Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng nói rằng: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ mà Con muốn mạc khải cho. “Tất cả hãy đến cùng Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”. - Ðó là lời Chúa.
“Tên lính đâm thủng cạnh sườn Người, và máu cùng nước chảy ra”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Bởi lẽ là Ngày Chuẩn Bị, và để tránh cho các tử thi không còn treo trên thập giá trong ngày sabbat, vì ngày sabbat là một ngày trọng đại, những người Do-thái xin Philatô cho hạ các tử thi xuống, sau khi đánh giập ống chân. Bấy giờ những người lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu. Khi đến gần Chúa Giêsu, chúng thấy Người đã chết, nên không đánh giập ống chân Người; nhưng một tên lính lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn Người, và lập tức máu cùng nước chảy ra. Và kẻ đã xem thấy, thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cả chư vị cũng tin. Những điều đó đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: “Không một cái xương nào của Người bị đánh giập”. Và lại có lời Kinh Thánh khác rằng: “Chúng sẽ nhìn vào Ðấng chúng đã đâm thâu qua”. - Ðó là lời Chúa.
“Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các người biệt phái và luật sĩ dụ ngôn này rằng: “Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: ‘Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!’ Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải”. - Ðó là lời Chúa.
“Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác trên vai. Về đến nhà người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.”(Lc 15, 5-6)
Suy niệm:
Vào năm thánh 2000. Đức Giáo Hoàng Gioan phaolo II chỉ định Đức Giám Mục Phanxico Savier Nguyễn ThánhTâm ABC-101
Vào năm thánh 2000. Đức Giáo Hoàng Gioan phaolo II chỉ định Đức Giám Mục Phanxico Savier Nguyễn Văn Thuận giảng tuần tĩnh tâm cho giáo triều Roma. Trong những bài giảng đó Đức Cha kể:
– Khi bị giam giữ, tù đày ở Việt Nam, một lần kia có anh cán bộ cộng sản hỏi Đức Cha rằng:
– Ông Thuận ơi. Tại sao ông lại theo ông Giê-su, mà biết ông Giê-su có thật không? Đức Cha trả lời. Sở dĩ tôi đi theo Ông Giê-su là bởi vì Ông Giê-su có năm khuyết điểm! (Đức Cha nói cùng giáo triều rằng; không phải con rối đạo nhưng con thấy Chúa Giê-su có năm khuyết điểm) Và hai trong số các khuyết điểm kể trên là Đức Gi-su không biết tính toán. Chả thế mà Ngài đã để 99 con chiên trong hoang địa để đi tìm duy nhất có một con! Cũng vậy, bởi không biết tính toán nên một phụ nữ khi tìm được đồng bạc bị mất đã mời bạn bè đến chung vui, tốn phí cho tiệc vui có khi còn nhiều hơn một đồng đã tìm lại được.
Một khuyết điểm nữa là Chúa Giê-su có tính mau quên. Ngài có trí nhớ không tốt; Bởi lẽ khi bị treo trên thập giá, có tên trộm cũng bị đóng đinh cùng ngỏ lời xin Ngài tha thứ và xin được vào thiên đàng thì ngay lập tức Chúa Giê-su quên hết mọi tội lỗi của anh ta liền hứa rằng: “ Ngay hôm nay ngươi sẽ được ở thiên đàng với Ta”. Như vậy thì đúng là Chúa Giê-su có trí nhớ không tốt!
Thực ra. Đức Cha Thuận chỉ mượn những “ khuyết điểm” của Chúa để làm nổi bật lên Thánh Tâm Chúa Giê su yêu thương nhân loại tội lỗi đến dường nào mà thôi!
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su kể lại dụ ngôn có người chăn chiên trong đồng vắng, khi phát hiện bị mất một con thì đã bỏ cả đàn chiên lại để cốt đi tìm cho kỳ được con chiên bị thất lạc. Và khi tìm được rồi thì không những không trách cứ mà lại còn âu yếm, mừng rỡ vác nó trên vai, đem nó trở về tái hòa nhập nó cùng với đàn chiên. Rồi ông chủ lại đi mời nhà hàng xóm đến để chung vui với mình vì đã tìm lại một con chiên bị thất lạc!
Đến đoạn kết của Bài Tin Mừng Chúa Giê-su khẳng định: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Qua dụ ngôn này chúng ta thấy Thánh Tâm Chúa Giê-su yêu quý phần rỗi của nhân loại tội lỗi dường nào. Chúa đã hy sinh rất nhiều kể cả tính mạng của mình vì những kẻ tội lỗi là chúng ta. Ngài sẵn sàng làm tất cả chỉ mong cứu lấy linh hồn của chúng ta thôi. Bởi thế chúng ta có thể nói: Tình thương của Chúa dành cho chúng ta lớn hơn vạn lần tội lỗi chúng ta đã phạm. Lẽ thường, đúng ra Chúa sẽ phạt vạ, tảy chay, những kể tội lỗi xúc phạm Ngài.
Nhưng vì quá yêu thương Thánh Tâm Chúa đã lo lắng, trăn trở vì chúng ta, và Ngài chỉ mong muốn những kẻ tội lỗi sớm quay đầu ăn năn để được ơn cứu độ mà thôi. Trong Cựu Ước Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Êgiekiel mà nói rằng: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết , nhưng Ta muốn nó ăn năn và được sống” (Ed 18, 23). Như vậy khi người tội lỗi biết thống hối ăn năn, thì cả triều thần thiên quốc đều hớn hở vui mừng. Điều này nói lên tầm quan trọng của sự sống đời sau: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích chi.”
Sứ điệp Chúa muốn chúng ta thực hiện hôm nay là phải luôn ý thức rằng Thánh Tâm Chúa Giê-su hằng yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vô bờ bến. Bởi thế, chúng ta phải biết trân trọng tình thương của Ngài mà sống một cuộc sống đúng với tâm tình con thảo. Và nhờ đó chúng ta được có sự sống đời đời, để công trình cứu chuộc của Ngài không trở thành vô ích nơi chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê su tình yêu Chúa dành cho chúng con bao la như trời như biển. Xin cho chúng con luôn ý thức được hồng ân này mà ra sức sống đẹp lòng Chúa. Xin giữ gìn để chúng con luôn được sống trong một đàn chiên theo chân một Chúa chiên nhân từ. Amen.
Sống Lời Chúa:
Nếu trót vướng mắc lỗi lầm thì phải mau mắn tìm đến tòa cáo giải để được phục hồi ân nghĩa làm con Chúa ngay.
Tháng sáu, tháng kính THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU, Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta suy ThánhTâm ABC-102
Tháng sáu, tháng kính THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU, Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta suy niệm về lòng yêu thương vô bờ bến của Thánh Tâm Chúa và đáp trả lại bằng tình yêu mến gắn bó mật thiết với Ngài. Thế nhưng “mức độ yêu mến Chúa là yêu mến không mức độ” (thánh Bênađô), nên người Kitô hữu còn phải tiến xa hơn nữa trong tình mến Chúa và thể hiện qua việc mở rộng tấm lòng đối với tha nhân là hình ảnh của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Trái tim là tượng trưng lòng yêu thương, tỏ cho thấy trái tim là muốn bày tỏ tình mến đối với một ai đó.
Chúa Giêsu sau khi đã làm hết mọi cách để tỏ lòng yêu thương ta: Nhập thể làm người để ở với chúng ta, chịu nghèo nàn thiếu thốn, chịu khinh dể, bắt bớ tra tấn, chịu xử tử nhục nhã, chịu bất động trong tấm bánh nhỏ mọn để nên của ăn nuôi ta. Thế mà người ta vẫn nghi ngờ lòng yêu của Chúa, vẫn thờ ơ và không tin Chúa. Nếu là loài người như chúng ta, bị vong ân phản bội như vậy, ta sẽ trả thù và bỏ mặc, không thèm đoái hoài gì nữa; nhưng Chúa Giêsu thì khác hẳn. Chúa là Thiên Chúa tình thương, Chúa nhân từ đầy tình Hiền Phụ, Chúa lại nghĩ ra một cách mới để chinh phục ta, đó là Chúa đã tỏ Trái Tim Chúa cho ta qua Thánh nữ Margarita Maria Alacoque (1647 - 1690). Trái Tim có ngọn lửa hồng đang cháy và vòng gai quấn chung quanh, làm rỉ máu.
Trái Tim là biểu hiện của lòng yêu, lửa chỉ sự nồng nàn say mến, mũi gai chỉ sự sỉ nhục loài người xúc phạm đến lòng thương vô biên của Chúa.
Anh chị em thân mến,
Không ai diễn tả được lòng người mẹ, người cha thương con thế nào? Thì cũng không ai diễn tả được lòng Chúa yêu ta. Mỗi người Chúa xử một cách khác nhau và Chúa yêu họ trọn vẹn, mà chỉ có họ biết được, cảm thấy được.
Tuy nhiên, ta cũng có thể dựa vào Thánh Kinh để mô tả một đôi chút về lòng Chúa yêu thương ta.
Trong sách tiên tri Hôsê (11, 3-4): “Ta đã bồng bế chúng trên cánh tay Ta. Nhưng chúng nào có biết là chúng đã được Ta săn sóc. Ta lôi kéo chúng, với dây tình người, với thừng chão yêu thương. Với chúng, Ta ở như những người nhấc con đỏ lên tận má mình. Và cúi xuống trên nó, Ta mớm cho nó ăn.”. Thiên Chúa tự ví mình như một người mẹ âu yếm con cái. Chăm sóc con, bồng con trên tay, ấp ủ trong lòng, tập cho con đi, đút cơm cho con ăn. Đó là những cử chỉ quen thuộc của một người mẹ.
Thiên Chúa là một người cha, nhưng lại có tấm lòng của một người mẹ; vì hết mọi quả tim của người mẹ đều bắt nguồn từ Chúa. Và lòng Ngài còn mênh mông hơn lòng một người mẹ. Trong sách tiên tri Isaia (49, 15): “mẹ nào lại quên con đẻ mình, cạn lòng thương đối với con dạ nó mang? Cho dù chúng quên được nữa, thì phần Ta, Ta sẽ không hề quên ngươi!” Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thếá đó. Hơn nữa, Chúa còn mến thương ta với tâm tình người bạn, người anh, người chị, vì mọi tình cảm tốt đẹp của con tim đều kín múc từ Thánh Tâm Chúa.
Trong thư Êphêsô (3, 8-12. 14-19), thánh Phaolô đã xin Thiên Chúa mở lòng trí ta, giúp ta hiểu được phần nào tình yêu mênh mông vô tận của Chúa Kitô. Tình yêu đó vượt quá trí hiểu của chúng ta: nó vừa rộng vừa dài, vừa cao vừa sâu. Xin cho chúng ta hiểu để chúng ta được no thỏa và được tràn đầy sự viên mãn của Thiên Chúa.
Tin Mừng Gioan (19, 31-37) nói đến tình yêu thương đó cụ thể nhất khi thuật lại giờ chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Sau khi chết, trái tim Ngài bị mũi giáo đâm thâu qua. Từ đó nước và máu đã chảy ra cho tới giọt cuối cùng. Trái tim là biểu hiện của tình yêu. Trái tim của Chúa Giêsu là sự hiến thân Tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Trái tim đó bị đâm nát, đổ đến giọt máu cuối cùng có nghĩa là Thiên Chúa yêu thương chúng ta trọn vẹn, có thể thương bao nhiêu thì thương bấy nhiêu, cho đi tất cả, hiến dâng tất cả, không giữ gì lại cho mình.
Quả thật Thiên Chúa đã yêu thương ta như vậy, tới mức đó. Dầu chúng ta như thếá nào, chúng ta vẫn có một chỗ an nghỉ trong trái tim của Thiên Chúa, chúng vẫn được Thiên Chúa yêu thương tối đa. Và cái tối đa của Thiên Chúa thì thật vô cùng vô tận.
Anh chị em thân mến,
Thánh Phaolô khẳng định tình thương của Thiên Chúa vượt quá sự hiểu biết của con người. Tình yêu giữa người với người còn không thế hiểu nổi huống chi tình yêu của Thiên Chúa. Phải cảm nghiệm trước đã rồi mới có thể hiểu được phần nào.
Theo Thánh Gioan, cái không thế hiểu nổi nơi Thiên Chúa là Ngài yêu thương đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho trần gian. Còn gì quý hơn Con Một Ngài, thế mà Ngài lại ban cho thế giới. Và khi đã ban Con Một Ngài cho ta thì còn điều gì mà Ngài giữ lại để không ban cho ta nữa. Mọi hồng ân của Thiên Chúa đều được thâu gồm trong Chúa Giêsu. Được Chúa Giêsu là được tất cả.
Người Con Một ấy, để thực hiện ý định yêu thương của Chúa Cha, đã hiến thân làm lễ vật thay cho chúng ta. Đó là tình yêu hiến dâng và cứu chuộc. Một tình yêu đi tới cùng, không nửa vời, chấp nhận mọi hậu quả. Đã yêu thương như vậy thì giá nào cũng sẵn lòng trả. Trong kinh cầu Trái Tim Chúa Giêsu có một câu có vẻ mộc mạc nhưng lại rất sâu sắc:"Trái tim Chúa Giêsu tan nát vì tội lỗi chúng tôi". Đó là cái giá mà Chúa Giêsu phải trả trên Thập giá vì quá yêu thương.
Thực ra chỉ có Thiên Chúa mới có thể yêu thương tới mức đó. Còn loài người chúng ta dầu có thề thốt gì với nhau đi chăng nữa cũng rất mong manh, chứa đầy bất trắc. Hoặc do lòng người thay đổi, hoặc hoàn cảnh bên ngoài cản ngăn. Tình yêu của loài người dầu mãnh liệt khiến sông sâu cũng lội núi cao cũng trèo vẫn là tương đối, có giới hạn, nhiều kẽ hở, lắm rủi ro, có lúc yếu đuối. Biết bao tình yêu tưởng chừng thách thức thời gian, nhưng lại bị thời gian làm sói mòn, phai nhạt, rồi đi tới tan vỡ.
Anh chị em thân mến,
Ngày nay ở trên trời, Chúa vẫn thổn thức dấu yêu, theo dõi ta như xưa Chúa đã khóc trên mộ phần Lazarô, vì thương hại bà chị có đứa em trai chết; như Chúa đã xúc động trước tâm tình thống hối của người phụ nữ ngoại tình trở lại, đã lấy thuốc thơm xức đầu Chúa, lấy nước mắt rửa chân Chúa và lấy tóc lau chân Ngài. Mắt Chúa sáng lên, lòng Chúa hồi hộp khi Chúa ẵm bế các em nhỏ ngây thơ, trong trắng. Chúa bồi hồi, tim đập dồn khi nghĩ tới cuộc ly biệt các môn đệ thân yêu. Nên trong giâây phút yêu đương ấy, Chúa đã vĩnh viễn ở lại trong hình bánh để làm tù nhân tình yêu. Ngày nay trong các nhà chầu, Chúa vẫn có mặt ở đó, theo dõi chúng ta bằng ánh nhìn thần linh yêu đương mọi giây phút, lúc ta mãi mê công việc cũng như khi ta giải trí vui đùa. Chúa đau cái đau của ta, khổ cái khổ của ta.
Chúa vui khi ta vui, Chúa buồn khi ta sầu tủi, vì Chúa đồng hoá với ta mỗi khi ta rước lấy Ngài. Chúa tự ví mình như người mẹ đau đớn khi sinh con, và vui mừng khi đứa nhỏ chào đời. Chúa tự sánh với người cha tựa cửa, đỏ mắt chờ đứa con phung phá trở về. Chúa tự ví mình như người mục tử tận tuỵ với đàn chiên, như người làm vườn chăm sóc cây cối ông ươm trồng, vén từng cái lá để bắt sâu bọ, uốn ngọn cây non để tạo nên vóc nên hình. Chúa tự xưng là dòng nước trong mát cho ta uống no thỏa và tắm rửa mát mẻ, như con đường cho ta đi, như ánh sáng dẫn bước ta đi trong đêm tối. Đã yêu thì có muôn vàn cách diễn tả: Chúa còn tự trở nên bánh cho ta ăn, rượu cho ta uống. Chúa muốn trở nên tình quân để cưới lấy linh hồn ta, đưa ta vào tiệc cưới thiên quốc. Suy ngắm kỹ kinh Lạy Cha, ta thấy Chúa muốn làm bà mẹ hiền, làm người cha quý, muốn ôm ta vào lòng, ghì chặt ta trên đầu gối Ngài và thề hứa không bao giờ bỏ ta.
Anh chị em thân mến.
Đầu tháng sáu năm 1250, khi vua Louis IX đi kinh lý các miền trong nước Pháp. Dân chúng tỉnh Maseilles đã cùng nhau đóng góp công của để dâng cho nhà vua một lễ vật đầy ý nghĩa. Và hôm ấy, khi vua đến, dân chúng đều tập họp đông đủ. Họ đề cử một cô thiếu nữ dâng lên nhà vua một quả tim bằng vàng. Bên trong có ngành bông huệ kết bằng kim cương rất quí, là biểu tượng của các vua nước Pháp và có khắc mấy hàng chữ: “Đây là bằng chứng toàn dân tỉnh Marseilles yêu vua Louis, và họ luôn đặt vua trong trái tim họ”. Nhận được lễ vật và nhận thấy dòng chữ trên, vua Louis IX hết sức cảm động, nhà vua cũng đặt tay lên trái tim và nói: “Đây là bằng chứng vua Louis yêu thương quốc dân Pháp, và luôn đặt họ trong trái tim vua”.
Câu truyện trên đây rất hợp với lời thơ của thi sĩ Xuân Ly Băng, đã sáng tác, để diễn tả Tình yêu như thế này:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu, Chỉ nhớ hôm xưa, một buổi chiều, Nhận được món quà cao giá lắm. Bây giờ hiểu đó là tình yêu”
Nghĩa là tình yêu chỉ cắt nghĩa được bằng những điệu bộ, cử chỉ bên ngoài; một món quà trao tặng người mình thương là tình yêu; một nụ cười biểu lộ với người mình thương là tình yêu; một cử chỉ âu yếm đối với người mình thương là tình yêu; những hy sinh giúp đỡ người mình thương cũng là tình yêu. Vì vậy, để diễn tả tình yêu Chúa Giêsu đã phán với thánh nữ Margarirta Alacoque: “đây là trái tim đã thương yêu loài người vô cùng. Không tiếc gì với họ”. Thực thế Chúa Giêsu không tiếc gì với loài người. Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa. Khi con người sa ngã, Chúa đã bỏ trời, xuống trần gian ở với con người. Chúa đã làm bao nhiêu phép lạ để cứu giúp con người cả hồn lẫn xác. Chúa đã dạy cho con người nhận biết Thiên Chúa là cha. Chúa còn chịu chết chuộc tội con người, để đưa họ lên thiên đàng với Thiên Chúa, nên Chúa đã tuyên bố: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Gioan 15, 13).
Anh chị em thân mến.
Ôi! Ta biết nói thế nào về lòng yêu vô bờ, vô bến của Chúa chúng ta? Rất tiếc là con người chúng ta quá cứng lòng, hồ nghi tình Chúa, lấy tấm lòng hạn hẹp của ta để đo lòng Chúa. Họ không dám phó thác trọn vẹn cho Chúa, coi ý họ hơn ý Chúa, và như thế Chúa phải đau đớn xót xa chừng nào?
Chúng ta xin nhờ Trái Tim Mẹ Maria, với những tâm tình nóng bỏng của Mẹ, để yêu Chúa mỗi giây phút đời ta. Xin cho chúng ta luôn luôn lập đi lập lại hàng ngàn lần “con yêu mến Chúa” cho đến lúc ta lìa đời để được mến yêu muôn đời trên quê thật. Amen.
Phúc âm Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu 11,25-30
Khi ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.26 Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
"Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.
"Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng."
SUY NIỆM
Ngôi Lời Thiên Chúa được trao sứ mạng làm cho nhân loại biết Thiên Chúa vẫn yêu thương nhân ThánhTâm ABC-103
Ngôi Lời Thiên Chúa được trao sứ mạng làm cho nhân loại biết Thiên Chúa vẫn yêu thương nhân loại, và làm cho nhân loại trở về tình yêu của Thiên Chúa.
Để thi hành sứ mạng ấy, Ngôi Lời đã muốn đồng hóa với nhân loại, và Chúa Cha đã sửa soạn cho Ngôi Lời có một bà mẹ tuyệt vời. Chúa Thánh Thần đã tạo dựng nên trong cung lòng bà mẹ tuyệt vời ấy một bào thai bằng chính huyết nhục của Bà.
Ngôi Lời đã nhận lấy bào thai ấy làm thân hữu hình của mình, để sinh ra làm người như mọi người, ở giữa loài người, với tên Thiên Chúa đặt cho người là Giêsu.
Chúa Giêsu vì thế có một trái tim biết vui buồn, ước ao, sầu tủi và khắc khoải yêu thương...
Chúa vui khi được ta đáp lại tình Ngài và cùng Ngài tôn vinh Chúa Cha.
Chúa thương những người tội lỗi lầm than và muốn cứu vớt mọi người.
Chúa vui vì những người tội lỗi biết sám hối trở về với Chúa Cha. Chúa buồn những người quên thiên chức làm người của mình. Chúa giận những người đáng lẽ phải giảng dạy, phải làm gương sáng mà không giảng dạy, không làm gương sáng, để nhiều người hư đi. Chúa buồn vì những ai cố tình làm gương xấu vì đời sống cố tình buông thả của họ. Chúa khao khát, ước ao mọi người vui với người vui, sầu với người khổ.
Nhất là Chúa thấy nhiều người dửng dưng với chính phần rỗi mình, bỏ lễ ngày Chúa Nhật, và dư tiền dư của vẫn tham làm việc xác ngày Chúa Nhật. Chúa cũng sầu khổ vì thương những người cứ cố tình sống dối trá, sống gian ác, làm khổ đau cho tha nhân và làm buồn phiền lòng Chúa.
Chúa đã phải than : Tôi mong đời được có người đến ủi an nhưng trông mãi trông hoài mà chẳng có ai!
Lễ Thánh Tâm do chính Chúa truyền cho Thánh trinh nữ Magarita dòng Đức Mẹ Thăm Viếng phải đi trình với giáo quyền: "Cha muốn ngày thứ Sáu sau Lễ Mình Máu Thánh được dành cho Thánh Tâm Chúa".
CẦU NGUYỆN
Chúng ta cầu nguyện bằng Kinh cầu Thánh Tâm:
Lạy Rất Thánh Trái Tim Ðức Chúa Giêsu, con nhờ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria mà dâng hiến mình con cho Rất Thánh Trái Tim Chúa.
Xin Chúa nhận lấy trót cả con người con và biến đổi con nên chính Chúa. Xin làm cho đôi tay con nên đôi tay Chúa, đôi chân con nên đôi chân Chúa, trái tim con nên trái tim Chúa. Xin cho con nhìn với đôi mắt Chúa, nghe với đôi tai Chúa, nói với đôi môi Chúa, yêu với trái tim Chúa, hiểu với tâm trí Chúa, phục vụ với ý chí Chúa và tận hiến cho Chúa với trót cả con người con. Xin làm cho con trở nên một Kitô khác.
Lạy Rất Thánh Trái Tim Ðức Chúa Giêsu, xin ban cho con thần khí Chúa để dậy con yêu mến Chúa và chỉ sống nhờ Chúa, với Chúa, trong Chúa và cho Chúa mà thôi.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và làm cho thân xác con thành đền thờ của Chúa. Xin ngự đến và ở lại cùng con luôn mãi. Xin ban cho con tình yêu sâu thẳm nhất dành cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, để con phụng sự Người với trọn cả tấm lòng, trọn cả linh hồn, trọn cả trí khôn, và trọn cả sức lực con.
Xin Chúa làm chủ tất cả các quan năng của xác hồn con. Xin điều chế mọi đam mê, cảm xúc và tình cảm trong con. Xin Chúa làm chủ trí khôn, trí hiểu, và ý chí của con, trí nhớ và trí tưởng tượng của con.
Ôi Thần Linh Thánh Ái, xin ban cho con tràn đầy các ân sủng linh nghiệm của Chúa. Xin ban cho con đong đầy mọi nhân đức. Xin bồi dưỡng đức tin, củng cố đức cậy, gia tăng tín thác, và đốt lên lửa mến trong con. Xin ban cho con đầy đủ bẩy ân sủng, hoa trái và phúc lộc của Chúa.
Lạy Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, xin làm cho linh hồn con nên cung thánh của Chúa. Amen.
Khi quy hoạch thành phố tương lai, người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí. Nghỉ ThánhTâm ABC-104
Khi quy hoạch thành phố tương lai, người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí. Nghỉ ngơi thư giãn là một nhu cầu quan trọng cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường. Nghỉ ngơi không chỉ cần cho thân xác hay trí óc. Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn. Cái tâm của chúng ta cần được sống trong an tĩnh giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen. Nhiều người bị suy nhược thần kinh, bị stress. Có người tự tử vì không đủ sức để tiếp tục sống. Ðức Giêsu mời chúng ta đến với Ngài, tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề. Gánh nặng của nỗi đau và vấp ngã trong quá khứ Gánh nặng của trách nhiệm và yếu đuối hiện tại Gánh nặng phải mang vì người khác... Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu, chán chường và mệt mỏi. Tất cả những ai muốn tìm một chút nghỉ ngơi. Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh. Hãy mang lấy ách của tôi. Ðức Giêsu không ngần ngại nói đến ách của Ngài mà những kẻ đến với Ngài phải mang. Ngài không giấu ta về những đòi hỏi nghiêm túc, về con đường hẹp mà ít người muốn đi, về thánh giá mà ta phải vác để theo Ngài. Như thế sự an bình thư thái Ngài hứa ban đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ. Ðó là thứ bình an ngay giữa khổ đau và nước mắt, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương, vì xác tín là mình đang làm đúng ý Thiên Chúa. Nếu ách của Ngài êm và gánh của Ngài nhẹ, thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu. Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ. “Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không cảm thấy vất vả; mà giả như có vất vả đi nữa thì người ta cũng thích cái vất vả đó” (thánh Âutinh) Hãy học với tôi. Ðức Giêsu kêu gọi chúng ta làm học trò của Ngài. Chúng ta học trường Giêsu, học Thầy Giêsu, học bài Giêsu. Bài học nằm nơi chính trái tim Ngài: “Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu.” Khi mang trong mình những tâm tình của Thầy Giêsu thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại. Chúng ta cần theo học Thầy Giêsu suốt đời, cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, cần sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ. Chỉ như thế chúng ta mới được Thầy Giêsu mạc khải, và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con. Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa. Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc và được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Yêsu mà cả trong ba bài đọc không có một lời nào trực tiếp nói đến ThánhTâm ABC-105
Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Yêsu mà cả trong ba bài đọc không có một lời nào trực tiếp nói đến Trái Tim Người! Ðiều đó không làm chúng ta buồn, vì tuy không có lời nhưng lại đầy ý; không có danh từ nhưng nội dung lại chan chứa. Và điều đó cho chúng ta hiểu lễ Thánh Tâm tuy rất mới, vì chỉ buộc trong cả Giáo hội từ năm 1856 và gần 200 năm sau những cuộc thị kiến và vận động của thánh Magarita Maria Alacoque, nhưng lại có nền tảng xa xưa và xa xưa đến nỗi thoạt đầu Giáo hội không thấy cần phải lập ra lễ này vì ý của nó vẫn được Giáo hội cử hành từ buổi đầu. Do đó việc lập ra lễ Thánh Tâm Chúa Yêsu chỉ có ý làm nổi bật lên một mầu nhiệm hằng tiềm ẩn trong Phụng vụ. Và chúng ta phải suy niệm về mầu nhiệm ấy trong ngày lễ hôm nay.
Ðó là mầu nhiệm về lòng Thiên Chúa yêu thương loài người, biểu lộ nơi lòng Chúa Yêsu yêu thương chúng ta, để chúng ta cũng có một trái tim giống như Người, tức là chia sẻ lòng Người yêu thương hết thảy.
A. Lòng Chúa Yêu Thương Loài Người
Tác giả sách Thứ luật là người thứ nhất có thể giúp đỡ chúng ta suy nghĩ về lòng Chúa yêu thương nhân loại nói chung và cá nhân nói riêng. Ông thuộc thời Cựu Ước. Nhưng tư tưởng của ông rất mới mẻ. Nhiều tác giả trước ông đã nói đến lòng Chúa thương dân. Ông đào sâu những tư tưởng ấy và viết nên đoạn văn chúng ta đọc hôm nay một cách sâu sắc.
Ta nên nhớ đây là thời gian sau Lưu đày. Lối nhìn của tác giả đã chịu ảnh hưởng của thời cuộc. Trước kia dân Dothái nhiều khi cho mình là lớn. Vào thời hoàng đế Salomon chẳng hạn, nữ hoàng phương Nam nghe tiếng đã phải đến thăm. Thành ra người ta tự phụ, coi mình là dân đông đảo. Nhưng sau Lưu đày, ai còn có những tư tưởng như vậy? Assyria đã đè bẹp dân cứng đầu cứng cổ như hòn đá đè trên trái trứng. Tuy nhiên chính lúc nhục nhã ấy, tác giả sách Thứ luật mới thấy tình Chúa đối với dân thật là thắm thiết.
Ông dùng những từ ngữ gợi lên những tương giao phu phụ mà Kinh Thánh vẫn dùng để nói về tương quan giữa Chúa với Dân Người. Ông viết: Người đã đem lòng quyến luyến các ngươi và đã chọn các ngươi... Người yêu mến các ngươi và giữ lời thề... Người trung tín, tín nghĩa với các ngươi... Những từ ngữ đó, đọc trong tương quan phu phụ, sẽ ý nghĩa biết bao và làm chứng Thiên Chúa là người hôn phu lý tưởng, tha thiết gắn bó với người mình thương.
Và như vậy, không phải Dothái là dân tộc to lớn. Ngược lại là dân ít người hơn mọi dân, là dân không ai để ý đến, giống như Ðavít khi còn là đứa trẻ nhỏ nhất, đang phải chăn cừu, không đáng cha sai người đi gọi về khi trong nhà có khách quý là Samuel đến xức dầu cho người Chúa chọn. Nhưng chính đứa bé tóc hoe đó mới là kẻ mà Chúa bảo Samuel: Hãy đứng lên xức dầu cho nó. Chúng ta gợi lại câu chuyện này là vì khi nói Chúa "chọn" Israel, tác giả sách Thứ luật hôm nay dùng chính từ ngữ trong câu chuyện Ðavít. Ông muốn nói lên lòng bao dung quảng đại chiếu cố của Thiên Chúa đối với một dân thật là bé nhỏ. Thế mà Người đã nâng lên bậc công nương và trở nên sản nghiệp hay "kho tàng" của Người, như viết trong giao ước: các ngươi sẽ là dân sở hữu của Ta.
Sách Xuất hành (20,5-6) cũng có đoạn nói đến giao ước giữa Chúa và dân với những lời lẽ như sau: Ta là Thiên Chúa hay ghen tương, phạt tội trên con cháu đến ba bốn đời đối với những ai ghét Ta, và giữ nghĩa dư ngàn với những ai yêu mến Ta và giữ các lệnh truyền của Ta.
Còn ở đây trong đoạn văn Thứ luật này, sau khi nói Thiên Chúa đã gắn bó với dân bằng giao ước, mặc dầu nhỏ bé, tác giả viết: Ta là Thần trung tín, tín nghĩa với những ai yêu mến cho đến ngàn đời, Ðấng oán trả cho mỗi ai thù ghét Người nơi chính thân mình nó.
Thoạt nghe chúng ta không thấy khác bao nhiêu. Nhưng đọc kỹ lại, chúng ta sẽ thấy tác giả sách Thứ luật như đã biến đổi Dung Nhan của Thiên Chúa trong sách Xuất hành. Trước kia chúng ta thấy ngay Người là Ðấng hay ghen tuông phạt tội trên con cháu đến ba bốn đời; còn nơi sách Thứ luật trước hết Người là Thần trung tín, tín nghĩa đến ngàn đời và chỉ phạt tội chính người lỗi phạm.
Như vậy bài sách Thứ luật đã đưa chúng ta gần đến Tân Ước. Và nó cho chúng ta thấy lòng Chúa chan chứa tình thương. Người quyến luyến chiếu cố đến thân phận yếu hèn của chúng ta. Nâng chúng ta lên bậc nghĩa thiết. Trung tín thi thố tình thương cho đến ngàn đời và bất đắc dĩ mới phải phạt tội những ai thù ghét Người. Lời khuyên của sách Thứ luật dĩ nhiên là chúng ta hãy giữ lệnh truyền của Người để lưu lại mãi trong tình Người thương mến. Nhưng điều mà tác giả chưa thấy được là Người vẫn thương tội nhân nơi lòng Chúa Yêsu.
B. Tình Thương Biểu Lộ Nơi Lòng Chúa Yêsu
Ðiều này theo lời Chúa Yêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay, hạng khôn ngoan thông thái không hiểu được, vì Chúa Cha chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn. Thời Tân Ước cũng như Cựu Ước, tình thương của Chúa vẫn tìm đối tượng nơi những kẻ bé nhỏ. Hơn nữa, như Matthêô viết hôm nay, đối tượng ưu việt lại là những người lao đao vác nặng. Chắc chắn, Matthêô không nghĩ nguyên đến những người lam lũ vất vả về phần xác. Chữ "vác nặng" trong Kinh Thánh thường gợi đến gánh nặng của Luật pháp Dothái, của những sức mạnh gò bó con người. Ðó là hạng người được Chúa ưu đãi đến nỗi Người đã sai Con Một của Người xuống thế, để hôm nay tiếng người Con gióng lên: hết thảy hãy đến với Ta và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức, tức là được cảm thấy nhẹ nhàng, tự do.
Người làm thế nào? Matthêô đã viết: Người mạc khải cho họ mọi sự đã được Chúa Cha trao phó cho Người, để họ biết Cha như Con biết Cha. Những lời tuy trừu tượng nhưng rất thâm sâu. Chính chữ mạc khải đã có nghĩa là vén màn, vén lòng mình ra cho người ta có thể thấy. Phải, ai đến với Chúa Yêsu sẽ được Người mạc khải cho, tức là vén lòng, vén trái tim Người ra cho người ấy được xem. Và xem gì? Người nói: xem tất cả mọi sự mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Và thử hỏi có gì mà Chúa Cha đã không trao phó cho Người? Với lại chúng ta đừng nghĩ ngay đến những sự tầm thường của thế giới chúng ta. Những sự mà Chúa Cha đã trao phó cho Chúa Yêsu để Người vén lòng cho chúng ta được thấy và được nhận lãnh, trước hết phải là những sự mà Phaolô nói: mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng trí loài người chưa bao giờ mường tượng được. Ðó chính là Trái tim của Chúa Cha, tình yêu của Người, sự sống và hạnh phúc vô biên của Thượng Ðế, là chính bản tính của Thiên Chúa. Ðó là những sự mà hạng khôn ngoan thông thái hết sức tìm mà chẳng bao giờ thấy. Và chỉ những ai bé mọn mới được Cha trên trời mạc khải cho, để họ "biết" Cha, như Con biết Cha, nghĩa là để họ mật thiết, thân cận, thắm thiết với Chúa Cha như Chúa Con.
Chúng ta không thể nói thêm, vì ai có thể nói được tình yêu mà chỉ một mình cảm thấy? Chúng ta có kinh nghiệm về tình yêu loài người mà có viết bao nhiêu cuốn tiểu thuyết cũng hãy còn khách quan, nhạt nhẽo. Huống nữa là khi các thánh viết về tình yêu Chúa! Chúng ta chỉ biết rằng: Lời Chúa chân thật. Hôm nay chính Người nói: ai đến với Người, sẽ được Người vén lòng Người lên để thấy tất cả tình yêu của Chúa Cha đã trao phó cho Người, hầu "biết" Chúa Cha tức là hiểu và hiệp thông thắm thiết với Ðấng đã lựa chọn mình vì mình bé nhỏ.
Những lời Phúc Âm ấy thật hợp để suy nghĩ trong ngày lễ Thánh Tầm hôm nay. Và suy nghĩ phải dẫn đến hành động, khi đó những lời thư Yoan sẽ rất quý hóa.
C. Chúng Ta Hãy Yêu Thương Anh Em
Yoan là nhà thần học thâm thúy. Nghe đọc bài thư của ông hôm nay, không dễ hiểu tí nào. Phải đọc đi đọc lại, lượm ra những tư tưởng chủ yếu rồi xếp đặt lại, khi ấy ta sẽ thấy sung sướng.
Tư tưởng của ông thế này: Nếu Thiên Chúa yêu thương ta dường ấy, thì ta cũng phải yêu mến nhau (c.11). Lời khuyên có vẻ quen thuộc. Nhưng xét theo luận lý, dường như không chỉnh; vì nếu Thiên Chúa yêu ta dường ấy, thì ta phải đáp trả chứ sao lại phải yêu mến nhau? Ðặt vấn đề như vậy bó buộc ta phải căn vặn Yoan. Và ông sẽ khai triển cho ta lý luận của ông cũng là thần học về tình yêu.
Thiên Chúa là lòng mến (c.8). Ta biết được như vậy là vì Người đã yêu thương ta. Và không phải đã yêu thương ta bất cứ thế nào. Nhưng Người đã biểu lộ tình thương đặc biệt trong việc sai Con Một Người đến trong thế gian để ta được sống nhờ Ngài. Có thể nói Thiên Chúa đã gửi cả tấm lòng của Người xuống cho ta nơi Con Một Người nhập thể cứu đời. Hơn nữa phải nói mạnh hơn, Người đã gửi cả sự sống và hạnh phúc của Người xuống thế gian nơi Ðức Yêsu Kitô là Ðấng đã được Người "trao phó mọi sự" như Phúc Âm đã nói. Vì yêu thương ta, Thiên Chúa đã đến lưu lại nơi con người Ðức Yêsu Kitô.
Nhưng chưa hết, nơi Ðức Yêsu Kitô, Thiên Chúa còn yêu thương ta đến nỗi đã phó nộp mình vì ta để đền thay tội lỗi ta (c.10). Như vậy, tình yêu Thiên Chúa đã biểu lộ nơi thân hình tử nạn thập giá của Ðức Yêsu Kitô.
Rồi từ nơi cạnh sườn của Ðấng chịu đóng đinh, Nước Thánh Thần đã chảy đến thanh tẩy mọi tâm hồn khiến tình mến của Thiên Chúa đã chuyển đến chúng ta. Chính nhờ được Ðức Yêsu Kitô thông ban Thần Khí của Người cho ta (c.13) mà lòng mến của Thiên Chúa đã nên trọn ở nơi ta (c.12). Lòng mến ấy đã từ Ngôi Cha dàn sang Ngôi Con, dàn sang lòng Ðức Yêsu Kitô, dàn đến chúng ta khi Thần khí Ðức Kitô tràn ngập lòng ta qua cái chết vì yêu thương của Ngài.
Bây giờ mang lòng mến Chúa ở trong mình, chúng ta được ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa lưu lại ở nơi chúng ta. Chúng ta có thể "biết" Người theo nghĩa vừa hiểu vừa mật thiết kết hợp với Người, khiến Ðấng Thiên Chúa mà người thông thái khôn ngoan không thấy được, những kẻ bé mọn như chúng ta lại biết được vì Thiên Chúa đang lưu lại ở nơi chúng ta. Người là tình mến. Người hằng yêu mến. Ở trong ta Người cũng thương yêu. Yêu ai nữa bây giờ? Yêu tha nhân, yêu mọi người. Thế nên kẻ không yêu mến anh em, tất không có Thiên Chúa ở nơi mình, và không biết Người (c.8). Thành ra, nếu Thiên Chúa yêu thương ta dường ấy thì ta cũng phải yêu mến nhau.
Như vậy bài thư Yoan đã đưa tư tưởng của hai bài Kinh Thánh khác trong thánh lễ hôm nay đến chỗ thực hành. Bài sách Thứ luật cho chúng ta thấy lòng mến của Thiên Chúa muôn đời tín nghĩa. Bài Tin Mừng biểu lộ lòng mến đó nơi Ðức Yêsu Kitô hầu thế gian thấy Thiên Chúa yêu thương loài người lao đao vác nặng qua Trái Tim nồng nàn của Chúa Cứu Thế. Thánh Yoan như trỏ cho chúng ta thấy lòng mến chan chứa của Thiên Chúa đang trào ra từ Thánh Tâm Chúa Yêsu Tử nạn Phục Sinh, để chúng ta đón nhận lấy hầu biết Thiên Chúa và biết yêu mến anh em.
Ngày lễ Thánh Tâm do đó là ngày chạy đến với Chúa Yêsu để được nhiều tình mến hầu chỉ còn sống bằng yêu mến. Cứ dấu này làm chứng ta biết Thiên Chúa là chúng ta yêu mến anh em. Vậy, nếu chúng ta chưa yêu mến anh em đủ, thì này thánh lễ đưa chúng ta vào mầu nhiệm Thánh giá, nơi chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi đã sai Con của Người đến làm hy sinh đền thay vì tội lỗi chúng ta. Chúng ta sẽ nhận được thêm tình mến nếu dự lễ sốt sắng. Và đã dự lễ sốt sắng thì chúng ta cũng phải ra về với nhiều tình mến hơn.
(25) Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất. Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (26) Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. (27) Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha. Cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho. (28) Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. (29) Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. (30) Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa Cha, vì Người đã giấu không cho những kẻ học ThánhTâm ABC-106
Đức Giê-su dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa Cha, vì Người đã giấu không cho những kẻ học thức quyền thế biết chân lý, nhưng lại tỏ mình ra cho những người nghèo khó, yếu đuối và tội lỗi. Tiếp đến, Đức Giê-su bày tỏ về bản tính Thiên Chúa của Người ngang bằng Chúa Cha, và dạy môn đệ hãy sống gắn bó với Người, để biến ách lề luật và gánh nặng bổn phận trở nên nhẹ nhàng và sau này sẽ được hưởng hạnh phúc đời đời.
3. CHÚ THÍCH:
- C 25:
+ Lạy Cha: Khi cầu nguyện, Đức Giê-su thường xưng tụng Thiên Chúa là “Cha”, một tiếng gọi thân thương mới lạ đối với người Do thái, vì họ không bao giờ dám gọi Thiên Chúa là Cha.
+ “Chúa Tể trời đất”:là một lời xưng hô có tính trang trọng.
+ Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn: “Giấu” ở đây không phải vì Chúa Cha không muốn mặc khải, nhưng vì những người kia tự mãn, cho mình là khôn ngoan thông thái, nên không muốn đón nhận chân lý mặc khải. Trái lại, những người bé mọn vì có tinh thần khó nghèo, nên được Thiên Chúa tỏ mình để họ biết Người, như Đức Giê-su đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !” (Ga 9,39). Câu này gợi lại câu chuyện về các thiếu niên Do thái trong sách Đa-ni-en: Tất cả các bậc khôn ngoan thông thái Ba-by-lon không ai hiểu được mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chỉ có các thiếu niên Do thái là được Thiên Chúa mặc khải cho (x. Đn 2,27.30). Cũng vậy, Đức Giê-su ngợi khen Thiên Chúa vì Người đã tỏ mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn, tức là những kẻ chỉ biết tin cậy phó thác vào sự phù trì của Thiên Chúa.
- C 26-27:
+ Đó là điều đẹp ý Cha: Đức Giê-su luôn làm đẹp lòng Cha (x. Mt 3,17 ; 26,42 ; Ga 4,34). + Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi: Ngôn sứ Đa-ni-en được mặc khải chuyện Con Người được Đấng Cao Niên (Thiên Chúa) ban tặng tất cả mọi sự (x. Đn 7,14). Ở đây, Đức Giê-su cho thấy Thiên Chúa đã giao phó mọi sự cho Người (x. Mt 28,18). Nhất là cho Người biết rõ về Chúa Cha để mặc khải cho lòai người, hầu ban cho lòai người được sống đời đời (x. Ga 17,2-3).
+ Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha. Cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho: “Biết” ở đây không phải chỉ là sự hiểu biết tri thức thông thường, nhưng là hiểu biết thâm sâu cả về tâm hồn và thể xác.
- C 28:
+ Tất cả hãy đến với tôi: Đức Giê-su mời gọi mọi người hãy theo làm môn đệ của Người, tức là vâng nghe lời Người dạy và sống theo gương mẫu tốt lành của Người.
+ Những ai đang vất vả mang gánh nặng nề: Chính Đức Giê-su là Con Người được đề cập trong sách Đa-ni-en, ở đây lại xuất hiện dưới danh xưng Con Thiên Chúa, là Vua và là Đấng mặc khải Nước Trời cho những người bé mọn. Họ là những kẻ vất vả và mang gánh nặng nên được Người kêu gọi hãy đến với Người. Đó là những người Do thái đang sống dưới ách của Luật cũ có nhiều tập tục nặng nề (x. Mt 23,4). Những kẻ mang gánh nặng còn là những người gặp nhiều gian nan thử thách.
- C 29-30:
+ Hãy mang lấy ách của tôi: “Ách” hay “gánh” của Đức Giê-su chính là đạo lý Tin Mừng mà Người rao giảng.
+ Vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường: Đạo lý của Đức Giê-su được tóm lại trong ba điều chính sau: Một là Tin, nghĩa là trở thành môn đệ của Người. Hai là khiêm nhường, nghĩa là hạ mình xuống trước mặt Thiên Chúa. Ba là hiền lành, nghĩa là đối xử khoan dung nhân hậu với tha nhân.
+ Vì ách tôi êm ái: Đức Giê-su đòi môn đệ phải giữ luật theo tinh thần của Tám Mối Phúc (x. Mt 5,17.20), thay cho thái độ vụ Lề Luật và nặng hình thức (x. Mt 5,21-22). Đức Giê-su cũng dạy môn đệ đừng bắt chước các đầu mục Do thái là các kinh sư và người Pha-ri-sêu, vì họ “nói mà không làm” (x. Mt 23,2-7). + Và gánh tôi nhẹ nhàng: Khi tuân giữ các điều Luật dạy với lòng yêu mến, thì bất cứ điều khoản nào dù khó giữ đến đâu, cũng trở nên nhẹ nhàng đối với người yêu mến Chúa.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LỊCH SỬ LỄ THÁNH TÂM:
Khi Chúa Giê-su bị treo trên thập giá, thánh sử Gio-an đã nhấn mạnh tới vết thương ở cạnh sườn Người: “Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,33-34).
Trước thế kỷ 12, Hội Thánh có thói quen tôn kính các vết thương của Chúa Giê-su. Nhưng từ thế kỷ 13, Hội Thánh bắt đầu tôn kính Trái tim Chúa, là cơ quan diễm tả Tình yêu của Người. Đến năm 1695, nữ tu Mác-ga-ri-ta thuộc dòng Đức Mẹ Thăm Viếng ở Pháp, đã được Chúa Giê-su hiện ra phán bảo rằng: “Đây là Trái Tim đã yêu mến loài người quá bội, mà loài người vô tình tệ bạc, lại còn khinh mạn dể duôi”. Rồi Chúa truyền phải phổ biến lòng tôn sùng Trái Tim Chúa trên khắp thế giới. Giáo Hội cổ động việc tôn sùng này như một phương thế chống lại lý thuyết sai lầm thời đó, chủ trương Thiên Chúa là Đấng nghiêm minh công thẳng, không xót thương và sẽ trừng phạt các tội nhân. Vì thế Giáo Hội thấy cần đề cao lòng thương xót của Chúa. Nên đến cuối thế kỷ thứ 18, Giáo Hội đã thiết lập lễ kính Thánh Tâm Chúa Giê-su.
Phương thế để tôn sùng Trái Tim Chúa Giê-su là siêng năng làm việc đền tạ. Việc đền tạ gồm hai phần: Một là gia tăng lòng kính mến Chúa, thay cho những kẻ đã vô tình tệ bạc với Người. Hai là dâng những lời ngợi khen, ăn năn và cầu xin Chúa tha thứ cho những kẻ đã cả lòng xúc phạm đến Thánh Tâm Chúa.
2) LUÔN VUI TƯƠI VÌ CÓ TÂM HỒN HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG:
Nhà văn TÔN-TOI (Tolstoi) đã kể một câu chuyện để khuyên người ta sống lạc quan:
Một hôm, một con chó sói kia gặp thấy con sóc có bộ lông màu nâu đang nhởn nhơ ngồi gặm củ cà rốt trên một cành cây gần mặt đất, sói liền nhe hàm răng nhọn hoắc ra, gầm gừ đe dọa và hỏi sóc nâu rằng: “Này tên sóc nâu khốn kiếp kia. Tại sao tao thấy họ hàng bọn sóc các ngươi lúc nào cũng nhảy nhót ăn uống vui vẻ như thế ? Bộ chúng bay không thấy ông nội của chúng bay đang bị rầu thúi ruột đây hay sao ?” Bấy giờ chú sóc nâu kia vội leo lên một cành cây cao hơn để đề phòng bất trắc, rồi trả lời chó sói rằng: “Thưa ông sói. Sở dĩ ông luôn cảm thấy buồn thúi ruột vì ông là kẻ gian ác, lúc nào cũng để lòng giận hờn, luôn tìm cách bắt nạt và giết hại những kẻ yếu đuối hơn mình. Còn họ sóc nhà chúng ta đây luôn vui tươi nhảy nhót suốt ngày, là do chúng ta hiền lành, luôn sống hòa thuận với mọi loài vật khác và không làm hại bất cứ ai”.
Câu trả lời của chú sóc nâu rất phù hợp với bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su là một người lạc quan. Dù vừa bị các đầu mục Do thái chống đối ở các thành ven Biển Hồ (x. Mt 11,20-24), nhưng Người đã nhận ra đó là thánh ý Chúa Cha và cầu nguyện: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều mầu nhiệm này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha (Mt 11,25-26).
Còn chúng ta, sau khi gặp một vài sự chống đối hay thất bại trong việc truyền giáo, chúng ta thường cảm thấy chán nản và muốn buông xuôi. Chúng ta hãy xin Chúa ban tinh thần lạc quan, để dù gặp phải đau khổ thất bại, vẫn dâng lời ngợi khen cảm tạ, vì biết rằng sự thất bại chỉ là nhất thời, là dịp để chúng ta rút kinh nghiệm. Hy vọng sẽ tới ngày chúng ta sẽ gặt mùa lúa bội thu như lời Đức Giê-su tiên báo hôm nay.
3) KINH NGHIỆM CỦA MỘT NGƯỜI GẶP CHÚA:
Một cô sinh viên Công giáo kia vừa bắt gặp quả tang người yêu lừa dối phản bội mình nên mang tâm trạng buồn chán. Rồi khi về đến nhà, cô lại bị mẹ rầy la vị sự ngây thơ khờ dại của mình. Cô liền chạy xe đi tìm mấy người bạn thân, để tâm sự mong nhận được lời động viên an ủi. Nhưng thật không may: đứa thì đi học, đứa thì đi làm, đứa khác đang đi chơi với bạn trai… Trời đã về chiều và đường phố đang giờ tan tầm, cô chạy lòng vòng và bị mắc kẹt tại giao lộ, phải chịu đựng những tiếng ồn ào và hít mùi khói xăng khó chịu. Gần đó có một thánh đường đang mở cửa, cô liền đem xe vào chỗ gửi và vào trong nhà thờ. Bầu khí nơi đây thật trang nghiêm yên tĩnh. Cô đến quỳ ở hàng ghế đầu sát gian cung thánh nhìn lên Chúa Giê-su và thầm thì tâm sự với Người. Nói đến đâu nước mắt tuôn trào đến đó. Sau một hồi lâu, cô cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng thanh thản. Hình như tâm tư của cô đã được Chúa nghe và cảm thông rồi. Cô đã được bình an trong tâm hồn và quên đi những gì đã gây đau khổ cho mình. Cô hy vọng một tương lai tốt đẹp đang chờ đón mình. Rồi cô ra lấy xe về nhà như không có chuyện gì xảy ra trước đó.
Thật đúng như lời Đức Giê-su mời gọi trong Tin Mừng hôm nay: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm được rằng: Chỉ nơi Chúa con mới tìm thấy niềm vui và sự bình an.
4) SỐNG YÊU THƯƠNG:
Trong quyển nhật ký, mục sư MÁC-TIN LU-THƠ KINH (Martin Luther King), người đã hy sinh mạng sống để đấu tranh cho quyền bình đẳng của người da đen có đoạn như sau:
“Tôi rất hãnh diện nếu ngày tôi chết, được ai đó kể lại rằng: Lu-thơ Kinh là người đã cố gắng sống vì yêu thương. Ngày đó tôi mong các bạn có thể nói rằng: tôi đã cố gắng sống cho công lý, rằng tôi đã đồng hành với những ai thực thi công bình, rằng tôi đã dấn thân để đem lại cơm bánh cho những người đói ăn, và kẻ rách rưới có đồ mặc. Tôi mong rằng ngày đó các bạn sẽ nói rằng: Lu-thơ Kinh đã xả thân để thăm viếng những người tù tội, và yêu thương phục vụ hết mọi người, nhất là những nạn nhân của sự kỳ thị chủng tộc… Còn tất cả những thứ khác, như giải No-bel Hòa Bình 1964 không quan trọng nên chẳng cần phải nhắc lại…”
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng nên con giống hình ảnh yêu thương của Chúa. Chúa đã phú ban cho con một trái tim biết yêu thương. Xin cho con biết luôn tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống trong sự hòa thuận tha thứ và khiêm nhường phục vụ tha nhân. Nhất là xin cho con biết yêu thương những người nghèo khổ đang sống bên con, vì họ chính là hiện thân của Chúa Giê-su đang bị bỏ rơi khi xưa.
5) SẴN SÀNG TẶNG TRÁI TIM DUY NHẤT CHO NGƯỜI YÊU:
Một chuyện tình có thật đã được dựng thành phim và được chiếu trên đài truyền hình Pháp trong năm 1996 như sau:
Có một chàng trai tên là ANTÔN người Phi châu, mồ côi mẹ, sống với cha trên đất Pháp. Không giấy tờ cũng chẳng có việc làm, nơi ở chỉ là một góc tối trên căn gác chật hẹp. Điều trớ trêu là Antôn lại yêu VALERY, một cô gái người pháp thuộc gia đình giàu có, nặng óc kỳ thị. Tình yêu của hai người rất bấp bênh vì khác màu da chủng tộc. Nhiều lần cha mẹ của Valery đã đến gặp và nói rõ với cha của Antôn rằng, họ sẽ không bao giờ chấp nhận cho con gái của họ sống chung với một tên da đen.
Đau khổ và tuyệt vọng, đôi thanh niên nam nữ quyết định sẽ đi tìm khung trời riêng cho mình. Thế là cô gái lấy cắp tiền của cha mẹ và lên đường đi xa, nhưng họ đã bị cảnh sát bắt lại ngay trong đêm sắp trốn đi. Quá xúc động bởi nhiều biến cố dồn dập, Valery đã bị nhồi máu cơ tim phải nhập viện chữa trị. Gia đình cô lợi dụng cơ hội này để cắt đứt liên lạc giữa hai người. Để ngừa hậu hoạ, cha mẹ Valery còn gọi điện báo cho cảnh sát biết tình trạng cư trú bất hợp pháp của hai cha con Antôn. Nhưng cảnh sát đã không bắt được Antôn, vì lúc đó chàng trai thất tình đang đi lang thang ngoài đường phố. Nhiều tuần lễ sau, các bác sĩ cho biết Valery phải được thay tim, mới có hy vọng sống sót. Tình cờ biết được tin này, Antôn đã ghé thăm người yêu đang đau nặng. Trở về nhà đã vắng bóng cha, chàng trai đau khổ khóc suốt đêm. Đến khi cảnh sát ập đến bắt chàng thì họ thấy chàng đã bị mê man bất tỉnh. Thay vì đưa chàng vào nhà tù, họ đã chở chàng đến bệnh viện và chỉ vài tiếng sau thì Antôn tắt thở, trong túi áo của chàng người ta tìm thấy một tờ giấy di chúc với dòng chữ: “Xin được trao tặng trái tim này cho Valery, người yêu của tôi” và sau đó Valery đã được cứu sống nhờ trái tim của người tình da đen bất hạnh và đau khổ ấy. (nguồn Internet).
3. SUY NIỆM:
1) Hôm nay, cùng với Hội Thánh, chúng ta mừng lễ kính Thánh Tâm Chúa Giê-su – là nguồn mạch của tình yêu. Tình yêu của Đức Giê-su bắt đầu từ việc Chúa Con vâng lời Chúa Cha xuống nhập thể làm người, sống ẩn dật 30 năm ở Na-da-rét. Sau đó, Người đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời gần 3 năm. Người trình bày tình yêu cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người, không phân biệt giàu nghèo, tiếng nói hay màu da chủng tộc...
2) Người sẵn sàng gặp gỡ tiếp xúc với mọi hạng người trong xã hội. Ai gặp được Người cũng đều được Người ban ơn cứu độ cả về thể xác cũng như tâm hồn như sau:
- Về thể xác: Dân chúng đang đói được ăn no nhờ phép lạ Đức Giê-su nhân bánh ra nhiều; Một phụ nữ bị bệnh loạn huyết 12 năm được ơn chữa lành; Kẻ tê liệt nằm trên chõng được ơn trỗi dậy vác chõng về nhà; Những người cùi hủi, câm điếc, đui mù, què quặt đều được ơn chữa lành; La-da-rô chết 4 ngày được ơn phục sinh ra khỏi mồ...
- Về tinh thần, Đức Giê-su cũng biến đổi nhiều tội nhân nên người tốt như: Lê-vi nhân viên thu thuế được nên môn đệ Chúa, Gia-kêu thủ lãnh thu thuế được ơn sám hối thực sự, Ma-ri-a Ma-da-le-na tội lỗi được ơn hoàn lương... Người phụ nữ ngoại tình được Người bênh vực và tha tôi; Phê-rô, kẻ trộm lành, Sao-lô được ơn sám hối và biến đổi...
Tin Mừng Gio-an đã tóm lược tình yêu của Đức Giê-su như sau: “Ngài yêu thương các môn đệ và yêu thương họ đến cùng” (x. Ga 13,1), mà tột đỉnh của tình yêu đó là hy sinh chết trên thập giá để đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống cho loài người.
3) Trong lễ kính Thánh Tâm hôm nay, chúng ta được nghe Lời Chúa mời gọi như sau:
a) “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28): Gánh nặng ở đây là gánh nặng của đau khổ, hậu quả của những lần vấp ngã, gánh nặng trách nhiệm, của sự nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân… Tất cả những ai đang bị căng thẳng và lo âu, chán chường và mệt mỏi, hãy đến gặp gỡ tâm sự với Chúa Giê-su, thì sẽ tìm thấy sự bình an cho tâm hồn.
b) “Anh em hãy mang lấy ách của tôi” (Mt 11,29): Đức Giê-su không giấu chúng ta về đòi hỏi nghiêm túc của Người là đi con đường hẹp và leo dốc ít người muốn đi. Người đòi ta phải vác thập giá là các vất vả hy sinh mà theo Người. Như thế, sự an bình thư thái Người hứa ban, không phải thứ bình an dễ dãi, nhưng là bình an nội tâm: Dù đang bị đau khổ, vẫn ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương và quyết tâm vâng theo ý Thiên Chúa như Đức Giê-su xưa: “Đừng theo ý Con, một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39b).
c) “Hãy học với tôi”: Đức Giê-su kêu gọi chúng ta hãy trở thành môn đệ của Người, hãy học sống yêu thương với lòng “hiền hậu và khiêm nhường” như Người. Khi mang trong lòng những tâm tình của Đức Giê-su, thì tâm hồn chúng ta sẽ được thư thái bình an. Chính khi chúng ta biết loại bỏ thái độ tự mãn của các Biệt Phái để biết ăn ở khiêm hạ hiền hòa như trẻ thơ, thì chúng ta sẽ được Người mặc khải những điều lớn lao.
d) “Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,30): Ách của Đức Giê-su sẽ trở nên êm ái và gánh của Người sẽ hóa thành nhẹ nhàng, nếu chúng ta biết đón nhận chúng với tình yêu thương. Chính tình yêu mến Chúa sẽ biến những đau khổ vất vả ta gặp phải, trở nên êm ái và nhẹ nhàng, như thánh Au-gút-ti-nô viết : “Nơi đâu có tình yêu, thì sẽ không còn vất vả. Mà giả như có vất vả, thì người ta cũng ưa thích sự vất vả đó”.
4. THẢO LUẬN:
Theo bạn, các việc dự lễ cầu nguyện sớm tối có phải là gánh nặng không ? Làm thế nào để các việc đạo đức ấy trở thành ách êm ái và gánh nhẹ nhàng như lời Chúa dạy hôm nay ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho con luôn sống đơn sơ bé nhỏ, để có thể nghe được tiếng Chúa, để cảm thấy Chúa đang ở trong con. Con đang sống giữa một thế giới đầy những cạm bẫy và gian dối lừa lọc, xin cho trái tim con đừng hóa ra sơ cứng như đá, ích kỷ khép kín và nghi ngờ tha nhân. Xin dạy con sống hiền hòa như Chúa, để cảm thông với nỗi đau của tha nhân và sẵn sàng tha thứ những xúc phạm của kẻ khác. Xin dạy con luôn vâng theo ý Chúa qua ý bề trên, và khiêm tốn đón nhận những góp ý chân thành của anh em. Cuối cùng, xin giúp con luôn dấn thân đi con đường hẹp và leo dốc, chấp nhận những đau khổ thử thách gặp phải với lòng tin yêu phó thác. Nhờ đó, con hy vọng sẽ nên giống Chúa ở đời này và sẽ được Chúa ban hạnh phúc thiên đàng đời sau.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Chúa Giêsu dùng hình ảnh người mục tử tìm chiên, để gửi gắm tình yêu tốt lành của một Thiên ThánhTâm ABC-107
Chúa Giêsu dùng hình ảnh người mục tử tìm chiên, để gửi gắm tình yêu tốt lành của một Thiên Chúa gần gũi, quan tâm, hy sinh và liên đới với con người. Tin Mừng ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm nay, mời gọi chúng ta chiêm ngắm Đấng nhân hậu tìm chiên lạc trong tình trạng cứu vớt để yêu thương và tha thứ.
Nhân hậu tìm kiếm chiên lạc
Đức Chúa yêu thương dân tuyển chọn như mục tử thương yêu đàn chiên. Bài đọc thứ nhất sách ngôn sứ Êzekien đã phác họa: tình thương Mục Tử chăm sóc từng con chiên trên đồng cỏ xanh tươi. Trong thư Rôma thánh Phaolô diễn tả: Thiên Chúa đón nhận chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Diễn từ Tin Mừng hôm nay ghi lại: dụ ngôn con chiên lạc là một trong ba dụ ngôn nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Người Mục Tử liều lĩnh bỏ chín mươi chín con nơi đồng vắng để lên đường tìm một con. Và việc mừng rỡ khi tìm thấy không phải mừng vì số 100 lại tròn đầy, mà là cho con chiên lạc kia lại được nhập bầy. Số 1= 99 thật kỳ lạ. Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân hối cải. Thánh Augustinô giải thích: “Cuộc sống con người là sự xung đột giữa hai tình yêu: yêu Chúa đến độ khinh mình, hoặc yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa”. Con người vốn mang tính mòng dòn của con chiên dễ đi lạc. Thiên Chúa nhẫn nại đi tìm và dắt chúng ta ra khỏi tính hư mất để yêu thương và tha thứ.
Nhân hậu yêu thương tha thứ
Chúa Giêsu luôn yêu thương những người lạc hướng. Một khi chiên tự tách khỏi đàn nó cũng tách luôn tình thương mục tử dành cho nó. Hai cha con đi trên chiếc xe. Tới bìa rừng có nhiều bụi dâu chín mọng cậu bé thích thú xin với cha: “Thưa cha, cha dừng lại để con hái ít dâu”. Người cha đang vội, nhưng ông không nỡ từ chối lời xin của con. Ông dừng xe lại, cậu nhảy xuống hái dâu. Sau một lúc, người cha giục cậu bé lên xe. Nhưng cậu say mê hái dâu. Người cha la to: “Chúng ta phải đi thôi, kẻo trễ mất. Cậu bé cứ tiếp tục hái dâu. Người cha thương con và không thể để lại đứa con ở đó. Đàng khác ông còn có việc của ông. Sau cùng ông nói lớn: “Con có thể tiếp tục hái dâu. Nhưng con phải cẩn thận tìm được cha, cha bắt đầu đi chậm chậm theo đường và thỉnh thoảng con hãy gọi cha và cha sẽ trả lời con. Bao lâu con còn nghe tiếng cha trả lời, con biết cha còn đang ở gần con. Khi con không nghe tiếng Cha nữa, thì con biết rằng: con đã bị lạc rồi! Lúc đó con hãy chạy thật nhanh để tìm được Cha”. Khi đời sống đạo của người kitô hữu của chúng ta bị mất phương hướng hay lạc định hướng, chúng ta làm gì để lắng nghe tiếng Chúa và tìm lại hướng đi có Chúa? Amen.
4 “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai.6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”.7 Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
Suy Niệm:
Hình ảnh người mục tử rất thân quen với cuộc sống người Do Thái và là chủ đề lớn nhất trong kinh ThánhTâm ABC-108
Hình ảnh người mục tử rất thân quen với cuộc sống người Do Thái và là chủ đề lớn nhất trong kinh thánh. Đức Giêsu tự giới thiệu mình là mục tử nhân lành yêu thương , phục vụ đàn chiên của Ngài: “Ta đến để chiên Ta được sống và sống dồi dào”.
Tin Mừng tường thuật người mục tử nhân lành bỏ 99 con chiên trong hoang địa để đi tìm một con chiên lạc. Theo cái nhìn kinh tế, thì việc làm này không phù hợp với nền kinh tế thị trường đề cao lợi nhuận. Nhưng rất phù hợp với lý luận của tình thương Thiên Chúa:
Đối với Thiên Chúa, mỗi một con người, dù tội lỗi xấu xa, cũng là một đối tượng để được yêu thương. Đức Giêsu xuống thế làm người là vì con người tội lỗi: “Người đau yếu mới cần Thầy thuốc”. Con người càng yếu đuối, tội lỗi, càng được Thiên Chúa yêu thương. Như một người con bệnh tật, tàn phế trong gia đình được cha mẹ quan tâm chăm sóc nhiều hơn. Thiên Chúa cũng vậy, “ở đâu tội lỗi đầy tràn, ở đó ân sủng của Thiên Chúa càng chan chứa”. Thiên Chúa là Đấng cứu độ giàu lòng thương xót vì vậy mỗi khi cứu được một người, Thiên Chúa vui sướng và sung sướng: “Trên trời vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn 99 người công chính không cần phải sám hối”. (Lc 15,7)
Hôm nay Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trái tim là biểu tượng của tình yêu. Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu là tôn kính tình yêu của Ngài. Qua biến cố Trái Tim Chúa Giêsu bị lưỡi đòng đâm thấu ở đồi Calvê năm xưa, chúng ta hiểu được mạc khải cốt yếu nhất của Tin Mừng “Thiên Chúa là tình yêu”.
Năm 1597 lệnh bắt đạo tại Nhật Bản thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ mọi cơ sở Công giáo đều bị triệt hạ, Giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và bị khủng bố dã man.
Tại vùng Odawara và Kamakura, người ta bắt hai linh mục trẻ tên là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng. Họ giải các Ngài về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto thấy trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục. Người gì mà để tim ra ngoài!
Tsukamoto cầm mẫu ảnh Trái Tim coi qua rồi vứt vào sọt rác. Đến tối, ông nhớ lại và nghĩ rằng bức ảnh kỳ lạ phải có ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ. Mãi đến 1 giờ đêm quan đại thần hiểu được ý nghĩa bức ảnh, ông nhẹ nhàng, tay cầm viết lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ: “Đối ngoại hữu kỳ tâm. Đối nội vô tâm giã”.
Từ đó ông đặt ảnh Trái Tim trên bàn làm việc một cách kính cẩn. Một hôm người bạn thân là Osaki đến chơi thấy vậy hỏi:
Thế nào, bạn lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao?
Về mặt chính trị, thì tôi không dám phản kháng, nhưng về mặt văn hóa nhân đạo, thì tôi thích tấm ảnh này. Phải chăng tấm ảnh này nói lên chương trình và hành động, cách xử thế của Công Giáo. Đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì “hữu tâm”, còn đối với bản thân mình thì “vô tâm”. Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài… Nghĩa là phải đem hết con tim phục vụ xã hội, giúp ích cho đời. Còn về phần mình thì hy sinh, xả kỷ, đem hết trái tim ra giúp người, giúp đời. Một đạo dạy phục vụ nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân thì không màng tới, quả thật là một đạo ngay chính của thiên hạ vậy. Đạo Công giáo hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy! Từ đó hai ông trở nên bạn chí thân và âm thầm học đạo, lãnh nhận phép rửa tội, đồng thời vận động triều đình thả 2 Linh mục.
Ngắm nhìn tượng Trái Tim Chúa Giêsu, ai cũng phải công nhận: Chỉ có Chúa Giêsu là người duy nhất dám đưa trái tim ra ngoài cho người ta thấy, nghĩa là hết mình phục vụ nhân loại, hy sinh tất cả cho mọi người.
Hôm nay, khi suy niệm tình yêu vô biên của Đức Giêsu Kitô đối với loài người. Chúng ta phải cảm tạ Người vì Người đã yêu thương chúng ta vô cùng và hết lòng tin tưởng nơi Người.
Như Đức Kitô đã bỏ 99 con chiên đi tìm một con chiên lạc, người Kitô hữu không được coi khinh bất cứ một ai, trái lại phải sẵn sàng tiếp đón mọi người với tất cả thiện chí và phục vụ đắc lực chân thành. Chúng ta nhớ lại lời của Thánh Phanxico de Salle: “Một linh hồn là một địa phận khá lớn cho một Giám mục rồi”.
Vâng, kính thưa quý vị, thưa các bạn, Thiên Chúa không có “TRÁI TIM“, bởi vì Thiên Chúa là ThánhTâm ABC-109
Vâng, kính thưa quý vị, thưa các bạn, Thiên Chúa không có “TRÁI TIM“, bởi vì Thiên Chúa là Đấng vô biên, siêu nhiên, Đấng Thánh, ngàn trùng chí Thánh, vượt trên tất cả các loài được tạo thành. Thiên Chúa vốn dĩ là toàn năng, siêu việt. Vì vậy, Thiên Chúa không có hình dáng, hình thể, hình tượng. Nhưng, Thiên Chúa là nguồn chân lý và tình yêu, bởi vì Thiên Chúa là “NGUỒN SỐNG”, nguồn sống vĩnh cửu và chân thật. Ngoài Thiên Chúa ra không có nguồn sống nào khác.
Như vậy, “Trái Tim“ là biểu tượng của sự hữu hình, là một bộ phận trung tâm, chứ không phải chủ lực, một cơ quan trọng yếu để chi phối cho sự sống của một cơ thể hữu hình, mang một chức năng để biểu cảm cảm xúc, mà tiêu biểu là “yêu thương“.
Theo đó, trái tim hữu thể được Thiên Chúa tạo thành để biểu lộ chức năng là “yêu thương”. Như vậy, trái tim đóng vai trò để thực thi nhiệm vụ tình cảm, đồng thời thi hành sứ vụ “tình yêu“ nơi Thiên Chúa. Rõ ràng, chức năng của trái tim là như thế, nó được tham dự vào một bản tính Thiên Chúa, đó là ”TÌNH YÊU“.
Theo đó, tình yêu mà chúng ta hiểu, biết, được đến từ Thiên Chúa là Đấng siêu nhiên, chứ không phải đến từ con người nhân loại.
Qua đó, sự hữu hình nơi Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc thế gian mang lấy một “Trái Tim” được nhìn thấy, là một Ngôi Vị Thiên Chúa. Từ đó, suy ra THÁNH TÂM Chúa Giêsu mang một “nhệm vụ“ tình yêu bởi Thiên Chúa. Nếu như, Người không hữu hình, mặc lấy phàm nhân, thì Tình Yêu nơi Thiên Chúa không được biểu lộ hữu hình.
Vì vậy, tình yêu nơi Thiên Chúa vẫn mãi biểu lộ cách siêu nhiên, huyền nhiệm qua các ngôn sứ. nhưng, đến thời, đến buổi, Thiên Chúa muốn biểu lộ các tỏ tường bởi chính một Ngôi Vị Thiên Chúa, để bày tỏ tình yêu cách hữu hình cho con người hữu hình. Thiên Chúa đã yêu thương con người cách cụ thể, hữu hình, vì vậy, Thiên Chúa đã làm Người, mang lấy một “TÌNH YÊU“ duy nhất, đặc biệt để yêu thương con người.
Vâng, tất cả điều đó được minh chứng qua đoạn Tin Mừng (Ga 19, 31 -37) hôm nay. Chúa Giêsu chịu lưỡi đòng đâm thâu vào thấu tận “TRÁI TIM“ là một minh chứng rõ ràng rằng tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ bằng sự hữu hình rõ nét nhất. Một minh chứng rõ nết là tình yêu của Thiên Chúa đã trở nên hữu hình qua Thánh Tâm Đấng cứu thế.
Từ đó, chúng ta chiêm niệm được mầu nhiệm tình yêu nơi sự Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Như vậy, Thiên Chúa chân lý, nhưng Thiên Chúa không dùng chân lý như là một phương thế duy nhất đối với nhân loại, mà Ngài dùng tình yêu như một phương thế hoàn hảo để ôm lấy chân lý.
Vì nếu, Thiên Chúa sử dụng chân lý như một khi cụ duy nhất thì Ngài không cần phải minh chứng “TRÁI TIM“ của Đấng Cứu Thế để nên như khí cụ cứu độ nhân loại.
Chúng ta thấy, dù Đấng Cứu thế đã mang lấy mọi đau khổ của nhân loại tội lỗi, nhưng Thánh Thể của Người không hề phân tán, hay phải nát vụn. Nhưng, từ “cung lòng” của thiên Chúa, Người đã mở rộng Thánh Tâm như một minh chứng xác thực tình yêu của Thiên Chúa biểu hiện qua sự hữu hình của phàm nhân. Thiên Chúa không mang Trái Tim, nhưng Đấng cứu thế mang “Trái Tim“ HỮU HÌNH hầu biểu lộ Thánh Tâm của Người cho nhân loại.
Chúng ta tôn thờ THÁNH TÂM Chúa Giêsu, nơi đó mạch Máu trường sinh tuôn đổ để tha thứ tất cả tội lỗi nhân loại, trong đó các thừa tác vụ linh mục, một quà tặng, một ân ban vĩnh cửu từ Thánh Tâm Chúa Giêsu đến muôn đời.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu Linh Mục, nơi đó mạch Nước Trường Sinh và vĩnh cửu tuôn đổ ra vì nhân loại. Xin cho Lòng Xót Thương tuôn mãi trên nhân loại lỗi lầm, hầu xóa tan sự bất xứng mà mang lại cho họ sự thống hối ăn năn, ngõ hầu chỉ có Thánh Tâm Chúa là nơi nguồn cội và cùng đích./. Amen.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu Linh mục, Người là tấm gương mục tử nhân lành. Xin cầu cho các linh mục của Chúa được ngụp lặn trong Thánh Tâm và kín múc suối nguồn tình yêu đích thực và vĩnh cửu, như thế là trọn hảo muôn đời ./. Amen
Nói đến trái tim là nói đến tình yêu, một hệ lụy không thể tách rời. Thánh Tâm Chúa Giêsu là ThánhTâm ABC-110
Nói đến trái tim là nói đến tình yêu, một hệ lụy không thể tách rời. Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mạch yêu thương, dạt dào dòng thương xót. Và chỉ có những gì từ trái tim mới có thể đến được trái tim: Ngài không cần biết chúng ta là ai hoặc là gì, và đối xử với Ngài thế nào, Ngài chỉ biết một điều là “yêu đến tận cùng, yêu bằng mọi giá, yêu vô điều kiện”. Đó là phương trình: Thánh Tâm Chúa Giêsu = Tình yêu + Lòng Thương Xót + Ơn Cứu độ.
“Thánh Tâm Chúa Giêsu nguồn êm ái dịu dàng, xin hãy ban xuống hồn con ngọn lửa say yêu một Chúa. Thánh Tâm Chúa Giêsu tràn lan niềm thương xót, xin thương những người đã dám cả lòng vấp phạm đến Thánh Tâm Cha”. Đó là ca từ đẹp trong bài thánh ca “Thánh Tâm Chúa Giêsu”, của Linh mục Nhạc sĩ Huyền Linh, rất quen thuộc với người Công giáo. Bài thánh ca có giai điệu đơn giản mà có sức làm lòng người lắng đọng.
Chúa Giêsu nhắn nhủ: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:29).
Chúa Giêsu đã mặc khải cho Mẹ Carmel tại Milan (Ý) trong thời gian từ 1968-1969. Ngày 20-4-1968, Mẹ Carmel hỏi: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn con làm gì?”. Chúa Giêsu nói: “Hỡi con gái của Cha, con hãy viết. Con sẽ làm Tông đồ Tình Yêu Đầy Thương Xót của Cha. Cha sẽ chúc lành cho con. Và Cha sẽ đổ xuống trên con muôn vàn ơn Thánh, và những ân thưởng lớn lao. Cha cám ơn con đã phổ biến Thánh Nhan của Ta. Ta sẽ chúc lành cho các gia đình trưng bày hình ảnh của Ta, và Ta sẽ cải hoán những kẻ tội lỗi sống trong các gia đình đó. Ta sẽ giúp kẻ lành tự cải tiến thêm, và những kẻ nguội lạnh trở nên sốt sắng hơn. Ta sẽ để mắt đến các nhu cầu của họ, và sẽ giúp họ trong mọi sự cần thiết, vật chất cũng như siêu nhiên”. Rồi Ngài nói rõ: “TA LÀ GIÊSU ĐẦY LÒNG THƯƠNG XÓT”.
Phàm cái gì cũng có luật. Vì con người thoái hóa nên phải có luật để giữ trật tự xã hội, kỷ cương nghiêm minh. Vậy luật có sau con người để phục vụ con người, nghĩa là luật vì con người, chứ con người không lệ thuộc luật. Tình yêu có luật của tình yêu. Ngay cả tự do cũng có luật, chứ không phải tự do là “xả láng sáng về sớm”. Một gia đình hoặc một nhóm (dù chỉ vài người) cũng có luật. Mỗi người cũng phải có luật riêng mình.
Ông Ê-li-a vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Đức Chúa nói với ông: “Ê-li-a, ông làm gì ở đây?” (1 V 19:9). Rồi Ngài nói thêm: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua” (1 V 19:11). Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão; sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất; sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa; sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Thiên Chúa ở trong “gió hiu hiu”. Điều đó chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa nhân hiền, không muốn những gì bạo động.
Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Ông không dám nhìn Ngài, phần vì ông thấy mình bất xứng, phần vì ông sợ người ta nhận diện. Bấy giờ có tiếng hỏi: “Ê-li-a, ngươi làm gì ở đây?” (1 V 19:13). Ông thưa: “Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng con” (1 V 19:14). Các ngôn sứ khác đều bị thủ tiêu, chỉ còn lại ông Ê-li-a, nhưng lòng nhiệt thành vẫn thôi thúc ông. Chắc chắn là Thiên Chúa đã tiền định sứ vụ cho ông. Đức Chúa mách nước: “Ông hãy đi con đường ông đã đi trước qua sa mạc cho tới Đa-mát mà về. Tới nơi, ông sẽ xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram; còn Giê-hu con của Nim-si, ông sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua Ít-ra-en. Ê-li-sa con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, ông sẽ xức dầu tấn phong nó làm ngôn sứ thay cho ông” (1 V 19:15-16).
Không ai xứng đáng trước mặt Chúa, nhưng thật may mắn cho chúng ta, vì Thánh Tâm Ngài có đầy Tình Yêu Thương và giàu Lòng Thương Xót. Ngài chỉ chờ chúng ta kêu cầu: “Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình đáp lại” (Tv 27:7), chắc chắn Ngài sẽ ban cho chúng ta những điều ngoài sức tưởng tượng. Như vậy, chúng ta phải tự nhủ: “Hãy tìm kiếm Thánh Nhan” (Tv 27:8). Chúng ta tin tưởng và miệt mài tìm kiếm Thánh Nhan Ngài, chắc chắn Ngài không ẩn mặt.
Tuy nhiên, chúng ta là những tội nhân bất xứng, nên luôn phải van nài: “Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Đấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi, lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con” (Tv 27:12). Cứ “vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27:13). Đừng ngần ngại, vì Thánh Tâm Chúa Giêsu đầy lòng thương xót: “Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa!” (Tv 27:14).
Luật Cựu Ước khác Luật Tân Ước. Luật Thiên Chúa khác luật loài người. Thánh Luật khác nhân luật. Chúa Giêsu nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5:27-28). Nếu chúng ta thấy một phụ nữ đẹp mà nhìn thì không sao, chúng ta có quyền ngắm nhìn và thưởng lãm tác phẩm mỹ thuật mà Ngài đã khéo léo tạo nên; nhưng nếu nhìn và ham muốn thì mới nguy hiểm. Chúa Giêsu gọi động thái đó là ngoại tình. Các loại ham muốn khác cũng bị Chúa kết án tương tự!
Chúa Giêsu phân tích: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt 5:29-30). Luật Cựu Ước dạy: “Ai rẫy vợ thì phải cho vợ chứng thư ly dị”. Còn Chúa Giêsu có Luật Tân Ước. Ngài cho biết: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mt 5:32). Quá rõ ràng, không hề mơ hồ!
Đó là Thánh Luật của Thiên Chúa. Ai không yêu Ngài thì không chuộng Luật Ngài, ai yêu Ngài thì vui sẽ “vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1:2), luôn “thích làm theo Thánh Ý và ấp ủ Luật Chúa trong lòng” (Tv 40:9). Vì “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn” (Tv 19:8), thế nên “hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo Luật pháp Chúa Trời” (Tv 119:1).
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu giàu lòng thương xót, xin cho chúng con nên như lưỡi đòng, không phải để làm Ngài thêm đau khổ, mà là để chúng con được vĩnh cư nơi Thánh Tâm Ngài và tắm gội trong dòng Thương Xót của Ngài suốt đời. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
(25) Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất. Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (26) Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. (27) Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha. Cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho. (28) Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. (29) Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. (30) Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay gồm các ý chính như sau: Đức Giê-su dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa ThánhTâm ABC-111
Bài Tin Mừng hôm nay gồm các ý chính như sau:
Đức Giê-su dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa Cha đã không cho những kẻ học thức quyền thế nghe biết sự thật, nhưng lại bày tỏ ra cho những người nghèo khó, yếu đuối và tội lỗi (25-26). Tiếp đến, Người nói về bản tính Thiên Chúa nơi mình ngang hàng với Chúa Cha (27), và mời các môn đệ hãy sống theo Luật tình yêu của Người, là luật vừa nhẹ nhàng dễ giữ, lại vừa đem lại sự sống muôn đời (28-30).
3. CHÚ THÍCH:
– C 25:
+ Lạy Cha: Khi cầu nguyện, Đức Giê-su thường xưng tụng Thiên Chúa là “Cha”, một tiếng gọi thân thương mới lạ đối với người Do thái, vì dân Do thái không bao giờ dám gọi Thiên Chúa là Cha. + “Chúa Tể trời đất”: là một lời xưng hô Thiên Chúa cách trang trọng. + Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn: “Giấu” ở đây không phải vì Chúa Cha không muốn mặc khải cho họ, nhưng vì những người kia có thái độ tự mãn, cho mình là khôn ngoan thông thái, nên không muốn đón nhận chân lý mặc khải. Trái lại, những người bé mọn vì có tinh thần khó nghèo, nên được Thiên Chúa tỏ mình ra để họ biết Người, như Đức Giê-su đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !” (Ga 9,39). Câu này gợi lại câu chuyện về các thiếu niên Do thái trong sách Đa-ni-en: Tất cả các bậc khôn ngoan thông thái Ba-by-lon không ai hiểu được mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chỉ có các thiếu niên Do thái là được Thiên Chúa mặc khải cho (x. Đn 2,27.30). Cũng vậy, Đức Giê-su ngợi khen Thiên Chúa vì đã tỏ mầu nhiệm Nước trời cho những người bé mọn, tức là những kẻ tin cậy phó thác vào sự che chở của Người.
+ Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi: Ngôn sứ Đa-ni-en được mặc khải cho biết chuyện Con Người được Đấng Cao Niên (Thiên Chúa) ban tặng tất cả mọi sự (x. Đn 7,14). Ở đây, Đức Giê-su cũng cho thấy Thiên Chúa đã giao phó mọi sự cho Người (x. Mt 28,18). Nhất là cho Người biết rõ Cha để Người mặc khải Cha cho lòai người, hầu ban cho lòai người được sống đời đời (x. Ga 17,2-3).
+ Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha. Cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho: “Biết” ở đây không phải là sự hiểu biết tri thức thông thường, nhưng là một sự hiểu biết thâm sâu. Là sự hiểu biết của tình yêu bao gồm cả tâm hồn lẫn thể xác.
+ Những ai đang vất vả mang gánh nặng nề: Chính Đức Giê-su là Con Người được đề cập trong sách Đa-ni-en. Giờ đây lại xuất hiện dưới danh xưng Con Thiên Chúa, là Vua và là Đấng mặc khải Nước Trời cho những người bé mọn. Họ là những kẻ vất vả và mang gánh nặng nề mà Người mời gọi họ hãy đến với Người. Đó là những người Do thái sống dưới ách của Luật cũ với nhiều tập tục nặng nề (x. Mt 23,4). Đó còn là mọi người đang sống trên trần gian đã trải qua nhiều gian nan thử thách.
– C 29-30:
+ Hãy mang lấy ách của tôi: “Ách” hay “gánh” của Đức Giê-su nói đây chính là đạo lý Tin Mừng mà Người rao giảng.
+ Vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường: Đạo lý của Đức Giê-su được tóm lại trong ba điều chính: Một là Tin, nghĩa là trở thành môn đệ của Người. Hai là khiêm nhường, nghĩa là hạ mình xuống trước mặt Thiên Chúa. Ba là hiền lành, nghĩa là đối xử khoan dung nhân hậu đối với tha nhân.
+ Vì ách tôi êm ái: Đức Giê-su đòi môn đệ phải giữ luật theo tinh thần thanh thoát của hiến chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật (x. Mt 5,17.20), khác với tinh thần vụ Lề Luật, và nặng hình thức bề ngoài (x. Mt 5,21-22). Đức Giê-su cũng dạy môn đệ đừng bắt chước các đầu mục Do thái là các kinh sư và người Pha-ri-sêu, vì họ chỉ nói mà không làm (x. Mt 23,2-7).
+ Và gánh tôi nhẹ nhàng: Khi tuân giữ các điều Luật dạy với lòng yêu mến, thì bất cứ điều khoản nào dù khó giữ đến đâu đi nữa, cũng sẽ trở thành nhẹ nhàng êm ái và dễ tuân giữ đối với những ai có lòng mến Chúa thực sự.
4. CÂU HỎI: 1)Khi xưng hô với Thiên Chúa, Đức Giê-su đã gọi Thiên Chúa là ai ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
Nhà văn TÔN-TOI (Tolstoi) đã kể một câu chuyện sau để khuyên người ta phải sống vui vẻ lạc quan:
Một hôm, một con chó sói kia gặp thấy con sóc có bộ lông màu nâu đang nhởn nhơ gặm củ cà rốt trên một cành cây gần mặt đất, sói liền nhe hàm răng nhọn hoắc ra, gầm gừ đe dọa và hỏi sóc nâu rằng: “Này tên sóc nâu khốn kiếp kia. Tại sao tao thấy họ hàng sóc bọn bay lúc nào cũng vui vẻ nhảy nhót ăn uống như thế ? Bộ chúng bay không thấy ông nội của chúng bay đang rầu thúi ruột ra đây hay sao ?” Bấy giờ chú sóc nâu kia vội leo lên cành cao hơn để đề phòng bất trắc. Sau khi ngồi an toàn trên cành, sóc nâu mới trả lời chó sói rằng: “Thưa ông sói. Sở dĩ ông luôn cảm thấy buồn thúi ruột vì ông là kẻ gian ác, lúc nào cũng để lòng giận hờn, luôn tìm cách bắt nạt và giết hại những kẻ yếu đuối hơn mình. Còn họ sóc nhà chúng tôi luôn được vui tươi và nhảy nhót suốt ngày, vì chúng tôi sống hiền lành, hòa thuận với mọi loài vật khác và không làm hại bất cứ ai”.
Câu trả lời của chú sóc nâu rất phù hợp với bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su là một người lạc quan. Dù vừa gặp phải thất bại ở các thành phố ven Biển Hồ (x. Mt 11,20-24), nhưng Người vẫn nhận ra thánh ý Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều mầu nhiệm này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha (Mt 11,25-26).
Còn chúng ta, sau khi gặp một vài sự chống đối hay thất bại trong việc truyền giáo, chúng ta thường cảm thấy chán nản và muốn buông xuôi. Chúng ta hãy xin Chúa ban tinh thần lạc quan của Đức Giê-su, để dù gặp phải đau khổ thất bại, vẫn dâng lời ngợi khen cảm tạ, vì biết rằng sự thất bại chỉ là nhất thời, là dịp để chúng ta học tập rút kinh nghiệm. Hy vọng sẽ tới ngày chúng ta sẽ trở thành thợ gặt mùa lúa bội thu của Thiên Chúa như lời Đức Giê-su tiên báo.
2) KINH NGHIỆM CỦA MỘT NGƯỜI GẶP CHÚA:
Một cô sinh viên Công giáo kia vừa bắt gặp quả tang người yêu đã lừa dối phản bội mình thì cảm thấy rất buồn chán. Rồi khi về đến nhà, cô lại bị mẹ rầy la vị sự ngây thơ khờ dại của mình. Cô chạy xe đến tìm mấy người bạn thân, để tâm sự mong được an ủi. Nhưng thật không may: Người thì đang đi học, người khác thì mắc phải đi làm, đứa khác lại đang bận đi chơi với bạn trai… Trời đã về chiều và đường phố đang giờ tan tầm, cô chạy lòng vòng ngoài đường và bị mắc kẹt tại giao lộ, phải chịu đựng những tiếng ồn ào và hít mùi khói xăng khó chịu. Gần đó có một thánh đường, cô liền đem xe vào chỗ gửi và vào trong nhà thờ. Bầu khí nơi đây thật trang nghiêm yên tĩnh. Cô đến quỳ ở hàng ghế đầu sát gian cung thánh nhìn lên Chúa Giê-su và bắt đầu thầm thì tâm sự với Người. Nói đến đâu nước mắt tuôn trào đến đó. Sau một hồi lâu, cô cảm thấy tâm hồn đã nên nhẹ nhàng thanh thản. Hình như tâm tư của cô đã được Chúa nghe và cảm thông rồi. Cô đã tìm thấy bình an trong tâm hồn và sẵn sàng quên đi tất cả những gì đã gây đau khổ trước đó. Cô hy vọng một tương lai tốt đẹp đang chờ đón. Rồi cô ra lấy xe về nhà như không có gì xảy ra.
Thật đúng như lời Đức Giê-su kêu gọi trong Tin Mừng hôm nay: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm được rằng: Chỉ nơi Chúa con mới được niềm vui và sự bình an.
3) SỐNG VÌ YÊU THƯƠNG:
Trong quyển nhật ký, mục sư MÁC-TIN LU-THƠ KINH (Martin Luther King), người đã hy sinh mạng sống để đấu tranh cho quyền bình đẳng của người da đen, trong cuốn nhật ký ấy có đoạn ông viết như sau:
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng nên con giống hình ảnh yêu thương của Chúa. Chúa đã phú ban cho con một trái tim biết yêu thương. Xin cho con biết luôn tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống trong sự hòa thuận tha thứ và khiêm nhường phục vụ. Nhất là xin cho con biết yêu thương những người nghèo khổ đang sống bên con, vì họ là hiện thân của Chúa.
Trước thế kỷ 12, Hội Thánh có thói quen tôn kính các vết thương của Chúa Giê-su. Nhưng từ thế kỷ 13, Hội Thánh bắt đầu tôn kính Trái tim Chúa, là cơ quan tượng trưng cho Tình yêu của Người. Đến năm 1695, nữ tu Mác-ga-ri-ta thuộc dòng Đức Mẹ Thăm Viếng ở Pháp, đã được Chúa Giê-su hiện ra phán bảo rằng: “Đây là Trái Tim đã yêu mến loài người quá bội, mà loài người vô tình tệ bạc, lại còn khinh mạn dể duôi”. Rồi Chúa truyền phải phổ biến lòng tôn sùng Trái Tim Chúa trên khắp thế giới. Giáo Hội cổ động việc tôn sùng này như một phương tiện để chống lý thuyết sai lầm lan tràn vào thời đó, chủ trương Thiên Chúa là Đấng nghiêm minh công thẳng, không xót thương và sẽ trừng phạt các tội nhân. Vì thế Giáo Hội thấy càng phải đề cao lòng thương xót của Chúa. Nên đến cuối thế kỷ thứ 18, Giáo Hội đã thiết lập lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su.
Phương thế để tôn sùng Trái Tim Chúa Giê-su là siêng năng làm việc đền tạ. Việc đền tạ gồm hai phần chính: Một là giục lòng kính mến Chúa, thay cho những kẻ đã vô tình bạc nghĩa với Người. Hai là dâng những lời ngợi khen, ăn năn và cầu xin ơn tha thứ thay cho những kẻ đã dám cả lòng xúc phạm đến Thánh Tâm Chúa.
3. SUY NIỆM:
1) Mọi người lao động vất vả và mang gánh nặng hãy đến cùng Đức Giê-su: Đức Giê-su mời gọi các tín hữu năng chạy đến với Người: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Gánh nặng ở đây là gánh nặng của đau khổ, hậu quả của những lần vấp ngã, của trách nhiệm, của sự chịu đựng tha nhân… Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu, cảm thấy chán chường mệt mỏi, hãy đến tâm sự với Đức Giê-su để được Người ban sự bình an cho tâm hồn.
2) Học tập các nhân đức:
– Noi gương Đức Giê-su hiền lành và khiêm nhường trong lòng (x. Mt 11,29): Đức Giê-su không giấu môn đệ về những đòi hỏi nghiêm túc của Người, về con đường chật hẹp leo dốc mà ít người muốn đi, về thập giá mà chúng ta phải vác đi hằng ngày để theo sau Người giống như ông Si-mon Ky-rê-nê đã làm trên đường thánh giá. Như thế, sự an bình Người hứa ban, không phải là thứ bình an dễ dãi giả tạo, nhưng là sự bình an trong tâm hồn sau khi đã trải qua đau khổ. Sự bình an của người ý thức mình được Chúa Giê-su yêu thương và biết mình đang trung thành thực thi theo thánh ý Chúa muốn. Bấy giờ các sự khóa gặp phải sẽ biến thành ách êm ái và gánh nhẹ nhàng (x. Mt 11,30), do được đón nhận với tình yêu Chúa. Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ như thánh Au-gút-ti-nô đã nói: “Nơi đâu có tình yêu, thì sẽ không có vất vả. Mà giả như có vất vả, thì người ta cũng thích sự vất vả đó”.
– Noi gương Đức Giê-su yêu thương môn đệ đến cùng: Tinh yêu của Đức Giê-su đối với loài người nói chung và các môn đê nói riêng là tinh yêu tột đỉnh không giới hạn như Tin Mừng Gio-an viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b).
– Noi gương Đức Giê-su luôn nhẫn nhịn chịu đựng và sẵn sàng tha thứ cho những xúc phạm của bọn người gian ác: Đức Giê-su tuy ghét tội nhưng lại yêu thương những kẻ có tội. Trong cuộc khổ nạn, Người luôn có thái độ tha thứ: nhẫn nhịn trước hành động phản bội của môn đồ Giu-đa, im lặng trước những nhạo cười của đám đông và của vua Hê-rô-đê, chịu đựng trước lời khích bác của các đầu mục dân Do thái và của tên trộm cướp cùng chịu đóng đinh trên thập giá… Nhưng sẵn sàng tha thứ tội chối Thầy của môn đê Phê-rô, hứa ban Nước Thiên đàng cho kẻ trộm có lòng sám hối, xin Chúa Cha tha thứ những xuc phạm của người đời.
-Noi gương rông rãi ban phát ơn lành cho những người nghèo khổ bệnh tật: như Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, cho người cùi được sạch, cảm thông với sự đau khổ mất người thân nên đã phục sinh người thanh niên chết đang được mang đi chôn tại cửa thành Na-im, phục sinh La-da-rô chết bốn ngày nằm trong mồ tại làng Bê-ta-ni-a…
4. THẢO LUẬN:
1) Theo bạn, luật đạo nêu ra các việc bổn phận người tín hữu phải làm như dự lễ cầu nguyện sớm tối có phải là gánh nặng không ? 2) Làm thế nào để các việc ấy tuy là cái ách phải mang, nhưng trở nên êm ái nhẹ nhàng như lời Chúa hôm nay ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã đến và ban cho chúng con muôn ngàn hồng ân cả về thể xác cũng như tâm hồn. Chúa lại muốn cho chúng con quảng đại chia sẻ cho tha nhân những hồng ân ấy. Này thân xác chúng con với đôi mắt, tay chân, tài năng, sắc đẹp… Này tâm hồn chúng con với trí khôn hiểu biết, tình cảm yêu thương, ý muốn tự do… Chúng con xin dâng tất cả cho Chúa. Xin cho chúng con biết làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa.
LẠY CHÚA. Đời chúng con được bao phủ bằng biết bao hồng ân của Chúa. Cuộc đời của chúng con luôn có bàn tay Chúa dìu dắt dẫn đưa. “Có Chúa đi với con, con nào sợ chi ai ?” Xin giúp chúng con biết khám phá nơi bản thân những tài năng Chúa ban, biết trân trọng những của cải vật chất chúng con đang quản lý, và biết tận dụng những cơ hội, để làm sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi các linh hồn theo thánh ý Chúa.
Đứng sau Thánh Thể là Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn mạch tình yêu bởi Thiên Chúa. Thánh Tâm ThánhTâm ABC-112
Đứng sau Thánh Thể là Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn mạch tình yêu bởi Thiên Chúa. Thánh Tâm Chúa Giêsu là biểu tượng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. như chúng ta biết tình yêu là trạng thái siêu nhiên, vì không ai nắm bắt được tình yêu, nếu có biểu lộ tình yêu, hoặc trao ban tình yêu, cũng chỉ được bày tỏ qua cử chỉ, thái độ, hành động, biều tượng, chứ không ai có thể lấy tình yêu “ bỏ vào túi áo”, hay bỏ vào bàn tay. Vì vậy, tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại được cụ thể hóa, được trở nên hữu hình, được chứng kiến bằng xương bằng thịt qua Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô, qua cuộc khổ hình sinh ơn cứu độ, và qua chính một biểu tượng hữu hình của Người là Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Nói đến “chữ Tâm” là nói đến tình yêu, như vậy, “Thánh Tâm” có nghĩa là tình yêu của Thiên Chúa. Vậy Thánh Tâm Chúa Giêsu không phải là tình yêu của riêng Chúa dành cho nhân thế, mà là tình yêu hiệp nhất Ba Ngôi Thiên Chúa trong Thánh Tâm Chúa Giêsu là biểu tượng hữu hình một “ Trái Tim”.
Vâng, hình ảnh “Trái Tim” là biểu tượng của tình yêu, điều nầy quá quen thuộc, không ai mà không biết. Chức năng của trái tim là cơ quan ở giữa, khi nói đến “tâm” phải nhất định là ở giữa, như là tâm điểm. Người ta nói :” Vòng tròn có một cái tâm”, vâng, vì “cái tâm” ở giữa vòng tròn. Như vậy, cái tâm thật quan trọng, người ta muốn định vị hình tròn thì người ta phải tìm cái tâm của nó.
Vâng, một chút vòng vo để hiểu về “chữ tâm”, đại thi hào Nguyễn Du cũng đã nhận ra tầm quan trọng của “chữ tâm”. Cụ nói :” Chữ tâm bằng ba chữ tài”, tức là con người có lương tâm mới đáng quý hơn người có tài năng . Rõ ràng, nếu có “tài” mà không có ” tâm” rõ ràng là một tên cướp, còn có “tâm” dù chưa có “tài”, thì cũng được là một ông sư ( thầy tu). Nói vậy, không phải khinh thường tài năng, mà là so sánh giữa “tài “ và ”đức ”. Nếu có tâm, thì sẽ có đức, còn nếu có tài thì sẽ “tự cao”. Như vậy, “tài” và “ đức” phải song hành.
Trong xã hội, mọi ngành nghề, mọi công việc đều được phục vụ bằng “cái tâm”, thì xã hội ấy mới có “phúc”. Ví dụ: một người thẩm phán không có “ tâm”, chắc chắn sẽ có một bản án bất công. Một bản án bất công sẽ dẫn đến một cuộc đời bất hạnh, một cuộc đời bất hạnh là một nỗi đau cho xã hội, chứ không riêng cho người bất hạnh đó. Một xã hội có nhiều nỗi đau là một xã hội bại hoại, một xã hội không lành mạnh tất sẽ mất nước, dân lành oán thán. Ngoại bang xâm chiếm, đất nước bị nô lệ ngoại bang, như vậy, thật đáng sợ, theo đó, “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” là như vậy.
Theo đó, chữ “TÂM” trong xã hội là một nền tảng luân lý, đạo đức tối quan trọng.Vì thế, tất cả các tôn giáo trong xã hội luôn luôn đề cao chữ “ TÂM “. Chẳng hạn như Đạo Phật , họ cũng đề cao “chữ Tâm”, vì tâm không có thì làm sao “tu”. Vì, “Tu” thì giống như một cái vòng tròn, muốn cho tròn thì phải có tâm điểm, nếu không có tâm điểm thì làm sao định nghĩa được “đời tu” là cái vòng tròn. Vì rõ ràng, ai cũng biết “tu” là “sửa”, sửa lại cho đúng như thuở ban đầu, nhờ vào cái “tâm” thì ta mới sửa được đời tu là cái “vòng tròn”. Vì, tu là “ tâm”, cái tâm phải ở trong con người, vì vậy, người ta gọi là ”nhân tâm”, còn tài năng, thì phải do thực hành,mới có được, vì sự giỏi giang , thì gọi là “ nhân tài”.
Vâng, đó là “ chữ tâm “ trong đời sống con người thật quan trọng và cần thiết biết bao!
Theo đó, “cái tâm” trong đạo càng cao hơn, nhưng phải có người hướng dẫn, đó là :“ĐẠO“. Vâng, Đạo là con đường hướng đến điều trọn hảo, để “cái tâm” của nhân thế quay đúng tâm điểm của nó. Muốn vậy, “cái tâm” của người hướng dẫn phải cao cả , vĩ đại biết là dường nào, đó là ”TRÁI TIM” của Đức Kitô. Như vậy, Đức Kitô – Giêsu là Thiên Chúa, vì vậy, được gọi là “THÁNH TÂM”.
Vâng, Thánh Tâm là Trái Tim cực Thánh của Chúa Giêsu, đó là ý nghĩa thứ nhất, nhưng căn cứ vào Lời Chúa Giêsu hôm nay ( Mt 11, 25) :” Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói : Lạy Cha là Chúa tể Trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng , lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha “. ( c 25 -26), chúng ta cũng có thể hiểu “Thánh Tâm” là “Con Người” có Trái Tim của Thiên Chúa. vâng, một trái tim tốt lành, thánh thiện, thì được gọi là “Thánh Tâm”. Vậy, bất cứ ai, được Chúa Cha mặc khải cho biết những điều cao siêu từ trời và thực thi, thì người ấy có Trái Tim của Thiên Chúa. Vì , Thiên Chúa là Đấng siêu nhiên, vì vậy, không ai có thể nhìn thấy “Trái Tim” hữu hình của Thiên Chúa được. vì vậy, chỉ có Chúa Giêsu mới biểu lộ “Thánh Tâm” hữu hình của Người cho nhân thế.
Vậy, điều mà Chúa Cha mặc khải là cho những kẻ bé mọn chính là “Trái Tim “ của Thiên Chúa qua sự hữu hình của Chúa Giêsu. Từ đó, tất cả những ai có “Trái Tim” của Thiên Chúa qua nghĩa cử và hành động như Chúa Giêsu, thì người ấy cũng có một “Thánh Tâm”, nghĩa là “Trái Tim” của Thiên Chúa. Đó chính là những vị thánh, vì Chúa Giêsu khi biểu lộ Thánh Tâm của Người cho thánh nữ Magaritta vào thế kỷ 16 đã nói :“ Nầy là Trái Tim đã yêu dấu loài người quá bội, đến nỗi chẳng tiếc sự gì cùng nó”.
Vâng, để hiểu rõ hơn ý trên, chúng ta suy niệm tiếp câu 27: “Cha Ta đã giao phó mọi sự cho Ta. Và không ai biết rõ Người Con trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha trừ Người Con, và những kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho”.
Như vậy, rõ ràng, dù Thánh Ý Chúa Cha muốn mặc khải cho những kẻ bé mọn biết những điều sâu kín, nhưng tất cả mọi điều mặc khải ấy, đều bày tỏ qua Chúa Giêsu, vì mọi điều mặc khải không có điều mặc khải nào lớn hơn chính “Người Con “, là Chúa Giêsu. Như vậy, ai nhận biết và tin vào Chúa Giêsu ,chính là điều được mặc khải của Chúa Cha.
Điều nầy có ý nghĩa với Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu như thế nào? Thưa, chính là mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế của Người. Vì, Chúa Cha đã mặc khải chính tình yêu của Người qua Đức Kitô, chính tình yêu ấy được mặc khải qua biểu tượng hữu hình là ”Trái Tim” của Chúa Giêsu.
Trái Tim ấy luôn yêu thương loài người hết sức, hết lòng, đến nỗi chẳng tiếc sự gì cùng nó.
Vậy, Đạo công giáo là một mầu nhiệm yêu thương từ siêu nhiên, từ Thiên Chúa, và chính Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu thương ấy qua biểu tượng hữu hình của Chúa Giêsu là THÁNH TÂM của Người . Theo đó, không thể có bất cứ thế lực chính trị nào đứng trên tình yêu thương của Thiên Chúa được.
Qua bài chia sẻ hôm nay, con xin quý vị góp lời cầu nguyện cho linh hồn cha cố Giuse Đinh Quang Thịnh, theo con, cha GIuse như một mẫu gương của Thánh Tâm Chúa Giêsu, hay ít ra cha cố cũng có lòng ước ao nên giống Thánh Tâm Chúa.
Kính lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, Đấng nhân từ và dịu dàng, xin hãy uốn lòng chúng con nên như Rất Thánh Trái Tim Chúa, để chúng con trở nên “lò lửa“ hằng hừng lên sự kính mến Chúa, cùng Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần./. Amen.
Như chúng ta đã biết vào chiều Thứ sáu Tuần Thánh, trên đỉnh đồi Canvê, có một người lính lấy ThánhTâm ABC-113
Như chúng ta đã biết vào chiều Thứ sáu Tuần Thánh, trên đỉnh đồi Canvê, có một người lính lấy lưỡi đòng đâm thủng cạnh sườn, trúng trái tim Chúa Giêsu, tức thì máu cùng nước chảy ra.
Tương truyền rằng kẻ đâm ngọn giáo ấy tên là Longinô. Anh đã được biết Chúa và trở lại cùng Chúa. Khi chết đi, anh được chôn cất tại Pháp và trên phần mộ của anh còn ghi những chữ như sau:
- Đây là nơi an nghỉ của Longinô, người đã đâm cây đòng vào cạnh sườn Đấng Cứu thế.
Chúa Giêsu đã đổ máu không phải riêng gì do lưỡi đòng của người lính này. Thực ra, cả nhân loại đã đứng lên giết Chúa. Trong đó có chính bản thân chúng ta nữa.
Tuy nhiên, cái chết của Chúa không phải là một vụ thảm sát, nhưng là một cuộc cách mạng. Cái chết của Chúa không phải là một sự thất bại, nhưng là một thành công to lớn, bởi vì máu Chúa đem lại sự sống, như hạt lúa phải mục nát để mầm sống xanh tươi được vươn lên.
Máu Chúa đem lại ơn tha thứ, như giòng nước tinh tuyền gột sạch tâm hồn chúng ta, đem lại sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau.
Nếu như tâm hồn chúng ta đang thất vọng chán nản vì tội lụy, nếu như tâm hồn chúng ta đang mang những vết thương cuộc đời, thì chúng ta hãy chạy đến với Chúa, để Người chăm sóc và băng bó, để Ngài chuyền máu mà cứu chữa. Bởi vì chỉ trong Người chúng ta mới biết được sống thực là gì.
Tiếp đến, chúng ta hãy nhìn vào trái tim Chúa để cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chảy sang tâm hồn chúng ta và để trái tim chúng ta có chung một nhịp đập với trái tim Chúa.
Thực vậy, dù là ai chăng nữa, chúng ta vẫn có quyền được chia sẻ với trái tim Chúa, chúng ta vẫn được nghe nhịp đập của trái tim Chúa thổn thức như Gioan thuở trước. Nhân loại ngày nay đang cố gắng thay tim và ghép tim. Chúng ta cũng hãy đến với Chúa để Ngài đổi cho chúng ta một trái tim mới.
Đúng thế, có khi con tim chúng ta đã già nua và bệnh hoạn, trong khi tuổi đời vẫn còn trẻ. Có khi con tim của chúng ta đã bị chia năm xẻ bảy, trong đó Thiên Chúa chưa chắc đã có lấy được một phần nhỏ nhoi. Có khi con tim của chúng ta đã mệt mỏi và trở nên băng giá, không còn hăng hái nhiệt thành như thuở chúng ta mới biết Chúa và yêu Chúa. Có khi con tim của chúng ta đã ngoại tình, đã lang chạ, nghĩa là không còn trung thành với Chúa, trái lại đã xé rào để chạy theo những thần tượng giả dối như tiền tài, lạc thú và danh vọng.
Hãy hồi tâm, xét mình và kiểm điểm lại đời sống để xem tình trạng con tim mình như thế nào. Bởi vì không ai muốn mang lấy một trái tim bệnh hoạn, không ai muốn chấp nhận một trái tim bị chia xẻ.
Cựu ước đã diễn tả Thiên Chúa là Đấng hay ghen, cho nên Ngài càng không thể chấp nhận bệnh hoạn, chia sẻ và chai đá. Ngài chỉ bằng lòng cư ngụ trong một trái tim trong sạch, và hoàn toàn trống không.
Tất cả những danh vọng, của cải và lạc thú phải được qua một bên để dành chỗ ưu tiên số một cho Chúa. Hãy dâng lên Chúa trái tim nhỏ bé của chúng ta, cùng với một tình yêu trọn vẹn, không chia năm xẻ bảy, để cuộc đời chúng ta được thuộc hẳn về Chúa.
Thế kỷ 16, Giáo Hội bị xâu xé bởi nhiều lạc giáo mệnh danh cải cách Giáo Hội. Luther chống lại ThánhTâm ABC-114
Thế kỷ 16, Giáo Hội bị xâu xé bởi nhiều lạc giáo mệnh danh cải cách Giáo Hội. Luther chống lại tình thương tha thứ của Chúa đối với tội nhân. Chủ trương Thiên Chúa đã tiền định ai được lên thiên đàng, ai bị xuống hỏa ngục trước rồi, không còn phép tha tội nữa. Calvin chối phép Thánh Thể. Jensenis hạn chế rước lễ vì sợ Chúa phạt khi xúc phạm đến Chúa.
Giữa thời đại khủng hoảng về tình yêu Thiên Chúa, ngày 27 tháng 12 năm 1673 lễ thánh Gioan, người môn đệ dựa đầu vào Thánh Tâm Chúa trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hiện ra với thánh nữ Magarita giữa hào quang sáng láng như mặt trời, Chúa Giêsu đã phán: “Đây là Thánh Tâm Cha đã yêu thương loài người vô cùng … Con phải truyền bá việc tôn sùng Thánh Tâm Cha để làm phương thế kín múc kho tàng châu báu cho loài người”. Chúa cho thánh nữ thấy Thánh Tâm chứa đựng mọi ơn thánh hóa và ơn cứu độ cần thiết để kéo các linh hồn ra khỏi vực thẳm chết đời đời.
Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần kêu gọi thực hiện tôn sùng Thánh Tâm và đặc biệt năm 1675 Chúa đã dạy thánh nữ vận động lập lễ kính Thánh Tâm Chúa vào thứ sáu sau lễ Mình Máu Chúa. Tháng 7 năm 1685 lễ Thánh Tâm được mừng lần đầu tiên tại nhà dòng Đức Mẹ thăm viếng ở Paray le Monial. Đến năm 1765 Đức Thánh Cha Clêmentê 13 lập lễ và kinh nguyện Thánh Tâm mừng tại Rôma và các nơi.
Lễ Thánh Tâm nhấn mạnh đến tình yêu của Thiên Chúa: “Thánh Tâm đã thương yêu loài người quá bội”.
Bài đọc I, tiên tri Ôsê đã mô tả tình yêu Thiên Chúa thương dân Người như tình yêu cha mẹ đối với con thơ, bồng bế, áp má, đút ăn, tập đi, săn sóc êm ái không ngơi: “Tim Ta thổn thức, ruột gan bồi hồi ở giữa các ngươi”.
Thánh Gioan còn mô tả tình yêu Thiên Chúa qua sự hy sinh chịu chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Thân xác chịu trăm ngàn đòn, bị đóng đinh chết treo lên, thế mà vẫn còn để cho tên lính lấy giáo thọc sâu vào Thánh Tâm, đổ hết máu và nước ra cho chúng nhìn thấu Thánh Tâm Chúa thương yêu chúng dường nào.
Không phải vô tình mà thánh Gioan nhấn mạnh đến cái nhìn vào Thánh Tâm Chúa. Chính Thánh Tâm đã mở ra cho Gioan nhìn thấy tình yêu Thiên Chúa, cho những người lành và còn đặc biệt cho chúng ta, cho quân dữ, cho kẻ thù và cho kẻ tội lỗi: “Họ sẽ nhìn vào Đấng họ đã đâm thâu qua” (Ga. 19, 37).
Thực sự, chính quân dữ đã được ơn nhìn vào Thánh Tâm, nên đã đấm ngực ăn năn và tuyên xưng: “Thật người này là Con Thiên Chúa”.
Chính Phaolô khi đi lùng bắt các Kitô hữu, đã được nhìn vào Thánh Tâm Chúa mà được ơn trở lại, nên khi viết thư cho giáo đoàn Êphêsô, Phaolô đã quỳ gối xuống trước mặt Chúa Cha trên trời dưới đất, cầu khẩn cho anh em được hợp cùng các thánh mà nhận biết chiều rộng, dài, cao, sâu của tình yêu của Chúa Kitô vượt quá trí loài người. Như thế, anh em mới được sung mãn trong nguồn ơn vô biên của Thiên Chúa.
Tình yêu Chúa đã thắng kẻ thù. Chỉ có tình yêu đó mới chiến thắng thế gian.
Đại đế Napolêôn là anh hùng vô địch, bách chiến bách thắng khắp các nước Âu châu. Chỉ trong một tháng, ông kéo 500.000 quân tràn qua Đông Âu, chiếm thủ đô nước Nga dễ dàng. Nhưng đoàn quân chiến thắng trở thành quân cướp của, giết người và đâm chém giết lộn nhau. Trong cảnh chém giết hỗn loạn, Napolêôn mới hiểu sức mạnh binh hùng dũng tướng mà thiếu tình yêu, thì khốn nạn đến chừng nào! Nên ông đã tuyên bố: “Chỉ có tình yêu mới chiến thắng”.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu đang bốc lửa yêu mến loài người chúng con quá bội, xin cho trái tim mỗi người chúng con được cháy lửa yêu mến Chúa nồng nàn, cho chúng con thương yêu nhau, hy sinh phục vụ nhau, tha thứ cho nhau, mới mong làm cho cuộc sống nơi trần gian trở nên êm ái, nhẹ nhàng.
Mùa thu năm 1978, người ta trưng bầy tấm khăn liệm Chúa để tôn kính công khai. Có thật là ThánhTâm ABC-115
Mùa thu năm 1978, người ta trưng bầy tấm khăn liệm Chúa để tôn kính công khai. Có thật là khăn liệm xác Chúa không ? Không quan trọng ! Điều tôi biết là những tấm ảnh mà tôi được trông thấy, đặc biệt in hình xác Người chết nằm trong khăn liệm, hình người này ! “Đó là Người !” đẹp nhất trong con cái loài người ! cũng là Người đẹp nhất của thời đại đó !
Tại sao không phải là Người ? Tại sao Đức Ki-tô không phải là người có thể xác đẹp vô cùng để phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa, vì Người là Thiên Chúa !
Vẻ đẹp khêu gợi.
Người ta không thể lãnh đạm trước vẻ đẹp cường tráng này, trước vẻ đẹp của Thiên Chúa, không có chút gì là là thứ đẹp quyến rũ sắc dục . không phải là thứ vẻ đẹp đáng nghi ngờ. Người đẹp tinh toàn. Tại sao ? vì Người hiền hậu, khiêm nhường trong lòng. Vì Người là hình ảnh của Chúa Cha !
Con Người này in lại trên tấm khăn liệm, chiếu tỏa sức mạnh này, tuyên dương sức hiền từ này, nói lên niềm trông cậy này vào Đức Ki-tô đang mời gọi chúng ta.
Mời hết mọi người , trẻ già nam nữ.
Những trẻ em, những trẻ nhỏ, cảm thấy an tâm đến với Đức Giê-su, Người không kinh ngạc, về những thói trẻ con của chúng. Thiên Chúa nói : “Không gì đẹp hơn một em bé ngủ say trong lời cầu nguyện của nó !”. (Péguy).
Các bà các cô thuộc đủ mọi tuổi yêu mến Người. Người kính trọng các bà các cô. Nếu chúng ta kể đến các tông đồ. Chúng ta cũng phải kể đến các bà trong Tin Mừng. Người ta biết rõ không chỉ có mấy bà trong số các môn đệ của Người đâu.
Các ông, các anh yêu mến Người, Người lôi cuốn, không để cảm phục những chiến công của Người, hay vì ham muốn những kết quả của Người. Họ chỉ vì yêu mến Người mà thôi ! Họ không dám nghĩ bắt chước Người, nên giống Người. Nhưng chỉ mong tháp tùng Người, đi theo Người, khám phá trong đời sống mình con tim đã kêu gọi họ ! không để sao y con tim Người, nhưng là để chúng ta trở nên những con tim Kitô khác.
Sau Chúa Nhật mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Giáo Hội mừng lễ Thánh Tâm để mời ThánhTâm ABC-116
Sau Chúa Nhật mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Giáo Hội mừng lễ Thánh Tâm để mời gọi ta học lại bài học yêu thương từ trái tim bị đâm thủng của Người trên thập giá (x. Ga 19,31-37). Hôm nay cũng là Ngày Thế giới xin ơn thánh hoá các linh mục, chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh mục có trái tim yêu thương của Chúa Giêsu.
1. Tình yêu trong đời sống tự nhiên của con người
Trái tim đỏ thắm là biểu tượng của tình yêu chan chứa, nhưng thực tế của đời sống đang là một thảm trạng về tình yêu. Chỉ tính riêng ở Việt Nam đã có hàng triệu cuộc tình tan vỡ và hàng triệu bào thai bị phá bỏ mỗi năm, chưa kể hàng ngàn người bị phản bội, bị giết hại, tự tử và hàng chục triệu bệnh nhân tâm thần, chỉ vì con người không giải nghĩa được tình yêu và không biết yêu thương nhau.
Đối với nhiều người, tim là biểu tượng của tình yêu bởi vì tim là bộ phận quan trọng trong hệ tuần hoàn. Tim bơm máu đi khắp cơ thể để nuôi sống toàn thân con người. Tình yêu cũng được coi là động lực quan trọng nhất đem lại sức sống và niềm vui.
Đối với các tôn giáo, nhất là Công giáo, “Trái tim” là thuật ngữ chỉ toàn thể nội tâm con người: vừa là trung tâm của cảm xúc , vừa là nơi phát sinh tư tưởng , diễn tả ý muốn, hành động và cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa . Vì thế, người Công giáo tôn thờ “Thánh Tâm Chúa Giêsu” hay tôn kính “Trái tim Vẹn sạch Đức Mẹ Maria” có nghĩa là tôn thờ Chúa Giêsu hay tôn kính Mẹ Maria với tình yêu vô bờ của hai Đấng dành cho con người.
2. Giải nghĩa tình yêu theo sinh lý học
Để giải nghĩa tình yêu trong con người có thể xác và tinh thần, chúng ta phải nói đến những cảm giác, cảm xúc, cảm tình khi họ yêu nhau. Tuy nhiên, nếu muốn hiểu được các mức độ tình yêu, ta phải phân tích hoạt động của bộ não và hệ thần kinh của con người, thay vì nghiên cứu hoạt động của trái tim. Lý do là vì khi ta biết rõ được cảm giác, cảm xúc và suy tư, ta sẽ hiểu tại sao con người lại lầm tưởng tình yêu là cảm xúc, là tình cảm, là tình dục và mới hiểu tình yêu bắt nguồn từ đâu. Yêu theo cảm giác
Cảm giác là hình thức thấp nhất của nhận thức. Đó là những cảm nhận nhất thời, không được chủ thể yêu ý thức một cách rõ ràng. Cảm giác là quá trình tâm lý cho ta biết những thuộc tính riêng lẻ của sự vật đang tác động vào các giác quan của ta. Ngoài 5 giác quan chính như thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác, ta còn có cảm giác thăng bằng, đau đớn . Ví dụ: Ta cảm nhận được thân hình người mình yêu xinh đẹp, khuôn mặt thanh tú, mùi hương thơm ngát, giọng nói êm ái, làn da mát mẻ, đôi môi ngọt ngào... Các thụ thể cảm giác phát đi các tín hiệu thần kinh từ mắt, tai, lưỡi, mũi, da qua tuỷ sống, đến phần cao nhất của não là vỏ não, để từ đó ta có những cảm nhận về người mình yêu. Rất nhiều người đang yêu ở mức độ cảm giác này như đứa bé yêu mẹ vì được mẹ cho bú mớm, chăm sóc, ẵm bồng mà không ý thức về người mẹ của mình. Họ chỉ yêu cách thụ động để thu nhận cho mình theo những cảm giác của cơ thể.
Yêu theo cảm xúc
Nhiều người yêu ở mức độ cảm xúc. Cảm xúc là những trạng thái rung cảm của con người trước những sự vật hay hiện tượng có liên quan đến việc thoả mãn hay không thoả mãn những nhu cầu cá nhân. Cảm xúc thể hiện qua cử chỉ, hành vi, điệu bộ và những phản ứng về mặt sinh lý. Thí dụ: ăn, uống, ngủ, nghỉ, làm việc, ân ái… là những nhu cầu cá nhân. Khi được thoả mãn hay không được thoả mãn sẽ tạo ra các cảm xúc như vui, buồn, sợ hãi, giận dữ, ngạc nhiên, ghê tởm, khinh bỉ .
Người yêu theo cảm xúc có thái độ chủ động để định hướng và thích nghi các hoạt động của mình. Tuy nhiên, các cảm xúc đều mang tính chủ quan, nhất thời. Đối với một số người có chỉ số xúc cảm thấp (emotional quotient), họ thường không quan tâm bảo vệ “tình yêu” của mình và dễ dàng đánh mất khi có cảm xúc mạnh với người khác, vật khác. Điều này ta gặp thấy nơi người chồng bỏ bê vợ mình khi quan hệ với những cô gái mãi dâm biết tạo cảm giác mới lạ cho họ.
Trong lĩnh vực tôn giáo người ta thường có những cảm xúc mạnh qua những buổi cầu nguyện đông người, những bài thánh ca hay, những cuộc hành hương đông đảo…. Tuy nhiên, những cảm xúc đó cần phải được nâng lên mức độ nhận thức thì mới phát triển được tình yêu chân thực và lòng đạo đức lâu dài.
Yêu theo tình cảm
Mức độ cao hơn cả là yêu theo tình cảm. Tình cảm được hình thành trên cơ sở những cảm xúc của con người đối với đối tượng mình yêu, nhưng chủ thể nhận thức được nguyên nhân tạo nên những tình cảm đó. Thí dụ: hai vợ chồng yêu nhau vì luôn ý thức cả hai đã gắn bó với nhau, có trách nhiệm với con cái, với gia tộc và được nối kết bởi nghi lễ hôn nhân tôn giáo, nên dù bây giờ đã già nua, không còn cảm giác hay cảm xúc với những cử chỉ âu yếm nhưng cả hai vẫn yêu thương, chăm sóc lo lắng cho nhau.
Căn cứ vào đối tượng, người ta phân loại tình cảm: tình yêu đôi lứa, tình cha mẹ, tình vợ chồng, tình anh em, tình bạn bè, tình quê hương, tình dân tộc, tình yêu nghề nghiệp, tình yêu thiên nhiên, tình yêu thần linh. Các tình cảm này đều bắt nguồn từ một tình yêu duy nhất của con người. Vì thế, trong cuốn Từ điển Tiếng Việt, ta tìm được câu định nghĩa sau đây: "Tình yêu là tình cảm yêu mến, làm cho gắn bó mật thiết và có trách nhiệm với người, với vật", nghĩa thứ hai mới là "Tình cảm yêu đương giữa nam và nữ" .
Theo nghĩa thứ nhất, chúng ta thấy tình yêu của con người là một tổng thể phức tạp, vừa là một tình cảm làm cho người ta gắn bó mật thiết, nhưng đồng thời lại ý thức về trách nhiệm phải có đối với nhau. Thiếu phần ý thức này, tình yêu chỉ còn là những cảm giác hay cảm xúc nhất thời, làm cho con người bị lệ thuộc vào vật chất, không gian và thời gian. Chỉ khi nhận thức được nguyên nhân tạo nên tình cảm yêu mến, con người mới có tình yêu vượt lên trên mọi giới hạn vì con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, được chia sẻ bản tính thần linh siêu việt của Ngài. Như thế là con người nối kết được với cội nguồn của tình yêu.
3. Tìm về cội nguồn tình yêu
Điều khiến chúng ta kinh ngạc về bộ não của con người và đặt câu hỏi: những nhận thức khác nhau về mối quan hệ với đối tượng mình yêu, về hoàn cảnh, trách nhiệm và những phân biệt giữa các tình cảm đủ loại bắt nguồn từ đâu? Bởi vì nếu ta phân tích việc truyền tín hiệu thần kinh trong các neuron, ta sẽ chỉ thấy đó là dạng các xung động điện rất nhỏ, tác động vào các túi chứa các chất dẫn truyền thần kinh ở dạng hoá học, để truyền tín hiệu sang neuron tiếp nhận . Những xung động điện và các chất dẫn truyền có thể nói là đều giống nhau, nhưng mức độ nhận thức về tình cảm, tình yêu nơi mỗi người lại rất khác nhau.
Có người yêu cha mẹ vì hiểu được rằng cha mẹ sinh thành, dưỡng dục mình chứ không phải chỉ cho ăn (ở mức độ cảm giác), hay chiều chuộng theo ý thích của mình (ở mức độ cảm xúc). Nếu đi xa hơn về nhận thức, người đó yêu vì cha mẹ là hình ảnh của Thiên Chúa, vì vâng theo điều răn của Thiên Chúa "Hãy thảo kính cha mẹ", dù cha mẹ họ già yếu, bệnh tật, khó tính, bất công với họ (ở mức độ tình cảm). Tất cả những nhận thức đó đều cần thiết để giúp cho con người nâng cao giá trị tình yêu. Tình yêu của họ không còn bị lệ thuộc vào vật chất, không gian và thời gian để bước vào lĩnh vực tinh thần, mang tính vĩnh hằng và bất diệt!
Điều ghi nhận là trong bộ não con người, ta không thấy có chỗ nào chứa đựng nhận thức về trách nhiệm, tự do, hạnh phúc, tình yêu… Vậy chúng bắt nguồn từ đâu? Câu trả lời không thể tìm thấy nơi con người và khoa học hiện đại, nhưng phải tìm về nguồn của mọi hiện hữu là Thiên Chúa. Chỉ Đấng đó mới giải nghĩa được tình yêu nơi con người và vạn vật trong vũ trụ.
4. Tình yêu trong đời sống người tín hữu Công giáo
Khi hiểu được như thế, ta mới thấy mình cần phải tin tưởng và gắn bó với Thiên Chúa để tình yêu của chúng ta được chân thực, trong sáng và vững bền: “Chúng ta hãy yêu thương nhau vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” .
Chúa Giêsu còn gợi ý cho ta nâng tình yêu lên bậc cao hơn. Nếu ta muốn sống đời đời, muốn chia sẻ sự sống kỳ diệu, vĩnh hằng của Thiên Chúa, ta hãy yêu như Người vì Người là tình yêu cụ thể của Thiên Chúa . Thiên Chúa là tinh thần, nên chúng ta không biết được tình yêu của Ngài cao cả, vô biên như thế nào. Nhưng khi Thiên Chúa cho Con của Ngài trở thành người, là Đức Giêsu Kitô, Ngài dạy cho chúng ta bài học tình yêu rất cụ thể. “Đây là Con ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người” . Đức Giêsu dạy ta: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” .
Đức Giêsu yêu cho đến nỗi chết trên thập giá, đổ máu đào cho mọi loài thụ tạo để hoà giải chúng với Chúa Cha. Nhờ sự hoà giải của Người, mọi người mọi vật đều là anh chị em của nhau, thành chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Người . Vì thế, khi chúng ta yêu thương nhau một cách trọn vẹn như Người, ta sẽ cảm nghiệm được sự sống diệu kỳ, sung mãn của Thiên Chúa .
Như thế, những vấn nạn về tình yêu đã được giải đáp, bởi vì tình yêu là bản tính của Thiên Chúa được ban cho con người chứ không phải là những nhịp đập tự nhiên của trái tim con người. “Chúa Cha đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần Ngài ban cho chúng ta” . Thánh Thần Tình Yêu nối kết Ngôi Cha, Ngôi Con lại với nhau thì cũng nối kết chúng ta lại với Thiên Chúa. Nhờ đó, ta mới có thể yêu một cách trong sáng và quảng đại như Chúa Giêsu.
Lời kết
Hôm nay, khi chiêm ngưỡng Thánh Tâm bị đâm thâu của Chúa Giêsu chảy ra máu và nước như suối nguồn tình yêu cho con người, chúng ta hãy cầu xin Người uốn lòng của chúng ta nên giống trái tim Chúa. Amen.
Lễ Thánh Tâm Chúa là dịp nhắc chúng ta nhớ lại ơn gọi Kitô hữu chính là Ơn Gọi yêu ThánhTâm ABC-117
TMĐP- Lễ Thánh Tâm Chúa là dịp nhắc chúng ta nhớ lại ơn gọi Kitô hữu chính là Ơn Gọi yêu thương, Ơn Gọi thương xót
Trái tim thánh thiện của Thiên Chúa là trái tim tràn đầy, chan chứa lòng thương xót con người, đặc biệt những con người tội lỗi, những thân phận yếu đuối, mỏng dòn, dễ ngã, dễ vỡ, dễ đổ …
Chính Đức Giêsu, dung mạo đích thực của Chúa Cha đã mặc khải cho chúng ta trái tim thánh thiện của Chúa Cha giầu lòng thương xót (Xh 34,6).
Khi kể dụ ngôn “con chiên bị lạc mất” (Lc 15,3-7), Đức Giêsu cho chúng ta biết tình yêu Thiên Chúa là tình yêu cá vị, nghiã là không chung chung, qua loa, đại trà, đổ đồng, nhưng từng người, từng tâm hồn, từng hoàn cảnh, từng thân phận, bằng chứng là người chăn chiên là Thiên Chúa giầu lòng thương xót ấy đã “đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai” (Lc 15,4-5), mở tiệc ăn mừng và hớn hở nói với mọi người: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó” (Lc 16,7).
Người chăn chiên xác định rất rõ ràng: “con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”, mà không là con chiên trừu tượng, con chiên trên biểu đồ, con chiên vô định, mơ hồ, không hình dáng, không hơi hám, không cá tính, không đặc điểm …
Tình yêu cá vị ấy gắn liền với những gì bé nhỏ, ở xa: một con chiên bé nhỏ so với đàn chiên chín mươi chín con đông đảo; một con chiên bị lạc đến một nơi rất xa xôi, biệt tăm âm tín trong sa mạc nguy hiểm, giữa lằn ranh sự sống và sự chết.
Quả thực, nếu ngôn sứ Êdêkien đã nói lên nỗi buồn của Đức Chúa trước những mục tử không có lòng thương xót và vô trách nhiệm của nhà Ítraen khi tuyên sấm: “Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú … bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta” (Ed 34,4-5.8), thì Đức Giêsu là “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10, 11), Đấng “đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã làm chứng: Tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa dành cho tất cả chúng ta được thể hiện nơi Đức Giêsu, Đấng đã chết để giao hoà chúng ta với Thiên Chúa, mặc dù chúng ta là tội nhân bất xứng, khi viết: “Khi chúng ta không có sức làm được gì, vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta”. Ngài đã chết vì chúng ta “ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi” (Rm 5,6.8).
“Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8), vì không ai chịu chết cho người có tội bao giờ, thế mà Đức Giêsu đã hiến mạng sống để cứu chuộc chúng ta.
Lễ Thánh Tâm Chúa là dịp nhắc chúng ta nhớ lại ơn gọi Kitô hữu chính là Ơn Gọi yêu thương, Ơn Gọi thương xót, bởi Đấng kêu gọi chúng ta đi theo Ngài là Thiên Chúa của Lòng Thương Xót, con đường Ngài đi và chúng ta đi theo Ngài là con đường Thương Xót, sứ vụ được Ngài trao là sứ vụ Thương Xót, kể cả đơn vị đánh giá sự thánh thiện của chúng ta trước mặt Ngài cũng không ngoài lòng Xót Thương được cực tả trong Tin Mừng Mátthêu (x. Mt 25,31-46), đồng thời củng cố trong chúng ta niềm hy vọng được cứu độ, bởi “trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
Vì thế, không có lòng thương xót như Thánh Tâm Chúa, chúng ta không thể đi theo Ngài, càng không thể nên giống Ngài, vì Ngài là Đấng giầu lòng thương xót và trái tim Ngài là trái tim hay chạnh lòng thương, Đấng “cây lau bị giập, người không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi” (Is 42,3), nhưng biết rõ, yêu thương hết lòng và âu yếm gọi tên từng con chiên, (x. Ga 10, 3) ; Đấng không bao giờ ngại vất vả “đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất” (Lc 15,4), và sẵn sàng “hy sinh mạng sống mình” “cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Chúng ta đang sống trong một thế giới văn minh tiến bộ. Trong vòng vài thập niên, khoa học kỹ ThánhTâm ABC-118
Chúng ta đang sống trong một thế giới văn minh tiến bộ. Trong vòng vài thập niên, khoa học kỹ thuật tiến nhanh tới mức không ngờ. Đời sống vật chất của con người được nâng cao rất nhiều. Nhà cao cửa rộng hơn. Ăn uống đầy đủ hơn. Có nhiều tiện nghi hơn. Có nhiều tiền bạc của cải hơn. Tuy nhiên con người vẫn không thấy hạnh phúc. Cuộc sống tiến bộ hơn nhưng lại làm con người cảm thấy mệt mỏi hơn. Cuộc sống trở nên như gánh nặng.
Cuộc sống trở nên một gánh nặng vì con người quá vất vả. Chưa bao giờ cuộc sống đầy đủ như hôm nay. Nhưng chưa bao giờ cuộc sống lại vất vả như hôm nay. Phải lo âu tính toán nhiều hơn. Phải bươn chải chạy vạy nhiều hơn. Phải cạnh tranh nhiều hơn. Chính vì thế mà phát sinh nhiều bệnh mới. “Stresss” là căn bệnh điển hình của thời đại. Hưởng thụ như một ảnh ảo, càng đuổi theo lại càng lùi xa.
Cuộc sống trở nên một gánh nặng vì con người đã đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Chưa bao giờ người ta giàu có như hôm nay. Nhưng chưa bao giờ người ta chán sống như hôm nay. Số người tự tử tăng một cách đáng sợ. Bi thảm là những người tự tử thường trẻ tuổi. Và những người chán sống lại là những người dư thừa vật chất.
Đứng trước những lo âu vất vả của con người. Chúa chạnh lòng thương, bày tỏ Trái Tim Chúa như phương thuốc chữa trị. Và Chúa ân đưa ra hai lời mời gọi.
Lời mời gọi thứ nhất: Hãy trở về với Trái Tim Chúa: “Hỡi những ai vất vả gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ bổ sức cho ngươi”. Con người được tạo dựng do tình yêu thương của Thiên Chúa. Nguồn gốc, con người lạc hướng, đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Muốn tìm lại ý nghĩa đời mình, phải quay về nguồn cội, nơi mình được phát sinh ra. Càng xa Chúa, càng khắc khoải băn khoăn. Càng về gần Chúa, càng bình an thư thái. Thánh Augustinô đã cảm nghiệm được chân lý này. Khi còn trẻ, Ngài đã tìm kiếm hạnh phúc qua hưởng thụ. Nhưng càng tìm kiếm càng thấy trống rỗng. Càng hưởng thụ càng thấy chán ngán. Sau cùng được ơn ăn năn trở lại, gặp được Chúa, ngài đã thốt lên một câu bất hủ: “Lạy Chúa, Chúa tạo dựng nên con cho Chúa. Nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Từ đó ngài tiến bước trong tình yêu Chúa, được rửa tội, dâng mình cho Chúa, làm linh mục, làm giám mục, và làm thánh. Ngài đã tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.
Lời mời gọi thứ hai: Hãy học với Trái tim Chúa: “Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hầu hết những xung đột trên thế giới đều phát xuất từ tính kiêu căng và lòng độc ác. Vì kiêu căng nên hay tự ái, cạnh tranh với người khác. Vì độc ác nên tàn nhẫn chà đạp người khác. Cuộc sống trở nên một bãi chiến trường. Người trở nên kẻ thù của người. Vì thế tâm hồn con người không lúc nào nghỉ yên. Muốn được bình an thư thái phải học nơi Trái Tim Chúa sự hiền lành và khiêm nhường. Người hiền lành khiêm nhường chiến đấu với chính mình chứ không chiến đấu với người khác. Người hiền lành khiêm nhường quên mình vì người khác chứ không quên người khác vì mình. Khi biết quên mình để nghĩ đến người khác, ta góp phần xây dựng hoà bình trên thế giới. Khi biết chiến đấu để thắng được chính mình, ta được bình an trong tâm hồn. Khi sống hiền lành khiêm nhường như thế ta xây dựng một nền văn minh mới. Không phải nền văn minh khoa học kỹ thuật mà là nền văn minh của trái tim. Không phải nền văn minh gây ra chán nản mệt mỏi, nhưng là nền văn minh đem hạnh phúc an vui. Đó chính là nền văn minh tình thương. Nền văn minh ấy ta chỉ xây dựng được trong Trái Tim Chúa.
Trong tháng sáu kinh Thánh Tâm Chúa, ta hãy siêng năng đến với Thánh Tâm Chúa, để tìm được ý nghĩa cuộc đời và để được Chúa dạy bảo ta con đường hiền lành khiêm nhường. Đó chính là con đường đưa ta đến sự thật và sự sống.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1- Lễ Thánh Tâm, Chúa Giêsu mời gọi bạn làm gì? 2- Hiền lành và khiêm nhường có quan trọng không? Bạn đã từng thực hành hiền lành và khiêm nhường nơi nào?
Sứ điệp của lễ Thánh Tâm có cần thiết cho thế giới hôm nay không?
Lòng thương xót của Thiên Chúa luôn ruổi theo và tìm kiếm người tội lỗi, và Thiên Chúa vui mừng ThánhTâm ABC-119
Sứ điệp: Lòng thương xót của Thiên Chúa luôn ruổi theo và tìm kiếm người tội lỗi, và Thiên Chúa vui mừng khi người tội lỗi sám hối. Ta hãy tin vào lòng thương xót Chúa và trở về với Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, dù con chưa một lần rời bỏ mái ấm của cộng đoàn giáo xứ để ra đi, nhưng không thiếu những lần con đã xa Chúa. Con xa Chúa vì con tội lỗi, xa Chúa vì con ngại chiến đấu với những cám dỗ hàng ngày. Con sống trong khô khan, nguội lạnh, sống mà như đã chết. Con xa Chúa vì con giận ghét anh em.
Lạy Chúa, Chúa đã đến tìm con, đã lôi con ra khỏi những vòng vây của tội lỗi. Tội lỗi làm con mang thương tích, thì Chúa đã bế con lên, băng bó vết thương, chữa trị và cho con hồi sinh.
Lạy Chúa, được Chúa chữa lành, được trở về sống trong tình yêu Chúa, đó là niềm hạnh phúc cho con. Nhưng còn hơn thế nữa, Chúa cùng hạnh phúc với niềm hạnh phúc của con, Chúa vô cùng vui mừng khi con trở về, cả thiên đàng vui mừng khi con trở về.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, càng suy con càng cảm nhận Chúa thương con vô cùng. Chúa yêu con hơn con tưởng. Lúc con yếu đuối sa ngã, Chúa lại càng thương con hơn, dường như trên thế gian này chỉ có mình con để Chúa thương vậy. Chúa đã cùng khổ với nỗi khổ của con khi con sống trong tội lỗi, thì Chúa lại càng hạnh phúc với niềm hạnh phúc của con khi con trở về. Chúa là Đấng nhân ái, bao dung và tha thứ. Ôi lạy Trái Tim Nhân Lành vô cùng Chúa Giêsu, xin gìn giữ con sống trong tình yêu Chúa. Xin cho con hiểu thấu tình Chúa dành cho con. Xin cho con biết đáp đền cho xứng đáng. Amen.
Ghi nhớ: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc”.
Nhìn trái tim khiến chúng ta liên tưởng ngay đến tình yêu. Vì thế, trái tim cực thánh Chúa Giêsu là ThánhTâm ABC-120
hình ảnh sống động để diễn tả Thiên Chúa là tình yêu. Ngày nay người ta nói nhiều đến yêu, vậy tình yêu Chúa có gì đặc biệt?
1. Tim Chúa yêu. Giáo Hội mừng Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu để nhấn mạnh điều thánh Gioan đã khẳng định “Thiên Chúa là tình yêu.” Khi nói đến Thượng Đế, Đấng Tối Cao thì người ta lại hay có xu hướng sợ hãi, sợ bị Thượng Đế trừng phạt. Hoàn toàn không phải thế. Thiên Chúa không giống ông cảnh sát hay quan tòa thích xử phạt, mà Thiên Chúa là Cha yêu thương con người, cứu vớt con người, ban sự sống cho con người.
2. Yêu vì thương. Con người thường yêu nhau vì được cưng chiều, đấy là yêu có điều kiện. Còn Chúa yêu con người thì vô điều kiện. Chúa yêu vì thương con người bé mọn: “Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân” (bài đọc 1); Và Chúa mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Chúa yêu vì thương con người bé mọn, yếu đuối, thậm chí tội lỗi nữa.
3. Thương nên nhường. Trong tình yêu hôn nhân gia đình, vợ chồng luôn được khuyên cần nhường nhịn nhau, vì “một sự nhịn là chín sự lành.” Nhịn không phải chịu nhục, nhưng nhịn là vì nhường, nhường là vì thương, thương là vì yêu, vậy đấy. Chúa thương nên đã nhường con người. Chúa từ bi nhân hậu, Chúa chậm giận, Chúa tha thứ hết mọi lỗi lầm cho con người. Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy học với Chúa là Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường.”
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin tạ ơn Chúa đã hết lòng yêu thương chúng con. Xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa chan chứa yêu thương. Amen.
Điều thật lạ lùng là trong sự độc ác của con người mà tình yêu Thiên Chúa được tỏ lộ – khi sự ThánhTâm ABC-121
tàn nhẫn của loài người dùng lưỡi gươm đâm vào trái tim Chúa Giêsu là lúc dòng nước và máu cứu độ tuôn trào.
Hằng năm, ngày thứ sáu sau Lễ Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô, Giáo hội tiếp tục mừng Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu như là một tiếp nối mừng mầu nhiệm Tình Yêu của Thiên Chúa trao ban cách tròn đầy và trào tràn cho nhân loại: trao ban cả chính Thân Mình và trao ban đến giọt máu cuối cùng.
Bài Tin Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta được nghe Chúa Giêsu dạy hãy đến với Người để được nâng đỡ bổ sức, hãy đến với người để học lấy sự khiêm nhường của những tâm hồn bé mọn:
1. Mầu nhiệm Thiên Chúa được mặc khải cho người bé mọn.
“Mặc khải” có nghĩa làm cho những gì đã giấu kín được tỏ lộ ra, mang ra ánh sáng những gì đang ở trong bóng tối, hay làm cho một người hiểu những gì họ chưa biết hay còn mù mờ.
Chúa Giêsu so sánh giữa những người khôn ngoan thông thái với kẻ bé mọn để dạy mọi người cần có thái độ của trẻ thơ: tin tưởng, khiêm nhường, ham học hỏi, để Người chuyển thông cho họ những kiến thức về Thiên Chúa. Bởi vì, thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ ngăn cản người ta nhận ra những gì Chúa muốn mặc khải cho.
Để hiểu Mầu Nhiệm Nước Trời, chúng ta cần có thái độ khiêm nhường: trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa chứ không phải ỷ vào sức mình.
Đức tin ở một cấp độ cao hơn lý trí, không lệ thuộc vào lý trí, nhưng lý trí có thể làm sáng tỏ đức tin. Thay vì giản lược một Thiên Chúa khôn ngoan uy quyền vào lý trí hạn hẹp; con người phải ra sức cầu xin để Thiên Chúa ban cho hiểu được phần nào sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Chứ không phải biết được chút gì thì đã kiêu ngạo nhân danh khoa học để bác bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, hoặc không hiểu được một vấn đề thì lại cho là vô lý mà không nhận ra cái giới hạn của mình.
2. Đến với Chúa để được nâng đỡ bổ sức cho
(Venite ad me omnes qui laboratis).
Có hai thứ gánh nặng: gánh nặng lề luật và gánh nặng cuộc đời:
Gánh nặng lề luật là: Thời Chúa Giêsu, là bộ luật phải giữ chi li hơn sáu trăm điều luật của biệt phái chất lên cổ dân. Luật Chúa lẽ ra phải đem đến niềm vui hạnh phúc, thì lại trở thành “những gánh nặng chất lên vai. Chính vì thế, mà Chúa Giêsu mời gọi dân theo Người vượt qua tinh thần câu nệ lề luật, đặt niềm tin vào luật mới yêu thương, để tìm được “sabát’ đích thực là được nghỉ ngơi trong tâm hồn, được hưởng sự bình an sâu xa của người được cứu độ, để bắt đầu cuộc sống mới trong Thần Khí.
Gánh nặng cuộc đời là: Gánh nặng gắn liền với phận người, gánh nặng gia đình, gánh nặng nghề nghiệp, gánh nặng tuổi tác; gánh nặng buồn đau của quá khứ, gánh nặng của yếu đuối hiện tại, gánh nặng lo âu cho tương lai… Gánh nặng vì bi quan thất vọng và lo âu, gánh nặng của khó khăn chán chường và mệt mỏi. Gánh nặng của ham muốn vật chất, của đam mê xác thịt, của các tật xấu kìm hãm con người ta… Chúa mời gọi chúng ta hãy tìm về với Bí tích Giao Hoà, tìm về với giây phút lắng đọng bên Thánh Thể, tìm về với của ăn tinh thần là Mình Máu Chúa trong thánh lễ, để được người nâng đỡ và bổ sức cho.
Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi…
Ách của lề luật và cuộc đời đã đè nặng trên chúng ta, bây giờ chúng ta được mời gọi mang lấy chính Chúa. Chúa không vác thay chúng ta, nhưng cùng vác với chúng ta và nâng đỡ bổ sức cho chúng ta.
Hình ảnh cái ách, tức là cái được đặt lên trên cổ con bò, con trâu, con lừa hay con ngựa để nó kéo xe hoặc kéo cày. Nói lên một kiếp nô lệ và vất vả, nhưng cũng là đầu kéo mọi thứ tiến lên hoặc làm cho một thửa đất tơi xốp phát sinh nhiều hoa trái mới. Chúa Giêsu đã tự huỷ hạ mình xuống làm thân nô lệ (x. Pl 2,6-11). Chúa chấp nhận kiếp người để cùng mang lấy cái ách lề luật của xã hội với chúng ta và cùng mang lấy kiếp lầm than vất vả của chúng ta. Và Chúa cũng kéo chúng ta tiến về phía trước là Nước Trời, làm cho chúng ta phát sinh hoa trái trong Chúa Thánh Thần.
Học với Chúa sự khiêm tốn và hiền hậu, là vui lòng đón nhận gánh nặng của cuộc đời, nhưng kết hợp với Chúa Giêsu để được bổ sức và cùng Người vượt lên, chứ không phải tìm cách né tránh để rồi tuyệt vọng và hư mất.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết khiêm tốn nhận ra những giới hạn yếu đuối với mình, mà năng chạy đến nép mình vào Trái Tim yêu thương vô bờ bến của Chúa, để kín múc được nguồn tình yêu của Chúa mà sống yêu thương nhau như Ngài; xin cho chúng con cũng luôn biết rước Thánh Thể mỗi ngày, để tâm hồn chúng con được bổ dưỡng sức thần thiêng mà vượt thắng mọi khó khăn trên đường lữ thứ trần gian. Amen.
Hằng năm, ngày thứ sáu sau Lễ Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô.... Điều thật lạ lùng là trong sự ThánhTâm ABC-122
Hằng năm, ngày thứ sáu sau Lễ Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô, Giáo hội tiếp tục mừng Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu như là một tiếp nối mừng mầu nhiệm Tình Yêu của Thiên Chúa trao ban cách tròn đầy và trào tràn cho nhân loại: trao ban cả chính Thân Mình và trao ban đến giọt máu cuối cùng.
Điều thật lạ lùng là trong sự độc ác của con người mà tình yêu Thiên Chúa được tỏ lộ – khi sự tàn nhẫn của loài người dùng lưỡi gươm đâm vào trái tim Chúa Giêsu là lúc dòng nước và máu cứu độ tuôn trào.
Hình ảnh một người lính đâm vào cạnh sườn Chúa Giê-su và máu cùng nước chảy ra: Máu nói lên sự sống và tình yêu, nước chảy đến đâu như muốn rửa sạch đến đó. Khi nói Máu và Nước chảy ra từ cạnh sườn Chúa Giê-su, Tin Mừng Gioan muốn tỏ cho mọi người thấy Trái Tim Chúa đang đổ hết sức sống và tình yêu của Người ra nhằm rửa sạch tội lỗi con người, để họ trở thành tạo vật mới, thánh thiện, trong sạch đẹp lòng Chúa.
Nước và máu chảy ra từ cạnh sườn Chúa Giê-su là hình ảnh phát sinh các Bí tích và sinh ra Giáo hội. Chính khi ghi lại sự kiện này, Tin Mừng Gioan đã dùng câu kết “Họ đã nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu”, nghĩa là mời gọi mọi người cùng ngước nhìn lên để chiêm ngắm mầu nhiệm tình yêu, chiêm ngắm Đấng là Vua Tình Yêu đã trao ban đến giọt máu cuối cùng.
1. Ý nghĩa các sự kiện
Theo tục lệ Do-thái, họ không để xác tử tội treo trên thập giá trong ngày Lễ Vượt Qua, vì thế, nếu tử tội chưa chết thì họ đáng gãy ống chân cho toàn thân xác khụy xuống, ngực sẽ bị ép lại và chết. Tường thuật của Tin Mừng Gioan ghi rõ, hai anh trộm chưa chết nên bị đánh gãy ống chân, còn Chúa Giê-su chết rồi, thì không đánh gãy ống chân nữa, nhưng tên lính đã dùng lưỡi đòng đâm vào cạnh sườn Chúa Giê-su (làm ứng nghiệm lời Thánh Kinh nói về chiên vượt qua xưa không bị đánh gãy xương: x. Xh 12,46). Việc này trả lời cho những lập luận viển vông của không ít người “cho rằng anh trộm lành lên thiên đàng trước nhất”, mà không biết rằng, khi Chúa Giê-su nói “mọi sự hoàn tất” và gục đầu tắt thở thì ơn cứu độ hoàn thành, và các “thánh tổ tông” đã được cứu qua hình ảnh biểu tượng là bức màn trong đền thờ bị xé và mồ mả mở tung, kẻ chết chỗi dậy hiện ra với nhiều người… theo như các Tin Mừng ghi lại. Trong khi hai anh trộm kia vẫn còn sống sờ sờ ra đó mà lại bảo lên thiên đàng trước thì thật là thiếu hiểu biết.
Một người lính đã cầm giáo chọc thủng cạnh sườn Người, nơi che giấu trái tim yêu thương của Người. Những giọt máu yêu thương cuối cùng chảy ra. Những giọt máu nói lên tình yêu thương nồng nàn ngay khi thân thể đã cứng lạnh. Những giọt máu hy sinh tế lễ để đền tội cho loài người. Gioan đã nhìn thấy cảnh tượng đó. Máu lại chảy ra, máu nói lên ý nghĩa hy tế tình yêu, Gioan bừng mắt nhận ra lời Thánh Kinh: khi làm thịt con chiên vượt qua, không được làm gãy một cái xương nào. Như vậy, trên thánh giá, Ðức Kitô thật là Con Chiên vượt qua của đạo mới. Và máu từ cạnh sườn đang chảy ra, đúng là máu cứu độ thay thế hẳn máu chiên vượt qua ngày xưa bôi trên cửa nhà người Do-thái để cứu họ khỏi bị sát hại.
Xưa kia, ngôn sứ Ê-dê-ki-en mơ thấy từ bên phải đền thờ Giê-ru-sa-lem mới sẽ có suối nước chảy ra: nước trong sạch và phong phú làm sao! Nước chảy đi đến đâu, tạo vật mới mọc lên, sinh ra đến đó. Nước ấy là nước sự sống trường sinh. Nay ở cạnh sườn Chúa Giê-su tử nạn, có nước chảy ra theo máu. Ðiều đó nói lên ý nghĩa rõ ràng: hy lễ của Ðức Kitô đang ban Nước Thánh Thần rửa sạch nhân loại, biến họ nên tạo vật mới và sống dồi dào.
2. Ý nghĩa tái sinh
Theo truyền thống các Do-thái, thân xác con người có máu và nước; hai yếu tố này tràn ra khỏi con người: đó là dấu con người đã thật sự chết. Tác giả Tin Mừng Gio-an có một cái nhìn sâu xa về hiện tượng này. Như chiên lễ Vượt Qua Do-thái chịu sát tế vào chiều ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su cũng đổ máu mình ra vào chiều ngày áp lễ. Như thế, Người trở thành Chiên lễ Vượt Qua mới, nghĩa là lễ vật trong hy lễ thập giá nhờ cái chết của Người. Nước đem lại sự sống cho con người; trong Cựu Ước, nước và Thần Khí thường đi đôi với nhau. Theo Gioan 7,38-39, nước tượng trưng cho Thần Khí do Đức Giê-su ban sau ngày được tôn vinh. Máu là biểu tượng của hy tế, là dấu hiệu có mặt trong mọi giao ước. Còn nước biểu trưng sự sống, như dòng nước vọt ra từ tảng đá trong sa mạc (Xh 17,6), suối nước từ bên phải Đền thờ chảy ra (Ed 47,1-12)
Ở đây, máu và nước được liên kết chặt chẽ với nhau: thân xác Đức Giê-su đã chết (máu) và được tôn vinh (7,38-39) trở nên nguồn mọi ân huệ thiên liêng của Thánh Thần đem lại sự sống mới cho tất cả những ai tin. Việc máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Chúa cho thấy Đức Giê-su đã chết thật về thể lý nhưng từ cõi chết Người đã phục sinh vinh hiển, để tuôn trào sự sống mới cho nhân loại (Rm 6,4; 1Cr 11,25…).
Cử chỉ của người lính mang tính ngôn sứ, mặc khải mầu nhiệm Thiên Chúa. Máu chuộc tội đã đổ ra, không phải trên bàn thờ trong đền thánh nữa, mà trên miền đất đã được tái sinh, chứa chan sức sống. Trong cái nhìn này, chúng ta thấy Giáo hội đã được sinh ra từ cạnh sườn Chúa Giê-su, như E-va đã sinh ra nhờ khúc xương sườn của A-đam. Giáo hội cũng được sinh ra từ cạnh sườn Chúa Giê-su Ki-tô và Giáo hội là thân thể của Người, Người sẽ yêu thương Giáo hội và mỗi chúng ta như thân thể của Người.
3. Lời mời gọi
Vết thương mở rộng nơi cạnh sườn Chúa Giê-su, mời gọi chúng ta khám phá mối tình mãnh liệt và nhiệm mầu đã nung nấu Trái Tim Chúa. Không có một lời, một cử chỉ nào, hay một khoảng thinh lặng nào của Chúa Giê-su lại không nói lên tình yêu mãnh liệt và vĩnh cửu. Chính từ trái tim bị lưỡi đòng đâm thâu mà phát sinh nơi chúng ta lòng sung kính Trái Tim Chúa Giê-su. Hãy chiêm ngắm tình yêu Chúa và tình yêu Chúa sẽ biến đổi chúng ta.
Mọi Kitô hữu được mời gọi nhìn lên thập giá, chiêm ngắm cạnh sườn bị đâm thâu, chảy ra đến giọt máu cuối cùng vì tình yêu dành cho nhân loại. Nơi đó, Chúa Giêsu là một vị vua không thống trị bằng sức mạnh, nhưng Người phục vụ trong yêu thương. Cho đến ngày tận thế, Người vẫn thu hút mọi người đến với Người. Thập giá là nơi vương quyền của Người được tỏ lộ mà không sợ bị hiểu lầm.
Chúng ta cần ngắm nhìn Ngài trên thập giá để biết cách chinh phục thế giới. Bởi vì thế giới hôm nay xúc động trước lòng yêu thương và tha thứ. Xin Chúa Giêsu là Vua Tình yêu ngự trị trong trái tim nhân hậu của chúng ta khi đến với tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết khiêm tốn nhận ra những giới hạn yếu đuối với mình, mà năng chạy đến nép mình vào trái tim yêu thương vô bờ bến của Chúa để kín múc được nguồn tình yêu của Chúa mà sống yêu thương nhau như Ngài. Amen
Hằng năm, ngày thứ sáu sau Lễ Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô... Các bài đọc Lời Chúa ngày hôm ThánhTâm ABC-123
Hằng năm, ngày thứ sáu sau Lễ Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô, Giáo hội tiếp tục mừng Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu như là một tiếp nối mừng mầu nhiệm Tình Yêu của Thiên Chúa trao ban cách tròn đầy và trào tràn cho nhân loại: trao ban cả chính Thân Mình và trao ban đến giọt máu cuối cùng từ Thánh Tâm đầy yêu thương.
chủ đề Tình yêu của Thiên Chúa dành cho tội nhân, qua hình ảnh “người mục tử đi tìm con chiên lạc và đưa chiên trở về”.
Trái ngược với cái nhìn loại trừ của các kinh sư Do-thái, khi họ bàn tán xầm xì với nhau về việc Chúa Giêsu đã đón nhận và đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi, Chúa Giêsu trả lời các kinh sư bằng loạt dụ ngôn: Con chiên lạc, đồng bạc mất, và người cha nhân hậu (người con phung phá).
Cách riêng, trong bài Tin Mừng hôm nay, dừng lại ở dụ ngôn “con chiên lạc”. Hình ảnh con chiên lạc ở đây là nó lạc bước không có chủ ý, mà do đam mê cỏ ngon suối ngọt mà nó bị lạc, nên nó vẫn muốn tìm về, nhưng nó không tìm được đường về, hoặc bị sa xuống hố, hay đang bị cầm giữ, nên chủ nó mới đi tìm về, cho nó được nhập lại đàn và băng bó chữa trị cho nó. Cũng thế, không ít người trong chúng ta cũng lạc lối bơ vơ trong những đam mê, sa lầy trong tội lỗi, bị mọi thứ thế gian che khuất không tìm thấy lối trở về nẻo chính đường ngay. Chúa vẫn đã, đang và sẽ mãi đi tìm chúng ta để chữa lành và đưa về với Hội Thánh. Đó là điều làm cho chúng ta an tâm và ngoan ngoãn cho Chúa đưa về. Chúng ta đừng thất vọng, Chúa sẽ đi tìm chúng ta, dù chúng ta đã xa lìa Giáo hội, nhưng Chúa vẫn không bỏ ta, Giáo hội vẫn mở rộng cửa đón chờ.
Tình yêu Chúa Giê-su dành cho con người được chính Người ví như người mục tử với đàn chiên, biết từng con chiên và lo lắng đi tìm con chiên lạc trở về. Thật vậy, người mục tử thường phải hiện diện với bầy chiên của mình suốt khoảng thời gian ngày lẫn đêm. Người mục tử ấy phải biết rõ chiên mình: con nào đau, con nào mạnh, con nào còn, con nào bỏ bầy đi lạc.
Ngày xưa, Thiên Chúa nói với dân riêng của Người qua môi miệng tiên tri Isaia: “Đừng sợ, Ta đã gọi ngươi bằng tên riêng của ngươi”. Cũng thế, như người mục tử, Chúa Giêsu cũng biết rõ mỗi người chúng ta một cách vừa thân mật lại vừa sâu xa. Người biết ai trong chúng ta đang yếu kém về đức tin, ai trong chúng ta thường ngã lòng, ai trong chúng ta hay bỏ bầy để đi hoang. Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Trái lại, Người luôn ở cạnh chúng ta để nâng đỡ, phù trợ. Và nếu như chúng ta có lầm đường lạc lối, thì chính Người sẽ tìm kiếm chúng ta, vì Người ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Chúa Giêsu đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản thân. Người dong duổi gió bụi để tìm từng con chiên lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Người sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Người đã chấp nhận cái chết để đàn chiên được sống.
Chúa Giêsu luôn yêu thương đàn chiên, và yêu từng con chiên một. Chính Người yêu thương chăm sóc đàn chiên nên các con chiên mới được ăn trên đồng cỏ xanh, uống bên dòng suối mát. Chính Người lưu tâm bảo vệ đàn chiên, nên các con chiên mới an toàn khỏi kẻ bắt trộm, khỏi nanh sói dữ.
Hình ảnh Chúa Giêsu nơi người mục tử là biết từng con chiên và gọi tên từng con chiên… Nghĩa là vì yêu thương và trách nhiệm, chứ không phải bàng quang mặc kệ nó. Thật vậy, người mục tử thường phải hiện diện với bầy chiên của mình suốt khoảng thời gian ngày lẫn đêm. Người mục tử ấy phải biết rõ chiên mình: con nào đau, con nào mạnh, con nào còn, con nào bỏ bầy đi lạc.
“Biết chiên”. Ở đây không chỉ hiểu là nhận biết, mà còn là một sự liên kết thân thiết với nhau, yêu mến nhau như ngang hàng chứ không phải chủ tớ. Biết từng con chiên không phải là chỉ lưu tâm đến những con béo mập đem lại lợi ích cho mình, mà là thấu hiểu tình trạng của từng con chiên để chăm sóc kịp thời, lo đi tìm kiếm chiên lạc khi thấy thiều vắng trong đàn mà đưa nó về.
Mỗi người chúng ta đều là mục tử của Chúa khi chúng ta có nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người chúng ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ đang hoành hành trong môi trường sống của chúng ta. Không ai được phép bàng quan trước sự dữ đang bủa vây gia đình, xóm làng của mình. Không ai được phép vô trách nhiệm trước bữa no bữa đói của cha mẹ, con cái hay hàng xóm láng giềng. Nếu mỗi người chúng ta đều biết sống có trách nhiệm với anh em thì dòng đời này sẽ bớt đi những trái ngang, sẽ vơi đi những giọt nước mắt buồn đau, tủi hờn. Nếu mỗi người chúng ta đều biết đưa vai gánh đỡ gánh nặng cho anh em, và biết dùng đôi vai làm điểm tựa nâng đỡ anh em, thì cuộc đời này sẽ là một thiên đàng mà con người đang hưởng nếm những giây phút ngọt ngào nhất của tình người, của hạnh phúc yêu thương.
Tóm lại, ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, đặc biệt nói lên tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ, đi tìm, chữa lành và đón nhận tội nhân trở về. Nếu lúc này còn những ai đang lạc bước trong tội, chúng ta đừng tuyệt vọng, hãy tin tưởng vào Chúa và đưa tay cho Người dắt về. Cả triều thần thiên quốc và Hội Thánh vui mừng vì chúng ta bỏ đường lối xấu mà cải thiện đời sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết mặc lấy tâm tình của Chúa, biết học nơi Chúa cái nhìn bao dung và không thành kiến với mọi người, để chúng con không ngần ngại đến với những người tội lỗi và đem họ về với Chúa. Amen
Cách nay đúng 160 năm, Đại Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giê-su đã được cử hành trên toàn Giáo ThánhTâm ABC-124
Cách nay đúng 160 năm, Đại Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giê-su đã được cử hành trên toàn Giáo hội. Với một Tông Sắc vào ngày 23 tháng 08 năm 1856, Đức Pi-ô IX đã ấn định rằng, Đại Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giê-su sẽ được cử hành trên toàn Giáo hội vào ngày thứ Sáu đầu tiên sau tuần Bát Nhật Kính Mình và Máu Thánh Chúa. Đồng thời, Đức Pi-ô IX cũng xác nhận sự cho phép của Đức Pi-ô VII trong việc dời Đại Lễ này vào ngày Chúa Nhật sau đó hay vào một ngày khác với sự tán thành của Đức Giám Mục có thẩm quyền.
Nhưng trước khi Đức Pi-ô IX thiết lập Đại Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giê-su cho toàn Giáo hội, thì Đại Lễ này cũng đã được cử hành trong Giáo hội rồi, nhưng chỉ được cử hành ở từng nơi. Vào năm 1819, Đức Pi-ô VII đã cho phép cử hành Đại Lễ này ở Đất Thánh. Trước đó, tức năm 1804, cũng chính Ngài cho phép cử hành Đại Lễ này tại Châu Mỹ. Vào năm 1779, Đức Pi-ô VI đã cho phép cử hành Đại Lễ nêu trên tại Tây-ban-nha và tại Bồ-đào-nha. Vào năm 1765, Đức Clemens XIII đã chấp thuận cho các Đức Giám Mục Ba-lan và cho các Đại Sư Huynh Thánh Tâm Chúa Giê-su tại Rô-ma được cử hành một Đại Lễ để tôn kính Thánh Tâm Chúa Giê-su. Trước đó nữa, vào năm 1697, Đức Innocente XI đã cho phép cử hành một Đại Lễ để tôn kính 5 Vết Thương Của Chúa cũng như để tôn kính Thánh Tâm Chúa Giê-su vào ngày thứ Sáu đầu tiên sau tuần Bát Nhật kính Mình và Máu Thánh Chúa, tại Tu Viện Đức Mẹ Thăm Viếng. Đó là Tu Viện Paray le Monial, nơi Thánh Margareta Maria Alacoque (1647 -1690) là thành viên. Việc thiết lập Đại Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giê-su có nguồn gốc từ những thị kiến của vị Thánh vừa nêu.
Vào ngày 27 tháng 12 năm 1673, trong thị kiến đầu tiên của 4 đại thị kiến, Chúa Giê-su đã nói với Thánh Nữ Margareta Maria Alacoque rằng: “Thánh Tâm Ta bừng cháy vì Tình Yêu đối với nhân loại, và đặc biệt là đối với con, đến độ những ngọn lửa của lò lửa này không thể tự giữ lại trong chính nó được nữa. Vì thế nó phải được trải rộng ra qua con, nó phải được mặc khải để làm phong phú háo nhân loại với những kho tàng quý giá mà Ta sẽ tiết lộ cho con. Những kho tàng ấy sẽ chứa đự những ân sủng mà chúng giúp con người đạt tới được ơn cứu độ, cũng như sẽ kéo họ ra khỏi vực thẳm sự dữ. Còn con, một vực thẳm của sự bất xứng và của sự thiếu hiểu biết, nhưng Ta đã chọn con để thi hành kế hoạch vĩ đại này, vì chỉ có mình Ta mới là Đấng hoàn tất công trình này.”
Trong cuộc thị kiến thứ tư vào tháng 06 năm 1675, Chúa Giê-su đã hiện ra với Thánh Nữ và nói về Đại Lễ Kính Thánh Tâm như sau: “Hãy nhìn Thánh Tâm Ta, Thánh Tâm đã rất yêu thương nhân loại để biểu lội cho nhân loại thấy Tình Yêu của Ta. Điều mà Ta nhận được hầu hết chỉ là sự vô ơn thông qua những sự bất kính và những điều phạm thánh, thông qua sự nguội lạnh và sự khinh mạn dể duôi mà con người đã bổ sung cho Ta trong Bí Tích Tình Yêu này. Tuy nhiên, sự đớn đau nhất đối với Ta lại chính là các Linh Hồn mà họ đã được thánh hiến cho Ta, nhưng đang chống lại Ta. Vì thế, qua con, Cha yêu cầu phải thiết lập một Đại Lễ Kính Thánh Tâm rất Thánh của Ta vào ngày thứ Sáu đầu tiên sau tuần Bát Nhật kính Mình Máu Thánh Chúa. Người ta nên rước Lễ trong ngày đó và thực hiện cho Ta một sự khôi phục danh dự bằng lời cầu xin ơn tha thứ cách long trọng, để đền thay cho những điều sỉ nhục mà chúng được bổ sung thêm cho Bí Tích rất thánh trong thời gian tạm dừng trên các bàn thờ. Ta hứa với con rằng, Thánh Tâm Ta sẽ chất đầy dòng thác Tình Yêu thần tính của nó trên bất cứ người nào thể hiện lòng tôn kính này đối với Thánh Tâm Ta, cũng như trên những ai nỗ lực để giúp những người khác cũng làm điều đó.”
Ngoài ra Chúa Giê-su còn trao một lời hứa to lớn cho những ai thực hành chín ngày thứ Sáu đầu tháng để tôn kính Thánh Tâm Chúa. “Trong tình xót thương vô bến bờ của Thánh Tâm Ta, Ta hứa với con rằng, Tình Yêu đầy quyền năng của Thánh Tâm Ta sẽ ban ơn bền đỗ đến cùng cho tất cả những ai rước mình Thánh Chúa liên tục trong 9 ngày thứ Sáu đầu tháng. Họ sẽ không phải chết mà không được lãnh nhận các Bí Tích thánh. Thánh Tâm thần tính của Ta sẽ trở thành nơi trú ẩn an toàn cho họ trong giờ phút sau cùng.”
Nhưng Thánh Margareta Maria Alacoque không phải là người đầu tiên. Thực ra, trước khi vị Thánh này trải qua những thị kiến nêu trên, vào ngày 20 tháng 10 năm 1672, Thánh Gio-an Eude đã là người đầu tiên cử hành Đại Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giê-su và Mẹ Maria trong Hội Dòng Linh Mục Quốc Tế do chính Ngài thành lập, sau khi Ngài đã nhận được sự cho phép của Đức Giám Mục Giáo phận Renne vào năm 1670.
Việc tôn kính Thánh Tâm Chúa Giê-su bị chống đối bởi hai phía: Một phía là Jansenis và phía kia là Josephin và những người đi theo phong trào ánh sáng. “Ngay cả các cơ quan nhà nước cũng được huy động để chống lại những người tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giê-su. Vì thế, nhiều người, chẳng hạn như Cha Peter Max Hell, S.J, người phụ trách đài thiên văn của thánh phố Viên (Áo quốc), đã bị kết án, cũng như đã bị phạt tới 500 quan tiền chỉ vì Ngài cho phổ biến các tác phẩm đề cao việc tôn sùng Thánh Tâm; cùng thời với Ngài, còn có nhiều người khác nữa, họ cũng đã phải đi tù vì cùng một lý do như trên. Trong cuộc cách mạng Pháp, trong nhiều trường hợp, việc tôn kính ảnh Thánh Tâm Chúa Giê-su bị coi như một tội phạm đáng bị kết án tử hình.” (Xc. H. Nix S.J., in Wetzer und Welte's Kirchenlexikon V, Sp.1924).
Tuy nhiên, tất cả mọi chống đối đều đã không thể ngăn cản được dòng thác của lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa. Vào năm 1889, Đức Lê-ô XIII đã nâng Đại Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giê-su lên thành Đại Lễ bậc nhất.
Hai trong những lời cuối cùng của Chúa chịu đóng đinh được ngỏ cho Mẹ Người và cho môn đệ ThánhTâm ABC-125
Hai trong những lời cuối cùng của Chúa chịu đóng đinh được ngỏ cho Mẹ Người và cho môn đệ được thương mến: “Thưa Bà, đây là con của Bà” và “Đây là mẹ của anh”. Và Thánh sử ghi nhận: “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.” (Ga 19,26-27).
Nhà thần học Ratzinger cho thấy Tin Mừng Gioan trình bày những lời của Đức Giêsu theo một cách thức đặc biệt, khuyến khích chúng ta đào sâu ý nghĩa của nó hơn nữa, như Thánh Augustinô từng nói: “Mọi lời của Ngôi Lời đầy mầu nhiệm.” Ở đây, người môn đệ biểu thị tất cả các tín hữu, nhưng cũng biểu thị các tông đồ, và tất cả những người giữ những chức vụ trong Giáo hội sau này. Và nếu dịch sát chữ thì Gioan không nói rằng môn đệ ấy nhận bà vào trong nhà mình, nhưng vào trong chính mình: eis ta idia. Nói cách khác, Thánh sử muốn nói: vào trong chính đời sống cá nhân của mình, vào trong những công việc và cố gắng, vào trong cõi lòng mình. Theo Ratzinger, những lời này khích lệ tất cả các giám mục và linh mục đưa Mẹ Thiên Chúa, Nữ trinh Maria vào trong đời sống và hoạt động của mình.
Những kết quả của việc Đức Maria hiện diện trong đời sống Gioan rõ ràng được phản ánh trong Tin Mừng của ông. Gioan diễn tả những mầu nhiệm của Đức Giêsu - đời sống bên trong của Người, mối liên hệ của Người với Cha, và tình yêu Người dành cho chúng ta - tuyệt hơn bất kỳ Tin Mừng nào. Đây là một lời mời cho tất cả các Kitô hữu, nhưng cách riêng cho giám mục và linh mục, để nhận mẹ Thiên Chúa vào trong đời sống và tác vụ của chính mình. Chúng ta phải là những người cha đối với dân như Phaolô: “Thật thế, cho dầu anh em có ngàn vạn giám thị trong Đức Kitô, anh em cũng không có nhiều cha đâu, bởi vì trong Đức Kitô Giêsu, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em.” (1 Cr 4,15). Nhưng chúng ta cũng là những người mẹ, nếu chúng ta thông phần vào trái tim của Mẹ Thiên Chúa và của Giáo Hội. Chúng ta phải biết rằng Thánh Phaolô, luôn đầy tình cha, nhưng ngài cũng hiểu mình là người mẹ của các tín hữu: “Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em.” (Gl 4,19). Nếu chúng ta mời Đức Maria vào lòng chúng ta, Mẹ sẽ mang chúng ta đến gần Con Ngài hơn; Mẹ sẽ dẫn chúng ta vào trong lòng của Ngài; và như vậy, chúng ta sẽ biết lúc nào dùng đến tâm hồn hiền hậu với những người được trao phó cho chúng ta coi sóc. Nhưng chúng ta cũng biết khi nào - bắt chước Phaolô - dùng uy quyền, exousia của Đức Kitô, mà đối với Phaolô bao gồm việc khiển trách và tuyệt thông khỏi Giáo hội.
Kinh nguyện của linh mục
Như đời sống của các vị giáo hoàng - từ Chân phước Piô IX đến Bênêđictô XVI - cho thấy, cầu nguyện là phương thế đệ nhất và hiệu quả nhất trong sự phục vụ của linh mục. Mặc dù gánh nặng công việc bề bộn, những giáo hoàng này trung thành cầu nguyện thần vụ và lần hạt; các ngài cũng tìm nhiều giờ để cầu nguyện cá nhân. Nếu các ngài có thể tìm giờ cho cầu nguyện và học hỏi cá nhân, làm thế nào chúng ta có thể đáng tin khi nói: “Xin lỗi, tôi yêu thích cầu nguyện, nhưng tôi không có giờ cầu nguyện”? Nếu một đời sống linh mục chẳng còn cầu nguyện cá nhân - trong hình thức nguyện ngắm, sách thiêng liêng, và thờ lạy Thánh Thể - thì việc cử hành thánh lễ, các bí tích, và đọc thần vụ chỉ còn là những bổn phận theo một thói quen không sức sống, thường dẫn đến một khủng hoảng thực sự trong ơn gọi chúng ta. Linh mục bắt đầu chạy khỏi chính mình, chìm ngập trong hoạt động sôi nổi. Trong nhiều trường hợp, hoạt động này có thể là công việc mục vụ hữu ích, nhưng rốt cục linh mục sẽ bị kiệt lực, hay có thể rơi vào nghiện ngập, hay một hình thức nào đó của sự vô luân tính dục.
Trong các thư của mình, Phaolô nói cho các tín hữu rằng ngài liên lỉ cầu nguyện cho họ, luôn đến trước mặt Chúa, bị chất chồng bởi “nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!” (2 Cr 11,28). Linh mục chúng ta phải ra trước nhan Thiên Chúa, mang theo chúng ta tất cả những người được trao cho chúng ta coi sóc. Chúng ta hãy dâng tất cả những kinh nguyện, hoạt động và đau khổ cho dân. Ngay cả khi chúng ta nói với Thiên Chúa về những vấn đề hay những ước ao thầm kín nhất của chúng ta, thì phía sau tâm tư chúng ta cũng phải có mặt các tín hữu. Tôi chỉ có thể là “người sống vì người khác” theo mức độ tôi là “người của Thiên Chúa”.
Khi chủng sinh chuẩn bị cho chức linh mục, họ sẽ chịu nhiều cám dỗ, nhiều cuộc đấu tranh để được chấp nhận; những cuộc đấu tranh với vâng phục, để học thói quen sống trong sạch và khiêm nhường. Vào những lúc như thế, họ hãy ý thức rằng họ chiến đấu và chịu khổ, không chỉ vì chính mình, nhưng còn vì tất cả những người được trao phó cho họ chăm sóc mục vụ. Nếu họ vượt thắng các cám dỗ, họ có thể làm chứng cách khả tín rằng ơn Thiên Chúa thì mạnh mẽ trong sự yếu đuối của chúng ta. Nếu họ thua, họ sẽ mất đi sự khả tín. Chúng ta có thể khuyến khích được giới trẻ xây dựng một tính cách Kitô hữu vững mạnh nếu, trước khi lắng nghe những lời của chúng ta, họ thấy tính cách ấy trong đời sống chúng ta. Chúng ta phải có thể nói cho các thanh thiếu niên rằng quyền năng của Đức Kitô thì mạnh mẽ hơn những con thú hoang của đam mê đang lồng lên trong lòng họ. Các bạn trẻ có thể xiềng xích những con thú đó, và sau này, thậm chí thuần thục chúng, tới độ họ có thể dùng những năng lực được thăng hoa vào những mục đích của Thiên Chúa.
Thành công và thất bại trong đời sống linh mục
Những gương lành của Đức Kitô, và của các thánh, có thể dạy chúng ta cách hiệu quả về sự thành công và thất bại trong đời sống linh mục chúng ta. Đức Giêsu được sai vào cuộc sống trần gian chỉ dành cho Israel, nhưng Người đã không hoán cải được chính dân Người. Đúng hơn, Người khuấy động lên sự giận dữ của giới cai trị. Họ đã giết Người cách ô nhục nhất - một hình phạt dành cho nô lệ. Thậm chí sau phục sinh và được đổ Thần khí, các tông đồ đã không mấy thành công trong sứ mệnh của họ đối với phần lớn của Israel. Khi Phêrô và Phaolô bị hành quyết ở Roma, dường như rất có thể rằng Kitô giáo sẽ bị Hoàng đế Nêrô bứng rễ, và bị các lạc giáo đang lan rộng làm hư thối. Tuy nhiên, trong hai thế kỷ, Kitô giáo trở thành một lực lượng thống trị trong đế quốc Rôma. Giáo hội luôn thắng bằng cách thua; giống như Đức Giêsu đi vào trong vinh quang qua sự thất bại của thập giá. Ngay cả Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II khoẻ mạnh và cường tráng cũng đã kết thúc như một người bệnh tật vô dụng. Hãy nghĩ đến hình ảnh cuối cùng của ngài được đã được phổ biến rộng rãi: hình ảnh Đức Gioan Phaolô II đứng ở cửa sổ căn phòng giáo hoàng vào Chúa Nhật Phục Sinh 2005, không thể thốt ra một lời ban phép lành. Tuy nhiên, trong khi đau yếu, Đức Gioan Phaolô II lại hiệu quả hơn cả khi khoẻ mạnh. Quyền năng của Thiên Chúa được tỏ lộ khi kẻ yếu được làm nên mạnh mẽ; khi kẻ chết được phục sinh. Thế thì, tại sao chúng ta phải kỳ vọng một kết quả khác cho chính mình? Có lẽ chúng ta là những gương sáng về khiêm nhường và bác ái khi chúng ta ốm đau và yếu đuối, tốt hơn ngay cả khi chúng ta giảng những bài giảng hay nhất.
Công việc của chúng ta là từng bước thực thi kế hoạch của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta phải cố gắng hết sức để trở nên tôi tớ trung thành nhất của Đức Kitô. Nhưng chúng ta đừng bao giờ cố gắng đo lường sự thành công của tác vụ chúng ta. Chúng ta phải đặt kết quả trong tay Thiên Chúa.
Roch Kereszty, O. Cist. Lm. Giuse Nguyễn Văn Am, S.D.B., chuyển ngữ
Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người. Tình yêu ấy luôn hiện diện sống động cụ thể nơi ThánhTâm ABC-126
Sứ điệp: Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người. Tình yêu ấy luôn hiện diện sống động cụ thể nơi Chúa Giêsu, khi Ngài cùng chia sẻ thân phận con người với chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trái tim Chúa thật nhạy cảm trước nỗi thống khổ của con. Chúa biết rõ những gánh nặng của cuộc đời con: những gánh nặng bệnh tật, gánh nặng khổ đau, gánh nặng công việc bổn phận… và Chúa đã ghé vai chia sẻ với con tất cả những gánh nặng ấy.
Lạy Chúa Giêsu, đau khổ trở thành gánh nặng cuộc đời, nhưng đau khổ cũng có giá trị thanh luyện con. Khi gặp thử thách, con nhận biết giới hạn của chính mình để chỉ cậy dựa hoàn toàn nơi lòng nhân từ Chúa. Khi trải qua những gánh nặng bổn phận hàng ngày, con càng hân hoan vui sướng được Chúa chia sẻ nâng đỡ. Chúa đến trần gian không phải để giải thoát con khỏi những đau thương thử thách. Nhưng Chúa đến để hiện diện và cùng chia sẻ với con tất cả mọi đau thương trong cuộc sống. Tâm hồn Chúa cũng cảm thấy bồn chồn lo âu khi đối diện với những gánh nặng cuộc đời. Nhưng Chúa đã phó thác tất cả trong tay Chúa Cha.
Lạy Chúa, con tin tưởng nơi tình yêu của Chúa. Con tự nguyện sẵn sàng đón nhận cuộc sống của con với tất cả lòng mến. Xin cho con biết nghe tiếng Chúa mời gọi, để giữa những vất vả khổ đau, con biết đến với Chúa trong những phút cầu nguyện và nhất là trong Thánh lễ, để trao vào trái tim Chúa tất cả gánh nặng của cuộc sống con. Vì con tin chắc rằng Chúa đang hiện diện và chia sẻ cuộc sống với con. Amen.
Ghi nhớ : “Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”.
Hằng năm, cứ đến Chúa Nhật thứ II sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, vào thứ Sáu trong tuần ThánhTâm ABC-127
Hằng năm, cứ đến Chúa Nhật thứ II sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, vào thứ Sáu trong tuần này, Giáo Hội lại cử hành lễ kính Thánh Tâm Chúa Giê-su.
Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su không có mục đích gì khác hơn là cho chúng ta thấy được phần nào tình Chúa thương yêu chúng ta.
Chúa Giê-su chẳng những đã sinh ra, đã sống, đã chết cho chúng ta, mà còn đã sống lại và hiển trị vinh quang cho chúng ta, để ở cùng chúng ta luôn mãi: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20b).
Cảm kích trước tình yêu thương của Chúa Giê-su, Giáo Hội muốn bày tỏ lòng mến đối với Người. Trong tâm tình ấy, chúng ta cùng hiệp dâng Thánh Lễ này, dâng tiến Trái Tim Chúa cuộc sống và tình yêu chúng ta.
- Lạy Chúa, nhờ Trái Tim quảng đại của Chúa, Chúa đã ban cho chúng con là đoàn chiên của Chúa, được no thoả nơi đồng cỏ Nước Trời. Xin Chúa thương xót chúng con...
- Lạy Chúa, nhờ Trái Tim bao dung của Chúa, Chúa đã chết trên thập giá, để giao hoà chúng con với Chúa Cha. Xin Chúa Ki-tô thương xót chúng con...
- Lạy Chúa, nhờ Trái Tim tình thương của Chúa, Chúa đã làm cho lòng trí chúng con được tràn ngập tình yêu và ấm lên tình thương của Chúa Cha trên trời. Xin Chúa thương xót chúng con...
B- GIẢNG LỄ
Con người hay bị chao đảo, khốn khổ vì ảnh hưởng cuộc sống với người khác, nên dễ có cái nhìn thiên lệch, ác cảm về Thiên Chúa giống như vậy.
Nhưng nếu ta đọc kỹ những bài đọc của phụng vụ hôm nay - và thực sự khi ta biết chịu khó đọc Sách Thánh, nhất là sách Phúc Âm - thì cái nhìn của chúng ta tất phải đảo ngược lại! Thiên Chúa quả thật là Đấng đáng cho chúng ta tôn thờ và yêu mến, bởi Người là Đấng nhân hậu và hằng quan tâm đến hạnh phúc của con người!
Thiên Chúa đã ví Người như một mục tử chăm lo cho đoàn chiên. Người quan tâm tập trung đoàn chiên cho khỏi tản mác. Con nào thất lạc, Người tận tâm tìm kiếm và âu yếm đưa về đàn. Người dẫn thả đoàn chiên nơi đồng cỏ xanh tươi mầu mỡ, lo chữa trị cho những con bị thương tích hay ốm đau.
Đây quả thật là hình ảnh tương phản với những mục tử nhà Ít-ra-en ~nghĩa là những nhà lãnh đạo dân Chúa thời bấy giờ.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en - tác giả bài đọc I - đã từng lên án gắt gao các vị lãnh đạo tôn giáo thời ông, bởi họ chẳng những đã không chăm sóc cho người dân, ngược lại còn bóc lột, làm thiệt hại đồng bào và quần chúng của mình. Họ đặt ra nhiều hình thức lễ nghi với những của lễ phải dâng tiến, để họ cũng được chia phần trong đó ! Họ bắt người khác phải tôn kính, trọng đãi họ. Họ sống giả dối trước Tôn Nhan Thiên Chúa và bất chấp dưới mắt mọi người. Ngôn sứ đã gọi tầng lớp lãnh đạo này như là những kẻ chăn thuê, coi mướn, chỉ chú tâm mưu tính cho quyền lợi và địa vị của mình, mà quên đi quyền lợi cũng như giá trị nhân phẩm của người dân - đồng bào của họ - và của chính Thiên Chúa - Đấng sở hữu chiên đích thật nữa !
Chỉ có Thiên Chúa mới là vị Mục Tử đích thật. Vì thế, khi Đức Ki-tô làm người, Người đã là hiện thân cho tình yêu của Thiên Chúa yêu thương con người, bởi vì Người cũng đích thật là Mục Tử của đoàn chiên dân Chúa. Chúa Ki-tô sẵn sàng thí hiến cả mạng sống mình vì đoàn chiên: “ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi: Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Ki-tô” (Rm 5,8-9).
Mừng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, chính là chúng ta nhắc nhớ, ca tụng, cảm tạ tình thương yêu Chúa nhân hậu, bao dung và chân thành đã dành tất cả cho chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết đáp trả tấm lòng yêu thương ấy bằng cách sống thánh thiện, tránh xa tội lỗi cũng như các dịp tội, để dành tình yêu thương lại cho Chúa. Nếu có lỡ dại sa ngã phạm tội, chúng ta cần vững tin vào lòng nhân hậu yêu thương của Chúa mà sám hối trở về và qua phép Hoà Giải, sớm làm hoà với Người.
Chúc tụng tình thương yêu của Chúa đến muôn đời. A-men.
Trong Tin mừng chỉ có vài câu có liên hệ gián tiếp đến Trái tim của Chúa Giêsu, như trong Mátthêu ThánhTâm ABC-128
Trong Tin mừng chỉ có vài câu có liên hệ gián tiếp đến Trái tim của Chúa Giêsu, như trong Mátthêu 11,29: “… Vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Latinh là “quia mitis sum et humilis corde”) hoặc trong Gioan 20,27: “…Hãy đặt vào cạnh sườn Ta” (“Mitte in latus meum”) trong đó hai từ corde và latus đều ám chỉ trái tim của Chúa Giêsu. Ngoài ra Chúa Giêsu không đả động gì đến trái tim Ngài. Không bao giờ Ngài bảo phải yêu mến và tôn sùng trái tim Ngài.
Cha William G. Most, chuyên gia thần học, giảng giải: Tôn sùng Thánh Tâm là một phần của nền tảng đức tin căn cứ vào lòng Chúa yêu thương, được biểu hiện nơi Trái Tim Chúa Giêsu, nhờ đó chúng ta mới hiện hữu và được cứu rỗi.
Có lẽ việc tôn sùng Thánh tâm Chúa Giêsu phát xuất từ đoạn Tin mừng theo thánh Gioan 19,31-37 kể lại rằng: sau khi Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, thì một người lính lấy ngọn giáo đâm vào cạnh sườn Ngài, tức thì máu cùng nước chảy ra. Chính Chúa Giêsu lúc còn sống, Ngài phán: “Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các người. Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,25-30).
Chiêm ngắm cạnh sườn bị đâm thâu của Đấng Cứu Thế, chúng ta sẽ hiểu biết Ngài cách sâu rộng hơn, kinh nghiệm về tình yêu của Ngài cách đầy đủ hơn, khiến chúng ta có thể sống chan hoà với tình yêu của Ngài và sẵn sàng làm chứng về tình yêu ấy cho những người khác.
Trái tim thường được coi là “trụ sở của Tình yêu”. Chúng ta tôn thờ Thánh Tâm Chúa, để nhớ đến tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại, đối với mọi người chúng ta. Giáo hội thiết lập lễ Thánh Tâm là để đề cao lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại nơi Ngôi Hai Thiên Chúa làm người là Đức Giêsu Kitô.
Suy ngắm về tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại, chúng ta mới hiểu được định nghĩa của thánh Gioan: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Tình yêu còn đặc biệt được biểu lộ qua việc Ngài thương xót những kẻ tội lỗi: “Ta đến không phải để tìm người công chính, nhưng để tìm người tội lỗi biết ăn năn hối cải” (Lc 5,32).
Tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu không phải là bằng những tình cảm ướt át, ủy mị, những lời kinh đền tạ tha thiết, những câu hát than van rên rỉ… nhưng là đi vào tâm tình của Ngài, hoà vào mạch sống yêu thương của Ngài, là chấp nhận sự hy sinh, sự mất mát, sự chết cho anh em đồng loại được sống, được hạnh phúc.
Suy ngắm tình Chúa yêu, chẳng những giúp chúng ta thêm lòng yêu mến Chúa, mà còn giúp chúng ta thêm lòng yêu thương tha thứ cho nhau. Thánh Gioan viết: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau… Như Chúa đã tha thứ cho chúng ta, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau và giúp đỡ lẫn nhau…” (1Ga 11-21).
Con người có hai nhu cầu cần được thoả mãn đó là muốn yêu và được yêu. Là người, ai cũng muốn yêu: cha mẹ thương con cái, con cái yêu mến cha mẹ; vợ chồng yêu nhau,bạn bè thương mến nhau. Ai không còn khả năng để yêu người khác, thì tuy đang sống nhưng cũng kể như đã chết. Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người, Ngài yêu thương mọi người và Ngài cũng muốn được con người đáp lại tình yêu của Ngài. Chúng ta hãy xin Chúa cho mỗi người chúng ta cảm nghiệm được tình yêu Chúa thương mình và cố gắng đáp trả phần nào tình yêu của Chúa.
Qua lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta hãy thêm lòng tôn sùng yêu mến Thánh Tâm Chúa. Một cách cụ thể, tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu là cố gắng đổi mới chính con tim của chúng ta, sao cho nó hiền hậu khiêm nhường như Trái Tim Chúa Giêsu theo lời Ngài phán: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Ga 20,27). Chúng ta phải làm sao cho con tim chúng ta biết yêu thương loài người, nhất là yêu thương những người nghèo khổ, bị bỏ rơi và yêu thương như trái tim yêu thương rộng mở của Chúa Giêsu vẫn luôn luôn yêu thương.
Đồng thời, hôm nay cũng là ngày thánh hoá các linh mục của Chúa. Đức Thánh Cha kêu gọi cộng đồng dân Chúa hãy nâng đỡ các linh mục trong ơn gọi nên thánh của các ngài, bằng lời cầu nguyện và những việc hy sinh, cộng tác với các ngài trong việc mục vụ tông đồ và truyền giáo. Xin cho các linh mục mỗi ngày sống thánh thiện để trở thành những mục tử theo gương Chúa Kitô.
Chúng ta hãy hợp lời cầu nguyện cho các ngài như các ngài vẫn cầu nguyện cho mình hằng ngày: “O bone Jesu, fac ut sim sacerdos secundum cor tuum”: Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin cho con trở thành linh mục như lòng Chúa mong muốn.
Ngay từ xa xưa, trái tim luôn là biểu tượng trung tâm của mọi hành động tình cảm, cảm xúc, tinh ThánhTâm ABC-129
Ngay từ xa xưa, trái tim luôn là biểu tượng trung tâm của mọi hành động tình cảm, cảm xúc, tinh thần, luân lý và trí tuệ của con người. Vâng, “tim” là biểu tượng của những gì quan trọng nhất, cơ bản nhất và là biểu tượng sự sống của kiếp nhân sinh: Người có trái tim ngừng đập là người đã đi vào cõi chết và sự sống không còn hiện hữu.
Tuy nhiên, biểu tượng trên tất cả mà “trái tim” phát biểu, đó là tình yêu. Ngoài ra, tim còn là dấu hiệu của lòng nhân ái, quảng đại như người ta thường gọi người quảng đại là con người của trái tim. Tim cũng được chỉ người có ý chí mạnh mẽ, cho nên người can đảm còn được ca tụng: Người có trái tim mạnh mẽ...
Suy niệm
Trong Thánh Tâm, trái tim của Thiên Chúa gặp gỡ và cứu độ con người. Bởi sự hiệp thông, “ở trong, cư ngụ”. Chúa Kitô ở trong chúng ta và đưa chúng ta vào trong trái tim Ba Ngôi: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một” (Ga 17,23). Sâu sắc hơn nữa, như Chúa Giêsu đã thổ lộ: “tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa” (Ga 17,26). Tình yêu Thiên Chúa đạt đỉnh cao bằng cái chết của Con Thiên Chúa trên thập giá để cứu độ nhân sinh: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”(Ga 15,13).
Truyền thống về Thánh Tâm Chúa Giêsu được Tin Mừng ghi nhận, mà nguồn gốc chính là hình ảnh thánh tông đồ Gioan, môn đệ được Chúa yêu đã đặt mình vào lồng ngực Chúa ở trong bữa tiệc ly (x. Ga 13,23), nói về tình yêu bao bọc của Ngài đối với người môn đệ, và nhân loại qua Gioan là người đại diện, tình yêu Ngài bao bọc cả nhân loại. Thánh Augustinô đã diễn giải hình ảnh này: “Thánh Gioan, tác giả Tin Mừng, khi đặt mình vào ngực Chúa ở trong bữa Tiệc ly đã nhận từ Thiên Chúa sự dâng hiến cao cả của Thiên Chúa, ông đã lãnh nhận những gì bí mật nhất, thâm sâu (của tình yêu Thiên Chúa) trong Thánh Tâm Chúa” (“Tractatus in Johannis evangelium”, XVIII 1). Hình ảnh rõ nét nhất mà Gioan đã ghi nhận làm trung tâm tình yêu: Trên thập giá, tim của Chúa Giêsu bị đâm thâu, máu cùng nước chảy ra (x. Ga 19,34-37), phát sinh sự sống, Giáo hội và các bí tích Thánh Thể và Thanh Tẩy biểu tượng của sự sống, của tình yêu: Tình yêu gội rửa bằng nước, và tình yêu nuôi sống bằng máu. Thánh Anselmo khi chiêm ngưỡng hình ảnh trái tim Chúa bị đâm thâu đã cảm nhận: “Chúa Giêsu hiền lành, Ngài đã mở cạnh sườn, Ngài đã biểu lộ và phân phát sự tốt lành trọn hảo và Đức Ái tuôn trào nơi trái tim Ngài” (Dixième méditation).
Khi chiêm ngưỡng hai hình ảnh mang ý nghĩa của Thánh Tâm Chúa, Thánh Ambrôsiô (340 - 397) mời gọi người tín hữu đến bên tình yêu Chúa Kitô để múc nguồn tình yêu: “Hãy đến bên Đức Kitô vì Ngài là tảng đá nơi các mạch suối được sinh ra. Hãy đến bên Chúa Kitô vì Ngài là dòng suối trong đó có dòng thác tạo nên thành trì (để bảo bọc con người) của Thiên Chúa. Hãy đến bên Đức Kitô, bởi Ngài là bình an. Hãy đến bên Chúa Kitô vì những dòng suối sự sống tuôn trào từ cõi lòng (trái tim) Ngài”.
Cho nên, nơi Thánh Tâm Chúa, con người hôm nay, với tâm thức và tình cảm của thời đại khám phá ra câu trả lời mà mình luôn tự vấn và tất cả sự chờ đợi trong cuộc sống: tìm thấy được một nơi yên nghỉ sau những giây phút mệt mỏi của đời sống và đặt tất cả mọi nỗi lo âu, những gánh nặng trần thế như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. “Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Thật thế, con người sẽ tìm thấy bình an, nơi tình yêu thánh trong trái tim Chúa khi đi vào sự hòa giải của chính bản thân, giữa mình với Thiên Chúa. Thánh Tâm sẽ là nguồn hy vọng sống, sống trọn vẹn trong tình yêu của Thiên Chúa.
Ý lực sống
“Tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với chúng ta về ngôi vị của Ngài, về tình yêu của Ngài, Người đã đặt trong Thánh Tâm Đức Giêsu và qua Trái Tim Thánh này, Thiên Chúa phát biểu cho chúng ta” (Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II).