Hôm nay, chúng ta quy tụ nơi đây, là để gặp nhau và để gặp Chúa. Tất cả chúng ta đều muốn nhớ Bùi-Tuần 2001
1. Hôm nay, chúng ta quy tụ nơi đây, là để gặp nhau và để gặp Chúa. Tất cả chúng ta đều muốn nhớ cách riêng đến thánh lễ lịch sử đã được cử hành tại nhà nguyện nhỏ bé này, trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Nhớ về thánh lễ lịch sử ấy, chúng ta hiếu thảo nhớ ơn Đức cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ, vị chủ chăn thánh thiện đã chủ sự thánh lễ đó, với một đức tin vâng phục phó thác tuyệt đối vào Chúa nhân lành.
Nhớ về thánh lễ lịch sử ấy, chúng ta ca tụng thánh ý nhiệm mầu của Chúa nơi Đức cha Giuse Trần Xuân Tiếu. Hôm đó, Ngài là một linh mục trẻ giúp lễ cạnh Đức cha Cố Micae. Nay Ngài đang là chủ chăn giáo phận, và đang chủ sự thánh lễ này tại chính gian cung thánh đã chứng kiến thánh lễ lịch sử 38 năm về trước.
Nhớ về thánh lễ lịch sử ấy, chúng ta nhận thức chúng ta là “dân của Chúa, là dân được Chúa dắt dìu nuôi dưỡng”, như Thánh vịnh nói (Tv 99,3). Nên chúng ta phụng sự Chúa với lòng hân hoan và cảm tạ.
2. Riêng tôi, với kỷ niệm được thụ phong Giám mục theo sắc chỉ của Tòa Thánh trong chính ngày này, tôi nhớ về hình ảnh cộng đoàn dân Chúa tại đây, khi biến cố lịch sử xảy ra.
Dưới ánh sáng Phúc âm, tôi thấy cộng đoàn dân Chúa tại đây lúc đó đúng là một cộng đoàn cầu nguyện và tỉnh thức. Cầu nguyện và tỉnh thức trong tình hình mới đã rất sốt sắng với nhiều thay đổi một cách tự nhiên, nhưng hướng về thực chất Phúc Âm.
3. Thực vậy, cầu nguyện lúc đó tự nhiên thay đổi. Hầu như ai cũng cầu nguyện một cách rất đơn sơ và riêng tư tập trung vào gặp gỡ Chúa. Cốt yếu là bằng tấm lòng tin cậy, họ gặp gỡ Chúa một cách thân mật. Trong thân mật, họ thấy Chúa bẻ gẫy hết mọi chương trình của họ. Họ thấy ý Chúa rất khác ý của họ. Họ như mất hết, chỉ còn bám vào Chúa mà thôi.
4. Cũng vậy, tỉnh thức lúc đó tự nhiên thay đổi. Hầu như mọi người dân Chúa đều nghe được thánh ý Chúa là hãy thay đổi lối sống. Hãy bỏ đàng tội, tùng phục thánh ý Chúa.
Thành thực mà nói, hồi đó, tình nghĩa trong gia đình giáo phận là rất đậm đà, gắn bó với nhau, không ai là gánh nặng cho ai, ai cũng cố gắng làm việc lành phúc đức.
Cộng đoàn dân Chúa đã cầu nguyện như thế vì đã tỉnh thức như thế. Kết quả là họ được Chúa yêu thương, được Chúa thánh hóa, được Chúa sai vào giữa lòng dân tộc.
5. Với cái nhìn dưới ánh sáng Phúc âm trên đây, tôi coi biến cố 30 tháng 4 năm 1975 là cơ hội Chúa dùng để thanh luyện dân Chúa. Thanh luyện này cũng phải được hiểu dưới ánh sáng lời Chúa.
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu nói về sự thanh luyện. Chúa phán: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi. Còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15,1-2).
6. Chúa báo trước, khi thanh luyện, có những cành sẽ bị Chúa chặt đi, và có những cành sẽ được Chúa cắt tỉa.
Lời Chúa phán là sự thật. Chính vì thế mà hầu hết chúng ta đều không dám chủ quan. Biết lo bị Chúa coi mình như cành không sinh hoa trái, sẽ bị chặt đi, thì đó là một sự biết lo chính đáng. Biết tạ ơn Chúa, nếu được Chúa coi mình như cành cây có sinh hoa trái, sẽ được cắt tỉa, thì đó là sự biết tạ ơn khiêm nhường.
7. Đến đây, chúng ta thấy cầu nguyện và tỉnh thức mà Chúa muốn, là điều cần, không phải chỉ cho ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những ngày liền sau đó, mà vẫn cần mãi mãi trong mọi hoàn cảnh.
Tôi có cảm tưởng là dân Chúa đang bước vào một cuộc thanh luyện mới.
Trong cuộc thanh luyện này, mỗi người chúng ta có thể sẽ lại bị Chúa bẻ gẫy các công trình và các chương trình, và biết đâu cũng sẽ là cành cây bị Chúa chặt đi, nếu chúng ta để mình bị ác thần khống chế.
Tôi xin phép lưu ý điều này: Quyền lực của ác thần hiện nay rất mạnh.
8. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Đức Chúa Cha thế này: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17,15). Ác thần là Satan và những quyền lực của sự ác. Theo lời Chúa trên đây, thì trong cuộc thanh luyện mà Chúa thực hiện, Satan và quyền lực của sự ác sẽ tìm cách giành giật các linh hồn. Do vậy, chúng ta rất cần cầu nguyện và tỉnh thức với một đức tin khiêm nhường theo gương Đức Mẹ Maria.
9. Mẹ Maria đã “xin vâng” (Lc1,38) trong tinh thần cầu nguyện và tỉnh thức theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Tôi thấy là trong cuộc thanh luyện hiện nay và sắp tới tại Việt Nam, sẽ không thiếu người đơn sơ cùng với Mẹ Maria xin vâng bằng cầu nguyện và tỉnh thức, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Tôi mong rằng tất cả mọi người chúng ta hiện diện nơi đây đều được là những cành nho như thế, do lòng thương xót vô biên của Chúa.
Với tất cả tấm lòng gắn bó chân thành, tôi xin anh chị em thân mến, thương cầu nguyện cho tôi được luôn trung tín đón nhận những cắt tỉa của Chúa, đặc biệt là trong cuối đời đầy những sa sút và yếu đuối nhưng cũng đầy tin tưởng phó thác nơi lòng thương xót Chúa, trong tinh thần cầu nguyện và tỉnh thức.
Thánh Giuse là một đấng thánh mà tôi yêu mến cách riêng ngay từ hồi tôi còn thơ ấu. Tôn sùng Bùi-Tuần 2002
1. Thánh Giuse là một đấng thánh mà tôi yêu mến cách riêng ngay từ hồi tôi còn thơ ấu. Tôn sùng thánh Giuse rất sớm như thế là do cha mẹ truyền lại.
Cha mẹ tôi hay nói với các con là thánh Giuse rất thương những người nghèo khổ. Tôi tin lời đó của cha mẹ. Rồi tôi thấy lời cha mẹ dạy đó là rất đúng, bởi vì thánh Giuse thực sự đã thương cứu giúp gia đình tôi, nhất là khi gia đình tôi rơi vào cảnh túng nghèo.
Riêng tôi cũng đã được thánh Giuse thương một cách đặc biệt. Tôi cảm nghiệm được sự thực ngọt ngào đó trong nhiều trường hợp ngặt nghèo lúng túng mà tôi mắc phải, nhưng đã được Ngài thương giải thoát.
2. Không kể những ơn đặc biệt tôi nhận được trong những trường hợp đặc biệt do thánh Giuse, tôi còn thường xuyên nhận được từ thánh Giuse nhiều bài học hữu ích cho đời sống đức tin của tôi. Một trong những bài học hữu ích đó, là sự tế nhị trong các tương quan.
Thực vậy, thánh Giuse đã rất tế nhị với Đức Mẹ Maria, với những người khác và với Thiên Chúa của Ngài.
3. Đối với Đức Mẹ Maria, thánh Giuse đã rất tế nhị một cách khác thường.
Tế nhị của Ngài đối với Đức Maria là quyết tâm bảo vệ danh dự của người mình yêu. Phúc âm kể: “Ông Giuse chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).
Tế nhị của Ngài đối với Đức Maria là đón Đức Maria về nhà mình với lòng tin tưởng và kính trọng đầy yêu thương, sau khi được thiên thần Chúa báo mộng (x. Mt 1,19-24).
Tế nhị của Ngài đối với Đức Maria là đảm đương gánh chịu mọi nhọc nhằn khổ cực, để Đức Maria được an tâm lo cho hài nhi Giêsu trên đường trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13)
Tế nhị của Ngài đối với Đức Maria là tự nguyện lao động vất vả, để đời sống gia đình tại Nagiarét được đầy đủ, đỡ phần nào lo lắng cho Đức Mẹ (x. Mt 2,19-23).
Sự tế nhị của thánh Giuse đối với Đức Mẹ đã tạo nên cho Đức Mẹ một bầu khí tâm linh an bình hạnh phúc, nhất là trong hoàn cảnh phức tạp khó khăn tăm tối. Sự tế nhị đó của thánh Giuse dạy tôi điều này: Sự thánh thiện và sống đức tin hệ tại rất nhiều ở sự biết tế nhị trong tương quan đối với những người thân của mình. Tế nhị cả trong những sự rất nhỏ bé. Tế nhị ít là ở sự cố gắng đừng làm điều gì gây đau lòng cho họ, hơn nữa cố gắng làm điều gì gây được niềm vui cho họ. Tế nhị như thế trong mọi ngày không phải chuyện dễ. Nhưng thiết tưởng đó chính là sự thánh thiện.
4. Đối với Đức Mẹ Maria, thánh Giuse rất tế nhị như vừa thấy phần nào. Còn đối với những người khác thì sao? Tôi thấy Ngài vẫn là con người tế nhị.
Tế nhị của thánh Giuse đối với xóm làng là hòa mình và chia sẻ. Ngài hòa mình vào đời sống lao động của xóm nghèo. Ngài chia sẻ nếp sống của nền văn hóa địa phương.
Tế nhị của thánh Giuse đối với dòng tộc là trung thành nhận mình thuộc dòng tộc vua Đavít, nên dù nghèo cũng cứ trở về quê gốc là Belem, để khai tên mình và người bạn trăm năm của mình vào sổ sách Nhà nước (x. Lc 2,1-5).
Tế nhị của thánh Giuse đối với giáo quyền là tuân giữ cặn kẽ mọi luật lệ về cắt bì, về thanh tẩy cho con, về trẩy hội lên đền thờ Giêrusalem (x. Lc 2,21-45).
Thánh Giuse là một công dân tốt, và là một giáo dân tốt. Tốt ở chỗ không những giữ đúng luật, mà còn giữ luật với một tâm hồn tế nhị. Tế nhị ở chỗ tỏa ra tấm lòng khiêm tốn hiền hòa qua việc giữ luật. Giữ luật mà tạo nên được một bầu khí xây dựng yêu thương, bình an và liên đới, thì thiết tưởng đó là sự thánh thiện.
5. Sau cùng, sự tế nhị của thánh Giuse đã dạy tôi nhiều nhất là ở thái độ của Ngài đối với Thiên Chúa của Ngài.
Tế nhị của Ngài đối với Thiên Chúa là ở sự Ngài tin tưởng tuyệt đối và mau lẹ những gì Chúa truyền dạy cho Ngài.
Phúc Âm dùng từ “chỗi dậy ngay, ban đêm” để nói về thánh Giuse, khi vừa được Thiên Chúa truyền dạy trong báo mộng (x. Mt 2,13-21). Ngài vâng phục mà không hỏi lý do, không tính toán hơn thiệt. Tế nhị như thế đối với Chúa nhất là trong những trường hợp khó khăn, chính là sự thánh thiện.
Tất cả những gì thánh Giuse dạy tôi về sự tế nhị đã giúp tôi rất nhiều trong đời sống tu đức, mục vụ và truyền giáo.
Tôi hiểu tế nhị ở đây là cái gì tinh tế chuyển tải một cái hồn đạo đức truyền cảm. Tôi xin đưa ra một ví dụ: Hai người cùng hát một bài ca. Cả hai cùng hát đúng nốt đúng lời. Nhưng một người hát với sự tinh tế của giọng điệu, có sức tạo nên cho người nghe một bầu khí thinh lặng nội tâm, tập trung vào cái hồn của bài ca, có một sức truyền cảm linh thiêng. Người tế nhị trong đời sống đạo đức cũng được hiểu như thế.
Phúc Âm thánh Luca kể lại dụ ngôn người Samari tốt lành. Có ba người cùng đi trên một con đường. Cả ba người cùng nhìn thấy một nạn nhân nằm bên vệ đường. Người thứ nhất thấy, liền tránh qua bên kia đường mà đi. Người thứ hai cũng thấy, cũng tránh qua bên kia đường mà đi. Người ba thấy liền dừng lại, chăm sóc người bị thương (x. Lc 10,29-37). Người thứ ba chính là người tế nhị được Chúa ca ngợi và được Chúa nêu gương. Dụ ngôn trên đây làm tôi liên tưởng đến thánh Giuse, con người tế nhị trên đường đời, trong tương quan với những người đau khổ.
6. Theo kinh nghiệm của tôi, sự tế nhị trong đời sống đạo đức, như thánh Giuse đã nêu gương, không dễ thực hiện được chỉ do học tập, mà phải có ơn Chúa. Chúa sẽ ban ơn tế nhị cho những ai khiêm nhường, nghèo khó, khát khao sự công chính. Cho đến lúc này, tôi vẫn còn lỗi lầm thiếu sót về sự tế nhị. Tôi vẫn phải bắt đầu lại.
Lạy thánh Giuse, xin thương cầu bầu cùng Chúa cho con được sự tế nhị của Ngài, ít là một phần nào. Con rất yếu đuối, xin Ngài thương đỡ nâng con.
Tôi coi Năm Đức Tin là một cơ may Chúa ban cho tôi, để trở về với Chúa một cách đích thực. Trở Bùi-Tuần 2003
1. Tôi coi Năm Đức Tin là một cơ may Chúa ban cho tôi, để trở về với Chúa một cách đích thực.
Trở về với Chúa một cách đích thực là từ bỏ những gì không phải là thánh ý Chúa, mà chỉ thi hành thánh ý Chúa mà thôi. Thực tế cho thấy có những việc coi như bám vào Chúa, nhưng lại bị Chúa chối từ, bởi vì không hợp ý Chúa. Chúa Giêsu quả quyết: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, nhân danh Thầy mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,21-23)
2. Theo lời Chúa Giêsu quả quyết trên đây, trở về với Chúa không chỉ là phải bỏ những tội lỗi, mà cũng phải bỏ cả những việc coi như việc lành nhưng không hợp thánh ý Chúa. Chúa gọi những người làm những việc nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ không hợp thánh ý Chúa, là “bọn làm điều gian ác”. Biết đâu nhiều việc lành chúng ta đang làm như đọc các kinh, những lễ lạy, những tổ chức, những xây cất, những tranh đấu, những khóa học hỏi, cũng bị Chúa ruồng bỏ, lý do vì không hợp ý Chúa.
3. Những người làm một số việc lành nổi nang lại bị Chúa gọi là bọn gian ác. Như thế, rõ ràng là họ đã quá chủ quan và tự mãn. Chúa trách họ vì họ không thi hành ý Chúa. Tôi nghĩ là họ có đức tin và cũng làm theo đức tin. Nhưng đức tin của họ là đức tin đã biến chất, đã tha hóa. Do vậy họ đã không thi hành ý Chúa. Đó chính là điều khiến tôi phải sợ cho tôi và cho mọi người trong Hội Thánh của tôi hiện giờ. Bởi vì hiện nay bệnh chủ quan và tự mãn đang lan tràn rất mạnh.
Sự sợ hãi của tôi là lành mạnh. Nó giúp tôi tìm những thái độ trở về với Chúa, khởi đi từ việc nhận mình có thể có những biến chất và tha hóa trong đức tin.
4. Dưới đây là vài thái độ được chọn:
Thái độ thứ nhất là khiêm nhường.
Tôi hay đau bệnh. Rất nhiều khi, tôi bệnh mà không biết rõ bệnh tình của mình. Nhưng bác sĩ chuyên môn thì biết rõ. Cũng vậy, có thể tôi mắc bệnh về đức tin, nhưng tự mình không thể thấy được. Và nếu có thấy thì cũng không tự mình chữa lành được. Nên tôi cần phải rất khiêm nhường. Hội Thánh giúp tôi tìm thái độ đó, khi dạy tôi hãy năng đọc kinh sám hối: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”.
Ở đây, tôi nhớ lại dụ ngôn Chúa Giêsu nói về hai người lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14). Người được tiếng là đạo đức, tự hào về đức tin của mình, lại bị Chúa ruồng bỏ. Bởi vì đức tin của họ là đức tin đã biến chất, đã tha hóa, do tự mãn về những việc mình làm. Còn người mang tiếng là tội lỗi, lại được Chúa tha thứ. Bởi vì đức tin của họ là đức tin đích thực do khiêm nhường nhận mình hèn kém, chỉ tin vào Chúa xót thương mà thôi.
5. Thái độ thứ hai là nghèo khó.
Thái độ nghèo khó là thái độ dứt lìa những ham muốn quyền lực, bất cứ loại quyền lực nào.
Phúc Âm dạy tôi về thái độ dứt lìa đó trong việc Chúa Giêsu bị quỷ Satan cám dỗ trong sa mạc. Quỷ cám dỗ Chúa về quyền lực kinh tế, khi dụ Người biến đá thành bánh. Nhưng Người từ chối. Quỷ cám dỗ Chúa về quyền lực thiêng liêng, khi dụ Người nhảy từ đỉnh cao đền thờ xuống đất. Nhưng Người từ chối. Quỷ cám dỗ Chúa về quyền lực chính trị, khi dụ Người lạy quỷ, để được quyền cai trị toàn thế giới. Nhưng Người từ chối (x. Lc 4,1-10).
Dứt lìa ham muốn mọi thứ quyền lực vẫn được một số môn đệ Chúa mọi thời cố gắng thực hiện. Nhưng bên cạnh đó, phần đông lại coi việc chạy theo quyền lực là bình thường. Tệ hại nhất là lạm dụng những quyền lực đó nhân danh đức tin, trong lãnh vực truyền giáo và mục vụ. Đó chính là đức tin tha hóa, biến chất, do đi ngược lại tinh thần khó nghèo của Phúc Âm.
Nếu lại hãnh diện về những quyền lực, thích dùng để phô trương thành tích những gì mình phục vụ cho Hội Thánh, thì quả là một đức tin đã tha hóa trầm trọng.
Càng là đức tin biến chất và tha hóa, khi cậy vào quyền lực nọ kia, để khinh thường, thậm chí còn loại trừ những ai không nịnh bợ mình trong đời sống cộng đoàn và liên đới mang danh nghĩa Chúa.
Xem ra mọi cơ chế đời đạo hiện nay đều có khuynh hướng đề cao quyền lực. Trong một tình hình như thế, tinh thần nghèo khó đòi hỏi phải dứt lìa mọi ham muốn về bất cứ quyền lực nào sẽ là một việc cực kỳ khó khăn. Biết thế, nhưng người môn đệ Chúa sống đức tin đích thực, muốn thi hành trọn vẹn thánh ý Chúa, vẫn phải trung thành với ý Chúa để rao giảng Nước Thiên Chúa chỉ là tình yêu, ân sủng, cứu độ, công lý và bình an.
6. Thái độ thứ ba là đón nhận.
Với tinh thần nghèo khó và khiêm nhường, người môn đệ Chúa khát khao đón nhận mọi ơn Chúa giúp cho mình được gặp gỡ Chúa Giêsu. Bởi vì căn bản của đức tin đích thực là gặp gỡ Chúa Giêsu một cách sống động và thân mật. Đức tin lúc đó không phải là tin điều gì, mà là tin ai. Tôi tin Chúa Giêsu. Tin Chúa Giêsu là tin mọi lời Người phán, tin gương đời sống của Người, tin vào tình yêu và quyền năng của Người, tin Người chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Tôi bước theo Người.
Chúa Giêsu đến với tôi qua Phúc Âm, qua các Bí tích, qua Hội Thánh, qua các biến cố, qua những tiếp xúc, qua những cầu nguyện, qua những hồi tâm. Tôi phải tỉnh thức để gặp Người. Gặp được Người, tôi đã nhận ra Người là Tin Mừng đích thực cho tôi. Tin Mừng đó như một biến cố quan trọng biến đổi đời tôi, để tôi đi về tương lai với hy vọng trần thế.
7. Tới đây, tôi có thể kết luận thế này: Thi hành thánh ý Chúa là hãy trở về với đức tin đích thực, một đức tin có căn bản là gặp gỡ sống động với Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ. Chỉ đức tin đích thực mới chiếu sáng chân lý đích thực, con đường đích thực và sự sống đích thực, là Chúa Giêsu Kitô. Chúa chúng ta.
Vấn đề xem ra đang được lịch sử cứu độ hiện nay coi là trung tâm gây nên khủng hoảng, chính là con người sống đức tin tha hóa. Nếu đúng là như vậy, thì Năm Đức Tin không nên tránh né việc xem xét lại đức tin của từng người, của từng cộng đoàn, của từng địa phương. Đức tin đích thực đang bị chia cắt ra từng nhiều mảnh nhỏ. Mỗi người, mỗi nơi dùng một mảnh nhỏ mình thích, để thêu dệt thêm vào đó bao nhiêu thứ riêng tư xa lạ với đức tin đích thực. Cứ thế thành nên những tổ chức và những cơ chế khác nhau mang danh đức tin, nhưng sống phân hóa, thậm chí còn chống lại nhau, nhiều khi chống phá chính đức tin đích thực và phản lại Tin Mừng đích thực là Chúa Giêsu. Thảm cảnh đó đang xảy ra tại nhiều nơi.
Lạy Mẹ Maria. Mẹ được ơn vô nhiễm nguyên tội. Thế mà trên đường sống đức tin đích thực. Mẹ đã phải chịu biết bao đau đớn. Còn con mang thân phận tội lỗi yếu hèn, sống trung thành với đức tin đích thực là luôn trở về. Ngay trên đường trở về, con cũng gặp phải muôn vàn khó khăn đòi nhiều phấn đấu hy sinh, xin Mẹ thương dắt dìu và nâng đỡ con. Con tin ở Mẹ.
Tôi vừa đọc “Công giáo và Dân tộc” số 1890 tuần lễ 11.1 đến 17.1.2013. Trong đó có một bài Bùi-Tuần 2004
Tôi vừa đọc “Công giáo và Dân tộc” số 1890 tuần lễ 11.1 đến 17.1.2013. Trong đó có một bài khiến tôi suy nghĩ nhiều. Đó là bài “Có đáp ứng được những thách đố?” của tác giả Nguyễn Thanh Long.
Lý do khiến tôi phải suy nghĩ nhiều là vì bài đó vô tình đã gợi cho tôi nhớ lại một sự kiện đau buồn xưa: “Chúa khóc thương thành Giêrusalem”.
Thánh Luca viết: “Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Đức Giêsu khóc thương, mà nói: Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi. Nhưng hiện giờ điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. Thật vậy, sẽ tới ngày quân thù đắp lũy chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào. Vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (Lc 19,41-44).
Giêrusalem là biểu tượng nơi quy tụ những người tin Chúa, là hình ảnh thần quyền hướng dẫn dân Chúa, là tượng trưng sự hiện diện của đạo Chúa, là dấu chỉ niềm hãnh diện về sự tồn tại của niềm tin vào Chúa.
Với ý nghĩa trên đây, tôi coi nhiều đối tượng tại Hội Thánh Việt Nam hôm nay cũng giống như những Giêrusalem theo mức độ nào đó. Những đối tượng đó là: Những đại hội, những đại lễ, những đại thành công, những đại tuyên ngôn, những đại công trình.
Những thứ Giêrusalem đó nhiều khi làm cho tôi khâm phục, nhưng cũng nhiều khi làm cho tôi sợ hãi.
Tôi sợ có thể Chúa Giêsu đang khóc thương, khi nhìn thấy nguy cơ sắp xảy tới cho những Giêrusalem đó.
Tôi sợ nhất là Chúa Giêsu khóc thương, không chỉ vì những nguy cơ sắp xảy ra, mà nhất là vì tội của chính những Giêrusalem đó.
Nỗi sợ của tôi càng thêm lớn lao, khi thấy những Giêrusalem đó vẫn tự phụ, tự mãn, không chịu nhận ra tội lỗi của mình, trái lại vẫn tiếp tục thái độ “không biết thời giờ được Chúa viếng thăm”.
Chúa nói: “Hiện giờ điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được”. Chính vì chưa thấy nên người ta không tin là sẽ xảy ra. Đến khi xảy ra, thì sẽ quá muộn. Ước mong những lời Chúa cảnh báo, cùng với những gì đang xảy ra, sẽ đánh thức chúng ta, để chúng ta biết sửa mình trong thời giờ còn lại. Sửa mình về nhiều sai trái, nhưng nhất là về lối sống phô trương, hình thức, thiếu yêu thương bác ái và không thực sự dấn thân cho Tin Mừng.
Những gì tôi chia sẻ trên đây là rất chân thành, mở đường cho chính tôi bước vào một nội tâm sám hối và cầu nguyện.
Đời tôi là một chuyến đi. Tôi đi về cõi đời đời. Cõi đời đời là khát vọng sâu xa của tôi. Cõi đời Bùi-Tuần 2005
1. Đời tôi là một chuyến đi. Tôi đi về cõi đời đời. Cõi đời đời là khát vọng sâu xa của tôi. Cõi đời đời, mà tôi khát vọng, phải là nơi tràn đầy hạnh phúc.
Đi về cõi phúc không dễ chút nào. Đường đi thì trắc trở, khó khăn, hiểm nghèo. Trên vai tôi lại phải vác đủ thứ gánh nặng nề.
Tôi rất mệt mỏi. Chợt tôi được nghe Lời Chúa Giêsu phán: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Tôi coi Lời Chúa trên đây là một tiếng gọi. Tiếng gọi cho riêng tôi. Tiếng gọi của Đấng muốn cứu tôi.
Tôi nhận thức mình rất cần được cứu. Tôi không tự mình cứu được mình. Cũng chẳng ai sẽ cứu được tôi. Tôi nghe tiếng Chúa gọi, mà đến với Chúa. Nhưng Chúa ở đâu?
2. Tôi nhìn cây thánh giá treo trước mặt tôi. Tôi thấy Chúa Giêsu đang ở đó. Người gọi tên tôi. Trong giây phút, tôi nhớ tới những lời Kinh Thánh nói về sự Chúa Giêsu đã tự nguyện chịu chết đớn đau trên thánh giá, để cứu chuộc loài người. Chỉ vì yêu thương.
Tôi gặp Chúa Giêsu với niềm tin Người yêu tôi, Người muốn cứu tôi, Người muốn dẫn tôi vào cõi phúc.
Niềm tin đó của tôi là rất sống động. Tôi thưa với Chúa về những gánh nặng của tôi.
3. Gánh nặng căn bản làm tôi cảm thấy mình nặng nề, chính là bản thân tôi.
Tôi nói với Chúa những lời thánh Phaolô xưa nói về chính mình: “Sự thiện con muốn thì con không làm, nhưng sự ác con không muốn thì con lại cứ làm… Khi con muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, con vui thích luật của Chúa. Nhưng trong các chi thể của con, con lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí, và giam hãm con trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể của con.
“Con thực là một người khốn nạn: Ai sẽ giải thoát con khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,19-25).
Tôi nói với Chúa chỉ một lời vắn tắt, nhưng gói ghém tất cả. Lời đó là: “Sự yếu đuối của con chính là gánh nặng cho con”.
4. Sự thú nhận đó chứng tỏ tôi thực sự nghèo khó và chân thật, với những nhận thức về ý Chúa sau đây:
+ Chúa muốn tôi không đổ trách nhiệm tội lỗi của tôi cho những gì ở bên ngoài, mà hãy nhận tất cả những gì xấu xa của tôi đều trong tôi mà ra, như lời Chúa dạy: “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,20). Tôi vâng thực hiện và tôi thấy lòng nhẹ đi.
+ Chúa muốn tôi không được coi mình đạo đức hơn những người khác. Dụ ngôn người Pharisêu cầu nguyện, mà lại kể công và khinh người thu thuế (x. Lc 18,9-14) giúp tôi hiểu gánh nặng đáng ghê tởm chính là sự kiêu căng, mà tôi phải sám hối ăn năn. Tôi vâng thực hiện, và tôi cảm thấy lòng tôi được nhẹ nhõm.
+ Chúa muốn tôi phải tha thứ cho những người xúc phạm đến tôi, cho dù đến bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,22). Tôi có tha thứ, thì mới được Chúa thứ tha (x. Mt 18,23-35). Tôi vâng thực hiện, và tôi cảm thấy lòng tôi được thanh thản.
+ Chúa muốn tôi phải tuân theo ý Chúa, chứ đừng theo ý riêng. Như Người quả quyết: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Tôi vâng thực hiện, và tôi cảm thấy lòng tôi được bình an.
+ Chúa muốn tôi phải luôn tỉnh thức, sẵn sàng, trung tín với nhiệm vụ phục vụ những người thuộc về tôi. Vì giờ Chúa đến sẽ rất bất ngờ (x. Mt 24,37-51). Tôi vâng thực hiện, và tôi cảm thấy lòng tôi nhẹ nhàng.
5. Với những cảm nghiệm trên đây, tôi thấy Chúa làm cho những gánh nặng của tôi được nhẹ đi, và tôi được nghỉ ngơi bồi dưỡng, nhờ hai ơn trọng đại này:
Một là ơn nhận thấy mình được Chúa yêu thương, được Chúa biến đổi, nên hết lòng sám hối.
Hai là ơn nhận thấy mình được đi vào Cõi Phúc trường sinh, sống bên Chúa là tình yêu đời đời.
6. Những gì tôi vừa chia sẻ là một hành trình. Hành trình này cũng dài như chính cuộc đời. Hành trình này có những linh thiêng. Linh thiêng nhất là sự gặp gỡ Chúa Giêsu.
Sự đến với Chúa, sự gặp gỡ Chúa Giêsu có thể coi như yếu tố nền tảng của đức tin.
Sự gặp gỡ Chúa Giêsu phải sống động. Chúa Giêsu trở nên cửa để tôi vào đúng đường dẫn tới Nước Trời.
Đức tin của tôi được lớn và mạnh dần nhờ luôn luôn lắng nghe tiếng Chúa gọi, luôn luôn đến với Chúa, luôn luôn đón nhận những sáng kiến của Chúa về tôi.
7. Chọn Chúa Giêsu là cửa duy nhất, đó là điều tôi chọn cho suốt đời mình. Mặc dầu càng đi vào đời, tôi càng gặp vô số cửa mở ra và mời gọi tha thiết với những hứa hẹn đủ màu. Nhưng tôi chỉ chọn Chúa Giêsu là cửa duy nhất của tôi. Vì chỉ có Người thương yêu tôi thực sự. Chỉ có Người đã dám chết để cứu chuộc tôi. Chỉ có Người là mục tử đã thực sự hy sinh mạng sống vì chiên. Chỉ có Người dẫn tôi về với Chúa Cha. Chỉ có Người mới ban cho tôi Thánh Thần của Ngài, để đổi mới lại tất cả.
8. Cho dù sự chết hiện nay có vẻ như đang ngự trị lịch sử dưới nhiều hình thức, tôi vẫn tin vững vàng rồi tương lai sẽ được đổi mới, nhờ Đức Giêsu Kitô.
Tôi cầu nguyện với niềm tin của trẻ thơ, bởi vì trẻ thơ tin là đối với cha mình, chẳng có gì là sẽ không có thể.
Thế là những gánh nặng của tôi đang được vơi đi. Xin cảm tạ Chúa đến muôn đời.
9. Nhưng thú thực là tôi vẫn còn một gánh nặng đáng kể, đó là nỗi lo của tôi cho phần rỗi nhiều người. Họ sống trong lầm lạc và lừa dối. Lừa dối người khác. Lừa dối Chúa. Lừa dối chính mình. Họ sẽ phải trả giá.
Nếu nỗi lo đó là một gánh nặng cho tôi, thì thiết tưởng gánh nặng đó phải được coi là một ân huệ. Ân huệ đó sẽ thúc đẩy tôi cộng tác nhiệt tình hơn với Chúa để cứu các linh hồn, với tất cả những đớn đau của tôi kết hợp vào thánh giá Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, gánh nặng của tình yêu Chúa đối với loài người được biểu hiện ở thánh giá. Con xin cảm tạ Chúa, và xin Chúa thương nâng đỡ con trên con đường bước theo Chúa. Càng được Chúa nâng đỡ trên đường bước theo Chúa, con càng cảm nghiệm được thấm thía Lời Chúa phán xưa: “Các con hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học với Ta, vì Ta có lòng hiền từ và khiêm nhường. Tâm hồn các con được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách Ta êm ái, và gánh Ta nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30).
Càng già nua bệnh tật, tôi càng cảm thấy mình yếu đuối. Có thể nói là tôi trở nên bé nhỏ. Đặc biệt Bùi-Tuần 2006
1. Càng già nua bệnh tật, tôi càng cảm thấy mình yếu đuối. Có thể nói là tôi trở nên bé nhỏ. Đặc biệt là về đàng thiêng liêng, tôi thấy mình rất nghèo nàn, nhỏ bé.
Tôi rất cần điểm tựa. Tôi nhớ lời Kinh Thánh: “Hỡi ai bé nhỏ, hãy đến với Ta” (Cn 9,4). Với thân phận bé nhỏ, khó nghèo, tôi đến với Chúa.
Đến với Chúa, tôi chỉ nói với Chúa một ước muốn này là: “Khao khát được Chúa yêu thương”. Như thể được Chúa yêu thương là đủ cho tôi rồi.
2. Trong giây phút, tôi được Chúa trả lời. Trước hết, tôi cảm thấy tình Chúa bao bọc tôi. Tỏ rõ nhất là qua những sự kiện tôi được cứu khỏi bao nhiêu sự dữ.
Sự dữ ghê gớm nhất là tình trạng tội lỗi. Người cứu tôi khỏi nguy cơ đó bằng cách Người sai chính Con của Người là Đức Kitô xuống thế, để trở thành của lễ đền tội cho tôi.
Người nói với tôi qua thánh Gioan tông đồ: “Tình yêu cốt ở điều này, không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10).
Khi gặp Chúa Giêsu, Đấng đã đổ máu mình ra để đền tội cho tôi, tôi hiểu cái giá, mà tình yêu Chúa đã phải trả để cứu tôi, thực là vô cùng cao quý.
3. Tôi nhận ra tôi được Chúa yêu thương, đang khi tôi còn trong biển tội lỗi. Tôi như đã chết trong đó, thế mà đã được sống lại nhờ Đức Kitô. Qua đó, tôi cảm thấy tình yêu Chúa là một tình yêu lớn lao, tình yêu đầy xót thương. Tôi nhớ lại một cách thấm thía lời thánh Phaolô xưa: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu thương chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Ep 2,3-5).
Được cùng sống với Đức Kitô, tôi sung sướng đón nhận tình yêu Chúa, mà tôi không sao hiểu nổi.
4. Chúa cho tôi thấy tình yêu đó. Tôi thấy nhờ đức tin và cũng thấy nhờ cảm nghiệm. Đề rồi tôi nhìn Thiên Chúa chính là tình yêu, như lời thánh Gioan nói: “Chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta và đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu, thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16). Yêu thương là ở lại trong trái tim nồng cháy.
5. Khi tôi ở lại trong Chúa, và Chúa ở lại trong tôi, tôi cảm thấy mình được Chúa thương. Trong cảm nghiệm đó, tôi xác tín rõ ràng: Sở dĩ Chúa thương tôi, chính là vì tôi bé nhỏ, nghèo nàn, yếu đuối, tội lỗi. Do đó, không những tôi không được nâng mình lên, gán cho mình công trạng này, phúc đức kia, mà còn phải đào sâu mãi sự khiêm nhường.
6. Đào sâu sự khiêm nhường là lợi dụng từng sự yếu đuối của mình để nhìn lên Chúa với tất cả niềm tin vào tình yêu thương xót vô cùng của Chúa. Do vậy, sẽ là ảo tưởng nguy hiểm, khi cứ nghĩ về mình, với những phương pháp tự vẽ ra và những bậc thang tự nghĩ ra, với sự tự tin vào mình, để cho là mình đi từng bước tới khiêm nhường.
Đào sâu sự khiêm nhường còn là biết kính trọng và quảng đại đối với những người khác, nhất là trong đời sống cộng đoàn.
7. Phải yếu mến Chúa và tin cậy vào tình yêu giàu lòng thương xót Chúa, thì tình yêu đó sẽ giúp cho sự khiêm nhường được chân thực. Yêu mến, khiêm nhường đó sẽ làm cho sự phó thác cậy trông được trở nên như chìa khóa của sức mạnh phi thường, như lời thánh Phaolô quả quyết: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Cũng trong tinh thần phó thác, đôi khi tôi dám nói: “Khi được yêu chính là lúc tôi mạnh”.
8. Tôi cảm thấy tôi yếu, không những trong sự tôi bé mọn, dễ sa ngã, mà nhất là trong khi tôi đau khổ. Đau khổ, cho dù xảy ra cách nào, vẫn đòi tôi phải kiên trì chịu đựng. Không phải tôi ưa thích đau khổ, vì là đau khổ, nhưng là vì đau khổ diễn tả được tình yêu, thôi thúc tôi trở về với Chúa, và giúp tôi cứu các linh hồn, do hy sinh đền tội và cầu nguyện cho họ. Chính vì thế mà, tôi phải phấn đấu rất nhiều. Khi phấn đấu, tôi cảm thấy an tâm, vì thấy mình thuộc về Chúa, được bước theo Chúa, như lời Chúa Giêsu phán: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình” (Mt 16,24).
9. Không những tôi được an tâm, mà cũng cảm được an ủi, do lời Chúa hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng… Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi thì nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
Lòng tôi trở nên nhẹ nhàng, thao thức của tôi trở thành êm ái, do thấy đời sống của tôi trở nên đơn giản. Tôi không còn phải gò ép mình bằng sức riêng của mình, mà tôi được Chúa Thánh Thần dẫn đưa. Không phải là tôi không gặp khó khăn, khổ cực. Nhưng, trong mọi trường hợp, tôi bước đi trên đường thiêng liêng với yêu thương và phó thác hoàn toàn trong Chúa giàu lòng thương xót.
10. Mùi vị êm ái dịu ngọt, mà Chúa ban cho tôi, khi tôi được Chúa yêu thương, làm cho tôi khao khát được yêu mến Chúa. Tôi tin tình mến Chúa chân thực, cũng phải do Chúa ban cho. Nên tôi hay cầu xin được yêu mến Chúa. Tôi cầu xin và tin chắc Chúa sẽ ban cho, như lời Chúa đã hứa: “Ai khát, hãy đến với tôi. Ai tin vào tôi, hãy đến mà uống” (Ga 7,38). Khao khát đó và niềm tin đó luôn luôn đơn giản.
11. Cả đến khi cầu nguyện, suy gẫm, mọi sự đều trở nên đơn giản, bởi vì tất cả đều trong Phúc Âm. Hồn tôi được Chúa lôi cuốn bằng khao khát được Chúa yêu thương. Tôi học yêu thương nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu dạy tôi qua gương đời sống của Người và qua những lời dạy của Người. Từ đó, tôi học phải mến Chúa thế nào, và phải yêu thương tha nhân thế nào.
12. Khi yêu thương tha nhân theo gương Chúa Giêsu, tôi khao khát cùng với Chúa, cứu con người khỏi khổ, nhất là khỏi mất linh hồn đời đời. Tôi cứu họ bằng những việc làm nhỏ, những hy sinh nhỏ, những cơ hội nhỏ. Nhỏ, nhưng với tình yêu lớn. Khao khát cứu các linh hồn là một thao thức ngày đêm trong tôi. Nó rất đơn giản. Rất đơn giản, cả khi tình hình trở nên phức tạp.
13. Khiêm nhường, bé nhỏ, phó thác trọn vẹn cho tình yêu Chúa giàu lòng thương xót, đó là lối sống của tôi những ngày còn lại. Thiết tưởng, đó cũng chính là một mùa hy vọng đầy an ủi giữa cuộc đời đầy phức tạp này có nhiều bất ngờ đau đớn.
Những gì tôi vừa chia sẻ trên đây sẽ là một bó hoa thiêng liêng tôi dâng lên Chúa nhân kỷ niệm ngày qua đời của thánh nữ Têrêsa thành Lisieux 30.9.1897.
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã nói với Đức Chúa Cha những lời cảm động sau đây: “Lạy Cha, con xin cảm tạ Cha, vì Cha đã không cho những người hiền triết biết điều đó, nhưng đã mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11,25). Khi nói những lời đó, chắc Chúa đã nghĩ tới chị nữ tu Têrêsa thành Lisieux và những ai theo gương chị. Xin Chúa thương cho con được vào số những người bé mọn ấy.
Đối với những người bé mọn ấy, không một tình hình nào sẽ phải đi vào con đường ghen ghét, hận thù, mà luôn luôn mở ra về hướng yêu thương. Con tạ ơn Chúa đã dạy chúng con điều quan trọng đó, để chúng con làm chứng cho Tin Mừng tại Việt Nam hôm nay.
Thời Chúa Giêsu, đã xuất hiện một quyền lực vô hình rất mạnh. Nó khống chế nhiều người. Nó Bùi-Tuần 2007
1. Thời Chúa Giêsu, đã xuất hiện một quyền lực vô hình rất mạnh. Nó khống chế nhiều người. Nó biến chất các lề luật đạo đức. Nó đối đầu với chính Chúa Giêsu. Nó cản phá mọi công trình cứu chuộc của Đấng Cứu Thế. Nó ngăn chặn việc phát triển Nước Trời.
Quyền lực đó là quỷ Satan.
2. Quỷ Satan là một quyền lực hung dữ. Phúc Âm nói nhiều đến những người bị quỷ ám. Họ bị quỷ hành hạ dã man (x. Mt 8,28-34).
3. Quỷ Satan là một quyền lực thông minh. Phúc Âm thuật lại Chúa Giêsu bị quỷ cám dỗ trong sa mạc. Cám dỗ của quỷ được thực hiện một cách thông minh, vừa hợp tâm lý, vừa dựa vào Kinh Thánh (x Mt 4,1-11).
4. Quỷ Satan là một quyền lực mưu cao kế giỏi. Phúc Âm kể lại con đường thương khó của Chúa Cứu Thế. Trong đó quỷ đã lôi kéo được những người lãnh đạo tôn giáo và cả quần chúng có đạo đồng tâm nhất trí xin giết Chúa Giêsu (x. Lc 23,13-25).
5. Quỷ là một quyền lực phá hoại bền vững. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn cỏ lùng. Chúa phán: “Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác thần. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ”. (Mt 13,37-39). Chúa muốn cứ để cỏ lùng và lúa cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến mùa, lúa thì cho vào kho lẫm, còn cỏ lùng thì quẳng vào lửa (x. Mt 13,40-43). Như vậy, quỷ được phép hoạt động bền vững cho tới tận thế.
6. Quỷ là một quyền lực hoạt động ráo riết nhất trong lãnh vực đạo đức, theo chiều hướng phá hoại.
Quỷ đào tạo nhiều kẻ thông luật nên người đạo đức, nhưng đạo đức giả. Phúc Âm thánh Matthêu kể lại bảy lời “Khốn cho các ngươi” mà Chúa Giêsu nhắm thẳng vào các kinh sư và Pharisêu. Chúa gọi họ là những kẻ giả hình. Bên ngoài thì đạo đức, nhưng bên trong thì tội lỗi. Họ bị Chúa kết án.
7. Quỷ hướng dẫn nhiều người đạo đức làm các việc đạo đức bình thường, nhưng với mục đích phô trương, nên mất hết công phúc. Phúc Âm thánh Matthêu ghi lại lời Chúa Giêsu quả quyết: Những người cầu nguyện, ăn chay, bố thí, với mục đích phô trương đều bị Chúa từ bỏ: “Chúng đã được phần thưởng rồi” (X Mt 6,1-6.16-18).
8. Quỷ xúi nhiều người nổi tiếng làm những việc đạo đức phi thường, nhưng do ý riêng mình, nên bị Chúa xua đuổi. Chúa phán: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, nhân danh Thầy mà trừ quỷ, nhân danh Thầy mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ rằng: Ta không hề biết các ngươi, hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,22-23). Lý do là vì họ đã lạm dụng “nhân danh Chúa” mà làm những việc đạo đức kia, hoàn toàn theo ý riêng chứ không theo ý Chúa.
9. Quyền lực của quỷ như thế là cực kỳ mạnh. Thánh Gioan có lần đã viết: “Chúng ta biết rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa, còn tất cả thế gian đều nằm dưới ách thống trị của Ác thần” (1Ga 5,19).
Chính Chúa Giêsu cũng đã nói với các thượng tế, lãnh binh đền thờ và kỳ mục đến bắt Người một câu như khẳng định quyền lực của Satan đã đến giờ thắng thế: “Đây là giờ của các ông và quyền lực của tối tăm” (Lc 22,53)
10. Thắng thế của quyền lực Satan có lúc sẽ như phủ trùm thế giới, khi đạo đức xuống dốc trầm trọng. Chúa Giêsu thấy trước, nên đã cảnh báo: “Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mt 24,12).
Quyền lực của Ác thần như thế là quá mạnh. Nó tàn phá đức tin một cách dữ tợn, đến nỗi Chúa Giêsu đã phải than thở: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất này nữa chăng?” (Lc 18,8).
11. Những gì đã xảy ra thời Chúa Giêsu, và những lời Chúa Giêsu phán về quyền lực của Satan phải kể là rất đáng ngại, khiến chúng ta phải đề phòng. Nếu biết như vậy, mà chúng ta vẫn dửng dưng, không tỉnh thức cầu nguyện, cậy tin vào Chúa, thì quả là Satan đang thắng lớn. Bởi vì nó đang và sẽ làm hết sức, để lôi linh hồn chúng ta xuống hỏa ngục.
Thế nhưng, cuộc chiến đấu với Ác thần Satan vẫn chưa kết thúc. Tôi thấy Chúa Thánh Thần ðang hoạt động mạnh mẽ một cách âm thầm nơi rất nhiều tâm hồn tại Việt Nam hôm nay. Tôi thấy hy vọng trên quê hương Việt Nam là rất lớn. Xin đưa ra một ít dấu chỉ.
Đi tìm sự bình an trong thinh lặng ở những nơi thờ tự thinh lặng, đó là một hiện tượng rất phổ thông hiện nay.
Cảm được sự êm đềm nội tâm khi hiện diện trước một tượng ảnh thánh, đó là một sự kiện rất phổ biến lúc này.
Gặp gỡ được Đấng thiêng liêng một cách riêng tư, trong thinh lặng hồi tâm, đó cũng là một kinh nghiệm, mà nhiều người đã kể lại, nhất là khi tham gia những giờ cầu nguyện “Lòng thương xót Chúa”, “Đức Mẹ Mân Côi” và các thánh lễ.
Nếm được sự ngọt ngào thiêng liêng, khi sám hối một cách khiêm nhường, đó cũng là một khám phá thiêng liêng, mà nhiều người đang chia sẻ.
Âm thầm cứu giúp những người đau khổ, do tin vào Đấng giàu lòng thương xót sẽ vì thế mà ban phúc lành cho gia đình mình, đó cũng là một phong trào khá rộng rãi hiện đang được nhiều người hưởng ứng.
Cầu nguyện và hy sinh để cứu các linh hồn, đó cũng là một việc đạo đức đang được nhiều người thực hiện một cách sốt sắng.
Trở về với Chúa đang là biến cố lớn xảy ra khắp nơi.
12. Ngoài ra, rất nhiều người Công giáo tại Việt Nam hôm nay đang làm chứng cho Chúa. Họ làm chứng bằng chính con người của họ. Con người hiền lành và khiêm nhường. Con người can đảm, xây dựng nền văn hóa của tình thương. Con người sống lương thiện, cố gắng chu toàn bổn phận và các liên đới trong cộng đoàn. Sự hiện diện của họ đã chính là một chứng từ.
13. Những hiện tượng vừa kể trên đây là một cánh đồng hoa trái thiêng liêng rực rỡ, mà tôi gọi là do Chúa Thánh Thần. Đó là những mở đầu tốt, để sẽ còn đi xa hơn nữa trong việc mở rộng Nước Thiên Chúa tại Việt Nam yêu dấu của tôi.
Do vậy, cho dù quỷ Satan có vẻ như thắng thế ở nơi này, và lúc nọ, ngay trong nội bộ Hội Thánh, nhưng chung cuộc, Nước Tình Yêu của Thiên Chúa vẫn phát triển. Tuy lặng lẽ, nhưng sâu xa, bền vững.
Tôi luôn cậy tin ở Chúa, nhờ Mẹ Maria và với Mẹ Maria.
Càng về già, tôi càng được Đức Mẹ thương dạy dỗ. Để thích hợp với tuổi già của tôi, xem ra Bùi-Tuần 2008
1. Càng về già, tôi càng được Đức Mẹ thương dạy dỗ. Để thích hợp với tuổi già của tôi, xem ra Đức Mẹ muốn dạy tôi những bài học dễ hiểu từ những cảnh vật thông thường. Cảnh vật gần gũi, mà Đức Mẹ dẫn tôi vào, để dạy tôi trong tháng hoa này, là những bông hoa tầm thường.
Trước phòng tôi, có những mảnh đất nhỏ, những hàng rào nhỏ và những chậu cây. Hoa nở hầu như quanh năm. Hầu hết là những hoa tầm thường, như hoa giấy, hoa xương rồng, hoa mười giờ, hoa cau, hoa sống đời. Có những hoa rất nhỏ không tên, mọc từ những cây nhỏ lách ra trong những khe của sân ximăng bị nứt. 2. Khi chăm chú nhìn ngắm những bông hoa tầm thường đó, nhiều lúc tôi cảm thấy như những hoa đó có hồn.
Bởi vì tôi nhận thấy như các hoa bé nhỏ đó nhìn tôi. Cái nhìn của hoa rất thanh thản, rất yêu thương. Lặng lẽ, nhưng gửi gắm bao nhiêu điều sâu thẳm. Kín đáo, nhưng trao tặng bao giá trị thiêng liêng.
Điều mà các hoa đó đã gây ấn tượng nhất nơi tôi, đó là nghị lực vượt qua. Không thiếu nắng gắt, mưa tuôn gió bão, khói bụi. Nhưng các hoa bé nhỏ đó đã vượt qua một cách âm thầm khiêm tốn.
Phải nói là những hoa bình thường đó rất đẹp. Mỗi thứ có vẻ đẹp riêng. Chúng sống bên nhau, mà không hại nhau, trái lại chúng như giúp nhau đẹp thêm.
Những hoa bình thường đó, đôi khi sống chung với những cỏ dại, giữa những đống rác. Nhưng chúng vẫn đẹp. Hơn nữa, cảnh sống chung đó tự nó nói lên một chút gì là cảm thương và chia sẻ.
Có những buổi chiều, tôi thăm lại những bông hoa ban sáng, khi thấy một số hoa bắt đầu tàn héo, tôi như nghe được tiếng giã từ hân hoan: “Sứ vụ đã chu toàn”. Tôi hiểu sứ vụ của những hoa đó là làm đẹp cho môi trường. Làm đẹp như thế là làm lợi cho con người. Tuổi hoa tuy vắn, nhưng sứ vụ của hoa được chu toàn tốt đẹp. 3. Từ những bông hoa tầm thường đó, Đức Mẹ đã dạy tôi những bài học cao quý, cần áp dụng trong cuộc sống.
Trước hết, tôi áp dụng những gì tôi đã học được trên đây vào sự tiếp cận với những người khác. Những người khác, mà tôi thường gặp, phần đông là những người bình thường, như các bà mẹ quê, các người quét dọn, các người nông dân, các người nghèo khổ.
Đàng sau những dáng vẻ bề ngoài coi chẳng có gì hấp dẫn, nhiều người trong họ đúng là những tấm gương đạo đức.
Bên kia những cái thấy được coi như tầm thường, nhiều người trong họ đúng là những tâm hồn cao thượng.
Cái đẹp nơi họ là những giá trị ở trong trái tim họ. Những giá trị cao đẹp đó đã được Chúa Giêsu nói đến trong “bài giảng trên núi” (Mt 5,1-12). Đó là:
Tâm hồn nghèo khó, Tâm hồn hiền lành, Tâm hồn vui chịu thử thách, Tâm hồn khát khao sự công chính, Tâm hồn xót thương kẻ khác, Tâm hồn trong sạch, Tâm hồn xây dựng hòa bình, Tâm hồn vui chịu bách hại vì sống công chính.
Cái đẹp nơi họ là lối sống đạo và những thái độ đạo đức.
4. Đức Mẹ cho tôi thấy, hồi xưa khi Đức Mẹ sống ở thế gian này, Đức Mẹ cũng đã sống vất vả như một người lao động bình thường. Dân làng, xóm ngõ cũng đã nhìn Đức Mẹ như một người tín hữu giữ luật đạo đời một cách bình thường. Cả trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, Đức Mẹ cũng đã im lặng và khóc lóc như một người yếu đuối bình thường. Nhưng bây giờ, thì ai cũng rõ: Đàng sau dáng vẻ bình thường đó của Đức Mẹ, có cả một công trình thánh thiện tuyệt vời của Thiên Chúa.
Từ những bài học trên đây, tôi nhớ lại những kỷ niệm về một số cuộc đời. Những cuộc đời đó phải nói là đầy những khổ đau, những bất hạnh, những mất mát. Coi như đời họ là một chuỗi dài những cái chết thương đau. Nhưng bên kia và đàng sau những cái chết đó đã có cả một dòng sông sâu thẳm đầy sự sống can trường và yêu thương cao thượng.
5. Tôi tự hỏi: Cái gì đã làm cho nhiều cuộc đời trở thành những bông hoa đẹp, có giá trị thiêng liêng, góp phần vào chương trình cứu độ của Chúa như thế.
Đức Mẹ ban cho tôi câu trả lời, bằng cách đưa trí khôn tôi nhớ lại lời Đức Mẹ đã thưa với sứ thần ngày Truyền Tin: “Xin vâng”.
Với lời “Xin vâng”. Đức Mẹ quyết tâm thuộc về Chúa một cách trọn vẹn và thường xuyên. Tôi được Đức Mẹ dẫn vào con đường đó.
Xin vâng của Đức Mẹ dạy tôi luôn gắn kết mật thiết với Chúa bằng tinh thần cầu nguyện, đợi chờ, lắng nghe, tỉnh thức.
Xin vâng của Đức Mẹ khuyên tôi đi vào cửa hẹp và đường hẹp.
Xin vâng của Đức Mẹ dạy tôi hãy sống hiền lành và khiêm nhường.
Xin vâng của Đức Mẹ dạy tôi hãy trút bỏ những gì làm cho sự dâng hiến chính mình cho Chúa trở nên nặng nề, cồng kềnh cản trở.
Xin vâng của Đức Mẹ thúc giục tôi hãy sẵn sàng đón nhận mọi khó khăn luôn xảy ra cho những môn đệ quyết tâm bước theo Chúa Kitô.
Xin vâng của Đức Mẹ bảo tôi là những gì tôi nhận được nhưng không, thì cũng hãy cho đi nhưng không.
Xin vâng của Đức Mẹ khuyên tôi hãy luôn phó thác mọi sự nơi Chúa, nhất là khi phải đứng trước những thách thức, tra hỏi.
6. Như thế, “xin vâng” của Đức Mẹ dạy tôi là, để thuộc về Chúa thì chủ yếu và trước hết là phải đẹp trong chính tâm hồn, trong nếp sống, trong thái độ, trong mọi chi tiết đời thường.
Có nghĩa là trong truyền giáo đừng tưởng phải làm những việc này việc nọ có tích cách ồn ào, sang trọng, hoành tráng, vang dội. Nhưng trước hết phải truyền giáo bằng lối sống của trái tim đậm đà tám mối phúc.
Đời ta có thể lặng lẽ, nhưng nếu nó là bông hoa, dù bình thường, nó vẫn có sức truyền giáo và loan báo Tin Mừng. Cái đẹp của trái tim mới chính là cái đẹp phản ánh cái đẹp của Thiên Chúa có bản tính là tình yêu.
Lạy Mẹ Maria, bài này con viết ra, như một bông hoa nhỏ, hái từ trái tim hèn mọn. Xin dâng lên Mẹ với tâm tình cảm tạ và phó thác.
Cô đơn đang trở thành một hiện tượng càng ngày càng phát triển trong thế giới càng ngày càng Bùi-Tuần 2009
1. Cô đơn đang trở thành một hiện tượng càng ngày càng phát triển trong thế giới càng ngày càng văn minh.
Giữa đám đông người ta vẫn có thể rất cô đơn. Cô đơn ngay trong gia đình. Cô đơn cả trong đời sống vợ chồng. Thậm chí cô đơn chính giữa cộng đoàn bác ái và cộng đoàn đức tin.
Cô đơn không là một sự việc. Cũng không là một sự kiện thiên nhiên. Nó là một tình trạng của con người. Tình trạng này được cảm nhận như một sự thiếu vắng, mất mát, đứt lìa những dây liên đới, mà mình tha thiết.
Có những cô đơn tình nguyện đầy bình an nhờ lý tưởng cao đẹp.
Hiện nay, không thiếu người cho rằng sống cô đơn, tuy có khó khăn, nhưng vẫn dễ chịu hơn sống với những người khác.
Nhưng có những cô đơn xảy đến như những tai nạn, muốn tránh mà không tránh được. Đó là những cô đơn không đợi chờ. Thí dụ cô đơn do bệnh tật, do bị loại trừ.
Dù thuộc loại nào, cô đơn thường vẫn đòi nhiều phấn đấu. Riêng những cô đơn bất đắc dĩ, thường hay gây nên nhiều thứ đớn đau, rất nhiều mệt mỏi, nhất là có thể dẫn tới nhiều hậu quả tiêu cực. Vì thế, những người, cô đơn loại đó vốn được xã hội và tôn giáo quan tâm đặc biệt. Đó là một bổn phận đạo đức thuộc lương tâm.
Vấn đề tôi tự đặt ra cho tôi không chỉ là bản thân mình phải đón nhận những cô đơn bất đắc dĩ thế nào, mà còn là người môn đệ Chúa sẽ phải làm chứng cho Chúa thế nào trong một tình hình dày đặc những cô đơn thê thảm.
Tôi đưa vấn đề trình lên Chúa. Chúa cho tôi thấy là. Tôi cần chuẩn bị, vừa đón nhận những cô đơn khó chịu, vừa để làm chứng cho Chúa với những người cô đơn.
Để chuẩn bị, Chúa chỉ cho tôi nhìn vào những nhân vật nổi tiếng rất là cô đơn trong Kinh Thánh.
2. Nhân vật cô đơn trong Cựu Ước đã nói với tôi rất nhiều đó là tiên tri Giêrêmia.
Ngài cô đơn, vì thiếu một đời sống riêng tư tình cảm ấm áp.
Chúa phán với Ngài: “Ngươi đừng cưới vợ, đừng có con trai con gái ở đời này” (Gr 16,2).
Ngài cô đơn, vì lời Chúa truyền cho ngài phải nói với dân, đã không được dân nghe.
Ngài nói: “Kể từ năm thứ 13 triều Giosigiahu, con vua Amon, làm vua Giuđa cho đến hôm nay tính ra đã 23 năm, lời Đức Chúa phán với tôi, và tôi đã không ngừng công bố cho anh em. Nhưng anh em đã chẳng thèm nghe” (Gr 25,3).
Ngài còn cô đơn hơn nữa, khi lời Chúa mà ngài công bố đã bị nhạo cười.
Ngài than: “Vì lời Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày” (Gr 20,8).
Ngài cảm thấy một nỗi cô đơn đầy cay đắng, khi mình bị bắt bớ vì Chúa.
Chúa phán với ngài: “Phần con, con khác nào con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt. Con đâu biết chúng đang mưu tính hại con. Chúng bảo nhau: Cây đương sức, nào ta chặt nó đi, loại nó ra khỏi đất dành cho kẻ sống, để không còn ai nhớ đến tên tuổi nó nữa” (Gr 11,19).
Ngài rơi vào một nỗi cô đơn cực độ, khi có lúc ngài cảm tưởng như Chúa không còn là suối nguồn an ủi ngài nữa.
Ngài than vãn: “Tại sao con cứ phải đau khổ hoài, mang vết trọng thương hết đường cứu chữa. Phải chăng đối với con, Chúa chỉ là ngọn suối trong ảo mộng, là dòng nước mơ hồ” (Gr 15,18).
Những cô đơn nơi tiên tri Giêrêmia được ngài cảm nhận như những nỗi đau đớn, khổ nhục. Đau quá, khổ quá, nên ngài đã có lúc than trách: “Con vô phúc quá, mẹ ơi, mẹ sinh con ra làm gì ?” (Gr 15,10).
Nhưng, dù than, dù trách, tiên tri vẫn một niềm tin cậy vào Chúa: “Lạy Đức Chúa là sức mạnh, là thành lũy của con, là nơi con nương ẩn trong ngày khốn quẫn” (Gr 16,19).
3. Tôi dừng lại lâu lâu ở mỗi nỗi cô đơn của tiên tri Giêrêmia. Dừng lại, để hiểu, để cảm nhận. Rồi tôi nhận ra rằng: Những cô đơn đã xảy ra cho tiên tri Giêrêmia là một bài học cho tôi.
Bài học dạy rằng: Người thánh cũng không tránh được những cô đơn khó chịu. Người thánh cũng bị cô đơn gây nên đau đớn. Người thánh, khi bị cô đơn đau đớn, cũng đã la lên, than trách. Đức tin đã giúp người thánh bám vào Chúa, nhưng không cứu ngài khỏi cô đơn vằn dặt.
Những gì đã xảy ra cho tiên tri Giêrêmia cũng có thể xảy ra cho tôi và những người Chúa sai đi. Rất có thể những cô đơn khó chịu sẽ xuất hiện cách khác. Nhưng cô đơn nào cũng là một thách đố có thể gây nên khủng hoảng bất ngờ. Tình trạng đó thường là cái gì rất riêng tư, không ai chia sẻ được.
Nhưng trong tình trạng bi đát đó, tiên tri Giêrêmia đã làm chứng rằng: “Lời Chúa vẫn như là ngọn lửa bừng cháy trong tim” (Gr 20,9). Còn tôi, liệu có được như thế không ?
Như vậy, người cô đơn trong phấn đấu cam go vẫn có thể là nhân chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Nhưng vượt qua được thử thách là điều không dễ.
4. Suy nghĩ trên đây đưa tôi tới Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc loài người. Chúa Giêsu cũng đã trải qua những cô đơn ghê gớm.
Cô đơn ghê gớm xảy ra cho Người, chính khi Người làm phép lạ. Phúc Âm thánh Gioan, đoạn 5, kể rằng: một người đau ốm đã 38 năm, nằm ở hành lang hồ nước Bếtđatha. Chúa Giêsu làm phép lạ chữa anh được khỏi. Anh vác chõng và bước đi hớn hở. Nhưng chính phép lạ đó đã là cớ cho nhiều người Do Thái kết án Chúa, vì Người đã làm phép lạ ngày Sabát là ngày nghỉ việc. “Người Do Thái tìm cách giết Chúa Giêsu” (Ga 5,18). Đem tình thương cứu độ đến cho người ta, thế mà người ta lại ghen ghét !
Cô đơn đau đớn xảy ra cho Người, khi Người tìm đến các môn đệ để chia sẻ nỗi xao xuyến trong vườn Cây Dầu. Nhưng các môn đệ vẫn ngủ. “Simon, anh không thức nổi một giờ sao ?” (Mc 14,37). Tìm an ủi nơi người mình thương, thế mà họ không chút quan tâm !
Cô đơn cực độ đã xảy đến cho Người, khi trên thánh giá, Người thốt lên: “Lạy Chúa, lạy Chúa của con, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc 15,34). Hết lòng với Tình yêu, nhưng cảm thấy như bị Tình yêu loại trừ !
Trong mọi nỗi cô đơn, Chúa Giêsu luôn làm chứng về sự vâng phục thánh ý Chúa Cha, và tuyệt đối phó thác nơi Chúa Cha. “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
5. Tới đây, tôi hiểu: Mỗi một nỗi cô đơn trên đây nơi Chúa Giêsu đều gây nên những đau khổ riêng cho Người. Mỗi cô đơn đau đớn ấy đều là mỗi chiến trường. Chính Người cũng phải phấn đấu. Phấn đấu ấy rất cam go. Người thốt lên: “Tin thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mc 14,38). Nhưng kết thúc đều là gắn bó trung thành với Chúa Cha. Nhờ đó, mà muôn người được cứu chuộc.
Suy gẫm về những cô đơn đau đớn của Chúa Giêsu càng làm tôi xác tín điều này: Thân phận phấn đấu chật vật với những cô đơn khó chịu, thường được Chúa trao cho những ai Chúa gọi cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Như những thanh luyện. Như những thử thách. Như những thánh giá cứu độ. Như những của lễ đền tội. Và như thế, luôn được thành công không hẳn là dấu chỉ được Chúa yêu thương và tuyển chọn.
6. Khi những xác tín đó thấm sâu vào lòng tôi, tôi như được mở mắt linh hồn ra, để nhận ra ý Chúa về tôi.
Nếu tôi phải cô đơn đau đớn một cách nào đó, thì ý Chúa là muốn cho tôi được phần nào nên giống Chúa. Chính Chúa là Tình Yêu hôm nay đang bị cô đơn đau đớn giữa loài người lạnh nhạt và chối bỏ Chúa.
Ý Chúa còn là muốn cho tôi biết thông cảm và gần gũi với vô số người hôm nay đang sống cô đơn đau đớn giữa cuộc đời muôn vàn phức tạp.
Cô đơn đau đớn, nhờ ơn Chúa, đã giúp tôi gặp được Chúa và gặp được nhiều người. Tôi đón nhận cô đơn, không phải ở đó có niềm vui giá rẻ, nhưng vì ở đó tôi tuyên xưng niềm tin trung tín, một niềm tin được mài giũa qua thử thách tư bề.
Khi gặp bất cứ thứ cô đơn nào, tôi phải rất khiêm nhường nhìn nhận mình yếu đuối, để hết lòng cầu nguyện trông cậy vào sức phù trợ của Chúa. Nhờ đó, trong phấn đấu cam go, tôi vẫn tìm được một không gian tĩnh lặng cho tâm hồn.
Mục vụ và truyền giáo cho những người cô đơn đau đớn đòi nhiều tế nhị và thương cảm. Nếu không, sẽ càng làm cho ngườI ta thêm đau đớn cô đơn.
Biết đâu một ngày nào đó Hội Thánh của tôi sẽ rơi vào cảnh cô đơn đau đớn giữa chính những đồng bào của tôi. Tôi cầu xin cho điều đó đừng xảy ra. Nhưng nếu nó cứ xảy ra, thì chúng ta có được chuẩn bị để sống tình trạng đó không ?
Lạy Chúa, xin thương cho tất cả những ai đang quằn quại trong vực thẳm cô đơn đau đớn được gặp chính Chúa là tình yêu cứu độ.
Người chủ mạnh nhất đang lãnh đạo nhân loại hiện nay là ai? Theo tôi, đó là Lòng ham muốn. Có Bùi-Tuần 2010
1. Người chủ mạnh nhất đang lãnh đạo nhân loại hiện nay là ai? Theo tôi, đó là Lòng ham muốn.
Có nhiều thứ ham muốn. Nhưng ham muốn được coi là khá mạnh hiện nay chính là ham muốn thỏa mãn những gì mình ưa thích, mà coi nhẹ hoặc loại trừ những gì Chúa muốn.
Theo cách nói của Phúc Âm, thì những gì mà phần đông nhân loại ham muốn như thế, chính là “cửa rộng và con đường thênh thang” (Mt 7,13).
Mặc dầu người ta biết ham muốn đó có thể là nguy hiểm cho phần rỗi, nhưng người ta vẫn ham muốn của mình được thỏa mãn. Chúa Giêsu phán: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường hẹp thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14).
Chứng tỏ rằng có một thứ ham muốn rất mạnh. Nó muốn thỏa mãn những gì mình tự nhiên ưa thích, bất chấp Chúa có ưa thích hay không. Nhiều khi những ham muốn đó trở nên như cơn giông bão, tàn phá những vùng chúng tràn qua.
2. Ham muốn đó mạnh đến nỗi người ta thà chọn nó hơn là chọn lời mời gọi của Chúa. Phúc Âm thánh Luca kể lại chính lời Chúa Giêsu nói ra điều thê thảm đó.
Chúa Giêsu ví Nước Thiên Chúa như một bữa tiệc lớn. Chúa mời nhiều người đến dự tiệc đó. Nhưng “mọi người nhất loạt đều xin kiếu. Người thứ nhất nói: Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm, cho tôi xin kiếu. Người khác nói: Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây, cho tôi xin kiếu. Người khác nói: Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được” (Lc 14,18-20).
Trên đây, dụ ngôn chỉ đưa ra ba ham muốn mà người ta cảm thấy cần được thỏa mãn, bất chấp lời mời vào dự tiệc của Nước Thiên Chúa. Hiện nay những ham muốn mà người ta bám vào để từ chối lời mời của Thiên Chúa là vô số kể, như ham muốn mua sắm, ham muốn giải trí, ham muốn cạnh tranh, ham muốn yêu đương, ham muốn gây uy tín, ham muốn sống tự do thoải mái.
3. Có những ham muốn tốt, nhưng lại đi sai.
Lịch sử tôn giáo cho thấy đã có những ham muốn mang áo đạo đức, như ham muốn bênh đạo, ham muốn mở đạo. Để thỏa mãn những ham muốn đó, người ta đã đem quân đi đánh phá những nơi bị coi là cản đạo. Người ta cũng đã lập ra những tòa án tuyên phạt nặng nề những kẻ bị kết án là sai luật đạo. Án phạt nặng nề nhất là thiêu sống. Bây giờ thì rõ những ham muốn như thế đã đi sai.
Chính Phúc Âm cho thấy, hồi đó các thượng tế và dân Israel, vì ham muốn bênh đạo với các luật đạo họ đang giữ, nên đã âm mưu sát hại Chúa Giêsu. Vì bênh đạo Chúa, nên đã giết Chúa.
Các vị thượng tế hồi đó không phải là những người không có đức tin, càng không phải là những người thiếu lý trí. Nhưng khi nơi họ ham muốn bảo vệ đạo trở thành sai trái quá mạnh, phải thực hiện bất cứ giá nào, thì lúc đó đức tin và lý trí trở thành dụng cụ để ham muốn lợi dụng. Lúc đó đức tin và lý trí thay vì cản ngăn ham muốn, thì lại tìm cách biện minh cho ham muốn.
4. Hiện nay, những ham muốn sai trái không kiềm chế nổi đang đẩy thế giới tới một nguy cơ bùng nổ các thứ xung đột cực kỳ thê thảm.
Riêng trong Hội Thánh Công giáo Việt Nam hôm nay, nhiều thứ ham muốn cũng đang xuất hiện. Ham muốn trong lãnh vực đào tạo. Ham muốn trong lãnh vực tổ chức. Ham muốn trong lãnh vực xây cất. Ham muốn trong lãnh vực làm chứng. Ham muốn trong lãnh vực tranh đấu.
Ham muốn thực sự xấu không xuất hiện một cách lộ liễu. Nhưng không phải tất cả mọi ham muốn mang danh đạo đức đều thực sự đạo đức. Có những dòng sông trên thì phẳng lặng, nhưng bên dưới lại có những con sóng ngầm nguy hại. Cũng vậy, dòng sông ham muốn bên trên coi như êm đềm, nhưng vẫn lăn tăn những đợt sóng nhỏ mang chất xấu, nhất là vẫn có những sóng ngầm tai hại.
5. Riêng tôi, ham muốn mà tôi xác tín là rất cần thiết cho tôi, đó là ham muốn được tái sinh, trở nên con người mới.
Con người mới mà tôi ham muốn là con người có Đức Kitô, “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay, tôi sống trong xác phàm, nhưng là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu tôi và hiến mạng sống vì tôi” (Gl 2,20). Ham muốn có Chúa Kitô trong mình được nuôi dưỡng bằng việc cầu nguyện và phấn đấu để luôn thuộc về Chúa. Chúa đến với tôi, Chúa ở lại trong tôi. Chúa sống trong tôi, Chúa biến đổi tôi. Chúa giải cứu tôi. Tất cả đều lặng lẽ kín đáo.
6. Con người mới, mà tôi ham muốn là con người biết dùng các ơn Chúa ban theo ý Chúa. Tôi sẽ như thánh Phaolô cố gắng: “Không làm cho ân huệ của Chúa ra vô hiệu” (Gl 2,21). Chúa ban cho tôi rất nhiều ơn, như sức khỏe, thời giờ, trí thức, kinh nghiệm, địa vị, nhất là đức tin. Tôi không làm cho các ân huệ đó ra vô hiệu, nghĩa là không những tôi không dùng những ơn đó vào những việc xấu, cho những mục đích xấu, mà còn phải cố gắng dùng những ơn đó vào những việc có lợi cho phần rỗi các linh hồn. Những việc như thế có thể là rất bé nhỏ, nhưng luôn mang một tình yêu lớn.
7. Con người mới, mà tôi ham muốn là con người dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, mà chịu đựng đau khổ, để rao giảng Tin Mừng là Đức Giêsu Kitô (x. 2 Tm). Theo tôi đau khổ lớn nhất chính là sự bất xứng nặng nề của bản thân mình.
8. Những suy nghĩ trên đây đưa tôi nhận xét sau đây:
Nền văn minh hiện nay khuyến khích hưởng thụ, cạnh tranh và sản xuất đang tạo ra những ham muốn mới nơi mọi tầng lớp trong mọi dân tộc. Những ham muốn mới càng ngày càng tăng thêm với những sắc màu hấp dẫn.
Chúng rất độc lập, không nhằm phục vụ đạo đức, trái lại nhiều khi còn phản lại đạo đức.
Mọi người đều bị những làn gió ham muốn mới hiện nay chi phối, hoặc nhiều hoặc ít.
Chính những người rao giảng đạo đức cũng không tránh được những phấn đấu cam go, ngay với chính bản thân mình.
Trong một thời đại, mà đại đa số đồng bào Việt Nam đang vật lộn với đủ thứ ham muốn nội ngoại, thiết tưởng các môn đệ Chúa nên coi việc giúp đỡ họ trong việc chọn lựa ham muốn là một ơn gọi khẩn thiết. Cách giúp họ tốt nhất là gương sáng của chính các môn đệ Chúa, nhất là trong đời sống tu thân.
Làm gương sáng về đời sống tu thân lúc này đòi rất nhiều can đảm, và phải có ơn Chúa. Đôi khi đó là một cuộc bơi lội ngược dòng sông lớn.
Lạy Mẹ Maria, xin mẹ thương ban cho con được ham muốn mến Chúa như Mẹ, và yêu thương mọi người như Mẹ, mặc dù ham muốn đó đòi con phải đau khổ như Mẹ. Con xin phó thác con cho Mẹ. Xin Mẹ luôn đỡ nâng con, bởi vì con rất yếu đuối và hèn mọn.
Một đêm mới rồi, tôi có một giấc ngủ bình thường. Nhưng trong giấc ngủ đó, tôi có một chiêm Bùi-Tuần 2011
1. Một đêm mới rồi, tôi có một giấc ngủ bình thường. Nhưng trong giấc ngủ đó, tôi có một chiêm bao khác thường.
Một số linh mục tôi quen từ cõi chết trở về gặp tôi. Các ngài cho biết là trong tình hình phức tạp hiện nay, người loan báo Tin Mừng cần để ý ba điều này:
Một là hãy đổi mới chính bản thân mình.
Hai là hãy có những tâm tình của Đức Kitô.
Ba là hãy thi hành ý Chúa Cha theo gương Đức Kitô.
Khi thức giấc, tôi cảm nhận được sự bình an vui sướng tràn ngập tâm hồn. Nhìn đồng hồ, tôi thấy 01 giờ 20, bắt đầu ngày 10.7.2012.
Ba điều căn dặn của những người bạn đã chết trở về không có gì mới. Cái mới là ba điều đó đã được các hồn chọn lựa để nhắn gửi tôi, như một nhu cầu cần thiết, để sống đạo, truyền đạo và bênh đạo trong tình hình hiện nay.
2. Thực vậy, điều căn dặn thứ nhất rất cần cho mọi người công giáo Việt Nam, đặc biệt cần cho các giáo sĩ tại Việt Nam hôm nay.
Hiện nay, đang nổi lên phong trào đòi đổi mới xã hội và Giáo Hội. Đòi hỏi đó là đúng.
Nhưng, để được thế, hãy bắt đầu bằng sự mỗi người chúng ta hãy lo đổi mới chính bản thân mình. Nhất là những ai đòi hỏi, phê phán, kết án những người khác là không đổi mới, thì hãy nêu gương bằng việc đổi mới chính bản thân mình trước.
Theo Phúc Âm, đổi mới bản thân mình là đoạn tuyệt với tội lỗi và tuân giữ các điều Chúa dạy. “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, thì chúng ta tự lừa dối mình” (1 Ga 1,8). “Ai nói rằng mình biết Chúa, mà không tuân giữ các điều răn của Người, thì đó là kẻ nói dối” (1 Ga 2,4).
Để có thể đổi mới chính mình, chúng ta rất cần đón nhận ơn đổi mới từ Chúa. Nhưng “Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, mà chỉ ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5). Sẽ là thiếu khiêm nhường, nếu chúng ta tự coi mình là đạo đức hơn những người khác, nhất là hạ thấp những ai không công giáo như ta.
Điều quan trọng mà Công đồng Vatican II chủ trương là đổi mới. Nhưng đổi mới mà Công đồng Vatican II nhấn mạnh hơn hết chính là đổi mới chính bản thân mình, cả về cá nhân, cả về cơ chế. Đổi mới theo mô hình Đức Giêsu Kitô.
Đổi mới bản thân như thế sẽ chỉ thực hiện được, nếu chúng ta có thiện chí và kiên trì phấn đấu.
3. Điều thứ hai các hồn trở về nhắn gởi tôi là hãy có những tâm tình của Đức Giêsu Kitô.
Nghe lời nhắn nhủ này, tôi hiểu là tình hình hiện nay đòi người công giáo phải làm chứng cho Chúa một cách đặc biệt bằng những tâm tình của Chúa Giêsu.
Tâm tình nổi bật nhất của Chúa Giêsu là yêu thương.
Chúng ta sẽ làm chứng cho yêu thương của Chúa bằng cái tâm của chúng ta tràn đầy những tâm tình, mà Chúa Giêsu nói về Tám mối phúc. Đó là khó nghèo, hiền lành, vui lòng chịu khổ, khao khát nên công chính, xót thương người, trong sạch, xây dựng hòa bình, vui chịu bách hại về sống công chính (x. Mt 5,3-10).
Chúng ta sẽ làm chứng cho yêu thương của Chúa bằng việc chúng ta thi hành đúng điều răn mới mà Chúa trối lại trong bữa tiệc ly. “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con” (Ga 14,34).
Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta bằng một tâm tình yêu thương dấn thân phục vụ và hy sinh đến chính mạng sống mình.
Đồng bào Việt Nam hôm nay đợi chờ những tâm tình yêu thương như thế. Các tôn giáo bạn tại Việt Nam rất nhạy bén về sự đợi chờ đó. Còn chúng ta thì sao? Tôi nghĩ là chúng ta đã và đang sống yêu thương. Nhưng thiết tưởng là chưa đủ. Trong bổn phận làm chứng cho yêu thương của Chúa, chúng ta đã có những chậm trễ, đã bỏ lỡ nhiều cơ hội, đôi khi đã có cả những sai lầm, thậm chí cũng đã có một số phản chứng.
4. Phản chứng nặng nề nhất không phải chỉ trong đời sống xã hội, mà ngay trong nhà thờ và trước bàn thờ. Xưa tiên tri Hôsê nói: “Ephaim làm thêm bàn thờ để phạm tội. Những bàn thờ này đã nên dịp tội cho nó” (Hs 8,11). Nay cũng xảy ra như thế ở một số nơi. Người ta đã dùng bàn thờ để chia rẽ, để kích động hận thù, để loại trừ nhau.
Lỗi nặng nhất trong yêu thương là nhiều người chúng ta thiếu tâm tình lo cho phần rỗi các linh hồn. Lo cứu rỗi nhân loại, đó là sứ vụ yêu thương của Chúa Giêsu.
5. Điều thứ ba các hồn trở về nhấn mạnh là hãy thực thi thánh ý Chúa Cha, như Đức Giêsu Kitô đã nêu gương.
Khi đề cập đến Đức Kitô thực thi ý Chúa Cha, tôi nhớ tới lời Kinh Thánh trong thư gởi Do Thái. “Khi vào thế gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con xin đến để thực thi ý Ngài, như sách thánh đã chép về con… Theo ý đó, chúng ta được thánh hóa, nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến thân mình làm của lễ, chỉ một lần là đủ” (Dt 10,5-7.10).
Tôi hiểu ý Chúa Cha muốn nơi tôi, là tôi phải thông hiệp vào lễ tế của Đức Kitô, như lời thánh Phaolô viết: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Kitô, để sự sống của Đức Kitô cũng được biểu lộ nơi thân mình của chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe dọa, vì Đức Kitô, để sự sống của Đức Kitô cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi” (2 Cr 4,10-11).
6. Hiện nay, tinh thần hưởng thụ đang dâng cao, tràn rộng vào Hội Thánh. Các môn đệ Chúa cũng bị ảnh hưởng. Nhiều người trong hàng tư tế bị cuốn trôi theo. Thánh ý Chúa Cha trước hết là mọi thánh lễ trên bàn thờ phải được cử hành sốt sắng, đúng với thánh lễ đền tội xưa của Chúa Giêsu. Đồng thời, chính vị cử hành thánh lễ bàn thờ và những người tham dự cũng phải là của lễ đền tội, để cùng với của lễ của Chúa Giêsu, mà đền tội cho mình và cho người khác.
Nhu cầu chính mình trở thành của lễ đền tội đòi chúng ta phải có một cuộc sống rất khác với đời sống hưởng thụ.
7. Tất cả những gì tôi chia sẻ trên đây đều rất chân thành. Chiêm bao vẫn là chiêm bao, nhưng tôi nghĩ chiêm bao này rất có ý nghĩa.
Ý nghĩa tôi cảm nhận được rõ ràng ngay khi vừa tỉnh giấc là thấy sự hiệp thông giữa các linh mục chúng tôi rất sống động. Người này nhắc nhủ cho người kia. Cả đến những người đã sang cõi bên kia cũng vẫn tìm cách nhắc nhủ cho người còn sống.
Một ý nghĩa nữa tôi cũng cảm nhận được rõ ràng là cuộc sống hôm nay tại Việt Nam, tuy rất phức tạp, nhưng vẫn mang nhiều hy vọng. Người công giáo Việt Nam, nhất là các giáo sĩ tại Việt Nam, sẽ không là người rao giảng sự quá lạc quan hay quá bi quan, nhưng hãy là người của niềm hy vọng, luôn rao giảng niềm hy vọng. Hy vọng căn cốt nhất là nơi Đức Giêsu Kitô, mà họ là nhân chứng. Họ làm chứng về sự cần thiết phải cầu nguyện, phải suy gẫm Lời Chúa và phải kết hợp mật thiết với Chúa.
8. Với những ý nghĩa đó, tôi hết lòng cảm tạ Chúa đã nhỏ nhẹ nhắn gởi tôi những điều cần thiết, để tôi cũng lại chia sẻ nhẹ nhàng cho nhiều người khác.
Qua chiêm bao vừa kể, tôi nhận ra sự thật này: Tôi chỉ là chiếc bình sành mỏng manh, nếu có gì tốt là do Chúa ban. Như lời thánh Phaolô quả quyết: “Những kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4,7).
Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa hết lòng. Xin Chúa luôn tha thứ và đỡ nâng con. Vì con là kẻ yếu đuối, mọn hèn. Con xin hết lòng tin cậy nơi lòng thương xót Chúa.
Một sự kiện trong Phúc Âm nay đang là đề tài cảnh báo tôi, đó là sự kiện Chúa Giêsu tiếc thương Bùi-Tuần 2012
1. Một sự kiện trong Phúc Âm nay đang là đề tài cảnh báo tôi, đó là sự kiện Chúa Giêsu tiếc thương thành Giêrusalem. Sự kiện đó được thánh sử Matthêu diễn tả lại bằng những lời thảm thiết sau đây của Chúa Giêsu:
“Giêrusalem, Giêrusalem... Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, nhưng các ngươi không chịu. Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang mặc cho các ngươi. Thật vậy, Ta nói cho các ngươi hay: từ nay các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa...
…Ta bảo thật anh em, tại đây sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. Tất cả đều bị phá đổ” (Mt 23,37-39. 24,2).
2. Khi áp dụng lời cảnh báo trên đây của Chúa Giêsu vào Hội Thánh Việt Nam, tôi có cảm tưởng là hiện tình nơi này nơi nọ đang diễn tiến đau buồn, có vẻ như ứng nghiệm Lời Chúa đã cảnh báo như trên.
Trước hết là cảnh đổ vỡ.
Cảnh đổ vỡ dễ thấy nhất là cảnh phân hóa. Có những nhóm quyền lực. Có những nhóm tìm quyền lợi riêng. Có những nhóm đi theo đường lối xa Phúc Âm, và phản Phúc Âm.
Cảnh đổ vỡ còn được nhận thấy ở sự danh dự các chức vụ thánh trong đạo bị đập phá, do chính nội bộ.
Một cảnh đổ vỡ cũng dễ thấy, đó là đổ vỡ niềm tin. Người ta không còn tin Hội Thánh như trước.
Đổ vỡ nguy hiểm nhất là sự đổ vỡ trật tự truyền thống. Bậc thang các giá trị đạo đức không còn như trước.
3. Khi xét nguyên nhân sinh ra các đổ vỡ đang xảy ra trong nhiều loại gia đình Hội Thánh hiện nay, tôi thấy Chúa đã chỉ dạy rất rõ: “Các ngươi đã không chịu nghe Ta” (Mt 23,37).
Nghe Lời Chúa có nghĩa là thi hành ý Chúa, là nghe lời Chúa mà đem ra thực hành. Chúa phán: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Theo thiển ý của tôi, nghe Lời Chúa hiện nay vẫn còn rất thiếu sót ở nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam.
Thực vậy, nghe Lời Chúa đích thực là gặp được chính Chúa đàng sau Lời Chúa. Khi nghe một Lời Chúa, tôi không coi đó là một lời trong bản văn, mà là một lời chính Chúa đang nói.
Chúa đang sống động nói với tôi, hôm nay, lúc này.
Người nói, và tôi nhìn thấy dung mạo của Người. Tôi gặp được ánh mắt của Người. Tôi cảm được khát vọng của con tim Người. Người nói cho riêng tôi. Người muốn tôi thi hành ý Chúa Cha cho hôm nay, tại đây, trong hoàn cảnh cụ thể lúc này.
4. Thánh ý quan trọng nhất của Chúa Cha, mà Lời Chúa luôn nhắc nhủ mọi người chúng ta là không ngừng trở về với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là đường đi, là sự thực và là sự sống.
Sự trở về luôn bắt nguồn từ nhận thức khiêm nhường về thân phận tội lỗi của ta, và tin vào tình thương cứu độ của Chúa Giêsu trên thánh giá.
Nghe Lời Chúa như vậy và thực thi ý Chúa như vậy sẽ không thể nào cho phép chúng ta có những cách giữ đạo và trình bày đạo bằng những phô trương, đi tìm danh lợi.
Khi một cộng đoàn đã quen với lối sống không nghe Lời Chúa và thực thi ý Chúa, thì hậu quả không những là sẽ xảy ra nhiều đổ vỡ, mà thường xuyên sẽ chịu cảnh vắng Chúa, như Lời Chúa phán: “Nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang mặc cho các ngươi” (Mt 23,38).
5. Nhà bị Chúa bỏ được tôi cảm nghiệm như một nhà thiếu bầu khí đạo đức.
Bầu khí đạo đức không hẳn là bầu khí không có những tội lỗi, mà còn là bầu khí có sự kính sợ Chúa, có sự nhạy bén đối với các dấu chỉ mang theo ý Chúa, nhất là có yêu thương chân thành. Tôi xin nói một lần nữa: nhất là có yêu thương chân thành.
6. Yêu thương chân thành nói ở đây phải được hiểu rất rộng và đúng, theo thánh Gioan tông đồ: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một của Người đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa trước. Nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Người đến, để làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,7-10).
Bầu khí đạo đức phải cốt yếu là yêu thương như vậy. Nếu cộng đoàn chúng ta không có bầu khí đó, thì sẽ là dấu vắng Chúa, sẽ là căn nhà bỏ hoang.
7. Tới đây, tôi tự hỏi mình: Chính bản thân tôi có là một “thành đô” Chúa đang tiếc thương không? Hội Thánh địa phương, mà tôi đang sống, có phải là một “thành đô” Chúa đang khóc thương không? Phần đông nhận mình có lỗi và muốn trở về.
Tôi rất mừng nhận thấy hiện nay trong Hội Thánh Việt Nam có những sự trở về đáng khích lệ. Đáng khích lệ nhất là những sự trở về có chiều sâu, thuộc về cách suy nghĩ, và lối sống có liên hệ đến lịch sử Hội Thánh. Xin đưa ra vài thí dụ:
Thay vì theo đuổi giọng nói chiến thắng, nhiều đấng bậc trong Hội Thánh đang chọn một phong cách khiêm tốn hơn, đó là chấp nhận mình có khả năng thất bại. Thực vậy, lời Chúa hứa rằng: Các cửa hỏa ngục sẽ không phá nổi Hội Thánh xây trên nền tảng thánh Phêrô (x. Mt 16,18), nếu áp dụng cho Hội Thánh địa phương mình, như một thách thức và tự đắc, thì sẽ là quá đáng. Nhiều đấng bậc trong Hội Thánh chúng ta đang khiêm tốn nhìn nhận lời Chúa hứa đó chỉ ứng nghiệm cho Hội Thánh toàn cầu, chứ Hội Thánh địa phương có thể sẽ ứng nghiệm lời Chúa phán xưa: “Khi Con Người đến, liệu Ngài còn tìm thấy đức tin trên mảnh đất này không?” (Lc 18,8).
Thay vì tiếp tục thái độ áp đặt, nhiều đấng bậc Hội Thánh đang chú trọng đặc biệt đến thái độ khiêm tốn hơn, đó là giới thiệu Tin Mừng, làm chứng cho Tin Mừng bằng chính đời sống của mình. Với thái độ khiêm nhường, các đấng bậc đó không tự đắc coi Hội Thánh mình là tiếng nói của một quyền lực, đứng trên xã hội và các tôn giáo khác, nhưng là của lễ cầu nguyện cho nhân loại theo gương Chúa Giêsu.
Thay vì tự đeo vào đầu mình những hào quang rút từ lý thuyết, nhiều đấng bậc trong Hội Thánh đang khiêm tốn nhìn nhận thực tế những yếu đuối của bản thân mình, của cộng đoàn mình, của cả lịch sử quá khứ Hội Thánh của mình, để xin hòa giải, để xin được nâng đỡ.
Xin hết lòng cảm tạ Chúa vì những sự trở về như thế. Hy vọng những sự trở về đó đang là một an ủi cho Chúa Giêsu, Đấng đã nhiều lần khóc thương thành đô. Và như thế, sự trở về của chúng ta sẽ là một giới thiệu Tin Mừng có nhiều hấp dẫn.
Tôi rất hân hạnh được tuyên xưng đức tin bằng việc đọc kinh Tin Kính. Tôi rất hân hoan được tuyên Bùi-Tuần 2013
1. Tôi rất hân hạnh được tuyên xưng đức tin bằng việc đọc kinh Tin Kính.
Tôi rất hân hoan được tuyên xưng đức tin chung với cộng đoàn đức tin.
Nhưng tôi cũng rất vui mừng được tuyên xưng đức tin không theo công thức và không chung với cộng đoàn, bằng việc kể lại cho mọi người những gì Chúa đã làm cho tôi. Tôi xin mượn lời thánh Phaolô mà tự giới thiệu: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận, đó là Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi” (1 Tm 1,15).
2. Thực vậy, tôi là kẻ tội lỗi, đã và đang được Chúa cứu. Chúa cứu tôi khỏi nhiều nguy hiểm. Nhưng ở đây, tôi chỉ xin được nêu lên hai loại nguy hiểm. Hai loại nguy hiểm này đã được chính Chúa chỉ rõ trong kinh Lạy Cha: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Vậy, chước cám dỗ nào và sự dữ nào là những nguy hiểm lớn nhất, mà hiện nay Chúa thấy chúng ta cần được cứu khỏi?
3. Nhờ ơn Chúa, tôi thấy loại cám dỗ lớn nhất hiện nay là ham muốn hưởng thụ.
Dựa vào Lời Chúa, theo dõi lịch sử và nhìn vào hiện tại, tôi thấy hưởng thụ được ham muốn dưới nhiều hình thức.
Có người ham muốn những gì làm thỏa tính kiêu căng của mình. Như thích phô trương thành tích hoành tráng, khoe khoang những cái mình cho là thành công sang trọng hơn người. Đó là thứ hưởng thụ mang nhãn quyền lực.
Có người ham muốn những gì thỏa mãn bất cứ sự gì mình thích. Như thích đòi hỏi những gì mình không có quyền đòi hỏi, thích kết án những gì mình không có thẩm quyền kết án, thích tìm những hạnh phúc mới, mình biết là không mang giá trị đạo đức. Đó là thứ hưởng thụ mang nhãn tự do.
Có người ham muốn những gì thỏa mãn những đam mê khát khao đủ thứ khoái lạc không cần kiểm soát. Như thích lười biếng, rượu chè, sắc dục, tiền bạc, phí phạm. Đó là thứ hưởng thụ mang nhãn thực dụng.
Có người ham muốn những gì thỏa mãn tính ưa khẳng định mình thánh thiện. Như thích tìm những tiếng khen nâng mình lên hàng đạo đức, như thích hạ người khác xuống với phê phán khinh chê. Đó là thứ hưởng thụ tinh vi mang nhãn biệt phái.
Những thứ hưởng thụ trên đây và nhiều thứ hưởng thụ khác đều đang đi vào các nền văn hóa, để tạo nên những nhận thức sai, những quan điểm sai, những đường lối sai. Hiện tượng này đang xảy ra cả ngoài đời cả trong đạo. Nó đang góp phần không nhỏ trong việc làm nên phong trào tục hóa trong Hội Thánh chúng ta.
4. Khi được Chúa cho biết văn hóa hưởng thụ là một chước cám dỗ phải cảnh giác tối đa, tôi cũng được Chúa cho biết là cảnh giác mà thôi sẽ không đủ. Nhưng còn phải cầu nguyện. Điều này Chúa đã dạy trong kinh “Lạy Cha”.
Thú thực là ngoài việc đọc kinh Lạy Cha, tôi vẫn thường cầu nguyện thêm, để biết đối phó với phong trào hưởng thụ ngoài tôi và tính hưởng thụ trong tôi. Chúa có giúp tôi. Nhưng Chúa cũng đòi tôi phải phấn đấu rất nhiều. Chúa không phấn đấu thay tôi. Phấn đấu nội tâm bao giờ cũng rất cam go. Nhưng nhờ ơn Chúa giúp, phấn đấu của tôi, nếu không gọi được là vượt qua, thì ít ra cũng là những bắt đầu lại, kiên trì và khiêm tốn, với niềm tin vô bờ vào Chúa.
5. Tới đây, tôi nhớ lại lời Chúa dạy ở cuối kinh Lạy Cha, “nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”. Trong mọi sự dữ cần được Chúa cứu, tôi thấy hiện nay sự dữ lớn nhất rất cần Chúa cứu, chính là hiện tượng mất niềm tin và giảm niềm tin đối với Chúa và đối với Hội Thánh Chúa. Riêng tại Việt Nam, hiện tượng mất niềm tin và giảm niềm tin đối với Hội Thánh xem ra đang phát triển mạnh và lan rộng, hơn là hiện tượng mất niềm tin và giảm niềm tin đối với Chúa.
6. Theo thiển ý của tôi, nguyên do chính khiến xảy ra hiện tượng đau buồn đó, chính là vì việc thực thi điều răn yêu thương của Chúa trong nội bộ Hội Thánh chúng ta bị suy giảm.
Chúa Giêsu đã khẳng định: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau. Yêu thương như Thầy yêu thương các con” (Ga 13,34-35).
Yêu thương của Chúa không chủ yếu chỉ là nhân bản, nhưng còn là một yêu thương thể hiện đời sống tu thân, chấp nhận sự từ bỏ mình, dám hy sinh cả đến mạng sống mình, để cứu người khác.
Phải khiêm nhường mà nhận rằng: Nơi nhiều người công giáo, yêu thương theo nhân bản mà thôi cũng vẫn thiếu. Phương chi yêu thương theo lời Chúa và theo gương Chúa, thì càng rất thiếu.
7. Yêu thương theo gương Chúa và Lời Chúa rất cần một tinh thần khiêm tốn, khó nghèo và hết sức vị tha. Yêu thương như thế được coi là một tấm gương sáng có sức lôi kéo lòng người, do sức thiêng liêng của nó. Những tấm gương sáng như thế có dễ tìm được ở Việt Nam hôm nay không ?
Nếu chẳng may, Chúa Giêsu lại dựa “dụ ngôn người Samari tốt lành”, để nói cho mọi người biết rằng: Kẻ yêu thương thực ở đây không phải là người theo đạo Chúa, mà là người ngoại (x. Lc 10,29-37), thì chắc chắn những người công giáo chúng ta sẽ rất buồn.
8. Tuy sao, chúng ta cũng nên khiêm tốn nhìn lại chính mình, xem chúng ta có thực sự yêu thương như Chúa dạy và đã làm gương không? Để thấy rõ điều đó, chúng ta nên nhớ
Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha”. Đó là lời sau cùng của Chúa Giêsu trước Bùi-Tuần 2014
1. “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha”. Đó là lời sau cùng của Chúa Giêsu trước khi tắt thở trên thánh giá (x. Lc 23,46).
Tôi đã dùng lời tha thiết ấy mà cầu nguyện trong những trường hợp khác nhau. Cho đến hôm nay, lời nguyện phó thác ấy đã trải qua một chặng đường dài suốt cuộc đời thăng trầm gần ba phần tư thế kỷ.
Nhìn lại, tôi thấy Chúa Thánh Thần đã đưa lời nguyện phó thác ấy của tôi vào nhiều nội dung khác nhau. Tôi coi những nội dung ấy phản ảnh phần nào tâm tình của Chúa Giêsu, khi Người phó thác mình trên thánh giá.
2. Tôi xin được chia sẻ vắn tắt.
a) Con phó thác con trong tay Cha là con sẵn sàng đón nhận những đớn đau đang xảy ra cho con và sẽ xảy ra cho con. Những đớn đau đó là những nhục hình phải chịu trong thân xác, và những nhục nhã phải chịu trong tâm hồn.
b) Con phó thác con trong tay Cha là con vâng phục ý Cha, mà tha thứ cho những kẻ sai lầm đã làm khổ con.
Thực vậy, Phêrô đã sai, khi tưởng rằng nhiệt tình là cứu được Chúa khỏi chết.
Các thượng tế đã sai, khi căn cứ vào lề luật để kết án Chúa.
Dân chúng đã sai, khi dựa vào vâng lời thượng tế, để tham gia vào việc kết án Chúa.
Philatô đã sai, khi vì lợi ích riêng, đã hiệp thông vào kế hoạch của toàn dân có đạo đồng ý đòi giết Chúa.
Để đối phó với những sai lầm gây hại đó, Chúa Giêsu đã không chọn con đường trừng phạt, mà chọn con đường tha thứ. “Xin Cha tha cho họ, vì họ lầm không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
c) Con phó thác con trong tay Cha là con xin chịu đựng những vô ơn, những thành kiến, những hiểu lầm, cả đến những ác độc người ta dành cho con, thực tế con người phức tạp là như thế và còn hơn thế.
d) Con phó thác con trong tay Cha là con xin dâng cho Cha chính sự yếu đuối của con.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã mang trong mình tất cả thân phận con người với mọi thử thách, ngoại trừ tội lỗi (x. Dt 4,15). “Lạy Cha, nếu đẹp lòng Cha, xin Cha cất chén đắng này cho khỏi con” (Lc 22,42). Chúa Giêsu thực sự sợ hãi trước những khổ đau.
e) Con phó thác con trong tay Cha là con xin dâng mình chịu mọi thử thách, để biết cảm thương những nỗi yếu hèn của con người (x. Dt 4,12).
f) Con phó thác con trong tay Cha là con xin vâng ý Cha, mà dâng mình làm của lễ, để đền tội cho một nhân loại hay dùng sự tự do của mình mà chống lại ý Chúa.
Thực vậy, trên thánh giá, Chúa Giêsu thấy rõ những gì Người giảng về dụ ngôn tiệc cưới, đang xảy ra đúng như Người đã nói. Chúa mời người ta đến dự tiệc Nước Trời, nhưng chẳng ai thèm tới (x Mt 22,1-6). Trên thánh giá, Chúa Giêsu thấy rõ những sai lầm và những độc ác là rất mạnh và thắng thế. Người sẽ chỉ cứu được con người khỏi chúng nhờ dâng mình làm của lễ đền tội thay.
3. Nền tảng của sự phó thác là tin vào tình yêu thương xót Chúa. Con tin Cha yêu thương con. Con tin Cha yêu thương loài người. Như Thánh Gioan quả quyết: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa. Nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10). “Vì yêu thương chúng ta, Đức Kitô đã hy sinh mạng sống mình” (1 Ga 16). Chúa hy sinh mạng sống mình để cứu chúng ta, không phải vì chúng ta là người công chính, mà vì chúng ta là người tội lỗi. Nhưng để được hưởng ơn cứu độ ấy, chúng ta cần biết đón nhận bằng tâm tình khiêm nhường sám hối.
4. Tôi nghĩ rằng: Hiểu được như trên, cũng là do đức tin. Đức tin ấy phải thực sự khiêm nhường, nhận mình tội lỗi yếu đuối: “Tôi cảm thấy vui sướng, khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10). Đức tin khiêm nhường như thế sẽ không tìm thắng ai, mà còn chấp nhận thua, để tình yêu Chúa thắng mọi tội lỗi.
Tôi xác tín rằng: Đức tin như thế là một ơn Chúa ban. Chúa ban đức tin ấy cho những kẻ khiêm nhường. Vì “Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5).
5. Đến đây, tôi hiểu thế nào là phó thác như Chúa Giêsu đã phó thác xưa trên thánh giá, và thế nào là phó thác sai. Nhiều người toan tính những việc sai thánh ý Chúa, rồi phó thác nài xin Chúa giúp thực hiện. Chuyện như thế vẫn xảy ra. Chắc chắn Chúa không làm theo ý họ. Nhưng nhiều khi Chúa cũng không cản cho những việc sai trái đó thành công. Thế là người ta lại thêm kiêu ngạo, dấn sâu vào hố diệt vong.
Vì thế, phó thác trong đức tin đòi hỏi một thái độ rất khiêm nhường. Khiêm nhường như Chúa Giêsu phó thác mình trên thánh giá.
6. Trong Năm Đức Tin này, tôi chú trọng nhiều đến việc làm chứng cho Chúa bằng một đức tin dấn thân cho Hội Thánh và Quê Hương Việt Nam được một bình an tốt đẹp hơn, trong yêu thương cởi mở chân thành hơn, với sự ổn định sâu sắc hơn.
Đức tin dấn thân cho mục đích đó đòi tôi phải phấn đấu rất nhiều. Tôi phải làm hết sức mình trong khả năng có thể, để sống kinh Hòa Bình một cách thiết thực, đồng thời phải phó thác một cách khiêm nhường trong tay Chúa.
Như vậy, phó thác không có nghĩa là ỷ lại, mà là phấn đấu. Cũng vậy, phấn đấu không có nghĩa là cậy vào sức mình, mà là trông vào sức Chúa. Tất cả đều trong hy vọng và hoan lạc.
Lạy Mẹ Maria, ngày truyền tin, Mẹ đã nói lời xin vâng (Lc 1,38). Lời xin vâng của Mẹ là một lời hứa phó thác. Con thấy Mẹ đã sống phó thác trong một cuộc đời đầy hy sinh vất vả, nhưng tràn trề hy vọng. Xin Mẹ thương giúp con sống phó thác một cách can đảm theo gương Mẹ và trong tay Mẹ.
Chúa Giêsu được gọi là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ, Đấng cứu đời. Riêng tôi, nhiều khi tôi Bùi-Tuần 2015
1. Chúa Giêsu được gọi là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ, Đấng cứu đời. Riêng tôi, nhiều khi tôi gọi Người là Đấng cứu khổ. Bởi vì tôi thấy mình quá đau khổ, giữa cuộc đời như biển khổ đau, rất cần được Chúa thương giải cứu.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã cứu tôi khỏi nhiều đau khổ. Đau khổ phần xác, đau khổ phần hồn.
Chúa không dừng lại ở sự cứu tôi khỏi bệnh tật, và vượt qua khỏi những hoàn cảnh khó khăn, bế tắc. Nhưng Chúa còn tiếp tục cứu tôi khỏi những cái xấu sâu xa tiềm ần, sẽ đưa tôi tới những nỗi khổ đời đời. Những cái xấu nguy hiểm đó ở chính trong tôi. Ở đây, tôi chỉ xin đề cập đến một cái xấu loại đó, mà tôi cho là rất khó khử trừ. Đó là cái nhìn sai, không đúng sự thực. 2. Để có một cái nhìn đúng, Chúa dạy tôi phải đào tạo cho mình một trí khôn sáng suốt. Thêm vào đó, còn phải có một trái tim yêu thương. Yêu thương đó phải rất khiêm nhường. Hãy nhìn như Chúa nhìn. Tôi thấy Chúa nhìn tôi bằng thượng trí của Người lẫn với tình yêu xót thương hạ mình xuống. Chính cái nhìn ấy của Chúa đã cứu tôi. Chính cái nhìn ấy đang trở thành gương mẫu cho mọi cái nhìn của tôi về Chúa, về mọi người, về bản thân mình.
Cái nhìn ấy được Chúa dạy tôi qua các khoa Tín lý, Luân lý, Giáo lý, Triết lý, Lịch sử và Kinh Thánh. Trí khôn tôi có thể hiểu cao, hiểu sâu. Nhưng sự hiểu biết đó vẫn có thể khô cứng, lạnh lùng ở lãnh vực lý thuyết. Vì thế, Chúa lại dạy tôi thêm qua cái tâm của tôi.
3. Chúa dạy tôi qua cái tâm, bằng cách đưa tôi cọ sát vào thực tế những thân phận khổ đau. Nhìn thấy người khổ đau, tiếp cận với người khổ đau, cái tâm của tôi cảm thấy xót xa đau đớn. Cái tâm của tôi được đánh thức bằng cảm thấy nỗi khổ của người khác. Đó chính là một bài học tuyệt vời, có sức thay đổi được cái nhìn của tôi về người khác và về tình hình.
Tôi còn rất nhớ một thánh lễ của tôi ở một họ đạo vùng sâu vùng xa cách đây vài chục năm. Tới phần cầu nguyện của tín hữu, tôi thấy từ cuối nhà thờ tiến lên một nhóm người đau khổ. Một người anh cõng một đứa em tàn tật. Một người mẹ ẵm một đứa con đau ốm. Một đứa nhỏ bị người cha bỏ, đang phải sống cô đơn. Một ông già mù sống nhờ lòng tốt của hàng xóm. Mỗi người trong họ đã cầu nguyện một cách rất hồn nhiên với nỗi đau của họ. Tôi rất xúc động. Cả nhà thờ thinh lặng, xụt xùi. Thánh lễ bỗng trở nên sốt sắng lạ thường.
4. Nhờ những kinh nghiệm như trên, tôi xin Chúa đừng để cái trí của tôi ra tối tăm, nhất là đứng để cái tâm của tôi ra xơ cứng. Tôi thấy lý trí mà thôi, cho dù thông minh đến mấy, vẫn không thể giải quyết được mọi vấn đề của con người và của đời người. Mà phải có cái tâm. Cái tâm con người có thể sai. Nhưng khi cái tâm con người được đào tạo trong cái tâm của Chúa Giêsu yêu thương đầy khiêm nhường, nó sẽ biết cộng tác vào chương trình cứu khổ của Chúa Giêsu. 5. Được đào tạo trong cái tâm yêu thương đầy khiêm nhường của Chúa Giêsu, cái tâm con người sẽ trở nên tế nhị. Tôi xin chia sẻ kinh nghiệm của chính bản thân tôi đôi chút về tế nhị.
Khi đọc Kinh Thánh, tôi thấy tình Chúa khiêm nhường đã rất tế nhị. Thái độ tế nhị đó được diễn tả trong câu: “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gẫy” (Mt 12,20). Tôi đọc nhiều lần câu đó, và chỉ biết như một lý thuyết. Nhưng khi bản thân tôi được tôi cảm nghiệm như một cây lau bị giập, mà Chúa không đành bẻ gẫy, lại còn được Chúa chăm sóc một cách rất tế nhị, để tôi được lành, được sống, được đứng thẳng lên, tự nhiên tôi hiểu sự tế nhị của tình yêu khiêm nhường là điều cần thiết trong sứ vụ cứu khổ. Nếu thiếu tế nhị, tình yêu dù mặn nồng khiêm tốn đến đâu, vẫn có thể gây nên sự tan vỡ. Chính vì thiếu tế nhị, không thiếu cộng đoàn đức tin đã trở thành chiến trường tử đạo. Người nọ làm khổ người kia. Thiếu một chút tế nhị, người ta làm cho một tình hình mong manh trở nên tan vỡ. Nhưng thêm một chút tế nhị, người ta có thể làm cho một tình hình thất vọng trở thành hy vọng.
6. Tế nhị là điều không dễ. Nên trong vấn đề này, tôi xin Chúa cho tôi biết khiêm nhường sửa sai luôn mãi, đồng thời biết xin Chúa giúp tôi thực hiện tế nhị bằng những việc nhỏ. Nếu chẳng may, tôi bị người ta không tế nhị đối với tôi, tôi xin Chúa giúp tôi biết bao dung tha thứ chân thành. Một sự thực đã giúp tôi biết bao dung, chính là nhận thấy nhiều người đã sai lầm, do bệnh tật, chứ không do ác ý.
7. Kinh nghiệm về tình yêu khiêm nhường tế nhị giúp tôi có những cái nhìn mới. Từ đó, tôi sẽ có những nhận định đúng hơn, những đường lối đúng hơn, những chọn lựa đúng hơn.
Cái đúng ở đây là đúng như Lời Chúa và gương Chúa về yêu thương. Đó là vì yêu thương cứu khổ cho con người. Chúa Giêsu đã chọn thánh giá. Cái chết của Người trên thánh giá là một tình yêu đầy khiêm nhường và tế nhị.
8. Suy nghĩ trên đây, khi được cảm nhận là đúng thánh ý Chúa, sẽ giúp tôi sẵn sàng để Chúa đào tạo tôi nên một của lễ. Nhờ đó tôi được cộng tác vào chương trình cứu khổ, mà Chúa đã và đang theo đuổi trong Hội Thánh của Chúa trên Quê Hương Việt Nam yêu dấu của tôi.
9. Trên Quê Hương Việt Nam hôm nay, đang xuất hiện nhiều của lễ như thế. Với ơn gọi làm của lễ, họ có nhiều sáng kiến về công việc từ thiện và hoạt động xã hội. Tất cả đều đóng ấn tình yêu khiêm nhường tế nhị. Của cho không bằng cách cho.
Họ biết mình chẳng thể nào làm được theo gương Chúa, nên hằng ngày họ gắn bó với Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể và trong cầu nguyện.
Nhờ vậy, họ cộng tác vào chương trình cứu khổ của Chúa một cách thiết thực. Vì thế, đời họ được mang một ý nghĩa cao đẹp.
Họ dạy tôi nhiều lắm. Nhiều người trong họ đang là một của lễ bị đau đớn muôn vàn hành hạ, nhưng họ vẫn yêu thương một cách khiêm nhường tế nhị. Tôi tin có một sức thiêng trong họ, khiến tôi phải cúi đầu kính phục. Trước gương sáng đó, tôi cảm thấy của lễ của tôi còn rất thua kém. Đau đớn của tôi không thấm thía gì, so với đau đớn của họ. Yêu thương khiêm nhường tế nhị của tôi trở thành mờ nhạt bên cạnh yêu thương khiêm nhường tế nhị của họ.
Những của lễ ấy đang trổ sinh những bông hoa thơm đẹp là các linh hồn được cứu rỗi.
Chính nhờ đức tin vào Chúa Giêsu mà họ được như vậy. Để rồi, chính đời sống là của lễ của họ đang trở thành chứng từ sống động của đức tin.
10. Vì thế, trong Năm Đức Tin, tôi nghĩ đến việc cứu khổ một cách đặc biệt. Ngay chính lúc này, tại Việt Nam, cái khổ đang bùng phát khắp nơi một cách khủng khiếp. Cái khổ phổ biến nhất là người ta không khiêm tốn nhận mình sai, còn đổ mọi cái sai vào người khác. Do đó mà bất bình, bất mãn, bất an lan tràn. Những người thực sự xả thân cứu người đau khổ xem ra hiếm dần.
Cái khổ nguy hiểm nhất là cái khổ do Satan nhập vào nhiều người và nhiều cơ chế trong đạo ngoài đời một cách tự do. Bị Satan nhập mà không muốn được giải cứu. Hiện tình thực đáng ngại. Chúng ta cần cầu nguyện, sám hối và tỉnh thức một cách khiêm nhường.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ biết con khổ đau, và bao nhiêu người còn đau khổ hơn con. Chúa Giêsu đã cứu những người đau khổ bằng thánh giá. Mẹ đã đứng dưới chân thánh giá, để cùng Con Mẹ cứu khổ cho mọi người. Xin Mẹ thương giúp con cũng biết cùng với Chúa Giêsu và Mẹ thông công vào mầu nhiệm thánh giá, để cứu con và cứu đời cho khỏi những nỗi khổ đời đời. Con rất hạnh phúc được là của lễ như Mẹ và trong tay Mẹ. Tuy nhiên, con rất yếu đuối, xin Mẹ thương nâng đỡ con.
Lúa tốt cho chủ trồng. Cỏ lùng do kể xấu gieo. Cả lúa cả cỏ lùng cũng mọc xanh tươi… “Phức tạp Bùi-Tuần 2016
…Lúa tốt cho chủ trồng. Cỏ lùng do kể xấu gieo. Cả lúa cả cỏ lùng cũng mọc xanh tươi…
“Phức tạp”, đó là những chữ, những lời được đọc và được nghe nhiều trong mấy tháng qua.
Tình hình phức tạp, diễn biến phức tạp. Thực tế đã qua đúng là như vậy. Thực tế đang tới chắc cũng là thế. Tính cách phức tạp và mức độ phức tạp có thể rất khó lường.
Mọi phức tạp đều ảnh hưởng đến đời sống đạo. Nhân dịp đầu Xuân, tôi xin chia sẻ vài nhận xét khiêm tốn của tôi.
1. Cảnh lẫn lộn tốt xấu
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh cánh đồng có lúa tốt, nhưng cũng có cỏ lùng chen vào: Lúa tốt do chủ trồng. Cỏ lùng do kẻ xấu gieo. Cả lúa cả cỏ lùng cùng mọc xanh tươi. Đến mùa gặt, chủ mới phân loại. Lúa thì được giữ trong kho. Cỏ thì đem đi đốt (x. Mt 13,24-30).
Những lời Chúa phán trên đây cho chúng ta thấy tính cách phức tạp của cuộc đời. Sống ở đâu cũng là sống trong một xã hội, sống với những cơ cấu và sống chung cùng những người khác. Đó là một thứ cánh đồng. Cỏ lùng, mà Chúa nói, là những người xấu, việc xấu. Chúng phát sinh và phát triển. Cảnh lẫn lộn đó cũng thấy ngay cả trong Hội Thánh. Cảnh lẫn lộn đó càng ngày càng phức tạp hơn, khi việc xấu, người xấu lại khéo đội lốt việc tốt người tốt. Thời Chúa Giêsu, Người khuyên dân chúng đừng theo loại xấu đó. Nhưng phức tạp càng thêm phức tạp, khi những người đạo đức giả đó trở thành một giai cấp quyền lực trong đạo. Chính họ đã bày mưu giết Chúa Giêsu.
Tất nhiên, chương trình cứu độ của Chúa không chấm dứt ở đó.
Tôi có cảm tưởng là cuộc phấn đấu giữa thiện và ác trên thực tế Hội Thánh nói chung và Hội Thánh Việt Nam nói riêng cũng đang diễn biến phức tạp. Chắc chắn sau cùng Chúa sẽ thắng. Nhưng trong hành trình đi tới chiến thắng cuối cùng, các môn đệ Chúa phải triệt để trung thành với Chúa. Tuy nhiên, trên thực tế ai trong chúng ta dám nói là mình không bao giờ phạm tội. Thành ra, chính chúng ta gọi là tốt, mà cũng không luôn tốt. Tốt xấu lẫn lộn ngay trong chính mình ta. Bao lần mạnh đâu theo đó một cách tùy tiện. Tình hình mất ý thức về tội đang phát triển một cách đáng ngại. Hiện tượng không biết và không cần phân biệt đúng sai cũng đang phổ biến mạnh.
2. Cảnh không thi hành ý Chúa
Từ ít năm nay, nhất là trong Năm Thánh vừa qua, một phong trào được nở rộ, đó là phong trào học hỏi về đạo. Phải nói ngay là những phong trào đó bề ngoài coi như đạo đức. Nhưng chất lượng không phải đâu cũng hoàn toàn mang Tin Mừng. Nguyên nhân hoặc ở nội dung thiếu vắng Lời Chúa, hoặc ở người dạy thiếu vắng đời sống nội tâm, hoặc ở người học hời hợt, không chủ ý học để hành.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu phân loại và đánh giá người ta một cách đơn giản. Một loại là những người nghe Lời Chúa mà không thực hành, một loại là những người nghe Lời Chúa mà thực hành. Những người không thực hành thì bị phạt, những người thực hành thì được thưởng. Xin đọc lại nguyên đoạn văn Phúc Âm đó:
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, nhân danh Thầy mà trừ quỷ, nhân danh Thầy mà làm nhiều phép lạ đó sao? Bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác.
“Vậy, ai nghe lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví như người ngu xây nhà trên cát. Gặp mưa sa nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ tan tành” ( Mt 7,21-27).
Những lời Chúa Giêsu phán trên đây làm tôi khiếp sợ. Nhân danh Chúa nói tiên tri, trừ quỷ và làm phép lạ, những việc như thế thường được coi là những việc đạo đức do người đạo đức mới làm được, thế mà Chúa Giêsu lại không nghĩ như vậy. Chúa Giêsu để ý đến ý hướng khi ta làm những việc lành. Chẳng hạn, tôi dâng thánh lễ đúng phụng vụ, thì việc đó luôn sinh hiệu quả tốt. Nhưng nếu tôi dâng thánh lễ với mục đích chỉ để làm kinh tế hay để khoe khoang và trong tình trạng mang tội trọng, thì tôi dâng lễ sai thánh ý Chúa, đáng bị Chúa phạt.
Nghe lời Chúa, nhưng không thi hành lời Chúa đang là một lối sống đạo khá bình thường.
Một tình hình nữa đang diễn biến phức tạp, đó là: Càng ngày càng thêm kinh mới. Càng ngày càng mọc lên những công trình xây cất mới. Càng ngày càng thêm nhiều tổ chức mới. Tất cả đều nhân danh Chúa. Nhưng, nếu xét về sự thực thi Tám mối phúc, thì xem ra xa lạ. Nếu thế, thì lối sống đạo của chúng ta đang trở thành một thứ phức tạp cực kỳ nguy hiểm.
Ấy là chưa nói tới những việc gieo rắc hận thù, gian dối, phân hóa, dưới nhãn hiệu “nhân danh Chúa”. Những phức tạp như thế, xem ra đang được tự do phát triển một cách bình thường. Đó là một diễn biến phức tạp có khả năng đưa Hội Thánh Việt Nam rời xa Tin Mừng.
Một diễn biến phức tạp khác rất nguy hiểm, đó là cảnh đi vào con đường thênh thang.
3. Cảnh đi vào con đường buông thả
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu phán: “Hãy qua cửa hẹp mà vào thiên đàng, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường hẹp thì đưa tới sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt,7,13-14).
Lời Chúa phán trên đây vốn được kính trọng, nhưng xem ra không luôn được thực hành nghiêm túc. Thậm chí, ngay cả việc nhắc đến lời đó, cũng đã và đang bị hạn chế. Lý do sau cùng chỉ vì người ta muốn được an tâm đi theo lối sống tự do hưởng thụ. Lối sống tự do hưởng thụ đang là một mời gọi của đà phát triển kinh tế và tự do. Tự do và hưởng thụ, nếu thực thi trong những ranh giới được phép, thì vẫn cần cảnh giác, kẻo dễ sa vào hư hỏng. Đạo đức Phúc Âm khuyên người môn đệ Chúa hãy tự hy sinh, tự từ bỏ cả nhiều cái được phép hưởng, vui sống khó nghèo để góp phần vào việc cứu rỗi các linh hồn và đổi mới Hội Thánh.
Trên thực tế tại Hội Thánh Việt Nam, nhiều người vốn coi trọng việc đi vào cửa hẹp, đi trên đường hẹp, theo lời Chúa dạy. Họ sống từ bỏ mình một cách quảng đại, âm thầm. Đang khi đó, không thiếu người lại đi vào cửa rộng, đường rộng. Phạm vi tự do càng ngày càng rộng thêm. Nhiều người tự cho phép mình được làm những gì mình thích. Ranh giới tự do cũng do họ tự đặt ra cho mình. Thậm chí một số người có vẻ quả quyết họ và Chúa Thánh Thần là một trong một phương diện nào đó. Họ mở ra một chân trời quyền lực rộng lớn, để tự quyết định.
Những diễn biến phức tạp trên đây khiến chúng ta lo ngại. Nhưng bên cạnh đó, đang phát triển những diễn biến đáng mừng. Đó là những phong trào đạo đức trở về với Đức Kitô và thánh giá của Người. Tôi tin Mùa Xuân thiêng liêng đang và sẽ đến với Hội Thánh chúng ta từ thánh giá của Đức Kitô. Chính sự từ bỏ quảng đại theo gương Đức Kitô mới là yếu tố chính của tình yêu cứu độ.
Xưa chính Chúa Giêsu đã bị loại trừ trên thánh giá. Nay Người vẫn đợi chờ chúng ta nơi những Bùi-Tuần 2017
...Xưa chính Chúa Giêsu đã bị loại trừ trên thánh giá. Nay Người vẫn đợi chờ chúng ta nơi những người bị loại trừ, đó là những người nghèo khó, bị bỏ rơi, bị nhục nhã...
Bài này được viết do nhu cầu nội tâm. Từ nội tâm, tôi thấy Hội Thánh Việt Nam chúng ta đang bước vào thời kỳ thử thách. Thử thách tư bề. Một phần do ngoại cảnh. Một phần do nội bộ. Phần do nội bộ là rất phức tạp.
Thánh Phaolô nói: “Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp. Chúng tôi bị hoang mang, nhưng không tuyệt vọng. Chúng tôi bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi. Chúng tôi bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt” (2 Cr 4,8-9).
Lúc này chưa đến nỗi mọi người môn đệ Chúa được nói lên tâm sự như thế. Nhưng biết đâu, rồi có lúc hầu hết sẽ phải nói lên như vậy.
Thực sự ngay lúc này một số người môn đệ Chúa cũng đã cảm nghiệm phần nào như thánh Phaolô.
Riêng đối với tôi, những cảm nghiệm như thế càng làm tôi thêm yêu mến Hội Thánh. Sức mạnh giúp tôi đứng vững trong các thử thách chính là tình yêu đối với Hội Thánh, một Hội Thánh là thân thể mầu nhiệm của Chúa Giêsu, một Hội Thánh luôn thông phần đau khổ với Chúa Giêsu.
Hội Thánh Việt Nam sẽ phải chịu thử thách. Chúng ta khiêm tốn nhìn thẳng vào sự thực đó đang tới dần.
Khi Hội Thánh phải chịu thử thách, các con cái Hội Thánh cần phải tỏ ra gắn bó với Hội Thánh hơn.
Về mặt tự nhiên, chúng ta có bổn phận phải gắn bó với cha mẹ sinh thành nuôi dưỡng chúng ta. Cũng vậy, về mặt thiêng liêng, chúng ta cũng có nghĩa vụ phải gắn bó với Hội Thánh đã sinh ra chúng ta trong đức tin và luôn giúp chúng ta trên hành trình về Nước Trời.
Chúng ta nên làm những gì để diễn tả lòng gắn bó của chúng ta đối với Hội Thánh, khi Hội Thánh bị thử thách ?
Tôi xin nhấn mạnh đến mấy điểm sau đây:
1. Thứ nhất, chúng ta tự hào về một Hội Thánh thực sự của Đức Kitô tại Việt Nam chúng ta.
Hội Thánh thực sự của Đức Kitô không phải là một thứ Hội Thánh đắc thắng, áp đặt, giàu có, nhưng là một Hội Thánh chấp nhận nghèo túng, vẫn tỏa ra những nguồn lực thiêng liêng của Đức Kitô, nhất là tình yêu cứu độ của Đức Kitô, phục vụ mọi người.
Hội Thánh thực sự của Đức Kitô trân trọng mọi trợ giúp từ bên ngoài, nhưng trước hết tìm tự do ở sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô, để làm chứng cho Người, và dấn thân cho Người là Đấng Cứu độ muôn dân, Đấng “đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).
Hội Thánh thực sự của Đức Kitô vẫn biết ơn sự đóng góp của những người giàu, nhưng rất tạ ơn Chúa, vì vinh quang của Chúa được tỏa sáng nơi vô số những người nghèo dốt nát, họ sống đức tin mạnh mẽ, triệt để phó thác mình cho Chúa.
Như vậy, thử thách sẽ thanh luyện Hội Thánh. Mất ít mà được nhiều.
2. Thứ hai, chúng ta không ngừng đến với những người nghèo khổ, để đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể.
“Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm… Ta bảo thật: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một người trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta đây” (Mt 25,25-40).
Thiên Chúa không tách rời khỏi lịch sử. Con người trở thành nơi Chúa đợi chờ. Xưa chính Chúa Giêsu đã bị loại trừ trên thánh giá. Nay Người vẫn đợi chờ chúng ta nơi những người bị loại trừ, đó là những người nghèo khó, bị bỏ rơi, bị nhục nhã.
Như vậy, trong thử thách, chúng ta càng dễ chia sẻ với những người đau khổ.
3. Thứ ba, chúng ta hân hoan đón tiếp bất cứ ai khởi đầu đi theo Chúa.
Trong cuộc đời, chúng ta gặp không thiếu người sống trong tình yêu Chúa, mà họ không hay biết. Biết bao người không là thành phần của Hội Thánh, nhưng có cảm tình với Hội Thánh. Biết bao người không đọc Phúc Âm, nhưng biết chấp nhận hy sinh để có một sự sống đạo đức thiêng liêng trong mình.
Họ là những người khởi đầu đi theo Chúa. Họ chưa được ghi tên trong sổ Rửa tội. Nhưng họ đang được Chúa Thánh Thần dẫn vào suối phục sinh. Trong lòng họ, có một cái gì thánh thiêng được khơi dậy. Trong tâm trí họ, có một tiếng gọi nào đó của một Đấng thiêng liêng vô hình.
Trong xã hội Việt Nam hôm nay, số người như thế không phải ít. Nếu tỉnh thức, chúng ta sẽ gặp họ. Đức Kitô đón họ. Tại sao chúng ta lại lạnh lùng với họ ?
Như vậy, trong thử thách, chúng ta sẽ được khích lệ gần gũi hơn với rất nhiều người như thế.
4. Thứ tư, chúng ta hãy tế nhị với những vị giám mục, linh mục của chúng ta.
Lời Kinh Thánh sau đây khuyên con cái hiếu thảo với cha mẹ cũng có thể áp dụng cho các con chiên đối với những người là cha là mẹ mình trong đời sống thiêng liêng.
“Con ơi hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già. Bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha, con sẽ không bị quên lãng và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan” (Hc 3,12-15).
Trong tinh thần hiếu thảo, nếu chúng ta không làm được gì để báo ơn, thì ít ra chúng ta đừng bao giờ đấu tố những người cha thiêng liêng của chúng ta. Việc đó dễ trở thành độc ác, gây đau khổ cho các ngài và cộng đoàn, làm tổn thương Hội Thánh, nhất là phạm đến Chúa Giêsu.
Như vậy, trong thử thách, sự tỉnh thức bảo vệ các người cha thiêng liêng trong Hội Thánh theo lương tâm đạo đức là rất quan trọng.
5. Sau cùng, chúng ta sống như những cộng đoàn của Hội Thánh sơ khai.
“Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42).
Họ làm những việc căn bản nhất. Do hoàn cảnh, họ không có ban bệ, không có sinh hoạt hội đoàn, không có hành hương, không có lễ nghi hoành tráng. Nhưng họ là một cộng đoàn sống động, do tin cậy, do yêu thương, do phục vụ, do tham dự thánh lễ và học hỏi Lời Chúa.
Như vậy, khi gắn bó với Hội Thánh bằng các việc như trên, chúng ta sẽ sống trong cơn thử thách một cách tích cực. Không những Hội Thánh sẽ không suy yếu, mà còn thêm mạnh, thêm vững, thêm mở rộng, đi vào những giá trị căn bản nhất của Tin Mừng.
“Chúa ơi, xin bảo toàn con, vì con tìm nương tựa Ngài” (Tv 15,1).
Một bài thánh ca đang nuôi dưỡng tâm hồn tôi lúc cuối đời, đó là bài: “Khi Chúa thương gọi con Bùi-Tuần 2018
1. Một bài thánh ca đang nuôi dưỡng tâm hồn tôi lúc cuối đời, đó là bài: “Khi Chúa thương gọi con về”.
Tôi không hát. Nhưng bài hát vang vọng trong tôi. Như một thôi thúc cầu nguyện. Như một chỉ hướng nhìn về phía trước. Như một hăm hở đi tới điểm hẹn.
Tiếng Chúa gọi rất nhẹ nhàng mà sâu lắng, rất âm thầm mà mạnh mẽ, rất đơn sơ mà đòi hỏi.
Chúa gọi, chứ không cắt nghĩa dài dòng. Có một sự dứt khoát trong lời Chúa gọi tôi, và Chúa cũng đòi phải có sự dứt khoát trong trả lời của tôi.
Nghe lời Chúa gọi tôi về với Chúa, tôi tự hỏi: Tôi phải chuẩn bị thế nào? Tôi tự trả lời bằng nhiều phương án. Sau cùng chính Chúa trả lời cho tôi.
2. Chúa trả lời tôi qua lời tiên tri Isaia: “Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi” (Is 61,10). Nghĩa là tôi phải nhờ Chúa để nên công chính. Và tôi phải đẹp “Như đất đâm chồi, như vườn nẩy lộc” (Is 61,11).
Hơn nữa, tôi phải được tái sinh, trở thành thụ tạo mới. Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được tái sinh bởi ơn trên” (Ga 3,3). Thụ tạo mới đó có đặc điểm này: Họ ở trong Đức Kitô: “Phàm ai ở trong Đức Kitô, đều là thụ tạo mới” (2 Cr 5,17).
3. Với những Lời Chúa trên đây, tôi hiểu sự chuẩn bị, mà tôi phải có để về với Chúa, chính là đời sống thiêng liêng đạo đức.
Đạo đức nói đây phải sâu. Nghĩa là đạo đức không chỉ là thứ áo choàng công chính khoác bên ngoài, mà còn phải là những hoa trái mọc ra từ bên trong, đặc biệt bên trong ấy phải có mầm mống sự sống của Thiên Chúa.
Đời sống đạo đức như thế có thể gọi là một sự cải đổi. Bỏ cái xấu để có cái tốt. Bỏ con người cũ, để thành con người mới.
Cái xấu là tội lỗi, cái tốt là nhân đức. Con người cũ là những thứ giá trị sẽ qua đi. Con người mới là những thứ giá trị sẽ tồn tại đời đời.
Khi đạo đức là một cải đổi nếp sống, thì tất nhiên phải có phấn đấu. Phấn đấu không ngừng.
Khi đạo đức là một sự lớn lên trong cuộc sống thiêng liêng, thì tất nhiên phải có kiên trì. Kiên trì trải dài trên lịch sử cuộc đời.
Khi đạo đức là một sự tham dự vào sự sống Thiên Chúa, thì tất nhiên phải có ơn thánh Chúa. Ơn thánh làm cho tôi được tái sinh trong đời sống mới.
4. Đời sống mới chính là sự sống Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa chính là đối tượng sau cùng tôi tìm kiếm. Tình yêu Thiên Chúa chính là quê hương tôi ước mơ. Tình yêu Thiên Chúa chính là hạnh phúc tôi được mời gọi trong cõi đời sau.
Chúa cho tôi được nếm thử một chút tình yêu Chúa ngay ở đời này, để một chút bé nhỏ đó trở thành động lực thúc đẩy tôi phấn đấu với mọi khó khăn, vượt qua mọi hoàn cảnh của thực tế lịch sử, để luôn khát tìm ơn thánh.
Với kinh nghiệm, tôi cảm thấy tình yêu Chúa dần dần đơn giản hóa việc tôi chuẩn bị đi về với Chúa.
- Tôi làm mọi việc với tình yêu Chúa.
- Tôi chịu mọi hy sinh vì tình yêu Chúa.
- Tôi lợi dụng mọi cơ hội để làm chứng cho tình yêu Chúa.
- Tôi yêu thương mọi người trong tình yêu Chúa.
5. Tôi xin phép nói thêm ở điểm yêu thương. Bởi vì yêu thương người khác chính là một điều răn căn bản, mà Chúa sẽ căn cứ vào, để phán xét tôi có xứng đáng được vào Nước Chúa hay không (x. Mt 25,31-48).
Vì yêu thương người khác như Chúa dạy, tôi sẽ khiêm tốn phục vụ bất cứ ai trong cảnh khổ, theo khả năng của tôi. Chúa dạy tôi điều đó trong dụ ngôn người Samari tốt lành (x. Lc 10,29-37).
Vì yêu thương người khác như Chúa dạy, tôi sẽ đề phòng tránh xét đoán người khác. Chúa dạy tôi điều đó khi Người nói: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán. Anh em xét đoán thế nào, thì anh em sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy. Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em”.
Sao anh em thấy cái rác trong con mắt người anh em, mà cái xà trong con mắt mình thì không để ý tới” (Mt 7,1-3).
Vì yêu thương người khác như Chúa dạy, tôi theo gương các mục tử tốt lành, cố gắng đi tìm con chiên lạc, coi sự một con chiên lạc trở về là niềm vui lớn lao hơn hết. Vì Chúa phán: “Người nào trong các ông có 100 con chiên mà bị mất một con, lại không để 99 con kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai… Vậy, tôi nói cho các ông hay trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,4-7).
Vì yêu thương người khác như Chúa dạy, tôi xin Chúa ban cho tôi và cho mọi người được ơn biết tha thứ cho nhau. Tôi nhớ tới lời Chúa Giêsu trên thánh giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Vì yêu thương người khác như Chúa dạy, tôi hết sức kết hợp với Chúa Giêsu. Vì Người quả quyết: “Không có Thầy, chúng con không làm gì được” (Ga 15,5).
6. Chúa dạy tôi là hằng ngày hãy cố gắng làm những việc đạo đức như trên. Những việc đạo đức ấy sẽ có giá trị đời đời. Cuộc sống đời đời được bắt đầu từ những việc đạo đức làm ở đời này. Đó là một chuẩn bị tốt để đi vào cuộcs ống tình yêu đời đời ở cõi sau.
Các việc đạo đức trên đây đều dựa trên Lời Chúa. Vì thế số phận của tôi sẽ tùy vào sự tôi có nghe, có đón nhận và có thực hành Lời Chúa hay không, nhất là về bổn phận yêu thương.
Đến đây, suy nghĩ của tôi dừng lại ở lời Chúa trong thư thứ nhất của thánh Gioan. “Kẻ không yêu thương, thì ở trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, thì là kẻ sát nhân. Vì anh em biết: Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở trong nó” (1 Ga 3,14-15).
7. Trên thực tế, những điều tôi vừa diễn tả thường không luôn thực thi đầy đủ. Bởi vì rất nhiều khi nghe Chúa gọi trong cơn đau đớn, tôi chỉ có thể cầu xin với Chúa một lời vắn tắt này: “Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi, xin Chúa thương xót con. Contin Chúa là Cha giàu lòng thương xót, xin cứu độ con”.
May ra, đôi khi, tôi cũng thêm được vài lời cầu xin vắn nữa, như: Lạy Chúa, con xin ký thác nơi Chúa tất cả những người gắn bó với con. Xin Chúa đoái thương ban bình an cho Quê Hương và Hội Thánh Việt Nam của con
Tôi cảm nghiệm sâu sắc điều này: Khi Chúa thương gọi tôi về, điều làm tôi hân hoan nhất, chính là sự tôi được Chúa yêu thương tha thứ cứu độ.
Lời Chúa gọi kèm theo lời tha thứ. rong lời gọi có ơn cứu độ tràn đầy.
Tôi đón nhận lời Chúa gọi với tất cả tấm lòng khiêm nhường sám hối, và tin cậy phó thác, cùng với hết tâm hồn cảm tạ ngợi khan. Tất cả đều trong tinh thần cầu nguyện thiết tha, để ra đi cũng trong tâm tình cầu nguyện khiêm nhường.
Đức Mẹ Maria ở bên tôi.
Trong giờ hấp hối, chắc chắn sự chuẩn bị tôi sẽ rất vắn gọn. Chuẩn bị vắn gọn lúc đó sẽ như thế này: Tôi không còn nhìn vào tôi, mà chỉ nhìn vào Đấng gọi tôi. Tôi nhìn vào Đấng thương yêu tôi, với chỉ một lời phó thác đơn sơ: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Tôi có Tin Mừng, ngay chính tại đây và chính lúc này. Tin Mừng đó là: Tôi đã được gặp Đức Bùi-Tuần 2019
1. Tôi có Tin Mừng, ngay chính tại đây và chính lúc này. Tin Mừng đó là: Tôi đã được gặp Đức Mẹ Maria trong những hoàn cảnh lạ lùng.
Xưa Đức Mẹ Maria đã tỏ mình ra thế nào tại tiệc cưới Cana, thì nay Đức Mẹ cũng tỏ mình ra như vậy tại đây, ngay bên cạnh tôi.
Tôi nhận thấy Mẹ tỏ mình ra bằng ba cách đối xử sau đây.
2. Cách đối xử thứ nhất là Mẹ nhìn gia đình tiệc cưới với con mắt của trái tim, trái tim người Mẹ.
Họ hết rượu, nên lúng túng, lo âu. Họ không nói ra. Nhưng Mẹ nhìn thấy những buồn phiền trong lòng họ. Mẹ nhìn với đôi mắt của trái tim. Chỉ trái tim yêu thương, tế nhị, mới cảm nhận được. Cảm nhận đó là như đôi mắt bén nhạy, làm Mẹ xót xa.
Mẹ đem nỗi niềm xót xa đó sẻ chia sang Chúa Giêsu.
“ Nhà này hết rượu rồi” (Ga 2,3)
3. Nhìn với đôi mắt của trái tim, đó cũng là điều Đức Mẹ đang thực hiện tại đây, với tôi và nhiều người xung quanh tôi.
Với đôi mắt của trái tim, Mẹ thấy chúng tôi đang rơi vào cảnh thiếu thốn âm thầm, trầm trọng.
Mẹ lo cho chúng tôi. Nên Mẹ đã nói cho Chúa Giêsu nỗi lo của Mẹ về chúng tôi.
Nhìn con cái với đôi mắt của trái tim, đó là cách đối xử thứ nhất về Mẹ Maria trong tôi.
4. Cách đối xử thứ hai là Mẹ nhìn những con người với đôi mắt của đức tin.
Xưa, với đôi mắt của đức tin, Mẹ đã nhìn gia đình tiệc cưới Cana là những người được Chúa yêu thương.
5. Nay, cũng với đôi mắt của đức tin, Mẹ đã và đang nhìn chúng tôi là những kẻ được Chúa xót thương.
Nhận thức được điều đó, chúng tôi hết lòng cảm tạ Chúa và Đức Mẹ. Nhận thức đó cũng đem lại cho chúng tôi niềm vui, hy vọng và bình an.
6. Cách đối xử thứ ba là Mẹ nhìn những người Mẹ thương với đôi mắt của nhà tiên tri.
Xưa, với đôi mắt của nhà tiên tri, Đức Mẹ tin Chúa Giêsu sẽ làm phép lạ, để cứu danh dự cho gia đình tiệc cưới.
Mẹ không biết Chúa Giêsu sẽ làm gì. Nhưng Đức Mẹ tin Chúa Giêsu sẽ làm phép lạ. Cái nhìn của Mẹ là cái nhìn tiên tri.
7. Nay, Đức Mẹ đang nhìn chúng tôi với cái nhìn tiên tri như vậy.
Chúa sẽ cứu chúng tôi. Nếu cần đến phép lạ để cứu, thì Chúa sẽ làm phép lạ để cứu chúng tôi.
8. Riêng tôi, tôi đã được Chúa cứu bằng nhiều cách lạ lùng. Nếu gọi đó là những phép lạ, thì cũng là một cách nói, để diễn tả những gì đã xảy ra cho tôi, mà chỉ có thể cắt nghĩa được là do ơn Chúa mà thôi.
9. Ba cách đối xử trên đây mà Mẹ đã thực hiện, đều chứng tỏ tấm lòng của Mẹ là chỉ lo cho người khác.
Mà lo cho người khác thì Mẹ không tiếc gì, không nề quản gì. Đó là điều Mẹ dạy tôi.
10. Tôi cũng đang học được điều đó nơi nhiều người gần xa.
Ngay lúc này, tình hình đang diễn biến một cách nguy hiểm, thế mà không thiếu những người đang lo cho người khác một cách vị tha, quả cảm. Họ là những tấm gương để tôi bắt chước.
Nhìn những tấm gương đó, tôi nhận ra những sự lạ lùng Đức Mẹ đang thực hiện tại Việt Nam hôm nay.
11. Những gương sáng đó đang lấp lánh và tỏa hương thơm đạo đức trong Công Giáo và ngoài Công Giáo, trong dân thường và trong những hệ thống chức quyền.
12. Nói thế không có nghĩa là được phép tự hào một cách ngây thơ, nhưng hãy khiêm tốn cảnh giác và sám hối chân thành, theo lời Mẹ nhắn nhủ ở Fatima. Đừng quên chỉ một chút kiêu ngạo sẽ làm hư tất cả.
13. Lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta cần để ý đến chiều kích thiêng liêng một cách thành thực và sâu sắc. Đức Mẹ sẵn sàng giúp chúng ta đi vào chiều kích đó. Chiều kích đó sẽ cứu chúng ta.
14. Đừng bỏ lỡ thời cơ. Lúc này là thời cơ thuận lợi để đón Tin Mừng. Ngày nào cũng có Tin Mừng cho ngày đó. Riêng tôi, ngày nào cũng được nghe Tin Mừng Chúa gửi cho tôi: “Đây là Mẹ của con” (Ga 19, 27). Chúa đã trao tôi cho Đức Mẹ. Mẹ đã nhận tôi làm con của Mẹ. Tôi thực sự hạnh phúc. Đó là Tin Mừng cũng cho nhiều người được Mẹ nhận làm con.
Lương thực hằng ngày nuôi sống linh hồn tôi là chính Chúa Giêsu. Ngài đến với tôi, không phải Bùi-Tuần 2020
1. Lương thực hằng ngày nuôi sống linh hồn tôi là chính Chúa Giêsu. Ngài đến với tôi, không phải để lên án tôi, nhưng để cứu tôi.
2. Cách Ngài cứu tôi là Ngài đi tìm tôi, ôm lấy tôi, vác tôi trên vai Ngài. Hình ảnh người chăn chiên vác trên vai mình con chiên.
3. Chúa Giêsu đối với tôi là như thế đó. Ngài trở thành lương thực nuôi sống linh hồn tôi.
4. Những gì tôi vừa chia sẻ trên đây đều đã được chính Chúa phán và đã ghi trong Phúc âm. Bây giờ thì những điều đó đã được ghi trong lòng tôi. Nói cho đúng, thì không phải là ghi, là viết ra trong lòng tôi, mà là chính Chúa ở với tôi, chính Chúa ở trong tôi. Chúa sống động, Chúa thân mật, Chúa gần gũi. Chúa nuôi tôi bằng chính Ngài.
5. Người giúp tôi sống như vừa kể là Đức Mẹ. Mẹ đốt lên trong tôi niềm thao thức về Chúa Giêsu. Thao thức như đói, như khát, như nhớ nhung, như đợi chờ không nguôi.
6. Đức Mẹ đốt lên trong tôi không phải ở lãnh vực trí thức với những lý luận, mà ở lãnh vực tâm tình với những cảm nhận đơn sơ, riêng tư.
Lãnh vực tâm tình thì mênh mông như bầu trời, bao la như biển cả, thiêng liêng như hồn trút khỏi xác, bay vào cõi trường sinh.
7. Chính trên lãnh vực tâm tình, tôi đã được Đức Mẹ thuyết phục: Hãy coi Thánh Ý Chúa là điều căn bản trong tu đức và mục vụ.
Đừng theo ý riêng mình, nhưng hãy theo Thánh Ý Chúa. Đó phải là lương thực hằng ngày. Đừng ra chương trình cho Chúa. Nhưng hãy tỉnh thức thực thi chương trình của Chúa, từng chi tiết nhỏ.
8. Khi tỉnh thức muốn thực thi chương trình của Chúa cho tình hình hiện giờ và tại đây, tôi mới thấy nhiều điều bất ngờ. Thí dụ:
Xưa Chúa tỏ mình ra là Đấng cứu độ ở Belem. Ở Belem, Chúa không chọn trung tâm như đền thờ, như thành phố, mà chọn một nơi rất nghèo, đó là cánh đồng, trong một hang đá.
Nay cũng sẽ như vậy. Chúa Giêsu sẽ không chọn những thành phố, những trung tâm mục vụ, những nhà thờ nổi tiếng, để tỏ mình ra. Nhưng Ngài sẽ tỏ mình ra ở những nơi nghèo khó.
9. Thánh Ý Chúa là như thế. Mà nếu thế, thì vâng theo Thánh Ý Chúa sẽ không dễ chút nào.
Nhưng Đức Mẹ đang giúp các con của Mẹ vâng theo Thánh Ý Chúa, cho dù việc đó đòi nhiều từ bỏ chính mình.
10. Nhiều người con Đức Mẹ đang sống như thế. Họ đang là một thứ lương thực rất tốt, được Mẹ dùng mà nuôi dưỡng tôi.
Họ nuôi dưỡng tôi một cách âm thầm, bằng nhiều cách. Tôi cảm nhận được sự thực nhiệm màu đó.
11. Từ kinh nghiệm được Đức Mẹ nuôi dưỡng qua những con người tốt, tôi cảm thấy mình có bổn phận cũng hãy để Đức Mẹ dùng tôi để nuôi dưỡng những người khác.
12. Tôi cũng sẽ là một thứ lương thực thiêng liêng cho nhiều người khác, khi tôi sống theo Thánh Ý Chúa, khi tôi có Chúa ở trong tôi. Tôi xác tín như vậy.
13. Mới rồi, tôi gặp nhiều chuyện xảy ra cho đời tôi rất khác với những gì tôi mong muốn. tự nhiên tôi buồn. Nhưng liền sau đó, Đức Mẹ cho tôi hiểu Thánh Ý Chúa là muốn tôi đón nhận vụ việc như một cơ hội để đền tội. Mẹ an ủi tôi như thế. Và tôi được bình an với tâm tình cảm tạ.
14. Tôi hiểu lương thực Chúa nuôi dưỡng tôi không phải chỉ là những gì ngon ngọt, mà có cả những gì là cay đắng. Cay đắng để chữa bệnh, đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa giàu lòng thương xót đang thực hiên nơi tôi.
15. Chính những hoàn cảnh như thế, Đức Mẹ với tình Mẹ, đã và đang an ủi tôi.
Những an ủi Đức Mẹ dành cho tôi thì rất nhiều, rất riêng tư, từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây.
16. Nhất là hiện thời, khi tuổi già nảy sinh ra nhiều tàn phai về thể xác cũng như về phần hồn, khiến tôi nhiều lúc rơi vào tâm trạng cô đơn, thì chính trong lúc đó, Đức Mẹ đã rất là Mẹ đối với tôi.
17. Tôi trở thành trẻ nhỏ, và còn hơn là trẻ nhỏ dại dột. Nhưng Mẹ càng thương, càng âu yếm, càng bao bọc.
Mẹ đưa tôi đến Chúa Giêsu một cách rất nhẹ nhàng rất riêng tư.
18. Lương thực của tôi lúc này là như thế. Xin cảm tạ Chúa. Xin cảm tạ Đức Mẹ. Cũng xin cảm tạ Hội thánh Việt Nam, Tổ quốc Việt Nam và tất cả những tấm lòng đã và đang là lương thực nuôi dưỡng tôi.
19. Cách riêng, tôi coi chính Đức Mẹ là lương thực hằng ngày của tôi. Nhất là lúc này, Mẹ là lương thực rất quan trọng cho tôi. Sống có Mẹ. Chết có Mẹ. Với Mẹ, tôi hiểu thế nào là hạnh phúc thực. Xin hết lòng cảm tạ Mẹ, Mẹ yêu dấu của tôi và của chúng ta.
Bây giờ, Đạo đang bước vào một giai đoạn mới của lịch sử: Giai đoạn hội nhập và cạnh tranh. Tôi Bùi-Tuần 2021
Bây giờ, Đạo đang bước vào một giai đoạn mới của lịch sử: Giai đoạn hội nhập và cạnh tranh. Tôi vui, nhưng cũng lo. Với kinh nghiệm của một người, vừa già về tuổi đời, vừa già về tuổi mục vụ, tôi xin phép chia sẻ một nỗi lo như một cảnh báo.
Năm nay tôi 80 tuổi. Nhìn lại Hội Thánh Việt Nam trong cuộc đời đã qua của tôi, tôi thấy Hội Thánh của tôi thực vất vả. Có thể ví cuộc đời ấy như một chuyến đi đầy trắc trở.
Nhưng những gian nan trắc trở đó đã được vượt qua. Hơn thế nữa, đức tin được tôi luyện đã đào tạo nên nhiều con người biết sống công bình bác ái. Nhờ đâu ? Tất nhiên là nhờ ơn Chúa. Nhưng chắc chắn cũng nhờ nhiều tín hữu, nhất là nhiều vị lãnh đạo trong Hội Thánh Việt Nam đã biết khiêm tốn cộng tác với ơn Chúa. Các vị đã cùng nhau tiến lên trong mọi chặng đường lịch sử khác nhau với tâm hồn sáng suốt. Bây giờ, Đạo đang bước vào một giai đoạn mới của lịch sử: Giai đoạn hội nhập và cạnh tranh. Tôi vui, nhưng cũng lo. Với kinh nghiệm của một người, vừa già về tuổi đời, vừa già về tuổi mục vụ, tôi xin phép chia sẻ một nỗi lo như một cảnh báo. Đó là hãy coi chừng về một chứng bệnh nguy hiểm cho Đạo. Chứng bệnh này thường xuất hiện trong thời cạnh tranh giữa các giá trị.
Chứng bệnh đó là bệnh mù quáng
Mù quáng trong sống đạo được Kinh Thánh đề cập đến nhiều cách. Ở đây tôi chỉ nêu lên bốn dạng mù quáng dễ gặp thấy.
1. Mù quáng, vì không nhận ra cái chính, cái phụ
Chúa Giêsu có lúc đã đau buồn phải nói sự thực với các kinh sư và Pharisêu: “Khốn cho các ngươi, những kẻ dẫn đường mù quáng... Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề luật là công bình, lòng thương xót và sự thành tín… Hỡi những kẻ dẫn đường mù quáng. Các ngươi lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà” (Mt 23,23-24).
Những lời Chúa Giêsu phiền trách trên đây xem ra đang ứng nghiệm ở nơi này nơi nọ. Tình hình đạo ở những chỗ đó được tiếng là thêm mở mang, thêm hoạt động, thêm luật lệ. Nhưng lòng đạo thực ra chỉ được xây dựng bằng những giá trị phụ. Người ta gọi đạo kiểu đó là đạo hình thức, đạo gánh nặng, đạo bề ngoài, đạo phong trào. Nhưng không thiếu người tự mãn với lối sống đạo như thế. Chúa thì dứt khoát không hài lòng. Người gọi những người giữ đạo kiểu đó là mù quáng. Cái làm cho sự mù quáng đó thành nguy hiểm, đó là sự nó tạo nên một ảo tưởng sai lầm, đưa con người vào ẩn trú trong đó. Hơn nữa, nó càng nguy hiểm, khi lôi kéo, thậm chí ép buộc nhiều người khác đi vào não trạng sai lạc về đạo, bám vào một nếp sống đạo dễ dàng biến chất. Hy vọng cảnh đó sẽ không nhiều tại Việt Nam.
2/ Mù quáng, vì không nhận ra đoàn lũ quỷ dữ rình rập mình thường xuyên
Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô gởi các giáo đoàn, Ngài đã viết: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì quỷ dữ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8).
Danh từ quỷ dữ mà thánh Phêrô dùng ở đây không những chỉ đích danh các tướng quỷ và thuộc hạ ác ôn vô hình luôn rảo quanh chúng ta, mà cũng ám chỉ các lực lượng xấu hữu hình xung quanh ta. Đó là những thứ văn hóa đồi trụy, những phong trào gây hận thù chia rẽ, những nhóm đầu tư đủ loại mưu mô quỷ quyệt, những lối sống kích thích hủy hoại luân lý, những định kiến hẹp hòi, kiêu căng.
Thánh tông đồ Phêrô nói rõ với tín hữu là chỉ với tiết độ và tỉnh thức, người ta mới nhận diện được mặt thực của quỹ dữ và mới đối phó được với chúng một cách có hiệu quả. Nhưng thực tế nhiều nơi cho thấy sự tiết độ và tỉnh thức có vẻ như đang bị lơ là. Do đó mà không ít người trở nên dần dần mù quáng. Họ không những không nhận ra đoàn lũ các loại quỷ dữ đang hoạt động ráo riết xung quanh mình, mà còn nhởn nhơ hòa nhập và tích cực cộng tác vào những cái xấu của chúng.
3/ Mù quáng, vì không biết nhận xét thời đại mình sống
Chúa Giêsu có lần đã cảnh báo nặng lời: “Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc trời đất, thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận xét ? Sao các ngươi không tự mình xét xem cái gì là phải” (Lc 12,56-57).
Lời Chúa phán trên đây, nếu áp dụng vào nhiều người có đạo thời nay, thì thiết tưởng không sai. Bởi vì theo các nơi hành hương và huấn giáo, thì thời nay có hai việc Chúa muốn ta làm:
Việc thứ nhất là sám hối, đền tội, đổi mới bản thân ta.
Việc thứ hai là tin vào Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót và hãy đến với Người bằng những việc ta xót thương người khác, như Chúa thương xót ta.
Thế nhưng, cách sống của bao người tín hữu hôm nay tỏ ra mình chưa nhìn thấy rõ bao con đường Chúa đang đợi họ trong thời đại này.
4/ Mù quáng, vì không nhận ra Chúa đến và ở giữa lịch sử nhân loại
Phúc Âm thánh Gioan viết: “Ngôi Lời ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón Người” (Ga 1,10-11)..
Đọc mấy dòng trên, chúng ta cảm thấy buồn. Người nhà của Chúa là chính những người công giáo chúng ta. Nhưng biết đâu biết bao lần Chúa đến với ta, mà ta không đón nhận Người. Người đến qua Kinh Thánh, qua các bí tích, qua Hội Thánh. Ngoài ra, Người cũng đến qua nhiều ngả khác, như qua các biến cố lịch sử, qua các thành công và thất bại của ta, qua các nền văn hóa chất lượng, qua các sách báo và gương sáng nhắc nhở của cá nhân và tập thể, trong và ngoài Đạo ta.
Nhưng, chúng ta nhiều khi tự mãn, không nhìn và không muốn nhìn, cho nên kể như tự mình trở nên mù quáng. Mọi thứ mù quáng đều đáng tiếc. Nhưng mù quáng không nhìn nhận Chúa đến với ta, đó quả là một tai họa kinh khủng.
Kinh nghiệm tại nhiều nơi cho thấy: Đạo Chúa thời khó thì chất lượng phát triển. Đạo Chúa thời dễ thì chất lượng suy thoái.
Chúng ta cũng nên nhìn sự phát triển của các tôn giáo bạn hiện nay trong nước ta và tại các nước xung quanh, nói chung là tại Á châu. Tại nhiều nước Á châu, văn hóa dân tộc là văn hóa một tôn giáo nào đó phủ kín khắp nước. Tất nhiên văn hóa đó và tôn giáo đó không phải là công giáo.
Ai trong chúng ta cũng có nhiều giới hạn. Nên chúng ta rất cần cầu nguyện.
Thiết tưởng vấn đề này nên được nhận thức sớm, với những nghiên cứu mới, sáng kiến mới, dấn thân mới. Kẻo sẽ quá muộn. Vì lịch sử đất nước, khu vực và thế giới, đang chuyển biến rất mau, với những bất ngờ dễ sợ.
Tôi là kẻ tội lỗi. Đó là sự thực, rất thực, hết sức đúng. Đấng có quyền tha tội cho tôi là Chúa. Đó Bùi-Tuần 2022
1. Tôi là kẻ tội lỗi. Đó là sự thực, rất thực, hết sức đúng.
Đấng có quyền tha tội cho tôi là Chúa. Đó là sự thực, rất thực, hết sức đúng.
3. Đức Mẹ luôn nhắc cho tôi hai sự thực trên đây, phải coi đó là những sự thực sống còn. Đón nhận ơn tha thứ sẽ được lên thiêng đàng. Không đón nhận ơn tha thứ sẽ phải xuống hỏa ngục.
4. Để đón nhận ơn tha thứ, thì phải làm những gì? Đức Mẹ dạy tôi ba điều sau đây.
+ Một là phải chân thành nhận tội. + Hai là phải tuyệt đối tin vào lòng thương xót của Chúa. + Ba là phải thực sự tha thứ cho những kẻ khác.
5. Ba điều trên đây coi như dễ, nhưng thực sự không dễ chút nào.
+ Thay vì nhận tội, chúng ta thường tìm cách chạy tội hoặc đổ tội sang người khác. Có khi miệng nói: “ Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Nhưng miệng nói theo công thức mà thôi. Chứ trong lòng thì khác.
6. + Tin vào lòng thương xót của Chúa, thì phải tuyệt đối, nghĩa là không chút dựa vào công phúc và tài đức của mình, mà chỉ dựa vào tình xót thương của Chúa mà thôi. Thế mà, trên thực tế, rất nhiều lần, chúng ta quen thói dựa vào những việc mà chúng ta coi là công phúc và tài đức của mình. Nào là chúng ta đã vất vả hội họp, bàn tính. Nào là chúng ta đã khó nhọc tìm tiền để xây cất những công trình lớn nhỏ. Nào là chúng ta đã tốn sức và khôn khéo vận dụng mọi cách để hoạch định những chương trình nhắm tới những công bố rạng rỡ, trong đó có những lời ca tụng lẫn nhau, tạo ra những vinh quang chia sẻ sang nhau.
Cảnh đó giống hệt cảnh người Pharisêu xưa đã khoe khoang mình trước bàn thờ Chúa, mà trong dụ ngôn Chúa Giêsu đã nêu lên để loại trừ.(x. Lc 18, 11).
7. Còn việc phải thực sự tha thứ cho những người khác, thì cũng chẳng luôn dễ đâu.
Nhất là khi người khác vẫn tiếp tục và luôn luôn xúc phạm đến chúng ta, thì sự tha thứ cho họ được chúng ta coi như là một sự khuyến khích họ thêm sai lầm. Vì thế mà chúng ta sẽ không tha thứ cho họ, để họ biết lỗi mà sửa mình.
Thế là chúng ta sẽ tự mang lấy trong mình một gánh nặng do sự không biết tha thứ. Mà ai không tha thứ cho người khác thì sẽ không được Chúa tha thứ cho.
8. Một thoáng nhìn về sự đón nhận ơn tha thứ như vừa kể trên đây, cho thấy đón nhận ơn tha thứ là điều rất khó. Biết thế để mà phấn đấu.
9. Đức Mẹ giúp tôi phấn đấu mỗi ngày.
Mỗi ngày, Mẹ dạy tôi hãy biết đón nhận không phải những tư tưởng về Chúa, những công việc của Chúa, mà hãy đón nhận chính Chúa.
10. Đón nhận chính Chúa là như được nhìn thấy Chúa, được chạm vào Chúa, được nghe Chúa nói, được gắn bó mật thiết với Chúa.
11. Khi được đón nhận chính Chúa như vậy, tôi mới hiểu thế nào là đón nhận ơn tha thứ.
Chính Chúa tha tội cho tôi. Chính Chúa cho tôi cảm nhận Ngài là đường, là sự thực, là sự sống và là sự phục sinh. (Ga11,25.14,6)
12. Tôi đón nhận chính Chúa chủ yếu là bằng tình yêu. Nếu Chúa có hỏi tôi: “Con có mến Thầy không?” Như đã hỏi thánh Phêrô xưa (Ga 21,15-20). Thì tôi cũng sẽ chỉ thưa như thánh Phêrô: “Con mến Chúa”. Lòng mến, lửa mến, đó là tấm lòng tôi đón Chúa.
13. Tôi lúc này, với tuổi 93, mà về hưu đã là 17 năm, tôi hiểu thấm thía ơn gọi chủ yếu hệ tại ở trái tim.
Nếu coi ơn gọi chủ yếu nằm ở tri thức, chúng ta sẽ rất sai.
14. Hãy giáo dục trái tim. Hãy đào tạo trái tim.
15. Đức Mẹ đã và đang giáo dục và đào tạo tôi một cách thầm lặng ở trong trái tim tôi, để tôi luôn biết xin vâng. Xin vâng Chúa là tình yêu tha thứ. Đón nhận chính Chúa mới thực sự là đón nhận ơn tha thứ.
Chúa ở trong Lời Chúa, ở trong các bí tích, ở trong Hội thánh Chúa và cũng ở trong những con người tốt.
Hiện giờ Chúa đang gửi đến tôi nhiều người tốt. Họ đang cùng với Đức Mẹ giúp tôi đón nhận ơn tha thứ. Xin hết lòng cảm tạ Chúa và Đức Mẹ. Cũng xin cảm ơn những người đang giúp tôi đón nhận ơn tha thứ. Thế là tôi được bình an, hạnh phúc. Alleluia.
16. Ngày nào tôi còn được sống, thì vẫn là một khởi đầu mới cho tôi, để tôi đón nhận ơn Chúa thứ tha. Và như vậy, suốt đời tôi sẽ là một bài ca ngợi khen Chúa. Tôi sẽ cùng với Đức Mẹ dâng lên Chúa tâm tình Magnificat. Linh hồn tôi ngơi khen Đức Chúa…(Lc 1,46-56).
Tuần lễ này được gọi là tuần lễ Apec. Tôi mong tuần lễ này sẽ đem lại cho tôi nhiều niềm vui. Những Bùi-Tuần 2023
Tuần lễ này được gọi là tuần lễ Apec.
Tôi mong tuần lễ này sẽ đem lại cho tôi nhiều niềm vui. Những niềm vui thấy được, nghe được. Sáng sớm đầu tuần tôi mong như thế. Dù ở xa thủ đô, tận miền cuối Nước, mình và đồng bào xung quanh mình cũng chỉ dám nuôi hy vọng nho nhỏ đó thôi.
Qua ngày đầu tuần lễ Apec
Nhưng tuần lễ đầy hy vọng đó đã mở đầu bằng sự kiện cúp điện từ sáng tới tối. Không biết các chỗ khác thế nào, chứ khu Tòa Giám mục của tôi thì thế. Lý do là để sửa điện. Tôi muốn thấy thủ đô hoành tráng qua các kênh truyền hình, nhưng đã thất vọng với niềm tin an phận.
Theo thói quen, tôi tăng cường đọc sách thay vì theo dõi tình hình qua tivi. Cuốn sách tôi chọn đọc là bằng tiếng Pháp, mang tựa đề: “Vị Giám mục và chàng điên”.
Nội dung có thể tóm tắt như sau: Một chàng thanh niên có vẻ khùng khùng, điên điên. Anh bị nhốt trong một cái cũi. Trong cũi nhìn ra, anh thấy các người sống tự do cũng chẳng thực sự tự do. Họ bị bao thứ đam mê sai khiến. Họ tranh giành, ganh tỵ, ghen ghét nhau. Anh khùng điên trong cũi thì lại cảm thấy mình thương họ.
Sau cùng, anh được thả ra khỏi cũi. Anh đi lang thang.
Một hôm, anh sực nhớ lại chút đạo còn lại trong anh. Anh lượm một cái que, bẻ làm đôi, buộc lại thành cây thánh giá. Rồi anh hôn kính.
Vừa làm xong, anh thấy có một bàn tay đặt nhẹ trên vai anh. Quay lại nhìn, anh gặp một vị Giám mục. Hai người chào nhau, chuyện trò với nhau, và trở nên bạn thân của nhau.
Từ đó, anh khùng điên tha hồ tâm sự với vị Giám mục. Thì ra anh khùng điên là một người trí thức.
Hành trình đi tới Chúa
Trong trao đổi, chàng điên đưa vị Giám mục không phải là vào nhà thờ, mà là vào cuộc sống thực tế.
Anh hỏi vị Giám mục về kiếp người, với những tội lỗi, với những bất công, với những khổ đau, với những bệnh tật và cái chết.
Vị Giám mục phải vất vả lắm, để cắt nghĩa cho anh. Đức tin của anh kể như không còn. Nên vị Giám mục phải dùng đến các lý lẽ và mọi học thuyết mà anh có thể hiểu.
Dần dần anh tới được cây thánh giá. Hai người dừng lại ở đó. Anh gặp được tình yêu của Đấng đã hy sinh cho anh và cho mọi người.
Những gợi ý ban đầu
Đọc xong cuốn sách “Vị Giám mục và chàng điên” với nội dung tóm tắt như trên, tôi như khám phá ra nhiều điều mới. Thí dụ:
1/ Cũng nhờ một ngày không may là bị cúp điện, tôi mới ráng đọc xong cuốn sách gần 300 trang kia. Thành ra, cái rủi trở thành cái may.
Điều này dạy tôi đừng đợi mọi sự phải thuận lợi mới ra tay làm việc lành. Nhưng phải biết dùng mọi hoàn cảnh xảy đến trong đời mình, để làm việc thiện, không việc thiện này thì việc thiện khác. Cho dù nhiều hoàn cảnh coi như bãi lầy, nhưng bao người đã bới ra được trong đó những hạt ngọc quý.
2/ Đối thoại với những người thời nay, tôi phải hiểu con người và các vấn đề phức tạp cuộc sống của con người nói chung và từng giai đoạn lịch sử nói riêng.
Điều họ thao thức ưu tiên hôm nay không phải là nhà thờ, mà là cuộc sống tốt đẹp. Nhà thờ chỉ là một ưu tư trong nhiều ưu tư của hành trình cuộc sống. Ưu tư nhà thờ nếu muốn trở thành hấp dẫn, thì phải được giới thiệu cùng với nhiều ưu tư khác, mà người thời nay đang bị kéo vào một cách thực tế và mãnh liệt.
3/ Cần cố gắng để suy tư của mình mỗi ngày thêm rộng, thêm sâu.
Suy tư là một cách nhìn của trí khôn. Nhìn là thấy cái này trong cái nọ và bên cái kia. Điều gì cũng nằm trong mạng lưới những liên quan phức tạp. Đừng nhìn hẹp hòi, kẻo rồi tự mình lại nhốt mình vào cũi.
4/ Người sống trong tự do là người không để mình bị ách nô lệ nào trói buộc. Đặc biệt là các thứ ách nô lệ trong nội tâm mình.
Cuốn sách “Vị Giám mục và chàng điên” cho tôi thấy cả hai nhân vật cùng có những lối suy tư độc lập. Suy tư của họ không thuộc loại đúc theo khuôn, nhất là loại đúc theo một khuôn đã bị loại trừ từ lâu rồi.
Thời thế đang chuyển mình như Apec. Cần tỉnh thức, để biết “Thờ phượng Chúa trong tinh thần và sự thật” (Ga 4,23).
Tinh thần có thể được hiểu là lãnh vực tâm linh, tâm lý, tâm hồn, tâm thức.
Sự thực gồm đủ thứ sự thực thuộc mọi lãnh vực. Có những sự thực rất đơn giản, thông thường, bình dị. Hiểu biết đúng những sự thực đó cũng là cách đào tạo mình để nên người thờ phượng Chúa.
Lãnh vực sự thực rất mênh mông. Học hỏi sự thực, tìm hiểu sự thực, khám phá sự thực, đối chiếu sự thực, tôn trọng sự thực, đang là hành trình cuộc sống của người thời nay.
Cần đồng hành với hành trình đó để sự thờ phượng Chúa của ta có sức hấp dẫn đối với thời điểm Việt Nam lúc này.
... “Kinh nghiệm cho tôi thấy: Được nghỉ ngơi và được bồi dưỡng cũng rất cần phải có một bầu khí thuận lợi. Bầu khí đó là thời gian tĩnh và không gian tĩnh” ...
Từ ít tháng nay, tôi cảm thấy mình mệt mỏi. Như có những gánh nặng đè trên mình. Chính mình Bùi-Tuần 2024
1. Từ ít tháng nay, tôi cảm thấy mình mệt mỏi. Như có những gánh nặng đè trên mình. Chính mình cũng trở thành gánh nặng cho mình. Có thể do thời tiết, thời thế, sức khỏe và tuổi tác.
2. Tôi cầu nguyện rất nhiều. Chúa cho tôi nhớ lời Chúa phán: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
3. Tin vào Lời Chúa, tôi trình bày cho Chúa tình trạng thực tế của tôi, một tình trạng được cảm nhận là rất nặng nề.
Chúa thương dạy tôi: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Mt 14,39).
4. Tôi xin Chúa thương giúp tôi tỉnh thức và cầu nguyện thêm. Dần dần tôi nhìn thấy một cơn cám dỗ do Satan đang xúi giục tôi rất mạnh, đó là muốn thoát khỏi tình trạng nặng nề của tôi bằng những tính toán mà tôi cho là tốt, theo ý của tôi.
5. Nhận ra cơn cám dỗ đó rồi, tôi được Chúa đưa tôi vào một lời cầu nguyện mới, đó là xin Chúa cho được vâng theo ý Chúa: “Cha ơi, Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha mà thôi” (Mt 14,35).
6. Khi cùng với Chúa Giêsu nói lời cầu xin trên đây, tôi nhận biết là tôi sẽ phải uống chén đắng, như Chúa Giêsu xưa. Mà chén đắng đâu có ngọt ngào.
Tuy nhiên, Chúa sẽ bồi dưỡng cho tôi, để tôi có thể đứng vững được trong cơn khốn khó.
7. Thế là tôi được bình an. Một sự bình an như một sự nghỉ ngơi trong sự phó thác nơi Chúa giàu lòng thương xót.
8. Khi được bồi dưỡng và được nghỉ ngơi như vậy rồi, tôi giờ đây bước về phía trước, với tâm trạng sẵn sàng chịu đựng những đớn đau do những biến cố khốn khổ có thể xảy ra.
Những khốn khổ có thể sẽ xảy ra cách này cách nọ, ở từng vùng hay ở khắp nơi. Mục đích là để đền tội, để xóa tội, để bỏ đàng tội, để trở về với Chúa, để bám vào Chúa, để làm chứng cho Chúa. Tôi thấy như vậy.
9. Những gì tôi vừa chia sẻ trên đây, thực sự cũng đã được nhiều người nói với tôi. Họ biết trước tôi. Tôi có thể nghĩ về họ bằng lời của thánh Phaolô xưa: “Rõ ràng, anh em là bức thư của Đức Kitô được giao cho chúng tôi chăm sóc. Bức thư đó không phải viết bằng mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bảng bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người” (2Cr 3,3).
10. Những bức thư sống động là những con người tốt Chúa gởi cho tôi đều có tính chất bồi dưỡng đức tin cho tôi, để tôi tìm được nơi Chúa những đỡ nâng trong khi gặp khốn khó. Tôi cảm tạ Chúa hết lòng.
11. Một trong những khốn khổ, mà tôi nghĩ sẽ rất quan trọng, đó là những thành kiến, những vô ơn, những vô tâm, những ghen ghét có thể sẽ đổ xuống trên chúng ta. Rõ ràng là lỗi tại họ. Chúng ta sẽ rất đau đớn. Nhất là khi sự hòa giải của chúng ta lại bị coi như một sự nhục nhã, thua thiệt. Nhưng chúng ta không có con đường xây dựng hòa bình nào khác, ngoài con đường tha thứ, mà Chúa Giêsu đã đi và đã dạy.
12. Muốn được như vậy, tôi phải chiến đấu rất nhiều với chính mình. Tôi cần có một đời sống nội tâm phong phú mật thiết với Chúa Giêsu, để nhờ đó mà chữa lành những vết thương trong lòng tôi và trong lòng những người khác.
13. Hoàn cảnh khốn khó sẽ rất phức tạp. Nhưng tôi sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng nhờ kết hiệp với Chúa.
Khi kết hiệp với Chúa, tôi sẽ có những thái độ cụ thể như sau: Tôi học nơi Đức Hồng y Godfried Danneels.
14. Tôi luôn nhận thức về những giới hạn của mình. Do đó luôn luôn tôi cần đến ơn Chúa.
15. Tôi luôn nhận thức tôi không cô đơn. Xa gần, nếu tôi tỉnh thức và cầu nguyện, tôi sẽ nhận ra nhiều người tốt, không ngại đỡ nâng tôi.
16. Tôi luôn nhận thức về ơn gọi Chúa dành cho tôi. Chúa gọi tôi hãy đến với Chúa, mang theo những gánh nặng tôi vác trên vai. Chúa hứa sẽ làm cho tôi được nghỉ ngơi và được bồi dưỡng. Chúa hứa. Tôi tin Chúa luôn giữ lời Chúa hứa.
17. Tôi luôn nhận thức tôi là kẻ tội lỗi. Tôi rất cần đến lòng thương xót Chúa.
18. Tôi luôn nhận thức khổ đau vốn đi liền với truyền giáo. Khổ đau là yếu tố cần cho việc cứu chuộc, là cách thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Thánh giá luôn là khổ đau, nhưng là khổ đau có sức cứu độ, khi nó có tình yêu.
19. Tôi luôn nhận thức phải sẵn sàng cho những bất ngờ. Những bất ngờ sẽ xảy ra, phá vỡ những chương trình chúng ta hoạch định sẵn và cho là hợp lý. Sẽ có những bất ngờ dạy chúng ta là đừng chủ quan đề cao ý chí.
20. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Được nghỉ ngơi và được bồi dưỡng cũng rất cần phải có một bầu khí thuận lợi. Bầu khí đó là thời gian tĩnh và không gian tĩnh.
21. Khi nội tâm của tôi trở thành tĩnh mạc, biết lui vào cõi sâu thẳm, bỏ đi tất cả những gì là cái tôi, để chỉ đón chờ, khát khao Chúa, thì Chúa sẽ cho tôi được nghi ngơi và được bồi dưỡng thực sự. Chúa sẽ nói với tôi, như đã nói với thánh Phaolô xưa: “Ơn của Ta đã đủ cho con rồi” (2Cr 12,9). Điều làm cho tôi rất vui, là Chúa quả quyết: “Sức mạnh của Ta được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối của con” (2Cr 12,9). Tôi chẳng có gì tự hào khoe khoang cả. “Chính khi tôi yếu là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10).
22. Như vậy, tôi sẽ không nhìn tương lai của tôi và của giáo phận là thời gian an nhàn, nghỉ ngơi và được bồi dưỡng theo nghĩa hưởng thụ sung sướng, mà sẽ là thời gian được nghỉ ngơi và được bồi dưỡng do đức tin, để có thể đứng vững giữa những khó khăn, những khổ đau, những thử thách, những phấn đấu cam go lâu dài.
Tôi được thụ phong Giám mục ngày 30.4.1975 theo sắc lệnh của Tòa Thánh. Thế là đã 41 năm. Năm Bùi-Tuần 2025
1. Tôi được thụ phong Giám mục ngày 30.4.1975 theo sắc lệnh của Tòa Thánh. Thế là đã 41 năm. Năm nay tôi gần 90 tuổi.
Với tâm tình tạ ơn, tôi xin chia sẻ đôi chút về tình yêu xót thương Chúa đã dành cho tôi, cách riêng trong suốt cuộc đời Giám mục.
2. Cuộc đời Giám mục của tôi là hành trình của một ơn gọi. Chúa gọi tôi, mặc dầu tôi tội lỗi. Tôi xin vâng với bao lo sợ, chỉ biết phó thác mà thôi.
Ngay từ giây phút đầu, Chúa đã sai tôi đi với hai thao thức rất mạnh.
Thao thức thứ nhất là làm thế nào để Hội Thánh Chúa được sống và được sống dồi dào sự sống của Chúa, tại Việt Nam đầy sóng gió.
Thao thức thứ hai là làm thế nào để đồng bào của tôi được yêu thương nhau, trong một tình hình có nhiều phân hóa.
3. Hai thao thức đó được đốt lên trong tôi từ ngọn lửa đức tin. Với đức tin, tôi thấy tình hình là rất phức tạp, mà tôi thì quá yếu đuối. Nhận thức ấy đưa tôi đến gần Chúa.
4. Tôi tin: Phải có ơn Chúa. Chỉ ơn Chúa mới thực thi được ơn gọi. Tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu đã phán xưa: “Không có Thầy, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Nên, ưu tiên, tôi lo ở lại trong Chúa, như lời Người dạy: “Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con”, “Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho. Các con cũng thế, nếu các con không ở lại trong Thầy” (Ga 15,4).
5. Ở lại trong Chúa và sống mật thiết gắn bó với Chúa, đó là một chiều kích nội tâm do Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Trong đời sống nội tâm được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, tôi nhìn thấy khá rõ những hình thức Chúa cứu tôi, nhất là bằng sự Chúa tha thứ. Nhờ đó tôi kết hợp với Đấng Cứu Thế, là Đấng đã dùng sự khiêm nhường mà cứu chuộc nhân loại.
6. Cũng Chúa Thánh Thần, Đấng đã dẫn đưa tôi trong đời sống nội tâm, lại dẫn đưa tôi vào đời sống hoạt động. Hoạt động của tôi là hiệp thông với mọi việc, mà các Giám mục, các linh mục, các tu sĩ, các giáo dân làm theo nhu cầu mục vụ và truyền giáo.
Nhưng trong mọi hoạt động, Chúa Thánh Thần luôn nhắc bảo tôi là phải rất tỉnh thức, để bất cứ việc lớn nhỏ nào cũng thực sự phải trong sạch về phương diện là chỉ tìm thực thi thánh ý Chúa mà thôi.
7. Tôi vâng làm theo. Và mỗi lần thấy mình sai, thì tôi lại sám hối trở về với Chúa. Sám hối trở về trong tinh thần phó thác, đó là một việc tôi làm thường xuyên. Bởi vì tôi luôn luôn là kẻ yếu đuối. Chính trong sự được Chúa thứ tha, mà tôi cảm nhận được thấm thía tình Chúa xót thương.
8. Trong sự sám hối trở về, tôi được Chúa cho thấy ơn Chúa là vô cùng cần thiết cho việc cứu độ.
Khi ban cho tôi ơn nhận biết sự cần thiết của ơn Chúa, Chúa cũng dạy tôi phải cộng tác vào ơn Chúa.
Cộng tác đầu tiên mà tôi cho là rất quan trọng, đó là hiệp thông với Đức Giáo Hoàng với tình con thảo và có trách nhiệm.
Cộng tác vào ơn Chúa còn bằng sự khiêm tốn học hỏi những gì về Chúa. Tôi nghĩ ngay tới Kinh Thánh, các thánh giáo phụ, nền thần học, triết học được Tòa Thánh chứng nhận, và những sách đạo đức của những tác giả có uy tín, được Tòa Thánh công nhận. Nhờ kho tàng kiến thức đó, tôi luôn thấy mình cần phải bắt đầu lại, nhất là ở sự phải từ bỏ mình.
9. Cùng với việc học ở các tác phẩm có uy tín về Chúa, tôi rất vui nhìn ngắm những việc lạ lùng Chúa làm nơi nhiều chứng nhân của Chúa đang sống gần xa ngay trong thời điểm này.
10. Tôi chú ý cách riêng đến những người ngày đêm gieo hạt giống Nước Trời giữa nơi mình sống. Bằng đời sống đạo đức, họ là men giữa bột (x. Mt 13,33), họ là hạt cải gieo trong ruộng (x. Mt 13,31-32). Âm thầm và nhỏ bé, họ được Chúa gọi là những kẻ mở rộng Nước Trời.
11. Hơn nữa, thao thức còn đẩy tôi đi sâu vào quần chúng. Ở đó, tôi đã nhận thấy nhiều người ngoại nhưng lại thuộc về Đức Kitô, do sự họ được Chúa Giêsu lôi kéo họ bằng những ơn khác nhau, đúng như lời Người đã phán xưa: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32).
Với những khám phá như trên, tôi hiểu ơn gọi của tôi phải nhắm vào hy vọng và đợi chờ, chứ không phải vào những thành công trước mắt.
12. Nếu ơn gọi của tôi đúng là hành trình của những thao thức, thì hôm nay những thao thức vẫn còn đó, nhưng mang những cung điệu mới, hợp với những thay đổi của lịch sử, một lịch sử có những tiến triển mới và cũng có những sa sút mới.
13. Hôm nay, khi cuộc đời đã được báo động là sắp phải ra đi, tôi lại có thêm một thao thức mới, đó là thao thức đi về với Cha trên trời.
Đi về với Cha trên trời, đối với tôi, là một thao thức ngọt ngào, đòi rất nhiều niềm tin vào tình yêu thương xót Chúa, và cũng rất nhiều niềm tin vào tình yêu bao dung của mọi người.
14. Để kết, tôi xin phép nói tắt một lời, đó là: Chúa giàu lòng thương xót đã yêu thương tôi quá sức tôi tưởng tượng, quá hơn sự tôi mong ước, nhất là ở sự Chúa luôn cứu tôi, luôn tha thứ cho tôi, luôn ban cho tôi những thao thức Phúc Âm được đốt lên từ đức tin do lòng thương xót Chúa.
“...Tôi cảm thấy rất vui, một niềm vui thiêng liêng khiến tôi đã nói với Chúa: “Con không xin cho con khỏi đau khổ, nhưng xin đừng bỏ rơi con, trong lúc con khổ đau...”
Từ nhiều ngày nay, tôi bị đau đớn xác hồn một cách khác thường. Trong tình hình như thế, tôi Bùi-Tuần 2026
1. Từ nhiều ngày nay, tôi bị đau đớn xác hồn một cách khác thường. Trong tình hình như thế, tôi tự nhiên đợi chờ những ủi an nâng đỡ. Có thể ủi an sẽ đến từ người này. Có thể đỡ nâng sẽ tới từ nơi nọ. Nhưng dần dần Chúa cho tôi khám phá ra một niềm vui lớn, mà lại rất gần.
2. Niềm vui đó được Chúa Giêsu nói xưa với các môn đệ của Người, nay cũng đang được Người nói lại với tôi:
“Chúa Cha đã yêu thương Thầy thế nào, Thầy cũng yêu thương anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”.
“Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”.
“Như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy, và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15, 9-11).
Lời Chúa hứa trên đây đề cập đến niềm vui: “Niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15,11).
3. Chúa hứa như vậy. Tôi đọc lời hứa đó. Tôi hiểu lời hứa đó. Nhưng trước đây tôi vẫn không cảm nghiệm được niềm vui đó.
4. Tôi thắc mắc và hỏi Chúa. Chúa đã thương cho tôi biết:
“Chỉ những ai đi sâu vào đời sống cầu nguyện và được Chúa dẫn đưa vào mầu nhiệm đời sống của Chúa mới cảm nghiệm được niềm vui Chúa hứa đó”.
Tôi xin Chúa thương dẫn đưa tôi vào những điều Chúa dạy. Dần dần tôi bắt đầu cảm thấy vui.
Bây giờ, tôi có thể nói lên những sự thực này:
5. Đấng mà tôi luôn đón chờ không phải là người này người nọ, nhưng là chính Chúa.
Luôn luôn tôi đón chờ Người, bất cứ lúc nào Người đến đều gặp tôi luôn thuộc về Người.
6. Tôi luôn thuộc về Chúa, là tôi luôn tin tôi được Chúa yêu thương. “Như Cha Thầy yêu thương Thầy thế nào, Thầy cũng yêu thương con như vậy” (Ga 15,9). Được yêu thương như thế chính là nguồn vui lớn lao.
7. Tôi luôn thuộc về Chúa, là tôi luôn làm hết sức để giữ lời Chúa dạy, đó là: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 15,12). Được yêu thương nhau như thế, chính là nguồn vui sâu thẳm.
8. Những niềm vui trên đây không được trao gởi cho tôi qua những bài học lý thuyết cao siêu, những khóa huấn luyện chất chứa những lời nói hùng hồn và những công thức long trọng. Nhưng đã được Chúa ban cho tôi, khi tôi được Chúa thương một cách nhưng không, chỉ vì tôi yếu hèn, kém cỏi, tội lỗi.
9. Niềm vui, mà tôi được Chúa cho cảm nghiệm không chút nào do tôi trong sạch, mà chỉ là tình yêu thương xót Chúa đoái nhìn đến kẻ nhận mình hèn mọn.
10. Niềm vui, mà tôi được Chúa cho cảm nghiệm, phải xuất phát từ niềm tin: Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế. Chính Người đến để tha thứ, để chữa lành, để vực dậy, để làm mới lại đời tôi.
11. Niềm vui mà tôi được Chúa cho cảm nghiệm, phát xuất từ niềm tin vào Lời Chúa hứa: “Thầy sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến với anh em. Khi nào Thần Khí sự thật đến. Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16, 7.13).
12. Cho dù thời thế đang nổi dậy vô vàn tội lỗi và những nguy cơ khủng hoảng, tôi đang thấy Thần Khí của Chúa Giêsu vẫn dẫn đưa Hội Thánh trên đường cứu độ. Con đường Chúa Cứu Thế trong hang đá Belem là rất khó nghèo, con đường Chúa Cứu Thế trên núi Calvariô là rất khiêm nhường, vâng phục, phó thác. Thần Khí đang dạy chúng ta về con đường đó: Hãy vui với con đường đó.
13. Niềm vui mà tôi vừa nói thoáng qua, sẽ giúp cho chúng ta biết tỉnh thức. Bởi lẽ sẽ xảy đến những bất ngờ đau đớn.
“Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến” (Mc 13,33).
14. Niềm vui mà tôi vừa được cảm thấy thoáng qua, cũng giúp cho tôi được an bình, nếu công việc truyền giáo của tôi không được phát triển như tôi muốn. Chúa phán: “Nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì hãy ra khỏi đó” (Mc 6,11). Chúng ta chỉ là người giới thiệu chân lý, chúng ta không bó buộc ai, không cưỡng bức ai phải bỏ đạo của họ, để theo đạo Chúa. Sự khó nghèo vẫn là dấu ấn đích thực của kẻ được sai đi.
15. Tới đây, tôi cảm thấy rất vui, một niềm vui thiêng liêng khiến tôi đã nói với Chúa:
“Con không xin cho con khỏi đau khổ, nhưng xin đừng bỏ rơi con, trong lúc con khổ đau”.
16. Niềm vui của tôi là được Chúa nhìn tôi. Cái nhìn của Chúa khiến tôi phải khóc như thánh Phêrô xưa (Lc 22, 61-62) khóc vì đau đớn, và khóc vì yêu thương tràn đầy.
Cái nhìn của Chúa Giêsu đã được thực hiện mau lẹ, và xảy ra chỉ có một lần. Nhưng thánh Phêrô đã rất bén nhạy. Ngài đón nhận với tất cả tâm tình khiêm tốn biết ơn. Niềm vui cứu độ đó đã biến đổi tình trạng tội lỗi của ngài thành nguồn ơn phúc vô biên.
Biết đón nhận ơn trở về từ những biến cố rất nhỏ, đó là một niềm vui Chúa đang dạy tôi. Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa.
Với ơn trở về, tôi rất vui vì thấy cuộc sống của tôi không kết thúc ở đời này, mà sẽ kéo dài mãi mãi đời sau, trong sự tham dự vào tình yêu xót thương vô cùng của Chúa.
Từ mấy tháng nay, tình hình thế giới cho thấy có một sự cạnh tranh quyết liệt giữa chiến tranh và Bùi-Tuần 2027
1. Từ mấy tháng nay, tình hình thế giới cho thấy có một sự cạnh tranh quyết liệt giữa chiến tranh và hòa bình, khiến nhân loại phải lo sợ, nhất là khi thấy nguy cơ bất ổn là rất lớn.
2. Từ mấy tháng nay, tình hình sức khỏe của tôi có một sự sa sút trầm trọng, khiến tôi hay đợi chờ những cứu nguy. Nhưng nhiều khi đợi chờ lại sinh ra sợ hãi và thất vọng.
3.Tình hình khách quan và chủ quan như thế thúc giục tôi suy tư về ý nghĩa đời tôi.
Tôi cầu nguyện với Chúa Giêsu. Có một lúc, Chúa Giêsu cho tôi nhớ lại lời Người đã phán xưa với các môn đệ:
4. “Thật, Thầy bảo thật với các con. Các con sẽ thấy trời mở ra, và các thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người” (Ga 1,51).
Lời hứa trên đây đem lại cho tôi niềm vui và hy vọng. Tôi khao khát được thấy trời mở ra. Tôi nhận mình tội lỗi, không sao thấy được trời mở ra. Tôi xin Chúa thương gởi đến cho tôi một người hoặc những người nào đó, mà Chúa chọn, để họ giúp tôi nhìn thấy trời mở ra, nhờ vậy mà tôi sẽ thấy được cảnh các thiên thần lên xuống trên Con Người.
5. Rất may là tôi đã gặp họ. Họ là Mẹ Têrêsa Calcutta và những người giống như Mẹ. Họ có bốn đặc điểm sau đây, mà Chúa Giêsu đã chứng tỏ nơi Người khi Người giảng tại Nadarét.
6. Một là họ có Chúa Thánh Thần. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi. Người đã xức dầu tấn phong tôi” (Lc 4,18).
Tôi nhận thấy nơi họ có một thứ lửa thiêng liêng, đó là lửa mến khiêm nhường.
7. Hai là họ nhắm vào mục đích rõ rệt này là: “Loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó” (Lc 4,18).
Tôi nhận thấy nơi họ có những hoạt động cứu độ rất cụ thể đối với các loại người nghèo khổ.
8. Ba là họ dựa trên nền tảng Lời Chúa, mà đi phục vụ người nghèo.
Họ làm như Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét: “Người đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, đọc và cắt nghĩa” (Lc 4,17).
Tôi nhận thấy nơi họ sự gắn bó mật thiết với Lời Chúa.
9. Bốn là họ can đảm, cho dù bị dư luận chống phá.
Xưa, tại hội đường Nadarét, ban đầu dân hoan hô Chúa Giêsu. Nhưng liền sau đó, dân lôi Người đến một vực thẳm, định xô Người xuống đó cho chết (x. Lc 4,28-30).
Tôi nhận thấy Mẹ Têrêsa Calcutta và những người giống như Mẹ có những lựa chọn không hợp với dư luận nơi nọ chốn kia. Nhưng Mẹ và những người như Mẹ vẫn can đảm đi theo con đường sống nghèo và lo cho kẻ nghèo theo gương Chúa Giêsu. “Chúa Giêsu băng qua giữa đám đông mà đi” (x. Lc 4,30). Họ cũng vậy.
10. Chính họ đã giúp tôi nhìn thấy trời mở ra. Tôi đã nhìn thấy gì tại đó?
Thưa: Tôi nhìn thấy chỉ có Chúa Giêsu là Đấng cứu Độ. Người là Đấng Trung Gian duy nhất, dẫn đưa tôi về với Chúa Cha. Người cứu tôi bằng tình thương đầy hy sinh của Người. Người cứu tôi bằng tất cả cuộc đời nghèo khó, khiêm nhường và bằng chính cái chết của Người như của lễ đền tội, để cứu chuộc tôi.
11. Khi trời mở ra, và được thấy như vậy, tôi vui mừng nhớ lại lời Chúa Giêsu đã phán xưa: “Chúa Cha đã yêu thương Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu thương các con như vậy” (Ga 15,9).
“Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và cắt cử các con ra đi, để các con sinh được hoa trái” (Ga 15,16).
12. Qua những gì tôi được thấy, khi trời mở ra, tôi thấy tình yêu cứu độ của Chúa được chứng tỏ mạnh mẽ ở sự Người vui lòng chịu đau khổ đến tột độ, ở việc Người chịu chết trên thánh giá như của lễ đền tội cho tôi.
Tôi cũng hãy sống như vậy.
Nghĩa là tôi hãy tham gia tích cực vào cuộc thương khó của Chúa, cũng có nghĩa là tôi hãy biết chia sẻ những khổ cực của những người đau khổ, mà Chúa đã nhận vào mình.
Đó là cái nhìn rất cần phải thực hiện trong đời sống yêu thương của tôi.
13. Nói tóm lại, khi trời mở ra, và khi tôi được nhìn vào, thì tôi thấy rõ hai nhiệm vụ này của tôi:
+ Một là hãy sống nội tâm sâu.
+ Hai là hãy sống chia sẻ một cách cụ thể và quảng đại những khổ đau của Chúa trong Hội Thánh hôm nay.
Với hai nhiệm vụ đó, tôi thấy tôi cần chỉnh đốn lại nếp sống biến chất đang phổ biến hiện nay:
- Sống hình thức bề ngoài.
- Sống hưởng thụ, tìm lợi lộc như những kẻ buôn bán trong đền thờ, mà Chúa đã xua đuổi.
14. Nhìn vào trời mở ra, tôi mới thấy tôi phải dành chỗ nào cho Chúa. Chính Chúa là Đấng xét đoán tôi. Chính Chúa là Đấng cứu độ tôi.
Nhìn vào trời mở ra, tôi mới thấy đời tôi phải nuôi dưỡng những hy vọng nào. Hy vọng của tám mối phúc, hy vọng của sự cứu độ từ thánh giá, hy vọng của hạnh phúc được ở bên Chúa đời đời.
Nhìn vào trời mở ra, tôi mới thấy mỗi giây phút hiện tại của tôi vẫn có những mảnh đời đời, khi tôi nhận ra Chúa đợi chờ tôi ở từng biến cố, ở từng giây phút.
Xin hết lòng cảm tạ Chúa đã cho con được thấy trời mở ra một cách nào đó, để con vui sống một cuộc đời đầy ý nghĩa của người con Chúa.
Thân lạy Mẹ, Chúng con, con cháu Eva ở chốn khách đày, kêu đến cùng Bà. Chúng con ở nơi Bùi-Tuần 2028
1. Thân lạy Mẹ, Chúng con, con cháu Eva ở chốn khách đày, kêu đến cùng Bà. Chúng con ở nơi khóc lóc, Than thở kêu khấn Bà thương.
*****
Trong kinh “Lạy Nữ Vương”, những lời trên đây đã gợi ý cho tôi rất nhiều. Gợi ý quan trọng nhất là nhìn vào hoàn cảnh của chính mình.
Gợi ý đó lại càng sâu, khi Đức Mẹ thương soi sáng.
Theo Kinh Thánh, tôi cũng như mọi người đều xuất thân từ tổ tiên Eva, một người phụ nữ mang tội và bị kết án.
Thế gian chung cho mọi người là chốn khách đày, nơi khóc lóc. Đó là sự thực chung.
2. Nơi tôi, ngoài sự thực chung đáng buồn đó còn nhiều cảnh lưu đày, và nơi khóc lóc khác, đó là những sự thực cho riêng tôi.
Có nhiều loại cảnh lưu đày. Có nhiều loại nơi khóc lóc. Đức Mẹ thương kéo tôi quan tâm đến một loại cách riêng. Loại đó là tình trạng tha hóa. Tha hóa nói đây là mất đi căn tính người môn đệ Chúa.
Theo bề ngoài, một người vẫn được coi là mang chức thánh này, tước đạo đức kia. Nhưng bên trong, họ đã đánh mất căn tính đó rồi. Lòng họ đã tục hóa. Họ sống trong cảnh như bị Chúa lưu đày. Tình trạng của họ là nơi họ đáng phải khóc lóc, mà họ không biết.
Cái tôi của họ không có sự thực. Cái tôi đó đúc kết nhặt nhạnh từ những lời xã giao. Cái tôi đó cũng có thể tạo nên do những hoang tưởng về mình. Cái tôi đeo mặt nạ. Mặt nạ vay mượn vẻ đẹp ở những y phục, lễ nghi.
Cái tôi nói là thuộc Phúc Âm, nhưng lại sống xa Phúc Âm.
3. Đức Mẹ rất buồn với cảnh tha hóa đó. Buồn nhất là cảnh lưu đày đó lại được bình thường hóa và cơ chế hóa. Để sống an tâm giả. Đối với người khác và đối với lòng mình.
Nhưng tôi thấy, một khi chúng ta biết mình đang bị đày vào cảnh tha hóa, rồi biết khiêm tốn kêu cầu Đức Mẹ, thì Đức Mẹ sẽ cứu ta.
Sự cứu này thường không dễ. Vì việc tha hóa, khi đã trở thành một thói quen, một nếp sống, một tình trạng, thì bao giờ nó cũng bị kéo níu bởi nhiều người cùng tha hóa như mình, và bao giờ nó cũng được hỗ trợ bởi thế gian và ma quỷ.
Vì thế, phải cầu nguyện nhiều, phấn đấu nhiều và hy vọng nhiều vào ơn Phục Sinh.
Nhất quyết bỏ đi các thứ mặt nạ. Có những mặt nạ đẹp, gây được nhiều lời khen, nhưng sẽ phải trả giá bằng nhiều tai họa.
Nếu tôi tha hóa, tôi thất bại về đường đạo đức, thì tôi phải khiêm tốn nhận lỗi. Tôi không đẩy trách nhiệm sang ai. Tôi nhận tội mình. Tôi dâng những nước mắt ăn năn sám hối cho Chúa, qua Đức Mẹ.
4. Điều quan trọng tôi nên nhớ ở đây là: Khi đi tìm Chúa, tôi đừng bao giờ mang mặt nạ đạo đức.
Trong đời sống thiêng liêng, nhiều khi không phải tôi đi tìm Chúa, mà là chính Chúa đi tìm tôi. Trong những trường hợp như vậy, nếu tôi còn đeo mặt nạ đạo đức, thì chính tôi sẽ cản việc Chúa tìm kiếm tôi.
Tôi xin Đức Mẹ giúp tôi gỡ ra khỏi mặt tôi hết các thứ mặt nạ, làm tôi tha hóa.
Tôi sẽ quỳ xuống đất, với con người thực của tôi, với đúng mặt thực của tôi. Tâm hồn tôi nghèo khó. Mặt tôi xấu xa. Nhưng chính vì tôi trình diện tôi với những sự thực đó, nên tôi tin Chúa thương sẽ nhận tôi như một của lễ thờ phượng, của lễ đền tội.
Lạy Mẹ, xin cho con tránh được mọi thứ làm cho con tha hóa. Kể cả thứ tha hóa về đạo đức vì không có thực chất, không được Chúa nhìn nhận.
5. Tôi cảm tạ Mẹ đã giúp tôi khám phá về tôi.
Khi đọc:
Hỡi ơi, Bà là Chủ bầu chúng con, xin ghé mắt thương xem chúng con. Tôi lại được Mẹ giúp tôi khám phá về kẻ khác.
Những lời “chúng con” tôi đọc, khi cầu nguyện ở đây, thường trải rộng sang mọi người, không phân biệt tôn giáo nào, không phân biệt có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng.
Dần dần, Đức Mẹ chữa đời sống nội tâm của tôi.
Trước hết là chữa về mặt tâm lý. Tôi ý thức mình đã có một số cái nhìn hẹp hòi, bất công về những người ngoài đạo Công giáo. Tôi phải sửa lại.
Tiếp đó là ý thức mình đôi lúc đã để những cảm xúc lạnh lùng dâng trào lên, theo những cái nhìn sai trái đó. Tôi phải sửa lại.
Có được hai ý thức đó là bước đầu để đi vào những cái nhìn hài hòa và những tình cảm hài hòa.
Nhưng bước đầu đó cũng đã khó, càng bước thêm càng thấy khó. Nhưng Đức Mẹ cầu bầu với Chúa Thánh Thần cho tôi được nghị lực vượt khó.
Đức Mẹ ghé mặt thương xem những người ấy. Xem với tình thương. Tôi cũng làm như vậy.
6. Dần dần, tôi nhận ra nơi họ nhiều đức tính tốt, nhiều việc tốt. Không những thế, tôi nhận ra nhiều người trong họ tốt hơn nhiều người đạo tôi, tốt hơn cả tôi. Còn nữa. Tôi gặp một số người trong họ đã tích cực giúp tôi trên đường truyền giáo. Đến một lúc, tôi bừng tỉnh, thấy mình đã có sai phạm. Nhìn đen tối về người khác là sai.
Càng lớn tuổi, nhất là càng có nhiều tiếp xúc với đồng bào, tôi mới thấy tôi không bao giờ cô đơn. Trong những lúc tối tăm, Mẹ vẫn ở bên tôi. Mẹ gởi đến tôi những người tôi không ngờ. Họ ngoài Công giáo. Họ âm thầm nâng đỡ tôi. Họ không làm thay tôi. Đức Mẹ cũng không làm thay tôi. Nhưng có những người ngoài Công giáo cùng làm với tôi. Đôi lúc, họ làm thay tôi.
Do những kinh nghiệm như thế, nhiều khi tôi cảm nghĩ nhiều người ngoài Công giáo đã thuộc về Nước Trời. Họ có niềm tin, lòng từ thiện và đời sống lương thiện đáng nêu gương.
Xưa, trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần khen người ngoại đạo về những việc tốt của họ. Nay, trên thực tế cuộc sống của tôi, tôi cũng đã và đang thấy những lời Chúa Giêsu khen xưa vẫn còn ứng nghiệm.
Riêng đối với Đức Mẹ, phải nói rằng: Rất nhiều người ngoài Công giáo có lòng tin mến Đức Mẹ. Họ đã được Đức Mẹ ban ơn vô kể. Tôi gọi họ là con Đức Mẹ. Quả không sai.
Năm cũ sắp qua, năm mới sắp tới. Đây là thời gian rộn ràng những nguyện vọng. Bao giờ cũng Bùi-Tuần 2029
1. Năm cũ sắp qua, năm mới sắp tới. Đây là thời gian rộn ràng những nguyện vọng. Bao giờ cũng thế.
Riêng đối với tôi, thời gian này gợi ý cho tôi một nguyện vọng, mà tôi cho là rất khẩn thiết cho tôi. Nguyện vọng này phát xuất từ kinh nghiệm lâu dài. Nguyện vọng này cũng được soi sáng từ Phúc Âm.
Sang năm mới, tôi cầu mong tôi Bớt Dại Thêm Khôn.
Dại và Khôn là lãnh vực bao la. Tôi chớ dại muốn mình có thể biết tất cả cái bao la và sâu thẳm đó.
Tôi tự hạn chế, chỉ cầu mong mình bớt dại thêm khôn ở vài thái độ sống mà thôi.
2. Thái độ sống thứ nhất mà tôi cầu mong cho tôi phải có để bớt dại thêm khôn, là thái độ tự hào.
Có nhiều cách tự hào, mà người ta cho là khôn. Nhưng tôi chọn cách tự hào mà thánh Phaolô đã chọn, và đó là một chọn lựa đáng gọi là khôn.
Thánh Phaolô viết: “Về bản thân tôi, tôi chỉ tự hào về những yếu đuối của tôi” (2Cr 12,5).
Một trong những yếu đuối mà thánh Phaolô đã thành thực thú nhận, đó là xu hướng xấu trong ngài là rất mạnh. Ngài viết: “Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19).
Rồi, thánh Phaolô kết luận: “Tôi thật là một người khốn nạn ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,34-35).
3. Thái độ tự hào là một thái độ chính đáng, nhưng tự hào về cái gì, mới là điều quan trọng.
Thánh Phaolô tự hào về những yếu đuối của mình. Không có nghĩa là thánh nhân đề cao giá trị của những yếu đuối đó. Nhưng là thánh nhân đề cao giá trị của sự thành thực dám nhận mình yếu đuối, để từ đó ca tụng ơn Chúa đã cứu ngài.
4. Những tự thuật của nhiều người trở lại cũng đã nói lên phần nào sự tự hào của mình giống như sự tự hào của thánh Phaolô.
5. Tôi là người cần trở về với Chúa. Việc trở về của tôi là việc hằng ngày. Nên, tôi nói lên những yếu đuối, mà hằng ngày vẫn quấy phá tôi, để từ đó tôi nhờ ơn Chúa mà đi về Chúa. Đó là một tự hào không luôn dễ. Bởi vì thông thường ai cũng muốn tự hào về những thành tích đề cao mình. Như dù yếu đuối mình vẫn vượt qua, nhờ sức mạnh của ý chí, nhờ sáng suốt của trí thông minh. Tự hào như thế là điều không nên.
Tự hào về những yếu đuối của mình, theo quan điểm của thánh Phaolô, đó là một thái độ sống giúp tôi bớt dại thêm khôn.
6. Thái độ sống thứ hai giúp tôi bớt dại thêm khôn, là thái độ tỉnh thức, tiết độ, mà thánh Phêrô đã dạy.
Thánh Phêrô viết: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).
Thánh Phêrô lưu tâm giáo đoàn về nguy cơ quỷ Satan hung dữ luôn tìm cách sát hại con người. Nguy cơ đó là thường xuyên, dưới nhiều hình thức.
7. Tôi không biết những gì sẽ xảy ra trong năm Đinh Dậu này, nhưng có một điều tôi dám chắc chắn xảy ra, đó là quỷ Satan sẽ lộng hành quyết liệt.
Kinh nghiệm cho tôi thấy: Trong những tình hình quỷ dữ lộng hành, những ai dại sẽ bị mất nhiều, những ai khôn sẽ được cứu. Khôn là phải thế nào ? Thánh Phêrô dạy: Khôn là tỉnh thức và tiết độ.
8. Tiết độ là kiểm soát đời sống hưởng thụ. Tỉnh thức là nhận ra cách đối phó với quỷ Satan, và nắm bắt được những hy vọng Chúa gởi đến để cứu mình cho khỏi quỷ Satan hung dữ xảo quyệt. Theo tôi, hy vọng cần nắm bắt lúc này là Đức Mẹ Fatima.
9. Năm Đinh Dậu sẽ trùng với kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.
Lúc này, tôi nhớ lại cảnh thê thảm đã xảy ra năm Ất Dậu, ngoài Bắc, do nạn đói hoành hành. Hy vọng năm Đinh Dậu đừng xảy ra bất cứ nạn bi đát nào, như năm Ất Dậu.
10. Thái độ sống thứ ba giúp tôi bớt dại thêm khôn, là thái độ cầu nguyện, mà Phúc Âm thánh Gioan đã nhấn mạnh.
Thánh Gioan tông đồ đã ghi lại lời Chúa Giêsu nhắn nhủ sau đây: “Anh em hãy ở lại trong Thầy” (Ga 15,4), “Anh em hãy ở lại tình thương của Thầy” (Ga 15,9).
Ở lại trong tình thương của Chúa là sống thân mật với Chúa. Ở lại như thế là một cách cầu nguyện. Cầu nguyện như thế là gặp gỡ riêng tư, là gắn bó mật thiết với Chúa.
11. Khi cầu nguyện là ở lại trong Chúa, tôi được Chúa chia sẻ cho sự sống của Người, tình yêu của Người, sự khôn ngoan của Người.
Khi cầu nguyện là ở lại trong Chúa, tôi nhận được Tin Mừng như hạt giống gieo vào lòng tôi. Từ đó tôi dần dần có kinh nghiệm là phải có thời gian và đất phải tốt, thì hạt giống mới nẩy sinh ra cây và hoa trái được. Từ kinh nghiệm đó, tôi hiểu sự khôn ngoan cần cho mục vụ, truyền giáo và tu đức là một số điều kiện mà mỗi người phải có, để đón nhận hạt giống Tin Mừng.
Khi cầu nguyện là ở lại trong Chúa, tôi được Chúa dạy rất nhiều về tu đức, mục vụ và truyền giáo trên Quê Hương Việt Nam hôm nay.
Có rất nhiều điều tôi chỉ học được trong những giờ cầu nguyện là ở lại trong Chúa, chứ không học được ở bất cứ nơi đâu.
Thái độ cầu nguyện như thế là thái độ sống rất cần, để tôi được bớt dại thêm khôn.
12. Cái dại nhất chính là tưởng mình luôn khôn. Cái khôn nhất là cho mình còn dại. Vì thế cầu mong cho mình sang năm mới được bớt dại thêm khôn, thiết tưởng đó là một cầu mong đẹp.
Năm Đinh Dậu, tôi tròn 90 tuổi. Già rồi, mà còn dại. Xin mọi người thương cầu nguyện cho tôi, sang nắm mới được bớt dại thêm khôn. Xin cầu chúc mọi người cũng được thêm khôn bớt dại.
13. Tới đây, tôi nhớ lại dụ ngôn Chúa Giêsu nói về 10 cô trinh nữ, trong đó 5 cô thì khôn, 5 cô thì dại (x. Mt 23,1-13).
Năm cô dại thì nhởn nhơ, tới đâu hay tới đó. Năm cô khôn thì biết lo xa. Kết quả là năm cô dại phải mất quá nhiều, còn năm cô khôn lại được phần thưởng hết sức lớn.
Dại khôn như thế đâu là chuyện sẽ qua đi. Nhưng dại thì sinh hậu quả xấu, khôn thì sinh hiệu quả tốt. Tốt xấu của dại khôn sẽ quan trọng khó lường.
14. Cuối cùng, tôi tha thiết xin mọi người, đặc biệt là mọi thành phần thuộc giáo phận Long Xuyên, thương tha thứ cho tôi về mọi sai lầm và dại dột của tôi, có thể do đó mà tôi đã trở thành gánh nặng cho anh chị em.
Hôm nay là kỷ niệm ngày sinh của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Ngài sinh ngày 16 tháng 4 năm Bùi-Tuần 2030
1. Hôm nay là kỷ niệm ngày sinh của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI.
Ngài sinh ngày 16 tháng 4 năm 1927 tại Markrl am Jnn, Đức.
Được chịu phép Rửa tội cùng ngày, lấy tên là Josef Alosius Ratzinger.
Ngài được bầu làm Giáo hoàng thứ 265, dưới danh hiệu Bênêđictô XVI.
Sau 8 năm làm Giáo Hoàng, Ngài tự ý xin từ nhiệm, từ ngày 28.2.2013.
2. Tôi nhớ rất nhiều về Đức Bênêđictô XVI, đặc biệt là về mấy điểm sau đây:
Điểm thứ nhất là Ngài hay nói về đức tin là cuộc gặp gỡ Chúa.
Điểm thứ hai là Ngài hay nói về tình yêu như một lẽ sống.
Xin phép chia sẻ đôi chút về hai điểm trên đây, mà tôi đã học được nhiều từ Ngài.
3. “Tin là trong cảnh tối tăm của thế giới, tôi chạm vào tay Chúa, và trong thinh lặng, tôi nghe được Lời Chúa, và tôi nhìn thấy được tình yêu Chúa”.
Đức Bênêđictô XVI nói những lời trên ngày 23.2.2013, dịp bế mạc tĩnh tâm giáo triều.
“Tin là gặp gỡ Chúa một cách riêng tư, thân mật”.
Đức Bênêđictô XVI nói lời trên đây với tôi khi Ngài còn là Hồng y Bộ trưởng Bộ Đức tin.
4. Khi tôi sống đức tin như Đức Bênêđictô XVI diễn tả, tôi mới thấy sống đức tin không phải là chấp nhận một giáo lý, mà là gặp gỡ một Chúa là Đấng thiêng liêng sống động.
Gặp gỡ Chúa một cách thiêng liêng, nhưng thiêng liêng mà vẫn như chạm được vào tay Chúa, nghe được tiếng Chúa, nhìn được tình yêu Chúa.
Gặp gỡ Chúa như vậy bằng đức tin, tôi cảm nhận được một sự thân mật lạ lùng, làm tôi như được chìm vào một hạnh phúc không sao diễn tả được. Tôi gặp được Chúa, Chúa định đoạt về đời tôi. Tôi được an tâm, vì được chính Chúa định đoạt.
5. Từ kinh nghiệm sống đức tin là gặp gỡ Chúa như vậy, tôi thấy thực tế gọi là sống đức tin nơi nhiều người, kể cả nơi tôi, nếu không tỉnh táo, sẽ chỉ là sống theo những khẩu hiệu thuộc lòng mà thôi. Do vậy, khi thử thách tới, chúng ta sẽ rất dễ để mình bị định đoạt bởi những lợi ích hưởng thụ đôi khi quá nhỏ, mặc dầu vì thế mà phản bội Chúa một cách lạnh lùng, mà chẳng chút gì là ân hận cả. Lý do là vì chúng ta đã chưa hề bao giờ sống đức tin là gặp gỡ Chúa.
Chỉ lo đọc cho lớn tiếng, đọc cho đều giọng “Tôi tin”, và cho đó là sống đức tin, thì thói quen đó sẽ không hề là một cách đào tạo sống đức tin thực thụ.
Sống đức tin là gặp gỡ Chúa, đó là điều thứ nhất, mà tôi được Đức Bênêđictô XVI nhắc bảo.
6. Điều thứ hai mà Ngài cũng đã thường nhắc bảo tôi, đó là tình yêu.
“Được yêu và biết thương những người khác, đó là động lực để sống hằng ngày”.
Theo Đức Bênêđictô XVI, tình yêu mà Ngài nói dưới nhiều chiều kích và với nhiều hình thức, là điều mà chính Ngài đã từng cảm nhận.
7. “Nếu người ta không cảm nghiệm về tình yêu, thì người ta không thể nói được về tình yêu. Tôi đã cảm nghiệm về tình yêu bên cha tôi, bên mẹ tôi, bên anh tôi, bên chị tôi... Được yêu và biết yêu những người khác đã tỏ ra cho tôi cái gì là căn bản để tôi có thể sống”.
“Tôi nhận thức rất rõ: Thiên Chúa không phải chỉ là một quyền năng, nhưng còn là tình yêu. Chúa yêu tôi. Chính Người định đoạt đời tôi bằng sức mạnh của tình yêu của Người”.
8. Những tư tưởng trên đây về tình yêu, mà Đức Bênêđictô XVI chia sẻ, đã giúp tôi rất nhiều trong đời sống thường ngày.
Tôi thấy sống đức tin và sống tình yêu nơi Đức Bênêđictô XVI liên kết với nhau một cách mật thiết.
Riêng tôi, tôi cũng thấy: Có tin mới yêu. Có yêu mới tin. Tin và yêu không thể tách rời.
Cả hai điều phát triển nhờ hồi tâm và thinh lặng cầu nguyện, cũng như suy niệm Thánh Kinh.
9. Đức Bênêđictô XVI tỏ lộ: Khi nghe các Hồng y bầu Ngài làm Giáo hoàng, Ngài đã cảm nhận tin đó như bị máy chém rơi vào đầu. Ngài nghĩ nếu Chúa bắt Ngài phải vác gánh nặng đó, thì Chúa sẽ giúp Ngài. Ngài cậy tin vào Chúa.
10. Những tâm sự trên đây của Đức Bênêđictô XVI chứng tỏ Ngài rất khiêm nhường. Khiêm nhường, mặc dầu Ngài rất vĩ đại.
Thời gian làm Giáo hoàng của Đức Bênêđictô XVI là 2872 ngày, thế mà Ngài đã soạn khá nhiều văn bản mang tính chất tông đồ, thu hút khoảng 18 triệu người đến thăm Ngài.
11. Tới đây, tôi xin cảm tạ Chúa đã ban cho Hội Thánh một vị Giáo hoàng như Đức Bênêđictô XVI. Ngài vẫn còn đó, âm thầm như một ngọn đèn canh thức cầu nguyện.
Xin nhớ về Đức Bênêđictô XVI với tất cả tấm lòng thành kính yêu.
12. Tôi đang đọc bài suy niệm của Ngài về ba lời sau hết của Chúa Giêsu trên thánh giá:
- Chúa Giêsu cầu cho những kẻ làm khổ Người.
- Chúa Giêsu hứa nước thiên đàng cho kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Người.
Đọc bài suy niệm đó, tôi càng thêm kính yêu Đức Bênêđictô XVI. Đức tin của Ngài, tình yêu của Ngài đang góp phần không nhỏ trong việc cứu thế giới và Hội Thánh hiện nay, trong đó có tôi là kẻ tội lỗi yếu hèn.
Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức, ở La Salette, ở Fatima dưới hình dạng một phụ nữ rất đẹp. Đẹp nhất Bùi-Tuần 2031
1. Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức, ở La Salette, ở Fatima dưới hình dạng một phụ nữ rất đẹp. Đẹp nhất là về khiêm nhường.
Khiêm nhường của Mẹ tỏa ra từ y phục, từ nét mặt, từ thái độ, từ cử chỉ, từ cái nhìn, từ chỗ đứng, từ những đứa trẻ ngây thơ mà Mẹ chọn, để trao gởi sứ điệp.
Khiêm nhường của Mẹ nhắc nhở tôi một cách mạnh mẽ về nhân đức khiêm nhường. Tôi xin kể ra đây một số nhắc nhở quan trọng khác.
2. Một hôm, Thánh Antôn tu rừng bước ra khỏi lều, thì thấy một cái lưới bao la làm bằng đủ thứ cám dỗ do ma quỷ phủ kín nhân loại. Thấy vậy thánh nhân kêu lên: “Chúa ơi, thế này thì ai có thể được cứu ? Thánh nhân nghe một tiếng từ trời trả lời: “Kẻ khiêm nhường”.
3. Thánh nữ Thêôdora tu hành quả quyết: “Không phải cuộc sống khắc khổ, thức khuya dậy sớm, hay bất cứ việc lành nào sẽ cứu chúng ta, chỉ có sự khiêm nhường chân thực sẽ cứu chúng ta”.
4. Thánh Isaac tu hành cũng xác quyết: “Cho dù không làm được việc lành nào, nhưng khiêm nhường thì cũng sẽ được tha, thiếu khiêm nhường thì mọi việc lành đều trở nên vô ích”.
5. Bước đầu khiêm nhường là nhận mình tội lỗi, yếu đuối. Gương sáng về bước đầu này là Thánh Phaolô tông đồ. Ngài khiêm tốn nhận mình rất yếu đuối. “Muốn sự thiện, thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi”.
Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay” ( Rm, 7, 18-21).
Nếu nhận biết mình yếu đuối chính là bước đầu lành mạnh, để đi vào sự cứu rỗi, thì khẳng định mình không yếu đuối mới là bước đầu nguy hiểm. Thánh Gioan Climaqne nói: “Tin là mình không bao giờ kiêu ngạo, đó chính là dấu chỉ rõ ràng nhất làm chứng mình rất kiêu ngạo” .
6. Bước thứ hai khiêm tốn là tin Chúa Giêsu là đấng cứu độ như Thánh Phaolô đã xưng tụng: “Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này ? Tạ ơn Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” ( Rm, 7, 24-25).
Đức Giêsu Kitô giải thoát ta chính là bằng sự khiêm nhường. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá” ( Pl, 2, 6-8)
7. Khiêm nhường mà Chúa Giêsu đã nêu gương, là từ bỏ ý riêng mình, để hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. “Ta không đến để làm theo ý Ta, mà để thi hành ý muốn của Đấng đã sai Ta” (Ga, 6, 38).
Vâng phục ý Chúa, cho dù gặp khổ đau muôn vàn, kẻ khiêm nhường vững tin vào ơn Chúa. Kiên trì đến cùng, nhất là tin vào lời Chúa hứa: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ” (Mt 10, 22). Để bền đỗ, thì phải rất khiêm nhường.
8. Đến đây, tôi thấy hai nguy cơ đang chờ đợi tôi, một là né tránh vấn đề khiêm nhường, hai là chấp nhận vấn đề khiêm nhường là quan trọng, nhưng lại khiêm nhường theo hình thức, khiêm nhường giả tạo, đang khi khiêm nhường thực sự là coi người khác hơn mình.
9. Người ta kể lại chuyện này: Một người tu hành ăn chay suốt 70 tuần lễ, chỉ ăn mỗi tuần lễ một lần. Nhà tu hành làm thế để xin Chúa soi sáng cho mình hiểu một lời Kinh Thánh. Nhưng kết quả ngài không thấy Chúa soi sáng chút nào. Ngài liền quyết định đến với người anh em để xin ý kiến.
Vừa mở cửa đi ra, thì thiên thần hiện đến nói với nhà tu hành: “70 tuần lễ ăn chay không đem anh gần lại Chúa, nhưng khi anh khiêm nhường muốn đến hỏi ý kiến người xung quanh, thì Chúa sai tôi đến soi cho anh điều anh xin Chúa. Khiêm nhường đối với những người xung quanh mình chính là điều Chúa muốn, để chúng ta được gần lại Chúa”.
Riêng tôi, rất nhiều khi, nhờ dám đến với những người xung quanh, nên tôi mới nhận ra được là mình còn nhiều kiêu ngạo.
10. Ít lâu nay, tôi hay lo lắng về những yếu đuối của tôi. Chính trong tình trạng đó, Đức Mẹ đã đến với tôi. Mẹ nói: “Mẹ đến với con, Mẹ ở bên con, không phải để kết án con, nhưng để cứu con”.
Lời Mẹ nói đó chứng tỏ tình yêu khiêm nhường của Mẹ dành cho tôi. Nhận lãnh tình yêu khiêm nhường đó là nhận lãnh tình thương xót để rồi sẽ cho đi tình xót thương. Vâng lời Mẹ về đón nhận và cho đi xót thương là những việc không dễ chút nào. Phải chiến đấu rất nhiều với cái tôi dễ kiêu ngạo, ngay trong chính những việc đạo đức.
11. Qua kinh nghiệm của tôi, khiêm nhường chính là một ơn rất trọng Chúa ban cho những ai, Chúa cho được làm môn đệ đích thực, để họ được nên giống Chúa Giêsu, Đấng hiền lành và khiêm nhường (Mt 11,29). Nhận biết mình là kẻ thiếu khiêm nhường đâu có dễ !
12. Lucife đã ra hư và bị đuổi ra khỏi thiên đàng do tội kiêu ngạo.
Tổ tông Adam đã ra hư và bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, cũng do tội kiêu ngạo.
Kiêu ngạo là một đại họa trong lịch sử cứu rỗi. Nếu hôm nay, kiêu ngạo đang phát triển mạnh dưới nhiều hình thức khác nhau trong Hội Thánh và trên thế giới, thì đó chính là một đại họa.
13. Đại họa kiêu ngạo sẽ kéo theo nhiều hậu quả thảm khốc, như đã xảy ra rất nhiều lần trong lịch sử. Thảm khốc như chiến tranh, đói khát, mất nhà, mất của, mất người thân, mất đất đai, mất tự do… Hình phạt do kiêu ngạo gây nên sẽ rất bất ngờ một cách khủng khiếp.
14. Chuỗi dài những khủng khiếp đó có thể tránh được không ? Thưa có thể, nhờ khiêm nhường. Một sự khiêm nhường có giá trị như một sự sám hối, đền tội. Xin hãy bắt đầu ngay.
Xin Mẹ Maria là Đấng rất khiêm nhường, thương cứu chúng con.
Năm nay tôi hơn 90 tuổi. Càng già yếu, tôi càng được Chúa cho cảm nghiệm về Tình yêu Chúa Bùi-Tuần 2032
1. Năm nay tôi hơn 90 tuổi. Càng già yếu, tôi càng được Chúa cho cảm nghiệm về Tình yêu Chúa. Những cảm nghiệm này thường khác với những lý luận và những gì tôi đã học qua những thảo luận và những khóa học lý thuyết.
Ở đây, tôi xin phép chia sẻ về cảm nghiệm qua vài hình ảnh. Có những hình ảnh đã tác động rất sâu sắc đến đời sống nội tâm của tôi, nhất là trong tuổi già yếu.
2. Hình ảnh thứ nhất là hình ảnh vực sâu.
Hình ảnh này đã được Thánh vương Đavid nêu lên trong thánh vịnh 130 (129).
“Từ vực sâu con kêu lên Chúa, Chúa ơi, xin nghe tiếng con cầu. Nếu Chúa chấp tội, nào ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ, để chúng con biết kính sợ Ngài”.
3. Khi tôi nhìn nhận tôi như một vực sâu, tôi thực sự cảm nhận mình đang ở trong những hoàn cảnh thất vọng. Thất vọng vì sợ hãi, vì lo âu, vì bế tắc, vì tối tăm, vì cô đơn.
4. Tôi như rơi vào tình trạng thê thảm, mà Chúa Giêsu đã trải qua ở Vườn Cây Dầu: “Linh hồn tôi buồn đến chết được” (Mc 14,34) và cũng như trên Thánh Giá, Chúa Giêsu than thở: “Cha ơi, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc 15,35). Tôi cũng vậy.
5. Từ vực sâu của Thánh vương Đavid, và từ vực sâu của Chúa Giêsu, tôi kêu lên những lời thảm thiết. Trong những lời kêu thảm thiết đó, tôi một đàng thấy mình như thất vọng, nhưng một đàng tin vào Chúa một cách mạnh mẽ. Và thực sự, tôi cảm nhận được Tình yêu Chúa cứu tôi.
6. Hình ảnh thứ hai là hình ảnh bụi cây cháy.
Theo sách Xuất Hành kể lại thì, khi Moisen dẫn đàn chiên đến núi Khôrep. Moisen thấy một bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu. Moisen chạy lại xem, thì ông nghe có tiếng từ bụi cây bốc cháy nói với ông: “Ta là Thiên Chúa của Cha ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacop” (Xh 3, 1-6).
7. Đọc đoạn Kinh Thánh trên đây, tôi tự nhiên nhìn bản thân tôi chỉ là một bụi cây. Bụi cây này bé nhỏ, xấu xí, có thể mang rác rưởi và những thứ gai góc. Thế mà, Chúa đã đốt nó cháy lên bằng một thứ lửa thiêng, để từ đó gởi đi một sứ điệp. Sứ điệp đó là: Tình yêu Chúa đoái nhìn đến tâm hồn coi như hèn hạ nhất này, biến nó thành dụng cụ của Chúa.
8. Khi nhìn mình như thế, tôi được Chúa cho tôi nhận ra Tình yêu Chúa là tha thứ, là chữa lành, là cứu chuộc, là đổi mới tôi. Cho dù tôi chỉ là một bụi cây xấu xí, hèn hạ, gai góc.
Như trời xa đất thế nào, thì Tình yêu Chúa cũng đuổi xa tội lỗi cho những ai tin cậy Chúa.
9. Theo hướng đó, tôi hay cầu nguyện theo thánh vịnh 103(102). Như đông tây cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa ném thật xa ta.
Như Người Cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng xót thương kẻ kính tôn. Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì. Hẳn ngươi biết: Chúng ta chỉ là cát bụi.
10. Hình ảnh bụi cây, hình ảnh cát bụi, mà Kinh Thánh nêu lên, đã giúp tôi rất nhiều về cảm nghiệm Tình yêu Chúa dành cho tôi. Thực sự, tôi chỉ là cát bụi, tôi chỉ là bụi cây hèn mọn. Nhưng được Chúa thương. Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa.
11. Hình ảnh thứ ba là hình ảnh hạt lúa chôn vùi trong lòng đất.
Hình ảnh hạt lúa chôn vùi dưới đất đã được chính Chúa Giêsu nêu lên. Chúa phán: “Thật, thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không chết đi, thì nó vẫn trơ một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24).
12. Nhìn xung quanh tôi, tôi thấy rất nhiều người đang là những hạt lúa được Chúa chúc phúc. Họ âm thầm, bé nhỏ, nhưng hy sinh cho người khác. Hy sinh của họ đặt tại việc làm của họ, chứ không đặt ở lời nói. Hy sinh của họ là từ bỏ mình, để theo gương Chúa Giêsu mà cứu các linh hồn. Họ trở thành của lễ toàn thiêu.
13. Một thoáng nhìn về ba hình ảnh trên đây, đang giúp tôi cảm nghiệm về Tình yêu Chúa.
Những cảm nghiệm trên đây đều thuộc lãnh vực thiêng liêng. Tuy vô hình, nhưng lại có sức mạnh hồi sinh cho tôi, cho Hội Thánh của tôi.
14. Như vừa mô tả trên đây, sức mạnh vô hình có sức hồi sinh trong cảm nghiệm về Tình yêu Chúa, luôn đòi một tinh thần nghèo khó và kiên trì cầu nguyện.
Hãy coi mình như vực sâu tăm tối. Hãy coi mình như bụi cây xấu xí hèn hạ. Hãy coi mình như hạt lúa đang thối đi trong lòng đất.
Tinh thần nghèo khó mở ra về Tình yêu Chúa sẽ cho ta thấy Tình yêu Chúa là rất hy sinh.
Hy sinh của Tình Yêu Chúa nhắm vào sự cứu con người khỏi tội, khỏi lửa hỏa ngục, để được phúc thiên đàng. Để được cứu như vậy, dứt khoát phải nhờ Chúa.
Những cảm nghiệm này kêu gọi chúng ta hãy quan tâm nhiều hơn đến việc tu thân.
15. Chính Chúa Thánh Thần đang dẫn dắt chúng ta trên con đường cảm nghiệm về Tình yêu Chúa. Nhờ đó, chúng ta sẽ thấy Hội Thánh không chủ yếu đi về với Chúa bằng những gì là long trọng, lừng lẫy, hoành tráng. Hội Thánh cũng không cứu con người bằng những quyền lực. Tôi cảm nghiệm thấy: Ơn cứu độ luôn dựa vào Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường (Mt 11, 29).
...Hãy coi mình như vực sâu tăm tối. Hãy coi mình như bụi cây xấu xí hèn hạ. Hãy coi mình như hạt lúa đang thối đi trong lòng đất.
Tinh thần nghèo khó mở ra về Tình yêu Chúa sẽ cho ta thấy Tình yêu Chúa là rất hy sinh...
(Bài giảng trong thánh lễ kỷ niệm 43 năm Giám mục ngày 30.4.2018 của ĐGM GB. Bùi Tuần)
Mấy tuần lễ trước đây, tôi đã cặm cụi viết bài chia sẻ cho thánh lễ hôm nay. Nhưng, hai ngày nay Bùi-Tuần 2033
1. Mấy tuần lễ trước đây, tôi đã cặm cụi viết bài chia sẻ cho thánh lễ hôm nay.
Nhưng, hai ngày nay, tôi cảm thấy mình không còn hài lòng với những gì mình đã viết.
2. Tôi cảm thấy mình rất mong manh về mọi phương diện. Tôi kêu cầu Chúa, xin Chúa xót thương tôi.
Thực sự, Chúa đã xót thương tôi, Chúa cho tôi thấy, mặc dù tôi bất xứng, tôi vẫn được Chúa yêu thương.
3. Tôi được Chúa yêu thương, mặc dù tôi tội lỗi, đó là thời sự của những ngày này, đó là Tin Mừng của từng giờ cuối tháng tư này.
4. Chúa yêu thương tôi, qua bao nhiêu tín hiệu xa gần, Chúa yêu thương tôi, qua biết bao người thuộc đủ mọi thành phần.
Tất cả những người đó và tất cả những tín hiệu đó đều đem lại cho tôi tình yêu thương và sự bình an của Chúa.
5. Tôi lãnh nhận tình yêu thương và sự bình an của Chúa như một thứ lương thực thiêng liêng cao quý, làm chứng rằng Chúa của tôi là Chúa đầy tình yêu thương xót.
6. Những gì tôi được cảm nhận mấy ngày nay về lòng Chúa thương xót, thì tôi cũng đang được thấy ở nhiều người xung quanh. Họ cũng đang được Chúa xót thương như Chúa xót thương tôi.
Họ lãnh nhận để rồi lại trao tặng cho những người khác tình yêu xót thương của Chúa.
Tôi cũng làm như vậy.
7. Qua những gì tôi đã và đang cảm nhận được về lòng thương xót Chúa, tôi có thể nói là tôi đã gặp được Chúa.
Thực sự, tôi đã gặp được Chúa. Qua gặp gỡ, tôi đã nhìn thấy dung mạo của Chúa.
8. Dung mạo của Chúa là rất hiền lành, khiêm nhường và đầy xót thương.
9. Dung mạo của Chúa có lúc an ủi tôi, có lúc nhắc nhở tôi, có lúc tỏ vẻ đau đớn, buồn phiền về tội lỗi tôi và tội lỗi người khác.
10. Nhưng dung mạo Chúa có lúc cũng tỏ vẻ vui và như được an ủi về những thiện chí của từng người chúng ta.
11. Chính lúc này, dung mạo Chúa như đang được an ủi vì chúng ta.
12. Bởi vì mỗi người chúng ta đang cố gắng thực thi Lời Chúa dạy là: “Từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa”.
13. Bởi vì mỗi người chúng ta đang cố gắng thực thi Lời Chúa dạy: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con”.
14. Bởi vì mỗi người chúng ta đang cùng với Chúa đồng hành với những người khổ đau, để chia sẻ với họ và để đem lại cho họ tình yêu và sự bình an của Chúa.
15. Với những gì tôi vừa chia sẻ trên đây, tôi muốn làm chứng Chúa đang xót thương chúng ta. Đó là Tin Mừng lớn nhất của chúng ta. Xin hết lòng cảm tạ Chúa. Amen.
Phát triển đáng kể nhất là tấm lòng. Lòng con cái Mẹ không dừng lại ở những vẻ đẹp bề ngoài Bùi-Tuần 2034
Phát triển đáng kể nhất là tấm lòng. Lòng con cái Mẹ không dừng lại ở những vẻ đẹp bề ngoài, mà còn đi sâu vào nội tâm. Một hướng nội tâm đang được nhiều nơi nhấn mạnh, đó là Sám hối, trở về.
thang hoa va sam hoi 1/ Sự quan trọng của Sám hối, trở về
Thánh Gioan Baotixita là vị thánh Chúa chọn để dọn đường cho Đấng Cứu thế. Đối với Ngài, cách dọn đường tốt nhất là sám hối, trở về... “Ngài đi khắp vùng sông Giođan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối, để được ơn tha thứ” (Lc 3,3).
Ngài khuyên bảo và nhiều khi cũng răn đe: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: Bất cứ cây nào không sinh quả đều sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Lc 3,9).
Còn Chúa Giêsu, khi khai mạc cuộc đời công khai, Người cũng đã giảng sám hối: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 4,17).
Cũng như thánh Gioan Baotixita, Đức Giêsu đã khuyên nhủ và đôi khi cũng đã răn đe nghiêm khắc. Thí dụ: Khi nói về việc tháp Siloe đổ xuống đè chết 18 người, Chúa Giêsu liền áp dụng hình ảnh khủng khiếp ấy, để răn đe những ai không chịu sám hối. Người nói: “Tôi nói cho các ông biết: nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ phải chết hết như vậy” (Lc 13,5).
Ấn tượng sâu sắc nhất Chúa Giêsu để lại, để thôi thúc người ta sám hối trở về là cuộc tử nạn của Người. Người chết đau đớn tột cùng, chỉ vì để đền tội cho nhân loại, và để kêu gọi mọi người sám hối trở về, hầu được ơn tha thứ.
Từ những mạc khải trên, chúng ta có thể nói: Đóa hoa thơm đẹp nhất, mà Chúa muốn con cái Chúa dâng lên Người, đó là tấm lòng sám hối ăn năn.
Đức Mẹ cũng đã tỏ ý như vậy. Trong những lần Mẹ hiện ra ở Lộ Đức, ở La Salette, ở Fatima, Mẹ đã nhắc nhở con cái Mẹ hãy sám hối trở về. Có thể nói: sám hối trở về là thứ hoa thiêng liêng, mà Mẹ ước muốn con cái Mẹ dâng lên Mẹ.
Đến lượt Hội Thánh, trong phụng vụ thánh lễ và các bí tích, cũng thường mở đầu bằng sự khuyên con cái dọn mình bằng sám hối trở về, coi sám hối trở về là của lễ thơm tho đẹp ý Chúa.
Như vậy, sám hối trở về nên được coi là đóa hoa quan trọng trong tháng dâng hoa. Đó cũng chính là niềm vui lớn.
Chúng ta nên nhớ lại lời Chúa Giêsu phán: “Tôi nói cho các ông hay: Trên trời, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,7)
Ta thấy: niềm vui lớn nhất cho cả thiên đàng là sự người tội lỗi sám hối trở về, dù chỉ là một người. Do đó ta phải nhận niềm vui lớn nhất cho cả Hội Thánh và cho chính mỗi người chúng ta, sẽ là sự chính mỗi người chúng ta sám hối trở về.
Nói như vậy là chúng ta đã hiểu phần nào sám hối trở về có nhiều cao quý và khó khăn.
2/ Những cao quý và khó khăn của sự sám hối trở về
Sám hối trở về không đơn giản chỉ là ăn năn tội, ghét bỏ tội lỗi, mà còn phải là bỏ con đường tội lỗi, thay đổi nếp sống không hợp đạo đức. Thí dụ: thói quen lười biếng, lòng tự mãn với lối giữ đạo hình thức, cách suy nghĩ, phán đoán hẹp hòi,...
Như vậy, sám hối trở về không thể là một lớp son mỏng bề mặt, mà phải là một sự thay đổi sâu xa trong tâm hồn. Nó tùy thuộc rất nhiều ở nhiều yếu tố khác nhau.
Vì thế có trường hợp, cùng trong một hoàn cảnh như nhau, nhưng người này thì sám hối trở về, người kia thì không.
Một trường hợp khác. Cả hai người sám hối trở về, nhưng ít lâu sau, một người thì vững vàng trong ơn trở lại, một người thì bỏ ơn Chúa, lui dần về tình trạng cũ.
Kinh nghiệm cho thấy, trong sám hối trở về, có những cao quý mình muốn có, mà không sao có được. Có những khó khăn mình muốn vượt qua, mà không sao vượt được.
Vì thế, chúng ta cần khiêm tốn cầu nguyện. Tôi luôn xác tín: Không có ơn Chúa, người ta không thể sám hối trở về một cách đích thực được. Nhưng với ơn Chúa, mỗi người sẽ sám hối trở về một cách chân thành. Chúa giàu tình thương xót sẽ bằng lòng với sự chân thành của mỗi người chúng ta, dù việc thực hiện sự trở về toàn vẹn của ta còn quá nhiều hạn chế.
Ý thức được những cao quý và khó khăn của sự sám hối trở về, chúng ta dâng lên Mẹ đóa hoa khiêm nhường:
- Khiêm nhường xin được ơn luôn sám hối trở về.
- Khiêm nhường cảm tạ về những chặng đường sám hối trở về đã qua.
- Khiêm nhường đón nhận những hồng ân cao quý của sự trở về.
- Khiêm nhường cầu nguyện cho mọi người, dù ở đâu, cũng biết sám hối trở về một cách thích hợp trong hoàn cảnh cụ thể của họ.
Lạy Mẹ rất khiêm nhường, xin đoái nhận đóa hoa khiêm nhường của những người con Mẹ đang sám hối trở về với Chúa. Chúng con tin khiêm nhường sám hối chính là đóa hoa Mẹ rất mong muốn chúng con dâng lên Mẹ, để góp phần vào việc Chúa cứu độ trần gian trong tình thế hiện nay.
Nhân ngày Chúa nhật Truyền giáo vừa qua, tôi nghĩ về ơn Truyền giáo Chúa đã và đang ban cho Bùi-Tuần 2035
1. Nhân ngày Chúa nhật Truyền giáo vừa qua, tôi nghĩ về ơn Truyền giáo Chúa đã và đang ban cho tôi.
Đã từ lâu, cho đến bây giờ, hằng ngày, Chúa vẫn sai nhiều người đến truyền giáo cho tôi. Họ truyền giáo cho tôi bằng gương sáng, lời nói, việc làm mang những giá trị đạo đức. Họ thuộc đủ mọi hạng người. Nhờ vậy, tôi đón nhận được ánh sáng thiêng liêng dẫn tôi về với Thiên Chúa là tình yêu, mỗi ngày mỗi dứt khoát hơn.
2. Qua ơn được truyền giáo nhờ nhiều người Chúa sai đến, tôi thấy tôi cần rất nhiều khiêm nhường, tỉnh thức và bén nhạy.
3. Rồi đã từ lâu, cho đến bây giờ, hằng ngày Chúa vẫn sai tôi đi truyền giáo cho nhiều người. Truyền giáo cho họ là giúp họ gặp được Chúa, tin vào Chúa, thuộc về Chúa. Làm những việc đó là quá sức tôi, nếu không phải nói là ngoài khả năng của tôi. Tôi phải rất khiêm nhường cậy nhờ vào ơn Chúa.
4. Chỉ với ơn Chúa, tôi mới có thể mang đến cho họ động lực để đến gặp Chúa, để rồi họ tin vào Chúa là tình yêu cứu độ giàu lòng thương xót.
5. Nhìn vào hai lãnh vực: Được truyền giáo và đi truyền giáo, tôi thấy truyền giáo là ơn Chúa ban.
6. Ơn quan trọng trong truyền giáo là ơn có một đời sống nội tâm thực sự phong phú.
Nghĩa là nội tâm của tôi phải có Chúa hiện diện và hoạt động theo thánh ý của Người.
7. Nói tới đây, tôi nhớ tới Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Tôi hạnh phúc vì đã được gặp ngài nhiều lần.
Lần nào gặp ngài, tôi cũng có cảm tưởng là được đi vào một thế giới nội tâm đầy ánh sáng cứu độ.
Gặp ngài, tôi không thể không nhận ra vẻ đẹp thiêng liêng toát ra từ nội tâm ngài, một nội tâm đầy hiền lành, khiêm nhường, giàu tình yêu xót thương.
8. Không cần ngài phải đi đây đi đó, chỉ một sự hiện diện của ngài ở một chỗ cũng đủ là truyền giáo rồi.
9. Người ta đến Vatican, nếu được gặp ngài, thì kể là rất hạnh phúc. Không ai gặp ngài mà ra về không cảm thấy mình ra khác.
10. Truyền giáo mà được như vậy thì quý hóa biết bao. Nội tâm của tôi nếu được phần nào như nội tâm ngài thì sung sướng biết bao.
11. Có một điều tôi xin được nói lên ở đây là:
Nội tâm truyền giáo của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có một cái nhìn sâu sắc về những người ngài gặp.
Riêng tôi, ngài đã nhìn tôi và đọc được trong tôi nhiều ẩn khuất tâm linh trong tôi mà tôi không ngờ. Đọc được, rồi với yêu thương, ngài khuyên tôi theo hướng lòng thương xót Chúa. Thế là tôi được an tâm.
12. Nếu nội tâm truyền giáo của chúng ta cũng biết đọc được hoàn cảnh nơi người đến với chúng ta, thì truyền giáo sẽ ra khác.
13. Tại Việt Nam hiện nay, nếu tìm được một nhà truyền giáo có nội tâm hiền lành, khiêm nhường, giàu lòng thương xót, biết đọc được hoàn cảnh của những người đến với mình, thì tôi nghĩ ngay đến cha Phanxicô Trương Bửu Diệp.
Ngài đã qua đời, nhưng hồn thiêng ngài vẫn hoạt động mạnh trong lãnh vực truyền giáo bây giờ. Nhiều người ngoài Công giáo đã được cha thương cứu giúp. Truyền giáo phải là như thế.
“... Nếu nội tâm truyền giáo của chúng ta cũng biết đọc được hoàn cảnh nơi người đến với chúng ta , thì truyền giáo sẽ ra khác...”
14. Để cảm tạ Chúa về ơn truyền giáo, tôi thầm hát bài: “Con luôn cần Chúa” của Từ Duyên.
Truyền giáo cần nhiều phương tiện, nhưng Chúa mới là sức thiêng chúng ta cần hơn hết.
15. Lúc này, hơn bao giờ hết, khi cảm tạ Chúa về ơn truyền giáo, tôi luôn nhìn Mẹ Maria. Mẹ ở bên tôi.
Trên đường truyền giáo, Mẹ đã giúp tôi nhận ra:
+ Mình được chọn là để phục vụ người khác.
+ Mình được chọn là để đi vào một thời điểm nhất định của lịch sử có những nhu cầu riêng.
+ Mình được chọn là để dấn thân với những khả năng và những giới hạn của riêng mình.
Vì thế mà phải rất khiêm nhường bám chặt lấy Mẹ. Truyền giáo là có Mẹ ở bên.
Ðể dọn mình mừng sinh nhật thánh Gioan Baotixita, tôi xin được chia sẻ với anh chị em ơn Bùi-Tuần 2036
1. Ðể dọn mình mừng sinh nhật thánh Gioan Baotixita, tôi xin được chia sẻ với anh chị em ơn Chúa đang ban cho tôi, để theo chân thánh Quan Thầy Gioan Baotixita, mà dọn đường cho Chúa, lúc này và tại đây.
Ơn Chúa ban gồm ba sự kiện sau này:
Thứ nhất, Chúa khuyến khích. Thứ hai, Chúa nhấn mạnh. Thứ ba, Chúa tạo hình.
Tôi sẽ nói vắn gọn về từng sự kiện.
2. Về sự kiện thứ nhất là sự tôi được Chúa khuyến khích.
Rất nhiều người, nhất là thuộc các tôn giáo bạn và thuộc chính quyền hay nói với tôi: “Cụ giám mục là người của Chúa, bởi vì chúng tôi thấy cụ luôn thao thức về Chúa, đó là điểm chúng tôi nhận thấy trong những gì cụ viết và những gì cụ nói”.
Khi được dư luận gần xa gọi mình là người của Chúa, hay thao thức về Chúa, tôi rất vui và rất được khích lệ. Tôi xin hết lòng cảm ơn tất cả những người đã khích lệ tôi. Người của Chúa là người Chúa sai đi, chính dư luận nhắc cho tôi điều đó, để tôi nhớ về ơn gọi của mình.
Mà Chúa là Ðấng lo cứu con người.
3. Về sự kiện thứ hai là sự Chúa nhấn mạnh. Chúa thường đưa ra một hai điểm, và đó là điểm nhấn. Ðiểm mà Chúa nhấn mạnh nhất và trước hết trong tôi là hãy sống mật thiết với Chúa:
“Như Cha ở trong con,
Và như con ở trong Cha
Xin Cha cho họ ở trong chúng ta” (Ga 17, 21).
Sống mật thiết với Chúa, đó là điều tôi sung sướng thực hiện mọi nơi mọi lúc. Một trong những cách tôi sống mật thiết với Chúa là hay thầm hát: “Thánh ý Ngài là gia nghiệp đời con”.
Dần dần tôi hiểu thánh ý Chúa là muốn tôi cùng với Chúa đắp nên những con đường yêu thương vô hình trong các tâm hồn. Ðể được thế thì phải rất khôn ngoan, tận dụng những sự bé nhỏ cho dù như hạt cát. Con đường yêu thương vô hình được đắp nên trong các tâm hồn một cách kiên trì, âm thầm không do cố gắng, mà nhờ khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, đó là điều Chúa thường nhấn mạnh.
4. Về sự kiện thứ ba là sự Chúa tạo hình.
Hình ảnh mà Chúa hay gợi ra trong tôi, là hình ảnh kẻ trở về.
Chúa nói với tôi: Con là kẻ được sai đi, con là kẻ được kêu gọi sống mật thiết với Chúa. Nhưng con rất yếu đuối, hay sai lỗi, nên con hãy là kẻ trở về.
Con người trở về, sống ơn trở về, với niềm cậy trông phó thác nơi lòng thương xót Chúa, để cùng với Chúa biết xót thương con người, đó là những bước đi của tôi lúc này; tại đây.
5. Những gì tôi vừa chia sẻ trên đây không dám là mô hình cho ai. Những người khác có thể có những cách khác, để dọn đường cho Chúa. Tôi chỉ chia sẻ, để cảm tạ Chúa trong tinh thần hiệp thông chân thành sâu sắc.
6. Thưa anh chị em thân yêu, tôi đang sống ơn gọi như thế. Tôi cũng sẽ chết với ơn gọi đó. Kẻ trở về là tôi đây rất tập trung vào lòng thương xót Chúa.
7. Do vậy, dù sống dù chết, tôi vẫn dọn đường cho Chúa theo những ơn Chúa ban cho tôi, trong đó có ơn trở về.
8. Và tôi tin, sống như vậy sẽ là cách sống đẹp lòng Chúa và sống có ích cho anh chị em và cho Hội Thánh và cho quê hương Việt Nam yêu dấu.
9. Và tôi tin, anh chị em, dù yếu đuối đến đâu, vẫn có thể dọn đường cho Chúa, nếu anh chị em coi sự trở về là con đường tốt nhất, thích hợp nhất cho anh chị em.
10. Tôi hết lòng cảm ơn Ðức cha giáo phận Giuse Trần Văn Toản và tất cả giáo phận vì thánh lễ bổn mạng của tôi sẽ được tổ chức đơn sơ mà ấm cúng. Chúng ta được gặp nhau, được sum họp bên Chúa, bên Ðức Mẹ, và bên thánh Gioan Baotixita, để trở về, thực là hồng phúc. Biết đâu đây là lần cuối cùng đối với một số người trong chúng ta. Do vậy, mà chúng ta phải biết quý trọng ơn Chúa ban từng phút hiện tại.
11. Riêng đối với tôi, trở về là một hình ảnh gợi lên sự ấm áp, sự thân thương, sự bình an, và hy vọng. Xin anh chị em cầu cho tôi được luôn sống ơn trở về, như một cách dọn đường cho Chúa.
Tôi thường nhìn thấy Cha chúng ta trên trời âu yếm gọi tôi và đợi ôm lấy tôi là đứa con bé nhỏ tội lỗi yếu đuối trở về.
Ðược sống bên Ðức Mẹ, tôi cảm nhận được rất rõ một tâm tình mạnh mẽ và sâu lắng thường xuyên Bùi-Tuần 2037
1. Ðược sống bên Ðức Mẹ, tôi cảm nhận được rất rõ một tâm tình mạnh mẽ và sâu lắng thường xuyên nơi Ðức Mẹ, đó là sự khao khát của Ðức Mẹ.
2. Nội dung khao khát của Ðức Mẹ có thể tóm lược ở sự Ðức Mẹ hết sức mong muốn các con cái Mẹ hãy tập trung đời sống đạo vào Chúa Giêsu, nhất là hãy tin vững vàng Ðấng cứu độ là chính Chúa Giêsu.
3.
Từ nguồn khao khát đó, Mẹ kêu gọi các con cái Mẹ hãy sống liên đới mật thiết với Chúa Giêsu trong dòng lịch sử hiện nay.
4.
Xưa, tại Hang đá Bêlem, Chúa Giêsu giáng sinh trong thân phận một kẻ đầy yêu thương, khiêm nhường, gần gũi những kẻ khó nghèo.
Ðức Mẹ đã đón các mục đồng và các nhà chiêm tinh một cách ân cần, rồi đưa họ đến với hài nhi Giêsu khó nghèo khiêm tốn đó mà Mẹ tin là Ðấng Cứu Thế.
Tại Nagiarét, Ðức Mẹ cũng đã làm như vậy.
Nay, Ðức Mẹ cũng mong muốn các con cái Mẹ hãy làm như Mẹ xưa. Tức là:
5. Hãy coi sự đón tiếp ân cần những kẻ tìm Chúa Giêsu là một việc quan trọng của đời sống đạo.
6. Hãy coi sự đưa người ta đến với Chúa Giêsu Giáng Sinh khó nghèo khiêm tốn để cứu đời là một việc căn bản của đời sống đức tin.
7. Nhất là hãy tin Chúa Giêsu khó nghèo sống yêu thương, khiêm nhường gần gũi giữa những kẻ nghèo khó chính là Ðấng Cứu Ðộ.
8. Chính vì niềm tin trên đây, Mẹ đã luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu yêu thương, khiêm nhường, gần gũi những kẻ khổ đau.
Mẹ muốn các con cái Mẹ cũng hãy kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu yêu thương, khiêm nhường, gần gũi những kẻ khổ đau, như Mẹ đã thực hiện.
9. Ðó là sự khao khát, mà Ðức Mẹ chia sẻ cho tôi. Tôi có cảm tưởng là nhiều người cũng được Ðức Mẹ chia sẻ sự khao khát đó như tôi, và còn hơn tôi.
10. Sống trong sự khao khát đó, chúng tôi không thể không lo ngại cho sự hiệp nhất của Hội Thánh hiện nay.
Bởi vì trong Hội Thánh hiện nay đang xuất hiện nhiều hiện tượng mang hình thức những khao khát trái ngược với khao khát trên đây của Ðức Mẹ. Khát khao của cải vật chất thì nhiều. Khát khao danh vọng thì càng nhiều hơn.
11. Thấy cảnh đó, chúng tôi rất xót xa, nhất là chúng tôi lo cho chính mình, biết đâu có lúc nào đó chính chúng tôi cũng lại bỏ những khao khát của Ðức Mẹ, mà chuyển sang những khao khát khác ngược lại. Tôi xin Ðức Mẹ thương cứu chúng tôi ngay tại bây giờ.
12. Ðức Mẹ khuyên chúng tôi hãy tỉnh thức và cầu nguyện thực nhiều, để được Chúa ban cho ơn biết phân định. Phần tôi, tôi tin: Khi nhờ Ðức Mẹ, mà tập trung đời sống đạo vào Chúa Giêsu, như Kinh Thánh và Hội Thánh dạy, thì đó là lựa chọn đúng.
13. Muốn được như vậy, tôi thấy cần nơi chính chúng ta một sự canh tân thực sự. Canh tân chính mình, chứ không phải canh tân cơ sở và tổ chức, tuy cơ sở và tổ chức cũng cần canh tân trong mức độ của chúng.
14. Sự canh tân này vừa là một sự hoán cải, vừa là một sự phát triển nội tâm.
15. Riêng đối với những người có quyền chức trong đạo, thì canh tân quan trọng nhất chính là biết phục vụ như Chúa Giêsu, biết đem Tin Mừng đến cho những kẻ khổ đau, những kẻ ngoài lề, những kẻ rốt hết.
16. Ðối với mọi tín hữu, điều phải canh tân thực sự lúc này hơn hết, đó là làm chứng cho lòng thương xót Chúa, bằng những việc cụ thể thường ngày, giúp đỡ những người xung quanh về phần xác lẫn phần hồn.
Trên đây là ý kiến của Ðức Phanxicô (Sứ điệp mùa Chay 2016).
17. Ðức Phanxicô còn tha thiết kêu gọi những người của Hội Thánh hôm nay hãy gần gũi lại thực sự với những kẻ yếu đuối, có những hoàn cảnh khó khăn, và có những vết thương đớn đau trong mình.
Biết xót thương, đó là điều mà mọi người dễ hiểu nhất. Thích phô trương, đó là điều mà nhiều người dị ứng nhất.
18. Tới đây, tôi thấy vui, vì đã nói lên được phần nào sự khao khát mà Ðức Mẹ chia sẻ cho tôi. Tôi coi sự khao khát đó là ơn gọi, mà tôi phải sống một cách trọn vẹn, trong mọi hoàn cảnh. Tôi thấy Chúa Thánh Thần đang đốt nóng lên sự khao khát của Ðức Mẹ trong nhiều người tại Việt Nam hôm nay.
Ðời tôi là một chuyến đi. Chuyến đi đời tôi đã khá dài. Năm nay tôi đã 92 tuổi. Suốt 92 năm của Bùi-Tuần 2038
1. Ðời tôi là một chuyến đi. Chuyến đi đời tôi đã khá dài. Năm nay tôi đã 92 tuổi. Suốt 92 năm của tôi đều đau yếu.
2. Lúc này, tôi càng đau yếu. Có thể chết bất cứ lúc nào. Nên tôi xin có một lời cảm tạ đánh dấu cho chuyến đi dài của tôi.
Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa.
Tôi xin chân thành cảm tạ mọi người thân yêu.
Cảm tạ vì ơn đồng hành.
Tôi đã được nhiều người đồng hành với tôi.
Tôi đã được đồng hành với nhiều người gần xa.
3. Trước hết, tôi đã được nhiều người đồng hành với tôi.
Chuyến đi đời tôi có rất nhiều quãng gian nan trắc trở. Tôi đã sợ hãi, đã khổ đau, đã bơ vơ. Nhưng rồi đã gặp được những tấm lòng. Quen có, lạ có. Tất cả đều sẵn sàng đồng hành với tôi.
4. Ðồng hành của họ là cho tôi trú trọ trong trái tim họ, là an ủi khích lệ tôi, là chỉ lối chỉ đàng cho tôi, là nhường chỗ nghỉ ngơi cho tôi, là tự nguyện chịu khổ thay cho tôi.
5. Hôm nay, nghĩ về những người đồng hành đó, tôi nhớ thương vô vàn. Giờ này, họ đang ở đâu? Tôi tin họ đang ở bên Chúa. Tôi tin Chúa đã dùng họ mà đồng hành với tôi.
6. Ðược người khác đồng hành với mình là một ân huệ tôi không thể nào quên.
7. Bên cạnh ơn đó, tôi cũng không thể nào quên ơn được đồng hành với một số người.
Thực vậy, rất nhiều lần, tôi tưởng tôi đang trở nên vô ích cho xã hội và Hội Thánh, vì không còn khả năng phục vụ. Nhưng bất ngờ, tôi nhận được những tín hiệu giúp tôi an tâm. Bởi vì nhiều người đã coi tôi là kẻ đồng hành với họ. Cụ thể là qua những bài chia sẻ của tôi, họ đã gặp được không ít những đỡ nâng, giúp họ gặp được Chúa.
8. Ðược là kẻ đồng hành với người khác trên con đường về với Cha trên trời, tôi hết sức mừng.
9. Tôi cảm thấy Chúa đang ở giữa chúng tôi. Tôi nhớ lại lời xưa Chúa Giêsu đã cầu nguyện: “Xin cho họ được nên một trong chúng ta” (Ga 17, 21). Chúng tôi đang được ở trong Chúa. Bởi vì chính Chúa đã và đang đưa chúng tôi lại gần nhau để về với Chúa.
10. Ðược người khác đồng hành với mình, và mình được đồng hành với người khác, trong chuyến đi cuộc đời trở về với Chúa, đó là một cái nhìn đang làm tôi nghẹn ngào.
11. Do vậy, mà tôi không bao giờ coi mình là người lãnh đạo, là kẻ dạy dỗ, là kẻ cai trị.
Là mục tử, tôi sung sướng được là kẻ đồng hành.
12. Tôi nhớ lại những gì đã xảy ra xưa, khi Chúa Phục Sinh đã đồng hành với môn đệ trên đường Emmaus (Lc 24, 13-35).
Chúa tỏ mình ra bằng cách đồng hành với hai môn đệ. Ðồng hành của Chúa là chia sẻ, là an ủi, là cắt nghĩa Kinh Thánh. Tất cả đều nhẹ nhàng, gần gũi. Hai môn đệ cảm được mình được yêu thương. Họ nhận ra Chúa qua việc Chúa đồng hành với họ.
13. Nhắc tới ơn đồng hành, lúc này tôi không thể không nghĩ tới cách riêng đến Ðức cha Giuse Trần Xuân Tiếu, Ðức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, và Ðức cha Giuse Trần Văn Toản. Mỗi người một cách, cả ba Ðức cha đều đã giúp tôi sống ơn đồng hành một cách quảng đại, thân mật và kiên trì. Cả ba đều là những người đồng hành thân tín của tôi.
14. Cách đây 20 năm, ngày 29 tháng 6 năm 1999, tôi đã phong chức giám mục cho hai người thân yêu của tôi. Nay cả ba chúng tôi đều về hưu, nhưng vẫn đồng hành bên nhau.
15. Bài chia sẻ tới đây, tôi tưởng là đã xong, nên phát đi. Ðâu ngờ, sau một đêm, khi vừa thức giấc, tôi gặp thiên thần bản mệnh. Ngài dạy tôi: Ðồng hành còn là tỉnh thức, vì Chúa sẽ làm những việc bất ngờ. Xưa Chúa đã làm những sự bất ngờ cho thánh Phêrô, khi ngài bị cầm tù thế nào (x. Cv 12, 1-13), thì nay Chúa cũng sẽ làm nhiều sự bất ngờ cho con và cho các người Chúa chọn như vậy.
16. Tỉnh thức từng giờ, từng phút, từng giây, tôi đã gặp được Ðức Mẹ. Mẹ giúp tôi đồng hành. Tôi rất an tâm. Xin hết lòng cảm tạ Chúa.
“...Ðược người khác đồng hành với mình, và mình được đồng hành với người khác, trong chuyến đi cuộc đời trở về với Chúa, đó là một cái nhìn đang làm tôi nghẹn ngào...”
(Bài giảng của Đức Giám mục GB Bùi Tuần trong thánh lễ ngày 24.6.2019 tại nhà nguyện Tôma - Long Xuyên)
Ðức cha giáo phận kính yêu muốn tôi chia sẻ trong thánh lễ kính thánh Gioan Baotixita, bổn mạng Bùi-Tuần 2039
1. Ðức cha giáo phận kính yêu muốn tôi chia sẻ trong thánh lễ kính thánh Gioan Baotixita, bổn mạng của tôi. Tôi xin vâng.
2. Chia sẻ của tôi hôm nay là bắt chước một trong những đặc điểm của thánh Gioan Baotixita.
Phúc Âm gọi thánh Gioan Baotixita là tiếng la to trong hoang địa. La to để cảnh báo, như một tiên tri (x. Lc 3, 4).
Hôm nay, tôi không la lên bằng tiếng, nhưng cũng là một cách la lên, khi tôi tha thiết cảnh báo điều này:
Bình an khắp nơi đang bị đe dọa trầm trọng.
Hãy đón nhận ơn bình an của Chúa, để rồi hãy đem bình an của Chúa đến cho những người khác.
3. Trước hết, tôi xin chia sẻ kinh nghiệm của tôi đón nhận ơn bình an của Chúa thế nào?
Thưa qua các bí tích, qua Lời Chúa, qua cầu nguyện.
Tôi thấy rất rõ: Khi chúng ta làm mấy việc đó sốt sắng, thì sự bình an của Chúa sẽ như dòng nước mát tràn vào tâm hồn ta. Chúng ta đón nhận ơn bình an của Chúa.
Kết quả hình ảnh cho dá»n ÄÆ°á»ng cho chúa 4. Ngoài mấy việc trên đây, thì ơn bình an của Chúa còn đi vào lòng ta qua sự chúng ta chu toàn việc bổn phận. Mỗi người có bổn phận của mình. Tận tâm, tận tụy chu toàn bổn phận của riêng mình và cùng lo cho những người trong gia đình mình và thuộc về mình, thì sẽ được bình an. Nếu bỏ việc bổn phận, để tất bật lo những chuyện khác thì sẽ không có sự bình an.
5. Hơn nữa, ơn bình an của Chúa cũng rót vào lòng ta, khi chúng ta tỉnh thức nhận ra sự Chúa đến viếng thăm chúng ta qua thời sự mỗi ngày, thí dụ qua những gương sáng, những gặp gỡ. Cụ thể ngay giờ phút bây giờ, tại đây.
6. Nếu khiêm tốn, khát khao ơn bình an của Chúa, mà làm những việc kể trên, chúng ta sẽ đón nhận được ơn bình an của Chúa một cách lạ lùng.
Ðó là đón nhận ơn bình an của Chúa.
7. Bây giờ đem sự bình an của Chúa đến cho người khác thế nào?
Thưa đem sự bình an của Chúa đến cho những kẻ khác, đó là vấn đề rất phức tạp.
8. Xưa, khi Chúa Giêsu đem sự bình an của Chúa đến cho những kẻ tin Ngài, những kẻ thương Ngài thì việc đó tương đối dễ.
Còn khi Chúa đem sự bình an đến cho những kẻ vô ơn đối với Ngài, những kẻ thù ghét Ngài, những kẻ chống phá Ngài, thì việc đó đã rất khó.
9. Ðời tôi cũng được Chúa cho chút kinh nghiệm về sự đem bình an đến cho kẻ khác. Có những loại trường hợp rất khó, rất đau lòng. Hôm nay, tôi chỉ xin nhắc tới một trường hợp cụ thể đã xảy ra ngay tại đây.
Nơi chốn này, đã có những người từng ngồi, từng quỳ trong nhà nguyện. Nhưng rồi đã tự ý ra đi, hay bị ra đi, vì những lý do khác nhau.
Tôi vẫn đem bình an đến cho họ thế nào? Thưa tôi cầu nguyện, tôi hy sinh cho họ, với tất cả tấm lòng yêu thương bao dung, nhẫn nại và sám hối. Ðiều đó không dễ chút nào, nhưng tôi vẫn nhờ Chúa mà làm, với nhiều đau đớn, với nhiều chờ đợi.
10. Thưa anh chị em thân mến!
Khao khát đón nhận ơn bình an và khao khát trao gởi ơn bình an, đó là thao thức của tôi, đó là hạnh phúc của tôi.
11. Lúc này, hơn bao giờ hết, thao thức đó của tôi, hạnh phúc đó của tôi, đều nhờ Ðức Mẹ.
Bên Mẹ, với Mẹ, tôi sống ơn bình an như một đứa con bé nhỏ, yếu đuối. Với Mẹ, tôi lo bình an cho Hội Thánh và cho Tổ quốc Việt Nam.
Và cứ thế, tôi đang trở về với Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Xin hết lòng cảm tạ Chúa.
12. Xin thú thực với anh chị em. Chính tôi, nhiều lần, Chúa để tôi rơi vào cảnh mất bình an. Tình trạng đó làm tôi đau khổ, đến nỗi có lần thốt lên như Chúa Giêsu xưa: “Tâm hồn con buồn rầu đến chết được. Xin cho con khỏi uống chén đắng này” (x. Mc 14, 34-36). Kinh nghiệm đó giúp tôi biết cảm thương những người cùng hoàn cảnh. Tôi coi sự cảm thương đó là một ơn Chúa ban.
13. Càng ngày tôi càng nhận thấy: Biết đau cái đau của người khác, đó là một dấu chỉ cho thấy mình có sống ơn bình an của Chúa không?
Góp phần xây dựng bình an, mà coi đó là một bổn phận quan trọng trước mặt Chúa. Ðó chính là điều Chúa đánh thức lương tâm chúng ta. Và đó cũng là điều thánh Gioan Baotixita mong muốn.
14. Bình an, bình an. Lạy Chúa, xin cho chúng con trở thành dụng cụ bình an của Chúa. Amen.
Ðặc điểm nổi bật nhất của con người thời nay là: đi tìm. Ai ai cũng đi tìm. Từ trong thâm tâm, mỗi Bùi-Tuần 2040
1. Ðặc điểm nổi bật nhất của con người thời nay là: đi tìm. Ai ai cũng đi tìm.
Từ trong thâm tâm, mỗi người đều đi tìm cho mình một hướng đi, một ý nghĩa.
2. Tôi cũng vậy. Thú thực là sự đi tìm của tôi càng ngày càng mạnh. Ngày đi tìm. Ðêm cũng đi tìm. Ði tìm vì thế trở thành thao thức.
3. Thao thức của tôi là: Tìm xem thánh ý Chúa muốn gì về tôi trong cuộc sống hiện tại.
Ðức Mẹ ở bên tôi trong thao thức đó. Nhờ vậy, tôi nhận ra là: Thánh ý Chúa muốn tôi hãy sống gần gũi.
4. + Hãy sống gần gũi với Chúa. + Hãy sống gần gũi với những người xung quanh. + Hãy sống gần gũi cách riêng với những kẻ khổ đau.
5. Ðể đào tạo tôi nên người gần gũi như thế, Ðức Mẹ hay dẫn đưa tôi về Nagiarét là nơi Chúa Giêsu, Ðức Mẹ và thánh Giuse đã sống nhiều năm.
Tại đó, Ba Ðấng đã sống gần gũi với Chúa Cha, với những người xung quanh và với những kẻ khổ đau một cách sống động.
6. Ðức Mẹ cũng hay dẫn đưa tôi tới nhiều nơi trên thế giới hôm nay, ngay tại Việt Nam, ngay tại Long Xuyên này.
Tại những nơi đó, Ðức Mẹ chỉ cho tôi thấy vô số gương sáng về người đi tìm. Họ đã gần gũi với Ðấng thiêng liêng, với những người xung quanh, nhất là với những kẻ khổ đau, một cách đơn sơ chân thành. Họ đi tìm bằng thao thức, chứ không bằng di chuyển.
7. Ðức Mẹ hay dẫn tôi dừng lại ở những con người thao thức đó, để cùng với họ, mà đi tìm ý Chúa và hướng đi cho cuộc đời mình.
Thực sự vô số những người đi tìm như thế đã nhận ra ý Chúa và phương hướng đời họ là được sống gần gũi với Chúa, với những người xung quanh, nhất là với những kẻ khổ đau, mà Chúa cho họ gặp trên đường đời.
8. Ðức Mẹ dạy tôi bằng những kinh nghiệm qua các chặng đường đi tìm. Nhờ vậy, tôi coi đi tìm là một ơn gọi. Tôi phải đi tìm, luôn luôn đi tìm. Phải coi đi tìm là một cách làm chứng cho Chúa.
9. Vì thế, hiện nay tôi vẫn là kẻ đi tìm.
Càng tìm, tôi càng cảm nhận thấy sống gần gũi là hạnh phúc đời tôi.
10. Hạnh phúc của tôi là cầu nguyện, và cầu nguyện là gần gũi với Chúa.
11. Hạnh phúc của tôi là phục vụ những người Chúa trao phó cho tôi. Phục vụ là gần gũi với họ, nhất là với những kẻ khổ đau.
12. Sống gần gũi, khi đã trở thành hạnh phúc, thì sự đi tìm gần gũi sẽ tự nhiên biến thành thao thức triền miên.
13. Từ đó, tôi nghiệm ra điều này: Nếu có lúc nào, tôi tự mãn cho mình là khỏi cần gì phải đi tìm, để rồi cứ nhởn nhơ giữa một thế giới đầy biến động, thì sẽ là một sai lầm lớn.
14. Sai lầm đó sẽ kéo theo nhiều sai lầm nghiêm trọng khác, nếu tôi lại coi sai lầm đó là thánh ý Chúa, để rồi tổ chức tạ ơn, ăn mừng vì đã tới đích.
Không, không. Tôi vẫn là kẻ phải đi tìm. Ði tìm từng giờ, từng phút, từng giây.
Ði tìm như thế, sẽ thấy mỗi ngày đều mới.
15. Từ những sai lầm đang nảy sinh trong việc đi tìm hiện nay, tôi thấy Ðức Mẹ cảnh báo các con cái Mẹ: Hãy tỉnh thức trước những phong trào đi tìm. Bởi vì sẽ có những phong trào đi tìm do Satan và tinh thần thế tục chủ trương. Vì thế, rất cần phân định nhờ Chúa Thánh Thần.
16. Riêng đối với tôi, đi tìm cũng đòi tôi phải phấn đấu rất nhiều. Trong phấn đấu có việc phải luôn học hỏi.
17. Cách riêng, tôi coi việc bồi dưỡng trí thức, là rất cần. Trí thức về triết học, thần học, kinh thánh, tu đức là điều không dễ.
18. Tôi cũng coi việc bồi dưỡng trí thức nhân bản là điều không thể thiếu. Nhân bản cần nhất là khiêm nhường và yêu thương. Hai điều đó thực không dễ chút nào. Trí thức về khoa học nhiều lúc cũng rất hữu ích.
19. Trong một thế giới càng ngày càng coi trọng vai trò của trí thức, nếu kẻ đi tìm thánh ý Chúa có trình độ trí thức cao, thì sự đi tìm của họ sẽ có một uy tín đáng nể.
Vì thế, Tòa Thánh luôn mong muốn việc đào tạo các kẻ đi tìm thánh ý Chúa phải có nền tảng trí thức sâu rộng về nhân bản, và về các khoa kinh thánh, thần học, triết học, giáo phụ, tu đức.
20. Là mục tử, tôi phải chọn lập trường. Chọn lập trường giữa một tình hình rối ren, là điều không dễ.
21. Chịu trách nhiệm trước Chúa, trước Hội Thánh, trước Quê Hương, về lập trường mình chọn, càng là điều không dễ chút nào. Tôi nhận ra điều đó một cách sâu sắc, những khi được gần gũi với Ðức cố Hồng y Roger Etchegaray.
22. Do vậy, tôi cần phải được đào tạo thường xuyên. Bằng học hỏi, đi tìm, suy ngẫm, cầu nguyện và nhờ đến sự giúp đỡ của những người chuyên môn, nhất là của cộng đoàn.
23. Vì thế, tôi tha thiết cầu chúc cho mọi kẻ đi tìm, trong đó có tôi, biết sống gần gũi với Chúa, với mọi người, nhất là với những kẻ khổ đau. Tất cả đều nhờ Ðức Mẹ.
Đã từ lâu rồi, nhưng nhất là lúc này, tôi hay lo lắng về số phận của tôi sau khi chết, vì tôi biết mình Bùi-Tuần 2041
1. Đã từ lâu rồi, nhưng nhất là lúc này, tôi hay lo lắng về số phận của tôi sau khi chết, vì tôi biết mình là kẻ rất tội lỗi.
Tôi dâng cho Mẹ những lo lắng đó của tôi. Đức Mẹ đã thương nhận và trả lời tôi thế này.
2. Đức Mẹ cho tôi thoáng nhìn thấy ở trên trời có nơi dành cho các kẻ tội lỗi được tha thứ. Nơi đó rất rộng, có rất nhiều chỗ.
Rồi Đức Mẹ nhắc cho tôi nhớ lời Chúa Giêsu đã phán xưa: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ. Thầy đi dọn chỗ cho các con… Thầy ở đâu các con sẽ ở đó với Thầy” (Ga 14, 2-4)
3. Tôi thắc mắc, sợ không có chỗ nào cho tôi, thì Đức Mẹ chỉ cho tôi thấy chỗ Chúa dành cho tôi là ở khu dành cho các kẻ tội lỗi được Chúa thứ tha.
Và tôi đã thấy. Chỗ đó ở giữa muôn vàn kẻ tội lỗi được Chúa tha thứ. Tất cả những người đó đều ca ngợi tình yêu thương xót Chúa.
Từ khi tôi được Đức Mẹ giúp nhìn thấy cảnh đáng mừng trên đây, tôi đã có những quyết định này:
4. Thứ nhất, nếu ở đời này, tôi bị nhiều người hoặc mọi người khinh chê, ruồng bỏ, nhìn tôi là kẻ khốn nạn đáng bị xa tránh, thì tôi xin vâng chịu sự xỉ nhục đó, bởi vì tôi là kẻ tội lỗi đáng phải đền tội. Nhưng tôi sẽ không ngã lòng. Bởi vì Chúa không bỏ tôi. Chúa còn dành cho tôi một chỗ trên Trời. Đúng là như vậy.
5. Thứ hai. Hằng ngày, tôi hãy vâng ý Đức Mẹ, mà coi viễn cảnh đó là một Tin Mừng cho tôi và cho mọi người yếu đuối, tội lỗi. Với Tin Mừng đó, chính tôi cảm thấy mình vẫn có khả năng góp phần phục vụ người khác, phục vụ Hội thánh, phục vụ Tổ quốc.
6. Thứ ba. Ngày nào, lúc nào tôi cũng hãy coi tội lỗi tôi là một thứ xấu xa cần phải tránh. Nhưng nếu tôi không đủ sức tránh, thì phải thành thực ăn năn sám hối để được ơn tha thứ. Trong sám hối phải rất khiêm nhường. Thánh Phêrô quả quyết: “Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5)
Chỗ ở trên Trời Chúa dành cho tôi và cho những kẻ tội lỗi được tha thứ, phải hiểu là dành cho những ai khiêm tốn ăn năn hối cải, tin cậy vào Chúa và yêu mến Chúa. Chứ không phải dành cho bất cứ ai đâu.
Vì thế, ngày nào, lúc nào, tôi cũng coi sám hối là việc đạo đức cần thực hiện nghiêm túc nhờ ơn Chúa giúp.
7. Thứ tư, lúc này hơn bao giờ hết, Đức Mẹ khuyên tôi hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Mẹ cho tôi thấy: Chớ tưởng mình có chỗ ở trên Trời, do Lòng thương xót Chúa, để rồi tự hào, tự mãn và ỷ lại.
Bởi vì bất cứ ai cũng có thể sẽ mất chỗ Chúa muốn dành cho họ ở trên trời, do họ sống sai ý Chúa. “Chỉ có kẻ nghe lời Chúa và đem ra thực hành, mới được lên Trời mà thôi” (x. Lc 8,33).
8. “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.” (Mc 14,38). Bởi vì chỗ ở trên Trời Chúa dành cho kẻ tội lỗi được thứ tha là do Lòng Chúa xót thương. Thế là Lòng Chúa xót thương nay đã trở thành một phong trào đạo đức bị nhiều người lạm dụng. Chắc chắn quỷ satan cũng không ở yên. Nó cũng tìm phá con đường Lòng thương xót Chúa, bằng mọi cách, kể cả cách tạo ra những bộ mặt lòng thương xót giả.
9. Thực tế hiện nay đang rối lên trong việc đòi hỏi và giới thiệu Lòng thương xót Chúa.
+ Người thì đề cao đức tin + Người thì đề cao đức mến + Người thì đề cao khiêm nhường + Người thì đề cao khôn ngoan + Người thì đề cao lòng quả cảm + Người thì đề cao sự vâng lời + Người thì đề cao những sáng kiến khác lạ với lòng đạo truyền thống
10. Tỉnh thức và cầu nguyện. Rồi hãy chờ đợi một cách khiêm nhường trong phó thác.
Tình hình đang rất nghiêm trọng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện nhiều, rất nhiều.
11. Đang khi đó, Đức Mẹ cho tôi thấy có nhiều vì sao từ trên Trời rơi xuống. Chứng tỏ sẽ có những bất ngờ đau đớn.
Nhưng, liền sau đó, ngay lúc tôi đang ngồi viết phần cuối bài chia sẻ này, tôi nhìn mấy cây trong sân trước phòng tôi, thì thấy một cây mai mới nở rộ nhiều bông hoa thật tươi đẹp. Đó là những bông hoa trái mùa. Vì hôm nay đang là tháng 7 trời mưa bão. Tôi coi đó là dấu chỉ của Lòng thương xót Chúa dành cho tôi và những ai nhờ Mẹ vững vàng tin mến Chúa, cho dù gặp muôn vàn trắc trở gian nan. Và trong tinh thần đó, tôi nhìn thấy chỗ dành cho tôi trên Trời.
12. Lúc này, tôi như trẻ thơ, chỉ biết bám vào Mẹ, để đi lên chỗ Chúa dành cho tôi trên Trời. Đơn sơ và phó thác trong khó nghèo tột bậc, nhưng vui và hy vọng tràn trề trong lòng Mẹ xót thương.
Hồi tôi còn là sinh viên du học tại Thụy Sĩ, ở Đại học Fribourg, một hôm, trong một hội nghị quốc Bùi-Tuần 2042
1. Hồi tôi còn là sinh viên du học tại Thụy Sĩ, ở Đại học Fribourg, một hôm, trong một hội nghị quốc tế tổ chức ở Đại học, vị thuyết trình đã nói: “Rất nhiều lần, tôi đã không xin Chúa cứu tôi cho khỏi những kẻ thù, mà là cho khỏi những người thân. Bởi vì chính những người thân lại làm khổ tôi nhiều nhất. Tha thứ cho những người thân là việc tất nhiên phải làm, nhưng đau đớn lắm.”
2. Những lời bộc lộ trên của vị thuyết trình đó làm tôi ngạc nhiên. Nhưng dần dần tôi thấy là đúng. Tha thứ cho những người thân nhiều khi gây đau đớn sâu xa cho bản thân tôi, nhất là khi những người thân đó vẫn dửng dưng tiếp tục làm khổ tôi như chuyện bình thường.
Nỗi khổ của tôi trong những trường hợp như vậy thật là rùng rợn.
3.
Tôi đem nỗi khổ đó đến Đức Mẹ, xin Mẹ thương cứu tôi. Đức Mẹ đã nhận lời. Mẹ đã cứu tôi.
4. Trước hết, Mẹ giúp tôi tha thứ cho họ một cách thực tình. Không những không oán hận gì họ, mà còn cầu xin Chúa thương ban cho họ được mọi ơn phần xác phần hồn theo lòng thương xót của Chúa. Tôi cũng cầu xin cho họ được ơn tha thứ cho tôi.
5. Thêm vào đó, Mẹ giúp tôi biến những nỗi khổ tôi chịu do họ gây nên, thành của lễ đền tội. Tôi nhận mình là kẻ tội lỗi, rất đáng phải phạt. Nên khi bị những người thân làm khổ, tôi coi đó là hình phạt Chúa gửi đến cho tôi. Tôi đón nhận trong đau đớn và phó thác. Chỉ mong những người thân đang làm khổ tôi sớm gặp được Chúa, mà trở về với Chúa thực tình.
6. Mấy ngày nay, Đức Mẹ hay nhắc cho tôi nhớ đoạn Phúc âm về sự tha thứ:
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ? Có phải bảy lần không ? Đức Giêsu đáp: Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 21-22)
7. Tôi hiểu Chúa dạy phải tha thứ luôn luôn, tha thứ mãi mãi, nhất là cách tha thứ phải thực sự yêu thương và khiêm nhường.
8. Tới đây, tôi sực nhớ tới những vị đã nêu gương sáng cho tôi về sự tha thứ cho những người thân.
9. Đức TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình có lần đã than thở với tôi thế này: “ Tối nào, tôi thấy ngày đó tôi chưa bị chửi, thì tôi ngủ không được. Tôi bị chửi dữ lắm, do nội bộ. Nhưng tôi tha thứ hết, và tôi được bình an.”
10. Đức Hồng Y F.X Nguyễn Văn Thuận tâm sự với tôi: “Tại Việt Nam có một thời gian dài, tôi bị ruồng bỏ, chối từ, do chính nội bộ. Nhưng tôi tha thứ hết, và tôi luôn sống trong hy vọng bình an”.
11. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trả lời câu hỏi của tôi: “Đức Thánh Cha có đau khổ không?”. Ngài nói: “Tôi đau khổ nhiều lắm, nhất là do chính nội bộ giáo phận Rôma của tôi. Tôi nói gì, họ cũng chống đối. Nhưng tôi tha thứ hết, và tôi luôn sống trong yêu thương tha thiết”.
12. Qua những gương sáng trên đây, tôi hiểu chuyện bị những người thân làm khổ là chuyện thời sự đớn đau vốn xảy ra, cho cả những bậc đạo đức, nhưng các vị đó đã vượt qua được nhờ ơn Chúa. Đặc biệt, tôi nhớ lại lời tiên tri Simêon đã nói về một lưỡi gươm sẽ đâm vào trái tim Đức Mẹ (Lc 2, 25), thì lưỡi gươm đó vẫn tiếp tục đâm vào trái tim các con của Mẹ trong mọi thời, mọi nơi.
13. Tôi biết mình không được như các vị đạo đức. Nên tôi hết lòng cậy tin vào Đức Mẹ. Xin Mẹ thương giúp tôi.
14. Đức Mẹ đã thương giúp tôi. Mẹ giúp tôi trực tiếp và gián tiếp qua những tấm lòng thương lo cho tôi. Tôi không sao tả ra được sự Mẹ đã và đang giúp tôi tha thứ, nhất là tha thứ cho những người thân.
15. Tôi biết điều này thực rõ. Tha thứ cho những kẻ khác là điều tôi cần thực hiện trong việc giữ đạo. Lúc thứ tha là khi được tha thứ.
16. Biết sống tha thứ, đó là một ơn rất trọng Chúa thương ban. Chứ tự sức mình, chúng ta khó có thể thực hiện được. Hồn thì tha thứ, nhưng xác thì không chịu nổi.
17. Khi tha thứ thực tình, chúng ta sẽ cảm nhận được hạnh phúc, nhất là đó chính là dấu chỉ chúng ta sẽ được Chúa tha thứ.
Tha thứ vẫn là việc đạo đức đòi tôi cần thực hiện mọi lúc, dưới sự hướng dẫn của Đức Mẹ, trong tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện.
18. Xưa, khi Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh giá Chúa Giêsu, Mẹ đã nghe con mình nói với Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Nay, Mẹ cũng ở bên tôi và Mẹ giục tôi hãy cùng với Chúa Giêsu nói lại lời đó: “xin Cha tha cho họ, vì họ lầm không biết”. Thế là sự tha thứ của tôi dành cho họ cũng là sự thông phần vào sự tha thứ của chính Chúa. Và khi tôi tha thứ là lúc tôi được thứ tha.
Tôi tha thứ. và xin mọi người cũng hãy tha thứ cho tôi.
Cầu nguyện của tôi là một hành trình dài. Ngay từ rất nhỏ, tôi đã cầu nguyện. Hồi đó, đối với Bùi-Tuần 2043
+ GB. Bùi Tuần
1. Cầu nguyện của tôi là một hành trình dài.
Ngay từ rất nhỏ, tôi đã cầu nguyện. Hồi đó, đối với tôi, cầu nguyện là nép mình và hòa mình vào cộng đoàn. Cộng đoàn là gia đình. Cộng đoàn gia đình làm phép lành cho tôi.
Lớn lên một chút, tôi cầu nguyện với cộng đoàn họ đạo.
Khi vào tu trong nhà cha xứ, tôi cầu nguyện với cộng đoàn nhà xứ.
Khi được vào chủng viện, tôi cầu nguyện với cộng đoàn chủng viện.
Thế nghĩa là cầu nguyện của tôi bao giờ cũng gắn liền với cộng đoàn.
2. Ngay hiện giờ, với tuổi tôi là 93, trong đó tuổi Giám mục là 45, tôi vẫn cầu nguyện cùng với cộng đoàn. Cách riêng tôi cầu nguyện cùng với cộng đoàn Giáo phận.
3. Cầu nguyện cùng với cộng đoàn Giáo phận là tôi xin hai Đức Cha, các cha, các tu sĩ nam nữ, các giáo dân gồm mọi thành phần làm phép lành cho tôi. Tôi nhớ lời Chúa phán xưa: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20)
4. Dù ở một mình trong phòng, ngồi hay nằm bất động, tôi vẫn cảm thấy mình ở giữa cộng đoàn đông đảo trong bầu khí ấm áp.
5. Đức Mẹ hay nhắc cho tôi nhớ. Hãy cầu nguyện cùng với cộng đoàn. Tôi đã làm, đang làm như Mẹ dạy. Kết quả là tôi cảm nhận được hạnh phúc từ cộng đoàn đem lại cho tôi.
6. Bây giờ, tôi xin đề cập tới một việc quan trọng hơn trong cầu nguyện, đó là đến với Chúa. Cầu nguyện là đến gặp Chúa. Đức Mẹ dắt tôi đến gặp Chúa thế này:
7. Đức Mẹ cho tôi nghe thấy chính Chúa gọi tôi. Chúa phán rất rõ: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Tôi thấy gánh nặng của tôi đã quá sức tôi. Và gánh nặng của những người khác mà tôi phải vác làm tôi chịu không nổi.
8. Tôi rất muốn đến với Chúa. Nhưng tôi quá yếu đuối. Nhận mình quá yếu đuối, không đủ sức đến với Chúa, tôi đã xin Chúa thương lôi kéo tôi lại với Ngài.
9. Và thực sự Chúa đã lôi kéo tôi. Chúa đốt lên trong tôi lửa khao khát Chúa, khao khát là một thứ lửa. Tôi khao khát được gặp chính Chúa. Khi đã được gặp Chúa rồi, tôi mới thấy Chúa là tình yêu thương xót.
10. Chúa gọi tôi đến với Chúa, là để cứu tôi. “Tôi thấy Chúa hiền lành và khiêm nhường” ( Mt 11,29). Chính vì thấy Chúa là tình yêu thương xót, hiền lành và khiêm nhường, nên tôi xin được ở lại với Chúa.
11. Trong thao thức đó, tôi mới thấy rõ sự thực về tôi, sự thực về Chúa.
Sự thực về tôi là: Tôi chẳng có gì, tôi chẳng là gì và tôi chẳng đáng gì.
Sự thực về Chúa là: Chúa là đấng giàu lòng thương xót, Ngài ban cho tôi mọi sự tốt lành một cách nhưng không.
12. Những gì tôi vừa chia sẻ trên đây tất nhiên còn rất nghèo nàn. Nhưng chỉ bằng ấy thôi cũng đã nói lên sự quan trọng của cầu nguyện, nhất là cầu nguyện nhờ Đức Mẹ.
Cầu nguyện cùng với cộng đoàn.
Cầu nguyện là đến gặp Chúa.
Đó là mấy điều quan trọng Mẹ đã dạy tôi.
13. Tới đây, tôi sực nhớ tới Đức Giáo Hoàng Benedictô XVI. Khi Ngài còn là Hồng Y, tôi đã được gặp Ngài nhiều lần. Ngài là con người cầu nguyện. Ngài cầu nguyện cùng với cộng đoàn, cầu nguyện của Ngài là gặp Chúa.
14. Tôi còn nhớ rất rõ một kỉ niệm sau đây:
Trưa hôm đó, có bữa ăn sau hội nghị. Tôi ngồi ở góc phòng với mấy Giám mục nước ngoài. Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, tức là Đức Benedictô XVI sau này, đến muộn, Ngài tìm một chỗ cho Ngài. Nhân lúc đó tôi đứng lên chào Ngài và hỏi: “Có người nói Đức Hồng Y không tin vào các hội nghị, có đúng không?”. Ngài trả lời: “Đúng, nếu hội nghị bàn bạc nhiều mà ít cầu nguyện. Tôi tin vào những người cầu nguyện”.
15. Tin vào những người cầu nguyện, đó là một lời khuyên quý giá, mà tôi không bao giờ quên. Tất nhiên những người cầu nguyện mà tôi tin, phải là những người biết cầu nguyện, như Mẹ dạy tôi. Chứ không phải bất cứ ai cầu nguyện đều được Chúa nghe lời đâu.
16. Chúa Giêsu dã nói rõ: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
17. Một Thánh Ý Chúa, mà Đức Mẹ cho tôi biết là: “Hãy cầu xin cho dân tộc Việt Nam được luôn là một dân tộc đạo đức. Hãy cầu cho Tổ quốc Việt Nam luôn là một đất nước đạo đức. Đạo đức theo nghĩa cao cả nhất, đầy đủ nhất.”
Sắp đến lễ Kính thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Tôi xin Đức Mẹ soi sáng cho tôi nên học điều gì Bùi-Tuần 2044
1. Sắp đến lễ Kính thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Tôi xin Đức Mẹ soi sáng cho tôi nên học điều gì nơi thánh nữ thành Lisieux.
Với một cách đơn sơ nhẹ nhàng, Đức Mẹ soi sáng cho tôi là hãy học nơi người nữ tu trẻ tuổi đó cách trở nên người đầy tớ trung tín và khôn ngoan của Chúa.
2. Rồi, Đức Mẹ cắt nghĩa cho tôi thế nào là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan bằng chính lời của Chúa.
Chúa Giêsu dạy: “Ai là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ đúng lúc?” (Mt 24,45).
3. Với lời Chúa trên đây, Đức Mẹ cho tôi hiểu thánh nữ Têrêsa thành Lisieux là người Chúa đã đặt lên coi sóc một nhóm nhỏ nhà Tập của Tu viện Dòng Kín.
Thánh nữ đã cấp phát lương thực cho nhóm tập sinh nhỏ. Lương thực đó là yêu mến Lời Chúa, yêu mến chính Chúa, yêu mến Đức Mẹ, để từ đó biết yêu thương mọi người.
4. Thánh nữ đề cao lòng mến, nhấn mạnh đến tình yêu: “Trong trái tim Hội thánh, em sẽ là tình yêu”. Đức tin cần để khởi đầu và hỗ trợ cho Đức mến.
5. Không nói ra, thánh nữ đã cùng quan điểm với thánh Phaolô:
“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.
Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.
Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1Cr 13,1-3)
6. Tất cả con người của thánh nữ Têrêsa là YÊU. Suốt cuộc đời thánh nữ Têrêsa cũng chỉ là YÊU.
Như vậy, thánh nữ thành Lisieux đã trở thành người đầy tớ trung tín và khôn ngoan của Chúa. Thánh nữ Têrêsa đã được Chúa dùng để nêu gương cho mọi người, cách riêng cho những người Chúa đặt lên để coi sóc đoàn chiên của Chúa.
7. Tôi là người Chúa đặt lên coi sóc đoàn chiên Chúa. Nên Đức Mẹ dạy tôi hãy nhìn gương thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, mà phục vụ đoàn chiên.
Tôi hết lòng muốn bắt chước. Nhưng bắt chước YÊU như thánh nữ thì đâu có dễ. Tôi xin Đức Mẹ giúp tôi. Đức Mẹ dạy tôi cũng hãy noi gương thánh nữ.
Thánh nữ YÊU trong những việc rất nhỏ. Thánh nữ YÊU trong cả những va chạm. Thánh nữ YÊU cả trong mọi ước muốn.
8. Mỗi lần đến Lisieux, tuy mắt tôi không nhìn thấy thánh nữ, nhưng tôi cảm thấy sâu sắc tôi được thánh nữ đón tiếp ân cần với tấm lòng yêu thương dạt dào. Và như vậy làm sao tôi có thể quên được thánh nữ.
9. Khi tôi làm luận án để lấy bằng Tiến sĩ Triết học tại đại học Fribourg bên Thụy Sĩ, tôi đã chọn đề tài: “Nguồn gốc đau khổ của tình yêu”. Nghĩa là YÊU thì phải khổ. Tôi viết theo các sách nghiên cứu và theo kinh nghiệm bản thân.
Đến khi tôi được tiếp xúc với thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, tôi thấy YÊU thì phải khổ, nhưng khổ vì YÊU là điều cao quý. Thánh Têrêsa đã chịu nhiều đau khổ cả phần xác lẫn phần hồn. Nhưng Ngài giấu những khổ đau đó dưới nụ cười thánh thiện.
Cũng như Chúa Giêsu, cũng như Đức Mẹ.
Người đầy tớ trung thành và khôn ngoan, mà Chúa muốn là phải như thế.
10. Mà để được như thế, tôi rất cần khiêm nhường, xin Chúa giúp.
YÊU là chuyện từ muôn thuở. YÊU là chuyện vẫn luôn mới.
11. Thánh nữ Têrêsa hay ôm trong tay tượng Chúa Giêsu treo trên thánh giá. Thánh nữ nhắc cho tôi: “YÊU là như Chúa Giêsu treo trên thánh giá. Hãy xin Chúa Giêsu ban ơn cho chúng ta được bắt chước Chúa”.
12. Tôi có cảm tưởng là dân Việt Nam
+ Rất nhạy bén với chữ YÊU. + Rất tự hào với chữ YÊU. + Rất coi YÊU là một giá trị thiêng liêng. + Rất lo cho YÊU trở thành một cõi quê hương đời đời. + Rất coi YÊU là một lĩnh vực có sức lôi cuốn để làm chứng cho tôn giáo.
Chính vì thế, tôi xin thánh Têrêsa thành Lisieux giúp tôi biết sống YÊU, cũng để đáp ứng cho tâm thức dân tộc Việt Nam yêu dấu của tôi.
13. Lúc này, hơn lúc nào hết, tôi cảm thấy cộng đoàn dân Chúa rất khao khát lương thực thiêng liêng có chất lượng, đó là lòng mến Chúa, lòng yêu thương con người.
Hãy theo gương thánh nữ Têrêsa thành Lisieux đáp ứng lại lòng khao khát đó.
14. Riêng tôi, tôi coi sự cố gắng cung cấp lòng yêu mến Chúa và yêu người cho đoàn chiên Chúa là một cách tôi trở về với Chúa: “Một Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8).
Và đó cũng là cách tôi diễn tả lòng biết ơn đối với thánh nữ Têrêsa thành Lisieux.
Con đường tu đức của tôi là trở về với Chúa. Ngày nào cũng vậy. Đức Mẹ vẫn nhỏ nhẹ nói với Bùi-Tuần 2045
1. Con đường tu đức của tôi là trở về với Chúa.
Ngày nào cũng vậy. Đức Mẹ vẫn nhỏ nhẹ nói với tôi:
“Con hãy trở về với Chúa”
Ngày nào cũng vậy, tôi luôn đến với Chúa, đơn sơ nói với Chúa: “Nay con trở về với Chúa”.
Trở về với Chúa là con đường tu đức, tôi không tự chọn, mà do Đức Mẹ chọn cho tôi. Mẹ chọn cho tôi. Và tôi cảm thấy như chính tôi tự chọn. Tôi thấy rất hợp với tôi. Tôi trở về với Chúa bằng những việc sau đây:
2. Việc thứ nhất là cầu nguyện.
Tôi cầu nguyện trong thân phận kẻ trở về được kể trong Kinh Thánh và trong lịch sử Hội Thánh.
3. Kinh Thánh Cựu Ước kể lại nhiều gương trở về, đặc biệt là thánh vương Đavít. Nhiều Thánh vịnh do vua Đavít để lại thực là đẫm lệ.
4. Kinh Thánh Tân Ước ghi lại nhiều gương trở về rất cảm động. Như Thánh nữ Mađalêna, Thánh Mátthêu, Thánh Phêrô, Thánh Phaolô. Đọc các thư của hai Thánh Phêrô và Phaolô, tôi cảm thấy tại sao Chúa lại chọn hai người trở về đó làm nền tảng để xây dựng Hội Thánh Chúa. Là vì hai Ngài gắn bó tuyệt đối với Chúa Giêsu.
5. Lịch sử Hội Thánh cũng sáng lên nhờ những gương kẻ trở về. Như Thánh Giám mục Augutinh, từ đời sống thế tục trở về. Như Thánh Phanxicô từ đời sống giàu sang trở về. Như Á Thánh Charles De Foucauld từ đời sống hoài nghi trở về.
6. Tôi hay cầu nguyện với các Thánh nổi tiếng ở con đường trở về, và tôi thấy các Ngài vui vẻ đón nhận tôi vào đại gia đình các kẻ trở về.
7. Việc thứ hai tôi làm để trở về với Chúa là sám hối.
Đối với tôi, sám hối là một thái độ về đau khổ. Ngày nào tôi cũng đau. Không đau nhiều, thì đau ít. Đau trong thân xác, đau trong tâm hồn. Tôi dâng mọi đau đớn đó của tôi cho Chúa. Tôi sợ đau đớn lắm. Nhưng Đức Mẹ thường khích lệ và an ủi tôi. Một trong những đau đớn của tôi là hay đợi chờ ở những người mình tưởng là thương lo cho mình, nhưng rồi thất vọng.
8. Cùng với những đau đớn đó, tôi đến với Chúa và nói: “Nay con trở về”. Chúa lập tức an ủi tôi. Chúa cho tôi thấy Chúa vẫn đợi tôi. Chúa đi tìm tôi.
Cứ như vậy, sám hối của tôi trở thành một thứ lương thực, vừa có đau đớn, vừa có ủi an. Vừa có đắng cay, vừa có ngọt ngào.
9. Việc thứ ba tôi làm để trở về với Chúa là cảm thương những kẻ khổ đau.
Tôi tin lời Chúa phán xưa: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40)
10. Chuyện các Thánh có kể nhiều lần Chúa hiện ra mặc hình kẻ đói khổ ăn xin, khách đi đường dừng lại cứu giúp, thì sau đó Chúa cho biết kẻ ăn xin đó chính là Chúa muốn thử lòng họ. Trùng hợp người sĩ quan tên Martin sau này thành Giám mục thành Reims là một ví dụ.
Cuộc đời Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta đầy những việc cảm thương dành cho những kẻ đói nghèo, Mẹ thánh coi đó là những bước trở về với Chúa.
11. Cảm thương những người khổ đau một cách tích cực và thành thực để trở về với Chúa, đó là việc nhiều người hiện đang làm tại Việt Nam hôm nay. Họ đang đánh thức lương tâm tôi. Bây giờ thì tôi hiểu thấm thía thái độ vô cảm trước những kẻ khổ đau chính là bước đi xa Chúa. Đừng bao giờ tôi là người vô cảm, kẻo sẽ rất khổ cho tôi.
12. Việc thứ tư tôi làm để trở về vơi Chúa là tỉnh thức trước những chuyển biến của tình hình.
Tình hình đang diễn biến rất phức tạp. Phong trào đạo đức giả đang bùng phát ở nhiều nơi. Khủng hoảng về niềm tin là rất lớn.
13. Xem ra đã bắt đầu chiều hướng quấy phá Đạo bằng các con rối. Riêng về vấn đề tu thân, thì nay đang xuống dốc rõ ràng.
14. Nếu chúng ta coi đó là bình thường, chẳng phải bận tâm, thì quả là kinh khủng. Vì thế, hãy tỉnh thức và chính chúng ta hãy nêu gương trở về với Chúa, coi việc trở về với Chúa là con đường tu đức tôi cần, mang tính cách đáp trả những gì Đức Mẹ nhắn nhủ ở Fatima, và cũng là cách chúng ta hiệp thông với các Đức Giáo Hoàng đương thời của chúng ta.
15. Trở về với Chúa là việc không dễ. Nhưng dù khó đến đâu, chúng ta vẫn thực hiện được, nhờ Mẹ Maria yêu dấu của chúng ta.
16. Xin hãy nhấn mạnh đến trở về với Chúa, trong mọi cơ hội, suốt thời gian đang tới. Bởi vì thời gian đang tới sẽ rất bất ổn với nhiều bất ngờ đáng sợ. Nếu sống trong tình trạng không trở về với chúa, thì chắc chắn sẽ khốn khổ, ngay cả đời này. Trái lại, sống trở về với Chúa sẽ được bình an, vững bền, nhờ Đức Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta.
Đời tôi là chuyến đi trở về với Chúa, nhờ có Mẹ dắt dìu che chở. Xin hết lòng cảm tạ Chúa. Alleluia.
Tháng 10 là tháng kính Đức Mẹ Mân côi. Tháng 10 năm nay đang bất ổn trầm trọng. Khủng hoảng Bùi-Tuần 2046
1. Tháng 10 là tháng kính Đức Mẹ Mân côi.
Tháng 10 năm nay đang bất ổn trầm trọng. Khủng hoảng lớn nhất hiện nay là về vấn đề thật giả. Ai là người cứu độ thật? Ai là người cứu độ giả?
2. Tôi xin Đức Mẹ giúp tôi. Đức Mẹ đã và đang giúp tôi phân định đơn sơ thế này:
Khi đề cập đến một người tôi cần biết, Đức Mẹ thường cho tôi một bước đầu nhẹ nhàng, đó là cảm thấy người đó có đặc điểm của Chúa Giêsu không. Đặc điểm đó là hiền lành và khiêm nhường, như chính Chúa Giêsu nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29).
3. Tôi như cảm thấy mùi thơm thiêng liêng toát ra từ người đó, nếu người đó thật sự hiền lành và khiêm nhường. Cảm nhận đó không thể cắt nghĩa được bằng lý luận. Nhưng rất đúng về mặt đạo đức.
4. Một bước đầu nữa cũng nhẹ nhàng Đức Mẹ cho tôi, để phân định một người, đó là cảm thấy người đó có biết sợ hỏa ngục không.
Phúc âm nói về hỏa ngục tất cả 60 lần. 20 lần một cách trực tiếp rất rõ. 40 lần một cách gián tiếp, nhưng cũng rõ.
Phúc âm cũng cho thấy những kẻ phải ném xuống hỏa ngục là một số đông. (x.Mt 7,13- 14).
5. Khi tôi cảm thấy một người có vẻ không biết sợ chính mình sẽ phải sa hỏa ngục, thì tự nhiên tôi đau xót. Tôi hiểu vì sao Đức Mẹ ở Fatima đã khuyên 3 trẻ đọc kinh này:
“Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Thương Xót Chúa hơn”.
Xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục, tức là phải biết sợ lửa hỏa ngục. Biết sợ lửa hỏa ngục là điều hiện giờ nhiều người đang quên. Đó là một khủng hoảng lớn rất nguy hại, mà chúng ta nên nhắc cho nhau lúc này.
6. Một bước đầu nữa cũng nhẹ nhàng, Đức Mẹ cho tôi, để phân định một người, đó là cảm thấy người đó có thực sự tin cậy vào lòng thương xót của Chúa không?
Bởi vì, chỉ ai thực sự thấy mình gặp nguy hiểm cực kỳ đáng sợ, thì mới thực sự kêu cầu đến lòng thương xót Chúa. Chứ nếu coi mình là thế nào cũng được cứu, thì đâu có thực sự kêu cầu đến lòng Chúa xót thương. Mà nếu Chúa thấy ai như vậy, thì kết quả sẽ ra sao?
7. Phải biết sợ mất linh hồn, phải biết sợ phải sa hỏa ngục. Đó là điều hiện nay nhiều người đang quên. Chính tôi cần nêu gương sáng về sự biết sợ. Biết sợ điều đáng phải sợ, đó là điều chúng ta nên biết và nên thực hiện.
8. Tôi là người hay sợ. Sợ không đúng cách là điều nên tránh. Đức Mẹ dạy tôi hãy đọc Phúc âm, tìm thái độ của Chúa Giêsu trong đêm hấp hối ở vườn cây Dầu.
Tôi thấy tại đó, đêm đó, Chúa Giêsu đã rất sợ:
+ Ngài đi tìm an ủi nơi các môn đệ của Ngài. + Ngài nói với các môn đệ theo Ngài: + “ Tâm hồn Thầy buồn đến chết được”. + “ Ngài sấp mặt xuống đất mà cầu nguyện” + Rồi Ngài nói với Chúa Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con, nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26, 38- 39). + “Mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44). + “Bấy giờ có Thiên Thần từ trời xuống an ủi và thêm sức cho Người” (Lc 22, 43).
9. Nhìn Chúa Giêsu sợ như thế trước đau khổ, tôi mới thấy: “Sợ trước đau khổ là điều không xấu, trái lại còn là điều nói lên thái độ khiêm nhường rất cần đến ơn Chúa xót thương nâng đỡ”.
10. Tôi đã nếm được điều đó một cách thấm thía. Nên tôi hay âm thầm để vọng lên trong tâm hồn tôi bài hát:
“Xin thương đỡ nâng con suốt cuộc đời, vì ngoài Chúa con đâu có ai lương nhờ…”
Khi để cho bài hát đó vọng lên tha thiết trong tâm hồn, tôi tuyên xưng: “Chỉ Đức Chúa Giêsu Kitô của tôi là Đấng cứu độ thực của tôi”.
11. Đồng thời, tôi cũng cảm nhận Đức Mẹ như là bầu khí thiêng liêng trong tôi. Bầu khí đó giúp tôi phân định bằng một thứ linh cảm thiêng liêng, nhẹ nhàng.
12. Suy nghĩ đến cùng, tôi thấy đó là ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ vậy, tôi nhận ra ơn cứu độ không phải là một lý thuyết, hay một kỹ năng, mà là một Đấng thiêng liêng, sống động, đã cứu tôi. Đó là Chúa Giêsu: “Hiền lành và khiêm nhường”.
13. Vì thế, tôi cần nhờ Đức Mẹ để luôn luôn sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu.
“Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,5).
“Hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9).
14. Tháng Mân côi đang là như thế trong tôi. Xin hết lòng cảm tạ Mẹ nhân lành. Xin Mẹ ban phép lành cho tất cả chúng con. Amen.
Thời sự xã hội hiện nay đặt nặng trách nhiệm cảnh báo những hiểm họa sắp tới. Thời sự Giáo Bùi-Tuần 2047
1. Thời sự xã hội hiện nay đặt nặng trách nhiệm cảnh báo những hiểm họa sắp tới.
Thời sự Giáo Hội hiện nay cũng phải thế. Những con cái Giáo Hội thấy có những hiểm họa sắp tới cho Giáo Hội thì không thể dửng dưng.
2. Đức Mẹ đang cho tôi thấy Giáo Hội sắp đi vào một thời kì có nhiều hiểm họa khủng khiếp. Tôi sợ, không muốn nhìn, và nhất là không muốn nói ra. Nhưng Đức Mẹ thúc giục tôi hãy coi sự la lên là một trách nhiệm.
3. Hiểm họa khủng khiếp thứ nhất là tái diễn cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Xưa, trên núi Sọ Chúa Giêsu đã đổ máu ra lai láng, toàn thân đầy máu. Còn Đức Mẹ thì khóc, nước mắt tuôn tràn.
Máu và nước mắt đó đã làm rung chuyển cả đất trời.
4. Nay, cảnh đau buồn đó sắp tái diễn một cách nào đó trong thế giới hôm nay.
- Sẽ có nhiều cảnh máu đổ. - Sẽ có nhiều cảnh nước mắt tuôn tràn.
Cảnh đau buồn đó sẽ có thể nhẹ bớt đi và rút vắn lại thời gian, nếu nhân loại sám hối, trở về với Chúa, và thực hiện những gì Đức Mẹ dạy.
5. Nhiều người đã thấy và đã nói lên. Tôi cũng được Đức Mẹ thúc giục: Hãy coi cảnh báo về hiểm họa khủng khiếp đó là một trách nhiệm.
6. Hiểm họa khủng khiếp thứ hai là cảnh hỏa ngục đã được Đức Mẹ cho 3 trẻ thấy ở Fatima.
Ngày 13 tháng 10 năm 1917 Đức Mẹ cho 3 trẻ thấy cảnh hỏa ngục kinh hoàng.
“ Hỏa ngục như một biển lửa. Nhào lộn trong biển lửa đó là ma quỷ và các linh hồn tội lỗi, trông giống các cục than hồng, đen đủi, xấu xí, những thân hình bị treo lơ lửng bị lửa thiêu đốt, kêu la trong đau đớn tuyệt vọng”.
Cảnh hỏa ngục đó khiến 3 em kinh hoàng, đến run rẩy, khiếp sợ, không nói lên lời, đã ngước mắt nhìn về Đức Mẹ, van nài để xin an ủi.
7. Cảnh hỏa ngục hãi hùng được Đức Mẹ cho thấy ở Fatima nay đang tới. Mỗi ngày có nhiều người bị ném vào biển lửa hãi hùng đó.
Vấn đề đặt ra cho tôi và cho chúng ta là phải hết sức tránh hỏa ngục. Thế thì phải làm gì?
Thưa phải thực hiện những gì Đức Mẹ đã dạy xưa nay, đó là sám hối, lần chuỗi mân côi, tôn sùng Trái tim Đức Mẹ, hy sinh và hoán cải đời sống.
8. Riêng về sám hối, chúng ta nên thực hiện thường xuyên một cách nghiêm túc.
Lịch sử cứu độ cho thấy: Khi hiểm họa tới, thì chỉ ai sám hối mới được Chúa cứu.
Như vậy, thời điểm sám hối đã tới rồi. Hãy sám hối ngay, kẻo sẽ quá muộn.
9. Sám hối không là chuyện dễ. Riêng tôi, tôi vẫn cầu xin cho tôi và những người thuộc về tôi được ơn sám hối.
10. Sám hối là một ơn Chúa ban. Điều quan trọng là Chúa ban, nhưng con người có tự do nhận hay không nhận ơn Chúa ban. Từ chối ơn sám hối là chuyện có thực. Chuyện đó vẫn xảy ra. Khủng khiếp lắm. Nên tôi luôn nhìn vào Đức Mẹ, xin Mẹ thương giúp tôi biết đón nhận ơn sám hối.
11. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi coi việc cầu xin ơn sám hối như là một thứ lương thực hết sức cần cho tôi. Chính Đức Mẹ dạy tôi như thế, Mẹ dạy tôi cũng hãy nhắc nhở cho mọi người điều đó.
Sám hối đang trở thành hơi thở của tôi.
12. Tôi xin mượn Thánh vịnh 51 (50) để nói lên tâm tình sám hối của tôi.
“Lạy Thiên Chúa,
xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm,
lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử. Ngài thấy cho: Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai...”
Giáo phận Long Xuyên sắp bế mạc kỷ niệm 60 năm được thành lập. Tôi nhận thấy mình có bổn Bùi-Tuần 2048
1. Giáo phận Long Xuyên sắp bế mạc kỷ niệm 60 năm được thành lập. Tôi nhận thấy mình có bổn phận phải nói đôi lời cảm ơn Đức Cha tiên khởi.
2. Tôi được chính thức đại diện cho giáo phận tỏ lòng biết ơn Đức Cha Cố Micae từ ngày 30/4/1975. Ngày đó Ngài xin rút lui, Ngài trao quyền lại cho tôi.
3. Việc đâu tiên tôi nghĩ mình phải làm là bảo vệ và gìn giữ Đức Cha từ nhiệm của tôi. Tôi đã làm với bốn cách sau đây:
4. Cách thứ nhất là hết sức xin chính quyền mới đừng đụng tới Đức Cha của tôi.
5. Cách thứ hai là hết lòng xin Tòa Thánh đừng cho Ngài được chính thức nghỉ hưu, nhưng cứ tại vị. Ngài vẫn là chánh, tôi vẫn là phó, tôi sẽ làm mọi việc thay Ngài.
6. Cách thứ ba là hết lòng xin Đức Cha Cố cứ mãi ở lại Tòa Giám Mục, ngay tại căn phòng mà Ngài thích.
7. Cách thứ tư là chân thành nhớ ơn tất cả những người thực lòng lo cho Đức Cha Cố của tôi.
8. Hôm nay nhìn lại bốn việc đã làm trên đây, tôi thấy tất cả đều do Đức Mẹ.
Đức Mẹ xui khiến tôi một cách dịu dàng, nhưng mạnh mẽ. Mẹ xui khiến tôi không phải tổng quát một lần, nhưng từng việc, từng chi tiết.
9. Mỗi khi được Đức Mẹ xui khiến, tôi lại được Đức Mẹ giúp phân định, để an tâm, tin điều mình làm là thánh ý Chúa.
10. Tôi rất sợ mình sai. Nên thường cầu nguyện. Thế rồi, Đức Mẹ trả lời, vừa trực tiếp trong lương tâm, vừa gián tiếp qua những con người Mẹ gửi đến.
11. Trong số những con người được Mẹ gửi đến giúp tôi phân định, có nhiều linh mục, lớn tuổi và ít tuổi, cũng có nhiều tu sĩ và giáo dân. Điều quan trọng là tôi biết tỉnh thức và lắng nghe.
12. Khi nghe thấy một lời khuyên của ai đó phù hợp với một Lời Chúa, thì tôi nhận ra người khuyên tôi đó, chính là người Chúa gửi đến với tôi.
13. Tuy nhiên, phải thú thực là rất nhiều lúc, tôi quá mệt mỏi, chẳng còn hứng thú gì để nhận ra ai là người Chúa sai đến với tôi. Tôi như buông xuôi. Tôi muốn trốn tránh mọi người.
14. Nhưng chính những lúc như thế, Đức Mẹ đã an ủi dắt dìu tôi.
15. Cứ như vậy, bây giờ tôi nhận ra điều này thực rõ: Chỉ một việc tỏ lòng biết ơn Đức Cha Cố Micae cũng là chuyện đâu có dễ dàng.
16. Chứng tỏ rằng: Biết ơn là một việc đạo đức hết sức quan trọng. Nhưng cũng là một việc hết sức khó.
17. Tới đây, tôi sực nhớ chuyện Chúa Giêsu chữa mười người phong cùi, nhưng chỉ có một người được khỏi đã đến tỏ lòng biết ơn Chúa, mà người đó lại là người ngoại đạo. Chúa phán: “Không phải cả mười người được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17,17-18).
18. Không chừng hôm nay Chúa cũng đang nhắc lại lời than phiền đó tại Giáo phận Long Xuyên.
19. Xin Đức Mẹ thương cứu chúng ta khỏi thói vô ơn.
Xin Đức Mẹ thương giúp chúng ta biết nhớ ơn, cảm ơn.
20. Riêng tôi, lúc này tôi đang tỏ lòng biết ơn đối với Đức Cha Cố Micae bằng nhiều cách, trong đó có cách này, đó là dâng những đau đớn xác hồn tôi đang phải chịu, để xin Chúa thương tha thứ cho tôi những lỗi lầm thiếu sót chẳng may tôi đã trót phạm, làm phiền lòng Đức Cha Cố.
Thực sự, tôi đang đau nhiều lắm. Những đau đớn nay sẽ giúp một vai trò quan trọng trong việc đền tạ.
21. Tôi đã nhận được rất nhiều ơn Chúa qua Đức Cha Cố Micae. Ơn trọng nhất là được biết sống Tin Mừng. Tin Mừng là Đức Giêsu Kitô.
Đức Cha Cố đã làm cho giáo phận nhiều nhà thờ, nhiều nhà trường, nhiều tổ chức lớn nhỏ. Nhưng Ngài cho thấy: Tất cả những cái đó đều có thể mất. Vì thế, Ngài tập trung vào việc xây dựng Tin Mừng trong mỗi người tín hữu. Tin Mừng là Đức Giêsu.
Ngài giới thiệu Tin Mừng bằng chính đời sống của Ngài. Ngài là hình ảnh Chúa Giêsu, hiền lành và khiêm nhường.
22. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi hay nhìn Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường nơi Đức Cha Cố Micae, nơi hai Đức Cha, Giuse Trần Xuân Tiếu, Giuse Trần Văn Toản và nơi những người khác. Những người ấy đang mang lại cho tôi nhiều an ủi và sức mạnh.
Đức Mẹ ở bên tôi đang nhẹ nhàng dắt tôi theo hướng đó.
Lúc này, mắt thân xác tôi mờ hẳn đi. Mắt tâm hồn tôi cũng mờ trầm trọng. Tôi như người mù thành Bùi-Tuần 2049
1. Lúc này, mắt thân xác tôi mờ hẳn đi. Mắt tâm hồn tôi cũng mờ trầm trọng. Tôi như người mù thành Giêrikhô xưa mà Phúc âm thánh Máccô đã ghi lại. Tôi kêu cầu Chúa Giêsu thương đến tôi.
2. Có một lúc, tôi cảm thấy như Đức Mẹ bảo tôi: “Con hãy đứng dậy, Chúa đang gọi con đấy”.
Rồi Đức Mẹ dắt tôi lại với Chúa Giêsu. Chúa hỏi tôi: “Con muốn gì”. Tôi thưa: “Con xin Chúa cho con được nhìn thấy”.
Chúa đã cho tôi nhìn thấy tôi là kẻ tội lỗi, còn Chúa là Đấng cứu độ tôi.
3. Gặp Chúa, tôi thấy những lời Chúa phán xưa về Chúa đều tuyệt đối đúng.
“Thầy không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi” (Mc 2, 17).
“Thầy không lên án chị đâu.Thôi, chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
Thế là tôi đã và đang được trở về với Chúa với nhiều an ủi.
4. Trở về với Chúa, đó là điều tôi thực hiện mỗi ngày. Nhưng sự trở về hiện giờ được tôi đón nhận với vài cảm nhận mới.
5. Cảm nhận thứ nhất là tôi cảm thấy một cách sâu xa, tôi là kẻ tội lỗi, rất khốn khổ, giống như người mù ngồi ăn xin ở vệ đường.
Nhận thức mình như thế khiến tôi trầm mình xuống vực thẳm khó nghèo, giúp tôi khiêm nhường.
6. Khiêm nhường, thì mới sám hối thực tình.
Khiêm nhường, thì sự trở về với Chúa mới được Chúa chấp nhận.
7. Khiêm nhường nhận mình tội lỗi là một khởi đầu tốt cho hành trình trở về với Chúa.
Về điểm đó, tôi nhận thấy nhiều gương sáng rất dễ thương,
+ Như thánh vương Đavid, + Như thánh Phêrô và thánh Phaolô, + Như thánh Madalena, + Như thánh Mátthêu + Như thánh Augutinh.
8. Nhận mình tội lỗi, mà không thất vọng, nhưng kêu cầu Chúa, một cách khiêm tốn và kiên trì.
9. Thánh tông đồ Phêrô là kẻ trở về với Chúa, đã có kinh nghiệm sâu sắc về sự khiêm nhường, nên đã khẳng định: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.” (1Pr 5,5).
10. Thánh tông đồ Phaolô là kẻ trở về với Chúa, cũng đã khuyên nhủ chúng ta, hãy khiêm nhường như Chúa Giêsu:
“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá.” (Pl 2,6-8)
11. Khiêm nhường là điều rất cần, nhưng lại là điều rất khó. Khi tôi học khiêm nhường nơi Đức Mẹ và nơi Thánh Giuse, thì các Đấng giúp tôi. Tôi được an tâm.
12. Quỉ dữ Satan là tướng Kiêu ngạo thường lôi kéo người ta vào đạo binh của nó bằng những cám dỗ tinh vi về kiêu ngạo.
13. Xưa, Giuđa Iscariôt được Chúa Giêsu ban cho chức tông đồ, lại được Chúa trao thêm quyền quản lý, nhưng vì tự hào, tự đắc, nên Chúa để cho Satan nhập vào mình, ra đi, phạm tôi bán Chúa, để rồi kết thúc đời mình bằng tự treo cổ chết một cách khủng khiếp.
14. Muốn theo Chúa thì phải học nơi Chúa sự khiêm nhường. Chính Chúa cũng tự giới thiệu mình là kẻ hiền lành và khiêm nhường. “ Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.” (Mt 11,29)
15. Đức Mẹ luôn nhắc nhở tôi hãy xin Chúa cứu tôi khỏi kiêu căng dưới mọi hình thức. Đó là cảm nhận thứ nhất tôi nhận được từ Đức Mẹ.
16. Cảm nhận thứ hai là: Đức Mẹ dạy tôi hãy biết sợ những gì phải sợ.
17. Có lần, Đức Cố Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đã hóm hỉnh nói với tôi: “ Nhiều Linh mục đang là những người không biết sợ:
Không sợ giáo dân, Không sợ Giám mục,
Không sợ chính quyền, Không sợ cả Thiên Chúa. Thế là hư hỏng rồi!”
18. Rất may Đức Mẹ giúp tôi trở nên người biết sợ, nhất là biết kính sợ Chúa.
Tôi tin Chúa giàu lòng thương xót, nhưng không vì thế, mà tôi cứ phạm tội.
Không những thế, hằng ngày tôi vẫn sám hối về những tội tôi phạm trong ngày. Thực sự, tôi không thấy hết những tội của tôi. Nhưng Chúa thấy rất rõ. Nên tôi sám hối, xin Chúa tha thứ. Đôi lúc, tôi quá sợ sự yếu đuối của tôi. Tôi càng quá sợ cho những người khác.
19. Sợ hãi làm tôi mệt mỏi. Nên tôi luôn bám vào Đức Mẹ.
20. Tôi bám vào Đức Mẹ bằng đủ mọi cách, thí dụ luôn mang theo mình chuỗi hạt mân côi, luôn thầm đọc kinh Kính mừng, luôn gọi Mẹ qua nhớ lại những bài hát về Mẹ, luôn nhìn các ảnh tượng xung quanh mình, luôn nói chuyện với Mẹ và nghe Mẹ nói với tôi bằng đủ mọi cách dịu dàng, đơn sơ của người Mẹ rất gần gũi bên tôi. Đặc biệt, tôi luôn phó thác mình tôi và những người thuộc về tôi cho Đức Mẹ. Tôi dâng cho Chúa mọi đau đớn tôi chịu hiện giờ, để cầu cho các đồng bào yêu dấu của tôi đang phải chịu biết bao thử thách.
21. Tôi tin, sẽ có một lúc nào đó, Đức Mẹ sẽ nói với tôi: “Chúa gọi con đấy, hãy đứng dậy”, Đó là lúc tôi chết.
Tôi chết, nhưng là lúc tôi đứng đây một cách thiêng liêng, để trở về với Chúa của tôi. Đời tôi là một chuyến đi trở về với Chúa. Xin cảm tạ Đức Mẹ, Mẹ yêu dấu của tôi, và của chúng ta. Amen.
Giờ đây tôi đã 93 tuổi. Sức khỏe xuống cấp trầm trọng. Tôi được báo đây là giai đoạn cuối đời Bùi-Tuần 2050
1. Giờ đây tôi đã 93 tuổi. Sức khỏe xuống cấp trầm trọng. Tôi được báo đây là giai đoạn cuối đời.
Cuối đời của tôi là một bài ca ngợi khen Thiên Chúa. Tôi ca ngợi Chúa vì những gì đã nhận được và đã cho đi.
Do tội lỗi và do yếu đuối, tôi ví mình như người lữ hành từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, bị cướp trấn lột và bị đánh đập, mà Chúa Giêsu mô tả trong Phúc âm Thánh Luca (Lc10, 29- 37).
2. Nhiều người qua đường thấy tôi nằm ở vệ đường, nhưng bỏ đi. Chỉ có một người đã dừng lại, cứu tôi, đưa tôi vào quán trọ là Hội Thánh, nhờ chủ quán chăm sóc. Tôi đã được cứu thế nào, thì cũng lo cứu người khác như vậy.
Nhận được nhưng không, thì cũng cho đi nhưng không.
Những gì đã xảy ra cho tôi suốt cuộc đời của tôi là như thế đó. Tôi nói lên, để chia sẻ với những người tôi yêu thương.
3. Giờ đây nhìn lại đời mình là như thế, tôi tự hỏi: Người Samari tốt lành đó trong đời tôi là ai?
Chúa cho tôi thấy: Người đó là Đức Mẹ Maria. Chính Đức Mẹ đã được Chúa gửi đến để cứu tôi.
Gặp Đức Mẹ, tôi cảm nhận thấy yêu thương và khiêm nhường nơi Đức Mẹ là rất tuyệt vời.
4. Khác với nhiều người, vừa cứu, vừa điều tra, vừa chê, vừa chửi, Đức Mẹ thì vừa cứu, vừa chữa lành, vừa chúc phúc.
Yêu thương và khiêm nhường nơi Đức Mẹ đang đem lại cho tôi niềm an ủi và sự bình an.
5. Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, hay kể cho tôi nhiều chuyện về sự Chúa đã tha thứ là Chúa quên đi những tội đã tha, chứ không hễ có dịp là lại lôi tội đã tha ra mà mắng trách.
Tôi thấy Ngài đã nói với tôi thay cho Đức Mẹ. Chính Đức Mẹ cũng đã nhiều lần nhắc lại cho tôi điều này: Chúa không tích trữ các tội của tôi đã phạm để mà trừng phạt, nhưng Chúa đã tha thứ là xóa hết.
6. Tôi cũng đã thấy như vậy nơi Hội Thánh Chúa. Biết bao lần Hội Thánh Chúa đã thay mặt Chúa mà tha tội cho tôi. Vừa tha thứ, vừa chữa lành, vừa chúc phúc. Nhờ vậy, mà tôi bớt nặng lòng.
Được Hội Thánh tha thứ, tôi nhận ra Hội Thánh là Mẹ của tôi, Hội Thánh là hình ảnh Đức Mẹ Maria yêu dấu của tôi.
7. Yêu thương và khiêm nhường là bầu khí thiêng liêng tôi hít thở trong Hội Thánh Chúa. Bầu khí đó đã cảm hóa tôi, đã giúp tôi đổi mới chính mình.
8. Tới đây, tôi sực nhớ một mẩu chuyện nhỏ có liên quan đến Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Sáng hôm đó, tôi được mời đồng tế với Đức Giáo Hoàng. Thánh lễ có đông người dự. Sau Thánh lễ, các người đồng tế và các người tham dự Thánh lễ xếp thành vòng tròn trong một căn phòng rộng lớn, đợi Đức Thánh Cha ra.
Tôi đứng hàng đầu. Gặp tôi, Đức Thánh Cha nói ngay: “Cha thấy con không được khỏe. Con nên lo chữa bệnh đi”. Tôi trình với Ngài là tôi có mấy vấn đề muốn trình bày với Ngài. Ngài đáp: “Được”. Rồi Ngài tiếp tục đi gặp từng người suốt vòng người đứng chờ.
Chợt Ngài trở lại chỗ tôi đứng và nói một cách thân thương: “Con nên đi lo chữa bệnh trước đã, còn các vấn đề con muốn trình bày sẽ trình bày sau”.
Tôi cảm nhận thấy nơi Đức Thánh Cha hình ảnh Đức Mẹ. Thế là tôi đã nhận được toàn là yêu thương và khiêm nhường.
9. Để rồi, tôi được Đức Mẹ Khuyên: “Nhận được thế nào, thì cũng hãy cho đi như vậy.”
Điều Đức Mẹ khuyên tôi nghe thì dễ, nhưng thực hành thì khó. Tôi phải phấn đấu rất nhiều với chính mình.
10. Biết đau cái đau của người khác. Biết khổ cái khổ của người khác. Tôi được Đức Mẹ luôn nhắc đi nhắc lại điều đó. Hãy coi đó là một sự trưởng thành về đời sống thiêng liêng, nhất là về ơn gọi làm môn đệ Chúa.
11. Nếu hôm nay xét mình, mà không thấy mình biết đau khổ cái đâu khổ của người khác, thì đó là đâu phải sám hối rất nhiều.
12. Nếu được như Đức Cha Cassaigne còn bước thêm một bước nữa, đó là chia sẻ cuộc sống khổ đau của người khổ đau bằng cách hy sinh sống giữa người phong cùi. Hay như Mẹ Têrêsa Calcutta sống giữa, sống với và sống như những người khổ đau nghèo túng. Thì đó là những gương sáng, để tôi noi theo, được chừng nào hay chừng đó.
13. Tóm lại, tâm sự cuối đời của tôi là Thánh giá. Thánh giá là biểu hiện yêu thương và khiêm nhường trong hy sinh, từ bỏ mình. “Đây là cây Thánh Giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian”.