“Người sẽ quy tụ những người được tuyển chọn từ khắp bốn phương trời”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất. Nhìn vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này. Khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến. Cũng vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật các con: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi. “Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi”. - Ðó là lời Chúa.
Mc 13:24-32: 24 “Nhưng trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, 25 các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. 26 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Người Con của Nhân Loại đến trong đám mây đầy quyền năng và vinh quang. 27 Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.
28 “Anh em hãy học dụ ngôn nầy từ cây vả. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. 29 Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. 30 Thật, Thầy bảo anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi cho đến khi mọi điều ấy xảy ra. 31 Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời của Thầy sẽ chẳng qua đâu. 32 “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha.
Đoạn 13:24-32 thuộc về đoạn cuối của diễn từ nói về những biến cố sau cùng và việc Người Con: TN 33-B51
Đoạn 13:24-32 thuộc về đoạn cuối của diễn từ nói về những biến cố sau cùng và việc Người Con của Nhân Loại sẽ đến (13:5-37). Đoạn nầy có thể chia thành 3 phần: 1- Những biến chuyển vũ trụ và Người Con của Nhân Loại sẽ đến (13:24-27); 2- Bài học từ cây vả (13:28-29); 3- Ba khẳng định (13:30-32).
Sau khi tiên báo những khốn khổ, chiến tranh, các ngôn sứ giả… sẽ đến trong thời sau cùng, Chúa Giêsu chuyển sang nói về việc Người sẽ đến. Khung cảnh đoạn nầy là “Trong những ngày đó” và “sau gian nan ấy” (13: 24a). Ở đây không chỉ một thời gian cụ thể, mà chỉ quy chiếu về những biến cố đã được tiên báo trong các câu 13:14-23. Những hiện tượng vũ trụ của mặt trời ra tối tăm, mặt trăng mất sáng, các tinh tú sa xuống và các quyền lực bị lay chuyển thường đi trước ngày của Thiên Chúa. Trong ngày Người đến, Babylon và các vương quốc của sự dữ sẽ bị phán xét và tiêu diệt (x. Is 13:9-11; Ezek 32:7-8; Gioel 2:10, 31; 3:15; Amos 8:9); sau đó, dung nhan và sức mạnh của Người sẽ xuất hiện (Gioel 2:10-11).Vậy, Giêrusalem sẽ sụp đổ (x. 13:2; 14: 58) và Thiên Chúa sẽ xuất hiện trong Con của Người (13:26; 14:62). Việc mô tả Người Con của Nhân Loại đến (13:26) ám chỉ Đaniel 7:13. Những yếu tố: đám mây, quyền lực, vinh quang và các thiên thần đặc trưng cho Người là Đấng đến từ Thiên Chúa. Đám mây là nơi từ đó phát ra tiếng của Chúa Cha (x. 1:11; 9:7); Vinh quang nầy là vinh quang của Chúa Cha (x. 8:38; 10:37-40); quyền lực cũng là của Chúa Cha (14:62). Do đó, Chúa Cha sẽ ở giữa mọi người trong vinh quang và quyền năng của Người khi Người Con của Nhân Loại xuất hiện. Mọi người và không trừ ai sẽ nhìn thấy Người (x. 13:26; 14:62). Công việc của Người là sai các thiên thần đi khắp nơi để qui tụ những người được tuyển chọn (13:27). Cụm từ “từ bốn hướng gió” chỉ bốn phương trời (x. Zac 2:10), “từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” chỉ chiều thẳng đứng và chiều ngang. Cả hai muốn nói sự quy tụ phổ quát và đầy đủ (x. 13:10; 14:9). Các “người được tuyển chọn” sẽ được quy tụ lại (13:20.22.27).
Ở đây, việc Người đến đem theo một kết quả tích cực là đưa vào hiệp thông với Người những người được tuyển chọn. Trong khi, ở câu 8:38, nói đến cả hậu quả tiêu cực dành cho những người xấu hổ về Người trước mặt loài người. Vậy, việc Người Con của Nhân Loại đến trong quyền lực và vinh quang của Người không chỉ để phán xét những quyền lực sự dữ của thế gian, mà còn làm bày tỏ cách dứt khoát vị thế thuộc về hay đối nghịch với Người.
Sau khi loan báo Người sẽ đến, Chúa Giêsu dạy các môn đệ Người qua dụ ngôn cây vả là phải chờ đợi Người trong hy vọng (13:28-29). Bài học rút ra từ kinh nghiệm cụ thể là khi thấy những lá xanh non đâm ra đầu cành cây vả, ai cũng biết là đã vào mùa xuân. Đồng thời, đó cũng là dấu hiệu báo trước là chắc chắn mùa hè sẽ đến (13:28). Cũng thế, khi thấy những gian nan, khốn khổ, chiến tranh, ngôn sứ giả thì đừng phải ngã lòng và đánh mất chính mình vì sự kinh hoàng hiện tại của chúng (x. 13:19), nhưng phải hướng về ngày Người đến. Người chắc chắn sẽ đến và sẽ được cứu độ họ.
Sau dụ ngôn cây vả là ba khẳng định: tất cả những điều được tiên báo sẽ xảy đến cho thế hệ nầy, lời của Người sẽ không qua đi, và chỉ mình Chúa Cha biết ngày cùng tận ấy sẽ xảy ra (13:30-32). Thế hệ nầy không chỉ là những người Chúa Giêsu đang nói với họ, mà tất cả mọi người. Vì chỉ mình Chúa Cha biết khi nào ngày cùng tận sẽ đến, thời gian trong đó những biến cố đã được loan báo sẽ xảy ra, sẽ không được hiểu là đã xác định, có giới hạn, mà được hiểu là cả chiều dài thời gian của toàn thể nhân loại. Hơn nữa trong đoạn kế tiếp, Chúa Giêsu kêu gọi phải tỉnh thức trông đợi Người đến. Thời gian bấy giờ không còn là tương lai, mà là lúc Người đến: hiện tại của mọi thời. Do đó, “thế hệ nầy” chỉ toàn thể nhân loại, và ai cũng phải học bài học của cây vả mà hy vọng vào ngày Chúa đến.
Trong lời tiếp theo, Chúa Giêsu nêu tương phản giữa vũ trụ nầy và lời của Người. Lời của Người bền vững và sẽ tồn tại mãi. Người nói đến phẩm chất của lời Người. Người muốn ngăn ngừa khỏi những người lừa đảo (13:5-6; 21-22), và kêu gọi phải lắng nghe và tin vào Người. Họ hãy để lời của Người hướng dẫn họ và là nơi nương tựa cho họ. Do đó, phải trung thành và đừng hổ ngươi về Người và lời của Người trong thời gian nan (x. 8:38).
Lời cuối cùng về Chúa Cha. Người biết ngày giờ cùng tận cũng có nghĩa là chính Người quyết định ngày giờ ấy. Chính Người quyết định kéo dài hay rút ngắn thời hạn (13:20.32). Do đó, Chúa Con và các thiên thần sẽ đến khi nào Chúa Cha muốn. Khi nào Chúa Giêsu đặt mình trong tương quan là con đối với Chúa Cha, Người ghi nhận giới hạn của mình (x.13:32), lệ thuộc vào Chúa Cha (x. 8:32; 14:36) và liên kết mật thiết với Người. Chính tương quan nầy làm cho lời của Người tồn tại đến muôn đời.
Những lãnh tụ Công sản đã lấy học thuyết của Karl Marx (1818-1883) để muốn xây dựng một Thế: TN 33-B52
Những lãnh tụ Công sản đã lấy học thuyết của Karl Marx (1818-1883) để muốn xây dựng một Thế Giới Đại Đồng, một Thiên Đàng trần thế. Nhưng họ đã xây dựng bằng hận thù, đấu tranh và giết chóc, nên Thiên Đàng trần gian đã trở nên Hỏa Ngục trần gian, sau khi bao nhiêu triệu người dân vô tội đã bị giết ở Liên Sô, Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam và Campuchia.
Theo tinh thần Phúc Âm, Thiên Đàng như một Thế Giới Đại Đồng phải được xây dựng trên Yêu Thương, vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Gioan 4:8), là Cha, và chúng ta đều là con, là anh em trong đại gia đình nhân loại của Ngài. Mỗi người đều có nhiệm vụ chung tay xây dựng cho thế giới trở nên một cộng đồng tình thương, hoà bình và hạnh phúc.
Nhưng, cũng như cuộc đời con người ở trần gian sẽ có lúc chấm dứt, thì thế giới này cũng sẽ có lúc chấm dứt. Con người hoàn tất cuộc đời của mình và được tiếp nối bằng cuộc đời sau (Sống gởi, Thác Về), thế giới cũng sẽ có ngày chấm dứt và sẽ biến đổi nên “Một Trời Mới, Đất Mới” (Sách Khải Huyền 21:1) nơi Công Lý ngự trị. Đó là ngày mà chúng ta gọi là ngày tận cùng của thế giới hay là ngày Tận Thế, cũng còn gọi là ngày Chung Thẩm, ngày Phán Xét Chung để “những người sống công chính được ân thưởng muôn đời, và những kẻ gian ác phải chịu án phạt đời đời.”( Đanien 12: 2).
Tư tưởng về ngày Tận Thế luôn ám ảnh tâm trí con người, và người ta thường quá lo lắng, bi quan, sợ hãi về ngày Tận Thế; vì thế, đã có những giáo phái, hay đúng hơn là tà giáo, đã chủ trương chết tập thể trong những thập niên vừa qua. Những giáo phái này cũng luôn đưa ra thời điểm về ngày Tận Thế, như vào năm 2000 vừa qua. Chúng ta cũng nghe nói đến những hiện tượng rùng rợn như “tối ba ngày ba đêm!”
Bài Phúc Âm (Thánh Matcô 13:24-32) trong Chúa Nhật này nói về Ngày Tận Thế “khi Thiên Chúa sẽ ngự đến trong vinh quang để quy tụ những người được tuyển chọn từ khắp nơi trên mặt đất… Ngày đó, không ai biết được sẽ xảy ra vào lúc nào, chỉ Thiên Chúa biết mà thôi!” Như vậy, không ai có thể tiên đoán được ngày Tận Thế sẽ xảy ra vào lúc nào. Ngày đó cũng là ngày hân hoan vui mừng cho những người đã sống cuộc đời công chính, và nhiều khi đã bị bách hại vì sự công chính.
Tư tưởng về Ngày Tận Thế cũng được Tiên Tri Daniel nói đến trong Bài Đọc I (Đanien 12: 1-3): Ngày đó, những kẻ an nghỉ trong bụi đất sẽ chỗi dậy. Có người sẽ được hưởng phúc trường sinh, có người sẽ phải chịu hình phạt đời đời. Những người công chính sẽ được chói sáng như các vì sao trên vòm trời!
Bài Đọc II (Thư gởi dân Do Thái 10: 11-14, 18) cũng đem lại cho chúng ta một niềm ủi an khi chúng ta phải chịu nhiều thử thách vì sự công chính, trong khi chúng ta luôn cố gắng sống lương thiện theo giới răn Chúa: “Chúa Giêsu đã dâng xong của lễ đền tội cho nhân loại, Ngài đã về trời trong vinh quang để mở đường cứu rỗi cho chúng ta.”
Vào những ngày cuối niên lịch Phụng Vụ, Giáo Hội trích các Bài Thánh Kinh nói về ngày Chung Thẩm, không phải để làm cho chúng ta lo lắng sợ hãi và bi quan về thân phận con người, nhưng chỉ để nhắc nhở chúng ta về ngày cuối cùng của chúng ta và ngày cuối cùng của thế giới này. Ngày chúng ta sẽ được qua cuộc đời đau khổ, đầy thử thách để về hưởng hạnh phúc nơi quê hương thật của chúng ta trên Trời. Đồng thời cũng để chúng ta kiên tâm vững chí trong cuộc sống lương thiện, không chạy theo đường lối những kẻ bất lương, không ‘chè chén say sưa, sống trụy lạc theo thói thế gian’, nhưng luôn cố gắng sống như con cái sự sáng. Đồng thời cũng để chúng ta kiên tâm chịu đựng mọi thử thách luôn xảy ra cho mọi tín hữu của Chúa, chịu đựng những bách hại do cường quyền áp đặt gây ra cho chúng ta là các tín hữu luôn muốn sống theo con đường ngay lành Chúa đã chỉ cho chúng ta. “Chúng ta luôn phải trải qua nhiều gian khổ trước khi được vào hưởng vinh quang Nước Chúa.” (Sách Tông Đồ Công Vụ 14:22).
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta cùng hiệp dâng lời cầu nguyện: xin Chúa là Cha nhân từ giúp chúng ta luôn biết sống ‘tỉnh thức’, sống lương thiện theo giới răn của Chúa, trong tình thần hòa hợp, yêu thương với mọi người, thay vì hận thù tranh chấp. Xin Chúa cũng giúp chúng ta biết noi gương đời sống của Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh để luôn cố gắng canh tân cuộc sống của mình, thắng vượt mọi đam mê tội lỗi, để luôn sẵn sàng chờ đón Chúa đến với chúng ta bất cứ lúc nào vào cuối đời của chúng ta, để ngày Chung Thẩm sẽ là ngày chúng ta được “chói sáng như ánh sáng trên vòm trời… và được nên như những vì tinh tú tồn tại vĩnh viễn”
Trong tháng 11, chúng ta cũng tiếp tục dâng nhiều hy sinh, hãm mình cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội được sớm về hưởng hạnh phúc trên Nước Chúa, và cũng xin tiếp tục cầu nguyện cho các Chủ Chăn và Linh Mục trong Năm Linh Mục này.
Chỉ còn một tuần lễ nữa là lễ kính Chúa Ki-tô Vua để kết thúc cho năm phụng vụ. Những bài đọc: TN 33-B53
Chỉ còn một tuần lễ nữa là lễ kính Chúa Ki-tô Vua để kết thúc cho năm phụng vụ. Những bài đọc trong Phụng vụ lời Chúa hôm nay chuẩn bị tâm hồn ta mừng đón Đấng sẽ ngự tới lần thứ hai để xét xử muôn loài, tức là Chúa Ki-tô, Con Người và cũng là Con Thiên Chúa. Thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en trình bày khung cảnh phán xét chung dưới quyền chủ trị của Con Người. Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái giới thiệu Chúa Ki-tô là vị Thượng Tế ngự bên hữu Thiên Chúa để chờ ngày công trình cứu độ được hoàn tất. Đoạn Tin Mừng Mác-cô dạy ta phải làm gì để chuẩn bị đón chờ ngày Con Người quang lâm. Vậy ta hãy chiêm ngưỡng Chúa Ki-tô trong công trình của Người và cố gắng sống những điều Người dạy bảo.
Các thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en thường liên hệ đến vai trò của Chúa Ki-tô, Đấng sẽ ngự tới xét xử trần gian. Nếu ngôn sứ I-sai-a nói nhiều về vai trò thi hành kế hoạch cứu độ của Chúa Ki-tô, tức là Người chịu cuộc Thương khó và cái chết khổ nhục để xóa bỏ tội lỗi nhân loại, thì ngôn sứ Đa-ni-en lại nhìn về tương lai ngày chung thẩm khi Người đến lần thứ hai để phán xét nhân loại. Vậy trước hết ta hãy nghe ngôn sứ Đa-ni-en nói gì về thời điểm phán xét ấy.
Ngôn sứ nhìn thấy thời gian này là “thời ngặt nghèo chưa từng thấy”. Đúng vậy, thời gian trước ngày chung thẩm là thời ngặt nghèo, vì nhân loại hết thảy đều phải trải qua những năm tháng bị lôi kéo giữa cái xấu và cái tốt, giữa điều thiện và điều ác. Cuộc đời con người có tiến tới một tương lai tốt đẹp hay không là do chính sự chọn lựa của họ. Mà thường điều xấu lại có sức quyến rũ mạnh mẽ làm cho người ta khó lòng mà cưỡng lại được, cho nên ngặt nghèo nằm ngay trong sự lựa chọn. Sự hiện diện của Tổng lãnh Thiên thần Mi-ca-en là biểu tượng cho sự phấn đấu của con người trong việc lựa chọn ấy. Người đã thống lĩnh các thiên thần lành phục vụ Thiên Chúa, trong khi Lu-xi-phe đã quyến rũ một số thiên thần khác theo nó chống lại Thiên Chúa. Mi-ca-en là gương mẫu cho những ai muốn chọn Thiên Chúa và quay lưng lại với ma quỷ tội lỗi. Chính danh hiệu Mi-ca-en có nghĩa là “ai bằng Thiên Chúa?” đã là sự nhắc nhở ta phải chọn lựa Thiên Chúa mà từ bỏ ma quỷ. Cuộc sống trên đời này của ta quả là một cuộc “ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa”. Không phải ghi tên bằng bút mực hay bia đá, nhưng bằng những việc ta làm ở đời này có phù hợp với tiêu chuẩn là con cái đích thực của Thiên Chúa hay không. Cái chết đưa mọi người trở lại bụi đất, nhưng không phải là hết. Sẽ có một ngày mọi người sống lại từ bụi đất, tuy số phận không giống nhau: người được phúc trường sinh, kẻ phải chịu ô nhục đời đời.
Tuy nhiên làm sao ta biết được những điều ngôn sứ Đa-ni-en nói? Đó là do “Đấng giống như con người nói với tôi”, ngôn sứ khẳng định như thế. Đấng mà ngôn sứ nói tới chính là Chúa Ki-tô. Đã nhiều lần trong sách Tin Mừng, Chúa Giê-su nói về bản thân Người với danh hiệu “Con Người”. Ngay trong bài Tin Mừng hôm nay, ta cũng được nghe Chúa lập lại danh hiệu ấy. Người cho ta thấy rõ ràng số phận mai sau tùy thuộc cách lựa chọn của ta: hưởng phúc trường sinh hay chịu ô nhục đời đời. Tuy nhiên Người nhấn mạnh đến những người lành “sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ và chiếu sáng muôn đời như những vì sao”. Bầu trời ấy và ánh sáng ấy không là gì khác ngoài cõi phúc Thiên Chúa dành cho những ai chọn lựa Người. Nhấn mạnh cũng là cách Người mời gọi ta hãy cố gắng làm sao để được ghi tên vào sách hằng sống.
2. Chúa Ki-tô chờ đợi ngày vĩnh viễn chiến thắng các kẻ thù (bài đọc Tân Ước – Do-thái 10:11-14.18)
Trong “thời ngặt nghèo” ta phải kiên trì chiến đấu với ba thù là tội lỗi, ma quỷ và thế gian, ta đừng quên có một Đấng đang chờ đợi đón tiếp ta. Đó là Chúa Ki-tô. Người đã đi trọn “thời ngặt nghèo” của Người ở trần gian bằng cách trung thành hoàn tất sứ mệnh Thiên Chúa trao phó cho Người. Người đã thắng vượt cám dỗ như ta thấy khi Người bị qua quỷ cám dỗ trong hoang địa. Người đã khuất phục được những xúi giục hoặc ý đồ của người khác muốn Người thực hiện ý riêng thay vì làm công việc của Chúa Cha (Ga 5:30). Người đã không dùng quyền năng Thiên Chúa để bước xuống khỏi thập giá khi kẻ thù thách thức Người (Mt 27:42). Người không tự cứu mạng sống mình (Lc 23:35), nhưng hy sinh nó để cứu độ nhân loại.
Mặc dù đã hoàn tất sứ vụ trên trần gian, Chúa Ki-tô vẫn tiếp tục “làm cho những kẻ Người đã thánh hóa được nên hoàn hảo” (Dt 10:14). Người thánh hóa ta bằng cách hồi phục cho ta danh phận làm con Thiên Chúa và dẫn dắt ta sống theo đời sống mới trong Thánh Thần. Người giúp ta nên hoàn hảo mỗi ngày một hơn khi ta để cho Lời Chúa và ân sủng biến đổi lối sống của ta. Chiến thắng của Người trên thập giá và qua sự phục sinh là nền tảng và bước đầu để ta xây dựng chiến thắng của ta. Chiến thắng của mỗi Ki-tô hữu phải được liên kết với chiến thắng của Chúa Ki-tô. Ta là chi thể của Người, nên Đầu của Nhiệm Thể đã chiến thắng thì các chi thể cũng chiến thắng. Chỉ có điều là nếu ta có thực sự là những cành nho nối liền với thân nho, thì ta mới được dự phần chiến thắng vĩnh cửu của Người. Như vậy, Người “chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân” không có nghĩa là Người chẳng làm gì cho ta, trái lại, Người vẫn tiếp tục thực hiện kế hoạch cứu độ để đưa muôn vật muôn loài về với nguồn cội là Thiên Chúa. Chết trên thập giá làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa và sống lại vinh hiển là sứ vụ trên trần gian của Chúa Ki-tô. Còn thánh hóa ta nhờ Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội và trong các tâm hồn Ki-tô hữu là cách tiếp nối sứ vụ ấy. Dù ở trần gian hay đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Chúa Ki-tô vẫn thực thi kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa vậy.
3. Chúa Giê-su dạy ta phải làm gì trong lúc chờ đợi Người quang lâm? (bài Tin Mừng – Mác-cô 13:24-32)
Trong bài giảng về ngày tận thế, Chúa Giê-su đề cập tới việc Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và dạy ta phải làm gì trong thời gian chờ đợi ngày tận thế. Người đặc biệt nói tới những gian nan thử thách và bách hại trước thời quang lâm của Con Người và ngay trước khi Con Người ngự đến. Gian nan thử thách đến qua những biến động thời thế hoặc thiên nhiên, nhưng thường cũng lại phát sinh ngay trong những bách hại, chia rẽ và thù nghịch. Não trạng phản Ki-tô có lẽ là nguy hiểm lớn lao nhất, vì nó lung lạc đức tin của Ki-tô hữu.
Sau khi nói về “thời ngặt nghèo” với những gian nan thử thách, Chúa Giê-su đưa ta tới thời điểm Con Người ngự đến để xét xử trần gian. Cũng như lúc Thiên Chúa ngự đến trên núi Xi-nai, Con Người ngự đến sau những chuyển biến trong vũ trụ. Những chuyển biến trong vũ trụ qua văn chương của các ngôn sứ biểu tượng cho sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa đối với nhân loại. Lửa khói và sấm sét rung chuyển tại Xi-nai là dấu hiệu Thiên Chúa hiển linh để ban giới răn cho dân Người. Mặt trời, trăng sao bị lay chuyển là để dọn đường cho Con Người quang lâm mà phán xét muôn loài. Tuy nhiên đó chưa phải là cao điểm của bài giảng về quang lâm. Mục tiêu Chúa Giê-su muốn ta nhắm đến trong bài giảng của Người là ơn được cứu độ. Việc Người quang lâm sẽ mất ý nghĩa nếu ta không được cứu độ. Người dạy ta phải xác tín ơn cứu độ. Chúa Ki-tô là chính ơn cứu độ. Những biến chuyển vũ trụ là dấu chỉ báo trước Người sắp quang lâm. Gian nan thử thách là cơ hội và phương tiện giúp ta vững lòng tin vào Đấng cứu độ ta. Do đó ta đừng chú tâm vào những dấu chỉ mà quên mất điều dấu chỉ muốn nói lên, đó là việc Chúa đến cứu độ ta. Ta đừng bỏ lỡ cơ hội và tránh né gian nan thử thách để tăng thêm và biểu tỏ đức tin vào Chúa Ki-tô. Chúa lấy một thí dụ cụ thể để dạy ta phải có thái độ thích đáng. Cành cây vả đổi mầu xanh và đâm chồi nảy lộc là dấu hiệu “mùa hè đã đến gần”. Đó là tín hiệu chính xác cho biết một thực tại chắc chắn. Cũng thế, những biến chuyển trời đất, đau khổ thử thách và bách hại là tín hiệu Chúa “đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”. Chúa sắp đến để cứu độ ta là một chân lý ta phải xác tín. Nhưng điều quan trọng là ta có muốn được Người cứu độ hay không. Hay cho dù Người ở ngay ngoài cửa mà ta vẫn không biết hoặc không muốn biết. Ta cứ đóng cửa tâm hồn lại, không cho Người vào và không để cho Người ở lại với ta. Ở đây Chúa nói một câu có lẽ ta ít để ý. “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13:31). Lời Chúa đến với ta “như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nảy lộc” (Is 55:10). Lời Chúa vẫn ở lại với ta mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28:20) là để giúp ta sống phận làm con Thiên Chúa và được biến đổi mỗi ngày trở nên giống Chúa Ki-tô hơn. Do đó lắng nghe Lời Chúa và miệt mài thực thi Lời Chúa mới là phương thức thích hợp để ta chuẩn bị Chúa Ki-tô quang lâm. Vậy mà có nhiều người không thi hành phương thức này mà lại làm những chuyện không đâu, thí dụ tin nhảm những ông bà tiên tri nói về ngày giờ tận thế, tích trữ gạo nước, đèn cầy, hoặc chẳng chịu làm gì tích cực ngoài chuyện ngồi lê đôi mách và làm hại người khác (2 Tx 3:11). Họ sống trong “thời ngặt nghèo” mà lại cứ muốn sống thật dễ dãi phóng túng. Chúa sẽ đến xét xử ta vào giờ chết và phán xét muôn loài trong ngày thế mạt. Đó là thực tại ta không thể trốn tránh, nhưng phải chuẩn bị sẵn sàng.
4. Sống Lời Chúa
Truyền thống của Phụng vụ Lời Chúa trong vài tuần cuối năm phụng vụ quy hướng về cuộc quang lâm của Chúa Ki-tô. Dĩ nhiên đây không phải là cách “dọa nạt” ta, nhưng là lời thiết tha mời gọi ta hãy đặt lại vấn đề lòng tin vào Chúa Ki-tô, Đấng cứu độ ta. Người đã chuẩn bị cho ơn cứu độ đó khi cho ta được làm con Thiên Chúa và Người để lại Lời Chúa giúp ta được thánh hóa. Thực tại quang lâm không thể làm chúng ta sợ hãi, trái lại là niềm hy vọng chắc chắn ta sẽ được cứu độ. Như vậy, Ki-tô hữu quả thực là những người có lý do chính đáng và chắc chắn để vui sống ở đời này, nhìn mục tiêu cứu độ mà tiến tới và trung thành trải qua những gian nan thử thách mà vững lòng tin vào Đấng cứu độ ta là Chúa Ki-tô.
Suy nghĩ: “Những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Điều này có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi có để cho Lời Chúa qua đi mà chẳng sinh hoa kết trái không? Tôi phải làm sao để Lời Chúa không uổng công?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là nguồn phát sinh mọi điều thiện hảo, được phụng sự Chúa quả là một hạnh phúc tuyệt vời; xin cho chúng con tìm được niềm vui khi hết dạ trung thành với Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 33 mùa Thường niên).
Ở cao điểm trình bày sự so sánh việc cử hành lễ Xá tội của Cựu Ước với việc Chúa Giê-su tự: TN 33-B54
Ở cao điểm trình bày sự so sánh việc cử hành lễ Xá tội của Cựu Ước với việc Chúa Giê-su tự hiến trên thập giá, thư Do-thái đã đề cập tới người tế lễ, nơi cử hành hy tế, ý nghĩa của hành động vào cung thánh. Tuy nhiên bài đọc hôm nay mới thực sự nêu lên điểm quan trọng nhất, đó là so sánh hiệu quả mà nhân loại đã nhận được do hiến tế Chúa Giê-su đã dâng lên Thiên Chúa với hiệu quả “lờ mờ” của hiến tế theo Lề Luật. Hiệu quả do hiến tế của Chúa Giê-su là: “Chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (10:10). Tuy nhiên, muốn cho suy niệm của chúng ta được mạch lạc dựa trên lập luận của thư Do-thái, chúng ta có thể sử dụng nguyên cả đoạn thư, bắt đầu từ câu 1 chương 10 cho đến hết đoạn trích dẫn hôm nay, để thấy rõ hy tế theo Lề Luật (Lê-vi) thì vô hiệu, còn hy tế của Chúa Giê-su thì hữu hiệu vĩnh viễn.
a) Hy tế hữu hiệu phải đưa con người đến gần Thiên Chúa
Lề Luật ấn định những quy tắc cho việc cử hành hy tế, như chúng ta đã đọc thấy trong sách Lê-vi chương 16. Tuy nhiên Lề Luật lại không thể xác định những gì chúng ta sẽ lãnh nhận được khi cử hành hy tế ấy mỗi năm một lần, mà “chỉ phác họa lờ mờ những phúc lộc của thế giới tương lai.” Phúc lộc của thế giới tương lai là việc tha thứ tội lỗi, điều con người hằng khát khao mong đợi. Thế mà Lề Luật chỉ có thể phác họa lờ mờ! Vậy “lờ mờ” có nghĩa là tội lỗi vẫn chưa được xóa bỏ thực sự. Dù mệnh danh là lễ “Xá tội” (xá nghĩa là tha cho, miễn cho), tức là biến một tội nhân thành một người vô tội và mở ra cho họ một tương lai để tiếp tục sống như một người tốt, nhưng lễ Xá tội quả thực đã không làm nổi công việc đó. Lễ Xá tội chỉ có thể “năm này qua năm khác, nhắc cho người ta nhớ mình có tội” mà thôi. Cho nên tội lỗi và quyền lực của nó vẫn còn hiện diện nơi con người như một chướng ngại vật không thể hủy diệt, ngăn cản con người tiến lại gần Thiên Chúa.
Trái lại, Đức Ki-tô đã “băng qua các tầng trời” mà vào trần gian để thay thế cho hy tế bất lực của Lề Luật. Người lấy chính thân mình làm hy lễ và đổ máu mình ra để xóa bỏ chướng ngại vật tội lỗi, nhờ đó Người đã thực hiện “chính xác những thực tại phúc lộc của thế giới tương lai.” Nói khác đi, nhờ đổ máu làm lễ hy sinh trên thập giá để xóa bỏ tội lỗi chúng ta, Chúa Giê-su đã cho chúng ta có một tương lai rõ ràng, tức là giúp cho chúng ta trở thành con cái đích thực của Thiên Chúa và có khả năng tiến lại gần Thiên Chúa (ơn được nên công chính).
Hy lễ Chúa Giê-su dâng tiến là thân thể Người. Trước đó, các vị ngôn sứ cũng đã đề cập tới tính cách vô hiệu của máu chiên, dê và bò, nêu lên điểm thiếu sót căn bản của hy tế theo Lề Luật tức là thiếu lòng chân thành. Nhưng máu của Chúa Giê-su là máu của con người “đến để thực thi ý Thiên Chúa” với tất cả chân thành và vâng phục. Chính lòng chân thành và vâng phục của Người đã đem lại hiệu quả tuyệt vời là phá bỏ bức tường tội lỗi ngăn cách để con người có thể tiến lại gần Thiên Chúa. “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người...” (Pl 2:9), nghĩa là đặt Người ngồi bên hữu và làm trung gian để chúng ta là những kẻ “đồng thừa kế” có thể nhờ Người mà đến gần Thiên Chúa.
b) Hy tế hữu hiệu phải “làm cho những kẻ Người đã thánh hóa được nên hoàn hảo”
Xóa đi tội lỗi chúng ta, đó là hiệu quả khởi đầu cho một tiến trình “được nên hoàn hảo.” Nếu Chúa Giê-su không đổ máu và chết trên thập giá, thì chúng ta vẫn hoàn toàn bị hậu quả của tội tổ tông chế ngự và không bao giờ có khả năng “tiến lại gần Thiên Chúa,” tức là được nên công chính. Tội tổ tông đã tước đoạt nơi con người khả năng ấy rồi và không gì có thể phục hồi khả năng ấy cho con người, kể cả việc cử hành hy tế ngày lễ Xá tội. Chết cho tội lỗi chúng ta, Chúa Giê-su đã vĩnh viễn chiến thắng tội lỗi và sự chết, khi Thánh Thần Thiên Chúa cho Người được chỗi dậy từ kẻ chết. Sau khi sống lại, Chúa Ki-tô sẽ không còn chết nữa. Thánh Phao-lô quả quyết như vậy. Chúng ta cũng thế. Nếu chúng ta cùng với Chúa Ki-tô chết đi cho tội lỗi chúng ta để tiếp tục sống con người mới, thì chúng ta cũng sẽ được nên giống như Người, nghĩa là sẽ được sống lại và sống muôn đời.
Tuy nhiên khả năng “được nên hoàn hảo” Chúa Giê-su đem lại cho chúng ta là để chính chúng ta phải sử dụng khả năng ấy mà tiến lại gần Thiên Chúa. Khả năng ấy là đôi chân, là phương tiện chỉ chúng ta mới sử dụng được, không ai có thể sử dụng giúp chúng ta, kể cả chính Đức Ki-tô. Quyết định tiến lại gần Thiên Chúa là quyết định của cá nhân chúng ta. Thiên Chúa chỉ mời gọi, chỉ chờ đợi. Người đã giúp chúng ta bước đầu, là xóa bỏ tội lỗi chúng ta và cho chúng ta thân phận và tương lai mới, Người “sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm và việc gian ác” của chúng ta nữa. Để giúp chúng ta tiếp tục thực hiện tiến trình “được nên hoàn hảo,” Người “sẽ ghi vào tâm khảm chúng ta, sẽ khắc vào lòng trí chúng ta lề luật của Người.” Và lề luật của Người, đó là chính Chúa Giê-su, một bộ luật bằng xương bằng thịt đã sống giữa chúng ta, mặc khải sự khôn ngoan của Thiên Chúa cho chúng ta qua lời giảng và lối sống của Người, để chúng ta nghe và thực hành thì sẽ được sống đời đời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
“Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.” Tôi đã bắt chước Chúa Giê-su để thưa như vậy trong hoàn cảnh sống hiện tại của tôi chưa? Ý Chúa trong hoàn cảnh sống hiện tại của tôi là gì? Nói khác đi, nếu tôi đang là một người cha, người mẹ, học sinh, linh mục hay tu sĩ, người đang sống ly dị... thì Chúa muốn tôi phải sống như thế nào?
Sau khi được rửa tội, Chúa phục hồi cho tôi khả năng “được nên hoàn hảo” (có thể trở nên thánh thiện, hoặc ơn thánh hóa). Vậy tôi đang sống ơn thánh hóa hoặc đang sử dụng khả năng nên thánh của tôi như thế nào? Mỗi khi khả năng ấy tạm thời mất đi do tội lỗi, tôi có mau mắn đến xin hòa giải với Chúa để Người phục hồi cho tôi không? Tôi có ý thức điều này mỗi khi cử hành Bí tích Giải tội không?
Tôi đã lấy gương mẫu của Chúa Giê-su làm mẫu mực như thế nào? Tôi có đọc và suy niệm Tin Mừng để tìm thấy những quy luật sống không?
Tôi sẽ đọc tiếp đoạn 12:1-4 để suy niệm và cầu nguyện với Chúa Giê-su.
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát với những suy niệm đoạn 12:1-4, nhóm cùng hát một bài ca ngợi hy tế của Chúa Giê-su, thí dụ bài “Ngày xưa thánh giá là đền hy sinh, Máu Chúa chan hòa ghi dấu ân tình...”
Có 193 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra có một số nhỏ các quốc gia độc lập như TN 33-B55
Có 193 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra có một số nhỏ các quốc gia độc lập như nước Vatican, Taiwan và Kosovo không là thành viên của Liên Hiệp Quốc. Nói đúng hơn là có tất cả 196 nước trên thế giới. Có những Nước lớn, đất rộng người đông như Trung Hoa có trên 1 tỷ 341 triệu người, Ấn Độ có trên 1 tỷ 210 triệu và Hoa Kỳ có trên 314 triệu người. Tổng số dân trên thế giới khoảng trên 7 tỷ. Có những quốc gia nhỏ xíu như Nước Vatican rộng (0.2 square miles) với dân số 770 dân và Nước Monaco (0.7 square miles) có 32 ngàn dân. Số dân tăng dần mỗi năm. Số người qua đời ít hơn số trẻ sơ sinh. Dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia hướng đến cùng đích. Bước vào thế kỷ thứ 21, nhờ khoa học kỹ thuật siêu vượt, con người đã mở rộng tầm kiến thức và tạo mối liên hệ tới mọi quốc gia. Sự truyền thông đa chiều đã nối kết con người xích lại gần nhau hơn.
Sống trên trần gian là cuộc lữ hành đi về quê thật. Có biết bao con đường mở ra giúp dẫn đưa con người đi đến cùng đích. Con người mọi thời đã suy tư giác ngộ ra nhiều thứ đạo, nhiều tôn giáo và nhiều cách thế để đạt mục đích. Có 20 tôn giáo chính thức, đang là chỗ cậy dựa tinh thần cho nhiều người: Kitô giáo đông nhất có trên 2 tỷ tín đồ, Hồi Giáo khoảng trên 1 tỷ 570 triệu, Hinduism có khoảng 950 triệu, Buddhism (Phật giáo) số thống kê không chính xác (350-1,600 triệu tín đồ)…Ngoài ra còn rất nhiều các nhóm tôn giáo khác nhau. Tất cả các tôn giáo cùng đi tìm ý nghĩa và cùng đích cho cuộc sống hôm nay và ngày mai. Đa số các tôn giáo đều tin có cuộc sống hạnh phúc mai hậu nơi thiên đàng, niết bàn, cõi tây phương cực lạc, quê trời, cõi trời và nơi trường sinh bất tử.
Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta những dấu chỉ về ngày cánh chung. Nước Trời khởi đi từ trần thế và kết thúc trên quê trời. Chúa Giêsu chỉ dậy: Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần (Mc 13, 28). Chúa quan phòng cho chúng ta thấy những dấu chỉ của thời gian, không gian và vạn vật muôn loài. Mọi thứ đều có khởi đầu và có ngày cùng tận. Mọi loài thụ tạo được phát triển trong thời gian, đừng mong có những bước nhảy vọt. Cuộc sống của con người cũng như thiên nhiên cần phát triển theo những chặng đường rất tự nhiên, từ trẻ tới già, từ non nớt tới sự chín mùi, từ ngây thơ tới tuổi trưởng thành và từ khởi sinh đến cùng đích. Chúng ta được mời gọi bước tới trên con đường trọn lành để chiếm hữu quê thật.
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm đối diện với những người tốt, kẻ xấu. Mỗi người đều có cơ hội thay đổi để nên tốt lành hơn. Sự thật ở đời, chúng ta khó tìm được một người hoàn toàn tốt hay một người toàn xấu. Trong tâm con người, có phần tốt và chút thói xấu lẫn lộn. Nghèo cùng tâm trí và không biết gieo duyên lành sẽ dễ bị cuốn lôi theo dòng chảy. Đôi khi vì qúa chủ quan, chúng ta không nhận ra những thói hư tật xấu của mình. Mỗi người cần xét mình và biết mình để tìm cách sửa sai và thăng tiến mỗi ngày.
Trong thế giới ngày nay, xuất hiện rất nhiều tôn giáo dẫn đường cuộc sống. Mỗi tôn giáo với những linh đạo riêng có thể giúp các tín đồ của mình tu thân và tu tâm để thoát vòng loạn ly. Đời sống con người hiện đại đang dần bị tục hóa. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hưởng thụ và tương đối đang bủa vây và kéo chìm con người trở về với bản năng hưởng thụ. Qua truyền thông nối mạng, hình như các tệ nạn và gương xấu đang tràn lan một cách mạnh mẽ như sóng triều. Sức mạnh của sự thỏa mãn vật chất mạnh hơn các lý tưởng tinh tuyền của tôn giáo. Nhiều người tìm kiếm thỏa mãn những đòi hỏi vật thể và vui hưởng cuộc sống trong hiện tại, thay vì hướng đến cuộc sống hạnh phúc tương lai. Chúng ta cần thức tỉnh cả trong ý tưởng, tâm linh và thân xác để nhận diện ý nghĩa thật của cuộc sống.
Nhiều bạn trẻ thả trôi cuộc đời lênh đênh không có đích điểm. Thật đáng thương cho kiếp phận con người. Hằng ngày tôi gặp gỡ nhiều người trẻ tự thắt nút cuộc đời qua những biến cố xảy ra. Đang trong tuổi đẹp trăng tròn, nhiều bạn trẻ đã bắt đầu tìm hưởng thụ tính dục, rồi sớm có con, không hôn nhân, không gia đình, thay bạn đổi bồ như thay áo. Qua năm tháng, những nút thắt cuộc đời đan kết chất chồng lên nhau như mối tơ vò. Nhìn một người mẹ trẻ có ba đứa con với hai hoặc ba người bạn tình. Tương lai tại thế của các bạn trẻ này thật mờ mịt khó đường giải quyết. Xảy một ly đi một dặm, làm lại cuộc đời thế nào bây giờ. Làm sao chúng ta có thể nói với họ về tương lai của ngày sau? Các bạn trẻ tự giới hạn viễn tượng sống để giải quyết vấn đề hiện tại với nhiều điều nan giải. Cứ thế cuộc đời bị luẩn cuẩn trong mạng lưới ràng buộc, cả nể cho nên sự dở dang.
Ngày cánh chung sẽ đến giống như dấu chỉ của cây vả xanh tươi, chúng ta biết mùa hè sắp đến. Mỗi người chúng ta nên nhìn dấu chỉ của thời đại để chuẩn bị cho đời sống mai hậu. Chúng ta biết rằng một việc tốt dù nhỏ cũng có thể sinh ra hoa trái tốt lành. Chúng ta phải gieo nhân tốt mới có thể sinh qủa tốt được. Giữa ngã ba cuộc đời, chúng ta phải biết chọn lựa và từ bỏ. Chọn lựa con đường dẫn đến hạnh phúc và an lạc. Từ bỏ đi những bận vướng của cuộc sống. Cuộc đời có nhiều vương vấn nên cần có thái độ dứt khoát. Ai cũng có thể làm lại cuộc đời. Không khi nào trễ, nếu chúng ta biết bắt đầu lại. Chấp nhận thực tại, chúng ta tháo cởi từng những nút thắt để cuộc sống tâm linh được thanh thản và an vui. Những việc làm tốt nho nhỏ hằng ngày sẽ lớn dần và đâm bông kết trái.
Chúa Giêsu biết thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của con người, nên Ngài đã dâng hiến lễ đền tội để giao hòa. Thơ gởi tín hữu Do-thái viết: Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo (Dt 10, 14). Dù con người có sa phạm, lầm lạc và tội lỗi, Chúa vẫn có cách dẫn đưa họ trở về như mẫu gương của thánh Augustinô. Nếu chúng ta chỉ hối tiếc về sự sa ngã lầm lạc thì chưa đủ. Muốn làm lại cuộc đời, chúng ta cần thành tâm nhận lỗi, rồi hối lỗi, thật lòng sửa lỗi, chuộc lỗi, xin tha lỗi và tu luyện tâm tánh. Đây là một sự thách đố quyết tâm đổi đời. Hãy chạy đến với lòng Chúa thương xót xin ơn tha thứ. Chúa sẽ tẩy sạch tâm hồn, đổi mới trái tim yêu thương và thánh hóa trở nên con người mới trong ân sủng.
Niềm tin vào Thiên Chúa là niềm hy vọng viên mãn. Tiên tri Đaniel đã có thị kiến về ngày thế mạt: Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời (Dn 12, 2). Chúng ta không thể coi thường những chỉ thị, huấn lệnh và lời giảng dạy trong Giáo Hội. Niềm tin tôn giáo là cửa ngõ dẫn chúng ta vào Nước Trời. Chúng ta cần phải đi, phải bước tới và thực hành những điều Chúa truyền dạy. Nước Trời mở cửa đón nhận tất cả mọi người, nhưng chỉ những kẻ kiên trì phấn đấu đến cùng mới đáng hưởng phần phúc thiên đàng. Chúng ta không biết được ngày giờ Chúa đến, nên luôn phải sẵn sàng: Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi (Mc 13, 32).
Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho Nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày để ngày sau được chung hưởng hạnh phúc đời đời.
Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật áp chót trong niên lịch Phụng vụ và đề tài được đề cập đến là ngày TN 33-B56
Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật áp chót trong niên lịch Phụng vụ và đề tài được đề cập đến là ngày cánh chung và những gì sẽ xảy đến trong ngày tận thế. Con người sống trong hiện tại, nhưng rất muốn biết về hậu lai, hậu lai của chính mình cũng như của thế giới. Các Tông đồ chắc có lần đã đem vấn đề ra hỏi Chúa.
Hôm nay, Chúa Giêsu nói về ngày tàn của thành Giêrusalem năm 70, nhưng đồng thời Ngài mời chúng ta suy nghĩ về ngày cuối cùng của lịch sử thế giới. Trong những ngày ấy, sẽ có hai dữ kiện xảy ra:
Một là sẽ có những cảnh khốn cực trên trời và dưới đất. Trên trời, Chúa bảo, sẽ có cảnh rối loạn: Mặt trời mặt trăng ra tối tăm, các tinh tú chuyển động. Có những nhà khoa học cho rằng ngày tận thế là ngày các tinh tú khổng lồ không theo luật tuần hoàn nữa, sẽ đụng chạm vào nhau khủng khiếp.
Dưới đất, trước đó, giặc giã chiến tranh sẽ xảy ra gây khốn cực vô cùng. Tất cả cảnh bi đát đó sẽ dọn đường cho một việc lớn lao cao cả: Ấy là việc Chúa sẽ giáng lâm, hiện đến trong vinh quang, phán xét kẻ sống và người chết. Chúng ta không nên hình dung ngày giáng lâm của Chúa như một ngày ghê sợ, mà là một ngày chứa chan hy vọng. Vì Chúa đến để tập họp những người tin vào Chúa, thành một vương quốc của những người Chúa đã tuyển chọn.
Trong một cái nhìn thông suốt, Chúa cho chúng ta nhìn thấy hiện tại và tương lai. Hiện tại gần là ngày tàn của thành phố Giêrusalem. Năm 70, khi đại quân Lamã bắt đầu đến bao vây thành, tục truyền rằng giáo dân đã nghe lời Chúa, biết trước, nên do sự hướng dẫn của Thánh Simon đã trốn qua thành phố Pella và tránh khỏi tai họa. Dân Do thái đã chịu cảnh tang thương chưa từng thấy, đền thờ bình địa “không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào.”
Tương lai xa là ngày tận thế. Các Tông đồ hỏi Chúa: Đâu là dấu tiên báo? Và Chúa cho biết ba dấu tiên báo: Một quỉ vương, kẻ thù của Chúa và các bộ hạ của nó xuất hiện; những cuộc đảo lộn kinh khủng, nhất là nhiều người bỏ đạo và mất đức tin. Và Chúa nói: “Khi các ngươi thấy những điều đó thì hãy biết rằng Con Người đã gần đến, đã đến ngoài cửa.”
Phải chăng những điều ấy phù hợp với những gì Đức Mẹ đã nói với ba em thụ khải ở Fatima! Nhất là trong một số bí mật được trao phó? Có một bí mật Đức Mẹ dạy chỉ được tiết lộ năm 1960. Năm đó, Lucia đã viết lại và đệ trình Đức Gioan XXIII. Ngài coi xong, suy nghĩ và quyết định không tuyên bố. Phải chăng là những gì quan trọng sẽ xảy ra trong Giáo hội và thế giới, cách riêng về dấu chỉ lòng đạo đức sẽ sa sút! Một dấu tiên báo ngày thế mạt sắp đến.
Tuy nhiên, Chúa dạy chúng ta không nên hoảng sợ. Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (IITim. 4,8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: “Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn.” Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu Kitô” (Tt. 2,13).
“Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh. 2,10). ------------------------------
Cuốn phim “Biến cố xảy ra trên nhịp cầu” kể lại câu chuyện sau đây: Có một tên tử tội bị treo cổ TN 33-B57
Cuốn phim “Biến cố xảy ra trên nhịp cầu” kể lại câu chuyện sau đây: Có một tên tử tội bị treo cổ trên một nhịp cầu. Người ta thòng sợi dây từ đỉnh cầu xuống và quấn vào cổ anh. Khi mọi sự đã sẵn sàng, viên chỉ huy ra lệnh, người ta sẽ kéo lên và sợi dây xiết vào cổ anh. Thế nhưng, một điều kỳ lạ đã xảy ra. Sợi dây bị đứt và anh rớt xuống dòng sông. Anh bắt đầu lặn, rồi bơi vào một đám lục bình. Anh xúc động vì vẻ đẹp của những chiếc lá xanh và của những bông hoa tim tím. Một lúc sau, anh nhìn thấy chú nhện giăng tơ. Và một lần nữa, anh lại xúc động trước vẻ đẹp của chiếc màng nhện và những giọt nước bám vào đó, lấp lánh như những hạt kim cương. Bỗng nhiên, đám lính đứng trên cầu bắn xối xả. Anh cố gắng lướt tới dưới làn mưa đạn. Cuối cùng anh cũng bơi được vào bờ và hoàn toàn kiệt sức. Khẽ mở mắt, anh trông thấy một cánh hoa dại. Anh thầm nghĩ: Mọi sự sao mà đẹp thế. Nhưng liền sau đó, anh nghe thấy tiếng đạn rít qua bụi rậm. Thế là anh đứng lên, cắm cổ chạy một mạch về đến nhà bình an. Anh gọi tên vợ và nàng vội vã mở cởng và dang tay đón anh.
Ngay khi họ vừa ôm nhau, thì nhà đạo diễn mang chúng ta trở lại với nhịp cầu. Và chúng ta không thể nào tin được vào mắt mình khi thấy xác anh ta đang đong đưa với sợi dây xiết chặt vào cổ. Thì ra anh đã chết. Chi tiết này làm cho mọi người sững sờ. Thế là mọi nỗ lực trốn chạy và mọi cơ may được sống sót của anh chỉ là sản phẩm thuần tuý của trí tưởng tượng mà thôi. Anh mơ thấy mình được sống lần thứ hai và anh cảm nhận sự sống ấy bằng đôi mắt hoàn toàn mới lạ. Lần đầu tiên anh cảm thấy thế gới này quả là tuyệt hảo. Lần đầu tiên anh cảm thấy cuộc sống là một món quà quý giá. Phải chi anh được sống sót thì chắc hẳn anh đã sống cuộc đời mới này một cách khác thường biết bao.
Thế nhưng đâu là chủ đích của nhà đạo diễn. Ông muốn nhắn gởi gì với chúng ta? Theo tôi nghĩ, người tử tội trong câu chuyện chính là mỗi người chúng ta, bởi vì một ngày nào đó chúng ta sẽ chết. Tuy nhiên chúng ta lại không biết mình sẽ chết lúc nào? Cái chết thì chắc chắn nhưng giờ chết thì bấp bênh vô định, nhưng rồi một lúc nào đó nó sẽ đến với chúng ta, như đã đến với người tử tội.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ đến thời khắc chúng ta sẽ phải gặp Chúa, vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, cũng như của vũ trụ vật chất này. Liệu vào lúc ấy, chúng ta có đến với Chúa bằng đôi tay chất đầy công nghiệp là những hành động bác ái hay không? Nếu như phải tính sổ cuộc đời với Chúa, thì chúng ta đã sử dụng những nén bạc Ngài trao gởi như thế nào? Không giống như người tử tội, chúng ta có được cơ may còn sống để chuẩn bị cho giây phút định mệnh ấy. Bởi đó: Hãy sống giây phút hiện tại cho dù hiện tại có vắn vỏi, nhưng lại thật quan trọng vì nhờ nó mà chúng ta sẽ chiếm lấy được niềm hạnh phúc Nước Trời. ------------------------------
Chúa Kitô đã đến ở giữa chúng ta, và Ngài sẽ trở lại. Ngài sẽ trở lại. “Trên mây trời với quyền uy TN 33-B58
Chúa Kitô đã đến ở giữa chúng ta, và Ngài sẽ trở lại. Ngài sẽ trở lại. “Trên mây trời với quyền uy và vinh quang lớn lao”. Biến cố đặc biệt này sẽ được đánh dấu bởi những hiện tượng trong vũ trụ. Nó sẽ trùng hợp với một cuộc biến đổi vũ trụ. “Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng nữa, tinh tú sẽ rơi xuống…”. Những hiện tượng này –không nên hiểu theo mặt chữ- Không muốn ám chỉ về một thiên tai, nhưng là một thời điểm quyết định trong lịch sử nhân loại.
Khi nào chuyện đó sẽ xẩy ra? Người ta luôn luôn tự đặt câu hỏi này. Chúa Giêsu gạt qua tất cả các giả thiết. Không người nào biết được ngày đó! Bản thân Ngài cũng không biết! Chỉ mình Chúa Cha biết. Và đây là bí mật của Ngài.
Ngày của sự thật và công bình.
Vả lại điều quan trọng không phải biết lúc nào Chúa Giêsu quang lâm, nhưng là chú ý đến những gì sẽ xẩy ra lúc đó. Ngày ấy sẽ là ngày tập họp lớn lao: “Con người sẽ sai thiên thần tập họp những người được chọn, từ khắp bốn phương trời”. Đó sẽ là ngày của sự công bình và sự thật: “Những kẻ khôn ngoan sẽ chiếu sáng như ánh quang của bầu trời… Những kẻ công chính sẽ chiếu sáng như các vì sao…”. Đó sẽ là ngày phán xét: Kẻ lành sẽ được thưởng, kẻ thất trung sẽ bị loại trừ. Lòng mỗi người, mà Thiên Chúa thấu suốt, sẽ được phơi bày ra. Những kẻ đã sống vì Thiên Chúa sẽ được dẫn tới bên Ngài; Những kẻ chối từ Ngài sẽ bị ruồng bỏ.
Sự phong phú của thời gian đang trôi qua.
Không phải để làm cho người ta sợ mà Chúa Giêsu loan báo ngày Ngài quang lâm sẽ là ngày phán xét, nhưng để giúp mỗi người ý thức về tầm quan trọng của thời gian đang trôi qua.
Ngày phán xét sẽ là ngày tỏ rõ và nhìn nhận những gì đã có. Ngày từ bây giờ, chúng ta tạo nên tương lai của chúng ta. Những gì chúng ta sống trong thời gian này định đoạt những gì chúng ta sẽ sống vào ngày tận thế. Mỗi giây phút, mỗi ngày mang một ý nghĩa lớn lao hơn ta tưởng. Mỗi giay phút gìn giữ chúng ta bên cạnh Thiên Chúa làm cho chúng ta gần Ngài hoặc xa Ngài. Chính ngày này qua ngày nọ, khi nhìn chúng ta sống, mà Thiên Chúa hình thành nên sự phán xét về mỗi người trong chúng ta. Giữa hôm nay và ngày tận thế sẽ có sự liên tục.
Giá trị của sự trung thành.
Do đó những gì chúng ta làm hoặc không làm, những câu xin vâng hoặc những lời từ chối đối với Thiên Chúa hàng ngày đều có một tầm quan trọng lớn lao. Những sự trung thành của chúng ta –lớn và nhỏ, những cố gắng của chúng ta để sống lương thiện, công chính và ngay thẳng trong một thế giới thường bất công và gian tà, lòng kiên trì của chúng ta để giáo dục con cái cách tốt nhất có thể được, những khi chúng ta tha thứ cho những kẻ đã làm chúng ta bị tổn thương, những lần chúng ta đọc kinh sốt sắng, những khi chúng ta bố thí, khi chúng ta cố gắng chu toàn công việc hằng ngày, những khi chúng ta sẵn sàng quan tâm đến tha nhân, đón tiếp họ. Tất cả đều chuẩn bị chúng ta cho ngày Thiên Chúa phán xét.
“Chúng con mong chờ Chúa quang lâm…”.
Hơn chúng ta, các Kitô hữu sơ khởi đã biết sống hướng mắt và hướng lòng về ngày quang lâm của Chúa Kitô. Vì họ xác tín rằng ngày ấy sẽ đến nhanh, nên họ đã cố gắng sống mỗi giây phút trong sự trung thành tuyệt đối đối với Chúa Kitô. Ý thức về ngày Chúa quang lâm và tâm quan trọng của nó đã mai một đi với thời gian. Bây giờ người ta sống ngày qua ngày mà không bận tâm lắm về ngày cuối cùng. Uổng thật! Nếu sống nhiều hơn trong sự mong chờ Chúa, người ta sẽ sống mãnh liệt hơn. Mỗi ngày sẽ có giá trị hơn đối với chúng ta.
Trong mỗi Thánh lễ, sau khi bánh và rượu được thánh hiến để trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Chúng ta tuyên xưng: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Chúng con mong chờ Chúa trở lại. Ước gì đây không chỉ là những lời nói, nhưng là một thái độ sâu xa quyết định cách sống của chúng ta và mang ý nghĩa cho tất cả cuộc đời chúng ta. ------------------------------
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller).
Ludwig Van Beethoven là một tác giả vĩ đại của mọi thời. Trong lúc ông vẫn còn đang tạo ra những TN 33-B59
Ludwig Van Beethoven là một tác giả vĩ đại của mọi thời. Trong lúc ông vẫn còn đang tạo ra những kiệt tác thì ông cảm thấy mình dần dần mất đi thính giác, ông không còn nghe thấy. Sau khi ông đã trở thành hoàn toàn điếc, ông sáng tác ra bản giao hưởng số 9. Ông đã không nghe một nốt nào. Một số người nào đó nói những thiên tài thì bất tử bởi vì công trình của họ. Họ tin rằng Beethoven đang sống trong âm nhạc của mình. Shakespeare thì ở trong vở kịch của mình và Edison ở trong phát minh của mình. Beethoven biết tốt hơn. Khi ông sắp chết, ông nói: “Tôi sẽ nghe nhạc ở trên trời”. Ông ta nói rất đúng.
Chúng tôi tin rằng Beethoven bây giờ đang nghe, không chỉ nghe những tác phẩm của chính mình, nhưng là âm nhạc của vị thầy vĩ đại là chính Thiên Chúa của ông. Beethoven đã được đặc ân hiệp nhất với các thiên thần và các thánh để ca bài ca vui mừng vô tận. Shakespeare biết rằng tất cả những lời trong tác phẩm của ông chỉ là một tiếng vang mờ nhạt với Lời đời đời được nói bởi Cha trong cõi đời đời. Lời đó chính là Con Thiên Chúa. Edison liều lĩnh phát mình ra ánh đèn điện nhưng bây giờ ông đã tắm trong ánh sáng rực rỡ của thị kiến vinh phúc. Bây giờ ông hiểu rằng chân lý trong sách bài đọc từ sách Đanien. Nền tảng của sách đó là dân Israel đã bị chiếm đóng bởi Syrie, họ cố áp đặt trên người Do Thái một ngôn ngữ ngoại quốc, một nền văn hóa và tôn giáo ngoại quốc. Nhiều người Do Thái đã chọn lấy cái chết hơn là bị bắt cầm tù. Tác giả của sách đã hiến tặng môt sứ điệp hy vọng cho những người sống sót bởi tuyên bố: “Người khôn ngoan sẽ chiếu sáng… những người đó sẽ được dẫn tới sự công chính và những người công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao mãi mãi”. Sự phát minh của Edison ngay cả khi nó phát triển nó cũng chỉ là mờ nhạt khi so với ánh sáng của sự sống đời đời, đặc ân lớn lao của Đức Kitô đã ban xuống khi Ngài đến một lần nữa, Ngài đến lần thứ hai khi Ngài Phục Sinh từ cõi chết sống lại.
Shakespeare sẽ không bao giờ tưởng tượng ra cảnh Đức Kitô, Con Thiên Chúa sẽ đến trong đám mây với quyền năng lớn lao và vinh quang, cũng không bao giờ tìm thấy đủ từ ngữ để miêu tả sự kiện ấy. Và cả chúng ta cũng như thế nữa. Chúng ta đã hầu như không hiểu lời của những từ ngữ mà trong bài Phúc Âm ngày hôm nay. Đó là tất cả những gì mà chúng ta muốn trở nên hay cả khi nó xảy ra chỉ có Cha trên trời mới biết được.
Trong lúc chúng ta không giống như những người Israel đang chịu đau khổ trên miền đất của mình bởi sự chiếm đóng của người Syrie. Chúng ta đang bị bao quanh bởi đạo quân văn hóa của sự chết, đạo quân này gây chiến tranh trên giá trị và nhân phẩm của đời sống con người. Nó tấn công chính tình bạn con người khi họ rất dễ tổn thương: khi chúng bắt đầu đời sống trong dạ mẹ, và khi gần chấm dứt cuộc sống trong tuổi già. Họ loại bỏ những người hầu như cần tới sự giàu có của quê hương chúng ta để cho họ được sống sót: là những kẻ không nhà, những kẻ đói ăn, những kẻ lãnh trợ cấp và những dân nhập cư.
Trong lúc chúng ta vẫn trung thành với đức tin Công Giáo và những giáo huấn giá trị của Giáo Hội, chúng ta không phải chết đau khổ; ít nhất cũng là như thế. Nhưng chúng ta bị nguy hiểm khi cho phép chính mình bị ảnh hưởng một cách tinh tế, bởi những giá trị thế tục như là ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, sự tham lam. Để kháng cự lại những ảnh hưởng này, chúng ta phải suy niệm về lời hứa sự sống đời đời cho những kẻ còn giữ được lòng trung thành. Chúng ta sẽ nhớ rằng bí tích Thánh Thể là một lời nài xin và một lời hứa của sự sống đời đời sẽ là động cơ thúc đẩy chúng ta trung thành mãi mãi. Đức Kitô sẽ làm viên mãn những lời của bài đọc ngày hôm nay: “Những ai được dẫn tới sự công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao trên trời”. Bên cạnh sự chiếu sáng như những vì sao chúng ta sẽ nghe thấy và sẽ nhìn thấy chính Thiên Chúa. ------------------------------
Người ta thường hay nói: "Hổ chết để da người chết để tiếng", muốn ám chỉ đến một cái chết TN 33-B60
Người ta thường hay nói: "Hổ chết để da người chết để tiếng", muốn ám chỉ đến một cái chết có ý nghĩa, một cái chết hiển vinh, một cái chết biết lựa chọn. Nhưng trong thực tế chính vì bản thân và sự ích kỷ, con người chỉ muốn có một cuộc sống yên ổn, cho dù đó là sống nhục phải luồn cúi, miễn sao cuộc sống họ được an nhàn êm ấm, chẳng ai muốn gặp phải những tan tác đau thương. Vì thế lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người phải từ bỏ mình, vác thập giá, hy sinh mạng sống. Hay nói đúng hơn là biết chết đi để được sống. Thật là điều mà đa số những người trong chúg ta khó mà chấp nhận được. Nhưng với niềm tin và tình yêu. Chúng ta vẫn tin rằng nếu biết chết với Đức Kitô thì mình cũng được sống lai với Người. Đó chính là điều Ngài muốn và muốn chúng ta:
1. Chết bằng cách từ bỏ.
Hàng rào ngăn cản chúng ta đến với Chúa chíh là danh - lợi - thú, không phải bất cứ ai cũng có thể rũ bỏ được, vì nó như một loại ký sinh luôn bám vào cuộc sống ta, và ngày ngày sẽ lớn mãi nếu ta không bài trừ. Do dó, con người luôn phải chiến đấu mãi và phải biết lựa chọn cho mình. Vì khi bám víu vào điều gì thì cũng bị tan biến theo điều đó. Nếu bám víu vào cái bất toàn, ngày ngày chỉ biết lao đầu vào cuộc sống hơn thua, bon chen, gom góp cuộc sống cho mình...kết cuộc mình cũng đi vào hư vong.
Chúng ta nên biết cuộc sống mỗi người ở trần gian này chỉ là "phù vân", như hoa huệ ngoài đồng sớm nở tối tàn rồi cũng qua đi. Nếu thật sự là người khôn ngoan thì không ai muốn bám víu vào của cải tạm bợ để làm gia nghiệp đời đời mà phải biết từ bỏ. Không phải ngày hôm nay chúng ta mới biết cách lựa chọn, mà từ ngàn xưa đã có những chứng nhân anh hùng quả cảm, các ngài đã chấp nhận từ bỏ, chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là đã chịu từ bỏ chính bản thân để làm chứng cho chân lý, chịu mất mạg sống để làm chứng cho đức tin. Tiêu biểu như thánh Hồ Đình Hy làm quan lớn trong triều đình, hay chánh tổng phạm trọng Tả là nhửng vị có chức quyền trong xã hội, các ngài tha mất chức, mất danh vọng chứ không chịu mất đức tin.
2. Chết qua việc vác thập giá.
Khi nói đến hai từ "Thập Giá' chúng ta nghĩ ngay đến dụng cụ hành hình mà trên đó Đức Kitô đã chết để cứu chuộc thế gian. Đó cũng là biểu tượng của mọi đau khổ mà một Kitô hữu phải chịu hay tự nguyện đón nhận để kết hiệp với Đức Kitô và cộng tác với Người trong việc cứu độ các linh hồn. Bởi đó thập Giá là một mầu nhiệm đã được mạc khải như Đức Kitô đã dạy:"Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập Giá mình hàng ngày mà theo". Câu nói của Đức Kitô như một lời khẳng định chắc nịch đã được các thánh tử đạo Việt Nam hân hoan đón nhận như một đặc ân dành riêng cho mình. Các ngài không nề chông gai gian khó vác những thập giá Tin Mừng vào những nơi u mê. Các ngài đã gieo hạt giống Tin Mừng trong những hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Và cuối cùg đã can đảm vác cây Thánh Giá đến nơi pháp trường, chấp nhận hy sinh để hạt giống được gieo vào lòng đất, vì các ngài luôn ý thức rằng "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác".
3. Chết vì tình yêu Đức Kitô.
Đối với người tín hữu chúng ta vẫn ý thức một cách chắn chắn về phần thưởng đời sau. Vì thế, cái chết không còn nặng nề, mà cái chết có ý nghĩa thì nhẹ tựa lông hồng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng là gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa tình yêu. Nơi Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh đã hình thành một sự sống mới cho chúng ta, để chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng "Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ được cứu mạng sống ấy". Để làm được điều này đòi hỏi mỗi người phải cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa dành cho mình thật mãnh liệt, không gì có thể chiến thắng, không gì có thể xóa nhòa. Như thánh Phaolô đã từng thách thức "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô" (Rm 8,35), Làm sao tôi có thể làm được điều thánh Phaolô đã làm nếu tôi thiếu tình yêu mến Chúa, làm sao tôi có thể hy sinh như các thánh tử đạo Việt Nam nếu tôi không phó thác vào tình yêu Thiên Chúa.
Mỗi khi nghe đọc lại tiểu sử hào hùng của các thánh tử đạo Việt Nam, tôi lại thấy một dòng máu nóng chảu cuồn cuộn trong huyết quản của mình, như một hơi nóng thúc đẩy tôi phải biết can đảm sống ở giữa pháp trường hôm nay. Pháp trường không còn sử dụng gươm đao, không còn lăng trì khổ nhục, vì ngày nay người ta sử dụng những thứ vũ khí tinh vi hơn, họ có thể "xử trảm" chân lý một cách vô tội va, họ có thể biến đen thành trắng, biến có thành không... đó là những cực hình cứ liên tục giàng xé cuộc sống làm cho ta đau đớn không khác gì những cực hình mà các thánh tử đạo Việt Nam phải chịu. Noi gương các thánh, chúng ta cũng xác tín "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ được cứu mạng sống ấy". Amen.
Trong những Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội muốn nhắc chúng ta nghĩ đến TN 33-B61
Trong những Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội muốn nhắc chúng
ta nghĩ đến ngày cùng tận của thế giới. Chẳng có gì thuộc về thế gian mà tồn tại vĩnh viễn, trái lại tất cả sẽ sụp đổ. Chỉ có những gì thuộc về Chúa mới trường tồn.
Thực ra, chẳng ai biết lúc nào thì tận thế. Cho nên có lẽ chúng ta sẽ không gặp ngày đó. Tuy nhiên, ai cũng sẽ gặp phải ngày tận thế của đời mình, đó là ngày chúng ta chết. Vì thế ai cũng phải chuẩn bị cho ngày đó.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Chúng ta quá bám víu vào thế gian này, tưởng như nó không bao giờ qua đi.
Chúng ta quá bám víu vào cuộc sống này, làm như chúng ta không bao giờ chết.
Chúng ta ít khi chuẩn bị cho cuộc sống đời sau.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Ðn 12,1-3
Ngôn sứ Ðanien nói về thời cùng tận: khi đó Thiên sứ Micae, Tổng lãnh đạo binh các thiên sứ, sẽ đứng lên chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực gian tà. Nhưng đó cũng chính là lúc những người công chính được giải thoát và ban thưởng phúc trường sinh.
Thực ra chúng ta không cần coi đoạn sách Ðanien này là những lời tiên tri về ngày tận thế. Hãy coi đây là một việc thường xuyên diễn ra trong lịch sử chung và cuộc đời riêng của mỗi người: luôn có một cuộc giao tranh giữa cái xấu và cái tốt; khi cái xấu sụp đổ thì cũng là lúc cái tốt lên ngôi.
2. Ðáp ca Tv 15
Bài ca bày tỏ lòng phó thác vào Chúa: "Số mạng con chính Ngài nắm giữ... được Ngài ở bên con chẳng nao núng bao giờ"
3. Bài đọc II Dt 10,11-15.18 (Chủ đề phụ)
Tiếp tục so sánh các thượng tế Do Thái với Ðức Giêsu Thượng Tế: (1) Những thứ lễ tế mà thượng tế Do Thái dâng lên chẳng thể nào xóa bỏ được tội lỗi; còn hiến lễ của Ðức Giêsu Thượng tế xóa sách mọi tội lỗi của loài người; (2) Do đó các thượng tế Do Thái phải mỗi ngày dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; còn Ðức Giêsu Thượng tế chỉ dâng duy nhất một lần và sau đó lên ngự bên hữu Chúa Cha đến muôn đời.
4. Tin Mừng Mc 13,24-32
Ðức Giêsu nói về ngày Ngài quang lâm trở lại. Ngài không mô tả ngày đó nhưng cho biết những nét chính:
Ngày Chúa quang lâm cũng là ngày bắt đầu một cuộc tạo dựng mới: "mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, các quyền lực trên trời bị lay chuyển" là đối ảnh của St 1,1.16 mô tả lúc Thiên Chúa tạo dựng: "Lúc khởi nguyên, Thiên Chúa dựng nên các tầng trời và trái đất. Ngài làm 2 chiếc đèn lớn, chiếc lớn hơn để cai ngày, chiếc nhỏ hơn để cai đêm, rồi các ngôi sao".
"Lúc đó Ngài sẽ sai thiên sứ đi và tập họp những kẻ được Ngài tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất đến cuối chân trời: khi vũ trụ cũ đầy gian tà sụp đổ thì cũng là lúc quyền lực của Chúa lên ngôi. Những kẻ lành được Ngài tuyển chọn sẽ làm thành nhân loại mới.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Ngày cuối cùng - Ngày Chúa đến
- Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay là một trong những đoạn Thánh Kinh khó hiểu nhất. Nó thuộc văn thể Khải Huyền, là một loại văn thể bóng gió, nghĩa là không nói thẳng ý tưởng ra, nhưng diễn tả ý tưởng một cách gián tiếp qua trung gian những hình ảnh. Những hình ảnh này không quan trọng vì chỉ là phương tiện diễn tả, cái quan trọng chính là ý tưởng mà những hình ảnh ấy muốn diễn tả.
Vậy ý tưởng chính của bài Tin Mừng này là gì? Thưa là nói về ngày cùng tận.
Ngày cùng tận ấy sẽ đến vào lúc nào? Có nhiều người không biết đã học giáo lý kiểu nào, hoặc đã đọc ở những sách nào mà dám quả quyết rằng ngày ấy sẽ đến vào năm 2000. Quyết toán như vậy là hoàn toàn không có cơ sở. Bởi vì trong bài Tin Mừng này, chính Chúa Giêsu đã nói "Còn về ngày hay giờ đó thì dù các thiên sứ trên trời, hay cả Chúa Con đi nữa cũng không ai biết được, trừ một mình Chúa Cha mà thôi".
Ngày cùng tận ấy sẽ xảy ra như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay mô tả "Khi ấy mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống. và các tinh tú bầu trời bị lay chuyển". Những hình ảnh ấy khiến cho nhiều người cho rằng ngày ấy sẽ là một ngày khủng khiếp. Có người còn tô vẽ thêm rằng ngày đó sẽ có nắng lửa mưa dầu. Có người khác lại giải nghĩa rõ hơn nữa, rằng mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao rung chuyển và nắng lửa mưa dầu ấy là hậu quả của một cuộc chiến tranh nguyên tử; rằng thế giới này sẽ tận diệt bằng một cuộc chiến tranh nguyên tử. Thế nhưng, như tôi đã lưu ý ngay từ đầu: đây là văn thể Khải Huyền, trong đó những hình ảnh không quan trọng vì chúng chỉ là phương tiện để diễn tả một ý tưởng. Thực ra ngay cả những hình ảnh được dùng trong bài Tin Mừng này cũng không phải là do chính Chúa Giêsu đưa ra, mà Chúa chỉ lấy lại những hình ảnh mà các tiên tri quen dùng để nói về ngày cùng tận. Mà theo các tiên tri thì những hình ảnh trên mang một ý nghĩa rõ ràng. Ý nghĩa đó là gì? Ðây ta hãy nghe một đoạn trong sách tiên tri Isaia: Ngày ấy sẽ không cần mặt trời soi sáng ban ngày, cũng không cần mặt trăng soi sáng ban đêm, cũng không cần ánh sáng của các ngôi sao hoặc ánh sáng của đèn đuốc, vì chính Chúa Cứu Thế sẽ là Ánh Sáng soi chiếu khắp nơi. Nghĩa là các tiên tri và cả Ðức Giêsu đều không quan tâm ngày cùng tận ấy sẽ xảy ra như thế nào, chỉ quan tâm đến sự kiện quan trọng nhất trong ngày ấy, đó là Chúa sẽ đến. Tới ngay cùng tận thì Chúa sẽ đến. Ngày Chúa đến có thể là một ngày khủng khiếp đối với những kẻ tội lỗi, mà cũng là một ngày hân hoan vui mừng cho những người công chính.
Tại sao Phụng vụ lại chọn bài Tin Mừng này để đọc trong ngày hôm nay? Hôm nay là Chúa nhật áp chót của năm Phụng vụ. Tuần tới sẽ là Chúa nhật cuối cùng. Sau đó là qua Mùa Vọng bắt đầu một năm Phụng vụ khác. Vậy trong ngày chúa nhật áp chót, Phụng vụ chọn đọc bài Tin Mừng nói về ngày cùng tận thì cũng là hợp lý.
Thời giờ thắm thoát thoi đưa, nói đi đi mãi có chờ chờ ai!
Thế giới này không phải là vô tận, thế nào rồi cũng có ngày tận cùng.
Cuộc đời con người cũng không phải là vĩnh cửu, thế nào rồi cũng có ngày chấm dứt. Một năm trôi qua là thế giới càng tiến gần đến ngày tận cùng của nó. Một năm trôi qua, đời người cũng càng tiến gần đến ngày cuối cùng của mình. Ngày cùng tận ấy sẽ đến lúc nào? Không ai biết. Nó sẽ diễn ra như thế nào? cũng chẳng ai biết trước được. Chỉ biết chắc là ngày đó Chúa sẽ đến. Chúa sẽ đến với mọi người để kiểm điểm đời sống mỗi người, để đánh giá xem mỗi người đã sử dụng thời gian Chúa ban như thế nào.
Người ta thường ví cuộc đời như một chuyến đi, thời gian như một con đường, và con người như một kẻ lữ hành. Người lữ hành thực hiện chuyến đi cuộc đời trên con đường thời gian. Và cũng như con đường phải dẫn đến một đích điểm, thì người lữ hành phải biết tận dụng thời gian để nhanh chân tiến bước đến đích điểm ấy. Không thể là một người lữ khách lang thang, cứ vô tình bước những bước vô địch, không biết đã đi qua đâu mà cũng chẳng biết sẽ đi về đâu.
Hết một năm là hết một đoạn đường. Giáo Hội muốn chúng ta hôm nay tạm dừng chân lại để kiểm điểm cuộc hành trình của mình.
Một năm qua, thế giới đã có những bước tiến tốt đẹp: Nhiều nước thù nghịch nhau đã tiến gần tới nhau để hoà giải hoà hợp với nhau. Một năm qua, đất nước chúng ta cũng có nhiều bước tiến, có đổi mới nhiều mặt để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Còn cuộc đời mỗi người chúng ta, một năm qua có tiến bước gì không?
Ðối với bản thân: con người chúng ta có trở nên tốt hơn không.
Ðối với tha nhân: liên hệ giữa chúng ta có công bình hơn, bác ái hơn?
Ðối với Chúa: sau một năm chúng ta có đến gần Chúa hơn không? Có thuộc về Chúa, gắn bó với Chúa nhiều hơn không? Ðức tin của chúng ta có vững vàng hơn không? Ðức cậy chúng ta có chắc chắn hơn không? và đức mến của chúng ta có nồng nàn hơn không?
Hôm nay Giáo hội muốn chúng ta tạm dừng chân để suy nghĩ về những điểm trên, để nếu cần thì điểu chỉnh lại cho cuộc hành trình của mình được vững bước hơn. Có như vậy chúng ta mới có thể sẵn sàng và vui mừng hân hoan đón Chúa khi Ngài đến.
2. Ngày tận thế (CN 33 TN -B)
Khi Ađam bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, ông phải khổ cực vất vả tìm kiếm miếng cơm manh áo.
Một lần kia, trên đường lao dịch, Ađam vấp phải cái xác bất động của Abel. Ông nâng con dậy, vác trên vai, đem về đặt trong lòng Eva. Ông bà lay gọi, nhưng Abel không đáp lại. Trước đây, Abel đâu có trầm lặng như vậy! Eva nâng tay đứa con yêu quý lên, bàn tay lại rơi xuống vô hồn. Trước đây không hề thấy như thế bao giờ! Ông bà nhìn vào đôi mắt trắng đã vô tư một cách bí mật. Trước đây đôi mắt của Abel có vô tình như thế đâu? Ông bà rất đỗi kinh ngạc. Nỗi kinh ngạc càng tăng dần cho đến lúc ông bà chợt nhớ lại lời Ðức Chúa Trời: "Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ chết". Ðó là cái chết đầu tiên trên thế giới.
***
Cái chết của Abel là cái chết đầu tiên trên trái đất. Còn cái chết cuối cùng của nhân loại sẽ là ai? Ở đâu? Vào lúc nào? Ðiều đó không ai được biết, và cũng không cần biết. Sách Tông đồ Công Vụ có viết: "Anh em không cần phải biết thời gian và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt" (Cv.1,7). Tin mừng hôm nay, Ðức Giêsu cũng quả quyết: "Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên sứ trên trời hay người Con cũng không hề biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi" (Mc.13,32). Khi được hỏi bao giờ đến ngày tận thế? Thánh Augustinô đã trả lời dứt khoát: "Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha". Nói khác, ngài còn nói: "Ðức Giêsu không cho biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người".
Ðứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ sống thích hợp nhất của chúng ta là: Vì thân phận con người mỏng dòn và yếu đuối, chúng ta hãy sống trong "tỉnh thức và cầu nguyện", trong niềm mong chờ "ngày Chúa đến sẽ xảy ra bất cứ lúc nào".
Chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới nhưng chúng ta biết chắc ngày ấy phải đến. Ðó không phải là tai nạn trong chương trình của Thiên Chúa, nhưng đó là một ngày mà Thiên Chúa dọn sẵn chỗ ở mới, một thế giới mới cho nhân loại. Nơi đó, công bằng sẽ ngự trị, hạnh phúc sẽ ngập tràn, và niềm vui sẽ trọn vẹn cho những ai "bền đỗ đến cùng". Với cái nhìn đầy tin tưởng, Seneca đã nói "Ngày mà bạn cho là cùng tận của mọi sự, lại là ngày khởi đầu của vĩnh cửu".
Chúng ta không biết ngày nào Chúa sẽ đến trong vinh quang, nhưng chúng ta biết chắc: để được vào vương quốc ấy, con người phải nhìn lại chính mình, sắp xếp lại cuộc sống, và tích cực xây dựng một gia đình nhân loại đầy yêu thương, công lý và hòa bình. Cha Mark Link viết: "Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao".
Vì tình yêu là ngôn ngữ của Thiên đàng, nên chỉ những ai biết yêu thương mới được bước vào. Chính lòng nhân ái là tấm thẻ căn cước không thể thiếu của những công dân Nước Trời.
***
Lạy Chúa,
Xin hãy đến, cho những người được tuyển chọn tập họp chung quanh Người.
Xin hãy đến, để trong mọi biến cố kinh hoàng, chúng con vẫn một niềm cậy tin: Chúa là Ðấng cứu độ chúng con.
Trong giây phút định mệnh của mỗi người, xin cho chúng con nghe được tiếng Chúa: "Con sắp trở về cùng Cha". Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
3. Ngày tận thế
Một bà kia vừa kết thúc một ngày làm việc chạy vội về nhà. Ðêm nay bà sẽ đi đánh bài. Nhưng vừa chạy tới cửa nhà, bà gặp một thanh niên cầm một tấm bảng ghi dòng chữ "Ngày tận thế gần đến rồi". Bà hỏi:
- Cậu nói là ngày tận thế gần đến rồi hả? - Thưa bà đúng vậy. - Nhưng cậu có chắc không? - Thưa bà chắc chắn. - Cậu nói nó gần đến? - Ðúng vậy. - Gần như thế nào? - Rất gần. - Cậu có thể nói rõ hơn không? - Thưa bà, ngay đêm nay.
Người đàn bà dừng lại suy nghĩ một lúc. Rồi với giọng lo lắng, bà hỏi tiếp: "Nó đến trước hay sau ván bài vậy?".
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới không ổn định. Hết cơn khủng hoảng này đến cơn khủng hoảng khác. Tình trạng không ổn định như thế khiến người ta sợ hãi lo âu. Và giữa cái thế giới không ổn định đầy lo âu sợ hãi như thế, người ta cần có một cái gì đó vững chắc để dựa vào.
Ðối với kitô hữu, chỗ vững chắc nhất có thể dựa vào là Thiên Chúa. Bài đáp ca trong Thánh lễ hôm nay có câu: "Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ". Còn trong bài Tin Mừng, Ðức Giêsu nói: "Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu".
Tất cả những gì vững chắc mà chúng ta có, và tất cả những gì chúng ta cần là bấy nhiêu đó: ta an tâm vì biết rằng mọi sự đều nằm trong bàn tay Chúa, biết rằng chương trình Chúa vạch sẵn cho cuộc đời chúng ta và cho thế giới sẽ được hoàn thành. Ðức Kitô sẽ thống trị. Thiên Chúa sẽ thống trị. Chúng ta sẽ cùng ngự trị với Thiên Chúa mãi mãi. (Viết theo Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dịp cuối năm phụng vụ, Hội thánh nhắc ta nhớ ngày Ðức Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang để xét xử toàn thể nhân loại. Chúng ta hãy vui mừng và tin tưởng dâng lời cầu nguyện:
1. Ðức Giêsu Kitô sẽ trở lại để đem tất cả những người được cứu độ vào hưởng hạnh phúc Nước Trời với Người / Chúng ta hãy cầu xin cho Hòa Bình luôn vui mừng loan báo niềm hy vọng hạnh phúc ấy cho mọi người.
2. Trời đất và thế giới này sẽ qua đi như lời Chúa phán / Chúng ta hãy cầu xin cho các nhà lãnh đạo các dân tộc hiểu biết rằng quyền bính của họ cũng sẽ qua đi / để họ biết xây dựng công lý và hòa bình cho mọi người / là những việc sẽ không qua đi.
3. Thiên tai, chiến tranh, bệnh tật, nghèo đói, đã làm cho biết bao người đau khổ và phải chết / Chúng ta hãy cầu xin cho mọi người biết tin tưởng và hy vọng vào ơn cứu độ do Ðức Giêsu đem đến / để không tuyệt vọng với những tình trạng bi đát đó.
4. Không ai biết ngày giờ Ðức Giêsu sẽ đến / chúng ta hãy cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta luôn tỉnh thức và cầu nguyện / để sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, chúng con không biết ngày giờ nào Chúa trở lại, xin cho mỗi người chúng con luôn chuẩn bị sẵn sàng để đón Chúa, bằng một đời sống thật tình mến Chúa yêu người. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị.
“Về Ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được, cả thiên thần trên trời, cả Con nữa, trừ phi là Cha” (Mc 13:32).
Cách đây không lâu, một cuốn sách nhỏ do một người Việt tên TTĐ phát hành đã làm hoang mang TN 33-B62
Cách đây không lâu, một cuốn sách nhỏ do một người Việt tên TTĐ phát hành đã làm hoang mang không ít người. Cuốn sách nói về ngày tận thế sẽ xảy ra năm 2000. Tác giả trích dẫn nhiều tài liệu và nhiều sự kiện xảy ra trên thế giới như chiến tranh, giặc giã, lụt lội, và ngay cả điều bí mật Fatima thứ ba (lúc đó chưa được Toà Thánh công bố) để khẳng định tận thế sắp xảy ra.
Đi giúp cho giáo dân đó đây, tôi cứ được nghe những câu hỏi có cùng một nội dung: “TTĐ nói có đúng không? Tận thế sẽ xảy ra trong năm 2000 chăng?”
Trước những câu hỏi đó, tôi tự nhủ: ngày tận thế hay năm tháng cuối cùng của nhân loại, không ai biết được. Ngay Chúa Giêsu ngày xưa cũng phán: “Về ngày giờ đó thì các thiên thần trên trời và cả Con cũng không biết được.” Đức Giêsu không thể nói ra ngày nào tận thế xảy đến, ấy thế mà TTĐ lại nói được thì quả là ông ta hay hơn Chúa Giêsu mất rồi. Mà nếu thế thì tại sao người ta không thờ TTĐ cho rồi?
Thêm một suy tư khác: thường đi đâu mà đi một mình, lẻ loi đơn độc, thì mới buồn, mới sợ. Ra đi mà để lại vợ chồng con cái, hay những người thân yêu, mới là đau khổ vì bị chia ly. Nếu như có tận thế, mọi người cùng đi chung với nhau thì đáng lẽ ta phải vui chứ cần gì phải lo.
Cho nên, lắm khi mình cứ “lo bò trắng răng.” Điều đáng lo thì lại không để ý, còn chuyện không đáng quan tâm thì lại cứ ngay ngáy, sống chết với nó.
Thiết tưởng điều đáng lưu ý nhất hiện nay không phải là ngày cánh chung của thế giới, nhưng là ngày cuối cùng của mỗi người trên cõi đời này. Đó chính là ngày tận thế của mỗi người. Đây là điều chắc chắn hơn bất cứ một lời tiên đoán nào.
Thánh Augustino đã từng nói: Một đứa bé sinh ra, sau này nó giàu hay nó nghèo, khoẻ mạnh hay đau yếu, chết non hay chết già, chẳng ai biết được. Chỉ có một điều chắc nhất là nó sẽ chết. Dù sang hay hèn, vua chúa hay bần dân, đàn ông hay đàn bà, xấu hay đẹp, rồi cũng phải chết thôi.
Thánh Anphongsô cũng xác quyết: “Không biết ta có sống trên thế gian được 100 năm như lòng ước nguyện không. Nếu được thì cũng sẽ có một ngày, ngày đó sẽ có một giờ, giờ đó sẽ có một phút, phút đó sẽ có một giây. Đó là giây phút cuối cùng của đời ta.” Và từ lời xác quyết này thánh nhân đã nhắc nhở người ta hãy nhớ đến các bậc tiền nhân, dù họ có quyền cao chức trọng, tài giỏi thông thái, vợ đẹp con khôn đến đâu thì giờ đây cũng chỉ là nắm tro bụi trong lòng đất, trên đó được ghi dấu bởi một tấm bia mà thôi.
Cho nên thật là phù phiếm biết bao khi chỉ biết quan tâm đến sự sống ngắn ngủi của đời này mà quên mất rằng mình còn có một cuộc sống đời đời kiếp kiếp mai sau, cuộc sống bắt đầu ngay lúc chết. Dại dột biết bao khi chỉ nhắm đến cái có cùng mà quên đi cái vô cùng. Chỉ tìm cái tương đối mà quên đi cái tuyệt đối.
Trong cùng một ý nghĩa như thế mà kho tàng văn học của Ấn độ có kể về một ông vua được tiếng là thông minh khôn ngoan nhất thiên hạ nhưng cũng là người dại dột nhất trần gian.
Tại cung vua có một anh khờ chuyên làm trò cho nhà vua xem. Vua thích lắm vì thường có được những trận cười nắc nẻ do những lời nói ngớ ngẩn hay điệu bộ khờ khạo của chàng hề. Một hôm để pha thêm trò, vua gọi anh ta đến bên ngai vàng, trao cho một chiếc gậy và một vương miện rồi phán: “Ta phong cho ngươi làm thằng khờ hạng nhất. Ngươi sẽ giữ chức này cho đến khi có người khờ hơn ngươi. Lúc đó ngươi hãy trao gậy và vương miện lại cho nó.”
Ngày tháng trôi qua, nhà vua già cả và suy nhược theo tuổi tác. Lúc nằm trên giường hấp hối, cả gia đình, quần thần, vương hầu tề tựu chung quanh. Sau khi cố lấy chút hơi tàn, nhà vua thều thào: “Ta gọi các ngươi đến để nói lời từ biệt. Ta sắp xa các ngươi rồi. Ta sắp đi vào một cuộc hành trình mà không bao giờ có ngày gặp lại rồi.” Nghe vua nói thế, ai cũng sụt sùi. Bỗng thấy anh hề tiến đến bên long sàn và thưa: “Muôn tâu đức vua, tôi xin được hỏi ngài một câu trước lúc ngài ra đi… Hồi xưa mỗi lần đi đâu xa, dù đến các vùng hẻo lánh của nước nhà, hay đô thị phồn hoa của nước bạn, ngài đều cho sứ giả hoặc cảnh binh đi trước dọn đường. Còn cuộc hành trình xa xôi mà ngài sắp lên đường kia, thì xin hỏi, ngài đã chuẩn bị gì chưa?” Nghe hỏi thế, nhà vua mở mắt ra đáp: “Ừ, ta chẳng biết chuẩn bị gì cả.” “Thế thì xin nhà vua nhận lại chiếc gậy và chiếc vương miện này, vì tôi vừa tìm ra một kẻ khờ hơn tôi rồi.” Nói xong anh trả tất cả lại cho nhà vua.
Nếu chỉ biết vui chơi hưởng thụ hôm nay mà đánh mất tương lai cuộc đời, nếu chỉ nhìn đến những công danh, thế lực, tiền tài, quyền lợi của hôm nay mà quên đi hay không lo gì cho kiếp sống đời đời mai sau thì quả ta là những kẻ khờ dại vô cùng.
Trong Thánh kinh cũng có kể câu chuyện một phú ông kia, gặp năm may mắn được mùa, lúa thóc tràn trề. Ông suy tính làm cách nào để có thể cất giữ được thóc lúa. Thế rồi sau nhiều hôm suy nghĩ ông quyết định phá các kho cũ, xây một kho mới, to lớn hơn để chứa thóc. Khi hoàn tất công việc, ông ung dung sung sướng nói với lòng mình: “Hồn ta ơi, hãy ăn đi, uống đi, nghỉ ngơi đi, vì từ nay của cải đã dư tràn cho nhiều năm.” Nhưng Chúa phán với người ấy rằng: “Đồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi linh hồn của ngươi, vậy tất cả những thứ kia sẽ về tay ai đây?” (x. Lc 12:16-21)
Do đó, chớ gì ta biết tỉnh thức. Thức tỉnh lại giữa những lo toan, khao khát, kiếm tìm để hỏi lòng mình “Tôi đang làm gì và tôi đang tìm gì?” Có thể với sự chủ quan tôi nghĩ mình đang làm việc này công kia cho Chúa đấy, nhưng lại chẳng phải là công việc của Chúa. Có thể tôi đang tìm tự do, danh dự, quyền lợi, vật chất, tình cảm, nghề nghiệp…, nhưng thử hỏi tôi có tìm kiếm Chúa không? Có Chúa trong những gì tôi đang có không?
Nếu mục tiêu của mọi sự tôi trăn trở kiếm tìm là một thứ gì đó rất hay, rất có lý, nhưng không phải là Chúa, thì tôi quả là một kẻ khờ dại vô cùng.
Nếu tìm mọi sự mà không tìm Chúa thì đời vẫn mãi thiếu vắng khát khao. Bởi như lời Thánh Augustino nói: Tôi đã tìm nhiều thứ nhưng “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.”
Và rồi nếu không cảm nhận Chúa là lẽ sống, niềm vui và nguồn hy vọng duy nhất của đời, thì thật đáng lo biết bao. Vì như thế ngày tận thế của đời tôi đã xảy ra rồi-tôi đang chết và tôi đã chết.
Còn nếu như có Chúa trong mọi tâm tư, ước muốn, kiếm tìm, và cuộc sống của tôi, thì ngại ngùng gì mà không hát vang lời Ca Vịnh:
“Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn sợ chi ai. Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không lo thiếu gì.” ------------------------------
Thời gian thấm thoát. Mới ngày nào bắt đầu một năm mà nay đã vào cuối năm, cả về năm đời TN 33-B63
Thời gian thấm thoát. Mới ngày nào bắt đầu một năm mà nay đã vào cuối năm, cả về năm đời và năm phụng vụ. Thời gian vào giai đoạn cuối. Thời điểm cuối gợi nhiều suy tư. Có nhiều cái cuối, đặc biệt nhất là cuối đời và cuối thời – tức là tận thế, Công giáo gọi là cánh chung.
Tận thế là 2 từ người ta không muốn nghe ai nhắc tới, vì nó khiến người ta e ngại hoặc không vui. Tuy nhiên, tận thế có thể là niềm mong chờ của người này, nhưng có thể lại là nỗi sợ của người khác.
Ngôn sứ Đanien nói: “Thời đó, Micaen sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa” (Đn 12:1a). Đó là những lời tiên báo về ngày tận thế, đặc biệt ông cho biết đó là “thời ngặt nghèo nhất”, chắc chắn rất đáng quan ngại, thậm chí là đáng sợ, nhưng lại không hề đáng sợ đối với những người thuộc về Thiên Chúa, vì họ sẽ được “thoát nạn”.
Ngôn sứ Đanien giải thích: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy”. Những người “an nghỉ trong bụi đất” là những người chết, vậy mà họ “trỗi dậy”, tức là sống lại. Rõ ràng đó là ngày tận thế, ngày chung thẩm. Nhưng số phận mỗi người khác nhau:: “Người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12:1b-2). Cùng một ngày, cùng được sống lại, nhưng có người sợ hãi và có kẻ vui mừng.
Tác giả Thánh vịnh thân thưa thay những người thuộc về Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Tất cả đều là của Chúa, nhưng Ngài trao chúng ta quyền quản lý. Nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta hoàn toàn an tâm: “Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn” (Tv 16:8-9).
Tác giả Thánh vịnh xác định nguyên nhân: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16:10), đồng thời hoàn toàn khiêm nhường và tín thác vào Chúa: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:11). Chắc hẳn chúng ta không đủ ngôn từ để diễn tả niềm hoan lạc được cận kề bên Chúa!
Thánh Phaolô nói: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi” (Dt 10:11). Tế lễ là bổn phận và trách nhiệm hằng ngày của các tư tế, không chỉ dâng lễ đền tội cho mình mà còn dâng thay người khác, nhưng dù dâng bao nhiêu lần vẫn không bao giờ đủ mức để hoàn hảo. Nhưng có một tư tế chỉ cần dâng một lần cũng đủ, đó là Đức Kitô: “Sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Ngài đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời” (Dt 10:12).
Vì Đức Kitô là Thiên Chúa, là Thượng tế, là Đấng cao cả hơn mọi loài: “Từ khi đó, Ngài chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân” (Dt 10:13), và “Ngài chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Ngài đã thánh hoá được nên hoàn hảo” (Dt 10:14). Dù là ai và là gì thì tất cả chúng ta vẫn chỉ là những tội nhân. Thánh Phaolô vừa giải thích vừa kết luận: “Nơi nào đã có ơn tha tội thì đâu cần lễ đền tội nữa” (Dt 10:18).
Nói về ngày Con Người quang lâm, Chúa Giêsu cho biết các dấu hiệu: “Trong những ngày đó, sau cơn gian nan, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển” (Mc 13:24-25). Đó là giờ G. Đó là lúc “thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13:26). Và cũng chính lúc đó, “Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13:27).
Thấy những sự việc diễn biến hằng ngày, chúng ta có thể đoán biết điều gì xảy ra. Ngày tận thế cũng có những dấu chỉ khả dĩ nhận biết, Đức Kitô dùng hình ảnh thực tế hơn để mọi người đều có thể hiểu: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13:28-29). Cuối cùng, Ngài quả quyết: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13:30-31). Tức là rất chắc chắn xảy ra ngày tận thế, không hề là chuyện đùa hoặc bịa đặt!
Tuy nhiên, hình như loài người vẫn bán tín bán nghi. Bằng chứng là đã từng có nhiều tin đồn về ngày nọ hay tháng kia là thời điểm tận thế, về chuyện “tối ba ngày, ba đêm”,… thế nên người ta lo tích lũy nến và mì gói để “đối phó”. Thật là nhảm nhí và dị đoan, chứng tỏ họ chẳng biết hoặc chẳng tin lời Chúa nói. Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13:32).
Vậy sao người ta vẫn bịa ra những tin đồn? Thật tệ hại là vẫn có những người nhẹ dạ cả tin khi nghe những lời “tiên tri dỏm” ấy. Chúa Giêsu còn chưa biết thì sao những con người phàm phu tục tử đầy tội lỗi như chúng ta lại biết trước? Không lo sống tốt mà cứ lo chuyện nhảm trên trời, dưới đất là sao? Quá vô lý!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững niềm tin vào Lời Chúa và hoàn toàn tín thác vào Con Chúa để có thể đứng vững cho đến lúc Đức Kitô tái lâm. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen. ------------------------------
Chúng ta sắp kết thúc năm Phụng vụ. Từng Chúa nhật một ta đã đi theo Đức Giêsu, dựa theo Tin TN 33-B64
Chúng ta sắp kết thúc năm Phụng vụ. Từng Chúa nhật một ta đã đi theo Đức Giêsu, dựa theo Tin Mừng Thánh Máccô. Chúa đã nói qua dụ ngôn, đã chữa lành nhiều người bệnh, giải thoát những người bị quy ám, trả lời những kinh sư, huấn luyện các môn đệ. Chúng ta có thể có cảm thông biết rõ người. Nhưng chỉ hôm nay, Người mới mạc khải cho ta biết tất cả tầm vóc con người của Chúa. Chỉ còn vài ngày nữa là Người sẽ chết. Người ra khỏi Đền Thánh Giêrusalem, để không bao giờ trở lại đó nữa. Một trong các môn đệ của Người đã lưu ý Người về vẻ đẹp của tòa nhà này, “Thưa Thầy, xin Thầy nhìn xem, những phiến đá đẹp làm sao! Kiến trúc lộng lẫy biết bao" (Mc 13, 1). Để trả lời Chúa chỉ nói; Tất cả sẽ bị phá hủy sẽ không còn viên đá nào trên viên đá nào ". Lúc bấy giờ Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê hỏi Người khi nào thì chuyện ấy sẽ xảy đến. Để trả lời câu hỏi đó, Đức Giêsu, đã công bố một diễn từ cuối cùng rất quan trọng thường gọi là diễn từ cánh chung" hay là diễn từ về thời gian cuối cùng”
Bài đọc hôm nay là phần giữa của diễn từ đó.
Trong những ngày ấy, sau một cơn khốn quẫn.
Phải đọc phần trước để hiểu chữ "tai họa". Trước khi Đền Thánh bị phá hủy, Đức Giêsu đã tiên báo ba tai họa như những điềm báo trước.
1. Những ngôn sứ giả, những Mêsia giả sẽ phỉnh gạt nhiều người (Mc 13,5-6).
2. Những tai ương, chiến tranh động đất, đói kém (Mc 13,7-8).
3. Những cuộc bách hại chống lại các môn đệ của Đức Giêsu (Mc 13,9-13). Lúc bấy giờ sẽ xảy ra tai họa ghê gớm là sự tàn phá Đền Thánh, nỗi đau buồn kinh khủng (Mc 13,14) đã được các ngôn sứ báo trước (Đn 9,27). Theo lịch sử chúng ta biết rằng Đền Thánh đã bị tục hóa và phá hủy, bởi những đoàn quân ngoại đạo của Titus, vào năm 70. Chúng ta đừng quên rằng Máccô đã viết trình thuật này gần thời gian đó, lúc mà mọi sự đều có vẻ sụp đổ. Sự bách hại của Hoàng đế Nêron suýt làm tan biến Giáo Hội phôi thai: Vị giáo hoàng đầu tiên, tông đồ Phêrô đã bị đóng đinh đầu ngược xuống đất... Phao lô cũng bị chặt đầu... Các Kitô hữu ở Rôma đã bị thiêu sống trong vườn Vatican. Và cũng chính đế quốc La Mã phá hủy nơi linh thiêng Thiên Chúa luôn hiện diện, đó là Đền Thánh Giêrusalem. Sự lo âu của các tín hữu lên đến tột độ: Đức tin của chúng ta không phải là vô ích sao? Những lời hứa của Thiên Chúa phải chăng chỉ là một giấc mộng đẹp những không hiện thực? Có phải đó là nước Thiên Chúa không?
Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng các ngôi sao từ trời sa xuống và các tinh tứ bầu trời bị lay chuyển.
Đức Giêsu dùng kiểu nói “khải huyền" theo truyền thống, những hình ảnh phóng đại được khuôn đúc sắn, kiểu nói biểu tượng rất thông dụng trong Kinh thánh (Is 13,10 - 34,4; Ge 2,10 - 4,15; Ed 32,1- v.v...).
Trong những khải huyền của thời đó, những hình ảnh còn mạnh bạo hơn: "Mặt trời sẽ chiếu sáng ban đêm, mặt trăng chiếu sáng ban ngày, máu sẽ từ cây cối chảy ra và những hòn đá sẽ kêu la" (Esdras 5,4).
Ta không nên hiểu những miêu tả trên theo nghĩa vật chất, chúng chỉ muốn nói lên một thực trạng không thể tả được. Đó là sự trở về với tình trạng "hỗn mang" nguyên thủy: Sẽ có một sáng' tạo mới, một khai sinh mới, một thế giới mới. "Thế giới cũ đã qua đi, và một thế giới mới đã được hình thành". Thánh Phaolô đã nói thế (2 Cr 5, 17).
Quả thực, những hình ảnh trên rất ý nghĩa. Con người luôn có khuynh hướng "tự biến mình thành thượng đế", và thích dùng những từ vĩ đại: "xây dựng thế giới", "thống trị vũ trụ chinh phục không gian"... nhưng một ngày nào đó tất cả những gì chúng ta cho là vững chắc sẽ trở nên vô nghĩa. Trước những sự xáo trộn của vũ trụ hay các nền văn minh, chúng ta mới khám phá ra rằng chúng ta là những cá nhân nhỏ tí. Nên chúng ta ngước cao hơn chân trời trái đất chúng ta một chút, chúng ta sẽ trở lại đúng chiều kích của mình. Chúng ta là gì với mặt trời và các tinh tú? Với một vài câu nói, Đức Giêsu đã mở rộng chân trời của chúng ta. Có biết bao điều không tùy thuộc chúng ta, ở ngoài tầm tay chúng ta. Có hàng tỷ mặt trời trên kia, mà ở đó chúng ta đâu có chút quyền lực nào, đang nói cho ta biết sự nhỏ bé của mình. Chỉ có Chúa mới có thể lay chuyển vũ trụ tinh tú! Các bạn cứ thử xem!
Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến.
Chưa bao giờ, từ lúc Người sinh ra một cách nghèo nàn trong chuồng bò ở Bê lem cho đến hôm nay, Đức Giêsu đã nói về Người như thế. Bỗng nhiên, Người trở nên cao cả vĩ đại, vinh hiển, từ trên cõi trời! Người tự nói Người là thẩm phán ngày cánh chung, mà vai trò này chỉ dành cho Thiên Chúa. Rõ ràng là thế, Người sẽ lặp lại điều này trước Thượng Hội đồng, vài ngày nứa (Mc 14,62).
Cho đến đây, Người đã làm chúng ta quen dần với tước vị Con Người nhưng luôn luôn trong bối cảnh loan báo cái chết của Người (Mc 8,31 - 9,31 - 10,33-35). Qua tước vị này, Đức Giêsu ứng dụng cho mình lời sấm nổi tiếng của Đanien (7,13-14). Đây là tác phẩm của một người "kháng chiến" dưới thời bách hại của Vua Antiochus 4 Ephiphane sách này khẳng định sự chiến thắng của Thiên Chúa, nhờ một "con người từ trên mây trời xuống". Vâng những lực lượng của sự ác, những kẻ áp bức người nghèo, những kẻ dữ sẽ không thể chiến thắng được trong lịch sử.
Tất cả ngôn ngữ khải huyền mà chúng ta vừa nghe chỉ được dùng để làm nổi bật tiếng kêu hy vọng này: Đức Giêsu đến... Như một Đấng chiến thắng, những giáo phái đủ loại những kẻ "cuồng tưởng" trong những thời kỳ có khủng hoảng lớn, cứ lảm nhảm bên tai chúng ta những lời ngăm đe", những "lời sấm giáng họa" và những "câu lên án" của họ. Đối với Đức Giêsu, sự phá hủy Đền Thánh biểu tượng cho sự phá hủy thế giới, là một "Tin mừng" nghịch lý như trong bài tụng ca ngày nay.
Bầu trời đối với chúng con đã tối sầm lại, không còn một ngôi sao nào trong đêm nhưng chúng con biết rằng ngày đã đến nó rất gần.
Những Kitô hữu đầu tiên đã mong ước mãnh liệt ngày “trở lại của Chúa" tiếng Hý Lạp là "parousie". Trong Tân ước người ta gặp nhiều lần từ huyền nhiệm này. Maranatha (I Cr 16,22; Kh 22,20). Đó là một kiểu nói Aramên, tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu, đã được đưa vào phụng vụ ban đầu, và có nghĩa là "Lạy Chúa, xin hãy đến". Từ Công đồng Vatican II, mỗi Thánh lễ của chúng ta đã lặp lại lời cầu xin, mong đợi trên, trong câu tung hô sau phần truyền phép: "Chúng con mong đợi ngày Chúa lại đến trong vinh quang. Chúng con mong đợi Chúa đến."
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa hãy đến! Tại sao chúng ta lại không hát với những Kitô hữu đầu tiên trong cùng một âm tiếng của Đức Giêsu "Maranatha!”
Người sẽ sai các thiên sứ tập hợp những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn từ bốn phương về từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.
Có một vài tác giả hiện nay muốn giảm thiểu Đức Giêsu Na-za-rét chỉ còn là một người Na-za-rét bình thường mà thôi! Chúa có những "thiên thần" những kẻ thuộc về người, sẵn sàng phục vụ Người. Người muốn tập hợp tất cả mọi người trên toàn trái đất lại. Thế mà nhân vật nhỏ bé này lại chưa hề rời khỏi đất nước Palettin. Trong những khải huyền cổ truyền mà Đức Giêsu đã dùng lại những hình ảnh thì những xáo trộn vũ trụ báo trước cho sự trừng phạt vĩ đại của Thiên Chúa giáng trên những kẻ phản đạo. Nhưng ở đây, không có những lời như thế trên môi miệng Đức Giêsu. Người chỉ nói đến việc tập họp những người được tuyển chọn. Việc tái lâm của Chúa Giêsu trong vinh quang, vào ngày thế mạt, đó là để tập họp những người thuộc về Chúa từ bốn phương trời, đó sẽ là một đại lễ thế giới, toàn vũ. Đức Giêsu nhìn thấy Người thật cao cả vĩ đại, thần thánh, thế mà Người sẽ phải chịu chết trong vài hôm nữa.
Ở cùng với Đức Giêsu.
Đó là tận thế, những chiến tranh tai ương, bách hại, diệt chủng, sự tàn phá ghê gớm, sự phá hủy đền thánh, sự phạm thường những nơi thánh bởi bọn phản đạo vô luân... tất cả những điều đó chỉ chuẩn bị cho việc tập hợp kể trên. Đây là tiếng kêu hy vọng kỳ diệu nhất mà con người có thể nghe được, ngay cả khi mọi sự sụp đổ quanh mình, ngay cả khi cái chết đến gần kề và có vẻ chiến thắng.
Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà tìm hiểu. Khi nó đâm chồi nảy lộc thì anh- em biết là gần đến mùa hè. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần.
Người ta thực sự không hiểu gì về tư tưởng của Đức Giêsu, khi người ta tỏ ra mình là "ngôn sứ báo động tai họa". Rõ ràng, Đức Giêsu muốn mở ra cho nhân loại niềm trông cậy vào một thế giới mới.
Đó là mùa hè đang đến. Đó là "mùa tươi đẹp" tới gần khi cây cỏ xanh tươi trở lại. ÔI, đó là một dụ ngôn thật đẹp dụ ngôn cuối cùng trước khi Người chết. Trong cơn nguy nan và sợ hãi, vâng, tất cả mọi sự đều qua đi và chết hết. Nhưng chúng con biết mùa hè sắp đến, trên những cành lá xanh tươi của cây vả.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến! Maranatha!
Thầy bảo thật anh em; thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.
Chân dung Đức Giêsu thật là vĩ đại! Đây là một cao vọng quá cỡ đối với một người hay chết như chúng ta. Chúng ta chớ quên, vài ngày nữa Người sẽ chết. "Tất cả đều qua đi" Người đã nói thế... Chúng Ta vẫn tồn tại, Ta hiện hữu; và các ngươi sẽ ở với Ta. Bên kia cái chết của Người, sự Phục sinh đang ló dạng, như bình mình sau đêm mù tối.
Còn về ngày hay giờ đó, thì dù các thiên sứ trên trời, hay cả người Con đi nữa, cũng không ai biết được trừ một mình Chúa Cha mà thôi.
Người vẫn là một "con người". Người không biết bí mật của Chúa Cha, Đấng vượt lên trên tất cả. Đáng kinh ngạc thay! Thế mà cũng con người đó quả quyết sẽ đến từ mây trời để "tập hợp tất cả những người được tuyển chọn". Đây là một nhân vật phi thường, ngoài quan niệm thường tình của chúng ta.
Con người sinh ra để làm gì ? Lúc nào con người chết ? Bao giờ là ngày cùng cận của thế giới ? TN 33-B65 Dalat
Con người sinh ra để làm gì ? Lúc nào con người chết ? Bao giờ là ngày cùng cận của thế giới ? Vâng, những vấn nạn này đã được nhiều người đặt ra từ xưa đến giờ! Nhưng tất cả đều không giải đáp được những vấn nạn này ! Tại sao và tại sao ? Tin Mừng của thánh Máccô, hôm nay Chúa Giêsu quả quyết:” Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên Sứ trên trời hay người Con cũng không hề biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi “ ( Mc 13, 32 ).
Vâng, các nhà bác học, các nhà nghiên cứu đã đưa ra biết bao giả thiết, đưa ra biết bao cuộc thí nghiệm, cuối cùng tất cả đều bó tay. Con người không thể tìm được giải đáp cho giờ chết, ngày chết và ngày tận thế, ngày cuối cùng của thế giới này ! Đã có nhiều tin đồn về ngày tận thế của nhiều giáo phái.Đã có nhiều lời đe dọa của những tiên tri giả, của những đạo giáo, phe nhóm quá khích cho rằng ngày tận thế sắp đến:” Hãy ăn chơi, đừng làm gì nữa “. Chúng ta đừng nhẹ dạ tin theo những lời đồn thổi, dọa nạt nhảm nhí đó ! Thánh Augustinô đã nói cách dứt khoát:” Đức Giêsu không cho ta biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người “. Nên, chúng ta hãy ý thức thân phận mỏng giòn của ta:” Chúng ta rất yếu đuối, mong manh như cậy sậy phớt phơ trước gió, như bong bóng sà phòng trước bầu trời rộng “. Do đó, thái độ của chúng ta là tỉnh thức và cầu nguyện, sẵn sàng chờ đón Chúa đến một cách bất ngờ, đột xuất. Đức Thánh Cha Phanxicô nhiều lần cũng đã đề cập tới ngày tận thế. Đức Giáo hoàng Phanxicô nói:” Khi cảm thấy cấp thiết phải kiểm tra lá số tử vi của mình, bạn hãy chuyển ánh mắt vào Chúa Giêsu”.Ngài giải thích:” Sẽ có một ngày mà ta đối diện với Thiên Chúa “. Ngài nói rằng điều quan trọng không phải là biết khi nào hoặc làm thế nào thời cánh chung sẽ đến, nhưng tốt hơn là ‘ chính chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng ‘. Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh:” Chúa Giêsu chính là “ điểm đến của cuộc lữ hành trên đường dương thế của chúng ta “, nhưng Người cũng là sự hiện diện liên lỉ trong cuộc sống của chúng ta “...
“ Chúa nhắc chúng ta là mọi thứ rồi cũng qua đi.Chỉ Lời Người mới là ánh sáng soi dẫn vững chắc cho hành trình của chúng ta “.
Loài người và chúng ta không biết ngày nào Chúa gọi chúng ta, không biết ngày nào Người đến trong vinh quang, nhưng có một điều chắc chắn để được vào Vương quốc Thiên Chúa, chúng ta phải xây dựng một gia đình nhân loại đầy yêu thương, công lý và hòa bình. Chúng ta phải nỗ lực kiến tạo hòa bình,khát khao tìm kiếm nước Thiên Chúa vì nước của Ngài là nước tình yêu.Nên, chí có những ai biết sống đức ái, biết sống ngôn ngữ tình yêu mới được vào nước của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết sống Lời của Người để chính ánh sáng Lời của Chúa sẽ soi đường chỉ lối cho chúng con đi.Xin cho chúng con biết sống yêu thương để những người gặp chúng con cũng nhận ra Chúa đang hiện diện trong chúng con.Xin cho chúng con biết tác tạo hòa bình vì chỉ có những ai yêu chuộng hòa bình mới được nhìn xem Thiên Chúa. Xin cho chúng con đôi mắt sáng đức tin để chúng con nhận ra Chúa nơi anh em đồng loại.Xin cho chúng con đôi tai để chúng nghe được lời yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con miệng lưỡi để chúng con biết nói lời yêu thương của Chúa. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Ngày tận thế là ngày nào ? 2.Ai nắm giữ bí mật của ngày tận thế ? 3.Chúa Giêsu có mạc khải ngày tận thế không ? 4.Chắc có ngày tận thế không ? 5.Ngôn ngữ của Thiên đàng là ngôn ngữ nào ?
Bài đọc một cho ta ba điểm chính: Thứ nhất: Vào ngày của Chúa, Tổng lãnh Thiên thần Micael sẽ TN 33-B66
Bài đọc một cho ta ba điểm chính:
Thứ nhất: Vào ngày của Chúa, Tổng lãnh Thiên thần Micael sẽ đứng lên chỉ huy và che chở dân người. Thứ hai: Kẻ làm điều bất chính sẽ bị ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Thứ ba: Người công chính sẽ được chỗi dậy để hưởng phúc trường sinh.
Bài Đọc Hai: Dt 10, 11- 14
Lời Chúa trong thư Do thái hôm nay đưa ra cho chúng ta hai hình ảnh:
Hình ảnh thứ nhất là tư tế: Họ ở trong đền thờ lo việc phụng tự mỗi ngày, dâng gần ấy thứ lễ tế mà chẳng bao giờ xóa bỏ được tội lỗi. Hình ảnh thứ hai là Đức Giêsu: Người chỉ dâng hiến lễ một duy nhất để đền tội cho nhân loại, làm cho những kẻ người đã thánh hóa trở nên hoàn hảo.
Bài Đọc Tin Mừng: Mc 13, 24- 32
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Marco nêu lên cho ta bốn ý chính về ngày Chúa quang lâm. Thứ nhất: Mặt trời tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao sa xuống, các quyền lực lay chuyển. Thứ hai: Con Người sẽ đến đầy quyền năng. Lúc đó các thiên sứ được sai đi để tập họp những kẻ Người tuyển chọn từ bốn phương trời. Thứ ba: Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Người nói sẽ tồn tại mãi mãi. Thứ tư: Về ngày chấm dứt của thế gian thì không ai biết, ngoại trừ Chúa Cha biết mà thôi.
2. Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay thuộc thể văn Khải huyền, nên rất khó hiểu. Ý chính của Lời Chúa hôm nay nói về ngày tận cùng của thế giới. Có lẽ, Giáo hội muốn nhắc nhớ con cái mình biết tính tạm bợ của thế gian và sự mỏng dòn của kiếp người; cho nên, đã đặt đoạn Tin Mừng này vào Chúa nhật áp chót của Năm Phụng Vụ.
Vậy qua Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta rút ra hai ý chính.
a. Thế Giới Này Không Phải Là Vô Tận
Có nhiều tin đồn rằng ngày tận thế sẽ đến vào năm 2000. Sau đó, lại có tin đồn rằng ngày tận thế sẽ xảy ra vào ngày 21/12/2012 và rồi vào ngày 22/2/2014, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở tin đồn. Mới đây, một tờ báo quốc tế loan tin rằng, ngày tận thế sẽ xảy ra vào năm 2015. Lý giải dự báo này, người ta cho rằng trước đó, họ đã tín nhầm ngày kết thúc theo lịch của người Maya. Kết hợp với nhiều lời tiên tri, ngày tận thế được xác định sẽ rơi vào ngày 15/5/2015. Những lời đồn đoán này đã gây ra hoang mang cho biết bao người. Cảnh sát Brazil đã phải đối phó với nguy cơ tự tử tập thể sau khi hơn một trăm tín đồ của một giáo phái cố thủ trong một ngôi nhà để chờ ngày tận thế.
Những tin đồn này đã đi vào dĩ vãng. Tuy nhiên, dựa vào Kinh Thánh và Huấn quyền của Hội Thánh, chúng ta tin rằng thế giới này sẽ có ngày đặt dấu chấm hết. Ngày giờ chấm dứt thế giới thì không ai biết, và cũng không cần biết. Sách Công Vụ Tông Đồ đã nói: “Anh em không cần phải biết ngày giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1, 7). Tin Mừng hôm nay cũng đã nói lên điều đó: “Về ngày giờ đó thì không ai biết được ngay cả Thiên sứ trên trời, và Người Con cũng không thể biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13, 32). Thánh Augustine còn xác quyết: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha”.
Như vậy, chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới, nhưng điều đó chắc chắn sẽ đến. Biến cố này không phải là một cơn thịnh nộ của Thiên Chúa muốn giáng xuống con người, mà đó là một ngày Ngài đã dọn sẵn một thế giới mới cho một nhân loại mới. Nơi thế giới này, công bằng sẽ ngự trị, niềm vui ngập tràn và hạnh phúc viên mãn dành cho ai bền đỗ đến cùng. Vì thế, chúng cần phải sống trong thái độ “tĩnh thức và cầu nguyện” để sẵn sàng chờ ngày của Chúa đến.
b. Con Người Không Phải Là Vĩnh Cửu
Mỗi bước đi của con người là một bước tiến gần đến cái chết. Không ai biết được ngày chấm dứt đời mình, nhưng cũng không ai có thể bước qua được cái hố định mệnh này. Ngày đó, Chúa sẽ đến với mỗi người để kiểm điểm và đánh giá xem chúng ta đã sử dụng thời gian Chúa ban như thế nào: chúng ta là tên đầy tớ bất trung chỉ biết phung phí gia sản vào những cuộc ăn chơi và những thú vui hạ đẳng, hay là tên đầy tớ tài giỏi biết làm sinh lợi những nén bạc Chúa trao.
Dầu biết rằng thời gian trôi đi không chờ đợi ai, nhưng nhiều người vẫn cứ ngủ mê trong sự ươn lười, an phận và tội lỗi. Như vậy, chúng ta đang tự đào cái hố giệt vong để chôn mình. Trái lại, với những ai thức tĩnh chờ ngày Chúa đến qua đời sống cầu nguyện, trong sạch và bác ái, thì ngày đó sẽ mang lại hy vong chứ không phải âu lo, ngày khởi đầu chứ không phải kết thúc. Cha Mark Link nói: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh như thế nào, nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”. Chúng ta không biết ngày chúa đến trong vinh quang, nhưng để được vào vương quốc ấy, mỗi người cần phải canh tân đời sống, nối kết sự hiệp thông, nuôi dưỡng tình bác ái, xây dựng nền công lý và hòa bình; đó là hành trang, là gia sản mà Thiên Chúa muốn mỗi người phải có để bước vào hạnh phúc trường sinh.
Xin Chúa thức tỉnh tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con biết cải biến mỗi ngày, nhận ra Chúa nơi những dấu chỉ thời đại và nơi anh chị em. Nhờ đó, khi ngày của Chúa đến, chúng con vẫn luôn bình an và hy vọng, vì biết rằng Ngài sẽ mang lại những gì tốt lành cho những ai yêu mến và phó thác nơi Ngài.
Montfort Nguyễn Xuân Pháp. OCist ------------------------------
Chu kỳ Năm Phụng vụ mở ra với ngày tháng dần trôi đang từ từ khép lại. Chúng ta đang ở Chúa TN 33-B67
Chu kỳ Năm Phụng vụ mở ra với ngày tháng dần trôi đang từ từ khép lại. Chúng ta đang ở Chúa nhật áp chót của năm, nhưng tâm điểm vẫn là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, chịu chết và sống lại, lên trời và sẽ trở lại như lời Người đã phán. Sống đời kitô hữu là sống niềm tin và hy vọng vào chính lời Chúa.
Chúa nhật thứ XXXIII thường niên B làm chúng ta nhớ lại, khởi đầu Năm Phụng Vụ, Giáo hội đã kêu gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Kitô đến lần thứ nhất mang ơn cứu độ là chính Người đến cho nhân loại. Và Chúa nhật hôm nay, Giáo hội lấy lại lời Chúa Giêsu loan báo về sự chung cuộc, mời gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa đến lần thứ hai (x. Mc 13,24-32).
Nghe đoạn Tin Mừng Marcô (13, 24-32), chúng ta có thể nghĩ rằng "Ngày ấy còn xa, chưa cần phải làm gì hết", nhưng "hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi" (Mc 13,29). Tuy nhiên, trong xã hội chúng ta đang sống, có những quan niệm lệch lạc về sự chung cuộc của thế giới. Quả thật, chúng ta không thể nói về sự sống lại mà không nghĩ rằng chúng ta phải chết. Ngày chung cuộc của thế giới bắt đầu với mỗi người chúng ta ngay ngày chúng ta chết, thời giờ thật cấp bách để chúng ta lựa chọn.
Nói đến Tin Mừng là nói đến Tin Vui, tự bản chất của Tin Mừng là Tin Vui, nên Tin Mừng luôn mang đến Tin Vui và Tin Vui ấy là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa hằng sống: Cớ gì chúng ta phải sợ? Có phải vì chúng ta thiếu niềm tin và hy vọng không?
Sống trong thời đại không thiếu những thiên tai và rất tiếc cả những nhân tai như chiến tranh và bạo lực, làm cho cuộc sống con người bị đảo lộn, cộng thêm sự xâm nhập của chủ nghĩa tương đối khiến lòng người khó tin và thất vọng. Nếu như thời Chúa Giêsu đã xảy ra việc làm cho người ta xao xuyến trước những biến động về thế giới và vũ trụ: “mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển” (Mc 13, 25), thì trước đó, tinh thần của dân Chúa thời tiên tri Đaniel cũng đã trải qua cuộc khủng hoảng tương tự, lúc ấy Thiên Chúa chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc của họ. Họ thưa cùng Chúa rằng: “Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa” (Tv 15,5). Khi có khốn đốn kinh hoàng như Daniel loan báo: “Thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ” (Dn 12, 1-3 ). Nhưng nếu họ tin tưởng và cậy trông vào Chúa, "khi ấy dân ngươi sẽ được cứu thoát". Thiên Chúa là Cha nhân từ, Ngài là niềm vui và là chỗ dựa vững chắc của mỗi chúng ta. Vị Thiên Chúa ấy hiện thân nơi con người Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Đấng nối liền hiện tại với tương lai; các lời tiên tri xưa kia sau cùng đã tìm thấy một trung tâm nơi con người của Ðấng Cứu Thế người thành Nagiarét, chính Người là biến cố đích thật, là điểm chắc chắn và ổn định giữa các chao đảo của thế giới. Chính Chúa Giêsu khẳng định: "Trời đất sẽ qua đi, nhưng các lời của Ta sẽ không qua đi" (Mc 13, 31).
Thật thế, chúng ta biết rằng trong Thánh Kinh, Lời Chúa là nguồn gốc của việc tạo dựng; mọi tạo vật, bắt đầu từ các yếu tố vũ trụ, mặt trời, mặt trăng, bầu trời đều vâng phục Lời Thiên Chúa, hiện hữu trong tư cách "được gọi" bởi Lời Chúa. Quyền năng tạo dựng đó của Lời Chúa đã được tập trung nơi Ðức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, và cũng qua các lời nói của Người mà "bầu trời" đích thật hướng dẫn tư tưởng và lộ trình của con người trên trái đất này.
Giáo hội tiếp tục loan báo cho chúng ta một Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô. Ít sợ hơn nhưng liên kết giữa cách sống với niềm tin của chúng ta hơn! Đức Hồng Y Newman JH nói: "Khi chúng ta đến trước tòa Chúa, chúng ta sẽ được hỏi về hai điều: nếu chúng ta là phần tử của Giáo hội và nếu chúng ta làm việc trong Giáo hội Chúa. Mọi thứ khác chẳng có giá trị gì". Giáo hội không chỉ dạy chúng ta cách chết thế nào, mà còn dạy chúng ta về cách sống ra sao sau phục sinh. Bởi vì những gì Giáo hội dạy không phải là sứ điệp của riêng mình, nhưng sứ điệp của Đấng là nguồn mạch sự sống. Chỉ trong niềm hy vọng này mà chúng ta có thể thanh thản đối mặt với sự phán xét của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, chúng con tin cậy vào Lời Chúa, Lời Chúa là ngọn Đèn soi cho chúng con bước, là Ánh Sánh chỉ đường cho chúng con đi, Lời ấy tồn tại mãi cho dù mọi sự qua đi.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 13:24-32)
Để chuẩn bị cho lễ Chúa Ki-tô Vua, Phụng vụ Thánh lễ Chúa Nhật trước đó nói với chúng ta về TN 33-B68
Để chuẩn bị cho lễ Chúa Ki-tô Vua, Phụng vụ Thánh lễ Chúa Nhật trước đó nói với chúng ta về ngày Quang Lâm của Con Người. Sử dụng thể văn khải huyền, thánh sử Mác-cô trình bày biến cố Chúa Giê-su trở lại trần gian để phán xét muôn loài. Có những dấu chỉ báo trước việc Chúa trở lại xảy ra trong khung cảnh vũ trụ: mặt trời ra tối tăm, mặt trăng hết chiếu sáng, tinh tú từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời lay chuyển. Sau những dấu chỉ hãi hùng ấy, Chúa Giê-su, Con Người đầy quyền năng và vinh hiển xuất hiện như ánh sáng giữa đêm tối. Tuy nhiên điều quan trọng không phải là khung cảnh uy nghi và sợ hãi khi Chúa đến, mà là Người trở lại trần gian để làm gì?
Mục đích Chúa lại đến không phải để khởi đầu kế hoạch cứu độ, nhưng là để kết thúc. Người đến là để “tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Như một người gieo hạt giống, Chúa Giê-su đã gieo vào trong Nước Trời của Thiên Chúa Cha những hạt giống là những kẻ đón nhận Lời. Mùa gặt hái đã đến, chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa về; cũng vậy, Nước Trời tại trần gian kết thúc, Chúa Ki-tô sai các thiên sứ đi để đem “những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về” và Người sẽ tập họp họ lại. Khác với Tin Mừng Mát-thêu, thánh Mác-cô không ghi lại lời giảng về việc phán xét, nhưng chỉ nói đến việc quy tụ “những kẻ được Người tuyển chọn”. Đây cũng là một cách trình bày tuyệt vời lời kêu gọi đầy thách đố, mong hết thảy chúng ta hãy là “những kẻ được Người tuyển chọn”. Tuy thánh sử không nhắc đến việc phán xét, nhưng ngài ngầm nói với chúng ta rằng để được Chúa tuyển chọn và tập họp, chúng ta vẫn phải hội đủ những điều kiện của một người môn đệ trung thành, nghĩa là vẫn phải sống bác ái yêu thương, làm tất cả những gì có thể cho một người bé mọn nhất, tức là làm cho chính Chúa. Như thế, Chúa cho chúng ta biết phải sống làm sao để là “những kẻ được Người tuyển chọn”, điều ấy quả thực là một tin vui.
Nhưng tin vui thứ hai của sứ điệp Tin Mừng hôm nay là Chúa cho chúng ta những dấu chỉ báo trước ngày Người đến để tập họp chúng ta bên cạnh Người và sống đời đời. Suốt mùa đông, cây vả chỉ còn lại những cành trông như đã chết khô. Nhưng ngày nào đó khi thời tiết ấm lên, chúng ta nhận thấy cành cây đổi mầu xanh và bắt đầu nhú lên lá mới. Đó là dấu hiệu báo mùa xuân tới. Chúa dùng thí dụ cây vả để áp dụng cho biến cố Người trở lại trần gian. Những hỗn mang của vũ trụ là hình ảnh nói lên tình trạng trước khi có cuộc tạo dựng thứ nhất. Giờ đây mặt trời, mặt trăng và các tinh tú không còn hiện diện nữa, để nhường chỗ cho công cuộc tạo dựng mới. Đúng thế, thời điểm Quang Lâm sẽ là lúc Chúa Ki-tô tạo dựng trời mới đất mới cho những kẻ được Người tuyển chọn. Người cho chúng ta một thời gian báo trước, để chúng ta sống sao cho xứng đáng được Người tuyển chọn. Thời gian chuẩn bị Chúa dành cho chúng ta thì rõ ràng, nhưng ngày hay giờ nào chính xác Chúa đến tụ họp chúng ta thì không ai biết được! Làm như thế, Chúa không đặt chúng ta trong tình trạng sợ hãi thấp thỏm, nhưng là để khích lệ chúng ta hãy an tâm vì đã có thời gian chuẩn bị sẵn sàng rồi.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Lắng nghe sứ điệp hôm nay, chúng ta đừng mang tâm trạng sợ hãi lo lắng. Trái lại chúng ta nhận ra Chúa thật yêu thương chúng ta, mong được tập họp chúng ta vào trong số những người được tuyển chọn. Hiểu được mong đợi của Chúa Giê-su, thánh Phao-lô luôn ao ước được sớm ra đi để có thể kết hiệp với Chúa muôn đời. Chúa Giê-su mong đợi có Phao-lô ở với Người đời đời, thì đáp lại, Phao-lô cũng ước ao được sớm về với Người! Hiện đang sống ở trần gian, chúng ta phải đối diện với “cơn gian nan lớn lao”, cố gắng phấn đấu để luôn trung thành với lý tưởng của người môn đệ Chúa. Dù phải phấn đấu như vậy, chúng ta cũng đừng quên niềm ước ao được kết hiệp với Chúa muôn đời. Ước ao ấy phải là sự khích lệ thúc giục chúng ta, giống như ước ao của người mong gặp lại người thân yêu sau bao ngày xa cách. Nhưng muốn có được ước ao ấy, chúng ta phải là “người thân yêu” của Chúa!
Lâu nay, nhiều người vẫn quan niệm rằng suy giảm trí nhớ là dấu hiệu tuổi già. Vì quan niệm này TN 33-B69
Lâu nay, nhiều người vẫn quan niệm rằng suy giảm trí nhớ là dấu hiệu tuổi già. Vì quan niệm này mà suy giảm trí nhớ ít được quan tâm tại các nước đang phát triển. Theo báo cáo tại hội thảo Sa sút trí tuệ trong thực hành y khoa của Trường Đại học Y Dược Sài gòn, kết hợp với Công ty Dược phẩm Janssen-Cilag tổ chức vừa qua, khoảng 50% người bị suy giảm trí nhớ sẽ chuyển sang thành bệnh sa sút trí tuệ 3 năm sau đó.
Sa sút trí tuệ là tình trạng suy giảm mức trí tuệ đã đạt được từ trước. Bệnh nhân sẽ bị suy giảm trí nhớ, khả năng xét đoán, định hướng không gian và thời gian, ngôn ngữ, tư duy nhận thức, hành động... ảnh hưởng nặng nề đến chức năng và chất lượng cuộc sống.
Quá trình phát triển của hệ thần kinh từ trong phôi thai đến năm 25 tuổi thì hoàn chỉnh. Sau lứa tuổi này, mỗi ngày khoảng 3.000 nơron thần kinh bị hủy đi mà không có sự sinh sản thêm. Càng lớn tuổi, cơ thể càng ít tạo ra các chất trung gian cần thiết cho não hoạt động. Vì vậy, bước vào tuổi trung niên bạn đã có thể phải đối mặt với tình trạng suy giảm trí nhớ. Nguyên nhân do tình trạng lão hóa nhanh của các tế bào thần kinh, môi trường sống, stress, thiếu một số chất quan trọng trong cơ thể... (Thanh Niên)
Tuy khoa học đã minh chứng sự lão hóa của cơ thể theo năm tháng, cụ thể như các nơ rôn, tế bào não chỉ mất dần đi theo tuổi tác, chứ không còn khả năng tái sinh. Nhưng mấy ai chịu tin rằng mình sắp chết dần, đang chết dần, chết mòn, mà hầu như ai cũng nghĩ mình còn sống mãi, sống dai, sống dài, sống hoài!
Dù vài chục năm ký cóp chút của cải, chút danh vọng, rồi cũng phải bỏ lại tất cả trên cõi trần. Dù tình yêu có mặn nồng cách mấy, thì cũng phai nhạt dần theo năm tháng với người quá cố. Như vậy, cái chết là dấu chấm hết cho đời người? Đúng với người vô thần. Nhưng sai với người Kitô hữu chúng ta, vì cái chết là khởi điểm cho cuộc đời mới, hoàn toàn tùy thuộc vào nhân quả của đời trước.
Chết đi để sống mãi
Chúa Giêsu còn nâng cao tầm quan trọng của cái chết. Không phải chỉ cái là chết thể lý đơn giản, mà còn là cái chết của các ham muốn, đam mê, dục vọng, bản năng, thú vui xác thịt, hy sinh, quên mình vì phục vụ tha nhân, vì Bát Phúc, vì Danh Cha Cả Sáng. Như thế, cái chết mới phát sinh sức sống mới, tràn trề hoa thơm trái ngọt, gặt hái mùa bội thu, như dòng máu đào của các Thánh Tử Vì Đạo đã giúp cho Giáo Hội thêm bền vững, phát triển.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga 12, 24)
Thiên hạ nói: “Hổ chết để da, người ta chết để tiếng.” Nhưng cái danh để lại có khi chỉ là xú danh, chứ không phải thanh danh. Dẫu thế, tốt hay xấu thì cũng chẳng nghĩa lý gì với người quá cố, chỉ có chút ảnh hưởng nào đó đến thân bằng quyến thuộc.
Nhưng với lẽ đạo, Thiên Chúa bao giờ cũng công bằng chánh trực, thưởng phạt phân minh từng người theo công đức và tội lỗi vấp phạm.
Như thế chết đi để được sống viên mãn mãi, hay là trầm luân muôn kiếp, đều tùy thuộc cuộc đời dương thế. Một khi sống để hưởng thụ, góp nhặt, chiếm đoạt, say mê danh lợi, bon chen của cải phù vân, thì đâu còn hy vọng chi đời sau? Một nắm xương tàn kết thúc cuộc đời, chẳng mang gì theo, ngoài những tam độc, lục dục và thất tình chăng?
Do vậy Chúa Giê su khuyên bảo hãy chết đi cái tôi mau hư nát, hãy mau mắn đổi của hèn, cuộc sống phù du ngắn ngủi, lấy của của trọng, cuộc sống vinh hiển muôn đời:
Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12, 25)
Thánh Phaolô cũng tha thiết khuyên nhủ tín hữu Philipphê: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki tô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki tô, và được kết hợp với Người.” (Pl 3, 7-9)
Sống theo Thầy
Đề được hưởng phúc trường sinh, Chúa Giêsu mời gọi sống theo Thầy, phục vụ Thầy mọi nơi, mọi lúc. Phục vụ Chúa cũng có nghĩa là phục vụ tha nhân đồng loại bất cứ khi nào và ở đâu.
“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. (Ga 12, 26)
Tuy nhiên, không phải dễ dàng sống theo Đấng Ki tô, một khi còn nặng tính xác thịt, nặng đam mê phù vân thế gian. Chính vì thế, Thánh Phaolô đã phải khóc thét lên, cảnh báo về sự chọn lựa quan trọng và dứt khoát sống còn này.
“Bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người. (Pl 3, 18 -21)
Theo Thầy sống mãi
Phần thưởng cao quý vô ngần, đó chính là Đức Chúa Cha yêu quý, khen thưởng trên Nước Trời những ai quên mình, bỏ mình, phục vụ Chúa Giêsu Kitô, cùng tha nhân bất kể bạn hay thù.
“Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy." (Ga 12, 26)
Con người vốn bất toàn, thiếu sót và tội lỗi, nay được vinh hạnh diện kiến Thánh Nhan nhờ ơn Cứu Rỗi của Chúa Giêsu, thì còn hồng phúc nào dưới thế này có thể sánh nổi?
Đừng để lúc sắp bước chân vào ngưỡng cửa đời đời, con hối tiếc vì đã đồi”của thiệt” lấy toàn “đồ giả” (Đường Hy Vọng, 676)
Các Thánh Tử Vì Đạo chúng ta đã sáng suốt phó dâng mạng sống, từ bỏ bản thân và mọi cám dỗ xác thịt, để anh dũng tuẫn đạo, theo chân Chúa đến hơi thở cuối cùng. Các ngài đã được ân thưởng trên cõi phúc viên mãn muôn đời. Các ngài đã hiệp thông cùng Chúa Giêsu mà đồng thanh ”Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha!”
Lạy Chúa, con vẫn biết Chúa luôn mời gọi phục vụ, nhưng lòng dạ con còn nặng nề thế tục, xin cứu giúp con biết từ bỏ ý riêng, chết đi tà tâm, để trung thành và bên vững phục vụ Chúa luôn mãi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đồng hành, che chở con thoát khỏi cạm bẫy danh lợi, quyền thế, dục vọng, để mãi vững tâm đi theo Chúa, Amen.
Con người có sinh có tử. Vũ trụ này có ngày khởi đầu chắc chắn sẽ có ngày kết thúc. Đó là TN 33-B70
Con người có sinh có tử. Vũ trụ này có ngày khởi đầu chắc chắn sẽ có ngày kết thúc. Đó là chân lý. Hôm nay, Chúa nhật áp chót của năm phụng vụ, Giáo hội cho chúng ta suy niệm Lời Chúa liên quan đến ngày cánh chung. Chúng ta thấy được hai khung cảnh của ngày tận thế.
Khung cảnh thứ nhất ở bài đọc I, do sách Đanien diễn tả. Tác giả nói tới một thời gian kinh hoàng “Đó là thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ”. Trong ngày đó, có tổng lãnh sứ thần Micae can thiệp. Người lành sẻ được thưởng. Đó là những người được “Ghi trong sổ sách”, là “Những người thông minh” và “Những kẻ khuyên dạy sự công chính”. Còn kẻ dữ sẽ bị luật phạt. Họ “Phải tủi nhục muôn đời”.
Khung cảnh thứ hai do Tin mừng hôm nay diễn tả, tác giả Thánh Marcô cho biết: “Trời đất sẽ qua đi”. Nghĩa là có ngày cùng tận của vũ trụ. Nhưng ngày đó đến khi nào chúng ta không biết được: “Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi". Tuy vậy, tác giả cho chúng chúng ta biết có những dấu hiệu báo cho biết ngày đó sắp đến: (1) “Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển”. (2) “Thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang”. (3) “Và bấy giờ Người sẽ sai các Thiên thần của Người đi qui tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất”.
Qua hai khung cảnh mà bài đọc I và bài Tin mừng diễn tả chúng ta xác tín hơn: Có ngày Tận Thế, Thiên Chúa sẽ phán xét nhân loại và kẻ lành được thưởng, kẻ dữ bị phạt. Đó cũng là tín điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”.
Vậy, khi chúng ta tin chắc có sự chết, có ngày tận thế và ngày đó lại đến cách bất ngờ thì chúng ta cần phải làm gì?
Thứ nhất, phải sống tỉnh thức và sẵn sàng. Chính Chúa Giêsu đã từng nhắc nhở: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40). Tỉnh thức như chủ nhà canh phòng kẻ trộm (Mt 24, 43-44). Tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể chuẩn bị dầu đèn đầy đủ (Mt 25, 1-3). Tỉnh thức và sẵn sàng chính là biết chu toàn bổn phận: Bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với tha nhân, đó là thực thi trọn vẹn Mười điều răn của Chúa và các điều răn Hội thánh, tóm lại trong hai điều: Mến Chúa và Yêu Người. Đến ngày phán xét, Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta theo một tiêu chuẩn duy nhất đó là Tình Yêu (x. Mt 25, 31-46).
Thứ hai, phải tỉnh thức và sẵn sàng khi còn có thể. Trần gian chỉ là quán trọ. Thiên Đàng mới là ngôi nhà vĩnh cửu. Thời gian chúng ta đang sống trên trần gian này là thời gian của Ân Sủng. Thời gian của Thiên Chúa Yêu Thương chúng ta. Trong thời gian này, Thiên Chúa ban cho chúng ta đủ điều kiện để làm lành lánh dữ: Ban thời gian, ban sức khoẻ, ban khả năng, ban phương tiện, như những nén bạc để chúng ta sử dụng mà lo phần rỗi. Thời gian này thật đáng quý. Quý đến nỗi có thể chỉ cần một tích tắc thôi cũng có thể biến tội nhân thành thánh nhân. Thời Gian tạm bợ quyết định cho số phận vĩnh cửu. Thánh Gioan Viannay đã nói với một phụ nữ có người chồng mới chết rằng: "Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và giòng nước, ông đã kịp ăn năn tội...".
Chết là hết thời gian Yêu Thương, Thiên Chúa cứ Công Tội mà thưởng hay phạt chúng ta, đó là thời gian của Công Thẳng. Thiên Chúa chỉ dựa vào công để thưởng và dựa vào tội để phạt: “Những ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (x. Ga 5, 28-29). Vậy hãy sử dụng thời gian Yêu Thương để làm những gì có thể làm được “Việc gì làm hôm nay đừng để đến ngày mai”, để khi bước sang thời gian Công Thẳng sẽ không còn hối hận và nuối tiếc.
Câu chuyện sau đây phần nào giúp chúng ta hiểu hơn về chân lý trên: Một cô bá tước nọ rất xinh đẹp nhưng lại mồ côi cha mẹ lúc còn bé, nàng lớn lên trong một lâu đài tráng lệ và rất hãnh diễn về gia tộc quí phái của nàng. Một hôm có một cô bé, con của bác thợ gặt nghèo, hổn hển chạy đến lâu đài của cô bá tước và thưa: “Thưa cô, ba cháu sắp chết, và ba cháu xin cô tới ngay vì ba cháu có một điều rất quan trọng cần nói cho cô biết trước khi nhắm mắt”.
Cô bá tước kiêu căng đáp lại: “Ta không hiểu tại sao một bác thợ gặt nghèo hèn như ba của mày, lại có điều gì phải nói với ta”. Và cô bá tước tức giận, đóng cổng, đuổi đứa bé đi. Một lúc sau đứa bé lại hổn hển đến gõ cửa lâu đài và run sợ phân trần một lần nữa với cô bá tước kiêu hãnh: “Xin cô đến mau trước khi ba cháu chết. Ba cháu nói là trước khi má cô qua đời, trong trận chiến tranh cuối cùng, bà đã chôn dấu rất nhiều vàng bạc và một kho tàng lớn cho cô. Ba cháu định để tới khi cô đến tuổi trưởng thành sẽ tỏ cho cô biết má cô đã nhờ ba cháu chôn dấu ở đâu, nhưng bây giờ ba cháu sắp từ trần nên muốn trối lại cho cô kho tàng đó”.
Nghe vậy, cô bá tước vội vàng đi theo đứa bé, vừa đi vừa chạy, nhanh bao nhiêu có thể. Nhưng khi cô bá tước vừa bước chân đến cửa nhà người thợ gặt nghèo khổ, thì ông ta cũng vừa tắt thở không kịp nói cho cô biết kho tàng được cất dấu ở đâu. Kế đó, cô bá tước cho đục khoét nhiều lộ trong phòng, trong tường, nhưng đã quá trễ, không tìm thấy kho tàng chôn dấu ở đâu cả.
Cô bá tước trong câu chuyện trên đây vì kiêu hãnh nên bỏ lỡ cơ hội không lấy được kho tàng quí báu mà mẹ để lại. Nước Trời là kho tàng quí giá, nếu chúng ta bỏ lỡ cơ hội tức là nếu chúng ta không biết sử dụng Thời Gian Yêu Thương để lo phần rỗi thì chúng ta cũng có nguy cơ đánh mất kho tàng quý giá đó. Amen.
Mừng lễ kính Đức Kitô xuống thế lần thứ hai nhắc nhở cho Kitô hữu nhớ món quà hằng sống Đức TN 33-B71
Mừng lễ kính Đức Kitô xuống thế lần thứ hai nhắc nhở cho Kitô hữu nhớ món quà hằng sống Đức Kitô hứa ban cho những ai trung tín trong đức tin. Món quà hiện thực này Đức Kitô hứa ban khi Kitô hữu hoàn thành viên mãn cuộc lữ hành trần thế. Hoàn thành viên mãn khi Kitô hữu sống trung thành với đức tin, giữ trọn lời hứa khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Món quà hằng sống có được không phải do sự khôn ngoan hay cố gắng của con người mà chính là kết quả của đời sống yêu Thiên Chúa, mến tha nhân và thiết tha với lời Đức Kitô giảng dậy. Thánh Mark cho biết món quà hằng sống được trao ban nhưng khi nào được lãnh nhận là điều không ai biết. Bởi không biết ngày giờ được trao ban nên Kitô hữu cần chuẩn bị tinh thần sẵn sàng đón nhận. Thái độ đón nhận rất khác nhau nơi tâm hồn con người. Có người chuẩn bị hàng ngày đợi đến khi gọi thì đáp lại ngay. Kẻ khác thì lơ là, lúc sốt sắng, lúc thờ ơ. Họ cần thay đổi lối sống, thái độ sống đón nhận Lời Chúa với tất cả tâm tình, nếu không sẽ gặp rắc rối khi giờ chết ập đến. Kẻ khác đã không đón nhận còn chối bỏ món quà hằng sống. Bởi từ chối đón nhận quà hằng sống nên khi thời gian đến họ sống trong kinh hoàng, sợ hãi. Từ chối tin vào lời Đức Kitô khi gặp khốn khó không có nơi nương tựa, đau khổ. Khi biết sự khôn ngoan của con người bị giới hạn, con người không thể giúp hơn được nữa, lúc đó họ không còn lối thoát và sợ hãi xâm chiếm tâm hồn họ, đau khổ đè nén tâm can họ. Thất vọng ào tới tấn công tinh thần. Đau khổ, bất hạnh ào đến tứ phía. Họ phải trả giá rất đắt cho việc từ chối niềm tin. Tin vào Đức Kitô mất rất ít, lợi rất nhiều. Mất vì phải từ bỏ í riêng, mất vì phải tiêu diệt cái tôi. Lợi đầu tiên và quan trọng nhất chính là ơn cứu độ. Khi giờ chết đến có nơi nương tựa, không phải ra đi trong cô đơn nhưng có Đức Kitô đồng hành đó là điều lợi thứ hai. Đến giờ phán xét tránh được sợ hãi ngàn trùng vì có Chúa ở cùng ta, ai hãm hại được. Đó là điều lợi thứ ba. Được mọi người yêu mến khi còn sống đó là điều lợi thứ tư. Hàng năm có cả tháng cầu nguyện cho các linh hồn đó là điều lợi thứ năm. Quan trọng hơn cả là không phải sống mồ côi nhưng có Thiên Chúa là Cha hằng sống, yêu thương, bao bọc.
Bởi không biết ngày giờ phán xét nên Kitô hữu sống tinh thần chuẩn bị đón chào ngày Chúa đến và sống trong hy vọng. Đức Kitô còn cho biết trước khi ngày Chúa xuất hiện sẽ có dấu chỉ, làm rung chuyển tấm lòng con người và cả vũ trụ rên xiết. Cùng dấu chỉ nhưng điều đó gây kinh hoàng cho người không có niềm tin, cũng dấu chỉ đó lại mang lại an ủi, niềm hy vọng cho Kitô hữu vì họ nhận biết ngày giờ Đức Kitô đến đón họ vào thiên quốc. Sợ hãi, kinh hoàng thường đi chung với thần dữ vì thế có thể coi đây là sự vùng vẫy cuối cùng của thần dữ trước khi chúng buông tay đầu hàng để chui vào ngục tối của chúng. Đức Kitô sai thiên thần đón nhận kẻ trung tín trong đức tin và chân thành trong bác ái. Sợ hãi, lo lắng biến mất và Kitô hữu sống trong hào quang chiến thắng huy hoàng của Đức Kitô. Thánh Mark nhắc nhở chúng ta mỗi ngày luôn nhớ đến ơn hằng sống và coi đó là ưu tiên hàng đầu trong ngày. Kitô hữu sống trong hiện tại nhưng hướng về tương lai bởi món quà hằng sống được trao ban nhưng chưa lãnh nhận.
Kitô hữu tin vào sự chết thân xác và sự chết tâm linh. Người ta không thể chứng minh được tình yêu nhưng nhìn vào kết quả tình cảm con người dành cho nhau để nhận biết tình yêu. Qua hành động bác ái, yêu thương và sự hiện hữu của chính mình mà ta nhận biết tình yêu Chúa. Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa tạo dựng nên ta và cuối đời ta thuộc về Chúa bởi Ngài hứa không bỏ chúng ta mồ côi. Kẻ không tin vào Thiên Chúa không có câu trả lời đích thực về đời người. Với họ chết là hết, ngay cả câu trả lời này họ cũng bán tín, bán nghi, không hoàn toàn tin là sự thật.
Căn cứ vào Phúc Âm Mc 13, 24-32 chúng ta biết rõ Thiên Chúa yêu thương cho biết có những TN 33-B72
Căn cứ vào Phúc Âm Mc 13, 24-32 chúng ta biết rõ Thiên Chúa yêu thương cho biết có những dấu chỉ báo hiệu việc trọng đại xảy đến cho cả nhân loại lẫn Con Người.
‘Khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi’.
Dấu chỉ đó bao gồm:
‘mặt trời ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trởi bị lay chuyển’.
Thiên Chúa yêu thương còn cho biết ngoại trừ Chúa Cha ra, không một ai dưới trần và không một ai trên thiên quốc biết rõ năm tháng ngày giờ các dấu chỉ kia sẽ xảy đến.
‘Còn về ngày hay giờ thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi’.
Chúng ta đã chứng kiến nhiều tiên đoán vô căn cứ. Bản nhạc với câu năm hai ngàn năm tôi còn lại gì đã sai. Dự đoán đệ tam thiên niên kỉ bắt đầu tận thế đã đi vào dĩ vãng. Những người tiên tri về ngày Cánh Chung và những người tin về những tiên đoán đó cho thấy họ đều hoặc là không đọc Phúc âm. Nếu đọc họ không tin điều Chúa Jesu dậy. Không tin Chúa Giêsu nhưng muốn làm công ciệc của Chúa Cha khi đưa ra lời tiên đoán. Kinh Thánh ghi rõ không ai biết trừ Chúa Cha.
Ngày cánh chung có dấu chỉ riêng, khác thường. Vũ trụ chúng ta sống có dấu chỉ riêng và mỗi người có dấu chỉ cá biệt. Mục đích của dấu chỉ là thông tri sự việc đang đến. Dấu chỉ mặt trời, mặt trăng ra tối tăm, các vì sao di chuyển bỏ quỹ đạo. Mục đích điềm lạ báo ngày Chúa quang lâm.
Dấu chỉ thuộc về vũ trụ
Không thể căn cứ vào chiến tranh, loạn lạc, hay thiên tai mà tiên đoán là ngày cánh chung gần kề. Những điều đó xảy ra đó đây liên tục. Lịch sử nhân loại mấy khi vắng bóng chiến tranh. Lịch sử vũ trụ năm nào thiếu thiên tai, động đất, cháy rừng, lũ lụt và bão gió. Những điều đó cho biết chúng ta đang sống trong một vũ trụ sống động, không phải một vũ trụ chết, nằm yên, bất động. Động đất, núi lửa, bão táp là bằng chứng cho thấy vũ trụ đang chuyển mình, đang lớn lên và rất có thể đang tự chữa những vết thương do bàn tay con người tàn phá. Cũng có thể là dấu chỉ báo nguy cho biết con người lạm dung thiên nhiên thái quá. Cần xét lại cách khai thác và bảo vệ môi trường thiên nhiên. Thay đổi thời tiết theo mùa, mưa to, gió lớn với mây đen, sấm chớp cũng là những dấu chỉ bình thường của vũ trụ.
Dấu chỉ thuộc cá nhân
Cuộc sống cá nhân bao gồm những chuỗi dấu chỉ liên tục. Ăn không phải vì đến giờ nhưng vì đói. Uống không phải trời nắng mà là khát; không phải tối trời đi ngủ mà là báo hiệu của mắt. Cản thấy đói, khát, buồn ngủ, mệt mỏi là dấu chỉ cơ thể báo cho biết cần nhu cầu đó. Con người có bản năng nhận biết dấu chỉ cần thiết của cơ thể để sống còn. Ngoài ra còn những dấu chỉ tiềm ẩn, kín đáo hơn con người cần để ý mới nhận ra. Dấu chỉ về thể chất dễ nhận. Dấu chỉ tinh thần tiềm ẩn khó nhận hơn và dấu chỉ về tâm linh khó nhận nhất vì chìm sâu nhất nhưng cũng quan trọng nhất vì nó liên kết ta với Chúa.
Khi một người không đọc được dấu chỉ cho chính mình Thiên Chúa yêu thương ban những dấu chỉ khác rõ ràng hơn, lộ diện trên da thịt cho thân nhân, chuyên gia cảnh tỉnh giúp. Nhìn vẻ mệt mỏi trên mặt, vàng vọt xanh xao của da, bạc nhược, bơ phờ râu tóc, thần sắc xấu trên người là những dấu chỉ bên ngoài cảnh giác sức khỏe, tình cảm nội tâm bên trong. Dấu chỉ phục vụ như lời mời gọi con người quan tâm đến nhau, hỗ trợ nâng đỡ, khuyến khích về ba phương diện: thể chất, tinh thần và tâm linh.
Dấu chỉ về tâm linh
Trong tôn giáo có nhiều dấu chỉ cho biết con người đó gần Chúa, thuộc về Chúa hay lưỡng lự trong chọn lựa yêu mến Chúa và ngay cả xa lánh Chúa. Dấu chỉ rõ ràng nhất là mức độ thánh thiện. Không thể đo lường mức độ thánh thiện nhưng cứ nhìn vào cách đối xử với tha nhân để biết mức độ thánh thiện một người.
Người có lòng đạo thật sự luôn cố gắng trở nên thánh thiện trong lời ăn, tiếng nói. Họ không dựa vào sức riêng nhưng dựa vào ơn thánh múc được nơi bí tích thánh, Lời Chúa và nhận ra Chúa nơi anh chị em khác. Dấu chỉ tâm linh chính là tiếng nói của lương tâm khuyến khích ta làm điều tốt lành mang bình an nội tâm. Ngăn cản ta làm điều thất đức tạo cho nội tâm bất an. Đay nghiến tâm hồn, tạo nên sợ sệt khi tiếng nói lương tâm bị chèn ép, đè bẹp. Dấu chỉ này thực hiện qua tiếp xúc, đón nhận và phục vụ anh chị em đồng loại.
Nhờ vào dấu chỉ tâm linh để tự sửa sai con đường đang đi, đổi hướng, xoay chiều hay tiến thêm trên đàng nhân đức. Sửa sai thứ nhất cần ơnChúa. Thứ hai cần thời gian. Thứ ba quan trọng nhất là nghị lực vì thiếu nghi lực người đó chối bỏ ơn thánh nên không thể nào sửa sai. Nghị lực đây không phải là sức mạnh cá nhân, hay sức mạnh của ý chí mà chính là sức mạnh nội tâm để nhận ơn Chúa hầu thay đổi hoàn cảnh.
Tóm lại dấu chỉ thể lí cho biết nhu cầu cần thiết để sống còn và sống hạnh phúc. Dấu chỉ tâm lí thỏa mãn tình cảm cần có trong cuộc sống và là vùng đất giúp chúng ta chu tòan luật yêu tha nhân. Dấu chỉ tâm linh giúp chúng ta chu toàn luật mến Chúa.
Vào cuối năm Phụng vụ, Giáo hội chọn những bài đọc Thánh kinh đề cập đến những tai hoạ TN 33-B73
Vào cuối năm Phụng vụ, Giáo hội chọn những bài đọc Thánh kinh đề cập đến những tai hoạ xẩy ra trong vũ trụ, khiến người nghe liên tưởng đến ngày tận thế. Hôm nay là Chúa nhật áp cuối cùng của năm phụng vụ. Chúa nhật tới là lễ Chúa Kitô Vua. Chúa nhật sau nữa là Chúa nhật thứ nhất mùa vọng, đánh dấu ngày đầu năm của Giáo hội trong niên lịch phụng vụ mới. Tuy nhiên chủ đề của ba Chúa nhật này đều có những điểm tương đồng: Chúa Kitô là trung tâm điểm của lịch sử loài người. Chúa đến để khởi sự kỷ nguyên Kitô giáo và người sẽ trở lại để kết thúc lịch sử loài người, để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Khi dùng ngày sinh nhật của Chúa cứu thế đẻ tính niên hiệu, người ta nói năm nọ trước Chúa giáng sinh hay năm kia sau Chúa giáng sinh.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay dùng ngôn ngữ khải huyền, một loại ngôn ngữ biểu tượng đặc biệt. Ðó là loại ngôn ngữ mà ngôn sứ Ðanien dùng để nói về thời gian thử thách sẽ qua, và Thiên Chúa sẽ đến cho người công chính được chiếu sáng muôn đời như những vì sao (Ðn 12:3). Phúc âm thánh Mác-cô hôm nay cũng dùng ngôn ngữ và tư tưởng khải huyền trong sách Ðanien. Bài Phúc âm cũng bàn bàn về ngày sau hết: Trong những ngày ấy sau cơn gian nan lớn lao, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các vì sao không còn chiếu sáng, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển (Mc 13:24-25). Rồi bài Phúc âm kết luận: Còn về ngày đó và giờ đó, thì không ai biết được (c. 32).
Khi bàn về ngày sau hết, tác gỉả Thánh kinh thường nại đến loại ngôn ngữ khải huyền, nghĩa là ngôn ngữ hay mẫu tư tưởng biểu tượng khó hiểu về ngày sau hết, gợi lại những tai hoạ với những hình ảnh tàn phá xẩy ra trong vũ trụ như chiến tranh, động đất, bão tố, lụt lội và chết chóc. Những hình ảnh tàn phá mà tác giả Thánh kinh dùng để nói về ngày sau hết đã có thể xẩy ra trong quá khứ ở đâu đó trên thế giới rồi, chứ không hẳn được tiên đoán sẽ xẩy ra trong tương lai. Văn chương khải huyền được giả sử viết vào thời quá khứ trước khi tai hoạ xẩy ra, nhưng thực sự được viết sau khi tai hoạ đã xảy ra để cảnh giác người đọc. Như vậy những hình ảnh tàn phá trong ngôn ngữ khải huyền, không hẳn nói về những biến cố sẽ xẩy ra trong tương lai. Ý nghĩa của ngôn ngữ khải huyền chỉ có dụng ý là cảnh giác người đọc rằng sẽ có ngày sau hết và Thiên Chúa sẽ toàn thắng. Ðó là điều ngày sau hết sẽ xẩy ra và là điều người tín hữu phải tin. Còn ngày sau hết xẩy ra như thế nào thì không hẳn xẩy ra như được diễn ta trong ngôn ngữ khải huyển. Việc dùng ngôn ngữ khải huyền chỉ nhằm mục đích để cảnh tỉnh những tâm hồn lơ là hay ham mê sự đời mà thôi..
Do đó không phải hễ có chiến tranh, động đất và tai hoạ xẩy ra là ngày sau hết sắp đến. Tuy nhiên nếu hiểu cái chết của cá nhân mỗi người là ngày sau hết của người đó thì khi những thiên tai hoặc tai hoạ xẩy ra có thể giúp cảnh tỉnh, báo hiệu cho cá nhân liệu mà sửa soạn tâm hồn. Như vậy ngày sau hết được hiểu theo nghĩa của ngày kết thúc đời sống cá nhân của mỗi người tại thế, hoặc ngày kết thúc lịch sử loài người nói chung. Việc phán xét trong ngày tận thế dựa trên căn bản là người ta có chấp nhận và sống lời Chúa không? Theo khuynh hướng tự nhiên của loài người, người ta thường sống thờ ơ, lãnh đạm, nghĩ rằng người ta có nhiều giờ để sửa soạn tâm hồn. Sự thực thì người ta không biết ngày nào, giờ nào Thiên Chúa sẽ gọi họ ra khỏi thế gian, lại càng không biết ngày kết thúc lịch sử loài người, quen gọi là ngày tận thế.
Ðối với người Kitô giáo, khi nào ngày giờ đó đến và đến như thế nào, thì không phải là điều quan trọng. Người ta không thể làm gì được về thời giờ và cách thế xẩy ra trong ngày tận thế, hay ngày người ta lìa bỏ thế gian. Ðiều quan trọng là người ta phải kiên nhẫn chờ đợi ngày đó. Việc kiên nhẫn chờ đợi này sẽ giúp người tín hữu khỏi nản lòng thoái chí trước những cám dỗ thử thách.
Vậy thì ta phải có thái độ nào đối với ngày sau hết? Có những người nghĩ rằng ngày sau hết sẽ đến nay mai. Họ nghĩ rằng ngày tận thế sắp xẩy đến cho nên lúc nào họ cũng lo âu, sợ hãi, yếm thế. Một số giáo phái Kitô giáo cũng chủ trương như vậy. Có một vài giáo phái kia tiên đoán ngày tận thế đến vào năm nọ năm kia trong đời họ. Và khi năm đó qua đi mà không có gì xẩy ra, họ lại đề nghị thời điểm khác cho ngày tận thế. Việc tiên đoán ngày tận thế mà người ta đồn gần đây là vào năm hai ngàn, ngay trước khi bước sang thiên niên kỉ thứ ba. Trước ngưỡng cửa năm hai ngàn, có những người tích trữ nhiều đèn nến để sửa soạn đốt cho những ngày đen tối. Những người khác lại xin nước thánh, nhiều nước thánh để rảy, sợ rằng qủi dữ sẽ xuất hiện trong ngày sau hết. Lại có những người nghĩ rằng ngày sau hết không bao giờ đến, và đời sống họ sẽ kéo dài mãi mãi. Vì thế họ cứ ăn uống, vui chơi buông thả. Dĩ nhiên cả hai quan điểm này đều vô trách nhiệm và không thực tế.
Như vậy ý tưởng hàm chứa trong Phúc âm là mỗi người sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa. Và nếu là người khôn ngoan, ta phải hoà giải tâm hồn với Chúa vì mỗi ngày tháng trôi qua là mỗi lúc ta tới gần cuối đời. Nghề bói toán đã xuất hiện trên địa cầu hàng chục thế kỉ - một nghề khá ăn khách bởi vì khuynh hướng loài người là tò mò, muốn biết về tương lai thế nào, duyên số và sự nghiệp ra sao? Tuy nhiên xét về phương diện gặp gỡ Chúa trong ngày sau hết thì không ai biết được ngày giờ nào thiên thần Chúa sẽ đến gõ cửa nhà linh hồn. Vì thế mà có những người tập thành thói quen như mỗi khi đi máy bay đều xin hoà giải với Chúa qua bí tích giải tội.
Tư tưởng cũng như văn chương của loài người chứa đầy những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc. Thời giờ thấm thoát thoi đưa. Không nên bỏ phí thời giờ. Ðùng đợi tới ngày mai điều mà bạn có thể làm hôm nay. Thường khi ta nhìn đi thì thấy lâu, nhất là khi ta đang mong đợi một điều gì đó. Khi nhìn lại, ta lại cảm thất thời giờ đi rất mau lẹ, nhất là khi phải gò bó vào công việc làm trong xã hội kỹ nghệ hoá. Ta không thể đi trước thời gian, cũng không thể kéo dài thời giờ vì thời giờ là của Chúa. Do đó kiên nhẫn đợi chờ trong niềm tin tưởng, hi vọng và cậy trông phải là tâm niệm của mỗi người tín hữu.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn kiên nhẫn chờ đợi ngày sau hết:
Lạy Thiên Chúa là Ðấng con thờ! Chúa là hi vọng, là cùng đích và là lẽ sống của mọi loài, mọi vật. Con xin phó tác toàn thân trong tay Chúa: thân xác, trí khôn, linh hồn cùng các quan năng. Xin dạy con biết sống mỗi ngày như là ngày cuối hết của đời con để con sống trong bình an và ơn nghĩa với Chúa. Amen.
Tin mừng Mc 13:24-32: Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ đến thời khắc chúng ta sẽ phải gặp Chúa, vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, cũng như của vũ trụ vật chất này.
Trái đất này một ngày nào đó cũng phải kết thúc vì đã có một lúc khởi đầu thì cũng sẽ có một TN 33-B74
Trái đất này một ngày nào đó cũng phải kết thúc vì đã có một lúc khởi đầu thì cũng sẽ có một lúc chấm hết. Con người ta có sinh thì cũng phải có tử. Kể từ khi con người xuất hiện trên mặt đất cho đến hôm nay, thời gian kéo dài hằng trăm triệu năm. Thế nhưng, thời gian ấy chẳng là gì cả so với khoảng thời gian vô biên của Thiên Chúa, như lời thánh vịnh đã nói: Ngàn năm đối với Chúa cũng chỉ là như một thoáng mây bay.
Chúa sẽ giáng lâm, hiện đến trong vinh quang, phán xét kẻ sống và người chết. Chúng ta không nên hình dung ngày giáng lâm của Chúa như một ngày ghê sợ, mà là một ngày chứa chan hy vọng. Vì Chúa đến để tập họp những người tin vào Chúa, thành một vương quốc của những người Chúa đã tuyển chọn.
Ngày ấy, tất cả sẽ bị phơi bày, tất cả sẽ bị tỏ lộ. Tâm hồn họ tối tăm hơn cả đêm đen, kinh hoàng hơn cả vực thẳm. Họ sẽ nghe thấy phán quyết tối cao của Chúa: Ta hằng yêu thương và chăm sóc cho ngươi như người mẹ chăm sóc và yêu thương đứa con của mình, thế mà ngươi đã chối bỏ Ta và từ khước tình thương của Ta. Thì giờ đây, hình phạt đời đời sẽ chờ đón ngươi.
Ngày ấy sẽ là ngày tập họp lớn lao: "Con người sẽ sai thiên thần tập họp những người được chọn, từ khắp bốn phương trời". Đó sẽ là ngày của sự công bình và sự thật: "Những kẻ khôn ngoan sẽ chiếu sáng như ánh quang của bầu trời... Những kẻ công chính sẽ chiếu sáng như các vì sao...". Đó sẽ là ngày phán xét: Kẻ lành sẽ được thưởng, kẻ thất trung sẽ bị loại trừ. Lòng mỗi người, mà Thiên Chúa thấu suốt, sẽ được phơi bày ra. Những kẻ đã sống vì Thiên Chúa sẽ được dẫn tới bên Ngài; Những kẻ chối từ Ngài sẽ bị ruồng bỏ.
Ngày tận cùng của thế giới cũng có những dấu hiệu báo trước: dưới đất thì động đất, mất mùa, đói kém, lũ lụt… trên trời thì mặt trời mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống, «các quyền lực trên trời bị lay chuyển»… nhân tâm thì điên đảo, chiến tranh và bạo lực lan tràn, các ngôn sứ giả (tự xưng là ngôn sứ mà bản chất thì không phải) xuất hiện… Hiện nay ta thấy những hiện tượng ấy đang xẩy ra ngày càng trở nên rõ rệt, quy mô, có hệ thống và khốc liệt. Điều đó cho thấy ngày tận cùng của thế giới đã gần kề.
Ngày phán xét sẽ là ngày tỏ rõ và nhìn nhận những gì đã có. Ngày từ bây giờ, chúng ta tạo nên tương lai của chúng ta. Những gì chúng ta sống trong thời gian này định đoạt những gì chúng ta sẽ sống vào ngày tận thế. Mỗi giây phút, mỗi ngày mang một ý nghĩa lớn lao hơn ta tưởng. Mỗi giay phút gìn giữ chúng ta bên cạnh Thiên Chúa làm cho chúng ta gần Ngài hoặc xa Ngài. Chính ngày này qua ngày nọ, khi nhìn chúng ta sống, mà Thiên Chúa hình thành nên sự phán xét về mỗi người trong chúng ta. Giữa hôm nay và ngày tận thế sẽ có sự liên tục.
Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng "đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến" (2Tm 4, 8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: "Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn". Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được sự an ủi vì "sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu Kitô" (Tt 2, 13).
Ta là môn đệ Chúa, chúng ta mong chờ gặp lại Chúa là phải. Tuy Chúa không xa cách chúng ta, nhưng chúng ta mong được thấy Chúa trong vinh quang của Người. Tuy nhiên muốn có được lòng mong chờ như vậy, chúng ta phải có đủ tư cách, phải sẵn sàng để không ngại đối diện Chúa. Phải là đứa con thảo, phải là người môn đệ trung thành với Lời Chúa, sống theo Tin Mừng, theo đường lối Chúa vạch định. Phải là người đầy tớ nhận tiền vốn Chúa để lại và đã sinh lợi như Chúa muốn.
Chúa dạy chúng ta không nên hoảng sợ. Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2Tim 4,8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: “Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được sự an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu Kitô” (Tt 2,13).
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ đến thời khắc chúng ta sẽ phải gặp Chúa, vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, cũng như của vũ trụ vật chất này. Liệu vào lúc ấy, chúng ta có đến với Chúa bằng đôi tay chất đầy công nghiệp là những hành động bác ái hay không? Nếu như phải tính sổ cuộc đời với Chúa, thì chúng ta đã sử dụng những nén bạc Ngài trao gởi như thế nào? Không giống như người tử tội, chúng ta có được cơ may còn sống để chuẩn bị cho giây phút định mệnh ấy. Bởi đó: Hãy sống giây phút hiện tại cho dù hiện tại có vắn vỏi, nhưng lại thật quan trọng vì nhờ nó mà chúng ta sẽ chiếm lấy được niềm hạnh phúc Nước Trời.
Vào ngày Chúa quang lâm, thiết tưởng mỗi người kitô hữu cần phải tỉnh thức và sẵn sàng: «Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến» (Mt 24,44; Lc 12,40). Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng ấy phải được thể hiện một cách thực tế bằng sự tôn trọng và thực hiện «chân lý, công lý và tình thương» (Mt 23,23b). Tình thương đòi hỏi ta không chỉ biết lo lắng cho số phận đời đời của mình, mà còn cho số phận của những người sống chung quanh ta nữa. Trước một thế giới sa đọa và tội lỗi như hiện nay, nếu ta không cảm thấy một sự lo ngại nào, và cũng không thấy mình cần phải làm gì, điều đó chứng tỏ tình thương và ý thức liên đới của ta còn rất yếu kém.
Trong ngày phán xét cuối cùng, điều chủ yếu mà Thiên Chúa phán xét ta chính là tình yêu của ta đối với tha nhân và những việc ta làm để thể hiện tình yêu ấy (Mt 25, 31-46). Điều tốt lành nhất ta có thể làm cho tha nhân chính là giúp họ trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa: Ngày ấy, «những ai làm cho người người nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao» (Đn 12,3). Đó cũng chính là cách tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Thiên Chúa.
| Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật XXXIII Thường Niên, Năm B
Xin Chúa thương ban cho chúng con niềm hy vọng vào Lời Hứa và Lời Chúa căn dặn, để chúng TN 33-B75
TMĐP- Xin Chúa thương ban cho chúng con niềm hy vọng vào Lời Hứa và Lời Chúa căn dặn, để chúng con biết sống từng giây phút hiện tại với lòng trông cậy, phó thác tuyệt đối vào Chúa và luôn tỉnh thức.
Không biết bao nhiêu lần chúng ta đã nghe “tận thế sắp đến”, lại có những lần chúng ta được người này người nọ báo chính xác như “đinh đóng cột” ngày giờ tận thế, nhưng rồi vẫn chưa thấy ngày tận thế đâu, và chúng ta lại tiếp tục hồi hộp đợi chờ ngày kinh khủng ấy, ngày mà ngôn sứ Đanien gọi là “thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ” (Đn 12,1), và Tin Mừng Máccô mô tả “ngày đó sẽ là những ngày gian nan đến mức từ lúc khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo thành vạn vật cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra và sẽ không còn xảy ra như vậy nữa” (Mc 13,19). “Trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển” (Mc 13, 24-25).
Thực ra, không chỉ có chúng ta lo lắng, thắc mắc hỏi Chúa: “Khi nào thì ngày tận thế xảy đến?”, các Tông Đồ cũng đã nêu lên câu hỏi định mệnh này, như “lúc Đức Giêsu ngồi trên núi Ôliu, đối diện với Đền Thờ, các ông Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê hỏi riêng Người: “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước?” (Mc 13,3-4).
Sau hàng loạt những cảnh báo nào là “Hãy coi chừng kẻo bị người ta lường gạt”, “sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy”, nào là sẽ có giặc giã, chiến tranh, động đất, đói kém ở nhiều nơi, kể cả những truy lùng, bắt bớ, khổ hình sẽ đổ trên anh em và cảnh “cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết” (x. Mc 13,5-12), Đức Giêsu căn dặn các môn đệ của Ngài một số điều quan trọng:
1. Đừng khiếp sợ
Ngài dặn các môn đệ: “Đừng khiếp sợ. Những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cục” (Mc 13,7), và Đức Giêsu đã cho các môn đệ hiểu tại sao “đừng khiếp sợ”.
Đừng khiếp sợ, vì điều Chúa muốn các môn đệ Ngài phải làm ngay lúc này, và ở đây là Loan Báo Tin Mừng, chứ không phải việc lo lắng về ngày tận thế, như Đức Giêsu đã khẳng định sau những cảnh báo về ngày gian nan: “Nhưng trước tiên, Tin Mừng phải được loan báo cho mọi dân tộc” (Mc 13,10), còn “về ngày hay giờ ấy thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13, 32).
Vì loan báo Tin Mừng, nên Tin Mừng sẽ bảo đảm chắc chắn: người loan báo Tin Mừng sẽ được vui mừng đứng trong hàng ngũ những người được Thiên Chúa “tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13,27) khi “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mac 13,26).
Đừng khiếp sợ vì “những kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mc 13,13). Bền chí nhờ tin vào Lời Hứa, tin vào ơn Thánh Thần, tin Thiên Chúa “là Đấng con tôn thờ, và bên Ngài con ẩn náu”, vì ngoài Chúa ra, không đâu là hạnh phúc” (Tv 15,1- 2). Đó là sự bền chí của những kẻ đặt hết niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ giầu lòng thương xót được Chúa Cha sai đến thế gian để xóa tội và cứu sống muôn người.
2.“Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi ” (Mc 13,29)
“Con Người” là Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng ở giữa con người, và đang đứng ngay ngoài cửa nhà mỗi người, khi mùa xuân Cứu Rỗi trở về với cây lá “xanh tươi và đâm chồi nảy lộc” (Mc 13,28).
Như thế, Đức Giêsu không “đến gần, ở ngay ngoài cửa” để truy lùng, bắt bớ, trừng phạt chúng ta, nhưng Ngài đến giữa mùa xuân rực rỡ Hồng Ân Cứu Độ ngay cửa nhà để gặp chúng ta, như lời Kinh Thánh: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3, 20).
Được Chúa đến nhà dùng bữa, và được cùng bàn với Chúa, hỏi còn hạnh phúc nào lớn hơn?
Tất nhiên, chúng ta không tránh khỏi nỗi lo phải sống mỗi ngày như ngày cuối cùng của cuộc đời, sống mỗi ngày như tận thế có thể xảy đến.
Vì biết chúng ta lo, Đức Giêsu đã trấn an chúng ta khi hứa: “Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20); vì biết chúng ta sợ, Ngài bảo đảm: ở gần, ngay trước cửa nhà, để yêu thương, gìn giữ, cứu chữa chúng ta, dù mỗi ngày chúng ta sống là thời gian phải chiến đấu, mỗi bước mới trên hành trình cuộc đời chúng ta đi là mạo hiểm giữa bao thách đố, rủi ro, và mỗi khoảnh khắc sinh hoạt là dấn thân vượt qua rất nhiều nguy hiểm, trái ý nghịch lòng.
Xin Chúa thương ban cho chúng con niềm hy vọng vào Lời Hứa và Lời Chúa căn dặn, để chúng con biết sống từng giây phút hiện tại với lòng trông cậy, phó thác tuyệt đối vào Chúa và luôn tỉnh thức.
Sống trông cậy bằng bình an thi hành sứ vụ Loan Báo Tin Mừng; sống phó thác bằng luôn khao khát Chúa đến và ở lại trong tâm hồn; sống tỉnh thức bằng liên lỷ cầu nguyện như các thánh Tông Đồ “tề tựu ở một nơi” (Cv 2,1) và cùng nhau cầu nguyện khi Chúa Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa “đậu xuống từng người một” (x. Cv 2,2-3), để khi Đức Giêsu trở lại, chúng con được diễm phúc nghênh đón Ngài như người tình hạnh phúc trong Diễm Ca: “Tôi ngủ, nhưng lòng tôi chợt thức; có tiếng người yêu tôi gõ cửa: “Mở cửa cho anh vào, hỡi em gái, người bạn tình của anh, hỡi bồ câu, ôi mười phân vẹn mười.” (Dc 6,2).
Sống trên đời, ai cũng mong có một tương lai tốt lành. Tương lai mà người tín hữu kỳ vọng không TN 33-B76
Sống trên đời, ai cũng mong có một tương lai tốt lành. Tương lai mà người tín hữu kỳ vọng không giống như mọi người không có đức tin mong đợi. Bởi lẽ, theo quan niệm trần gian, tương lai là những kỳ vọng thành đạt trong sự nghiệp hay học vấn, hoặc giàu có sung sướng về vật chất. Người Kitô hữu cũng cố gắng để có được một điều kiện sống hạnh phúc phong lưu. Tuy vậy, tương lai và hạnh phúc vĩnh cửu của họ là Nước Trời. Giữa cuộc sống này phủ đầy bóng tối, nhiều thử thách gian nan và dối gian lừa lọc, nhưng những tối tăm gian khổ ấy cũng có lúc kết thúc. Vương quốc mà chúng ta chờ đợi, đó là hạnh phúc vĩnh cửu Thiên Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài. Hướng về tương lai vĩnh cửu, đó là mối ưu tiên hàng đầu của người tin Chúa.
Với lối hành văn theo thể loại được gọi là “Khải huyền”, tác giả sách Đanien đã diễn tả lúc tận cùng của thời gian, chúng ta vẫn gọi là ngày tận thế. Lúc ấy, Thiên Chúa sẽ can thiệp và làm cho những người đã chết được sống lại. Sự can thiệp của Tổng lãnh Thiên Thần Micae như một cuộc tổng điều tra dân số. Những ai được ghi trong “Sổ hằng sống” sẽ được hưởng hạnh phúc ngàn thu, những ai không có tên trong đó sẽ phải trầm luân muôn kiếp.
Giống như tác giả sách Đanien, thánh sử Mác-cô đã sử dụng lối văn Khải huyền để diễn tả ngày cánh chung. Vào thời đó, các thiên thể tinh tú sẽ mất hết khả năng chiếu sáng và sẽ rơi xuống đất. Mặt trời, mặt trăng và các tinh tú được các dân xung quanh thờ như những vị thần. Vào thời Thiên Chúa xuất hiện, các vị thần ấy sẽ bị đánh bại.
Có thể những tiên báo trên đây bị người thời nay coi là chuyện tầm phào. Người ta nói rằng, từ xưa đến nay, rất nhiều lần có lời đồn thổi về ngày tận thế, nhưng rốt cuộc thì ngày tận thế không đến. Lời Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta khi quả quyết: thế gian này chẳng thể tồn tại mãi. Sẽ có ngày cuộc đời này kết thúc, dù chúng ta không biết khi nào và như thế nào. Những hình ảnh được nêu trong sách Đanien và Tin mừng Thánh Mác-cô chỉ là những biểu tượng để giúp cho các độc giả cách chúng ta mấy ngàn năm dễ hiểu.
Nếu người ta có thể phủ nhận ngày tận thế, thì không ai có thể phủ nhận sự chết. Dù sang hay hèn, dù văn minh hay lạc hậu, ai cũng phải đến ngày kết thúc cuộc đời. Biết bao lần chúng ta đã chia tay những người thân, qua đó chúng ta càng cảm nhận sự mỏng giòn của thân phận con người. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: giờ chết là tận thế đối với cá nhân mỗi người. Lúc đó họ sẽ phải trả lời Chúa về những việc mình đã làm khi còn sống trên dương gian. Chúa dựng nên con người có hồn và xác. Thân xác có thể bị mục nát trong lòng đất, nhưng linh hồn bất tử. Mỗi người phải mang trách nhiệm về những gì mình đã làm. Thời gian, sức khoẻ, gia đình, bạn bè, nghề nghiệp và những ưu đãi khác đều là những “vốn” Chúa ban để sinh lợi. Trên trần gian, có người tốt kẻ xấu, lúc tận thế, cũng có người hưởng vinh quang, kẻ bị trầm luân muôn kiếp. Ngôn sứ Đanien đã nhìn thấy “những người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ khuyên dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại muôn ngàn đời”. Niềm tin vào đời sau chính là tôn vinh phẩm giá con người. Niềm tin này cũng khích lệ chúng ta, như một lời hứa hẹn rằng, nếu chúng ta sống tốt ở đời này thì sẽ được hưởng vinh quang bất diệt đời sau.
Tin vào đời sau, đó không phải là sự ru ngủ như có người thiếu thành kiến với Giáo Hội đã suy diễn. Chính Chúa Giêsu đã hứa với chúng ta: ai tin vào Người thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai tin vào Người sẽ được sống muôn đời. Tác giả thư Hípri nói với chúng ta: nếu chúng ta có hy vọng được hưởng sự sống đời là nhờ hy tế của Đức Giêsu dâng trên thập giá. Người là Thượng tế, đã dâng chính máu mình để chuộc tội cho nhân loại. Những ai tin vào Người sẽ được tha thứ tội lỗi và được hưởng hạnh phúc vô biên.
Vào lúc năm cùng tháng tận, mỗi chúng ta hãy suy nghĩ về lúc kết thúc của cuộc đời. Hai chữ “tận thế” gợi cho chúng ta nỗi sợ hãi và bi quan chán nản, nhưng hai chữ “tương lai” lại giúp chúng ta bừng lên niềm hy vọng. Người vô thần cho rằng mỗi ngày sống là đang tiến dần tới nấm mộ; người tin Chúa lại cho rằng mỗi ngày sống là một nấc thang đưa họ đến với Đấng Tối cao. Quả vậy, khi đối diện với sự chết, người Kitô hữu nhìn nhận, đó là cuộc gặp gỡ với Chúa. Đó cũng là sự biến đổi từ thân phận phải chết sang cuộc sống đời đời.
Hôm nay là Chúa Nhật áp chót của năm Phụng vụ, nên Giáo hội chọn đọc bài Tin Mừng nói về TN 33-B77
Hôm nay là Chúa Nhật áp chót của năm Phụng vụ, nên Giáo hội chọn đọc bài Tin Mừng nói về ngày cùng tận. Ngày ấy sẽ đến như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay mô tả rằng: “Khi ấy mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các tinh tú bầu trời bị lay chuyển”. Những hình ảnh ấy khiến cho chúng ta thấy sẽ có một ngày thật khủng khiếp. Nhìn vào những biến cố trong thời hiện đại, phải chăng thế giới này sẽ tận diệt bằng một cuộc chiến tranh nguyên tử hay vũ khí hạt nhân? Chúng ta biết đây là đoạn Tin Mừng viết theo văn thể Khải Huyền, trong đó những hình ảnh không quan trọng, chỉ là phương tiện để diễn tả một ý tưởng, vì thế cần nhận ra tư tưởng nòng cốt hơn là miên man trong những tình tiết.
Thực ra, những hình ảnh được dùng trong bài Tin Mừng này cũng không phải do Chúa Giêsu đưa ra, nhưng Ngài lấy lại những hình ảnh mà các ngôn sứ quen dùng để nói về ngày cùng tận. Chẳng hạn như một đoạn trong sách Isaia diễn tả ngày ấy như sau:“Ánh sáng ban ngày của ngươi không còn là mặt trời nữa, và ban đêm, ngươi chẳng cần đến ánh trăng soi: Đức Chúa sẽ là ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi ngươi, ánh quang huy của ngươi là Thiên Chúa ngươi thờ”. (Is 60, 19). Các ngôn sứ và cả Đức Giêsu đều không quan tâm ngày cùng tận sẽ xảy ra thế nào, mà chỉ quan tâm đến điều quan trọng nhất là ngày ấy Chúa sẽ đến, sẽ hiển trị đời đời: là một ngày khủng khiếp đối với những kẻ tội lỗi, nhưng là ngày ngập tràn ánh sáng vinh quang, ngày hân hoan vui mừng cho những người công chính ở trước Thiên Nhan Chúa. Người ta vẫn suy đoán về ngày tận thế, nhưng ngày ấy vượt tầm trí của con người, chỉ có một mình Chúa Cha biết mà thôi.
Có ngày khởi đầu thì đương nhiên có ngày kết thúc. Ngày kết thúc có thể xem ra như tai nạn hay như hậu quả của một sự hủy diệt nhau, nhưng chúng ta tin ngày ấy nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Đó là một ngày mà Thiên Chúa làm nên một thế giới mới cho nhân loại. Nơi đó, công bằng sẽ ngự trị, hạnh phúc sẽ ngập tràn, và niềm vui sẽ trọn vẹn cho những ai “bền đỗ đến cùng”. Với cái nhìn đầy tin tưởng, Seneca – một nhà tư tưởng lớn của La-mã – đã nói: “Ngày mà bạn cho là cùng tận của mọi sự, lại là ngày khởi đầu của vĩnh cửu”.
Chúng ta không biết ngày nào Chúa sẽ đến trong vinh quang, nhưng chúng ta biết chắc, để được vào vương quốc ấy, trước tiên bản thân mỗi người phải xét lại chính mình trong tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và vũ trụ vạn vật, để tiến tới một sự hòa hợp sâu xa hơn. Điều này đòi chúng ta xếp đặt lại cuộc sống mình cho phù hợp với đường hướng và ý muốn của Thiên chúa, đồng thời tích cực dấn thân trong việc xây dựng một gia đình nhân loại đầy tình yêu thương, để công lý và hòa bình có thể triển nở khắp nơi trên thế giới.
Cha Mark Link viết: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”. Vì tình yêu là ngôn ngữ và là chất liệu của đời sống trên Thiên đàng, nên chỉ những ai có trái tim đong đầy yêu thương mới được bước vào. Chính lòng từ bi nhân hậu là tấm thẻ căn cước không thể thiếu của những công dân Nước Trời.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới không ổn định, hết cơn khủng hoảng này đến cơn khủng hoảng khác; bạo lực, xung đột và chiến tranh tàn sát liên hồi dưới mọi hình thức; thực tế 2 năm nay là cơn đại dịch liên tục hoành hành trên thế giới, khiến con người không ngừng lo âu và sợ hãi, hết sức cần một cái gì đó vững chắc để dựa vào. Nhưng rồi chẳng có gì vững chắc trong cuộc đời này, người ta chỉ có thể dựa vào một mình Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống, Đấng đã hứa với chúng ta qua Đức Giêsu: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi”. Chúng ta hoàn toàn an tâm vì biết rằng mọi sự đều nằm trong bàn tay Chúa. Ngài đã có chương trình và dự định riêng cho mỗi người chúng ta từ muôn thuở, nên ta cứ sống theo Lời Ngài, vững tâm theo đường lối Ngài. Sống thuộc về Chúa hôm nay, chắc chắn chúng ta sẽ được thuộc về Chúa mai ngày và mãi mãi.
Cầu nguyện
Lạy Cha! Con tin rằng rồi sẽ tới một ngày, thế giới này sẽ không tồn tại nữa, tất cả sẽ qua đi chẳng còn gì, bởi vì tất cả chỉ là tạm bợ, do duyên cơ hay duyên nợ tác thành, như phương tiện thi hành thánh ý Cha.
Chẳng ai biết điều gì sẽ xảy ra, giống như ngày Giêrusalem bị tàn phá, Chúa cho biết mọi người phải tránh xa, nhưng rồi dân chúng vẫn lơ là, và đúng là tới ngày tan tác cả, vì đã không nhận ra Chúa viếng thăm.
Con tin có ngày tận cùng thế giới, trước khi Chúa ngự đến trên mây trời, sẽ có nhiều điềm thiêng và dấu lạ, khắp trên đất liền và ngoài biển cả, dân chúng xôn xao vì trời cao chuyển động, ai cũng hoang mang và lo sợ phập phồng.
Nhưng chúng con không hoảng hốt lo âu, vì đó là giây phút khởi đầu Chúa sắp đến, con cần phải đứng thẳng ngẩng đầu lên, để gặp Đấng mà suốt đời con trông đợi, trong niềm vui và vinh hiển rạng ngời.
Ngày tận thế chẳng biết bao giờ tới, nhưng chắc có ngày Chúa đến với con, xin cho con đừng ham mê thế sự, nhưng sẵn sàng buông bỏ chẳng vấn vương, để ngẩng đầu đón nhận Chúa tình thương, là cùng đích đời con cõi thiên đường. Amen.
Không biết bao nhiêu lần chúng ta đã nghe “tận thế sắp đến”, lại có những lần chúng ta được TN 33-B78
Không biết bao nhiêu lần chúng ta đã nghe “tận thế sắp đến”, lại có những lần chúng ta được người này người nọ báo chính xác như “đinh đóng cột” ngày giờ tận thế, nhưng rồi vẫn chưa thấy ngày tận thế đâu, và chúng ta lại tiếp tục hồi hộp đợi chờ ngày kinh khủng ấy, ngày mà ngôn sứ Đanien gọi là “thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ” (Đn 12,1), và Tin Mừng Máccô mô tả “ngày đó sẽ là những ngày gian nan đến mức từ lúc khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo thành vạn vật cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra và sẽ không còn xảy ra như vậy nữa” (Mc 13,19). “Trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển” (Mc 13, 24-25).
Thực ra, không chỉ có chúng ta lo lắng, thắc mắc hỏi Chúa: “Khi nào thì ngày tận thế xảy đến?”, các Tông Đồ cũng đã nêu lên câu hỏi định mệnh này, như “lúc Đức Giêsu ngồi trên núi Ôliu, đối diện với Đền Thờ, các ông Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê hỏi riêng Người: “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước?” (Mc 13,3-4).
Sau hàng loạt những cảnh báo nào là “Hãy coi chừng kẻo bị người ta lường gạt”, “sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy”, nào là sẽ có giặc giã, chiến tranh, động đất, đói kém ở nhiều nơi, kể cả những truy lùng, bắt bớ, khổ hình sẽ đổ trên anh em và cảnh “cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết” (x. Mc 13,5-12), Đức Giêsu căn dặn các môn đệ của Ngài một số điều quan trọng:
1. Đừng khiếp sợ
Ngài dặn các môn đệ: “Đừng khiếp sợ. Những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cục” (Mc 13,7), và Đức Giêsu đã cho các môn đệ hiểu tại sao “đừng khiếp sợ”.
Đừng khiếp sợ, vì điều Chúa muốn các môn đệ Ngài phải làm ngay lúc này, và ở đây là Loan Báo Tin Mừng, chứ không phải việc lo lắng về ngày tận thế, như Đức Giêsu đã khẳng định sau những cảnh báo về ngày gian nan: “Nhưng trước tiên, Tin Mừng phải được loan báo cho mọi dân tộc” (Mc 13,10), còn “về ngày hay giờ ấy thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13, 32).
Vì loan báo Tin Mừng, nên Tin Mừng sẽ bảo đảm chắc chắn: người loan báo Tin Mừng sẽ được vui mừng đứng trong hàng ngũ những người được Thiên Chúa “tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13,27) khi “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mac 13,26).
Đừng khiếp sợ vì “những kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mc 13,13). Bền chí nhờ tin vào Lời Hứa, tin vào ơn Thánh Thần, tin Thiên Chúa “là Đấng con tôn thờ, và bên Ngài con ẩn náu”, vì ngoài Chúa ra, không đâu là hạnh phúc” (Tv 15,1- 2). Đó là sự bền chí của những kẻ đặt hết niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ giầu lòng thương xót được Chúa Cha sai đến thế gian để xóa tội và cứu sống muôn người.
2.“Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi ” (Mc 13,29)
“Con Người” là Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng ở giữa con người, và đang đứng ngay ngoài cửa nhà mỗi người, khi mùa xuân Cứu Rỗi trở về với cây lá “xanh tươi và đâm chồi nảy lộc” (Mc 13,28).
Như thế, Đức Giêsu không “đến gần, ở ngay ngoài cửa” để truy lùng, bắt bớ, trừng phạt chúng ta, nhưng Ngài đến giữa mùa xuân rực rỡ Hồng Ân Cứu Độ ngay cửa nhà để gặp chúng ta, như lời Kinh Thánh: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3, 20).
Được Chúa đến nhà dùng bữa, và được cùng bàn với Chúa, hỏi còn hạnh phúc nào lớn hơn?
Tất nhiên, chúng ta không tránh khỏi nỗi lo phải sống mỗi ngày như ngày cuối cùng của cuộc đời, sống mỗi ngày như tận thế có thể xảy đến.
Vì biết chúng ta lo, Đức Giêsu đã trấn an chúng ta khi hứa: “Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20); vì biết chúng ta sợ, Ngài bảo đảm: ở gần, ngay trước cửa nhà, để yêu thương, gìn giữ, cứu chữa chúng ta, dù mỗi ngày chúng ta sống là thời gian phải chiến đấu, mỗi bước mới trên hành trình cuộc đời chúng ta đi là mạo hiểm giữa bao thách đố, rủi ro, và mỗi khoảnh khắc sinh hoạt là dấn thân vượt qua rất nhiều nguy hiểm, trái ý nghịch lòng.
Xin Chúa thương ban cho chúng con niềm hy vọng vào Lời Hứa và Lời Chúa căn dặn, để chúng con biết sống từng giây phút hiện tại với lòng trông cậy, phó thác tuyệt đối vào Chúa và luôn tỉnh thức.
Sống trông cậy bằng bình an thi hành sứ vụ Loan Báo Tin Mừng; sống phó thác bằng luôn khao khát Chúa đến và ở lại trong tâm hồn; sống tỉnh thức bằng liên lỷ cầu nguyện như các thánh Tông Đồ “tề tựu ở một nơi” (Cv 2,1) và cùng nhau cầu nguyện khi Chúa Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa “đậu xuống từng người một” (x. Cv 2,2-3), để khi Đức Giêsu trở lại, chúng con được diễm phúc nghênh đón Ngài như người tình hạnh phúc trong Diễm Ca: “Tôi ngủ, nhưng lòng tôi chợt thức; có tiếng người yêu tôi gõ cửa: “Mở cửa cho anh vào, hỡi em gái, người bạn tình của anh, hỡi bồ câu, ôi mười phân vẹn mười.” (Dc 6,2).
Thầy đã hỏi con: “Sao dạo gần đây sao con lo lắng và bồn chồn thế?” Thầy hiểu con lắm, chỉ TN 33-B79
Thầy đã hỏi con: “Sao dạo gần đây sao con lo lắng và bồn chồn thế?” Thầy hiểu con lắm, chỉ nhìn ánh mắt và nét mặt của con thôi là Thầy cũng biết con đang như thế nào, đang vui hay đang có tâm sự. Và Thầy luôn là người đến bên con, lặng lẽ lắng nghe tất cả những niềm vui nỗi buồn của con. Thầy biết rõ lòng con nhưng vẫn lên tiếng hỏi thăm con, để con luôn biết rằng: Dù quanh con, mọi sự đang đổi thay, thì Thầy vẫn có đó, bên con và yêu thương con. Thầy! Con cám ơn Thầy nhiều lắm!
Hôm nay, Thầy đã báo trước cho các môn đệ về ngày Con Người quang lâm. Thầy nói về những cơn gian nan, sau những cơn gian nan ấy thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển (x.Mc 13, 24-25). Chỉ mới tưởng tượng đến cảnh trời đất sẽ ra tối tăm, con đã thấy sợ hãi. Con rùng mình vì những gì đang diễn ra trong trí tưởng tượng. Lời Thầy kéo con về với thực tại: “Bấy giờ, thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13, 26-27). Nếu trời đất ra tối tăm thì sự xuất hiện của Con Người trong ánh vinh quang sẽ mang lại ánh sáng huy hoàng cho cả vũ trụ. Vì ngày ấy không cần đến ánh sáng của mặt trời hay các tinh tú nhưng chính ánh sáng của Con Người sẽ chiếu soi tất cả.
Thầy! Sao Thầy lại nhìn con? Con đang nghĩ đến những lúc cuộc đời mình ra tối tăm, vì con lầm đường lạc hướng. Con đã rất sợ hãi và tuyệt vọng vì không tìm thấy lối đi. Con khóc lóc và cầu cứu nhưng dường như chẳng ai nghe được tiếng kêu yếu ớt của con. Trong nội tâm của con có một cuộc chiến đấu rất quyết liệt: Con phải chọn giữa việc can đảm đứng lên tìm kiếm con đường để ra khỏi bóng tối hay đành ở lại lịm chết trong tội lỗi. Trong đau khổ và tuyệt vọng vì không tìm được người nào có thể giúp con thoát khỏi đau khổ, con đã kêu lên cùng Thầy. Dù tiếng kêu của con vô cùng yếu ớt, Thầy vẫn nghe thấy, vì Thầy đã đưa mắt dõi nhìn con từ trước. Thầy biết con đi lạc đường, Thầy lên tiếng gọi con nhưng con đã không thể nghe thấy. Đó là do sự yếu đuối của con. Khi con thấy mình hoàn toàn bất lực, hoàn toàn tối tăm thì Thầy đã cúi xuống bên con. Ánh sáng của Thầy chiếu vào góc tối của lòng con, cho con nhìn thấy những yếu đuối của mình. Thầy đã chạm vào từng nỗi đau và chữa lành từng vết thương một. Mắt con chỉ hé mở được chút ít nhưng cũng đủ để nhìn thấy vết thương trên tay, trên chân và trên cạnh sườn Thầy. Lạ lùng quá! Chính lúc con nhìn thấy vết thương của Thầy, con thấy cả nỗi đau của con nơi chính thân thể của Thầy. Con đã từng nghĩ, nỗi đau của con chỉ mình con chịu, nhưng giờ đây con hiểu rằng Thầy đã mang lấy nỗi đớn đau của con ngay trên thân thể mình. Thầy đã đau nỗi đau của con và giờ Thầy đã chữa lành con.
Thầy! Xin Thầy cứ nói tiếp đi ạ. Thầy nhìn mọi người một lượt và ánh mắt Thầy nhìn con như truyền thêm sức mạnh và sự can đảm. Con chăm chú nghe Thầy. Con nghe từng lời của Thầy và dừng lại thật lâu ở lời này: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13, 31). Con nhận ra một điều Thầy ạ, rằng cuộc sống của con đã trải qua nhiều biến cố, những mất mát và cả những niềm vui, hạnh phúc, tất cả đều trở thành kỷ niệm. Mỗi con người, mỗi câu chuyện đến trong đời con đều giúp con lớn lên. Con không sống với quá khứ và cũng không nắm lấy tương lai nhưng con đang sống trong hiện tại. Thầy đã luôn bên con, không phải như một kỷ niệm đẹp mà con cất giữ để một lúc nào đó mang ra nhìn ngắm nhưng Thầy chính là hiện tại, là sự sống, là sự chữa lành, là tình yêu đang lớn dần trong con.
Thầy kính mến! Con đang có những băn khoăn và lo lắng. Con lo nếu Thầy gọi con về với Thầy ngay lúc này thì con chưa sẵn sàng, con chưa thánh thiện như mình muốn. Nhưng, “Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”. Bao giờ con mới đủ thánh thiện để sẵn sàng về với Chúa?
Sao Thầy lại nhìn con mà cười? Bà góa nghèo đã chỉ bỏ vào thùng tiền dâng cúng hai đồng tiền kẽm nhưng lại được Thầy cảm mến và khen ngợi, vì Thầy thấy tận đáy lòng mỗi người. Thầy chỉ nhận tình yêu thôi. Nếu con thánh thiện theo ý riêng con thì đâu còn chỗ cho Thầy nữa. Thầy ơi! Nếu con không được đẹp lòng Thầy thì tội nghiệp lắm. Thầy dạy con bước từng bước để theo Thầy nhé. Thầy đang đứng trước cửa và gõ. Có lúc vì yếu nhược mà con không nghe thấy, có lúc con nghe thấy nhưng không đủ sức để dậy mở cửa Thầy ạ. Cửa không cài chốt đâu, Thầy cứ đẩy cửa mà vào nhé.
Con người dùng “lời”, tức là ngôn ngữ để diễn đạt điều mình suy tưởng và để giao tiếp. Đối với TN 33-B80
Con người dùng “lời”, tức là ngôn ngữ để diễn đạt điều mình suy tưởng và để giao tiếp. Đối với những người không thể nói được, họ dùng ngôn ngữ ký hiệu để giao tiếp với người khác. Còn Thiên Chúa, Người dùng Lời để sáng tạo muôn loài muôn vật. Người cũng dùng Lời để mạc khải cho con người biết về chính mình. Vì chính Lời là Thiên Chúa. Chương 1 sách Sáng thế kể lại cho chúng ta về việc Thiên Chúa đã dùng Lời để thực hiện công trình sáng tạo. Thánh Gioan còn cho chúng ta thấy rằng: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” (Ga1, 3-4). Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mặc khải cho ta về sự hiện hữu của Lời khi nói: “Dù trời đất này qua đi nhưng những lời Thầy nói sẽ không qua đi” (Mc 13, 31).
Đức Giêsu dùng lời để mặc khải cho chúng ta về ngày Con Người sẽ ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Ngày ấy chắc chắn sẽ đến nhưng đến vào lúc nào thì không ai có thể biết, ngoại trừ Chúa Cha. Tuy không thể biết chắc chắn vào lúc nào, giờ nào nhưng Đức Giêsu cho chúng ta một cái nhìn khách quan qua bài học từ cây vả. Khi nhìn thấy cây vả đâm chồi nẩy lộc thì chúng ta biết chắc là mùa hè sắp đến. Cũng vậy, chúng ta thấy: “Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13, 24-27). Khi thấy những điều đó xảy ra, chúng ta hãy biết là Người đã đến gần, và ở ngay ngoài cửa rồi (x. Mc 13, 29).
Đức Giêsu chính là ánh sáng thật cho nhân loại. Ngày Người ngự đến trong vinh quang, ánh sáng của mặt trời mặt trăng, các ngôi sao sẽ nhường chỗ cho Ánh Sáng thật. Vì trong ngày ấy, nhân loại không còn cần đến ánh sáng của thụ tạo vì đã có Ánh Sáng thật chiếu soi. Ngày ấy, những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn sẽ được quy tụ về từ khắp bốn phương. Chúng ta là đoàn người lữ hành đang tiến về quê hương vĩnh cửu. Các anh chị em đã qua đời đang chờ ngày được quy tụ trước nhan Đức Chúa. Vậy chúng ta được mời gọi điều gì đang khi mong chờ ngày ấy? Để mai sau được cùng với mọi kẻ được Thiên Thiên Chúa tuyển chọn diện kiến Thánh Nhan, chúng ta sống trong niềm tin tưởng vào môt ngày mai tươi sáng.
Quả thực, trời đất có qua đi nhưng những lời của Đức Giêsu vẫn còn mãi. Người chính là Lời hằng sống. Lời mời gọi chúng ta sống niềm hy vọng về sự phục sinh vinh hiển. Sách Đanien có viết: “Trong thời kỳ ấy dân ngươi, hễ ai đã có ghi tên trong sách, sẽ được cứu thoát. Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ chỗi dậy; có người sẽ được hưởng phúc trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời.” (Đn 12, 1-2). Trong tháng cầu hồn, chúng ta được mời gọi sống Lời của Con Thiên Chúa cách cụ thể hơn. Con Người đã đứng ngay ngoài cửa, chúng ta cần thay đổi cách sống, hoán cải mỗi ngày để tình yêu của Đức Kitô hiện diện trong cuộc đời của chúng ta và hướng dẫn chúng ta trong mọi chọn lựa. Tất cả những ai để cho Lời hướng dẫn và bước đi đúng như vậy ắt sẽ được hưởng vinh quang với Người. Chúng ta cũng hãy sống tinh thần hiệp thông giữa Giáo hội lữ hành và Giáo hội thanh luyện để cầu nguyện cho anh chị em đã ra đi trước chúng ta. Đồng thời, chúng ta nài xin sự chuyển cầu của các thánh trên trời (Giáo hội thiên quốc) để lời nguyện cầu của ta được Thiên Chúa thương đón nhận. Hơn hết, chúng ta hãy để tâm lắng nghe và thực hành lời Chúa dạy hầu tạo cho mình có được thái độ sẵn sàng đón chờ ngày Chúa đến trong vinh quang.
Một đoạn văn có nhiều câu, kết thúc mỗi câu là một dấu chấm, và có câu khác nối tiếp. Bài viết TN 33-B81
Một đoạn văn có nhiều câu, kết thúc mỗi câu là một dấu chấm, và có câu khác nối tiếp. Bài viết có bao nhiêu câu thì có bấy nhiêu dấu chấm. Kết thúc bài viết cũng là một dấu chấm nhưng đó là Dấu Chấm Hết.
Không có gì vĩnh tồn. Tất cả sẽ qua đi, kể cả những gì người ta coi là trường tồn. Thời gian sẽ kết thúc mọi thứ. Thế giới này sẽ không còn vào một ngày nào đó, chúng ta gọi thời điểm đó là tận thế – “dấu chấm hết” của thế giới này. Cái chết là “dấu chấm hết” của một đời người – tận thế riêng của một người, theo nghĩa trần gian. Thật ra hoàn toàn khác hẳn, bởi vì dù là người hữu thần hay vô thần thì cái chết vẫn là “ngưỡng” chuyển sang thế giới khác – Thiên Đàng hay Hỏa Ngục.
Người ta nói: “Sống khôn, chết thiêng.” Câu nói của người đời mà vẫn phù hợp với tôn giáo. Sống sao, chết vậy. Chúng ta gọi là chết lành hoặc chết dữ. Rõ ràng cuộc sống đời này liên quan cuộc sống đời sau. Phúc Âm cho biết mấy điều quan trọng: [1] Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; (Mc 16:16) [2] Ai tin Chúa Giêsu sẽ được sống muôn đời; (Ga 3:16) [3] Ai đi theo Đường Giêsu sẽ dẫn tới sự sống lại; (Ga 11:1-44) [4] Ai tin Chúa Giêsu sẽ không đi trong bóng tối; (Ga 12:46) [5] Ai lãnh nhận Thánh Thể sẽ được trường sinh. (Ga 6:32-58)
Đó mới là nhận biết, cố gắng sống theo sự nhận biết đó hay không thì lại là vấn đề khác. Nghĩa là phải giữ vững lập trường, không dao động trong mọi tình huống: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, thì tôi vẫn vững như kiềng ba chân.” (Ca dao) Nhưng đó là điều không dễ thể hiện. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã xác định: “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10:22; Mc 13:13) Khó lắm, nhưng làm được thì mới đáng thưởng.
Đức tính rất quan trọng trong cuộc sống là kiên định, kiên tâm, kiên trì, kiên nhẫn, kiên cường hoặc kiên quyết. Nhà giáo dục William Arthur Ward (1921-1994, Hoa Kỳ, tác giả cuốn “Fountains of Faith” – Suối Nguồn Niềm Tin) nhận định: “Sự kiên nhẫn của ngày hôm nay có thể biến sự nản lòng của ngày hôm qua thành khám phá của ngày mai. Mục đích của ngày hôm nay có thể biến thất bại của ngày hôm qua thành quyết tâm của ngày mai.” Tính kiên trì là loại “bùa hộ mạng” mà người ta luôn phải có, không được rời nó ra dù chỉ một lúc. Cuộc sống luôn cần tự nhủ “an tâm tin cậy Chúa, vững lòng, không sợ hãi chi.” (Tv 112:7-8) Dù đời hay đạo vẫn cần tính kiên định: không liếc nhìn, không nói hùa theo, không nghe điều vớ vẩn, không nhìn cái vô bổ, không suy diễn,…
Mỗi người có một cuộc đời, với cách sống riêng và thời gian được quản lý riêng. Tuy nhiên, chúng ta lo cũng không xong, tránh cũng chẳng được, cụ thể như đại dịch Cúm Tàu. Do đó, cứ vui vẻ chấp nhận cho thanh thản, không chấp nhận thì chỉ tự dày vò mình mà thôi. Cuộc đời đã lắm khổ rồi, đừng tự làm khổ mình hoặc làm khổ nhau nữa! “Điều gì đến sẽ đến – What will be will be – Que sera sera.” Câu này có thể mang ý nghĩa tiêu cực hoặc tích cực. Tùy người. Là tiêu cực nếu người đó sống bất cần, là tích cực nếu người đó biết chấp nhận thực tế, đặc biệt là tín thác vào Chúa và sống theo ý Ngài.
Ai cũng biết rằng chẳng có gì trường tồn trên cõi đời này, cứng như đá mà nước chảy cũng mài mòn nó. Cuối năm là dịp tài nhận thức về Ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu Kitô, lúc thế gian này “chấm hết.” Không ai biết mình có được diễm phúc chứng kiến thời khắc đó hay không, nhưng chắc chắn ai cũng chứng kiến ngày tận thế của cuộc đời mình, lúc chúng ta phải trả lại tất cả cho thế gian.
Nói tới sự chết, chúng ta nhớ tới thần đồng âm nhạc Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791). Ông đã linh cảm khi soạn tuyệt phẩm REQUIEM: “Tôi e rằng tôi đang viết một bài cầu hồn cho chính mình.” Trong thư gởi cho người cha, Mozart cho biết: “Con không bao giờ đi ngủ mà không nghĩ rằng có thể con không còn thấy ngày mai nữa. Sự chết là mục đích thực sự của cuộc đời chúng ta. Từ vài năm nay, con đã quen với người bạn tuyệt vời đó của con người. Hình ảnh người bạn đó không làm con sợ mà con thấy người bạn đó hiền lành và cởi mở.” Thật tuyệt vời và khôn ngoan khi ông biết chuẩn bị cho cái chết của mình, đáng để chúng ta noi theo.
Đối với những người không có niềm tin tôn giáo, chết là chấm hết mọi sự – như “chó chết hết chuyện” vậy thôi. Nhưng đối với các tín nhân, những người tin vào Đức Kitô, chết không là chấm hết, mà là chấm câu hoặc chấm xuống dòng, là giai đoạn quá độ, là buổi giao mùa, là khởi đầu sự sống mới và vĩnh viễn. Như vậy thì chết là hên chứ không xui chút nào, như Thánh Phaolô nói “chết là một mối lợi.” (Pl 1:21)
Cuộc sống luôn cam go như chiến trường, Chúa Giêsu nói: “Ai nấy sẽ được luyện bằng lửa như thể ướp bằng muối.” (Mc 9:49) Kinh Thánh cho biết: “Thời đó, Tổng lãnh Sứ thần Micae sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ THOÁT NẠN, nghĩa là tất cả NHỮNG AI ĐƯỢC GHI TÊN TRONG CUỐN SÁCH CỦA THIÊN CHÚA.” (Ðn 12:1) Đó là nói về sự sống lại của những người đã chết. Chết là để sống lại, như vậy chết không là hết, không là điều tuyệt vọng, nghĩa là chết mà đầy hy vọng.
Về sự sống lại và sự thưởng phạt, Kinh Thánh nói rõ: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để HƯỞNG PHÚC TRƯỜNG SINH, kẻ thì để CHỊU Ô NHỤC và BỊ GHÊ TỞM MUÔN ĐỜI. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao.” (Ðn 12:2-3) Ngày nay sống thế nào thì ngày mai sẽ “phản ánh” như vậy, sống tốt thì được thưởng, sống ác thì bị phạt. Gọi là “thưởng – phạt” theo cách hiểu của phàm nhân mà thôi, chứ thật ra đó là sự công bằng, là điều tất yếu, là CÔNG LÝ CỦA THIÊN CHÚA.
Chính điều đó cũng là tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa. Quả thật, ai có được Ngài thì vô cùng diễm phúc, như Thánh Vịnh gia tâm sự: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ.” (Tv 16:5) Tâm niệm như vậy nên Thánh Vịnh gia luôn ghi nhớ: “Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:8-11)
Có Chúa là có tất cả, ngay trong lúc cứ tưởng là “dấu chấm hết” nhưng chỉ là “dấu chấm xuống dòng” để bắt đầu niềm hy vọng hướng tới cuộc sống mới. Điều này được minh chứng qua câu chuyện Tổ phụ Ápraham vâng lời Thiên Chúa mà hiến tế chính con trai độc nhất của ông. (x. St 22:1-18) Đức tin làm cho ông nên công chính.
Quy trình sinh – tử đó vô cùng kỳ diệu, nhưng không dễ thực hiện. Sống để rồi chết, chết để rồi sống. Nhưng quy trình đó không là “vòng luân hồi” như người ta tưởng. Ai thực hiện được như vậy thì thật là phúc đức, và xứng đáng được hưởng lời hứa của Thiên Chúa. Tuy nhiên, lời hứa nào cũng có điều kiện: “Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống.” (Kh 2:10c)
Chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua “cuộc sinh – tử” để làm hy lễ cứu độ nhân loại. Hy lễ của Ngài tuyệt đối hữu hiệu, chỉ một lần là trọn vẹn vĩnh viễn. Thánh Phaolô cho biết: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà NHỮNG LỄ TẾ ĐÓ CHẲNG BAO GIỜ XÓA BỎ ĐƯỢC TỘI LỖI. Còn Đức Kitô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời. Và từ khi đó, Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân. Quả thật, NGƯỜI CHỈ DÂNG HIẾN LỄ MỘT LẦN MÀ VĨNH VIỄN LÀM CHO NHỮNG KẺ NGƯỜI ĐÃ THÁNH HÓA ĐƯỢC NÊN HOÀN HẢO.” (Dt 10:11-14) Và ông kết luận: “Nơi nào đã có ơn tha tội thì không cần dâng lễ đền tội nữa.” (Dt 10:18)
Trình thuật Tin Mừng có hai phần nhưng liên quan với nhau: [1] Con Người Quang Lâm (Mc 13:24-27 ≈ Mt 24:29-31; Lc 21:25-28) và [2] Dụ Ngôn Cây Vả (Mc 13:28-32 ≈ Mt 24:32-36; Lc 21:29-33)
Không phải là tin đồn mà chính Chúa Giêsu cho biết rằng vào những ngày đó – tức là thời cuối cùng, thời cánh chung, có nhiều gian nan, và rồi MẶT TRỜ SẼ RA TỐI TĂM, MẶT TRĂNG KHÔNG CÒN CHIẾU SÁNG, CÁC NGÔI SAO TỪ TRỜI SA XUỐNG, VÀ CÁC QUYỀN LỰC TRÊN TRỜI BỊ LAY CHUYỂN. Lúc đó người ta sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Ngài sẽ sai các thiên sứ đi, và Ngài sẽ tập họp những kẻ được tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời. Đó là những hình ảnh vừa đáng sợ vừa đáng mừng, tùy “cách nhìn” của mỗi người.
Rồi Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế là cây vả để nói về cuộc sống của loài người. Ngài nói: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là CON NGƯỜI ĐÃ ĐẾN GẦN, ở ngay ngoài cửa rồi.” Nhớ rằng đừng tin ai, đừng nghe ai, chỉ tin lời Chúa Giêsu: “Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng NHỮNG LỜI THẦY NÓI SẼ CHẲNG QUA ĐÂU. Còn về ngày hay giờ đó thì KHÔNG AI BIẾT ĐƯỢC, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, CHỈ CÓ CHÚA CHA BIẾT MÀ THÔI.” Đó là điều chắc chắn. Chớ nhẹ dạ cả tin mà nghe lời đồn vớ vẩn của bất cứ ai. Khôn chết, dại chết, biết mới sống!
Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng NGÀY CỦA CHÚA GẦN ĐẾN, anh em ĐỪNG VỘI ĐỂ CHO TINH THẦN DAO ĐỘNG, cũng đừng hoảng sợ. ĐỪNG ĐỂ AI LỪA DỐI ANH EM BẤT CỨ CÁCH NÀO.” (2 Tx 2:2-3) Ông nói đó là “mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành.” (2 Tx 2:7)
Thánh Phaolô cũng nhắc nhở về việc xuất hiện của tên bịp bợm: “Tên gian ác xuất hiện là do tác động của Satan, có kèm theo ĐỦ THỨ PHÉP MẦU, DẤU LẠ, ĐIỀM THIÊNG, và ĐỦ MỌI MƯU GIAN CHƯỚC DỐI, nhằm hại những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ.” (2 Tx 2:9-10) Như vậy, “tất cả những kẻ KHÔNG TIN SỰ THẬT nhưng ƯA THÍCH SỰ GIAN ÁC thì sẽ BỊ KẾT ÁN.” (2 Tx 2:12) Có lần chính Chúa Giêsu cũng đã quan ngại mà đặt vấn đề: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18:8) Một câu hỏi thực sự rất đáng quan ngại!
Là tín nhân, mỗi chúng ta hãy tâm nguyện theo lời Chúa Giêsu dạy Thánh nữ Faustina: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài!” Đừng hoang mang, chớ lo lắng, cố gắng tập trung vào Chúa và sống đức ái qua đức tin. Chuyện gì đến sẽ đến, sợ hay lo thì cũng chẳng thay đổi được gì. Chỉ có Chúa mới có thể biến đổi mọi sự.
Lạy Thiên Chúa, Ngài là Đầu và là Cuối, xin giúp chúng con an tâm sống trọn kiếp người theo Thánh Ý Ngài, luôn vững lòng tin yêu, không dao động trong mọi hoàn cảnh, kiên trì đến phút cuối đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Lần đầu Đức Kitô xuống trần gian qua hình ảnh một em nhỏ sanh trong thầm lặng, nơi hoang địa TN 33-B82
Lần đầu Đức Kitô xuống trần gian qua hình ảnh một em nhỏ sanh trong thầm lặng, nơi hoang địa, ở máng cỏ. Sứ Thần Thiên Chúa được sai đi làm công việc chuẩn bị ông Juse và bà Maria cho việc Con Thiên Chúa xuống trần.
Lần thứ hai Đức Kitô xuống thế không âm thầm như lần trước. Ngài đến với thế giới như Chúa tể môn loài, muôn vật. Toàn thể vũ trụ trên trời, dưới đất, run rẩy, phủ phục trước tôn nhan Thiên Chúa. Mặt trời, mặt trăng mất hết ánh sáng huy hoàng. Các vì sao không luân chuyển theo qui luật như trước. Mây trời tụ lại làm bệ cho Thiên Chúa ngự trị. Đức Kitô xuống thế lần thứ hai hoàn tất hành trình mọi tạo vật Chúa dựng nên. Mọi tạo vật Chúa dựng nên sẽ trở về tình trạng nguyên thuỷ của chúng. Trình thuật Sáng Thế Kí ghi nhận, vũ trụ lúc khởi đầu hoàn toàn là một vùng tối, rối loạn, hỗn độn. Ngày Đức kitô xuống thế lần thứ hai, chúng trở về tình trạng hỗn mang nguyên thuỷ lúc ban đầu. Trời cũ, đất cũ qua đi; trời mới đất mới dành riêng cho những ai thuộc về Đức Kitô Phục Sinh.
Mặt trời, mặt trăng mất ánh sáng, tinh tú lay chuyển, hỗn loạn xảy ra, chúng không tự huỷ diệt, nhưng không tránh khỏi diệt vong bởi Thiên Chúa không tiếp tục ban cho chúng sự sống. Nhân loại chứng kiến vũ trụ thay đổi trong lo lắng, sợ hãi. Đây là lần đầu và cũng là lần cuối. Đức Kitô nhắn nhủ các môn đệ, khi thấy những dấu hiệu khác thường trên trời, dưới đất chính là ngày tàn, vũ trụ sắp kết thúc. Ngoài Thiên Chúa ra, nhân loại không một ai biết được ngày giờ sự việc đó xảy đến. Bởi không biết khi nào nên cần sống trong tinh thần chuẩn bị, tinh thần sẵn sàng.
Đức Kitô xuống thế lần thứ hai xác định một sự thật không thể chối bỏ. Thiên Chúa là Chúa tể toàn thể vũ trụ. Tất cả mọi sự được đổi mới trong Đức Kitô Phục Sinh. Việc đổi mới bắt đầu từ lúc Ngài sống lại từ cõi chết, nhưng trọn vẹn, hoàn tất, hoàn hảo, ngày Đức Kitô xuống thế lần thứ hai. Vì thế Giáo Hội tuyên xưng trời mới đất mới. Trời cũ, đất cũ qua đi, nhường bước cho trời mới đất mới trong Đức Kitô Phục Sinh. Trời mới đất mới là cuộc sống tràn đầy yêu thương, không còn nước mắt, đau thương, nhưng tràn đầy hạnh phúc, sự thật và công chính. Chúng ta gọi nơi đó là Thiên Đàng.
Tình thương Đức Kitô ban cho Kitô hữu khi Ngài kêu gọi chuẩn bị, sẵn sàng. Không ai có thể đứng vững trước khủng hoảng đất trời. Mọi người đều lo sợ, khiếp đảm, kinh hồn, nhưng Kitô hữu lo âu trong hy vọng, bởi ân sủng Chúa ban cho tâm trí họ để họ đứng vững trong giờ phút cuối cùng. Ân sủng Chúa giúp họ nhớ lại lời Đức Kitô phán bảo ‘Thầy bảo thật anh em:… Trời đất sẽ qua đi, những lời Thầy nói chẳng qua đâu’ Mc 13,30
Trong những ngày đó, Kitô hữu hãy nhắc nhở nhau điều Đức Kitô hứa, ‘Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế’ Mt 28,20
Những ai chọn sống theo í riêng mình, hãy nhìn vào dấu chỉ kinh khủng trên, nhận biết cái nhỏ bé, hạn hẹp của mình để thay đổi. Những ai từng tin vũ trụ này tự xảy ra, không có Đấng nào dựng nên chúng, hãy tỉnh thức, khiêm nhường chấp nhận bị chính sự khôn ngoan, trí óc, lừa gạt. Tỉnh dậy đi. Nếu cố chấp sẽ sống trong lo âu, sợ hãi muôn đời, vạn kiếp. Ngay tại thời buổi đó vẫn có kẻ cố tình, ngoan cố, lừa gạt chính mình và lừa gạt người khác. Đức Kitô nhắc Kitô hữu hãy cẩn trọng đừng để bị lừa gạt bởi tiên tri giả. Ngài nói,
‘Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa gạt. Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính ta đây’, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người’ Mc 13:5-6
Những ai cố tình từ chối tin vào lời Đức kitô sẽ muôn đời đau khổ. Kitô hữu xin ơn tin tưởng, phó thác đời mình cho Đức Kitô. Xin sức mạnh Lời Chúa luôn ngự trong tâm hồn và ban niềm tin, hy vọng được đón nhận vào trời mới, đất mới Đức Kitô hứa ban.
Vào mỗi dịp cuối năm, Phụng vụ lại mời gọi chúng ta suy niệm về thân phận con người. Trong tháng TN 33-B83
Vào mỗi dịp cuối năm, Phụng vụ lại mời gọi chúng ta suy niệm về thân phận con người. Trong tháng Mười Một dương lịch, chúng ta thường đến viếng mộ người thân. Giữa “thành phố thinh lặng” của những người đã nằm xuống, các ngôi mộ lớn nhỏ nằm cạnh nhau. Đến viếng mộ để tưởng nhớ người ra đi, đồng thời cũng là để suy tư về hậu vận con người. Dù sang hay hèn, dù trí thức hay bình dân, dù hạnh phúc hay đau khổ, cuộc sống đời này đều kết thúc ở nấm mộ. Tuy vậy, người Công giáo tin rằng, nấm mộ không phải là điểm đến cuối cùng của con người. Đó chỉ là nơi dừng chân trong khi chờ đợi được sống lại. Ngôn sứ Đanien đã được thấy viễn tượng này trong một thị kiến. Vào lúc tận cùng của thời gian, mọi người đã chết đều được sống lại. Người thì sống lại để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì sống lại để chịu trầm luân vĩnh viễn. Bên kia sự chết vẫn có sự sống! Niềm tin vào đời sau giúp chúng ta cố gắng sống tốt ở đời này. Tin vào Thiên Chúa là Đấng sẽ phán xét kẻ dữ người lành sẽ giúp ta hy vọng và kiên nhẫn vươn lên để không vấp ngã trên đường đời. Người tín hữu tin có đời sau, khi họ kết thúc hành trình dương thế. Chết không phải là hết, mà chỉ là kết thúc một giai đoạn của cuộc sống. Chết là sự biến đổi, là cánh cửa mở ra để người công chính tiến vào sự sống đời đời. Luôn suy nghĩ đến phúc tội, sẽ giúp con người dễ hoàn lương hơn. Các thánh là những người tin chắc có sự sống đời sau, và họ đã làm mọi sự để đạt được sự sống ấy, như phần thưởng Chúa dọn sẵn cho những ai mến yêu và trung tín với Ngài. Sống giữa thế gian, con người dễ bị cám dỗ dao động. Họ bị lôi kéo để chọn lạc thú tiền tài và lợi lộc trước mắt. Họ lập luận rằng: cuộc đời chẳng có bao nhiêu, không ăn chơi hưởng lạc thì cuộc đời uổng phí! Có biết bao người chọn hưởng thụ làm lẽ sống, nên đã phải gánh chịu hậu quả thê thảm. Cuộc đời họ tan nát tiêu điều và trở thành gánh nặng cho người thân. Chúa Giêsu đã khuyên nhủ chúng ta hãy kiên nhẫn và vững vàng, kể cả trong lúc biến động và thậm chí là ngày tận thế. Thánh Mác-cô đã dùng lối hành văn “Khải huyền” để diễn tả ngày tận thế, với hình ảnh những thiên thể từ trên cao sa xuống, vũ bão cuồng phong làm cho con người hoảng loạn. Những ai tin cậy yêu mến Chúa thì không sợ hãi bất cứ biến cố nào, vì họ tin vào quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa. Điều quan trọng là họ phải cậy trông và tin tưởng phó thác vào Chúa, luôn trong tình trạng “tỉnh thức” để rồi bất cứ Chúa đến giờ nào, họ cũng xứng đáng ra đón Chúa và được Ngài cho hưởng hạnh phúc Thiên đàng. Những bận rộn lo toan của cuộc sống thường nhật dễ làm cho chúng ta quên đời sau. Tuy vậy, nếu sống là đang đi trong một cuộc lữ hành, thì chúng phải biết đích điểm của cuộc lữ hành đó là gì. Người khôn ngoan biết thận trọng lo liệu để không đi lệch hướng; kẻ dại dột cứ nhắm mắt đi dù chẳng biết đâu là đích điểm. Chúa Giêsu là Đấng dẫn đường cho chúng ta. Người là vị Thày dạy chúng ta tiến bước để chúng ta không bị lạc. Tác giả thư Do Thái nói về chức tư tế của Chúa Giêsu, Đấng đã hiến mình cho Thiên Chúa để mang ơn cứu độ cho trần gian (Bài đọc II). Cái chết của Người trên thập giá đã xoá bản án nguyên tội cho loài người. Người đã ra khỏi mộ tối, sống lại quang vinh, như một lời đoan chắc với chúng ta rằng, nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta sẽ được sống lại với Người. Đó là lý do tại sao trên mỗi phần mộ của người Kitô hữu đều có biểu tượng thánh giá, như một lời tuyên xưng vững vàng vào màu nhiệm phục sinh, đồng thời cũng là một lời cầu nguyện cho người đã an nghỉ. Bên kia sự chết là sự sống. Cửa của những nấm mồ sẽ được mở tung vào ngày tận thế. Đó là niềm xác tín của chúng ta. Có nhiều người băn khoan mất tiền mất của để được dự đoán hậu vận tương lai, đường đời dài ngắn, sau đó chuốc vào thân nỗi sợ hãi bất hạnh. Khi nào là tận thế, đó không phải là điều bận tâm tìm kiếm của chúng ta. Một người sống tốt lành trước mặt Chúa và nhân hậu đối với anh chị em mình, chắc chắn sẽ được Chúa thương ban phần thưởng trong cuộc sống vĩnh viễn.
Giữ vững lập trường là không dao động trong mọi tình huống, như ca dao nói: “Dù ai nói ngả TN 33-B84
Giữ vững lập trường là không dao động trong mọi tình huống, như ca dao nói: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, thì tôi vẫn vững như kiềng ba chân”. Tuy nhiên, đó lại là điều không dễ thể hiện. Chúa Giêsu cũng đã căn dặn: “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10:22; Mc 13:13).
Kiên định, kiên tâm, kiên chí, kiên cường hoặc kiên nhẫn là đức tính rất quan trọng trong cuộc sống. Nhà giáo dục William Arthur Ward (1921-1994, người Mỹ, tác giả cuốn Fountains of Faith – Suối nguồn Niềm tin), nhận định: “Sự kiên nhẫn của ngày hôm nay có thể biến sự nản lòng của ngày hôm qua thành khám phá của ngày mai. Mục đích của ngày hôm nay có thể biến thất bại của ngày hôm qua thành quyết tâm của ngày mai”. Tính kiên trì là loại “bùa hộ mạng” mà người ta luôn cần phải đem theo mình, không được rời nó ra, dù chỉ trong thoáng chốc. Đời hoặc đạo cũng đều cần kiên định, nghĩa là luôn tự nhủ “an tâm và tin cậy Chúa, luôn vững lòng, không sợ hãi chi” (Tv 112:7-8).
Người ta nói: “Điều gì đến sẽ đến – What will be will – Que sera sera”. Câu này có thể mang ý nghĩa tiêu cực hoặc tích cực. Là tiêu cực nếu chúng ta thuộc loại người bất cần, là tích cực nếu chúng ta thuộc loại người biết chấp nhận thực tế – với người có niềm tin vào Thiên Chúa, đó là Thánh Ý Chúa. Thật vậy, chúng ta lo cũng không xong, tránh cũng chẳng được, thế thì cứ vui vẻ chấp nhận cho thanh thản, không chấp nhận thì chỉ tự dày vò mình mà thôi. Cuộc đời đã lắm khổ rồi, sao lại muốn làm khổ mình thêm?
Những ngày cuối năm Phụng Vụ, Giáo hội nhắc nhở chúng ta về Ngày Quang Lâm của Đức Giêsu Kitô, tức là Ngày Tận Thế. Tuy nhiên, không biết chúng ta có được chứng kiến thời khắc đó hay không, nhưng có điều chắc chắn là ngày tận thế của cuộc đời mình – tức là ngày chúng ta nhắm mắt, xuôi tay, và trả lại tất cả cho thế gian!
Sự chết liên quan tận thế. Tận thế liên quan sự chết. Nói tới sự chết khiến chúng ta liên tưởng tới thiên tài âm nhạc Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791). Khi soạn tuyệt phẩm REQUIEM, ông đã linh cảm: “Tôi e rằng tôi đang viết một bài cầu hồn cho chính mình”. Trong thư gởi cho người cha, Mozart cho biết: “Con không bao giờ đi ngủ mà không nghĩ rằng có thể con không còn thấy ngày mai nữa. Sự chết là mục đích thực sự của cuộc đời chúng ta. Từ vài năm nay, con đã quen với người bạn tuyệt vời đó của con người. Hình ảnh người bạn đó không làm con sợ mà con thấy người bạn đó hiền lành và cởi mở”. Ước gì chúng ta cũng biết tâm niệm như vậy!
Với người không có niềm tin, chết là hết – như “chó chết hết chuyện” vậy. Nhưng với chúng ta, những người có niềm tin vào Đức Kitô, chết không là hết, mà chết là “ngưỡng quá độ ”, là “buổi giao mùa”, là khởi đầu sự sống mới. Chết là hên chứ không xui chút nào cả.
Kinh Thánh cho biết: “Thời đó, Tổng lãnh Sứ thần Micae sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa” (Ðn 12:1). Đó là nói về sự sống lại của những người đã chết. Chết là để sống lại, như vậy chết không là hết, không là điều tuyệt vọng, nghĩa là chết mà đầy hy vọng.
Sách Đa-ni-el nói rõ về sự sống lại và sự thưởng phạt: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Ðn 12:2-3). Ngày nay sống thế nào thì ngày mai sẽ “phản ánh” như vậy, sống tốt thì được thưởng, sống ác thì bị phạt. Gọi là “thưởng – phạt” theo cách hiểu của phàm nhân mà thôi, chứ thật ra đó là sự công bằng, là điều tất yếu, là công lý của Thiên Chúa.
Công lý đó cũng chính là tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa. Có được Ngài thì thật là hạnh phúc. Tác giả Thánh Vịnh tâm sự: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5).
Tâm niệm như vậy nên tác giả Thánh Vịnh luôn ghi nhớ: “Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi! (Tv 16:8-11). Có Chúa là có tất cả, ngay trong lúc cứ tưởng là “dấu chấm hết” nhưng chỉ là “dấu chấm xuống dòng” để bắt đầu niềm hy vọng mới. Điều này được minh chứng qua câu chuyện Tổ phụ Áp-ra-ham vâng lời Thiên Chúa mà hiến tế chính con trai độc nhất của ông (x. St 22:1-18).
Sống để rồi chết, chết để rồi sống. Quy trình sinh – tử đó không là “vòng luân hồi” như người ta tưởng. Quy trình sinh – tử đó vô cùng kỳ diệu, nhưng không dễ thực hiện. Ai thực hiện được như vậy thì thật hạnh phúc, và xứng đáng được hưởng lời hứa của Thiên Chúa. Tuy nhiên, lời hứa nào cũng có điều kiện: “Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2:10c).
Chúa Giêsu đã tiên phong trải qua “vòng sinh – tử” đó để làm hy lễ cứu độ nhân loại. Hy lễ của Ngài hữu hiệu, chỉ một lần là trọn vẹn vĩnh viễn. Thánh Phaolô nói: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi. Còn Đức Kitô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời. Và từ khi đó, Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân. Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo” (Dt 10:11-14).
Và rồi Thánh Phaolô kết luận: “Nơi nào đã có ơn tha tội thì không cần dâng lễ đền tội nữa” (Dt 10:18).
Tin Mừng hôm nay có hai phần: [1] Con Người Quang Lâm (Mc 13:24-27 – tương đương Mt 24:29-31 và Lc 21:25-28), và [2] Dụ Ngôn Cây Vả (Mc 13:28-32 – tương đương Mt 24:32-36; Lc 21:29-33).
Chúa Giêsu cho biết rằng vào những ngày đó – tức là thời cuối cùng, thời tận thế, và sau cơn gian nan ấy, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời. Những hình ảnh vừa đáng sợ vừa đáng mừng, tùy “cách nhìn” của mỗi người. Chúa Giêsu nói thật, không nói đùa bao giờ đâu!
Sau đó, Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế là cây vả để nói về cuộc sống của chúng ta. Ngài chân thành nói: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”.
Đừng tin ai, đừng nghe ai, cứ ghi nhớ lời Chúa Giêsu đã nói: “Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi”. Chắc chắn như vậy!
Với tâm thức đó, Thánh Phaolô đã căn dặn: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” (2 Tx 2:2-3). Và ông gọi đó là “mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7), đồng thời nhắc nhở về việc xuất hiện của tên bịp bợm: “Tên gian ác xuất hiện là do tác động của Satan, có kèm theo đủ thứ phép mầu, dấu lạ, điềm thiêng, và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ” (2 Tx 2:9-10). Như vậy, “tất cả những kẻ không tin sự thật nhưng ưa thích sự gian ác thì sẽ bị kết án” (2 Tx 2:12).
Có lần chính Chúa Giêsu cũng đã quan ngại mà đặt vấn đề: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18:8). Một câu hỏi đáng quan ngại thật đấy! Câu này cũng nhắc nhở chúng ta đừng hoang mang, chớ lo lắng, hãy cố gắng tập trung vào Chúa và sống đức ái qua đức tin. Chuyện gì đến sẽ đến, sợ hay lo thì cũng chẳng thay đổi được gì cả. Cứ tâm nguyện theo lời Chúa Giêsu dạy: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài!”.
Thánh Phaolô đã đề cập tầm quan trọng của đức kiên nhẫn: “Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2 Tm 2:12). Đây là lời đáng tin cậy.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết tỉnh thức và sẵn sàng mọi nơi và mọi lúc. Xin giúp con vững tin vào lời Đức Kitô Giêsu để không dao động trong bất cứ hoàn cảnh nào. Xin thương giúp mọi người cũng vững lòng tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót đến hơi thở cuối cùng. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Đã từ lâu, mỗi khi đề cập tới phán xét hay ngày tận thế, tôi luôn bị ám ảnh bởi câu hỏi này! Trong TN 33-B85
Đã từ lâu, mỗi khi đề cập tới phán xét hay ngày tận thế, tôi luôn bị ám ảnh bởi câu hỏi này! Trong dịp ghé thăm một tòa giám mục nọ, tôi được chỉ cho thấy một tòa nhà rộng lớn đang được xây dựng ngay trong khuôn viên; vị giám mục giới thiệu với tôi, đó là ‘tòa nhà cánh chung’ hay nôm na gọi là ‘bốn sự sau hết’. Trong ngôi nhà đó, ngài cho dựng lên ‘như thật’ các cảnh tượng phán xét, thiên đàng, hỏa ngục v.v. Trả lời thắc mắc của tôi là tại sao phải tốn phí bao nhiêu tiền của để xây dựng một công trình như thế, vị giám mục trịnh trọng giải thích: “Đó là bài giáo lý căn bản nhất; giáo dân cần phải được răn đe để tránh phạm tội!” Tôi không rõ: đó có phải là mục đích mà cả ba cuốn Tin Mừng Nhất Lãm dành trọn cả chương (Mt 24, Mc 13, Lc 21) để mô tả khá chi tiết ngày thế tận và cuộc đại phán xét đó không? Nếu quả đúng là để răn đe, để cảnh cáo, thì cho dầu có đạt được mục đích giúp cho một số người làm lành lánh dữ đi nữa, tôi vẫn không khỏi thắc mắc: các sách đó có đáng được gọi là “TIN MỪNG” hay không?
Đề tài ‘thế tận’ này bao giờ cũng được các sách Tin Mừng bắt đầu bằng việc: các tông đồ là những người Do Thái thắc mắc về viễn tượng đền thánh Giê-ru-xa-lem bị tàn phá. Đây là vấn đề người Do Thái nào cũng quan tâm vì đã được các tiên tri đề cập tới nhiều (Is 66:8; Ed 38; Gr 4; Dcr 14), và thường qua đó đưa ra lời cảnh báo về ‘ngày phán xét’ mà các ngôn sứ gọi là ‘ngày của Đức Chúa’ (Am 5:18; Xp 1:14). Các sự kiện này được mô tả bằng một văn phong khó hiểu hầu gợi được sự quan tâm của quần chúng, nhằm chuẩn bị họ tỉnh thức sẵn sàng cho cuộc khai mạc vĩ đại của ‘triều đại Thiên Chúa đến trần gian’. Bất cứ người Do thái nào cũng sẽ rất ấn tượng về quyền năng của Thiên Chúa, qua các hiện tượng ‘kinh khủng’ xảy đến khi Ngài xuất hiện (quang lâm), các hiện tượng ném vũ trụ vào một cuộc khủng hoảng toàn diện đầy kinh hãi: “Mặt trời ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống…”
Tuy nhiên, tương phản với cái viễn tượng đầy khiếp sợ mà người Do Thái đã quá quen thuộc, Đức Giê-su lại đưa ra một hình ảnh hoàn toàn trái ngược: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả… Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy… anh em biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”. Suy nghĩ cho kỹ ta mới thấy: hình ảnh cây vả đâm chồi nảy lộc vào đầu xuân đầy sức sống đối nghịch với dáng chết chóc của cành khô trơ trụi trong những ngày đông giá. Quang lâm hay ngày phán xét mà Đức Giê-su trình bày, mặc dù khởi đi từ các hình ảnh Cựu Ước đầy kinh hãi, lại hàm chứa một nội dung tràn trề hy vọng; ngày đó sẽ không gây sợ hãi hay trốn chạy, nhưng sẽ là mừng vui và hy vọng: “anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (Lc 21:28). Điều đáng lưu ý là: Luca đã đề cập tới hình ảnh cây vả đâm chồi nẩy lộc ngay sau lời khích lệ trên (xem Lc 21:28-30).
“Lúc đó Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Quả thực, thế tận sẽ là ngày Đức Chúa quang lâm…, ngày Người tuyển chọn…, ngày Người tập hợp! Những kẻ được Người ‘tuyển chọn’ chắc hẳn không thể là những kẻ tự cho mình là xứng đáng, đơn giản vì chẳng có ai xứng đáng trước mặt Thẩm Phán quang minh, nhưng phải là những ai đã hiểu mình được cứu độ cách nhưng không, đã biết tới lòng nhân từ vô hạn lượng của Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su, và đã từng đón rước lòng nhân từ ‘đến gần, ở ngay ngoài cửa’. Con số những người này có thể là nhiều lắm: kể từ A-đam E-va ‘từ đầu mặt đất’, qua hết các thế hệ kế tiếp…, và mãi cho tới những người ở ‘cuối chân trời’. Phải, tất cả những người đó, cho dầu bất xứng và tội lỗi, nhưng bằng cách này hay cách khác, đã biết đón nhận ơn cứu độ của xót thương và thứ tha, họ sẽ đứng thẳng và ngẩng đầu lên vào giờ phút kinh hoàng, khi mà mọi kẻ khác, kể cả các bậc thánh hiền và công chính nhất, đều phải cúi gầm mặt run sợ. Phải chăng: đó mới chính là giờ phút cao điểm của Tin Mừng cứu độ?
Thiết tưởng đối với tất cả những ai tin tưởng và tín thác vào lòng từ nhân của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã mạc khải bằng chính cái chết của Người, thì ngày cánh chung ấy sẽ không bao giờ có thể là ‘dies irae, dies illa’ – ngày đó, ngày thịnh nộ, nhưng phải là ‘dies spei, dies illa’ – ngày đó, ngày hy vọng tràn trề. Mong rằng mọi Ki-tô hữu chúng ta trước hết, và nhiều người khác nữa, sẽ thuộc số những kẻ ‘đứng thẳng và ngẩng đầu lên’, vì chúng ta đã chẳng không ngừng cử hành việc ‘Con Người đã đến gần, đã ở ngay ngoài cửa’, nhất là khi cử hành Hy Lễ Thập Giá trên bàn thờ ‘mong đợi Người lại đến’ là gì!
Lạy Đấng Phán Xét chí công, con muốn được liệt vào số những người ‘đứng thẳng và ngẩng đầu lên’ trong ngày phán xét, không phải vì con tốt lành thánh thiện hơn ai, nhưng trong tư cách Ki-tô hữu con đã từng tin vào tình yêu cứu độ của Ngài. Xin cho ngày cánh chung sẽ trở nên ngày hiển linh Tin Mừng cứu độ cho con và cho toàn thể nhân loại, và là ngày vĩ đại của niềm hy vọng và cậy trông hoàn vũ. A-men.
Chiều hôm Thứ Sáu vừa qua, các hãng thông tấn như radio, internet, đặc biệt là các đài truyền hình TN 33-B86
Chiều hôm Thứ Sáu vừa qua, các hãng thông tấn như radio, internet, đặc biệt là các đài truyền hình lớn như CNN hay Fox News đột nhiên ngưng các chương trình thông thường, để loan tin và trực tiếp truyền hình về vụ khủng bố xảy ra tại thành phố Paris tại Pháp quốc, làm nhiều người thiệt mạng. Chủ đích của các hãng truyền thông là cho khán thính giả biết những sự kiện đang xảy ra, và cảnh giác chúng ta chú ý và đề phòng, nhất là những sự khủng bố giết người của người Hồi giáo quá khích. Chúng ta biết khủng bố có thể xảy ra bất cứ lúc nào và nơi nào, kể cả trong quốc gia Hoa kỳ này, vì quân khủng bố Hồi giáo quá khích đang hiện diện và trà trộn trong tất cả các thành phố.
Trong những tuần cuối của năm phụng vụ, Giáo hội, qua những bài Kinh thánh Lời Chúa, muốn nhắc nhở và cảnh báo chúng ta, là những Ki-tô hữu, đến một sự kiện sẽ xảy ra liên quan đến đời sống hiện tại, nhất là đến đời sống vĩnh cửu ngày sau, để chúng ta chú ý, nhìn vào đời sống và chuẩn bị một cách tốt đẹp theo thánh ý Chúa dạy, cũng như sống trong an bình, vui mừng và hy vọng. Sự kiện sẽ xảy ra là Ngày Tận Thế, mà theo như lời Chúa, sẽ đến bất cứ lúc nào mà chúng ta không biết.
Trong bài đọc 1, Ngôn sứ Đa-ni-êu nói cho chúng ta biết về thời cùng tận, và liệt kê những điều sau đây sẽ xảy ra. Thứ nhất thời điểm đó Tổng Lãnh Sứ Thần Michael sẽ được Thiên Chúa sai đến để che chở cho dân trong thời kỳ khốn khổ sau hết. Thứ hai đây là thời kỳ khốn khổ chưa từng thấy trong lịch sử loài người, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Và sau cùng, những ai có tên trong Sách của Thiên Chúa sẽ được thoát nạn, được giải thoát và được ban thưởng phúc trường sinh. Sách này chỉ có Con Chiên, ám chỉ Chúa Giê-su Ki-tô Chiên Thiên Chúa, đã bị giết nhưng vẫn đang sống, mới có thẩm quyền để mở mà thôi. Vào lúc đó mọi người sẽ chỗi dậy và phải chịu phán xét về việc làm của mình. Người công chính và trung thành sẽ được ban thưởng phúc trường sinh. Những người tội lỗi sẽ “chịu tủi nhục muôn đời.”
Trong bài đọc 2, tác giả Thư Do-thái cho chúng ta biết về ơn sủng Hiến Lễ của Chúa Giê-su Kitô trên thập giá. Tuy Hiến Lễ này chỉ xảy ra một lần, nhưng có sức mạnh tẩy trừ mọi tội lỗi của con người mọi thời đại, và làm cho con người được trở nên tinh tuyền thánh thiện mỗi ngày một hơn. Hiến Lễ của Chúa Giêsu trên đồi Golgotha, được ban cho Giáo hội qua Bí-tích Rửa Tội để tẩy sạch tội lỗi con người, qua Bí-tích Giao Hòa để ban ơn tha thứ, và sau cùng Hiến Lễ của Chúa Giê-su Kitô được thể hiện qua Bí Tích Thánh Thể, ban ơn thánh cho con người chúng ta trong giai đoạn hiện tại.
Bài Tin mừng hôm nay làm cho tôi nghĩ đến bài Tin mừng của thánh Luca Thứ Sáu hôm qua, khi những người Pha-ri-sêu đến hỏi Chúa Giêsu “Khi nào Nước Thiên Chúa đến và khi nào Thiên Chúa sẽ ngự đến?” Chúa Giê-su đã cho họ biết Thiên Chúa đang hiện diện ở giữa họ, và Người đưa ra một dấu hiệu Chúa đến trong ngày tận thế một cách thình lình như chớp sáng lòe bầu trời giữa sự vô lo của con người trần thế. Sau đó, Chúa đã đưa ra 2 sự kiện điển hình để minh chứng. Sự kiện thứ nhất về những người sống trong thời ông Nô-e. Thời đó người ta đang sống trong phồn thịnh, ăn chơi phè phỡn, tội lỗi thả dàn. Họ chỉ lo về vật chất, không nghĩ và để ý gì về đời sống tinh thần và lo cho linh hồn của họ nữa. Họ cũng không nghe, bỏ ngoài tai những lời khuyên bảo của các ngôn sứ. Trong khi đó một mình ông Nô-e nghe lời Chúa bảo, lo lắng đi đóng tàu để tránh đại hồng thủy. Họ tiếp tục sống phè phỡn, ăn chơi, lo kiếm tiền thật nhiều và hưởng thụ, nghĩa là chỉ lo tới vật chất. Nhưng giữa lúc phồn thịnh và ăn chơi thì lụt đại hồng thủy xảy đến, cuốn trôi tất cả, tiêu hủy tất cả. Thiên Chúa đến và đến gọi chúng ta bất ngờ. Ngày tận thế và ngày Chúa trở lại với loài người cũng bất ngờ như vậy.
Sự kiện thứ 2 mà Chúa đề cập đến xảy ra thời ông Lót, cả thành phố Sô-đô-ma đang phồn thịnh, thịnh vượng, ăn chơi thả dàn, xây cất, mua bán, nghĩa là tất cả đang sống trong một cuộc sống hưởng thụ bình thản, nhưng là một loại bình thản giả tạo trong tội lỗi và lầm lạc. Giữa lúc như thế thì lửa bởi trời đổ xuống thiêu hủy tất cả, chỉ một mình ông Lót thoát chết. Còn bà Lót thì hóa thành tượng muối vì đã quay đầu nhìn lại thương tiếc, ham đống của cải bỏ lại, thay vì cứu lấy chính bản thân mình.
Ông bà anh chị em thân mến. Tất cả những sự kiện trên đây mãi mãi vẫn là một bài học nhắc nhở chúng ta. Thiên Chúa đến và đến gọi chúng ta bất ngờ. Ngày Chúa trở lại phán xét nhân loại cũng bất ngờ như vậy. Cũng như mỗi người không biết khi nào mình chết, thì cả nhân loại cũng không biết khi nào Chúa trở lại. Tất cả đều bất ngờ. Nhưng vì yêu thương, Chúa đã dùng lời của Người để dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta không bị lâm vào cảnh bất ngờ như những người bị thiệt mạng trong cuộc khủng bố ở Paris. Tin Mừng thánh Gioan quả quyết rằng “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Vì thế, nếu chúng ta muốn được cứu thoát khỏi cảnh “tủi nhục muôn đời” thì chúng ta phải tin vào Chúa Giêsu Ki-tô Con của Thiên Chúa, và sống giáo huấn của Chúa dạy.
Chúng ta hãy nhớ cuộc sống ở trần gian là một cuộc lữ hành, là một cuộc hành trình về nhà Cha trên Trời. Chúng ta đang sống giữa trần gian như một bông hoa sớm nở, trưa héo, chiều tàn, nghĩa là, cuộc đời chúng ta ngắn ngủi và mong manh. Hơn nữa, giờ chết của chúng ta cũng như ngày tận thế, chúng ta hoàn toàn không biết. Vì thế là những Kitô hữu, chúng hãy lắng nghe Lời Chúa báo trước, và sống thế nào để đừng bao giờ sự chết đến với chúng ta trong tình trạng đáng tiếc và đáng hội hận. Trái lại, chúng ta sống như thế nào để làm sáng danh Chúa và để kết thúc cuộc đời một cách tốt đẹp. Xin Chúa giúp chúng ta nhận những sự kiện chung quanh, để chúng ta chú ý đến cuộc sống đức tin, luôn trung thành với Chúa, và sửa soạn cho ơn cứu rỗi, cũng như đời sống vĩnh cửu của chính mình. Hôm nay chúng ta còn thời giờ để sửa soạn và giúp người khác được, nhưng đến ngày và thời điểm sau cùng đó, chúng ta sẽ không còn thời giờ và cơ hội. Chúng ta phải luôn ý thức rằng, Chúa không muốn chúng ta sống trong lo âu, sợ hãi, nhưng muốn chúng ta sống trong bình an, tin tưởng và hy vọng.
Ngày Chúa quang lâm là ngày không còn mặt trời, mặt trăng, chính Chúa là ánh sáng muôn ngàn TN 33-B87
Ngày Chúa quang lâm là ngày không còn mặt trời, mặt trăng, chính Chúa là ánh sáng muôn ngàn đời soi chiếu. Ngày ấy cũng bắt đầu từ hôm nay và cũng chờ đợi ngày sau hết. Sẵn sàng là thái độ khôn ngoan để sống bình an và hạnh phúc.
Ngự trên đám mây.
Thông thường đám mây xuất hiện báo hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa. Lúc thần hiện trên núi Sinai (Xh 19, 16). Khi thì từ đám mấy có tiếng của Thiên Chúa phán (Mt 17, 5).
Mây mang mưa tới, đó là dấu chỉ của mùa sản sinh, mùa sinh ơn phúc trong ngày Chúa ngự đến. Các tầng mây báo hiệu dồi dào ân phúc của Thiên Chúa. Những ngày còn lữ hành đám mây che nắng dẫn đường (Xh 40, 36 38). Sự hiện diện của Thiên Chúa bảo đảm cho cuộc xuất hành cũng là hành trình trần thế được Người thương giữ gìn.
Đám mây còn báo hiệu của ngày biến đổi, do quyền năng Thiên Chúa thực hiện. Những người được lựa chọn vào Nước Chúa, họ sẽ được biến đổi hoàn toàn trong ngày Chúa ngự đến. Như ngày Chúa biến hình trên núi đám mây bao phủ (Mt 17, 1 – 8). Trong những ngày hiện tại sống trên trần gian, con người cũng được biến đổi nhờ được kết hiệp trong Chúa Kitô. Và cũng nhờ Chúa Thánh Thần phủ bóng ân sủng làm cho con người được biến đổi, như ngày truyền tin cho Mẹ maria cho thấy việc đó (Lc1, 35)
Ánh sáng không bao giờ lịm tắt (Exsultet)
“Ánh sáng ban ngày của ngươi không còn là mặt trời nữa, và ban đêm, ngươi chẳng cần đến ánh trăng soi: Chúa sẽ là ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi ngươi, ánh quang huy của ngươi là Thiên Chúa ngươi thờ.” (Is 60, 19)
Ánh sáng chân lý xua tan mọi sai lầm và nghi ngờ. Chỉ còn xác tín vào điều chân thật một cách chắc chắn. Ngày của Chúa xóa tan hết những u mê tâm trí, Đấng làm cho con người sáng suốt nhận ra Người hiện diện “Ngài quả là nguồn sống, nhờ ánh sáng của Ngài, chúng con được nhìn thấy ánh sáng.” (Tv 36, 10)
Thánh Gioan giới thiệu về ánh sáng ban sự sống “ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” (Ga 1, 4). Sự sáng Chúa Giê su nói chính là Ngài, bao lâu còn sống trên dương gian này còn cần đến ánh sáng và cũng là đón nhận chính Ngài: “Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” (Ga 9, 4 -5)
Ánh sáng và bóng tối, hướng theo chủ đề luân lý, là con cái sự sáng và bóng tối luôn chen lẫn vào, nếu thiếu hay không có ánh sáng. Một thế gian luôn thù nghịch với Thiên Chúa, nên khi có Chúa ở cùng bóng tối thế gian không thể làm gì được, “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8, 12)
Ánh sáng muôn ngàn đời là chính Chúa sẽ trị vì. Là con cái sự sáng hãy tỉnh thức và cầu nguyện để chính Chúa luôn là ánh sáng soi đường dẫn đến sự sống. Ngày của Con Người sẽ đến và những người theo ánh sáng của Chúa sẽ cùng theo Người vào tham dự vào sự sống đời đời.
Dụ ngôn Nước Chúa kể rằng: Người gieo giống tốt, ruộng bằng phì nhiêu. Chăm nom săn sóc TN 33-B88
Dụ ngôn Nước Chúa kể rằng: Người gieo giống tốt, ruộng bằng phì nhiêu. Chăm nom săn sóc sáng chiều, Trong khi đêm ngủ, ra chiêu phá vùng. Kẻ thù gieo vãi cỏ lùng, Chen vào phá hoại, rục tùng phí công. Cỏ lùng giữa lúa mênh mông, Lúa thơm kết hạt, trổ bông cỏ lùng. Bằng lòng đầy tớ đi cùng, Ra đồng nhổ cỏ, đem nung đốt lò. Chủ rằng đợi đó đừng lo, Tới mùa thợ gặt, thu kho lúa vàng. Cỏ lùng gom lại bó ngang, Đốt đi từng bó, dễ dàng hủy tiêu. Con người tốt xấu bao nhiêu, Tới ngày phán xét, thiên triều thẳng ngay.
Nước Trời dưới thế bao gồm cả người tốt lẫn kẻ xấu. Mọi người cùng chung sống với nhau. Giống như cỏ lùng được gieo vào giữa ruộng lúa. Cả hai cứ tiếp tục mọc lên cho đến khi sinh bông hạt. Tới mùa thu hoạch, ông chủ sẽ thu góp cỏ lùng lại và đem đốt đi. Hình ảnh Nước Trời nơi trần gian cũng tương tự như thế. Nước Trời còn gọi là Hội Thánh, không phải tất cả mọi người trong Hội là thánh cả đâu. Chúng ta tuyên xưng Giáo Hội thánh thiện là vì có Chúa Kitô là đầu nhiệm thể, Ngài chính là Đấng Thánh.
Chúa mời gọi mọi người gia nhập vào Nước Chúa. Nước Chúa bao gồm cả người thánh thiện lẫn các tội nhân. Cuộc lữ hành trần thế là một cuộc tôi luyện. Không ai sinh ra đã là thánh. Chúng ta phải trở nên thánh mỗi ngày. Chúa ban đủ ơn và tạo điều kiện cho mỗi người được nên tốt lành và thánh thiện. Chúa không ép buộc nhưng Chúa mời gọi chúng ta hãy nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời.
Truyện kể có một ông chủ giầu có đến thăm một làng quê nghèo. Ông muốn chia xẻ tài sản cho người nghèo để giúp họ có vốn làm ăn. Nhiều người nghe thế, vội vã đến xin giúp đỡ. Họ nghĩ ông chủ qúa tốt bụng và độ lượng. Nhưng có một số người khác tính toán kỹ hơn tự hỏi: Tại sao ông ta rộng lượng như thế? Chắc ông ta có ý đồ lợi dụng điều gì đây? Họ đã chối từ sự giúp đỡ. Ông chủ ra đi, những người nhận phần vốn đã sinh hoa lợi và làm lại cuộc đời. Còn những người cố hữu trong tư tưởng nghi ngờ. Họ vẫn chịu cảnh nghèo nàn và vất vả hằng ngày.
Chúa là Cha nhân hậu và quảng đại vô cùng. Chúa đã trao ban cho chúng ta biết bao hồng ân. Chúng ta được sinh ra làm người và rồi được sinh lại làm con của Chúa. Chúng ta được gia nhập vào Nước Chúa và có quyền làm con Chúa. Chúa trao ban cho chúng ta có khả năng, có trí khôn và có linh hồn. Chúng ta phải làm gì để đáp lại lòng yêu thương vô bờ của Chúa. Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta nghĩ rằng tất cả những gì chúng ta có, đều là do công lao khó nhọc của chúng ta.
Nước Trời như hạt giống gieo xuống sinh nhiều hoa trái. Hạt giống mà chúng ta đã lãnh nhận cho dù có nhỏ bé đều là ân sủng được trao ban. Không có gì nhưng không hay tự nhiên mà có. Tất cả đều là hồng ân của Chúa. Chúng ta đã nhận lãnh hạt giống ân sủng, chúng ta có bổn phận làm sinh hoa kết trái yêu thương.
Đời thế tạm sẽ vào hồi kết thúc. Cõi trường sinh rồi đến lúc khởi đầu. Đời sống xã hội luôn có TN 33-B89
Đời thế tạm sẽ vào hồi kết thúc Cõi trường sinh rồi đến lúc khởi đầu
Đời sống xã hội luôn có nhiều dạng khủng hoảng: kinh tế, văn hóa, xã hội, tài chính, chính trị, tâm lý, hôn nhân, gia đình,… Lĩnh vực nào cũng có thể bị khủng hoảng – kể cả tôn giáo.
Nhưng có một dạng khủng hoảng đáng quan ngại nhất liên quan thời gian: Tận Thế. Thời gian vừa chậm vừa nhanh, tùy cảm xúc mỗi người, nhưng người ta vẫn cảm thấy “thời gian thấm thoát”. Thật vậy, mới ngày nào bắt đầu một năm mà nay đã vào cuối năm – cả năm đời và năm phụng vụ. Thời gian vào giai đoạn cuối. Thời điểm cuối gợi nhiều suy tư. Có nhiều cái cuối, đặc biệt nhất là cuối đời và cuối thời – Công giáo gọi là Thời Cánh Chung. Chúng ta đang ở trong thời này.
Có lẽ hai từ “tận thế” chẳng ai muốn nhắc tới hoặc nghe người khác đề cập, bởi vì nó khiến người ta e ngại hoặc không vui. Tuy nhiên, tận thế chắc chắn vẫn sẽ đến – có thể là niềm mong chờ của người này, nhưng có thể lại là nỗi sợ hãi của người khác. Sự thật đúng là phũ phàng quá!
Nhưng sự thật mãi mãi là sự thật, bởi vì Thiên Chúa là Sự Thật. Thời gian là của Chúa, nhưng Ngài ban cho mỗi người được quyền quản lý quỹ thời gian riêng mình. Ngôn sứ Daniel nói: “Thời đó, Micael sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là THỜI NGẶT NGHÈO CHƯA TỪNG THẤY, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai ĐƯỢC GHI TÊN trong cuốn sách của Thiên Chúa” (Ðn 12:1a). Đó là những lời tiên báo về ngày tận cùng của thế gian, đặc biệt ông cho biết đó là “thời ngặt nghèo nhất”, chắc chắn rất đáng quan ngại, thậm chí là sợ hãi, nhưng lại không hề đáng sợ đối với những người thuộc về Thiên Chúa, vì họ có tên trong sách của Chúa – nghĩa là họ sẽ được tai qua nạn khỏi.
Có thể vẫn có gì đó khó hiểu đối với một số người, thế nên ngôn sứ Daniel đã giải thích: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy”. Những người “an nghỉ trong bụi đất” là những người chết, vậy mà họ “trỗi dậy” – tức là hồi sinh, sống lại. Rõ ràng đó là ngày tận thế, ngày chung thẩm. Nhưng số phận mỗi người lại không giống nhau: “Người thì để HƯỞNG phúc trường sinh, kẻ thì để CHỊU ô nhục và BỊ ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Ðn 12:1b-2). Cùng một ngày, cùng được sống lại, nhưng có kẻ thấy hốt hoảng sợ hãi và có người thấy vui mừng hớn hở.
Như đại diện những người thuộc về Chúa, Thánh Vịnh gia thân thưa: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Tất cả đều là của Chúa, nhưng Ngài trao quyền quản lý cho chúng ta. Nếu nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta hoàn toàn an tâm: “Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn” (Tv 16:8-9). Ôi, thế thì hạnh phúc biết bao!
Cái gì cũng có hệ lụy tất yếu, có kết quả thì ắt có nguyên nhân, có kết thúc ắt có khởi đầu, có sau thì phải có trước, có cuối thì cũng phải có đầu. Về nguyên nhân, Thánh Vịnh gia xác định: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16:10), đồng thời hoàn toàn khiêm nhường và tín thác vào Chúa: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:11). Chắc hẳn phàm nhân không đủ ngôn từ để diễn tả niềm hoan lạc được cận kề bên Thiên Chúa – Đấng là Đầu và là Cuối (Kh 1:17), là An-pha và Ô-mê-ga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 22:13).
Nói về việc tế lễ, phụng vụ, Thánh Phaolô cho biết: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi” (Dt 10:11). Tế lễ là bổn phận và trách nhiệm hằng ngày của các tư tế, không chỉ dâng lễ đền tội cho mình mà còn dâng thay người khác, nhưng dù dâng bao nhiêu lần vẫn không bao giờ đủ mức độ hoàn hảo. Nhưng có một tư tế chỉ cần dâng một lần cũng đủ, đó là Đức Kitô: “Sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Ngài đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời” (Dt 10:12). Chính Ngài và chỉ có Ngài là Đấng cứu độ nhân loại.
Thật vậy, bởi vì Đức Kitô là Thiên Chúa, là Thượng tế, là Đấng cao cả hơn mọi loài: “Từ khi đó, Ngài chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân” (Dt 10:13), và “Ngài chỉ dâng hiến lễ MỘT LẦN, mà VĨNH VIỄN làm cho những kẻ Ngài đã thánh hoá được NÊN HOÀN HẢO” (Dt 10:14). Dù là ai và là gì thì tất cả chúng ta vẫn chỉ là những tội nhân, không hơn không kém. Nhưng chúng ta diễm phúc được cứu độ, chiếc áo tội lỗi của chúng ta được “giặt sạch” bằng chính Bửu Huyết của Đức Kitô. Thánh Phaolô vừa giải thích vừa kết luận: “Nơi nào đã có ơn tha tội thì đâu cần lễ đền tội nữa” (Dt 10:18).
Có mở thì cũng có kết, có khai sinh thì cũng có khai tử, có thuở tạo thiên lập địa thì cũng có lúc niên tận thế cùng. Đề cập ngày Con Người quang lâm, Chúa Giêsu cho biết các dấu chỉ: “Trong những ngày đó, sau cơn gian nan, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển” (Mc 13:24-25). Thế là giờ G đã đến. Đó là lúc “thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13:26). Và cũng chính lúc đó, “Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13:27). Thật lạ, ai cũng phải trình diện, Satan cũng chẳng thoát, điều này đã được thông báo từ ngàn xưa: “Một ngày kia, con cái Thiên Chúa đến TRÌNH DIỆN Đức Chúa; Satan cũng đến trong đám họ để TRÌNH DIỆN Đức Chúa” (Gióp 2:1).
Nếu chú ý, chúng ta có thể đoán biết điều gì xảy ra khi thấy những sự việc tiếp diễn hằng ngày. Ngày tận thế cũng có những dấu chỉ khả dĩ nhận biết, Đức Kitô dùng hình ảnh thực tế hơn để mọi người đều có thể hiểu: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13:28-29). Cuối cùng, Ngài quả quyết: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13:30-31). Tức là rất chắc chắn xảy ra ngày tận thế, không hề là chuyện đùa hoặc bịa đặt chi cả!
Thế nhưng hình như loài người vẫn bán tín bán nghi. Bằng chứng là đã từng có nhiều tin đồn về ngày nọ hay tháng kia là thời điểm tận thế, về chuyện “tối ba ngày, ba đêm”,… Vì vậy, người ta lo tích lũy vật chất (nến, dầu, mì gói,…) để “đối phó”. Chao ôi! Thật là ấu trĩ, nhảm nhí và dị đoan, chứng tỏ họ chẳng biết hoặc chẳng tin điều Chúa Giêsu đã nói. Mơ hồ hay cứng lòng? Chính Chúa Giêsu đã nghiêm túc minh định: “Về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, CHỈ CÓ CHÚA CHA BIẾT MÀ THÔI” (Mc 13:32). Tỉnh cơn mộng ảo đi, đừng ngủ gà ngủ gật nữa!
Tại sao người ta vẫn bịa đặt và phát tán những tin đồn nhảm nhí? Càng tệ hại hơn là vẫn có những người nhẹ dạ cả tin khi nghe những lời “tiên tri dỏm” ấy. Chúa Giêsu còn chưa biết thì làm sao những con người phàm phu tục tử đầy tội lỗi như chúng ta lại biết trước? Không lo sống tốt mà cứ lo chuyện nhảm hết trên trời lại dưới đất là sao? Quá vô lý vì đức tin ấu trĩ và không thèm tin lời Chúa nói. Khôn hay Khốn?
Về Ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu, Cựu Ước và Tân Ước nói giống nhau:
MẶT TRỜI SẼ TRỞ NÊN TỐI TĂM, MẶT TRĂNG HOÁ THÀNH MÁU, trước khi NGÀY của ĐỨC CHÚA xuất hiện, ngày vĩ đại, kinh hoàng. (Ge 3:31) Ngay sau những ngày gian nan ấy, MẶT TRỜI SẼ RA TỐI TĂM, MẶT TRĂNG KHÔNG CÒN CHIẾU SÁNG, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân trời kia. (Mt 24:29-31; Mc 13:24-27; Lc 21:25-28) Rất rõ ràng, rất rạch ròi. Nhưng có những “cái không” rất cần lưu ý: KHÔNG tin nhảm nhí, KHÔNG dị đoan, KHÔNG mê tín, KHÔNG nghe những kẻ bịa chuyện, có thể họ chỉ là những kẻ phá đạo, là tay sai của ma quỷ, chứ họ chẳng “đạo đức” gì đâu. ĐỪNG nhẹ dạ cả tin kẻo đức tin bị rung rinh, lung lay, thậm chí còn có thể bị “bật gốc” luôn đấy!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con chuyên cần tìm hiểu và vững tin vào Lời Chúa, hoàn toàn tín thác vào Con Chúa để có thể đứng vững cho đến lúc Đức Kitô tái lâm. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, và đừng để chúng con bị khủng hoảng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
Tôi còn nhớ vào năm 1994 cha quản xứ của tôi đọc một bài báo nói về ngày tận thế vào ngày 5/5 TN 33-B90
Tôi còn nhớ vào năm 1994 cha quản xứ của tôi đọc một bài báo nói về ngày tận thế vào ngày 5/5 năm đó, và sẽ có tối 3 ngày 3 đêm, nên cha kêu gọi mọi người phải mua đủ nến và mang đến nhà thờ để cha làm phép. Nhưng đợi đến ngày đó, không có gì xảy ra.
Sau đó, có tin đồn tận thế sẽ xảy ra vào năm 2000, nhưng cũng không xảy ra. Gần đây, một tờ báo cho rằng ngày tận thế được xác định theo lịch của người Maya rơi vào ngày 15/5/2015. Những lời đồn đoán này đã gây hoang mang cho biết bao người. Ở Brazil, cảnh sát phải đối phó với nguy cơ tự tử tập thể khi chờ ngày tận thế. Nhưng tất cả chỉ dừng lại ở tin đồn.
Sự kiện này cho thấy rằng con người thời nào cũng muốn biết những gì sẽ xảy ra tương lai: Có ngày tận thế không? Số phận của chúng ta sẽ ra sao trong và sau ngày đó? Chúng ta tìm được câu trả lời cho những vấn nạn đó từ phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
1. Thế giới và thế hệ này sẽ qua đi
Trước hết, Lời Chúa hôm nay mạc khải cho chúng ta biết rằng: thế giới này sẽ có ngày kết thúc. Thế giới này không vĩnh cữu qua sự quả quyết của Chúa Giêsu: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13,30). Đồng thời Chúa Giêsu loan báo về ngày quang lâm của Người. “Ngày quang lâm” trong tiếng Hy lạp là parusia. Có nghĩa là sự trở lại trần gian lần thứ hai của Chúa Giêsu vào ngày thế mạt.
Nếu lần thứ nhất Chúa Kitô đến với nhân loại trong sự khiêm tốn và thấp hèn của người tôi tớ, thì lần thứ hai Chúa ngự đến trong vinh quang và quyền năng của vị thẩm phán. Người là vị thẩm phán chí công đến để xét xử nhân loại. Người sẽ xét xử chúng ta dựa trên công lý và tình yêu, theo những gì mà chúng ta đã sống trên thế gian.
Bấy giờ số phận của những người công chính sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời, sẽ được chiếu tỏa như những vị sao. Còn những người tội lỗi thì phải chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời (x. Đn 12,3).
Vì thế, “ngày quang lâm” sẽ trở thành ngày của sợ hãi, thất vọng đối với những người tội lỗi vì án phạt đời đời. Nhưng đó là ngày của hy vọng và cứu độ đối với những người công chính; ngày Thiên Chúa hoàn tất cách viên mãn chương trình cứu độ con người; đó là “trời mới đất mới” (Kh 21:1), thời đại của công lý, hạnh phúc và tình yêu ngự trị mãi mãi (x. 2 Cr 5,17).
2. Thời gian và những dấu chỉ cánh chung
Như thế, điều chắc chắn là thế giới này sẽ có ngày kết thúc. Nhưng xảy ra lúc nào? Tin Mừng hôm nay khẳng định: “Về ngày giờ đó thì không ai biết được ngay cả Thiên sứ trên trời, và Người Con cũng không thể biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13, 32). Thánh Augustinô còn xác quyết: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha”.
Tuy nhiên, trong Tin Mừng Máccô, Chúa Giêsu loan báo về những dấu chỉ xảy ra để báo trước về ngày đó: 1) Những ngôn sứ giả, những Mêsia giả sẽ phỉnh gạt nhiều người (Mc 13,5-6); 2) Những cuộc bách hại chống lại các môn đệ của Đức Giêsu (Mc 13,9-13); 3) Những tai ương, chiến tranh, động đất, đói kém và những hiện tượng lạ lùng xảy ra (Mc 13,7-8).
Trong khi đó, Tin Mừng Mátthêu chương 24 cho biết thêm 4 dấu chỉ của ngày tận thế, đó là: 1) Tin Mừng về Nước Thiên Chúa được loan báo cho hết mọi người (Mt 24,14); 2) Xuất hiện những tiên tri giả và phản Kitô; 3) Người Do thái trở lại tin nhận Chúa Kitô. 4) Thiên tai xảy ra. Đó là những dấu chỉ tiên báo về ngày thế mạt.
3. Thái độ của chúng ta hôm nay
Như vậy, Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu biết về biến cố cánh chung và ý nghĩa của ngày quang lâm để chúng ta khi sống trong hiện tại nhưng luôn hướng về tương lai, luôn nhớ đến sự phán xét chung, và phần thưởng cũng như hình phạt đời đời cho mỗi người.
Trước sự chắc chắn và bất ngờ của cái chết, của việc Chúa quang lâm, chúng ta được mời gọi phải tỉnh thức và sẵn sàng: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40). Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng ấy phải được thể hiện một cách thực tế bằng một đời sống phục vụ và yêu thương tha nhân. Bởi lẽ, vào ngày xế chiều, Thiên Chúa sẽ phát xét chúng ta dựa vào lòng bác ái của chúng ta đối với tha nhân (x. Mt 25,31-46).
Xin Chúa thức tỉnh tâm hồn chúng ta, để mỗi người biết cải biến mỗi ngày, nhận ra Chúa nơi những dấu chỉ thời đại và nơi anh chị em. Nhờ đó, khi ngày của Chúa đến, chúng con vẫn luôn bình an và hy vọng, vì biết rằng Người sẽ mang lại những gì tốt lành cho những ai yêu mến và phó thác nơi Người. Amen!
“Trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy thì mặt trời sẽ tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi và sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.
Anh em hãy coi cây vả mà tìm hiểu. Khi cành nó trổ lá thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi những điều đó xẩy ra anh em biết là Người đã đến gần, ngay tại cửa rồi. Thầy bảo thật anh em: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi điều ấy xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi đâu.
Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hoặc người Con. Chỉ có Thiên Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13:24-32).
***
Câu chuyện trên lấy từ chương 13 Tin Mừng Marco (Mc 13: 24-32) là chương khó nhất và được TN 33-B91
Câu chuyện trên lấy từ chương 13 Tin Mừng Marco (Mc 13: 24-32) là chương khó nhất và được coi là một tiên đoán về ngày tận thế.
Chương này còn gọi là “Tiểu Khải Huyền”. Như Daniel 7-12 và sách Khải Huyền, trọng điểm của chương này là một thế giới bị truy nã. Chúng ta nên để ý đến ý nghĩa của câu chuyện, không phải thời gian câu chuyện xẩy ra.
Chúa Giesu tiên đoán đền thờ bị phá hủy (Mc 13:2) đã gây hoang mang khiến 4 môn đệ Phero, Giacobe, Gioan và Anre coi là chuyện riêng của Người với thời gian và dấu chỉ cho biết những chuyện xẩy ra vào ngày tận cùng (Mc 13:3-4). Để cho rõ ràng, Chúa đã giảng cho các ông một bài về thời cánh chung trước khi Chúa chịu chết. Đây là những chỉ dẫn, khuyên bảo các ông và Giáo Hội phải tin tưởng và vâng lời khi bị xã hội, người đời kết án, mang ra tòa buộc tội, vu oan và hành hạ. Anh em đừng sợ phải nói gì, làm gì. Chúa Thánh Thần sẽ an ủi và nói thay cho anh em (Mc 13:5-13).
Dấu chỉ là sự xuất hiện những ghê tởm khốc hại của quyền lực La Mã đã xúc phạm đền thánh (Mc 13:14; Dn 9:27). Những biến động đó ở Jerusalem khiến chúng ta tin và hy vong vào Chúa hơn là nghe theo những tiên tri giả để bảo vệ thị trấn (Mc 13:14-23). Thiên Chúa chỉ can thiệp sau khi mọi hủy hoại (Mc 13:24-27) xẩy ra trước ngày tận cùng của thế hệ Kito giáo đầu tiên (Mc 13:28-31).
Không ai ngoài Cha Ta biết chắc ngày đó (Mc 13:32), cho nên phải tỉnh thức (Mc 13:33-37). Luca cho thấy ngày đó sẽ xẩy ra cho đến “thời tận cùng của dân ngoại” (Lc 21:24). Coi thêm Mathieu 24:1-25,46.
CON NGƯỜI
Bài Tin Mừng hôm này dựa vào hai thực tế: Chính chúa Giesu sẽ hoàn thành những lời trong Cựu Ước nói về ngày tận cùng và các môn đệ không lo lắng để ý đến ngày giờ chính xác chúa Giesu giáng lâm lần thứ hai. Câu 26 cho biết chúa Giesu từ trời xuống trong uy quyền vinh quang.
Giống như Con Người trong Daniel, chúa Giesu trong Marco sẽ trở lại và tụ họp những người được Chúa chọn “từ bốn phương, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”(Mc 13:27).Chúa đã không vẽ ra một tương lại sáng ngời cho các môn đệ. Người nói về thời đại lúc bấy giờ, lúc những độc giả đầu tiên của Marco sống và chính chúng ta hiện nay. Chúa nói trước về chiến tranh, động đất, đói kém… ám chỉ “ khởi đầu của những tiếng nổ tan tành, pangs”: những biến cố dấu chỉ đau khổ gần kề của thời đại mới sẽ bùng nổ mà quyền lực cổ xưa đã phấn đấu để nó không xẩy ra.
Chúa Giesu diễn tả cho những người lúc bấy giờ tất cả mọi sự mà chúng ta ngày nay cũng hoảng sợ: nào là chiến tranh tàn phá, truy nã, chết chóc, nào là đau khổ khốn cùng…Chúa dùng những tiên đoán đó làm nền tảng cho hy vọng của chúng ta. Chúa khuyến khích chúng ta cậy trông vào Người! Thiết nghĩ tất cả Kito hữu chúng ta đều cảm thấy an lòng vì Lời Chúa nói: “Khi thấy những điều đó xẩy ra, anh em biết là Người đã đến gần, ở ngay trước ngưỡng cửa rồi. Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi những điều đó xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời thầy sẽ chẳng qua đi đâu.” (Mc 13:29-31)
NHỮNG THỬ THÁCH THỜI CÁNH CHUNG
Những thử thách thời cánh chung sẽ ở nhiều dạng thức. Trước tiên là phản bội. Chúa Giesu đã bị “bội phản”, bị “nộp” cho kẻ thù, kẻ tội lỗi để thử thách. Những người đọc Marco sẽ bị phản bội, bị giải giao cho công tố viên, bị đánh đập trong nhà hội rồi bị gọi ra tòa làm chứng trước các vua quan. Họ sẽ bị bội phản và bị kêt án tử hình không phải do kẻ thù mà do chính cha mẹ, con cái, anh em họ hàng và bạn bè!
Thứ đến, những Kito giả, tiên tri giả sẽ xuất hiện để “lừa phỉnh, khiến người ta đi lạc đường” Chúng hứa hẹn sẽ giải phóng, biểu diễn nhiều trò ảo thuật làm mờ mắt mọi người để họ không còn tin vào Chúa Giesu nữa.
Thứ ba, những thử thách hoặc cám dỗ sẽ xẩy ra cả với những người đang vui hưởng cảnh hòa bình tương đối và vững bền. Chúa Giesu nói về loại thử thách sau cùng này trong câu chuyện dụ ngôn kết thúc chương 13 của Marco nói về một người đi du hành xa nhà, trao cho gia nhân coi sóc mọi sự, dặn phải “tỉnh thức trông nom”. Gia nhân đã gặp nguy khốn vì ngủ quên. Còn trong Mathieu (Mt 13:22) thì chúng bị cảnh giàu sang làm mờ mắt và thế gian dụ dỗ, đã ước mơ những điều mà Chúa Giesu đã cảnh cáo không được làm như trường hợp hạt giống rơi vào bụi gai có mọc mầm đấy nhưng bị nghẹt thở không phát triển được.
Tin Mừng Marco cho biết chúng ta là những kẻ theo Chúa Giesu sẽ bị thử thách. Thử thách bởi đau khổ, tai ương hoặc bởi danh-quyền-lợi cám dỗ dẫn đi lầm đường lạc lối. Ho bị thử thách bởi những mơ ước, ham muốn xác thịt, danh, quyền, tiền. Bất cứ hình thức cám dỗ nào Marco đều nhắc nhở chúng ta phải cẩn thận, tỉnh thức và cầu nguyện, vì nếu không, chúng ta sẽ sa ngã, không sẵn sàng đủ để đón chào ông chủ, Thầy chúng ta, và không thể tự biện hộ trước mặt Chúa ngày Chúa đến.
Khi bị thử thách thì đừng sợ, vì chúa Giesu đã thay đổi trắc nghiệm hoàn toàn. Sức chịu đựng của chúa Giesu rất bền bỉ, chúa đã tự hiến làm của lễ hy sinh toàn hảo cho Thiên Chúa, do đó việc tế lễ trong đền thờ Jerusalem bị hủy bỏ. Từ bấy giờ về sau những “của lễ” thích hợp của những người công chính sẽ là những lời cầu nguyện của những cộng đồng tín hữu khi họ tụ họp lại với nhau, không phải là những của lễ dâng trong đền thánh như hồi xưa nữa. Chính của lễ hy sinh của chúa Giesu đã đủ để hòa giải mọi tội lỗi của loài người. Vì vậy, những ai theo chúa Giesu thì được “cứu thoát” khỏi hình phạt của Thiên Chúa. Họ có thể tin rằng họ đã được cứu rỗi.
CỘNG ĐỒNG CẦU NGUYỆN CHUNG
Marco cho biết sau khi đền thờ bị phá hủy, cộng đồng những người cầu nguyện sẽ là “nhà cầu nguyện cho mọi quốc gia”, là tân đền thờ được chúa Giesu thiết lập. Cầu nguyện riêng / cá nhân sẽ là dấu hiệu của tân cộng đồng này, là đền thờ được xây bằng những đá tảng sống động. Nhưng làm sao Marco và những độc giả của Marco có thể hiểu được ý niệm về “lời cầu nguyện riêng này”? Làm sao chúng ta có thể đọc kinh cầu nguyện theo phương cách đó và hậu quả của lời cầu như vậy sẽ là gì? Chúa Giesu đã hứa là cầu nguyện với lòng tin tưởng mãnh liệt, không hồ nghi thì sẽ được đáp ứng.
Trong lúc đen tối và sầu thảm ở vưởn Gethsemane, chúa Giesu đã thành khẩn xin Thiên Chúa cứu Người thoát khỏi cơn hấp hối đau khổ này. Biết Thiên Chúa Cha có thể cứu giúp, nhưng chúa Giesu vẫn chấp nhận và tuân theo ý của Thiên Chúa Cha. Sức chịu đựng của chúa Giesu, suy nghĩ và cương quyết theo chủ đích của mình vì ý muốn của Thiên Chúa Cha sẽ là khải hoàn vinh quang trong vườn ở chân núi Cây Dầu. Đối với Marco, lời cầu trong vườn Gethsimane chính là mẫu mực cho “các môn đệ cầu nguyện khi bị thử thách.”
TRẮC NGHIỆM THỬ THÁCH
Những biến cố to lớn ghê gớm nào trong đời đã làm lung lay chúng ta? Những thử thách hàng ngày của chúng ta như thế nào? Chúng ta có cảm nghiệm gì về những chối bỏ hay đau khổ, chết chóc hoặc mất mát đã khiến chúng ta buông suôi trước Lời Hằng Sống đã một lần chúng ta chấp nhận? Chúng ta có quá lo lắng để ý đến tiền bạc, thành bại trong công việc và cuộc sống không? Có quá băn khoăn về sức khỏe, việc làm, gia đình và tình bạn bè đến độ quên cả Lời Chúa không? Chúng ta có để cho những giận hờn, lo buồn hay dục vọng ngăn cản chúng ta bước theo Chúa không? Chúng ta có giữ lại được điều gì vui tươi trong cuộc sống của chúng ta không?
Tin Mừng Marco cho thấy khi bị thử thách, chúng ta không phải lặp lại sự trung thành của chúa Giesu bằng sức mạnh mong manh của chúng ta. Chúng ta không phải đối diện với những thử thách của ma quỉ không có quyền hạn như Thiên Chúa. Chúa Giesu thành Nazareth đã thay đổi vĩnh viễn tình trạng của chúng ta rồi. Marco đã viết Tin Mừng để ủy quyền cho những ai tin thì cầu nguyện. Mỗi cá nhân trong cộng đồng Kito hữu đều được ủy quyền để cầu nguyện riêng mà không thể bị trật đường vì sợ hãi, lo lắng, bị truy nã hoặc vì những quyền lực giả dối khi sống ở trần gian. Chúa Giesu đã cứu chuộc tội lỗi loài người và phá hủy những quyền lực cố tình ngăn cách loài người khỏi Thiên Chúa. Do đó tất cả mọi sự đều khả thi khi chúng ta đến với Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện.
NHỮNG HÌNH ẢNH CỦA LỊCH SỬ ƠN CỨU ĐỘ
Chúng ta đừng bao giờ để mất hình ảnh vĩ đại về lịch sử ơn cứu độ khi chúng ta đối diện với những thất bại, gian nan bi thảm trong cuộc sống hàng ngày. Là Kito hữu mỗi ngày chúng ta đều được kêu gọi chống lại những kẻ thù của hy vọng và ưu sầu buồn thảm luôn luôn bám lấy chúng ta. Nỗi ưu sầu tập thể có thể dễ dàng trở thành hoảng sợ quá độ giữa bất cứ một khủng khoảng nào.
Do đó bám chặt vào Lời Chúa là điều rất quan trọng để có thể phác họa một cuộc sống theo Lời và sống với Lời. Từ đó, chúng ta có thể thực hiện những lời tiên tri Daniel (Dn 12:1-3) trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta: “Những kẻ khôn ngoan sẽ sáng chói như ánh sáng bầu trời, và những kẻ dẫn đưa nhiều người về đường công chính sẽ nên như những vì tinh tú tồn tại đến muôn ngàn đời.”
Do đó bám chặt vào Lời Chúa là điều rất quan trọng.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXXIII/TN-B – Mc 13, 24-32) là một trích đoạn “Bài giảng về ngày TN 33-B92
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXXIII/TN-B – Mc 13, 24-32) là một trích đoạn “Bài giảng về ngày cánh chung” của Đức Giê-su Ki-tô. Ngày cánh chung (tận thế) đã được tiên báo từ Cựu Ước: “Thời đó, sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao.” (Đn 12, 1-3).
Nếu đọc hết cả “Bài giảng về ngày cánh chung” thì sẽ thấy ngày cuối cùng của trần thế thật là khủng khiếp: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa gạt. Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính Ta đây!”, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Khi anh em nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã, thì đừng khiếp sợ. Những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cục. Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có động đất ở nhiều nơi, sẽ có những cơn đói kém. Những sự việc ấy là khởi đầu các cơn đau đớn. Phần anh em, anh em hãy coi chừng! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và các hội đường; anh em sẽ bị đánh đòn; anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ được biết… Anh em sẽ nộp nhau cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.” (Mc 13, 5-13). “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.” (Lc 21, 25-26).
Ngày cuối cùng của trần thế là như vậy đó! Và chỉ nghĩ tới thôi cũng đã thấy sợ hãi khôn cùng, chẳng hiểu khi đối diện với sự thật thì sẽ ra sao? Điều đáng lo ngại nhất là thế giới ngày nay đã diễn ra giống như lời tiên báo của Đức Ki-tô, thậm chí còn tệ hại hơn nữa là khác. Sự sa đọa và tội lỗi của nhân loại ngày càng gia tăng. Con người dường như ngày càng mất đi cảm thức về tội lỗi. Người ta chỉ biết quan tâm chạy theo những quyến rũ của vật chất, của quyền lực danh vọng, của thú vui xác thịt… Con người trở nên ích kỷ hơn bao giờ hết. Các tôn giáo có khuynh hướng chỉ chú tâm đến những lễ nghi hay hình thức bên ngoài mà quên đi tinh thần phải có ở bên trong.
Vì thế, khả năng soi sáng và hướng dẫn thế giới của các tôn giáo không mấy hữu hiệu. Giới tăng lữ, tu sĩ bị tục hóa đến nỗi nhiều người chỉ coi tác vụ của mình như một nghề nghiệp sinh nhai. Ấy là chưa kể những “Ki-tô, ngôn sứ, tiên tri giả” nhan nhản khắp nơi. Đó là những điều khiến Đức Giê-su đã đoán trước và lo ngại cho thế giới này: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Đó mới thật sự là nỗi lo sợ của những kẻ thức giả và nói chung là của những người còn tin vào một cõi sống có thực dành cho con người sau ngày tận thế (kẻ lành hưởng phúc, kẻ dữ chịu án phạt đời đời).
Tham sinh uý tử (tham sống sợ chết) là bản chất con người, chuyện đó không có gì đáng trách. Tuy nhiên, chỉ cần đọc tiếp đoạn Tin Mừng trích dẫn trên thì sẽ thấy “sau cơn mưa, trời lại sáng”, sau lúc tối tăm ngặt nghèo là sự chói rạng của bầu trời hy vọng: “Ngay sau những ngày gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân trời kia.” (Mt 24, 29-31). Đấng Cứu Độ sẽ tái quang lâm và khi đó chính là lúc cả một bầu trời hy vọng sẽ đến với những kẻ TIN và kiên trì với niềm tin của mình mà vượt qua mọi gian nan, thử thách.
Điều cần thiết là trong những ngày cuối cùng ấy, phải cảnh giác cao độ, kẻo mắc mưu gian của những kẻ “phản Ki-tô” hoặc “Ki-tô giả” (“Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào.” – 2Tx 2, 3). Ấy cũng bởi vì không ít người xưng mình là “con cái”, là “tôi tớ” của Thiên Chúa là Đấng Chân Thật, nhưng lại tin nghe và hùa theo những chuyên gia “lộng giả thành chân” (lấy giả làm thật), tránh né sự thật, đánh bóng, tô hồng cho sự giả trá để biến nó thành “sự thật” với mục đích lôi cuốn những người trẻ lòng non dạ… Họ chính là những kẻ đã bị ngôn sứ I-sai-a vạch trần mưu gian: “Khốn thay những kẻ lấy dây gian tà kéo lầm lỗi, và dùng thừng kéo xe mà lôi theo tội ác… Khốn thay những kẻ bảo cái tốt là xấu, cái xấu là tốt, những kẻ biến tối thành sáng, sáng thành tối, biến cay đắng thành ngọt ngào, ngọt ngào thành cay đắng.” (Is 5, 18-20).
Như vậy thì thái độ ứng xử cần có của Ki-tô hữu phải là tỉnh thức và chờ đợi, hay nói cách khác là hãy nhìn lại mình để thấy được mình đã sống như thế nào và tận dụng ngày cuối cùng của cuộc đời ra sao, để sẵn sàng đón nhận ngày phải đến và sẽ đến – ngày “chung thẩm” cuộc sống trần ai. Thánh Phao-lô đã gửi tín hữu Ê-phê-sô những lời khuyên chí tình chí nghĩa: “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối” (Ep, 15-16). Vâng, “biết tận dụng thời buổi hiện tại” và hãy sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng: Yêu thương gia đình và những người thân cận như thể không còn dịp để yêu thương nữa. Cuối cùng, hãy cầu nguyện như thể mình cầu nguyện lần cuối.
Tóm lại, bất cứ một sự gì trên đời có khởi đầu thì cũng có kết thúc, không có bất cứ một sự gì là miên viễn bất tử cả. Là con người thì ai cũng biết chắc chắn 100% rằng mình sẽ chết. Mà cũng vì thế nên con người cứ mò mẫm tin vào thầy nọ thuốc kia mà đi tìm thần dược trường sinh bất tử. Từ khi con người nhờ hồng ân Thiên Chúa ban, hiện diện trên trái đất này cho tới ngày nay, chưa một ai chứng minh được rằng mình thoát khỏi sự chết, thoát khỏi sự trở về với cát bụi. Con người biết chắc mình đã “sinh ký” (sống gởi) thì sẽ “tử quy” (thác về); nhưng khổ một nỗi là chẳng ai biết chắc được về ngày giờ chết của mình. Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, không ai ngờ trước được. Ngày cánh chung cũng vậy (“Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả Người Con cũng không, chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi.” (Mt 24, 36). Vì thế, cần phải chuẩn bị thật chu đáo ngày diện kiến Ông Chủ để được Người phán dạy: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25, 23).
Thật là phù hợp khi Hội Đồng Giám Mục ấn định ngày bế mạc Năm Thánh “Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam” vào ngày lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, đúng vào Chúa nhật XXXIII mà các bài Kinh Thánh đều tập trung trình thuật ngày cánh chung vũ trụ. Xin toàn bộ Ki-tô hữu Việt Nam nhiệt tình hưởng ứng lời mời gọi của Hội Đồng Giám Mục trong Thư Công bố Năm Thánh (số 2): ”Năm Thánh 2018 mời gọi mọi tín hữu chiêm ngắm và học hỏi gương sống đức tin của các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Việc học hỏi này vừa giúp chúng ta hiểu biết hơn về lịch sử Hội Thánh và các Thánh Tử Đạo, vùa thúc đẩy chúng ta noi theo gương sống của các ngài. Chúng tôi khuyến khích các giáo xứ, dòng tu cũng như các đoàn thể, tổ chức những buổi thuyết trình và thảo luận về các Thánh Tử Đạo, để giúp mọi người hiểu biết, yêu mến và noi gương các ngài.”
Ôi! Lạy Chúa! Con ao ước ngày “thẩm định chung cuộc” phải là ngày hạnh phúc nhất của con. Con muốn chuẩn bị bằng cách: ngày nào hay giờ nào con cũng sống như thể ngày đó hay giờ đó là ngày hay giờ cuối cùng cuộc đời trần thế của con, để “biết tận dụng thời buổi hiện tại” như lời dạy của Thánh Phao-lô. Hy vọng với cách đó, con sẽ luôn luôn sẵn sàng trở về với Chúa bất cứ giây phút nào. Ôi! Lạy Chúa! Xin thương xót con, xin giúp con sống thật sự tinh thần chuẩn bị sẵn sàng đó, để “Khi Chúa thương gọi con về, Hồn con hân hoan như trong một giấc mơ. Miệng con nức vui tiếng cười, lưỡi con vang lời ca hát. Ngàn dân tung hô, con thật vinh phúc.” (Kim Long – “Ngày về” – TCCĐ). Amen.
“Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì dể hưởng phúc thường sinh; kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời” (Dn 12,2).
Điều đang nói ở đây là quang cảnh của ngày tận thế. Ngày mà “Thiên hạ sẽ thấy con Người đầy TN 33-B93
Điều đang nói ở đây là quang cảnh của ngày tận thế. Ngày mà “Thiên hạ sẽ thấy con Người đầy quyền năng và vinh quang ngừ trên đám mây mà đến” (x.Mc 13,26). Đây gọi là “cuộc phán xét chung”. Khi đó mọi người chết sẽ sống lại, nhưng số phận lại chia làm hai hướng khác nhau. Người thì hưởng phúc trường sinh, tức là được vào thiên đàng. Kẻ thì phải chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời, nghĩa là vào hỏa ngục. Ta hãy xem giáo lý của Giáo Hội nói gì và hai nơi này.
Về thiên đàng. “Thiên đàng là cuộc sống viên mãn, vì được hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi; với Đức Trinh nữ Ma-ri-a, với các thiên thần và các thánh. Thiên đàng là mục đích tối hậu và là sự thực hiện các nguyện vọng sâu xa nhất của con người; là tình trạng hạnh phúc tuyệt hảo và chung cuộc” (GLCG, số 1024).
Quả thật, ““chúng ta không đủ khả năng hiểu biết và trình bày mầu nhiệm hiệp thông vinh phúc với Thiên Chúa và tất cả những người ở trong Đức Ki-tô. Khi nói về mầu nhiệm này, Thánh Kinh dùng những hình ảnh như sự sống, ánh sáng, bình an, tiệc cưới, rượu mới trong Nước Trời, Nhà Cha, Thành Giê-ru-sa-lem thiên quốc.Thiên đàng là “Điều mắt chẳng hề thấy; điều tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ đến, đó là điều Thiên Chúa dọn sẵn cho những ai yêu mến Người” (x. 1Cor 2,9)”” (GLCG, số 1027).
Đúng vậy, thiên đàng chẳng một ai đã thấy, đã nghe hay nghĩ tới, chỉ một mình Đức Giê-su, từ trên đó xuống và nói cho chúng ta biết mà thôi. Con người ta, đâu có biết gì về thiên đàng, cứ nghĩ thiên đàng cũng như thế gian này, có điều khác là không phải đau khổ, không phải cực nhọc, không phải vất vả thôi. Cũng lấy vợ gả chồng, cũng sinh sống như ta đang sống. Không, đó chỉ là thiên đàng của con người, chứ không phải là thiên đàng của Thiên Chúa.
Thiên đàng của Thiên Chúa, chỉ sau khi chết ta mới biết và ngày tận thế ta mới sống. Đó là nơi lòng chúng ta không hề nghĩ tới. Thế mới hấp dẫn chứ. Nếu biết rồi còn chi là hấp dẫn nữa. Trong cuộc sống, có những điều ta không dám mơ, không dám ước, thế mà lại được khi đó ta mới cảm được, đó là hạnh phúc biết chừng nào.
Làm sao ta lại có được một người yêu thương ta như thế. Ta có làm gì đâu; ta giỏi dang hay đẹp đẽ gì. Thế mà có người lại yêu thương ta đến “chết mê chết mệt”; yêu thương ta “tít thò lò”. Có bao giờ ta dám nghĩ thế đâu, thế mà ta lại được. Đúng là ngoài sức tưởng tượng của ta, hạnh phúc biết chừng nào !!!
Ta con nhà nghèo, ngoại ngữ chẳng biết mô tê gì; cũng chẳng có “danh gì với núi sông”, thế mà lại được chọn đi nước ngoài. Rồi học mãi, học hoài chẳng nói được, cả 5 năm trời chứ đâu có ít. Và một ngày đẹp trời nào đó, tự dưng, ta nói được ào ào như gió, không cần nghĩ, không cần suy, cứ thế mà nó tuôn ra. Ôi, lạy Chúa, không có hạnh phúc nào bằng !!!
Lại nữa, ở Việt Nam thì cà tịch cà tang chiếc mô-bi-lét, chiếc cup 50; chiếc 67; có bao giờ nghĩ mình lái xe hơi. Rồi cũng phải học, cũng phải tập, thi tới thì hoài cũng đậu. Đã hơn 10 năm rồi, khi lái xe hơi đi chỗ này chỗ kia, cứ chạy tưng tưng, trong lòng vẫn cảm thấy sung sướng làm sao ấy!!!
Rồi ước muốn đi tu, nhưng cha xứ không cho giấy giới thiệu; cũng cứ đi; quá tuổi không vào chủng viện được, thì đi Dòng. “Dòng kín” không được thì sang “Dòng hở”. Ai đời, khấn trọn đời rồi, lại được chọn cho đi truyền giáo nước ngoài; lại cho luôn. Thế là thuộc về giáo phận, được truyền chức, trở thành Linh Mục Triều.Chạy lòng vòng, thế mà cũng tới đích mình muốn. Thật không còn hạnh phúc nào bằng !!!
Thế đấy, ngay đời sống trên trần gian này, ta còn cảm được hạnh phúc, khi những gì mình không dám mơ, không dám ước mà có được. Thế thì, hạnh phúc thiên đàng, ta cũng không dám mơ, không dám ước, mà được vào thì hạnh phúc biết chừng nào !!!
Nói không mơ, không ước thì cũng không đúng, vì ai cũng muốn, cũng ao ước sau khi chết được vào thiên đàng. Nhưng đa số, người ta chỉ ươc mơ xuông, chỉ có lòng ước ao thôi mà không cố gắng làm gì để được vào thiên đàng. Ta cũng ước, cũng mơ và cố gắng bao có thể để được vào thiên đàng, nhưng trên thiên đàng hạnh phúc thế nào thì ta chưa biết, đến khi vào được đó thì ta sẽ biết hạnh phúc thiên đàng là gì. Lúc đó mới hạnh phúc làm sao !!!
Còn về hỏa ngục? “Hội Thánh dạy rằng có hỏa ngục và án phạt đời đời. Ngay sau chết, linh hồn kẻ mắc tội trọng sẽ xuống hỏa ngục chịu cực hình “lửa đời đời”. Vì chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm được sự sống và hạnh phúc hằng khao khát, nên cực hình chính của hỏa ngục là đời đời bị tách khỏi Thiên Chúa” (GLCG, số 1035).
“Những điều Thánh Kinh xác quyết và Hội Thánh dạy về hỏa ngục, là lời mời gọi con người phải có trách nhiệm sử dụng tự do để đạt tới hạnh phúc đời đời; đồng thời thúc giục ta ăn năn hối cải”(GLCG, số 1036).
Nghe đến hỏa ngục ai cũng sợ và chẳng ai muốn xuống cả. Thế nhưng lại không ra sức để mình khỏi xuống đó. Thế mới chết chứ ! Sợ thì sợ nhưng không ngán; chẳng muốn xuống nhưng lại cứ đi vào. Thiên Chúa chẳng tiền định cho ai phải xuống hỏa ngục cả; Ngài chỉ muốn cho mọi người được vào thiên đàng thôi.
Vậy ta phải làm gì để được vào thiên đàng đây ?
Trong sách tiên tri Đa-ni-en có viết: “Các Hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ; nhưng ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Dn 12,3).
Người Hiền sĩ, không phải là những Ngôi Sao minh tinh Bàn Bạc, những Ngôi Sao ca nhạc, sân khấu hay nhưng danh thủ thể thao mà là người “tỉnh thức”. Họ “tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có thể đứng vững trước mặt Con Người” (x. Lc 21,36). Nói cách khác người Hiền Sĩ là người cầu nguyện. Cầu nguyện để làm chi ? Cầu nguyện để lãnh nhận ơn sủng của Thiên Chúa. Lãnh nhận ân sủng để làm gì ? Để ta được cứu độ.
Thánh Phao-lô nói về ân sủng này như sau: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ đem ơn cứu độ đến cho con người. Ân sủng đó dạy ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta xuất hiện vinh quang” (x.Tt 2,11-13).
Vì muốn từ bỏ được lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức thì phải cần có ơn Chúa ta mới làm và sống được. Nên ta phải cầu nguyện luôn, để “hũ ân sủng” của ta không bao giờ cạn, ta mới có đủ sức và dư sức để “qua cầu”. Người mà sống chừng mực, công chính và đạo đức sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ trong Nước Trời. Nghĩa là được vào Thiên đàng.
Người Hiền sĩ đó không chỉ lo cho mình mà còn làm cho nhiều người khác được hạnh phúc, được nên công chính nữa cơ. “Họ luôn sẵn sàng làm điều thiện; không chửi bới ai; không hiếu chiến nhưng hiền hòa, luôn tỏ lòng từ bi với mọi người” (x.Tt 3,1-2). Họ đã không làm thì thôi, đã làm thì luôn làm điều tốt, điều thiện cho người khác; đem lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Họ không ganh đua với người khác, họ chỉ lo chu toàn bổn phận của mình thôi. Có bị chơi xấu, nghĩ sai hay bị khinh khi họ cũng không trả thù, không thèm để ý tới làm chi, cứ để đó cho Chúa xét xử. Họ chẳng cần ai biết đến hay có ai khen lao cả, có Chúa biết là đủ rồi.
Người sống như thế sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao trong nước Cha của họ, tức là trong Nước Trời; trong thiên đàng.
Quả thật, người tràn đầy ân sủng Chúa và cố gắng sống tốt lành và thánh thiện thì khi chết về với Chúa, ta sẽ được vào thiên đàng và ngày sau hết, ta được phục sinh, cả xác lẫn hồn ta được vào thiên đàng để hưởng phúc trường sinh với Chúa và các thánh.
Vậy ta hãy chọn Thiên Đàng là mục tiêu của ta, để đang khi sống ở đời này ta biết chuẩn bị, biết dùng mọi cơ hội có được trong cuộc sống, bằng cách luôn tỉnh thức và cầu nguyện. Với ơn Chúa, ta sẽ cố gắng hết sức mình để ta nên người Hiền Sĩ, nên người công chính, thánh thiện; đồng thời, cũng giúp cho người khác nên thánh nên thiện nữa. Chắc chắn ta sẽ được vào thiên đàng. Ta đừng có loi ngoi, láu cá mà nên kẻ “lòi sỉ”, coi chừng xuống hỏa ngục như chơi đó.
(Suy niệm của Lm. Sean O'Brien - Chuyển ngữ: JB. Đào Ngọc Điệp)
Nghe tiếng chuông báo từ lò vi sóng, tôi biết thức ăn của tôi đang hâm nóng đã xong. Rồi khi TN 33-B94
Nghe tiếng chuông báo từ lò vi sóng, tôi biết thức ăn của tôi đang hâm nóng đã xong. Rồi khi nghe một bài hát quyến rũ vọng lên từ chiếc xe chạy ngang dưới phố, tôi biết phải chạy nhanh vào nhà lấy tiền để mua thứ gì đó trước khi xe bán kem dạo chạy mất. Nhưng trên thực tế rất ít việc được báo trước và thật bất ngờ. Đây là điều Chúa Giêsu muốn nói đến khi Người dùng ví dụ cây vả: khi bạn sẽ thấy một số thay đổi trên cây là bạn biết ngay: Kìa! Mùa hè sắp đến rồi!
Chúa Giêsu nói điều đó không phải vì Người quan tâm đến mùa hè. Nhưng đó là một thí dụ để ám chỉ một thực tại quan trọng hơn. Chúa Giêsu tuyệt đối và dứt khoát sắp đến rồi. Trong khi đó Người lại nói: Không ai biết được khi nào việc ấy sẽ xảy ra, ngay cả các thiên thần hay Chúa Con cũng chẳng biết. Việc đó không phải là không được báo trước và bất ngờ. Giống như bài hát báo hiệu trước khi người bán kem đến, thì cũng có những dấu hiệu chắc chắn cho biết đây là lần cuối Chúa đến.
Chúng ta phải nhận biết những dấu hiệu này như một việc bác ái vĩ đại vì các dấu hiệu ấy thực sự nói lên một tình yêu bao la. Bản chất việc Chúa trở Lại là điều quan trọng nhất chúng ta cần phải thấu hiểu. Khi Người trở lại, Tổng Lãnh Sứ Thần Mi-ca-e sẽ xuất hiện như một sứ giả. Chúng ta nghe đọc trong sách ngôn sứ Đa-ni-en rằng “đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy” (Đa-ni-en 12:1). Đoạn sách ngôn sứ đề cập đến ngày sau hết, khi những người đã an giấc sẽ trỗi dậy. "Người thì để hưởng phúc trường sinh (có nghĩa là trong an bình và hạnh phúc trên trời), kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời." (Đa-ni-en 12:2). Phần sau của câu này có nghĩa là vào ngày tận thế, thân xác những kẻ xấu sẽ sống lại để vào hỏa ngục.
Thời gian khốn khổ được nhắc đến ở đây không hẳn có nghĩa là tất cả mọi người sẽ bị đau khổ, bởi vì đối với một số người, đó sẽ là thời khắc tuyệt vời và vinh quang nhất trong cuộc đời họ. Tuy nhiên, đối với những người khác thì đây là lúc họ bắt buộc phải mở mắt ra vì trước kia họ đã cố tình làm cho mình thành mù lòa, để rồi họ sẽ cảm nhận rõ ràng sự nặng nề của cả một đời sống xa Thiên Chúa. Đó là nỗi khốn khổ và kinh hãi không thắng vượt được – tức là nỗi khổ đau của những người thiếu khôn ngoan, những người đã không khuyên dạy người khác sống công chính, chứ đừng nói đến chính họ. Trong khi những người hiến thân cho sự công chính của Chúa Giêsu Kitô sẽ được sáng chói như những vì sao trên trời, thì những người bỏ lỡ việc này sẽ phải than khóc thống thiết và tuyệt vọng.
Trong thực tế, Kitô hữu chúng ta cần phải tỉnh thức: Tôi không biết ngày mai tình trạng thiêng liêng của tôi sẽ ra sao. Bạn cũng không biết ngày mai tình trạng thiêng liêng của bạn sẽ như thế nào. Có thể ngay lúc này và ngay tại đây mọi sự đều tuyệt vời, nhưng mỗi chúng ta đang chịu một cơn bão tố đích đáng mà ma quỷ có thể dùng để đánh chúng ta ngã quỵ và phải sa vào lưới của nó. Chúng ta có Thánh Mi-ca-e Tổng Lãnh Sứ Thần chiến đấu thay chúng ta, nhưng ý chí tự do của chúng ta lại dễ dàng lung lay. Cho nên điều ấy làm chúng ta lo sợ và khiến chúng ta phải nghiêm túc nghe theo lời khuyên của Thánh Phao-lô: “Anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ” (Phi-li-phê 2:12).
Vì lý do này, thật là một việc bác ái khi Thiên Chúa ban cho chúng ta các dấu hiệu về ngày tận thế. Cái chết là một thực tại. Chúng ta luôn ý thức một ngày nào đó mình sẽ chết, nhưng chẳng mấy khi chúng ta mong ngày đó sẽ đến. Tuy nhiên đối với ngày sau hết Đức Vua và Thẩm phán sẽ đến thì chúng ta nên mong đợi. Nếu chúng ta đang thấy những xáo trộn thời tiết chưa từng có, nếu chúng ta đang thấy những tai ương khủng khiếp, xung đột và chiến tranh giữa các quốc gia trên thế giới, nếu chúng ta đang thấy động đất và các thiên tai khác, thì chúng ta hãy biết chắc rằng giờ Chúa đến đang tới gần.
Ngày hôm nay những người khôn ngoan sẽ nhận ra những dấu hiệu này. Ngày hôm nay những ai khôn ngoan sẽ chuẩn bị sẵn sàng cho ngày tận thế. Và những người khôn ngoan ngày hôm nay sẽ sẵn sàng lãnh nhận vinh quang muôn đời vào ngày mai. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Amen.
Tin mừng Chúa nhật 33 thường niên cho chúng ta cái nhìn thấu đáo cách thức khéo léo mà các TN 33-B95
Tin mừng Chúa nhật 33 thường niên cho chúng ta cái nhìn thấu đáo cách thức khéo léo mà các thánh sử đã viết nên những trình thuật về Đức Giêsu. Đoạn Tin mừng ngắn theo thánh Máccô thể hiện lối viết và nhãn quan của tác giả, giúp cho độc giả có sự hiểu biết Đức Giêsu cách đúng đắn. Quyền lực, sự hợp thời và mong đợi là những chủ đề nổi bật mà chúng ta muốn nghe khi đến gần Lễ Chúa Kitô Vua, mùa Vọng và Lễ Chúa Giáng Sinh.
Khi gần kết thúc sứ vụ của mình, Đức Giêsu nhấn mạnh với các môn đệ về đau khổ, cái chết và phục sinh sắp đến của Ngài. Bài Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh ngay trước những sự kiện xung quanh bữa tiệc ly của Đức Giêsu với các môn đệ và việc Ngài bị bắt giữ. Đức Giêsu nói rằng Con Người sẽ ngự giá mây trời mà đến trong quyền năng và vinh quang. Hình ảnh này dựa vào Đanien chương 7 của Bài đọc một Chúa nhật tới (Lễ Chúa Kitô Vua). Ngôn sứ Đanien mô tả một thị kiến: “tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời”. Đấng ấy có quyền năng thống trị đến muôn đời, và thánh sử Máccô thường đồng hóa Đức Giêsu chính là Con Người để khẳng định quyền năng và vương quyền của Ngài.
Phần thứ hai của bài Tin mừng đề cập đến một sự kiện trước đó: Đức Giêsu chúc dữ cây vả không có trái. Sau khi vinh thắng tiến vào thành Giêrusalem, Đức Giêsu thấy đói và kiếm trái vả trên cây. Không tìm được gì, Ngài liền phán: “muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa” (Mc 11,14). Ngày hôm sau, Đức Giêsu và các môn đệ đi ngang qua cây vả, nó đã chết khô tận rễ, đúng như lời Ngài đã chúc dữ. Đức Giêsu đã biến sự việc đó thành cơ hội để dạy dỗ khi nhắc nhở các môn đệ về việc sử dụng uy quyền khi hành động và cầu nguyện nhân danh Ngài.
Qua việc Đức Giêsu gợi lại câu chuyện cây vả, Máccô muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sinh hoa trái đúng thời vụ. Đức Giêsu đã chúc dữ cây vả vì nó không sinh hoa trái. Mặt khác, khi cây vả đâm chồi thì có nghĩa là mùa hè đang tới gần. Cả hai thực tế này nhắc nhở các môn đệ phải năng động trong sứ vụ, tiếp tục phát triển cộng đoàn cả sau khi Đức Giêsu chết. Gợi lại tình tiết cây vả cũng nhắc nhở các môn đệ về quyền năng và thẩm quyền mà Đức Giêsu trao cho các ông. Hơn thế nữa, việc nhấn mạnh đến thời gian các mùa trong năm cũng nhắc các môn đệ hãy sẵn sàng cho thời kỳ mới sắp đến.
Vào những ngày cuối đời, Đức Giêsu dựa vào Kinh Thánh Do Thái cũng như những giáo huấn trong suốt sứ vụ của mình để chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận điều sắp xảy đến. Cách thức thánh Máccô xây dựng Tin mừng làm nổi bật lời tiên báo về thập giá, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Khi gần kết thúc năm phụng vụ và chuẩn bị bước vào mùa Vọng, chúng ta nên lượng giá những hoạt động và sự dấn thân của mình đối với thế giới trong một năm vừa qua, cũng như suy ngẫm về những cách thức chuẩn bị cho một năm mới sắp đến.
------------ Ban học tập Sao Biển chuyển ngữ từ America Magazine
Ơn cứu độ, hiểu theo nghĩa rộng, là sự giải phóng khỏi tình trạng nguy hiểm đang đe dọa sự TN 33-B96
Ơn cứu độ, hiểu theo nghĩa rộng, là sự giải phóng khỏi tình trạng nguy hiểm đang đe dọa sự an toàn của một người, một cộng đoàn, cũng như, hoàn thành mục đích cuộc đời họ. Hiểu như vậy, bất cứ ai làm điều tích cực cho tha nhân, đều là người cứu độ.
Còn ơn cứu độ, hiểu theo nghĩa chặt, là sự giải thoát khỏi vòng nô lệ tội lỗi và sự chết, là ơn phục hồi phẩm giá con Thiên Chúa, là ơn công chính hóa và sự sống đời đời, thì chỉ một mình Chúa Giê-su, Đấng cứu độ duy nhất, mới thực hiện được mà thôi.
Sự phục sinh biểu lộ cách hùng hồn quyền năng duy nhất, tuyệt đối của Chúa, không chỉ trên thế lực sự dữ, mà còn ban tặng thế gian tình yêu và sự sống muôn đời.
Bài sách Daniel nhắc tên tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en, mà tên của ngài có nghĩa là: “Ai bằng Thiên Chúa”, như một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa quyền năng, xuyên suốt chiều dài lịch sử cứu độ.
Mạc khải thường nhắc cụm từ “Thiên Chúa quyền năng” như một điệp khúc, nhằm nuôi dưỡng lòng tin, cậy, mến cho dân Chúa lúc ngặt nghèo, bách hại, thất vọng. Chúa Giê-su cũng thường giáo huấn các môn đệ: “Đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn ; hãy sợ Đấng có thể giết cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10, 28).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mạc khải Thiên Chúa, Đấng quyền năng tuyệt đối hành động cốt vì ơn cứu độ và vì sự sống trần gian.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Daniel, nhắc tên thiên thần Mi-ca-en, có ý gợi lại cuộc chiến chống lại Lucifer, đầu mục quỷ dữ. Tên Mi-ca-en có nghĩa là: “Ai bằng Thiên Chúa”, mặc nhiên tuyên xưng quyền tối thượng tuyệt đối của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, cứu chuộc và thần hóa thế gian.
Nội dung lời sách thánh nhấn mạnh trên chiến thắng trung cục của Thiên Chúa, cho dù hiện tại có vẻ như sự dữ đang thắng thế, bất công, bạo tàn, bách hại và mọi thứ hình khổ vây bủa người công chính, nhưng họ sẽ chiến thắng nhờ bàn tay uy quyền đầy dũng lực của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ bỏ rơi dân Người.
Thiên Chúa sẽ định đoạt số phận của mỗi người tùy theo việc họ đã làm: người hiền sẽ sống lại để hưởng phúc trường sinh, còn kẻ gian ác cũng sẽ trỗi dậy để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời.
Như vậy, lời sách thánh hướng chúng ta tới ngày cánh chung khi mọi sự đều phơi bày trước nhan Thiên Chúa đúng theo bản chất của loài đó. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như mặt trời rực rỡ và sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao.
Lời khải huyền của sách Daniel được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su, Đấng là chính quyền năng của lòng thương xót Chúa Cha.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc là lối văn khải huyền nói về ngày tận thế, vua Kitô đầy quyền uy, ngự xuống trên mây trời, thực hiện cuộc xét xử công minh, muôn dân sẽ được tập họp, được tách biệt thành hai nhóm người lành/kẻ dữ. Người lành được hưởng hạnh phúc Nước Trời, kẻ dữ phải chịu luận phạt.
Quyền năng cứu độ của Giê-su đặt nền tảng trên tình yêu và sự sống, chắc chắc, Người không nhắm luận phạt thế gian, nhưng để muôn người được hưởng ơn cứu độ.
Giê-su, với tư cách là người mang và đầy tràn Thánh Thần, luôn tỏ ra dịu dàng, hiền lành, khiêm tốn thật, luôn chạnh lòng xót thương hết thảy mọi người, nhất là những ai bé mọn, nghèo hèn: “Cây sậy dập gẫy, Ngài không nỡ bẻ, tim đèn còn khói, Ngài không nỡ tắt” (Mt 12, 20).
Giê-su sử dụng một thứ “quyền lực mềm”, nên khi ngự xuống trên mây trời, Người đã thiết lập một nền hòa bình viên mãn, bền lâu sáng ngang cùng tuế/nguyệt.
Bởi vậy, trong khi chờ đợi ngày trở lại của Chúa Giê-su, chúng ta phải dẫy tràn niềm vui tươi, phấn khởi. Chờ đợi Chúa đến trong niềm vui là tích cực sống Tin Mừng, là chu toàn bổn phận, là tỉnh thức sẵn sàng như người đầy tớ trung tín, tốt lành và khôn ngoan.
Tác giả thư gởi tín hữu Do Thái đề cao vai trò thượng tế của Chúa Giê-su, như là cách thức Thiên Chúa biểu lộ quyền năng yêu thương để cứu độ muôn dân. Chúa Giê-su là thượng tế, là của lễ và là bàn thờ. Ngài không dùng lễ vật tượng trưng là máu con vật bị sát tế, nhưng là chính thân xác Người bị trao nộp vì tất cả chúng ta, máu ấy đổ ra do sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Cha, rửa sạch lương tâm chúng ta khỏi hành vi sự chết, mà phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.
Sau khi vâng phục tự hiến chính mình làm của lễ thơm tho tinh tuyền đẹp lòng Cha mọi đàng, nên được Cha tôn vinh, ngự bên hữu mình trên trời, làm Đấng trung gian cứu độ giữa Thiên Chúa và loài người.
Quyền năng của Đấng chịu đóng đinh đã làm nên một nhân loại mới được thần hóa, nên một trời mới đất mới luôn có công lý ngự trị.
Thật là, dưới gầm trời này, không thể có một danh nào khác có sức cứu độ trọn hảo như thế, ngoài danh Giê-su Kitô, Chúa chúng ta.
Vậy, chúng ta hãy mạnh dạn, tin tưởng, cậy trông chạy đến với Chúa, mở rộng tâm hồn, để Chúa vào cư ngụ dưới mái nhà ta, để được dùng bữa tối hiệp thông với Ngài, nhờ đó chúng ta được cứu độ và được giải thoát. Kitô hữu cần tin tưởng vào quyền năng yêu thương của Chúa Giê-su, nhất là hành động nhân danh Ngài, để Chúa thực hiện công trình cứu độ thế gian qua chính con người chúng ta.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho cộng đoàn chúng ta. Amen!
Theo truyền thống, Giáo Hội dành thời gian kết thúc Năm Phụng Vụ để nhắc nhở các tín hữu TN 33-B97
Theo truyền thống, Giáo Hội dành thời gian kết thúc Năm Phụng Vụ để nhắc nhở các tín hữu thời Cánh Chung, thời kết thúc vận mệnh con người, nhưng cũng là thời con người hội ngộ với Thiên Chúa của mình trong cuộc sống đời đời.
Đn 12: 1-3
Bài Đọc I, trích từ sách Đa-ni-en, khẳng định rõ nét cuộc phục sinh các vong nhân và sự biến đổi hình dạng của những người được sống lại.
Dt 10: 11-14, 18
Thư gởi tín hữu Do thái nêu bật tính hiệu quả hy tế độc nhất của Đức Giê-su qua đó Ngài thông truyền cho nhân loại sự thánh thiện của Ngài. Trong vinh quang bên cạnh Chúa Cha, Ngài chờ đợi việc thiết lập Nước Trời vào lúc cuộc chiến thắng vĩnh viễn trên các thế lực của sự ác.
Mc 13: 24-32
Tin Mừng Mác-cô gợi lên thời gian nan, nhưng đó cũng là thời cứu độ, thời chuẩn bị cuộc Quang Lâm của Đức Ki-tô và cuộc tập hợp những người ưu tuyển vào thời chung cục.
BÀI ĐỌC I (Đn 12: 1-3)
Bản văn Cựu Ước này thuộc thế kỷ II trước Công Nguyên khẳng định cách rõ nét nhất cuộc phục sinh của các vong nhân và sự biến đổi hình dạng của những người ưu tuyển trong cuộc sống đầy ánh sáng. Đây là lần đầu tiên xuất hiện trong Kinh Thánh diễn ngữ: “phúc trường sinh”.
Thật ra, bản văn Đa-ni-en này rất gần với sấm ngôn của I-sai-a:
“Các vong nhân của Ngài sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên. Này những kẻ nằm trong bụi đất, hãy chỗi dậy, hãy reo mừng! Vì lạy Chúa, sương Ngài ban là sương ánh sáng, và đất sẽ cho các âm hồn được hồi sinh” (Is 26: 19).
Tuy nhiên, như sấm ngôn của Ê-dê-ki-en về cuộc hồi sinh các bộ xương khô (37: 1-11), người ta không loại trừ sấm ngôn của I-sai-a này có liên hệ đến những người lưu đày tại Ba-by-lon, họ gởi nấm xương tàn của mình ở nơi đất khách quê người. Qua đó, vị ngôn sứ loan báo cuộc giải thoát của họ và cuộc tái thiết đất nước của họ.
1. Niềm hy vọng lớn lao:
Dù thế nào, sấm ngôn của I-sai-a và sấm ngôn của Ê-dê-ki-en đã góp phần hướng tầm nhìn của con người về viễn cảnh cánh chung. Nhưng để Mặc Khải được phát triển và niềm hy vọng được rộng mở phải có một chấn động tâm lý sâu xa. Đó là cuộc bách hại mà người Do thái tại Pa-lét-tin phải chịu do vua Xy-ri-a là An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê tiến hành. Làm thế nào người ta có thể tưởng tượng rằng những người phải đối mặt với những nỗi khốn khổ cùng cực, ngay cả cái chết để nhất mực trung thành với Thiên Chúa, cũng vào cõi Âm Ty là nơi cư ngụ đời đời như bao người khác được chứ? Thánh vịnh gia đã hát ca rồi niềm hy vọng mà những người công chính được vui sống bên cạnh Thiên Chúa, trong khi bọn ác nhân bị ném vào nơi tối tăm, hay bị tiêu diệt.
Tác giả sách Đa-ni-en biên soạn tác phẩm của mình, trong những năm bách hại. Mục đích của ông là củng cố lòng trung tín của các tín hữu và đem lại cho họ, khi phải đối mặt với cuộc bách hại, những động lực cho sự can đảm và hy vọng. Ông mượn tên Đa-ni-el, một thiếu niên Do thái anh hùng xưa kia bị lưu đày tại Ba-by-lon đã dám cưỡng kháng lại vua ngoại giáo là Na-bu-cô-đô-nô-so. Trong phần thứ nhất của sách Đa-ni-en, tác giả xây dựng câu chuyện khuyến thiện và mẫu mực, đôi khi được phóng đại đến mức không thực: tác giả biến Đa-ni-en không chỉ một người Do thái trung thành cách mẫu mực, nhưng còn một nhà thấu thị giải mã lịch sử và phát hiện những ý định của Thiên Chúa trong lịch sử đó.
2. Thời chung cục:
Phần thứ hai của sách thuộc loại văn chương khải huyền mà tác giả khai mạc. Thể loại văn chương khải huyền sẽ nở rộ sau này (được vài bản văn của I-sai-a, Giô-en, Ê-dê-ki-en, Da-ca-ri-a chuẩn bị trước). Bản văn hôm nay được trích dẫn từ đoạn cuối của phần thứ hai này. Nhà thấu thị vừa mới báo trước cái chết gần kề của kẻ bách hại là vua An-ti-ô-khô, đồng lúc cuộc giải thoát của Ít-ra-en. Từ cuộc giải thoát này, tác giả hình dung ơn cứu độ của Dân Thiên Chúa vào thời chung cục.
Đây là thời ngặt nghèo nhưng cũng là thời chan chứa hy vọng dưới quyền bảo trợ của “Mi-ca-en, ngài là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường hằng che chở dân Người” (12: 1). Vào thế kỷ II trước Công Nguyên, khoa thiên thần học rất phát triển trong Do thái giáo. Văn chương khải huyền ban cho mỗi quốc gia một thiên thần làm đấng bảo trợ. Có bốn tổng lãnh thiên thần: Mi-ca-en có nghĩa “ai sánh bằng Thiên Chúa”, Gáp-ri-en có nghĩa “người của Thiên Chúa”, Ra-pha-en có nghĩa “Thiên Chúa cứu chữa” và Ou-ri-en có nghĩa “ánh sáng của Thiên Chúa”. Tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en là đấng bảo trợ đặc biệt của Ít-ra-en, chính ngài, trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, chiến đấu chống lại Con Rồng.
Một đàng, vào lúc tiên báo cuộc phục sinh của các vong nhân, các người công chính Ít-ra-en đang chờ đợi hưởng phúc trường sinh. Xem ra, thị kiến của vị ngôn sứ chưa dự kiến toàn thể nhân loại, nhưng chỉ những người tử đạo thời vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê, cũng như “các hiền sĩ”, tức những người đã hiểu sứ điệp tôn giáo của Ít-ra-en và đã trung thành với Đức Chúa, và “những thầy dạy đàng công chính”, tức là “những ai làm cho người người nên công chính”. Qua biểu tượng ánh sáng, ngôn sứ loan báo cuộc thay hình đổi dạng của những người hưởng phúc trường sinh.
Đàng khác, đây là lần đầu tiên Kinh Thánh gợi lên cuộc phục sinh của những kẻ tội lỗi để chịu xử án. Trước đây các ngôn sứ hay các hiền nhân nhắm đến việc tiêu diệt bọn ác nhân, chẳng hạn như lời cầu nguyện này:
“Lạy Đức Chúa, tay Ngài giơ lên, chúng chẳng thấy, nhưng sẽ thấy Ngài yêu thương nồng nhiệt dân này, khiến chúng phải thẹn thùng xấu hổ; lửa dành cho thù địch của Ngài sẽ thiêu đốt chúng” (Is 26: 11).
Trong Tin Mừng Mác-cô hôm nay, khi tiên báo thời chung cục, Đức Giê-su định vị mình vào hàng của những lời tiên báo Cựu Ước: thời ngặt nghèo báo hiệu thời cứu độ. Tuy nhiên có những khác biệt lớn lao. Thời chung cục được đánh dấu bởi cuộc Quang Lâm của Đức Ki-tô. Vì thế, công trình cứu độ và cuộc phục sinh của Đức Ki-tô đã mở ra đến vô tận những viễn cảnh chan chứa hy vọng.
BÀI ĐỌC II (Dt 10: 11-14, 18)
Cùng với đoạn trích hôm nay, chúng ta đọc hết các đoạn trích dẫn quan trọng trong Thư gởi tín hữu Do thái suốt bảy tuần qua.
1. Tính hữu hiệu hy tế duy nhất của Đức Giê-su:
Chương 10 được định vị vào phần kết của phân đoạn trung tâm được dâng hiến cho chức tư tế của Đức Giê-su. Tác giả tóm lược đề tài đã được khai triển dài: tính vô hiệu chức tư tế và các hy tế của Cựu Ước, các lễ tế này “chẳng bao giờ xóa bỏ được tội lỗi”, và tính hữu hiệu hy tế duy nhất của Đức Giê-su, Người vừa là tư tế vừa là tế vật, lễ tế này “vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hóa được nên hoàn hảo”.
Trong sự gợi ý sau cùng này, tác giả nhắm đến không còn chỉ vị Thượng Tế, nhưng tất cả các tư tế trong việc phục vụ hằng ngày của họ, để bao gồm tính vô hiệu của tất cả hệ thống lễ tế và nghi lễ của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Còn Đức Ki-tô, sau khi đã tự hiến để đền tội cho nhân loại, Người đã vào trong vinh quang, vinh quang này sẽ viên mãn khi mà thế lực của sự ác bị đánh bại vĩnh viễn vào thời chung cục. “Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân Người”, câu này xuất xứ từ Tv 110, thánh vịnh Mê-si-a vương đế mà tác giả đã nhiều lần trích dẫn.
Ở lòng vinh quang này, Đức Ki-tô theo đuổi công trình cứu độ của Người, vì lễ tế của Người luôn luôn hữu hiệu bên cạnh các tín hữu để thánh hóa họ và dẫn họ đến cùng một vinh quang này.
2. Thánh Lễ tái hiện hiến lễ của Đức Giê-su:
“Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hóa được nên hoàn hảo”. Câu nói nổi tiếng này đã gây nên những tranh luận. Anh em Tin Lành dựa trên bản văn này để từ chối Thánh Lễ là hy tế, nhưng chỉ là tưởng niệm. Các tín hữu Công Giáo cho rằng Thánh Lễ là tái diễn hy tế duy nhất, hy tế Thập Giá, chứ không một hy tế mới; vì thế, Thánh Lễ không đơn thuần tưởng niệm, nhưng tái hiện hiến lễ duy nhất của Đức Giê-su trên đồi Sọ. Không ai chối cãi hy tế mà Đức Giê-su đã thực hiện trên Thập Giá một lần là đủ, nhưng hy tế ấy phải được tái hiện để đem ơn cứu độ đến với mọi người ở mọi thời cho đến ngày Người trở lại, chứ không chỉ dành riêng cho một nhóm người vào một thời gian nhất định.
TIN MỪNG (Mc 13: 24-32)
Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đều định vị diễn từ này của Đức Giê-su vào giờ phút được xác định đem lại ý nghĩa phong phú cho bài diễn từ: Đức Giê-su giảng dạy lần cuối cùng trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem; Ngài sẽ không còn quay lại chỗ này nữa và Ngài báo cho các môn đệ biết Đền Thờ sẽ bị phá đổ thành bình địa “sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (13: 2). Các môn đệ sửng sốt. Lúc đó, Đức Giê-su cho các ông biết rằng phải biết đọc ra trong những biến cố này một dấu chỉ: dấu chỉ của một thế giới mới mà Ngài đã đến thiết lập, và Ngài sẽ trở lại, vào thời chung cuộc, để hoàn tất công trình này. Cũng vậy, trước khi từ giả các ông, Đấng Phục Sinh đã long trọng hứa với các ông là Ngài sẽ trở lại.
Cuộc trở lại sẽ xảy ra chỉ khi thế giới đã trải qua thời gian nan. Đoạn, Đức Giê-su đề cập đến viễn cảnh chung cục; Ngài sử dụng những kiểu nói Kinh Thánh và từ vựng khải huyền, kiểu nói này dễ hiểu đối với các môn đệ của Ngài và các Ki-tô hữu tiên khởi, nhưng thật khó hiểu đối với chúng ta. Vì thế, bài diễn từ chứa đựng nhiều điều khó hiểu này.
1. Khúc dạo đầu cho một thế giới mới:
Trong Cựu Ước, những đảo lộn của vũ trụ là những hình ảnh ước lệ được dùng để giới thiệu cuộc can thiệp vĩnh viễn của Thiên Chúa, bày tỏ sự siêu việt của Ngài: quyền năng của Thiên Chúa trên các yếu tố là dấu chỉ quyền năng của Ngài trên mọi biến cố. Chính qua hình ảnh như vậy mà các ngôn sứ loan báo cuộc sụp đổ của các đế quốc, sự trừng phạt của các quốc gia ngoại giáo hay của dân bất trung. Giờ chung cục, giờ Thiên Chúa xử án, “ngày của Thiên Chúa” được mô tả theo cùng một cách thức như vậy: “Ngày của Đức Chúa đến rồi, ngày ấy đã kề bên. Ngày tối tăm u ám, ngày mây mù tối đen…Mặt trời mặt trăng tối sầm lại, tinh tú không còn chiếu sáng nữa…Bấy giờ, hết những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được ơn cứu độ” (2: 2, 10; 3: 5). Bởi lẽ đó sẽ là ngày thịnh nộ.
Phải lưu ý rằng trong diễn từ của Đức Giê-su, như thánh Mác-cô trình thuật, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa cũng như cuộc xử án không được nhắc đến, nhưng chỉ gợi lên viễn cảnh bình an và vinh quang của những người ưu tuyển tụ tập chung quanh Con Người. Từ những hình ảnh hoàn vũ truyền thống, thánh ký chỉ giữ lại ý nghĩa của chúng như khúc dạo đầu cho một thế giới mới sắp được khai sinh, sánh ví với một mùa hè sắp đến gần khi thấy cây vả đâm chồi nẩy lộc. Vì thế, những hình ảnh này xuất hiện như một thị kiến đảo ngược về một cuộc tạo dựng đầu tiên. Chuyện tích của sách Sáng Thế đã nhấn mạnh ánh sáng. Thiên Chúa đã sáng tạo ánh sáng trước mọi thụ tạo, đoạn những tinh tú được chỉ định vai trò của chúng. Nếu trật tự sáng tạo này bị đảo lộn, đó không phải là cuộc sáng tạo đang qua đi sao? (“Trời đất sẽ qua đi…”.
Thánh Mát-thêu sử dụng những ẩn dụ này trong bài trình thuật của mình về cuộc Tử Nạn, để nói rằng cuộc Tử Nạn của Đức Giê-su thiết lập một sự thay đổi tận căn: “Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín…Đất rung đá vỡ” (Mt 27: 45-52).
Mặt khác, chúng ta nên nhớ rằng trong từ vựng của các sách khải huyền kiểu nói “các tinh tú từ trời rơi xuống” là cách diễn tả cuộc sụp đổ của Xa-tan. Chắc chắn Đức Giê-su đã ám chỉ đến điều này khi nói: “Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống” (Lc 10: 18). Nhưng phải chăng chúng ta có thể đưa thêm một lời giải thích tổng quát hơn về sự rung chuyển của những thế lực thiên giới báo hiệu một trật tự mới? Đây là một trong những khó khăn của bản văn. Dù thế nào, cuộc khải hoàn chung cục của Đức Ki-tô giả sử cuộc sụp đổ này của Xa-tan.
2. Cuộc tụ tập đoàn người ưu tuyển:
“Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Chắc chắn đoàn người ưu tuyển này thì rất đông, bởi vì không nói chi đến những người khác. Khi ngự đến lần thứ nhất, Đức Giê-su tự hạ mình thành một người giữa mọi người; khi ngự đến lần thứ hai, ngược lại, Người nâng con người lên cho đến Người để dẫn đưa nhân loại vào trong vinh quang của Người.
3. Ngày và giờ:
Ngay ở đầu câu chuyện, các môn đệ đã hỏi: “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước?” (Mc 13: 4). Họ hỏi Ngài về ngày giờ và điềm báo cuộc sụp đổ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Trong câu trả lời của Đức Giê-su, Ngài lập lại từ ngữ của họ: “Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra”, nhưng bao hàm ở đó văn mạch diễn từ của Ngài, nghĩa là cuộc Quang Lâm tương lai của Ngài: “Anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa”. Vả lại, trong hậu ý của các môn đệ, cuộc tàn phá Đền Thờ - Đền Thờ này quá thân thiết với các ông và các ông sẽ còn đến đó để cầu nguyện và rao giảng hằng ngày vào đầu sứ vụ tông đồ của mình - cuộc tàn phá này có thể được trộn lẫn với thời chung cục của thế giới, điều này xem ra khá nhạy cảm tại thánh Mát-thêu.
“Thế hệ này chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra”. Theo nghĩa hẹp, chúng ta có thể hiểu rằng chính các môn đệ và những người đương thời sẽ chứng kiến cuộc sụp đổ Đền Thờ; nhưng theo nghĩa rộng, cả toàn thể nhân loại. Ở đây chúng ta còn cảm thấy ảnh hưởng kiểu nói khải huyền. Những viễn cảnh được lồng vào nhau đến mức kỷ nguyên thiên sai và kỷ nguyên cánh chung trộn lẫn vào nhau.
“Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi”. Câu nói này làm tốn biết bao giấy mực. Trước tiên, chúng ta hãy nêu lên rằng từ “Con” được dùng ở đây cách tuyệt đối, điều này họa hiếm tại các Tin Mừng Nhất Lãm (hai lần tại Tin Mừng Mát-thêu trong bài trình thuật song đối ở 24: 30 và một lần khác ở 11: 27; một lần duy nhất tại Tin Mừng Lu-ca ở 10: 22): câu này bao gồm một lời Đức Giê-su khẳng định tính siêu việt của Ngài và mối liên hệ tròn đầy với Chúa Cha. Ấy vậy, lời khẳng định này xem ra mâu thuẫn khi Ngài thú nhận rằng chính Ngài cũng không biết ngày và giờ về thời chung cục của thế giới.
Về sự hiểu biết giới hạn của người Con, người ta đưa ra hai lời giải thích: lời giải thích thứ nhất cho rằng nhân tính mà Đức Giê-su đã đảm nhận giới hạn tầm nhìn của Ngài, chính nhân tính hữu hạn này đã có thể che khuất vài điểm về kế hoạch của Chúa Cha. Lời giải thích thứ hai đối chiếu với những lời công bố khác của Đức Giê-su theo cùng ý nghĩa. Đức Giê-su trả lời cho lời cầu xin của hai người con ông Dê-bê-đê được ngồi ở bên hữu bên tả của Ngài trong vương quốc: “Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được” (Mt 20: 23).
Sau khi Đức Giê-su sống lại, các môn đệ hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1: 7). Câu trả lời này rất gần với câu nói trong bài diễn từ cánh chung của Đức Giê-su và soi sáng cho chúng ta hiểu câu nói đó. Vả lại, trong suốt sứ vụ công khai của mình, Đức Giê-su đã không ngừng nhấn mạnh sự phụ thuộc của Ngài đối với Chúa Cha: chính từ nơi Chúa Cha mà Đức Giê-su đã đón nhận mọi sự, chính Chúa Cha đã thông truyền trọn vẹn tình yêu của mình cho Ngài, chính Chúa Cha là nguồn mạch của mọi ân phúc: Đức Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện bằng cách thân thưa: “Lạy Cha chúng con”. Tuy vậy, với vai trò là Con, Chúa Giê-su không thể truyền đạt cho con người những bí mật của Chúa Cha về thời chung cuộc.
Bản văn này của thánh Mác-cô dâng hiến một trong những bức tranh tích cực nhất của sách Tin Mừng. Thị kiến sáng tỏ về thời chung cục này, trong đó công trình của Đức Giê-su được hoàn tất và vận mệnh của con người được hoàn thành, được định vị trong hàng Mặc Khải: Đức Ki-tô đã đến, không để xử án thế giới, nhưng để cứu độ thế giới (Ga 3: 17). Thánh Phao-lô không ngừng lập đi lập lại điều đó.
(Suy niệm của Đs. Montfort Nguyễn Xuân Pháp O.Cist)
1. Tóm Lược Ý Chính
Bài Đọc 1: Đn 12, 1- 3
Bài đọc 1 cho ta ba điểm chính: Thứ nhất: Vào ngày của Chúa, Tổng lãnh Thiên thần Micael sẽ TN 33-B98
Bài đọc 1 cho ta ba điểm chính:
Thứ nhất: Vào ngày của Chúa, Tổng lãnh Thiên thần Micael sẽ đứng lên chỉ huy và che chở dân người. Thứ hai: Kẻ làm điều bất chính sẽ bị ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Thứ ba: Người công chính sẽ được chỗi dậy để hưởng phúc trường sinh.
Bài Đọc 2: Dt 10, 11- 14
Lời Chúa trong thư Do thái hôm nay đưa ra cho chúng ta hai hình ảnh:
Hình ảnh thứ nhất là tư tế: Họ ở trong đền thờ lo việc phụng tự mỗi ngày, dâng gần ấy thứ lễ tế mà chẳng bao giờ xóa bỏ được tội lỗi. Hình ảnh thứ hai là Đức Giêsu: Người chỉ dâng hiến lễ một duy nhất để đền tội cho nhân loại, làm cho những kẻ người đã thánh hóa trở nên hoàn hảo.
Bài Đọc Tin Mừng: Mc 13, 24- 32
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Marco nêu lên cho ta bốn ý chính về ngày Chúa quang lâm. Thứ nhất: Mặt trời tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao sa xuống, các quyền lực lay chuyển. Thứ hai: Con Người sẽ đến đầy quyền năng. Lúc đó các thiên sứ được sai đi để tập họp những kẻ Người tuyển chọn từ bốn phương trời. Thứ ba: Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Người nói sẽ tồn tại mãi mãi. Thứ tư: Về ngày chấm dứt của thế gian thì không ai biết, ngoại trừ Chúa Cha biết mà thôi.
2. Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay thuộc thể văn Khải huyền, nên rất khó hiểu. Ý chính của Lời Chúa hôm nay nói về ngày tận cùng của thế giới. Có lẽ, Giáo hội muốn nhắc nhớ con cái mình biết tính tạm bợ của thế gian và sự mỏng dòn của kiếp người; cho nên, đã đặt đoạn Tin Mừng này vào Chúa nhật áp chót của Năm Phụng Vụ.
Vậy qua Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta rút ra hai ý chính.
a. Thế Giới Này Không Phải Là Vô Tận
Có nhiều tin đồn rằng ngày tận thế sẽ đến vào năm 2000. Sau đó, lại có tin đồn rằng ngày tận thế sẽ xảy ra vào ngày 21/12/2012 và rồi vào ngày 22/2/2014, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở tin đồn. Mới đây, một tờ báo quốc tế loan tin rằng, ngày tận thế sẽ xảy ra vào năm 2015. Lý giải dự báo này, người ta cho rằng trước đó, họ đã tín nhầm ngày kết thúc theo lịch của người Maya. Kết hợp với nhiều lời tiên tri, ngày tận thế được xác định sẽ rơi vào ngày 15/5/2015. Những lời đồn đoán này đã gây ra hoang mang cho biết bao người. Cảnh sát Brazil đã phải đối phó với nguy cơ tự tử tập thể sau khi hơn một trăm tín đồ của một giáo phái cố thủ trong một ngôi nhà để chờ ngày tận thế.
Những tin đồn này đã đi vào dĩ vãng. Tuy nhiên, dựa vào Kinh Thánh và Huấn quyền của Hội Thánh, chúng ta tin rằng thế giới này sẽ có ngày đặt dấu chấm hết. Ngày giờ chấm dứt thế giới thì không ai biết, và cũng không cần biết. Sách Công Vụ Tông Đồ đã nói: “Anh em không cần phải biết ngày giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1, 7). Tin Mừng hôm nay cũng đã nói lên điều đó: “Về ngày giờ đó thì không ai biết được ngay cả Thiên sứ trên trời, và Người Con cũng không thể biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13, 32). Thánh Augustine còn xác quyết: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha”.
Như vậy, chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới, nhưng điều đó chắc chắn sẽ đến. Biến cố này không phải là một cơn thịnh nộ của Thiên Chúa muốn giáng xuống con người, mà đó là một ngày Ngài đã dọn sẵn một thế giới mới cho một nhân loại mới. Nơi thế giới này, công bằng sẽ ngự trị, niềm vui ngập tràn và hạnh phúc viên mãn dành cho ai bền đỗ đến cùng. Vì thế, chúng cần phải sống trong thái độ “tĩnh thức và cầu nguyện” để sẵn sàng chờ ngày của Chúa đến.
b. Con Người Không Phải Là Vĩnh Cửu
Mỗi bước đi của con người là một bước tiến gần đến cái chết. Không ai biết được ngày chấm dứt đời mình, nhưng cũng không ai có thể bước qua được cái hố định mệnh này. Ngày đó, Chúa sẽ đến với mỗi người để kiểm điểm và đánh giá xem chúng ta đã sử dụng thời gian Chúa ban như thế nào: chúng ta là tên đầy tớ bất trung chỉ biết phung phí gia sản vào những cuộc ăn chơi và những thú vui hạ đẳng, hay là tên đầy tớ tài giỏi biết làm sinh lợi những nén bạc Chúa trao.
Dầu biết rằng thời gian trôi đi không chờ đợi ai, nhưng nhiều người vẫn cứ ngủ mê trong sự ươn lười, an phận và tội lỗi. Như vậy, chúng ta đang tự đào cái hố giệt vong để chôn mình. Trái lại, với những ai thức tĩnh chờ ngày Chúa đến qua đời sống cầu nguyện, trong sạch và bác ái, thì ngày đó sẽ mang lại hy vong chứ không phải âu lo, ngày khởi đầu chứ không phải kết thúc. Cha Mark Link nói: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh như thế nào, nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”. Chúng ta không biết ngày chúa đến trong vinh quang, nhưng để được vào vương quốc ấy, mỗi người cần phải canh tân đời sống, nối kết sự hiệp thông, nuôi dưỡng tình bác ái, xây dựng nền công lý và hòa bình; đó là hành trang, là gia sản mà Thiên Chúa muốn mỗi người phải có để bước vào hạnh phúc trường sinh.
Xin Chúa thức tỉnh tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con biết cải biến mỗi ngày, nhận ra Chúa nơi những dấu chỉ thời đại và nơi anh chị em. Nhờ đó, khi ngày của Chúa đến, chúng con vẫn luôn bình an và hy vọng, vì biết rằng Ngài sẽ mang lại những gì tốt lành cho những ai yêu mến và phó thác nơi Ngài.
Lời Chúa trong những tuần cuối năm Phụng vụ thường đề cập đến Ngày cánh chung, ngày Chúa TN 33-B99
Lời Chúa trong những tuần cuối năm Phụng vụ thường đề cập đến Ngày cánh chung, ngày Chúa quang lâm. Khi được nghe về các dấu lạ, dấu chỉ như thế này, con người nói chung, người Công giáo nói riêng cũng không khỏi bồn chồn, lo âu! Tuy nhiên, nếu nhìn với đôi mắt đức tin, sống theo Chúa dạy mỗi ngày, thì chắc hẳn chưa đáng phải sợ!
Chuyện kể rằng: Một lần nọ, Đô-mi-ni-cô Sa-vi-ô cùng với các bạn đang chơi đá banh trong khuôn viên cư xá, Thánh Gio-an Bos-cô bèn đến hỏi mỗi bạn khi giải lao: “Nếu bây giờ, Chúa ‘gọi’ các con về với Ngài, thì các con sẽ làm gì?”. Hầu hết, câu trả lời từ chúng bạn Sa-vi-ô đều giống nhau, người thì chạy về xin lỗi bố mẹ, người thì vội vã đi trả chiếc bút đã lấy cắp của bạn, người thì nhanh chóng làm hết những dự định của mình… Sau cùng, đến lượt Sa-vi-ô, cậu chỉ mỉm cười và đơn sơ thưa với Thánh nhân: “Nếu Chúa gọi con về với Ngài ngay bây giờ, thì con vẫn vui chơi đá banh với các bạn thôi ạ!”
Nghe câu trả lời ấy, Thánh Gio-an Bos-cô rất đỗi ngạc nhiên, nhưng lòng ngài cảm thấy hạnh phúc. Và như chúng ta biết, sau này, Đô-mi-ni-cô Sa-vi-ô đã được Chúa gọi khi còn quá trẻ (14-15 tuổi) khi mang trong mình căn bệnh viêm màng phổi. Ngài được Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII phong hiển Thánh vào ngày 12 tháng 6 năm 1954. Có lẽ nhiều người trong chúng ta đều thắc mắc: vì sao cậu bé Sa-vi-ô ấy lại không chút sợ hãi, chẳng chút hoảng hốt khi nói đến cái chết, khi nói đến giây phút được Chúa cất về? Chắc hẳn, vì ngài luôn tâm niệm nỗ lực sống tốt, sống trọn vẹn từng ngày, cho nên dù phải lìa đời đi chăng nữa, ngài cũng không nuối tiếc điều gì hoặc không phải vội vã như các bạn khác cùng lứa tuổi với ngài!
Đành rằng, ngày phán xét chung, ngày ân thưởng công minh ra sao đã được sách Tiên tri Đa-ni-en mô tả: “Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ trỗi dậy; có người sẽ được hưởng phúc trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời” (Đn 12, 2), nhưng ít nhiều lòng chúng ta vẫn còn lo lắng, bồn chồn vì phải chờ đợi. Tuy nhiên, trước ngày đó, các dấu lạ sẽ xuất hiện: “…mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất…” (x. Mc 13, 24-27). Ngày Chúa Giê-su quang lâm chắc chắn sẽ đến, nhưng trong khi trông chờ ngày ấy, thì không một ai biết ngoài Chúa Cha, và “trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi” (Mc 13, 31). Do đó, khi chờ đợi ngày quang lâm, ngày cánh chung, chúng ta phải làm gì? Phải chăng đây là vấn đề căn bản cốt lõi?
Bất kể nơi đâu, mỗi người mỗi ý khác nhau, vì thế, nhiều người cho rằng: ngày đó còn lâu mới tới, nên cứ hưởng thụ như câu nói của triết gia A-ris-tốt-tô: “Ăn uống no nê, rồi ngày mai vui vẻ vĩnh viễn chia ly”. Trong khi đó, người người nghĩ tưởng: ngày này đang cận kề, nên cuốn theo cách sống vội, sống nhanh, hòng thực hiện hết những dự định, kế hoạch của riêng mình…Ngoài ra, số đông khác theo tư tưởng: làm gì có cánh cánh chung, làm gì có ngày Chúa quang lâm, cứ sống và làm những điều mình nghĩ và mình muốn!!!! Còn chúng ta, là con cái Chúa, là người Công giáo, chúng ta nên thế nào để đẹp lòng Chúa đây?
Quả thật, chúng ta phải bám chặt vào Đức Giê-su, tiến lại gần Ngài, học nơi Ngài cách sống trọn vẹn từng ngày. Vì chưng, nhờ lễ dâng duy nhất và một lần của Đức Giê-su Ki-tô, mà chúng ta được cứu độ, được thánh hoá (x. Dt 10, 11-12.14) Ngài hằng chuyển cầu, đồng hành, nâng đỡ chúng ta liên lỉ từng giây phút trong cuộc sống. Còn chúng ta, “nhìn vào cây vả khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến” (x. Mc 13, 28). Qua các dấu chỉ thời đại mà nhận biết Thánh ý Chúa; qua giáo huấn của Giáo hội mà đón nhận chương trình của Ngài. Qua mọi biến cố vui buồn, thành công hay thất bại, hân hoan hay khổ đau, v.v…luôn tìm ra Thánh ý Chúa và nhanh nhẹn đón nhận, sống trọn vẹn mỗi ngày với Lời Chúa là kim chỉ nam cuộc đời, với Thánh Thể là của ăn nuôi dưỡng linh hồn và thân xác, với ân sủng và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (“Đấng Bầu Cử khác", mà Đức Giê-su đã hứa ban), đồng thời, hiệp hành với nhau trên cùng hành trình đức tin, với gia đình, với cộng đoàn, với Giáo hội và xã hội.
Tất cả những điều trên sẽ là hành trang vững chắc cho chúng ta trong lúc chờ đợi ngày Chúa quang lâm. Mọi thứ có thể thay hình đổi dạng, sẽ đổi thay, biến chuyển hoặc mất đi, nhưng những gì Đức Giê-su giảng dạy-hành động sẽ tồn tại mãi, như thể chiếc la bàn tuyệt hảo chỉ đường dẫn lối cho chúng ta khỏi lạc hướng giữa đại dương rộng lớn bao la, khỏi bị lạc bước trên chặng đường dài thế gian xa tắp, khỏi bị lạc lối trong đêm tăm tối mịt mờ nơi trần gian: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi” (Mc 13, 31). Ngoài ra, chúng ta luôn biết sống tín thác, cậy trông, đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, vào Giáo hội của Ngài, chứ đừng như ‘cây cỏ lung lay đổi chiều theo gió’; cũng đừng chạy theo trào lưu, triết thuyết tận thế, trở thành fan cuồng của những kẻ tự cho mình biết ngày tận cùng. Vì chưng, lời Đức Giê-su đã chứng thực: “Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi” (Mc 13, 32). Vậy mà, trên thực tế, không ít người vẫn nghi ngờ, vẫn mau chóng tin theo, hoặc chạy theo những gì trái ngược với lời khẳng định của Đức Giê-su! Chúng ta vẫn dồn hết sức lực, tâm trí cho điều đó khi tiếp xúc-đọc-xem trên mạng, rồi nhắm mắt tin theo hơn là tin vào Lời Chúa, và tin vào giáo huấn của Giáo hội Chúa!
Ước gì mỗi người Công giáo chúng ta luôn biết sống trọn vẹn từng ngày như Lời Chúa dạy và như lòng Chúa mong, qua các giáo huấn của Giáo hội, trong khi chờ đợi ngày Chúa quang lâm, với cả lòng tín thác - cậy trông - yêu mến!
Ngày Chúa lại đến trong vinh quang Chẳng phải xa, cũng không phải gần Nào ai biết ngoài mình Chúa Cha Xin cho con sống trọn Lời Ngài Hằng ngày kiên vững, cậy - mến - tin. Amen!
Xét trên hình thức, phải chăng đây là bản lược tóm một trần thuật của Chúa Giêsu? Thử tìm văn TN 33-B100
1. Xét trên hình thức, phải chăng đây là bản lược tóm một trần thuật của Chúa Giêsu? Thử tìm văn mạch của nó?
2. Phải hiểu ra sao cái cảnh tượng được mô tả ở cc. 24-25? Cảnh tượng muốn nói lên điều gì?
3. Hình ảnh Con người với các hình ảnh đi theo được vay mượn từ đâu?
4. Dụ ngôn cây vả muốn trả lời cho câu hỏi nào trước đó?
5. Trong ba lời tuyên phán (cc.3ó-32), chữ “thế hệ này” chỉ ai? Tại sao Chúa Con cũng chẳng biết ngày giờ cùng tận?
6. Bản văn này là giáo huấn của Chúa Giê-su hay của thánh sử ?
7. Phải chăng Mc đã lầm lẫn, vì cùng tận chưa đến như ông đã dự đoán?
Khi chú giải chương 13 của Mát-cô, nhà chú giải công giáo J.Schmid có viết: “Cái mà người ta gọi là “Diễn từ về Quang lâm” hay “Khải huyền Nhất lãm” là một trong những đoạn khó hiểu nhất của Tân ước, và vì thế là một trong những đoạn bị tranh luận nhiều nhất của truyền thống, Nhất lãm”. Các bản văn nói về sự ghê tởm hoang tàn và việc con Người đến trong mây xem ra chất chứa một nội dung khó hiểu. Điều đó không chỉ do sự kiện Ki-tô hữu thời nay cảm thấy xa lạ với thế giới các ý tưởng mà những bản văn này sử dụng, nhưng còn do chỗ khó đặt vào trong vũ trụ tâm trí của ta hình ảnh Con Người được một triều đình thiên thần bao quanh hay hình ảnh những hiện tượng vũ trụ và thiên giải đi theo cuộc quang lâm của Người.
Vì thế, các nhà chú giải chuyên môn về Tân ước do dự trong cách hiểu các bản văn ấy. Vì nhiều lý do. Trước tiên ngôn ngữ Khải huyền luôn luôn khó quán triệt. Rồi người ta đôi lúc cũng thấy là không chắc hòa hợp được Mc 13 với phần còn lại của giáo huấn Chúa Giê-su; Chúa Giêsu đã chẳng thốt lên diễn từ này, nhưng là Mátcô đã phóng tác một bản văn Khải huyền nào đó của Do thái để đặt trên miệng của Thầy, đồng thời bổ túc bằng một vài lời của chính Chúa Giê-su. Dù sao, toàn chương mang nhiều dấu vết rõ rệt cho thấy nhiều học giả của Giáo Hội sơ khai đã lưu tâm đến đề tài. Điều này cũng lộ ra nơi cách thức Mt và Lc sử dụng các chất liệu. Các thánh sử này cũng như nhiều học giả khác, hình như đã nghĩ rằng những truyền thống của Chúa khá phong phú, còn có thể tiết lộ thêm nhiều kho tàng dấu ẩn, và đặc biệt là có thể giải quyết những vấn đề riêng của họ. Các ý tưởng này đã để lại khá nhiều dấu vết trong chi tiết của các bản văn, nên cho phép chúng ta đoán rằng truyền thống đã được thích nghi với hoàn cảnh lúc ấy.
Hình thức bản văn
Theo hình thức hiện nay của nó, bản văn không phải là toát yếu của một trần thuật của Chúa Giêsu. Đa số các nhà thần học Thánh Kinh đồng ý như vậy, dù họ có nhiều ý kiến rất khác nhau về nguồn gốc các yếu tố của bản văn. Chúng tôi thiết nghĩ người ta có lý để công nhận rằng bản văn căn cứ trên giáo huấn về cánh chung của chính Chúa Giêsu, một giáo huấn muốn cảnh giác các môn đồ về những nguy hiểm sẽ xảy đến trong những ngày sau hết (Xin xem tiểu luận của chúng tôi: Prophecy interproted (The formation of so me Jewish Apocalyptic Lexts and of the Eschatologica Discourse Mark 13. par. Conjectanea Biblica, NT series 1, Lund 1966): Tuy nhiên, dù “nền tảng” của bản văn phải được tìm trong một huấn lệnh của Chúa Giê-su, thì Mc 13, dưới hình thức hiện thời, vẫn phản ảnh hoàn cảnh của Giáo Hội sơ khai, với những vấn đề mà Giáo Hội đã đặt ra cho truyền thống của Chúa Giê-su vàđã giải quyết bằng cách giải thích và tái giải thích truyền thống này.
Như bao học giả Do thái khác đương thời. Chúa Giê-su xem ra đi từ Cựu ước để triển khai giáo huấn của Người cùng tận. Thật thế, các đoạn của Đanien về cánh chung chiếm một chỗ đứng trung tâm trong chương 13 của chúng ta. Chúng ta cũng thấy trong chương này nhiều âm hưởng của nhiều bản văn Cựu ước khác mà nội dung cũng là về cánh chung.
Người ta đã chứng minh rằng vào thời đó, khi trích dẫn các câu Cựu ước, người ta đã hiểu ngầm luôn toàn thể văn mạch của chúng, và nhờ liên tưởng, người ta đi từ một bản văn sang một bản văn khác có cùng một nội dung. Các văn mạch và các đoạn được liên kết này, cùng với những lời giải thích về chúng, đã làm giàu ý nghĩa cho các bản văn được đặt trong tương quan với Cựu ước như thế. Thành thử khi tìm cách quán triệt ý nghĩa này, chúng ta phải cố tái dựng lại các dây liên kết nói trên.
Văn mạch.
Bài Tin Mừng hôm nay là thành phần của Diễn từ cánh chung. Diễn từ này bắt đầu từ c.5, nhưng được liên kết trực tiếp với một lời tuyên phán về sự phá hủy Đền thờ. Trong cách kết cấu của thánh sử, diễn từ làm lành lời Chúa Giê-su giải đáp cho vấn nạn ở c.4: “Xin nói cho chúng tôi biết bao giờ điều ấy (sự phá hủy) sẽ xảy ra và sự gì sẽ là điềm báo mọi điều ấy sắp hoàn tất”. Mối liên lạc giữa câu hỏi này với Diễn từ đã được một tác giả xưa chú giải như sau: “Họ hỏi một điều và người đáp lại một điều khác”.
Các câu 5-13 bàn đến các nguy hiểm khác nhau: kẻ rao giảng có khả năng mê hoặc, chiến tranh và thảm họa trong toàn thế giới, ngược đãi và phân ly trong gia đình. Chúng kết thúc bằng một lời khích lệ: “Ai kiên nhẫn tới cùng (hoặc: cho đến tận cùng) kẻ ấy sẽ được cứu”.
Các câu 14-23 mô tả một thử thách tột đỉnh của các kẻ tin. Câu 19 nói lên ý nghĩa cuộc thử thách này: những ngày ấy sẽ là một sự khốn quẫn như chưa từng thấy xảy ra và sẽ không hề xảy ra nữa. Đây là nỗi khổ mà Đanien 12,1 đã tiên báo sẽ xảy ra trong thời gian đi trước cùng tận. Nỗi khốn quẫn này sẽ tỏ hiện không chợt qua sự “ghê tởm hoang tàn” mà người ta phải chạy trốn cho mau, nhưng còn qua sự xuất hiện của nhiều Kitô giả và ngôn sứ giả. Các quyền lực của Satan sẽ tấn công tín hữu một cách hung tợn đến nỗi Thiên Chúa phải can thiệp kẻo tất cả gục ngã trong cuộc thử thách này.
Trên cái nền u tối đó, nổi bật lên đoạn văn của chúng ta, đoạn văn diễn tả cuộc chiến thắng cuối cùng và trở lại câu hỏi đã đặt ở c.4: khi nào điều đó sẽ xảy ra?”. Cách đáp câu hỏi này tự nhiên khiến thánh sử kết thúc đoạn văn bằng những lời khích lệ được lặp lại: “Coi chừng, hãy tỉnh thức” (cc.33-36). Một chủ đề đã có mặt trong tất cả phần nhất của những từ (cc 5 .6.9.21 .23).
I. CUỘC QUANG LÂM (13, 24-27)
Tiếp theo sau những biến động khủng khiếp của các câu trước, bài Tin Mừng chúng ta mô tả biến cố vượt lên trên tất cả chương. Bức tranh này vay mượn màu sắc của Cựu ước mà nó cắt nghĩa theo một cách thức rất là Kitô giáo. Thật vậy, chính từ Đanien mà người ta rút ra câu trích dẫn trung tâm của đoạn văn. Thế mà lời tiên tri của ông về các nỗi ưu phiền trực tiếp nhảy qua vấn đề tôn vinh các tín hữu, ở 12,1-2 cũng như ở 7,8tt, nơi “Con người” được đồng hóa với “các thánh của Đấng tối cao đang chiếm hữu vương quốc” (7,8.22.27). Ngược lại, đối với Mc, Con người không ai khác hơn là chính Chúa Giêsu sẽ đến. Hơn nữa, ông diễn tả việc mặc khải Chúa Kitô con Người, với nhiều nét mà trong Cựu ước vẫn thường đặc trưng mặc khải thần linh về “Ngày của Giavê”. Đây là một bằng chứng mới cho thấy có lối giải thích Kitô giáo.
1. Cảnh tượng (cc.24-25)
Thành thử trong các câu này, người ta khai mở một diễn ảnh phổ quát, bằng cách dùng những hình ảnh của các bản văn Cựu ước nói về Ngày Giavê (Is 13,10; 3-4 ; Ge 2, 10; 15). Trước uy nghiêm của Chúa Giêsu, cũng chính là uy nghiêm của Gia-vê, vũ trụ rung chuyển, cuộc sáng tạo xưa (x. St 2,1) và các thời đại cũ bị tiêu diệt, Vương quốc của Thiên Chúa tỏ hiện trong tất cả vẻ vinh quang. Chắc chắn trình bày “tinh tú từ trời sa xuống” giả thiết quan niệm cổ điển về vũ trụ; trong ngôn ngữ thánh kinh, “các quyền năng tầng trời” xem ra chỉ những thiên thể (x. St 1 ,17tt).
Có lẽ như một số nhà chú giải đã nghĩ chúng ta cũng phải nhớ tới sự kiện là trong các cuộc Khải huyền theo Do thái và Kitô giáo, khởi nguyên tương ứng với tận cùng. Thành thử toàn văn này đưa chúng ta về lại bóng tối và cảnh hỗn mang đã từng thống trị trước khi sáng tạo, cảnh hỗn mang mà lần này sẽ đi trước cuộc sáng tạo mới (x. Kh 21,1).
Ngoài ra, cảnh tượng cũng được đặt trong tương quan nơi sự khốn quẫn tột cùng của các tín hữu, sự khốn quẫn đã được diễn từ nói đến trong phần trước. Về vấn đề này, xem ra đọạn văn vừa nói “đúng” vừa nói “không”. “Đúng” cho câu nói “Thời gian khốn quẫn đó phải chăng có nghĩa là Cùng tận gần kề?”. Nhưng những ai cứ hỏi: ngày mà chúng tôi chịu cảnh khốn quẫn đó, chúng tôi có thể ngóng đợi Tận cùng lập tức không?” thì sẽ được trả lời là “Không, còn lâu nữa”. Có lẽ tiếng “đúng” và tiếng “không” này ngỏ cho Giáo Hội sơ khai vốn đã cảm thấy sự khốn quẫn và đã tự hỏi bao giờ Chúa lại đến. Cũng có thể là Mc đã phối hợp nỗi khốn quẫn này với các biến cố liên hệ đến việc phá hủy Giêrusalem năm 70. Các nhận xét này gây nên nhiều vấn đề quan trọng. Phải nghĩ thế nào về tương quan giữa giáo huấn của Thầy và cách thức Giáo Hội sơ khởi giải thích giáo huấn dù bản văn đây còn có giá trị đối với chúng ta không? Chúng ta sẽ trở lại với những vấn nạn này khi bàn đến các câu 30-31
2. Con Người (c.26)
Trên bối cảnh một vũ trụ rung chuyển như thế, nổi lên khuôn mặt Con Người, được mô tả với những hạn từ Đn 7.13tt. Những đám “mây” không chỉ một phương tiện di chuyển cho bằng chỉ sự hiện diện thần linh giữa loài người, như Kinh Thánh vẫn thường biểu thị (ví dụ Xh 13,21 ; 19,9; 2Sk 5, 13; 17,5): Khi Chúa Giê-su tỏ hiện sức mạnh và vinh quang của Người thì tất cả thế gian sẽ trông thấy. Việc Người đến một cách hiển nhiên tương phản với nhúng tiếng đồn sai lạc được nói ở 13,22 (x. Mt 24,27tt).
Hình ảnh Con Người, với các hình ảnh đi theo vay mượn từ Đn và nhiều đoạn khác của Cựu ước, xem ra gói ghém hai dữ kiện nền tảng đối với Kitô học. Trước tiên, khi những đường nét của các trình thuật trước về Ngày Giavê được áp dụng để mô tả việc Con Người đến, thì điều đó những muốn nói rằng Thiên Chúa chẳng còn hiện diện trong bức tranh về Cùng tận, nhưng đúng hơn có nghĩa là việc Chúa Kitô đến nói lên chính sự can thiệp của Thiên Chúa trong Ngày Giavê. Chính Vương Quốc Thiên Chúa xuất hiện, quyền lực Thiên Chúa tỏ ra và công cuộc cứu rỗi của Thiên Chúa được thực hiện bởi Con Người. Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật.
Mặt khác trong Đn 7, Con Người tượng trưng cho dân thánh. Trái lại, theo Chúa Giêsu giải thích, thì Con người đúng là một cá nhân (chính Chúa Giêsu). Nhưng Người thí mạng sống làm giá chuộc nhiều kẻ (Mt 10,45) và tự đồng hóa với những kẻ bé mọn nhất trong anh em Người (Mt 25,40.45). Thành ra quan niệm này về Con Người phù hợp với các kiểu diễn tả của Gio-an “hãy ở lại trong Ta như Ta trong các ngươi” (Ga 15,4) và “Con trong chúng” (Ga 17,23) cũng như với thành ngữ của Phaolô “trong Chúa Ki-tô”. Vị Thiên Chúa mà không gì dưới trần gian có thể chống lại được, sẽ chẳng phải là một Thiên Chúa trừu tượng, một Thiên Chúa tự tại, nhưng là Đấng hưởng về chúng ta như Ngài đã tự mặc khải trong Con người, Chúa Giêsu Nadarét” (E.Schweiser “Trong Người”, cây cầu đã được bắc qua vực thẳm phân cách nhân loại với Thiên Chúa. Người xuất hiện như là nhân vật chính của cảnh này.
3. Thâu họp những kẻ được chọn (c.27)
Theo ý kiến chúng tôi, chính để tôn trọng chiều hướng và mục đích của diễn từ cánh chung mà Mátcô ở đây không nói đến việc hủy diệt sự ác và cuộc phán xét thế gian, mặc dầu những đoạn Cựu ước được dùng trong cc.24-25 để mô tả cảnh Quang lâm đều nói đến cuộc phán xét của Thiên Chúa. Giọng điệu đầy khuyến khích và an ủi đặc trưng giáo huấn này cũng cho thấy việc thâu họp những kẻ được chọn như là chính mục đích của cuộc Quang lâm.
Trong Cựu ước, chính Thiên Chúa thâu họp họ (Đnl 30,3t; Dcr 2,10; Is 27,12; 43,5tt) và điều khiển các thiên thần Tv 18, 11 ; 104,4; đến 7, 10). Nhưng trong khi theo sự mong chờ của người Do thái, Thiên Chúa sẽ thu họp tại thánh địa mọi người Do thái tha hương, thì ở đây chính các Ki-tô hữu phần tử của Israel mới, thấy mình được thu họp từ muôn nơi để đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Và chính Chúa của họ là Con Người, hoàn thành điều đã hứa với họ: “Ta sẽ đến lại mà đem các ngươi theo Ta, để Ta ở đâu, các ngươi cũng ở đó (Ga 14,3).
4. Một ngôn ngữ bóng bẩy
Chúng ta đã bảo rằng khi đọc một bản văn như đây, Kitô hữu ngày nay cảm thấy rất lúng lúng. Các tinh tú sẽ rơi rụng thế nào? Con người có thực sự đến với chúng ta trên mây chăng? Phải chăng người sẽ quy tụ các tín hữu từ khắp nơi và từ mọi thời đại?
Tưởng nên nhắc lại rằng vào thời Tân ước, các chủ đề và bản văn Cựu ước, thuộc loại mà đoạn văn của chúng ta trích dẫn, không được giải thích theo bản nghĩa cho bằng theo nghĩa “thần học” và thiêng liêng của chúng. Vì vậy rất có thể là Mátcô và các độc giả đầu tiên của ông đã không hiểu các chi tiết này theo mặt chữ. Thành ra vấn đề thực sự là chọc thủng ý nghĩa biểu tượng của những hình ảnh đó. nhưng chúng ta đừng hy vọng phá ra những ý nghĩa hoàn toàn dứt khoát và rõ ràng; trái lại ta thì có, vì đây là một lãnh vực thuộc trực giác hơn là thuộc ý niệm.
Với tính cách chỉ dẫn, chúng ta đã cố gắng diễn tả trên kia những biến động của vũ trụ trong ngôn ngữ của việc mặc khải Vương Quốc Thiên Chúa và tận sáng tạo: Quang lâm là biểu lộ quyền lực và vinh quang thần linh của Chúa Kitô cho loài người và là sự tháp nhập trong Người” nhũng ai được cứu; việc thâu họp các kẻ được chọn là sự hiệp thông tràn đầy là vĩnh cứu với Thiên Chúa “trong Chúa Ki-tô”.
II. KHI NÀO? (13,28-32)
Trong câu hỏi của bốn môn đồ dẫn nhập cho diễn từ này: “Xin nói cho chúng tôi biết bao giờ điều ấy sẽ xảy ra và sẽ là điềm báo tất cả các điều ấy sắp hoàn tất”. (c.4), tiếng “tất cả các điều ấy” trước tiên chỉ ngày tàn của Đền thờ là Chúa Giêsu đã loan báo (c.2), nhưng cũng quy về Thế mạt là cuộc Quang lâm, như chính nội dung của diễn từ và âm vang của Đn 12,65 trong câu hỏi biểu lộ. Trong kết cấu của Mátcô rõ ràng là cc.28-32 tương ứng với câu hỏi đầu tiên ấy. Nhưng chúng ta chỉ nên chú ý đến cách chọn lựa các từ ngữ, đặc biệt nơi c.30 (“cho đến khi mọi điều ấy xảy tới”).
Chúng ta sẽ khảo sát một cách riêng rẽ dụ ngôn cây vả (cc 28-29) và ba lời tuyên phán tiếp theo sau (cc.30.31.32). Tuy nhiên, hãy lưu ý kỹ sự liên kết trong toàn bộ nhỏ bé này. Câu 30 được nối kết với c.29 bằng thành ngữ “điều ấy xảy đến” là tiếng được dùng trong cả hai câu. Cũng vậy, c.31 lấy lại hai lần động từ “qua đi” của c.30. Cái kiểu lặp lại những hạn từ như thế cho thấy nội dung của các câu đó không phải là không tưởng quan với nhau. Thành thử không nên gán nhiều ý nghĩa quá khác nhau cho tiếng “tất cả điều đó” của c.30 là “điều đó, của c.29 (x. câu 4).
1. Dụ ngôn cây vả (cc.28-29)
Việc lựa chọn hình ảnh dùng trong dụ ngôn nhỏ bé này không phải là chuyện ngẫu nhiên. Ngay từ Cựu ước, các hình ảnh mùa hè và mùa gặt đã được liên kết với lời loan báo sự tận cùng, sự giải thoát chung cục và sự phán xét (vd Ge 4,17; Am 8,1; Is 28,4; Gr 8,20). Cái xảy đến nơi cây vả từ mùa xuân được so sánh vai những dấu chỉ liệt kê trong phần dầu của diễn từ. Khi các tín hữu thấy xuất hiện những ngôn sứ giả, nạn đói sự ghê tởm hoang tàn v.v… thì họ phải biết rằng Tận cùng gần bên.
Câu 29 không nói là biến cố nhưng là Con người đang ở bên. Thật vậy, bản văn phải được dịch sát chữ như thế này “Hãy biết rằng Người đã kề bên cửa”. Hình ảnh Chúa đứng bên cửa như thế cũng gặp lại trong Ge 5,9 và Kh 3,20, chỗ bàn về cuộc Quang lâm.
Như đã nói, có thể tin rằng bản văn chúng ta đã được chính thánh sử biên soạn. Thành thử chính ông giải thích ở ở đây truyền thống ông đã nhận lãnh, chính ông liên kết định mệnh của Giêrusalem (cc. 1 .2. 14tt) với Tận cùng, chính ông đặt trên miệng các sứ đồ câu hỏi “khi nào” và trên miệng Chúa Giêsu lời giải đáp. Nhưng để làm thế, ông đã sử dụng các chất liệu do truyền thống cung cấp cho. Ông đã muốn nói với các Kitô hữu thời ông rằng: hãy phòng bị, vì ngay từ bây giờ chúng ta đã cảm nhận được các dấu chỉ cho thấy Chúa đang kề bên”. Do đấy, chúng ta đương nhiên phải tự hỏi mình một lần nữa: Vậy đâu là tương quan giữa Thầy và thánh sử? Chúa Giêsu đã muốn nói gì? Chúng ta sẽ trở lại những vấn đề này xa hơn.
2. Ba lời tuyên phán về vấn đề “Khi nào” (cc.30-32)
a) Lời tuyên phán về “thế hệ này” (c.30). Câu này đã gây nên nhiều cuộc tranh luận gây cấn và phức tạp giữa các nhà chú giải. Người ta đã bàn cãi về nguồn gốc của nó: Nó phát xuất từ thánh sử, từ cộng đoàn sơ khai hay từ Chúa Giêsu? Nếu là từ Chúa Giêsu thì đâu là bối cảnh nguyên thủy của nó? Theo ý kiến chúng tôi, chính thánh sử đã soạn thảo câu này trong hoàn cảnh ông đang trước tác, nhưng bằng cách dùng nhiều truyền thống mà nguồn gốc lên đến Chúa Giêsu (x Mc 9, 1; Mt 23,36).
Tuy nhiên, người ta đã đặc biệt tranh luận về nội dung của câu nói. Tiếng “tất cả điều ấy” có nghĩa là gì? và chữ “thế hệ này” phải giải thích ra sao? chúng tôi thấy hình như phải chấp nhận rằng tiếng “‘tất cả điều ấy”: chỉ sự kiện Đền thờ bị phá hủy và những tai họa sẽ đi trước đó, cũng như chỉ cùng tận, nếu người ta lưu ý đến câu dẫn nhập của diễn từ (cc.2-4) và chính diễn từ. Thánh sử công bố: trong “thế hệ này”, tất cả điều ấy sẽ xảy ra.
Một vài nhà chú giải đã bênh vực ý kiến cho rằng từ ngữ “thế hệ này” chỉ mang một ý nghĩa thuần túy định hình (“thế hệ xấu xa và bất trung”: Mt 12,38.45; 17,17; Mc 8,38; Lc 9,41 ; Cv.2,40; Pl 2, 15). Nhưng nếu “thế hệ này” hàm chứa một nghĩa xấu xét như vì gồm những người Do thái không tin vào Chúa Kitô hay vào sứ điệp của Người, thì xem ra ở đây cần phải cho nó một ý nghĩa thời gian hơn: chính là thế hệ đương thời với thánh sử.
Khi đọc chương Mc đây, các Kitô hữu của Giáo Hội sơ khai có thể cảm thấy mình đương thời với “thế hệ này” và như thế cảm thấy được kiên vững trong sự chờ mong Chúa đến. Nhưng cùng lúc, bản văn dừng lại ở hạn từ khá mơ hồ “thế hệ”, một ý niệm được liên kết với Do thái giáo mà người ta nghĩ là bị phán xét trong việc Đền thờ bị phá hủy. Như thế, câu 30 vừa cổ vũ nỗi mong chờ cánh chung, nhưng đồng thời cũng kiềm giữ nỗi mong chờ đó, vì ngăn cấm mọi toan tính xác định rõ rệt ngày giờ Cùng tận. Chúng ta sẽ gặp lại cùng nhị tính này nơi câu 32.
b) Sự chắc chắn của những lời Chúa Giêsu (c.31). Để nhấn mạnh tầm quan trọng của toàn thể bản văn, thánh sử chèn vào đây một lời tuyên phán lấy lại từ truyền thống, theo đó Chúa Giêsu mặc cho những lời nói của Ngài cùng một uy tín như uy tín mà Cựu ước đã mặc cho các lời của Giavê (Is 40,8; 51,6; Gr 33,25t; x. Kh 22,6; Mt 5,18).
Thiên Chúa đã dùng lời Ngài để tạo dựng trời đất, nghĩa là toàn thể vũ trụ (St 1; Tv 33,6; Ga 1,3…) và nhờ chính lời đó mà mang và nâng đỡ vũ trụ. Đối với các tác giả Thánh Kinh, trong thế gian này không có gì vững chắc hơn các nền móng của trái đất (Tv 93,1; 104,5). Nếu có một vài kẻ trong số họ tiên báo sự rung chuyển và tan biến của chúng (Tv 102,27; Is 24, l8tt), thì họ cũng xác quyết rằng lời Thiên Chúa luôn vững bền qua tất cả. Cũng vậy, bản văn chúng ta loan báo sự tan biến của vũ trụ (cc.24-25) nhưng các lời của Chúa tỏ ra càng vững bền hơn (c.31); vì chúng đặt nền tảng trên uy quyền không hề lay chuyển của Thiên Chúa.
Qua sự xếp đặt bản văn của ông, thánh sử nhấn mạnh rằng sự chắc chắn ấy gắn chặt với giáo huấn của Chúa Giêsu về Cùng tận, với lời Người tuyên bố Cùng tận này gần bên (c 30) và với lời tuyên phán của c.32, lời bảo rằng chính Chúa Con cũng không biết ngày giờ chính xác của Cùng tận.
c) “Chẳng ai biết được… trừ phi là Cha” (c.32). Trong kết cấu của Mátcô, câu này đóng một vai trò rõ rệt. Vì một trong những vấn đề mà diễn từ chúng ta khơi lên là câu hỏi “khi nào”. Khi nào Cùng tận sẽ đến? Khi nào sự giải thoát sẽ hiện ra? Bao giờ Chúa sẽ trở lại Những ai muốn tìm biết chính xác hơn giờ giấc của những chuyện này thì sẽ không được thỏa mãn, vì ở đây từ chối mọi xác định về vấn đề đó. Mách bảo với họ: chính Chúa Giê-su cũng không biết cả ngày lẫn giờ, thế mà anh em lại muốn tính toán trước sao.
Cần lưu ý một vài chi tiết trong câu này. các thành ngữ “giờ” và “ngày ấy” song song với nhau, nghĩa là ước chừng có cùng một ý nghĩa (x. Mt 24, 50 ; 25, 13). “Ngày ấy” là tiếng chuyển vị của hạn từ “Ngày Giavê” (vd Dcr 14,6; Is 2,1 1-17), mà nay trở nên “Ngày của Con Người” (x . 2Tx 1 , 10). Giờ giấc của Ngày này, các thiên thần cũng không biết. Chắc hẳn người ta vẫn công nhận rằng các vị này làm nên hội đồng của Đấng Tối Cao, và như danh nghĩa đó mà được hưởng một nhận thức đặc biệt về các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nhưng Do thái giáo và các tác giả Kitô giáo đương thời nghĩ rằng dẫu sao Thiên Chúa cũng dành riêng cho Ngài một vài bí mật quan trọng (x. Ep 3,10; 1Pr 1,12). Theo bản văn chúng la, ngày giờ của Cùng tận thuộc về loại bí ẩn đó.
Tuy nhiên câu 32 này đã tỏ ra là một crux intèrpretum thật sự, vì nó bảo Con của Thiên Chúa cũng không hay biết ngày giờ Cùng tận: ngày giờ này vẫn là bí mật của Chúa Cha. Mâu thuẫn xem ra hiển nhiên giữa bản văn chúng ta với Mt 11,27 trong đó Chúa Giêsu xác quyết rằng: “Mọi sự đều đã được Cha Ta trao phó cho Ta… không ai biết được Cha trừ phi có Con”. Vậy thì Cha đã không trao phó cho Người tất cả sao? người ta thường giải quyết khó khăn Kitô học này cách như sau: Mt 11 nói đến sứ mệnh mặc khải của Chúa Giêsu nhằm cứu độ thế gian: trong mục đích này, Người đã nhận nơi Thiên Chúa trọn vẹn uy quyền và toàn thể mặc khải cần thiết. “Nhưng Người đã có thể vô tri một vài điểm trong chương trình hậu lai của Thiên Chúa, như Người quả quyết ở đây một cách rõ rệt” (P. Benoi). Sự vô tận này phải dược hiểu trong bối cảnh Nhập thể, mầu nhiệm mà vì đó Chúa Giêsu đã khước từ nhiều đặc quyền thần linh của Người (x. 2Cr 8, 9 ; Pl 2, 6tt) hầu chia sẻ phận con người một cách sâu xa hơn.
3. Giáo huấn của Chúa Giêsu hay của thánh sử?
Chúng ta đã hơn một lần phân biệt truyền thống của Chúa Giêsu và bản soạn thảo mới của thánh sử. Tựu trung chúng ta nên tự hỏi: đâu là tương quan giữa giáo huấn Chúa Giêsu và lời giải thích của thánh sử phải chăng thánh sử đã bóp méo sứ điệp của Chúa Giêsu?
Trước tiên hãy lưu ý rằng các nhà chú giải thường gặp rất nhiều khó khăn khi muốn xác quyết chắc chắn về lịch sử tính của những lời Chúa Giêsu nói: các chất liệu, trong hình thức thấu đến chúng ta, không cho phép đưa ra nhiều các quyết vững chãi.
Như đã nói, theo thiển ý chúng tôi, diễn từ cánh chung đặt nền tảng trên một giáo huấn của Chúa Giêsu mà các học giả của Giáo Hội sơ khai và Mátcô đã giải thích, sửa chữa cùng thích ứng với các nhu cầu của Giáo Hội (Nhưng nhiều nhà chú giải, trong đó có cả công giáo, nghĩ rằng phần lớn diễn từ không hề phát xuất từ Chúa Giêsu). Nền tảng này của diễn từ, bắt nguồn từ Chúa Giêsu, gồm có nhiều lời tiên tri về các mối ưu phiền và bách hại, về chuyện phạm thánh cũng như về Quang lâm. Giáo huấn này mỗi lần cũng bao gồm nhiều lời cảnh giác và khuyến khích nhằm chuẩn bị tín hữu đối đầu với những nguy hiểm sẽ đe dọa họ trong trận chiến cuối cùng và để củng cố họ cho cái lúc nhà các mãnh lực Satan tấn công Vương Quốc Thiên Chúa một cách dữ đội hơn bao giờ hết.
Thành ra cái “nền tảng” này đã được các học giả của Giáo Hội, và nhất là Mátcô sửa đổi (chúng tôi nghĩ rằng Phao- lô cũng đã dùng các truyền thống này trong 1Tx 4,13-5,4 và 2Tx 2,1-17). Chúng ta có thể quan niệm các lối tái giải thích và thích ứng truyền thống này như sau. Trong Giáo Hội sơ khai, người ta đã tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Đấng Mặc khải thần linh và chung quyết, đến nỗi giáo huấn của Người và những truyền thống của Người đầy sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Chính vì vậy mà một số người, được ban Thần khí khôn ngoan, cũng có thể tìm ra trong đó nhiều ý nghĩa mới áp dụng được cho nhiều vấn đề hiệu tại.
Chúng tôi thấy một lối giải thích như thế đã hướng dẫn bản văn chúng ta đến chỗ phối hợp hai yếu tố: sự hủy diệt của Đền thờ Giêrusalem và cánh chung. Chắc chắn Chúa Giêsu đã tiên báo sự hủy diệt này, và đã giải thích nó như là một sự phán xét của Thiên Chúa. Nhưng dường như việc phối hợp minh nhiên với cánh chung là công trình của thánh sử (hay có thể là của một truyền thống từ trước). Ông đã muốn áp dụng giáo huấn của Chúa Giêsu cho những người đương thời để khuyến cáo và chuẩn bị họ theo cách của Chúa Giêsu. Ông đã thấy hai mối nguy hiểm. Thật vậy, một đàng ông xem ra ngỏ lời với những hạng người, vì nản lòng mong đợi, không còn sống trong viễn cảnh cánh chung nữa và có lẽ quá chìu theo thế gian. Đàng khác, ông chống đối những kẻ xem ra tưởng rằng Cùng tận-đã đến. Đối với hạng thứ nhất, ông bảo: “Hãy tỉnh thức, hãy coi chừng! Vì các biến cố và các thái độ đương thời cho thấy là các biến chuyển cánh chung đang xảy tới”. Nhưng ông cũng bảo hạng người thứ hai: “Chưa đến Cùng tận đâu Chính Chúa Con cũng không biết ngày giờ của nó”.
Thành thử ta dám bảo rằng bài Tin Mừng của chúng ta minh họa rất đúng cách thức mà Mc đã dùng để giải thích giáo huấn của Chúa Giêsu “theo hoàn cảnh của các Giáo Hội”
(Vat. II, Verbum Dei, số 19).
4. Phải chăng Mc đã lầm lẫn
Trên đây chúng ta đã giả thiết là thánh sử đã đưa về cùng tận nhiều thái độ và nhiều biến cố đương thời. Thế mà Giêrusalem đã bị chiếm năm 70 và trong thực tế, cùng tận vẫn chưa xảy đến? Vậy phải chăng nên bản rằng Mc đã thực sự lầm lẫn? hình như là thế, vì qua lời giải thích và lối trình bày của ông, ông đã xác quyết là Cùng tận của thế gian đã gần kề rồi.
Tuy nhiên sự việc không đơn giản như mới thoạt nhìn đâu, chúng ta đã nhận xét rằng chương này dùng một ngôn ngữ bóng bẩy mà ý nghĩa thường ít chính xác. Vì thế Mc 13. Cũng như nhiều bản văn Khải huyền khác củal thời Tân ước có thể mặc nhiều ý nghĩa.
Ngôn ngữ biểu tượng này lưu ý đến tính chất của một thời đại hơn là sự kéo đài của thời đại đó. Mátcô đã muốn đặc trưng thời ông sống như là thời cánh chung: Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy là một dấu chỉ, các cuộc bách hại là một dấu chỉ khác của thời này. Vào thời đó, ông nghĩ là nên khuyến khích các cá nhân: “Anh em đang sống ở biên giới của vĩnh cửu. Đừng quên điều này, mặc dầu đang bị áp bức hay bị cám dỗ đồng hóa với thế gian. Hãy biết rằng anh em chẳng có an ninh ở trần thế và cũng chẳng chắc chắn được về ngày giờ mà anh em sẽ đối chất dứt khoát với vĩuh cửu”. Những lời khuyến khích này, vốn ngỏ cho Ki-tô hữu xưa, vẫn luôn thích thời trong Giáo Hội.
Nhưng sứ điệp của bài Tin Mừng chúng ta không chỉ liên hệ tới cánh chung cá nhân đâu; nó cũng nhắm đến các đặc tính chung của lịch sử nhân loại. Có thể nói lịch sử này luôn mở ra vĩnh cửu, mở ra Thiên Chúa, Chúa của lịch sử. Thiên Chúa hằng lưu tâm đến nó. Tuy nhiên, lịch sử không phải là vĩnh cửu, và so sánh với cùng đích của nó, nó chỉ mang một tầm quan trọng tương đối thôi. Ngày mà nó đạt tới chung cuộc, đích điểm của nó, lịch sử này sẽ gặp gỡ cách dứt khoát con người, Đấng hiện đã sống trong nó.
Lars Hartman, Assemblées du Seigneur 64, tr.47~57.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa Kitô đã không bóp méo những vấn đề đích thực. Người biết rằng các nỗi bận tâm nhân loại về định mệnh riêng của chúng ta cũng như định mệnh của thế giới, trước hết và trên hết nhắm vào chuyện (khi nào?” và “ra sao?”. Người không khinh bỉ các câu hỏi này, nhưng kêu mời chúng ta hãy chú tâm vào điển cốt yếu. Khi đề cập đến cái chết cá nhân, Người sẽ nói ở chỗ khác: “đối với kẻ sẵn sàng, thì đó luôn luôn là giây phút thuận tiện”. Cái chết, xét như biến cố. Được kẻ này người nọ sống cách khác nhau, những “người tôi tớ tốt lành, trung thực và khôn ngoan không sợ sự trở về của Chủ…”
2. Khi nói về tận cùng của thế giới vũ trụ, Chúa Ki-tô đề cập đến vấn đề trong tất cả chiều sâu của nó? Đâu là ý nghĩa của tất cả những cái chúng ta làm? Những cái này dẫn chúng ta tới đâu? Đâu là mục đích, cứu cánh của thế giới “Cùng đích” của thế giới là việc quy tụ tất cả nhân loại làm một. Trong mức độ có tình yêu giữa mọi người, thì nỗi sợ hãi bị xua đuổi, và đó luôn luôn là giây phút tận thế!
3. Chúng ta đang ở trong cái “đã” và “chưa”. Chúa Ki-tô đã đến quy tụ mọi người. Giáo Hội là dấu chỉ của sự tập hợp đó Vương Quốc đang xây dựng. Người sẽ trở lại để đưa công cuộc đã khởi sự đến chỗ hoàn tất. Người đã ban cho chúng ta sự sống và, như sự sống lại của Người, ban cho chúng ta, trong hy vọng, một sự sống triển nở hoàn toàn mà trong đó mọi giới hạn sau cùng sẽ bị hủy bỏ.
4. Người đã quy tụ nhân loại. Người để cho chúng ta thoáng thấy cuộc tập họp vĩ đại mà trong đó sự duy nhất, rất khó xây dựng, sau cùng sẽ được thực hiện hoàn toàn. Khi chúng ta yêu trong sự thật, thì vương Quốc đã phần nào có đó “Nó” đang ở gần ý nghĩa sau cùng của cuộc đời tôi, ý nghĩa cuối cùng của vũ trụ, nằm trong niềm tin vào Chúa Kitô Người nói chỗ khác: “Ta là sự thật và là sự sống, ai tin vào Ta sẽ Sống”. Ở đây người nhấn mạnh: “Tất cả sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói sẽ chẳng qua đi”.
5. Chúng ta có chấp nhận tin tưởng vào Người không Chúng ta có chấp nhận theo Người cho đến cùng, nghĩa là đến chỗ tự hiến hoàn toàn và cách quảng đại không? Đoạn Tin Mừng này, ngỏ cho các môn đồ, không xa đoạn nói về việc bắt giết Chúa Giêsu mấy. Nó có mục đích khơi lại đức tin các ông nhưng cũng là để chất vấn các ông.
6. Và nó cũng chất vấn chúng ta hôm nay nữa. Nhìn các dấu chỉ thời đại, không phải là nhận ra trong vũ trụ, trong lịch sử loài người các lời kêu gọi hướng về vĩnh cửu ư. Người ta có thể nhìn các tai họa và đọc chúng như là những lời tiên báo một thế giới có thể bị hủy diệt. Nhưng đó chẳng phải là một tôn giáo của sợ hãi ư? Tại sao không nhìn chúng như là cái chết cần thiết để đưa vào một sự sống viên mãn?