Nói với chính mình là những suy tư theo nhãn quan Tin Mừng và những “chuyện đạo, chuyện đời": Từ những chuyện thiết thân như tình yêu, hôn nhân, gia đình... đến những “chuyện đời thường” như tiền bạc, tham nhũng, xử thế; Từ những chuyện rộng lớn như giáo dục, hòa bình, tha nhân... đến những chuyện rất riêng của người có đạo: Thiên Chúa, Hội Thánh, cầu nguyện... Nói với chính mình là một chia sẻ và là một lời mời gọi với một ước mong là mỗi người có thêm “chất người” theo ý định tạo dựng ban đầu. Hy vọng là tâm nguyện của tác giả sẽ được bạn đọc - nhất là giới trẻ - đón nhận và nhân rộng thêm. TỦ SÁCH ĐẠI KẾT
Tôi ưa nói với tôi. Nói lặng lẽ trong lòng và ghi lại âm thầm trên giấy. Mặc dầu những lời đó có lần đã in trên báo chí, nó vẫn chỉ là những mảnh độc thoại riêng tư của tôi với chính mình. Tuy nhiên, nhiều người đã nhận ra trong đó một bạn đồng hành. Họ đã yêu cầu cho góp những mảnh đó lại thành tập. Tôi xin tận tình cám ơn. Thế là nhiều suy tư đã được chia sẻ. Cuộc hành trình nội tâm đã có nhiều gặp gỡ. Đây là những bước đi nhỏ, xa mà vẫn gần nhau. Hy vọng sẽ cùng tìm được đường đi lên Chúa. G.B. BÙI TUẦN
Tôi thích chó. Lý do là vì chó rất biết ơn. Biết ơn của chó khác biết ơn của người, nhưng không thiếu vẻ đẹp. Chỉ cho chó một miếng xương, nó cũng tỏ ra biết ơn. Nó nhìn trìu mến, ngoe nguẩy đuôi, quấn quít người cho. Càng được cho, nó càng biết ơn. Nó tự động bảo vệ chủ, nhà cửa và đồ đạc của chủ. Nhiều người không biết ơn bằng chó. Mười người cùi được Chúa chữa khỏi nhưng chỉ có một người quay lại cám ơn. Tỷ lệ một phần mười! Mà người đó lại là người ngoại. Cả ngàn người đã được Chúa thi ân, nhưng khi Chúa phải vác thánh giá, chỉ có một người bằng lòng vác đỡ. Người đó cũng lại là người ngoại! Cả một dân tộc đã chịu ơn Chúa, nhưng khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá, chỉ có một người dám công khai lên tiếng xưng tụng Chúa là người vô tội. Người đó lại là người ăn trộm! Đời là thế! Kẻ muốn được ơn thì quá nhiều, kẻ biết ơn thì quá ít. Đếm người biết ơn dễ hơn đếm người vô ơn, vì số này quá lớn. Có những con cháu vô ơn, có những học trò vô ơn, có đủ thứ người vô ơn. Làm ơn có thể không đòi trả nghĩa. Nhưng đã chịu ơn là phải biết ơn. Cho đi có thể không mong nhận lại. Nhưng đã nhận là có bổn phận phải trả đáp. Trả đáp trong biết ơn không có nghĩa một sự bồi hoàn đổi chác, nhưng là một sự tỏ bày điều mình nhận biết về giá trị vật chất và tinh thần của ơn nhận được. Thí dụ: Có người cho tôi một chiếc áo ấm. Chiếc áo giá 10.000 đồng. Mười ngàn là giá trị vật chất. Nhưng không phải chỉ có thế. Chiếc áo đó biểu hiện một tình thương, và mang ý nghĩa của một sự cho đi phần nào chính mình người tặng, nên tặng vật đã trở thành một giá trị tinh thần. Chiếc áo đó, người tặng đã có thể cho người khác, nhưng họ đã tặng tôi, như một sự lựa chọn tự do trong trăm ngàn. Sự lựa chọn đó lại là một giá trị thiêng liêng cao quý khác đắp thêm vào hai giá trị có sẵn. Nhận thức ba giá trị đó, để rồi mình liên hệ với người làm ơn. Liên hệ đó sinh ra bổn phận nơi người chịu ơn. Bổn phận nơi người chịu ơn lại sinh ra quyền lợi nơi người làm ơn. Kẻ chịu ơn có bổn phận phải biết ơn. Người làm ơn có quyền được biết ơn. Bổn phận biết ơn phải tương xứng với các giá trị của ơn nhận được. Nếu chẳng thực hiện được tương xứng, thì ít ra cũng có một mức tối thiểu nào. Hoặc một lời cám ơn, hoặc một cử chỉ chứng tỏ mình hiểu biết. Làm thế không phải vì người làm ơn cần, nhưng vì chính người chịu ơn cần. Cần biết ơn để mình xứng đáng là người hơn, để mình xứng đáng phần nào với ơn nhận được, để mình xứng đáng có thể được lãnh nhận thêm. Nếu tôi tưởng mình không chịu ơn ai, thì tôi lầm lớn. Vì đời tôi nằm trong những liên đới chập chùng. Tôi chẳng cho đi được bao nhiêu nhưng đã nhận được quá nhiều. Thử một ngày ngưng nhận được các giấy liên lạc nâng đỡ, cộng tác yêu thương, giúp đỡ cung cấp, tôi sẽ lập tức trở thành bơ vơ, nghèo nàn khốn đốn. Nếu tôi tưởng tôi không mắc nợ ai, thì tôi lầm lớn. Con người tôi, từ vật chất đến tinh thần, đã, đang và sẽ được xây dựng bằng biết bao công ơn của người khác. Suốt dọc đời, tôi đều ghi dấu của biết bao nhiêu bóng người đã ghé lại. Nếu tôi tưởng tôi đã trả ơn đối với người làm ơn cho tôi, thì tôi lầm lớn. Tiền bạc, đồ vật có thể trả, nhưng ân nghĩa và tình thương làm sao trả đúng được. Những mồ hôi nước mắt và những tận tâm của bao người đã làm cho đời tôi đẹp là những gì thiêng liêng cao quý. Chưa chắc tôi đã hiểu rõ được giá trị của những ơn đó, chứ đừng nói gì đến việc trả đền cho đúng. Lạy Chúa, xin cho con một tâm hồn biết ơn. Xin xuống phúc lành cho tất cả những ai đã làm ơn cho con
Không dịp nào tôi nghĩ tới người khác cho bằng dịp Tết. Tôi dọn dẹp trang trí nhà cửa, để làm vui lòng người khác hơn là cho tôi. Tôi ăn mặc gọn gàng sạch sẽ để kính trọng người khác, chứ không phải để khoe tôi. Tôi sắm đồ ăn thức uống để đãi người khác hơn là để tôi dùng. Tôi đi thăm, viết thư, gởi thiệp, tặng quà, để mừng chúc người khác, chứ đâu phải để nhắc họ nhớ tới tôi. Đúng thực, ngày Tết là ngày nghĩ tới người khác. Người khác là ai? Tất nhiên là những người tôi có liên hệ. Hoặc do tình cốt nhục, hoặc do ân nghĩa, hoặc do quen thuộc, hoặc do những bổn phận khác của công bằng, bác ái. Tôi biết họ. Và cũng có thể tôi không biết họ. Dây liên lạc nối kết họ và tôi trở thành một nhịp cầu. Dù hai chiều dù một chiều, nhịp cầu ấy đã đưa tôi sang đời họ và đưa họ qua đời tôi. Họ là những người đã có phần xây dựng đời tôi. Họ là những người đã dành cho tôi cái hân hạnh cao quý được tham gia vào đời họ. Họ là những ai đang chờ đợi trong cảnh cô đơn túng nghèo. Nghèo của, nghèo tình, nghèo bạn, nghèo sức khỏe, nghèo khả năng, nghèo ơn nghĩa Chúa. Họ là những ai không có mùa xuân, không có tiếng nói, không có chỗ đứng trong cộng đồng xã hội. Tóm lại người khác “của tôi” đây là những ai tôi đã chọn hoặc Chúa đã chọn cho tôi. Tất cả đều là anh em tôi. Tôi yêu thương họ. Chính vì thế mà tôi nghĩ tới họ. Tôi nghĩ tới họ thường lắm. Nhưng dịp tết, tôi nghĩ tới họ cách đặc biệt hơn. Nghĩ tới họ cách đặc biệt trong dịp Tết là nghĩ tới cách làm cho họ được hạnh phúc. Vì hạnh phúc là khát vọng lớn nhất của họ. Và hạnh phúc của họ cũng là điều chúc nguyện tha thiết nhất của tôi. Làm cách nào để họ luôn khỏe mạnh, để họ khỏi nghèo, để họ đạo đức, để họ an vui? Tôi tìm hoài, nhưng không thấy. Tìm nơi tôi, thì thấy chính tôi cũng nghèo, cũng khổ, cũng yếu đuối. Những cách chắc chắn có thể làm cho họ được hạnh phúc đều quá tầm tay của tôi. Tìm nơi người khác, thì thấy chẳng ai đủ quyền năng và đủ tình thương để thực hiện nổi tất cả những nguyện vọng chính đáng. Chờ mong ở tình cờ may rủi sao? Nhưng tình cờ đâu có bảo đảm được gì. Nếu tình cờ có thể đem lại được may mắn thì vấn đề hạnh phúc con người đã được giải quyết từ lâu, khỏi tốn công tính toán và nỗ lực. Nhìn chung quanh, tôi không thấy cách nào gọi được là chắc chắn. Do đó, tôi mới nhận ra rằng, muốn xây dựng hạnh phúc cho bất cứ ai, tôi cần phải liên lạc thẳng với Đấng chính là hạnh phúc. Đấng ấy là Thiên Chúa. Ngài là “đường đi, là sự thực và là sự sống”. Ngài là đường chắc chắn đưa tới hạnh phúc chân chính, vì Ngài là tình yêu quyền phép vô biên. Ngài là sự thực soi dẫn đâu là hạnh phúc chân chính, vì Ngài là thước đo mọi chân lý. Ngài là nguồn sống chứa đựng hạnh phúc toàn diện, vì Ngài sáng tạo mọi loài. Ngài vô hình, nhưng ở bên tôi. Tôi liên lạc với Ngài bằng lòng trí, bằng tâm tình, bằng lời nguyện. Tôi tin ở Ngài. Tôi đặt hy vọng nơi Ngài. Như thế, mọi lời chúc tết của tôi sẽ đều kèm theo lời cầu nguyện. Nghĩ tới ai, là sẽ nghĩ tới Chúa. Để gởi gấm họ, để cầu xin cho họ. Hy vọng nhờ đó lời chúc Tết của tôi sẽ rất chân thành và hữu hiệu. Lạy Chúa, con tin Chúa yêu con. “Chúa là hạnh phúc của con. Chúa ơi, Chúa là hoan lạc đời con”. Con xin Chúa ban phép lành cho tất cả những người mà con có liên hệ gần xa. Xin cho họ gặp được Chúa là chính hạnh phúc tràn đầy và trường cửu đời đời.
Thánh Giuse là người đồng trinh, nhưng đã không ở một mình. Ngài đã sống chung với trinh nữ Maria và Chúa Giêsu. Ngài sống trong gia đình và làm chủ một gia đình. Chúa Giêsu xưa cũng không ở một mình, Ngài đã xuống thế trong khung cảnh một gia đình. Suốt 30 năm, Ngài đã sống trong gia đình với mẹ ruột và cha nuôi. Trong ba năm truyền giáo, Ngài cũng đã sống chung với gia đình thiêng liêng gồm các môn đệ của Ngài. Chính Thiên Chúa cũng không ở một mình. Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã ở chung. Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã là một thứ gia đình có Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Các Đấng cực thánh đó đã chọn đời sống gia đình, đó là dấu đời sống gia đình rất tốt. Tại sao? Phải chăng gia đình là tổ ấm tình yêu? Tình yêu không phải là một xa xỉ phẩm. Nó là một thứ tối cần để nâng đỡ và xây dựng cuộc sống. Một đứa trẻ mồ côi trong cô nhi viện, cho dù được nuôi dưỡng đàng hoàng, vẫn là một đứa trẻ bơ vơ. Một cụ già không con cháu trong viện dưỡng lão, cho dù được ăn no mặc ấm vẫn cảm thấy băng giá tâm hồn. Sống đầy đủ mọi sự, nhưng thiếu tình thương, vẫn là sống khổ. Tình yêu làm nên hạnh phúc. Chính Thiên Chúa là Đấng hạnh phúc vô cùng, cũng có tên gọi là Tình Yêu. Đi tìm và đón nhận tình yêu không phải là việc không quan trọng. Nhưng trước khi tìm tình yêu ở nơi khác, hãy tìm và hun đúc tình yêu nơi chính gia đình. Tình yêu gia đình là tình yêu tự nhiên nhất, sớm sủa nhất và lành mạnh nhất. Gia đình phải là một tổ ấm tình yêu, để rồi lại trở thành nền tảng cho mọi thứ tình yêu khác. Một người có tình thương nồng nàn đối với cha với mẹ của mình, khi họ nói với Chúa: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, hay khi họ nói với Đức Mẹ: “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành”, họ sẽ hiểu một cách sống động ý nghĩa sâu đậm của những danh xưng đó, bởi vì bản thân họ đã có kinh nghiệm sống động một cách tự nhiên về những tình yêu ấy. Con đường thánh thiện của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu dựa trên tình cha con đối với Chúa phải chăng đã mô phỏng mối tình của thánh nữ đối với chính cha ruột của mình. Một người cha một người mẹ đã quen thương yêu, chăm sóc, lo lắng, dành dụm cho con mình sẽ dễ hiểu sự quan phòng của Cha trên trời đối với chính họ. Bởi vì họ cũng đã là cha, là mẹ dầu trong một phạm vi nhỏ hẹp. Một người đã có kinh nghiệm về trách nhiệm và tình cảm của một người cha, người mẹ, người anh, người chị, người em vv... sẽ biết phải đối xử thế nào cho đúng nghĩa khi họ gọi một người nào bằng một trong những tiếng đó. Nhưng tình yêu nào mà lại chẳng có hy sinh. Tình yêu thiếu hy sinh là tình yêu giả. Hy sinh thiếu tình yêu là hy sinh thừa. Tình yêu trong tổ ấm gia đình không phải là một luật trừ. Cho dù gia đình gồm toàn những người rất thánh, cũng khó tránh được những chuyện làm buồn lòng nhau. Đức Mẹ có thai bởi phép Chúa Thánh Thần, nhưng đã không tỏ lộ chuyện đó với chồng, làm thánh Giuse đau khổ biết bao đêm ngày. Chúa Giêsu 12 tuổi đi lễ, rồi ở lại đền thờ mà không nói trước, làm cha mẹ đau xót đi tìm con mấy buổi. Trong Thánh gia còn có những chuyện làm buồn lòng nhau, phương chi các gia đình khác. Đó chỉ là chuyện hy sinh thông thường. Còn biết bao nhiêu hy sinh khác do những vất vả lo lắng, chịu đựng thường ngày gây nên. Điều quan trọng không phải là tránh được hết mọi chuyện không vui, nhưng là biết lợi dụng tất cả vui buồn để dắt nhau về cõi phúc. Nếu biết hiểu như thế, nhất là nếu biết thực hiện như thế thì gia đình sẽ vừa là tổ ấm tình yêu, vừa là nơi đặt nền cho mọi tình thương, và cũng vừa là lò luyện hy sinh. Lạy thánh Giuse là gia trưởng gương mẫu xin giúp con thấu hiểu giá trị cao quý của đời sống gia đình, nhất là xin giúp cho gia đình mà con đang sống, được luôn luôn là tổ ấm tình yêu, nơi rèn luyện tâm hồn hy sinh và chuẩn bị cho con tiến tới những tình yêu cần thiết khác.
Tôi còn trẻ, hay tôi đã già? Có thể cả hai. Có những người còn trẻ khi đã 60, nhưng lại có những kẻ đã già khi mới 20. Có những thanh niên đã đánh mất tuổi trẻ, và cũng có những người suốt đời chưa bao giờ có tuổi trẻ để mà đánh mất. Trẻ vì mặt tươi non. Trẻ vì sức hăng hái. Trẻ vì tuổi ít oi. Trẻ vì tính vô lo bồng bột... Đúng hết. Còn một đặc điểm khác để biết mình già hay trẻ, đó là mong ước. Tuổi trẻ là tuổi ước mơ. Những gì mơ ước đều chưa tới. Nên sống trẻ cũng là sống đợi chờ. Trẻ nhìn về tương lai, xây mộng đẹp cho cuộc đời chật hẹp. Nên sống trẻ cũng là sống trong hy vọng. Đừng coi mọi mong ước đều là vô ích. Thực tại quá nghèo. Chỉ có ước mơ là to lớn. Nhờ nó con người mới đi tìm được từ tiến bộ này sang tiến bộ khác. Mọi văn minh và mọi công trình đều thoát thai từ mộng ước của những trí khôn phong phú. Trăm năm về trước, Jules Verne đã kể một câu chuyện tưởng tượng lên cung trăng. Câu chuyện mơ mộng đó đã gợi ý cho việc thực hiện những chuyến đi hiện nay lên nguyệt cầu. Đinh Bộ Lĩnh lúc còn nhỏ đã nuôi dưỡng bằng những trò đánh trận cờ lau. Mộng nhỏ trở thành mộng lớn, và đời ông đã biến nên một cuộc thực hiện anh hùng cho giấc mộng vĩ đại của lịch sử đất nước. Thánh Têrêsa thành Lisieux đã có những mơ ước táo bạo. Chị ước mến Chúa như chưa hề có ai mến bằng. Chị mong đi giảng tình yêu Chúa cho mọi người khắp nơi, từ tạo thiên lập địa tới ngày tận thế. Chị mơ ước làm linh mục để giảng về lòng thương Đức Mẹ. Thế rồi chị chết hồi mới 24 tuổi. Chị không thực hiện được mọi mộng ước. Nhưng Chúa kể mọi mộng ước của chị như những thiện chí quảng đại. Chị đã nên thánh. Bao bậc vĩ nhân, bao người giàu sang cùng thời với chị cũng đã chết. Sự nghiệp của họ đã chết theo. Nhưng tinh thần Têrêsa còn sống mãi trong hàng triệu linh hồn. Có những mơ ước của một số người đã được hậu thế tiếp nhận hoan hỉ và truyền lại mãi mãi, vì nó đẹp và xứng đáng là những lý tưởng. Cái làm cho một ước mơ nên đẹp, không phải vì nó xây dựng hạnh phúc cho người mơ ước mà chính vì nó mưu tìm hạnh phúc cho kẻ khác. Cái đẹp của ước mơ không ở chỗ thu vào, mà là ở chỗ cho đi. Cho đi là mở sang kẻ khác. Lòng người cho đi trở nên rộng và cao hẳn lên, để dễ đón gặp Thiên Chúa. Chúa bao la và cao cả vô cùng. Chỉ những tâm hồn quảng đại cao thượng mới gặp được Ngài. Và gặp được Ngài là gặp được hạnh phúc. Ai nuôi những ước mơ ích kỷ, sẽ thắt buộc tâm hồn trở nên nhỏ bé, thấp hèn không sao đón nhận được Thiên Chúa. Tình cho đi là tình tăng lên. Tình vị tha là hướng đi của con người. Nếu bản tính con người là mơ tìm hạnh phúc vô biên, thì Chúa là hạnh phúc đó. Ngài ở cuối đường phục vụ tha nhân. Có cho đi mới tìm lại được là thế. Những gì thu vén cho mình sẽ mất đi, nhưng những gì cho đi sẽ còn mãi. Nếu tôi sống một cách ý nghĩa, thì mơ ước của tôi phải theo chiều hướng vị tha đó. Từ những ước mơ nhỏ, như làm nở được nụ cười, lau được một giọt lệ, cho đến những ước mơ lớn như được hao mòn và chết đi cho kẻ khác, tôi phải luôn luôn quên mình trong mọi lựa chọn, mọi tìm kiếm, mọi hành vi. Như thế có nghĩa là một ước mơ tốt không những có giá trị ở chỗ vị tha, mà còn ở chỗ cố gắng thực hiện. Nếu ước mơ để mà mơ ước, để rồi tin vào mơ ước, thì cuộc đời chỉ là một giấc ngủ dài. Phải coi mơ ước tốt như tiếng gọi đi đến thực hành. Điều quan trọng không phải là thành công, nhưng là cố gắng. Cố gắng làm việc, cố gắng hy sinh, cố gắng chấp nhận cả đến thất bại, để rồi vươn lên. Cố gắng là đừng bao giờ nói: “Tôi không thể được, tôi đã đủ rồi”. Nếu một mơ ước được thành sự thực một cách quá dễ, thì đâu là giá trị. Bước đi với chiếc gai đâm dưới bàn chân, và cứ thế dám bước hoài qua cả những chặng đường gập ghềnh sỏi đá, để tìm hạnh phúc cho người khác, đó là hình ảnh đáng kính của những giấc mơ đáng kính. Chúa Giêsu đã sống và chết cho kẻ khác. Mơ ước của Ngài từ thuở đời đời là thế. Ngài đã thực hiện. Và Ngài đã sống lại vinh quang trong một tuổi trẻ ngàn đời. Lạy Chúa, xin nuôi trong con những ước mơ vị tha hào hùng, xin kéo dài tuổi trẻ trong con bằng những ước mơ lành thánh. Xin hướng tuổi mơ về nẻo cao thượng, dấn thân và can đảm. Ôi lạy Chúa là Đấng làm vui sướng tuổi xuân con!
Tình yêu cũ như trái đất, nhưng vẫn mới như những mùa Xuân. Rất nhiều người nói tới. Rất nhiều người nghĩ tới. Rất nhiều người muốn tránh nó. Nhưng tránh nó là đã gặp nó. Mà tránh nó sao được, khi nó là một yếu tố cần thiết đi liền cuộc sống. Tình yêu đâu phải là một thứ xa xỉ phẩm. Nó làm nên đời sống, và ở trong cuộc sống. Nó là chuyện của mỗi người. Tuy nhiên, tôi rất ngại đề cập đến tình yêu. Tất nhiên phải có lý do để ngại. Hôm nay tôi muốn nói tới một số những lý do đó. Nói về tình yêu, mà lại chỉ đưa ra những lý do ngại nói về tình yêu, thì xem ra kỳ cục. Có thể là như thế. Nhưng chưa hẳn là thế. Bởi vì ý thức được những lý do khiến mình ngại, tức là đã thấy được thái độ nên có đối với tình yêu. Lý do ngại đầu tiên là vì tôi không chắc chúng ta có cùng hiểu tình yêu như nhau không. Bạn nói tình yêu, họ nói tình yêu, tôi nói tình yêu. Nhưng nếu mỗi người hiểu tình yêu mỗi cách, thì chỉ là sự gặp gỡ danh từ, chứ chưa có sự gặp gỡ tư tưởng. Sẽ không có khởi điểm chung. Sẽ không có vấn đề chung. Sẽ không có căn bản chung. Sẽ chỉ là một cuộc đối thoại hình thức của những độc thoại nội dung. Sẽ có những hiểu lầm và những lạm dụng. Ngay mấy câu tôi quả quyết trên kia: “Tình yêu không phải là một thứ xa xỉ phẩm. Nó là một yếu tố cần thiết đi liền cuộc sống” đã được bạn hiểu thế nào? Nếu bạn trích những câu đó để biện minh cho thứ tình dâm dật chẳng hạn, thì oan cho tôi rồi. Không gì dễ hiểu cho bằng tình yêu. Nhưng không gì khó định nghĩa cho bằng tình yêu. Dễ hiểu, bởi vì ai cũng có yêu không nhiều thì ít. Nhưng khó định nghĩa, bởi vì tình yêu rất phức tạp. Tình yêu nói chung đã chia thành 3 phía tâm lý, siêu hình và luân lý. Tình yêu lại có nhiều loại. Aristote đã chia 3, thánh Thomas chia 2, Max Scheler chia 5, C. Héris chia 8. Đó chỉ là một số tác giả tượng trưng. Người ta có thể không đồng ý về số loại tình yêu, nhưng người ta không thể cho rằng chỉ có một thứ tình yêu duy nhất. Không thế thì làm gì có vấn đề tốt xấu đặt ra trong tình yêu. Phân tích tình yêu trong lý thuyết đã là điều không dễ. Nhưng phân tích tình yêu trong chính cuộc sống lại càng khó hơn. Sự kiện đó đưa tới lý do thứ hai khiến tôi ngại nói tới tình yêu. Đó là vì tôi không chắc ta có thể hiểu được tình yêu người khác, nhất là tình yêu của chính ta không? Nói lý thuyết là để hiểu thực tế. Nhưng tình yêu thực tế rất khó nhận diện. Bởi vì không có tình yêu trống vậy, không có tình yêu hiện thân, nghĩa là không có tình yêu ngoài người đang yêu. Mà tình yêu thì không mùi, không sắc, không đo lường được. Nó ở trong con người nên nó cũng phức tạp như con người. Đã hẳn theo lý thuyết thì tình yêu có thể là một trong những loại sau đây: Tình yêu siêu nhiên với đối tượng siêu nhiên, tình yêu siêu nhiên với đối tượng tự nhiên, tình yêu lý trí tự nhiên, tình yêu tình cảm, tình yêu cảm giác, tình yêu nhục dục, tình yêu tính dục, tình yêu nhân tính, tình yêu thú tính. Tuy nhiên, trong thực tế không bao giờ có một thứ tình yêu nào được hoàn toàn thuần tuý chỉ thuộc riêng một loại. Tình yêu cao siêu nhất vẫn gây âm hưởng trong thân xác. Tình yêu nhục dục thấp nhất cũng không hoàn toàn chỉ là thú tính. Khi yêu là yêu với tất cả con người, mặc dầu hướng đi có khác nhau. Tình yêu giống như một hoà âm, nên không dễ phân biệt cung điệu nào là chính. Nếu tôi đứng ngoài nhìn vào tình yêu của bạn, tôi sẽ rất dễ lầm. Bởi vì tôi là người ngoài cuộc, chỉ nhìn theo bề ngoài khách quan rồi đoán ra, chứ không thấy được trực tiếp tình yêu của bạn. Mà tình yêu có hình dáng gì đâu mà thấy được. Tình yêu diễn tả bằng thái độ và ngôn ngữ. Nhưng thái độ và ngôn ngữ là những thứ đa diện đa năng. Mỗi người đều có thể cho chúng những ý nghĩa tuỳ mình. Nếu căn cứ vào những cái đó để đoán tình yêu người khác, ta thường dễ rơi vào chủ quan ở chỗ “suy bụng ta ra bụng người”. Không khéo khoa phân tâm học lại cho những xét đoán của ta là sự xuất hiện trá hình của những thèm muốn bị dồn ép của chính ta. Nhưng nếu bạn là người trong cuộc thì bạn cũng khó nhận ra bộ mặt thực của tình yêu bạn. Bởi vì lúc đó bạn dễ thiên vị, và dễ bị tình cảm, đam mê làm mù quáng. Tình yêu là một kết tinh, như Stendahl nói. Nhiều khi, nó là một thứ pha trộn giữa thực tại và ảo ảnh. Bao lần người ta đã yêu trong mộng ước trước khi gặp người yêu thực. Yêu người trong mộng nên mới dừng lại một người yêu thực, để rồi lại yêu người yêu thực qua hình ảnh trong mộng. Qua mộng đến thực và nhìn thực qua mộng, nhưng lại không phân biệt được thực và mộng ở chỗ nào, thì làm sao hiểu rõ được tình yêu của mình. Chỉ hiểu được rõ khi tình đã chết. Lúc đó đã đứng ngoài cuộc rồi. Tính cách phức tạp vừa kể của tình yêu lại dẫn tới lý do thứ ba khiến tôi ngại nói về tình yêu, đó là vì tình yêu rất nặng tính cách chủ quan. Tìm một kết luận khách quan đã là khó lắm. Phương chi lại đứng trong một vấn đề chằng chịt những tính cách chủ quan. Đã hẳn, theo thánh Thomas, thì 3 yếu tố tâm lý cần thiết để nhóm lên lửa tình là: biết, tốt và hạp. Nhưng thế nào là biết, là tốt, là hạp, là đẹp? Cho dù ngàn sách dạy về sự tốt, sự đẹp, sự hạp, thì trong thực tế, khi bạn yêu ai, người đó có thể chỉ tốt cho bạn, đẹp cho bạn, hạp với bạn, chứ đâu có phải họ tốt đẹp và hạp cho tất cả mọi người? Họ có thể xấu và không hạp đối với người khác, nhưng tốt và hạp với bạn. Nó gọi là duyên nợ thì duyên nợ là ở chỗ đó. Nếu đầy tính cách chủ quan riêng cho từng người và riêng cho từng trường hợp. Khởi đi từ những yếu tố chủ quan vừa kể tình yêu đi về đích điểm nào? Nó dừng lại người yêu, hay lại qua người yêu để trở lại chính ta? Nó cho đi mà không cần nhận lại, hay là tình yêu nào cũng mong mỏi hai chiều. Ước mong nhận lại và hai chiều có phải là vị kỷ hay không? Bao sách đạo đức đã cho rằng không mong được yêu mới là tốt. Nhưng M. Nédoncelle đã không đồng ý. Tôi nghĩ ông có lý với điều kiện. Thực ra cả hai quan niệm cùng đúng. Nhưng bên nào cũng đúng theo cái nhìn chủ quan của mình. Thế mới nguy. Nhiều chuyện tình tôi coi như vô lý. Nhưng nó không có lý cho tôi, mà lại có lý cho người khác trong cuộc. Tôi không phải họ, họ đâu phải là tôi. Họ khác, tôi khác. Thế mới rắc rối. Mỗi tình có cái lý riêng của mình. Cái lý của tình không có ai hiểu nổi ngoài người chủ của tình yêu. Nhưng bao lần chính họ cũng chẳng nắm vững được cái lý của tình mình. Tình yêu có quá nhiều tính cách chủ quan nên lại một lý do nữa khiến tôi ngại nói về tình yêu. Đó là vì tình yêu bao la quá. Bao la thì dễ hồ đồ. Hồ đồ thì khó xác thực. Tình yêu nghe như vấn đề nhỏ bé, nhưng thực sự nó mênh mông khôn tả. Bạn thử hỏi mỗi người nghĩ gì về tình yêu? Bạn thử đọc các sách nói về tình yêu. Bạn thử khảo cứu những tác giả chuyên về tình yêu. Bạn thử viết một tác phẩm đầy đủ về tình yêu... Bạn thế nào, tôi không rõ. Riêng tôi, tôi nhận là tôi không đọc xuể; không hiểu thấu, và không viết nổi. Tình yêu bao là vì tình yêu muôn mặt. Người tình của Kinh Thánh trong Ca đệ nhất chỉ mới là một mặt của tình yêu. Tình của Trọng Thuỷ và Mỵ Châu lại là mặt khác. Tình của Lan và Điệp là một mặt khác nữa. Tình của Roméo và Juliette không giống tình của Tristam và Isolde. Đến chuyện ly kỳ của Hoàng đế Edward VIII đã cam lòng từ nhiệm ngôi vua để cưới một người đàn bà không còn trong trắng, thì tình yêu lại xuất hiện với một mặt vừa chân thành vừa bi đát lạ thường làm xúc động cả thế giới. Còn bao nhiêu bộ mặt khác của tình yêu. Ngay cơ cấu tâm lý của tình yêu cũng đã là vấn đề quá rộng, chứ chưa nói gì tới hằng trăm vấn đề nằm trong tình yêu. Phạm vi bát ngát, mà lại muốn đơn giản thì khó tránh được thiếu sót đáng ngại. Tình yêu rất bao la và phức tạp. Tìm hiểu nó bằng lý trí và sách vở đã vậy, nhưng thiết tưởng cũng cần phải hiểu nó bằng trái tim và sự trưởng thành của kinh nghiệm. St. Exupéry nói: “Chỉ với trái tim, người ta mới thấy được rõ”. Câu đó đúng trong phạm vi tình yêu. Tình yêu được dựng nên cho con người, và con người được dựng nên cho tình yêu, để tất cả trở về tình yêu nguyên thuỷ và sau cùng là Thiên Chúa. Vì thế, khi nói về tình yêu, tôi vốn lo tôi không cung kính đủ, không nhân loại đủ và không hướng về Chúa đủ. Nếu bạn chia sẻ với tôi về những lý do kể trên khiến tôi ngại nói về tình yêu, thì bạn sẽ dễ đoán được tình yêu là vấn đề tế nhị thế nào và cần phải dè dặt, cân nhắc, thận trọng lắm để khỏi có những nông cạn, thiếu sót và lầm lẫn. Nếu đi tới được kết luận đó, thì cũng đã là một kết quả tốt rồi. Tôi chỉ mong có thế.
Đàn ông ở một mình không tốt. Ta hãy dựng nên cho y một người giúp đỡ tương hợp với y (x. St 2,18). Chúa phán như thế thuở trái đất mới chỉ có một người. Người đó là đàn ông. Lời Chúa phán trên đã đưa tới việc dựng nên một người thứ hai. Người đó là đàn bà. Bà được dựng nên bởi xương sườn của ông. Nên ông hướng về bà, bà hướng về ông. Như hai mà một. Như một mà hai. Đôi người thương nhau làm nên vợ chồng. Đó là hôn nhân đầu tiên. Rồi từ đó đến bây giờ, hôn nhân đã không ngừng tiếp diễn. Hôn nhân này sinh ra hôn nhân khác. Mỗi hôn nhân là một chuyến đi về định mệnh, là một cuộc mạo hiểm đi tìm hạnh phúc, là một cuộc đổi đời mặc nhiều hy vọng và ảo vọng. Những ngày liền trước hôn nhân là cả một mùa xuân. Những ngày mới thành hôn là mùa xuân thu. Những ngày lâu sau thành hôn là những ngày xuân thu chen giữa những tháng dài đông hạ. Trong bao hôn nhân, tổ ấm đã trở thành tổ lo. Những tiếng thở dài làm nhoà những nụ cười biếng nhác và tuổi trẻ đã vội già hẳn đi, khi chiếc áo cưới vẫn chưa nhạt màu. Đã hẳn trong hôn nhân đã có tình yêu. Mà phải có tình yêu để nâng đỡ. Nhưng tình yêu không giữ mãi màu hồng. Nhất là những tình hôn nhân nặng tính cách đam mê buổi đầu. Đam mê là những trận bão cuồng say cuốn lên từ những ảo ảnh và khát vọng mạnh. Nhưng không lâu, thế nào rồi ảo ảnh cũng tan, thèm khát cũng lắng, bão cũng tàn. Cuộc sống bắt buộc con người phải đụng đầu với những thực tế không đẹp, không vui, không hay, không dễ như mình tưởng. Lúc đó mới thấy rõ tình yêu phức tạp. Vì lý do sống còn, nó gọi đến tinh thần trách nhiệm một cách khẩn thiết hơn, cấp bách hơn. Tinh thần trách nhiệm phải đứng đó nhận lãnh can đảm mọi bổn phận của tình yêu. Nếu không tình yêu sẽ trở thành lừa đảo và hôn nhân sẽ biến nên ngục tù, trong đó người này là tù nhân của người kia. Yêu nhau là phải thăng tiến không ngừng, là xây dựng hạnh phúc cho người mình yêu. Vì thế, tình yêu phải đi đôi với kính trọng và hy sinh như những bổn phận cần thiết. Yêu mà không kính sẽ dễ coi người yêu như con mồi. Yêu mà không hy sinh sẽ dễ coi người yêu như đồ vật. Đừng lạm dụng tình yêu cho những mục đích hoàn toàn ích kỷ. Đừng khoác danh nghĩa tình yêu cho những yêu sách thiếu tính cách kính trọng đối với người yêu. Đừng tìm giải quyết tình yêu bằng những phương tiện hoàn toàn vật chất có thể thỏa mãn một thời gian đòi hỏi, nhưng cũng rất có thể để lại những tai hại nặng nề về sinh lý và tâm lý. Đã hẳn yếu tố sinh lý và tâm lý rất cần trong tình yêu hôn nhân, nhưng nếu chỉ dừng lại đó, thì tình yêu sẽ dễ lụi tàn, và mở đường cho những bất trung. Tình yêu như ngọn đèn. Lấy áo bọc kín đèn, đèn sẽ tắt. Tình yêu như bông hoa. Áp hoa mãi vào ngực hoa sẽ tàn. Tình yêu như dòng suối. Xây đập chặn nước lại, suối sẽ cạn. Chỉ vì đã có quá nhiều ích kỷ trong tình yêu. Hôn nhân chỉ thành công, khi ích kỷ được vượt qua, để mỗi bên biết quên mình sống cho người khác. Một tình yêu ý thức được trách nhiệm, biết quên mình, can đảm lãnh bổn phận chính là bí quyết hạnh phúc cho bạn trăm năm, cho con cái và cho chính mình. Hy sinh không luôn dễ. Quên mình không luôn vui. Trách nhiệm không luôn nhẹ. Tuy nhiên, mọi sự đều có thể thành tựu được, nhờ Đấng tạo thành nên mọi tình yêu. Hãy năng nhìn lên Chúa là tình yêu của mọi tình yêu, để cảm tạ, xin ơn soi sáng, sức mạnh và an ủi. Tình yêu hôn nhân đẹp lắm. Nếu biết nuôi dưỡng nó trong tình yêu Thiên Chúa thì nó sẽ cao vượt, thông dự vào mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa và của Chúa Kitô với Hội Thánh Người. Có Chúa, cuộc đời hôn nhân tuy không phải là những ngày lễ vui, nhưng sẽ là một cuộc hành trình đầy tin tưởng đi về hạnh phúc bất diệt đợi ở cuối đường.
Mùa Chay là mùa màu tím. Không phải tím ở chân trời, hay tím ở bông hoa, nhưng tím ở lòng người. Vì mùa chay kêu gọi thống hối. Vì mùa chay thôi thúc trở về. Trở về đâu? Không phải trở về với lề luật, với giáo điều, với nhiệm vụ, nhưng đúng ra là trở về với một Người. Người biết tôi, trước khi tôi biết Người. Người yêu tôi, trước khi tôi yêu Người. Tình yêu Người đã sinh ra tôi. Và chỉ yêu Người tôi mới hạnh phúc toàn vẹn. Lề luật Người chỉ có mục đích bảo vệ đường về hạnh phúc đó. Và đạo Người là sợi giây nối kết tình tôi lại với tình Người. Vì thế, phạm luật và lỗi đạo là xa lìa tình Chúa, và thống hối là trở về với Đấng yêu tôi. Trở về với ai, chứ trở về một tình yêu thì thực là đơn giản. Tôi có thể trở về như ông Giakêu. Ông là một nhân viên thuế vụ tham nhũng. Nghe Chúa đi qua, ông leo lên cây tò mò nhìn coi. Bất ngờ Chúa quay lại bảo ông: Tôi sẽ ghé thăm ông. Ông vội chạy về lo tiếp rước Chúa với sự niềm nở chân thành. Từ giờ phút đó ông trở nên người mới. Sự trở về của ông đã bắt đầu sự vui lòng tiếp nhận Chúa tới viếng thăm. Tôi có thể trở về như người thiếu phụ ngoại tình. Bà bị điệu tới Chúa. Mọi người đều lên án. Còn Chúa thì làm thinh. Sau cùng Chúa bảo bà: Thôi con về đừng phạm tội nữa. Bà chưa xin lỗi thì đã lãnh nhận được ơn tha thứ. Bà đã trở về khi phó thác mình cho một Chúa bao dung nhân ái. Tôi có thể trở về như thánh Phêrô. Ngài đã chối Chúa ba lần. Tưởng rằng tình nghĩa đã tàn phai. Nhưng lúc đi ra Ngài quay lại bắt gặp đôi mắt hiền từ Chúa nhìn theo. Thánh Phêrô xúc động, khóc lóc, ăn năn thảm thiết. Ngài đã trở về khi chịu nhìn vào Chúa. Tôi có thể trở về như Mađalena. Cô mang cả một đời tội lỗi công khai đến với Chúa. Gặp Chúa, cô chỉ biết khóc. Cô đã được tha và làm lại cuộc đời. Sự trở về của cô là hết lòng tin Chúa. Tôi có thể trở về như kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa. Ông nói với Chúa: khi nào về nước thiên đàng, xin nhớ tôi với. Ông đã được tha thứ ngay, tha hết và được hưởng hạnh phúc với Chúa ngay ngày hôm đó. Sự trở về của ông là khiêm tốn tin tưởng vào Chúa. Như thế, trở về chính là gặp Chúa để tiếp nhận sự tha thứ của Người với lòng tin yêu. Tôi nghĩ rằng: Chúa yêu tôi hơn những người yêu tôi nhất, nên chắc chắn Người tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người. Những ơn tha thứ đó tôi cần phải tiếp nhận. Mà muốn tiếp nhận thì phải gặp Chúa với ý muốn ở lại mãi trong đời sống ân tình. Do đó, sự trở về bao giờ cũng khơi động lòng tin yêu của niềm sám hối. Có thể nói: Sám hối là nước mắt của tình yêu khóc một niềm tin, là sự hối hận của niềm tin khóc một tình yêu. Tin và yêu là hai dòng lệ thống hối của kẻ trở về. Tin và yêu là hai con mắt của kẻ trở về nhìn vào Chúa. Nhìn vào Chúa hơn nhìn vào mình. Tôi nhìn vào Chúa tôi và tin Người tôi yêu. Tôi nhìn Chúa và tôi yêu Người trên hết mọi sự. Tôi nhìn Chúa và tôi phó thác nơi Người tất cả quá khứ, hiện tại và tương lai của tôi. Sự trở về như thế là việc tôi phải làm mỗi ngày. Vì có ngày nào tôi hết là người tội lỗi đâu? Lạy Chúa, giờ đây con đến với Chúa. Con im lặng nhìn Chúa. Con không biết nói gì. Con phó thác thân phận yếu hèn con nơi lòng Chúa xót thương. Tình Chúa là nhà, lòng nhân hậu Chúa là quê hương. Hôm nay con trở về đó với tất cả lòng tin yêu phó thác. Xin gìn giữ con Chúa ơi!
Đời tôi là một chuyến đi. Đi từ ngày nọ sang ngày kia. Đi từ khát vọng này qua khát vọng khác. Chẳng lúc nào tôi không ước mơ. Không sự gì làm tôi no thỏa. Trong mọi ước muốn nhỏ to, hình như tôi vẫn tìm hoài một hạnh phúc vô biên. Ban đầu tôi không hiểu. Nhưng sau tôi biết được hạnh phúc vô biên tôi tìm chính là Thiên Chúa. Thành ra, vô tình hay hữu ý, suốt đời tôi là một chuyến đi tìm Thiên Chúa. Tìm Chúa, đó là nỗi băn khoăn lớn nhất đời tôi. Tôi đọc kinh, xưng tội, rước lễ, suy gẫm và nhiều cách khác để tìm Ngài. Nhưng đã bao lần tôi tự hỏi: Tôi đã thực sự gặp Chúa chưa? Không phải một Chúa xa lạ mơ hồ nhưng là một Chúa thân mật, sống động, một Chúa tên là “Tình yêu” (x. 1 Ga 4,8). Có cách nào tốt giúp tôi gặp được Chúa không? Để tìm giải đáp, tôi đã nhìn lên núi Sọ chiều thứ sáu tuần thánh. Nơi đây có nhiều hạng người tới coi xử tội. Phân tách kỹ tôi thấy rằng: Hạng người thứ nhất đã không gặp được Chúa, đó là những kẻ qua đường. Kinh Thánh ghi: “Có những kẻ qua đường thấy Chúa bị đóng đinh thì cười chê và nói: Ông này có tiếng hay làm phép lạ. Ông bảo ông dám phá đền thờ, rồi nội trong ba ngày sẽ làm lại y nguyên. Sao lúc này không cứu mình đi?” (Mt 27,39-40). Nghe thế, Chúa Giêsu làm thinh không trả lời gì. Và những kẻ qua đường chỉ thấy một người có vẻ đáng khinh. Họ không nhận ra người đó chính là Thiên Chúa. Tại sao vậy? Thưa vì họ nhẫn tâm. Gặp một người đang đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần mà không chút xót thương, lại còn nỡ lòng chế nhạo. Không an ủi được một lần thì chớ, họ còn xỉ nhục thêm. Thái độ nhẫn tâm của họ đã cản trở họ gặp được Chúa. Hạng người thứ hai đã không gặp được Chúa, đó là những trưởng tế và luật sĩ. Theo Phúc Âm, thì các trưởng tế và luật sĩ đã thách thức Chúa rằng: Nếu ông là vua Israel thì hãy xuống khỏi thập giá đi rồi chúng tôi sẽ tin (x. Mt 27,42-43). Tại sao? Thưa vì họ ác tâm. Chính bọn họ đã bôi nhọ thanh danh Chúa. Chính họ đã bày mưu bắt Chúa. Chính họ đã bỏ vạ và xúi dân xin giết Chúa. Bây giờ Chúa như là kẻ ra hàng, thất trận, đã bị hành hạ đến cực độ. Thế mà họ vẫn chưa thoả lòng, họ còn muốn làm nhục thêm. Thái độ ác tâm của họ đã làm họ không gặp được Chúa. Hạng người thứ ba đã không gặp được Chúa đó là những binh lính đã thi hành án lệnh giết Chúa. Bài thương khó kể rằng: Mấy người lính đóng đinh Chúa ngẩng mặt lên chế giễu Chúa rằng: Ông xưng Ông là vua Do Thái, có giỏi thì nhảy xuống đi, rồi bọn tôi sẽ tin (x. Lc 28,36-37). Nghe thế, Chúa Giêsu làm thinh không trả lời gì. Và các lính đó đã chỉ nhìn Chúa như một tử tội. Họ không nhận ra người đó chính là Thiên Chúa. Tại sao? Vì họ dã tâm. Đành rằng họ phải đóng đinh Chúa theo lệnh thượng cấp. Nhưng họ đã đi quá giới hạn nhiệm vụ. Không ai buộc họ phải khích bác Chúa. Nhưng họ làm vì mị dân và dã tâm. Thái độ dã tâm của họ đã không cho họ gặp được Chúa. Hạng người thứ bốn đã không gặp được Chúa, đó là kẻ trộm bên tả. Phúc Âm thuật: Một kẻ trộm bên tả quay sang nói khích Chúa rằng: Nếu ông là vị cứu thế, thì hãy cứu mình và cứu tôi đi! (x. Lc 23,39). Nghe thế, Chúa Giêsu làm thinh không trả lời gì. Và kẻ trộm đó chỉ gặp một người như tội nhân hèn hạ. Hắn không nhận ra người đó chính là Thiên Chúa. Tại sao? Thưa vì hắn tiểu tâm. Hắn đã biết đau khổ là gì. Đáng lý ra hắn phải biết thông cảm với người cùng chung hoàn cảnh. Đàng này, hắn lại chế nhạo khích bác. Ngoài ra, hắn còn ích kỷ. Có ba người cùng thụ án, mà hắn chỉ nghĩ tới việc cứu hắn. Còn anh trộm bên hữu thì sao? Thái độ tiểu tâm của hắn ngăn trở hắn gặp được Chúa. Hạng người thứ năm đã gặp được Chúa, đó là kẻ trộm bên hữu. Ông không nhẫn tâm vào hùa đám đông như kẻ qua đường. Nhưng một mình ông dám lên tiếng nói Chúa là người vô tội. Ông không ác tâm như các trưởng tế, và luật sĩ, chủ tâm hạ Chúa xuống đất đen. Nhưng ông nói: “Khi nào lên trời, xin nhớ tới tôi” (Lc 23,42). Có nghĩa là: Ông là người lành, người thánh, ông sẽ lên thiên đàng. Ông cũng không dã tâm như bọn lính. Ông phân biệt ai đáng tội, ai không. Ông nói: “Chúng tôi chịu tội thì đáng lắm. Còn ông này có làm gì nên tội?” (Lc 23,41). Ông cũng không tiểu tâm như kẻ trộm bên tả. Vì thái độ bênh đỡ Chúa một cách công khai và mạnh mẽ của ông đã an ủi Đức Mẹ rất nhiều. Tóm lại, cái bí quyết đã giúp kẻ trộm bên hữu gặp được Chúa chính là sự ông biết thương người. Ông thấy cạnh ông có một người bị đau đớn cực khổ, ông động tình thương. Ông để ý thì thấy người ấy bị oan, nên ông lên tiếng bênh. Chỉ một mình ông dám bênh, đang khi cả ngàn người đồng thanh kết án. Ông dám nói, đang khi không một ai, dù các người thân tín nhất của Chúa, dám hé môi nói nửa lời an ủi Chúa. Thấy ông có lòng thương người thực sự Chúa liền ban ơn cho ông nhận biết Chúa: “Hôm nay ông sẽ về thiên đàng với tôi” (Lc 23,43). Ông đã gặp được Chúa. Nhìn lại tôi, tôi thấy lo sợ. Biết đâu xưa nay tôi cũng như bốn hạng người trên. Mỗi khi tôi xử tệ với người khác là chính lúc tôi xử tệ với Chúa. Và đó là lý do tại sao tôi không được gặp Chúa. Lạy Chúa, con xin Chúa giúp con biết thương người. Con nhìn nhận thương người là đường dẫn tới Chúa. Chúa đợi con đàng sau những người đau khổ. Xin giúp con biết yêu thương họ, để qua họ, con sẽ gặp được Chúa lòng con luôn khát vọng.
Tôi là kẻ có tội. Khi đọc kinh Cáo Mình, tôi tự thú đã phạm tội nhiều. Khi đọc kinh Lạy Cha, tôi tự xưng tôi cần phải xin ơn tha thứ. Khi đọc kinh Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, tôi tự nhận tôi là kẻ có tội. Khi chịu bí tích giải tội, tôi tự đặt mình vào hạng người tội lỗi. Mà thực, tôi đã phạm tội không biết bao nhiêu mà kể: Trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Không nhận mình có tội là phạm thêm một tội nói dối. Vì tôi là kẻ có tội, nên tôi mang thân phận con người tội lỗi. Tôi không chối từ thân phận đó. Nó là của tôi! Mà chối từ sao được, khi tôi và kẻ tội lỗi cũng đồng nghĩa như nhau, khi ngày đêm tôi vẫn ăn năn trên cuộc đời của tôi nhiều tì ố! Không những tôi không chối từ, không trốn tránh, không than trách mà còn muốn giữ mãi thân phận đó như một nơi trú ngụ êm đềm. Chính nơi đây, tôi đã tìm gặp được bản thân tôi, một bản thân trần trụi và yếu đuối. Tôi chỉ là thế. Tôi chỉ có thể nhìn nhận chân thành thực trạng đó là tôi đã trở về với tôi, tôi đã hợp nhất với tôi. Sự hợp nhất âm thầm này cho tôi một niềm vui ngọt ngào và một bình an sâu thẳm. Như thế sau cơn mơ tôi lại được gặp chính mình. Như thế tôi đã tìm được một căn nhà riêng thực là của tôi, một chỗ ở thích hợp hoàn toàn với tôi. Trong sự vắng vẻ và hoang vu của thân phận tội lỗi, tôi lắng nghe lòng tôi. Và tôi chỉ thấy duy nhất một lời: Chúa yêu con. Lời đó là lời Chúa nói với tôi, hay là lời tôi nói với Chúa? Chắc chắn là cả hai. Tôi không muốn phân tách những lý do tại sao tôi muốn Chúa và tại sao Chúa thương tôi. Tôi chỉ tin và cảm thấy rằng: Tôi thiếu thốn tất cả và Chúa là tất cả cho tôi. Tôi là vực sâu dưới hư vô, nhưng tôi lại được Chúa thương yêu vô cùng. Chỉ có Ngài là trung tín và chân thành tuyệt đối. Ngài thương tôi từ thuở đời đời, Ngài thương tôi hơn chính tôi thương tôi. Ngài cho tôi một niềm tin khi tôi đã mất hết niềm tin ở mọi người. Niềm tin của tôi là sự gặp gỡ sống động giữa tất cả con người của tôi với ngôi vị Thiên Chúa. Tôi tin Chúa, không phải chỉ là tin có Chúa, cũng không phải tin lời Chúa, nhưng trước hết và cốt yếu là tin Chúa yêu thương tôi. Tôi tin Chúa gần tôi, quan tâm đến tôi, thương yêu tôi vô cùng, Ngài là Chúa và là Cha tôi. Ngài có quyền và có lòng thương, thế là đủ cho tôi rồi. Tôi tin nên tôi yêu. Hay tôi yêu nên tôi tin? Tôi không rõ. Tôi chỉ biết rằng: niềm tin nâng đỡ tình yêu, và tình yêu nâng đỡ niềm tin. Có tin mới yêu, cũng như có yêu mới tin. Nhưng trong thân phận tội lỗi của tôi tình yêu đó khởi đầu từ một niềm tin cũng như niềm tin đó đã xuất hiện từ sự trở về, nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình. Càng trở về sâu trong thân phận, tôi càng thấy niềm tin lớn mạnh, để rồi lại càng đốt nóng lên một tình yêu thầm kín. Và như thế, khi tôi mất tất cả lại là lúc tôi gặp được tất cả. Vì Chúa là tất cả của tôi, và tất cả cho tôi.
Các người đạo đức bảo tôi rằng: Biết mình là đầu mối sự khôn ngoan, là điều kiện trước tiên của mọi sự cải tiến. Đúng lắm. Nhưng biết mình không phải dễ. Không ai gần tôi cho bằng tôi. Nhưng chính tôi thường xa lạ với tôi hơn ai hết. Làm sao để biết mình? Cách thứ nhất tôi thử dùng là so sánh mình với kẻ khác. Thấy không bằng họ, thì coi mình kém. Thấy không thua họ, thì yên trí chẳng sao. Nhưng có chuyện làm tôi nghi ngờ cách biết mình này: Một ông Pharisêu và một ông nhân viên thuế vụ vào đền thờ cầu nguyện. Ông Pharisêu so sánh mình với ông thu thuế thì thấy mình khá quá, thì nói với Chúa rằng: Con không như tên thu thuế kia. Rốt cuộc, người thu thuế lại được Chúa thương hơn (x. Lc 18,9-14). Thế là ông Pharisêu đã lầm lớn. Hay là tôi so sánh mình với những người hơn tôi xem sao, nhưng tôi vẫn sợ lầm. Vì thế nào để phân biệt được chắc chắn ai hơn ai kém. Đàng khác, so sánh mình với người khác dễ gì đúng được. Mình thiên vị mình là chuyện thường. Chủ quan mà cứ tưởng khách quan mới thực là nguy. Không tin vào cách so sánh mình với người khác, tôi thử dùng cách hai để biết mình là dựa vào dư luận. Người ta nói về tôi thế nào thì tôi cũng coi tôi là thế. Nhưng Phúc Âm lại có chuyện dạy tôi phải coi chừng dư luận. Trong lịch sử đạo Công giáo lần đầu tiên dư luận đại chúng được phát biểu là vấn đề nên tha Giêsu hay Baraba. Kết quả là tất cả đã lên án Chúa Giêsu. Thực là mỉa mai cho chủ trương lấy ý kiến đại chúng làm tiêu chuẩn để phân biệt lành dữ. Dư luận nhiều khi chỉ là luận dư và vô trách nhiệm. Thấy dư luận không bảo đảm, tôi lại dùng cách thứ ba để biết mình, đó là căn cứ vào các điều răn để biết mình xem có phạm gì nặng không. Nếu không phạm gì nặng thì chẳng thánh, ít ra cũng chẳng đến nỗi nào. Nhưng có mấy lời Chúa phán làm tôi phải dè dặt. Thời Chúa Giêsu, những người thu thuế và đĩ điếm đều bị xã hội xếp vào hạng người tội lỗi quái gở. Còn Pharisêu và các thầy cả thì được dân chúng tôn trọng như các bậc đạo đức mô phạm. Thế mà có lần Chúa nói với các vị này rằng: “Ta nói thực với các ông, những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào thiên đàng trước các ông” (Mt 21,31). Mà mấy vị đó xem ra có phạm gì nặng nề đâu. Thì ra Chúa biết nhiều quá. Và Chúa xét đoán khác thiên hạ. Hay là tôi sẽ căn cứ vào nếp sống hình thức hàng ngày để biết mình? Hễ tôi thấy mình làm đủ việc luật dạy, năng đi nhà thờ, kinh kệ đàng hoàng, thì là dấu tốt. Bằng không thì là dấu xấu. Nhưng cách này cũng không làm tôi yên trí. Còn ai giữ luật cặn kẽ bằng ông Pharisêu! Thế mà Chúa mắng bọn họ là “Những mồ mả ngoài thì sơn trắng, nhưng trong thì đầy xương hôi tanh” (Mt 23,27). Nếp sống hình thức chỉ là cái vỏ, chỉ là mặt nạ. Nó không phải là tôi. Vậy còn một cách sau chót tôi thử dùng để biết mình, là căn cứ vào lương tâm. Hễ lương tâm an ổn thì là dấu tôi tốt. Hễ lương tâm bứt rứt không an, thì là dấu tôi có gì trục trặc. Nhưng cách này cũng không chắc chắn. Lương tâm tôi thì bình an lắm. Nhưng biết đâu chỉ vì lương tâm tôi đã quen sai lầm, đã ra chai đá? Và dù lương tâm tôi thuộc loại chính xác, thì tình trạng yên ổn của nó cũng có thể rất chủ quan. Chính thánh Phaolô cũng đã nói: “Thực, lương tâm tôi không trách tôi điều gì. Nhưng không vì thế tôi là người công chính. Chỉ có Chúa là Đấng phán xét tôi” (1 Cr 4,4). Thì ra năm cách tôi thử dùng để biết mình đều không bảo đảm. Vậy phải làm sao bây giờ? Tôi thấy một trả lời từ Kinh Thánh: Saolô từ Damas đi Giêrusalem bị một ánh sáng từ trời đánh ngã. Ngài hỏi: Chúa muốn con làm gì? Rồi ngài mờ mắt. Ba ngày đêm không ăn uống. Chỉ suy nghĩ cầu nguyện. Trong cảnh cô tịch nội tâm đó, ngài đã để lòng mình đối diện với Chúa và ngài đã được biết rõ mình. Từ đó ngài đã trở lại và nên thánh (x. Cv. 9). Muốn biết rõ mình, tôi cũng hãy dùng cách của thánh Phaolô: suy nghĩ và hỏi Chúa trong cõi thinh lặng. Chúa là đường và là sự thật. Chúa rất thương tôi. Tôi tin chắc chắn khi nhìn vào Chúa, thì tôi sẽ thấy tôi. Sự biết này vừa rõ, vừa gợi niềm cậy trông và khiêm tốn. Nó êm đềm chứ không làm tôi kiêu căng, sợ hãi hay bối rối. Nó cho biết và đồng thời cũng chữa trị. Vì thực ra, lúc đó Chúa đã ở trong tôi rồi. Lạy Chúa, con biết tin vào đâu? Con đặt niềm tin trọn vẹn vào Chúa. Sự thực của Chúa bao giờ cũng đầy đủ dịu dàng, êm đềm và khích lệ, rất khác với những chỉ giáo của loài người. Xin giúp con năng biết tìm Chúa, hỏi Chúa trong thinh lặng nội tâm, để nhờ đó con biết mình, biết đời và biết Chúa.
Tôi có đạo, và tôi hân hạnh xưng mình có đạo. Nếu ai hỏi tôi về đạo, tôi thưa: Điều cốt yếu của đạo tôi là tin thờ Thiên Chúa. Khi trước tôi tưởng thế là đủ. Nhưng bây giờ xét kỹ lại, tôi thấy không đủ. Bởi vì đạo của tôi buộc không những phải tin thờ Chúa, mà còn phải yêu thương người khác. Tôi ngỡ yêu người chỉ là điều phụ. Nhưng đọc lại Kinh Thánh, tôi thấy yêu người cũng là điều chính. Một luật sĩ đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Trong các điều răn, điều nào trọng nhất?”. Chúa Giêsu đáp: “Đây là điều răn thứ nhất: ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn điều răn thứ hai cũng giống như điều trước: là hãy yêu thương anh em như chính mình vậy” (Mc 12,28-31). Nếu điều răn thứ hai cũng giống điều răn thứ nhất, thì tất nhiên yêu người cũng quan trọng như mến Chúa, cũng cần như mến Chúa, cũng phải giữ cẩn thận như mến Chúa. Như thế, căn bản đạo tôi có thể tóm tắt vào hai việc mến Chúa yêu người. Thực ra, đó chỉ là hai mặt của một tình yêu. Cả hai chỉ là một. Bỏ một tức bỏ hai. Đủ cả hai mới thành được đạo. Vì thế, kẻ vô thần không mến Chúa, thì gọi là vô đạo. Người Công giáo không yêu người cũng là một thứ vô đạo. Nhiều khi tôi thấy Chúa coi việc yêu người còn quan trọng hơn việc thờ Chúa. Chẳng thế mà có lần Chúa bảo: “Nếu khi nào ngươi dâng của lễ trên bàn thờ, mà sực nhớ ra anh em có điều gì bất bình với ngươi, thì hãy để của lễ ngươi trước bàn thờ, đi về làm hòa với anh em đã, rồi mới trở lại dâng của lễ” (Mt 5,23-24). Rõ ràng Chúa muốn tôi thực hiện yêu người trước cả việc đọc kinh dâng lễ. Hơn nữa, Chúa coi việc yêu người như đặc điểm của môn đệ Chúa: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Suy lời trên đây, tôi thấy thực đáng lo. Vì tôi thường nhận biết người Công giáo nhờ một số dấu bề ngoài như đeo ảnh tượng, đọc kinh, làm dấu thánh giá, đi nhà thờ. Người khác cũng căn cứ vào dấu đó để nhận ai là người Công giáo. Nhưng nếu bây giờ bỏ tất cả những dấu đó đi, để căn cứ vào đời sống bác ái, thì chắc chắn sẽ có những cảnh nhận lộn ghê gớm. Có những người hay thương những kẻ nghèo, bênh vực kẻ yếu, an ủi kẻ đau khổ. Tôi sẽ tưởng họ là Công giáo, nhưng không phải. Trái lại vô số những người gian tham, chuyên nói xấu, nói hành, bày mưu hại người, dửng dưng trước những đau khổ của tha nhân. Tôi tưởng họ sẽ vô thần. Nhưng không phải. Còn tôi. Đến ngày phán xét, chính Chúa cũng căn cứ vào đặc điểm yêu người, để định đoạt ai được lên thiên đàng, ai phải xuống hỏa ngục. Chúa phán: “Khi ấy, Chúa sẽ phán cùng các kẻ ở bên hữu Ngài rằng: Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc hãy đến nhận lấy phúc đã sắm cho các ngươi. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống. Ta là khách các ngươi đã tiếp rước, Ta ở trần các ngươi đã cho mặc. Ta bệnh tật các ngươi đã săn sóc, Ta bị ở tù, các ngươi đã thăm hỏi. Bấy giờ các kẻ lành sẽ thưa rằng: Lạy Chúa đã bao giờ chúng tôi thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu? Có khi nào thấy Chúa là khách mà tiếp rước, hoặc ở trần mà cho mặc đâu? Hoặc thấy Chúa đau ốm hay bị ở tù mà đi thăm đâu? Ngài thưa lại rằng: Ta nói thật với các ngươi, bao nhiêu lần các ngươi làm những việc ấy cho những kẻ hèn mọn là anh em Ta đây, tức là các ngươi làm cho Ta đó” (Mt 25,34-40). Kế đó Chúa quay sang bên tả, trách mắng những người đứng đó, vì xưa đã không làm cho Ngài những việc kẻ lành đã làm, họ cũng thắc mắc như kẻ lành. Nhưng Chúa phán: “Ta nói thật cho các ngươi, bao nhiêu lần các ngươi bỏ qua không làm những việc đó cho những kẻ hèn mọn đây, tức là không làm cho Ta vậy!”. Rồi Chúa nói tiếp: “Những người này phải chịu xuống gia hình muôn kiếp. Còn các kẻ lành lên hưởng phúc trường sinh” (Mt 25,45-46). Lời Chúa thật rõ ràng, tôi không thể hiểu cách khác được. Rõ ràng yêu người là điều bao trùm tất cả luật đạo. Thánh Phaolô đã xác định dứt khoát như thế: “Ai yêu người là đã chu toàn lề luật” (Rm 13,8). Yêu người quan trọng đến mức đó, thế mà nhiều khi xét mình xưng tội, tôi lại ít để ý tới. Thực đáng ngại, khi coi thường bổn phận bác ái, để tự lừa dối mình và lừa dối người khác bằng hình thức giả đạo đức giả tạo đâu đâu. Lạy Chúa, con tin ở lời Chúa dạy không thể sai lầm. Con tin nhận yêu người là điều răn quan trọng nhất, đạo đức hệ tại ở đó. Và luật đạo cũng ở trong đó. Xin Chúa thương giúp con biết thực hiện hàng ngày giới răn yêu người, để đời này con được mang dấu hiệu sống động của môn đồ Chúa...
Cứ mỗi lần nghĩ tới dụ ngôn Chúa nói về gương yêu người, tôi lại buồn. Có một cái gì như mỉa mai làm tôi hổ thẹn. Có một cái gì cay đắng làm tôi bứt rứt. Tôi tưởng rằng khi đưa ra gương bác ái, Chúa sẽ bảo: Hãy bắt chước thầy cả này, người giáo hữu kia. Nhưng Chúa lại bảo: Hãy bắt chước gương người ngoại đạo! Không những thế, Chúa còn đem ra đối chiếu ba thái độ: một của thầy cả, một của người quý chức trong đạo và một người ngoại giáo. So sánh lại càng thấy rõ hai vị cao cấp trong tôn giáo kia thua kém xa người ngoại đạo. Đây dụ ngôn Chúa kể cho một luật sĩ: “Người kia đi từ Giêrusalem đến Giêricô dọc đường bị sa vào ổ cướp. Chúng lột hết quần áo và đánh nhừ tử, rồi bỏ mặc người nửa sống nửa chết mà đi. Tình cờ một thầy cả nọ cũng xuống theo con đường ấy, thấy người kia, ông liền tránh một bên và đi qua. Cũng vậy một thầy Lêvi đến nơi, thấy thế cũng tránh một bên và đi qua. Song một người Samari đi đường đến gần thấy vậy, liền động lòng thương người ấy. Ông liền lấy dầu và rượu xoa rịt vết thương, lại đặt lên ngựa mình đem về nhà quán mà săn sóc. Hôm sau, ông trao cho chủ quán hai quan tiền và dặn rằng Xin săn sóc người này, có tốn kém hơn thì lúc về tôi sẽ trả thêm. Trong ba người đó, ông nghĩ ai là kẻ thân cận với kẻ bị cướp? Luật sĩ thưa: Chính kẻ đã thương giúp nạn nhân. Chúa Giêsu phán: Ông hãy về bắt chước như thế” (Lc 10,29-37). Càng suy càng thấy đau xót. Vị thầy cả chuyên giảng luật Chúa. Nhưng luật căn bản của Chúa là luật bác ái thì ngài lại không giữ. Thầy Lêvi thuộc người thế giá, lại chuyên lo việc đạo, nhưng điều răn chính của đạo là yêu thương thì họ lại không thực hành. Còn người Samari mà người Do Thái kể là kẻ ngoại, không nên đi lại tiếp xúc, thì lại thực sự yêu người. Ông thực sự yêu người, bởi vì ông đã thực sự cho đi. Yêu thương là cho đi. Ông đã cho đi thời giờ, tiền của, công lao khó nhọc của ông, bàn tay săn sóc của ông, những lời an ủi của ông, những lo lắng của ông đối với nạn nhân chứng tỏ ông đã cho đi rộng rãi tấm lòng yêu thương chân thành của ông. Ông đã cho đi nhiều, nên ông đã yêu thương nhiều. Còn hai vị kia có cho gì đâu để đáng gọi là yêu thương! Tất nhiên dụ ngôn nhắc lại đạo cũ. Các người trong chuyện đều đã qua rồi. Nhưng tôi tự hỏi: Nếu hôm nay Chúa đến đất nước này, hay đến miền này để giảng lại dụ ngôn bác ái, Chúa sẽ đem ai ra làm gương? Biết đâu Chúa sẽ nói y nguyên dụ ngôn trên với những danh từ mới. Nghĩ tới đây, tôi buồn kinh khủng. Tôi buồn vì thấy nhiều khi chúng tôi giống hệt mấy người lãnh đạo tôn giáo xưa. Họ đi đâu cũng đeo luật Chúa trước ngực, nhưng trong lòng thì độc ác. Cũng thế, đi đâu chúng tôi cũng mang danh hiệu của đoàn thể bác ái này, tổ chức đạo đức kia, mở miệng ra là khuyên yêu thương bác ái, nhưng lòng chúng tôi chứa đầy ganh ghét, hành động vẫn ác nghiệt, lời nói xấu như mũi tên độc bắn lén trong đêm. Đôi khi chúng tôi có làm được ít việc bác ái, nhưng bao lần làm để trình diễn hơn là thực sự bác ái. Tôi buồn vì thấy nhiều khi chúng tôi hành động giống hệt những người Do Thái xưa. Họ không dám vào phủ đường của Philatô, nại lý do là nhà Philatô là nhà ngoại đạo, kẻ có đạo vào đó sẽ mắc dơ (x. Ga 18,28). Nhưng chính lúc đó, họ không ngại cáo gian và xin lên án giết một người cực thánh là Chúa Giêsu. Cũng thế, nhiều khi chúng tôi cặn kẽ với một vài hình thức đạo đức bề ngoài, nhưng lại coi thường các tội tày trời lỗi đức thương yêu, như cứng cỏi với người nghèo nàn, khinh dể kẻ yếu đuối, tàn nhẫn với người đau khổ, nói xấu bỏ vạ vv... Tôi lo sợ chúng tôi cũng bị Chúa mắng trách như ký lục và biệt phái xưa: “Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phái giả hình, các ngươi ngốn cả nhà cửa các bà góa mà còn làm bộ cầu nguyện lâu dài... “Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phải giả hình, các ngươi đi nộp thuế thập phân về bạc hà, rau ngò, rau húng, nhưng lại bỏ lơ những điều quan trọng hơn hết của lề luật là lòng chính trực, lòng nhân nghĩa, lòng thành tín. Các ngươi gạn lọc con muỗi nhưng lại nuốt trôi con lạc đà! “Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phái giả hình, các ngươi rửa sạch chén dĩa, nhưng trong lòng thì đầy tham ô vô độ” (Mt 23,14.23-25) Tôi có vào số những người đó không? Tôi biết rằng: đạo tôi là yêu thương và yêu thương là biết cho đi. Tôi cũng biết rằng: lịch sử đạo tôi không thiếu những gương yêu thương. Nhưng nơi khác có, mà có thể ở đây không có. Trước đó, mà có thể hôm nay không có. Nếu thực sự hôm nay và ở đây không có, thì không gì đau xót bằng. Là thành phần của đoàn thể, của họ đạo, của địa phận, của Giáo Hội, tôi có trách nhiệm vì sự thiếu sót đó. Tôi đừng xét đoán ai. Tôi đừng trách ai. Tôi hãy tự xét mình và trách mình trước. Lạy Chúa Giêsu nhân từ, con xin Chúa thương cho con nhìn rõ bổn phận yêu thương. Xin Chúa tha thứ mọi lỗi lầm của con. Xin Chúa ban cho cộng đồng của con được nhiều gương bác ái, để gương lành của họ nâng đỡ dìu dắt sự yếu đuối của con. Chúa là tình yêu, xin làm cho trái tim con trở nên giống trái tim Chúa.
Tội là điều xấu. Tất cả những gì liên quan đến tội đều xấu, thì dịp tội phải xấu, người phạm tội cũng xấu. Mà đã xấu thì không đáng yêu. Phải ghét phải tránh xa. Nên nếu tôi ghét kẻ tội lỗi, thì đâu có gì nghịch lý! Lập luận xem ra đúng. Nhưng nếu tôi muốn thuận lý với tôi, thì tôi phải ghét tất cả mọi người. Vì chẳng ai vô tội hết. Mọi người cũng sẽ phải ghét tôi hết. Vì tôi đâu phải là người sạch tội. Tôi cũng sẽ phải ghét tôi. Mọi người cũng sẽ phải ghét nhau. Vì tất cả đều có tội không nhiều thì ít. Và như thế giữa nhân loại với nhau, sẽ chỉ còn khinh ghét là dây liên lạc hợp lý! Ý kiến trên đây chắc không được ai chấp nhận. Kẻ khùng nhất cũng cho đó là đúng. Đúng thế. Tội xấu, nên phải ghét. Nhưng kẻ phạm tội, tuy xấu, nhưng vẫn có bao điều tốt trong nhiều phương diện. Ghét là trái lý tự nhiên, là trái lương tri nhân loại, là trái luật Chúa buộc yêu thương mọi người. Chính Chúa đã yêu thương kẻ tội lỗi. Hơn nữa, người còn dành cho họ một tình yêu đặc biệt. Chúa nói: “Ta đến không phải để gọi kẻ công chính, nhưng là để gọi kẻ tội lỗi” (Mt 9,13). Quả thực, vì yêu thương người tội lỗi Chúa đã giáng trần, mặc lấy thân phận con người mỏng giòn, đã sinh ra khó nghèo, đã sống lầm than và đã chết khổ cực. Vì yêu thương kẻ tội lỗi, Chúa đã lập các bí tích để cứu chữa, nâng đỡ và nuôi dưỡng họ. Tóm lại, suốt đời Chúa Giêsu là tận tụy cho kẻ tội lỗi. Kẻ tội lỗi là ai? Phải kể trước hết là tôi. Tôi tội lỗi hơn bao người, thế mà cũng được Chúa yêu thương rất mực. Tại sao tôi lại không yêu thương kẻ tội lỗi khác như Chúa đã yêu thương tôi. Nếu tôi cho rằng họ xấu, thì sao tôi không nhận ra rằng chính tôi cũng xấu, và có lẽ còn xấu vạn lần hơn họ. Nếu tôi bảo rằng họ chẳng đáng thương thì sao tôi không nhận ra rằng chính tôi kiêu căng ích kỷ hay khinh chê kẻ khác mới thực là kẻ chẳng đáng thương. Nếu tôi xử tệ với kẻ có tội, thì sao tôi không nhớ rằng tôi cũng sẽ bị Chúa xử lại với tôi như vậy (x. Mt 18,33-35). Tôi không được phép khinh ghét người có tội, trái lại, tôi phải yêu thương họ. Nhưng yêu thương cách nào? Tôi hãy học nơi Chúa Giêsu. Trước hết tôi thấy Ngài bênh đỡ họ. Có bao giờ Chúa đứng về phía Pharisêu kiêu căng và hay kết án tội lỗi đâu? Chúa chỉ trách mắng hạng người tội lỗi kiêu căng cố chấp như Pharisêu. Còn đối với kẻ tội lỗi yếu đuối thì luôn bênh đỡ. Một hôm, đám đông điệu một người đàn bà ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và tố cáo rằng: Chị này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Cứ theo luật thì chị này phải ném đá chết. Còn Thầy nghĩ sao? Chúa Giêsu bình tĩnh trả lời: “Ai trong các ngươi vô tội, thì yêu cầu ném hòn đá thứ nhất đi”. Rồi Chúa cúi xuống, lấy ngón tay viết chữ trên nền nhà, không nhìn, không nói với ai. Lúc ngẩng đầu lên, thì chỉ còn chị phụ nữ đứng đó. Chúa bảo: “Không ai kết án chị sao? Vậy tôi cũng chẳng kết án chị. Chị về bình an và đừng phạm tội nữa” (Ga 8,1-11). Nếu tôi đứng đó, có lẽ tôi cũng sẽ hùa theo đám đông, tỏ bộ khinh bỉ và nói những lời chê bai đối với người đàn bà tội lỗi ấy. Nhưng Đấng thánh thiện vô cùng lại không khinh chê, ghét bỏ và lên án chị. Trái lại thái độ của Chúa còn có tính cách bênh đỡ rõ rệt. Trên núi Sọ, tôi thấy tội dân Do Thái rõ rành rành. Thế mà Chúa Giêsu còn tìm cách bênh đỡ và cắt nghĩa lành cho họ. Ngài đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Nhìn thái độ Chúa, tôi thấy tất cả những thái độ hung hăng hay lên án kẻ khác thường không phản ảnh tinh thần của Chúa. Trái lại người nào càng thánh, càng trong sạch thì lại càng giàu tình thương yêu đối với kẻ yếu đuối lầm lạc. Tôi cũng thấy Chúa Giêsu hay tiếp xúc đi lại với các người tội lỗi. Ông Giakêu là nhân viên thuế vụ có tiếng tham nhũng. Dân chúng thường xa tránh bọn đó, nhưng Chúa đã đến thăm gia đình ông. Mà ông có mời đâu! (x. Lc 19,1-10). Matthêu cũng là người thu thuế bị nhiều điều tiếng. Chúa đến dùng bữa tại nhà ông. Có nhiều người thu thuế khác và xấu nết cùng ngồi đồng bàn với Chúa (x. Mt 9,9-13). Rồi tại bờ giếng Giacóp, một người đàn bà đang kéo nước lên, bà đã có năm đời chồng và người đang chung sống với bà lại không phải là chồng bà. Chúa Giêsu bước đến và chính Người bắt chuyện trước (x. Ga 4,7-26). Cả đến đoàn lũ đông đảo hay lui tới Chúa cũng như những người Chúa hay tới viếng thăm đâu có phải toàn là những người trong sạch. Có thể nói họ toàn là những người tội lỗi. Chúa thì thế, còn tôi thì sao? Mặc dầu tôi phải đề phòng, dè dặt và khiêm tốn, nhưng đừng đạo đức theo kiểu Pharisêu chủ trương xa lánh kẻ tội lỗi. Đừng muốn sống Phúc Âm hơn Chúa Giêsu, kẻo sẽ trở thành một đời sống ngoài Phúc Âm của Chúa Giêsu. Tôi cũng hãy bắt chước Chúa năng hy sinh cầu nguyện và tìm mọi cách phục vụ cho họ. Số tội nhân thì vô vàn, mà giờ nào tôi cũng có thể cầu nguyện và hy sinh. Sự góp phần của tôi tuy nhỏ, nhưng cũng sẽ cứu được nhiều người khỏi sa hỏa ngục. Tôi có thể làm mà không chịu làm, thì làm sao xong mình được trước mặt Chúa. Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương con là kẻ đầy tội lỗi xấu xa, xin giúp con biết yêu thương mọi người tội lỗi như Chúa đã yêu thương con.
Một triết gia xưa đã nói: “Người đối với người thật chó sói”. Tư tưởng đó còn được diễn tả tệ hơn nơi một triết gia hiện đại: “Địa ngục chính là những kẻ khác”. Theo tính tự nhiên, có lúc tôi cũng muốn chủ trương như thế. Đúng lắm, kẻ khác chỉ là loài chó sói rình rập cắn xé tôi, họ chỉ là địa ngục làm khổ tôi. Nhưng nghĩ lại, tôi thấy nói như vậy là quá đáng. Tôi không chối rằng thực sự bao người đã vô tình hay hữu ý làm khổ tôi. Nhưng không vì thế tôi được quyền xét đoán và kết án họ. Các sách thần học luân lý dạy tôi rằng chỉ trong những trường hợp hội đủ ba điều kiện sau đây mới được xét đoán: - Khi có quyền xét đoán - Khi biết rành mạch việc phải xét đoán - Khi hoàn toàn sạch mọi thiên kiến. Nhưng mấy khi tôi có đủ ba điều kiện ấy cùng một lượt. Ngoài những trường hợp hiếm hoi do chức vụ đòi hỏi, Chúa cấm tôi xét đoán và kết án bất cứ ai. “Các con đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét. Các con đừng kết án để khỏi bị kết án” (Mt 7,1). Thực Chúa khôn ngoan vô cùng, Ngài cấm tôi điều đó vì Ngài thương tôi. Ngài quá biết những xét đoán dông dài thường phát xuất bởi những nguyên nhân xấu và hay dẫn tới những kết quả xấu. Nguyên nhân xấu thứ nhất là lòng xấu. Về điểm này Đức Cha Fulton Sheen đã đưa ra một nhận xét táo bạo. Ngài nói: “Người nào hay đoán xét xấu cho người khác tội gì thường là dấu chính người đoán xét có khuynh hướng ngầm nghiêng ngã rất mạnh về tội đó”. Nhận xét tâm lý này làm tôi sợ quá. Thì ra khi tôi nghĩ cho một điều xấu nào thì chắc chắn người đó đã có điều xấu ấy, nhưng hầu chắc chính tôi lại có tính ham điều xấu ấy. Sự tôi xét đoán đã vô tình cáo tôi. Mà thực không, vì tư tưởng con người thường là sắc thái của khuynh hướng con người. Nguyên nhân xấu thứ hai là thiếu lòng mến Chúa. Lòng người đạo đức thánh thiện thường đơn sơ và bao dung. Họ chỉ biết mình và biết Chúa. Họ không dám nghĩ xấu cho ai. Hơn nữa họ còn cắt nghĩa lành cho kẻ khác. Trong Phúc Âm, hạng người hay xét đoán và hay kết án người khác không phải là ai khác ngoài Pharisêu, mà Pharisêu ai cũng biết là họ thế nào. Nguyên nhân xấu thứ ba là tính kiêu ngạo. Xét đoán ai tức là đặt mình lên trên họ. Mà có ai đặt tôi lên chức đó đâu. Chính mình tôi đặt tôi lên. Và đâu có phải vì lý do bác ái. Thường chỉ vì kiêu ngạo muốn coi mình hơn kẻ khác. Những xét đoán sinh bởi nguyên nhân xấu không thể nào sinh được kết quả tốt. Kết quả xấu thứ nhất là tôi dễ sai lầm. Mỗi người là một vũ trụ huyền bí. Ngay chính mình tôi mà tôi cũng chẳng rõ. Người khác cũng khó hiểu được tôi. Thế thì tại sao tôi lại tưởng tôi phán đoán đúng được người khác. Đến như tòa án với tất cả nhưng phương pháp khoa học mà vẫn có thể lầm, phương chi tôi. Tốt xấu con người tùy thuộc rất nhiều yếu tố. Thẩm định được chính xác là một điều quá khó. Phần vì trí khôn tôi nhỏ hẹp. Phần vì tôi dễ bị ảnh hưởng của thiên kiến, tính xấu, tình cảm, dư luận chi phối. Nên xét đoán người khác là một mạo hiểm nhiều khi vừa vô ích lại vừa bất công. Kết quả xấu thứ hai là làm tổn thương sự bình an của tâm hồn tôi và tâm hồn kẻ khác. Thực thế, khi tôi nghĩ xấu cho ai, thì tất nhiên tôi cho họ là không tốt. Ý nghĩ đó sẽ gây trong tôi một tình cảm bất kính và bớt tín nhiệm đối với họ. Có thể tôi sẽ dễ khinh họ, coi rẻ họ, dè dặt với họ. Có một cái gì làm tôi xa họ. Thế rồi khi gặp họ hoặc là tôi sẽ có thái độ bất kính đối với họ đúng như lòng tôi bên trong vốn nghĩ, hoặc là tôi sẽ cố gắng tạo một thái độ giả dối bôi bác bề ngoài. Cả hai cách đó cùng làm tôi mất mát và cùng làm đau lòng cho kẻ bị tôi xét đoán. Kết quả xấu thứ ba là làm cho tôi không biết rõ sự thực về tôi. Muốn biết rõ về mình thì phải vô tư, thận trọng và khiêm tốn. Nếu tôi quen xét đoán càn cho người khác thì đâu tôi có những đức tính đó. Không lo xét mình, mà cứ lo xét người khác, đó là một đặc điểm của Pharisêu. Kết quả xấu thứ bốn là tôi sẽ bị Chúa xét xử nghiêm ngặt. Có lần Chúa đã nói rõ là những gì tôi làm cho người khác, thì Chúa kể như là làm cho chính Chúa. Như thế khi tôi xét xấu cho người khác, thì tôi lỗ chắc chắn rồi. Trái lại nếu tôi không xét đoán ai thì tôi sẽ được lời to lớn. Chúa hứa chắc chắn: “Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán”. Chúa đã hứa thì Chúa sẽ giữ lời hứa. Tôi biết tôi nhiều tội quá. Nhưng Chúa đã cho tôi một lối thoát. Tôi sẽ lợi dụng lối thoát đó. Lạy Chúa, từ khi con không xét đoán ai con thấy lòng con nhẹ nhàng thư thái. Con dễ biết mình và biết Chúa. Con dễ vui vẻ và yêu mến mọi người. Nhất là con thực sự an lòng như nắm chắc một bảo đảm vô giá. Vâng, con biết con chẳng trong sạch gì. Nhưng con tin vào lời Chúa hứa: “Con không đoán xét ai thì Chúa cũng sẽ không đoán xét con”. Lạy Chúa, xin giúp con giữ trọn điều con dốc lòng.
Ngay từ hồi nhỏ, tôi đã được sách giáo khoa dạy rằng: không gì tốt bằng cái lưỡi, nhưng cũng không gì xấu bằng cái lưỡi. Hồi đó tôi không hiểu lắm. Nhưng dần dần càng đi sâu vào đời, tôi càng nghiệm thấy đúng. Không biết tôi có bi quan hay không. Nhưng kinh nghiệm sống đã cho tôi cảm nghĩ không mấy khác những tư tưởng của mấy đoạn Kinh Thánh sau đây: “Nhiều người đã chết vì võ khí, nhưng số người chết vì chính cái lưỡi của mình lại nhiều hơn” (Hc 28,18). “Rắn rết và thú dữ thì con người trị nổi, chỉ có cái lưỡi là khó ai trị nổi. Nó đầy nọc độc. Đi đâu thì hại đó...” (Gc 3,7-8). Cái lưỡi con người độc đến nỗi giết được người khác. Nhưng đáng sợ nhất là nó có thể giết luôn chính người có lưỡi. Tất nhiên ở đây nói theo nghĩa bóng. Giết có nghĩa là làm hại. Lưỡi tôi hại tôi, vì tôi dùng nó để hại người khác. Cách dễ nhất để hại người khác là nói xấu họ. Nói xấu người khác dễ ợt, chẳng vất vả gì, chẳng tốn kém gì. Nói ở đâu cũng có người nghe. Nói bất cứ điều xấu gì về người khác dù có thực, dù bịa đặt, thì cũng có người chú ý. Chính vì thế mà tôi dễ phạm và tôi coi thường. Nhưng sự coi thường đó có thể hại tôi vô số. Tôi bị hại lớn, vì tôi đã tự làm cho tôi ra hèn. Tôi hèn vì nói xấu làm một điều trộm vụng. Đó là thái độ tiểu nhân, bắn lén tên độc trong đêm tối. Tôi hèn vì nói xấu là một việc thiếu ngay thẳng. Thường, lời nói xấu của tôi hay được ngụy trang dưới những ý hướng đạo đức giả tạo, nào là để cầu nguyện cho họ, nào là để rút kinh nghiệm vv... Nhưng tôi thử hỏi Chúa Giêsu xem tôi thực sự có ý ngay lành hoàn toàn không? Tôi hèn vì nói xấu là dùng cách đê tiện để khoe mình. Nói xấu ai tức là chê họ. Mà chê ai thì bao giờ cũng gián tiếp khoe mình không xấu như họ. Hơn nữa, sự nói xấu đó nhiều khi cũng ngậm một sự ganh tỵ kiêu căng muốn hạ người khác để mình được nổi hơn. Tôi hèn vì nói xấu là dùng cách bần tiện để cầu thân. Nhiều khi gặp ai, tôi không có gì cho hay nói, thì làm quà cho họ một chuyện xấu của kẻ vắng mặt. Gọi là để tâm sự, gọi là để chứng tỏ lòng mình tin tưởng. Sự tôi làm như thế đã tố cáo tôi là kẻ nghèo nàn hèn hạ. Tôi bị hại lớn, vì tôi đã làm cho người khác không tin ở tôi. Điều đó dễ hiểu. Ai biết suy nghĩ một chút tất phải nghĩ rằng một người hay nói xấu kẻ khác với họ, thì cũng dễ nói xấu họ với kẻ khác. Một người không kính trọng kẻ vắng mặt, thì đâu họ có trừ ai. Tôi cũng sẽ bị hại lớn, vì tôi phạm tới đức công bình bác ái. Nói xấu là một cách đâm chém và ám hại người. Tiền bạc sức khoẻ là quý nhưng danh giá còn quý hơn nhiều. Người bị tôi nói xấu sẽ bị thiệt thòi mất mát. Những tủi nhục, mặc cảm và đau đớn khó chịu khó có thể lường được. Nhiều khi lời nói xấu của tôi còn ảnh hưởng đến sự nghiệp, đến liên đới của họ với các bạn bè, đến cả đời sống xã hội của họ nữa. Tôi sẽ bị hại lớn, vì tôi khó có thể đền trả được những thiệt hại do tội nói xấu của tôi gây nên. Rắc một nắm bông gòn ra ngoài đường trước gió, rồi một ngày sau lượm lại, hỏi rằng kết quả được bao nhiêu. Cũng thế, lời nói xấu của tôi cũng bay từ miệng người này sang miệng người khác, làm sao dập tắt được. Rồi những đau khổ mất mát tinh thần vật chất người ta phải chịu do lời nói xấu của tôi, thì làm sao tôi đền trả được. Mà không đền trả thì không thể xong mình trước mặt Chúa. Tôi sẽ bị hại lớn, nhất là vì tôi sẽ bị Chúa phạt nặng nề. Sự tôi làm cho kẻ khác thì Chúa kể như là làm cho chính Chúa. Như thế là chết tôi rồi. Thánh Bonaventura chỉ điểm cho tôi bốn cách nói xấu: - Một là khi người khác có sự tốt còn kín, tôi tìm cách che giấu đi, kẻo có ai biết mà khen. - Hai là người khác có sự tốt đã trống tôi tìm cách dèm pha, để người ta nghi ngờ mà bớt khen. - Ba là khi người khác có sự xấu còn kín, tôi tìm cách khui ra để người ta biết mà chê. - Bốn là khi người khác có sự xấu đã trống, tôi tìm cách tuyên truyền rộng ra, để người ta càng biết mà chê thêm. Cách nào cũng xấu hết. Và cũng không một lý do nào biện minh được cho việc nói xấu của tôi. Như thế từ trước đến giờ tôi đã dùng lưỡi để hại biết bao nhiêu người. Và như thế tôi đã hại tôi. Sự tôi hay nói xấu là một dấu rõ rệt báo hiệu sự suy sụp trầm trọng đức bác ái là căn bản của đạo Chúa. Nếu đặc điểm chính thực của môn đệ Chúa là yêu thương, thì sự tôi hay nói xấu đã vạch trần bộ mặt thực của tôi rồi. Dù tôi đeo mặt nạ đạo đức nào, thì tôi vẫn chỉ là Kitô hữu thứ giả. Lạy Chúa, con thành tâm xin lỗi Chúa. Con nhận biết rằng: con lỗi với người khác là con lỗi với Chúa. Con chẳng được một lợi lộc gì bởi những lời con nói xấu. Trái lại con đã gây thiệt hại cho chính con. Biết đâu vì lưỡi con mà con sẽ phải mất linh hồn đời đời. Xin Chúa thương giúp con từ nay biết can đảm chừa tội xấu xa ghê gớm đó.
“... Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Lời ca của thiên thần đêm Giáng Sinh đã trở thành đầu kinh “Vinh Danh” trong thánh lễ. Lời ca đó, tôi nghe và đọc hoài từ nhỏ tới giờ, không biết đã mấy chục ngàn lần. Còn nhỏ, tôi đã đọc lời đó giữa những tin của cuộc đại chiến. Lớn lên, tôi đọc lời đó giữa cảnh đấu tranh Cách Mạng Mùa Thu. Trưởng thành, tôi đọc lời đó trong khói lửa chinh chiến và hôm nay tôi đọc lời đó bên một chân trời còn vang tiếng súng. Bình an đâu? “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Càng nghe tôi càng thấy lòng chua xót. Chua xót như phải nhìn một bất lực của thiện chí, như chứng kiến sự thắng thế của bạo tàn. Tôi muốn oán thù những người đã gây nên cuộc chiến. Tôi muốn tiêu diệt những người gieo rắc đau thương. Tôi coi họ là những người phá hoại hòa bình. Nhưng, chính trong cảm nghĩ đó tôi mới chợt nhìn thấy rằng: Nếu tôi oán thù, nếu tôi cảm giận, nếu tôi ước muốn tiêu diệt kẻ khác thì chính tôi lại là người đang mất bình an, đang phá hoại hòa bình. Thì ra trách nhiệm việc đánh mất sự bình an không phải bắt đầu tìm ở nơi người khác, mà phải bắt đầu tìm ở trong tôi. Khởi điểm xây dựng hòa bình là chính lòng tôi. Xây dựng làm sao đây? Thiên thần bảo: Có thiện tâm sẽ có hòa bình. Thiện tâm là tôn trọng công lý: nghĩa là chu toàn bổn phận đối với Chúa và với tha nhân. Thiện tâm là biết yêu thương. Thương yêu là cho đi sự tốt lành bằng ước muốn, thái độ, việc làm và tiền của. Và vì thương yêu là cho đi sự tốt lành, nên tôi phải biết tha thứ, chịu đựng, phải biết thông cảm, không được phán đoán xấu cho ai, không được nói hành bôi lọ một ai. Do đó, thiện tâm đòi tôi phải khiêm nhường nhiều lắm. Khiêm nhường như trẻ thơ vô tội, không ác ý, không thù hằn, không kiêu căng ích kỷ. Chúa Giêsu Hài Đồng trong máng cỏ là hình ảnh bình an, vì Ngài bé nhỏ, vì Ngài khiêm nhường. Tôi phải bắt chước Ngài. Và tôi phải bắt đầu xây dựng ngay tự lòng tôi. Lạy Chúa, xin giúp con biết cố gắng tự thắng chính mình, tự thắng ích kỷ và kiêu căng để thực hiện Công lý và Tình thương, xây nền cho hòa bình chân chính.
Có những con đường tự hình thành. Nó không được phác họa theo một họa đồ, một chương trình. Nó không được kiến thiết do một kỹ sư, một tổ chức. Nó thành hình dần dần. Ban đầu một số người đi theo lối đó. Rồi nhiều người cũng đi theo lối đó. Đi nhiều thành đường. Hồi xưa phần lớn đường sá được thành hình theo cách đó. Bây giờ những đường như thế vẫn còn thấy ở các xóm ngõ, nhất là tại miền quê. Khi xã hội tiến triển và nhu cầu liên lạc gia tăng, nhiều đường mòn được xã hội chỉnh trang, mở rộng và đặt vào một hệ thống. Thế rồi hệ thống đường sá trở thành một thứ luật cho sự di chuyển. Lịch sự cũng giống như đường đi. Nó thành hình dần dần. Ban đầu còn thô sơ, sau trở thành những hình thức tinh tế tuỳ theo tiến triển của văn minh. Nó là những thái độ khởi sự từ những hành vi tự phát và hồn nhiên. Dần dần những hành vi đó được tinh luyện và phổ biến. Rồi trở thành tục lệ. Tục lệ cũng có giá trị như một thứ luật. Lịch sự hiện nay là một hệ thống những hình thức được xã hội thoả thuận chấp nhận như những con đường liên lạc giữa người với người, tùy theo tính chất những tương quan. Vì lịch sự là những hình thức đã được xã hội thoả thuận, nên tôi tự buộc mình giữ những hình thức đó. Những hình thức đó là những con đường liên lạc. Nếu không theo đường đó, tôi sẽ khó tới được tha nhân. Thí dụ: chào hỏi lễ phép là một hình thức, nhưng nếu tôi muốn thoát ly mọi hình thức lịch sự để không chịu chào người trên của tôi, hay chào một cách xấc xược, thì giữa tôi và vị đó sẽ ít còn đường liên lạc hay chỉ có liên lạc mà không liên kết. Vì lịch sự là những hình thức kính trọng bề ngoài diễn tả một thái độ bên trong, nên tôi không thể khước từ những hình thức đó. Con người có hồn, nhưng cũng có xác. Con người là con người xã hội. Bên trong không đủ phải có bên ngoài. Nội tâm của tôi, ai biết được. Kính trọng, biết ơn, yêu mến là những tâm tình phải chứng minh. Chứng minh ít nhất cũng bằng một thái độ đọc được ý nghĩa. Vì lịch sự là đặc điểm của con người có giáo dục, nên tôi không coi thường. Không ai bảo cái máy vô lễ. Không ai trách con vật thất lễ, vì chúng không có ý thức, không có ý chí tự do để lựa chọn thái độ. Còn tôi là người. Giáo dục đưa tôi từ chỗ là người đến chỗ làm người và nên người. Nếu tôi vô lễ, người ta có quyền cho tôi thiếu giáo dục, hoặc vô giáo dục. Đó không phải là một lời khen. Vì lịch sự là bông hoa thơm đẹp của giống người, nên tôi không nên thiếu sót. Bông hồng cài áo làm đẹp cho người mặc. Nhưng tôi phải mua, phải kiếm mới có. Còn bông hoa lịch sự tôi có thể tự làm lấy ngay tại mình tôi. Một cử chỉ nhã nhặn, một lời chào lịch thiệp, một câu cám ơn chân thành, một thái độ trọng kính, một cách ăn nói đi đứng đoan trang, tất cả đều là những bông hoa làm đẹp cho người có nó. Không đẹp vì nhan sắc, không đẹp vì áo quần, nhưng đẹp vì lịch sự, thì vẫn là một thứ đẹp đáng mến đáng kính. Có sắc đẹp nhưng không có lịch sự, thì chỉ là một thứ đẹp để coi, nhưng không để kính. Khi tôi giữ lịch sự, tôi phải chân thành. Ngoài sao, trong vậy. Nhưng nếu trường hợp bên trong tôi không ưa thích, tôi có nên có thái độ trong sao ngoài vậy không? Có lúc tôi muốn lựa chọn thái độ đó, vì tôi cho thế là thành thực. Nhưng nghĩ lại tôi thấy không được. Lịch sự cũng như các lễ nghi. Nó gồm những dấu bề ngoài. Vấn đề đặt ra cho tôi chỉ là có phải giữ lịch sự và những dấu đó không. Một khi tôi thấy phải giữ, thì tôi phải điều chỉnh nội tâm của tôi sao cho ăn hợp với các dấu bề ngoài đó. Sự thành thật tôi phải có ở đây là làm sao thái độ bên trong tâm hồn tôi cũng đẹp như thái độ lịch sự bên ngoài. Lịch sự phải thành thực. Nhưng thành thực cũng phải lịch sự. Khi tôi giữ lịch sự rất cần tinh thần bác ái. Lịch sự là một cách đối xử dựa trên sự tôn trọng và yêu mến tha nhân. Sẽ không có lịch sự, nếu không biết để ý làm vui lòng người khác. Nhiều lúc việc đó đòi hỏi phải tự chế, hy sinh. Lịch sự là một thứ kỷ luật. Lịch sự là một sự cho đi. Có tinh thần bác ái, lịch sự sẽ trở thành một khía cạnh của nhân đức thương yêu. Đừng cho lịch sự là không quan trọng. Có những người đáng lẽ đã thành công, nếu biết ăn ở lịch sự hơn chút nữa. Có những người tài thông giỏi, lương thiện, nhưng chẳng được mấy ai ưa, chỉ vì thiếu lịch sự. Có những thất bại lớn chỉ vì một thất lễ nhỏ. Được cảm tình hay bị ác cảm, một phần cũng do lịch sự, hay không lịch sự. Càng lớn càng cần lịch sự. Nhưng không mấy ai dám giảng lịch sự cho người lớn. Hình như đó là một thái độ lịch sự. Nhưng đó cũng là một đợi chờ tự giác. Tôi có hay tự xét và tự sửa không?
Tiền không bao giờ nói. Nhưng bao giờ cũng có tiếng nói về tiền. Tuy nhiên nói chưa nhiều bằng nghĩ. Mấy gia đình đã không có những người nghĩ đến tiền dù chỉ trong một buổi. Tiền chẳng cần ai, nhưng ai cũng cần tiền. Cần mà không dễ có. Muốn có phải lo tìm. Tìm hoài vẫn thường chẳng đủ. Không đủ nên mới lại càng cần. Cái vòng lẩn quẩn đó dắt con người lại làm quen với tiền. Làm quen rồi quen thuộc. Quen thuộc dẫn tới quen thân. Cứ thế, đồng tiền ung dung đi vào cuộc đời con người bằng đủ mọi đường mọi ngã. Tiền là vật chất, nhưng nó không là một sự vật như mọi sự vật khác. Dù rách, dù hôi, nó vẫn được quý trọng. Dù đẹp dù xấu, nó vẫn được người ta dành cho nhiều tình cảm. Phải chăng tương quan giữa người và tiền có gì đặc biệt? Nếu không, làm sao hiểu được đặc ân đó. Tương quan cắt nghĩa thái độ, cũng như thái độ được thành hình trên những tương quan. Thắc mắc đó xuất hiện như một thách thức. Nó dừng ở cuối đường hiện tượng của tiền, chờ đợi những ai muốn nhìn sâu vào thế giới đó. Thắc mắc đó không báo hiệu những khám phá dễ dàng. Tuy nhiên cứ đi vẫn hơn là dừng. Được chừng nào hay chừng đó, có còn hơn không. Biết đâu một vài kết quả khiêm tốn cũng góp được phần nào vào việc hiểu biết những khía cạnh quan trọng của vấn đề tiền.
CƠ CẤU THÁI ĐỘ CẦN TIỀN Đối với tiền, người ta có nhiều thái độ. Nhưng cần tiền là thái độ được coi là thông thường nhất. Hiểu nó, có lẽ sẽ dễ hiểu các thái độ khác. Muốn biết, phải phân tách. Khi phân tách thái độ cần tiền, ta gặp hai yếu tố hiển nhiên, đó là con người như chủ thể và tiền như đối tượng. Cặp đôi này chưa cắt nghĩa được gì vì nó chưa phải là tất cả. Một ví dụ sẽ nâng đỡ những suy tư trừu tượng: Lúc nãy tôi đang ngồi ở bàn giấy, thì một người tới thăm. Họ tặng tôi 20.000 đồng. Cử chỉ hào hiệp của người khác làm tôi vui sướng. Tôi tính sẽ dùng tiền đó để mua sách. Nhưng sau nghĩ lại, tôi nhất định lấy tiền đó mua thuốc và gạo cho một người nghèo. Hy vọng họ sẽ khỏi bệnh. Họ sẽ có thể đi làm lại, gia đình họ sẽ bớt lo âu. Mấy đứa con họ may ra có thể tiếp tục học hành. Nhận được sự giúp đỡ này chắc họ vui lắm. Trước mắt tôi bây giờ số tiền nói trên chỉ là một xấp giấy 500. Nhưng rõ ràng là tôi đã không nhìn vào xấp giấy đó như những tờ giấy có hình, có màu, có số, nhưng tôi đã nhìn vào giá trị của nó. Giá trị của nó là một thứ giá trị kinh tế, có thể mua một thứ đồ vật tương đương. Tôi nhìn vào giá trị này, nhưng để rồi lại vượt qua ngay. Vì đang sau gói thuốc bao gạo đã có những giá trị khác tôi nhắm tới. Đó là sự phục hồi sức khỏe của người bệnh. Tôi lại nhìn xa hơn giá trị đó nữa. Cái nhìn của tôi lướt từ giá trị này tới giá trị khác, để rồi nhoà đi trong một chân trời tương lai hứa hẹn hạnh phúc hiện lên mơ hồ. Tôi coi mỗi giá trị tôi nhắm tới như một cái mốc để thể hiện đường đi lên. Nếu đạt được cái nào tôi sẽ mừng lắm. Nhưng tôi vẫn cảm thấy nó tương đối, tạm thời. Trong thỏa mãn như đã có mầm bất mãn. Thỏa mãn vì đạt được. Bất mãn vì chưa đủ. Mỗi giá trị đạt được lại gọi tới những giá trị khác xa hơn. Chung quy, chẳng qua những giá trị đó chỉ là những hình thức tôi coi như phần mảnh để xây dựng một hạnh phúc. Hạnh phúc lý tưởng này sẽ là đích điểm, nhưng đã là động lực thúc đẩy tôi đi từ khởi điểm của chuỗi dài các giá trị nối tiếp nhau. Như thế, trong thái độ cần tiền của tôi không những chỉ có sự đối chiếu giữa tôi là chủ thể và tiền là đối tượng, mà ngay trong chính đối tượng cũng đã có nhiều sự đối chiếu, đối chiếu giữa sự tôi mơ ước sẽ có, đối chiếu giữa thế giới thực tại với thế giới mơ ước của tôi mà tôi dự tính xây dựng bằng tiền, đối chiếu giữa các thế giới dự tính đó với nhau, và đối chiếu chúng với hạnh phúc lý tưởng sau cùng. Tất cả những tương quan giữa các đối tượng đó được giàn trải ra trước ý thức, để chờ lựa chọn. Lựa chọn là việc của ý chí. Ý chí hành động một cách tự do không gì cưỡng bách được nó. Tuy nhiên sự lựa chọn của ý chí tự do không phải là hoàn toàn đứng ngoài mọi ảnh hưởng. Ảnh hưởng trực tiếp là lý trí. Lý trí phán đoán và đề nghị chọn lựa. Lý do đề nghị thường là những gì thực tiễn theo hoàn cảnh chính lúc đó và ngay chỗ đó, chứ không phải luôn luôn là những lý do xét theo lý thuyết và nguyên tắc bất định. Những lý do thực tiễn đó rất phức tạp nào lý nào tình, nào khách quan, nào chủ quan. Chính trong việc lý trí đề nghị, và phán đoán đã có nhiều động lực ngầm hoạt động trong tôi, để những lý do đưa ra trở nên những lý do có tính cách quyết định. Những động lực đó là khuynh hướng, đam mê, tình cảm, tập quán... Chúng ngầm kéo lý trí và ý chí coi trọng lý do này, coi nhẹ lý do kia, để rồi sau cùng ý chí tự do của tôi sẽ lấy một lựa chọn theo chiều hướng của những lý do thực tiễn đó. Lựa chọn tự do, phải, nhưng là một tự do dấn thân trong hoàn cảnh.
TỚI THÁI ĐỘ MÊ TIỀN Nhìn vào cơ cấu trên đây của thái độ cần tiền, người ta phỏng đoán được đâu là những yếu tố có thể biến thái độ cần tiền, thành thái độ mê tiền. Đầu tiên là những ý nghĩa mà mỗi người gán cho đồng tiền và cho cuộc sống. Dĩ nhiên đã có những ý nghĩa được các nhà đạo đức nêu lên toàn là những ý nghĩa trong trắng siêu việt. Không ai chê những ý nghĩa đó. Nhưng không vì thế mà những ý nghĩa đó được trở thành những chỉ tiêu cho mọi người trong thực tế. Trong thực tế, dĩ nhiên chỉ những gì thực tế mới coi như đáng kể, ít là theo phương diện chủ quan. Những thực tế đó là những gì? Thưa là đâu đâu đồng tiền cũng nắm quyền chỉ huy, đâu đâu tiền bạc cũng được coi là một giá trị làm nên mọi giá trị. Người nhiều tiền được kính nể. Nghề nhiều tiền được coi là quý. Người khéo làm ra tiền được coi là người giỏi. Nhiều tiền mới trông có được một đời sống đỡ khổ. Nhiều tiền mới mở mang được các cơ sở tôn giáo. Nhiều tiền mới thực hiện được những dự án xã hội bác ái. Nghèo đi liền với khổ. Có nhiều tiền tuy sao cũng sướng hơn. Tiền xem ra giải quyết tất cả. Ai cũng lo kiếm tiền trên hết. Nhiều đấng đạo đức dạy rằng tiền bạc là những giả trá thế gian phải coi như phân bón. Nhưng một số không nhỏ các đấng ấy vẫn chịu khó thu tích những sự giả trá đó, và vẫn kè kè giữ cho mình những phân bón đó. Có ai chê tiền đâu. Thực tế là thế. Thực tế làm nên kinh nghiệm, kinh nghiệm xây dựng dần dần nơi mỗi người ý nghĩa về tiền. Tất nhiên, lý trí vẫn hiện diện. Nhưng như trên đã nói, những lý do thực tiễn thường dễ được lý trí quan tâm hơn. Trong hoàn cảnh ấy, nếu tôi thụ động thiếu suy nghĩ và thiếu ý chí, để vô tình hay chú ý chấp nhận tất cả mọi ý nghĩa về tiền, mà thực tế hàng ngày chiếu giãi vào ý thức tôi, thì tôi không nên quả quyết quá mạnh là tôi không bao giờ mắc chứng mê tiền. Nếu tiền đã được coi như một giá trị vạn năng trong thực tế, thì chính cuộc sống thường cũng được hiểu theo một chiều hướng ăn nhịp với ý nghĩa của tiền. Một khi tiền được kể như phương thế cần thiết để gây nên hạnh phúc thì khó có chuyện tách rời cuộc sống ra khỏi đồng tiền. Khởi đi từ cuộc sống hiện tại, con người hướng tìm hoài về cuộc sống an vui và sung sướng hơn. Cuộc sống đó chưa có nhưng được xây dựng bằng mơ ước dự trù, chẳng hạn đó là đủ gạo ăn, đủ áo mặc, đủ chi tiết những chuyện lặt vặt, thường ngày. Cái thế giới mộng ước đó có thể thực hiện được, tất nhiên phải kiếm ra tiền. Nhưng khi mộng ước đó đã thành, nó lại trở nên một giới hạn chỉ hướng về một thế giới mộng khác đẹp hơn chẳng hạn đó là một căn nhà đúc, một khoảnh vườn. Để thực hiện cũng lại phải tiền. Có nhà cao vườn rộng rồi, người ta vẫn cảm thấy có một hạnh phúc cao hơn mời gọi mình bước tới, nhưng nó vẫn khuất dạng, sau những gì mình đang hưởng. Lại cũng phải tiền mới có. Cứ thế, con người có thể đi xa mãi, trong bối cảnh đó, ai không tự chế biết dừng mộng ước lại ở một giới hạn nào thích hợp, thì sẽ dễ theo đà đi xa hoài trong chiều hướng cặp đôi: mê tiền theo mộng, để rồi lại mê mộng theo tiền. Cũng thế, trong một cuộc sống bị đặt dưới áp lực của đồng tiền, ai không đủ tự chủ và sáng suốt, sẽ khó lại được đời sống mình vào những ý nghĩa sạch khỏi hơi hám của tiền bạc. Một chi tiết đáng để ý ở đây, đó là: ý nghĩa của sự chênh lệch giữa cuộc sống mơ ước và là cuộc sống hiện tại. Cuộc sống hiện hữu là một gợi ý và sơ thảo cho cuộc sống mơ ước. Nên cuộc sống ước mơ bao giờ cũng hơn cuộc sống hiện hữu một bậc. Vì thế, người nghèo luôn chỉ có ước mơ nhỏ, đang khi người giàu xây dựng những ước mơ lớn. Thế giới mộng ước của người không có đồng bạc dính túi, thường chỉ khiêm tốn trong khoảng mấy chục ngàn. Nhưng thế giới mộng ước của người đang làm chủ mười triệu trong tay phải ít là mấy trăm ngàn mới thấm. Thế mà ước mơ đó họ vẫn cho là khiêm tốn. Nếu có thể nói: kẻ mong được nhiều tiền là kẻ dễ mê tiền hơn kẻ chỉ mong được ít, thì kẻ càng giàu càng dễ mê tiền. Kẻ giàu khi đã quen xài tiền, và quen hưởng danh lợi thú do việc xài tiền, thì thói quen đó trở thành một nếp sống. Nếp sống đó tiến lên một nhu cầu và đẻ sinh ra nhiều đòi hỏi mới. Để thoả mãn, họ phải nhiều tiền. Nhiều tiền để duy trì nếp sống đã cao. Nhiều tiền để đuổi theo những mời gọi mới. Một đời sống đã bị thói quen ràng buộc vào đồng tiền quá chặt chẽ như thế sẽ không dễ tránh được tính mê tiền. Nhất là khi ý chí đã không quen từ chối những rủ rê của thế gian xác thịt.
TỚI MỨC ĐỘ MÙ QUÁNG Thói quen nào cũng có thể trở thành đam mê. Đam mê nào cũng có thể làm cho con người mù quáng. Có ý kiến cho rằng đam mê sắc dục dễ mù quáng nhất. Nhưng thiết tưởng tính mê tiền cũng mù quáng không kém, có phần lại hơn. Người đam mê sắc dục tới một giới hạn nào đó sẽ dễ biết mình lỗi lầm. Họ mắc cỡ, xấu hổ, giấu giếm tư tưởng và việc làm của mình, họ biết mình hèn. Nếu là người công giáo có lương tâm, họ sẽ cáo mình những tội đó. Còn người mê tiền thường không thấy một giới hạn nào. Họ có thể ước mơ tiền bạc suốt đêm, bàn tán về tiền suốt ngày, lo làm tiền suốt tháng, vơ vét tiền bạc suốt năm, mà vẫn không cho đó là vấn đề ít ra thỉnh thoảng cần phải xét lại. Đặc biệt là họ có thể mặc cho tính mê tiền của họ đủ các thứ áo đạo đức. Do đó, họ không cho việc mê tiền của họ là một tính xấu. Họ mê mà vẫn tưởng mình không mê. Họ đâu có cho việc tiền bạc của họ là hèn, trái lại họ còn tự phụ là khác. Nếu họ lại sống trong một xã hội thối nát, thì mây mù càng kéo dày trên mặt họ hơn, bởi vì họ sẽ được khuyến khích hơn. Những kẻ cầm cân nẩy mực đều hơn kém như họ. Chẳng ai trách được ai. Huề cả làng nghĩa là có sự đồng ý, có sự thông cảm, có sự chấp nhận, có sự hợp thức hoá, hiểu ngầm. Đã cố tình cho là hợp lý, hợp đạo, thì làm gì đặt ra được vấn đề sửa lại. Không nhìn thấy vấn đề, hay không muốn nhìn vào vấn đề, thì làm sao giải quyết vấn đề. Có lẽ chính là loài người mù quáng chai đá, bất trí mà Chúa Giêsu đã muốn nói tới khi tuyên bố một câu kinh khủng: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn kẻ giàu có vào nước thiên đàng” (Lc 18,24). Cần tiền là chuyện không tránh được, nhưng mê tiền là tính xấu, đầy nguy hiểm. Nguy hiểm vì nó dễ làm cho con người trở nên cứng cỏi, thiếu bác ác với người nghèo, giống như người giàu có trong Phúc Âm đã xử tệ với người hành khất tên Ladarô (x. Lc 16,19-31). Nguy hiểm vì nó dễ xúi con người phạm những tội bất công hại người, tương tự như trường hợp Giuđa bán Chúa (x. Mt 26,15). Nguy hiểm vì nó dễ làm cho con người trở nên loại Pharisêu giả hình tỏ vẻ đạo đức, “kinh kệ dài dòng, nhưng lại nuốt trôi gia tài những bà góa” (x. Mt 23,14). Nguy hiểm vì nó dễ làm ta coi thường những sự thánh, giống như những người đổi chác tiền bạc mà Chúa đã đuổi ra khỏi đền thờ (x. Mt 21,12-16). Nguy hiểm, vì nó cũng dễ đẩy ta vào số phận chết không kịp chuẩn bị, như người phú hộ nọ trong Phúc Âm đang lúc mải miết tính toán tiền bạc, thì thần chết ập tới lôi đi (x. Lc 12,16-21). Trong một thế giới mà ảnh hưởng của đồng tiền bao trùm quá rộng từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đến cả luân lý, đạo đức, thì những lời cảnh cáo của Chúa sẽ bị coi như lạc lõng. Chúa biết, nhưng Người đã nói: “Dù trời đất qua đi, Lời Ta sẽ không qua đi bao giờ” (Lc 21,23).
Im lặng là quê hương của kẻ mạnh. Vì trong im lặng mới phát sinh được những tư tưởng mạnh, nhờ im lặng mới nung nấu được những động lực mạnh, và để im lặng thường phải có ý chí mạnh. Im lặng là vàng. Tuy nhiên, không phải luôn luôn nên im lặng. Nhiều khi phải nói. Nói đâu phải xấu. Xấu tốt là do nội dung, ý hướng và cung cách. Nội dung lời nói phải là sự thực. Đã nói thì phải nói sự thực. Nhưng không phải sự thực nào cũng nên nói. Gán cho người điều xấu không có, đó là vu khống. Tiết lộ hay phổ biến điều xấu người ta có, đó là nói hành. Gièm pha, thêm bớt xuyên tạc, đó là những hình thức và mức độ khác nhau của vu khống và nói xấu: tất cả đều xấu. Ý hướng lời nói phải là sự thiện. Nói để thông tri. Nói để xây dựng. Nhưng có khi nói sự thực với chủ ý phô trương, có khi nói đạo đức với thêm ý quảng cáo chính mình, có khi chỉ trích sự tội kẻ khác với thâm ý hại họ và đề cao bản thân, có khi bênh vực chân lý với hậu ý bênh vực tự ái. Cung cách lời nói phải là lịch sự. Nói là truyền thông tư tưởng, nhưng cũng đã diễn tả chính mình. Có nhiều kiểu nói cộc cằn, biểu lộ tâm hồn thiếu tế nhị. Có những giọng nói hách dịch, tố cáo một khuynh hướng kiêu căng. Có những lời nói cứng cỏi phơi bày một tính tình nghèo thiện cảm. Tất cả đều xấu. Lời nói là người. Có người càng nói nhiều, càng tỏ mình trống rỗng. Người ta dễ khen kẻ nói ít. Chẳng mấy ai khen kẻ nói nhiều. Kẻ nói ít và kẻ nói nhiều, cả hai cùng đáng sợ. Nhưng hai cái sợ khác nhau. Sợ kẻ nói ít vì họ vẫn còn những gì mình nên dè dặt. Sợ kẻ nói nhiều, vì họ dễ trở thành một nguyên nhân phiền rầy. Nói nhiều chưa chắc đã làm nhiều. Làm nhiều nói ít thì hơn là nói nhiều làm ít. Nói hay, không tại hay nói. Thà ít nói mà tư tưởng phong phú rõ rệt, còn hơn là hay nói mà tư tưởng nghèo hèn luộn thuộm. Nói nhiều khó tránh được sai lỗi và dư thừa. Sai lỗi tất nhiên không tốt, mà dư thừa cũng chẳng là điều hay. Nói dai dẳng, nói hoài, nói không để ai nói, nói không cần ai nghe, đó là cách gây ác cảm rất thành công. Lời nói là một ký hiệu. Ký hiệu là dấu bề ngoài. Gọi là dấu bề ngoài, vì nó dùng để chỉ một sự bên trong. Không thấy được bên trong, nên mới phải dùng dấu bề ngoài. Dấu chỉ có thể mang nhiều ý nghĩa. Ý nghĩa một ngôn từ thường được thành hình do một sáng kiến, một thói quen. Nó có thể biến đổi. Một ngôn từ khi đã dùng cho nhiều nghĩa khác nhau thì việc chọn lựa phải rất thận trọng. Vì tâm lý con người thường dễ liên tưởng từ nghĩa nọ sang nghĩa kia. Thí dụ đẹp và kêu như danh từ dấn thân, nhưng hiện nay đã dùng cho quá nhiều nghĩa, từ tốt nhất cho tới xấu nhất. Hiện tượng đó coi là một kinh nghiệm. Chọn lời mà nói. Chọn chữ mà dùng. Ăn phải nhai, nói phải nghĩ. Nói hợp với người nghe. Việc đó không dễ. Chắc không phải vô cớ mà thánh Giacôbê đã quả quyết: “Ai không lỗi trong lời nói, người đó là người hoàn toàn” (Gc 3,2). Thế mà, có bao giờ tôi chịu khó xét mình về vấn đề nói năng không?
Đôi khi quỳ trước ảnh Thánh Gia tôi nghĩ tới Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse xưa đã sinh sống khó nghèo, tôi thấy thương các Ngài. Tôi nghĩ giả như tôi được gặp các Ngài hồi đó, tôi sẽ phục vụ các Ngài tận tuỵ biết mấy. Tôi sẽ lo cho các Ngài từng ly từng tí. Tôi sẽ nhường căn phòng của tôi cho Thánh Gia. Tôi sẽ liệu đủ mùng mền, đủ đồ đạc, đủ mọi tiện nghi cho các Đấng. Tôi sẽ rất vui mừng được nhịn ăn bỏ ngủ để phục dịch hầu hạ Thánh Gia suốt ngày đêm. Tóm lại, tôi sẽ làm hết sức mình để các Ngài được vui... Những tư tưởng trên đây của tôi đẹp quá. Nhưng nghĩ đi rồi nghĩ lại, tôi thấy những tư tưởng của tôi chỉ là một thứ đạo đức quá dễ dàng. Lòng tốt của tôi có thực sự phản ảnh đức tin không? Để thử trắc nghiệm lòng tôi, tôi đưa ra những giá dụ thực tế hơn. Giả như hôm nay, Thánh Gia tàng hình đến với tôi dưới hình thức đôi vợ chồng nhà quê nghèo nàn dắt theo một đứa nhỏ rách rưới. Các Ngài đến tôi xin cơm, xin tiền, xin trọ. Tôi sẽ đối xử thế nào? Nếu tôi là người giàu sang, tôi có cho các Ngài bước vào nhà tôi? Hay là tôi sẽ để các Ngài đứng ở cổng, ngoài sân, dưới thềm, rồi bố thí cho mấy chục bạc và giục mau đi nơi khác? Rất có thể tôi sẽ xử sự theo cách thứ hai. Nếu tôi thuộc cấp cao, Thánh Gia tàng hình làm kẻ nghèo như thế có hy vọng được tôi tiếp không? Còn lâu? Nếu tôi ở địa vị lãnh đạo, mà Chúa Giêsu tàng hình làm dân thường, lại dám lên tiếng phê bình tôi giả hình, bất xứng, tôi sẽ có thái độ nào? Ô! Tôi sẽ cho biết tay tôi! Thì ra tôi cũng chẳng hơn gì người xưa. Nếu bây giờ Chúa có sinh xuống thế gian một lần nữa dưới hình thức kẻ nghèo, may lắm Ngài mới được sinh ra ở nhà thương thí. Ngài cũng sẽ bị khinh, bị đuổi và bị chế giễu. Xưa các thầy cả đạo cũ và Pharisêu đã làm gì cho Chúa, thì bây giờ rất có thể tôi cũng làm y hệt, nếu Ngài tàng hình đến đây đả phá bất công và đời sống đạo đức giả tạo của tôi. Tôi cũng sẽ cắt nghĩa xấu cho Ngài, cũng sẽ tìm cách bắt bẻ và bôi lọ Ngài. Rất có thể chính tôi cũng sẽ nhân danh đạo, nhân danh Giáo Hội, nhân danh Thiên Chúa kết án Ngài là kẻ xách động, kẻ phá quấy, kẻ rối đạo. Và nếu Ngài cứ tàng hình làm người dân nghèo, sống nghèo, hăng hái bênh vực kẻ nghèo, dám mạnh dạn nói lên sự thật phật ý kẻ có quyền đời đạo, như Ngài đã làm xưa, thì không chừng tôi sẽ chụp luôn cho Ngài cái mũ đỏ. Đúng như vậy. Thì ra tôi tưởng tôi có đức tin mạnh mẽ lắm, nhưng sự thực, nhiều khi tôi tin Chúa ở tượng ảnh hơn là tin Chúa ở nơi người nghèo. Tôi giữ đạo đối với tượng ảnh hơn là đối với tha nhân. Tôi cứ tưởng tôi có đức tin sống động lắm nhưng thật ra tôi vẫn thường đánh giá con người theo dáng vẻ bề ngoài. Kẻ giàu sang thì được tôi kính trọng, kẻ bần cùng thì bị tôi khinh. Tôi cứ tưởng tôi hăng hái bênh vực quyền lợi của đạo, của Chúa, nhưng thật ra nhiều khi tôi chỉ vin vào đạo Chúa để bênh vực quyền lợi riêng tư của tôi. Lạy Chúa, đức tin của con còn hời hợt quá. Xin giúp con biết sống đức tin hợp tinh thần Phúc Âm hơn, nhất là bằng cách biết nhìn thấy Chúa trong các người nghèo.
"Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội...”. Tôi thầm nguyện lời đó khi tôi ngẩng nhìn lên trời. Trên cao xa, chỉ thấy mênh mông thăm thẳm sau những tầng mây. Nhưng tôi nguyện cầu không phải với trời, với mây, song là với Đấng cai trị trời mây. Tôi xin Người đổ sương xuống vì tôi biết tôi khô cạn. Tôi xin Người cứu độ tôi, vì tôi biết tôi quá nghèo nàn. Thân phận tôi! Tôi biết tôi thực sự không đúng như tôi thường cảm nghĩ về tôi. Tôi biết tôi thực sự không đúng khi tôi vốn ước mơ cho tôi. Tôi biết tôi thực sự không đúng như người ta tưởng về tôi. Tôi biết tôi thực sự không đúng như sự mà tôi tưởng người ta nghĩ về tôi. Tôi quá nhỏ bé và lệ thuộc. Tôi không tự mình mà có. Trong tôi có gì gọi được là hiểu biết, có gì gọi được là đạo đức, có gì gọi được là tốt đẹp, đâu có phải do một mình tôi. Hầu hết tôi có học được nơi người khác và do người khác. Cả đến đời sống vật chất, tôi cũng phải lệ thuộc. Từ không khí đến cơm và nước uống. Đến áo quần nhà cửa. Tôi quả là một sự thiếu thốn trần trụi. Trong sự thiếu thốn đó, tôi lại chất đống bao nhiêu thứ dại dột: ý nghĩ dại dột, ước mơ dại dột, lời nói dại dột, việc làm dại dột. Và thứ dại dột tệ nhất chính là phạm tội. Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót, và như thế mỗi ngày không biết bao nhiêu lần. Một chút lợi thú có thể làm tôi phạm tội. Cũng như một cơn gió, một miếng ăn, một tai nạn có thể làm tôi đau và làm tôi chết. Tôi quả thật là yếu. Thân phận tôi là thế và còn hơn thế. Nhưng tôi tin Chúa vẫn thương tôi. Người yêu tôi lắm. Người là tình thương. Người là hy vọng. Càng hiểu thân phận mình, tôi càng thấy mình gần Chúa và mến Chúa hơn. Tôi không chút gì sợ sệt ngã lòng. Nhưng tôi vẫn tin nhìn Chúa và thành tín nguyện cầu: “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội...!”.
Noel những năm trước, tôi đói hòa bình. Noel năm nay, tôi vẫn đói hòa bình, lại còn thêm đói ăn. Cái đói nào cũng khổ. Đã đói lại còn lo. Lo không biết làm sao để hết đói. Lo không chừng chiến tranh lại tái phát thê thảm. Đói nên lo, lo nên buồn. Lo buồn này kéo lo buồn khác như những mặt xích của một dây chuyền dài, càng ngày càng xiết chặt cuộc sống vốn đã ốm gầy. Tương lai mù mịt. Những lời hứa hẹn tốt đẹp nhất cũng chỉ dù loé lên một vài hy vọng mờ nhạt. Tin ai được, khi đời sống đã bị lừa đảo quá nhiều, đã bị thất vọng quá nhiều niềm tin. Đời nghèo đói như một ngõ cụt. Chẳng ai muốn vào đó. Ai lỡ vào rồi thì tìm đủ cách để thoát ra. Thế mà, Chúa ơi! Sao Chúa lại sinh ra trong thân phận người nghèo? Đói nghèo cực khổ lắm, Chúa không biết sao! Vừa túng thiếu vất vả nhọc nhằn vừa bị người ta khinh bỉ, thiệt thòi đủ thứ. Chúa chọn cảnh nghèo làm chi vậy? Nếu Chúa không phải là Chúa, thế nào người ta cũng chê là dại. Nhưng dần dà con đã hiểu. Chỉ có Chúa thánh thiện, khôn ngoan và thương yêu vô cùng mới dám “dại” như thế. Thực vậy, việc Chúa chọn phận nghèo chính là một nguồn an ủi lớn cho con. Trước hết, với cuộc sống nghèo, Chúa đã tích cực chia sẻ cuộc đời túng thiếu của con. Chúa chia sẻ thực sự bằng cách Chúa sống với người nghèo, trong cảnh nghèo, như người nghèo và cho người nghèo. Nhìn hang đá Noel, con thấy Chúa còn nghèo hơn con. Nhưng nhờ đó, con cảm thấy Chúa gần con, như một người bạn, như một người thân. Chẳng ai dám chia sẻ đời nghèo của con để sống gần con như thế. Có Chúa, con cảm thấy bớt cô đơn buồn tủi. Ngoài ra, sự Chúa chọn phận nghèo, còn dạy cho con giá trị cao quý của đau khổ. Chúa đã dùng đau khổ để cứu con và nhân loại; con không thể lên trời bằng con đường khác. Hiện giờ đau khổ không thiếu. Chỉ cần con chịu những đau khổ ấy với tâm tình mến Chúa và khát khao tìm Chúa, tức khắc đau khổ sẽ trở thành con đường đưa con về hạnh phúc bất diệt. Cũng nhờ đó con mới nhận ra rằng cảnh nghèo không thể kéo dài hơn cuộc sống trần gian. Nó chỉ tạm thời, rồi nó sẽ qua đi. Nếu nó có thể dùng vào việc mở cửa thiên đàng, thì nó không phải chỉ biết gây đau thương và bất hạnh. Tất nhiên, con sẽ cố gắng xoay xở làm ăn để có đủ sống xứng đáng con người, nhưng nếu cảnh nghèo cứ bám chặt lấy đời con, thì con phải lợi dụng nó, để biến nó thành một phương tiện làm giàu thiêng liêng. Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin giúp con biết thánh hoá cảnh túng nghèo đau khổ. Công việc không dễ dàng. Nhưng với ơn Chúa, con tin sẽ thực hiện được. Ngay từ bây giờ, xin thương ban cho tâm hồn con tinh thần bình an và phó thác, để dù no dù đói, con luôn nhận thấy tình thương Chúa theo sát đời con.
Mỗi chiều tôi âm thầm nói với Chúa “Từ vực sâu con kêu lên Chúa, Chúa ơi...” (Tv 50). Tôi nói lời đó với tất cả tâm hồn tôi. Tôi nhìn rõ vực sâu tôi đang ở, không phải thung lũng này. Không phải căn nhà này, không phải trần gian này. Vực sâu là tội lỗi muôn vàn của tôi. “Ngày mới sinh, tôi đã mắc tội rồi, “Trong lòng mẹ, tôi đã là bất chính” (Tv 50) Rồi từ bé tới giờ, tôi đã phạm không biết bao nhiêu là tội. Tội nào cũng là một vực sâu. Không tội nào không lăn xuống dốc. Không tội nào không đào lỗ chôn tôi. Tội đẩy tôi xa Chúa. Mà Chúa là mặt trời công chính, nên càng xa Chúa, tôi càng nhìn xuống tối tăm đen đặc. Chúa là nguồn sống, nên càng xa Chúa, tôi càng chôn sâu hồn tôi vào cõi chết. Chúa là tự do, nên tôi càng xa Chúa, tôi càng cột mình vào kiếp sống nô lệ. Tội làm nên xa vắng. Tội làm nên cô đơn. Vì tội cướp mất tình yêu. Vì tội để trong lòng tôi khoảng trống rợn rùng. Khoảng trống của sự mất mát, nên mới xót xa. Khoảng trống đợi chờ, nên mới cô đơn. Khoảng trống này không phải là không có gì, nhưng là hiện diện cay đắng của một sự thiếu vắng tình yêu tha thiết. Trong khoảng trống âm u này, tôi vẫn biết Chúa nhìn tôi. Nhưng tội lỗi tôi làm tôi không dám ngước nhìn lên Chúa. Hai bên khác xa nhau hơn trời cao với vực thẳm. “Ai sẽ lên núi Chúa? “Ai sẽ đứng trên thánh điện Ngài? “Là kẻ có bàn tay vô tội, có tâm hồn trong trắng” (Tv 23). Nhơ nhớp như tôi, sao có thể xứng đáng được cảm thấy mình hèn hạ. Tôi tự đặt mình vào một thái độ ẩn lánh trong vực thẳm linh hồn. Như ẩn trốn mà vẫn khóc than gọi Chúa. Lòng tôi không ngừng khát vọng Chúa. Nhưng trong vực sâu, tôi như con chim bay hoài không tìm được chỗ thoát. Tư bề ngăn chặn. Bay lên lại rơi xuống. Đã bị giam rồi, còn bay về đâu? Chính trong tình trạng này, tôi lại nhìn thấy rõ sự yếu đuối của tôi. Tôi chẳng có sức gì. Tôi chẳng có công phúc gì. Sự yếu đuối tôi là một vực sâu nối liền vực sâu tội lỗi. Thánh Phaolô nói: "Tôi khoe mình vì sự yếu đuối của tôi, để quyền năng Chúa ngự trị trên tôi” (2 Cr 12,9). Nhưng tôi thì khác. Tôi khó có khoe mình được như thánh Phaolô. Ngài khoe mình yếu đuối chỉ vì khiêm tốn. Còn tôi không biết có đủ khiêm tốn thực sự để khoe mình yếu đuối hay không? Tôi có lý do để sợ, vì sự khiêm tốn của tôi cũng rất mực yếu đuối. Nhìn thấy thế, tôi mới lại càng rõ mình yếu hèn kém cỏi. Vực sâu nào mà chẳng nguy hiểm, huống hồ vực sâu của tội lỗi và của sự yếu đuối. Những vực sâu này có thể nuốt tôi xuống hỏa ngục đời đời. Ngay một nguy hiểm đó cũng làm tôi khiếp sợ. Nhưng không phải vì khiếp sợ, mà tôi sẽ tránh nhìn vào vực sâu. Cũng không vì để tránh khiếp sợ mà tôi sẽ giấu mình rằng tôi không đứng trong vực sâu nào cả. Không chịu biết mình mới lại là một vực sâu còn nguy hiểm gấp bội. Lạy Chúa, con nhận biết con đang ở dưới vực sâu thăm thẳm. Con không sao cứu được con. Cũng chẳng ai sẽ có thể giải thoát cho con. Con kêu van Chúa. Xin Chúa đoái thương.
Đau của tâm hồn bao giờ cũng khổ cực hơn đau của thân xác. Và trong những nỗi khổ của tâm hồn xem ra không gì đau đớn bằng cô đơn. Chúa Giêsu cũng đã trải qua tình trạng đó. Trong suốt cuộc khổ nạn, Chúa không hề kêu đau. Dù chịu trói, chịu đánh, chịu đóng đinh, Chúa vẫn luôn luôn nín thinh chịu đựng. Thế nhưng, trong vườn cây dầu Chúa đã phải than: “Tâm hồn Thầy buồn rầu đến chết được”. Rồi trên thánh giá, trong những giờ đau đớn cực độ, Chúa lại thốt ra một lời ảo não: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con!”. Ôi lời cô đơn của một người cô đơn nhất. Đúng là một nỗi buồn đang giết chết. Nỗi buồn đến chết được thường đẩy con người xuống cô đơn thăm thẳm. Người buồn ưa chui vào trong cô đơn nội tâm heo hút, như để lẩn tránh, như để mình thương cho số phận mình. Cô đơn không phải là không có ai, nhưng là một thiếu vắng. Nó là một sự hiện diện cay đắng của một sự thiếu vắng những gì thân yêu nhất. Bởi chưng làm gì có cô đơn, nếu chẳng có đợi chờ. Nếu sự thiếu vắng chỉ là vô tình và vô tội, thì cô đơn vẫn không đến nỗi ác nghiệt. Nhưng nếu là một sự thiếu vắng chủ ý do lòng không tốt, thì cô đơn trở thành cực hình. Và khi cô đơn có nghĩa như một sự thiếu vắng vì phản bội và tự ý từ bỏ, thì đó là một cô đơn tàn sát. Chúa Giêsu đã cảm thấy tất cả những cô đơn đau đớn nhất. Phêrô phản bội, các môn đệ bỏ trốn một cách hèn nhát, những người chịu ơn lánh mặt, dân chúng vô ơn, cả nhân loại hững hờ. Chính Đức Chúa Cha cũng như bỏ rơi Ngài. Người cô đơn là người sống trong một thế giới sụp đổ. Không phải thế giới bên ngoài, nhưng thế giới trong lòng mình. Thế giới khách quan vẫn còn đó. Nó là của chung và lãnh đạm. Nhưng mỗi người đều có một thế giới riêng, một thế giới tâm tư xây dựng bằng những đường dây tình thương, vui buồn và hy vọng. Nó cũng là những ý nghĩa của thế giới khách quan đối với mình. Mình quen sống trong đó như một quê hương lựa chọn. Nhưng khi những đường dây bị đứt, thế giới đó sụp đổ, con người đột nhiên thấy mình trơ trọi bơ vơ. Trơ trọi giữa đám đông, thế mới khổ. Những sự gần thì mình nhìn như xa vắng. Những sự xa vắng thì mình lại tìm như một sự thân yêu. Mâu thuẫn đó di chuyển tâm hồn trở đi trở lại trên con đường hai chiều cùng hoang vắng. Sự mình đang có thì vắng lòng chờ đợi. Sự lòng mình đợi chờ thì lại thiếu vắng hiện diện. Chung quanh Chúa Giêsu khổ nạn có hàng ngàn người tuôn đến. Nhưng Chúa vẫn cảm thấy cực kỳ cô đơn. Bởi vì cái thế giới hiện diện không phải là cái thế giới Ngài chờ đợi. Sự có mặt của bấy nhiêu người không có ý nghĩa một sự thiện cảm, một sự chia sẻ và bênh đỡ nhưng có ý nghĩa một sự biểu lộ khinh chê thù ghét. Cũng như sự trốn tránh của các môn đệ, và sự chối bỏ của Phêrô đều mang ý nghĩa của một sự ích kỷ, một sự thất hứa, một sự phản bội. Những ý nghĩa đó như những con dao sắc bén đâm sâu vào một trái tim chỉ biết có yêu, chỉ đợi có tình. Sự cô đơn của Chúa Kitô khổ nạn là một đau khổ ghê gớm. Với sự cô đơn đó, Chúa đã sống trọn vẹn thân phận con người, để sự cô đơn của tôi không trở thành đơn độc. Tôi cô đơn, vì tôi không nhờ được ai sống hộ cuộc đời của tôi. Tôi cô đơn, vì tôi nhìn thấy chung quanh tôi có quá nhiều bức tường xa cách. Tôi cô đơn, vì tôi chạy trốn tình yêu. Tôi cô đơn, vì nhiều khi tôi gọi những người thân yêu của tôi ở thế giới bên kia, nhưng tôi vẫn cảm thấy xa vắng lạnh lùng. Tôi cô đơn, vì nhiều khi tôi thiết tha đi tìm Chúa, nhưng Chúa vẫn như lánh mặt. Có những giờ phút cô đơn hơn nước mắt, và đe dọa hơn sự chết. Chỉ còn Chúa, nhưng ôi! Lạy Chúa, sao Chúa cũng bỏ con. Xưa kia, Chúa sống trong đau khổ của cô đơn, nhưng Chúa đã biết trước mọi diễn tiến và giờ khắc của nó: bắt đầu từ chiều thứ năm sang ngày thứ sáu, chấm dứt ba giờ chiều đêm thứ bảy rạng Chúa nhật là sống lại vui vẻ vinh quang. Còn con, con đau khổ cô đơn trong mù mịt. Con không biết được sự đau đớn của con sẽ đi tới đâu và bao giờ hết. Con chỉ biết tin vào Chúa. Chúa đã sống lại thì con cũng tin rằng mọi đau khổ cô đơn của con không trở nên vô ích. Có ngày sẽ hết. Con sẽ được vui với Chúa. Con biết thế đó, nhưng niềm tin không làm con hết khổ. Chính Chúa cũng đã tranh đấu với cơn buồn khổ cô đơn, đến khi phải kêu than và đến toát mồ hôi máu, phương chi một người yếu đuối như con. Ôi! Chúa Giêsu yêu dấu của con, con chấp nhận cô đơn vì Chúa, xin thêm cho con Đức Tin và can đảm.
Tôi di cư đã 20 năm. Tôi biết miền Bắc. Bao nhiêu kỷ niệm còn đó. Nhưng luyến tiếc miền Bắc không ngăn trở tôi thương mến miền Nam. Quê Bắc, hương Nam: cả hai cùng làm nên một quê hương yêu dấu. Tuy nhiên, tôi luôn luôn sống trong cảm tưởng của một kẻ lưu đày. Vì dù sống ngoài Bắc hay trong Nam, tôi vẫn luôn luôn nhớ nhung một quê hương khác, vẫn luôn luôn khắc khoải đi tìm một thứ quê hương lạ. Quê hương đó đẹp lắm. Tôi nhìn thấy rất rõ, như thể có lần tôi đã ở và nay đã mất rồi. Tôi đi tìm một thứ quê hương chỉ có toàn sự thực. Nhưng trong kiếp sống bọt bèo này, tôi đã gặp biết bao sai lầm. Tôi lầm, người khác lầm, ai cũng có thể lầm. Lầm lỗi, là chuyện thường. Không lầm lỗi mới lạ. Tôi đi tìm một thứ quê hương chỉ có toàn sự chân thành. Nhưng tôi đã đụng phải vô số sự giả dối. Đồ vật giả tạo đã nhiều, mà lòng người giả dối lại càng nhiều hơn. Nếu tôi biết rõ được người khác nghĩ gì về tôi, nói gì sau lưng tôi, cảm gì khi tôi được may, hay gặp rủi, làm gì sau khi tôi chết, chắc tôi sẽ thấy chân thành là một báu vật rất hiếm hoi trên đời. Tôi đi tìm quê hương chỉ có toàn tình yêu ngọt ngào và tuyệt đối. Nhưng tôi đã thấy hận thù và những tình yêu tương đối, pha trộn đắng cay. Những bài ca tình thường nức nở. Những bài ca sầu thường than khóc tình yêu. Khi tôi muốn ca ngợi tình yêu thì tình yêu đổi thành nước mắt. Khi tôi muốn kể lể đau khổ, thì đau khổ lại biến thành tình yêu. Tôi đi tìm một thứ quê hương chỉ có toàn sự trung tín. Nhưng tôi đã gặp vô số những thất trung thất tín. Hình như trong thề hứa đã có mầm phản bội, cũng như trong hy vọng, đã có mầm thất vọng, chỉ đợi hoàn cảnh thuận tiện là mọc lên. Tôi đi tìm một thứ quê hương chỉ có đoàn tụ. Nhưng tôi thấy khắp quanh tôi là một khúc ly ca vĩ đại. Hoa nở rồi tàn. Mây tụ rồi tan. Trăng tròn rồi khuyết. Người gần rồi xa. Mỗi thoáng thời gian là chia ly chen vào cuộc sống. Tôi đi tìm một thứ quê hương chỉ có niềm vui. Nhưng tôi chỉ gặp những dòng sông nước mắt. Con người sinh ra trong tiếng khóc, lớn lên trong vất vả, trưởng thành trong thử thách, già nua trong tiếc thương và chết trong đau khổ. Tôi đi tìm một thứ quê hương chỉ có sự tốt lành. Nhưng tôi đã gặp muôn vàn tội lỗi. Tội nhiều quá. Tội dữ quá. Chúng hùa nhau muốn kéo cho sập vận mệnh của tôi, của đồng bào tôi, của cả nhân loại. Tóm lại, quê hương tôi muốn thì tôi không gặp. Những thứ gì tôi không muốn thì lại phải gặp. Thực là mâu thuẫn. Mâu thuẫn đó sống ở trong tôi và tôi sống trong mâu thuẫn đó. Mâu thuẫn đó gây trong tôi một sự băn khoăn thường xuyên đầy nguy hiểm. Nguy hiểm không ở sự tôi sẽ như kẻ si tình sống về tương lai, hay như kẻ thất tình tìm về dĩ vãng, nhưng nguy hiểm ở chỗ tôi có thể chán nản, buông xuôi, bất cần đến tương lai quá khứ, để đành nhận trần gian hiện tại này làm quê hương sau chót. Tôi sẽ bị cám dỗ đi tìm vô cùng trong những sự có cùng và tuyệt đối hoá những sự chỉ là tương đối. Tôi sẽ bị cám dỗ thích thờ những bò vàng hơn thờ Chúa, thích trở về nơi nô lệ để được ăn hành tỏi, hơn là đi về đất hứa để phải ăn Manna dọc đường. Còn bao nguy hiểm khác. Nhưng hồn tôi ơi! Hãy tin vào Chúa. Chúa ở bên tôi, Chúa hiểu tôi, Chúa thương tôi, Chúa dư sức giúp tôi. Thế là đủ cho tôi rồi. Chúa ôi! Mỗi nhịp tim đập là mỗi lời con gọi Chúa. Mỗi hơi con thở là mỗi tiếng tình con gởi vào lòng Chúa. Con muốn trao tặng Chúa thật nhiều. Cho Chúa tất cả, để lòng con nhẹ, chỉ còn mang Chúa và Chúa đưa con về trời. Con biết chuyến đi không dễ dàng. Có những ngày dài không ánh sáng. Có những đêm dài không thấy rạng đông. Có những tháng dài như đường hầm sâu thẳm. Con lầm lũi đi trong đó một mình. Chỉ còn tin yêu dẫn dắt con. Đàng sau con là địa ngục chỉ có đau khổ không tình yêu. Đàng trước con là thiên đàng chỉ có tình yêu không đau khổ. Mà đường con đi là đau khổ có tình yêu. Nên con xin Chúa cho con thêm tình yêu nhiều nữa. Để con khổ mà vẫn yêu, để con mãi vẫn yêu, dù phải khổ. Chúa yêu dấu của con ơi, xin giúp con vững bước. Chính Chúa đang làm con khát vọng quê trời. Chính Chúa sẽ là hạnh phúc tuyệt vời của con trên quê hương sắp tới.
Kinh nghiệm nào tôi cũng có thể có, nhưng tôi không thể có chút kinh nghiệm nào về sự chết. Tôi chỉ biết rằng thế nào tôi cũng sẽ chết. Nó chưa tới, nhưng tôi đã nhìn thấy rõ. Tôi coi cái chết như một sự chấm dứt cuộc đời gian khổ, như một sự giải phóng khỏi kiếp sống bọt bèo, như chiếc cửa dẫn vào một thế giới hoàn toàn xa lạ, như chiếc cầu bắc sang một sự sống khác, như một sự biệt ly để bước xuống thầm lặng ngàn đời. Chết là một chuyến đi xa nhất. Đi không bao giờ về. Chuyến đi xa nhất, mà cũng cô đơn nhất. Có ai chia sẻ được phần nào sự chết của tôi đâu. Tôi sẽ ra đi một mình. Tôi sẽ một mình chìm trọn vào sự chết của tôi. Rồi có gì bên kia sự chết? Hiện giờ tôi không nhìn thấy gì cả. Nhưng tôi tin chắc vị đầu tiên tôi sẽ giáp mặt chính là Cha tôi trên trời. Ngài đợi đó để đón tôi. Đón về đâu? Tôi có thể sợ Ngài đợi đó để phán xét và ruồng rẫy tôi. Nhưng, Chúa ơi! Tôi không tin được điều đó, không phải vì tôi trong sạch, nhưng vì tôi yêu Chúa và tin chắc Chúa yêu tôi vô cùng. Nếu Chúa là một vị thánh, thì tôi có lý do để sợ. Vì nhiều vị ngặt nghèo và cặn kẽ lắm. Nhưng Chúa là chính sự thánh thiện toàn vẹn. Ngài công bình vô cùng, nếu Ngài dựng nên triệu triệu con người chẳng ai gống ai, thì chắc Ngài cũng chẳng phán xét tôi một cách hoàn toàn giống như phán xét người này người nọ. Chính vì Ngài công bình vô cùng, nên Ngài sẽ không thẳng nhặt với những ké quá hèn như tôi. Ngài là tình yêu nên Ngài sẽ không bao giờ hắt hủi một kẻ luôn vác gánh nặng tội lỗi trên vai, lảo đảo ngày đêm đi tìm Ngài. Nhiều đấng thánh đã có những đường lối vào trời thực oai phong lẫm liệt. Còn tôi yếu hèn tội lỗi quá, tôi chọn lối vào thiên đàng như người ăn trộm. Người ăn trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa là một người tội lỗi bị dân chúng phỉ nhổ. Thế mà ông đã được vào trời rất sớm. Chính Chúa bảo đảm với ông: “Ngay ngày hôm nay ông sẽ được vào nơi vui vẻ với tôi”. Ơn này to lớn quá. Mấy ai được lên thiên đàng mà không phải dừng lại lâu lâu ở luyên ngục. Còn ông ăn trộm này lại đi lối tắt. Ông được thế, bởi vì ông đã vào Nước Chúa qua một cái chết tin tưởng trên thánh giá. Tôi cũng muốn bắt chước ông. Tôi tự đóng đinh tâm hồn tôi vào thánh giá làm bằng những chịu đựng đau khổ, những cố gắng quên mình, những chiến đấu cam go triền miên khủng khiếp. Kẻ chịu đóng đinh là kẻ trần trụi nhất. Của cải không có gì, danh giá không còn gì. Bỏ lại tất cả. Xa lìa tất cả. Chỉ còn giữ lại đau đớn và niềm tin. Có vị thánh bảo thánh giá là hoa hồng. Còn tôi, tôi vẫn thấy nó là đau đớn. Bao lần trong một ngày tôi phải cự tuyệt những dụ dỗ hữu tình hữu cảm, để ôm lấy một Đấng vô hình, không hương không sắc. Bao lần trong một ngày tôi phải từ chối những mời mọc, hưởng thụ trong ngay chính tầm tay để chẳng hứng chờ gì ngoài một tiếng vọng chỉ nghe được bằng niềm tin. Tranh đấu vẫn mệt. Chiến thắng vẫn trải trên mồ hôi vết máu. Tôi không dám gọi đó là những hy sinh. Vì tiếng hy sinh cao cả quá. Tôi chỉ coi đó như những cái nhìn rướm máu tìm gặp người yêu tôi và người tôi yêu. Ở trên thánh giá, tức là đang ở trong sự chết kéo dài. Cái chết của ông ăn trộm kéo dài không quá một ngày. Còn cái chết của tôi sẽ kéo dài bao lâu. Tôi không biết nên tôi e ngại. Tôi sợ tôi không chịu lâu, nên sẽ xuống khỏi thánh giá, để chỉ nhìn Chúa như đám đông trên Golgotha. Tôi sợ tôi sẽ tự ái để ở lại thánh giá mà không nhìn vào Chúa như thái độ người ăn trộm bên tả. Chúa ơi! Mỗi lần sợ như vậy là mỗi lần con lại phải tự đóng đinh con chặt thêm vào thánh giá và càng nhìn thẳng vào Chúa hơn. Con biết rằng cái chết của người treo trên thánh giá sẽ là cái chết đau buồn tức tưởi. Nhưng không hề gì. Cái chết trên chiến trường đầy bụi bặm sứt sát máu me vẫn hơn cái chết thua trên giường nệm. Phải chết để sống. Phải mất đi để tìm lại. Chúa ơi, con luôn luôn chờ giờ phút đó. Xin Chúa hãy đến tìm con.
Thời buổi này có nhiều sự việc xảy ra làm tôi hoang mang. Hồi trước bao nhiêu ý kiến đạo đức đã cho rằng: Bất cứ một chi tiết nhỏ nào trong phụng vụ cũng cần thiết và mang nhiều ý nghĩa cao trọng. Nhưng bây giờ Phụng vụ mới đã có nhiều loại bỏ và thay đổi lớn lao. Hồi trước có những văn kiện lịch sử và những sách đạo dạy tôi rằng: Giáo Hội Chính Thống và các giáo phái Tin Lành, đều là các “quân rối đạo”, tôi không được phép thông công với họ. Nhưng bây giờ giáo thuyết của Công đồng Vatican II cũng như thái độ của Toà Thánh đã cho tôi thấy là tất cả các Giáo Hội kể cả Giáo Hội Công Giáo, đều phải tự vấn và sám hối, để xích lại gần nhau trong sự tha thứ và tôn trọng lẫn nhau. Hồi trước, có những chính sách tôn giáo cho tôi tin rằng: chủ thuyết vô thần vô sản là một thứ thù địch ghê gớm, tôi không bao giờ được phép sống chung với họ. Nhưng bây giờ, có những dấu hiệu rõ rệt làm tôi nghĩ rằng con đường trước mắt là hoà giải hơn là thù nghịch. Hồi trước, có mấy tác giả đạo đức dạy tôi rằng: sự vâng lời “tối mặt” mới là bậc cao nhất của đức vâng lời. Nhưng bây giờ, những vị thế giá bảo tôi phải vâng lời ý thức không loại trừ đối thoại. Còn bao nhiêu sự việc khác đã làm tôi suy nghĩ. Điều tôi lo ngại không phải là những sự thay đổi kia bắt tôi đặt lại nhiều vấn đề. Nhưng điều tôi lo ngại nhất, chính là sự tôi dễ hoang mang vì những sự thay đổi đó. Tôi hoang mang như thể thay đổi một vài đường lối, một vài lễ nghi là thay đổi đạo. Tôi hoang mang như thể Giáo Hội hôm nay đã đi ngược lại Giáo Hội ngày trước. Nhưng nghĩ kỹ lại, tôi thấy tôi không đủ lý để hoang mang. Trước hết, bởi vì nhiều thay đổi tôi tưởng là của Giáo Hội, nhưng thực ra đó chỉ là của một số cá nhân trong Giáo Hội. Hay dở là thuộc trách nhiệm những cá nhân đó. Tôi không nên đồng hóa họ với Giáo Hội. Hai là thực sự Giáo Hội cũng đã chủ trương nhiều thay đổi, nhưng thay đổi nào thì cũng dựa trên những lý do đã được cân nhắc. Theo Công đồng Vatican II, thì Giáo Hội là kẻ lữ hành còn phải đi nữa, là đền thờ còn phải xây thêm, là cộng đoàn hữu hình cần phải luôn canh tân và cố gắng thánh hóa. Còn phải đi nữa tức là còn phải khai phá. Còn phải xây dựng thêm, tức là còn phải sáng kiến. Canh tân đâu có nghĩa là cứ để luôn như cũ. Cố gắng thánh hóa cũng không đồng nghĩa với tình trạng đã hoàn toàn nên thánh. Như thế đổi mới chỉ là một đòi hỏi. Không chịu thay đổi gì mới chính là điều đáng phải ngại. Ngoài ra, Giáo Hội hoạt động giữa trần thế và cho người ta, nên vừa phải trường tồn mà cũng vừa phải thích nghi. Thích nghi chứ không phủ nhận và mâu thuẫn chính mình. Thực ra, Giáo Hội có thay đổi gì trong căn bản giáo lý đâu. Giáo Hội chỉ canh tân và thánh hóa những yếu tố có tính chất nhân loại trong bản tính mình, để nên tốt đẹp và thành công hơn. Mọi thay đổi của Giáo Hội đều được nghiên cứu thận trọng và dựa trên tiêu chuẩn: để Chúa được yêu mến hơn và nhân loại được thương yêu nhau hơn. Thế thì có gì phải hoang mang. Đã hẳn, Giáo Hội trung ương, cũng như địa phương, có thể sai lầm trong những quyết định thay đổi. Nhưng bao lâu tôi không đủ bằng cớ chắc chắn và rõ rệt chứng minh việc này việc nọ của Giáo Hội là sai lầm, thì những hoang mang của tôi phải kể như thiếu nền tảng chính đáng. Tôi tin Chúa Thánh Linh hiện diện trong Giáo Hội. Tôi tha thiết cầu xin cho Giáo Hội tôi. Lòng tin mến của tôi đối với Giáo Hội phải tăng thêm vì những hoang mang này chứ không ngược lại. Hoang mang phải trở thành một niềm thao thức cùng nhịp với hồn thiêng Giáo Hội. Lạy Chúa, xin giúp con biết lợi dụng những hoang mang của con đối với Giáo Hội, để con càng thêm tin yêu Giáo Hội và càng hăng hái dấn thân hơn cho Giáo Hội của Chúa và cũng là của con.
Khi tôi tố tham nhũng, có lẽ tôi đã tự tố tôi. Nếu tôi bênh tham nhũng, tất nhiên là tôi tự bênh tôi. Tôi đặt tôi vào vấn đề đang đặt cho người khác. Tôi lấy chuyện người để hỏi lại lòng tôi. Đối diện với lương tâm dưới ánh sáng bình lặng của Chúa, tôi thấy mình khó có thể gọi được là trong sạch. Chấp nhận điều đó là điều quan trọng. Nhưng ý thức được tai hại của tham nhũng còn quan trọng hơn. Vì có thấy xấu, tôi mới xác tín đủ để xa tránh, gớm ghê. Tôi tưởng tham nhũng không đến nỗi gì. Nhưng xét kỹ, tôi thấy nó nguy hại không ít. Tham nhũng là tính cách tội lỗi của hành vi đặt tiền bạc tư lợi lên trên công bình và luật pháp. Tham nhũng nghịch đức công bình, hoặc công bình giữa cá nhân với cá nhân hoặc công bình đối với xã hội. Khi vì tiền bạc tư lợi tôi xét xử thiếu công minh, phân phối thiếu vô tư, áp dụng lề luật không đúng đắn, đối xử một cách thiên vị, thì tôi gây hại cho ích chung và cho những người liên hệ. Nếu mọi sự đều được giải quyết bằng tiền bạc và tư lợi thì sẽ tạo thành một thứ công lý giả tạo, theo đó kẻ ít tiền sẽ luôn luôn là kẻ thua thiệt. Tham nhũng thường nghịch đức bác ái. Tôi dễ trở nên chai đá với những kẻ không biết mua chuộc tôi. Tôi sẽ dễ xử tệ với những người không có gì để cho tôi. Tôi sẽ coi thường những kẻ chỉ vì nghèo khó mà sa vào kiếp lầm than, không xứng đáng phẩm giá con người. Tôi sẽ dễ tàn nhẫn với những người muốn sửa sai tôi. Hành vi của tôi gieo mầm bất mãn, hận thù và sẽ dễ gây gương xấu. Tham nhũng hay nghịch đức ngay chính. Vì tôi sẽ phải giả dối, quanh co, giấu giếm. Tôi sẽ cố biện minh cho hành vi tham nhũng của tôi bằng những lý do nguỵ tạo hợp pháp và đạo đức. Biện minh cho một việc là để có thể tái diễn lại việc đó. Nhiều hành vi làm nên thói quen. Quen phạm tội sẽ không còn sợ tội. Quen không sợ tội sẽ coi thường tội. Tình trạng đó làm hư hỏng lương tâm. Tội không làm hư cho bằng một lương tâm hư. Vì lương tâm hư sẽ không còn thấy rõ mình hư, sẽ không còn nhìn rõ các giá trị thực. Tham nhũng là một tội, nên tôi không thể chấp nhận được. Tôi sẽ cố gắng thực hiện bằng tâm tình và hành động những lời chỉ đạo rõ rệt sau đây của Đại hội Giám Mục Á châu: “Chúng tôi nhất quyết lấy can đảm mà lên tiếng bênh vực quyền lợi của những người bị thiệt thòi và có thể chống lại mọi hình thức bất công từ đâu tới. Chúng tôi sẽ không tự bó tay bằng cách thỏa hiệp và cấu kết với những người giàu có và những người có thế lực trong những quốc gia chúng tôi” (Tuyên ngôn Đại hội Giám Mục Á châu, Manila 29/10/1970). Tôi kết án tham nhũng nhân danh công bình bác ái. Chính vì thế, đường lối sửa sai của tôi cũng phải trong tinh thần công bình bác ái. Tôi đả phá tham nhũng nhân danh đạo đức. Chính vì thế, phương pháp tôi dùng cũng phải đạo đức. Tôi muốn ném đá những người tham nhũng, nhưng tôi sợ Chúa sẽ bảo tôi: “Ai thấy mình trong sạch, hãy ném hòn đá thứ nhất đi”. Lúc đó tôi không khỏi giật mình. Nên tôi phải khởi sự từ chính mình. Với chính mình, tôi sẽ gắt gao hơn với người khác. Có thể tôi không tham nhũng theo nghĩa ăn tiền, nhưng lại tham nhũng dưới những hình thức khác. Nếu may ra tôi không tham nhũng dưới bất cứ hình thức nào, thì chưa chắc gì tôi đã không phạm vô số những tội nghịch đức công bình, bác ái trong tư tưởng lời nói việc làm và những điều thiếu sót. Tôi thực tình ăn năn sám hối với các Đức Giám Mục Á châu, khi các ngài tự thú: “Chúng tôi nhìn nhận rằng chúng tôi cũng đã thiếu sót. Chúng tôi chỉ bảo vệ những quyền lợi hẹp hòi và riêng tư. Chúng tôi đáng lẽ phải tỏ ra cảm thương và lo lắng hơn cho người nghèo và phải lên tiếng một cách mạnh mẽ hơn cho công bình, và cho công cuộc bảo vệ nhân quyền” (Tuyên ngôn Đại Hội Giám Mục Á châu, 1970). Lạy Chúa, người phú hộ trong Phúc Âm đã bị kết án đày xuống hỏa ngục, vì quá lo thụ hưởng, không để ý người ăn mày Ladarô, phương chi con, nếu chẳng những không lo giúp người nghèo thì chớ, lại còn làm cho kẻ đói nghèo càng phải nghèo thêm do những bất công thối nát và hèn nhát của con. Xin Chúa cho con thêm sáng suốt, và can đảm để thực thi công bình bác ái.
Tôi đang sống trong một thời đại dồn dập nhiều biến cố. Có những biến cố chỉ đụng chạm tới tôi. Có những biến cố làm xôn xao cả nước. Có những biến cố liên hệ đến toàn thể Giáo Hội và thế giới. Sự xuất hiện của những phong trào gây sôi động cũng là những biến cố. Mỗi biến cố là một dấu chỉ. Mỗi dấu chỉ đều có một ý nghĩa. Nhiều khi Chúa muốn nói với tôi qua biến cố. Nhưng tôi phải khiêm tốn và bình lặng mới nghe thấy được. Mỗi biến cố đều mang một ẩn số. Ẩn số đó gói một sứ điệp Chúa muốn gởi cho tôi. Nhưng tôi phải chăm chú và vô tư lắm mới khám phá được sứ điệp đó. Mỗi biến cố là một bài toán. Bài toán đó gài vào đời tôi. Nhưng tôi phải phục thiện lắm mới tìm ra được giải pháp. Không phải vô lý mà Công đồng Vatican II đã khuyên tôi phải để ý đến những dấu chỉ của thời đại (Hiến chế Gaudium et Spes). Thời đại cho thấy nhân loại không ngừng đổi thay. Nhưng nếu trong những đổi thay đó Chúa vẫn luôn luôn hiện diện và cũng muốn tôi hiện diện như một chứng nhân của Ngài, thì tôi phải làm gì đây? Câu hỏi trên đây nhiều khi làm tôi bứt rứt. Để tìm trả lời, có lúc tôi thử đặt tôi vào thời của Chúa Cứu Thế, để dò coi phản ứng của tôi thế nào. Thời đó được coi là thời có nhiều biến cố và khởi xướng nhiều thay đổi. Đại khái thế này: Chúa Cứu Thế sinh ra trong cảnh cơ cực nghèo nàn. Ấy thế mà sự sinh ra của Ngài đã bị coi là một biến cố gây xáo trộn, nên vua Hêrôđê đã hạ lệnh giết hết các trẻ em vùng Bêlem, với hy vọng giết luôn được Chúa. Ba mươi năm sau, Chúa Cứu Thế công khai đi rao giảng việc canh tân lòng người. Ngài lại bị cánh Pharisêu kết án đủ tội. - Tội không kiêng việc ngày lễ (x. Ga 9,16) - Tội không giữ tục lệ cha ông dạy phải rửa tay trước khi ăn (x. Lc 11,38) - Tội nhờ phép quỷ mà làm điều lạ (x. Mt 12,24) - Tội đi lại ăn uống với người tội lỗi (x. Mt 9,11) - Tội gây nguy hại cho nền an ninh quốc gia (x. Ga 11,48). Thế rồi đến 33 tuổi, Ngài bị bắt và bị kết án tử hình, vì cho rằng Ngài xách động quần chúng (x. Lc 23,2), gian ác (x. Ga 18,30), và lộng ngôn (x. Mc 14,64). Giáo quyền tố cáo, chính quyền kết án, dân chúng a dua, toàn là biến cố động trời. Giả như tôi sống trong thời đó, tôi sẽ đứng về phía nào? Liệu tôi có dám bênh Chúa không? Tôi nghi tôi quá. Những biến cố xảy ra có dạy tôi điều gì không? Hoàn cảnh của tôi bây giờ không hoàn toàn giống thời đó. Vì tôi có một Giáo Hội cởi mở và khôn ngoan. Chính Giáo Hội chủ trương phải lắng nghe dấu chỉ của thời đại để kịp thời canh tân và thích ứng Phúc Âm vào lịch sử. Tuy nhiên, trong việc cắt nghĩa những dấu chỉ của thời đại, tôi không nên vội vàng và thiên kiến. Tìm ý Chúa bao giờ cũng đòi một sự khiêm tốn và vô tư. Tôi hãy biết ghi nhận trung thực các sự kiện. Tôi hãy lắng nghe tiếng nói của mọi phía. Tôi hãy đến nhận khát vọng của mọi tầng lớp. Tôi hãy quan sát chiều hướng của các diễn biến. Tôi hãy cầu nguyện và bàn hỏi với Chúa. Phải rất khiêm tốn và ngay thẳng mới trông tìm được đúng ý nghĩa của các dấu chỉ hiện nay. Nếu tôi thành thực, các dấu chỉ hiện nay sẽ cho tôi biết rõ hơn về tôi, về tình thế và về ý Chúa. Có lẽ điều quan trọng hơn cả là phải can đảm, dám chấp nhận ý nghĩa Chúa muốn gởi vào các dấu chỉ. Sự thực nhiều khi bi đát. Bởi vì sự thực có thể sẽ kết án và bắt tôi phải sửa lại tất cả nếp sống.
Chúa Giêsu đã được hôn, có thể là nhiều lần. Chẳng hạn ba má Ngài hôn Ngài, thế nào mà chẳng có. Điều đó khỏi nói. Phúc Âm chỉ nói tới hai lần Chúa được hôn. Một lần do Giuđa, một lần do Mađalêna. Giuđa là tông đồ. Ông đi tìm Chúa, khi gặp, ông bước tới, ôm Ngài và hôn mặt (x. Lc 22,47). Cái hôn của ông có vẻ vừa hợp tình vừa hợp lý. Người ngoài dù lạ dù quen, dù nam hay nữ, không ai đã chê trách cái hôn đó. Còn Mađalêna thuở còn là một cô gái bị dư luận cho là không đàng hoàng. Cô đi tìm Chúa. Khi gặp, cô quỳ xuống, khóc ướt chân Chúa. Cô lấy tóc lau, và “không ngừng hôn chân Ngài” (Lc 7,45). Nhưng cái hôn của cô có vẻ không được thích hợp. Chả thế mà ông Simon đã lẩm bẩm này nọ trong bụng và đâm nghi ngờ Chúa (x. Lc 7,39). Ngay trong thời buổi tự do này, nếu câu chuyện đó xảy ra ở bất cứ nơi nào trên trái đất, nhất là ở nước tôi, thì chắc chắn người ta sẽ không để yên cô đó, và chính Chúa là người cũng sẽ bị kết án tơi bời. Người ta thì thế. Còn Chúa thì sao? Chúa đã trách cái hôn của Giuđa, và đã bênh những cái hôn của Mađalêna. Chúa thấy rõ tâm tư thầm kín của từng người. Giuđa hôn Chúa, nhưng để nộp Người. Còn Mađalêna hôn Chúa, để xin ơn làm lại cuộc đời. Cái hôn của Giuđa chỉ tốt ở bề ngoài vì hợp phong tục, đúng luật xã giao và tình nghĩa. Nhưng ý hướng bên trong thì quá xấu. Cái hôn của Mađalêna thì bề ngoài không được thích hợp vì những lý do dễ hiểu, nhưng bên trong đầy những ý hướng tốt đẹp. Giá trị bên trong mới đáng kể. Chuyện cái hôn trên đây dạy tôi phải biết dè dặt. Nếu tôi thấy một người có hành động và thái độ xem ra không thích hợp với thói quen xã hội và tôn giáo, thì tôi đừng vội nghi ngờ họ. Họ không được xã hội đồng ý nhưng trước mặt Chúa, chưa chắc họ đã thua ai. Rất có thể họ đã đẹp lòng Chúa hơn tôi. Chúa đã chẳng bênh Mađalêna và trách ông Simon là gì. Kẻ khinh người khác là tội lỗi đã bị Chúa đặt dưới kẻ chính họ đã khinh. Điều tôi phải sợ nhất, đó là sự tôi có thể dùng hình thức đạo đức để bán Chúa, thí dụ dùng việc đạo để lo kiếm tiền kiếm bạc, dùng thế giá đạo để xây dựng uy tín riêng mình. Vịn cớ tôn giáo để chèn ép bắt nạt người ta, nêu lý do đạo đức để khoe khoang, bôi lọ, nói xấu người khác... Thiếu gì người đã nhân danh Chúa để mà giết Chúa và giết tha nhân. Lạy Chúa, xin cho con biết chân thành trong mọi việc đạo đức và khiêm tốn trong mọi ý nghĩ đối với tha nhân.
Nhiều khi suy gẫm đời Chúa, tôi thấy Chúa có những đường lối khác hẳn những gì tôi tưởng nghĩ. Tôi tưởng Chúa phải chọn một phụ nữ giàu sang quyền quí làm mẹ. Ai ngờ Chúa đã chọn một thôn nữ nghèo. Tôi tưởng Chúa phải giáng trần trong một đền đài giữa thành thị phồn hoa. Ai ngờ Ngài đã sinh ra trong chuồng bò giữa cánh đồng lạnh vắng. Tôi tưởng Chúa sẽ làm gì để ngăn cản vua Hêrôđê, không cho ông lạm quyền ra lệnh hạ sát các trẻ nhỏ với thâm ý tiêu diệt Đấng Cứu Thế. Ai ngờ Chúa lại âm thầm để Đức Mẹ và thánh Giuse đưa Chúa trốn đi, đang khi bao trẻ vô tội phải bị chết oan. Tôi tưởng Chúa thấy gia đình Chúa làm ăn vất vả, thì sẽ ra tay làm một chút phép lạ cho cha mẹ được dư giả, để các ngài được thong thả an nhàn sung sướng. Ai ngờ Ngài và cha mẹ Ngài cũng cứ mần ăn vất vả như mọi người lao động khác. Tôi tưởng Chúa xuống trần cứu thế, thì phải tính chuyện cứu thế một cách cấp kỳ, sớm ngày nào hay ngày đó. Ai ngờ Ngài cứ lẳng lặng sống âm thầm suốt 30 năm, rồi mới ra mặt giảng dạy. Tôi tưởng Chúa phải ra mắt dân chúng trong một cuộc đại lễ rầm rộ, có cờ xí phất phới, có tiền hô hậu hét, có tuyên ngôn nẩy lửa, có dân chúng hoan hô. Ai ngờ Ngài lại trà trộn giữa đám dân đông đến xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình như một người tội lỗi. Chính trong cảnh ấy, Gioan đã giới thiệu Ngài với dân chúng bằng một câu đơn giản: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Ngài sẽ cất tội lỗi thế gian”. Đồng thời, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cũng chỉ giới thiệu một lời vắn tắt: “Đây là Con chí ái của Ta, kẻ Ta hết lòng yêu dấu!”. Tôi tưởng Chúa sẽ lo xây dựng Nước Trời bằng cách khởi sự mua một khu đất; lập một trụ sở, cất một thánh đường. Ai ngờ suốt cuộc đời ngài chỉ lo xây dựng Nước Chúa trong lòng người ta. Tôi tưởng Chúa sẽ tuyển lựa rất nhiều cán bộ học thức và nhiều thế giá. Ai ngờ Ngài chỉ chọn 12 ngừơi trong đám dân thường. Tôi tưởng Chúa sẽ chọn một người có nhiều bằng cấp và không có chút tì ố gì làm đại diện Ngài lãnh đạo Giáo Hội. Ai ngờ Ngài chọn một dân chài quê mùa đã công khai ba lần chối Chúa. Tôi tưởng Chúa sẽ bắt các môn đệ Ngài mặc một thứ đồng phục nào hay đeo một thứ huy hiệu nào để người ta dễ phân biệt họ với người khác. Ai ngờ Ngài lại bảo: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau”. Tôi tưởng Chúa sẽ căn dặn môn đệ phải lo năng đi nhà thờ, xem lễ, chịu khó vâng lời, giữ mình sạch sẽ và cho đó là những điều quan trọng nhất làm nên người đạo đức thánh thiện. Ai ngờ Chúa lại cứ nhấn mạnh hoài đến đức thương yêu và gọi đức thương yêu là điều răn mới và trọng bậc nhất của đạo Ngài. Tôi tưởng Chúa sẽ cứu chuộc nhân loại bằng cách nói với Đức Chúa Cha vài lời như cách người ta thường can thiệp với các ông lớn. Ai ngờ Chúa lại chọn cách chịu chết nhục nhã đau đớn quá như vậy. Tôi tưởng suốt 33 năm dài, Chúa có dư sức và dư thời giờ để bắt mọi người phải tin phục Chúa và thiết lập nên một Giáo Hội đầy chiến thắng vẻ vang. Ai ngờ Chúa đã chết như một người thất bại, các môn đệ nòng cốt bỏ trốn và số người tin lúc đó chẳng được bao nhiêu... Thật, có lúc tôi nghĩ Chúa làm lắm cái coi ngược đời quá. Giả như tôi là Chúa, tôi sẽ giải quyết mọi chuyện một cách dễ dàng như chơi và tôi tưởng tôi khôn ngoan nhất vũ trụ. Nhưng, đọc kỹ lại Phúc Âm, tôi thấy tôi tính toán trật lất. Thì ra đường lối của Chúa nhiều khi khác hẳn đường lối của tôi. Chúa nhìn xa thấy rộng, thấu hiểu mọi sự, biết rõ điều hay điều dở. Còn tôi thì thiển cận nông nổi, dại dột. Thế mà nhiều khi tôi lại dám kêu trách Chúa. Bao lần tôi cầu nguyện, nhưng thực ra là tôi đặt chương trình cho Chúa và đòi Chúa thực hành. Không được như ý tôi thì tôi đâm ra khó chịu. Nhiều khi tôi định một đàng lại xảy ra một nẻo. Cả những việc tôi tưởng sẽ làm vinh danh Chúa, thế mà cũng bị thất bại. Lúc đó tôi dễ chua xót và chán nản. Nhưng khi đọc lại Phúc Âm và suy gẫm lời Chúa trong tinh thần cầu nguyện, tôi mới thấy rõ Chúa khôn ngoan vô cùng trong hết mọi việc, còn tôi thì ngu xuẩn hết chỗ nói. Một khi nhìn nhận điều đó một cách chân thành, tôi thấy lòng tôi bình an, nhẹ nhàng và dễ dàng phó thác. Cũng nhờ đó tôi mới hiểu được nhiều ý nghĩa của hiện trạng Giáo Hội và quê hương tôi. Thì ra lỗi lầm lớn nhất của tôi từ trước đến giờ là ít tìm Chúa trong Phúc Âm. Trong đó Chúa dạy tôi rõ ràng đủ mọi chuyện. Tôi lầm lạc là tại tôi. Lạy Chúa, con hứa với Chúa từ nay sẽ năng suy gẫm Phúc Âm, để con nhìn rõ con phải sống làm sao, cắt nghĩa các việc xảy ra thế nào. Phúc Âm là nguồn mạch mọi khôn ngoan chân thật sẽ là cuốn sách tuỳ thân yêu dấu nhất của con.
Tôi có thói quen hay cắt nghĩa tất cả mọi sự đều do Chúa định. Thói quen đó được tôi dùng như một giải pháp đạo đức dễ dàng để trấn an lương tâm. Đối với những điều lành xảy ra, thì lối cắt nghĩa đó không gây thắc mắc. Nhưng đối với những điều dữ, thì nhiều khi tôi nghĩ rằng lối giải thích đó hơi mơ hồ. Chẳng hạn tôi bị ghẻ. Tôi cho là do Chúa định. Nhưng thực ra cũng có thể là do tôi không giữ vệ sinh. Tôi nghèo. Tôi cũng bảo là do Chúa muốn. Nhưng thực ra cũng có thể là do tôi không biết làm ăn. Tôi thấy chiến tranh tàn phá làng tôi, cướp mất gia đình tôi. Tôi cho là do Chúa đã định. Nhưng thực ra cũng có thể là do tội những người lãnh đạo chiến tranh. Tôi thất bại trong chuyện đời đạo. Tôi cho là tại Chúa xếp đặt như thế. Nhưng thực ra cũng có thể là vì tôi đã thiếu tài thiếu đức. Tôi thấy xứ đạo tôi, địa phận tôi, Giáo Hội tôi có những khuyết điểm lớn nhỏ. Tôi cho là Chúa an bài như vậy. Nhưng thực ra cũng có thể là tại lỗi lầm của tôi, của các bề trên tôi, của anh chị em đồng đạo và của cả cộng đoàn Kitô hữu. Tôi không nên đổ thừa cho Chúa các tội lõi và hậu quả tội lỗi của chính tôi và của người ta. Tôi không nên gán cho Chúa những sự không thể hợp với sự thánh thiện, khôn ngoan và tình thương vô cùng của Chúa. Tôi không nên lôi Chúa ra để bắt Chúa lãnh chịu những cái dở do tôi và người khác đã dại dột gây ra. Tôi phải nhận rằng: trên đời này chỉ có Đức Giáo Hoàng là không sai, và Ngài chỉ được ơn không sai lầm trong một số trường hợp rất hiếm hoi, đó là khi Ngài phán quyết điều gì về đức tin và phong hóa nhân danh đại diện Chúa Kitô. Chỉ có thế thôi. Còn ngoài ra, mọi người đều có thể sai lầm trong bất cứ phương diện nào. Lỗi lầm là điều thường tình theo sát thân phận con người. Ai dám nói rằng: cả đến Tòa Thánh cũng có thể tránh được hoàn toàn mọi lầm lỡ thiếu sót. Nhìn nhận những sự thực đó mới là lương thiện. Đừng đổ thừa cho Chúa những điều mà chẳng ai muốn nhận là của mình. Oan cho Chúa quá! Đã hẳn, Chúa quan phòng mọi sự. Nhưng sự quan phòng của Chúa được thực hiện với sự cộng tác tự do của con người. Chúa có chương trình của Chúa. Nhưng Chúa không ngăn trở người ta làm sai chương trình của Chúa. Chúa không cưỡng bách ai, kẻo họ mất tự do, hết trách nhiệm và hết điều kiện để thưởng phạt. Vì thế, bao nhiêu sự không hay đã xảy ra rõ ràng không phải do Chúa. Chỉ tại người ta đã thiếu cộng tác vào ý muốn của Chúa. Nếu chân thành nhìn nhận như thế, rồi cố gắng sửa sai bằng cách rút ra từ những lỗi lầm đó các bài học hữu ích, đồng thời nỗ lực cộng tác với ơn Chúa mà vươn lên, thì đó mới là điều người ta quen nói: “Mọi sự đều có thể trở nên tốt cho những người có lòng mến Chúa”. Nhưng để biết lợi dụng thất bại, thì cũng cần và càng cần cộng tác sự tự do của con người vào ơn Chúa. Nếu không, thì thất bại vẫn chỉ là thất bại, hay có thể trở thành thất bại nặng nề hơn. Nguyên nhân cũng lại do tại con người đã không cộng tác vào chương trình của Chúa. Lạy Chúa, con nhìn nhận rằng: tất cả mọi sự xấu xảy ra ở trần gian này đều phát xuất do tội lỗi con người đã thiếu cộng tác với ơn thánh Chúa. Lỗi của tổ tông, lỗi của riêng con, lỗi của người khác. Con dốc lòng từ nay sẽ cố gắng cộng tác với ơn thánh Chúa, để mọi chương trình Chúa muốn về con được hoàn toàn thực hiện.
Có lúc tôi có cảm tưởng như nghèo đói là một luật lệ của thân phận gia đình tôi. Từ nhỏ cho tới bây giờ, tôi chưa bao giờ được thấy gia đình sung túc. May mà chưa có ai phải chết đói. Nhưng không chết đói không có nghĩa là đã đủ ăn. Mà dù có lúc nói được là đủ ăn, thì thứ đủ ăn đó cũng chỉ là thứ đủ ăn của kẻ nghèo, nghĩa là ăn đủ no chứ không ăn đủ sức. Đủ cơm ăn nhưng không đủ áo mặc, đủ gạo ăn nhưng không đủ nhà ở, đủ đồ ăn nhưng không đủ tiền mua thuốc và cho trẻ em đi học. Thú vật chỉ cần no là đủ. Con người no mà vẫn có thể nghèo thê thảm. Con thú no là đã đạt được kiếp thú. Con người no nhưng nghèo túng vẫn không thể sống cho ra kiếp người. Phương chi lại vừa đói vừa nghèo. Kẻ nghèo thường phải mất mát nhiều quá, mất sự kính nể, mất bạn bè, có khi mất cả nhân phẩm, niềm tin và hy vọng. Nhìn sang các gia đình chung quanh, tôi thấy cũng hơn kém như thế. Thì ra cảnh nghèo là một thứ quê hương chung của đa số đồng bào tôi. Muốn an ủi mình và những kẻ cùng trong thân phận nghèo, có lúc tôi muốn lượm lặt tất cả những lời người ta đã nói tốt về cảnh nghèo, để đúc nên một bài ca tán tụng thân phận nghèo đói. Nhưng tôi không làm được. Vì cảnh nghèo đói hầu như chẳng được ai tán thưởng. Cũng có ít người tỏ vẻ muốn khen, nhưng khổ nỗi là họ lại chẳng bao giờ đã muốn, đã dám và đã thực sự phải sống nghèo. Vì thế, lời họ khen đã trở thành mỉa mai và mang màu đạo đức giả tạo. Còn Chúa Giêsu thì có bao giờ Ngài đã khuyến khích cảnh nghèo đói đâu. Trái lại Ngài tỏ ý muốn mọi người được sống đầy đủ. Chẳng thế mà Ngài đã dạy ta “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày”. Lương thực hằng ngày ở đây được hiểu về tất cả những sự cần ích cho cuộc sống vật chất và tinh thần. Nên Chúa có lần đã nói: “Phúc cho kẻ nghèo khó trong tinh thần”, thì đó không phải là sự cổ võ cảnh nghèo đói, nhưng chỉ là một lời khuyên nhủ mọi người, dù nghèo dù giàu, nên có tinh thần dứt bỏ với của cải. Mặc dầu Chúa không xuống thế vì mục đích giải quyết vấn đề cơm áo cho nhân loại, nhưng không vì thế mà Chúa không quan tâm đến thân phận kẻ nghèo. Trong số hơn 40 phép lạ được kể trong Phúc Âm, có bao nhiêu phép lạ Chúa đã làm cho kẻ nghèo và vì kẻ nghèo. Đạo Chúa dạy tôi phải làm theo Chúa và giữ luật Chúa. Bổn phận đối với kẻ nghèo thì Chúa đã nêu lên nhiều gương đáng sợ, và ra nhiều luật quyết liệt. Như gương người giàu có và người ăn mày tên Ladarô. Như gương Chúa sẽ đối xử với người ta trong ngày phán xét căn cứ vào thái độ đối với kẻ nghèo. Như luật đã ghi trong kinh Mười bốn mối thương xót. Nghĩ tới đây, tôi thấy lương tâm tôi áy náy vô cùng. Bao lần tôi đã không quan tâm đến cảnh nghèo của người khác. Bao lần tôi đã vô tâm xài phí tiền bạc bên cạnh những người đói khổ. Bao lần tôi đã nhẫn tâm khinh miệt hắt hủi những kẻ rách rưới, nghèo nàn, bao lần tôi đã lên mặt đạo đức giả, gán cho kẻ nghèo những ý nghĩ xấu, chỉ vì họ quá nghèo đến nài van tôi giúp đỡ. Lạy Chúa, con đã gặp kẻ nghèo hay con đã gặp Chúa? Có phải họ, hay là Chúa đó? Đúng là con đã gặp họ, nhưng cũng đúng là con đã gặp Chúa. Vì Chúa kể việc con làm cho kẻ nghèo như việc con làm cho chính Chúa. Đến ngày phán xét, Chúa sẽ tính tất cả, lúc đó, con biết ăn nói làm sao đây? Lạy Chúa, nếu Chúa căn cứ vào thái độ của con đối với kẻ nghèo để đánh giá con, thì con khó thấy có hy vọng được chọn. Lạy Chúa, xin giúp con biết thành tâm xét kỹ lại thái độ của con đối với kẻ nghèo.
Tìm hiểu những thành bại trong việc giáo dục không phải chỉ là ghi nhận kết quả, mà còn phải nhận diện những nguyên nhân. Đem nhiều kinh nghiệm ra so sánh và phân tách, người ta thấy rằng: thành công hay thất bại của việc giáo dục tùy thuộc phần lớn ở nguyên nhân tâm lý: đó là lý tưởng. Giáo dục có lý tưởng hay không có lý tưởng, tính cách của lý tưởng, sự hấp dẫn của lý tưởng, sự hăng say đối với lý tưởng... tất cả những khía cạnh đó, nếu không phải là yếu tố cấu thành thì cũng là những yếu tố ảnh hưởng của kết quả giáo dục. Lý tưởng là một danh từ quen thuộc. Theo nghĩa rộng, lý tưởng được hiểu như tốt đẹp, như vừa ý, hoàn toàn. Một người bạn lý tưởng, có nghĩa là một người bạn hoàn toàn. Một buổi chiều lý tưởng là một buổi chiều tốt đẹp vừa ý. Theo nghĩa hẹp, lý tưởng là một ý tưởng hay một hình ảnh trong trí khôn được chọn làm mẫu để rập theo, hay làm đích để đạt tới. Là lý tưởng hay hình ảnh, nên lý tưởng thuộc phạm vi tinh thần, nằm trong thế giới nội tâm. Là mẫu được chọn, nên lý tưởng đúc kết những nét hoàn bị nhất chọn lọc bởi kinh nghiệm, suy tư, hợp với khát vọng. Là đích để đạt tới, nên lý tưởng là một tiếng mời gọi đi lên. Như thế, tất nhiên lý tưởng phải có tính cách siêu việt. Nhưng không vì thế mà nó chỉ là ảo tưởng. Ảo tưởng là tưởng sai, không đúng sự thực. Còn lý tưởng thì xây dựng bằng những sự có thực. Lý tưởng siêu vượt ở chỗ nó gồm toàn những gì cao đẹp, những đặc điểm hoàn toàn, vượt trên những mức độ tầm thường. Do đó lý tưởng xứng đáng chỉ được hiểu về những gì hoàn bị. Lý tưởng có thể chỉ là một ý tưởng bao quát, thí dụ: đạo đức, thông thái, anh hùng. Có khi được xác định trong một vài chi tiết như bác ái, chuyên triết học, diệt xâm lăng. Cũng có khi lý tưởng được đặt vào một hình ảnh của một nhân vật mẫu hay được xây dựng do tưởng tượng sáng tạo. Dù dưới hình thức nào, lý tưởng bao giờ cũng là cái nhìn cao đẹp hấp dẫn. Nó là đối tượng muốn tìm, là mẫu người muốn bắt chước, là mục tiêu muốn đạt tới. Thực vậy, con người sinh ra là người, nhưng chưa làm người. Muốn nên người thì phải học làm người. Làm người cũng giống như làm một ngôi nhà, vẽ một chân dung. Cần phải có một hoạ đồ, một kiểu mẫu, để nhìn vào đó mà xây dựng. Chọn một lý tưởng làm mẫu cho nếp sống tức là tìm cho đời mình một hướng đi, một ý nghĩa. Đã hẳn, không có lý tưởng, người ta vẫn sống. Nhưng giá trị con người không phải chỉ là sống suông, mà là sống xứng nhân tính với tất cả những gì cao đẹp của nó. Nhân tính đã có nơi mỗi người từ lúc mới nhập cuộc sống, nhưng lúc đó chỉ là mầm non. Con trẻ sơ sinh mới chỉ là hy vọng. Nó mang nhiều khả năng phong phú, nhưng những khả năng này thường đa diện đa năng. Óc thông minh có thể khám phá điều hữu ích, mà cũng có thể tạo ra điều tai hại. Can đảm có thể làm nên anh hùng, mà cũng có thể làm nên tướng cướp. Chính vì những khả năng nơi con trẻ còn trong tình trạng vô định mênh mông, nên mới cần phải giúp chúng định hướng về mục tiêu lợi ích tối đa. Mục tiêu định hướng đó chính là lý tưởng. Mục tiêu định hướng là điều quan trọng cho mọi cuộc hành trình. Đi đàng mà không biết đi về đâu là đi vơ vẩn. Đi vơ vẩn trên đường đôi khi còn có một chút ý nghĩa, chứ đi vơ vẩn trên cuộc đời thì thực là bi đát. Đời sống là một hành trình dài. Mỗi người đều có trách nhiệm về cuộc hành trình đó. Nếu không tìm mục tiêu hay chọn sai mục tiêu thì hậu quả trách nhiệm chắc sẽ không phải nhỏ. Vai trò của mục tiêu cũng chính là vai trò của lý tưởng. Nói theo lý thì ai ai cũng đều có thể có lý tưởng. Vì đã là người, thì đều hướng về Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối. Nhưng những tuyệt đối đó chỉ là tư tưởng trừu tượng. Chứ trước mắt đâu có gì gặp được là tuyệt đối. Do đó mới có những trường hợp đi tìm tuyệt đối ở những cái rất mực tương đối, có khi ở cả những cái phản ngược lại đạo đức và chân lý. Nhưng trường hợp đó thường gọi là những mẫu đời không lý tưởng, những cuộc sống chạy theo bóng dáng lý tưởng. Số đó không phải ít. Chính vì thế mà một nền giáo dục toàn diện, không thể không quan tâm đến vấn đề gây lý tưởng. Lý do rất dễ hiểu, là vì hành động phát sinh từ ham muốn. Ham muốn phát sinh từ ý tưởng. Nên một đường lối giáo dục có lý tưởng phải khởi đầu bằng việc gây ý thức về lý tưởng. Việc gây ý thức này không phải chỉ có tính cách làm giàu kiến thức, mà còn có mục đích đun đẩy người thụ huấn tới việc thực hiện ý thức đó. Có thể nói, việc gây ý thức về lý tưởng nhằm mục đích thực tiễn hơn mục đích lý tưởng, nhằm mục đích thực tiễn hơn mục đích lý thuyết. Chính vì thế, nên lý tưởng phải được kêu gọi bằng những ý thức giàu động lực. Đó là một vấn đề liên hệ đến tư tưởng thì tất nhiên không thể tránh được trừu tượng. Trừu tượng không phải là không hấp dẫn. Nhưng đối với những bộ óc còn non yếu, thì lý tưởng động lực cần phải đặt vào những hình thức rõ rệt, thiết thực và cụ thể. Muốn rõ thì phải xác định. Xác định thì phải tách biệt. Thí dụ: Tôi nhìn rõ chữ này, tức là tôi nhận diện các nét của nó trong một tổng hợp và phân tích, đồng thời phân biệt được nó với những chữ chung quanh. Cũng vậy, nếu tôi chọn bác ái làm lý tưởng đời tôi, thì tôi cần phải hiểu rõ thế nào là bác ái với những điều kiện và tương quan của nó, đồng thời phải biết phân biệt bác ái thực với những hình thức bác ái giả tạo thấy nhan nhản khắp nơi. Lý tưởng càng rõ càng dễ thực hiện. Thêm vào tính cách rõ ràng, ý tưởng cũng cần phải thiết thực. Gọi là thiết thực những gì có thể thực hiện được và có tính cách thỏa mãn chính đáng chủ thể cũng như nhu cầu ngoại cảnh. Nếu tôi muốn làm tổng thống và theo đuổi ý muốn đó như một lý tưởng tha thiết đời mình thì chắc chắn lý tưởng đó không có chút gì là thiết thực. Vì sự tôi làm tổng thống là việc chẳng cần, chẳng được và cũng chẳng nên. Nếu lý tưởng được cụ thể hóa trong một nhân vật, thì càng có tính cách sống động và hấp dẫn hơn. Nói về tinh thần bất khuất của dân tộc, có khi không gây xúc động được ai, nhưng khi thấy trò Ơn bị ngã gục, thì hàng ngàn người đã nhìn vào hình ảnh đó như một tấm gương lý tưởng. Họ thấy như lý tưởng vừa xa vừa gần, vừa sống động vừa linh thiêng, tuy cao vượt nhưng cũng không quá tầm của họ. Tính cách cụ thể của lý tưởng là một động lực rất hấp dẫn. Và nó sẽ hấp dẫn một cách lạ lùng đối với học trò nếu lý tưởng lại được cụ thể hóa nơi chính nhà giáo của chúng. Tấm gương của nhà giáo là một cách gợi ý thức nhiều động lực không gì bằng. Nó có thể thay thế tất cả, nhưng không gì thay thế được nó. Gây ý thức về lý tưởng mới chỉ là khởi đầu. Làm sao đạt được lý tưởng đã ý thức lại là vấn đề khác. Cho tới đây tất cả còn nằm trong lý thuyết. Tuy nhiên, nếu lý thuyết chỉ huy hành động, thì sự giải quyết một vấn đề trên lý thuyết cũng là một điều cần thiết vậy.