Làm vinh danh Thiên Chúa, đó là một khát vọng của người con Chúa. Khát vọng đó khởi đi Bùi-Tuần 1851
Làm vinh danh Thiên Chúa, đó là một khát vọng của người con Chúa. Khát vọng đó khởi đi từ tấm lòng gắn bó thường xuyên với Chúa. "Chúng con ca ngợi Chúa, chúng con chúc tụng Chúa, chúng con thờ lạy Chúa, chúng con tôn vinh Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa".
Để làm vinh danh Chúa, chúng ta nghĩ tới nhiều cách. Dù với cách nào, chúng ta cũng đều muốn gởi một sứ điệp cho những người xung quanh để họ thấy rằng: Chúa yêu thương chúng ta, Chúa cứu chuộc chúng ta.
Khi đã có một nhận định như thế trong việc làm sáng danh Chúa, chúng ta sẽ chọn lựa những cách nào thích hợp nhất. Chọn lựa tốt nhất và chắc chắn nhất là theo gương Đức Kitô. Dưới đây là vài chọn lựa.
1/ Chia sẻ khổ cực của lớp người hèn mọn
Vì yêu thương và để cứu chuộc chúng ta, Đức Kitô đã bước xuống. "Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế" (Pl 2,7).
Tại hang đá Belem, Người đã mặc lấy thân phận một hài nhi nghèo, nằm trong máng cỏ, giữa cánh đồng giá lạnh.
Tại Ai Cập, Người đã sống đời một kẻ chạy trốn thế quyền độc ác.
Tại Nagiarét, suốt mấy chục năm, Người đã lao động vất vả để kiếm sống giữa những người dân nghèo.
Trong ba năm đi giảng, Người vẫn sống nghèo, với các môn đệ nghèo.
Người thực hiện hình ảnh "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" một cách rất khiêm nhường.
Người chọn ở giữa những người hèn mọn, thấp kém, hèn hạ. Người trở nên một người như họ. Người chia sẻ thân phận của họ.
Tình yêu của Thiên Chúa là như thế đó. Yêu là ban tặng chính mình. Chính mình trở nên ẩn dật trong lớp người hèn mọn. Những người hèn mọn cảm thấy mình được gần gũi với Thiên Chúa. Một sự gần gũi thân tình, cụ thể trong mọi chi tiết đời sống.
Từ đây, những người hèn mọn trở thành một địa chỉ của Thiên Chúa. Hãy đến địa chỉ ấy. Ở đó có Chúa. Các thiên thần đợi ở đó, để dâng lên Thiên Chúa những người làm vinh danh Thiên Chúa theo gương Đức Kitô.
Đức Kitô còn làm vinh danh Thiên Chúa bằng cách cứu giúp những người cùng khổ.
2/ Cứu giúp những người cùng khổChúa Giêsu mang tên là Đấng Cứu Thế. Người thực sự là như thế. Trước hết, Người cứu những người cùng khổ. Phúc Âm ghi lại hình ảnh Đấng Cứu Thế gắn liền với đủ hạng người cùng khổ.
- Đức Kitô giải thoát những người bị quỷ ám. - Đức Kitô chữa lành những người bại liệt, đui mù, què quặt, câm điếc. - Đức Kitô cứu giúp những người phong cùi, đem họ về với cộng đoàn. - Đức Kitô làm cho kẻ đã chết được sống lại. - Đức Kitô đem hy vọng đến cho kẻ tuyệt vọng.
Đức Kitô cứu họ với tình yêu thương chan chứa. Tình thương cứu độ của Người nâng tâm hồn họ lên. Giữa họ và Chúa không còn xa cách. Họ cảm thấy mình được yêu thương.
Người cứu chữa tật nguyền, và cũng giải thoát khỏi mặc cảm. Tất cả những ai được cứu chữa đều cảm thấy mình được tự do tâm hồn và giá trị nhân phẩm.
Rất nhiều trường hợp, khi cứu chữa những người cùng khổ, Đức Kitô đã khen ngợi đức tin của họ. Đó là điều mà Người rất ít khi làm cho những người lành mạnh.
Rất nhiều trường hợp, khi đã cứu chữa xong, Đức Kitô liền vội trốn đi, ẩn mình nơi thanh vắng, để cầu nguyện. Tình yêu cứu độ khiêm nhường là thế.
Đối với Đức Kitô, việc cứu độ những người cùng khổ chính là dấu chỉ sự Người được sai đi. Người được Chúa Cha sai đi đem Tin Mừng cho những người cùng khổ. Chính vì thế, mà việc cứu độ của Người đã làm vinh danh Thiên Chúa.
Vinh danh Thiên Chúa còn được thể hiện bằng sự Đức Kitô giải thoát con người khỏi tội lỗi.
3/ Giải thoát con người khỏi tội lỗi
Vinh danh lớn nhất, mà Đức Kitô đã làm cho Thiên Chúa, là giải thoát con người khỏi tội lỗi.
Đức Kitô được Kinh Thánh ví như Con Chiên của Thiên Chúa. Con Chiên này gánh tội trần gian bằng cuộc đời khiêm tốn của mình, rửa tội trần gian bằng máu của mình, đền tội trần gian bằng cái chết của mình.
Thực sự, Đức Kitô đã làm hết sức để cứu con người khỏi tội lỗi.
Người vạch ra tội của cá nhân, tội của tập thể, tội của cơ chế.
Người cảnh báo hình phạt do tội gây nên là rất nặng nề. Hình phạt nặng nhất là phải chịu giam cầm trong hoả ngục đời đời.
Người răn đe đừng phạm tội. Nếu chẳng may lỡ phạm tội, thì phải sám hối, đón nhận ơn tha thứ và chịu đền tội.
Người cảnh giác cả đến việc phải đối phó với những cơn cám dỗ, những gương mù dẫn vào đàng tội.
Thậm chí, Người còn khuyên đi vào con đường hẹp, để tránh cạm bẫy, mà ma quỷ, thế gian, xác thịt giăng ra để lừa con người vào đàng tà.
Sau cùng, Người đã tình nguyện đi vào cuộc tử nạn đớn đau, kết thúc bằng hy sinh trên thánh giá, dâng mình làm của lễ tha tội và đền tội cho nhân loại.
Chính trên thánh giá, Đức Kitô đã làm vinh danh Thiên Chúa một cách tuyệt đối. Người chứng minh cho mọi người thấy tình yêu Thiên Chúa là rất khiêm nhường, rất vị tha quên mình.
***
Cái nhìn trên đây về hành trình của Đức Kitô dấn thân làm vinh danh Thiên Chúa chỉ là một thoáng mờ. Nhưng hy vọng nó cũng có thể kêu gọi chúng ta nên đi theo Đức Kitô trong mọi chương trình mưu tìm vinh danh cho Thiên Chúa chúng ta. Thời thế luôn phức tạp. Cạm bẫy càng ngày càng nhiều, kể cả trong những việc mà chúng ta tưởng là làm vinh danh Chúa.
Xin Đức Kitô thương giúp chúng ta luôn biết khiêm tốn đi theo bước chân của Người.
Truyền giáo là một lo toan của Hội Thánh Việt Nam hiện nay. Lo toan đó có vẻ lớn lao, nhất là Bùi-Tuần 1852
Truyền giáo là một lo toan của Hội Thánh Việt Nam hiện nay. Lo toan đó có vẻ lớn lao, nhất là khi được phát động với những khẩu hiệu, như một chiến dịch, như một phong trào. Bề ngoài coi thì sôi nổi, nhưng nếu không tỉnh táo, bên trong sẽ mang theo nhiều nguy hiểm, mà không hay biết.
Để tránh phần nào những nguy hiểm làm cho việc truyền giáo trở thành hời hợt, ở đây xin phép đề cập tới một điều kiện cần, đó là sự khiêm nhường.
Trước hết, phải khiêm nhường trước mặt Chúa.
1/ Khiêm nhường đối với Thiên Chúa
Trong Phúc Âm thánh Mátthêu, Chúa Giêsu phán: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về" (Mt 9,37).
Cánh đồng mà Chúa Giêsu nói ở đây ám chỉ những con người trong một vùng rộng lớn. Những con người này cần được cứu rỗi. Cứu rỗi là một công trình siêu nhiên. Phải nhờ ơn Chúa mới làm được. Vì thế, mà phải cầu nguyện, xin ơn với Chúa.
Cầu nguyện là điều Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta phải nhấn mạnh trong việc truyền giáo. Phải cầu nguyện một cách khiêm nhường, với ý thức rằng: Công việc truyền giáo là công việc của thánh ý Chúa. Chỉ khi chúng ta làm đúng những gì thánh ý Chúa muốn ta làm cho những người nơi đó, thì mới là truyền giáo đích thực.
Một điều thánh ý Chúa đòi là chúng ta phải là người Chúa sai đi. Người được Chúa sai đi thì luôn phải gắn bó với Đấng sai mình, coi việc thi hành thánh ý Chúa là lương thực của mình. Chúa Giêsu phán: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy" (Ga 4,34).
Phúc Âm cho thấy: Biết được đúng thánh ý Chúa là điều không dễ. Thực thi thánh ý Chúa mà mình đã biết cũng chẳng dễ dàng gì.
Thời Chúa Giêsu, những người Pharisêu, những người thông luật, cả đến các thượng tế cũng đã nhiều lần hiểu sai và làm sai thánh ý Chúa.
Đám đông cũng vậy. Chính các tông đồ Chúa trong nhiều trường hợp cũng đã không hiểu đúng ý Chúa, và đã làm sai ý Chúa.
Chúa Giêsu quả quyết: Bất cứ việc gì, dù bề ngoài được gọi là việc đạo đức, nếu làm sai ý Chúa, đều không được Chúa chấp nhận. Mà nếu không được Chúa chấp nhận, thì không được công phúc, có khi còn bị phạt.
Thời Giáo Hội sơ khai, trong những thư gởi các giáo đoàn, nhiều thánh tông đồ đã cảnh cáo về những việc làm sai ý Chúa, và về những người dạy sai giáo lý của Chúa.
Lịch sử truyền giáo suốt các thời kỳ của Giáo Hội đã ghi lại nhiều thành quả tốt, nhưng đồng thời cũng để lại không ít những sai lầm, mà hiện nay phải sám hối.
Tất cả đều chứng tỏ rằng: công việc truyền giáo phải luôn đi theo một định hướng do Chúa muốn. Định hướng đó là công cuộc cứu độ. Phải hợp tác với Chúa. Phải được Chúa sai đi. Phải nhân danh sự sai đi của Chúa. Nghĩa là phải rất khiêm nhường đối với Chúa.
Ngoài ra, còn phải khiêm nhường đối với những người khác.
2/ Khiêm nhường đối với mọi người khác
Trong Phúc Âm thánh Gioan, Chúa Giêsu phán: "Thầy sai anh em đi gặt những gì anh em không phải vất vả và làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả. Còn anh em, anh em được hưởng kết quả công lao của họ" (Ga 4,38).
Với những lời trên đây, Chúa Giêsu khuyên những người làm việc truyền giáo phải khiêm nhường đối với những người khác.
Trước hết, họ phải khiêm nhường đối với những người truyền giáo đi trước họ.
Truyền giáo là một công trình dài, do nhiều người kế tiếp nhau. Những người đi trước có thể là những nhà truyền giáo hoạt động, và cũng có thể là những người có đạo sống âm thầm. Sẽ không là nói quá, nếu cũng kể cả đến những nền văn hoá tốt và những người tốt, mặc dù họ chưa nhận được đức tin công giáo. Tóm lại, người truyền giáo được sai vào một thoáng của lịch sử dài. Lịch sử dài đó đã được tưới gội bởi biết bao mồ hôi, nước mắt của mọi thứ người, để có một hiện tại cho truyền giáo hôm nay.
Họ phải khiêm nhường đối với những người đi trước. Mà cũng phải khiêm nhường đối với những người đang truyền giáo xung quanh họ.
Công cuộc cứu độ trong truyền giáo là một công cuộc được Chúa trao cho nhiều người. Mỗi người đảm trách một việc nhất định, tại một nơi nhất định, trong một thời gian nhất định. Có người là Matta, phải vất vả với nhiều việc. Có người là Maria ngồi nghe Chúa dạy dỗ, cầu nguyện, lo đời sống nội tâm.
Trong truyền giáo, Chúa dùng những con người mà Chúa muốn. Xưa những người tai tiếng, như người đàn bà Samaria có 5 đời chồng, như Saolô hăng hái bắt đạo, họ cũng được Chúa gọi để đi truyền giáo. Nay cũng vậy, chúng ta phải trân trọng và biết ơn họ.
Nếu chúng ta được hưởng thành công nào, thì hãy khiêm nhường tự nhủ: tôi được hưởng kết quả công lao của nhiều người khác, tôi phải biết ơn họ.
Thiết tưởng, chúng ta cũng nên khiêm nhường đối với những người mà chúng ta được sai đến truyền giáo. Cảm ơn họ đã chấp nhận chúng ta. Biết ơn họ đã cộng tác với chúng ta. Nhớ ơn họ đã nâng đỡ chúng ta.
***
Để kết, chúng ta xin Chúa thương giúp chúng ta luôn biết sống khiêm nhường trong truyền giáo. Nhiều khi Chúa dùng những giải pháp khiêm nhường để giải quyết những vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn. Chúa thương kẻ khiêm nhường và chống lại kẻ kiêu căng.
Cúi xin Đức Mẹ Maria là người mẹ hiền từ khiêm tốn luôn đào tạo giáo dục chúng ta, để chúng ta biết sống khiêm nhường thực sự trước mặt Chúa và trước mặt mọi người.
Tại Việt Nam năm nay, tháng 10 là thời gian rộn ràng nhộn nhịp. Đời cũng như Đạo, đâu đâu Bùi-Tuần 1853
Tại Việt Nam năm nay, tháng 10 là thời gian rộn ràng nhộn nhịp. Đời cũng như Đạo, đâu đâu cũng tất bật với những kỷ niệm. Các tài liệu được tung ra tới tấp. Các hội nghị, hội thảo được tổ chức tưng bừng. Tất cả đều có tính cách gợi nhớ và gợi nhìn.
Trong xã hội Việt Nam
Trong xã hội, các gợi nhớ đều tập trung vào ngàn năm Thăng Long - Hà Nội. Những vùng đất, những nhân vật, những đình chùa, những bầu khí của thời lịch sử sang trang, nay được nhắc lại với tất cả tấm lòng trân trọng. Phương thức nhắc lại thực rất phong phú.
Cái khéo là nhân thể gợi nhớ thời xa xưa, lại thêm gợi nhìn vào thời nay, với hình ảnh một nước Việt Nam đang phát triển có nhiều phấn đấu mới, nhiều thách đố mới và nhiều hy vọng mới.
Những gợi nhớ về thời xưa và những gợi nhìn về thời nay là một công trình lớn, có quy mô rộng. Phần đông dân chúng, nếu không nắm bắt được chiều sâu tư tưởng, cũng dễ tiếp thu được những hình ảnh đẹp gây nên cảm xúc.
Một điều thiết tưởng nên để ý ở đây là: Những gợi ý và những gợi nhìn, tuy gây được một số cảm xúc nhất định với một số tư tưởng nhất định, chúng vẫn chưa đủ để thay đổi được nhiều những gì còn tồn đọng trong cõi vô thức của nhiều người Việt Nam.
Vô thức là cả một vùng tâm linh thầm kín. Nó thinh lặng chất chứa những khuynh hướng ngầm. Nó chôn sâu những khát vọng bị khống chế. Nó che giấu những tư tưởng bị dồn ép. Nó khắc ghi dấu vết những kỷ niệm đã lãng quên.
Một cõi vô thức như vậy thường rất sâu. Cõi tâm linh đó coi như thinh lặng, nhưng vẫn mạnh để ảnh hưởng đến những chọn lựa của con người.
Đàng khác, cuộc sống hiện nay đặt ra cho mỗi người nhiều vấn đề bức xức. Chúng gây nên những áp lực đè nặng lương tâm. Trong tình trạng như thế, nhiều người, nhất là những người nghèo, thường dễ coi nhẹ những niềm vui mà họ cho là xa vời. Những niềm vui ấy chỉ như làn gió thoảng mau qua. Con người vẫn cảm thấy như cô đơn với thân phận riêng mình.
Trường hợp cõi vô thức và đời sống cụ thể chưa được cải thiện thích đáng, thì những gợi nhớ và gợi nhìn, nếu chỉ ồn ào bề ngoài, sẽ khó gây được những kết quả sâu sắc về nội tâm. Ở phương diện này, các tôn giáo thường có nhiều lợi thế. Xin phép nói về Hội Thánh Công giáo tại Việt Nam.
Trong Hội Thánh Việt Nam
Tháng 10 này, Hội Thánh tại Việt Nam cũng nhộn nhịp khác thường.
Ngoài sinh hoạt tháng Mân Côi và sự kiện Fatima, còn có rất nhiều điều được gợi nhớ, gợi nhìn.
Năm Thánh Việt Nam sẽ gợi nhớ về lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, nhân dịp lễ truyền giáo.
Gợi nhìn vào mầu nhiệm của Giáo Hội, sự hiệp thông trong Giáo Hội, sứ vụ của Giáo Hội.
Năm thánh Việt Nam sẽ có một phần rất quan trọng trong tháng 10, với Hội nghị các Đức Giám mục Việt Nam. Đặc biệt nhớ lại 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam.
Những lễ lạy, những cuộc họp, những tài liệu của Giáo Hội tại Việt Nam có những gợi nhớ và gợi nhìn đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ gợi nhớ tới những gì đàng sau những kỷ niệm, và gợi nhìn những gì đàng sau những thực tại thấy được. Đó là Thiên Chúa và công trình cứu độ của Chúa.
Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Chúa được tỏ hiện cho chúng ta bằng nhiều cách. Những cách quen thuộc nhất chúng ta hay thực hiện để đón nhận Chúa và công trình cứu độ của Chúa là sự cầu nguyện, hồi tâm, sám hối, học hỏi suy niệm Lời Chúa, đời sống phục vụ yêu thương bác ái.
Những việc đạo đức trên đây là những cách chúng ta cộng tác với ơn thánh Chúa trong việc thánh hoá chúng ta. Ảnh hưởng của những việc đạo đức ấy rất sâu rộng. Qua những việc đó, chúng ta được gặp gỡ Chúa, được gần gũi Chúa. Chúng ta được Chúa đổi mới. Không những cõi ý thức được đổi mới, mà cả đến cõi vô thức cũng được thanh luyện. Ơn Chúa ngự trị và hoạt động trong tất cả con người chúng ta và đời sống chúng ta.
Thiết tưởng, nếu tháng 10 này, Hội Thánh Việt Nam chú trọng đặc biệt hơn đến các việc đạo đức vừa kể, thì đời sống nội tâm các tín hữu tại Việt Nam sẽ bừng cháy lửa mến Chúa yêu người. Hội Thánh sẽ có một bộ mặt thánh thiện hơn, phản ánh trung thực hơn Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Kết quả đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc góp phần xây dựng và bảo vệ quê hương Việt Nam về mọi mặt, đặc biệt là trong lãnh vực đạo đức.
Hy vọng là như vậy. Hy vọng đó còn tuỳ thuộc ở sự chúng ta có thực hiện những việc thực sự đạo đức hay không.
Nếu chẳng may chúng ta lại quá chú trọng đến những hoạt động bề ngoài, thì kết quả sẽ không hơn gì những hoạt động bề ngoài của xã hội. Có khi lại còn thua kém là đàng khác.
Rất có thể, sau tháng 10 này nói riêng và sau Năm Thánh Việt Nam này nói chung, Hội Thánh Việt Nam sẽ cảm thấy mình không huy hoàng như trước.
Không thiếu thốn nhiều về vật chất, nhưng sẽ thấy mình thiếu tinh thần nghèo khó của thánh giá Chúa Giêsu.
Không thiếu người hoạt động, nhưng sẽ thấy mình thiếu người sống nội tâm.
Không thiếu người thành thạo văn hoá Âu Mỹ, nhưng thấy mình thiếu người trí thức dấn thân sâu vào văn hoá Việt Nam.
Không vất vả do xã hội gây nên, nhưng sẽ thấy mình chật vật do nội bộ bị phong trào tục hoá tấn công.
Đó sẽ là một thời kỳ Chúa thanh luyện Hội Thánh một cách mạnh mẽ hơn. Hội Thánh sẽ biết rõ mình hơn, sẽ bám vào Chúa nhiều hơn, sẽ đi sâu hơn vào văn hoá Việt Nam.
Tuy sao, nếu tháng 10 này, chúng ta quyết tâm trở về với Chúa một cách chân thành, Chúa sẽ cho chúng ta thấy tương lai của chúng ta sáng sủa, có khả năng góp phần vào việc làm chứng cho Chúa, theo gương Đức Mẹ Maria yêu dấu của chúng ta.
Đi vào lòng xã hội, đó là điều cần của truyền giáo. Xã hội Việt Nam hôm nay đang chuyển biến. Tình Bùi-Tuần 1854
Đi vào lòng xã hội, đó là điều cần của truyền giáo.
Xã hội Việt Nam hôm nay đang chuyển biến. Tình hình đang trở nên rất khác, nếu so sánh những năm trước với năm nay.
Trước những chuyển biến đó, việc truyền giáo có cần đổi mới hay không? Nếu cần, thì phải đổi mới thế nào? Đó là điều xin phép chia sẻ.
1/ Tình hình đang chuyển biến
Một chuyển biến rõ nhất, mà truyền giáo cần biết, đó là sự phát triển tâm thức tôn giáo và hiện tượng nở rộ các hoạt động tôn giáo.
Tâm thức tôn giáo là sự tâm hồn con người hướng về thế giới thần thiêng.
Thế giới thần thiêng có thể là ông bà, tổ tiên, các thánh hiền, các vị anh hùng, tất cả những ân nhân đã khuất.
Thế giới thần thiêng cũng có thể là những vị thần trong vũ trụ, mà dân gian tin là hiện hữu và có sức mạnh phù trợ con người.
Tâm hồn con người Việt Nam đang như được đánh thức bởi thế giới thần thiêng. Sự phát triển các lễ hội không chỉ là một phát triển văn hoá, mà cũng là phát triển tâm thức về thế giới thần thiêng. Hiện tượng đó được nhận thấy ở những lễ nghi và những cầu kinh mang màu sắc tôn giáo, thường đi kèm với các lễ hội tại Việt Nam ít lâu nay.
Cùng với sự phát triển tâm thức tôn giáo, có sự phát triển các tôn giáo. Nhiều tôn giáo được ghi nhận. Mỗi tôn giáo đều tìm cách phát triển, về cơ sở, nhân sự, tổ chức, hoạt động, đất đai, ảnh hưởng.
Sự phát triển tâm thức tôn giáo và sự phát triển các hình thức tôn giáo nay được coi là một vẻ đẹp thiêng liêng của dân tộc.
Hơn nữa, tôn giáo đang được dư luận đánh giá như một nhu cầu của hạnh phúc con người Việt Nam. Cả đến những người thành đạt trong lãnh vực kinh tế, chính trị thường cũng coi tôn giáo như một điểm tựa tinh thần.
Có thể nói, phần đông người Việt Nam hôm nay đang hướng về một cõi thiêng liêng thần thánh, để ổn định đời mình và đời con cháu của mình.
Như thế, sự tìm đến tôn giáo sẽ là tất nhiên. Khi có nhiều tôn giáo khác nhau, người ta sẽ chọn một tôn giáo nào thích hợp nhất đối với họ. Tôn giáo thích hợp nhất thường được hiểu là tôn giáo có cơ cấu nhẹ nhàng, nhưng lại mang nhiều giá trị cao đẹp.
Khi so sánh các tôn giáo, để chọn lựa, nhiều người thấy có tôn giáo nổi về từ thiện bác ái, có tôn giáo nổi về thực chất tu hành, có tôn giáo nổi về khấn cầu suy niệm. Chưa chắc Công giáo đã được chọn lựa.
Nói tóm lại, tình hình tôn giáo tại Việt Nam hôm nay đang chuyển biến. Tình hình tôn giáo như thế mang nhiều thách đố đối với đạo Công giáo. Một trả lời tốt nhất cho mọi thách đố đó, thiết tưởng là đổi mới lại cách giới thiệu Tin Mừng.
Khi Tin Mừng là chính Đức Giêsu Kitô, thì cách giới thiệu có thể là trình bày các tài liệu về Chúa, các tổ chức đạo, các cơ cấu đạo, các hoạt động của đạo. Nhưng cách tốt nhất thiết tưởng là giới thiệu Đức Kitô qua chính bản thân những người giới thiệu.
Ở đây, chỉ xin nói đến sự người giới thiệu đã đón nhận Đức Kitô vào con người của họ thế nào, để có thể hiểu Đức Kitô sống và hoạt động trong họ.
2/ Đón nhận Đức Kitô
Thái độ căn bản của sự đón nhận Đức Kitô là khiêm nhường, khó nghèo và khao khát, cởi mở.
a) Trước hết là việc cầu nguyện.
Cầu nguyện chủ yếu là gặp gỡ Chúa, để lắng nghe Chúa, để nhìn ngắm Chúa, để đón Chúa vào tâm hồn, để Chúa ngự trị, và đổi mới tâm hồn.
Cầu nguyện như thế bao giờ cũng đòi một sự hoán cải đời sống và thuận theo thánh ý Chúa trong mọi sự. Đó chính là nguồn trào lên tâm tình ca ngợi tạ ơn. Cầu nguyện như thế không chỉ là đón nhận ơn Chúa, mà còn là đón nhận chính Chúa. Chúa cho họ được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống ấy là tình yêu cứu độ.
Một thoáng nhìn về sự cầu nguyện trên đây sẽ thúc giục chúng ta chỉnh đốn lại việc cầu nguyện và phụng vụ. Phải hết sức tránh bất cứ những gì tục hoá làm mất đi sự linh thiêng của phụng vụ và những buổi cầu nguyện.
Người biết cầu nguyện sẽ dễ đem Đức Kitô đến với những người khác. Một Đức Kitô đầy tình yêu thương xót.
b) Một cách nữa để đón nhận Đức Kitô là nếp sống khó nghèo.
Ngôi Hai xuống thế làm người đã mặc lấy thân phận con người nghèo khó, suốt đời sống từ bỏ ý riêng để thực thi thánh ý Chúa Cha.
Trước khi đi truyền giáo, Người đã vào sa mạc để cầu nguyện suốt 40 ngày đêm. Ở đó, Người bị cám dỗ về của cải.
Quỷ đưa ra ba quyền lực, để Người có thể dựa vào, mà truyền giáo. Quyền lực kinh tế. Quyền lực thần thiêng. Quyền lực chính trị. Ba cám dỗ dầu hấp dẫn, xem ra có lợi cho người truyền giáo. Nhưng Chúa Giêsu đã dứt khoát chối từ. Người chọn sự khó nghèo, Người từ bỏ mọi quyền lực. Bởi vì sức mạnh của Người chỉ là tình yêu, một tình yêu cho không, một tình yêu hiến dâng trọn vẹn, đến mức chịu chết trên thánh giá, để đền tội cho nhân loại.
Người truyền giáo hôm nay cũng sẽ đón nhận Đức Kitô vào đời mình bằng tinh thần nghèo khó như thế. Để rồi, họ sẽ trở thành những người canh thức, giúp mọi người vượt qua sự thống trị của các quyền lực nguy hiểm, để dễ đón nhận Đức Kitô là Đấng cứu chuộc loài người chỉ bằng tình yêu chấp nhận hy sinh đến cùng.
c) Cách sau cùng để đón nhận Đức Kitô là đời sống bác ái.
Yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, đó là dấu chỉ để nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa. Hiện nay người ta để ý nhiều đến bác ái của người công giáo đối với nhau, đối với những người ngoài Hội Thánh, nhất là đối với những người nghèo khổ, bệnh tật, bị tai nạn, và bị tội lỗi xiềng xích. Nhiều người chưa hài lòng với hiện tình bác ái của Công giáo.
Thái độ bác ái sẽ mở lòng ra đón Chúa Giêsu. Khi có Chúa trong mình, người truyền giáo sẽ dễ gần gũi với mọi thứ người. Họ sẽ có uy tín, để giới thiệu Đức Kitô, Đấng đã và đang nói với từng người: "Những ai đang mệt mỏi và gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho" (Mt 11,28).
Những thách đố đặt ra cho việc truyền giáo tại Việt Nam hôm nay là rất quan trọng. Thiết tưởng sẽ chỉ có thể trả lời cho những thách đố ấy một cách có hiệu quả bằng cách chúng ta cương quyết hoán cải đời sống, luôn trở về với Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, và hân hoan sống triệt để với Tin Mừng duy nhất ấy. Đó là khởi đầu của truyền giáo. Truyền giáo là một hành trình dài. Mỗi bước đi của hành trình dài đó sẽ phải là mang Đức Kitô là tình yêu cứu độ đến cho mọi người.
Chúa nhật vừa qua (24-10-2010), mọi nơi trong Hội Thánh Việt Nam đều tổ chức lễ Truyền giáo một Bùi-Tuần 1855
Chúa nhật vừa qua (24-10-2010), mọi nơi trong Hội Thánh Việt Nam đều tổ chức lễ Truyền giáo một cách trọng thể. Dịp này, nhiều nơi Công giáo đã tự thuật. Với nhiều hình ảnh khác nhau, như một Hội Thánh chiến thắng, một Hội Thánh tự vệ, một Hội Thánh phát triển, một Hội Thánh bất khuất, một Hội Thánh của các thánh tử đạo, một Hội Thánh của Đức Mẹ La Vang.
Tự thuật là công khai. Nội bộ Công giáo nghe. Người ngoài Công giáo nghe. Các tôn giáo khác nghe. Các khuynh hướng chính trị cũng nghe. Tại một số nơi phản ứng nhận thấy là không mấy thuận lợi cho việc truyền giáo nói riêng và cho Hội Thánh Công giáo nói chung.
Đang khi đó, một bầu khí phấn khởi chan hoà đã được nhận thấy ở những nơi lễ Truyền giáo được tổ chức với những hình ảnh dễ đi vào lòng người. Đó là hình ảnh về Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót, và hình ảnh về người công giáo phục vụ bác ái.
Lễ Truyền giáo đã qua rồi. Nhưng công việc truyền giáo vẫn tiếp tục. Vì thế, xin suy nghĩ thêm về hai hình ảnh đã gây được nhiều ảnh hưởng tốt trong lễ truyền giáo. Mục đích là để gợi ý cho người truyền giáo thêm động lực và sáng kiến trên cuộc hành trình dài của sứ vụ loan báo Tin Mừng tại Việt Nam hôm nay.
1/ Hình ảnh vê Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót
Hình ảnh này được chính Chúa mạc khải trong Phúc Âm. Chúa là người Cha. "Cha chúng con ở trên trời, Đấng khiến mặt trời mọc lên cho những người lành và những kẻ dữ, Đấng làm mưa xuống cho những người công chính và những người tội lỗi" (Mt 5,45).
Thiên Chúa là "Đấng nhân hậu với cả những người vô ân và độc ác" (Lc 6,35).
Thiên Chúa là Đấng còn đi xa hơn lòng nhân hậu, khi dạy chúng ta rằng: "Thầy bảo anh em, đừng chống cự người ác. Nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa" (Mt 5,39).
Thiên Chúa Cha đã sai Con mình xuống thế làm Đấng cứu thế. Chúa Cứu thế đã hạ mình xuống đến bậc thấp nhất, chia sẻ thân phận khổ đau của con người, đã dâng mình chịu chết trên thánh giá, để đền tội cứu chuộc nhân loại.
Thiên Chúa là Đấng đã hứa: "Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho" (Mt 7,7).
Chúa Cứu thế là Đấng thực hiện lời ngôn sứ Isaia đã nói xưa: "Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dầu cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha. Cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức" (Lc 4,18-19).
Trên đây, chỉ là vài nét về Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót rút ra từ Phúc Âm. Còn những chứng từ xưa rày về lòng thương xót Chúa thì vô kể. Những thánh ca ngợi khen Thiên Chúa tình yêu càng ngày càng phong phú.
Giới thiệu Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót chỉ là bước đầu của truyền giáo. Bước tiếp theo, là giúp người ta đến với Chúa tình yêu. Đến để cùng Chúa mà thương yêu mọi người.
Ngoài việc giới thiệu Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót, người truyền giáo còn giới thiệu người tin theo Chúa hôm nay.
2/ Hình ảnh về người tin theo Chúa giàu lòng thương xót
Họ là người sống điều răn mới của Chúa Giêsu: "Thầy ban cho các con một điều răn mới, là chúng con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 15,12).
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, trong thông điệp "Thiên Chúa là bác ái" công bố ngày 25/12/2005, đã mô tả người môn đệ Chúa sống bác ái sẽ phải thế này:
Họ là những người đã được Chúa Kitô chinh phục bằng tình yêu, đã được Chúa Kitô đánh thức trong lòng họ tình yêu đối với tha nhân.
Họ là những người có thể nói như thánh Phaolô: "Tình yêu Đức Kitô thúc giục tôi" (2 Cr 5,14).
Họ là những người ý thức sâu xa rằng: Thiên Chúa đã ban tặng mình cho họ, đến chết vì họ. Ý thức đó đưa họ đến việc không còn sống cho mình, mà chỉ sống cho Chúa và với Chúa vì những kẻ khác.
Như thế, người tin theo Thiên Chúa giàu lòng thương xót luôn tìm nguồn bác ái nơi Thiên Chúa, để rồi họ yêu thương nhau trong nội bộ, và phục vụ mọi người với chính sự sống bác ái của Chúa, mà Chúa chia sẻ cho họ.
Sự sống bác ái đó không đồng nghĩa với việc làm việc từ thiện. Thánh Phaolô viết: "Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có bác ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi" (1 Cr 13,3).
Sự sống bác ái không dừng lại ở những việc từ thiện, mà còn đi xa vào những lãnh vực sâu của con người và xã hội.
Sự sống bác ái của Chúa trong họ chính là hồn và là động lực của mọi lời nói, việc làm, thái độ và mọi chọn lựa trong mọi tương quan. Đến nỗi có thể nói: Khi họ yêu thương bác ái đối với người khác, thì họ không những yêu thương bác ái đối với người ấy, mà họ còn đã yêu thương bác ái đối với chính Chúa Giêsu (x. Mt 25,34).
3/ Truyền giáo bằng bác ái là một thách đố
Một thoáng nhìn trên đây về truyền giáo bằng bác ái cho phép chúng ta nhận định thế này: Truyền giáo bằng con đường bác ái là một chọn lựa hay và đúng, nhưng mà khó. Khó nhất là vì chính người truyền giáo nhiều khi không có đủ sự sống bác ái trong bản thân mình.
Chúng ta chưa sống thực sự mật thiết với Chúa Giêsu. Chúng ta chưa cảm nghiệm được tâm tình yêu thương của Chúa. Chúng ta chưa chia sẻ được thực sự mầu nhiệm thánh giá trong tình yêu cứu độ của Chúa. Chúng ta chưa thực sự yêu thương người khác, như Chúa đã yêu thương chúng ta.
Người truyền giáo đáng lẽ phải thường xuyên đào tạo chính mình để nên giống Chúa Kitô là tình yêu cứu độ, thì rất nhiều khi, chúng ta lại quá lo những việc bề ngoài, mà lơ là việc chăm lo đời sống nội tâm.
Một vị giáo sĩ chuyên về linh đạo mới nói với tôi: Ngài đi rất nhiều nơi trong một miền rộng lớn của Hội Thánh Việt Nam. Ngài tiếp xúc với rất nhiều người. Ngài thấy nhà thờ nhiều, cơ sở tu cũng nhiều. Nhưng mà hầu như không gặp được chân dung sống động của Chúa Kitô.
Nghe tâm sự đó, tôi rất buồn. Nhất là đúng lúc tôi đang lo và buồn, vì hiện tượng phân hoá và tục hoá tại nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam. Nhưng, biết buồn biết lo cũng là một khởi đầu cho niềm hy vọng. Chứ tự đắc và vô cảm thì coi như không còn hy vọng. Hy vọng chính đáng nhất của người truyền giáo là: "Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời". Những nơi như thế vẫn là những niềm hy vọng của Tin Mừng.
Công đồng Vatican II tuyên bố: "Mẹ Giáo Hội không ngừng khuyên giục con cái thanh tẩy và Bùi-Tuần 1856
Công đồng Vatican II tuyên bố: "Mẹ Giáo Hội không ngừng khuyên giục con cái thanh tẩy và canh tân, để dấu chỉ của Chúa Kitô chiếu sáng rạng ngời trên khuôn mặt Giáo Hội" (Hiến chế về Hội Thánh, số 15).
Lời khuyên trên đây nên được nhắc lại cho mọi thành phần của Hội Thánh Việt Nam. Không những nhắc lại, mà cũng cần nhấn mạnh. Nhất là trong thời điểm này. Thời điểm của Năm Thánh được đánh dấu bằng nhiều sự kiện quan trọng, đặc biệt là Đại Hội Dân Chúa.
"Thanh tẩy và Canh tân" càng cần đặt ra thành vấn đề lớn, khi Hội Thánh Việt Nam, trong một số lãnh vực và ở một số nơi, đang như co rút vào những vinh quang cũ kỹ mong manh.
Dưới đây, xin được mạo muội nêu lên một số lãnh vực cần thanh tẩy và canh tân.
1/ Soi sáng từ Lời Chúa
Để biết Chúa muốn nói gì với chúng ta cho sứ vụ hôm nay, chúng ta phải dành thời giờ để nghe Chúa. Thời giờ để nghe Chúa trước hết là suy gẫm Lời Chúa. Lời Chúa phải là lương thực nuôi dưỡng chúng ta. Chính Lời Chúa sẽ giúp chúng ta biết đổi mới mình, biết phân định đâu là thánh ý Chúa giữa một tình hình xô bồ phức tạp. Lời Chúa gồm nhiều câu, được Chúa nói trong nhiều dịp khác nhau, nhưng về một vấn đề.
Suy gẫm Lời Chúa kèm theo cầu nguyện. Nhiều người làm như thế. Rồi chia sẻ với nhau. Đồng thời cũng lắng nghe những ý kiến của những người đạo đức trên sách báo.
Soi sáng đúng nhất sẽ từ những người thường xuyên sống mật thiết với Lời Chúa và cởi mở với những thông tin cần thiết.
Lời Chúa có một hành trình, để thấm nhập vào tâm hồn chúng ta. Vì thế chúng ta cần dành nhiều thời gian cho Lời Chúa.
Đến đây, một câu hỏi cần đặt ra đó là: Những lượng giá và chọn lựa của chúng ta trong mục vụ và truyền giáo, có thực sự được soi sáng bởi Lời Chúa, để thực thi thánh ý Chúa không?
Xin đọc lại vài chi tiết sau đây trích từ Phúc Âm.
Phúc Âm thánh Luca viết: "Bấy giờ anh em mới nói: Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài. Và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi. Nhưng Ta sẽ đáp lại: Ta không biết các anh từ đâu tới" (Lc 13,25-27).
Phúc Âm thánh Matthêu viết: "Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa. Nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, đã chẳng nhân danh Chúa mà trừ quỷ, đã chẳng nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác" (Mt 7,22-23).
Lý do họ bị Chúa loại, là vì họ đã làm những việc coi như đạo đức, nhưng lại làm theo ý riêng họ. Đang khi Chúa Giêsu khẳng định: "Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào Nước Trời mà thôi" (Mt 7,21). Biết đâu chúng ta cũng như thế. Chúa muốn chúng ta rao giảng Lời Chúa. Lời Chúa là chân lý mang sự sống cứu độ. Nếu chúng ta không đem Lời Chúa đến với người ta, thì cho dù chúng ta làm được vô số việc, cũng bị Chúa kể như vẫn thiếu điều cần thiết nhất.
2/ Dấu chỉ yêu thương
Dấu chỉ chắc chắn nhất để chứng minh mình là môn đệ Đức Kitô, chính là yêu thương nhau.
Chúa Giêsu phán: "Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau" (Ga 13,35). Mà phải "Yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,34).
Dấu chỉ hợp lý nhất để làm chứng mình thuộc về "Thiên Chúa là tình yêu" (2 Ga 4,8) chính là yêu thương. "Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau" (2 Ga 4,11).
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy: Yêu thương nhau trong nội bộ gia đình, cộng đoàn đòi phải hiền lành và khiêm nhường. Sẽ không có yêu thương thực, nếu không chia sẻ, tha thứ.
Nội bộ những người con Chúa được ràng buộc với nhau, không phải do luật lệ và quyền bính, nhưng do tình yêu. Nếu đó là một sự thực lý tưởng, thì nội bộ của chúng ta nên được thanh tẩy một cách khôn ngoan. Bởi vì rất nhiều trường hợp, nội bội được duy trì bằng nhiều thứ luật lệ, trong đó có những thứ không cần thiết. Cũng không thiếu trường hợp, nội bộ được bảo vệ bằng quyền bính khe khắt hơn là bằng tình yêu nhẹ nhàng.
3/ Dấn thân vào xã hội
Một chiều kích khác, Hội Thánh Việt Nam cần thanh tẩy và canh tân, đó là chiều kích dấn thân vào xã hội.
Chúa Giêsu tuyên bố sứ vụ của Người:
"Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4,18-19). Chúng ta rất mừng, khi thấy trong Hội Thánh Việt Nam, nhiều cá nhân, nhiều cộng đoàn đang dấn thân làm việc từ thiện dưới nhiều hình thức.
Điều đáng mừng hơn cả trong việc dấn thân như thế, chính là sự khiêm nhường can đảm.
Tuy nhiên, những đối tượng cần cứu hiện nay không chỉ là những người nghèo, người bệnh tật, mà còn là những người đánh mất lương tâm, bị Satan xiềng xích, làm nô lệ tính mê nết xấu.
Suy thoái đạo đức là một cơn lũ vô hình đang tràn vào các cơ chế bảo vệ đạo đức. Sự tàn phá của nó thật là khủng khiếp. Rất cần xin Chúa giải cứu đạo đức.
Trong dấn thân, Hội Thánh không chủ yếu chỉ thụ động, hoặc thích nghi, mà sẽ phải sáng kiến, với mọi hình thức đối thoại, đồng hành, cộng tác... Tất cả đều nhắm mục đích phục vụ đồng bào một cách tốt đẹp nhất. Trên con đường phục vụ đó, Hội Thánh sẽ làm chứng cho Chúa bằng tình yêu của Đức Kitô, cho dù tình yêu ấy đòi phải sống hy sinh, như lời Chúa Giêsu đã dạy xưa: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái" (Ga 12,24).
***
Nước Việt Nam đang và sẽ là nơi gặp gỡ của nhiều văn hoá cũ và mới, gần và xa. Hầu hết các văn hoá đó đang phát triển mạnh theo những phương hướng riêng có sức lôi cuốn về phía khác Phúc Âm. Trong một tình hình như vậy, đức tin Công giáo nếu không được thanh tẩy và canh tân, sẽ khó tránh được suy thoái như đã và đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Suy nghĩ trên đây có thể thúc đẩy chúng ta phải giải quyết vấn đề thanh tẩy và canh tân một cách có trách nhiệm.
Đại hội Dân Chúa cuối tháng này chắc sẽ có nhiều gợi ý về Truyền giáo. Chia sẻ sau đây cũng Bùi-Tuần 1857
Đại hội Dân Chúa cuối tháng này chắc sẽ có nhiều gợi ý về Truyền giáo. Chia sẻ sau đây cũng là một gợi ý.
Nội dung chia sẻ gồm 3 phần vắn tắt. Tất cả đều được rút ra từ những tài liệu có uy tín và mới nhất:
I. Hành trang người truyền giáo. II. Mấy điều nên chú ý ở nơi truyền giáo. III. Đôi lời cảnh báo.
****************
I. Hành trang người truyền giáo
Người tông đồ thời nay nói chung và người truyền giáo thời nay nói riêng cần có sẵn trong mình 3 nguồn lực này:
a) Sự sống mật thiết với Kinh Thánh và Đức Kitô.
Mật thiết với Kinh Thánh không chỉ là học hỏi, nghiên cứu Kinh Thánh, mà chủ yếu là suy niệm Lời Chúa. Suy niệm này là gặp gỡ Chúa trong Lời Chúa, là lắng nghe Chúa từ Lời Chúa, là đón nhận sự sống thiêng liêng từ Lời Chúa, là để Lời Chúa biến đổi con người của mình. Suy niệm như vậy cần có một sự thinh lặng nội tâm sâu lắng.
Còn mật thiết với Đức Kitô là gặp gỡ Đức Kitô, là ở bên Đức Kitô, là bước theo Đức Kitô, là bắt chước Đức Kitô. Nói tắt một lời là: Có Đức Kitô trong mình. Mật thiết với Đức Kitô như vậy cần có một sự từ bỏ mình chân thực.
b) Một sự cởi mở đối với thời đại của mình.
Người truyền giáo sống tinh thần nhập thế. Họ phải trân trọng, yêu thương con người, đất nước, địa phương mà họ được sai đến. Hiểu biết của họ phải sát cuộc sống. Thí dụ, họ phải biết cuộc sống con người Việt Nam hôm nay là rất phức tạp, chịu nhiều áp lực và biến chuyển mau lẹ. Tất cả không gian và thời gian cụ thể đó phải được người truyền giáo nắm bắt. Phải đồng hành, đồng cảm. Nếu người truyền giáo nói ngôn từ và các vấn đề mà người ta không hiểu và không quan tâm, thì người truyền giáo sẽ tự tách mình ra khỏi môi trường truyền giáo. Tự mình loại mình.
c) Một đời sống đức tin sâu sắc.
Sống đức tin sâu sắc là nhìn con người và lịch sử bằng con mắt của Thiên Chúa. Không đánh giá theo hiện tượng bề ngoài, mà theo giá trị bên trong.
Sống đức tin là với đức tin mà sống tỉnh thức, biết phân định cái gì là đúng, cái gì là sai.
Sống đức tin là nhờ đức tin mà biết chọn cái gì là thánh ý Chúa.
Sống đức tin là nhờ đức tin mà sống phấn đấu, dấn thân cho điều lành, đẩy lùi điều xấu.
Như thế, hành trang người truyền giáo là một tu đức mạnh, một cởi mở rộng và một đời sống đức tin sâu.
II. Mấy điều cần chú ý ở nơi truyền giáo
a) Trước tiên, người truyền giáo để ý tìm những dấu chỉ của Nước Trời nơi mà mình truyền giáo. Chúng ta sẽ căn cứ vào kinh Tám Mối Phúc mà tìm. Với quan sát, chúng ta sẽ khám phá thấy nhiều điều mới lạ. Đó là dấu chỉ của Nước Trời lại được thấy nơi nhiều người ngoài công giáo. Khó nghèo, hiền lành, khát khao điều tốt, biết thương xót người, khiêm tốn và trong sạch. Khám phá đó cho phép chúng ta tin là Nước Chúa đang toả rộng ra ngoài ranh giới Hội Thánh. Nếu không tế nhị, người truyền giáo lại xoá những gì Chúa đang làm, và thay thế vào đó những luật lệ vô bổ. Dứt khoát làm thế là sai.
b) Người truyền giáo để ý nghiên cứu xem sẽ phải làm thế nào, để người ta đọc được và thấy được Tin Mừng nơi Hội Thánh Công giáo.
Nếu họ tiếp xúc với chúng ta, với Hội Thánh, mà họ không cảm được chút gì là thiện cảm với đạo Công giáo, thì chúng ta nên tự xét mình lý do tại sao. Nếu tại ta, tại Hội Thánh, thì chúng ta phải sửa.
c) Trong truyền giáo, chúng ta nên để ý nhiều đến những tiếp xúc cá nhân. Rất nhiều trường hợp, tiếp xúc cá nhân sẽ mang lại nhiều thành công, miễn là người truyền giáo mang sẵn trong mình đủ hành trang đã nói trên đây. Nhiều tiếp xúc cá nhân đã giúp người truyền giáo tái Phúc Âm hoá chính mình.
III. Đôi lời cảnh báo
Tình hình truyền giáo tại Việt Nam hôm nay có ánh sáng và cũng có bóng tối.
Vì nhiều lý do khác nhau, tại nhiều nơi uy tín Hội Thánh đang bị giảm sút, chỗ đứng của Hội Thánh đang bị xuống thấp. Có nơi tình hình khá trầm trọng.
Nhiều người theo đạo. Nhưng cũng nhiều người bỏ Hội Thánh. Hiện tượng đáng ngại nhất là tại rất nhiều nơi, niềm tin vào hàng giám mục và linh mục đang bị lung lay.
Đó là những sự thực đau lòng. Ta nên coi đó là những cảnh báo của Chúa. Cảnh báo chủ yếu là kêu gọi chúng ta suy nghĩ lại về ơn gọi truyền giáo của chúng ta.
Ơn gọi truyền giáo đã được chúng ta đáp ứng thế nào? Thành thực mà nói, thiếu sót nặng nhất của chúng ta không phải là không hội thảo, xây cất, và làm việc từ thiện, mà là thiếu hồn truyền giáo, thiếu lửa truyền giáo, thiếu hành trang truyền giáo, thiếu sáng kiến "Ra khơi".
Năm Thánh Việt Nam là dịp Chúa thanh luyện Hội Thánh Việt Nam chúng ta. Xin hãy khiêm tốn đón nhận ơn thanh luyện. Xin hãy quảng đại cộng tác vào ơn thanh luyện. Xin hãy thanh luyện trong tinh thần tháng 11 phụng vụ, tức là trước những chân lý trọng đại về sự Chúa phán xét và thiên đàng, hoả ngục.
Lạy Chúa, xin cảm tạ Chúa vì ơn thanh luyện rất quý, rất cần cho chúng con.
Từ mấy năm nay, một vấn đề hay được nhắc tới tại Việt Nam ta, đó là vấn đề đạo đức. Càng ngày Bùi-Tuần 1858
Từ mấy năm nay, một vấn đề hay được nhắc tới tại Việt Nam ta, đó là vấn đề đạo đức. Càng ngày vấn đề đạo đức càng được quan tâm. Trong mọi lãnh vực, trên khắp các địa phương, đâu đâu vấn đề đạo đức cũng được nêu lên. Chứng tỏ đạo đức đang được trân trọng như một yếu tố cần cho hạnh phúc của dân tộc.
Đại Hội Dân Chúa chắc sẽ không quên nhìn nhận tính cách bức xúc của vấn đề.
Việc nhận định và đánh giá đạo đức của dân Chúa cần sát với thực tế. Với ý thức đó, tôi xin phép nhìn sang những đạo đức ngoài Công giáo tại Việt Nam hôm nay. Tất nhiên phải căn cứ vào Lời Chúa. Nhìn người, nghe Chúa, là một cách giúp xét mình.
Nhìn bằng con mắt Phúc Âm, chúng ta thấy ngoài Công giáo tại Việt Nam có nhiều tia sáng được Phúc Âm kể là đạo đức đáng trân trọng. Sau đây chỉ xin nêu lên một số tiêu biểu.
1/ Những tia sáng đạo đức ngoài Công giáo
a) Khi đưa ra Tám mối phúc, Chúa Giêsu đã đóng ấn đạo đức trên những người: "Tinh thần nghèo khó, hiền lành, chịu đau khổ, khát khao điều công chính, xót thương người, tâm hồn trong sạch, xây dựng hoà bình, bị bách hại vì lẽ công chính" (Mt 5,3-10).
Tại Việt Nam hôm nay, nhiều người ngoài Công giáo đang phấn đấu sống cho những giá trị tốt đẹp đó.
b) Khi nêu lên các hoa trái của Chúa Thánh Thần, thánh Phaolô đã kể ra những khuôn mặt đạo đức này: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết kiệm" (Gl 5,22).
Tại Việt Nam hôm nay, không thiếu người ngoài Công giáo đang phấn đấu để toả sáng nơi chính mình sự hiện diện của những đạo đức đậm chất nhân bản đó.
c) Khi nói về ngày phán xét chung, Chúa Giêsu đã đưa ra tiêu chuẩn bác ái đối với người khác, để thẩm định những người được chọn lên thiên đàng (x. Mt 25,40).
Tại Việt Nam hôm nay, biết bao người ngoài Công giáo đang coi việc làm từ thiện là lẽ sống đời mình.
d) Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nêu lên một số dấu chỉ của người môn đệ Người, đặc biệt là yêu thương nhau (x. Ga 13,35), hiền lành và khiêm nhường (x. Mt 11,29).
Tại Việt Nam hôm nay, người ta cũng dễ tìm thấy những dấu chỉ ấy nơi bao người ngoài Công giáo.
e) Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã khen đức tin của viên đại đội trưởng ngoại đạo với những lời rất đặc biệt: "Tôi nói cho các ông hay: Ngay cả trong dân Israel, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế" (Lc 7,9).
Tại Việt Nam hôm nay, nhiều người ngoài Công giáo đang có một đức tin mạnh, mà nhiều người công giáo không có.
f) Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã rất nhấn mạnh đến việc tha thứ cho nhau (x. Mt 18,21), thậm chí cũng phải yêu thương những kẻ ngược đãi mình (x. Mt 5,43-48).
Tại Việt Nam hôm nay, không thiếu người ngoài Công giáo đã vượt qua được những mối bất hoà và những mối thù, để sống hoà giải chân thành.
Nói chung, thái độ của nhiều người Việt Nam ngoài Công giáo đối với kẻ nghèo, người bệnh, kẻ cô đơn, kẻ bị loại trừ, kẻ thù nghịch, phải nhận là rất đạo đức.
Thái độ của họ đối với những người đã qua đời rất đáng được trân trọng.
Thái độ của họ đối với Tổ Quốc và những người dựng Nước và bảo vệ Nước được coi là rất tích cực.
Phần lớn họ là những tín đồ sùng đạo của nhiều tôn giáo truyền thống tại Việt Nam.
2/ Sức mạnh của đạo đức ngoài Công giáo
Đạo đức ngoài Công giáo tại Việt Nam hôm nay đang giữ một vị trí quan trọng.
Thực vậy, đạo đức ngoài Công giáo với những nét kể trên và nhiều nét khác, đang làm thành một dòng chảy vô hình. Dòng chảy này đang chuyển tải một sự sống thiêng liêng nào đó vào tất cả mọi tầng lớp của xã hội Việt Nam. Từ bình dân đến trí thức, từ dân thường đến cấp lãnh đạo.
Nó làm nên một môi trường văn hoá rộng, gây ảnh hưởng mạnh đến toàn thể cuộc sống người dân.
Đạo đức ngoài Công giáo còn đang trở thành một cầu nối, đem Việt Nam gắn kết lại với các nước xung quanh.
Sức mạnh đạo đức ngoài Công giáo là một thực tại khẳng định mình và được xã hội công nhận. Nhờ vậy, người đạo đức ngoài Công giáo đang được xã hội Việt Nam trân trọng và tin cậy.
3/ Khiêm tốn nhìn vào mình
Trước những chuyển biến mau lẹ về tình hình đạo đức tại Việt Nam như thế, Hội Thánh Việt Nam rất cần để ý đến việc chấn chỉnh đạo đức của nội bộ mình. Ưu tiên là đạo đức nơi hàng giáo sĩ.
Đạo đức Công giáo vẫn được đón nhận tại Việt Nam. Nhưng nếu nó không sáng bằng đạo đức ngoài Công giáo, mà vì thế bị coi thường, thì lỗi tại chúng ta. Thời nay người Việt Nam không tin vào lý thuyết đạo đức. Họ chỉ tin vào những người đạo đức. Các bậc chân tu vẫn được kính trọng.
Lịch sử Đất Nước đang chuyển biến mau lẹ. Con người đạo đức đi giữa lịch sử hôm nay sẽ gặp nhiều thuận lợi mới, nhiều bất lợi mới và nhiều bất ngờ. Hành trình sẽ không dễ dàng, nhưng luôn phải hướng về phía trước. Nhận thức như vậy, chúng ta càng phải khiêm nhường sống kết hợp với Chúa. Chính Chúa sẽ hướng dẫn chúng ta.
Nhờ Chúa Giêsu khiêm nhường, chúng ta sẽ thấy:
Khiêm nhường là không dám nghĩ mình đạo đức hơn những người ngoài Công giáo. Lời sau đây Chúa Giêsu nói với người Do Thái bất trung cũng có thể áp dụng cho chúng ta:
"Ta không biết các ngươi từ đâu tới. Hãy cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính.
Ở đó, các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham, Isaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Và kìa, có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót" (Lc 13,27-30).
Khiêm nhường là không dám tin những công trình hoành tráng của chúng ta sẽ có giá trị cứu độ. Lời Chúa Giêsu phán về đền thờ Giêrusalem cũng có thể áp dụng cho những công trình hoành tráng của chúng ta.
"Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào" (Lc 21,6).
Khiêm nhường là, cho dù chúng ta "tất cả đều đồng tâm nhất trí, chuyên chăm cầu nguyện" (Cv 1,14) "chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa" (Cv 1,4) trong tinh thần khó nghèo khao khát, như các thánh tông đồ xưa ngày lễ Ngũ Tuần, thì chúng ta cũng không dám khẳng định đã có một lễ Hiện Xuống mới cho toàn thể chúng ta.
Nếu cho khiêm nhường là yếu, thì xin hãy nhớ lại lời thánh Phaolô: "Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10).
Năm Thánh Việt Nam đang khép lại. Sau bế mạc, mỗi người công giáo Việt Nam vẫn tiếp tục Bùi-Tuần 1859
Năm Thánh Việt Nam đang khép lại. Sau bế mạc, mỗi người công giáo Việt Nam vẫn tiếp tục hành trình riêng của mình. Hành trình về với Chúa.
Không phải hành trình nào cũng dẫn về Chúa. Nhưng chỉ những hành trình đúng với ý Chúa, được Chúa chúc lành. Hành trình đó là thế nào?
Ở đây, tôi nhớ tới một người. Đó là Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, bạn tôi. Ngài đã âm thầm giúp tôi trong hành trình đi về với Chúa. Điều mà Ngài đã giúp tôi chính là linh đạo về bình an yêu thương. Ngài và tôi, chúng tôi nhận ra hành trình mà Chúa muốn chúng tôi thực hiện, sẽ là hành trình làm chứng cho sự bình an yêu thương, đóng góp vào sự bình an yêu thương của Hội Thánh và Quê Hương Việt Nam. Tôi xin được chia sẻ vắn tắt.
1/ Đón nhận sự bình an yêu thương của Chúa từ những nguồn của Chúa
Thời gian đó, tôi đang ở Cộng Hoà Liên Bang Đức để chữa bệnh. Ngài công tác bên Toà Thánh. Ngài biết tôi rất thao thức về Hội Thánh và Quê Hương Việt Nam. Ngài quyết định sẽ sang Đức thăm tôi. Điểm hẹn mà Ngài chọn, là một nhà dòng nữ, miền Bắc nước Đức.
Hôm ấy, trời đã về chiều, tôi có mặt ở sân bay. Anh em mừng rỡ gặp lại nhau. Chúng tôi đến nhà dòng đã hẹn. Nhà dòng toạ lạc giữa một vùng thanh vắng. Trời mùa đông giá lạnh. Bầu khí nhà dòng ấm áp vì những nữ tu toả tình mến Chúa yêu người trên khuôn mặt đón tiếp. Chỗ nào trong nhà dòng cũng gặp được cầu nguyện và bình an yêu thương. Buổi tối, Ngài và tôi tâm sự rất lâu. Trước khi về ngủ, chúng tôi hứa sáng mai sẽ trao đổi cho nhau những gì mỗi người sẽ viết trong đêm. Sáng hôm sau, thánh lễ được cử hành trong bầu khí gia đình. Ngài chủ lễ và giảng. Tôi đồng tế. Các nữ tu hát. Tôi có cảm tưởng như chúng tôi đang được gặp Chúa trong sa mạc hay trên núi, mà Phúc Âm thường nhắc tới. Sau lễ, chúng tôi trao đổi cho nhau những gì mỗi người đã viết trong đêm. Thực lạ lùng, cả hai cùng diễn tả những khát vọng và những dự kiến về bình an yêu thương cho Hội Thánh Việt Nam.
Chúng tôi cùng nhau nhận ra rằng: Để có thể góp phần đem lại bình an yêu thương cho người khác, chính chúng tôi phải có sự bình an yêu thương trước. Không phải bất cứ sự bình an yêu thương nào. Nhưng phải là sự bình an yêu thương của Chúa. Sự bình an yêu thương của Chúa không do chúng tôi hay ai làm ra được. Nhưng chúng tôi phải đón nhận từ Chúa. Chúng tôi đang nhận từ Chúa trong phép Thánh Thể, trong Lời Chúa, trong giờ cầu nguyện, trong bầu khí đạo đức của nhà dòng, trong điều kiện nội tâm được nghỉ ngơi giữa biển cả tình yêu Thiên Chúa.
Sự bình an yêu thương của Chúa mà chúng tôi đón nhận, được tôi cảm nghiệm như một sự giải cứu. Tôi thấy mình thuộc trọn về Chúa. Tôi thấy mình phải sống cho những người khác.
Cuộc gặp gỡ của chúng tôi thực ngắn ngủi. Ngay buổi sáng hôm đó, Ngài bay về Rôma, còn tôi trở lại Aachen. Tôi rất hài lòng với nhận thức quan trọng về hành trình phục vụ cho sự bình an yêu thương. Nhận thức đó là: Tôi phải có trong chính mình sự bình an yêu thương của Chúa nhận được từ những nguồn của Chúa. Tôi biết hành trình đời tôi chắc sẽ chỉ là một chuỗi ngày thường. Dù trong hoàn cảnh nào, tôi vẫn cần đón nhận sự bình an yêu thương của Chúa một cách thường xuyên. Mỗi ngày phải có thời gian tĩnh lặng, để cầu nguyện, suy niệm, gặp gỡ thân mật với Chúa. Tôi thuộc về Chúa, tôi đón nhận từ Nguồn, để tôi có thể sống cho những người khác theo thánh ý Chúa. Khi chia tay, bạn tôi nói với tôi: "Chú về Việt Nam, tôi ở lại nước ngoài. Nhưng hai anh em cùng phục vụ bình an yêu thương cho đồng bào, cho Hội Thánh Việt Nam, cho Quê Hương Việt Nam".
2/ Phục vụ bình an yêu thương
Tôi sẽ sống cho những người khác thế nào? Tôi sẽ phục vụ bình an yêu thương cho những người xung quanh với những việc cụ thể nào? Bạn tôi đã ảnh hưởng nhiều đến tôi.
a) Trước hết hãy giải cứu lương tâm người ta khỏi quá khứ nặng nề.
Tôi hay bối rối về tội cũ. Một hôm, bạn tôi kể cho tôi câu chuyện này: Trong một giáo xứ nọ, có một bà đạo đức đến trình với cha Sở là bà mới được Chúa Giêsu hiện ra. Cha tỏ vẻ không tin. Mấy ngày sau, bà lại tới, bà quả quyết là Chúa Giêsu đã vẫn hiện ra với bà. Cha Sở cũng không tin. Sau nhiều lần như vậy, cha Sở nói với bà là bà hãy xưng tội đi, rồi nếu Chúa Giêsu hiện ra với bà, thì bà hãy hỏi Chúa Giêsu xem, bà đã xưng những tội gì với cha Sở. Hôm sau, bà tới cha Sở và trình rằng: Con hỏi Chúa như cha đã dặn con. Chúa Giêsu trả lời rằng: Chúa không nhớ. Chúa tha tội là xoá tội, để con người được bình an. Nghe xong, cha Sở nói: Bây giờ thì tôi tin Đấng hiện ra với bà là Chúa Giêsu. Bởi vì Chúa là tình yêu thương xót. Bình an Chúa ban là giải cứu khỏi tội và mặc cảm bởi tội.
Từ câu chuyện trên đây, bạn tôi tỏ rõ thái độ của người được Chúa sai đi đem lại bình an yêu thương cho người khác. Đó là thái độ thương cảm giải cứu, giúp người ta tin vào tình yêu bao dung tha thứ của Chúa. Ngài coi việc đem quá khứ sai lầm ra dằn vặt, là sai ý Chúa. Làm cho lương tâm mình thêm nặng nề đã là một sai lầm. Làm cho lương tâm người khác phải nặng nề là một lầm lỗi.
b) Để phục vụ bình an yêu thương, cần tránh lối sống câu nệ vào hình thức.
Hôm đó, mệt mỏi và đau bệnh, tôi nói với bạn tôi là tôi còn phải đọc xong kinh Phụng vụ và lần chuỗi Mân Côi, mới yên tâm đi ngủ được. Bạn tôi trấn an tôi: "Chú không nên câu nệ vào hình thức. Bệnh và mệt quá, thì đọc ít kinh cũng được. Ít kinh mà sốt sắng với nhiều lòng mến, thì hơn là nhiều kinh mà khô khan máy móc".
Nhân dịp, bạn tôi thỉnh thoảng nói tới thói quen của một số người hay căn cứ vào hình thức để giữ đạo. Đọc kinh nhiều, tổ chức lớn, tuyên ngôn đẹp, nhưng trong lòng chẳng mến Chúa thực, chẳng yêu người thực. Cũng không thiếu trường hợp, có những người xấu đã khoác hình thức đạo, nhưng để phá đạo, thế mà cũng có người tin theo.
Để góp phần canh tân trong Hội Thánh, Ngài giúp tôi làm quen với những phong trào đạo đức mới xuất hiện sau Công Đồng Vatican II và được Toà Thánh chấp nhận. Những phong trào đạo đức này nhấn mạnh đến cầu nguyện, sống yêu thương hoà hợp, đi sâu vào đời sống nội tâm và có tinh thần phục vụ cao.
c) Trong phục vụ bình an yêu thương, nên chọn một số ưu tiên để thực hiện.
Theo Đức cố Hồng Y Thuận, một vấn đề cần đặt lên hàng ưu tiên, đó là hoà giải. Hoà giải trong nội bộ Hội Thánh. Hoà giải giữa đời và đạo. Hoà giải giữa giàu và nghèo. Hoà giải giữa cũ và mới.
Một trong những cách nên chú ý để đào tạo những người hoà giải là họ năng được dự những tuần tĩnh tâm chiêm niệm. Ngài nói với tôi: "Khi về hưu, hai anh em sẽ ở chung một nơi, sẽ cùng nhau chuyên lo việc tổ chức tĩnh tâm". Ngài xác tín: Con người phục vụ bình an yêu thương tốt, con người hoà giải tốt là con người tĩnh tâm.
d) Tất cả mọi việc phục vụ bình an yêu thương đều phải bắt nguồn từ cái tâm.
Cái tâm có Chúa Giêsu ngự trị. Nhờ đó, con người đón nhận mọi sự từ Chúa là Nguồn bình an. Cũng nhờ đó, con người biết phục vụ bình an yêu thương cho những người khác, theo gương Chúa Giêsu.
Có lần, Ngài cho tôi xem cây thánh giá nhỏ bằng nhôm mà Ngài đã làm trong tù. Ngài nói: "Hành trình đời chúng ta cũng đi theo hành trình Chúa Giêsu. Yêu thương đến cùng".
e) Việc phục vụ bình an yêu thương đòi phải chiến đấu và tỉnh thức. Việc phục vụ bình an yêu thương sẽ không luôn dễ dàng. Điều mà Đức cố Hồng Y hay nhắc cho tôi là: Satan sẽ phá bằng mọi cách, từ cách thô lỗ đến cách tinh vi. Nhưng hãy vững vàng cậy tin ở Chúa giàu tình yêu thương xót. Ngài bảo tôi: "Hãy luôn luôn hy vọng nơi Chúa". Sống bình an yêu thương theo ý Chúa là một hồng ân. Hồng ân cao đẹp đó không miễn trừ chúng ta khỏi phải chiến đấu. Chúa Thánh Linh sẽ giúp chúng ta phân định thiện ác, việc nào do Chúa, việc nào do quỷ, việc nào có khả năng xây dựng bình an yêu thương, việc nào mang tính cách phá hoại an bình thương yêu.
***
Với chia sẻ trên đây, tôi xác tín hành trình cuộc đời của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận là một hành trình phục vụ cho bình an yêu thương. Cuộc đời của Ngài là một thánh lễ kéo dài cầu nguyện cho Hội Thánh và Tổ Quốc Việt Nam được bình an yêu thương một cách tốt đẹp nhất.
Trong tâm tình tạ ơn và phó thác, tôi xin được cùng Đức cố Hồng Y thân ái gởi tới anh chị em lời chào chúc bình an yêu thương rất cần cho hành trình đời sống mọi người chúng ta.
Có những bất ngờ gây nên đổ vỡ tan hoang. Có những bất ngờ xé nát mọi chương trình, mọi kế Bùi-Tuần 1860
Có những bất ngờ gây nên đổ vỡ tan hoang. Có những bất ngờ xé nát mọi chương trình, mọi kế hoạch, mọi dự kiến. Như thể đã xảy ra trong lịch sử xưa. Như thể cũng mới xảy ra trong quá khứ gần. Xảy ra cho những cá nhân. Xảy ra cho những cộng đoàn. Cũng xảy ra cho những vùng rộng lớn.
Những bất ngờ như thế đã được Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm, như những cảnh báo.
1. Mấy cảnh báo quan trọng
Về cảnh báo nhắm vào xã hội, Chúa Giêsu nhắc lại cảnh hồng thuỷ thời ông Nôe. "Quả thế, thời ông Nôe thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ gả chồng, mãi cho đến ngày ông Nôe vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới, cuốn đi tất cả. Cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy" (Mt 24,37-39).
Lời cảnh báo trên đây được áp dụng cho nhiều biến cố đã xảy ra tại vô số lãnh thổ. Mất mát, điêu tàn ập tới lúc không ngờ. Đột nhiên Đấng Xét Xử tới.
Về cảnh báo nhắm vào những người có trách nhiệm lo cho cộng đoàn, Chúa Giêsu đưa ra ví dụ người chủ và đầy tớ: "Vậy thì ai là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan, mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ đúng lúc? Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về, mà thấy anh ta đang làm như vậy... Nhưng nếu đầy tớ xấu xa nghĩ bụng: Chủ ta còn lâu mới về, rồi hắn bắt đầu đánh đập các đồng bạn, và chè chén với những bọn say sưa. Chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết. Chủ sẽ loại hắn ra, bắt hắn phải chung số phận với những tên đạo đức giả" (Mt 24,45-51).
Lời cảnh báo trên đây cho thấy những người được trao trách nhiệm chăm sóc cộng đoàn cũng có thể trở thành hư hỏng, lạm dụng quyền lợi để áp bức và hưởng thụ thay vì phục vụ tuân theo ý Chúa. Nhưng mọi lạm dụng sẽ phải chấm dứt. Chấm dứt vào lúc bất ngờ, không kịp sám hối. Kết quả phải hứng chịu là không những mất hết mà còn bị phạt nặng nề.
Về cảnh báo nhắm vào từng cá nhân, Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn những nén bạc: "Người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ của mình đến, mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm nén, lấy số tiền ấy làm ăn buôn bán, và gây lời được năm nén khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai nén, gây lời được hai nén khác. Còn người đã lãnh một nén, thì đào lỗ chôn giấu" (Mt 25,14-18).
Sau một thời gian dài, ông chủ về, và đòi các đầy tớ tính sổ. Người được trao năm nén đã làm lời thêm được năm nén. Người được trao hai nén cũng đã làm lời thêm được hai nén. Hai đầy tớ đó được ông chủ khen và được trọng thưởng. Còn người được trao một nén mà không làm lời, thì bị ông chủ mắng, bị lấy bạc lại và bị phạt (x. Mt 25,19-30).
Với cảnh báo trên đây, Chúa dạy mỗi người phải biết dùng mọi ơn Chúa ban để nên người tốt hơn. Nhận ơn Chúa mà không dùng là tiêu cực. Không làm việc lành khi có thể làm là thiếu sót. Tiêu cực và thiếu sót cũng là lầm lỗi. Thời gian để làm việc lành mà không tận dụng, sẽ chấm dứt có thể bất ngờ, không kịp tỉnh ngộ.
Về cảnh báo chung cho mọi người, Phúc Âm ghi lại mẩu chuyện sau đây: "Khi Đức Kitô vừa trong đền thờ đi ra, thì các môn đệ của Người lại gần, chỉ cho Người xem công trình kiến trúc đền thờ. Nhưng Người nói: Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó, phải không? Thầy bảo thật anh em, tại đây sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào, tất cả đều sẽ bị phá đổ" (Mt 24,1-2).
Với cảnh báo trên đây, Chúa Giêsu muốn đưa lòng trí các môn đệ lên cao hơn. Đừng tự đắc về thành công, uy tín, nhưng hãy tìm những giá trị đời đời bền vững. Những giá trị trần thế rồi cũng có lúc đổ vỡ tan tành.
2. Có Đấng trên trời xét xử
Mấy cảnh báo vừa trình bày mang hai ý nghĩa. Một là đời sống mỗi người sẽ có lúc chấm dứt. Hai là mọi người đều sẽ bị xét xử sau khi chết. Đây là điều hết sức quan trọng nên được suy nghĩ thêm.
Ai xét xử chúng ta? Thưa không phải bất cứ ai ở trần gian này, cũng không phải lương tâm ta, nhưng là chính Chúa.
Đấng xét xử chúng ta ở ngoài lịch sử, và ở trên chúng ta. Chúa xét xử theo luật đạo đức hướng thượng. Nghĩa là một luật đạo đức quy chiếu về Đấng Tối Cao là Đấng Tạo Thành. Chỉ có Đấng ấy mới công minh, thấu suốt mọi việc từng người. Chúa Giêsu hay nhắc đến Đấng ngự trên trời trong việc sống đạo. Thí dụ: "Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh em bố thí được kín đáo. Và Cha trên trời, Đấng thấu suốt những kín đáo, sẽ trả công cho anh em" (Mt 6,3).
"Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại và cầu nguyện cùng Cha của anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em" (Mt 6,6).
"Khi ăn chay, anh em nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh em ăn chay, trừ Cha của anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Vì Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em" (Mt 6,17).
Có một Đấng Tối Cao nhìn thấu suốt đời sống mỗi người, từ tư tưởng, tình cảm, ước muốn, lời nói, việc làm thiếu sót, và mọi hoàn cảnh cụ thể của họ. Đó là một an ủi lớn lao cho những người yếu đuối bé mọn sống âm thầm với những việc lành nhỏ. Nhưng đó cũng lại là một răn đe cho những ai đạo đức giả, hoặc tuyệt đối chỉ quy chiếu về những luật trần thế do con người làm ra.
Một thoáng nhìn về tỉnh thức Phúc Âm vừa trình bày, cho phép chúng ta suy nghĩ rằng: Ngày hết, tháng hết, năm hết, nhưng con người không hết trách nhiệm về thời gian đã qua của mình. Có Đấng hằng sống vô hình đã nhìn thấu suốt. Người sẽ xét xử.
Nhận thức trên đây sẽ giúp chúng ta biết nhìn lại đời mình với lòng sám hối, cảm tạ và khấn nguyện.
Thiết tưởng những việc đạo đức đó cũng sẽ là một tỉnh thức cuối năm. Tỉnh thức này có nhiều khả năng làm mới lại lương tâm chúng ta, với những giá trị thiêng liêng cao đẹp.
Mỗi lần viết cho Công giáo và Dân tộc, tôi thường lui vào nội tâm tôi. Ở đó, tôi thấy những khuôn Bùi-Tuần 1861
Mỗi lần viết cho Công giáo và Dân tộc, tôi thường lui vào nội tâm tôi.
Ở đó, tôi thấy những khuôn mặt không tên hỏi thăm nhau, những tư tưởng gặp gỡ nhau, những tình cảm trao tặng nhau. Tất cả đều như đợi chờ.
Họ đợi chờ những liên đới có tính cách gắn kết và cởi mở. Họ đợi chờ những niềm tin đáng tin có sức cứu độ. Họ đợi chờ những tình yêu có khả năng thăng tiến con người.
Trong cõi nội tâm, tôi cũng thường gặp những người bị hạn chế bởi nhiều giới hạn, về mặt sức khoẻ, về mặt kinh tế, về mặt văn hoá, vv... Nhưng nét chung của họ là biết phấn đấu.
Họ là những chứng nhân của những liên đới đòi nhiều hy sinh. Họ là những chứng nhân của những niềm tin đòi nhiều dấn thân. Họ là những chứng nhân của những tình yêu đòi nhiều trung tín.
Những người chờ đợi và những người phấn đấu là một số nhỏ. Con số có giới hạn gồm những người có giới hạn.
Tôi chia sẻ với họ, để cùng đợi chờ và để cùng phấn đấu. Những đợi chờ ấy và những phấn đấu ấy luôn trong bầu khí đức Tin, gắn bó mật thiết với Đức Giêsu Kitô.
Sang năm mới này, tôi sẽ gặp nhiều giới hạn mới, do tuổi tác và bệnh tật. Tuy sao, tôi vẫn coi những người đợi chờ và phấn đấu là những người bạn thân yêu, sẽ giúp tôi đi tới giới hạn sau cùng. Tôi tin họ luôn là động lực phong phú giúp rất nhiều cho Hội Thánh và Tổ Quốc Việt Nam dấu yêu.
Với suy nghĩ trên đây, tôi cầu chúc mọi độc giả của báo Công giáo và Dân tộc luôn là những chứng nhân của những đợi chờ tốt và của những phấn đấu tốt.
Tôi cầu chúc báo Công giáo và Dân tộc, tuy có nhiều giới hạn, vẫn sẽ gặp thêm được nhiều hy vọng mới, khi mở ra về hướng đợi chờ và phấn đấu.
Xin Đức Mẹ Maria thương giúp chúng ta biết đón nhận tình yêu phục vụ của Chúa, để mọi chờ đợi và phấn đấu của chúng ta luôn được hợp theo thánh ý Chúa. Thân ái
Tháng Ba là tháng kính thánh Giuse. Trong thời gian này, khắp nơi trong Hội Thánh đều hướng Bùi-Tuần 1862
Tháng Ba là tháng kính thánh Giuse. Trong thời gian này, khắp nơi trong Hội Thánh đều hướng về thánh Giuse. Hướng về bằng nhiều cách, như những suy gẫm, những hình ảnh, những kinh nguyện, những thánh tích. Có những việc tôn kính do truyền thống và cũng có những việc học hỏi do thời cuộc.
Năm nay, tháng Ba bùng nổ một tình hình có nhiều diễn biến phức tạp tại Ai Cập. Thời sự này gợi ý cho tôi nhớ về thánh Giuse tại Ai Cập. Phúc Âm tả việc thánh Giuse sang Ai Cập là một cuộc đi trốn. Ngài vâng lệnh Chúa, đưa Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng bỏ quê hương mình sang đó để lánh nạn. Sự kiện ấy nên được hiểu thế nào trong chương trình cứu độ của Chúa? Hiểu biết đó sẽ soi sáng cho tôi về việc cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa tại Việt Nam hôm nay.
Với ý hướng trên đây, tôi chạy đến với thánh Giuse. Tôi xin Ngài dạy bảo. Trong âm thầm, Ngài dẫn nội tâm tôi bước đi từ ý nghĩa này tới ý nghĩa khác. Tôi có cảm tưởng là Ngài chia sẻ cho tôi những gì Ngài đã học được về tình yêu cứu độ của Chúa Cứu Thế. Ngài học được từ chính những từ bỏ, những vất vả, những khổ cực do việc vâng lời Chúa mà đem Đấng Cứu Thế và Mẹ Người đi lánh nạn.
Ở đây, tôi cố gắng diễn tả vài điều đã được lãnh nhận.
Điều căn bản nhất mà Chúa đã dạy thánh Giuse là: Đức Kitô chính là tình yêu Thiên Chúa. Người giáng thế không phải để kết án, mà để cứu chuộc nhân loại. Người cứu chuộc bằng con đường nhập thể. Người mặc lấy thân phận con người, nên giống như con người về mọi mặt, chỉ trừ tội lỗi. Trong thân phận con người, Đấng Cứu Thế được thánh Giuse cảm nhận qua những nét như sau:
1. Một tình yêu khiêm tốn vâng phục
Chúa Cứu Thế vâng phục mọi luật của thiên nhiên và xã hội.
Sự sống có luật của nó. Sinh ra thì bé nhỏ. Phát triển thì từ từ với vô vàn yếu tố. Có những yếu tố do tự mình đảm trách được. Có những yếu tố phải nhờ đến những người khác.
Cuộc sống giữa đời có luật của xã hội. Xã hội được xây dựng với những tương quan tự do và bắt buộc.
Sống là sống với những hoàn cảnh lịch sử của nơi ở và thời gian mình sống. Những hoàn cảnh đó thường rất phức tạp. Khi đem Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng đi lánh nạn, thánh Giuse nhận thấy Đấng Cứu Thế đã tỏ ra rất khiêm nhường. Người vâng phục những luật căn bản của sự sống nói chung và cuộc sống giữa đời trong lịch sử nói riêng. Chính nhờ sự khiêm tốn vâng phục đó, mà Đấng Cứu Thế được xã hội chấp nhận. Người trở nên một người gần gũi của họ.
Nhất là Đức Kitô đã triệt để vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chúa Cha muốn Người cứu chuộc nhân loại bằng con đường nghèo khó khiêm nhường, chấp nhận mọi đớn đau dành cho những kẻ khốn khổ cùng cực.
Thánh Giuse nhận thấy bản thân mình được kêu gọi cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ. Điều kiện đầu tiên Chúa đòi Ngài là khiêm nhường vâng phục. Ngài hiểu kiêu căng, bất phục tùng là đầu mối gây nên mọi sa đoạ nơi Lucife, nơi tổ tông Ađam, và nơi Israel dân Chúa. Ngài khiêm nhường vâng phục sống đời từ bỏ mình, chấp nhận để Chúa dùng mình vào những việc âm thầm khó khăn, hoàn toàn mặc ý Chúa.
2. Một tình yêu nhưng không
Với tâm tình khiêm tốn vâng phục, thánh Giuse bên Ai Cập có thể đã tự hỏi mình: Tại sao Chúa đã chọn tôi làm kẻ bảo vệ Chúa Cứu Thế và Mẹ của Người? Câu trả lời chắc chắn sẽ là: Vì Chúa thương yêu. Chúa yêu thương tôi, trước khi tôi biết Người. Chúa chọn tôi, mặc dầu tôi bất xứng. Tình yêu của Chúa dành cho tôi là tình yêu nhưng không. Đáp lại tình yêu nhưng không phải là chiêm ngắm tình yêu bao la ấy với tâm tình tạ ơn và tuỳ thuộc phó thác.
Ngài sống tâm tình ấy bằng biến đời mình nên như một của lễ toàn thiêu.
Trái tim sẽ rực lửa tình yêu. Tình yêu thờ phượng. Tình yêu cảm tạ. Tình yêu đền tội. Tình yêu cầu khẩn.
Tấm lòng sẽ vắng bất kỳ ham muốn nào, trừ khao khát được mến yêu và đáp lại tình yêu.
Tâm hồn sẽ không tìm vinh quang nào cho mình, nhưng chỉ tìm vinh quang cho một Chúa mà thôi.
Tất cả con người thánh Giuse là một Đền Thờ dâng của lễ toàn thiêu. Có Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria cùng dâng lễ với Ngài.
Một tình yêu lớn lao đã ban cho Ngài nhưng không. Ngài chỉ biết đón nhận bằng cách để mình hoà tan vào tình yêu bao la đó. Thiết tưởng đấy là loan báo Tin Mừng một cách rất đơn sơ mà cũng rất sâu sắc.
Mang Tin Mừng là tình yêu Chúa trong lòng, thánh Giuse luôn toả ra bầu khí bình an và thanh thản, chan chứa yêu thương. Do đó, Ngài là một nhân chứng về tình yêu Chúa bằng chính đời sống thường ngày của Ngài.
3. Một tình yêu nâng đỡ
Khi đến Ai Cập, thánh Giuse chắc cảm thấy rất rõ trách nhiệm Chúa trao phó cho Ngài là rất nặng nề. Thiếu thốn mọi sự, xa lạ với mọi người. Ngài phải lo cho gia đình được an ổn về mọi mặt. Ngài phấn đấu hết mình.
Phấn đấu của Ngài được nâng đỡ. Nâng đỡ đặc biệt nhất là từ Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Ngay một sự có hai Đấng thân yêu ở bên mình cũng đã là nguồn an ủi vô giá. Hai Đấng chia sẻ cho Ngài niềm tin, lòng cậy trông và lửa mến. Đặc biệt là giúp Ngài tham dự vào chương trình cứu độ loài người bằng cách thực thi thánh ý Chúa Cha trong mọi sự.
Trách nhiệm thánh Giuse phải bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ là hết sức quan trọng. Ngài bảo vệ hai Đấng bằng cuộc sống nghèo âm thầm và lao động. Công việc bảo vệ ấy được chính hai Đấng nâng đỡ bằng cuộc sống tự hạ của các Ngài. Bên hai Đấng, Ngài tỉnh thức lắng nghe ý Chúa. Lòng Ngài vững vàng tựa nương ở Chúa, không bị tác động bởi những dư luận, mưu chước quỷ ma và thế tục. Thánh Giuse sống bên hai Đấng, và sau này đã chết trong tay hai Đấng.
***
Viết tới đây, tôi thầm hỏi thánh Giuse, xin Ngài cho biết tôi phải bảo vệ Hội Thánh Chúa hiện nay bằng cách nào thích hợp nhất. Ngài soi sáng để tôi thấy rằng: Mỗi người chúng ta hãy biết đón nhận Chúa Giêsu và Đức Mẹ vào lòng mình, và hãy biết bảo vệ hai Đấng ngự trong lòng mình.
Với gợi ý đó, thánh Giuse cho tôi hiểu: Cảnh nội tâm thiếu vắng Chúa Giêsu và Đức Mẹ chính là một thảm hoạ cần phải sửa, trước khi đề cập đến vấn đề bảo vệ Hội Thánh Chúa. Có Chúa Giêsu và Đức Mẹ trong lòng, chúng ta sẽ biết bảo vệ Hội Thánh bằng những cách mà Chúa muốn. Long Xuyên, ngày 14 tháng 2 năm 2011
Trước hoàn cảnh khốn khổ của người khác, nếu chúng ta cảm nhận được sự khốn khổ của họ Bùi-Tuần 1863
Trước hoàn cảnh khốn khổ của người khác, nếu chúng ta cảm nhận được sự khốn khổ của họ bằng tình thương xót của ta, thì đó là cảm thương. Ta đau cái đau của họ. Ta khổ cái khổ của họ. Ta và họ có sự đồng cảm. Sự đồng cảm là một tình thương liên đới. Tình thương liên đới ấy có những rung cảm trong tim. Cả đến ruột gan nhiều khi cũng bị chấn động.
Cảm thương như thế là một phản ứng lành mạnh của con người lành mạnh. Cảm thương như thế là một giá trị đạo đức. Cảm thương như thế là một tiếng gọi của Chúa giàu lòng thương xót.
Để biết đáp lại tiếng gọi ấy, chúng ta nên nhớ lại những cách Chúa đã thực hiện để cảm thương nhân loại.
1. Cảm thương, nên cùng chịu chung thân phận
Sự cảm thương đầu tiên mà Chúa mạc khải cho chúng ta thấy là, sự Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế, mặc lấy thân phận con người.
"Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ ở giữa chúng ta" (Ga 1,14).
"Người sống trọn thân phận con người như chúng con, chỉ trừ tội lỗi" (Kinh Tiền Tụng CN VII TN).
Hơn nữa, "Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.
"Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá" (Pl 2,6-8).
Tác giả thư gởi Do Thái viết: "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của chúng ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội" (Dt 4,15).
Tự ý từ bỏ cuộc sống vinh quang, để cùng chịu chung thân phận hèn hạ khổ cực của con người, đó là một cách cảm thương, mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô.
2. Cảm thương, nên giải cứu con người khỏi khổ đau
Một phần đáng kể của bốn Phúc Âm là thuật lại sự Chúa Giêsu cảm thương trước cảnh khổ đau của con người, nên đã giải cứu họ.
"Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo, thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh tật của họ" (Mt 14,14).
Gặp hai người mù tại Giêrikhô, "Đức Giêsu chạnh lòng thương, sờ vào mắt họ. Tức khắc, họ nhìn thấy được và đi theo Người" (Mt 20,34).
Gặp đám tang người con trai của một bà goá thành Naim: "Chúa Giêsu trông thấy bà, liền chạnh lòng xót thương. Chúa nói: Bà đừng khóc nữa. Rồi Ngài lại gần, chạm vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: Hỡi người thanh niên, tôi bảo anh, hãy chỗi dậy. Người chết liền ngồi dậy và bắt đầu nói" (Lc 7,13-19).
Khi thuật lại phép lạ Chúa cho ông Ladarô sống lại, thánh Gioan viết: "Lòng Người thổn thức và xao xuyến" (Ga 11,33) và "Đức Giêsu đã khóc" (Ga 11,35).
Khi thấy đám đông không có gì ăn. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường" (Mt 15,32). Rồi, Đức Giêsu đã làm phép lạ lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá để nuôi hơn bốn ngàn người (x. Mt 34,39).
Khi các kinh sư và người Pharisêu bắt một người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến trước Chúa Giêsu. Họ nói với Người là theo luật Maisen, người phụ nữ đó phải bị ném đá cho chết, Chúa Giêsu đã tìm cách cứu người phụ nữ đó vừa khỏi bị ném đá vừa khỏi tội. Chúa Giêsu cứu một cách nhẹ nhàng. Sau cùng Chúa nói với người phụ nữ đó một lời cũng rất dịu dàng: "Không ai lên án chị sao? Tôi cũng vậy. Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa" (x. Ga 8,3-11).
Chúng ta thấy tấm lòng Chúa Giêsu dạt dào tâm tình cảm thương. Cảm thương ấy được diễn tả bằng việc giải cứu những người khổ đau.
3. Cảm thương, nên chịu đau khổ thay
Chúa Giêsu phán: "Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,15). Sự hy sinh mạng sống mình của Chúa Giêsu đã được tiên tri Isaia diễn tả tỉ mỉ như sau: "Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong, đáng chúng ta nhìn ngắm. Dung mạo Người chẳng còn gì đáng chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mầm bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới.
"Sự thật, chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta...
"Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm. Người đã chịu sửa để chúng ta được bình an" (Is 53,3-5).
Kinh cầu "Chịu nạn" hồi xưa có một chuỗi dài kể ra những đau đớn Chúa Giêsu chịu trong cuộc thương khó. Sau mỗi câu kể lại, là lời "vì tội chúng tôi". Kẻ đọc người nghe nhận ra thấm thía ý nghĩa sự thương khó Chúa chính là để đền tội chúng ta.
***
Trên đây là một thoáng nhìn về vài cách Chúa cảm thương con người chúng ta. Nên nhìn và suy gẫm. Tất cả đều có liên quan đến chúng ta. Chúa ở trước mặt chúng ta. Mỗi người chúng ta nên đặt trước Chúa những tâm tình của mình.
Trước hết chúng ta cảm tạ Chúa đã cảm thương chúng ta. Chúng ta nhận ra những cảm thương đó. Đúng thực là Chúa đã cùng chịu đau khổ với chúng ta. Đúng là Chúa đã giải cứu chúng ta. Đúng là Chúa đã đền tội thay cho chúng ta. Chúng ta nhận ra những sự thực đó trong những trường hợp cụ thể của đời mình.
Cùng với việc cảm tạ Chúa, chúng ta không quên nhớ ơn nhiều người đã cảm thương chúng ta. Họ đã cùng chúng ta chịu khổ. Họ đã giải cứu ta. Họ đã đền tội cho ta.
Nhìn sang Hội Thánh, chúng ta ca ngợi Chúa vì bao người con Chúa đã theo gương Chúa mà cảm thương những người đau khổ. Họ đã chia sẻ thân phận với người đau khổ. Họ đã giải cứu người đau khổ. Họ đã đền tội thay cho người đau khổ.
Bên cạnh những việc cảm tạ, nhớ ơn và ca ngợi, chúng ta đừng quên sám hối. Trong bổn phận cảm thương, chúng ta đã có những thiếu sót, những lỗi lầm, những tội phạm. Chúa đã nói rất rõ: "Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi không làm điều tốt cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta" (Mt 25,45).
Sau cùng, chúng ta cầu xin Chúa thương đổi mới trái tim ta. Đừng để nó chai cứng, vô tâm, nhẫn tâm, nhưng xin cho nó trở nên tế nhị, nhạy bén, đầy tình cảm thương. Chúng ta không những cầu xin, mà chúng ta cũng còn có bổn phận phải đào tạo chính mình ta và những người thuộc về ta. Đào tạo nên những người biết cảm thương theo gương Chúa.
Thời sự hiện nay đầy những thảm hoạ gây chết chóc, đổ nát, hỗn loạn, sợ hãi lo âu. Cả thế giới bàng hoàng, sống tình liên đới. Nếu chẳng may có những người công giáo và những tập thể trong Hội Thánh vẫn dửng dưng, chỉ biết lo cho mình, không chịu điều chỉnh cuộc sống mình sao cho liên đới với những cảnh khổ của bao người xung quanh, thì sẽ là rất phản chứng. Thời nay phản chứng trong lãnh vực cảm thương sẽ rất hại cho danh dự bản thân và cho uy tín của đạo.
Lạy Chúa, xin thương giải cứu chúng con khỏi những sai lầm trong việc làm chứng cho lòng thương xót Chúa.
Nhân dịp kỷ niệm 36 năm thụ phong Giám mục (30.4.1975/30.4.2011), tôi nhớ tới muôn vàn ơn Bùi-Tuần 1864
Nhân dịp kỷ niệm 36 năm thụ phong Giám mục (30.4.1975/30.4.2011), tôi nhớ tới muôn vàn ơn tôi đã nhận được từ Thiên Chúa, từ Hội Thánh, từ giáo phận, từ Tổ quốc, đồng bào.
Trong tâm tình biết ơn, tôi viết bài sau đây. Xin được gửi gấm nơi đây lời cầu chúc bình an và hạnh phúc trong Thiên Chúa là Tình Yêu.
1. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ cho tôi biết một tin bất ngờ, đó là Toà Thánh chọn tôi làm Giám mục phó Long Xuyên. Nghe tin đó, tôi rụng rời. Tôi trình với Đức Cha Micae ý kiến của tôi là nếu được phép từ chối, thì tôi xin từ chối. Nghe vậy, Đức Cha Cố khuyên tôi không nên làm như thế. Vì tình hình đang hết sức rối ren, lựa chọn của Toà Thánh đã được chuẩn bị từ rất lâu một cách kỹ lưỡng, nên coi đây là thánh ý Chúa. Tôi cúi đầu xin vâng trong tinh thần sám hối và phó thác.
Ngay tối hôm đó, tôi chọn khẩu hiệu cho cuộc đời mà tôi mới được sai vào, đó là "Giới răn mới".
"Giới răn mới" trích từ Lời Chúa được ghi trong Phúc Âm thánh Gioan: "Thầy ban cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con" (Ga 13,34).
Thực sự, chính Chúa chọn cho tôi khẩu hiệu đó. Bởi vì Lời Chúa trên đây đã hiện lên trong tôi đúng lúc tôi muốn tìm. Tôi có cảm tưởng là chính Chúa Giêsu đến với tôi. Người dạy tôi hãy đi theo hướng yêu thương. Người hứa sẽ ở lại trong tôi, và sẽ chia sẻ tình yêu của Người cho tôi. Yêu thương ở đây là một ơn gọi.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, thánh lễ thụ phong Giám mục được diễn tiến một cách rất đơn sơ trong nhà nguyện của chủng viện Tôma, Long Xuyên. Tôi chính thức bước vào cuộc đời Giám mục. Yêu thương của Lời Chúa và nhờ Chúa đồng hành với tôi.
2. Lúc đó, lịch sử sang trang.
Tắt tiếng súng, nhưng chưa hẳn đã tắt được hận thù. Có hoà bình, nhưng chưa hẳn đã có yêu thương. Những thành kiến lâu năm đâu dễ gỡ bỏ. Tình hình như thế diễn biến rất phức tạp. Thêm vào đó là cảnh nghèo do mất của mất người.
Trong cảnh khổ, chúng tôi không cô đơn. Chúng tôi sống yêu thương hơn bao giờ hết. Các giám mục, các linh mục, các tu sĩ, các giáo dân, đều gần gũi nhau. Không có vấn đề kẻ giàu người nghèo. Cũng không có cảnh đề cao quyền chức. Người nọ nương tựa vào người kia để mà sống. Tất cả đều bám chặt vào Chúa một cách tuyệt đối. Tất cả đều tập trung vào Đức Kitô, với lòng khao khát thuộc trọn về Chúa.
Sống giữa một tình hình còn nhiều hận thù và nghi kỵ ẩn khuất do chiến tranh để lại, những người sống Điều Răn Mới đã cố gắng góp phần vào việc làm chứng cho Chúa. Không phải là họ không gặp những thử thách cam go, nhưng họ cùng với Chúa "đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm". Yêu thương như thế phải kết hợp với yêu thương của Chúa Giêsu. Yêu thương trong khiêm nhường, hiền từ và chấp nhận hy sinh quên mình. Yêu thương ở đây là một ân sủng của Chúa mang theo khả năng nhạy bén.
Yêu thương như thế là một đấu tranh không ngơi nghỉ. Đấu tranh chủ yếu là với chính mình. Từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo chân Đức Kitô. Đấu tranh đó không dễ dàng. Đau khổ trở nên lương thực hằng ngày. Nhưng Đức Kitô ở giữa chúng tôi. Chúng tôi luôn hồi tâm trở về với Chúa và phó thác nơi Người.
Yêu thương như thế đã đem lại nhiều kết quả tích cực trong việc hoà giải dân tộc và loan báo Tin Mừng cứu độ nơi nhiều lãnh vực ngoài Hội Thánh Công giáo.
Như thế, có thể nói: Trong một tình hình rất khó khăn, Chúa vẫn dùng những dụng cụ bé nhỏ của Chúa, để lấy ra được những hiệu quả tốt lành.
3. Bước sang thời kỳ xã hội mở ra với nhiều tự do, Hội Thánh Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều phong trào văn minh và tư tưởng. Nhờ Thánh Thần chân lý soi sáng, nhiều người đã có những chọn lựa đáp ứng Điều Răn Mới của Chúa một cách phong phú hơn.
Họ dùng những phương tiện mở ra, để dấn thân phục vụ nhiều hơn cho kẻ nghèo khó, cô đơn, bệnh tật, già yếu. Họ có nhiều tự do hơn, để xa tránh tội lỗi, giúp cho yêu thương được luôn vâng phục thánh ý Chúa. Họ được thoải mái hơn trong việc tự nguyện hiến thân làm của lễ đền tội cho người khác. Họ đi vào mọi hướng mở ra, để phục vụ Quê Hương bằng tất cả mọi khả năng có thể.
Họ cũng gặp những thử thách. Không thử thách nào là thử thách cuối cùng. Nhưng sau đường hầm vẫn có ánh sáng.
4. Tuy nhiên, trong xã hội, phong trào phát triển vật chất theo hướng tự do lên mạnh và mau, đang khi phát triển đạo đức lại yếu và chậm. Tình hình đó đã gây nên nhiều hậu quả xấu. Nhiều nơi trong Hội Thánh cũng xảy ra như vậy. Đạo chạy theo thành tích, ùa theo đám đông, dựa vào tiền bạc, trọng hình thức bề ngoài, tìm địa vị, đi với người giàu, xa tránh người nghèo. Hoạt động bề ngoài thì lên, nhưng đạo đức bên trong thì xuống.
Hiện tượng phân hoá là có thật. Giữa giàu và nghèo, giữa chủ trương đối thoại và chủ trương đối đầu, giữa khuynh hướng đồng hành và khuynh hướng bất cần.
Nếu phân hoá chỉ là hiện tượng xa cách nhau thì chưa đến nỗi. Nhưng khi Satan lợi dụng, dùng thủ đoạn kích động làm cho nội bộ nghi ngờ nhau, không còn tin nhau, thậm chí còn muốn loại trừ nhau, thì phân hoá trở nên trầm trọng.
5. Trong một tình hình như vậy, những người được Chúa gọi sống Điều Răn Mới đã gặp nhiều khó khăn trong chính bộ bộ. Họ chỉ có thể vượt qua những khó khăn đó bằng tăng cường đời sống nội tâm, và trở về với tinh thần khó nghèo Phúc Âm.
Sự luôn luôn gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu đã cho họ nghị lực và bình an để trung thành "yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương", dù họ có nhiều giới hạn.
Khi thực sự kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, họ không những được nghị lực và bình an, mà nhiều khi còn được an ủi và nâng đỡ.
6. Những an ủi và nâng đỡ họ nhận được cho phép họ khám phá ra điều này, đó là: Yêu thương mà Chúa muốn không phải chỉ là biết cho đi, mà còn là biết đón nhận.
Tôi xin phép được nói lên kinh nghiệm của riêng tôi. Rất nhiều trường hợp, tôi không thể đứng dậy được, nếu không có người đỡ tôi đứng lên. Rất nhiều trường hợp, tôi không thể bước đi, nếu không có ai dắt tôi đi. Trường hợp như thế là chính thời gian này tôi đang bị chi phối bởi tuổi già và bệnh tật. Trường hợp như thế cũng là những hoàn cảnh khó khăn đau đớn khác về tinh thần và thể xác. Đón nhận sự giúp đỡ của người khác giúp cho yêu thương được khiêm nhường, biết ơn và tế nhị.
Những người đỡ nâng có thể ở gần và cũng có thể ở xa. Có thể họ ở trong Hội Thánh, và cũng có thể họ ở ngoài Hội Thánh. Chứng tỏ yêu thương vẫn là một ân sủng. Phải nói thêm một điều: Yêu thương cũng là biết đón nhận sự tha thứ. Tha thứ từ Thiên Chúa, tha thứ từ những con người.
Sẽ là rất sai lầm, nếu yêu thương của người môn đệ Chúa dám chủ trương không cần đến người khác, cho dù người khác là người ngoài Hội Thánh.
Trên con đường sống ơn gọi yêu thương, Chúa luôn giáo dục tôi bằng nhiều cách. Nhiều người cũng đã góp phần vào việc đào tạo tôi. Đặc biệt Hội Thánh luôn là điểm tựa và là nguồn ủi an rất lớn cho tôi. Đời tôi là một bài ca cảm tạ.
7. Nói một cách đơn sơ vắn tắt, yêu thương của Điều Răn Mới trong đời tôi được tôi cảm nhận như một quá trình nhiều tác động:
Tôi phải đón nhận thực nhiều tình yêu của Chúa Giêsu. Tình yêu ấy thấm sâu vào mọi cơ năng trong tôi.
Với tình yêu Chúa Giêsu, tôi phải hội nhập vào thực tại của Quê Hương và Hội Thánh Việt Nam một cách thiết tha gắn bó.
Từ những tiếp cận đó đã trào ra trong tôi những cảm xúc sống động vừa có hồn Phúc Âm vừa có hồn Dân Tộc. Nhờ vậy, Nước Thiên Chúa là tình thương và ân sủng đã đi vào lòng nhiều người trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh.
8. Trên đây là một thoáng nhìn về hành trình của một khẩu hiệu. Hành trình dài với nhiều cảm nhận qua nhiều trắc trở và nhiều đỡ nâng. Hành trình này đã giúp tôi hiểu thấm thía Hội Thánh là mầu nhiệm, là hiệp thông và là sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Đối với tôi, cảm nhận rõ nhất là về tầm quan trọng của Lời Chúa. Tôi cảm nhận Điều Răn Mới là một Lời Chúa hết sức linh thiêng. Lời quan trọng ấy luôn bị Satan tìm cách loại trừ. Thiên Chúa là tình yêu, còn Satan là ghen ghét, hận thù. Satan không loại trừ được Lời Chúa. Nhưng chúng tìm mọi cách để Lời Chúa không được thực hiện đúng. Chỉ cần người thực hiện làm sai một chút thôi, cũng đủ cho chúng mừng. Sai một li đi một dặm. Phương chi sai nhiều. Thậm chí sai hẳn.
Tình hình sẽ trở nên trầm trọng, nếu chúng ta chỉ lo đối phó mà không lo đào tạo, nhất là đào tạo về bổn phận phải yêu thương nhau như Chúa yêu thương.
Chúng ta rất cần tạ ơn Chúa. Cũng rất cần sám hối và phó thác. Nhờ đó, chúng ta được thanh thản. Yêu thương của Điều Răn Mới được cảm nhận như một hành trình của người con bé nhỏ đi về với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Chúa Cứu Thế là chứng nhân về Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Từ hang đá Bêlem, nơi Người Bùi-Tuần 1865
Chúa Cứu Thế là chứng nhân về Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Từ hang đá Bêlem, nơi Người sinh ra, đến hang đá Calvariô, nơi Người được an táng, đời Chúa Giêsu suốt 33 năm là hành trình làm chứng cho tình yêu cứu độ. Một tình yêu chấp nhận hạ mình xuống cảnh khó nghèo. Một tình yêu tình nguyện chịu khổ nạn đến chết trên thập giá. Tất cả đều làm chứng Thiên Chúa xót thương cứu chuộc loài người.
Để tiếp nối việc làm chứng quan trọng ấy, Chúa Giêsu đã chọn một số người, đặc biệt là nhóm 12 tông đồ. Người đã đào tạo họ cách riêng. Sau khi sống lại, trước khi lên trời, Chúa Giêsu đã hiện ra với các tông đồ nhiều lần. Có thể nói: Những gặp gỡ đó đều nhắm vào việc đào tạo các tông đồ, để họ trở nên những chứng nhân thích hợp của Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Trong cái nhìn trên đây, tôi xin được phép rút ra những điểm nổi bật từ những cuộc Chúa Phục Sinh đến gặp các môn đệ của Người. Những điểm nổi bật đó đã giúp các môn đệ cảm nhận được tình yêu thương xót Chúa.
1. Những cảm nhận của các môn đệ Chúa Phục Sinh, khi được Người hiện ra gặp gỡ
a) Sau khi Chúa Giêsu bị giết, các môn đệ của Người đã rất hoảng sợ và lo âu. Họ sợ các người giết Chúa cũng sẽ truy lùng họ. Họ lo âu không biết Chúa có trở lại như đã hứa hay không. Họ hoang mang về tin Chúa sống lại là thực hay giả. Tình hình như thế đâu có làm chứng được gì cho Chúa.
Nhưng Chúa Phục Sinh đã hiện ra với họ. Chúa Phục Sinh đã mang đến cho họ sự bình an.
Sự bình an nói đây là ơn giải cứu họ khỏi sợ hãi, lo âu, nghi ngờ. Thay vào đó là niềm tin dạt dào tình yêu vui sướng.
Sự bình an Chúa Phục Sinh ban cho họ cũng được họ cảm nhận như một sự tha thứ. Chúa Phục Sinh không có một lời nhắc đến những lỗi lầm yếu đuối của họ. Họ cảm thấy lòng mình như được tình yêu cứu độ của Chúa xoá sạch mọi tội lỗi.
b) Cùng với cảm nhận về sự bình an, mang ơn tha thứ, các môn đệ Chúa cảm nhận được sự thân mật Chúa dành cho mình.
Trước mồ trống, Chúa gọi tên các bà đang khóc. Trong phòng họp, Chúa gọi ông Tôma đang hồ nghi hãy đến gần. Trên bờ biển hồ Tibêria, Người nói chuyện với mấy ông đang bắt cá. Sau bữa ăn chung, Chúa hỏi ông Simon có mến Thầy không, và Chúa đã trao quyền cho ông.
Mỗi môn đệ đều cảm nhận được tình Chúa dành cho mình có một cái gì là riêng tư thân mật. Cái riêng tư thân mật ấy khiến họ cảm thấy Chúa gần gũi họ, giúp họ phó thác.
Chính Chúa Phục Sinh chủ động đến với họ trong những lúc bất ngờ và ở những nơi tưởng là không xứng đáng, như trên bãi biển, trong phòng đóng kín, trên đường đi Emmau. Chúa Phục Sinh cho họ cảm thấy tình xót thương Chúa dành cho mỗi người là một quà tặng nhưng không.
c) Một cảm nhận khác mà Chúa in vào lòng các môn đệ là phải vâng lời Kinh Thánh mà vượt qua cuộc khổ nạn, thì mới được phục sinh.
Cảm nhận đó có vẻ không dễ dàng. Khi hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau, Chúa Phục Sinh đã phải cắt nghĩa lâu, rồi phải mở trí mở lòng họ ra, thì họ mới hiểu. Khi hiện ra với các môn đệ đang họp cùng ông Tôma, Chúa Giêsu cũng đã nhắm đến sự phải vâng lời Kinh Thánh mà đi vào cuộc khổ nạn, rồi Người cũng đã mở trí mở lòng họ ra, thì họ mới hiểu.
Chúa ban cho họ cảm nhận về thánh giá, để từ đó, Chúa kêu gọi họ phải sám hối.
d) Cảm nhận sau cùng của các môn đệ Chúa, khi được gặp Chúa Phục Sinh, là sự tin chắc chắn mình được Chúa yêu thương, được Chúa cứu độ và được Chúa sai đi.
Cùng với cảm nhận này là sự tin chắc mình được ơn yêu mến Chúa và yêu thương những kẻ khác.
Sự tin chắc chắn trên đây có thể được coi là dấu chỉ mạnh mẽ nhất về tình yêu thương xót Chúa. Niềm tin ấy trở thành dấu chỉ, khi phát xuất từ tiến trình khám phá ra cái tôi đích thực.
2. Tiến trình khám phá ra cái tôi đích thực
Thánh Phêrô và các môn đệ khác đã dần dần khám phá thấy cái tôi đích thực của mình qua những đổ vỡ.
Các ngài tưởng mình luôn trung tín với Chúa. Nhưng các ngài đã không như mình tưởng. Người thì chối Chúa, người thì bỏ trốn, khi Chúa bị bắt. Cái tôi mình tưởng là luôn vững, đã sụp đổ vì yếu đuối.
Các ngài tưởng Thầy mình sẽ cứu dân mình về mặt chính trị bằng sự thiết lập một vương quốc trần thế hùng mạnh, trong đó các ngài sẽ được những địa vị cao sang. Nhưng Chúa đã không làm như vậy. Những ảo tưởng của các ngài sụp đổ.
Các ngài tưởng đời các ngài sẽ là những chuỗi thành công, những chuỗi niềm vui. Nhưng các ngài đã nếm mùi thất bại và những nỗi buồn cay đắng.
Các ngài tưởng mình có thể tự hào về những việc trừ quỷ, và làm nhiều phép lạ. Nhưng Chúa đã cho các ngài thấy những việc coi như đạo đức lẫy lừng đó sẽ không giúp gì cho họ, nếu họ không thực hiện đúng theo thánh ý Chúa. Tự hào của họ nhiều khi tan vỡ.
Tan vỡ tiếp theo tan vỡ. Sụp đổ kéo theo sụp đổ. Tiến trình đó là một thực tế đắng cay. Nhờ ơn Chúa, các môn đệ Chúa nhìn thấy rõ cái tôi của mình.
Cái tôi của các ngài là như vậy. Thế mà Chúa đã đoái nhìn đến. Chúa đã yêu thương họ. Yêu thương bằng ơn cứu độ, ơn tha thứ, ơn bình an, ơn được khả năng yêu mến Chúa và yêu thương những kẻ khác. Một tình yêu thương dạt dào lòng thương xót.
Dần dần họ cảm nhận được các ơn đó là Tin Mừng cứu độ đối với họ. Và sau cùng họ xác tín chính Chúa Giêsu là Tin Mừng cứu độ của họ.
Cùng với sự xác tín mình được yêu thương, họ cảm nhận được mình được sai đi làm chứng cho Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô. Họ sẽ làm chứng không phải chỉ bằng lời nói, mà nhất là bằng đời sống thường ngày của họ. Một đời sống sẽ là yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương họ.
Yêu thương người khác như Chúa đã yêu thương họ, đó là chỉ tiêu họ theo đuổi.
Đến đây, tôi tự hỏi: Tại Việt Nam hôm nay các môn đệ Chúa Giêsu, trong đó có tôi, đang làm chứng cho Tin Mừng thế nào?
Chắc chắn là không thiếu người đang làm chứng cho Tin Mừng bằng chính đời sống yêu thương như Chúa đã yêu thương. Tuy nhiên sẽ không sai nếu nói rằng nhiều người chỉ làm chứng bằng lý thuyết và trong nhà thờ, chứ không bằng đời sống. Rất có thể là họ chưa bao giờ cảm nghiệm được Đức Giêsu Kitô là Tin Mừng của họ. Nên lòng họ trống vắng, dửng dưng lạnh lùng với Chúa Giêsu.
Chúng ta khiêm nhường tha thiết cầu xin cho họ. Cầu xin cho họ cũng là cầu xin cho chúng ta. Bởi vì biết đâu chúng ta cũng giống như họ hay còn tệ hơn họ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết đón nhận Chúa là Tin Mừng cứu độ, để chính Chúa ở trong con sẽ giúp con làm chứng cho Thiên Chúa giàu lòng thương xót tại Việt Nam hôm nay.
Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển. Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau" (Ga 13,31-33a. 34-35).
Lúc bắt đầu đi vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã nói: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Bùi-Tuần 1866
Lúc bắt đầu đi vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã nói: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người" (Ga 13,31).
Lời đó cho thấy: Vinh hiển của Chúa Giêsu là sự Người vâng phục thánh ý Chúa Cha, hiến mình làm của lễ đền tội cho nhân loại. Cũng chính tình yêu hy sinh của Người như của lễ sẽ làm cho Chúa Cha được vinh quang.
Chúng ta hãy nhìn vào của lễ Chúa Giêsu.
Của lễ là chính bản thân Người.
Bản thân Người như Con Chiên hiền lành, mà sách Xuất Hành nói tới (x. Xh 12,11-14) sẽ bị giết để cứu dân.
Bản thân Người như người tôi trung, mà tiên tri Isaia nói tới (x. Is 52,13-58) sẽ bị hành hạ, thay cho kẻ tội lỗi.
Bản thân Người như người nô lệ, mà thánh Phaolô nói tới (x. Pl 2,7) sẽ bị treo trên thập giá, để đền tội thay cho nhân loại.
Bản thân Người như vị tư tế, mà tác giả thư gởi Do Thái nói tới (x. Dt 10,8) như kẻ vâng phục: "Này con xin đến để thực thi ý Cha".
Như vậy, chịu đau khổ vì yêu thương là một giá trị cao cả. Nó có sức cứu độ, do đó mà Thiên Chúa được vinh quang.
Nhận thức trên đây đổi mới cái nhìn của tôi. Tôi ca ngợi những môn đệ Chúa trong đó có anh chị em, đã và đang chịu đau khổ vì mến Chúa yêu người. Tôi cảm thương sâu sắc với những ai đau khổ. Nhận thức đó cũng đã thúc đẩy tôi bám chặt vào Chúa chịu khổ nạn, khi tôi sợ hãi trước những cơn bão tố đổ trên tôi đang phải hấp hối trong những ngày đen tối. Chính Người là sức mạnh của tôi.
2. Tôi càng bám chặt vào Chúa chịu khổ nạn một cách phó thác, khi tôi thực thi lời Người dạy: "Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con" (Ga 13,34).
Theo tôi, cái khó không phải là yêu thương, nhưng là yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương.
Bản thân tôi rất yếu đuối. Nếu không được Chúa ban ơn giúp sức, tôi không thể nào yêu thương như Chúa yêu thương. Yếu đuối là một cái khó rất lớn.
Nhưng, cho dù tôi có yêu thương tới một mức nào đáng kể, tôi cũng sẽ gặp một cái khó khác. Cái khó đó từ bên ngoài. Rất nhiều người kể cả trong nội bộ chúng ta, vẫn coi yêu thương như Chúa yêu thương là một sự hèn yếu. Đám đông không thích thánh giá là một áp lực. Sống trong một môi trường như vậy, người môn đệ nào của Chúa kiên trì với đường lối yêu thương nhiều khi sẽ thấy mình bị cô lập. Nhất là khi Satan lại chỉ huy công việc chống phá. Satan là một cái khó rất mạnh.
Các môn đệ Chúa sẽ cô đơn và như thất bại. Nhưng Chúa vẫn thắng. Bởi vì Chúa quyền năng vẫn hay dùng những dụng cụ hèn yếu để mở rộng Nước của Người.
Tôi đã được nghe tâm sự của rất nhiều người trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh. Họ cho biết là họ đã được ơn Chúa và cảm nhận được tình Chúa xót thương, nhờ tiếp xúc với những người công giáo sống yêu thương. Qua những tâm sự đó, tôi thấy Nước Thiên Chúa là Nước ân sủng và tình yêu. Nước Thiên Chúa dưới hình thức đó đã đi vào biết bao tâm hồn, Nước Chúa đang đi vào lòng dân tộc Việt Nam.
3. Khi hiểu được sự thực trên đây, tôi vững tin hơn vào Lời Chúa phán: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau" (Ga 13,35).
Yêu thương là dấu chỉ, để nhận ra ai là môn đệ Chúa. Chính Chúa chọn yêu thương là dấu chỉ, thì không ai có quyền thay đổi. Chúng ta đón nhận sự chọn lựa mà Chúa ban cho ta như một ơn gọi. Ơn gọi này không dễ dàng. Vì thế chúng ta cầu xin Chúa đào tạo chúng ta. Chúa đào tạo chúng ta bằng nhiều cách. Một cách Chúa thường dùng đó là thánh giá Chúa Giêsu.
4. Anh chị em thân mến,
Tình hình hiện nay đang được Chúa báo động. Có nhiều bất an, bất ổn. Có nhiều nguy cơ rất đáng ngại. Nguy cơ nên để ý nhất là sự lộng hành của Satan. Mục tiêu mà Satan nhắm chống phá nhiều nhất, chính là Nước tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa.
Trước tình hình này, Chúa đang gởi đến cho chúng ta một sứ điệp, đó là Chân Phước Gioan Phaolô II. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là một vị thánh đương thời.
Ngài là người môn đệ Chúa đã được tham gia sâu sắc vào cuộc thương khó Chúa.
Ngài là vị chủ chăn đã luôn dạy đoàn chiên về bổn phận yêu thương nhau.
Ngài là người con Đức Mẹ hay kêu gọi mọi người hãy trông cậy vào Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Ba tình thương đều có hy sinh.
Ba tình thương như ba dòng chảy ơn thánh, giúp chúng ta đến với Chúa và gần lại với nhau.
Ba dòng chảy này giúp chúng ta sống Lời Chúa về tình yêu một cách phong phú và cụ thể trong thời sự hôm nay.
Vì thế, với việc suy gẫm Lời Chúa hôm nay, cùng với việc phong Chân Phước ngày mai cho Đức Gioan Phaolô II, Chúa muốn chúng ta hãy vững tin vào đường lối, mà Chúa đã dạy trong Lời Chúa và trong vị tân Chân Phước, đường lối đó chính là tình yêu hy sinh. Khi bản thân ta biến thành của lễ tình yêu hy sinh, thì chúng ta sẽ làm cho Chúa được vinh quang.
Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con biết đón nhận Tin Mừng hôm nay của lòng thương xót Chúa. Amen.
Bài chia sẻ trong thánh lễ kỷ niệm 36 năm thụ phong Giám Mục (30-4-1975/30-4-2011)
Thánh Gioan Baotixita biết mình có liên hệ với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đang đến sau Ngài Bùi-Tuần 1867
1. Thánh Gioan Baotixita biết mình có liên hệ với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đang đến sau Ngài. Liên hệ đó là đi trước dọn đường. Trách nhiệm đó rất cao cả. Chính Thiên Chúa đã gọi Ngài, đã chọn Ngài, đã thánh hoá Ngài, đã sai Ngài, đã trao trách nhiệm cho Ngài. Mục đích để cứu nguy phần rỗi.
Gioan Baotixita vâng theo thánh ý Chúa. Nhưng Ngài nói: "Tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng Cứu Thế" (Ga 1,27).
2. Với lời trên đây, Gioan Baotixita muốn nói lên sự khó nghèo của Ngài.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết Chúa thì vô cùng cao sang, còn mình thì hết sức hèn hạ. Ngài cảm nhận mình không xứng đáng được Chúa chọn.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình sẽ phải giới thiệu một Đấng Cứu Thế yêu thương hết mực khiêm tốn. Hình ảnh đó khó được dân chúng chấp nhận. Chính Ngài cũng chẳng hiểu nổi. Ngài cảm nhận mình không có khả năng giới thiệu Đấng Cứu Thế như vậy.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình được sai đến với một xã hội tội lỗi cứng lòng. Mà Ngài thì không có chức tước địa vị, không có tiền bạc, không có hậu thuẫn. Ngài cảm nhận mình không có cơ may dọn đường cho Chúa.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình phải nói nhân danh Đấng thiêng liêng vô hình. Mà Ngài chỉ như là tiếng kêu trong sa mạc. Ngài cảm nhận mình không có tài đức.
Sự khó nghèo, mà Gioan Baotixita cảm nghiệm về mình, thực là sâu thẳm. Ngài nhận mình bất xứng khó nghèo, thế mà lại được Chúa yêu thương. Nên Ngài cảm tạ Chúa với tất cả lòng khiêm tốn.
Tuy nhiên, Chúa cho Ngài biết chính vì Ngài nghèo khó, nên Chúa đã chọn Ngài. Chúa dạy Ngài hãy thi hành ơn gọi một cách đơn giản, như một người nghèo khó.
3. Thi hành ơn gọi một cách đơn giản là đi vào những gì căn bản một cách đơn sơ.
Thực vậy, thánh Gioan Tiền Hô đã đơn sơ trong việc giới thiệu con đường phần rỗi linh hồn. Ngài giới thiệu bằng chính cuộc sống của Ngài. Một cuộc sống nhấn mạnh đến căn bản tu đức dựa trên Lời Chúa. Ngài sống cầu nguyện, nghèo khó, khổ hạnh, gần gũi với mọi người, vâng phục thánh ý Chúa.
Thánh Gioan Tiền Hô đã đơn sơ trong việc dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Đối với Ngài, dọn đường là bỏ tội lỗi. Ngài cho biết tội là làm sai luật Chúa, nhất là trong lãnh vực công bình bác ái đối với tha nhân. Phải bỏ đường tội bằng sám hối và sửa lại nếp sống. Nếu không, sẽ bị Chúa phạt. Hình phạt nặng nhất là mất linh hồn, phải sa hoả ngục đời đời. Ngài nói về cơn thịnh nộ của Chúa (x. Lc 3,7). Ngài đưa ra hình ảnh cây xấu bị chặt đi và quăng vào lửa (x. Mt 3,10). Những gì Ngài nói về tội, thì rất căn bản và dễ hiểu. Đối với Thánh Gioan, biết sợ Chúa phạt là khởi đầu tốt cho việc bỏ đàng tội lỗi.
Thánh Gioan Tiền Hô đơn sơ trong việc giới thiệu Chúa Giêsu. Ngài nói: "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian" (Ga 1,29). Ngài nhấn mạnh đến việc phải tin cậy vào Chúa Giêsu, để được cứu khỏi tội. Nói thế là rất căn bản và dễ hiểu.
Thánh Gioan Tiền Hô đơn sơ trong niềm tin. Ngài biết mình chẳng là gì, chẳng đáng gì. Ngài không bám vào điểm tựa nào nơi trần thế. Ngài chỉ cậy tin vào lòng Chúa xót thương mà thôi. Ngài vững tin vào sức mạnh ân sủng của Chúa. Vững tin như thế là rất đơn sơ mà cũng rất căn bản.
4. Tóm lại, đơn giản của Thánh Gioan Baotixita là không đưa ra những lý lẽ cao siêu, không ôm đồm những tham vọng xa vời, mà chỉ nhấn mạnh đến những điều căn bản nhất, khuyên làm những việc cần thiết nhất, đưa người ta nhìn vào mục đích quan trọng nhất đời mình.
Tới đây, chúng ta có thể tóm lược chân dung Thánh Gioan Baotixita ở hai nét này: Một là khiêm nhường nghèo khó, hai là thi hành ơn gọi một cách đơn giản với những gì là căn bản nhất.
Với chân dung đó, Thánh Gioan Baotixita đã đem một sứ điệp Chúa gởi đến cho nhân loại nói chung và dân Chúa nói riêng, để cứu nguy phần rỗi.
Thánh Gioan Baotixita đã qua đời. Nhưng sứ điệp cứu nguy phần rỗi vẫn được Chúa gởi vào lịch sử mọi thời mọi nơi, bằng cách này hay bằng cách khác.
Đức Mẹ tại Fatima, khi thấy đời sống đức tin sa sút trầm trọng, cũng đã nhắc tới những gì căn bản nhất để cứu con người khỏi sa vào con đường đi xuống hoả ngục.
5. Hôm nay, sứ điệp cứu nguy phần rỗi đang được Chúa gởi vào tình hình Việt Nam bằng nhiều cách. Vấn đề cần đặt ra là người ta có đón nhận sứ điệp đó hay không? Địa chỉ, mà câu hỏi quan trọng về sứ điệp cần gởi tới, không phải là người ta chung chung, mà là mỗi người con Chúa, nhất là mỗi người có trách nhiệm dẫn dắt cộng đoàn.
Có thể nói như Thánh Gioan Tiền Hô và như Đức Mẹ ở Fatima là: Tai hoạ khủng khiếp cho phần rỗi sẽ đổ xuống, nếu không sám hối, nếu không trở về với Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót ban ơn cho chúng con biết đón nhận sứ điệp cứu nguy phần rỗi. Bởi vì phần rỗi của chúng con rất dễ bị lâm nguy. Cũng xin Chúa xót thương nâng đỡ những người được Chúa sai đi rao giảng sứ điệp cứu nguy phần rỗi tại Việt Nam hôm nay. Bởi vì trách nhiệm của họ rất nặng nề rất khó khăn, rất khẩn cấp.
Một trong những mong muốn hàng đầu của gia đình công giáo là phục vụ đức tin. Mong muốn đó Bùi-Tuần 1868
1. Một trong những mong muốn hàng đầu của gia đình công giáo là phục vụ đức tin. Mong muốn đó rất đáng khen ngợi.
Phục vụ đức tin là sống đức tin một cách sốt sắng, là làm chứng cho đức tin một cách cụ thể, là truyền bá đức tin một cách nhiệt thành. Tất cả đều được thực hiện theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Để phục vụ đức tin như thế, gia đình công giáo tìm kiếm một gương mẫu. Gương mẫu đáng tin cậy nhất là Thánh Gia.
2. Trước hết, chúng ta nhìn vào Chúa Giêsu.
Trong công trình cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu đã ưu tiên chọn những phương tiện nghèo khó, khiêm nhường.
Chúa Giêsu sinh vào đời một cách hết sức nghèo khó. Không một chút quyền lực. Người đến như một trẻ thơ, hoàn toàn tuỳ thuộc vào những người xung quanh. Người không chống lại ai, Người không áp đặt lên ai bất cứ điều gì. Người được nhận ra ở nét yếu đuối, nét khiêm nhường, nét nghèo khó.
Những nét đó càng sâu đậm hơn nữa nơi Chúa Giêsu, khi Người tắt thở trên thánh giá.
Nói thế không có nghĩa là Chúa Giêsu đã không dùng những phương tiện sang giàu. Thực sự Người đã vào thành Giêrusalem một cách trọng thể, ngày lễ Lá. Dân chúng đã trải áo mình trên đường Người đi. Họ đã nhiệt liệt hoan hô Người. Nhưng ngay sau cuộc đón rước linh đình đó, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó sẽ trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12,24). Người nói điều đó, để các môn đệ đừng bám vào biến cố vinh quang mới xảy ra, kẻo sẽ lầm lớn.
Trong vườn Cây Dầu, khi quân quốc kéo đến, toan bắt Chúa Giêsu, Người xưng mình là kẻ họ muốn tìm bắt. Nghe vậy, "Bọn họ lùi lại và ngã xuống đất" (Ga 18,6). Người tỏ ra quyền phép của Người. Nhưng sau đó, Người để mình bị trói, bị nhục mạ, bị nhổ vào mặt, bị đem đi giết. Người nhịn nhục, khiêm tốn.
Trên thánh giá, Người nghe lời thách thức: "Hắn đã cứu nhiều người mà chẳng cứu được mình. Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin" (Mc 15,31-32). Nhưng Người làm thinh, như một kẻ yếu hèn.
Sự nghèo khó, khiêm nhường của Chúa Giêsu đã gây cho Người những nhục nhã, những đớn đau. Nhưng Người đã muốn như thế. Chọn lựa của Người được thánh Phaolô gọi là "một sự điên rồ" (1 Cr 1,25). Nhưng đó là điên rồ của tình yêu.
3. Bây giờ chúng ta nhìn vào Đức Mẹ và thánh Giuse.
Mẹ Maria tham gia vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu cũng bằng những phương tiện khó nghèo. Phương tiện khó nghèo của Mẹ là lời "Xin vâng" ngày truyền tin. Đức Mẹ xin vâng suốt cả cuộc đời. Xin vâng đau đớn nhất là dưới chân thánh giá Chúa Giêsu. Xin vâng của Mẹ nói lên tinh thần nghèo khó.
Sự nghèo khó của Mẹ là sự thinh lặng, đời sống ẩn dật, sự vâng phục, sự cầu nguyện, sự khiêm tốn, sự hy sinh hãm mình, sự phó thác trọn vẹn nơi Chúa.
Còn thánh Giuse được chọn để bênh vực Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Ngài cũng thực hiện trách nhiệm đó bằng những phương tiện nghèo khó. Nghèo lương thực, nghèo phương tiện đi lại, nghèo địa vị. Suốt đời Ngài chỉ là lắng nghe ý Chúa và thực thi ý Chúa trong thầm lặng. Ngài nhận biết mình nghèo khó, chỉ biết cậy trông vào Chúa mà thôi. Ngài sống tinh thần thơ ấu như lời Chúa Giêsu dạy: "Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời" (Mt 18,3).
4. Nhìn vào Ba Đấng của Thánh Gia, chúng ta có thể nói: Một đặc điểm chung của Ba Đấng là "Xin vâng cho thánh ý Chúa được nên trọn". Thiết tưởng đặc điểm đó cũng sẽ là cách sống phục vụ đức tin của chúng ta.
Thánh ý Chúa về chúng ta là chúng ta hãy phục vụ đức tin theo gương mẫu Chúa Giêsu Đức Mẹ và thánh Giuse theo hướng phát triển.
Với ý hướng đó, chúng ta phát triển khả năng dũng cảm của chúng ta bằng những việc dù rất nhỏ, để ưu tiên chọn Chúa và lo cho phần rỗi. Vì "Nếu được cả thế gian mà mất linh hồn mình, thì nào được ích gì" (Mt 16,26).
Chúng ta phát triển khả năng yêu thương của chúng ta bằng những việc dù rất nhỏ, nhắm mục đích chu toàn bổn phận, nhất là bổn phận phục vụ và nâng đỡ nhau sống theo ý Chúa.
Chúng ta phát triển khả năng hiểu biết của chúng ta bằng những việc dù rất nhỏ, nhất là năng đọc Kinh Thánh, học hỏi và suy gẫm Lời Chúa.
Chúng ta phát triển khả năng tiếp cận của chúng ta với Chúa bằng những việc dù rất nhỏ, như trung thành với thánh lễ Misa và cầu nguyện tạ ơn, cầu nguyện sám hối, cầu nguyện xin ơn, cầu nguyện dâng hiến.
Chúng ta phát triển khả năng tin cậy Chúa nơi chúng ta bằng những việc dù rất nhỏ, mang tính cách phó thác, nhất là trong những trường hợp khó khăn và bị thử thách. Chúng ta phát triển tinh thần Yêu Nước bằng những việc dù rất nhỏ, mang giá trị liên đới với đồng bào và trách nhiệm trung thành với Tổ Quốc.
5. Chúng ta thành thực nhận thức rằng: Đức tin của gia đình chúng ta hiện nay đang bị đe doạ bởi nhiều bão tố, như bão tố thông tin, bão tố phong trào, bão tố dư luận.
Chúng ta rất cần tỉnh thức, nhất là rất cần có khả năng phân định và lựa chọn. Bởi vì không phải tất cả đều tốt, không phải tất cả đều thực, không phải tất cả đều khả thi, không phải tất cả đều có tính cách xây dựng. Để biết chọn lựa, chúng ta rất cần ơn Chúa. Chúng ta khiêm tốn nhìn nhận rằng: Chúng ta rất yếu đuối và tối tăm. Chúng ta chỉ có thể vượt qua sóng gió nhờ ơn Chúa. Vì thế, chúng ta tha thiết cầu xin Thánh Gia, xin Thánh gia giúp đỡ.
Nhìn vào Đức Giêsu Kitô Đức Mẹ và thánh Giuse, chúng ta thấy Ba Đấng rất dễ gần gũi. Chúng ta xin ở lại bên Ba Đấng, để được đào tạo, để được đỡ nâng, để được trung thành bền vững.
Giêsu, Maria, Giuse, chúng con xin phó thác hồn xác chúng con trong tay Ba Đấng. Amen.
Những bài viết của tôi đăng trên "Công giáo và Dân tộc" hầu hết đều là những bài giảng, bài suy Bùi-Tuần 1869
1. Những bài viết của tôi đăng trên "Công giáo và Dân tộc" hầu hết đều là những bài giảng, bài suy gẫm, bài huấn đức, bài chia sẻ.
Qua những bài suy tư ấy, tôi đã gặp được nhiều người bạn. Mỗi người bạn là một tình nghĩa đỡ nâng. Không ít người đã cầu chúc cho tôi có đủ sức khoẻ để tiếp tục viết. Tôi dâng lên Chúa những cầu chúc thân tình đó. Tôi luôn luôn chỉ muốn những gì Chúa muốn mà thôi.
Từ ý hướng trên đây, tôi xin được chia sẻ sự gắn bó của tôi với Chúa trong các bài tôi viết.
2. Bầu khí quan trọng cần thiết để tôi viết bài là bầu khí cầu nguyện.
Trong thinh lặng, tôi gặp gỡ Chúa. Chúa dạy tôi "Hãy chọn được sống. Chọn được sống thì sẽ được chúc phúc, sẽ được hạnh phúc" (Đnl 30,11-20).
Chọn được sống là chọn Chúa Giêsu. "Chính Thầy là đường, là sự thực và là sự sống" (Ga 14,6).
Tôi tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng những cầu nguyện nhỏ và những hy sinh nhỏ. Có thể nói là thường xuyên ngày cũng như đêm. Tôi hỏi ý Người trong các chọn lựa, tôi nên theo hướng nào. Người thường trả lời tôi là:
a) Hãy chọn những gì hợp với Lời Chúa. "Lời Chúa là Lời ban sự sống" (Ga 6,63). "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4).
b) Hãy chọn những gì mang nhiều tình yêu cứu độ. "Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu hy sinh mạng sống vì người mình yêu" (Ga 15,13). Tình yêu hy sinh của Chúa thì tế nhị, không áp đặt. "Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Chúa yêu thương chúng ta" (Rm 5,8). Tình yêu hy sinh của Chúa thì mở rộng, dấn thân, cứu độ.
Lời Chúa và tình yêu Chúa là nguồn mạch tuôn đổ vào tâm hồn tôi những chân lý, ân sủng và sự sống đời đời.
Đón nhận Lời Chúa và tình yêu Chúa là đón nhận chính Chúa. Chúa đến trong tôi. Người đồng hành với tôi suốt chặng đường viết bài. Từ chọn đề tài, qua suy tư khai triển nội dung, đến kết thúc bài, tôi luôn xin Người hướng dẫn tôi.
3. Lời Người và tình yêu của Người hướng dẫn tôi một cách tế nhị. Hướng dẫn của Người là rất mạnh mẽ, nhưng không miễn trừ sự cộng tác của tôi.
Để viết bài, tôi phải suy tư rất nhiều. Suy tư là một cách nhìn của trí khôn. Nhìn một đối tượng là nhìn đối tượng đó với các tương quan của nó. Nó ở trong đâu? Nó ở với những gì? Chiều rộng của nó tới đâu? Chiều sâu của nó khoảng chừng nào? Tôi phải suy tư. Nhưng trong cầu nguyện Chúa giúp suy tư của tôi có một cách nhìn hợp với Phúc Âm hơn.
Chúa hướng dẫn tôi suốt chặng đường suy tư.
Hướng dẫn của Chúa vừa soi sáng trí khôn tôi, vừa đánh động trái tim tôi. Tôi cảm nhận sự hướng dẫn đó là một ân sủng của Chúa. Xin nêu lên một ví dụ.
Chúa Giêsu phán: "Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần của lễ. Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9,13).
Lời Chúa trên đây nói lên tình yêu của Chúa. Lời đó và tình yêu đó mở rộng tầm nhìn của tôi. Tôi nhìn về những người yếu đuối, những người nghèo khổ, những người cô đơn, bệnh tật, già yếu, những người thiếu thốn bất cứ về mặt nào. Họ là một số đông. Tôi nhận ra số đông đó chính là địa chỉ mà Chúa sai tôi đến.
Tôi đến với họ bằng nhiều cách, như cầu nguyện, hãm mình hy sinh. Tôi gởi tới họ những tâm tình yêu thương và liên đới trong từng trang giấy, trong mỗi tư tưởng, trong mỗi chữ viết. Tôi gởi cho họ những cảm nghiệm của tôi về tình yêu Chúa.
Tất cả đều là quà tặng được gói nhỏ lại và gởi qua trái tim Chúa Giêsu. Tôi không hy vọng quà tặng vì có tên người gởi nên được chuyển đi. Nhưng tôi hy vọng quà tặng được chuyển đi, chính vì nó là một của lễ đã được Chúa chấp nhận. Của lễ hèn mọn hoà tan trong tình yêu cứu độ của Chúa.
4. Qua những hồi âm, tôi nhận được nhiều niềm vui bất ngờ. Bất ngờ nhiều nhất đến từ những người nghèo khổ, từ những người trước đây bỏ đạo nay trở về, và từ những người không công giáo nay tin vào Chúa. Những bất ngờ đó làm tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói xưa về người đại đội trưởng ngoại đạo: "Tôi bảo thật: Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Issac và Giacop trong Nước Trời" (Mt 8,10-11).
Tôi thấy việc Chúa làm thực rất lạ lùng.
Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Thêxalônica: "Chúng tôi biết nói gì để tạ ơn Chúa về anh em, vì tất cả niềm vui mà nhờ anh em tôi có được trước nhan Thiên Chúa chúng ta" (1 Tx 3,9).
Tôi cũng muốn mượn lời trên đây của thánh Phaolô để nói với các bạn độc giả xa gần về niềm vui như thế của tôi.
Trước đây, tôi được biết những niềm vui như thế nhờ người ta nói lại, nhưng bây giờ chính tôi được nếm thử. Nếm thử của tôi cũng phần nào phản ảnh lời Chúa Giêsu phán xưa: "Vậy, tôi nói cho các ông hay: Trên trời, ai nấy đều sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn" (Lc 15,7).
Niềm vui vừa kể mà Chúa ban cho tôi đang trở thành động lực truyền giáo trong tôi. Tôi nhớ tới lời thánh Phaolô: "Làm sao họ kêu cầu Đấng mà họ không tin? Làm sao họ tin Đấng mà họ không được nghe? Làm sao họ nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng nếu không được sai đi?" (Rm 10,14-15).
5. Sự sai đi truyền giáo dành cho các người kế vị các thánh Tông đồ là rõ ràng. Đó là sứ vụ cao cả. Trong tinh thần vâng phục và phó thác, tôi bước vào tương lai với một sức khoẻ đang hao mòn. Tương lai ở trong tay Chúa.
Trong niềm vui được sai đi với nhiều niềm vui khác, cũng có niềm vui được liên đới với những người đau khổ, nhất là được đau khổ với Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Tất cả những niềm vui vừa kể đều sâu lắng, nên không vì thế mà tránh được nước mắt khổ đau.
Trong bầu khí cầu nguyện lúc này, tôi nhớ tới cách riêng những người đã nhắc nhở tôi về những yếu kém trong các bài tôi viết. Tôi xin chân thành cám ơn về những dạy bảo chân thành đó.
Tôi cúi đầu xin Chúa ban phúc lành cho tất cả những ai đã góp phần huấn luyện tôi.
6. Được huấn luyện, tôi cảm thấy điều này: Giá trị quan trọng nhất nơi một người là khả năng yêu thương người khác theo gương Chúa Giêsu. Một giọt tình yêu thương chân thành rất nhỏ mà có hy sinh và cầu nguyện nhiều khi cứu được cả một chuỗi cuộc đời.
Tôi học được điều trên đây đặc biệt nơi các bạn đọc. Tôi xin kính gởi nhận định đó tới Hội Thánh Việt Nam của tôi và Quê Hương Việt Nam của tôi.
Như vậy, đối với tôi, viết bài là một hành trình. Hành trình cầu nguyện và suy tư. Hành trình dài và lâu. Tôi đi cùng với nhiều người, cách riêng là với các bạn đọc và với mọi người tôi được Chúa sai đến. Tôi đi trong lòng Hội Thánh Việt Nam và Quê Hương Việt Nam. Trong suốt chuyến đi, tôi cố gắng đi trước mặt Chúa với tất cả lòng tin cậy phó thác.
"Lạy Cha, con phó mình con cho Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha. Cha làm chi mặc lòng, con cũng cám ơn Cha. Con phó thác trót mình con trong tay Cha. Không do dự đắn đo, song vô cùng tin cậy: Vì Cha là Cha của con. Amen" (Charles de Jésus).
Long Xuyên, ngày 27 tháng 6 năm 2011
------------------------------------
Bùi-Tuần 1870: SỐNG GẮN BÓ VỚI HỘI THÁNH TRONG CƠN THỬ THÁCH
Bài này được viết do nhu cầu nội tâm. Từ nội tâm, tôi thấy Hội Thánh Việt Nam chúng ta đang Bùi-Tuần 1870
Bài này được viết do nhu cầu nội tâm. Từ nội tâm, tôi thấy Hội Thánh Việt Nam chúng ta đang bước vào thời kỳ thử thách. Thử thách tư bề. Một phần do ngoại cảnh. Một phần do nội bộ. Phần do nội bộ là rất phức tạp.
Thánh Phaolô nói: "Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp. Chúng tôi bị hoang mang, nhưng không tuyệt vọng. Chúng tôi bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi. Chúng tôi bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt" (2 Cr 4,8-9).
Lúc này chưa đến nỗi mọi người môn đệ Chúa được nói lên tâm sự như thế. Nhưng biết đâu, rồi có lúc hầu hết sẽ phải nói lên như vậy.
Thực sự ngay lúc này một số người môn đệ Chúa cũng đã cảm nghiệm phần nào như thánh Phaolô.
Riêng đối với tôi, những cảm nghiệm như thế càng làm tôi thêm yêu mến Hội Thánh. Sức mạnh giúp tôi đứng vững trong các thử thách chính là tình yêu đối với Hội Thánh, một Hội Thánh là thân thể mầu nhiệm của Chúa Giêsu, một Hội Thánh luôn thông phần đau khổ với Chúa Giêsu.
Hội Thánh Việt Nam sẽ phải chịu thử thách. Chúng ta khiêm tốn nhìn thẳng vào sự thực đó đang tới dần.
Khi Hội Thánh phải chịu thử thách, các con cái Hội Thánh cần phải tỏ ra gắn bó với Hội Thánh hơn.
Về mặt tự nhiên, chúng ta có bổn phận phải gắn bó với cha mẹ sinh thành nuôi dưỡng chúng ta. Cũng vậy, về mặt thiêng liêng, chúng ta cũng có nghĩa vụ phải gắn bó với Hội Thánh đã sinh ra chúng ta trong đức tin và luôn giúp chúng ta trên hành trình về Nước Trời.
Chúng ta nên làm những gì để diễn tả lòng gắn bó của chúng ta đối với Hội Thánh, khi Hội Thánh bị thử thách?
Tôi xin nhấn mạnh đến mấy điểm sau đây:
1. Thứ nhất, chúng ta tự hào về một Hội Thánh thực sự của Đức Kitô tại Việt Nam chúng ta.
Hội Thánh thực sự của Đức Kitô không phải là một thứ Hội Thánh đắc thắng, áp đặt, giàu có, nhưng là một Hội Thánh chấp nhận nghèo túng, vẫn toả ra những nguồn lực thiêng liêng của Đức Kitô, nhất là tình yêu cứu độ của Đức Kitô, phục vụ mọi người.
Hội Thánh thực sự của Đức Kitô trân trọng mọi trợ giúp từ bên ngoài, nhưng trước hết tìm tự do ở sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô, để làm chứng cho Người, và dấn thân cho Người là Đấng Cứu độ muôn dân, Đấng "đến để tìm và cứu những gì đã mất" (Lc 19,10).
Hội Thánh thực sự của Đức Kitô vẫn biết ơn sự đóng góp của những người giàu, nhưng rất tạ ơn Chúa, vì vinh quang của Chúa được toả sáng nơi vô số những người nghèo dốt nát, họ sống đức tin mạnh mẽ, triệt để phó thác mình cho Chúa.
Như vậy, thử thách sẽ thanh luyện Hội Thánh. Mất ít mà được nhiều.
2. Thứ hai, chúng ta không ngừng đến với những người nghèo khổ, để đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thế.
"Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm... Ta bảo thật: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một người trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta đây" (Mt 25,35-40).
Thiên Chúa không tách rời khỏi lịch sử. Con người trở thành nơi Chúa đợi chờ. Xưa chính Chúa Giêsu đã bị loại trừ trên thánh giá. Nay Người vẫn đợi chờ chúng ta nơi những người bị loại trừ, đó là những người nghèo khó, bị bỏ rơi, bị nhục nhã.
Như vậy, trong thử thách, chúng ta càng dễ chia sẻ với những người đau khổ.
3. Thứ ba, chúng ta hân hoan đón tiếp bất cứ ai khởi đầu đi theo Chúa.
Trong cuộc đời, chúng ta gặp không thiếu người sống trong tình yêu Chúa, mà họ không hay biết. Biết bao người không là thành phần của Hội Thánh, nhưng có cảm tình với Hội Thánh. Biết bao người không đọc Phúc Âm, nhưng biết chấp nhận hy sinh để có một sự sống đạo đức thiêng liêng trong mình.
Họ là những người khởi đầu đi theo Chúa. Họ chưa được ghi tên trong sổ Rửa tội. Nhưng họ đang được Chúa Thánh Thần dẫn vào suối phục sinh. Trong lòng họ, có một cái gì thánh thiêng được khơi dậy. Trong tâm trí họ, có một tiếng gọi nào đó của một Đấng thiêng liêng vô hình.
Trong xã hội Việt Nam hôm nay, số người như thế không phải ít. Nếu tỉnh thức, chúng ta sẽ gặp họ. Đức Kitô đón họ. Tại sao chúng ta lại lạnh lùng với họ?
Như vậy, trong thử thách, chúng ta sẽ được khích lệ gần gũi hơn với rất nhiều người như thế.
4. Thứ tư, chúng ta hãy tế nhị với những vị giám mục, linh mục của chúng ta. Lời Kinh thánh sau đây khuyên con cái hiếu thảo với cha mẹ cũng có thể áp dụng cho các con chiên đối với những người là cha là mẹ mình trong đời sống thiêng liêng. "Con ơi hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già. Bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha, con sẽ không bị quên lãng và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan" (Hc 3,12-15).
Trong tinh thần hiếu thảo, nếu chúng ta không làm được gì để báo ơn, thì ít ra chúng ta đừng bao giờ đấu tố những người cha thiêng liêng của chúng ta. Việc đó dễ trở thành độc ác, gây đau khổ cho các ngài và cộng đoàn, làm tổn thương Hội Thánh, nhất là phạm đến Chúa Giêsu.
Như vậy, trong thử thách, sự tỉnh thức bảo vệ các người cha thiêng liêng trong Hội Thánh theo lương tâm đạo đức là rất quan trọng.
5. Sau cùng, chúng ta sống như những cộng đoàn của Hội Thánh sơ khai.
"Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng" (Cv 2,42).
Họ làm những việc căn bản nhất. Do hoàn cảnh, họ không có ban bệ, không có sinh hoạt hội đoàn, không có hành hương, không có lễ nghi hoành tráng. Nhưng họ là một cộng đoàn sống động, do tin cậy, do yêu thương, do phục vụ, do tham dự thánh lễ và học hỏi Lời Chúa.
Như vậy, khi gắn bó với Hội Thánh bằng các việc như trên, chúng ta sẽ sống trong cơn thử thách một cách tích cực. Không những Hội Thánh sẽ không suy yếu, mà còn thêm mạnh, thêm vững, thêm mở rộng, đi vào những giá trị căn bản nhất của Tin Mừng.
"Chúa ơi, xin bảo toàn con, vì con tìm nương tựa Ngài" (Tv 15,1).
Long Xuyên, ngày 29 tháng 6 năm 2011
------------------------------------
Bùi-Tuần 1871: CẢM NGHIỆM VỀ TÌNH YÊU CỦA ĐỨC MẸ MARIA
Đức Mẹ Maria yêu thương tôi. Đó là một sự thực hết sức đáng mừng. Tôi biết sự thực đó nhờ Bùi-Tuần 1871
1. Đức Mẹ Maria yêu thương tôi. Đó là một sự thực hết sức đáng mừng. Tôi biết sự thực đó nhờ đức tin, khi tôi tin Đức Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng Cứu chuộc loài người.
Thêm vào đức tin, còn có những cảm nghiệm. Tôi trải qua những kinh nghiệm về tình Mẹ Maria. Tôi cảm thấy tình yêu thương của Mẹ trào ra những cảm xúc trong trái tim tôi. Có thể nói là cả ruột gan trong tôi nhiều khi cũng như hớn hở, khi cảm xúc dâng lên, vì gặp được tình yêu của Mẹ.
Cảm nghiệm về tình yêu của Mẹ đã không đến với tôi từ những suy luận và học hỏi, nhưng đến từ những biến cố. Biến cố là những gì xảy ra.
Có những việc đã xảy ra trong đời tôi làm tôi xác tín là bàn tay vô hình của Mẹ Maria đã sắp xếp và can thiệp.
Không phải chỉ những biến cố lớn mới làm chứng về tình yêu Mẹ dành cho tôi, mà cả đến cuộc sống thường ngày cũng phảng phất sự dịu hiền vô hình của Mẹ. Mẹ hiện diện kín đáo nhưng đầy yêu thương.
Tôi cảm thấy Mẹ thương tôi, trước khi tôi biết Mẹ. Tôi nghiệm thấy Mẹ tìm tôi, trước khi tôi tìm Mẹ. Tôi nhận thấy Mẹ gọi tôi, trước khi tôi gọi Mẹ.
Tình yêu của Mẹ lắng đọng trong tôi, trở thành động lực hướng dẫn tôi. Ở đây, tôi xin được chia sẻ về hai lãnh vực mà Mẹ thường hướng dẫn tôi.
2. Lãnh vực thứ nhất Đức Mẹ hướng dẫn tôi là lãnh vực cầu nguyện.
Bằng một cách nhẹ nhàng, Mẹ dạy tôi hãy cầu nguyện. Bất cứ lúc nào cũng hãy cầu nguyện. Cầu nguyện đơn giản nhất là kêu van.
Khi tôi kêu van Chúa, tôi nhận mình bé nhỏ, yếu đuối, hèn mọn, tội lỗi, thiếu thốn, đồng thời tôi tin Chúa là Cha quyền năng giàu lòng thương xót.
Dù việc kêu van được thực hiện bằng một câu kinh, hay bằng một lời nói, một tiếng kêu, một tâm tình, và dù nội dung kêu van có thể rất khác nhau, thì Đức Mẹ cũng vẫn giúp tôi dùng việc kêu van đó để gặp Chúa.
Gặp Chúa là dâng việc kêu van lên Chúa. Mẹ giúp tôi dâng kêu van lên Chúa với tất cả lòng cậy tin phó thác. Cậy tin phó thác của tôi không dựa chút nào vào tôi, nhưng chỉ dựa vào công phúc của Chúa Giêsu, Đấng đã lập công cứu chuộc tôi, và nhất là dựa vào tình xót thương vô biên của Chúa.
3. Khi gặp Chúa, tôi đón nhận được tin mừng, đó là tôi thuộc về Chúa, Chúa yêu thương tôi. Do đó Chúa muốn tôi luôn trở về với Chúa, để mỗi ngày mỗi thuộc về Chúa hơn.
Trở về với Chúa không chỉ là bỏ đàng tội, mà còn là gắn bó với Chúa Giêsu.
Trở về với Chúa không chỉ là tuân giữ các luật Chúa, mà còn là biết đón nhận chính Chúa là tình yêu.
Trở về với Chúa không chỉ là nhận ra Chúa đến theo lịch trình phụng vụ, mà còn là biết nhận ra Chúa trong những bất ngờ.
Trở về với Chúa không chỉ là làm những việc lành, mà còn biết hít vào mình thần khí là Chúa Thánh Thần.
Trở về với Chúa không chỉ là đền tội lập công, mà còn là biết đón nhận những ơn Chúa ban cho nhưng không.
Trở về với Chúa không chỉ là tránh tội, mà còn là bỏ lối sống nguội lạnh.
Trở về với Chúa không chỉ là dâng lên Chúa những ước vọng của mình, mà còn là biết vâng phục thánh ý Chúa.
Trở về với Chúa không chỉ là một chi tiết của Phúc Âm, mà chính là trung tâm của Phúc Âm.
Trong lãnh vực cầu nguyện, Đức Mẹ dạy tôi một điều mà tôi cho là rất quan trọng, đó là phải rất khiêm nhường. Khiêm nhường nên sẽ liên lỉ kiên trì.
4. Lãnh vực thứ hai Đức Mẹ hướng dẫn tôi là lãnh vực hoạt động.
Hoạt động gồm nhiều thứ việc, nhưng Đức Mẹ dạy tôi hãy ưu tiên đến việc đào tạo. Đào tạo cũng gồm nhiều việc, nhưng Đức Mẹ khuyên tôi nên nhấn mạnh hơn đến việc uốn nắn cái tâm.
Đức Mẹ đưa trí khôn tôi lắng nghe Bài giảng trên núi (x. Mt 5,1-12). Bài giảng này quen được gọi là Hiến Chương Nước Trời. Trong bài giảng này, Chúa Giêsu coi những đức tính tốt của cái tâm chính là những tiêu chuẩn để vào Nước Trời. Những đức tính tốt đó là: Nghèo khó, hiền lành, nhẫn nhục, khao khát điều công chính, xót thương, trong sạch, yêu hoà bình, vui chịu bách hại vì sống công chính.
Để có những đức tính tốt đẹp đó, cái tâm cần được uốn nắn, rèn luyện, biến đổi. Không luật nào sẽ làm được những việc đó cho cái tâm. Cái tâm sẽ được biến đổi do một sức thiêng từ trong và từ trên, đó là Thần Khí Chúa. Nhưng con người có tự do đón nhận hay từ chối. Đó là thảm hoạ về những cái tâm thoái hoá.
Đức Mẹ cho tôi nhìn thấy nhiều loại cái tâm thoái hoá. Cái nhìn của tôi được mượn từ dụ ngôn Chúa Giêsu nói về việc người gieo giống (x. Mt 13,4-9). Có hạt gieo vào đất vệ đường. Có hạt gieo vào đất pha nhiều sỏi đá. Có hạt gieo vào đất bị bụi gai che phủ. Những thứ đất mà dụ ngôn nói trên đây ám chỉ các loại lòng người bị thoái hoá, không đón nhận được Lời Chúa.
Như vậy, sự hướng dẫn của Đức Mẹ luôn đưa tôi đến Lời Chúa, để rồi Lời Chúa giúp tôi đi vào cuộc đời và con người.
5. Đức Mẹ cho tôi thấy việc biến đổi lòng người theo như Chúa muốn là việc rất khó. Khó do xã hội. Khó cũng do tôn giáo, khi tôn giáo đã biến chất.
Dù sao đi nữa, việc đào tạo cái tâm vẫn được Chúa Giêsu theo đuổi. Trong bữa tiệc ly, khi trối lại điều răn yêu thương, Chúa Giêsu nhắm vào cái tâm. Trên thánh giá, khi dâng mình chịu chết để cứu chuộc nhân loại vì yêu thương, Chúa Giêsu cũng nhắm vào cái tâm.
Những cảm nghiệm trên đây trong tôi làm nên một bầu khí thiêng liêng thuận lợi, để ánh sáng và tình yêu Chúa lôi cuốn lòng tôi vào việc đào tạo con người, nhất là cái tâm.
Khi tập trung vào hướng đó, tôi gặp vô vàn cản trở. Bởi vì chính tôi phải là đối tượng thứ nhất cần được đào tạo. Mà chính tôi lại là con người rất tội lỗi, yếu đuối. Nhận thức đó khiến tôi cầu nguyện nhiều hơn. Nhiều hơn cả về lượng, cả về phẩm.
Nhờ ơn Mẹ, cầu nguyện của tôi dần dần trở thành một sự đón nhận ơn được kết hợp tâm tình của tôi vào tâm tình của Chúa Giêsu, của Chúa Thánh Linh, của Đức Mẹ Maria và của Hội Thánh Chúa.
Suốt hành trình về Nhà Cha trên trời, tôi sẽ vừa bước đi vừa cầu nguyện như thế. Và cứ như thế, cảm nghiệm về tình yêu Mẹ đem lại cho tôi sự bình an và một hạnh phúc nhiệm mầu ngay ở đời này.
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.
Đất Nước Việt Nam đang đi vào một tình hình mới. Quốc Hội mới, Chính phủ mới và hệ thống Bùi-Tuần 1872
1. Đất Nước Việt Nam đang đi vào một tình hình mới. Quốc Hội mới, Chính phủ mới và hệ thống chính trị mới là những nhân tố mới thuộc cơ chế.
Ngoài cơ chế còn có nhiều cái mới, như những phong trào mới, những tư tưởng mới, những sản phẩm kinh tế, văn hoá, nghệ thuật mới, những lối sống mới, những nhóm quyền lực mới. Nhiều cái mới rất khó kiểm soát. Lòng người thay đổi càng không dễ khắc phục.
Tất cả những cái mới đang làm nên một tình hình mới. Mọi cái mới trong tình hình mới đều ảnh hưởng đến con người sống trên Đất Nước Việt Nam. Ảnh hưởng mà tôi để ý nhất là về lãnh vực tâm lý, lãnh vực tâm linh, lãnh vực đạo đức và lãnh vực đức tin.
Theo hy vọng, chúng ta mong tình hình mới sẽ có nhiều ảnh hưởng tốt đến chúng ta. Nhưng theo cảnh giác, chúng ta cũng nên thấy trước những nguy cơ. Ở đây, tôi xin đề cập đến việc cảnh giác. Với những "nếu".
2. Trong lãnh vực tâm lý, hầu hết người Việt Nam đều khát khao sự bình an. Họ coi sự bình an là yếu tố căn bản của hạnh phúc. Bình an thường được ví như căn nhà bền vững, trong đó con người được chở che yên ổn, tránh được những lo sợ. Sự bình an như thế sẽ không được giải quyết do chỉ có được những cái tốt, mà còn nhờ gặp được những tấm lòng tốt. Hơn nữa bình an cũng tuỳ thuộc vào hoàn cảnh xung quanh gần xa. Sau cùng bình an còn tuỳ thuộc rất nhiều vào chính lòng mỗi người.
Tình hình mới chắc sẽ không tránh được nhiều phức tạp khó khắc phục. Nếu điều đó xảy ra, thì tâm lý con người ước mơ bình an sẽ bất ổn, có thể sẽ bất bình, bất mãn. Con người bất an bất bình bất mãn thường sinh ra nhiều chứng bệnh tâm lý dưới nhiều hình thức, kể cả hình thức nổi loạn.
3. Trong lãnh vực tâm linh, hầu hết người Việt Nam đều có một niềm tin tự nhiên vào những gì là linh thiêng, là bất tử. Những niềm tin đó nằm sâu trong vô thức. Nó làm nên những sợi dây vô hình nối kết người đang sống với người đã chết, đời này với cõi đời sau.
Tình hình mới không chủ yếu bảo vệ và phát triển tâm linh, nhưng sẽ nghiêng về hướng đón nhận và đi tìm những sáng kiến làm cho cuộc sống được sung sướng hơn. Hướng đó khi phát triển quá tự do sẽ vô tình làm suy yếu những giá trị tâm linh. Hồn thiêng của Văn Hoá Việt Nam sẽ bị lãng quên dần. Những người có trách nhiệm dễ thấy điều đó, nhưng không dễ kiểm soát và khống chế được làn sóng phá hoại. Nếu tình hình tới lúc đó, tại hại sẽ khôn lường.
4. Trong lãnh vực đạo đức, người Việt Nam hiện nay đang đứng trước nhiều thách thức. Đạo đức là biết chọn lựa hợp đạo lý. Đạo lý bởi Trời và do Trời chứng giám. Câu hỏi sẽ đặt ra là mọi người có đủ sáng suốt và can đảm chọn lựa theo đạo đức không? Sáng suốt và can đảm sẽ tìm được ở đời sống nội tâm. Nhưng nếu tình hình mới sẽ quá bận rộn với những hoạt động bề ngoài, lại trốn tránh đời sống nội tâm, thì nguy cơ đó đáng báo động. Mà dù có báo động, thì chẳng mấy ai nghe. Thế mới đáng sợ.
Hiện nay người ta thường chọn cái mình ưa thích, chứ không chọn cái đạo lý dạy. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa thực dụng đang là những làn sóng mạnh tràn vào xã hội Việt Nam. Tội ác xem ra không giảm, mà còn có chiều hướng gia tăng. Đạo đức suy giảm sẽ đe doạ đến hưng thịnh tồn vong của Dân tộc, và trước hết sẽ gây hại lớn cho chính con người. Điều đáng lo ngại, là những người đứng ra chấn chỉnh đạo đức lại nhiều khi phải cô đơn.
Nói chung, theo tôi, nếu cứ đà này, thì tình hình mới sẽ khó tránh được một cuộc khủng hoảng nặng nề về đạo đức, trong đó có khủng hoảng về niềm tin. Ngay trong gia đình, người ta cũng không còn tin nhau như trước. Phương chi trong xã hội. Giáo Hội Việt Nam xem ra cũng không tránh được khủng hoảng về niềm tin. Không còn tin nhau, đó là một thảm kịch.
5. Trong lãnh vực đức tin, ngoài những ảnh hưởng chung dành cho bất cứ ai, tình hình mới cũng còn có ảnh hưởng riêng đến những người sống đức tin.
Một ảnh hưởng, mà tôi cho là quan trọng, đó là những phức tạp mới đòi chúng tôi phải có những chọn lựa thích hợp, để diễn tả đức tin và giới thiệu đức tin.
Xin phép cho tôi được nói về chọn lựa của tôi. Chọn lựa của tôi luôn dựa trên Lời Chúa Giêsu và đời sống Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu và đời sống Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng. Trong ánh sáng đó, để diễn tả đức tin và giới thiệu đức tin, tôi chọn lối sống này:
Cầu nguyện, sống mật thiết với Chúa Giêsu (x. Ga 15,5).
Từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa (x. Mt 16,29).
Bác ái như Chúa dạy (x. Lc 10,29-37).
Trên thực tế, khi thực thi ba yếu tố trên đây, tôi phải có một đức tin sống động. Lúc đó, tin là gặp gỡ Chúa, là đón nhận Chúa, là lắng nghe Chúa, là để Chúa dẫn đưa.
Kết quả là sự gặp gỡ Chúa giúp tôi gặp gỡ người khác. Người khác là đồng bào tôi, là Đất Nước tôi. Tôi cảm thấy một tình yêu dạt dào trong tôi. Mến Chúa thì yêu thương người khác. Yêu thương người khác thì nhờ mến Chúa và vì mến Chúa.
Cảm nghiệm trên đây cho phép tôi xác tín rằng: Tình hình mới tuy có nhiều phức tạp, nhưng sẽ khắc phục được. Các khó khăn rồi sẽ vượt qua. Nhờ tình yêu. Không phải chỉ một tình yêu của tôi, mà còn vô số tình yêu của hàng triệu đồng bào. Nhất là nhờ tình yêu Chúa.
Tất nhiên, tình yêu của mỗi người nói ở đây là tình yêu dấn thân, đòi nhiều phấn đấu, chấp nhận mọi hy sinh, mà đỉnh cao là thánh giá. Đây cũng là tình yêu luôn nhận mình yếu đuối hèn mọn tội lỗi, và coi sự nhận biết đó chính là chân lý quan trọng cần hiện diện trong mọi quan hệ với mọi người, nhất là với Chúa.
Công cuộc khắc phục sẽ không dễ dàng. Trước mọi khó khăn, người công giáo chúng ta luôn phải là những chứng nhân của niềm hy vọng.
6. Tới đây, tôi xin được phép gởi tới anh chị em yêu quý một mong muốn cần thực hiện tốt, để sống Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng trong tình hình mới, đó là hãy tăng cường tinh thần trách nhiệm đối với gia đình mình.
Gia đình sẽ bị thử thách nhiều trong tình hình mới. Hãy chăm lo cho nhau về mọi mặt, nhất là về mặt đạo đức. Đạo đức gia đình đang bị lung lay, do nhiều khái niệm sai về các giá trị. Một phần trách nhiệm là từ gia đình. Gia đình trong tình hình mới sẽ phải tất bật để lo cho cuộc sống cạnh tranh. Vì thế rất cần có những hồi tâm cho đạo đức gia đình. Gia đình mất đạo đức sẽ không thể có hạnh phúc.
Khi làm tông đồ cho người khác, chúng ta không được quên làm tông đồ cho chính gia đình mình.
Đạo đức gia đình xuống dốc, đó là một sự dữ cực kỳ nguy hiểm.
"Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Nhờ Chúa rộng lòng thương cứu giúp, chúng con sẽ luôn luôn thoát khỏi tội lỗi, và được an toàn khỏi mọi biến loạn" (Nghi thức hiệp lễ).
Hôm nay có thể là ngày sau cùng của đời tôi”. Tôi thường nói với chính mình câu đó. Sẽ có Bùi-Tuần 1873
1. “Hôm nay có thể là ngày sau cùng của đời tôi”. Tôi thường nói với chính mình câu đó.
Sẽ có một ngày sau cùng. Sẽ có một giờ sau cùng. Sẽ có một phút sau cùng. Sẽ có một giây sau cùng. Thời gian sau cùng đó sẽ tới, để chấm dứt đời này của tôi. Thời gian sau cùng của đời này sẽ là giây phút đầu tiên tôi bước vào đời sau.
Đời sau sẽ là cõi phúc hoặc sẽ là cõi khổ. Cõi phúc là thiên đàng. Cõi khổ là hoả ngục. Thiên đàng là nơi được thưởng, vì có Chúa. Hoả ngục là chốn bị phạt, vì không có Chúa. Nơi chốn đó sẽ vĩnh viễn đời đời kiếp kiếp. Vì thế Chúa Giêsu quả quyết: “Nếu người ta được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì?” (Mt 16,26). Mất mạng sống là mất phần thưởng thiên đàng, phải chịu hình phạt hoả ngục đời đời.
Được thưởng hay bị phạt ở đời sau là kết quả cuộc sống đời này.
Đời này sống tốt thì đời sau được thưởng.
Đời này sống tội lỗi thì đời sau bị phạt.
2. Sống tốt là sống thực thi ý Chúa. Sống tội lỗi là sống theo ý riêng mình.
Chúa Giêsu phán: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Nhận định trên đây giúp tôi cố gắng thực thi ý Chúa trong suốt cuộc sống đời này. Có thể nói là: Từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, tôi cầu xin Chúa ơn được thực thi ý Chúa. Hy vọng trong bất cứ lúc nào Chúa đến gọi tôi về đời sau, Chúa cũng sẽ gặp tôi đang thực thi ý Chúa.
Vậy ý Chúa về đời tôi là thế nào?
Chúa Giêsu phán: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đó là điều răn lớn nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống giống điều răn ấy, là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,37-39).
Mến Chúa yêu người, đó là thánh ý Chúa tôi phải thực thi. Khi thực thi việc mến Chúa yêu người, tôi thấy cần phải có đức mến trong lòng. Đức mến hiện lên như một giá trị cao trọng hơn hết, bao trùm tất cả.
3. Càng sống với đức mến, tôi càng được Chúa cho hiểu thấm thía những lời thánh Phaolô ca tụng đức mến:
“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.
Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết điều bí ẩn và mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin mạnh đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.
Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi...
Hiện nay đức tin đức cậy đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,1-3.13).
Kinh nghiệm cuộc đời sống đức mến cho phép tôi nghĩ rằng: Đức mến vừa là lửa, vừa là ánh sáng, giúp tôi có những bước đi cụ thể để thực thi mến Chúa yêu người. Nếu thiếu đức mến trong lòng, những việc của tôi gọi là mến Chúa yêu người sẽ trở thành máy móc, không hồn, do đó sẽ không có giá trị. Một việc nhỏ nhưng làm với tình mến lớn lao sẽ làm sáng danh Chúa và giúp ích cho các linh hồn hơn nhiều việc lớn mà làm không có tình mến, hoặc có, nhưng yếu ớt.
4. Để có đức mến nồng nàn, tôi phải cầu nguyện. Tôi nhớ lời Chúa Giêsu phán:
“Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho. Các con cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.
Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,4-5).
Sự gắn bó mật thiết với Chúa như vậy sẽ chỉ thực hiện được khi tôi gặp gỡ Chúa.
Khi được gặp Chúa và ở lại trong Chúa, tôi cảm thấy hạnh phúc lạ lùng. Bởi vì tôi thấy mình được Chúa yêu thương, được Chúa cứu độ, được Chúa chọn, được Chúa gọi, được Chúa sai đi.
Với những cảm nhận đó, tôi nhận ra mình được Chúa biến đổi. Tôi thuộc về Chúa. Tôi là của Chúa.
Từ đây, tôi phục vụ mọi người với những tâm tình của Chúa.
5. Trong mọi tâm tình ấy, Chúa cho tôi thấy sự khiêm nhường là hết sức cần thiết, bởi vì nó chính là dấu ấn đích thực của tình yêu phục vụ nơi Đấng Cứu Thế. Thánh Phaolô diễn tả sự khiêm nhường của Chúa Giêsu như sau:
“Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thánh giá” (Pl 2,6-8).
Khiêm nhường cũng là dấu ấn đặc biệt của tình yêu phục vụ nơi Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse.
Trên đây là những bước đi của tôi trên đường về đời sau. Phải nói ngay rằng: Những bước đi đó không luôn dễ dàng, cũng như con đường tôi đi không luôn rộng rãi trơn tru.
Tôi đã gặp nhiều nguy hiểm. Tôi đã nếm nhiều cay đắng. Tôi đã trải qua nhiều lo âu sợ hãi. Tôi đã chìm xuống nhiều thất bại đau đớn. Nhưng tôi vẫn được đỡ nâng. Tình thương đỡ nâng, mà tôi cảm nhận được rõ nhất, chính là Đức Mẹ Maria.
6. Đôi khi tôi liên tưởng Đức Mẹ với chiếc đồng hồ. Chiếc kim đồng hồ luôn đi về tương lai bằng những di chuyển hết sức nhỏ, Mẹ Maria cũng thường nhắc bảo tôi hãy đi về với Chúa bằng những bước phục vụ nhỏ. Nhỏ như một lời cầu nguyện, một việc hãm mình. Nhỏ như một bài viết, một lời chào. Nhỏ cũng có thể như một nụ cười, một ánh mắt.
Đồng hồ luôn kêu gọi tôi phải chính xác trong thời giờ, Đức Mẹ cũng luôn kêu gọi tôi phải chính xác trong việc thực thi ý Chúa.
Đồng hồ nhắn nhủ tôi: Một giờ nào đó, một phút nào đó, một giây nào đó sẽ hết sức quan trọng đối với tôi. Đó là lúc tôi chết. Nhưng Đức Mẹ an ủi tôi: “Lúc đó, Mẹ ở bên con. Mẹ cầu bầu cho con, bởi vì ngày nào con cũng xin Mẹ thương con như thương một kẻ có tội, hèn mọn. Mẹ chính là nơi ẩn náu của kẻ có tội”.
Được Đức Mẹ ủi an nâng đỡ, tôi hiểu tôi phải bước đi về đời sau bằng tình mến nồng nàn khiêm tốn, nhưng tình mến ấy phải được đặt nền móng trên nền tảng đức tin vững chắc. Tin vào lòng thương xót Chúa, tin vào lời Chúa hứa. Như lời thánh nữ Elisabet đã nói với Đức Mẹ Maria: “Em thực có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
Như vậy, đời tôi sẽ là một bài ca tin yêu, với những bước tin yêu, để vào đời sau với Chúa là hạnh phúc trọn vẹn của tôi muôn thuở muôn kiếp muôn đời.
“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”.
Để kỷ niệm ngày qua đời của ĐHY. Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (+ 16/9/2002)
Đời tôi là một chuyến đi. Tôi đi về với Cha trên trời. Trong chuyến đi dài, tôi đã băng qua nhiều Bùi-Tuần 1874
1. Đời tôi là một chuyến đi. Tôi đi về với Cha trên trời.
Trong chuyến đi dài, tôi đã băng qua nhiều chặng đường lịch sử khó khăn. Trong trí óc tôi hiện giờ còn lưu trữ rất nhiều hoài niệm để nhớ để thương. Ở đó có khổ đau, cô đơn và kinh hoàng sợ hãi, nhưng rồi đã gặp được tình thương ấp ủ, giúp tôi phấn đấu.
Tôi vác trên vai những gánh nặng. Mà tôi thì nhiều khi rất mệt mỏi. Bởi vì tôi thân phận yếu đuối mỏng manh.
Làm sao giữ được niềm hy vọng vào lòng thương xót Chúa? Làm sao tiếp tục yêu thương được mãi những người bội bạc ghen ghét? Làm sao cứu giúp được bao người nghèo khổ? Tôi gởi cho Chúa Giêsu những ưu tư như thế. Tôi gởi bằng tâm tình cầu nguyện, khát mong và đợi chờ.
2. Chúa Giêsu trả lời tôi bằng lời Chúa được ghi trong Phúc Âm: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Tôi đón nhận lời Chúa với lòng tin tưởng. Chúa đến với tôi qua lời Chúa. Cùng với lời Chúa là những con người bằng xương bằng thịt. Họ đến nâng đỡ tôi lúc tôi không ngờ.
Có trường hợp, lúc được họ đỡ nâng, tôi nhớ lại lời Phúc Âm kể về Chúa Giêsu, khi Người vác thánh giá lên núi Calvariô: “Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Kyrinê... Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Chúa Giêsu” (Mc 15,21).
Có trường hợp, lúc được họ đỡ nâng, tôi nhớ tới Chúa Giêsu, khi Người phải chịu đóng đinh, có một nhóm nhỏ đứng dưới chân thánh giá: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của bà thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôphát, cùng với bà Maria Madalena” (Ga 19,25).
Họ đến với tôi, không mang chứng từ gì. Nhưng tôi tin chắc họ được Chúa sai đến với tôi, để nâng đỡ tôi, bởi vì họ khiêm tốn quên mình.
3. Nâng đỡ của họ là sự hiện diện của họ. Một hiện diện thân thương. Một hiện diện chia sẻ. Một hiện diện cùng đau khổ với tôi. Hiện diện ấy cốt ở tình thương. Cho dù xa mà vẫn gần.
Không những thế, đằng sau họ lại có Chúa Giêsu. Tình thương vô hình của Chúa được thể hiện phần nào bằng tình thương hữu hình của những con người dấn thân quên mình.
Dần dần, tôi thấy ứng nghiệm trong tôi lời Chúa hứa: “Anh em hãy mang lấy ách của Ta và hãy học với Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30).
4. Tôi thấy gánh nặng của tôi vẫn còn đó. Nhưng nó được biến đổi. Thay vì nó làm cho tôi chỉ nghĩ về mình, thì nó làm cho tôi nghĩ về Chúa và về những người khác.
Khi nghĩ về Chúa Giêsu, tôi đem đau đớn của tôi hoà vào sự thương khó của Người làm của lễ, mà dâng lên Chúa Cha, để cứu độ nhân loại.
Khi nghĩ về những người khác, tôi cầu xin cho họ được Chúa yêu thương, được Chúa viếng thăm, được Chúa cứu độ.
Thế là đời tôi, từ một cuộc đời giữ lại cho mình đã trở thành cuộc đời dâng hiến. Sự hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu được chia sẻ cho tôi. Nhờ đó, tôi cảm thấy được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Ách Chúa ban thì êm ái, gánh Chúa ban thì nhẹ nhàng. Đúng như lời Chúa hứa (x. Mt 11,29-30). Chúa thương nên tôi đã gặp được nhiều cuộc đời dâng hiến. Những cuộc đời ấy đã dạy tôi làm chứng cho Chúa bằng những việc dâng hiến nhỏ hằng ngày.
5. Kinh nghiệm trên đây cho phép tôi xác tín điều này: Những người đau khổ chính là những chứng nhân hùng hồn về Chúa. Thương tích họ mang chứa đầy ơn thánh. Trong đau khổ, họ mời gọi chúng ta hãy nhận ra sự mong manh của thân phận con người, để tìm về những gì là căn bản. Căn bản nhất là gặp được Chúa, được đón nhận nơi Chúa lòng thương xót và ơn cứu độ.
Như vậy, đau khổ, khi biết sống với đức tin, sẽ dẫn đưa con người vào một chiều kích thiêng liêng cao đẹp.
Chiều kích thiêng liêng, mà nhiều người đã được cảm nghiệm, đó là thấy được dung mạo của Chúa Giêsu, Đấng đã trở nên khó nghèo và đau khổ, để đồng hành với mọi đau khổ và khó nghèo của con người, hầu giúp con người trở thành của lễ đáng được vào Nước Trời.
6. Nếu những người đau khổ là chứng nhân hùng hồn về Chúa, thì mục vụ dành cho những người đau khổ phải được kể là một trách nhiệm đặc biệt của mọi người làm mục vụ.
Bộ mặt của một cộng đoàn, một giáo xứ, một giáo phận sẽ đẹp nhờ chiều kích thiêng liêng. Chiều kích này ít hệ tại ở những hào nhoáng vui nhộn, mà tuỳ thuộc rất nhiều vào tình thương dành cho những người nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn, hèn mọn.
Thánh Phaolô viết: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Gl 6,14).
Trong tinh thần đó, phụng vụ thánh lễ “Suy tôn Thánh Giá” được mở đầu bằng lời sau đây:
“Chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại. Chính Người giải thoát và cứu độ ta” (Sách Lễ Rôma).
Nếu vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, thì chúng ta phải tôn trọng và yêu thương những người sống thập giá Đức Kitô một cách sống động và cụ thể.
Khi mục vụ dành cho những người đau khổ được thực hiện đầy đủ, những người đau khổ sẽ trở thành một nguồn trợ lực thiêng liêng phong phú cho cộng đoàn nói riêng và cho Hội Thánh nói chung.
Riêng tại Việt Nam hôm nay, những người đau khổ còn rất đông. Họ đau khổ dưới nhiều hình thức. Hãy cùng với Chúa Giêsu đến với họ. Hãy cùng với Chúa Giêsu đồng hành với họ. Hãy cùng với Chúa Giêsu chia sẻ với họ. Hãy cùng với Chúa Giêsu đau khổ với họ. Hãy cùng với Chúa Giêsu nâng đỡ họ.
Làm được như vậy, chúng ta sẽ cảm thấy mình được đón nhận tình Chúa xót thương, như lời Chúa hứa: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Mục vụ và truyền giáo của chúng ta sẽ đẹp lòng Chúa.
Chúa đã phán: “Một khi được giương cao lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32).
Lời Chúa phán trên đây cho phép tôi nghĩ rằng: Một khi chúng ta cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu trên thánh giá, chúng ta cũng được cùng với Chúa Giêsu sẽ kéo nhiều người lên với Chúa. Sức mạnh lôi kéo người ta lên với Chúa chính là tình yêu hy sinh của thánh giá.
Những ngày cuối năm thường vội vã. Những ngày đầu năm thường rộn ràng. Những vội vã Bùi-Tuần 1875
1. Những ngày cuối năm thường vội vã. Những ngày đầu năm thường rộn ràng. Những vội vã và rộn ràng ấy thường gây nên nhiều cảm xúc. Tất cả đều mau qua.
Nhưng đàng sau những gì mau qua ấy vẫn có một cái gì còn lại lâu dài. Sự còn lại đó là một hiện diện. Tôi nhận ra hiện diện đó chính là Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu hiện diện trong lịch sử và trong tôi một cách mầu nhiệm. Người gọi tôi hãy dấn thân vào lịch sử Năm Mới với cái nhìn của đức tin.
Cùng với lời gọi đó, Chúa cho tôi nhìn lịch sử bằng câu nói của tiên tri Isaia: “Hỡi Giêrusalem điêu tàn và hoang phế, hãy đồng thanh cất tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người và cứu chuộc Giêrusalem” (Is 52,9).
2. Chúa dạy tôi hãy áp dụng câu Kinh Thánh trên đây vào thế giới hiện nay nói chung và cho Việt Nam hôm nay nói riêng.
Quả thực, khi nhìn sâu vào hiện tình, tôi thấy vô số cảnh hoang tàn đó đây rải rác.
Hoang tàn do biến đổi khí hậu. Hoang tàn do thiên tai. Hoang tàn do chiến tranh. Hoang tàn do dịch bệnh. Hoang tàn do nạn đói.
Bên cạnh những hoang tàn trong lãnh vực vật chất, còn có vô số loại hoang tàn trong lãnh vực tinh thần. Như:
- hiện tượng mất niềm tin. - hiện tượng sa lầy tội ác. - hiện tượng tự huỷ cuộc sống. - hiện tượng sống không phương hướng trong trống rỗng thê thảm.
Với cái nhìn Phúc Âm, tôi thấy bao cảnh bên ngoài thì giàu sang, nhưng bên trong thì đạo đức suy đồi. Cơ chế hoành tráng nhưng lòng người tan hoang.
Ngay trong lãnh vực tôn giáo, xưa Chúa đã cảnh báo vô số những vỏ bề ngoài mang dáng vẻ đạo đức, nhưng bên trong chỉ là điêu tàn, hoang phế, thối tha, hư hỏng. Nay vẫn còn.
3. Tất cả mọi cảnh điêu tàn, hoang phế, hư hỏng, bất cứ trong lãnh vực nào đều rất đáng thương. Những cảnh thương tâm đó đang kêu gọi giải cứu.
Tìm đường giải cứu, đó là một vấn đề cấp bách. Nhiều giải đáp đã và đang được thực thi. Nhưng tất cả đều mong manh.
Chính trong tình hình như vậy, lời Chúa trong tiên tri Isaia đã vang lên: “Hãy cất tiếng đồng thanh reo mừng vì Đức Chúa an ủi dân Người và cứu chuộc Giêrusalem” (Is 52,9). Đó là điều mới rất đáng được quan tâm.
Lời Chúa trên đây vang vọng trong tôi một cách nhẹ nhàng. Lời Chúa đến từ chính Chúa hiện diện trong lịch sử và trong tôi.
Lời Chúa trên đây cũng đến từ sự hiện diện của Chúa trong những người môn đệ Chúa đang âm thầm rải rác khắp nơi, trên thế giới và tại Việt Nam. Ở đây tôi xin nhấn mạnh ở điểm chứng nhân.
4. Thực vậy, như Chúa Giêsu và với Chúa Giêsu, những chứng nhân đó sống đơn sơ khiêm tốn, khó nghèo như cảnh hang đá Bêlem. Cách sống ấy sẽ được kết thúc ở thánh giá như cảnh đồi Gôngôtha. Lựa chọn đó là do tình yêu cứu độ.
Như Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu, họ sống gần gũi với mọi kẻ nghèo hèn, bé mọn, yếu đuối, bị bỏ rơi, bị loại trừ. Lựa chọn đó là dấu chỉ chắc chắn của tình yêu phục vụ vị tha.
Như Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu, họ khám phá thấy trong từng giây phút hiện tại niềm vui được sai đi làm chứng cho một Thiên Chúa tự nguyện trở nên bé mọn nghèo khó để được ở giữa những người khổ đau thiếu thốn. Lựa chọn đó là do tình yêu hiến dâng.
Như Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu, họ bước xuống những chỗ thấp hèn nhất, để ủi an, để chia sẻ, để đem lại hy vọng cho tất cả những ai chìm trong cảnh khổ. Lựa chọn đó là do tình yêu hy sinh.
Như Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu, họ gieo rắc tình yêu hy vọng một cách tế nhị. Nhưng những ai có thiện chí sẽ thấy được, nghe được. Họ cảm nhận ra là chính Chúa trong họ luôn là động lực dẫn dắt họ. Lựa chọn của họ là do tình yêu kết hợp với Chúa.
5. Họ kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu như cành nho với thân cây nho. Chúa Giêsu chia sẻ cho họ sự sống của Người, tâm tình của Người, ý muốn của Người. Họ đón nhận Chúa ở mọi lúc, ở mọi nơi. Đặc biệt qua phép bí tích Thánh Thể, sự cầu nguyện, suy gẫm và việc chu toàn bổn phận thường ngày. Sự biết đón nhận Chúa là rất cần thiết, không những để biết cùng với Chúa dấn thân vào việc phục vụ yêu thương, cứu độ loài người, mà còn để biết phân định. Bởi vì phân định là việc hết sức quan trọng trong thời thế hiện nay.
Phải phân định điều gì là thực sự đẹp lòng Chúa, điều gì là thực sự do Chúa soi sáng thúc giục, điều gì là thực sự làm sáng danh Chúa. Việc phân định như thế không dễ chút nào.
Người môn đệ nào của Chúa quen đi vào nội tâm mình, thích cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và khiêm tốn lắng nghe Chúa Thánh Thần, sẽ được ơn biết phân định. Phân định là một đặc ân, là một cảm nhận tế nhị. Nhất định đó không là kết quả của một lý luận theo kiểu trần thế.
6. Những người môn đệ bé nhỏ của Chúa sẽ gặp khó khăn không những do ma quỷ, do thế gian, mà nhiều khi cũng do nội bộ và do chính mình. Nhưng bất cứ trong hoàn cảnh nào, họ vẫn làm chứng Chúa Giêsu đang đến an ủi dân Chúa và cứu độ những người thiện chí.
Qua đời sống của họ, họ làm chứng rằng: Chúa Giêsu là Đấng cứu thế. Đời sống chứng tá của họ bừng sáng ngọn lửa hy vọng hướng về Người.
Hy vọng ấy vượt trên mọi ước muốn và mọi cố gắng của bất cứ ai và của bất cứ thế lực nào trên trần thế.
Hy vọng ấy là một đợi chờ không mệt mỏi, dựa trên đức tin nơi Thiên Chúa giàu lòng thương xót và quyền năng vô cùng.
Hy vọng ấy là một tỉnh thức. Tỉnh thức cả trong những đêm tối đầy thất vọng.
Hy vọng, đợi chờ, tỉnh thức đều do Chúa. Thực sự, họ đã được gặp Chúa. Họ tin và cảm nhận mình được Chúa yêu thương, được Chúa cứu độ, được Chúa gọi, được Chúa sai đi.
Hy vọng của họ là tin chắc chắn sẽ được hưởng hạnh phúc viên mãn đời đời nơi Thiên Chúa là nguồn tình yêu vô biên vô tận.
Với vài suy nghĩ trên đây, tôi xin kính chúc quý vị và anh chị em thân mến Năm Mới 2012 được nhiều ơn lành mới của Chúa giàu lòng thương xót.
Lễ Giáng Sinh, Đầu Năm 2012, Tết Nhâm Thìn đang cùng nhau làm nên một mùa mừng chúc. Mùa Bùi-Tuần 1876
1. Lễ Giáng Sinh, Đầu Năm 2012, Tết Nhâm Thìn đang cùng nhau làm nên một mùa mừng chúc. Mùa này, tôi nhận được rất nhiều lời chúc. Lời chúc gợi nên trong tôi nhiều hình ảnh nhất là: Chúc sống vui. Có nhiều thứ vui. Tôi tự hỏi: Niềm vui nào cần cho tôi hơn cả?
Suy đi nghĩ lại, tôi sợ chọn lựa của tôi có thể sai. Nên, để an tâm, tôi hỏi Đức Mẹ Maria. Trong thinh lặng nội tâm, tôi nghe Mẹ trả lời: “Niềm vui cần nhất và quý nhất là niềm vui có Chúa là Tin Mừng trong lòng mình”. Tôi tin câu trả lời của Mẹ là một chân lý mà chính Mẹ đã cảm nghiệm.
2. Từ câu soi sáng trên đây, Mẹ dẫn tôi đến những hình ảnh về Chúa là niềm vui được tả trong Phúc Âm, mà Mẹ đã được đón nhận. Đặc biệt là những hình ảnh sau đây.
Hình ảnh Chúa Giêsu hạ mình xuống trong thân phận hài nhi bé mọn, yếu đuối, khó nghèo, nằm trong máng cỏ. Người hạ mình xuống, để được vui ở với nhân loại, nhất là được vui chia sẻ thân phận những người nghèo khổ.
Hình ảnh Chúa Giêsu hạ mình xuống trong thân phận kẻ bị loại trừ, bị đóng đinh trên thánh giá. Người hạ mình xuống, để được vui làm của lễ đền tội cho nhân loại.
Hai hình ảnh đó đều diễn tả tình yêu. Đó là tình yêu cứu độ ở điểm khiêm tốn, hy sinh, tự hạ mình xuống chỗ thấp hèn, yếu đuối, nghèo khó để cứu chuộc.
Chính tình yêu cứu độ bằng hy sinh tự hạ đến tận cùng như thế đã làm vinh danh Chúa.
Mẹ Maria đã thấy sự khiêm nhường tự hạ của Chúa Giêsu chính là giá trị cứu chuộc loài người, và cũng chính là giá trị làm cho Thiên Chúa được vinh quang.
Không những Mẹ Maria đã thấy đó chính là Tin Mừng, mà Mẹ còn cảm nhận được đó chính là một niềm vui thiêng liêng cao quý làm chứng cho tình yêu cứu độ.
3. Mẹ Maria vừa cắt nghĩa cho tôi niềm vui Tin Mừng bằng Phúc Âm, vừa chia sẻ cho tôi chính niềm vui Tin Mừng, bằng sự Mẹ cho tôi nếm được phần nào niềm vui Tin Mừng ấy.
Được hiểu niềm vui Tin Mừng, lại được nếm niềm vui Tin Mừng, tôi nhận ra là Chúa Giêsu đang ở trong tôi. Chính Người là Tin Mừng của tôi.
Tôi đón nhận Người là Tin Mừng, bằng đức tin và bằng cảm nghiệm. Tin Mừng ấy đổ vào hồn tôi niềm vui chan hoà. Trong niềm vui đó, tôi cảm thấy mình được cứu chuộc, được tự do, được thoát khỏi mọi sự sợ hãi và mọi thứ trói buộc.
Có niềm vui Tin Mừng đó, không có nghĩa là tôi sẽ khinh chê các niềm vui khác. Thực sự, tôi vẫn trân trọng mọi thứ niềm vui chính đáng. Nhưng tôi sẽ phân định giá trị của chúng theo đúng cái nhìn của Phúc Âm.
4. Qua những cảm nghiệm vắn tắt vừa kể, tôi có vài nhận xét sau đây.
Nhận xét thứ nhất là niềm vui Tin Mừng không đến từ học và nghe Lời Chúa, nhưng đến từ chính Chúa Giêsu khiêm nhường tự hạ trong thân phận hài nhi nghèo khó nằm trong máng cỏ và trong thân phận tội nhân bị đóng đinh vào thánh giá. Chính Chúa Giêsu khiêm nhường tự hạ đã chia sẻ cho tôi tình yêu của Người. Tình yêu của Người đã và đang yêu thương tôi, đã và đang cứu chuộc tôi, mặc dầu tôi vô cùng bất xứng.
Tôi đón nhận Chúa Giêsu là Tin Mừng chủ yếu bằng tấm lòng khao khát và khó nghèo. Đức Mẹ Maria giúp tôi điều quan trọng đó.
Khi niềm vui Tin Mừng là chính Chúa Giêsu khiêm nhường tự hạ đang ngự trong tôi, tôi không thể không thấy rõ niềm vui ấy là vô cùng quý giá, không gì sánh được.
5. Nhận xét thứ hai là khi có niềm vui Tin Mừng là chính Chúa trong lòng, tôi sẽ dễ phân định thế nào là làm chứng cho Chúa và thế nào là làm cho Chúa được vinh quang. Mẹ Têrêsa Calcutta đã làm chứng một cách cụ thể rõ ràng. Ngài sống khó nghèo, khiêm nhường tự hạ, luôn gắn bó mật thiết với Chúa bằng cầu nguyện. Ngài dấn thân phục vụ những người nghèo khó, bệnh tật, khổ đau. Ngài chia sẻ gần gũi với những kẻ bị loại trừ.
Tại Việt Nam hôm nay, những chứng nhân của Chúa như Mẹ Têrêsa Calcutta vẫn hiện diện ở nhiều nơi.
6. Nhận xét thứ ba là, khi chứng nhân Tin Mừng có niềm vui Tin Mừng là chính Chúa Giêsu trong lòng, họ sẽ làm việc truyền giáo bằng những việc tế nhị nhẹ nhàng. Họ truyền giáo bằng đời sống chứng nhân, chứ không chủ yếu bằng những hoạt động rầm rộ, và ban bố những luật lệ này nọ. Đời sống chứng nhân của họ dọn lòng những người họ tiếp xúc. Những người họ tiếp xúc dần dần khao khát Chúa, rồi đi tới việc cầu nguyện hồn nhiên với Chúa. Một lúc nào đó, họ đón nhận được chính Chúa là niềm vui Tin Mừng.
7. Tới đây, với tất cả lòng kính trọng, tôi xin phép được nói lên ý kiến sau đây của tôi: Cái thiếu nhất nơi nhiều người làm mục vụ và truyền giáo tại Việt Nam hôm nay là thiếu một niềm vui Tin Mừng thực sự nồng nàn thực chất.
Niềm vui Tin Mừng không phải là niềm vui của những thành công, của những thanh thế, của những hoạt động. Càng không phải là niềm vui do có nhiều phương tiện vật chất và được nâng đỡ của xã hội. Nhưng, như đã nói ở trên, niềm vui Tin Mừng là có trong lòng mình chính Chúa Giêsu khiêm nhường tự hạ và yêu thương để cứu chuộc loài người. Niềm vui Tin Mừng ấy là động lực chính khiến chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa qua chính con người và cuộc sống của chúng ta. Con người chúng ta sẽ là con người hiền lành khiêm nhường đầy yêu thương tự hạ. Cuộc sống của chúng ta sẽ là cuộc sống hy sinh, phấn đấu, để được phục vụ như Chúa Hài nhi Giêsu và như Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá.
8. Nguyên do gây nên sự thiếu niềm vui Tin Mừng nơi nhiều người chúng ta, chính là sự nguội lạnh, dửng dưng, không quan tâm đến niềm vui Tin Mừng. Nhiều khi chúng ta không muốn nghe, không muốn hiểu. Cho dù có nghe, có hiểu, chúng ta lại không muốn phấn đấu để đón nhận niềm vui Tin Mừng. Bởi vì, nhận rồi, thì sẽ phải bắt chước Chúa mà sống khiêm nhường, tự hạ, nhưng sống như thế chính là điều ta không ưa thích. Thái độ tránh né này là điều rất bi đát. Điều bi đát này đã được Chúa Giêsu nói tới trong dụ ngôn “Khách được mời xin kiếu” (x. Lc 14,15-24).
Vì không có kinh nghiệm nội tâm về niềm vui Tin Mừng, nhiều người rao giảng Tin Mừng đã nhiễm nặng tinh thần thế tục, vô tình trở thành những kẻ, mà thánh Gioan tông đồ gọi là “những tên phản Kitô” (1 Ga 2,18). Hiện tượng đó lại là một bi đát rất nguy hiểm cho Hội Thánh.
Khi một Hội Thánh được nhận thấy như là nơi có nhiều niềm vui, nhưng trong đó không có niềm vui Tin Mừng, thì Hội Thánh đó bị nghi ngờ không còn là Hội Thánh đích thực của Đức Kitô, mặc dù bề ngoài đông đảo, hoành tráng.
Với những suy nghĩ và tâm trình chân thành trên đây, tôi xin được cùng với anh chị em cầu nguyện. Chúng ta tha thiết cầu xin Đức Mẹ Maria ban cho mọi người và mỗi người chúng ta biết khiêm tốn đón nhận niềm vui Tin Mừng. Khi niềm vui Tin Mừng là chính Chúa ở trong chúng ta, chúng ta sẽ tìm được hy vọng và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, kể cả khi lịch sử đưa chúng ta vào những quãng trắc trở, thê thảm, tăm tối, cam go.
Những ngày đầu năm là thời gian gia đình đoàn tụ. Dịp này, những người cao niên của gia tộc Bùi-Tuần 1877
1. Những ngày đầu năm là thời gian gia đình đoàn tụ. Dịp này, những người cao niên của gia tộc, như ông bà, cha mẹ, thường kể cho con cháu những chuyện xưa, mà bản thân mình cho là tha thiết nhất.
Đầu năm Nhâm Thìn này, tôi được nhiều người gọi là ông nội, ông ngoại. Đó là một cách gọi thân thương dành cho một người cha thiêng liêng 85 tuổi.
Với tư cách đó, tôi xin tâm sự về một công việc, mà ơn gọi Giám mục của tôi đã từng gắn bó hết mình. Công việc đó là Truyền giáo.
Truyền giáo phải như thế nào? Tôi có thể học hỏi nghiên cứu vấn đề đó trong rất nhiều tài liệu. Nhưng, Chúa đã dạy tôi qua vài biến cố riêng tư.
2. Một đêm sau ngày thụ phong Giám mục, 30 tháng 4, năm 1975, tôi chiêm bao đi giữa cánh đồng lúa chín. Đột nhiên, tôi nhìn thấy một người từ bờ ruộng đi lên. Khi gặp người lạ đó, tôi nhận ra ngay, người đó là Chúa Giêsu.
Chúa cầm tay tôi dẫn vào một thành phố đông người. Người đưa tôi thẳng vào một bệnh viện lớn. Tôi thấy bệnh nhân nằm la liệt. Tôi như cảm được những đau đớn của họ. Những đau đớn ấy đang khẩn thiết kêu gọi và đợi chờ được giải cứu. Tôi bừng tỉnh dậy. Trong lòng tôi chỉ còn tâm tình xót thương dâng trào. Lập tức, tôi hiểu: Đi truyền giáo là đến với mọi người với lòng thương xót. Xót thương của tình yêu tự nhiên và tình yêu siêu nhiên. Xót thương của tôi cộng với xót thương của Chúa trong tôi.
3. Đó là bài học thứ nhất Chúa dạy tôi để truyền giáo. Thêm vào đó là bài học thứ hai.
Chúa để tôi trở thành người bệnh. Bệnh cả về thân xác, bệnh cả về tâm hồn. Mang các thứ bệnh trong mình, tôi cảm thấy mình yếu đuối, vật lộn với những cơn đau. Đau đớn thường gây nên cô đơn. Trong tình trạng như thế, tôi rất biết ơn đối với những ai xót thương tôi. Thứ xót thương, mà người bệnh như tôi đợi chờ, là thứ xót thương được diễn tả bằng những gì là cụ thể.
Khi nói đến xót thương cụ thể, tôi nhớ tới dụ ngôn Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm về người bị kẻ cướp trấn lột, đánh trọng thương, nằm ở vệ đường. Thầy tư tế đi qua thấy nạn nhân, nhưng vô tâm bỏ đi. Thầy luật sĩ đi qua, cũng thấy nạn nhân, nhưng dửng dưng bỏ đi. Chỉ có người ngoại giáo Samaria thấy nạn nhân, đã dừng lại, chăm sóc, không ngại hao tiền, tốn công, hy sinh thời giờ. Tôi đã được nhiều người xót thương con người yếu đuối của tôi như vậy.
4. Nhưng, trong rất nhiều trường hợp, nếu tôi không cầm lấy bàn tay Chúa kéo tôi đứng dậy, mà chỉ cậy vào sự nâng đỡ của người trần, chắc chắn tôi không thể được giải cứu. Đó là bài học thứ ba.
Cầm lấy bàn tay Chúa là một việc của đức tin. Tôi nghe Chúa gọi. Tôi tin vào Chúa một cách tuyệt đối. Rồi với tất cả sự tự do cùng với sự cương quyết tôi cầm lấy tay Chúa.
Tôi hiểu đó mới chỉ là bước đầu đi theo Chúa. Sẽ còn những bước tiếp theo. Tôi phải sẵn sàng đi từng bước, từng chặng. Trong truyền giáo, tôi phải tôn trọng những chặng đường. Nôn nóng có thể sẽ phá hoại truyền giáo.
5. Qua các bài học trên đây, tôi xác tín điều Chúa muốn dạy tôi về truyền giáo, là phải giàu lòng xót thương. Xót thương không chỉ trong lòng, mà còn phải diễn tả bằng những gì là cụ thể. Tình xót thương ấy sẽ nhận được từ chính Chúa, miễn là tôi biết gắn bó với Chúa, cầm lấy tay Chúa, kiên trì bước đi từng bước, vượt qua từng chặng trong khiêm nhường phó thác.
Thực sự, những gì tôi học được trên đây cũng đã được ghi trong Phúc Âm. Nhưng khi được Chúa dạy thêm qua những bài học riêng tư, tôi được thêm tin tưởng rằng: Ơn gọi của tôi trong thời điểm và địa phương tôi được sai đến sẽ phải nhấn mạnh đến xót thương tế nhị. Đó là ý Chúa.
Với xác tín đó, tôi làm những việc cụ thể sau đây.
6. Tiếp xúc.
Khi tiếp xúc với bất cứ ai, nhất là với những người ngoài công giáo, tôi cầu nguyện rất nhiều. Tôi tin Chúa ở giữa chúng tôi. Với người này, tôi khuyến khích họ làm những việc xót thương. Với người kia, tôi thực hiện lòng xót thương của tôi một cách cụ thể, cách này cách khác. Càng tiếp xúc, tôi càng thấy người môn đệ của tình xót thương Chúa không bao giờ thiếu việc. Rất nhiều tiếp xúc đã cho thấy Chúa giàu lòng thương xót đang hiện diện và hoạt động mạnh mẽ trong nhiều tâm hồn và trong nhiều lãnh vực, kể cả trong những tâm hồn và lãnh vực ngoài phạm vi Hội Thánh.
Khi tiếp xúc, tôi đã gặp được nhiều người cộng tác để làm việc truyền giáo. Họ sẵn sàng cùng với tôi dọn đường cho Chúa đến, bằng những việc xót thương. Làm mà không coi đó là lập thành tích. Nhưng làm rồi, mà vẫn nhận mình là đầy tớ vô ích.
Khi tiếp xúc, tôi đã gặp được nhiều người trước đây bỏ đạo, nay trở về với Chúa. Họ sống niềm vui Tin Mừng một cách hân hoan giữa muôn vàn khó khăn trắc trở. Họ là những nhân chứng sống động của lòng thương xót Chúa.
Khi tiếp xúc, tôi nhận thấy sự xây dựng những quan hệ tốt là một điều hữu ích cho truyền giáo.
7. Giảng giải.
Tôi giảng giải bằng lời nói và bằng chữ viết. Để soạn một bài giảng, tôi phải cầu nguyện, và suy tư rất nhiều, cộng với những việc hãm mình, hy sinh. Những bài giảng của tôi thường giới thiệu Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Không thiếu trường hợp, khi dọn bài giảng, tôi đã cầu nguyện với “ông thánh trộm lành”. Ông là một tội nhân bị đóng đinh bên hữu Chúa Giêsu. Ông không hề nghiên cứu Kinh Thánh, không biết giáo lý. Thành tích ông có là tội ác. Thế mà, trước khi chết, ông đã đón nhận được tình yêu xót thương Chúa cứu chuộc. Tôi hiểu chính sự khiêm nhường của ông đã giúp ông nhận ra Chúa là Đấng Cứu chuộc, để rồi với tay không, ông đã được Chúa đưa lên thiên đàng với Chúa. Vì thế, tôi hay nhắc đến sự khiêm nhường khi xót thương và để được xót thương.
8. Tôi biết chắc thời gian Chúa dành cho tôi có hạn. Sẽ đến lúc tôi sẽ không còn tiếp xúc, không còn rao giảng, không còn viết bài. Nhưng tôi vẫn tiếp tục truyền giáo bằng cách biến con người của tôi thành của lễ dâng lên Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót. Của lễ tôi dâng là tình yêu bé nhỏ với tinh thần cầu nguyện trong mầu nhiệm thánh giá.
Tôi nhận biết tôi chẳng là gì, chẳng có gì, chẳng đáng gì. Hơn nữa, tôi chỉ là kẻ tội lỗi, hèn mọn. Nhưng tôi tin tôi được Chúa thương. Người cứu tôi. Người gọi tôi. Người chọn tôi. Người sai tôi. Tôi coi đó là một đặc ơn Chúa ban. Tôi hân hoan ca ngợi và tạ ơn Chúa đến muôn đời.
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã trối lại cho các môn đệ Người lời tâm huyết sau đây: “Thầy ban Bùi-Tuần 1878
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã trối lại cho các môn đệ Người lời tâm huyết sau đây: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34).
Lời tâm huyết trên đây cũng đã được Chúa trao cho tôi, khi Người trao cho tôi trọng trách Giám mục, trong ngày lịch sử 30 tháng 4 năm 1975.
Từ ngày đó đến hôm nay (30.4.2012) đã được 37 năm. Trên suốt chặng đường dài đó, tôi đã luôn luôn gắn bó với điều răn mới, mà Chúa trao ban.
Hôm nay, để tạ ơn Chúa và cũng để cám ơn Hội Thánh, tôi xin chia sẻ vài cảm nghiệm về sự gắn bó của tôi với điều răn mới. Cảm nghiệm thứ nhất là cảm thấy mình rất yếu đuối trong việc thực thi điều răn mới. Đối với tôi, yêu thương như Chúa yêu thương đòi một sự tái sinh. Tôi phải được sinh lại trong sự sống của Chúa Giêsu. Để rồi, mọi lời nói của tôi, mọi việc làm của tôi, mọi thái độ của tôi, mọi chọn lựa của tôi đều phải gắn kết mật thiết với Chúa Giêsu. Có như thế, tôi mới yêu thương được như Chúa yêu thương.
Thế nhưng, sự tái sinh đó không cất khỏi tôi những yếu đuối. Để diễn tả tình trạng này, tôi xin được nói như thánh Phaolô xưa: “Sự thiện tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Cảm nghiệm về sự yếu đuối của mình giúp tôi khiêm nhường cầu nguyện.
Cảm nghiệm thứ hai là cảm thấy mình được Chúa yêu thương.
Tôi cảm thấy rất rõ tình yêu Chúa dành cho tôi là vô cùng lớn lao. Mặc dầu tôi rất yếu đuối, Chúa vẫn yêu thương tôi. Tôi cảm nhận được tình yêu ấy, ở sự Chúa tha thứ cho tôi, Chúa kêu gọi tôi, Chúa sai tôi đi, Chúa nâng đỡ tôi. Tình yêu Chúa là món quà tặng nhưng không. Khi đón nhận tình yêu Chúa, tôi như nhìn thấy hai vực thẳm. Vực thẳm thứ nhất là những yếu đuối của tôi. Vực thẳm thứ hai là tình yêu thương xót Chúa. Vực thẳm thứ hai này rộng mênh mông như biển cả, luôn như muốn tràn vào vực thẳm những yếu đuối của tôi, để rửa sạch. Cảm nghiệm về sự được Chúa yêu thương giúp tôi tin tưởng phó thác nơi Chúa.
Cảm nghiệm thứ ba là cảm thấy Hội Thánh gồm những người cũng yếu đuối, mà vẫn được Chúa thương.
Càng phục vụ, tôi càng nhận ra thực tế cụ thể về Hội Thánh. Đó là không phải mọi người trong Hội Thánh đều ưu tú, đều trọn lành. Thế mà, Chúa vẫn yêu thương Hội Thánh. Tôi cũng phải bắt chước Chúa mà yêu thương Hội Thánh, mặc dầu trong Hội Thánh không thiếu những yếu đuối. Cảm nghiệm này giúp tôi biết gần gũi hơn với những người tội lỗi, như lời Chúa phán: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Cảm nghiệm thứ bốn là cảm thấy Chúa nơi những người nghèo khổ, bé mọn.
Khi gặp những người nghèo khổ, bé mọn, hoặc chỉ nghĩ đến họ mà thôi, tôi tự nhiên như nghe tiếng Chúa nói với tôi: “Mỗi lần các con làm việc lành cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các con đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Tôi đọc Lời Chúa trên thân phận những người nghèo khổ. Hơn thế, tôi như nhìn thấy Chúa trong những người bé mọn. Cảm nghiệm đó thường làm tôi ray rứt. Bởi vì, nghe được tiếng Chúa gọi và thấy được Chúa đợi chờ nơi những người nghèo khổ, mà không trả lời, thì có lỗi. Nhưng trả lời thế nào, đó là lựa chọn không dễ chút nào. Cảm nghiệm này giúp tôi thêm tỉnh thức.
Cảm nghiệm sau cùng là cảm thấy mọi tự do đều rất mạnh.
Bốn cảm nghiệm tôi trình bày vắn tắt ở trên đều được tôi coi là những ơn Chúa ban. Đó là những chất liệu tốt, để tôi dùng, mà xây dựng những lựa chọn cụ thể. Khi xây dựng những lựa chọn cụ thể, Chúa không hiện ra chọn thay cho tôi. Trái lại Chúa để tôi tự do. Nơi tôi cũng như nơi mọi người, sự tự do là một quyền lực rất lớn, rất mạnh. Với sự tự do đó, tôi có thể chọn lựa theo ý riêng. Và cho dù tôi có lựa chọn đúng, thì lựa chọn đó cũng có thể bị những tự do khác chống đối. Ngay khi muốn chọn lựa đúng và thực hành chọn lựa ấy, tôi cũng phải nhọc nhằn phấn đấu với chính sự tự do của mình.
Với những cảm nghiệm trên đây, tôi xin kết luận thế này: Con đường sống yêu thương có rất nhiều hiểm trở. Kẻ quyết tâm đi vào con đường đó, phải dự trữ trong trái tim mình thực nhiều tình yêu Chúa. Nếu chẳng may, trái tim bị cạn kiệt tình yêu Chúa, người thiện chí đến mấy cũng khó vượt qua được những bất ngờ đau đớn thường xảy ra trên đường yêu thương.
Vì thế, chúng ta nên luôn nhớ thực hành thường xuyên lời Chúa căn dặn: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9). Amen.
Tôi đi trong dòng lịch sử. Lịch sử có nhiều quãng tối tăm. Chính tôi cũng lại mang trong mình nhiều Bùi-Tuần 1879
1. Tôi đi trong dòng lịch sử. Lịch sử có nhiều quãng tối tăm. Chính tôi cũng lại mang trong mình nhiều bóng tối. Hôm nay, vượt qua được nhiều khoảng tối hãi hùng, được đi vào một tình trạng tương đối bình an tâm hồn, tôi cảm thấy mình mắc nợ với những người đã cho tôi ánh sáng.
Ánh sáng nói đây là những giá trị đạo đức. Hôm nay, tôi xin được nhấn mạnh đến một giá trị đạo đức quan trọng, đó là hiền lành và khiêm nhường.
2. Hiền lành và khiêm nhường là những giá trị đạo đức chung. Nghĩa là bất cứ ai, không phân biệt thuộc dân tộc nào, tôn giáo nào, văn hoá nào, hễ sống hiền lành và khiêm nhường, thường được đánh giá là đạo đức. Có thể nói: Hiền lành và khiêm nhường là vẻ đẹp gọi được là căn bản của bất cứ ai muốn sống nên người.
Hơn nữa, hiền lành và khiêm nhường nhiều nơi được coi như tinh hoa của nền văn hoá do các thánh hiền đã dạy, và được các thế hệ tổ tiên truyền lại.
3. Như để nhân loại quan tâm hơn đến những giá trị đạo đức đó, chính Chúa Giêsu đã nói: “Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29).
Bài học Chúa Giêsu dạy tôi về hiền lành và khiêm nhường không được viết ra bằng chữ, nhưng bằng chính đời sống của Chúa.
Nhìn Chúa giáng sinh tại hang đá Belem. Nhìn vào cách Chúa sống tại Nadarét. Theo Chúa trên đường rao giảng giữa đủ loại người. Nhìn lên Chúa bị treo trên thánh giá. Đâu đâu, tôi cũng đọc được bài học hiền lành và khiêm nhường. Hiền lành và khiêm nhường của Chúa là những ánh sáng đã soi đường chỉ lối cho tôi trong suốt hành trình cuộc sống trên thế gian này.
4. Những bài học đó, những cách sống đó, tôi đã nhận được có khi trực tiếp từ chính Chúa, có khi gián tiếp từ những con người. Thành thực mà nói, tôi hấp thụ được sức sống hiền lành và khiêm nhường từ rất nhiều người. Họ là những người tôi được thấy, được gặp, được đọc, được gần gũi. Họ toả ánh sáng hiền lành và khiêm nhường qua con người của họ, cách sống của họ, thái độ của họ, lời nói của họ.
Nơi họ có một cái gì rất bình dị, rất nhã nhặn, rất đơn sơ. Tôi đọc thấy nơi họ lời thánh Phaolô sau đây được ứng nghiệm: “Đừng làm chi vì ganh tỵ hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2,3).
Sự hiền lành và khiêm nhường còn được thực hiện nơi họ ở mức cao hơn, khi họ “không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,4).
Cho dù họ có những thành công này nọ, họ vẫn nhìn nhận “kho tàng của họ lại chứa đựng trong những bình sành dễ vỡ” (2 Cr 4,7). Từ đó, họ thành thực nói như thánh Phaolô: “Tôi chỉ tự hào về những yếu đuối của tôi” (2 Cr 12,5). Mọi sự tốt lành nơi họ đều được họ quy chiếu về Chúa, để cảm tạ và ngợi khen.
Một ân huệ lớn họ đã cho tôi, mà tôi không bao giờ dám quên, đó là họ chấp nhận tôi. Không những họ không loại trừ tôi, mà họ còn yêu thương và nâng đỡ tôi. Động cơ khiến họ làm thế, chính là đức hiền lành và khiêm nhường của họ.
Qua tiếp xúc với họ, tôi thấy là họ đang làm chứng cho Chúa bằng sự hiền lành và khiêm nhường. Nước Thiên Chúa được mở rộng một cách âm thầm lặng lẽ qua những con người hiền lành và khiêm nhường như họ.
5. Nói tới đây, tôi chợt nhớ lại những giai đoạn khủng khiếp đã xảy ra nơi này nơi kia trong lịch sử Hội Thánh, khi có những cá nhân và những tập thể đã dùng những phương thế độc ác và kiêu căng vì một mục đích mà họ gọi là bảo vệ và mở rộng Nước Chúa. Hiện nay những chuyện hách dịch, lạm dụng quyền bính, cũng như những chuyện sát hại danh dự người khác vẫn xảy ra tại nơi này nơi nọ trong Hội Thánh địa phương chúng ta. Nếu những chuyện như thế lại được coi là chuyện bình thường, thì đó là một thảm hoạ ghê gớm và nguy hiểm, vì những ai mắc thói quen độc ác và kiêu ngạo, dù là cá nhân dù là tập thể, thường rất khó ăn năn trở lại.
6. Nhiều khi thảm hoạ loại đó được cảnh báo, nhưng vẫn khó tránh được. Bởi vì hiền lành và khiêm nhường là những giá trị trên luật. Tôi gọi là giá trị trên luật, bởi vì chẳng luật nào trong đạo ngoài đời đã dám đưa những giá trị đó vào luật, để hễ ai sai phạm, thì sẽ bị phạt. Riêng tôi, tôi xác tín: Những giá trị đạo đức được Chúa in vào lương tâm mỗi người. Chính Chúa thấu suốt lương tâm lương tâm mỗi người.
Một tập thể nếu chỉ căn cứ vào pháp luật, khoản mấy điều mấy, để giáo dục con người, mà không nhấn mạnh đến những giá trị nhân bản không ghi trong pháp luật, thì không chừng sẽ từng bước đi vào man rợ.
7. Tôi không biết và cũng không dám đoán Chúa sẽ phạt người ta về tội không sống hiền lành và khiêm nhường. Nhưng điều tôi dám chắc, đó là Chúa sẽ thưởng những ai sống hiền lành và khiêm nhường. Không phải Chúa sẽ thưởng họ ở đời sau, mà thưởng họ ngay ở đời này.
Thực vậy, tôi thấy nhiều người, khi nhận ra hiền lành và khiêm nhường là những giá trị đạo đức cao đẹp, họ đã cố gắng tập tành và cầu nguyện. Được những giá trị đó chừng nào, họ bảo vệ chừng đó. Họ coi những giá trị đó trong lòng họ như những kho báu, như những hạt ngọc, mà có lần Chúa Giêsu đã nhắc tới (x. Mt 13,44-46).
Bởi ưa thích hiền lành và khiêm nhường, họ ân cần lo cho việc chung với tất cả tinh thần trách nhiệm. Họ cảm thấy vui, khi mình được như của lễ dâng lên Chúa để cầu cho Hội Thánh và Dân Tộc.
Bởi ưa thích hiền lành và khiêm nhường, họ tế nhị chân thành với mọi người, đền đáp những người làm ơn, trân trọng những người lớn tuổi. Họ cảm thấy hạnh phúc thanh cao.
Bởi ưa thích hiền lành và khiêm nhường, họ siêng năng học tập, cần cù lao động, phấn đấu tự đào tạo, sống tinh thần khó nghèo. Họ cảm thấy sung sướng vì thấy mình chia sẻ được với những người nghèo khổ.
Bởi ưa thích hiền lành và khiêm nhường, họ luôn cầu nguyện, đặt trọng tâm đạo đức vào sự chu toàn thánh ý Chúa. Họ cảm thấy bình an sâu thẳm. Có thể tin rằng: Bình an đó đến từ Chúa. Chúa ở trong họ. Cái tâm của họ vì thế mà rực sáng.
8. Tới đây, tôi phải thú nhận điều này: Sống hiền lành khiêm nhường là điều không dễ chút nào. Đó là một cuộc chiến đấu cam go trường kỳ. Xác thịt, thế gian, ma quỷ là những lực lượng chống phá rất mạnh. Kết quả thực đáng ngại. Có những cơ chế tôn giáo trước đây dựa trên hiền lành và khiêm nhường, thì nay xem ra cũng bỏ nền tảng đó. Chủ nghĩa thực dụng đang tàn phá các tâm hồn. Phải chăng đây là dấu chỉ về một tình hình suy thoái trầm trọng về đạo đức có hại cho đời sống xã hội. Chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện rất nhiều. Chỉ có Chúa mới cứu được.
9. Để kết, tôi hết lòng cảm tạ Chúa đã cho nhiều người chúng ta cảm nhận được điều này, là bằng sự hiền lành và khiêm nhường khôn tả, Chúa đã yêu thương chúng ta là những kẻ tội lỗi hèn mọn yếu đuối. Như thể hiền lành và khiêm nhường chính là nơi biểu lộ vinh quang của Chúa. Đó là Tin Mừng cứu độ. “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16). Tin Mừng về hiền lành và khiêm nhường mà tôi đã được lãnh nhận do lòng thương xót Chúa.
Năm thánh Lòng Thương Xót Chúa là một nguồn đem lại cho tôi niềm hy vọng cao quý. Đức Mẹ Bùi-Tuần 1880
1. Năm thánh Lòng Thương Xót Chúa là một nguồn đem lại cho tôi niềm hy vọng cao quý.
Đức Mẹ Maria đã và đang hướng dẫn tôi vào nguồn ơn thánh đó. Tôi xin được chia sẻ. Mẹ dạy tôi hãy bắt chước Mẹ, mà làm những việc sau đây:
2. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để biết lãnh nhận mọi ơn với lòng cảm tạ biết ơn. Mỗi ngày, tôi lãnh nhận được rất nhiều ơn Chúa, hoặc trực tiếp từ Chúa, hoặc gián tiếp từ Hội Thánh, từ Quê Hương, từ biết bao người gần xa. Rất nhiều ơn thuộc phần xác. Rất nhiều ơn thuộc phần hồn. Mẹ dạy tôi là tất cả mọi ơn đó đều do tình yêu thương xót Chúa dành cho tôi.
3. Tôi hãy tỉnh thức và cầu nguyện để biết lãnh nhận với lòng cảm tạ biết ơn. Lãnh nhận với lòng cảm tạ biết ơn, đó là một cách sống, mà Lòng Thương Xót Chúa muốn nơi tôi, để tôi được nên mới, nên tốt, nên đẹp, nên người hữu ích.
4. Thế nào là lãnh nhận với lòng cảm tạ biết ơn? Tôi hỏi Mẹ Maria, thì Mẹ đưa lòng trí tôi nhớ lại bài ca Ngợi khen của Mẹ. Trong đó Mẹ xưng mình là kẻ hèn mọn, được Chúa thương cứu độ. Mẹ là kẻ kính sợ Chúa, được Chúa xót thương (x. Lc 1,47-50).
Luôn luôn nhận biết mình hèn mọn, luôn luôn kính sợ Thiên Chúa, luôn luôn cần đến lòng thương xót Chúa, đó là những yếu tố quan trọng của lòng cảm tạ biết ơn đối với Chúa. Đó cũng là những yếu tố rất cần để làm nên lòng biết ơn và lòng cảm tạ đối với người khác.
5. Phúc Âm thánh Luca kể rằng: Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đi qua một làng, có 10 người phong cùi đến xin Người cứu chữa. Chúa bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế. Đang khi đi, thì họ được sạch. Một trong bọn họ đã trở lại cảm tạ Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bỡ ngỡ hỏi: Sao chỉ có một người trở lại cảm ơn Thiên Chúa? Mà người này lại là người ngoại đạo! (x. Lc 17,11-19).
Chuyện trên đây chứng tỏ số người được ơn mà vô ơn trong cộng đoàn dân Chúa là một sự thực rất đau lòng. Nếu xưa là thế, mà nay cũng vẫn như thế, thì đó phải là vấn đề cần được đặt ra.
Do đó, lãnh nhận đòi phải rất tỉnh thức và cầu nguyện. Cho đi cũng vậy.
6. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để biết cho đi với lòng thương mến chân thành. Mỗi ngày, Mẹ Maria vẫn dạy tôi về sự cho đi. Mẹ cho tôi nhìn thấy Mẹ những ngày tháng cuối đời của Mẹ.
Mẹ ở bên thánh Gioan tông đồ. Mẹ cùng với thánh Gioan tông đồ lo cho giáo đoàn. Mẹ cho đi rất nhiều. Cho đi không bằng của cải vật chất, mà là bằng sự hiện diện đầy tình thương. Tình thương của Mẹ là xót thương, là hy sinh, là cầu nguyện, là chia sẻ, là đỡ nâng, là cứu độ. Tình thương của Mẹ là một sự hiện diện toả sáng, âm thầm mà có sức thay đổi lòng người. Một sự hiện diện đầy khiêm tốn, đầy bao dung.
7. Bây giờ hơn bao giờ hết, khi tôi mang gánh nặng của tuổi tác và bệnh tật, tôi cảm thấy sự hiện diện yêu thương của những người bên cạnh là sự cho đi mà tôi cần hơn cả.
8. Đức Thánh Cha Phanxicô mới rồi cũng đã nói một điều gây xúc động về Năm Lòng Thương Xót. Đối với Ngài, Năm Lòng Thương Xót Chúa, không cần phải tổ chức hành hương đâu cả, hãy biết cho đi những xót thương ngay tại gia đình mình. Tôi rất tâm đắc với Ngài.
Tôi thấy sự hiện diện đầy yêu thương, với những phục vụ nhỏ, với những thái độ tế nhị, với những cái nhìn gắn bó, với những hy sinh âm thầm, sẽ là một cho đi phong phú, góp phần không nhỏ vào chương trình cứu độ của Chúa giàu lòng thương xót.
9. Tại Việt Nam hôm nay, phong trào cho đi một cách ồn ào phô trương đang trở thành xa vắng đối với nhiều người già nua bệnh tật. Tôi sợ là cứ như thế, thì niềm tin đối với nhau sẽ giảm. Mà mất niềm tin đối với nhau sẽ là một mất mát lớn.
10. Tai nạn tăng. Tệ nạn tăng. Tình hình hiện nay tại nhiều nơi là như vậy. Tôi xin lòng thương xót Chúa cứu tôi khỏi những tình hình đó.
Nhưng cứu bằng cách nào, thì Mẹ dạy tôi là hãy cầu với Chúa Cha như Chúa Giêsu xưa trong vườn Cây Dầu: Nếu có thể, xin cứu con khỏi uống chén đắng này, nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha mà thôi (Mc 14,36). Chúa Cha đã cứ để Chúa Giêsu uống chén đắng. Như thế là tôi hiểu tôi sẽ không tránh được những đớn đau. Do vậy,
11. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để biết chịu những đau đớn có thể xảy ra.
Đau đớn do nhiều nguyên do, như: Do bao nhiêu tội người ta xúc phạm đến Chúa. Do bao nhiêu tội người ta gây khổ cho nhau. Do bao nhiêu tội người ta tự đưa mình vào hoả ngục. Và còn bao nhiêu đau đớn khác do mọi thứ thử thách gây nên cho con người yếu đuối.
Đến một lúc nào đó, tôi cũng sẽ nói như thánh Phaolô xưa: Nếu có gì để tự hào, thì tôi chỉ tự hào về những yếu đuối của tôi (2Cr 12,9). Nếu có gì để coi là vinh dự cho tôi, thì vinh dự của tôi chính là thánh giá Đức Kitô (Gl 6,14). Nghĩa là đau đớn đủ loại có thể xảy đến cho tôi. Nhưng đó lại chính là cơ hội để sáng lên niềm hy vọng về ơn cứu độ, mà lòng thương xót Chúa dành cho tôi.
12. Tôi hy vọng rất nhiều vào Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa. Dấu chỉ sống động nhất về niềm hy vọng của tôi được nhận thấy ở rất nhiều người bình thường. Bình thường là biết nhớ ơn. Bình thường là biết tỉnh thức và cầu nguyện. Bình thương là biết xót thương.
Chắc chắn quỷ Satan sẽ ra sức quấy phá Năm Thánh này. Quấy phá nhất là dụ dỗ người ta đừng tỉnh thức và cầu nguyện, để rồi cứ an tâm và tự hào với những việc đạo đức nặng về hình thức, đề cao ý riêng, thậm chí còn nhân danh Chúa mà chống lại Chúa một cách tinh vi, đầy lừa dối.
Nhưng, cho dù mặt trận của Satan sẽ rất rộng và ác liệt, tôi tin sau cùng Lòng Thương Xót Chúa sẽ thắng.
Ngay bây giờ, Lòng Thương Xót Chúa đã bắt đầu thắng trong tôi. Cho dù tôi hèn mọn, tội lỗi, tôi đang nhận thấy mình được Chúa xót thương. Tôi cảm nhận được điều đó một cách rất rõ. Biết mình được Chúa xót thương là một nguồn đầy hy vọng, đầy bình an, đầy hạnh phúc. Được Chúa xót thương vì được Chúa chia sẻ cho sự sống của Chúa, và vì được tham dự vào công cuộc cứu chuộc loài người của thánh giá Chúa, tôi vui mừng cảm tạ lòng thương xót Chúa.
Trong kinh Lạy Nữ Vương, có câu: Đến sau khỏi đày, Xin cho chúng con được thấy Đức Chúa Bùi-Tuần 1881
1. Trong kinh Lạy Nữ Vương, có câu:
Đến sau khỏi đày,
Xin cho chúng con được thấy Đức Chúa Giêsu,
Con lòng Bà gồm phúc lạ.
Lời kinh Đến sau khỏi đày gợi cho tôi nghĩ đến cái chết. Nhưng trước giờ chết, tôi còn một thời gian dẫn tôi tới gần phút sau cùng ấy. Tôi không biết thời gian đó dài bao lâu. Nhưng càng thêm tuổi, tôi càng nghĩ đến cái mình là hơn là cái mình làm.
Tôi là môn đệ Chúa Giêsu. Điều kiện để nên môn đệ Chúa Giêsu đã được chính Người phán tỏ: Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo (Mt 16,24). Xét mình chỉ sơ sơ, tôi đã thấy tôi không thực hiện điều kiện đó một cách thường xuyên.
Tôi thực sự yếu đuối.
2. Tôi có rất nhiều thiếu sót. Trong đó có những thiếu sót được coi là di căn của những lỗi lầm xa xưa.
Tôi có phần nào chu toàn bổn phận. Nhưng đó là kết quả chung, do sự cộng tác và đỡ nâng của bao người gần xa.
Tôi có làm một số việc lành. Nhưng ai dám nói rằng tất cả những việc lành đó đã hoàn toàn không pha bụi bặm.
Tôi có nhiều cố gắng vượt khó. Nhưng bao lần tôi vẫn mang nuối tiếc một vài hành trang cần vứt bỏ.
Tôi đã có thể tốt hơn mà nhiều khi vẫn đứng tại chỗ. Tôi nhiều lần bất lực trước những vật cản chẳng đến nỗi nào. Tôi thực sự mỏng manh.
Tôi đã có nhiều dịp để phục vụ Hội Thánh, Quê Hương và người khác một cách tốt hơn. Nhưng tôi đã không tỉnh thức đủ.
Tôi đã có một số thời gian, để trau dồi kiến thức đạo đời, để suy gẫm và cầu nguyện. Nhưng tôi đã lơ là, bỏ lỡ.
Tôi nhận mình bất toàn, với bao nhiêu giới hạn.
3. Lịch sử viết về thánh Gioan Thánh giá có đoạn nói lên lòng nhiệt thành độc đáo của người môn đệ Chúa.
Một hôm, Chúa Giêsu hỏi Gioan: Này Gioan, con hãy xin Ta điều con muốn, vì Ta sẽ ban điều ấy cho con, để đáp lại một đời con đã phục vụ Ta.
Chúa Giêsu đã phải lặp lại câu hỏi đó 3 lần, bởi vì Gioan, do luôn cảnh giác trước thị kiến, đã không vội trả lời.
Nhưng rồi ngài thưa: Lạy Chúa, con muốn xin Chúa cho con được đau khổ vì Chúa, cho con bị khinh chê và bị người ta coi con không ra gì.
Thú thực là tôi không dám bắt chước thánh Gioan mà xin như vậy. Vì tôi yếu đuối.
Đến khi, Chúa ban cho tôi được nếm đôi chút những điều mà thánh Gioan xin, tôi thấy quá sợ. Lúc đó, tự nhiên tôi có cảm tưởng mình trở thành gánh nặng cho người khác. Cảm tưởng đó giúp tôi khám phá thấy sự yếu đuối của mình là một thế giới quạnh hiu, có khả năng dụ dỗ mình sa vào những yếu đuối khác.
Qua những kinh nghiệm trên và nhiều kinh nghiệm khác, tôi nhận biết mình là gì? Thưa tôi nhận mình là kẻ rất yếu đuối, rất bất xứng, rất mỏng manh.
4. Với nhận thức đó, tôi thấy mình chẳng là gì, chẳng đáng gì.
Khi Chúa đòi tôi dâng của lễ. Tôi nghe Đức Mẹ bảo tôi cứ khiêm tốn dâng cho Chúa những vất vả, đau đớn, sám hối, tình yêu và cả những yếu đuối của tôi. Tôi dâng của lễ kỳ lạ đó, và nhớ lại lời Chúa gọi: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 12,28).
Thực sự, Chúa Giêsu đã nhận của lễ tôi dâng. Tôi cảm nhận được sự kiện đó, nhờ thấy lòng mình thêm cậy trông phó thác. Tôi như trẻ thơ dại khờ, yếu đuối về mọi mặt, với hai bàn tay trống không. Chỉ biết mình là kẻ yếu đuối, tội lỗi, tuyệt đối cậy tin vào Chúa cứu chuộc. Người đã tuyên bố: Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn (Lc 5,32).
5. Càng tới gần ngày ra khỏi đời này, tôi càng được Đức Mẹ thương ẵm ôm dắt dìu người con yếu đuối hèn mọn này trên đường về với Cha.
Tôi tin: Vừa ra khỏi đời này, tôi lập tức được thấy Đức Chúa Giêsu, con lòng Mẹ Maria, đầy phúc lạ. Mẹ sẽ giới thiệu tôi với Chúa: Đây là người con rất yếu đuối, nhưng rất phó thác cậy trông.
Thế là tôi sẽ được nhận vào Nước Chúa, nơi dành cho những ai trở nên như trẻ nhỏ (x. Mt 18,3). Với tinh thần trẻ thơ, hằng ngày và mãi mãi, đời đời, tôi sẽ ca tụng Mẹ, chỉ đơn sơ bằng những từ Khoan hậu, nhân từ, hiều dịu.
6. Sống kinh Lạy Nữ Vương như vừa chia sẻ, tôi nhìn về Hội Thánh tương lai. Tôi thấy: Hội Thánh tương lai sẽ là Hội Thánh nhỏ, nhưng sẽ mạnh, nếu theo gương Đức Mẹ biết:
- bác ái nhiều hơn - nội tâm nhiều hơn - giản đơn nhiều hơn.
Tôi cầu nguyện:
Các môn đệ Đức Kitô sẽ là những ngọn lửa thắp sáng lên niềm hy vọng. Ngọn lửa nội tâm sẽ là một sự phục sinh trong chính đời thường, nhờ sức mạnh tình yêu của Thánh Linh.
Mọi người, không phân biệt ai, sẽ nhìn Đức Mẹ là Mẹ của mình. Mẹ nhân lành, khoan dung, nhân từ, hiền dịu. Mẹ sẽ đưa mọi người thiện chí về Nước Trời, gặp Cha chung giàu lòng thương xót.
Trên đây là tâm tình tha thiết tạ ơn của tôi sau một đời dài cầu nguyện bằng kinh.
Thống, con ơi! Con chết rồi. Nhưng Cha vẫn gọi con, như khi con còn sống. Cha tin con vẫn Bùi-Tuần 1882
1. Thống, con ơi!
Con chết rồi. Nhưng Cha vẫn gọi con, như khi con còn sống. Cha tin con vẫn nghe được tiếng Cha, bởi vì con đang ở bên Chúa. Còn Cha cũng đang ở bên Chúa, tuy một cách khác, nên âm thầm gọi con.
2. Cha gọi con, để xin con giờ đây đang ở cõi đời sau, cũng vẫn cứ tiếp tục ơn gọi Chúa đã dành cho con khi con còn sống.
3. Ơn gọi đó:
- Một là hãy yêu thương nhau (Ga 13,34). - Hai là hãy hiệp nhất với nhau (Ga 17,21-23).
4. Hai điều trên đây đã được con coi là quan trọng nhất trong suốt cuộc đời giám mục của con.
5. Hai điều đó cũng đã được con cảm nhận là hết sức khó với biết bao kinh nghiệm đau đớn của đời giám mục của con.
6. Khi xây dựng hiệp nhất và phát triển yêu thương, con đã chỉ tìm thánh ý Chúa, chứ không tìm tiếng khen. Về lập trường đó, Cha có cảm tưởng là con rất ý thức lời Chúa Giêsu đã phán xưa: Khốn cho các ngươi, khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế (Lc 6,26).
7. Khi xây dựng hiệp nhất và thực thi yêu thương, con cũng đã trải nghiệm sự yếu đuối trong con, như thánh Phaolô xưa: Tôi là người khốn nạn, bởi vì sự thiện tôi muốn, thì tôi không làm, sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm (Rm 7,19-24).
8. Cha cảm tạ Chúa, vì con đã nhận ra giới hạn của con, để mà biết khiêm tốn, luôn trở về với Chúa.
9. Cha cảm tạ Chúa, vì con đã không đi tìm tiếng khen, mà chỉ tìm thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa rất khác ý loài người. Thánh ý Chúa là người mục tử phải bước theo Chúa Giêsu trên con đường thánh giá.
10. Cha thấy con - Đã khao khát ý Chúa. - Đã lắng nghe ý Chúa. - Đã nhận ra ý Chúa. - Đã thực thi ý Chúa.
Để được thế, con đã quan tâm đặc biệt đến đời sống nội tâm.
Như vậy, con đã tập sống theo gương thánh Giuse, bổn mạng của con. Nay con ra đi, mang theo mình vô số điều mà chỉ Chúa biết, như thánh Giuse xưa.
11. Giờ đây, Cha tin là con đang được hưởng niềm vui khôn tả Chúa ban cho con. Xin con hãy nhớ đến Cha, đến mọi thành phần thuộc linh tông, và nhớ đến Hội Thánh Việt Nam.
12. Cha xin nói thiệt với con điều này: Nhiều người trong Hội Thánh Việt Nam hiện nay đang gặp rất nhiều thử thách cam go, với rất nhiều đau đớn xác hồn. Xin con đừng quên họ, đừng quên những người còn ở lại, đang phải vất vả nhọc nhằn trên con đường làm chứng cho Chúa qua yêu thương và hiệp nhất.
13. Cha vốn tin lời Chúa Giêsu đã hứa: Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,30). Cha tin, nhưng tin mà vẫn không tránh được khổ đau tư bề.
Tuy nhiên, Cha rất hạnh phúc, vì có Chúa ở bên. Con ra đi, khi còn tương đối trẻ. Cha còn ở lại, khi tuổi đã già nua. Trẻ hay già, đều do thánh ý Chúa. Nay Chúa đem người trẻ đi, để lại người già. Điều đó đang dạy Cha rất nhiều.
14. Thống, con ơi! Sự ra đi của con là một bất ngờ. Cha nghĩ sẽ còn nhiều bất ngờ sắp xảy ra. Cha nghĩ đến tinh thần Phó thác của thánh Giuse. Xin con cầu nguyện cho Cha và các anh chị em của con được biết phó thác mình cho Chúa một cách khiêm tốn, đơn sơ, tin tưởng, kiên trì.
Phó thác mình cho Chúa, cũng là khiêm tốn gắn bó mình với Hội Thánh, và sống tinh thần cộng đoàn một cách chân thành và bao dung tế nhị. Con đã nhiều lần chia sẻ với Cha như vậy. Xin con tiếp tục chia sẻ điều đó với Cha và với những người thân, nhất là trong tình hình bất ổn hiện nay.
15. Thống, con ơi! Mấy ngày nay, con chia sẻ với Cha rất nhiều về sự phải luôn luôn sẵn sàng, vì Chúa đến rất bất ngờ. Đó là một cảnh báo khẩn thiết. Con và Cha hãy cầu xin Chúa cho mọi người được biết đón nhận cảnh báo đó.
Hẹn gặp nhau bên Chúa. Hẹn trong niềm tin vô bờ bến ở tình yêu xót thương của Chúa.
Ít ngày nay tôi bị rơi vào tình trạng bất ổn. Thời tiết bất ổn, thời thế bất ổn, sức khỏe bất ổn Bùi-Tuần 1883
1. Ít ngày nay tôi bị rơi vào tình trạng bất ổn. Thời tiết bất ổn, thời thế bất ổn, sức khỏe bất ổn. Tôi cảm thấy mình bất an, sợ hãi lo âu.
Tôi bối rối trước những biến cố đang dồn dập xảy ra xa gần, có vẻ như một tai họa lớn sắp giáng xuống tôi và thế giới này. Nhất là vì lúc này tôi nhớ lại ngày 01 tháng 9 năm 1939, đã nổ ra đại chiến thứ hai.
Tôi cầu xin với Chúa. Xin Người thương cứu mọi người và cứu tôi.
2. Chúa trả lời tôi, bằng sự Chúa soi sáng cho tôi tìm đến Lời Chúa được ghi trong Phúc Âm Thánh Luca, Lời Chúa như thế này: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu rỗi…Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề, vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em…
Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt con người” (Lc 21, 28, 34, 36). Với những lời trên, Chúa dạy tôi những điều sau đây:
3. * Đừng bối rối. Hãy coi những biến cố mang dấu chỉ tiêu cực cho thế giới lại là những cơ hội kêu gọi đến Chúa. Xin Chúa thương cứu chúng ta.
4. * Đừng giải khuây lòng mình bằng những vui chơi, nhưng hãy nhìn thẳng vào những khó khăn trước mắt với lòng can đảm.
5. * Hãy can đảm, ngẩng đầu lên, với niềm tin vào Chúa. Tôi xin Chúa giúp tôi, vì tôi nhát đảm và rất yếu tin.
6. * Niềm tin vào Chúa, không là do những chinh phục của ta mà có, nhưng là một ơn Chúa ban, do vậy mà phải cầu nguyện và tỉnh thức.
Khi vâng lời Chúa mà cầu nguyện và tỉnh thức, tôi thấy niềm tin vào Chúa được thể hiện ở những việc này:
7. * Tôi vững tin tôi thuộc về Đức Kitô. Chính Người là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của tôi (Ga 14,6).
Do vậy, tôi không còn lo mình nên thuộc về ai, thuộc về phe nào. Thuộc về Chúa mới là điều cần.
8. * Tôi vững tin tôi có một chỗ vinh quang hạnh phúc, chỗ đó là trong Nước Chúa. Như lời Chúa Giêsu hứa: “Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ, Thầy đi dọn chỗ cho anh em… Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó với Thầy” (Ga 14,2).
9. Do vậy, tôi không lo đến sự mình nên có một chỗ đứng, một địa vị ở trần gian này, mà nên vui vì mình chắc chắn có một chỗ bên Chúa Giêsu trong Nước Chúa.
10. Trên đây là những bước đi dẫn tôi tới sự bình an. Qua kinh nghiệm của những bước đi đó, tôi nhận thấy bình an nội tâm là hết sức quan trọng.
11. Bình an nội tâm là một hành trình của mầu nhiệm Tình Yêu. Hành trình này luôn đòi phải lấy Tình Yêu mà thắng sự ác. Tình yêu của tôi quá non yếu, nên phải gắn kết với Tình Yêu Chúa Giêsu.
12. Sự ác đang mạnh lên trong lịch sử, nhưng Tình yêu Chúa sẽ thắng. Thắng của Tình Yêu là do khiêm nhường, quảng đại, bác ái, phục vụ, thứ tha.
Sự hiện diện của Tình Yêu như thế giữa một thế giới của sự ác, vẫn là một sức mạnh thiêng liêng xây dựng bình an thực chất và vững bền.
13. Khi tôi viết những dòng trên đây, thì năm học mới cũng vừa bắt đầu. Tôi nhìn vào các trường lớp đào tạo giáo dân, tu sĩ, chủng sinh. Tôi thấy việc đào tạo hiện nay đang đứng trước nhiều khó khăn và thách đố mới. Những Chúa vẫn ở trong Hội Thánh.
14. Nhiều người đào tạo có nhiều bằng cấp và nhiều chức quyền vẫn không tự hào về những thứ đó. Nhưng họ tự coi mình như những kẻ đi gieo, mà Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm.
Họ gieo những hạt cải nhỏ vào mảnh đất nhỏ (Mc 4,31). Hạt cải nhỏ là những việc lành nhỏ, âm thầm, khiêm tốn.
Họ coi mình như những người gieo bé mọn. Không ồn ào, không danh vọng. Chỉ sống đơn sơ, mộc mạc. Như một hiện diện của Tình Yêu.
15. Những người đào tạo như thế, với những việc làm và thái độ như thế, chính là những người cộng tác đắc lực với Chúa, để xây dựng sự bình an cho thế giới hôm nay.
Thế giới hôm nay đang là chiến trường giữa thiện và ác. Phía ác do Satan và hỏa ngục dẫn đầu. Chúng rất mạnh. Chúng ta sẽ thắng chúng nhờ vào Chúa chúng ta.
16. Riêng tôi, tôi nhận mình rất yếu đuối. Ngay sự phó thác mình cho Chúa một cách khiêm nhường, cũng không là việc dễ dàng đối với tôi. Nên tôi thường hay chạy đến Đức Mẹ, xin Mẹ ủi an tôi trên con đường phấn đấu đầy mệt mỏi. Tôi hay cầu nguyện với Mẹ bằng bài hát quen thuộc:
“Lạy Mẹ, xin an ủi chúng con luôn luôn. Mẹ từ bi, xin phá những nỗi u buồn…”
Thực sự, Đức Mẹ đã và đang an ủi tôi. Nhờ vậy, mà tôi được bình an.
17. Với kinh nghiệm riêng tư đó, đôi khi tôi cảm thấy mình được thấy “trời mở ra”, như xưa Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ đi theo Người (Ga 1, 51). Trời mở ra, để tuôn đổ ơn bình an xuống cho những người Chúa thương.
Tôi nói là “đôi khi”, để chứng tỏ rằng: Bình thường, cuộc sống đem lại bình an vẫn là một hành trình đòi nhiều phấn đấu. Phải bắt đầu đi, bắt đầu lại.
Bình an đang trở thành một nhu cầu khẩn thiết cho Hội Thánh và quê hương chúng ta. Bình an là điều mà mọi người đang chờ đợi nơi mỗi người chúng ta. Bình an là một ơn trọng đại, Chúa sẽ ban cho những người thiện tâm.
Kỷ niệm 160 năm ngày giỗ hai thánh Phêrô Đoàn Công Qúi và Emmanuel Lê Văn Phụng (31.7.2019) Bùi-Tuần 1884
+ GB. Bùi Tuần
1. Kỷ niệm 160 năm ngày giỗ hai thánh Phêrô Đoàn Công Qúi và Emmanuel Lê Văn Phụng (31.7.2019), nhắc nhủ cho tôi nhiều điều.
2. Tôi đã hồi tâm, để gặp gỡ Chúa bên hai thánh quí yêu. Tôi cảm tạ Chúa đã ban cho giáo phận hai người con gương mẫu. Hai ngài đã nêu gương sáng về sự làm chứng cho Chúa. Hồi đó các ngài đã làm chứng cho Chúa bằng cái chết anh dũng của mình, chứng minh sự trung thành của mình đối với Chúa.
3. Trong một lúc bất ngờ, trước mặt hai thánh, Chúa hỏi tôi: Còn con, hiện nay con đang làm chứng cho Chúa tại Quê Hương Việt Nam thế nào?
4. Không đợi tôi trả lời, Chúa đã âu yếm dạy tôi: “Con hãy làm chứng cho Chúa bằng cách chứng tỏ có Chúa trong con. Mọi người thuộc về con cũng hãy làm như vậy”.
5. Trong niềm hân hoan, tôi hỏi Chúa: “Chúng con lấy gì để chứng tỏ chúng con có Chúa trong chúng con?”
Chúa trả lời: Chúng con chứng tỏ chúng con có Chúa ở trong chúng con, khi chúng con phục vụ, như người đầy tớ trung tín và khôn ngoan, biết cung cấp cho các người thuộc về mình đúng lương thực, đúng giờ, đúng lúc.
Lời Chúa dạy trên đây chỉ là nhắc lại lời Chúa đã dạy xưa, mà thánh Mathêu đã ghi lại (x. Mt, 24, 45-46).
6. Lời Chúa đã giúp tôi xét mình về cách làm chứng cho Chúa tại Việt Nam hôm nay.
Chúa dạy: Làm chứng cho Chúa bằng phục vụ con người.
Phục vụ thì phải khiêm tốn như người đầy tớ, chứ không phải như người cậy quyền.
Phục vụ thì phải trung tín và khôn ngoan, ở chỗ biết chọn đúng lương thực có chất lượng, và phải cung cấp đúng lúc, đúng cách.
7. Với nhận định đó, tôi nhìn thoáng qua giáo phận Long Xuyên và nhiều nơi trong Hội thánh tại Việt Nam hôm nay, thì thấy nhiều người công giáo đang phục vụ như vậy.
Họ là giám mục. Họ là linh mục. Họ là tu sĩ. Họ là giáo dân. Họ phục vụ khắp nơi và phục vụ mọi đồng bào.
8. Lương thực có chất lượng mà họ lo cung cấp chính là yêu thương.
9. Tôi tìm một người tiêu biểu cho những người phục vụ như vậy, thì Chúa chỉ vào cha Trương Bửu Diệp.
Còn sống cũng như đã chết, cha Diệp phục vụ bằng yêu thương chan hòa, lo cho mọi người không trừ một ai, quan tâm tới từng chút, để không ai đến với ngài mà phải thất vọng.
Với cách phục vụ như thế, cha Diệp chứng tỏ cha có Chúa ở trong cha.
10. Theo kinh nghiệm từ nhiều năm, tôi thấy tại Việt Nam, không thiếu người có linh cảm này: Gặp một người, chỉ một lúc là họ cảm nhận là họ gặp được Chúa. Bởi vì người đó có Chúa ở trong mình.
11. Làm chứng có Chúa ở trong mình là điều không thể giả tạo được đâu.
12. Tôi có kinh nghiệm thế này: Làm chứng có Chúa ở trong mình là do phục vụ đúng ý Chúa, nhưng thường cũng kèm theo đau khổ.
13. Phải rất nhiều đau khổ, mà vẫn phục vụ theo thánh ý Chúa, đó là điều thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã tâm sự.
14. Và đó là điều, mà Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận cũng đã nhiều lần thủ thỉ với tôi.
15. Cho dù chúng ta có Chúa ở trong mình, thì không phải vì thế mà mọi người đều sẽ tin vào Chúa và tin vào chúng ta. Chắc chắn sẽ không thiếu những chê bai, những chống đối. Nhưng đừng sợ, đừng nản. Chúa vẫn ở với chúng ta. Gieo hạt giống tốt, vẫn sẽ có mùa gặt tốt. Lúc nào, thì để Chúa lo. Chúng ta chỉ phó thác trong niềm hy vọng tràn trề.
16. Tôi đang thấy: Sẽ có những chứng nhân âm thầm. Họ mỏng manh như chiếc bình sành dễ vỡ. Họ làm những việc lành nhỏ. Họ chôn vùi mình trong cuộc sống coi như tẻ nhạt. Không ai thấy vinh quang nào nơi họ. Chính họ cũng không tìm vinh quang nào, cho dù bé nhỏ. Nhưng đó lại là một cuộc sống có Chúa ở cùng, một cuộc sống mà Satan khiếp sợ, một cuộc sống sẽ là men, là muối mang Tin Mừng cứu độ.
17. Xin hai thánh cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta.
Long xuyên, ngày 27.7.2019
------------------------------------
Bùi-Tuần 1885: NIỀM VUI ĐƯỢC CÓ MẸ DẪN DẮT CHỞ CHE
+ GB. Bùi Tuần
Tháng Tám có lễ trọng mừng kính Đức Mẹ hồn xác lên Trời. Đây là dịp thôi thúc tôi cảm tạ Chúa Bùi-Tuần 1885
1. Tháng Tám có lễ trọng mừng kính Đức Mẹ hồn xác lên Trời.
Đây là dịp thôi thúc tôi cảm tạ Chúa một cách đặt biệt vì ơn Chúa ban cho tôi được Đức Mẹ nhận làm con yêu dấu của Mẹ.
2. Mẹ thân sinh của tôi hay kể lại cho tôi nghe, ngay khi tôi còn nhỏ, về một biến cố đã xảy ra cho mẹ, khi mẹ mang thai tôi.
Tối hôm đó, khi bố và mẹ đã lần chuỗi mân côi xong, thì hai người chuẩn bị ngủ. Riêng mẹ đọc kinh thêm một mình.
Bỗng mẹ thấy xuất hiện ngay bên giường mẹ một cây nến cháy. Rồi, sau đó là một cái ghế trống. Rồi, một lát sau là một người lạ mặc phẩm phục giám mục ngồi vào ghế đó. Và rồi, một lát sau, Đức Mẹ hiện ra đứng đàng sau vị giám mục, đặt tay trên vai vị giám mục.
Cảnh đó kéo dài khá lâu. Rồi tan biến. Mẹ sửng sốt.
Ngay lập tức, mẹ kể lại cho bố nghe những gì mẹ vừa thấy. Bố tôi không tin.
3. Khi tôi lớn, mẹ vẫn kể cho tôi nghe chuyện đó. Mẹ nói mẹ chẳng hiểu chuyện đó có ý nghĩa gì. Mãi khi tôi được Chúa gọi thụ phong giám mục, thì mẹ và tôi mới hiểu.
4. Riêng tôi, tôi hiểu là đời giám mục của tôi sẽ rất gian nan. Nhưng hãy tin vào Đức Mẹ. Đức Mẹ sẽ dẫn dắt chở che. Dưới đây tôi xin được tâm sự vắn tắt.
5. Thực vậy, càng đi sâu vào cuộc đời giám mục, tôi càng khám phá thấy cảnh gian nan của hành trình đời tôi.
Cái nặng nề nhất chính là sự yếu đuối của tôi. Càng ngày tôi càng nhận thấy mình là kẻ tội lỗi, là kẻ yếu đuối, là kẻ hèn mọn.
Xưa, thánh Phaolô tông đồ đã thú nhận sự thực thê thảm này, đó là: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm.” (Rm 7, 19) “Tôi thực là một người khốn nạn” (Rm 7, 24).
Nay, tôi càng phải thú nhận như thế về tôi.
6. Càng đi sâu vào cuộc đời giám mục, tôi càng thấy sự can thiệp của Đức Mẹ vào cuộc đời tôi là rất kín đáo.
Mẹ rất nhạy bén: Mẹ nhìn thấy thực xa, thực sâu về mọi tình hình. Mẹ nhẹ nhàng báo trước cho tôi. Nhiều lần tôi ngu dại, chủ quan, không vâng ý Mẹ, nhưng Mẹ vẫn tha thứ. Mẹ không nỡ bỏ rơi tôi.
Đức Mẹ đứng đàng sau tôi. Tôi không nhìn thấy Mẹ. Nhưng tôi vừa cảm thấy, vừa tin. Chính vì thế mà tôi cần cầu nguyện rất nhiều.
7. Càng đi sâu vào cuộc đời giám mục, tôi càng thấy sự cầu nguyện của tôi trở nên hết sức tự nhiên, như hơi thở. Tôi vừa làm việc, vừa cầu nguyện. Tôi vừa nghe, vừa cầu nguyện. Tôi vừa tiếp xúc, vừa cầu nguyện. Lúc thức cũng cầu nguyện. Lúc ngủ cũng cầu nguyện. Tôi thường cầu nguyện cho những người khác, cho Hội thánh, cho quê hương Việt Nam, cho giáo phận, cho địa phương của tôi.
8. Càng đi sâu vào cuộc đời giám mục, tôi càng thấy sự cầu nguyện của tôi trở nên đơn sơ hơn. Có lúc lần chuỗi. Có lúc chỉ đọc một kinh “thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời”. Có lúc chỉ là một lời kêu than: Mẹ ơi. Có lúc chỉ đơn giản ôm lấy tràng hạt.
9. Càng đi sâu vào cuộc đời giám mục, tôi càng thấy những tước hiệu về Đức Mẹ được hiện lên với tôi một cách gần gũi, thân thương. Thí dụ tôi hay nhìn Đức Mẹ là Đấng an ủi kẻ âu lo, là nơi trú ẩn của những kẻ tội lỗi, là hy vọng của những người thất vọng.
Với những hình ảnh gần gũi như thế, Mẹ đi vào đời tôi, từng giờ, từng phút, từng giây.
10. Càng đi sâu vào cuộc đời giám mục, tôi càng thấy tôi có bổn phận phải cảm tạ Chúa vì đã ban Đức Mẹ cho tôi. Đồng thời, tôi cũng càng thấy tôi có bổn phận phải kêu mời mọi người hãy tin tưởng, chạy đến với Đức Mẹ.
11. Chính lúc này, tôi xin phép nói lên điều, mà tôi coi như một sư điệp, đó là:
Tình hình đang diễn biến rất phức tạp và nguy hiểm. Thế nào rồi ai cũng sẽ phải ra đi. Đi về cõi sau. Ở đó sẽ có thưởng có phạt. Sẽ có thiên đàng và cũng sẽ có hỏa ngục.
Muốn lên thiên đàng, thì hãy bám vào Đức Mẹ. Ngay bây giờ. Với tất cả niềm tin.
Ngay bây giờ. Kẻo sẽ quá muộn.
Ngay bây giờ, mỗi người chúng ta hãy nhờ Đức Mẹ mà cầu xin ơn hoán cải cho mình và cho mọi người.
12. Nếu làm như vậy, chắc chắn Chúa sẽ thương ban cho chúng ta niềm vui được Đức Mẹ dẫn dắt chở che.
13. Nếu làm như vậy, chắc chắn Chúa sẽ thương ban cho chúng ta niềm vui được cùng với Mẹ, mà hiệp nhất với Hội thánh của Chúa, một Hội thánh có nhiều thành phần, nhưng hiệp thông với nhau một cách chặt chẽ, tin tưởng, chan chứa tình thương.
14. Lúc này, từ thẳm sâu tâm hồn, tôi thưa với Chúa rằng: “Nếu Chúa muốn dùng con như một viên gạch nhỏ, sẽ được lát ở cuối nhà thờ, để mọi người bước lên đó, mà tiến lên bàn thánh, thì con xin cảm tạ ơn Chúa.”
Tạ ơn đó của tôi là một âm vang lời xin vâng của Đức Mẹ xưa. Mẹ sẽ giúp tôi vâng theo ý Chúa. Bất cứ sự gì Chúa muốn về tôi đều tốt lành. Mẹ sẽ giúp tôi xin vâng, trong tinh thần phó thác. Mẹ là mẹ của tôi sẽ dẫn dắt tôi về với Chúa là cha giầu lòng thương xót.
Thân gửi ĐỨC CHA GIUSE TRẦN XUÂN TIẾU, GIÁM MỤC HƯU.
Hôm nay là kỷ niệm 45 năm Đức Cha được thụ phong linh mục. Tôi cảm tạ Chúa vì muôn vàn Bùi-Tuần 1886
Hôm nay là kỷ niệm 45 năm Đức Cha được thụ phong linh mục. Tôi cảm tạ Chúa vì muôn vàn ơn Chúa đã ban cho Đức Cha suốt 45 năm qua.
Theo tôi, ơn trọng nhất, là Chúa đã và đang ban cho Đức Cha được trở nên hạt lúa mì gieo vào lòng đất, và bị chết dần, như lời Chúa Giêsu đã phán xưa (Ga, 12, 24).
Thực vậy, hạt lúa Giuse Tiếu được gieo vào những hoàn cảnh để được chết dần đi. Đó là các thứ bệnh về thể xác, và các nỗi đau về tâm hồn.
Đức Cha đã sống ơn gọi hạt lúa gieo vào lòng đất, với tinh thần trách nhiệm cao và sự tận tâm sâu rộng.
Nhờ vậy, mà Đức Cha trở thành của lễ, sẽ trổ sinh ra nhiều hoa trái thiêng liêng, trong đó có tôi.
Hiện giờ, tại đây, rất nhiều người cũng như tôi, quen nhận ra những con người mình gặp là thuộc Bùi-Tuần 1887
1. Hiện giờ, tại đây, rất nhiều người cũng như tôi, quen nhận ra những con người mình gặp là thuộc loại người mình tin được hay không tin được, nhờ những dấu chỉ.
2. Dấu chỉ quen thuộc mà hầu như mọi người hiện nay đang nhấn mạnh để nhận ra một người loại tốt đó là: họ biết lo cho những người khác. Những người khác, mà họ lo có thể thuộc gia đình, có thể thuộc loại túng nghèo, già yếu, bệnh tật, cô đơn. Họ lo với sự tận tâm, với sự dấn thân.
3. Nghĩa là họ lo cho người khác không nhắm tìm lợi ích cho mình, mà chỉ vì yêu thương những người khác đó.
4. Lo cho người khác như thế là dấu chỉ đạo đức, mà tôi đã được học rất sớm từ trong gia đình, nhờ bố mẹ dạy.
5. Càng lớn lên, tôi càng hiểu, sự biết lo cho những người khác chính là nếp sống đạo có tính cách thờ phượng và tạ ơn Chúa.
Nếp sống đó sẽ được thực hiện bất cư lúc nào, bất cứ ở đâu.
6. Khi tôi thấy ai có nếp sống đó, tôi lập tức nhìn họ là người có Chúa và Đức Mẹ ở với họ, ở trong họ. Họ ví như những ngọn nến cháy. Dù nhỏ bé thôi, họ vẫn là dấu chỉ để nhận ra Chúa.
7. Thực vậy, tôi đã gặp rất nhiều ngọn nến nhỏ đó ở những chặng đường của hành trình đời tôi.
Ở Á Châu, như tại Hồng Kông, Phi Luật Tân, Thái Lan, Singapore, Ấn Độ. Ở Âu Châu, như tại Ý, Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Nga, Hungary, Bỉ. Ở Trung Đông, như Israel, Palestine.
Đó là những nơi tôi đã tới và đã ở lại.
8. Tất nhiên, tại Việt Nam yêu dấu của tôi, tôi đã gặp được nhiều ngọn nến nhỏ đó. Là những ngọn nến nhỏ, họ cháy sáng nếp sống lo cho những người khác một cách vị tha, một cách âm thầm. Tôi rất biết ơn họ. Tôi học được nhiều nơi họ.
9. Một trong những điều tốt, mà tôi đã và đang học được ở những ngọn đèn nếp sống lo cho kẻ khác, đó là tôi sống thân mật với Chúa và Đức Mẹ, để nhờ đó, mà biết lo cho kẻ khác một cách sống động hơn, thiết thực hơn.
10. Thực vậy, khi tôi sống thân mật với Chúa và Đức Mẹ, thì Chúa và Đức Mẹ trở thành sức sống mới được tràn sang tôi. Nhờ vậy, mà tôi biết lo cho kẻ khác với trái tim của Chúa và của Đức Mẹ. Tôi sẽ biết hiền lành, khiêm nhường và yêu thương theo gương Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Được như vậy, cũng là nhờ Chúa và Đức Mẹ.
11. Tới đây, tôi nhận ra điều này: Tại Việt Nam hôm nay, những dấu chỉ tốt, đó là biết lo cho người khác một cách vị tha, tuy vẫn có, nhưng chưa nhiều.
Riêng trong Hội thánh Công giáo tại Việt Nam hôm nay, dấu chỉ đó vẫn còn yếu kém.
12. Nếu biết nhận thức sự thực đó để hoán cải chính mình, thì sẽ là một dấu chỉ tốt, và sẽ là cơ sở tốt, để đồng bào tin vào chúng ta.
13. Thời kỳ này là thời kỳ của các dấu chỉ, nên nhớ như vậy. Vì thế, mỗi người chúng ta hãy là một dấu chỉ sống động làm chứng cho Chúa.
14. Hãy biết lo cho những người khác, nhất là những người nghèo khó, những người già nua bệnh tật, những người cô đơn, những người đói khát tình thương, những người đói Chúa. Lo bằng những việc nhỏ và thường xuyên.
Họ ở gần bên chúng ta. Họ ở ngay cạnh chúng ta. Họ ở trong cùng nhà với chúng ta.
15. Hãy biết lo cho những người khác, đó là sứ điệp khẩn cấp của Chúa và Đức Mẹ gửi cho từng người chúng ta.
Lúc này, riêng đối với tôi, nếu có ai hỏi tôi: “Cha sẽ lo gì nhiều nhất cho cha”. Thì tôi sẽ không ngại thưa ngay rằng: “Tôi lo Chúa và Đức Mẹ sẽ chẳng bao giờ bỏ tôi”. Tôi xin Chúa và Mẹ điều đó. Tôi lo cho tôi chỉ có thế thôi. Vì tôi tin, nếu có Chúa và Mẹ ở với tôi, thì tôi sẽ biết lo cho những người khác.
16. Một lần nữa, Chúa và Mẹ nhắc nhủ cho tôi điều này: Sống trong thời điểm coi trọng các dấu chỉ, các con hãy là dấu chỉ của Chúa ở sự biết lo cho những người khác.
17. Để an tâm và để quyết tâm, tôi vâng ý Chúa mà đọc lại những lời Chúa phán xưa vào ngày phán xét chung: Tóm tắt thế này “Mỗi lần các con lo phục vụ cho những kẻ đói, khát, vô gia cư, rách rưới, bị cầm tù, thì được kể như các con lo phục vụ chính Chúa” (Mt 25, 35-41).
18. Tôi xác tín điều này:
Rất nhiều người trong chúng ta mang trong mình tiềm năng tính tốt muốn lo cho người khác. Nếu được khích lệ, tính tốt đó sẽ mọc ra được những việc lành cụ thể có tính chất tận tâm thực sự lo cho người khác. Do vậy, mà cần có những gương sáng, kèm theo việc cầu nguyện và những nhắc nhở.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Lạy Mẹ Maria, xin luôn cứu chúng con khỏi tính tự mãn, để luôn muốn học thêm, học mãi bài học biết lo cho những người khác. Long xuyên, ngày 12.8.2019
Sống theo thánh ý Chúa, đó là phương hướng đời tôi. Một trong những điều thánh ý Chúa muốn về Bùi-Tuần 1888
1. Sống theo thánh ý Chúa, đó là phương hướng đời tôi.
Một trong những điều thánh ý Chúa muốn về tôi đó là: Tôi hãy bám vào Đức Mẹ, hãy coi điều đó là cực kỳ quan trọng.
2. Điều cực kỳ quan trọng đó được Chúa báo cho tôi bằng nhiều cách.
Nhiều cách, tuy khác nhau, nhưng đều phiên dịch một nội dung. Nội dung đó là: Hãy tin Mẹ ở bên tôi, và hãy cậy trông mọi sự ở Mẹ.
3. Ngay từ còn nhỏ, tôi đã được mẹ thân sinh của tôi phiên dịch thánh ý Chúa như thế cho tôi.
Càng khôn lớn, tôi càng được nhiều linh mục, và nhiều biến cố phiên dịch thánh ý Chúa như thế, để tôi hiểu rõ hơn.
Tất nhiên, Chúa Thánh Thần đã ban ơn soi sáng cho tôi trong nội tâm, để tôi biết đón nhận những phiên dịch thánh ý Chúa như thế.
4. Như vậy, thánh ý Chúa về liên hệ giữa Mẹ và tôi được Chúa báo cho tôi qua cả một hệ thống gồm nội tâm và nhiều sự việc bên ngoài. Xin đưa ra vài ví dụ.
5. Khi được gọi thụ phong linh mục, tôi sợ, nên xin rút lui. Lúc đó, người phiên dịch thánh ý Chúa là cha linh hồn. Ngài khuyên tôi hãy vâng ý Chúa vì có Đức Mẹ. Cha thuộc dòng Đaminh, rất sùng kính Đức Mẹ. Với ơn Chúa soi sáng trong tôi, tôi đón nhận lời cha linh hồn. Và tôi được an tâm, cậy tin vào Đức Mẹ.
6. Khi được gọi thụ phong giám mục, tôi rất sợ, nên cầu cứu xin được phép từ chối. Lúc đó, người phiên dịch thánh ý Chúa là Đức Cố Giám mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ. Ngài khuyên tôi đừng từ chối. Ngài bảo tình hình lúc đó là rất phức tạp, rất khó khăn. Nhưng hãy vững tin vào Đức Mẹ. Tôi xin vâng. Một đàng nhờ Đấng bề trên phiên dịch ý Chúa, một đàng nhờ ơn Chúa Thánh Thần an ủi và soi sáng bên trong.
7. Khi được trao phó nhiệm vụ làm cầu nối giữa Việt Nam và Tòa Thánh, tôi rất lo lắng. Nhưng Đức thánh Giáo Hoàng Gioan–Phaolô II khích lệ tôi. Ngài phiên dịch thánh ý Chúa bằng cách khuyên tôi cậy tin vào Đức Mẹ. Tôi được can đảm, nhờ Đức thánh Cha, rồi với ơn Đức Mẹ an ủi bên trong, tôi thực hiện nhiệm vụ khó khăn đó một cách kín đáo và kiên trì.
8. Ba trường hợp trên đây chỉ là tiêu biểu cho một chuỗi dài những cách Chúa dùng, để phiên dịch thánh ý Chúa về liên hệ giữa Đức Mẹ và tôi.
Nếu không có những phiên dịch như thế, thì tôi không thể an tâm, nhất là khi tình hình biến chuyển phức tạp, có những bất ngờ đáng sợ.
9. Tình hình lúc này đang là như thế. Tôi không thể không lo sợ cho mình, cho những người thân, nhất là cho Hội thánh tại đây và cho đồng bào yêu dấu của tôi.
10. Nhưng những kinh nghiệm vừa kể trên đây đang giúp tôi có hy vọng vững chắc. Đó là tôi tin Đức Mẹ ở bên tôi, và tôi cậy trông ở Đức Mẹ trong mọi tình huống xảy ra.
Không những tôi hy vọng, mà tôi còn thấy hy vọng đó đang thực hiện nơi tôi một cách tuyệt vời, từng ngày, từng giờ, từng phút. Đúng là Đức Mẹ ở bên tôi. Đúng là Đức Mẹ dắt dìu, che chở tôi.
Tôi cảm nhận điều đó một cách riêng tư, âm thầm, gần gũi.
11. Đức Mẹ là mẹ của tôi. Tôi trở nên bé nhỏ. Mẹ đứng đàng sau. Mẹ cầm tay tôi. Tôi làm, nhưng mẹ còn làm hơn tôi, tuy Mẹ không làm thay tôi.
12. Sau cùng, có một điều tôi thấy cũng nên nói ở đây, đó là chính nhờ Đức Mẹ mà tôi biết sống với lòng Chúa thương xót.
Riêng đối với tôi, Đức Mẹ chính là hình ảnh thích hợp nhất của Lòng Chúa thương xót.
Vì thế, nói về lòng thương xót Chúa, mà không đề cao Đức Mẹ, thì sẽ là một thiếu sót lớn.
Đức Mẹ mới chính là người phiên dịch lòng thương xót Chúa một cách sống động, một cách thích hợp, một cách hoàn hảo.
13. Với Đức Mẹ, tôi được hiểu đúng hơn đâu là vùng biên thực sự, mà Đức Phanxicô thường thúc giục chúng ta hãy tới đó để làm chứng cho Chúa. Vùng biên đó ở ngay trong nhà chúng ta, ở ngay trong lòng chúng ta.
14. Ngay như những gì tôi thường chia sẻ, đều có Mẹ ở bên và đều có bàn tay Mẹ đẩy đưa.
15. Chính vì vậy, mà thường tôi ưa thích được thinh lặng, để nghe những phiên dịch thánh ý Chúa xung quanh tôi, nhất là để nghe Mẹ nhắc nhở trong thẳm sâu cõi lòng của tôi.
16. Tôi vui, khi tôi cảm tạ Chúa, và lo cho những người khác. Đơn sơ, vì tôi có Mẹ ở bên, và vì tôi cậy tin mọi sự nơi Mẹ, như Chúa dạy tôi.
17. Tôi cảm thấy mình hạnh phúc ngay trong những lúc khổ đau, vì được có Mẹ ở bên, vì được Mẹ dắt dìu, vì được Mẹ gần gũi, vì được Mẹ bênh đỡ, vì được Mẹ ủi an.
18. Và cũng sẽ là một ơn gọi đặc biệt, nếu biết tỉnh thức lắng nghe những cách Chúa đang dùng để phiên dịch ý Chúa, về vai trò của Đức Mẹ, trong chương trình cứu rỗi giữa lịch sử đầy chuyển biến hiện nay.
Những người được ơn gọi đó đang cùng nhau khiêm tốn ca ngợi cảm tạ Chúa. Long xuyên, ngày 19.8.2019
Đức Mẹ ở bên tôi. Tôi cảm nhận rất rõ sự hiện diện của Mẹ. Mẹ đẹp về mọi phương diện. Nhưng một Bùi-Tuần 1889
1. Đức Mẹ ở bên tôi. Tôi cảm nhận rất rõ sự hiện diện của Mẹ. Mẹ đẹp về mọi phương diện. Nhưng một nét đẹp của Mẹ đã gây ấn tượng mạnh nhất nơi tôi, đó chính là sự khiêm tốn của Mẹ.
2. Mẹ rất cao sang, mà lại rất khiêm nhường. Mẹ rất tận tâm lo cho con cái, mà lại rất khiêm tốn. Mẹ rất quyền năng, mà lại rất khiêm hạ. Mẹ luôn đẩy tôi về phía trước. Còn Mẹ thì đứng đàng sau. Mẹ nhắc nhỏ tôi nhiều điều, nhưng cách nhẹ nhàng, kín đáo. Mẹ lo cho tôi từng chi tiết nhỏ, cả đến những việc cá nhân hết sức tư riêng. Đặc biệt, Mẹ giúp tôi trải qua những khổ đau, những nhọc nhằn, những nhục nhã đôi lúc bất ngờ xảy ra.
3. Khiêm nhường của Mẹ là một nét đẹp tuyệt vời, là một hương thơm lôi cuốn, có sức cải tạo tôi, và luôn luôn đào tạo tôi, để tôi nên người và nên con Chúa.
4. Do vậy tôi xác tín điều này: Khiêm nhường là một ơn quý giá cao trọng Chúa ban cho Đức Mẹ, để Mẹ làm chứng cho Chúa. Ơn cao quí đó cũng được Chúa ban cho nhiều vị đứng đầu Hội thánh, để cứu các linh hồn.
5. Nói vậy là vì tôi nhớ tới Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài cũng đã để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc về sự khiêm nhường của ngài.
Rất nhiều lần, Đức thánh Giáo Hoàng đã nói với tôi những lời: “Cám ơn, xin lỗi”. Ngài nói những lời khiêm nhường đó với tôi một cách rất khiêm nhường, hồn nhiên và thân mật.
6. Thái độ khiêm nhường của người dứngđầu Hội thánh đã lôi kéo tôi về với Chúa.
7. Dần dần, tôi xác tín: Khiêm nhường là điều rất cần cho tôi và cho các mục tử, nhất là trong tình hình hiện nay.
Tôi biết là cần. Nhưng có được điều cần đó là chuyện không dễ.
8. Tôi cầu xin Đức Mẹ giúp tôi. Đức Mẹ khuyên tôi hãy luôn tỉnh thức. Bởi vì Satan luôn tìm mọi cách để gieo nọc độc kiêu ngạo vào lòng con người, nhất là lòng những người môn đệ Chúa.
9. Tỉnh thức là điều tôi và nhiều người rất muốn. Nhưng khốn thay, chỉ muốn mà thôi! Chứ thực sự tỉnh thức thì còn thiếu lắm. Đáng buồn hơn nữa là tình trạng không tỉnh thức đang có khuynh hướng trở nên chuyện bình thường, để rồi vì thế kiêu ngạo xem ra cũng đang trở thành chuyện bình thường ở nhiều nơi, cả ngoài đời lẫn trong Đạo.
10. Khiêm nhường và kiêu ngạo là một trận chiến về đạo đức đã có từ rất lâu. Nay trận chiến đó có vẻ quyết liệt hơn trước nhiều. Nơi nào khiêm nhường thua, kiêu ngạo thắng, thì hậu quả sẽ khủng khiếp cả cho Hội thánh, cả cho xã hội.
11. Biết như vậy, nên tôi thấy mình có trách nhiệm phải vâng ý Đức Mẹ, mà nói lên nguy cơ đó. Chúa cũng đang dùng một số nhỏ, để phiên dịch ý Chúa. Chúng tôi vâng ý Chúa mà thôi.
12. Riêng tôi, chỉ mong việc mình nói lên là đúng ý Chúa, còn hậu quả ra sao thì xin khiêm nhường phó thác.
13. Phó thác đối với tôi là : Tôi tin Đức Mẹ sẽ luôn ở bên tôi. Tôi mong mọi người thấy tôi sẽ gặp được Đức Mẹ. Phó thác như thế là một niềm vui, là một hạnh phúc.
14. Niềm vui đó, hạnh phúc đó, tôi xin đặt vào lòng Đức Mẹ. Tự nhiên, tôi nhớ tói tên, mà Đức Mẹ đặt cho chính mình Mẹ, đó là “Con là nữ tỳ của Chúa”. “Con là người đầy tớ bé nhỏ của Chúa”.
Đó là một tên rất khiêm nhường, làm sáng danh Chúa.
15. Còn tôi, tên thật của tôi, chính là: “Kẻ tội lỗi khốn nạn”. Thực vậy, tôi là kẻ tội lỗi khốn nạn được Chúa xót thương. Chúa xót thương tôi rất nhiều, nhất là vì đã ban cho tôi được ơn làm con của Đức Mẹ, được Đức Mẹ ở bên, được Đức Mẹ dắt dìu, an ủi.
16. Nhờ vậy, tôi được rất nhiều ơn hồn xác. Những ơn tôi nhận được là không sao kể xiết. Những gì tôi nói ra chỉ là một phần nhỏ, so với những gì tôi không nói ra.
17. Từ kinh nghiệm đó về mình, tôi nghĩ tới nhiều người khác. Họ cũng được như tôi, và hơn tôi. Tôi cảm tạ và ngợi khen Chúa vì những công trình lạ lùng Chúa đang làm, do lòng thương xót Chúa.
18. Một công trình lạ lùng, mà Chúa đang làm trong Hội thánh hiện nay là làm cho những bông hoa khiêm nhường sống động âm thầm nở ngay trong những nơi xem ra khó khăn nhất. Những bông hoa khiêm nhường sống động đó đang nâng đỡ tôi. Xin cảm ơn họ hết lòng.
19. Đức Mẹ đang dùng những bông hoa khiêm nhường sống động đó, để góp phần vào kế hoạch cứu độ, mà Chúa đang thực hiện cho Hội thánh và thế giới hiện nay. Xin cùng với Mẹ cảm tạ Chúa giầu lòng thương xót.
Phụng vụ đề cao sự kiện thánh Gioan-Baotixita bị chém đầu. Nhiều người coi đó là một vinh dự Bùi-Tuần 1890
1. Phụng vụ đề cao sự kiện thánh Gioan-Baotixita bị chém đầu. Nhiều người coi đó là một vinh dự của thánh nhân, vì được thông công vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
2. Đúng là như thế. Nhưng, nếu không bị chém đầu, thánh Gioan-Baotixita cũng vẫn tham dự vào cuộc thương khó Chúa.
Đó là điều Đức Mẹ dạy tôi, để tôi và biết bao con cái Mẹ hãy vững tin tham dự vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu, mà không cần phải đợi được đổ máu ra, như cảnh đầu thánh Gioan-Baotixita bị đặt trên mâm.
3. Thực vậy, thánh Gioan-Baotixita là con thiêng liêng của Đức Mẹ. Nhờ sự Đức Mẹ đến thăm bà Isave, khi bà mang thai Gioan-Baotixita, mà Gioan-Baotixita được thánh hóa ngay từ đó.
4. Khi khôn lớn và suốt đời, Gioan-Baotixita vẫn được ơn theo gương Đức Mẹ. Đức Mẹ tham dự vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu, mà không đổ máu. Gioan-Baotixita cũng chỉ mong điều đó. Chứ thực sự Gioan-Baotixita chẳng bao giờ muốn khác Đức Mẹ. Khi sự việc xảy ra khác, thì Gioan-Baotixita xin vâng ý Chúa mà thôi.
5. Do vậy, khi được gọi tham dự vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu, tôi rất kính các vị thánh đã đổ máu mình ra để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi vẫn nhìn Đức Mẹ như một gương mẫu tham dự vào cuộc thương khó của Chúa, mà không đổ máu. Rất nhiều người trong Hội thánh xưa và nay vẫn nêu gương đó.
6. Khi đọc các tác phẩm của thánh Giám mục Augustinh, tôi thấy thánh nhân tham dự vào cuộc thương khó của Chúa bằng nhiều cách, nhưng đặc biệt ở cái nhìn của ngài vào nội tâm ngài. Ngài nhìn thấy trong nội tâm ngài những bóng tối sợ hãi, những ước muốn trái ngược nhau, những cảm xúc buồn phiền. Nhưng ngài một mực cậy tin vào Chúa. Qua đó, thánh Augustinh tham dự vào những gì Chúa Giêsu đã trải qua xưa ở vườn Cây Dầu.
7. Khi đọc cuốn tự thuật của thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, tôi thấy vị nữ tu dòng kín trẻ trung này đã tham dự vào cuộc thương khó của Chúa ngay trong chính cuộc đời kín đáo tu trì của mình. Những bệnh hoạn phần xác, những khổ đau phần hồn, những nếp sống khổ hạnh và những hướng mở ra phục vụ các người xung quanh, tất cả đều không đổ máu, mà lại mang vào mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
8. Khi được tiếp xúc thân mật với Đức thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, tôi thấy ngài có vẻ đau khổ rất nhiều. Một lần nọ, tôi mạnh dạn hỏi ngài: “Thưa Đức thánh Cha, Đức thánh Cha có đau khổ không?” Ngài thưa: “Tôi đau khổ nhiều lắm nhưng tôi quen rồi”. Tôi không thấy ngài mơ ước được đổ máu, nhưng chính cuộc đời mà ngài đang sống đã mang nặng cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài vẫn theo gương Đức Mẹ tham gia cuộc thương khó của Chúa Giêsu, mà không đổ máu.
9. Khi nhìn vào Hội thánh tại Việt Nam này, ngay tại giáo phận Long Xuyên thân yêu, tôi không khỏi ngạc nhiên và xúc động, thấy nhiều gương sáng về sự tham dự vào cuộc thương khó của Chúa trong cuộc đời không đổ máu.
10. Một trong những cuộc đời đó là âm thầm sống khổ đau mà lại rất cởi mở. Con đường họ đi là con đường hẹp, nhưng lại rất mở. Mở mà lại hẹp. Sự thương khó của Chúa, mà họ được tham dự là khổ đau, nhưng lại rất lo cho những người khác với yêu thương và khiêm nhường.
11. Riêng tôi, nhận thức mình là người yếu đuối về mọi phương diện, tôi chỉ xin được tham dự vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu cách nhẹ nhất, đó là tôi hay nép mình dưới bóng của Mẹ, mà đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu, để được Chúa Giêsu chia sẻ cho những tâm tình của Chúa, lúc Chúa chịu thương khó. Tâm tình đó là khiêm tốn vâng phục ý Chúa Cha, khiêm tốn phục vụ con người, để cứu con người.
12. Ở dưới chân thánh giá, tôi được Chúa Giêsu chia sẻ cho sự thương khó của Chúa theo lòng thương xót Chúa. Nghĩa là với mức độ hợp với sự yếu đuối của tôi, mà Chúa quá biết.
13. Tôi đón nhận sự thương khó của Chúa một cách phó thác đơn sơ tuyệt đối, nhất là với Đức Mẹ, Mẹ yêu dấu của tôi.
14. Giữa một thế giới coi thất hứa, thất tín là chuyện bình thường, tôi luôn thấy Mẹ và Chúa của tôi luôn trung thành với lời đã hứa.
Phúc âm chứa đầy những lời Chúa hứa dành cho những kẻ yếu đuối khổ đau có lòng khiêm nhường tin cậy vào Chúa.
15. Từ đó, tôi được hiểu thêm là Chúa muốn chúng ta tham gia vào cuộc thương khó của Chúa và nhất là muốn chúng ta tham gia vào hậu quả của cuộc thương khó Chúa.
Hậu quả của cuộc thương khó Chúa là kho đầy tình thương xót cứu độ của Chúa. Chúa kêu gọi mọi người và mỗi người hãy đến kho tàng đó, mà hưởng ơn cứu độ.
16. Hiện giờ, tôi đang tham dự vào cuộc thương khó của Chúa bằng sự chu toàn bổn phận, trong tinh thần khiêm tốn cầu nguyện, khiêm tốn phục vụ, nhất là khiêm tốn vâng phục thánh ý Chúa. Xin anh chị em thương cầu nguyện cho tôi.
Đạo đức được đo bằng thái độ đối với những khoảng cách. Đó là điều Đức Mẹ hay nhắc nhủ tôi Bùi-Tuần 1891
1. Đạo đức được đo bằng thái độ đối với những khoảng cách. Đó là điều Đức Mẹ hay nhắc nhủ tôi.
2. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ của Ngài điều quan trọng này: “Phải gắn bó mật thiết với Ngài như cành nho gắn chặt vào thân cây nho” (Ga 15, 4-6).
Do vậy, nếu tôi không gần gũi với Chúa Giêsu, để mình có những khoảng cách nào đó với Ngài, thì không thể là người đạo đức. Kết quả sẽ là: “Chẳng sinh được hoa trái nào, để rồi sẽ bị quăng vào lửa” (X. Ga 15, 7-8).
Thế mà, nhiều khi chúng ta vẫn coi thường khoảng cách với Chúa Giêsu, thậm chí còn tạo thêm những khoảng cách, do lối sống chỉ lo hình thức bề ngoài, mà lơ là với sự kết hợp với Chúa trong nội tâm.
3. Chúa Giêsu cũng đã dạy các môn đệ của Ngài một điều quan trọng khác:
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ của Ngài, như những bạn hữu thân tình. (Ga 15,14). Nghĩa là không có khoảng cách.
Vậy thì các môn đệ Chúa cũng hãy đối xử với nhau một cách thân tình, không có khoảng cách.
Thế mà, trong thực tế, chúng ta sống với nhau, cho dù bên nhau, mà nhiều khi vẫn giữ những khoảng cách rất xa. 4. Chúa Giêsu cũng đã dạy chúng ta một điều quan trọng khác nữa. Anh em hãy yêu thương những người nghèo khổ, đói khát, rách rưới, cô đơn, như yêu thương chính Chúa:
“Mỗi lần anh em giúp đỡ làm việc từ thiện cho những đối tượng khổ đau, thì được Chúa kể như là anh em làm cho chính Chúa” (X. Mt 15, 46).
Thế mà, trong thực tế, biết bao lần chúng ta đã giữ một khoảng cách rất lớn đối với giai cấp nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn.
Nếu coi lối sống đó là bình thường, thì chúng ta sẽ bị Chúa phạt rất nặng. Nghĩa là kẻ phải xuống hỏa ngục, để đời đời cứ mãi sống trong khoảng cách mà mình đã chọn khi còn sống.
5. Nhân thể nói về những khoảng cách, tôi hồi tưởng tới những năm tháng xưa đã có những khoảng cách đau lòng giữa Công giáo và ngoài Công giáo, gây nên những xung đột, những bắt bớ, những hận thù.
6. Thảm cảnh đó đã qua rồi. Nay lại nảy sinh những khoảng cách mới giữa các lối sống khác nhau, xung quanh vấn đề lợi ích.
Nhóm này xa cách nhóm kia. Người nọ xa cách người kia. Do lợi ích mỗi bên nhắm tới có những khoảng cách. Lợi ích thường là hướng hưởng thụ, nặng về quyền lực và kinh tế.
7. Hiện nay, khoảng cách cũng đang xảy ra một cách thê thảm, khi niềm tin bị đổ vỡ.
Hứa, mà thất hứa một cách dễ dàng. Nhiều lần như vậy sẽ xói mòn lòng tin. Khoảng cách vì thế mà dài thêm, sâu hơn.
8. Tôi thấy nhiều khi mình rất muốn xóa đi những khoảng cách. Nhưng bên kia không muốn. Thành ra khoảng cách là một vấn đề rất phức tạp.
9. Tuy sao, cho dù phức tạp đến đâu, đạo đức cũng đòi mỗi người chúng ta hãy cứ giữ tâm hồn mình thanh thản, luôn tỉnh thức xóa đi những khoảng cách về phía mình và trước mặt Chúa.
10. Thái độ tỉnh thức đó đòi chúng ta phải rất khiêm nhường và khôn ngoan, luôn coi việc xích lại gần nhau là một việc đạo đức không thể giải quyết, mà không nhờ vào ơn Chúa Thánh Thần, và cũng cần phải có thời gian.
11. Sở dĩ tôi nói vậy là vì hiện nay, đang có một phong trào trong nội bộ Hội thánh nổi lên, gây khoảng cách trầm trọng đối với Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Tôi nghĩ những khoảng cách đó sẽ không giải quyết được bằng những áp đặt, mà cần phải có một thời gian.
12. Tình hình đó cũng đang xảy ra tại nhiều nơi trong Hội thánh tại Việt Nam. Nếu giải quyết bằng áp đặt, thì sẽ càng gây thêm khoảng cách. Hãy khôn ngoan, cộng tác với Chúa Thánh Thần, và chờ đợi thời gian thuận tiện sẽ tới.
13. Riêng tôi, càng ngày tôi càng để ý giữa tôi và Đức Mẹ càng gần lại nhau. Bây giờ thì tôi tin không còn khoảng cách nào giữa Mẹ và tôi. Và đó không phải là do công của tôi, mà là do công của Mẹ. Chính Mẹ giúp tôi xóa đi mọi khoảng cách, cho dù tôi vẫn là kẻ tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn. Tôi hoàn toàn phó thác nơi Mẹ, không còn chút nào là khoảng cách.
14. Rồi cũng từ đó, tôi sống gần gũi với Chúa hơn. Tôi cảm được sự gần gũi Chúa dành cho tôi là kẻ tội lỗi, hèn hạ. Khoảng cách dần dần thu hẹp lại. Chỉ còn là phó thác, tuyệt đối cậy tin.
15. Rồi cũng nhờ vậy, tôi sống gần gũi với mọi người, như Chúa dạy. Vấn đề khoảng cách chủ yếu là trong nội tâm, một nội tâm xa tránh thành kiến, một nội tâm coi yêu thương là chính, một nội tâm chấp nhận khổ đau, để làm chứng cho Chúa là Tình yêu giầu lòng thương xót, một nội tâm sống mật thiết với Chúa.
16. Tới đây, tôi hết lòng cảm tạ Chúa đã đào tạo biết bao người để họ biết sống đạo đức với vấn đề khoảng cách theo đúng ý Chúa.
Đúng là sống đạo đức với những khoảng cách đang trở thành một vấn đề lớn trong việc đào tạo hiện nay.
17. Nói thế có nghĩa là những người có trách nhiệm đào tạo phải được đào tạo kỹ. Và đó chính là vấn đề quan trọng bậc nhất trong giáo dục hiện nay.
Với tất cả tấm lòng hiếu thảo, và chỉ là riêng tư, tôi xin dâng lên Chúa chia sẻ chân tình trên đây, dịp Quốc Khánh trước muôn vàn thao thức.
Từ mấy tháng nay, nhất là hiện giờ, thời sự hằng ngày đưa ra một tin tức có tính cách cảnh báo Bùi-Tuần 1892
1. Từ mấy tháng nay, nhất là hiện giờ, thời sự hằng ngày đưa ra một tin tức có tính cách cảnh báo, đó là sạt lở.
2. Nơi này sạt lở, nơi kia sạt lở. Với những hiện tượng giống nhau: Trên mặt đất có cây cối, nhà cửa, đường xá tốt đẹp. Nhưng sau vài cơn mưa lũ, đất đó rạn nứt, rồi đổ xuống sông, xuống biển, kéo theo mọi sự vật trên đất. Đối phó bằng nhiều cách, nhưng vô hiệu. Bởi vì đất chỗ đó chỉ là một lớp vỏ mỏng, dưới có những sóng ngầm thực mạnh. Đất mỏng dần. Tới một lúc nào đó, đất đó vỡ ra, đổ chìm xuống nước ngầm. Sạt lở đang gây nên bao tang tóc.
3. Thời sự sạt lở về đất hiện nay đang làm cho nhiều người liên tưởng đến thời sự sạt lở về đạo đức trong xã hội và Hội thánh.
Ngoài mặt thì vẫn sinh hoạt như bình thường. Nhưng bên trong nội tâm thì vô vàn bất ổn. Nhất là dưới đáy lương tâm lại xuất hiện những giao tranh giữa thiện và ác.
Rồi, thêm vào đó lại có nhiều sự kiện bên ngoài gây nên nghi ngờ và ngao ngán. Đó là những sóng ngầm. Tới một lúc nào đó, nơi nhiều người sẽ xuất hiện sạt lở về đạo đức. Đổ vỡ niềm tin. Loạn lạc phương hướng. Đó là một khủng hoảng rất nguy hiểm.
Khủng hoảng đó nay đang xuất hiện ở nhiều nơi trong xã hội và trong Hội thánh.
4. Trước tình hình như thế, Đức Mẹ đang cứu các con cái Mẹ bằng nhiều cách âm thầm. Một trong những cách mà Mẹ nhấn mạnh hiện nay là giúp các con cái Mẹ sống vững tin vào những thực tại thiêng liêng.
Xin phép được chia sẻ trường hợp của tôi như một ví dụ.
5. Mẹ cho tôi cảm nhận rất rõ tôi được Chúa xót thương đặc biệt, mặc dầu tôi tội lỗi, hèn mọn.
6. Mẹ cho tôi cảm nhận rất mạnh Chúa muốn tôi cũng hãy xót thương những kẻ khác, như Chúa thương tôi.
7. Mẹ cho tôi cảm nhận rất sâu vai trò của ơn thánh. Để thực thi thánh ý Chúa, tôi phải cầu nguyện nhiều, phải xin Chúa Thánh Thần ban ơn giúp sức cho, để biết khôn ngoan trong mọi tình huống, cho dù bất ngờ, phải biết từ bỏ ý riêng, phải chấp nhận đi vào cửa hẹp.
8. Mẹ cho tôi cảm nhận rất đặc biệt về sự Chúa hiện diện trong tôi. Lúc nào tôi cũng cảm thấy Chúa nhìn tôi với cái nhìn yêu thương có tính cách cứu độ tôi và giúp tôi cứu người khác theo thánh ý Chúa.
9. Mẹ cho tôi cảm nhận rất thân mật về sự phải tỉnh thức lợi dụng mọi cơ hội, để phục vụ yêu thương một cách mau lẹ, tận tâm. Phải coi bất cứ một thiếu sót nào về tình yêu thương đều là xấu, cần phải sám hối.
Đó là những thực tại thiêng liêng, mà Đức Mẹ dạy tôi.
10. Đón nhận những gì Mẹ đã dạy tôi, tôi lại chuyển những điều đó cho những người thuộc về tôi.
11. Với cách đó, tôi khuyên những người khác hãy trực tiếp với Chúa Thánh Thần. Tôi không buộc ai phải theo lương tâm tôi. Tôi không bắt ai phải coi lương tâm tôi là thánh ý Chúa. Mỗi người hãy coi việc đào tạo lương tâm mình là một trách nhiệm.
12. Kết quả là, như tôi thấy, rất nhiều người xa gần mà tôi quen, đang được Chúa Thánh Thần đào tạo lương tâm, để có những sáng kiến tốt đẹp, hợp với hoàn cảnh thực tế, mà mỗi người họ đang sống.
13. Riêng tôi, tôi coi chiều kích thiêng liêng với những thực tại thiêng liêng là cực kỳ quan trọng trong việc sống đạo đức.
14. Vì thế, chấn hưng nền giáo dục, mà coi thường chiều kích thiêng liêng và các thực tại thiêng liêng, thì sẽ không tránh được thất bại.
15. Theo nhận xét của tôi, hầu hết mọi người Việt Nam đều có ý thức về chiều kích thiêng liêng nào đó và các thực tại thiêng liêng.
Có những người không theo tôn giáo, nhưng vẫn có tín ngưỡng. Nghĩa là họ tin vào nhiều thực tại thiêng liêng. Và đó là một thực tế rất đáng mừng, làm nền tảng cho việc chấn hưng đạo đức.
Những ai đánh mất chiều kích thiêng liêng sẽ rất khốn khổ.
16. Tình hình càng rối reng, thì trách nhiệm những người tin Chúa càng phải rõ ràng về đạo đức.
17. Rõ ràng là hãy sống theo lương tâm tốt lành như trình bày ở đây.
18. Rõ ràng là cho dù một lúc nào đó, họ phải sống cô độc một mình, không có nhà thờ, không có linh mục, không có cộng đoàn, họ vẫn một mực sống với những thực tại thiêng liêng một cách gần gũi. Lúc đó họ vẫn hạnh phúc, bởi vì họ được các thực tại thiêng liêng ấp ủ, dẫn đưa.
19. Tới đây, tôi nhìn lên Đức Mẹ, với tất cả niềm tin cậy phó thác, để cùng hiệp nhất với Hội Đồng Giám mục Việt Nam, với Hội thánh của Đức Kitô, mà tiếp tục cuộc hành trình ơn gọi của tôi. Ơn gọi của tôi được Đức Mẹ dắt dìu, che chở, ủi an, từng giờ, từng phút, từng giây, để tôi góp phần lo cho Đất Nước tôi được sự bình an của Chúa cứu độ giàu lòng thương xót.
20. Với niềm tin và hy vọng, tôi dâng lên Chúa chia sẻ chân thành trên đây, dịp khai mạc Niên học mới trong một tình hình gây nhiều lo âu xao xuyến.
Người tu là một chứng nhân. Đời tu là một đời làm chứng. Tôi làm chứng rằng : Tôi ở lại Bùi-Tuần 1893
Người tu là một chứng nhân. Đời tu là một đời làm chứng. Tôi làm chứng rằng : Tôi ở lại trong Chúa Giêsu, và tôi giới thiệu Chúa Giêsu với mọi người bằng đời sống của tôi.
Hướng tu của tôi là như vậy. Thực chất đời tu của tôi là như thế.
Nhiều huấn đức đã giúp tôi tu cho tốt. Nhiều luật lệ đã bảo vệ tôi tu cho chắc chắn.
Nhưng, nếu được phép nhìn đời tu của tôi theo kinh nghiệm đúc kết một cách tư riêng và đơn giản, thì tôi xin nêu lên ba điểm sau đây. Chia sẻ này mang tính cách thân mật.
1/ Hằng ngày đi vào cõi tĩnh mạc nội tâm, để gặp gỡ Chúa Giêsu
Chúa Giêsu đã phán : “Hãy ở lại trong Thầy” (Ga 15,4). Tôi nghe lời đó từ sách Phúc Âm, từ phép Thánh Thể. Nhưng lạ thay, lời đó vẫn thầm phát xuất từ nội tâm tôi. Bắt đầu thì tôi tin. Dần dà tôi cảm nghiệm lời đó là một thực tế. Sau cùng tôi nếm được vị ngọt thiêng liêng của lời đó. Đúng là Chúa Giêsu hiện diện trong nội tâm tôi. Người hiện diện như một người yêu tha thiết. Người gọi tôi. Người đợi tôi. Người ở trong cõi nội tâm tôi một cách tĩnh lặng âm thầm.
Để gặp Người trong đó, tôi phải khao khát. Khao khát này sẽ giúp tôi bỏ lại những bận tâm không cần thiết.
Thực tế tôi thấy tôi bị kéo níu bởi nhiều ồn ào. Nhiều ồn ào chỉ làm tôi mất sự bình an. Vì thế, tôi nhờ Chúa Thánh Thần giúp tôi gỡ bỏ mọi vướng víu trong trí khôn, trí nhớ, trí vẽ, tình cảm. Khi tôi thực tình cậy tin Chúa Thánh Thần, tôi sẽ được dẫn vào cõi nội tâm tĩnh mạc. Chúa Giêsu ngự đó. Điều gây trong tôi ấn tượng rõ nhất và mạnh nhất là gì ? Thưa là thấy Chúa Giêsu như Đấng Cứu độ giàu tình yêu thương xót. Tình yêu thương xót này tỏa sáng dịu dàng, dọi vào bề sâu của lòng tôi. Nhờ đó tôi nhận biết mình phần nào về mặt yếu đuối, tội lỗi. Nhưng tình yêu thương xót Chúa như máu sẵn sàng tràn vào tôi, để rửa, để biến đổi, để trao ban cho sự hiệp thông vào đời sống Thiên Chúa. Đó là bước đầu. Tôi cần bước thêm.
2/ Hằng ngày cần năng cầu nguyện nội tâm, để được sống mật thiết với Chúa Giêsu
Gặp gỡ Chúa Giêsu trong nội tâm là một hồng ân. Nhưng hồng ân đó sẽ chỉ phát triển được, nếu tôi năng cầu nguyện với Chúa trong nội tâm tôi với niềm tin này : “Trong Người tôi được sai đi” (Ga 17,18).
Tôi để ý cầu nguyện nội tâm những thời gian ngoài thời giờ cầu nguyện theo luật
Thời giờ ngoài là những khi tôi làm việc ở bàn giấy, trong các tiếp xúc, và với những việc thuộc về cuộc sống đời thường. Những thời giờ đó, nếu so với thời giờ cầu nguyện theo luật, thì sẽ dài hơn gấp bội. Tuy không thuộc giờ cầu nguyện theo luật, tôi cũng cần và cũng có thể cầu nguyện trong thời giờ đó.
Tôi sẽ đi vào nội tâm một cách mau lẹ, nhẹ nhàng. Tại đó tôi sẽ cầu nguyện với Chúa Giêsu bằng những lời tâm sự vắn tắt.
Mục đích chính không phải là để xin ơn này ơn nọ, mà là để tôi luôn được thuộc về Chúa. Nhất là để các việc tôi làm, các lời tôi nói luôn phát xuất từ ý hướng ngay lành. Thiếu vắng sự năng cầu nguyện nội tâm, tôi dễ làm các việc tôn giáo theo kiểu dịch vụ. Trái lại, với việc năng cầu nguyện nội tâm, tôi thấy tôi có lửa thiêng trong lòng, có hồn Phúc Âm trong lời nói và thái độ sống.
Cầu nguyện nội tâm sẽ cho tôi cảm thấy mọi lời Chúa phán xưa về Người trở nên sống động. Thí dụ :
Người là bánh hằng sống (Ga 6,50-51). Người là ánh sáng (Ga 8,12). Người là Chúa chiên lành (Ga 10,11). Người là cửa (Ga 10,9). Người là cây nho (Ga 15,1). Người là nước hằng ban sự sống (Ga 7,37-39). Người là Đấng Cứu thế (Mt 16,17). Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6).
Nhờ năng cầu nguyện nội tâm, tôi nhận ra Chúa Giêsu hiện diện trong đời tu của tôi với những hình ảnh rất thường. Tôi sống Lời Chúa, nhưng thực ra là sống với chính Người. Đời tu của tôi là một chuyện tình thân mật giữa Người và tôi. Chuyện tình này là một hành trình đổi mới tôi.
3/ Hằng ngày trở nên bé mọn nội tâm, để đón nhận ơn đổi mới
Đối với người tu, sự đổi mới chính mình là rất quan trọng. Sự đổi mới này sẽ thực hiện không phải chỉ một lần, mà là mọi ngày.
Đổi mới nói đây là luôn cảnh giác, để tránh đi vào những lối dẫn mình xa nhân đức, hoặc đưa mình vào ngõ ngách nguy hiểm hoặc chỗ bế tắc. Đổi mới là chấp nhận phấn đấu với ba thù là xác thịt, ma quỷ và thế tục. Đổi mới là tỉnh thức thực hiện giới răn yêu thương, nhất là trong những trường hợp đòi nhiều hy sinh.
Muốn được thế, tôi phải rất bén nhạy. Tôi phải biết sợ đi một mình. Tôi phải tránh tâm thức tự hào mình là người lớn khôn ngoan. Nhưng tôi luôn phải trở nên bé nhỏ, luôn muốn được Chúa dẫn đưa, luôn muốn được đón nhận ơn phù trợ.
Tôi nhớ lời Chúa phán xưa : “Không có Thầy, các con không làm được gì” (Ga 15,5).
Ở tuổi nào, bậc nào, nhiệm vụ nào, tôi vẫn có thể sống bé nhỏ.
Kinh nghiệm cho tôi thấy : Được sống bé mọn là một ơn trọng đại Chúa ban. Ơn trọng đại này Chúa thường dành cho những tâm hồn coi sự trở về nội tâm là căn bản của người con Chúa nói chung và người tu nói riêng.
Với đời sống nội tâm luôn ở lại trong tình yêu Chúa, người tu sẽ ra đi làm chứng cho Chúa bằng chính đời sống của mình : Một đời sống kết hợp với Chúa và vâng phục ý Chúa, một đời sống bình an, một đời sống cậy tin, một đời sống phấn đấu, một đời sống hạnh phúc, một đời sống dấn thân phục vụ trong yêu thương, một đời sống khó nghèo đi về nhà Cha, cùng đồng hành với Đấng Cứu thế đã phục sinh, trong quyền năng tình yêu của Chúa Thánh Thần.
- Xin cảm tạ Chúa, vì được gặp Chúa trong nội tâm.
- Xin cảm tạ Chúa, vì được sống mật thiết với Chúa và được nghe lời Chúa sai đi trong nội tâm.
- Xin cảm tạ Chúa, vì được ơn đổi mới nội tâm, an vui trong tình phó thác của người con bé mọn nơi Chúa giàu lòng thương xót.
Đại Lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội đã qua rồi, Đại Hội các Giám Mục Việt Nam cũng đã Bùi-Tuần 1894
Đại Lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội đã qua rồi, Đại Hội các Giám Mục Việt Nam cũng đã kết thúc.
Hội Thánh Việt Nam, dù muốn dù không, sẽ chịu ảnh hưởng bởi Đại Lễ và Đại Hội.
Đại Lễ cho thấy chỗ đứng của Hội Thánh Công giáo trong lịch sử Đất Nước hôm nay là khiêm tốn.
Đại Hội cho thấy nhiều chọn lựa của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là dè dặt.
Hội Thánh sẽ làm chứng về Chúa thế nào trong những điều kiệu cụ thể của xã hội Việt Nam lúc này một cách sống động và có hiệu quả? Đó là câu hỏi nên đặt ra. Dưới đây là một suy tư xin mạo muội đóng góp.
1/ Những dấu chỉ nên cân nhắc
Trước hết, Hội Thánh chúng ta nên tỉnh táo khôn ngoan trong việc chọn lựa những dấu chỉ về Hội Thánh địa phương chúng ta. Thí dụ:
Trình bày những hình ảnh các cơ sở tôn giáo huy hoàng tráng lệ có thể thu hút được một số người. Nhưng cũng dễ trở thành lỗi thời, khi những cơ sở như thế chỉ được nhìn như những công trình xây dựng khác. Nhất là khi những cơ sở tôn giáo đó lại thiếu những nét có sức gây được bầu khí linh thiêng và thiếu tiềm năng giáo dục.
Trình bày các biểu dương rầm rộ hoành tráng có thể gây phấn chấn cho một số người. Nhưng cũng dễ trở thành mờ nhạt trong một xã hội đang có quá nhiều lễ lội. Nhất là khi những biểu dương ấy lại thiếu chiều sâu về đức tin, mà chỉ nặng về phô trương dễ bị lợi dụng.
Trình bày những thống kê với các con số về phát triển đạo có thể giúp hãnh diện và tự hào cho một số cá nhân và cộng đoàn. Nhưng cũng dễ trở thành hình thức thiếu chất lượng. Nhất là khi con người ta hiện nay đang bắt đầu chán ngấy với lối kể lể thành tích.
Trình bày một Hội Thánh tự vệ, phải đối phó với nhiều bắt bớ truy lùng, có thể giới thiệu sự kiên cường của nhiều người có đạo. Nhưng cũng dễ trở thành những câu hỏi gợi nên nhiều trả lời bất lợi. Nhất là khi xã hội gồm phần đông là không công giáo, và lịch sử đạo ta vẫn lấn cấn với nhiều vấn đề chính trị phức tạp. Hình ảnh là một ngôn ngữ. Hình ảnh là dấu chỉ. Ngôn ngữ dấu chỉ, nếu được chọn lựa đúng, sẽ giúp rất nhiều cho việc loan báo Tin Mừng. Với mục đích đó, chúng ta nên chọn những hình ảnh nào có giá trị như một dấu chỉ sống động về Tin Mừng Đức Kitô.
2/ Những dấu chỉ nên chọn
Thiết tưởng hình ảnh như thế sẽ chính là đời sống của mỗi người chúng ta. Đời sống thường nhưng mà sâu.
Đời sống thường là đời sống thường ngày. Mỗi người có một đời sống thường riêng của mình, tại gia đình, trong xã hội, nơi những lãnh vực khác nhau, với những hoàn cảnh riêng.
Trong cuộc đời thường ấy, chúng ta sống đức tin một cách sâu xa. Sâu xa được hiểu trước hết ở sự chúng ta kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Chúng ta hiệp thông với tình yêu của Người, sự thương khó của Người và sự phục sinh của Người. Đức Kitô trở thành sức sống của ta.
Với sức sống tình yêu của Đức Kitô trong mình, chúng ta dấn thân phục vụ con người. Phục vụ như Đức Kitô. Nghĩa là phục vụ như người đầy tớ, đầy hiền lành, khiêm tốn, yêu thương. Phục vụ của chúng ta lúc đó luôn hướng về sự hiến thân của Đức Kitô trên thánh giá. Để rồi, sự hiến thân của chúng ta cũng là một dâng hiến trọn vẹn của tình yêu.
Sự phục vụ như thế là một chiến đấu cam go, vừa làm việc lành, vừa đẩy lùi sự ác. Nhưng có Chúa ban sức mạnh cho chúng ta. Sức mạnh ấy là một kho tàng vô giá. "Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi" (2 Cr 4,7).
Cuộc phấn đấu sẽ rất cam go, đến nỗi, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: "Chúng tôi luôn mang nơi thân xác mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi" (2 Cr 4,11). Như vậy, chính bản thân chúng ta sẽ là dấu chỉ của sự sống Đức Kitô, của tình yêu Đức Kitô.
Sự sống ấy, tình yêu ấy có sức cứu độ. Nó phát xuất từ cuộc thương khó của Đức Kitô trong ta. Như thể từ bóng tối đã phát sinh ra ánh sáng, từ thất vọng lại mọc lên hy vọng, từ sự chết lại chỗi dậy sự phục sinh.
Khi chúng ta sống thường ngày một cách sâu như vậy, mỗi người chúng ta sẽ trở thành dấu chỉ và hình ảnh đích thực của Tin Mừng. Hơn nữa, chúng ta sẽ là những bức thư của Chúa gởi cho những người sống bên cạnh chúng ta. Thánh Phaolô viết: "Rõ ràng anh em là bức thư của Đức Kitô được giao cho chúng tôi chăm sóc, không phải viết bằng mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người" (2 Cr 3,3).
Những tấm bia linh thiêng đó chính là men là muối giữa đời (x. Mt 5,13-14), như lời Chúa Giêsu đã dạy.
3/ Nhìn vào những dấu chỉ trong lịch sử Hội Thánh Việt Nam
Lịch sử Hội Thánh Việt Nam không thiếu những chứng nhân như thế. Họ là men, là muối, là bức thư chứa đựng tình yêu cứu độ. Họ rất sống động và linh động.
Họ có mặt ở khắp nơi trong mọi tầng lớp xã hội. Hiện diện của họ thường là âm thầm, nhưng toả sáng niềm hy vọng. Họ không kết tụ thành những khối mang đồng phục, nhưng họ thích sống và làm việc như những chứng nhân tự do và tích cực hiện diện. Sức mạnh nơi họ là từ nội tâm kết hợp với Chúa, theo gương Đức Mẹ Maria.
Họ được nhìn như những dấu chỉ của hướng đi cuộc đời. Ảnh hưởng của những chứng nhân tình yêu là rất lớn, cả trong Đạo ngoài Đời, nhất là trong việc đổi mới lòng người.
Họ sống nhờ bác ái của Đức Kitô. Chính nhờ bác ái của Đức Kitô, họ đang làm cho Hội Thánh nên trẻ trung. Trong đó mọi thành phần Hội Thánh được gắn kết với nhau bằng những tương quan huynh đệ chân thành. Cũng chính nhờ thế, Hội Thánh mở lối về cõi Trời hạnh phúc, êm đềm như một tình thương dịu dàng giữa xã hội hôm nay.
Không gì có thể thay thế được họ trong sứ vụ làm chứng cho Chúa tình yêu tại Việt Nam hôm nay. Hơn thế, họ sẽ tăng lên, về lượng và về phẩm. Được Chúa sai đi, họ hân hoan đồng hành với dân tộc, nhất là với những người nghèo khổ, yếu đuối. Đó là điều thiết tưởng phải nói lên sau Đại Lễ và Đại Hội.
Trong đạo, "chước cám dỗ" được hiểu là một sức mạnh xấu lôi cuốn con người vào tội lỗi. Cùng Bùi-Tuần 1895
Trong đạo, "chước cám dỗ" được hiểu là một sức mạnh xấu lôi cuốn con người vào tội lỗi. Cùng với việc cảnh báo về nguy cơ của các chước cám dỗ, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta một việc quan trọng để đối phó, đó là cầu xin Cha trên trời thương ban ơn cho chúng ta, đừng để chúng ta sa vào chước cám dỗ.
Hiện nay, các chước cám dỗ đang phát triển mạnh. Chúng hoạt động một cách tự do. Hiện diện của chúng là đều khắp trong đạo ngoài đời.
Nhân Mùa Chay là thời gian sám hối, trở về với Chúa, chúng ta nên nhìn vào những chước cám dỗ đã và đang lôi kéo chúng ta xa rời Phúc Âm, để sa vào đàng tội, dẫn tới tình trạng mất linh hồn. Trước hết, chúng ta hãy xem các chước cám dỗ đến từ đâu?
1. Nguồn gốc các chước cám dỗ
Nguồn gốc thứ nhất là Satan.
Phúc Âm thánh Matthêu gọi "Satan là tên cám dỗ" (Mt 4,3). Trong hoang địa, Chúa Giêsu đã bị quỷ dữ Satan cám dỗ. Nó hứa cho Người quyền lực kinh tế, quyền lực thần thiêng, quyền lực chính trị. Chỉ cần Người thực hiện vài việc rất nhỏ làm dấu vâng phục nó. Nhưng Chúa Giêsu đã thắng Satan (x. Mt 4,-111).
Trước giờ chịu nạn, Chúa Giêsu đã nói với thánh Phêrô về nguy cơ bị Satan lôi kéo vào đàng tội: "Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin" (Lc 22,31-32).
Thánh Phêrô, với kinh nghiệm của mình, đã ví Satan như con sư tử. Nó cám dỗ cả bằng những phương tiện độc ác "Ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé" (1 Pr 5,8).
Nguồn gốc thứ hai là dục vọng của riêng mỗi người.
Thánh Giacôbê viết cho các tín hữu của Ngài: "Mỗi người có bị cám dỗ, thì do dục vọng của mình lôi cuốn" (Gc 1,14).
Dục vọng nơi mỗi người là vô số những nghiêng chiều bất chính. Thánh Phaolô gọi dục vọng đó là tính xác thịt. "Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm dục, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy" (Gl 5,19).
Nguồn gốc thứ ba là những thói đời. Thánh Phaolô khuyên giáo đoàn Rôma: "Anh em đừng rập theo thói đời này" (Rm 12,2). Một điều có sức cám dỗ mạnh của thói đời là sự khôn ngoan chối từ thập giá Đức Kitô. Đối với thánh Phaolô, sự khôn ngoan của thế gian không có sức cứu độ. Ngài cương quyết nhận lãnh sự khôn ngoan của Thần Khí được ban cho từ Đức Kitô trên thánh giá. "Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá" (1 Cr 2,2). Hiện nay thói đời chính là tinh thần thế tục. Tinh thần này đang tràn vào Hội Thánh Việt Nam. Tác động của nó không phải là nhỏ trong nhiều lãnh vực tôn giáo.
Nguồn gốc thứ bốn là những ngôn sứ giả.
Thánh Gioan viết: "Đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian" (1 Ga 4,2).
Ngôn sứ giả là những người đứng trong hàng ngũ ngôn sứ. nhưng họ có những lời nói sai lầm, phán đoán sai lầm, chủ trương sai lầm, cái nhìn sai lầm. Những sai lầm đó được pha trộn vào đời sống ngôn sứ của họ. Để rồi những sai lầm của họ cũng khoác áo chân lý.
Hậu quả là dần dần họ lôi cuốn người ta đi theo những sai lầm của họ.
Thánh Gioan tông đồ gọi họ là những tên Phản-Kitô "chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng không phải là người của chúng ta" (1 Ga 2,18-19). Ngay chính thời Chúa Giêsu, các ngôn sứ giả, các thầy dạy giả, các chứng nhân giả cũng đã kích động thành công quần chúng. Do họ mà quần chúng đổi lòng đổi dạ, trở nên những kẻ hò hét yêu cầu giết Chúa Giêsu. Chứng tỏ sức lôi cuốn của những người đạo đức giả không phải luôn luôn là yếu.
Đến đây, chúng ta có thể thấy được các chước cám dỗ là một mặt trận rất phức tạp, rất tinh vi và rất mạnh.
Để đối phó với mặt trận vô hình đó, chúng ta phải làm gì?
Chúa Giêsu dạy chúng ta phải thực hiện những việc sau đây.
2. Những việc phải làm để đối phó với những chước cám dỗ
Việc đạo đức, mà Chúa Giêsu nhấn mạnh nhiều nhất, để đối phó với các chước cám dỗ là việc cầu nguyện. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (Lc 22,40). Người khuyên các môn đệ cầu nguyện. Chính Người cũng cầu nguyện. Cầu nguyện của Người là rất khiêm tốn, rất thiết tha, rất phó thác trong xao xuyến bồi hồi. Người quỳ gối, "sấp mình xuống đất mà cầu nguyện rằng: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26,39). Cầu nguyện như thế để khỏi sa chước cám dỗ được Chúa Giêsu thực hiện như một cuộc giao chiến quyết liệt với chính mình.
Cùng với việc cầu nguyện, Chúa Giêsu hay nói đến một việc khác, đó là việc tỉnh thức.
Cũng trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã nói với thánh Phêrô: "Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ" (Mc 14,38).
Tỉnh thức nói đây là không mê ngủ. Ngủ về thân xác và ngủ về tinh thần. Ngủ trong ý nghĩ chủ quan, chính là điều Chúa Giêsu thấy nơi thánh Phêrô lúc đó.
Ý nghĩ chủ quan của thánh Phêrô lúc đó là rất tự đắc, vì Ngài tin vào sức mình. Ngài quả quyết với Chúa: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy. Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy" (Mc 14,31). Thực tế không như vậy. Chúa Giêsu thấy trước. Người cảnh báo Phêrô. Nhưng Phêrô vẫn chủ quan. Ngài như ngủ mê trong ý nghĩ chủ quan đó. Chính vì không tỉnh thức vâng lời Thầy, nên Phêrô đã sa chước cám dỗ một cách thê thảm.
Việc đạo đức sau cùng, mà Chúa Giêsu dạy, để chống chước cám dỗ là ăn chay.
Chúa Giêsu phán: "Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện" (Mt 17,21). Việc ăn chay thường được hiểu là tự ý giảm bớt trong việc ăn uống và các thứ hưởng thụ được phép. Đi sâu hơn, ăn chay còn là dấn thân tham gia mầu nhiệm thập giá và chia sẻ những khổ đau của những kẻ khốn cùng.
***
Trên đây là một phần quan trọng của những chân lý có sức cứu độ. Chúng ta đón nhận những chân lý cứu độ ấy với lòng cảm tạ Chúa.
Nguy cơ lớn nhất là chúng ta, những kẻ rất yếu đuối, đang bị vô số chước cám dỗ lôi kéo vào đàng tà, thế mà chúng ta vẫn ung dung, không cho là nguy cơ. Nguy cơ đáng sợ nhất là, khi chúng ta đã sa vào chước cám dỗ rồi, mà vẫn tưởng chẳng có gì tai hại sẽ xảy ra cho mình về mặt phần rỗi.
Những tưởng nghĩ như thế chính là những chước cám dỗ cực kỳ nguy hiểm.
Sự mù quáng, sự cứng lòng và sự tự đắc chủ quan đang là những mối đe doạ thực sự trong Hội Thánh chúng ta. Coi thường những mối đe doạ ấy, chính là một chước cám dỗ tai hại chúng ta cần phải đề phòng.
(Bài chia sẻ trong Thánh lễ Kính Thánh Gioan Baotixita ngày 24/6/2011 tại nhà nguyện TGM Long Xuyên)
Bài Phúc Âm thánh lễ mừng sinh nhật thánh Gioan Baotixita (x. Lc 1,57-66.80) kết thúc bằng câu Bùi-Tuần 1896
1. Bài Phúc Âm thánh lễ mừng sinh nhật thánh Gioan Baotixita (x. Lc 1,57-66.80) kết thúc bằng câu sau đây: "Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng. Nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel".
Với câu nói trên đây, Phúc Âm giới thiệu thánh Gioan Tiền Hô là con người mạnh mẽ trong lòng. Mạnh mẽ trong lòng có nghĩa là mạnh mẽ nội tâm, mạnh mẽ do "bàn tay Chúa ở với mình" (Lc 1,66).
Tuy đã được mạnh mẽ, thánh Gioan Tiền Hô vẫn còn được Chúa huấn luyện thêm.
2. Chúa đưa Ngài vào hoang địa. Trong hoang địa hoang vu, hoang vắng, Ngài thấy mình cô đơn, mỏng manh, chẳng có gì để bám víu. Ngài thực sự nghèo khó, một sự nghèo khó cùng cực. Chính cảnh nghèo khó cùng cực đó đã huấn luyện Ngài. Đúng như tiên tri Isaia đã nói, Ngài nhận thức mình là "tôi tớ Chúa" (Is 49,5). Ngài là người tôi tớ rất hèn hạ, như chính Ngài đã xưng "Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu Thế" (Ga 1,27). Tất cả sức mạnh nơi Ngài là nhờ Thiên Chúa. "Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi" (Is 49,5).
Thời gian thánh Gioan Tiền Hô được huấn luyện trong hoang địa không rõ về ngày đầu ngày cuối, nhưng chắc chắn đã kéo dài nhiều năm. Cuộc huấn luyện trong hoang địa càng lâu thì thánh Gioan Tiền Hô càng cảm nhận được sự nghèo khó của mình, đồng thời niềm cậy tin của Ngài vào Chúa càng mạnh. Nhờ đó, Ngài càng trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa.
Chính ở sự Ngài được biến đổi sâu sắc nhờ ơn Chúa như vậy, mà chiều kích siêu nhiên nơi Ngài được sáng tỏ rạng ngời. Chiều kích siêu nhiên đó đem lại cho Ngài một hạnh phúc linh thiêng, không hạnh phúc nào nơi trần gian sánh kịp. Ngài được thêm mạnh mẽ trong lòng.
3. Sau khi thánh Gioan Tiền Hô được huấn luyện trong hoang địa, để trở thành người tôi tớ nghèo khó của Chúa, Ngài được sai đến cùng dân Israel với mục đích dọn đường cho Chúa Cứu Thế.
Ngài thi hành trách nhiệm được trao cũng với tinh thần nghèo khó. Không tiền của, không trụ sở, không lễ phục, không hộ tống. Hơn nữa, Ngài mặc áo da thú, sống giản dị đến mức khắc khổ. Ngài chỉ là "một tiếng hô trong hoang địa" (Lc 3,4).
Đề tài Ngài rao giảng là mọi người hãy bỏ đàng tội lỗi, nhờ sám hối và tin vào Chúa Giêsu. Đề tài đó rất khó được người ta hưởng ứng. Ngài gặp nhiều chống đối. Nhưng Ngài vẫn kiên trì rao giảng. Ngài chia sẻ những gì Ngài xác tín. Ngài nói về những sự vô hình một cách tự nhiên như mình đã được thấy, đã được nghe, đã được gặp, đã được cảm nhận. Sức mạnh trong lời Ngài là từ Chúa. Ngài luôn được mạnh mẽ trong lòng. Ngài có thể nói như thánh Phaolô sau này: "Chính khi tôi yếu lại là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10).
4. Một thoáng nhìn trên đây cho thấy thánh Gioan Tiền Hô được huấn luyện thành người tôi tớ nghèo khó, để rồi ra đi rao giảng Tin Mừng với những phương tiện nghèo khó.
Những gì Chúa đã làm cho thánh Gioan Tiền Hô thuở xưa, thì Chúa cũng vẫn làm cho Hội Thánh sau này suốt 20 thế kỷ qua. Cách Chúa làm được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ nơi tuỳ lúc.
Chính Hội Thánh Việt Nam cũng đã được Chúa huấn luyện như thế. Có nơi có lúc tình hình rất cam go. Nhiều người công giáo Việt Nam đã từng trải qua những thời điểm rất khó khăn. Họ đã được huấn luyện, trong hoàn cảnh có thể gọi là hoang địa hoang tàn. Họ trở thành những dụng cụ nghèo khó của Chúa, để rồi họ loan báo Tin Mừng với những phương tiện hết sức nghèo khó. Họ được mạnh mẽ trong lòng nhờ ơn Chúa.
5. Tiện đây, tôi xin phép chia sẻ thêm đôi chút về một điều mà chúng tôi đã được hưởng trong những thời điểm khó khăn nhất. Đó là chúng tôi được hạnh phúc, rất hạnh phúc trong lòng. Hạnh phúc do nhiều lý do. Tôi xin nói vắn tắt vài lý do.
Lý do thứ nhất là chúng tôi được gắn bó mật thiết hơn với Chúa. Khi bị thử thách tư bề, chúng tôi cảm thấy mình được gỡ bỏ khỏi mọi chi phối không cần thiết, để chỉ tập trung vào Chúa. Sự tập trung đó có thể gọi tắt là luôn "đi trước mặt Chúa" như lời ông Dacaria đã nói về thánh Gioan Tiền Hô (x. Lc 1,76). Luôn luôn đi trước mặt Chúa được chúng tôi cảm nghiệm như một hạnh phúc nhẹ nhàng cao quý.
Lý do thứ hai là chúng tôi tập trung cho đi những gì Chúa đã ban cho chúng tôi. Trong thử thách khốn khó, chúng tôi được Chúa cho xác tín: Chúa chính là Đấng Cứu Độ. Xác tín đó được chúng tôi chia sẻ. Thánh Gioan Tiền Hô đã: "Bảo cho dân Chúa biết: Chúa sẽ cứu độ và tha cho họ hết mọi tội khiên" (Lc 1,77). Chúng tôi cũng nói cho dân Chúa điều căn bản đó. Nói bằng những phương tiện nhỏ và bằng sự nắm bắt những cơ may nhỏ. Được loan báo Tin Mừng đó, chúng tôi cảm nhận đây là một hạnh phúc đậm đà tình yêu chân thành đối với mọi người.
Lý do thứ ba là chúng tôi làm chứng về Chúa Giêsu bằng cách dâng chính mình làm của lễ. Thánh sử Gioan Tông đồ gọi thánh Gioan Tiền Hô là "người làm chứng về Chúa Giêsu" (Ga 1,15). Ngài làm chứng bằng đời sống thánh thiện. Còn chúng tôi là những kẻ tội lỗi yếu hèn, chúng tôi làm chứng bằng sự chúng tôi tội lỗi mà được Chúa cứu và tha thứ. Chúng tôi dâng chính đời sống ấy làm của lễ đền tội và tạ ơn. Chúa xót thương chấp nhận của lễ hèn mọn chúng tôi dâng. Chúng tôi cảm nhận đó là một hạnh phúc của sự phục sinh vô cùng quý giá.
Với những cảm nghiệm vừa kể, chúng tôi sống trong cơn thử thách một cách bình thản, như thánh Gioan Tiền hô mạnh mẽ trong lòng và hạnh phúc trong lòng.
Để kết, chúng ta khiêm tốn cầu nguyện cho nhau và cho Hội Thánh Việt Nam của chúng ta luôn được thuộc về Chúa. Trong thử thách vẫn mạnh mẽ trong lòng, và vẫn hạnh phúc trong lòng.
Đặc điểm nổi bật nhất của con người thời nay là: đi tìm. Ai ai cũng đi tìm. Từ trong thâm tâm, mỗi Bùi-Tuần 1897
1. Đặc điểm nổi bật nhất của con người thời nay là: đi tìm. Ai ai cũng đi tìm.
Từ trong thâm tâm, mỗi người đều đi tìm cho mình một hướng đi, một ý nghĩa.
2. Tôi cũng vậy. Thú thực là sự đi tìm của tôi càng ngày càng mạnh. Ngày đi tìm. Đêm cũng đi tìm. Đi tìm vì thế trở thành thao thức.
3. Thao thức của tôi là: Tìm xem thánh ý Chúa muốn gì về tôi trong cuộc sống hiện tại.
Đức Mẹ ở bên tôi trong thao thức đó. Nhờ vậy, tôi nhận ra là: Thánh ý Chúa muốn tôi hãy sống gần gũi.
4. + Hãy sống gần gũi với Chúa. + Hãy sống gần gũi với những người xung quanh. + Hãy sống gần gũi cách riêng với những kẻ khổ đau.
5. Để đào tạo tôi nên người gần gũi như thế, Đức Mẹ hay dẫn đưa tôi về Nagiarét là nơi Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse đã sống nhiều năm.
Tại đó, Ba Đấng đã sống gần gũi với Chúa Cha, với những người xung quanh và với những kẻ khổ đau một cách sống động.
6. Đức Mẹ cũng hay dẫn đưa tôi tới nhiều nơi trên thế giới hôm nay, ngay tại Việt Nam, ngay tại Long Xuyên này.
Tại những nơi đó, Đức Mẹ chỉ cho tôi thấy vô số gương sáng về người đi tìm. Họ đã gần gũi với Đấng thiêng liêng, với những người xung quanh, nhất là với những kẻ khổ đau một cách đơn sơ chân thành. Họ đi tìm bằng thao thức, chứ không bằng di chuyển.
7. Đức Mẹ hay dẫn tôi dừng lại ở những con người thao thức đó, để cùng với họ, mà đi tìm ý Chúa và hướng đi cho cuộc đời mình.
Thực sự vô số những người đi tìm như thế đã nhận ra ý Chúa và phương hướng đời họ là được sống gần gũi với Chúa, với những người xung quanh, nhất là với những kẻ khổ đau, mà Chúa cho họ gặp trên đường đời.
8. Đức Mẹ dạy tôi bằng những kinh nghiệm qua các chặng đường đi tìm. Nhờ vậy, tôi coi đi tìm là một ơn gọi. Tôi phải đi tìm, luôn luôn đi tìm. Phải coi đi tìm là một cách làm chứng cho Chúa.
9. Vì thế, hiện nay tôi vẫn là kẻ đi tìm. Càng tìm, tôi càng cảm nhận thấy sống gần gũi là hạnh phúc đời tôi.
10. Hạnh phúc của tôi là cầu nguyện, và cầu nguyện là gần gũi với Chúa.
11. Hạnh phúc của tôi là phục vụ những người Chúa trao phó cho tôi. Phục vụ là gần gũi với họ, nhất là với những kẻ khổ đau.
12. Sống gần gũi, khi đã trở thành hạnh phúc, thì sự đi tìm gần gũi sẽ tự nhiện biến thành thao thức triền miên.
13. Từ đó, tôi nghiệm ra điều này: Nếu có lúc nào, tôi tự mãn cho mình là khỏi cần gì phải đi tìm, để rồi cứ nhởn nhơ giữa một thế giới đầy biến động, thì sẽ là một sai lầm lớn.
14. Sai lầm đó sẽ kéo theo nhiều sai lầm nghiêm trọng khác, nếu tôi lại coi sai lầm đó là thánh ý Chúa, để rồi tổ chức tạ ơn, ăn mừng vì đã tới đích.
Không, không. Tôi vẫn là kẻ phải đi tìm. Đi tìm từng giờ, từng phút, từng giây. Đi tìm như thế, sẽ thấy mỗi ngày đều mới.
15. Từ những sai lầm đang nảy sinh trong việc đi tìm hiện nay, tôi thấy Đức Mẹ cảnh báo các con cái Mẹ: Hãy tỉnh thức trước những phong trào đi tìm. Bởi vì sẽ có những phong trào đi tìm do Satan và tinh thần thế tục chủ trương. Vì thế, rất cần phân định nhờ Chúa Thánh Thần.
16. Riêng đối với tôi, đi tìm cũng đòi tôi phải phấn đấu rất nhiều. Trong phấn đấu có việc phải luôn học hỏi.
17. Cách riêng, tôi coi việc bồi dưỡng trí thức, là rất cần. Trí thức về triết học, thần học, kinh thánh, tu đức là điều không dễ.
18. Tôi cũng coi việc bồi dưỡng trí thức nhân bản là điều không thể thiếu. Nhân bản cần nhất là khiêm nhường và yêu thương. Hai điều đó thực không dễ chút nào. Trí thức về khoa học nhiều lúc cũng rất hữu ích.
19. Trong một thế giới càng ngày càng coi trọng vai trò của trí thức, nếu kẻ đi tìm thánh ý Chúa có trình độ trí thức cao, thì sự đi tìm cuả họ sẽ có một uy tín đáng nể. Vì thế, Tòa Thánh luôn mong muốn việc đào tạo các kẻ đi tìm thánh ý Chúa phải có nền tảng trí thức sâu rộng về nhân bản, và về các khoa kinh thánh, thần học, triết học, giáo phụ, tu đức.
20. Là mục tử, tôi phải chọn lập trường. Chọn lập trường giữa một tình hình rối reng, là điều không dễ.
21. Chịu trách nhiệm trước Chúa, trước Hội thánh, trước Quê hương, về lập trường mình chọn, càng là điều không dễ chút nào. Tôi nhận ra điều đó một cách sâu sắc, những khi được gần gũi với Đức Cố Hồng Y Roger Etchegaray.
22. Do vậy, tôi cần phải được đào tạo thường xuyên. Bằng học hỏi, đi tìm, suy gẫm, cầu nguyện và nhờ đến sự giúp đỡ của những người chuyên môn, nhất là của cộng đoàn.
23. Vì thế, tôi tha thiết cầu chúc cho mọi kẻ đi tìm, trong đó có tôi, biết sống gần gũi với Chúa, với mọi người, nhất là với những kẻ khổ đau. Tất cả đều nhờ Đức Mẹ.
Phụng vụ dành ngày 15 tháng 9 để kính Đức Mẹ sầu bi. Năm nay, hơn bao giờ hết, tôi thấy Đức Bùi-Tuần 1898
1. Phụng vụ dành ngày 15 tháng 9 để kính Đức Mẹ sầu bi.
Năm nay, hơn bao giờ hết, tôi thấy Đức Mẹ đến với tôi với tâm tình sầu bi sâu đậm khác thường. Sầu bi là một hình thức xót thương, cảm thương.
2. Tôi thấy Đức Mẹ từ trời cao lại rất sầu bi trước cảnh khổ đau của nhân loại hiện giờ, còn những con cái Mẹ ở trần gian nếu lại dửng dưng, thì quả là đáng tội.
Cảnh khổ đau của con người hiện nay, xét về mặt phần rỗi đời đời, thực là bi đát.
3. Trong số những người đang phải khổ, có những người dám nói ra, cũng có những người không dám nói ra, hoặc không muốn nói ra, và cũng có những người không biết đến mức nghiêm trọng của nó, nên coi thường. Tôi có bổn phận phải nói ra. Vậy tôi xin phép được nói ra.
4. Nếu có những ai vô cảm trước những khổ đau của bao người xa gần hiện nay, thì sự vô cảm vô tâm đó đang là một sự kiện rất bi thảm, rất buồn đau, mà sớm muộn phải trả giá.
5. Đức Mẹ cho tôi thấy sầu bi trước những khổ đau của người khác, của đồng bào, của nhân loại, của Hội thánh, là sầu bi đạo đức.
6. Trái lại, trước cảnh khổ đau đó, mà vô cảm, thì vô cảm đó là một thiết sót đáng tội.
Nếu vô cảm đó lại là một chủ trương, thì thiết tưởng tội sẽ nặng.
7. Do vậy, khi Đức Mẹ đến với tôi dưới hình thức sầu bi, thì tôi coi đó là một nhắc nhở về bổn phận liên đới với những người đau khổ, mà Chúa Giêsu xưa đã nhấn mạnh nhiều lần, nhiều cách.
Thí dụ:
8. Trong dụ ngôn người Samari tốt lành, Chúa kết án nặng nề thầy tư tế và thầy Lêvi về sự dửng dưng vô cảm trước cảnh khổ đau của một kẻ nằm ở vệ đường. Trái lại Chúa khen người Samari có lòng sầu bi đối với nạn nhân. (X. Lc 10, 29-37).
9. Khi nói về ngày phán xét chung, Chúa Giêsu cũng đã nói rất rõ về phần thưởng dành cho những ai biết tỏ lòng sầu bi đối với những kẻ khổ đau. Còn những ai vô cảm sẽ bị phạt rất nặng. (X. Mt 25, 31-46).
10. Khi thấy tôi bối rối băn khoan về sự tôi chẳng làm được gì, để bớt khổ cho những kẻ khổ đau, thì Đức Mẹ dạy tôi là hãy cứ bắt đầu bằng tâm tình: Hãy sầu bi với họ. Nghĩa là hãy có tâm tình liên đới, chia sẻ, cùng khổ đau với họ.
11. Tâm tình sầu bi với những kẻ khổ đau không có nghĩa là phải tạo ra những nét mặt buồn sầu, bi thảm, mà là tâm tình bên trong tâm hồn tôi cần phải thực sự chia sẻ.
12. Xin phép được chia sẻ một tâm tình đã và đang phát triển trong tôi về tính cách sầu bi, vạch đường cho hướng đi cả đời tôi.
Năm Ất Dậu đó, ngoài Bắc gọi là năm đói, bấy giờ tôi còn là một chủng sinh nhỏ. Một hôm, trên đường từ Tòa Giám Mục Thái Bình về nhà xứ Thượng Phúc theo lệnh cha xứ, tôi gặp một cảnh sầu bi hết sức thê thảm.
Nằm bên vệ đường là một gia đình ôm nhau nằm chết. Người đàn ông trẻ buộc trên lưng một cái chiếu rách ôm người vợ trẻ. Người phụ nữ trẻ ôm đứa con nhỏ, cả hai đều chết. Đứa con nhỏ miệng vẫn ngậm vú mẹ. Mẹ vẫn còn ôm chặt lấy đứa con. Họ chết đói.
Hình ảnh đó rất là sầu bi. Hình ảnh đó luôn chập chờn trong tôi. Hình ảnh đó nay như một nguồn tâm tình cuốn lấy tôi. Tôi đau cái đau của đồng bào yêu dấu của tôi.
13. Sầu bi đang là con đường dẫn tôi tới Chúa, tới những con người. Biết đi vào con đường đó một cách khiêm nhường phó thác cũng là một niềm vui thiêng liêng sâu sắc.
14. Tới đây, tôi thấy rõ: Con đường Chúa đào tạo các con cái Chúa là rất mầu nhiệm. Có những niềm vui, có những nỗi buồn. Có những việc làm, có những tâm tình. Có những chiều kích hữu hình, có những chiều kích thiêng liêng vô hình.
15. Riêng đôi với tôi, sầu bi là một con đường đào tạo quan trọng.
Trước hết, tôi được Chúa cho thấy: Có một thứ sầu bi có giá trị cứu độ. Đó là sầu bi nơi Đức Mẹ. Đức Mẹ sầu bi, vì xót thương con người lầm lạc, khổ đau.
Xót thương của Đức Mẹ không phải là tình cảm phản ứng bề ngoài, mà là tình cảm muốn chịu khổ thay.
16. Rất nhiều lần, khi tôi đang đau khổ, thì nghe Mẹ nói với tôi: “Con cho Mẹ xin”. Tôi hiểu Mẹ muốn tôi nhường cho Mẹ sự đau khổ tôi đang chịu. Tôi xin vâng phó thác. Kết quả thấy rõ. Tôi được vơi nhẹ đi khổ đau của mình.
17. Từ những kinh nghiệm như thế, tôi nhận ra Đức Mẹ sầu bi là người mẹ rất tỉnh thức, rất tế nhị, rất nhạy bén. Để rồi, khi tôi sầu bi đối với ai, thì cũng phải tỉnh thức, tế nhị, bén nhạy. Nhiều khi chỉ sớm một phút là cứu được họ. Nếu chậm chỉ một phút, thì sẽ là quá muộn.
18. Hình ảnh gia đình trẻ nằm ôm nhau cùng chết đói trên vệ đường, mà tôi vừa nhắc tới đang đốt lên trong tôi lửa sầu bi có sức cứu độ.
19. Lửa sầu bi có sức cứu độ cũng đang được đốt lên trong lòng nhiều người trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng.
Chúng ta hãy trân trọng lửa thiêng liêng đó. Lạy Mẹ sầu bi, xin Mẹ luôn ở bên chúng con.
20. Nói xong lời cầu trên đây, tự nhiên tôi nhớ tới lời sầu bi Chúa đã nói xưa ở vườn Cây Dầu: “Linh hồn Thầy buồn sầu đến chết được” (Mc 14,34). Tôi hiểu Chúa đang đón nhận lửa sầu bi của chúng ta. Xin hết lòng cảm tạ Chúa.
(Thánh lễ cuối năm tại Nhà nguyện Toà Giám Mục Long Xuyên)
Kính thưa các anh em linh mục thân mến,
Đức Cha Giuse đau, tôi sẽ nói mấy lời. Không phải thay Ngài, nhưng sẽ là tâm sự của một người tiền Bùi-Tuần 1899
Đức Cha Giuse đau, tôi sẽ nói mấy lời. Không phải thay Ngài, nhưng sẽ là tâm sự của một người tiền nhiệm.
Trước hết, tôi xin hết lòng cảm ơn Đức Cha giáo phận và tất cả mọi anh em linh mục, vì đã thương tôi và nâng đỡ tôi bằng nhiều cách mọi ngày suốt đời tôi.
Tiện đây, tôi có 3 điều xin được chia sẻ.
1/ Năm mới, tôi mong đừng ai cầu chúc tôi được sống lâu, nhưng hãy cầu cho tôi luôn biết vâng phục thánh ý Chúa mà thôi. Đối với tôi, sống lâu là một trách nhiệm nặng nề, tôi thì yếu đuối, nên rất sợ.
2/ Năm mới, tôi xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết trở thành những cây thu lôi thiêng liêng, hầu cản mọi cơn thịnh nộ Chúa toan đổ xuống thế gian này.
Để được như vậy, chúng ta cần bắt chước thánh tông đồ Phaolô, vui lòng chịu đóng đinh mình vào thánh giá Chúa Giêsu. Chúng ta sẽ là người dâng lễ, đồng thời cùng là của lễ đền tội thay cho dân.
3/ Năm mới, tôi thấy sẽ có nhiều người nghèo túng bé mọn tự nguyện đến với Chúa. Họ đến với Chúa một cách đơn sơ hồn nhiên do lòng mình khát khao, chứ không do người ta tổ chức. Họ sẽ làm nên một lớp người đem lại một phần đáng kể cho mùa xuân thiêng liêng có sức cứu độ. Chúng ta nên quan tâm tới họ.
Với 3 điều chia sẻ trên đây, tôi xin cầu chúc các Đức Cha và linh mục đoàn tinh thần tỉnh thức Phúc Âm. Những dấu chỉ thời đại đang xảy ra báo hiệu sẽ có những bất ngờ. Sáng nay, được tin Đức Cha Giuse đau, tôi cho đây là một bất ngờ đáng ngại. Những bất ngờ ấy sẽ được chúng ta đón nhận với niềm tin ở thánh giá của Chúa giàu tình yêu thương xót.
Chúng ta cầu nguyện cho nhau, cho giáo phận, nhất là cho Đức Cha Cố Micae và Đức Cha Giuse của chúng ta.
Đời tôi là một chuyến đi. Tới nay, chuyến đi đó có thể gọi được là khá dài. Suốt dọc chuyến đi Bùi-Tuần 1900
Đời tôi là một chuyến đi. Tới nay, chuyến đi đó có thể gọi được là khá dài. Suốt dọc chuyến đi khá dài ấy, tôi đã nhận được nhiều thứ tin mừng. Trong đó có một tin mừng, đối với tôi, là thực sự căn bản, là thực sự lớn lao. Đó là Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô. Chính Người là Tin Mừng cứu độ tôi.
Tôi đọc trong đời tôi dưới ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô.
1/ Đức Kitô trước cảnh nước mắt và nấm mồ
Phúc Âm thánh Gioan ghi lại sự kiện ông Ladarô chết. Được tin ấy, Chúa Giêsu đến với hai chị ông. Chị Macta ra đón. Được gặp Chúa rồi, chị về gọi cô em là Maria và nói: “Thầy đến rồi. Thầy đang gọi em”. Nghe vậy, cô Maria vội đứng lên và chạy đến với Chúa Giêsu. Hai chị em dẫn Chúa Giêsu đến mồ Ladarô. Ở đây, chỉ còn là xác chết, đã được chôn cất bốn ngày. Bây giờ chỉ còn là nước mắt và khóc than. Giữa cảnh đó, Chúa Giêsu đã làm phép lạ, cho Ladarô sống lại (x. Ga 11,1-44).
Đời tôi cũng có những trường hợp tương tự. Nước mắt trên nấm mồ. Nhưng chính trong cảnh tang thương ấy, đã có những người tốt như Macta. Họ cho tôi biết là: Chúa Giêsu đến và Người gọi tôi. Nhờ đó, tôi đã gặp được Chúa Giêsu. Người làm cho những gì đã chết trong tôi được sống lại. Người là Đấng cứu độ tôi.
Từ những sự kiện như thế, Chúa dạy tôi một bài học. Bài học về phục vụ con người. Phục vụ có nhiều cách. Nhưng tốt nhất là hãy phục vụ như cô Macta và những người như cô. Họ đến với những người đang khóc và nói với họ: “Chúa đang đến”. Họ tìm gặp những ai đang vật vã trên những nấm mồ cuộc đời, để nói với họ: “Chúa đang gọi”.
Cách loan báo Tin Mừng của họ xuất phát từ những tang thương của thân phận thực tế cuộc đời. Từ đó họ đến gặp Chúa Giêsu một cách trực tiếp. Họ đang là thế nào, thì đến với Chúa Giêsu đúng là như vậy. Nghĩa là đến với thân phận con người cần được cứu độ. Nước mắt là lễ vật. Nấm mồ là lời nguyện. Chỉ thế thôi. Sau cùng Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho họ thấy Người là Đấng cứu độ giàu lòng thương xót.
Hãy là những người như cô Macta. Đi từ những cảnh khổ đau của cuộc đời. Xuất phát từ những kinh nghiệm bản thân về nước mắt và nấm mồ.
Một số người, không theo lộ trình đó. Họ xuất phát từ những lý thuyết cao siêu. Bay bổng trên bầu trời cao thẳm. Kinh nghiệm cho thấy cách đó không gần gũi con người.
Tôi nghĩ những người giới thiệu Chúa Giêsu nên theo mô hình Macta. Họ khóc với người khóc. Họ đau cùng với nỗi đau của người đang đau. Rồi, Chúa Giêsu mà họ giới thiệu, cũng đến như vậy. Người cùng khóc. Người cũng đau. Trên đời, chia sẻ nỗi đau của người khác một cách thiết thực bằng sự chính mình cũng chịu phần nào nỗi khổ của họ, đó là phục vụ quý và đáng tin cậy.
2/ Chúa Giêsu trước cảnh làm ăn vất vả
Phúc Âm thánh Gioan thuật lại cảnh các tông đồ đi đánh cá ở biển hồ Tibêria. Suốt đêm vất vả chài lưới, mà không bắt được con cá nào. “Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các ông: Này, các chú, không có gì ăn ư? Các ông trả lời: Thưa không. Người bảo các ông: Hãy thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì sẽ bắt được cá. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên được. Vì lưới đầy cá. Người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: 'Chúa đó'. Vừa nghe 'Chúa đó', ông Simon Phêrô vội khoác áo vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển, mà bơi đến với Chúa. Các môn đệ khác thì chèo thuyền vào bờ gặp Chúa” (Ga 21,4-8).
Đời tôi cũng không thiếu những trường hợp giống như thế. Mục vụ như đi thả lưới. Bao lần lầm lũi vất vả mà không thấy kết quả nào. Đến một lúc nào đó, tôi được nghe một tiếng nhiệm mầu, bảo tôi phải đổi hướng. Tôi vâng theo. Trong nỗi vui mừng, tôi gặp được những người như môn đệ Gioan. Họ chỉ cho tôi thấy chính Chúa Giêsu đã giúp tôi. “Chúa đó”. Người đứng trên bãi biển mục vụ của tôi. Thế mà trước đó tôi không nhận ra.
Những trường hợp như trên dạy tôi một điều cần thiết, là: Hãy sống như Gioan, loan báo rằng: Đức Kitô ở giữa những cuộc đời đêm ngày làm ăn vất vả. Hãy nhận ra Người. Người ở giữa cuộc đời. Người gặp những con người làm ăn kiếm sống. Người là Đấng cứu độ của họ.
Lại một lần nữa, thánh Gioan đã đưa con người đến với Chúa Giêsu từ thực tế cuộc đời. Cuộc đời như chênh vênh giữa thành công và thất bại. Hãy nhận ra Chúa Giêsu ở giữa những chao đảo ấy. Chúa đó. Hãy vâng lời Người. Hãy tin cậy ở Người.
Khi bám sát cuộc đời thực tế, người loan báo Tin Mừng sẽ biết bỏ đi những gì không cần thiết, chỉ làm cho cuộc đời thêm nặng nề một cách vô bổ.
Thiết tưởng mục vụ hôm nay nên quan tâm hơn đến: Con người và đời người. Hãy đưa con người và đời người đến trực tiếp với Chúa Giêsu. Chúa đó. Chúa Giêsu sẽ trở nên Tin Mừng cứu độ cho mọi người và từng người.