Tôi là kẻ tội lỗi, yếu đuối, hay lo lắng, sợ hãi. Nhưng Đức Mẹ thương, đã cảm hóa tôi, để tôi vững Bùi-Tuần 1901
1. Tôi là kẻ tội lỗi, yếu đuối, hay lo lắng, sợ hãi. Nhưng Đức Mẹ thương, đã cảm hóa tôi, để tôi vững tin vào Chúa là Đấng Cứu Độ giầu lòng thương xót.
2. Đức Mẹ cảm hóa tôi dần dần, hầu như hằng ngày.
Đức Mẹ cảm hóa tôi bằng nhiều cách, lúc thì trực tiếp, lúc thì qua các trung gian. Xin nêu lên một số ví dụ.
3. Đức Mẹ dẫn tôi tới Lời Chúa, chẳng hạn lời Chúa Giêsu đã phán xưa: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 6, 32).
4. Đi đôi với Lời Chúa phán trên đây là việc Chúa đã đưa nhiều người tội lỗi trở về với Chúa, hơn nữa còn trao cho họ sứ vụ làm chứng cho Chúa là Đấng Cứu độ giầu lòng thương xót. Chẳng hạn thánh Mathêu, thánh Madalena, thánh Phaolô, ngay trong thời gian mở đầu Phúc âm.
5. Tiếp đó trong mọi thời và ở mọi nơi đều đã xuất hiện những người tội lỗi trở về và đã là chứng nhân cho Chúa.
6. Những người như thế cũng thấy xuất hiện tại Việt Nam, ngay ở đây và chính lúc này. Họ thuộc đủ mọi thành phần. Họ sống trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.
7. Khi thấy những người đó, tôi đươc Đức Mẹ khích lệ để tin rằng: Cho dù tôi tội lỗi đến đâu, tôi vẫn có thể được Chúa kêu gọi và được Chúa dùng như dụng cụ của lòng thương xót Chúa. Đó là điều Đức Mẹ cảm hóa tôi.
8. Được cảm hóa như vậy rồi, tôi hỏi Đức Mẹ xem tôi sẽ làm chứng cho Chúa một cách cụ thể thế nào? Thì Đức Mẹ dạy tôi là cụ thể hãy làm tốt những việc thích hợp với khả năng và hoàn cảnh của mình.
9. Thí dụ: Cầu nguyện, sám hối là những việc thích hợp nhất cho tôi, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Viết ra những bài chia sẻ cũng có thể coi là việc thích hợp với khả năng của tôi, miễn là những chia sẻ đó làm chứng cho Chúa.
Bằng nhiều cách khác nhau, Đức Mẹ cảm hóa tôi đi theo hướng đó.
10. Lần nọ, tôi như buồn chán, không còn muốn cầu nguyện và viết chia sẻ gì nữa, tôi nói sự thực đó cho Đức Mẹ, thì Đức Mẹ an ủi tôi. Đức Mẹ sai người này người nọ đến với tôi. Họ không hay biết gì về sự tôi buồn chán. Nhưng Đức Mẹ dùng họ, để đánh thức lương tâm tôi. Tôi được cảm hóa, lại tiếp tục lên đường làm chứng cho Chúa, với những việc rất nhỏ, rất âm thầm.
11. Từ những kinh nghiệm như vừa kể, tôi coi việc cảm hóa là rất cần cho người môn đệ Chúa, nhất là trong tình hình phức tạp hiện nay.
12. Hiện nay, Hội thánh cũng như xã hội, đang cần có những người lãnh đạo có khả năng quy tụ.
13. Người lãnh đạo có khả năng quy tụ rất cần có khả năng cảm hóa quần chúng.
Tất nhiên cảm hóa nói đây là thứ cảm hóa tốt, chọn đạo đức làm lẽ sống. Cảm hóa này phải rất mạnh, để có thể đối phó với thứ cảm hóa xấu, chọn tội ác làm lẽ sống.
14. Thứ cảm hóa xấu hiện nay đã bắt đầu xuất hiện dưới nhiều hình thức. Nó chủ trương lấy tội ác làm lẽ sống. Tội ác là lừa dối, là giết chóc, là phá hoại, là chia rẽ.
15. Đức Mẹ đang tha thiết cảm hóa tôi thế này: “Hãy cầu nguyện và tỉnh thức. Hãy nhờ đến Đức Mẹ, để hoán cải mình. Hãy xin Mẹ trở thành nơi nương tựa trong thời kỳ đầy thử thách sẵn sàng bùng nổ chiến tranh khủng khiếp”.
16. Tôi nói những lời trên đây với niềm tin của một người tội lỗi được Chúa kêu gọi và chọn làm dụng cụ bình an của Chúa.
Niềm tin đó là một ơn trọng đại Chúa ban cho tôi nhưng không.
17. Tôi không sao diễn tả nổi sự tôi đang được cảm hóa nhờ Mẹ yêu dấu của tôi. Chỉ tóm lại một lời: “Mẹ ở đâu, con được ở đó”. Mẹ nói với tôi như vậy. Và tôi tin như vậy. Cảm hóa của Mẹ đang đổi mới tôi.
Đổi mới này làm cho tôi gần lại với anh chị em hơn, tất nhiên cũng làm cho tôi phục vụ Hội thánh và Tổ quốc một cách hữu hiệu hơn.
18. Phục vụ trong một thế giới đang lao xuống vực thẳm đầy khổ đau, nhất là do mất đức tin, đòi chúng ta phải bám chặt lấy Đức Mẹ.
19. Bám chặt lấy Đức Mẹ, là cầu nguyện với Đức Mẹ, là dâng mình cho Đức Mẹ, là ngoan ngoãn vâng lời Đức Mẹ, là xin Đức Mẹ đồng hành với chúng ta từng giây từng phút, là tin Đức Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến sự bình an của Chúa, cho dù tình hình là rất tối tăm mù mịt.
20. Bám chặt lấy Đức Mẹ như con thơ ôm chặt lấy mẹ của mình, đó là điều tôi đang làm và sẽ luôn luôn làm. Tôi coi đó là hạnh phúc của tôi. Long xuyên, ngày 22.9.2019
Đức Cha Cố Micae đã ra đi. Ngài để lại nhiều hình ảnh đẹp. Một trong những hình ảnh đẹp đáng Bùi-Tuần 1902
Đức Cha Cố Micae đã ra đi. Ngài để lại nhiều hình ảnh đẹp. Một trong những hình ảnh đẹp đáng là hình ảnh kỷ niệm sáng giá, đó là hình ảnh Ngài dâng thánh lễ. Theo nhiều người, hình ảnh đó là một đặc điểm rất nổi của Ngài.
Trong thánh lễ từ biệt Ngài, tôi xin phép Ngài được trao hình ảnh kỷ niệm đó cho tất cả anh chị em. Hình ảnh đó có nhiều nét Kinh Thánh.
Được cộng tác với Đức Cha Cố Micae gần 5 chục năm, tôi thấy cái hồn của Ngài là sự dâng hiến. Dâng hiến cụ thể nhất và sâu sắc nhất, chính là dâng hiến trong thánh lễ.
I.
Trong thánh lễ, Ngài đến bên Chúa với tâm tình rất mực khiêm tốn. Khiêm tốn ấy không phải chỉ là tự nhiên. Nhưng nhất là thấm nhuần lời Chúa đã phán: “Thầy không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Lời Chúa giúp Ngài khiêm tốn vác trên vai gánh nặng tội lỗi của riêng mình, tội lỗi của đoàn chiên, và tội lỗi của bao người khác. “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Sự Ngài nhìn nhận tội lỗi luôn đi đôi với tâm tình sám hối, xin ơn thương xót.
Cùng với lòng khiêm nhường sám hối và xin thương xót, Đức Cha Cố đã đến bên Chúa với lòng mến yêu nồng nàn. Ngài tin vào lời Chúa đã nói về người phụ nữ tội lỗi xưa: “Tội của chị rất nhiều. Nhưng đã được tha. Bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (Lc 7,47). Chúa cho Ngài thấy: Tội lỗi tuy nhiều, nhưng khi được tha, thì tình mến được tăng lên. Tội lúc đó coi như một dịp để đốt nóng lên tình yêu mến trong Ngài.
Ngoài ra, Đức Cha Cố đã đến bên Chúa với tâm tình cảm tạ. Vì Ngài tin vào lời thánh Phaolô: “Ở đâu tội lỗi lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20).
Thực vậy, Đức Cha Cố Micae luôn nhận thức mình mang thân phận tội lỗi. Từ vực sâu tội lỗi, Ngài khiêm tốn đón nhận, ca ngợi và cảm tạ lòng thương xót Chúa.
II.
Thánh lễ của Đức Cha Cố Micae trên bàn thờ là như vậy. Thánh lễ đã được kéo dài trên suốt cuộc đời của Ngài.
Suốt cuộc đời Ngài là một thánh lễ. Thánh lễ cuộc đời là một cuộc chiến đấu triền miên giữa tội lỗi và ân sủng. Trong cuộc chiến đấu này, Ngài đã chân thành với lòng khiêm tốn trước sức mạnh thực tế của tội lỗi, đồng thời Ngài đã luôn tin cậy sức mạnh siêu nhiên của ơn thánh. Ngài không coi thường các giá trị trần thế và nhân loại, nhưng Ngài không hề ảo tưởng những giá trị đó có sức cứu độ. Ơn cứu độ là sức mạnh của tình yêu từ thánh giá Chúa.
Xác tín đó được nhận thấy rất rõ ở tu đức, mục vụ và truyền giáo nơi Đức Cha 100 tuổi của chúng ta. Ngài đặt ưu tiên tuyệt đối ở ơn thánh.
Xác tín đó là của thánh Phaolô: “Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ” (Ep 2,5).
Trên đây là mấy nét của hình ảnh kỷ niệm nhỏ, mà Đức Cha Cố Micae gởi lại. Chúng ta đón nhận, chiêm ngắm, nhất là để noi gương bắt chước. Giờ đây, Ngài được an táng, như “hạt lúa gieo vào lòng đất” (Ga 12,29). Chúng ta tin tưởng hạt lúa này sẽ góp phần sinh ra được một mùa màng thiêng liêng phong phú.
Cúi xin Đức Cha rất thương mến cầu nguyện cho tất cả chúng con. Cùng với Đức Cha, chúng con xin dâng hiến cuộc đời chúng con lên Chúa giàu tình yêu thương xót.
Đời mỗi người môn đệ Chúa thường được chi phối bởi một vài biến cố. Những biến cố ấy đã Bùi-Tuần 1903
Đời mỗi người môn đệ Chúa thường được chi phối bởi một vài biến cố. Những biến cố ấy đã gây nên cảm xúc mạnh. Cảm xúc mạnh ấy làm nên những đợt sóng tâm tình riêng tư chảy qua bề sâu suốt cuộc đời họ. Chảy qua để nhuộm đời sống họ thành một màu nào đó của Tin Mừng.
Ở đây, xin phép chia sẻ kinh nghiệm đó.
1/ Lời Chúa
Chúa Giêsu phán: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền lành và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi thì êm ái, và gánh tôi thì nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
Vất vả của tôi, gánh nặng của tôi là những gì?
Thưa nhiều thứ lắm. Chỉ xin lướt qua một số dễ nhận ra, như:
- Những thất bại, những nhục nhã, những cô đơn.
- Những tội lỗi, và thói hư tật xấu. Bảy mối tội đầu luôn là những gánh nặng gây áp lực.
- Những đau đớn hồn xác. Những nặng nề trong trái tim. Những bóng tối trong nhiều liên hệ.
- Những mù quáng trong nhận định. Những ngây ngô trong chọn lựa. Những vụng về trong thực hành.
Trên đây là những gánh nặng có tên. Còn nhiều gánh nặng nữa không tên, như:
Những phấn đấu chống lại các thứ cám dỗ muốn đưa tôi vào những hy vọng ảo, những nghỉ ngơi giả.
Những đớn đau do cảm nhận được những đau đớn của những người khác.
Những bất lực trước bao số phận trôi dạt trong những sóng gió của thực tế cuộc đời chìm nổi.
Những thao thức về bao vấn đề đặt ra cho lương tâm nhân loại.
Những xót xa, khi thấy bao người coi cuộc đời như vô nghĩa.
Khi tất cả những gánh nặng có tên và không tên đè nặng chồng chất ngày này sang ngày khác, thì thời gian lại trở thành một gánh nặng mới thách thức khả năng chịu đựng.
Nhận thức về các thứ gánh nặng đời mình và đời người khác được tôi cảm nhận như một nhận thức đạo đức. Nhận thức như thế đẩy tôi đi tìm một chỗ tựa thiêng liêng.
Tôi lên đường, vượt qua nhiều trắc trở. Sau cùng tôi gặp được Chúa Giêsu. Tôi gặp Chúa trong lời Chúa. Cuộc gặp gỡ được thực hiện trong cầu nguyện và tĩnh mạc. Lời Chúa đưa tới gặp gỡ là: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Tôi tin vào lời Người. Tôi đặt nơi Người mọi gánh nặng của tôi. Người đón nhận. Người chia sẻ. Chia sẻ của Chúa là bước đầu làm tôi vơi nhẹ. Chia sẻ đó khiến tôi cảm động, một cảm động mang tính cách thiêng liêng.
Tôi còn được gặp Chúa nơi hang đá Bêlem.
2/ Hang đá Bêlem
Tại hang đá Bêlem, tôi thấy Lời Chúa hiện hình nơi một hài nhi nghèo.
Trong thân phận một hài nhi nghèo, Chúa chia sẻ thân phận con người một cách cụ thể đầy xúc động.
Chia sẻ ở đây có một đặc điểm lạ lùng, đó là sự từ bỏ.
Chúa Giêsu từ bỏ mọi vinh quang, để chia sẻ kiếp người khốn cùng.
Chúa Giêsu từ bỏ cảnh sống dư đầy, để chia sẻ thân phận con người túng nghèo đói khát.
Chúa Giêsu từ bỏ ý riêng mình, để chia sẻ cuộc đời vâng phục.
Khi tôi gặp được Chúa Giêsu từ bỏ và chia sẻ, tôi thấy Người là tình yêu dâng hiến.
Dâng hiến để đền tội thay.
Dâng hiến để giúp con người tái sinh vào cuộc sống mới của người con Chúa.
Tôi gặp được Chúa Giêsu như vậy trong cầu nguyện và tỉnh thức. Tôi đặt nơi Người mọi gánh nặng của tôi, nhất là những cản trở khiến tôi không muốn từ bỏ mình. Chúa không cất đi mọi gánh nặng của tôi, nhưng Người ban ơn nâng đỡ ủi an. Tình yêu hiến dâng của Người khiến tôi xúc động. Có một cái gì thiêng liêng trào lên trong tôi.
Tôi còn gặp được Chúa nơi những người thiện tâm.
3/ Những người thiện tâm
Tôi thấy Chúa hiện diện nơi các người thiện tâm. Dấu chỉ thiện tâm là sự chia sẻ phục vụ trong hiền lành khiêm nhường.
Gương những thiện tâm là Đức Mẹ, thánh Giuse, và những mục đồng ở Bêlem. Đó là người xưa. Trong mọi thời và hiện nay vẫn có những người thiện tâm nhiều ít như thế.
Họ chia sẻ phục vụ trong mọi lãnh vực, như văn hoá, kinh tế, từ thiện, chính trị. Chia sẻ phục vụ con người và công ích một cách hiền lành khiêm tốn.
Tôi gặp được Chúa nơi họ, khi tôi khiêm nhường, cởi mở.
Tại Việt Nam hôm nay, đang có nhiều Lời Chúa, đang có nhiều hang đá Bêlem và cũng đang có nhiều người thành tâm. Đó là những điểm ta dễ dàng gặp được Chúa, mặc dù còn những điểm khác.
Tại những điểm đó có sự chia sẻ, có sự từ bỏ mình, có sự phục vụ hiền lành và khiêm nhường.
Tới đây, tôi nghĩ tới cuộc gặp của Cụ Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết với Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI tại Vatican trước Noel này.
Tôi hiểu cuộc gặp này mang nhiều chia sẻ đầy hy vọng. Tôi xác tín cuộc gặp lịch sử này sẽ mang một sứ điệp hoà bình. Đây cũng là một quà Noel quý giá cho cả hai phía đạo đời.
Nhận thức như vậy, chúng ta sẽ hân hoan hát bài ca Noel truyền thống:
Đức Tân Giáo Hoàng được nhiều người biết đến. Ngài trí thức, đạo đức. Phần đông an tâm về Bùi-Tuần 1904
Đức Tân Giáo Hoàng được nhiều người biết đến. Ngài trí thức, đạo đức. Phần đông an tâm về Ngài. Một phần không nhỏ lo lắng cho Ngài. An tâm cũng có lý do. Lo lắng càng có lý do.
Riêng Ngài thì chọn con đường thánh ý Chúa: Lắng nghe ý Chúa, làm theo ý Chúa. Được thế, thì sẽ an tâm. Nhưng tôi thiết nghĩ, luôn nghe được ý Chúa, và luôn làm đúng ý Chúa là điều Ngài cũng phải lo lắng rất nhiều.
Tôi nghĩ vậy, một phần vì có kinh nghiệm bản thân, một phần vì thấy những dấu tích còn để lại trong lịch sử các vị lãnh đạo Hội Thánh, nhưng nhất là vì nhìn vào thánh tông đồ Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi.
Thánh Phêrô là đấng rất thánh. Không phải Ngài thánh vì lúc nào cũng hiểu được ý Chúa và lúc nào cũng thi hành đúng ý Chúa. Nhưng Ngài thánh, vì khiêm tốn nhận mình yếu đuối, có những sai lầm, nên thống hối với tất cả lòng yêu Chúa thiết tha.
Kinh Thánh không giấu giếm những lỗi lầm của Ngài.
Tôi xin lướt qua, để cho thấy chính thánh Phêrô dạy ta: Hiểu được ý Chúa là điều không dễ, làm theo ý Chúa càng là điều không dễ.
1/ Thánh Phêrô lầm, khi cản Thầy mình chọn con đường thương khó
Phúc Âm thánh Matthêu kể: “Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra ngoài và bắt đầu can trách Người: Xin Thiên Chúa thương, đừng để Thầy phải gặp chuyện ấy. Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: Satan! Hãy lui lại đàng sau Thầy. Con cản lối Thầy. Tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,21-23).
Ta thấy đó. Tư tưởng của thánh Phêrô đâu có gì là tội lỗi đâu! Thế mà Chúa Giêsu đã bác bỏ một cách nghiêm khắc. Chỉ vì tư tưởng đó không hợp với ý Chúa.
Từ chuyện trên đây ta có thể đoán được rằng: Đã có những tư tưởng, lời nói và việc làm của cá nhân ta, hoặc của tập thể ta, tưởng rằng đẹp ý Chúa, nhưng thực sự lại bị Chúa bác bỏ.
Thánh ý Chúa nhiều khi rất khác ý ta.
2/ Thánh Phêrô lầm, khi chủ quan cho mình là mạnh
Phúc Âm thánh Marcô kể: “Hát thánh vịnh xong, Đức Giêsu và các môn đệ ra đi lên núi Ôliu. Đức Giêsu nói với các ông: Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em. Ông Phêrô liền thưa: Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không. Đức Giêsu nói với ông rằng: Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy 2 lần, thì chính con, con sẽ chối Thầy đến 3 lần. Nhưng ông Phêrô lại quả quyết hơn: Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mc 14,26-31).
Qua những lời thánh Phêrô quả quyết, ta thấy lòng Ngài rất yêu mến Thầy mình. Nhưng Ngài chủ quan tưởng rằng tình mến đó không gì lay chuyển nổi. Chúa Giêsu cảnh báo. Nhưng Phêrô vẫn giữ nguyên ý định tự hào của mình. Ngài cũng có vẻ cho rằng: ý định tự hào đó là đẹp ý Chúa, làm sáng danh Chúa. Nhưng Ngài đã sai lầm thê thảm. Trong lịch sử đời ta và đời Hội Thánh, cũng có những tư tưởng, lời nói, việc làm tự đắc, tự hào, tưởng chắc là đẹp ý Chúa. Nhưng sau đã sụp đổ tan tành. Sụp đổ rồi mới nhận ra sự dại dột của mình thì đã quá muộn.
3/ Thánh Phêrô lầm, khi không tỉnh thức
Phúc Âm thánh Marcô thuật lại rằng: Trong vườn cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ xuống đất cầu nguyện, lòng đầy xao xuyến, hãi hùng. Ngài bảo Phêrô và những môn đệ đi theo chịu khó canh thức với Ngài. “Khi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, Người liền nói với Phêrô: Simon, con ngủ sao? Con không thức nổi một giờ sao? Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Mc 14,37-38).
Tôi nghĩ rằng: Chúa Giêsu biết, cho dù buồn ngủ, người ta vẫn có thể thức, khi biết cảm thông với Ngài đang đau khổ, và khi đoán được một biến cố cực kỳ bi đát sắp xảy ra. Nhưng thánh Phêrô đã không như thế. Mặc dầu không có ác ý, nhưng sự thiếu tỉnh thức của Ngài cũng đã là điều sai ý Chúa, gây nên gương mù cho các thế hệ đi sau.
Trong đời người môn đệ Chúa của ta và lịch sử Hội Thánh của ta, sự thiếu tỉnh thức là một thiếu sót dễ xảy ra. Có thiếu sót gây tai hoạ nhỏ. Có thiếu sót gây tai hoạ lớn.
Ngay hiện nay, sự tỉnh thức nghe được ý Chúa trong thời sự, và phân biệt được ý Chúa trong các kế hoạch coi như đạo đức, vẫn là điều chẳng dễ.
4/ Thánh Phêrô lầm, khi nhẹ dạ dấn thân vào môi trường đầy nguy hiểm
Phúc Âm thánh Luca kể: “Họ bắt Đức Giêsu, điệu Người đến nhà vị thượng tế. Còn ông Phêrô thì theo xa xa. Họ đốt lửa giữa sân và ngồi quanh với nhau. Ông Phêrô đến ngồi giữa họ. Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói: Cả bác này nữa cũng đã ở bên ông ấy đấy. Phêrô liền chối: Tôi không biết ông ấy đâu. Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói: Cả bác này nữa, bác cũng thuộc bọn chúng. Ông Phêrô đáp: Này anh, không phải đâu. Chừng một giờ sau có người khác lại quả quyết: Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Galilê. Nhưng ông Phêrô trả lời: Này anh, tôi không biết anh nói gì. Ngay lúc Phêrô còn đang nói, thì gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Thầy đã bảo ông: Hôm nay, khi gà chưa kịp gáy, thì con đã chối Thầy 3 lần. Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết” (Lc 22,54-62).
Mẩu đời trên đây của thánh Phêrô là một bài học cho chúng ta. Ngài cứ chủ quan, dấn thân vào một môi trường nguy hiểm, với ảo tưởng việc mình làm là tốt, sẽ an ủi Chúa Giêsu. Nhưng rõ ràng ý Ngài không hợp với ý Chúa. Nên kết quả rất bẽ bàng. May mà Ngài đã thống hối. Thống hối ăn năn mới chính là việc hợp thánh ý Chúa. Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi là người rất mến Chúa Giêsu và rất quyết tâm đi theo Chúa Giêsu.
Nhưng không vì thế mà Ngài đã tránh được những yếu đuối và những sai lầm.
Thiết tưởng, đây cũng là một bài học cho những người được Chúa trao trọng trách kế vị thánh Phêrô, hoặc chia sẻ phần nào trọng trách đó.
Xin hãy cầu nguyện rất nhiều cho Đức Giáo Hoàng. Xin cũng đừng quên cầu nguyện cho các Đức Giám Mục và các linh mục là những người cộng tác với Ngài.
Nên luôn nhớ rằng:
Tình hình trong đạo ngoài đời hiện nay rất phức tạp. Phải cầu nguyện nhiều và luôn tỉnh thức, mới trông được ơn sống theo ý Chúa.
Đời tôi không dài, nhưng cũng mang một chuỗi dài những chứng tích của lịch sử đổi thay. Ở Bùi-Tuần 1905
Đời tôi không dài, nhưng cũng mang một chuỗi dài những chứng tích của lịch sử đổi thay.
Ở đây, tôi xin nói sơ qua về đổi thay trong lãnh vực giảng Tin Mừng trên Đất Nước chúng ta. Thời gian được giới hạn là trong đời tôi.
1/ Giai đoạn sát Phúc Âm thuở ban đầu
Phúc Âm thánh Luca kể rằng: “Đức Giêsu tập họp nhóm 12 lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa lành các bệnh.
Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người nói: 'Các con đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo.
Khi các con vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó, và từ đó mà ra đi. Hễ người ta không đón tiếp các con, thì khi ra khỏi thành, các con hãy giũ bụi chân, để tỏ ý phản đối họ'. Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc, loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi” (Lc 9,1-6).
Đoạn Phúc Âm trên đây cho thấy những môn đệ Chúa sai đi thuở ban đầu được Chúa khuyên phải sống hết sức đơn sơ:
- Hành trang nhẹ nhàng.
- Công việc được trao cũng rất rõ:
a) Giảng về Nước Thiên Chúa,
b) Xua quỷ dữ và giúp người ta tránh tội lỗi,
c) Bác ái đối với các bệnh nhân.
- Môn đệ không ăn rễ sâu vào một nơi.
- Số người được sai đi chỉ là nhóm nhỏ.
Tôi nhớ, hồi còn bé, tôi thấy các đấng bậc Công giáo, tuy không đúng hẳn là bản sao các môn đệ Chúa như trên, nhưng cũng mang nhiều nét đẹp. Để có thể được chọn làm linh mục, các ứng viên phải qua nhiều chặng đào tạo, thử thách cam go.
Khi đã được chọn và được sai đi phục vụ các họ đạo, các linh mục rất được dân chúng mến yêu, vâng phục.
Linh mục đúng là người cha thiêng liêng của mọi người.
Đạo được rao giảng qua các kinh, sách bổn, bài giảng và gương sáng của các cha. Xem ra thao thức lớn của đạo trong giai đoạn này là giữ đạo hơn là bênh đạo và mở đạo.
2/ Giai đoạn chiến tranh
Khi chiến tranh bùng nổ, đạo tất nhiên chuyển biến.
Trong đạo, vâng lời bề trên là một yếu tố quan trọng. Vì thế, khi những bề trên cấp trung ương dạy phải đề phòng với các chủ thuyết phá đạo, thì việc giảng Tin Mừng đã mang một nhiệm vụ mới.
Trong nhiều năm, nhiệm vụ mới này nhấn mạnh đến bổn phận bênh đạo và bảo vệ đạo.
Tuy trong hoàn cảnh chiến tranh, các ứng viên làm linh mục cũng vẫn được đào tạo theo một chương trình nghiêm túc.
Hơn nữa, tôi có cảm tưởng là việc đào tạo linh mục thời đó còn chặt chẽ và luyện lọc hơn trước nhiều.
Khi được sai đi phục vụ các cộng đoàn, các linh mục chia sẻ cuộc sống cam khổ của dân. Các ngài được dân che chở, gắn bó. Các ngài được coi như nguồn an ủi lớn và nguồn đạo đức chân thực cho cộng đoàn.
Phong trào sùng kính Đức Maria Fatima được lan rộng, với ước nguyện cầu xin cho hoà bình mau trở lại trên quê hương.
3/ Giai đoạn hội nhập vào thế giới mới
Sau chiến tranh, đạo đi vào một hoàn cảnh mới.
Đến lúc này, việc giảng Tin Mừng mang hướng mở đạo. Nhưng hoàn cảnh coi dễ, mà lại khó.
Nội dung Tin Mừng trước đây được ta hiểu là Đức Kitô. Nay, đối với nhiều người, kể cả nhiều người công giáo, tin mừng là tiền của, chức quyền, đời sống hưởng thụ, và các thành công.
Người rao giảng Tin Mừng trước đây được hiểu là hàng giáo phẩm, giáo sĩ, và những người cộng tác với các ngài. Nay người rao giảng tin mừng của họ còn là các người trí thức, các nhà khoa học, các người làm kinh tế, các nhà sản xuất, các “ngôi sao” và nhất là dư luận quần chúng.
Nơi rao giảng Tin Mừng trước đây là nhà thờ. Nay các loại tin mừng khác nhau được truyền bá rộng rãi trên các sách báo, trên các đài phát thanh, các đài truyền hình, các điểm hội tụ đủ thứ.
Người nghe Tin Mừng trước đây là số nhỏ những tâm hồn đi tìm ơn cứu độ. Nay số người tìm tin mừng của họ là đại đa số dân chúng thao thức với những gì là thực dụng.
Các biến chuyển xã hội đang diễn tiến mau lẹ và đa dạng. Có thể nói, các biến chuyển đó đang là những thách đố.
Trước những biến chuyển xã hội càng ngày càng lôi cuốn con người theo hướng tự do lựa chọn những gì mình thích, Công giáo ta nhiều nơi đang có những sáng kiến, cả trong việc đào tạo nhân sự.
Có loại sáng kiến nhắm mở rộng các hoạt động bề ngoài, như xây cất cơ sở mới đẹp đẽ, tổ chức lễ lạy với những nét rầm rộ linh đình, chiều chuộng người muốn đi tu, tung hô người có chức, có quyền, có tước trong đạo
Có loại sáng kiến nhắm đi sâu vào đời sống nội tâm, như siêng năng cầu nguyện, chầu Thánh Thể, dự thánh lễ, ăn chay vv...
Có loại sáng kiến nhắm vào việc phục vụ đồng bào, nhất là các đối tượng nghèo, bệnh, già yếu, cô đơn.
4/ Thiển ý của tôi
Hiện nay, có nơi đạo đang lên. Nhưng có nơi đang khủng hoảng.
Vì thế, những ai được sai phục vụ Hội Thánh nên được đào tạo kỹ. Hãy lắng nghe Chúa Thánh Thần, để biết có những trả lời đúng ý Chúa.
Trả lời bằng những sáng kiến tốt, những dấn thân, và xả thân cho con người, đặc biệt là cho những đối tượng khổ đau. Tất cả do động lực là lửa Phúc Âm . Sự hiện diện tích cực của các giáo dân có tài đức trong các lãnh vực xã hội là một bài giảng rất quan trọng trong tình hình hiện nay.
Một trả lời nay cần nhắc lại cho các môn đệ Chúa là hãy giữ vững nếp sống tu thân, nhất là cầu nguyện và kết hợp mật thiết với Chúa. Đừng để tiền của chức quyền và tính vô cảm làm hư hỏng mình.
Hãy luôn khiêm nhường thực hiện lời Chúa Giêsu căn dặn: “Không có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,5).
Để kết, tôi xin phép kể một kỷ niệm nhỏ.
Cách đây mấy năm, một buổi tối, tôi đang làm việc ở bàn giấy trong phòng tôi tại Long Xuyên. Chuông điện thoại reo lên. Tôi nhắc máy. Đầu dây, người gọi là Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận ở Rôma.
Ngài cho tôi biết: Ngài được mời giảng trước một hội nghị gồm các nhà chính trị cao cấp. Rồi ngài đọc bản nháp cho tôi nghe. Xong, Ngài hỏi: “Chú thấy có được không?”. Tôi thưa: “Hay lắm. Nội dung rất Phúc Âm. Còn về hình thức, thì chú khéo tạo ra một cái khung thời sự gợi ý. Chú vốn vậy”.
Ít ngày sau, Ngài báo tin: “Kết quả không tồi. Tổng thống Italia sai người đến xin tôi bài giảng tôi đã đọc trước cho chú nghe đó”.
Tôi nghĩ thành công của bài giảng đó của Đức Cố Hồng Y ngoài nội dung tốt, hình thức tốt, còn có một phần do trình độ nhân bản, văn hoá, trí thức và đạo đức của Đức Cố Hồng Y Phanxicô đáng mến của chúng ta. Chuyện này đã dạy tôi rất nhiều về vai trò người rao giảng Tin Mừng cho thế giới hôm nay.
Đi đường, người ta hay gặp những dấu chỉ. Có những dấu chỉ viết sẵn. Thí dụ các tấm bảng chỉ Bùi-Tuần 1906
Đi đường, người ta hay gặp những dấu chỉ. Có những dấu chỉ viết sẵn. Thí dụ các tấm bảng chỉ đường: Bảng này chỉ tới tỉnh nọ, bảng nọ chỉ tới phố kia.
Có những dấu chỉ không viết sẵn, nhưng mang dấu hiệu gì đó. Người đi phải dự đoán, hoặc hỏi người quen.
Cuộc sống cũng như một chuyến đi. Thường gặp nhiều dấu chỉ đa nghĩa. Thí dụ: Béo mập là một hiện tượng. Dấu chỉ đó có thể báo hiệu một sức khoẻ tốt. Nhưng cũng có thể báo hiệu một chứng bệnh nguy hiểm.
Một cuộc thi toàn quốc vào Đại Học có đa số thí sinh kém về môn sử. Hiện tượng đó là một dấu chỉ. Dấu chỉ đó có một ý nghĩa, mà người thông minh tìm hiểu một cách khách quan, mới nhận ra.
Tại Hội Thánh Việt Nam chỉ từ vài năm nay, đã xảy ra nhiều hiện tượng lạ thường. Những hiện tượng này có tính cách dấu chỉ.
Xin phép kể ra mấy hiện tượng quan trọng:
1/ Việc xây cất nổi lên tưng bừng
Nhiều nhà thờ mới rộng lớn huy hoàng. Nhiều cơ sở tu trì nguy nga vượt xa nhà ở của hầu hết dân thường.
2/ Biến cố nhân sự nổi lên khác thường
+ Nhiều vị từ Nam ra dạy học tại chủng viện ngoài Bắc.
+ Bốn vị từ Nam ra được đặt làm Giám mục cai quản 5 giáo phận Bắc. Tức Hà Nội, Lạng Sơn, Hưng Hoá, Bùi Chu, Thánh Hoá.
+ Trong 4 vị đó, một vị trẻ được nâng lên hàng Tổng Giám Mục lãnh đạo chính giáo phận thủ đô Hà Nội, và đứng đầu giáo tỉnh Bắc.
+ Một vị trong Nam được tôn phong lên tước Hồng Y.
3/ Dự kiến có việc Nhà Nước Việt Nam thiết lập bang giao với Toà Thánh Vatican.
4/ Hiện tượng tục hoá lễ lạy, đền thờ, đời tu được đón nhận và phổ biến khá rộng rãi mau lẹ.
Bốn hiện tượng trên được coi là những dấu chỉ. Những dấu chỉ này mang ý nghĩa nào? Có dư luận hiểu theo ý nghĩa “mở ra”. Có dư luận tỏ ra dè dặt, ái ngại.
Riêng tôi, tôi nghĩ rằng:
+ Hiện tượng nào cũng có thể mang nhiều ý nghĩa. Ý nghĩa khách quan và ý nghĩa chủ quan.
+ Việc tốt nào cũng có thể trở nên xấu, nếu không biết thực hiện bởi người tốt, với cách thức tốt, trong thời điểm tốt và với mục đích tốt.
+ Việc tục hoá các sinh hoạt và tinh thần tôn giáo là một cơn lũ đã phá nát nhiều nơi trong Hội Thánh toàn cầu.
+ Một việc mà con người tưởng là tốt, nhưng có thể lại không được Chúa chấp nhận là tốt.
Tôi xin phép khai triển ý vừa nêu, bằng việc đưa ra hai sự kiện sau đây được kể trong Phúc Âm.
1. Sự kiện thứ nhất là sau việc Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng khắp nơi nghe tin dó đã tìm đến Chúa Giêsu. Thấy vậy, Chúa Giêsu không mừng. Ngài còn nói: “Thật, tôi bảo anh em, anh em đi tìm tôi không phải vì anh em đã thấy dấu lạ, nhưng vì các anh em đã được ăn bánh no nê. Anh em hãy ra công làm việc, không phải lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho anh em” (Ga 16,26-27).
Với lời Chúa phán trên đây, chúng ta được biết: Việc Chúa làm cho bánh ra nhiều là một dấu chỉ. Nhưng đừng dừng lại dấu chỉ đó. Hãy vịn vào dấu chỉ đó mà hiểu xa hơn.
Nếu dừng lại dấu chỉ, để phục vụ cho cách sống thực dụng, lạm dụng và lợi dụng, thì không đẹp lòng Chúa đâu. Chúa biết rõ tâm trạng từng người.
Cả khi họ hiểu sai ý nghĩa dấu chỉ của Chúa, như sự kiện sau đây:
2. Sự kiện thứ hai là ngay khi Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng hiểu đó là dấu chỉ Chúa Giêsu đúng là một vị cứu tinh kiểu vua chúa.
Thánh Gioan kể: “Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm, thì nói: 'Hẳn ông này là vị tiên tri, Đấng phải đến thế gian'. Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến đem mình đi mà tôn làm vua, nên Người lại tránh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6,14-16).
Với việc Chúa tránh mặt lúc đó, chúng ta hiểu: Chúa không chấp nhận những lối hiểu sai về dấu chỉ Người làm. Mặc dầu dân chúng không gán cho phép lạ Chúa một ý nghĩa xấu. Họ chỉ gán cho Người một ý nghĩa về quyền lực trần thế. Họ tưởng ý nghĩa đó là một vinh dự dành cho Người. Nhưng Người đã khước từ. Vinh dự họ muốn dâng tặng Người là điều không hợp ý Người.
Những suy gẫm trên đây của tôi được kèm theo một số kinh nghiệm rút ra từ lịch sử quá khứ của Hội Thánh toàn cầu nói chung và của Hội Thánh Việt Nam nói riêng. Tất cả những hiểu biết đó đã làm cho lòng tôi lắng xuống.
Riêng đời tôi, tuy chỉ là một thời gian rất vắn đối với lịch sử Hội Thánh và Đất Nước, nhưng nó đã cho tôi nếm được nhiều vị cay đắng với những thăng trầm hãi hùng khủng khiếp. Cũng đã có những niềm vui, những biến cố đẹp đẽ, nhưng chúng đã mau qua như pháo bông vụt sáng màu mè trong chốc lát.
Vì thế, tôi không có kết luận nào. Nhưng chỉ tập trung vào việc cầu nguyện cho Hội Thánh Việt Nam được luôn luôn đúng là Hội Thánh của Chúa Giêsu, trong bất cứ tình huống nào, dù được huy hoàng, dù gặp khó khăn, dù đụng vào cạm bẫy. Nếu cần đưa ra một kết luận nào riêng tư lúc này, thì kết luận đó là: Từ nay tôi sẽ phục vụ Hội Thánh của tôi bằng những việc bé mọn âm thầm hơn là những bài báo.
Tình hình sức khoẻ của tôi tiếp tục xấu dần là một dấu chỉ không phải là không có ý nghĩa. Một người già vốn đau bệnh này, đang rất cần tập trung vào lòng thương xót Chúa.
Đất Nước Việt Nam chúng ta vừa bước sang năm Bính Tuất. Năm Mới này sẽ ra sao? Nói thiệt Bùi-Tuần 1907
Đất Nước Việt Nam chúng ta vừa bước sang năm Bính Tuất.
Năm Mới này sẽ ra sao? Nói thiệt là: Ngay ngày mai, chúng ta cũng không dám chắc sẽ thế nào. Phương chi tương lai một năm dài, ai mà biết được chắc chắn những gì sẽ xảy tới.
Tuy nhiên, Kinh Thánh và kinh nghiệm cho phép ta dự đoán trong Năm Mới này sẽ xảy ra những sự sau đây tại quê hương ta và trên thế giới.
Dự đoán thứ nhất là: Trong năm mới này sẽ xảy ra nhiều bất ngờ. Có những bất ngờ dễ chịu và có những bất ngờ khó chịu. Nhưng tất cả mọi bất ngờ xảy ra đều sẽ gây bàng hoàng. Kinh Thánh quyển Giảng Viên đã đưa ra 4 hình ảnh sau đây để gợi ý:
- Một dây bạc bị đứt đột ngột.
- Một bình vàng bị vỡ đột ngột.
- Một thùng kín nước bị bể đột ngột.
- Một cuộn dây kéo nước bị hư đột ngột (x. Gv 12,6).
Những hình ảnh trên đây ám chỉ những sụp đổ bất ngờ, những xung đột bất ngờ, những tai nạn bất ngờ, những mâu thuẫn bất ngờ.
Những biến cố đó tự nó không nói. Nhưng khi những bất ngờ như thế xảy ra, thì Chúa nói trong những biến cố đó. Lời Chúa nói âm thầm, nhưng có thể dự đoán là Chúa kêu gọi người ta hãy cầu nguyện với Chúa, hãy hồi tâm sám hối trở về đàng lành. Nhất là hãy tỉnh thức. Như lời Chúa phán xưa: “Các con hãy canh thức, vì các con không biết ngày nào Chúa các con sẽ đến” (Mt 24,42).
Hậu quả những bất ngờ gây nên cho ta sẽ tuỳ vào sự ta có nghe Lời Chúa và tuân giữ Lời Chúa nhắn gởi hay không? Hậu quả ấy có thể sẽ rất lớn lao, liên hệ đến hạnh phúc đời này, nhất là đến số phận đời sau.
Dự đoán thứ hai là: Trong năm mới này sẽ bùng nổ một lối sống hướng mạnh về phô trương hình thức, chạy theo dư luận hồ đồ và hướng mạnh về cạnh tranh giữa các giá trị vật chất, để hưởng thụ bất chính.
Trong xã hội, trào lưu đó sẽ pha trộn tốt xấu. Trong đạo, nhiều người sẽ bị ảnh hưởng. Và nếu không cảnh giác, tinh thần đạo sẽ dần dần rời xa Phúc Âm.
Trước viễn tượng này, chúng ta nên nhớ lại Lời Chúa Giêsu đã dạy xưa: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Theo lời Chúa trên đây, chúng ta phải nắm chắc điều căn bản để được vào Nước Trời. Điều đó là vâng theo ý Chúa Cha, thi hành ý Chúa Cha. Vì thế, bất cứ việc gì của ta, bất cứ lời nào của ta, bất cứ tư tưởng nào của ta, đều phải được xem xét dưới ánh sáng Lời Chúa, xem có hợp ý Chúa Cha không. Nếu hợp thì hãy thi hành. Nếu không hợp thì dứt khoát phải bỏ đi.
Điều rất đáng ngại, đó là nơi một số người chúng ta, tình mến Chúa yêu người không tan biến hẳn một lúc, nhưng mỗi ngày biến chất đi một chút. Cứ đà đó, lương tâm trở thành quen với thói xấu, không còn bén nhạy nhận ra mình đi sai. Đến lúc sụp đổ, thì đã quá muộn.
Dự đoán thứ ba là: Trong năm mới này sẽ khơi động trong nhiều tâm hồn tâm tình ca ngợi lòng thương xót Chúa.
Tuy sự ác sẽ mạnh làm cho lòng đạo nhiều người và nhiều cộng đoàn trở nên sa sút, nhưng những ai khiêm tốn sẽ được Chúa đào tạo, thanh luyện để trở thành công trình của lòng thương xót Chúa.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ sẽ luôn tỏ ra mình là người con bé nhỏ của Chúa. Trong khi khoẻ mạnh hay được may mắn, cũng như khi đau ốm hay gặp khó khăn, họ vẫn nhận ra tình Chúa yêu thương họ, họ vẫn đọc được tín hiệu của trái tim Chúa gởi cho họ. Họ vẫn để Chúa dắt đi, cho dù phải qua những đoạn đường hiểm nguy tăm tối, khổ đau. Họ vẫn nhận mình khiếm khuyến yếu hèn, để sám hối trong tin cậy.
Riêng đối với tôi, tôi vẫn mượn hình ảnh trong Thánh Vịnh sau đây của vua Đavít mà chúc tụng Chúa:
“Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, Tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như đông tây cách xa nhau ngàn dặm, Tội ta phạm, Chúa cũng ném thật xa. Như người Cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103,11-13).
Để kết bài chia sẻ vắn tắt đầu năm Bính Tuất, tôi xin cùng với tất cả đại gia đình chúng ta, hết lòng phó thác năm mới này cho Chúa. Một năm sẽ có những bất ngờ, một năm sẽ có nhiều thử thách, nhưng cũng sẽ là một năm chúng ta được Chúa thôi thúc:
- luôn cậy trông Chúa. - luôn tuân phục ý Chúa. - luôn phấn đấu thuộc về Chúa. - luôn đi về với Chúa. - luôn gắn bó với Chúa. - luôn tín thác nơi Chúa. - luôn là nhân chứng của tình thương Chúa qua phục vụ và tha thứ.
Và như thế, cuộc đời ta năm nay sẽ là một đóng góp âm thầm vào việc phát triển Nước Trời và Quê Hương ta. Đóng góp ấy sẽ là một ca khúc nội tâm tán tụng lòng thương xót Chúa muôn đời.
Đức Thánh Cha Benedictô XVI mới gởi thông điệp đầu tiên của triều đại Ngài cho toàn thể Hội Bùi-Tuần 1908
Đức Thánh Cha Benedictô XVI mới gởi thông điệp đầu tiên của triều đại Ngài cho toàn thể Hội Thánh. Thông điệp mang tựa đề: “Thiên Chúa là tình yêu”. Đây là một lời Chúa trích từ thư thánh Gioan tông đồ (1 Ga 4,8).
Thông điệp này đã mang lại cho tôi một niềm vui lớn lao. Tôi xin được chia sẻ đôi chút, với tâm tình cảm tạ Chúa và biết ơn Đức Thánh Cha.
1/ Xác định rõ cội nguồn hạnh phúc
Cuộc sống hôm nay càng ngày càng đón nhận nhiều thứ mời gọi. Như: Mời gọi của tiền bạc, của địa vị, của tình yêu, của hưởng thụ, của quyền chức, của các thứ sang trọng, vv... Các thứ mời gọi này tạo nên trong phần đông một tin tưởng nào đó rằng chính các thứ ấy là cội nguồn hạnh phúc. Hãy đi theo hướng đó. Hãy giao ước với sức mạnh ấy. Hãy trầm mình vào dòng văn minh đang lôi cuốn lịch sử.
Mặc dù các thứ như thế chỉ là những hệ thống xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá mong manh, nhưng không thiếu người vẫn đua nhau chạy theo. Kết quả là cuộc sống nơi nhiều người đang trở nên trống vắng. Họ thiếu chiều kích thiêng liêng. Hơn nữa một hiện tại quay cuồng đang đẩy con người mù quáng xuống vực thẳm tương lai vô đạo đức, phá hoại phẩm giá con người, lật đổ trật tự xã hội lành mạnh.
Chính trong hoàn cảnh này, Đức Thánh Cha đã đánh thức nhân loại bằng một lời Chúa mang sức cứu độ, “Thiên Chúa là tình yêu”.
Thiên Chúa tình yêu mới chính là cội nguồn của hạnh phúc thực sự vững bền. Hãy đi về hướng Thiên Chúa là tình yêu. Hãy ở lại với Người. Hãy sống với một giao ước mới.
Từ đó, sẽ thành hình một nền văn minh tình yêu. Và từ đó, người ta có thể cảm nhận được phần nào về Nước Thiên Chúa. Nước ấy đang khởi sự ngay ở trần gian này và trong thời gian này. Trong Nước Trời ấy, mọi người sẽ là anh em, được gọi Thiên Chúa là Cha của mình.
Khi xác tín đó thực sự được nội tâm hoá và thực sự sống động, thì chắc sẽ giảm bớt được rất nhiều những ghen tương, tranh chấp tại nhiều nơi theo đạo. Thậm chí cũng có thể đã không xảy ra một số cuộc chiến tranh thảm khốc đáng tiếc trong quá khứ do xung đột đức tin.
2/ Xác định tiêu chuẩn phục vụ của cuộc sống
Khi tôi được phép gọi Thiên Chúa là Cha, mà là Cha tình yêu, thì tất nhiên mọi tư tưởng, lời nói và hành động của tôi đều phải dựa theo những tiêu chuẩn của Thiên Chúa tình yêu. Những tiêu chuẩn ấy đã được Chúa Giêsu truyền dạy và nêu gương.
Nhưng, muốn hiểu đúng các tiêu chuẩn ấy, tôi phải biết lắng nghe Chúa Thánh Thần.
Thế nhưng phương tiện quan trọng đó xem ra đang bị lãng quên tại nhiều nơi trong Hội Thánh.
Chúng ta đang chứng kiến đây đó một cảnh mị dân, chiều theo dư luận ồn ào, xa Phúc Âm. Chúng ta đang chứng kiến đó đây cảnh xông hương cho các thần tượng thù địch với Tin Mừng. Chúng ta đang chứng kiến nơi này chỗ nọ cảnh tự tôn tự phụ đề cao ý riêng mình, trong cả các lãnh vực tu đức, sống đạo và truyền giáo.
Trước nguy cơ trên đây, Đức Thánh Cha nhắc nhở: “Thiên Chúa là tình yêu”. Chúa không cho phép ai muốn sống sao thì sống, nhưng phải sống theo tình yêu. Tình yêu chân chính có luật riêng của nó. Tình yêu Thiên Chúa có đường lối, tiêu chuẩn được thể hiện nơi Đức Kitô. Đoạn thư thánh Gioan dưới đây cho thấy phần nào: “Tình yêu Chúa đối với chúng ta được biểu lộ thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,9-10).
Xin đọc tiếp câu sau rất quan trọng: “Anh em rất thân mến, nếu Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy” (1 Ga 4,11).
Như vậy, tiêu chuẩn các liên đới trong đời sống của chúng ta là yêu thương nhau, như Chúa đã yêu thương ta. Đó là một tình yêu phục vụ, dấn thân, hy sinh, quên mình.
Mới rồi, nhân ngày thầy thuốc 27/2/2006, báo Thanh Niên số 58 (3719) thứ Hai, trong mục “Chào buổi sáng”, chuyện tử tế, tác giả Xuân Hoà mở bài như sau: “Cách đây hơn hai chục năm, tại khu điều trị phong ở Quy Hoà, Quy Nhơn, đoàn làm phim chuyện tử tế gặp mặt đông đảo các thầy thuốc và hỏi:
“Thưa các thầy thuốc, ở đây ai là người tận tâm chạy chữa, chia sẻ với người hủi?
- “Các bà Soeurs! Chuyện đó phải kể đến các bà Soeurs...”.
Đọc mấy dòng trên, tôi rất vui mừng. Niềm vui của tôi là thấy các thầy thuốc và đồng bào ở trại phong Quy Hoà đã nhận định các nữ tu phục vụ tại đó theo một tiêu chuẩn đạo đức rất đáng mến mộ. Tiêu chuẩn đó là yêu thương dấn thân hy sinh cho những bệnh nhân đau khổ.
3/ Xác tín hướng sống đạo
Tôi thấy con người thời nay rất coi trọng những cuộc đời dấn thân như thế. Đức ái là một dấu ấn trở thành tiêu chuẩn để tôn vinh con người phục vụ.
Mẩu tin trên đây gợi ý cho tôi nghĩ tới việc sống đức tin tại Việt Nam hôm nay. Nếu đức tin không được phiên dịch sang đức ái mang thánh giá hy sinh, thì sẽ khó làm chứng được cho một nền văn minh tình yêu nơi những người con của Thiên Chúa là tình yêu.
Thông điệp của Đức Thánh Cha đang thúc đẩy chúng ta đi sâu hơn vào cội nguồn hạnh phúc và đi sát hơn với phương tiện phục vụ của đời ta. Cội nguồn đó là Thiên Chúa tình yêu. Phương tiện phục vụ đó là tình yêu hy sinh quên mình. Việc đi sâu, đi sát trên đây sẽ không dễ, nếu thiếu sự gắn bó với Chúa và nếu thiếu sự khiêm nhường cậy nhờ vào ơn Chúa.
Càng đi sâu, đi sát, chúng ta càng thấy giá trị thực của mỗi người tuỳ thuộc phần lớn vào cái tâm. Vì thế, việc dạy đạo, việc sống đạo, việc truyền đạo sẽ phải chú ý nhiều hơn đến cái tâm. Một cái trí thông minh, lạnh lùng sẽ không bằng một cái tâm nhạy bén, thương cảm, dấn thân. Trong huấn luyện cần phát triển cân đối cái trí đồng thời với cái tâm.
Với vài xác tín như trên, tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa vì thông điệp “Thiên Chúa là tình yêu”. Đồng thời cũng xin ca ngợi việc làm sáng suốt của Đức Thánh Cha. Người đã biết cộng tác khôn ngoan với Thiên Chúa tình yêu trong việc lãnh đạo Hội Thánh giữa thời buổi phức tạp đầy khó khăn này. Rất mong mọi người chúng ta sẽ áp dụng thông điệp này vào đời sống.
Sắp đến lễ Truyền giáo (Chúa nhật, 22/10/2006). Truyền giáo là đề tài phong phú. Nhiều nơi dùng Bùi-Tuần 1909
Sắp đến lễ Truyền giáo (Chúa nhật, 22/10/2006).
Truyền giáo là đề tài phong phú. Nhiều nơi dùng đề tài này để tổ chức lễ lớn, hội họp xôm tụ, tuyên bố thành tích và kêu gọi tham gia nhiều chương trình.
Với hy vọng góp phần nhỏ vào lễ này, tôi xin chia sẻ vắn tắt hai gợi ý:
Một là tình hình Việt Nam hôm nay trong cái nhìn truyền giáo.
Hai là nhân chứng của Chúa Giêsu trong việc truyền giáo tại Việt Nam hôm nay.
Việt Nam hôm nay trong cái nhìn truyền giáo
Việt Nam hôm nay hiện lên dưới nhiều hình dạng khác nhau, tuỳ theo người nhìn.
Phần tôi, với cái nhìn truyền giáo, tôi thấy Đất Nước tôi hôm nay nổi lên mấy hiện tượng sau đây:
1/ Nhu cầu tôn giáo càng ngày càng rõ, nhưng đối kháng với nhu cầu này là phong trào tục hoá cũng tăng triển rất mạnh.
2/ Nhân phẩm con người được nâng lên rất đẹp trong mọi văn bản và lý thuyết đạo đời, nhưng lại bị xúc phạm trên thực tế đó đây, nhất là khi đạo đức suy giảm trong nhiều lãnh vực.
3/ Khát vọng xây dựng hoà bình luôn được cổ võ trong xã hội nói chung và trong các cộng đoàn nói riêng. Nhưng bản tính thích tranh chấp, ghen tương, bè phái, cục bộ vẫn sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào có dịp.
4/ Tinh thần bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc, tự hào Đất Nước vẫn được duy trì. Nhưng cũng đang xuất hiện tinh thần lấy ngoại bang làm gốc, tự hào về nền văn minh sự chết.
5/ Nhiều khối tôn giáo đã nắm bắt tình hình cởi mở, để đi sâu vào quần chúng nghèo, phát triển những giá trị căn bản của đạo. Đang khi đó, không thiếu những khối tôn giáo khác lại lợi dụng sự cởi mở để phát triển đạo về mặt hình thức và rút về những nơi giàu có.
Trong cái nhìn truyền giáo, Việt Nam hôm nay với mấy hiện tượng kể trên vốn được coi là nơi thuận lợi cho việc làm chứng Tin Mừng, miễn là việc đó được thực hiện bởi những nhân chứng đích thực của Chúa Giêsu.
Vậy, thế nào nhân chứng đích thực của Chúa Giêsu trong việc truyền giáo tại Việt Nam hôm nay.
Nhân chứng của Chúa Giêsu trong việc truyền giáo tại Việt Nam hôm nay.
Thiết tưởng nhân chứng đó cần ít ra hai điều kiện sau đây:
a) Họ phải là cành của cây Giêsu.
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ: “Thầy là cây nho, chúng con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có thầy, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Vậy cây Giêsu là thế nào? Thánh Phaolô đã mô tả vắn tắt như sau:
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Khi mô tả hình ảnh Chúa Giêsu như trên, thánh Phaolô khuyên các môn đệ ngài hãy có những tâm tình như Chúa Giêsu.
Để hình ảnh trên đây của Chúa Giêsu sinh được những tâm tình sống động trong ta, ta phải suy gẫm, chiêm niệm và cầu nguyện rất nhiều với Chúa Giêsu.
Có thế, ta mới được ơn Chúa Giêsu biến đổi ta nên giống Người phần nào. Theo gương Người về sự vâng phục thánh ý Chúa Cha, chấp nhận sống khiêm nhường, nghèo khó, bác ái, hy sinh mình cho đến chết trên thập giá nào đó, mà Chúa gởi cho ta. Qua cuộc biến đổi ấy, ta sẽ là cành của cây Giêsu trong chương trình cứu chuộc. Một cành như vậy sẽ được Chúa dùng, để đem ơn thánh đến cho cánh đồng truyền giáo.
b) Họ hãy ưu tiên đến với những người nghèo khó.
Cánh đồng truyền giáo rất bao la. Nhưng nên dành ưu tiên cho địa chỉ những người nghèo khó.
Chúa Giêsu xưa đã làm như thế. Người đã áp dụng lời tiên tri Isaia vào Người trong bài giảng đầu tiên tại Nadarét:
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi.
Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.
Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó...” (Lc 4,18).
Những người nghèo khó về bất cứ phương diện nào đều là những địa chỉ Chúa sai ta đến một cách ưu tiên. Chúa đợi ta ở những địa chỉ đó. Ta sẽ cộng tác với Chúa giúp họ về đời sống vật chất tuỳ khả năng ta, nhưng nhất là giúp họ đặc biệt về mặt đạo đức và tinh thần. Nhờ vậy, Chúa sẽ đón họ và ta vào Nước của Người.
Để hiểu rõ gợi ý trên, chúng ta nên đọc lại Phúc Âm thánh Matthêu, đoạn Chúa Giêsu nói về ngày Phán xét chung (x. Mt 25,31-46).
Hai điều kiện trên đây, tức là khiêm nhường chiêm niệm cuộc đời Chúa cứu thế và khiêm nhường lo cho các loại người nghèo khổ, đó là những nét tuyệt vời đã làm nên chân dung Mẹ Têrêsa Calcutta. Mẹ là mẫu gương thích hợp nhất cho mọi nhà truyền giáo tại Á châu nói chung và tại Việt Nam nói riêng.
Thời điểm này đang đặt ra cho Hội Thánh Việt Nam nhiều thách đố. Những thách đố này đòi chúng ta tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện. Đạo Công giáo chúng ta sẽ được trân trọng hay không, nhiều hay ít tại Việt Nam hôm nay? Thiết tưởng điều đó sẽ tuỳ thuộc khá nhiều vào việc chúng ta dấn thân cho người nghèo, thái độ của Hội Thánh ta đối với Đất Nước Việt Nam này, nhất là phẩm chất Phúc Âm của những nhân chứng Đức Kitô sống giữa lòng dân tộc.
Đất Nước Việt Nam đang bước vào một thời điểm mới. Thời điểm này được chính thức khởi đầu Bùi-Tuần 1910
Đất Nước Việt Nam đang bước vào một thời điểm mới. Thời điểm này được chính thức khởi đầu bằng việc Việt Nam gia nhập WTO và chủ trì hội nghị Apec.
Từ nay, người ta sẽ thấy một nước Việt Nam rộn ràng tiến bước trên mọi ngả đường phát triển kinh tế, đồng hành với thế giới, hợp tác chặt chẽ với khu vực Á châu Thái Bình Dương.
Thời điểm mới này sẽ gây nên nhiều biến chuyển trong mọi lãnh vực.
Một ví dụ về chuyển biến
Trong lãnh vực tôn giáo đã bắt đầu có những hướng hợp tác mới. Điển hình là lễ nghi cầu nguyện tại nhà thờ Công giáo Cửa Bắc, ngày Chúa nhật 19/11/2006, dịp Tổng thống Hoa Kỳ và phu nhân tới dự.
Đây là lễ nghi cầu nguyện, chứ không phải thánh lễ. Giờ cầu nguyện được phối hợp giữa Công giáo và Tin Lành, kiểu tu viện Taizé bên Pháp. Đọc Kinh Thánh, suy gẫm Kinh Thánh, cầu nguyện theo Kinh Thánh, hát theo Kinh Thánh.
Chủ trì là linh mục và mục sư cùng cộng tác. Tham dự là tín hữu Công giáo sát cạnh bên tín hữu Tin Lành, trong đó có Tổng thống Hoa Kỳ và phu nhân. Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã hiện diện như một dấu chỉ hiệp thông.
Sự kiện này tiêu biểu cho hướng mở ra. Coi như đơn sơ, nhưng đòi phía Hội Thánh Việt Nam nhiều sáng kiến khôn ngoan.
Tôi muốn dừng lại ở sự kiện cụ thể gây ấn tượng ấy, để từ đó nhìn chung về tình hình mới. Một tình hình đòi Hội Thánh Việt Nam chúng ta phải tiến về phía trước với những cố gắng mới. Tôi xin phép gợi ý về vài cố gắng, mà tôi cho là rất cần thiết.
1/ Cố gắng nâng cao trình độ trí thức
Theo dõi tình hình thế giới, Đất Nước và Hội Thánh khắp nơi, tôi thấy việc đối thoại và hợp tác đang là những vấn đề lớn đặt ra cho mọi phía. Để việc đối thoại và hợp tác của Hội Thánh ta được trân trọng, chúng ta cần phải có những hiểu biết sâu rộng về nhiều lãnh vực.
Sự hiện diện và đóng góp của những nhà trí thức chuyên môn đã được chứng minh là yếu tố thực sự quan trọng trong các hội nghị chính thức và trong cuộc sống thường ngày của đối thoại và hợp tác.
Tôi đã nhiều lần được có mặt trong các hội nghị quốc tế về đạo và đời. Tại mọi hội nghị, dù để bàn về một vấn đề nhỏ, trình độ trí thức được coi là yếu tố hết sức quan trọng.
Đời sống thường ngày với bao vấn đề luôn đặt ra cho con người, không thể sẽ tự nó giải quyết cho ta một cách nhàn nhã, cũ kỹ, nhưng đòi ta phải có một trình độ trí thức mới, để đi trên con đường mới của lịch sử.
Hiện nay, trí thức Công giáo Việt Nam kể như khá hơn trước. Nhưng tôi thấy là chưa đủ đáp ứng cho thời điểm mới.
2/ Cố gắng nâng cao trình độ bén nhạy
Thời nay, con người đối thoại và hợp tác cần có khả năng bén nhạy sâu sắc.
Bén nhạy, để biết cách gây thiện cảm, tránh gây ác cảm vô ích.
Bén nhạy, để biết có những phong cách tế nhị, lịch thiệp, nhã nhặn trong mọi ứng xử, cả trong những trường hợp xảy ra những bất ngờ rất trái ý ta.
Bén nhạy, để biết nắm bắt những cơ hội hiếm hoi có khả năng đóng góp vào việc phát triển tương lai lâu dài cho Hội Thánh thiểu số tại Việt Nam ta.
Theo dõi những hình ảnh của Apec được truyền đi qua tivi, tôi thấy sự bén nhạy là điều không thể thiếu nơi người tổ chức lẫn người tham dự.
Có những hình thức mình cho là trang trọng, nhưng đối với người khác lại là hình thức nặng nề, không hợp tâm lý.
Có những việc mình cho là phải thế mới đầy đủ, nhưng nhiều người khác lại nghĩ là nên vắn gọn mới hay.
Có những lời người ta khen ngợi mà mình lại bám vào để tự đắc, nhưng thực ra đó chỉ là những lời khen xã giao, mà chỉ những tinh thần nhạy bén trình độ cao mới thấy được.
Trong thời điểm mới này, chắc sẽ có nhiều ý kiến được thành hình trong Hội Thánh Việt Nam ta. Hãy bén nhạy, để biết lắng nghe và phân định.
3/ Cố gắng nâng cao trình độ trung thành với Lời Chúa
Hơn bao giờ hết, Hội Thánh phải trung thành với Chúa, mặc dầu tình hình thay đổi.
Trung thành với Lời Chúa nhất là trong những việc sau đây:
a) Hãy chiến đấu để “đi qua cửa hẹp” (Lc 13,24). b) Sống trọn vẹn “Tám mối phúc” (Mt 5,3-12). c) Tăng cường sống “giới răn yêu thương” (Ga 14,34). d) Sống hợp tác với ơn Chúa một cách tuyệt đối. Vì Chúa phán “Không có Cha, chúng con không làm gì được” (Ga 15,5).
Tôi nghĩ là xã hội Việt Nam cần đổi mới một cách sâu sắc từ guồng máy xã hội cho tới cách suy nghĩ của từng người.
Hội Thánh Việt Nam tất nhiên coi việc đổi mới mình là một bổn phận. Nhưng đổi mới bây giờ của chúng ta phải có sức thiêng, để có thể gây được ấn tượng và dấu ấn trong lịch sử dân tộc ta. Ấn tượng ấy, dấu ấn ấy sẽ xuất hiện, nếu chúng ta biết tỉnh thức và cầu nguyện, luôn sống theo thánh ý Chúa, cho dù đôi lúc chúng ta phải xuất hành cô đơn, như thánh Phaolô xưa (x. Cv 20,17-38). Cô đơn nhưng hợp thánh ý Chúa, nên ấn tượng và dấu ấn sẽ sâu đậm, đem lại tiềm năng Tin Mừng cho Đất Nước Việt Nam ta đang quyết tâm tiến về phía trước.
Để mừng lễ Chúa giáng sinh, chúng ta thường tăng cường cầu nguyện, hồi tâm, sám hối và Bùi-Tuần 1911
Để mừng lễ Chúa giáng sinh, chúng ta thường tăng cường cầu nguyện, hồi tâm, sám hối và tạ ơn.
Đó là những việc chung chung.
Nhưng khi muốn việc cầu nguyện, hồi tâm, sám hối và tạ ơn dễ sinh hiệu quả tốt, chúng ta nên tập trung vào một vài điểm cụ thể.
Điểm cụ thể nên chọn lúc này là gì?
Thưa tuỳ cái nhìn của mỗi người. Riêng tôi, tôi chọn vấn đề ơn gọi được sai đi.
Lý do chọn là vì:
1/ Ơn gọi được sai đi đã rất được đề cao thuở xưa trong biến cố Chúa Cứu thế giáng trần.
2/ Ơn gọi được sai đi hiện nay đang được sống nhiều cách tại Việt Nam để làm chứng cho mầu nhiệm giáng sinh.
Tôi xin phép chia sẻ vắn tắt từng điểm.
1/ Ơn gọi được sai đi đã rất được đề cao thuở xưa trong biến cố Chúa Cứu thế giáng trần
Chúa Giêsu xuống trần, là do Chúa Cha sai đi với mục đích rõ ràng. Tác giả thư gởi dân Do Thái đã ghi lại âm vang lời Chúa Giêsu thưa cùng Đức Chúa Cha: “Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề luật. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,8).
Đoạn thư trên đề cao sự Đức Giêsu xin vâng thánh ý Chúa Cha sai Người xuống thế.
Trong tinh thần vâng phục của kẻ được sai đi, Chúa Giêsu suốt cuộc đời dưới thế đã chỉ thi hành ý Chúa Cha. Chúa Giêsu nói: “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì” (Ga 12,49).
Không phải chỉ mọi lời Đức Kitô nói ra đều do Chúa Cha sai Người phải nói, mà cả đến việc nạp mình chịu tử nạn cũng do chính Chúa Cha muốn Người thực hiện. Trong vườn cây Dầu, Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42).
Như vậy, suốt cuộc đời trần thế của Đức Giêsu từ khi sinh ra cho đến chết đều tóm gọn lại một lời: Chúa Cha đã sai con, và con đã hoàn toàn vâng phục thực thi thánh ý Chúa Cha.
Nhân vật quan trọng thứ hai trong biến cố Chúa giáng sinh là Đức Mẹ Maria. Cuộc sống của Đức Mẹ cũng đã được tóm gọn lại trong lời “xin vâng” trong ngày thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ.
Nhân vật thứ ba ta thấy trong hang đá Belem là thánh Giuse. Đời Ngài là một gương sáng về sự vâng phục thánh ý Chúa một cách mau lẹ, khiêm tốn, âm thầm.
Đức Mẹ và thánh Giuse đều là những người được Chúa gọi và được Chúa sai đi cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa Cứu thế.
Chúa gọi và sai các Ngài bằng nhiều cách khác nhau. Như bằng sự thiên thần hiện ra với Đức Mẹ, bằng cách báo mộng cho thánh Giuse, bằng cách Chúa gợi ý cho Đức Mẹ đi thăm bà Isave.
Nhưng Chúa cũng gọi bằng những biến cố thời sự, như lệnh vua truyền kiểm tra dân số, sự kiện dân làng Belem không còn chỗ trọ cho việc trọng đại Chúa Trời giáng sinh. Nhiều chi tiết chỉ là thời sự chung, nhưng trong đó có thánh ý Chúa. Đức Mẹ và thánh Giuse đã đọc được ơn gọi mà thánh ý Chúa gởi cho mình trong thời sự lịch sử. Các Ngài đã nhận ra các chi tiết về ơn gọi của mình nhờ ơn Chúa Thánh Thần và nhờ quy chiếu các sự kiện xảy ra vào những lời Chúa đã ghi trong Kinh Thánh, nhất là qua các tiên tri đã nói trước về hình ảnh và cuộc đời Đấng cứu thế sẽ đến.
Đấng đó sẽ hoà mình với những khổ đau của lớp người bị loại trừ, với mục đích đổi mới tâm hồn con người. Mong họ biết tìm về hạnh phúc được chung hưởng niềm hoan lạc bất tận bên người Cha đầy tình yêu thương xót.
Như thế, cả ba nhân vật quan trọng trong biến cố Chúa giáng sinh đều là những Đấng đã sống ơn gọi được sai đi một cách triệt để.
Còn hiện nay thế nào?
2/ Hiện nay tại Việt Nam ơn gọi sai đi để làm chứng cho mầu nhiệm Chúa giáng sinh được nhận thấy dưới nhiều hình thức a) Hình thức thứ nhất là đời sống đạo đức nơi những con người sống động.
Họ giới thiệu mầu nhiệm giáng sinh bằng chính đời sống của họ. Đó là đời sống luôn vâng phục thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa về họ được họ nhận ra từ Lời Chúa, từ Hội Thánh, từ thời sự, từ những biến cố riêng tư xảy ra cho họ, từ những cái nhìn sâu sắc về tình hình hiện tại và tương lai, từ trách nhiệm luôn đi liền với ơn được làm con Chúa.
Lãnh vực mà người ta dễ nhận ra sự đạo đức của họ là lãnh vực bác ái, dấn thân phục vụ, chia sẻ cuộc sống người nghèo khổ.
b) Hình thức thứ hai là sự kính trọng đối với Hội Thánh và những người được Chúa gọi và sai đi để làm chứng cho Chúa trong mọi lãnh vực đạo đời.
Giáo Hội Việt Nam vốn có thói quen kính trọng và thảo hiếu đối với các người được Chúa gọi và sai đi. Thói quen đó đã trở thành truyền thống. Các người mà truyền thống lòng đạo ở Việt Nam dành cho sự kính trọng và hiếu thảo cách riêng thường là các vị được chọn bởi chính Đức Giáo Hoàng là vị đại diện Chúa ở trần gian. Các ngài vẫn mang những giới hạn của con người yếu đuối, nhưng khi được Chúa thương gọi và sai đi, các ngài nên được chúng ta nhìn một cách tế nhị và thương cảm, với những lời cầu nguyện và hy sinh dâng lên Đấng đã gọi và sai các ngài.
c) Hình thức thứ ba là thiện chí làm những việc lành nhỏ, để dâng cho Chúa Hài Đồng.
Tôi thấy thời nay, rất nhiều người Việt Nam đang đi tìm nơi, tìm người, tìm đạo, để đặt hy vọng. Họ đi tìm bằng những việc lành nhỏ, những lời cầu nhỏ, những khát vọng nhỏ. Tôi có cảm nghĩ là họ cũng được ơn gọi và được sai đi qua một động lực âm thầm của Chúa. Sự kiện đó ứng nghiệm lời Chúa phán xưa là: Có nhiều điều “Chúa chỉ mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10,21).
Để kết, tôi muốn nói lên ở đây một cảm tưởng rất chân thành của tôi. Cảm tưởng đó là: Nước Chúa tình yêu vẫn tiếp tục được nhiều tâm hồn Việt Nam đón nhận. Tất nhiên điều đó không có nghĩa là mọi sự diễn ra dễ dàng. Xưa các Đấng được sai đi tại Belem để cứu đời, đã vâng theo thánh ý Chúa Cha, chia sẻ cuộc sống những người nghèo khổ. Nay mọi người đều mong tất cả các môn đệ Chúa được sai đi cứu đời tại Việt Nam này cũng tiếp tục đi con đường đó, theo hoàn cảnh của mình.
Xin cầu nguyện cho nhau và xin nâng đỡ nhau trong ơn gọi được sai đi, nhất là trong thời buổi khoảng cách giàu nghèo càng lớn. Đặc biệt là hãy tỉnh thức. Bởi vì Noel năm nay loan báo một tương lai không phải sẽ nhiều bình an, mà là sẽ nhiều lo âu trăn trở cho mọi người thiện chí thiện tâm.
Đất nước Việt Nam đã bước vào giai đoạn mới. Giai đoạn này được gọi là hiện đại hoá. Hiện đại Bùi-Tuần 1912
Đất nước Việt Nam đã bước vào giai đoạn mới. Giai đoạn này được gọi là hiện đại hoá. Hiện đại hoá ví như ngọn gió làm tươi mát đồng bào. Giáo Hội Công giáo trên đất nước Việt Nam cũng theo đó mà hiện đại hoá.
Có nhiều dấu chỉ cho thấy hiện tượng hiện đại hoá trong Giáo Hội Việt Nam như:
- Nâng cao vẻ đẹp của các cơ sở tôn giáo. - Nâng cao trình độ văn minh của các nhân sự tôn giáo. - Nâng cao các tổ chức tôn giáo lên tầng cao mới. - Nâng cao các phương tiện phượng tự lên những giá trị nghệ thuật hiện đại.
Những đổi mới đó giúp cho bộ mặt Hội Thánh tại Việt Nam có một chỗ đứng đáng nể trong giai đoạn mới này.
Nhưng, nếu chỉ nhắm duy mục đích đó, thì chưa đáp ứng nhu cầu sứ mạng thiêng liêng của mình.
Để nhắc nhở về sứ mạng thiêng liêng Chúa trao cho, thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã nhấn mạnh đến phục vụ. Có thể hiểu là mọi việc của hiện đại hoá đều phải nhắm vào mục tiêu phục vụ.
Phục vụ nói đây phải thế nào? Thưa phải thực hiện trong yêu thương. Đây không phải là một dạy bảo mới. Nó chỉ là một nhắc nhở cần để ý cách riêng trong việc sống đạo thời hiện đại hoá này.
Suy gẫm nhắc nhở trên đây theo lý thuyết và kinh nghiệm, tôi có vài nhận định sau đây:
1/ Yêu thương trong phục vụ cần luôn trở về với những gì tuyệt đối
Hiện đại hoá là một giai đoạn khám phá.
Thực tế cho thấy người ta nỗ lực khám phá đủ mọi giá trị. Như:
- Giá trị kinh tế. - Giá trị khoa học. - Giá trị nghệ thuật. - Giá trị văn hoá. - Giá trị luân lý. - Giá trị trí thức...
Tất cả những khám phá đó đều tương đối. Chính các giá trị đó cũng là tương đối. Nhưng có một thực tại luôn tuyệt đối, đó là Thiên Chúa. Người không phải là một giá trị, mà là một hiện diện giữa mọi giá trị.
Khi khám phá các giá trị, để hiện đại hoá cuộc sống, người ta thường nhìn ra ngoài. Còn khi tìm sự hiện diện của Chúa giữa các giá trị, người ta cần có cái nhìn hướng vào nội tâm. Chúa hiện hữu ở đó với sự tuyệt đối đời đời. Người không là một lý tưởng của hiện đại hoá, mà là một sự sống đời đời kêu gọi ta tham dự.
Ai gặp được Người, Người sẽ giúp cho mọi việc hiện đại hoá của họ có những giá trị mang sự sống thực. Trong giai đoạn hiện đại hoá của xã hội, Hội Thánh phải nêu gương trung thành với Thiên Chúa tuyệt đối của mọi tạo vật.
2/ Yêu thương trong phục vụ cần biết lựa chọn nền văn hoá sự sống
Có những hiện đại hoá mang đến sự chết, bởi vì nó bị cuốn hút vào những mê hoặc dẫn con người đến tội lỗi. Thực tế cho thấy có những con đường hiện đại hoá, tuy có phần nào tốt cho nền văn minh vật chất, nhưng lại tàn phá nếp sống đạo đức. Con người trở nên truỵ lạc. Xã hội từng bước trở về nếp sống vô luân. Còn tệ hơn là thời mọi rợ. Hiện nay, cảnh buôn người, phá thai, khủng bố, đề cao hận thù, cạnh tranh bất chính, đó là một báo động về một nền văn minh sự chết. Xem như một thời mọi rợ kiểu mới đang hình thành.
Nhận thức như thế, việc hiện đại hoá đất nước và Hội Thánh đòi một tinh thần cảnh giác cao. Nhất là đừng quên việc hiện đại hoá đòi một thái độ sáng suốt can đảm trong cuộc chiến giữa sự thiện và sự ác, giữa sự sống và sự chết.
3/ Yêu thương trong phục vụ cần thấy rõ bậc thang giá trị và biết chọn những ưu tiên đúng
Khi được hỏi về ưu tiên nên chọn để đáp ứng nhu cầu mục vụ trong giai đoạn hiện đại hoá này, nhiều người trong Hội Thánh Việt Nam đã có những chọn lựa khác nhau.
- Người thì chọn việc xây cất các cơ sở tôn giáo sao cho đẹp. - Người thì chọn việc các giáo sĩ phải học tiếng Anh sao cho giỏi. - Người thì chọn việc quy tụ giáo dân sao cho đông. - Người thì chọn việc dấn thân vào các sinh hoạt xã hội, sao cho Hội Thánh có mặt và phục vụ rộng rãi.
- Người thì chọn việc đào tạo nhân sự, sao cho có đức có tài.
Tôi nghĩ việc chọn ưu tiên sẽ tuỳ theo tình hình cụ thể của mỗi nơi và mỗi lúc. Nhưng trong bất cứ hình thức nào, việc phục vụ vẫn phải chuyển tải tình yêu, bình an và sự thực. Nhờ vậy, người phục vụ luôn là người của Chúa, luôn phục vụ do động lực mến Chúa yêu người.
Thời nay, con người được đánh giá ở các tương quan của họ. Ai xây dựng được những tương quan tình yêu, sự thực và bình an, sẽ được gọi là người phục vụ có giá trị.
Những người tin theo Chúa, muốn đời mình trở nên có ý nghĩa nhờ phục vụ, nên chọn những ưu tiên có khả năng diễn tả tình yêu, bình an và sự thực trong đời sống của mình. Họ sẽ được Chúa chúc phúc và đồng hành.
4/ Yêu thương trong phục vụ cần mở rộng số người phục vụ, lãnh vực phục vụ, việc phục vụ và cách phục vụ.
Trong giai đoạn hiện đại hoá của Việt Nam hôm nay, Hội Thánh tại Việt Nam có thể đóng góp nhiều cho quê hương.
Cần có những người làm được và được làm. Không phải mọi người công giáo chúng ta đều là thế. Nên nhữ
ng ai làm được và được làm đáng được chúng ta khuyến khích và trân trọng.
Họ sẽ khôn ngoan mở rộng phục vụ. Họ sẽ vui mừng được thấy Hội Thánh có nhiều người dấn thân phục vụ. Nhiều người phục vụ, với nhiều cách khác nhau, trong nhiều lãnh vực khác nhau, trong đạo cũng như ngoài đời.
Vì thế, tinh thần phe phái, cục bộ, thành kiến cần phải dẹp bỏ. Trái lại, tinh thần hiệp thông, cởi mở, bao dung, hợp tác rộng rãi rất cần được quan tâm khuyến khích.
Chia sẻ trên đây của tôi là một tâm sự rất chân thành. Nó rút ra phần lớn từ nhiều kinh nghiệm của tháng 4/1975. Tháng Tư ấy với những chuyển biến của Đất Nước, với những chuyển mình của Giáo Hội, với những thao thức của riêng tôi.
Lịch sử tháng 4/1975 là một bài học lớn cho việc đổi mới phục vụ. Nhờ đó mà tôi nghĩ tới việc đổi mới phục vụ trong giai đoạn hiện đại hoá này. Một đổi mới quan trọng nhờ ơn đổi mới của Chúa Thánh Thần. Long Xuyên, ngày 12 tháng 4 năm 2007
Mỗi thời có một bộ mặt. Đời sống thiêng liêng, tức đời sống đạo đức, về căn bản, vẫn là một Bùi-Tuần 1913
Mỗi thời có một bộ mặt.
Đời sống thiêng liêng, tức đời sống đạo đức, về căn bản, vẫn là một trong bất cứ thời nào. Nhưng không vì thế mà không có vài đặc điểm riêng của từng giai đoạn lịch sử.
Thời nay được gọi là thời toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá là dấu ấn của các phát triển khoa học, kinh tế, văn hoá, kể cả chính trị.
Còn trong lãnh vực thiêng liêng thì sao?
Suy nghĩ của tôi hạn hẹp, chỉ nhận ra được vài nét. Tôi tạm coi đây là mấy đặc điểm làm nên khuôn mặt thiêng liêng của Công giáo thời nay.
1/ Người công giáo đang cùng với xã hội xây dựng văn hoá tình yêu liên đới
Công đồng Vatican II dạy:
“Với lòng biết ơn, Giáo Hội nhận thấy rằng mình đã được nhiều người thuộc mọi giai cấp và hoàn cảnh giúp đỡ nhiều cách cho chính cộng đoàn cũng như cho từng cá nhân con cái mình”.
(...)
“Trong việc mở rộng tương quan với thế giới, Giáo Hội phải biết mình luôn trưởng thành nhờ kinh nghiệm của các thời kỳ. Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Mẹ Giáo Hội không ngừng khuyên giục con cái mình thanh tẩy và canh tân, để dấu chỉ của Chúa Kitô chiếu sáng rạng ngời hơn trên khuôn mặt Giáo Hội” (Gaudium et Spes, ch. IV,43).
“Bổn phận của toàn thể dân Chúa, đặc biệt của các chủ chăn và các nhà thần học là: Nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, đón nghe, phân biệt và giải thích tiếng nói của thời đại, rồi phán đoán dưới ánh sáng lời Chúa, để chân lý Phúc Âm mạc khải luôn được thấu triệt, được hiểu rõ và trình bày cách thích hợp hơn” ((Gaudium et Spes, ch. IV,44).
Những lời dạy trên đây của Công đồng cho thấy: Tương quan giữa đời và đạo là một thực tế. Chúng ta thấy hiện nay nó đang rất cụ thể.
Khi phân tích các tín hiệu trong những biến cố thời đại hiện nay tại Việt Nam, hầu như mọi người công giáo chúng ta, nhất là các đấng bậc, đều nghe thấy một tiếng gọi chung: Hãy yêu thương nhau. Yêu thương là việc thiện cao quý nhất.
Thực sự, trong xã hội và cả trong Giáo Hội hiện nay, vẫn có giao tranh giữa hận thù, ghen ghét và yêu thương liên đới. Xem ra cái ác đang có vẻ rất mạnh. Chính vì để thắng sức mạnh của hận thù ghen ghét, Chúa muốn Giáo Hội phải kết hợp mật thiết với Thiên Chúa tình yêu. Trong chuyến thăm Nam Mỹ mới rồi, Đức Thánh Cha Benedicto XVI đã nhấn mạnh điều đó.
Thiên Chúa tình yêu đang hoạt động trong nhiều tâm hồn thiện chí khắp xã hội. Nếu biết tỉnh thức, chúng ta sẽ gặp được họ. Họ và ta sẽ được Chúa tình yêu dẫn dắt, để đổi mới xã hội. Đổi mới bằng nhiều cách, nhưng nhất là bằng văn hoá tình yêu. Văn hoá này sẽ đẩy lùi bóng tối hận thù, ghen tương, ích kỷ, kiêu căng đang thống trị trong lòng nhiều người, trong nếp sống bao tập thể.
Trong việc xây dựng văn hoá tình yêu, Giáo Hội sẽ giữ một vai trò khiêm tốn. Ta luôn cùng với. Chứ không lẻ loi một mình.
Để được như vậy, Giáo Hội hôm nay đang chú trọng đặc biệt đến việc đào tạo những nhân sự làm mục vụ, truyền giáo và làm chứng cho tình yêu Chúa giữa trần thế, một trần thế không bao giờ vắng quỷ ghen ghét, hận thù. Khi sống văn hoá tình yêu, Hội Thánh công giáo sẽ đặc biệt chú tâm lo cho người nghèo khổ.
2/ Người công giáo đang cùng những người thiện chí quan tâm đặc biệt đến những người đau khổ
Những người đau khổ nói đây là lớp người nghèo, những người bệnh nạn tật nguyền, già yếu, neo đơn, thất học, thất nghiệp, bơ vơ giữa đời.
Nếu để ý quan sát, ta thấy: Những chính quyền nào thực sự lo cho lớp người đau khổ bao giờ cũng được lòng dân. Những tôn giáo nào đặt ưu tiên quan hệ yêu thương với những người nghèo khổ sẽ luôn có sức thu hút lòng người.
Không phải bất cứ ai cũng thích và biết dấn thân vào hướng phục vụ người đau khổ. Tất nhiên cũng có những người tự nhiên có bản năng đó. Nhưng hầu hết phải được đào tạo.
Đào tạo tốt nhất là theo gương Đức Giêsu thành Nadarét. Người yêu thương bằng cách từ bỏ mình. Như bước xuống thân phận người nghèo, sống với họ, chia sẻ cuộc đời của họ.
Chính những người được đào tạo như vậy và kiên trì dấn thân như Chúa Giêsu, ít là một cách tương đối không trái ngược, sẽ giúp cho khuôn mặt thiêng liêng của Giáo Hội có một nét đẹp khác thường. Thực tế hôm nay cho thấy: Họ không cô đơn. Họ vẫn cùng với nhiều môn đệ âm thầm của Chúa Giêsu đang dấn thân như vậy.
Khuôn mặt thiêng liêng thời nay của các cộng đoàn còn một nét đẹp nữa, đó là mến yêu Giáo Hội.
3/ Người công giáo đang cùng với Đức Maria yêu thương tha thiết Hội Thánh Chúa Thực vậy, kính yêu Hội Thánh vốn là một bổn phận quan trọng của lương tâm mọi người con Hội Thánh.
Hội Thánh là một thứ bí tích cứu độ do Chúa Giêsu lập nên.
Hội Thánh luôn được Chúa Thánh Thần hướng dẫn bằng nhiều cách. Có cách người ta thấy và hiểu được. Có cách người ta không thấy và không hiểu được.
Hội Thánh là mẹ thiêng liêng sản sinh và nuôi dưỡng những người được chọn, để về nhà Cha.
Hội Thánh được trao cho các thánh tông đồ và các đấng kế vị các ngài, để đức tin được vững vàng trong sáng.
Hội Thánh luôn được Mẹ Maria yêu thương bảo trợ.
Riêng tôi, tôi luôn cảm tạ Chúa, vì được Hội Thánh Chúa chở che, giáo dục và thánh hoá hằng ngày. Vì đã quen sống trong tình yêu Hội Thánh, nên tôi coi những ai kính yêu hiếu thảo đối với Hội Thánh là những người sống trong ơn nghĩa Chúa, như một bảo đảm cho phần rỗi. Cho dù Hội Thánh có lúc như người mẹ già bệnh tật, tôi vẫn kính yêu và càng phải kính yêu hơn.
Trên đây tôi vừa trình bày ba nét đẹp thiêng liêng của người đạo Chúa hôm nay:
- Một là: Cùng với xã hội xây dựng văn hoá tình yêu. - Hai là: Cùng với những người thiện chí quan tâm lo cho những người nghèo khổ. - Ba là: Cùng với Đức Mẹ yêu thương Hội Thánh đủ các thành phần..
Cả ba đặc điểm đó tất nhiên phải xây dựng trên nền tảng đức tin, khiêm nhường và cởi mở, liên đới.
Với tinh thần sám hối, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta có được một bộ mặt thiêng liêng tốt đẹp. Thiết tưởng đó là trách nhiệm của mỗi người chúng ta.
Năm nay, 2007, là kỷ niệm 90 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. Nhân kỷ niệm này, tôi xin nhắc Bùi-Tuần 1914
Năm nay, 2007, là kỷ niệm 90 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.
Nhân kỷ niệm này, tôi xin nhắc tới sự kiện Toà Thánh công bố bí mật thứ ba của Đức Mẹ tại Fatima.
Thực vậy, ngày 26-6-2000, theo lệnh của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Toà Thánh đã chính thức công bố bí mật này.
Liền sau đó, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, nay là Đức đương kim Giáo Hoàng Beneđitô XVI, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Đức Tin, đã đưa ra bản hướng dẫn thần học về sự kiện Fatima.
Tiếp đó, cha Georges Cottier, nay đã lên chức Đức Hồng Y, đã trả lời một số thắc mắc về sự kiện Fatima.
Những sự việc trên đây đã kéo chú ý của dư luận, nhất là trên các phương tiện thông tin.
Tất cả chứng tỏ rằng sự kiện Fatima vẫn còn là vấn đề thời sự của hôm nay.
Những tai hoạ
Thời sự là ở điểm này: Năm 1917, từ Fatima, Đức Mẹ cảnh báo con cái Mẹ thế nào, thì năm 2000, từ Vatican, Đức Mẹ cũng cảnh báo con cái Mẹ như thế. Đây là cảnh báo then chốt: “Nếu các con tiếp tục sa phạm tội, thì các con phải gánh những tai ương. Nhưng nếu các con thành tâm hối cải, các con sẽ tránh được các tai ương đó”.
Những tai ương nói đây là những thiệt hại ở đời này, nhất là thiệt hại ở đời sau. Thiệt hại ở đời này là sự tha hoá con người và những tàn khốc trong xã hội. Thiệt hại ở đời sau là bị sa xuống hỏa ngục.
Ở Fatima, những tai ương đã được diễn tả qua những thị kiến có tính cách biểu tượng. Bí mật thứ nhất là cảnh khủng khiếp của hỏa ngục. Bí mật thứ hai là cảnh hoang tàn ghê gớm của chiến tránh. Bí mật thứ ba là cảnh chết chóc kinh hoàng xảy ra cho Hội Thánh.
Những cảnh báo này là mạc khải tư, nên không buộc phải tin. Tuy nhiên chúng hỗ trợ cho đức tin.
Những giải pháp
Để tránh những tai ương đó, con người phải sám hối, tức là bỏ tội, tránh tội, ăn năn tội, đền tội.
Hỗ trợ cho việc sám hối để đi vào lối sống Tin Mừng đích thực, Đức Mẹ ở Fatima kêu gọi con cái Mẹ hãy tham gia vào mầu nhiệm thánh giá, và tôn sùng trái tim vô nhiễm Mẹ.
Tôn sùng trái tim vô nhiễm Đức Mẹ chủ yếu là chọn trái tim vô nhiễm Đức Mẹ làm mẫu gương sống đạo. Một trái tim có Chúa ở cùng “Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1,28). Một trái tim luôn tìm thực thi thánh ý Chúa “Xin vâng” (Lc 1,38). Một trái tim luôn tạ ơn ca ngợi Chúa “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa” (Lc 1,46). Một trái tim khiêm nhường “Này tôi là tôi tớ Chúa” (Lc 1,38). Một trái tim đồng lao đồng khổ với Chúa Giêsu “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc 2,35). Một trái tim cộng tác vào việc phát triển con người theo mô hình Chúa Giêsu “Đức Giêsu càng ngày càng khôn lớn” (Lc 2,52). Một trái tim suy niệm “Đức Mẹ ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51). Một trái tim phục vụ con người một cách tế nhị “Trong tiệc cưới Cana, có thân mẫu Đức Giêsu ...” (Ga 2,1-12). Một trái tim mong muốn đổi mới mọi sự dưới hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,1-12).
Mấy sứ điệp trên đây ở Fatima đều có căn bản trong Phúc Âm. Ai tuân giữ là đi vào con đường sự sống. Ai không đi vào đó và chọn con đường mê hoặc sẽ kể như đi vào con đường sự chết. Chọn “sinh lộ” hay “tử lộ” là tùy tự do mỗi người. Xem ra trên thực tế rất nhiều người đang đi vào “tử lộ”. Thấy nguy cơ đó, Đức Mẹ đã cảnh báo. Cảnh báo ấy vẫn còn giá trị và nay càng trở nên khẩn thiết.
Cảnh báo Hội Thánh địa phương
Khi suy nghĩ cảnh báo của Mẹ Maria ở Fatima đã nhắm vào một giai đoạn lịch sử cụ thể, tôi thấy thời điểm này của mỗi Hội Thánh địa phương cũng có những vấn đề riêng cần được cảnh báo.
Riêng tại địa phương này, tôi thấy cần cảnh báo về một số tình hình sống đạo chưa tốt nơi này nơi nọ.
Cách sống đạo thiếu căn bản Phúc Âm đang đi vào nguy cơ đức tin bị tha hóa và sa sút. Thiếu căn bản Phúc Âm là không bám vào gốc rễ đó là lời Chúa, gương Chúa, ý Chúa và ơn Chúa, mà chỉ dựa trên một vài tiêu chuẩn truyền thống lỗi thời nặng về hình thức, luật lệ và dư luận tùy tiện.
Cách sống đạo thiếu dấn thân đang đi vào nguy cơ đức ái bị què quặt đui mù. Giống như người phú hộ Chúa nói trong Phúc Âm đã không thực hiện bổn phận liên đới với người hành khất Lagiarô ngồi ở cổng nhà mình.
Cách sống đạo thiếu tiên liệu đang đi vào nguy cơ đưa Hội Thánh đến chỗ cằn cỗi, tự huỷ. Giống như năm người trinh nữ khờ dại nói trong Phúc Âm. Cứ nhởn nhơ tự mãn với vẻ đẹp trinh trong bề ngoài của mình. Còn sự khôn ngoan bên trong thì lại không có. Ở đây, sự khôn ngoan là biết tiên liệu cho tương lai Hội Thánh địa phương của mình. Tiên liệu ít ra là ở chỗ đào tạo những nhân sự giàu khả năng phục vụ và phát triển bất cứ trong tình huống nào, nhất là đưa ra một con đường đổi mới có thực chất dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh.
Cách sống đạo thiếu tỉnh thức đang đi vào nguy cơ dẫn Hội Thánh ra ngoài lề xã hội. Lịch sử chuyển biến từng ngày. Chuyển biến về xã hội, về văn hoá, về kinh tế, về tâm lý và về cảm tình tôn giáo. Nếu không bám sát, không theo dõi, không nắm bắt, không phân định, không kịp thời, thì Hội Thánh địa phương sẽ đi vào một cái chết được báo trước.
Tôi mong rằng những gì Toà Thánh mới nhắc lại về Fatima sẽ được chúng ta tiếp thu. Đừng tiếp thu kiểu tiếp thu một tin tức, nhưng hãy tiếp thu kiểu tiếp thu một Tin Mừng. Nghĩa là tiếp thu với tâm hồn khiêm tốn, gẫm suy và tìm hiểu ý Chúa, để mà thực thi. Nên nhớ rằng: không làm những việc phải làm cũng là tội. Tội sẽ dẫn tới tai hoạ. Đó là điều Đức Mẹ cảnh báo.
Long Xuyên, ngày 5 tháng 6 năm 2007
Kính gởi Cha Nguyễn Thi Hợp Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình
(Bài chia sẻ trong thánh lễ kính thánh Gioan Baotixita tại nhà nguyện Toà Giám Mục Long Xuyên ngày 15/6/2007)
Đức Cha Giuse muốn tôi giảng trong thánh lễ này. Tôi xin vâng chia sẻ chút ít, vừa với khả năng Bùi-Tuần 1915
Đức Cha Giuse muốn tôi giảng trong thánh lễ này. Tôi xin vâng chia sẻ chút ít, vừa với khả năng của tôi.
Điều tôi muốn chia sẻ là: Thánh Gioan Baotixita đã dùng cách nào để dọn đường cho Đấng Cứu thế.
I. Thực vậy, theo suy nghĩ của thánh Gioan Baotixita, thì việc dọn đường đón Chúa chủ yếu là bỏ đàng tội, sám hối trở về đàng lành.
Với suy nghĩ đó, Ngài đã dùng cách nào?
Thưa, Ngài nhấn mạnh đến 2 cách rao giảng.
1/ Cách thứ nhất là Ngài rao giảng bằng chính cuộc sống của Ngài. Cuộc sống của Ngài nói chung là cuộc sống khắc khổ và sa mạc. Khắc khổ là hãm mình ép xác, tránh phạm tội, dù là tội nhẹ. Sa mạc là chiêm niệm trong thinh lặng và khiêm tốn.
2/ Cách thứ hai là Ngài rao giảng bằng lời nói. Nội dung rao giảng bằng lời nói của Ngài có 3 điểm nghiêm khắc.
a) Nghiêm khắc thứ nhất là Ngài đòi hỏi người tội lỗi phải trở về, nên người thực tốt. Ngài không chấp nhận loại trở về nửa vời, Ngài quả quyết: “Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa... Thóc mẩy thì thu vào kho” (Mt 9,10-12). Nghĩa là thóc không mẩy, trái không tốt đều bị bỏ đi.
b) Nghiêm khắc thứ hai là Ngài răn đe: Giờ Chúa phạt đã gần kề: “Cái rìu đã kề sẵn bên gốc cây xấu” (Mt 9,10). Nghĩa là tai hoạ đang tới.
c) Nghiêm khắc thứ ba là Ngài cảnh cáo mọi hoang tưởng đạo đức, muốn tránh bị phạt. “Chúng tôi đã có tổ phụ Abraham...” (Mt 9,9). Nghĩa là con cái Abraham hoặc bất cứ ai nếu có tội, cũng đừng hòng tránh được hình phạt.
Với những đặc điểm kể trên, thánh Gioan Baotixita là một mẫu gương rao giảng rất thực tế, rất thẳng thắn, do lửa nội tâm.
II. Khi đem mẫu gương đó soi vào đời tôi, tôi xin thú thực là tôi còn rất xa mẫu gương đó. Tôi nhìn nhận khuyết điểm đó với lòng sám hối. Với tuổi nào, tôi vẫn thấy mình cần bắt đầu lại.
Còn, khi đem mẫu gương đó soi vào đời các giám mục, linh mục, tôi thấy một số các ngài đã áp dụng mẫu gương đó tốt, không phải một cách máy móc, nhưng một cách khôn ngoan, khéo léo, tuỳ người, tuỳ lúc, tuỳ hoàn cảnh. Xin cảm tạ Chúa.
Tôi thiết nghĩ mẫu gương của thánh Gioan Baotixita vẫn mãi được uy tín cho mọi thời.
Nhưng, tôi xin có vài lời khuyên:
a) Lời khuyên đầu tiên là nên áp dụng một cách thông minh theo ơn Chúa Thánh Thần. Cố gắng tránh kiểu nói bị hiểu là ta có dụng ý xấu, muốn dùng lời giảng, để gièm pha, hạ giá, chửi xéo người khác. Khi giảng, thì luôn ý thức mình được Chúa sai giảng cho ai, vì mục đích gì.
b) Lời khuyên tiếp theo là lúc này, khi thúc giục người ta bỏ đàng tội, sám hối trở về đàng lành, chúng ta cũng nên giới thiệu Chúa Giêsu giàu lòng thương xót. Bởi vì thời nay là thời điểm Chúa muốn mạc khải lòng thương xót Chúa.
Xin hết lòng cảm ơn Đức Cha Giuse, các cha và mọi người. Xin vui lòng cầu nguyện cho nhau được biết luôn trung thành với ơn gọi dọn đường cho Chúa, đặc biệt là trong những trường hợp xảy ra bất ngờ. Amen.
Đức Mẹ từ trời xuống đất. Đó là sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở Fatima năm 1917. Năm nay, 2007, nhiều Bùi-Tuần 1916
Đức Mẹ từ trời xuống đất. Đó là sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở Fatima năm 1917. Năm nay, 2007, nhiều nơi mừng 90 năm sự kiện lịch sử đó.
Mừng kỷ niệm này, tôi nhìn lại những tác động của sứ điệp Fatima trong đời tôi. Tới nay, những tác động ấy vẫn mạnh, đi vào chiều sâu. Chúng làm nên một thứ tu đức, mà tôi tạm gọi là tu đức từ Fatima.
Tu đức từ Fatima được hình thành dần dần từ sự gắn bó mật thiết với Đức Mẹ Fatima. Nó mang mấy đặc điểm sau đây:
1/ Một tu đức luôn nhắc đến lòng khiêm nhường và sám hối
Tôi thấy bước đầu để đi vào con đường sứ điệp Fatima là thực hiện một chuỗi dài những việc khiêm nhường.
Thực vậy, tôi phải khiêm nhường tin rằng: Chúa đã dùng ba trẻ quê mùa ở Fatima như những dụng cụ khiêm tốn để loan báo sứ điệp.
Tôi phải khiêm tốn nhận rằng: Sứ điệp quan trọng nhất ở Fatima là việc sám hối. Sám hối bao giờ cũng khởi đi từ sự khiêm tốn nhìn nhận mình tội lỗi.
Tôi phải khiêm tốn nhìn lên Đức Mẹ ở Fatima. Người tỏ mình ra một cách khiêm tốn, như người nữ tỳ của Chúa, như người Mẹ dạt dào tình thương đối với mọi người, không phân biệt ai.
Tôi phải khiêm tốn xác tín rằng: Vinh quang của Thiên Chúa ở Fatima là Chúa dùng những phương tiện hèn mọn, và đưa ra giải pháp hèn mọn hợp với bất cứ ai, để họ được cứu khỏi các tai hoạ thảm khốc đời này, nhất là khỏi hoả ngục đời sau.
Tôi phải khiêm tốn vâng theo sứ điệp Fatima mà tu thân sám hối. Sứ điệp này phản ánh sứ điệp sám hối đã do thánh Gioan Baotixita rao giảng xưa. Sứ điệp này tiếp nối sứ điệp sám hối mà chính Chúa Giêsu gởi đến nhân loại xưa, trong mầu nhiệm thánh giá.
Khi thực thi chuỗi dài những việc khiêm tốn trên đây trong ý thức, tôi sẽ được đưa tới việc khiêm tốn cầu nguyện với Chúa. Việc cầu nguyện này là một đối thoại giữa Chúa và tôi. Đối tượng là về cái tâm.
Tôi nghe Chúa phán với tôi cũng những lời trong sách tiên tri Giôen: “Ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta. Hãy ăn chay, khóc lóc và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng” (Ge 2,12-13).
Tôi cũng đã nghe Chúa nói với tôi những lời, như xưa đã ghi trong tiên tri Êdêkien: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi, và sẽ ban cho các ngươi một quả tim bằng thịt” (Ed 36,26). Tôi hiểu quả tim bằng đá là cái tâm chai đá, còn quả tim bằng thịt là cái tâm nhạy cảm, khiêm nhường.
Khi hiểu Chúa muốn dạy gì, tôi sẽ nói với Chúa lời xưa của vua Đavít: “Lạy Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tấm lòng tan nát. Một tấm lòng tan nát, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 52,19).
Chỉ khi tôi thực sự dâng lên Chúa tấm lòng tan nát khiêm cung và sám hối, tôi mới thực sự thi hành sứ điệp khiêm nhường và sám hối, mà Đức Mẹ đã nhắn nhủ ở Fatima.
Cùng với lòng khiêm nhường và sám hối, tôi đã được sứ điệp Fatima chỉ cho thấy nguồn gốc sâu xa của nguy cơ lớn nhất hiện nay.
2/ Một tu đức luôn chỉ cho thấy nguồn gốc của nguy cơ hiện nay
Theo sứ điệp Fatima, thì nguy cơ lớn nhất là con người tự đi xuống diệt vong, nguồn gốc sâu xa của nguy cơ đó là vì con người:
- Mất ý thức về tội, - Chối từ Thiên Chúa, - Không cầu nguyện, - Không tin có hoả ngục.
Thực vậy, ở Fatima, Đức Mẹ đã dạy vắn tắt thế này:
- Hãy sám hối bỏ đàng tội, - Hãy cầu nguyện trở về với Chúa, - Kẻo sẽ phải sa xuống hoả ngục.
Lời khuyên vắn tắt của Mẹ ở Fatima đã phác hoạ thực trạng loài người lúc đó và hiện nay.
Nhìn lại tình hình năm 1917, người ta thấy: Lúc đó, đã phát sinh phong trào mất ý thức về tội, coi nhẹ niềm tin có hoả ngục, và cách sống dửng dưng đối với Thiên Chúa.
Nay, ba phong trào đó xem ra mạnh hơn và lan rộng hơn. Sự phát triển ba phong trào này có nguồn gốc: Một đàng ở sự người ta bớt cầu nguyện và bớt gắn bó với Chúa, một đàng người ta gắn bó hơn với cách sống thực dụng, hưởng thụ và tự mãn kiêu căng.
Nhận thức trên đây tất nhiên phải đi tới những cố gắng rõ rệt về tu đức. Đó là: Rút ánh sáng từ Phúc Âm ra, để nhận định đúng về tội, về hoả ngục, về sự chối từ Chúa qua sự chối từ những điều Chúa truyền và Hội Thánh dạy.
Một cách đón nhận ánh sáng Phúc Âm là năng cầu nguyện kinh Mân Côi và tôn sùng Trái tim Đức Mẹ.
Ánh sáng Phúc Âm ta nhận được qua những sùng kính đó sẽ cho ta gặp được Chúa. Một Chúa sống động, một Chúa gần gũi, một Chúa là tình yêu thương xót. Sự gặp gỡ này sẽ mở tâm hồn ta ra, để Chúa biến đổi lòng ta nên mới.
Lòng ta nên mới, nhất là ở sự ta nhìn Đức Mẹ đúng là người mẹ đầy xót thương. Mẹ chỉ muốn cho tính mạng của các con cái Mẹ được an toàn. Chúng ta hãy là con thảo của Mẹ. Con thảo thì tin vào Mẹ, con thảo thì vâng lời Mẹ.
Theo bài giảng của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại Fatima ngày 13/5/1982, thì sứ điệp của Đức Mẹ ở Fatima là một cảnh báo quyết đoán và nghiêm khắc. Không ai được coi thường.
Nhận thức trên đây đang trở thành một động lực cho việc sống đạo tại Việt Nam hôm nay. Bỏ đàng tội, đổi mới nếp sống, xin ơn trở về với Thiên Chúa tình yêu, đó là trọng tâm mục vụ của nhiều môn đệ Chúa trên đất nước thân thương này.
Chia sẻ trên đây là một chút dư âm của sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. Dư âm này sẽ rất âm thầm, nhưng là một của lễ bé mọn dâng kính Mẹ. Tôi tin nó sẽ được ở bên nhiều của lễ khác đang đặt xung quanh Mẹ nhân lành.
Thiết tưởng của lễ đẹp nhất chính là những người đang biến chính bản thân mình thành của lễ, như lời thánh Phaolô dạy: “Vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Anh em đừng rập theo thói đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: Cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,1-2).
Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là một tiếng gọi. Chúa gọi chúng ta. Đức Mẹ gọi chúng ta. Hội Thánh Bùi-Tuần 1917
Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là một tiếng gọi. Chúa gọi chúng ta. Đức Mẹ gọi chúng ta. Hội Thánh gọi chúng ta. Những tiếng gọi này có thể rất đa dạng, như:
Hãy tạ ơn Chúa vì đã ban cho Đức Mẹ ơn được lên trời cả hồn lẫn xác.
Hoặc: Hãy xin Đức Mẹ cầu bầu cho ta cũng được theo Mẹ lên trời.
Hoặc: Hãy nhớ lại muôn vàn ơn Đức Mẹ đã ban cho ta hiện nay và từ trước, để ta biết đi vào đúng đường lên trời.
Trong những tiếng gọi khác nhau, tôi thấy có một tiếng gọi tôi cho là khẩn cấp. Tiếng gọi đó được diễn tả trong lời sau đây của thánh Phaolô: “Các con hãy biết run sợ lo sao cho mình được cứu độ” (Pl 2,12).
Được cứu độ là việc không dễ dàng. Vì thế, nếu chúng ta “biết run sợ lo cho mình” được cứu độ, thì thái độ của chúng ta là rất đúng. Bởi vì Chúa Giêsu khẳng định: “Được mọi sự thế gian, mà phải mất linh hồn mình, thì nào có lợi gì” (Lc 9,25).
Trong niềm tin đó, và với sự run sợ lo cho phần rỗi của mình, tôi xin chia sẻ mấy thực tế, mà tôi thiết nghĩ là rất cần cho phần rỗi.
Những thực tế mà tôi coi là cần cho phần rỗi, sẽ không phải là tránh tội này tội nọ, nhưng là hãy có những lối sống đạo đức. Chúa Giêsu đã truyền dạy một cách rõ ràng về một số lối sống đạo đức, mà Người cho là cần cho phần rỗi.
1/ Sống tu thân
Chúa Giêsu dạy: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14).
Với lời cảnh báo trên, Chúa Giêsu đã đề cập đến vấn đề tu thân. Tu thân là sống theo cửa hẹp. Cửa hẹp là những kỷ luật trong thái độ sống, trong cách suy nghĩ, trong cách dùng thời giờ, của cải, sức khoẻ và những phương tiệc xác hồn, nhất là trong sự vâng lời và trong xét đoán.
Tu thân như thế là một bổn phận đối với mọi người.
Riêng đối với những ai muốn trở thành môn đệ Chúa, thì tu thân phải đi xa, đi sâu hơn nữa. Chúa Giêsu phán: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
Trong một thế giới hưởng thụ, tu thân là một nét đẹp của nền giáo dục Kitô-hữu.
Đi vào đường hẹp, chính là đi vào đường phát triển con người, vừa theo hướng đi lên với Chúa, vừa theo hướng gặp gỡ con người.
Nó là một nghệ thuật để giới thiệu các giá trị đạo đức.
Nó khẳng định một nền đào tạo sâu sắc đi đôi với việc được sai vào đời, để loan báo Tin Mừng.
Nhất là nó phản ánh phần nào Đức Kitô thành Nadarét. Người đã sống hoàn toàn tự do, nhưng khi lựa chọn đường hẹp tu thân, Người đã cho thấy đường hẹp tu thân là cách mở rộng chân trời cứu độ.
2/ Sống thực thi ý Chúa
Chúa Giêsu phán: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.
“Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: 'Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?' Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác.
“Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá... Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát” (Mt 7,21-26).
Những lời Chúa phán trên đây dạy ta hai điều:
Một là thực hành lời Chúa mới có giá trị, chứ không phải chỉ học hiểu lời Chúa suông là đủ.
Hai là khi thực hành lời Chúa, thì phải để ý thi hành đúng ý Chúa. Đúng ý Chúa là làm đúng việc, đúng cách, đúng lúc, đúng tâm tình Chúa muốn có và đúng ý hướng trong sạch trước mặt Chúa.
Đức Kitô diễn tả tình yêu Chúa Cha bằng nhiều cách khác nhau, tuỳ từng giai đoạn. Ba mươi năm ở Nadarét thì Người âm thầm. Ba năm đi đây đó thì Người công khai làm phép lạ và rao giảng. Tuần lễ cuối đời thì Người tự ý nộp mình chịu mọi đau đớn, nhục nhã.
Đức Mẹ hầu suốt đời nâng đỡ Con mình một cách lặng lẽ.
Như vậy, thực hành đúng ý Chúa đòi phải gắn bó mật thiết với Chúa, để có thể biết được ý Chúa và có sức thực thi ý Chúa.
Thực tế cho chúng ta thấy rằng: Thực hành đúng ý Chúa không phải chỉ do thiện chí của ta, mà ta cũng phải biết rõ việc ta được sai đi. Ai sai ta? Sai đến nơi đâu? Phải đến lúc nào? Nên làm gì ở đó? Chỉ hiểu sơ thế thôi, cũng thấy việc thực thi ý Chúa là việc không dễ dàng. Nhất là thời nay đang xuất hiện nhiều loại thông tin, đúng có sai có; thêm vào đó là nhiều loại ý kiến, tốt có xấu có; nguy hiểm nhất là phát sinh nhiều thứ áp lực, trong ta và ngoài ta. Ai không có bản lãnh và tiêu chuẩn đạo đức vững, sẽ dễ bị choáng váng chao đảo, lạc vào những nẻo đường đưa tới diệt vong.
3/ Sống tin vào Đức Giêsu Kitô
Cách sống theo Đức Giêsu Kitô trước hết là tin Đức Giêsu Kitô là chân lý. Người phán: “Chính Thầy là đường đi, là chân lý và là sự sống” (Ga 14,6). Tin vào Người như thế là tin Người chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, nói tắt là Đức Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa.
Vì thế, ta tin mọi điều Người truyền dạy là chân lý cứu độ. “Anh em hãy tin vào Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy... Thật, Thầy bảo thật các anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm” (Ga 14,11-12).
Từ đó, tin vào Đức Giêsu Kitô là giữ lời Người và yêu mến Người. “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21).
Chúa Giêsu còn đưa người đó tới Chúa Cha. “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy” (Ga 14,23).
Khi niềm tin đó đi sâu hơn nữa, người ta được mời gọi gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu như cành với cây. Chúa phán: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Như vậy, tin Chúa Giêsu là giữ lời Người, là yêu mến Người, là gắn bó mật thiết với Người. Niềm tin đó đặt Chúa Giêsu là nền tảng. Ta tin và thực hành điều gì, là vì Chúa Giêsu đã dạy. Niềm tin này sẽ cứu ta khỏi những hoang mang thắc mắc, do áp lực dư luận, các nền văn hoá và các phong trào thế tục đặt ra. Nó cũng cứu ta khỏi những hoang tưởng kiêu căng.
Chúng ta vừa điểm qua ba lối sống:
- Sống tu thân,
- Sống thực thi ý Chúa,
- Sống tin vào Đức Giêsu Kitô.
Ba lối sống này là những gì Chúa đã nhấn mạnh. Ai giữ ba lối sống đó sẽ cộng tác với ơn Chúa ban cho mình để được cứu rỗi.
Ta có ý thức về ba lối sống đó không? Ta có thường ngày giữ ba lối sống đó một cách nghiêm túc không?
Khi xét mình để trả lời những câu hỏi đó, chúng ta có thể lo sợ. Nhưng chính sự lo sợ ấy sẽ giúp chúng ta khiêm nhường, để sửa mình. Như thế, chúng ta sẽ đáp lại tiếng gọi của Chúa, của Đức Mẹ và của Hội Thánh một cách chân thành. Thiết tưởng đó là một chuẩn bị tốt để mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời.
Ngày 01 tháng 10 hằng năm, Hội Thánh mừng lễ thánh Têrêsa nhỏ. Thánh nữ Têrêsa nhỏ cũng Bùi-Tuần 1918
Ngày 01 tháng 10 hằng năm, Hội Thánh mừng lễ thánh Têrêsa nhỏ. Thánh nữ Têrêsa nhỏ cũng gọi là thánh Têrêsa thành Lisieux. Năm nay kỷ niệm 110 năm ngày thánh Têrêsa này qua đời lúc mới 24 tuổi (1897-2007).
Toà Thánh tôn phong thánh nữ là Quan Thầy các xứ truyền giáo.
Tuy dù thánh nữ nhỏ về tuổi, nhỏ về chức vụ, nhỏ về hoạt động bên ngoài. Nhưng tâm hồn thánh nữ đón nhận trọn vẹn ý Chúa về truyền giáo. Nhờ đâu? Nhờ Kinh Thánh. Kinh Thánh đã hướng dẫn Têrêsa đi vào con đường bé nhỏ với lửa tình yêu.
Thực vậy, Têrêsa nhận thánh ý Chúa từ Kinh Thánh. Thánh ý Chúa đào tạo Têrêsa nên nhà truyền giáo.
1/ Hằng ngày Têrêsa nhận thánh ý Chúa từ Kinh Thánh
Từ nhỏ cho đến chết, Têrêsa bị thiêu đốt trong tâm hồn bởi lửa khao khát Chúa.
“Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, Hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa. Linh hồn con khao khát Chúa Trời là Chúa Trời hằng sống” (Tv 41,2-3).
Lòng khao khát Chúa được chớm nở dần dần ngay từ tuổi bé thơ. Tại gia đình, cha mẹ và các chị thường đọc cho Têrêsa nghe các chuyện thánh rút từ Cựu Ước và Tân Ước. Thêm vào đó, gia đình cũng quen đọc tập “Năm Phụng vụ” của Dom Guéranger.
Bài giảng thứ nhất đã làm xúc động Têrêsa tại nhà thờ giáo xứ là bài nói về cuộc thương khó Chúa.
Khi đã vào Nhà Dòng, Têrêsa càng được làm quen với Kinh Thánh.
Tại nhà nguyện, nữ tu Têrêsa ban ngày tham dự cầu nguyện nhiều lần bằng Thánh Vịnh và các bài Phúc Âm. Ban tối, cộng đoàn chuẩn bị cho phụng vụ ngày mai bằng những nguyện ngắm rút từ Phúc Âm và các Giáo phụ.
Tại nhà cơm, các nữ tu được nghe nhắc lại các bài đọc giờ kinh sáng.
Kinh Thánh giữ một chỗ đứng quan trọng trong đời sống cộng đoàn. Kinh Thánh vẫn tiếp tục đi sâu vào tâm hồn Têrêsa trong đời sống tư riêng.
Những sách Têrêsa đọc thêm trong đời tư là sách Gương Phúc Chúa Giêsu và vài tác phẩm của thánh Gioan Thánh Giá. Những sách này diễn tả Lời Chúa đã thời sự hoá các tâm hồn. Lời Chúa đã đổi mới họ, đã thiêu đốt họ, đã soi sáng họ, để họ biết thánh ý Chúa. “Thánh ý Ngài là gia nghiệp con mãi mãi, vì đó là hoan lạc của lòng con” (Tv 119,111).
Têrêsa tìm nhận được thánh ý Chúa từ Kinh Thánh. Kinh Thánh đào tạo Têrêsa nên nhà truyền giáo.
2/ Thánh ý Chúa đào tạo Têrêsa nên người truyền giáo
Nơi Têrêsa, Kinh Thánh được nghe, được đọc, được suy gẫm, được đón nhận. Hành trình đó đã biến đổi Têrêsa. Biến đổi lớn nhất là đào tạo Têrêsa nên nhà truyền giáo.
Nhà truyền giáo Têrêsa có mấy đặc điểm sau đây:
a) Nhận biết mình hèn mọn.
Nhận biết mình có nhiều giới hạn, có nhiều bất xứng, có nhiều yếu đuối, đó là một đòi hỏi về nhân bản, về đạo đức truyền thống của nhiều gia đình và dân tộc. Đó còn là một lệnh truyền của Chúa Giêsu. Chúa ví sự nhận biết sự thực đó như hình ảnh trẻ nhỏ. “Thầy bảo thật các con, nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 18,3). Lời Chúa phán trên đây không là một lựa chọn, nhưng là một mệnh lệnh. Nó dứt khoát và quyết liệt. Têrêsa đã vâng phục mệnh lệnh này và đem ra thực hành. Với quyết tâm và với ơn Chúa, chị nữ tu sống khiêm nhường, nghèo khó, đơn sơ, phó thác, chôn vùi.
Càng bước sâu xuống thân phận hèn mọn, thánh nữ càng nghe rõ lời Chúa kêu gọi: “Nếu ai hết sức bé nhỏ, hãy đến cùng Ta” (Phương ngôn 9,4). Được đến với Chúa trong tình trạng đó, thánh nữ cảm thấy ứng nghiệm lời Kinh Thánh nói: “Như người mẹ vuốt ve con mình, cũng thế, Ta cũng sẽ an ủi con, Ta sẽ ôm con trong lòng Ta, Ta sẽ ru con trên đầu gối Ta” (Is 66,13).
b) Nhận ra yêu mến là ơn gọi của mình.
Trong cuốn tự truyện, Têrêsa kể lại đã có lúc ngài đi tìm ơn gọi nào tốt nhất, để có thể phục vụ tối đa Thiên Chúa và các linh hồn. Sau cùng ngài đã tìm thấy: “Ơn gọi của tôi là yêu mến”.
Chính Kinh Thánh đã soi sáng cho thánh nữ. Đặc biệt là thư thứ nhất của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô.
“Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.
“Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin, đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.
“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.
“Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,1-13).
Khi Têrêsa đã chọn cho mình ơn gọi tình yêu, thì ngài dâng mình cho tình yêu Chúa. Từ đó ngài hết tình yêu mến Hội Thánh Chúa, kính trọng và nâng đỡ các người trong phẩm trật Hội Thánh, hiệp thông với mọi thành phần Hội Thánh trong tình con Chúa. Nhất là ngài cầu nguyện và hy sinh để cứu các linh hồn.
Chia sẻ trên đây thực là bé mọn, mong nó được góp phần nhỏ vào việc tạ ơn Thiên Chúa. Chúa đã làm bao việc lạ lùng nơi thánh nữ Têrêsa.
Hơn lúc nào hết, Hội Thánh Việt Nam hôm nay cần đến gương thánh nữ trên đường truyền giáo.
Truyền giáo đang được thực hiện dưới nhiều hình thức. Nhưng không phải mọi hình thức đều tốt như nhau. Thậm chí không phải bất cứ hình thức nào cũng tốt. Bởi vì có một vài hình thức tự mang tên truyền giáo, mà đang phản truyền giáo.
Có những sinh hoạt xã hội và vui nhộn có tính cách trợ giúp cho việc truyền giáo. Nhưng chúng ta đừng quên những giá trị căn bản làm nên việc truyền giáo. Không nên bớt. Càng không nên bỏ. Nhất là trong thời buổi ham hướng ngoại và duy vật hoá những gì là thánh thiêng.
Thiết lập Hàng Giáo Phẩm tại một Giáo Hội địa phương là thiết lập một tổ chức hữu hình mang Bùi-Tuần 1919
Thiết lập Hàng Giáo Phẩm tại một Giáo Hội địa phương là thiết lập một tổ chức hữu hình mang sự sống vừa hữu hình vừa vô hình. Tổ chức này rất quan trọng cho Giáo Hội địa phương.
Hàng Giáo Phẩm Việt Nam mang sự sống đó một cách đặc biệt, trong giai đoạn lịch sử khó khăn.
Ngày 8-12-1960 Hàng Giáo Phẩm Việt Nam được thiết lập, do sắc chỉ Venerabilium Nostrorum của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Lúc đó Bắc Nam đang còn trong tình trạng chia cắt. Bắc sống đạo theo tình hình miền Bắc. Nam sống đạo theo tinh thần miền Nam. Mỗi bên có cùng chung một sự sống đức tin như nhau, nhưng mỗi bên có đặc điểm riêng của mình.
Sau biến cố 30-4-1975, Đất Nước thống nhất, hai miền Bắc Nam của Giáo Hội Việt Nam chia sẻ cho nhau sự sống hữu hình và vô hình của mình.
Biến cố đó cũng là thời điểm tôi được Toà Thánh chỉ định làm Giám mục. Qua sự kiện này tôi được chính thức tham gia vào Hàng Giáo Phẩm Việt Nam.
Lúc đó, hoàn cảnh đất nước đã hoàn toàn thay đổi. Rất nhiều tín hữu hoang mang. Nhưng Hàng Giáo Phẩm đã là nguồn ánh sáng soi dẫn họ.
Hàng Giáo Phẩm không thay đổi được lịch sử. Nhưng Hàng Giáo Phẩm giúp cho các tín hữu thay đổi cái nhìn của mình. Cái nhìn được thay đổi không do sáng kiến tự ý, nhưng do nền tảng Kinh Thánh. Hàng Giáo Phẩm không đưa ra một lúc, nhưng dần dần tuỳ dịp.
Những thay đổi sau đây đáng được nêu lên.
1/ Sám hối và bám chặt vào Chúa hơn trước
Trước đó, người theo đạo có quan tâm đến sám hối, đến đời sống nội tâm. Nhưng sau biến cố 30-4-1975, hai miền đạo Bắc Nam thấy mọi sự xảy tới không như mình tin tưởng, nên đã quay về với Chúa sâu hơn, trọn vẹn hơn. Họ thực hiện triệt để các lời Chúa Giêsu phán: “Hãy sám hối trở về, vì Nước Trời đã gần” (Mt 4,17). “Nước Trời không đến như điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: Ở đây này, hay: Ở kia kìa, vì này Nước Trời đang ở giữa anh em” (Lc 17,20-21).
Tôi còn nhớ những cuộc tĩnh tâm cho linh mục giáo phận sau 30-4-1975. Hoàn cảnh vật chất rất eo hẹp, nhưng tất cả các linh mục đều rất sốt sắng. Các ngài chỉ lo cầu nguyện, sám hối, bám chặt vào Chúa. Không đủ giường, nhiều linh mục trẻ tình nguyện nằm đất. Bầu khí tĩnh tâm được cảm thấy chìm ngập trong lửa Chúa Thánh Thần.
2/ Giới thiệu vinh quang của Chúa một cách khác trước
Trước đây, nhiều nơi có thói quen giới thiệu vinh quang của Chúa qua những hoành tráng, đắc thắng của Giáo Hội. Nhưng sau khi Giáo Hội Bắc Nam gặp gỡ nhau, chia sẻ kinh nghiệm cho nhau, Hàng Giáo Phẩm Việt Nam đã không ngần ngại giới thiệu vinh quang của Chúa được tỏ hiện ở sự khiêm nhường khó nghèo của Chúa tại hang đá Belem và ở sự hy sinh đau đớn của Chúa trên thánh giá tại núi Canvê.
Mọi tín hữu được Chúa gọi hãy giới thiệu vinh quang Chúa qua đời sống khiêm tốn, khó nghèo và hy sinh. Tất nhiên họ sẽ phải đau khổ. Nhưng nhờ nhìn vào gương Chúa Giêsu xưa, họ được an ủi và bình an.
3/ Thực hiện việc nên thánh một cách khác trước
Trước đây, người ta cứ tưởng nên thánh là phải làm những việc lớn lao. Nhưng hoàn cảnh cụ thể của giai đoạn mới kêu gọi người ta nhớ lại việc nên thánh chỉ đơn sơ là thực thi thánh ý Chúa. “Không phải những ai kêu 'lạy Chúa, lạy Chúa' là được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai thực thi ý Cha Ta là Đấng ngự trên trời” (Mt 7,21).
Thánh ý Chúa về mỗi người là chu toàn bổn phận bình thường của mình, nhưng một cách khác thường. Lúc đó, “Nước Chúa không phải là chuyện đồ ăn thức uống, nhưng là công lý, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14,17).
Công lý, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần sẽ đến với ta, khi ta sống Tám mối phúc. Đây là những liên đới xã hội rất thường, nhưng rất khó. Tuy nhiên, nhờ ơn Chúa, bao người sống đức tin trong giai đoạn khó khăn đã thực hiện được.
Tôi đã chứng kiến rất nhiều cảnh sống vâng phục thánh ý Chúa trong đời thường. Đời thường là cuộc sống làm ăn, cuộc sống gia đình, cuộc sống tham gia vào văn hoá và sinh hoạt xã hội, ngay cả những cảnh chịu bệnh tật, chịu oan ức, sỉ nhục. Họ đã vâng phục thánh ý Chúa một cách khác thường, nghĩa là với động lực thiêng liêng cao cả.
4/ Tìm nghị lực ở những nguồn khác trước
Trước đây, nhiều tín hữu để mình trôi theo trào lưu tìm nguồn nghị lực ở những đối tượng khác nhau như: Thế lực chính trị, thế lực kinh tế, thế lực danh vọng. Nhưng sau những thử thách đau đớn, nhiều người đã tập trung tìm nguồn nghị lực ở cầu nguyện, thánh lễ, suy niệm và phục vụ yêu thương. Nói tắt là lúc khó họ thực hiện triệt để hơn lời Chúa Giêsu phán xưa: “Hãy tìm Nước Chúa và sự công chính của Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ ban cho chúng con sau” (Mt 6,31).
Những cái nhìn trên đây thực sự không mới. Nhưng Hàng Giáo Phẩm Việt Nam đã nêu lên như những dấu chỉ thời đại. Mới là ở chỗ sự nhấn mạnh của Hàng Giáo Phẩm có dấu ấn đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Dấu ấn đó là sự tự do. Mình không bị áp lực nào. Mình cũng không bó buộc ai. Nhưng tất cả đều do động lực siêu nhiên của Kinh Thánh.
Riêng tôi, tôi vẫn nhớ sự tự do đó đòi phải chiến đấu và cầu nguyện. Bởi vì Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Con không xin Cha cất chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng khỏi sự dữ” (Ga 17,15). Và tôi còn nhớ một lời Chúa phán với thánh Phêrô: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng các con như người ta sàng gạo” (Lc 22,31).
Những lời Chúa Giêsu nói trên đây khiến ta hãy biết ơn Hàng Giáo Phẩm. Giai đoạn rất khó đã qua đi tốt đẹp. Bây giờ là giai đoạn mở. Xin hãy cầu nguyện nhiều cho Hàng Giáo Phẩm. Tôi tin thời nào cũng sẽ có ánh sáng thích hợp cho thời đó.
Truyền giáo là một ơn trọng Chúa ban cho tôi. Đức Mẹ đã và đang giúp tôi sống ơn trọng đó. Bùi-Tuần 1920
1. Truyền giáo là một ơn trọng Chúa ban cho tôi. Đức Mẹ đã và đang giúp tôi sống ơn trọng đó.
2. Trước hết, Đức Mẹ cho tôi hiểu là tôi luôn cần được truyền giáo. Thực sự đúng là như vậy. Hằng ngày, Chúa gửi đến cho tôi nhiều người, nhiều sự việc để truyền giáo cho tôi.
3. Truyền giáo mà tôi nhận được từ thời sự hằng ngày là những ánh sáng mang giá trị đạo đức, có sức dẫn tôi về với Chúa.
Tôi đón nhận ơn được truyền giáo như thế khi tôi biết khiêm nhường, tỉnh thức và bén nhạy.
4. Chính thời gian tuổi già sức yếu và bệnh tật, tôi càng cảm thấy mình phải biết ơn những ai đến truyền giáo cho mình. Nhận ra điều đó là một ơn Chúa ban.
Tôi nhận ra điều đó nhờ nhiều người, nhất là nhờ Đức thánh Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II. Xin được kể đôi chút về ngài.
5. Những lần được gặp ngài, ngài hay hỏi tôi và lắng nghe tôi nói. Nhất là ở bàn ăn, thời gian thường dài, tôi được ngồi đối diện với ngài, tôi thường được ngài hỏi thăm về quan điểm của tôi. Tôi trả lời rất thực. Sau này, tôi được biết là khi về phòng, Đức thánh Cha ghi lại nhiều điều tôi đã trình với ngài.
6. Mấy lần gặp Đức Hồng Y Roger Etchégaray, tôi cũng được Đức Hồng Y cho biết là Đức thánh Cha Gioan – Phaolô thỉnh thoảng điện cho ngài, để mượn những sách về Triết học của Gilson. Đức thánh Cha muốn tìm hiểu thêm về Triết. Ngài tìm học thêm.
7. Có lần gặp Đức Hồng Y người Bỉ, Đức Hồng Y cho tôi biết là Đức thánh Cha Gioan – Phaolô II nhờ ngài mỗi tháng báo cho Đức thánh Cha về những sách mới xuất bản trong tháng có liên quan đến mục vụ. Ngài khao khát được những người khác truyền giáo cho ngài.
8. Nhờ vậy, tôi biết Đức thánh Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II là người đợi chờ, và tìm gặp những nguồn có khả năng truyền giáo cho ngài.
9. Tôi xác tín: Đức thánh Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II là một gương sáng cho tôi. Ngài khiêm nhường như thế là vì nội tâm của ngài có Chúa, có Đức Mẹ.
10. Được đứng bên cạnh ngài để đồng tế trên bàn thờ, tôi thấy tinh thần sám hối của ngài lan tỏa sang tôi, và những người xung quanh. Ngài nhận mình là kẻ tội lỗi.
11. Nhờ vậy, mà từ lâu nay, mỗi khi nghe ai đến trước Chúa mà tự xưng mình là xác hồn trắng tinh, như ánh trăng vẹn tuyền, thì tôi quá sợ, như bị choáng váng. Vì như vậy là tự nhận không cần Chúa và bất cứ ai đến truyền giáo cho mình.
12. Được người khác truyền giáo cho mình, đó là một ơn Chúa đã và đang ban cho tôi, nhờ Đức Mẹ.
Cùng với ơn đó là ơn được sai đi truyền giáo cho nhiều người khác. Truyền giáo ở đây là giúp cho người khác gặp được Chúa, tin vào Chúa, thuộc về Chúa.
13. Làm những việc đó là quá sức của tôi. Tôi phải cậy nhờ vào ơn Chúa. Chỉ với ơn Chúa, tôi mới có thể đưa người khác đến với Chúa.
14. Phải là nội tâm có Chúa. Khi nội tâm có Chúa, tôi sẽ biết nhìn những người tôi tiếp xúc bằng trái tim của Chúa. Tôi sẽ đọc được nơi họ hoàn cảnh của họ, nỗi lòng của họ.
15. Nhất là khi họ sống ở những nơi nghèo túng, khổ cực, nếu người truyền giáo đến với họ, mà nội tâm mình có Chúa, thì chính Chúa sẽ là Tin Mừng cho họ. Họ sẽ nhận ra điều đó.
Do vậy, người truyền giáo cần có Chúa ở trong nội tâm mình một cách tha thiết. Đức Mẹ đã và đang giúp tôi như vậy.
16. Để nội tâm của tôi được có Chúa ngự, tôi cần giữ nội tâm tôi được thinh lặng. Một thinh lặng thánh.
Trong thinh lặng đó, tôi dâng mình tôi lên Chúa, như một của lễ sám hối đền tội.
Trong thinh lặng đó, tôi để Chúa làm cho tôi nên như một thánh lễ đời thường.
17. Đức Mẹ đã và đang giúp tôi sống ơn truyền giáo như thế đó.
Sống như thế, tôi sẽ không bao giờ nhàn rỗi. Sống như thế, tôi sẽ không bao giờ bận rộn không đúng. Sống như thế, tôi sẽ chỉ là đi vào con đường hẹp của Phúc âm. Sống như thế, tôi sẽ truyền giáo chỉ bằng những sự thực của cái tôi mong manh yếu đuối này..
18. Cách đây vài ngày, một phái đoàn gồm nhiều vị cao cấp của chế độ ghé thăm tôi. Tôi đã tâm sự với các vị đó về tình hình của tôi. Đơn sơ thế này: “(1) Điều làm cho tôi cảm nghiệm được hạnh phúc là: Thấy mình được yêu thương thực sự; (2) Điều làm cho tôi đau buồn là: Có lúc đợi chờ khát khao có ai đến cứu mình, mà không có; (3) Điều làm cho tôi được an ủi là: Góp phần cứu người khác khỏi khổ đau trên quê hương yêu dấu của tôi; (4) Điều làm cho tôi hy vọng là: Chúa vẫn đón nhận lời cầu xin của những ai khiêm tốn tin tưởng nơi Ngài.”
Truyền giáo của tôi là thế đó. Tôi thấy kết quả là rất tốt. Xin hết lòng tạ ơn Chúa và Đức Mẹ.
Nhiều đêm, tôi đang ngủ ngon, thì chợt thức giấc. Như có ai gọi. Lập tức, tôi nghe từ sâu thẳm Bùi-Tuần 1921
1. Nhiều đêm, tôi đang ngủ ngon, thì chợt thức giấc. Như có ai gọi. Lập tức, tôi nghe từ sâu thẳm tâm hồn một nhắc nhủ nhẹ nhàng: “Hãy cầu nguyện cho những ai đã giúp con đi qua những chặng đường đêm tối hãi hùng. Và cũng hãy cầu nguyện cho những người hiện giờ đang phải đi trong đêm tối khủng khiếp”.
2. Tôi hiểu. Tôi đã cầu nguyện.
Trước hết, tôi cầu nguyện cho những người đã giúp tôi đi qua những đêm tối hãi hùng.
Thực vậy, đêm tối hãi hùng nói đây là những thời gian tôi sống trong sợ hãi, ví như đi trên quãng đường nguy hiểm giữa đêm tăm tối, mưa đổ, giông bão, ngập tràn. Bề ngoài thì coi như bình thường. Nhưng bên trong tâm hồn thì là đêm tối hãi hùng.
3. Tình huống như thế khiến tôi sợ hãi, buồn sầu, chán nản. Bấy giờ tôi cảm được thấm thía lời Chúa Giêsu xưa trong vườn cây Dầu: “Tâm hồn tôi buồn đến chết được” (Mc 14, 34)
Buồn do nội tâm. Và cũng buồn do ngoại cảnh.
Buồn đến chết. Buồn muốn chết.
4. Cũng may là khi tưởng mình không sao ra khỏi được đêm tối hãi hùng đó, thì Chúa gửi đến tôi một số tấm lòng. Họ đã âm thầm cứu tôi.
Đúng là như vậy. Cách họ cứu tôi thực rất tế nhị, rất kín đáo, qua từng cử chỉ nhỏ mang nội dung lớn.
5. Tôi nhận ra nơi họ bóng thiêng gần gũi, nhiệm mầu.
Thấp thoáng thế thôi. Nhưng nhờ vậy, mà tôi an tâm, để tiếp tục đi vào hôm nay đang có những đêm tối rợn rùng hơn trước đây.
6. Hôm nay, đêm tối còn rợn rùng không phải những gì rợn rùng xảy ra cho cá nhân tôi, mà là những gì rợn rùng đang xảy ra khắp nơi cho Đạo Chúa.
7. Ngoại cảnh là những tấn công của nhiều lực lượng mà Phúc âm gọi là Phản – Kitô. Họ đang hùng hổ đánh thẳng vào uy tín của Đức Giáo Hoàng, vào giáo lý, vào chính Thiên Chúa.
8. Nội bộ Hội thánh thì chia rẽ và tha hóa.
9. Đêm tối rợn rùng khủng khiếp chính là lúc này. Nếu đúng là như vậy, thì tôi phải cầu nguyện nhiều cho tôi và cho mọi người đang sống hiện giờ.
10. Nguy cơ lớn nhất cho Hội thánh lúc này là sự vô cảm của nhiều tín hữu, nhất là nơi những người có trách nhiệm hướng dẫn người khác.
11. Xưa, Chúa Giêsu nhìn đền thờ Giêrusalem, thì khóc, vì biết đền thờ sẽ bị sụp đổ. Còn các thượng tế lúc đó thì vẫn tự mãn, tự hào.
12. Nay, Chúa Giêsu, qua Đức Thánh cha, cũng đang lo ngại cho sự tồn tại của Hội thánh Chúa tại nhiều nơi, vì thấy đêm tối hãi hùng sẽ tàn phá đức tin ở những nơi đó. Nhưng nhiều người có trách nhiệm trong Hội thánh thì lại vô cảm, vẫn cứ bám vào những hào nhoáng bề ngoài, để an tâm và khuyên người khác tin rằng chẳng có gì xấu sẽ xảy ra đâu.
13. Riêng tôi, thì tin rằng: Sự gì Chúa và Đức Mẹ nói mà khóc thương thì sẽ xảy ra.
Tuy nhiên, sẽ có một số nhỏ được cứu, nhờ những dụng cụ âm thầm Chúa gửi đến.
14. Khi nói đến những dụng cụ âm thầm mà Chúa gửi đến, tôi nghĩ ngay tới những tâm hồn khiêm nhường thơ ấu như thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, và như Đức Mẹ Maria.
15. Chính những tâm hồn trở thành đơn sơ, bé nhỏ như thế, sẽ góp phần không nhỏ trong việc giúp Hội thánh qua được những đêm tối hãi hùng hiện nay và sắp tới.
16. Tới đây, tôi nhận ra điều này: Biết sợ những đêm tối hãi hùng về đức tin, để bám vào Đức Mẹ mà trung thành với Chúa, chính là một ơn cao quí.
Không biết sợ sẽ là tự kết án mình.
Mà đã vậy, lại còn khuyên người khác đừng sợ, thì quả là một sự liều lĩnh để bị rơi vào bẫy quỉ Satan.
17. Hãy biết sợ, để biết cầu nguyện. Hãy biết sợ, để biết sám hối. Hãy biết sợ, để biết cầu xin ơn cứu độ.
18. Hãy biết sợ mất đức tin. Hãy biết sợ mất linh hồn. Hãy biết sợ mất phúc thiên đàng. Hãy biết sợ mất ơn Chúa. Biết sợ như thế là một ơn quan trọng do Chúa Thánh Thần ban cho.
19. Tôi đang được Đức Mẹ đánh thức lương tâm để biết sợ như thế. Xin hết lòng tạ ơn Mẹ.
Đi tu là đáp lại tiếng gọi của Chúa, chứ không phải để thi hành một luật của Chúa. Theo mạc khải Bùi-Tuần 1922
1/ Đi tu là đáp lại tiếng gọi của Chúa, chứ không phải để thi hành một luật của Chúa.
Theo mạc khải và kinh nghiệm, thì trong các điều Chúa mời gọi người tu, có 3 điều quan trọng.
Điều thứ nhất là đời sống nội tâm, tương quan của ta với Chúa
Chúa gọi ta, để dâng mình cho Chúa, ta hãy đi theo đường hẹp: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Thầy” (Mt 17,24). “Hãy đi vào cửa hẹp” (Mt 7,13).
Dâng mình cho Chúa, thì phải sống mật thiết với Chúa. “Thầy là cây nho, các con là cành” (Ga 15,5).
Điều thứ hai là đời sống phục vụ đồng bào
Xưa Chúa phán: “Ta thương xót dân này” (Mt 15,32). “Hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Chúa muốn và kêu gọi chúng ta hãy thương xót dân, và cứu họ khỏi đói.
Họ đói của ăn vật chất, và càng đói của ăn thiêng liêng, tức là tình thương, các chân lý cứu độ, nhất là sự sống của Chúa, gương sáng về đạo đức, đặc biệt là gương hối cải, trở về.
Điều thứ ba là đời sống tiến thân
Chúa trao cho mỗi người chúng ta một số nén bạc (x. Mt 25,14-30), tức là đức tin đời tu, thời giờ, sức khoẻ, địa vị, kiến thức, hoàn cảnh tốt, và bảo chúng ta phải sinh lời, với những bước tấn tới cho đời sống riêng và chung.
Trên thực tế, một số người tu đã đáp lại tiếng Chúa gọi. Họ trả lời bằng những cố gắng tích cực.
Họ tích cực tham gia vào cộng đồng người tu trong bổn phận thánh hoá.
Họ tích cực tham gia vào cộng đồng tín hữu trong bổn phận làm chứng cho Chúa giữa dòng lịch sử.
Họ tích cực tham gia vào cộng đồng các bề trên của mình trong việc lèo lái con tàu đức tin giữa biển đời đầy giông bão.
Nhưng, cũng có một số người tu đã chỉ đáp lại bằng việc đi tu, nhưng trong đời tu, họ không đáp lại đòi hỏi của đời tu.
2/ Lỗi phạm của họ là thế nào?
Tiên tri Isaia gọi lỗi phạm của họ là sự vô ơn của người con đối với người cha (x. Is 64,7-8).
Cũng tiên tri Isaia còn gọi lỗi phạm đó là sự bất hiếu của người con đã quên tình mẹ cưu mang (x. Is 49,15).
Tiên tri Osê thì gọi lỗi phạm đó là sự bất trung đối với người yêu (x. Os 2).
Nghĩa là, khi người ta không đáp lại những lời Chúa kêu mời họ, thì ta xúc phạm đến tình yêu Chúa. Xúc phạm đến tình yêu Chúa, chứ không hẳn là xúc phạm đến luật Chúa. Và như vậy, khi sám hối ăn năn, người tu nên để ý đến sự mình xúc phạm đến tình yêu Chúa. Để được vậy, phải rất cần đến ơn nếm được tình yêu Chúa quý giá cao cả dường nào.
Mọi sám hối ăn năn của người tu đều là những khiêm tốn bắt đầu lại.
3/ Nếu người tu không sám hối ăn năn, sửa mình, thì kết quả sẽ thế nào?
Thưa, họ sẽ đi vào tình trạng nguội lạnh (x. Kh 3,15). Kinh Thánh mô tả nguội lạnh là không nóng, không lạnh. Kết quả là sẽ bị Chúa mửa họ ra. Họ sẽ rơi vào những thảm hoạ sau đây:
a) Mất dần ý thức về tội. Coi những bất trung là bình thường. Coi vô cảm trước trách nhiệm là bình thường.
b) Đời sống nội tâm ra trống vắng. Họ hay lấp cái trống vắng đó bằng đời sống nghiêng về hình thức, ồn ào.
c) Nhiều khi họ đánh lạc hướng bằng sự tự mãn vì một số thành tích thành công bề ngoài.
Kết quả là: Người tu sẽ làm gương xấu cho xã hội, gây hại cho Đạo Chúa. Họ đánh mất sự bình an.
Đến đây, chúng ta có thể có một cái nhìn tổng quát về một chuyển biến nguy hiểm đang xảy ra ở nơi này người nọ trong đời tu tại Việt Nam. Hình ảnh người tu ở một số nơi không còn được sáng về nhiều nét tu tốt đẹp.
Cái nhìn trên đây sẽ giúp cho những người có trách nhiệm đào tạo.
Đào tạo người tu thành những người biết tổ chức, biết hoạt động hội đoàn, là điều tốt. Nhưng điều tốt hơn, sẽ là đào tạo họ nên những người bén nhạy với những mời gọi của Chúa kể cả khi Chúa gọi qua những dấu chỉ của thời đại, và biết đáp ứng lại những mời gọi ấy.
Người tu chúng ta hãy cầu nguyện nhiều và hãy cộng tác vào việc đào tạo mình, để ta có cái tâm biết thuộc về Chúa, biết gắn bó với Chúa, biết dấn thân cho tình yêu Chúa.
Nếu không, đời tu sẽ xuống dốc thê thảm.
Rất may là Chúa vẫn đánh thức lương tâm người tu chúng ta. Rất mừng là con đường sám hối vẫn rộng mở.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con là những người yếu đuối mọn hèn, rất cần được Chúa cứu độ.
Đau khổ là một thực tế huyền nhiệm. Không gian và thời gian của nó là bao la. Mọi thời mọi nơi Bùi-Tuần 1923
Đau khổ là một thực tế huyền nhiệm. Không gian và thời gian của nó là bao la. Mọi thời mọi nơi, nó là một kêu gọi thảm thiết.
Thế mà, linh mục lại được sai đi đem Tin Mừng cho những người đau khổ. Sứ mạng đó rất cao cả và khó khăn. Ngài sẽ bắt đầu từ đâu? Sẽ phải làm gì? Với kinh nghiệm của những người đi trước, của những anh em xung quanh và của riêng mình, ngài có thể chia sẻ đôi chút.
1/ Chính mình cảm được nỗi đau của người khác
Những thảm hoạ gây chết chóc tang thương mất mát ném nhiều người vào cảnh khốn khổ. Nhìn cảnh đó, linh mục không khỏi xót xa bàng hoàng.
Những tội ác vùng dậy thi nhau tàn phá các giá trị luân lý, đẩy bao người xuống vực sa đoạ. Nhìn cảnh đó, linh mục cảm thấy lòng mình tan nát.
Sự dại khờ không những xô đẩy các đam mê xấu vào lối sống mù quáng, mà nhiều khi cũng làm hư hỏng cả những việc thiện chí một cách thê thảm. Nhìn cảnh đó, linh mục không khỏi lo âu.
Sự sụp đổ của nhiều niềm tin tôn giáo, đưa bao người vào con đường tự do đầy những nguy hiểm hãi hùng. Nhìn cảnh đó, linh mục cảm thấy lòng mình như bị thương tích.
Sự vật vã của bao cuộc đời bế tắc, khiến họ như bị hành hình thường xuyên trong một thứ hoả ngục vô hình. Nhìn cảnh đó, linh mục như nghe được chính lòng mình tan vỡ.
Sự thiếu vắng những gì thân thiết nơi bao người, đã xô họ vào cõi vắng cô đơn không sao an ủi được. Nhìn cảnh đó, linh mục cảm thấy đắng cay nặng nề. Đau nỗi đau của người khác, linh mục như mở lòng mình ra. Ngài gặp được những người cùng hoàn cảnh như ngài. Bởi vì chính ngài cũng đã từng đau khổ bởi những thảm hoạ, những tội ác, những dại khờ, những sụp đổ, những vật vã, những thiếu vắng.
Đau khổ cho phép ngài gần gũi hơn với mọi người. Nhờ vậy, ngài cảm thấy như mình và mọi người đều cùng chung một người mẹ. Mẹ chung ấy là Đau Khổ.
Đồng cảm là một khởi đầu tốt. Về mặt nhân bản, đó là một thức tỉnh những liên đới cao đẹp thuộc đạo làm người. Vì thế, đối với linh mục, khả năng đồng cảm nhạy bén trước những đau khổ của người khác phải được coi là một điều kiện cần thiết cho ơn gọi. Nhìn những người đau khổ, linh mục nhiều khi cảm thấy mình thua xa họ về mặt can đảm, cao thượng và trách nhiệm.
2/ Phải cầu nguyện và dâng hy sinh
Tiếp đó là việc cầu nguyện cho họ, và giúp họ cầu nguyện. Cầu nguyện lúc đó sẽ hết sức vắn gọn. Sẽ chỉ là lời kêu cầu khiêm tốn. Như người con kêu tên cha mẹ một cách hồn nhiên tha thiết lúc gặp gian nan.
Kinh nghiệm cho thấy: Những cầu nguyện hồn nhiên, khiêm nhường, tha thiết cho những người đau khổ và với những người đau khổ luôn mang lại những hiệu quả lạ lùng. Đó là người đau khổ sớm nhận thấy Chúa đến với họ, Chúa hiện diện bên họ. Họ được bình tĩnh hơn, hy vọng hơn.
Chính linh mục sẽ được sai đi xa hơn trên đường phục vụ. Ngài nhớ lại lời thánh tông đồ Gioan: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: Đó là Đức Kitô đã thí mạng sống vì anh em. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng sống vì anh em” (1 Ga 3,16). Lời trên đây thúc giục linh mục sẵn sàng hy sinh thí mạng sống mình vì con chiên, đồng bào. Như vậy, cầu nguyện của ngài cũng sẽ đi kèm việc dâng hy sinh cho Chúa. Hy sinh rõ nhất là thực hiện điều Chúa Giêsu đã làm xưa. Đó là “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8).
Như vậy, với trình độ yêu thương cao thuộc nhân bản, kèm theo trình độ yêu thương cao thuộc đạo đức Phúc Âm, linh mục sẽ được nhận ra là người Chúa sai đến với họ. Người đau khổ thường dùng trực giác và cảm nhận hơn là lý luận. Với cách tiếp cận đó, họ sẽ nhận ra dễ dàng tình thương của linh mục, khi linh mục có tình thương phong phú dành cho họ. Nhờ đó, họ sẽ hiểu được phần nào ý nghĩa của đau khổ.
Linh mục sẽ không dừng lại ở đó, nhưng ngài vẫn tìm mọi cách để cứu con người khỏi khổ, ít là được bớt khổ.
3/ Phải cứu khổ bằng việc cụ thể
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ nhiệm vụ cứu khổ khi sai cac tông đồ đi: “Đức Giêsu tập họp nhóm 12, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật” (Lc 9,1).
Chính Chúa Giêsu cũng được nhận ra là Đấng Cứu thế, ở những việc Người cứu người ta khỏi khổ đau. “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,4-5).
Chúa đòi hỏi bác ái phải được thực hiện bằng việc cụ thể, kịp thời. Người nói rõ điều đó trong dụ ngôn người Samari tốt lành (x. Lc 10,29-37). Người cũng rất rõ ràng về điều đó, khi nói về “Cuộc phán xét chung” (Mt 25,21-46).
Trong khi thực hiện bác ái, linh mục không quên việc làm phải thích hợp và cách làm phải tế nhị, khôn ngoan. Nhất là không phân biệt lương giáo.
Tại Việt Nam hôm nay, cứu khổ đang là một thách đố lớn. Các tôn giáo bạn đang trả lời bằng nhiều việc cụ thể. Công giáo sẽ được đánh giá từ những biến cố khổ đau của đồng bào. Linh mục nắm bắt tình hình, hẳn sẽ cố gắng đổi mới chính bản thân mình, để trở nên bạn của những người đau khổ, trong họ có Chúa Kitô.
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 8/1991)
Đọc Kinh thánh và lịch sử Giáo hội, tôi thấy vai trò của những người có trình độ hiểu biết là Bùi-Tuần 1924
Đọc Kinh thánh và lịch sử Giáo hội, tôi thấy vai trò của những người có trình độ hiểu biết là rất quan trọng.
Để khởi sự cứu nguy một nơi, một thời, Chúa thường gởi đến nơi đó, thời đó một số người có những hiểu biết thích hợp. Nhờ những hiểu biết ấy, họ loan báo nguy cơ có thể xảy ra, và dạy cách để vượt qua nguy cơ.
Cũng vậy, để chấn hưng nền đạo đức của một thời đại, Chúa thường gởi vào thời đại ấy những nguồn hiểu biết thích hợp. Những nguồn hiểu biết này đã khơi dậy trong lòng thời đại ấy những hứng khởi mới, những sáng kiến đạo đức mới.
Chuyện các Thánh kính trong thánh 8 cũng nhắc nhở tôi điều đó. Từ các Thánh xa xưa như Gioan Baotixita (29/8), Lôrensô (10/8), Augutinh (28/8), Mônica (27/8), Bênadô (20/8), Đaminh (8/8), Anphongsô (1/8), cho đến các Thánh gần đây như Gioan Maria Vianê (4/8), Piô X (21/8), Maximilien Kôlbê (14/8), đều có một đặc điểm chung, đó là các Ngài có những hiểu biết cứu độ hợp thời, và đã thực hiện những hiểu biết ấy bằng những phương cách hợp thời.
Những hiểu biết ấy rất đa dạng. Để dễ nhận dạng, và cũng để giúp nhớ, người ta nêu lên năm loại hiểu biết sau đây:
1/ Những hiểu biết do Thần học
Hiểu biết do Thần học là những hiểu biết do các tài liệu thần học cung cấp. Nó được đúc kết do truyền thống Công Giáo, cộng với những suy tư của các nhà thần học và những hướng dẫn của quyền giáo huấn Hội thánh. Trong thần học có những cái bất biến và có những cái chuyển biến. Thần học thời thánh Augutinh và thần học thời thánh Maximilien Kôlbê rất giống nhau và cũng rất khác nhau, nhất là trong cái nhìn về Hội thánh.
Thời thánh Bênadô, nếu dân Công Giáo, dựa theo những hiểu biết thần học lúc ấy, đã coi việc kéo nhau đi đánh đuổi và tầm nã những kẻ chống đối đạo mình là việc đạo đức, thì một quan điểm như vậy có thể hợp cho thời đó, nhưng không hợp với thời thánh Maximilien Kôlbê. Vị thánh này đã có những hiểu biết mới do thần học thời Ngài, nên đã chọn một cách mới để làm chứng cho Chúa. Cách mới đó là yêu thương con người cho đến cùng.
2/ Những hiểu biết do ơn Đức tin
Hiểu biết do ơn đức tin là những hiểu biết không do trường lớp hay sách báo nào cung cấp, nhưng do đức tin siêu nhiên. Loại hiểu biết này thường hay gặp nơi những người quen sống thân mật với Chúa bằng niềm tin sống động.
Khi thánh Gioan Baotixita và thánh Gioan Maria Vianê chọn cho mình nếp sống khổ hạnh và cầu nguyện, thì sự lựa chọn ấy, và sự kiên trì trung tín với sự lựa chọn ấy, là do ơn đức tin. Ơn đức tin đã làm cho các Ngài nhìn thấy rõ giá trị vô vàn của việc cầu nguyện và khổ chế. Chỉ có ơn đức tin mới làm cho các Ngài nhìn thấy rõ việc truyền giáo là việc phải giành giật từng linh hồn khỏi tay Satan, và phải giành giật bằng sức mạnh của Đức Kitô, Đấng gánh tội, xoá tội, đền tội cho nhân loại.
Những hiểu biết đã hướng dẫn lòng mẹ nơi thánh Mônica cũng là những hiểu biết do ơn đức tin. Đang khi nhiều bà mẹ tỏ ra lơ là với việc giáo dục đạo đức con cái, cứ thấy con mình học cao, chức lớn, thì hả hê rồi, thì bà Monica không ngừng làm đủ cách để đưa con mình trở về đàng nhân đức. Đúng là vì có một đức tin rất sâu sắc, nên bà thấy rõ được thực chất lời Chúa phán xưa: “Được mọi sự thế gian mà mất linh hồn, nào được ích gì”.
3/Những hiểu biết do ơn Tiên tri
Hiểu biết do ơn tiên tri là những hiểu biết cho thấy trước những gì đang đến và sắp đến về Nước Trời. Những hiểu biết này Chúa thường thông ban cho các người thiện tâm thiện chí, tha thiết muốn đưa mọi người vào đời sống hạnh phúc của chân lý và tình thương.
Khi thánh Gioan Baotixita thấy tình hình tôn giáo thời Ngài đã bị biến chất trầm trọng, do tinh thần Pharisêu câu nệ hình thức luật lệ, đề cao của cải, biến tôn giáo thành quyền lực chính trị, thì Ngài loan báo một sự đổi mới giúp đón nhận Nước Trời, đó là tin theo Đức Kitô, Đấng đang ở giữa dân mà dân không biết. “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”.
Hiểu biết đó của Gioan là do ơn tiên tri.
Khi thánh Đaminh nhận thấy cảnh tôn giáo suy đồi đang tràn lan như cơn dịch. Ngài đã khơi lên một luồng gió mới có tính cách thanh luyện, đó là qui tụ một số người thiện chí quyết tâm sống khó nghèo, tinh khiết và vâng lời. Số người này cùng với phép lần hạt Mân côi, đã thắp sáng lên đức ái, giúp mở cổng Nước Trời. Hiểu biết đó của thánh Đaminh là do ơn tiên tri.
Khi thánh Anphongsô nhận thấy đám đông dân nghèo bị bỏ rơi, Ngài đã tập trung hoạt động mục vụ về hướng đó. Với lòng mộ mến Thánh giá và từ bỏ mình, Ngài hăng say rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó. Rồi nhìn về tương lai, Ngài đã lập dòng Chúa Cứu Thế. Hiểu biết đó của thánh Anphongsô là do ơn tiên tri.
4/ Những hiểu biết do ơn đoàn sủng
Hiểu biết do ơn đoàn sủng là những hiểu biết Thánh Thần ban cho, không vì phần rỗi của cá nhân nào, mà vì lợi ích chung Hội thánh và nhân loại.
Thí dụ, thánh Piô X nhìn thấy trong Giáo hội, có nơi não trạng giáo sĩ bị ô nhiễm bởi tinh thần Modernisme, và có nơi đời sống tôn giáo còn nặng di sản Jansénisme, nên một đàng Ngài buộc các giáo sĩ phải tuyên hứa không chấp nhận Modernisme, và một đàng Ngài cải cách luật rước lễ lần đầu. Việc làm của Ngài, và những hiểu biết trên đây của Ngài, là do ơn đoàn sủng.
Rồi, thí dụ thánh Lôrensô, khi bị vua quan thẩm vấn về tài sản Hội Thánh, Ngài đã chỉ vào đám dân nghèo mà nói: “Đây là tài sản Hội thánh”. Câu trả lời đó cho thấy tình yêu tha thiết Ngài dành cho con chiên, nhất là kẻ nghèo. Đối với Ngài, cái vốn quý nhất của Hội Thánh chính là con người. Hiểu biết như thế là do ơn đoàn sủng. Khi sự hiểu biết đó được loan đi, thì mọi người trong cộng đoàn tín hữu đều nức lòng, phấn chấn, và người ngoài Hội thánh đã tỏ lòng thán phục.
Rồi, thí dụ thánh Gioan Maria Vianê, khi muốn đổi mới họ đạo của mình, đã khởi sự từ chính mình, và bằng một nhóm nhỏ năng viếng Mình Thánh, lần chuỗi Mân côi và đọc kinh chiều. Hướng đổi mới đó chứng tỏ Ngài có những hiểu biết do ơn đoàn sủng.
5/ Những hiểu biết do theo dõi tình hình đời đạo
Đọc các tài liệu của các Thánh kính trong tháng này để lại, như các bài giảng, các sách, các thư từ, người ta thấy được phần nào những gì đã xảy ra trong đạo, ngoài đời, thời các Ngài. Đúng là các Ngài đã đồng hành với chương trình cứu độ. Các Ngài là những kẻ đánh cá thiêng liêng, không những biết lưới, rành mồi, mà cũng biết nơi nào, lúc nào nên thả lưới, và cũng biết chỗ nào, lúc nào hay xảy ra giông bão. Các Ngài là những kẻ gieo trồng thiêng liêng, không những biết lựa giống mà cũng biết những thửa đất mình sẽ gieo trồng, biết các thời vụ, biết các phân bón, biết các loại sâu rầy và các bệnh phá hoại mùa màng. Có nghĩa là các vị Thánh của chúng ta, không phải là những người chuyên bảo vệ các nguyên tắc lý thuyết ở trong pháo đài, mà là những người luôn lên đường, đến với con người, để phục vụ họ, để cứu độ họ, với những hiểu biết về họ, về hoàn cảnh của họ, về xã hội của họ.
Trên đây là tóm lược các loại hiểu biết đã hướng dẫn các vị Thánh của chúng ta, trên đường tu đức và truyền giáo. Những hiểu biết ấy là những sự thực cần thiết và hữu ích, để soi sáng đường hướng tu trì và mục vụ.
Kinh nghiệm hiện nay cho thấy: Bất cứ cộng đoàn nào, dù đạo dù đời, dù nhỏ dù lớn, nếu cứ lẩn quẩn trong những hiểu biết hẹp hòi, lệch lạc, lỗi thời, sẽ không thể nào tiến lên được. Đó là một hiểu biết sơ đẳng nhất, nhưng cần có nhất.
Hiểu biết sơ đẳng đó, cũng như bản liệt kê các loại hiểu biết trên đây của các Thánh, thúc giục ta tự kiểm điểm chính mình. Nếu sau khi xét mình, ta thấy ta đã lỗi lầm, và còn nhiều thiếu sót trong phạm vi hiểu biết, thì sự hiểu biết chân thành như vậy về mình, chính là một sự hiểu biết rất đẹp ý Chúa.
Tuy dù các phương diện trau dồi hiểu biết còn bị hạn chế, nhưng nếu chúng ta biết tận dụng các phương tiện có trong tầm tay, thì kho hiểu biết trong tâm trí ta, sẽ mỗi ngày mỗi phong phú thêm. Cụ thể, tôi muốn nói tới các bài thần học của Cha Thân Văn Tường. Nên đọc đi đọc lại. Những bài như vậy với những suy tư riêng của ta được nội dung các bài đó gợi ý, sẽ dần dần giúp cho ta có được những tư tưởng, và những thao thức có chất lượng hơn, hợp với chức năng của ta hơn.
Nhất là, tôi muốn nói tới một trường lớp quan trọng, có khả năng cho ta rất nhiều hiểu biết quý giá. Trường lớp đó là Chúa Giêsu. Hãy năng sống bên Người, sống thân thiết thường xuyên với Người, rồi sẽ thấy Người thông ban cho ta những hiểu biết mà ta không học được ở bất cứ ai, ở bất cứ sách nào. “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”. Không bao giờ tôi thấy lời Chúa khuyên dạy đó, cần được nhắc đến bằng lúc này.
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 4/1992)
Để chuẩn bị vào Tuần thánh, tôi xin chia sẻ với anh chị em vài suy nghĩ của tôi về Thánh giá Đức Bùi-Tuần 1925
Để chuẩn bị vào Tuần thánh, tôi xin chia sẻ với anh chị em vài suy nghĩ của tôi về Thánh giá Đức Kitô.
Tất nhiên, nhìn lên thánh giá là phải nhìn với đức tin. Tôi đã thấy gì?
Thưa tôi thấy thánh giá là nơi Đức Kitô đã làm chứng cho những giá trị thiêng liêng cao quý nhất. Theo tôi những giá trị này rất cần cho nền đạo đức cá nhân gia đình xã hội, làm nên hồn của truyền thống văn hoá Thiên Chúa giáo và là sức sống của tôn giáo từ xưa đến nay.
Giá trị thứ nhất mà tôi thấy Đức Kitô đã làm chứng trên thánh giá, đó là Tình yêu.
Thực vậy thánh giá là nơi Đức Kitô đã biểu lộ những đặc tính sáng ngời của tình yêu Thiên Chúa.
Yêu là đi tìm
Vì yêu thương, Chúa đi tìm mọi người. Đặc biệt Ngài đi tìm những người hư hỏng để mà cứu độ. Ý hướng ấy được Đức Kitô nói lên trong dụ ngôn “Người chăn chiên lành” bỏ lại 99 con chiên tốt, để đi tìm một con chiên lạc. Bao lần Ngài đã làm như thế, khi Ngài lui tới những kẻ tội lỗi, khi Ngài ngồi chung bàn với họ, Ngài chủ ý hoà mình vào giữa những kẻ đã mất hướng đi để giúp họ nhận ra con đường chính trực dẫn họ về hạnh phúc trường sinh. Thánh giá là tột điểm của tình yêu là hoà mình đó. Trên đồi Calvê lúc ấy, chỉ có vài người gọi được là trung thành với Đức Kitô, còn đám đông toàn là những kẻ chống đối Ngài. Ngài hoà mình vào biển người ấy. Chính giữa biển người đang sôi sục hận thù ấy, Ngài đưa mắt yêu thương tìm thiện chí của họ và của chúng ta. Chính lúc Ngài bị nhục nhã nhất trên thánh giá, Ngài đã làm chứng cho chủ trương cố hữu của Ngài, đó là Ngài đến không phải để kết án, nhưng để tìm cách cứu độ. Ngài đi trên con đường đau đớn nhất, để tìm các anh em loài người, nhất là những kẻ ghen ghét Ngài. Ngài muốn mọi người hiểu Ngài. Ngài muốn chúng ta nhận ra Ngài là tình yêu cứu độ, Ngài thương yêu tất cả, Ngài là con Chúa Cha giàu lòng thương xót. Ngài mong mọi người hối cải, trở về đàng lành, mến Chúa và yêu thương nhau như chính Ngài đã yêu thương. Ngài đã yêu thương như thế này đây:
Yêu là phục vụ
Phục vụ con người, dù phải quên mình, để hy sinh, bị chết treo trên thập giá. Tuy đây là con đường hẹp, đầy trắc trở khổ đau, nhưng chỉ có con đường đó mới là con đường mà Chúa Cha muốn, để Ngài trở về với Chúa Cha. Ai muốn lên thiên đàng phải chấp nhận con đường đó, phải đi vào con đường đó. Mọi cách làm sáng danh Chúa ngoài con đường đó sẽ không được Chúa chấp nhận. Chân lý trên đây đã được Đức Kitô nói lên nhiều lần, nhất là trong bài giảng về ngày phán xét chung, trong dụ ngôn người Samaritanô tốt lành, trong dụ ngôn người ăn mày Lagiarô và kẻ phú hộ. Giờ đây trên thánh giá, Đức Kitô lấy máu mình đóng ấn vào chân lý ấy. Hãy coi Ngài phục vụ đến mức nào; Ngài chịu nạn chịu chết để gánh tội, đền tội cho nhân loại. Hy sinh của Ngài là tột đỉnh. Ngài chấp nhận bị tước lột hết, của cải, uy tín, danh dự, mạng sống. Cái chết của Ngài đáng lẽ mang ý nghĩa cao đẹp của sự hy sinh, thì ý nghĩa đó cũng bị tước lột, và thay vào đó là ý nghĩa ô nhục dành cho những tội nhân nặng nhất. Bị kết án, bị ruồng bỏ, Đức Kitô rơi vào cô đơn thăm thẳm. Vết thương thể xác đau đớn lắm thực. Nhưng vết thương tâm hồn gây nên do cái nhục và cái cô đơn còn ghê gớm hơn bội phần. Nhưng Đức Kitô đã chấp nhận tất cả. Ngài trao hiến trọn vẹn thân mình, đời mình, để phục vụ, vì muốn cứu độ loài người, theo ý Chúa Cha.
Hình ảnh Đức Kitô bị treo trên thập giá kêu gọi mọi người hãy lắng nghe chân lý cứu độ. Chân lý cứu độ là đồng hành với Đức Kitô trên con đường phục vụ nhân loại theo ý Chúa Cha. Con đường phục vụ đòi nhiều từ bỏ, nhất là từ bỏ cái tôi ích kỷ, để sống hiền lành, khiêm nhường, nhẫn nhục, quảng đại, nghèo khó. Bề ngoài coi đó là những mất mát, nhưng bề trong chính là Tám mối Phúc thật. Và đó chính là cái vé để vào thiên đàng. Trên cái vé ấy có ghi tất cả những gì thuộc về Tám-mối-phúc mà người cầm vé đã thực hiện trên con đường phục vụ tha nhân vì Chúa. Trong số các việc lành được ghi, có một việc lành rất sáng giá, đó là sự tha thứ.
Yêu là tha thứ
Kinh nghiệm cho thấy tha thứ là điều rất khó. Người ta có thể quảng đại trong phương diện cho đi của cải, cho đi thời giờ, cho đi khó nhọc, cho đi sức khoẻ và đến cả mạng sống, nhưng người ta rất khó quảng đại trong phương diện tha thứ. Hơn nữa, tôi thấy vô số trường hợp người ta rất dễ bỏ qua những tội phạm đến Chúa, phạm đến Hội Thánh, phạm đến tha nhân, phạm đến Tổ Quốc, dù tội nặng đến đâu đi nữa, nhưng người ta rất khó bỏ qua những tội kẻ khác phạm đến danh dự và quyền lợi cá nhân họ, dù tội đó xét ra chẳng đến nỗi nào. Tha thứ cho kẻ phạm đến mình quả là điều khó. Đó là sự thực.
Cũng chính vì Đức Kitô hiểu sự thực ấy, nên khi bị treo trên thánh giá, Ngài đã tha thứ cho những kẻ đang làm hại Ngài. Như để làm chứng rằng: Tuy tha thứ là điều rất khó, nhưng đã yêu như Thiên Chúa yêu, thì phải thắng vượt cái khó ấy cho dù nó cực kỳ lớn lao.
Không những Đức Kitô tha thứ, mà còn tìm cách giảm tội cho những kẻ cố tình ghen ghét Ngài. Ngài nói với Chúa Cha rằng họ phạm tội vì lầm không biết. Sự thánh thiện của Đức Kitô được tỏ hiện sáng ngời ở tấm lòng khoan dung cao cả ấy.
Sự tha thứ của Đức Kitô không chỉ ở tại sự xoá tội, mà còn là sự đưa con người tội lỗi biết đón nhận ơn tha thứ vào một cuộc sống mới tràn đầy hạnh phúc. Sự thực trên đây được minh chứng khi Đức Kitô tha tội cho kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Ngài. Ngài tha mọi tội cho anh ta, đồng thời dẫn anh ta lên thiên đàng với Ngài. Đối với Đức Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, tha thứ tội lỗi là dùng chính tội lỗi như vật liệu tồi tệ nhất, để xây dựng nên tác phẩm tuyệt vời. Trong chiều hướng đó, tình yêu của Đức Kitô trên Thánh giá còn nói lên một điều nữa:
Yêu là sáng tạo
Đúng thế. Sáng tạo của tình yêu Đức Kitô là dùng chính tình thương để kéo những người đang chìm dưới vực thẳm vô vọng lên bờ hy vọng. Tiêu biểu cho sự sáng tạo ấy, ngoài kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Ngài đã được chính Ngài phong thánh vì biết đón nhận ơn tha thứ, còn có thánh Phêrô vị tông đồ này đã chối thầy 3 lần, nhưng nhờ ơn tha thứ, đã trở thành người lãnh đạo Hội Thánh. Rồi cũng còn vị sĩ quan ngoại đạo nữa. Ông này vừa mới chỉ huy việc đóng đinh Chúa, nhưng nhờ biết đón nhận tín hiệu Chúa gởi qua các biến cố dồn dập xảy ra lúc ấy, ông đã trở thành kẻ tuyên xưng công khai niềm tin vào chính kẻ mình đã hành hình.
Những sự kiện này cho thấy sự sáng tạo tuyệt vời của tình yêu Thiên Chúa cứu độ được thực hiện nhiều nhất trong các tâm hồn. Tâm hồn được đổi mới, trở nên hiền lành, khiêm nhượng, bao dung, nhẫn nhục, hoàn toàn tuân phục thánh ý Chúa Cha, sẵn sàng phục vụ con người, dù phải hy sinh, phải từ bỏ. Những vẻ đẹp như thế không bao giờ là kết quả của những đấu tranh với những người khác, mà là kết quả của những đấu tranh với chính mình, khi mình chấp nhận đi vào đường hẹp với những thanh luyện giúp tâm hồn mở rộng khả năng đón nhận các ơn Chúa, nhất là đón nhận chính Đức Kitô là tình yêu Thiên Chúa.
Giá trị thứ hai mà tôi thấy Đức Kitô đã làm chứng trên thánh giá, đó là sự tự do.
Xem ra có vẻ ngược đời khi nói rằng một người bị đóng đinh trên thập giá, bị tước đoạt mọi tự do, lại làm chứng về sự tự do. Nhưng sự thực là thế đó. Chính khi Đức Kitô mất hết mọi tự do thể xác, Ngài đã làm chứng rằng Ngài vẫn có một sự tự do khác cao quý hơn, thiêng liêng hơn, đó là sự tự do tâm hồn.
Thực vậy, trên Thánh giá, Đức Kitô đã sống trong các thứ áp lực dày đặc, chồng chất. Có áp lực của giáo quyền, khi toàn thể các thượng tế và các kỳ lão đều nhất trí kết án Ngài là kẻ nghĩ sai lầm sai. Có áp lực của dân chúng, khi từng ngàn người đồng thanh đòi trừng phạt Ngài, coi Ngài còn xấu hơn tên cướp Baraba. Có áp lực của các tông đồ, khi các vị này bỏ trốn, coi Ngài như kẻ thất bại. Có áp lực của quyền đời, khi quan Philatô trao Ngài cho quân lính giải ra pháp trường. Đó là những áp lực tâm lý, pháp lý, xã hội, tôn giáo, tình cảm đè nặng trên Đức Kitô. Tất cả các áp lực ấy muốn thúc ép Ngài phải thay đổi lập trường. Nhưng dù bị đủ thứ áp lực tấn công, Đức Kitô vẫn giữ vững sự tự do tâm hồn. Ngài vẫn một mực trung tín với sứ mạng kẻ được Chúa Cha sai vào thế gian, để rao giảng Tin mừng “Thiên-Chúa-là-tình-yêu”, và con đường đón nhận Thiên Chúa tình yêu là con đường bác ái phục vụ con người theo gương mẫu Ngài, và cùng với Ngài là Đấng cứu chuộc loài người.
Lập trường trên đây của Đức Kitô khác với lập trường của dân có đạo và giáo quyền hồi đó. Theo họ, chỉ có một con đường dẫn đến Thiên Chúa, đó là gắn bó với thể chế Đền thờ và tuân giữ tất cả hệ thống luật lệ, kể cả những luật lệ lỗi thời, vô bổ chỉ còn là gánh nặng. Và theo họ, dung mạo Thiên Chúa là quyền uy, chứ không phải là Tình Yêu. Nếu Đức Kitô bỏ lập trường của Ngài, để thuận theo lập trường đó của giáo quyền và của đám đông, thì ít ra Ngài cũng sẽ được tha, được an thân. Nhưng Ngài vẫn giữ được sự tự do theo đuổi sứ mạng của Ngài bất chấp mọi áp lực.
Những áp lực ấy cũng muốn dồn Ngài đến chỗ phải tức giận, oán ghét, nghi kỵ những kẻ đã bất công với Ngài. Nhưng Ngài vẫn giữ được trọn tự do của Ngài, sự tự do yêu thương phục vụ, kể cả phục vụ bằng việc tha thứ cho những kẻ ghen ghét Ngài.
Những áp lực ấy cũng muốn gieo vào lòng Ngài sự nghi ngờ đối với Chúa Cha, nhất là khi Ngài cảm thấy như bị Chúa Cha bỏ rơi. Nhưng Ngài vẫn giữ được sự tự do tin tưởng phó thác tuyệt đối nơi Chúa Cha đầy lòng thương xót.
Sự tự do tâm hồn của Đức Kitô trên thánh giá còn được khẳng định một cách hùng hồn bởi việc Ngài chối từ lời thách thức của một số người quyền lực. Họ thách Ngài rời khỏi thánh giá. Mục đích thách thức của họ, theo họ nói, là tìm lý do để tin vào Ngài. Lý do xem ra rất hấp dẫn. Ngài lại có quyền năng. Nhưng Ngài đã không rời khỏi thánh giá. Ngài vẫn giữ được sự tự do của Ngài, sự tự do đi tới cùng lộ trình thương khó để làm chứng cho tình yêu hy sinh, theo sứ mạng do Chúa Cha trao cho.
Giá trị thứ ba, mà tôi thấy Đức Kitô đã làm chứng trên Thánh giá, đó là sự hiệp thông.
Đức Kitô trên thánh giá đã cho ta thấy: Dù chân Ngài không thể nào đi đâu được, dù tay Ngài không thể nào làm gì được, Ngài vẫn đưa trái tim hiệp thông của Ngài vào các tuyến đường muôn ngả.
Trước hết Ngài hiệp thông mật thiết với Đức Chúa Cha. Dù coi như bị đoạ đày, Ngài vẫn tín nhiệm tuyệt đối nơi Chúa Cha. “Cha ơi, đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha”. “Cha ơi, con dâng phó linh hồn con trong tay Cha”. Ngài đón nhận thánh ý từ Chúa Cha, và Ngài trở về Chúa Cha.
Rồi Ngài hiệp thông với nhân loại một cách đặc biệt. Nhờ hy sinh thánh giá. Ngài giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Do đó sự hiệp thông của ngài với nhân loại mang tính cách sâu sắc hơn là tính cách đồng loại tính cách liên đới.
Sự hiệp thông của Ngài là liên kết và là qui tụ. Khi trối thánh Gioan cho Đức Mẹ và trối Đức Mẹ cho thánh Gioan, Ngài đã muốn liên kết mọi người trong một mối tình mới, đó là tình Mẹ Maria, Mẹ Maria đứng dưới chân thánh giá là Mẹ hiệp thông, Mẹ của Chúa Giêsu, Mẹ của nhân loại, Mẹ của Hội thánh.
Trên thánh giá, Ngài hiệp thông cách riêng với mọi kẻ sau này sẽ được sai đi loan báo Tin Mừng cứu độ, lộ trình của họ rất có thể sẽ giống như chặng đường thánh giá đã đi qua. Nhiều thử thách sẽ chờ đợi họ. Có lúc họ cảm thấy bất lực và thất bại, như kẻ bị đóng đinh vào sự nhục nhã cô đơn đầy cay đắng. Trên thánh giá, Ngài hiệp thông một cách sâu sắc với mọi kẻ khổ đau, với mọi áp bức, với mọi kẻ bị oan ức, mọi kẻ cùng cực, cô đơn.
Sự hiệp thông của Ngài là tấm lòng trắc ẩn, lắng nghe những nỗi thống khổ của từng người và kêu mời bất cứ ai đau khổ vì bất cứ lý do nào hãy đón nhận nơi Ngài niềm hy vọng phục sinh, bởi vì chính Ngài đã sống lại từ cái chết trên thánh giá. Sự hiệp thông của Ngài chính là chia sẻ kho tàng công phúc mà Ngài đã lập trên thánh giá. Một kho tàng vô giá, một kho tàng vô tận.
Sự hiệp thông của Ngài sẽ rất cần cho những ai quyết tâm bước theo Ngài, coi cái dại trên thánh giá còn khôn hơn cái khôn nhất của thế gian, coi cái yếu của thánh giá còn mạnh hơn cái mạnh nhất của phàm tục.
Sự hiệp thông của Ngài càng cần cho những ai muốn nên giống Ngài, sẽ chọn thánh giá như tờ căn cước, để ghi vào đó tình yêu của mình, sự tự do của mình, sự hiệp thông của mình.
Trên đây là mấy suy nghĩ của tôi về thánh giá Đức Kitô. Tôi mong mấy suy nghĩ đó sẽ góp phần vào việc xây dựng nếp sống đạo, và tinh thần truyền giáo, nhất là trong thời điểm hiện nay đang có nguy cơ suy thoái đức tin và các giá trị luân lý.
Ở đây tôi xin nhắc lại một đoạn trong những lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cầu nguyện tại Fatima ngày 13/5/1991:
“Lạy Mẹ Đấng Cứu Thế, xin hãy tỏ ra là Mẹ chúng con. Vâng, xin Mẹ hãy tiếp tục tỏ mình ra là mẹ mọi người, bởi vì thế giới đang cần Mẹ. Hoàn cảnh mới của thế giới và của Hội Thánh còn tạm bợ và bất ổn. Có nguy cơ thay thế chủ nghĩa Má-xít bằng một hình thức khác của chủ nghĩa vô thần, một chủ nghĩa tôn sùng sự tự do, có khuynh hướng tiêu diệt các gốc rễ nền luân lý của đạo làm người và của Kitô giáo”. (Documentation catholique, n-2030,16 Juin, 1991)
Thiết tưởng lời cầu nguyện trên đây của Đức Thánh Cha cũng là một lời báo động cho Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay. Bởi vì nguy cơ tiêu diệt gốc rễ nền luân lý tại đây, tuy hiện nay không lớn, nhưng đã khởi sự và đang phát triển.
Trong đời sống xã hội, tình yêu vị kỷ hưởng thụ đang có chiều hướng lấn át tình yêu phục vụ vị tha. Niềm trân trọng dành cho sự tự do tâm hồn bị thu hẹp lại một cách thê thảm, nhường chỗ cho phong trào đề cao các thứ tự do thân xác. Tinh thần hiệp thông chia sẻ giúp đỡ có vẻ yếu kém so với tinh thần hiệp thông cạnh tranh loại trừ, và chủ nghĩa cá nhân, kỳ thị.
Riêng trong đời sống nội bộ Hội Thánh xem ra càng ngày càng phát triển não trạng xa tránh con đường hẹp của thánh giá, và con đường hẹp làm chứng cho Tám Mối Phúc Thật.
Nếu những nhận xét trên đây không xa sự thực, thì câu hỏi sẽ đặt ra cho lương tâm mỗi người chúng ta là: Tôi phải làm gì đây? Tôi nghĩ rằng: Nếu ta biết lắng nghe Đức Kitô trên thánh giá ta sẽ hiểu ta phải làm gì.
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 6/1994)
Địa phương ta coi như ổn định, nhưng đang chuyển biến. Bởi vì đang có đụng chạm giữa hai Bùi-Tuần 1926
Địa phương ta coi như ổn định, nhưng đang chuyển biến.
Bởi vì đang có đụng chạm giữa hai nền văn minh. Một bên là nền văn minh nông nghiệp và một bên là nền văn minh công nghiệp.
Cũng đang có đụng chạm giữa hai hệ thống thế giá. Một bên là thế giá dựa trên chức vị và một bên là thế giá căn cứ trên khả năng chuyên môn.
Cũng đang có đụng chạm giữa hai loại tiêu chuẩn. Một bên là những tiêu chuẩn dân gian, quốc gia và một bên là những tiêu chuẩn khoa học, quốc tế.
Cũng đang có đụng chạm giữa hai loại đổi mới. Một bên là những đòi hỏi của quan niệm đời và một bên là đòi hỏi của quan niệm các tôn giáo khác nhau.
Cũng đang có đụng chạm giữa hai khuynh hướng đạo đức. Một bên là khuynh hướng đạo đức nhấn mạnh đến kỷ cương nề nếp tập thể và một bên là khuynh hướng đạo đức đề cao sự lựa chọn tự do của mỗi cá nhân.
Còn nhiều đụng chạm khác nữa.
Tất cả những đụng chạm ấy có thể được gọi là đụng chạm giữa các giá trị.
Khủng hoảng về các giá trị đạo đức
Các giá trị cũ mới đụng độ nhau, cạnh tranh nhau, có nơi hoà hợp được, có nơi lấn phá nhau, trong từng cá nhân, trong từng gia đình, trong từng địa phương.
Có những dấu hiệu cho phép tiên đoán: Trong tương lai không xa, nếu không biết đề phòng, sẽ nổ ra một cuộc khủng hoảng lớn về các giá trị đạo đức trên một qui mô rộng.
Khủng hoảng có nghĩa là sẽ có thái độ dửng dưng, thái độ nghi ngờ, thái độ bất cần, thái độ tương-đối-hoá đối với mọi giá trị đạo đức.
Có nhiều lý do gây nên khủng hoảng. Xin nêu lên vài lý do dễ thấy.
Một cuộc sống nhắm lý tưởng làm giàu hơn lý tưởng làm người sẽ dần dà tạo nên một não trạng thực dụng. Suy nghĩ thực dụng và hành động thực dụng.
Thực dụng là chọn cái gì có lợi trước mắt. Cái lợi trước mắt đối với chủ nghĩa cuộc sống là tiền của, danh vọng, những gì đem lại hạnh phúc chủ quan. Lúc đó người ta sẽ quý trọng những cách sống có thu nhập cao, chứ không để ý đến những cách sống có đạo đức cao. Tiền của sẽ là giá trị cao nhất. Địa vị, danh vọng, tư lợi cũng sẽ là những giá trị gây nhiều thao thức hơn là những nhân đức khó nghèo, khiêm tốn, công bình, bác ái.
Trong một tình hình như vậy, nếu chẳng may các người giảng dạy đạo đức cũng thực dụng, cũng bị kẹt vào các chuyện hưởng thụ, ham mê tiền bạc, chạy theo giới giàu, tranh giành quyền lợi, lạm dụng địa vị, thì các bài đạo đức sẽ mất đi sức mạnh thuyết phục. Quần chúng sẽ giảm bớt đi niềm tin vào các điểm tựa đạo đức.
Ngoài ra, kinh tế thị trường với những cạnh tranh cũng mở ra một chân trời mới. Từ trước tới giờ, đa số dân chúng, vì ít được biết những gì xảy ra trên thế giới, nên cứ tưởng mình là khá tốt lành. Nay nhờ thấy nhiều, đọc nhiều, nghe nhiều, tiếp xúc nhiều, họ nhận ra không ít cuộc sống rất khác mình, văn minh khác mình, đạo đức khác mình. Họ so sánh, và thường có cảm tình với lối sống có giá hơn theo họ nghĩ. Họ bị giằng co giữa lối sống cũ và những lối sống mới.
Cũng trong đà tiến của lịch sử, càng ngày tự do càng được công nhận là yếu tố đặc biệt quan trọng làm nên nhân phẩm và đạo đức. Khi điều đó được phổ biến rộng, hầu hết mọi người, nhất là giới trẻ, sẽ khó chấp nhận một thứ đạo đức gò bó, cứng nhắc, rập khuôn, ưa ổn định, nặng về cấm kỵ, không cởi mở. Họ muốn sống đạo đức, nhưng là đạo đức theo lối sống mà họ tự chọn theo xác tín của mình.
Hơn nữa, với sự phát triển của trào lưu dân chủ và khoa học, óc phê phán cũng sẽ mạnh lên. Thích phê phán và thích nghe phê phán. Có những phê phán đúng và cũng có những phê phán không đúng. Có những phê phán để làm rõ chân lý và cũng có những phê phán chỉ nhắm bôi lọ người khác. Đáng ngại là khi trình độ văn hoá còn thấp, thói quen phê phán sẽ dễ ngả sang hướng tiêu cực, ưa bới móc, thích đưa mình lên và hạ kẻ khác xuống. Phê phán đạo đức bằng những cách không đạo đức.
Chỉ mấy tình hình trên đây tưởng cũng đủ cho thấy khủng hoảng về các giá trị đạo đức đang được hình thành. Nó xuất phát một phần do sự xuất hiện nhiều giá trị khác biệt cạnh tranh nhau, và một phần do sự giảm bớt niềm tin đối với những người và những cơ chế giảng dạy đạo đức. Theo tôi, lý do giảm bớt niềm tin phải kể là quan trọng hơn. Nhận định này sẽ giúp chúng ta biết phải làm gì để đối phó với cuộc khủng khoảng về các giá trị đạo đức.
Bầu khí tin cậy
Thiết tưởng việc nên làm trước tiên, là xây dựng bầu khí tin cậy, trong gia đình, trong lối xóm, trong cộng đoàn, trong các lớp giảng dạy đạo lý, trong các cuộc hội họp và tiếp xúc.
Bầu khí tin cậy là bầu khí có sức khơi dậy niềm tin đối với người dạy đạo đức và có sức lôi kéo lòng người đặt tin tưởng vào các giá trị đạo đức.
Bầu khí tin cậy sẽ được xây dựng thế nào?
Thưa trước hết bằng chính niềm tin của ta. Ta cần xác tín rằng: Mọi người đều được Chúa tạo dựng, đều được Chúa yêu thương, Chúa muốn mọi người đều được cứu độ. Sự cứu độ là việc của ơn Chúa. Ơn Chúa mạnh không thể lường. Kẻ nào càng yếu đuối lỗi lầm, càng đáng thương. Ơn cứu độ của Chúa sẽ được chứng minh hùng hồn nhất, khi thực hiện việc đổi mới nơi những con người khó nhất và trong những hoàn cảnh khó nhất. Ta tin vào con người, là vì ta tin vào ơn Chúa cứu độ. Ta tin vào con người, bởi vì Chúa đã tin và thương ta là những người đầy bất xứng.
Niềm tin của ta đặt vào người khác tất nhiên phải đi đôi với sự khôn ngoan của Chúa Thánh Linh, và nhất là phải phát xuất từ lòng khiêm nhường bác ái hiệp thông với trái tim Chúa Giêsu, Đấng đã thương chúng ta trước khi chúng ta yêu mến Người, Đấng đã hy sinh cho ta, khi chúng ta còn chìm trong tội lỗi.
Một niềm tin yêu như thế sẽ là một giá trị đạo đức rất lớn. Nó có khả năng góp phần tích cực vào việc xây dựng bầu khí tin cậy. Không phải vì nó là sức mạnh tâm lý, mà vì nó mang sự sống Thiên Chúa Tình Yêu.
Khi một người nghĩ rằng họ bị ta khinh, họ bị ta nghi, họ bị ta ghen ghét, thì đủ để họ không dám tin cậy vào giá trị đạo đức của ta, dù ta có tỏ vẻ đạo đức về nhiều mặt khác.
Một yếu tố khác không kém quan trọng trong việc xây dựng bầu khí tin cậy, đó là tinh thần tôn trọng sự thực. Bất cứ sự thực nào, từ bất cứ đâu, của bất cứ ai, cũng cần được tôn trọng, chỉ vì nó là sự thực. Không thể nào gọi được là đạo đức, nếu người ta kiêu căng tự mãn hẹp hòi và thiên kiến trong lãnh vực sự thực. Chẳng hạn sự thực này được tôn trọng, vì nó là của mình. Còn sự thực kia không được tôn trọng, vì nó là của người khác. Thiếu công bình bác ái như thế thì còn đâu là đạo đức.
Nhiều người, nhất là giới trí thức và giới trẻ hôm nay, dễ nghi ngờ uy tín các người phê phán và giảng dạy đạo đức, nếu thấy không ít các vị ấy là những người không thực.
Sự thực gần gũi nhất, dễ thấy nhất, đó là sự thực về chính bản thân ta, với những yếu đuối, thiếu sót, lầm lỗi. Nếu ta không nhìn thấy sự thực hiển nhiên đó thì làm sao người ta tin ta được, khi ta nói về các sự thực xa vời, mãi tận trời cao, cũng như khi ta nói là ta nhìn thấy sự thực này nọ trong tâm hồn kẻ khác.
Một điều nữa phải rất thực, để gây bầu khí tin cậy, đó là thái độ đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa là tuyệt đối. Thái độ thờ phượng của ta đối với Người phải rất thực. Thờ phượng trong tinh thần và trong chân lý. Đừng bôi bác, đừng giả hình, đừng tục hoá các mầu nhiệm thánh và Lời Thiên Chúa. Nhiều người bỏ nhà thờ, bỏ Hội Thánh, chứ không bỏ Chúa, chỉ vì nhà thờ, và Hội Thánh ở đó bị tục hoá. Trái lại, nhiều người đã đến nhà thờ, trở về Hội Thánh, vì họ tìm được ở đó bầu khí tin cậy, do thái độ thờ phượng sốt sắng có chiều sâu nội tâm và đức ái chan hoà. Đó là những giá trị đạo đức sống động có sức cảm hoá lòng người.
Đổi mới chính mình
Những suy nghĩ trên đây đưa ta tới một việc làm có tính cách quyết định, đó là mỗi người chúng ta phải thường xuyên đổi mới chính mình, để nên tốt hơn. Nói một cách khác, người Kitô hữu chúng ta phải trở về với Đức Kitô mỗi ngày. Đó là việc làm có giá trị đạo đức hết sức quan trọng, để đối phó với cơn khủng hoảng về các giá trị đạo đức.
Trở về với Đức Kitô là trở về tuân giữ các lời Người dạy, là trở về chia sẻ cuộc đời mà Người đã sống, là trở về bắt chước gương sáng các việc mà Người đã làm. Trở về với Đức Kitô là gắn bó với Người, mật thiết như cành với cây. Trở về với Đức Kitô là sống mầu nhiệm nhập thể của Người, là sống mầu nhiệm thánh giá của Người, là sống mầu nhiệm phục sinh của Người chính trong cuộc đời của ta hôm nay tại đây. Trở về với Đức Kitô là đón nhận những cái nhìn của Người về Thiên Chúa Cha, về Chúa Thánh Linh, về Hội Thánh, về nhân loại, về Quê Hương Việt Nam ta. Cái nhìn của Đức Kitô là cái nhìn của tình yêu thương, của hy vọng, và của an bình.
Theo các văn thư của Đức Innocentê II để lại, thì thời đại của Ngài, tức thế kỷ XII, có thể gọi là thời kỳ Hội thánh suy thoái trầm trọng về đức tin và về luân lý. Tệ đoan tràn khắp. Các phe phái quá khích nổi dậy. Nhiều chỉ trích nhắm vào các đấng các bậc. Bởi vì xem ra các ngài đã quá xa mô hình Đức Kitô.
Lúc đó Phanxicô xuất hiện. Ngài không chỉ trích ai, Ngài cho rằng kẻ phải ăn năn trở về trước hết chính là Ngài. Đang khi nhiều người khác hung hăng tung lưỡi kiếm phê phán về phía kẻ nọ người kia, thì Phanxicô quay lưỡi kiếm phê phán đó về chính bản thân mình. Khi thấy tệ nạn phô trương, tiền bạc, danh vọng, ghen tương, gian dối hoành hành trong Hội Thánh, Phanxicô cố gắng sống sao cho thực sốt sắng, cho thực khó nghèo, cho thực khiêm tốn, cho thực bác ái bao dung, thành thực từ bỏ chính mình. Kết quả thực là tuyệt vời. Nhờ mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội, sự thánh thiện của Phanxicô đã được chia sẻ sang các thành phần khác. Hội Thánh được hồi sinh. Nhiều tâm hồn được đổi mới. Mùa xuân thiêng liêng được nở rộ trong nhiều thế kỷ.
Chuyện trên đây của thánh Phanxicô là một soi dẫn cho ta. Rồi đây, trong việc đổi mới chính mình và Hội Thánh, ta sẽ không ngạc nhiên, khi Đức Kitô gọi ta chia sẻ cuộc sống xưa của Người. Với những giờ cầu nguyện âm thầm xin tuân phục ý Chúa Cha. Với những tháng năm chôn vùi mình vào cuộc đời khiêm nhường ẩn dật làm men làm muối tại Nagiarét. Với những năm tháng dấn thân phục vụ người nghèo, đi tìm chiên lạc, băng bó vết thương các tâm hồn, khắp các vùng được sai đi. Với những ngày lặng lẽ vác thánh giá đời mình, và hiến dâng bản thân mình làm hy lễ trên núi Sọ. Với những cuộc sống lại được giấu ẩn trong đêm phục sinh. Sức mạnh đổi mới sẽ không ồn ào. Những gì ồn ào thường là không tốt cho môi sinh thể xác lẫn tâm hồn.
Sự sống đổi mới chính là Đức Kitô. Ngài là Tin Mừng Cứu Độ. Đón nhận Người, trở về với Người, sống theo gương Người, thiết tưởng đó là cách giải quyết có giá trị nhất mà người Kitô hữu nên thực hiện, khi các giá trị đạo đức bị khủng hoảng trong gia đình, trong Hội Thánh và trong xã hội.
Sống theo mẫu gương Đức Kitô, thiết tưởng đó cũng là cách làm chứng cho địa phương ta thấy Hội Thánh ta xứng đáng là một điểm tựa đạo đức, có lợi cho Tổ Quốc Việt Nam.
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 3/1998)
Để chuẩn bị bước vào Mùa Chay và Tuần Thánh, tôi xin chia sẻ vài suy nghĩ về sự trở về. Sự Bùi-Tuần 1927
Để chuẩn bị bước vào Mùa Chay và Tuần Thánh, tôi xin chia sẻ vài suy nghĩ về sự trở về.
Sự trở về nói đây được giới hạn trong lãnh vực này là : Từ bỏ những ảo tưởng nguy hại trong đời sống đạo, để chân thành sống với những thực tế cần thiết cho việc trưởng thành đức tin.
Những gợi ý tôi chọn ở đây sẽ rút ra từ kinh nghiệm thánh Phêrô tông đồ, một nhân vật được nhắc tới nhiều trong Tuần Thánh.
Thánh Phêrô là người rất nhiệt thành. Ngài có nhiều ảo tưởng. Những ảo tưởng này sẽ rất bất lợi, nếu không được thanh luyện. Nhưng khi được thanh luyện rồi, những ảo tưởng cũ sẽ là những kinh nghiệm càng làm sáng lên ơn trở về.
1/ Ảo tưởng về sự xứng đáng của mình
Xem ra thánh Phêrô có nhiều công phúc. Chỉ xin nêu lên vài việc ngài đã làm. Thí dụ việc ngài tuyên xưng một chân lý mới: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9, 20). Ngài nói điều đó về Đức Kitô, khi chưa ai đã nói. Việc tuyên xưng như thế là một điểm son cho ngài. Một thí dụ nữa, đó là việc ngài tỏ bày tâm tình phục vụ Chúa Giêsu. Dịp Chúa Giêsu biến hình trên núi và đàm đạo với ông Môisê và Êlia, ngài đã nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thực là hay. Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Môisê, và một cái cho ông Êlia” (Lc 9, 33). Có nghĩa là Phêrô tình nguyện sẽ nằm đất ngoài trời, để phục vụ các Đấng. Lại thêm một điểm son nữa cho vị trí của ngài.
Vị trí của Phêrô càng được nâng cao, khi Chúa Giêsu dành ưu ái đặc biệt cho ngài: “Thầy đã cầu nguyện cho con, để con khỏi mất lòng tin. Phần con, một khi đã trở lại, con hãy làm cho các anh em của con nên vững mạnh” (Lc 22, 31-34). Được Thầy cầu nguyện riêng cho và được Thầy trao phó trách nhiệm nâng đỡ anh em, đó là một tín nhiệm đáng vui mừng.
Nhưng nếu vui mừng này sinh ra tự mãn, thì tự mãn ấy dựa trên ảo tưởng. Ảo tưởng ở chỗ tưởng mình xứng đáng vì có nhiều công phúc nên sẽ là người lớn nhất trong nhóm (x. Lc 22, 23). Đến khi chối Chúa rồi, ngài mới thấy rõ mình không xứng đáng chút nào.
2/ Ảo tưởng về sức mạnh của mình
Xem ra thánh Phêrô cũng tin rằng mình mạnh và can đảm vượt bậc. Nhiều lần ngài quả quyết điều đó: “Lạy Thầy, với Thầy con sẵn sàng vào tù, dù có chết cũng cam” (Lc 22, 33). “Dù tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây sẽ chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26, 33). “Dù có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mc 14, 31). Những phát biểu trên đây có thể là do tấm lòng đạo đức thật sự, nhưng cũng có thể là do tính tự đắc. Ngài tự coi mình là vững mạnh, hơn bất cứ ai. Khẳng định như thế đã dựa trên ảo tưởng. Bởi vì vừa bị thử thách, ngài đã chối Thầy một cách mạnh mẽ và quả quyết.
Trong thử thách, Chúa Giêsu đã không tựa vào sức riêng mình, mà chỉ tựa vào Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin dâng phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46). Vì thế Chúa Giêsu đã luôn vững vàng. Còn Phêrô, cậy vào sức riêng mình, nên đã mất tinh thần, sợ hãi, và té ngã.
Trong thử thách, Chúa Giêsu đã tỉnh thức cầu nguyện và tìm thánh ý Chúa Cha: “Lạy Cha, xin đừng theo ý con nhưng xin cứ theo ý Cha” (Mc 14, 16). Nhờ thế, Chúa Giêsu đã lướt thắng sợ hãi và được bình an. Còn Phêrô không cầu nguyện, cứ bám chặt lấy ý riêng mình, nên đã rất cô đơn và mau trở thành con người phản bội.
3/ Ảo tưởng về ý tốt của mình
Xem ra thánh Phêrô vẫn thích coi mình là kẻ bảo vệ Thầy, là người cứu Thầy, là ân nhân của Thầy. Để chứng tỏ ý tốt đó, trong vườn Cây Dầu, ngài đã tuốt gươm chém đứt tai kẻ đến bắt Thầy.
Muốn bảo vệ Thầy, muốn cứu Thầy, đó là ý tốt. Nhưng khi một ý tốt làm mờ đi sự thực căn bản này là chính mình mới là người cần được Thầy bảo vệ và cứu độ, thì ý tốt đó sẽ trở thành ảo tưởng, cần tháo gỡ.
Ý tốt, khi chỉ là ảo tưởng, nếu không được tháo gỡ, sẽ gây ra nhiều hậu quả không thể đổ cho ai được.
Lúc Phêrô đã chối Thầy, ngài có thể nhớ lại lời Thầy đã nói xưa: “Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì. Vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói” (Lc 12, 11-12). Nhưng trước mặt những kẻ ghét Chúa, Phêrô đã chối Chúa. Không lẽ lời chối đó lại do Thánh Thần soi sáng sao?
Khi Phêrô đã chối Thầy, ngài cũng có thể nhớ lại lời Thầy đã nói xưa: “Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy sẽ chối họ trước mặt các Thiên Thần của Chúa” (Lc 12, 9). Phêrô đã chối Chúa. Nếu phải hợp lý, thì Chúa sẽ từ chối Phêrô. Ý nghĩ đó thực là khủng khiếp.
Trong đau buồn sâu sắc vì đã chối Thầy, Phêrô mới khám phá thấy ý tốt mà Chúa muốn Phêrô thực thi hơn cả, chính là sám hối khiêm nhường, như người thu thuế đứng cuối nhà thờ cầu nguyện “Lạy Chúa, xin thương xót con”.
4/ Ảo tưởng về tình hình tương lai
Cái nhìn của Phêrô về tình hình tương lai đã quá đơn sơ, mặc dù Chúa Giêsu đã cảnh báo nhiều lần là sẽ xảy ra cuộc tử nạn. Phêrô vẫn coi thường. Ngay giờ phút cuối cùng, Chúa Giêsu tỏ rõ nỗi lo âu của Ngài là rất lớn, các môn đệ cần thông cảm thức tỉnh với Ngài, thế mà Phêrô vẫn ngủ ngon.
Xem ra ngài tưởng rằng: Tuy tình hình có khó khăn, nhưng sẽ chẳng đến nỗi nào. Có Thầy nắm trong tay quyền năng vô biên, tình hình sẽ không thể tệ hại được.
Nhưng rồi quân dữ kéo tới. Giuđa phản bội, Thầy phản ứng một cách không thể ngờ: “Đây là giờ của các ông và quyền lực của tối tăm” (Lc 22, 53). Như thế là chính Thầy tự ý nộp mình. Còn gì đâu! Phêrô đã không bao giờ dự đoán một tình hình diễn biến bi đát như vậy. Mọi thẩm định tình hình trước đây đều đã sai lầm. Thẩm định đó dựa trên ảo tưởng. Ngài tưởng rằng Thiên Chúa luôn đắc thắng bằng quyền lực vinh quang. Nghĩ như thế là ảo tưởng. Bởi vì Thiên Chúa do Đức Kitô mặc khải không phải là một Thiên Chúa chinh phục bằng quyền lực, mà là một Thiên Chúa làm chứng tình yêu thương xót.
Kết
Các ảo tưởng của thánh Phêrô đã được thanh luyện. Do việc Phêrô chối Thầy, tất cả mọi ảo tưởng của ngài đều đổ vỡ: “Tôi không biết người ấy” “Tôi thề là tôi không biết người ấy” (Mt 26, 69-74).
Chối Thầy rồi, Phêrô đâm ra lúng túng, rụng rời, lương tâm tan nát. Đúng lúc ấy Chúa Giêsu đưa mắt nhìn Phêrô. Phêrô trực diện với một Đức Kitô trong thân hình tiều tuỵ nhục nhã. Lúc đó, Phêrô mới hiểu thấm thía: Ai đang cứu ai. Chính Phêrô đã phạm tội, đáng bị loại trừ, đáng bị trừng phạt. Nhưng Đức Kitô đang chịu khổ và đang chết thay cho Phêrô. Giờ đây đối với Phêrô, tin mừng lớn nhất chính là mình được Chúa tha thứ, được Chúa yêu thương, mặc dù mình tội lỗi bất xứng.
Như vậy, điều quan trọng chúng ta cần thực hành là phải bỏ đi các ảo tưởng tai hại, biết đón nhận tình yêu của Chúa bằng tấm lòng khiêm tốn, vâng phục, phó thác. Theo gương Đức Kitô, chúng ta dấn thân phục vụ con người, dù phải đi trên đường thánh giá, nhất là hãy dành yêu thương đặc biệt cho những người nghèo khổ. Tóm lại, hãy thực thi điều răn mới của Đức Kitô một cách triệt để và chân thành (x. Ga 15, 12). Đó là trở về.
Tự mình chúng ta sẽ rất khó thực thi được những việc ấy. Chúng ta rất cần ơn Chúa giúp. Hãy làm những việc chúng ta có thể làm. Và nếu Chúa để xảy ra những biến cố khiến các ảo tưởng của chúng ta phải bị đổ vỡ, thì hãy rút ra từ các đổ vỡ ấy những gì thiêng liêng nhất. Tôi nghĩ rằng những đổ vỡ như thế sớm muộn sẽ phải xảy đến. Để thức tỉnh chúng ta hãy trở về.
Đối với phần đông chúng ta, Thiên Chúa Ba Ngôi là một Đấng xem ra rất gần, mà lại rất xa Bùi-Tuần 1928
Đối với phần đông chúng ta, Thiên Chúa Ba Ngôi là một Đấng xem ra rất gần, mà lại rất xa.
Xem ra rất gần, bởi vì chúng ta được nghe Hội Thánh tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi khắp mọi chặng đường đời ta. Từ phép Rửa tội, dần dần tới các bí tích khác, cho tới phép Xức dầu, Hội Thánh trao ban cho chúng ta nhiều ơn. Lần nào trao ban, Hội Thánh cũng nói: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Rồi, xem ra rất gần, bởi vì chính chúng ta cũng tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi hầu như thường xuyên. Mỗi ngày, bao lần chúng ta làm dấu thánh giá. Vừa làm dấu thánh giá, vừa tôn vinh: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Mỗi ngày, khi lần chuỗi Mân côi, sau mười kinh Kính Mừng, chúng ta lại tôn vinh: “Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”.
Rồi xem ra rất gần, bởi vì ngoài những tôn vinh vừa kể, chúng ta còn học về Thiên Chúa Ba Ngôi, qua giáo lý, Kinh Thánh, thần học, tu đức.
Thế nhưng, Thiên Chúa Ba Ngôi, coi như rất gần ta như thế, mà lại thấy rất xa.
Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vô cùng cao cả, vô cùng sâu thẳm. Bao nhiêu cắt nghĩa, bao nhiêu bài giảng, bao nhiêu cuốn sách về Ngài, tất cả đều mang những giới hạn. Nếu chẳng may ta lại học về Ngài chỉ để làm giàu trí thức, thì Ngài vẫn mãi xa ta.
Hơn nữa, ngay khi tôn vinh Ngài bằng kinh nguyện, nếu chúng ta làm chỉ vì thói quen, miễn sao đúng hình thức, kiểu thuộc lòng, thì chúng ta cũng vẫn mãi xa Ngài. Sự thực là thế. Nhưng không bế tắc. Bởi vì có một con đường đưa chúng ta gần lại với Chúa Ba Ngôi. Con đường đó là: Từng bước được tham dự vào sự sống Chúa Ba Ngôi. Nói một cách khác, con đường đó là: Sống với Chúa Ba Ngôi, được Ngài soi dẫn.
Được sống với Chúa Ba Ngôi và được Ngài hướng dẫn, những sự kiện đó không là thành quả của những thứ thông minh trí thức, hay của những thứ công phu khéo léo của con người. Nhưng đây là ơn Chúa thương ban. Ơn này thường được ban cho những tâm hồn khiêm tốn, đơn sơ, bé mọn. Đọc Kinh Thánh thì thấy: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Kitô hoan hỉ vui mừng nói: Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21).
Chúa mạc khải về chính Ngài cho những tâm hồn bé mọn, bằng cách lôi cuốn họ. Bắt đầu họ được dắt tới gần Chúa, rồi tới thánh ý Chúa, rồi từ từ vào chính sự sống Chúa. Chính Chúa dắt đưa họ. Như Kinh Thánh đã chép: “Không ai đến được với Thầy (là Chúa Giêsu), nếu Chúa Cha không lôi kéo họ” (Ga 6,44). “Nếu không có Chúa Thánh Thần giúp, không ai sẽ có thể nói: Đức Giêsu là Chúa” (1 Cor 12,3).
Khi những kẻ bé mọn được Chúa dẫn đưa, và khi họ ngoan ngoãn dồn hết sức mình để vâng phục ý Chúa, họ sẽ được nếm hương vị ngọt ngào của sự Chúa hiện diện. Sự thưởng thức này giúp họ hiểu biết Chúa một cách sống động, hơn muôn ngàn lần những dòng chữ họ học về Chúa. Họ cảm nghiệm được tình thương xót Chúa. Có thể họ không phân biệt được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nhưng họ cảm nhận được tình yêu của Ba Ngôi. Lúc đó họ gọi “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8) một cách hồn nhiên. Ba Ngôi đều cùng chung một bản tính. Bản tính đó là tình yêu. Đối với người mộc mạc như họ thế là đủ. Thế là dễ hiểu. Thế là hấp dẫn.
Tình yêu Chúa hướng dẫn họ. Nhờ đó họ khám phá ra những việc nên làm, thích hợp với những mảng lịch sử, mà họ đang sống, để dọn đường cho Nước Trời.
Thí dụ: Một việc thích hợp với lịch sử tại đây lúc này đang gây được nhiều ảnh hưởng tốt cho mục vụ và truyền giáo, đó là việc từ thiện bác ái. Thương cứu người bằng việc làm, mà làm một cách nhưng không, như người Samaria tốt lành Chúa nói trong Phúc Âm (Lc 10,37). Với những việc bác ái như vậy, họ làm chứng Chúa là động cơ đã thúc đẩy họ làm. Dần dần nhiều người có thể sẽ tìm đến Chúa nhờ những chứng nhân như thế.
Một thí dụ nữa: Trong lịch sử tại đây lúc này, những nhóm nhỏ trở lại, cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa, đi gieo vãi hạt giống hiệp nhất yêu thương, cũng đang là những nhân tố thích hợp cho việc phát triển mục vụ và truyền giáo. Họ họp nhau nhân danh Chúa. Nên Chúa giữ lời đã hứa: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Nhờ vậy, những nhóm nhỏ này đang âm thầm kéo được nhiều cơn mưa ơn thánh xuống cho cánh đồng truyền giáo và mục vụ.
Qua những kinh nghiệm như trên, tôi nhìn những chứng nhân về Chúa một cách thời sự hơn. Nghĩa là:
Qua sự kiện tâm hồn họ được thường xuyên đổi mới, họ làm chứng có một Thiên Chúa đang sống trong họ.
Qua những thao thức của họ về Nước Trời và tinh thần cầu nguyện, họ làm chứng có một Thiên Chúa đang sai họ ra khơi thả lưới cho việc truyền giáo.
Qua tinh thần tỉnh thức và phân định, họ làm chứng có một Thiên Chúa đang hướng dẫn họ làm việc nọ việc kia, mà họ cho là thích hợp với nhu cầu lịch sử tại đây lúc này.
Với tính cách thời sự như vậy, người làm chứng về Chúa sẽ có thể nói một cách thành thực như thế này:
“Việc đó việc kia thì người ấy người nọ làm được, vì họ có khả năng. Chúa muốn họ làm. Còn tôi thì không làm được. Tôi không có khả năng, và Chúa cũng không muốn tôi làm. Tôi hết tình khen ngợi những người được Chúa chọn. Xin tạ ơn và ca ngợi Thiên Chúa.
“Còn việc này việc nọ, thì tôi có thể làm và phải làm. Tôi xác tín ý Chúa muốn như vậy. Xin phó thác tất cả nơi Chúa với tâm tình khát khao góp phần vào việc làm vinh danh Chúa”.
Thiết tưởng hoàn cảnh hiện nay tại Việt Nam đang cần những chứng nhân rất sát với thực tế và rất trung thành với Chúa là chủ lịch sử.
Làm chứng không phải về một Thiên Chúa đã hoạt động trong quá khứ qua rồi. Mà làm chứng về một Thiên Chúa trong hiện tại. Ngài đang sống, đang hoạt động giữa chúng ta. Chúng ta là một số vô vàn đông đảo, với nhiều khác biệt, trong những mảnh lịch sử khác nhau.
Làm chứng về một Thiên Chúa đang sáng tạo sự hiệp nhất, một Thiên Chúa đang cứu độ, một Thiên Chúa đang thánh hoá, một Thiên Chúa có quyền năng đang đổi sự dữ ra sự lành, một Thiên Chúa phục sinh đang chiến thắng những lực lượng sự ác, một Thiên Chúa thương xót và khôn ngoan đang âm thầm biến đổi từng tâm hồn. Thiên Chúa hôm nay tại đây vẫn được minh chứng là Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót. Chúng ta bập bẹ gọi Ngài như thế, còn Ngài và tình yêu của Ngài vẫn là mầu nhiệm.
Những chứng nhân của Chúa Ba Ngôi tại đây hôm nay phải là: Những hạt lúa rơi xuống đất và phải thối đi, để có thể sinh được nhiều hạt lúa khác (Ga 12,24). Thối đi là hy sinh bỏ đi các tư tưởng hẹp hòi vội vã, các phán đoán nông nổi do thiên kiến, các tâm tư mất trật tự, cái tôi bị xiềng xích vào tự đắc. Lúc đó tâm hồn được hoàn toàn tự do, thanh thản bay theo hướng Chúa chỉ dẫn.
Hướng đó là đổi mới, bắt đầu từ chính bản thân người làm chứng. Đổi mới hằng ngày, đổi mới nhờ Thánh Thần chân lý, để càng ngày họ càng xứng là người con của Thiên Chúa tình yêu, càng ngày họ càng nên như bài ca mới “Sáng danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”.
"Sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Đức Giêsu Kitô" (Ga 17,3).
Lời trên đây là Lời Chúa ghi trong Phúc Âm. Tôi đã đọc lời đó nhiều lần. Không thấy vang vọng Bùi-Tuần 1929
Lời trên đây là Lời Chúa ghi trong Phúc Âm. Tôi đã đọc lời đó nhiều lần. Không thấy vang vọng nào. Không gợi nên thắc mắc nào.
Năm ấy, dịp Noel, một mình trước hang đá, tôi dùng lời Kinh Thánh đó để cầu nguyện. "Lạy Chúa Cha, con tin Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Lạy Chúa Giêsu Kitô, con tin Chúa là Đấng Chúa Cha sai đến với con". Tôi cầu nguyện nhiều lần tự đáy lòng, với tất cả tâm hồn khát khao Chúa. Lúc đó tôi đang lo âu nhiều chuyện.
Bỗng, một lần chuyển biến xảy ra. Tôi thấy cùng một lúc bốn sa mạc. Một là sa mạc mà dân Israel đã đi qua để đến đất Hứa. Hai là sa mạc địa lý mà Đức Kitô đã ẩn mình để cầu nguyện. Ba là sa mạc cuộc đời cô đơn, bị chống đối của Đức Kitô đã dẫn Người đến thánh giá và phục sinh. Bốn là sa mạc mà tôi đã và đang đi. Trong tất cả các sa mạc ấy, tôi đều thấy có sự can thiệp của Thánh Thần Chúa. Người dẫn đưa, ủi an và đồng hành.
Một thoáng nhìn trên đây đã gây trong tôi ấn tượng rất mạnh về Thiên Chúa là Chúa duy nhất và chân thật về tình yêu. Tôi cảm thấy. Tôi nếm được.
Ấn tượng này cho phép tôi vững tin và hiểu rõ hơn: Thiên Chúa là tình yêu thương xót cứu độ. Người yêu thương tôi. Người cứu độ tôi. Người ở bên tôi. Hãy nhìn Người. Chính dung mạo Người đã xua đuổi mọi bóng tối ra khỏi linh hồn tôi. Chính dung mạo Người đã chữa lành các vết thương lòng tôi. Chính dung mạo Người đã đem lại sự bình an sâu xa cho hành trình đời tôi.
Dung mạo của Chúa Cha giàu tình yêu thương xót được tiếp tục mặc khải cho tôi qua Đức Giêsu Kitô, Đấng Chúa Cha sai đến, để cứu độ, theo thánh ý Chúa Cha.
Những gặp gỡ trên đây khi kéo dài, đã cho tôi cảm nghiệm xa hơn: Thiên Chúa là nguồn sự sống vĩnh cửu. Sự sống này toàn là tình yêu. Tình yêu này là tuyệt đối, chân thực. Nước Thiên Chúa là những gì dạt dào sự sống, là những gì ấm áp tình yêu, là những gì sáng ngời chân lý.
Với ý thức như vậy, tôi nhận ra những lễ nghi, lễ hội nào trống vắng sự sống, những quan hệ nào còn nhẹ tình thương, những việc làm và lời nói nào quá ít sự thực. Phải sửa lại.
Sự trở về như thế sẽ không chủ yếu do bỏ được sai lầm, tội lỗi, mà do gặp gỡ thân mật với Chúa Giêsu. Gặp gỡ Người để đón nhận ơn Người cứu độ chúng ta. Gặp gỡ Người để đi theo Người. Gặp gỡ Người để đón nhận ơn gọi sai đi mà Người chọn cho mỗi người chúng ta.
Từ đó, tôi cảm nhận thấy sự cần thiết phải có một đức tính, đó là biết đón nhận.
Muốn đón nhận, thì phải thức tỉnh, cởi mở, với lòng thao thức khát khao tình yêu Chúa cứu độ.
Thời Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần có ba loại người nổi nang trong đạo. Nhưng cả ba loại này đã không đón nhận Đức Kitô.
Các luật sĩ chỉ thao thức về luật. Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống.
Loại nào cũng sống tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc. Họ bám chặt vào những cơ chế đó như những cơ chế có sức cứu độ.
Chúa Giêsu đến không qua các cơ chế ấy, nhất là đến dưới hình thức tình thương, chứ không dưới hình thức quyền lực vinh quang mà họ mong muốn nên họ đã không đón nhận. Còn các mục đồng và ba vua thì lại hân hoan đón nhận, bởi vì họ khát khao và thao thức đi tìm một tình thương cứu độ.
Nhận thức mình là kẻ đón nhận hơn là kẻ ban phát sẽ giúp môn đệ Chúa khiêm nhường.
Khi đón nhận, thiết tưởng không nên quên đón nhận những soi sáng, và tìm những sáng kiến về sự cho đi. Phục vụ, dấn thân, hy sinh, sao cho trong sáng, vô vị lợi. Chỉ cần Chúa được vinh danh, Đồng Bào được thăng tiến, còn mình nên lu mờ đi.
Những cảm nghiệm trên đây tuy nhỏ bé, cũng cho tôi nếm được phần nào hương vị cõi sống đời tôi. Sự sống đời đời đã bắt đầu rồi. Nó có mặt trong cuộc sống hôm nay trên cõi đời này. Nó không phải là phần thưởng cho các nhân đức, nhưng là kết quả của một lựa chọn theo thánh ý Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Tình Yêu, mà tôi tin thờ.
Tôi biết tôi tin vào ai, tôi biết đời tôi phải đi theo hướng nào, tôi biết cái gì làm cho đời mình có giá trị thực. Như thế cảm nghiệm của tôi nói đây có nghĩa là sự gặp gỡ Chúa, sự trở về với Chúa, sự đón nhận ơn Chúa, sự ra đi phục vụ con người theo ơn gọi sai đi.
Tôi cảm nghiệm rất rõ ơn gọi sai đi của tôi. Nó khởi đi từ ơn gọi sai đi của Chúa Giêsu nhận từ Chúa Cha. Ơn gọi đó là rao giảng và làm chứng cho những chân lý căn bản có sức cứu độ. Đó là:
a) "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1 Ga 4,8). Với bản tính tình yêu, Người đúng là Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
b) Niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu phải được diễn tả và làm chứng bằng sự thực thi nghiêm túc giới răn mới của Đức Kitô: "Thầy cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,33).
c) Chỉ có yêu thương mới là dấu chỉ đích thực của người môn đệ Đức Kitô: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con thương yêu nhau" (Ga 13,34).
d) Yêu thương thế nào thì hãy đi theo Đức Kitô, sống theo lời dạy của Đức Kitô, làm theo gương của Đức Kitô. Cụ thể là gương vì con người mà giáng sinh trong hang đá và hy sinh trên thập giá (x. 1 Ga 3,16).
Từ những cảm nghiệm trên đây và theo dõi tình hình, tôi có thể đưa ra dự báo này: Thế kỷ XXI, số người tin vào Thiên Chúa tình yêu sẽ tăng. Nhưng số người tín nhiệm vào các thành phần Hội Thánh sẽ giảm, nếu tất cả Hội Thánh không cố gắng thực thi đúng ơn gọi sai đi của mình, bằng cách phát huy tích cực hơn nữa tình liên đới yêu thương phục vụ, tính tự do chính đáng đầy trách nhiệm, và tinh thần hiệp nhất trong sự tôn trọng những khác biệt. Thiên Chúa tình yêu muốn con cái của Người hãy sống chiều kích xã hội mang Tin Mừng một cách chân thật. Thiện tâm của Noel là thế.
Đó là một thách đố lớn đặt ra cho Hội Thánh hôm nay và thế kỷ XXI.
Thánh ý Chúa lúc này là: Các con Chúa hãy cùng với Đức Mẹ góp phần đỡ nâng và giải cứu những Bùi-Tuần 1930
1. Thánh ý Chúa lúc này là: Các con Chúa hãy cùng với Đức Mẹ góp phần đỡ nâng và giải cứu những người trong cảnh gian nan khốn khó.
Theo cái nhìn của đức tin, thì:
Cảnh gian nan khốn khó đáng ngại nhất hiện nay trong Hội thánh là lửa mến Chúa yêu người đang nguội dần tại nhiều địa phương. Nguội một phần do ngoại cảnh, nhưng nhất là do nội bộ bị tinh thần thế tục xâm chiếm, nên trở thành cứng lòng, vô cảm.
2. Hiện nay, cảnh gian nan khốn khó xảy ra khắp nơi. Rất nhiều người trong cảnh đó. Chính chúng ta cũng trong cảnh đó.
3. Khi chúng ta cứu ai trong cảnh đó, thì chính chúng ta sẽ được Chúa cứu. Đó là một sự thực an ủi chúng ta rất nhiều.
4. Trong cảnh gian nan khốn khó, chúng ta hãy vững tin vào Chúa. Chúa sẽ cứu chúng ta theo lòng thương xót của Chúa. Chúng ta không nên đặt chương trình cho Chúa. Nhưng hãy khiêm nhường phó thác.
5. Hãy coi cảnh gian nan khốn khó là môi trường, để sống ơn gọi làm chứng cho Chúa trong thời điểm lúc này.
6. Để làm chứng cho Chúa trong hoàn cảnh phức tạp hiện nay, chúng ta rất cần sống mật thiết với Chúa. Ưu tiên hãy để ý đến cầu nguyện, sống nội tâm, để biến đời ta thành một của lễ, một thánh lễ, tập trung vào việc vâng phục thánh ý Chúa.
7. Cũng nhờ vậy, chúng ta sẽ biết tin vào nhau. Bởi vì một thứ gian nan khốn khó nặng nề đang xuất hiện, đó là hiện tượng mất niềm tin giữa những con người với nhau.
8. Trong tinh thần trên đây, chúng ta hãy cảm tạ Chúa và Đức Mẹ. Thực sự, về phương diện phần rỗi, chỉ Chúa và Đức Mẹ mới cứu được chúng ta.
9. Và cùng với tinh thần trên đây, chúng ta hãy tỉnh thức bén nhạy trước một tình hình đang chuyển biến rất phức tạp và rất nguy hiểm, để đừng có chủ quan, nhất là khi chúng ta có bổn phận phục vụ người khác.
10. Và cùng với tinh thần trên đây, chúng ta hãy nương tựa vào nhau mà sống, vì cảnh gian nan khốn khó sẽ có những bất ngờ không ai lường trước được, nhưng sẽ giảm nhẹ đi cho những người biết yêu thương nhau.
11. Cảnh gian nan khốn khó càng trầm trọng, thì chúng ta càng cần phải bám vào Đức Mẹ. Mẹ sẽ đưa chúng ta đến với Chúa là tình yêu cứu độ giầu lòng thương xót.
Đối với tôi, truyền giáo chủ yếu là truyền đạt tình yêu Thiên Chúa. 2. Tôi đã cảm nhận được tình Bùi-Tuần 1931
1. Đối với tôi, truyền giáo chủ yếu là truyền đạt tình yêu Thiên Chúa.
2. Tôi đã cảm nhận được tình yêu Chúa như một tình yêu cứu độ, nên tôi tự nguyện thuộc về Chúa.
Tôi thuộc về một Đấng mà tôi đã cảm nghiệm là yêu thương tôi quá sức tôi mơ tưởng.
3. Tôi cảm nhận về tình yêu Chúa dưới nhiều hình thức. Có những hình thức rất ấn tượng. Thí dụ hình ảnh gà mẹ che chở đàn con dưới cánh. Hình ảnh đó đã được chính Chúa Giêsu nêu lên. (X. Mt 23, 37). Có lúc tôi ví mình như con gà con bé nhỏ dại khờ, được Chúa như gà mẹ xòe đôi cánh chở che.
Có lúc tôi, với tư cách người mục tử, lại ví mình như gà mẹ lấy tình yêu quảng đại, mà che chở cho các người thuộc về tôi. Nhờ vậy, tôi thuộc về Chúa, tôi đưa người khác về với Chúa.
4. Một hình ảnh khác về tình yêu Chúa, mà tôi được cảm nghiệm, đó là hình ảnh Chúa vác con chiên lạc trên vai. Chính Chúa Giêsu đã đi tìm con chiên lạc. Ngài đã hết sức vui mừng khi tìm được nó. (X. Mt 18, 12-14)
Khi tìm được tôi, Chúa đã vác tôi trên vai một cách âu yếm, chứ không mắng chửi và xua đuổi tôi. Tôi đã cảm nhận được điều đó rất rõ.
5. Một hình ảnh khác nữa về tình yêu Chúa, đó là hình ảnh cái cửa của chuồng chiên. Chúa nói: “Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7). Cửa đó bảo vệ chiên. Cửa đó hy sinh cho chiên. Biết bao lần tôi đã cảm nghiệm được tình yêu cứu độ đó.
6. Một hình ảnh khác nữa về tình yêu Chúa, đó là sự Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. (X. Ga 13, 1-15)
Tôi đã cảm nghiệm được sự Chúa rửa chân cho tôi, qua rất nhiều biến cố đã xảy ra cho tôi.
7. Một hình ảnh nữa về tình yêu Chúa, đó là sự Chúa lập phép Thánh Thể và chức linh mục, để ở lại với những kẻ Chúa yêu thương.
8. Rồi, một chuỗi dài hình ảnh khác từ cuộc thương khó, cho tới việc Chúa sống lại, Chúa lên trời, và Chúa Thánh Thần hiện xuống.
9. Tóm lại, tình yêu Chúa mà tôi đã được cảm nghiệm sâu sắc là tình yêu đã cứu tôi, đã tha thứ cho tôi, đã hy sinh vì tôi, chứ dứt khoát không phải một tình yêu đã cho tôi chức nọ quyền kia.
10. Tình yêu đó được biểu lộ nơi Chúa Giêsu. Vì thế, nếu truyền giáo là truyền đạt tình yêu Thiên Chúa, thì tôi cần nói về Chúa Giêsu rất nhiều.
11. Riêng tôi, khi truyền đạt tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ nơi Chúa Giêsu, tôi không thể không nói tới sự Chúa Giêsu đã làm cho tôi qua Đức Mẹ Maria.
12. Tôi chỉ kể lại những gì Chúa đã làm cho tôi. Tất cả những gì Chúa đã làm cho tôi đều là tình yêu cứu độ.
13. Tôi kể lại như một người cung cấp thông tin về một tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho tôi.
Tôi truyền giáo là như vậy. 14. Rồi truyền giáo của tôi còn là việc tôi nhận thấy tình yêu Chúa cũng đã và đang được ban cho nhiều người xung quanh tôi. Nếu “Đâu có tình yêu thương, ở đó có Đức Chúa Trời”, thì dấu chỉ yêu thương đang lan tỏa trong nhiều tâm hồn tại địa phương này. Cho dù họ không là Công giáo, họ vẫn thuộc về Chúa.
15. Cho nên, truyền giáo đối với tôi tóm gọn lại ở tình yêu. Tôi yêu thương con người như Chúa yêu thương.
Tôi phải kết hợp mật thiết với Chúa, để có thể yêu thương như Chúa. Tôi thuộc về Chúa, vì Chúa yêu thương tôi. Bất cứ ai được Chúa yêu thương, đều thuộc về Chúa. Đó là tóm tắt việc truyền giáo của tôi.
16. Vì truyền giáo là chuyện của tình yêu Thiên Chúa, mà tình yêu Thiên Chúa thì rất nhiệm mầu, nên tôi phải đón nhận tình yêu đó từng giờ, từng phút. Đón nhận như thế là trở thành một của lễ. Của lễ của tôi kết hợp với của lễ chính Chúa Giêsu. Của lễ Chúa Giêsu là chính. Của lễ là tôi chỉ là một chút rất nhỏ. Sống như thế là truyền giáo. Chứ truyền giáo không có nghĩa là khuyến dụ họ hãy bỏ đạo của họ, để theo đạo của tôi.
17. Tháng 11 này, Đức Phanxicô sẽ thăm Thái Lan và Nhật Bản. Ngài sẽ không khuyên dân hai nước đó hãy bỏ đạo của họ mà theo Công giáo. Ngài sẽ chỉ đề cao yêu thương mà thôi. Và đó chính là truyền giáo.
Lúc này, hơn bao giờ hết, tôi cảm nhận thấy điều gì là hạnh phúc thực sự cho tôi. Xin nói ngay Bùi-Tuần 1932
1. Lúc này, hơn bao giờ hết, tôi cảm nhận thấy điều gì là hạnh phúc thực sự cho tôi. Xin nói ngay: Điều đó là sự bình an của Chúa.
2. Sự bình an của Chúa là một thực tại vô hình. Không nhìn thấy được, nhưng tôi cảm nhận được rất rõ.
Tôi đã và đang cảm nhận được thực tại thiêng liêng đó. Thực sự, tôi không muốn nói ra, vì sợ sẽ nói không đúng, không đủ.
Nhưng, tôi nghĩ, nói ra để làm chứng cho Chúa như một của lễ tạ ơn, thì Chúa sẽ thương nhận, do lòng nhân từ thương xót của Chúa đối với một tâm hồn mọn hèn bé nhỏ.
3. Trước hết, sự bình an của Chúa đến với tôi, khi tôi được gặp Chúa.
Tôi đã gặp được Chúa. Nói cho đúng, Chúa đã đến gặp tôi, khi tôi khát tìm Chúa dưới hình thức một Đấng Cứu Độ. Tôi thường kêu: “Con khốn khổ quá, xin Chúa thương cứu con. Con yếu đuối lắm, xin Chúa thương cứu con.”
Chúa đã đến. Gặp được Chúa, tôi chỉ biết nói đi nói lại: “Xin thương xót con, Chúa ơi”. Lời cầu xin thương xót con là sợi dây nối kết tôi thường xuyên với Chúa.
4. Chúa không hiện hình. Chúa không nói gì. Nhưng tôi cảm nhận được cái nhìn của Chúa. Cái nhìn đó thấu suốt đời tôi. Cái nhìn đó thấm sâu vào hồn xác tôi. Tôi cảm nhận được ở cái nhìn đó một tình thương cứu độ. Chúa cứu độ tôi là Chúa gánh tội cho tôi, Chúa đền tội thay tôi, Chúa xóa tội của tôi.
5. Tôi cảm nhận thấy tình yêu Chúa dành cho tôi chủ yếu là cứu tôi. Tôi được Chúa cứu, nên tôi tự nhiên thấy mình được thuộc về Chúa.
6. Thuộc về Chúa là tin ở Chúa, là phó thác mình cho Chúa với hết lòng cảm tạ. Tôi cảm được điều này: Chúa đến ban sự bình an của Chúa cho tôi. Được sự bình an đó, tôi cảm thấy mình hạnh phúc. Gặp gỡ Chúa là Đấng Cứu độ, đó là nguồn bình an và hạnh phúc của tôi.
7. Tôi còn tìm được bình an và hạnh phúc ở một nguồn khác, đó là sự tôi kết hợp của lễ đời tôi vào của lễ của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu dâng mình làm của lễ, khi chịu đớn đau trên thánh giá để đem lại sự bình an cho tôi. Tôi cũng dâng mình làm của lễ khi kết hợp những đau đớn của tôi vào của lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.
8. Thú thực là những đau đớn của tôi thì rất nhiều, cả xác cả hồn. Nhưng so sánh với những đau đớn của Chúa Giêsu trên thánh giá, thì không thấm vào đâu. Tuy nhiên, tôi cũng dâng những đau đớn hèn mọn của tôi, như một của lễ. Sự dâng hiến đó sẽ có giá trị, khi được kết hợp với của lễ của Chúa Giêsu.
Chúa giúp tôi làm như vậy. Và tôi cảm thấy bình an và hạnh phúc.
9. Cảm nhận được bình an và hạnh phúc, khi dâng những đau đớn của mình cho Chúa, đúng là một hồng ân cao quí.
10. Tôi cảm động cảm tạ Chúa, vì thấy hồng ân cao quí đó đang rực sáng nơi nhiều tâm hồn tại Việt Nam hôm nay.
11. Tôi có cảm tưởng là: Những người mang trên mình những đau đớn, mà khiêm tốn dâng những đau đớn đó cho Chúa như một của lễ, sẽ là những chứng nhân đích thực của Chúa tại Việt Nam hôm nay. Họ khác những ai tự hào mang trên mình những chức nọ, quyền kia, rồi dám coi mình là của lễ tinh tuyền, dâng lên Chúa xác hồn mình trắng tinh như ánh trăng rạng ngời.
Nguyện cầu Chúa đừng để xảy ra những hạng người như thế tại bất cứ nơi nào trên thế giới hiện nay.
12. Thế giới hiện nay xem ra đang rất xa sự bình an của Chúa.
Hội thánh hiện nay cũng đang xuất hiện những nguy cơ muốn phá vỡ sự bình an của Chúa. Nguy cơ đáng ngại nhất đang phát sinh từ nội bộ Hội thánh.
13. Do vậy, tôi nhớ tới một cách cứu nguy tình hình, đó là hãy bám vào Đức Mẹ Maria. Tôi coi đó là thánh ý Chúa.
14. Bám vào Đức Mẹ là hãy cầu nguyện với Đức Mẹ, nhất là bằng sám hối và kinh Mân côi.
15. Bám vào Đức Mẹ là hãy khôn ngoan như Đức Mẹ.
Lời xin vâng của Đức Mẹ chứa đầy sự khôn ngoan, mà Kinh thánh đề cao.
Với sự khôn ngoan đó, Đức Mẹ biết cách làm đúng việc, với đúng cách, đúng nơi, đúng lúc, đúng sự linh hoạt, mà Chúa muốn. Mẹ có ơn phân định. Ơn phân định rất cần cho các con cái Mẹ trong tình hình phức tạp này. Với ơn phân định, các con cái Mẹ sẽ được thanh luyện, để thành dụng cụ bình an của Chúa tại Việt Nam hôm nay.
16. Tôi tin: Sự bình an của Chúa sẽ được ban cho Hội thánh nói chung và Hội thánh tại Việt Nam nói riêng, nếu chúng ta biết cùng với Đức Mẹ, mà sống khôn ngoan như Đức Mẹ.
17. Giờ đây, tôi xin tóm tắt sự tôi cảm nhận về ơn bình an của Chúa chỉ đơn giản thế này:
Ai có Chúa trong mình, thì sẽ được bình an của Chúa. Ai có Đức Mẹ bên mình, thì sẽ được bình an của Chúa.
Càng già yếu, tôi càng khao khát được có người nâng đỡ mình. Tôi cầu xin điều đó với Chúa và Bùi-Tuần 1933
1. Càng già yếu, tôi càng khao khát được có người nâng đỡ mình. Tôi cầu xin điều đó với Chúa và Đức Mẹ. Tôi đã được ơn xin.
Nhiều người đã đỡ nâng tôi. Họ thuộc nhiều thành phần trong xã hội và trong Hội thánh. Nhưng tất cả đều có chung hai đức tính này:
Một là giầu xót thương. Hai là sâu khiêm nhường.
2. Xót thương và khiêm nhường của họ trở thành lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tôi. Lương thực thiêng liêng đó cho tôi sức mạnh, để tôi vượt qua được những khổ đau xác hồn chồng chất trong tôi.
3. Dần dần, tôi coi những người xót thương và khiêm nhường như những người thuộc về Chúa, được Chúa sai đi để làm chứng cho Chúa, và trở thành dụng cụ Chúa dùng để cứu đời.
4. Xin đưa ra một ví dụ, đó là thánh Mactinô giám mục thành Ranh, nước Pháp. Hồi đó, ngài là một sĩ quan quân đội. Một hôm một mình ngồi trên ngựa đi công vụ. Tới một quãng đường vắng, ngài thấy một người nằm co ro rét lạnh bên đường. Ngài liền xuống ngựa, lấy kiếm đang đeo cắt đôi chiếc áo choàng đang mặc, rồi khoác trên người đó, với vài lời an ủi chân thành. Đêm sau, Chúa Giêsu hiện ra với Mactinô và nói: Người được Mactinô xót thương đó chính là Giêsu đây.
5. Mactinô đã xót thương trong khiêm nhường kín đáo. Mactinô sau đó đã đi tu, rồi làm Giám mục. Ngài xây dựng giáo đoàn bằng xót thương và khiêm nhường.
6. Điều làm tôi vui nhất nơi thánh Mactinô giám mục là ngài được sống với Chúa, và nhất là được chết trong Chúa, để được ở bên Chúa đời đời trong cõi sau.
7. Riêng tôi, càng ngày càng cảm nhận thấy những người như thánh Mactinô giám mục là điều nên khát khao rất nhiều cho Hội thánh của mình.
Lúc này, hơn lúc nào hết, địa phương mà tôi phục vụ, đang rất đề cao những tôn giáo tập trung vào xót thương và khiêm nhường. Nếu Công giáo của tôi lại tập trung vào hướng khác, thì sẽ sai lầm lớn, nhất là khi xót thương và khiêm nhường lại chính là giá trị căn bản, mà Chúa Giêsu đã đề cao trong chương trình cứu chuộc của Chúa.
8. Rất may là tại Việt Nam hôm nay, ngay chính tại địa phương này, những người như thánh Mactinô giám mục không phải là hiếm. Họ vẫn xót thương. Và vì khiêm nhường, nên họ tránh phô trương.
9. Đang khi đó, nếu có những ồn ào phô trương về những việc xót thương mình làm, thì đó là điều không do Chúa, mà là do Satan.
10. Thánh Gioan tông đồ, trong thư thứ nhất của ngài, đã cảnh giác một cách thảm thiết, về nguy cơ các thần mà ngài gọi là tà thần và ác thần, hoạt động trong chính Hội thánh Chúa.
11. Thiết tưởng cảnh giác đó của thánh Gioan tông đồ cũng nên được chúng ta quan tâm lúc này. Bởi vì có nhiều dấu chỉ cho phép lo về sự Satan đang phá Hội thánh bằng việc phá rối xót thương và khiêm nhường bằng nhiều cách tinh vi.
12. Cái khó nhất chính là sự thiếu khiêm nhường.
Quỉ Lusiphe đã trở nên phản loạn vì thiếu khiêm nhường, nên bị đuổi ra khỏi thiên đàng, phải xuống hỏa ngục.
Tổ tông loài người xưa đã trở nên kẻ không vâng phục Chúa, vì thiếu khiêm nhường, nên bị Chúa đuổi ra khỏi vườn địa đàng.
Chúa Giêsu đã dùng khiêm nhường để cứu loài người sa ngã.
Khiêm nhường là giá trị cứu độ. Thiếu khiêm nhường là tự quyết định và tự lựa chọn cho mình hỏa ngục làm chốn ở đời đời của mình.
13. Để đối phó với Satan và bè lũ ác thần đang quấy phá xót thương và khiêm nhường, Đức Mẹ dạy tôi hãy cầu xin Chúa ban cho ơn bình an của Chúa.
14. Vâng lời Mẹ, hằng ngày tôi vẫn cầu xin Chúa thương ban ơn bình an của Chúa cho tôi, cho các người thân thuộc, cho Hội thánh của tôi, cho Quê Hương của tôi.
15. Bình an, mà Chúa ban cho tôi, được tôi cảm nghiệm như một sự sống kết hợp mật thiết với Chúa, theo lời Chúa Giêsu đã cầu nguyện xưa: “Lạy Cha, Cha ở trong con, và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,21). Tôi cảm thấy rất rõ Chúa là tình yêu giầu lòng thương xót, sống động, gần gũi.
16. Khi được kết hợp với Chúa một cách mật thiết như vậy, tôi cảm thấy mình được bình an. Tôi được Chúa dạy phục vụ thì phải làm gì, ở đâu, lúc nào, cách nào.
17. Với ơn bình an đó, tôi vui mang trong mình những khổ đau và những phấn đấu, nhất là tôi biết yêu thương và khiêm nhường trong phạm vi trách nhiệm của tôi. Và cứ thế, tôi phó thác mình cho Chúa, để dù sống dù chết, tôi vẫn ở trong Chúa là hạnh phúc của tôi.
Từ lâu rồi, và nhất là những ngày này, tôi cảm thấy đau đớn hoành hành dự dội trong thân xác Bùi-Tuần 1934
1. Từ lâu rồi, và nhất là những ngày này, tôi cảm thấy đau đớn hoành hành dự dội trong thân xác già yếu này, còn trong tâm hồn tôi thì bơ vơ ngao ngán. Tôi như bị lưu đày ở một chốn hoang vu.
2. Tôi cầu nguyện với Đức Mẹ. Mẹ cho tôi nhớ lại lời Chúa hứa xưa: “Ý định của Ta là làm cho các ngươi được bình an, chứ không phải đau khổ. Bấy giờ các ngươi cầu cứu Ta, và Ta sẽ nhận lời. Ta sẽ đưa các ngươi trở về từ khắp chốn lưu đày” (Gc 29, 11, 12, 14).
3. Được gợi ý trên đây, tôi nhìn lên Chúa, xin Chúa thương cứu tôi. Chúa đang nhận lời tôi.
4. Tôi thấy thế này:
Bất cứ giây phút nào tôi nhận thức mình đang cần được cứu, và Đấng có thể cứu tôi chính là Chúa, thì Chúa cứu tôi.
5. Nếu có lúc nào tôi như coi mình không cần được cứu, hoặc coi người cứu là ai đó, chứ không phải là Chúa, thì tôi lập tức rơi vào cảnh lưu đày cùng cực.
6. Do vậy, cuộc sống của tôi hiện nay là luôn nhận mình cần được cứu, và chỉ có Chúa mới cứu được tôi.
7. Một cuộc sống như thế khiến tôi khiếp sợ sâu sắc về những ảo tưởng coi mình là một quyền lực nào đó, và càng khiếp sợ sâu xa những chương trình đón rước những kẻ có chức nọ quyền kia như đấng có thể cứu tôi khỏi cảnh khốn cùng.
8. Khiếp sợ đó là lành mạnh. Nó giúp tôi xa tránh những gì mà Phúc âm gọi là những lừa dối. Chúa Giêsu phán: “Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối. Vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến, mà tự xưng rằng: Chính ta đây và thời giờ đã gần đến. Các con chớ đi theo chúng” (Lc 21, 18).
9. Lừa dối, đó là hiện tượng đang xảy ra khắp nơi trong mọi lãnh vực, kể cả trong lãnh vực đạo đức.
10. Thánh Gioan tông đồ đã rất lo cho Hội thánh trước cảnh lừa dối về đạo đức. Ngài gọi những kẻ lừa dối đó là phản Kitô, là ngôn sứ giả. Ngài thấy những loại người đó xuất hiện rất nhiều. Có lúc ngài quả quyết: “Chúng lan tràn khắp thế gian” (1 Ga 4, 2).
11. Thiết tưởng lời cảnh giác trên đây của thánh Gioan tông đồ nên được nhắc lại tại nhiều nơi trên thế giới hôm nay. Riêng tại Việt Nam, lời cảnh giác đó càng cần được nhắc lại lúc này. Bởi vì Hội thánh chúng ta đang bị thử thách nặng nề bởi phong trào tục hóa và phân hóa.
12. Điều làm tôi rất quan ngại là chúng ta cứ tưởng mình đang được chọn và sai đi, để cứu đồng bào mình, đang khi thực sự chính chúng ta là những kẻ cần được cứu trước. Bởi vì chúng ta đang xa Chúa và có khi cũng đang phản lại Chúa.
13. Tình hình hiện nay là rất phức tạp.
Tôi nghĩ cách sống đạo bảo đảm nhất là xin Chúa cứu chúng ta khỏi tội lỗi, và những nguy hiểm đưa ta xuống hỏa ngục.
Do vậy, nên phải rất khiêm nhường.
14. Khiêm nhường, mà Chúa muốn, đã được Đức Mẹ nhắc lại tại Fatima:
- Hãy sám hối - Hãy cầu nguyện bằng kinh Mân Côi - Hãy tôn sùng Trái tim Mẹ
15. Riêng tôi, tôi rất hy vọng vì thấy những gì Đức Mẹ nhắc bảo ở Fatima đang được thực thi tại rất nhiều gia đình công giáo ở Việt Nam chúng ta lúc này.
16. Nhưng tôi cũng thấy điều này:
Nhiều người, nhiều nơi trong Hội thánh Việt Nam, vốn hay tự hào cho mình là đạo đức, sốt sắng. Nhưng đã đến lúc chúng ta cần nhận ra chúng ta rất cần được cứu khỏi những tự hào sai lầm đó
17. Tôi có kinh nghiệm đó ngay nơi bản thân tôi. Dần dần Đức Mẹ dắt tôi vào con đường “Xin Chúa xót thương con, xin Chúa cứu con”. Và bây giờ, thì tôi thấy ứng nghiệm lời Chúa đã hứa: “Các ngươi cầu cứu Ta, và Ta nhận lời.”
Chúa đang cứu tôi.
18. Cuộc sống của tôi đang trở thành một thánh lễ chỉ tập trung vào tâm tình nhìn lên Chúa là Đấng cứu độ.
Hiện nay, bằng nhiều cách, Đức Mẹ vẫn mang Chúa Giêsu đến thăm tôi. Như xưa Mẹ đã làm Bùi-Tuần 1935
1. Hiện nay, bằng nhiều cách, Đức Mẹ vẫn mang Chúa Giêsu đến thăm tôi. Như xưa Mẹ đã làm như vậy với bà Isave.
2. Một dấu chỉ giúp tôi nhận ra điều đó là: Tôi, như bà Isave xưa, biết nhận ra: “Kẻ tin vào Lời Chúa hứa là kẻ có phúc”
“Phúc cho em, vì em tin Chúa sẽ thực hiện những gì Chúa đã hứa với em” (Lc 1, 44).
Biết nhận ra như vậy, là do ơn Chúa Thánh Thần.
3. Do vậy, tin vào Lời Chúa là thôi thúc thiết tha Đức Mẹ đang gửi vào hồn tôi. Tin vào Lời Chúa đang trở thành hướng chỉ lối cho việc canh tân đời sống đạo của tôi.
4. Lời Chúa thì bao la. Tôi yếu đuối, nên tôi bám vào những Lời Chúa đơn sơ căn bản, mà tôi đã được thấm nhuần từ nhỏ, đó là:
- Kinh Lạy Cha - Kinh Kính mừng - Kinh Sáng danh - Kinh Truyền tin - Kinh Tám mối phúc
Những kinh trên đây đều chứa đầy Lời Chúa.
5. Có một ít nơi và trong một số trường hợp, người ta đã coi nhẹ những kinh đó, và thay vào đó là những kinh địa phương soạn thảo ra vì nhu cầu thời sự. Thế rồi thành quen. Hậu quả là Lời Chúa bị xuống cấp.
6. Tôi thấy đã đến lúc cần tin vào Lời Chúa một cách mạnh mẽ hơn.
7. Tin vào Lời Chúa một cách mạnh mẽ, theo tôi, là:
+ Hãy giảng Lời Chúa, + Hãy hát Lời Chúa, + Hãy cầu nguyện theo Lời Chúa, + Hãy quy tụ dưới Lời Chúa, + Hãy sống Lời Chúa.
8. Lời Chúa hiện nay đang bị cắt nghĩa theo nhiều khuynh hướng khác nhau, kể cả khuynh hướng phá hoại đức tin và những gì là nền tảng đời sống Phúc âm. Thực tế đó khiến chúng ta phải rất tỉnh thức để phân định.
9. Theo chỉ dẫn của các Đức Giáo Hoàng hiện đại, tỉnh thức về vấn đề phân định trong cắt nghĩa Lời Chúa là hãy dựa vào các đấng thánh và các vị đứng đầu Hội thánh toàn cầu.
10. Riêng tôi, tôi được Đức Mẹ dẫn dắt một cách âu yếm để tin vào Lời Chúa. Khi tình hình càng trở nên phức tạp, khó khan, tăm tối, tôi càng cảm thấy Đức Mẹ giúp tôi tin vào Lời Chúa.
Tôi có cảm tưởng là chính Đức Mẹ chia sẻ cho tôi đức tin của Mẹ.
11. Tôi rất yếu đuối, rất tội lỗi, nên được Mẹ thương cách riêng. Mẹ giúp tôi tin vào Lời Chúa, để trở về với Chúa. Trở về với Chúa là việc quan trọng tôi thực hiện hằng ngày, từng giờ, từng phút.
12. Tôi trở về với Chúa, nhờ tin vào Lời Chúa ban cho niềm tin, sự phó thác và bình an, cho dù phải đau khổ và phấn đấu.
13. Tôi trở về với Chúa, nhờ tin vào Lời Chúa giúp để xua đuổi Satan luôn tìm cách lôi kéo tôi xa Chúa bằng những lừa dối khoác áo đạo đức giả.
14. Tôi trở về với Chúa, nhờ tin vào Lời Chúa là lương thực nuôi sống tôi trên mọi chặng đường đầy gian truân trắc trở đến từ nhiều phía.
15. Tôi trở về với Chúa, nhờ tin vào Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường dẫn lối để tôi biết hiệp thông với Hội thánh Chúa trong yêu thương, khó nghèo và khiêm tốn tận tình.
16. Tin vào Lời Chúa đó là những bước đi của tôi trên con đường trở về với Chúa. Thực vậy, tôi là người tội lỗi trở về với Chúa. Tôi trở về nhờ tin vào Lời Chúa.
17. Do vậy, áp dụng Lời Chúa vào tình hình cụ thể của thế giới đầy phức tạp hiện nay, nhất là trong lĩnh vực chính trị thì tôi phải rất tế nhị. Tôi không đủ khả năng và thẩm quyền. Chính nhờ tin vào Lời Chúa, mà tôi nhận thức như vậy. Rất mong các môn đệ Chúa luôn có những lựa chọn khôn ngoan. Xin Đức Mẹ thương giúp các con cái Mẹ luôn biết khôn ngoan trong mọi chọn lựa.
18. Riêng tôi, tôi lựa chọn theo thân phận con người yếu đuối. Xin mọi người thông cảm cho tôi. Càng ngày tôi càng them yếu đuối, càng cần đến lòng thương xót Chúa. Đức Mẹ đang giúp tôi tin vào các Lời Chúa hứa sẽ cứu mọi kẻ trở về với Chúa, trong đó có tôi.
Thời gian này tôi rất mệt. Đau cả trong thân xác lẫn trong tâm hồn. Chính lúc xuống dốc trầm Bùi-Tuần 1936
1. Thời gian này tôi rất mệt. Đau cả trong thân xác lẫn trong tâm hồn. Chính lúc xuống dốc trầm trọng như thế, tôi đã gặp Đức Gioan-Phaolô II. Tôi không đến với ngài. Nhưng chính ngài đến với tôi.
2. Ngài không làm cho tôi hết đau. Nhưng ngài cho tôi sức mạnh để chịu đau. Tôi xin chia sẻ điều đó một cách vắn tắt.
Mọi sức mạnh ngài cho tôi đều lớn. Tất cả đều thuộc lĩnh vực thiêng liêng.
3. Trước hết là tinh thần cầu nguyện.
Vừa gặp ngài, tôi lập tức có cảm nghiệm ngài đang ở trong Chúa. “Như con ở trong Cha, và như Cha ở trong con. Xin cho họ cũng nên một trong chúng ta.” (Ga 17,33).
Ở trong Chúa tức là một cách cầu nguyện thân mật.
Đức thánh Giáo Hoàng không khuyên tôi cầu nguyện. Ngài chỉ nêu gương. Tôi được lôi cuốn theo gương ngài.
Tôi kết hợp với Chúa. Chúa cho tôi nếm được phần nào sự bình an của Chúa.
Bình an của Chúa không cất đi khỏi tôi những đớn đau. Đau đớn vẫn còn, nhưng tôi được nâng đỡ nhờ cầu nguyện theo gợi ý của Đức thánh Giáo Hoàng. Cảm nghiệm về cầu nguyện nơi tôi là rất mạnh.
4. Cảm nghiệm thứ hai trong tôi khi gặp Đức thánh Giáo Hoàng là tôi nếm được phần nào tình yêu thương và sự khiêm nhường của ngài.
Tình yêu thương và sự khiêm nhường toát ra từ Đức thánh Giáo Hoàng một cách đơn giản hồn nhiên. Chỉ là nét mặt, chỉ là cái nhìn, chỉ là thái độ nghiêng mình, thế mà toả ra biết bao tình thương, biết bao khiêm nhường.
5. Tình thương ấy và khiêm nhường đó không là những quyền lực, nhưng lại đi sâu vào hồn tôi, để biến đổi tôi đi theo Chúa Giêsu là “Đấng hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11, 29).
6. Tình thương và khiêm nhường của Chúa Giêsu trong tôi giúp tôi gần gũi và nhạy cảm với những khổ đau của những người khác. Tức là nhờ tình thương và khiêm nhường của Chúa trong tôi, tôi sẽ tránh được tính vô cảm là tính xấu rất ghê tởm đang phổ biến hiện nay.
7. Những gì Đức thánh Giáo Hoàng đang làm tại Long Xuyên cho tôi đang đau bệnh, cũng là những điều ngài đã làm tại Vatican xưa khi tôi tới đó thăm ngài.
8. Thực vậy, lúc còn tại chức và khỏe mạnh, năm nào tôi cũng đi Vatican để được gặp Đức thánh Gioan Phaolô II.
9. Được ở bên ngài, tôi cảm được thế nào là chiều kích tâm linh thực chất của Phúc âm. Đó là cầu nguyện, yêu thương, khiêm nhường và tỉnh thức.
10. Riêng về tỉnh thức, tôi nhận thấy Đức thánh Giáo Hoàng rất quan tâm đến những dấu chỉ của thời đại.
Ngài tỏ ra rất cảm thương những khổ đau của con người hôm nay. Chính ngài cũng khổ đau như mọi người và có thể hơn mọi người.
11. Một lần nọ, tôi hỏi ngài: “Đức Thánh Cha có đau khổ không?” Ngài thưa: “Tôi đau khổ nhiều lắm. Nhưng tôi quen rồi.” Quen với đau khổ, tức là đau khổ thường xuyên, đau khổ như thân phận bình thường vốn đi kèm với sứ vụ của ngài. Có lúc ngài tâm sự với tôi về những đau khổ do nội bộ gây ra cho ngài.
12. Ở bên ngài, tôi thấy ngài hay thở dài. Có lúc ngài buột miệng kêu bằng tiếng Đức: “Lạy Chúa tôi”. Chứng tỏ ngài đau đớn nhiều lắm. Đau thì kêu, đó là thái độ đơn sơ. Đơn sơ hơn nữa là thái độ của ngài đối với Đức Mẹ. Đức thánh Giáo Hoàng rất sùng kính Đức Mẹ. Ngài tỏ ra vui mừng nhìn thấy tôi cũng rất đơn sơ phó thác mình cho Đức Mẹ.
13. Mấy ngày nay, được Đức thánh Giáo Hoàng đến thăm, tôi rất xúc động. Ngài đã lên trời, ở nơi cực lạc, mà ngài còn nhớ tới người con thiêng liêng của ngài dưới thế gian. Không những nhớ tới, mà còn tới thăm. Tuy thăm một cách thiêng liêng vô hình, nhưng rất thực, còn hơn là hữu hình.
14. Ngài không nói gì với tôi. Nhưng ngài đã dạy tôi rất nhiều điều cao quí. Đây là một sự hiệp thông và hiệp nhất rất cần cho Hội thánh Việt Nam lúc này.
15. Ngài không nói gì với tôi. Nhưng ngài đã lôi cuốn tôi đi theo Đức Giêsu, sống khiêm nhường và bé nhỏ, một Đức Giêsu sống động, gần gũi, mà tôi luôn gắn bó như “cành nho với thân cây nho” (Ga 15,7).
Hôm nay là lễ mừng kính Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội. Tôi muốn nói nhiều điều về Đức Mẹ Bùi-Tuần 1937
1. Hôm nay là lễ mừng kính Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội. Tôi muốn nói nhiều điều về Đức Mẹ, vì Đức Mẹ là mẹ của tôi.
Tôi cầu nguyện với Mẹ.
Có một lúc, tôi nghe Mẹ nói với tôi: Đừng nói những gì con muốn nói về Mẹ. Nhưng hãy nói những gì Mẹ muốn con nói về Mẹ.
Vậy, tôi nói những gì Mẹ muốn tôi nói về Mẹ. Tôi hiểu là hãy nói những gì Mẹ đã làm cho tôi và nơi tôi. Vâng, tôi sẽ nói ở đây vài điều tha thiết nhất.
2. Thứ nhất Đức Mẹ là tình yêu chữa lành.
Thực vậy, Mẹ đã chữa lành tôi, cả phần xác lẫn phần hồn.
Đức Mẹ đới xử với tôi không như người thầy dạy những điều cao siêu, mà như người mẹ đối với người con bé nhỏ, yếu đuối. Chữa lành nó là ngôn ngữ nó hiểu Mẹ hơn hết. Có những vết thương nó chẳng dám kêu với ai, chỉ dám nói với một mình Mẹ. Mẹ hiểu. Mẹ chữa lành tôi. Và Mẹ còn nói: “Có gì đau đớn, con cứ gọi Mẹ nhé”.
Khi đến Lộ Đức, Pháp, tôi cũng đã thấy Đức Mẹ là tình yêu chữa lành, như một chuyện thường xuyên. Rất nhiều bệnh nhân được Mẹ chữa lành. Rất nhiều tội nhân được Mẹ ban ơn trở về với Chúa.
Đức Mẹ chữa lành, đó là điều thứ nhất Mẹ muốn tôi nói về Mẹ.
3. Điều thứ hai Mẹ muốn tôi nói về Mẹ là: Mẹ là tình yêu qui tụ.
Ở Lộ Đức cũng như tại nhiều nơi, tôi đã thấy cảnh qui tụ bên Mẹ là rất tuyệt vời.
Bên Mẹ, đám đông chỉ là những đứa con thơ ngây. Không phân biệt tôn giáo, dân tộc, cấp bậc, giàu nghèo. Mẹ qui tụ tất cả bên Mẹ. Ai cũng có thể gọi Mẹ là mẹ của riêng mình.
4. Bầu khí qui tụ bên Mẹ bao giờ cũng ấm áp, cũng đưa mọi người gần lại với nhau. Có một tình yêu thiêng liêng từ Mẹ tỏa lan ra, chạm tới từng người. Những người biết đón nhận không phải là ít.
5. Tôi đã từng đi sâu vào những nơi hiu quạnh tại Việt Nam. Bất chợt tôi đã gặp tượng Đức Mẹ đứng giữa núi rừng. Bên cạnh tượng Mẹ là vô số những chữ bao người đã đi qua còn ghi lại đó với tâm tình trìu mến. Tôi nhìn Mẹ là tình yêu qui tụ, ngay ở những nơi lạnh lẽo nhất.
Mẹ qui tụ. đó là điều thứ hai Mẹ muốn tôi nói về Mẹ.
6. Điều thứ ba Mẹ muốn tôi nói về Mẹ là: Mẹ đồng hành với các con của Mẹ trong mọi chặng đường cuộc sống.
Mẹ đồng hành, đó là điều chính Mẹ đã thực hiện nơi tôi, từ nhỏ cho đến bây giờ. Mẹ đồng hành, để giúp tôi phân định cái tốt cái xấu, và để giúp tôi chọn lựa điều gì tốt nên làm, và làm cách nào, lúc nào. Bởi vì có những điều tốt, nhưng nếu làm không đúng lúc, đúng cách, đúng nơi, thì sẽ thiếu khôn ngoan, có thể gây hại. Cũng như thuốc tốt, mà dùng không đúng liều lượng và đúng lúc, thì sẽ gây hại.
7. Thiếu phân định, nhất là không biết chọn lựa, đều là những điều gây hại cho con người, nhất là cho con người có bổn phận lo cho kẻ khác, cho cộng đoàn. Nhưng có Mẹ đồng hành, và biết lắng nghe lời Mẹ, tôi mới có thể gọi được là khôn ngoan trong cuộc sống.
8. Thực tế cho thấy: Có đồng hành tốt, và cũng có đồng hành xấu. Đồng hành tốt là như Đức Mẹ. Đồng hành xấu là như quỉ Satan. Các con Đức Mẹ phải biết tỉnh thức và cầu nguyện, để luôn đồng hành với Mẹ, và luôn tránh đồng hành với Satan. Nhiều người đồng hành với Satan mà cứ tưởng mình đạo đức, thế mới nguy!
9. Điều thứ tư Mẹ muốn tôi nói về Mẹ là Mẹ tiễn đưa trong giờ lâm tử.
Giờ chết là giờ cực kỳ quan trọng. Giờ đó, Satan sẽ ra sức lôi kéo con người về với nó. Nhưng, nếu có Mẹ che chở, linh hồn sẽ rời khỏi xác mà về với Chúa một cách bình an.
Do vậy, các con Đức Mẹ hãy năng cầu cho những kẻ hấp hối. Nhất là hãy cầu cho chính mình được ra đi trong tình yêu che chở của Mẹ.
10. “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.”
“Cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Khi đọc lời cầu trên đây, tôi thường nghe Mẹ nói với tôi là: “Khủng hoảng lớn nhất hiện nay trên thế giới là mất ý thức về tội. Nên con và các con của Mẹ hãy nhận thức mình là kẻ có tội để mà cầu nguyện. Mẹ Vô nhiễm nguyên tội, đó là một đặc ân Chúa ban cho Mẹ. Hãy cùng với Mẹ, mà đi về với Chúa.
11. Vâng, Mẹ ơi, con đang đi về Chúa, nhờ Mẹ chữa lành, Mẹ qui tụ, Mẹ đồng hành, Mẹ tiễn đưa. Con xin hoàn toàn phó thác con cho Mẹ. Amen.
Khắp nơi đang bận rộn đón mừng lễ Chúa Giáng sinh. Tôi cũng bận rộn theo. Chính trong tình Bùi-Tuần 1938
1. Khắp nơi đang bận rộn đón mừng lễ Chúa Giáng sinh. Tôi cũng bận rộn theo. Chính trong tình trạng đó, Đức Mẹ nhắn nhủ tôi một điều quan trọng, đó là:
Các con đừng để ý đến việc đón mừng lễ Chúa Giáng sinh. Nhưng hãy để ý đến việc đón Chúa giáng sinh vào tâm hồn mình.
2. Thực vậy, Chúa Giêsu đến, không phải để được ở trong hang đá, nhưng là để được ở trong tâm hồn từng người. Ngài muốn vào lòng từng người để cứu họ.
3. Chúa cứu họ theo cách của Ngài. Nghĩa là bằng sự khiêm hạ của Ngài, sự khó nghèo của Ngài, những đớn đau của Ngài, những tiếng khóc và nước mắt của Ngài, tình yêu của Ngài.
Ngài muốn những kẻ đón Ngài cũng hãy chia sẻ sự khiêm hạ, sự khó nghèo và những đớn đau của Ngài, nhất là tình thương của Ngài.
4. Thế nhưng, rất nhiều người đã không đón nhận Ngài một cách thực tình. Thái độ từ chối của họ thường được nâng đỡ bằng thói quen xấu của tập thể, của cơ chế. Người ta sao, mình cũng vậy. Dại gì phải khiêm hạ, khó nghèo, đớn đau để mà đón Chúa.
5. Xưa, ông Nicôđêmô muốn đón Chúa Giêsu khiêm hạ, khó nghèo, chịu đớn đau, thì đã đến với Chúa ban đêm, vì sợ tập thể và cơ chế. Chứng tỏ sự đón Chúa Giêsu bằng sự từ bỏ mình để trở nên khó nghèo, khiêm hạ, chịu đớn đau là chuyện không dễ chút nào.
6. Nay cũng vậy. Tôi có kinh nghiệm đó. Vì thế, Đức Mẹ dạy tôi là hãy xin ơn đón nhận Chúa. Không những biết đón nhận Chúa, mà dám đón nhận Chúa.
7. Thực sự, không có ơn Chúa, thì dù biết đón nhận Chúa, tôi phải thế này thế nọ, nhưng biết, mà không đủ can đảm để thực hiện đúng. Do vậy, phải xin ơn đón nhận Chúa.
8. Thực tế hiện nay cho thấy các vẻ bề ngoài đón Chúa càng ngày càng hoành tráng sang trọng, đời sống phục vụ theo cơ chế vẫn nặng hình thức quyền lực. Đó là bình thường về mặt hữu hình.
9. Vì thế, nhiều nơi, cái hữu hình không giúp người ta nhận ra sự vô hình, khác với hang đá Belem xưa. Do vậy, mà rất cần ơn Chúa để có những hữu hình phục vụ cho vô hình một cách hiệu quả.
10. Rất may là trong một tình hình xem như rất bi quan, thì lại đang xuất hiện những sự kiện hữu hình tốt giúp nhận ra những vô hình có sức cứu độ.
11. Sự kiện hữu hình tốt đó là những con người cụ thể, với những cách sống cụ thể. Thấy họ, người ta dễ nhận ra Chúa cứu thế vô hình.
Tôi đã gặp được những con người cụ thể đó.
12. Vấn đề quan trọng Đức Mẹ dạy tôi dịp lễ Noel này là: Các con của Đức Mẹ hãy là những dấu chỉ hữu hình giúp người ta dễ gặp được Chúa Giêsu vô hình.
Không cần phải nói nhiều, các con của Đức Mẹ, với lối sống khiêm hạ, khó nghèo, yêu thương, dù ở bậc nào, dù trong hoàn cảnh nào, vẫn là những dấu chỉ, những chứng nhân.
13. Hãy là những dấu chỉ hữu hình, hãy là những chứng nhân. Đó là vấn đề khẩn cấp cần đặt ra, đó là lời kêu gọi tha thiết Chúa gửi đến Hội thánh Việt Nam lúc này.
14. Lúc này, tôi đang thấy nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân sống như những của lễ. Với những thánh giá mang trong mình, họ đang là những bức thư Chúa gửi cho tôi.
Nhờ họ, tôi đã và đang đón Chúa Giêsu. Ngài đến không để kết án, mà để cứu.
15. Thực vậy, Chúa Giêsu đang cứu tôi khỏi nhiều sự dữ, nhất là khỏi tội lỗi. Tôi là kẻ tội lỗi. Nhưng được Chúa thương giải cứu.
16. Tôi rất biết ơn Chúa. Tôi cũng biết ơn những người đã cộng tác với Chúa, mà giải cứu tôi khỏi tội.
Tôi vẫn mãi cần đến ơn Chúa, chờ đợi ơn Chúa để đón Chúa. Càng nhận ra điều đó càng làm cho Chúa được tôn vinh.
17. Càng nhận ra điều đó thì càng chứng tỏ mình có thiện tâm. Thiện tâm, mà ca đoàn thiên thần đã hát xưa trong đêm Noel, chính là thế.
Nhận mình phải biết ơn Chúa và những người cứu mình, đó là thiện tâm mà Chúa muốn.
18. Riêng đối với tôi, thiện tâm còn là phải biết ơn và phó thác mình cho Đức Mẹ, từng giờ, từng phút, từng giây. Vâng, đó là niềm vui và hạnh phúc, mà tôi hết lòng cảm tạ Chúa.
Long Xuyên, ngày 14.12.2019
--------------------------------------
Bùi-Tuần 1939: QUÀ GIÁNG SINH CHÚA BAN CHO TÔI NĂM NAY
+ GB. Bùi Tuần
Lễ Giáng sinh năm nay, tôi nhận được khá nhiều quà, thuộc nhiều loại, từ nhiều người nhiều nơi Bùi-Tuần 1939
1. Lễ Giáng sinh năm nay, tôi nhận được khá nhiều quà, thuộc nhiều loại, từ nhiều người nhiều nơi. Tôi rất cảm ơn.
2. Quà mà tôi quí nhất, là do Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria ban cho tôi. Qùa đó là chính Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
Chúa Giêsu và Đức Mẹ đã đến với tôi một cách âm thầm. Các Ngài đã ở lại bên tôi. Tôi cảm nghiệm rất rõ sự hiện diện của các Ngài. Sự hiện diện đó bao bọc lấy tôi, để giải cứu tôi từng giờ, từng phút, từng giây. Đó là tình yêu cứu độ.
3. Thực vậy, tình yêu cứu độ của Chúa đã và đang cứu tôi khỏi nhiều sự dữ, đặc biệt là khỏi tội lỗi. Tôi vui mừng vì ơn vô cùng cao quí đó.
4. Tôi là kẻ tội lỗi. Đấng cứu tôi là Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Các Ngài cứu tôi khỏi tội bằng tình xót thương của các Ngài, chứ tôi đâu có công trạng gì.
5. Các Ngài cứu tôi khỏi tội bằng cách xóa tội cho tôi, đền tội thay cho tôi, ban cho tôi sự sống của Chúa.
6. Sự sống của Chúa cho tôi sức mạnh và ánh sáng để luôn luôn trở về với Chúa. Tôi trở về với Chúa, và được Chúa đón nhận với tình thương bao la lạ lùng.
7. Lúc nào tôi cũng là kẻ trở về. Lúc nào tôi cũng là kẻ được Chúa đón nhận. Hình ảnh Chúa chiên vác trên vai con chiên lạc trở về, vẫn là nguồn an ủi tràn trề cho tôi.
8. Hãy trở về với Chúa bằng tất cả niềm tín thác nơi Chúa nhờ Đức Mẹ. Đó là hướng đi của tôi lúc này. Nhờ hướng đi đó, tôi mới có thể vượt qua được tình hình đại thử thách đang tới.
9. Thực vậy, trong thời gian sắp tới, thế giới sẽ là quãng lịch sử căng thẳng, đầy gian nan, có thể sẽ có chết chóc, hận thù.
Hội thánh cũng sẽ phải trải qua những bội phản bội tín chống lại Chúa Giêsu.
Bản thân mỗi người sẽ rơi vào nhiều thứ khổ đau.
10. Tình hình sẽ rất nguy hiểm. Tôi bám lấy Chúa Giêsu. Tôi ôm chặt lấy Đức Mẹ. “Đối với Chúa, không có gì là không thể làm được”. Sứ thần Gabriel đã quả quyết như thế với Đức Mẹ (Lc 1, 37). Nay tôi rất tin lời hứa đó.
11. Tôi rất tin. Nên cho dù tôi rất tội lỗi, rất yếu đuối, rất bé nhỏ mong manh, tôi vẫn sẽ được Chúa cứu, để nhờ đó mà góp phần làm chứng cho Chúa trong chương trình cứu độ của Chúa.
12. Chúa đến để cứu tôi. Tôi sẽ được cứu, nếu tôi đón nhận Chúa.
Tôi đón nhận bằng sự ăn năn sám hối.
Tôi ăn năn sám hối, khi tôi khiêm tốn nhận mình là kẻ có tội.
Tôi ăn năn sám hối, khi tôi dâng những khổ đau tôi chịu hằng ngày lên Chúa, như một chút đền tội.
Tôi ăn năn sám hối, khi tôi chia sẻ khổ đau với những ai đau khổ, và khi tôi biết ơn những người giúp đỡ tôi.
Tôi ăn năn sám hối, khi tôi đem sự tự do của tôi buộc chặt vào sợi giây của ơn thánh, để luôn luôn tôi nhận mình phải nhờ ơn thánh trong mọi việc từ khởi sự cho đến hoàn thành.
Tôi ăn năn sám hối, khi tôi phải trải qua những sa mạc mênh mông tăm tối thiêng liêng của cuộc đời, mà vẫn tin vào Chúa, coi sự mình sống với Chúa là điều quan trọng nhất.
13. Ăn năn sám hối, đó là điều Chúa tha thiết dạy tôi, đó là điều Đức Mẹ âu yếm đồng hành với tôi.
Chính sự ăn năn sám hối như thế đã và đang đem lại cho tôi niềm vui chứa chan và hy vọng tràn trề.
14. Tới đây, tôi nhận ra quà Noel Chúa ban cho tôi là vô cùng quí giá. Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa và Đức Mẹ.
15. Với tâm tình như thế, tôi cầu nguyện cho mọi người, cho Hội thánh, cho Quê Hương, nhất là cho những người thân yêu.
Cho dù sẽ có những bất ngờ đen tối xảy ra, tôi vẫn vững tin vào ơn cứu độ của Chúa.
Cho dù tôi có thể sẽ là con người bị nhiều người từ chối, tôi vẫn mãi trung thành với tình yêu cứu độ đối với mọi người.
Cho dù tương lai sẽ rất gian nan, tôi vẫn phó thác mình cho Chúa và Đức Mẹ một cách tuyệt đối. Bởi vì Chúa là Tình yêu, và Đức Mẹ là nơi ẩn náu của mọi kẻ yếu đuối, mọn hèn.
Năm 2019 sắp kết thúc. Nhưng quà Giáng sinh Chúa ban sẽ mãi mãi tồn tại. Tạ ơn Chúa. Ca ngợi Chúa. Amen.
Những ngày cuối năm 2019 dẫn vào năm 2020 bỗng nổi lên nhiều hiện tượng đáng ngại. Một trong Bùi-Tuần 1940
1. Những ngày cuối năm 2019 dẫn vào năm 2020 bỗng nổi lên nhiều hiện tượng đáng ngại. Một trong những hiện tượng rất đáng ngại đối với tôi đó là lừa dối.
2.
Lừa dối trong lãnh vực nào cũng xấu. Nhưng lừa dối trong lãnh vực đạo đức phải coi là rất xấu, rất tệ hại, rất nguy hiểm.
Tôi tin như vậy. Tôi cảm thấy như vậy. Vì thế, tôi cầu nguyện cho tôi và cho mọi người sang năm mới được Chúa cứu khỏi các thứ lừa dối trong lãnh vực đạo đức. Cách riêng phải nói tới mấy lừa dối sau đây, mà Phúc âm đã nhấn mạnh.
3. Lừa dối thứ nhất là:
Làm việc đạo đức theo ý riêng mình, chứ không theo ý Chúa.
Chúa Giêsu đã nói rõ: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi”.
Rồi Chúa còn quả quyết: cho dù làm phép lạ, nói tiên tri, trừ quỉ, mà không theo ý Chúa, thì cũng bị Chúa loại trừ. (Mt 7, 21-23). Chứng tỏ rằng: Làm theo ý Chúa là điều quan trọng trong đời sống đức tin.
4. Lừa dối thứ hai là:
Làm việc đạo đức, mà nhắm vào mục đích phô trương tìm tiếng khen.
Chúa Giêsu đã nói rất rõ: Khi cầu nguyện, ăn chay, làm từ thiện, thì đừng phô trương. Nếu không thì những kẻ phô trương đó sẽ bị Chúa kể như đã được phần thưởng rồi. (Mt 6, 6, 16). Thế mà phô trương lại đang trở thành bình thường trong nhiều sinh hoạt tôn giáo tại nhiều nơi hiện nay.
5. Lừa dối thứ ba là:
Làm việc đạo đức, mà chỉ chọn con đường rộng rãi thênh thang, tránh con đường hẹp.
“Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa hẹp và đường rộng thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường hẹp, thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy”. (Mt 7, 13-14)
6. Như vậy, trong lãnh vực đạo đức, nếu tôi theo ý riêng, phô trương, sống buông thả, thì kể như tôi lừa dối mình và lừa dối người khác.
7. Tôi nhận thức điều đó. Tôi muốn tránh điều đó. Nhưng tôi lại nhận ra điều này: Nếu tôi không khiêm tốn cầu xin Chúa thương cứu tôi, thì điều tôi muốn tránh cũng cứ xảy ra. Vì thế, ngay tại lúc này và mọi ngày của đời tôi, tôi tha thiết khẩn cầu ơn được Chúa cứu.
8. Cuối năm thường tổ chức những thánh lễ tạ ơn. Dịp đó, chúng ta thường kể ra những việc này nọ, mà chúng ta coi như những việc chúng ta đã làm vì mến Chúa và làm sáng danh Chúa. Tất cả đều để cảm tạ Chúa.
Nhưng hãy ý tứ, kẻo lại lừa dối mình. 9. Đọc kỹ những gì thánh Gioan tông đồ đã viết, tôi thấy thế này. Tình yêu của Chúa Giêsu được thể hiện ở sự Ngài hạ mình xuống đến với những kẻ hèn mọn, khổ đau, bị giam cầm, trong cầu nguyên và thinh lặng.
Vinh quang của Chúa cũng được thể hiện ở sự Ngài bước xuống, cúi xuống thân phận những kẻ thiếu thốn, khổ đau, những tù nhân trong cầu nguyện và tĩnh lặng.
10. Việc đó không dễ chút nào. Vì thế, rất cần Chúa cứu chúng ta khỏi tự lừa dối mình bằng những việc đạo đức nặng về hình thức, mà thiếu nội dung.
11. Lừa dối là một thứ cuồng phong dữ dội.. Nhất là sự lừa dối mình và lừa dối kẻ khác trong lãnh vực đạo đức lại được Satan chủ mưu, vì Satan chính là kẻ lừa dối tự bản tính mình.
12. Do vậy, tôi luôn bám chặt lấy Đức Mẹ. Đức Mẹ là Đấng mà Satan rất ghét, và rất sợ.
Hãy cứ ẩn mình trong trái tim Mẹ, chúng ta sẽ được che chở, sẽ được ủi an. Mẹ sẽ cứu chúng ta khỏi những lừa dối đưa tới diệt vong. Chính chúng ta có thể tự lừa dối mình, cả trong lương tâm lẫn trong các quan hệ xã hội.
13. Tôi hay thầm cầu nguyện với Đức Mẹ bằng bài hát quen thuộc:
“Lạy Mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa, mẹ Đồng trinh, đoàn con chung tiếng hát, chung tấm lòng, dâng đời sống. Lạy Mẹ Maria,…”
14. Cầu nguyện Đức Mẹ với bài hát trên đây, tôi bước vào năm mới trên con đường sám hối, hoán cải mình, và tin cậy phó thác, mở lòng về Hội thánh và Tổ Quốc Việt Nam yêu dấu, để tiếp tục phục vụ anh chị em trong yêu thương chân thành.
Bước sang năm mới, việc đầu tiên tôi làm là dâng mình cho Chúa. Trong việc dâng mình, có việc. Bùi-Tuần 1941
1. Bước sang năm mới, việc đầu tiên tôi làm là dâng mình cho Chúa. Trong việc dâng mình, có việc tuyên xưng đức tin. Tôi tuyên xưng đức tin cùng với Hội thánh và như Hội thánh dạy.
2. Thêm vào đó, tôi đã tuyên xưng đức tin với nội dung mang tâm tình riêng tư của tôi. Đơn sơ thế này:
“Thứ nhất tôi tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ giầu lòng thương xót. Thứ hai tôi tin Đức Mẹ Maria là người mẹ Chúa đã ban cho tôi. Thứ ba tôi tin lương thực hằng ngày tôi phải lãnh nhận và cho đi là yêu thương theo giới răn mới Chúa trối lại”.
3. Khi tuyên xưng điều thứ nhất, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Tôi nghe Người nói với tôi:
“Cha cứu con như thế này đó. Cha cứu nhân loại bằng cách chịu khổ nhục đớn đau như chưa từng thấy. Tình yêu cứu độ được tỏ hiện qua cuộc tử nạn trên thánh giá, để con thấy rằng: Cái giá phải trả để cứu con là vô cùng cao quí”. Thánh giá Chúa trao cho cũng là một quà tặng quí giá.
4. Nếu tôi muốn được cứu và muốn cứu người khác, thì hãy đón nhận Chúa Giêsu trên thánh giá.
Đón nhận, thì cần phải tin. Tin vững vàng. Tin trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong tình hình có nhiều thử thách.
Lúc này, là thời điểm có nhiều thử thách nặng nề, tôi cần phải tin mạnh hơn. Cho dù tình hình sẽ có những chuyển biến đen tối đến đâu, tôi vẫn một mực tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ. Chỉ Người mới cứu được tôi. Chỉ Người mới cứu được Hội thánh. Chỉ Người mới cứu được nhân loại đang lao mình xuống vực thẳm diệt vong. Chỉ Người mới là con đường, là sự thật, là sự sống và là phục sinh.
5. Khi tuyên xưng điều thứ hai: Đức Mẹ Maria được Chúa ban cho tôi để làm mẹ của tôi, tôi đã thấy gì?
Thưa, tôi thấy Đức Mẹ Maria đứng dưới thánh giá Chuấ Giêsu. Rất kín đáo, rất khiêm nhường, rất khổ đau, rất thinh lặng.
6. Nhìn Mẹ, tôi được Mẹ cho tôi thấy Mẹ đang sống lời “Xin vâng” một cách trọn vẹn và sâu sắc tuyệt vời.
Tự nhiên, tôi hiểu: Khi Chúa trao ban cho tôi ơn được làm con của Đức Mẹ, thì Chúa muốn tôi hãy đặc biệt để ý đến gương đời sống của Mẹ là xin vâng phục thánh ý Chúa.
Nghĩa là trong phục vụ, tôi sẽ làm đúng việc Chúa muốn, đúng cách Chúa muốn, đúng nơi Chúa muốn, đúng lúc Chúa muốn. Xin vâng như thế thì tôi phải từ bỏ ý riêng mình, lợi ích tư riêng, ưu tiên tôi phải lo chu toàn bổn phận hằng ngày.
Nếu thánh ý Chúa là tôi có lúc sẽ phải đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu, thì tôi hãy cùng với Mẹ và như Mẹ mà xin vâng.
7. Xin vâng theo thánh ý Chúa là điều rất khó. Thí dụ: tôi có tính hay sốt ruột, hay lo, mà thánh ý Chúa là phải kiên trì chờ đợi, thì tôi phải nhờ Đức Mẹ rất nhiều, để biết xin vâng theo thánh ý Chúa. Nhất là tôi phải nhờ Đức Mẹ rất nhiều trong việc lãnh nhận và cho đi tình thương mà Chúa muốn.
8. Khi tuyên xưng điều thứa ba, đó là: Lương thực hằng ngày tôi cần lãnh nhận và cho đi là yêu thương theo giới răn mới Chúa trối lại (Ga 14, 34), tôi đã thấy gì?
Thưa tôi thấy như thánh Gioan tông đồ đã dạy: “Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, mà chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta”. (1 Ga, 4, 10)
9. Thế nghĩa là yêu thương, thì phải đi bước trước, và phải biết đền tội thay cho người mình thương.
10. Nhận thức trên đây giúp tôi thay đổi lối sống đối với mọi người, nhất là đối với những kẻ lỗi lầm. Tôi sẽ để ý nhiều hơn đến việc đền tội thay cho họ, thay vì chỉ kết án và trách móc họ.
Trên đây là một thoáng nhìn về sự tôi tuyên xưng đức tin dịp đầu năm mới.
11. Với việc tuyên xưng đức tin như thế, tôi thấy mình vui, vì đã gặp gỡ Chúa và Đức Mẹ một cách thân mật. Tôi cũng vui, vì đã gặp được nhiều tâm hồn tuyên xưng đức tin của họ một cách rất tư riêng chân thành.
12. Chúng tôi chỉ là một số ít, nhưng với số ít đó, Chúa có thể dùng như năm chiếc bánh và hai con cá, để phục vụ nhiều người, như xưa Chúa đã làm (Mc 6, 34-44).
13. Tuyên xưng đức tin trên đây là của lễ đầu năm tôi dâng lên Chúa.
Tuyên xưng đức tin trên đây cũng là lời cầu chúc đầu năm tôi xin gửi tới từng người anh chị em.
14. Năm mới này đang bắt đầu bằng nhiều sự kiện gây băn khoan lo lắng. Biết đâu cuối năm số người còn sống sẽ phải kể như những người sống sót. Nói thế không phải để bi quan, nhưng là để biết chọn cho mình một lối sống đạo đức hiện giờ mang hy vọng cứu độ mãi mãi đời đời. Chọn ngay bây giờ, kẻo sẽ quá muộn.
Tết là dịp để cầu chúc cho mình và cho nhau. Lời cầu chúc tha thiết nhất là hạnh phúc. Tôi cũng Bùi-Tuần 1942
1. Tết là dịp để cầu chúc cho mình và cho nhau. Lời cầu chúc tha thiết nhất là hạnh phúc.
Tôi cũng cầu chúc như vậy. Với tấm lòng hết sức chân thành, tôi cầu chúc một thứ hạnh phúc, mà tôi đã từng đượcnếm suốt cuộc đời tôi.
2. Đời tôi đã bước sang tuổi 92, với 65 năm là linh mục và 45 năm là giám mục.
Cuộc đời đó của tôi là một chuyến đi dài giữa dòng lịch sử. Lịch sử Hội thánh cũng như lịch sử đất nước và lịch sử thế giới đã luôn biến chuyển, như dòng sông sâu, như dòng thác đổ.
Chúa đã sai tôi vào đó. Tôi phải chống chọi, phải phấn đấu không ngừng.
3. Kết quả mà hôm nay tôi dám nói lên một cách chân thành nhất, đó là tôi được hạnh phúc.
Hạnh phúc mà tôi nói ở đây được tôi cảm nghiệm một cách sâu sắc, một cách thiêng liêng, một cách ngọt ngào.
4. Hạnh phúc đó hệ tại ở sự tôi đã được gặp gỡ Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Khi cuộc đời trở nên phức tạp, hiểm nguy, giông bão, Đức Mẹ Maria đã dạy tôi hãy đến với Chúa Giêsu.
5. Mẹ dạy: Con hãy cầu nguyện đơn sơ chỉ thế này: “Lạy Chúa, xin tha tội chúng con. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.”
Tôi cầu xin như vậy. Kết quả là tôi đã gặp được Chúa Giêsu. Chúa Giêsu luôn hiện diện. Nhưng Ngài đợi tôi đón nhận Ngài, bằng những lời cầu khiêm tốn, đơn sơ.
6. Xin tha tội. Xin thương xót, đó là nhìn nhận thân phận yếu đuối của mình, đó là nhìn nhận quyền năng và tình yêu cứu độ của Chúa.
Nhưng khi nói: “Xin Chúa tha tội chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con” tôi ít nhìn vào mình để cắn rứt mình, nhưng tôi nhìn tập trung vào Chúa, để tin cậy phó thác.
7. Tới đây, tôi thấy phải nói thật điều này: Những gì tôi vừa chia sẻ trên đây coi như đơn giản,nhưng thực sự không đơn giản chút nào. Bởi vì nếu không tỉnh thức, thì tinh thần lừa dối sẽ lẻn vào tàn phá những gì coi như đạo đức vững vàng nhất.
8. Nhìn nhận mình tội lỗi, nhiều khi chỉ theo công thức, chứ đâu có thực tình trong lương tâm.
9. Nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ, nhiều khi chỉ theo nghi thức, chứ thực tế vẫn tìm cứu độ ở những nơi khác.
10. Lừa dối là một thứ virút tinh vi đang hoạt động trong mọi lãnh vực đời đạo.
Vì thế, khi cầu xin Chúa thương xót cứu chúng ta cho khỏi tội và lửa hỏa ngục, chúng ta nên xin Chúa thương xót cứu chúng ta cho khỏi hệ thống lừa dối đang rải khắp nơi hiện giờ để làm hại chúng ta. Nhất là xin Chúa thương cứu chúng ta đừng bao giờ lừa dối bất cứ ai.
11. Lừa dối mình, lừa dối người khác, và lừa dối Chúa, đó là một sự thực ghê tởm có thực hiện nay.
12. Riêng tôi, nếu lúc này tôi đang thấy nhiều nguy cơ bùng nổ đó đây tại Việt Nam nói chung và tại giáo phận Long Xuyên nói riêng, thế mà tôi lại quả quyết chẳng có gì là nghiêm trọng và tồi tệ cả, mọi nơi đều diễn biến tốt, thì với quả quyết như thế, tôi cũng sẽ là kẻ lừa dối.
13. Do vậy, tôi thiết nghĩ con đường dẫn tới hạnh phúc là tin vào Chúa Giêsu, Đấng Cứu độ giầu lòng thương xót, nhưng Chúa Giêsu đòi chúng ta phải chân thật, sám hối. Chứ Chúa không cứu chúng ta, để chúng ta tiếp tục sống trong sự lừa dối.
14. Đó cũng chính là điều Đức Mẹ đã nói ở Fatima. Tại Fatima, Đức Mẹ cảnh báo về một tương lai khủng khiếp sẽ xảy ra. Cảnh khủng khiếp đó sẽ chỉ tránh được, nếu người ta thực tình sám hối, hoán cải chính mình.
Tôi có cảm tưởng là cảnh khủng khiếp được Mẹ báo trước đó đang tới gần rồi.
Nói thực điều đó mới là nói thật, mà không lừa dối.
15. Lạy Chúa, xin tha tội chúng con.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.
Khi tôi cầu xin như thế, tôi đã nhìn thấy Chúa. Tôi thấy Chúa bước xuống cầm lấy tay tôi,mà kéo tôi ra khỏi vực sâu. Tôi thấy Chúa cúi xuống lau rửa những vết thương của tôi. Tôi thấy Chúa truyền sang tôi hơi thở của Chúa, sự sống của Chúa, tình thương của Chúa.
16. Tôi rất cảm động. Tôi đọc được trong hình ảnh của Chúa Giêsu một sứ điệp về niềm vui và hy vọng gửi mọi người thiện tâm.
Năm mới này, tuy sẽ bao phủ bởi nhiều bóng tối, nhưng vẫn có ánh sáng cứu độ. Hãy biết đón nhận Đức Kitô. Chúa Giêsu chính là hạnh phúc của chúng ta. Đó là lời chúc Tết chân thành, xin gửi tới anh chị em thân mến.
Sáng sớm ngày đầu năm Canh Tý, tôi bất ngờ nhận được những hình ảnh về sự vô ơn, bất hiếu Bùi-Tuần 1943
1. Sáng sớm ngày đầu năm Canh Tý, tôi bất ngờ nhận được những hình ảnh về sự vô ơn, bất hiếu. Đó là những giọt đắng đầu năm.
2. Buồn quá, tôi tâm sự với vài người thân. Tất cả vài người thân đó đều khuyên tôi: “Thực tế là thế đó. Phải chấp nhận thực tế đó để đền tội, chứ biết làm sao bây giờ”.
Lời khuyên đó càng làm tôi đau. 3. Tôi cảm nhận thấy mình nhận được một sứ điệp không vui, đó là: “Hãy sẵn sàng bước sang năm mới, để đền tội bằng những bộc phát chứa đầy bất hiếu, bất trung, vô ơn, bạc nghĩa, đến từ nội bộ”.
4. Tôi đón nhận linh cảm đó một cách bang hoàng, đau đớn.
Tôi như thấy có những gì thân thương đang chết đi trong lòng tôi.
Bởi vì những kẻ phản bội, vô ơn đó, chính lại là những người tôi thương yêu và tin tưởng.
Trong tấm lòng tan nát, tôi có mấy lời cầu nguyện.
5. Lời cầu nguyện thứ nhất là: Xin Chúa thương ban ơn cho những người vô ơn, bất hiếu, bất trung đó được ơn ăn năn trở về đàng lành.
Bởi vì tôi biết chắc chắn: vô ơn, bất hiếu, phản bội sẽ chỉ đưa tới hình phạt nặng nề ở đời này và ở đời sau.
Chỉ Chúa mới đổi lòng họ được. Nhưng họ có tự do để không đón nhận ơn Chúa. Và đó là điều tôi đau xót. Dù sao tôi vẫn cứ cầu xin Chúa cho họ.
Bất trung, bất hiếu với chính Chúa, đó là điều đang phát triển hiện nay. Đó là điều tôi cũng sợ cho chính mình tôi và cho nội bộ của tôi.
6. Lời cầu nguyện thứ hai là: “Xin Chúa thương ban cho các gia đình, các giáo xứ, các giáo phận, và Tổ Quốc Việt Nam tránh được cảnh bội phản đến từ nội bộ”.
Xưa, Chúa Giêsu đã bị bao khổ đau nhục nhã đến từ nội bộ, do chính những kẻ Chúa thương.
Xưa, thánh Gioan tông đồ rất đau lòng phải cảnh báo những kẻ phản bội xuất hiện giữa nội bộ giáo đoàn “Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng không phải là người của chúng ta” (1 Ga 2, 19).
7. Riêng tôi, tôi có chút kinh nghiệm này: Có những người trong nội bộ, dù ở gần dù ở xa, đã truyền sang tôi lửa mến Chúa yêu người một cách lạ lùng, đồng thời cũng đã truyền sang tôi sự hiện diện của Chúa Giêsu hiền lành, khiêm nhường, yêu thương, một cách lạ lùng.
Trái lại,có những người trong nội hộ lại làm cho tôi sợ vì lửa họ truyền đi khét mùi hỏa ngục và sự hiện diện của Satan.
8. Lời cầu nguyện thứ ba là: “Xin Chúa thương ban cho tôi ơn đừng bao giờ là kẻ vô ơn, phản bội. Xin cho tôi ơn biết đền tội mình bằng tất cả những gì Chúa muốn”.
Tôi nhận biết mình có nhiều tội, cần phải đền. Nhưng tôi tin Chúa là Cha nhân từ giầu lòng thương xót, sẽ chọn cho tôi là đứa con yếu đuối, một cách đền tội thích hợp nhất, mà Chúa biết. Nên tôi luôn tin vào Chúa, từng giờ, từng phút, từng giây.
Tôi ít nhìn vào mình, mà chỉ nhìn vào Chúa là Cha giầu lòng thương xót. Nên tôi được bình an.
9. Với ba lời cầu nguyện trên đây, tôi đã không để tôi phải thất vọng, chìm vào sầu muộn, do những giọt đắng đến với tôi ngay sáng sớm ngày đầu năm Canh Tý này.
10. Hơn nữa, tôi cảm tạ Chúa đã báo trước cho tôi một tin rất quan trọng, đó là: “Năm mới sẽ xảy ra nhiều đau đớn do phản bội”.
11. Vì thế, tôi phải cầu nguyện và tỉnh thức, như Chúa đã dạy nhiều lần trong Phúc âm.
Cầu nguyện và tỉnh thức, mà Chúa Giêsu dạy, không phải để tìm cách chữa mình,nhưng là để cho chính mình được nên tốt hơn.
12. Chúng ta sẽ nên tốt hơn, nếu chúng ta biết dùng thời giờ năm mới này, để tìm được ơn cứu độ ngay giữa những phản bội đến từ khắp nơi, cả từ nội bộ.
13. Riêng tôi, tôi hiệp thông với các bề trên trong Hội thánh tại giáo phận và tại Việt Nam chúng ta, để cùng nhau cầu nguyện và tỉnh thức.
Năm mới này sẽ đầy thử thách. Ơn cứu độ sẽ đến với những ai khiêm tốn tin tưởng vào Chúa là Tình yêu giầu lòng thương xót.
14. Tôi tin: Kẻ vô ơn, phản bội không bao giờ đại diện cho số đông. Số đông vẫn tốt. Trong số đông vẫn có những người mang lửa mến Chúa yêu người, cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ. Với niềm tin đó, tôi lên đường trong hy vọng. Không bi quan, không lạc quan, mà trong hy vọng. Hy vọng có nền tảng. Nền tảng vững chắc nhất, chính là Thiên Chúa giầu lòng thương xót.
Tôi là con người thường xuyên đau yếu. Từ vài năm nay, đau yếu càng nhiều, càng mạnh. Nhiều khi Bùi-Tuần 1944
1. Tôi là con người thường xuyên đau yếu. Từ vài năm nay, đau yếu càng nhiều, càng mạnh.
Nhiều khi đau quá, tôi kêu than lên Chúa. Kêu than của tôi dựa phần lớn vào thánh vịnh.
2. Thánh vịnh 06 có những những lời kêu thảm thiết, mà tôi cho như là của chính tôi:
“Lạy Chúa, xin đoái thương, vì con đang kiệt sức. Toàn thân con rã rời quá đỗi, mà lạy Chúa, Chúa còn trì hoãn đến bao giờ? Lạy Chúa, xin trở lại mà giải thoát con. Xin cứu con, bởi vì Ngài nhân hậu. Rên xiết đã nhiều, nên con mệt mỏi Trên giường ngủ, những thổn thức năm canh. Từng giọt vắn dài, lệ tuôn đẵm gối. Mắt hoen mờ vì quá khổ đau Thêm suy nhược bởi nghìn thù vây hãm”.
3. Khi tôi dùng những lời kêu than trên đây và những lời kêu khóc tương tự để cầu nguyện với Chúa, tôi hiệp thông với tất cả những ai đang đau yếu như tôi.
4. Tôi cảm nhận sự xuống cấp của sự sống kéo theo bao điều sa sút. Tôi không còn khả năng phục vụ, không còn khả năng yêu thương, giá trị của tôi lụi tàn.
5. Từ cảm nhận đó, tôi như thấy mình bị ruồng bỏ. Tôi diễn tả sự đau đớn của tôi bằng những lời kêu than thảm thiết dâng lên Chúa.
Tôi tin Chúa sẽ xót thương tôi. Mà đúng là Chúa đã xót thương tôi.
6. Thứ nhất, Chúa xót thương tôi ở chỗ Chúa cho tôi thấy đau yếu không phải là kết quả của tội lỗi. Để đừng bao giờ coi những kẻ đau yếu là chịu hình phạt bởi tội họ đã phạm.
Đau yếu là thân phận chung của loài người sa ngã.
7. Thứ hai, Chúa xót thương tôi ở chỗ Chúa cho tôi thấy Chúa có quyền năng giải cứu tôi.
Chúa giải cứu tôi cách nào, lúc nào, thì tôi phó thác nơi Chúa. Nhưng chắc chắn là Chúa cứu.
8. Xưa, Chúa Giêsu trên cây thánh giá đã có lúc than thở: “Cha ơi, Cha ơi, sao nỡ bỏ rơi con”.
Nhưng sau đó, Chúa Giêsu đã nói: “Cha ơi, Con xin dâng phó linh hồn con trong tay Cha”.
9. Đúng là một sự giải thoát của niềm tin. Tôi cũng đã được nếm sự giải thoát đó do Chúa ban cho. Tôi cảm nhận là Chúa đã nhận lời tôi kêu khóc. Tôi được bình an trong sự phó thác.
“Xin Chúa xót thương con. Chúa đã nhận lời con”.
Đó là hai điều tôi đã cảm nhận trong những cơn đau yếu rụng rời.
10. Tới đây, tôi thấy rất rõ điều Chúa dạy tôi phải hết sức xa tránh, đó là tính vô cảm trước những khổ đau của những người bệnh tật, đau yếu.
Vô cảm xem ra đang là một thứ virút nguy hiểm trong lãnh vực đạo đức hiện nay.
Không biết đau cái đau của người khác. Dửng dưng trước cái đau của người khác. Cười giỡn, nhởn nhơ trước cái đau của người khác. Đó là những hình thức vô cảm hiện nay. Rất đau đớn là những hình thức vô cảm như thế cũng xuất hiện nơi khá nhiều người coi mình là tín hữu và là môn đệ của Chúa Giêsu.
11. Tới đây, tôi chợt nhớ lại một bài học Chúa đã dạy tôi, sau ngày tôi thụ phong Giám mục.
Đêm đó, trong lúc nửa thức nửa ngủ, tôi thấy Chúa Giêsu đến với tôi. Chúa cầm tay tôi, dẫn tôi vào một bệnh viện có nhiều bệnh nhân nằm la liệt.
12. Chúa dẫn tôi qua các giường bệnh. Bệnh nhân rên xiết. Chúa cho tôi đau cái đau của họ. Họ là ai, tôi không biết. Chỉ biết họ là người đang đau yếu. Chúa tỏ ra rất đau cái đau của từng người. Chúa cũng cho tôi cùng đau như vậy.
13. Tới một lúc, tôi đau quá, bừng tỉnh giấc. Thì ra cái đau của tôi là cái đau của những người khác và cũng là cái đau của Chúa Giêsu. Thăm người đau yếu thì cần tấm lòng thương cảm, cần trái tim tế nhị. Đôi khi lặng lẽ cầm lấy tay bệnh nhân với yêu thương chân thành vốn có sức an ủi họ hơn ngàn lời trống rỗng.
14. Từ đó, tôi coi những người đau yếu là địa chỉ Chúa muốn tôi chia sẻ.
Tôi chia sẻ bằng lời cầu nguyện, bằng những con đường hợp với khả năng và hoàn cảnh của tôi.
15. Ngay lúc này, tôi vẫn cầu xin với Chúa.
“Lạy Chúa, xin xót thương con, vì con đau yếu.”
16. Tôi thấy Đức Mẹ cũng đang giúp tôi cầu xin cho những người đang đau yếu như tôi. “Lạy Chúa, xin xót thương chúng con, vì chúng con đau yếu”.
Đau yếu là đề tài cầu nguyện. Chúng ta nên cầu nguyện với đề tài đó, nhất là trong thời điểm có nhiều đau yếu nặng nề và lan rộng một cách nguy hiểm như hiện giờ.
Những ngày gần đây, hơn bao giờ hết, tôi hay cầu nguyện với Chúa bằng câu: “Lạy Chúa, xin xót Bùi-Tuần 1945
1. Những ngày gần đây, hơn bao giờ hết, tôi hay cầu nguyện với Chúa bằng câu: “Lạy Chúa, xin xót thương con”. Liền đó, tôi trình bày lỹ do. Có nhiều lý do khác nhau. Lý do nào cũng khẩn cấp, cũng thiết tha. Một trong những lý do, mà tôi coi là bạo dạn, đó là “vì con là con của Đức Mẹ Maria”.
2. Tôi đưa ra lý do đó với tất cả tấm lòng yêu mến đối với Đức Mẹ Maria. Cụ thể là tôi núp mình dưới bóng thánh Gioan tông đồ, người mà Chúa Giêsu đã trối lại cho Đức Mẹ, trước khi tắt thở. Tôi cũng đã được gởi gắm cách riêng cho Đức Mẹ.
Do đó, tôi hiểu người được Đức Mẹ nhận là con thực sự, thì thực sự phải có một số điều kiện căn bản.
3. Thánh Gioan tông đồ đã nhấn mạnh đến các điều kiện ấy, đó là:
+ Sám hối + Yêu thương nhau + Gắn bó mật thiết với Chúa
Trong Phúc âm và các thư ngài viết đều nói rõ về
1. Sự phải đoạn tuyệt với tội lỗi, tức là phải sám hối (1 Ga 2, 1) 2. Sự phải tuân giữ điều răn bác ái (1 Ga 2-12) 3. Sự phải ở lại trong Chúa (1 Ga 4-15)
Là con của Đức Mẹ, tôi được Đức Mẹ dạy ba điều đó thường xuyên, hằng ngày, nhất là trong những dịp đặc biệt.
Tôi còn nhớ rõ những dịp đặc biệt như thé. Ở đây, tôi chỉ xin nhắc lại hai trường hợp.
5. Trường hợp thứ nhất là tại Lộ Đức.
Tôi đã tới Lộ Đức nhiều lần. Lần nào cũng vậy, tôi đều được nếm hương vị ngọt ngào thiêng liêng, mà Đức Mẹ ban cho, về bầu khí sám hối, bầu khí yêu thương nhau, bầu khí gặp gỡ gắn bó với Chúa.
Hương vị đó không thể đo lường được. Nhưng hương vị đó đã đổi mới lòng tôi. Tôi có một cái nhìn mới về đời mình, về những con người tôi tiếp xúc.
6. Tôi không còn dễ tin một cách ngây ngô bất cứ ai tự xưng mình là con Đức Mẹ, nếu họ chỉ mang danh mà không mang nội dung, để rồi thay vì làm sáng danh Đức Mẹ, họ chỉ xúc phạm đến Đức Mẹ và làm cớ cho người ta chê bai đạo Chúa.
7. Trường hợp thứ hai là đức thánh Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II.
Đức thánh Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II là người con đặc biệt của Đức Mẹ. Tôi được may mắn gặp ngài nhiều lần.
8. Những lần được đồng tế với ngài, được đứng cạnh ngài, tôi đã rất cảm động được tâm tình sám hối của ngài truyền sang tôi.
9. Những lần được quỳ bên cạnh ngài trơ trụi sát đất, trước Nhà Tạm, để hai cha con cùng cầu nguyện chung trong thinh lặng, khuất vắng cộng đoàn, tôi đã rất cảm động được lửa mến Chúa yêu người nơi Ngài truyền sang tôi. Ngài không nói gì với tôi, nhưng tôi cảm thấy rất rõ ngài là người con đặc biệt của Đức Mẹ.
10. Một lần nọ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói với tôi trước mặt nhiều người một câu làm tôi hết sức ngạc nhiên: “Đức cha có vẻ là một chủng sinh hơn là một Giám Mục”. Lời nói đó làm tôi gần lại với Ngài một cách lạ lùng. Với câu đó, Ngài đã giúp tôi sống bé nhỏ. Bé nhỏ là đức tính, mà Đức Mẹ Maria đã sống trọn đời trong thái độ Xin Vâng
11. “Xin Vâng”, đó là lời Đức Mẹ nói với tôi trong suốt cuộc đời Giám mục 45 năm qua.
Xin vâng theo thánh ý Chúa. Xin vâng cả những người mà tôi phục vụ.
12. Xin vâng những người, mà tôi phục vụ là lẵng nghe họ, là thương cảm với hoàn cảnh của họ, là không áp đặt quyết định của tôi, là phục vụ họ như mình là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan.
13. Là con của Đức Mẹ, tôi được Đức Mẹ khuyên dạy như vậy. Vâng lời Mẹ như thế không luôn dễ. Phải phấn đấu không ngừng nhờ Đức Mẹ.
14. Một cách phấn đấu, mà Mẹ dạy tôi thực hiện lúc này là hãy năng cầu nguyện bằng lần hạt chuỗi mân côi.
15. Lần chuỗi mân côi với kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng, kinh Sáng Danh là mầu nhiệm cứu độ, rút ra từ phúc âm.
16. Khi Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức và ở Fatima, Đức Mẹ đều mang tràng hạt mân côi, và đều khuyên cầu nguyện bằng kinh mân côi.
17. Lịch sử Hội Thánh cho thấy những lúc Hội Thánh và nhân loại gặp gian nan khốn khó, Hội Thánh đã kêu gọi các tín hữu cầu nguyện kinh mân côi
Là con của Đức Mẹ, chúng ta hãy thực hiện những gì Mẹ nhắn nhủ trên đây.
Lúc này là thời điểm hết sức quan trọng, nên coi thời diểm này là thời điểm chỉ sẽ được cứu nhờ Đức Mẹ Maria.
18. Đức Giáo Hoàng Benedictô XVI, trong buổi tiếp kiến chung các giáo đoàn, ngày 23/06/2010 đã dâng lên Đức Maria một kinh vắn, mà Ngài quả quyết là của thánh Tôma Aquinô: “Lạy Mẹ Maria rất dịu hiền, Mẹ của Thiên Chúa, con xin phó dâng cho trái tim đầy xót thương của Mẹ tất cả đời con. Xin Mẹ cho con lòng bác ái thật sự, để con có thể mến yêu Con rất thánh của Mẹ và chính Mẹ, trên hết mọi sự, và yêu tha nhân của con trong Chúa và vì Chúa.”
Giờ đây, tôi cũng dâng lên Mẹ kinh vắn đó, với tư cách là người con của Mẹ. Tôi là người con của Đức Mẹ Maria. Đó là danh hiệu thương mến nhất của tôi.
Rất nhiều lần, khi bước lên bàn thờ dâng lễ, tôi hân hoan coi mình là người được Hội Thánh thay Bùi-Tuần 1946
1. Rất nhiều lần, khi bước lên bàn thờ dâng lễ, tôi hân hoan coi mình là người được Hội Thánh thay quyền Chúa trao ban chức thánh để dâng thánh lễ.
2. Cũng rất nhiều lần, Đức Mẹ Maria lại âm thầm khuyên tôi hãy bắt chước Mẹ, coi mình là của lễ.
Hiểu ý Mẹ, tôi đã cùng với Mẹ, nói với Chúa rằng: “Này con đến, để xin được là của lễ”.
3. Chúa thương trả lời tôi. Chúa cho tôi cảm thấy thế nào là của lễ, mà Chúa muốn.
Với một cách nhẹ nhàng, mà mạnh mẽ, Chúa Giêsu đưa tôi vào cuộc thương khó của Chúa. Chúa dâng mình làm của lễ dâng trên thánh giá.
4. Của lễ đó đầy tình yêu, đầy hy sinh, đầy đau đớn. Của lễ đó là của lễ đền tạ, để cứu các linh hồn.
5. Vì tôi xin được là của lễ, nên Chúa chia sẻ cho tôi của lễ là chính Chúa trên thập giá.
Tôi cảm nhận được tình yêu của Chúa, đớn đau của Chúa. Tình yêu đó, đớn đau đó vượt xa mọi công thức.
6. Thánh lễ có những nghi thức, như những lời truyền phép, những cử chỉ giơ tay, nếu tôi chỉ bám vào những nghi thức đó, thì sẽ rất xa nội dung của lễ đền tạ, mà Chúa Giêsu đã dâng trên thánh giá.
7. Khi tôi cảm nhận được tình yêu và sự đau đớn của Chúa, lúc Chúa là của lễ đền tạ, tôi mới thực sự thấy mình ra khác. Tình yêu của của lễ là rất mạnh. Đau đớn của của lễ là rất sâu.
8. Từ đó, tôi mới hiểu cái giá phải trả để cứu các linh hồn. Để cứu các linh hồn, Chúa Giêsu đã là của lễ như thế đó.
9. Cũng từ đó, tôi mới hiểu Chúa muốn tôi là của lễ không chỉ trên thánh lễ bàn thờ, mà phải là của lễ mọi lúc, khắp nơi trong thánh lễ cuộc đời.
Ở bàn giấy, trên giường ngủ, tôi vẫn là của lễ. Nghĩa là vẫn có những đớn đau và tình yêu để dâng mình làm của lễ đền tạ cho mình và cho người khác.
10. Những ngày này, khi đồng bào khắp nơi đang phải sống trong hoàn cảnh nguy hiểm do dịch bệnh Corona mới, tôi tự nhiên nghĩ tới nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân đang tự nguyện xin được là của lễ, để cứu người khác.
11. Tôi tin cũng sẽ có nhiều của lễ, như cha Phanxicô Trương Bửu Diệp trước đây. Ngài dám chết thay cho đoàn chiên của ngài.
12. Tôi tin cũng sẽ có những của lễ như Đức Mẹ đứng bên Chúa Giêsu dâng mình làm của lễ xưa trên thánh giá.
13. Lúc này hơn lúc nào hết, tôi ít nghĩ tới mình phài làm gì, nhưng tôi đang nghĩ mình phải là gì? Mình phải là của lễ, như Chúa muốn. Xác định như thế sẽ giúp tôi biết tập trung vào đời sống nội tâm.
14. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nêu gương đó. Thánh nữ đã là của lễ trong tu viện, và như thế thánh nữ đã trở thành bổn mạng của các xứ truyền giáo.
15. Lịch sử Hội Thánh cho thấy, để cứu một tình hình nguy hiểm, Chúa đòi phải có những của lễ đền tạ. Thế mà nhiều khi, Hội Thánh địa phương lại cứ ồn ào với những nghi thức bên ngoài. Thành ra, tình hình đã thê thảm càng thêm thê thảm.
16. Để là của lễ đền tạ, Đức Mẹ khuyên tôi cũng hãy xin vâng, khi cảm thấy mình như không được Chúa an ủi, nhất là khi không nhận được sự an ủi của những người khác, thế mà vẫn một mực lo ủi an họ.
17. Được là của lễ đền tạ, đó là một vinh dự lớn. Rất nhiều người được ơn đó hơn tôi. Tôi xin Đức Mẹ thương giúp tôi, vì tôi là đứa con yếu đuối, mọn hèn.
18. Các của lễ đền tạ sẽ góp phần không nhỏ vào việc phát triển đức tin và cứu rỗi các linh hồn.
Với nhận định đó, tôi vui mừng nhận thấy tại Việt Nam hôm nay đang xuất hiện nhiều của lễ đền tạ được Chúa đào tạo.
19. Tôi nhấn mạnh “được Chúa đào tạo”. Bởi vì nếu không có Chúa đào tạo, thì vô số người tự xưng mình là của lễ đền tạ, sẽ chẳng có giá trị cứu rỗi, mà còn phá sự cứu rỗi nữa. Sẽ có những của lễ đền tạ giả.
20. Do vậy, chúng ta cần phải rất khiêm nhường, để được Chúa đào tạo nên của lễ thực sự đẹp ý Chúa. Xin hãy nhờ Đức Mẹ.
21. “Lạy Chúa, của lễ con dâng lên Chúa là tấm lòng tan nát, khiêm cung. Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê.” (Thánh Vịnh 51,19)
Từ nhỏ, tôi thường được bố tôi kể lại một kỷ niệm, mà bố tôi cho là hết sức quan trọng cho phần Bùi-Tuần 1947
1. Từ nhỏ, tôi thường được bố tôi kể lại một kỷ niệm, mà bố tôi cho là hết sức quan trọng cho phần rỗi. Thế này:
Ông nội, trước khi tắt thở, đã gọi các con lại bên giường, mà nói: “các con, khi gặp khó khăn, hãy đến với thánh Giuse. Thánh Giuse đã cứu phần rỗi chúng ta là những người nghèo khó”.
2. Lúc được vào giúp cha xứ và được vào chủng viện, tôi thường được nghe các cha khuyên, “Hãy đến với thánh Giuse, vì thánh Giuse có uy tín trước mặt Chúa. Ngài được Chúa chọn để nêu gương về đức tin và lòng mến trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.”
3. Khi được học cao hơn về kinh thánh và thần học, tu đức, tôi thấy câu “Hãy đến với Giuse”, đã có từ Cựu ước, khi vua Pharaon nói về một ông Giuse, khi ông này được vua đặt lên chức cao nhất trong triều đình.
4. Mà Giuse đó là ai?
Thưa Giuse đó là con ông Giacóp, bị anh em ruột do ghen tương đã bán cho bọn lái buôn đem về Ai Cập, để làm nô lệ.
5. Chúa đã thương giúp Giuse trải qua rất nhiều thử thách căm go, để có ngày trở thành quan thượng thư, cứu Ai Cập khỏi nạn đói. Ai đau khổ mà kêu cầu vua, thì vua phán: “Hãy đến với Giuse”
6. Sau này, chính những kẻ đã bán Giuse cũng đến với Giuse, để xin cho được cứu khỏi nạn đói.
Giuse đã đón họ, đã tha tội cho họ, đã giúp họ lập cư ở Ai Cập, để họ trở thành một dân tộc trù phú.
7. Tôi chắc chắn thánh Giuse rất biết chuyện ông Giuse, con ông Giacóp. Nhất là chắc chắn thánh Giuse rất tin vào Chúa, khi thấy ông Giuse đã được Chúa sắp xếp một cách lạ lùng, để từ một tên nô lệ trở thành người cứu Ai Cập và cứu dân Do Thái.
8. Có thể nói thánh Giuse có bổn mạng là ông Giuse con ông Giacóp, để ngài biết tin mến Chúa một cách mạnh mẽ, kiên trì và thanh thản.
9. Với những hiểu biết trên đây về thánh Giuse, tôi đã chọn cho tôi câu “Hãy đến với thánh Giuse” như một đặc điểm của người môn đệ thánh Giuse.
10. “Hãy đến với thánh Giuse”, để tôi biết cách bảo vệ Hội Thánh của Chúa Giêsu và Đức Mẹ, nhất là trong những hoàn cảnh khó khăn.
11. “Hãy đến với thánh Giuse”, để tôi biết giữ được niềm hy vọng, nhất là khi tôi gặp phải muôn vàn trắc trở đến từ mọi phía.
12. “Hãy đến với thánh Giuse”, để tôi giữ cho những thao thức của tôi luôn được tập trung vào Chúa, không phải chỉ trong ý thức, mà cũng ở trong tiềm thức và vô thức.
13. “Hãy đến với thánh Giuse”, đó là lời tôi nói với Chúa và Đức Mẹ, để cảm tạ, khi nhìn về hành trình cuộc đời của tôi đầy những yếu đuối.
14. “Hãy đến với thánh Giuse”, đó là lời tôi gửi lại cho các người thân của tôi, như một lời trối.
Đến với Thánh Giuse, đó là đến với Đức Mẹ, đến với Chúa Giêsu, đến với Chúa Thánh Thần, Chúa Cha là tình yêu lòng thương xót.
15. “Hãy đến với thánh Giuse”, để được ơn chết lành, đó là điều tôi tin chắc chắn. Chết lành là chết cho sự sống đời này, để linh hồn bước vào sự sống đời đời ở cõi sau, trong đó Chúa sẽ cho linh hồn được ở bên Chúa, luôn hạnh phúc mãi mãi vô cùng.
16. “Hãy đến với thánh Giuse”, đó là con đường dẫn đến hiệp nhất trong giáo phận và trong Hội Thánh Việt Nam hôm nay.
17. Xưa, thánh Giuse đã bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu một cách khôn ngoan, dựa vào lời của thiên thần truyền trong giấc ngủ, ngài ngủ mà vẫn cầu nguyện, ngài khiêm tốn vâng lời, không kích động, không kết án. Chỉ tin cậy và yêu thương, trong âm thầm, lặng lẽ.
18.
Riêng tôi, khi đến với thánh Giuse, đôi lúc tôi nghĩ đến Đức Bênêđictô XVI, ngài có tên thánh Giuse: Josef Ratzinger
Đức Josef Ratzinger đã bảo vệ Hội Thánh của Chúa Giêsu và Đức Mẹ bằng nhiều cách, cách sau cùng là bằng sự từ nhiệm của ngài. Ngài từ nhiệm một cách rất khiêm nhường. Phải chăng đó cũng chính là cách dấn thân. hợp với tinh thần của thánh Giuse. Thánh Giuse đã qua đời lúc nào, ở đâu, thế nào. Phúc âm không nói tới. Ngài ra đi lặng lẽ.
Hôm nay, nếu đến với thánh Giuse, mà được ngài cho thấy sự ra đi lặng lẽ của ngài là một ơn Chúa ban, thì tôi xin được theo ngài ra đi như vậy.
19. “Hãy đến với thánh Giuse”. Đó là việc thường ngày tôi làm. Và thường ngày, thánh Giuse cho tôi thầy ngài là:
+ Con người cần cù trong lao động. + Con người ân cần trong phục vụ. + Con người yêu thương và công chính trong mọi liên đới. + Con người cầu nguyện và tỉnh thức đối với Chúa.
Như vậy, thánh Giuse đã đem lại hạnh phúc cho gia đình và cho thôn xóm.
20. Hội thánh tại Việt Nam hôm nay đang bị đặt trước nhiều thách thức nghiêm trọng. Chúng ta hãy đến với thánh Giuse. Ngài có nhiều thế giá với Thiên Chúa. Xin ngài thương cứu chúng ta. Chúng ta rất cần cộng tác với ngài.
Tình hình hiện nay chuyển biến từng giờ. Khí hậu biến đổi. Bệnh dịch bùng phát, tệ nạn phát sinh Bùi-Tuần 1948
1. Tình hình hiện nay chuyển biến từng giờ. Khí hậu biến đổi. Bệnh dịch bùng phát, tệ nạn phát sinh, lòng người thay đổi. Bất an, bất ổn.
Sống trong tình hình đó, tôi không thể không lo lắng. Một thứ lo lắng, mà Chúa dạy tôi phải để ý rất nhiều, đó là sám hối.
2. Hãy sám hối tội lỗi của mình, của những người thân, của gia đình, của cộng đoàn, của cả Hội Thánh, của cả nhân loại.
3. Điều, mà Chúa dạy tôi phải coi như một thứ tội, cần sám hối, đó là thiếu mến Chúa Giêsu. Bởi vì mến Chúa Giêsu, gắn bó với Người, đó là điều quan trọng nhất Chúa đòi hỏi nơi những người Chúa trao nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên của Chúa.
4. Xưa, trước khi về trời, Chúa Giêsu đã hiện ra với các tông đồ trên bờ biển hồ Tibêria. Một lúc bất ngờ Chúa Gêsu đã hỏi thánh Phêrô:
“Này, Simon, con ông Gioan, con có mến Thầy hơn các anh em này không ?”
Simon Phêrô đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Đức Gêsu nói: “ Hãy chăm sóc chiên của Thầy.”
Chúa Giêsu lại hỏi: “Simon Phêrô, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không ?”
Simon Phêrô đáp: “ Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Chúa Giêsu nói: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy.”
Chúa Giêsu lại hỏi lần thứ ba: “Này, Simon Phêrô, con có yêu mến Thầy không ?”
Phêrô buồn vì Chúa hỏi ba lần một câu như vậy. Ông đáp: “Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến thầy.”
Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy”. (Ga 21, 14 – 18)
5. Suy gẫm đoạn Phúc âm trên đây, tôi nhận ra điều Chúa Giêsu muốn nói hơn hết nơi tôi và nơi các người mục tử là hãy yêu mến và gắn bó với Chúa Giêsu một cách tuyệt đối.
6. Nhận ra điều đó, tôi mới hiểu tại sao các thánh tông đồ Phêrô, Gioan, Phaolô đều đã nhấn mạnh đến việc yêu mến và gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu là điều căn bản cốt yếu nơi người môn đệ Chúa.
7. Thế mà, nhiều khi tôi đã quên điều căn bản cốt yếu đó. Khi chính bản thân mình coi thường điều căn bản cốt yếu đó, thì có thể tôi đã rơi vào lỗi lầm này tới lầm lỗi kia.
8. Rồi khi coi thường điều căn bản cốt yếu đó trong việc đào tạo và tuyển chọn những người được Hội Thánh trao ban sứ vụ, tôi sẽ làm cớ cho họ sống sai ơn gọi.
9. Yêu mến Chúa Giêsu, gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu, đó là điều tôi cần đặt ra cho tôi, như thể Chúa Giêsu đã đặt ra cho thánh Phêrô xưa.
10. Được như vậy sẽ là một ơn trọng đại Chúa ban. Điều quan trọng cần đặt ra ở đây là chính chúng ta có đón nhận ơn sám hối như vừa trình bày không.
11. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về ơn Chúa ban mà bị từ chối hoặc bị coi thường.
“Kìa, người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả.”(Mt 13, 4-8)
12. Tôi nghĩ, Chúa cũng đã và đang gieo những hạt giống sám hối. Nhưng nhiều hạt đã bị lòng người từ chối, vì là sỏi đá, vì là bụi gai, vì là vệ đường.
13. Chỉ có những tấm lòng tốt mới đón nhận, Lòng tốt là những kẻ khiêm nhường.
Khiêm nhường thì mới đón nhận được ơn sám hối.
14. Khiêm nhường thì phải cầu nguyện, nhìn mình có tội, cần được Chúa thứ tha. Chứ hễ nói đến sám hối là cứ đổ lỗi cho kẻ khác, còn mình thì vô tội. Đó không thể nào là sám hối được.
15. Khiêm nhường thì phải đặt nặng cầu nguyện, xin ơn Chúa giúp. Chứ hễ nói đến sám hối là cứ tưởng phải nói cho nhiều, múa máy cho mạnh, hăm dọa cho khéo, coi sám hối là công của mình, như thế là sai.
16. Hôm nay, tôi tha thiết nói với Chúa: Lạy Chúa, xin xót thương con. Vì con đến, để xin ơn sám hối.
Bởi vì, tôi nhận thấy, sám hối là cực kỳ quan trọng, nhưng sám hối cũng là việc không dễ chút nào.
17. Xin Đức Mẹ Maria và thánh Giuse thương giúp chúng ta đón nhận ơn sám hối.
18. Tình hình đang như bị satan trói vào xiềng xích chối từ sám hối. Biết như vậy chúng ta càng cần xin đón nhận ơn sám hối.
19. Sám hối, mà Chúa muốn, là hãy đổi mới tấm lòng, đổi mới cái tâm. Đó là điều mà thánh Phaolô đã quả quyết trong bài ca Đức Mến:
“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng.”
“Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.”
“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.”
(1Cr13, 1-3)
20. Xin ơn sám hối, như vừa trình bày đó là lời cầu cấp bách lúc này, để được cứu cho khỏi những khốn khó ở đời này và nhất là khỏi những cực khổ ở đời sau.
21. Hãy xin ơn sám hối mỗi ngày, nhất là ban tối trước khi ngủ. Xin ơn sám hối, chúng ta sẽ được bình an. Bởi vì đó là điều đẹp thánh ý Chúa hơn hết. Sám hối là yếu tố rất cần để mình nên tốt hơn.
VÌ CON ĐÃ NHẬN ĐƯỢC NHỮNG TÍN HIỆU TÌNH THƯƠNG CHÚA GỌI CON
+ GB. Bùi Tuần
Những ngày nay, tôi sống trong hoang mang, sợ hãi. Rất nhiều khủng hoảng bùng phát trong tôi Bùi-Tuần 1949
1. Những ngày nay, tôi sống trong hoang mang, sợ hãi. Rất nhiều khủng hoảng bùng phát trong tôi. Khủng hoảng lớn nhất là khủng hoảng niềm tin.
2. Tôi cũng thấy mình như bị cách ly. Nhiều người tỏ vẻ xa tránh tôi. Nhiều người cho tôi một lời hứa, nhưng chỉ để tôi đợi chờ mòn mỏi, chứ giúp đỡ thì vẫn cách ly thê thảm.
3. Chính trong tình hình bi đát đó, tôi đã nhận được vài tín hiệu của tình thương Chúa, tín hiệu âm thầm nhưng mạnh như sóng ngầm cuồn cuộn nổi lên từ sâu thẳm tâm hồn.
4. Qua những tín hiệu đó, tôi hiểu Chúa vẫn thương tôi, Chúa vẫn gọi tôi, Chúa vẫn tìm tôi.
Tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán xưa: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần của lễ”. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi. (Mt 9, 12-13)
5. Đúng là tôi đang đau ốm. Tôi đang chìm trong tội lỗi, nên tôi được Chúa quan tâm.
Chính Chúa đã tìm tôi. Tôi không hiểu nổi. Đó là điều bí nhiệm của Chúa. Tôi xin Chúa ban cho tôi biết tin vào tình thương của Chúa.
Tôi xin Chúa ban cho tôi khám phá thấy điều Chúa gọi tôi.
6. Chúa gọi tôi. Cũng là Chúa mở lòng tôi ra, để tôi trở về với Chúa. Trở về với Chúa, là điều tôi rất ý thức, khi nghĩ đến ơn Chúa gọi tôi.
7. Trở về với Chúa, đó là ơn Chúa ban cho tôi, khi Chúa trao cho tôi trách nhiệm mục tử. Để bất cứ lúc nào, cho dù lúc yếu đuối nhất, tăm tối nhất, tôi vẫn tin chắc chắn là hãy trở về, bởi vì Chúa vẫn đợi tôi, vẫn tìm tôi.
8. Do vậy tôi không ngại xưng mình là kẻ yếu đuối, là kẻ tội lỗi. Hằng ngày tôi công khai nói lên điều đó khi đọc kinh cáo mình, tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều.
9. Tôi là kẻ rất yếu đuối, rất tội lỗi, đó là một sự thực.
10. Một sự thực nữa cần nói ra, đó là tôi là kẻ rất yếu đuối rất tội lỗi, thế mà đã được Chúa yêu thương. Nên tôi hết sức tin vào Chúa.
11.
Nhìn nhận những sự thực đó là cách tôi thờ phượng Chúa và đó cũng là cách tôi phục vụ cộng đoàn. Cộng đoàn mà tôi phục vụ là rất cụ thể, đó là giáo phận của tôi, giáo xứ của tôi, gia đình của tôi dưới nhiều hình thức.
12. Hằng ngày, tôi cùng với cộng đoàn thực hiện lời khuyên sau này của thánh Phaolô:
“Anh em đừng có rập theo thói đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tinh thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: Cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” (Rm 12,2)
13. Khi sống theo lời khuyên trên đây, cùng với kinh nghiệm về ơn gọi Chúa ban cho tôi như đã chia sẽ trên đây, tôi thấy những người được Chúa gọi cần phải cầu nguyện rất nhiều, để biết nhận ra đâu là thánh ý Chúa.
Nhận ra đâu là thánh ý Chúa, đó là điều rất cần, và cũng là điều không dễ chút nào.
14. Càng ngày tôi càng nhận ra điều này: Thánh ý Chúa rất khác ý riêng của chúng ta.
Điều chắc chắn nhất về thánh ý Chúa là: Chúng ta hãy sẵn sáng, khi Chúa gọi chúng ta về cõi sau. Ta sẽ chết lúc nào, ở đâu, cách nào, chỉ Chúa biết.
15. Nếu giây phút đó, chúng ta đang trong tình trạng trở về với Chúa, bằng tấm lòng khiêm nhường nhận mình tội lỗi, hết lòng cậy tin vào tình yêu cứu độ và lòng thương xót của Chúa, thì Chúa sẽ là hạnh phúc của chúng ta.
16. Để kết, tôi chỉ mong điều này: Anh chị em và tôi, chúng ta hãy nhận những tín hiệu tình thương Chúa gửi tới chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây, để chúng ta biết luôn sẵn sàng khi Chúa gọi. Những tín hiệu đó có thể được gửi qua những tấm lòng thầm lặng xung quanh chúng ta.
17. Riêng đối với tôi, một bài ca quen thuộc, được tôi coi như một tín hiệu tốt, đó là bài Thánh Ý Ngài.
Thánh ý Ngài là gia nghiệp đời con, là tình yêu cho con ủ ấm, là ước mơ cho con đi tìm, là niềm tin cho con luôn vững lòng chờ mong.
Xin dạy con đường nẻo Ngài, xin dìu con từng bước đi, qua ngàn gian khổ có Chúa bên con sợ chi. Vì tình thương Chúa luôn đổ tràn, dẫu muôn ngàn điều gian nan thì đời con vui bước trong bình an giữa những bao lầm than.
18. Một tín hiệu nữa, mà tôi thường dựa vào, để trở về với Chúa, đó là thánh vịnh 50.
“Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà xót thương con. Mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, Tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.”
19. Một tín hiệu nữa, mà tôi cũng thường dựa vào, để trở về với Chúa, đó là cộng đoàn giáo phận. Trong giáo phận, tôi nhận được nhiều dấu chỉ của mầu nhiệm phục sinh, của tình thương bao la mạnh hơn sự chết, của những cái chết như những của lễ. Xin hết lòng cảm tạ Chúa vì những tín hiệu.
Hiện giờ, hơn bao giờ hết, tôi đang được cảnh báo là phải chống lại những kẻ thù vô hình, tức Bùi-Tuần 1950
1. Hiện giờ, hơn bao giờ hết, tôi đang được cảnh báo là phải chống lại những kẻ thù vô hình, tức con virút Corona, nó vô hình, nhưng tàn phá rất mạnh.
2. Cùng với cảnh báo đó, tôi lại được một cảnh báo khác, đó là phải chống lại kẻ thù vô hình khác có sức tàn phá rất mạnh, đó là Satan.
3. Cảnh báo phải chống lại Satan đã được thánh Phêrô gửi cho Hội Thánh sơ khai với hình ảnh ghê rợn sau đây:
“ Satan, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Cr 5,8)
4. Nay, cảnh báo về Satan đang được nhắc lại cho tôi do các bề trên trong Hội Thánh cùng với một số phong trào đạo đức đó đây.
5. Theo cảnh báo đó, tôi xác tín Satan là một thực tại có thực. Nó chuyên nghề làm hại con người với những cách khủng khiếp.
6. Phúc âm cho thấy: Một trong những cách khủng khiếp của nó là nó xâm nhập vào con người.
Thánh Phêrô xưa đã trách ông Kha-na-ni-a bằng lời sau đây: “Tại sao anh lại để Satan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh Thần” (Cv 5,3)
7. Xâm chiếm tâm hồn con người, để họ sống lừa dối, đó là việc mà Satan xưa đã làm, thì nay nó cũng đang làm. Phải biết sợ điều tai hại đó.
8. Tôi sợ, xin Chúa thương cứu tôi. Chúa cứu tôi bằng việc cho tôi nhớ lại lời khuyên của thánh Phêrô:
“Hãy sống tiết độ và tỉnh thức. Hãy vững vàng trong đức tin. Hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau. Hãy sẵn sàng chịu đau khổ ít lâu.”(1Cr 5,5-11)
9. Tôi đón nhận những lời khuyên trên đây của thánh Phêrô, với tâm tình cảm tạ. Nhưng khi tôi quyết tâm thực hiện những lời khuyên đó, tôi mới thấy là khó quá, vì tôi yếu đuối.
10. Trong tình trạng đó, tôi được Chúa thương giải cứu bằng cách đưa tôi tới Đức Mẹ Maria. Đức Mẹ đã thương giải cứu tôi.
11. Bằng nhiều cách, Đức Mẹ dạy tôi hãy ưu tiên đón nhận Chúa Giêsu vào lòng mình, hãy thuộc về Người, hãy ở lại trong Người, hãy sống mật thiết với Người.
12. Rồi, tôi hãy cùng với Chúa Giêsu ra đi đem tình thương cứu độ của Chúa đến mọi kẻ khổ đau khiêm tốn kêu cầu Chúa.
Tôi đang làm như vậy.
13. Khi làm như vậy, tôi mới thấy tôi được Chúa cảm thương, để rồi tôi cũng biết cảm thương kẻ khác như Chúa thương tôi.
Cảm thương một cách cụ thể, một cách quảng đại, một cách tế nhị, một cách kiên trì, đó là nét đạo đức có sức thắng Satan.
14. Một cách rất hữu hiệu để thắng Satan, theo Đức Mẹ dạy, là không bao giờ để Satan xâm nhập vào lòng mình, nhưng hãy để lòng mình được ngự trị bởi Chúa Giêsu. Nếu lòng tôi luôn có Chúa Giêsu. Ngài ở trong tôi, tôi ở trong Ngài. Ở trong một cách thân mật, và tất cả đều ở trong Chúa Cha, thì Satan không còn chỗ nào trong tôi.
“Lạy Cha, như Cha ở trong con, và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta”(Ga 17, 21) thì Satan phải thua một cách dứt khoát.
15. Ai giữ được như vậy sẽ lan tỏa ra một bầu khí đạo đức lạ lùng, có sức lôi cuốn những người đi tìm chân lý.
Tôi có kinh nghiệm đó, khi được tiếp xúc với một số người đạo đức, thí dụ Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận.
16. Ngay lúc này, tôi rất sung sướng được tiếp xúc với nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân và những tấm lòng đạo đức. Họ có Chúa trong họ. Chúa trong họ là Đức Kitô, Đấng cứu độ giàu lòng thương xót. Họ chia sẻ niềm vui đó cho nhiều người xung quanh, nên tôi coi họ là những quán trọ tình thương. Chính tôi cũng nhiều lần ghé lại đó, để trọ và tìm được tình thương cứu độ.
17. Khi ghé vào những quán trọ đó, tôi đã cảm nhận được rất rõ bầu khí cầu nguyện và tỉnh thức của những người trong đó.
Họ cầu nguyện không ngừng. Họ tình thức ngày đêm, để nghe tiếng Chúa soi đường chỉ lối, nhất là về sám hối, sửa mình và vâng phục thánh ý Chúa. Nhờ vậy, họ trở thành dụng cụ bình an của Chúa.
18. Họ rất khác những người để mình thành dụng cụ của Satan. Loại này hiện nay đang xuất hiện dưới nhiều hình thức, như những ổ dịch nguy hiểm. Họ như bị quỷ nhập. Họ như thích thú được quỷ nhập, thực là khủng khiếp.
19. Xin Chúa thương cứu họ, Nhưng xem ra họ vẫn một mực từ chối ơn cừu độ của Chúa. Do vậy, cuộc chiến giữa Chúa và Satan đang trở thành nguy kịch. Vì thế, chúng ta dứt khoát hãy thuộc về Chúa Giêsu. Nếu không, hậu quả sẽ bi đát khôn lường