Tháng ba năm nay của giáo phận Long Xuyên được khởi đầu bằng một chuỗi đám tang linh mục Bùi-Tuần 1951
1. Tháng ba năm nay của giáo phận Long Xuyên được khởi đầu bằng một chuỗi đám tang linh mục.
Ngày mồng 2, an táng cha Gioan Baotixita Hồ Văn Khang. Ngày mồng 3, an táng cha Phêrô Lê Văn Quan. Ngày mồng 4, an táng cha Giuse Cao Văn Bài. Ngày 12, an táng cha Đaminh Đinh Trung Thành.
2. Tôi tham dự các lễ an táng trên đây từ xa, với tâm tình thương mến.
3. Tôi biết tất cả các ngài đều là những người, mà thánh Phaolô gọi là những chiếc bình sành dễ vỡ, nhưng lại được Chúa trao ơn gọi trong đó. (2Cr 4,7)
4. Tôi biết tất cả các ngài đều đã trải nghiệm thân phận yếu đuối của con người, ở những bậc thang dẫn xuống nhiều đau đớn khác nhau.
5. Tôi biết tất cả các ngài đều phải sống với nhiều vết thương tâm hồn của bản thân mình và của bao người khác.
6. Tôi biết tất cả các ngài đều có những giây phút thất vọng với cuộc đời, nhưng vẫn kiên trì phấn đấu cho đức tin.
7. Tôi biết tất cả các ngài đều có những bắt đầu lại, để Chúa biến đổi mình.
8. Tôi biết tất cả các ngài đã thường mang gánh nặng đời mình đến phó thác cho lòng thương xót của Chúa. Tôi biết tất cả các ngài đều là những lá thư Chúa gửi cho tôi, tôi đọc với nước mắt.
9. Khi thấy các ngài về với Chúa, tôi xin các ngài cầu nguyện cho tôi. Còn tôi thì chắc một điều, mình cũng sẽ về với Chúa một ngày không xa.
10. Tôi dọn mình chết bằng hai việc, mà Chúa đã dạy trong Phúc âm: Cầu nguyện và tỉnh thức.
Tôi cầu nguyện không ngừng. Cầu nguyện của tôi hiện nay thường nhấn mạnh đến sự xin Chúa thứ tha tội lỗi.
Tôi nhận mình là người tội lỗi. Tội lỗi nhất là ở chỗ mỗi ngày bỏ qua nhiều ơn Chúa ban. Bỏ qua trở nên thói quen. Sinh ra nguội lạnh. Đi tới cứng lòng. Và đôi khi tự hào, tự mãn, lẩn trốn Chúa, như con virút xấu xa. Nhất là ngại góp phần vào cuộc thương khó Chúa. Do vậy, tôi luôn xin Chúa tha thứ. “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin gìn giữ chúng con khỏi lửa hỏa ngục.”
11. Sám hối, xin ơn tha thứ, đó là cách cầu nguyện, mà tôi cho là cần thiết cho tôi hiện giờ. Cách cầu nguyện đó đang đem lại cho tôi sự bình an và nhiều an ủi.
12. Cùng với việc cầu nguyện nhấn mạnh sám hối, tôi còn để ý đến việc tỉnh thức, mà Chúa nhắc nhở nhiều lần trong Phúc âm.
Trong một tình hình phức tạp như hiện nay, đâu đâu cũng bùng nổ những bất ổn, bất an, với dịch bệnh lây lan, chết chóc bi thảm, thời tiết biến đổi, tôi phải tỉnh thức, để có những lựa chọn thích hợp, đó là dấu chỉ của một người tốt, cả về mặt nhân bản, lẫn về mặt đức tin. Hết sức tránh thái độ vô tâm vô cảm.
Tôi tỉnh thức trong Chúa, Đấng cứu độ tôi.
13. Nhưng, chính trong sự tình thức này, tôi đang thấy cơn khốn khó khủng khiếp sẽ tới. Bời vì, người ta vẫn coi thường ơn Chúa, trong đó có những cảnh báo của Chúa. Xem ra cả những cái chết, dù tăng lên về số lượng và về tính cách bi thảm, vẫn không đánh động được lương tâm con người thời nay. Xem ra phần đông vẫn thờ ơ trước những tín hiệu Chúa gửi hằng ngày.
14. Tuy vậy, tôi vẫn trông cậy vào lòng thương xót Chúa. Các anh em linh mục trong giáo phận mới an táng, cũng nhắn gửi tôi là cơn thử thách sẽ rất bi thảm, nhưng xin hãy vững lòng cậy tin, nhất là vững vàng sám hối cầu nguyện.
15. Trong bầu khí ngậm ngùi từ biệt nhau, tôi còn được các anh em linh mục mới qua đó, nhắn nhủ một điều hết sức quan trọng, đó là: Hãy dâng mình cho Đức Mẹ. Không ai cầu xin với Mẹ, mà bị Mẹ từ bỏ. Lúc này, hơn bao giờ hết, tôi ẩn mình trong trái tim Mẹ. Tôi thấy mình được bình an giữa cảnh đời đầy giông tố. Bình an của Chúa. Bình an của Đức Mẹ.
16. Tôi tin Chúa và Đức Mẹ ở đâu, thì tôi cũng sẽ được ở đó. Bởi vì các Ngài giàu lòng thương xót, đã hứa như vậy. Chính lúc này, tôi đang được ơn trở lại với tâm tình cảm tạ, phó thác và đền tội.
Lúc này hơn bao giờ hết, tôi cầu nguyện rất nhiều, có thể nói là tôi cầu nguyện liên lỉ, không ngơi Bùi-Tuần 1952
1. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi cầu nguyện rất nhiều, có thể nói là tôi cầu nguyện liên lỉ, không ngơi.
Điều tôi cầu xin Chúa nhiều nhất là: Tôi và mọi người gặp được Đấng Cứu Độ. Bằng nhiều cách, Đức Mẹ cho tôi biết là Đấng Cứu Độ đang đến, Người ở giữa nhân loại.
2. Tôi hỏi Mẹ: Nhờ dấu chỉ nào tôi nhận ra Đấng Cứu Độ, Đức Mẹ trả lời: Yêu thương và khiêm nhường.
3. Ở đâu có yêu thương và khiêm nhường, ở đó có Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ. Bài ca đức mến nói rõ điều đó. (x.1Cr13,13)
4. Người nào sống yêu thương và khiêm nhường, thì có dấu chỉ Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ ở trong họ. Tôi đang thấy nhiều người như thế tại Việt Nam hôm nay. Họ đúng là môn đệ của Đức Kitô, Đấng “hiền lành và khiêm nhường”. (Mt 11,29)
5. Nơi nào cầu nguyện mà có yêu thương và khiêm nhường thực sự, thì sẽ gặp được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ.
Nếu không, thì dù cầu nguyện nhiều, cầu nguyện lâu, cầu nguyện long trọng đền mấy, cũng sẽ không gặp được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ.
6. Bây giờ thì tôi xác tín: Yêu thương và khiêm nhường là những dấu chỉ của ơn Cứu Độ. Hai dấu chỉ đó được nói đến nhiều lần trong Phúc âm.
7. Do vậy, tôi cũng xác tín: Yêu thương và khiêm nhường là những vẻ đẹp tâm linh có giá trị làm chứng cho Chúa.
8. Cũng do vậy, tôi xác tín. Yêu thương và khiêm nhường là những sức mạnh thiêng liêng giữ vai trò quan trọng trong tu đức, mục vụ, nhất là trong truyền giáo.
9. Đặc biệt trong tình hình hiện nay đang bùng phát dịch Corona, mà cách chống lại nó là cách ly, xa tránh, đóng cửa biên giới, con người dễ bị nghi ngờ, dễ bị tồn thương, thì yêu thương và khiêm nhương sẽ được coi là thuốc thiêng có sức cứu độ về mặt đạo đức.
10. Hiện nay, đang sinh ra một khủng hoảng khác, đó là con người trở thành một thứ Virút phải tránh xa, đó là loại người kiêu căng, loại người ghen tương, hận thù, trục lợi.
11. Đang khi đó, lại có những người sống yêu thương và khiêm nhường thực sự. Một cách thiêng liêng, họ đang cầm tay nhau, truyền sang nhau lửa yêu thương và khiêm nhường.
Chúa ở giữa họ, Đức Mẹ ở bên họ.
Họ đang là những chứng nhân của Chúa giữa tình hình phức tạp hiện nay. Với yêu thương và khiêm nhường, họ đã và đang nâng đỡ tôi. Xin cám ơn họ hết lòng.
12. Nhưng, chính vì thế mà họ bị quỷ Satan chống phá dữ dội. Satan dùng chính những người trong nội bộ Hội Thánh để chống phá.
13. Xưa, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện. Người Pharisêu đứng gần bàn thờ, đã cầu nguyện mà kiêu căng, khinh bỉ kẻ khác. Còn người thu thuế đứng cuối nhà thờ, chỉ đấm ngực xin Chúa xót thương. Kết quả là người Pharisêu đứng gần bàn thờ cầu nguyện đã bị Chúa ruồng bỏ, không nhận được ơn cứu độ. (x.Lc 18, 9-14)
14. Với dụ ngôn trên đây, Chúa Giêsu đang cảnh báo những người tự hào là cầu nguyện gần bàn thờ, mà thiếu khiêm nhường và yêu thương.
Tôi thực sự lo cho tình hình hiện nay, với những phong trào cầu nguyện như thế. Biết đâu tôi cũng có lúc nào đó hiệp thông tích cực với những phong trào cầu nguyện đó. Bởi vì tôi cũng là kẻ nhẹ dạ.
15. Những ngày nay tôi cảm thấy rất rõ Đức Mẹ và Thánh Giuse luôn cầm lấy tay tôi, để truyền sang tôi sự sống đầy yêu thương và khiêm nhường của các Ngài.
Nhờ vậy, tôi gặp gặp được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ tôi.
16. Với tâm thức đó, tôi ở tư thế sẵn sàng. Bất cứ sự chết đến với tôi lúc nào, tôi cũng sẽ gặp được Chúa Giêsu. Người sẽ thấy tôi mang trong mình yêu thương và khiêm nhường, như những dấu chỉ của kẻ thuộc về Người. Yêu thương và khiêm nhường nơi tôi là của Đức Mẹ và Thánh Giuse.
17. Trong tâm thức đó, tôi cũng vui, vì được nắm tay nhiều người khác. Tuy họ xa, nhưng lại rất gần, tất cả chúng tôi cùng nắm tay nhau đi về vời Chúa trong yêu thương và khiêm nhường. Riêng tôi, tuy là kẻ tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn, vẫn được thương yêu đặc biệt.
18. Trong tâm thức đó, tôi coi cuộc sống hiện nay như một cuộc hành hương đi về Trời, có rất nhiều người cùng đi với nhau, nhất là có Đức Mẹ, Thánh Giuse. Đặc biệt là có Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót, ở bên cạnh chúng tôi.
Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, và cả thiên đàng đang đợi chúng tôi.
Lúc này hơn bao giờ hết, nhân loại đang mong chờ được cứu. Tôi tin: Đấng Cứu Độ chính là Bùi-Tuần 1953
1. Lúc này hơn bao giờ hết, nhân loại đang mong chờ được cứu. Tôi tin: Đấng Cứu Độ chính là Chúa Giêsu. Ngài cứu những ai muốn được Ngài cứu.
Thực sự Ngài đang cứu.
2. Cách đây hơn 2 ngàn năm, Ngài đã cứu một cách hữu hình. Còn bây giờ Ngài cứu một cách vô hình. Nhưng cách cứu về căn bản vẫn giống nhau, nghĩa là cứu bằng thánh giá.
3. Khi vác thánh giá và khi bị treo trên thánh giá, Chúa Giêsu xưa đã được vài nhóm người tốt nâng đỡ ủi an.
4. Khi vác thánh giá, thì có ông Simon vác đỡ, có bà Veronica trao khăn cho Chúa lau mặt.
5. Còn khi bị đóng đinh treo trên thánh giá, thì có một nhóm nhỏ dưới chân thánh giá an ủi Chúa. Nhóm nhỏ gồm Đức Mẹ Maria, bà Maria Mađalêla, bà Maria vợ ông Colapat và môn đệ Gioan.
6. Những nhóm nhỏ đó được Chúa kể là những người cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Họ được Chúa trọng thưởng.
7. Những gì đã xảy ra như thế tại Israel cách đây hơn 2000 năm, thì nay cũng đang xảy ra như vậy. Nghĩa là:
8. Đấng Cứu Độ là Chúa Giêsu. Ngài đang cứu bằng thánh giá. Có những nhóm nhỏ đang cộng tác với Ngài. Tôi đang thấy như vậy, ngay tại Việt Nam yêu dấu này.
9. Tình hình hiện nay là rất phúc tạp, Ai cũng lo cho mình được cứu. Thế mà vẫn có những người lại lo cứu người khác hơn lo cứu mình.
10. Tôi thấy động lực khiến họ làm như vậy là một thứ lửa thiêng liêng trong nội tâm họ.
11. Lửa thiêng liêng đó là yêu thương và khiêm nhường, do một Đấng thiêng liêng ban cho họ.
12. Và vì họ có thiện chí biết đón nhận lửa thiêng liêng đó, nên họ đã và đang trở thành những người cộng tác vào công trình cứu độ, mà Chúa đang thực hiện tại đây lúc này.
13. Tôi đang thấy như vậy. Tôi coi đây là một sự thực quan trọng. Nhờ vậy, tôi biết nhận ra đâu là những nhóm có dấu chỉ chắc chắn sẽ giúp tôi và nhiều người gặp được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ.
14. Trải qua một cuộc đời dài với nhiều kinh nghiệm, tôi lúc này có xác tín sau đây:
Những nhóm có dấu chỉ chắc chắn giúp tôi gặp được Chúa Giêsu, không phải là những người thích cuộc sống dễ dãi, mà là những người luôn phấn đấu với chính mình, để biết chọn con đường hẹp và cửa hẹp, như Chúa đã dạy xưa:
"Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy”. (Mt 7, 13-14)
15. Chọn cửa hẹp và đường hẹp là việc không dễ chút nào. Tôi thấy rõ như vậy. Không thể giải quyết tình hình khó khăn bằng biện pháp dễ dàng.
Nhưng, chính vì không dễ, nên Chúa giúp tôi một cách đặc biệt do lòng thương xót Chúa.
16. Chúa dùng một vài nhóm nhỏ để thực hiện thánh ý Chúa về tôi.
Với yêu thương và khiêm nhường, họ giúp tôi sám hối, sửa mình trong sự bình an của Chúa. Họ không kết án, không khinh bỉ, bởi vì họ có Chúa trong họ.
17. Thực sự, tôi đang coi tình hình này như một cơ hội để sống đền tội. Tôi đền tội đến mấy cũng không sao đủ.
Chúa Giêsu đến tội thay cho tôi. Tôi chỉ góp một phần rất nhỏ vào việc đền tội. Phần rất nhỏ đó cũng có sự nâng đỡ của nhiều người trong Hội Thánh. Xin hết lòng cảm ơn họ.
Tôi cũng xin cám ơn những người đang giúp tôi bình an trở về với Chúa, nhất là khi đau đớn của thánh giá tăng lên mạnh trong tôi.
18. Tôi tin vào lòng thương xót Chúa. Cho dù mọi người bỏ tôi, tôi tin Chúa không bỏ tôi bao giờ. Nhất là trong khổ đau, tôi càng tin vào Chúa.
19. Tôi tin.
Thánh giá vẫn luôn là dấu chỉ của ơn cứu độ.
Tôi vẫn cảm thấy thánh giá là những đau đớn xâm chiếm tôi, cả trong thân xác lẫn trong tâm hồn.
Nhưng tôi coi đau đớn đó là cơ hội để tôi hiệp thông với Chúa Giêsu với Hội Thánh và với tất cả những ai đau khổ.
20. Tôi hay làm dấu thánh giá trên mình. Mỗi lần làm như vậy, tôi cảm nhận được ơn Chúa, nhất là ơn tha thứ và bình an. Tôi luôn mang thánh giá trong mình. Làm như vậy, tôi cảm nhận được ơn Chúa ở cùng tôi.
21. Tôi hay hôn thánh giá. Mỗi lần làm như vậy, tôi cảm nhận được điều này. Thánh giá là dấu chỉ của chiến thắng. Nếu hôm nay tôi đang bị tấn công từ mọi phía, thì thánh giá sẽ giúp tôi vượt qua, để gặp được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót. Nhất là thánh giá giúp tôi xua đuổi những ác thần.
22. Tôi hay nhìn lên thánh giá. Mỗi lần làm như vậy, tôi lại cảm nhận được điều này: Tôi thuộc về nhóm nhỏ đứng dưới chân thánh giá.
23. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi xác tín điều này: Được thuộc về một nhóm nhỏ đứng dưới chân cây thánh giá, để cùng với Chúa Giêsu dâng mình làm của lễ đền tội, để cứu các cứu linh hồn, thì đó là một ơn trọng Chúa ban cho, ở đời này, nhất là ở đời sau.
Để phòng chống đại dịch lây lan, các nhà thờ trên khắp thế giới hiện nay đều hủy bỏ các cuộc Bùi-Tuần 1954
1. Để phòng chống đại dịch lây lan, các nhà thờ trên khắp thế giới hiện nay đều hủy bỏ các cuộc tụ họp đông người, cho dù để tham dự thánh lễ bàn thờ, các ngày lễ trọng.
2. Không được tham dự thánh lễ bàn thờ, đó là điều tôi đau xót.
Nhưng tôi được an ủi, vì Chúa dạy tôi về thánh ý Chúa lúc này là hãy sống thánh lễ cuộc đời một cách tích cực hơn.
Sống thánh lễ cuộc đời là hãy gặp Chúa Giêsu trên mọi ngả đường cuộc sống đầy khổ đau ngay tại lúc này.
3. Ngay tại Việt Nam này, ngay chính lúc này, Chúa Giêsu đang chịu muôn vàn khổ đau để cứu các linh hồn. Đó là thánh lễ cuộc đời, mà Chúa Giêsu đang thực hiện.
4. Chúa muốn tôi cũng hãy dùng tinh thần, tình cảm, để đi vào cuộc sống thực tế của đồng bào tôi, tại đây lúc này, để cùng với Chúa Giêsu mà cứu họ. Đó là thánh lễ cuộc đời. Tôi dâng đời tôi làm của lễ ở giữa đời. Cứu đời như thế cũng là cứu bản thân tôi.
5. Theo tôi, sống thánh lễ cuộc đời cốt yếu là biết đau cái đau của đồng bào mình, biết khổ cái khổ của những người xung quanh mình, nhất là đối với những người túng nghèo, bệnh tật, già yếu, những người bị kỳ thị, bị ngược đãi, bị bỏ rơi.
6. Được như vậy không phải là chuyện dễ. Phải có ơn Chúa. Mà để có ơn Chúa thì phải cầu nguyện.
7. Lúc này, khi việc tập trung đang bị cấm, thì việc cầu nguyện rất cần được thực hiện riêng.
Tôi cầu nguyện riêng, nhưng thực sư tôi cầu nguyện với Đức Mẹ, với thánh Giuse, với Chúa Thánh Thần, cùng vời Đức Giáo Hoàng và tất cả Hội Thánh trên trời, dưới đất.
8. Cầu nguyện riêng của tôi tập trung vào sám hối, xin ơn tha tội và giải cứu mọi người khỏi hỏa ngục đời này, nhất là hỏa ngục đời sau.
Hỏa ngục đời này là tình trạng cố tình đi theo Satan, sống tinh thần Satan là kiêu ngạo, lừa dối, ghen tương, hận thù, chia rẽ.
Hỏa ngục đời sau là tình trạng phải xa Chúa mãi mãi đời đời.
9. Khi cầu nguyện riêng, lúc này tôi cũng tha thiết xin Chúa thương giúp tôi mau mắn hiểu được thánh ý Chúa về những sáng kiến cần có, để sống thánh lễ cuộc đời một cách thiết thực trong tình hình cực kỳ nghiêm trọng này.
10. Dừng lại ngay, hoặc bỏ đi ngay những công trình, mà trước đây coi là tốt, nhưng bây giờ coi là không thích hợp. Đó là sáng kiến cần.
11. Bỏ đi ngay cách suy nghĩ trước đây coi là làm sáng danh Chúa, nhưng bây giờ thì không còn thích hợp. Đó là sáng kiến cần.
12. Làm những việc tốt nhỏ và âm thầm, không cần di chuyển, đó là sáng kiến cần. Nắm bắt ngay mọi cơ hội để phục vụ, đó là sáng kiến cần.
13. Chọn những kinh nguyện, những bài hát sao cho thích hợp với thánh lễ cuộc đời trong diễn biến phức tạp hiện nay. Đó là sáng kiến cần.
14. Sống thánh lễ cuộc đời là rất khó, nhất là lúc này. Do vậy, mấy ngày nay, tôi hay chọn cho tôi những bài hát xin Chúa xót thương tôi, vì tôi rất yếu đuối. Thí dụ bài “Xin thương đỡ nâng con” của Dao Kim. Xin phép ghi lại ở đây toàn văn bài đó:
“Xin thương đỡ nâng con suốt cuộc đời, vì ngoài Chúa con đâu có ai nương nhờ.
Chúa biết con đây bao yếu đuối. Đường đời muôn gian nguy giăng lối. Chúa là đường dẫn soi trên trần. Xin dắt dìu về ánh Thiên nhan.
Chúa biết tâm tư con héo úa. Ngày và đêm con kêu van Chúa. Chúa là nguồn sáng tươi hy vọng. Xin cứu hồn khỏi chốn hư vong.
Hãy giúp con kiên trung đoan hứa. Trọn đời con xin dâng hiến Chúa. Dưỡng nuôi con sống trong thánh tịnh. Kính tiến Người bài hát tôn vinh.”
15. Đúng là chỉ được Chúa đỡ nâng từng giờ, từng phút, từng giây, tôi mới sống được thánh lễ cuộc đời.
Tôi không chối việc tôi đang mang trong mình vô vàn yếu đuối, rất nhiều lo sợ, rất nhiều khổ đau. Nhưng tôi phải thú nhận sự thực này: Chúa vẫn nâng đỡ tôi, do lòng xót thương của Chúa. Tôi tin chỉ Chúa mới cứu được chúng ta.
16. Chia sẻ với anh chị em những gì Chúa đang làm cho tôi, đó là một bổn phận, nhất là lúc này, chúng ta cần được sống bên nhau, để cùng nhau đi về với Chúa.
17. Tình hình đang biến chuyển từng giờ từng phút. Cho dù u ám đến đâu, vẫn có ánh sáng cứu độ. Đó là Chúa. Chúng ta cần tin chắc điều đó. Chúng ta cần sống niềm tin đó với lòng khiêm nhường phó thác.
Chúng ta sẽ sống như thánh lễ cuộc đời, chúng ta sẽ chết như thánh lễ cuộc đời. Nghĩa là sống trong Chúa, chết trong Chúa.
Xưa, trước giờ tự nguyện trao nộp mình cho một cảnh cách ly đầy bi thảm, Chúa Giêsu đã cầu Bùi-Tuần 1955
1. Xưa, trước giờ tự nguyện trao nộp mình cho một cảnh cách ly đầy bi thảm, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha cho các môn đệ của Ngài còn ở lại:
“Cha ơi, con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ họ mà tin vào con Để tất cả nên một Như, lạy Cha, Cha ở trong con Và con ở trong Cha, Để họ cũng ở trong chúng ta Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con.” (Ga 17, 20-21)
2. Như vậy, Chúa Giêsu đã cầu cho tôi, và cho chúng ta, để chính trong cách ly, tôi và các môn đệ Chúa càng cần phải nên một một cách tha thiết. Nên một với Chúa và nên một với nhau.
Chúa Giêsu đã dùng những từ rất thân thương:
“Con ở trong họ và
Cha ở trong con,
để họ cũng hoàn toàn nên một. (Ga 17,23)
3. Có nghĩa là chính trong hoàn cảnh cách ly, sự hiệp nhất giữa các môn đệ Chúa càng phải “hoàn toàn nên một”.
4. Hiểu ý Chúa là như vậy, nên mấy ngày nay, tôi cầu nguyện rất nhiều cho sự hiệp nhất giữa nội bộ Hội Thánh tại Việt Nam nói chung và tại địa phương của tôi nói riêng.
5. Khi cầu nguyện như vậy, tôi được Chúa cho cảm nghiệm thấy tình nghĩa trong nội bộ Hội Thánh lúc này là điều phải quan tâm đặc biệt, sao cho cụ thể, sao cho thiết thực, sao cho quảng đại, để thành dấu chỉ truyền giáo.
6. Chúa Giêsu đã coi sự hiệp nhất như một dấu chỉ: “Như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.” (Ga 17,23)
7. Càng cầu nguyện theo ý Chúa như trên, tôi càng nhận ra rằng: Dấu chỉ của lòng Chúa thương xót, chính là sự chúng ta yêu thương nhau, xót thương nhau, nhất là trong hoàn cảnh phải cách ly.
8. Yêu thương nhau, xót thương nhau, trong hoàn cảnh cách ly, thi phải vô vị lợi. Đó mới là dấu chỉ thực có sức làm chứng cho sự mình gắn bó với Chúa.
9. Nói tới đây, tự nhiên tôi nhớ tới người bạn thân thiết của tôi là Đức cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận.
Ngài đã phải sống cách ly một thời gian dài.
Theo những gì Ngài đã tâm sự với tôi sau khi được tự do, thì Ngài gặp đau xót nhiều sau đó, vì ngài lại bị cách ly một cách nào đó trong nội bộ Hội Thánh tại Việt Nam. Chẳng nơi nào muốn đón nhận Ngài vào hộ khẩu của mình.
10. Bị cách ly trong nội bộ và do chính nội bộ, cho dù bằng những cách tử tế nhất mà nhiều người đã chịu, thì đó cũng vẫn là cách ly đau đớn.
11. Nếu hôm nay, trong tình hình cách ly giữa xã hội đang tăng tốc, mà cảnh cách ly trong nội bộ Hội Thánh lại vượt xa hơn, thì còn đâu là dư âm của lời nguyện xưa của Chúa Giêsu về sự hiệp nhất.
12. Rất may là cảnh đó không xảy ra nhiều. Hiện nay lời cầu cho sự hiệp nhất vẫn tha thiết, cũng như chứng nhân hiệp nhất vẫn hoạt động mạnh.
Chúng ta cần để ý đến tình hình đó, để biết tìm ra một lối sống trong cảnh cách ly hiện giờ.
13. Đừng vô cảm, đừng vô tâm trong cảnh cách ly.
Nhưng cảnh cách ly càng khắc nghiệt, thì càng cần phải yêu thương và khiêm nhường.
14. Nếu mọi người xa tránh và cách ly tôi, vì coi tôi là kẻ tội lỗi, thì tôi xin vâng. Nhưng, xin hãy thương câu nguyện cho tôi. Đối với tôi, hiệp nhất là vâng lời bề trên, và trân trọng đối với bất cứ nâng đỡ nào của cộng đoàn và của bất cứ ai dành cho tôi.
15. Lúc này hơn bao giờ hết,
Tôi đang nhìn thấy từng đoàn thiên thần từ đất lên trời, và từ trời xuống đất giữa chúng ta.
Các Ngài lên trời, để mang những việc lành của chúng ta dâng lên Thiên Chúa. Các Ngài xuống đất, để mang những phúc lành của Chúa cho chúng ta.
Các thiên thần lên xuống trong tiếng hát cầu nguyện Thiên Chúa cho chúng ta.
16. Thế là trong cảnh cách ly thê thảm, tôi đã tìm được một lối sống.
Xin cảm tạ Chúa. Xin thân ái gửi tới anh chị em tâm tình hiệp nhất yêu thương.
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Ngài nhiều lời thân thương thảm thiết Bùi-Tuần 1956
1. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Ngài nhiều lời thân thương thảm thiết. Trong đó có lời này: “ Hãy ở lại trong thầy.” (Ga 15,5)
Mấy ngày nay, lời đó cứ vang lên trong tâm hồn tôi. Tôi hiểu là Chúa Giêsu nói với tôi lời đó. Tôi cảm nghiệm thấy rất rõ sự hiện diện của Chúa Giêsu. Ngài ở trong tôi. Dù khi thức, dù khi ngủ, tôi vẫn cảm thấy Chúa Giêsu ở trong tôi. Tôi xin Ngài giúp tôi sống lời Ngài dạy.
Tôi cũng xin Đức Mẹ giúp tôi điều đó.
2. Được ở trong Chúa Giêsu, tôi cảm nghiệm rất sâu sắc Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót.
Thực có Ngài. Tôi như chạm đến Ngài. Ngài dẫn tôi qua con đường mà Ngài đã qua, để cứu nhân loại trong đó có tôi. Con đường đó là con đường khiêm nhường và yêu thương.
Sự khiêm nhường, mà Chúa Giêsu đã trải qua, được thánh Phaolô tóm lại trong bài ca khiêm nhường. (Pl 2, 6-8)
Chúa Giêsu đã bước xuống ba bậc:
+ Bậc thức nhất là mặc lấy thân phận phàm nhân. + Bậc thứ hai là mặc lấy thân phận nô lệ. + Bậc thứ ba là mặc lấy thân phận tội nhân, bị treo trên thập giá.
Được cùng với Chúa Giêsu bước xuống ba bậc trong khiêm nhường đó, tôi mới hiểu. Chúa muốn tôi ở lại trong Chúa. Để cùng với Chúa cứu các linh hồn, thì cần phải có khiêm nhường. Khiêm nhường dưới nhiều hình thức là con đường bắt buộc phải đi.
4. Cứu bằng khiêm nhường, khiêm nhường, khiêm nhường.
5. Cùng với khiêm nhường là yêu thương. Cứu độ bằng yêu thương, đó là điều thánh Phaolô đã mô tả trong bài ca đức mến.
“ Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.”
“ Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.”
“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1Cr 13,1-3)
6. Thế nào là đức mến, tức là yêu thương, thì thánh Phaolô mô tả như sau:
Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, Không ghen tương, Không vênh vang, Không tự đắc, Không làm điều bất chính, Không tìm tư lợi, Không nóng giận, không nuôi hận thù, Không mừng khi thấy sự gian ác, Nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. (1Cr 13,4-7)
7. Mấy ngày nay, tôi được ở lại trong Chúa Giêsu một cách hết sức thân mật. Nhờ vậy, tôi mới thấy mình còn rất xa những gì Chúa muốn về tôi.
Nhất là tôi chưa khiêm nhường đủ, Chưa yêu thương đủ.
Chưa khiêm nhường đúng. Chưa yêu thương đúng.
8. Tôi cần sám hối, trở về với Chúa.
Trong thinh lặng tôi được Chúa cho thấy hiện giờ đang có nhiều người sám hối trở về với Chúa.
Những người đó khá đông.
Những người tôi thấy là một số không nhỏ. Những người tôi không thấy có thể là một số lớn.
Nếu bản thân tôi không thuộc về loại người sám hối trở về với Chúa, thì sẽ khốn khổ cho tôi.
9. Vì thế, tôi coi sự sám hối, trở về với Chúa, là hạnh phúc của tôi. Tôi tin, tôi cảm nhận được điều đó. Mà trở về với Chúa cũng chính là trở về với bổn phận đối với quê hương, nhất là đối với những kẻ khổ đau.
10. Thú thực là, khi tôi sám hối trở về với Chúa, mà cảm thấy mình hạnh phúc, thì tôi không nghĩ là vì tôi trở về vì hạnh phúc của tôi, mà vì tôi tin chính Chúa cũng coi đó là hạnh phúc của Chúa. Bởi vì, chính Chúa đã đi tìm tôi. Chính Chúa đợi chờ tôi, chính Chúa ra đón tôi.
Đúng là như vậy.
11. Tôi cảm nhận được hạnh phúc lạ lùng đó, khi sám hối trở về, cũng chính vì tôi được Đức Mẹ ở bên tôi.
12. Đức Mẹ rất khiêm nhường và rất yêu thương, đó là bầu khí mát mẻ, thơm tho, mà tôi đã được thưởng thức đêm ngày. Trong hoàn cảnh càng phức tạp, thì tôi càng cảm thấy Mẹ là niềm cậy trông và là nguồn an ủi của tôi. Đức Mẹ là mẹ của tôi. Tôi là con của Đức Mẹ.
13. Trên đây là những gì tôi đang sống Tuần Thánh giữa mùa đại dịch Corona. Được như vậy, thiết tưởng cũng là đại phúc Chúa ban cho tôi và cho tất cả những môn đệ của Chúa.
Mấy ngày nay, hình ảnh Đức Giáo Hoàng Phanxicô bỗng trở nên cuốn hút khác thường. Quảng trường Bùi-Tuần 1957
1. Mấy ngày nay, hình ảnh Đức Giáo Hoàng Phanxicô bỗng trở nên cuốn hút khác thường.
Quảng trường thánh Phaolô rộng mênh mông trước đây thường đông đúc, nhưng nay trống vắng, do đại dịch Corona.
Trên quảng trường vắng lạnh đó, Đức Phanxicô một mình đứng cầu nguyện. Tay cầm tràng hạt mân côi. Mắt nhìn về phía thánh giá trên thánh đường. Ngài cầu nguyện một mình.
2. Cầu nguyện của Ngài lúc này có thể là: “Uống vào mình tâm tình Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá.”
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã mang vào mình sự sống của tất cả mọi người, dù gần dù xa. Sự sống đó là những gì họ khát khao, họ tìm kiếm, họ hy vọng, họ khổ đau, họ thất vọng, họ chán nản, họ cùng cực.
Nay, Đức Phanxicô cũng được Chúa Giêsu chia sẻ cho những tâm tình đó. Cầu nguyện của Ngài vì thế là hiệp thông với sự thương khó của Chúa Giêsu. Chỉ có máu, chỉ có nước mắt. Ngài trở thành của lễ, trong Chúa Giêsu.
4. Đang khi hình ảnh trên đây của Đức Phanxicô gây ấn tượng sâu sắc cho rất nhiều người, khiến họ sám hối trở về với Chúa, thì tại ít nơi lại xảy ra hình ảnh trái ngược.
Đó là hình ảnh người môn đệ Chúa ồn ào, tưng bừng khoác lên mình những hào quang ảo, có tính cách tự hào như người Pharisêu xưa đã cầu nguyện bên cạnh bàn thờ. ( xem Lc 18, 10-12)
5. Đó là hình ảnh đáng tiếc. Thế mà vẫn xảy ra.
Những gì tốt đang xảy ra, những gì xấu cũng đang xảy ra. Satan đang phá Hội Thánh ngay trên lãnh vực cầu nguyện.
6. Đang khi “cầu nguyện” trở thành một sứ điệp có tính cách cứu độ. thì lại xuất hiện những thứ cầu nguyện giả hình.
Tôi sợ điều đó không phải cho những người khác, mà cho chính tôi.
7. Vì thế, lời cầu thường xuyên và tha thiết của tôi là: “ Lạy Chúa, con muốn nhìn thấy.” Tôi có ý nói là: Tôi muốn nhìn thấy tôi về đàng thiêng liêng, xin Chúa thương cho tôi thấy sự thực về tôi.
8. Và Chúa đã cho tôi thấy:
+ Tôi luôn cần được Chúa thứ tha, vì tôi là vực thẳm tội lỗi.
+ Tôi luôn cần được Chúa ban ơn sám hối trở về với Chúa. Vì tôi rất nghèo túng về đàng thiêng liêng. Cả đến việc sám hối trở về với Chúa, cũng không tự mình làm được. Tôi là người hành khất rất đáng thương.
+ Tôi luôn cần đến Đức Mẹ. Bởi vì tôi quá yếu đuối, quá dại khờ. Chỉ Đức Mẹ mới biết cách đỡ nâng tôi từng giờ, từng phút, từng giây.
9. Đến một lúc nào đó, Chúa cho tôi được uống vào mình một chút rất nhỏ những tâm tình của Chúa, khi Chúa chịu đóng đinh trên thánh giá.
10. Nhờ vậy, tôi mới biết cầu nguyện phải như thế nào, Dù cầu nguyện chung, dù cầu nguyện riêng, tôi sẽ gặp Chúa Giêsu, ở lại trong Ngài, để cùng Ngài lo cứu các linh hồn bằng sự vâng phục thánh ý Chúa. Cầu nguyện không là một việc được giải quyết bằng công nghệ cao, mà chỉ được giải quyết bằng ơn Chúa.
11. Riêng lúc này, sự cầu nguyện phải thực hiện đúng, nhất là sự cầu nguyện của các môn đệ Chúa càng phải hợp ý Chúa. Kẻo sai một ly đi luôn một dặm.
12. Biết cầu nguyện đang trở thành thuốc mầu có sức cứu tình hình thê thảm hiện nay. Hình ảnh người cầu nguyện cũng đang hết sức cần cho tình hình phức tạp hiện nay.
13. Nhưng, một hình ảnh mà tôi cho là hết sức đáng mừng, đó là hình ảnh Chúa Giêsu đang dang tay ôm lấy tất cả Hội Thánh, tất cả nhân loại. Tôi đang thấy hình ảnh xinh đẹp đó. Xin cảm tạ Chúa. Alleluya.
Cách đây 45 năm, hôm đó là ngày 30 tháng 4 năm 1975, vào lúc 13 giờ, tại nhà nguyện Tòa Giám mục Bùi-Tuần 1958
1. Cách đây 45 năm, hôm đó là ngày 30 tháng 4 năm 1975, vào lúc 13 giờ, tại nhà nguyện Tòa Giám mục Long Xuyên, một thánh lễ đơn giản đã được tổ chức do Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ chủ sự.
2. Ngài, theo chỉ thị của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, đã phong chức Giám mục cho một linh mục trẻ ốm yếu, tức Gioan Baotixita Bùi Tuần là tôi đây.
Những ngày này, nhìn lại giờ phút lịch sử đó, mở đầu cho một chuyến đi dài 45 năm, tôi xao xuyến bồi hồi.
Nếu cần chia sẽ với giáo phận tâm tình của tôi lúc này, thì tôi chỉ xin nói lên vắn tắt những niềm tin và tâm tình riêng tư đã đồng hành với tôi suốt 45 năm qua.
4. Tôi tin Chúa đã gọi tôi. Ngài đã gọi tôi vào Hội Thánh Chúa. Ngài đã gọi tôi vào nhà tu. Ngài đã gọi tôi vào hàng giáo sĩ.
Ngài đã gọi tôi vào giáo phận Long Xuyên. Trong một tình hình hết sức phức tạp và khó khăn.
5. Tôi tin Chúa đã trao cho tôi trách nhiệm cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ ở thời điểm không mấy dễ dàng.
6. Tôi tin Chúa đã ban cho tôi những điểm tựa chắc chắn, để tôi hy vọng, cho dù chuyến đi có rất nhiều gian nan. Những điểm tựa chắc chắn đó là Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Thêm vào đó còn có nhiều điểm tựa phụ gặp được trong Hội Thánh và trong xã hội.
7. Tôi tin Chúa đã trao cho tôi hành trang cần thiết để lên đường, hành trang đó là cầu nguyện.
Cầu nguyện là gặp gỡ Chúa, là ở lại với Chúa, là lắng nghe Chúa, là cùng với Chúa đến với những địa chỉ khổ đau, để cứu họ.
8. Tôi tin cứu họ là cứu chính mình. Cứu bằng yêu thương và khiêm nhường, như Chúa đã làm.
9. Tôi tin do yếu đuối, tôi đã phạm nhiều lỗi lầm. Nên tôi rất cần sám hối, trở về với Chúa.
10. Tôi tin tất cả chuyến đi đời tôi là một chuỗi dài hồng ân nhưng không Chúa ban cho tôi.
11. Tôi tin những niềm tin trên đây một cách riêng tư, đầy tha thiết. Những niềm tin này làm nên trong tôi một thánh đường thiêng liêng rộng lớn, để tôi thờ phượng Chúa trong đó và phục vụ anh chị em trong đó.
12. Và sống như thế, tôi cảm thấy mình không hề bị cách ly. Mà trái lại, tôi cảm thấy mình rất gần Chúa, và rất gần anh chị em.
13. Tôi đặt tất cả những niêm tin riêng tư trên đây vào Trái tim Chúa Giêsu với lòng phó thác. Thế rồi chỉ vài phút sau, tôi cảm thấy từ Trái tim Chúa Giêsu chảy sang tôi dòng ơn thánh ngọt ngào.
14. Và tôi nghe Chúa nói với tôi những lời xưa Ngài đã nói trong Phúc âm: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28)
15. Đức Mẹ cũng đang giúp tôi, đem những niềm tin riêng tư của tôi đến với Trái tim Chúa. Và tôi thấy Trái Tim Chúa Giêsu giàu tình yêu thương xót đang là nguồn hạnh phúc của tôi.
16. Mở rộng trái tim mình ra, theo gương Trái Tim Chúa Giêsu, đó là tóm tắt mục vụ của tôi suốt 45 năm qua. Trong Trái Tim Chúa Giêsu, tôi tìm được cả một kho tàng tình yêu thương xót có sức cứu độ.
17. Đem các trái tim gần lại với nhau, đó là công việc có sức cứu độ giữa tinh hình đầy xung đột và đầy nghi ngờ nhau. Tôi làm việc đó bằng niềm tin vào Trái Tim Chúa Giêsu khiêm nhường, hiền từ, hy sinh quên mình.
18. Lo cho trái tim mình trở thành dấu chỉ hữu hình của tình yêu cứu độ, đó là điều tôi cầu chúc cho tôi và cho từng người anh chị em.
19. Để có một trái tim như thế, tôi thấy rất cần trái tim mình cũng phải được lưỡi đòng đâm thâu qua một cách nào đó, theo gương Trái Tim Chúa Giêsu. Chỉ Chúa mới giúp chúng ta được.
Với những tâm tình và niềm tin trên đây, tôi tha thiết xin anh chị em thương cầu nguyện nhiều cho tôi.
Những ngày này, tình hình diễn biến rất phức tạp, do dịch bệnh Corona, do biến đổi khí hậu và Bùi-Tuần 1959
1. Những ngày này, tình hình diễn biến rất phức tạp, do dịch bệnh Corona, do biến đổi khí hậu và do nhiều biến cố gây bất ổn.
Tình hình đó là u ám, là bi thảm.
Với đức tin, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá.
2. Đột nhiên, tôi nghe thấy từ thập giá, Chúa Giêsu cầu xin với Đức Chúa Cha lời này: “Lạy Cha, xin Cha tha thứ cho họ, vì họ lầm không biết.” (Lc 23,34)
3. Nghe lời đó rồi, tôi được Chúa soi dẫn cho biết; dấu chỉ quan trọng nhất của tình yêu thương của Chúa, chính là: tha thứ.
4. Tôi chợt nhìn lại đời mình, thì thấy đúng là một chuỗi dài được Chúa tha thứ.
5. Tối nào xét lại mình, tôi cũng thấy mình đã có nhiều lỗi lầm. Tôi sám hối và được Chúa tha thứ.
6. Sáng nào cũng vậy, khi dâng lễ và tham dự thánh lễ, tôi đều coi việc đón nhận ơn Chúa tha thứ là việc hết sức quan trọng.
7. Dần dần, tôi gọi Chúa Giêsu là Đấng hay tha thứ. Đúng như Người đã nói xưa. “ Tôi không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi.” (nghĩa là để họ được ơn tha thứ.)
8. Hằng ngày được đón nhận ơn tha thứ của Chúa, đó là một diễm phúc. Nhưng nếu ỷ lại ơn tha thứ đó, để cứ tiếp tục phạm tội, thì sẽ là đại họa do chính mình gây ra cho mình. Điều đó dễ hiểu.
9. Nhất là được Chúa tha thứ, mà lại không tha thứ cho kẻ khác như Chúa đã tha thứ cho mình, thì sẽ là điều vô phúc tự mình gây ra cho mình.
10. Biết đón nhận sự tha thứ, biết cho đi sự tha thứ, đó là những việc hết sức quan trọng, nhưng không dễ dàng.
11. Riêng tôi, tôi rất ý thức điều đó, mà chẳng biết phải làm gì. Chỉ biết cậy tin vào Đức Mẹ.
Với chuỗi tràng hạt mân côi luôn trong mình, tôi bám chặt lấy Đức Mẹ. Từng giờ, từng phút, từng giây, tôi ôm lấy Mẹ. Mẹ giúp tôi đón nhận tha thứ, và cho đi tha thứ. Mẹ luôn nhắc nhở: “tha thứ, tha thứ.”
12. Không tha thứ cho người khác, đó là một gánh nặng mình tự tạo ra cho mình, luôn làm khổ mình, trước khi làm khổ người khác.
13. Trái lại, tha thứ cho người khác, sẽ là cách giải thoát chính mình, để được hưởng phần nào hạnh phúc thiên đàng, trong đó chỉ có tình thương. Khi tha thứ, tôi cảm thấy mình được thanh thản, nhẹ nhõm, được nên mới, nhất là được Chúa thứ tha.
14. Tha thứ như Chúa dạy đang là một giá trị thiêng liêng có tính cách phân loại ai tốt, ai xấu, có sức đem lại hạnh phúc cho mình và cho kẻ khác, và cũng làm chứng cho Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
15. Trên đây là tâm tình tha thiết xin được chia sẻ, nhân ngày lễ Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa.
Theo thói quen lâu rồi trong Hội Thánh đại kết Việt Nam, tháng năm hằng năm được gọi là Bùi-Tuần 1960
1. Theo thói quen lâu rồi trong Hội Thánh đại kết Việt Nam, tháng năm hằng năm được gọi là tháng dâng hoa kính Đức Mẹ.
2. Năm nay, tình hình dịch bệnh sẽ không cho phép tổ chức việc dâng hoa như trước đây.
Tuy vậy, tôi thiết nghĩ mình vẫn nên dâng hoa cho Đức Mẹ, theo cách thích hợp với tình hình lúc này.
Riêng tôi, tôi sẽ dâng cho Đức Mẹ những hoa màu tìm.
4. Tôi dùng từ hoa màu tím để bọc chúng cho những tâm tình do tình hình cách ly gây lên, thí dụ:
5. Có những người đột nhiên cảm thấy mình bị nghèo đi một cách thảm thương
+ Về những tiện nghi vật chất như tiền bạc, đồ dùng. + Về sự trợ giúp của những người xung quanh. + Về sự yêu thương gần đó.
6. Có những người đột nhiên cảm thấy mình bị coi là kẻ bị dư thừa, bị loại trừ.
7. Có những người đột nhiên cảm thấy mình như bị mọi người coi như kẻ ăn mày, không muốn tiếp.
8. Có những người tự cách ly mình, do sức khỏe xuống cấp, cộng thêm bệnh tật.
9. Tất cả những hoàn cảnh đó đều đưa con người vào một cảnh cô đơn sầu buồn. Đó là màu tím về mặt tâm linh.
10. Tôi đang có nhiều bông hoa màu tím như thế. Tôi nghĩ, nếu tôi dâng cho mẹ những bông hoa tím đó, thì mẹ chắc không buồn với tôi, mà trái lại, Mẹ sẽ nhận lấy, để mẹ lo cho những tấm lòng con cái của Mẹ.
11. Đúng là Mẹ đã nhận, và đang lo cho con cái mình, hồn tôi mong ước.
12. Đức Mẹ đang cho tôi được sống, được vui, được vậy, như Kinh Lạy Nữ Vương đã nói.
13. Đức Mẹ đang cho tôi được hy vọng, chắc chắn, như Kinh Hãy Nhớ quả quyết: : “Chưa từng ai chạy đến với Mẹ, mà bị Mẹ từ chối bao giờ.”
14. Đức Mẹ đang lo cho tôi trong từng giờ, từng phút, từng giây. Đức Mẹ đang lo cho tôi từng việc lớn đến việc nhỏ. Đức Mẹ đang lo cho tôi, cả những lúc tôi quên Mẹ. 15. Hoa tôi dâng cho Đức Mẹ không phải chỉ là những kinh nguyện, những việc hãm mình đền tội, mà còn có cả những buồn sầu, những thất vọng, những bế tắc.
16. Mẹ nhận tất cả những gì tôi dâng. Riêng những hoa màu tím lại được Mẹ để riêng ra trong trái tim Mẹ dạt dào xót thương.
17. Mẹ xót thương. Mẹ âu yếm. Mẹ chữa lành. Mẹ an ủi. Mẹ dắt dìu, Mẹ tha thư. Mẹ nhận đền thay tội lỗi cho tôi.
18. Vì thế, cho dù mọi người cách ly tôi, tôi vẫn được Mẹ ôm vào lòng Mẹ. Tôi tin chắc điều đó. Niềm tin đó cúng là một bông hoa, mà Mẹ ưa thích.
19. Tới đây tôi chợt nhớ đến Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô II.
Rất nhiều lần, tôi được ở bên Ngài trong thánh lễ và trong những phút cầu nguyện riêng tư chỉ có hai cha con trước Nhà Tạm. Hầu như lần nào cũng vậy, tôi thấy Ngài thở dài, tỏ vẻ buồn phiền.
Một lần, tại bàn giấy, trong tiếp xúc riêng, tôi hỏi Ngài. Đức Thánh Cha có đau khổ không? Ngài trả lời rất tự nhiên rằng: “ Tôi đau khổ nhiều lần.”
Thở dài và kêu đau của Đức Giáo Hoàng đã cho phép tôi có cảm tưởng là Đức Thánh Giáo Hoàng cũng thường dâng cho Chúa và Mẹ những bông hoa màu tím.
20. Những bông hoa màu tím đó gồm những lo lắng, ưu phiền, đau khổ, mà Ngài gặp thường ngày.
Lần nào gặp Ngài xong , Ngài cũng tặng tôi một tràng hạt mân côi. Tôi thầm nghĩ: Mình cũng sẽ theo gương Ngài mà dâng cho Đức Mẹ những bông hoa màu tím. Tôi đã làm mà dâng lên như vậy. Và tôi thấy Đức Mẹ luôn nhận mọi bông hoa tím đó của tôi.
Dâng hoa như thế hệ tại ở tấm lòng, chứ không câu lệ ở hình thức.
Tháng năm của năm 2020 sẽ chứng kiến nhiều tím lòng như thế và đó sẽ là hy vọng cứu rỗi. Amen.
Được sự khích lệ của Đức Giám mục giáo phận, tôi vui mừng có mặt tại thánh lễ này. Xin thân Bùi-Tuần 1961
1. Được sự khích lệ của Đức Giám mục giáo phận, tôi vui mừng có mặt tại thánh lễ này. Xin thân ái cám ơn Đức Cha Giuse Trần Văn Toản.
2. Lời quan trọng tôi xin được nói lên lúc này, tại đây, đó là. Tôi rất ngạc nhiên.
Tôi rất ngạc nhiên vì tôi còn sống tới ngày hôm nay, với biết bao điều tốt đẹp xác hồn. Tôi thực sự không ngờ, không dám cầu mong.
4. Tôi tin: Được như thế này là do ơn Chúa ban. Chúa ban do lòng thương xót Chúa. Chứ tôi đâu xứng đáng. Thực sự, tôi rất bất xứng. vì tôi là kẻ tội lỗi.
5. Ngạc nhiên, biết ngạc nhiên, đó là điều xảy ra với tôi hằng ngày suốt 45 năm qua.
6. Tôi ngạc nhiên vì những cái mới xảy đến với tôi hằng ngày. Như:
Khi những cái mới đó xảy ra với tôi, thì phản ứng của tôi là: Ngạc nhiên, rất ngạc nhiên.
7. Trong mọi ngạc nhiên và rất ngạc nhiên đều có vui mừng và biết ơn khiêm tốn. Tôi ngạc nhiên, rất ngạc nhiên như một đứa trẻ ngây thơ. Như một học sinh khát khao điều mới.
8. Sau này, tôi học được sự ngạc nhiên nơi Đức Mẹ Maria.
Đức Mẹ tỏ ra rất ngạc nhiên về những gì Chúa đã làm nơi Đức Mẹ.
Ngạc nhiên lớn nhất của Mẹ là được Chúa đến ở cùng Mẹ. Ngạc nhiên của Mẹ có sự bối rối và lo sợ. (Lc 1,29).
9. Theo gương Đức Mẹ, tôi cũng rất ngạc nhiên vì được Chúa đến với tôi, và cho tôi được ở trong Chúa.
10. Nhưng khác với Đức Mẹ, tôi nhiều lần đã không dùng ơn Chúa cho nên. Tôi đã phạm tội. Thực vậy, “tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót.” Thế mà, Chúa vẫn thương tôi, Chúa đã ban cho tôi ơn trở về. Đó là điều đã làm cho tôi rất ngạc nhiên.
11. Mặc dầu bất xứng, tôi vẫn được Chúa nâng niu, coi tôi như một ngọn nến nhỏ hiu hắt trong nhà Chúa. Đó là điều hết sức ngạc nhiên.
Một lần nữa tôi thú nhận tất cả những gì tốt tôi có đều do lòng thương sót Chúa. Chúa ban cho tôi nhưng không. Tôi chẳng có công gì. Chúa luôn cứu tôi.
12. Ngạc nhiên này, tôi dâng lên Chúa với tâm tình cảm tạ và sám hối,
+ Đối với Chúa + Đối với Đức Mẹ + Đối với Hội Thánh + Đối với Quê hương + Đối với giáo phận + Và đối với mọi người đã nâng đỡ tôi.
Cách riêng tôi xin mọi người thương tha thứ cho tôi về mọi lỗi lầm đủ thứ của tôi. Tất nhiên tôi cũng rất vui, vì được là người tha thứ.
13. Lúc này, hơn bao giờ hết, tôi nhớ tới lời Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Đức Chúa Cha trong bữa tiệc ly.
“Lạy Cha, con muốn rằng: Con ở đâu, thì những người Cha ban cho con cũng được ở đó với con.” (Ga 17,24).
14. Tôi tin lúc cầu nguyện như thế, Chúa Giêsu đã nghĩ tới tôi. Chúa nhìn tôi như người con yếu đuối, nhưng thuộc về Chúa.
15. Nên tôi tin: Tôi đang được ở bên Chúa, và sẽ được ở bên Chúa, mãi mãi, đời này và đời sau.
Đó là điều rất đáng ngạc nhiên, đang đem lại cho tôi hạnh phúc. Tôi thực sự rất hạnh phúc, cho dù trong muôn vàn thử thách. Hạnh phúc đó vẫn đang trong lãnh vực đức tin.
16. Nếu được phép, tôi xin cầu chúc cho từng người anh chị em, có mặt cũng như vắng mặt, được hạnh phúc này, đó là được ơn biết ngạc nhiên về những ơn Chúa ban cho mình, do lòng thương xót Chúa. Nhất là ơn biết ngạc nhiên về niềm tin chắc chắn: Chỉ Chúa giàu lòng thương xót mới cứu được chúng ta.
17. Tới đây, tôi xin mượn lời của thánh Phaolô tông đồ mà nói với anh em.
“Chính bây giờ là thời gian thuận tiện, để Chúa thi ân, để Chúa cứu độ.” (2Cr 6,02).
Lúc Ngài viết lời đó là lúc tình hình rất bất ổn, rất khó khăn. Nhưng Ngài đã quả quyết chính trong tình hình như thế, Chúa lại thi ân, Chúa lại cứu độ.
Tôi cũng đã thấy như vậy, trong ngày thụ phong giám mục của tôi, và nhiều lúc trong 45 năm qua, có thể là chính hôm nay, chính lúc này. Xin anh chị em cầu nguyện nhiều cho tôi. Tôi xin tín thác mình cho Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Tôi thuộc về Chúa. Tôi là của Chúa. Chúa xét xử tôi theo lòng xót thương của Chúa.
18. Một cách đặc biệt, tôi xin anh chị em hãy cùng với tôi, cầu nguyện rất nhiều cho Tổ quốc Việt Nam yêu dấu. Long Xuyên, ngày 30.4.2020
Những ngày vừa qua, và cho đến lúc này, tôi thực sự đau buồn. Với 93 tuổi, sức khỏe như bỏ Bùi-Tuần 1962
1. Những ngày vừa qua, và cho đến lúc này, tôi thực sự đau buồn.
Với 93 tuổi, sức khỏe như bỏ rơi tôi.
Cuộc sống xã hội có vẻ như bỏ lại những người già yếu.
Cuộc sống tôn giáo cũng đẩy tuổi trẻ đi lên, xem ra như muốn bỏ lại những người già yếu vào một cảnh được hưởng thương hại mà thôi. Cảm nhận của tôi là chủ quan, nhưng chủ quan đó vẫn gây mệt mỏi nặng nề, nhất là khi tôi nhận được những phê phán gay gắt về tôi.
2. Tôi cảm thấy xa cách. Tôi không oan trách ai, không đòi hỏi gì, nhưng tự nhiên đau buồn.
Thêm vào đó, lại xảy ra cảnh cách ly do dịch bệnh Corona.
3. Chính lúc tôi cảm thấy những khoảng cách gây nên đau buồn, thì Chúa Giêsu cho tôi nhớ lại lời Ngài đã phán xưa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11,28)
Với lòng tin tưởng, tôi đến với Chúa Giêsu. Thực sự, Chúa đã giữ lời hứa. Tôi cảm thấy trong tôi những khoảng cách được thu hẹp lại. Nhờ vậy tôi cảm thấy được an ủi.
Tôi xin được phép chia sẻ những gì đã và đang xảy ra trong tôi về những an ủi đó.
4. An ủi thứ nhất là tôi cảm thấy Chúa gần gũi tôi.
Do lòng thương xót của Chúa, Chúa cho tôi cảm thấy chính Chúa đến với tôi, Chúa ở lại trong tôi, Chúa cho tôi được kết hợp mật thiết với Chúa. Như cành nho với thân nho. Chúa chia sẻ cho tôi chính sự sống của Ngài.
Chúa chỉ đòi tôi phải tin vào tình yêu thương xót của Chúa.
5. Mà nếu thiếu niềm tin đó, thì hãy cầu xin. Tôi đã tha thiết cầu xin ơn biết tin vào lòng thương xót của Chúa. Cầu xin vững bền, cầu xin khiêm tốn. Cầu xin cùng vời Đức Mẹ.
Kết quả là khoảng cách giữa Chúa và tôi được thu hẹp lại, được như xóa bỏ. Nhưng cảm nghiệm đó vẫn trong niềm tin.
6. An ủi thứ hai là tôi cảm thấy tôi gần gũi với những kẻ khổ đau.
Trước đây, tôi thường dửng dưng với những kẻ khổ đau. Hoặc có quan tâm đến họ, thì cũng chỉ là mức độ nào đó thôi.
Nhưng khi tôi được Chúa thương chia sẻ cho tình yêu xót thương của Chúa, tôi tự nhiên thấy mình biết xót thương kẻ khác, cách riêng là những kẻ khổ đau.
Tôi đau cái đau của họ, cái đau của họ như nhập vào tôi, coi tôi như là chỗ tựa nương của họ, khoảng cách được thu hẹp lại. Tôi không còn muốn tránh né cái đau của họ. Tôi có cảm tưởng là Chúa muốn tôi coi người đau khổ là địa chỉ Chúa hẹn gặp tôi.
7. Thú thực là nhiều khi tôi vẫn phải phấn đấu với chính mình. Bởi vì tính tự nhiên đâu có sẵn sàng chịu chia sẻ khổ đau của người khác, nhất là sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác. Nhưng với ơn Chúa, dần dần tôi coi sự mình chia sẻ đau khổ với người khác là một ơn thăng tiến chính mình.
Được gần gũi với những người đau khổ, nhiều khi tôi cảm thấy mình hạnh phúc, vì nhận được từ họ nhiều điều tốt lành mà Chúa dùng họ để dạy dỗ tôi. Họ cho tôi rất nhiều.
8. An ủi thứ ba là tôi cảm thấy được gần gũi với những tấm lòng tốt của các tôn giáo khác và của xã hội.
Khi tôi được Chúa Giêsu cho vơi đi những gánh nặng cuộc đời, do lòng thương xót của Chúa, như lời Người đã hứa, thì tôi nghĩ chắc chắn nhiều người khác cũng được như tôi. Bởi vì Chúa phán: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi.”
Chúa nói: “Tất cả”, chứ không trứ ai. Và như vậy, thì chắc chắn là có rất nhiều người trong các tôn giáo khác và trong xã hội, cũng đã được kêu gọi đến với Chúa, và thực sự họ đã đến với Chúa bằng những cách thích hợp với lương tâm ngay lành của họ.
9. Kết qủa là những tấm lòng tốt đó đã gặp được Chúa. Có thể gọi họ là những vị thánh ngoại đạo. Họ không có tên trong sổ của các cộng đoàn công giáo. Nhưng họ lại được Chúa đón nhận vào Nước Chúa là nước tình yêu thương xót.
10. Riêng tôi, tôi may mắn được gặp nhiều tấm lòng tốt ngoại đạo tại Việt Nam yêu dấu này.
Họ rất tin kính Thiên Chúa. Họ rất có lòng thương những người khổ đau. Họ rất cởi mở với người Công Giáo.
11. Tới đây, tôi nhìn thấy tương lai của tôi. Tình hình sẽ rất phức tạp. Nhưng cho dù phức tạp đến đâu, tôi cũng cứ vâng lời Chúa, mà thu hẹp lại những khoảng cách.
Tình yêu đâu có khoảng cách,
Xót thương đâu có khoảng cách.
12. Trên thánh giá, có lúc Chúa Giêsu đã kêu: “Cha ơi, sao cha nỡ bỏ rơi con.” (Mc 15, 36) Có nghĩa là có khoảng cách đớn đau trong Chúa Giêsu. Nhưng một lúc sau, Chúa Gêsu lại nói: “Cha ơi, con xin phó mình con trong tay Cha.” (Lc 23,46) Có nghĩa là không còn khoảng cách. Những gì xảy ra cho Chúa Giêsu cũng đang xảy ra cho tôi. Tôi đừng quên mình vẫn trong thử thách. Xin mọi người cầu nguyện và nâng đỡ tôi là kẻ tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn.
Thế là đau buồn đang đổi sang niềm hy vọng. Tạ ơn Chúa.
Đức Cha GB. Bùi Tuần thật mộ mến Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Ngài đã chia sẻ với chúng tôi cả giờ đồng hồ. Ngài nhấn mạnh vào lòng từ tâm của Cha. Ngài nhìn nhận Cha là một hiền nhân, đức độ và giàu lòng bác ái đáng cho mọi linh mục bắt chước.
Xin in lại nguyên văn bản mà Đức Cha Bùi Tuần đã trao cho tôi:
-------------------------- Những cảm nhận của những người đã đến cầu nguyện với Cha Phanxicô Xaviê Trương bửu Diệp.
I. Cảm nhận về chính Cha Phanxicô X. Trương bửu Diệp.
Cha là con người đơn sơ, bình dân. Cha là con người sẵn sàng đón tiếp. Cha là con người luôn lắng nghe. Cha là con người có cái tâm. Cha là con người dạt dào tình xót thương. Cha là con người để ý đến cuộc sống từng người.
Nói tắt một lời: Ai cũng cảm nhận Cha Diệp là con người dễ thương. Ngài thương hết mọi người, không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, trình độ, giai cấp, giáo lý, lễ nghi. Ngài thương cách riêng những người nghèo túng, khổ đau. Ngài có Chúa ở cùng.
II. Cảm nhận về chính bản thân mình
Sau khi đến với Cha, tâm sự với Cha, cầu nguyện với Cha, hầu như mọi người đều có những cảm nhận về bản thân mình như sau:
Mình được Cha yêu thương. Mình được Cha chia sẻ. Mình được Cha giải cứu. Mình thấy mình được liên hệ với thế giới thần thiêng. Mình thấy mình cần sống tốt hơn. Mình thấy mình cần năng cầu nguyện nhiều hơn. Cầu nguyện một cách hồn nhiên và chân thành.
Mình thấy Hội Thánh của Cha Diệp trở nên gần gũi với mình.
Mình thấy Chúa của Cha Diệp trở nên người Cha xót thương hơn mình tưởng.
Riêng những người túng nghèo, khổ đau lại tìm được nơi Chúa của Cha Diệp một nguồn an ủi và hy vọng đặc biệt, mà họ không tìm được ở đâu khác.
III. Cảm tưởng của tiêng tôi.
Cha Phanxicô Trương bửu Diệp là mẫu gương rất hợp thời cho những người hoạt động mục vụ và truyền giáo tại Việt Nam hôm nay. Tâm lý người Việt Nam hôm nay tuy vốn trân trọng những đấng anh hùng, nhưng thích tìm đến những vị lãnh đạo dễ thương. Dễ thương ở chỗ có đời sống bình dị, đơn sơ, gần gũi, biết đưa con người vào chiều kích thiêng liêng bằng những thái độ sống cảm thương và thương xót.
Sau khi gặp gỡ với những vị lãnh đạo dễ thương, họ cảm thấy mình được kính trọng, được yêu thương, được hy vọng. Thiết tưởng đó là một khởi đầu tôt cho mục vụ truyền giáo.
Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi tuyệt vời, Đó là điều tôi đã học được từ rất nhỏ, Đó là điều tôi Bùi-Tuần 1964
1. Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi tuyệt vời, Đó là điều tôi đã học được từ rất nhỏ, Đó là điều tôi đã cảm nhận được suốt đời tôi, Đó là điều đang đỡ nâng tôi trong tuổi già yếu.
2. An ủi nhất là vì tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài, Ngài ở bên tôi. Tôi cảm thấy Ngài như một người mẹ. Ngài an ủi, để dạy dỗ. Ngài an ủi, để sửa lỗi. Ngài an ủi, để chữa lành. Ngài như bầu lửa yêu thương.
3. An ủi đặc biệt là ở sự Ngài lôi kéo tôi vào trung tâm điểm của hạnh phúc đời tôi.
4. Có nhiều lúc, tôi tưởng trung tâm điểm của hạnh phúc đời tôi là được làm linh mục, làm giám mục. Nhưng Chúa Thánh Thần đã khéo giúp tôi nhận ra trung tâm điểm hạnh phúc đời tôi chính là được Chúa nhận tôi làm nghĩa tử, được là con của Chúa.
5. Để làm con của Chúa, tôi phải làm gì ?
Chúa Thánh Thần dạy tôi là hãy khiêm tốn và ân cần đón nhận tình Chúa xót thương, dành cho tôi là kẻ yếu đuối, khổ đau.
Rồi hãy khiêm tốn và ân cần xót thương kẻ khác, nhất là những kẻ khổ đau yếu đuối.
6. Thế nghĩa là tôi phải biết đón nhận những an ủi của Chúa, và phải biết cho đi những an ủi nhận được.
7. Biết đón nhận và biết cho đị sự an ủi, hai việc đó nghe thì dễ, nhưng thực hiện thì khó. Tôi có kinh nghiệm đó. Một trong những yếu tố khiến khó thực hiện sự đón nhận an ủi của Chúa và cho đi sự an ủi nhận được từ Chúa, chính là tính tôi hay sợ.
8. Thực vậy,tôi rất sợ, bởi vì nhận thức mình quá bất xứng, qúa tội lỗi, quá hèn mọn. Nhiều khì quá sợ đã làm tôi mất ăn, mất ngủ, mất bình an.
9. Chính những khi tôi sợ hãi như thế, thì Chúa Thánh Thần lại an ủi tôi, Một đàng Ngài cho tôi nhớ lại những lời Chúa trong Phúc âm, về lòng xót thương của Chúa, thí dụ: “Hãy xin thì sẽ được, hãy gõ cửa, thì sẽ mở cho”. ( Mt 7,7 )
Chúa cũng đã nói đại khái;
Trên đời, người con xin cho bánh ăn, không lẽ người cha lại cho nó con rắn, phương chi, Cha trên trời.
10. Thêm vào những lời Chúa phán về lòng Chúa xót thương, Chúa Thánh Thần lại cho tôi nhớ lại dụ ngôn về cách Chúa đối xử với đứa con tội lỗi trở về, thực là cảm động. Chúa Thánh Thần cũng giúp tôi nhớ lại hình ảnh mà Chúa Giêsu đã dùng để chỉ về Chúa, đó là hình ảnh gà mẹ ấp ủ đàn con.
11. Chúa Thánh Thần không chỉ làm cho tôi nhớ lại những gì Phúc âm đã ghi về lòng xót thương của Chúa. Mà Ngài còn cho tôi được thực sự vượt qua những sợ hãi, để biết đón nhận và cho đi những an ủi của Chúa.
12. Tôi được cứu, nhờ phép màu của Chúa một cách trực tiếp, và gián tiếp qua Hội Thánh của Chúa. Hội Thánh tại Việt Nam và Hội Thánh khắp thế giới đều đã nâng đỡ tôi.
13. Nói chung, thì tôi sẽ nói thế này; Chúa Thánh Thần luôn dùng sự an ủi, để cứu tôi, để đưa tôi về với Chúa, để dẫn tôi gắn bó với Hội Thánh, để đưa tôi gần lại với những người khác, để phục vụ họ.
14. Do vậy, tôi gọi Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi tuyệt vời, Ngài giúp tôi biết theo gương Ngài mà trở nên người an ủi trong tu đức, trong mục vụ, trong truyền giáo.
15. Lúc này hơn bao giờ hết, con người an ủi đang trở thành của ăn thiêng liêng cần thiết trong lãnh vực tôn giáo.
16. Để được thế, tôi sẽ không an ủi bằng bất cứ cách nào, nhưng chỉ bằng sự tôi kết hợp với Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã cho tôi biết an ủi nào là đạo đức thiệt. Chính Chúa Thánh Thần đã cho tôi biết những an ủi nào mới làm chứng được tôi thuộc về Chúa, tôi là con của Chúa. Chính Ngài đã giúp tôi biết nói lời xin vâng, phó thác mình cho Chúa. Chính Ngài đã giúp tôi biết xót thương những con cái Chúa tại những nơi trên thế giới đang bị bách hại. Chính Ngài đang giúp tôi tìm được bình an giữa dòng đời đầy bất ổn hiện nay. Chính Ngài đã và đang giúp tôi sống hy vọng giữa muôn vàn thử thách.
17. Riêng tôi, tôi nhận thấy an ủi của Chúa Thánh Thần không tách rời khỏi thánh giá Chúa Giêsu.
An ủi gắn liền với hy sinh. Tôi sẽ không nhận được an ủi mà không phải hy sinh. Tôi sẽ không cho đi sự an ủi, mà không phải quên mình.
18. Tới đây, tôi có cảm tưởng là đã đến lúc mỗi người con của Chúa phải coi sự an ủi của Chúa đang trở thành một dấu chỉ làm chứng cho Chúa trên thế giới hôm nay nói chung, và tại Việt Nam lúc này nói riêng. Và cũng đến lúc mỗi người con của Chúa phải biết ơn Chúa Thánh Thần, chớ bao giờ xúc phạm đến Ngài. Chúa Giêsu quả quyết: Xúc phạm đến Chúa Thánh Thần là tội rất nặng. “Ai nói phạm đến Con Người thì được tha, nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau” (Mt 12, 32).
19. Được Chúa Thánh Thần an ủi, thường xuyên một cách lạ lùng, giúp tôi vâng phục thánh ý Chúa, đó là điều tôi hết lòng cảm tạ Chúa về tôi. Và đó cũng là điều tôi cầu mong tha thiết cho từng người anh chị em.
Hôm đó tôi được mời dùng bữa tối với Đức Gioan Phaolô II. Lúc đó, trời đã khuya, tôi đứng dậy Bùi-Tuần 1965
1. Hôm đó tôi được mời dùng bữa tối với Đức Gioan Phaolô II. Lúc đó, trời đã khuya, tôi đứng dậy, cám ơn Đức Thánh Cha và từ giã, xin ra về.
Đức Thánh Cha tiễn chân tôi tới cửa phòng ăn. Rồi đột nhiên Ngài nói: “Xin đợi tôi một chút.”
Một phút sau, Ngài trở lại, tay cầm một hộp nhỏ. Mở hộp ra, Ngài trao cho tôi một chiếc đồng hồ đeo tay mầu trắng, đó là quà kỷ niệm.
2. Từ đó cho đến nay, thời gian đã khá dài. Tôi vẫn để chiếc đồng hồ đó bên đầu giường, để nhớ về người cha kính yêu.
Ngài không còn nói gì trực tiếp với tôi. Nhưng xem ra Ngài vẫn nói với tôi qua chiếc đồng hồ kỷ niệm.
Nhìn chiếc kim nhỏ xíu không ngừng chạy trên mặt đồng hồ nhỏ, tôi nghe như Đức Thánh Giáo Hoàng nhắn nhủ tôi hai điều sau đây.
3. Một là hãy biết quí trọng thời giờ, từng phút, từng giây. Lúc nào cũng hãy đón nhận tình yêu xót thương của Chúa. Lúc nào cũng hãy làm chứng cho tình xót thương của Chúa qua việc xót thương kẻ khác.
4. Hai là hãy biết bước đi bằng những bước nhỏ, bằng những việc lành nhỏ, như chiếc kim nhỏ trên mặt đồng hồ nhỏ.
5. Cụ thể là hãy cầu nguyện không ngừng. Cầu nguyện là gặp gỡ Chúa, là ở lại bên Chúa, là vâng nghe Chúa.
Khi cầu nguyện là gặp gỡ Chúa, thì Chúa Thánh Thần thường soi sáng cho tôi về nội dung cầu nguyện, đó là hãy xin Chúa tha tội cho mình, và xin Chúa dẫn đưa mình vào cuộc sống mới đời đời bền vững bên Chúa giàu lòng thương xót, qua việc biết phân định và phấn đấu nội tâm.
6. Đã từ lâu rồi, nhưng nhất là những ngày này, tôi cầu nguyện cho tôi và cho những người thân yêu được như vậy.
Nhất là được Chúa tha thứ tội lỗi cho tấm lòng khiêm nhường sám hối ăn năn. Và được đón nhận một cuộc sống mới mang hạnh phúc đời đời trong Chúa, qua việc biết phân định và phấn đấu nội tâm.
7. Khi tôi cầu nguyện mà nhấn mạnh đến hai điều trên, thì tâm hồn tôi cảm nhận được sự an ủi thiêng liêng rất rõ rệt.
8. Được gặp Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô II nhiều lần, nhất là được đồng tế bên cạnh Ngài nhiều lần, tôi không sao quên được tinh thần sám hối của Ngài.
Ngài đến với Chúa trong thân phận con người sám hối. Tôi hiểu là Ngài sám hối về tội của Ngài, và cũng về tội của cả cộng đoàn Hội Thánh và của toàn thể nhân loại.
9. Ngài dâng hiến Chúa tâm tình sám hối, xin ơn thứ tha. Không bao giờ thấy Ngài tỏ vẻ dâng tiến Chúa tâm tình hân hoan, vì xác hồn mình trong trắng. Vì đó sẽ là kiêu căng, phản chứng nặng nề.
10. Khi xét mình, tôi thấy có lần tôi đã dại dột phạm lỗi kiêu căng phản chứng như thế. Dám nói mình hân hoan bước lên bàn thánh để dâng tiên Chúa xác hồn mình trắng tinh, như ánh trăng vẹn tuyền. Đối với tôi, khoe mình có xác hồn trong sạch, đó là sai lầm nguy hiểm. Tôi xin Chúa thương tha thứ cho tôi. Xin mọi người cũng tha thứ cho tôi.
11. Đề cập đến vấn đề tha thứ, hiện nay mọi người đều coi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một gương mẫu đầy can đảm.
Ngài đã lên tiếng xin lỗi những gì mà Hội Thánh trong lịch sử đã sai lầm trong việc kết án và kỳ thị những cá nhân hoặc những tổ chức, cũng như trong thái độ thiếu khiêm tốn của mình.
12. Trong cuốn sách dài gần 300 trang mang tựa đề “ Khi Đức Giáo Hoàng xin lỗi”, các tác giả đã kể ra từng trăm lần Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã công khai xin lỗi. Và như vậy, Đức Thánh Giáo Hoàng đã tỏ ra Ngài là người phục vụ cho sự hòa giải, cho sự hiệp nhất.
13. Riêng tôi, không phải chỉ cuốn sách đó đã dạy tôi coi việc xin lỗi là một việc đạo đức cần làm, mà chính chiếc đồng hồ bé nhỏ kia cũng thường nhắc tôi là hãy coi việc xin lỗi là việc đạo đức cần thực hiện thường ngày.
Xin lỗi một cách đơn sơ, một cách thành thực, đó là văn hóa. Đó là đạo đức.
14. Lúc này hơn bao giờ hết, chiếc đồng hồ nhỏ của Đức Gioan Phaolô II tặng đang nhắn nhủ tôi vắn gọn: “ Đừng bỏ phí thời giờ, hãy tận dụng từng phút, tứng giây. Nhất là để cầu nguyện. Thánh ý Chúa được cho tôi biết dần dần qua thời gian dài hay vắn và lúc nào thì tùy theo ý Chúa, chứ không theo ý tôi. Tôi phải tín thác vào Chúa, như chiếc đồng hồ nhỏ sống động, tỉnh thức và vâng phục.
Thời giờ của xã hội được đếm bằng lịch. Lịch viết, lịch nói, lịch in. Còn thời giờ của tôi được Bùi-Tuần 1966
1. Thời giờ của xã hội được đếm bằng lịch. Lịch viết, lịch nói, lịch in.
Còn thời giờ của tôi được đếm bằng những sự lạ lùng Chúa dành cho tôi.
2. Thực vậy, Chúa Giêsu làm cho tôi những sự lạ lùng, không phải từng năm, từng tháng, mà là từng ngày.
Thực là lạ lùng, những sự Chúa Giêsu thương tôi.
Chúa Giêsu thương tôi, nhất là ở hai sự kiện này, mà tôi cảm nhận thấy rất rõ từng ngày.
3. Một là Chúa Giêsu luôn tha thứ tội lỗi của tôi. Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.
4. Hai là Chúa Giêsu luôn dẫn tôi vào cõi sống đời đời đầy hạnh phúc.
5. Khi Chúa Giêsu tha tội cho tôi, thì chính Chúa Giêsu mang vào mình tội lỗi của tôi, để đền tội thay cho tôi, để chịu hình phạt thay cho tôi.
6. Khi Chúa Giêsu dẫn tôi vào cõi sống đời đời, thì chính Chúa Giêsu đi trước mở đường bằng thánh giá đầy máu của Chúa, nơi Chúa đã hy sinh mạng sống vì tôi.
7. Nhìn thấy Chúa Giêsu như vậy, tự nhiên tôi cảm thấy giữa Chúa Giêsu và tôi có một khoảng cách vô cùng xa thẳm, nhưng được gần lại một cách lạ lùng do lòng thương xót Chúa.
8. Tôi hết sức ngạc nhiên, hết sức ngỡ ngàng. Tôi như chạm đến một mầu nhiệm. Tôi chỉ biết cúi đầu cảm tạ Chúa và ngợi khen Chúa mà thôi.
9. Được gần gũi với Chúa Giêsu, tôi được Ngài dẫn đưa tôi đến với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Nhờ vậy, mỗi ngày tôi càng thấy sâu đặm Thiên Chúa Ba Ngôi là toàn ái, toàn xót thương.
10. Cũng nhờ vậy, mỗi ngày tôi càng thấy mình được an ủi. Tôi tin Chúa luôn luôn là tình thương đón nhận, chứ không bao giờ xua đuổi và từ chối những ai kêu cầu Chúa. Nhất là khi người ta kêu cầu Chúa giúp họ làm lại cuộc đời theo ý Chúa.
11. Và, để biết ơn Chúa, tôi cũng hãy theo gương Chúa, trở thành người biết đón nhận những ai đến cầu cứu với tôi, đừng bao giờ là kẻ xua đuổi họ, nhất là khi họ cầu cứu với tôi để họ làm lại cuộc đời của họ theo ý Chúa, và biết đâu cũng nhờ vậy mà cuộc đời của chính tôi sẽ được tốt hơn.
12. Tôi nhớ có lần Chúa Giêsu quả quyết: “Chúng con đong đấu nào cho kẻ khác, thì Chúa cũng dùng đấu đó mà đong lại cho chúng con.” (Mt 7,2).
Như vậy, nếu tôi xua đuổi kẻ đến cầu cứu với tôi, thì không chừng tôi sẽ bị Chúa xua đuổi tôi như vậy.
13. Tôi sẽ đón nhận, nếu không bằng những sẻ chia tiền của và những giá trị vật chất, thì ít ra tôi cũng hãy đón nhận bằng tấm lòng kính trọng và cảm thương chân thành. Đặc biệt tôi sẽ cùng với họ chân thành sám hối.
14. Nếu thời giờ của tôi được đếm bằng những thái độ như thế đối với những ai đến cầu cứu với tôi, thì chắc chắn tôi sẽ được Chúa ban phúc lành cho tôi và cho bao người khác.
15. Trong tình hình hiện nay, những người muốn được các môn đệ Chúa cứu họ là một số rất đông. Đây là thời cơ thuận tiện để các môn đệ Chúa làm chứng về sự mình xót thương chính Chúa nơi những con người mình gặp, nhất là những người thiếu thốn khổ đau.
16. Tôi rất mừng được thấy nhiều môn đệ Chúa tại Việt Nam đang rất tỉnh táo và quảng đại trong vấn đề này.
Tôi cũng bắt chước họ, mà dùng thời giờ của mình một cách như thế trong khả năng của tôi. Nhất là tôi dùng thời giờ để sám hối. Sám hối ngay, sám hối hằng ngày, đó là ý Chúa.
17. Không cần phải chạy nhiều, không cần phải nói nhiều, không cần phải múa máy nhiều. Nhưng rất cần tấm lòng thương xót như Chúa xót thương. Tấm lòng như thế không tự nhiên mà có. Thú thực là nhiều lúc tôi nản lòng, khi thấy xót thương bị lạm dụng. Tôi đau đớn và sám hối.
18. Đức Mẹ Maria và thánh Giuse đang dạy tôi là hãy kiên trì.
Các Ngài luôn đón nhận. Các Ngài không bao giờ xua đuổi một ai. Thời giờ của các Ngài luôn là như vậy.
Xin các Ngài giúp chúng ta cũng biết theo gương các Ngài, cho dù phải phấn đấu rất nhiều, trong mệt mỏi và cô đơn.
19. Tới đây, tự nhiên tôi nhớ tới cha Trương Bửu Diệp. Cha rất linh thiêng, bình dị, gần gũi, đề cao tấm lòng. Khắp vùng này, đâu đâu cũng kính mến cha. Cha là con người cầu nguyện.
Cầu nguyện của cha là cùng với Chúa lo giúp những người xin cha giúp đỡ. Thời giờ của cha là ân cần lo cứu những kẻ túng thiếu khổ đau đến cầu cứu với cha. Cha thương mọi người, không phân biệt lương giáo, giàu nghèo. Cha đã giúp tôi rất nhiều. Tôi xin bắt chước cha, cố gắng dùng thời giờ của tôi để thực thi ý Chúa, nhất là trong việc sám hối.
Trong thánh lễ mừng kỷ niệm Chúa Thánh Thần hiện xuống, tôi được Chúa Thánh Thần thúc giục Bùi-Tuần 1967
1. Trong thánh lễ mừng kỷ niệm Chúa Thánh Thần hiện xuống, tôi được Chúa Thánh Thần thúc giục: “Hãy xin ơn được ở lại trong trái tim Chúa Giêsu. Đó là ơn rất cần trong thời điểm này.”
2 Được Chúa Thánh Thần soi sáng, tôi nhận ra sự ở lại trong trái tim Chúa Giêsu là một ơn Chúa ban, chứ không phải tự nhiên mà có.
3. Mà để được ơn đó, tôi phải khao khát, phải khiêm nhường. Chúa Thánh Thần giúp tôi rõ rệt.
4. Tôi cảm thấy trong tôi có một sức thiêng giúp tội thoát ra khỏi những ham muốn đi tìm và ở lại những lãnh vực thế tục nóng bỏng đang lôi cuốn thế giới hiện nay, như tiền bạc, xây cất, tổ chức, cạnh tranh uy tín, để chỉ tìm được gặp trái tim Chúa Giêsu và ở lại trong đó mà thôi.
5. Khi đã được thanh luyện và gỡ mình ra khỏi những ham muốn thế tục, tôi được Chúa Thánh Thần dẫn tôi đến trái tim Chúa Giêsu. Tôi được đón nhận và được ở lại trong đó.
6. Trong trái tim Chúa Giêsu, tôi được Chúa Giêsu dạy bảo một điều quan trọng, đó là “ Hãy đào tạo mình và đào tạo những người thuộc về mình, theo mẫu gương trái tim Chúa Giêsu. Đào tạo trái tim là bổn phận ưu tiên của các môn đệ Chúa. Chính các môn đệ Chúa phải thường xuyên gần gũi trái tim Chúa Giêsu. Hãy học nơi trái tim Chúa Giêsu mấy đặc điểm sau đây.”
7. Trái tim Chúa Giêsu hiền từ và khiêm nhường. (Mt 11,29).
8. Trái tim Chúa Giêsu yêu thương đến mức hy sinh mạng sống mình để cứu con người.(Ga 10,11).
10. Hãy coi trái tim Chúa Giêsu là gương mẫu để đào tạo.
Hãy coi trái tim Chúa Giêsu là trường đào tạo.
11. Khi làm như vậy, tôi cảm nhận được sâu sắc trái tim Chúa Giêsu đúng là nguồn an ủi tuyệt vời cho tôi.
12. Từ đó tôi lại nhận thức thêm về vai trò của trái tim hiện nay. Hiện nay trái tim con người đang là nơi tranh giành giữa thiện và ác một cách quyết liệt.
13. Nhận thức thứ nhất là: Trong giáo dục và đào tạo, nên giúp con người biết nhìn người khác bằng cái nhìn của trái tim cùng vời cái nhìn của lý trí.
Lý trí mà thôi không đủ phục vụ con người, phải thêm trái tim.
Nhiều khi trái tim mới cứu được con người, chứ không phải lý trí. Hiện nay uy tín của một người không tùy thuộc ở lý trí cho bằng ở trái tim.
14. Nhận thức thứ hai là: Trong quan hệ xã hội hiện nay, người ta luôn tìm đến những ai mình tin được. Mà người mình tin được thường phải là người có trái tim hiền lành, khiêm nhường, trung tín, chân thành. Nếu cái đầu họ có thông mình đến mấy, nhưng nếu trái tim họ lại hẹp hòi, ích kỷ, thì sao mà tin được.
15. Riêng tôi, tôi coi trái tim sẽ đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc cứu nhận loại nói chung và đất nước Việt Nam nói riêng.
16. Hiện giờ, phong trào kính trái tim Chúa Giêsu đang được lan rộng tại nhiều nơi trong Hội Thánh tại Việt nam. Đó là dấu hiệu đáng mừng.
Và sẽ càng đáng mừng, khi lòng sùng kính đó được phát triển đúng hướng, mà Chúa muốn. Muốn được thế, chúng ta cần khiêm nhường.
17. Riêng tôi, khi được vào trong trái tim Chúa Giêsu và được ở lại trong đó, tôi được ơn nhìn sự thực về tôi.
Sự thực về tôi là:
Tôi là kẻ tội lỗi. Tôi là kẻ yếu đuối. Tôi là kẻ dại dột. Tôi là kẻ đáng bị luận phạt.
Nhưng:
Chúa đã cứu tôi. Chúa đã tha thứ cho tôi. Chúa đã chọn tôi. Chúa đã sai tôi đi. Tất cả đều do lòng thương xót của Chúa.
18. Đột nhiên, tôi như nhìn thấy hình ảnh trái tim Chúa Giêsu nơi nhiều người quen thuộc hoặc gần hoặc xa.
Hình ảnh dễ thương đó hiện lên một cách thiêng liêng, nhưng cảm nhận được. Đúng là họ ở trong trái tim Chúa Giêsu. Có một cái gì toát ra từ họ báo hiệu về sự hiện diện của trái tim Chúa Giêsu hiền lành, khiêm nhường, yêu thương, hy sinh, vâng phục thánh ý Chúa Cha.
19. Nhìn thấy họ, tôi mong muốn cũng được như họ. Mong muốn đó càng thúc đẩy tôi tìm đến trái tim Chúa Giêsu và được ở lại trong đó.
20. Tôi không tự mình làm được việc đó. Tôi tin Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ giúp tôi. Tôi tín thác mình cho Chúa.
Ngay lúc nay, tôi cảm nhận thấy trái tim Chúa Giêsu đang là nguồn sống đầy an ủi cho tôi. Trái tim Chúa Giêsu đang giúp tôi góp phân vào đoàn người tội lỗi sám hối trở về được Chúa đón nhận trong tình xót thương vô tận của Ngài.
21. Nếu ai hỏi tôi về trái tim Chúa Giêsu, thì tôi xin thưa vắn gọn:
Trái tim Chúa Giêsu là kho tàng vô cùng quý giá, chứa đựng mọi ơn cần thiết cho hạnh phúc đời đời của con người.
Tôi đã cảm nhận được điều đó. Tôi xin cảm tạ Chúa về cảm nhận đó.
Xin thân ái cầu chúc cho từng người gặp được kho tàng trái tim Chúa Giêsu, Chúa chúng ta.
Lúc này hơn bao giờ hết, Chúa cho tôi thấy: Cũng như mọi người, tôi đang ở trong một tình hình Bùi-Tuần 1968
1. Lúc này hơn bao giờ hết, Chúa cho tôi thấy: Cũng như mọi người, tôi đang ở trong một tình hình cực kỳ nguy hiểm. Tôi cần được Chúa cứu.
Để được Chúa cứu, tôi phải góp phần vào việc Chúa cứu. Chúa dạy tôi việc đầu tiên phải làm là sám hối. Sám hối. Rồi lại sám hối. Sám hối suốt đời.
2. Tôi xin Chúa thương giúp tôi sám hối. Tôi thực sự không biết thế nào là sám hối theo ý Chúa. Mà sám hối là việc phải làm ngay, không nên trì hoãn.
Nhờ ơn Chúa giúp, tôi thấy sám hối đòi rất nhiều điều kiện thuộc lãnh vực tâm linh, như niềm tin vào Chúa, niềm tin vào cõi sau, niểm tin vào sự khiêm nhường. Những niềm tin đó phải thực sự sống động, thực sự tha thiết. Lúc đó, sám hối mới trở thành một bước trở về với Chúa.
3. Khi sám hối là trở về với Chúa trong lòng khao khát Chúa, trong niềm tin tưởng vào Chúa, thì sám hối, dù có đau đớn, sẽ luôn ngọt ngào. Nhất là khi sám hối đi tới lúc gặp được Chúa.
4. Như vậy, sám hối là một hành trình trở về với Chúa. Suốt hành trình này, tôi luôn cầu nguyện, để vững bước đi về phía trước, cho dù con đường trở về trắc trở, gian nan.
5. Hành trình trở về có thể dài, có thể vắn. Dù vắn, dù dài, hành trình vẫn mệt mỏi, không thiếu những bất ngờ. Tôi phải cầu nguyện, xin ơn bền vững.
6. Với những kinh nghiệm trên đây, lúc này tôi hiểu sám hối không hề là việc dễ dàng.
Từ đó, tôi sợ sám hối trở thành một việc đạo đức chỉ còn là hình thức, mà thiếu vắng nội dung.
Nếu sám hối chỉ còn là một nghi thức, một công thức, như một thứ trang trí cho các nghi lễ, thì sẽ không biến đổi được con người.
7. Biến đổi con người, mới chính là việc của sám hối đích thực. Nhờ sám hối, con người được nhẹ nhõm hơn, được thấy mình là người có hạnh phúc đích thực.
8. Riêng tôi, tôi coi việc sám hối trở thành một yếu tố rất quan trọng trong tôn giáo, mà cũng cả trong xã hội nữa. Nhiều người đã làm lại được cuộc đời nhờ sám hối chân thành.
9. Riêng tôi, khi sám hối trở về với Chúa, tôi luôn có cảm nghiệm này là: Chính Chúa Giêsu đã tìm tôi để cứu tôi. Chúa Giêsu là đấng cứu độ. Chúa Giêsu là điểm tựa. Tôi quy chiếu về Chúa Giêsu là tôi đón tiếp Chúa Giêsu vào con người của tôi, vào cuộc đời tôi.
10. Với cảm nhận sâu đậm đó, tôi tự nhiên lo cho những người, mà Chúa Giêsu gọi là những kẻ cứng lòng, mất khả năng sám hối.
Họ sẽ phải sống khổ, chết khổ, và đời sau phải khổ đời đời mãi mãi.
Tôi sợ cho tôi và cho những người thân của tôi. Xin Chúa đừng bao giờ để chúng tôi mất khả năng sám hối.
11. Sám hối đúng là một hành trang cần thiết cho hành trình cuộc sống con người tội lỗi của tôi.
Trong sám hối, tôi đã gặp được Chúa Giêsu. Tôi đã cảm nhận được Chúa Giêsu là đấng xót thương tôi.
12. Cảm nhận đó lại tăng thêm sau này, khi Chúa Giêsu đi sâu vào thân phận con người tự nhiên của tôi.
Thân phận con người tự nhiên của tôi là rất mong manh. Thân xác thì hay yếu đau, bệnh nạn. Tâm hồn thì hay sợ hãi, lo âu, buồn phiền.
Chúa Giêsu đã đi sâu vào thân phận đó của tôi. Ngài đã tỏ ra xót thương tôi. Tôi nhận thấy thế này:
13. Chúa Giêsu quan tâm đến tôi trong từng những chi tiết rất nhỏ.
Tôi đau, Ngài an ủi. Tôi sợ hãi, Ngài trấn an. Tồi buồn sầu, Ngài ấp ủ.
Cả trong giấc ngủ, tôi vẫn cảm nhận được sự hiện diện của Ngài.
14. Chúa Giêsu lại dạy tôi biết dùng những việc rất nhỏ để phục vụ Hội Thánh, Tổ quốc, đồng bào, nhất là những người thân.
15. Từ đó, tôi càng cảm nhận rõ hơn Chúa Giêsu là Đấng hay xót thương. Ngài giúp tôi nhận ra Thiên Chúa là tình yêu cứu độ giàu lòng thương xót.
16. Tôi sống rất thân mật với Chúa Giêsu. Lúc nào cũng qui chiếu về Ngài. Làm gì cũng qui chiếu về Ngài.
“Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là Chúa Giêsu sống trong tôi.” (Gl 2, 20).
17. Tới đây, tôi nhớ tới thánh Gioan-Baotixita, bổn mạng của tôi.
Thánh Gioan-Baotixita là con người giảng sám hối, suốt đời qui chiếu về Chúa Giêsu. Ngài kêu gọi mọi người hãy đón nhận Chúa Giêsu. Ngài giới thiệu Chúa Giêsu là con chiên hiền lành của Thiên Chúa, đến để xóa tội cho trần gian.
18. Tôi bắt chước thánh bổn mạng của tôi, cũng làm như Ngài; theo khả năng của tôi. Tôi làm, mà tôi không chờ đợi thành quả. Bởi vì, tôi biết tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc như thánh Gioan-Baotixita xưa. Tôi mang trong mình bao gánh nặng.
Tôi tin vào lời Chúa hứa: “ Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11,28). Tôi đã gặp Chúa. Tôi bám chặt vào Chúa.
Xưa, để tạ ơn Chúa, Thánh Phaolô đã xưng mình là kẻ khốn nạn, nhưng đã được Đức Giêsu Kitô Bùi-Tuần 1969
1. Xưa, để tạ ơn Chúa, Thánh Phaolô đã xưng mình là kẻ khốn nạn, nhưng đã được Đức Giêsu Kitô thương cứu. (Rm 7, 14-35).
2. Nay, để tạ ơn Chúa, tôi xin phép mượn tư tưởng đó, với chút khác biệt.“Tôi xưng mình là kẻ rất khốn nạn, nhưng đã được Đức Giêsu Kitô thương không ngừng đào tạo, để cứu lấy tôi”.
Tôi là kẻ rất khốn nạn, do sự ác xâm nhập vào mình, nên tôi coi sám hối là tiếng kêu của tôi từ những vực sâu vô hình trong tôi.
3. Tôi là kẻ được Chúa Giêsu Kitô thương không ngừng đào tạo, nên tôi luôn đợi chờ tấm lòng xót thương của Chúa và những tấm lòng xót thương giống như Chúa.
4. Tôi đã gặp được nhiều tấm lòng tốt góp phần vào việc đào tạo tôi. Họ vượt qua mọi khó khăn, vượt qua chính mình, để cùng với Chúa Giêsu, mà lo cứu tôi khỏi những hiểm nguy cả phần xác lẫn phần hồn.
5. Vượt qua chính mình, đó là đặc điểm của những con người đào tạo tôi. Vượt qua chính mình là một hình ảnh nói lên sự từ bỏ mình, mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh về những kẻ muốn theo Chúa. (x Mt 10, 37-39)
6. Những tấm lòng vượt qua chính mình, để lo cứu tôi, là một số không nhỏ. Họ thuộc về nhiều thành phần trong Hội Thánh và trong xã hội.
7. Từ kinh nghiệm đó, tôi nhận ra điều này: “Nếu tôi muốn trở nên người đào tạo kẻ khác, thì tôi cũng phải liệu trở thành người vượt qua chính mình, tức là biết từ bỏ mình, để lo cứu người.”
8. Do vây, tôi coi sự đào tạo mình là điều phải thực hiện thường xuyên. Đào tạo, đào tạo lại, tái đào đạo dưới sự hướng dẫn của Chúa Giêsu. Bởi vì: Chúa Giêsu là đường đi, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6).
9. Muốn được Chúa đào tạo, tôi phải trở nên bé mọn, khiêm nhường. Gương bé mọn, khiêm nhường là thánh Gioan-Baotixita.
10. Thánh Gioan-Baotixita tuy được tiền định, nhưng vẫn được đào tạo thêm. Cách Chúa Giêsu đào tạo thánh Gioan-Baotixita thực là lạ lùng.
11. Qua nhiều cách, Chúa cho Gioan-Baotixita biết Đấng Cứu Thế sẽ xóa tội trần gian bằng những khổ đau của thánh giá.
Gioan-Baotixia cũng sẽ dọn đường cho Đấng cứu thế như vậy. Biết trước con đường đó, trong tinh thần vâng phục chính là ơn tiên tri mà Chúa ban cho Gioan-Baotixita.
12. Nay, tôi cũng thấy nhiều môn đệ Chúa đang sống ơn tiên tri đó trên thế giới và tại Việt nam này.
Họ đang sống ơn tiên tri đó một cách mạnh mẽ, khi họ chọn phục vụ Chúa trong những con người như một ơn gọi. Một ơn gọi không mấy dễ dàng.
Họ thấy trước thánh giá dành cho họ.
Họ báo trước những khổ đau đang chờ đợi họ.
Báo trước là bổn phận của họ, một bổn phận sẽ gặp nhiều khó khăn và đau đớn. Tôi bắt chước họ.
13. Bắt chước họ như một hướng đi, nhưng kẻ dẫn đường cho tôi vẫn là Chúa. Càng phục vụ Chúa nơi những con người, tôi càng nhận ra Chúa Giêsu là đấng cứu độ giàu lòng thương xót.
14. Hãy phục vụ Chúa nơi những con người, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu xót thương đang làm những sự lạ lùng ngay tại Việt Nam hôm nay. Chính nhờ phục vụ Chúa nơi những con người, mà vô số người trước đây không biết Chúa, thì nay đã gặp được Chúa.
15. Lúc này, hơn bao giờ hết, chúng ta cần phục vụ Chúa trong những con người, cho dù sẽ phải khổ đau. Thiết tưởng đó cũng là cách đối phó với tình hình đang bùng phát những bạo lực đối với những kẻ yếu đuối. Hãy coi đó là cách tốt nhất, để làm chứng về Chúa. Và cũng hãy coi đó là cách rất tốt để Chúa cứu chúng ta.
16. Chúa đã rất rõ ràng: “Ta bảo thật các ngươi. Mỗi lần các ngươi làm sự lành cho những anh em bé mọn nhất của Ta đây, thì Ta kể như các ngươi làm cho chính Ta vậy.”(Mt 25,40).
17. Chúng ta được Chúa xót thương, khi chúng ta xót thương kẻ khác, “Phúc thay ai thương xót người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.” (Mt 5,7). Thương xót người khác là chuyện không dễ, xin Chuá thương giúp chúng tôi.
18. Với những chia sẻ trên đây, tôi xin tạ ơn Chúa đang hiện diện trên bàn thờ và cũng hiện diện trong chúng ta.
19. Và cùng với những chia sẻ trên đây, tôi xin thân ái cám ơn tất cả mọi người đã và đang nâng đỡ tôi là kẻ rất khốn nạn, nhưng được Chúa xót thương một cách lạ lùng. Tôi xin trân trọng cảm ơn cách riêng những người đã cùng với Chúa, mà đào tạo tôi.
20. Để kết, tôi xin tuyên xưng:
Tôi nhận ra Chúa xót thương tôi, nhất là trong công trình huyền diệu Chúa đã và đang đào tạo tôi. Chúa đã tha thứ cho tôi, Chúa đã ấp ủ tôi, Chúa đã đổi mới tôi. Giờ đây tôi chỉ biết cảm tạ Chúa, yêu mến Chúa, tín thác vào Chúa,vâng phục thánh ý Chúa trong sự bình an của Chúa mà thôi. Amen
+ GB. Bùi Tuần - Tại nhà nguyện TGM Long Xuyên 24.6.2020
Trước hết, tôi xin thân ái cảm ơn Đức Cha Giuse, Giám mục chánh tòa Long Xuyên. Ngài đã Bùi-Tuần 1970
1. Trước hết, tôi xin thân ái cảm ơn Đức Cha Giuse, Giám mục chánh tòa Long Xuyên. Ngài đã có nhã ý tạo nên bầu khí thân mật tại đây lúc này, để gia đình giáo phận cùng với tôi mà tạ ơn Chúa.
2. Sau là tôi xin lợi dụng cơ hội hiếm hoi này, để chia sẻ với anh chị em về cuộc đời 65 năm linh mục và 45 năm giám mục của tôi.
3. Tôi xin rất vắn gọn.
Trước ngày thụ phong linh mục, tôi đã xin rút lui, nhưng không được. Trước ngày thụ phong giám mục, tôi cũng đã xin rút lui, nhưng không được.
4. Tôi thấy vâng phục thánh ý Chúa là điều không dễ.
Nên, suốt bằng ấy năm dài, tôi thường cầu nguyện bằng lời Thánh vịnh: “ Lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi con.”(Tv 26,6). Nhất là khi tôi chẳng có gì dâng lên Chúa ngoài tấm lòng tan nát ăn năn.
Đang khi đó, sức mạnh của Ác thần là rất mạnh. Mà tôi chỉ là chiếc bình sành dễ vỡ.
5. Nỗi lo nhất của tôi trong những năm qua về giáo phận là yêu thương bình an và hiệp nhất.
Không phải chỉ lo, mà còn phải làm. Làm mới thấy yêu thương bình an và hiệp nhất là những chuyện không dễ dàng. Tôi đã có những lỗi lầm và thiếu sót. Nhưng Chúa Giêsu thương xóa tội và chữa lành cho tôi. Đúng như thánh G.B đã loan báo về Chúa Giêsu là Đấng xóa tội trần gian. (Ga 1, 29).
6. Cho đến hôm nay, tôi thấy Chúa đã xót thương tôi. Được Chúa xót thương, tôi dần dần nhìn những người khác cũng bằng cái nhìn xót thương. Giáo phận cũng đã nâng đỡ tôi bằng nhiều cách xót thương. Một trong những yếu tố làm nên hạnh phúc của tôi là thấy nhiều người biết hối cải và đã gặp được Chúa.
7. Những ngày còn lại của tôi sẽ là thời gian cùng với Hội Thánh, mà “tỉnh thức và cầu nguyện, trong sám hối và tín thác.” (Mt 14,38). Vì tình hình sẽ rất khó khăn.
Một lần nữa, xin hết lòng cảm ơn các Đức Cha và tất cả mọi người đã và đang xót thương tôi. Trong sự che chở nâng niu dịu hiền của Đức Mẹ Maria. Amen.
Xưa thánh Gioan Baotixita đã nói: “Tôi đã không biết Đức Kitô. Nhưng khi tôi làm phép rửa cho Bùi-Tuần 1971
1. Xưa thánh Gioan Baotixita đã nói:
“Tôi đã không biết Đức Kitô. Nhưng khi tôi làm phép rửa cho ngài, thì tôi đã thấy trời mở ra, Thánh Thần tựa chim bồ câu từ trời xuống, ngự trên ngài. Và tôi nghe có tiếng phán rằng: Con là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Con” (x.Mt 3, 16- 17); (Lc 3, 21- 22); (Ga 1, 31- 34).
Trong lời nói trên đây của thánh nhân, có một từ thuyết phục tôi một cách mạnh mẽ nhất, đó là từ: “Tôi đã thấy”.
2. Anh chị em thân mến. Hôm nay, tôi cũng xin nói với anh chị em một lời tương tự: “Tôi đã thấy Chúa Giêsu. Tôi thấy Chúa Giêsu là Đấng cứu độ giàu tình yêu thương xót”. Thương xót của Người là hết sức yêu thương với khiêm nhường tột độ.
3. Thực vậy, tôi đã thấy Chúa Giêsu qua nhiều ngả. Thí dụ, qua Lời Chúa, qua phép Thánh Thể, qua các người thân xa gần, qua các biến cố xảy ra hằng ngày. Tôi thấy Chúa Giêsu đến với tôi dưới hình ảnh Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót, trong những việc rất thường, rất nhỏ hằng ngày.
4. Tôi đã thấy, chứ không phải tôi chấp nhận do lý luận của lý thuyết.
Đã thấy có nghĩa là cảm nhận được một cách nào đó rất là hồn nhiên. Tôi tin trong đó có sự hỗ trợ của Chúa Thánh Thần.
5. Tôi cũng đã thấy Chúa là Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót, khi nghe kể về những việc Chúa cứu xảy ra đó đây cho nhiều người.
6. Thực vậy, suốt chặng đường dài làm chứng cho Chúa Giêsu, tôi cảm thấy mình không cô đơn. Bởi vì tôi đã gặp được không ít những người chứng tá về Chúa. Họ không phải là người rao giảng, mà họ là người làm chứng.
Họ làm chứng không phải bằng lý thuyết, mà bằng kinh nghiệm về những gì đã xảy ra cho họ. Họ thấy Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ, rất gần gũi với họ. Họ cảm nghiệm sâu sắc tình yêu thương rất khiêm nhường Chúa dành cho họ.
7. Làm chứng cho Chúa bằng chính kinh nghiệm sống của mình, thiết tưởng đó là điều Chúa muốn Hội Thánh hãy quan tâm trong việc đào tạo các nhân sự.
Ai thuộc rất nhiều lý thuyết về Chúa, nhưng lại quá nghèo trong kinh nghiệm bản thân về Chúa, thì khó có thể là người thích hợp để rao giảng về Chúa trong thế giới hôm nay.
8. Khi mở lòng mình ra phía những người có kinh nghiệm về lòng thương xót Chúa, chúng ta sẽ khám phá ra một chân trời mới cho việc truyền giáo. Bởi vì những người làm chứng họ đã thấy Chúa xót thương họ, hiện nay là rất nhiều, thuộc đủ mọi giai cấp, thuộc đủ mọi tín ngưỡng, thuộc đủ mọi lứa tuổi.
9. Có lần, Đức Phanxicô đã nói: Phải có một cuộc cách mạng mới về lòng thương xót Chúa, có nghĩa là phải khám phá ra lòng thương xót Chúa đang vượt qua các ranh giới, để đi vào lòng từng người một cách lạ lùng, dù họ là ai.
10. Riêng tôi, tôi đã thấy Chúa rất xót thương tôi và bao người khác, với yêu thương và khiêm nhường, Chúa cũng dạy tôi, như Chúa xót thương tôi, tôi cũng hãy xót thương người khác.
11. Cảm nghiệm về lòng Chúa xót thương đã an ủi tôi rất nhiều trong cuộc sống.
Cảm nghiệm đó không miễn trừ cho tôi khỏi phải chiến đấu với những thử thách gặp phải trong cuộc sống hằng ngày. Cuộc sống hằng ngày vẫn là một chuyến đi của đức tin. Chuyến đi của đức tin đòi nhiều chiến đấu cam go. Nhưng trong những chiến đấu đó, tôi nhớ lại những khoảnh khắc tôi đã được thấy về lòng thương xót Chúa, thì tôi được đỡ nâng rất nhiều.
12. Sau cùng, tôi phải khiêm nhường nhận ra điều quan trọng này, là xưa thánh Gioan Baotixita đã làm hết sức mình để rao giảng về Chúa Giêsu, nhưng số người tin vào lời ngài giảng là rất ít. Mặc dầu vậy, thánh Gioan Baotixita vẫn kiên trì chu toàn trọng trách của mình. Ngài làm vì đức tin. Xin thánh Gioan Baotixita cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta được ơn đó như ngài. Ơn đó, chính là đức tin. Ơn đức tin là vô cùng cần thiết cho chúng ta.
13. Thường ngày, thí dụ, ngay trong nhà nguyện này, tôi thấy đức tin của từng người là đẹp hay chưa đẹp là do hai dấu chỉ khiêm nhường và yêu thương của họ. Khiêm nhường và yêu thương dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, đó là vẻ đẹp tỏa ra từ những người sống đức tin mạnh mẽ. Để được vậy, họ phải đau khổ nhiều. Nhưng họ vui. Nhìn thấy họ, tôi như thấy bóng dáng của Chúa Giêsu.
14. Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, để khi được như vậy, cuộc đời chúng ta sẽ là Tin với yêu thương và khiêm nhường, đó là của lễ đẹp lòng Chúa, nhất là trong tình hình phức tạp hiện nay.
15. Tình hình hiện nay đang rất phức tạp, phức tạp một cách khó lường, phức tạp một cách nguy hiểm. Chính bản thân nhiều người chúng ta cũng đang trở thành phức tạp. Chính nội bộ nhiều cộng đoàn chúng ta cũng đang trở thành phức tạp. Đời là thế. Đạo cũng vậy.
Phức tạp chồng chất phức tạp. Càng phức tạp, chúng ta càng cần bám vào Chúa Giêsu, để có sức sửa mình, trở về với Chúa.
Lạy Chúa, chúng con xin cảm tạ Chúa đang cho chúng con được nhìn thấy Chúa. Chúa xót thương chúng con, nên dạy chúng con hãy tin, mà phải rất yêu thương và rất khiêm nhường theo gương Chúa. Chúng con xin vâng. Xin Chúa thương giúp chúng con. Amen.
Phúc âm thánh Matthêu kể. “Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm Bùi-Tuần 1972
1. Phúc âm thánh Matthêu kể.
“Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không? Hay là chúng tôi phải đợi ai khác.”
Đức Giêsu trả lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan nhưng điều mắt thấy tai nghe; người mu xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.”(Mt 11, 2-4).
2. Tôi đem bài Phúc âm trên đây áp dụng về tôi.
Với 93 tuổi già, tôi lúc này như kẻ luôn đợi chờ. Trước cảnh đời rắc rối hiện nay, tôi đã hỏi Chúa Giêsu rằng: Chúa có đúng là Đấng phải đến không? Hay là chúng con phải đợi ai khác?
Chúa Giêsu đã trả lời tôi thế này. Hãy căn cứ vào những điều mặt thấy tai nghe về những gì Chúa đã và đang làm tại Việt Nam này.
3. Tôi vâng. Và tôi đang thấy Chúa Giêsu đã và đang cứu rất nhiều người về phần xác lẫn phần hồn tại Việt Nam này.
4. Người đã và đang đến mọi nơi, đến tận các tâm hồn. Người đến một cách âm thầm, đầy yêu thương và khiêm nhường.
5. Người đến qua các bí tích.
Người đến qua nhiều giám mục, nhiều linh mục, nhiều tu sĩ, nhiều chủng sinh, nhiều giáo dân.
Người đến qua nhiều văn thư của Hội Đồng Giám Mục. Người đến qua nhiều cộng đoàn cầu nguyện. Người đến qua nhiều tổ chức từ thiện, văn hóa. Người đến qua sự hiện diện đạo đức của nhiều người. Người đến qua những lời kêu cứu của nhiều người đau khổ. Người đến qua nhiều lối khác mà tôi không biết.
6. Căn cứ vào những gì tôi đã và đang được xem thấy và nghe thấy về Chúa Giêsu tại Việt Nam hôm nay, tôi tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ, chứ không phải ai khác.
7. Tôi thấy Chúa Giêsu trên thánh giá đang là một tiếng nói, đầy hy sinh, đầy khiêm nhường. Tiếng nói đó vang dội khắp nơi.
8. Ở người nào, ở nơi nào mà thấy có hy sinh, có khiêm nhường, thì tôi nhận ra ở người đó, ở nơi đó có tiếng nói của Chúa Giêsu.
9. Do vậy, tôi cũng hãy sống khiêm nhường và hy sinh, để trở thành tiếng nói về Chúa và của Chúa
10. Tôi chỉ là tiếng nói về Chúa và của Chúa, chứ không thay thế cho Chúa. Chỉ Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ mà thôi.
11. Xác tín điều đó, tôi phải tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi rơi vào những chước cám dỗ muốn tôi nhận mình là kẻ cứu độ.
12. Những chước cám dỗ đó hiện nay rất nhiều, rất tinh vi và rất mạnh. Chúng tâng bốc các môn đệ Chúa, tung hô các Ngài là những kẻ cứu độ.
13. Nếu không tỉnh thức và cầu nguyện, sống hy sinh và khiêm nhường, các môn đệ Chúa sẽ rơi vào bẫy của Satan lúc nào không hay biết.
14. Ngay chính sự hy sinh và khiêm nhường cũng có thể là nơi bị Chúa ruồng bỏ, nếu hy sinh và khiêm nhường đó là theo ý riêng, chứ không theo ý Chúa.
15. Chúa Giêsu đã rất rõ về vấn đề này, khi Ngài phán: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy, lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào nước Trời đâu. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.”
16. Chúa Giêsu còn quả quyết:
Cho dù những kẻ hy sinh và khiêm nhường có làm được phép lạ, nhưng lại không theo ý Cha trên trời, thì cũng bị Chúa ruồng bỏ. (x.Mt 7,31-34). Có nghĩa là vâng phục thánh ý Chúa là điều quan trọng hơn hết.
17. Vâng phục thánh ý Chúa không luôn dễ. Đôi khi tôi coi đó là một chén đắng, để xin Chúa tha cho khỏi phải uống. Nhưng “xin đừng theo ý con, mà chỉ theo ý Cha mà thôi.” (x, Mt 26,37).
18. Tất cả những gì tôi vừa chia sẻ trên đây đang được Chúa Giêsu dạy bảo tôi một cách rất xót thương, đầy âu yếm, giữa một tình hình phức tạp, có nhiều nguy cơ.
19. Mỗi lần sang Pháp, tôi thường đến Ars, để viếng cha thánh Gioan-Vianney. Cha thánh cũng hay nhắc nhở tôi về người mục tử nhân lành phải hy sinh và khiêm nhường, vâng phục ý Chúa.
20. Tôi thấy Chúa Giêsu là Đấng phải đến đã đến với tôi. Người dạy tôi hãy tỉnh thức và cầu nguyện với Đức Mẹ Fatima để biết vâng phục thánh ý Chúa. Tình hình sẽ có những bất ngờ mà loài người không lường trước được. Xin tín thác trọn vẹn nơi Chúa.
Kỷ niệm thụ phong linh mục 02-07-1955 tại Hongkong
Tôi run rẩy nhớ về cuộc đời 65 năm linh mục của tôi. Bởi vì lúc này Chúa Giêsu hỏi tôi những Bùi-Tuần 1973
1. Tôi run rẩy nhớ về cuộc đời 65 năm linh mục của tôi.
2. Bởi vì lúc này Chúa Giêsu hỏi tôi những câu làm tôi lúng túng, thí dụ: “Suốt 65 qua, con có là cây thánh giá sống động như Cha muốn về con không.”
“Thánh giá sống động hiện thân cho sự hy sinh.”
3. “Thánh giá sống động hiện thân cho tình yêu thương.”
4. “Thánh giá sống động hiện thân cho sự khiêm nhường.”
5. Cùng với những câu hỏi đó, Chúa ban cho tôi ơn nhận biết Chúa rất xót thương tôi. Chúa hỏi, để tôi biết nhận ra sự thực về mình.
6. Tôi thấy tôi đã có nhiều lầm lỗi và thiếu sót. Tôi đã không luôn là cây thánh giá sống động như Chúa muốn.
7. Chúa muốn linh mục của Chúa là cây thánh giá sống động, mà nhiều người thấy được, bởi vì linh mục là một dấu chỉ.
Nhưng nhiều người lại đã không thấy như vậy. Lỗi tại họ, hay lỗi tại tôi?
8. Tôi không tìm cách đổ lỗi cho bất cứ ai. Tôi chỉ lo nhận ra lỗi ở nơi chính mình. Có thể tôi cũng không nhận ra lỗi ở chính mình. Nhưng Chúa thấy. Nên tôi cúi đầu xin Chúa xót thương tôi.
9. Chúa xót thương cho tôi thấy: Mặc dầu tôi đã là một cây thánh giá với nhiều khổ đau. Nhưng cây thánh giá đó vẫn còn cầu xin Chúa không ngừng được đào tạo thêm.
Chính lúc này, tôi đang cảm thấy như vậy.
10. Thú thực là lúc này tôi cảm thấy những đau đớn trong tôi là rất nhiều, rất phức tạp, rất riêng tư.
Nhưng không phải vì thế mà tôi được là thánh giá.
Thánh giá thì phải đặm tinh thần hy sinh, yêu thương và khiêm nhường. Đúng như thánh giá đã treo Chúa Giêsu xưa.
11. Nay cũng có nhiều người là thánh giá như vậy. Họ đau đớn rất nhiều. Trong đau đớn của họ có khiêm nhường sâu thẳm, có yêu thương tha thiết, và có hy sinh chân thành.
12. Tới đây, tôi chợt nhớ đến hình ảnh Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hình ảnh cảm động nhất là hình ảnh Ngài ôm Chúa Giêsu chịu treo trên thánh giá. Ngài ôm và giơ cao lên. Với nét mặt Ngài như khóc.
13. Lúc này, tôi cũng nhớ tới hình ảnh Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận. Hình ảnh cảm động nhất là hình ảnh Ngài ôm hôn cây thánh giá. Ngài ôm hôn với nét mặt sầu lắng như đang khóc.
14. Với những cảm nhận như trên, tôi nhận ra điều này: Nếu cuộc đời 65 năm linh mục của tôi có phần nào tạo nên được một thánh giá sống động với những nét như trên, thì đó là một ơn trọng Chúa ban cho tôi.
15. Thánh giá sống động, đó là lời cầu chúc tôi xin thân ái gửi tới các linh mục của tôi.
16. Phải cầu nguyện nhiều mới có thể trở thành thánh giá sống động. Mà cầu nguyện là gặp gỡ Chúa, chứ không phải là lo giữ những hình thức đạo đức bề ngoài.
17. Chúng ta sẽ không thể gặp được Chúa, nếu chúng ta không khao khát Chúa, không thao thức về Chúa, không chờ đợi Chúa, không coi Chúa là Đấng cứu độ của ta.
18. Chúng ta sẽ không gặp được Chúa, nếu chúng ta không tỉnh thức nội tâm. Chúa gõ cửa lòng ta thật nhẹ, Chúa nói với hồn ta bằng những tiếng rất nhỏ.
19. Nhìn lại 65 năm qua, tôi thấy mình luôn phải bắt đầu lại mỗi ngày, vì tôi rất yếu đuối. Bắt đầu lại mỗi ngày với tất cả tấm lòng khiêm nhường và kiên trì, đó là điều tôi vẫn làm, nhờ Đức Mẹ Maria. Mẹ rất yêu dấu của tôi.
20. Mẹ cho tôi thấy: Thánh giá là chìa khóa mở kho tàng ân sủng. Nhiều người đang dùng thánh giá, mà mở kho tàng ân sủng. Nhờ vậy, mà biết bao người được cứu, được giải thoát, được an ủi, trong đó có tôi. Xin hết lòng cảm ơn những người đã dùng thánh giá của mình để cứu tôi.
21. Mẹ cho tôi thấy: Thánh giá là khí giới thiêng liêng có sức xua đuổi Satan và các quỷ dữ. Linh mục hãy là thánh giá sống động như thế. để đoàn chiên của minh được thoát khỏi sự dữ.
22. Mẹ cho tôi thấy: Thánh giá là phúc lành cực cao quý Chúa trao ban cho những người Chúa xót thương. Linh mục hãy là thánh giá sông động như thế, để ấp ủ đoàn chiên giữa cuộc đời gian nan khốn khó.
23. Mẹ cho tôi thấy. Từ ngày 02 tháng 7 năm 1955 là ngày tôi được là linh mục đến nay, Chúa đã ban ơn cho tôi được là cây thánh giá. Nhưng vẫn là cây thánh giá còn cần được bổ sung mỗi ngày. Tôi xin cảm ta ơn Chúa. Tôi vẫn mang thánh giá trên mình. Nhưng không đủ. Chính bản thân tôi phải là cây thánh giá sống động, theo gương Đức Mẹ.
Với 65 năm linh mục, tôi tạ ơn Chúa đã ban cho tôi muôn vàn ơn cao quý. Một trong những ơn Bùi-Tuần 1974
1. Với 65 năm linh mục, tôi tạ ơn Chúa đã ban cho tôi muôn vàn ơn cao quý. Một trong những ơn cao quý đó, tôi phải nói thật theo lương tâm, đó là ơn được chia sẻ cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
2. Chúa Giêsu đã chịu rất nhiều đau khổ. Một trong những đau khổ đã được Ngài kêu lên thảm thiết, đó là cảnh cô đơn, cảnh bị bỏ rơi. Quần chúng bỏ rơi Ngài. Các môn đệ bỏ rơi Ngài. Chính Chúa Cha xem ra cũng bỏ rơi Ngài. Đó là cảnh cô đơn cùng cực, đầy tối tăm, đầy buồn bã, đầy khô cạn.
Chúa Giêsu đã chịu cảnh cô đơn cùng cực đó, để cứu loài người.
3. Nếu các linh mục trong mọi thời, nhất là thời nay cũng có lúc phải chịu cảnh cô đơn cùng cực như thế, thì hãy coi đó là một ơn trọng Chúa trao ban.
4. Thánh tông đồ Phaolô xưa cũng đã trải qua cảnh cô đơn cùng cực như thế. Ngài viết: “Mọi người đều đã bỏ rơi tôi.” (2 Tm 4,16).
Ngài phải phấn đấu rất nhiều, để cảnh cô đơn cùng cực đó trở thành dịp thanh luyện Ngài khỏi những lạc quan và những bi quan sai lầm, để chỉ cậy vào ơn Chúa mà thôi.
5. Cảnh cô đơn cùng cực, thì Chúa Giêsu đã trải qua. Cảnh cô đơn cùng cực thì thánh Phaolô đã trải qua. Cảnh cô đơn cùng cực, thì nhiều linh mục Chúa trong mọi thời cũng đã trải qua.
6. Riêng tôi, thì cảnh cô đơn cùng cực đó đã trải qua phần nào, nhưng vẫn còn. Tôi cảm thấy ghê sợ. Tôi nhớ tới tâm sự sau đây của thánh Phaolô Thánh giá, Ngài nói: “Hôm nay, có lúc tôi muốn tìm cách tự tử, vì tôi bị cám dỗ nặng nề về sự thất vọng. Tôi cảm thấy mình bị bỏ rơi. Kinh khủng nhất là cảm thấy như Chúa bỏ rơi tôi, như Chúa từ chối tôi, như Chúa kết án tôi.”
7. Một thầy dòng kẻ lại: “Khi thánh nhân bị bệnh nặng, tôi vào thăm Ngài, thì nghe Ngài nói đi nói lại nhiều lần : Tôi bị bỏ rơi.”
8. “Tôi bị bỏ rơi”, đó là cảnh cô đơn đau đớn, đã được Chúa Giêsu nói lên, rồi thánh tông đồ Phaolô cũng đã nói lên, rồi thánh Phaolô Thánh giá cũng đã nói lên. Rồi nhiều môn đệ Chúa cũng đã và đang nói lên.
9. Từ đó, tôi coi sự chia sẻ cuộc thương khó Chúa Giêsu là một dấu chỉ ơn gọi Chúa dành cho tôi.
10. Nếu hôm nay, tôi được chia sẻ phần nào cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thì tôi nên coi đó là một ân huệ tôi đang được cùng với nhiều môn đệ Chúa sống với niềm tin khiêm nhường phó thác.
11. Là môn đệ Chúa Giêsu, nhất là với tư cách là linh mục của Chúa Giêsu, tôi phải coi cuộc thương khó của Chúa Giêsu là gia nghiệp đời mình.
Từ đó, nếu tôi chẳng may lại đi tìm một hướng khác, thì sẽ rất sai, rất tai hại cho tôi.
12. Rất may là nhiều tín hữu Chúa tại Việt Nam hôm nay đang sống chia sẻ cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Họ chia sẻ cuộc thương khó của Chúa Giêsu một cách tự nguyện, một cách âm thầm, một cách cụ thể, một cách quảng đại.
13. Satan tìm mọi cách để lôi kéo họ vào con đường phô trương, con đường coi những con số rực rỡ kiêu căng là làm sáng danh Chúa.
14. Sức mạnh của Satan là rất mạnh và rất tinh vi. Nếu chúng ta không cầu nguyện và tỉnh thức, thì sẽ bị rơi vào bẫy của nó, mà không hay biết.
15. Ở Fatima, Đức Mẹ đã tha thiết nhắn nhủ: “Hãy hối cải”.
Lúc này, hơn bao giờ hết, các con Đức Mẹ hãy để ý đến hối cải. Xin đừng nghe Satan xúi dại, mà quên hối cải, chỉ để ý đến phô trương hình thức đạo đức bề ngoài.
16. Thời điểm lúc này là rất quan trọng.
Đức Mẹ muốn các con cái Mẹ hãy cùng với Mẹ mà:
+ Xin Chúa tha tội cho nhân loại. + Xin Chúa cứu nhân loại cho khỏi lửa hỏa ngục. + Xin Chúa đưa nhiều người lên thiên đàng với Chúa.
17. Mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút có rất nhiều người chết. Hãy cầu nguyện cho họ được cứu rỗi. Chúa muốn các linh mục hãy làm việc đó. Hãy gặp Chúa, để biết ý Chúa.
18. Chúng ta sẽ không thể gặp được Chúa, nếu chúng ta không khao khát Chúa, không thao thức về Chúa, không chờ đợi Chúa, không coi Chúa là Đấng cứu độ của ta.
19. Nếu linh mục có chia sẻ thực sự cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thì mới hiểu được mình phải làm gì, để cứu mình và cứu đoàn chiên của mình.
Nếu không, những gì khủng khiếp phải tới sẽ tới. Lúc đó, những người phải chịu trách nhiệm, trong đó có các linh mục sẽ bị Chúa xét xử công minh.
20. Sống cảnh cô đơn, bị bỏ rơi, đó là một thử thách rất nặng nề. Nhưng trong thử thách đó, có Đức Mẹ. Nhờ Mẹ cầu bầu, Chúa thương sai các thiên thần đến giải cừu họ và những người của họ được Chúa xót thương. Đó là niềm tin của tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi. Xin hết lòng tạ ơn Chúa.
Tình hình hiện nay đang diễn biến rất phức tạp. Thao thức của tôi trong tình hình này là gặp Bùi-Tuần 1975
1. Tình hình hiện nay đang diễn biến rất phức tạp. Thao thức của tôi trong tình hình này là gặp gỡ Chúa để sống theo thánh ý Chúa.
2. Đang khi tôi thao thức như vậy thì có những sự kiện xảy ra lôi cuốn sự chú ý của tôi.
3. Trong số những sự kiện đó, có những hành động mạnh mẽ và dịu dàng trong lương tâm tôi, thí dụ những hình ảnh về:
+ Đức cố Hồng Y P.X.Nguyễn văn Thuận +Cha P.X Trương Bửu Diệp +Thánh Phêrô Đoàn Công Qúi +Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng
4. Tất cả những vị trên đây đều là những người tôi thương mến cách đặc biệt. Nên khi hình ảnh các vị hiện lên trong tôi giữa lúc tình hình diễn biến phức tạp, thì tôi coi đó là những lá thư Chúa gửi cho tôi.
5. Tôi đã và đang đọc những lá thư đó trong tinh thần cầu nguyện, đặc biệt là tôi đọc dưới sự hướng dẫn của Đức Mẹ. Nội dung của những lá thư đó là: Người công giáo Việt Nam, khi sống đúng sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, sẽ là những tín hữu tốt của Chúa, đồng thời cũng là những công dân tốt của Tổ Quốc. Họ luôn trung thành với Chúa. Họ luôn trung thành với Tổ Quốc, với đồng bào.
6. Các Ngài là những lá thư mang nội dung như thế, nên đã và đang đem lại cho tôi niềm vui và hy vọng về Tin Mừng cho hôm nay.
7. Các Ngài cho tôi biết:
Tin Mừng cho hôm nay là.
+ Hãy hàn gắn những vết thương do quá khứ gần xa gây nên. + Hãy tránh gây những vết thương mới do vô cảm làm nên. + Hãy nối kết mình với các tấm lòng tốt, để cùng với họ mà tránh những vết thương.
8. Hàn gắn lại những vết thương cũ và tránh gây nên những vết thương mới, đó là việc xã hội Việt Nam đang làm trong mọi cấp bậc, trong mọi lãnh vực.
9. Hàn gắn lại những vết thương cũ và tránh gây nên những vết thương mới, đó là việc Hội Thánh Việt Nam cũng đang làm một cách mạnh mẽ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
10. Hàn gắn lại những vết thương cũ và tránh gây nên những vết thương mới, đó là việc mọi người công giáo Việt Nam cần làm, trong tinh thần khiêm tốn và tín thác.
11. Khi tinh thần khiêm tốn và tín thác là do Chúa ban cho, chứ không do sự tự mãn của con người, thì sự hàn gắn vết thương cũ và tránh gây nên những vết thương mới sẽ do chính Chúa thực hiện trong tình yêu thương xót của Chúa.
12. Tới đây, tôi chợt nhớ một kỷ niệm không bao giờ quên.
Hôm đó, tôi được gặp ông Nguyễn Văn Linh tại Hà Nội. Tôi thành thực hỏi ông liệu Chính quyền Việt Nam có dụng ý lập giáo hội tự trị kiểu Trung Quốc như người ta nói không ? thì ông Nguyễn Văn Linh trả lời:
“Việt Nam là Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam là của Việt Nam. Chúng tôi không là Trung Quốc.”
“Nếu ai hay nhóm nào tại Việt nam muốn lập giáo hội tự trị như Trung Quốc, thì chúng tôi sẽ cấm. Chúng tôi luôn kính trọng Tòa thánh Vatican. Chúng tôi luôn hy vọng ở Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.”
13. Những lời trên đây được ông Nguyễn Văn Linh, vị lãnh đạo đất nước Việt Nam lúc đó nói với tôi một cách thân tình, đã làm tôi càng thêm vững tin vào tương lai.
14. “Hãy vững tin vào Chúa”, đó cũng là nội dung tôi đang đọc được nơi nhiều người công giáo tại Việt Nam hôm nay.
Họ là những lá thư sống động Chúa gửi cho tôi. Xin tạ ơn .Chúa giàu lòng thương xót.
15. Chắc chắn Satan sẽ tìm mọi cách, để tôi và những người tin vào Chúa, thôi đừng tin vào Chúa. Biết thế, nên chúng ta càng tỉnh thức và cầu nguyện.
16. Riêng tôi, tôi bám chặt lấy Đức Mẹ Maria. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho tôi và những người thân của tôi được luôn vững tin vào Chúa. Tình hình càng nguy hiểm, chúng tôi càng bám vào Đức Mẹ, càng cần phấn đấu.
17. Trên đây là nội dung của những lá thư sống động Chúa gửi cho tôi ngay chính hôm nay, ngay chính lúc này.
18. Chính lúc này, tôi cảm thấy mình mang nhiều đau đớn và như đang rơi vào cảnh cô đơn, bị bỏ rơi, đầy sợ hãi. Nhưng tôi lại được Đức Mẹ an ủi, bằng sự cho tôi nhớ lại lời Kinh Thánh nói về Chúa Giêsu.
“Người đã mang lấy các tật nguyền của tôi. Và gánh lấy các bệnh hoạn của tôi.” (Mt 8,17).
Lời Kinh Thánh trên đây đem lại cho tôi niềm tin vững vàng vào lòng thương xót Chúa.
Lúc này, hơn bao giờ hết, Chúa cho tôi thấy: Cũng như mọi người, tôi đang ở trong một tình hình Bùi-Tuần 1976
1. Lúc này, hơn bao giờ hết, Chúa cho tôi thấy: Cũng như mọi người, tôi đang ở trong một tình hình cực kỳ nguy hiểm. Tôi cần được Chúa cứu.
Ðể được Chúa cứu, tôi phải góp phần vào việc Chúa cứu. Chúa dạy tôi việc đầu tiên phải làm là sám hối. Sám hối. Rồi lại sám hối. Sám hối suốt đời.
Tôi xin Chúa thương giúp tôi sám hối. Tôi thực sự không biết thế nào là sám hối theo ý Chúa. Mà sám hối là việc phải làm ngay, không nên trì hoãn.
2. Nhờ ơn Chúa giúp, tôi thấy sám hối đòi rất nhiều điều kiện thuộc lãnh vực tâm linh, như niềm tin vào Chúa, niềm tin vào cõi sau, niềm tin vào sự khiêm nhường. Những niềm tin đó phải thực sự sống động, thực sự tha thiết. Lúc đó, sám hối mới trở thành một bước trở về với Chúa.
3. Khi sám hối là trở về với Chúa trong lòng khao khát Chúa, trong niềm tin tưởng vào Chúa, thì sám hối, dù có đau đớn, sẽ luôn ngọt ngào. Nhất là khi sám hối đi tới lúc gặp được Chúa.
4. Như vậy, sám hối là một hành trình trở về với Chúa. Suốt hành trình này, tôi luôn cầu nguyện, để vững bước đi về phía trước, cho dù con đường trở về trắc trở, gian nan.
5. Hành trình trở về có thể dài, có thể vắn. Dù vắn, dù dài, hành trình vẫn mệt mỏi, không thiếu những bất ngờ. Tôi phải cầu nguyện, xin ơn bền vững.
6. Với những kinh nghiệm trên đây, lúc này tôi hiểu sám hối không hề là việc dễ dàng.
Từ đó, tôi sợ sám hối trở thành một việc đạo đức chỉ còn là hình thức, mà thiếu vắng nội dung.
Nếu sám hối chỉ còn là một nghi thức, một công thức, như một thứ trang trí cho các nghi lễ, thì sẽ không biến đổi được con người.
7. Biến đổi con người, mới chính là việc của sám hối đích thực. Nhờ sám hối, con người được nhẹ nhõm hơn, được thấy mình là người có hạnh phúc đích thực.
8. Riêng tôi, tôi coi việc sám hối trở thành một yếu tố rất quan trọng trong tôn giáo, mà cũng cả trong xã hội nữa. Nhiều người đã làm lại được cuộc đời nhờ sám hối chân thành.
9. Riêng tôi, khi sám hối trở về với Chúa, tôi luôn có cảm nghiệm này là: Chính Chúa Giêsu đã tìm tôi để cứu tôi. Chúa Giêsu là đấng cứu độ. Chúa Giêsu là điểm tựa. Tôi quy chiếu về Chúa Giêsu là tôi đón tiếp Chúa Giêsu vào con người của tôi, vào cuộc đời tôi.
10. Với cảm nhận sâu đậm đó, tôi tự nhiên lo cho những người, mà Chúa Giêsu gọi là những kẻ cứng lòng, mất khả năng sám hối.
Họ sẽ phải sống khổ, chết khổ, và đời sau phải khổ đời đời mãi mãi.
Tôi sợ cho tôi và cho những người thân của tôi. Xin Chúa đừng bao giờ để chúng tôi mất khả năng sám hối.
11. Sám hối đúng là một hành trang cần thiết cho hành trình cuộc sống con người tội lỗi của tôi.
Trong sám hối, tôi đã gặp được Chúa Giêsu. Tôi đã cảm nhận được Chúa Giêsu là đấng xót thương tôi.
12. Cảm nhận đó lại tăng thêm sau này, khi Chúa Giêsu đi sâu vào thân phận con người tự nhiên của tôi.
Thân phận con người tự nhiên của tôi là rất mong manh. Thân xác thì hay yếu đau, bệnh nạn. Tâm hồn thì hay sợ hãi, lo âu, buồn phiền.
Chúa Giêsu đã đi sâu vào thân phận đó của tôi. Ngài đã tỏ ra xót thương tôi. Tôi nhận thấy thế này:
13. Chúa Giêsu quan tâm đến tôi trong từng những chi tiết rất nhỏ.
Tôi đau, Ngài an ủi. Tôi sợ hãi, Ngài trấn an. Tồi buồn sầu, Ngài ấp ủ.
Cả trong giấc ngủ, tôi vẫn cảm nhận được sự hiện diện của Ngài.
14. Chúa Giêsu lại dạy tôi biết dùng những việc rất nhỏ để phục vụ Hội Thánh, Tổ Quốc, Ðồng Bào, nhất là những người thân.
15. Từ đó, tôi càng cảm nhận rõ hơn Chúa Giêsu là Ðấng hay xót thương. Ngài giúp tôi nhận ra Thiên Chúa là tình yêu cứu độ giàu lòng thương xót.
16. Tôi sống rất thân mật với Chúa Giêsu. Lúc nào cũng quy chiếu về Ngài. Làm gì cũng quy chiếu về Ngài.
“Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là Chúa Giêsu sống trong tôi” (Gl 2, 20).
17. Tới đây, tôi nhớ tới thánh Gioan Baotixita, bổn mạng của tôi.
Thánh Gioan Baotixita là con người giảng sám hối, suốt đời quy chiếu về Chúa Giêsu. Ngài kêu gọi mọi người hãy đón nhận Chúa Giêsu. Ngài giới thiệu Chúa Giêsu là con chiên hiền lành của Thiên Chúa, đến để xóa tội cho trần gian.
18. Tôi bắt chước thánh bổn mạng của tôi, cũng làm như Ngài; theo khả năng của tôi. Tôi làm, mà tôi không chờ đợi thành quả. Bởi vì, tôi biết tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc như thánh Gioan Baotixita xưa. Tôi mang trong mình bao gánh nặng.
Tôi tin vào lời Chúa hứa : “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Tôi đã gặp Chúa. Tôi bám chặt vào Chúa.
Tôi quá yếu đuối, không tự mình di chuyển được. Phải đợi có ai đến giúp tôi đứng dậy và bước Bùi-Tuần 1977
1. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi sống trong đợi chờ.
Tôi quá yếu đuối, không tự mình di chuyển được. Phải đợi có ai đến giúp tôi đứng dậy và bước đi.
2. Tôi là kẻ đợi chờ về mọi mặt, cả trong đời sống thân xác lẫn đời sống tâm hồn. Càng đợi chờ thì càng cầu nguyện. Cầu nguyện đối với tôi là khao khát. Tôi khao khát Chúa và Đức Mẹ Maria một cách ngây thơ như đứa con bé nhỏ tật nguyền. Khao khát từng phút từng giây, đằm thắm, da diết.
Thế rồi, một cách không ngờ, Chúa và Đức Mẹ đã đến với tôi. Các Đấng đến, đúng lúc tôi đang như chán nản, sợ hãi, bơ vơ, khủng khiếp.
3. Chúa và Đức Mẹ đến với tôi dưới dạng người cha, người mẹ đầy tình yêu thương xót và dịu dàng gần gũi.
4. Các Đấng đến với tôi qua Kinh thánh, qua thánh lễ bàn thờ và thánh lễ cuộc đời. Các Đấng cũng đến với tôi qua những người mang tín hiệu của Chúa. Tín hiệu đó là yêu thương và khiêm nhường.
5. Kẻ đợi chờ khao khát tình thương sẽ rất nhạy bén với những tín hiệu nhận được từ bất cứ đâu.
6. Riêng tôi, khi nhận được những tín hiệu của Chúa và Đức Mẹ, đã rất vui và phó thác mình cho Chúa và Đức Mẹ.
Tôi thấy có những sự lạ lùng xảy đến trong tôi. Lạ lùng nhất là tôi nếm được tình yêu thương xót và sự dịu dàng của Chúa và Đức Mẹ.
7. Tôi nếm được tình yêu thương xót và sự dịu dàng của Chúa và Đức Mẹ, nhờ đức tin và cũng nhờ cảm nhận. Tuy nhiên sự cảm nhận cũng phải được phân định, để sau cùng tôi luôn vâng phục thánh ý Chúa, cho dù sự việc xảy ra không như ý tôi muốn.
8. Tình hình lúc này rất phức tạp, đang nảy sinh nhiều phong trào đạo đức do cảm tính. Nếu không biết phân định, thì nguy cơ sai lầm sẽ rất lớn.
9. Sự tôi nếm được tình yêu xót thương và sự dịu dàng của Chúa và của Đức Mẹ là điều chắc chắn. Nhưng ơn trọng đó không miễn trừ cho tôi khỏi phải dùng đến những điều kiện tự nhiên cho một người đau bệnh. Nghĩa là tôi vẫn phải dùng đến thuốc chữa bệnh, phải lo ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý.
10. Ngoài ra, sự tôi nếm được tình yêu xót thương và sự dịu dàng của Chúa và Đức Mẹ cũng không là cớ để tôi ỷ lại, cứ để mình đi theo con đường tội lỗi. Trái lại, càng cảm nhận được sự Chúa xót thương và Đức Mẹ đối xử dịu dàng, tôi càng muốn thuộc trọn về các Ngài, càng muốn bỏ đàng tội, mà trở thành con người của Chúa và Đức Mẹ.
11. Do vậy, sự tôi cảm nhận được tình yêu xót thương và sự dịu dàng của Chúa và của Đức Mẹ đã và đang thúc giục tôi phấn đấu hết mình để tranh xa tội lỗi.
12. Đúng là để tránh xa tội lỗi, thì phải phấn đấu rất nhiều.
Mỗi ngày, tôi phải xét mình, xem ngày đó, tôi có là chứng nhận của tình yêu xót thương và sự dịu dàng của Chúa và Đức Mẹ không.
Xét mình kỹ, tôi thấy có nhiều trường hợp, nếu không tỉnh thức và cầu nguyện, tôi sẽ không là chứng nhân mà còn là phản chứng.
13. Tôi thực sự rất đau lòng, khi thấy có những người bệnh nạn, già yếu cả ngày chờ đợi một chút tình yêu xót thương và sự dịu dàng của những người xung quanh, nhưng chỉ nhận được những kết án kèm theo những khinh khi và ruồng bỏ.
14. Thái độ phản chứng đó giống như một thứ cỏ lùng Satan gieo vào nhiều cộng đoàn Đức tin. Những cỏ lùng đó vẫn mọc lên tươi tốt bên cạnh những chứng nhân của tình yêu thương xót và sự dịu dàng của Chúa và Đức Mẹ. Cộng đoàn Đức tin sẽ phải khổ vì những cỏ lùng đó, nhưng không sao trừ khử được chúng. Chỉ Chúa mới diệt được chúng trong ngày giờ chỉ mình Chúa biết. Đó là thực tế hiện nay làm chúng ta đau xót.
15. Điều mà chúng ta cần tránh nhất lúc này là chính chúng ta đừng bao giờ là một thứ cỏ lùng mang tính phản chứng.
16. Riêng tôi, lúc nào tôi cũng là kẻ đợi chờ. Nhất là lúc này, tôi càng rất đợi chờ. Tôi đợi chờ Chúa và Đức Mẹ. Tôi đợi chờ những con cái Chúa và Đức Mẹ. Tôi đợi chờ tình yêu xót thương và sự dịu dàng báo hiệu Chúa và Đức Mẹ đến cứu độ tôi, chữa lành tôi, an ủi tôi. Nhất là tôi đợi chờ Chúa cứu lấy tôi những người thân của tôi, cứu lấy Hội thánh và Tổ Quốc của tôi theo thánh ý Chúa. Tôi xin vâng phục thánh ý Chúa.
17. Đợi chờ là thao thức, là hy vọng, và cũng là sám hối, và là niềm vui. Và như thế, tôi hiệp thông với thiên nhiên, vời Hội thánh, với mọi con cái của Nước Thiên Chúa.
18. Trong đợi chờ, tôi tuyệt đối phó thác mình cho Chúa là cha quyền năng và hay xót thương của tôi, cho Mẹ Maria là mẹ dịu hiền, hay tha thứ của tôi. Chính sự phó thác này là một ơn cao quý Chúa ban cho tôi. Đến muôn đời, xin cảm tạ ơn Chúa.
Mấy ngày nay tôi đau đớn khác thường. Trong cơn đau đớn hầu như không còn sức chịu nổi, tôi Bùi-Tuần 1978
1. Mấy ngày nay tôi đau đớn khác thường. Trong cơn đau đớn hầu như không còn sức chịu nổi, tôi đã kêu đến Đức Mẹ, xin Đức Mẹ thương xót cứu tôi.
2. Tôi nghe Đức Mẹ trả lời: “Xin Chúa ở cùng con”. Vắn tắt chỉ một lời đó, tôi hiểu phải làm gì. Tất nhiên tôi xin Chúa đến cùng tôi.
Khi Chúa đến ở cùng tôi một cách đặc biệt, tôi được Chúa cho cảm nghiệm những xúc động sau đây.
3. Xúc động thứ nhất là tôi thấy Chúa xót thương những người khổ đau, nghèo túng, bị bỏ rơi. Chúa nhận vào mình những nỗi đau của họ. Đó là một sự cảm thông lạ lùng chứng tỏ Chúa là tình yêu thương xót.
4. Xúc động thứ hai là Chúa coi những ai xót thương những người khổ đau, nghèo túng bị bỏ rơi, như xót thương chính Chúa. Nếu ai muốn gặp Chúa, thì hãy đến với những kẻ khổ đau, nghèo túng bị bỏ rơi. Họ chính là địa chỉ Chúa hẹn gặp họ.
5. Xúc động thứ ba là khi tôi được Chúa chia sẻ cho tình cảm xót thương của Chúa dành cho những người khổ đau nghèo túng cô đơn, thì tôi được thúc bách hãy làm cho họ những sự họ đang cần nhất.
6. Việc họ cần, đó là hãy cầu nguyện cho họ. Lời cầu nguyện có sức nâng đỡ họ. Bởi vì nhiều lúc họ đuối lắm. Lời cầu nguyện cho họ thực ra cũng là cầu nguyện cho chính tôi. Chính tôi cũng rất cần người khác cầu nguyện cho tôi, vì tôi quá mệt mỏi.
7. Xúc động thứ bốn là Chúa cho tôi cảm nhận được một sự thực rất đau lòng này, đó là số người khổ đau, nghèo túng, cô đơn, bị bỏ rơi hiện nay là rất đông. Có thể nói hạng người đó đang tăng lên từng ngày, từng giờ, từng phút.
Nếu tôi không làm gì cho hạng người đó được bớt đi, thì ít ra tôi đừng làm cho hạng người đó tăng lên. Có Chúa trong tôi, tôi mới dễ nhận ra những gì cần làm và những gì không nên làm trong tình hình phức tạp hiện nay.
8. Văn phòng Đức Thánh Cha mới cho biết là trong năm 2020 này, Đức Thánh Cha sẽ không công du nước nào.
Ai cũng cho quyết định của Đức Thánh Cha là khôn ngoan. Bởi vì thông thường, Đức Thánh Cha tới đâu sẽ có những quy tụ lớn. Thế mà quy tụ lớn lúc này là điều bị dị ứng gay gắt. Bởi vì có nguy cơ bị dịch bệnh lây lan, và không có cơ may tránh được nạn đói khổ túng nghèo lúc này đang bùng nổ.
Quyết định của Đức Phanxicô thực có sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần.
9. Tôi hết sức vui mừng, vì gương sáng của Đức Phanxicô đang được nhiều nơi nhều người tại Việt Nam noi theo.
Phong trào lo cho nhiều người khổ đau, nghèo túng, cô đơn đang được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Không hề phô trương, nhưng âm thầm mà hữu hiệu.
10. Tới đây, tôi mới hiểu thấm thía lời Đức Mẹ dạy tôi, “chúc con được Chúa ở cùng con”.
Được Chúa ở cùng tôi, đó là điều hạnh phúc nhất cho tôi. Đôi lúc Chúa ẩn mình để thử thách tôi. Tôi rất đau đớn. Nhưng chính trong thử thách, tôi vẫn được Chúa đỡ nâng.
11. Được Chúa ở cùng, tôi cảm thấy tôi có sự sống mới. Tuy tôi rất mong manh như chiếc bình sành dễ vỡ. Nhưng sự sống mới này đem lại sức mạnh mới cho tôi.
12. Được Chúa ở cùng, tôi cảm thấy mình có sự sống lại.Tuy tôi như kẻ đã chết. Nhưng Chúa cho tôi sống lại.
13. Được Chúa ở cùng, tôi cảm thấy có một điểm tựa vô cùng vững chắc. Chúa hứa: Ai mang gánh nặng nề hãy đến với Ta, Ta sẽ cho bổ sức cho (Mt 11, 28).
Tin vào lời Chúa hứa, tôi đã đến với Chúa và đặt vào Chúa mọi gánh nặng của tôi. Và Chúa đã cho tôi được nhẹ nhàng một cách lạ lùng.
14. Xưa, Tổng lãnh thiên thần Gabriel, khi đến truyền tin cho Đức Mẹ, đã chỉ chào: “Chúa ở cùng Bà”. Từ đó, suốt cuộc đời dài, Chúa luôn ở cùng Mẹ. Nay, tôi cũng mong được như thế. Tôi cũng chỉ chúc cho mọi người được Chúa ở cùng. Bởi vì tôi tin: Ai được Chúa ở cùng sẽ được hạnh phúc. Tình hình lúc này là rất nghiêm trọng. Xin Chúa ở cùng mỗi người chúng ta.
Được sự hướng dẫn của đức tin, tôi tin chắc chắn tôi được Chúa gọi về với Chúa đang ngự trên Bùi-Tuần 1979
1. Được sự hướng dẫn của đức tin, tôi tin chắc chắn tôi được Chúa gọi về với Chúa đang ngự trên trời, tôi sẽ được theo Mẹ mà lên trời.
Trước giờ lên trời, tôi được đưa tới một phòng chờ.
2. Có nhiều phòng chờ, đủ mọi hình thức, thích hợp cho từng người.
Tôi thuộc loại người yếu đuối, nên được đưa vào phòng dành cho những kẻ yếu đuối. Phòng chờ là nơi rộng mênh mông.
3. Loại phòng thứ nhất gợi ý cho tôi là đoàn xe bệnh nhân trước hang đá Đức Mẹ Lộ Đức. Mỗi lần sang Pháp, đến Lộ Đức, tôi lại được thấy cảnh đoàn xe bệnh nhân ngồi trên xe lăn xếp hàng đầu trong cuộc lễ.
4. Nhìn thấy họ, tôi nhận ra tôi. Tôi cũng là một bệnh nhân rất mực yếu đuối. Tôi đến để phó thác mình cho tình yêu thương xót Chúa.
5. Tôi tập trung vào Chúa. Tôi đợi chờ Chúa. Tôi khao khát Chúa.
Và Chúa đã đến. Chúa đến để cứu tôi. Chúa đến để an ủi tôi.
Được ở bên những bệnh nhân như vậy, tôi có cảm nhận là được ở một phòng chờ Đức Mẹ đợi sẵn, để cùng Mẹ bay lên trời.
6. Loại phòng chờ thứ hai gợi ý cho tôi là những tiếng thở dài của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Được ở bên cạnh Đức Thánh Giáo Hoàng trên bàn thờ và những lúc cầu nguyện riêng, tôi nghe Ngài hay thở dài.
7. Trong những tiếng thở dài đó, tôi cảm nghiệm được rất rõ, tâm tình của một người biết mình yếu đuối, chỉ trông vào lòng thương xót Chúa.
8. Thú thực là có lần nghe Đức Thánh Cha thở dài não ruột, tôi đã như muốn khóc. Tôi động nhẹ vào Ngài. Ngài đón nhận sự cảm thương của tôi một cách rất khiêm nhường.
9. Thì ra từ phòng chờ đó Đức Thánh Giáo Hoàng đã được lên trời.
10. Từ đó, tôi coi phòng chờ của tôi là phòng dành cho những người yếu đuối. Tôi ở chung với họ. Những người yếu đuối là một số đông.
11. Bây giờ thì tôi cảm nghiệm thấm thía điều này: Khi tôi ở trong phòng chờ, để chờ được lên trời, thì tôi rất cần xin Chúa thương tha thứ tội lỗi cho tôi. Tội lỗi là thứ cản mạnh nhất không cho tôi được lên trời.
12. Mà tội lỗi thì tôi mắc rất nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và nhiều điều thiếu sót. Nên tôi rất cần sám hối, ăn năn, xin Chúa tha thứ.
13. Như vậy, sám hối chính là cách cảm tạ Chúa. Sám hối, sám hối, sám hối, đó là điều Đức Mẹ nhấn mạnh ở Fatima.
14. Sám hối, sám hối, sám hối. Đó cũng là điều các Thánh tử đạo của giáo phận Long Xuyên đang hối thúc tôi vá tất cả giáo phận Long Xuyên. Bởi vì tình hình đang diễn biến rất phức tạp và nguy hiểm.
Chỉ có sám hối mới cứu được. Kinh thánh chứa đầy những trường hợp như thế.
15. Sám hối, mà tin tưởng vào lòng thương xót Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy bình an, đầy hy vọng.
16. Riêng tôi, tôi luôn nhìn Thiên Chúa là Cha của tôi. Bất cứ sự gì xảy đến cho tôi, tôi cũng gọi “Cha của con ơi”.
Tôi gọi với tất cả niềm tin, đơn sơ, phó thác.
17. Tôi không đặt chương trình cho Chúa. Trái lại, tôi xin vâng phục thánh ý Chúa. Chúa sẽ đưa tôi về trời lúc nào, cách nào, ở đâu, thì tùy ý Chúa.
18. Như Đức Mẹ, tôi luôn “Xin vâng”. Tôi ẩn mình trong trái tim Mẹ.
19. Với tâm tình như trên, tôi đang ở trong phòng chờ, mà cũng cảm nhận được đôi chút hương vị của Nước Trời.
Chỉ đôi chút thôi, cũng đã là một ân huệ, giúp tôi vượt qua những thử thách. Trong bất cứ thử thách nào, tôi vững tin vào lòng thương xót Chúa. Nhiều lúc, tôi xin Đức Mẹ đến với tôi, thì thánh giá hiện lên. Và tôi nghe lời Chúa phán: “Niềm hy vọng của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người, ơn cứu độ ta, sức sống của ta, và sự phục sinh của ta.”(x.Gl 6,14)
Sắp tới lễ kính hai thánh Gioakim và Anna (26.7.2015). Dịp này, Hội Thánh tôn vinh hai đấng Bùi-Tuần 1980
Sắp tới lễ kính hai thánh Gioakim và Anna (26.7.2015). Dịp này, Hội Thánh tôn vinh hai đấng đã là cha là mẹ của Đức Trinh Nữ Maria. Lễ này cũng là dịp nhắc nhở các bậc làm cha làm mẹ phải biết giáo dục con cái.
Xin nhấn mạnh đến “phải biết giáo dục con cái”, nghĩa là phải giáo dục con cái sao cho đúng tinh thần Phúc Âm.
Vấn đề rất mênh mông. Tôi chỉ xin nêu lên mấy điểm rút ra từ kinh nghiệm.
Trước hết, nên nhớ rằng : Giáo dục con cái cốt ở sự giúp cho con cái mình sống càng ngày càng xứng đáng người con của Chúa hơn.
Sự giúp đó là lời dạy dỗ, gương sáng, tạo môi trường thuận lợi, nhất là kết hợp với ơn Chúa.
Tất cả sẽ giúp cho con cái thấm nhuần những lẽ sống sau đây :
1. Người Con Chúa tin Đấng tạo dựng nên mình là Thiên Chúa tình yêu
Chúa muốn mọi con Chúa cũng phần nào trở nên giống Chúa là tình yêu. Càng giống Chúa là tình yêu càng sẽ được chia sẻ hạnh phúc của Chúa là tình yêu.
Người con Chúa là con người đầy ắp tình yêu của Chúa. Tình yêu cao thiêng đó sẽ đổi mới con người. Dần dần sẽ thấy như có một con người bên trong lớn mạnh. Con người bên trong mang sự sống Chúa Giêsu.
Muốn được như vậy, người con Chúa phải liên hệ với Chúa một cách gần gũi. Bằng cầu nguyện, gẫm suy Lời Chúa, đón nhận các bí tích. Như thể mình là cành, Chúa là thân cây. Mình phải kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Sự sống của Người, tình cảm của Người, ý muốn của Người được chia sẻ sang mỗi người con Chúa càng ngày càng nhiều, càng mạnh.
2. Người con Chúa là người sống sự tự do của Chúa
Sự tự do nói đây là không bị các tính mê nết xấu và tội lỗi khống chế. Họ cũng bị cám dỗ, nhưng họ không sa chước cám dỗ. Họ sống trong thế gian có nhiều sức ép lôi kéo về đàng tà, nhưng họ không để mình bị làm nô lệ những quyền lực của sự ác.
Họ yêu thương trước những làn sóng hận thù ghen ghét. Họ tiết độ giữa những phong trào hưởng thụ.
Tự do của con cái Chúa là sự triển nở các hoa trái của Chúa Thánh Thần giữa một thế giới khô cằn.
Sự tự do của con cái Chúa là không đầu hàng hoàn cảnh phản nghịch Phúc Âm. Dù bị tước đoạt những của cải và địa vị, họ vẫn luôn biết tìm cách làm nhiều việc lành nhỏ mọn một cách thanh thản. Dù trong hoàn cảnh rất khó, họ vẫn mến Chúa, vẫn yêu người một cách chân thành.
3. Người con Chúa là người thích phục vụ tha nhân trong yêu thương khiêm tốn
Khi phục vụ tha nhân vì động lực “vì là người con Chúa”, người con Chúa sẽ mở lòng trí để nhìn thấy nhiều sáng kiến. Như cầu nguyện cho, đền tội thay, gieo rắc Lời Chúa bằng những cách trong tầm tay, giúp đỡ, chia sẻ, khích lệ, ủi an, khuyên bảo tế nhị.
Họ phục vụ mà không chờ đền đáp. Nếu bị chối từ cách này, họ vẫn tìm phục vụ bằng cách khác. Nếu bị hiểu lầm hoặc bị khinh chê, họ không vượt qua đau khổ cho bằng đón nhận đau đớn vào mình như một hy sinh.
Phục vụ tha nhân bằng yêu thương khiêm nhường đang là dấu chỉ để nhận ra ai là người con Chúa. Dấu chỉ đó được coi là tiêu chuẩn đúng. Dấu chỉ đó càng ngày càng làm xuất hiện những khuôn mặt đẹp bước ra từ những giai cấp thấp kém trong xã hội và trong Giáo hội.
4. Người con Chúa là người biết trả lời ơn Chúa gọi mình
Họ biết nhận ra sự Chúa đợi họ ở chỗ nào, để họ được hạnh phúc.
Họ nhận ra điều đó nhờ cầu nguyện, nhất là nhờ suy xét những biến cố xảy ra cho mình, từ tiêu cực đến tích cực, ngay trên chuỗi dài bậc thang đời sống, để đoán ra ý Chúa Quan Phòng đang muốn dẫn đưa đời họ về đâu. Những biến cố ấy là dấu Chúa gọi. Họ trả đáp với tất cả sự khiêm nhường và phó thác.
Mỗi chọn lựa của người con Chúa là một cách đáp lại ơn Chúa gọi mình. Đáp lại để chọn một bậc sống, đó là sống ơn gọi. Đáp lại để chọn một việc dấn thân, phục vụ, hay loan báo Tin Mừng, đó cũng là sống ơn gọi.
5. Người con Chúa là người sống chiều kích đời đời một cách quyết liệt
Họ tin chắc chắn họ được tạo dựng nên, để đi vào cõi đời đời. Cõi ấy sẽ là thiên đàng dành cho những người sống xứng đáng là con của Chúa. Người con xứng đáng sẽ là kẻ sạch tội, hoặc chẳng may có tội thì đã sám hối trở về.
Để tới cõi đời đời, họ luôn cần đến ơn Chúa, cho từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây.
Họ bám vào Chúa. Và Chúa ở bên họ. Họ đón nhận ơn Chúa với lòng cảm tạ.
Cõi đời đời, sự sống đời đời, hạnh phúc đời đời, cái nhìn đó của đức tin mang chiều kích quyết định. Họ nhớ lại lời Chúa cảnh giác : “Nếu được mọi sự thế gian, mà đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào được ích gì” (Lc 9,25).
Trong chân lý đó, người con Chúa sẽ cân nhắc mọi việc mình làm, mọi lời mình nói, mọi sự mình muốn, cũng như mọi dự kiến của mình.
*
Lúc này hơn lúc nào hết, bổn phận của các phụ huynh công giáo trong việc giáo dục con cái đang là nỗi bức xúc lớn.
Nỗi bức xúc lớn hơn thiết tưởng chính là sự các bậc phụ huynh cần được đào tạo nhiều hơn trong việc tin mến Chúa, trong việc phục vụ yêu thương người khác, nhất là trong việc gỡ bỏ cái tôi đối nghịch với Chúa Thánh Thần.
Tôi xin chia sẻ điều mà Chúa tha thiết truyền dạy tôi lúc này. Chúa truyền dạy không chỉ riêng Bùi-Tuần 1981
1. Tôi xin chia sẻ điều mà Chúa tha thiết truyền dạy tôi lúc này. Chúa truyền dạy không chỉ riêng tôi, mà cũng truyền dạy cho mọi người con Chúa.
Chúa truyền dạy một cách tha thiết, một cách khẩn cấp, như một sứ điệp cứu rỗi.
2. Điều mà Chúa truyền dạy là: “Lúc này hơn bao giờ hết, các con hãy nhờ Đức Mẹ Maria, mà đổi mới bản thân, hầu tránh được đại họa diệt vong phần xác phần hồn”.
3. Vâng lời Chúa truyền dạy, tôi đến với Đức Mẹ, Tôi ôm lấy Mẹ, Tôi cảm nhận được sự an tâm, an ủi, an vui lạ lùng.
4. Tôi nhận thấy rất rõ: Tình thương Mẹ dành cho tôi là rất đậm đà đặc tinh khôn ngoan.
Sự khôn ngoan của Mẹ là sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Mẹ là đền thờ Chúa Thánh Thần.
5. Với sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, Mẹ mong đợi hãy tỉnh thức và cầu nguyện rất nhiều trong tình hình hiện nay.
Tình hình càng khó khăn phức tạp, thì sự làm chứng cho Chúa càng phải rất khôn ngoan.
6. Tôi hỏi Mẹ: “Thế nào là làm chứng cho Chúa một cách khôn ngoan?” Thì Mẹ cho tôi nhận thấy: Muốn làm chứng cho Chúa một cách khôn ngoan trong bất cứ tình hình nào, thì hãy để ý đến hai việc này:
7. Một là phải phục vụ con người một cách tận tình và khiêm nhường.
8. Hai là hãy coi sám hối, đổi mới bản thân là việc phải làm mọi ngày, mọi giờ, mọi phút.
Đổi mới bản thân theo Lời Chúa, đó là điều cần xác định rõ. Thí dụ: Lời Chúa là.
Bố thí phải kín đáo (Mt 6,1) Cầu nguyện nơi kín đáo (Mt 6,5) Ăn chay cách kín đáo (Mt 6,16) Thực tế thường không được vậy, nên tôi cần sám hối, đổi mới bản thân mỗi ngày.
9. Mấy ngày nay, các Bề Trên của nhiều Giáo phận đã ra thông báo khuyên các tín hữu của mình không nên tụ tập đông người, cho dù để tham dự Thánh lễ, vì lý do dịch Covid 19. Tôi cũng coi thông báo đó là khôn ngoan.
Qua sự kiện trên đây, Mẹ dạy tôi điều này: Khôn ngoan mà Chúa Thánh Thần muốn, là hãy biết linh hoạt trong cách sống đức tin. Điều gì là căn bản, thì phải giữ, điều gì là hình thức, thì có thể đổi, và cần đổi, nếu tình hình khuyến cáo.
Chứ khôn ngoan không có nghĩa là luôn phải đúng thói quen.
10. Tôi được may mắn tiếp xúc với nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân sống trong các chế độ khắt khe với Công giáo. Họ cho thấy họ phải khôn ngoan thế nào, để có thể tồn tại một cách bình an, mà vẫn giữ được đức tin.
11. Riêng tôi, lúc này, nhờ có nhiều quen biết với các thành phần xã hội, thì khôn ngoan mà Mẹ dạy tôi thực hiện, là hãy chân thành nói về Chúa một cách công khai và riêng tư. Tôi nói một cách tình nghĩa. Và xem ra nhiều người đã gặp được Chúa: Tạ ơn Chúa.
12. Thế là tôi đã được Mẹ Maria dạy tôi về sự khôn ngoan, một đức tính rất cần cho người mục tử tại Việt Nam hôm nay.
13. Mẹ cũng đang còn dạy tôi về sự khôn ngoan, qua gương sáng của nhiều giám mục, tu sĩ và giáo dân.
14. Nhiều phong trào đạo đức mang sự khôn ngoan Phúc âm đang hoạt động mạnh tại nhiều nơi trong Hội thánh Việt Nam, thí dụ phong trào kinh Mân Côi.
15. Phần thưởng mà chúng tôi chờ, cũng chỉ là Chúa mà thôi, đó là sự khôn ngoan sau cùng.
Phải trải qua những thử thách, đó là giáo dục của tình yêu Chúa. Có những thử thách xảy tới Bùi-Tuần 1982
1. Phải trải qua những thử thách, đó là giáo dục của tình yêu Chúa. Có những thử thách xảy tới bất ngờ, quá sức tưởng tượng.
2. Đức Mẹ, khi được truyền tin sẽ là Mẹ Đấng Cứu Thế, đâu có ngờ mình có ngày sẽ đứng dưới cây thánh giá, sẽ nhìn con yêu dấu của mình bị chết nhục nhã khổ đau đến thế.
3. Khi tôi được gọi làm linh mục, rồi làm giám mục, tôi đâu có ngờ sẽ có ngày phải chịu thử thách như Đức Mẹ Maria, đặc biệt là chịu thử thách như Chúa Giêsu trong vườn cây dầu và trên cây thánh giá.
4. Những thử thách đó đã đưa Đức Mẹ và Chúa Giêsu vào tình trạng cô đơn khủng khiếp. Dân chúng từ bỏ mình, bạn bè xa tránh mình, Đức Chúa Cha thì thinh lặng. Thử thách về tình yêu và về đức tin. Như một đêm tối giông tố kinh hoàng.
5. Tôi cũng đã có lúc rơi vào những thử thách loại đó. Khổ lắm, sợ lắm. Nhưng nhờ Đức Mẹ, tôi đã và đang vượt qua.
Thoáng nhìn lại, tôi thấy Đức Mẹ đã giúp tôi sống trong thử thách bằng ba việc sau đây.
6. Việc thứ nhất là Đức Mẹ giúp tôi biết kiên trì đợi chờ giờ của Chúa. Nghĩa là Mẹ giúp tôi đừng nóng vội, muốn thoát qua khỏi cơn thử thách bất cứ giá nào, nhưng hãy kiên trì đợi chờ giờ của Chúa. Chúa sẽ cứu tôi trong giờ Chúa muốn.
Nếu không biết bình tĩnh và khiêm tốn đợi chờ, tôi sẽ tự làm cho mình trở nên căng thẳng, có thể dẫn đến những lời nói việc làm dại dột, phản lại Thánh Ý Chúa.
7. Việc thứ hai là Mẹ giúp tôi biết khiêm tốn tin vào người khác. Bởi vì trong thử thách bị ruồng bỏ, tôi dễ thất vọng với mọi người, kể cả với những người thân. Tôi sẽ coi họ đều là những người không đáng tin, họ là những kẻ phản bội, họ là những kẻ khi tôi gặp khó mà cần đến họ thì họ đều xa tránh tôi.
Thực tế là như thế. Nhưng Đức Mẹ giữ gìn tôi tránh được cảnh thất vọng đó. Tôi bị ruồng bỏ, nhưng tôi vẫn tin vào khả năng có lúc những kẻ ruồng bỏ tôi sẽ xử với tôi theo lòng Thương Xót Chúa. Cho dù thế nào đi nữa, tôi coi sự tin vào con người vẫn đem lại cho tôi sự bình an của Chúa.
8. Việc thứ ba là Đức Mẹ giúp tôi cậy tin vào ơn thánh Chúa.
Nhiều lúc, thử thách trở thành bi đát, cực kì bi đát. Tôi như đã vào bế tắc. Nhưng Đức Mẹ giúp tôi tin vào ơn thánh Chúa. Tôi tin, với ơn thánh Chúa, tôi sẽ tìm được sự sống trong bóng tối, sự cứu độ trong cảnh đổ vỡ tan hoang.
Tôi tin, với ơn thánh Chúa, không gì mà không thể làm được.
Tôi tin vào những gì coi như trái với sự hợp lý theo cách suy nghĩ của thế gian, để vững tin vào Lời Chúa đã nói về tình yêu thương xót Chúa.
Tôi tin thánh giá là vinh quang.
9. Những gì tôi chia sẻ trên đây đều nhờ Đức Mẹ, đều do Đức Mẹ, Đức Mẹ đã lấy tình Mẹ mà giúp tôi sống trong thử thách.
Tôi ẩn mình trong trái tim Mẹ. Tôi sống đơn sơ, khó nghèo trong lòng Mẹ dạt dào tình thương.
10. Mẹ dạy tôi hãy cầu nguyện, tỉnh thức và sám hối.
11. Tình hình đang diễn biến phức tạp. Chúng ta hãy bám vào Đức Mẹ với hết lòng tin tưởng. Đức Mẹ sẽ cứu chúng ta. Đúng hơn, phải nói: Đức Mẹ đang cứu chúng ta.
Long Xuyên, ngày 14.8.2020
--------------------------------------
Bùi-Tuần 1983: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI NHẬN RA NHỮNG CHỨNG NHÂN
CỦA CHÚA
+ GB. Bùi Tuần
Đã nhiều lần, các Đức Giáo Hoàng trong những năm gần đây, đã thường nói: “Thời nay, người ta Bùi-Tuần 1983
1. Đã nhiều lần, các Đức Giáo Hoàng trong những năm gần đây, đã thường nói: “Thời nay, người ta tin ở những chứng nhân hơn ở những người rao giảng”.
Đúng là như vậy. Chính tôi có kinh nghiệm đó. Tôi tin ở những chứng nhân.
2. Nhưng ai là những chứng nhân, thì Đức Mẹ dạy tôi: Rất nhiều người và bằng nhiều cách. Nhưng lúc này Chúa muốn chọn những ai có tinh thần từ bỏ mình như Chúa Giêsu. Họ mang dấu chỉ chứng nhân đích thực của Chúa.
3. Vậy, Chúa Giêsu đã từ bỏ mình thế nào?
Thánh tông đồ Phaolô đã viết rất rõ như sau:
“ Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn từ bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến chết, chết trên cây thánh giá.” ( Phil 2, 6- 8)
4. Khi tôi thấy ai sống từ bỏ mình như trên, theo gương Chúa Giêsu, thì tự nhiên tôi nhận ra trong người đó có Chúa Giêsu. Người hiện diện trong họ một cách mạnh mẽ.
5. Chúa Giêsu sống mật thiết với họ như cành nho với thân cây nho. Họ trở thành nghèo nàn chỉ sống nhờ Chúa mà thôi.
6. Họ để Chúa chiếm đoạt. Họ được thanh luyện. Họ trở nên ngoan ngoãn dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
7. Họ không để ai lôi kéo họ. Họ cũng không lôi kéo ai, không để ai có cảm tưởng là mình bị họ áp lực. Nhưng họ chỉ luôn làm chứng cho Chúa mà thôi.
8. Từ bỏ mình là như thế. Chứng nhân của Chúa luôn sống từ bỏ mình như thế. Tại đây, lúc này, những chứng nhân đó đang được Đức Mẹ dắt dìu nâng đỡ.
9. Những chứng nhân mang dấu ấn từ bỏ mình sẽ khó tránh được khổ đau.
Một trong những nguồn khổ đau là từ nội bộ Cộng đoàn dân Chúa. Bởi vì, trong nội bộ Cộng đoàn dân Chúa luôn có những người xưng mình là chứng nhân của Chúa theo khuynh hướng khác.
10. Từ ít lâu nay, tôi hay nhận được những tài liệu gợi ý cho tôi hãy chống lại Đức Giáo Hoàng Phanxicô, và chống lại Hội đồng Giám mục Việt Nam. Những tài liệu đó cho rằng: phải chống lại các vị đó, vì các vị đó đang sai lầm trầm trọng. Theo họ, chống lại các vị đó mới là làm chứng cho Chúa.
11. Tôi coi đây là những sóng ngầm đang phân hóa nội bộ Hội thánh tại Việt Nam chúng ta.
12. Do vậy, lời cầu mà tôi hay dâng lên Chúa lúc này là cầu xin cho sự bình an và hợp nhất được là bầu khí đạo đức cho mọi nơi trong Hội thánh Việt Nam yêu dấu.
13. Bình an của Chúa, hợp nhất trong Chúa, đó là những gì rất quý, mà Chúa chỉ ban cho những ai biết từ bỏ mình.
14. Từ bỏ mọi sự, mà không từ bỏ chính mình, thì vẫn chưa là sự từ bỏ mà Chúa muốn. Từ bỏ mình, đó là điều Chúa Giêsu đòi hỏi ở những ai muốn theo Ngài.
15. Từ bỏ chính mình, đó là điều Đức Mẹ đang dạy tôi từng ngày, từng giờ, từng phút, bằng nhiều cách, qua nhiều ngả đường đời.
16. Phải lắng nghe Mẹ, Mẹ nhỏ nhẹ, Mẹ tế nhị, Mẹ âm thầm, Mẹ kín đáo. Mẹ dạy tôi trong ý thức, trong tiềm thức và cả trong vô thức.
17. Chính Mẹ là người đã từ bỏ mình một cách quyết liệt, một cách trọn vẹn, một cách tuyệt đối.
18. Suốt đời, Mẹ chỉ xin vâng. Xin vâng Đấng đã đoái nhìn đến phận hèn của người nữ tỳ hèn mọn.
Mẹ đang dạy tôi hãy bắt chước Mẹ, mà từ bỏ mình như Mẹ.
Tôi không đủ sức làm như Mẹ, Chính Mẹ đang lo cho tôi.
Tôi cũng được nâng đỡ bởi những chứng nhân sống từ bỏ mình. Họ khá đông, thuộc đủ mọi thành phần. Tôi xin hết lòng cảm ơn họ.
Trong những ngày Tết, tôi được nhiều lời mừng chúc. Lời chúc mừng nào cũng hướng về tương Bùi-Tuần 1984
Trong những ngày Tết, tôi được nhiều lời mừng chúc. Lời chúc mừng nào cũng hướng về tương lai. Tâm tình trao tặng nhau, cho dù tốt đẹp đến mấy, vẫn không cản được cảm nghĩ của tôi về khoảng cách.Tôi cảm thấy mình khác xa trước. Giữa nay và trước có một khoảng cách sâu rộng. Trước là trẻ, nay là rất già. Chính khoảng cách riêng tư này dẫn tôi nhìn vào một số khoảng cách khác. Những khoảng cách này đang là sự kiện xã hội tôn giáo hôm nay, nhưng đã được báo trước trong Kinh Thánh.
1/ Khoảng cách giữa giàu và nghèo Sự kiện nổi bật trong Tết vừa qua có lẽ là khoảng cách giữa giàu và nghèo
Giàu rất giàu, nghèo rất nghèo.
Khoảng cách về của cải là khủng khiếp. Có người làm chủ mấy ngàn tỷ. Đang khi có người tìm tiền mua gạo cho một ngày mà không sao kiếm đủ.
Khoảng cách về tâm lý là thê thảm. Bên thì tự hào mở sang thế giới bạn bè và các tầng lớp xã hội. Bên thì tự rút về thân phận cô đơn, buồn tủi.
Khoảng cách về dự kiến là rất ảm đạm. Giàu thì chắp cánh bay xa bay cao. Nghèo thì bị bó chân bó tay vào những mơ ước nhỏ nhoi, đôi khi còn bị dồn xuống hố thất vọng và tuyệt vọng.
Khoảng cách giàu nghèo hôm nay có thể được nhìn bằng nhiều cách. Cách nhìn mang ý nghĩa nhất là nhìn qua dụ ngôn Chúa Giêsu đã đưa ra về người phú hộ và người hành khất Ladarô.
Người phú hộ mặc toàn đồ sang trọng, ăn toàn những món quý mắc tiền. Còn người hành khất Ladarô thì rách rưới, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà phú hộ, bạn với mấy con chó đói.
Sau này, hai người cùng chết. Trong thế giới bên kia, số phận đổi ngược. Người phú hộ xuống hỏa ngục, ông ăn mày được lên thiên đàng. Bởi vì lúc còn sống, người phú hộ đã sống ích kỷ thất đức, còn người ăn mày đã chịu thử thách với lương tâm trong sáng (x. Lc 16,19-31).
Hy vọng khoảng cách đau buồn trên đây tại Việt Nam hôm nay chỉ là lẻ tẻ. Nhưng, theo tôi, cái lẻ tẻ đó vẫn rất đau lòng.
2/ Khoảng cách giữa có với là
Tết năm nay, sự xung đột giữa có và là thực quá rõ.
Trên thực tế, tiêu chuẩn đánh giá con người đặt nặng về phía có. Ai có nhiều tiền của, có quyền cao chức trọng, có uy tín được dư luận tôn vinh, có nhiều bạn sang giàu, đó là người được coi là có giá trị.
Đang khi đó, những người thực chất là đạo đức, thực chất là nhiều khả năng, thực chất là chân chính, thực chất là tu thân, thì lại bị bỏ quên, bị loại trừ, bị khinh chê.
Đáng suy nghĩ nhất là khoảng cách giữa người có quyền và người không có quyền, cho dù người không có quyền là rất tốt.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu luôn đề cao cái là.
“Thầy là cây nho, các con là ngành” (Ga 15,5).
“Các con là muối cho đời” (Mt 5,13).
“Các con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14).
“Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những ai là kẻ bé mọn” (Lc 10,21).
3/ Khoảng cách giữa đấu tranh và sự hối cải
Tết vừa qua, Hội Thánh Việt Nam đã đón nhận hai sứ điệp. Một sứ điệp là hối cải, do Mùa Chay. Sứ điệp này đã được đọc một cách long trọng ngày 30 Tết nhằm lễ Tro. Một sứ điệp khác là đấu tranh. Sứ điệp này đã được loan đi từ biến cố xảy ra nơi này nơi nọ, do nhiều phương tiện thông tin đại chúng.
Sứ điệp hối cải được ban ra từ Lời Chúa, nên có giá trị vững bền, dẫn về cõi bình an sâu thẳm. Còn sứ điệp đấu tranh bị nhiễu quá nhiều. Nó đã vượt xa biến cố ban đầu, dẫn về một tương lai nhiều thách đố lớn. Nên giá trị thực của nó là ở sự đợi chờ sáng suốt. Đắc thắng hiện tại chỉ là thành công bé nhỏ.
Phần tôi, tôi theo dõi sứ điệp đấu tranh với tâm hồn cầu nguyện và tỉnh thức. Nhưng tôi đón nhận sứ điệp Phúc Âm Mùa Chay với niềm tin tuyệt đối vâng phục ý Chúa.
Kinh Thánh trong sách Khải Huyền có đoạn Chúa gởi cho Hội Thánh ở Êphêsô : “Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt mỏi. Nhưng Ta trách ngươi điều này : Ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống. Hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải” (Kh 2,3-5).
Cảnh giác trên đây luôn hữu ích cho phần rỗi.
*
Mấy khoảng cách trên đây là những thời sự. Suy tư về những thời sự đó trong ánh sáng Phúc Âm cũng là một sinh hoạt ý nghĩa trong xã hội hôm nay.
Xã hội hôm nay đang có những liên kết và những rạn nứt, đang có những hôn nhân và những ly hôn trong nhiều lãnh vực, như gia đình, văn hóa, đời đạo.
Xã hội hôm nay đang có những tảng băng trôi nổi trên bề mặt và có những sóng ngầm nguy hại không dễ phát hiện.
Rất mong những ai đang lo cho nền giáo dục Kitô giáo sẽ quan tâm hơn nữa đến tình hình cụ thể của Việt Nam hôm nay, nhất là bằng cách nêu gương sáng.
Sự ham muốn tiền của đang là một thảm họa gây bất ổn đau đơn trong nhiều gia đình. Đôi khi Bùi-Tuần 1985
“Sự ham muốn tiền của đang là một thảm họa gây bất ổn đau đơn trong nhiều gia đình. Đôi khi người ta coi đó là một thứ quỷ ám hung hãn đang làm cho con người trở nên mù quáng và nô lệ”
“Bị giam cầm” là điều chẳng ai muốn. Nó là một mất mát. Nó là một nguy hiểm.
Ở đây, chỉ xin nói vắn tắt đến một số hiện tượng bị giam cầm xảy ra ở bên trong con người.
Sự giam cầm ở bên trong con người có thể xảy ra cả nơi những người coi như rất tự do và nơi những người coi như rất đàng hoàng, cả trong xã hội, cả trong Hội thánh.
Sự kiện đó ảnh hưởng tai hại, không phải chỉ trong ít nhiều trường hợp, mà trong cả cuộc sống, trên khắp những sự việc thường ngày.
Chúa Giêsu phán : “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất những tư tưởng xấu : tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó là đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,20-23).
Một trong những cắt nghĩa tại sao có những điều tội lỗi lại thường xuyên xảy ra từ bên trong con người, đó là vì bên trong con người có những sức mạnh xấu hoạt động một cách áp đảo, như khống chế, như giam cầm, xiềng xích sự tự do con người.
Chúng ta thử tìm xem những sức mạnh nào thường hay giam cầm sự tự do của con người.
1/ Bị giam cầm bởi sức mạnh Satan
Phúc Âm kể nhiều đến sức mạnh của Satan, khi nó nhập vào con người. Sức mạnh của quỷ trong con người đôi khi rất ghê gớm. Chúa Giêsu phán : “Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói : Ta sẽ trở về nhà, mà ta đã bỏ ra đi. Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy trở nên tệ hơn trước” (Lc 11,24-26).
Những lời Chúa phán trên đây thực đáng sợ. Người cho thấy sức mạnh của quỷ là rất mạnh. Sức mạnh đó giam cầm con người, cai trị con người. Con người khó thoát ra được. Có thể chúng ta đã có kinh nghiệm về điều đó. Chỉ có ơn Chúa mới cứu được người bị quỷ dữ giam cầm. Chúng ta phải tỉnh thức, cầu nguyện, hãm mình theo lời Chúa dạy.
2/ Bị giam cầm bởi sức mạnh tiền của
Phúc Âm kể rằng : “Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi : Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ? Đức Giêsu đáp : ... Hẳn anh biết các điều răn : Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ. Anh ta nói : Thưa Thầy, tất cả những điều ấy tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ. Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta : Anh chỉ thiếu có một điều là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi. Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó, rồi bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10,17-22).
Chuyện kể trên cho thấy : người thanh niên biết Chúa Giêsu yêu mến anh ta. Anh ta cũng là con người giữ đạo tốt. Nhưng khi nghe đến việc bán của cải mà phát cho kẻ nghèo, rồi theo Chúa, thì anh từ chối. Sự từ chối đó chứng tỏ anh bị giam cầm bởi sức mạnh tiền của một cách trầm trọng.
Số người bị tiền của giam cầm hiện nay gồm đủ loại.
Những người không có tiền của càng không dễ thoát được cơn ham muốn tiền bạc. Lỗi của họ là coi tiền như phương tiện duy nhất, như giá trị ưu tiên tuyệt đối. Có người nợ nần chồng chất, cũng chỉ vì quá ham muốn tiền bạc. Họ đành làm đủ chuyện bất chính, miễn sao có tiền, để đua đòi phô trương. Kinh nghiệm cho thấy : Sự ham muốn tiền của đang là một thảm họa gây bất ổn đau đớn trong nhiều gia đình, xã hội và tôn giáo. Đôi khi người ta coi đó là một thứ quỷ ám hung hãn đang làm cho con người trở nên mù quáng và nô lệ.
3/ Bị giam cầm bởi sức mạnh dư luận
Sức mạnh dư luận được tỏ bày qua nhiều hình thức, như :
a) Sức mạnh dư luận truyền thống. Chúa phán : “Các ông dựa vào truyền thống các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15,6). Họ bảo vệ truyền thống cộng đoàn, mà coi thường lời Chúa.
b) Sức mạnh dư luận đám đông bị khích động. “Họ cứ la to, nhất định phải đóng đinh Chúa Giêsu. Tiếng la càng thêm dữ dội. Và ông Philatô chấp thuận điều họ yêu cầu” (Lc 23,23-24). Nhiều khi dư luận chỉ là luận dư, không dựa vào chân lý, chỉ hùa theo đám đông.
Quá dựa vào dư luận, quá sợ dư luận, bất chấp phải trái, đó là một hiện tượng quen thuộc của áp lực bị giam cầm.
4/ Bị giam cầm bởi các thói đời
Thói đời quy tụ ít là bốn thứ sau đây :
a) Hình thức bề ngoài.
Chúa phán về các Pharisêu : “Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23,5). Họ an tâm với những hình thức mang màu sắc đạo đức.
b) Những bận tâm thế tục.
Dụ ngôn tiệc cưới cho thấy những bận tâm thế tục đã cản người ta đến dự tiệc cưới Nước Trời. Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, họ quá quan tâm về lợi ích trước mắt (x. Mt 22).
c) Sự ghen tương, tự phụ.
Chúa nói khá nhiều về ghen tương, tự phụ, như chuyện mấy người thợ làm vườn nho. “Nào tôi không có quyền sử dụng của cải của tôi như tôi muốn sao ? Hoặc bởi anh ghen tương vì tôi tốt lành” (Mt 20,15). Kinh nghiệm cho thấy : Ghen tương, tự phụ là một thứ tù ngục thường giam cầm con người một cách tàn bạo.
d) Những tình cảm không kiểm soát nổi và thói quen tự tôn không chế ngự nổi.
Trên đây là thoáng nhìn về một số hình thức giam cầm con người. Thoáng nhìn đó cho thấy : Xiềng xích không luôn ở phía xã hội, cơ chế, mà thường ở trong chính bên trong mỗi người.
Nhận biết sự thực đó đòi ta phải có lòng khiêm nhường. Đừng cho mình là đạo đức, nhưng hãy nhận mình là yếu đuối, có thể đang bị giam cầm một cách thê thảm. Trong nhận thức khiêm nhường đó, ta cầu xin với Chúa bằng lời Chúa đã gợi ý xưa.
Lạy Chúa, Chúa đã phán : Không phải những người khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, nhưng chính là những bệnh nhân. Chúa không đến kêu gọi người công chính, nhưng người tội lỗi.
Con đây là kẻ bệnh tật và tội lỗi, xin Chúa thương đến cứu chữa con, xin giải thoát con khỏi mọi xiềng xích vô hình đang giam cầm con, để con luôn được tự do trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Chúa Giê-su đã thắng ma quỷ, giải cứu con người bằng một khí cụ khác gươm giáo. Khí cụ đó Bùi-Tuần 1986
“Chúa Giê-su đã thắng ma quỷ, giải cứu con người bằng một khí cụ khác gươm giáo. Khí cụ đó là cây thánh giá”
Nhân dịp lễ Đức Tổng lãnh thiên thần Micae (29.9), cũng là Bổn mạng Đức cha cố Nguyễn Khắc Ngữ, vị cha già trăm tuổi của giáo phận Long Xuyên, tôi xin chia sẻ đôi chút suy niệm của tôi về sức mạnh giải cứu lịch sử.
1. Từ xa xưa, lịch sử được mô tả như một cuộc chiến đấu giữa thiện và ác.
Theo sách Khải Huyền, thì đứng đầu phía thiện là Đức Tổng Lãnh thiên thần Micae. Ngài chỉ huy một số thần lành. Còn đứng đầu phía ác là Luxiphe. Nó nắm giữ một số thần dữ.
Hai bên giao chiến ác liệt. Sau cùng, phía Đức Micae toàn thắng, phía Luxiphe thảm bại. Chúng bị xua đuổi xuống hỏa ngục.
Sau này, cuộc chiến đó đã được trình bày bằng ảnh tượng, Đức Tổng Micae dùng gươm giáo đâm đầu Luxiphe, đạp nó dưới chân Ngài.
Hình ảnh đó đề cao sức mạnh của quyền lực. Như thể quyền lực là dấu chỉ của Thiên Chúa, Đấng giải cứu muôn dân.
Hình ảnh quyền lực đó đã một thời ám chỉ quyền lực của Hội Thánh.
2. Nhưng, trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã phác họa hình ảnh lịch sử một cách khác.
Lịch sử vẫn là cuộc chiến đấu giữa thiện và ác. Nay đứng đầu phía thiện là Chúa Giêsu. Đứng đầu phía ác vẫn là ma quỷ.
Chúa Giêsu đã thắng ma quỷ, giải cứu con người bằng một khí cụ khác gươm giáo. Khí cụ đó là cây thánh giá.
Thánh giá của Chúa Giêsu là khiêm nhường, khó nghèo, yêu thương và hy sinh.
Từ đó, Hội Thánh ca ngợi thánh giá Đức Kitô bằng lời sau đây : “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người, ơn cứu độ của ta, sức sống của ta và là sự phục sinh của ta”.
3. Nhờ niềm tin vào sức mạnh của thánh giá Đức Kitô, Hội Thánh xây dựng sức mạnh tu đức, mục vụ và truyền giáo trên nền tảng khiêm nhường, khó nghèo, yêu thương và hy sinh từ bỏ mình.
Đường lối đó đã và đang được thực hiện ở khắp nơi. Nơi nào thực hiện tốt, thì kết quả tốt.
Tuy nhiên, thời nào cũng vậy, những người theo Chúa vẫn bị cám dỗ bỏ con đường thánh giá Chúa, hoặc nếu còn theo, thì lại kết hợp sức mạnh thánh giá với sức mạnh gươm giáo.
Thực tế cho thấy, nhiều người chúng ta coi nhẹ sức mạnh của nội tâm, để đặt nặng sức mạnh của quyền lực bên ngoài và những phương tiện trần thế.
Đó là một nguy hiểm lớn cho Hội Thánh. Nguy hiểm lớn nhất là sự suy sụp đời sống đức tin, như đang xảy ra tại một số nước chối từ thánh giá.
4. Khi bị cám dỗ coi thường sức mạnh của nội tâm nơi thánh giá cứu độ, tôi nhớ về Đức cha cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ.
Đời Ngài là con đường thánh giá.
Hình ảnh Ngài là can đảm của hy sinh, khiêm nhường, yêu thương, khó nghèo.
Sức mạnh thuyết phục của Ngài là đời sống nội tâm dạt dào đức ái.
Cái máng Ngài dùng để chuyển ơn cứu độ đến các linh hồn là thánh giá của Ngài kết hợp với thánh giá Đức Kitô.
Được ở bên Ngài, tôi thấy rõ điều này : Ngài biết buông ra những gì không cần thiết, và biết nắm vững những gì là cần phải nắm, nhất là trong những hoàn cảnh phức tạp khó khăn.
Ngài phân biệt rõ : Không phải đau khổ nào cũng là thánh giá Chúa.
Chúng ta cảm tạ Chúa đã ban cho Hội Thánh Việt Nam một vị mục tử tốt lành là Đức cha cố Micae.
Nguyện xin Chúa nhân lành ban cho chúng ta luôn được ơn khôn ngoan và can đảm, biết con đường nào là đúng con đường thánh ý Chúa, để làm chứng hữu hiệu cho Chúa trong thời điểm rất phức tạp mà Chúa đang sai chúng ta đi vào.
Ngôn ngữ bác ái được coi là dễ hiểu và có sức truyền giáo đối với mọi người” Trước khi về Bùi-Tuần 1987
“ Ngôn ngữ bác ái được coi là dễ hiểu và có sức truyền giáo đối với mọi người”
Trước khi về trời, Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người một điều tâm huyết : “Các con sẽ là chứng nhân của Thầy... cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Đó là lời sai đi. Mọi người tin theo Chúa phải đón nhận lời sai đi ấy như một cách giữ đạo. Phải giữ đạo Chúa cách nào để cách đó làm chứng tốt nhất cho Thiên Chúa là tình yêu.
Cách giữ đạo hợp lý nhất để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu là sống bác ái. Hợp lý vì tất cả đều có cơ sở Lời Chúa.
1/ Lời Chúa hướng dẫn chọn lựa
Người tín hữu xin dứt khoát chọn đời sống bác ái để làm chứng cho Chúa. Vì lời Chúa đã rất rõ ràng. Chỉ xin trích vài lời :
a) Chúa phán : “Mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy ở điều này : là các con có lòng thương yêu nhau” (Ga 13,35).
b) Chúa gọi : “Hãy đến đây.Hỡi những kẻ Cha Thầy chúc phúc. Vì Thầy đau yếu, các con đã viếng thăm... Thầy bảo thật các con : Điều gì các con làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy là các con đã làm cho chính Thầy vậy” (Mt 25,34.36.40).
c) Thánh Gioan dặn dò: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga,7-8).
Những lời Kinh Thánh trên đây giúp chúng ta an tâm, khi chọn đời sống bác ái như một cách giữ đạo có sức làm chứng cho Chúa.
Nói là giúp cho chúng ta an tâm khi chọn lựa con đường bác ái. Bởi vì luôn có những lôi cuốn giục chúng ta muốn chọn lựa những con đường khác. Như chọn làm chứng bằng những quy tụ đông đảo, bằng cơ sở tôn giáo hoành tráng, bằng cơ cấu chặt chẽ, bằng lễ hội tưng bừng. Tất nhiên những chọn lựa đó cũng có lý của nó. Nhưng không thay thế được con đường bác ái yêu thương.
Tất nhiên không phải yêu thương nào cũng là bác ái làm chứng cho Chúa. Chỉ có thứ nội dung yêu thương đã được lời Chúa chỉ dạy.
2/ Lời Chúa chỉ dẫn nội dung
a) “Bác ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.
“Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7).
b) “Lòng bác ái không được giả hình giả dối. Anh em hãy ghét điều dữ, tha thiết với điều lành, thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình, nhiệt thành không trễ nải, lấy tinh thần mà phục vụ Chúa.
“Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với các thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.
“Hãy chúc lành cho những kẻ bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng chúc dữ, nguyền rủa. Vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn.
“Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác... Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hòa thuận với nhau” (Rm 9-18).
Những lời Kinh Thánh trên đây về nội dung yêu thương cho thấy một nội tâm sâu xa phong phú. Hiểu như vậy, chúng ta sẽ thấy con đường bác ái để làm chứng cho Chúa không đơn giản chỉ là vấn đề chia sẻ, phục vụ về vật chất, mà còn là một chiều kích nội tâm thiêng liêng. Chiều kích thiêng liêng đó là một nguồn sống thiêng liêng có sức biến đổi con người và xã hội.
Một nội dung yêu thương bác ái như thế là một thực tế không dễ dàng.
3/ Lời Chúa hé mở một thực tế không dễ dàng
Sống bác ái yêu thương với nội dung đặt nặng về nội tâm đòi nhiều phấn đấu, nhiều từ bỏ, phải đi vào cửa hẹp.
Chúa Giêsu phán : “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
Đòi hỏi đó là đi vào cửa hẹp. Nhưng, đi vào cửa hẹp là điều không dễ. Chúa phán : “Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Maisen và lời các ngôn sứ là thế.
“Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,12-14).
Lời Chúa trên đây hé mở cho thấy một thực tế không dễ dàng. Thực tế là nhân loại luôn đợi chờ một đời sống yêu thương bác ái của người công giáo, như đợi chờ một kho tàng phong phú, đầy sức hấp dẫn. Họ đợi chờ như khao khát một sức thiêng giải cứu họ cho khỏi những ích kỷ, giả dối và ghen ghét trên đời này.
Nhưng xem ra họ chưa tìm được nhiều như lòng mong ước. Họ chỉ dám thầm mong : Ước chi mọi người công giáo sống thực sự yêu thương bác ái như Chúa Giêsu. Ước chi không có khoảng cách lớn giữa lý thuyết và thực tế về bác ái yêu thương nơi các cộng đoàn công giáo.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì nhiều người công giáo chúng ta đã và đang cố gắng đáp ứng những “ước chi” đó. Chúng ta ngợi khen Chúa vì bao sự lạ lùng Chúa đã và đang làm nơi những chứng nhân bác ái tại Việt Nam hôm nay. Đức tin của họ được phiên dịch ra bác ái. Ngôn ngữ bác ái được coi là dễ hiểu và có sức truyền giáo đối với mọi người.
Mỗi khi họ yêu thương phục vụ đến cho người khác, thì chính trong việc đó, họ cảm thấy có Bùi-Tuần 1988
“Mỗi khi họ yêu thương phục vụ đến cho người khác, thì chính trong việc đó, họ cảm thấy có Chúa bên họ, có Chúa hành động với họ”
Loại người được trân trọng bậc nhất bây giờ là loại người “sống cho kẻ khác”.
Tất nhiên, để “sống cho kẻ khác” đáng được mến yêu thực sự, chúng ta quy chiếu vào mẫu gương Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã sống cho kẻ khác thế nào, thì những ai tin theo Người cũng sẽ sống như vậy.
Suy gẫm của tôi sẽ vắn tắt. Chỉ nêu lên vài gợi ý quan trọng.
1/ Những hình ảnh về sống cho kẻ khác
Sống cho kẻ khác là một lý tưởng. Lý tưởng này được thể hiện qua nếp sống. Nếp sống ấy là những liên đới với người khác. Những liên đới ấy là cho đi, là phục vụ yêu thương.
Nơi Đức Kitô, phục vụ yêu thương được diễn tả qua mấy hình ảnh dễ hiểu này :
a) Con chiên hiền lành trên bàn sát tế.
Tiên tri Isaia, ngày xa xưa, đã nói về Chúa Giêsu như một con chiên chịu khổ đau, để đền tội cho nhân loại (x. Is 53,7).
Lời tiên tri đó đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đúng là con chiên bị sát tế, và còn hơn là con chiên được hiến tế. Vì Người tự hiến tế với tất cả ý thức và tự do của mình. Người biết Người chịu khổ hình để cứu chính những kẻ làm hại Người. Hy sinh đến cùng do yêu thương vô cùng.
Sống cho kẻ khác là như thế đó.
b) Hạt lúa mì gieo vào lòng đất và để mình thối đi.
Chính Chúa Giêsu đã tự ví mình như hạt lúa mì rơi vào lòng đất và bị thối đi, để sinh ra nhiều hạt khác (x.Ga 12,24). Chúa cắt nghĩa ngay liền đó. Bị thối đi là hy sinh mạng sống mình. Hy sinh mạng sống chính mình, để kẻ khác được sự sống đời đời. Hy sinh hết mình vì yêu thương đến cùng (x.Ga 12,25).
Sống cho kẻ khác là như thế đó.
c) Tấm bánh nuôi người khác.
Chúa Giêsu ví mình như tấm bánh, tấm bánh trường sinh (x.Ga 6,35). Tấm bánh này là của ăn ban tặng. Tấm bánh ban tặng này là chính bản thân Đức Kitô suốt đời sống theo thánh ý Chúa Cha. Sống theo ý Chúa Cha là một phấn đấu đòi nhiều hy sinh. Hy sinh vì mến Chúa Cha trọn vẹn và yêu nhân loại tuyệt đối.
Sống cho kẻ khác là như thế đó.
2/ Kinh nghiệm vì cuộc sống cho kẻ khác
Sống cho kẻ khác theo ba hình ảnh nêu trên là một hướng đi cho đời sống của người môn đệ Đức Kitô.
Khi đã sống theo hướng đó, họ sẽ có một số kinh nghiệm nội tâm. Dưới đây chỉ là vài kinh nghiệm quen thuộc.
a) Có một cái gì phải từ bỏ trong họ.
Điều họ phải từ bỏ hơn cả là cái tôi. Lời Chúa rất rõ ràng dứt khoát : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Từ bỏ mình nhất là bằng sám hối và chu toàn bổn phận.
Từ bỏ mình là điều phải rất tỉnh thức và khiêm nhường. Nếu không, thì “sống cho kẻ khác” sẽ dễ trở thành một môi trường đạo đức giả, để cái tôi ngấm ngầm hoạt động và phát triển trong đó.
Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux đưa ra một hình ảnh dễ hiểu. Ngài biết, trước mặt Chúa, có những bàn ăn dành riêng cho những kẻ tội lỗi. Thánh nữ xin được ngồi chung với họ, để đồng cảm những khổ đau, tăm tối, cô đơn dành cho họ. Ngài từ bỏ niềm vui được ngồi chung bàn với những người đạo đức. Từ bỏ đó là vì hy sinh để cầu cho người tội lỗi.
b) Có một cái gì mới được sinh vào lòng họ.
Họ khám phá ra những bước đi mới của Chúa. Chúa đến với họ từ những cái như nghịch với Chúa.
Từ nơi tội lỗi, họ gặp Chúa xót thương đến. Từ cõi thất vọng, họ gặp Chúa hy vọng đến. Từ chốn khổ đau, họ gặp Chúa vinh quang đến. Từ cảnh thất bại, họ gặp Chúa thành công đến. Từ vùng nô lệ, họ gặp Chúa tự do đến. Từ đời bất ổn, họ gặp Chúa bình an đến.
Thực sự, khi người môn đệ Đức Kitô sống cho kẻ khác theo gương Đức Kitô, thì Đức Kitô sẽ dẫn họ vào một thế giới chỗ nào cũng có bóng tối. Họ sẽ cứu người khác bằng cách đi cùng với Đức Kitô vào những bóng tối đó để dẫn họ về với Chúa Cha. Hành trình đó là hành trình phục sinh. Nghĩa là sống lại từ cõi chết, từ đau khổ. Hành trình phục sinh đó là từ những thực tại xung quanh họ.
c) Có một cái gì phải đi xa hơn các liên đới người với người.
Cái gì phải đi xa hơn, đó là ơn Chúa. Chúa Giêsu quả quyết : “Không có Thầy, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Lời đó được ứng nghiệm nơi những ai theo gương Đức Kitô sống cho kẻ khác.
Họ sẽ khám phá ra dần dần sự thực này : Mỗi khi họ yêu thương phục vụ đến hy sinh cho người khác, thì chính trong việc đó, họ cảm thấy có Chúa bên họ, có Chúa hành động với họ. Họ sẽ cảm thấy có một sự hiện diện nhiệm mầu trong họ. Họ sống cho kẻ khác. Kẻ khác là người khác, kẻ khác cũng là chính Chúa. Sự cảm nghiệm đó giúp họ có một cuộc sống như mọi người, nhưng cũng khác mọi người.
*
Đến đây tôi nghĩ đã kể lại đôi chút về những gì Chúa đã làm nơi những người sống cho kẻ khác theo gương Đức Kitô.
Họ đúng là những chứng nhân của Tin Mừng.
Họ đang được Chúa dùng để mở Nước Chúa tại quê hương Việt Nam hôm nay.
Mỗi biến cố là mỗi tiếng gọi của tình yêu Chúa. Mỗi biến cố là mỗi lời sám hối” Nếu có ai Bùi-Tuần 1989
“Mỗi biến cố là mỗi tiếng gọi của tình yêu Chúa. Mỗi biến cố là mỗi lời sám hối”
Nếu có ai hỏi tôi : Sau một đời dài theo Chúa, tôi đã cảm nhận được điều gì an ủi nhất ? Tôi sẽ thưa : Điều an ủi nhất, mà tôi cảm nhận được là : Chúa nói với tôi.
Chúa nói với tôi :
- qua lời Chúa. - qua Hội Thánh của Chúa. - qua những người thiện chí của Chúa, - qua những biến cố có sự can thiệp của tình xót thương Chúa.
1/ Lời Chúa nói với tôi
Thiên Chúa mà tôi tôn thờ, là một người Cha. Người biết tôi yếu đuối. Nên Người nói với tôi như nói với đứa con dại khờ.
Người gọi tên tôi. Người dạy tôi về cách sống. Tôi hiểu được ý nghĩa và hướng đi đời tôi, nhờ Người bảo ban. Người nói với tôi rõ ràng về từng chi tiết quan trọng của đời sống. Như việc cầu nguyện, việc yêu thương phục vụ, việc bố thí, việc giữ chay, việc tha thứ, việc dấn thân chu toàn bổn phận.
Đức Kitô nói với tôi bằng lời của Người. Hơn nữa, Người còn nói với tôi bằng đời của Người.
Thánh giá của Người luôn ở trước mắt tôi. Thánh giá đó nói về đời yêu thương hy sinh của Người.
Người là tình yêu. Tình yêu ấy sống động, gần gũi. Tất cả tình yêu ấy đều nói với tôi rằng : Thiên Chúa yêu thương tôi. Người đã gọi tôi. Người đã chọn tôi. Người đã sai tôi đi. Không phải vì tôi xứng đáng, nhưng chỉ vì Người thương và muốn như vậy.
Những gì Chúa nói với tôi, cho dù đôi khi dưới hình thức răn đe, cũng vẫn là những lời giải thoát, cứu độ.
Chúa nói nhiều với tôi qua lời Người. Thêm vào đó, Chúa nói với tôi qua Hội Thánh của Người.
2/ Hội Thánh Chúa nói với tôi
Hội Thánh là một quy tụ, tùy thuộc phần nào vào dòng lịch sử. Vì thế, qua Hội Thánh, Chúa nói với tôi về dấu chỉ thời đại.
Có lúc nên nhấn mạnh đến sám hối. Có lúc nên đề cao phục vụ người nghèo. Có lúc nên quan tâm nhiều đến việc đối thoại với xã hội bằng đời sống.
Có nơi nên quy tụ lớn. Có nơi nên quy tụ nhỏ. Có nơi nên tránh những hoành tráng gây gai mắt.
Đức Hồng y Gantin khuyên tôi : Cai quản là phải thấy trước.
Đức Hồng y P.J.Cordes gợi ý cho tôi thấy thời nay là thời của các cộng đoàn nhỏ.
Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận hay nhắc nhở tôi về việc đào tạo nhân sự cho Hội Thánh Việt Nam mới.
Qua kinh nghiệm, tôi thấy Chúa hay nói với tôi về sự phải tỉnh thức lắng nghe những dấu chỉ cấp bách.
Chẳng hạn hiện nay là thời điểm khủng hoảng kinh tế. Hội Thánh địa phương nên tìm ra những cách thích hợp để phục vụ Tin Mừng. Hiện nay cũng là thời điểm, mà nhiều đồng bào ngoài Công giáo tại một số nơi không cảm thấy đạo Công giáo là cần thiết cho việc ổn định xã hội. Hội Thánh phải ý thức điều đó, để tìm cách khôn ngoan giới thiệu đạo Chúa, sao cho đạo Chúa trong thời khó khăn vẫn nói lên được Tin Mừng đích thực, khả dĩ hấp dẫn đối với những người ngoài Công giáo.
Hiện nay, nhiều người đang nghe được tiếng Chúa nói về những đổi mới cần thiết cho Hội Thánh.
3/ Chúa cũng đang nói với tôi qua những người thiện chí
Những người thiện chí vẫn hiện diện trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh.
Họ là những người đảm đang, tận tụy phục vụ người khác và ích chung.
Họ là những người tìm tòi khảo cứu trong nhiều lãnh vực để đẩy lùi sự ác, tăng lên sự thiện.
Họ là những người phấn đấu không mệt mỏi, để xã hội mỗi ngày mỗi nên nhân đạo hơn.
Trước cửa sổ phòng tôi có một cây mai to. Từ mấy ngày nay, tự nhiên nó trổ nụ, nở bông. Mới tháng 9 âm lịch, ngày nào cũng có mưa. Thế mà hoa mai nở, như một xuất hiện sớm của mùa Xuân.
Nhìn những bông mai vàng đến sớm, tôi có cảm tưởng gặp được những nguồn nâng đỡ Chúa gởi đến tôi đúng lúc tôi cần. Sự nâng đỡ của họ không tùy thuộc vào mùa. Họ hiện diện như những trái tim tế nhị. Lặng lẽ mà đẹp. Âm thầm mà như nói rất nhiều về tình thương và sự sống. Bông hoa trái mùa nhắc nhở cho tôi sự thực này : Cho dù đời có nhiều giông gió, Chúa vẫn cho tôi gặp được những người thiện chí chính lúc không ngờ.
4/ Chúa nói với tôi qua nhiều biến cố
Tôi đã trải qua nhiều biến cố. Có những biến cố chung của Đất Nước và của Giáo hội. Có những biến cố riêng chỉ xảy ra cho một mình tôi.
Nhìn lại, tôi thấy rõ sự can thiệp của tình thương Chúa. Mỗi biến cố là mỗi tiếng gọi của tình yêu Chúa. Mỗi biến cố là mỗi lời sám hối, tôi đáp lại tình xót thương Chúa dành cho tôi.
Mỗi biến cố là mỗi lời Chúa sai tôi đi kể lại những gì tình Chúa đã làm cho tôi.
Mỗi biến cố là mỗi cơ hội Chúa gọi tôi : Hãy trở nên bé nhỏ hơn, để Nước Chúa được lan rộng hơn.
Mỗi biến cố là dịp thôi thúc tôi : Hãy chỉ phát triển Tám mối phúc, còn bản thân mình thì nên được chôn vùi.
*
Chúa nói với tôi : Đó là điều an ủi rất lớn của đời tôi.
Được nghe Chúa nói, được nói với Chúa, tôi xác tín rằng : Chúa nhận tôi làm con của Chúa.
Chúa mãi thương tôi. Chúa đồng hành với tôi. Chúa ở gần tôi. Chúa ở bên tôi.
Lúc này, tôi đang nghe Chúa nói với tôi : Chính vì con yếu đuối, nên hãy tín thác mọi sự của con nơi lòng thương xót Cha.
Tôi hạnh phúc như giọt nước được trở về đại dương.
Theo các nguồn tin, ngày 16-2-2009, một phái đoàn ngoại giao của Tòa Thánh Vatican dưới sự Bùi-Tuần 1990
Theo các nguồn tin, ngày 16-2-2009, một phái đoàn ngoại giao của Tòa Thánh Vatican dưới sự hướng dẫn của Đức ông Pietro Parolin, Thứ trưởng Ngoại giao Vatican, sẽ viếng thăm và làm việc tại Việt Nam.
Đây là chuyến viếng thăm và làm việc lần thứ 16 giữa Việt Nam và Vatican kể từ khi cuộc viếng thăm và làm việc lần đầu tiên vào năm 1989. Chuyến viếng thăm và làm việc lần này diễn ra từ 16 đến 21-2-2009 và bên cạnh một thành viên đã tham dự tất cả các cuộc viếng thăm và làm việc trước đây của phái đoàn Tòa Thánh là Đức ông Barnabê Nguyễn Văn Phương, lần này còn có thêm một Đức ông khác thuộc Bộ Truyền giáo.
Theo dự kiến phái đoàn Tòa Thánh sẽ làm việc với Bộ Ngoại giao và Ban Tôn giáo Chính phủ. Phái đoàn Tòa Thánh cũng gặp gỡ đại diện HĐGM Việt Nam và viếng thăm hai giáo phận phía Bắc là Thái Bình và Bùi Chu.
Cũng như những cuộc viếng thăm và làm việc trước đây, đã không có một vấn đề nào trong chương trình thảo luận được nêu ra, nhưng trong lần này, một vấn đề được đề cập là làm việc về vấn đề thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai bên. CGvDT sẽ đưa tin cụ thể về chuyến viếng thăm này trong những số báo tới.
Sau đây chúng tôi xin giới thiệu một số suy nghĩ của Đức Giám mục G.B.Bùi Tuần về chuyến viếng thăm và làm việc của phái đoàn Tòa Thánh lần này.
Giữa tháng 2.2009 này, Phái đoàn Tòa Thánh sẽ sang Việt Nam. Được biết đây là tổ hỗn hợp của Tòa Thánh sẽ gặp tổ hỗn hợp của Việt Nam, để làm việc về vấn đề thiết lập bang giao.
Đối với tôi, đây là sự kiện hứa hẹn mừng vui và hy vọng. Người ta có quyền coi đây là một dấu hiệu tích cực cho những bước đầu của một lộ trình dài.
Đối với những người canh thức của Nước Trời, thì sự kiện này không xảy tới lẻ loi, nhưng xen kẽ vào nhiều vui mừng và hy vọng đang có tại Việt Nam hôm nay. Đối thoại sắp tới chỉ là một sự kiện nổi. Còn có nhiều đối thoại khác đang hằng ngày diễn ra âm thầm, mà hiệu quả thì rất lớn.
Ở đây, tôi xin phép nhắc tới vài đối thoại âm thầm.
1/ Đối thoại bằng đời sống phục vụ
Tại Việt Nam hôm nay, Giáo hội chú ý nhiều đến phục vụ yêu thương. Nhiều cá nhân và nhiều cộng đoàn đã và đang thực hiện tốt sứ vụ đó. Những việc phục vụ và đời sống yêu thương, tự nó sẽ là những tiếng nói. Tiếng nói tuy âm thầm, nhưng đầy thuyết phục.
Xưa, thánh Gioan Baotixita sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu xem Người có phải là Đấng phải đến không. “Đức Giêsu trả lời : Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe : Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,4-5).
Hôm nay, tại nhiều nơi, qua việc bác ái của nhiều người, Giáo hội Việt Nam cũng có thể nói tương tự như thế. Cuộc đối thoại kiểu đó dựa vào những phục vụ bác ái yêu thương về nhiều mặt. Hiệu quả mang tính cách cứu người, cả về vật chất lẫn tinh thần, ở nhiều mức độ khác nhau.
Người công giáo sống bác ái, làm việc bác ái, đó là một cách đối thoại tuy âm thầm, nhưng đã mang lại niềm vui và hy vọng không nhỏ cho đồng bào Việt Nam.
2/ Đối thoại bằng sống đức tin dưới hình thức bé nhỏ, khiêm tốn, hiền hòa
Trong Phúc Âm Chúa dạy : “Các con hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29).
Người hiền hậu và khiêm nhường là dấu chỉ của Chúa cứu thế. Bao người đang sống như thế trong nếp sống bé nhỏ âm thầm. Trong một xã hội cạnh tranh, giữa những phong trào phô trương và loại trừ, họ là những người sẵn sàng đón nhận những người khổ đau cô đơn, để chia sẻ, để băng bó, để cùng đồng hành âm thầm với nhau.
Họ giống như những tia sáng nhỏ trong mênh mông bóng tối. Họ tìm đến nhau, làm nên một sức sống thiêng liêng, mang lại tươi mát cho cuộc đời lữ khách.
Cách sống của họ là một đối thoại không lời. Xưa Thiên Chúa đã tỏ mình ra trong con người khiêm hạ của Đức Kitô, thì nay, Chúa cũng đang tỏ mình ra trong những thân phận bé nhỏ, bị chôn vùi trong lớp người hèn yếu. Tuy nhiên, họ vẫn mang mừng vui và hy vọng. Bởi vì họ có Chúa trong họ.
3/ Đối thoại bằng đời sống cầu nguyện, bí tích và Lời Chúa
Tại Việt Nam hôm nay, phần đông người công giáo rất siêng cầu nguyện, lui tới các bí tích và học hỏi Lời Chúa. Những việc đó là những việc trở về với Chúa, gắn bó với Chúa. Qua những việc ấy, người công giáo cảm nghiệm được phần nào Thiên Chúa là tình yêu. Họ được Chúa biến đổi dần dần thành những con người mới.
Biết bao người đã nhận rằng : Nhờ cầu nguyện, Lời Chúa và các bí tích, họ đã được ủi an, được giải cứu, được chữa lành các bệnh tật linh hồn.
Đời sống của họ là một cuộc đối thoại với Chúa, nhờ đó họ xây dựng liên hệ bác ái với mọi người, trở nên người biết phục vụ công ích.
Người cầu nguyện, sống Lời Chúa, lui tới các bí tích có nhiều khả năng mang nhiều mừng vui và hy vọng cho những ai họ gặp gỡ. Đó là những đối thoại phong phú.
4/ Đối thoại bằng đời sống tham gia xây dựng lịch sử Đất Nước
Cũng như mọi nơi, tại Việt Nam, đạo và đời xen lẫn vào nhau. Người có đạo không tách mình ra khỏi đời. Trái lại, họ hân hoan tham gia vào việc xây dựng lịch sử Đất Nước. Tham gia bằng sự hiện diện tích cực và bằng những hoạt động tốt trong mọi lãnh vực, mà họ được làm và làm được. Trong tham gia, họ biết phân định thiện ác, phát triển điều thiện, đẩy lùi điều ác. Như vậy, nhờ đức tin, họ sẽ là những người khám phá những giá trị cao đẹp, cả ngay trong những chặng đường suy thoái và khó khăn nhất.
Đối thoại của họ với xã hội là chân thành. Họ được chấp nhận và kính trọng. Một đối thoại tế nhị sẽ có sức đưa tâm hồn người ta về với chân lý của Chúa.
Bốn cách đối thoại trên đây đang được thực hiện tại Việt Nam. Đối thoại thường xuyên, đối thoại khắp nơi, đối thoại thiết thực, đối thoại gần gũi.
Những đối thoại này vì thế phải được coi là rất quan trọng. Đây không phải là thời sự của vài ngày, nhưng là thời sự của suốt dòng lịch sử.
Tuy nhiên, tình hình hiện nay cho phép tôi nhìn cuộc đối thoại sắp tới giữa Tòa Thánh Vatican và Việt Nam là sự kiện quan trọng khác thường.
Chúng ta đợi chờ với tâm hồn cầu nguyện và lạc quan.
Mừng vui và hy vọng sẽ được truyền đi từ cuộc đối thoại lịch sử sắp tới.
Mừng vui và hy vọng cũng đã và đang được tỏa ra tại nhiều nơi từ những cuộc đối thoại chân thành thường xuyên giữa Đạo và Đời trên quê hương chúng ta.
Mọi đối thoại đều là dụng cụ của Chúa. Chúa mới là chính. Người dùng mọi sự để phát triển Nước Trời. Nước Trời gồm tất cả những ai yêu chuộng hòa bình, chân lý và yêu thương. Nước Trời phát triển một cách huyền nhiệm, không lệ thuộc vào thành tích, thống kê, dư luận và ý riêng của con người. Vì Chúa đối thoại với từng người trong thâm sâu tâm hồn họ.
Tự nhiên, tôi nghĩ đến những thân phận khổ đau xa gần. Họ đến gần bên Chúa. Chúa ở bên Bùi-Tuần 1991
“Tự nhiên, tôi nghĩ đến những thân phận khổ đau xa gần. Họ đến gần bên Chúa. Chúa ở bên họ. Chúa cùng đau khổ với họ”
Năm nay, trong Tuần Thánh, tôi được diễm phúc tham dự nghi thức đi đàng thánh giá. Nghi thức đã diễn ra tại Rôma đêm thứ Sáu (10.4.2009). Giờ Việt Nam là 5 giờ sáng thứ Bảy (11.4.2009). Tất nhiên tôi tham dự qua truyền hình trực tiếp. Hình ảnh và âm thanh rất rõ.
Trong bầu khí thầm lặng, tôi hiệp thông với Đức Thánh Cha và toàn thể dân Chúa quy tụ tại công trường Côliseô, để viếng đàng thánh giá.
Xin phép cho tôi được chia sẻ vài cảm nghĩ của tôi, sau khi tham dự.
1/ Huyền nhiệm vô hình
Tôi được thấy đám đông vô kể, gồm nhiều dân tộc và quốc gia, thuộc đủ mọi lứa tuổi và mọi thành phần trong Hội Thánh.
Tôi được thấy một đoàn nhỏ di chuyển theo cây thánh giá lớn. Mỗi chặng đàng có một người cầm cây thánh giá lớn ấy giơ cao lên.
Họ thay nhau cầm. Người ta có cảm tưởng họ tượng trưng cho các dân tộc trên thế giới và các thành phần khác nhau trong gia đình của Giáo hội.
Tôi được thấy Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Với bộ tóc bạc phơ, Ngài quỳ tại chỗ suốt hơn một tiếng rưỡi đồng hồ. Nét mặt chiêm niệm sâu, hai bàn tay chắp lại cung kính.
Tôi được nghe ở mỗi chặng đàng : một bài suy niệm nhỏ, một lời cầu nhỏ, một kinh Lạy Cha đọc chung, một bài hát về Mẹ sầu bi do ca đoàn đảm nhận.
Quang cảnh những gì tôi thấy và nghe là rất trang nghiêm. Nhưng tôi được thu hút nhiều hơn bởi một sức thiêng đằng sau quang cảnh đó.
Đức Thánh Cha quỳ lặng. Ngài ở giữa gia đình dân Chúa và trước mặt Chúa như một người phục vụ. Chính vì không như kẻ có quyền, nên uy của Ngài rất lớn. Uy của Ngài là do sự hiền lành, khiêm nhường, thánh thiện. Nhìn Ngài cầu nguyện, người ta không ngại quả quyết : Ngài đang gặp Chúa. Chúa ở với Ngài. Đó là một huyền nhiệm ở trong Ngài.
Còn dân Chúa, tuy rất đông và rất khác nhau về quốc tịch, văn hóa và chức vị, tuổi tác, nhưng họ sát bên nhau, liên kết với nhau. Họ coi nhau là con cùng một Cha trên trời. Vì thế, sức mạnh của họ là vô hình, huyền nhiệm.
Đi đàng thánh giá như thế không nói lên một Hội Thánh cơ chế, nhưng nói lên một Hội Thánh huyền nhiệm. Yếu tố chính làm nên huyền nhiệm, là Thiên Chúa ở giữa Hội Thánh.
2/ Thân phận con người
Những đề tài được gợi lên, để suy niệm trong 14 đàng thánh giá, đều liên quan đến thân phận con người.
Chúa Giêsu mang trên mình mọi thứ đau khổ của con người.
Chúa chịu chết đền tội cho loài người sa ngã.
Những gì là nhục nhã, là bất công, là phản bội, là vô ơn, mà người ta thường gặp trong chuyến đi cuộc đời, đều đã xảy ra cho Đức Kitô.
Người mang trọn thân phận con người. Chính vì thế, mà Người cũng rất nhạy cảm với những nâng đỡ ủi an do người đời mang lại.
Đêm đó, vị gợi ý suy niệm đã nêu lên ba chi tiết một cách chủ ý :
- Một là ông Simon vác đỡ thánh giá Chúa.
- Hai là các phụ nữ Giêrusalem khóc thương Chúa.
- Ba là Chúa Giêsu trối môn đệ Gioan cho Đức Mẹ và trối Đức Mẹ cho môn đệ Gioan.
Khi những chi tiết đó được nêu lên để suy niệm, tôi thấy tôi được gần gũi Chúa Giêsu. Bởi vì tôi cũng trong thân phận con người, rất lấy làm quý những đỡ nâng an ủi như vậy.
Nếu tôi không nhìn lầm, thì tôi đã thấy Đức Thánh Cha tỏ ra rất cảm động. Ngài cũng mang một thân phận con người cần được đỡ nâng.
Có một chi tiết nên nhắc tới ở đây là : Ở một chặng gần cuối, thánh giá đã được trao cho một người bệnh tật. Người này vừa di chuyển bằng xe lăn, vừa giơ cao cây thánh giá. Nhìn cảnh đó, nhiều người đã xót xa, mủi lòng, lấy khăn lau nước mắt.
Tự nhiên, tôi nghĩ đến những thân phận khổ đau xa gần. Họ đến gần bên Chúa. Chúa ở bên họ. Chúa cùng đau khổ với họ. Tôi cũng được chia sẻ đôi chút đau khổ của họ. Đau khổ là quê hương chung.
3/ Thánh giá và ngọn lửa hồng
Buổi viếng đàng thánh giá kéo dài một tiếng rưỡi. Trong đó hình ảnh được đài truyền hình chiếu nhiều lần nhất chính là thánh giá và ngọn lửa hồng.
Thánh giá là biểu tượng tình yêu cứu độ của Chúa giàu lòng thương xót. Ngọn lửa hồng là hình ảnh lửa tình yêu.
Một quy tụ rất đông. Không biểu ngữ, không khẩu hiệu, không đồng phục. Tất cả đều trong trật tự, trang nghiêm, thinh lặng sốt sắng. Ai nấy ra về, như ngọn lửa hồng. Họ ra đi với vinh dự của cây thánh giá. Bước nhỏ thôi, nhưng tất cả là tình yêu và cho tình yêu. Đời họ mang ý nghĩa cao đẹp. Lời chứng của họ chính là đời sống của họ. Đôi khi thinh lặng khiêm tốn cũng là một thứ lời nói truyền cảm.
Tôi tạ ơn Chúa đã dạy tôi nhiều điều trong buổi tham dự hiếm hoi này. Có những điều tôi chia sẻ được. Và có những điều tôi không chia sẻ được, do giới hạn của khả năng diễn tả.
Muốn đón nhận thì phải thực tâm muốn đón nhận, phải tha thiết khát khao đón nhận. Tiếp đến Bùi-Tuần 1992
Muốn đón nhận thì phải thực tâm muốn đón nhận, phải tha thiết khát khao đón nhận. Tiếp đến là phải thực hiện một số điều kiện. Ở đây tôi xin được nhắc đến ba điều kiện, mà Phúc Âm Tuần thánh đã ghi lại với những mức độ quan trọng khác nhau.
1/ CHÂN THÀNH SÁM HỐI
Chân thành sám hối là việc lành nổi bật nơi thánh Phêrô sau khi lỡ chối Thầy.
Chân thành sám hối cũng là việc lành nổi bật nơi kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa, sau khi ông nhận biết người bị đóng đinh bên mình là một Đấng Thánh cứu độ.
Hai nhân vật này đã sống trong những hoàn cảnh khác nhau. Nhưng cả hai đã gặp nhau ở điểm chung này là sám hối.
Cả hai đã nhận mình có tội.
Cả hai đã nhìn nhận tội là điều xấu, gây nên hậu quả tai hại. Nó là xúc phạm. Nó là xáo trộn. Nó là mất mát.
Cả hai đều khát khao được tha tội và tha hình phạt.
Cả hai cùng nhận thức sự thực này : Bỏ đàng tội lỗi và trở về đàng lành là điều khôn ngoan nhất, để đạt được hạnh phúc đời đời.
Cả hai lại đã thấy : Đấng có quyền cứu khỏi tội vạ chính là Chúa Giêsu giàu lòng thương xót.
Cả hai đều đã sám hối, cầu nguyện, van xin.
Tất cả những bước đi trên đây đã được thực hiện trong khiêm nhường, tự hạ, tự hối.
Như thế, sám hối mở rộng cửa lòng, để đón nhận tình yêu cứu độ. Hối nhân phạm tội, thì tình yêu cứu độ thứ tha. Hối nhân yếu đuối, thì tình yêu cứu độ nâng đỡ. Hối nhân sầu muộn, thì tình yêu cứu độ an ủi. Hối nhân bị thương tích, thì tình yêu cứu độ băng bó chữa lành.
Sám hối càng khiêm nhường sâu sắc, tình yêu cứu độ càng tràn vào lòng hối nhân một cách mạnh mẽ. Nhiều khi nhờ tình yêu cứu độ mà sám hối được đào sâu hơn. Lúc ấy, tâm hồn sám hối được chìm vào biển cả tình yêu Chúa. Họ cảm thấy sự mình được Chúa xót thương là một ơn nhưng không, trọng đại.
Bên cạnh sám hối chân thành là điều kiện tối quan trọng, Phúc Âm Tuần Thánh còn nêu lên sự chia sẻ khổ đau như một điều kiện hỗ trợ để đón nhận tình yêu cứu độ.
2/ CHIA SẺ KHỔ ĐAU
Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu tỏ ý muốn được các môn đệ Người chia sẻ nỗi cô đơn và những đớn đau của Người. Ý muốn đó đã được đáp ứng phần nào.
Trên đường vác thập giá đã có những phụ nữ khóc than Chúa, cũng đã có ông Simon vác đỡ thập giá cho Chúa. Đặc biệt là dưới chân thập giá khi Chúa bị treo lên, đã có một số người thân đứng đó trong thảm sầu chết lặng.
Hầu hết mọi chia sẻ trên đây đều diễn ra trong trái tim. Nhìn Chúa Giêsu bị nhục mạ, những trái tim ấy cảm thấy chính mình bị bầm dập, đâm chém.
Đáng để ý nhất là họ nếm được vị đắng của tình yêu Chúa. Yêu mà không được đáp lại. Yêu nhân loại nên muốn thăng tiến nhân loại, nhưng bao người chối từ thăng tiến. Yêu loài người, nên muốn đưa mọi người vào Nước Chúa là nước tình yêu, nhưng bao người vẫn chọn con đường hận thù dẫn xuống ngục tù dưới quyền những ác quỷ hận thù.
Sự vô cảm trước những khổ đau của Chúa là một cản trở khủng khiếp, không cho người ta đón nhận được tình yêu cứu độ.
Sự dửng dưng lạnh lùng trước những khổ đau của các người xung quanh cũng là một cách đóng chặt lòng mình, không đón nhận được tình yêu Chúa cứu độ.
Cho rằng hồi đó đa phần những người chứng kiến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã không biết Người là Thiên Chúa. Nhưng không phải vì thế mà họ được phép tham gia vào việc làm xỉ nhục, lăng mạ, khinh chê, nhạo báng Người.
Tham gia vào việc làm khổ người khác, dù họ là ai, đều là chống lại tình yêu thương xót Chúa. Trái lại, ai thương xót người khác, sẽ được Chúa xót thương.
Sau hết, Phúc Âm Tuần thánh còn nói đến một chi tiết hỗ trợ khác để đón nhận tình yêu cứu độ. Chi tiết đó là : Nhận trách nhiệm.
3/ NHẬN TRÁCH NHIỆM
Trên Núi Sọ, Chúa Giêsu trao trách nhiệm cho Đức Mẹ là hãy nhận Gioan làm con mình, đồng thời cũng trao trách nhiệm cho Gioan là hãy đón nhận Đức Mẹ làm mẹ mình.
Trước đó, trong bữa tiệc ly, Chúa trao trách nhiệm cho các môn đệ Người, là hãy thực thi giới răn mới tức là yêu thương nhau như Người đã yêu thương họ.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Nhận lãnh để rồi cho đi. Cho đi để được nhận lãnh. Trách nhiệm là thế.
Có tình yêu Chúa trong mình và khi cảm nhận được những gì tình yêu Chúa đã làm cho mình, người ta sẽ dễ chia sẻ tình yêu của Chúa cho người khác. Lúc ấy, tình yêu Chúa hướng dẫn tình yêu của ta, tình yêu của ta thuộc trọn về tình yêu Chúa và pha trộn vào đó.
Như vậy, yêu là một tiếng gọi. Tiếng gọi của trách nhiệm trong tình yêu luôn cao cả. Yêu người như Chúa yêu ta. Chúa yêu ta đến nỗi đã tự hạ bước xuống bậc thang thấp hèn nhất là chịu khổ hình nhục nhã đớn đau trên thánh giá. Khi ta yêu người, để tham gia vào chương trình Chúa cứu họ, ta cũng sẽ phải sẵn sàng bắt chước tình yêu Chúa đã dành cho ta.
Để kết, xin chia sẻ một lời nguyện cầu.
“Xin Chúa Giêsu cho con được ở trong trái tim Chúa. Một trái tim bị thương tích vì yêu thương cứu độ. Con tin được ở trong trái tim Chúa thì hơn ở giữa trăm ngàn thế giới phồn vinh.
Trong trái tim Chúa, con sám hối ăn năn.
Trong trái tim Chúa, con chia sẻ khổ đau của Chúa và của người khác.
Trong trái tim Chúa, con đón nhận trách nhiệm làm chứng cho tình yêu cứu độ của Chúa giàu lòng thương xót”.
Tôi coi mỗi biến cố đều là những dịp Chúa đến, ban ơn đổi mới: - Đổi mới bộ mặt Linh mục. - Đổi Bùi-Tuần 1993
Tôi coi mỗi biến cố đều là những dịp Chúa đến, ban ơn đổi mới:
- Đổi mới bộ mặt Linh mục.
- Đổi mới bộ mặt Tòa Thánh.
- Đổi mới bộ mặt thánh tử đạo Việt Nam.
Tại sao đổi mới ?
Thưa, bởi vì các bộ mặt ấy đã và đang có vấn đề.
Linh mục đang bị coi như một con người phức tạp.
Tòa Thánh đang bị coi như một quyền bính phức tạp.
Các thánh tử đạo Việt Nam đang bị coi như nhân vật phức tạp.
Phức tạp là vừa được khen và cũng vừa bị chê. Sự kiện phức tạp như thế tạo nên một bầu khí đang bị phong trào thế tục hóa lợi dụng.
Được khen hay bị chê không do nền tảng Phúc Âm và đức tin, mà do những biến chuyển của lịch sử Đạo Đời, trên một miền đất cụ thể là Việt Nam đầy chuyển biến.
Theo Phúc Âm và đức tin, thì linh mục luôn là đẹp. Nhưng trên thực tế, thì không luôn được thế.
Theo Phúc Âm và đức tin, thì Tòa Thánh luôn là đẹp. Nhưng trên thực tế, thì không luôn được thế.
Theo Phúc Âm và đức tin, thì thánh tử đạo Việt Nam luôn là đẹp. Nhưng trên thực tế, thì không luôn được thế.
Bởi đâu ? Chính vì Linh mục, Tòa Thánh, các thánh tử đạo Việt Nam đi vào lịch sử cụ thể của một đất nước cụ thể, của một giai đoạn cụ thể. Mà lịch sử thì chuyển biến phức tạp. Nên cái nhìn về Linh mục, về Tòa Thánh và về các thánh tử đạo Việt Nam đều bị lịch sử chi phối, như bất cứ yếu tố nào của lịch sử.
Vì thế, cái nhìn về Linh mục, Tòa Thánh và về các thánh tử đạo cần được đổi mới.
Tôi coi ba biến cố kể trên trong cả năm nay là những dịp Chúa ban ơn đổi mới một cách đặc biệt. Theo tôi, ơn đổi mới đã được Chúa ban cho Hội Thánh từ ít lâu nay qua làn gió đạo đức mới hướng về Thiên Chúa giàu lòng thương xót trong các bộ mặt mới. Phần ta, ta đón nhận ơn đổi mới và cộng tác vào ơn đổi mới ấy thế nào ?
2/ Đón nhận và cộng tác vào ơn đổi mới
Đón nhận và cộng tác bằng những cách sau đây:
a) Khao khát ơn đổi mới. Quý trọng ơn đổi mới. Sự vô cảm, sự dửng dưng là tảng đá lớn ngăn chặn ơn đổi mới.
b) Nhận ra ý Chúa muốn đổi mới như thế này:
Hình ảnh đẹp nhất và hợp thời nhất về Linh mục là: Linh mục được nhìn như môn đệ của lòng thương xót Chúa, biết đào tạo con chiên trở thành những người con của Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Hình ảnh đẹp nhất và hợp thời nhất về Tòa Thánh là : Tòa Thánh được nhìn như một người mẹ, phục vụ cho tình yêu thương xót Chúa giữa các dân tộc.
Hình ảnh đẹp nhất và hợp thời nhất về thánh tử đạo Việt Nam là : Thánh tử đạo Việt Nam được nhìn như một chứng nhân của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, đang mời gọi Hội Thánh Việt Nam trở thành chứng nhân của lòng thương xót Chúa giữa Việt Nam hôm nay.
c) Làm hết sức mình để những hình ảnh đẹp đó được thực hiện do cầu nguyện và có những hướng phục vụ mới.
3/ Tin Mừng hôm nay
Tôi coi những hình ảnh phản ánh tình yêu thương xót Chúa là những yếu tố của Tin Mừng hôm nay. Vừa hợp Phúc Âm, Công đồng, giáo huấn Tòa Thánh, vừa hợp tâm lý con người Việt Nam hôm nay.
Để đưa ra những hình ảnh như thế, chúng ta dựa trên những tài liệu chính đáng :
- Phúc Âm, những đoạn về thực thi liên đới yêu thương phục vụ.
- Công đồng Vatican II về “Hội Thánh giữa thế giới hôm nay”.
- Văn kiện Tòa Thánh mới nhất, tức bài diễn văn Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI về Việt Nam.
Bên cạnh phần lý thuyết, chúng ta làm chứng bằng thực tế đời sống đạo của chúng ta, và gương sáng người này nơi nọ.
Linh mục chúng ta, tu sĩ chúng ta, giáo dân chúng ta là chứng nhân của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Không phải chỉ làm chứng bằng sự rao giảng, bằng sự tôn sùng lòng thương xót Chúa, mà bằng chính con tim của ta và việc làm thái độ của ta. “Rượu mới trong bầu da mới” (Mt 9,17). Cần đào tạo con tim mới. Cần đào tạo thái độ mới.
Chúng ta cần loan báo Tin Mừng đó. Như Tin Mừng của hôm nay. Như một món quà đổi mới. Như một bàn tay hòa giải. Như một bước đi đồng hành với Chúa Thánh Thần. Như một hướng đào tạo mới. Như một dấn thân mới cho Nước Chúa giàu tình yêu thương xót.
Chúng ta nên đi về tương lai với tinh thần sám hối cầu nguyện và đổi mới đời sống”. Đang có Bùi-Tuần 1994
“Chúng ta nên đi về tương lai với tinh thần sám hối cầu nguyện và đổi mới đời sống”
Đang có một phong trào khen và tự khen. Thí dụ : Giáo xứ này có nhiều phát triển bền vững. Giáo phận kia có một sức sống trưởng thành vững mạnh. Giáo hội Việt Nam chúng tôi có một quá khứ và hiện tại sốt sắng, hào hùng, hứa hẹn một tương lai rực rỡ.
Tôi đón nhận những lời khen và tự khen như thế với lòng cảm phục. Nhưng không dừng lại ở đó. Tôi tự hỏi : Những bền vững tốt đẹp ấy có dám tự khẳng định là sẽ không bao giờ bị chuyển biến đến chỗ sa sút không ? Sự dè dặt và lo âu của tôi dựa trên lịch sử những Hội Thánh đó đây đã có một thời phồn thịnh.
1/ Một thoáng nhìn lịch sử
Hội Thánh xưa tại Israel và Palestin là nơi Chúa Giêsu đã sinh ra, đã rao giảng, đã làm phép lạ, đã chịu chết và đã sống lại. Hội Thánh đó có một nền tảng vững, một nguồn ơn phong phú. Nhưng nay đã bị lu mờ, trước sự tái sinh của Do Thái giáo và sự lan tràn của Hồi giáo.
Hội Thánh xưa tại Tiểu Á là đất hoạt động của thánh tông đồ Phaolô. Tiếp đó là quê hương của nhiều vị thánh giáo phụ như Inhaxiô thành Antiokia, Irênê, Basiliô, Grêgôriô thành Nixê và Grêgôriô thành Nazianxê. Đồng thời, đó cũng là nơi đã tập hợp nhiều công đồng nổi tiếng, như Nicea, Êphêsô, Constantinôpoli, Calcèdonia. Miền đất Công giáo phì nhiêu ấy nay đang là Hồi giáo. Công giáo chỉ là thiểu số khiêm tốn.
Hội Thánh xưa tại Ai Cập đã cung cấp cho Công giáo toàn cầu một nền thần học xuất sắc. Với các vị như Clêmentê, Ôrigênê, Athanasiô và Cyrillô. Huy hoàng đó nay còn gì đâu !
Hội Thánh xưa tại Phi châu đã thấy mọc lên từng trăm Tòa Giám mục, với từng trăm Giám mục sốt sắng, trong đó có thánh Augustinh và Cyprianô. Miền đất có thời là toàn tòng Công giáo ấy nay chỉ là kỷ niệm đẹp, còn thực tế đang là nơi phát triển một Hồi giáo phồn vinh.
Hội Thánh xưa tại Âu châu đã có một thời Công giáo sầm uất sốt sắng, với số người đi lễ gần trăm phần trăm. Nhưng nay phong trào thế tục đã làm giảm số người giữ đạo xuống một cách thê thảm.
Tình hình trên đây có vẻ đúng như lời Chúa Giêsu đã phán xưa : “Khi Con Người trở lại, liệu Ngài còn tìm được đức tin trên trái đất này không ?” (Lc 18,8).
2/ Nên áp dụng đúng
Một thoáng nhìn trên đây về lịch sử cho phép tôi nghĩ rằng : Lời Chúa hứa về sự trường tồn cho Hội Thánh phải luôn luôn đúng. Nhưng Chúa hứa cho Hội Thánh toàn cầu, chứ không hứa cho các hội thánh tại địa phương.
Các cửa hỏa ngục chắc chắn không thể làm gì nổi Hội Thánh xây dựng trên nền tảng Phêrô (x. Mt 16,18). Lời hứa đó có giá trị đời đời cho Hội Thánh toàn cầu.
“Ta sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Lời hứa đó là bảo đảm không hề lay chuyển. Nghĩa là Hội Thánh toàn cầu sẽ tồn tại như lời Chúa hứa. Nhưng, không được áp dụng lời hứa đó vào một giáo hội địa phương.
Sự dè dặt trên đây giúp chúng ta khiêm tốn và tỉnh thức. Hội Thánh Việt Nam ta, giáo phận ta, giáo xứ ta luôn phải bám chặt vào ơn thánh Chúa. Đừng tự hào vịn vào những gì thế gian coi là hùng mạnh, vững bền. Đức tin cũng không theo cha truyền con nối.
Nhận mình là yếu, đâu có gì phải xấu hổ. Hãy nhớ lại lời thánh Phaolô “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9-10).
Luôn có những cám dỗ xúi ta tự hào theo kiểu thế gian. Những thách đố đó được hình thành trong các trào lưu kinh tế, văn hóa, chính trị. Nhưng không phải cái gì đúng ở các lĩnh vực ấy, cũng được áp dụng trong lĩnh vực đạo đức của đức tin Công giáo.
Phúc Âm kể lại : “Nhân mấy người nói về đền thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo : Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21,5-6).
Tôi suy gẫm lời Chúa phán trên, rồi tự nhiên liên tưởng tới những cơ sở và tổ chức hoành tráng của Hội Thánh Việt Nam, nơi này nơi nọ. Và tôi cầu nguyện trong niềm cậy trông phó thác với tinh thần tỉnh thức khiêm nhường, vâng phục thánh ý Chúa.
Những tồi tệ có thể còn xa. Nhưng xa không có nghĩa là sẽ không thể xảy ra. Chúng ta nên đi về tương lai với tinh thần sám hối cầu nguyện và đổi mới đời sống; vâng lời Chúa mà đi vào đàng hẹp một cách thong dong, không để áp lực xấu nào chi phối.
Vì thế, chúng ta sẽ suy gẫm lời đó. Hiểu về tiên tri Gioan thời đó, cũng sẽ là cách hiểu về sự Bùi-Tuần 1995
Vì thế, chúng ta sẽ suy gẫm lời đó.
Hiểu về tiên tri Gioan thời đó, cũng sẽ là cách hiểu về sự được chia sẻ ơn tiên tri thời nay.
Thời đó, Gioan đã thực thi ơn tiên tri thế nào ?
a) Thưa, trước hết Ngài thực thi ơn tiên tri bằng cách loan truyền cái nhìn của Chúa và ý định của Chúa về tình hình lúc đó.
Tình hình lúc đó bề ngoài coi như ổn định. Nhưng Gioan được ơn Chúa, đã loan báo rằng : Chúa nhìn tình hình đó một cách khác. Đó là một tình hình có nhiều tội lỗi. Tội lỗi phát triển đều khắp, bề rộng và bề sâu. Đó là một tình hình nguy hiểm.
Ý định của Chúa là người ta phải nhận thức về tội lỗi mình, phải sám hối ăn năn về tội lỗi mình. Hơn nữa, người ta phải sẵn sàng đón nhận Đức Kitô. Người là Đấng Cứu Thế. Gioan giới thiệu Chúa Giêsu thế này : “Đây là Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29).
Nếu không sám hối, người ta sẽ không tránh được hình phạt nặng nề. Thánh Gioan cho thấy hình phạt nặng nề đó đang tới. Như cái rìu đã kề sát cây không sinh trái (x. Mt 3,10).
b) Loan báo những sự thực trên là điều cần. Nhưng chưa đủ. Thánh Gioan đã thực thi ơn tiên tri bằng một bước nữa. Đó là đi trước mặt Chúa (x. Lc 1,76).
Đi trước mặt Chúa là phải rất mực khiêm nhường. Thánh Gioan nói: “Tôi không đáng cởi quai giầy của Người” (Lc 3,36).
Đi trước mặt Chúa còn là tập trung đề cao Chúa Cứu Thế : “Người phải nổi bật, còn tôi thì phải lu mờ” (Ga 3,30).
Đi trước mặt Chúa là biết tỉnh thức nhận ra Chúa và giới thiệu Chúa, cho dù Chúa đến dưới hình thức nào, kể cả dưới hình thức kẻ tội lỗi. Như xưa Chúa Giêsu đã đến với Gioan dưới hình thức một người sám hối, xin Gioan làm phép rửa (x. Mt 3,13).
c) Đi trước mặt Chúa và loan truyền ý Chúa đã là những nét đẹp của tiên tri Gioan. Tuy nhiên, Gioan còn thực thi ơn tiên tri bằng một việc nữa, đó là giới thiệu cái hồn tiên tri của Ngài được đào tạo trong sa mạc. “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc” (Ga 1,23).
Trong Cựu Ước và Tân Ước, sa mạc thường được hiểu là nơi thanh vắng. Tại đó, người ta cầu nguyện, suy niệm, lắng nghe lời Chúa và thờ phượng Chúa.
Thánh Gioan đã được đào tạo nhiều năm trong sa mạc mang những ý nghĩa thiêng liêng đó.
Từ sa mạc như vậy, Gioan nhận được ơn Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần ở trong Ngài, giúp cho Ngài có những lời nói đúng ý Chúa, và giúp cho Ngài có những tâm tư và thái độ của người đi trước mặt Chúa.
Đến đây, chúng ta dễ thấy nơi thánh Gioan, tiên tri của Đấng Tối Cao :
- Có một sự sâu sắc trong loan báo,
- Có một sự khiêm nhường và tỉnh thức trong việc đi trước mặt Chúa,
- Có một sự trầm lắng của nội tâm được đào tạo trong sa mạc.
Thánh Gioan đã thực hiện ơn tiên tri cho thời đó. Thiết tưởng ơn tiên tri vẫn được Chúa tiếp tục ban cho Hội Thánh, hoặc qua cá nhân, hoặc qua tập thể, hoặc qua cơ chế. Kẻ nhiều người ít. Hoặc cách này hoặc cách khác.
Tình hình hiện nay là rất đáng ngại. Bởi vì đạo đức xuống cấp. Rất nhiều người mất ý thức về tội. Hoặc biết là có tội, mà không sám hối. Tội lỗi kéo theo hình phạt, đó là điều không tránh được.
Kính xin thánh Gioan Baotixita cầu nguyện cho chúng ta được biết đón nhận và được thực thi ơn tiên tri. Quê hương Việt Nam chúng ta đang rất cần những hình ảnh sống động của thánh Gioan Baotixita, tiên tri của Đấng Tối Cao.
“Tại Hội Thánh Việt Nam hôm nay, việc phát triển những giá trị tích cực vẫn tiếp tục mạnh, tuy dù đó đây những tiêu cực vẫn như muốn kiến trúc nhiều cơ sở vững bền.”
Nhiều cộng đoàn đức tin tại Việt Nam đang phát triển. Có phát triển tốt và có phát triển xấu. Trong phát triển xấu nên nói tới vài điều sau đây.
1/ Những tệ nạn
Tệ nạn trong cộng đoàn là chuyện xưa và nay.
Thời các thánh tông đồ, sử sách ghi lại một chuỗi dài những tệ nạn. Trong thư gởi môn đệ Timôthê, thánh Phaolô viết : “Anh hãy biết điều này : Vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Quả thế, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tán nhảm, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa, hình thức đạo thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ. Anh hãy xa lánh những người ấy” (2 Tm 3,1-5). Thuở xưa là như vậy. Thời nay cũng vẫn thế thôi, mặc dù có đôi chút tân trang. Thêm vào đó là những tệ nạn hoàn toàn mới, rải rác đó đây như : đua đòi, buôn thần bán thánh, chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa cục bộ, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa tục hóa, phong trào phô trương thành tích, phong trào sống theo khẩu hiệu.
Có những tệ nạn rõ mặt. Có những tệ nạn giấu mặt. Chúng như những thứ cỏ dại mọc chen vào lúa trong cánh đồng tôn giáo.
Bên cạnh những tệ nạn là những thói đời.
2/ Những thói đời
Thánh Phaolô khuyên giáo đoàn Rôma : “Anh em đừng rập theo thói đời này” (Rm 12,2).
Tôi hiểu thói đời này là một cách nói hơi tiêu cực về một số thói quen xã hội. Thí dụ một số cách ăn mặc, một số cách nói năng, một số cách đãi đằng, một số cách biểu lộ niềm vui, một số cách giải trí, một số cách đối xử.
Đáng lẽ, những thói đời đó phải dừng lại ở ngưỡng cửa đời tu. Nhưng nhiều nơi chúng đã vượt qua và được đón nhận.
Đáng lẽ, những thói đời đó phải dừng lại ở cửa nhà thờ. Nhưng nhiều nơi chúng đã vượt qua, đi vào trong nhà thờ, thậm chí đi lên cả tới cung thánh.
Những cảnh như vậy đã làm mất vẻ đẹp thiêng liêng của đời tu, của nhà thờ và của cung thánh. Giữa thói đời và thói đạo hình như không còn ranh giới. Từ thực tế đó, lương tâm con người dễ đi dần vào thói quen tự cho phép mình làm bất cứ sự gì mình thích, không thấy cần phân biệt cái gì tốt nên chọn, cái gì xấu nên tránh.
Tệ nạn và thói đời có lúc như những bùng nổ. Nghĩa là chúng có sức mạnh khác thường. Nhìn cảnh đó, linh mục rất xót xa, nhưng không vội kết án ai, kẻo kết án người lại là kết án chính mình.
3/ Phải làm gì ?
Thường linh mục biết ba điều này :
Một là ảnh hưởng của tiêu cực trên đời sống con người có đạo rất sâu xa. Nó sẽ thay đổi con người, từ phong hóa, tính tình đến đức tin.
Hai là tẩy rửa mình khỏi ảnh hưởng những tiêu cực là chuyện không dễ.
Ba là nếu tiêu cực vẫn tồn tại trong con người, thì không có nghĩa là linh mục sẽ không làm gì. Ngài vẫn chống tiêu cực với kinh nghiệm tu đức.
Kinh nghiệm cho thấy: Đẩy lùi các tiêu cực sẽ phải thực hiện liên tục một cách khôn ngoan và kiên trì. Đang khi đó phải vun trồng và phát triển những gì là tích cực. Bởi vì, một đàng, nếu đối phó với các tiêu cực một cách không khéo, thì tiêu cực có thể sẽ mạnh thêm, có khi lại làm nảy sinh ra những tiêu cực mới. Đàng khác, nếu con người chỉ lo tránh các tiêu cực mà không phát triển những giá trị tích cực, thì sẽ không thể gọi được là tiến triển. Rất nhiều trường hợp những giá trị tích cực, khi mạnh lên, sẽ làm yếu đi những cái tiêu cực.
Tại Hội Thánh Việt Nam hôm nay, việc phát triển những giá trị tích cực vẫn tiếp tục mạnh, tuy dù đó đây những tiêu cực vẫn như muốn kiến trúc nhiều cơ sở vững bền.
Vì thế, đối với phần đông linh mục, các tiêu cực trong đạo, như các tệ đoan và những thói đời, vẫn mãi là những thách đố lớn.
Với lòng khiêm nhường và tinh thần khó nghèo, linh mục sẽ cộng tác với Chúa, để giải quyết những thách đố ấy. Không đợi chờ ở sức riêng mình, linh mục chỉ trông đợi mọi sự nơi tình yêu thương xót Chúa. Người sẽ không nỡ bỏ rơi những tâm hồn sám hối trở về.
Trong cậy trông và sám hối, linh mục sẽ không quên thực hiện lời khuyên của thánh Phêrô: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8).
Linh mục cũng luôn nhớ lời dặn dò của thánh Gioan : “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, hãy tránh xa các tà thần” (1 Ga 5,21).
Như thế, trong tiêu cực có hoạt động của ma quỷ, tà thần.
Tuần Năm linh mục, xin chia sẻ đôi chút suy nghĩ về linh mục trước vấn đề tội lỗi. Chia sẻ này Bùi-Tuần 1997
Tuần Năm linh mục, xin chia sẻ đôi chút suy nghĩ về linh mục trước vấn đề tội lỗi. Chia sẻ này là một mời gọi hồi tâm. Một hồi tâm khiêm nhường. Một hồi tâm khát khao Chúa.
Phong trào hưởng thụ tạo ra khát vọng. Nó dần dần xúi người ta nghĩ rằng: Cái gì đem lại khoái lạc đều được phép dễ dàng. Không cần xét cái đó là hợp đạo đức hay không.
1/ Giúp con người bỏi đàng tội là một bổn phận quan trọng của Linh mục
Tội lỗi là một thực tế đau buồn. Mọi tôn giáo đều nhắm mục đích giúp con người bỏ đàng tội.
Riêng Kitô giáo, mục đích đó được thực hiện một cách đặc biệt. Đó là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, để cứu nhân loại khỏi xiềng xích tội lỗi.
Trong chương trình cứu độ, Đức Kitô đã lập phép Bí tích Truyền Chức Thánh. Người trao cho Linh mục bổn phận cứu con người khỏi tội.
Vì thế, món nợ của Linh mục đối với Chúa là phải làm hết sức mình để cứu đoàn chiên khỏi tội.
Vinh quang của Linh mục là được chia sẻ vinh quang của Đức Mẹ và các thánh, là những đấng đã cộng tác với Đức Kitô trong việc cứu con người khỏi tội.
Chúa phán với tiên tri Edêkiel : “Edêkiel, Ta đã đặt ngươi làm kẻ canh thức Israel. Nếu ngươi không khuyến cáo các người ác bỏ đàng tội, thì nó sẽ phải chết. Nhưng Ta sẽ hỏi tội ngươi về máu nó đã đổ ra” (Ed 3,17-18).
Thiết tưởng Chúa cũng nói tương tự với từng Linh mục như thế. Về vấn đề này, người đời có trách nhiệm một, thì Linh mục có trách nhiệm mười.
Trong thánh lễ, Linh mục đọc lời truyền phép : “Đây là chén Máu Thầy... sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”. Để nhiều người được tha tội, Đức Kitô đã đổ máu ra. Để con chiên được tha tội, Linh mục cũng phải tham gia vào máu cứu chuộc của Đức Kitô bằng những hy sinh đời mình. Có nghĩa là Linh mục có bổn phận cứu người ta khỏi tội, không phải chỉ bằng phép giải tội, mà còn bằng những khổ hạnh đời tu của mình, bằng gương sáng sám hối của mình.
2/ Tình hình con người thời nay trước vấn đề tội
Tình hình con người thời nay trước vấn đề tội phải nhận là rất phức tạp. Chỉ xin nêu lên vắn tắt một số đặc điểm :
a) Hiện nay, phong trào hưởng thủ tạo ra khát vọng tìm khoái lạc. Nó dần dần xúi người ta nghĩ rằng : Cái gì đem lại khoái lạc đều được phép dễ dàng. Không cần xét cái đó là hợp đạo đức hay không.
b) Hiện nay, phong trào tự mãn tạo ra một thái độ lẩn tránh sự biết mình, dù mình đầy tội. Thánh Gioan viết : “Anh sáng đã đến trong thế gian. Nhưng người ta ưa thích tội lỗi hơn ánh sáng, bởi vì các việc của họ đều xấu. Ai làm sự xấu thì ghét ánh sáng, và không đến từ ánh sáng, vì sợ các việc của mình bị lộ ra” (Ga 3,19-20).
c) Hiện nay, phong trào cá nhân chủ nghĩa dễ tạo nên một thái độ tự bảo vệ với bất cứ giá nào. Do đó, người ta thích đổ lỗi cho người khác hơn là khiêm tốn nhận lỗi về mình.
d) Hiện nay, phong trào tục hóa tạo nên một tâm thức mới về tội, đó là tội chỉ là việc xúc phạm đến người khác, chứ không có quy chiếu nào về Chúa. Do đó, xưa, tội được hiểu là cái gì làm dơ bẩn tâm hồn trước Chúa, cần phải xin Chúa thứ tha. Còn nay, tội thường được hiểu là cái gì làm hư mối tương quan với người khác, nên cần phải hòa giải với con người mà thôi.
e) Hiện nay, phong trào trốn tránh trách nhiệm khá mạnh. Nó tạo ra một tâm thức sai : Nghĩa là tội được tha, thế là xong. Còn việc đền tội và sửa lại những hậu quả của tội, thì không lo tới, đang khi nó là trách nhiệm lớn.
f) Hiện nay, phong trào mục đích và phương tiện che giấu nhau đang dâng cao. Mục đích xấu được che giấu bằng phương tiện tốt. Phương tiện xấu được biện minh bằng mục đích tốt. Có những thứ ngụy trang tinh vi.
g) Hiện nay, có nhiều yếu tố tinh vi trói buộc con người vào ngục tù tội lỗi. Tự mình, con người xem ra không thể cởi gỡ được.
Những chuyển biến lịch sử cho thấy có sự giảm bớt một số tội dữ dằn, nhưng lại nảy nở một số tội mới tinh vi. Theo tôi, tội nặng nhất thời nay là chối từ hy vọng vào tình yêu của Chúa.
Vì thế, có một điều có thể nói, mà không sợ lầm, đó là tội lỗi vẫn tồn tại một cách khủng khiếp. Đức Mẹ khi hiện ra ở Fatima đã nói rõ điều đó. Linh mục cũng thấy thực tế hiểm nguy ấy, biết đâu nơi ngay chính mình. Không ít người vẫn coi tội lỗi như là quê hương.
Trước tình hình như thế, Linh mục giúp con người bỏ đàng tội bằng cách nào ?
3/ Bỏ đàng tội thì phải thế nào?
Những việc sau đây sẽ làm nên một bầu khí trở về.
- Nhờ ơn Chúa, ta biết nhìn nhận mình là kẻ cần được phúc âm hóa, từ lý trí, ý chí, tình cảm, cho đến cách phán đoán, cách nhìn, cách ứng xử.
- Nhờ ơn Chúa, ta biết ăn năn sám hối thực sự tận đáy lòng.
- Nhờ ơn Chúa, ta biết chấp nhận đổi mới mình, bắt đầu từ những việc nhỏ.
- Nhờ ơn Chúa, ta biết xưng mình không phải là những người không phạm tội, nhưng chỉ là những người tội lỗi được Chúa thứ tha. Vì thế mà chúng ta rất thương những người tội lỗi.
- Nhờ ơn Chúa, ta biết cảm ơn những người tội lỗi đã trở về với Chúa, nêu gương sáng cho ta về tình Chúa xót thương vô hạn.
Tôi nói “nhờ ơn Chúa” là muốn nói lên sự khiêm nhường cậy vào ơn Chúa. Chính sự khiêm nhường cũng đã là một ơn Chúa. Khiêm nhường có thể coi được là nền tảng của sự bỏ đàng tội trở về đàng lành. Lúc đó, Chúa sẽ ban cho chúng ta một trái tim mới và một tinh thần mới: “Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới. Ta sẽ đặt vào các ngươi một tinh thần mới” (Ed 36,26-30).
Bỏ đàng tội là việc không dễ dàng. Rất khó, mà lại rất quan trọng. Có thể nói là hết sức quan trọng. Vì thế rất cần khiêm nhường cầu nguyện tha thiết kiên trì.
Lạy Chúa, Chúa là Đấng cứu độ, xin thương xót chúng con.
Đầu năm 2014, tôi xin thân ái cầu chúc cho mọi gia đình được hạnh phúc. Thế nào là hạnh phúc Bùi-Tuần 1998
1. Đầu năm 2014, tôi xin thân ái cầu chúc cho mọi gia đình được hạnh phúc.
Thế nào là hạnh phúc gia đình?
Tôi xin mạo muội diễn tả theo những hiểu biết có giới hạn của tôi.
Khi nói về hạnh phúc gia đình, tôi hiểu về gia đình máu thịt, và cũng hiểu rộng về các gia đình thiêng liêng, đó là các cộng đoàn gồm những người sống chung với nhau theo lý tưởng Phúc Âm.
Tôi đã được sống trong gia đình máu thịt, gồm cha mẹ, anh chị em, ông bà, họ hàng.
Tôi đã được sống trong nhiều gia đình thiêng liêng, như gia đình linh tông, gia đình chủng viện, gia đình giáo xứ, v.v…
Ở bất cứ gia đình nào nói trên, tôi cũng đều nếm được ít nhiều hạnh phúc. Mỗi nơi đã cho tôi một hạnh phúc riêng. Nhưng tất cả đều là kết quả của một số yếu tố nhất định. Tôi xin tạm nêu lên ba yếu tố sau đây:
- Quy tụ gia đình. - Lễ giáo gia đình. - Tình nghĩa gia đình.
Tôi xin khai triển vắn tắt từng yếu tố.
2. Thứ nhất là quy tụ gia đình.
Quy tụ là họp mặt, là gặp nhau, là nói chuyện với nhau, là gần gũi nhau, là chia sẻ với nhau.
Quy tụ gia đình làm nên một bầu khí ấm áp thiêng liê
hạnh phúc gia đình
Trong mọi quy tụ gia đình mà tôi được tham dự, tôi đều có cảm tưởng được hưởng một chút ít bầu khí đạo đức của các cộng đoàn tín hữu đầu tiên, mà sách Tông đồ Công vụ đã tả: “Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42).
Nghĩa là trong mọi quy tụ đều có cầu nguyện, Lời Chúa và chia sẻ. Ba việc đó được thực hiện một cách nhẹ nhàng, linh động, nhưng có chất lượng.
Có thể nói, mọi quy tụ gia đình, dù thường ngày, dù bất thường, đều mang bầu khí đạo đức, có ánh sáng của đức tin và có hương thơm của đức ái.
Quy tụ gia đình như thế sẽ có Chúa hiện diện. Nhờ có Chúa hiện diện, gia đình sẽ biết phân định điều gì là tốt cần làm, điều gì là xấu cần tránh, nhất là trong tình hình hiện nay tốt xấu lẫn lộn một cách quá phức tạp.
Muốn cho quy tụ có đậm tính cách gia đình, thiết tưởng nên thực hiện quy tụ với quy mô nhỏ. Trong quy tụ gia đình với quy mô nhỏ, Chúa sẽ dạy tôi về sự cộng tác của mỗi người với ơn Chúa ban cho mình. Phải rất khiêm nhường. Nếu thiếu khiêm nhường, thì phải hết sức sửa mình về điểm đó, kẻo sẽ đổ vỡ hết.
Đúng là phải rất khiêm nhường, để có thể đón nhận những lời phê phán thẳng thắn của Đức Thánh Cha Phanxicô về các quy tụ gia đình thiêng liêng thuộc hàng giáo sĩ và tu sĩ hiện nay. Ngài cho là có dấu hiệu “bệnh hoạn” ở nhiều nơi. Tôi liên tưởng đến nhiều quy tụ gia đình Công giáo ở ngoài đời. Nhiều nơi cũng có dấu hiệu “bệnh hoạn”. Bởi vì quy tụ mà không còn tin nhau, không vì mục đích tốt, nhất là quy tụ mà không có Chúa hiện diện.
3. Thứ hai là lễ giáo gia đình.
Lễ giáo là nghi lễ và giáo dục gia đình. Gia đình là một cộng đoàn, một đời sống chung của những con người. Họ có những dây liên đới đối với nhau. Nên cần phải có những hình thức thể hiện những dây liên đới đó. Do vậy, mà phải được giáo dục, để có được lối sống liên đới tốt đẹp, trong trật tự.
Liên đới thấp nhất thuộc nhân bản của cộng đoàn là biết diễn tả sự gần gũi nhau và có trách nhiệm đối với nhau.
Biết siêng năng và lương thiện làm hết sức mình, để góp phần vào việc xây dựng hạnh phúc chung gia đình, đó là nét đẹp căn bản của lễ giáo gia đình.
Biết chào kính, chào thăm, chào hỏi, với nhiều hình thức, là một nghi lễ đơn sơ chứng tỏ con người có giáo dục gia đình.
Biết cảm ơn, biết xin lỗi cũng là những điều lễ phép thô sơ của con người có giáo dục trong cộng đoàn.
Biết kính trên nhường dưới cũng là một biểu hiện lễ phép của nền giáo dục liên đới.
Biết sống chân thành và trung thành trong các liên đới gia đình cũng là một giá trị của con người có giáo dục gia đình.
Với vài chi tiết trên đây, tôi nhìn lễ giáo gia đình hiện nay. Rất vui là lễ giáo ấy vẫn còn được bảo vệ trong nhiều gia đình.
Nhưng cũng phải rất buồn mà nhìn nhận sự xuống dốc của lễ giáo tại nhiều gia đình. Nếu không sửa lại, thì không tránh được thảm họa sẽ xảy ra cho hạnh phúc gia đình. Tất nhiên việc sửa lại sẽ không dễ dàng, nhưng phải cố gắng làm hết sức mình, đó là mệnh lệnh lương tâm nơi mỗi người có trách nhiệm.
4. Thứ ba là tình nghĩa gia đình.
Theo tôi, tình nghĩa gia đình là một giá trị không có sẵn, nhưng nó cần được vun trồng, cần được chăm sóc, cần được xây dựng với những tình tiết nhỏ.
Để dễ hiểu, tôi thường suy gẫm dụ ngôn người Samari tốt lành mà Chúa Giêsu đưa ra để gọi họ là người thân cận đích thực.
“Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết.
Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi.
Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngay chỗ người ấy, cũng thấy, ông chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy lên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác… Và Chúa Giêsu kết luận: Người Samari này chính là kẻ thân cận, vì ông có lòng thương xót đối với người ấy” (Lc 10,30-37).
Bài dụ ngôn trên đây của Chúa Giêsu cho phép tôi nghĩ rằng: Người tình nghĩa đích thực của tôi là người biết xót thương tôi như người Samari đó. Cũng như tôi, muốn là người tình nghĩa đích thực của ai, thì cũng hãy biết xót thương họ như người Samari đó.
Xót thương với những tình tiết nhỏ. Như người Samari đó, đoán được sự đau đớn của người ta, dừng lại, xuống lừa, đổ dầu và rượu vào vết thương, băng bó, đưa về nhà trọ, trả tiền thuốc men…
Xót thương với những tình tiết nhỏ, đó là cách xây dựng và chăm sóc tình nghĩa, nhất là tình nghĩa gia đình.
5. Tới đây, tôi xin phép được kết luận thế này: Hạnh phúc gia đình là một kho tàng, chúng ta phải xây dựng với nhiều phấn đấu.
Riêng về tình nghĩa gia đình, chúng ta chỉ có được một cách đích thực bằng tấm lòng bén nhạy và giàu tình xót thương với những tình tiết nhỏ, do trực giác đạo đức hơn là do lý luận.
Hạnh phúc gia đình là một thực tế mong manh. Xin Chúa thương giúp chúng ta biết sống thực tế ấy với lòng cảm tạ khiêm cung và phó thác nơi Chúa giàu lòng thương xót.
Xin các gia đình, dù gần dù xa, cũng hãy thương cầu nguyện cho tôi. Xin hết lòng cảm ơn.
Nói về Đức Mẹ Maria sẽ không bao giờ đủ. Nhiều vị thánh đã quả quyết như vậy. Nghĩa là Đức Bùi-Tuần 1999
1. Nói về Đức Mẹ Maria sẽ không bao giờ đủ. Nhiều vị thánh đã quả quyết như vậy.
Nghĩa là Đức Mẹ có rất nhiều điều tốt đẹp. Kể ra sẽ không bao giờ hết. Ca ngợi sẽ không bao giờ cùng.
Nhưng không vì thế, mà sẽ không kể ra và sẽ không ca ngợi về Mẹ. Thiết nghĩ kể ra và ca ngợi về Mẹ là bổn phận và là vinh dự của mọi người con Đức Mẹ. Nói cho đúng, đó chính là niềm vui của những ai đã được gặp Đức Mẹ.
2. Gặp Đức Mẹ không có nghĩa là đã được nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra với mình, nhưng là hiện diện trước Đức Mẹ nhờ đức tin.
Khi tôi cầu nguyện với Đức Mẹ, dù có ảnh tượng Đức Mẹ, dù không có, việc quan trọng nhất tôi cần làm là tôi hiện diện trước Đức Mẹ. Mắt tôi không được nhìn Đức Mẹ, nhưng đức tin của tôi được thấy Đức Mẹ.
3. Đức Mẹ có nhiều vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp lôi cuốn tôi mạnh nhất, chính là cái nhìn của Mẹ, đặc biệt là khi Đức Mẹ nhìn tôi.
Khi tôi gặp được cái nhìn của Mẹ đang nhìn tôi, tôi như quên đi tất cả những gì là tôi, mà như bị cuốn hút vào cái nhìn của Mẹ.
4. Nhìn Mẹ đang nhìn tôi, tôi cảm thấy vui sướng vô vàn. Không gì vui sướng bằng cảm thấy mình được yêu thương do lòng nhân ái bao la của người Mẹ trên trời.
Lòng nhân ái ấy mênh mông như trời cao, như biển cả, đầy ân sủng của Chúa.
Lòng nhân ái ấy linh thiêng như mang tình yêu Thiên Chúa đổi mới nhân loại dưới mọi hình thức.
Lòng nhân ái ấy như một quà tặng của Thiên Chúa, để các người con Chúa có sức cộng tác vào chương trình xây dựng Nước Trời giữa lịch sử hôm nay.
5. Cái nhìn của Mẹ nhìn tôi, coi như xa, mà rất gần gũi. Sự gần gũi ấy cho phép tôi thấy rõ hơn nhiều cái đẹp thiêng liêng ẩn tàng trong lòng nhân ái của Mẹ.
6. Trước hết là sự khiêm nhường của Mẹ.
Sự khiêm nhường của Mẹ là nhận thức mình chẳng là gì, tất cả những gì tốt đẹp Mẹ có đều do Chúa đoái nhìn đến thân phận hèn mọn của Mẹ.
Sự khiêm nhường của Mẹ là tinh thần “xin vâng” tuyệt đối của Mẹ. Xin vâng từ bỏ ý riêng. Xin vâng dấn thân vào những gì Chúa muốn Mẹ cộng tác vào.
Sự khiêm nhường của Mẹ là sự Mẹ vững tin vào những gì Chúa hứa, cho dù tình hình đầy tăm tối, coi như tuyệt vọng.
Sự khiêm nhường của Mẹ là sự Mẹ kiên nhẫn chờ đợi sự trưởng thành thiêng liêng qua nhiều chặng đường thử thách.
Sự khiêm nhường của Mẹ là sự Mẹ vui lòng làm những việc lành nhỏ, chịu đựng những hy sinh âm thầm.
Sự khiêm nhường của Mẹ là một vẻ đẹp kín đáo, mà hấp dẫn. Vẻ đẹp đó không nói, nhưng thực sự lại nói rất nhiều về Chúa.
7. Bên cạnh sự khiêm nhường là sự xót thương trong lòng nhân ái của Mẹ.
Sự xót thương của Mẹ được nhận ra rõ nhất, khi Mẹ đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu. Vì xót thương nhân loại lầm lỗi, Mẹ đã vui lòng cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa Giêsu. Chịu nhục nhã, chịu xếp vào loại có con phải tử hình. Mẹ chịu như vậy, là để cùng với Chúa Giêsu gánh tội cho nhân loại tội lỗi, là để đền tội thay cho tất cả những kẻ xúc phạm đến Thiên Chúa.
Khi được nhìn thấy sự xót thương của Mẹ qua mầu nhiệm thánh giá, tôi thấy xót thương ấy là một vẻ đẹp có sức cứu chuộc, mà tôi rất cần.
8. Khi nhìn cái nhìn Mẹ nhìn tôi, mà thấy được phần nào sự khiêm nhường và xót thương của Mẹ, tôi tự nhiên cảm thấy trong mình nẩy ra nhiều ước muốn. Trong đó, một ước muốn coi như mạnh nhất, đó là ước muốn được ở bên Mẹ mãi mãi.
Tôi nói với Mẹ ước muốn đó của tôi. Như để trả lời, Mẹ dặn dò tôi bằng lời Chúa Giêsu xưa đã nói với các môn đệ của Người: “Các con hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9).
Tôi hiểu sự ở lại ám chỉ một thời gian kéo dài. Tôi cũng hiểu sự ở lại trong tình thương là một mời gọi phải có những phấn đấu và những sáng kiến do tình yêu. Có như vậy, sự Mẹ ở bên tôi sẽ mãi mãi là gặp gỡ yêu thương dưới nhiều hình thức, cùng nhau làm cho lịch sử của tôi thành một lịch sử của tình yêu.
9. Chia sẻ vắn tắt của tôi trên đây cho thấy nhìn cái nhìn của Mẹ là việc coi như đơn sơ, nhưng không dễ.
Phải thinh lặng, với tâm hồn cầu nguyện, trút bỏ mọi vướng mắc, sốt sắng chờ đón bất cứ sự gì Mẹ muốn.
Sự hiện diện như thế trước mặt Mẹ sẽ là một liên hệ sống động của con cái Mẹ với Mẹ. Liên hệ đó chính là tình yêu tha thiết. Liên hệ đó có gọi và cũng có trả lời. Gọi và trả lời đều do ơn Chúa. Đến một lúc nào đó, ơn Chúa sẽ cho chúng ta gặp được Đức Mẹ, chỉ trong cái nhìn. Mẹ nhìn chúng ta, và chúng ta nhìn Mẹ. Hai cái nhìn gặp nhau, gắn bó với nhau tha thiết trong Chúa là Tình yêu, tạo nên một bảo đảm cho phần rỗi đời đời của chúng ta.
10. Tình hình hiện nay là rất phức tạp. Nhiều sự dữ đang được báo trước. Để cứu tình hình lâm nguy, ngay trong các cộng đoàn và các gia đình, chúng ta hãy chạy lại với Đức Mẹ.
Hãy khiêm tốn nhìn Mẹ. Hãy nhìn cái nhìn của Mẹ. Hãy theo gương Mẹ, mà biết trở nên đẹp, do chính cái nhìn của mình. Cái nhìn nhân ái, đầy khiêm tốn, xót thương và dấn thân vào mầu nhiệm thánh giá, để được Chúa cứu và để cứu người.
Lạy Mẹ Maria, con xác tín cái nhìn của Mẹ là một quà tặng quý giá Chúa ban cho con. Con cảm ơn Chúa hết lòng. Con gắn bó mãi mãi với cái nhìn của Mẹ, bây giờ mọi lúc trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
Đã lâu rồi, ngày nào tôi cũng phải uống thuốc. Nhưng từ ít tháng nay, các thuốc phải uống mỗi Bùi-Tuần 2000
1. Đã lâu rồi, ngày nào tôi cũng phải uống thuốc. Nhưng từ ít tháng nay, các thuốc phải uống mỗi ngày mỗi tăng. Tới mười viên khác nhau mỗi lần.
Có khi, nhìn liều thuốc sắp phải uống, tôi sợ và nói với Chúa: “Nếu có thể, xin Chúa thương cho con khỏi uống thuốc này. Tuy nhiên xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Chúa mà thôi”. Tôi nói lời trên đây với Chúa, theo gợi ý của lời Chúa Giêsu đã cầu xin trong vườn Cây Dầu (x. Lc 22,42).
Điều tôi sợ, không phải là thuốc, mà là các thứ đau bệnh trong tôi, mà các thuốc uống nhằm trị. Đau bệnh như một dây chuyền, như một hệ thống, như một dòng sông không biên giới. Nghĩa là rất nhiều và rất phức tạp. Tôi đau bệnh còn có thuốc. Biết bao người đau bệnh hơn tôi, mà không có thuốc. Đó là điều tôi càng lo nghĩ.
2. Chìm trong cảnh đau bệnh, tôi phải nhờ đến thuốc. Tất nhiên tôi cũng cần đến lòng tốt của nhiều người. Tôi xin họ giúp. Tôi đợi chờ họ.
Một điều chắc chắn là trong đau bệnh, tôi nghĩ đến Chúa rất nhiều. Tôi cầu xin Chúa rất nhiều. Tôi tin tưởng nơi Chúa rất nhiều. Tôi đợi chờ ở Chúa rất nhiều.
Cùng với những đau bệnh về phần xác, tôi cũng có nhiều đau bệnh về phần hồn. Nhiều và phức tạp. Lòng tin của tôi vào Chúa không miễn trừ tôi khỏi phải tìm đến lòng tốt của những người khác. Trái lại, càng tìm đến với Chúa, tôi càng tôn trọng mọi đỡ nâng của những người gần xa.
3. Kết quả là Chúa đã đến với tôi, và tôi cũng gặp được những tấm lòng tốt.
Đang khi tôi không biết phải làm gì để đền đáp ơn Chúa và lòng tốt của nhiều người đã dành cho tôi, thì một luồng sáng thiêng liêng lóe lên trong lòng tôi, tôi nhìn thấy và như nghe được thánh ý Chúa gửi cho tôi, đó là:
Các người có trách nhiệm trong Hội Thánh Việt Nam hôm nay rất cần có những cảm nghiệm về cảnh nghèo khổ, thuộc thân xác lẫn tâm hồn. Những cảm nghiệm đó có một chiều kích thiêng liêng quý giá. Với chiều kích thiêng liêng quý giá ấy, những người có trách nhiệm trong Hội Thánh sẽ biết có những liên đới gắn bó mật thiết hơn với Chúa, và sẽ biết có những liên đới gần gũi hơn với con người Việt Nam hôm nay. Những người nghèo khổ hiện nay rất nhiều. Cái khổ mà nhiều đấng bậc trong Hội Thánh cảm nghiệm được, thực sự chẳng thấm vào đâu, so với cái khổ của đa số đồng bào đang phải chịu.
4. Thánh ý Chúa, mà tôi nghe được và như nhìn thấy được trong kinh nghiệm đau khổ của tôi, đã mở ra cho tôi một chân trời mới, đó là chiều kích thiêng liêng, mà đồng bào Việt Nam hiện nay đang tìm.
Hiện nay, rất nhiều người Việt Nam đang tìm đến những nơi thánh và những người thánh. Theo họ, họ tìm đến đó để gặp một Đấng linh thiêng, Đấng hiểu cảnh khổ đau của họ, thông cảm với thân phận của họ, có lòng tốt và có sức cứu giúp họ.
Một cách nào đó, những người đã trải qua những kinh nghiệm về cảnh nghèo khổ, được Chúa xót thương, sẽ có thể là những dụng cụ Chúa dùng, để giới thiệu chiều kích thiêng liêng rất cần cho họ.
5. Chiều kích thiêng liêng đó tóm tắt thế này:
Một là: Bất cứ điều tốt lành nào ai làm cho kẻ khổ đau đều được Chúa kể như là làm cho chính Chúa. Họ sẽ được trọng thưởng.
Bất cứ điều tốt lành nào ai từ chối không làm cho kẻ khổ đau đều bị Chúa kể như là từ chối cho chính Chúa. Họ sẽ bị phạt nặng nề (x. Mt 25,31-46).
Hai là: Đấng phán xét chính là Đấng xưa kia đã sống nghèo khổ, túng nghèo tại Bêlem, Nazarét, Galilê và trên cây thánh giá. Người có kinh nghiệm sâu xa về nghèo khổ, để cảm thương sâu sắc với người nghèo khó.
6. Chiều kích thiêng liêng, như vừa kể, gồm những việc thực sự chia sẻ cảnh nghèo khổ của con người, như một liên đới cảm thương. Thêm vào đó là những việc cứu giúp những người nghèo khổ, như một liên đới phục vụ vị tha. Sau cùng còn có những việc tìm về Chúa, như một liên đới với mục đích sau cùng của con người.
7. Tôi cần xét mình một cách khiêm nhường dưới ánh sáng của Chúa Thánh Linh. Từng điều một.
Chia sẻ thực sự cảnh nghèo của đồng bào nghèo khổ thế nào?
Cứu giúp những người nghèo khổ, như phục vụ chính Chúa thế nào?
Tìm về với Chúa là hạnh phúc sau cùng qua con đường cứu khổ con người thế nào?
8. Nếu đồng bào Việt Nam hôm nay đến với ta mà không gặp được chiều kích thiêng liêng, thì Hội Thánh Việt Nam sẽ đi về đâu?
Rất may là trong Hội Thánh Việt Nam hiện nay, số người mang chiều kích thiêng liêng trong các liên đới với các giới đồng bào, nhất là với giới nghèo khổ, không phải là hiếm. Họ đang đáp ứng lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô là Hội Thánh hãy sống nghèo và lo cho người nghèo. Họ là những người yêu nước rất đáng trân trọng.
9. Những điều tôi vừa nói, trên lý thuyết, thì coi như dễ. Nhưng, trên thực tế, thì không dễ chút nào.
Có những người được hoàn cảnh tốt, để sống nghèo và lo cho người nghèo một cách thoải mái theo ý mình. Có những người lại gặp hoàn cảnh khắt khe, trói buộc mình, coi như không làm được gì, hay làm được quá ít.
Đàng khác, thế nào là thực sự gọi được là sống nghèo, thế nào là thực sự gọi được là lo cho người nghèo. Mỗi người có thể theo suy nghĩ của mình. Mỗi nơi có thể đánh giá theo thói quen của mình. Nhưng, Chúa nhìn mọi sự một cách công minh. Vì thế cần một nền giáo dục đào tạo đúng. Nên làm ngay, kẻo sẽ quá muộn.
10. Dù trong hoàn cảnh nào, tất cả đều tùy thuộc ở hoạt động của cái tâm. Cái tâm thương cảm hay vô cảm. Cái tâm tế nhị hay ích kỷ.
Với cái tâm thương cảm và tế nhị, một người nghèo khó bệnh tật vẫn nghĩ ra được cách lo cho người khác, bằng những việc nhỏ, âm thầm, nhưng thực sự mang chiều kích thiêng liêng, rất ích lợi cho nhiều người.
Chính họ sẽ được ích lợi không gì sánh được. Bởi vì họ sẽ được Chúa kể việc lành họ làm cho người nghèo khổ là làm cho chính Chúa. (x. Mt 25). Đó là một giáo lý hết sức quan trọng. Để thực hiện tốt, tôi cần tỉnh thức, phấn đấu và cầu nguyện nhiều. Nhất là tôi cần hân hoan cảm tạ Chúa hết sức hết lòng.