rõ ràng” (P. Benoýt). Phải hiểu Đức Giêsu không biết đây là không biết trong bối cảnh mầu nhiệm nhập thể, khi đó Chúa Con đã từ khước nhiều đặc quyền thần linh của mình (x. 2 Cr 8,9; Pl 2,6tt) để chia sẻ thân phận con người sâu xa hơn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cuộc Quang Lâm (24-27)
Tiếng nói cuối cùng trên toàn thể lịch sử nhân loại và trên tất cả các tình huống là biến cố Con Người ngự đến trong vinh quang Thiên Chúa (Mc 13,26; x. 8,38; 14,62). Người đã đi qua đau khổ và cái chết; sau khi sống lại, Người đã chỉ tỏ mình ra với các môn đệ tuyển chọn; nhưng trong tương lai, Người sẽ xuất hiện trước mắt tất cả mọi người trong phẩm tước đích thực của Người. Cuộc tỏ mình của Người cũng như quyền chúa tể hữu hình của Người, duy nhất và vô biên, là cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại.
* Thời gian (28-32)
Với câu hỏi về “khi nào?”, Đức Giêsu trả lời trước tiên bằng một dụ ngôn rõ ràng. Cần phải học bài học từ việc quan sát cây vả. “Khi nó trổ lá, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần” (cc. 28-29). Tác giả muốn nói đến các biến cố ở cc. 6-13, cc. 6-23 hay cc. 14-23? Bởi vì công thức “khi anh em thấy” (hotan idête) nhắc lại c. 14, chúng ta nên coi các biến cố thuộc phân đoạn cc. 14-23.
Cuối cùng, có ba câu nói về thời gian (cc. 30-32): “thế hệ này”; “những lời Thầy nói”; “chỉ có Chúa Cha biết”. Tất cả được mở đầu bằng giọng long trọng: “Thầy bảo thật (amên) anh em”. Sự hiểu biết về lịch sử loài người và mọi câu hỏi liên quan đến tương lai dường như dễ đưa tới sự lừa dối và sai lầm: đây là vùng hoạt động của các ngôn sứ giả. Lời khuyến cáo của Đức Giêsu vẫn còn có giá trị cho mọi thời đại: “Anh em hãy coi chừng đừng để người ta lừa gạt!” (c. 5; x. cc. 21-23). Các lời Người nói sẽ có giá trị mãi mãi (c. 31). Và với giọng rõ ràng chắc chắn, Người khẳng định rằng chỉ có Thiên Chúa biết ngày hoàn tất những điều đã được loan báo (c. 32).
+ Kết luận
Câu hỏi đầu tiên của các môn đệ: khi nào xảy ra những điều ấy? Câu trả lời của Đức Giêsu vượt quá câu hỏi đó nhiều lắm. Người ta sẽ không còn coi Đền Thờ là nơi quy tụ nữa. Đền Thờ sẽ bị sụp đổ cùng với thế giới. Mọi người phải hướng về Đấng cao trọng hơn Đền Thờ, Người sẽ quy tụ nhân loại đã được cứu thoát khỏi tà thần: Người là Đức Chúa phục sinh quang vinh.
Toàn bài Diễn từ cánh chung muốn thổi một làn gió lạc quan trên thế giới. Đồng ý là có những thời trong đó sự dữ thắng thế, nhưng nó không thể khai sinh một thế giới mới. Chỉ nhờ sự sống lại của Đức Kitô và nhờ Thánh Thần, một mầm sống mãnh liệt mới khai sinh một vũ trụ mới. Với lại, kiểu hành văn “cánh chung” bao giờ cũng chất chồng các hình ảnh tai hoạ u ám để làm nổi bật lên ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa. Ước mong người tín hữu không bối rối khi đọc thấy sự dữ lan tràn, nhưng nhớ rằng một sứ điệp tràn đầy hạnh phúc đang được triển khai.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tương lai của nhân loại có đen tối đến đâu và nhìn bề ngoài thì dường như đang đi đến chỗ hoàn toàn diệt vong, nhưng cuối cùng, vẫn còn có Con Người, Đấng đã chia sẻ tất cả định mệnh con người, nay đang ở trong sự hiệp thông xán lạn và vinh hiển với Chúa Cha toàn năng. Các môn đệ của Đức Giêsu có bị bách hại, bị ghét bỏ và bị giết tàn bạo đến mức nào đi nữa, Đấng mà họ bước theo sau và cũng là Đấng mà họ đã chia sẻ cùng một số phận, đang chờ họ và sẽ bênh vực họ (x. 8,34-38). Đức Giêsu là Đấng trung thành và quyền năng. Người sẽ tìm được họ dù họ lang bạt đến tận đâu và sẽ quy tụ họ lại.
2. Các môn đệ của Đức Giêsu phải tránh những ý tưởng sai lạc về tương lai. Họ không được trông mong vào một thiên đàng hạ giới chan hòa bình an. Trái đất vẫn là một thung lũng đầy nước mắt, nên họ phải sẵn sàng chấp nhận gian lao vất vả, bị từ khước và bị bách hại. Họ không được chạy theo ảo tưởng và cũng không được buông theo thất vọng. Họ phải tin cạy vững vàng vào lời nói của Đức Giêsu và tương lai mà Người phác họa ra.
3. Điều nói trên không có nghĩa là các môn đệ không được bận tâm đến tương lai và không được để cho tương lai ảnh hưởng trên lối sống hiện tại của mình. Như khi thấy các lá non của cây vả, chúng ta biết mùa hè đã đến gần, chúng ta cũng không được bám cứng vào những gì đang xảy ra, nhưng phải quay hướng về biến cố kết thúc đang đến (13,28t).
4. “Anh em hãy coi chừng đừng để người ta lừa gạt!” (c. 5; x. cc. 21-23). Đức Giêsu như đang nói: Anh em đừng để cho mình bị lạc đường vì tò mò và sợ hãi! Thầy đã chỉ cho anh em thấy rõ ràng thực tại chung kết. Hãy bám vững vào đó và hãy bằng lòng với điều đó! Điều đó hoàn toàn đủ cho anh em rồi! Vì về ngày đó, chỉ Chúa Cha biết; tất cả mọi tính toán về ngày cuối cùng đó chỉ là chuyện tưởng tượng bừa bãi, đi ngược lại với lời nói rõ ràng của Đức Giêsu.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, người có lòng tin sẽ hiểu thế nào là sự sống, thế nào là chết, có: TN 33-B47
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, người có lòng tin sẽ hiểu thế nào là sự sống, thế nào là chết, có thiên đàng, hỏa ngục không ? Thực tế, mỗi người chúng ta đều phải chết, đó là định luật tự nhiên của con người. Tuy nhiên, ai cũng ưu tư, ai cũng thắc mắc về cái chết. Có những bình thản hơn, nhưng lại có những người bối rối, lo âu không biết chết lúc nào và rồi họ đâm ra lo sợ, mất ăn, mất ngủ. Các bài đọc Chúa nhật 33 thường niên vén lộ những giá trị con người có thể bất gặp trong mầu nhiệm sự chết và rồi con người khi đã xác tín với đức tin sâu xa, họ sẽ an tâm hơn, bình an hơn để tiếp tực vui sống nơi trần gian tạm bợ, chóng qua này.
Con người từ tạo thiên lập địa vẫn không thế thoát khỏi cái chết. Dù y khoa có tiến bộ vượt bực, dù các nhà bác học có dầy công nghiên cứu tìm ra thuốc diệt được vi trùng nguy hiểm, nhưng không bao giờ tìm ra loại thuốc chống cái chết. Sinh ký tử qui, sống ở thác về là thế. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rõ về sự sống lại và có sự sống đời sau bởi vì Chúa là sự sống và là sự sống lại:” Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin vào Ta, sẽ không chết bao giờ “( Ga 11, 25-26 ). Tiên tri Đanien viết:” Sau cuộc sống ở trần gian, còn có một sự sống khác “. Bài Tin mừng của thánh máccô 13, 24-32 cho thấy ngày cùng tận của Chúa Giêsu. Ở đây, thánh Máccô diễn tả Chúa sẽ bị bắt, bị nộp và bị treo trên thập giá, rồi Ngài sống lại khải hoàn. Thánh sử Máccô đã dùng lối văn khải huyền để diễn tả về ngày cùng tận, Ngài đã dùng nhiều hình ảnh của các tiên tri, đặc biệt là của ngôn sứ Đanien.
Thánh Máccô diễn tả cái chết thật thương đau. Nhưng đối với Chúa Giêsu cái chết không phải là ngõ cụt, không phải là chấm hết, chết đối với Ngài là tuyệt đỉnh của tình yêu, là chóp đỉnh của sự tha thứ, là đỉnh cao nhất của ơn cứu chuộc. Tình yêu của Ngài được thực hiện nơi cái chết trên thập giá. Chết mới nói lên lời. Nhờ cái chết của Chúa Giêsu, nhiều người được cứu chuộc như lời Thánh vịnh viết:” Ơn cứu độ chan chứa nơi Người “ ( Copiosa apud Eum ). Thập là là tuyệt đỉnh yêu thương của Chúa. Thập giá là nơi se kết con người với Thiên Chúa. Thâp giá diễn tả lòng thương xót vô biên của Chúa đối với loài người, đối với con người. Thập giá cũng chính là nơi Chúa Giêsu được tôn vinh như thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Philipphê. Qua cái chết và sống lại của Chúa Giêsu, thế giới bắt đầu một cuộc sống mới, đời sống được ơn cứu độ nhờ máu của Chúa đổ ra để tẩy sạch tội lỗi của con người.
Chúa Giêsu luôn động viên, khích lệ các môn đệ và mọi Kitô hữu hãy can đảm và vững tin vì có đau khổ mới tiến tới vinh quang, có nhục nhã mới vui tươi, hớn hở vv…Chúa Giêsu cũng cho biết cuộc sống phục sinh sẽ là cuộc sống mới thật vinh quang. Con người gặp gỡ nhau trong tình yêu của Chúa. Cuộc sống mới là mọi người đều là anh em của nhau, mọi người đều sống trong Chúa, chiêm ngưỡng thánh nhan của Chúa. Chúa loan báo như thế để môn đệ của Chúa tin tưởng, hân hoan và mạnh mẽ hơn trên cuộc hành trình theo Chúa. Chính vì có cuộc sống mới, cuộc sống mai sau như lời Chúa hứa mà các môn đệ được nâng đỡ, ủi an và hạnh phúc.
Cuộc hành trình đức tin của mọi Kitô hữu được nâng đỡ vì họ biết rằng qua cuộc sống này còn có sự sống mới. Môn đệ của Chúa sẽ luôn vững bước, luôn có Thánh Thần thúc đẩy khi họ biết vượt thắng, đẩy lùi tội lỗi, đẩy lùi bóng tối để tiến bước về với Chúa.Lời của Chúa luôn là động lực mạnh mẽ, là niềm tin và nguồn an ủi vững vàng khi Chúa quả quyết:” Vì đây chính ý của Cha Ta Đấng đã sai Ta là bất kỳ kẻ nào thấy Chúa Con và tin ở Ngài, thì được sống đời đời. Và Ta sẽ cho sống lại ngày tận thế “.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt Qua của Chúa, Xin cho con biết sống cuộc Vượt Qua mỗi ngày của con, …………………………………………………………
Chính vì Chúa đã phục sinh Nên con vui sướng và can đảm vượt qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt. Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh Gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, Tin tưởng và niềm vui. Ước gì ai gặp con Cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa( trích trong Rabbouni ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Sự chết là gì ? 2.Tại sao mọi người đều phải chết ? 3.Làm sao biết được có sự sống lại ? 4.Chết rồi linh hồn sẽ đi đâu ?
(24) Trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, (25) Các ngôi sao từ trời sa xuống, và quyền lực trên trời bị lay chuyển. (26) Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. (27) Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời. (28) Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà tìm hiểu. khi cành nó mềm ra và trổ lá, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. (29) Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”. (30) Thầy bảo thật anh em: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. (31) Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. (32) Còn về ngày hay giờ thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay Người Con cũng không. Chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong diễn từ về “Cuộc quang lâm của Đức Giê-su” (x. Mc 13,1-37): TN 33-B48
Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong diễn từ về “Cuộc quang lâm của Đức Giê-su” (x. Mc 13,1-37). Bằng những hình ảnh tượng trưng về sự sụp đổ của Đền Thờ kèm theo những điềm báo trước, Đức Giê-su nhắc nhở các tín hữu về “Ngày của Chúa”. Khi đó sẽ có những cơn bách hại xảy ra, trời đất cũ sẽ bị rung chuyển và biến đổi thành “Trời Mới Đất Mới” (x Kh 21,1), trước khi Con Người đến trong đám mây.
3. CHÚ THÍCH:
- C 24-25:
+ Trong những ngày đó: Ngày nói đây là ngày Đền Thờ Giê-ru-sa-lem nguy nga tráng lệ bị tàn phá bình địa.
+ sau cơn gian nan ấy: Cơn gian nan như một điềm báo trước về Ngày Tận Thế.
+ Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, các quyền lực trên trời bị lay chuyển: Những hình ảnh trong các sách Cựu Ước này nói về “Ngày của Đức Gia-vê”. Ở đây các hình ảnh này nhằm đề cao sự uy nghiêm của Đức Ki-tô trong Ngày Tận Thế: bấy giờ các tầng trời sẽ bị rung chuyển, công trình sáng tạo xưa kia sẽ biến mất và một Trời Đất Mới sẽ xuất hiện.
- C 26-27:
+ Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến: Con Người là hình ảnh một nhân vật trong sách Đa-ni-en, trổi vượt hơn hình ảnh “Đấng Mê-si-a Con Vua Đa-vít”. Ngài đến trong đám mây trời, tiến lên trước toà Thiên Chúa và nhận lãnh một vương quyền phổ quát (x Đn 7,13). Trong các sách Tin Mừng, Đức Giê-su đã xưng mình là Con Người tới 70 lần (x. Mt 8,20; Ga 3,13...): Người tự xưng là Con Người với 2 ý nghĩa. Một là Người Tôi Tớ của Đức Gia-vê: “Tôi, Người Tôi Tớ bị loại bỏ, bị giết chết nhưng sẽ được tôn vinh và sẽ cứu độ muôn người” (x. Mc 8,31). Hai là Chúa Con, được đưa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Tv 110,1) và đến ngày tận thế, sẽ lại đến (x. Đn 7,13).
+ “Đến trong đám mây”: Mây không phải là một phương tiện di chuyển, nhưng chỉ là một biểu tượng về sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 13,21; Mt 17,5)
+ Người sẽ sai các thiên sứ đi và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời: Từ khắp nơi, Đấng Ki-tô sẽ ra lệnh cho các thiên thần qui tụ tất cả những người lành thánh được tuyển chọn tập trung lại.
- C 28-29:
+ Lấy thí dụ cây vả... khi thấy những điều đó xảy ra: Các ngôn sứ thường dùng hình ảnh mùa hè và mùa gặt để diễn tả ngày cánh chung hay ngày tận thế. Ở đây Đức Giê-su dùng hình ảnh cây vả báo trước mùa hè sắp tới, để ám chỉ về ngày cùng tận của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là hình ảnh tiên báo về ngày tận thế (x Mc 13,4-19).
- C 30-31:
+ Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra: Việc tàn phá Đền Thờ Giê-ru-sa-lem xảy ra vào năm 70, là thời điểm những ai nghe lời Đức Giê-su giảng vẫn còn sống và chứng kiến những điều Người tiên báo được ứng nghiệm.
+ Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu: Vũ trụ vật chất sẽ có ngày tan biến (x Is 24,19.23), nhưng Lời Đức Giê-su sẽ luôn tồn tại nhờ quyền năng của Thiên Chúa.
- C 32:
+ Về Ngày Giờ đó: câu này nói về ngày tận thế sẽ xảy ra.
+ chỉ có Chúa Cha biết mà thôi: Ngày Giờ cánh chung hay tận thế thuộc quyền Chúa Cha định liệu. Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa (x. Pl 2,6), với tư cách là Ngôi Lời, đồng bản tính vơi Chúa Cha nên dĩ nhiên Người biết mọi sự giống như Chúa Cha. Nhưng với tư cách là Đấng Thiên Sai (x. Pl 2,8), Người “nên giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ không có tội” (x. Gl 4,4), nên Người không biết được Ngày Giờ ấy, hầu mọi người phải luôn tỉnh thức ị sẵn sàng chuẩn bị cho ngày ấy (x. Mc 13,33).
4. CÂU HỎI:
1)Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đã tự xưng là “Con Người” mấy lần? Đức Giê-su muốn mặc khải mình là ai khi tự xưng mình là Con Người?
2)“Con Người ngự trong đám mây mà đến”: Phải chăng đám mây là phương tiện Đức Giê-su dùng để di chưyển? 3)Đức Giê-su có biết rõ ngày cùng tận của thế giới là ngày nào không? Tại sao?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến (Mc 14,26).
2.CÂU CHUYỆN: TIN ĐỒN VỀ NGÀY TẬN THẾ
Vào cuối năm 1992, hàng chục ngàn tín đồ của một giáo phái tại Hàn quốc đã tụ tập nhau trong hơn 150 nhà thờ để đón chờ ngày tận thế, đón Đức Giê-su tái lâm trong vinh quang để phán xét chung. Theo những người lãnh đạo của giáo phái này thì chính xác ngày tận thế là vào lúc nửa đêm ngày 28/10/1992. Các tín đồ của giáo phái trương lên biểu ngữ:”Chúng ta sẽ gặp nhau trên trời”. Đồng thời hàng ngàn cảnh sát Hàn quốc cũng được đặt trong tình trạng báo động cao trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu ngày tận thế không xẩy ra. Bởi vì, rất nhiều người do quá tin tưởng đã bán hết nhà cửa và phát tán mọi tài sản gia đình… để chuẩn bị cho ngày tận thế này. Nhưng cuối cùng ngày tận thế đã không xẩy ra, nên sau đó giáo phái này đã tự giải thể.
Đây chỉ là một trong nhiều tiên báo không chính xác về ngày tận thế trên thế giới. Sở dĩ người ta đóan sai là do đã hiểu lời Chúa cách lệch lạc và không đúng theo ý Chúa Giê-su dạy. Đối với các tín hữu chúng ta: nhân dịp cuối năm phụng vụ, Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta ý thức về ngày tận thế chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng không xác định cụ thể ngày giờ. Việc đề cập đến ngày này nhằm giúp chúng ta canh tân đời sống và tích cực chuẩn bị cho ngày Chúa đến viếng thăm trong giờ chết của mỗi người.
3.SUY NIỆM:
1)Ngày tận thế chắc chắn sẽ đến:
-Tin mừng Marcô hôm nay nói về ngày tận thế: Hôm ấy các môn đồ chỉ cho Đức Giê-su thấy cảnh huy hoàng của Ðền Thờ khi được ánh sáng mặt trời chiếu vào! Nhưng Đức Giê-su đã tiên báo cảnh ấy có ngày sẽ không còn nữa và Đền Thờ sẽ bị phá hủy không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, vì dân Giê-ru-sa-lem đã từ chối đón nhận ngày Thiên Chúa đến viếng thăm.
-Ðức Giê-su đã dùng những hình ảnh về thời kỳ chiến tranh, cũng như các công thức về thời cánh chung trong các sách ngôn sứ để diễn tả cảnh tàn phá của Giê-ru-sa-lem. Từ đó, Người đề cập đến ngày cùng tận của thế giới. Nhưng lời của Đức Giê-su được các thánh sử ghi lại sau khi Ðền Thờ đã bị sụp đổ và Hội Thánh bị bách hại khắp nơi. Qua Lời Chúa hôm nay, Mác-cô muốn trình bày các điều sau:
+Một là các hiện tượng trời đất như mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống và các thiên thể lay chuyển… là điềm báo Chúa đến trong ngày tận thế.
+Hai là mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống… cho thấy vũ trụ này sẽ quay trở lại lúc khởi nguyên hỗn mang khi chưa có ánh sáng. Và như thế, ngày tận thế là lúc vũ trụ sẽ biến mất để cho “trời mới và đất mới” xuất hiện.
+Ba là người ta sẽ thấy “Con Người đến trong đám mây”. Con Người chính là Ðức Giê-su Cứu thế. Hình ảnh mây trời nhấn mạnh tính cách "hiển linh" của việc Người đến. Và như vậy "ngày của Chúa" sẽ trở thành ngày của Thiên Chúa đến “trong và nhờ” Con Người là Chúa Giê-su.
+Bốn là Vua Ki-tô sẽ sai các thiên thần đi khắp cùng mặt đất thâu họp những kẻ được chọn lại, để đưa họ vào hưởng vinh quang của Người trên trời.
2)khi nào điều ấy xảy ra?
-Đây là thắc mắc của mọi thế hệ loài người. Theo Tin mừng Mác-cô: Ðức Giê-su dạy các môn đệ phải tiên liệu: Khi thấy các điềm kia xảy ra, thì hãy biết rằng “Con Người đã đến gần bên cửa” (x Mc 13: 28-29).
-Các điềm báo về ngày tận thế như: Mùa hè ám chỉ thời kỳ tận thế, các chi tiết khác như: Ðền thờ bị tàn phá, chiến tranh lọan lạc, các ki-tô giả xuất hiện, niềm tin trở nên nguội lạnh, các tầng trời bị lay chuyển v.v... cho thấy tính không bền vững của vũ trụ vật chất.
-Nghe lời Chúa hôm nay, nhiều người đã lầm tưởng ngày tận thế sắp đến. Nhưng ngay sau đó Đức Giê-su đã khẳng định: "Về ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được... cả Con Người nữa, trừ phi là Chúa Cha" (Mc 13,32).
-Thực ra, với bản tính Thiên Chúa, Đức Giê-su ngang hàng với Chúa Cha, nên cũng biết rõ ngày tận thế. Nhưng với bản tính lòai người thì cũng như chúng ta, Người không biết rõ đó là ngày nào.
3)Chúng ta phải làm gì?
-Không nên hỏang sợ nhưng hãy hy vọng chờ đón Chúa đến:
Đức Giê-su báo trước sẽ có ngày tận thế, nhưng lại dạy môn đệ không nên hoảng sợ. Người đến để phán xét mọi người, nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến”(2 Tm 4,8), thì Người sẽ là Đấng Cứu Độ và là vinh quang của họ: ”Người sẽ sai các thiên thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đức Giê-su Ki-tô”(Tt 2,13). Đứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ đúng đắn nhất của các môn đệ là: ”tỉnh thức và cầu nguyện luôn”, trong niềm mong chờ, vì Chúa sẽ đến bất ngờ như Người đã nói: ”Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”(Mt 24,44).
-Chuẩn bị cho giờ chết của mỗi người và ngày tận thế chung tòan nhân lọai:
Người Ki-tô hữu chỉ có thể “đứng vững trước mặt Con Người” khi biết thanh luyện tội lỗi, tránh xa sự dữ và các thói hư, nhất là thói ích kỷ, tham lam…, và góp phần xây dựng một thế giới mới yêu thương, trong đó mọi người luôn quan tâm, cảm thông và chia sẻ phục vụ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng cho gia đình, cộng đòan và môi trường sống ngày một tốt đẹp hơn.
-Cần ý thức tính tập thể của ơn cứu độ:
Đường về trời không dành riêng cho từng người, nhưng là con đường chung cho hết mọi người. Trong ngày phán xét, Đức Ki-tô sẽ tái lâm xét xử nhân lọai dựa trên tiêu chuẩn thực thi bác ái chia sẻ và phục vụ tha nhân. Ai sống trong yêu thương, người đó sẽ được sống lại và hưởng hạnh phúc trường sinh, còn kẻ “ghét anh em chính là kẻ sát nhân” (1 Ga 3,15) cũng sống lại để chịu hình phạt “khóc lóc và nghiến răng” (x Mt 25,31-46). Còn “Ai làm cho người ta nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao”(Đn 12,3).
-Maranatha: Lạy Chúa Ki-tô, xin hãy đến:
Các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai đã mong ước ngày trở lại của Chúa qua lời cầu nguyện: “Maranatha - Lay Chúa Giê-su, xin ngự đến” (Kh 22,20). Trong Thánh lễ, sau khi truyền phép, các tín hữu chúng ta cũng dâng lời xin: ”Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Mỗi tín hữu chúng ta cần năng hồi tâm sám hối và tích cực chuẩn bị cho ngày Chúa đến bằng việc làm các việc bác ái chia sẻ phục vụ cho tha nhân nhằm “Làm vinh danh cho Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”, kèm theo một lời nguyện như sau: “Lạy Chúa Ki-tô, xin hãy đến“.
4.THẢO LUẬN:
1)Bạn hiểu thế nào về ngày tận thế?
2)Chết là gì?
3)Bạn làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến trong giờ chết mỗi người và ngày tận thế chung tòan nhân lọai?
5.LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su, xin ban cho chúng con một quả tim mới và một thần trí mới để chúng con sẵn sàng góp phần xây dựng Hội Thánh và phục vụ Chúa trong mọi người chung quanh ngay từ hôm nay. Xin cho chúng con sẵn lòng chấp nhận các đau khổ trái ý xảy đến để thành tâm sám hối tội lỗi, khử trừ thói hư và tích cực góp phần làm cho gia đình, cộng đòan, xã hội… trở nên công bình yêu thuơng và bình an hoan lạc hơn, hầu đón chờ Chúa sẽ tái lâm và biến thành một “Trời Mới Đất Mới” trong ngày tận thế.
X)HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ)XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 13:24-32)
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, khi người ta nói lên một sự kiện gì đó, cách nói thật là quan: TN 33-B49
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, khi người ta nói lên một sự kiện gì đó, cách nói thật là quan trọng. Thánh Mác-cô viết rằng: “Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ về ngày quang lâm của Người”. Nói về ngày quang lâm khiến chúng ta luôn nghĩ tới việc nói về những gì là đe dọa, sợ hãi làm cho người nghe phải lo lắng. Vậy chúng ta hãy xem Chúa Giê-su nói như thế nào về việc Người quang lâm.
Trước hết, Chúa Giê-su kể ra những hiện tượng kinh khủng xảy ra trên bầu trời trước khi Người trở lại trần gian, như mặt trời ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng và các ngôi sao sa xuống. Tiếp theo là “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”. Sau cùng là các thiên sứ “tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về”. Không có quang cảnh phán xét kẻ lành kẻ dữ khiến cho người ta run sợ, nhưng chỉ là sự kiện các thiên thần “tập họp những kẻ được tuyển chọn”. Điểm đặc biệt này cho thấy Chúa Giê-su chỉ nhìn ngày quang lâm của Người theo khía cạnh tích cực, và do đó mang tính cách cổ võ và kêu gọi chúng ta hãy là những người được Thiên Chúa tuyển chọn trong ngày quyết định cho số phận tương lai vĩnh cửu của chúng ta.
Tuy nhiên điều giúp chúng ta nhận ra cách nói tích cực và khích lệ của Chúa Giê-su về ngày quang lâm chính là thí dụ cây vả Người kể tiếp theo những loan báo trước đó. Một cây vả đã trải qua mùa đông rụng lá trơ cành, giờ đây vỏ cây đã đổi thành mầu xanh và trên đầu cành đã xuất hiện chồi lộc, là dấu hiệu nói lên mùa xuân đã tới và đến mùa hè nó sẽ đem lại hoa trái. Nếu chúng ta có thể ví mình như cây vả, thì Chúa sẽ là mùa xuân mang sức sống đến làm cho chúng ta đâm chồi nảy lộc và Người cũng là mùa hè mang ân sủng làm cho chúng ta sinh hoa kết quả. Như thế, Người đã biến đổi chúng ta thành “những kẻ được tuyển chọn”. Chúa nói thí dụ cây vả như một bài học tích cực để chúng ta học hỏi mà chuẩn bị cho ngày Người trở lại trần gian. Đây không phải là một bài học dọa nạt, nhưng là bài học mang tính cách khích lệ. Những người không chịu học hỏi bài học này thì lo lắng chuẩn bị không đâu. Nào là đoán mò ngày giờ Người quang lâm. Nào là tích trữ lương thực và thức uống để đối phó với những cảnh “tối tăm ba ngày ba đêm”, động đất hoặc va chạm hành tinh… Trái lại, những người biết “học hỏi” từ bài học cây vả sẽ chuẩn bị đúng cách cho ngày Chúa đến. Họ sẽ biến đổi từ con người khô cằn tội lỗi thành con người xanh tươi thánh thiện. Họ sẽ sinh hoa trái tình yêu khi thực thi giới răn mến Chúa yêu người. Họ cố gắng làm sao cho mình được kể vào hàng ngũ “những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Khi Chúa Giê-su dạy: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi” là Chúa muốn vạch ra một con đường để chúng ta chuẩn bị cho ngày Chúa đến. Đích tới của cuộc đời chúng ta là cây vả đem lại hoa trái mùa hè, hoặc nói khác đi, là trở nên những kẻ được Chúa tuyển chọn mà sống đời đời. Chúa muốn mỗi người chúng ta sẽ là cây vả sinh hoa trái, để khi Người đến và tìm trái thì chúng ta đã sẵn sàng để dâng cho Người.
Cách người loan báo về ngày trở lại của Người không làm cho chúng ta sợ hãi, nhưng kêu gọi chúng ta hãy sống tín thác nơi Người. Như cây vả, chúng ta cứ hút lấy sức sống mùa xuân là lời Chúa và ân sủng Người, để đời sống đức tin chúng ta được phát triển. Chúng ta cứ đón nhận ánh nắng mùa hè là tình yêu Chúa để hoa trái thiêng liêng của chúng ta càng thêm lớn mạnh và đạt tới độ chín là mức trưởng thành trong Chúa Ki-tô. Chúa đến để xét xử nhân loại, nhưng ở đây Chúa nhấn mạnh Người đến để “tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương”. Do đó chúng ta hãy có tâm tình chờ đợi Chúa trong niềm vui, chứ không phải sống trong nỗi nơm nớp lo sợ không biết lúc nào ngày tận thế xảy ra. Lo lắng muốn biết ngày giờ Chúa đến không phải là thái độ thích hợp cho người Ki-tô hữu chân chính vậy.
Chúa nhật 33 thường niên, năm B cũng là Chúa nhật mừng các thánh tử đạo Việt Nam. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta hiểu rõ theo Chúa là chấp nhận hy sinh, từ bỏ và nhiều khi phải chấp nhận đổ máu, hy sinh mạng sống của mình. Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam chúng ta không khỏi cảm động và hết sức khâm phục các bậc tiền bối đã can đảm, cương quyết làm chứng cho Chúa Giêsu dẫu phải trả giá bằng chính cuộc đời của mình.
Gần 400 thiết lập Giáo Hội tại Việt Nam, Hội Thánh đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Có những lúc hầu như Giáo Hội được phong phú, nở hoa nhưng có những lúc Hội Thánh gặp những phong ba bão táp, gặp những cơn bách hại khủng khiếp. Giáo Hội Việt Nam cũng như Hội Thánh hoàn cầu do Chúa thiết lập và vun khoén đã không ngừng phát triển dù rằng khắp nơi Giáo Hội luôn gặp những nghi kỵ, những khó khăn, thử thách. Thiên Chúa đã tạo dựng thế giới, tạo dựng con người giống hình ảnh của Người. Tuy nhiên, sự trinh nguyên, trong sáng lúc đầu đã bị con người đánh mất do ma quỉ cám dỗ gây nên. Vì yêu thương thế gian, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến trần gian để cứu độ con người. Đức Giêsu Kitô đã không ngừng tái tạo con người, đã không ngừng tái tạo cuộc sống mới: trên thập giá lúc kết thúc đời sống ở trần gian, Đức Giêsu Kitô đã tha thứ cho những kẻ giết Ngài, hứa nước thiên đàng cho kẻ trộm lành, trối thánh Gioan cho Đức Mẹ và Ngài phó thác Ngài cho Thiên Chúa Cha.
Các thánh tử đạo Việt Nam mà chúng ta mừng kính hôm nay là những người đã hy sinh xây dựng Hội Thánh Việt Nam. Chính máu của các Ngài đổ ra là mầm mống nẩy sinh người theo Chúa.
“Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, con cũng sai họ đến trong thế gian”( Ga 17, 18 ).Thế gian là các thánh tử đạo Việt Nam đã sống cho đến chết. Thế gian là đất nước, quê hương, làng xóm, vua quan và mọi người dân…Chúa Giêsu đã yêu mến và sống hết sức tận tình cho thế gian đó. Thế gian đã trở nên máu thịt của người môn đệ Chúa vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ và là nơi họ trở nên môn đệ Chúa toàn vẹn.
“Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian” ( Ga 17, 16 ).
Người môn đệ Chúa vẫn sống trong thế gian nhưng suy nghĩ và hành động của họ hoàn toàn khác với suy nghĩ của thế gian. Người môn đệ Chúa không khinh thường các giá trị của đời sống nhưng họ biết đâu là giá trị phải giữ, phải trân trọng. Bởi vì họ là muối là men cho đời.Tử đạo là bằng chứng tuyệt vời nhất của sự minh chứng cho bộ mặt đầy yêu thương của Thiên Chúa. Việc đổ máu và hiến cả mạng sống để làm chứng cho Đức Giêsu Kitô là cái giá mà các thánh tử đạo phải trả. Họ làm chứng cho một niềm tin sâu xa, một đức tin khiến có thể dời núi, dời non, một đức tin sâu xa trong Đấng ban sức mạnh cho họ. Chúa Giêsu cũng đã phải trả giá:” Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “( Ga 15, 13). Làm chứng là phải trả giá, nhưng trước sự đau khổ tột bực, cái chết tang thương, chính Chúa Giêsu cũng đã phải thốt lên:” Xin cho Con khỏi uống chén đắng này nhưng đừng theo ý của Con mà là theo ý Cha “.
Các thánh tử đạo Việt Nam gồm đủ mọi thành phần: các Giám mục, Linh mục, nữ tu, quan quyền, thầy giảng, giáo dân, người lớn, trẻ em. Tất cả các Ngài đã nhất nhất tuyên xưng đức tin và thà chết chứ không hề chối đạo, quá khóa vv…Máu của các thánh tử đạo Việt Nam đã xây nên Giáo Hội Việt Nam vững mạnh.
Theo Chúa là chứng nhân. Theo Chúa là phải trả giá. Mỗi thời, mỗi giai đoạn khác nhau đều có những cách trả giá khác nhau. Nhưng nhất thiết, theo Chúa là phải trả giá. Người môn đệ Chúa sống chứng nhân không phải lúc nào cũng xuôi chảy, lúc nào cũng dễ dàng.
Lạy Chúa xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con có thể làm chứng cho Chúa bằng chính đời sống của mình. Amen.