Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 34-ABC Bài 51-100 Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ --------------------------------------
Năm A: Phúc Âm: Mt 25,31-46: “Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. “Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”. “Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta”. “Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!” “Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?” Khi ấy Người đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm B: Phúc Âm: Ga 18, 33b-37: “Quan nói đúng: Tôi là Vua”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” Chúa Giêsu đáp: “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” Philatô đáp: “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?” Chúa Giêsu đáp: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này”. Philatô hỏi lại: “Vậy ông là Vua ư?” Chúa Giêsu đáp: “Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm C: Phúc Âm: Lc 23, 35-43: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
CHÚA NHẬT XXXIV : ĐỨC GIÊSU KITÔ, VUA VŨ TRỤ Mt 25, 31 – 46
Cụm từ nầy có hai ý nghĩa rất rõ ràng: những gì cần nói, cần làm thì đã nói và đã làm rồi, nay TN 34-ABC51
Cụm từ nầy có hai ý nghĩa rất rõ ràng: những gì cần nói, cần làm thì đã nói và đã làm rồi, nay chỉ còn chờ phán quyết, chứ không còn thay đổi gì được nữa, dù là một chấm một phẩy; thứ đến, sự lì lợm đến lúc nầy vẫn chẳng thay đổi, chứng tỏ sự trơ tráo tột cùng, trong ngôn ngữ bình dân ngày nay gọi là “hết thuốc”, còn trong Anh ngữ thì người ta vắn gọn hơn : “no comment!”. Cả hai ý nghĩa của câu nói nầy thể hiện chính xác và rõ ràng trong bài Tin Mừng phụng vụ ngày hôm nay: Ngày Phán Xét Chung.
Theo định nghĩa của từ điển, “trơ tráo” là trơ lì, ngang ngược,không hề biết hổ thẹn. Ví dụ : đã phạm lỗi mà còn trơ tráo cãi lại. Những người bê trọn nhiều trang sách của người khác vào tác phẩm của mình, những người lấy nguyên cả nhạc và thậm chí cả nhạc và lời của người khác, ghi tên mình là tác giả, và cho ra CD,DVD với tên tuổi của mình. Tất nhiên cũng bỏ túi toàn bộ tìên thu được. Khi bị phát hiện, lại một mực cho mình là tác giả. “Trơ tráo” đến gây buồn nôn, ấy là trường hợp tay khủng bố đặt bom giết hàng mấy trăm nhân mạng ở Bali: khi bị bắt, khi ra toà, khi nhận án tử, y đều giữ nụ cười bệnh hoạn, khoái trá và tỏ thái độ không hề hối tiếc. “Trơ tráo” còn phải kể đến một ví dụ mới đây của vị quan chức nhà nước trong vụ sữa có mélamine : hôm trước tuyên bố không hề nhập sữa nước ngoài, hôm sau khi bị đưa ra bằng chứng đã cho nhập số lượng rất lớn, thì mặt mày tỉnh rụi nói là …quên. ”Trơ tráo” cũng để chỉ những quyết định, những hành vi ngang nhiên và trắng trợn của những người không còn sỉ diện, “chịu đấm ăn xôi”, coi luật pháp như trò đùa, muốn cho người vô tội trở thành phạm nhân không khó và làm cho những tội phạm tham ô sa đoạ và bị kết án ( dù án phạt vốn đã rất “tượng trưng) trở thành vô tội (xem báo Dân Trí 28.03.2008) dễ “như trở bàn tay. “Trơ tráo” còn là “ném đá dấu tay”, xúi giục và lợi dụng những bọn côn đồ, say sưa, nghiện ngập để phá rối, bôi nhọ danh dự hoặc gây thiệt hại cho người khác, tập thể hoặc cá nhân. Nó nguy hiểm và bào mòn niềm tin của những người dân lương thiện, vì các hành vi trơ tráo như thế được dàn cảnh, chỉ đạo và bao che từ cấp cao nhất xuống đến cấp thấp nhất. Thái độ trơ tráo ấy, hôm nay chúng ta gặp lại nơi những người bị xếp vào “đám dê ở bên trái”. Thái độ câng câng và câu đáp trả trơ tráo chỉ có thể tóm gọn trong câu: chẳng còn gì để nói! May thay có một tiêu chuẩn để nhận diện và đáng giá những hạng người nầy: tất cả những kẻ trơ tráo đều là ngừơi xấu và bất lương!
Cảnh tượng Ngày Phán Xét thật đáng kinh ngạc: thứ nhất vì một sự kiện vô cùng trọng đại, liên quan đến sự sống cũng như cái chết muôn đời, phúc vinh hoặc khổ hình muôn kiếp, lại chỉ diễn ra chóng vánh; thứ đến, cuộc sống con người ở thế trần, dù ngắn ngủi đấn đâu, cũng đầy dẫy những lỗi lầm, sa phạm. Kẻ độc ác, tà dâm, vô thần còn bao nhiêu tội, mà chỉ cần nêu ra một trong các tội ấy,cũng đủ để họ “tâm phục khẩu phục” nhận những hình phạt trầm luân muôn đời . Vậy mà “Đấng Xét Xử rất nghiêm nhặt”(x. Dies irae,dies illa, thánh lễ an táng) dường như chẳng đoái hoài, mà chỉ đưa ra một tội duy nhất : đối xử ích kỷ và thiếu tình người với tha nhân! Lý do để những thứ lơ là, sai sót, khinh mạn trong hành xử với những người nghèo đói, cô thân có thế, bị bỏ rơi coi thường “biến” thành tội chịu án phạt ngàn thu, lại hoàn toàn trái với mọi dự đoán, mọi “lô-gic”, khiến cho cả người lành lẫn kẻ dữ đều không kịp trở tay. Không có bộ luật tố tụng nào trên trần gia - kể cả Bộ Giáo Luật nghiêm khắc tỉ mỉ - minh nhiên kết án những “tội” nầy. Những quốc gia giàu có lợi dụng các nước nghèo để tuồn bán vũ khí, kích động chiến tranh đẫm máu và vô nhân đạo khắp nơi, những kẻ ích kỷ, theo chủ nghĩa hưởng thụ và ăn chơi xa xỉ trác táng mà không đếm xỉa hoàn cảnh nghèo đói bệnh tật khốn cùng và bất công của anh em đồng loại còn không bị định tội, thì những thiếu sót “nhỏ như con thỏ” được nêu ra để luận phạt với bản án chung thân trong Ngày Phán Xét Chung liệu có quá bất công chăng? Giả sử luật pháp thế tục của các quốc gia – hay là một điều khoản nào trong Bộ Giáo Luật - có khung hình phạt, dù là án treo rất nhẹ, đối với “tội” xa xỉ của các diễn viên, của các siêu sao bóng đá, của các tay tài phiệt, của những quan chức tham nhũng, v…v…, thì hẳn cuộc diện hôm nay - Ngày Phán Xét Chung – đã khác hẳn, không trớ trêu và dở khóc dở cười cho cả người lành lẫn kẻ dữ. Hôm nay, trong ngày Phán Xét Chung, Chúa Thẩm Phán thực hiện điều Ngừơi đã nói : “một chấm một phẩy cũng không bỏ qua”(Mt 5,18); hơn thế nữa, lại sùng “cái chấm cái phẩy bị bỏ qua” để luận tội! Nét khôi hài trong Ngày Phán Xét Chung là cả kẻ được thưởng lẫn người bị phạt đều…chối các hành vi của mình. Nhưng cũng “trơ tráo” thay những kẻ bị luận phạt : chúng đã nghe những gì Đấng Xét Xử nói trước đó với “cánh chiên cừu bên tay hữu”, mà vẫn không thể liên kết các sự kiện đơn giản như thế, để rồi vẫn cứ gân cổ cãi cối cãi chày! Nơi đây, lúc nầy, chẳng còn gì để nói!
Tri nhân tri kỷ, không phải để bách chiến bách thắng, mà để thấy rằng trong cuộc sống làm con cái Chúa, xét ra và so ra, chúng ta cũng “trơ tráo” không kém - nếu không muốn nói là vượt hơn và vượt xa - những người bị xếp vào “cánh dê bên trái” trong Ngày Phán Xét Chung. Hay là chúng ta phủ nhận Tứ Chung, coi đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ là lời hù doạ kiểu Ông Ba Bị? Chúng ta nói nhiều, rất nhiều, quá nhiều, về bác ái, yêu người, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Không ít tín hữu Công giáo mỉa mai “sư sãi và mục sư Tin Lành thích làm việc từ thiện để lên ti-vi”. Người Công giáo không theo thói giả hình và hám danh ấy! Người Công gíao không hám danh. Người Công giáo - nhiều lắm – chẳng làm gì cho những đối tượng mà Chúa Thẩm Phán nêu ra trong Ngày Phán Xét Chung. Cũng sẽ ”chẳng còn gì để nói”, vì trong một đời người tín hữu Công giáo, ít nhất cũng cả trăm lần nghe, đọc, được giảng dạy, khuyên giục thực hành nội dung bài Tin Mừng hôm nay. ”Giật mình mình lại thương mình xót xa" (Kiều, Nguyễn Du). Chỉ còn lại “xót xa”: Chúa xót xa thay cho chúng ta, cây vả không sinh hoa trái mà Chúa năn nỉ Chúa Cha gia hạn cho Ngừơi chăm sóc! Những người lành xót xa thay cho chúng ta! Biết bao tín hữu suy gẫm, tìm kiếm, giảng dạy những điều cao siêu trên trời, bay bỗng trên không trung, ở “ngoài hành tinh”, mà bỏ qua, mà bỏ quên – vô tình thì ít, mà chủ yếu là coi nhẹ - những điều đơn sơ, dễ thấy, dễ gặp và dễ làm nhất : sống tình người và tình con Chúa với những người bất hạnh.
Lạy Chúa Giêsu, nếu được cho phép, thì con sẽ xin gọi tất cả 26 quyển Tân Ước là “lý thuyết” và quyển thứ 27 - Thư Thánh Giacôbê Tông Đồ - là tóm lược và là “kim chỉ nam thực hành Lời Chúa”: Chúa Thẩm Phán dùng đề cương “kim chỉ nam” nầy để phán xét! Viễn cảnh Ngày Phán Xét Chung đáng hãi hùng và không ai thoát được là thế, hóa ra lại quá đơn giản và dễ thưc hành. Vì quá đơn giản, mà với nhiều người, nó đã thành cái bẫy chết người. Sẽ chẳng còn gì để nói, chẳng còn lý do gì để tự biện hộ và chẳng còn ai xót thương chúng con lúc bấy giờ nữa, vì chúng con đã chẳng hề biết xót thương ai!
Chúng ta đang ở chốn đời đời, và ngày phán xét diễn ra sáng nay chỉ kéo dài ít phút. Luật : TN 34-ABC52
Chúng ta đang ở chốn đời đời, và ngày phán xét diễn ra sáng nay chỉ kéo dài ít phút. Luật căn bản là tình thương yêu. Đức Vua Đấng đã chọn sống giữa những người bị loại trừ, đã chỉ vén bí mật vào ngày trọng đại nầy những gì đã được ẩn dấu : mọi người đã chọn yêu mến một tù nhân,thăm viếng một bệnh nhân, dọn ăn cho một người nghèo hoặc không biết đến các nhu cầu những người bị cô lập và bị kinh ghét cũng như nhu cầu của những kẻ đói khát.
Như vậy thời giờ của Giáo Hội, mà người ta nói đó là thời gian lâu dài ông chủ vắng mặt vì trẩy đi phương xa, đã bất ngờ trở thành sự hiện diện không thể tin nỗi của Đấng Thiên Sai. Người ở đó trong những kẻ khi còn ở trần gian đã không có được phần hạnh phúc lẽ ra họ phải được. May thay nhiều người đã đọc lại trong những tháng vừa qua, các dụ ngôn về phán xét, cũng như là các dụ ngôn về tỉnh thức trong hai tuần vừa rồi nầy !
Trong tất cả những người bận tâm làm cho Nước Chúa đến nầy, cũng có những người ích kỷ, những người có vị trí tốt trên hành tinh, vốn cho rằng Chúa không nhìn thấy họ. Họ đã ngạc nhiên : « Chúng tôi đã nhìn thấy Chúa bao giờ ? Chúa đã đói khát ư ? ». Nhưng Chúa Kitô-Vua đã không thấy cần thiết phải giải thích dài giòng với họ. Tât cả bọn họ đã hiểu.
Với chúng ta, mọi người đều đã biết, ngay cả khi người ta không phải luôn ý thức. Điều gây sững sốt nhất ấy là sự ngạc nhiên đến từ cả hai phía : như thể chưa có ai đã từng đọc hoặc hiểu một màn gây hoảng hốt dường ấy, màn diễn phán xét chung mênh mông và vĩ đại đến nỗi không có nhà làm phim nào dám tìm cách đưa lên màn ảnh vì thiếu nhân vật. Như vậy dụ ngôn nầy đã chưa đánh động họ thật sự !
Không phải hiển nhiên khi nhìn đông đảo người đến thế như là anh chị emcủa chính mình, hiệp nhất trong cùng kế hoạch gia đình mới của Chúa Kitô. Kế hoạch của Đấng Tạo Hoá tuy thế là hạnh phúc yêu thương : cho ăn uống, đón tiếp, cho ăn mặc,thăm viếng,chăm nom. Việc lo lắng nhỏ mọn nhất cho người khác mặc lấy giá trị đời đời. Hơn nữa, danh sách các cử chỉ yêu thương do Chúa Kitô – Vua chỉ ra không hề có giới hạn. Đó chỉ là những ví dụ mà mỗi người phải triển khai khi chỉ cần nhìn chung quanh mình.
Nhưng phải mở to mắt, nhìn thấy các nhu cầu, rồi phải phân biệt giữa những cái tạm bợ và cái trường tồn !
Đức Kitô là Con Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Vì thế, Ngài: TN 34-ABC53
Đức Kitô là Con Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Vì thế, Ngài không phải chỉ là vua vũ trụ, mà còn là vua của thời gian, vua vĩnh cửu. Thực vậy, trời và đất đều thuộc về Ngài. Thời gan và vĩnh cửu cũng thuộc về Ngài. Mọi sự được dựng nên vì Ngài và cho Ngài. Trên mặt đất này, không một ai được gọi là vua vĩnh cửu và cũng không một người nào được gọi là vua vũ trụ. Bởi vì quyền hành của họ chỉ ảnh hưởng tới một phần đất nhỏ vé và trong một khoảng thời gian ngắn ngủi nào đó mà thôi.
Người ta kể lại hoàng đế Alexandre đã khóc khi nhìn lên bầu trời đầy trăng sao. Ông tức giận và buồn phiền, chỉ vỉ đã không cai trị được khoảng không trung bao la ấy. Ông chiếm cứ các lãnh thổ và mở rộng bờ cõi tới tận Ấn Độ. Người ta tôn kính ông như một vị thần. Nhà hiền triết Kallisthène đã bị chém đầu chỉ vì không chấp nhận điều đó. Nhưng Alexandre vẫn không phải là một vị vua vĩnh cửu bởi vì ông đã chết và chỉ sống được có ba mươi ba năm.
Hoàng đế Napoléon với những chiến thắng làm rung chuyển cả Âu Châu cũng không thoát khỏi số phận bẽ bàng của cái chết.
Tất cả chúng ta đều là con cái của thời gian. Có sáng chói. Thì cũng chỉ trong một khoảng khắc, sau đó cũng sẽ tàn lụi, rồi bị chìm vào đêm tối của quên lãng. Chỉ mình Đức Kitô mới cai trị đời đời. Chỉ mình Ngài mới là vua vĩnh cửu. Ngài là Alpha và Oméga. Là khởi đầu và kết thúc. Ngài đã có trước thời gian và sẽ còn tồn tại không bao giờ ngừng. Ngài cai trị trên mọi biển khơi và vương quốc của Ngài trải dài đến vô cùng.
Chateaubriand, một thi sĩ nổi tiếng người Pháp, đã kêu lên:
- Ôi lạy Chúa, trên trần gian các dân tộc xâu xé, các vua chúa sụp đổ, chỉ có mình Ngài mới trường tồn bất biến. Không một thế lực nào có thể lật đổ ngai tòa của Ngài.
Vậy chúng ta phải làm gì để tung hô vương quyền của Chúa?
Chúng ta có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách quì gối, làm dấu thánh giá hay chắp tay nguyện cầu? Tốt lắm, bởi vì đó là bổn phận của chúng ta như lời sách Khải Huyền đã viết:
- Con Chiên bị sát tế xứng đáng lãnh nhận quyền năng, khôn ngoan, sức mạnh, vinh dụ và chiếng thắng.
Chúng ta cũng có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương. Một con sâu làm rầu nồi canh. Một người lính hèn nhát sẽ làm cho cả đoàn quân phải tủi hổ. Một Kitô hữu xấu sẽ làm cho cả khuôn mặt Giáo Hội bị hoen ố. Vì thế, đừng lăn xả vào đống bùn nhơ tội lỗi, trái lại hãy thực sự là người môn đệ của Đức Kitô trong ngày Chúa Nhật cũng như trong ngày thường, trong đời sống riêng tư cũng như trong sinh hoạt xã hội.
Chúng ta còn có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách rao giảng Phúc âm, làm việc tông đồ, và nhất là bằng cách can đảm làm chứng cho đức tin. Thực vậy, giữ đức tin mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống đức tin và phải chiến đấu cho đức tin, như lời Ngài đã nói:
- Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.
Khi một vị tướng đi duyệt đoàn quân của mình, chúng ta sẽ thấy cái quang cảnh ấy thật long trọng và hoành tráng: nào đồng phục, nào dàn chào, nào kèn trống với những lễ nghi quân cách…
Trong ngày sau hết, Vua Kitô cũng sẽ đến. Ngài nhìn xem tất cả chúng ta đi qua trước tôn nhan Ngài: già cũng như trẻ, tu sĩ cũng như giáo dân. Ngài sẽ tra hỏi mỗi người chúng ta về lòng trung thành, về tình yêu và cuộc sống của chúng ta đối với Ngài.
Vì thế, hãy tuân giữ những điều Ngài truyền dạy và nhất là thực hiện những hành động bác ái yêu thương, để chúng ta sẽ không bị Ngài loại trừ, trái lại sẽ được Ngài đón nhận vào vương quốc vĩnh cửu của Ngài.
Vào ngày cuối cùng Chúa Giêsu sẽ hiện đến, uy quyền như một vị vua để phán xét tất cả: TN 34-ABC54
Vào ngày cuối cùng Chúa Giêsu sẽ hiện đến, uy quyền như một vị vua để phán xét tất cả chúng ta. Thế nhưng, đâu là nội dung của cuộc xét xử ấy?
Nội dung của cuộc xét xử ấy thật là bất ngờ. Ngài không xét hỏi về những việc mà người ta có thể đang chờ đợi, chẳng hạn như: có đạo hay không? Có siêng năng đọc kinh xem lễ, có ăn chay hãm mình hay không? Nhưng Ngài chỉ xét hỏi người ta về tình thương. Không phải tình thương chung chung, hay là tình thương trong ý tưởng, trong mơ ước, nhưng là một tình thương cụ thể được chứng tỏ bằng những việc làm thiết thực đối với những con người bằng xương bằng thịt. Cho kẻ đói được ăn, cho kẻ được khát uống, viếng thăm kẻ bệnh tật và tù đày, tiếp rước khách lạ bơ vơ.
Nhưng điều bất ngờ hơn nữa chính là lời Đức Kitô tuyên bố:
- Mỗi lần các ngươi làm những điều ấy cho một kẻ khốn khổ là các ngươi làm cho Ta.
Những người bị xét xử đều nhất loạt thắc mắc, người tốt cũng như kẻ xấu:
- Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói khát, rách rưới, bệnh tật, bị cầm tù hay là khách lạ đâu?
Nhưng mặc cho người ta thắc mắc, lời Chúa dạy thật rõ ràng: người khốn khổ bất cứ dưới hình thức nào đều là hiện thân của Chúa. Ngài tự đồng hóa mình với họ. Vậy thì rõ ràng mọi việc chúng ta làm vì tình thương đối với đồng loại đều là việc đạo đức hết.
Không phải chỉ có Kitô giáo mới dạy phải yêu người. Những điều đặc sắc trong Kitô giáo là gắn liền lòng thương người vào lòng mến Chúa, coi đó là nhiệm vụ tiêu biểu của người có đạo, tức là mặc cho tình thương người một tính cách tôn giáo và có giá trị cao cả nhất.
Tai hại thay nhiều người chúng ta lại không sống như thế. Nhiều lúc chúng ta chỉ lo qui hướng về Chúa mà quên đi người anh em. Chúng ta chỉ lo sống đạo trong nhà thờ mà không sống đạo giữa lòng cuộc đời. Trong nhà thờ chúng ta sốt sắng đọc kinh, nhưng ngoài xã hội chúng ta lại chửi bới, bất công và ghen ghét nhau ra trò.
Tại Đại hội Thánh Thể năm 1982 ở Lộ Đức, Đức cha Camara đã kể lại một câu chuyện như sau:
Có một số nông dân đến gặp tôi. Họ kể lại rằng một tên ăn trộm đã đột nhập vào nhà thờ, cậy cửa nhà tạm và lấy Mình Thánh mang đi. Hôm sau, họ đã tìm thấy bánh thánh nằm vương vãi trong bùn nhơ. Nói tới đây họ đã bật khóc. Rồi họ xin tôi dâng một lễ tạ ơn.
Dĩ nhiên là tôi vui lòng dâng lễ và trong buổi lễ tôi đã nói với họ đại khái như sau:
- Chúng ta thật mù quáng biết bao. Chúng ta đã sững sờ khi thấy bánh thánh nằm giữa bùn nhơ, nhưng đó lại là một hiện tượng xảy ra hằng ngày. Chúng ta gặp thấy Đức Kitô mỗi ngày trong những căn nhà ổ chuột. Đức Kitô hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Ngài cũng hiện diện thực sự trong nỗi cùng khổ của con người.
Rõ ràng việc bác ái là thành tích duy nhất được kể đến trong ngày phán xét. Việc bác ái là chúng chỉ duy nhất để được nhận vào số những người được Chúa Cha chúc phúc. Làm việc tôn giáo mà thiếu tình bác ái thì cũng không được Chúa thừa nhận. Đức Kitô vua tình yêu. Vương quốc của Ngài là vương quốc tình yêu. Vì thế, chỉ có một cách để thực sự thuộc về Ngài là yêu thương.
Chúng ta thích mang nhãn hiệu. Nhưng chỉ có một nhãn hiệu đáng kể, đó là lòng bác ái, đó là tình yêu thương. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng bác ái yêu thương sẽ tồn tại mãi mãi.
Chúa Giêsu dựng nên một cảnh đầy hình ảnh để noi cho biết nguyên tắc phân xử khi đến ngày: TN 34-ABC55
Chúa Giêsu dựng nên một cảnh đầy hình ảnh để nói cho biết nguyên tắc phân xử khi đến ngày cuối cùng. Qua đó Ngài muốn dạy chúng ta ngày nay phải sống theo nguyên tắc nào. Các yếu tố Ngài dùng để dựng cảnh để minh giải cho giáo huấn đều quen thuộc với người nghe Ngài nói. Nhiều truyện ký Do thái thuộc loại văn gọi là khải huyền trước Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh ít nhiều kinh khủng về ngày tận cùng lịch sử. Chúa Giêsu lấy lại một số không quá đáng và Ngài nhấn mạnh đến điểm Ngài cho là tối quan trọng: các cử chỉ yêu thương đối với người nghèo và người hèn mọn là những kẻ Ngài tự đồng hóa. Cá nhân Ngài không cần ai giúp của ăn, nơi ở, áo mặc, nhưng Ngài muốn được chúng ta phục vụ trong con người những kẻ Ngài tuyên bố là anh em ưu ái của Ngài. Nên lưu ý khi mô tả hình ảnh vị vua ngự trên ngai tòa vinh hiển, Chúa gợi ra quyền hành quân vương và thẩm phán của Ngài nghĩa là quyền quản lãnh toàn thể nhân loại. Một vài điểm để suy gẫm rút ra từ bài học này:
1) Các người lành trả lời: Lạy Chúa, có khi nào chúng tôi thấy Chúa đói khát… Như thế các người lành có hành động yêu thương đối với người nghèo túng cũng không biết rõ tất cả tầm mức các việc mình làm. Có khi nào người ta thấu suốt ý nghĩa một hành vi yêu thương chân chính? Thiên Chúa ẩn mình giữa người ta có thể khiến chúng ta kinh ngạc, nhưng phải chăng chính việc ấy giúp Ngài đến rất gần với chúng ta? Chúng ta không thể nào chịu nổi nếu Ngài tỏ mình trong thực tại quyền năng của Ngài. Ngài để cho chúng ta giao thiệp được nơi đặc điểm thâm sâu nhất mà cũng phù hợp với chúng ta; Ngài là tình yêu hiến tặng cho khả năng yêu thương của chúng ta. Để chúng ta có thể yêu thương Ngài cách rất thiết thực và luôn vừa tầm chúng ta. Ngài tự đồng hóa với người sống bên cạnh mà chúng ta gặp gỡ và có thể đón tiếp vào trong lòng; Ngài tự đồng hóa các đặc biệt với người khốn khổ mà chúng ta có thể và phải giúp đỡ về mặt thể xác lẫn tinh thần. Người Kitô hữu hãy nhờ lại hai lời Chúa dạy. Lời thứ nhất: sẽ luôn còn có người nghèo ở giữa các người. Lời thứ hai: Ta ở với các ngươi cho đến tận thế. Có thể nói Chúa ở voới các môn đệ cho đến tận thế trong con người những kẻ nghèo khổ. Ngày nay chúng ta có thực sự xác tín có những người túng thiếu, trong họ, Chúa chờ đợi tình yêu thương của chúng ta hay không? Đặt mình ở mức độ bản thể thần linh Chúa Giêsu đã phán: Cha với Ta là một. Chúa Cha lại là tình yêu. Tình yêu ấy, khi xuống mức độ nhân tính đã khiến Chúa Giêsu nói: người nghèo với Ta là một. Điều này đo lường tầm quan trọng các hành vị chúng ta đối với người nghèo.
2) Các kẻ bị chúc dữ sẽ nói như người lành: Lạy Chúa, có khi nào chúng tôi thấy Chúa đói khát… Các kẻ bị loại bỏ, các kẻ cứng lòng, các kẻ buông tuồng, ích kỷ cũng không nhận rõ tất cả tầm mức thái độ của mình. Có những trường hợp bỏ qua không hành động cho người nghèo khổ tương đương với việc ấn họ sâu thêm vào cảnh khốn cùng. Hình phạt đáng sợ của thái độ ấy ở chỗ tương đương với việc hất hủi Thiên Chúa. Thế mà nếu Thiên Chúa là tình yêu trọn vẹn, Ngài cũng là công lý hoàn toàn. Công lý ấy tỏ ra ở chỗ Ngài không ép buộc những ai khước từ Ngài. Sự cùng khổ và cô đơn của người đã khước từ Thiên Chúa là một đau đớn vô cùng khổ sở hơn mọi đau đớn trần gian này. Người Kitô hữu được mời gọi phải coi trọng hết sức trách nhiệm của mình đối với những người nhỏ bé, yếu đuối, khốn khổ, để khỏi bị tách biệt xa Thiên Chúa. Để kết thúc nên lưu ý một chi tiết: Chúa phán: mỗi một lần các người làm điều ấy… Trong ngôn ngữ Chúa Giêsu dùng (tiếng aram) động từ “làm” ở đây bao gồm ý nghĩa “phục vụ”. Người ta liên tưởng đến lời Chúa Giêsu: Ta đến để phục vụ. Trước mặt Thiên Chúa có ai nghèo hèn và cực khổ hơn những người tội lỗi là chúng ta tất cả? Chúa Giêsu đã đặt mình phục vụ chúng ta, mưu cầu ơn cứu độ, hạnh phúc và hân hoan cho chúng ta. phúc cho chúng ta nếu bắt tay làm, nghĩa là hành động phục vụ cho sự cứu rỗi và hạnh phúc của những người nghèo nhất trong anh em chúng ta.
Ngày đầu tiên của tháng 9 năm 1939, Hitle đã xâm chiếm Ba Lan và đặt một khởi đầu thúc đẩy: TN 34-ABC56
Ngày đầu tiên của tháng 9 năm 1939, Hitle đã xâm chiếm Ba Lan và đặt một khởi đầu thúc đẩy chiến tranh thế giới lần thứ hai. Bây giờ chúng ta nhận biết rằng hành động xâm lược thô bạo này là hành động của một kẻ ngông cuồng, nhưng vào lúc đó ông ta đã thuyết phục được nhiều người trong quốc gia của mình, là ông ta sẽ dẫn họ đến sự vĩ đại.
Những bản năng ghê gớm này ngự trị trong trái tim con người. Một trong những bản năng đó sinh ra khát vọng là trở nên phần tử của một hội đoàn lớn lao nào đó, hay có liên quan đến một phong trào nào có thể thay đổi được lịch sử, hay trở thành bất tử thông qua việc chia sẻ một hệ thống kinh doanh lớn lao tầm cỡ thế giới.
Xuyên qua lịch sử của những người vô lương tâm, những người đã sử dụng những bản năng mạnh mẽ này. Adolf Hitler là gương đầu tiên của cái tôi kỳ quặc đã chiếm hữu những gì mà hôm nay được gọi là “thần thánh”, nó có thể thay đổi quốc gia như một chiếc đũa thần trong tay của ông. Từ sự nhận biết trong quá khứ chúng ta phải ngạc nhiên về con người có trách nhiệm và lý trí đã dễ dàng bị lừa bịp, cho nên chúng ta nhận ra rằng sự đói khát đam mê của chúng ta là muốn trở nên một điều gì đó. Bởi vì Hitler đã hiểu đam mê này. Hitler đã đặt căn bản cho những bài hùng biện trên nguyên tắc là nếu nói dối anh hãy nói dối cho đủ mạnh để mọi người tin vào sự nói dối ấy. Quả thật, ông ta đã đòi hỏi dân tộc của mình hãy đứng về phía ông ta để mục đích một nòi giống hùng mạnh có thể đạt được sự hoàn hảo.
Tội lớn nhất của Hitler không phải là hành động dã man khủng khiếp, hành động đó đã mang đến sự hành hình hàng triệu người qua những trại tập trung. Cũng không phải là sự kiện ông ta đã biến thời cuộc thành thế chiến thứ hai, mà tội lớn nhất của ông ta là tội phạm thánh, quả thật ông ta đã ước ao đặt ngai cuả mình trong quả tim con người, một chỗ mà chỉ thuộc về Đức Kitô. Hiler và những kẻ vô lương tâm giống như ông ta thì còn xấu hơn những tiên tri giả nữa. Họ là những kẻ báng bổ phạm thánh hiện diện đứng trước nơi thánh.
Đức Kitô là Vua của chúng ta đã ngự trị trên mọi tạo vật. Chỉ một mình Ngài xứng đáng để lãnh nhận ngai báu trong trái tim của chúng ta. Dù Ngài là quyền năng, Ngài không chiến thắng trên trái tim của mình và trái tim của chúng ta bằng sức mạnh của sự chinh phục.
Đúng hơn, Ngài mời gọi chúng ta trở thành dân của vương quốc đời đời và hoàn vũ của Người. Ngài không áp đặt trên bản năng của chúng ta sẽ trở nên những thành phần lớn lao; Ngài đã làm viên mãn bản năng của chúng ta.
Vương quốc của Ngài là vương quốc không có sự giả trá, lường gạt hay bởi sự phá huỷ, là vương quốc của chân lý và là sự sống. Đó là một vương quốc, không phải của sự xấu và sự lường gạt, nhưng là của sự thánh thiện và ân sủng. Đó là một vương quốc không phải của sự độc tài, chiếm hữu, oán ghét, cưỡng bức, nhưng của sự công chính tình yêu và bình an. Như là một phần tử của Giáo Hội, chúng ta được mời gọi để trở nên một bí tích cho vương quốc này, một dấu hiệu cho thế giới về những gì mà vương quốc thật sự của Thiên Chúa làm.
Vương quốc này đã hiện diện và sẽ ngự đến. Nó hiện diện ở giữa chúng ta trong những hình thức bất toàn, nhưng trong cách chúng ta sống như là những tín hữu sẽ giúp mang đời sống đó đến sự hoàn hảo khi Chúa Kitô đến một lần nữa trong vinh quang.
Chúng ta không cần trở thành một dân tộc quan trọng, cuộc sống của họ sẽ hấp thụ một lối sống đẹp, trong một đời sống tầm thường hay công việc tầm thường dẫn tới việc không thể tránh được là một cái chết vô nghĩa. Đời sống thì không ngớ ngẩn. Đời sống là một sự thông dự vào một phong trào lớn lao trong lịch sử như là một tín hữu trung thành theo Đức Kitô là Vua.
Những nài xin trung thành với Đức Kitô Vua.
Chúa nhật này là một thời gian thích hợp để nài xin sự trung thành với Đức Kitô. Theo mẩu lời kinh được đề nghị sau đây là nền tảng trong lời nguyện đầu lễ trong kinh nguyện Thánh Thể ngày lễ trọng này. Hoặc có thể được dùng trong thánh lễ khi mọi người lập lại những dòng nài xin này sau vị linh mục hoặc thừa tác viên khác.
Chúng con xin trung thành với Đức Kitô Vua. Chúng con ao ước và âu yếm vũ trụ của Người. Chúng con nhận biết vương quốc của Ngài là một vương quốc sự thật và sự sống, Của sự thánh thiện và ân sủng. Chúng con cũng ước ao làm những gì chúng con có thể,
Để qua lời cầu nguyện và hành động có thể mang thế giới này về với vương quốc của Người,
Một vương quốc của bình an, công bình và tình yêu.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con ngươi. Sự thật: TN 34-ABC57
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.
Sự thật thứ nhất là: thế giới này sẽ chấm dứt. Không có gì vĩnh cửu ở đời này. Mọi sự sẽ qua đi. Những gì được coi là bền vững lâu dài rồi cũng tan thành cát bụi. Của cải, tài năng, công danh cũng sẽ trở thành hư vô. Cả đến con người cũ cũng không còn. Sau cùng mọi người bằng nhau và phải đến trước tòa Chúa để chịu phán xét.
Sự thật thứ hai là: mọi người sẽ bị xét xử. Tất cả mọi người sẽ tụ tập lại. Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình đã làm trong cuộc đời. Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai. Những trách nhiệm liên đới sẽ được sáng tỏ. Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày. Nếu trên trần gian ta phải chứng kiến bất công thì tại phiên xử cuối cùng này sẽ có công bằng tuyệt đối. Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan tòa tối cao, quyền uy và công thẳng.
Sự thật thứ ba: sẽ có một vương quốc mới. Tuy nhiên kết thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả. Chúa Giêsu tổng kết thế giới cũ để đưa nhân loại vào một thế giới mới. Thế giới không còn thời gian. Thế giới vĩnh cửu. Thế giới không còn đau khổ. Thế giới hạnh phúc tràn đầy. Vì Chúa sẽ thiết lập một vươn quốc mới: vương quốc tình yêu. Cuộc xét xử chính là một cuộc tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới. Vì là vương quốc tình yêu nên chỉ những ai có tình yêu mới được vào. Luật lệ trong vương quốc mới chỉ có một luật duy nhất: luật tình yêu. Việc cai trị cũng chỉ theo một nguyên tắc duy nhất: tình yêu. Chúa Giêsu trở thành Vua Tình Yêu.
Sự thật thứ bốn: đời này là cơ hội duy nhất. Thế giới mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng ngay từ đời này. Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương quốc mới. Những ai có lòng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo khổ, bé mọn, sẽ được tuyển chọn vào Nước Trời. Đời này ngắn ngủi nhưng lại là cơ hội duy nhất. Hết đời này sẽ không còn cơ hội nữa. Sẽ đi đến chung cuộc. Vì thế ta phải vội vàng mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo không kịp.
Với dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng thế giới. Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu thương bằng những việc làm cụ thể. Cho người đói ăn. Cho người khát uống. Cho người rách rưới ăn mặc. Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy. Đây là những việc vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể làm được. Ai cũng có điều kiện để làm.
Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU.
1- Dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng cho thấy những sự thật nào? 2- Ta có thể làm chủ vận mạng mình được không? 3- Điều kiện để được vào Nước Chúa có khó khăn gì không? 4- Nếu mọi người đều thực hiện Lời Chúa, bạn nghĩ thế giới này sẽ như thế nào? Có trở thành vương quốc của Chúa được không?
Đây là một bài học khác về cái nhìn của Thiên Chúa trên cuộc sống của chúng ta. Ngài sẽ phán: TN 34-ABC58
Đây là một bài học khác về cái nhìn của Thiên Chúa trên cuộc sống của chúng ta. Ngài sẽ phán xét chúng ta như thế nào? Câu trả lời chứa đựng trong bản văn chính yếu này. Đây là tổng kết cuối cùng của tất cả mọi cuộc sống: ngày phán xét chung. Thiên Chúa sẽ xoay sở như thế nào trước công việc vĩ đại này? Ngài sẽ dùng máy vi tính phân tích các sử thi, các bi kịch, các tiểu thuyết cuộc đời cho đến vô tận hay sao? Ngài sẽ tổ chức những vụ kiện ngắn để cân nhắc lợi hại hay chăng? Đó không phải là điều Chúa Giêsu nói với chúng ta. Chúng ta có nguy cơ bối rối vì sự chọn lọc ngắn ngủi, sự nhanh chóng của các mục xét xử và sự đơn giản của câu: “Ta đói, ngươi đã cho Ta ăn, hãy vào hưởng sự vui vẻ”.
Chúng ta hãy đánh giá đúng hoàn cảnh: đây là lời răn dạy cuối cùng của Chúa Giêsu và nỗ lực tối hậu của Ngài để đặt chúng ta trước điều cốt yếu. Biết bao lần Ngài nhấn mạnh đến nguy cơ chúng ta trở thành kẻ ngập ngừng: chúng ta tưởng tượng ra những điều tốt đẹp chúng ta sẽ làm... thế rồi chúng ta lại không làm.
Ngài biết chúng ta có khuynh hướng thoát ra khỏi những bó buộc cụ thể của tình yêu bằng những xung khắc dài và những mơ mộng: “Chỉ cần yêu thương... Sống yêu thương... Làm thế nào gặp Chúa nơi anh em chúng ta... Làm thế nào thấy Chúa Kitô nơi người nghèo nhất...”. Tốt, rất tốt. Nhưng sẽ đến một ngày nào đó bị tước mất những lời nói chúng ta sẽ trần truồng trước những hành vi của chúng ta. Bạn có hành động khi một người hay tập thể cần đến bạn? Đó là sự chọn lựa những người được chúc phúc và những kẻ bị nguyền rủa. Đó là sức nặng thực sự của cuộc sống của một con người và việc phán xét xem người đó có đáng sống đời đời hay không.
- Ngươi, ngươi hăng hái lao vào giúp đỡ khi có dịp: hãy đi vào Nước Trời... Ngươi, ngươi tránh né biết bao việc phải làm: hãy đi xa khỏi Ta. - Nhưng lạy Chúa, con đã thực sự muốn gặp Ngài, sống với Ngài, sống vì Ngài. - Ngươi đã làm gì cho anh em ngươi? - Con thề với Chúa nếu con đã biết rằng... - Ngươi đã làm gì?
Mỗi lần chúng ta nghĩ về việc gặp Chúa Giêsu, một cú bấm máy sẽ phải làm bừng sáng trước mắt chúng ta, như một tấm áp phích sáng chói, câu Matthêu 25, 40 mà cuộc sống chúng ta noi theo: “Mỗi lần ngươi làm điều tốt cho một trong những người bé mọn nhất trong số các anh em của Ta thì chính là ngươi đã làm cho Ta vậy”. Điều vĩ đại trong việc gợi ra ngày Phán xét phải làm cho chúng ta hiểu giá trị của cử chỉ nhỏ nhặt nhất của tình yêu thương. Cuối cùng, có một điều quan trọng đó là điều chúng ta thực sự làm để cứu giúp một hoàn cảnh nguy khốn. Danh sách những việc được Chúa Giêsu lấy lại không ngừng kéo dài ra: “Ta mù chữ và ngươi đã dạy Ta học... Ta bị tàn tật và ngươi, một kiến trúc sư, đã nghĩ đến việc xây dựng những căn hộ có thể đến ở được... Ta là một kẻ tị nạn và ngươi đã đón tiếp Ta”.
Duy chỉ trên những con đường này người ta mới gặp Chúa Kitô Vua. Nước Trời của Ngài là một thế giới gồm những ngừơi cần được giúp đỡ và những người sẵn lòng giúp đỡ. Mỗi lần chúng ta giúp đỡ tức là chúng ta chọn Chúa Giêsu làm Vua của chúng ta.
Như người chăn chiên tách chien ra khỏi dê”. Nói cho đúng, đây là chiên và "dê con"; ở Palestine: TN 34-ABC59
"Như người chăn chiên tách chiên ra khỏi dê”. Nói cho đúng, đây là chiên và "dê con"; ở Palestine, việc chăn chung chiên với dê con là chuyện thường. Nhưng chiều đến, người ta phải lựa chúng ra, vì dê con cần được sưởi ấm suốt đêm. Vì chiên có giá trị hơn dê nên ta hiểu tại sao, trong dụ ngôn, chúng được đứng bên hữu Đấng Thẩm phán cánh chung (bên hữu là chỗ danh dự).
"Vua": các chữ này (đây quy chiếu về Chúa Giêsu (x 2, 2; 21. 3; 27, 11; 27, 29. 37. 42).
"Hãy lĩnh lấy làm cơ nghiệp Nước đã dọn cho các ngươi": x.hai mối phúc thật đầu tiên: Vì Nước Trời là của họ" (5, 3) và họ sẽ được đất làm cơ nghiệp" (5, 4).
"Vì xưa Ta đói . . .Ta khát . . . ": Phù hợp với óc tả thực không thay đổi của Mt, các nỗi thống khổ nhân thế được gợi lên ở đây: mình trần thân trụi, lưu đày biệt xứ (nghĩa là không có quyền lợi và sự chở che), bắt bớ giam cầm, đói khát yếu đau, xảy ra rất thường; ta đang ở trong cùng một bầu khí như trong Tám mối phúc thật và Diễn từ trên núi. Các kẻ khốn khổ này là những người, khách quan mà nói, cần được cứu giúp, dù theo chủ quan họ thế nào chăng nữa. Bản răn không bảo những người khách lạ, đói khát, tù đày đó là Kitô hữu hay là thừa sai. Con Người liên đới với mọi nỗi khổ của nhân loại trong tất cả chiều rộng và chiều sâu của nó.
"Lạy Chúa, có bao giờ chúng tôi thấy Ngài đói...": Bản văn không cố ý bảo các người công chính ấy (những kẻ trung thành và tỉnh thức của các dụ ngôn trước) quên điều họ đã làm, nhưng là: họ không biết rằng mình đã làm cho chính Con Người trong bản thân của những kẻ khốn khổ. Ý nghĩa trọn vẹn của các hành vi họ khi được mặc khải cho họ vào giờ chót; điều này phù hợp với toàn bộ luân lý của Mt (x."Cha ngươi, Đấng thấu suốt nơi kín ẩn, sẽ hoàn trả lại cho ngươi"-6,4). Hãy ghi nhận là động từ làm thường xuất hiện trong các câu đây (4 lần trong cc. 40- 45); thế mà trong tiếng Aram, Chúa Giêsu chỉ có thể dùng động từ "abad" vừa có nghĩa làm vừa có nghĩa phục vụ.
"Hãy xéo đi... mà vào lửa đời đời": Như trong suốt các chương 24-25, việc kết án các bất công, nghĩa là kết án những kẻ đã chẳng thi thố lòng nhân lừ, thật vô cùng khủng khiếp. Trong lúc trong sách Khải huyền Do thái, chính lương dân hoặc địch thù của Israel, hoặc các người Do thái bất trung (xét theo quan điểm của nhóm Essêni hay Biệt phái) sẽ bị vị thẩm phán của những ngày cuối cùng đè bẹp, thì ở đây là những kẻ đã chẳng cứu giúp anh em của Con Người. Không một bản văn Tân ước nào diễn tả rõ ràng như ở đây ý tưởng "tránh phục vụ” (“các ngươi đã không làm") cũng lỗi nặng nề như phạm tội ác; sau này, học thuyết của thánh Gioan sẽ dạy rằng không yêu thương tức là giận ghét vậy (1 Ga).
KẾT LUẬN
Người công chính rốt cục là những kẻ đã chu toàn Luật Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã diễn tả trong giới răn trọng nhất. Một lần nữa Người đồng hóa tình yêu tha nhân với tình yêu Thiên hùa. Cái mặc tính cách "thiện hảo" cho các công việc con người làm đối với anh em mình chính là chúng đã được làm cho Chúa Kitô.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thế là chúng ta đã đến Chúa nhật cuối cùng của Năm phụng vụ. Giáo Hội, kẻ đã đưa ta vào trong mọi mầu nhiệm của Chúa. Hôm nay muốn thu tóm tát cả sứ điệp đã được nghe trong suốt năm rồi bằng cách lập ra cho ta lễ Chúa Kitô-Vua vũ trụ.
Ta nói vậy là vì dựa vào các bài đọc hôm nay trong đó Chúa Giêsu lần lượt được giới thiệu như là Vua-mục tử săn sóc chiên mình, Vua-chiến thắng đánh bại các quyền lực chống đối và làm ta thông hiệp vào cuộc Người thắng trận, Vua-Thẩm phán phân biệt những kẻ đã biết chấp nhận quyền bá chủ của Người, Vua-tôi tớ giáo quyền thống trị lại cho Chúa Cha. Thật khó mà tóm kết trong vài câu một hình ảnh vừa đa dạng vừa đầy đủ về Chúa như thế.
"Các dân thiên hạ được thâu họp lại trước mặt Người thảy": Đây là một cuộc phán xét phổ quát. Tất cả mọi người đều có liên hệ. Dầu họ thuộc tôn giáo, chủng tộc hay nền văn hóa nào, Chúa Kitô-vua cũng triệu tập tất cả họ lại trong cuộc gặp gỡ tối hậu ấy. Điều lạ lùng là hết thảy những kẻ Chúa Kitô-vua sắp xét xử, đều không biết rằng họ đã phục vụ Người hay bỏ rơi Người. Còn đối với các tín hữu, Tin Mừng đưa ra nhiều tiêu chuẩn xét xử bổ sung khác, mặc khải các yêu sách chính xác khác; điều này thật dễ hiểu vì họ đã biết Chúa Kitô, Đấng đã nhờ Thánh Thần mà tự mặc khải cho họ. Họ đã phải can đảm tuyên xưng Người (10, 32), đã phải thi hành thánh ý Cha thiên quốc (7,1), đã phải tỏ ra lòng nhân ái (5,7), đã phải luôn sẵn sàng thứ tha (6,14)... Ta biết các tín hữu bị xét xử như thế đã nhận nhiều ánh sáng hơn các kẻ khác, vì họ đã được tiền định biết Chúa Kitô từ lúc còn ở dương trần. Thành thử thật dễ hiểu khi người ta đòi hỏi ở họ nhiều hơn. Nhưng cái “nhiều hơn" này vẫn luôn đứng trong đường hướng tình yêu như đối với các lương dân đã không được nhiều ánh sáng ngần ấy. Chỉ khác điểm này là các Kitô hữu, vì đã biết rõ các yêu sách tình yêu hơn, vì đã biết rằng Chúa Giêsu tự đồng hóa với tất cả các kẻ "bé mọn" của thế gian, nên sẽ khó lòng chữa mình hơn lương dân được.
2. Trang Tin Mừng hôm nay chỉ nói đến các việc phục vụ thuộc bình diện vật chất phải thi hành đối với các kẻ "bé mọn” của thế gian nầy. Nhưng đó chỉ là những ví dụ, bảng kê khai các việc lành phúc đức không chỉ từng ấy. Chúa Giêsu chỉ gợi lên những việc rõ ràng nhất. Nhưng Người cũng đã rất có thể đề cập đến việc giáo dục những kẻ dốt nát, phấn khích người suy nhược, bầu bạn với những ai đơn côi, cảm thông vơi các gia đình tang thế, tươi cười với người quạu cọ… Khi vừa đáp ứng nhu cầu của tha nhân, là ta làm được một điều gì đó cho các anh em của con người là ta làm cho chính bản thân Chúa Giêsu. Chính các dấu tích tình yêu đó một ngày kia sẽ lầm ta xứng đáng nghe bảo: hãy đến, hỡi những người được Cha Ta chúc phúc ...".
Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người.
Trong bài giảng lớn cuối cùng này của Đức Giêsu, người thợ mộc hèn mọn Nadarét sau cùng biểu: TN 34-ABC60
Trong bài giảng lớn cuối cùng này của Đức Giêsu, người thợ mộc hèn mọn Nadarét sau cùng biểu lộ ý thức phi thường mà Người có về vai trò của mình. Ơ đây, chúng ta có sự khẳng định mạnh mẽ nhất về thiên tính của Đức Giêsu theo nghĩa chặt chẽ. Trong vài ngày nữa, Người sẽ bước vào cuộc khổ nạn (Mt 26,1-5) và trở thành "ông vua" bị nhạo báng, bị đội mão gai, bị giết chết như một người nô lệ tầm thường. Nhưng Người biết mình là ai. Một ngày kia Người sẽ đến trong vinh quang để phán xét thế gian, là đặc quyền mà Cựu ước dành cho Giavê. Ở đây Đức Giêsu lấy lại tước hiệu Con Người mà Người đã sử dụng nhiều lần trong bài giảng về thời Thế Mạt (Cánh chung): Mt 24,3.27.30.37.39.44. Kể từ ngôn sứ Đanien (7,13), Con Người là nhân vật mầu nhiệm, có nguồn gốc từ trời, mà sách Khải Huyền Do Thái (Đặc biệt là sách Hê-nóc) mô tả như vị Thẩm Phán của thời Thế Mạt.
Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.
Thỉnh thoảng chúng ta nên nghĩ đến "Ngày" này. Tôi sẽ được đưa về với ngày đó rất nhanh. Lúc đó mọi sự vật trần gian sẽ có một tỉ lệ mới: Lạy Chúa, xin Chúa ngay từ bây giờ giúp con phán đoán mọi sự việc theo quan điểm vĩnh cửu, để phân biệt cái gì là không đáng kể với cái gì là quan trọng.
“Các dân thiên hạ..". Tôi cũng thế, tôi sẽ có mặt ở đó. Một đám đông to lớn chờ phán xét. Cũng có mặt ở đó tất cả những người mà tôi yêu thích, tất cả những người mà tôi biết, tất cả những người mà tôi có trách nhiệm.
Nhưng cũng có mặt mọi người khác: Do Thái và không Do Thái, Kitô hữu và không phải Kitô hữu, tín hữu và không tín hữu, Hồi giáo, Ấn giáo, người theo thuyết vật linh… những nhà thần bí suốt đời sống trong sự cầu nguyện, và những người vô thẩm mà cả đời không bao giờ cầu nguyện... tất cả đều đứng trước mặt Đức Giêsu! Người là vị Vua Mục tử, tước hiệu mà văn chương của các ngôn sứ cũng đã dùng để nói về Gia-vê (Ed 34,11-22).
Bấy giờ Đức vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng:"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho cắc ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”.
Trong vài ngày nữa, Đức vua này, Con Thiên Chúa sẽ bị đóng đinh. Tuy nhiên Người ý thức được "ý định của Thiên Chúa từ thuở tạo thiên, lập địa!". Người nói Thiên Chúa đã tạo ra con người… để một ngày ban cho con người Nước của Người làm gia nghiệp.
Nhưng sự phán xét dựa trên tiêu chuẩn nào? Trên quy tắc nào sự sàng lọc được thực hiện?
Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu, các người đã thăm nom, Ta ngồi tù, các người đã đến thăm.
Vậy chúng ta được phán xét dựa trên và chỉ dựa trên tình yêu. Và dựa trên một tình yêu rất đơn giản: cho ăn, cho uống, tiếp đón, cho mặc, thăm viếng, săn sóc. Như thế, những cử chỉ yêu thương khiêm hạ và chân thật có một giá trị vô cùng, một giá trị vĩnh cửu. Vả lại danh sách những hành động yêu thương mà Đức Giêsu kể ra không hạn chế. Đó chỉ là những gương mà chúng ta có thể kéo dài ra tùy theo cuộc sống của mỗi người.
Con tôi khóc ban đêm, và tôi thức dậy để dỗ dành âu yếm nó. Bà mẹ già của tôi không thể ngồi dậy, và tôi đã đỡ bà ra khỏi giường để cho bà ngồi vào ghế bành. Những người láng giềng của chúng tôi thiếu thốn tình bạn họ cần và chúng tôi đem tình bạn đến với họ. Trong giáo xứ, linh mục cần các bậc phụ huynh phụ trách việc dạy giáo lý và tôi đã chấp nhận trách nhiệm này và nó chiếm khá nhiều thời gian của tôi. Các đồng nghiệp của tôi cần được bảo vệ và tôi đã lãnh trách nhiệm về cộng đoàn và chính sách.
Thế giới thứ ba yêu cầu chúng ta giúp đỡ để phát triển, và tôi đã tham dự vào chiến dịch thế giới chống nghèo đói…Người phối ngẫu, con cái tôi, bạn bè tôi... đang cần những cử chỉ yêu thương của tôi... Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp đón hoặc trân truồng là cho mặc. Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?"
Sự ngạc nhiên của những người "được cứu” là một trong những yếu tố gây kinh ngạc trong cảnh này. Theo Đức Giêsu không một ai trong số những người được Chúa Cha chúc phúc có vẻ nhận biết đích xác điều gì đã được diễn ra trong đời sống hàng ngày của họ: ý nghĩa sau cùng của các hành động họ làm chỉ được tiết lộ vào giờ sau hết.
Như thế, cuộc phán xét sau cùng này mà chúng ta tưởng tượng trong tương lai, còn rất xa trong thời gian, thực ra lại là một biến cố thường xuyên: Chính HÔM NAY là ngày phán xét? Thiên Chúa sẽ không cần phán xét con người, mà con người ta phán xét mình trong suốt cuộc đời.
Thiên Chúa chỉ cần tiết lộ điều đã được "che giấu” trong mỗi ngày mà họ đã sống. Đời sống vĩnh cửu đã được bắt đầu. Vậy điều gì đã được "che giấu” và không được nhận thức?
Để đáp lại Đức vua sẽ bảo họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
Điều được "tiết lộ vì thế chính là sự hiển diện khó tin được của Đức Giêsu ! Khi toàn bộ lịch sử nhân loại sẽ hoàn tất, và để tóm thu toàn bộ lịch sử ấy, Đức Giêsu chỉ có thể nói về Người, như thể trong vô số người đàn ông và đàn bà, chỉ mình Người đã hiện hữu, bằng sự hiện diện vô số và ẩn giấu. 'Ta đói …Ta khát… Ta ngồi tù… Ta là khách lạ.. Ta đau ốm...".
Như thế, cuộc quang lâm sau cùng, sáng chói trong vinh quang của Đức Giêsu từ trên các đám mây sẽ là bằng chứng cho một "sự đến" khác, bí mật và ẩn giấu nhưng thường xuyên, và xảy ra qua những hành động yêu thương.
Một cách rõ ràng và hiển nhiên sự hiện diện huy hoàng của Đức Giêsu trong ngày Thế Mạt sẽ nói rằng Người không ngừng đến và không ngừng hiện diện trong mỗi người anh em đang cần đến chúng ta.
Lạy Chúa, xin giữ cho chúng con luôn canh thức cho đến giờ Chúa sẽ hiện ra.
Rồi Đức vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó".
Lạy Đức Giêsu, Đấng mạc khải tình yêu của Chúa Cha, chính Chúa đã tuyên bố những lời đáng sợ như thế. Con lắng nghe và không thể trốn tránh trách nhiệm đã gạt bỏ những gì gây phiền nhiễu cho con trong Tin Mừng. Thật vậy Tin Mừng không phải là một thuyết duy tâm mơ hồ và nặng tình cảm, đó là lời kêu gọi của một yêu sách cực độ. Từ chối yêu thương... không giống như yêu thương? Không - tình yêu không thể có chỗ của nó bên cạnh Thiên Chúa là tình yêu. Chúng ta nhận thấy có một khía cạnh có tầm quan trọng tột bậc: Chúa Cha đã chuẩn bị thiên đàng cho người từ thuở tạo thiên lập địa... còn hỏa ngục không được chuẩn bị cho con người nhưng cho sa tan và các sứ thần của nó. Ơ đây chúng ta gặp lại nhân vật hắc ám mà ngay từ lúc đầu đã được giới thiệu như kẻ thù của Đức Giêsu (Mt 4,1), kẻ đã gieo cỏ lùng vào cánh đồng lúa mì (Mt 13,39), kẻ mà Đức Giêsu đã nhiều lần đi đầu để tiêu diệt (Mt 9,34; 12,24; 8,31; 15,22; 17,18).
Tín điều về hỏa ngục không do Giáo Hội bày đặt ra. Chúng ta nghe từ chính miệng Đức Giêsu: “Quân bị nguyền rủa, đi đi cho khuất mắt Ta…”
Tín điều về Hỏa ngục có nghĩa như sau: Thiên Chúa có đủ tình yêu cao cả để cho tạo vặt được tự do với sự tự do chân thật, kể cả tự do nói "không" với Thiên Chúa. Dĩ nhiên Thiên Chúa không muốn có Hỏa ngục. Và sự hiện diện dù của chỉ một người bị sa Hỏa ngục đối với chúng ta cũng là một cớ vấp ngã, đối với Thiên Chúa thì còn hơn thế nữa. Giữa Hỏa ngục “có thể" và Hỏa ngục thực, Thiên Chúa can thiệp với tất cả năng lực của Tình Yêu Của Người: chính ở chỗ đó, thập giá của Đức Giêsu được dựng lên Thiên Chúa đã làm tất cả để không một ai phải vào chỗ đó nội các tạo vật dứt khoát nói "không" với Thiên Chúa. "Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ". "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người' tội lỗi" (Mt 9,13). "Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi" (Rm 5,9). "Thiên Chúa muốn mọi người được cứu (1Tm 2,4) . Hỏa ngục vì là sự khước từ tuyệt đối Tình yêu nên lúc nào cũng chỉ hiện hữu từ một phía... phía của người đã tạo ra hỏa ngục cho chính mình. Nhưng chính Thiên Chúa không thể có bất cứ sự cộng tác nào trong sự lệch lạc ấy. Chừng nào còn có dù chỉ một con người ở trong sự khước từ ấy thì có thể nói Thiên Chúa còn thấy mình bị đóng dấu sắt nung đỏ bởii sự từ chối ấy xúc phạm đến tình yêu vô hạn của Người và người ta đoán rằng dấu ấn này đã mang hình thể của thập giá?
Vì xưa Ta đói, các Ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom". Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ đâu?": Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các người không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy". Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời.
Cả hai cảnh phán xét hoàn toàn giống nhau và đối nhau: điều mà những người này đã làm, những người khác bỏ không làm. Mọi con người dù là Kitô hữu hay không, dù biết hay không biết Đức Giêsu sẽ bị xét đoán trên cùng một tiêu chuẩn: không phải số lời cầu nguyện đã đọc, những hành động thờ phụng đã hoàn tất …những tình yêu cụ thể mà người ấy sẽ biểu lộ cho các anh em mình. Không làm điều xấu chưa đủ. Còn phải làm điều tốt. Mỗi con người ngay từ HÔM NAY được phán xét bằng điều tốt lành mà người ấy làm cho những người cần đến người ấy . Vậy ngày hôm nay, ai đang chờ đợi tôi một điều gì?
Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi: TN 34-ABC61
Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi vì khi xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. .. Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy. (Mt.25:34-40)
***
Bạn thân mến! Trên đây là tường thuật về ngày phán xét chung cuộc trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Trong ngày phán xét chung cuộc này Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang để xét xử muôn dân. Trong ngày đó con người với công phúc hay tội lỗi sẽ được thưởng phạt phân minh rõ ràng. Trong ngày đó con người không còn chỗ cho địa vị, cho quyền uy, thế lực hay giàu sang phú quý. Trong ngày đó không một ai được miễn trừ, cũng không còn có cơ hội để thanh minh hay lập công chuộc tội cho những việc mình đã thực hiện trước đây khi còn sống trên trần gian. Trong ngày đó, tình yêu là thước đo duy nhất để phân biệt kẻ xấu hay người tốt. Cách cư sử và thái độ sống của mình với anh em đồng loại là tiêu chuẩn duy nhất để xác định công phúc hay tội lỗi.
Cách cư xử và thái độ sống của Mẹ Têrêsa Calcutta là mẫu mực của tình yêu, là gương sáng cho ta noi theo. Bà bị cuốn hút bởi tình yêu dành cho những người bệnh tật và đau khổ. Dưới mắt của bà, những người bệnh tật đau khổ không chỉ là những người đáng thương, mà còn là hiện thân của chính Chúa Giêsu đau khổ. Tình yêu con người và tình yêu Chúa Giêsu đan quyện vào nhau. Vì yêu Ngài, nên bà đã yêu người bệnh tật đau khổ mãnh liệt hơn. Bà tập nhìn ra chính Chúa Giêsu trong mỗi con người, cho dù con người đó mang dáng vẻ bệnh hoạn kinh tởm đến đâu đi nữa.
Ta không phải tìm Chúa nơi xa xôi. Ngài không chỉ ở trong nhà thờ, trong bí tích mà Ngài còn ẩn mình trong những người hèn kém đáng thương. Ngài gần gũi với nỗi đau của người yếu thế. Ngài chia sẻ những nỗi câm nín của bất công chèn ép trong xã hội…
Mỗi người yếu đuối khốn cùng xung quanh ta đều là một bí tích. Qua họ ta có thể gặp gỡ Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt…Chắc hẳn đã bao lần Chúa đi qua đời ta nhưng ta đã không chú ý đến. Ngài đã đi qua đời ta như một người ăn xin nghèo khổ nơi cuối phố; như một người bệnh với thân xác gầy còm ốm yếu trong bệnh viện; như một người già đang sống lê lết những tháng ngày còn lại của cuộc đời nơi viện dưỡng lão …
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi ta ra tay giúp đỡ cho các anh chị em bé mọn khốn khổ của Ngài: Những người mù chữ, những trẻ em đường phố, những người bị suy sụp tinh thần cần được yêu thương, những người vô gia cư không đủ khả năng để tìm cho đời mình một chỗ ở, những người tự nhốt mình trong tù ngục đam mê, những người trần trụi vì phải sống nhờ trên thân xác của mình… Trong ngày phán xét chung thẩm, ta không thể giả vờ ngạc nhiên khi nghe biết mình đã để Ngài đi qua đời ta với hai bàn tay trắng. Ta sẽ bị Ngài xét xử dựa trên tình yêu cũng như cách cư sử và thái độ sống của mình với anh chị em xung quanh ta.
***
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa, chúng con đã giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ, và kết qủa là nhiều tâm hồn vẫn xa Chúa, nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa cho dù Chúa đã đến trái đất này từ hơn 2000 năm.
Lạy Chúa! Ngài là Vua của trời đất vũ trụ, là vua của muôn vua và là Chúa của mọi tâm hồn… Xin Chúa đến ngự trị trong cung lòng tâm hồn của mỗi người chúng con và của cả nhân loại này nữa, Amen. (trích R. Veritas)
Nhận biết uy quyền của Đức Giêsu và quyền lực của Chúa Cha thúc đẩy chúng ta hành động theo:: TN 34-ABC62
Nhận biết uy quyền của Đức Giêsu và quyền lực của Chúa Cha thúc đẩy chúng ta hành động theo: các tiêu chuẩn của Chúa Cha cũng là của Đức Giêsu.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
I. NgỮ cẢnh
Có những liên hệ về đề tài làm cho phân đoạn 23,1–25,46 thành một diễn từ duy nhất:
(a) Đề tài bao trùm toàn đoạn 23,1–25,46 là sự phán xét, sự phán xét của Thiên Chúa trong hiện tại và tương lai, được Con Người thực thi. Cũng như khi đến cuối mỗi bài diễn từ lớn trước đây đều có một lời phán xét (x. 7,24-27; 10,32-42 [39, cứu được/mất; 40-42, phần thưởng tương lai]; 13,47-50; 18,23-35), thì bài diễn từ cuối cùng của Đức Giêsu cũng là một bài diễn từ lớn về phán xét, đưa đến cảnh phán xét cuối cùng trong 25,31-46; đây là câu truyện riêng của Mt, cung cấp chìa khoá cho bài diễn từ Mt;
(b) Mt thêm vào những thuật ngữ của “Vương quốc Thiên Chúa” (Nước Trời, Đức Vua) vào ở 23,13; 24,14; 25,1.34.40 – trong nguồn của ngài thì không có như thế –: đây cũng là đề tài làm cho bài diễn từ được thống nhất, nhất là khi ngài đóng khung bài này bằng 23,13 (đóng cửa Nước Trời) và 25,34 (vào Nước Trời);
(c) Chương 23 đã có nhiều nét mang tính cánh chung hoàn toàn. Những tư tưởng về cánh chung không chỉ bắt đầu có trong chương 24, trong 23,1-12, những giáo huấn mở đầu đã có nền tảnh cánh chung. Những lời nguyền rủa trong cc. 13-36 cũng có một hình thức cánh chung. Những âm vang cánh chung khác cũng có trong 23,13.32.34-39;
Chỗ ngắt 24,1-3 thật ra nối kết phần đi trước với phần đến sau: “Những sự việc ấy” của 24,3 qui về việc tàn phá Đền thờ trong 24,2. Nhưng đề tài Đền thờ lại liên kết 24,1-2 với 23,38.
Qua bản văn hôm nay, chúng ta gặp được niềm hy vọng của Họi Thánh vào Đức Kitô quang vinh (“Chúa” [Kyrios]: cc. 37.44; Đức Vua: cc. 34.40 // “mục tử”: c. 32). Hẳn là tác giả đã lấy cảm hứng từ các bản văn ngôn sứ như Tv 2,7; 110,1-3; Đn 7,14. Tuy nhiên, ngoại trừ quang cảnh hùng vĩ đó, sứ điệp trọng tâm của bản văn vẫn không khác sứ điệp của những bản văn đi trước: Người đầy tớ trung tín (24,45-51), Các trinh nữ (25,1-13), Ba người tôi tớ (25,14-30) trong đó ta thấy cuộc gặp gỡ với ông chủ, cũng được gọi là kyrios, kết thúc với phần thưởng hoặc hình phạt.
II. BỐ cỤc
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Quang cảnh Phán xét cuối cùng (25,31-33); 2) Xét xử những người bên phải (25,34-40); 3) Xét xử những người bên trái (25,41-45); 4) Kết luận (25,46).
III. Vài điỂm chú giẢi
- muôn dân (32): Theo S. Hre Kio (“Understanding and Translating “Nations” in Mt 28,19”, dans The Bible Translator 41 (1990) 236), trong số 16 lần từ ngữ ethnê được dùng trong Mt, chỉ có ba lần liên hệ với cuộc phán xét thế gian (24,7; 24,14; 25,32), thì rất có thể từ ngữ phải được hiểu theo nghĩa tổng quát, không giới hạn (= Do-thái + Dân ngoại); trong những trường hợp khác, từ này được hiểu là “Dân ngoại” (4,15; 5,47; 6,7; 6,32; 10,5; 10,18; 12,18; 12,21; 18,17; 20,19; 20,25; 21,43; 24,9).
- tập hợp trước mặt Người (32): Cựu Ước cũng đã nói đến cuộc quy tụ hoành tráng các dân trên thế giới lại để chịu Thiên Chúa phán xét (Ge 4,2; Is 66,18; Gr 25,31; v.v.). Ở đây chúng ta cũng gặp lại viễn tượng ấy: đây không còn phải là cử chỉ từ bi thương xót của người mục tử cánh chung quy tụ những người được chọn (Mk 4,6; Xp 3,19; Ed 34,12-13) hoặc quy tụ cả Do-thái lẫn Dân ngọai vào một đoàn duy nhất (Gr 3,17), nhưng là hành vi uy quyền triệu tập loài người ra trước tòa Thiên Chúa.
- tách biệt chiên với dê (32): Chính xác thì đây là chiên và dê con. Ban ngày chúng có thể đi chung, nhưng về đêm người ta phải tách dê con ra để giữ cho chúng ấm. Vì chiên thì có giá trị hơn dê con, ta hiểu tại sao chiên được đặt về bên phải vị Thẩm phán cánh chung, vì chỗ bên phải là chỗ danh dự.
- Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn (37): Không phải là những người lành quên, nhưng họ không biết là khi giúp đỡ những người túng cực là họ đã làm cho chính Con Người. Ý nghĩa tròn đầy của các hành vi của họ chỉ được vén mở vào giờ cuối cùng. Điều này hoàn toàn phù hợp với nền luân lý của Mt (“Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”, Mt 6,4).
- những anh em bé nhỏ nhất (40): Từ ngũ “bé nhỏ” (nêpios và mikros) được dùng nhiều lần trong Mt để gọi những thành viên yếu hơn hoặc có nhu cầu hơn trong cộng đoàn (11,25; 26,16: nêpios; 10,42; 13,32; 18,6; 26,39.73: mikros), còn từ elakistos, “bé nhỏ nhất” để gọi con người thì chỉ xuất hiện trong bản văn ở đây mà thôi. Dường như từ này không đồng nghĩa với hai từ trên, mà lại có nghĩa xã hội nhiều hơn.
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
Bản văn mở ra với một quang cảnh hùng vĩ: Con Người “đến trong vinh quang”: Người vẫn là mục tử “tách biệt chiên với dê”, nhưng cũng là Đức Vua uy phong chủ trì cuộc xét xử chung cuộc. Chúng ta mường tượng ra khung cảnh được nói đến trong dụ ngôn Cỏ lùng (13,41-43), với cùng những nhân vật (một bên: Con Người, các thiên thần, Chúa Cha, những người công chính, những người làm việc tốt; bên kia: ma quỷ, các thiên thần của ma quỷ, những kẻ xấu, những kẻ bị chúc dữ), nhưng được triển khai rộng ra. Đức Giêsu xuất hiện trong vinh quang của Người, chung quanh có các thiên thần, ngự trên một cái ngai vinh quang (c. 31). Tất cả những yếu tố mô tả đây là biểu tượng của sự hiện diện và quyền lực của Thiên Chúa. Vinh quang là sự hiển lộ rạng rỡ, chói ngời của Thiên Chúa. Các thiên thần đứng trước nhan Ngài làm chứng về sự hiện diện của Ngài. Cái ngai tượng trưng uy quyền của Ngài, từ đó Ngài điều khiển cách chắc chắn. Đã có quyền lực và sự uy hùng của Thiên Chúa, Đức Giêsu thực hiện việc xét xử. Lời tuyên án có tính vĩnh viễn, không thể hồi tố. Đức Giêsu đã đến như “Con Người”, Đấng đã được Thiên Chúa trao cho quyền chúa tể, vương vị và vương quyền (x. Đn 7,14). Người tuyên án như “Đức Vua” đang thi hành quyền chúa tể vô song (25,34.40). Người hành động như là “Con Thiên Chúa” đang lên tiếng nhân danh Chúa Cha (x. 25,34) và đứng về phía những người túng quẫn, được coi như là anh em Người và con Thiên Chúa (c. 40). Người được mọi người có mặt nhận biết như là “Chúa tể” (cc. 37.44). Trong cuộc xét xử, địa vị và uy quyền của Đức Giêsu cũng như trọng lượng lời Người và hành động của Người được tỏ bày.
Mọi dân tộc, tất cả mọi người không ngoại lệ, phải trả lẽ về mình trước nhan Người. Tức khắc có một chi tiết khiến chúng ta ngạc nhiên: Đây không phải là những người Israel (23,37–24,31) hoặc các Kitô hữu (24,45–25,30) mà là “muôn dân” (panta ta ethnê) (c. 32). Cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước, “các dân tộc” (ta ethnê) dường như là một tên chuyên được dùng để gọi các Dân ngoại. Tuy nhiên, ở đây cũng có thể hiểu theo nghĩa bao quát: dân Chúa và Dân ngoại. Mt viết cho một giáo đoàn hỗn hợp, gồm các Kitô hữu gốc Do-thái và Dân ngoại, để giáo huấn họ về việc đưa Lời Chúa ra áp dụng (24,45–25,30; x. Rm 2,13). Đến ngày tận thế, mọi người, dân Do-thái cũng như người ngoại, đều được triệu tập đến trước mặt vị Thẩm phán tối cao. Không ai có thể coi như không có Người. Mỗi người sẽ bị xét xử theo tiêu chuẩn chính Người quy định và Người xác định số phận đời đời cho từng người. Bất kể địa vị, giai cấp xã hội, phái tính, giống nòi hoặc tuổi tác, mọi người đều bị xét xử theo một tiêu chuẩn như nhau.
Khi đó, tất cả sẽ bị xét xử, không phải tùy theo những công trạng đã đạt hoặc những lỗi đã phạm đối với các khoản luật lệ nào, nhưng là những lỗi phạm đến anh chị em đồng loại. Bản văn không nêu ra những việc như là một cuộc trả thù chống lại các thẩm phán bất công và các bạo chúa đã áp bức Israel hoặc dân mới của Thiên Chúa, nhưng nêu ra những việc đã không làm cho hạng người cùng rốt trong bậc thang xã hội. Đây là những việc làm cho con người (“những anh em”), trong tư cách là con người, chứ không phải là trong tư cách là người Israel hay là Kitô hữu. Cũng không có nét gì là chuyên biệt tôn giáo trong các công việc này. Đức Giêsu đã gọi những ai thi hành ý muốn của Cha Người là “anh em” Người (12,48-50). Nhưng ở đây trong tư cách vị thẩm phán, Người lại nói đến “những anh em bé nhỏ nhất”, tức là những người cùng chia sẻ thân phận nghèo khó và khiêm tốn như Người (x. 11,28-30). Đức Giêsu thích tự đồng hóa với những người bé nhỏ, bởi vì đức tính tapeinôsis, “sự khiêm nhường”, là nhân đức căn bản của Người (x. 11,28-36) và những người yếu đuối là đối tượng Người ưu ái chăm sóc. Tất cả mọi người đều là “anh em” Người (x. Rm 8,29; Dt 2,11.17), nhưng những người túng quẫn hơn và xấu số mới là “anh em” Người cách gần gũi nhất.
Lời tuyên án được công bố vào cuối một cuộc đời hoặc cuối một kinh nghiệm, nhưng án xử thì được thực hiện dọc theo dòng lịch sử. Có thể nói mỗi người xây dựng chính hạnh phúc hay bất hạnh vĩnh cửu ngày qua ngày. Loài người sẽ bị xét xử không phải về những gì đã nghĩ hoặc đã nói, nhưng về những gì đã làm cho chính anh em mình. Không phải mọi người đều đã biết Đức Giêsu, nhưng mọi người đều có một nẻo đường để gặp được Người, đó là nẻo đường “các việc từ bi thương xót”; đó chính là các việc Người đã làm. Ta gặp lại giáo huấn của Đức Giêsu: không phải là nói như Đức Kitô, nhưng là hành động như Người, mới được chiếu cố. Khi săn sóc những người “nhỏ bé nhất”, những người túng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những người trần truồng, những người ngồi tù (cc. 35-36), ta vừa làm giống như Đức Kitô vừa săn sóc chính Đức Kitô. Ta giúp đỡ Đấng một ngày kia sẽ là thẩm phán.
Khi nhắc đến một vài nhu cầu sơ đẳng, như thiếu thức ăn, thức uống, nơi ở, quần áo, và cả tình trạng bệnh tật và tù đày, Đức Giêsu không muốn cung cấp một danh sách rốt ráo. Người không yếu cầu điều không thể làm được, nhưng việc tặng ban và giúp đỡ vừa sức chúng ta.
Những ai đã dấn thân làm việc tốt, Đức Giêsu gọi họ là “những kẻ Cha Ta chúc phúc” và ban cho họ Vương quốc vĩnh cửu (c. 34). Thiên Chúa trong tư cách là Cha của Đức Giêsu đã chúc phúc cho họ. Như một mặt trời, lòng tốt của Ngài và tình yêu của Ngài rọi tới họ, làm cho họ tươi nở trong niềm vui và hạnh phúc, và ban cho họ sự sống viên mãn (c. 46). Những gì họ đã trao tặng cho người thân cận với sức yếu đuối nay nhận được đầy tràn do Thiên Chúa ban: tình yêu, sự hiệp thông, sự sống và niềm vui.
Còn những người khác thì bị loại khỏi nhan Thiên Chúa. Lửa tượng trưng sự dày vò và đau đớn giáng xuống trên tất cả những ai bị loại không được nhạn sự chúc phúc và sự sống của Thiên Chúa. Họ không được sống trong sự nhân lành chói chan của Chúa Cha và trong cộng đoàn những người có sự tốt lành này. Số phận của họ là cộng đoàn những kẻ ích kỷ và thất bại, là sự thù ghét căm hờn.
+ Kết luận
Bài diễn từ đầu tiên của Đức Giêsu bắt đầu bằng phúc lành (5,3-12), bài cuối cùng kết thúc bằng cảnh phán xét cuối cùng. Toàn thể giáo huấn của Đức Giêsu được gom lại giữa hai giáo huấn quan trọng này, là những giáo huấn nói về những gì chúng ta có thể chờ đợi từ nơi Thiên Chúa và những gì chính chúng ta phải làm. Trong bài nói về phán xét cuối cùng, Đức Giêsu nhấn mạnh đến việc trao trặng nhưng-không, tỏ bày lòng từ bi thương xót và sự tốt lành cho người anh em. Đấy là yếu tố chính, lãnh vực chuyên biệt để chúng ta hành động. Tuy nhiên, cũng không được quên những giáo huấn khác của Đức Giêsu. Nhận biết uy quyền của Người và quyền lực của Chúa Cha làm cho chúng ta có khả năng và thúc đẩy chúng ta hành động theo các tiêu chuẩn của Chúa Cha cũng là của Đức Giêsu.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Tất cả những gì chúng ta là và có đều là của cải được ký thác. Chúng ta không được phung phí theo ngẫu hứng, nhưng phải sử dụng theo ý muốn của Thiên Chúa và nhằm phục vụ Ngài (25,14-30). Bài Tin Mừng hôm nay cho biết ý muốn của Thiên Chúa là gì và việc phục vụ được yêu cầu hệ tại điều gì: giúp cho một người ở trong tình cảnh quẫn bách là giúp chính Đức Giêsu. Việc giúp đỡ ấy khiến chúng ta được chấp nhận trong ngày phán xét để được đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Từ khước hoặc bỏ qua không giúp đỡ người khác sẽ khiến chúng ta bị kết án vào ngày phán xét và đưa chúng ta đến hình phạt đời đời.
2. Những người nghèo khó túng cực tự họ không thể tự đồng hóa với Đức Giêsu, nhưng chính Người tự đồng hóa với họ. Do đó, mỗi việc giúp đỡ dành cho những người nhỏ bé có một giá trị bền vững. Đàng sau mỗi người, và nhất là đàng sau mỗi người nhỏ bé, yếu đuối, bị thử thách, có Đức Giêsu đang hiện diện; trong con người này, Đức Giêsu gặp chúng ta và xin chúng ta giúp đỡ. Do Đức Giêsu, mỗi người nhận được một phẩm giá thường hằng, và hành động được thực hiện vì Người sẽ nhận được một giá trị vô song và quyết định đối với số phận của mình.
3. Đức Giêsu không nói: Ta đã bị bệnh và các ngươi đã chữa ta lành, Ta đã bị tù và các ngươi đã giải thoát Ta. Chữa lành bệnh tật và giải phóng thường vượt quá khả năng chúng ta. Tuy nhiên, để chia sẻ thì không cần nhiều của cải hoặc những tài năng đặc biệt, nhưng cần một trái tim rộng mở và có lòng thương cảm. Bỏi vì có rất nhiều nhu cầu khác nhau, về thể lý, tâm lý hoạc tinh thần. Điều đầu tiên là phải có con mắt, trái tim và sự nhạy cảm; nhất là phải nhận ra nhu cầu của người anh chị em.
4. Bài học của đoạn Tin Mừng này đã rõ: Đến cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu. Những người công chính là những người đã chu toàn Luật Thiên Chúa, như chính Đức Giêsu đã diễn tả qua điều răn lớn nhất. Một lần nữa, ở đây, Người lại đồng hóa tình yêu đối với tha nhân với tình yêu đối với Thiên Chúa. Để những việc ta làm cho anh chị em được gọi là “tốt”, ta hãy làm việc ấy cho chính Thiên Chúa.
Đức Kitô có phải là Vua không? Chắc chắn Đức Kitô không phải là một thủ lãnh của một: TN 34-ABC63
Đức Kitô có phải là Vua không? Chắc chắn Đức Kitô không phải là một thủ lãnh của một đảng phái đối lập, cũng chẳng phải là một vị vua chúa như người đời vẫn quan niệm. Suốt cuộc sống công khai, Ngài không bao giờ chấp nhận tước hiệu Messia, tước hiệu là vua theo mơ ước của dân chúng. Vì mơ ước của họ pha trộn quá nhiều những yếu tố trần tục, quá nhiều những tham vọng chính trị. Thực vậy, sứ mệnh của Ngài không như sứ mệnh của quận vương Hêrôđê, quyền bính của Ngài không như quyền bính của hoàng đế Lamã hay như bất kỳ một vị vua chúa nào trên trần gian.
Sứ mệnh của Ngài thuộc một lãnh vực khác. Chính vì thế mà chúng ta thấy nhiều lần Ngài đã từ chối cái cách tôn phong Ngài lên làm vua của dân chúng. Sau phép lạ bánh hoá nhiều dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã lẩn trốn. Nhưng cũng có lần Ngài sẵn sàng biểu dương trước công chúng, khi Ngài hiên ngang tiến vào Giêrusalem, xuất hiện với những phương tiện khiêm tốn, phù hợp với lời tiên báo của Giacaria. Ngài để cho dân chúng tung hô như là vua Israel. Trong phiên toà dân sự tại dinh Philatô, đề tài xét xử chính là vương quyền của Ngài. Khi Philatô hỏi: Ông có phải là vua dân Do Thái không? Chúa Giêsu không phủ nhận tước hiệu ấy, nhưng Ngài đã minh xác rằng: Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này.
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, là Vua mọi dân tộc, là Vua trên muôn vua, thế nhưng Ngài lại là một vị Vua bị đóng đinh, hoàn toàn bị tước lột khỏi những quyền lực trần thế. Đức Kitô đã lên ngôi bằng con đường của thập giá, của tình yêu. Kẻ thù duy nhất của Ngài là vương quốc của Satan, của thù hận, của chia rẽ và của tội lỗi.
Các ngai vàng, các vương miện, các triều thiên và áo cẩm bào chỉ là những đồ trang sức tạm bợ chóng qua, chúng ta không được phép hiểu vương quyền của Đức Kitô qua những hình ảnh đó. Chính Ngài cũng đã tự tách mình ra khỏi các thủ lãnh của trần gian như lời Ngài đã phán: Vua chúa các nước thì cai trị ân, và những kẻ làm lớn thì lấy quyền mà áp chế dân. Đức Kitô không phải là một thủ lãnh áp chế, trái lại cai trị theo Ngài có nghĩa là lột sạch mọi tự cao, hào nhoáng và vênh vang, cai trị đối với Ngài chính là phục vụ.
Đức Kitô phục vụ chúng ta và Ngài phục vụ một cách khiêm tốn, thận trọng và kín đáo. Ngài đã phục vụ đến độ hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Sự tự hạ của Ngài đi đến chỗ đồng hoá với những kẻ bé mọn và thấp kém nhất. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự dấn thân để phục vụ và giúp đỡ những kẻ bé mọn thấp kém chung quanh chúng ta hay chưa?
Trên thế giới ngày nay, chỉ còn một số nước có vua, nhưng vua thực ra chỉ để cho có vị và hình: TN 34-ABC64
Trên thế giới ngày nay, chỉ còn một số nước có vua, nhưng vua thực ra chỉ để cho có vị và hình thức, chứ thực quyền nằm ở tay tổng thống hoặc thủ tướng mà thôi. Do đó, danh từ vua thực sự không gây được ấn tượng cho chúng ta được bao nhiêu. Bởi vì xưa thời phong kiến đã có những vị vua tàn bạo, làm khổ dân lành. Chính vì thế, lễ Chúa Giêsu Vua thoạt nghĩ, xem ra khó gây cảm hứng và ấn tượng khi chúng ta nghĩ tới những vị vua chúa đã có một thời làm mưa làm gió trên nhiều đất nước. Tuy nhiên, Chúa Giêsu Vua lại hoàn toàn khác, bởi vì Vương Quyền của Ngài không thuộc trần gian này. Chúa là Vua vì Ngài là Thiên Chúa và Ngài là Tình yêu.
CHÚA GIÊSU LÀ VUA, VÌ NGÀI LÀ THIÊN CHÚA :
Chúng ta vẫn còn nhớ rất kỹ trong vụ án của Chúa Giêsu. Philatô sau khi trao đổi với người Do Thái ngoài phủ đường. Ông vào trong và cho truyền điệu Đức Giêsu Kitô đến. Ông hỏi Chúa Giêsu :” Ông mà lại là Vua dân Do Thái ? “. Câu hỏi này của Philatô minh chứng Ông đã biết trước điều mà người Do Thái cáo tội Chúa Giêsu. Đối với Philatô cũng như trong bản cáo trạng của người Do Thái đã tố Chúa Giêsu, thì tước hiệu “ Vua Do Thái “ mang ý nghĩa chính trị. Đáp lại lời của Philatô, Chúa Giêsu đặt câu hỏi :” Tự mình ông, ông nói thế, hay có ai khác đã nói với ông về Tôi ? “. Chúa Giêsu muốn phân biệt từ Vua về tôn giáo và từ Vua có nghĩa chính trị. Nếu Philatô hiểu theo nghĩa chính trị, Chúa Giêsu sẽ phủ nhận, còn nếu Philatô hiểu theo nghĩa tôn giáo, tức là Vua Mêsia của dân Do Thái, thì Ngài sẽ nhận. Chúa Giêsu nói rõ cho Philatô biết Ngài có một Nước, nhưng nước Ngài không thuộc thế gian này.
Nước của Chúa Giêsu không mang sắc thái chính trị như Philatô và người Do Thái nghĩ.” Nếu Nước Tôi thuộc về thế gian này, thì bộ hạ của Tôi đã cố chiến đấu không để Tôi bị nộp cho người Do Thái “. Philatô hỏi tiếp:”Vậy thì ông là Vua sao ? “. “ Ông nói đó : Tôi là Vua !”. Đây là lời khẳng định hết sức long trọng và quan trong của Chúa Giêsu vì Ngài xác nhận :” Tôi là Vua “.Chúa Giêsu cứ từ từ giải thích cho Philatô ý nghĩa Vương quyền của Ngài :” Chính vì lẽ này mà Tôi đã sinh ra, và chính vì lẽ này mà Tôi đã đến trong thế gian : Ấy là để làm chứng cho sự thật. Phàm ai thuộc về sự thật, thì nghe được tiếng Tôi “( Ga 18,37 ). Đức Giêsu là Thiên Chúa bởi vì chính Thiên Chúa đã sai Ngài đến thế gian:” Quả vì Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế ( đó ) đến nỗi đã thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời” ( Ga 3, 16 ). Đức Giêsu là Thiên Chúa độc nhất, vô cùng thánh thiện, vô cùng công minh, Ngài luôn chạnh thương và giầu lòng thương xót.
CHÚA GIÊSU LÀ VUA, VÌ NGÀI LÀ THIÊN CHÚA TÌNH YÊU :
Thánh Gioan đã nói “ Thiên Chúa là Tình Yêu “. Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Vua khiêm nhượng, hiền từ, Ngài ngồi trên lưng lừa để vào Giêrusalem. Ngài tạo lập một Vương Quốc toàn Kitô hữu sống tình yêu. Ngài là Vua Tình Yêu, Vua phục vụ, không ai trên thế gian này yêu thương như Ngài. Bởi vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Đức Giêsu đã gánh hết tội cho thế gian, chết cho thế gian để nhân loại được giải thoát, được ơn cứu độ :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu” (Ga 15, 13 ). Chúa Giêsu yêu thương như người cha đón nhận người con hoang đàng, phung phá trở về ( Lc 15, 11-13 ). Chúa hy sinh cho đàn chiên, bảo vệ đàn chiên ( Ga 10, 11 ). Ngài đến cho chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ). Ngài yêu thương tha thứ cả người tội lỗi bị con người kết án tử hình ( Ga 8, 1-11 ).Chúa Giêsu yêu thương cả kẻ thù ( Mt 5, 43-48 ). Chúa Giêsu quảng đại tha thứ và tha thứ không giới hạn, tha thứ không ngừng. “ Tôi đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ mọi người “ ( Mc 10, 42-45 ). Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa duy nhất như trong mười giới răn, Ngài dạy nhân loại :” Thờ phượng một Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự “ ( Giới luật thứ I ). Tuy là Thiên Chúa tối cao, nhưng Ngài đã hủy mình ra không, nhận kiếp người phàm, ngọai trừ tội lỗi ( Philip 2, 6-8 ). Chúa Giêsu chính là Tình Yêu vì Ngài luôn vâng lời Thiên Chúa Cha, tự nguyện phục vụ nhân loại, rửa chân cho các môn đệ. Chúa là Tình Yêu nhưng Ngài luôn muốn mọi người đáp trả lại Tình Yêu của Ngài.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ :
Vương Quốc của Chúa Giêsu là Vương Quốc của sự thật, công lý. Do đó, mỗi Kitô hữu được mời gọi để trở nên một bí tích tình yêu cho Vương Quốc của Chúa Giêsu, trở nên một dấu chỉ cho thế giới về những gì mà Vương Quốc sự thật của Thiên Chúa làm trong trần gian này.Vương Quốc của Chúa Giêsu thuộc về mỗi Kitô hữu, và chính Vương Quốc của Chúa Giêsu sẽ mang lại cho con người, cho mỗi Kitô hữu, cho Giáo Hội sự sống mới, sự sống hoàn hảo khi Chúa Kitô đến lần sau hết trong vinh quang của Ngài. Do đó, Chúa nhật Chúa Kitô Vua mời gọi mọi Kitô hữu, mời gọi Hội Thánh trung thành với Đức Kitô.
Lạy Chúa Kitô Vua, xin cho chúng con được trung thành với Ngài. Xin cho chúng con nhận biết Vương Quốc của Ngài là Vương Quốc Tình Yêu, Sự Thật và Ân Sủng. Xin cho chúng con càng lúc càng nhận ra Vương Quốc của Ngài là Vương Quốc của Sự Thánh Thiện và Vương Quốc của Sự Sống, Vương Quốc của Bình An, Công Bình và Chân Lý. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
Tước hiệu “ Vua Israel “ ( Ga 1, 49 ) có nghĩa gì ? Tước hiệu “ Vua dân Do Thái “ ( Ga 18, 34 ) có nghĩa gì ? Vương Quốc của Đức Giêsu là Vương Quốc nào ? Philatô có để ý gì về Vương Quốc của Chúa Giêsu theo nghĩa “ Vua dân Do Thái không ? “. Chúa Giêsu là Vua theo nghĩa nào ?
Hôm nay là Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lề Chúa Giêsu Vua để nhắc nhở cho: TN 34-ABC65
Hôm nay là Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lề Chúa Giêsu Vua để nhắc nhở cho mọi người hãy suy tôn, phục vụ và theo Ngài, đồng thời phải chuẩn bị tâm hồn chờ đợi Chúa đến trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
Đức Giáo hòang Piô XI đã thiết lập lễ này vào ngày 11.12.1925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan của Năm thánh 1925. Ngài thiết lập lễ này vì vào những thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết khác. Về phía Giáo hội, qua việc mừng kính tước hiệu là Vua của Chúa Kitô, Giáo hội khẳng định niềm tin trước sau như một của mình là tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô trên mọi con người, mọi gia đình, mọi xã hội và trật tự nhân loại.
Ngoài ra, để điều chỉnh một số lệch lạc trong đời sống đạo nơi một số con cái, Giáo hội là Mẹ nhắc nhở cho mọi người rằng Chúa Kitô không chỉ là người Anh hay người Bạn đồng hành mà Ngài còn là “Vua trên các vua, Chúa trên các chúa. Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời”.
II. MỘT NƯỚC CẦN CÓ VUA.
Người ta thường nói :”Kim chỉ phải có đầu”, trong một tập thể không thể có cảnh “cá mè một lứa” được, nhất là trong một nước. Hầu hết các dân tộc thời xưa đều mơ ước và tin rằng vua của họ là con Trời, vì chỉ có con Trời mới là toàn năng công minh, thấu suốt mọi sự, mới giúp dân, ban ơn cho dân muôn phần tốt đẹp. Họ thường gọi Vua là Thiên tử, Trời có mắt, đèn Trời soi sáng, xin Trời phù hộ.
Bên phương Đông, Đức Khổng Tử đã thấy rõ vua Nghiêu, vua Thuấn, Vũ vương, Văn Vương làm vua theo mệnh Trời, cho nên vương quốc thời cổ đại của các ngài thật lý tưởng.
Kinh thư viết :”Thiên hựu hạ dân, tác chi quân, tác chi sư” : Trời giúp dân, đặt vua cai trị, đặt thầy dạy dỗ (Thái hệ thượng 7). Nhận biết Trời đặt mình làm vua, các ông hết lòng hết sức vâng theo mệnh Trời để giúp dân. Vua Vũ Vương viết :”Duy kỳ khắc tướng Thượng Đế, sủng tuy tứ phuơng” : Chỉ vì phục vụ Thượng Đế, giúp nhân dân bốn phương.
Bên Tây phương, Ba tư, Ai cập, Hy lạp hay La mã đều coi vua là con Thần Trời. Dân Do thái khi chưa có vua, họ đòi tiên tri Samuel :”Thế nào cũng phải có vua cho chúng tôi”(1Sm 8,19). Và ai được chọn làm vua đều được thánh hiến bằng xức dầu tấn phong, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với tiên tri Nathanael :”Hãy đi nói với Đavít :Ta là cha nó, nó sẽ là con Ta”(2Sm 7,5.14 và Tv 2,7). Nếu vua trung thành thực hiện sự công chính trong vương quốc và bảo đảm thịnh vượng cho toàn dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ vua khỏi tay quân thù” (Tv 20,21 và 45,4-8). (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A, tr 192).
Truyện : nữ hoàng Elizabeth lên ngôi
Năm 1952, lễ đăng quang của nữ hoàng Anh Elizabeth là một nghi thức long trọng nhất của thế kỷ 20. Ba triệu người đứng chật các đường phố Luân đôn. Từ các thuộc địa Anh, các đoàn đại biểu trong sắc phục địa phương cũng có mặt. Nữ hoàng ngự giá trên chiếc xe ngựa bằng vàng. Hơn 10 sư đoàn trong quân đội hoàng gia diễn hành. Năm trăm chiếc khu trục cơ nhào lộn trên không.
Vua chúa và các nhà lãnh đạo hầu hết đều có mặt mang theo tặng vật cho vị tân nữ hoàng. Nhưng có lẽ quà tặng cao qúi nhất mà thế giới tặng cho nữ hoàng là ngọn cờ nước Anh lần đầu tiên được một người Tân tây lan cắm trên đỉnh Everest ở độ cao 8.846 mét vào chính ngày áp lễ đăng quang.
III. ĐỨC GIÊSU XƯNG MÌNH LÀ VUA.
1. Nơi Đức Giêsu xưng vương.
Sau phép lạ bánh ra nhiều, dân chúng hồ hởi muốn tôn Ngài làm vua, nhưng Ngài đã lẩn tránh vì Ngài không muốn cho dân chúng hiểu Ngài làm vua theo kiểu thế gian. Ngài chỉ nhận mình là Vua khi đứng trước toà án Philatô, với dáng vẻ tang thương tiều tụy, Ngài khẳng định Ngài là Vua : “Ông nói phải, Tôi là Vua”. Chính Philatô cho Ngài ngồi ở Gabata, ghế dành cho quan tòa. Như vậy, vô tình Philatô công nhận Ngài là Vua và Ngài sẽ xét xử dân Do thái.
Ngoài ra, ông còn truyền viết tấm bảng treo trên đầu Chúa Giêsu với hàng chữ I.N.R.I.
(Jesus Nazareth Rex Judaeorum) có nghĩa là Giêsu Nazareth vua dân Do thái, tức là công nhận Đức Giêsu là Vua. Ngai vàng của Ngài là cây thập giá. Từ trên cao, Chúa nhìn xuống thần dân, giang hai tay ra để ôm lấy dân Ngài. Và diễn từ nhận chức của Ngài là :”Xin tha cho họ” và cao điểm là :”Mọi sự đã hoàn tất”.
2. Vương quốc của Ngài.
Vương quốc của Ngài không có tính cách chính trị . Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian như các vua chúa ở trần gian. Vương quốc mà Ngài lập ra không có lãnh thổ hay tài nguyên vì vương quốc ngài là vương quốc thiêng liêng nên vô biên giới và vĩnh cửu, nước không thuộc thời gian nhưng thuộc thời cánh chung. :”Nuớc Người sẽ không bao giờ cùng”(Kinh Tin Kính).
IV. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA MỤC TỬ.
Đức Giêsu là Vua không theo nghĩa như các vua trần gian, nhưng Ngài xưng mình là Vua Mục tử nhân lành. Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài đọc I). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố :”Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta”(Ga 10,10). Ngài còn nói thêm :”Ta đến để cho chiên Ta được sống và được sống dồi dào. Chính Ta là mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì chiên”.
Ở Nước Trời, Đức Giêsu là Vua đích thực muôn đời vì Ngài đã hạ mình xuống làm tôi trung vâng lời Chúa Cha hiến mình chịu chết trên thập giá để cứu chuộc muôn dân, đưa muôn dân về với Thiên Chúa Cha trong nước vĩnh phúc hằng sống.” Chính vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài, ban cho cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu để trên trời dưới đất và hoả ngục phải bái quì khi nghe danh thánh Giêsu” (Pl 2,6).
Nếu Đức Kitô là Vua Mục tử thì vương quốc của Ngài là vương quốc tình thương. Đặc điểm của công dân trong nước này là những con người bất hạnh, khổ đau. Chính Đức Kitô, vị Vua Mục tử, đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn nghèo khổ :”Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc vương quốc của Ngài là chính những hành động của tình thương.
V. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA THẨM PHÁN.
1. Ngài đã khẳng định vậy.
Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn tuyên xưng :”Và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Lòng tin của Hội thánh đã được xây dựng trên lời Chúa :”Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái”(Mt 25,31).
Ngai uy linh có nghĩa là ngai vinh quang, người Do thái quan niệm ngai vinh quang chỉ dành cho Thiên Chúa, các ngai khác dành cho các tông đồ (Mt 19,28). Khi nói Chúa ngự lên ngai uy linh là một cách mạc khải Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
2. Ngài phán xét như thế nào ?
a) Dựa trên tình thương.
Sự phán xét của Ngài không tùy thuộc vào kiến thức của chúng ta có, sự may mắn hay tiếng tăm của chúng ta đạt được, nhưng tùy theo vào sự giúp đỡ mà chúng ta đã làm cho người khác. Cha Mark Link nói :”Khi Chúa đến, Ngài không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Ngài sẽ cân đo trái tim của chúng ta yêu thương ra sao”.
Những điều Chúa nêu ra là cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, tiếp đón khách lạ, an ủi người bệnh, thăm viếng kẻ bị tù... Đó là những việc mà ai cũng có thể làm, đó là những sự giúp đỡ đơn giản cho mọi người cần đến mà chúng ta vẫn gặp hằng ngày. Không có ví dụ nào mở ra con đường đi tới vinh quang cho những người tầm thường nhất bằng ví dụ này.
Người Á đông chúng ta tuy không biết Thiên Chúa, nhưng có một quan niệm rất chính xác và cao sâu về Ông Trời : Ông Trời là chủ tể của mọi loài, không ai sống ngoài tầm kiểm soát của Ông Trời, sống theo ý Trời thì có phúc, làm ngược ý Trời thì bị phạt. Hai câu phản ảnh rõ nhất quan niệm trên là “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” : Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt được. Và còn một câu khác nữa cũng nói lên quan niệm ấy :”Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong : Người sống theo Trời thì còn, người nghịch với Trời thì mất.
Dù là dân đen hay vua chúa, dù nghèo hay giầu, dù trẻ hay già... cuối cùng rồi thì ai cũng chết và trình diện trước mặt Chúa, Vua Trời. Khi đó Vua Trời sẽ xét xử cuộc sống mỗi người dựa trên Luật Yêu thương. Người nào sống yêu thương là “thuận thiên” và sẽõ được “tồn” trong hạnh phúc vĩnh hằng. Kẻ sống mà không yêu thương là kẻ “nghịch thiên” và sẽ “vong” vĩnh viễn trong cõi trầm luâm. (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 564)
b) Giúp đỡ không tính toán.
Tất cả những người giúp đỡ không nghĩ rằng họ đã giúp đỡ Chúa Giêsu và tích trữ công đức đời đời cho mình. Họ giúp vì không thể không giúp, đó là bản chất tự nhiên không tính toán, phát xuất từ lòng yêu thương thật. Trái lại những người không muốn giúp đỡ người khác thường tỏ ra :”Nếu chúng tôi biết là anh thì chúng tôi đã sẵn lòng giúp”. Cũng có những người ra tay giúp đỡ nếu họ được người ta khen ngợi, cám ơn và công bố ra cho nhiều người biết, như thế không phải là họ giúp đỡ ai mà chỉ để chiều theo lòng tự ái tự tôn của họ. Giúp đỡ như vậy không phải là rộng lượng nhưng là ích kỷ trá hình. Sự giúp đỡ đẹp lòng Chúa phải là sự giúp đỡ không vì mục đích nào ngoài sự giúp đỡ cả.
Truyện : thánh Martinô thành Tours.
Ông là một quân nhân La mã và một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí , Martinô không có tiền, nhưng ông thấy người hành khất xanh xao và run rẩy vì lạnh, Martinô đã cho những gì ông có : ông cởi chiếc áo nhà binh đã sờn rách và xé một nửa cho người hành khất. Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ đang bao quanh Chúa Giêsu và Ngài đang mặc nửa chiếc áo lạnh nhà binh của ông. Một thiên sứ hỏi Ngài :”Tại sao Ngài mặc chiếc áo sờn rách đó ? Ai đã cho Ngài áo đó”? Chúa Giêsu trả lời :”Martinô, tôi tớ của Ta đã cho Ta”.
c) Cho đi thì sẽ được.
Tất cả những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho Chúa mà những gì chúng ta làm cho Chúa thì không thể mất được. Những gì chúng ta làm cho tha nhân, dù nhỏ mọn như một chén nước lã thì cũng có phúc trước mặt Chúa. Trái lại, những gì chúng ta không làm cho tha nhân tức là không làm cho Chúa, mà đã không làm cho Chúa là một điều có lỗi. Do đó, Chúa sẽ xét xử chúng ta theo nguyên tắc :”Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng” : có công thì được thưởng, có tội thì phải phạt. Được thưởng hay bị phạt là do chúng ta định đoạt lấy, không ai có thể làm thay cho chúng ta được..
Truyện : cho đi thì sẽ được.
Một ngày mùa đông lạnh giá, Lady Grey, một phụ nữ qúi tộc người Anh, rất giầu có, đã cải trang làm một người hành khất đi ăn xin từng nhà trong thành phố Luân đôn. Đến một số nhà, bà bị xua đuổi một cách tàn nhẫn. Một vài nơi khác, bà chỉ được bố thí cho những thứ thừa thãi vất đi. Điều lạ là tất cả những người ấy là những gia đình giầu có. Thế rồi bà tìm đến một căn nhà lụp xụp nghèo nàn. Tại một túp lều xiêu vẹo, bà được một ông lão tàn tật ân cần mời vào sưởi ấm bên bếp lửa và cùng chia nhau một khúc bánh mì đen.
Hôm sau chính người nữ qúi tộc ấy sai các gia nhân đến tận nhà mời những người mà bà đã đến ăn xin tối hôm trước tới dự một bữa tiệc tại dinh thự của bà. Tất cả khách được hướng dẫn vào một phòng chiêu đãi sang trọng và mỗi người được đặt chỗ ngồi riêng dọn sẵn. Bấy giờ ai nấy thấy trước mặt mình là những món ăn y như những thứ mà họ đã đem bố thí cho “bà ăn mày” : chỗ thì củ khoai thối, chỗ thì miếng bánh mốc không ăn được, có nơi là một cốc nước lã bẩn thỉu, lại có nơi chỉ là chiếc đĩa trống không. Duy chỉ có chiếc đĩa trước mặt ông lão tàn tật đầy ắp những món ăn ngon lành sang trọng. Mọi người chưa hết ngạc nhiên thì bà qúi tộc xuất hiện và tuyên bố :”Hôm qua tôi đích thân đi ăn xin từng nhà để hiểu biết hơn về lòng nhân ái của qúi vị. Hôm nay tôi chỉ đáp lễ bằng cách dọn ra mời qúi vị những thứ mà qúi vị đã cho tôi. Tôi tin rằng qúi vị cũng sẽ được tiếp đãi như vậy trong bữa tiệc mai sau truớc mặt Thiên Chúa là Đấng bây giờ đang đứng trước nhà qúi vị để trông chờ tấm lòng nhân ái của qúi vị”.
(Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 139)
Nghe xong câu truyện trên đây, nhất là qua bài Tin mừng của Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, chúng ta thấy cả hai đều qui về một mục đích là nêu cao và làm sáng tỏ một vấn đề hết sức hệ trọng trong đời sống đạo đức : đó là yêu thương giúp đỡõ tha nhân, đặc biệt với những kẻ hẩm hiu cùng khốn là yêu thương chính Chúa và Chúa chỉ căn cứ vào đó mà đối đãi lại với chúng ta.
Nếu Thiên Chúa là Tình yêu và yêu thương là chính bản tính của Ngài, thì đạo của Ngài hẳn phải là đạo yêu thương. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương và Chúa coi những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính Ngài.
Rồi trước khi chấm dứt cuộc đời rao giảng Tin mừng ở trần gian, Chúa còn quả quyết :”Ta bảo thật, những gì các ngươi làm cho một trong những người bé nhỏ của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục nhập thể nơi người anh chị em, và Ngài tiếp tục nhập thể nơi mỗi người Kitô hữu hôm nay. Ngài cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ. Ngài cần đến môi miệng chúng ta để nói lời an ủi khuyến khích. Ngài cần đến trí hiểu và con tim chúng ta để sống tình liên đới yêu thương. Ngài cần đến đôi chân chúng ta để đến với mọi người.
Có một câu chuyện cổ tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy: TN 34-ABC66
Có một câu chuyện cổ tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại yêu say đắm một cô thôn nữ miền sơn cước. Nhà vua định cưới nàng làm hoàng hậu nhưng có quá nhiều trở ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo suy nghĩ. Vì tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy rằng ngài có đầy quyền lực để xem thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám quyết định. Hơn nữa, một ý nghĩ khác nảy sinh khiến ngài càng khó quyết định, vì nhà vua sợ sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người sẽ khó mà tự nhiên với nhau, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài. Vua vẫn là vua, nàng vẫn là thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy sinh một sáng kiến, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, để gần gũi và hoà đồng với nàng, nhưng nhà vua lại sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu rằng cô thôn nữ còn yêu nữa mình hay không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua vẫn đánh liều bỏ mọi sự để hai người có một tình yêu đích thực và trọn vẹn.
Câu chuyện bỏ ngỏ ở đây. Câu chuyện không dẫn thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón nhận tình yêu của nhà vua hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã chấp nhận trắng tay vì nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo ôn”, khi địa vị, danh vọng, tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng không dẫn độc giả tới tuyệt đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”.Câu chuyện không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm trạng của mỗi người đều có quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện chỉ muốn gợi lên cho độc giả về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô thôn nữ hèn kém này. Một tình yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần thấy thoáng qua trong đời.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa hằng yêu thương bạn, yêu thương tôi. Ngài là một vị vua đã tự bỏ ngai vàng, cung điện và cả cung cách của một vì Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Ngài quá yêu chúng ta đến nỗi đã trở nên “đồng hình đồng dạng vì chúng ta”. Ngài đã trở thành một “Emmanuel vì chúng ta”. Nhưng tiếc thay nhân loại hôm qua cũng như hôm nay đã không nhận ra Ngài. Họ cần một vì Thiên Chúa đánh đông dẹp tây, quyền uy sang trọng. Họ cần một vì Thiên Chúa để họ điều khiển theo ý của họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng của họ hơn là chính họ phải hành động theo ý của Thiên Chúa. Năm xưa dân Do Thái đã không nhận ra Chúa khi Ngài mang thân phận của một con người như họ. Họ còn xem thường về nguồn gốc của Ngài. Cho dù họ đã chứng kiến biết bao phép lạ phi thường mà chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới có thể thực hiện được. Thế mà, họ lại xuyên tạc là nhờ tướng quỷ mà làm được những việc này việc nọ. Từ việc xem thường gốc gác về Ngài, họ đã đẩy Ngài đến án tử trên đồi Golgotha. Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ, ngài vẫn tiếp tục yêu thương và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài là tình yêu.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa từng cuộc đời chúng ta. Ngài hằng mong chúng ta đón nhận Ngài qua những con người túng thiếu cơ hàn, qua những mảnh đời tha phương cầu thực, qua những bất hạnh của những anh em đang ở bên cạnh chúng ta. Thiên Chúa đã trở nên đồng hình đồng dạng vì chúng ta, Ngài vẫn cần chúng ta trao ban cho Ngài những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn đang cần chúng ta săn sóc Ngài trong tôn trọng và vị tha. Ngài vẫn cần chúng ta dâng hiến cuộc đời để phục vụ Ngài một cách quảng đại và bao dung. Ngài là một vì Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người, nhưng liệu rằng, bạn còn yêu Ngài hay không? Chúng ta yêu một vì Thiên Chúa quyền uy thì dễ nhưng liệu rằng chúng ta có dễ dàng yêu một vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người trong thân phận hài nhi yếu đuối, bị truy đuổi, bị loại trừ hay không? Chúng ta sẵn lòng cúi mình làm tôi cho những ai mang lại cho ta tiền bạc, danh vọng, niềm vui, nhưng liệu rằng chúng ta có muốn cùng Chúa đi trên con đường thập giá, đường hy sinh bản thân để trở nên nguồn hạnh phúc cho anh chị em mình không?
Hôm nay, là ngày lễ Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy sống đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Vì yêu thương ta Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài, chúng ta hãy phục vụ Ngài qua anh em của chúng ta. Vì yêu thương ta, Ngài đã chấp nhận chết để cứu độ chúng ta, chúng ta hãy biết chết đi bản tính ích kỷ của mình, chết đi những toan tính tội lỗi của mình để sống xứng đáng với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua cai trị và dẫn dắt chúng ta đi trong đường chính nẻo ngay, và xin Ngài ngự trị thánh hoá cuộc đời chúng ta trong hồng ân và tình thương của Ngài. Amen
Kết thúc năm phụng vụ, Mẹ Giáo hội muốn con cái mình suy niệm về viễn tượng của ngày: TN 34-ABC67
Kết thúc năm phụng vụ, Mẹ Giáo hội muốn con cái mình suy niệm về viễn tượng của ngày Thẩm phán- ngày mà Con Người ngự đến trong vinh quang, triệu tập tứ phương thiên hạ đến trước mặt Người để chịu xét xử. Ngày đó cũng là ngày công - tội, thưởng- phạt phân minh rõ ràng, không còn chỗ cho địa vị, cho quyền uy, thế lực hay giàu sang phú quý tác quai tác quái. Ngày đó ai nấy, bất luận là người thế nào, sẽ thấy rõ công việc mình đã thực hiện khi còn sống trên trần gian này và, ngày đó Con Người sẽ dựa vào công trạng để xét xử, số phận được định đoạt hưởng phúc hay hưởng phạt đời đời.
Cảnh tượng ngày thẩm phán tuy được viết theo lối văn thể khải huyền nhưng thánh sử Mátthêu đã trình bày rất xúc tích, rõ ràng và dễ hiểu. Chúng ta có thể thấy đối tượng của ngày chung thẩm không dành riêng người Dothái hay những người thuộc khối Kytô mà còn cho toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc, mầu da, ngôn ngữ, giai cấp. Ngày đó là ngày đại hội toàn dân. Chính Thiên Chúa sẽ triệu tập toàn thể nhân loại đến trước mặt Con Người để chịu xét xử. Ngày đó Chúa Kytô - Vua muôn vua, Chúa các chúa, sẽ ngự trên ngai uy linh của Người để xét xử chư dân. Không một ai trong ngày đó được miễn trừ ngày trọng đại này. Cũng không một ai trong ngày đó tìm được cơ hội để thanh minh hay lập công chuộc tội vì những việc mình đã thực hiện trước đây khi còn sống trên trần gian. Vì thế, tính “nghiệt ngã” của ngày thẩm phán không phải đem ra nhằm hù doạ mà là một sự thật hiển nhiên sẽ xảy đến nếu nhân loại cố tình phớt lờ những gì mình đã gây nên cho đồng loại.
Ngày thẩm phán được sánh ví như ngày vị mục tử tách chiên ra khỏi dê, chiên ở bên phải còn dê ở bên trái. Sở dĩ cần phải tách ra như thế là vì thực tế chiên và dê tuy ban ngày cùng chung một ràn nhưng khi chiều về cần phải tách chúng ra vì dê không thể ở ngoài trời đẫm sương như chiên được. Hình ảnh chiên- dê, tay phải - tay trái mang đầy tính biểu tượng. Chúng ta biết chiên là một loài vật có giá trị, bộ lông mầu trắng của chúng tượng trưng cho sự tinh tuyền, công chính. Còn dê, trái lại, tượng trưng cho sự bất chính, không tinh tuyền; cũng vậy, nếu tay phải tượng trưng cho quyền uy thế lực và giàu sang theo quan niệm của người Dothái, thì tay trái tượng trưng cho những gì xấu xa tội lỗi và hèn nhát.
Tách biệt để thấy sự khác biệt. Tách biệt để thấy hố ngăn cách vô phương cứu chữa. Tách biệt để thấy một sự thật phủ phàng được phơi bày trong chính sự khác biệt này. Tách biệt để thấy công đức được đề cao và cũng để biết đến một hạng người không bao giờ biết đến khái niệm công đức hay việc làm phúc bố thí là gì. Thật vậy, khi tách biệt như thế, chúng ta thấy một bên được vị Thẩm phán hết lời khen ngợi : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”; và một bên là lời khiển trách : “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ac quỷ và các sứ thần của nó”.
Sự khác biệt này không đến bởi vị Thẩm phán thiên vị, nhận tiền hối lộ để làm lợi cho bên này hoặc bên kia mà đến từ việc thực thi công bình bác ái của chính đối tượng chịu xét xử. Rõ ràng chúng ta thấy Đức Vua chỉ dựa vào mỗi điều này để xét xử. Theo đó những việc được xem là “đáng được chúc phúc” được Đức Vua liệt kê khá chi tiết. Đó là : cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, tiếp rước khách lạ, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm người đau yếu và viếng kẻ tù đày. Những người được chúc phúc thật sự ngỡ ngàng vì họ cũng không ngờ những việc làm đạo đức lúc trước của mình lại có ngày được Đức Vua ghi nhận không xót một điều. Và càng ngỡ ngàng hơn nữa khi Đức Vua tự nhận khi họ làm những việc lành phúc đức như thế là làm cho chính Người. “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
Còn đối với “quân bị nguyền rủa” họ cũng lấy làm ngỡ ngàng vì có bao giờ họ thấy nhà Vua vi hành, xuống với thường dân để họ có cơ hội tiếp rước đâu. Cố để phân minh thôi, nhưng thật sự họ biết rõ hàng ngày có biết bao con người cần đến sự trợ giúp của họ, thế mà họ vẫn phớt lờ. Bao nhiêu kẻ túng nghèo, rách rưới, bệnh hoạn tật nguyền qua lại trước mắt họ, nhưng họ vẫn làm ngơ không đoái hoài. Như thế bị liệt vào hạng “quân bị nguyền rủa” không bởi vì họ không phải là người Dothái hay Kytô hữu mà là vì họ không có lòng nhân hậu, không biết xót thương, không giúp đỡ đồng loại. Cho hay, đối với Tin mừng Chúa Kytô, không yêu thương, không giúp đỡ anh em đồng loại là một trọng tội và hậu quả là sẽ bị liệt vào hàng “quân bị nguyền rủa” và tệ hơn nữa sẽ rơi vào lửa cực hình muôn kiếp.
Đọc và suy niệm đoạn Tin mừng về ngày Thẩm phán trong ngày cuối cùng của năm phụng vụ giúp mỗi người Kytô chúng ta duyệt xét lại thái độ sống của mình đối với anh em đồng loại. Hãy nhớ rằng điều kiện duy nhất để được vào “thừa hưởng Vương quốc” muôn đời không nằm ở việc chúng ta là ai, địa vị thế nào, thuộc giới tư sản hay vô sản mà nằm ở chỗ chúng ta đã đối xứ với anh em đồng loại như thế nào. Tiêu chuẩn của ngày Thẩm phán dựa trên tình yêu và chính điều này sẽ là thước đo chuẩn xác định đoạt số phận của mỗi người. Tình yêu mới là thước đo duy nhất xác định kẻ tốt người xấu trong ngày Con Người quang lâm.
"Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một tro ng các người bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta." (Mt 25:40)
Đọc qua lịch sử về triều đại của các vua chúa, chúng ta thấy cách cai trị của họ khác với Đức Kitô. Đa: TN 34-ABC68
Đọc qua lịch sử về triều đại của các vua chúa, chúng ta thấy cách cai trị của họ khác với Đức Kitô. Đa số các vua chúa trần gian thường dùng dân làm phương tiện để khai thác và xây dựng hoàng triều của mình. Sinh họat thường ngày của dân chỉ là để xây dựng ngôi báu và uy quyền cho vua. Đức Kitô là Vua vũ trụ đến, không bắt dân phục vụ Ngài, nhưng chính Ngài phục vụ từng người dân. Ngài đến sống giữa dân và đồng hành với dân. Ngài săn sóc mỗi người bằng ân sủng và bí tích. Ngài tiếp nhận và gọi tên từng người qua bí tích Rửa Tội. Ngài phong chức cho họ làm con Thiên Chúa và chọ họ được sống an toàn trong sự che chở của gia đình là Giáo Hội. Ngài dùng bí tích giải tội để giải thóat những ai bị nô lệ thần dữ và băng bó những tâm hồn bị thương đau. Bằng bí tích Thánh Thể, Ngài nuôi dưỡng các tâm hồn trên đường lữ thứ trần gian. Ngài đồng hóa với mọi người, ngay cả kẻ bất hạnh và nghèo khổ nhất. Chuyện kể rằng, một đêm mùa đông băng gía, sau chuyến đi công tác về, Martin thấy một người ăn mày nghèo khổ, rách rưới đang ngồi run run ở cổng thành Tours. Martin liền xuống ngựa, vì không có tiền, mà chỉ có gươm giáo và chiếc áo khoác. Ông liền cắt đôi chiếc áo khoác và trao cho người ăn mày một nửa! Đêm hôm đó, Martin trải qua một thị kiến đẹp! Ông thấy Chúa Giêsu ngồi trên ngai sáng láng có các thiên thần chầu quanh. Ngài mặc miếng áo của Martin cho đêm qua. Các thiên thần hỏi tại sao ngài mặc miếng áo rách ? Chúa Giêsu mỉm cười nói rằng đêm hôm qua Martin cho Ngài. Martin vui mừng nhưng tiếc rằng, nếu được biết người ăn mày đó là Đức Giêsu thì ông sẽ mời Ngài lên ngựa về nhà để ông phục vụ.
Thực Hành: Chúa phán: " Này chính Ta săn sóc đoàn chiên của Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng." (Ezek 34:11) Muôn dân đều đồng thanh ca tụng rằng chính Chúa là đấng tạo thành trời đất và muôn vật. Và chính Ngài chăm sóc cũng như xét xử tạo vật Chúa dựng nên. Xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa là Vua của con.
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật về cuộc phán xử cuối cùng. Như người chủ chăn phân tách TN 34-ABC69
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật về cuộc phán xử cuối cùng. Như người chủ chăn phân tách chiên khỏi dê thế nào, thì Con Người cũng sẽ phân tách người lành khỏi kẻ ác như thế; tùy theo những công việc bé nhỏ mà họ đã làm cho một trong những người bé nhỏ nhất.
Dường như chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất để phán xử, đó là "mến Chúa, yêu người"; hay nói cách khác, mến Chúa qua yêu người và yêu người tức là mến Chúa. Kitô giáo vốn là một "đạo yêu nhau"; con người bị (được) phán xử theo tình yêu.
Dường như những thiếu xót vì thờ ơ với việc nhà thờ nhà thánh, vì mê tín dị đoan, vì mê đắm điều phàm tục… xem ra còn nhẹ tội hơn là không giúp đỡ một người anh em bé nhỏ. Thiên Chúa nghiêm khắc với những ai không có lòng trắc ẩn.
Dường như trong ngày lễ Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, bài Tin mừng về ngày phán xử cuối cùng được đọc lên như là một nhắc nhở : "Thiên Chúa là Vua Tình yêu, vinh quang của Ngài là con người được sống và sống hạnh phúc" (thánh Irênê). Có lẽ Ngài không cần "nhang khói" tế tự, Ngài cần một tấm lòng. Bởi lẽ "Thiên Chúa tìm kiếm vinh quang không phải cho chính mình mà là cho chúng ta" (thánh Tôma Aquinô). Một vị Thiên Chúa tình yêu, đầy lòng trắc ẩn, hẳn sẽ vui lòng khi nhận ra lễ dâng là tấm lòng vị tha, bác ái.
Nhưng, "nói bác ái" thì dễ, mà "thực hành bác ái" lại chẳng dễ chút nào; chẳng hạn:
Cho một người nghèo năm ba ngàn đồng còn dễ hơn là cho một nụ cười trong bất cứ tình huống nào lại không dễ;
Ra tay bảo vệ một người cô thế cô thân, đang bị ức hiếp (một hành vi anh hùng!), điều đó xem ra dễ hơn phải chịu đựng sự quấy rầy khó chịu của người khác.
Một việc bác ái chẳng gây tổn hại gì quyền lợi của ta, ta làm được. Nhưng nếu việc bác ái đụng chạm đến "cái dạ dày của ta", ta sẽ phải ngần ngại đắn đo.
Khi ta gặp khó khăn, ta dễ cảm thấy "quyền được hưởng bác ái". Khi người khác gặp khó khăn, ta không dễ cảm thấy "nghĩa vụ thi hành bác ái".
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết bước theo Vua Tình Yêu : để, mỗi ngày một chút, chúng con biết thi hành những điều bé nhỏ cho những người bé nhỏ.
Con người vẫn còn là một mầu nhiệm. Câu trả lời không thể tìm thấy trong những nỗ lực khoa: TN 34-ABC70
Con người vẫn còn là một mầu nhiệm. Câu trả lời không thể tìm thấy trong những nỗ lực khoa học hay triết học. Trái lại, mầu nhiệm con người chỉ có thể được mạc khải trong chính mầu nhiệm Con Thiên Chúa
ÐỨC GIÊSU LÀ AI ?
Không thể tìm được câu trả lời dứt khoát cho vấn nạn lớn lao này. Nếu nói Ðức Giêsu là vua cũng không sai. Vì còn hình ảnh nào ngoạn mục bằng "khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người" (Mt 25:31).
Nhưng nếu nói Người là kẻ khố rách áo ôm cũng chẳng xa thực tế. Vì Người đã đồng hóa với những người bần cùng: "Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25:40).
Làm sao có thể thấy nét hoàng gia quý phái của Ðức Giêsu trong những cảnh tồi tàn, đói rách của anh em nghèo khổ ? Nhưng nếu không thấy được như thế, chúng ta dễ bị mù quáng vì những cám dỗ hời hợt bên ngoài. Chắc chắn từ cái nhìn thiên lệch ấy, chúng ta sẽ có những hành động bất công đối với chính Chúa. Do đó thật không phải dễ khi muốn phóng một cái nhìn vượt trên hoàn cảnh.
Chính đức tin sẽ cho phép chúng ta vượt trên hoàn cảnh để nhìn vào tận giá trị đích thực của tha nhân. Một cái nhìn như thế mang đầy tính cánh chung. Không thể dừng lại ở những nét bên ngoài để đánh giá anh em. Chính cái nhìn ấy sẽ cho thấy không phải Ðức Giêsu trong anh em, nhưng anh em chính là Ðức Giêsu ta phải phục vụ. Tùy phương cách và mức độ phục vụ, ta sẽ thấy rõ dung nhan Ðức Giêsu nơi anh em.
Ðức tin biến đổi không những nội tâm, nhưng cả hành động nữa. Chính vì vậy, khi thúc đẩy chúng ta hành động, Ðức Giêsu không nói theo lối dụ ngôn nữa, nhưng nói rất thực tế và cụ thể. Người nhấn mạnh tầm quan trọng phải hành động cho anh em nghèo khổ đến nỗi đã không ngần ngại lặp lại tư tưởng nhiều lần. Có ý thức được tầm quan trọng ấy, mới cố gắng thực hiện tất cả những gì đức tin gợi lên. Không có đức tin ấy, rất khó coi người nghèo như anh em. Càng khó hơn nữa khi thi hành mệnh lệnh Chúa để đáp ứng nhu cầu anh em. Bởi đấy, vấn đề không phải là phục vụ bao nhiêu, nhưng là phục vụ như thế nào. Nếu coi họ như Chúa, chúng ta có dám đối xử với họ như vẫn thường đối xử không ? Nếu không nhìn thấy Chúa trong những anh em nghèo khổ như thế, chúng ta có đủ động lực thi hành những việc bác ái cần thiết cho "những anh em bé nhỏ nhất" (Mt 25:40) hay "những người bé nhỏ nhất" (Mt 25:45) không ? Trong việc bác ái, không còn phân biệt được biên giới đâu là Chúa đâu là tha nhân. Cả hai đối tượng như quyện tròn lấy nhau, đến nỗi bên này không thể thiếu vắng bên kia. Cả hai làm thành hai mặt của một đồng tiền, đồng tiền cần thiết để vào Nước Trời.
DẤN THÂN
Sắm được đồng tiền ấy, không đòi những hành động anh hùng. Chung quanh ta và hằng ngày ta vẫn tiếp xúc với Chúa hiện thân nơi những người đói khát, trần truồng, tù đầy, đau yếu, mất nhà cửa, người thân v.v. Ðối tượng phục vụ quá rõ ràng. Xã hội hôm nay còn có những người cần được phục vụ như những người nghiện xì ke, ma túy, những trẻ em mồ côi, bụi đời, những người bị bỏ rơi, những người mắc bệnh liệt kháng v.v. Ðó là nạn nhân của những cơ chế bất công và những lối sống ích kỷ. Chúng ta không còn phải thắc mắc "ai là anh em tôi ?" (Lc 10:29), nhưng cần biết phải làm gì và ở đâu cần chúng ta phục vụ. Không ai bị gạt ra ngoài đối tượng tình yêu và chúng ta phải phục vụ bất cứ ai trong khả năng của mình (x. New International Version:1991) một cách vô điều kiện.
Phục vụ như thế tức là chuẩn bị đón Chúa trở lại trong vinh quang. Phục vụ đã trở thành một hành vi cứu độ. Không thể trì hoãn tới ngày mai, nhưng phải làm ngay hôm nay (x.Fahey:1994). Ngày mai luôn luôn quá trễ. Trong việc phòng chống bệnh dịch cho đồng bào nạn nhân bão lụt chẳng hạn, nếu cứ trì hoãn, bao nhiêu sinh mạng sẽ phải hi sinh ? Lấy gì bù lại sự mất mát đó ?
Công cuộc từ bi bác ái không thể tùy thuộc tài sản, khả năng hay trí thông minh, cũng không thể ỷ lại vào giáo hội hay chính phủ, nhưng đòi cá nhân phải dấn thân lo cho nhu cầu tha nhân (x. New International Version:1991). Không gì có thể thay thế cho việc dấn thân đó. Ðó là nền tảng mọi giá trị. Vì chính nơi cá nhân mỗi người, Ðức Giêsu gặp gỡ những người nghèo khổ, bệnh tật. Ðó là nguồn hứng khởi phục vụ.
Phục vụ là công việc của người yếu thế, không xứng đáng với những người chức cao quyền trọng. Nhưng đối với môn đệ Chúa Kitô, "sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối" (2 Cr 12:9). Phục vụ chính là chia sẻ vương quyền với Ðức Giêsu, Ðấng "đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10:45). Phục vu chính là sức mạnh cứu độ. Nói khác, phục vụ giúp ta vượt qua giới hạn trần gian để vươn tới chiều kích Thiên Chúa.
Nhưng muốn đạt tới chiều kích Thiên Chúa trong việc phục vụ, chúng ta không thể quanh quẩn với những nỗ lực và quan tâm cá nhân. Trái lại, ngay cả khi phục vụ, Ðức Giêsu cũng luôn liên kết với Chúa Cha và Thánh Linh. Bởi thế nỗ lực cá nhân cần phải được nhân lên thành sức mạnh cộng đoàn. Chẳng hạn nếu không liên kết thành một khối, làm sao chúng ta có sức mạnh trấn át được bạo vũ cuồng phong. Chỉ trong thế liên kết để phục vụ anh em nghèo khổ, chúng ta mới đạt tới chiều kích sung mãn trong Thiên Chúa. Ðức Giêsu luôn hiện diện và đang kêu gào trong từng anh em đau khổ đó. Chúng ta hãy cố gắng phục vụ để chia sẻ vương quyền với Người, vì vương quyền Người chỉ tỏ hiện và hoàn thành trong việc phục vụ. Vương quyền Người bao trùm toàn thể vũ trụ, nên chúng ta càng vững tin và tràn hi vọng khi đến với anh em nghèo khổ. Khi vinh quang Chúa xuất hiện trước mặt muôn dân, chúng ta sẽ thấy tất cả ý nghĩa của việc phục vụ hôm nay.
Sở dĩ hôm nay con người ngày càng mất dần tinh thần phục vụ, vì trong xã hội đang có "những khuynh hướng phủ nhận hay lãng quên tính cách duy nhất của bản chất và ơn gọi con người như những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Khi áp dụng vào cuộc sống, các tài nguyên kỹ thuật đã bỏ qua những thông số căn bản và các tiêu chuẩn nhân chủng và luân lý in sâu vào chính bản tính con người." (ÐGH Gioan Phaolô II : Zenit 19/11/2002) Ðó là lý do tại sao con người không còn được phục vụ đúng mức. Nếu nhìn thấy Ðức Giêsu nơi người anh em nghèo khổ, chắc chắn sẽ có đủ nghị lực phục vụ và dư sức mạnh thắng lướt những cám dỗ thời đại.
Muốn nâng cao tinh thần phục vụ nơi các bạn trẻ hôm nay, phải trả lời được câu hỏi căn bản : "Con người là ai ?" Muốn giải đáp vấn nạn căn bản đó, cần có một "kế hoạch văn hoá theo chiều hướng Kitô giáo để đem lại cho công cuộc Phúc âm hoá một chiều kích văn hoá sâu sắc và mãnh liệt." (ÐGH Gioan Phaolô II : Zenit 19/11/2002) Có thế, mọi người mới thấy rõ nhân phẩm là nguyên lý xây dựng xã hội và văn minh nhân bản đích thực. Nhờ thế, Giáo hội có thể góp phần xây dựng những giá trị văn hoá thời đại và làm cho những giá trị trong kho tàng văn hoá và tinh thần, nguồn tài nguyên trước tiên của các quốc gia, khỏi lâm vòng nguy hiểm (x. ÐGH Gioan Phaolô II : Zenit 19/11/2002). Ðó là phương cách Giáo hội phục vụ con người. Có phục vụ như thế, Giáo hội mới làm cho mọi người nhận biết vương quyền Ðức Kitô như một sức mạnh giải thoát nhân loại.
Thế giới đang lo sợ về cuộc chiến giữa Iraq và Hoa kỳ xảy ra và có thể lan rộng đến độ không: TN 34-ABC71
Thế giới đang lo sợ về cuộc chiến giữa Iraq và Hoa kỳ xảy ra và có thể lan rộng đến độ không kiểm soát được. Cuộc chiến đó chỉ khơi sâu hố ngăn cách giữa các nền văn hoá khác nhau. Thật là một thách đố lớn lao giữa những giá trị hôm nay.
NHỮNG CÁI NHÌN KHÁC NHAU
Vì “sắp đi xa” (Mt 25:14) trong “một thời gian lâu dài” (Mt 25:19), một ông chủ khôn ngoan kia đã chu đáo sắp xếp mọi việc. Được ông giao phó của cải, chắc chắn các đầy tớ phải là những người đáng tin cậy sau nhiều năm làm việc cho ông. Thật vậy, không một đầy tớ nào cuỗm số tiền bỏ trốn, mặc dù ông vắng nhà khá lâu. Về mặt trung tín không ai có thể trách họ.
Không những khôn ngoan, ông chủ còn có con mắt tinh đời khi “giao phó của cải mình cho họ,” (Mt 25:14) “tuỳ khả năng riêng mỗi người.” (Mt 25:15) Hớ hênh một chút, ông có thể trở về trắng tay. Giả sử ông giao năm yến cho cho người “tôi tớ xấu xa và biếng nhác” (Mt 25:26), chắc chắn tài sản ông đã bị ảnh hưởng lớn và công việc đã ngưng trệ. Thất đức đã biến anh trở thành một thứ “kỳ đà cản mũi”. Người tôi tớ đó không hẳn bất tài. Nhưng tất cả những hành động xấu xa đó đều phát xuất từ một cái nhìn tiêu cực về ông chủ. Nếu đúng như người đầy tớ này nhận xét, tại sao các người đồng nghiệp với anh lại có thể yên tâm làm việc cho chủ?
Oâng đã chọn mặt gởi vàng, khi giao năm và hai yến cho các “tôi tớ tài giỏi và trung thành” (Mt 25:21.23). Điều ông quan tâm nhất không phải là khả năng chuyên môn, nhưng là nhân đức của người tôi tớ. Chính nhân đức mới quyết định tất cả thành bại cuộc đời. Những người tôi tớ này không những tài giỏi, nhưng còn có cái nhìn sáng suốt và đặt tất cả niềm hi vọng lớn lao nơi ông chủ. Bằng chứng họ đã hết sức tích cực làm việc ngay cả khi ông chủ vắng mặt. Đối với họ, ông chủ có mặt hay không, điều đó không ảnh hưởng tới công việc của họ. Vì chính lương tâm thúc đẩy họ hoàn thành mọi việc một cách xuất sắc. Niềm hi vọng đó phát xuất từ niềm tin tưởng ông chủ sẽ ban niềm vui lớn lao vào lúc ông trở về. Niềm vui chính là phần thưởng chỉ dành cho những “tôi tớ tài giỏi và trung thành”, bất kể số lượng được giao bao nhiêu. Quả thực, còn gì vui bằng khi nghe ông tuyên bố: “Phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa.” (Mt 25:29) Niềm vui tràn trề ! Vượt quá niềm tin và hi vọng.
Nhưng trong khi người tôi tớ “tài giỏi và trung thành” vào “hưởng niềm vui của chủ” (Mt 25:21.23), thì “tên đầy tớ vô dụng kia” bị quăng vào “chỗ tối tăm bên ngoài : ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt 25:29.30) Một hoàn cảnh, hai số phận. Giá trị cuộc đời không đo bằng số lượng của cải hay tài năng, nhưng bằng lòng trung thành. Giả sử người đây tớ nhận một yến hoàn toàn hài lòng và hành động theo chỉ thị ông chủ, chắc chắn anh dư khả năng để hoàn thành nhiệm vụ. Thế nhưng, mặc dù đủ tài năng và được chủ tín nhiệm, anh cũng không muốn cố gắng chút nào. Anh không muốn biết đến cảnh đồng nghiệp đang nỗ lực thi hành ý muốn ông chủ. Anh lợi dụng cơ hội ông xa nhà để đứng nhìn cuộc đời dưới cặp kính đen thui của anh. Hẳn anh đã từng chê bai và buồn cười trước những lam lũ của những người cúi lưng làm tôi mọi cho một ông chủ “hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi.” (Mt 25:24) Thực tế, cái nhìn tăm tối đó đã đẩy anh vào “chỗ tối tăm bên ngoài” để “khóc lóc nghiến răng” (Mt 25:30) trong tuyệt vọng.
Chắc chắn đồng nghiệp không chia sẻ quan niệm của anh về ông chủ. Ngược lại, qui luật cuộc sống rất cần để đạt đến hạnh phúc và niềm vui. Phân chia công tác hay lợi lộc, ông chủ căn cứ “khả năng riêng mỗi người.” (Mt 25:15) Khả năng khác nhau chỉ nhằm phục vụ anh em và giúp mọi người đạt tới hạnh phúc đích thực. Khả năng này chỉ tỏ lộ khi gặp thách đố. Đúng là “thui ra mới biết béo gầy”. Qua cơn thử thách tất cả sẽ lộ nguyên hình. Sau cơn thử lửa mới thấy niềm vui tuyệt vời.
NIỀM VUI TUỔI TRẺ
Niềm vui chính là hấp lực mạnh nhất đối với tuổi trẻ. Nhưng làm sao tìm được niềm vui đó giữa một thế giới quá nhiều bất ổn và khủng hoảng về mọi mặt như hôm nay ? Tương lai thuộc về ai “đem lại niềm hi vọng cho một thế giới đầy dẫy những bất công và thiếu vắng những giá trị,” (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 8/11/2002) Muốn thế, “giữa một thời đại nổi cộm với một nền văn hoá nhiều lo lắng, trống rỗng và vô nghĩa, hãy lên tiếng rao giảng Thiên chúa siêu việt, Đấng luôn lắng nghe tiếng những người bị áp bức và đau khổ kêu gào.” (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 8/11/2002)
Không thể rao giảng Thiên chúa siêu việt, nếu không có lòng “kính sợ Đức Chúa.” (Cn 31:30) Chính lòng kính sợ ông chủ đã giúp những người tôi tớ hoàn thành công tác xuất sắc. “Kính sợ Đức Chúa là bước đầu của tri thức. Kẻ ngu si khinh thường khôn ngoan và lời nghiêm huấn.” (Cn 1:7) Như thế các đầy tớ ông chủ đã được phân ra hai hạng rõ rệt : khôn ngoan và ngu si. Khôn ngoan là thành trì vững chắc nhất bảo vệ mọi giá trị. Không bắt nguồn từ khôn ngoan, niềm vui sẽ hời hợt và lạt lẽo. Chỉ Đức Giêsu, sự khôn ngoan của Thiên Chúa, mới có thể đem lại niềm vui thực sự cho nhân loại. Giữa một thế giới đang vắng bóng Thiên Chúa, các bạn trẻ “hãy tin tưởng ! Hãy xây dựng cuộc sống với Đức Giêsu trong niềm hi vọng!” (Các Giám mục Pháp : Zenit 13/111/2002) Vì chỉ Đức Giêsu mới dẫn mọi người “vào hưởng niềm vui của” Thiên Chúa qua nẻo đường “công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần”(Rm 14:17). Đó chính là con đường thánh thiện, là “bổn phận căn bản và cấp thiết mà bạn có thể đóng góp vào công cuộc tân Phúc âm hoá, và là một bảo đảm cho công cuộc phục vụ Tin mừng đích thực cho những người cùng khốn.” (ĐGH Gioan Phaolô: II Zenit 8/11/2002)
Giữa “những hoàn cảnh có thể làm lu mờ niềm hi vọng vì những căng thẳng và sợ hãi, chống đối và chia rẽ, quá khích và bạo lực, các bạn phải cấp thiết đem sứ điệp Tin mừng đến cho mọi người. Để có thể thực hiện sứ mệnh đó, trên hết các bạn phải duy trì sự hiệp thông bền bỉ với Đức Giêsu, không ngừng chiêm niệm thánh nhan Người trong kinh nguyện và hết sức phục vụ Người qua anh em.” (ĐGH Gioan Phaolô: II Zenit 8/11/2002) Muốn được như thế, họ cần “mở rộng tâm trí trước những nhu cầu nhân loại, vì nhân loại đang chiến đấu để tìm ra mục đích trong một thế giới có quá nhiều xáo trộn do khủng hoảng về ý nghĩa.” (ĐGH Gioan Phaolô: II Zenit 10/11/2002) Giữa cơn cuồng loạn ngôn từ hôm nay, người ta có thể sẵn sàng hi sinh anh em cho một mục tiêu không tưởng. Đó là cảnh tăm tối trần gian đang đầy đoạ con người.
Chúng ta không thể sống trong cảnh tối tăm đó, “vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày.” (1 Tx 5:5) Đúng như Chúa nói : “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” (Mt 5:14) Có thế, chúng ta mới có thể làm chứng cho mọi người biết “Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, là trung tâm của lịch sử nhân loại và là chìa khoá mở cho mọi người thấy mầu nhiệm con người và mạc khải về ơn gọi tối cao của Người.” (ĐGH Gioan Phaolô: II Zenit 8/11/2002)
Sống giữa những ảnh hưởng chồng chéo nhau hôm nay, giới trẻ phải dấn thân vào “việc Phúc âm hoá văn hoá, để làm cho cuộc sống nổi bật lên niềm hi vọng hơn là sợ hãi hay bi quan.” (ĐGH Gioan Phaolô: II Zenit 10/11/2002)
Muốn được như thế, họ phải lao vào cuộc canh tân đặc sủng Công giáo để trở thành “những dấu chỉ sống động của niềm hi vọng,” (ĐGH Gioan Phaolô: II Zenit 10/11/2002) làm chứng cho mọi người thấy Chúa Thánh linh đang hiện diện và hoạt động giữa lòng nhân loại. Nhờ Thánh linh giới trẻ sẽ cảm nhận sâu xa chỉ Đức Giêsu mới là niềm vui tột đỉnh, vì “chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5:1) khỏi mọi chế độ áp bức và bất công.
Có một bức tranh diễn tả về cuộc phán xét cuối cùng, trong đó, bên cạnh hình một tên quỹ là hình Ðức: TN 34-ABC72
Có một bức tranh diễn tả về cuộc phán xét cuối cùng, trong đó, bên cạnh hình một tên quỹ là hình Ðức Kitô oai phong. Bức tranh đó rất lớn, nói lên Con Người đã trở lại, Người được gọi là "Vua" và tất cả mọi nước đều tụ tập trước nhan Người. Xưa kia, tại chân tháp Ba-ben, tội lỗi đã làm tan vỡ các dân tộc, trở thành những mảnh nhỏ. Giờ đây, các mảnh nhỏ ấy lại vỡ tan, nhưng để nảy sinh một nhân loại mới phù hợp với thánh ý Thiên Chúa, một dân tộc thánh thiện, bao trùm cả vũ trụ.
Bản văn phụng vụ trong lễ Ðức Kitô Vua thật lạ lùng. Thánh Mát-thêu sắp xếp trình thuật này vào giai đoạn mà số phận của con người dường như đã được định đoạt : Người bị kết án và chịu hành hình như một nô lệ. Trước đây, khi dân chúng tỏ ra quý chuộng Người, thì Người lại nói về đau khổ và sự chết ; còn ở đây, khi trần gian sắp sửa sụp đỗ dưới chân Người, thì Người lại lên tiếng nói về vinh quang và vương quyền. Người tự giới thiệu về chính mình như vị Vua xét xử cả nhân loại.
Phải chăng đây là một ước mơ muốn báo thù, hay là khoa trương ước vọng ? Phải chăng là Ðức Giêsu muốn khước từ việc xoá mình đi và theo đuỗi quyền lực ? Ðiều lạ lùng nữa là Ðức Giêsu tự nhận Người có quyền xét xử vốn dành riêng cho Thiên Chúa, như lời ngôn sứ Ê-dê-ki-en : ""Ðức Chúa là Chúa Thượng phán : Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê"" (Ed 34,17). Ðặc biệt hơn, Người còn tự đổng hoá với những người bé nhỏ, hèn kém : ""Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy ... Mỗi lần các ngươi không làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy."
Vị vua này thật khác xa với lời mô tả của ngôn sứ Sa-mu-en khi ông cảnh giác đám đông dân chúng Ít-ra-en đang muốn chọn một ông vua để cai trị họ : "Ðây là quyền hành của nhà vua sẽ cai trị anh em ... Chiên dê của anh em, ông sẽ đánh thuế thập phân. Còn chính anh em sẽ làm nô lệ cho ông. Ngày ấy, anh em sẽ kêu than vì vua của anh em mà anh em đã chọn cho mình, nhưng ngày ấy Ðức Chúa sẽ không đáp lời anh em."" (1 Sm 8,11.17-18)
Ðúng hơn, Thiên Chúa đáp lời con người đang bị áp bức bằng cách gửi đến cho họ một vị vua trong thân phận một nô lệ. Vương quyền của vị vua này không đặt trên quyền lực và cũng không có ý định chiếm chỗ của Thiên Chúa. Vương quyền này đặt sức mạnh của mình trên tình yêu, tình yêu của một vị Thiên Chúa đã đến trong chỗ của một con người. Trong Ðức Giêsu, Vương quyền đã hoàn toàn thay đổi ý nghĩa : thay vì thống trị sẽ là tình yêu.
Một ông vua với những ý nghĩa khác thường
Tin Mừng cho thấy có những lúc Ðức Giêsu từ chối là vua, có lúc Người lại nhận. Thật ra, Ðức Giêsu không bao giờ chấp nhận một vương quyền theo nghĩa chính trị, quân sự và hống hách. Người không hề muốn chấp nhận vai trò của một ông vua theo cách hiểu thông thường của nhân loại.
Tuy nhiên, Người chấp nhận là Vua Lãnh Ðạo như ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo. Vị vua này là người chăm sóc các con chiên đã được trao phó cho mình. Vương quyền của vị vua này là phục vụ.
Ðức Giêsu cũng chấp nhận là Vua Chiến Thắng vào thời gian cuối cùng như thánh Phao-lô trình bày. Vị vua này là Ðấng chiến thắng sự dữ và sự chết. Chiến thắng bởi vì Người hiến dâng mạng sống của chính mình ; chiến thắng bởi vì Người chấp nhận tự huỷ và hoàn toàn vâng phục Chúa Cha.
Ðức Giêsu còn chấp nhận là Vua Xét Xử như dụ ngôn của thánh Mát-thêu. Thế nhưng vị vua này lại tự đổng hoá với những người nghèo, với những người bị bách hại và với tất cả những người khốn khổ.
Nói tóm, Vương quyền của Ðức Giêsu chỉ được diễn tả cách trọn vẹn và trung thực qua việc dành ưu tiên để phục vụ người nghèo, và dành mọi nỗ lực để phát triển đức ái.
Lúc này, Ðức Giêsu là vị vua đang trên đường tiến gần đến cái chết, một vị vua sắp bị đóng đinh. Tuy vậy, Người hiểu rõ chương trình từ ngàn đời của Thiên Chúa sẽ được thực hiện : Thiên Chúa đã tạo thành thế gian, để rổi một ngày kia, thế gian sẽ được thừa hưởng vương quyền của Thiên Chúa.
Ðức Giêsu là Vua để phục vụ, để đem lại sự sống, đổng thời Người cũng là Vua để xét xử, để thưởng phạt. Tuy nhiên, đây là một cuộc xét xử kỳ lạ, bởi vì trong đó, con người được phân loại và có quyền tự bào chữa. Một số người cảm thấy hân hoan, còn số khác lại càu nhàu. Một số người ngạc nhiên vì mình được xếp vào loại người lành, một số khác lấy làm lạ vì mình bị liệt vào số người dữ. Dụ ngôn quả là gây ngạc nhiên, bởi vì cuộc xét xử đem lại ơn cứu độ cho những người nghĩ rằng mình chẳng có điều gì tốt lành, và kết ánh những người cho rằng mình công chính.
Nói thế, bởi vì tiêu chuẩn để xét xử là tình yêu. Mà tình yêu đó rất đơn giản, đơn giản đến nỗi ngay những người trong cuộc cũng không nhận ra : cho ăn, cho uống, cho mặc, đón tiếp, thăm viến, săn sóc. Cuộc xét xử của Ðức Giêsu không dựa trên những công trạng, nhưng dựa trên những cử chỉ khiêm tốn để phục vụ anh em đổng loại. Vì vậy, mỗi hoạt động nhằm giúp đỡ người khác, dù âm thầm và nhỏ bé, cũng đều có giá trị vĩnh cửu, giá trị đời đời.
Ðàng khác, cuộc xét xử của Ðức Giêsu không là gì khác hơn việc mặc khải ra những điều còn giấu kín. Có thể mỗi người không hiểu hết giá trị của các công việc, nhưng trước mặt vị Thẩm Phán công minh, các công việc đó đều có ý nghĩa và có ảnh hưởng đến cuộc sống vĩnh cửu. Lời phân xử của vị Thẩm Phán trong dụ ngôn được đặt trong bối cảnh của ngày cuối cùng, nhưng cũng là một cảnh giác cho cuộc sống hiện tại. Tình yêu sẽ là tiêu chuẩn để mỗi người tự xét xử, bắt đầu ngay từ cuộc đời này. Như thế, cuộc sống vĩnh cửu đã được khởi đầu ngay tại trần gian. Vương quyền của Ðức Giêsu đã được thể hiện khi mỗi người biết phục vụ anh em mình.
Cử hành lễ Ðức Kitô Vua, đó chính là dấn thân thực thi việc phục vụ anh em, chứ không phải là hoạt động cho chiến thắng của Ðức Kitô như người ta dấn mình vào chính trị.
Chưa phải là kết thúc
Với dụ ngôn này, cũng có thể hiểu rằng, cuộc chơi chưa kết thúc. Không ai có quyền ngủ yên trên những vầng hào quang, và ngược lại, cũng không ai có quyền thất vọng. Bài Tin Mừng quả là một "cú sốc", có tác dụng như một bản thí nghiệm. Có sáu hành động để bày tỏ lòng thương xót, mỗi người sẽ dựa trên đó để tự đánh giá về mình, đánh giá cách chân thành, không dối trá.
Nếu ai nhận thấy mình đã thi hành trọn đủ sáu công việc - hoan hô người đó - thì họ vẫn phải tiếp tục, bởi vì sau khi đã phục vụ người khác cách anh dũng, theo như lời thánh Phao-lô, họ vẫn có thể bị loại (1 Cr 9,27). Họ cần phải nhớ rằng bản liệt kê đó chưa phải là tất cả. Sáu hoạt động này mới chỉ là những ví dụ điển hình và thông thường. Tuỳ theo sáng kiến và hoàn cảnh của mỗi người, bản liệt kê còn có thể kéo dài, kéo dài đến vô tận, bởi vì tình yêu làm gì có giới hạn.
Nếu ai đó nhận thấy mình ở tình trạng số không, thì đừng lo sợ và kết án chính mình. Tất cả còn có thể thay đổi và còn có thể bắt đầu. Và cho dù tâm hổn mỗi người có kết án chính mình, thì cũng hãy luôn nhớ rằng "Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta" (1 Ga 3,20).
Như thế, trình thuật về cuộc xét xử cuối cùng không làm chúng ta sợ hãi, trái lại, nó khuyến khích chúng ta đón nhận ơn cứu độ, an ủi chúng ta vì cho biết rằng chưa tới thời xét xử và tất cả đều có thể. Nó cũng làm chúng ta an tâm khi nhắc nhở cho ta : không ai có quyền xét xử, trừ một mình Thiên Chúa. Ðiều đó thật đáng mừng.
Hình ảnh về sự phân cách còn cho thấy :
* Có ơn cứu độ, có thiên đàng. Ở dưới đất này, tất cả chưa được quyết định rõ ràng, nhưng cũng không có gì là vô ích. Có một nền công lý dành cho những người bị thất bại, những người bé mọn, những người bị gạt ra bên lề, những người vô tội. Vào ngày chung cuộc, những người bị sát hại sẽ được con cháu mình đón tiếp, và những thế lực sự dữ sẽ phải trả lại vinh quang.
* Và cũng có sự kết án, có hoả ngục. Ðó là đạo lý của Hội Thánh. Nếu không, con người chỉ là một thứ đổ chơi, một thứ máy móc chẳng có tự do, cũng chẳng có tình yêu. Có hoả ngục, nhưng Hội Thánh vẫn hy vọng và cầu nguyện để con người đừng điên rổ mà gieo mình xuống đó, khi quyết liệt từ chối đôi tay rộng mở của vị vua đã đón nhận vòng gai.
Kết thúc năm Phụng vụ
Tuần lễ cuối năm Phụng vụ, trong niềm tiếc nuối một năm đã qua, trong niềm vui mừng một năm thành đạt, trong nỗi ê chề một năm thua bại, trong tất cả vũ trụ đang chuyển mình, trong tất cả mọi người đang tranh sống, trong tất cả công to việc nhỏ của con người, Hội Thánh muốn chúng ta nghe lại những bài Tin Mừng về ngày cánh chung và cử hành lễ Ðức Giêsu Kitô Vua như ngọn đèn soi sáng cho uộc sống nhân linh.
Làm sao không cảm thấy bâng khuâng
trước bầu khí se lạnh của mùa đông đang đến.
Làm sao không xao xuyến
khi nhìn lại quãng hành trình một năm vừa đi qua.
Làm sao không náo nức
trước cánh cửa năm mới đang mở ra,
chào đón và thách thức, kêu mời và đe doạ.
Làm sao không cảm thấy lâng lâng
khi đối diện với cuộc đời,
cuộc đời kỳ lạ của anh, của chị, của em,
và cuộc đời huyền nhiệm của chính mình.
Cuộc đời thật lạ kỳ,
vừa quyến rũ, vừa đáng sợ,
vừa tươi đẹp, vừa hiểm ác,
vừa thúc bách phải bắt tay xây dựng
một thế giới mới đang đến,
vừa cảnh giác đừng bám chặt lấy
một thế giới chóng qua.
P hải chăng đó là một cuộc giao tranh thực sự ?
Phải chăng đó chính là mầu nhiệm Ðức Giêsu Vua
đang chuyển mình ngay trong chính giữa cuộc đời,
ngay trong chính lòng mình ?
Và phải chăng chính tôi,
tôi cũng đang ẩn núp,
đang lăng xăng một góc nào đó
trong cuộc chiến đấu này ?
* * *
Lạy Chúa Kitô,
Lời chúng con ca hát reo mừng Chúa là Vua,
thật ra cũng là lời hô hào kêu mời chúng con
xông vào cuộc đời.
Việc chúng con cử hành thánh lễ Chúa là Vua
cũng chính là từng bước chân
chúng con tiến vào mầu nhiệm cứu độ trong cuộc đời.
Và lạy Chúa,
Ngọn cờ vương quyền của Chúa
chính là niềm trông cậy vô bờ
cho chúng con trong cuộc đời này.
Nhìn vào bất cứ cây thánh giá nào, chúng ta cũng thấy phía trên đầu có một tấm bảng ghi những: TN 34-ABC73
Nhìn vào bất cứ cây thánh giá nào, chúng ta cũng thấy phía trên đầu có một tấm bảng ghi những chữ mà đọc theo tiếng Việt là IN-RI, thực ra đó là bốn vần đầu viết tắt của bốn chữ La Tinh : Jesus Nazarenus Rex Judaeorum), nghĩa là Giêsu Na-da-rét, vua dân Do Thái. Có lẽ tổng trấn Philatô khi ra lệnh treo tấm bảng đó lên đầu thập giá Chúa, ông không nghĩ đến điều gì khác ngoài lợi thế chính trị cho ông, bất kể sự phản đối của người Do Thái. Nhưng có một điều ông không bao giờ nghĩ tới, mà điều đó lại thật quan trọng đối với đức tin của người Công giáo, bởi vì tấm bảng đó là một lời tuyên xưng không thể xóa nhòa : Chúa Giêsu Kitô thực sự là Vua.
Vậy chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là vua nghĩa là thế nào ? Ngài là vua gì ? Trước hết, chúng ta phải gạt ra ngoài những ý nghĩa về một ông vua mà người đời thường hiểu, tức là một ông vua theo nghĩa chính trị, Chúa Giêsu không bao giờ làm vua theo nghĩa này. Vì thế, khi dân chúng được hưởng phép lạ Chúa làm, họ hồ hởi phấn khởi tung hô Chúa là vua, Ngài đã từ chối. Ngài từ chối vì họ muốn Ngài là một nhà lãnh đạo quốc gia hay một người lãnh đạo quần chúng để đánh đuổi thực dân đế quốc, giành lại chủ quyền cho đất nước và đem lại phồn vinh cho dân tộc.
Tuy nhiên trong ngày Ngài khải hoàn vào thành Giêrusalem, tức là ngày lễ Lá, Ngài đã im lặng, không cải chính, để cho người ta hái lá, lấy áo trải trên đường cho Ngài đi, và chấp nhận để cho họ tung hô Ngài là con vua Đa-vít, vua dân Do Thái. Cũng thế, trước tòa án Philatô, Chúa Giêsu xác nhận Ngài là vua, nhưng Ngài cũng nói rõ ngay : Nước Ngài không thuộc trần gian này. Ngài là vua không lãnh thổ, không biên giới, Ngài không là vua của riêng một dân tộc hay một đất nước nào mà là vua tâm hồn mọi người. Hiến pháp của Ngài là Kinh Thánh, sức mạnh của Ngài không phải là binh lực vũ khí mà là tình yêu. Mục đích của Ngài đến trần gian là thực hiện kế hoạch và chương trình tình yêu của Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi : Chúa Giêsu là vua gì ? Ngài là vua Tình Yêu. Tình yêu đã đưa Ngài đến trần gian để phục vụ mọi người và xây dựng nước tình yêu, để tất cả những ai ở trong nước của Ngài đều là công dân tình yêu. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu là vua vũ trụ, vua cả nhân loại, Ngài đã thi hành vương quyền của Ngài bằng cách yêu thương con người đến nỗi chết cho con người. Đó là cái chết vì tình yêu và cho người mình yêu, nên bất cứ ai đón nhận tình yêu cứu độ của Ngài và sống tình yêu cứu độ ấy, họ sẽ được nhận vào nước Chúa. Do đó, nếu chúng ta nói Thiên Chúa là Tình Yêu, thì chúng ta cũng phải nói Chúa Giêsu là Tình Yêu. “Giêsu, Vua Tình Yêu ”, đó là tựa đề một cuốn sách viết về Chúa đã được xuất bản lâu rồi, và mới đây lại có một cuốn sách khác, có tựa đề là “Một tình yêu có tên là Giêsu”. Cả hai cách gọi đó cũng là những điều chúng ta tuyên xưng Chúa hôm nay : Chúa Kitô là Vua, Chúa Kitô là Tình Yêu, Chúa Kitô là Vua Tình Yêu.
Chúa Kitô là vua của chúng ta, vua tình yêu, vậy chúng ta phải sống thế nào để đúng là thần dân của Ngài ? Bài Tin Mừng hôm nay trả lời cho chúng ta câu hỏi đó, Chúa Giêsu nói về ngày quang lâm của Ngài, và qua đó Chúa bảo chúng ta hãy đối xử tốt đẹp, hãy thể hiện tình yêu thương với nhau. Đúng vậy, Chúa Giêsu nói về ngày quang lâm của Ngài, tức là ngày Ngài trở lại phán xét mọi người. Chúa nói đến vấn đề phán xét không phải là để hù dọa hay làm cho con người phải lo sợ, nhưng Ngài muốn nhắc bảo cho mọi người biết : có ngày phán xét để sống cuộc sống hiện tại cho tốt hơn, Ngài không muốn nhấn mạnh về tương lai, nhưng nhấn mạnh đến hiện tại.
Đây là một cách tế nhị để bảo cho chúng ta biết : chúng ta đã sống thế nào trong đời sống hiện tại, thì chúng ta sẽ được thưởng hay bị phạt trong đời sống mai sau như vậy. Chúng ta là chiên hay chúng ta là dê ? Vì lý do gì chúng ta trở thành chiên hay dê ? Hay vì lý do gì chúng ta trở thành người được chúc phúc hay bị nguyền rủa ? Được vào cõi sống hạnh phúc muôn đời hay phải vào chốn cực hình ngàn thu ? tất cả đều căn cứ vào cuộc sống của chúng ta hôm nay. Như vậy, cuộc sống hiện tại tuy ngắn ngủi và tạm bợ nhưng lại là tiêu chuẩn Thiên Chúa sẽ căn cứ vào đó mà thưởng hay phạt chúng ta.
Chúng ta trở thành chiên hay dê là tại chúng ta có biết hay không biết phụng sự Chúa, mà phụng sự Chúa như Chúa cho biết là phục vụ những người anh em đồng loại, nhất là những người đau khổ và bất hạnh về thể xác cũng như tinh thần, bởi vì tất cả những gì chúng ta làm cho họ là làm cho chính Chúa, và Chúa căn cứ vào đó mà thưởng phạt chúng ta. Thực vậy, chắc chắn có ngày chúng ta sẽ chết, chết rồi chúng ta sẽ đến tòa Chúa phán xét, Chúa sẽ thưởng hay phạt chúng ta. Thưởng hay phạt đều căn cứ vào cuộc sống hôm nay mà chúng ta đang sống, và tiêu chuẩn được Chúa đặc biệt căn cứ vào đó để phán xét là lòng yêu thương người.
Yêu thương là đặc điểm, là dấu hiệu đích thực của người con cai Chúa như Chúa đã nói : “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau”.
Yêu thương là điều dễ làm tăng uy tín cho người môn đệ Chúa hơn mọi giá trị khác. Nó có thể thay thế được rất nhiều đức tính, nhưng không đức tính nào thay thế được nó.
Yêu thương là phương tiện hữu hiệu nhất để truyền giáo. Nhờ yêu thương, người ta dễ có cảm tình với chúng ta, và nhờ đó sẽ có cảm tình với đạo.
Yêu thương là tiêu chuẩn chính yếu mà Chúa sẽ căn cứ vào đó để định đoạt ai được vào thiên đàng, bởi vì chỉ có yêu thương, con nguời mới có thể được vào thiên đàng, chỉ có tình yêu thương, con người mới có thể xây dựng thiên đàng ngay trên trần gian này, bởi vì thiên đàng cũng đồng nghĩa với yêu thương.
Hôm nay chúng ta suy tôn Chúa Kitô là vua, chúng ta hãy nhìn lại đời sống của chúng ta có đang sống đúng cung cách là những thần dân của vua Kitô không ? Tức là nhìn lại xem chúng ta đang sống, đang thể hiện tình yêu thương như thế nào từ trong gia đình, trong cộng đoàn, trong tập thể và với mọi người. Xin Chúa cho chúng ta cảm nếm được ngay trong cuộc sống ở trần gian này thiên đàng mà Chúa đã hứa, thiên đàng mà chúng ta chỉ có thể có được bằng cuộc sống yêu thương mà thôi.
"Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái.
"Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta".
"Khi ấy người lành đáp lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?" Vua đáp lại: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta".
"Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: "Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!"
"Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: "Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?" Khi ấy Người đáp lại: "Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta". Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu".
Hôm nay lễ Chúa Yêsu Làm Vua. Từ ngữ này có vẻ lỗi thời, không khoái tai nhiều người, khiến nhiều: TN 34-ABC74
Hôm nay lễ Chúa Yêsu Làm Vua. Từ ngữ này có vẻ lỗi thời, không khoái tai nhiều người, khiến nhiều người cũng ngại đọc lên. Nhưng nếu tất cả đã nghe Lời Chúa hôm nay và tìm hiểu ý nghĩa, người ta sẽ thấy việc Chúa Yêsu làm Vua không có gì động đến chính trị và từ ngữ kia có một ý nghĩa rất phong phú.
A. Vị Vua Mục Tử
Trước hết, bài sách Êzêkiel đưa chúng ta về quan niệm "Vua" ở trong Kinh Thánh. Dĩ nhiên trong quá trình lịch sử, Dân Chúa cũng như mọi dân tộc khác đã đi qua chế độ quân chủ. Và từ ngữ "Vua" ở trong Kinh Thánh cũng ám chỉ vị hoàng đế cai trị một quốc gia. Nhưng ngay từ khi Dân Chúa nghĩ đến chế độ ấy, Kinh Thánh đã có một lập trường và một lý luận rất đặc biệt.
Chúng ta nhớ câu truyện Dân đến xin tiên tri Samuel thiết lập chế độ quân chủ. Ông đã bắt đầu phản kháng như thế nào. Ông khẳng định đó chỉ là chế độ bóc lột làm khổ dân. Nhưng cuối cùng ông đã nhượng bộ trước sức ép. Nói đúng hơn, ông đã vâng lời Chúa. Và chính Chúa cũng tỏ ý phải chiều theo sự cứng lòng cứng dạ của một dân bướng bỉnh. Nghĩa là ngay từ đầu, Thánh Kinh đã không có cảm tình với chế độ quân chủ.
Và kinh nghiệm cho thấy vị vua đầu tiên đã không tốt. Vì thương dân, Chúa đã phải ra tay cứu vớt. Người không áp đặt ý tưởng của Người, nhưng sửa chữa ý tưởng của người ta và nâng nó lên đến chỗ hoàn thiện. Chúng ta hãy cảm mến thái độ quảng đại chiếu cố cũng như quyền năng êm ái của Người.
Người không hủy bỏ quân chủ, nhưng ban cho Dân một vị vua lý tưởng. Ðó là Ðavít. Hồi ấy, chàng còn là đứa trẻ tóc hoe, đang chăn chiên ngoài đồng. Chúa đã gọi chàng và xức dầu cho chàng làm vua. Mặc dầu đời vua Ðavít không tránh khỏi mọi lỗi lầm, nhưng tựu trung, đó vẫn là vị vua lý tưởng của Kinh Thánh vì ông kính sợ Chúa, rất khiêm nhu và từ tâm, luôn nhớ nguồn gốc và các đức tính chăn chiên của mình. Hành động đặc sắc nhất người làm sau khi được phong vương là đi đương đầu với tên địch thủ Golyat. Ðavít đã thắng y với phương pháp và tâm hồn một cậu bé chăn chiên đạo đức.
Thành ra khi ví các bậc lãnh đạo dân tộc như mục tử, Kinh Thánh không phải chỉ dùng thể văn thời bấy giờ và quan niệm hoàng đế cai trị dân giống như mục tử săn sóc đoàn chiên. Luôn luôn không nhiều thì ít, Kinh Thánh vẫn muốn gợi lại hình ảnh Ðavít, vị vua mục tử rất đẹp lòng Thiên Chúa. Ðặc biệt khi loan tin Ðấng Thiên Sai sẽ có huy hiệu hoàng đế, Kinh Thánh không nghĩ đến vua chúa của các nước lân bang, nhưng chỉ nghĩ đến Ðavít và quan niệm Ðấng Thiên Sai sẽ là vua nhưng là một vua mục tử, khiêm cung, tận tụy, từ tâm.
Bài sách Êzêkiel hôm nay chứng thực điều đó. Nhà tiên tri loan báo ơn Chúa cứu dân. Người sẽ cứu dân ra khỏi cảnh lưu đày và tái lập quốc gia của họ ngay trên xứ sở của họ. Người sẽ làm thế nào? Êzêkiel đáp: Người sẽ làm như một mục tử. Người coi dân lưu đày như đàn chiên tản mác. Người sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân tán trong ngày mù tối, ra khỏi các dân mà chúng đang nô lệ. Người đưa tất cả về trên Núi Thánh cho chúng được gặm cỏ nơi những cánh đồng xanh rì và được nghỉ ngơi bên những dòng suối mát. Chính Người chứ không phải ai khác sẽ chăn dắt chúng; tức là chính Người sẽ lãnh đạo dân, làm vua của dân chứ không ai khác nữa. Chúa tuyên bố Người là vua. Nhưng là vua mục tử và là mục tử tốt sẽ săn sóc từng con chiên, đáp ứng yêu cầu của từng con; đồng thời sẽ không để dê cừu lẫn lộn kẻo chúng húc và làm hại nhau, tức là Chúa sẽ phân biệt kẻ dữ người lành, để đàn chiên của Người, Dân thánh của Người được bình an hạnh phúc.
Ðó là lời sấm của Êzêkiel. Ông loan báo việc Chúa dắt dân trở về, nhưng có thể nói chẳng khi nào để họ lại trở thành một vương quốc có vua cai trị nữa, mà để họ làm thành một dân có sứ mạng thiêng liêng, phổ biến ơn cứu độ của Chúa và có Chúa lãnh đạo một cách vô hình.
Nhưng Thánh Thần đã dùng Êzêkiel để nói về những việc xa hơn. Và đoạn tiên tri hôm nay vẫn được coi như là lời loan báo thời đại Thiên sai. Chúa Cứu thế đã đến không phải chỉ để tập họp một dân tản mác lại, mà là muôn dân thiên hạ làm thành một Hội Thánh. Và Người đã xưng mình là mục tử tốt, cắt đặt các bậc lãnh đạo trong Hội Thánh làm mục tử.
Tuy nhiên viễn tượng của bài tiên tri còn đi xa hơn, đi đến tận cùng lịch sử. Chỉ ở đó, vào thời cánh chung, mọi chiên tản mác của Chúa mới vĩnh viễn được thu về Núi Thánh, để được nghỉ ngơi vô tận bên các dòng suối hạnh phúc từ lòng Thiên Chúa Ba Ngôi chảy ra. Khi ấy người ta mới thấy rõ Người là Vua mục tử cụ thể như thế nào! Và người ta sẽ hân hoan sung sướng nhận Người làm Vua một cách thắm thiết biết bao!
Dĩ nhiên bài sách Êzêkiel chưa nói rõ được tất cả. Nhưng nó đã gợi lên; và có thể giúp ta đi vào hai bài đọc sau.
B. Vị Vua Vâng Lời
Bài thư Phaolô đưa chúng ta đến thời đại cánh chung. Chúa Yêsu sống lại là hoa quả đầu mùa. Người sẽ lôi theo tất cả loài người và tạo vật sống lại. Người như Ađam mới. Nếu Ađam cũ đã lôi cả loài người - và qua loài người - cả tạo vật vào hư hỏng và chết chóc, thì Ađam mới lại càng kéo được toàn thể nhân loại sa ngã và tạo vật hư hoại đi vào cõi sống muôn đời... Bây giờ chưa xảy ra như thế. Chúa Yêsu đang còn phải lôi kéo tất cả ra khỏi vòng nô lệ của mọi thứ thù địch để kết hợp tất cả vào Thân Mình Người. Khi nào làm xong công việc ấy; Người sẽ tiêu diệt kẻ thù cuối cùng là sự chết. Bấy giờ tất cả sẽ sống lại. Và Chúa Kitô sẽ dâng tất cả lên cho Thiên Chúa để Người là mọi sự ở trong tất cả.
Ðối với chúng ta bản văn trên đã quen thuộc. Và chúng ta hiểu rằng hiện nay Ơn Chúa đang làm việc trong lịch sử để dần dần tất cả được quy lại dưới một Ðầu là chính Ðức Yêsu Kitô. Người là Vua vô hình của toàn thể Hội Thánh là Thân Thể của Người. Người là Vua của toàn tạo dựng được cứu chuộc nhờ mầu nhiệm Thập giá.
Nhưng theo lời thư Phaolô, chúng ta có thể tự hỏi: như vậy Chúa Yêsu không là Vua vĩnh viễn sao? Vào lúc cánh chung, Người sẽ dâng vương quốc của Người cho Thiên Chúa. Vương quyền của Người sẽ không vô tận như chúng ta vẫn tin!
Không! Ai có thể tách rời Chúa Kitô ra khỏi Thiên Chúa? Vương quyền mà Người đã nhận được sau mầu nhiệm tử nạn phục sinh có tính cách vĩnh viễn. Thánh Phaolô viết như trên để nói lên một chân lý: Ðức Kitô đã được làm Vua trong mầu nhiệm Thánh giá vì đức vâng lời của Người. Người luôn luôn làm theo Thánh ý Thiên Chúa và đã vâng lời cho đến chết trên thập giá, nên đã được tôn vinh trên hết thảy, để từ đó nghe Danh Yêsu, trên trời dưới đất đều thờ lạy...
Vậy như Người đã làm Vua vì vâng lời, thì chúng ta muốn vào Nước của Người, muốn được kết hợp vào Thân thể của Người, chúng ta cũng phải có lòng vâng lời Thiên Chúa, tức là thi hành mọi huấn giới của Người. Có như vậy, Chúa Yêsu mới là Ađam mới và chúng ta mới là dòng dõi Ađam mới, khác với Ađam cũ và dòng dõi cũ của ông ở điểm: Ađam cũ và dòng dõi ông đã hư đi vì bất vâng phục, thì Ađam mới và dòng dõi mới của Người sẽ được tôn vinh nhờ đức vâng lời. Khi nói: sau khi đã làm cho tất cả suy phục mình thì Ðức Kitô dâng tất cả cho vương quyền Thiên Chúa, thánh Phaolô không có ý nói đến những công việc trước sau, nhưng chỉ muốn gợi lên ý nghĩa sâu xa và điều kiện căn bản của việc chúng ta thuộc về Ðức Kitô, vì suy phục Người và muốn được Người làm Vua thì phải vâng lời Thiên Chúa, tức là thi hành Thánh ý của Người, như chính Ðức Kitô, vì vâng lời Thiên Chúa, mà được đặt lên thống lĩnh mọi tạo vật. Cũng một hành vi đã đưa Chúa Yêsu lên làm Vua, cũng đưa chúng ta vào Nước của Người, cũng là Nước Thiên Chúa.
Chúng ta hãy dựa vào bài Tin Mừng hôm nay để xác định thêm về hành vi này.
C. Vị Vua Nhân Ái
Cũng như thánh Phaolô, trong bài Tin Mừng này, thánh Matthêô muốn có một cái nhìn tiên tri về ngày chung thẩm. Vì quen với văn Cựu Ước, nên khi nghĩ đến ngày của Thiên Chúa, người nhớ ngay tới hình ảnh Con Người mà tiên tri Ðaniel đã vẽ ra. Do đó, người viết: khi Con Người sẽ đến trong vinh quang của Người, có mọi thiên thần của Người hầu cận, thì Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người.
Chúng ta thấy ngay thánh Matthêô đã muốn ám chỉ Con Người thật là một vị hoàng đế uy nghi, có tất cả mọi sự thuộc về mình. Nhưng vị hoàng đế ấy lại như một mục tử đang kêu mọi dân tộc đến với đàn chiên. Người là Chúa Con vì Người gọi những kẻ lành là kẻ được Cha Người chúc phúc. Như vậy, vào ngày chung thẩm chính Chúa Yêsu sẽ đến phán xét chúng ta. Người ngự trên ngai vinh hiển như một vị Vua. Nhưng cách làm việc của Người lại như một mục tử. Người là Vua mục tử như Êzêkiel đã loan báo. Người phân các dân tộc ra hai bên tả hữu của Người như mục tử phân chiên ra khỏi dê.
Ðể làm công việc này, Người chỉ có một tiêu chuẩn: bên những người lành là những kẻ đã thi hành lòng nhân ái; còn bên kẻ dữ là những kẻ thiếu lòng nhân đạo. Ðiều khó hiểu là Người đã xét xử người ta theo lòng nhân ái và nhân đạo đối với chính Người. Nhưng có ai đã gặp Người ở trần gian mà thi hành lòng nhân ái? Câu Người trả lời còn lạ lùng hơn nữa. Người nói: Khi các ngươi làm hay không làm gì cho một trong các anh em hèn mọn nhất của Người là làm hay không làm cho chính Người.
Truyền thống đã cắt nghĩa từ ngữ "các anh em hèn mọn nhất" ám chỉ mọi con người thiếu thốn, đau khổ mà chúng ta gặp. Quả thật, hết mọi người đã trở thành anh em của Chúa Yêsu kể từ ngày Người mặc lấy bản tính nhân loại. Và khi hiểu như vậy, chúng ta có lý để khẳng định rằng sau này Chúa sẽ phán xét chúng ta theo thái độ bác ái của chúng ta đối với tha nhân. Và đó chính là lệnh truyền Người đã để lại cho chúng ta trước khi về trời. Và như thế chúng ta thấy thánh Matthêô và thánh Phaolô đã hợp ý với nhau khi nói rằng muốn được nhận vào Nước của Chúa Yêsu sau này, chúng ta phải vâng lời Người mà yêu thương bác ái với anh em.
Nhưng dường như thánh Matthêô hiểu từ ngữ "các anh em hèn mọn của Chúa" một cách hẹp hơn. Người nghĩ đặc biệt đến các môn đệ tông đồ của Chúa vì người chỉ dùng từ ngữ này trong hai trường hợp khác (ở đoạn 12,50 và 28,10) đều để nói về môn đệ. Họ thật là những người hèn mọn vì gia thế của họ không có gì cả. Và nhất là vì họ phải nên giống như Người là Ðấng đã tự hạ để trở thành tôi tớ. Cụ thể, ở thời Matthêô, các Tông đồ thừa sai của Chúa bị tầm nã, bắt bớ, đánh đập, phỉ báng vì Danh Chúa. Họ đang sống mầu nhiệm Thập giá là mầu nhiệm cứu thế của Chúa. Những ai đón nhận họ quả thật là đón nhận Chúa. Và những ai cho họ một ly nước lã vì họ là môn đệ thì quả thật là như ban cho chính Chúa. Người ta săn sóc các môn đệ trong hoàn cảnh bắt bớ là săn sóc chính Chúa và xứng đáng với Nước Trời rồi vậy.
Giải thích từ ngữ trên cách nào cũng rất hợp lý. Và giữ cả hai cách lại còn hợp lý hơn. Muốn vào Nước Trời, người ta phải đón nhận các Tông đồ của Chúa, cho dù bề ngoài họ chỉ là những con người hèn mọn. Bấy giờ người ta mới thật sự không đón nhận họ như người phàm và sứ điệp của họ như sự khôn ngoan của thế gian, nhưng như các anh em của Chúa và như Tin Mừng cứu độ. Lúc ấy người ta cũng sẽ khám phá ra rằng theo đạo là hội nhập một cộng đoàn khiêm tốn gồm phần lớn những người nghèo khó, bởi vì chính Chúa, tuy là Vua nhưng cũng đã sống như một mục tử, đến nỗi đã bỏ mạng sống mình vì đàn chiên của Người. Và người ta sẽ hiểu rõ vì sao lệnh truyền của Người là bác ái và có tuân giữ lệnh truyền của Người mới được vào Nước Trời.
Giờ đây Chúa cũng ngự đến trong Bí tích Thánh Thể. Người thật là Vua của chúng ta. Nhưng Người lại chia sẻ Thịt Máu Người cho đàn chiên. Nhận lấy ơn thiêng của Người chúng ta phải muốn xả kỷ hy sinh cho anh em. Và khi làm như vậy chúng ta thống trị được bao khuynh hướng xấu xa phát xuất từ căn bản tội lỗi do nguyên tổ để lại, tức là óc kiêu ngạo, không muốn vâng phục và chỉ muốn đè trên người khác. Chúng ta sẽ làm cho vương quyền của Chúa Yêsu lan ra nơi con người và đời sống của chúng ta. Chắc chắn xã hội sẽ được nhờ ảnh hưởng của Vương quyền đó và dần dần hết mọi người sẽ thấy Chúa chỉ là Vị Vua Mục Tử rất đáng mến và không có gì phải sợ cho các quyền lợi trần gian.
Trong tác phẩm mang tựa đề: “Thị kiến của người Kitô hữu” (The Christian Vision) nhà văn: TN 34-ABC75
Trong tác phẩm mang tựa đề: “Thị kiến của người Kitô hữu” (The Christian Vision) nhà văn John Powell có kể một câu chuyện thần thoại của người Ái Nhĩ Lan. Câu chuyện đưa chúng ta trở lại thời các vua cai trị đất nước này:
Một hôm nhà vua thấy mình không có con để kế vị, ông bèn sai các sứ giả thông báo cho các thành phố và làng mạc biết: nhà vua mời các thanh niên nào có đức tính tốt đến triều đình để được phỏng vấn. Như thế nhà vua hy vọng có thể chọn được một người xứng đáng lên ngôi vị mình trước khi băng hà. Hai đức tính được nhà vua đặc biệt lưu ý, đó là người thanh niên ấy phải có lòng mến Chúa và yêu người.
Chàng thanh niên trong câu chuyện nghe như có tiếng thầm kín bên trong thúc đẩy chàng lên đường đến triều đình để được nhà vua phỏng vấn, vì chàng quả thật là một người có lòng mến Chúa và yêu người. Nhưng chàng lại nghèo khó đến nỗi không có được một bộ quần áo chỉnh tề để đến triều đình. Chàng cũng chẳng có tiền để mua lương thực dự trữ cho cuộc hành trình dài đến lâu đài nhà vua. Cuối cùng, chàng quyết định đi xin quần áo và lương thực cần thiết.
Khi mọi sự đã sẵn sàng, chàng lên đường. Sau một tháng hành trình, chàng đã nhìn thấy lâu đài của nhà vua hiện ra trên đỉnh đồi ở đàng xa. Cũng vào lúc ấy, chàng gặp thấy một ông già nghèo đói ngồi bên vệ đường. Người ăn xin ngửa tay van xin chàng giúp đỡ: “Anh ơi, tôi đói, tôi rét, anh làm ơn cho tôi áo mặc, cho tôi bánh ăn”. Chàng thanh niên cảm động nhìn người ăn xin. Chàng cởi áo khoác của chàng và đổi lấy chiếc áo rách tả tơi của người ăn xin. Chàng cũng chia sẻ lương thực dự trữ của chàng. Rồi chàng đến lâu đài nhà vua trong bộ áo rách tả tơi và không đủ lương thực cho cuộc hành trình trở về. Đến trước lâu đài, lính gác chận chàng lại ở cổng, bắt chàng vào khu khách tham quan. Sau một thời gian dài chờ đợi, chàng mới được cho vào gặp nhà vua. Trước ngai vàng, chàng cúi mình thật sâu bái lạy, đến lúc đứng thẳng lên, chàng hết sức bỡ ngỡ, vì chàng thấy ông già ăn xin bên vệ đường mà chàng đã gặp giờ đây lại ngồi trên ngai vàng. Chàng lên tiếng hỏi:
- Tâu Đức vua, có phải Đức Vua là người ăn xin bên đường mà tôi đã gặp chăng?
- Đúng thế, Đức Vua đáp.
Chàng lại hỏi:
- Vậy tại sao Đức Vua lại làm như thế đối với tôi?
Đức vua đáp:
- Ta phải cải trang làm người ăn xin để thử xem ngươi có thật lòng mến Chúa và yêu người không.
Anh chị em thân mến,
Đây là câu chuyện thần thoại, nhưng điểm chủ yếu rất xác thực. Vương quốc của Chúa Kitô Vua là vương quốc của tình yêu. Muốn vào vương quốc của Ngài, phải là người có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự. Tin Mừng hôm nay cho thấy: chúng ta sẽ bị xét vào cuối đời về cách chúng ta yêu mến và phục vụ Chúa Kitô Vua như thế nào trong những người anh em nghèo khó bé nhỏ nhất của chúng ta.
Chúng ta hãy nghe lại Lời Chúa: “Lúc ấy, Đức Vua sẽ phán: Ta đói, các ngươi đã cho ta ăn. Ta khát, các ngươi đã cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta đau yếu, các ngươi đã chăm sóc… Bấy giờ, những người công chính –đứng bên phải– hỏi lại Chúa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói hay khát đâu mà cho ăn cho uống…? Đức Vua sẽ đáp lại: Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
Đức Vua đã làm cho những người lành đức bên phải, cũng như những kẻ dữ đứng bên trái, đều phải chưng hửng. Người bên phải rất sửng sốt khi thấy Đức Vua kể những việc tốt họ đã làm cho những người bất hạnh trong cảnh đói khát, rách rưới, tù đày, như là những việc giúp đỡ họ dành cho chính bản thân Đức Vua. Còn người bên trái cũng hết sức ngỡ ngàng khi thấy Đức Vua đồng hóa bản thân Ngài với những người mà họ đã coi thường, nên đã không cho họ cơm ăn, áo mặc, nhà ở… Lời giải thích của Chúa đã làm cho cả hai bên- bên người lành và kẻ dữ- đều sáng mắt kinh ngạc: Họ không ngờ rằng mỗi lần họ tiếp đón hay hất hủi những người cần đến họ giúp đỡ là họ đã tiếp đón hay hất hủi chính Chúa Giêsu!
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa đã âm thầm len lỏi vào giữa đám đông nhân loại mà không ai biết. Chúng ta thường nhận diện được Chúa lúc chúng ta không ngờ. Vì thực khó mà nhận diện được Chúa, nếu chúng ta vẫn quan niệm Thiên Chúa như một Đế Vương phong kiến, chễm chệ trên ngai vàng. Nhưng nếu chúng ta nhận được rằng Thiên Chúa không phải là Vua thống trị nhưng là Vua phục vụ, thì chúng ta không thể không nhận ra Ngài nơi những người bé mọn nhất. Chúng ta sẽ không còn thắc mắc như người lành hay kẻ dữ trong ngày phán xét cuối cùng: “Thưa Ngài, có khi nào chúng tôi thấy Ngài đói, Ngài khát, Ngài rách rưới… đâu?” Bởi vì thiên Chúa đã ẩn dấu bộ mặt thần linh của Ngài trong bộ mặt nhân loại: Người láng giềng, bạn đồng nghiệp, nhưng cũng có thể là khuôn mặt của hàng triệu con người trên thế giới đang ê chề trong cảnh thiếu ăn, nghèo đói, thất nghiệp hay những công việc nô lệ, vô nhân đạo, đang bị kẻ mạnh áp bức hay người quyền thế bóc lột. Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng Thiên Chúa tự đồng hóa với khuôn mặt của hàng triệu con người đó, vì họ là anh em bé nhỏ của Ngài.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô là Vua. Vương quốc của Ngài là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì thuộc về Chúa Kitô và là công dân của Nước Thiên Chúa. Tình yêu, nói được là như “chứng minh nhân dân”, như “thẻ căn cước”của Nước Thiên Chúa. Tình yêu không đòi hỏi nhiều lời nói cho bằng nhiều hành động thiết thực, sống động. Cụ thể là chia sẻ chính những lo lắng, khó khăn, khốn khổ, cùng cực của đồng bào trong hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống. chúa Giêsu đã khẳng định: chúng ta sẽ bị phán xét trong ngày sau hết về cách chúng ta đã phục vụ Đức Kitô Vua như thế nào trong những người anh em đói, khát, rách rưới, bệnh tật, tù tội… Hãy phục vụ những Đức Kitô Vua ấy thế nào để vào ngày cuối cùng, Chúa Kitô Vua sẽ mời gọi chúng ta: “Hãy đến, hỡi những người Cha Ta chúc phúc. Hãy đến thừa hưởng vương quốc đã dành sẵn cho anh em từ thuở đời đời”.
Một linh mục nọ ngỏ lời với cộng đoàn phụng vụ rằng: "Khi trao Mình Thánh Chúa cho anh chị: TN 34-ABC76
Một linh mục nọ ngỏ lời với cộng đoàn phụng vụ rằng: "Khi trao Mình Thánh Chúa cho anh chị em, tôi nâng Mình Thánh Chúa lên và nói: Mình Thánh Chúa Kitô! Tất cả anh chị em đều tin thật đó là Mình Thánh Chúa và từng người đáp lại: Amen, nghĩa là mỗi người tuyên xưng đó chính là Mình Thánh Chúa thật sự và cung kính rước Người vào lòng. Thế nhưng, nếu tôi chỉ vào từng người ngồi quanh đây và nói: Đây là thân thể Chúa Giêsu thì có lẽ anh chị em không tin người đó là thân thể Chúa, không tỏ lòng tôn kính và không muốn đón rước người đó vào nhà mình, nếu không ưa thích người đó.
Ngay lúc đó, dưới hàng ghế giáo dân có tiếng xì xào. Hình như nhiều người không đồng quan điểm với Cha sở về nội dung nầy.
Sau thánh lễ hôm ấy, một thanh niên đến gặp cha sở và thưa:
- Thưa cha, trong bài giảng hôm nay, chúng con giật mình khi nghe Cha nói từng người chung quanh chúng ta đây, kể cả những người tàn tật, bần cùng, tội lỗi... đều là thân thể Chúa Giêsu.
- Thế anh không tin mọi người là thân thể Chúa Giêsu sao?
- Con tin tấm bánh thánh mà linh mục đã truyền phép và trao cho giáo dân rước lễ thật sự là Thân Thể Chúa; còn người cha, người mẹ, người anh chị em, người láng giềng... không thể là thân thể Chúa được. Cha có bằng chứng gì chứng tỏ tha nhân là thân thể Chúa Giêsu không?
- Nói có sách, mách có chứng. Bằng chứng đây (giơ cuốn Tân Ước ra), anh hãy đọc Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-rin-tô: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15).
- Thật thế ư? Thế thì Cha có biết vì sao thánh Phaolô nói bạo như thế không?
- Thánh Phaolô dạy điều nầy căn cứ vào kinh nghiệm bản thân. Hồi ấy, Phaolô chưa tin vào Chúa Giêsu, ông nhiệt thành với lề luật và hăm hở tìm bắt những người theo Chúa Giêsu. Nên nhớ là vào thời điểm đó Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời rồi.
Trên đường Damas, Phaolô bị quật ngã và có tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: "Sao-lô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phaolô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9)
Thế là từ hôm ấy, Phaolô không dám bắt bớ các tín hữu nữa, vì ông biết rằng: họ là những Giêsu khác, bắt bớ họ là bắt bớ Chúa Giêsu.
Người thanh niên vẫn còn hoài nghi, anh hỏi tiếp:
- Vậy thưa cha, đó là giáo lý của thánh Phaolô. Còn về phần Chúa Giêsu, có bao giờ Người dạy như thế không?
- Có chứ! Nào, mời anh lật qua Tin Mừng Matthêu, chương 25, trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng. Đó là bài chúng ta vừa nghe đọc hôm nay đây.
Qua dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà... Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người.
- Thật thế ư? Vậy mà lâu nay con không ý thức điều đó. Và thưa cha, sách giáo lý công giáo có chỗ nào nói như thế không cha?
- Đây, giáo lý công giáo đây, anh mở ra xem, bài nói về Bí tích thánh tẩy, số 1267: "Bí tích thánh tẩy làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô".
- Thế các Đức Giáo Hoàng có dạy như thế không?
- Đây nữa (chìa sách ra), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong tâm thư gửi các gia đình có viết, anh đọc thử xem: "Thiên Chúa đã đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình. Những gì mỗi thành viên trong gia đình làm cho nhau là làm cho chính Chúa".
- Thưa Cha, khi mới bước vào gặp cha, con không tin tha nhân là thân thể Chúa Giêsu, nhưng bây giờ thì con đã tin. Nhưng xin hỏi cha, vậy con có buộc phải tôn kính tha nhân như tôn kính Chúa trong nhà thờ không?
- Trước hết, anh hãy nghe lời dạy của Mẹ Têrêxa Calcutta. Hôm ấy, có một thiếu nữ Ấn-độ đến gặp Mẹ Têrêxa Calcutta để tìm hiểu Hội Dòng của Mẹ. Trước hết, Mẹ nói với người thiếu nữ ấy: "Con hãy qua nhà hấp hối. Ở đó, con sẽ gặp nhiều người bất hạnh nghèo khổ, bệnh tật đang nằm chờ chết. Con hãy săn sóc an ủi họ".
Thiếu nữ vừa quay lưng đi thì Mẹ Têrêxa gọi giật lại: "Nầy con, khi dâng thánh lễ, con thấy linh mục trân trọng mình thánh Chúa Giêsu sau khi truyền phép thế nào, thì con cũng hãy trân trọng những con người bất hạnh ấy như thế".
Nói như thế, Mẹ Têrêxa Calcutta muốn dạy rằng: mỗi một con người dù bần cùng khốn khổ đến đâu cũng phải được tôn trọng như Mình Thánh Chúa.
- Ngoài Mẹ Têrêxa Calcutta, có vị thánh nào khác tôn trọng con người như chính thân thể Chúa Giêsu nữa không?
- Có nhiều: thánh Gioan Kim Khẩu, thánh Elisabet Hung-ga-ri, thánh Phanxicô Atxidi, vv... Có lần Phanxicô gặp một người phong hủi rất ghê tởm. Ban đầu Anh định xa lánh, nhưng sau đó, Phanxicô cảm nhận ra người phong hủi đó là một phần thân thể bị thương tích, bị lở loét của Chúa Giêsu, nên Anh đã đến chào hỏi và ôm hôn người phong hủi đó.
- Thưa cha, con thấy nhiều tín hữu rất mực tôn kính Chúa Giêsu trên bàn thờ, còn những chi thể sống động của Chúa Giêsu trong đời thường thì hình như không được ai tôn kính.
- Đúng thế! Vì vậy, thánh Gioan kim khẩu dạy chúng ta đừng phân biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ. Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ, tức là những anh chị em khác, phải được tôn trọng như nhau. Để tôi đọc cho anh nghe lời dạy của người:
"Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Kitô ư? Chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi. Đừng có thái độ nầy là trong nhà thờ thì tôn kính, cho thân thể Người mang những y phục lụa là gấm vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải giá lạnh và trần trụi. Thân thể Chúa ở đây (trong nhà thờ) không cần y phục, nhưng cần tâm hồn trong trắng; còn thân thể Chúa ngoài kia (tức là tha nhân) thì cần được chăm lo tận tình."
- Thưa cha, dường như đối với nhiều người, việc khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến anh chị em chung quanh là chuyện nhỏ, chẳng có gì đáng quan tâm.
- Đó là một sai lầm tai hại vì đến ngày phán xét, Chúa Giêsu sẽ nói với những kẻ ấy rằng: "Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào chốn cực hình đời đời dành cho ma quỷ và các thần dữ, vì xưa kia, ngươi đã khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến ta!..."
* * *
Nội dung trên đây là giáo lý cốt tuỷ của đạo thánh Chúa. Nếu chúng ta tuân giữ được giáo huấn cốt tuỷ nầy thì đã nắm chắc được chiếc vé vào cửa thiên đàng trong tay, vì thánh Phaolô trong thư Rôma khẳng định rằng: "Ai yêu thương người là đã chu toàn lề luật" (Rm 13, 10).
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta giữ trọn giáo huấn nầy để làm cho thế giới nầy ấm lên bằng tình yêu thương nhân ái, đồng thời nhờ đó, tất cả chúng ta mai đây sẽ được Vua Giêsu mời đón vào hưởng hạnh phúc đời đời với Người trên thiên quốc.
Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, Hãy đến lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn: TN 34-ABC77
“Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, Hãy đến lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi… Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”.
Bạn thân mến! Mẹ Têrêxa Calcutta là người say mê và sống đoạn Tin Mừng này. Bà bị cuốn hút bởi những người đau khổ. Dưới mắt bà, đó không chỉ là những người đáng thương, mà còn là hiện thân của chính Chúa Giêsu đau khổ.
Tình yêu con người và tình yêu Chúa Giêsu quyện vào nhau. Vì yêu mến Ngài, nên bà yêu con người mãnh liệt hơn.
Hãy "Tập nhìn ra chính Chúa Giêsu trong mỗi con người, dù họ có vẻ đáng kinh tởm đến đâu đi nữa."
Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay mô tả Chúa Giêsu được như một vị Vua, có thiên sứ theo hầu, ngồi trên ngai vinh hiển. Ngài là Thẩm phán xét xử muôn dân, tách biệt kẻ lành người dữ, thưởng phạt công minh. Nhưng phán quyết của Ngài làm ai nấy kinh ngạc.
Người ta được chúc phúc hay bị nguyền rủa dựa trên những việc họ đã làm hay không làm cho Ngài, mà họ không hề hay biết.
Vua Giêsu chẳng ở đâu xa, chẳng ở cung vàng điện ngọc. Ngài ở trong những người cùng khốn. Vua Giêsu đồng hoá mình với những người đói khát, khách lạ, trần trụi, đau yếu hay ở tù mà chúng ta vẫn gặp mỗi ngày. Ngài ẩn mình qua con người, qua những người hèn kém đáng thương nhất. Thiên Chúa vinh quang cao cả không ngại nhận họ là anh em.
Ngài không khoác tấm áo lộng lẫy kiêu sa để dễ gần gũi với nỗi đau của con người, nỗi bần cùng của người nghèo đói. Ta không phải tìm Chúa ở nơi xa xôi. Ngài không chỉ ở trong nhà thờ, trong bí tích. Ngài còn ở gần bên ta. Trong những người khốn cùng, nghèo đói, bệnh tật. Nơi đó ta có thể thực sự gặp gỡ Đức Giêsu.
Có những lần Chúa đi ngang qua đời ta như vị vua giả trang làm người hành khất. Ngày phán xét, ta không được giả vờ ngạc nhiên khi nghe biết mình đã để Ngài đi qua tay trắng. Ngày phát xét ta sẽ bị xét xử dựa trên tình yêu.
Hôm nay Vua Giêsu vẫn ngửa tay xin ta giúp các anh em bé mọn nhất của Ngài. Những người mù chữ, những trẻ em đường phố, những người bị suy sụp tinh thần, cần được yêu thương, những người không tìm được cho đời mình một chỗ trọ, những người tự nhốt mình trong tù ngục đam mê, những người trần trụi vì phải sống nhờ thân xác.
Phải làm một việc gì đó cụ thể để Nước Chúa lớn lên trong thế giới này. Phải xây dựng một điều tốt đẹp nào đó để Vua Giêsu thật sự là Vua Vũ Trụ, vũ trụ bên ngoài và vũ trụ trong lòng con người.
***
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ, con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa, giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ, nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa, dù Chúa đã đến trái đất này từ hơn 2000 năm.
Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa. Amen.
Hôm nay Giáo Hội tôn vinh và mừng lễ Chúa Kitô Vua, theo như Tin Mừng Thánh Matthêu: TN 34-ABC78
Hôm nay Giáo Hội tôn vinh và mừng lễ Chúa Kitô Vua, theo như Tin Mừng Thánh Matthêu đã trình bày. Đó là vảo ngày cáo chung, Chúa Giêsu đến trong vinh quang, có các thiên sứ theo hầu, ngự lên ngai vinh hiển.
Lúc đó, các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Ngài, và Ngài sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên và dê. Ngài sẽ cho chiên đứng bên phải Ngài, còn dê ở bên trái.
Ngài thẩm tra từng người về trách nhiệm đối với tha nhân, dựa trên năm nhu cầu căn bản của đời sống con người. Đó là lương thực, trang phục, gia cư, sức khỏe và tự do.
Trên ghế xét xử, Ngài công khai xác nhận những người hèn mọn, nhỏ bé, đói khát, trần truồng, đau yếu, không nhà, tù đầy, chính là Ngài. Do vậy, thiếu quan tâm giúp đỡ những người ấy, cũng chính là thiếu bổn phận với chính Chúa.
Điều khác lạ với lối xét xử thế gian, là Ngài không kết tội dựa theo các điều luật bị vi phạm, mà chỉ dựa theo ý nghĩ, lời nói và hành động CÓ hay KHÔNG làm việc bác ái; như đã cho ăn, đã cho uống, đã tiếp rước, đã cho mặc, đã thăm nom, đã đến thăm; hoặc đã không cho ăn, đã không cho uống, đã không tiếp rước, đã chẳng thăm nom". Tội vô cảm, vô tâm, hờ hững, lãnh đạm, dửng dưng trước nỗi khổ đau người khác, mà lâu nay người ta vẫn tế nhị, nhẹ nhàng gọi là thái độ MAKENO. ( Mặc kệ nó) Như thế, Chúa đòi hỏi con người phải nhận ra hình ảnh Chúa trong bất cứ ai đang đói khát, khổ sở và phải mở lòng yêu thương đùm bọc, bằng chính những hành động cụ thể, chứ không chỉ bằng những lời hứa hẹn xuông, hay tránh né thực thi bác ái. Tức là đức tin đòi hỏi có việc làm minh chứng, như Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”(Gc 2,14.17).
Ở cửa thành Amiens một ngày mùa đông, chàng hiệp sĩ trẻ gặp người ăn xin dường như trần truồng. Martino nói:
- Tôi chỉ có áo quần và khí giới.
Rồi rút kiếm ra, Ngài xẻ đi nửa chiếc áo cho người ăn xin. Câu chuyện kết thúc với giấc mơ trong đó Martino thấy Chúa Kitô hiện ra mặc nửa chiếc áo và nói với các thiên thần.
- Chính Martino đã mặc cho Ta đây. (Thánh Martino thành Tours, Giám mục, kính vào ngày 11/11 hằng năm)
Lạy Chúa Ki tô, Vua thống trị cả hoàn vũ, xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ và nhạy bén, để có thể luôn nhận ra Chúa trong những người khốn khó, hèn mọn, cô đơn, đau khổ, bị áp bức, mà tận tình thương yêu giúp đỡ, thể hiện chân thực lòng bác ái. Hầu chúng con xứng đáng đứng vào phía đàn CHIÊN của Ngài. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa trở lại với thư 1 Cô-rin-tô vào Chúa Nhật cuối cùng chu kỳ năm A, lễ: TN 34-ABC79
Phụng vụ Lời Chúa trở lại với thư 1 Cô-rin-tô vào Chúa Nhật cuối cùng chu kỳ năm A, lễ trọng kính Chúa Ki-tô, Vua vũ trụ và muôn loài. Đoạn thư dùng làm bài đọc trích chương 15 là chương thánh Phao-lô bàn đến hai vấn đề. Thứ nhất là những người đã chết có được sống lại không? Thứ hai là cách thức kẻ chết sống lại: bản chất của xác thể sẽ như thế nào sau khi sống lại? Bài đọc hôm nay nằm ở cuối vấn đề thứ nhất. Thánh Phao-lô khẳng định rằng sẽ có việc sống lại chung của mọi kẻ đã chết, bởi vì Thiên Chúa đã cho Đức Ki-tô sống lại từ kẻ chết để làm "trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại" (Cl 1:18) và "mở đường" cho việc sống lại của tất cả "những kẻ thuộc về Người" (1 Cr 15:23). Vậy nếu không có sự sống lại chung, thì làm sao Đức Ki-tô có thể làm trưởng tử và mở đường được! Tuy nhiên, bài đọc hôm nay muốn đưa chúng ta về nguồn gốc sự sống lại - "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống" (Ga 11:25) - mời gọi chúng ta suy niệm về tầm quan trọng của việc Chúa Ki-tô sống lại và vai trò của Chúa Ki-tô Phục sinh đối với công cuộc tái tạo dựng của Thiên Chúa.
a) Ý nghĩa sự Phục Sinh của Chúa Ki-tô đối với việc sống lại của chúng ta
Trong chương 5 thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô đã trình bày cặn kẽ vấn đề liên đới giữa nhân loại với A-đam trong hậu quả tai hại do tội lỗi và liên đới giữa nhân loại với Đức Ki-tô trong chiến thắng tội lỗi. Ở đây ngài chỉ nhắc lại sơ qua. Vì muốn bàn về sự sống lại của chúng ta, nên ngài muốn nhấn mạnh đến hiệu quả sự Phục sinh của Chúa Ki-tô: "Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống" (1 Cr 15:22).
Chúa Ki-tô sống lại là hoàn toàn cho chúng ta. Sự Phục sinh ấy cần thiết cho chúng ta, vì nó giữ vai trò "mở đường." Thánh Phao-lô còn diễn tả sự cần thiết ấy bằng một lý luận sắc bén, khẳng định rằng sự Phục sinh của Chúa Ki-tô là tất cả nội dung lời giảng của Phao-lô và các Tông đồ. Cho nên nếu rao giảng một điều gì không có, thì đúng là các ngài chỉ nói phét, nói láo mà thôi! Trái lại, các ngài đã rao giảng những điều mắt thấy tai nghe. Các ngài là chứng nhân của sự Phục sinh, vì các ngài đã nhìn thấy chính Chúa Phục sinh (đọc lại 15:3-7).
Vai trò "mở đường" của Đức Ki-tô đã thực sự khởi đầu khi Người nhập thể, mặc lấy bản tính nhân loại chúng ta. Nhập Thể là phương thức Thiên Chúa muốn "liên đới" với loài người qua Đức Ki-tô. Do đó, liên đới với Đức Ki-tô là con đường đưa chúng ta đến với Thiên Chúa và sự Phục sinh của Đức Ki-tô mở đường cho sự sống lại của chúng ta để được sống đời đời với Thiên Chúa. Điều đáng suy nghĩ ở đây là sự liên đới với Đức Ki-tô trở thành điều kiện cần thiết để được sống lại. Sự liên đới ấy nói lên tất cả những gì chúng ta phải thay đổi để trở nên giống Chúa Ki-tô mỗi ngày một hơn.
Tội lỗi của nguyên tổ đã "mở đường" cho những hậu quả tai hại, và hậu quả lớn nhất đó là sự chết. Trái lại, chiến thắng được sự chết sẽ mở đường cho một cuộc tạo dựng mới. Sự Phục sinh của Đức Ki-tô đã chiến thắng sự chết, mở đầu cho một cuộc tiêu diệt mọi sức mạnh đối nghịch với Thiên Chúa (quản thần, quyền thần và dũng thần) và đem lại hiệu quả lớn lao nhất tức là sự sống đời đời.
b) Sự Phục sinh và vương quyền của Chúa Giê-su
Đặt Đức Ki-tô làm Thủ Lãnh là điều cốt yếu trong kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đối với muôn loài thọ tạo, Đức Ki-tô đã là "trưởng tử" (Cl 1:15), và chính Thiên Chúa Cha đã muốn "quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô" (Ep 1:10). Qua thư Cô-lô-xê và Ê-phê-xô, thánh Phao-lô đã muốn đề cao vai trò Thủ Lãnh của Chúa Giê-su. Là Thủ Lãnh của nhân loại mới, Chúa Giê-su nắm trong tay "vương quyền" để tiêu diệt mọi thù địch của Thiên Chúa. Rồi khi "Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Đức Ki-tô", khi ấy Đức Ki-tô sẽ trao lại vương quyền cho Thiên Chúa.
Nếu hiểu như vậy, thì hình ảnh Đức Ki-tô là Vua quả thực vô cùng ý nghĩa. Một ông vua trần gian luôn luôn muốn cho vương quốc mình được phát triển hùng cường. Còn Vua Giê-su thì muốn chinh phục muôn loài muôn vật về cho Thiên Chúa, để "Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài." Vua Giê-su đã thi hành sứ mệnh của mình tại trần gian. Sự Phục sinh của Người hoàn tất sứ mệnh ấy, nhưng lại khởi đầu cho một cuộc tạo dựng mới và cuộc tạo dựng mới này sẻ kết thúc vào ngày Người quang lâm. Đó cũng là lý do tại sao Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đã trích dẫn đoạn thư vô cùng phong phú ý nghĩa thần học, để trình bày vương quyền của Chúa Ki-tô, đồng thời cũng để nhắc nhở mỗi người chúng ta phải liên đới với Người trong mọi chiều kích cuộc sống nếu chúng ta muốn "được sống lại với Người."
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Đức Ki-tô "mở đường" cho mọi kẻ đã chết được sống lại. Vậy cuộc sống hiện thời của tôi đang "mở đường" cho tôi đi đâu? Để được sống lại với Chúa hay phải chết đời đời?
Tôi đang "liên đới" với Chúa Giê-su như thế nào? Những gì ngăn cách tôi với Người? Làm sao phát triển mối quan hệ với Người?
Trong đoạn kế tiếp, thánh Phao-lô nhắc nhở tín hữu Cô-rin-tô đừng bắt chước lối sống của những người không tin sự sống lại, cho rằng chế là hết. Có lẽ đây cũng là một nhắc nhở để tôi luôn xét mình về lối sống của tôi. Tôi cần đặt lại vấn đề nào sau khi xét mình?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc lời nguyện của thánh Augustinô: "Lạy Chúa Giê-su, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn. Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. A-men."
Khi phi hành gia người Nga đầu tiên tên là Yuri Gagarin, trở về mặt đất, tuyên bố, trong cả: TN 34-ABC80
Khi phi hành gia người Nga đầu tiên tên là Yuri Gagarin, trở về mặt đất, tuyên bố, trong cả chuyến du hành không gian ông không thấy Chúa đâu. Nghe vậy, một linh mục người Nga nhận xét: "Nếu bạn không thấy Chúa trên mặt đất, bạn không thể thấy Chúa trên không."
Làm sao bạn thấy Chúa trên trần gian này? Trong bài dụ ngôn Phán Xét Cuối Cùng Chúa Giêsu không những tiết lộ bí mật thấy Chúa trên trần gian này mà còn cho biết trọng tâm của cuộc sống trần gian này. Chúng ta nghe:
Khi Con Người đến trong vinh quang,... Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người... Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng, 'Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngưưi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước... Ta bị tù đày, các nguơi đã đến với Ta."
Khi ấy những người lành đáp lại, "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thất Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống?" Vua trả lời, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các người đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các người đã làm cho chính Ta" (Mt 25:31-40).
Dụ ngôn trình bày một chân lý của Đức Tin Kitô Giáo. Đó là điều mà có thể chúng ta chưa thấu hiểu dù cả đời đã theo đạo. Nói một cách đơn giản, cách tốt nhất để cảm nhận sự hiện diện của Chúa, cách tốt nhất để hành trình tới Chúa, đó là hành trình tới anh chị em. Hay như các thánh Giáo Phụ diễn tả bao thế kỷ trước: "Người Con Phung Phá không thể khám phá ra tình thương của Người Cha cho tới khi anh ta đi vào con đường về Giêricô với người Samarita nhân hậu."
Chúa Giêsu nói: "Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ, và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người" (Mt 20:28). Ngài đã làm điều đó cả cuộc sống của Ngài, nhất là trên Thánh Giá. Ngài muốn tất cả những người muốn theo Ngài cũng phải theo đường lối phục vụ của Ngài. Lời giáo huấn này được nổi bật trong dụ ngôn Phán Xét Cuối Cùng.
Để hiểu điều này, chúng ta cần nhìn đến thực tại hồng ân của Chúa. Chúng ta cần nhìn đến sự kiện Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, Đấng liên tục trao ban sự hiện diện của Ngài như nguồn ý nghĩa cho đời chúng ta., Sự Thật của Phúc Âm là: ý nghĩa đời chúng ta không phát xuất từ tiền của, danh giá hay thành công đời này, nhưng từ cảm nhận tình yêu Thiên Chúa. Nhiều người khó nhọc tìm kiếm mới có thể nhận được sự thật đó.
Thiên Chúa nhân hậu đã cung cấp cho chúng ta nhiều cách thế để cảm nhận tình yêu của Ngài. Cầu nguyện là một phương thế sáng chói. Nhưng nói cho cùng, khi chúng ta đứng trước tòa Chúa, câu hỏi duy nhất vẫn là: "Con ta đã cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống chưa?... Con ta đã có đó khi anh chị em cần đến các con không? Con có phục vụ Ta, yêu Ta trong anh chị em không?"
Khi chúng ta nghe dụ ngôn này về của ăn áo mặc, chúng ta có khuynh hướng nghĩ tới tình trạng vật chất hay xã hội của cuộc sống. Chúng ta quên rằng nhiều người gần chúng ta đang đói sự nâng đỡ tinh thần và tình thương, đang khát được đón nhận, tha thứ, thông cảm. Biết bao người quanh ta đang đói khát sự khám phá ra ý nghĩa cuộc đời. Vâng thế giới đang cần tông đồ tình thương, nhất là cho những người gần chúng ta hơn cả. Chúng ta ngưỡng mộ bậc vĩ nhân như Da Vinci hay Einstein và chúng ta kính phục đầu óc vĩ đại của họ Nhưng, theo ngôn ngữ của Thánh Kinh, sự không ngoan mà Chúa Giêsu đòi là sự khôn ngoan của trái tim, các người chuyên môn gọi là con người toàn vẹn; hay nói dễ hiểu, nó có nghĩa là sự khôn ngoan thật sự được chứng tỏ bằng cách chúng ta đối xử với tha nhân: "Xem quả thì biết cây," Chúa Giêsu nói. "Xem kìa! họ thương yêu nhau chừng nào," lời đó đã được nói về các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu.
Trong mọi liên đới của thực sự lưu tâm, thực sự chia sẻ, thực sự cảm thông, thực sự tha thứ, sự hiện diện của Chúa Kitô được thực sự tỏ hiện. Khi tình yêu của chúng ta lớn lao, sự cảm nhận sự hiện diện của Chúa cũng lớn lao trong cuộc đời chúng ta. Khi tình yêu chúng ta lớn lao, Chúa Giêsu nhìn ra chúng ta thực sự khôn ngoan. Khi tình yêu chúng ta lớn lao, lòng tự trọng chúng ta cũng lớn lao.
Anthony Campolo, tác giả nhiều cuốn sách thiêng liêng đã tóm tắt lý do tự trọng lớn lao trong những dòng sau đây:
Tôi không biết người ta sẽ làm gì trên thiên đàng, nhưng tôi nghĩ Chúa sẽ đối xử giống như bà nội tôi. Ngài có chiếc ví trong đó Ngài để hình của bạn. Mỗi khi nói chuyện với các thiên thần Ngài nhắc tới bạn và mở ví cho họ xem hình bạn. Ngài nói: "Con Ta tuyệt vời! Con Ta thật tuyệt vời!"
Nhiều người trong gia đình Taft đã tham gia vào chính trị Hoa Kỳ. Khi Martha Taft đi học tiểu học, cô giáo bảo bé tự giới thiệu. Bé nói: "Tên em là Martha Taft. Ông cố nội em là Tổng Thống Mỹ.Ông nội em là Nghị Sĩ Hoa kỳ. Ba em là Đại sứ Ái Nhĩ Lan và em là Brownie!" Bất kể điều gì chúng ta có thể nói về ba má, hay con cái, bạn bè hay thân nhân, một điều chúng ta có thể nói rất thực là: "Tôi là người con của Chúa." Nói cách khác, "Chúa yêu tôi; Chúa muốn tôi cho chính Ngài; Tôi thật đáng giá." Đó là tất cả chân giá trị của tôi. Và đó là căn bản cho mọi liên hệ với tha nhân, với mọi người. Nói thực ra, "Họ cũng là con cái Thiên Chúa. Họ đáng được tình yêu của tôi."
Làm thế nào để sống toàn vẹn? Làm thế nào để biết bạn là ai và bạn phải làm gì? Làm thế nào để thành con người viên mãn? Làm thế nào để đạt được ý nghĩa và kết quả cuộc đời? Câu giải đáp thì thật đơn giản. Chúa Giêsu đã cho câu trả lời: "Cho kẻ đói ăn... cho kẻ khát uống... Hãy yêu tha nhân như Ta đã yêu anh em."
Trong thời chiến tranh, một bà mẹ đem hai đứa con trốn trong rừng. Họ sống sót nhờ lá và rễ cây. Mấy ngày sau, họ bắt gặp một toán lính nên tìm cách núp sau bụi cây. Nghe động đậy, viên sĩ quan kiểm soát. Thấy ba mẹ con đang đói lả, ông trao cho bà mẹ một ổ bánh mì. Bà mẹ biết ơn cầm lấy ổ bánh, bẻ làm hai và đưa cho hai con. Bà không giữ lại phần nào cho mình. Một người lính hỏi: "Chắc vì bà ta không đói?" Viên sĩ quan nói: "Vì bà ta là người mẹ."
Trong dụ ngôn Phán Xét cuối cùng, bài học còn sâu xa hơn câu chuyện trên. Chúng ta tự nguyện phục vụ yêu thương người khác, những kẻ đang đói thiêng liêng, đói tình thương hay đói vật chất, không phải chỉ vì chúng ta là cha là mẹ hay là người Samarita hiền hậu. Chúng ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống vì họ là hiện thân của Chúa Kitô.
Mỗi ngày chỉ cần lướt qua vài trang báo la có thể thấy vô số tin “tức” về hành vi bạo lực: TN 34-ABC81
Mỗi ngày chỉ cần lướt qua vài trang báo là có thể thấy vô số tin “tức” về hành vi bạo lực trong xã hội, mà nguyên nhân đâu có gì to tát: va quệt xe cộ ngòai đường, lời qua tiếng lại trong quán cà phê… thế là đánh nhau; một cái “nhìn đểu” cũng đủ là nguyên nhân giết người. Không thể không tự hỏi: vì sao bây giờ người ta nhục mạ nhau, đánh nhau, giết nhau… dễ dàng đến thế?
Dư luận Việt Nam thời gian qua rất phẫn nộ khi đọc được những dòng tin trên Facebook của một người có nick name “Kẹo Mút Chơi Bời” khoe khoang rằng: “Chúng tôi vừa đâm một ông già gần 60 tuổi... khả năng chết.”
Sau đó lại thêm: “Tin buồn! Chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin, cụ già 60 tuổi đêm qua chúng tôi đâm xe máy đã củ tỏi hồi 17g07 ngày 02.11. Anh em phang lô đề nhiệt tình đi. Lão sinh năm 1953.”
Trước hiện trạng này, có người cho rằng một số thanh niên Việt Nam hiện nay không hề thấy lương tâm cắn rứt khi làm thiệt hại đến vật chất lẫn tinh thần của người khác, trái lại còn tỏ ra vui mừng, đặc biệt trong trường hợp này.
Tin từ Công an TP Yên Bái cho biết người có nickname "Kẹo mút chơi bời" trên Facebook đã tới trình diện cơ quan công an ngày 10/11 theo giấy triệu tập để làm rõ hành vi gây phẫn nộ "lên Facebook khoe tông xe chết người".
Đúng như xác minh của Cơ quan Công an TP Yên Bái, người có nickname "Kẹo mút chơi bời" trên Facebook tên thật là Nguyễn Văn Linh (SN 1991, thị trấn Phong Hải, huyện Bảo Thắng - Lào Cai).
Theo Luật Sư Phạm Thanh Bình của công ty luật Hồng Hà thì “Kẹo Mút Chơi Bời” dù không phải là thủ phạm gây tai nạn (là người ngồi sau người gây tai nạn), nhưng không chịu đưa nạn nhân đi cấp cứu gây nên cái chết của ông này thì có thể bị xem xét trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, tội danh dành cho người đồng phạm đó là “không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.”
Phải chăng xã hội ngày hôm nay đang đánh mất tình đồng loại bằng thái độ dửng dưng, thiếu trách nhiệm và vô cảm trước những bất hạnh của tha nhân? Có lẽ chủ nghĩa “Mackeno” đã ăn sâu vào tâm thức người trẻ hôm nay. Họ không còn tính nghĩa hiệp. Họ không còn nghĩ đến việc phải ra tay giúp đỡ tha nhân khi cần. Họ thích sống cho riêng mình và tìm tư lợi cho cá nhân hơn là dám sống cho lợi ích tha nhân. Họ không còn dám sống “mình vì mọi người” mà chỉ còn đòi người khác “mọi người vì mình” mà thôi.
Xã hội hôm nay dường như đã mất tình liên đới nên thiếu những nghĩa cử cao đẹp của tình người như: “lá lành đùm lá rách” hay “chị ngã em nâng”. Ngày xưa cha ông ta đã tìm được sự nâng đỡ của đồng bào, dẫu rằng nước có mất nhà có tan, nhưng vẫn tìm được niềm vui nhờ sự yêu thương đùm bọc của tình làng nghĩa xóm như câu ca dao xưa đã nói:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Ngày nay điều đó đã thay vào bằng sự vô cảm như lời tâm sự của chị Ngô Lan Chi thổ lộ trên trang facebook cá nhân: “Xã hội ngày càng phát triển, những giá trị đạo đức tốt đẹp đang bị các bạn trẻ dẫm nát bằng những phát ngôn gây sốc, bằng những việc làm mà không ai có thể tượng tượng ra. Tôi nghĩ lối sống vô cảm của một bộ phận bạn trẻ đang ngày càng biến tướng và có xu hướng lan rộng đối với những người trẻ xung quanh”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải sống tình liên đới với tha nhân, không chỉ vì có chung một Cha trên trời nên “tứ hải giai huynh đệ”, mà còn vì con người là “hình ảnh Thiên Chúa”. Chính Chúa đã tự đồng hoá mình với những mảnh đời bất hạnh lầm than. Chúa mời gọi chúng ta: ai tiếp rước họ là tiếp rước chính Chúa. Ai giúp đỡ họ là giúp đỡ chính Chúa. Ngược lại, Chúa cũng sẽ luận phạt vì chúng ta đã từng khước từ thi ân cho những con người cùng khổ đó.
Thực vậy, trong ngày phán xét, Chúa không hỏi về bằng cấp của chúng ta cao hay thấp. Chúa không xét duyệt chúng ta dựa trên địa vị trần thế của chúng ta. Chúa phán xét theo tinh thần bác ái mà chúng ta đã dành cho tha nhân. Vâng, chúng ta đều phải trả lẽ trước mặt Chúa về tất cả những hành vi của mình. Nhưng công hay tội tuỳ thuộc vào lòng bác ái chúng ta có hay không trong những lời nói và việc làm của mình. Chúa đã từng chê trách thái độ vô cảm của những biệt phái, và của những thầy tư tế khi để mặc người bị nạn trên đường đến Giê-ri-cô. Chúa cũng từng dùng dụ ngôn để răn dạy thái độ dửng dưng trước bất hạnh của đồng loại qua dụ ngôn “người phú hộ và Lagiaro”. Chúa cũng sẽ luận tội nếu chúng ta cũng thiếu trách nhiệm và sống thiếu tình liên đới qua đời sống yêu thương và phục vụ tha nhân.
Chúa Giê-su là Vua, nhưng Ngài đã cúi mình phục vụ tha nhân. Ngài tự hoà nhập với con người. Ngài đồng hành với con người. Ngài chia sẻ phận người nổi trôi với con người. Ngài đã đến để phục vụ và hiến mạng sống vì hạnh phúc tha nhân. Ngài còn mời gọi chúng ta “ai muốn làm lớn hãy cúi mình phục vụ anh em”.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống cao đẹp cho dẫu có thiệt thòi vì đi ngược lại với lối sống của thế gian. Xin cho chúng ta luôn can đảm làm chứng cho tình yêu bất diệt của Chúa là dám “thí mạng sống mình vì người mình yêu” và biết yêu thương tha nhân như chính mình. Amen
(Suy niệm Tin Mừng CN 34 TN A, Lễ Chúa Kitô Vua 2011)
Giáo Lý dạy rằng: “Thiên Chúa ở khắp mọi nơi”. Và Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã cu: TN 34-ABC82
Giáo Lý dạy rằng: “Thiên Chúa ở khắp mọi nơi”. Và Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã cụ thể hóa bài giáo lý ấy, bằng việc “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể và đã ở giữa chúng ta” (Ga 1,14)
-giữa chúng ta với nhau có Chúa Giêsu ở giữa “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ." (Mt 18, 20)
-và có Chúa Giêsu trong tâm hồn mỗi người. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy”. (Ga 6, 56)
-Những người bị đau khổ bắt bớ vì danh Chúa Giêsu Kitô, còn là hiện thân Chúa Giêsu nữa. Ông Sao-lê đi bắt các tín hữu, luồng sáng của Thiên Chúa làm ông ngã xuống. Ông hỏi: "Thưa Ngài, Ngài là ai ?" Người đáp : "Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ”. (Cv 9, 5)
Tin mừng Lễ Chúa Kitô Vua cho thấy cụ thể hơn chân dung của Chúa Kitô Vua nơi những con người đang sống chung quanh chúng ta: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn ; Ta khát, các ngươi đã cho uống ; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước” (Mt 25,35)
Năm 1978, có một chú bé hơi bất bình thường hay ngồi trước tiền đường nhà thờ Hòa Yên, mỗi sáng, mỗi chiều. Ai cũng gọi chú bé ấy là “Thằng Thái Khùng”, và cứ hay đuổi chú ấy đi, vì nhà thờ là nơi trang nghiêm. Có tội gì mà phải xa lánh vậy? Trong khi đó, Thái vẫn ngồi đó, có quậy phá gì đâu! có la hét gì đâu! Chỉ có thỉnh thoảng gióng lên vài tiếng trống nhè nhẹ, không đến nỗi vang xa tới đâu cả! Tôi thầm cảm ơn Thái Khùng, vì cảm cảnh Thái Khùng nên ngày 14 tháng 11 năm 1978, những ngày trước lễ Chúa Giêsu Kitô Vua, tôi viết bài “Chân Dung Thượng Đế”.
-Một thằng bé mồ côi
“Ngồi buồn một mình ở đầu hè trong lặng lẽ là thằng bé đầy thương đau. Buồn vì cuộc đời không một lời chia cùng nỗi đọa đày đó hằn in sâu
Lạy Chúa, Chúa đó sao? Sao Ngài vẫn im lặng?”
-Một người hành khất
“Nằm ở đầu đường thân trần truồng khi chiều xuống người hành khất lệ hoen mi. Buồn vì ngàn lời giữa chợ đời xin một chút mà người vẫn thản nhiên đi.
Lạy Chúa, Chúa đó sao? Sao Ngài vẫn im lặng?”
-Một nông dân nghèo
“Chiều về mệt nhoài sau một ngày trên ruộng rẫy mà cuộc sống còn lao đao. Thèm được một ngày cơm gạo đầy cho đỡ đói mà vẫn thấy gầy hư hao.
Lạy Chúa, Chúa đó sao? Sao Ngài vẫn im lặng?”
-Một tù nhân
“Ngày từng ngày dài vẫn miệt mài trong ngục tối người người vẫn lời chua cay. Buồn vì cuộc đời không mặt trời chôn vùi kín tù ngục đó màu xanh rêu.
Lạy Chúa, Chúa đó sao? Sao Ngài vẫn im lặng?”
-Một cô gái
“Chiều ngồi một mình khóc cuộc tình thân mồ côi người con gái sầu lên mi. Buồn vì cuộc đời không một lời thương phận gái từng người đến rồi quay đi
Lạy Chúa, Chúa đó sao? Sao Ngài vẫn im lặng?” -Một người không nhà
“Từng ngày dật dờ con đường mờ không nhà ở người lữ khách nhiều bơ vơ. Ngày thì lừng khừng đêm lùng khùng mong được chết để lòng đất làm gia cư
Lạy Chúa, Chúa đó sao? Sao Ngài vẫn im lặng?”
Chúa ơi! Chúa ơi, xin Ngài tha thứ tội vì lòng con hờ hững. Ngài đói không màng thương, Ngài khát không thèm cho Ngài uống.
Chúa ơi! Chúa ơi, xin Ngài tha thứ tội vì lòng con hờ hững. Ngài sống trong buồn đau mà con vẫn không để tâm yêu Ngài”
Hôm nay, khi nghe lại bài hát, tôi thấy còn thiếu sót nhiều lắm. Còn biết bao nhiêu “chân dung của thượng đế’ “chân dung của Chúa Kitô Vua Vũ Trụ” giữa một thế giới vô cảm này:
-những người ăn dưa cà muối qua ngày đang sống ở vỉa hè dưới chân nhà hàng khách sạn của các đại gia thừa mứa.
-những người bệnh không tiền chữa trị nằm chờ chết trên chiếc chiếu rách ngay ở khu ổ chuột bên cạnh bệnh viện cao ngất đến chín mười tầng.
-những người lầm lỡ một đời đã đau khổ, nhục nhã, còn đau khổ nhục nhã hơn đến mức thất vọng khi nghe tin một người bạn “đồng nghiệp” đã qua đời không được thánh lễ an táng nhưng được chôn tự do “ngoài” Đất Thánh.
-những người bị đánh bầm dập ở Đồng Chiêm, những người bị đám tay sai điên loạn chửi bới, mạ lỵ, khủng bố ở Thái Hà, những người bị bất an mất ăn mất ngủ vì cảnh di dân tái diễn, còn phải di dời luôn cả mộ phần của những thân nhân đã yên giấc ngàn thu….bên cạnh những “lễ hội” rước xách tưng bừng cờ hoa trống nhạc tưởng như là tự do tôn giáo.
-những người thấp bé nhất trong cuộc đời này, vừa thấp cổ bé miệng nên mở miệng mắc quai, vừa thấp nhà bé cửa nên không ai đoái hoài lui tới, vừa thấp trí khôn bé mánh mung nên không biết nịnh nọt đẩy đưa kiếm chác, vừa thấp chỗ ngồi bé xó đứng trong xã hội giáo hội nên chẳng ai ngó thấy, vừa thấp vốn liếng bé việc làm nên nợ nần chất đầy đầu ngập cổ…
-những con người cùng khốn nhất trong cuộc đời này vì cảnh đời khuyết tật bất hạnh: có tay thiếu chân, có chân thiếu tay, có mũi thiếu mắt, có tai thiếu màng nhỉ… bên cạnh những người dư thừa đã có tay còn cần có người quạt, đã có chân còn cần người khiêng kiệu nghênh ngang.
“Lạy Chúa, Chúa đó sao? Sao Ngài vẫn im lặng?”
Sao Ngài không tự giới thiệu cho hoành tráng rằng: “Giêsu đây, đừng khinh bỉ, đừng coi thường, nhưng hãy tiếp đón cho đàng hoàng tử tế”. Nếu Ngài lên tiếng hẳn hòi thì có lẽ không còn cái cảnh thò ơ vô tình hay dững dưng vô cảm nữa, mà ngược lại…
Thiết tưởng, chúng ta không thể trách Chúa như thế được. Nhưng hãy tự trách mình có một tâm hồn vô đạo trong con người mang tiếng là có đạo, lại là Đạo Thánh Đức Chúa Trời.
Vâng, có người đang vô tâm, dững dưng vô tình như quân vô đạo, người lương có, người giáo có, không để ý tới và thương yêu giúp đỡ người đau khổ, có thể cả tôi và bạn, đó là một thực tế.
Nhưng, còn có một thực tế tuyệt đẹp hơn và chúng ta phải tạ ơn Chúa vì những mẫu gương đạo đức sống động: nhận ra Chúa Giêsu trong cuộc đời:
-Tôi nhớ ngày xưa, ở các làng quê ta, trước nhà, trước hàng rào, có cái lu nước và cái gáo dừa, để người đi đường có nước uống khi khát.
-Năm 1977, anh em chúng tôi may mắn được chứng kiến giờ hấp hối của ông cụ Bảo, không phải là tín hữu Công Giáo, ở Đồng Bò Nha Trang. Cô con gái khóc ròng thương tấm lòng của Cha, khi nghe lời Cha trăn trối: “Cha không có gì để lại cho con, gia tài cha chỉ có “cái lu sành và cái gáo dừa” trước nhà. Con nhớ lo gáo, lo nước sạch sẽ đàng hoàng cho người đi đường và nhất là mấy đứa chặn bò nó vào mà uống”.
-Tôi lại nhớ đến Cố Lm Phêrô Nguyễn Hữu Nhường, cha cựu chánh xứ của Giáo xứ tôi, sau khi xin được tiền xây dựng giếng nước và hệ thống máy nước, việc đầu tiên của Cha là bảo anh hai Dung, Hội Đồng Mục Vụ, xây cho cha một nhà mát nho nhỏ bên cạnh cổng nhà thờ, rồi cha bảo đặt ở đó mấy bình nước khoáng, cho người đi đường dừng chân nghỉ và uống nước.
-Tôi lại nhớ đến danh sách những ân nhân trong ngoài nước của Quỹ Mẹ Hằng Cứu Giúp trên trang mà Cha Quang Uy ghi rõ trong mỗi trường hợp cứu giúp khẩn cấp. Thiết nghĩ họ đã giúp đỡ những người đau khổ, không vì lý do gì khác hơn là: đó là chân dung Chúa Giêsu.
-Sáng nay, 16-11-2011, tôi đến nhà trọ ở đường D1, khu cư xá 30-4 phường 25 Bình Thạnh, thăm anh Võ Thành Hữu Nghĩa - người bị tai nạn xe được các bác sĩ cho biết không qua khỏi sau ca mổ, hoặc nếu qua thì cũng chỉ sống thực vật – thấy anh đang phục hồi rất khá: trí nhớ rất tốt trong cái vỏ sọ méo mó, nói được nhiều và dần dần rõ. Anh nói: “Cảm ơn Chúa đã cứu em, cảm ơn mọi người cầu nguyện và giúp đỡ”.
……
-Rất đáng mừng, vì không thiếu những giáo dân đang nhìn ra chân dung Chúa Giêsu Kitô nơi anh em mình: Xin trưng dẫn một câu chuyện mới nhất:
Đêm qua, 15-11-2011, sau giờ kinh các linh hồn, nghe các anh chị LTXC báo chị Hường ung thư đang ở thời kỳ… chờ chết. Chị là người tân tòng, nhưng rất tin tưởng và phó thác vào Lòng Thương Xót của Chúa, đọc kinh LCTX cả ngày đêm và tinh thần an bình, thanh thản, vui tươi lắm. Nhà chị ở cách nhà tôi non cây số. Mọi người ra về. Tôi đến thăm ngay.
Chị Hà Thị Kim Hường, 36 tuổi, chồng và 3 đứa con.
Chị đã bệnh 4 năm nay, từ 2007: Ung Thư Vòm Hầu. Phải chữa xạ trị, hóa trị… nhưng gia đình không có tiền, đành về uống thuốc nam. Năm 2009 ngưng thuốc vì không có tiền tiếp tục. Đầu năm đến nay, tình trạng bi đát hơn: “Ung Thư Gan Di Căn Lan Tỏa”. Ung nhọt nổi lên khắp người, lớn nhất ở cổ và vai, khắp người thì nhỏ nhỏ. Chị đau đớn nhức nhối cả người. bác sĩ khuyên gia đình: hết cách, bó tay.
Chị nói chuyện với tôi vui vẻ: “Em có bức ảnh Chúa Giêsu Lòng Thương Xót trên vách kìa! Chúa nhìn em suốt ngày! Em biết là em sẽ chết, nhưng em vui vì Lòng Thương Xót Chúa đã bảo anh chị em đến thăm em hằng ngày, đọc kinh với em, nói chuyện với em, chia sẻ với em… ngày nào em cũng có người, lương cũng như giáo. Đêm thì có anh Tuấn với mấy cháu, nằm đây luôn, kể chuyện, đọc kinh, rồi khi em đau quá thì lấy thuốc em uống, xoa bóp, an ủi… Có phải Chúa đến thăm em và đang ở với em không anh Hoàng”.
Tôi chưa kịp trả lời. Anh Tuấn, chồng chị bảo: “Đúng rồi, vác thánh giá đỡ Chúa đấy mà. Để Chúa đi đến nơi”
Chị Hường bảo: “Đến nơi chết đó hả. Em sắp chết rồi. Nhưng không sao, em chết trong tay anh, trong tay Chúa”
Tôi nghĩ, người bệnh đang nhìn thấy Chúa đến thăm qua anh chị em LTXC, đang thấy Chúa không ngại nằm cạnh bên mình qua chồng con. Người khỏe thấy Chúa đang bệnh, cần lo cho Chúa, cần nằm bên Chúa, ủi an Chúa… để Chúa vui lòng vác thánh giá mà đi cho hết đoạn đường tế hiến.
Chào anh chị Tuấn Hường, tôi ra về. Anh Tuấn kéo tôi lại, chỉ bao gạo nói: “Anh em LTXC mới cho sáng nay đó! 500 ngàn nữa! Mấy năm nay Chúa nuôi tụi em”.
Ra về, tôi thầm tạ ơn Chúa vì tinh thần bác ái của anh em giáo dân hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra Chúa đang hiện diện giữa những anh chị em đau khổ nhất đang đồng hành với chúng con trong cuộc đời. Xin Tình Yêu Chúa thôi thúc trái tim chúng con mở rộng để đón nhận Chúa nơi anh em và sẻ chia cuộc sống nầy vì lòng yêu mến Chúa.
Chúng con cũng xin hướng về những anh em đang bị bách hại với một ngọn nến và lời kinh nguyện xin cho anh em được can đảm và bền đỗ.
A men
Nghe danh Giêsu cả trên Trời và dưới đất đều phải phủ phục và bái lậy Ngài. Phúc cho nhân: TN 34-ABC83
Nghe danh Giêsu cả trên Trời và dưới đất đều phải phủ phục và bái lậy Ngài. Phúc cho nhân loại chúng ta, hết thảy đều cùng được vào Vương Quốc của Ngài, từng người một. Quả thật chúng ta chưa từng bao giờ nghe một Ông Vua nào mà lại yêu nhân loại đến nỗi chết thay tội lỗi cho toàn dân. Ta cũng chưa bao giờ nghe một Ông Vua nào nơi trần gian này mà lại yêu thương người đến như Ông Vua Giêsu mà chúng ta được biết. Ta cũng chưa từng nghe tiếng một ông Vua nào mà không dùng quyền thế và bạo lực của mình để bắt toàn dân phải hy sinh mạng sống cho ông, bắt bớ những con người vô tội, hung hãn và dùng bạo lực với những tôi trung, những khi họ làm lỗi. Có phải lịch sử nước Việt Nam và nước Tầu, chúng ta có cơ hội đọc sách, coi phim, và được biết có rất nhiều những tướng lãnh và dân vì lòng trung thành, yêu Vua, yêu Tổ Quốc đến nỗi đã chống cự với quân địch cho đến hơi thở tàn của mình, với mục đích là bảo vệ cho Vua hay con của Vua được an toàn tánh mạng không phải chết, chứ có ông Vua nào lại khác thường và khờ dại đến nỗi giống như Ông Vua Giêsu đi chết dùm cho thiên hạ như Ông vậy đâu! Đã thế còn bị người đời chế nhạo cho rằng Ông Giêsu này chắc bị điên và ngay cả bây giờ cũng còn rất nhiều người không thích nghe tên Ông và vẫn tiếp tục phỉ báng danh của ông qua những người đi theo và tôn thờ Ông.
Vua ở bất cứ triều đại, thời đại, hay một quốc gia nào, thường xử phạt người dân một cách rất là nặng nề nhưng không một ai dám kêu ca và ta thán, nếu có thì chỉ dám chửi rủa thầm lặng trong lòng mà thôi! Có những tội mà thời xưa những quan chức, tướng lãnh, và quan thần, có tầm cỡ trong triều, rất sợ làm lỗi với nhà Vua, bởi nếu có chứng cớ thì chẳng những một mình họ bị xử tử mà còn dính líu tới gia đình nữa! Có những lỗi lầm của cận thần và của dân mà họ bị xử trảm đến cả chu di tam tộc, khủng khiếp thật. Tập tục xưa, khi Vua đi ngang qua, tất cả mọi người phải quỳ xuống, đầu cúi sát thật thấp, gầm mặt xuống không được nhìn thấy long nhan của Vua, nếu cả gan nhìn mà bắt gặp là bị xử tử ngay. Hoặc xui cho những ai có trùng tên với "họ" của nhà Vua thì gia đình đó sẽ không thoát khỏi tội và bị chém đầu? Tôi không biết tội phạm húy này có bị chu di tam tộc hay không thì tôi cũng không được rõ!?? Theo tôi được biết thì có đến vài chục cái tên, từ mấy đời của nhà Vua, mà mọi người trong nước phải học thuộc lòng để biết mà tránh đặt những tên Cấm đó cho con cháu.
Những ông Vua xưa kia, hầu như không ông nào mà không dùng quyền bính trong tay của mình để phạm biết bao nhiêu tội và làm quốc gia phải điêu đứng khổ sở vì đêm ngày chỉ biết say mê sắc đẹp, thu quén, gom góp tất cả vào cho mình, chất đầy vào kho lẫm, cắt xén của dân, ăn cắp của dân, mà không cần biết dân chúng căm thù mình đến mức độ nào!??? Vâng, từ Vua cho đến các nịnh thần, tất cả chỉ biết càn quét, và áp bức dân. Dân càng bị áp bức và bị bách hại nhiều thì cơ hội lật đổ chính quyền càng nhiều. Mong sao tìm kiếm cho được một vị Vua tài giỏi nhân đức, để quốc thái dân an, và mọi người trong nước được ấm no hạnh phúc.
Khi xưa trên núi Sọ, cách nay gần 2000 năm, người ta có tôn vinh (một cách nhục mạ và diễu cợt) một người có tên là Giêsu lên làm Vua của dân Do Thái, sau khi Người đã bị xỉ nhục, bôi nhọ, đánh đập, đội gai trên đầu, ôm Thập Giá của Ông đi suốt một quãng đường thật dài, ngã lên ngã xuống 14 lần, bị lột trần, và sau cùng Ông Vua Giêsu đã trút hơi thở cuối cùng. Quả Ông Vua Giêsu này cả một cuộc đời của Ông chưa từng gây thù gây oán với ai, mà chỉ khuyên mọi người phải thương yêu nhau. Ai vả má bên phải, hãy đưa cả má bên trái cho họ vả luôn. Cho ai vay mượn thì chớ có vội đòi lại và chớ có lấy lãi cao. Ai xin áo ngoài thì hãy cho cả áo bên trong. Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện nhiều cho họ, nếu không thì ta chẳng có công đức gì trước mặt Thiên Chúa, vì có phải những người samaritan (ngoại đạo) họ mới không làm được như chúng ta, mang danh xưng là người Kitô hữu vậy không!????.... Là nếu ai yêu họ thì họ yêu lại? Ai mượn nợ họ thì phải trả họ sòng phẳng. Ai là bạn thân của họ xin áo ngoài thì sẽ được cho cả áo bên trong. Ai vả má phải của họ thì họ vả lại gấp đôi? Ấy là lẽ thường tình mà đời thường trong cuộc sống hằng ngày, hà tất ta thấy con người chúng ta đối đãi với nhau như vậy!?.... Ông Vua Giêsu còn dậy chúng ta nhiều điều nữa, xem chừng như nghe rất chói tai cho nhiều người? Những người mà muốn tẩy chay Ông, luôn tìm cách để ám hại Ông, vì Ông là cái gai xốn mắt họ.
Trước và nay, lai lịch của Ông Vua Giêsu này từ nơi sanh trưởng, lớn lên, cũng có nhiều người được biết đến. Ông được sanh ra tại Bêlem trong hang lừa, con của bà Maria và ông Giuse làm nghề thợ mộc. Con nhà nghèo. Lớn lên thì rời cha mẹ để đi giảng về Nước Trời. Không thấy nói đâu là ông có bằng cấp chi cả!? Ông chỉ dậy người ta theo thần khí của Cha Ngài trên Trời ban tặng. Ông thích cầu nguyện với Cha Ngài lắm! Ông dùng quyền năng của Cha Ngài để chữa bá bệnh và trừ quỷ dữ. Ông rất ghét dân Phariseu và dân biệt phái vì Ông cho rằng họ là bọn giả hình, mang tiếng là thông giỏi luật Chúa, nhưng không làm theo những điều luật Chúa truyền dậy. Chỉ giỏi ăn cắp của những bà già góa và người nghèo khổ. Ông bảo họ chẳng khác nào là những mồ mả tô vôi thật đẹp đẽ bên ngoài nhưng bên trong đầy giẫy những giòi bọ lúc nhúc thối tha. Ông luôn xót thương người, nhất là thương những người nghèo túng, tật bệnh, và vô cùng tội lỗi. Ông chữa cho biết bao nhiêu con người và ông cũng tha thứ tội lỗi cho biết bao nhiêu người, điển hình nhất là một phụ nữ rất tội lỗi múc nước cho Ông uống bên chiếc Giếng ngày xưa. Kế đến là bà Maria Madalina. Rồi sau cùng là ông Baraba, một tên cướp của giết người khét tiếng, được Ông Vua Giêsu hứa ban cho về Nước Trời vào cùng một ngày với Ông.
Buồn thay! Cho đến ngày hôm nay cũng còn rất là nhiều người trên thế giới chưa biết đến danh tiếng của Ông. Một vị Vua nhân từ, hiền lành, độ lượng, khoan dung, không biết thù ghét ai, rất tôn kính Chúa Cha, dành thật nhiều thời giờ để cầu nguyện, rất có hiếu và luôn vâng lời Mẹ Maria và dưỡng phụ Giuse, bởi chắc còn rất nhiều người vẫn không tin Ông Giêsu vì cho rằng Vua của họ không thể nào là một con người bất tài vô tướng. Không có Ngai vàng và không có Lầu Đài thì không phải là Vua. Vua gì mà lại không nhà không cửa? Vua gì mà lại sanh ra trong hang đá? Vua gì mà Cha Mẹ không là gì trong một xã hội? Vua gì mà Cha chỉ là ông thợ mộc quèn? Vua gì mà có cuộc sống lang thang rày đây mai đó chẳng có nơi để gối đầu? Vua gì mà chỉ dậy dỗ con người ta phải tìm kiếm Nước Trời? Vua gì mà dậy dỗ con người ta ăn hiền ở lành, khiêm nhường, thật thà như đếm, không gian manh, không tham lam, không gian dâm, không ngoại tình, không. ... cái gì cũng không hết, thì cuộc đời còn có nghĩa lý gì nữa!? Sống mà chẳng được hưởng thụ thì sống làm gì!?? Quả Ông Giêsu này thật tình là ông bị điên???? Đấy là nhiều người nghĩ về Ông Giêsu như vậy!
Lậy Chúa Giêsu Kitô là Vua Trời Đất!
Xin cho tất cả chúng con trên toàn khắp địa cầu được giống cái điên của Chúa, bởi cái khôn của thế gian chẳng giúp ích gì cho linh hồn đời đời của chúng con. Cái khôn của thế gian chẳng mang lại lợi lộc gì mà ngược lại, làm chúng con mất đi sự bình an, mất đi nhân phẩm của một con người, mất đi cái hạnh phúc đích thực là được làm con cái Thiên Chúa, chẳng những ngay tại đời này, mà cả muôn đời sau, thiên thu, vĩnh cửu, trên Nước Hằng Sống, một Nơi mà mọi sự đều lành thánh, thánh thiện, và tràn đầy tình yêu thương của Thiên Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời.
Vạn tuế, vạn vạn tuế, Vua Giêsu Kitô, Vua của toàn thể nhân loại chúng con. Amen.
Thánh ký Matthêu đã ghi lại quang cảnh ngày Chung Thẩm của toàn thể nhân loại, và cũng: TN 34-ABC84
Thánh ký Matthêu đã ghi lại quang cảnh ngày Chung Thẩm của toàn thể nhân loại, và cũng hiểu là của riêng từng người trong chúng ta. Ngày ấy, chúng ta phải đối diện với vị Thẩm Phán Chí Công, và phải trả lời về tất cả tư tưởng, lời nói và hành động của mình trong suốt cuộc sống. Và tùy theo công trạng, chúng ta được phần thưởng đời đời hay bị trầm luân đời đời.
Hình ảnh của hai lớp người được thưởng hay bị phạt được hình dung cho dễ hiểu và dễ nhớ bằng hình ảnh những con chiên và con dê. Chiên hiền lành, dê hung bạo. Nhưng điều quan trọng hơn để tạo nên yếu tố chiên và dê trong câu truyện Ngày Chung Thẩm chính là lối sống, lối suy nghĩ và hành động của mỗi người. Mà cốt lõi và chính yếu là nói lên một đức tin thực hành.
ĐỨC ÁI PHẢN ẢNH CỦA ĐỨC TIN: Trong câu truyện Ngày Chung Thẩm, tất cả mọi người đều bị phát xét. Kẻ lành và người dữ. Kẻ đạo đức và kẻ vô đạo. Câu hỏi quyết định cho phần rỗi của mỗi người nằm ở chỗ là cho hay không cho Chúa ăn khi Ngài đói. Cho Chúa uống khi Ngài khát. Cho Chúa mặc khi Ngài bị rách rưới, trần trụi. Thăm viếng, an ủi Chúa khi Ngài cô đơn, bệnh hoạn, và tù đày.
Chúa đói. Chúa khát. Chúa rách nát. Chúa trần trụi. Chúa đau ốm. Chúa bị tù đầy. Đó là những điều làm ngạc nhiên không những cho kẻ lành, mà cả người tội lỗi. Tất cả đều sửng sốt thưa với Ngài: “Lậy Chúa. Có khi nào chúng tôi thấy Chúa đói mà cho ăn hoặc khát mà cho uống. Có khi nào chúng tôi thấy Chúa là khách trọ mà tiếp rước hoặc mình trần mà cho mặc. Có khi nào chúng tôi thăm viếng Chúa khi bị tù đầy hoặc yếu bệnh” (Mt 25:37-39). Và cốt lõi của đức tin thực hành nằm ở câu trả lời của Ngài: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi khi các ngươi làm việc ấy cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của ta, là các ngươi đã làm cho chính ta” (Mt 25:40).
Nói một cách khác, những hành động nhỏ mọn thường ngày ta làm cho một anh chị em bé nhỏ quanh mình là làm hoặc không làm cho chính Chúa.
Tóm lại, chính đức ái, những hành động bác ái của những kẻ nhìn ra được Thiên Chúa trong anh em mình đã đem lại phần thưởng đời đời cho họ. Ngược lại, vì không tin tưởng, không khám phá ra Thiên Chúa trong anh chị em mình, nhiều người đã bỏ lỡ cơ hội để làm triển nở đức bác ái.
TIN KIÊN VỮNG ĐỨC ÁI: Nếu đức ái làm nổi bật và chiếu sáng đức tin, thì đức tin chính là sức mạnh và nghị lực để củng cố và đặt nền tảng cho đức ái.
“Chúng tôi có thấy Chúa đói, khát, ở trần, ốm đau, ngồi tù mà cho ăn, cho uống; mà cho mặc; mà thăm viếng, an ủi đâu”. Sự ngỡ ngàng ấy chính là bức màn đức tin che khuất con mắt trần gian của mỗi người. Để vượt xa khỏi tầm nhìn bình thường ấy, có nghĩa là nhìn ra Chúa đói, khát, trần truồng, ốm đau và tù tội, đòi phải có cặp mắt đức tin. Và như thế, mỗi lần làm những chuyện ấy, thực hành đức ái ấy cho anh chị em đồng loại, cũng là lúc chúng ta xé bức màn che con mắt tự nhiên để khám phá và nhìn ra Chúa nơi anh chị em mình.
Làm sao ta có thể nhiệt tình săn sóc và yêu thương những kẻ cùi hủi như Mẹ Thánh Têrêsa. Làm sao chúng ta có thể tha thứ cho kẻ thù, và sẵn sàng chết cho một người anh em như Thánh Maximilian Kolbe. Làm sao chúng ta có thể tha thứ cho những kẻ khinh miệt, coi thường, và phỉ báng, bách hại mình. Làm sao chúng ta có thể tha thứ một người xỉ nhục, xúc phạm đến mình. Nếu không được đức tin soi sáng, chỉ dẫn và khích lệ, không ai có thể làm được những việc ấy. Càng không thể làm với một lòng yêu mến, thương cảm, tận tình và bền bỉ. Làm gì có chuyện ai vả má này thì đưa má khác cho họ vả. Ai nợ thì đừng đòi lại. Ai muốn chiếc áo ngoài, thì cởi luôn cả áo trong cho họ. Những hành động ấy chỉ xẩy ra nếu con người có lòng tin.
Nhìn nhận Chúa nơi anh chị em. Nhìn Ngài qua hình dạng sứt mẻ, què, đui, hủi, điếc. Nhìn Ngài nơi những người già nua, tuổi tác. Nơi những kẻ cô thân, cô thế. Và ngay cả những người hành hạ, thù nghịch, và làm hại mình. Làm được những việc lành, những việc mà tự nhiên con người không ai có thể làm được ấy, tất nhiên phải có động lực và sức mạnh từ trên cao. Cái đó là một đức tin vững mạnh. Chỉ có niềm tin vào Thiên Chúa, tin vào lời hứa của Ngài, tin vào những giá trị đời đời, con người mới có đủ nghị lực, sức mạnh, và nhiệt tâm làm những việc ấy. Ở đây đức tin của người lành và kẻ dự đều bị thử thách: “Lậy Chúa có khi nào tôi thấy Chúa đói khát, trần truồng, ốm đau, tù tội mà cho Chúa ăn, cho Chúa mặc, đến thăm hỏi, và an ủi Chúa đâu?”!!! Nhưng chỉ những người đã dùng đức tin khám phá ra Chúa mới can đảm và kiên vững trong những hành động bác ái của mình.
ĐỨC TIN HÀNH ĐỘNG: Tóm lại, đức tin phải sống động, phải được chứng minh bằng việc làm cụ thể. Mức độ sống động ấy được nhìn thấy qua những hành động bác ái cụ thể. Ngược lại, những hành động bác ái chúng ta làm mà không phát xuất từ lòng tin tưởng, từ sự thẳm sâu tín nhiệm vào lời Chúa, thì những hành động ấy sẽ không bền bỉ, không vô tư, không thiện hảo. Bởi vì nó không bắt nguồn từ Thiên Chúa, và không có đối tượng là Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Thiên Chúa thì làm gì cần đến con người. Ngài đâu cần ai cho ăn, cho mặc, cho uống. Ngài đâu cần ai thăm viếng, an ủi. Chỉ có con người nghèo hèn, những con người yếu đuối và tầm thường mới cần những thứ ấy. Nhưng cao cả thay, qua đức tin chúng ta khám phá ra rằng cũng chính từ những con người tầm thường, đôi khi tội lỗi ấy, lại mang hình ảnh Thiên Chúa, và qua họ, ta nhìn và bắt gặp Thiên Chúa.
Đức tin hành động làm trổ sinh đức ái. Đức ái hành động là kiện toàn, và phong phú đức tin. Và đây là giá trị cuối cùng của những vất vả, cực nhọc, và đau khổ của kiếp người. Phần thưởng đời đời đang chờ đợi tất cả chúng ta. Ngày chết là ngày kết thúc, ngày chúng gặp Đấng phán xét chí công nhưng cũng rất hiền từ. Ngài không đòi hỏi chúng ta nhiều. Ngài chỉ muốn nhìn thấy đức tin của chúng ta có phản ảnh đức ái, và đức ái của chúng ta có làm nổi bật đức tin vào Ngài hay không. Nếu có, Ngài sẽ dịu dàng nói với chúng ta: “Hãy đến hưởng phần thưởng đời đời đã sắm sẵn cho các con từ lúc tạo thành trời đất” (Mt 25: 34).
Trong chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, cả ba bài đọc đều hướng chúng ta đến ngày: TN 34-ABC85
Trong chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, cả ba bài đọc đều hướng chúng ta đến ngày chung thẩm để mỗi người tự vấn lương, xét lại hành trình đức tin của một năm phụng vụ vừa qua mà sửa đổi đời sống theo thánh ý Thiên Chúa.
Bài đọc 1: “Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê” (Ed 34, 17).
Bài đọc 2: “Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1Cr 15, 24).
Bài Tin Mừng: kết thúc chuỗi bài giảng về cánh chung (Mt 25), trang Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu trình bày viễn tượng của ngày phán xét chung. Có sự tách biệt người lành-kẻ dữ, chiên-dê.
Có một điều làm cho chúng ta suy nghĩ: cả người lành và kẻ dữ, cả bên chiên và bên dê đều ngạc nhiên thốt lên: “Lạy Chúa, có bao giờ con thấy …” ?
Người lành (bên chiên) ngạc nhiên vì khi họ cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ trần truồng mặc, tiếp rước khách lạ, thăm viếng giúp đỡ người ốm đau tù đày … bằng trái tim rung nhịp yêu thương, bằng sự quảng đại vị tha thật sự chứ không vì một lý do nào khác, ngay cả lý do để được thưởng nước thiêng đàng cũng không nghĩ đến. Chính vì thế họ mới ngạc nhiên khi được thưởng và thắc mắc hỏi lại: “Lạy Chúa, có bao giờ con thấy …” ?
Để được như thế họ phải có một quá trình thanh luyện đời sống của mình mới có thể nên giống “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8), Đấng sáng tạo và cứu chuộc con người không nhằm mục đích gì khác ngoài mục đích vì yêu.
Còn kẻ dữ (bên dê) cũng ngạc nhiên thốt lên: “Lạy Chúa, có bao giờ con thấy…” ? Họ ngạc nhiên là phải, bởi vì khi họ cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ trần truồng mặc, tiếp rước khách lạ, thăm viếng giúp đỡ người ốm đau tù đày …vì một lý do nào đó chứ không phải bằng trái tim rung nhịp yêu thương, bằng sự quảng đại vị tha thật sự. Họ không sống theo khuôn mẫu yêu thương của Thiên Chúa. Họ làm vì tư lợi, ngay cả lý do tốt đẹp là được Chúa ban ơn, được Chúa thưởng công trên nước thiên đàng … một kiểu “bánh ít đi bánh qui lại” chung cuộc cũng là qui về mình, tìm cái lợi cho mình cả đời này và cả đời sau.
Xin được kể hai cảm nghiệm sau:
Một kỷ niệm và cũng là bài học khó quên của người viết khi còn là sinh viên. Hôm ấy tôi và một anh bạn vào quán cà phê. Hai người đang ngồi thì có một người ăn xin đến. Anh bạn đứng dậy mở bóp lấy 2000 đ (VN), cung kính đưa bằng hai tay: “con biếu cụ”. Tôi rất ngạc nhiên và cảm thấy thẹn với cõi lòng, bởi tôi cũng cho người hành khất rất nhiều lần nhưng chưa bao giờ cung kính đưa bằng hai tay với người lớn tuổi hơn mình, chưa bao giờ thốt lên câu nói: “con biếu cụ, biếu ông, biếu bà …” bằng tình thương cảm thông sẻ chia. Dường như đều theo kiểu bố thí, ban ơn.
Hè 2005, tôi có giúp một giáo xứ. Cách hành xử của cha xứ với những người ăn xin làm tôi nhớ mãi. Ai đến xin ngài cũng vui vẻ cho. Những người nghèo khổ thật thì ngài cho kha khá, những người lạm dụng “ăn xin” như một nghề với nhiều chiêu lừa lọc thì ngài cho ít (vài ngàn hay vài chục ngàn thôi). Có người một tuần vào xin đến năm lần, nhưng mỗi lần một lý do khác nhau, ngài vẫn vui vẻ tiếp và cho tiền. Tôi bực bội bảo: “Họ lừa cha đấy, cha không nhớ người này sao?” Cha xứ cười bảo: “Nhớ chứ, nhưng họ có nỗi khổ của họ, mình cứ cho, rồi họ sẽ tự thẹn với những chiêu lừa của họ. Trách móc, vạch trần, sỉ nhục nhau được chi, mà mình lại lỗi đức bác ái”. Đem so sánh với những người hay vạch trần la lối mạt sát kẻ “ăn xin” không thật và cũng chẳng cho họ đồng nào thì cách hành xử của cha xứ này đáng học hỏi biết bao.
Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn mỗi chúng ta biết yêu như Chúa yêu. Yêu vô điều kiện. Tình yêu là tiêu chuẩn để chúng ta được hưởng hạnh phúc với vị Vua Tình Yêu Giêsu. Amen.
Lễ Ki-tô Vua – Năm A (Ezekiel 34: 11-12, 15-17; Psalm 23; Corinthians 15: 20-26, 28; Matthew 25: 31-46)
Tại sao hình ảnh người chăn chiên thường được dùng trong Kinh Thánh như một ẩn dụ dành: A86
Tại sao hình ảnh người chăn chiên thường được dùng trong Kinh Thánh như một ẩn dụ dành cho Thiên Chúa? Người chăn chiên không bao giờ rời khỏi đàn chiên – người ở cùng với chúng – và sự an toàn của chúng cùng với sự sung mãn của chúng là sự quan tâm chủ yếu của người chăn dắt. Những âm thanh đó giống như Thiên Chúa nhường bao!
Nhưng ẩn dụ này thường được mở rộng để nói về những con người được ủy thác chăm sóc đàn chiên và ở đây nó là hình ảnh phát triển với đôi chút mơ hồ. Không phải mọi người chăn chiên đều tốt, Kinh Thánh nói với chúng ta, đôi khi họ có mặt chỉ là để giành lợi ích cá nhân của riêng mình và không chăm sóc tận tình cho đàn chiên. Thậm chí đôi khi họ có thể dày vò đàn chiên hoặc để chúng lang thang vào những nơi lạc loài nguy hiểm. Thật đáng tiếc, điều này sẽ luôn là một khả năng bất cứ khi nào sự sống con người bị đặt vào vị trí của sự ràng buộc. Điều này có thể áp dụng với chính trị, giáo dục, kinh doanh và bất kỳ những nỗ lực nào khác của con người.
Nhưng điều liên quan đến chúng ta ở đây là lĩnh vực tinh thần. Những người được bổ nhiệm với tư cách là những người chăn chiên phải giúp đỡ trước những tiêu chuẩn cao và đã bị nhiều thất bại. Cả hai trong quá khứ và hiện tại, có một số người chăn chiên, những người mà đã không hoàn thành công việc của mình và những người gây những thiệt hại trầm trọng cho đàn chiên. Trong thời đại của chính chúng ta những vụ tai tiếng lạm dụng tình dục tức khắc chế ngự tâm trí.
Nhưng có cách khác mà trong đàn chiên có thể bị phương hại: khi những người chăn chiên không chu cấp hy vọng, cổ vũ và hỗ trợ tinh thần, mà đó là điều tối cần. Thậm chí sự khoan dung của Thiên Chúa bắt đầu suy tàn, sụp đổ, và Ezekiel nói với chúng ta rằng Thiến Chúa chính Người sẽ thực hiện công việc này. Thiên Chúa sẽ hành động như người chăn chiên – tìm những con chiên lạc, an ủi những con chiên đau khổ, âu sầu, và bảo đảm rằng những người tham lam và quyền lực không tấn công những người nghèo bằng cách này. Người chủ chiên này cũng cai trị nhưng bằng tình yêu thay vì bằng bạo lực và đàn áp. Trong Tân Ước, hai Thánh Lu-ca và Gio-ABCn đã dùng hình ảnh này để mô tả Chúa Giê-su – Chúa Giê-su là hiện thân của bản tính loài người về lòng thương cảm, chăm sóc chở che của Thiên Chúa. Chúng ta ai nấy đều có quyền được giáo huấn và chăm sóc trực tiếp bởi Thiên Chúa, và là Mục Tử Nhân Hiền, Chúa Giê-su là người thầy trung nghĩa, khả tín của chúng ta và dẫn dắt chúng ta.
Lời hứa của Ezekiel vẫn vang vọng đâu đây, thư của Thánh Phao-lô gửi tín hữu Corinto đã khắc họa Chúa Giê-su như cánh tay của Thiên Chúa chinh phục một thế giới bất trị và bất công. Mọi điều mà phản kháng Thiên Chúa đến lúc sau cùng sẽ phải khuất phục trước “kẻ thù” mạnh mẽ nhất của tất cả mọi người – cái chết – tự nó chiến thắng. Sau đó Thiên Chúa sẽ siết chặt yêu thương, ân cần tiếp đón mọi số phận thuộc về sự sáng tạo của Thiên Chúa và ở đó không còn sự phân biệt, sợ hãi và bất công. Đây là tầm nhìn đầy hy vọng, nhưng bài đọc cũng thể hiện rõ rằng tính kiên nhẫn phải được chuẩn bị sẵn sàng.
Bản chất lề luật của Thiên Chúa được giải thích bằng hình ảnh phán quyết cuối cùng của Thiên Chúa trong Phúc Âm của Thánh Mat-thêu. Vì mọi dân tộc đề phải tập trung trước Chúa Trời và bắt đầu tách rời những người thuộc về Người khỏi những ai không thuộc về Người. Tiêu chuẩn được dùng quả đáng ngạc nhiên. Những ai không thực hiện bị loại trừ không phải là những gì họ đã làm mà là những gì họ không làm. Và những ai được công nhận vào vương quốc được đón mừng dứt khoát không phải dành cho những hành động tôn giáo mà cho những gì họ đã thực hiện bởi cách an ủi và phục vụ tha nhân. Thậm chí họ không ý thức được về bất cứ việc gì họ đã làm là tuyệt vời hoặc khả kính để ca ngơi và tôn vinh. Những hành vi chiến thắng để kết nạp họ vào vương quốc là những việc làm tự nhiên hàng ngày: họ hướng về những người đói khát, rách rưới, bệnh tật, cầm tù và cô đơn. Họ thấy sự cần thiết của con người và họ đáp ứng hầu hết chỉ vì đó là bản chất thứ hai. Những người khác cũng đã phớt lờ những người thiếu thốn, thậm chí còn hơn thế nữa hầu như không đoái thương tới họ.
Qua lăng kính kinh thánh, tình yêu luôn được bộc lộ bằng những hành động cụ thể. Nó nói rằng tương phản của tình yêu không phải là căm hờn, mà là thờ ơ, lãnh đạm. Hiệu đính thần học một cách đơn độc là vô nghĩa trừ phi nó được diễn đạt bằng hành vi thương cảm.
Chúng ta phải làm gì cho ai và ít nhất là gì – những ngươi không quyền lực, không uy tín thanh danh, không hy vọng hoặc những người không có khả năng đối phó – xác định chúng ta thuộc về hay không thuộc về Vương Quốc của Thiên Chúa.
Quý vị đã bao giờ đi dự một buổi họp không có lịch trình rõ ràng và tổ chức bết bát chưa? Trong: TN 34-ABC87
Quý vị đã bao giờ đi dự một buổi họp không có lịch trình rõ ràng và tổ chức bết bátchưa? Trong lúc bực tức quý vị có muốn hỏi: “Ai chịu trách nhiệm ở đây vậy?” Đó có thể cũng là câu hỏi mà chúng ta dành cho bài đọc thứ nhất trích sách Êdêkien. Quý vị có thể biết bối cảnh mà ông viết đoạn sách này không? Ông nói đến những con chiên bị lạc, bị thương, bệnh tật và yếu đau. Cựu Ước thường sử dụng kiểu ám chỉ đến những con chiên như biểu tượng nói về dân Israel. Đối với họ mọi sự ra như xáo trộn hết cả nên và họ có lẽ muốn biết “Ai sẽ chịu trách nhiệm ở đây?”
Êdêkien là một ngôn sứ trong suốt thời lưu đày ở Babylon. Các vị vua của Israel xuống cấp, kém cỏi, bất tài và khinh suất khiến đất nước sụp đổ rơi vào tay dân Babilon. Những nhà lãnh đạo Israel được kỳ vọng là những mục tử tốt lành để bảo vệ, dẫn dắt và che chở cho dân – nhưng họ đã thất bại. Họ chỉ biết chăm lo cho chình mình và bỏ mặc sự an nguy của dân.
Chẳng phải thế giới sẽ khác hẳn nếu tất cả những nhà lãnh đạo và thủ lãnh của các nước xem vai trò của mình như “những nhà lãnh-đạo-mục-tử”, như những nhà lãnh đạo lý tưởng được mô tả trong Sách Thánh? Họ không nên chỉ biết vun vén quyền lực và của cải cho riêng mình. Họ phải luôn biết đặt mối quan tâm hàng đầu đến dân, nhất là những ai bị dễ bị tổn thương. Chẳng phải điều đó đòi hỏi họ phải thật khiêm nhường sao? Đó không phải là một đức tính có thể thắng những cuộc tranh luận chính trị hay gây được thanh thế giữa thế lực của thế giới.
Êdêkien được gọi để phê phán những mục tử của Israel vì những việc làm thái quá và những sai sót của họ đối với đàn chiên. Thiên Chúa, qua lời của ngôn sứ, lên án các nhà lãnh đạo của Israel. Nhìn vào hoàn cảnh của dân, cả chúng ta cũng sẽ thắc mắc như Êdêkien: “Thế ai chịu trách nhiệm ở đây?” Câu trả lời của ông là – “Chính Thiên Chúa”. Hãy đếm những lần đại từ “Tôi” được sử dụng trong bài đọc này. (Tôi đếm được mười một lần). Rõ ràng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì mà các nhà lãnh đạo được xem như mục tử của Israel đã không làm. Thiên Chúa sẽ trông nom săn sóc đoàn chiên đã bị tản mác, chán chường và tuyệt vọng.
Dụ ngôn của Êdêkien có lẽ đã mang lại cho những người Israel đang bị lưu đày một tin rất vui! Khi mà Thiên Chúa nổi giận với những nhà lãnh đạo kém cỏi, thì Người lại sẽ đến như mục tử nhân từ chăm sóc đàn chiên của Thiên Chúa. Những người đi lưu đày không thể làm gì được nhưng nghe biết rằng Mục tử của họ sẽ không chỉ chăm sóc vết thương cho họ mà còn dẫn đưa họ về quê hương Israel và ở đó sẽ vẫn tiếp tục chăm sóc họ. Như đối với những “con cừu và dê”, những nhà lãnh đạo bất tài, Thiên Chúa sẽ lưu tâm đến họ, “Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê.” Chúng ta sẽ thấy vì sao bài đọc này được chọn để đọc chung với bài Tin mừng hôm nay, bài mô tả một Mục Tử, Đấng sẽ đến để phán xử và tách chiên ra khỏi dê.
Trong Đức Giêsu, lời Thiên Chúa hứa sẽ chăn dắt đàn chiên nghèo đói đã được thành toàn. Ngài là Mục Tử tốt lành, Đấng đi tìm những con chiên lạc để đưa về đàn. Ngài nói rằng Ngài có thể hy sinh tính mạng vì đàn chiên – và Ngài đã làm y như vậy. Hôm nay, chúng ta cử hành luật của Đức Giêsu trong cuộc đời của chúng ta , vì Ngài là Vua-Mục-Tử, trong Ngài ma quỷ bị tiêu diệt và triều đại của Thiên Chúa sẽ được thành toàn.
Cái chết không phải là bằng hữu của con người chúng ta. Tuy nó có thể đưa đến chỗ kết thúc một cuộc đời đầy đau khổ, nhưng nó lại không phải là một “ân huệ” như nhiều người vẫn tưởng thế. Cái chết gây đổ vỡ, chia cắt và nhấn chìm cuộc đời chúng ta. Với cái chết của người thân yêu chúng ta cố gắng hết sức để mang lại tình trạng bình thường. Nhưng cái chết đã đến bất thình lình, như kẻ trộm lén lút, chúng ta có lẽ đã không “điều khiển” hay “cố gắng hết sức làm gì đó”. Điều giúp chúng ta hy vọng và dám nhìn vào bộ mặt của cái chết là niềm tin của chúng ta vào sự phục sinh.
Trong thư 1Côrintô, thánh Phaolô nói đến những người phủ nhận sự phục sinh. Họ có thể chấp nhận sự phục sinh của Đức Giêsu, nhưng lại gặp khó khăn khi nối kết nó với đời sống của chính họ. Trong chương 15, ngài rao giảng Đức Kitô như là người chiến thắng thần chết. (Vì thế bài đọc này được chọn cho lễ kính Chúa Kitô Vua). Thánh Phaolô cho chúng ta biết Đức Kitô đã chiến thắng tất cả quyền lực sự dữ - “mọi quyền lực và sức mạnh”. Bài đọc thứ hai ngày hôm nay là cách thánh Phaolô mô tả những gì sẽ đến. Nhưng ngài cũng nhắc nhở chúng ta rằng vương quốc đã đến với sự phục sinh từ cõi chết, “hoa quả đầu mùa của những kẻ đã yên giấc”.
Khi Đức Giêsu trở lại, vương quốc sẽ đến trong tình trạng hoàn hảo và “mọi sự sẽ quy phục Đức Kitô”. Vì thế, thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng sự chết không có quyền lực tối cao, dù nó có tỏ ra mạnh mẽ đến đâu hay tỏ ra thế nào. Trong ánh sáng của Đức Kitô chúng ta có thể đối diện với sự chết và trỗi dậy trong vinh quang của Ngài.
Hình ảnh chủ yếu về Đức Kitô trong Giáo hội sơ khai là Mục Tử Nhân Lành. Một trong những trình bày nghệ thuật sớm nhất về Đức Kitô là hình một mục tử trẻ vác một con chiên trên vai. Điều đó thích hợp vì Đức Kitô đã hoàn trọn việc tiên báo rằng Thiên Chúa sẽ đến để chăn dắt dân – như Êdêkien hôm nay cho chúng ta biết. Trong suốt thế kỷ ban đầu của Kitô giáo có vô số chứng nhân chết vì niềm tin, đã được kiên vững nhờ Đức Kitô Mục Tử của họ.
Sau khi hoàng đế Constantine của Rôma trở lại (đầu thế kỷ thứ IV, ngày giờ cụ thể thì vẫn còn tranh cãi), ông tuyên bố Kitô giáo là quốc giáo của Đế Quốc Rôma. Cuối cùng thì sự bách hại của Rôma đối với Giáo hội đã qua và, kết quả là, Giáo hội có tầm ảnh hưởng trên khắp Đế Quốc.
Nhưng sức mạnh và ảnh hưởng cũng ăn mòn Giáo hội khi nó du nhập những biểu hiện bên ngoài cũng như cấu trúc tổ chức của Đế Quốc. Hình ảnh quen thuộc về Đức Kitô đã bị chuyển từ Mục Tử thành Vua, với quyền trượng, vương miện và ngai vàng. Chẳng có gì sai lầm trong việc kính thờ Đức Kitô như Vua của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng phải nhớ rằng trong các Tin mừng Đức Giêsu công bố vương quyền của Ngài trong việc phục vụ. Ngài không bao giờ mô tả quyền hành giống như những người được cho là các nhà lãnh đạo của thế giới, những kẻ “thống trị” người khác. Ngài nói với các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly rằng họ phải đi theo Ngài bằng cách phục vụ người khác.
Như thường lệ, chúng ta thường bám chặt Tin mừng và luôn hướng nhìn lên vị Vua mà chúng ta là thần dân của Ngài. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta hay đâu là những ưu tiên mà người đầy tớ của vua sẽ có được và chúng ta sẽ sống ra sao – cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, đón tiếp khách lạ, cho kẻ rách rưới ăn mặc, chăm sóc người ốm đau và thăm viếng kẻ bị tù đày.
Trong các vương quốc trần thế, những người ở trên và quanh ngai vàng là những kẻ có ảnh hưởng lớn trên sân khấu thế giới, đến từ giai cấp cao trong xã hội, hay đã có những hành động oai hùng trong các trận chiến. Nhưng những người được Đức Kitô mời vào trong vương của Ngài lại được đền đáp vì những hành động anh hùng và phi thường khác nhau. Chúa Kitô Vua yêu thương họ vì họ noi gương cuộc sống của Ngài bằng cách chăm sóc những kẻ bé mọn là anh chị em của Ngài.
Lưu ý bối cảnh của sự phán xử cởi mở ra sao. “…Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người”. Trong Sách Thánh “các dân thiên hạ” ám chỉ đến toàn thể thế giới. Mọi dân từ khắp bốn phương trời sẽ đến và bước vào trong vương quốc của Đức Kitô. Chúng ta có lẽ đã quá hẹp hòi trong viễn cảnh về việc ai là thành phần của vương quốc, hạn chế số thành viên của Giáo hội và những người cũng tin như chúng ta. Dụ ngôn không quá hạn chế, người ta sẽ được mời vào là những người thậm chí đã không nhận ra Đức Kitô trong những kẻ bần cùng mà họ từng phục vụ. Họ chỉ thấy cần giúp đỡ những ai họ thấy thương cảm.
Mọi người đều được mời gọi vào trong vương quốc của Thiên Chúa. Theo như dụ ngôn thì vương quốc hiện diện bất cứ nơi đâu khi con người hành động đầy yêu thương đối với người khác. Giữa những người trong vương quốc, một số người trong chúng ta được kêu gọi trở nên dấu chỉ hiển hiện hơn về Đức Kitô trong thế giới. Đấy là các phần tử của giáo hội; những người tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô. Nhưng lưu ý trong dụ ngôn, chúng ta sẽ không có quyền thỉnh cầu Đức Kitô Vua chúng ta nếu như không sống thực tại của vương quốc như dấu chỉ của sự hiện diện của Đức Kitô trong thế giới này.
Đức Kitô đã và luôn ở giữa chúng ta và chúng ta phục vụ Ngài. Chúng ta vâng phục, phục vụ, trung tín và yêu mến Ngài vì Ngài là Vua của chúng ta. Trong Tiệc Thánh Thể, Vua mục tử quy tự chúng ta từ khắp nơi, thấy được sự đói khát thiếu thốn của chúng ta và đã chuẩn bị dọn sẵn cho chúng ta một yến tiệc. Khi đã được no thỏa, chúng ta sẽ lại trở nên những tôi tớ của Đức Kitô trong vương quốc của Ngài.
Có những lý do rất tỏ tường ghi khắc trong Thánh Kinh để chúng ta vẫn mãi mãi tôn vinh Đức: TN 34-ABC88
Có những lý do rất tỏ tường ghi khắc trong Thánh Kinh để chúng ta vẫn mãi mãi tôn vinh Đức Kitô làm Vua mình, hôm nay và trên Nước hằng sống. Những lý do ấy xem ra hết sức tự nhiên trong trật tự gia đình nhân loại nói chúng, cũng như trong trật tự các triều vua chúa nói riêng. Trong gia đình, người đầu, tức đại diện cho gia đình, gia tộc, thường là người được sinh ra đầu, gọi là trưởng nam, trưởng gia tộc, trưởng tộc, vv... Trong triều vua chúa, người đầu làm vua kế nghiệp phải là thái tử thứ nhất, được vua cha cho nối ngôi. Đức Kitô Vua có cả hai yếu tố đó trong chức phẩm làm Vua của Ngài, cả trong bản tính Thiên Chúa lẫn bản tính nhân loại. Tuy nhiên, khác với các triều vua nhân loại qua mau, triều đại Vua của Ngài sẽ vĩnh viễn muôn đời, vì Ngài là vua duy nhất tự chết đi và sống lại, để cho con dân Ngài mọi đời và mọi thời được sống muôn đời. Ngài trở nên Vua tình yêu ngự trị trong mọi con tim nhân loại.
Phải, chính Đức Kitô đã được mạc khải là Ngôi Lời có từ trước muôn đời, và Ngôi Lời ấy là Con Thiên Chúa, và Ngôi Lời ấy cũng chính là Thiên Chúa. (Jn. 1:1-4) Hai lần chính Đức Kitô tỏ ra bản tính Thiên Chúa của Ngài: Các tông đồ Phêrô, Giacôbê, và Gioan được chứng kiến trên núi Taborê (Mt. 17:1-8) và lúc Gioan Tiền hô làm phép rửa cho Ngài trên giòng sông Giođan. (Mt 3:13-17) Cả hai lần Thiên Chúa Cha đều phán: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Đức Kitô là Con duy nhất yêu dấu của Thiên Chúa. Ngài làm Vua trên các thần thánh thiên quốc. Thánh Phaolô gọi Ngài là trưởng tử các loài thọ sinh (Rm 8:30), được Thiên Chúa tôn vinh trên mọi danh hiệu (Pl 2:8-9). Ngài chính là vua của kẻ sống lẫn kẻ chết.
Riêng là Vua kẻ sống, Đức Kitô đã một lần sinh ra trên thế giới này trong bản tính nhân loại của Ngài. Tiên tri Isaia gọi Ngài là Vua thái bình. Các thiên thần ca hát Ngài là vua bình an cho nhân gian. Trong gia đình, Ngài là con một duy nhất nói lên địa vị trưởng tử các loài thọ sinh. Địa vị này được chính Ngài chứng minh bằng cuộc khổ nạn của mình: Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Cha Ta. Vì người đương thời không hiểu được ý nghĩa Vua yêu thương qua công cuộc cứu rỗi này, nên Ngài đã từ chối địa vị Vua khi họ muốn tôn Ngài làm vua theo ý họ. Còn Pontius Pilate, kẻ kết án tử cho Ngài, lại khù khờ trước ý nghĩa Vua mà Ngài xác định. Và Đức Kitô đã tuyên bố: Phải, tôi là Vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này. Nước của Đức Kitô là Nước Trời, quyền cai trị của Ngài là tình yêu và công lý muôn đời, dân của Ngài là toàn thể nhân loại được cứu rỗi trong máu của Ngài. Ta hãy thờ lạy và vang lừng tung hô Vua tình yêu Giêsu Kitô của lòng mình, và hãy trung thành theo Ngài lên Nước hằng sống bằng con đường tình yêu trong cây thập giá đời mình.
Tin Mừng thánh Matthêu chương XXV mẹ Hội Thánh đưa vào trong Thánh Lễ cuối năm Phụng: TN 34-ABC89
Tin Mừng thánh Matthêu chương XXV mẹ Hội Thánh đưa vào trong Thánh Lễ cuối năm Phụng vụ, dễ bị ngộ nhận như là gai chướng. Sự gai chướng dễ bị ngộ nhận này không nguyên chỉ vì tước hiệu Vua vũ trụ mà Hội Thánh suy tôn Thầy Chí Thánh và còn cả nơi nội dung lời giảng dạy của Người qua dụ ngôn “cuộc phán xét chung”.
Hình ảnh của một minh quân trong lịch sử quả là hiếm hoi so với nhiều ông vua gian ác, độc tài, chuyên chế. Nghĩ đến thể chế phong kiến người ta dễ có cái nhìn không mấy thiện cảm. Đã là quân chủ với một ông vua cai trị kiểu cha truyền con nối thì sự chuyên chế hà khắc thường xảy ra. Thế mà Hội Thánh vẫn không ngần ngại suy tôn Chúa Kitô với danh hiệu Vua vũ trụ. Qua danh hiệu này Hội Thánh không chỉ nhìn nhận quyền tối thượng của Đức Kitô trên mọi vật mọi loài thọ tạo, hữu hình và vô hình, mà còn tuyên bố với mọi người về niềm hạnh phúc và vinh dự của mọi loài thọ tạo khi có Đức Kitô làm vua của mình.
Đã là loài thọ tạo thì phải thần phục Đấng dựng nên mình. Tuy nhiên chúng ta không sống tâm tình thần phục như nguời nô lệ. Đấng xứng đáng là Vua, là chủ tể của chúng ta đã tự nguyện làm anh cả giữa loài người. Đấng tạo thành đã tự nguyện trở nên con của loài người. Và đặc biệt Người đã chọn hạnh phúc của con người, của từng người làm vinh quang của chính Người. Có thể nói không ngoa ngữ chút nào rằng Người tự nhận số phận của con người, của từng người, nhất là những người yếu thế, kém phận, làm số phận của chính Người.
Chúa Kitô làm vua của một vương quốc mà trong đó mọi người từ cổ chí kim đều là con dân của Người. Chúng ta hãnh diện và vui mừng vì vương quốc mà Chúa Kitô thống trị là một vương quốc mà trong đó “dân vi quý, dân vạn đại”. Chúng ta vui mừng và hãnh diện trong vương quốc này vì vị Vua cai trị chúng ta là Đấng có thể nói theo kiểu phàm nhân rằng “luôn lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ”. Chúng ta lại càng hãnh diện và vui mừng vì vương quốc Chúa Kitô thiết lập là một vương quốc mà trong đó không một ai là đáng bỏ đi, không một ai là thành phần hạ đẳng.
Khi các ngươi làm hay không làm điều tốt cho một trong những kẻ bé mọn này là các ngươi đã làm hay đã không làm cho chính Ta x.Mt 25,31-46). Hiến pháp, luật lệ của vương quốc này thật đơn giản. Đó là phải sống cho có lòng, có tâm với nhau, đặc biệt với người anh chị em yếu thế, kém may mắn cận kề chúng ta.
“Thầy bảo thật cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Và Chúa Giêsu đã quảng diễn sự phải “công chính hơn” này là không được phép loại bỏ bất cứ một ai dù chỉ là trong cung cách hành xử hay trong tâm trí. Không loại bỏ tha nhân chưa đủ, Người còn đòi hỏi phải biết liên đới với tha nhân trong hạnh phúc của họ. “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Dĩ nhiên, nếu vì lỗi của ta thì việc bỏ của lễ lại để đi làm hòa trước đã, là điều dễ hiểu. Còn nếu không phải do lỗi của ta mà do lỗi của người anh em, thì ta cũng phải làm như thế. Nếu không làm thì ta sẽ mắc phải món nợ tình yêu, vì ta thờ ơ với số phận của người anh em mình. Người có lỗi, người có tội là một trong những bé mọn mà ta cần quan tâm nâng đỡ. Mẹ Hội Thánh đã hiểu chân lý này khi dạy chúng ta những mối thương người: “Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dạy kẻ mê muội; An ủi kẻ âu lo; Răn bảo kẻ có tội…”
Không ai có thể lên trời “một mình”. Không ai có thể làm con dân Nước trời với sự ích kỷ, với thái độ bàng quan, hững hờ trước người anh em. Mặc dù vẫn có đó sự gai chướng của hình ảnh vị quân vương trần thế của quá khứ lịch sử, thế nhưng đã đón nhận chân lý trong niềm tin thì chúng ta cùng với toàn thể thụ tạo phải thần phục tuyệt đối Đấng tạo thành nên mình. Đã con thần dân của vương quốc tình yêu thì ta phải sống theo thể chế và luật lệ của vương quốc ấy mà thôi. Luật lệ và thể chế ấy không gì hơn là sự hiệp thông liên đới huynh đệ trong tình yêu của Vị Vua trên các vua đã yêu thương chúng ta trước đến độ hiến dâng cả mạng sống vì chúng ta. Lịch sử cho thấy đã từng có biết bao người xưa lẫn nay can đảm đón nhận sự gai chướng ít nhiểu bị ngộ nhận khi thần phục Đấng là Vua Vũ Trụ nhưng rồi họ đã cảm nghiệm nó thật là “êm ái và nhẹ nhàng” (x.Mt 11,28-30).
Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ được Giáo hội mừng kính tước hiệu Chúa Kitô Vua: TN 34-ABC90
Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ được Giáo hội mừng kính tước hiệu Chúa Kitô Vua – Vua các vua và Chúa các chúa.
Vua Lòng Thương Xót
Thời quân chủ, vua là người có quyền tối thượng: Quân xử, thần bất tử, bất trung. Không muốn cũng phải tuân lệnh, dù phải chết. Và người ta hiểu trung thần là dám chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Với vua, người ta không được phép nhìn mặt và phải tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, thậm chí muốn tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua: “Muôn tâu bệ hạ” – tức là tâu cái bệ rồng của vua ngồi. Như vậy, cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng khi Philatô hỏi Chúa Giêsu có phải là vua hay không, Ngài đã trả lời ngay: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36), và Ngài cho phép chúng ta “phạm húy”, dùng ngay tên Ngài mà không cần tránh né: “Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài”.
Chúa Giêsu là Thiên Vương, là Vua vũ trụ, nhưng cũng là “vua nghèo” nhất. Tại sao? Một vị Thiên hoàng mà sinh ra ở nơi bần cùng nhất là một hang chiên lừa hôi tanh. Chắc hẳn không ai nghèo bằng Ngài.
Không chỉ vậy, Ngài còn là vị vua không tiền hô hậu ủng, không xa giá, chỉ một lần duy nhất Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem. Còn ngoài ra, suốt 3 năm hoạt động mục vụ, hàng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi đường xa, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của mọi người cùng đinh nhất, Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của bất kỳ ai. Là vua, trong tay đầy quyền lực, nhưng Ngài đã làm gương đúng như lời Ngài dạy: “Ai làm lớn phải phục vụ” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45). Ngài không cậy quyền, ỷ thế, không có ngai vàng, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, luôn ngôn hành song song. Quả thật, Ngài là Vua Lòng Thương Xót. Bạn đã may mắn thấy vị nguyên thủ quốc gia nào hoặc chủ chăn nào thực hiện như “vua nghèo” Giêsu chưa? Nếu bạn đã thấy, bạn thật hạnh phúc!
Vua Công Bình
Phụng vụ lễ Chúa Kitô Vua năm A dùng đoạn Phúc âm Mt 25:31-46 nói về ngày Chúa quang lâm xét xử nhân loài. Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế, dễ hiểu và gần gũi: Chiên và Dê. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “dễ thương”; dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt”. Chiên là biểu tượng của người lành, dê là biểu tượng của người dữ.
Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha và chịu chết để cứu độ nhân loại, thế nên Ngài có quyền phân xử công minh. Ngài đến trong vinh quang, có các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu ôn tồn nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han” (Mt 25:34-37).
Bấy giờ những người công chính ngạc nhiên và khiêm nhường thân thưa: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?” (Mt 25:38-40). Chúa Giêsu xác định: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:41).
Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc; Tôi đau yếu và ngồi tù, quý vị đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:42-44).
Bấy giờ những người ấy cũng sẽ phân bua là không hề thấy Chúa đói, khát, là khách lạ, trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà họ lại đành lòng không phục vụ Chúa (Mt 25:45). Nhưng Ngài xác định: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:46). Họ “bó tay”, không tự biện hộ được gì, “mắt chữ O và miệng chữ A”, đành cúi đầu ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Còn những người công chính thì vui sướng bước vào sự sống muôn đời. Mỗi người “xứng đáng” với cách sống của mình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt.
Chúa không hỏi gì về những tội này hay tội kia, mà Chúa thẩm vấn 2 điều: Sử dụng vốn sống thế nào để sinh lời (Mt 25:14-30), và thực hành đức ái (Mt 25:31-46).
Ngài hoàn toàn công minh và chính trực, không thiên vị ai – chứ đừng nghĩ mình là “ông này, bà nọ” mà được “ưu tiên”. Vả lại Chúa đã nhiều lần cảnh báo, chứ Ngài không hề hứng chí làm sảng mà không báo trước. Có lẽ chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính”, thích đùa dai. Nước đến chân nhảy cũng không kịp. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi mới đây, ngày 11-3-2011, Sóng thần đã là “điểm đen” gây kinh hoàng ở Nhật Bản, và hiện nay Thái Lan cũng đang “nhức đầu” vì lụt lội. Có bao nhiêu người coi những dạng như vậy là “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị? Thiên tai hay nhân tai?
Nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều kiện “ắt có và đủ”, vì Chúa Giêsu đã xác định: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ người khác – dù chỉ một chén nước lã, yêu thương người khác, có ánh mắt thiện cảm với người khác, vui cười với người người khác, nói dễ nghe với người khác, cư xử tốt với người khác, chia sẻ vui buồn với người khác, cầu nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là bất kỳ ai, dù không quen biết, ngay cả chính kẻ thù. Ngay cả đại văn hào Victor Hugo cũng đã quả quyết: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay”. Nếu không làm được vậy thì chúng ta không thể tự biện hộ, vì Chúa đã “ghi âm” và “ghi hình” ngay lúc chúng ta hành xử – và “thước phim” đó sẽ trình chiếu lại khi chúng ta trình diện Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là Vua Lòng Thương Xót vì Ngài đã yêu thương chúng ta đến giọt máu cuối cùng, giọt nước cuối cùng, và hơi thở cuối cùng. Ngài luôn nhẫn nại chờ đợi chúng ta đến với Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài – tức là đến với Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Ngài vẫn từng giây phút âm thầm mỏi mòn chờ đợi chúng ta hồi tâm, Ngài không hề muốn phạt ai, chỉ tại chúng ta quá cố chấp! Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến quyền lợi, không mấy ai nói đến bổn phận”. Chúng ta cũng vậy, chúng ta van nài Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta điều này hoặc điều nọ, càng nhiều càng tốt, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né bổn phận càng nhiều càng tốt. Thật là phi lý!
Điều Chúa yêu cầu rất đơn giản nhưng rất quan trọng và hoàn toàn có lợi cho chính chúng ta: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng toàn thiện” (Mt 5:48) và “hãy có lòng nhân từ như Cha là Đấng nhân từ” (Lc 6:36).
Lạy Thiên Vương Giêsu Kitô, xin thương xót mà gia ân cho chúng con – những thần dân vô dụng của Ngài. Nhưng chúng con luôn vững tin Ngài đang ở với chúng con, Ngài không để chúng con cô đơn (x. Ga 8:29), vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 136). Xin che chở, phù trợ và hướng dẫn chúng con dù “mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7). Chúng con cầu xin nhân danh Thiên Vương Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Câu chuyện trần thuyết Ái nhĩ Lan sau đây nói lên được đặc tính của vua Kitô, một vị vua: TN 34-ABC91
Câu chuyện trần thuyết Ái nhĩ Lan sau đây nói lên được đặc tính của vua Kitô, một vị vua trời đất mà hôm nay chúng ta mững lễ Ngài. Xưa có một vị hoàng đế rất mực nhân hậu và khôn ngoan, ngài có những ngũ long công chúa mà chẳng có lấy một công tử để nối dòng. Các công chúa lại vừa đến tuổi cập kê. Nên vua cha nghĩ ra kế thi tuyển phò mã để mối nghiệp. Ai có đủ đức tính và đủ tiêu chuẩn đề ra thì được làm phò mã. Nhiều thanh niên trai tráng đến dự tuyển nhưng không được người nào. Đến lượt chàng thanh niên Moussumonaky nghe thấy tiếng nhiệm mầu thúc đẩy đi thi, nhưng chàng lại quá nghèo đến mức không có một bộ quần áo tươm tất để mặc, cũng chẳng có tiền để mua thực phẩm cho cuộc hành trình quá xa xôi đến kinh đô để dự thi. Vì thế chàng phải cầu nguyện lâu giờ để xin ơn. Sau cùng chàng phải quyết định đi xin người ta giúp đỡ.
Sau một tháng trời chuẩn bị du hành, chàng đến gần cung điện nhà vua, chàng thấy một lão ăn xin đức độ đang xoè tay khất độ bên vệ đường. Ông nói giọng yếu ớt, lại hình như què một tay trái. Thấy cụ đáng thương, chàng liền cởi bộ áo ấm áp mặc ngoài đổi lấy tấm áo cũ rách của cụ, đồng thời trao cho cụ già hết mớ lương thực độ đường của chàng Thế rồi chàng bẽn lẽn bước vào cung điện trong bộ đồ rách nát và cái bị trống rỗng tuếch. Đến trước ngai vua, chàng cúi sâu để chào bái, rồi ngước nhìn lên, chàng bỡ ngỡ lạ lùng, ngẩn người như bị thôi miên. Chàng thốt lên: ”Thưa hoàng thượng, Ngài chính là ông lão ăn xin ngoài vệ đường kia ? Vua nhân từ đáp: ”Đúng thế, tại ta muốn thử lòng có thực sự đức độ và nhân từ như ta muốn không thôi.”
Đó chính là chủ điểm của bài Phúc Âm của Chúa muốn nhắc đến hôm nay. Chủ điểm đó là: ”Ta đói, ngươi đã cho ăn, Ta khát ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ ngươi đã tiếp rước. Ta ốm đau ngươi đã thăm nom Ta”. Tóm lại “ngươi đã có lòng nhân từ, quảng đại, thương người, nhân ái đối với mọi người. Ngươi hãy vào mà hưởng hạnh phúc cùng chủ ngươi”.
Hãy thay đổi lập trường, vì Chúa Kitô là vua muôn vua đòi hỏi dân Người những điều đầy nhân ái ấy. (20.11.2005)
Bài đọc1: Ed.34,11-12.15-17: Các ngươi là những đoàn chiên của Ta, Ta xét xử giữa chiên với chiên.
Bài đọc 2: 1Cr.15,20-26.28: Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, để Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi sự.
Phúc âm: Mt.25,31-46: Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người và sẽ phân chia họ ra.
SUY NIỆM:
Vua Bađa mời quan đại thần vào và bảo: -Nay trẫm đã già yếu sắp chết rồi, khanh hãy giúp: TN 34-ABC92
Vua Bađa mời quan đại thần vào và bảo:
-Nay trẫm đã già yếu sắp chết rồi, khanh hãy giúp trẫm tìm người kế vị, vì trẫm không có con trai như khanh đã biết:
Quan đại thần đề nghị:
-Xin vua hãy chọn một trong hai quan hầu cận thần đến nhưng vua không biết chọn người nào. Ông muốn thử xem ai trong hai quan đó xứng đáng kế vị mình, nên hỏi người bên phải:
-Này quan Kaisô, nếu được làm vua thì quan sẽ cai trị dân thế nào?
-Tâu bệ hạ, nếu tôi được làm vua tôi sẽ cai trị bằng mệnh lệnh rõ ràng, thưởng phạt công minh, buộc dân phải nghe theo tôi.
Quay sang quan cận thần bên trái, vua hỏi:
-Phần quan Cassô, nếu được làm vua, quan sẽ làm thế nào?
-Tâu bệ hạ, hạ thần vẫn tiếp tục làm như hạ thần đã làm, là làm người hầu hạ giúp đỡ mọi người.
Vua hỏi tiếp:
-Như thế nghĩa là gì?
-Tâu bệ hạ, chỉ có một sự khác biệt giữa vua và dân là chiếc ngai vàng. Vua đích thực phải là kẻ phục vụ.
Thế là quan Cassô được chọn làm vua kế nghiệp vua Bađa.
Hôm nay lễ Chúa Kitô Vua, phù hợp với bài Tin Mừng Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ vai trò quyền bính của Ngài. Có điều đặc biệt là chức vụ của Chúa nhắm tới việc phục vụ tha nhân, chứ không như vua chúa và thủ lãnh trần gian, họ bắt kẻ khác phải hầu hạ mình. Chúa đã dậy những điều ấy cho các môn đệ. Chúa còn nói rõ hơn về vấn đề này: "Ai trong các con muốn làm lớn, phải làm đầy tớ hầu hạ mọi người". Chúa lại còn thực hiện lời giảng dậy ấy, gương sống động nhất là Chúa hành động như người tôi tớ khi rửa chân cho các tông đồ vào dịp bữa ăn cuối cùng trước cuộc tử nạn.
Tiếp đến Chúa Giêsu cũng nói về quyền thẩm phán của Ngài: "Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người". Ở đây Chúa muốn nói lên hai ý nghĩa:
1.Ban đầu Chúa chọn Israel làm dân riêng để chuẩn bị chương trình cứu chuộc. Và đến khi Chúa xuống trần gian không phải Chúa chỉ có cứu vớt dân Do Thái mà thôi, mà để cứu chuộc hết mọi người. Kiểu nói "muôn dân" ở đây cũng hiểu là hết mọi dân mọi nước trên địa cầu sẽ phải ra trước tòa Chúa để phán xét.
2.Nhưng chỗ khác có nói Chúa Giêsu không dùng quyền xử án khi Ngài được sai xuống trần gian: "Thiên Chúa không sai con đến thế gian để xử án thế gian nhưng để nhờ Người mà thế gian được rỗi" (Ga.3,17). Như vậy phải ý nghĩa câu ấy thế nào: Theo sự hiểu của người Do Thái, quyền xét xử thuộc về Thiên Chúa. Nhưng quyền bính đó lại được trao phó cho Con Người, vì theo thánh Ga.5,23 đã nói: "Vả chăng Cha trao phó cho Con, ngõ hầu ai nấy tôn kính Con Một như họ tôn kính Cha. Việc xử án này chứng minh Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa. Và để khỏi vòng vo dài dòng, chúng ta tóm tắt rằng: "Chúa Cha đã trao quyền xét xử cho Con Người, nhưng ngài chỉ xử án khi Con Người đến trong vinh quang, lúc ấy Ngài sẽ phân chia họ ra như mục tử tách chiên ra khỏi dê.
Như thế Chúa Giêsu xuống trần gian là để cứu vớt loài người. Vương quyền Chúa dành để phục vụ nhân loại. Và quyền thẩm phán của Chúa cũng dựa trên sự yêu thương phục vụ lẫn nhau. Đó là niềm vui cho mọi người căn cứ vào đó có thể dễ nhận ra cửa nước trời để vào. Chúng ta không cần phải học cao hiểu rộng như các thầy thông luật mới nhận ra chân lý Chúa, nhưng chỉ cần thực thi một điều rất đơn giản là mến Chúa yêu người, điều này ai cũng có thể hiểu và thực hiện bất cứ lúc nào.
Đặc biệt đối với đức ái, đó là bài ca muôn thủa, thánh Gioan tông đồ suốt cả đời nói về đề tài này. Các thánh thời đại nào cũng say sưa giảng thuyết và mở rộng tình thương khắp nơi. Tình yêu Thiên Chúa phải được thực hiện từ gia đình, xã hội, quốc gia, cho đến khắp mọi đường nẻo trái đất. Trong những thời gian gần đây, thiên tai tràn lan chắc hẳn đã xúc động con tim mọi người: Sóng thần, bão lụt, động đất đã cướp đi quá nhiều sinh mạng, ngoài ra còn bị thương tật, tang tóc, bao nhiêu triệu người trở thành vô gia cư. Hơn bao giờ hết chúng ta có thể thi thố tấm lòng bao dung đầy đặn, chia cơm sẽ áo cho những hiện thân đáng thương của Chúa Giêsu đang bị khổ cực tư bề.
Ngoài ra bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng có thể thực thi đức ái với mọi người. Phúc Âm Chúa chỉ nêu 6 tiêu chuẩn chính tương trưng trong ngày phán xét là: Giúp đói, giúp khát, tiếp khách lạ, cho kẻ thiếu mặc, thăm người yếu đau, thương kẻ tù đầy. Còn nhiều điều khác như vị tha, nhịn nhục, hy sinh, khiêm nhượng, không ghen tương, quên mình, khoan dung, tha thứ, không oán thù, hợp nhất và còn muôn vạn sự để chúng ta thực hành cho tròn đầy bông hoa đức ái.
Nói đến đây chúng ta chắc sẽ ngạc nhiên,vì thường nghĩ rằng những công việc yêu thương cao cả đó dành cho các vị tu sĩ cũng như linh mục. Chính các ngài mới có trách vụ dấn thân vào sứ mệnh đặc biệt ấy, các ngài mới tổ chức mở bệnh viện, tế bần, cô nhi, trường học cho giới nghèo. Sự ngạc nhiên ấy vô tình trùng hợp với sự ngỡ ngàng của một số người trong Phúc Âm khi thưa với Chúa: "Có bao giờ thấy Chúa đói khát này nọ đâu…" Chắc họ đã nghiêm túc không gian tham, trộm cắp, giết người, chứng gian v.v. Nhưng những yếu tố Chúa nêu ra để phán xét hôm nay là yếu tố tích cực. Giúp đỡ tha nhân là giúp đỡ chính Chúa.
Ước gì trong ngày lễ Chúa Giêsu làm vua, xin Ngài làm chủ cai trị tâm hồn mọi người, để chúng ta trở thành hiện thân của Chúa mà thực thi đức ái cách hoàn hảo.
Trong bài nói về phán xét cuối cùng, Đức Giêsu nhấn mạnh đến việc trao tặng nhưng-không: TN 34-ABC93
Trong bài nói về phán xét cuối cùng, Đức Giêsu nhấn mạnh đến việc trao tặng nhưng-không, tỏ bày lòng từ bi thương xót và sự tốt lành cho người anh em.
Lm. Vũ Phan Long, ofm
I. NGỮ CẢNH
Có những người gọi đây là “dụ ngôn về cuộc phán xét thế gian”. Tuy nhiên, nếu muốn đúng nghĩa dụ ngôn, chúng ta chỉ có cc. 32b-33, được coi như một dụ ngôn ngắn. Phần lớn của bản văn được tạo nên bởi hai mẩu “đối thoại phán xét” chính (cc. 34-40.41-45). Có thể gọi đây là một bức họa về phán xét. Đây không phải là một bản văn khải huyền, vì không có thị kiến, cũng không phải là một bài huấn giáo về phán xét, vì không có một lần nào bản văn ngỏ lời trực tiếp với các độc giả.
Qua bản văn hôm nay, chúng ta gặp được niềm hy vọng của Hội Thánh vào Đức Kitô quang vinh (“Chúa” [Kyrios]: cc. 37.44; Đức Vua: cc. 34.40 // “mục tử”: c. 32). Hẳn là tác giả đã lấy cảm hứng từ các bản văn ngôn sứ như Tv 2,7; 110,1-3; Đn 7,14. Tuy nhiên, ngoại trừ quang cảnh hùng vĩ đó, sứ điệp trọng tâm của bản văn vẫn không khác sứ điệp của những bản văn đi trước: Người đầy tớ trung tín (24,45-51), Các trinh nữ (25,1-13), Ba người tôi tớ (25,14-30) trong đó ta thấy cuộc gặp gỡ với ông chủ, cũng được gọi là kyrios, kết thúc với phần thưởng hoặc hình phạt.
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Quang cảnh Phán xét cuối cùng (25,31-33); 2) Xét xử những người bên phải (25,34-40); 3) Xét xử những người bên trái (25,41-45); 4) Kết luận (25,46).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- muôn dân (32): Theo S. Hre Kio (“Understanding and Translating “Nations” in Mt 28,19”, dans The Bible Translator 41 (1990) 236), trong số 16 lần từ ngữ ethnê được dùng trong Mt, chỉ có ba lần liên hệ với cuộc phán xét thế gian (24,7; 24,14; 25,32), thì rất có thể từ ngữ phải được hiểu theo nghĩa tổng quát, không giới hạn (= Do Thái + Dân ngoại); trong những trường hợp khác, từ này được hiểu là “Dân ngoại” (4,15; 5,47; 6,7; 6,32; 10,5; 10,18; 12,18; 12,21; 18,17; 20,19; 20,25; 21,43; 24,9).
- tập hợp trước mặt Người (32): Cựu Ước cũng đã nói đến cuộc quy tụ hoành tráng các dân trên thế giới lại để chịu Thiên Chúa phán xét (Ge 4,2; Is 66,18; Gr 25,31; v.v.). Ở đây chúng ta cũng gặp lại viễn tượng ấy: đây không còn phải là cử chỉ từ bi thương xót của người mục tử cánh chung quy tụ những người được chọn (Mk 4,6; Xp 3,19; Ed 34,12-13) hoặc quy tụ cả Do Thái lẫn Dân ngọai vào một đoàn duy nhất (Gr 3,17), nhưng là hành vi uy quyền triệu tập loài người ra trước tòa Thiên Chúa.
- tách biệt chiên với dê (32): Chính xác thì đây là chiên và dê con. Ban ngày chúng có thể đi chung, nhưng về đêm người ta phải tách dê con ra để giữ cho chúng ấm. Vì chiên thì có giá trị hơn dê con, ta hiểu tại sao chiên được đặt về bên phải vị Thẩm phán cánh chung, vì chỗ bên phải là chỗ danh dự.
- Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn (37): Không phải là những người lành quên, nhưng họ không biết là khi giúp đỡ những người túng cực là họ đã làm cho chính Con Người. Ý nghĩa tròn đầy của các hành vi của họ chỉ được vén mở vào giờ cuối cùng. Điều này hoàn toàn phù hợp với nền luân lý của Mt (“Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”, Mt 6,4).
- những anh em bé nhỏ nhất (40): Từ ngữ “bé nhỏ” (nêpios và mikros) được dùng nhiều lần trong Mt để gọi những thành viên yếu hơn hoặc có nhu cầu hơn trong cộng đoàn (11,25; 26,16: nêpios; 10,42; 13,32; 18,6; 26,39.73: mikros), còn từ elakistos, “bé nhỏ nhất” để gọi con người thì chỉ xuất hiện trong bản văn ở đây mà thôi. Dường như từ này không đồng nghĩa với hai từ trên, mà lại có nghĩa xã hội nhiều hơn.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Bản văn của chúng ta là bản văn cuối cùng trước khi truyện Thương Kho bắt đầu, đồng thời, là giáo huấn cuối cùng Đức Giêsu ban cho các môn đệ.
* Quang cảnh Phán xét cuối cùng (31-33)
Bản văn mở ra với một quang cảnh hùng vĩ: Con Người “đến trong vinh quang”: Người vẫn là mục tử “tách biệt chiên với dê”, nhưng cũng là Đức Vua uy phong chủ trì cuộc xét xử chung cuộc. Chúng ta mường tượng ra khung cảnh được nói đến trong dụ ngôn Cỏ lùng (13,41-43), với cùng những nhân vật (một bên: Con Người, các thiên thần, Chúa Cha, những người công chính, những người làm việc tốt; bên kia: ma quỷ, các thiên thần của ma quỷ, những kẻ xấu, những kẻ bị chúc dữ), nhưng được triển khai rộng ra. Đức Giêsu xuất hiện trong vinh quang của Người, chung quanh có các thiên thần, ngự trên một cái ngai vinh quang (c. 31). Tất cả những yếu tố mô tả đây là biểu tượng của sự hiện diện và quyền lực của Thiên Chúa. Vinh quang là sự hiển lộ rạng rỡ, chói ngời của Thiên Chúa. Các thiên thần đứng trước nhan Người làm chứng về sự hiện diện của Người. Cái ngai tượng trưng uy quyền của Người, từ đó Người điều khiển cách chắc chắn.
* Xét xử những người bên phải và bên trái (34-45)
Đã có quyền lực và sự uy hùng của Thiên Chúa, Đức Giêsu thực hiện việc xét xử. Lời tuyên án có tính vĩnh viễn, không thể hồi tố. Đức Giêsu đã đến như “Con Người”, Đấng đã được Thiên Chúa trao cho quyền chúa tể, vương vị và vương quyền (x. Đn 7,14). Người tuyên án như “Đức Vua” đang thi hành quyền chúa tể vô song (25,34.40). Người hành động như là “Con Thiên Chúa” đang lên tiếng nhân danh Chúa Cha (x. 25,34) và đứng về phía những người túng quẫn, được coi như là anh em Người và con Thiên Chúa (c. 40). Người được mọi người có mặt nhận biết như là “Chúa tể” (cc. 37.44). Trong cuộc xét xử, địa vị và uy quyền của Đức Giêsu cũng như trọng lượng lời Người và hành động của Người được tỏ bày.
Mọi dân tộc, tất cả mọi người không ngoại lệ, phải trả lẽ về mình trước nhan Người. Tức khắc có một chi tiết khiến chúng ta ngạc nhiên: Đây không phải là những người Israel (23,37–24,31) hoặc các Kitô hữu (24,45–25,30) mà là “muôn dân” (panta ta ethnê) (c. 32). Cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước, “các dân tộc” (ta ethnê) dường như là một tên chuyên được dùng để gọi các Dân ngoại. Tuy nhiên, ở đây cũng có thể hiểu theo nghĩa bao quát: dân Chúa và Dân ngoại. Tác giả Mt viết cho một giáo đoàn hỗn hợp, gồm các Kitô hữu gốc Do Thái và Dân ngoại, để giáo huấn họ về việc đưa Lời Chúa ra áp dụng (24,45–25,30; x. Rm 2,13). Đến ngày tận thế, mọi người, dân Do Thái cũng như người ngoại, đều được triệu tập đến trước mặt vị Thẩm phán tối cao. Không ai có thể coi như không có Người. Mỗi người sẽ bị xét xử theo tiêu chuẩn chính Người quy định và Người xác định số phận đời đời cho từng người. Bất kể địa vị, giai cấp xã hội, phái tính, giống nòi hoặc tuổi tác, mọi người đều bị xét xử theo một tiêu chuẩn như nhau.
Khi đó, tất cả sẽ bị xét xử, không phải tùy theo những công trạng đã đạt hoặc những lỗi đã phạm đối với các khoản luật lệ nào, nhưng là những lỗi phạm đến anh chị em đồng loại. Bản văn không nêu ra những việc như là một cuộc trả thù chống lại các thẩm phán bất công và các bạo chúa đã áp bức Israel hoặc dân mới của Thiên Chúa, nhưng nêu ra những việc đã không làm cho hạng người cùng rốt trong bậc thang xã hội. Đây là những việc làm cho con người (“những anh em”), trong tư cách là con người, chứ không phải là trong tư cách là người Israel hay là Kitô hữu. Cũng không có nét gì là chuyên biệt tôn giáo trong các công việc này. Đức Giêsu đã gọi những ai thi hành ý muốn của Cha Người là “anh em” Người (12,48-50). Nhưng ở đây trong tư cách vị thẩm phán, Người lại nói đến “những anh em bé nhỏ nhất”, tức là những người cùng chia sẻ thân phận nghèo khó và khiêm tốn như Người (x. 11,28-30). Đức Giêsu thích tự đồng hóa với những người bé nhỏ, bởi vì đức tính tapeinôsis, “sự khiêm nhường”, là nhân đức căn bản của Người (x. 11,28-36) và những người yếu đuối là đối tượng Người ưu ái chăm sóc. Tất cả mọi người đều là “anh em” Người (x. Rm 8,29; Dt 2,11.17), nhưng những người túng quẫn hơn và xấu số mới là “anh em” Người cách gần gũi nhất.
Lời tuyên án được công bố vào cuối một cuộc đời hoặc cuối một kinh nghiệm, nhưng án xử thì được thực hiện dọc theo dòng lịch sử. Có thể nói mỗi người xây dựng chính hạnh phúc hay bất hạnh vĩnh cửu ngày qua ngày. Loài người sẽ bị xét xử không phải về những gì đã nghĩ hoặc đã nói, nhưng về những gì đã làm cho chính anh em mình. Không phải mọi người đều đã biết Đức Giêsu, nhưng mọi người đều có một nẻo đường để gặp được Người, đó là nẻo đường “các việc từ bi thương xót”; đó chính là các việc Người đã làm. Ta gặp lại giáo huấn của Đức Giêsu: không phải là nói như Đức Kitô, nhưng là hành động như Người, mới được chiếu cố. Khi săn sóc những người “nhỏ bé nhất”, những người túng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những người trần truồng, những người ngồi tù (cc. 35-36), ta vừa làm giống như Đức Kitô vừa săn sóc chính Đức Kitô. Ta giúp đỡ Đấng một ngày kia sẽ là thẩm phán.
Khi nhắc đến một vài nhu cầu sơ đẳng, như thiếu thức ăn, thức uống, nơi ở, quần áo, và cả tình trạng bệnh tật và tù đày, Đức Giêsu không muốn cung cấp một danh sách rốt ráo. Người không yếu cầu điều không thể làm được, nhưng việc tặng ban và giúp đỡ vừa sức chúng ta.
Những ai đã dấn thân làm việc tốt, Đức Giêsu gọi họ là “những kẻ Cha Ta chúc phúc” và ban cho họ Vương quốc vĩnh cửu (c. 34). Thiên Chúa trong tư cách là Cha của Đức Giêsu đã chúc phúc cho họ.
* Kết luận (46)
Như một mặt trời, lòng tốt của Đức Giêsu và tình yêu của Người rọi tới họ, làm cho họ tươi nở trong niềm vui và hạnh phúc, và ban cho họ sự sống viên mãn (c. 46). Những gì họ đã trao tặng cho người thân cận với sức yếu đuối nay nhận được đầy tràn do Thiên Chúa ban: tình yêu, sự hiệp thông, sự sống và niềm vui. Còn những người khác thì bị loại khỏi nhan Thiên Chúa. Lửa tượng trưng sự dày vò và đau đớn giáng xuống trên tất cả những ai bị loại không được nhạn sự chúc phúc và sự sống của Thiên Chúa. Họ không được sống trong sự nhân lành chói chan của Chúa Cha và trong cộng đoàn những người có sự tốt lành này. Số phận của họ là cộng đoàn những kẻ ích kỷ và thất bại, là sự thù ghét căm hờn.
Kết luận
Bài diễn từ đầu tiên của Đức Giêsu bắt đầu bằng phúc lành (5,3-12), bài cuối cùng kết thúc bằng cảnh phán xét cuối cùng. Toàn thể giáo huấn của Đức Giêsu được gom lại giữa hai giáo huấn quan trọng này, là những giáo huấn nói về những gì chúng ta có thể chờ đợi từ nơi Thiên Chúa và những gì chính chúng ta phải làm. Trong bài nói về phán xét cuối cùng, Đức Giêsu nhấn mạnh đến việc trao tặng nhưng-không, tỏ bày lòng từ bi thương xót và sự tốt lành cho người anh em. Đấy là yếu tố chính, lãnh vực chuyên biệt để chúng ta hành động. Tuy nhiên, cũng không được quên những giáo huấn khác của Đức Giêsu. Nhận biết uy quyền của Người và quyền lực của Chúa Cha làm cho chúng ta có khả năng và thúc đẩy chúng ta hành động theo các tiêu chuẩn của Chúa Cha cũng là của Đức Giêsu.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Tất cả những gì chúng ta là và có đều là của cải được ký thác. Chúng ta không được phung phí theo ngẫu hứng, nhưng phải sử dụng theo ý muốn của Thiên Chúa và nhằm phục vụ Ngài (25,14-30). Bài Tin Mừng hôm nay cho biết ý muốn của Thiên Chúa là gì và việc phục vụ được yêu cầu hệ tại điều gì: giúp cho một người ở trong tình cảnh quẫn bách là giúp chính Đức Giêsu. Việc giúp đỡ ấy khiến chúng ta được chấp nhận trong ngày phán xét để được đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Từ khước hoặc bỏ qua không giúp đỡ người khác sẽ khiến chúng ta bị kết án vào ngày phán xét và đưa chúng ta đến hình phạt đời đời.
2. Những người nghèo khó túng cực tự họ không thể tự đồng hóa với Đức Giêsu, nhưng chính Người tự đồng hóa với họ. Do đó, mỗi việc giúp đỡ dành cho những người nhỏ bé có một giá trị bền vững. Đàng sau mỗi người, và nhất là đàng sau mỗi người nhỏ bé, yếu đuối, bị thử thách, có Đức Giêsu đang hiện diện; trong con người này, Đức Giêsu gặp chúng ta và xin chúng ta giúp đỡ. Do Đức Giêsu, mỗi người nhận được một phẩm giá thường hằng, và hành động được thực hiện vì Người sẽ nhận được một giá trị vô song và quyết định đối với số phận của mình.
3. Đức Giêsu không nói: Ta đã bị bệnh và các ngươi đã chữa ta lành, Ta đã bị tù và các ngươi đã giải thoát Ta. Chữa lành bệnh tật và giải phóng thường vượt quá khả năng chúng ta. Tuy nhiên, để chia sẻ thì không cần nhiều của cải hoặc những tài năng đặc biệt, nhưng cần một trái tim rộng mở và có lòng thương cảm. Bởi vì có rất nhiều nhu cầu khác nhau, về thể lý, tâm lý hoặc tinh thần. Điều đầu tiên là phải có con mắt, trái tim và sự nhạy cảm; nhất là phải nhận ra nhu cầu của người anh chị em.
4. Bài học của đoạn Tin Mừng này đã rõ: Đến cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu. Những người công chính là những người đã chu toàn Luật Thiên Chúa, như chính Đức Giêsu đã diễn tả qua điều răn lớn nhất. Một lần nữa, ở đây, Người lại đồng hóa tình yêu đối với tha nhân với tình yêu đối với Thiên Chúa. Để những việc ta làm cho anh chị em được gọi là “tốt”, ta hãy làm việc ấy cho chính Thiên Chúa.
5. Tác giả Mt tin rằng Hội Thánh Kitô giáo không có một vị trí đặc biệt nào tại cuộc phán xét. Các Kitô hữu cũng bị xét xử bởi Con Người, Đức Chúa của họ, chỉ dựa trên các hành vi yêu thương họ đã làm, y như bất cứ người nào khác. Chính vì thế, họ chẳng có gì để tự mãn.
Thế giới này còn một số giữ lại chức vị Vua. Tuy nhiên, Vua chỉ đứng cho có vì bởi vì thực quyền: TN 34-ABC94
Thế giới này còn một số giữ lại chức vị Vua. Tuy nhiên, Vua chỉ đứng cho có vì bởi vì thực quyền vẫn là Tổng Thống hay Thủ Tướng. Chúa Giêsu được tung hô là Vua nhưng là Vua vũ trụ loài người theo mặt thiêng liêng.
Trước mặt Philatô, Philatô hỏi Chúa Giêsu:” Ông có phải là Vua không ? “. Thực tế, Philatô chẳng hiểu gì về Chúa Giêsu. Ông nghe nói nhiều về Ngài, Ông biết Chúa là Đấng vô tội, nhưng sự nhát đảm, hèn yếu và sợ bị mất ngai vàng đã làm cho Ông tối mắt lại. Quả Đức Giêsu không nói rõ mình là Vua, Ngài cũng tránh và lẩn trốn để dân chúng không tôn vương Ngài, nhưng Chúa lại nói nhiều đến Nước của Ngài. Nước của Chúa là Nước Trời, không thuộc thế gian này. Do đó, Philatô chẳng có gì phải sợ, chẳng có gì phải e dè vì Chúa đâu có làm Vua theo kiểu thế gian. Nước của Ngài không phải là một cơ cấu chính trị, có quân đội, có lãnh thổ trên bản đồ. Tuy nhiên, ai nghe tiếng Ngài, thực hiện lời Ngài và đứng về phía sự thật thì thuộc Nước của Ngài.
Chúa Giêsu là Vua khiêm nhượng, Vua tình yêu. Sống yêu thương là sống trong Vương Quốc của Ngài. Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay mô tả cho các môn đệ về ngày tận thế. Vào ngày cánh chung, Chúa sẽ ngự đến trong vinh quang, có các thiên sứ theo hầu, Chúa sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Muôn dân, muôn nước sẽ qui tụ chung quanh Người, Chúa sẽ phân chia họ như mục tử tách biệt chiên và dê. Bên phải, Người sẽ để các chiên đứng, ngồi và bên trái là dê.. Chúa vừa là Vua, vừa là thẩm phán. Người phân xử họ theo lẽ công bằng và theo đường chính trực. Người tuyển chọn công dân của người một cách thật hoàn hảo, nhưng cũng hoàn toàn bất ngờ đến nỗi những người được chọn cũng không hề bao giờ biết tới :” Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc ? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu ? “ ( Mt 25, 37-39 ). Vua tình yêu là như thế. Ngài đã đồng hóa với những kẻ bé nhỏ, những kẻ đau ốm, những kẻ tù đầy, những kẻ đói khát, trần truồng. Và mỗi khi chúng ta làm một nghĩa cử yêu thương là chúng ta làm cho chính Chúa bởi vì Chúa đã nói :” Mỗi lần các ngươi làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta “ ( Mt 25, 40 ).
Vâng, người Kitô hữu muốn trở nên công dân Nước Trời thực sự khi họ biết thực hiện những nghĩa cử yêu thương đối với những người nghèo khó, bé nhỏ, cơ cực. Đối với Chúa thưởng hay phạt, bị coi là dê, hay được xếp vào loại dê hay không là do con người có làm hay không làm những nghĩa cử yêu thương, những việc bác ái cho những kẻ bần cùng, bất hạnh.
Vua Giêsu luôn sống hòa đồng với con người ngoại trừ tội lỗi, Người sống cho dân, vì dân và sống trong dân. Người đồng hóa với những con người cùng cực nhất, bé nhỏ nhất. Nên, mỗi lần từ chối giúp đỡ, hay từ chối làm những nghĩa cử yêu thương đối với những kẻ thấp cổ bé họng, những kẻ khó nghèo là tự chuốc lấy án phạt muôn đời…
Chúa là Vua yêu thương, Người xét xử thần dân của Người bằng tình yêu thương, bằng lẽ công chính, thần dân của Ngài cũng phải đối xử với nhau, với tha nhân bằng tình yêu thương chân thật.
Lạy Chúa:” Chúa là Vua ngự trị muôn đời. Người tuôn đổ phúc lành cho dân hưởng bình an “ ( Tv 28, 10-11 ). Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng “ (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
Chúa Giêsu có phải là Vua không ? Tại sao Philatô lại muốn hỏi Chúa Giêsu về tước hiệu Vua ? Vua Tình Yêu là gì ? Tiêu chuẩn làm công dân Nước Trời ? Chúa Giêsu đồng hóa với những ai ?
Có những người gọi đây là “dụ ngôn về cuộc phán xét thế gian”. Tuy nhiên, nếu muốn đúng: TN 34-ABC95
Có những người gọi đây là “dụ ngôn về cuộc phán xét thế gian”. Tuy nhiên, nếu muốn đúng nghĩa dụ ngôn, chúng ta chỉ có cc. 32b-33, được coi như một dụ ngôn ngắn. Phần lớn của bản văn được tạo nên bởi hai mẩu “đối thoại phán xét” chính (cc. 34-40.41-45). Có thể gọi đây là một bức họa về phán xét. Đây không phải là một bản văn khải huyền, vì không có thị kiến, cũng không phải là một bài huấn giáo về phán xét, vì không có một lần nào bản văn ngỏ lời trực tiếp với các độc giả.
Qua bản văn hôm nay, chúng ta gặp được niềm hy vọng của Hội Thánh vào Đức Kitô quang vinh (“Chúa” [Kyrios]: cc. 37.44; Đức Vua: cc. 34.40 // “mục tử”: c. 32). Hẳn là tác giả đã lấy cảm hứng từ các bản văn ngôn sứ như Tv 2,7; 110,1-3; Đn 7,14. Tuy nhiên, ngoại trừ quang cảnh hùng vĩ đó, sứ điệp trọng tâm của bản văn vẫn không khác sứ điệp của những bản văn đi trước: Người đầy tớ trung tín (24,45-51), Các trinh nữ (25,1-13), Ba người tôi tớ (25,14-30) trong đó ta thấy cuộc gặp gỡ với ông chủ, cũng được gọi là kyrios, kết thúc với phần thưởng hoặc hình phạt.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần: 1) Quang cảnh Phán xét cuối cùng (25,31-33); 2) Xét xử những người bên phải (25,34-40); 3) Xét xử những người bên trái (25,41-45); 4) Kết luận (25,46).
3.- Vài điểm chú giải
- muôn dân (32): Theo S. Hre Kio (“Understanding and Translating “Nations” in Mt 28,19”, dans The Bible Translator 41 (1990) 236), trong số 16 lần từ ngữ ethnê được dùng trong Mt, chỉ có ba lần liên hệ với cuộc phán xét thế gian (24,7; 24,14; 25,32), thì rất có thể từ ngữ phải được hiểu theo nghĩa tổng quát, không giới hạn (= Do Thái + Dân ngoại); trong những trường hợp khác, từ này được hiểu là “Dân ngoại” (4,15; 5,47; 6,7; 6,32; 10,5; 10,18; 12,18; 12,21; 18,17; 20,19; 20,25; 21,43; 24,9).
- tập hợp trước mặt Người (32): Cựu Ước cũng đã nói đến cuộc quy tụ hoành tráng các dân trên thế giới lại để chịu Thiên Chúa phán xét (Ge 4,2; Is 66,18; Gr 25,31; v.v.). Ở đây chúng ta cũng gặp lại viễn tượng ấy: đây không còn phải là cử chỉ từ bi thương xót của người mục tử cánh chung quy tụ những người được chọn (Mk 4,6; Xp 3,19; Ed 34,12-13) hoặc quy tụ cả Do Thái lẫn Dân ngọai vào một đoàn duy nhất (Gr 3,17), nhưng là hành vi uy quyền triệu tập loài người ra trước tòa Thiên Chúa.
- tách biệt chiên với dê (32): Chính xác thì đây là chiên và dê con. Ban ngày chúng có thể đi chung, nhưng về đêm người ta phải tách dê con ra để giữ cho chúng ấm. Vì chiên thì có giá trị hơn dê con, ta hiểu tại sao chiên được đặt về bên phải vị Thẩm phán cánh chung, vì chỗ bên phải là chỗ danh dự.
- Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn (37): Không phải là những người lành quên, nhưng họ không biết là khi giúp đỡ những người túng cực là họ đã làm cho chính Con Người. Ý nghĩa tròn đầy của các hành vi của họ chỉ được vén mở vào giờ cuối cùng. Điều này hoàn toàn phù hợp với nền luân lý của Mt (“Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”, Mt 6,4).
- những anh em bé nhỏ nhất (40): Từ ngữ “bé nhỏ” (nêpios và mikros) được dùng nhiều lần trong Mt để gọi những thành viên yếu hơn hoặc có nhu cầu hơn trong cộng đoàn (11,25; 26,16: nêpios; 10,42; 13,32; 18,6; 26,39.73: mikros), còn từ elakistos, “bé nhỏ nhất” để gọi con người thì chỉ xuất hiện trong bản văn ở đây mà thôi. Dường như từ này không đồng nghĩa với hai từ trên, mà lại có nghĩa xã hội nhiều hơn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn của chúng ta là bản văn cuối cùng trước khi truyện Thương Kho bắt đầu, đồng thời, là giáo huấn cuối cùng Đức Giêsu ban cho các môn đệ.
* Quang cảnh Phán xét cuối cùng (31-33)
Bản văn mở ra với một quang cảnh hùng vĩ: Con Người “đến trong vinh quang”: Người vẫn là mục tử “tách biệt chiên với dê”, nhưng cũng là Đức Vua uy phong chủ trì cuộc xét xử chung cuộc. Chúng ta mường tượng ra khung cảnh được nói đến trong dụ ngôn Cỏ lùng (13,41-43), với cùng những nhân vật (một bên: Con Người, các thiên thần, Chúa Cha, những người công chính, những người làm việc tốt; bên kia: ma quỷ, các thiên thần của ma quỷ, những kẻ xấu, những kẻ bị chúc dữ), nhưng được triển khai rộng ra. Đức Giêsu xuất hiện trong vinh quang của Người, chung quanh có các thiên thần, ngự trên một cái ngai vinh quang (c. 31). Tất cả những yếu tố mô tả đây là biểu tượng của sự hiện diện và quyền lực của Thiên Chúa. Vinh quang là sự hiển lộ rạng rỡ, chói ngời của Thiên Chúa. Các thiên thần đứng trước nhan Người làm chứng về sự hiện diện của Người. Cái ngai tượng trưng uy quyền của Người, từ đó Người điều khiển cách chắc chắn.
* Xét xử những người bên phải và bên trái (34-45)
Đã có quyền lực và sự uy hùng của Thiên Chúa, Đức Giêsu thực hiện việc xét xử. Lời tuyên án có tính vĩnh viễn, không thể hồi tố. Đức Giêsu đã đến như “Con Người”, Đấng đã được Thiên Chúa trao cho quyền chúa tể, vương vị và vương quyền (x. Đn 7,14). Người tuyên án như “Đức Vua” đang thi hành quyền chúa tể vô song (25,34.40). Người hành động như là “Con Thiên Chúa” đang lên tiếng nhân danh Chúa Cha (x. 25,34) và đứng về phía những người túng quẫn, được coi như là anh em Người và con Thiên Chúa (c. 40). Người được mọi người có mặt nhận biết như là “Chúa tể” (cc. 37.44). Trong cuộc xét xử, địa vị và uy quyền của Đức Giêsu cũng như trọng lượng lời Người và hành động của Người được tỏ bày.
Mọi dân tộc, tất cả mọi người không ngoại lệ, phải trả lẽ về mình trước nhan Người. Tức khắc có một chi tiết khiến chúng ta ngạc nhiên: Đây không phải là những người Israel (23,37–24,31) hoặc các Kitô hữu (24,45–25,30) mà là “muôn dân” (panta ta ethnê) (c. 32). Cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước, “các dân tộc” (ta ethnê) dường như là một tên chuyên được dùng để gọi các Dân ngoại. Tuy nhiên, ở đây cũng có thể hiểu theo nghĩa bao quát: dân Chúa và Dân ngoại. Tác giả Mt viết cho một giáo đoàn hỗn hợp, gồm các Kitô hữu gốc Do Thái và Dân ngoại, để giáo huấn họ về việc đưa Lời Chúa ra áp dụng (24,45–25,30; x. Rm 2,13). Đến ngày tận thế, mọi người, dân Do Thái cũng như người ngoại, đều được triệu tập đến trước mặt vị Thẩm phán tối cao. Không ai có thể coi như không có Người. Mỗi người sẽ bị xét xử theo tiêu chuẩn chính Người quy định và Người xác định số phận đời đời cho từng người. Bất kể địa vị, giai cấp xã hội, phái tính, giống nòi hoặc tuổi tác, mọi người đều bị xét xử theo một tiêu chuẩn như nhau.
Khi đó, tất cả sẽ bị xét xử, không phải tùy theo những công trạng đã đạt hoặc những lỗi đã phạm đối với các khoản luật lệ nào, nhưng là những lỗi phạm đến anh chị em đồng loại. Bản văn không nêu ra những việc như là một cuộc trả thù chống lại các thẩm phán bất công và các bạo chúa đã áp bức Israel hoặc dân mới của Thiên Chúa, nhưng nêu ra những việc đã không làm cho hạng người cùng rốt trong bậc thang xã hội. Đây là những việc làm cho con người (“những anh em”), trong tư cách là con người, chứ không phải là trong tư cách là người Israel hay là Kitô hữu. Cũng không có nét gì là chuyên biệt tôn giáo trong các công việc này. Đức Giêsu đã gọi những ai thi hành ý muốn của Cha Người là “anh em” Người (12,48-50). Nhưng ở đây trong tư cách vị thẩm phán, Người lại nói đến “những anh em bé nhỏ nhất”, tức là những người cùng chia sẻ thân phận nghèo khó và khiêm tốn như Người (x. 11,28-30). Đức Giêsu thích tự đồng hóa với những người bé nhỏ, bởi vì đức tính tapeinôsis, “sự khiêm nhường”, là nhân đức căn bản của Người (x. 11,28-36) và những người yếu đuối là đối tượng Người ưu ái chăm sóc. Tất cả mọi người đều là “anh em” Người (x. Rm 8,29; Dt 2,11.17), nhưng những người túng quẫn hơn và xấu số mới là “anh em” Người cách gần gũi nhất.
Lời tuyên án được công bố vào cuối một cuộc đời hoặc cuối một kinh nghiệm, nhưng án xử thì được thực hiện dọc theo dòng lịch sử. Có thể nói mỗi người xây dựng chính hạnh phúc hay bất hạnh vĩnh cửu ngày qua ngày. Loài người sẽ bị xét xử không phải về những gì đã nghĩ hoặc đã nói, nhưng về những gì đã làm cho chính anh em mình. Không phải mọi người đều đã biết Đức Giêsu, nhưng mọi người đều có một nẻo đường để gặp được Người, đó là nẻo đường “các việc từ bi thương xót”; đó chính là các việc Người đã làm. Ta gặp lại giáo huấn của Đức Giêsu: không phải là nói như Đức Kitô, nhưng là hành động như Người, mới được chiếu cố. Khi săn sóc những người “nhỏ bé nhất”, những người túng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những người trần truồng, những người ngồi tù (cc. 35-36), ta vừa làm giống như Đức Kitô vừa săn sóc chính Đức Kitô. Ta giúp đỡ Đấng một ngày kia sẽ là thẩm phán.
Khi nhắc đến một vài nhu cầu sơ đẳng, như thiếu thức ăn, thức uống, nơi ở, quần áo, và cả tình trạng bệnh tật và tù đày, Đức Giêsu không muốn cung cấp một danh sách rốt ráo. Người không yếu cầu điều không thể làm được, nhưng việc tặng ban và giúp đỡ vừa sức chúng ta.
Những ai đã dấn thân làm việc tốt, Đức Giêsu gọi họ là “những kẻ Cha Ta chúc phúc” và ban cho họ Vương quốc vĩnh cửu (c. 34). Thiên Chúa trong tư cách là Cha của Đức Giêsu đã chúc phúc cho họ.
* Kết luận (46)
Như một mặt trời, lòng tốt của Đức Giêsu và tình yêu của Người rọi tới họ, làm cho họ tươi nở trong niềm vui và hạnh phúc, và ban cho họ sự sống viên mãn (c. 46). Những gì họ đã trao tặng cho người thân cận với sức yếu đuối nay nhận được đầy tràn do Thiên Chúa ban: tình yêu, sự hiệp thông, sự sống và niềm vui.
Còn những người khác thì bị loại khỏi nhan Thiên Chúa. Lửa tượng trưng sự dày vò và đau đớn giáng xuống trên tất cả những ai bị loại không được nhạn sự chúc phúc và sự sống của Thiên Chúa. Họ không được sống trong sự nhân lành chói chan của Chúa Cha và trong cộng đoàn những người có sự tốt lành này. Số phận của họ là cộng đoàn những kẻ ích kỷ và thất bại, là sự thù ghét căm hờn.
+ Kết luận
Bài diễn từ đầu tiên của Đức Giêsu bắt đầu bằng phúc lành (5,3-12), bài cuối cùng kết thúc bằng cảnh phán xét cuối cùng. Toàn thể giáo huấn của Đức Giêsu được gom lại giữa hai giáo huấn quan trọng này, là những giáo huấn nói về những gì chúng ta có thể chờ đợi từ nơi Thiên Chúa và những gì chính chúng ta phải làm. Trong bài nói về phán xét cuối cùng, Đức Giêsu nhấn mạnh đến việc trao tặng nhưng-không, tỏ bày lòng từ bi thương xót và sự tốt lành cho người anh em. Đấy là yếu tố chính, lãnh vực chuyên biệt để chúng ta hành động. Tuy nhiên, cũng không được quên những giáo huấn khác của Đức Giêsu. Nhận biết uy quyền của Người và quyền lực của Chúa Cha làm cho chúng ta có khả năng và thúc đẩy chúng ta hành động theo các tiêu chuẩn của Chúa Cha cũng là của Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tất cả những gì chúng ta là và có đều là của cải được ký thác. Chúng ta không được phung phí theo ngẫu hứng, nhưng phải sử dụng theo ý muốn của Thiên Chúa và nhằm phục vụ Ngài (25,14-30). Bài Tin Mừng hôm nay cho biết ý muốn của Thiên Chúa là gì và việc phục vụ được yêu cầu hệ tại điều gì: giúp cho một người ở trong tình cảnh quẫn bách là giúp chính Đức Giêsu. Việc giúp đỡ ấy khiến chúng ta được chấp nhận trong ngày phán xét để được đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Từ khước hoặc bỏ qua không giúp đỡ người khác sẽ khiến chúng ta bị kết án vào ngày phán xét và đưa chúng ta đến hình phạt đời đời.
2. Những người nghèo khó túng cực tự họ không thể tự đồng hóa với Đức Giêsu, nhưng chính Người tự đồng hóa với họ. Do đó, mỗi việc giúp đỡ dành cho những người nhỏ bé có một giá trị bền vững. Đàng sau mỗi người, và nhất là đàng sau mỗi người nhỏ bé, yếu đuối, bị thử thách, có Đức Giêsu đang hiện diện; trong con người này, Đức Giêsu gặp chúng ta và xin chúng ta giúp đỡ. Do Đức Giêsu, mỗi người nhận được một phẩm giá thường hằng, và hành động được thực hiện vì Người sẽ nhận được một giá trị vô song và quyết định đối với số phận của mình.
3. Đức Giêsu không nói: Ta đã bị bệnh và các ngươi đã chữa ta lành, Ta đã bị tù và các ngươi đã giải thoát Ta. Chữa lành bệnh tật và giải phóng thường vượt quá khả năng chúng ta. Tuy nhiên, để chia sẻ thì không cần nhiều của cải hoặc những tài năng đặc biệt, nhưng cần một trái tim rộng mở và có lòng thương cảm. Bởi vì có rất nhiều nhu cầu khác nhau, về thể lý, tâm lý hoạc tinh thần. Điều đầu tiên là phải có con mắt, trái tim và sự nhạy cảm; nhất là phải nhận ra nhu cầu của người anh chị em.
4. Bài học của đoạn Tin Mừng này đã rõ: Đến cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu. Những người công chính là những người đã chu toàn Luật Thiên Chúa, như chính Đức Giêsu đã diễn tả qua điều răn lớn nhất. Một lần nữa, ở đây, Người lại đồng hóa tình yêu đối với tha nhân với tình yêu đối với Thiên Chúa. Để những việc ta làm cho anh chị em được gọi là “tốt”, ta hãy làm việc ấy cho chính Thiên Chúa.
5. Tác giả Mt tin rằng Hội Thánh Kitô giáo không có một vị trí đặc biệt nào tại cuộc phán xét. Các Kitô hữu cũng bị xét xử bởi Con Người, Đức Chúa của họ, chỉ dựa trên các hành vi yêu thong họ đã làm, y như bất cứ người nào khác. Chính vì thế, họ chẳng có gì để tự mãn.
Mt 25:31-46: 31 "Khi con Người đến trong vinh quang của Ngài, và cùng với Ngài, hết thảy các thiên thần, bấy giờ Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Ngài. 32 Các dân thiên hạ được thâu họp lại trước mặt Ngài hết thảy, và Ngài phân tách người ta ra khỏi nhau, một thể như người chăn chiên tách chiên ra khỏi dê. 33 Chiên thì Ngài đặt bên phải, còn dê thì ở bên trái. 34 Bấy giờ Vua sẽ nói với những người ở bên phải: "Hãy đến! hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy lĩnh lấy làm cơ nghiệp Nước đã dọn cho các ngươi từ tạo thiên lập địa. 35 Vì xưa Ta đói mà các ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát mà các ngươi đã cho Ta uống, Ta là khách lạ mà các ngươi đã tiếp rước, 36 Ta mình trần mà các ngươi đã cho Ta mặc, Ta đau yếu mà các ngươi đã thăm viếng, Ta ở tù mà các ngươi đã đến với Ta". 37 Bấy giờ kẻ lành đáp lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng tôi thấy Người đói mà đã nuôi dưỡng, khát mà đã cho uống; 38 có bao giờ chúng tôi thấy Người là khách lạ mà đã tiếp rước, mình trần mà đã cho mặc; 39 có bao giờ chúng tôi thấy Người đau yếu hay ở tù mà chúng tôi đã đến với Người" 40 Ðáp lại Vua sẽ nói với họ: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất này của Ta, là các ngươi đã làm cho chính mình Ta". 41 Bấy giờ Ngài cũng sẽ nói với những người bên trái: "Hỡi phường bị chúc dữ, hãy xéo đi xa Ta, mà vào lửa đời đời đã dọn sẵn cho ma quỉ cùng chư thần của nó. 42 Vì xưa Ta nói mà các ngươi không cho Ta ăn, Ta khát mà các ngươi không cho Ta uống, 43 Ta là khách lạ mà các ngươi không tiếp rước, Ta mình trần mà các ngươi không cho mặc, Ta đau yếu và ở tù mà các ngươi đã không thăm viếng". 44 Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng tôi đã từng thấy Người đói hay khát, khách lại hay mình trần, liệt lào hay ở tù, mà chúng đã lại không giúp đáp Người? 45 Bấy giờ Ngài đáp họ rằng: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, những gì các ngươi đã không làm cho một người nào trong các kẻ hèn mọn nhất này, là các ngươi đã không làm cho chính mình Ta". 46 Và chúng sẽ phải vào cực hình đời đời, còn kẻ lành thì được vào sự sống đời đời".
Đây là dụ ngôn cuối cùng trong loạt các dụ ngôn nói về việc Chúa đến bất ngờ; và do đó phải: TN 34-ABC96
Đây là dụ ngôn cuối cùng trong loạt các dụ ngôn nói về việc Chúa đến bất ngờ; và do đó phải luôn luôn sẵn sàng (24:36-25:46). Đây cũng là giáo huấn cuối cùng của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi tin mừng Matthêô bước sang trình thuật Thương Khó. Về bố cục của đoạn 25:31-46, có thể phân chia như sau: - Bối cảnh buổi phán xét cuối cùng (25:31-33); - Đối thoại trong ngày phán xét chia làm hai phần: - Giữa thẩm phán với người bên phải (25:43-40) và - với những người bên trái (25:41-45); - Kết luận về số phận đối nghịch của hai nhóm (25:46).
Hai cuộc đối thoại có cấu trúc tương tự nhau, gồm: - Tuyên bố của vị vua về ân thưởng và hình phạt của mỗi nhóm dựa trên những gì họ đã làm hoặc không làm (cc. 34-36 và 41-43); - Đáp lời của mỗi nhóm (cc. 37-39 và 44); - Kết luận của vị vua, kèm theo cụm từ “Quả thật Ta bảo các ngươi” (cc. 40 và 45). Các lời đối đáp giữa vị vua và mỗi nhóm mở đầu bằng, tote, “bấy giờ” (cc. 34.37.41.44.45).
Mỗi cuộc đối thoại có cấu trúc lập lại: mỗi nhóm lập lại gần như từng chữ lời tuyên bố của vị vua: “đói/cho ăn”, “khát/cho uống”, “khách lạ/ tiếp đón”, “trần truồng/ chommặc”… (c. 35-36) – “đói/nuôi dưỡng”…. (c. 37-39). (x. W.D.Davies - D.C.Allison, The Gospel According to Saint Matthew. A Critical and Exegetical Commentary (ICC; Edinburgh: Clark, 1988, 1991, 1997) III, p. 416). Như thế các việc làm hay không làm cho Chúa được lập lại đến bốn lần. Và càng về sau, chi tiết càng được rút ngắn lại.
Bối cảnh buổi phán xét cuối cùng (cc. 31-33)
Trong ba câu dẫn nhập, Matthêô trình bày quang cảnh Con Người đến. Quang cảnh nầy gồm những yếu tố đã gợi lên trong tin mừng Matthêô trước đây (10:23; 13:41.49-50; 16:27-28; 19:28; 24:30-34; x. Đan 7:13-14). Đặc điểm của phần dẫn nhập nầy là các động từ ở thì tương lai. Chỉ những sự việc sẽ xảy ra trong ngày phán xét sẽ đến. Trong dẫn nhập nầy Matthêô không nói gì đến “lúc nào” Chúa đến (x. 24:36), mà chỉ trình bày ý nghĩa của việc Người đến. Quang cảnh nầy nhấn mạnh vinh quang của Con Người. Người “ngồi trên ngai”, “trong vinh quang của Người”, và “các thiên thần bao quanh Người”. Người thi hành quyền phán xét trên các dân tộc như một mục tử tách chiên ra khỏi dê. “Vinh quang của Người” (19:28) hay “trong vinh quang của Người” (c. 31[2x]) thật ra không phải vinh quang của riêng Người, mà là “vinh quang của Cha Người” (x. 16:27). Tính từ sở hữu autou, “của Người”, được dùng để nhấn mạnh tính cách Kitô trong cuộc hiển lâm nầy. Vị trí “ngồi trên ngai” là vị trí của một vị vua, và từ “ngai vinh quang của Người” Người thực hiện việc phán xét các dân tộc.
Ethnos, “dân tộc”, và cũng có nghĩa là “người-không Do thái”, rồi sau nầy “người-không Kitô hữu”. Khó có thể tưởng tượng có hai cuộc phán xét, một cho mười hai chi tộc Israel (19:28) và một cho muôn dân (25:31-32). Con Người chỉ đến một lần và trong lần ấy Người phán xét mọi dân tộc, trong đó có cả dân Israel. Vậy panta ta ethnç (c. 33) chỉ cách chung mọi dân trên mặt đất; hay nói cách khác là mỗi người, hekatos, như trong một lời tiên báo khác về việc ngự đến và phán xét của Con Người (16:27). Điều nầy có lẽ phù hợp hơn cho việc giải thích đoạn kế tiếp khi nói đến việc đối xử bác ái với “từng người anh em hèn mọn” (c. 40). Việc phán xét mang tính cách cá nhân. Việc nầy được hình tượng hoá qua hình ảnh phân tách chiên ra khỏi dê. Trong Do thái giáo “bên hữu” được quan niệm là bên tốt lành mang lại phúc lành; còn “bên tả” là bên xấu và bị chúc dữ.
Đối thoại trong ngày phán xét (cc. 34-45)
Con Người đang ngồi trên ngai được gọi là “Vua”, basileus. Những đoạn trước đã nói đến vai trò phán xét của Con Người (x. 13:41-43; 16:27). Chúa Giêsu với tư cách là vua khi Người phán xét. Nhiều lần trong Matthêô nói đến Người với tước hiệu là “Vua” (2:2; 21:5; 22:11; 27:11.29.37 và 42), và cũng nói về vương quốc của Người (13:41; 16:28; 20:21). Deute, “Hãy đến”, nhắc nhớ lời mời của một vị vua sai các đầy tớ đi nói với những người đã được mời đến dự tiệc cưới đã sẵn sàng (22:4). Và giữa những “người được chúc phúc, eulogçmenos, của Chúa Cha”, Chúa Giêsu là người đầu tiên được gọi bằng tên nầy (x. 21:9; 23:39). Người được hưởng vinh quang Nước của Cha Người trước tiên. Động từ khçronomeô, “thừa hưởng” xuất hiện 3 lần trong Matthêô (5:5; 19:29; 25:34), và đều có Nước Trời hay sự sống đời đời làm đối tượng. Về việc thừa hưởng Nước Trời xem 5:19-20; 7:21; 8:11... Nước Trời nầy hoặc chỗ trong Nước Trời đã được do chính Chúa Cha chuẩn bị (thành ngữ tương tự trong 20:23), “từ lúc tạo thành vũ trụ” (25:34; thành ngữ tương tự trong 13:35). Như thế, trong việc ân thưởng cho những người được chúc phúc, mục đích cứu độ của Thiên Chúa được viên thành.
Tiếp theo là cuộc đối thoại với những người bên hữu (cc. 34-40). Chúa Giêsu kể ra những việc họ đã làm. Các động từ ở thì bất định (aorist) chỉ các hành động tốt họ đã được thực hiện rồi trong đời của họ (cc. 35-39). Chính Chúa Giêsu đồng hoá với những người có thiếu thốn nầy; bởi đó những ai làm những việc nầy được kể là “những người được chúc phúc”. Các việc bác ái nầy được nói nhiều đến trong Cựu Ước (Is 58:7; Ezk 18:7.16; Gióp 22:6-7; 31:17.19.21.31-32; Tob 1:16-17; 4:16; Sir 7:34-35). Những điều được nêu ra là những nhu cầu căn bản của sự sống.
Những người đứng bên hữu được gọi bằng một tên khác nữa là “những người công chính”(c. 37.46). Họ đã không biết là họ đã làm cho chính Chúa Giêsu khi họ giúp đỡ những người thiếu thốn. Do đó họ đã đặt ra một lần ba câu hỏi: “Có bao giờ chúng tôi thấy…” (cc. 37-39). Những câu hỏi nầy cũng sẽ được lập lại, ngắn gọn hơn, nơi những người đã không giúp đỡ những người thiếu thốn (c. 44). Cả hai nhóm người đã làm điều tốt hay đã không làm điều tốt, đều không biết Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với những người thiếu thốn. Điều nầy muốn nói việc nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Người là yếu tố thiết yếu và không thể thiếu để được vào Nước Trời.
Chúa Giêsu đưa ra nguyên tắc, trung tâm của trình thuật, bắt đầu bằng công thức trang trọng “Quả thật, Tôi nói cho anh em”, “những gì các ngươi đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất này của Tôi, là các ngươi đã làm cho chính mình Tôi” (c. 40). Ai là “người anh em hèn mọn nhất của Tôi?” Trong tin mừng Matthêô “Anh em của Tôi” chỉ các môn đệ của Người (12:48-49; 28:10). Đàng khác, những người “hèn mọn”, oi mikroi, thường chỉ các môn đệ (18:6.10.14). Và chính câu 10:42 xác nhận “những người bé mọn nhất” là các môn đệ của Chúa Giêsu khi Người quả quyết một chén nước cho các môn đệ của Người sẽ không mất phần thưởng sau nầy. Hơn nữa trong mạch văn ấy, Chúa Giêsu đã đồng hoá trọn vẹn giữa Người và các môn đệ của Người (10:40tt).
Đối thoại với những người bên tả (cc. 41-45). Ý tưởng của những lời Chúa Giêsu nói trong phần nầy tương tự như trong cc. 34-40, và dưới dạng phủ định (7 mệnh đề). Đồng thời, có những từ ngữ và cụm từ đối nghĩa so với đoạn trước: “Các ngươi hãy đi khỏi mặt Ta” (“hãy đến” trong c. 34), “những kẻ bị chúc dữ, katçramenoi, (“những người được chúc phúc” trong c. 34). Trong câu 41 có những bất đối xứng so với câu 34: Matthêô tránh không nói “những kẻ bị Cha Ta chúc dữ” (so sánh “những người được Cha Ta chúc phúc”), và không nói “lửa đời đời được chuẩn bị sẵn từ tạo thiên lập địa” (so sánh “Nước Trời đã được chuẩn bị từ tạo thiên lập địa”), bởi vì Thiên Chúa không tạo dựng con người để hủy diệt nó.
Danh sách các việc tốt như trong các câu 35-36 được nhắc lại, nhưng được rút ngắn lại. Những người thuộc nhóm bên tả nầy đã không làm cho Chúa Giêsu đúng những điều mà những người công chính đã làm. Lần nữa Chúa Giêsu khẳng định qua những việc làm cụ thể tương quan mật thiết giữa Người với những người thiếu thốn. Trong câu 41, nhóm người bên tả nầy tóm lại những việc đáng lý họ phải làm cho Chúa Giêsu trong động từ diakoneô, “phục vụ”. Họ đã không phục vụ, nghĩa là đã không giống như Người (20:28), và không được chúc phúc như Người và nhóm người bên hữu.
Lời của vị vua kết thúc ở câu 45, và sau cùng là lời của thánh sử (c. 46). Lời kết nầy lập lại lời của Chúa Giêsu trong hai câu 34 và 41 về việc thưởng/phạt cho hai nhóm người. Việc thưởng/phạt nầy mang tính cách đời đời, aiônios, “cực hình đời đời”, “sự sống đời đời”. Vậy trong ngày phán xét, người công chính và người bị chúc dữ sẽ được tách ra cách dứt khoát và đời đời.
Khi ngày phán xét cùng tận đến, mỗi người sẽ được phán xét theo việc họ đã làm mà trong tương quan với Chúa Giêsu. Khi đã ra trước mặt vị Vua thẩm phán số phận mỗi người, hoặc được chúc phúc hoặc bị chúc dữ, sẽ không bao giờ có thể thay đổi nữa.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 25:31-46)
Bài Tin Mừng mô tả cuộc phán xét chung xảy ra dưới quyền thống trị của Con Người và cũng: TN 34-ABC97
Bài Tin Mừng mô tả cuộc phán xét chung xảy ra dưới quyền thống trị của Con Người và cũng là Đức Vua. Công và tội của thần dân trong vương quốc của Đức Vua được luận theo những gì họ đã đối xử với nhau, nhất là giúp đỡ chăm sóc những anh chị em đói khát, trần truồng, đau yếu và ngồi tù. Tiêu chuẩn xét xử duy nhất được Đức Vua đưa ra, đó là: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
Tiêu chuẩn luân lý rõ rệt này mang một ý nghĩa vô cùng sâu sắc và thực dụng, đến nỗi kẻ có công cũng không thể ngờ và người làm tội cũng không thể biện bạch chữa tội.
Trước hết tiêu chuẩn luân lý này nói lên tính đồng hóa của Đức Vua với công dân của Người. Đúng vậy, Đức Vua Ki-tô “vốn dĩ là Thiên Chúa… đã trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Phi-líp-phê 2:6,7), giờ đây không ngại đặt mình ngang hàng và trong số với những người đói khát, trần truồng, yếu đau và bị tù đày. Người còn gọi họ là “những người anh em bé nhỏ nhất của Ta”. Xác định như thế, Đức Vua Ki-tô muốn chúng ta phải nhìn những người anh chị em xấu số kia như chính bản thân Người. Chúa Giê-su và những người ấy không thể tách rời. Gặp họ là gặp chính Chúa. Đối xử với họ thế nào là đối xử với chính Chúa như vậy. Chính tiêu chuẩn luân lý này đã giải thích cho bộ luật của vương quốc được tóm tắt trong hai điều: yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như chính mình. Trên thế gian không có một vương quốc nào lại có bộ luật quá đơn giản nhưng lại thật súc tích như vậy. Vì thế tuy vương quốc của Đức Vua Giê-su bắt đầu từ trần gian nhưng lại không thuộc về trần gian. Mục đích của vương quốc là thể hiện tình yêu, làm cho mọi người được hạnh phúc nhờ tình yêu ngay khi họ đang sống và hạnh phúc vĩnh cửu sau khi họ được Đức Vua phán dạy: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”.
Nếu chính Đức Vua đã đồng hóa với con dân của Người, thì chúng ta, những công dân trong Vương Quốc của Người phải sống như thế nào? Khi giảng dạy về việc yêu thương, Đức Vua đã lập đi lập lại lối sống yêu thương như sau: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau NHƯ Thầy đã yêu thương anh em” (Gio-ABCn 15:12). Đức Vua đã yêu thương mọi người, không loại trừ ai. Người yêu thương kẻ thánh thiện, nhưng Người lại càng yêu thương người tội lỗi. Người yêu thương bằng việc làm, chữa lành bệnh tật cả thể xác lẫn linh hồn. Người yêu thương đến cùng, nghĩa là đến chết trên thập giá để cứu độ chúng ta. Cách đối xử của Đức Vua với thần dân Người là mẫu mực để họ đối xử với nhau như đối xử với chính Người.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Một thoáng suy nghĩ về Đức Vua Giê-su và Vương Quốc của Người cũng đủ đem lại cho chúng ta niềm hãnh diện và phấn khởi. Chúng ta hãnh diện vì có một Đức Vua bình dân, gần gũi, yêu thương và chăm sóc cho chúng ta như vậy. Nhiều khi chúng ta hãnh diện cầm cái thẻ hộ chiếu quốc gia trần thế lúc đi du lịch mà không hề gặp khó khăn, thì tại sao chúng ta lại không hiên ngang ngẩng đầu với lý lịch là công dân của Vương Quốc Đức Ki-tô? Tại sao chúng ta thán phục ông vua này hay tổng thống kia đã quan tâm đến người nghèo và cố gắng đẩy mạnh những kế hoạch giúp cho nước giàu dân mạnh, thì tại sao chúng ta không hướng về Đức Vua Giê-su để chiêm ngưỡng công trình cứu độ Người đã thực hiện bằng chính xương máu mình với một tình yêu “sẵn sàng thí mạng sống mình vì bạn hữu”?
Lễ Chúa Ki-tô Vua không chỉ nhắc nhở chúng ta nghĩ đến ngày khải hoàn của Người khi Người trở lại để phán xét thế gian, nhưng còn thúc giục chúng ta xác tín chức phận công dân của mình để thi hành luật yêu thương đã được đề ra và theo tiêu chuẩn “Ki-tô hóa” và cách thức “như” mà Chúa Giê-su đã dạy.
· Ed 34, 11-12. 15-17: (17) Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê.
· 1 Cr 15, 20-26. 28: (25) Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. (26) Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, (27) vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. (31) «Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. (32) Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. (33) Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. (34) Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: «Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. (35) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; (36) Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han». (37) Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: «Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; (38) có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? (39) Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?» (40) Đức Vua sẽ đáp lại rằng: «Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy». (41) Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: «Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. (42) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; (43) Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng». (44) Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: «Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?» (45) Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: «Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy». (46) Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Ngày phán xét, Vua Vũ Trụ sẽ phán xét con người dựa trên tiêu chuẩn nào? Ngài đã báo trước: TN 34-ABC98
1. Ngày phán xét, Vua Vũ Trụ sẽ phán xét con người dựa trên tiêu chuẩn nào? Ngài đã báo trước tiêu chuẩn ấy trong Tin Mừng chưa?
2. Ngài chỉ phán xét theo tiêu chuẩn duy nhất ấy thì có hợp lý không? Ta phải sống thế nào để trở nên công chính trong ngày phán xét ấy?
Suy tư gợi ý:
1. Phải tôn vinh Đức Giêsu là Vua của bản thân ta trước đã
Chúng ta tôn vinh Đức Giêsu là Vua Vũ Trụ, điều đó thật chính đáng. Nhưng nếu Ngài chỉ là Vua vũ trụ, chứ không phải là vua chính bản thân ta, vì vua của bản thân ta vẫn luôn luôn là «cái tôi» của ta, là những tham vọng của ta, thì việc tôn vinh ấy ích lợi gì? Ngài muốn được thật sự làm Vua của lòng ta, hơn là muốn ta tôn vinh, thờ phượng Ngài như là Chúa Tể của những gì không phải là ta. Chỉ khi nào Ngài thật sự là Vua của lòng ta, thì việc ta tôn vinh Ngài là Chúa Tể vũ trụ mới có ý nghĩa. Chỉ khi ấy, bản thân ta mới trở thành Nước Trời: «Nước Trời ở trong anh em» (Lc 17,21). Chính bản thân mỗi người có trở thành Nước Trời, thì gia đình, đoàn thể, Giáo Hội và thế giới mới trở thành Nước Trời được. Vậy, để xây dựng Nước Trời, ta phải bắt đầu từ chính bản thân ta đã, tương tự như lộ trình mà Khổng Tử đã đề ra: «tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ».
Vậy, điều trước tiên ta phải làm là nhận Đức Giêsu là Vua của bản thân mình đã. Nghĩa là trong mọi tình huống cuộc đời, ta phải coi Ngài quan trọng hơn chính bản thân và tất cả mọi thứ khác, thánh ý của Ngài quan trọng hơn ý riêng của ta hay của bất kỳ ai, nghĩa là hoàn toàn quy phục Ngài, tuân theo thánh ý Ngài được biểu lộ qua những đòi hỏi của tình yêu trong lòng ta. Vì bản chất của Ngài là tình yêu, nên nhận Ngài làm Vua của lòng mình, trong thực tế là luôn luôn làm theo đòi hỏi của tình yêu trong lòng mình. Đó cũng chính là nội dung giới luật yêu thương của Ngài, và cũng là tiêu chuẩn chính yếu nhất và duy nhất để vào được Nước của Ngài. Làm sao ta vào được Nước của Ngài khi ta chưa nhận Ngài là Vua của bản thân ta, khi tình yêu đối với Ngài chưa thật sự thống trị lòng ta?
2. Ngày phán xét, Thiên Chúa phán xét theo tiêu chuẩn nào?
Bài Tin Mừng này mặc khải cho ta biết vào ngày phán xét, Ngài xét đoán mọi người theo tiêu chuẩn nào. Bài Tin Mừng cho thấy Thiên Chúa chỉ phán xét theo một tiêu chuẩn duy nhất, đó là mỗi người đã yêu thương tha nhân, đặc biệt những người nghèo hèn bé mọn như thế nào. Bài Tin Mừng không nói đến việc Ngài xét về chuyện ta đã thờ phượng Thiên Chúa ra sao, đã cầu nguyện nhiều hay ít, có siêng năng tham dự hay cử hành các nghi thức tôn giáo hay không, có góp phần xây dựng thánh đường, Giáo Hội không, có vào hội đoàn nào hay không…
Tất cả những sinh hoạt tôn giáo ấy đều chỉ là những phương tiện nhằm giúp con người đạt được mục đích duy nhất là trở nên giống Thiên Chúa, Đấng mà bản chất là tình yêu. Nhờ đó con người trở nên yêu thương nhiều hơn, tốt hơn, cao thượng hơn, từ đó mạnh mẽ hơn, bình an và hạnh phúc hơn. Nếu thực hiện những sinh hoạt tôn giáo mà không đạt được mục đích ấy, thì ích lợi gì? Có được những chiếc xe tuyệt hảo, tối tân, đắt tiền để đi đến một nơi cần thiết nào đó, nhưng cuối cùng chẳng tới được, thì đâu ích lợi bằng một người đi bộ mà đến được đích. Nếu không đạt được tình yêu chân thật trong lòng, điều ấy có nghĩa là có một điều gì không ổn trong những sinh hoạt tôn giáo của ta. Có thể ta chưa nắm rõ mục đích của những sinh hoạt ấy, hoặc thực hiện chúng với tâm tình vị kỷ, vụ lợi, hoặc chưa thật sự gặp gỡ được Thiên Chúa trong những sinh hoạt ấy… Để vào Nước Trời, Nước của Tình Yêu, điều kiện tất yếu không có không được, đó là tình yêu chân thực đối với Thiên Chúa, được thể hiện thành tình yêu đối với tha nhân. Vì không ai có thể vào được Nước của Thiên Chúa, nếu người ấy không giống Thiên Chúa. Mà bản chất của Thiên Chúa là tình yêu (x. 1Ga 4,8.16), nên giống Thiên Chúa có nghĩa là có tình yêu, hay nói đúng hơn, là trở nên hiện thân của tình yêu.
3. Tiêu chuẩn duy nhất để phán xét là tình yêu đối với tha nhân
Ngày phán xét, Thiên Chúa chỉ xét theo tiêu chuẩn duy nhất là tình yêu thì thật là hợp lý. Vì khi Đức Giêsu xuống trần gian để thành lập Nước Trời, Ngài chỉ ban cho con người một giới răn duy nhất, đó là: «Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Nếu Ngài còn đưa ra nhiều giới răn khác, thì khi phán xét, Ngài sẽ phải xét theo nhiều tiêu chuẩn khác nữa. Nhưng Ngài đã chỉ đưa ra một giới răn duy nhất, nên khi phán xét, Ngài không thể xét theo một tiêu chuẩn nào khác với giới răn duy nhất Ngài đã ra. Thật là vô lý khi chỉ yêu cầu mọi người tuân giữ một điều duy nhất, rồi đến khi phán xét lại xét theo nhiều tiêu chuẩn khác ngoài điều duy nhất ấy!
Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến giới răn này và nhấn mạnh tầm quan trọng của nó đến nỗi không hề đưa ra một giới răn nào khác, để những người theo Ngài tập trung nỗ lực vào điều duy nhất ấy, không quá phân tâm vào những chuyện phụ thuộc khác. Bài Tin Mừng này rõ ràng lại nhấn mạnh thêm một lần nữa điều quan trọng ấy. Nhưng thật lạ lùng và buồn cười thay, nhiều Kitô hữu lại chẳng quan tâm đến điều Ngài đã nhấn mạnh rõ ràng đến như thế, mà lại cứ quan tâm những chuyện phụ thuộc khác! Vì thế, công giữ đạo của họ cuối cùng hóa ra «công cốc», đúng như câu: «Dã tràng xe cát biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì»! Ngài đã từng trách những người Pharisêu biết bao nhiêu lần, là cứ đặt quá nặng những điều phụ thuộc, còn điều chính yếu thì lại coi quá nhẹ, lại còn dạy người ta như thế nữa: «Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23; x. 23,16-22). Vì thế, Ngài đã gọi họ là «quân dẫn đường mù quáng!» (Mt 23,16.24; x. 15,14). Thế mà lạ lùng thay, ta lại cứ đi vào vết xe đã đổ của họ!
4. Đừng để mình phải ngạc nhiên trong ngày phán xét
Điều đáng ta suy nghĩ và quan tâm là sự ngạc nhiên của cả người được chúc phúc và người bị chúc dữ. Cả hai loại đều hỏi Chúa hai câu tương tự nhau: «Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà (không) cho ăn, khát mà (không) cho uống; v.v…» (Mt 25,37-39.44). Rất có thể vào ngày đó, chính chúng ta cũng ngạc nhiên như vậy, cho dù Ngài đã từng báo trước rất rõ ràng trong các sách Tin Mừng rằng Ngài sẽ phán xét theo tiêu chuẩn duy nhất ấy, và Ngài tự đồng hóa
Ngài với tha nhân của ta.
Suốt cuộc đời ta, chẳng bao giờ ta thấy Ngài hiện ra trước mặt để ta có thể làm một điều tốt lành nào đó cho Ngài cả. Thế thì tại sao Ngài lại khen những người bên phải là đã làm cho Ngài đủ chuyện, và trách những người bên trái là đã chẳng làm cho Ngài điều gì? Thật ra, Ngài luôn luôn hiện thân thành những tha nhân bên cạnh ta: cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè, hàng xóm, người cùng sở làm… Và hiện thân cụ thể nhất của Ngài chính là những người nghèo khổ, ốm đau, bị áp bức, tù đày… Tất cả những gì ta làm cho họ là làm cho chính Ngài, và ta trở nên công chính chính vì ta đã thể hiện tình thương với họ. Và tất cả những gì ta không làm cho họ, cũng là không làm cho chính Ngài, và ta trở nên người bị chúc dữ chính vì ta đã không thể hiện tình thương với họ.
Nhưng theo thói thường, ta chỉ tỏ ra yêu thương và đối xử tốt với những người mà ta hy vọng có thể đem lại cho ta lợi lộc, chức quyền, danh vọng: những kẻ giàu có, quyền thế, có địa vị… Thật ra, khi đối xử tốt với những người này, là ta đối xử tốt với chính ta chứ không phải với Thiên Chúa. Đức Giêsu khuyên: «Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc» (Lc 14,12-14). Nói chung, chỉ khi nào ta làm điều gì cho người khác vì tình yêu, một cách vô vị lợi, không nhằm ích lợi gì cho mình về sau, thì mới là làm cho chính Thiên Chúa.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con muốn nhận Đức Giêsu là Vua của cõi lòng con. Ngài chính là Tình Yêu. Xin cho cõi lòng con trở nên Nước Trời, Nước của Tình Yêu, để Tình Yêu thống trị lòng con, chi phối mọi ý tưởng, lời nói và hành vi của con suốt cuộc đời.
Dùng dụ ngôn để diễn tả thái độ sẵn sàng của ta cho ngày phán xét, Chúa Giê-su đưa ta đến: TN 34-ABC99
Dùng dụ ngôn để diễn tả thái độ sẵn sàng của ta cho ngày phán xét, Chúa Giê-su đưa ta đến với khung cảnh ngày ấy diễn ra như thế nào. Người vẫn dùng dụ ngôn để nói lên một cách sống động cảnh phán xét, với cung cách uy nghi và lời lẽ tuyên án đanh thép của vị thẩm phán chí công là Con Người. Ta có cảm tưởng đây không còn là một dụ ngôn nữa, nhưng là một biến cố thực mà Chúa Giê-su cho ta thấy rõ trước khi mọi người phải có mặt tại đó và không thể tránh thoát. Phụng vụ Lời Chúa đã lấy bài Tin Mừng nói về cuộc phán xét chung làm đề tài suy niệm về vương quyền của Chúa Giê-su. Nếu hiểu theo cách khai triển của Tin Mừng Mát-thêu muốn trình bày Chúa Giê-su là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Em-ma-nu-en), ta sẽ dễ dàng hiểu được những lời phán xét của Vua Giê-su, Thiên Chúa làm người sống giữa nhân loại cũng như mối quan hệ giữa ta với Thiên Chúa và với nhau.
a) Tiêu chuẩn để tuyên án: Những gì ta làm cho anh chị em là làm cho chính Chúa
Điểm đặc biệt trong cuộc phán xét là thái độ sững sờ ngạc nhiên của những người bị phán xét. Cả người lành lẫn kẻ dữ đều có cùng một phản ứng khi nghe Chúa tuyên án: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói, khát, trần truồng, đau yếu... đâu!” Nghĩa là người ta chỉ nhìn thấy anh chị em là anh chị em, chứ không nhìn thấy hình ảnh của Chúa trong anh chị em. Cái nhìn ấy rất quan trọng, vì nó có thể xác định ý nghĩa của việc ta làm. Nếu ta chỉ nhìn thấy anh chị em là anh chị em, hay nói khác đi, là những con người đói khát, trần truồng, đau yếu..., thì ta sẽ coi họ là những người cần được ta ban phát và họ phải chịu ơn ta. Nhưng nếu ta nhận ra được Chúa ở trong họ, thì họ không chỉ đơn thuần là những con người khốn khổ cần sự giúp đỡ của ta, mà là những người ta cần phải phục vụ như ta phục vụ chính Chúa.
Như thế, Chúa đã đồng hóa Người với mọi người trên thế giới và ta hiểu được ý nghĩa đích thực của mầu nhiệm Nhập Thể: Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1:14). Thiên Chúa chia sẻ với nhân loại mọi sự, Người muốn trở nên hoàn toàn giống như ta, ngoại trừ tội lỗi. Với thân phận làm Người, Vua Giê-su đã đến chia sẻ với anh chị em mình, nhìn anh chị em mình không phải như những kẻ cần được Người ban phát điều này điều kia, nhưng là những anh chị em đồng thừa kế với Người và Người có nhiệm vụ phải phục vụ họ. “Con Người không đến để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45). Chính sự chia sẻ này sẽ trở thành tiêu chuẩn Chúa dùng để tuyên án người lành kẻ dữ: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm (không làm) như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm (không làm) cho chính Ta vậy”.
b) Những điều để ta bị Chúa phán xét
Thật bất ngờ là khi nghe những điều Đức Vua tuyên án, ta không thấy đó là những điều lớn lao, mà là những điều thường nhật, lúc nào cũng gặp thấy trong cuộc sống hằng ngày của ta. Trong cuộc sống, thiếu gì những dịp ta gặp những người sống trong cảnh đói khát, đau yếu, tù đày, khách lạ... Không chỉ là những hoàn cảnh thể chất mà thôi, nhưng cũng là những hoàn cảnh tinh thần và tâm lý nữa. Người ta không chỉ đói khát cơm gạo nước uống, nhưng còn đói khát tình thương. Không chỉ đau yếu bệnh tật thể xác, nhưng còn mang bệnh hoạn tâm lý, tinh thần sa sút. Không chỉ bị giam cầm trong lao tù, nhưng còn bị giam hãm trong cô đơn, lẻ loi, kỳ thị. Không chỉ thiếu áo mặc bên ngoài, nhưng còn thiếu được kính trọng, bị tước đoạt nhân phẩm nhân quyền. Những người trong hoàn cảnh ấy ta có thể gặp hằng ngày. Nhưng ta không chỉ gặp thôi, mà còn phải ý thức sẽ làm gì trước những hoàn cảnh ấy. Ngày xưa Chúa Giê-su không ngoảnh mặt làm ngơ trước những hoàn cảnh ấy. Chúa đã làm hết sức để cứu vớt và xoa dịu khổ đau của con người. Tin Mừng Mác-cô viết về “một ngày của Chúa Giê-su tại Ca-phác-na-um” (Mc 1:21-45) cho ta biết Chúa thật bận rộn vì người khác. Người giảng dạy, khu trừ ma quỷ, chữa lành cho bà mẹ vợ ông Phê-rô. Sau đó, Người lại “chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ...” Đang khi di chuyển sang thành khác, Chúa còn chữa lành kẻ bị phong hủi đến xin Người.
Chúa luôn đáp lại nhu cầu của bất cứ ai khốn khổ và đến với Người. Người chẳng từ chối hay xua đuổi ai. Chỉ có một lần Người tỏ vẻ ngần ngại và “làm khó dễ” khi người đàn bà Ca-na-ABCn đến xin Người trừ quỷ cho con gái bà (Mt 15:21-28). Nhưng Người cố ý làm như vậy để bà có dịp biểu lộ lòng tin mạnh mẽ của bà. Động lực khiến Người muốn đến với mọi người là vì “Người chạnh lòng thương”.
Nếu ta thiếu động lực cốt yếu “chạnh lòng thương” ấy, ta sẽ dễ dàng dửng dưng trước những đau khổ và khó khăn của anh chị em. Ta sẽ nhìn họ thuần túy như những con người chứ không phải là hình ảnh của Thiên Chúa. Ta sẽ nhắm con mắt thiêng liêng lại và tự bào chữa: Tôi có bao giờ thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống... đâu! Hoặc ta sẽ đưa ra những lý lẽ để từ chối giúp đỡ anh chị em. Thí dụ: thằng đó vào tù là đáng đời, vì ai bảo dính vào xì ke ma túy; hoặc: người khỏe mạnh thế kia mà không chịu đi làm, lại đi ăn xin...
c) Những điều ấy ta đã làm hay đã không làm?
Khi ta đứng trước mặt Đức Vua phán xét, Người không hỏi ta tại sao đã không làm những điều ấy cho anh chị em, nhưng Người chỉ xác định ta đã làm hay đã không làm những điều ấy, rồi căn cứ vào đó mà tuyên án ta. Nếu ta làm tức là ta đã theo gương Người, dấn thân trong Vương Quốc của Người. Như thế, câu truyện về phán xét đặt ta trong sự lựa chọn dứt khoát: theo Vua Giê-su để phục vụ tha nhân như Người đã phục vụ, hoặc theo lối sống ích kỷ của người đời không cần biết đến ai?
Vương Quốc của Vua Giê-su không phải là vương quốc ở đời này, nhưng là của tâm hồn, của tình yêu. Tình yêu là dấu hiệu để người ta nhận ra ta là môn đệ của Chúa Giê-su, là công dân của Triều Đại Thiên Chúa. Ta trở thành “khí cụ bình an” của Chúa để làm cho Vương Quốc của Người luôn được hiển trị.
Kết thúc một năm Phụng vụ không phải là chấm dứt, nhưng là một khởi đầu. Ta đã nhận biết Chúa Giê-su là Vua. Ta theo Người để đi chinh phục tất cả thế giới về cho Thiên Chúa. Ta được trang bị bằng một lối sống mới của Chúa Ki-tô Vua. Giờ đây ta hãy lên đường đến với anh chị em và nhận ra dung mạo của Chúa nơi anh chị em. Rồi ta sẽ đáp lại tất cả những gì anh chị em ta cần ta giúp đỡ. Đó là mệnh lệnh của Đức Vua, vì: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi có tập nhìn thấy hình ảnh Chúa trong anh chị em không? Tôi phải làm thế nào để nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi anh chị em? Bắt đầu tập tìm thấy Chúa nơi chính mình trước, để dễ dàng thấy Chúa nơi người khác?
Từ trước tới nay, tôi có hình ảnh nào về Vương Quốc của Chúa? Là Giáo Hội? Là lối sống và ảnh hưởng của Chúa Ki-tô mà tôi phải phản ánh? Là nối tiếp sự hiện diện của Chúa Ki-tô ở trần gian khi tôi bắt chước sống như Người?
Tôi có chương trình sống như thế nào sau khi nghe lời hiệu triệu của Vua Giê-su: “Mỗi lần anh em làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta vậy”?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lưỡi cho người không nói được, làm tiếng kêu cho người chịu bất công. Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa, để đem cơm cho người đói đang chờ, và đem nước cho người họng đang khô, đem thuốc thang cho người đang đau ốm, đem áo quần cho người đang trần trụi, đem mền đắp cho người rét đang run. Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng, thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh, truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp, đem tự do cho những kiếp đọa đầy. Lạy Chúa, xin cứ gởi con vào thôn xóm, đem an hòa cho những ai bất thuận, đem thanh bình cho kẻ sống âu lo, đem ủi an cho người đang sầu khổ, đem niềm vui cho những ai bất hạnh, đem vận may cho người gặp rủi ro. Lạy Chúa, xin cứ đặt con như một sự tình cờ, đem may mắn cho những ai gặp được, giữa đường đời khi lỡ bước bơ vơ, cứ cho con đừng bao giờ khiếp sợ: giữa biển đời mang con tim núi lửa với đôi tay êm ái của mẹ hiền. Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả cho mọi người được hạnh phúc yên vui; còn phần con xin gởi hết nơi Ngài là Thiên Chúa, Tình Yêu và Lẽ Sống. Ngài cho con tất cả niềm hy vọng để tin yêu và vui sống trọn đời.” - NCĐ (Trích RABBOUNI, lời nguyện 118)
Cuộc đời của tài tử Martin Sheen giống như truyện phim Hollywood. Ông lớn lên trong gia đình: TN 34-ABC100
Cuộc đời của tài tử Martin Sheen giống như truyện phim Hollywood. Ông lớn lên trong gia đình nghèo ở Dayton, Ohio. Là một trong mười người con, cha ông là người di dân Tây Ban Nha và mẹ ông là người Ái Nhĩ Lan.
Ông nói, điều ảnh hưởng đến ông nhiều nhất trong thời niên thiếu là sự nhân từ của các nữ tu, các chị dạy học. Các chị thực sự sống đức tin mà họ tuyên xưng.
Dần dà, Martin đi vào ngành kịch nghệ, đến lập nghiệp ở Hollywood, và trở nên một siêu sao hàng đầu, thủ diễn các vai trong các phim ăn khách như Gandhi và Apocalypse Now.
Cũng như sự thành công đến với đời ông, vật chất chủ nghĩa cũng theo sau. Ông kiếm thật nhiều tiền và vui hưởng tất cả những gì đồng tiền có thể mua được. Điều đó kéo dài trong 16 năm.
Và rồi quay phim Gandhi ở Ấn Độ. Một ngày kia ông ngồi trên xe taxi, có mấy đứa trẻ bám theo xe, đong đưa ở bên cạnh.
Khi ông nhìn vào khuôn mặt chúng đang cười toe toét sau tấm kính xe, ông thấy răng chúng không còn, quần áo thì rách rưới, và tóc đầy chí rận. Ông nói: Bỗng dưng tôi biết mình phải làm gì. Tôi bảo tài xế ngừng xe lại và đưa bọn trẻ vào trong xe. Sự nghèo nàn, khốn khổ, và tuyệt vọng của bọn trẻ đã đưa ông trở về thời niên thiếu. Tình tiết đó đã khiến ông nhớ lại những gì ông học khi còn nhỏ trong một trường Công Giáo và một gia đình Công Giáo: tất cả chúng ta đều là thân thể của Đức Kitô. Và rồi một tình tiết thứ hai khiến ông suy nghĩ sâu xa hơn nữa. Khi quay cuốn phim Apocalypse Now ở Phi Luật Tân, ông bị một cơn đau tim.
Nhận xét về ảnh hưởng của biến cố đối với sự suy nghĩ của ông, trong một cuộc phỏng vấn ông nói, người diễn viên trong Apocalypse Now đã chết và đã được chôn ở Phi Luật Tân. Người diễn viên mà quý vị đang nói chuyện bây giờ thì không giống như người đã đóng cuốn phim đó.
Ông phải mất thêm bốn năm nữa để tái gia nhập Hội Thánh Công Giáo. Khi thực hiện điều đó, sự mạnh mẽ và tận tuỵ của ông với đức tin chỉ có thể diễn tả là lạ lùng.
Ông nói, ông vẫn hút thuốc và đánh bài và thích sự thoải mái, thích xe hơi, và vinh dự. Nhưng ông biết ông phải tìm cách từ bỏ.
Ông nói, chúng ta sống ở trái đất này không phải là tình cờ. Đức Kitô dạy chúng ta phải yêu thương tha nhân như chính mình. Và hãy nhìn xem tôi đã đối xử với tha nhân như thế nào, so với cách tôi đối xử với chính tôi!
Thiên Chúa không muốn tôi sống xa hoa trong khi hai phần ba dân số trên thế giới sống trong nghèo đói. Người Hoa Kỳ chúng tôi chiếm ít hơn 10 phần trăm dân số thế giới, nhưng chúng tôi sử dụng đến 50 phần trăm tài nguyên thế giới. Một số người phải sống cực khổ để chúng tôi sống sung sướng. Họ phải mang gánh nặng của lối sống chúng tôi trên vai họ.
Ông Sheen nói rằng vợ ông có công giúp ông nghiêm trọng suy nghĩ đến sự kiện là ông sẽ bị phán xét sau khi chết, không chỉ những gì ông làm, nhưng còn những gì ông không làm. Bà ta nói với ông, Hãy nhìn đến người đói khát. Hãy nhìn đến người trần truồng. Hãy nhìn đến người vô gia cư. Chúng ta phải làm gì đó cho họ.
Điều này đưa chúng ta chú ý đến mỗi người ở đây. Làm thế nào chúng ta áp dụng bài Phúc Âm hôm nay và kinh nghiệm hoán cải của ông Sheen vào chính đời sống chúng ta? Chúng ta có thể bắt đầu theo phương cách này.
Khi chúng ta được rửa tội, vị linh mục xức dầu cho chúng ta. Chúng ta được mang tên – “Kitô Hữu” – chữ này xuất phát từ chữ Kitô, có nghĩa “người được xức dầu.” Qua sự xức dầu chúng ta được trao cho ba sứ vụ của Đức Kitô là ngôn sứ, tư tế, và vua. - Nhiệm vụ ngôn sứ thêm sức mạnh để chúng ta làm chứng cho Phúc Âm.
- Nhiệm vụ tư tế thêm sức mạnh để chúng ta cùng với Đức Kitô dâng hiến chính mình cho Chúa Cha trong Thánh Lễ.
- Nhiệm vụ vua thêm sức mạnh để chúng ta hoạt động cho Vương Quốc Thiên Chúa được phát triển ở trần gian.
Và như thế chúng ta có thể thực hiện điều này. Bởi vì sự chết và sự phục sinh, Đức Kitô không còn sống ở thế gian trong một thân xác bằng xương thịt. Người không còn dạy dỗ, yêu mến, và chữa lành cho dân chúng với chính đôi tay, đôi chân, và con tim của Người – như đã thi hành cách đây 2,000 năm . Nếu các người hèn mọn của Chúa Kitô muốn cảm nghiệm được sự tiếp xúc đầy yêu thương của Người, với đôi tay chữa lành của Người, và lời tha thứ của Người, điều đó phải được xảy ra qua chúng ta.
Điều này có nghĩa Vương Quốc Thiên Chúa, mà Người đã khởi sự trên trái đất, phải được tiếp tục và phát triển bởi chúng ta. Đây là ý nghĩa của ngày lễ Kitô Vua.
Đó là sự tán dương vương vị của Đức Kitô bằng cách thi hành vương vị của chúng ta mà Người đã chia sẻ cho chúng ta khi nhận lãnh bí tích Rửa Tội.
Các bài đọc hôm nay kết thúc một niên lịch phụng vụ của Hội Thánh. Và trong tất cả những bài đọc của năm, chỉ một vài bài mang ý nghĩa quan trọng.
Vì các bài đọc hôm nay đem lại một ý nghĩa mà đã ảnh hưởng đến Martin Sheen cách sâu đậm, có thể nói, là chúng ta sẽ bị phán xét sau khi chết bởi cách chúng ta thi hành ba sứ vụ mà chúng ta đã được lãnh nhận trong bí tích rửa tội.
Chúng ta sẽ bị phán xét về cách chúng ta phục vụ Vua Kitô, nhất là trong những người bé mọn của Người.
Chúng ta hãy kết thúc với những dòng từ bài thơ của Brewer Mattocks. Bài thơ viết: Cha sở của Austerity leo lên một tháp cao nhà thờ để có thể gần Chúa, như vậy ông có thể nghe và đưa lời Chúa xuống cho dân chúng ở dưới. Một ngày kia, có tiếng nói thật xa xăm. Đó là tiếng nói của Thiên Chúa – là tiếng nói mà vị linh mục này chờ đợi đã lâu. Vì thế ông leo lên cao hơn nữa, cho đến tận đỉnh tháp, và lớn tiếng nói vào khoảng không gian: “Chúa ơi, Ngài ở đâu?” Và Chúa trả lời “Ở dưới này trong đám dân chúng.”