Suy niệm Tin Mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam 24/11 Bài 1-50 Những chứng nhân anh dũng của Đức Tin ------------------------------------ Phúc Âm: Mt 10,17-22 "Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết".
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa mình: 24/11-1
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644, vị quan này từ phủ Chúa về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộ, để bắt thầy giảng số một là Inhaxu, là người mà bà Chúa đã thề là sẽ ra lệnh hãm hại. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inhaxu, thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên, là người mà cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý chừng hai năm. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inhaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói và giong đi. Anrê vui vẻ theo toán lính và trong suốt quãng đường, không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hoả ngục hầu được hưởng phúc thiên đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh Chúa.
Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết thầy giảng trẻ Anrê quì xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên Ricardoi trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu Danh Thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha đã khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chú nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Cũng người lính nói trên rút giáo đâm lần thứ hai, rồi đâm lần nữa, như muốn tìm trái tim thầy.
Người đao phủ thấy lưỡi giáo không làm cho thầy Anrê lăn xuống đất, liền lấy mã tấu chém cổ, nhưng vẫn chưa xong, phải thêm nhát nữa làm đứt hẳn cổ, đầu rơi về bên tay phải, chỉ còn vướng mảnh da. Đó là lúc cha Đắc Lộ như nghe thấy Danh Thánh Giêsu phát ra không từ nơi miệng nhưng từ vết thương ở cổ.
Khi toán lính rút lui, cha Đắc Lộ cùng với các tín hữu đến ôm xác thầy Anrê trong tay rồi đặt vào cỗ ván đẹp nhất, thấm hết máu và cử hành một lễ an táng sốt sắng. Xác thầy Anrê được đưa về Macao và được đón rước linh đình. Cha Đắc Lộ không quên làm biên bản, ghi tên hai mươi ba người đã chứng kiến cái chết tử đạo của thầy Anrê Phú Yên (theo cha Đắc Lộ, Hành Trình và Truyền Giáo, Hồng Nhuệ dịch, Sài Gòn, 1994, 145-149)
118 chứng nhân được Giáo Hội toàn cầu tôn kính
Giai đoạn lịch sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam, được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, hai vị tử đạo tiên khởi trong số 117 vị Thánh Tử Đạo này là thánh Phanxicô Frederich Tế và Mátthêu Liciana Đậu, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long miền Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một thế kỷ đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô như thấy nơi cái chết của Chân Phước Tử Đạo Tiên Khởi Việt Nam, thầy giảng Anrê Phú Yên, năm 1644 tại miền trung. Vị tử đạo cuối cùng trong số 117 là thánh Phêrô Đa, thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6, 1862 tại Qua Linh miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm 1862, cơn cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên Hoà và Bà Rịa đã có 846 Kitô hữu bị thiêu.
Gần ta hơn tại Biên Hoà và Bà Rịa
Tại Bình Ý tức Biên Hoà, khi tuần vũ ra lệnh đốt trại giam, trong 407 mạng chỉ có 5 người chạy thoát. Một thiếu nữ để tránh lửa đã trèo lên một cây cao, nhưng lửa đã đốt cháy hai bắp đùi cô. Người ta đem cô vào nhà cô nhi ở Sàigòn để chữa trị, nhưng cô gái chỉ sống thêm được vài ngày. Một thiếu nữ khác tên là Mađalêna Lành bị một lưỡi đòng sướt qua đầu nằm bất tỉnh. Lính tưởng nạn nhân chết nên bỏ đi. Thiếu nữ này đã sống đến tuổi già để làm chứng về những gì đã xảy ra.
Giáo dân tại hạt Bà Rịa chừng 2,300 người từ lâu sống khá yên ổn cho tới tháng 8 năm 1861. Đó là thời điểm tuần vũ Biên Hoà ra lệnh cho phủ Bà Rịa lập danh sách những người có đạo để bắt giữ làm con tin. Danh sách làm xong thì phải khắc lên má người có đạo: một bên chữ Biên Hoà, một bên chữ Tả Đạo. Sang tháng 9, 1861, nhà cầm quyền thiết lập bốn ngục để giam những người có đạo: ngục Dinh là ngục chính, nhốt 300 đàn ông; ngục Thơm (Long Kiên) chừng 4 cây số về phía Bắc Bà Rịa, giam 135 đàn bà và con nít; ngục Thành (Long Biên) giam 140 đàn bà và trẻ con; ngục thứ bốn tại họ Đất Đỏ (Phước Thọ) nhốt 125 đàn bà và trẻ con. Bốn ngục chứa khoảng 700 tín hữu thuộc năm họ đạo Bà Rịa là Đất Đỏ, Thơm (gồm ngũ Long là Long Kiên, Long Tân, Long Hiệp, Long Nhung, Long Phước), Dinh, Thành và Gò Sầm tức Thanh Mỹ.
Tương truyền rằng: Một đàn ông bị nhốt trong ngục Dinh, bà vợ với đứa con nhỏ ở ngục khác đã trốn thoát được. Bà này về chạy được 30 quan tiền định lót cho chồng được tha. Nhưng ông chồng nghĩa khí ấy cho rằng việc làm của vợ là không chính đáng nên đã ở lại trong ngục và đã chịu chết vì đạo.
Trong ba ngục giam phụ nữ và trẻ em, lính gác có phần dễ dàng hơn ngục Dinh. Nhờ vậy cha Trí đã giả dạng đi buôn, gánh hai tĩnh nước mắm vào bán trong ba ngục này, để thăm viếng và ban bí tích cho các tín hữu.
Cả bốn ngục đều bị phóng hỏa đốt cháy trong đêm 7 tháng 1, 1862. Tổng số người chết trong ba ngục phụ nữ và trẻ em là 156, cộng với con số 288 đàn ông bị thiêu tại ngục Dinh, tất cả là 444 người bị thiêu chỉ trong khu vực Bà Rịa.
Vậy trong ngày lễ kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta mừng kính 117 vị đã được tôn phong hiển thánh, 1 vị đã được tôn phong Chân Phước Tử Đạo Tiên Khởi Việt Nam, Thầy Giảng Anrê Phú Yên, và chúng ta cũng tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta là con cháu.
Tin Mừng về Tình Yêu mang nhiều hoa trái
Nhưng trước hết và trên hết ta cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài người chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và Người Con Một ấy trước khi chịu chết vì ta thì đã quì xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến Người đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Người ví bản thân Người như thân nho và các môn đệ là nhành nho (Ga 15,1-17). Rồi Người dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò (15,18-16,4a).
Xưa Ít-ra-en được kể như thân nho của Giavê Thiên Chúa (x.Tv 80, 9-20). Nay Đức Giêsu xuất hiện là chính thân nho đích thực của Thiên Chúa: Ít-ra-en xưa chỉ là hình bóng. Chính Chúa Cha chăm sóc thân nho của Người bằng cách cắt tỉa cho thân nho ấy sinh nhiều trái. Những nhành được cắt tỉa chính là các môn đệ, những người đón nhận lời ban sự sống. Cần phải ở lại nơi bản thân Đức Giêsu bằng tình yêu thì sẽ người môn đệ mang lại nhiều hoa trái (cc. 5 và 8). Không ở lại với Người bằng tình yêu thì sẽ hết là môn đệ của Người và chỉ đáng ném vào lửa mà thôi (c.6).
Tình yêu được Đức Giêsu đề cập là tình yêu phát xuất từ Chúa Cha đối với Đức Giêsu (c.9). Tình yêu ấy được truyền sang Đức Giêsu để trở thành tình yêu Người dành cho các môn đệ. Tình yêu mà các môn đệ đáp lại bằng chính con đường vâng phục trong yêu mến đối với Chúa Giêsu (cc.10.14). Tình yêu ấy sẽ tỏa rộng giữa các môn đệ (cc.12.17). Mẫu tình yêu của người môn đệ đích thực là chính tình yêu mà Chúa Giêsu bày tỏ bằng cách hy sinh mạng sống cho bạn hữu (c.13).
Vậy bài Tin Mừng hôm nay là lời dặn dò về cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các thánh tử đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa Kitô để được ơn cứu Ricardo. Đúng như lời vị giáo phụ Tertuliano đã nói là máu các vị tử đạo chính là hạt giống làm phát sinh ra các Kitô hữu.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn tâm đắc gì về cuộc tử đạo của Chân Phước thầy giảng Anrê Phú Yên? Về 846 Kitô hữu bị thiêu tại Biên Hoà và Bà Rịa cuối năm 1861 đầu năm 1862? 2. Bạn hiểu như thế nào về câu nói: Máu các vị tử đạo là hạt giống làm nảy sinh ra các Kitô hữu?
Mỗi lần mừng kính các Thánh Tử đạo Việt Nam chúng ta không thể quên rằng: hạt giống đức: 24/11-2
Mỗi lần mừng kính các Thánh Tử đạo Việt Nam chúng ta không thể quên rằng: hạt giống đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận trên mảnh đất quê hương Việt Nam này là hồng ân của Thiên Chúa tặng ban, nhưng cũng là hạt giống được tưới gội và vun trồng bằng nước mắt, mồ hôi và cả xương máu của cha ông. Và như thế , Đức tin ấy là một gia sản vô giá mà con cháu phải trân trọng giữ gìn và mạnh mẽ phát huy. Mà một trong những phương thế để phát huy là truyền giáo, vì truyền giáo là đòi hỏi nội tại của niềm tin, và niềm tin không nguôi cạn nhưng lại vươn cao sức sống khi được chia sẻ cho người khác.
Vì thế mừng kính các Thánh tử đạo Việt Nam không còn là một hoài niệm, cho dầu là hoài niệm đáng trân trọng, nhưng phải là sức đẩy cho những bước chân đi làm chứng ta của Tin Mừng . Nếu trong bối cảnh của xã hội ngày xưa, cha ông chúng ta đã làm chứng tá bằng cái chết vì niềm tin, thì hôm nay, chứng tá cần thiết chính là đời sống của mỗi người, của mỗi gia đình Kitô hữu và của cả cộng đồng Giáo hội.
Làm chứng bằng một đời sống trong bối cảnh một xã hội như xa lạ và đối nghịch với các giá trị Tin Mừng, thì tự lời chúng đó đã là một cách chết và hiệp thông với Đức Kitô. Bởi vì phải bỏ mình rất nhiều mới có thể sống tình thương trong một thời đại đầy ích kỷ và thù hận. Phải bỏ mình mới dám sống lời mời gọi trung tín vợ chồng giữa một xã hội đang có quá nhiều gia đình ly tán. Phải bỏ mình mới có thể sống tinh thần nghèo khó trong một nền xã hội tiêu thụ mà tiền bạc thống trị tất cả.
Chúng ta không coi thường các giá trị của xã hội, nhưng có một thang giá trị riêng. Chúng ta biết rõ đâu là những giá trị phải tôn trọng. Nếu bỏ qua những giá trị đó, chúng ta sẽ đánh mất chính mình, và sẽ không còn là chứng tá của Tin Mừng.
Biến cố tuyên phong các thánh Việt đã bằng ấy năm trôi qua, không biết đã tạo được hãnh diện: 24/11-3
Biến cố tuyên phong các thánh Việt đã bằng ấy năm trôi qua, không biết đã tạo được hãnh diện bao nhiêu hay vẫn là một trăn trở, một thách đố? Bàn lui hay bàn tới thì vẫn thấy các Thánh Ta chưa sáng giá bao nhiêu, ít ra là con cháu vẫn coi chưa bằng các Thánh Tây. Những bừng bừng khí phách của ngày lễ phong thánh 19 tháng 6 năm 1988 tại Roma, những buổi kỷ niệm 5 năm hay 10 năm phong thánh rầm tộ đông đảo với đầy đủ thủ tục và lễ nghi, rồi cũng đâu vào đó. Xem chừng các Thánh Ta chẳng ăn nhập gì với cuộc sống quá ư phức tạp với vận tốc mỗi ngày mỗi nhanh thêm và những giấy đòi tiền càng ngày càng chồng chất!
DỊP GỠ MẶT CHO BỚT TỦI?
Đôi lúc tôi đâm ra nghĩ quẩn: Phong thánh để làm gì? Phong thánh là dịp cho người mình hãnh diện thì hãnh diện ở cái khổ nào? Chả lẽ cũng chỉ là một dịp gỡ mặt cho bớt tủi với thế giới?! Người ta có thánh thì nước mình nay cũng phải có thánh, mà được phong một lúc đông đảo nhất nữa. Không oai sao được. Chứ còn bảo oai thực sự ở chỗ nào thì mình còn bí lắm chưa trả lời dễ dàng được. Vì xem kìa, thế giới tiến bộ quá xa, đồ Tây đồ Mỹ là nhất, tìm mua cho bằng được. Chứ còn đồ nội hóa, thuốc "dân tộc", thì chỉ tổ làm cho thiên hạ lắc đầu. Chẳng nói ra mà có thể con cháu cũng coi các Thánh Ta như vậy chăng, cũng "đồ nội hóa" ấy mà, nên hững hờ cũng chẳng lạ gì. Có sùng kính khấn xin thì cũng chạy tới các Thánh Tây có gốc lớn như Thánh Vinh Sơn, Thánh An Tôn, Thánh Mạc Tín, Thánh Têrêsa Hài Đồng... cho chắc ăn.
Còn muốn đề cao thì cũng có thể lại đi đề cao một cách thật mặc cảm. Luận điệu luôn luôn là cái gì mình cũng ngon, chê Âu Mỹ là dở, đang xuống dốc trông thấy, sắp sập đến nơi. Vua Minh Mạng xưa ra sắc dụ cấm đạo mà dám bảo Tây phương là quân mọi rợ đến làm hủy hoại phong hóa nước ta, đang khi ông lại dập dụi cả đoàn thê thiếp và đi cóp nhặt từng tí những hủ lậu thống trị nước Tàu của Mãn Châu cũng đang trên đà xuống dốc.
Nhiều khi đề cao cũng chỉ là những màn lợi dụng tự ái dân tộc để đẩy con nhà người ta vào chỗ chết cho những tham vọng. Ông Đỗ Mạnh Tri đã từng nhận xét mỉa mai trong cuốn Ngón Tay và Mặt Trăng (Đường Sống, trang 163-164):
"Tôi có cảm tưởng người mình khi bàn về Tây phương chưa có tâm trạng bình thường. Quá nhiều mặc cảm như lúc nào cũng lo đánh ... Tàu.
Triết Việt: tại sao mình không có triết gia lớn! Văn Việt: Tại sao mình không có tác phẩm lớn! Rồi bày ra triết Việt. Rồi những cuốn tiểu thuyết dày cộm.
Rồi gân cổ hát như đồng chí của quân Ricardoi Nga Xô. Rồi bảo dân mình không xây kim tự tháp nhưng xây ... đê. Rồi thổi phồng: Cộng sản thì xưng mình là dân tộc tiên tiến của lịch sử; Công giáo thì mình là con đầu lòng của Hội Thánh ở Á đông, mình có nhiều thánh nhất...
Rằng con em mình tại trường... Rằng cộng đồng Việt Nam hải ngoại... Bao giờ mình mới hết "hơn người"? Bao giờ mình mới hết đặt những câu hỏi kỳ khôi?".
Ông Đỗ Mạnh Tri không có ý bài bác việc xây triết Việt, văn Việt, tu đức Việt, nhưng chỉ nhấn mạnh về mặc cảm thường làm hỏng chuyện, mà chưa đi vào thực chất. Người Nhật đâu có chê Âu Mỹ, đâu dám tuyên bố mình là đỉnh cao trí tuệ loài người, và không dại gì đi bế quan tỏa cảng. Từ thời vua Minh Trị, họ cứ mặc đồ Tây, sài máy Mỹ, rồi đóng góp cái bản lãnh của họ mà cải tiến, rồi biến chế thành của riêng họ, vừa tốt vừa bền, như xe Toyota, máy Sony. Họ có thực chất để mà hãnh diện, mà góp phần với thế giới, chả cần phải tự khoe mẽ mà mọi nước phải phục.
Như vậy, vượt qua được mặc cảm đông với tây hay mặc cảm tự ti với tự tôn, để nhìn rõ được ý nghĩa của biến cố phong thánh, thì mới nhận ra được món quà đích thực mà mình đã được trao. Trong một kinh đọc kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam có câu "Các Thánh Tử Đạo là ân huệ Chúa ban cho Hội Thánh Việt Nam, vì thế chúng con dâng lời cảm tạ và ca tụng Chúa". Ở Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Denver tháng 8 năm 1993, trong một cuộc gặp gỡ riêng cộng đồng Việt Nam, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi người Việt hãy biết hãnh diện về quê hương có 117 vị tử đạo, hãy giữ lấy truyền thống và bản lãnh Công Giáo của mình!
Ân huệ gì? Hãnh diện nào? Dịp kỷ niệm 10 năm phong thánh đúng là lúc dừng chân để nhận định và triển khai, mong đóng góp được gì cho chính mình, cho người mình với đà tiến hóa của nhân loại trong lúc cựa mình bước vào thiên niên thứ ba.
THỜI ĐIỂM TÀU TITANIC
Vào thời điểm kỷ niệm 10 năm phong thánh, phim Titanic đang thu hút rất đông người và thành công vượt kỷ lục ngành phim từ xưa tới nay. Đêm 14 tháng 4 năm 1998 đúng 86 năm sau cái đêm hãi hùng của tàu Tatanic bị đắm, tôi đi xem phim này lần thứ hai. Hôm phim mới ra thì tôi đi xem lần đầu cho biết như mọi người vì đề tài rất ư hấp dẫn. Nhưng lần thứ hai thì tôi đi xem với một tâm tình khác: chính mình là một nhân vật đang có mặt trên con tàu lịch sử vượt lục địa cũ Âu Châu sang tân thế giới, vượt những ngày cuối cùng của thế kỷ này để vượt sang ngàn ngàn năm mới. John P. Eaton trong cuốn Titanic, Cuộc Hành Trình Qua Thời Gian (Titanic A Journey Through Time) đã bày tỏ: "Chúng ta có thể thấy phần nào chính chúng ta trong đám người đi chuyến tàu Titanic đó. Chúng ta có thể ở tầng trên, ở hầm máy... Thử nghĩ coi chúng ta đã hành Ricardong ra sao?"
Phim diễn lại cuộc đắm tàu Titanic năm 1912 với truyện tình mùi mẫm giữa nàng Rose 17 tuổi vừa đẹp vừa sang và chàng nghệ sĩ Jack Dawson hào hoa mà nhà nghèo. Con tàu này được dựng rất tốn công tốn của, lớn nhất thế giới vào thời điểm đó, dài bằng ba sân banh, cao 12 tầng, và chứa trên 2200 hành khách. Ngày 10 tháng 4 năm 1912, tàu Titanic khởi hành chuyến đầu tiên từ bến Southampton của vương quốc Anh đang dẫn đầu thế giới về hàng hải thời đó. Và để tỏ nét hãnh diện hơn, tàu ghé nước Pháp chơi ở cảng Cherbourg và nước Ái Nhĩ Lan ở cảng Queenstown, rồi lên đường vượt Đại Tây Dương để đi Nữu Ước. Chuyến đầu tiên mà cũng là chuyến cuối cùng. Đúng là con tầu định mệnh!
Câu chuyện được chính bà Rose là nhân chứng còn sống sót kể lại khi bà đã 101 tuổi vào năm 1996. Đêm 14 tháng 4 năm ấy là một đêm không trăng sao, biển cũng thật lặng. Bên ngoài trời lạnh tới Ricardo đông nước, nhưng bên trong tàu Titanic là cả một thiên đường vui chơi đầm ấm, nhất là ở khu vực hạng nhất. Mọi người hân hoan và hãnh diện được có mặt trên chuyến tàu lịch sử đầy kiêu hãnh của loài người này, vì tàu được đóng với một kỹ thuật cao Ricardo khiến không thể nào chìm được.
Vào khoảng 9g30 tối, mọi sinh hoạt trên tàu vẫn bình thường, mặc dù hai nhân viên nhận tin là Jack Phillips và Harold Bride cho biết có nhiều băng sơn nhỏ trôi lềnh bềnh. Một số tàu khác cũng cho biết như vậy, nhưng điều đó ăn thua gì với con tàu vĩ đại này. Tàu Mesaba báo tin khẩn cấp rằng có băng sơn lớn ngay trên hướng tàu Titanic. Vào lúc 11g30 gần nửa đêm thì Frederick Fleet trên đài kiểm báo bỗng trông thấy một khối băng sơn sừng sững ngay trước mặt, liền hốt hoảng báo tin cho thuyền trưởng Smith. Nhưng mọi sự đã quá muộn. Mọi nỗ lực bẻ tay lái đã không hiệu quả gì nữa. Mười phút sau, khối băng sơn đã đụng mạnh vào thành tàu, rạch ra một khe dài cả 60 thước. Thế là nước bắt đầu ùa vào.
Điều bất hạnh nhất lại cũng nằm ở niềm kiêu hãnh quá lố. Vì nghĩ rằng tàu không thể nào chìm được nên trên tàu chỉ có 20 chiếc thuyền phao, không cách nào cứu nổi trên 2 ngàn người. Thế là thuyền trưởng ra lệnh chỉ có đàn bà và trẻ em được xuống thuyền mà thôi. Con số này vào khoảng 700 người.
Con tàu bắt đầu chìm dần. Cảnh hốt hoảng la hét hỗn loạn xảy ra thật rùng rợn. Nhưng một cảnh cảm Ricardong là dàn nhạc vẫn tiếp tục chơi để tạo tsự bình tĩnh cho những người còn lại. Đám người này mang tinh thần trách nhiệm và tự trọng, không hốt hoảng tìm cách chạy thoát một cách hèn nhát theo bản năng sinh tồn như nhiều người khác thấy trong phim. Theo những nhân chứng kể lại, Bà Straus nhất định không chịu xuống thuyền phao. Bà nói: "Tôi không thể nào xa cách chồng tôi. Chúng tôi đã sống với nhau, thì chúng tôi cũng sẽ cùng chết với nhau".
Các ống khói tàu đã bắt đầu sập xuống. Sau hai tiếng đồng hồ uống sặc nước biển, con tàu bị bể bụng gẫy ra làm hai dựng đứng lên rồi lao xuống vực thẳm thành ngôi mộ khổng lồ chôn sống 1523 người.
DẤU CHUYỂN MÌNH
Bây giờ thì người ta bắt đầu hiểu tại sao phim ăn khách như vậy. Ngoài những lý do thắng 11 giải Oscar về tài đạo diễn, về hình ảnh, kỹ thuật và nhạc đệm ..., phim Tatanic đúng là một biểu tượng, một điển hình cho con tàu của cả một nền văn minh mà nhân loại đang mua vé để bước lên vượt sang năm 2000, không còn là chuyện của Đông hay Tây nữa.
Cuộc đắm tàu Titanic được diễn lại vào đúng lúc cuộc đắm tàu của các con rồng nhỏ Á Châu đến hồi khốc liệt. Mà cũng có thể là một diễn tả của cuộc đắm tàu của con người vào cuối thế kỷ 20 với những tự mãn đang phải trả giá thật khắt khe đến thật bất ngờ khi cứ chắc rằng không thể đắm được. Trên mạng lưới điện toán về Titanic, một lời bình phẩm thật sâu sắc: "Đêm 14 tháng 4 năm 1912, vào lúc 11g40, chiếc tàu lớn nhất thế giới do tay loài người làm ra đã xô vào băng sơn ngay giữa Đại Tây Dương. Hai giờ bốn mươi phút sau, tàu chìm hoàn toàn. Thế giới Tây Phương cũng từ chuyện đó mà thay đổi mãi mãi. Đầu óc con người thay đổi. Lòng tự mãn tàn lụi. Cơ cấu và đẳng cấp xã hội thay đổi. Kỹ thuật trở thành mối hoài nghi. Con tàu Titanic đã bắt đầu cả chuỗi những biến cố mà kết luận chưa thể thấy được".
Tàu Titanic nói lên nhiều điều cho nếp sống văn minh hiện tại, cho thấy nhiều giá trị đảo ngược với những gì đang được cân đo bằng máy móc. Hình ảnh tương phản của lối sống thoải mái của anh chàng "tuy nghèo mà vui" Jack Dawson với cái cảnh gò bó lễ nghi kiểu cách thật tội nghiệp của đám nhà giầu trong khu vực hạng nhất. Cái chết bất ngờ và khủng khiếp của đa số khách trên tàu làm ta nghĩ sâu xa hơn về lẽ phù du của văn minh tiến bộ của đời người và biết coi trọng những giá trị tinh thần lâu nay bị quên lãng. Cũng như một con tàu vừa trẻ vừa đẹp khác là công nương Diana cũng bị đắm ở đường hầm Paris. Thì ra đây cũng là một dấu chỉ cho thấy những chuyển biến về hiện tượng tâm lý xã hội, khi con người bon chen vật chất biết nhìn ra giá trị tình yêu của cô Rose dám liều vượt qua những tù túng của nếp sống gò bó nhốt giam để tập bay ở đầu mũi tàu với Dawson đi tìm chân trời hạnh phúc. Cũng như người ta bắt đầu biết trân quí bàn tay xương xẩu nhăn nheo nhưng đầy ắp tình thương vỗ về với ánh mắt dịu hiền của Mẹ Teresa bên Calcutta.
THỜI ĐIỂM TÀU 117
Một công ty Mỹ và Thụy sĩ đang đóng lại con tàu Titanic và sẽ hạ thủy năm 2002. Âu đây cũng là dấu chỉ nữa, khi con người cần tìm một cách khác an toàn hơn để đi vào ngàn năm mới, tìm ra được một lối thoát trong cơn bị nhận chìm giữa những nhầy nhụa ngột ngạt bế tắc của nền văn minh vật chất hiện tại.
Nhìn như vậy thì biến cố phong thánh quả là một đáp ứng thời điểm. Phong hiển thánh không phải chỉ cho riêng Việt Nam, mà là cho toàn thể Hội Thánh hoàn vũ không phân biệt đông tây. Đúng lúc cần phải giới thiệu cho thế giới một con tàu mới, an toàn đảm bảo chắc chắn. Vì phong thánh không phải để an ủi một lớp dân đã quá nhiều khổ đau bầm dập hay để lấy oai cho đỡ tủi, mà là công nhận và giới thiệu một mẫu sống, một phương cách mang lại an vui hạnh phúc thật. Đường lối như vậy vẫn thường được gọi là đường tu đức. Mỗi thời đại đều xuất hiện những vị thánh với những đường tu đức khác nhau hợp cảm quan hơn. Một cách cụ thể, đường tu đức là con tàu vượt biển cuộc đời, như tàu vượt biên 303, 304. Con tàu mới này nay mang số 117, đại biểu cho cả mấy trăm ngàn tín hữu Việt đã kiên trung đến cùng.
Tàu 117 đã có thành tích đạt đích rõ ràng: không một sức mạnh nào nhận chìm nổi, không một khó khăn nào phá vỡ được. Mà đi tàu này lại không phải tốn phí phức tạp và cao xa như Titanic. Đang khi mọi người phải hăm hở đi tìm hạnh phúc mãi đâu, thì Tàu 117 lại ở ngay trong tầm tay mua vé của mỗi người, qua những tầm thường hằng ngày, qua mọi hoàn cảnh buồn vui đắng ngọt. Tàu 117 lại mang nét Việt, hợp cảm quan người Việt, gần gũi thân quen có sẵn trong mạch máu Việt. Đường tu đức như vậy lại chẳng phải là một khám phá tuyệt diệu vào thời điểm này sao? Tàu 117 lại phản ánh nét văn hóa Việt qua truyện thiêng bánh dày bánh chưng. Đang khi các hoàng tử khác lo đi xa tìm kiếm những thứ hiếm lạ mong sẽ làm vừa lòng vua cha mà được truyền ngôi làm vua sống sang giầu, Hoàng Tử Tiết Liệu chỉ biết tìm vào bên trong, tìm vào nội tâm, và được ơn trên soi sáng cho biết bí quyết đạt hạnh phúc nằm ngay trong nhà, ở ngay sau vườn. Vuông phải đi với tròn thì mới vuông tròn viên mãn. Văn minh vật chất mà không bác sang bờ tâm linh được thì tự hủy hoại mà thôi. Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã giới thiệu những con tàu hợp thời kiểu 117 như trong tông thư "Đệ Tam Thiên Nhiên Sắp Đến":
"Trong viễn tượng hướng về đệ tam thiên niên, tòa thánh sẽ ghi vào trang sử tử đạo của hội thánh hoàn vũ, lưu ý nhiều đến sự thánh thiện của những người, ngay ở thời đại chúng ta, đã hoàn thành đời mình trong chân lý của chúa Kitô. Một cách hết sức đặc biệt, cần ghi nhận sự anh dũng của các nhân đức nơi những người nam, nữ, đã thực hiện ơn gọi làm người Kitô trong cuộc sống hôn nhân: trong xác tín rằng nhiều hoa trái thánh thiện nảy sinh trong bậc sống này, chúng tôi thấy cần phải tìm ra những phương cách thích hợp nhất để đề cao và nêu lên cho toàn thể Hội Thánh làm mẫu mực và khích lệ những người chồng người vợ Kitô giáo" (trang 40-42).
MỘT KHÁM PHÁ MỚI
Tàu Titanic đã bị xô bể bất ngờ, đang chìm dần, mọi người náo loạn, mà số thuyền phao lại quá ít. Biết tìm giải pháp nào bây giờ?
Thì đây Hội Thánh giới thiệu tàu 117 đủ cho mỗi người, có sẳn ngay bên rồi. Hội Thánh muốn nhắn gửi thế giới một thông điệp là chính con đường đơn sơ của Phúc Âm với lời mở đầu theo Thánh Mác-cô là: "Nước Trời đã gần bên, hãy thống hối và tin vào Phúc Âm". Chúa đang hiện ra với mình mỗi phút giây. Tin hay không tin, thế thôi. Tin là thấy phép lạ. Đây là cốt lõi tóm lược tất cả đường tu đức Việt: Nước Trời, tức là vườn Địa Đàng, vườn Hạnh Phúc đang ở ngay bên rồi; Chúa đang ở sẵn đây, lúc này, còn phải tìm đâu xa, còn phải thiếu thốn chi; thấy được Chúa trong mọi sự, qua cả những lúc đen tối như đi trong lũng tối. Nghĩa là cũng chẳng phải tìm con đường nào cả, vì chẳng phải đi đâu mà tìm. Chỉ cần mở mắt là thấy. Chính vì thế mà ngay trong cả những gian nan như khi bị nhốt trong tù, thánh thi sĩ Dũng Lạc vẫn diễn được niềm tin tưởng an nhiên như trong bài thơ gửi cho một người bạn:
Lòng nhớ bạn nỗi còn vất vả,
Dạ thương khách chạy chưa yên hàn.
Đông qua tiết lại thời xuân tới,
Khổ tạm mai sau hưởng phúc an.
Đúng là con đường đơn sơ nhất, ngắn nhất, dễ nhất, gần gũi nhất, mà sau đó mấy chục năm, thánh Têrêsa ở Lisieux cũng khám phá ra, thật giống điệu bước của thánh Ven. Chính khám phá này mà ngài được tôn phong làm tiến sĩ hội thánh vào tháng 10 năm 1997.
Cũng như các Thánh Việt, cuộc sống thánh nữ Têrêsa bình lặng quá tưởng chừng chẳng có gì để nói. Khi qua đời vào năm 1897 lúc mới 24 tuổi, thánh nữ cũng chỉ để lại một số trang bút ghi những cảm nghiệm nhỏ qua những chuyện thường ngày như giặt quần áo, quét nhà, vào nhà nguyện, nhìn ngắm bầu trời ban đêm đầy sao gọi là "Truyện Mùa Xuân Bông Hoa Nhỏ" xem ra chẳng có gì đặc sắc. Một hôm nằm bệnh sắp chết, thánh nữ nghe một chị xì xào: "Têrêsa Hài Đồng sắp chết rồi. Chị ấy qua đi không biết mẹ bề trên phải nói chuyện về chị làm sao. Chắc mẹ sẽ lúng túng lắm, vì chị ấy đáng yêu thì đáng yêu thật, nhưng chị chẳng làm nên truyện gì đáng nói".
Vậy mà người nữ tu trẻ Têrêsa đã khai mở được con mắt "tiến sĩ" thứ thiệt để thấy được Chúa Tình Yêu đang hiện diện, đang đong đầy muôn kỳ diệu qua chính những tầm thường nhỏ bé, qua cả những nghịch cảnh tím đen. Vì có gì phải tìm đâu.
Đây chẳng phải là con đường giản đơn nhất và ngắn nhất để đạt tình yêu hạnh phúc sao? Nhãn quan của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng đã làm Mẹ Têrêsa Calcutta xác tín, vì thế Mẹ đã nhận thánh nữ làm "sư mẫu" khi khấn dòng, và từ đó mang tên là Têrêsa. Và cuộc đời của Mẹ Têrêsa cũng đã thực sự thể hiện nhãn quan tình yêu và tín thác trên như lời Mẹ nói: "Thánh nữ Bông Hoa Nhỏ là một mẫu gương lạ lùng nhất, làm những việc nhỏ với một tình yêu lớn, làm những việc bình thường với một tình yêu phi thường. Đó là lý do Ngài đã trở thành vị thánh lớn".
CHÀNG DŨNG SĨ VÀ CON NGỰA HỒNG
Đa số các thánh Việt đều là những giáo dân sống trong bậc gia đình. Đức tin đã chỉ cho các ngài nhận ra Chúa ở ngay trong gia đình, trong bếp, trong ruộng vườn, trong xứ đạo. Vì nơi nào có Chúa thì ở đó là Thiên Đàng, mà Chúa là Đấng hằng hữu, ở khắp mọi nơi. Như cái thấy của thánh Têrêsa Mẹ:
"Chúa đang đi giữa những xoong chảo".
Đường tu đức như vậy rất hợp cảm quan thời đại, khi Hội Thánh đề cao một con đường tu đức cho giáo dân, cho đại chúng, hợp với cuộc sống bình thường của mỗi người, chứ không quá cao vời lo với không tới. Điều then chốt vẫn là con mắt đức tin, thấy được Chúa đang hiện diện yêu thương săn sóc, mọi nơi mọi lúc. Cũng là những thực hành rất đơn giản, như đọc kinh, dự lễ, chu toàn bổn phận trong gia đình, dấn thân xứ đạo... Cũng là những việc xem ra tầm thường, nhưng làm với ý thức con tim, thì thấy được đời sống là một phép lạ.
Ông bà nguyên tổ đang ở ngay trong vườn địa đàng hạnh phúc mà lại ước ao phải hơn thế nữa, muốn đi tìm chỗ khác nên ăn thêm một vài "trái cấm" may ra khấm khá hơn chăng. Vì thế mà hạnh phúc đã buột ra khỏi tầm tay. Những gì đang được trao ban là hạnh phúc địa đàng, sao mình không biết hưởng nhận mà còn ham muốn đi tìm gì nữa đây?!
Riết rồi mình cũng giống như chàng dũng sĩ và con ngựa hồng. Chàng cỡi ngựa rong ruổi suốt cuộc đời đi tìm hạnh phúc, đi hết chỗ này tới chỗ kia cho đến xế chiều cuộc đời, áo đã sờn vai, phải dừng chân bên bờ suối vì mỏi mệt không qua nổi nữa. Bỗng chàng thấy con ngựa hồng hóa thân thành người yêu xinh đẹp tuyệt vời biến mất. Thì ra suốt quãng đường đời, chàng vẫn ngồi trên hạnh phúc mà không nhận ra.
Con ngựa hồng hay con tàu là chính căn phòng hay ngôi nhà đang ở, cái ghế đang ngồi, cái bút đang viết, đôi giầy đang đi, con mắt đang đọc, đang nhìn được mầu sắc, tai đang nghe tiếng chim hồng y hót líu lo, mũi đang hít thở, tim đang đập, tay đang cử Ricardong, bao nhiêu cơ năng trên óc đang làm việc hơn máy điện toán xa, nháy mắt là hình ảnh cách đây cả mấy chục năm hiện lên ngay... Tất cả là phép lạ đời sống.
Cũng với cái nhìn và cái thấy này mà những bức tranh của họa sĩ Vincent Van Gogh được bán với giá khủng khiếp vào đúng thời điểm phong Các Thánh Việt năm 1988. Bức tranh hoa hướng dương được bán 42 triệu tiền Mỹ, bức hoa cầu vồng (irises) giá 49 triệu. Người mua tranh không điên đâu. Họ đã nhận ra tin vui mà Van Gogh muốn chuyển đạt cho thời đại: Bông hoa bạn mua với giá 49 triệu thì cũng đang nằm ở ngay trong vườn sau nhà; kho trời lồng lộng đang tuôn đổ, chỉ cần mở tâm ra mà lãnh nhận, cuộc sống trở nên giàu có biết chừng nào, có cần gì phải chạy theo hăm hở một cách mệt nhọc và phờ phạc như con người ngày nay!
CÔNG CHÚA BOKASSA
Căn bản của đường tu đức Việt là con mắt thấy này, vẫn gọi là con mắt của niềm tin. Phút giây bỗng ra nhận ra là mình là ai và Chúa là ai là cả một phép lạ. Trong cuốn Đường Nở Hoa Lê Thị Thành tôi có kể lại câu truyện công chúa Bokassa. Truyện thật xẩy ra ở Sài Gòn trước đây khá lâu. Một cô bé lai đen nghèo khổ bán bắp luộc ở vệ đường kiếm sống qua ngày, bỗng được một số người đến đón về tòa đại sứ một nước Phi Châu, được thay quần áo mới và trang điểm sang trọng quá sức tưởng tượng.
Thì ra trước đây Bokassa là một trung sĩ đi lính Lê dương cho Pháp sang Việt Nam, đã để lại một đứa con rơi, sống chết thế nào chẳng biết. Bây giờ ông đã lên làm vua, đầy quyền uy và vàng bạc, muốn tìm lại đứa con đó. Thế là ông cho người đi tìm nhiều ngày, qua nhiều điều tra. Và cuối cùng ông đã tìm thấy đứa con gái của ông và xin rước về cung vua...
Bỗng một ngày, cô bé lọ lem trở thành công chúa giầu sang. Câu chuyện này cũng chính là câu chuyện của những người khám phá niềm tin trong Đạo Chúa: mọi người Kitô bỗng trở thành con của vua Trời Đất, thừa kế "ngai vàng" hoàng vương sang trọng và quyền năng. Lạ lùng quá phải không?
Đó cũng chính là câu chuyện của "chú bé lọ lem" Dũng Lạc. Khi sang Paris tìm tài liệu về Các Thánh Việt, tôi có chụp được hình đôi hài của Thánh Dũng Lạc, thật đẹp và thật sang, trong phòng trưng bày các di tích Tử Đạo của Hội Thừa Sai Paris. Đó chính là đôi hài ngài vẫn đi khi làm lễ. Đi hài để làm lễ là nói lên phong thái sang trọng hoàng vương. Cử hành thánh lễ và rước lễ đúng là mang được "đôi hia bẩy dặm" có mãnh lực vượt qua mọi khó khăn ngăn cách. Có ngờ đâu, ngài xuất thân là con một gia đình lương dân quá nghèo, phải mang cho một thầy giảng nuôi hộ, được dạy giáo lý, và năm 12 tuổi mới được rửa tội nhập đạo Công Giáo.
TÌM MUA NGỌC TRAI
Con mắt khám phá ra kho tàng giàu sang của cuộc đời chính là con mắt đức tin mà ngay buổi đầu tiên đặt chân đến Cửa Bạng, Bắc Việt, vào ngày 19 tháng 3 năm 1627, Cha Đắc Lộ đã chỉ lối. Ngài gợi đúng tâm lý của người dân Cửa Bạng là nơi nhiều người sinh sống bằng nghề biển và tìm ngọc trai.
"Chúng tôi vừa cập bến thì một số đông dân xứ này thấy chúng tôi đến gần liền lấy thuyền của làng lân cận đến mừng chúng tôi, chất vấn chúng tôi xem chúng tôi là những người nào, từ đâu mà tới và đem theo những hàng hóa mới lạ nào. Tôi đáp nhân dịp này chúng tôi đến bán cho người Đất Bắc một hạt trai quí mà không đắt, để cho người nghèo khó nhất cũng có thể mua được miễn là có ý ngay lành. Thấy dân chúng tỏ ra muốn xem, thì tôi cho họ hiểu là hạt trai này không thể coi bằng con mắt thân thể nhưng bằng con mắt tinh thần biết phân biệt thật giả. Nói tóm lại chúng tôi đến giảng dạy đạo thật có giá hơn hết các hàng hóa của người Ấn Ricardo, và một mình nó có thể mở đường tới cõi phúc đích thực trường cửu"
"Khi nghe nói về điều mà họ thường gọi là Đạo theo ngôn ngữ các nho sĩ, và Đàng theo ngôn ngữ bình dân có nghĩa là đường lối, thì họ tò mò muốn tôi cho biết đạo thật và đàng thật mà chúng tôi định rao giảng. Sau đó tôi lấy đề tài thảo luận với họ về nguyên lý vạn vật, tôi quyết định công bố dưới danh hiệu Chúa Trời Đất, vì không tìm được trong ngôn ngữ họ một tên riêng để chỉ Thượng Đế" (Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài, Hồng Nhuệ dịch, trang 82-83)
Một trong những lý do khiến giáo dân hờ hững với mẫu sống tử đạo của các thánh Việt, có thể vì nghĩ rằng việc bị chém đầu chết vì đạo là một hành Ricardong xa vời ít ai có dịp chạm tới. Nhưng thực ra nguyên nghĩa chữ "tử đạo" là làm chứng. Khám phá ra và làm chứng với một lối sống an nhiên dũng lạc trong cả cuộc sống thường ngày chính là cốt tủy của "tử đạo", chứ không chỉ nhằm vào hành Ricardong bị chém đầu tử đạo, mặc dù hành Ricardong này là kết tinh của cả một đời làm chứng. Tin Mừng của Chúa là tin có sức làm cho đời mình mừng thật, giầu có thật, là con tàu vượt biển an toàn đảm bảo thật.
LÀM MỘT CÁI GÌ ĐI CHỨ!
Triết gia Kim Định khi còn sống thường hay nhắn gửi một câu với những ai gặp gỡ: "Làm một cái gì cho dân mình ngóc đầu lên đi chứ!"
Quà đã trao, tàu đã sắm, kho vàng đã chỉ cho. Đã 10 năm rồi mà mình chưa thấy Ricardong tĩnh chuyển mình bao nhiêu thì cũng lạ thật! Cứ tưởng tượng cục kim cương hình trái tim quí báu vô ngần do anh bồ nhà giầu tặng cho cô Rose trong phim Titanic mà lại đưa cho một đứa trẻ thì chắc nó sẽ không thích bằng một cục kẹo. Đúng là vô tri bất mộ, vì nó không biết nên không ham thích.
Vậy dịp kỷ niệm 10 năm phong thánh, thiết nghĩ là cơ hội quí nhất để mình tự kiểm điểm và hoạch định về phần góp của mình, dù nhỏ bé, để nhận ra kho vàng đã được trao ban và khai triển xử dụng, hình thành một đường tu đức đạt an vui hạnh phúc trong mô hình tạm gọi là Tri-Mộ-Hành. Ít nhất mình có thể để tâm vào một trong ba lãnh vực sau đây:
1. TRI
Có biết mới mộ mến ham thích. Tìm hiểu biết bằng việc học hỏi, gom tài liệu về các Thánh Việt, mua sách báo liên hệ, ủng hộ tài chánh cho những hoạt Ricardong này.
Hiện đã có một số sách viết về các thánh Việt: Bộ Dòng Máu Anh Hùng của LM Vũ Thành, Thiên Hùng Sử Ca do CĐCG San Jose xuất bản, Giáo Hội Việt Nam (tiểu sử Các Thánh Tử Đạo) của Đ.Ô. Trần Ngọc Thụ, Tìm Hiểu 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam của Nguyễn Ngọc Lan, Máu Tử Đạo Trên Đất Việt Nam của Trịnh Việt Yên, Những Ngày Đẫm Máu của Hồ Linh, Tài Liệu Học Hỏi của ủy ban trung ương, Giây Phút Thánh (của Jean-Pierre de Caussade rất gần với đường tu đức Việt, do một nhóm linh mục tu sĩ phóng dịch), Đường Nở Hoa Lê Thị Thành v.v Trên mạng lưới điện toán đã có gia trang Đường Tu Đức Việt. Và đã mở gia trang mới đặc biệt kính dâng Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, rất mong được nhiều người đóng góp.
2. MỘ
Có mộ mến ham thích thì mới tìm kiếm. Những người đã được đi tàu Titanic hay lái xe Lexus thì nét mặt thật rạng rỡ. Được đi Tàu 117 chắc mắt phải sáng lên hơn. Phát Ricardong lòng mộ mến sùng kính các Thánh Việt là một việc làm nói lên niềm hãnh diện đúng nghĩa. Để đi vào thực tế có thể thực hành được, hiện nay một số linh mục và tu sĩ đã soạn chung một tập tài liệu, gọi là Tuần Chín Ngày Khấn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, và đã bắt đầu phát Ricardong tại nhiều cộng đoàn.
Chín ngày được dựa theo chín bước nối tiếp nhau theo tiến trình đường tu đức truyền thống của Giáo Hội qua những phong trào sống đạo hiện nay. Mục đích để học hỏi và bước theo mẫu sống nhân chứng Tin Mừng của Các Tổ Tiên Đức Tin. Đồng thời cũng để tạo bầu khí sùng kính và cầu nguyện với các ngài qua phần Khấn. Giáo dân Việt đã quen với truyền thống các "tuần khấn" với Đức Mẹ, thánh Mạc Tín, Thánh Vinh Sơn, thánh Antôn...thì đây cũng là hình thức đơn giản rất gần gũi với cung cách sùng mộ của đại chúng, sẵn sàng để dùng chung cho cả cộng đoàn trước thánh lễ, trong các gia đình hay cá nhân.
3. HÀNH
Việc phát triển đường tu đức, lòng sùng kính và cầu khấn với các thánh thường được khơi Ricardong và thúc đẩy do những trào lưu và dòng tu. Chẳng hạn như ở những giáo phận do dòng Đa-Minh phụ trách trước đây, thì việc sùng kính thánh Vinh Sơn và thánh Mạc-Tín rất mạnh. Lý do dễ hiểu là vì hai vị đó đều thuộc dòng Đa-Minh. Còn ở những giáo phận do các cha hội thừa sai Paris phụ trách, thì lại nổi ở lòng sùng kính thánh Têrêsa Hài Đồng, vì là người Pháp. Ở Hoa Kỳ, thì cả ba vị trên không phải là không thiêng, nhưng thấy ít được đề cập cho bằng các thánh khác như thánh Phan-Sinh Khó Khăn, thánh Ta-đêô (St Jude), thánh Christopher...
Đường tu đức nào mà chẳng cần được khai triển. Các linh mục miền Đông Nam Hoa Kỳ đã thử tổ chức một buổi tĩnh tâm theo đường tu đức các Thánh Việt vào năm 1995. Thánh nào mà chả thiêng. Chả lẽ thánh Tây thiêng hơn thánh Ta? Phép lạ xẩy ra là do lòng tin kính và sùng mộ. Chúa đã nói : "Ai tin vào Thầy, thì chẳng những có thể làm phép lạ như Thầy, mà còn lớn lao hơn" (Gioan 14:12). Ít thấy nói tới các phép lạ do Các Thánh Ta, cũng chỉ vì chưa đề cao đúng mức và đẩy mạnh thành một phong trào tu đức với lòng sùng kính và cầu khấn đó thôi.
CÒI HỤ LÊN ĐƯỜNG
Đức Thánh Cha đã hụ còi cho tàu 117 nhổ neo, đã bảo người Việt phải hãnh diện vào con đường của mình. Niềm hãnh diện với thế giới nằm ở chỗ là cả một đạo sống Phúc Âm theo tinh thần Việt đã được công nhận và giới thiệu. Đây quả là một tin vui gửi thời đại mới.
Niềm hãnh diện này phải như một trào lưu bộc phát, gợi hứng cho những sáng tác thơ, văn, kịch, vũ, chụp hình, điêu khắc, hội họa và nghệ thuật Công Giáo, cho những sáng tác về thánh ca đầy thần khí có sức tác Ricardong tập thể dân Chúa cũng như chuyển đạt được sứ điệp Tin Vui đến với anh chị em ngoài Công Giáo. Hàn Mặc Tử đã đúng là một nhà thơ Công Giáo chuyển được sứ điệp Tin Vui bằng những dòng thơ tuyệt tác. Trong Thi Nhân Việt Nam, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã viết ngay sau mấy tháng khi nhà thơ qua đời, công nhận tài năng và vai trò chứng nhân đức tin Công Giáo của Hàn Mặc Tử đã nhập thể trong dòng sống chung của một dân tộc:
"Thơ Hàn Mặc Tử ra đời, điều ấy chứng tỏ rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể" (trang 212).
Linh mục nhạc sư Ngô Duy Linh mới qua đời đã là một gợi hứng cho đường hướng này. Từ biến cố phong thánh năm 1988, trong mắt của con chim Thăng Ca Ngô Duy Linh, một thị kiến đã bật sáng, phương cách và con đường cho người mình có thể mọc cánh vươn lên đây rồi: một đàn chim mà con chim đầu đàn là Dũng Lạc đang bay lên trong "Ngày Vinh Thắng". Ngài ao ước có nhiều nhạc sĩ cùng gom sức khơi lên nguồn cảm hứng này.
Đông qua tiết lại thời xuân tới
Khổ tạm mai sau hưởng phúc an.
Con đường Dũng Lạc tròn dâng An nhiên đạo sống chứng nhân anh hùng.
(bài Gương Bất Khuất)
Và từ ngày đó, các bài sáng tác của nhạc sư Ngô Duy Linh đều hướng về một chủ đề mà thôi, kể cả những bài đào tạo các nhóm Chim Non như Đàn Chim Dũng Lạc, Chim Thăng Ca... Khởi đầu là bài "Ngày Vinh Thắng" với những tiếng trống lệnh như tiếng trống đồng vang lên từ Ricardong Đông Sơn, bừng lên những bó đuốc từ Ricardong Mê Linh, Ricardong Hoa Lư, Ricardong Lam Sơn. Ai nghe bài này mà chả thấy máu mình sôi lên, mắt mình sáng rực nhìn thấy thị kiến một đàn chim Việt đang bay lên theo cánh chim Tiên suốt dọc dài lịch sử, vượt lên khỏi những bầm dập bi thảm của Việt tộc. Tiếp đến là các bài như Gương Bất Khuất, Tình Yêu Tuyệt Đối, Khúc Sáo Ân Tình, Âu Ca Dũng Lạc...
Niềm tin mọc cánh chim âu,
Lòng đầy thần lực tuôn trào suối thiêng.
Đường Dũng Lạc, lối bay lên
Hùng dũng an lạc như tiên như rồng.
Bước theo đạo sống vuông tròn
Mang gươm thập giá khơi dòng tình yêu
Con đường nghiền nát trầu cau
Nên màu đỏ thắm nên màu sắt son.
(bài Âu Ca Dũng Lạc)
Tàu 117 đã hụ còi nhổ neo để đi sang đất mới, đi vượt vào thời điểm 2000. Con tàu này an toàn và vui nhất vì có chính Chúa là thuyền trưởng dẫn dắt thì còn chi sợ hãi. Hãy giữ cho mình một chỗ trên tàu, và quảng bá thúc đẩy những người quen biết ghi danh nhanh lên. Trong các vị thế khác nhau, mình phải làm một cái gì cho dân mình bước lên đi chứ!
Trong suốt ba trăm năm bị bắt Đạo, trải qua sáu triều Vua : Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh: 24/11-4
Trong suốt ba trăm năm bị bắt Đạo, trải qua sáu triều Vua : Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn một trăm ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sỗ sách, trong số nầy, có năm mươi tám giám mục và linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bổ Đào Nha, Hà Lan, Italia, mười lăm linh mục Việt Nam, ba trăm bốn mươi Thầy Giảng, hai trăm bảy mươi Nữ Tu Mến thánh Giá, chín mươi chín ngàn một trăm tám mươi hai giáo dân.
Đó là chưa kể con số rất đông các tín hữu bị chết mất tích trong các cơn bắt Đạo vì lưu đày, vì phải trốn tránh trên rừng sâu, dưới biển cả.
Đó là chưa kể rất nhiều tín hữu phải chết do cuộc phân sáp bốn trăm ngàn người công giáo dưới triều Vua Tự Đức năm 1882.
Đó còn là chưa kể con số hơn mười mấy vạn người công giáo bị chết khi có Phong trào Văn Thân năm 1885.
Như thế, con số Cha Ông Tử Đạo chúng ta, trong ba trăm năm bị bắt Đạo, phải tính lên đến ba trăm ngàn người trong vòng ba trăm năm.
Nếu tính theo tỷ lệ, thì trong ba trăm năm bắt Đạo, cứ một trăm năm thì có một trăm ngàn Vị Tử Đạo.
Và theo tỷ lệ nầy, cứ một năm, có một ngàn Vị Tử Đạo; và đổ đổng, cứ một ngày, có hơn hai Vị Tử Đạo.
Cảm phục tấm lòng anh dũng phi thuờng của Cha Ông Tử Đạo Việt Nam chúng ta và Các Vị Tử Đạo ngoại quốc tại Việt Nam, các Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, Piô X, Piô XII đã nâng Một Trăm Mười Bảy Vị Tử Đạo tại Việt Nam lên hàngthánh, và Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã nâng Các Vị Tử Đạo nầy lên hàng Hiển Thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Với một đức tin mạnh mẽ, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã anh dũng trunh thành với Chúa cho đến cùng.
Để trung thành với Chúa, các ngài đã vứt bỏ nhà cửa ruộng đất, bổng bế con cháu chạy trốn lên chốn rừng sâu núi độc, sống cô quạnh hiểm nguy.
Để trung thành với Chúa, các ngài đã sống bập bềnh trên những con thuyền, lẩn lút dọc bờ sông ven biển, nhịn đói nhịn khát, bơ vơ không biết nương tựa vào đâu.
Để trung thành với Chúa, các ngài đã đành lòng chịu tịch thu gia sản, chịu cảnh phân sáp dã man, cha mẹ phải lìa xa con cái, vợ chổng không được sum họp với nhau, gia đình phải tan nát đau thương.
Để trung thành với Chúa, các ngài đã vui lòng chịu những hình khổ bạo tàn độc ác : bị cạo đầu, bị kẹp các ngón tay cho ra máu, bị chặt đứt các ngón tay rồi thả về tàn tật, bị vấn dẻ vào đầu các ngón tay để đốt cháy như lửa, bị đánh bách trượng một trăm roi, bị xẻo bá đao một trăm miếng thịt, bị cắt hai tai, bị chặt tay chặt chân, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị khắc chữ vào má, bị voi chà, bị treo ngược vào cột để xé xác ra làm sáu mãnh, bị gươm đâm thâu hông, bị thả vào vạc dầu sôi, bị mang gông phơi nắng nhiều ngày, bị giam chết đói chết khát, v.v...
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam thật là những vị anh hùng danh tiếng. Vì thế, trong sắc phongthánh cho Năm Mươi Bốn Đấng Tử Đạo tại Việt Nam, Điáo Giáo Hoàng Lêô XIII đã không tiếc lời ca ngợi Các Vị Anh Hùng Tử Đạo và so sánh Các Vị nầy với Các Thánh Tử Đạo tiên khởi của Giáo Hội dưới thời đế quốc Rôma ngày xưa : " Toán binh trung liệt và oai hùng của Chúa Kitô ấy, đã làm nên những điều oanh liệt không kém gì các chiến sĩ ngày xưa trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội."
Lời khen trên đây thật là độc đáo và đem lại vinh hạnh lớn lao cho Giáo Hội Việt Nam vì Đức Giáo Hoàng so sánh Giáo Hội Việt Nam với Giáo Hội Rôma ngày trước.
Chúng ta hãy thử so sánh :
Tại đế quốc Rôma, Giáo Hội đã phải chịu đựng nhiều cơn bắt Đạo lan tràn khắp nơi, kéo dài đến ba trăm năm. Tại Việt Nam, Giáo Hội cũng phải chịu cảnh bắt bớ từ Nam chí Bắc, ròng rã suốt ba trăm năm trường.
Tại đế quốc Rôma, các Thánh Tử Đạo bị xem như là những kẻ có tội nặng đối với xã hội và chịu mọi thứ hình khổ dã man. Tại Việt Nam, các Thánh Tử Đạo cũng bị cáo là những kẻ trọng tội và phải chịu đủ mọi hình khổ độc ác.
Nhưng có một điểm rất cảm động cho Giáo Hội Việt Nam là, trong khi tại đế quốc Rôma bao la rộng rãi, gồm nhiều nước, nhiều dân tộc, mà trong vòng ba trăm năm, con số Tử Đạo được ước độ ba trăm ngàn người, thì tại nước Việt Nam nhỏ hẹp hơn nhiều, ít dân số hơn nhiều, mà con số Tử Đạo cũng ước độ ba trăm ngàn người!
Bởi thế, khi nói đến Giáo Hội Việt Nam, phải nói đến Giáo Hội Tử Đạo. Và khi nói đến người công giáoViệt Nam, phải nói đến con cháu của Các Thánh Tử Đạo.
Thật đáng thán phục thay Giáo Hội Việt Nam anh hùng Tử Đạo. Vì thế, một sử gia ngoại quốc, khi nghiên cứu lịch sử Giáo Hội Việt Nam, đã không tiếc lời khen ngợi Giáo Hội Việt Nam : " Hởi Giáo Hội Việt Nam, một trong những Giáo Hội bị bắt bớ độc ác nhất trong các Giáo Hội trên khắp thế giới từ khi công cuộc Chúa Cứu Thế bị bắt bớ, một trong nhưng Giáo Hội kiên cố lạ lùng nhất,...xin chào Ngươi ! Và bởi vì hy sinh càng lớn lao thì vinh quang càng vĩ đại, Ngươi thật xứng đáng danh tiếng chói lọi, ngang hàng với danh tiếng của các Giáo Hội anh hùng nhất ở phương Tây."
Cũng như Giáo Hội Rôma ngày xưa, Giáo Hội Việt Nam, từ giây phút đầu tiên được nghe rao giảng Tin Mừng, đã phải đối phó với những cơn giông tố dữ dội cấm Đạo nổi lên ác liệt.
Trong thế kỷ thứ mười bảy ( 1625-1692 ), các cuộc bắt Đạọ xảy ra dưới thời các Vua Sải Vương, Thượng Vương, Hiền Vương và Ngải Vương.
Trong thời kỳ Vua Sải-Vương bắt Đạo, người công giáo bị cấm làm bàn thờ trong nhà, không được mang chuỗi tượng công khai, phải chịu những hình khổ của tù nhân, không được làm chức phận gì trong triều đình. Các nhà thờ thì bị triệt hạ, các linh mục ngoại quốc thì bị tập trung về Hội-An và bị trục xuất ra khỏi nước.
Trong thời kỳ Vua Thượng-Vương bắt Đạo, người công giáo bị bắt bỏ tù, rồi lập hồ sơ đưa ra tòa án : nếu là thầy giảng hay linh mục không chịu bỏ Đạo thì chém đầu ; nếu là giáo dân không chịu bỏ Đạo thì bị đánh bách trượng ( một trăm roi ), bị cạo trọc đầu, bị chặt các đầu mút ngón tay, bị thả về tàn phế như vậy, không được cấp dưỡng gì hết.
Trong thời kỳ Vua Hiền-Vương bắt Đạo, các nhà thờ và các nhà nguyện công, tư, bị triệt hạ; các tượng ảnh bị thiêu đốt ; các thầy giảng và các chức việc bị bỏ tù ; các linh mục ngoại quốc bị trục xuất ra khỏi nước. Nhiều hình khổ rùng rợn được áp dụng như : giam đói, giam khát, chặt đầu, phân thây, treo ngược vào cột để xé xác ra làm sáu phần, cho voi chà nát, đâm gươm vào hông, chặt đứt hai tay, hai chân, chỉ còn đầu và thân mình.
Trong thời kỳ Vua Ngải-Vương bắt Đạo, cấm ba tội, là tội đánh bạc, tội đá gà và tội theo Đạo Công giáo. Các nhà thờ bị triệt hạ. Thường dân theo Đạo Công giáo thì bị bắt bỏ tù, sĩ quan có Đạo thì bị truất chức. Ai tố cáo người có Đạo đi dự lễ thì được thưởng ; ai biết mà không chịu đi tố cáo thì bị tội. Ai không chịu chối Đạo thì phải mang gông phơi nắng chín ngày, bị thắt cổ, bị treo chân vào cột đánh đòn.
Trong thế kỷ thứ 18, từ năm 1698 đến năm 1801, các cuộc bắt Đạo xảy ra dưới thời các Vua Minh-Vuơng, Võ-Vương và Tây-Sơn.
Trong thời kỳ Vua Minh-Vương bắt Đạo, người công giáo chịu thuế nặng gấp ba lần người bên lương. Ai cũng được tự do làm hại người công giáo bất cứ bằng cách nào. Áp dụng nhiều hình khổ lạ hơn như : xẻo hai tai ; vấn dẻ vào các ngón tay rồi đổ dầu mà đốt; lấy dao khắc hình Thánh Giá vào trán người công giáo rồi xiềng hai chân với cổ lại, bắt đi bức cỏ nuôi voi của Nhà Vua suốt đời, hình phạt nầy được gọi là Thảo tượng chung thân; lập chuồng giam người công giáo như giam súc vật : chuồng lợp lá, chật chội, người công giáo bị giam trong đó, có lính canh đêm ngày không cho họ ra khỏi, nhưng bên ngoài, lại có dọn đồ ăn rất ngon, lính canh đứng ngoài cứ hô to : " Nước đó, cơm cá đó, cứ bỏ Đạo, rồi ra mà ăn mà uống " ; vì không chịu bỏ Đạo để ra ăn uống, nên bị đói bị khát lâu ngày phải phát hỏa, các vị Tử Đạo của chúng ta tìm cách vùi mình dưới đất cát cho mát một chút để đỡ khát ;các ngài ốm o, chết mòn, và khi chết, xác bị chặt từng khúc quăng xuống biển.
Trong thời kỳ Vua Võ-Vương và Nhà Trịnh bắt Đạo, hình khổ được áp dụng thêm là : kẹp các đầu ngón tay cho ra máu ; lập nhà giam Sinh Tử, có hai cửa, một cửa gọi là cửa Sinh, một cửa gọi là cửa Tử, cửa Sinh có dấu Thánh Giá, ai bước qua để đi ra thì được sống, cửa Tử có để thanh gươm, ai bước qua là tỏ dấu không muốn bỏ Đạo, thì bị xử tử.
" Trong thời kỳ Nhà Tây-Sơn bắt Đạo, đặc biệt tại Thừa-Thiên và Quảng-Trị, giáo dân phải bị tàn sát dữ dội. Riêng tại Quảng-Trị, trong thời kỳ nầy, nhiều giáo dân phải bỏ nhà cửa, bổng bế con cái chạy trốn vào rừng núi La-Vang, và được Đức Mẹ Maria hiện ra an ủi năm 1798. "
Từ năm 1830 đến năm 1885, các cuộc bắt Đạo xảy ra dưới thời các Vua Minh-mạng, Tự-Đức và thời Văn-Thân.
Trong thời kỳ Vua Minh-Mạng bắt Đạo, các nhà lao xá như Trấn-Phủ, Khám-Đường, được thành lập để giam người công giáo ; người công giáo bị đày đi đến những nơi rừng thiêng nước độc ; áp dụng hình khỗ bá đao, nghĩa là xẻo ra một trăm miếng thịt ; xử giảo thắt cỗ ; bắt từng tám người công giáo mang một cái gông dài như cái thang để khỏi phải chạy trốn.
Trong thời kỳ Vua Tự-Đức bắt Đạo, lệnh ban ra giết các linh mục Việt-Nam, cột đá vào cổ các linh mục ngoại quốc để nem xuống biển ; quân sĩ nào theo Đạo Công giáo, trước khi ra trận, phải phạm ánh, nghĩa là phải bước qua Thánh Gia ; tróc nã các nữ tu Mến Thánh Giá; và đặc biệt nhất, là thi hành kế hoạch Phân Sáp.
Kế hoạch Phân Sáp được thi hành trong năm 1851 và 1856. Do sự thi hành kế hoạch nầy mà gần 400.000 giáo dân phải bị đi phân sáp, từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết nơi phân sáp, 3.500 bị xử tử vì Đạo, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2.000 Họ Đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 linh mục Việt-Nam và 10 giáo sĩ ngoại quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 chị nữ tu Mến Thánh Giá phải tan tác, 100 chị nữ tu Mến Thánh Giá chết vì Đạo.
Kế hoạch Phân sáp gồm bốn mặt : mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương ; mặt thứ hai, mỗi người công giáo phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật ; mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người nầy xử dụng và nộp thuế lại cho Nhà Nước ; mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái thì phải để cho gia đình người lương nuôi, cốt ý diệt mọi dòng giống công giáo. Đây là một kế hoạch rất sâu độc, nhằm tiêu diệt Đạo Chúa tận gốc rễ.
Rồi cuối thế kỷ thứ 19 nầy, xảy ra nhiều cuộc tàn sát người công giáo, không phải do lệnh Nhà Vua rõ ràng, nhưng do các địa phương tự động nổi lên, gọi là thời kỳ Văn-Thân. Thời kỳ nầy, tuy tương đối ngắn, nhưng có những cuộc thảm sát người công giáo rất ác nghiệt dã man. Trong thời kỳ nầy, có đến 60.000 giáo dân bị thảm sát. Tại riêng một tỉnh Bình-Định, có 24.000 giáo dân bị giết. Tại riêng Quảng-Trị , chỉ trong vòng một tháng, hơn 8.000 giáo dân bị giết.
Không gì được Chúa thưởng bội hậu, bằng hành vi Tử Đạo !
Không gì xóa sạch tội một cách hiệu nghiệm bằng sự đỗ máu ra Vì Chúa.
Các Thánh Tử Đạo Việt-Nam chúng ta, và các Thánh Tử Đạo ngoại quốc tại Việt Nam, sau khi dâng mạng sống mình cho Chúa bằng cái chết anh dũng, được Chúa thưởng về trời, đời đời hạnh phúc.
Chúng ta có ba bổn phận đối với Các Thánh Tử Đạo Việt-Nam, Cha ông của chúng ta trong Đức Tin :
- Bổn phận tôn kính : Tôn vinh Thiên Chúa, ngợi khen Thiên Chúa qua việc tôn kính Các Thánh Tử Đạo Việt-Nam;
- Bổn phận cầu nguyện : Luôn luôn chạy đến cầu khẩn với Các Thánh Tử Đạo Việt-Nam ;
- Lấy Tên Các Thánh Tử Đạo Việt Nam làm bổn mạng.
- Bổn phận bắt chước : Bắt chước gương Đức Tin mạnh mẽ của Các Thánh Tử Đạo Việt-Nam của chúng ta.
Muốn xây một tòa nhà hay chế tạo một chiếc xe, người ta cần có họa đồ, một cái khuôn, cái: 24/11-5
Muốn xây một tòa nhà hay chế tạo một chiếc xe, người ta cần có họa đồ, một cái khuôn, cái mẫu. Muốn được đào tạo thành những người tốt, người ta cần những người mẫu lý tưởng để rập khuôn theo. Sống trong một xã hội đầy những quảng cáo qua những người mẫu "model" nhằm thu hút để bán đồ dùng, nên khó phân biệt đâu là mẫu thật toàn vẹn. Thì nay cả thế giới Công Giáo trong ngày 19.6.1988 đã công khai xác nhận và giới thiệu một người mẫu lý tuởng chắc chắn đáp ứng nếp sống xô bồ hiện tại, bảo đảm mang lại nếp sống an vui hạnh phúc và trẻ trung. Đó là Thánh Tôma Trần văn Thiện.
Trần văn Thiện sinh năm 1820 trong một gia đình đạo hạnh tại Trung Quán tỉnh Quảng Bình, con ông bà Hiêrônimô Miên, hai chị là Yến và Sào. Chị Yến về sau đi tu. Cậu Thiện đưởc người dì tên là Nghi làm bề trên nhà dòng, hết sức thương yêu giúp vun trồng ơn gọi đi tu. Mồ côi cha từ lúc 10 tuổi, cậu Thiện được cha Chính giúp đỡ dạy dỗ để sửa soạn cho vào chủng viện.
Vào thời đó, vua Minh mạng rất ghét người Công Giáo, muốn tiêu diệt tận gốc, nên ra lệnh cấm đạo, bắt người Công Giáo phải đạp ảnh Thánh Giá để tỏ dấu bỏ đạo.
Năm 18 tuổi, Tôma Thiện được lệnh bề trên gọi vào Di Loan để nhập chủng viện An Ninh. Dù đang lúc bắt đạo dữ dội, cậu Thiện vẫn cương quyết lên đường cùng với chị Sào đi Di Loan tuân hành lệnh bề trên chẳng nề quản nguy hiểm đang chờ đợi. Khi chị Yến cho biết tình hình bắt đạo ở Di Loan, và cha bề trên Kim đã trốn ẩn, cậu Thiện đã nói với chị:
- "Dù không gặp Ngài, em cũng phải tới nơi cho chắc. Cha gọi em, em không thể không đi."
Đó là tinh thần kính phục người trên trong đức vâng lời và chu toàn bổn phận trách nhiệm. Trên đường đi Di Loan cậu đã bị bắt, đeo gông giải về Quảng Trị. Cậu bị đánh đập tra tấn : "Hãy bỏ đạo thì sẽ được tha."
Cậu Thiện trả lời:
- "Đạo dạy tôi thờ kính Thiên Chúa là đạo thật, tôi không thể bỏ được."
Quan lại nói: "Có lệnh vua cấm. Nếu không bỏ đạo thì sẽ bị chém đầu."
Cậu Thiện hiên ngang trả lời:
- "Tôi sẵn sàng bị chém đầu chứ không chịu bỏ đạo."
Dùng biện pháp mạnh không được, các quan lấy lời ngon ngọt dụ dỗ:
- "Nếu cậu bỏ đạo thì Ta gả con gái cho và giúp cho làm quan."
Cậu Thiện cương quyết trả lời:
- "Tôi chỉ ước mong làm quan có địa vị trên trời, chứ làm quan dưới đất thì tôi không thèm."
Quan lại tỏ dấu thương mến:
- "Ngươi còn trẻ lại khôi ngô tuấn tú, hãy đạp ảnh theo lệnh vua để được tha, rồi sau đó về giữ đạo thế nào thì giữ. Cứ bỏ đạo đi đã rồi tính sau."
Đúng là một tấm gương cương quyết dứt khoát chọn rõ lý tưởng, không giả vờ toa rập viện cớ này cớ kia để được lợi nhất thời. Đây là cơn thử thách "cám dỗ" nặng nề nhất đối với cậu Thiện, vì chỉ cần nhắm mắt chiều theo một chút có sao đâu. Rồi vì còn trẻ, còn đủ giờ làm lại cuộc sống mà.
Cũng giống như câu chuyện Chúa Giêsu trên hoang địa, Tôma Thiện cũng phải đương đầu với những thử thách: bị cám dỗ biến những nhu cầu vật chất và thân xác như bánh ăn hay việc lấy được con gái quan làm đích điểm đời sống, ngoài ra không còn gì hơn nữa; bị cám dỗ đạt thành công trước mắt bằng sức trai trẻ của mình; bị cám dỗ thờ lạy tà thần để được làm quan có địa vị chức tước quyền uy, và hưởng những thú vui chóng qua.
Nhưng cậu Thiện vững một lòng kiên trung không sợ chết để giữ đức tin. Cậu đã dứt khoát lựa chọn giá trị thật là linh hồn cao quí của mình. Cậu biết rằng chỉ có sự lựa chọn dứt khoát này mới là chọn lựa được hạnh phúc. Cậu xác tính vào bản chất của mình như lời Chúa xác quyết: "Con thật quí báu trước mắt Cha và thật danh giá, cha yêu thương con" (Is. 43:5), và con "thuộc dòng giống được tuyển chọn" (1 Phêrô 2:9), là dòng giống tiên rồng vươn lên, là loài phượng hoàng bay cao, chứ không thấp hèn sà sà mặt đất như gà, với những bả mồi tẹp nhẹp. Cậu hãnh diện mình là dòng giống Việt, nghĩa là luôn vượt tới, luôn vươn lên và bay cao, chứ không lùi bước. Vì thế quan đã tức giận cho lính đánh không thương tiếc, rồi bắt ngồi phơi nắng giữa trưa mùa hè cùng với Cha Phan, và cấm không cho ăn uống. Phơi nắng xong, quan lại lấy kìm nung nóng để tra tấn, thịt da cháy kêu xèo xèo tỏa mùi khét. Có lúc quan lại tra tấn bằng kìm sống cho đau hơn. Nhưng Tôma Thiện luôn miệng cầu xin Chúa ban ơn sức mạnh để chịu nổi cực hình và cương quyết trung thành với đức tin.
Cuối cùng quan phải làm án xử tử. Tôma Trần văn Thiện bị thắt cổ chết vì đạo ngày 21.9.1838 lúc 18 tuổi tại pháp trường Nhan Biều.
------------------------
Học Hỏi Và Thực Hành 1. Thánh Tôma Trần văn Thiện đã làm chứng nhân tin mừng gì?
"Nước trời giống như người kia khám phá ra viên ngọc quí báu thì sẵn sàng bán mọi sự để mua lấy" (Mt 13:46). "Được lỡi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì ! (Mt 16:26).
Thánh Tôma Thiện đã nhìn thấy rõ đích điểm và giá trị đời sống. Khi đã nhìn thấy rõ lý tưởng cao đẹp mình là phượng hoàng bay cao, cậu sẽ không bao giờ chịu làm kiếp gà chỉ biết coi những con sâu con bọ là món ăn ngon lành.
Mọi sự Chúa ban như phương tiện để giúp tiến về đích điểm đó, mà nếu chúng cản trở thì sẵn sàng cắt bỏ. Đó là nguyên lý nền tảng đời sống. Thái độ dứt khoát chọn lựa lý tuởng này đã làm cho Thánh Tôma Thiện có thể tung mình bay lên được như phượng hoàng.
2. Câu nói nào của Thánh Tôma Thiện chứng tỏ thái độ dứt khoát chọn lý tưởng chứ không phải những giá trị trần gian ?
Tôi quyết định áp dụng cụ thể gì trong nếp sống hiện tại của tôi về sự chọn lựa giữa nhiều thứ "dụ ngọt" như trên và thái độ dứt khoát của đức tin Công Giáo ? Xin kể ra rõ ràng.
3. Thái độ nào của Thánh Tôma Thiện chứng tỏ dù có khó khăn mấy cũng vẫn thi hành đức vâng lời và chu toàn trách nhiệm bổn phận ? Chuyện gì trong đời sống của tôi đang cần có thái độ như vậy ?
Hôm nay Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện kính các thánh Việt Nam vì ba lý do: 24/11-6
Hôm nay Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện kính các thánh Việt Nam vì ba lý do :
1. Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam. Không còn gì vui mừng và đáng tự hào hơn khi đất nước chúng ta có các vị thánh đồng hương để góp mặt với Giáo hội toàn cầu.
2. Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các thánh Việt Nam. Với 117 vị thánh, Giáo hội Việt Nam được xếp hạng nhất nhì trong Giáo hội hoàn vũ về số lượng các thánh.
3. Hân hoan và hãnh diện hơn cả vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm. Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là đã phải chịu muôn ngàn khổ hình và chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ Đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan án Phạm Trọng Khảm, Chánh tổng Phạm Trọng Tả là những vị có chức quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn là mất đức tin. Vì Chúa, không những các Ngài sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội, mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Anê Lê Thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, nặng gánh gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột mới có mười mấy tuổi đời, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn, nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là người Việt Nam Công giáo, chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử của các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng đôi lần ao ước được như các Ngài : sống cao đẹp, chết anh dũng.
Nhưng làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng được chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách noi gương bắt chước các vị tiền nhân anh hùng đó là sống vì đạo.
Thực vậy, ngày nay ta ít gặp những sự khốn khó như bị bắt bớ, giam cầm, giết chết vì đạo, nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra hai khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất, đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai nấy lo làm ăn, học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng ngày nay ta kiếm được nhiều tiền hơn trước. Rõ ràng ngày nay ta có nhiều tiện nghi hơn trước : xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn, tiện nghi hơn. Nhưng chưa bao giờ ta thấy thoả mãn đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thì giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó, những người nghèo càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với lời dạy của Chúa, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo giá trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền. Và để có tiền, nhiều người đã không từ chối một phương tiện nào : lường gạt, lừa đảo, làm hàng giả, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những giá trị, biến chất những con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn cho đức tin bắt buộc phải có lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn hơn là chịu đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và luật Chúa.
Quả thực, xã hội mới đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải chọn lựa quyết liệt. Những chọn lựa đó làm chúng ta đau đớn không kém gì những hình khổ. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn ta phải chọn lựa muôn ngàn lần trong cuộc sống. Các thánh tử đạo chỉ chết một lần. Còn ta phải chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm, xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hàng ngày. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Theo bạn, ngày nay ta có thể làm gì để làm chứng cho Chúa ? 2- Cuộc sống đạo hôm nay có những khó khăn nào ? 3- Trong thời đại mới, bạn có thể tử đạo bằng cách nào ?
Có gì trên đời tồn tại mãi, không có ngày cùng tận không? 2. Trong bản thân ta, trong cuộc đời: 24/11-7
1. Có gì trên đời tồn tại mãi, không có ngày cùng tận không?
2. Trong bản thân ta, trong cuộc đời ta, những gì sẽ chóng qua và những gì tồn tại lâu dài? Giữa hai thứ ấy, người khôn ngoan nên quan tâm tới thứ nào? Bản thân ta thường quan tâm đến thứ nào?
3. Thế giới này có tồn tại vĩnh viễn không? Có những dấu hiệu nào báo trước ngày cùng tận của nó không? Thời của chúng ta đã có những dấu hiệu ấy chưa? Nếu có thì chúng ta nên có thái độ nào?
Suy tư gợi ý:
Mọi sự trên đời đều chóng qua, đều có ngày cùng tận
Chúng ta đang sống trong một thế giới vô thường, tạm bợ, mọi sự đều thay đổi, mọi sự đều qua đi (x. 1 Cr 7,31b; 1 Ga 2,17). Không một điều gì sự gì thuộc thế giới này tồn tại mãi, cho dù hiện tại chúng có vẻ kiên cố vững chắc tới đâu đi nữa. Đức Giê-su đã nói lên chân lý ấy trong bài Tin Mừng hôm nay: «Nhân có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giê-su bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”». Lúc ấy, người Do Thái không thể nào tưởng tưởng được Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đẹp và quí giá như thế, kiên cố và vĩ đại như thế, chỉ 40 năm sau (từc năm 70), lại có thể trở thành bình địa. Đây là chân lý quan trọng mà chúng ta cần phải suy gẫm để sống cho phù hợp và khôn ngoan.
«Đời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích» (Tv 103,15-16). Đời sống chóng qua như thế, nếu ta cứ tìm và thu gom cho mình những thứ vô thường tạm bợ, thì khi đời sống này qua đi, ta sẽ hoàn toàn trắng tay khi bước vào đời sống vĩnh cửu. Coi chừng kẻo ta chỉ được giàu có trong chốc lát để rồi muôn đời phải nghèo khổ! Còn gì dại dột bằng? Người khôn ngoan biết dùng những thứ chóng qua này để làm cho mình giàu có trong đời sống vĩnh cửu (xem dụ ngôn người quản lý bất trung, Lc 16,1-13). Đừng vội chóa mắt vì sự vinh quang hay hạnh phúc mà những cái chóng qua này đem lại. Vinh quang hay hạnh phúc ấy cũng rất chóng qua! Hãy suy nghĩ: «nếu cái chóng qua mà còn được vinh quang như thế, thì cái tồn tại mãi mãi lại chẳng vinh quang hơn sao?» (2 Cr 3,11).
Cái gì trong ta và trong cuộc đời ta tồn tại vĩnh cửu?
Chỉ những gì thuộc về thế giới vĩnh cửu mới tồn tại. Cái vĩnh cửu ấy đã được gieo mầm trong tâm hồn chúng ta từ khi chúng ta bắt đầu hiện hữu. Đó là bản tính thần linh và thứ tình yêu phù hợp với bản tính ấy: «Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2 Pr 1,4). Trong thế giới vô thường này chúng ta có thể vun trồng và làm cho bản tính thần linh và tình yêu cao cả ấy lớn lên bằng những tư tưởng, lời nói và việc làm cụ thể phù hợp với bản tính và tình yêu ấy. Nói cách khác, bằng cách làm theo ý của Thiên Chúa: «Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa» (1 Ga 2,5). Bản tính hay tình yêu thần linh ấy sẽ mất đi nếu ta cứ hành động ngược lại những gì mà bản tính hay tình yêu ấy đòi hỏi: «Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?» (1 Ga 3,17).
3. Chúng ta đang hành động thế nào? kiểu khôn hay kiểu dại?
Người khôn thì nhắm lợi ích lâu dài, còn kẻ dại chỉ nhắm lợi ích trước mắt. Nguyên tắc ấy ai cũng biết, nhưng trong thực tế người ta vẫn sống ngược lại nguyên tắc khôn ngoan ấy do bị lóa mắt vì những lợi ích trước mắt. Chẳng hạn, ai cũng biết câu: «Quan nhất thời, dân vạn đại». Nhưng trong xã hội, biết bao kẻ sẵn sàng luồn cúi, nịnh bợ những ông tham quan, những thủ trưởng bất tài thất đức vốn chỉ tại chức một thời gian nào đó, chỉ để họ ban phát cho mình chút ân huệ mà sẵn sàng làm hại anh em, bạn bè mình, bất chấp mình phải sống cả đời giữa những người thân yêu ấy. Biết bao kẻ sẵn sàng ca tụng, nịnh hót những ông vua, những chế độ bạo tàn, chỉ vì chút quyền lợi nay còn mai mất của mình, bất chấp sự nịnh hót đó bất lợi cho toàn dân, trong đó có biết bao người thân mình đang phải sống với, phải gặp mặt hằng ngày, và sẽ có lúc trong đời mình phải cần tới họ, phải nhờ họ cưu mang! Những kẻ dại dột ấy sợ bị thất sủng trong hiện tại trước mặt kẻ quyền thế hơn sợ bị miệng đời nguyền rủa mãi mãi! Kinh nghiệm cuộc đời cho thấy những kẻ sẵn sàng bán đứng anh em mình, những kẻ sống không có hậu ấy thường kết thúc cuộc đời trong đau khổ, cô đơn, và nhục nhã!
Cũng vậy, thật dại dột những người chỉ biết có lợi ích chóng qua đời này, không nghĩ gì đến hạnh phúc lâu dài đời sau! Của cải, quyền lực, địa vị, danh vọng… tất cả đều sẽ qua đi như lời Thánh Gio-an: «Thế gian đang qua đi cùng với những dục vọng của nó. Chỉ những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa mới tồn tại mãi mãi» (1 Ga 2,17). Chỉ những gì vĩnh cửu mới tồn tại lâu dài!
Ngày cùng tận của thế gian
Mọi sự trong thế gian đều có ngày cùng tận, và ngay cả chính thế gian cũng có ngày cùng tận của nó. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su nói về ngày cùng tận của thế gian và những điềm báo trước ngày ấy. Điềm Ngài nói tới trước hết là các ngôn sứ giả đội lốt chiên (x. Mt 7,15) mạo danh người của Thiên Chúa (x. Lc 21,8) để lường gạt nhiều người (Mt 21,11), nhờ thế họ được thế gian trọng vọng và ưu đãi (x. Lc 6,26). Điềm kế tiếp là chiến tranh giữa các dân tộc, giữa các quốc gia, cùng với các thiên tai (động đất, bão lụt, dịch tễ, đói kém…). Trong thời gian ấy, những người công chính hay các ngôn sứ thật bị bắt bớ, ngược đãi, bách hại, cầm tù, hãm hại… Theo lời Đức Giê-su, thời này là một cơ hội tốt để người Ki-tô hữu làm chứng cho Thiên Chúa, cụ thể là làm chứng cho công lý và tình yêu của Ngài. Chính vì làm chứng như thế mà họ «bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp», kết án, làm mặt lạ, «bị mọi người thù ghét», bỏ rơi, thậm chí bị giết. Nhưng không một sự gì xảy ra ngoài thánh ý Thiên Chúa: «dù chỉ một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu!». Hãy tự hỏi ta có quan tâm đến việc làm chứng cho Ngài, cho công lý và tình thương không?
Cứ xem thời điềm thì biết được thời đó sắp đến hay chưa. Người khôn ngoan thì luôn tỉnh thức vì biết rằng «ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm» (1 Tx 5,2). Do đó, «hãy sống như giữa ban ngày» (Rm 13,13), «sống trong ánh sáng» (1 Ga 1,7), «không sống trong bóng tối kẻo ngày ấy như kẻ trộm đến bất chợt không hay biết» (1 Tx 5,4). «Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người» (Lc 21,36). «Ai bền chí đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát» (Mt 10,22; 24,13; Mc 13,13).
Cầu nguyện
Lạy Cha, biết bao điềm mà Đức Giê-su nói về ngày cùng tận của thế gian đang xảy ra trước mắt con, nhưng dường như chúng không ảnh hưởng gì đến thái độ nội tâm của con và của bao người chung quanh con. Con vẫn sống như thể con sẽ tồn tại mãi, như thể địa vị và hoàn cảnh tốt đẹp của con sẽ tồn tại mãi, như thể thế gian và mọi sự trong đó sẽ tồn tại mãi! Xin cho con ý thức được thái độ như thế thật là ngu xuẩn. Xin cho con biết tỉnh thức như Đức Giê-su đã cảnh báo, để khi ngày cùng tận ấy xảy đến, con vẫn luôn đứng vững trước mặt Cha. Amen.
Cách đây nhiều năm, một cuốn phim do Hollywood thực hiện đã chiếu về một thương gia nọ: 24/11-8
Cách đây nhiều năm, một cuốn phim do Hollywood thực hiện đã chiếu về một thương gia nọ muốn mua tờ báo của tương lai. Thấy người ta mua báo, ông chợt nghĩ, “Không biết tôi có thể mua một tờ báo ngày mai trong hôm nay không?”
Với ý nghĩ chuyện đó có thể xảy ra, làm ông rất hứng khởi. Trong đầu óc ông hiện lên biết bao nhiêu việc thương mại tốt lành sẽ mở ra cho ông.
Tiếp đến một sự việc bất thường đã xảy ra. Một người đàn ông già nua tuổi tác bước vào văn phòng chỗ người thương gia đang đứng và đưa một tờ báo ngày mai trong hôm nay cho ông và nói: “Tôi đến để ban cho ông điều ông đang mơ ước.”
Đoạn sau của cuốn phim nói đến những việc đã xảy ra cho người thương gia kia, những kết quả của sự hiểu biết những việc tương lai làm cho cuộc sống của ông thay đổi và ông đã thành công trong việc kinh doanh.
Cũng giống như thế, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ Ngài điều tương tự như trong câu chuyện trên, qua bài Phúc âm hôm nay. Ngài đã cho các ông một cái nhìn thoáng qua về tương lai.
Điểm đặc biệt là Ngài đã cho các ông biết trước về việc sụp đổ của Đền thờ Giêrusalem, một biến cố xảy ra sau đó bốn mươi năm , khi quân Rôma vây hãm và tàn phá tất cả. Đối với người Do thái, Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy thì cũng giống như là ngày tận thế.
Quả thật là vậy, Giáo hội dùng bài đọc hôm nay như là một bài chính cho Chúa nhật áp chót của năm phụng vụ. Khi năm phụng vụ sắp sửa kết thúc, Giáo hội muốn chúng ta hãy để tâm đến cái ngày mà Chúa Giêsu sẽ tái giáng lâm trong vinh quang.
Trong khi nói về Đền thờ Giêrusalem bị tàn phá, Chúa Giêsu đã liên quan đến sự kiện Ngài sẽ trở lại trong ngày tận cùng của thế giới. Nói về ngày ấy, Chúa Giêsu đã phán: “Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: “Chính ta đây và thời giờ đã gần đến, các con chớ đi theo chúng.” Chúa Giêsu còn nói những người theo Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ và bắt bớ trước khi Ngài tái lâm: “Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất.” Nhưng Chúa Giêsu cũng nói: “Chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.”
Bài Phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức về vấn đề ngày tận cùng của thế giới. Chúng ta hãy chuẩn bị chờ đón không phải trong tư thế sợ sệt, bối rối, hoặc lo âu. Đúng hơn, nó mời gọi chúng ta hãy chuẩn bị trong tư thế phó thác và tin tưởng. Trong tư thế phó thác, nghĩa là chúng ta biết đem những năng khiếu tài năng mà Chúa ban cho chúng ta để phục vụ cho Nước Thiên Chúa được hiện trị trên trần gian này. Trong tư thế tin tưởng, nghĩa là chúng ta thi hành những gì Chúa Giêsu đã phán trong bài Phúc âm hôm nay.
Bài Phúc âm hôm nay đưa vào tay chúng ta một tờ báo cho ngày mai. Bởi vì thế nên cuộc sống của chúng ta cần phải biến đổi. Nếu chúng ta biết kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, thì chúng ta sẽ được vinh quang chiến thắng và không sự gì có thể làm hại chúng ta.
Đó là tin mừng chứa đựng trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta không sợ hãi khi người khác ghét chúng ta bởi vì chúng ta có Chúa Giêsu. Chúng ta không sợ hãi khi Chúa Giêsu ngự đến trong đám mây vinh quang. Ngược lại, chúng ta sẽ có tất cả lý do để vui mừng, ca hát và hân hoan.
Như hai bài chia sẻ hai tuần trước đã nhận định, theo tiến trình Phụng Niên, chúng ta đang cùng: 24/11-9
Như hai bài chia sẻ hai tuần trước đã nhận định, theo tiến trình Phụng Niên, chúng ta đang cùng với Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô liên quan đến Mầu Nhiệm Cánh Chung. Theo Phụng Vụ Lời Chúa đã, đang và sẽ được công bố trong bốn tuần cuối cùng này, hai tuần trước chúng ta đã cảm nghiệm Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Ơn Cứu Độ, tuần trước chúng ta tiến đến Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Xác Phục Sinh, tuần tới, tuần cuối cùng của Phụng Niên, Lễ Chúa Kitô Vua, Mầu Nhiệm Cánh Chung được kết thúc ở việc Chúa Hiển Trị, tuần này, chúng ta sang đến Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Ngày Thế Mạt. Về Ngày Thế Mạt, nếu lý trí có thể suy luận và nhận biết có Đấng Tối Cao thế nào, thì tự nó cũng có thể suy biết về Ngày Thế Mạt như vậy. Bởi vì, theo lý luận tự nhiên, dựa trên kinh nghiệm thực tế, vật chất hữu hình, dù là mặt trời và tinh tú trên khung trung bao la hầu như bất tận đi nữa, cũng không thể nào vĩnh viễn tồn tại được, nghĩa là tất cả mọi sự trên thế gian này, trong vũ trụ này, thuộc phạm trù thời gian và không gian này, phải có lúc cùng tận, cũng như chúng đã có lúc xuất hiện vậy, bằng không, nếu chúng không bao giờ cùng, chúng phải tự mình mà có, tức chúng toàn là và phải là những hữu thể tối cao, là nguyên lý đệ nhất, vô cùng bất tận như Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa mất rồi. Tuy nhiên, nếu giới hạn của lý trí chỉ có thể nhận biết Thiên Chúa hiện hữu mà thôi, chứ tự mình không thể biết Ngài thực sự như thế nào, nếu chính Ngài không tự ý mạc khải cho con người biết, thì về Mầu Nhiệm Cánh Chung liên quan đến Ngày Thế Mạt cũng thế, con người không thể nào biết được Ngày Thế Mạt sẽ xẩy ra như thế nào và xẩy ra vào lúc nào (qua những dấu hiệu báo trước), nếu không có Mạc Khải Thần Linh.
Đúng thế, bài Phúc Âm theo Thánh Luca của Chúa Nhật 33 Mùa Thường Niên Năm C hôm nay cho chúng ta thấy Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Ngày Thế Mạt, khi thuật lại những gì Chúa Giêsu nói về số phận của đền thờ Giêrusalem “một ngày kia” sẽ hoàn toàn bị tàn rụi cùng với những dấu hiệu báo trước thời điểm tận cùng này. Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, khi nói về số phận hoàn toàn bị tàn rụi của Giêsurusalem, Chúa Giêsu có ám chỉ về Ngày Thế Mạt hay chăng, vì đền thờ này đã bị tướng Titô của đế quốc Rôma thiêu hủy từ năm 70 AD? Nếu quả thực Người có ý ám chỉ về Ngày Thế Mạt, thì hình ảnh đền thờ Giêrusalem ở đây là gì, hay nói cách khác, tại sao Chúa Giêsu lại dùng hình ảnh đền thờ Giêrusalem để nói về Ngày Thế Mạt? Tại sao Ngày Thế Mạt lại chỉ xẩy ra những biến cố hay những hiện tượng được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay mà thôi, chứ không phải là những biến cố hay những hiện tượng nào khác?
Khi nói về số phận hoàn toàn bị tàn rụi của Giêsurusalem Chúa Giêsu có ám chỉ về Ngày Thế Mạt hay chăng, vì đền thờ này đã bị tướng Titô của đế quốc Rôma thiêu hủy từ năm 70 AD?
Căn cứ vào chính bài Phúc Âm của Thánh Luca hôm nay, người ta có thể kết luận là Chúa Giêsu quả thực nói về Ngày Thế Mạt qua hình ảnh tàn rụi của đền thờ Giêrusalem. Trước hết, kết luận này được căn cứ vào câu Người, sau khi cho biết về những dấu hiệu xẩy ra trước đó, tức trước khi đền thờ bị tàn rụi, liền khẳng định, “Những điều này phải xẩy ra trước, thế nhưng cùng tận không xẩy ra ngay sau đó”. Thế nhưng, những dấu hiệu như Chúa Giêsu cho biết sẽ xẩy ra báo trước biến cố đền thờ Giêrusalem bị tàn rụi, một tình trạng hoàn toàn bị tàn rụi đến nỗi “không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào” như Người diễn tả ấy, những dấu hiệu mà, theo lịch sử, thật sự đã không có, như hiện tượng kitô giả xuất hiện cùng với các cuộc chiến tranh nổi loạn xẩy ra, kèm theo những thiên tai, như động đất, dịch tễ, đói kém. Bởi thế, như trên đã nhận định: “người ta có thể kết luận là Chúa Giêsu quả thực nói về Ngày Thế Mạt qua hình ảnh tàn rụi của đền thờ Giêrusalem”. Thật vậy, những lời Chúa Giêsu nói ở khúc cuối trong cùng đoạn Phúc Âm Thánh Luca này, những lời không có trong bài Phúc Âm hôm nay, cũng cho chúng ta thấy rõ ngụ ý của Người. Chẳng hạn như những lời này: “Giêrusalem sẽ bị Dân Ngoại chà đạp cho đến thời điểm Dân Ngoại được nên trọn… Người ta sẽ chết đi vì sợ hãi khi nghĩ đến những gì xẩy ra trên mặt đất. Các năng lực trên bầu trời sẽ bị lay chuyển. Sau đó, người ta sẽ thấy Con Người đầy uy quyền và vinh hiển đến trên mây trời…”
Nếu quả thực Người có ý ám chỉ về Ngày Thế Mạt, thì hình ảnh đền thờ Giêrusalem ở đây là gì, hay nói cách khác, tại sao Chúa Giêsu lại dùng hình ảnh đền thờ Giêrusalem để nói về Ngày Thế Mạt?
Phúc Âm Nhất Lãm nói chung và Phúc Âm Thánh Luca hôm nay nói riêng không cho chúng ta biết rõ ràng lý do tại sao Chúa Giêsu lại dùng hình ảnh đền thờ Giêrusalem để nói về Ngày Thế Mạt. Tuy nhiên, theo Phúc Âm Thánh Luca, như câu đầu của đoạn vừa trích dẫn, chúng ta thấy được thêm một chi tiết quan trọng, đó là: “Giêrusalem sẽ bị Dân Ngoại chà đạp cho đến thời điểm Dân Ngoại được nên trọn…”. Theo lịch sử, quả thực Giêrusalem đã “bị Dân Ngoại chà đạp” vào năm 70 AD, qua cuộc thiêu hủy của một vị tướng dân ngoại là Titô thuộc Đế Quốc Rôma. Thế nhưng, tình trạng Giêrusalem “bị Dân Ngoại chà đạp” như thế, một tình trạng “cho đến thời điểm Dân Ngoại được nên trọn” đây phải hiểu như thế nào? Thực tế cho thấy, Đền Thờ Giêrusalem ở Đất Thánh bị phá hủy năm 70 AD ấy cho đến nay vẫn chưa được xây cất lại, nghĩa là vẫn còn ở trong tình trạng “bị Dân Ngoại chà đạp”, chứ chưa được tái thiết như đã xẩy ra lần đầu vào năm 538 BC, sau cuộc Lưu Đầy Babylon của Dân Do Thái, như được thuật lại trong Sách Ezsa và Nêhêmia. Phải chăng sự kiện “cho đến thời điểm Dân Ngoại được nên trọn” đây liên quan đến lời tiên báo của Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma đoạn 11 câu 25: “cho đến khi đủ số Dân Ngoại thì bấy giờ tất cả dân Do Thái sẽ được cứu độ”?
Nếu hiểu theo nghĩa “đủ số Dân Ngoại” này thì Dân Ngoại đây không ai khác hơn Kitô Giáo, một Dân Tân Ước do Chúa Kitô triệu tập làm nên Giáo Hội của Người, một Giáo Hội được Người dựng xây trên đá tảng Phêrô cũng như trên nền tảng Tông Đồ (xem Mt 16:18; Eph 2:20). Vậy “cho đến thời điểm Dân Ngoại được nên trọn” đây, hay “cho đến khi đủ số Dân Ngoại” đây, phải chăng, tức là cho đến khi Giáo Hội Chúa Kitô hoàn tất sứ vụ của mình? Đúng thế, nếu Chúa Giêsu “đã hoàn tất” (Jn 19:30) sứ vụ của Người bằng thập giá và trên thập giá thế nào, thì Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người, với thân phận “tôi tớ không thể hơn chủ nhân” (Jn 15:20), Giáo Hội cũng sẽ hoàn tất thời điểm của mình trong quằn quại thương đau. Ở chỗ, như chính Giáo Hội đã cảm nhận qua Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675 thế này: “Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy ‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”.
Tại sao Ngày Thế Mạt lại chỉ xẩy ra những biến cố hay những hiện tượng được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay thôi, chứ không phải là những biến cố hay những hiện tượng nào khác?
Tại vì những biến cố hay những hiện tượng cuối thời được Chúa Giêsu đề cập đến ở đây, trong Phúc Âm Nhất Lãm nói chung, cũng như trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay nói riêng, có liên quan đến vấn đề “thời điểm Dân Ngoại được nên trọn”, một thời điểm cũng đã được chính Giáo Hội cảm nghiệm và diễn tả trong câu Giáo Lý vừa trích dẫn trên đây. Đọc lại bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy bốn hiện tượng chính yếu sau đây: kitô giả, chiến tranh nổi loạn, thiên tai và bách hại Kitô giáo. Trong bốn hiện tượng này, có hai hiện tượng hoàn toàn tương phản nhau, đó là hiện tượng tiên tri giả và hiện tượng bách hại Kitô giáo. Không phải hay sao, trong khi hiện tượng kitô giả cho thấy rất nhiều Kitô hữu chẳng những không sống đúng với đức tin của mình mà còn rao truyền những điều sai lạc, “hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật”, như ủng hộ hay chủ trương thần học giải phóng, đồng tính luyến ái, đồng tính kết hôn, ngừa thai nhân tạo, phá thai, ly dị v.v. , thì ngược lại, cũng có không ít Kitô hữu lại rất hiên ngang với đức tin của mình, thậm chí dám lấy chính mạng sống mình để làm chứng cho chân lý, như đã từng và vẫn còn đang xẩy ra cho Kitô hũu khắp nơi hiện nay, chẳng những ở ngay trong thế giới văn minh vật chất duy nhân bản pro-choice, phò quyền tự quyết tối thượng của mình, “một chủ trương ngụy kitô làm cho con người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến trong xác thịt của Ngài”, mà còn ở tại những nơi dầu sôi lửa bỏng tính cách cực đoan trong việc kỳ thị và sát hại tôn giáo nữa.
Vấn đề thực hành sống đạo: Nếu Đền Thờ Giêrusalem là hình ảnh Giáo Hội Chúa Kitô, và nếu Tân Đền Thờ Giêrusalem là Giáo Hội Chúa Kitô này sẽ bị hoàn toàn tiêu rụi “không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào”, thì phải chăng lời tiên báo này, như Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo công nhận “Giáo Hội phải trải qua một cuộc thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của nhiều tín hữu”, thật sự có liên hệ hết sức mật thiết với lời Chúa Kitô vấn nạn, cũng trong Phúc Âm Thánh Luca ở Chúa Nhật 29 Thường Niên Năm C cách đây 4 tuần, đó là vấn nạn: “Khi Con Người đến, không biết Người có còn tìm thấy đức tin trên thế gian này nữa hay chăng?” Nếu đúng như thế thì phải chăng bao giờ chúng ta thấy dấu hiệu Giáo Hội bị trầm trọng khủng hoảng đức tin, như trường hợp năm cô phù dâu khôn ngoan trong khi chờ đợi chàng rể đến vào lúc nửa đêm, lúc đen tối nhất, cũng ngủ thiếp đi với năm cô dại khờ bên cây đèn đức tin hoàn toàn bị tắt lịm của các cô (xem Mt 25:5,7), bấy giờ chúng ta nắm chắc được rằng đó là lúc Chúa Kitô sắp sửa tái giáng đến nơi rồi vậy…?
(Tin Mừng Sự Sống www.tinmungsusong.org buổi phát thanh thứ sáu mươi hai, Chúa Nhật 18/11/2001)
Có một người nổi tiếng trong huyện có tài ba sạo. Quan cho gọi người ấy đến, một bên để mấy: 24/11-10
Có một người nổi tiếng trong huyện có tài ba sạo. Quan cho gọi người ấy đến, một bên để mấy thỏi vàng, một bên để cây roi, và nói: “Ta nghe nói ngươi có biệt tài đánh lừa thiên hạ. Bây giờ ta thácy ngươi lừa được ta. Nếu thành công ta sẽ thưởng cho người mấy chục lượng vàng, ngược lại, nếu thất bại ta sẽ quật cho mấy chục hèo?” Người kia vội kêu lên: “Bẩm quan, thật oan cho con. Con nào có tài cán gì đâu! Chẳng dấu gì ngài, ông nội của con hồi xưa có đi sang Tầu, và mang về một cuốn sách kể các chuyện lạ ở xứ ấy. Con đọc sách rồi kể cho người ta, nên bị mang tiếng oan đó thôi! Xin ngài minh xét cho con!.” Quan huyện trả lời: “Được rồi, vậy thì ngươi hãy về lấy quyển sách đến đây cho ta xem!.” Lúc đó người kia cười lên khanh khách, nói: “Quan bị lừa rồi! Con đâu có sách vở gì đâu!” Quan đành chịu thua, trao cho người ta số vàng.
Lừa lọc gian dối là thói thường của người đời, nhưng đối với các Kitô hữu, tính chân thật phải chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống. Chân thật là sống theo chân lý, mà chân lý trên hết là chính Thiên Chúa. Vì chân lý người Kitô hữu sẵn sàng chịu hy sinh mạng sống. Đó có nghĩa rằng chân lý có giá trị cao hơn sinh mạng. Chúa Kitô đã nhắc nhở rằng chúng ta sẽ bị ghét bỏ vì danh Ngài, nhiều người sẽ bị giết. Điều đó xảy ra vì có sự hiện diện của thần dối trá, Satan, trong thế gian. Thế lực của sự dối trá thật lớn mạnh, như chúng ta thấy torng thế giới ngày nay. Nhiều vị nguyên thủ quốc gia đã trở nên công cụ cho thần dối trá sai khiến. Chính vì vậy Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cảnh cáo thế giới về “văn hóa sự chết” đang chiếm ưu thế trong tâm tư con người ngày nay.
Trong tác phẩm Ngư ông và Biển cả, văn hào Hemingway mô tả một ông lão nghèo khổ, khô gầy: 24/11-11
Trong tác phẩm Ngư ông và Biển cả, văn hào Hemingway mô tả một ông lão nghèo khổ, khô gầy, chân tay nứt nẻ vì cọ sát dây câu... Hàng chục ngày câu cá, không được con nào, lão còn bị bọn dân chài chế nhạo. Không nản chí, quyết câu được cá to, lão ra tít mù khơi, thả câu, chờ tới chiều, bỗng dây câu giựt mạnh: lão suýt té, bám lấy mạn thuyền, thuyền bị kéo chạy phăng phăng. Lưng vai, tay lão bị dây xiết chặt, lão vừa đói khác, vừa mệt lã. Có lúc lão thiếp đi. Ba ngày sau, cá đuối sức, lão đâm, chm, đập xiên xọc cho cá chết, rồi buộc vào mạn thuyền lôi cá về. Con cá kiếm dài hơn thuyền, nặng tới sáu bảy tấn. Lão vui mừng, khỏe hẳn lại. Ngờ đâu bọn cá mập đánh hơi thấy mùi máu tanh nhào lại rúc rỉa. Lão chống trả quyết liệt với bọn sư tử biển này. Cá mập bỏ chạy, nhưng cá kiếm của lão chỉ còn lại bộ xương. Lão kéo lên bờ. Người ta trầm trồ trước bộ xương vĩ đại với đuôi cá khổng lồ. Còn lão, lão ngủ thiếp đi trong giấc mộng lởn vởn với đàn sư tử biển.
Mỗi người chúng ta là một lão ngư ông trên biển đời mà Đức Giêsu đã diễn tả trong bài Tin Mừng, cho chúng ta thấy những sức mạnh tàn phá kinh khủng của nó.
1.Trước hết là sức mạnh tàn phá của thời gian: Thời gian sẽ tàn phá hết mọi sự trên đời, đền thờ Giêrusalem là một điển hình. Người ta trầm trồ khen ngợi đền kiên cố, đồ sộ, còn mới nguyên, được trang hoàng bằng cẩm thạch bóng loáng, chạm vàng óng ánh và trầm hương thơm ngát. Nhưng Đức Giêsu bảo : “Những gì anh em chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết. Không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.”
Lịch sử đền thờ Giêrusalem đã trải qua những bước thăng trầm, để rồi bị tàn phá trụi. Đền thờ thứ nhất được vua Salômôn xây cất kỳ công kiệt tác, để rồi vua abucôđônôsô kéo quân đến tàn phá và bắt dân Do thái đi đầy ở Babilon.
Đến thời vua Kyrô và Darius nước Ba Tư, dân được về xây cất lại đền thờ dưới quyền chỉ huy của Zorababen (năm 520-515): Đây là đền thờ thứ hai rất sơ sài, sau lại bị quân Anticô IV chiếm cứ tế thần Zeus Olympic; năm 169 anh em Juda Macabê nổi lên đánh đuổi bọn xâm lăng và tẩy uế đền thờ năm 164.
Đến thời Hêrôđe đại đế, đền được xây lại nguy nga lớn hơn đẹp hơn, để rồi quân Rôma do tướng Titus đến đốt sạch, phá hết vào năm 70 sau Đức Giêsu.
Cuộc đời con người còn mong manh mỏng dòn, dễ bị tàn phá hơn đền thờ rất nhiều.
2.Thứ đến là sức tàn phá của lừa gạt, giả dối, giả mạo. Mấy anh Việt kiều kể: có giáo phái giúp Việt kiều rất tử tế để rủ theo họ, nhưng khi theo rồi phải đóng thuế nặng như đóng thuế cho nhà nước. Nhiều người đã mắc bẫy lừa gạt như vậy.
Lịch sử còn cho biết: bao nhiêu dân lành đã thiêu thân trong những cuộc chiến đẫm máu vì những lời lừa gạt; chiến đấu vì bảo vệ tôn giáo, chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, bảo tồn dân tộc, chiến đấu cho tự do dân chủ... Những khẩn hiệu đẹp đẽ lừa gạt đó ngầm chứa những tham vọng cá nhân làm bá chủ, độc tài, gia đình trị, như Napoléon, Hitler, Polpot...
Thời xa xưa, tiên trei Mikayahu cảnh cáo vua Akhab chớ xâm chiếm thành Ramat Galat. Akhab không nghe, ông triệu tập được bốn trăm tiên tri giả nịnh bợ bảo vua: “Tiến lên, Đức Chúa sẽ nộp thành trong tay đức vua.” Akhab đi đánh bị quân Ramat bắn chết (1 V 22:5-37).
Tiên tri Giêrêmia cũng nói thật với vua Sêđêquia chớ liên minh với Ai cập. “Nhưng các tiên tri giả vô đạo, ngoại tình, dối trá, củng cố lũ ác ôn của nhà vua bằng lời lừa gạt rằng: “Thành Giêrusalem sẽ được bình an vô sự, không có tai họa nào cả.” Chẳng bao lâu quân của vua Nabucôđônôsô kéo đến phá tan thành, vì đã liên minh với Ai cập chống lại Babilon. Và tất cả dân chúng bị bắt đi đầy sang Babilon.
Người ta vẫn nói: “Nhất ngôn hưng bang, nhất ngôn tán bang” (Một lời làm đất nước hưng thịnh, một lời đủ sức phá tan đất nước.) Trước sức mạnh tàn phá của lời nói lừa gạt, Đức Giêsu dạy các môn đệ và chúng ta phải hết sức đề phòng bọn tiên tri giả, những lời dụ dỗ đường mật, lời mị dân, lời nịnh bợ lôi cuốn chúng ta vào mê hồn trận, khiến chúng ta kiêu ngạo, lầm lạc nâng mình lên để rồi sẽ bị ngã nhào: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: Chính Ta đây, anh em chớ theo họ”.
3.Sức tàn phá thứ ba là sự khủng bố của con người: sau giai đoạn lừa gạt thì đến khủng bố. Theo kẻ lừa gạt, hay không theo thì cũng chết: “Anh em sẽ bị mọi người thù ghét.” Người ta sẽ bắt và ngược đãi anh em... Họ sẽ giết một số trong anh em. Sự khủng bố nầy được mô tả bằng thù ghét, bắt bớ, ngược đãi, xét xử, tù đầy và giết đi. Sự khủng bố này do tất cả mọi hạng người, từ vua chúa quan quyền, các người của hội đường, của nhà tù, và đau sót hơn nữa có cả những người thân yêu ruột thịt như cha mẹ, bà con và bạn hữu nhúng tay vào bắt nộp. Họ khủng bố anh em chỉ vì lý do anh em đã theo Thầy vì danh Thầy. “Đó là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy.” Đây là cơ hội vàng ngọc để anh em nên giống Thầy: Thầy đã biến thân xác loài người nên thân xác Đấng Cứu Thế, đã biến khổ giá thành giá cứu chuộc, khiến lưỡi đòng thâu trái tim, cho máu và nước chảy ra rữa sạch tội loài người, cho trái tim mỡ ra yêu thương loài người, cho mão gai thành triều thiên, cho sự chết thành sự sống lại. Anh em cũng phải biến thân xác mình thành của lễ hy sinh, biến ngược đãi thành yêu thương, biến khổ hình thành Thánh giá, để làm chứng về Thầy. Cố kiên trì làm chứng như thế, anh em mới giữ được mạng sống mình trong vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời lênh đênh giữa những sức tàn phá của biển đời. Xin cho con luôn nghe được tiếng Chúa nói : “Thầy đây, đừng sợ”, để con vững tin sống xứng đáng là chứng nhân của Người. Amen.
Cả thế giới hoảng hốt kinh hoàng khi nhìn qua màn ảnh truyền hình, cảnh khu phố Manhattan ở: 24/11-12
Cả thế giới hoảng hốt kinh hoàng khi nhìn qua màn ảnh truyền hình, cảnh khu phố Manhattan ở Newyork và khu Pentagon ở Washington bị không tặc dùng phi cơ đâm bổ xuống hôm 11.09.2001, gây cảnh đổ nát, cháy thiêu rụi, chết chóc hoang tàn. Có những phóng viên diễn tả cảnh tượng hãi hùng này như cảnh ngày tận thế trong sách Khải Huyền. Tất cả trở nên đổ nát bình địa. Lòng người ly tán hoang mang tưởng như mất luôn cả niềm tin. Vì đã mất tất cả, ngay cả mạng sống cũng bị đe dọa và không còn gì là bảo đảm an toàn nữa ngay trong một xứ hoà bình, giầu có thịnh vượng với nền văn minh kỹ thuật tân tiến hàng đầu trên thế giới!
Có những người tự hỏi về ý nghĩa và mục đích của đời sống là gì? Không lẽ cuộc đời chỉ là cảnh tượng kinh hoàng chết chóc như vậy sao? Con người có thể tìm thấy một điểm tựa nơi niềm tin trong giờ phút hoang mang kinh hoàng không? Ai là người hướng dẫn, nâng đỡ cuộc đời con người?
Có những tâm hồn tuy sống hoang mang sợ hãi cùng tột, nhưng đã tìm thấy cho mình và cho người khác những lời an ủi gây niềm tin tưởng phấn chấn, như lời nguyện than thở:
Lạy Cha, niềm tin vào Cha dạy con: đời sống con phát nguồn từ nơi Cha và sau cùng qua ngưỡng của sự chết, tất cả trở về với Cha. Trong vòng tay Cha, tất cả tìm được nguồn an vui. Vì Cha là tình yêu vô bờ bến của đời sống con người! Cho dù bây giờ con người chúng con đang trong cảnh hoang mang lo âu, buồn sầu và không sao hiểu được sự gì đã đang và sẽ xảy ra…
Lời cầu khẩn này là nhân chứng của một tâm hồn tràn đầy niềm tin tưởng, niềm hy vọng vào tình yêu của Đấng Vô Hình, người hằng đồng hành với trong cuộc đời.
Lời cầu khẩn đầy tin tưởng và chan chứa niềm hy vọng này là ánh sáng soi chiếu cho ta, khi đọc hay nghe đoạn Tin Mừng nói về cảnh tượng thành Giêrusalem bị tàn phá hoang tàn đổ nát (Lc 21, 5-19). Đó chưa phải là ngày tận thế đâu. Tất cả nằm trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Không có sự gì xảy ra mà không nằm trong sự quan phòng của Ngài.
Lời của Chúa là ánh sáng cho trần gian trong đêm tối của hoang mang lo sợ. Lời của Chúa mang lại cho tâm hồn sức sống niềm an ủi hy vọng.
Con người không nên nghĩ đến ngày tận thế, đến hoang tàn đổ nát, nhưng hãy nghĩ đến sự sống. Sự sống con người bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa. Và trong suốt dọc cuộc sống, Ngài hằng yêu thương đồng hành với. Nơi ngài có nguồn an ủi và nguồn bình an.
Đó là mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa mà tâm hồn ta chỉ cảm nghiệm thấy, mà trí khôn không hiểu thấu được
Vào ngày 19.06.1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị tử đạo tại Việt: 24/11-13
(xem Phúc Am CN 12 TN-A: Mt 10,26-33)
Vào ngày 19.06.1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị tử đạo tại Việt Nam lên bậc hiển thánh. Các thánh tử đạo vẫn được gọi là những chứng nhân anh hùng của Chúa Kitô. Không chỉ có 117 vị, nhưng còn có hàng ngàn ngàn các Kitô hữu khác dù chưa được phong thánh, nhưng cũng xứng đáng với danh hiệu chứng nhân như vậy. Lý do là họ đã dám chấp nhận thiệt thòi, chấp nhận mất mát, chấp nhận chê cười, thậm chí hy sinh đến cả mạng sống để bảo vệ niềm tin của mình và để chứng tỏ cho mọi người biết rằng họ là môn đệ Đức Kitô. Có thể nói bất cứ người môn đệ, bất cứ chứng nhân chân chính nào của Chúa Kitô cũng đều phải chấp nhận một số phận hẩm hiu và bi đát trong cuộc sống. Các ngôn sứ trong Cựu ước hầu hết đã bị giết chết. Vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước là thánh Gioan Baotixita đã bị chém đầu. Đặc biệt vị ngôn sứ đầu tiên của Tân ước là Đức Kitô đã bị chết treo ở trên thập giá. Và lịch sử Hội thánh vẫn còn đầy những chứng tích đau thương của những cuộc đời chứng nhân Chúa Kitô như vậy.
Sở dĩ như thế là vì luôn có sự đối kháng giữa Lời Thiên Chúa và thực tế của cuộc đời mà con người đang sống. Thực tế cuộc đời trong thế giới hôm nay là sự lan tràn dữ dội của cái ác : bóc lột, đàn áp, bất công, xảo trá, hận thù, ganh ghét, đâm chém, vô luân, dâm ô, bất trung… và còn biết bao điều ác khác đang ngự trị trong tâm hồn và cuộc đời con người.
Trong một bối cảnh như thế thì Lời Chúa được rao giảng sẽ trở thành một lời tố cáo, một lời lên án, một lời đe dọa, và vì thế mà Lời Chúa khó lòng được chấp nhận, thậm chí phải loại trừ. Mà muốn loại trừ Lời Chúa phải loại trừ những con người rao giảng Lời Chúa, những con người sống theo giáo huấn của Người. - Trong một tổ chức mà ai cũng nghĩ tới chuyện biển thủ, bớt xén của công thì những người sống thanh liêm trong tổ chức ấy sẽ bị coi là một cái gai phải nhổ đi.
- Trong mối quan hệ làm ăn, người nào không biết đến các quán bia ôm, các nhà chứa, các khách sạn sẽ bị coi là khờ khạo, là không biết điều, là không chịu chơi, và như thế hẳn mối quan hệ làm ăn sẽ khó lâu bền…
Chính như thế đó mà lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay thật quan trọng.
* Người thúc giục ta hãy can đảm rao giảng và sống Lời Người.
+ Người trấn an ta đừng sợ những hệ lụy sẽ xảy đến do việc rao giảng và sống lời ấy.
+ Người bảo đảm ta sẽ được đền bù trước nhan Cha trên trời.
Ta có dám sống và làm chứng cho Tin mừng của Chúa Giêsu không?
Giáo Hội cũng mừng kỷ niệm 41 năm thành lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam. Từ khi vị thừa sai: 24/11-14
Giáo Hội cũng mừng kỷ niệm 41 năm thành lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam.
Từ khi vị thừa sai Phan-xi-cô Buzomi ( Francesco Buzomi, SJ. ) có công thiết lập cơ cấu giáo xứ đầu tiên ở Việt Nam bước chân lên nước này năm 1615 cho tới khi hàng Giáo Phẩm Việt Nam được thiết lập năm 1960, thời gian kéo dài xấp xỉ 3 thế kỷ rưỡi. Giai đoạn lịch sử ấy lần lượt được đánh dấu bằng việc thiết lập thành phần nhân sự quan trọng cho việc xây dựng Giáo Hội địa phương.
Khởi sự cha Đắc-lộ ( Alexandre de Rhodes, SJ. ) đã khai sinh ra hội Thầy Giảng năm 1630. Nhưng quan trọng hơn gấp bội là năm 1659 Toà Thánh thiết lập hai giáo phận Đàng Ngoài và Đàng Trong và đặt dưới quyền quản trị của hai vị tân Giám Mục Francois Pallu ( Phan Lữ ) và Pierre Lambert de la Motte. Đó là hai vị đồng sáng lập hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris ( MEP ). Chính Đức Cha Pierre Lambert de la Motte trong 3 năm 1668 – 1670, đã ban chức Linh Mục cho 9 người Việt Nam đầu tiên, hầu hết xuất xứ từ hội Thầy Giảng. Chín Linh Mục này làm nên hàng giáo sĩ Việt Nam đầu tiên.
Từ cuộc phong chức Linh Mục do Đức Cha Pierre Lambert de la Motte cho người Việt Nam đầu tiên là thầy Giu-se Trang 28 tuổi năm 1668, tới cuộc phong chức Giám Mục cho Cha Gio-an Bao-ti-xi-ta Nguyễn Bá Tòng do Đức Thánh Cha Pi-ô XI năm 1933 tại Rô-ma, giai đoạn ấy kéo dài 2 thế kỷ rưỡi. Từ khi có Giám Mục Việt Nam cho tới khi có hàng giáo phẩm Việt Nam, giai đoạn lịch sử ấy chỉ kéo dài 33 năm.
Về nhân sự của giáo hội địa phương, kế tiếp việc thiết lập hàng giáo sĩ Việt Nam là việc thành lập Dòng Nữ Mến Thánh Giá tại Kiên Lao ( Nam Định ) và Bái Vàng ( Hà Nam ) do Đức Cha Pierre Lambert de la Motte năm 1670. Khi ấy Đức Cha cảm thấy như đã đạt được điều ngài mơ ước từ dịp viếng mộ hai Thánh Phan-xi-cô de Sales và Thánh nữ Gio-an-na Chantal tại Pháp năm 1657. Ơn soi sáng đã đến trên ngài với hình ảnh một Giáo Hội có Linh Mục và nữ tu là hai con kinh tuôn đổ Đức Tin và Đức Ái tràn lan trên một đất nước: Linh Mục là hiện thân của lòng nhiệt thành, liều mạng như người chiến sĩ xông pha nơi trận tuyến hiểm nguy; còn nữ tu là biểu tượng cho sự trong trắng và kết hợp đời sống cầu nguyện với công việc bác ái phục vụ.
Điều Đức Cha Pierre Lambert de la Motte mơ ước quả là hình ảnh lý tưởng về Giáo Hội không phải lúc nào cũng đạt được. Nhưng ơn Đức Tin và Đức Ái luôn phải có để làm nên Giáo Hội, đặc biệt trong thời cấm đạo. Cũng chính ơn Đức Tin và Đức Ái làm nên các Thánh Tử Đạo.
Mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Lịch sử 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam ăn khít với quãng thời gian 117 năm giữa 1745, khi hai vị Thánh Phan-xi-cô Frederich Tế và Mát-thêu Liciniana Đậu hy sinh mạng sống cho tới năm 1862, khi Thánh Phẹ-rô Đa vừa bị thiêu vừa bị trảm quyết. Tất cả 117 vị đã chịu chết vì Đức Tin dưới các triều đại vú Lê Chúa Trịnh, Tây Sơn và triều Nguyễn ( Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức ).
Trong số 117 vị Tử Đạo có 8 vị Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 giáo dân, trong số này có một phụ nữ là Thánh A-nê Lê Thị Thành, người mẹ của sáu người con.
Các vị ấy chỉ là tượng trưng cho hàng mấy trăm ngàn người đã chịu chết vì đạo trong ba thế kỷ 17, 18 và 19. Đầu tiên phải kể trong tổng số ấy, thầy giảng An-rê Phú Yên bị trảm quyết vì đạo ngày 26.7.1644 trước sự có mặt của cha Đắc-lộ. Thi hài thầy An-rê được chôn táng trong nhà thờ dòng Tên tại Macao. Cuối năm 1645 khi về Âu Châu, cha Đắc-lộ đã đem đầu thầy sang Rô-ma, còn thân vẫn còn ở Macao.
Cũng phải kể tới những vụ sát hại tập thể ở Biên Hoà và Bà Rịa 1861 – 1862. Riêng ở Bà Rịa khi ấy có khoảng 2.300 giáo dân từ lâu sống khá yên ổn cho tới tháng 8, 1861. Chính những cuộc hành quân của binh đội Pháp tại Biên Hoà cuối năm 1861 sang năm 1862 đã làm cớ cho nhiều vụ giáo dân bị sát hại tập thể. Hồi tháng 9 năm 1861 nhà cầm quyền tại Bà Rịa nhốt những người Công Giáo bị bắt vào bốn ngục: ngục Dinh là ngục chính ở ngay Bà Rịa, nhốt 300 đàn ông; ngục Thơm ở Long Kiên khoảng 4 cây số về phía Bắc Bà Rịa, giam 135 đàn bà con nít; ngục Thành ở Long Điền giam 140 đàn bà con nít; ngục thứ bốn tại họ đạo Đất Đỏ, nhốt 125 đàn bà trẻ con. Bốn ngục chứa tổng số là 700 tín hữu ngày đêm có lính canh gác cẩn mật. Nhưng với ba ngục giam phụ nữ và trẻ em, lính gác có phần dễ dãi hơn.
Vì thế một Linh Mục Việt Nam có thể tới thăm viếng và ban Bí Tích cho nhiều người bị giam ở ba ngục này. Đó là cha Trí giả dạng đi buôn, gánh hai tĩnh nước mắm vào bán trong ngục. Chính cha Trí ngày 8.1.1862 tới tận ngục Dinh nơi bao giáo hữu từng bị giam thì chỉ còn thấy một đống tro tàn với xác chết nằm ngổn ngang mà chính ngài cùng với một Linh Mục nữa đã lo chôn cất.
Nhìn về phía trước: Sứ mạng giới thiệu Chúa Giê-su
Từ ngày cha Trí lo chôn xác 288 tín hữu chết vì Đạo tại Bà Rịa tới nay, 139 năm đã trôi qua. Điều không thể tưởng tượng được là phần mộ tập thể của gần 300 chứng nhân anh dũng tại Bà Rịa nay nằm trong lãnh thổ của Giáo Phận Xuân Lộc với dân số tín hữu đông đảo nhất. Từ Bà Rịa nhìn ra vùng biển Vũng Tàu ngoài tượng Chúa ở Ô Quắn đang dang tay ôm ấp thế giới, nay còn có bức tượng Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa cao 30 mét trên núi Bãi Dâu, đang giới thiệu Chúa Giê-su cho thế giới.
Bối cảnh cởi mở và lạc quan ấy xem ra không thích hợp lắm với bài Tin Mừng Ga 17,11b – 19 được chọn cho Thánh lễ Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay. Xem ra có sự đối kháng không thể nào hoà giải được giữa thế gian và các môn đệ của Chúa Giê-su.
Nhưng ở đây Chúa Giê-su trong bữa tiệc ly đang cầu nguyện cùng Cha cho các môn đệ. Người ngỏ lời cùng Cha là Đấng Thánh ( c.11 ). Sự kiện các môn đệ thuộc về Thiên Chúa ( c.9 ) là lý do tại sao các môn đệ phải tách rời khỏi thế gian vì trong Cựu Ước sự Thánh thiện của Thiên Chúa đối kháng với các thế tục. Một cách đặc thù, các môn đệ cần được Thánh Hiến trong sự thật tức là trong chính lời của Thiên Chúa. Các môn đệ đã lãnh nhận và đã giữ lời mà Chúa Giê-su mang lại cho họ từ Thiên Chúa ( 17, 6.14 ); chính lời đó đã làm cho họ nên sạch ( 15, 3 ); bây giờ lời đó đặt họ riêng ra nhằm sứ mạng là truyền lại lời đó cho người khác ( 17, 20 ).
Vậy bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta là con cháu các Thánh Tử Đạo Việt Nam 3 điều sau đây:
Người Ki-tô hữu chúng ta thuộc về Thiên Chúa theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải sống rõ nét Đức Tin mà Thiên Chúa ban cho ta. Giữa một thế giới xem ra dễ dàng hơn nếu ta chấp nhận điều kém hơn Đức Tin và kém hơn sự công chính của Thiên Chúa, ta biết ta phải về phe với ai. Rõ ràng các Thánh Tử Đạo đã về phe với Chúa Giê-su và đã phải trả giá bằng chính mạng sống của các ngài.
Người Ki-tô hữu cần nhìn mọi sự và mọi người với cặp mắt yêu thương của Thiên Chúa. Thiếu Đức Tin là thiếu cặp mắt yêu thương của Thiên Chúa, thế giới loài người xem ra sẽ là một thế giới quá xấu để Thiên Chúa có thể sai Con của Người đến cứu chuộc. Không một vị Thánh Tử Đạo nào lại bi quan như vậy. Các ngài chết là để đón nhận ơn cứu chuộc do Con Thiên Chúa xuống thế làm người.
Dấu chỉ thời đại cho thấy phải đối thoại thay vì đối kháng. Sẽ chẳng có đối thoại nếu không chia sẻ Đức Tin với người khác, nếu không đánh giá các nền văn hóa theo giá trị tương đối của mỗi nền văn hoá, nếu không quan tâm tới công bằng.
Con cháu các Thánh Tử Đạo Viêt Nam cần nhìn về phía trước. Cuộc đối thoại liên quan tới điều gì đó là cơ bản nơi con tim nhân loại: Đó là lòng ước ao tìm kiếm Thiên Chúa giữa một thế giới mang đầy vết thương do tội gây nên. Các Thánh Tử Đạo đã gánh lấy gánh nặng do hậu quả của tội chất lên vai các ngài. Về phần ta, để có sự khả tín trong đối thoại, ta đã có trong con tim của ta sự sẵn sàng đó chưa ?
Đây là một kiểu nói trong tông thư Tertio millennio adveniente. Kiểu: 24/11-15 Đây là một kiểu: 24/11-15
Đây là một kiểu nói trong tông thư Tertio millennio adveniente. Kiểu: 24/11-15 Đây là một kiểu nói trong tông thư Tertio millennio adveniente. Kiểu nói này của Đức Gio-an Phao-lô II trong bài diễn từ ngắn tiếp phái đoàn Bun-ga-ri ngày 23-5-1995. Đức Giáo hoàng nói như sau :"Khi sắp bước vào thiên niên kỷ III, chúng tôi cảm thấy bị thúc đẩy phải đọc các dấu chỉ thời đại một cách chăm chú hơn. Chúng tôi thấy trước mắt các vị tử đạo và các thánh của nhiều Hội thánh khác, nghĩa là lời chứng của các tín hữu nam nữ thuộc nhiều Hội thánh và Cộng đồng khác nhau. Các vị đó nêu một tấm gương chung cho mọi Ki-tô hữu."
Các ý tưởng dưới đây rút ra từ chương VIII trong sách Tertio millennio adveniente, Commentaire théologique et pastoral và từ bài The horizon of the Cross in new Evangelization của Marco Gnavi trong tập tài liệu Tertium Millennium. Bài này là bản báo cáo vắn gọn về buổi họp lần đầu của tiểu ban nghiên cứu về thuyết tử đạo mới. Chương VIII trong sách Chú giải thần học và mục vụ về thiên niên kỷ III có thể được tóm gọn như sau :1. Nhìn qua danh từ tử đạo2. Thần học đầu tiên của thánh Pô-li-cáp về tử đạo3. Tử đạo theo Tin Mừng4. Nền tảng tử đạo theo Ki-tô giáo5. Yếu tố hàm chứa trong thần học của các giáo phụ về tử đạo6. Thế giới ngoại đạo trước vấn đề tử đạo7. Tử đạo vẫn tồn tại trong Hội thánh8. Tử đạo theo Công đồng Va-ti-ca-nô II9. Bậc đồng trinh và đời đan tu có thể thay thế cho tử đạo10. Nới rộng quan niệm tử đạo11. Tính đại đồng phổ quát của tử đạoCông đồng Va-ti-ca-nô II chỉ dùng chữ tử đạo 6 lần và theo một nghĩa riêng biệt, với chiều kích rộng lớn phổ quát, tuy vẫn quy chiếu vào ý niệm tử đạo có từ trước.
Theo Công đồng, tử đạo là được đồng hóa với Thầy mình, sẵn sàng chết để cứu độ trần gian, và cũng như Thầy, đổ máu đào ra để làm chứng cho việc đó. Hội thánh coi tử đạo là ơn cao cả, là bằng chứng tột đỉnh về đức tin. Chẳng mấy ai được phúc này, nhưng ai ai cũng phải sẵn sẳng tuyên xưng Đức Ki-tô trước mặt thế gian, và theo Người trên con đường thập giá , giữa những cơn bắt bớ thường luôn xảy ra cho Hội thánh. (LG..42)Trong cuốn Excursus sur le martyre, cha Karl Rahner có những suy nghĩ thần học gợi ý như sau : "Tử đạo đơn thuần là cái chết của người Ki-tô hữu. Tử đạo là một phần cốt yếu của Hội thánh. Thật ra, Hội thánh không nguyên làm chứng cho Đức Ki-tô bị đóng đinh mà còn làm chứng cho Lời mình sống thành hiện thực nữa. Hội thánh sống cái chết của Đức Ki-tô trong hết mọi người, mang thập giá của Đức Ki-tô ở giữa bóng tối của thế gian và mang dấu thánh của Đức Ki-tô, những dấu ấn bí ẩn trong đời thường mỗi ngày. Hội thánh phải là dấu hiệu thiêng thánh về thực tại thầm kín này, trong thế giới ngày nay. Hội thánh ở trong tình trạng tử đạo.
Ở đây, Hội thánh tự tạo cho mình một hình thức rỏ ràng nhất, trong sáng nhất, một mạc khải tồn tại cho đến cùng."Cha Urs von Balthazar cũng nói giống như vậy, khi nhấn mạnh rằng tình trạng bách hại là tình trạng thông thường của Hội thánh trong thế gian và tử đạo là trạng thái bình thường của lời chứng Ki-tô giáo. Etienne Barbarin cũng theo một dòng tư tưởng, khi trình bày việc tử đạo là cách thế thực hiện hoàn hảo nhất lời chứng, vì cái chết tuy được chuẩn bị bằng cả đời sống, nhưng đã bắt đầu và thực hiện trong mỗi lựa chọn hằng ngày.Bậc đồng trinh và đời đan tu có thể thay thế cho tử đạoNgay từ xưa, người ta đã tìm những cách thế biểu hiện việc tử đạo. Những cách thế này xoay quanh những bậc đời có thể diễn tả sự hy sinh chính mình, và đức tin hoàn hảo, do đấy có thể được coi như một sự sửa soạn chịu tử đạo hay có liên quan đến tử đạo. Vì thế, bậc đồng trinh và đời đan tu vẫn được coi là những con đường gần nhất với tử đạo. Các trinh nữ và các đan nữ xuất hiện vào thời cấm đạo hồi xưa, dưới mắt mọi người, vẫn là những vị kế thừa các anh hùng tử đạo. Từ đó nẩy sinh ba mẫu tử đạo : tử đạo đỏ là đổ máu ra ; tử đạo trắng là sống đời hãm mình trinh tiết và tử đạo xanh là chịu đày đọa, để làm chứng cho đạo ở một nơi không phải là quê hương xứ sở mình.Chính trong đường hướng này mà thành hình ý thức ước ao tử đạo, nhờ các bậc thầy dạy đường nhân đức hướng dẫn.
Thánh Tê-rê-xa A-vi-la kể rằng khi bà cùng với người em tìm cách trốn khỏi nhà là vì muốn tìm dịp tử đạo. (Vie I,4-5) Bà cũng nói : "Đời sống của các tu sĩ tốt lành và những ai muốn là bạn hữu của Thiên Chúa là một cuộc tử đạo." (Đường hoàn thiện 12,2). Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng nói một cách thẳng thắn rằng:"Tôi cảm thấy tôi có ơn gọi làm chiến binh, tông đồ, tiến sĩ và tử đạo. Tử đạo là giấc mơ trong tuổi trẻ của tôi. Và giấc mơ ấy đã trở thành mãnh liệt, khi tôi ở trong bốn bức tường của nhà kín. Nhưng tôi cảm thấy rằng giấc mơ đó là một sự điên rồ và vì thế tôi đã hiểu tình yêu quy tụ mọi ơn gọi nơi tôi. Vâng cuối cùng tôi đã khám phá ra ơn gọi của tôi : ơn gọi của tôi là yêu mến." (Tự thuật)Nới rộng ý niệm tử đạoNền thần học hiện đại, khi bàn về tử đạo thường nói đến khả năng nới rộng ý niệm tử đạo, bởi vì trải qua lịch sử, ý niệm này mỗi thời được trình bày một khác. Ở Châu Mỹ la tinh, hiện nay người ta đề nghị nên hiểu tử đạo là những ai cống hiến đời mình để hoạt động cho xã hội thay đổi, nhằm làm cho nhiều người được hưởng một đời sống xứng với nhân phẩm, và mọi người được hưởng công lý một cách rộng rãi và đầy đủ hơn.
Lý do thần học xui khiến người ta cảm nghĩ như vậy là việc thuộc về Chúa Ki-tô không chỉ thực hiện qua đời sống theo lương tâm, mà còn qua hành động, trong mức độ hành động đó cũng theo một tinh thần và một lối hành xử như Chúa Ki-tô. Bởi vậy, vấn đề ở đây không phải là tử đạo theo đức tin Ki-tô giáo mà thôi, nhưng là tử đạo theo ý nghĩa Triều đại Thiên Chúa, nghĩa là sống như Con Chúa Trời đã sống khi ở giữa chúng ta.Trong đường hướng này, người ta nhấn mạnh đến lý do của đức tin, nhưng còn hơn nữa, lý do của tình yêu. Đức Gio-an Phao-lô II nhắc đến "những vị tử đạo của đức công bình và gián tiếp của đức tin. Do đó, không có gì lạ khi báo Osservatore romano viết :
"Nhiệm vụ của các nhà thần học là đưa ra những lý lẽ để minh chính hóa chân dung các vị tử đạo tân thời. R. Fisichella mới đây có đề nghị đề tài nới rộng ý niệm tử đạo và kết luận một cách chính xác như sau: "Lòng can đảm của các vị tử đạo đưa trí chúng ta nghĩ tới sự can đảm luôn luôn đi tìm kiếm những hình thức và kiểu sống mới. Lòng can đảm ấy loan báo sức mạnh chiến thắng của con người Chúa Ki-tô, ngay cả bây giờ ở giữa con cái Người. Những người này là những kẻ tuyên xưng như các tín hữu đầu tiên Người là Chúa và là chứng nhân trung thành."Tính phổ quát đại đồng của các vị tử đạo chung Điều này theo kiểu nói trong Tertio millennio adveniente có thể hiểu và chấp nhận được, nếu nói về các vị tử đạo chung, như trường hợp thánh Si-ri-lô và thánh Mê-tô-đi-ô, hai vị thánh đồng bảo trợ của Âu châu, vì các ngài là những vị đã truyền đạo cho các dân tộc La-vô-ni-a. Nhưng còn sau đó thì sao ? Thiết tưởng chúng ta có thể dựa vào tông thư Orientale lumen năm 1995 mà nói. Tông thư viết :
"Nhân dịp thứ Sáu Tuần thánh năm 1994, Đức Thượng Phụ giáo chủ Công-tăng-ti-nốp Ba-tô-lô-mai-ót I tặng Hội thánh Rô-ma bài suy niệm của người về "Đường thánh giá", tôi đã muốn nhắc lại sự hiệp thông này trong kinh nghiệm gần đây về việc tử đạo : "Chúng ta đã hợp nhất với nhau trên một tấm nền chung là các vị tử đạo, vì thế, chúng ta không thể không hợp nhất với nhau trong nhiều vấn đề khác." (OL 19) Sau đó, tông thư viết thêm :
"Tiến tới chỗ nhìn nhận chung sự thánh thiện của các Ki-tô hữu trong những thập niên qua đã đổ máu mình ra vì đức tin duy nhất vào Đức Ki-tô là một cử chỉ rất có ý nghĩa."Chúng ta đang đứng trước một vấn đề có một mật độ giáo hội học rất sâu đậm gắn liền với sự hiểu biết về mầu nhiệm các thánh cùng hiệp thông. Các mối liên lạc giữa Hội thánh trên trời và Hội thánh dưới đất diễn ra trong một tình trạng hoàn toàn quy hướng về Chúa Ki-tô và bí tích Thánh Thể. Mối liên lạc với Chúa Ki-tô là nền tảng không thể thay thế được trên con đường thánh hóa, và sự hiệp thông trong đức tin và trong tình thương đối với các thành phần trong Hội thánh được coi như một lời tạ ơn. Mầu nhiệm các thánh cùng hiệp thông được nhìn như một viễn tượng tổng hợp có khả năng làm cho sự hợp nhất giữa Ki-tô học và Giáo hội học thành hữu lý, bởi vì đó là phản ánh hoạt động của Chúa Ki-tô trên Hội thánh và vì Hội thánh. (LG..45,51)
Theo Lumen Gentium, việc thuộc về Hội thánh được biểu lộ trong cung cách chấp nhận đầy đủ ba mối dây hiệp thông sau đây : đức tin, các bí tích và thừa tác vụ theo phẩm trật (LG.14) Trong trường hợp những người không phải là Công giáo, tất nhiên sự chấp nhận những mối dây liên hệ trên không đầy đủ, nhưng dù vậy vẫn có nhiều yếu tố thánh hóa và đem lại chân lý ở ngoài cơ cấu của Hội thánh Công giáo. Đó là những yếu tố tự chúng kêu gọi sự hiệp nhất Công giáo, vì chúng thuộc riêng về Hội thánh do ơn Chúa ban. (LG. 8) Trong đường hướng này, sắc lệnh Unitatis Redintegratio quả quyết : "Các Hội thánh và Cộng đồng tách biệt này, dù chúng ta nghĩ rằng họ có những mặt khiếm khuyết, nhưng họ không hề thiếu ý nghĩa và giá trị trong mầu nhiệm cứu độ." (VR,3)Những chỉ dẫn nêu trên đặt chúng ta vào một đường hướng giáo hội học đúng đắn, để nói lên tính đại đồng phổ quát của các thánh và các vị tử đạo trong tương lai. Thật có lý để nghĩ rằng sẽ có một sự nhìn nhận chung, theo gợi ý trong Orientale lumen số 25, các vị tử đạo Ki-tô giáo thuộc nhiều Cộng đồng tuyên xưng đức tin khác nhau, vì đó là một cách biểu dương sự hiện diện đầy quyền năng của Đấng Cứu chuộc loài người, nhờ các thành quả của đức tin, đức cậy, đức mến nơi các người nam và nữ thuộc nhiều chủng tộc và ngôn ngữ khác nhau đã theo Đức Ki-tô trong những hình thức khác nhau của ơn gọi Ki-tô giáo." (số 37)
Đó thiết tưởng là một trong những lý do xui khiến tạo ra kiểu nói tử đạo mới, vì kiểu nói này có thể là một trong những nền tảng quan trọng giúp chúng ta duyệt xét lại lương tâm, nhằm tiến tới việc hiệp nhất giữa các Ki-tô hữu và gặp gỡ nhau xuyên qua mọi cách tuyên xưng đức tin khác nhau.Vì vậy, cần phải đào sâu ý nghĩa thần học và giáo hội học về tử đạo và giá trị đại kết của hành động này.
Theo truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên Giám mục địa phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc: 24/11-16
Theo truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên Giám mục địa phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì đạo ngày 28.10.1858, ngài đã bị xử án lăng trì, nghĩa là bị chặt chân chặt tay và bị cắt thịt ra từng mảnh. Tương truyền rằng khi thọ án ngài đã có những lời ta thán những kẻ hành hình ngài là độc ác. Nên vì câu nói ấy mà mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới được tôn lên bậc chân phước.
Truyền thuyết trên đây có thể không đúng với sự thật, nhưng dù sao nó cũng nhắc nhở chúng ta về điều này : Người tử đạo không phải là một anh hùng theo kiểu các anh hùng khác của nhân loại.
Thật vậy, các vị tử đạo không phải là những anh hùng ngã gục trên chiến trường với vũ khí trong tay, trong một cuộc chiến chống lại quân thù. Các ngài là những con người không biết thù ghét, mà cũng không được thù ghét bất cứ ai, trái lại luôn luôn tuân giữ mệnh lệnh Chúa Kitô truyền là “Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình”. Nếu các ngài có phải chiến đấu, thì đó là chiến đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp sợ của chính mình.
Vì thế, nếu có một người nào bị giết, tuy trên danh nghĩa vì đạo, nhưng lại căm thù những kẻ bách hại mình, hay kiêu hãnh tự phụ vì tính anh hùng của mình, thì người đó không thể nào là thánh được, mà cùng lắm chỉ có thể được coi như một anh hùng thôi. Cũng vì lý do đó mà Giáo hội Công giáo không bao giờ chấp nhận các tín hữu của mình tự sát, ngay cả trong trường hợp gọi là để bảo vệ đức tin hay Giáo hội.
Nói cách khác, người Kitô hữu được mời gọi trước hết để sống đạo, chứ không phải chết vì đạo, bởi vì Thiên Chúa là Chúa của sự sống, chứ không phải là Chúa của sự chết. Đàng khác, nếu chúng ta sống đạo đúng theo đòi hỏi của Tin Mừng, nghĩa là sống trọn tình bác ái đối với tất cả mọi người, thì cái chết chúng ta cũng có ý nghĩa là một cái chết vì đạo. Bởi lẽ chết vì đạo, trước hết phải là chết vì lòng yêu mến.
Các thánh Tử đạo Việt Nam xứng danh là những vị tử đạo theo cả hai nghĩa : Các ngài đã chết để tỏ lòng trung thành với Chúa, với Giáo hội, nhưng các ngài cũng chết cũng chết vì tình yêu mến, yêu Chúa, yêu Giáo hội, và yêu cả những người bắt bớ và làm khốn mình. Các ngài đã không thù ghét, không nguyền rủa, mà có khi còn tỏ lòng biết ơn vì vô tình họ đã trở thành những người Thiên Chúa dùng để ban phúc tử đạo cho các ngài.
Vua quan phong kiến có thể coi các ngài như những kẻ phản bội tổ quốc vì theo tả đạo, nhưng các ngài thực sự là những người yêu nước, yêu đồng bào, nên có vị tuy ước ao được phúc tử vì đạo, nhưng lại chấp nhận một cuộc sống chui nhủi, nay trốn chỗ này, mai trốn chỗ khác, đói khát, hiểm nguy không ngại, chỉ muốn tiếp tục được phục vụ anh em tín hữu của mình. Rồi một khi bị bắt, không một vị nào đã tìm cách chống cự, hay tỏ vẻ thù nghịch với vua quan lính tráng, trái lại vui vẻ chấp nhận cái chết như một cách tỏ lòng trung thành với Chúa và tổ quốc.
Thật vậy, nếu không vì muốn trung thành với tổ quốc, thì các ngài đã có thể phản đối hay chống cự, hoặc lên án những kẻ cầm quyền đã bách hại mình, nhưng các ngài đã cam tâm và bình thản chấp nhận cái chết mà không hề oán hận và hối tiếc. Trường hợp của thánh Phanxicô Trần văn Trung, cai đội, càng chứng tỏ là người Kitô hữu này chẳng hề muốn phản bội tổ quốc, vì ngài đã tình nguyện xin đi đánh giặc, nhưng vua quan từ chối, vì ngài không chịu bỏ đạo.
Noi gương ông cha mình, người Việt Nam Công giáo chúng ta hôm nay cũng phải gắn bó đời sống đức tin của mình với những đòi hỏi của đời sống con người trong xã hội, và trong cộng đồng dân tộc. Chẳng có gì mâu thuẫn giữa đức tin và lòng yêu nước. Nếu các vua chúa thời trước tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì nhiều vị tử đạo thay vì phải chết vì đạo, đã có thể sống đạo mà phục vụ tổ quốc và dân tộc một cách hữu hiệu và tốt đẹp biết bao.
Qua những lời Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về những bách hại gặp phải và thái đo: 24/11-17
Qua những lời Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về những bách hại gặp phải và thái độ phải có khi đối diện với những bách hại này. "Đừng lo sợ phải nói gì và nói thế nào, vì Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì". Sự bách hại là số phận không thể tránh được của người đồ đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp của người đồ đệ của Chúa phơi bày những tật xấu của thế gian.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan viết rõ ra lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và người đồ đệ như sau:
"Nếu thế gian ghét các con, các con nên nhận biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước các con. Nếu các con thuộc về thế gian thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng vì các con không thuộc về thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các con ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy dạy bảo: "Tôi tớ không trọng hơn chủ". Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc chắn họ sẽ bắt bớ các con".
Người đồ đệ được đồng hóa với Chúa Giêsu và chia sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ đệ cảm thấy mình như là yếu đuối, không sức mạnh để tự mình chống lại những bách hại. Sự yếu hèn của môn đệ là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì biết mình yếu đuối, người đồ đệ hết lòng tin tưởng vào Chúa, sống gắn bó với Người.
Phúc Âm theo thánh Mátthêu đã được viết ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên đã trải qua, như cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại Giêrusalem. Các tông đồ cũng đã từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự nhiên của con người trước những khó khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ của Chúa cần sẵn sàng cho mọi nghịch cảnh xảy ra.
Trong đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên đây, chúng ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã kêu gọi "đừng sợ" đến ba lần:
- "Các con đừng sợ những kẻ vu oan vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, vì sự thật luôn là sự thật".
Trung thành với sự thật đôi khi làm ta phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả cả bằng chính mạng sống mình.
- Lần thứ hai Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ và đừng sợ những kẻ có thể làm hại thân xác, làm thiệt thòi cho phần vật chất, nhưng không thể nào giết được linh hồn".
Lý do sâu xa của lòng can đảm Phúc Âm mà Chúa muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích thực về con người, bao gồm thể xác và linh hồn. Thể xác, vật chất có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn, tinh thần của con người sẽ không hề hấn gì nếu người đó vững lòng tin tưởng vào Chúa.
- Lần thứ ba Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ vì lý do các con quí trọng hơn chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng thì huống hồ là con người cao trọng hơn mà không được Thiên Chúa chăm sóc cho hay sao".
Đó là ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.
"Ai nhìn nhận Thầy trước mặt mọi người, thì Thầy cũng nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Thầy ở trên trời". Đó là những lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ đầu tiên ngày xưa, những vẫn luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm nay. Đừng sợ gian nan thử thách để theo Chúa, đó là sự can đảm của người Kitô qua mọi thời đại.
Lạy Chúa,
Xin giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm hồn để đón nhận Chúa đến sống với chúng con, để ban sức mạnh cho chúng con. Xin vì công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trở thành những chứng nhân trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Tôi thấy một số đông người không thể đếm được thuộ…. Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm: 24/11-18
“Tôi thấy một số đông người không thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước tòa Thiên Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá chiến thắng”.
Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng đoàn người chiến thắng đứng trước Ngai Thiên Chúa trên trời mà thánh nhân được Chúa cho thị kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau :
“Những người mặc áo trắng ấy là ai và họ từ đâu tới? Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn đại họa, đã giặt áo họ trong Máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân hạnh đứng trước tòa Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong đền thờ. Đấng ngự trên tòa sẽ chở che và phù trợ họ, họ sẽ không còn phải đói khát nữa, không còn bị mặt trời và nóng bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa tòa sẽ chăn dắt họ, sẽ đưa họ đến suối nước thiêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ”.
Qua ngày lễ kính các thánh Tử Đạo Việt Nam được toàn thể anh chị em Công giáo khắp Năm Châu mừng hôm nay, Giáo hội muốn khẳng định cho chúng ta và toàn thể Giáo hội hoàn vũ. Trong số đoàn người đông đảo đứng trước ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam, có cả con cháu dòng giống lạc hồng, các ngài đã trải qua những cơn thử thách gian truân, lấy mạng sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về với Thiên Chúa.
Các vị tử đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm 37 linh mục, 16 thầy giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số đông đảo giáo dân Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi muốn nêu bật trong bài chia sẻ hôm nay.
Điểm son thứ hai tôi muốn lưu ý với anh chị em hôm nay, các thánh Tử đạo là những công dân hiền hòa, sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng đế, không phò vua bách hại, nhưng một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại, họ chỉ cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như câu: “Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới hay”.
Cuối cùng điểm son thứ ba tôi muốn nêu bật, là những thành tích vẻ vang để chứng tỏ niềm tin sắt đá các thánh Tử đạo Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo hội, là lòng tôn kính của các ngài đối với thập giá. Đối với các thánh Tử đạo Việt Nam, chết tang thương, chết treo trên thập tự để minh chứng tình yêu tột đỉnh của mình đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại, vì thế không một khổ hình nào có thể di chuyển đôi chân của các ngài tự ý bước qua thập giá. Không bước qua thập giá để không chối bỏ đạo dù phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị Tử đạo Việt Nam đã nêu gương yêu mến thập giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên ấy bằng chính mạng sống của các ngài.
Cùng với anh chị em Công giáo khắp năm châu mừng kính lễ các thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa ý thức rằng, cuộc sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những dòng chữ đầu trong các trang sử của Giáo hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu mời và thách đố. Hãy noi gương các vị tiền nhân anh dũng để chúng ta cùng nhau viết lên thành tích của lòng trung thành và can đảm sống đạo, sống cuộc sống chứng nhân cho tình yêu qua những hành động cụ thể, để tha thứ, hòa giải và chung tay xây dựng đất nước cũng như chứng nhân cho ý nghĩa thập giá qua nếp sống hằng ngày của mình, mỗi người trong địa vị, mỗi người trong môi trường sống của mình.
Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam cầu bầu cho quê hương đất nước được quốc thái dân an, xin cầu bầu cho Giáo hội Việt Nam được luôn trung thành với niềm tin, đức cậy và lòng mến trung thành.
Trong những năm giảng dạy, có lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Các con sẽ: 24/11-19
Trong những năm giảng dạy, có lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Các con sẽ làm chứng về Thầy”. Và chứng ấy là “Người ta sẽ hành hạ và giết các con”. Dù không thuộc lịch sử Giáo hội cho lắm, chúng ta đều biết rằng : Trong ba thế kỷ đầu, Giáo hội Công giáo đã bị bắt bớ, hành hạ ghê rợn, và không biết bao nhiêu người, từ Giáo hoàng trở xuống, đã đổ máu ra làm chứng đạo Chúa. Rồi lịch sử đạo Công giáo ở Việt Nam cũng thế, dù chúng ta không hiểu biết nhiều lắm, nhưng ai cũng biết rằng : Đây là những trang sử oai hùng, những trang sử mà không một trang nào lại không được tô điểm bằng những nét vàng son chói lọi, và những cái chết anh hùng của tiền nhân chúng ta dưới đủ mọi hình thức tàn bạo, ghê gớm.
Quả thực, có thể nói : Đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bu-giơ-mi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giờ. Vài chục năm sau, cuộc bắt đạo đầu tiên xảy ra thời chúa thượng Nguyễn Phúc, khiến hai thày Inhaxiô và Âu tinh chịu trảm quyết năm 1645 ở Huế. Kể từ năm 1665, việc cấm đạo xem ra liên tục hơn, lúc căng lúc dùng. Hầu hết các thánh đường bị triệt hạ, đất đai nhà chung bị tịch thu và hàng trăm người được phúc tử đạo vào thời Trịnh Cương và Trịnh Giang. Từ năm 1706 đến 1740. Cuộc bách hại kéo dài khốc liệt và đẫm máu hơn qua thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đến thời Văn Thân, khiến nhiều thừa sai ngoại quốc và không biết bao nhiêu linh mục và giáo dân Việt Nam đã phải đổ máu để gieo vãi hạt giống Tin Mừng.
Suốt ba thế kỷ cấm đạo, dưới sáu triều đại, khi thăng khi trầm, Giáo hội Việt Nam có được khoảng 100.000 vị tử đạo. Trong số đó có 117 vị được phong thánh Tử đạo vào ngày 19.6.1988 do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hiện nay cũng có mười vị được phong “đáng kính” và 1.000 vị được kể vào bậc “tôi tớ Chúa”. Cái chết của các vị tử đạo nói lên điều gì và dạy chúng ta điều gì?
Chúng ta không những nhìn nhận mà còn xác tín rằng : Những người chết vì Chúa như thế được gọi là tử đạo, nghĩa là những chứng nhân của đạo Chúa. Tại sao vậy? Bởi vì khi ấy cũng như ngày nay, Giáo hội dùng cái chết của các ngài để minh chứng đạo Công giáo là đạo của Chúa. Các ngài lấy máu mình để làm chứng, không phải là làm chứng cho một lý tưởng, nhưng là cho một việc. Chết cho một lý tưởng chưa phải là bằng chứng quyết định cho lý tưởng ấy, vì người ta có thể tưởng lầm rằng : Lý tưởng ấy là đúng, và chết cho một lý tưởng chỉ minh chứng mình có lòng ngay, mình thành thực. Nhưng khi người ta chết cho một việc thì khác, đó chính là cái chết của các vị tử đạo : Trước cái chết, các ngài tỏ ra can đảm, anh hùng, cương quyết, bình tĩnh, khiến cho mọi người phải thán phục.Trước cái chết, các ngài không sợ hãi, khuyến khích nhau, tha thứ, cầu nguyện cho kẻ bách hại mình, và vui vẻ tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó, cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định : Các ngài là những chứng nhân cho đạo Chúa. Vì thế, danh từ “Tử đạo” có nghĩa là làm chứng, và dùng đau khổ, cái chết để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: “Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ cho người khác chém để làm chứng”.
Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ : Tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho một số người, nhưng bổn phận làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng, và chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. Chúng ta cần thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng chính đời sống tốt đẹp, dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả.
Người ta kể rằng : tại Trung Quốc trong những năm trước năm 1950, có nhiều giáo sĩ đã được gửi đến truyền giáo tại nước này. Người ta đã mở những lớp dạy tiếng Trung Hoa cho những giáo sĩ ngoại quốc để có thể tiếp xúc với dân chúng địa phương. tại một lớp nọ có khoảng 70 người theo học, trong buổi học đầu tiên, bà giám đốc của trường bước vào lớp học. Bà ta đi qua từng hàng ghế từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên, tươi cười nhìn các học viên, rồi cuối cùng đi ra khỏi lớp mà không nói một lời nào. Các học viên đều ngạc nhiên về việc làm của bà giám đốc. Một lát sau, bà ta trở lại lớp và hỏi: “Quí vị đã tiếp thu được điều gì hôm nay chưa?”. Mọi người đều ngơ ngác vì bà đã dạy gì đâu? Có một người đứng lên nói: “Chúng tôi chưa nghe bà nói một lời nào. Nhưng chúng tôi chỉ để ý có một điều, khi bà đến lớp này, bà đã xức một loại nước hoa thơm quá”.
Cả lớp phá lên cười. Lúc đó, bà giám đốc tươi cười nói: “Tôi cố ý xức nước hoa thật nhiều để quí vị chú ý đấy. Nếu quí vị đã nhận ra được điều ấy là hôm nay quí vị đã học được một bài rồi. Qua điều ấy tôi muốn nói với quí vị rằng : Quí vị sẽ sống khoảng hai năm ở nước này như những người câm vì quí vị không nói chuyện được với những người Trung Hoa. Tuy nhiên, quí vị vẫn có thể để lại cho những người chung quanh quí vị một mùi thơm đặc biệt qua nếp sống của quí vị, để dầu không nói một lời nào, nhưng người khác cũng vẫn nhận ra được hương thơm của Chúa qua quí vị”.
Là con cái của Chúa, chúng ta có thể đem đến cho trần gian, cho những người chung quanh, hương thơm ngào ngạt của Chúa qua nếp sống hàng ngày của chúng ta mà không cần nói một lời nào. Xin các thánh Tử đạo cầu bầu và trợ giúp để chúng ta luôn sống đúng và sống đầy đủ bổn phận làm chứng của chúng ta.
Lễ kính các thánh tử đạo là sự tuyên dương những con người đã dám chết.
Tại sao tuyên dương? Thưa vì người ta thường nghĩ “Không có gì quí hơn mạng sống”. Khi mạng: 24/11-20
Tại sao tuyên dương? Thưa vì người ta thường nghĩ “Không có gì quí hơn mạng sống”. Khi mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm cách để thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình. Thí dụ có người khi đói quá đã kiếm cỏ, kiếm vỏ cây để ăn, những thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn; có người bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của người khác, đã dành ăn với người khác; thậm chí có người còn dám ăn thịt người trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên không có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy nhiên có những người đã không theo bản năng sinh tồn ấy. Những người này không nghĩ rằng mạng sống là giá trị cao quí nhất, mà còn có những giá trị không cao hơn nhiều. Thí dụ :
- Trong trận động đất ở nước Nga, một người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa con của mình. Vì không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng nếu tình hình cứ tiếp tục thì sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn đầu ngón tay mình, lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.
- Hay như các anh hùng liệt sĩ, những người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc quê hương. Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản thân.
- Và các vị thánh Tử đạo cũng vậy, các ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
Tất cả những người vừa kể trên đều đã dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng các thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể thoát chết cách dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết : chỉ cần nói với quan một câu là “Tôi chịu bỏ đạo” thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản hơn chỉ cần thưa “vâng” khi quan hỏi “có chịu bỏ đạo không?”, hay đơn giản hơn nữa, không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái gật đầu hay chỉ để yên cho người ta khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi. Thế nhưng các ngài đã không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết của các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều điều suy nghĩ :
Điều thứ nhất cái chết ấy nói lên một quan niệm sống : sống không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng bất cứ giá nào. Nhưng sống còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo một lý tưởng thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống, lo sinh tồn. Còn người có lý tưởng và quí chuộng lý tưởng của mình thì không làm những gì nghịch với lý tưởng ấy; nếu bị buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản không cho sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để trung thành với lý tưởng cao đẹp của mình.
Một trong những điều tệ hại hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất là các thanh niên ở các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người ta không thể ăn hoài được, khi đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy ăn uống mãi rồi cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra những cách hưởng thụ khác như xì ke ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục khác thường… kết quả là bị mắc bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng du nhập vào xã hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh Tử đạo là một điều hữu ích : sống không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải là sống theo một lý tưởng cao đẹp.
Điều thứ hai chúng ta kính phục nơi các thánh Tử đạo là sự trung thực của các ngài : Trung thực là sống đúng theo điều mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có Thiên Chúa, có linh hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là các ngài đã tỏ ra trung thực với niềm tin ấy, cái chết của các ngài cho người ta thấy rõ là các ngài thực sự tin rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các ngài vẫn còn sống trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa. Thực tế ngày nay, nhiều người không còn trung thực nữa : họ nói rất hay nhưng họ không làm theo điều họ nói, có khi họ cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt thòi…
Và điều thứ ba khiến chúng ta kính phục các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một buổi nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác. Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”. Không biết cử tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo : các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
Lễ các Thánh tử đạo Việt Nam (được gọi là lễ Thánh Anrê Trn Dũng Lạc và các bạn tử đạo) ấn định: 24/11-21
Lễ các Thánh tử đạo Việt Nam (được gọi là lễ Thánh Anrê Trn Dũng Lạc và các bạn tử đạo) ấn định trong niên lịch phục vụ vào ngày 24 tháng 11 mỗi năm, và Hội Đồng Giám mục quyết định dời lễ kính vào ngày Chúa Nhật liền trước hoặc liền sau ngày 24 tháng 11, để giáo dân có dịp tham dự dễ dàng.
Thực ra việc kính Thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo bao gồm việc kính tất cả 117 vị tử đạo đã được Giáo Hội phong lên bậc hiển Thánh. 117 vị Thánh này có 96 Thánh Việt Nam (37 Linh mục, 14 thầy giảng, một chủng sinh và 44 giáo dân), 11 Thánh người tây Ban Nha (6 Giám mục và 5 Linh mục), 10 Thánh người Pháp (2 Giám mục và 8 Linh mục).
Thánh Anrê Dũng Lạc tử đạo ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai vị Thánh tử đạo đầu tiên là Linh mục Tế và Linh mục Đậu tử đạo ngày 22 tháng 1 năm 1745, và vị Thánh tử đạo sau cùng là giáo dân Phêrô Đa tử đạo ngày 17 tháng 6 năm 1862. Như vậy khi nói các bạn tử đạo với Thánh Anrê Dũng Lạc ta phải hiểu là các Thánh tử đạo kể từ năm 1745 tới năm 1862 (trong khoảng thời gian 117 năm).
Tất cả các vị Thánh này, chỉ vì kiên trung giữ vững đức Tin, quyết tâm không bỏ Chúa, không bỏ Giáo Hội, nên đã trải qua nhiều đau khổ, cơ cực, như bị tra tấn, bị đòn vọt đánh nát thịt da, bị kìm nung đỏ cặp vào chân tay, bị đói khát, bị mình trần phơi nắng nhiều ngày, bị gông cùm xiềng xích trong tù ngục nhiều tháng trời.v.v. và sau cùng hoặc bị chém đầu (án trảm), hoặc bị thiêu đốt (án thiêu sinh), hoặc bị xiết cổ đến chết (án giảo), hoặc bị cắt các chi thể rồi mới chém đầu (án lăng trì), hoặc bị cắt xẻ da thịt ra hằng trăm miếng (án bá đao). Cũng có vị, vì bị tra tấn quá dã man, bị đói khát, ngày đêm nhốt trong cũi chật hẹp, lại phải đeo xiềng xích, cùm chân tay, nên đã trút hơi thở cuối cùng, trước khi bị đem ra pháp trường.
Thánh Linh mục Du bị trói vào một cây cọc. Có 3 lý hình, một cầm kìm, một cầm dao, còn một người lo đếm cho đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét đá vào miệng ngài và cột chặt, để không có thể kêu la hay bỏ chạy được. Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán Cha Du lệt xuống che mắt, rồi cắt từng mảng hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn Cha Du giãy giụa quàn quại, ngướv mắt lên trời cao, rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa trần. Tiếp theo quân lính cắt đầu của vị tử đạo, bổ thân mình làm 4 và ném xuống biển. Còn thủ cấp Cha được đem đi bêu tại nhiều nơi, rồi đưa trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.
Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lện quan án sát. Vừa nghe lện, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nhge hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
Sáng ngày 5-6-1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ông cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ông.
Sau ba tháng tù tại Bình Định ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông.
Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh an năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
Bà Thánh Inê Đê (Lê Thị Thành), sau khi đã bị tra tấn và chịu đòn, coi trong người không có chỗ nào không bị thương tích, áo quần đầy máu me, bà đã trút hơi thở cuối cùng trong ngục. Lời sau cùng của bà là:
“Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.”
Hôm đó là ngày 12-7-1841, sau 3 tháng bị giam cầm về đức Tin.
Riêng những vị xử trảm, cũng có những gương sáng lạng về việc các ngài coi thường sự đau đớn lúc bị chém đầu. Coi như các ngài ước ao được chém nhiều lần để biểu lộ lòng yêu mến Chúa.
Trước khi bị chém Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ hay:
“Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức Tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời.
Năm ông Đaminh Nhi, ông Đaminh Mạo, ông Đaminh Nguyên, ông Anrê Tường, ông Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, bốn vị ông Đaminh Mạo cùng cá ông Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.
Riêng Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao;
“Thằng theo tà đạo, đức ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”
Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28-11-1835. Sáng hôm đó, anh gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa, cho đến chết.”
Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ Anrê Trọng đã đến đón convà theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ phải xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con.”
Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn:
“Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.”
Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, nhưng bà nhưa lấy kỷ vật đó là đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao thủ cấp con bà, cho bà.
Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại:
“Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.”
Đoạn Tin Mừng Mt 10,17-22 mà chúng ta vừa nghe rất phù hợp với hoàn cảnh của: 24/11-22
Đoạn Tin Mừng Mt 10,17-22 mà chúng ta vừa nghe rất phù hợp với hoàn cảnh của các thánh tử đạo Việt Nam. Các ngài đều đã trải qua kinh nghiệm bị bắt, bị nộp, bị hạch hỏi trước quan quyền và vua chúa, bị tra tấn, đánh đòn, bị ghét bỏ và cuối cùng là bị giết. Tất cả những đau đớn đó, các ngài đều chịu vì Đức Giêsu Kitô (c.18), vì Danh của Ngài (c.22).
Thử thách quan trọng nhất mà các ngài phải trải qua, đó là bước hay không bước qua thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống ở đời này, được trả lại tất cả những gì đã mất, được tặng thêm bao phú quí vinh hoa. Không bước qua là chấp nhận tù đày, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một quyết định là mọi chuyện sẽ thay đổi. Chỉ cần một bước chân…
Đã có người bước qua, và đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Âu tinh Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đa minh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: "Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển." Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của tôi. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: "Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được." Thánh Tê ô phanô Ven nói: "Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!"
Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ, điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu qua mọi thời đại.
Không bước qua thánh giá là làm chứng về niềm tin vào Đức Kitô. Dù chỉ là hai cây gỗ xếp chéo nhau, nhưng đó vẫn là một biểu tượng cho Thày chí thánh, Đấng đã chịu chết trên thánh giá. Các vị tử đạo đã không bước qua thánh giá, vì họ tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng các ngài không phải chỉ là những chứng nhân đức tin, mà còn là chứng nhân đức mến. Đức Giêsu không phải chỉ là Đấng các ngài tin, mà còn là Đấng các ngài yêu bằng một tình yêu lớn nhất: "Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Cuối cùng các vị tử đạo còn là những chứng nhân cho một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống đời sau. Cái chết khủng khiếp đang chờ họ, nhưng họ như nhìn thấy thế giới ở đằng sau cái chết tạm thời. Họ thấy thiên đàng, thấy sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường tồn. Chính vì thế cái chết tử đạo không bao giờ mang nét bi đát của sự tuyệt vọng. Trái lại, nó ẩn chứa một sự bình an, vui tươi của người được hạnh phúc gặp Đấng mình mới tin mà chưa giáp mặt. Trước khi đưa đầu cho lý hình, thánh Micae Hồ Đình Hy, một vị quan to của triều đình, đã thong thả rửa chân tay, rồi ngồi xếp bằng trên chiếu, bình tĩnh hút hết một điếu thuốc. Sau đó ông đứng lên thật bình thản sửa soạn lại đầu tóc, y phục cho chỉnh tề, rồi sốt sắng quỳ xuống cầu nguyện… Chính cách chết của các vị tử đạo nói với chúng ta nhiều điều. Nó vén mở cho chúng ta thấy đời sống thiêng liêng sâu xa của các ngài, đời sống tin - cậy - mến ở mức độ trổi vượt.
Có những thời điểm quan trọng trong đời vị tử đạo: lúc quyết định không bước qua thánh giá, lúc nghe bản án tử của mình hay lúc gươm kề cổ. Trong những lúc ấy chúng ta thường thấy các ngài can đảm, vững vàng, kiên quyết. Nhưng chúng ta có khi không thấy hết được những cuộc chiến nội tâm, những giằng co đau đớn diễn ra trước đó trong ngục thất. Chính Đức Giêsu cũng đã nếm trải kinh nghiệm này trong Vườn Dầu, khi Ngài đứng trước cái chết gần kề. Thời gian từ khi bị bắt đến khi bị tra hỏi, và bắt bước qua thánh giá, là thời gian lòng tin - cậy - mến chín mùi và trưởng thành. Những đau đớn do tra tấn, những lời mời mọc khéo léo, những đêm tối của đức tin, những khao khát muốn kéo dài cuộc sống: tất cả đều góp phần thanh luyện con người vị tử đạo. Đời sống cầu nguyện trong ngục thất, việc xưng tội rước lễ, lời cầu nguyện và sự nâng đỡ tinh thần của những người bên ngoài, đã giúp cho các vị chứng nhân dần dần dứt khoát trong lựa chọn của mình. Họ trở nên bình tâm, chẳng còn muốn điều gì ngoài Chúa, chẳng còn sợ những gì đe doạ mình. Ơn Chúa thấm vào con người vị tử đạo đến độ họ được mang một sức mạnh kỳ diệu từ trên. Nhờ ơn Chúa, một tạo vật nhỏ bé, yếu đuối, đã làm được điều phi thường này, đó là đặt Chúa lên trên mạng sống của mình, yêu Chúa trên hết mọi sự.
Làm chứng cho tình yêu
Khi nói đến các thánh tử đạo, chúng ta thường nghĩ đến những người chết vì tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Giêsu. Đó là trường hợp của 117 vị thánh tử đạo tại Việt Nam. Nhưng Hội thánh Công Giáo cũng coi thánh Gioan Tẩy Giả và thánh nữ Gôretti là các vị tử đạo, dù hai vị này chết vì dám nói lên một sự thật hay vì muốn bảo vệ nhân đức trinh khiết. Như thế khái niệm về tử đạo cần được hiểu rộng rãi hơn nữa. Vị tử đạo là người chết vì Đạo, chết vì muốn sống theo con Đường Tin Mừng của Chúa Giêsu, sống cho chân lý Phúc Âm. Trường hợp của cha Mác-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê là một thí dụ mới mẻ. Khi phong chân phước cho cha Kôn-bê vào năm 1971, Đức Phaolô VI không coi ngài là vị tử đạo, chỉ coi ngài là một người chịu đau khổ vì đức tin thôi (confessor). Nhưng khi phong thánh cho ngài vào năm 1982, Đức Gioan Phaolô II đã coi ngài là vị tử đạo (martyr). Chúng ta ai cũng biết cha Kôn-bê đã bị quân Đức bắt giam trong trại tập trung, và ở đây ngài đã tự nguyện chết thay cho một người tù khác có gia đình. Trong bài giảng lễ phong thánh cho cha Kôn-bê, Đức Thánh Cha đã nói như sau: "Cái chết được ngài hồn nhiên đón nhận vì yêu người đồng loại, cái chết ấy lại không làm trọn những lời của Đức Kitô sao? Cái chết ấy lại không làm cho cha Kôn-bê đặc biệt giống Đức Kitô sao, Đức Kitô là mẫu mực của mọi vị tử đạo, là Đấng hiến mạng sống mình cho anh em?"
Các vị tử đạo là những chứng nhân dám chết cho niềm tin, cho tình yêu, cho chân lý của Tin Mừng. Có thể chúng ta không được ơn tử đạo, nhưng chắc chắn chúng ta phải trở nên chứng nhân cho Chúa (Lc 24,48). Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát, thiệt thòi, bị coi rẻ. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin. Mỗi thời đại nhạy cảm với một lối làm chứng. Lối làm chứng của cha Kôn-bê, của mẹ Têrêsa ở Calcutta, của cộng đoàn Taizé bên Pháp, rất hấp dẫn con người hôm nay. Cần tìm được những lối sống Tin Mừng phù hợp khiến người ta dễ tin có Chúa, có linh hồn, có đời sau. Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi vật chất và không cần đến Thiên Chúa, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi sống một đời sống đơn sơ, chia sẻ và phục vụ trong vui tươi? Khi con người hôm nay như bị cuốn vào cơn lốc hưởng thụ, khoái lạc, quyền lực, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi làm chứng bằng thái độ thanh thoát, trong sáng và vô cầu?
Làm chứng cho Chúa bao giờ cũng là lội ngược dòng với thế gian. Nếu không gắn bó với Chúa, chúng ta không có can đảm làm chứng cho Ngài. Các thánh tử đạo tổ tiên chúng ta đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong thời đất nước chuyển mình theo kịp thế giới. Thời nào, người Kitô hữu cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của một tình yêu hiến thân, một sự từ bỏ tận căn, một sự khiêm hạ đến cùng. Chúng ta có bước qua thánh giá không?
Một số câu hỏi gợi ý
1. Nếu các Kitô hữu sống đúng theo Lời Chúa dạy, thì xã hội sẽ trở nên tốt hơn nhiều. Bạn thấy đất nước Việt Nam chờ đợi gì nơi người Kitô hữu Việt Nam? Chúng ta có thể đóng góp gì để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn?
2. Theo ý bạn, sống yêu thương, tha thứ, phục vụ, có phải là cách làm chứng hiệu quả cho Đức Kitô trên quê hương Việt Nam không?
Dụ ngôn những nén bạc Tin Mừng trưng ra hôm nay, giúp ta suy nghĩ rất nhiều về ơn sủng: 24/11-23
Dụ ngôn những nén bạc Tin Mừng trưng ra hôm nay, giúp ta suy nghĩ rất nhiều về ơn sủng nhưng không Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta. Khả năng, tài trí và vật chất, Chúa trao ban cho con người để con người sinh lời cho Thiên Chúa. Tuy nhiên, cái gia tài Chúa trao ban nhưng không cho con người lại tùy thuộc vào sự thiện chí và cách đáp trả của mỗi người. Chúa trao cho mỗi người tùy theo mức độ lãnh nhận và đáp trả người một nén, người 5 nén người 10 nén, ngày cuối cùng chúa tính sổ với từng người...
VẪN LÀ NHỮNG NÉN BẠC PHẢI SINH LỜI
Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô không phải là cái gì trên mây trên gió, lơ mơ, lù mờ, không thực tế, xa con người. Tin Mừng của Chúa Giêsu là một tin vui rất người, rất thực tế và gần gũi con người. Chúa Giêsu luôn dùng những ví dụ, những dụ ngôn xẩy ra trong đời thường của con người. Chúa dùng những gì xẩy ra xung quanh con người, xẩy ra chung quanh xã hội để dậy cho con người, cho loài người những gì thực tế nhất diễn ra trong đời thường, trong cuộc sống con người. Dụ ngôn những nén bạc là một ví dụ rất người, rất thực tế, dễ hiểu vì rằng khi ông chủ đi xa muốn trao cho mỗi người một số tiền, để dựa vào số tiền nhận được, con người tìm các làm lợi ra cho chủ. Sở dĩ, ông chủ muốn làm một cuộc trắc nghiệm thực tế để hiểu nhân công của mình. Ông đã trao tiền và kèm theo câu nói: "Hãy nhận số tiền lãnh nhận và sinh lời ra dựa trên số tiền này". Câu nói của ông chủ vừa có tính cách khuyến khích, vừa là lệnh truyền bắt buộc . Hiểu được ý chủ, người đầy tớ sẽ làm theo ý chủ của mình. Ông chủ là Thiên Chúa sẽ dựa vào sự quyết tâm và thiện chí của con người để thưởng, phạt theo sự công bình của Người. Khi lồng dụ ngôn này vào bối cảnh dụ ngôn 10 cô trinh nữ, Tin Mừng Matthêu muốn nêu lên cho con người về nguyên tắc căn bản để đạt Nước Trời, đó là tỉnh thức, tỉnh thức để thấy những điềm báo, những thời triệu của nhân loại, của xã hội, của lịch sử để nhận ra ý Chúa hầu có thể sống tốt đẹp và thừa hưởng được Nước Trời. Người Kitô hữu muốn lãnh nhận ơn cứu độ, lắng nghe lời Chúa không chưa đủ mà còn phải lời Chúa ra thực hành trong đời sống, làm cho lời chúa sinh hoa kết quả.
GIỜ CỦA CHÚA, MỖI NGƯỜI HÃY SẴN SÀNG
Dụ ngôn làm sáng tỏ cuộc đời của mỗi người. Các nén bạc tức các ơn huệ không là của ta. Chúa trao cho Ta để ta sinh lời ra và làm cho nhiều người được hưởng ơn ích do hoa quả ta làm ra. Chúa đổ vào tâm hồn ta những khả năng, tài trí để ta sinh lời ra để ta làm ích lợi cho ta và cho nhiều người. Chúa vẫn muốn ta phải sinh hoa kết quả. Chúa vẫn muốn ta phải sinh lời khi ta lãnh nhận quá nhiều ơn huệ nhưng không của Chúa. Như 5 cô trinh nữ khôn ngoan, Chúa muốn mỗi người chúng ta phải có thái độ tỉnh thức, chóng vánh, mau mắn và cầu nguyện. Chúa muốn chúng ta phải luôn sẵn sàng phục vụ cho Nước Trời, Cho Giáo Hội, cho con người. Chờ đợi Chúa đến luôn phải là thái độ mau mắn của mỗi người. Chúa trở lại sẽ không ngừng thúc đẩy chúng ta phải tỉnh thức, mau mắn vâng lời Chúa.
Như các thánh tử đạo Việt Nam mà Giáo Hội dành riêng cho Giáo Hội Việt Nam mừng kính hôm nay. Mỗi người Kitô hữu phải mau mắn, nhanh nhẹn và tỉnh thức để làm chứng cho Chúa Kitô dẫu có phải hy sinh tính mạng: " Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của kẻ hiến mạng sống vì người mình yêu" ( Ga 15,13 ).
Chúa Giêsu đã hiến mạng sống trên thập giá vì phần rỗi của con người. Chúa nói: " Tốt lắm, hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi coi sóc những việc lớn, hãy đến hưởng sự vui mừng với chủ ngươi".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết vâng phục ý Chúa để lắng nghe và làm cho lời Chúa sinh nhiều hoa trái tốt tươi.
Gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có cảm nghiệm gì về dụ ngôn các nén bạc. 2. Bạn nghĩ sao về ơn huệ Chúa ban cho bạn ?
Trong cộng đồng rộng lớn của Giáo hội, tôi xin chào thăm đặc biệt anh em việt kiều quí mến đến: 24/11-24
Trong cộng đồng rộng lớn của Giáo hội, tôi xin chào thăm đặc biệt anh em việt kiều quí mến đến đây từ mọi phương trời từ Châu mỹ và Châu á, từ úc châu và tất cả các nước âu châu. Tôi biết anh em đến đây vì muốn tôn kính các vị Tử đạo của anh em, nhtíng cũng muốn tái tạo chung quanh các vị Tử đạo tình huynh đệ, tình thân hữu, tình yêu thương vốn đầy tràn trong tâm hồn anh em, bởi vì tất cả anh em đểu có cùng một tổ quốc quê hương. Khi gợi lại những kỷ niệm của anh em, tức là anh em hướng về quê hương với lòng yêu và lòng thương nhớ, với một ước muốn sống giây phút hiệp thông đầy hy vọng giữa cuộc sống ở hải ngoại này. .
Khi cùng với anh em tuyên xtíng Chúa Kitô phịu đóng đinh, tất cả chúng tôi hôm nay đều muốn cảm tạ Thiên Chúa vì những chứng tá đặc biệt mà các thánh Tử đạo này là những người con đông đúc của Việt nam, hay là những vị thừa sai đã có những truyền thống Đức tin vào Chúa Kitô một cách sâu sa. Truyền thống của anh em nhắc nhở chúng tôi trong lịch sử Tử đạo của Giáo hội Việt nam từ lúc khởi đầu còn bao la và phức tạp hơn nữa. Từ năm 1533, tức là từ khi cuộc rao giảng Tin mừng Kitô bắt đầu từ Đông Nam á, Giáo hội Việt nam trong ba thế kỷ đầu đã phải chịu những cuộc bách hại nặng nề nối tiếp nhau, với một vài giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo hội Tây phương đã phải chịu trong ba thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn tín hữu Kitô chịu Tử đạo và đã có rất nhiều người chết trên rừng núi, trong những vùng rừng thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đầy tới. Làm sao có thể gợi hết các vị Tử đạo ra đây được, và cho dù chỉ được giới hạn vào những vị Tử đạo được tôn phong hiển thánh hôm nay, chúng ta cũng chỉ có thể dừng lại nơi một vài con số trong những vị Tử đạo của họ.
Thực vậy, có tất cả 117 vị thánh Tử đạo, gồm 8 giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân, trong số này có một phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con. Chỉ cần nhắc lại đây một, hai khuôn mặt như cha Vicente Dòng Đaminh chịu tử đạo năm 1773, đó là vị đầu tiên trong 96 vị Tử đạo Việt nam. Rồi có một linh mục khác là cha Anrê Dũng Lạc, cha mẹ của ngài vốn là những người ngoại đạo và nghèo túng. Từ thuở nhỏ ngài được ký thác cho một thầy giảng và sau trở thành linh mục vào năm 1823 , rồi làm cha sở và làm nhà truyền giáo ở nhiều nơi khác nhau tại Việt nam. Hơn một lần ngài đã được cứu thoát khỏi tù ngục nhờ giáo dân quảng đại nộp tiền chuộc. Ngài nhiệt tình ao ước được chịu phúc Tử đạo, ngài thường nói những người chết vì Đức tin thì được lên trời, thế mà ta cứ tiếp tục trốn tránh, chi phí tiền bạc để tránh thoát những kẻ bách hại, ta hãy để mình bị bắt và chịu chết thì hơn. Nhờ lòng nhiệt thành và ơn Chúa nâng đỡ như thế ngài đã chịu tử đạo, bị chém đầu tại Hà nội ngày 21.12.1839.
Như vậy hôm nay chúng ta có trước mắt các thánh Từ đạo Việt nam là những người theo Chúa Thánh việt đã nói về các ngài như sau: "Những ngài gieo trong nước một sẽ gạt trong hoan ca, họ đi và khóc nức nớ mừng theo hạt giống nhtíngtrở về ca hát, tay mang bó lúa trĩu hạt” :Dưới ánh sáng của những lời huyền nhiệm, nay chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa đích thực của chứng tá lịch sử của các vị Tử đạo trong Giáo hội việt nam đã thực hiện với nước mắt. Họ đã gieo vãi hạt giống Tin mừng và ơn thánh, từ đó đã nảy sinh dồi dào hồng ân Đức tin "nếu hạt lúa mì rơl xuống đất và không nát đi thì không sinh hoa trái, trái lại nếu nó chết đi thì sẽ mang lại thiều hoa trái (Jn 12,2425). Trong thực tế khi gieo trong nước mắt, các vị Tử đạo Việt nam đã khởi sự công cuộc đối thoại sâu xa và có tính cách giải phóng đối với dân tộc và văn hoá quốc gia Việt nam, họ rao giảng trước mặt mọi người tính cách thân thực và phổ quát niềm tin vào Thiên Chúa. Và hơn ta, các vị đề ra các giá trị và các bổn phận đặc biệt thích hơ p với nền văn hoá tôn giáo của tất cả miền Viễn đông. Dưới sự bướng dẫn của cuốn giáo lý đầu tiên, cắc vị Tử đạo đã Làm chứng rằng "căn phải thờ lạy Thiên Chúa tể duy nhất, một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tác tạo nên đất trời”.
Đứng trước sự cường bách của nhà cầm quyền trong việc hành đạo, họ đã xác quyết quyền tự do tín ngưỡng và đã can đảm mạnh mẽ khẳng định trong đạo Kitô là điều duy nhất mà họ không thể từ bỏ được, vì họ không thể bắt tuân lệnh vị Chúa tể tối cao là Thiên Chúa. Ngoài ra các vị đã tỏ ý muốn trung thành với các nhà cầm quyền của đất nước, không vi phạm những gì là chính đáng và ngay thẳng, các vị cũng đã dạy phải tôn kính tổ tiên, các tập tục của quê hương mình dưới ánh sáng mầu nhiệm Phục sinh. Với các vị Từ đạo của mình và nhờ những chứng tá của các vị, Giáo hội việt nam đã có thì tuyênxtíng ý chívà quyết tâm không loại bỏ truyền.thống văn hóa và các luật thể chế của đất nước . Trái lại, Giáo hội đã tuyên bố.và chứng tỏ rằng mình muốn nhập thể vào truyền thống, văn hoá đó bằng cách trung thành góp phần vào việc xây dựng tổ quốc một cách đích thực.
Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước: 24/11-25
"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô." Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.
Ông không thấy có gì xung khắc giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt, bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.
Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách bình thản. Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc, hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.
Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ. "Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai họ đến trong thế gian" (Ga 17,18).
Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết. Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân... Ngài đã yêu mến và sống tận tình cho thế gian đó.
Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ, và là nơi họ trở thành người Kitô hữu trọn vẹn.
"Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.
Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của xã hội, nhưng họ có một thang giá trị riêng.
Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải tôn trọng. Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình và chẳng đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.
Họ là nhúm men vùi trong đống bột. Men không được tách khỏi bột, và men cũng không được biến chất thành bột. Trong cả hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.
Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu dây. Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh vênh, thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.
Tử đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong thời bách hại.
Trong thời kinh tế thị trường, cần có những cách làm chứng khác. Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái...
Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.
Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt thòi, phiền hà, mất mát, khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?
Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục. Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình, giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men, để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo, những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con, thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ : - Người ta sẽ ghét bỏ các: 24/11-26
Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ :
- Người ta sẽ ghét bỏ các con, sẽ bắt bớ và xua đuổi các con ra khỏi nhà hội. Sẽ đánh đập và nhốt các con vào ngục tù, và sau cùng họ giết các con vì môn đệ không trọng hơn thày.
Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã được thực hiện, trải qua dòng thời gian, hằng triệu các tín hữu đã đi vào dấu chân của các tông đồ, chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phúc âm.
Có thể nói được rằng Kitô giáo đã lớn lên trong máu và nước mắt. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, Giáo hội đều gặp phải những bắt bớ và cấm cách, từ những thế kỷ đầu khi Giáo hội còn phôi thai, cho đến tận ngày hôm nay khi Giáo hội đã có mặt ở tận cùng bờ cõi trái đất.
Nào là những cuộc bách hại đẫm máu ở Đại Hàn, Nhật Bản, Phi Châu và ngay cả trên đất nước Việt Nam thân yêu, suốt ba thế kỷ, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, biết bao nhiêu bắt bớ cũng đã xảy ra. Thực vậy, Tin mừng được chính thức loan truyền trên quê hương Việt Nam vào thời Hậu Lê thuộc thế kỷ 16. Thế nhưng, ngày từ lúc còn phôi thai Giáo hội Việt Nam đã gặp phải những cấm cách đúng như lời Chúa đã phán : Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Cuộc bách hại khởi đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới triều Nguyễn và đặc biệt trở nên gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Suốt ba trăm năm, biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc, cốt bảo toàn đức tin của mình. Hơn 130 ngàn người đã ngã gục dưới những cực hình dã man, để trờ thành những chứng nhân bất khuất cho Đức Kitô. Trong đó 117 vị đã vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh, gồn 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Thế gian thù ghét Chúa Giêsu và Giáo hội, Sự thù ghét ấy vẫn còn đó, cho dù con người hôm nay đã bước vào thời đại văn minh và tiến bộ. Thực vậy, Ngày hôm nay trên thế giới vẫn còn có biết bao nhiêu Giám mục, Linh mục và giáo dân bị tù tội, bị áp bức chỉ vì một lý do duy nhất đó là đã tin theo Đức Kitô.
Thế nhưng như người ta vẫn thường bảo :
- Cái đe làm cho chiếc búa bị hỏng.
Thế gian nhục mạ, bắt bớ Giáo hội và rồi họ đã chết, còn Giáo hội thì vẫn đứng vững, vẫn giữ được vẻ tươi trẻ và sức sống của mình. Chúng ta thử nhớ lại ảnh hưởng to lớn mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tạo được trên thế giới và cái chết của ngài đã gây ra một sự mất mát đớn đau. Rồi những tình cảm nồng hậu người ta đã dành cho Đức Phaolô VI, cũng như Đức Gioan-Phaolô II trong những chuyến công du.
Từ đó chúng ta nhận thấy gian nguy và thử thách là một cái gì gắn liền với thân phận của Giáo hội, hay nói cách khác, là một phần của đời sống Giáo hội, bởi vì không một vị thánh nào mà không bị khổ đau, mà không bị đổ máu.
Thế nhưng chấp nhận cái chết trong phút chốc có thể là một việc dễ dàng. Nhưng từng giây từng phút, từ bỏ những ước muốn riêng tư để làm vui lòng Chúa, chu toàn mọi bổn phận nhỏ bé không tên, tha thứ mọi lỗi lầm, mọi vấp phạm, mọi va chạm, đó có thể là một việc khó, đòi phải có một đức tính kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Việc làm đó không hào quang, không rực rỡ, không một ai biết đến trừ ra chính Thiên Chúa.
Đôi lúc đau khổ và thử thách còn là một phần của đời sống người Kitô hữu : Nào cám dỗ, nào bệnh tật, nào khó khăn, nào chết chóc. Dĩ nhiên chúng ta phải làm việc, để tạo dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc và tiện nghi. Thế nhưng chúng ta phải nhớ rằng : Sống đạo và chạy theo vui thú là hai việc làm không thể đội trời chung với nhau. Bởi vì đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự bành trướng của tinh thần thế gian. Hay như lời thánh Phaolô đã nói :
- Những người thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh xác thịt mình cùng với mọi đam mê dục vọng vào thập giá.
Chính những đau khổ và thử thách sẽ giúp chúng ta vượt lên trên tinh thần thế tục, thanh tẩy chúng ta và đền bù tội lỗi chúng ta.
Bởi đó đừng nguyền rủa phẫn uất nhưng hãy biết đón nhận vì lòng yêu mến Chúa, để góp phần vào thập giá của Ngài. Trong những giờ phút đen tối, hãy ngước nhìn thập giá và sẽ tìm được niềm an ủi và khích lệ vì chính Chúa cũng đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Cuộc đời thì ngắn ngủi, đừng lãng phí và làm cho nó bị hư đi, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau thập giá là vinh quang phục sinh.
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội VN vui mừng mừng kính các anh hùng tử đạo: 24/11-27
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội VN vui mừng mừng kính các anh hùng tử đạo VN của chúng ta. Trong bầu khí linh thiêng và cảm động này tôi muớn chia sẻ với anh chị em một vài tâm tình của tôi.
1.Tâm tình thứ nhất là tâm tình tự hào.
Các thánh Tử đại VN của chúng ta làm cho chúng ta tự hào.
Chúng ta phải tự hào vì chúng ta đã có được những vị tổ tiên anh hùng thật xứng đáng. Các Ngài đã được sinh ra, đã làm việc, đã cùng sống với những người VN chúng ta ngay trên mảnh đất quê hương thân yêu này . Các Ngài đã sống như biết bao nhiêu những con nguời khác đã sống, nhưng các Ngài đã sống hơn hẳn rất nhiều người khác ở chỗ các Ngài đã biết sống anh hùng, không để cho mình bị mua chuộc,không để cho mình bị khuất phục . Tiền bạc không làm cho các Ngài mù tối. Khổ đau không làm cho các ngài chùn bước,nhục hình không làm cho các ngài ngã qụy, và cả cái chết cũng không uốn cong được lòng trung tín của các Ngài.
Chúng ta hãy đọc lại sắc dụ cấm đạo được ban hành ngày 18-9-1855 để chúng ta thấy được một phần nào những hình khổ mà các Ngài phải chịu như thế nào :"Các quan theo đạo Giatô tại triều đình Huế hạn cho một tháng phải bỏ đạo. Các quan tỉnh thì ba tháng. Lính tráng và người dân thì sáu tháng, bằng không thì phải kể là trọng phạm. Các người theo đạo Giatô không được thi cử, không được giữ chức tước gì.
Ai đưa đường hay chứa chấp đạo trưởng thì bị xử tử. Đạo trưởngTây phương thì chém đầu vất xác xuống sông. Các giáo đồ giúp các đạo trưởng thì phải chém đầu. Các cụ đạo bản quốc cũng phải chém đầu. Các giáo đồ theo các cụ đạo này thì phải thích chữ vào mặt và phát lưu.
Phải đốt cho sạch các nhà thờ nhà xứ "
Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà người ta đã nghĩ ra và đã dùng để phạt những người theo đạo như sau :
- Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xíếng xíxh,bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.
- Nặng hơn một chút thì bị voi dầy, bị trói ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi chô bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng.
- Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (thắt cổ)và thiêu sống.
- Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao ( bị xẻo từng mảnh thịt cho tới chết)
Tôi xin trích ra đây một đoạn trong bản báo cáo về việc xử Cha cố Du tại Thợ Đức ngày 30-11-1835:
"Họ cột chân tay Ngài vào một cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Sau hồi chuông báo hiệu, tên lính cầm kìm đã được nung đỏ kẹp vào ngực kéo ra hai miếng thịt nơi vú liệng xuống đất.Tên khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông - rồi đến dùi thì chúng lấy kìm kéo thịt ra rồi dùng lưỡi dao xẻo đứt từng miếng. Cha ngất đi, đầu rũ xuống và Ngài tắt hơi về chầu Chúa lúc 17giờ.
Cha chết rồi, lính chặt đầu Ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi....đoạn họ cởi trói lật úp xác xuống, phân thây ra từng khúc bỏ vào thùng vôi. Tiếp theo họ lấy đầu đầu của ngài treo giữa chợ ba ngày...rồi lấy xuống nghiền nát ra bỏ vào thùng đựng xác rối vất tất cả xuống biển cho mất tích"
Vâng,kính thưa anh chị em.
Gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng thành của các Ngài còn cao hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào. Trong sắc phong chân phước cho 64 anh hùntg tử đạo VN ngày 27-5-1900 Chính Đức Thánh Cha Léo XIII đã nói về các Ngài với tất cả lòng khâm phục như sau:"Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa vào những thế kỷ khai nguyênh của Giáo Hội Chúa Kitô".
2. Tâm tình thứ hai là lòng biết ơn.
Việc mừng lễ hôm nay làm tôi nhớ lại những lời rất cảm động sau đây của Chúa Giêsu.: "Kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì chúng con không vất vả làm ra. Những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng công lao khó nhọc của họ " (Jn 4,36-37).
Sử gia Tertulianô ngày xưa khi nhìn lại những năm trời Giáo hội bị bách hại và những cuộc trở lại đạo hàng loạt sau đó, ông đã phải viết lên những lởi rất rất đáng cho chúng ta suy nghĩ như thế này: "Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra những người Kitô hữ khác"
Hàng trăm ngàn các anh hùng tử đạo VN của chúng ta đã vát vả khó nhọc gieo vãi. Các Ngài đã gieo vãi không phải là những hạt giống thông thuờng nhưng bằng những giọt máu của các Ngài. Và chính nhờ những giọt này mà chúng ta mới được như ngày hôm nay.
Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con người anh hùng như thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các Ngài vì chính nhớ các Ngài mà hạt giống Đức tin đã nảy mầm và lớn lên trong chúng ta.
3. Tâm tình thứ 3 là bổn phận phải sống làm sao cho xứng đáng với đáng với danh nghĩa con cháu của những anh hùng.
Châm ngôn VN có câu rất hay :"Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh"
Phải sống xứng đáng để những thệ mai sau khi nhìn vào thế hệ này, họ cũng cảm thấy tự hào.
Năm 1934 khi nhắn nhủ một số các em nhỏ đến mừng sinh nhật của mình nhà bác học bổi danh nhất của thể kỷ thứ 20, Albert Einstein đã nói với các cháu những lời cảm động như sau:"Các cháu nên nhờ rằng những điều kỳ diệu các cháu được học ở trường là do công lao của biết bao thế hệ trên khắp thế giới đã hăng hái gắng sức và cặm cụi làm việc không ngừng rồi truyền lại cho các cháu như một di sản để cho các cháu tiếp nhận, tôn trọng, tăng gia thêm và một ngày nào đó các cháu sẽ lại trung thành truyền lại cho con cháu các cháu. Nhờ vậy mà chúng ta, những con người hữu sinh hữu tử mới thành bất tử trong những vật trường tồn mà chúng ta tạo chung với nhau"
Chúng ta đang thừa hưởng một di sản vô cùng quí giá do Cha Ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp nhận và trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau.
Nhưng truyền lạ bằng cách nào ?
- Thưa bằng chính cuộc sống mà tổ tiên của chúng ta đã sống.
Văn hào Tagore khi bàn về cái chết của Thánh Gandhi, đã nói:" Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức thích ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn nhớ tới Thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau"
a- Bài học đầu tiên mà mỗi người chúng ta phải noi gương bắt chuớc đó là phải trung thành với niềm tin.
Đức tin là ơn nhưng không TC ban cho chúng ta. Hãy bảo vệ lấy, đùng để cho nó bị hao mòn đi. Phaolô Mợi bị bắt.................bị giải đến quan. Quan dụ:
- Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc. -..........................? - Vậy một nén vàng ! - Bẩm quan chưa đủ. - Vậy anh muốn bao nhiêu ?
- Bẩm quan lớn, quanlớn muốn cho tôi quá khóa thì quan phải cho tôi đủ vàng để mua được một LH khác.
Nguuyễn văn Lựu :"Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được."
b- Bài học thứ hai phải can đảm sống niềm tin đó.
Trong một bài diễn văn đọc cho binh lính trước khi họ lâm trạn. Hitler đã nói:" Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ"
Victor Hugo :"Đồi Calvario ở dầu đường và hào quang cũng xuát hiện ở đó"
Chúa Giêsu :" Nước Trới phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy"
Không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận đã đầu hàng.
Không có vinh quang cho những kẻ hèn nhát.
Phần thưởng càng lớn, vinh quang càng cao thì cái giá phải trả cho nó càng đắt.
Phải xử dụng sức mạnh mới chiếm hữu được Nước Trời.
Lời cuối cùng của tôi. Tôi xin mượn lời của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Roma. Ngài gửi những lời ày cho họ vào lúc cơn bắt bớ đạo giáo tại đó bắt đầu trở thành khốc liệt . Ngài muốn dùng những lời này để khích lệ họ, để họ can đảm, để họ tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng:"Ai có thế tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bở, gươm giáo ?
Ngài nói tiếp như một xác tín : Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" Vá Ngài kết luận:" Tôi tin chắc rằng : cho dầu là sự chết hay sự sống, hiên thần hay ma vương qủy lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều ca hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, hông có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitôo Chúa chúng ta."(Rom 8,35-39)Amen.
Hôm nay chúng ta mừng lễ kính thánh Anrê Trần Dũng Lạc và các bạn Tử đạo, hay nói chung: 24/11-28
Hôm nay chúng ta mừng lễ kính thánh Anrê Trần Dũng Lạc và các bạn Tử đạo, hay nói chung là mừng kính các thánh Tử đạo Việt nam, các ngài cũng là bổn mạng của Giáo hội Việt nam, giờ đây cùng nhau chúng ta nghe lời Chúa qua Phúc âm (x.Mt 10, 1722). Khi kêu gọi mọi người "Hãy Vui Lên", các giám mục đã mời gọi từng giới, từng thành phần trong dân Chúa. Hôm nay chúng ta nghe các ngài ngỏ lời với các cụ cao tuổi và mời gọi các cụ bước vào Năm Thánh như những chứng nhân cho tình. yêu Chúa "Các cụ vui vì lại được sống thêm một Năm Thánh nữa, Năm Thánh 2000” Chúng ta đã có dịp nói với nhau về niềm vui của chúng ta, niềm vui đích thực, niềm vui mà các thánh Tử đạo đã hân hoan vui mừng khi được đi ra pháp trường. Các giám mục của chúng ta cũng muốn qua các cụ lão ông, lão bà kêu gọi chúng ta vui niềm vui chứng tá ấy.
Ở Việt nam có hội phụ lão, ở bên Mỹ có hội người già trong các cộng đồng Việt nam, mục đích để giúp các cụ có dịp gặp gỡ nhau, cùng nhau trao đổi và giúp nhau trong cảnh già nua tìm được niềm vui trong những ngày cuối của đời mình, dĩ nhiên là niềm vui thánh thiện nâng cao quí cụ ngày càng được gần hơn đến với Chúa. Chúng ta cũng phải coi chừng vì nhiều khi việc ngồi lại với nhau chẳng những không tạo điều kiện để nâng cao, nhưng lại ghì kéo xuống làm cho chúng ta rơi vào những phù phiếm không lợi ích chi cho mình, đồng thời trở thành gương xấu cho con cho cháu và là gánh nặng cho xã hội. Chẳng hạn ở Việt nam ngày ngày người ta vẫn thấy ba, bốn cụ già chân nam đá chân chiêu, lai rai hết ly này đến ly khác, gia đình con cháu buồn, người ngoài lắc đầu, tuổi già và niềm vui ấy trở thành gánh nặng cho mọi người. Rồi tại một hội người già trong một Tiểu Bang nọ, các cụ cũng than phiền là có nhiều chuyện không trong sáng giữa các cụ với nhau nên có nhiều cụ ở nhà .
Một chương trình truyền hình nọ mời một cụ lão phỏng vấn: xin cụ cho biết cảm tưởng của cụ , niềm vui của cụ vẫn có mỗi ngày trong cuộc sống, kế đó họ xin cụ bí quyết để sống vui. Cụ trả lời rằng: "chẳng có bí quyết gì hết”, nếu có bí quyết gì đi chăng nữa nó cũng dễ như trở bàn tay, như uống nước lã vậy thôi. Đó là khi tôi thức dậy mỗi buổi sáng, tôi chỉ có hai điều để lựa chọn, một là sống an vui hạnh phúc, hai là sống lầm than khổ sở, dĩ nhiên là tôi đã chọn điều thứ nhất.
Lạy Cha, chúng con lại có một ngày sống mới, đó là ngày sống mà mọi người trong gia đình như ông bà, cha mẹ và con cháu, tất cả đểu được mời gọi sống niềm vui của Tin mừng, niềm vui ấy nhiều khi chúng con phải sống như các thánh Tử đạo cha ông chúng con đã từng sống trước đây Xin cho chúng con can đảm và trung thành sống trọn niềm vui ấy. Chúng con cảm tạ Cha cho tuổi già của ông bà, cha mẹ và chúng con cầu nguyện cho Giáo hội Việt nam thân yêu nhân danh các thánh Tử đạo. Amen.
Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã: 24/11-29 FB
Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt nam.
Có điều máu lênh láng, nhưng không tanh tưởi, bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa, vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không gây ghê tởm, nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù, nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các thánh tử đạo Việt nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài là tình yêu hi sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả : cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.
Tình yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao lô : Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta (Rm 8:35-39).
Tình yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa nói : Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15:13).
Tình yêu cuộc sống.
Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hi sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý hình.
Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hi vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt nam làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.
Lạy các thánh tử đạo Việt nam, xin chúc lành cho quê hương và Giáo hội Việt nam. Amen.
Cuối thế kỷ 16 đạo Công giáo được rao truyền tại VN. Tới thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 thì đã có: 24/11-30
Cuối thế kỷ 16 đạo Công giáo được rao truyền tại VN. Tới thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 thì đã có nhiều người Việt Nam được lãnh nhận triều thiên Tử đạo. Các Ngài là những người đã vì Chúa mà cam chịu mọi cực hình kể cả sự chết. Trong số những vị Tử đạo này đã có 117 vị được Giáo Hội dần dần phong lên hàng chân phước rồi sau được phong lên hàng hiển thánh. Về việc phong chân phước cho các ngài thì Đức Lêo XIII phong 64 vị, Đức Piô X phong 28 vị, Đức Pio XII phong 25 vị. Tất cả các vị này : gồm 8 Giám mục, 50 Linh mục, 15 Tu sĩ và 44 giáo dân đã được chính Đức đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong lên hành hiển thánh trong một buổi lễ rất long trọng được tổ chức tại Công trường Thánh Phêrô tại Roma cách đây đúng 10 năm tức là ngày 19-6-1987.
Đi vào chi tiết hơn một chút thì ta thấy trong số 117 vị có 37 Linh mục Việt Nam, 13 Linh mục ngoại quốc dòng và triều. Đáng nhớ hơn cả là cha Vinh sơn Liêm, Cha Phê-rô Nguyễn văn Lựu, Cha Gioan Đoàn trinh Hoan, Cha Philipphê Phan văn Minh nhất là Cha Andrê Trần an Dũng Lạc và Cha Phaolô Lê bảo Tịnh. Có thể nói các ngài là tinh hoa của hàng Giáo sĩ Việt Nam.
Ngay từ nhỏ cha Phaolô Lê bảo Tịnh đã có một đời sống rất đạo đức. Hồi mới được vào nhà trường để được đào luyện thành Linh mục Có lần Thầy đã trốn vào rừng để sống cuộc đời ẩn tu. Sau đó vì vâng lời Thầy đã bỏ chốn ẩn tu về học trở lại. Đang khi theo học khoa Thần học thì thầy bị bắt, bị giam cầm tra tấn gông cùm suốt 7 năm rồi cuối cùng bị đi dầy. Sau một thời gian Thầy được phóng thích. Thầy đã được chịu chức Linh mục sau đó, rồi vì nhu cầu của Chủng Việc Cha Lê bảo Tịnh đã được Bề trên đặt Ngài làm Giám Đốc. Cuộc đời của Ngài rất gương mẫu. Nhưng chỉ được một thời gian thì Ngài bị bắt trở lại, bị tra tấn hạnh hạ thật dã man rồi cuối cùng Ngài bị trảm quyết.
Còn Cha André Trần an Dũng Lạc thì bị bắt đi bắt lại tới 3 lần. Ngài được giáo dân rất thương mến cho nên mỗi lần bị bắt ngài lại được giáo dân chuộc ra. Sau ba lần thì Ngài không để cho chuộc nữa. Ngài vâng theo thánh ý Chúa…can đảm chịu chết để làm gương cho các tín hữu. Có một chi tiết khá đặc biệt là Ngài rất được cảm tình của đám binh lính và lý hình. Trước khi hành hình họ đã thành tâm xin lỗi ngài vì lệnh mà họ phải làm như vậy.
Về phía các Thầy giảng thì chúng ta thấy các ngài cũng không kém anh hùng. Các Ngài cũng rất sẵn sàng chịu mọi cực hình để được làm chúng cho Chúa. Trong số này phải nhắc đến Thầy Phêrô Đoàn cap Văn. Thần Văn đã già. Già nhưng họ cũng không nương tay. Thầy bị gông cùm, bị đánh đòn và bị bỏ đói cho đến chết. Bên cạnh đó có Tôma Trần văm Thiện. Thầy Thiện là mộ chủng sinh dự bị. Thầy quyết một lòng theo Chúa cho đến cùng. Đến khi bị điệu ra pháp trường quan toà còn dùng đủ mọi cách để cám dỗ thầy quá khóa kể cả việc hứa thưởng những bổng lộc lớn lao cho Thầy. Thế nhưng chẳng có gì có thể làm thầy lìa bỏ Chúa. Thầy đã chọn vinh quang nước trời hơn mọi thứ lợi lộc ở trần gian.
Sau cùng là 44 giáo dân Nam nữ ở mọi lứa tuổi thuộc đủ mọi thành phần giai cấp xã hội. Chúng ta hãy nhắc đến một số những tên tuổi đặc biệt . Trần văn Trung là một viên cai đội. Giuse Lê đăng Thị là một chưởng vệ. Giuse Nguyễn huy Mỹ là một lý trưởng. Chính người vợ của Ngài đã khuyến khích Ngài chịu chết để làm gương cho mọi người. Andrê Trần văn Trông là một binh sĩ trẻ. Ngài được chính Mẹ của mình đưa đến pháp trường và sau khi ngài chịu hành hình chính bà đã ôm hôn thắm thiết xác con mình. Việc làm của bà chẳng khác gì việc làm của Mẹ Maria khi Mẹ ôm xác Chúa Giêsu sau khi xác xủa Chúa được đưa từ trên cây Thánh giá xuống. Cũng phải nhắc ở đây một người đàn bà rất đặc biệt đó là bà Inê Lê thị Thành. Người ta vẫn thường gọi là bà Đê. Bà là người có công che giấu các Linh mục tại nhà mình. Khi bị bắt bà đã nhất định không bước qua cây Thập giá dù đã bị tra tấn rất dã man. Cuối cùng bà đã chết ở trong ngục.
Ngoài ra chúng ta cũng thể không nhắc đến một chi tiết này đó là trong số những vị Tử đạo được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô tuyên phong lên hàng hiển thánh kỳ này có 8 Giám mục ngoại quốc. Trong sắc phong 117 vị tử đạo Đức Thánh Cha đã xử dụng một cụm từ rất chính xác. Ngài nói các vị tử đạo TẠI Việt Nam. Cụm từ đó làm cho các Giám mục ngoại quốc tham dự lễ tấn phong hôm đó rất cảm động. Trong số 8 vị đó thì có 3 vị nổi tiếng hơn cả. Đó là Đức cha Thể, Đức cha Y, Đức cha Xuyên. Đây là những vị mục tử nhân lành đã theo thật sát gót chân Thầy chí thánh hy sinh mạng sống của mình vì đoàn chiên. Đức cha Thể thì chết rũ tù. Đức cha Y thì cũng bị giam trong tù trước khi bị trảm quyết.. Đức cha Xuyên thì bị hình phạt rất man rợ đó là Ngài bị lăng trì….thịt xương bị xẻo bị cắt ra từng mảnh cho tới chết.
Chúng ta cũng nên nhắc lại đây một vụ sát hại thảm khốc xẩy ra ở gần chúng ta. Tôi muốn nói đến vụ thảm sát tại Bà rịa vào ngày 7-1-1862.
Vào năm 1861 số tín hữ tại Bà rịa có vào khaỏng hơn 2000 người. Cuộc sống được yên ổn cho đến tháng 8 năm 1861 nghĩa là cho tới khi quan tuấn vũ Biên Hòa ra chỉ thị cho quan phủ Bà rịa lập danh sách những người có đạo. Sau khi lập danh sách, nhưng người có đạo đếu bị khắc tự ở hai bên má: Một bên thì bị khắc hai tiếng "Biên Hòa", bên kia thì bị khắc hai tiếng "Tả đạo".
Tháng 9 năm đó người ta thấy bốn ngục giam được thiết lập. Đây là ngục dành riêng để giam giữ những người có đạo.
Ngục Dinh (Phước lễ) được lập ngay tại Bà rịa để giam 300 đàn ông.
Ngục Thơm ở Long Kiên gần đó để giam 135 người vừa đàn bà vừa trẻ em.
Ngục Thành ở Long điền cũng để giam vừa đàn bà vừa trẻ em. Số người ở đây là 140 người tất cả.
Ngục cuối cùng là ngục Đất đỏ (Phước thọ). Ở đây người ta giam 125 người cũng vừa đàn bà vừa trẻ em.
Như vậy chỉ tính ở Vùng Bà rịa cũng đã có đến gần 700 người bĩ bắt và bị giam. Cuộc sống bị giam cầm rật khổ. Mùa khô thì còn đỡ, đến mùa mưa thỉ cuộc sống lao tù thật rất khổ. Các tín hữu bị canh giữ nghiêm ngặt, nhiều nơi phải ăn uống và xử lý mọi việc có liên đến đời sống hằng ngày trong cùng một chỗ, rất là mất vệ sinh nhưng không còn cách nào khác. Đối với ba ngục giam giữ đàn bà và trẻ con thì tương đối được dễ hơn một chút.Chính vì thế mà Cha Trí mới có thế giả dạng làm người lái buôn nước mắm để vào tiếp tế cũng như ban các phép Bí tích cho bổn đạo.
Một việc rất không may là cuối tháng 12 năm 1861 thì Biên Hòa thất thủ. Quân nhà Nguyễn phải chạy về hướng Bà rịa. Tại đây họ cũng chỉ cấm cự được đến tháng ngày 7 tnáng 1 năm 1862. Trước khi rút đi họ ra lệnh phóng hỏa thiêu rụi tất cả các trại giam với tất cả những người bị giam ở trong đó. Họ canh giữ một cách rất cẩn thận. Ai đào thoát mà họ bắt được thì sẽ bị chém ngay lập tức. Dịp này trại Dinh bị thiệt hại nhiều nhất. Trong số 135 người bị giam tại đó thì đã có tới 106 người bị chết. Ba trại kia vì là đàn bà con trẻ cho nên những lính canh đỡ khắc nghiệt hơn. Một vài người lính còn nhân đạo hơn. Họ phá cửa cho những người bị giam trong đó được thoát thân. Chỉ trừ có trại Thơm ở Long Kiên là bị hại nhiều hơn cả. Lý do là tên cai ngục ở đó quá tham lam. Ông ta chặn những người ở đó để cướp của.
Tổng kết lại trong thảm họa này số những người giam ở bốn trại bị chết là 288 người. Trong số này có đủ mọi lứa tuổi:
Bà cụ Maria Nở ở Long điền 75 tuổi
Ông Giuse Vệ ở Phước lể cũng 75 tuổi.
Em Micae Giao, Phê-rô Ban, Carôlô Nhỏ ở Long Kiên và Long Điền mới chỉ có 10 tuổi.
Em Madalena Lợi ở Long Kiên và Maria Mới ở Đất đỏ mới chỉ được một tuổi.
Đặc biệt là hai cháu sơ sinh Antôn Trước và Antôn Sau. Đây là hai anh em sinh đôi trong trại Đất đỏ. Các cháu chẳng khác gì các tánh anh hài thời Chúa Giêsu vừa mới Giáng sinh.
Ngày hôm sau tức là ngày 8-1-1862 những nơi bị phóng hỏa chỉ còn là một đống tro tàn với những thi thê các vị tử đạo còn nằm ngổn ngang tại đó.
Cha Hòa và Cha Trí âm thầm lo mai táng cho các ngài. Hai cha đào 3 cái huyệt lớn bên ngục Dinh và an táng các đấng tử đạo trong ba cái huyệt này. Riêng các đấng bị chết ở ba ngục kia thì không có tài liệu nào nói rõ.
Ngày nay tại Bà rịa nơi an táng các ngài người ta vẫn còn thấy một tấm bia trên đó có khắc những dòng chữ này:
Ba trăm bổn đạo xác nằm đây Những trông sống lại hưởng phúc đầy. Vì Chúa tù, lao, dư ba tháng, Cam lòng chịu cháy, chết chỗ này. Lập mộ cùng táng chung một huyệt. Giáo nhơn coi đó, nhớ hằng ngày.
Chúng ta là con cháu của các Ngài. Chúng ta hãy noi gương các Ngài.Noi gương yêu Chúa và yêu người. Noi gương can đảm không lùi bước trước những thử thách gian nan. Noi gương hy sinh không màng danh lợi, quyết một lòng trung tín với Chúa cho đến cùng. Lời Chúa nói ngày xưa vẫn còn như mãi nhắc nhở cho mọi người chúng ta :"Ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được ơn cứu độ".
Hôm nay chúng ta vui mừng và cảm dộng mừng lễ các thánh anh hùng Tử đạo Việt Nam. Việc mừng: 24/11-31
Hôm nay chúng ta vui mừng và cảm dộng mừng lễ các thánh anh hùng Tử đạo Việt Nam. Việc mừng lễ hôm nay phải làm bộc phát lên trong lòng chúng ta niềm tự hào chan chứa. Chúng ta tự hào vì trong những trang sử của Giáo Hội Việt Nam chúng ta có những trong sử đầy chất anh hùng. Đây là những biến cố có tầm vóc không phải chỉ với chúng ta mà còn cả với Giáo Hội toàn cầu. Chính Đức Thánh Cha Lêô XIII trong sắc phong 64 vị tử đạo Việt Nam lên hàng chân phước ngày 27.5.1900 đã nói:"Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa trong những thế kỷ khai nguyên của Giáo Hội "
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ II trong bài giảng ngày lễ tôn phong 117 vị anh hùng tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh cũng phát biểu tương tự như thế. Ngài nói: " Từ năm 1533 tức là từ khi cuộc rao giảng Tin Mừng Kitô bắt đầu tại vùng Đông Nam Á, Giáo Hội Việt Nam trong suốt 3 thế kỷ đã phải chịu những cuộc bách hại liên tiếp nhau với một vai giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo Hội tại Tây Phương đã chịu trong 3 thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn tín hữu Kitô chịu tử đạo và rất nhiều người khác đã chết trong rừng núi, những vùng ma thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đầy tới.
I. Sự kiện.
Hôm nay trên khắp mọi nẻo đường của đất nước, chúng ta vẫn còn thấy hiển lộ ra nhiều dấu tích đau thương nhưng rất hùng tráng này. Một trong các dấu tích sáng ngời nhất đó là Thánh địa Lavang mà mọi người chúng ta đều biết, nơi đây chúng ta mới kỷ niệm 200 năm ngày Mẹ hiện ra với con cái của Mẹ vào một trong những giờ phút đau thương nhất của những người con cái Mẹ trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này. Giờ đây tôi xin dành một ít phút để đi sâu vào một vài khiá cạnh làm nên những trang sử anh hùng đáng tự hào này.
1. Trước hết là thời gian và con số:
+ Thời gian không xa chúng ta lắm. Nó bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888 có nghĩa là chỉ cách chúng ta hơn một thế kỷ và kéo dài gần 3 thế kỷ. 3 thế kỷ ba thế hệ của cuộc sống làm người.
+ Con số người chịu ảnh hưởng của cuộc bách hại này không nhỏ: Lịch sử cho chúng ta thấy những người chịu ảnh hưởng của cuộc bách hại rất lớn.
* Có khoảng 400.000 người bị lưu đầy, phát lưu và phân sáp.
* 130.000 người đã chết vì đạo trong số này đã có 117 vị được Giáo Hội chính thức tôn phong lên hàng hiển thánh vào ngày 19.6.1988 cách đây 12 năm.
2. Về các hình khổ: Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được
- Còn một chút nhân đạo như bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói.
- Nhẹ nhàng như bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng vv.
- Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết - tức là bị chặt đầu- bị xử giảo - tức là bị thắt cổ -, hay bị thiêu sống.
- Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì - phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.
Xin được dịch ra ở đây một đoạn được viết trong cuốn La Cochin-chine Religieuse về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao.
Ngày 30-11-1835 họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử Ngài.
Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.
Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.
Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ.
Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết.
Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa.
Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất - một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông - rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi láy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30-11-1835
Cha chết rồi bọn lính chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích"
3. Bây giờ tôi xin nói thêm một chút về 117 thánh tử đạo đã được Giáo Hội phong lên hàng hiển thánh. Quá trình này đã được chuẩn bị khá lâu.
* Ngày 27-5-1900 Đức Thánh Cha Lêo XIII phong 64 vị lên hàng chân phước. Đây là lần đầu tiên.
* Ngày 20-5-1906 Đức Thánh Cha Pio X phong thêm 8 vị. * Ngày 02-5-1909 cũng Đức Thánh Cha Piô X phong thêm 20 vị nữa. * Ngày 29-4-1951 Đức Thánh Cha Pio XII phong 25 vị.
Trong 117 vị được phong chân phước có
8 Giám mục ( Giám mục thuộc dòng Đaminh và 2 Giám mục thuọc Hội thừa sai Paris)
50 Linh mục (Gồm 37 là người Việt Nam, 8 thuọc Hội thừa sai Paris và 5 thuộc dòng Đaminh)
15 thầy giảng và 44 giáo dân thuộc đủ mọi thành phần xã hội: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v..v.
4. Xét theo loại hình phạt thì
* 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất * 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ. * 8 vị chết rũ tù * 6 bị thiêu sinh * 4 bị lăng trì - tức là phân thây ra từng mảnh * 1 bị tử thương và * 1 bị bá đao
5. Xét về thời gian thì * 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Doanh * 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Sâm * 2 vị chịu tử đạo thời Cảnh Thịnh. * 57 vị chịu tử đạo thời Minh Mạng * 3 vị chịu tử đạo thời Thiệu Trị * 51 vị chịu tử đạo thời Tự Đức
Kính thưa anh chị em tôi vừa lược lại một số những sự kiện Lịch sử còn in thật đậm trong Lịch sử Giáo Hội Việt Nam.
II. Bài học.
Bàn về cái chết của Gandhi một con người mà người dân Ấn độ lúc nào cũng kính trọng và coi ông như một vị thánh nhà văn hào Tagore đã viết: "Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn phải nhớ tới thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau"
1.Bài học thứ 1 có vẻ hơi tiêu cực một chút.
Anh chị em ai có dịp đi thăm cố đô Huế, vào thăm các lăng tẩm đặc biệt là Lăng Minh Mạn Và Tự Đức và nếu chúng ta hỏi những người coi sóc các lăng tẩm về vị trí của những ngôi mộ các vua được chôn ở trong đó thì người ta sẽ cho chúng ta biết sự thật này: Không ai biết họ được chôn tại vị trí nào. Theo truyền thuyết kể lại vì sợ người ta trả thù do lối sống quá tàn ác của mình cho nên những người thân với Minh Mạng và Tự Đức đã phải dùng tới việc "phi tang" bằng cách cho giết hết những người tham dự vào cuộc mai táng hai ông Vua này.
Trong bài diễn văn nổi tiếng đọc tại Hà nội ngày 17/11/2000 ông Bill Clinton, tổng thống Mỹ có nói một câu làm cho mọi người phải suy nghĩ: “Chúng ta không có thể sửa lại được quá khứ”.
Không biết khi con sống Minh Mạng và Tự Đức có thấy được cái sự nhục nhã mà họ để lại sau khi họ qua đời hay không. Những ông Vua mà khi chết còn sợ người ta quật mồ lên để trả thù! Vậy thì sống mà để làm gì?
Chúng ta hãy cố sống thế nào để hiện tại chúng ta đang sống không trở thành một quá khứ tủi nhục cho tương lai mà ngược lại phải trở nên bài học đáng tự hào cho hậu thế như các thánh tử đạo cha ông của chúng ta.
2. Bài học thứ 2: Giá trị của niềm tin.
Đức tin là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa nhưng nhiều khi chúng ta không ý thức được giá trị của nó. Phải ở trong những hoàn cảnh Đức tin bị đe dọa con người mới thấy được Đức tin có một gía trị to lớn như thế nào.
Phaolô Mợi bị bắt bị đem ra xử.
Quan nói với Anh: "Anh đạp lên ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.
Phaolô Mợi không trả lời.
Quan nói tiếp: " Vậy thì một nén vàng.”
+ Dạ bẩm quan chưa đủ.
- Vậy anh muốn bao nhiêu?
+ Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khoá thì quan lớn phải cho tôi đủ vàng bạc để tôi mua được một Linh hồn khác! Vâng làm sao mà có đủ vàng bạc để mua được một linh hồn!
3. Bài học về lòng trung thành.
Trong một bài diễn văn Hitler đã tuyên bố một câu làm nức lòng các chiến sĩ của ông. Ông nói: "Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ"
Nietszche: "Lao công của các bạn là chiến đấu. Hoà bình của các bạn là chiến thắng"
Victor Hugo: "Đồi Calvaire ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó"
Chính Chúa Giêsu cũng đã có lần tuyên bố: "Nước Trời phải dùng sức mạnh mà cướp lấy"
Còn Nguyên văn Lựu thì nói: "Đạo đã nhập vào xương vào tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được "
Sẽ không có vinh quang cho nhưng ai không chịu chiến đấu. Sẽ chẳng có chiến thắng cho những ai không dám ra chiến trường. Sẽ không có phần thưởng cho những ai không chịu hy sinh vì chính nghĩa Nước trời.
Tôi xin được kết thúc bằng một lời tuyên xưng trung thành của thánh Phaolô: " tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, trước tiên chúng ta hãy: 24/11-32
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, trước tiên chúng ta hãy hợp cùng các ngài để tạ ơn Chúa. Các ngài là cha ông của chúng ta đã từng sống trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, và từng dấu chân của các ngài đã đặt trên các con đường chúng ta đang đi. Nói chung, các ngài là những con người như chúng ta, cùng một phong tục, một văn hoá như chúng ta. Và xét về mặt con người, các ngài cũng có những mặt tình cảm, mặt giới hạn, những yếu đuối như chúng ta. Nhưng các ngài đã trung thành với ơn Chúa cho đến cùng, bất chấp mọi gian nan thử thách, bất chấp những dã man và các ngài đã dùng cái chết thảm thương của mình để nói với tất cả con cháu và toàn thể thế giới rằng: "Chỉ có Thiên Chúa là Đấng đáng được tôn thờ và yêu mến mà thôi".
Nhờ đâu mà các ngài được can đảm và mạnh mẽ như thế? Chính là nhờ ơn Chúa, vậy chúng ta hãy cùng với các ngài tạ ơn Chúa. Ngày hôm nay mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta hãy cùng chia vui với các ngài, vì những đau khổ chóng qua của đời này đã hết, số phận đời đời của các ngài đã được định đoạt. Các ngài hưởng nhan thánh Chúa đến muôn thuở muôn đời và không còn lo âu sợ hãi gì nữa, nhất là sợ mất Thiên Chúa. Vì từ nay Chúa chính là phần gia nghiệp của các ngài. Chúng ta hãy chia vui với cha ông của chúng ta và cùng vui mừng với Giáo Hội Việt Nam yêu quí của chúng ta, vì đã có những người con ưu tú đang sống trọn vẹn niềm vui, sự an bình và sung mãn của Nước Trời.
Mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay chúng ta cũng đừng quên cầu xin Chúa cho Giáo Hội, nhất là cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu của chúng ta. Bởi vì hầu như bất cứ ở đâu và thời nào, Giáo Hội cũng luôn luôn bị bắt bớ và thách hại và những người con trung thành của Giáo Hội vẫn luôn chịu tử đạo. Nhất là ngày nay, sự tử đạo dần mòn vì bị trị áp đảo tinh thần. Lý do là vì những đường lối hướng dẫn của Giáo Hội trong mọi lãnh vực của đời sống con người luôn là ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa, luôn bênh vực cho những quyền căn bản của con người, để giúp tất cả mọi người không phân biệt màu da ngôn ngữ, văn hoá, chủng tộc... luôn sống đúng nhân phẩm của mình trong vũ trụ này, hầu chu toàn bổn phận làm con cái của Chúa.
Nhưng một thực tại không chối cãi được nơi trần gian này mà thánh Gioan đã ghi ngay trong những câu đầu Phúc âm của ngài, ngài viết: "Ánh Sáng chiếu trong bóng tối, nhưng bóng tối không chịu tiếp nhận ánh Sáng". Và chính Chúa Giêsu, Ngài cũng đã quả quyết: "Ai thích làm những điều ám muội trong bóng tối thì ghét ánh Sáng". Cho nên hầu như lúc nào lực lượng của bóng tối cũng tìm đủ mọi lý do để phủ nhận ánh sáng bằng cách nhân danh một nền văn hoá, nhân danh một cá nhân, một bè đảng trần thế, nhân danh một ý thức hệ để loại trừ Giáo Hội.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo Hội luôn vững tin vào Thiên Chúa và luôn nhớ rằng, chính Chúa Giêsu, Đấng Sáng Tập Giáo Hội đã nói với Simon con ông Giona, tức là Phêrô rằng: "Này con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng nổi. Chúng ta hãy cầu xin cho những người con của Giáo Hội biết trung thành bền vững đi trong ánh sáng và hướng dẫn người khác luôn tiến bước trong ánh sáng của Giáo Hội. Đừng bao giờ hùa theo sức mạnh của bóng tối, đừng chạy theo cặn bã phù vân để bách hại Giáo Hội là Mẹ của mình.
Nhìn lại lịch sử của Giáo Hội, có một điều làm chúng ta an ủi là Giáo Hội vẫn trường tồn và phát triển qua bao nhiêu bách hại. Mặc dù các đế quốc quyết tâm tiêu diệt Giáo Hội, nhưng họ đã bị sụp đổ, các cá nhân vì những quyền lợi riêng tư đã thù ghét đàn áp Giáo Hội, nay đã nằm yên trong lòng đất lạnh và không còn ai nhắc đến nữa. Gần đây, các thế lực vô thần độc tài bài trừ Giáo Hội một cách khoa học và tinh vi cũng đã tan tành bể vụn ra từng mảnh trước mắt chúng ta.
Nhiều nơi sau thời bách hại đã qua, các tín hữu đã cùng hát lên với nhau Thánh Vịnh 125:
"Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về,
Chúng con thuở ấy dường như đang mơ.
Miệng cười thú vị làm sao,
Lưỡi dân rối rít xôn xao nỗi mừng.
Ai gieo trong lệ sầu,
Sẽ gặt trong hân hoan.
Ai vừa khóc vừa đi,
Đem hạt giống ra vãi,
Ắt se trở về vui vẻ, mang theo bó lúa bên mình".
Vì thế, chúng ta hãy cầu xin cho Giáo Hội Việt Nam đem hạt giống chôn vùi trong lòng đất, nhưng không phải để mục nát thối rữa, mà là để nảy mầm tươi tốt trong mùa xuân của dân tộc đang như con nhộng nằm trong kén, nhưng không phải để ngủ mê mà để âm thầm chuyển mình chờ ngày cánh kén tung bay thành con bướm nhởn nhơ với muôn màu muôn sắc trên cánh đồng đầy hoa tươi rực rỡ trên bầu trời trong mát.
Anh chị em thân mến!
Sau cùng, mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện cho chính bản thân và cho gia đình của mình, nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Xin cho mỗi người, mỗi gia đình biết noi gương các thánh luôn trung thành yêu mến Chúa, sống đời đạo đức gương mẫu, để ngày kia chúng ta được sum vầy trong Nước Chúa, bên Các Thánh Tử Đạo cha ông của chúng ta. Thật là đau khổ biết bao nhiêu khi chúng ta tường tượng thấy người thân yêu sẽ không cùng với chúng ta để hưởng hạnh phúc đời đời trong Nước Thiên Chúa, mà phải trầm luân muôn kiếp trong chốn tối tăm. Cho nên, yêu thương nhau thật sự chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau và luôn luôn khuyến khích, hướng dẫn nhau giữ đạo cho tử tế, thờ kính yêu mến Chúa hết lòng, để một ngày kia tất cả chúng ta cùng với các thánh ca khen danh Chúa mãi mãi muôn đời. Amen.
Lm. Đan Vinh LỜI CHÚA: Chúa phán: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).
CÂU CHUYỆN: CUỘC TỬ ĐẠO CỦA THÁNH ANRÊ TRẦN AN DŨNG LẠC
TRẦN AN DŨNG LẠC sinh năm 1795, gia đình ngoại giáo nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu 24/11-33
TRẦN AN DŨNG LẠC sinh năm 1795, gia đình ngoại giáo nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu theo cha mẹ đến xứ Kẻ Chợ sinh sống. Tại đây, cậu được một Thầy giảng nhận làm con nuôi và cho ăn học. Cậu được chịu phép rửa tội và nhận tên thánh là Anrê. Sau đó cậu đáp lại ơn gọi dâng mình cho Chúa và theo học tại chủng viện Vĩnh Trị. Thầy Anrê Dũng được thụ phong linh mục vào năm 1823 khi mới có 28 tuổi. Từ khi thụ phong linh mục, cha Anrê được sai đi giúp xứ. Ở đâu cha cũng nêu gương sáng đạo đức qua cuộc sống khổ hạnh. Ngoài những ngày ăn chay theo luật định, Cha còn tự nguyện giữ chay thêm suốt cả Mùa Chay và các ngày thứ Sáu thứ Bảy hàng tuần. Nhờ đời sống đơn sơ khiêm hạ và khắc khổ như vậy, nên cha đã gây được thiện cảm của những người chung quanh và thành công trên bước đường tông đồ: Qua cha, nhiều tội nhân đã được ơn giao hòa với Chúa và nhiều người lương đã tin theo Chúa và xin gia nhập đạo Công giáo.
Trong thời gian đạo Công giáo bị bách hại gắt gao thời vua Minh Mạng, cha Anrê Dũng đã phải trốn lánh nhiều nơi. Một lần kia ở Kẻ Roi, khi vừa dâng lễ xong thì bị quan quân vây bắt và được giáo dân chuộc về. Sau đó cha đã đổi tên Trần An Dũng thành Trần An Lạc. Lần thứ hai cha bị bắt ở xứ Kẻ Sông khi đang xưng tội với cha Phêrô Thi. Hai cha bị quan quân đòi tiền chuộc tới 200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên góp được một nửa số tiền nói trên, nên chỉ mình cha Lạc được thả. Rồi sau đó cha lại bị đám quân lính khác bắt mang về huyện giam chung với cha Phêrô Thi và cả hai được áp giải về Hà Nội.
Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường tra xét và bắt phải bước qua Thánh Giá để bày tỏ ý định bỏ đạo. Nhưng thay vì làm theo lệnh quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính Thánh Giá và nói: “Không bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã suốt đời hy sinh vất vả đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn nhát chối bỏ Chúa!”. Trước sự bất tuân của hai cha, quan tức giận sai lính đem nhốt các ngài vào ngục thất và làm thành án gửi về Kinh. Suốt thời gian ở trong tù, hai cha luôn cầu nguyện và ăn chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ đến cùng. Tuy giáo dân được phép thăm nuôi hằng ngày, nhưng hai cha yêu cầu họ đừng đem đồ ăn ngon đến, và nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn tù hoặc lính canh.
Ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai cha đã chính thức nghe án lệnh xử trảm của nhà vua. Rồi các ngài bị điệu ra pháp trường Cầu Giấy ở Hà Nội. Đến nơi, các ngài cầu nguyện ít phút, rồi cúi đầu cho lý hình dễ dàng thi hành phận sự. Đức Thánh Cha Lêô 13 đã tôn phong các ngài lên hàng Chân Phước tử đạo vào ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã suy tôn hai ngài lên bậc hiển thánh.
THẢO LUẬN:
1) Tại sao đạo Công giáo thường hay bị người đời thù ghét bách hại? 2) Tử đạo là sẵn sàng hy sinh chịu chết để làm chứng cho Chúa (x. Cv 1,8). Vậy các tín hữu chúng ta sẽ phải dũng cảm làm chứng cho Chúa thế nào trong xã hội Việt Nam hôm nay ?
SUY NIỆM:
1) SỐ LIỆU CÁC ANH HÙNG TỬ ĐẠO VIỆT NAM: Ngay từ thời Giáo Hội Sơ Khai, các tín hữu đã phải chịu chung số phận với Thầy Giê-su là bị cấm cách, bắt bớ và giết hại. Thời nào và nơi nào đạo được truyền tới cũng đều có các vị anh hùng tử đạo. Tại Việt Nam, theo sử liệu, đạo Chúa đã được truyền giảng từ thế kỷ thứ 16. Và suốt thời gian gần 300 năm sau đó, luôn bị đàn áp bách hại với những cảnh đầu rơi máu chảy! Sau Hội Thánh Rô-ma thì có lẽ Hội Thánh Việt Nam đã dâng cho Chúa được nhiều thánh tử đạo hơn cả! Người ta ước tính có tới hằng trăm ngàn người Công giáo đã bị giết hại vì đức tin dưới các triều đại nhà Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và bị các phong trào Cần Vương Văn Thân đàn áp bách hại. Trong số đó, 117 vị đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc hiển thánh và được mừng chung trong niên lịch toàn thể Hội Thánh. Trong số này có: 8 Giám mục, 50 Linh mục, 16 Thầy giảng, 1 Chủng sinh và 42 Giáo dân. Các ngài đã chịu nhiều cực hình như: 79 vị bị trảm quyết (chém đầu): 16 vị bị xử giảo (treo cổ); 8 vị bị chết rũ rù do đói khát bệnh tật khi bị giam trong ngục; 6 vị bị thiêu sinh (chết thiêu trong hỏa lò).
2) LÝ DO CÁC NGÀI BỊ VUA QUAN BÁCH HẠI:
Các thánh Tử Đạo bị vua quan và dân chúng thời đó thù ghét đàn áp giết hại không phải vì các ngài là những kẻ xấu làm điều gian ác, nhưng chỉ vì các ngài đã tin vào danh Đức Giê-su và đã dũng cảm tuyên xưng đức tin ấy, thể hiện qua thái độ bất khuất, không chịu bước qua thập giá theo lệnh vua quan, hầu ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã tiên báo: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thóat” (Mt 10,22).
Đàng khác, vua quan và dân chúng thù ghét và ra tay bách hại các tín hữu là do hiểu lầm về giáo lý của đạo khi cho rằng theo đạo là vọng ngọai, là bất hiếu vì phải bỏ việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đang khi thực ra không phải như vậy: điều răn thứ tư trong mười điều răn của đạo Chúa đã truyền dạy: con cái phải “thảo kính cha mẹ” và người tín hữu vừa phải chu tòan bổn phận thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất lại vừa phải tôn kính và tưởng nhớ cầu nguyện và tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ khi các ngài còn sống cũng như khi đã qua đời.
Nhưng lý do chính yếu khiến vua quan và các phong trào Cần Vương Văn Thân thời đó thù ghét bách hại các tín hữu là do tự ái dân tộc và hiểu lầm về lòng yêu nước của các tín hữu: Họ sợ người theo đạo sẽ bị các thừa sai ngọai quốc xúi giục làm lọan, trong khi các vị thừa sai ngọai quốc đã dám bỏ quê hương và từ giã người thân đến vùng đất xa xôi và chấp nhận hy sinh ngay cả mạng sống là do đức tin và lòng mến Chúa thôi thúc. Các ngài chỉ muốn chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,19-20); “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b). Và quả thật, lịch sử đã ghi nhận: các thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị vua quan kết án chỉ vì đức tin mà thôi chứ không do tội phản lọan theo giặc làm loạn chống phá triều đình.
3) SỐNG CHỨNG NHÂN GIỮA ĐỜI THƯỜNG:
Bí quyết khiến các anh hùng Tử Đạo vượt qua gian nan thử thách là do các ngài biết “sống sự sống của Chúa Giê-su trong thân xác yếu hèn của mình”. Đức Giê-su đã hứa sẽ ban Thánh Thần giúp các môn đệ phải nói gì và nói thế nào khi bị điệu ra trước quan quyền (x Mt 10,19-20). Để được như vậy, các ngải đã phải mỗi ngày “chết đi cho bản thân”, và sống trong ơn nghĩa của Đức Giê-su.
Ngày nay có lẽ chúng ta không có cơ hội làm chứng cho Chúa như các thánh Tử Đạo cha ông, nhưng chúng ta vẫn có thể trở thành chứng nhân của Chúa ngay giữa cuộc sống đời thường hằng ngày trong gia đình và ngoài xã hội:
– Để có thể sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đức tin khi cần, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải quyết tâm sống đức công bình bác ái trong các giao tiếp với hàng xóm và làm ăn buôn bán nơi phố chợ.
– Để có thể dũng cảm làm chứng cho Chúa trước mặt người đời khi có dịp, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người chồng người vợ tốt lành, luôn chu tòan trách nhiệm lo cho gia đình, là những người con cháu có lòng hiếu thảo đối với các bậc tiền nhân ông bà;
– Để sau này có thể trở thành công dân của Nước Trời, thì ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người công dân tốt, sẵn sàng chu tòan nghĩa vụ đối với quê hương và trở thành khí cụ bình an của Chúa bằng cách sống theo tinh thần của Kinh Hòa Bình… Nhờ đó chúng ta sẽ gây được thiện cảm đối với đồng bào lương dân cùng khu xóm với chúng ta.
LỜI CẦU:
– Lạy Chúa, xưa Chúa đã dạy các môn đệ rằng: “Anh em sống giữa thế gian, nhưng không được theo thói thế gian”. Xin cho chúng con đừng bao giờ bỏ Chúa để chạy theo cám dỗ của thế gian, ma quỉ và chiều theo các đam mê xác thịt. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Con nhà tông không giống lông, cũng giống cánh”, để chúng con luôn xứng đáng là con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt người đời: Biết nở nụ cười khi tiếp xúc, sẵn sàng cởi mở đi bước trước để làm quen với những người mới gặp, mở miệng an ủi những ai đang gặp tai nạn rủi ro; biết khiêm hạ phục vụ tha nhân, đặc biệt phục vụ những người đau khổ bất hạnh đang cần được cảm thông trợ giúp. – Hát chung Kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người… “
X. HIỆP CÙNG MẸ MARIA. Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể .... Đây thực là một ngày giỗ tổ : 24/11-34
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm, lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày 19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên bậc hiển thánh. Các ngài được suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định : các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “Tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói : “An quả nhớ kẻ trồng cây” hay “uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những dòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quí báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của dòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quí để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta ? Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần nho giáo, các ngài đặt chữ “trung” lên trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua chúa trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thướng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu : kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao… Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả : thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Kitô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng : tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng : làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Lễ kính các thánh tử đạo là sự tuyên dương những con người đã dám chết. Tại sao tuyên dương: 24/11-35
Lễ kính các thánh tử đạo là sự tuyên dương những con người đã dám chết.
Tại sao tuyên dương? Thưa vì người ta thường nghĩ “Không có gì quí hơn mạng sống”. Khi mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm cách để thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình. Thí dụ có người khi đói quá đã kiếm cỏ, kiếm vỏ cây để ăn, những thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn; có người bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của người khác, đã dành ăn với người khác; thậm chí có người còn dám ăn thịt người trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên không có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy nhiên có những người đã không theo bản năng sinh tồn ấy. Những người này không nghĩ rằng mạng sống là giá trị cao quí nhất, mà còn có những giá trị không cao hơn nhiều. Thí dụ :
- Trong trận động đất ở nước Nga, một người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa con của mình. Vì không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng nếu tình hình cứ tiếp tục thì sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn đầu ngón tay mình, lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.
- Hay như các anh hùng liệt sĩ, những người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc quê hương. Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản thân.
- Và các vị thánh Tử đạo cũng vậy, các ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
Tất cả những người vừa kể trên đều đã dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng các thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể thoát chết cách dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết : chỉ cần nói với quan một câu là “Tôi chịu bỏ đạo” thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản hơn chỉ cần thưa “vâng” khi quan hỏi “có chịu bỏ đạo không?”, hay đơn giản hơn nữa, không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái gật đầu hay chỉ để yên cho người ta khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi. Thế nhưng các ngài đã không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết của các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều điều suy nghĩ :
Điều thứ nhất cái chết ấy nói lên một quan niệm sống : sống không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng bất cứ giá nào. Nhưng sống còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo một lý tưởng thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống, lo sinh tồn. Còn người có lý tưởng và quí chuộng lý tưởng của mình thì không làm những gì nghịch với lý tưởng ấy; nếu bị buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản không cho sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để trung thành với lý tưởng cao đẹp của mình.
Một trong những điều tệ hại hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất là các thanh niên ở các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người ta không thể ăn hoài được, khi đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy ăn uống mãi rồi cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra những cách hưởng thụ khác như xì ke ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục khác thường… kết quả là bị mắc bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng du nhập vào xã hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh Tử đạo là một điều hữu ích : sống không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải là sống theo một lý tưởng cao đẹp.
Điều thứ hai chúng ta kính phục nơi các thánh Tử đạo là sự trung thực của các ngài : Trung thực là sống đúng theo điều mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có Thiên Chúa, có linh hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là các ngài đã tỏ ra trung thực với niềm tin ấy, cái chết của các ngài cho người ta thấy rõ là các ngài thực sự tin rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các ngài vẫn còn sống trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa. Thực tế ngày nay, nhiều người không còn trung thực nữa : họ nói rất hay nhưng họ không làm theo điều họ nói, có khi họ cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt thòi…
Và điều thứ ba khiến chúng ta kính phục các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một buổi nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác. Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”. Không biết cử tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo : các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Nếu có ai giết: 24/11-36
Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Nếu có ai giết được linh hồn thì Đấng đó phải là Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ làm như vậy. Người chỉ cứu rỗi chứ không bao giờ hành hạ con người. Chỉ có con người mới tàn sát nhau thôi. Mà con người dẫu có hành hạ nhau dã man cách mấy, vẫn chỉ là hành hạ nhau trên thân xác. Lời Chúa dạy Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn, trở thành lời an ủi, động viên niềm tin, niềm hy vọng của ta vào Chúa Giêsu: Người là Thiên Chúa mà con người còn không tha, thì huống hồ là con người với nhau.
Người Do thái nghĩ rằng, khi giết Chúa Giêsu, họ đã khử trừ được một thứ tôn giáo mới. Và do cái chết thê thảm đó, sẽ làm cho các môn đệ thoái chí, buộc lòng phải giải táng. Nhưng họ lầm. Họ lầm vì họ không biết rằng, họ chỉ có thể giết được thân xác của Giêsu, chứ không giết được linh hồn Người. Họ lầm vì họ chỉ có thể giết được thân xác Giêu, nhưng chính Thiên Chúa nơi con người Giêsu ấy, làm sao giết được! Họ lầm vì họ không ngờ rằng cái thân xác mà họ treo trên cây thập giá đó đã sống lại chỉ trong một thời gian ngắn: trên dưới 50 tiếng đồng hồ. Bởi vì loài người không thể giết Thiên Chúa, nên Kitô giáo vẫn tồn tại, đạo Chúa Kitô vẫn không ngừng phát triễn.
Các thánh tử đạo Việt Nam cũng vậy. Một lòng trung kiên kính thờ Thiên Chúa. Sợ Thiên Chúa chứ không sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Trước mặt vua quan, các ngài đã khẳng khái tuyên xưng đức tin của mình, sẵn sàng dâng hiến mạng sống của mình. Mỗi người chỉ có một thân xác, một hơi thở, một mạng sống, mất đi là không còn có mặt trong cuộc đời nữa. Các thánh tử đạo biết rõ điều đó, nhưng vì đức tin: tin vào Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, các thánh không sợ chết, quyết tâm dâng hiến mạng sống để tôn thờ Chúa đến cùng. Còn vua quan, cũng giống những nhười Do thái trước kia: tưởng giết Chúa Giêsu là xong chuyện.
Vua quan tưởng rằng bách hại và giết chết người có đạo là xóa được một tôn giáo mới, nhưng họ cũng lầm y như những người Do thái vậy: chỉ giết được thân xác chứ không giết được linh hồn người có đạo. chỉ giết được người có đạo chứ không thể giết chính Thiên Chúa của người có đạo. Các vua, các quan càng ra sức bách hại và cấm đạo triệt để bao nhiêu, thì trong hoàn cảnh trốn tránh hết sức khó khăn, đức tin của người tín hữu càng mạnh mẽ, càng kiên vững bấy nhiêu. Gần 3 thế kỷ bắt đạo, có lúc gay gắt, có lúc nới lỏng, thì 3 thế kỷ hãi hùng mà chính nggười VN sát hại nhau đó, đã giết chết khoản 150 ngàn người VN Công giáo. Điều đó chứng tỏ trong khó khăn, đức tin không lùi bước mà sẵn sàng đương đầu với khó khăn đó. Con số 118 vị tử đạo được tuyên phong trên bàn thờ chỉ là một phần nhỏ, chỉ là con số tượng trưng. Ba thế kỷ bắt đạo, đạo Công giáo không mất mà vẫn tồn tại, và đang phát triển. Cho nên Lời Chúa: Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn đúng vô cùng.
Mừng lễ các thánh tử đạo hôm nay, bạn và tôi tự hào vì mình là con cháu các thánh, các thánh là tổ tiên của mình. Tự hào là con cháu các thánh, bạn cũng như tôi càng phải sống đức tin trung kiên như lời Chúa dạy: Anh em đừng sợ. Cái đừng sợ của chúng ta hôm nay đó là ý thức đức tin từ những việc làm hết sức nhỏ nhặt hằng ngày. Ví dụ làm dấu thánh giá trang nghiêm. Tôi thử hỏi một điều để mọi người suy nghĩ: mỗi khi vào tiệm ăn, mình có dám tuyên xưng đức tin bằng dấu thánh giá trước khi bưng một tô phỡ hay cầm một dĩa cơm không? Từ những việc xem ra rất nhỏ nhặt ấy lại là hành động tuyên xưng đức tin rất quí giá! Tại sao có những việc lớn lao ta lại làm được, còn những việc rất nhỏ bé như thế lại không thể được? Bao hàm trong cái không thể đó, là sự sợ hãi: sợ người ta thấy, người ta biết mình có đạo, sợ người ta cười Những cái sợ không đáng sợ lại là thực tế của người Công giáo hôm nay. Ngày xưa tuyên xưng đức tin như thế, các thánh đã trả bằng giá máu, nhưng các ngài vẫn kiên tâm, không sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Ngày nay có ai giết ta đâu tại sao ta lại không giữ nổi những điều căn bản nhất mà cha ông đã làm? Tôi xin gởi lại câu hỏi này để đánh động lương tâm chúng ta.
Tin Mừng đến với dân tộc Việt nam trên 400 năm, thì hết 300 năm, Giáo Hội Việt Nam thấm: 24/11-37
Tin Mừng đến với dân tộc Việt nam trên 400 năm, thì hết 300 năm, Giáo Hội Việt Nam thấm đẫm dòng máu các anh hùng tử đạo. Giai đoạn bách hại nặng nề nhất là vào thế kỷ 19, trong các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Cuộc bách hại để lại một trang sử đầy nghiệt ngã cho dân tộc Việt Nam: những người Việt Nam tàng nhẫn sát hại nhau. Chính những đồng bào Việt Nam chung cội, chung nguồn lẽ ra phải yêu thương nhau, lại quay mũi kiếm giết nhau hàng loạt.
Thật vinh phúc cho Giáo Hội Việt Nam, một Giáo Hội còn non trẻ, nhưng lại căng tràn sức sống, đạp trên đầu sóng ngọn gió, vượt thắng mọi thử thách, mọi đau đớn, mà cho đến nay, dẫu đã qua đúng một thế kỷ, thời gian đủ bình tĩnh để suy niệm, sao vẫn còn nghe hãi hùng, vẫn còn nghe nhức nhối tâm can, làm lặng đi mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi thanh âm. Những người con đất Việt tưởng như gục ngã không thể gượng dậy nổi dưới bàn tay tàn bạo của làn kiếm, mã tấu, gông cùm, tù đày, lửa nung, bá đao, tùng xẻo, xiết cổ, chém bay đầu, lại là sức mạnh ngàn đời của một đức tin không gì lay chuyển nổi. Bởi Thân xác các thánh Tử đạo dù bị giết, nhưng đức tin của các ngài thì không ai giết được.
Một Giáo Hội còn non trẻ đến thế, lại có sức chịu đựng sự giày xéo quá sức tưởng tượng của người đời. Giờ nhìn lại sự nhiệm mầu của sức chịu đựng, ta chỉ còn có thể bật thốt lên như thánh nữ Têrêsa: Tất cả là hồng ân. Hồng ân nhận được không chỉ là một quà tặng, nhưng còn là một quà tặng vinh dự, một quà tặng của niềm kiêu hãnh thánh thiện. Hồng phúc tử đạo không chỉ là một hành động dâng hiến tận cùng mà còn là một dâng hiến vinh thắng tận cùng. Đó không là một vinh phúc lớn lao lắm hay sao! Một vinh phúc lớn lao mà một Giáo Hội còn non trẻ như Giáo Hội Việt Nam lại có thể cùng Giáo Hội hoàn vũ đã qua mấy ngàn năm, vẽ thêm vào đó một đường lịch sử của đức tin không bao giờ mệt mõi, không bao giờ dừng lại.
Các thánh Tử đạo đã viết sử bằng máu của mình. Còn chính Thiên Chúa, Người cũng đã làm cho Giáo Hội Việt Nam được khai sinh, lớn lên và phát triển nhờ dòng máu các thánh. Nếu cuộc bách hại để lại một trang sử đầy nghiệt ngã cho dân tộc Việt Nam, thì đối với đức tin, đó lại là một trang sử hùng tráng cho Giáo Hội Việt Nam nói riêng và Giáo Hội hoàn vũ nói chung: Bởi những người con đất Việt càng yêu mến quê hương, yêu mến bản thân mình, luyến tiếc cuộc đời, luyến nhớ người thân và điều đặc biệt: yêu mến các vua quan là những người bên trên mình, thì càng yêu mến đức tin khôn cùng. Chính cái chết của các thánh Tử đạo là một lời nói xác quyết và chung quyết cho mọi lời tuyên xưng đức tin rằng: Không có bất cứ cái gì có thể ngang bằng đức tin
Hiểu rất rõ Chúa Giêsu, Đấng mà mình tôn thờ vượt trên tất cả, dẫu là chính bản thân các vua quan hay lệnh truyền của các vua quan đi nữa, không có gì sánh ví được với Đức Chúa mà lẽ ra các vua quan cũng phải tôn thờ, các thánh Tử đạo đã chối từ một cuộc sống dễ dãi.
Hiểu rất rõ Chúa Giêsu, Đấng mà mình tôn thờ là Đức Chúa của mình, vì thế, dẫu chỉ là hai que củi vắt chéo trên mặt đất, bình thường chỉ là hai que củi không hơn, không kém, nhưng để biểu lộ đức tin, thì bất cứ một bàn chân giẫm đạp nào, bất cứ lời lụy mạ nào, hay bất cứ một hành động nào đối lại đức tin khi đứng trước hai que củi ấy, tất cả đều là sự chà đạp đức tin, chà đạp Giáo Hội, chà đạp chính Đấng mà mình tôn thờ.
Ngược lại, bất cứ một hành động hay một lời nói nào để tuyên xưng đức tin mà phải tôn trọng hai que củi hình chữ thập ấy, điều đó không còn đơn thuần là hai que củi hình chữ thập nữa nhưng là hình tượng Thánh Giá, hình tượng của lòng tin, hình tượng của một tâm hồn quả cảm quyết một lòng tôn thờ Đức Chúa của mình! Hiểu rất rõ điều đó, cho nên dù chỉ là đối điện với hai que củi vắt chéo hình chữ thập, các thánh Tử đạo không chỉ đứng trước hai que củi, nhưng là đối diện với nỗi giằng co mạnh bạo, đối diện với sự chọn lựa không khoan nhượng, nhưng dứt khoát: đức tin hay cuộc sống trần thế. Và cái giá phải trả cho sự chọn lựa đứng về phía đức tin là bị tước đoạt tất cả những gì đang có trong cuộc trần. Bị tước đoạt cả sự sống, cả đến giọt máu sau cùng.
Máu các thánh Tử đạo Việt Nam đã dệt đỏ thắm dòng lịch sử Giáo Hội Việt Nam, vì thế, các thánh Tử đạo mãi mãi vẫn xứng đáng sống trong lòng Giáo Hội và nơi từng người tín hữu Việt Nam.
Vượt trên tất cả mọi tấm gương, vượt trên tất cả mọi bài học, máu các thánh phải là chính cuộc sống của những người Việt Nam Công giáo hôm nay, khi làm người Việt Nam giữa dân tộc mình, và làm người giữa đời.
Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh của các thánh tử đạo lúc tôi còn tuổi thơ khi được xem tranh vẽ các: 24/11-38
Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh của các thánh tử đạo lúc tôi còn tuổi thơ khi được xem tranh vẽ các thánh hân hoan tiến về nước trời tay cầm cành lá chiến thắng. Hình ảnh ấy ăn sâu vào tâm hồn non trẻ của tôi đến nỗi mỗi lần đọc lại sách khải huyền miêu tả cảnh có hàng hàng lớp lớp các vị thánh đã hy sinh cuộc đời mình cho lý tưởng minh chứng Chúa đã phục sinh, tôi lại cảm thấy sung sướng và cảm động vì những gương anh hùng can đảm, hy sinh, từ bỏ của các Ngài. Các Ngài đã sống đúng lời Chúa:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”(Ga 15,13 ).
Tranh vẽ hàng hàng lớp lớp các thánh tử đạo, mặt sáng ngời, hiên ngang đầu cao mắt sáng, chiêm ngưỡng Chúa Giêsu luôn là hình ảnh gây ấn tượng và để lại nhiều suy nghĩ cho tuổi thơ của tôi, đặc biệt cho tôi ngày hôm nay. Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, tôi thầm tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi vì Hội Thánh Việt Nam là một chuỗi những ân sủng tuyệt vời. Những bước chân thừa sai của các giáo sĩ nước ngoài như sử liệu để lại sự hiện diện của giáo sĩ Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt và sau đó nhiều linh mục như Gaspar da Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques vv.. đã mở ra một trang sử truyền giáo phong phú và oai hùng. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là sự hy sinh tuyệt vời của các thừa sai, cũng như dòng máu của các vị tử đạo đã đổ ra, tưới gội cho Hội Thánh Việt Nam sinh hoa kết quả tươi tốt. Cái chết của chân phước Anrê Phú Yên năm 1644 đã loan báo một chân trời hân hoan nhưng cũng đầy bóng tối. Hội Thánh Việt Nam được lớn lên nhờ dòng máu của các vị thừa sai và nhiều linh mục, chủng sinh, thầy giảng và muôn vàn giáo dân: ta chỉ cần quay lại lịch sử từ lúc bước chân các vị thừa sai đặt lên quê hương Việt Nam hẳn ta sẽ thấy hết ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam là một chuỗi những ân huệ dồi dào.
Chúa luôn hiện diện. Chúa Thánh Thần luôn tác động trong lịch sử cứu độ. Các thánh tử đạo trải qua nhiều thời kỳ, đặc biệt là các triều nhà Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, với nhiều sắc lệnh cấm đạo ngặt nghèo đã giết đi bao mạng người oan ức. Nhưng như Tertullien đã viết:” Máu tử đạo là hạt giống trổ sinh người tín hữu”, Hội Thánh lớn lên và phát triển không ngừng nhờ hàng hàng lớp lớp các tử đạo đã nằm xuống với muôn cực hình cay đắng, khốn khổ.
Các thánh tử đạo là những người như ta nhưng họ đã hơn ta vì dám hy sinh, từ bỏ, dám dấn thân cho nước trời:” Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không thúi đi thì nó không sinh nhiều bông hạt”. Các thánh tử đạo là những người đã ý thức, cảm nghiệm lời của thánh Phaolô:”&không vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện, như Thiên Chúa muốn, không vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy”( 1Co 5,1-4).
Đọc lại những trang sử oai hùng của Giáo Hội Việt Nam, Hội Thánh Việt Nam trước hết cảm tạ tri ân Thiên Chúa Ba Ngôi vì nhờ dòng máu của các thánh tử đạo gồm đủ mọi thành phần đã xây đắp Giáo Hội tươi xinh và tốt đẹp. Giáo Hội Việt Nam đã phát sinh những nhân chứng, đặc biệt là các vị tử đạo như lời Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã nói. Nhờ các thánh tử đạo, đức tin của người Kitô được củng cố, được bảo tồn và được gìn giữ vẹn toàn.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng 117 vị chân phước lên hàng hiển thánh vào ngày 19/6/1988 và ngày 05/3/2000 cũng chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong thầy giảng Anrê Phú Yên lên hàng chân
phước. Đó chỉ là mặt nổi nói lên rằng Hội Thánh Việt Nam quả 300 năm được loan báo Tin mừng đã làm nẩy sinh nhiều chứng nhân trung kiên và phát sinh nhiều thánh tử đạo. Người ta ước chừng có hơn 100.000 Kitô hữu đã nằm xuống cho Giáo Hội được đơm hoa kết trái. Vâng, Hội Thánh Việt Nam là cuốn niên giám lớn ghi mãi, ghi hoài tên của những con người đã tất cả vì Chúa mà xây dựng Giáo Hội Việt Nam.
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam xin củng cố đức tin cho chúng con và giúp chúng con biết sống yêu thương, không báo oán, không hận thù, để luôn làm cho bộ mặt của Chúa được vinh quang, rạng rỡ.
Đọc lại lịch sử buổi đầu của Giáo Hội Việt Nam, tôi thấy rất giống bối cảnh lịch sử của Hội: 24/11-39
Đọc lại lịch sử buổi đầu của Giáo Hội Việt Nam, tôi thấy rất giống bối cảnh lịch sử của Hội Thánh tiên khởi thuở ban đầu. Ngày ấy, Hội Thánh tiên khởi còn rất mới mẽ, rất non nớt. Sau khi Chúa Giêsu về trời (khoảng đầu thập niên 30) các thánh tông đồ và các Kitô hữu đầu tiên vâng lệnh Chúa lên đường tiếp nối sứ mạng của Chúa. Vì thế lúc ấy, Tin Mừng chỉ mới ở giai đoạn khởi đầu. Do đó, Đức tin của các Kitô hữu cũng vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu, thì năm 64, Hội Thánh đã bị bách hại dữ dội. Thế nhưng, càng bị bách hại, càng nếm trải đau khổ và sự chết bao nhiêu, đức tin ấy càng cho thấy nó có một sức mạnh lạ lùng bấy nhiêu. Và sự khẳng định đức tin, bằng những dòng máu đỏ thắm, nơi chính các Kitô hữu càng rực sáng, rất đáng quý trọng. Có đọc lại lịch sử, và có cảm nhận hết những thương đau mà các Kitô hữu đầu tiên phải chịu đựng, ta mới thấy hết sức mạnh không thể lay chuyển của đức tin ấy. Một dức tin dù rất mới mẽ, nhưng lại kiên trung đến thế, đó mới chính là phép lại phi thường.
Chẳng hạn cuộc bắt bớ của hoàng đế Neron, một bạo vương khét tiếng độc ác, đã giết vợ, mẹ và con mình. Để giập tắt dư luận lúc đó đang đổ thừa cho hoàng đế đốt thành Rôma, ông đã đổ lỗi cho các Kitô hữu. Ông ra lệnh bắt bớ khắp thành. Các Kitô hữu phải chịu vô vàn những hình phạt tinh vi. Đó là những gì rùng rợn và nhục nhã nhất chụp xuống trên Giáo Hội nhỏ bé này. Giết người bằng mã tấu, bằng gươm, bằng những hình khổ dã man như: đâm, chém, phanh thây, treo thập giá& vẫn chưa lấy làm đủ, ông còn tạo ra những trò tiêu khiển như lột trần họ ra rồi bỏ vào hầm thú dữ đói để nhìn ngắm cảnh tượng thú dữ rượt đuổi, còn họ thì chạy vòng khắp hang cùng với sự hoảng loạng, sợ hãi và la hét rợn trời cho đến khi thú dữ nhai sạch xác họ. Có khi ông cho họ mặc da thú vật để cho chó cắn xé. Hoặc ông buộc chặt cả một tập thể vào các thập giá, tẩm dầu, để đêm đến đốt lên cháy sáng như những ngọn đuốc& Sự độc ác của ông lớn đến nỗi, dù bị vu oan là đã đốt thành Rôma, một tội ác nặng nề, nhưng dần dần người ta nhận ra việc khử trừ các Kitô hữu không phải vì lợi ích của đất nước, mà chỉ vì sự độc ác của một con người.
Chính trong thời hoàng đế Neron, năm 64, thánh Phêrô và năm 67, thánh Phaolô bị giết. Tất cả cùng chịu đóng đinh thập giá.
Và những cuộc bắt bớ trên đất Việt cũng gần giống như thế. Nhiều vị Thánh Tử đạo Việt Nam bị hiểu lầm, thậm chí bị vu oan. Chẳng hạn trường hợp thánh Phaolô Hạnh. Sống ở Chợ Quán, Sài Gòn và làm nghề buôn bán, thánh nhân là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới gian hồ. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: Họ tố cáo Phaolô Hạnh ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hòa ngày 28. 5. 1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đan tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5. 6. 1840, thánh Luca Loan bị chém đầu.
Các thánh Tử đạo Việt Nam, cách chung, tuy được đối xử tôn trọng hơn và cũng không bị hành hình để làm trò tiêu khiển như các thánh Tử đạo của Giáo Hội tiên khởi. Nhưng các hình phạt mà các thánh Tử đạo Việt nam phải chịu, vẫn là những hình phạt dã man, rất đáng sợ, rất đớn đau, và đáng thương tâm vô cùng. Vì muốn các ngài phải bỏ đạo, vua chúa, quan quyền đã ra lệnh đánh đập, không phải một lần, nhưng nhiều lần đến nỗi rách cả da thịt, ứa đầy máu, có lúc tưởng đã chết dưới những làn roi của những con người không một chút lương tâm. Có khi những vết thương do bị đánh đòn còn chưa kịp lành, các thánh Tử đạo Việt Nam đã bị lôi ra tiếp tục tra tấn. Các vết thương cùng những trận đòn tàn nhẫn ấy càng nhân lên sự đau đớn gấp bội. Đến lúc kết thúc cuộc đời, có khi vì tuổi già, sức yếu; hoặc không thể chịu nỗi cảnh áp bức của nhà tù, một số vị đã chết rũ tù. Đa số các thánh Tử đạo Việt Nam bị xử trảm (chém đầu). Có trường hợp, vì lý hình run tay, nên chém rất nhiều nhát, đầu mới lìa cổ. Một số thánh Tử đạo khác bị thiêu sống (hình phạt thiêu sinh). Số khác bị xử giảo (dùng dây xiết cổ cho đến chết). Nhiều vị Tử đạo khác nữa bị xử lăng trì (phanh thây ra làm nhiều mảnh). Ví dụ thánh Augustinô Phan Viết Huy và thánh Nicôlas Bùi Đức Thể, trong ngày xử án, thống đốc Trịnh Quang Khanh và lý hình mang hai vị anh hùng đức tin ra cửa biển Thuận An. Trên một chiếc thuyền, họ đã trói cả hai vào cột chèo, thay vì chặt làm đôi (chặt ngang lưng), lý hình chặt đầu trước, sau đó chẻ thân thể làm bốn và quăng xuống biển làm mồi cho cá.
Một bản án lăng trì khác dành cho thánh Sampedro Xuyên, một Giám mục thừa sai đến từ Tây Ban Nha, thật kinh hoàng. Ngày 28. 7. 1858, sau khi đến pháp trường Bảy Mẫu, lý hình xô Đức cha Xuyên nằm sấp trên chiếu có phủ vải sẵn, trói chân tay thật căng vào bốn cọc ở bốn phía, thêm hai cọc ở dưới nách để nạn nhân khỏi cựa quậy. Năm lý hình cầm rìu, lần lượt thi hành nhiệm vụ. Họ chặt từng chân, từng cánh tay rồi mới chặt đầu. Máu tuôn lai láng đọng thành vũng.
Trong số các vị hiển thánh và chân phước được Giáo Hội tuyên phong, có một trường hợp bị xử vô cùng thương tâm. Thánh Marchand Du, linh mục thừa sai người Pháp, phải thụ án bá đao (xẻo đủ một trăm miếng thịt). Ngày 30. 11. 1835, cha được đưa ra pháp trường. Người ta cột chặt thân thể cha vào cọc và nhét đá vào miệng để cha không kêu la vì đau đớn. Dân chúng, những người xem xử án, bị đuổi lùi ra cách 30 thước. Sau một hồi trống hiệu, lý hình lột da trán cha Du, lật xuống để che mắt, rồi cắt từng mảnh thịt bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đớn đau, vị anh hùng đức tin của chúng ta giẫy giụa quằng quại, ngước mắt lên trời cao rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa đời. Nhưng lý hình vẫn tàn nhẫn tiếp tục xẻo đủ 100 miếng thịt như đã định. Cuối cùng, lý hình chặt đầu cha, rồi chẻ thân mình làm bốn và ném xuống biển, mất xác. Còn đầu của cha được đưa đi bêu ở nhiều nơi, rồi trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và đem rắc xuống biển.
Đã nói đến các thánh Tử đạo, không thể nào ta không nhắc đến đức tin mà các vị ấy đã tuyên xưng bằng chính máu đào và bằng chính sự sống của mình. Một đức tin quá kiên trung, quá lạ thường mà mãi mãi người đời sau vẫn cứ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi chiêm ngưỡng các thánh Tử đạo Việt Nam. Bởi mấy trăm năm, dòng lịch sử của Giáo Hội Việt Nam đã cho ta cảm nhận trọn vẹn một chân lý thật lớn lao: Chính bàn tay Thiên Chúa đã hiện diện để nâng đỡ và lèo lái lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Thật giống trường hợp các thánh Tử đạo tiên khởi, Tin Mừng chỉ mới đến với quê hương Việt nam khoảng nửa sau thế kỷ XVI, nghĩa là đức tin vừa chớm nỡ, vậy mà ngay sau đó, đã bị bắt bớ, bách hại. Những cuộc bách hại có lúc rất căng thẳng, có lúc nhẹ nhàng hơn theo từng giai đoạn, nhưng như thế cũng đủ để làm cho tinh thần đức tin bị lung lạc, suy yếu. Vậy mà điều đó đã không xảy ra. Càng ra sức bắt đạo bao nhiêu, càng có nhiều người anh dũng chết cho đức tin bấy nhiêu. Vua quan, một mặt ra sức bắt đạo dữ dội, mặt khác ra sức ngăn chặn sự phát triển của đạo, thì lại vô tình làm cho đức tin càng được dồn nén, càng được nung nấu, càng được khẳng định, nếu có dịp sẽ cháy bùng lên, và nhanh chóng lang tỏa mãnh liệt hơn bất cứ lúc nào.
Các thánh Tử đạo không phải là những người quá khích tự đi tìm cái chết vì đạo, mặc dù điều đó có thể xảy ra. Các thánh càng không quá khích đến độ tự đi tìm cái chết để như một cách trả thù, một phương thế ngạo ngễ vua chúa. Trước sau như một, các ngài vẫn yêu mến quê hương, vẫn tỏ lòng tùng phục và kính trọng các cấp chính quyền. Không bao giờ các thánh Tử đạo quyên cầu nguyện cho vua quan. Dường như đối với các thánh, phải tìm mọi cách để các cấp chính quyền từ vua, quan, đến quân gặp được chân lý của Tin Mừng. Không quá khích đã vậy, ngược lại các Kitô hữu còn có thể chạy trốn cuộc bách hại. Nghĩa là các ngài vẫn tìm mọi cách để cố giữ gìn mạng sống của mình. Nhưng khi bị bắt, các ngài làm chứng tới cùng, theo Chúa Giêsu cho tới khổ nạn và chết. Như vậy, các thánh Tử đạo là những người khôn ngoan, tỉnh táo, vẫn rất yêu quý mạng sống của mình. Chấp nhận chết là vì hết cách, là bước cuối cùng, chỉ vì lòng yêu mến Chúa và muốn bảo toàn đức tin mà thôi. Từ thái độ sống đến cái chết của các thánh Tử đạo nói riêng, và của các Kitô hữu nói chung, chứng minh cho mọi người thấy rằng, chỉ có Thiên Chúa là trên hết, là cao cả, là tuyệt đối, vượt trên tất cả mọi sự quý giá. Dẫu là sự sống, điều mà mỗi người chỉ có một duy nhất mà thôi, mất là hết, mất là chấm dứt sự hiện diện đời đời, vẫn không thể sánh bằng Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội, là tất cả của vũ trụ. Từ sự hiểu biết về chân lý cao cả ấy, các thánh Tử đạo có một thái độ chọn lựa dứt khoát: Tin nơi Thiên Chúa đến cùng, dù phải hiến dâng cả mạng sống của mình.
Không biết bạn có nhớ bài giảng của Đức Thánh Cha trong thánh lễ phong thánh cho các thánh Tử đạo Việt Nam ngày 19. 6. 1988? Đức Thánh Cha nói rằng: “Máu các Tử đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu của Chúa Kitô” (số 6).
Đúng như lời Đức Thánh Cha, Giáo Hội Việt Nam thật hạnh phúc vì được thừa hưởng một kho tàng quý giá vô cùng. Kho tàng ấy không phải trả giá bằng tiền của, nhưng đáng giá máu của hàng trăm ngàn người Công giáo Việt Nam: KHO TÀNG ĐỨC TIN. Một kho tàng lớn lao, quý báu vô ngần và vững chãi như núi đá ngay từ những ngày đầu tiên, đã qua suốt bốn trăm năm và còn tiếp tục mãi về sau, chắc chắn sẽ không dễ gì mai một, càng không dễ gì lay chuyển. Bởi thế sự khôn ngoan của loài người là hãy nhìn vào tấm bia vàng đã sống hàng trăm năm ấy mà tiếp tục vung bồi, tiến tục dựng xây chứ đừng có thái độ thù nghịch, đừng có ác cảm.
Và chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, hãy noi gương cha ông của mình mà sống đức tin và làm chứng cho đức tin ấy một cách ngoan cường trong cuộc đời hôm nay, để “đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai”. Và hôm nay, mừng lễ các thánh Tử đạo Việt Nam, nêu cao bài học mà các ngài để lại, không phải là khơi lên máu nóng tìm đến cái chết, mà chính là sống hiến thân từng giây phút của đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân. Bởi thế, sống ơn Tử đạo hôm nay là biết chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng cho đức tin bằng sự hy sinh trong bổn phận, trong từng lời kinh nguyện, trong tất cả nếp nghĩ, nếp sống. Chính khi hiến thân sống ơn Tử đạo như thế, là lúc ta làm được điều mà các thánh Việt Nam đã làm: yêu quê hương, xây dựng quê hương, nhưng cũng biết mình là con cái của Cha trên trời. Bởi một lẽ không thể sai sót được: ĐỨC TIN LÀ MỘT NỀN TẢNG VỮNG CHẮC: “Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu của Chúa Kitô”.
Thật, Thầy bảo thật anh em : Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ: 24/11-40
Thật, Thầy bảo thật anh em : Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, thì nó mới sinh được nhiều hạt khác (c. 24).
Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời (c.25).
Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy (c.26)
2) Ý CHÍNH :
Khi có mấy người Hy-lạp đang ở Giêrusalem qua các môn đệ xin được gặp Đức Giêsu, thì Người tuyên bố rằng : “Đã đến giờ con người được tôn vinh !” Sau đó, Người dùng hình ảnh một hạt lúa mì chỉ phát sinh thêm nhiều bông hạt khác nếu nó biết tự hủy. Cũng vậy, Người cũng sẽ phải trải qua sự chết thì mới được vào trong vinh quang phục sinh.
Về phần các môn đệ, các ông cũng cần phải đi con đường của Người : Ai coi thường mạng sống mình ở đời này, sẵn sàng thí mạng sống mình vì Đức Giêsu, thì sẽ có sự sống vĩnh cữu ở đời sau như Người đã hứa : “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.
II. Học sống Lời Chúa :
1) Câu chuyện : Cuộc Tử đạo của Thánh An-rê Trần An Dũng Lạc :
Trần An Dũng Lạc sinh năm 1795, gia đình ngoại giáo nghèo ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu theo cha mẹ đến xứ Kẻ Chợ sinh sống. Tại đây, cậu được một thầy giảng nhận làm con nuôi và cho ăn học. Cậu được chịu phép Rửa tội và nhận tên thánh là An-rê. Sau đó cậu đáp lại ơn gọi dâng mình cho Chúa và theo học tại chủng viện Vĩnh Trị. Thầy An-rê Dũng được thụ phong linh mục vào năm 1823 khi được 28 tuổi. Từ khi thụ phong linh mục, Cha An-rê được sai đi giúp xứ. Ở đâu cha cũng nêu gương sáng đạo đức qua cuộc sống khổ hạnh. Ngoài những ngày chay theo luật định, cha còn tự nguyện giữ chay thêm suốt cả Mùa Chay và các ngày thứ Sáu thứ Bảy hằng tuần. Nhờ đời sống đơn sơ khiêm hạ và khắc khổ như vậy, nên cha đã gây được thiện cảm của những người chung quanh và thành công trên bước đường tông đồ : qua cha, nhiều tội nhân đã được ơn giao hòa với Chúa và nhiều người lương đã tin Chúa và xin nhập đạo.
Trong thời gian đạo Công Giáo bị bách hại gắt gao thời vua Minh Mạng, cha An-rê Dũng đã phải trốn tránh nhiều nơi. Một lần kia ở Kẻ Roi, khi vừa dâng lễ xong thì bị quan quân vây bắt và được giáo dân chuộc về. Sau đó cha đã đổi tên Trần an Dũng thành Trần an Lạc. Lần thứ hai cha bị bắt ở xứ Kẻ Sông khi đang xưng tội với cha Phêrô Thi. Hai cha bị quan quân đòi tiền chuộc tới 200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên góp được một nửa số tiền nói trên, nên chỉ mình cha Lạc được thả. Rồi cha lại bị đám lính khác bắt lại mang về huyện giam chung với cha Phêrô Thi và cả hai được áp giải về Hà-nội.
Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường tra xét và bắt phải bước qua Thánh Giá để chối bỏ đạo. Nhưng thay vì làm theo lệnh quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính Thánh Giá và nói : “Không bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã suốt đời hy sinh vất vả đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn nhát chối bỏ Chúa !”. Trước sự bất tuân của hai cha, quan tức giận sai lính đem nhốt các ngài vào ngục thất và làm thành án gửi về kinh. Suốt thời gian ở trong tù, hai cha luôn cầu nguyện và an chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ đến cùng. Tuy giáo dân được phép thăm nuôi hằng ngày, nhưng hai cha yêu cầu họ đừng đem đồ ăn ngon đến, và nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn tù hoặc lính canh.
Ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai cha đã chính thức nghe án lệnh xử trảm của nhà vua. Rồi các ngài bị điệu ra pháp trường Cầu Giấy ở Hà Nội. Đến nơi, các ngài cầu nguyện ít phút, rồi cúi đầu cho lý hình dễ dàng thi hành phận sự. Đức Thánh Cha Lêô 13 đã tôn phong các ngài lên hàng Chân Phước Tử Đạo vào ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Gioan Phaolô II đã suy tôn hai ngài lên bậc Hiển Thánh.
2) Suy niệm Lời Chúa : “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,17-18).
+ Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu đã chung số phận với Thầy Giêsu là bị cấm cách, bắt bớ và giết hại. Thời nào và nơi nào đạo được truyền tới cũng đểu có các vị tử đạo. Tại Việt Nam, theo sử liệu, đạo Chúa đã được truyền giảng từ thế kỷ thứ 16. Vàsuốt thời gian gần 300 năm sau đó, đạo công giáo luôn bị đàn áp bách hại với cảnh đầu rơi máu chảy ! Sau Giáo Hội Rôma thì có lẽ Giáo Hội Việt Nam đã dâng cho Chúa nhiều tử đạo hơn cả ! Người ta ước tính có tới hằng trăm ngàn người Công Giáo đã bị giết hại vì đức tin. Trong số đó, 117 vị đã được Đức Gioan Phaolô II tôn phong lên hiển thánh và được mừng chung trong toàn thể Hội Thánh.
+ Trong số các vị Tử Đạo Việt Nam, có 8 Giám Mục, 50 Linh Mục, 16 Thầy giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân. Các ngài đã bị trảm quyết (chém đầu) : 79 vị; Bị xử giảo (siết cổ); 16 vị; Bị chết rũ tù (do đói khát bệnh tật) : 8 vị; Bị thiêu sinh (chết thiêu trong hỏa lò) : 6 vị.
3) Câu hỏi thảo luận : Tại sao đạo Công giáo lại bị người đời thù ghét bách hại như vậy ? Đáp : (Vì giống như Đức Giêsu cũng đã bị giết hại; Vì vua quan nghi ngờ người công giáo làm tay sai cho giặc; Vì có những chân lý đức tin và luân lý khác hẳn với truyền thống và văn hóa địa phương; Vì sự ganh tị của một số người sợ mất quyền lợi khi nhiều người theo đạo mới&)
4) Học sống Lời Chúa : Tử đạo là làm chứng nhân của Chúa (x. Cv 1,8). Nhân chứng là người đứng ra bảo đảm điều mình nói là đúng sự thật do chính mắt thấy tai nghe. Người làm chứng đứng đắn là người không bị kẻ khác mua chuộc, dọa nạt hay tra tấn, để nói khác với điều mình biết rõ. Vậy tôi quyết tâm sẽ làm gì để làm chứng về Đức Giêsu là Con Thiên Chúa cho những ai chưa nhận biết Chúa và cho các bạn bè chưa tin nơi Người ?
III. Hiệp sống nguyện cầu
Lạy Chúa Giêsu, là vị tử đạo tiên khởi, Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào trong thế gian. Xin cho chúng con luôn giữ được bản lãnh đức tin của mình, giữ được vị mặn của muối, tác động của men&để đem đến cho thế gian một sức sống mới và một tinh thần mới.
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã dạy các môn đệ rằng : “Anh em sống giữa thế gian, nhưng không theo thói thế gian”. Xin cho chúng con đừng bao giờ bỏ Chúa để chạy theo những cám dỗ của thế gian, ma quỉ và các đam mê xác thịt. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng : “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” để chúng con luôn sống xứng đáng là những con cháu của các thánh tử đạo Việt Nam. Xin cho chúng con luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt người đời : Nở nụ cười khi tiếp xúc, Cởi mở đi bước trước làm quen với những người mới, an ủi những ai đang gặp rủi ro trái ý; khiêm nhường phục vụ tha nhân, đặc biệt những người đau khổ và bất hạnh, đang cần được cảm thông và trợ giúp.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Nhân có một số người Hylạp lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt qua. Đây có thể là những người có: 24/11-41
Nhân có một số người Hylạp lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt qua. Đây có thể là những người có thiện cảm với đạo Dothái hoặc là những người mới theo đạo. Biết có Chúa Giê-su về dự lễ, họ liền đến nhờ Phi-lip-phê báo cho Chúa biết là họ muốn gặp ngài. Phi-lip-phê cùng với An-rê đến gặp Chúa để trình bày ước nguyện của số người trên, Chúa Giê-su đã loan báo cho các ông biết Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người.
Chúng ta thấy trước nguyện vọng muốn được gặp Chúa của những người Hylạp dường như không được Chúa Giê-su đáp ứng. Thế nhưng trong câu trả lời cho các môn đệ, chúng ta lại thấy Người đã đáp lại lời thỉnh nguyện kia một cách sâu xa. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Cách nào đó Chúa muốn cho chúng ta thấy rằng để loài người hay đúng hơn là để những người Hylạp - những người không thuộc chủng tộc Dothái- có thể gặp được Chúa, được cứu độ, thì Con Người cần phải được tôn vinh. Nghĩa là Con Người cần phải đi qua cuộc Khổ nạn, sự chết để được hưởng vinh quang Thiên Chúa.
Hình ảnh hạt lúa, một hình ảnh hết sức cụ thể đối với mỗi người dân sống trong vùng trồng trọt, chăm sóc ruộng vườn. Thực tế là khi người nông dân gieo lúa vào lòng đất, hạt lúa khi ấy dưới ảnh hưởng của độ ẩm, không khí, dưỡng chất,& sẽ mềm ra, thối rữa để nẩy mầm, báo hiệu một mùa lúa bội thu. Chúa Giê-su dùng hình ảnh này để cho chúng ta thấy Người chính là hạt lúa. Chính cuộc Khổ nạn và cái chết của Người sẽ dẫn đến sự sống lại. Như thế cái chết và sự sống lại của Chúa sẽ là dấu hiệu cho thấy Người sẽ quy tụ hết thảy mọi người cả Dothái và dân ngoại trở thành một dân đông đảo gồm những người được cứu độ.
Nếu hạt lúa vẫn giữ nguyên vẹn là hạt lúa trong kho lẫm thì mãi mãi nó vẫn cứ là hạt lúa không hơn không kém, nó sẽ mất đi không còn dấu vết nếu ngày nào đó người ta đem vào cối nghiền nát, khi đó nó không còn cơ may để có thể sản sinh nhiều hạt lúa khác. Cũng vậy, trong giáo huấn của Chúa Giêsu, Chúa muốn mỗi người chúng ta đừng quá chăm lo cho cuộc sống ở đời này. Lý do là vì nếu chúng ta chỉ lo tìm mọi cách để hưởng thụ cuộc sống đời này, chúng ta sẽ không còn thời giờ để chăm lo cho mình cuộc sống đời sau. Cần phải hiếu động từ “ghét” hay “xem thường” theo kiểu tư duy của người Sêmít. Đối với dân Sêmít, “ghét” hay “xem thường” không có nghĩa là thù ghét hay khinh thường mà chỉ có nghĩa là mức độ yêu mến ít hơn. Lẽ dĩ nhiên chúng ta luôn trân trọng cuộc sống đời này, vì đó chính là ơn Chúa ban cho chúng ta. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta ra sức bảo vệ nó bằng bất cứ giá nào. Hơn ai hết, các thánh tử đạo là những người hiểu thấu chân lý này khi các ngài chấp nhận hy sinh mạng sống đời này vì Chúa Kytô, vì Tin mừng, vì Giáo hội. Các thánh tử đạo chính là những hạt lúa được gieo trong đau thương, trong nước mắt để rồi như Tertuliano đã nói : “Máu các vị Tử đạo là hạt giống sinh nhiều Tín hữu”.
Mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta là con cháu các ngài không mong ước gì hơn là được noi gương các ngài để làm chứng cho tình yêu Chúa Kytô nơi trần thế này. Xin các thánh Tử đạo Việt Nam chuyển cầu để nhờ đó người giáo dân Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu trên trái đất này vẫn luôn kiên trung trong Đức Tin, vững mạnh trong Đức Cậy và hăng say trong Đức Mến ngõ hầu hết thảy mọi người nhờ đó nhận biết Chúa Giêsu là Thiên Chúa Cứu độ trần gian.
Hôm nay chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo ...: Đây là một ngày vui mừng chung của: 24/11-42
Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử đạo tại Việt Nam. Đây là một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên. Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giơ, đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam. Hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S” thân yêu này. Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.
Thật vậy, “Tử đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là “làm chứng”. Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều gì? Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái chết của mình, cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt: “sống gởi, thác về”. Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật quyết liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những vinh hoa phú quý của nó, thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một cuộc chọn lựa cơ bản này. Ông Môisê đã nói với họ: “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai hoạ”. Khi dân Do thái chọn lựa “yêu mến Đức Chúa,& và gắn bó với Người”, thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc sống sung sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ được làm dân của Ngài. Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm gia nghiệp.
“Trung thành với Thiên Chúa” cũng chính là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin mừng đã quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua. Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết. Đứng trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.”. Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Một chọn lựa có thể nói là đầy bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà những chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.
Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin mừng”. Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ. Đức tin đó còn phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời đại.
Mừng lễ các thánh Tử đạo tại Việt Nam hôm nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình. Chọn lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ phiền hà rồi im lặng. Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi Thánh đường này, tôi chọn điều gì?
Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. Amen.
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, trong Hội Nghị Thường Niên vào tháng 4 năm 1991 đã quyết định: 24/11-43
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, trong Hội Nghị Thường Niên vào tháng 4 năm 1991 đã quyết định lấy ngày Chúa Nhật 33 làm ngày kính trọng thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chúa Nhật 33 là Chúa Nhật áp chót của Năm Phụng Vụ của Giáo hội Công Giáo Rô-ma.
Nên trước khi mừng lễ Chúa Giê-su Ki-tô là Vua vũ trụ ( Chúa Nhật 34 ), Giáo hội Việt Nam mừng kính các bậc tổ tiên là các vị Hiển Thánh đã lấy máu đào minh chứng lòng Tin của mình vào Thiên Chúa và vào Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Người, là một việc làm rất có ý nghĩa. Chúng ta hãy tìm hiểu các bài Thánh Kinh để sống theo gương các bậc cha anh thân yêu của chúng ta.
I. LẮNG NGHE VÀ TÌM HIỂU LỜI CHÚA:
Bài đọc 1: 2 Mcb 7, 1. 20 – 23. 27b – 29:
Là tường thuật hết sức cảm động của Sách Mác-ca-bê quyển 2, về câu chuyện bẩy anh em ruột của một gia đình phải chết trong một ngày, vì đã không tuân theo lệnh truyền của vua An-ti-ô-khô bởi lệnh ấy trái với luật của Mô-sê. Tác giả làm nổi bật lòng cậy trông mà bà mẹ của bẩy chàng thanh niên kia đặt nơi Đức Chúa cũng như tinh thần cao thượng và tấm lòng kiên cường hiếm có của bà là một phụ nữ. Những lời của bà quả là những lời vàng ngọc, chẳng khác gì một lời tuyên xưng Đức Tin:
Với cả bẩy người con, bà nói: “Mẹ không rõ các con đã được hình thành trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con Thần Khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật của Người hơn bản thân mình”.
Với riêng người con út, bà nói: “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ.”
Bài đọc 2: Rm 8, 31b – 39:
Trong bối cảnh anh chị em tín hữu ở Rô-ma cũng như ở nhiều nơi khác trong Giáo hội thời sơ khai, gặp không biết bao nhiêu là khó khăn, thử thách, kể cả bắt bớ, tù tội, Thánh Phao-lô cảm thấy có trách nhiệm phải củng cố lòng tin của anh chị em: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta ? Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ?” Để thuyết phục các tín hữu trong cơn gian nan thử thách tin vào Tình Yêu của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô, Thánh Phao-lô đã chứng minh họ được yêu thương như thế nào: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta ?”
Bài Tin Mừng: Ga 12, 20 – 32:
Đây là tường thuật của Thánh Gio-an về những gì diễn ra ở Giê-ru-sa-lem không bao lâu trước ngày Đức Giê-su bị kết án thập giá. Có mấy người Hy-lạp về dự lễ Vượt Qua muốn gặp Đức Giê-su, nên họ nhờ ông Phi-líp-phê “thu xếp”. Thay vì đáp ứng lời yêu cầu của mấy người ấy thì Đức Giê-su lại bộc lộ kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa và cởi mở cõi lòng với các môn đệ: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy. “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha.”
Thánh Gio-an kể tiếp: “Bấy giờ có tiếng từ Trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa ! “ Dân chúng ở đó nghe vậy liền nói: “Đó là tiếng sấm !” Người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy !” Đức Giê-su đáp: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người đến với tôi”. Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào”.
Từ đoạn Tin Mừng trên chúng ta rút ra được hai điều quan trọng sau đây:
Đức Giê-su sẽ bước vào cuộc Thương Khó, vì việc ấy nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Nói rõ hơn việc Đức Giê-su phải chết trên thập giá là việc vừa đẹp lòng Thiên Chúa vừa sinh ích cho muôn người. Đứng trước cuộc khổ nạn thập giá, tâm hồn Đức Giê-su không khỏi xao xuyến rung động, muốn được Chúa Cha cứu thoát khỏi giờ phút hãi hùng ấy, nhưng lại quyết một lòng vâng theo Thánh ý Chúa Cha. Bằng cái chết đau thương, Đức Giê-su đã chiến thắng thủ lãnh thế gian là tội lỗi và sự chết và lôi kéo muôn người đến với Người.
Ai theo Chúa Giê-su, noi gương bắt chước Người, sống (yêu thương) và chết (tự hiến) như Người thì sẽ được diễm phúc ở cùng Người và được Cha Người quý trọng.
II. ĐÓN NHẬN VÀ SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA:
1. Con đường Thập giá là con đường riêng của Ki-tô giáo
Nếu Phật Giáo có con đường diệt dục thì Ki-tô giáo có con đường thập giá. Diệt dục là dẹp bỏ mọi ham muốn ( tham sân si ) để tâm hồn nhẹ nhàng mà dễ “ngộ” ( nhận thức chân ly ) và siêu thoát khỏi thế giới ô trọc này. Vác thập giá là chấp nhận mọi vất vả, khó khăn, thử thách, thiệt thòi vì công lý và Tin Mừng Nước Trời, thậm chí cả việc hy sinh của cải, danh vọng, thời gian và mạng sống mình ở đời này để có được sự sống bất diệt bên Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa, Cha của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người còn hạ mình, vâng lời cho đến bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” ( Pl 2, 6 – 8 ). Thập giá vẫn luôn luôn là điều khó hiểu và mang tính điên rồ đối với tâm trí con người.
2. Máu các Thánh Tử đạo là hạt giống Đức Tin
Các Thánh Tử Đạo nói chung và 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam nói riêng là những người đã giống Đức Giê-su Ki-tô hơn ai hết! Các Ngài đã chết vì Đức Tin tức chết vì yêu thương và gắn bó mật thiết với Thiên Chúa và đạo lý của Người. Máu các Ngài đã đổ ra trên quê hương Việt Nam khiến nhiều thửa đất từ Bắc chí Nam đã được thấm máu hồng của các Ngài. Chính nhờ những giọt máu hy sinh ấy mà Niềm Tin Ki-tô đã đang được chuyển tới các tâm hồn. Nếu chúng ta quan tâm đến cánh đồng Truyền Giáo của Giáo hội Việt Nam ngày nay, chúng ta sẽ nhận ra có những dấu chỉ tỏ tường của thời đại: Từ Nam ra Bắc khắp nơi nơi rộ lên một phong trào tìm kiếm Thiên Chúa trong Ki-tô giáo ( Công Giáo và Tin Lành ). Gạt ra ngoài những tác nhân kinh tế, chính trị và xã hội, tác nhân chính của phong trào này là sự thúc đẩy của Thần Khí Thiên Chúa. Chúng ta cũng có thể nói mà không sợ sai rằng: “Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống Đức Tin”. Giáo Hội Công Giáo luôn tin như thế ! Là con cháu của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta có quyền tự hào. Nhưng đồng thời chúng ta cũng có trách nhiệm, rất lớn lao, chẳng những đối với các Ngài là những người đã để lại cho chúng ta một gia sản quí báu và kếch xù, mà còn có trách nhiệm đối với các thế hệ hiện tại và tương lai nữa.
3. Trách nhiệm của chúng ta là con cháu các Thánh Tử Đạo
Vậy chúng ta phải làm gì đây ? Trước hết chúng ta được mời gọi “ôn cố tri tân” để học tập gương can đảm, lòng kiên cường của cha ông chúng ta. Kế đến chúng ta phải biết trân trọng và vun đắp cho hạt giống Đức Tin đã được gieo vào tâm hồn chúng ta càng ngày càng lớn lên và sinh nhiều hoa trái. Sau cùng là chúng ta hãy quảng đại đóng góp tài năng, công sức, tiền bạc, thời gian và phương tiện cho công cuộc Truyền giáo để làm cho hạt giống Đức Tin được gieo vãi vào tâm hồn nhiều người Việt Nam và làm cho hạt giống Đức Tin ấy nẩy mầm và lớn lên thành cây cao bóng cả cho Giáo hội và dân tộc trong hiện tại và trong các thế hệ mai sau.
III. CẦU NGUYỆN:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô, Cha của chúng con và Cha của hết mọi người, chúng con dâng lời tạ ơn Cha vì Cha đã ban Con Một cho chúng con. Nhờ hiến tế thập giá của Người mà nhân loại được ơn nhận ra Cha là Thiên Chúa và là Cha yêu thương và cứu độ. Chúng con dâng lời đặc biệt tạ ơn Cha vì Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam chúng con hàng trăm ngàn anh hùng đã chết vì đạo và 117 Thánh Tử Đạo. Chúng con vô cùng tự hào về tư cách là con cháu các Ngài. Xin Cha ban cho chúng con ơn ý thức về vinh dự và trách nhiệm lớn lao ấy. Xin Cha giúp chúng con thực thi trách nhiệm mà tổ tiên cha ông giao cho chúng con.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam là tổ tiên, là cha ông của chúng con về dòng máu con Hồng cháu Lạc và về truyền thống Đức Tin công giáo, chúng con cám ơn và cảm phục các Ngài, xin các Ngài nài xin Thiên Chúa ban nhiều ơn lành cho hết mọi thành phần Dân Chúa, để ai nấy biết làm chứng nhân cho Chúa Giê-su Ki-tô trong xã hội Việt Nam ngày nay. Amen.
Gia đình của Chúa là một gia đình gồm những người trần mắt thịt, chứ không phải gồm những: 24/11-44
Gia đình của Chúa là một gia đình gồm những người trần mắt thịt, chứ không phải gồm những siêu nhân, những con người siêu đẳng. Kitô hữu không phải là những siêu nhân. Các thánh càng không phải là những siêu nhân, vì các Ngài là những con người có tính cách người nhất trong các con người. Các thánh không phải là người cao siêu, các Ngài không cần cái cao siêu, họa chăng cái cao siêu cần đến các Ngài. Các thánh không phải là những vị anh hùng, kiểu các anh hùng bách chiến bách thắng. Một người anh hùng cho chúng ta ảo tưởng là họ vượt khỏi nhân tính, đấng thánh không vượt khỏi nhân tính mà đảm nhận lấy nhân tính. Đấng thánh nỗ lực thể hiện nhân tính một cách tốt nhất. Bạn có hiểu hai điều đó khác nhau ra sao không? Đấng thánh cố gắng hết sức mình, nghĩa là gần giống với một Đấng đã hoàn toàn là người, với một sự đơn giản hoàn hảo, đến độ làm chưng hửng các vị anh hùng, nhưng lại làm yên lòng những phàm nhân chúng ta. Bởi vì Đức Giêsu không chỉ chết vì những người anh hùng, Ngài còn chết vì những kẻ hèn nhát nữa: Khi bạn bè Ngài quên Ngài thì kẻ thù Ngài có quên Ngài đâu. Bạn có biết rằng bọn quốc xã không ngừng đem đối lập cơn hấp hối cực thánh của Đức Kitô trong vườn Cây Dầu với cái chết vui tươi của các thanh niên quốc xã. Nghĩa là Đức Kitô muốn mở ra cho các thánh tử vì đạo của Ngài con đường vinh quang của cái chết không khiếp sợ, nhưng Ngài cũng muốn đi trước mỗi người chúng ta vào trong bóng tối đầy lo âu của sự chết. Một bàn tay vững vàng dũng cảm có thể tìm nơi nương tựa cuối cùng ở bờ vai Ngài, những một bàn tay run rẩy chắc chắn sẽ nắm được bàn tay Chúa...
Trong Tin mừng Gioan, đoạn Tin Mừng này tiếp theo câu chuyện Đức Giêsu khải hoàn vào: 24/11-45
Trong Tin mừng Gioan, đoạn Tin Mừng này tiếp theo câu chuyện Đức Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem, lúc gần đến lễ Vượt Qua.
Ở đây, đến lượt mình, những người ngoại cũng bày tỏ niềm ước mong: muốn được thấy Đức Giêsu. Trong Tin mừng thứ tư, thấy là một bước khởi đầu dẫn đến đức tin. Lời thỉnh cầu của họ khiến Đức Giêsu hết sức xúc động. Những người Hy Lạp này đại diện cho thế giới ngoại giáo mà sự Thương Khó của Người sẽ mở ra cho họ con đường cứu độ, sự Thương Khó sắp đến của Người khiến Người lo âu.
Như trong thư gởi tín hữu Do Thái, chúng ta khám phá dần dần Đức Giêsu làm người, đang lo lắng bối rối, và Đức Giêsu: Con Thiên Chúa biết việc Người sắp hoàn thành là rất cao cả.
Bước khởi đầu của những người Hy Lạp
Những người Hy Lạp này đến Giêrusalem để cử hành lễ Vượt Qua, thuộc về những người ngoại bị tôn giáo độc thần chinh phục, có cảm tình với Do Thái giáo, tuy nhiên không đến độ dấn thân vào việc giữ luật Moisê. Sách Công Vụ Tông Đồ gọi những người ngoại này là “những người thờ phượng Thiên Chúa” hoặc đơn giản “người thờ phượng” hay “những người kính sợ Thiên Chúa”.
Họ hỏi Philipphê người Bêtxaiđa, thành phố kế cận Caphacnaum, nơi người ngoại chiếm ưu thế, và ở đó yếu tố Hy Lạp là quan trọng. Philiphê gọi Anrê, như thế hai tông đồ có tên Hy Lạp làm trung gian. Dường như cả hai biết tiếng Hy Lạp.
Đức Giêsu không trực tiếp trả lời cho những người đối thoại. Thời gian dành cho những cuộc đối thoại riêng tư đã hết. Thời giờ hiện tại dành cho ơn cứu rỗi phổ quát.
Sự xúc động của Đức Giêsu
Cho đến lúc bấy giờ, Đức Giêsu từ chối mang Tin mừng đến cho dân ngoại: Người biết rằng bây giờ thời giờ đã đến. Người sắp đổ máu ra vì họ, vì tất cả. Vài ngày trước Người đã nói: “Tôi ban sự sống cho các chiên của tôi, nhưng tôi còn có nhiều chiên không thuộc về đoàn này”. Chúng đây này, những con chiên của một đoàn chiên khác, những người ngoại này đòi gặp Người, Đức Giêsu cảm động biết bao, Người bắt đầu lên tiếng: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”.
Đức Giêsu dùng kiểu nói Con Người mà Người rất thích để chỉ về mình. Kiểu nói này liên hệ đến thị kiến của Ngôn sứ Đanien trong đó một nhân vật bí nhiệm “Như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” và lãnh nhận danh dự, uy quyền và vinh quang. Tước hiệu khó hiểu này giúp cho Đức Giêsu giải thích sự siêu việt của Người mà không mặc khải mầu nhiệm bản thân Người.
“Con Người sắp được tôn vinh”. Trong Tin mừng Gioan, tôn vinh có nghĩa là bắt đầu đồi Canvê, chắc chắn từ ấy bao gồm sự Phục sinh và việc lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng tột đỉnh là Thập Giá, chính ở đó công cuộc cứu rỗi của Đức Giêsu được hoàn thành trọn vẹn và ý định yêu thương vô biên của Thiên Chúa được thực hiện đến nơi đến chốn.
Đức Giêsu sắp đưa ra một so sánh rất đơn giản: Hạt lúa mì phải chết đi nó mới sinh nhiều hạt khác.
Cần lưu ý rằng gần như mỗi lần Đức Kitô loan báo sự Thương Khó của Người, Người đều mời gọi dấn thân theo Người trên con đường từ bỏ và đau khổ (x. Mt 16,21-24; Mc 8, 31-35; Lc 9,22-23).
Đó là câu trả lời cho những người Hy Lạp đang ước ao được gặp và biết Người; có thể nói là Người cho họ một cái hẹn: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.
Không ai có thể gặp Đức Giêsu nếu không đi cùng một con đường với Người.
Viễn ảnh của con đường đau khổ này khiến Đức Giêsu xao xuyến sâu xa, lo âu dữ dội, kêu cầu Chúa Cha, rồi chấp nhận hy sinh. Đó chính là ba giai đoạn mà các tác giả Nhất Lãm mô tả khi Đức Giêsu hấp hối tại vườn Giêtsêmani. Nhưng trong lúc này, Đức Giêsu chưa đến nỗi ngã quỵ: Người nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Thêm vào đó, một tiếng từ trời vọng xuống nâng đỡ Người.
Bài giảng lễ Mừng Các Thánh Tử Đạo lần đầu tiên cách đây 15 năm: 01-09-1988
Nhân dịp mừng Lễ Kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày Chúa Nhật: 24/11-46
Nhân dịp mừng Lễ Kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày Chúa Nhật 16/11/2003 (theo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam khóa họp tháng 4/1991). Trong tài liệu thâu thập các bài giảng của Vietcatholic, chúng tôi xin cống hiến đến quý độc giả Vietcatholic bài giảng thật ý nghĩa cách đây 15 năm trong Thánh lễ lần đầu tiên mừng các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày 1/9/1988. Bài giảng của Linh Mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, Dòng Phanxicô. Sau đây là toàn văn bài giảng :
LẦN ĐẦU TIÊN MỪNG CÁC THÁNH TỬ DẠO VIỆT NAM
Một lần nữa, Hội Thánh Việt Nam lại long trọng mừng các vị tử đạo Việt Nam. Nhưng năm nay không giống các năm trước, và cuộc lễ năm nay mang một màu sắc vô cùng đặc biệt. Chính vì thế mà hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy nghĩ về ý nghĩa của ngày lễ kính các vị tử đạo Việt Nam năm 1988 này. Nhằm mục đích đó, trước hết, chúng ta hãy đặt ngày lễ trong bối cảnh lịch sử của nó, tìm hiểu những gì làm cho cuộc lễ năm nay trở thành đặc biệt, rồi từ đó, chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa của ngày lễ hôm nay.
A. BỐI CẢNH NGÀY LỄ CÁC VỊ TỬ ĐẠO NĂM NAY
1. Thời đại của tự do tín ngưỡng
Vị cuối cùng trong số 117 vị tử đạo được kính nhớ hôm nay đã chết năm 1883 dưới triều Tự Đức, tức là cách chúng ta hơn một trăm năm. Thời đại chúng ta đang sống hôm nay là thời đại của tự do tín ngưỡng.
2. Thời đại của đổi mới
Hơn thế nữa, cùng với tổng bí thư Goóc-ba-chốp ở Liên-xô, với tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tại Việt Nam, chúng ta đã bước vào một giai đoạn mới. Những gì đang diễn ra tại Liên-xô thật là đầy hứa hẹn, tiên báo một kỷ nguyên mới, với những thay đổi trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội, kể cả tôn giáo, những thay đổi mà chỉ cách đây năm mười năm thôi, một trí tưởng tượng phong phú đến đâu cũng không thể ngờ được. Giai đoạn chúng ta đang sống là giai đoạn của cải tổ, giai đoạn của đổi mới.
3. Năm nay tín hữu nước Nga mừng 1.000 năm theo Ki-tô giáo
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội không dừng lại nơi biên thuỳ quốc gia, nhưng đều mang một tầm vóc quốc tế. Ngoài ra, nhờ các phương tiện truyền thông xã hội, các quốc gia trở nên gần gũi với nhau hơn. Cuối cùng, dân tộc Việt Nam là một nước trong khối xã hội chủ nghĩa, những gì diễn ra bên Liên-xô đều ảnh hưởng không nhiều thì ít đến đời sống của chúng ta. Thế thì năm ngoái, Liên-xô mới mừng 70 năm Cách Mạng Tháng Mười. Năm nay Liên-xô mừng 1.000 năm Ki-tô giáo đi vào lịch sử các dân tộc Nga.
4. Cuộc lễ phong thánh 19-06-1988
Nhưng điều quan trọng nhất đối với người Ki-tô hữu Việt Nam, đó là sau hơn ba phần tư thế kỷ mừng các chân phước tử đạo Việt Nam, thì năm nay là năm đầu tiên Hội Thánh trên toàn thế giới và đặc biệt tại quê nhà chúng ta, mừng các thánh tử đạo Việt Nam sau khi 117 vị chân phước tử đạo được tôn phong hiển thánh ngày 19-06 vừa qua.
5. Được chào đón bằng một cuộc pháo bông vĩ đại
Hôm nay thì mọi sự hầu như đã chìm vào quên lãng. Nhưng trong nhiều tuần, nhiều tháng liên tục trước lễ phong thánh, không phải chỉ riêng gì người Công Giáo thôi, mà bất cứ một người Việt Nam nào cũng có thể mục kích một cuộc pháo bông vĩ đại, đó là việc các phương tiện truyền thông đại chúng, từ báo chí đến truyền thanh truyền hình, trong nhiều tuần, nhiều tháng liên tục, đã nói đến lễ phong thánh, đến các vị tử đạo của chúng ta. Chỉ nguyên việc đó thôi cũng đã là một đặc ân không tiền khoáng hậu cho người Công Giáo rồi, vì chính nhờ các phương tiện đó mà không những người Công Giáo mà ngay cả những người ngoài Công Giáo cũng đã nghe nói đến lễ phong thánh, đến các thánh tử đạo. Dĩ nhiên, trong tất cả những gì đã được nói và viết ra về các đề tài trên, thì quả là vàng thau lẫn lộn. Nhưng tôi tin rằng người Việt nam hôm nay đã đủ trưởng thành để có thể nhận ra và phân biệt vàng với thau, để có thể phân biệt phải quấy. Nếu như các cán bộ đã nhiều lần than phiền rằng khi nghe đề cập đến các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, phần đông dân chúng đã mất niềm tin, thì đối với các vấn đề tôn giáo, không có lý do gì để nghĩ rằng người dân cứ nghe gì là tin nấy.
Chúng ta vừa đặt ngày lễ các thánh tử đạo hôm nay trong bối cảnh lịch sử của nó. Bây giờ chúng ta hãy trở lại với nhân tố làm cho cuộc lễ các vị tử đạo năm nay mang một màu sắc vô cùng đặc biệt, nhân tố đó chính là cuộc lễ phong thánh 19-06-1988.
B. 19-06-1988 : NHÂN TỐ LÀM CHO CUỘC LỄ NĂM NAY THÀNH ĐẶC BIỆT
Chính bản thân tôi, và có lẽ một số trong anh chị em cũng thế, đã theo dõi cuộc lễ phong thánh ngày 19-06-1988 được đài Va-ti-căng trực tiếp truyền thanh. Vậy chúng ta đã ghi nhận được những gì ?- đây không phải là một cuộc lễ buồn tẻ. Theo ước lượng của các phóng viên thì có lối 25.000 người tham dự thánh lễ tại quảng trường thánh Phê-rô, trong số đó có lối 8.000 người Việt Nam có đăng ký với mấy ngàn nữa không đăng ký. Có hơn 100 phái đoàn đại diện hơn 100 quốc gia tham dự.
- đây là một cuộc lễ thuần tuý tôn giáo không mảy may có một dấu vết gì là chính trị xen vào.
- đáng chú ý hơn cả là bài giảng của Đức Giáo Hoàng trong đó ngài * cảm tạ Chúa * tôn vinh các thánh tử đạo Việt Nam * bày tỏ lòng yêu mến của ngài đối với quê hương các thánh tử đạo * mời gọi người Ki-tô hữu Việt Nam
trung thành với Chúa, gắn bó với dân tộc, và tôn trọng thể chể quốc gia.
Tôi xin ghi lại đây một đoạn trong những lời Đức Giáo Hoàng gửi đến Hội Thánh Việt Nam :
“Máu các vị tử đạo là nguồn ân sủng trước hết cho anh em, để anh em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em, đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn phải được truyền tụng cho nhiều thế hệ tương lai. Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người Việt Nam thuần tuý, vừa muốn trung thành với quê hương đất nước, vừa muốn là người tín hữu đích thực của Chúa Ki-tô. Ai là người tín hữu đều ý thức rằng : lời kêu gọi của Tin Mừng vẫn là phải tuân phục các thể chế loài người để tôn thờ tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng con người tự do, kiêng nể tha nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa, tôn trọng công quyền và thể chế quốc gia. Do đó, người công dân có đạo phải dấn thân phục vụ lợi ích quốc gia, đồng thời phải được tự do tuyên xưng chân lý của Chúa, được hiệp thông với các vị lãnh đạo và anh em đồng tín ngưỡng : như thế là sống bình an với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho toàn dân.”
Sau khi đã đặt ngày lễ hôm nay trong bối cảnh lịch sử của nó, đồng thời nhắc lại nhân tố đã làm cho ngày lễ hôm nay nên đặc biệt, bây giờ chúng ta hãy thử trả lời câu hỏi : đâu là ý nghĩa của ngày lễ các thánh tử đạo Việt Nam hôm nay.
C. Ý NGHĨA CỦA NGÀY LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM NĂM 1988
1. Tử đạo đã là câu chuyện lỗi thời chưa ?
Nói “chưa” cũng đúng, mà nói “rồi” thì cũng không sai. Nếu mở các bản hiến pháp quốc gia ra mà xem, thì hầu như quốc gia nào cũng nhìn nhận quyền tự do tín ngưỡng. Mặt khác, có thể nói được rằng ngày nay chẳng có nhà cầm quyền nào vụng về đến nỗi bức bách người Ki-tô hữu giẫm lên thập giá. Tuy nhiên nếu dựa vào đó để quả quyết rằng người Ki-tô hữu được hoàn toàn tự do giữ đạo và truyền đạo, thì sợ rằng đơn giản quá. Ngay giữa thời đại văn minh hôm nay, thời đại của tự do tín ngưỡng này, ở nhiều nơi trên thế giới, tập thể Hội Thánh Chúa Ki-tô cũng như cá nhân nhiều Ki-tô hữu còn gặp nhiều khó khăn trong việc giữ đạo và truyền đạo. Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng ta hãy học hỏi kinh nghiệm của một nước xã hội chủ nghĩa anh em là Liên-xô.
2. Kinh nghiệm của nước Nga nhân lễ mừng 1.000 năm
a. Năm nay Giáo Hội Chính Thống Nga mừng kỷ niệm 1.000 năm ngày Ki-tô giáo đến với các dân tộc Nga. Cao điểm là các cuộc đại lễ diễn ra trong tháng 6 vừa qua. Nhân dịp này đã có nhiều bài tham luận, nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ giữa Nhà Nước với Ki-tô giáo.
b. Và do một sự tình cờ thật đầy ý nghĩa, thì cũng vào ngày 19-06, ngày lễ phong thánh cho các vị tử đạo Việt Nam, tờ Tuần tin tức Mát-cơ-va đăng tải một bài ký tên Alexandre Nejny mang tựa đề “Một ngàn năm” trong đó tác giả trình bày những suy nghĩ của mình về mối tương giao giữa Nhà Nước và Giáo Hội, nói một cách chính xác hơn về cách nhà cầm quyền cộng sản đối xử với Ki-tô giáo với những lời lẽ bộc trực của giai đoạn đổi mới, của giai đoạn nói thẳng, nói thật. Tôi xin ghi lại đây những điểm chính yếu để anh chị em suy nghĩ.
- Trước hết tác giả công khai và thẳng thắn nhìn nhận những sai lầm trong quá khứ. Tác giả nói :
“Người Ki-tô hữu đã bị coi như những công dân hạng hai, đã từng bị Nhà Nước lơ là, không đếm xỉa gì tới.”
“Bảy thập niên qua đã tạo ra nơi nhiều công chức của Đảng và các Xô Viết một lối tiếp cận hành chánh cứng nhắc khi đứng trước các vấn đề tôn giáo.”
“Chủ nghĩa vô thần bằng bất cứ giá nào không những chỉ là vô ích mà còn tai hại, vì đưa đến hậu quả đương nhiên là cưỡng bức cả quá khứ lịch sử của tổ quốc, và cưỡng bức sự tự do lương tâm của hằng triệu đồng bào.”
“Quan niệm Giáo Hội như một tàn dư có hại tự bản chất, ăn sâu trong ý thức lạc hậu của một số công dân và đã hết thời, quan niệm đó vẫn chi phối ý thức hệ chính thức từ mấy mươi năm nay. Nhưng quan niệm đó ngày nay được nhìn nhận như một mưu toan xấu xa nhằm tước đoạt mất của nhân dân cái di sản văn hoá và lịch sử vĩ đại.”
- Tác giả mời gọi rút tỉa bài học lịch sử : “Thái độ cố ý tỏ ra kính trọng (của nhà cầm quyền Liên-xô đối với các vị đại diện Ki-tô giáo) là một mong muốn chân thành gầy dựng sự hợp tác. Cùng làm với nhau, vai kề vai ở dưới trần thế này, quan tâm đến hoà bình và thịnh vượng của tổ quốc, đến những quan hệ trong sáng giữa người với người, đến sự củng cố những yếu tố tinh thần trong đời sống xã hội - nguyên việc nêu lên những mục tiêu đó cũng đủ chứng tỏ là những kẻ đã tìm cách làm cho Giáo Hội mất đi môi trường hoạt động của mình và cắt đứt mọi con đường đưa từ đền thờ đến trần thế, những kẻ ấy đã phạm một lỗi lầm xã hội và chính trị không thể tha thứ được.”
- Tác giả khẳng định rằng phải thể chế hoá bằng luật pháp cách đối xử của Nhà Nước đối với Giáo Hội. Tác giả viết : “Phải giải phóng Giáo Hội khỏi những xiềng xích của một sự giám hộ ti tiện, tránh cho Giáo Hội khỏi những cái nhìn méo mó của các nhà chức trách kiểu 1929 là những kẻ không phải chỉ làm cho các linh mục mất hết mọi quyền công dân, mà còn vất họ lên xe cây để đưa họ tới những chỗ khỉ ho cò gáy.”
3. Nói người lại nghĩ đến ta hay là trở về với bài học tử đạo
a. Trước hết chúng ta phải cảm tạ Chúa, vì hôm nay
- không ai lột da chặt đầu chúng ta,
- không ai buộc chúng ta giẫm chân lên thập giá.
b. Không những thế, hôm nay chúng ta còn được
- họp nhau cầu nguyện,
- họp nhau dâng thánh lễ như chúng ta đang làm.
c. Nhưng nếu vì thế mà nói rằng : trong việc tin đạo, giữ đạo, truyền đạo, chúng ta được hoàn toàn tự do, chúng ta không gặp khó khăn nào cả thì chúng ta nói láo. Tuy nhiên, tôi không có ý trưng ra đây những bằng chứng cụ thể mà anh chị em đã quá biết. Tôi chỉ xin phép được chia sẻ với anh chị em một vài suy nghĩ thôi.
- Trước sau như một : Trước hết về mấy chữ trước sau như một. Từ gần mười bốn năm nay, không biết bao nhiêu lần chúng ta nghe nói đến chính sách về tôn giáo của Nhà Nước trước sau như một. Rồi từ khi giai đoạn đổi mới bắt đầu, chúng ta nghe nói đến những sai lầm có khi vô cùng trầm trọng trong các lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội..... Thế thì quả là khó mà chứng minh được rằng trong các lãnh vực trên thì có sai lầm, mà trong lãnh vực tôn giáo thì không. Còn nếu như trong lãnh vực tôn giáo cũng có sai lầm như bất cứ một lãnh vực nào khác, thì mấy chữ trước sau như một tiếp theo sau chính sách về tôn giáo, phải làm chúng ta sợ hãi vô cùng.
- Từ luật đầu tư. Suy nghĩ tiếp theo của tôi phát xuất từ luật đầu tư ban hành cách đây không lâu lắm. Luật đầu tư này được đánh giá là phóng khoáng, cởi mở vào bậc nhất so với các luật đầu tư khác trong các nước xã hội chủ nghĩa. Và sở dĩ luật đầu tư của chúng ta phóng khoáng cởi mở như thế là vì muốn thu hút tư bản và kỹ thuật nước ngoài. Phải chi chúng ta có được một bộ luật về tôn giáo cũng phóng khoáng cởi mở như thế, thì chúng ta sẽ có được một nguồn tư bản vô cùng quý giá, đó là bao nhiêu con tim, bao nhiêu khối óc của bao nhiêu triệu người Việt Nam cương quyết trung thành với tổ quốc Việt nam, nhưng cũng cương quyết trung thành không kém với tôn giáo của mình.
- Phải tự cứu lấy mình. Đến đây tôi liên tưởng đến một lời nói của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Cách đây không lâu, khi nghe các nhà báo nói đến bao nhiêu khó khăn mình gặp phải trong khi hành nghề, tổng bí thư đã nói : Trước hết nhà báo hãy tự cứu lấy mình. Hôm nay cũng vậy, giả sử chúng ta được vinh dự gặp tổng bí thư để mà than thở về những khó khăn của chúng ta, thiết tưởng tổng bí thư sẽ khó mà tìm được một câu trả lời thần diệu hơn là Trước hết, hãy tự cứu lấy mình. Thế thì bao lâu chúng ta chỉ nói theo Nhà Nước để tìm một chút ân huệ thay vì nhắc nhở Nhà Nước tôn trọng quyền người công dân trong lãnh vực tôn giáo, bao lâu chúng ta làm ra vẻ chẳng có khó khăn gì đáng kể, bao lâu chúng ta thoả mãn với những gì chúng ta đang có, thì thử hỏi : chúng ta sẽ đổ lỗi cho ai ?
KẾT LUẬN
Đất nước chúng ta đã dành được độc lập, đã đi vào con đường chủ nghĩa xã hội dưới thời Staline. Nay chúng ta đang bước vào giai đoạn đổi mới toàn diện với tổng bí thư Goóc-ba-chốp. Sau bao nhiêu năm chiến tranh đằng đẵng, xây dựng đất nước không phải là chuyện dễ dàng gì, và chỉ có thể thành công mỹ mãn nếu được sự ủng hộ tích cực của hết mọi người công dân Việt Nam trong đó có 6 triệu người Công Giáo. Vậy chúng ta phải có thái độ nào ?
Câu hỏi đó làm tôi nhớ đến lời thánh Phao-lô Khoan nói với nhà cầm quyền : “Chúng tôi không chống lệnh vua, không lỗi luật nước. Chúng tôi chết chỉ vì là Ki-tô hữu.” Lời khẳng định đó có thể soi sáng cho chúng ta hôm nay.
Là tín hữu Chúa Ki-tô, chúng ta tôn trọng nhà cầm quyền, tôn trọng thể chế quốc gia. Là công dân nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta sẵn sàng đem hết khả năng để phục vụ đất nước, nhưng đồng thời chúng ta muốn sống như những người Ki-tô hữu, cần được hoàn toàn tự do tin đạo, giữ đạo và truyền đạo. Nếu được như thế, không phải chỉ có chúng ta hãnh diện vì các thánh tử đạo, nhưng chính các thánh tử đạo cũng sẽ hãnh diện vì chúng ta.
Nhà thờ Phan-xi-cô Đa-kao, 01-09-1988 - Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
Vào đầu thế kỷ XVI, khi vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất Việt Nam, ánh sáng Tin Mừng: 24/11-47
Vào đầu thế kỷ XVI, khi vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất Việt Nam, ánh sáng Tin Mừng cũng bắt đầu lan rộng. Giáo hội Việt Nam được khai sinh từ đấy. Tuy nhiên, như bầu trời có những ngày mây đen giăng mắc, Giáo hội Việt Nam cũng có những ngày tăm tối. Giáo hội Mẹ Roma đã trải qua 3 thế kỷ bị bách hại, trước khi được mở rộng như ngày nay, thì Giáo hội Việt Nam cũng phải trải qua gần 3 thế kỷ chìm ngập trong thử thách. suốt từ năm 1630 – 1883, bao giòng máu đã đổ ra để bảo vệ đức tin và để làm phát sinh Giáo hội này, trong những cuộc bắt bớ đời các chúa: Trinh Doanh, Trịnh Sâm, các vua: Cảnh Thịnh, Minh Mạng, Triệu Trị, Tự Đức. Hơn 130.000 vị đã hiên ngang hiến mạng sống để bảo vệ đức tin. Gương hy sinh quả cảm của các Ngài thật sáng ngời và Giáo hội qua 3 đời giáo hoàng: Lêô VIII, Piô X và Piô VII, đã tôn phong 117 vị lên hàng chân phước.
Tuy nhiên “máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra người công giáo”. Gương các thánh tử đạo không chỉ là niềm hãnh diện của chúng ta, mà còn là công ơn mà chúng ta, các tín hữu Việt Nam, phải ghi nhớ và đáp đền. Mừng kính trong một ngày lễ, chúng ta khơi dậy cuộc đời các vị tử đạo, nhất là các vị đã được tôn phong lên bàn thánh để kính nhớ. Chúng ta ghi nhớ ngày các Ngài hiến thân vì đức tin :
8 VỊthánh GIÁM MỤC :
1. Thánh An (Giuse Dias Sanjurjô) tử đạo ngày 20.7. 1857. 2. Thánh Cao (Phêrô Dumoulin Borie) tử đạo ngày 24. 11.1838 3. Thánh Hy (Ignatiô Delgađô Y. Cebrian) tử đạo ngày 21.7.1838. 4. Thánh Liêm (Hiêrônimô Hermozilla) tử đạo ngày 1.11.1861 5. Thánh Minh ( Daminh Henares) tử đạo ngày 26.6.1838 6. Thánh Thể (Stêphanô Theođônô Cuénot) tử đạo ngày 14.11.1861 7. Thánh Vinh (Valentinô Berriô Ochou) tử đạo ngày 1.11.1861 8. Thánh Xuyên (Giuse Melkior Garcia Sampedre) tử đạo ngày 28.7.1858
50 VỊthánh LINH MỤC :
1. Thánh Bắc (Phêrô Phanxicô Néron) tử đạo ngày 3.11.1860 2. Thánh Bình (Phêrô Almatô) tử đạo ngày 1.11.1861 3. Thánh Daminh Cẩm) tử đạo ngày 11.3.1859 4. Thánh Dụ (Giuse Marchand) tử đạo ngày 30.11.1835 5. Thánh Dụ (Toma Đinh viết Dụ) tử đạo ngày 26.11.1839 6. Thánh Duệ (Bênađô Võ Văn Duệ) tử đạo ngày 01.8.1838 7. Thánh Dũng (Anrê Trần an Dũng hay Lạc) tử đạo ngày 21.12.1839 8. Thánh Đạt (Gioan Đạt) tử đạo ngày 28.10.1798 9. Thánh Đậu (Matthêu Leziniana) tử đạo ngày 21.01.1745 10. Thánh Điểm (Vinh Sơn Nguyễn thế Điểm) tử đạo ngày 24.11.1838 11. Thánh Đông (Augustinô Schoeffler) tử đạo ngày 01.5.1851 12. Thánh Gia (Hyaxintha Gastaneda) tử đạo ngày 7.11.1773 13. Thánh Hạnh (Daminh Nguyễn Văn Hạnh) tử đạo ngày 01.8.1838 14. Thánh Hiền (Giuse Fernandez) tử đạo ngày 24.7.1838 15. Thánh Hiển (Giuse Hiển) tử đạo ngày 9.5.18400 16. Thánh Hoan (Gioan Đoàn Trinh Hoan) tử đạo ngày 26.5.1861 17. Thánh Hương (Augustinô Aloisiô Bonnard) tử đạo ngày 01.5.1852 18. Thánh Hương (Laurensô Hương) tử đạo ngày 13.02.1856 19. Thánh Kính (Phanxicô Isiđôrê Gazelin) tử đạo ngày 17.10.1833 20. Thánh Khanh (Phêrô Khanh) tử đạo ngày 12.7.1842 21. Thánh Khoa (Phêrô Võ Đăng Khoa) tử đạo ngày 24.11.1838 22. Thánh Khoan (Phêrô Phạm Khắc Khoan) tử đạo ngày 28.4.1840 23. Thánh Khuông (Tôma Khuông) tử đạo ngày 30.01.1860 24. Thánh Liêm (Vin Sơn Liêm) tử đạo ngày 07.11.1773 25. Thánh Loan (Luca Vũ Bá Loan) tử đạo ngày 05.6.1840 26. Thánh Lộc (Phêrô Lê Văn Lộc) tử đạo ngày 13.02.1859 27. Thánh Lưu (Phêrô Lưu) tử đạo ngày 07.4.1861 28. Thánh Mầu (Daminh Mầu) tử đạo ngày 05.11.1858 29. Thánh Minh ( Philipphe Phan Văn Minh) tử đạo ngày 03.7.1853 30. Thánh Năm (Giacôbê Mai Năm) tử đạo ngày 12.3.1838 31. Thánh Ngần (Phaolô Nguyễn Ngân) 08.11.1840 32. Thánh Nghi (Giuse Nguyễn Đình Nghi) tử đạo ngày 08.11.1840 33. Thánh Phan Aphanxicô Jaccards) tử đạo ngày 21.9.1838 34. Thánh Quí (Phêrô Đoàn Công Quý) tử đạo ngày 31.7.1859 35. Thánh Tân (Gioan Charler Cormay) tử đạo ngày 20.9.1837 36. Thánh Tế (Phanxicô Gil de Federich) tử đạo ngày 22.01.1745 37. Thánh Tịnh (Phaolô Lê Bảo Tịnh) tử đạo ngày 06.4.1857 38. Thánh Tuân (Giuse Tuân) tử đạo ngày 30.4.1861 39. Thánh Tuần ( Phêrô Nguyễn Bá Tuần) tử đạo ngày 15.7.1838 40. Thánh Tùy (Phêrô Lê Tùy) tử đạo ngày 11.10.1838 41. Thánh Tự (Phêrô Nguyyễn Văn Tự) tử đạo ngày 05.9.1838 42. Thánh Tước (Daminh Tước) tử đạo ngày 02.4.1839 43. Thánh Trạch (Daminh Trạch hay Đoài) tử đạo ngày 18.9.1840 44. Thánh Triệu (Emanuel Nguyễn Văn Triệu) tử đạo ngày 17.9.1798 45. Thánh Thi (Phêrô Trương Văn Thi) tử đạo ngày 21.12.1839 46. Thánh Thịnh (Martinô Tạ Đức Thịnh) tử đạo ngày 08.11.1840 47. Thánh Ven (Thêophan Vénard) tử đạo ngày 02.02.1861 48. Thánh Giuse Đặng Đình Viên tử đạo ngày 21.8.1838 49. Thánh Xuyên (Daminh Nguyễn Văn Xuyên) 26.11.1839 50. Thánh Yến (Vinh Sơn Yến) tử đạo ngày 30.6.1838
15thánh THÀY GIẢNG
1. Thánh Cần (Phanxicô Xavie Cần) tử đạo ngày 20.11.1837 2. Thánh Chiểu (Phanxicô Đỗ Văn Chiểu) tử đạo ngày 26.6.1838 3. Thánh Đường (Phêrô Trương Văn Đường) tử đạo ngày 20.11.1837 4. Thánh Hiếu (Pherô Nguyễn văn Hiếu) tử đạo ngày tử đạo ngày 28.4.1840 5. Thánh Khang (Giuse Nguyễn Duy Khang) tử đạo ngày 01.11.1861 6. Thánh Mậu (Phanxicô Xavie Hoàng Trọng Mậu) tử đạo ngày 19.12.1839 7. Thánh Mỹ (Phaolô Nguyễn Văn Mỹ) tử đạo ngày 18.12.1838 8. Thánh Toán (Tôma Toán) tử đạo ngày 27.6.1840 9. Thánh Tự (Phêrô Nguyễn Khắc Tự) tử đạo ngày 10.7.1840 10. Thánh Truật (Phêrô NguyễnVăn Truật) tử đạo ngày 18.10.1838 11. Thánh Thành (J.B.Đinh Văn Thành ) tử đạo ngày 28.4.1840 12. Thánh Thông (Arê Nguuyễn Kim Thông hay Năm Thuông) tử đạo ngày 15.7.1855 13. Thánh Uy(Daminh Bùi Văn Úy) tử đạo ngày 19.10.1839 14. Thánh Uyển (Giuse Nguyễn Đình Yuển) tử đạo ngày 4.7.1838 15. Thánh Vân (Phêrô Đoàn Văn Vân) tử đạo ngày 25.5.1857
1 Thánh CHỦNG SINH
Thánh Thiện (Tôma Trần Văn Thiện) tử đạo ngày 21.9.1838
43. Thánh GIÁO DÂN
1. Thánh Daminh Án Khảm, lý trưởng, tử đạo ngày 13.01.1859 2. Thánh Phaolô Tống Viết Bường, quan thị vệ, tử đạo ngày 23.10.1888 3. Thánh Giuse Hoàng Vương Cảnh, y sĩ, trùm họ. tử đạo ngày 05.9.1838 4. Thánh J.B. Cỏn, Lý Trưởng, tử đạo ngày 08.11.1840 5. Thánh Phêrô Dũng, ngư phủ, tử đạo ngày 06.6.1862 6. Thánh Vinh Sơn Dương. Nông dân, tử đạo ngày 06.6.1862 7.thánhPhêrô Đa, tử đạo ngày 17.6.1862 8. Thánh Daminh Đinh Đạt, quân nhân, tử đạo ngày 18.7.1839 9. Thánh Tôma Nguyễn văn Đệ, thợ may, tử đạo ngày 19.12.1839 10. Thánh Antôn Nguyễn Đích, trùm họ, tử đạo ngày 12.8.1838 11. Thánh Phaolô Đổng, tử đạo ngày 03.6.1862 12. Matthêu Lê Văn Cẩm, thương gia 11.5.1847 13. Thánh Phaolô Hạnh, tử đạo ngày 28.5.1859 14 . Thánh Simon Phạm Đắc Hòa, y sĩ , tử đạo ngày 12.12.1840 15. Thánh Augustinô Phan Viết Huy, quân nhân, tử đạo ngày 12.6.1839 16 . Thánh Daminh Huyện, ngư phủ , tử đạo ngày 05.6.1842 17. Thánh Micae Hồ Đình Huy, quan thái bộc, tử đạo ngày 22.5.1857 18. Thánh Giuse Nguyễn Văn Lựu, tử đạo ngày 02.5.1854 19. Thánh Daminh Mao, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862 20. Thánh Augustinô Nguyễn Văn Mới, nông dân , tử đạo ngày 19.12.1839 21. Thánh Micae Nguyẽn Huy Mỹ, lý trưởng, tử đạo ngày 12.8.1838 22. Thánh Laurensô Ngôn, tử đạo ngày 22.5.1862 23. Thánh Daminh Nguyên, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862 24. Thánh Daminh Nhi, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862 25. Thánh Daminh Ninh, nông dân, tử đạo ngày 02.6.1862 26. Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, trùm họ, tử đạo ngày 31.7.1859 27. Thánh Mathêô Nguyyễn Văn Phương, trùm ho, tử đạo ngày 26.5.1861 28. Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh (5 Quỳnh) trùm họ, tử đạo ngày 10.7.1840 29. Thánh Giuse Tả, tử đạo ngày 13.10.1859 30. Thánh Daminh Trái, ngư phủ, tử đạo ngày 05.6.1862 31. Thánh Giuse Tuân, tử đạo ngày 07.01.1862 32. Thánh Giuse Túc, tử đạo ngày 01.6.1862 33. Thánh Andre Tường. Nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862 34. Thánh Vinh Sơn Trường, nông dân , tử đạo ngày 16.6.1862 35. Thánh Andrê Trần văn Trông, quân nhân, tử đạo ngày 28.11.1835 36. Thánh Phanxicô Trần Văn Trung, cai đội, tử đạo ngày 06.10.1858 37. Thánh Anê Lê Thị Thành (bà Đê ) tử đạo ngày 12.7.1841 38. Thánh Nicôla Bùi Đức Thể, quan nhân, tử đạo ngày 13.6.1839 39. Thánh Giuse Lê Đăng Thị, cai đội, tử đạo ngày 24.10.1860 40. Thánh Luca Thìn, tử đạo ngày 13.01.1859 41. Thánh Martinô Thọ, thuế,lý trưởng , tử đạo ngày 08.11.1840 42. Thánh Phêrô Thuần, ngư phủ, tử đạo ngày 06.6.1862 43. Thánh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, nông dân, tử đạo ngày 19.12.1839
Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự ký ngày 14.2.1990 : “Theo đơn xin của Đức Hồng Y Trịnh văn Căn: 24/11-48
(FB Xem 32 Sống nhân bản và có lý tưởng)
Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự ký ngày 14.2.1990 : “Theo đơn xin của Đức Hồng Y Trịnh văn Căn, Tổng Giám Mục Hà Nội, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đề ngày 15.10.1989, và theo quyền hạn đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II uỷ quyền, Bộ Phụng Tự và Bí Tích cho phép các giáo hữu tại Việt Nam mừng lễ “Thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn Tử đạo” hằng năm vào ngày 24.11 với bậc Lễ Kính”.
Theo sử liệu, Giáo Hội Công giáo Việt Nam có độ 130.000 tín hữu được diễm phúc đổ máu làm chứng Đạo Chúa trong những thời ký bách hại như sau :
- Trịnh – Nguyễn 1745 và 1773 2 vị - Cảnh Thịnh năm 1798 2 vị - Minh Mạng năm 1820-1840 50 vị - Thiệu Trị 1841-1847 3 vị - Tự Đức 1848-1883 58 vị
Trong số tử đạo 130 ngàn người, có 117 vị được phong chân phước trong 4 giai đoạn :
- Đức Lêô XIII phong ngày 27.5.1900 64 vị - Đức Piô X phong ngày 20.5.1906 8 vị - Đức Piô X phong ngày 2.5.1909 20 vị - Đức Piô XII phong ngày 29.4.1951 25 vị
Trong số này gồm có :
- 8 Giám mục (6 thuộc Dòng Đa Minh, và 2 của Hội Thừa Sai Paris) - 50 Linh mục (37 Việt Nam, 5 Đa minh, 8 Thừa sai Paris) - 16 Thầy giảng - 1 Chủng sinh - 42 giáo dân thuộc mọi tầng lớp xã hội (công chức, quân nhân, ý sĩ, thương gia, công nhân, nông dân, ngư phủ, trùm họ, lý trưởng…)
Các ngài đã chịu những cực hình khác nhau :
- 79 vị bị xử trảm quyết (chặt đầu) - 16 vị bị xử giảo (thắt cổ) - 8 vị chết rũ tù - 6 vị bị thiêu sinh (bị đốt cháy khi còn sống) - 4 vị bị lăng trì (chặt tay chân trước khi bị chém đầu) - 1 vị bị bá đao (lóc 100 miếng thịt trong thân thể) - 1 vị bị đánh tử thương trong lúc đi đường.
Tất cả 117 vị chân phước này được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong lên hàng hiển thánh ngày 19.6,1988 (Cơ mật viện công bố tin ngày 22.6.1987) (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu tiếp tục dạy các tông đồ về sứ mạng rao giảng Tin Mừng : có thể họ sẽ gặp nguy hiểm (như chiên vào giữa bầy sói) và bị bách hại. Do đó,
- một mặt phải vừa đơn sơ vừa khôn ngoan.
- mặt khác phải can đảm đừng sợ vì Chúa sẽ giúp đỡ họ.
B.... nẩy mầm.
1. “Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa bầy sói” : thế gian thì hung ác và mạnh mẽ như sói còn người tông đồ của Chúa thì hiền lành và yếu ớt như chiên. Thế nhưng Nước Thiên Chúa lại được mở mang nhờ chính sự yếu ớt của Chúa Giêsu và các tông đồ của Ngài. Thánh Phaolô nói : “Sức mạnh Thiên Chúa được hoàn thành trong sự yếu ớt” (2Cr 12,2).
2. “Khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu” : con rắn không vô cớ chường mình ra chỗ nguy hiểm, trái lại nó khéo ẩn mình, và khi gặp nguy hiểm nó cũng khéo luồn lách ; bồ câu thì không mưu mô, không màu mè giả đối…
3. “Chính Thánh Thần nói trong các con” : người tông đồ không cậy dựa vào lời lẽ và trí thông minh của mình nhưng vào ơn soi sáng và lời của Chúa. Muốn thế họ phải luôn kết hợp với Chúa Thánh Thần.
4. Can đảm : Một học sinh Nhật là Kitô-hữu duy nhất trong ngôi trường có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có ”hành vi ma thuật”. Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xem em đã làm gì. Em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói : “Này con, ta cũng là Kitô-hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cám ơn Chúa, ta đã biết là Kitô-hữu, mình phải làm gì.” (Góp nhặt)
5. “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22)
Ai cũng khen tôi đi giầy cao gót đẹp, và tôi cũng cảm thấy thế. Nhưng điều ấy không làm cái đau buốt đang cấu xé đội chân giảm đi chút nào.
Hình như cái gì cũng có cái giá của nó.
Chúa Giêsu cũng ra giá cho những người muốn theo Ngài. Xem ra Ngài chẳng phải là nhà quảng cáo khéo léo khi đưa ra cả những khó khăn và mặt trái của vấn đề. Nhưng tôi lại thích lối trình bày ấy. Tôi thán phục tính chân thật và sự thẳng thắn trong Lời của Ngài.
Lạy Chúa, Chúa đã nói rất chân tình với con về lối mà Ngài mời con dấn bước. Xin cho con biết trung thành với con đường đã chọn, bất chấp mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống. (Hosanna)
Nếu như anh chị chúng ta là những người giàu có và thành công trên đường đời, hẳn chúng ta sẽ: 24/11-49
Nếu như anh chị chúng ta là những người giàu có và thành công trên đường đời, hẳn chúng ta sẽ lấy làm hãnh diện. Nếu cha mẹ chúng ta là những người tốt lành và thánh thiện, hẳn chúng ta cũng sẽ rất lấy làm hãnh diện. Cũng thế, hôm nay khi mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta càng phải hãnh diện hơn nữa vì các ngài những bậc cha ông của chúng ta đã lấy mạng sống cùng với những giọt máu đào để làm chứng cho Chúa.
Thực vậy, Giáo hội Việt Nam đã góp phần vào tiến trình chung của Hội Thánh Công giáo những trang sử hào hùng và dũng cảm.
Bên Âu Châu, thời kỳ đen tốt nhất Giáo hội đã phải trải qua chính là thời kỳ Giáo hội còn phôi thai, trải dài từ cuối thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ thứ tư, từ triều Nêron đến triều Maximinus. Suốt trong khoảng thời gian này, Giáo hội đã bị bắt bớ và cấm cách. Biết bao nhiêu người đã chết hay đã ngã gục trên pháp trường. Những người muốn sống sót đều phải chui rúc dưới những hang, được gọi là hang toại đạo., hiện nay vẫn còn tìm thấy tại Roma. Các sử gia đã gọi đó là thời kỳ Giáo hội sống dưới hầm. Nhưng sau cùng, Giáo hội đã chiến thắng với biến cố hoàng đế Constantinô trở lại và ngọn cờ thập giá được tung bay trên toàn đế quốc La mã.
Nếu so sánh, chúng ta thấy Giáo hội Việt Nam cũng có những điểm thật giống với Giáo hội Rôma. Đó là ngay sau khi hạt giống Tin mừng được gieo vãi trên đất nước này, thì lập tức gông bão đã nổi lên. Từ thời vua Lê chúa Trịnh cho tới những triều đại nhà Nguyễn, trải dài gần ba trăm năm. Trong suốt thời gian này, biết bao nhiêu người đã bị nhà tan cửa nát, phải di tản vào những nơi rừng thiêng nước độc, như các giáo dân vùng La Vang, Quảng Trị. Biết bao nhiêu người đã phải chịu những cực hình khủng khiếp. Trong số đó, có 117 vị đã được nâng lên hàng hiểm thánh. Ai cũng tưởng rằng ngọn lửa Phúc âm sẽ bị dập tắt. Thế nhưng, máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các tín hữu. Vì thế, Giáo hội Việt Nam đã lớn lên và trưởng thành trên nền móng vững chắc ấy, xứng đáng được gọi là trưởng nữ của các Giáo hội tại Á châu.
Tuy nhiên, hãnh diện mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải noi gương bắt chước các ngài, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Đừng vì một con sâu mà làm rầu nồi canh, đừng vì cuộc sống tội lỗi của chúng ta mà làm nhơ bẩn khuôn mặt Giáo hội Việt Nam. Hãy sống thế nào để xứng đáng là con cháu của những bậc anh hùng tử đạo.
Hồi còn bé, tôi rất thích đọc hạnh các thánh tử đạo và thầm mong một ngày nào đó, tôi cũng đưa cổ cho lý hình chém một nhát và thế là nghiễm nhiên trở thành thánh tử đạo. Thế nhưng, lớn lên tôi mới nghiệm ra rằng : mơ ước như vậy chỉ là một sự hão huyền, bởi vì không phải thời buổi nào cũng có những cấm cách. Hơn thế nữa, hành động chịu chết vì đạo là một hành động cao cả và tuyệt vời nhất, như lời Chúa Giêsu đã xác quyết :
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hành động cao cả và tuyệt vời này phải là kết quả của những tháng ngày sống niềm tin yêu và thấm nhuần đạo đức. Không phải một sớm một chiều mà một thằng quỷ có thể trở nên một vị thánh. Không phải hễ có bắt bớ là mọi người đều có thể tử đạo, bởi vì sống sao chết vậy, cây xiêu chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.
Kinh nghiệm cho hay mổi khi có những khó khăn xảy ra, thì rất nhiều kẻ đã trở cờ, chối bỏ Chúa. Họ chối bỏ Chúa chỉ vì chén cơm manh áo, họ chối bỏ Chúa chỉ vì một chút địa vị xã hội, họ chối bỏ Chúa chỉ vì muốn chạy theo những dục vọng thấp hèn. Thế nhưng, lý do chính yếu, là như phần chìm của tảng băng, đó là họ đã không thực sự sống đạo, đã không thực sự sống niềm tin của mình. Cũng giống như khi xây nhà, nếu không đổ nền đổ móng cho vững chắc, thì chẳng bao lâu căn nhà sẽ bị sụp đổ.
Vì thế, chúng ta nên hiểu tử đạo theo một nghĩa rộng, đó là làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Đó chính là cái nền tảng vũng chắc để xây dựng tòa nhà đức tin. Chính trong ý nghĩa này mà Mẹ Maria đã được gọi là Nữ vương các thánh tử đạo, mặc dù Mẹ đã không đổ máu để làm chứng cho đức tin của mình.
Hãy tập sống tinh thần tử đạo bằng cách thực hiện những điều tốt lành, bởi vì mỗi khi hành động như vậy là chúng ta đã tuyên xưng niềm tin của chúng ta. Hơn thế nữa, mỗi hy sinh chúng ta chịu trong khi phục vụ và giúp đỡ người khác sẽ là như một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây và từng phút để làm chứng cho Chúa.
Hãy sống đạo, sống niềm tin của mình. Nếu cha ông chúng ta đã tuyên xưng niềm tin bằng cái chết anh hùng, thì khi sống đạo, chúng ta cũng tuyên xưng niềm tin của chúng ta bằng chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta.
Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin24/11-50
Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các thánh tử đạo là những người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.
Đời sống trong sáng đáng quý như châu ngọc
Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người thân.
Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
Bài đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.
Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta
Đức Yêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức Yêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.
“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những người thân của họ được gì?
2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam!