Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã trối lại một điều, một điều Ngài cho là quan trọng nhất trong đạo Ngài, đó là: “Hãy yêu thương nhau”. Chúa nói: “Cha ban cho các con một điều luật mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Cha thương yêu các con thế nào, các con cũng hãy yêu thương nhau như vậy”. (Gio 14-34). Lời trối đó, tôi xin ân cần nhắc lại hôm nay, trong lễ tưởng niệm này.
Anh chị em thân mến,
Xin hãy yêu thương nhau, vì đó là đặc điểm sống động của môn đệ Chúa. Chúa dạy: “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Cha, là các con hãy yêu thương nhau”.(Ga 13-35).
Xin hãy yêu thương nhau, vì đó là điều kiện, để thực thi mến Chúa. Chúa dạy: “Nếu khi nào con dâng của lễ trên bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em nào bất bình với con, thì con hãy bỏ của lễ đó trước bàn thờ, và về làm hoà với người anh em trước đã, đoạn hãy trở lại dâng lễ sau”. (Mt 5,23-24).
Xin hãy yêu thương nhau, bởi vì yêu thương người, cũng quan trọng như yêu mến Chúa. Chúa dạy: “Điều luật thứ hai, cũng giống điều luật thứ nhất, là hãy yêu thương kẻ khác như chính mình”. (Mt 22,38).
Xin hãy yêu thương nhau, bởi vì đó là tiêu chuẩn, Chúa sẽ căn cứ vào đó, để phân biệt kẻ lành người dữ. Chúa đã báo trước cho biết: Đến ngày phán xét, Chúa sẽ nói với những kẻ đã xếp bên hữu người: “Chúng con hãy lên Thiên Đàng, bởi vì xưa Cha đói, chúng con cho ăn...”. Tất nhiên, không phải khi sống chúng con đã thấy Cha, nhưng mỗi khi chúng con làm bất cứ sự gì lành cho kẻ khác, thì Cha kể như chúng con làm cho Cha.
Xin hãy yêu thương nhau, bởi vì đó là cách giữ đạo tốt nhất. Thánh Phaolô quả quyết: “Ai yêu người là chu toàn lề luật” (Rm 13,8).
Xin hãy yêu thương nhau, Chúa diễn tả tình thương trong bí tích Thánh Thể, trong việc rửa chân cho các tông đồ, và trong sự dâng mình chịu cực hình trên thánh giá.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con một trái tim chỉ biết yêu thương. Xin cho con một đôi tay chỉ biết phục vụ. Xin cho con một miệng lưỡi chỉ biết chúc lành. Xin cho con một đôi mắt chỉ biết trao đi sự thông cảm, sự tha thứ, sự hiền từ đơn sơ và tình thương vị tha cao cả như tình Chúa, như trái tim Chúa.
Cách đây 25 năm, đúng vào ngày mồng 2 tháng bảy, tôi đã được thụ phong Linh Mục. Nơi thụ phong là một nhà thờ nhỏ bé, trên một ngọn đồi thanh vắng mang tên là “Đồi Bông Hồng” của đất Hồng Kông. Toàn bộ lễ phục tôi mặc hôm đó là của đi mượn, vì tôi không có. Trước lễ và sau lễ, không có tiếp tân, không có tiếp khách. Bởi vì dự lễ chỉ có chủng viện và một số nhỏ giáo dân xa lạ, không có cha mẹ anh em, không có một ai là bà con quen thân cả. Dịp đó, tôi không tặng ai quà kỷ niệm nào, tôi cũng không có kỷ niệm nào của ai tặng. Lý do, vì tôi không có gì để cho, không có gì để nhận. Lễ Truyền Chức xong, tôi và mấy người bạn chủng sinh, mang gói đồ ăn leo lên núi để nghỉ ngơi, ngắm cảnh. Ngày thụ phong Linh Mục của tôi thực là đơn giản, một sự đơn giản thích thú, thảnh thơi, nhẹ nhàng.
Ngày đó, tôi không biết tương lai sẽ ra sao. Hôm nay, nhìn lại 25 năm qua, tôi thấy quá khứ 25 năm là một chuyến đi dài. Chuyến đi dài nhưng đơn giản. Đơn giản, vì nó chỉ là những bước đi của người lữ thứ tìm về đích mà chưa tới đích, đích hoàn thiện cho bản thân, đích hoàn hảo cho trách nhiệm của mình. Có những bước phấn khởi, nhưng cũng có những bước mệt mỏi. Có những bước nhanh nhẹn, nhưng cũng có những bước ngập ngừng. Có những bước vấp váp, nhưng cũng có những bước vững vàng. Đơn giản nhất là vì trong chuyến đi dài này, hành trang quan trọng nhất tôi vẫn mang theo là một thứ hành trang đơn giản. Đó là niềm tin cậy. Tin cậy Chúa. Tin cậy người ta. Tin cậy khi vui. Tin cậy khi buồn. Tin cậy khi mạnh sức. Tin cậy khi yếu đuối. Tin cậy thì đơn giản, vì tin cậy là tin và cậy trông vào lòng nhân hậu vô biên của Chúa. Tin cậy là tin và cậy trông vào lòng tốt của tha nhân, chứ không phải tin cậy vì công đức của mình.
Vì thế, lời tôi muốn nói lên hôm nay và mỗi ngày trong chuyến đi đời mình là lời cảm tạ. Tạ ơn Chúa hết lòng hết sức. Cảm ơn rất nhiều tất cả những ai đã cho tôi niềm tin cậy, tất cả những ai đã gởi tất cả niềm tin cậy nơi tôi, tất cả những ai đã nhận niềm tin cậy của tôi.
Nhìn lại 25 năm qua, nếu có kinh nghiệm nào có thể nói ra, thì kinh nghiệm đó là: Con người đơn giản nhất cho đời mình là lòng sùng kính Đức Mẹ. Tôi luôn luôn tin rằng: Đối với những ai đang tiếp tục sống cuộc đời Chúa Cứu Thế, đang dấn bước theo Ngài, thì Đức Mẹ vẫn là kẻ đồng hành cần thiết mình phải chọn. Có Đức Mẹ, mình nhìn rõ thánh ý Chúa hơn. Có Đức Mẹ, mình dễ thực hiện thánh ý Chúa hơn. Có Đức Mẹ, mình đi vào kế hoạch cứu độ của Chúa một cách an tâm hơn. Kế hoạch cứu độ của Chúa không phải là cái gì sẵn có, nhưng là một cuộc hành trình sống động của Chúa Cứu Thế, đang đi từng bước qua dòng lịch sử, cụ thể của đời ta, của đồng bào nhân loại, của Giáo Hội Việt Nam với tất cả hoàn cảnh thực tế của nó. Trong cuộc hành trình đó, Chúa muốn có tôi, có bao nhiêu người khác, nhưng cần nhất là phải có Đức Mẹ. Kinh nghiệm 25 năm qua cho tôi thấy rõ: Một hành trình có Đức Mẹ là một cuộc hành trình không bao giờ thiếu hy vọng, mặc dầu giữa tối tăm và muôn vàn khốn khó, một hành trình có Đức Mẹ là một hành trình vững tâm nhất, cả trong những lúc mình có vẻ bơ vơ nhất. Chọn Đức Mẹ cho cuộc hành trình đời mình, là một chọn lựa đơn giản đứng đắn.
Thưa anh chị em, đơn giản là một chọn lựa. Nhưng cuộc đời khách quan không luôn đơn giản. Trong 25 năm qua, với 7 năm đầu là linh mục du học, phạm vi trách nhiệm của tôi lúc đó quá nhỏ hẹp. Rồi với 13 năm sau là giáo sư chủng viện, phạm vi trách nhiệm của tôi thời đó mở rộng hơn. Rồi với 5 năm nay làm Giám mục, phạm vi trách nhiệm của tôi càng thêm mở rộng. Và từ hai tháng nay, với tư cách người đứng đầu Uỷ Ban Phượng Tự toàn quốc của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, phạm vi trách nhiệm của tôi lại phần nào mở rộng thêm. Như thế, Chúa đã dần dần đưa tôi vào những hoàn cảnh không đơn giản, những công việc không đơn giản, những trách nhiệm không đơn giản. Tôi nghĩ, nếu tôi là Chúa, tôi sẽ không làm như vậy với một người như tôi. Nhưng Chúa đã làm như thế, chính bởi vì Ngài là Chúa toàn năng và nhân hậu. Vì thế, có lúc tôi nhìn 25 năm đời tôi như thể là một thứ mầu nhiệm đức tin. Bởi vì phải dùng đức tin mới nhìn thấy được ý Chúa nhiệm mầu.
Trong dịp Ngân Khánh này, tôi không biết xin ơn gì cho tôi. Nhưng tôi cầu nguyện rất nhiều cho những kẻ đồng hành, trong đó có anh chị em. Tôi cầu nguyện rất nhiều cho những nơi có liên hệ đến chuyến đi dài đời tôi. Đó là xứ sở này, là địa phận này, là Giáo Hội Việt Nam và đất nước Việt Nam mến yêu này.
Chức linh mục được thiết lập cho con người và vì con người. Người linh mục là kẻ được nói đến, với những con người nhất định. Do đó, chủ chiên và con chiên, cả hai cùng có liên hệ với nhau. Liên hệ đó vượt xa hình thức. Nó phải sống động, căn bản và sâu sắc.
Mỗi khi làm việc linh mục, là dâng thánh lễ, tới chỗ đọc câu “Để lễ vật của tôi và của anh chị em, được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận”, tôi thường nghĩ rằng: Đời tôi là một lễ vật, nhưng không hiến dâng một mình riêng lẻ, mà phải cùng dâng với đời anh chị em cũng là lễ vật. Lễ vật đời tôi và lễ vật đời anh chị em cùng được dâng hiến với nhau lên Thiên Chúa là Cha. Giữa chúng ta có một sự liên hệ, có một sự liên kết làm nên một thánh lễ duy nhất trong Chúa Kitô.
Hôm nay, trong thánh lễ này, tôi cũng làm như vậy. Và sẽ làm mãi như thế. Vì như thế, tôi mong đó là một cách sống chức linh mục của mình. Amen.
Nhiều người muốn lễ hôm nay được tổ chức lớn, với kèn trống, với đại diện các họ đạo gần xa khắp địa phận. Nhưng chúng tôi đã tự giới hạn. Sự đơn giản, nhiều khi cũng là một dấu chỉ thời đại, và là một vẻ đẹp cho sự bình an đạo đức. Hôm nay, nhìn lại lịch sử giáo phận Long Xuyên, tôi thấy gì?
l/- Tôi thấy giáo phận Long Xuyên như một tuổi trẻ đang trên đường hành hương.
Thực vậy, giáo phận Long Xuyên là một tuổi trẻ, không phải vì mới thành lập được 20 năm, nhưng trẻ vì sức sống đang đà triển nở. Trong 20 năm, tất nhiên, có những người khuất đi, nhưng bao nhiêu người khác đã nối bước hành hương. Tất nhiên có những kẻ ra đi, nhưng kẻ đến đông hơn gấp bội. Tất nhiên, có những người đã già, nhưng vô số trái tim vẫn còn quá trẻ, để đến với các bí tích mỗi ngày mỗi nhiều hơn, để đi vào Lời Chúa mỗi ngày mỗi sâu rộng hơn.
Giáo phận Long Xuyên là một khối tinh thần mang niềm tin, bước đi giữa dòng lịch sử thăng trầm của đất nước. Đi cùng với dân tộc tìm ơn cứu độ, không phải chỉ cho mình, mà cũng cho những người thiện chí. Tôi vẫn sợ cho những Giáo Hội già nua, cằn cỗi. Tôi càng sợ cho những Giáo Hội còn trẻ mà đã quá già, nên khi nhìn mùa xuân hôm nay trong địa phận tôi hết lòng cảm tạ Thiên Chúa. Tôi cũng nhớ ơn mọi người đã góp phần lớn nhỏ, trong đó đặt biệt là Đức Cha chánh, năm nay 20 năm Giám Mục. Bông đẹp, dù không ai nhìn, bông vẫn đẹp. Bông thơm, dù không chưng trên bàn, bông vẫn thơm. Mùa xuân tôn giáo địa phận cũng phải thế. Nó đẹp, nó thơm do đức tin thực mạnh, do đức cậy thật bền bĩ, do đức mến thực quảng đại. Đó là căn bản, những cái khác chỉ là phụ.
2/- Tôi thấy giáo phận Long Xuyên phản ảnh hình ảnh Chúa Kitô đơn nghèo khiêm tốn.
Thực vậy, tôi ít thấy một Tòa Giám Mục đơn nghèo bé nhỏ như Tòa Giám Mục Long Xuyên. Hiện nay của cải địa phận chẳng có gì đáng kể. Nhưng tôi không buồn vì cảnh đơn nghèo đó. Đức Hồng Y Wysinki nói: “Tôi thực sự sung sướng vì Giáo Hội ở nước tôi bây giờ không còn chút gì là giàu sang quyền lực”. Đức Hồng Y Kienig cũng nói: “Giàu sang và quyền lực không làm cho Giáo Hội lành mạnh”. Tôi cũng nghĩ như vậy. Nên khi Chúa để cho địa phận một hoàn cảnh khiêm tốn, tôi đón nhận như một ân huệ. Công đồng Vatican II cũng đã nói: “Giáo Hội không được thiết lập để tranh giành ảnh hưởng với ai. Trái lại, Giáo Hội muốn sống phản ánh khuôn mặt Chúa Giêsu khó nghèo, khiêm tốn, để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại”. Như thế, địa phận Long Xuyên đang đi đúng đường. Chính vì đơn nghèo mà có thể trở nên phong phú, là được thanh lọc, được trở thành dụng cụ tốt hơn cho chương trình cứu độ. Mọi thử thách, khi đụng đến một đức tin nóng nảy, sẽ biến đức tin thành đám cháy thiêng liêng.
3/. Tôi thấy giáo phận Long Xuyên là một chương trình.
Thực tế, sức sống địa phận mạnh yếu là do mức độ thực thi một chương trình. Địa phận là một phần của Giáo Hội, nên chương trình của địa phận là hiệp nhất với chương trình toàn Giáo Hội. Địa phận gồm những người dân của Tổ Quốc, nên địa phận sống gắn bó với chương trình chung của quê hương dân tộc. Đặc biệt, chúng ta là con Thiên Chúa, nên chương trình của ta là đi theo chương trình của Chúa, vâng phục Ngài, phó thác nơi Ngài, tin cậy ở Ngài. Như Đức Mẹ và với Đức Mẹ. Chẳng có ai có kinh nghiệm về tương lai. Nhưng ta tin, Đấng làm chủ tương lai, sẽ đưa ta tới một cuộc sống an bình siêu việt trong tình yêu Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Địa phận Long Xuyên đang thu gọn trong nhà thờ này. Chúa ngự giữa chúng ta. Chúng ta nhìn Ngài. Chúng ta xin Ngài tiếp tục đưa giáo phận trên đường hành hương, luôn bền vững hiệp nhất như một chương trình, luôn chiếu giãi được ơn cứu độ của Chúa Kitô qua con đường đơn nghèo khiêm tốn. Xin cho địa phận Long Xuyên được ngày càng được kiện toàn, trong việc trở thành một cộng đoàn đức tin, trong việc trở thành một cộng đoàn bác ái, trong việc trở thành một cộng đoàn hy vọng, để phục vụ Thiên Chúa, để phục vụ Quê Hương. Amen.
Theo thông lệ, thì lễ Truyền Dầu vốn được trọng thể. Giáo Hội mong muốn đông đảo linh mục giáo phận hiện diện bên Đức Giám Mục của mình, dịp kỷ niệm thiết lập bí tích Truyền Chức. Tôi biết chắc hôm nay, cha nào trong địa phận cũng muốn tới đây tham dự. Nhưng vì hoàn cảnh đi lại khó khăn, nên số các cha đồng tế hôm nay chỉ là tượng trưng. Tuy nhiên đây là một hình ảnh đẹp có ý nghĩa.
Anh chị em thân mến,
Qua hình ảnh đồng tế lúc này, tất cả các linh mục địa phận Long Xuyên, dù có mặt dù vắng mặt, đều muốn nói lên sự hiệp nhất của mình với đấng bản quyền. Các ngài quá biết, một trong những trọng trách mục vụ của các ngài là hiệp nhất cộng đoàn của mình với Đức Giám Mục địa phận, bằng sự hiệp nhất với nhau, và hiệp nhất với các linh mục phụ trách cộng đoàn. Trên lý thuyết cũng như trên thực tế, hiệp nhất là mối quan tâm rất lớn của mỗi linh mục trong phạm vi của mình. Hiệp nhất đó là một yêu cầu chính đáng và cần thiết.
Thật vậy, phải coi là chính đáng và cần thiết sự mọi người và mỗi người trong cộng đoàn hiệp nhất với linh mục của mình. Hiệp nhất bằng sự vâng phục, bằng lòng mến thương, bằng sự thông cảm, bằng sự nâng đỡ, bằng sự cộng tác tích cực trong tình bác ái chân thành. Phải coi là chính đáng và cần thiết việc tổ chức các cơ cấu và chọn lựa nhân sự trong một họ đạo, để tạo nên những điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển tinh thần hiệp nhất. Phải coi là chính đáng và cần thiết sự cảnh giác trước các nguy cơ đe dọa sự hiệp nhất, bất cứ là do lòng độc địa của những kẻ hại đạo, hoặc do sự yếu đuối sơ suất lỗi lầm của chính những người có đạo. Phải coi là chính đáng và cần thiết sự các linh mục tại một địa phương đòi hỏi giáo dân mình hiệp nhất với các ngài. Bởi vì chính sự hiệp nhất đó, mà cộng đoàn hiệp nhất được với Đức Giám Mục địa phận, là đấng nối vị các thánh tông đồ, để làm nên Giáo Hội duy nhất, Công Giáo và tông truyền.
Như thế, cơ sở mà mỗi linh mục có thể căn cứ vào để xây dựng sự hiệp nhất họ đạo chính là sự hiệp nhất của chính các ngài với Đức Giám Mục. Bởi vì chính các ngài có tư cách của kẻ được sai đi, chính các ngài là đại diện, nhân danh Đức Giám Mục, chính các ngài phải luôn luôn hiệp nhất với Đức Giám Mục. Sức mạnh mà mỗi linh mục có thể vận dụng để thúc đẩy tinh thần hiệp nhất họ đạo, cũng chính là sự hiệp nhất của các ngài với Đức Giám Mục. Bởi vì chính các ngài luôn nêu cao tinh thần vâng phục, yêu thương, kính trọng đối với Đức Giám Mục, chính các ngài luôn nêu cao tinh thần bênh vực, nâng đỡ Đức Giám Mục. Sự hiệp nhất của linh mục với Giám Mục, là một dấu chỉ quan trọng của những cam kết ngày thụ phong linh mục.
Chúng ta biết, trong bữa Tiệc Ly, sau khi lập bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền Chức, Chúa Kitô đã khẩn khoản cầu nguyện cho sự hiệp nhất. Ngài đã cầu đi cầu lại có đến bốn lần cho sự hiệp nhất. Ngài mong muốn giữa các môn đệ Ngài có một sự hiệp nhất tối đa, một sự hiệp nhất rất khắng khít, rất thân thích và rất bền chặt như sự hiệp nhất giữa Ngôi Cha và Ngôi Con trong Ba Ngôi Thiên Chúa “Như Cha ở trong Con, và như Con ở trong Cha. Xin Cha cho mọi người nên một trong chúng ta”. “Lạy Cha, cũng như Cha và Con là một thì cũng xin cho chúng nên một trong chúng ta”. Nghe qua những lời cầu hiệp nhất của Chúa Kitô, ta thấy ngay: Hiệp nhất là một công trình phải được xây dựng bằng tình yêu thương và trong tình yêu thương, “Như Cha ở trong Con, và như Con ở trong Cha”.
Anh chị em nam nữ tu sĩ và giáo dân thân mến.
Làm linh mục không sung sướng như bao người tưởng. Nhất là trong những hoàn cảnh muôn vàn khó khăn. Xin anh chị em hãy nâng đỡ các linh mục của mình, nhất là sự hiệp nhất với các Ngài. Hãy tránh mọi lời nói mọi hành động gây chia rẽ. Hãy làm tất cả những gì được làm và làm được, để bảo vệ và làm vững mạnh hơn sự hiệp nhất giữa các tín hữu và chủ chăn.
Tôi không chấp nhận việc giáo dân tỏ bày sự hiệp nhất với Đức Giám Mục địa phận, nhưng đồng thời lại không hiệp nhất với linh mục của mình. Tôi cũng không tán thành sự phân biệt chức thánh ra khỏi con người cụ thể của các linh mục, để rồi nói rằng, mình vẫn hiệp nhất và kính trọng chức thánh, nhưng chỉ không hiệp nhất và kính trọng con người nhân loại nơi linh mục này, linh mục kia. Một thứ đạo đức hay phân biệt như thế, sẽ dễ biến phân biệt thành phân rẽ và phân ly. Tôi tin chắc chắn, tất cả những ai sống hiệp nhất và làm cho người khác hiệp nhất với tất cả vị chủ chăn của mình sẽ được Chúa yêu thương, sẽ được Chúa trọng thưởng.
“Lạy Cha,
Như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha, xin Cha cho mọi người nên một trong chúng ta, để cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con”. Amen.
Nhiều lần, tôi nhìn lên tượng Đức Mẹ đặt ở tháp nhà thờ Long Xuyên và nói với Đức Mẹ: “Mẹ ở trên cao, chắc Mẹ nhìn rõ hơn con. Mẹ thấy chung quanh Mẹ đầy dẫy những dân nghèo. Họ là những người suốt ngày suốt tháng đi tìm hy vọng và chạy theo hy vọng, nhiều khi bằng nhiều cách não nề bi thảm. Có người tần tảo ngược xuôi mà không đủ sống, như săn bắt một hy vọng, nhưng là hy vọng quá khắt khe. Họ mua một tấm vé số cũng là mua một hy vọng nhưng là hy vọng quá mong manh. Họ bới đống rác để tìm những bọc ni-long phế thải, cũng là bới tìm một hy vọng, nhưng là hy vọng quá nghèo nàn. Họ đi ăn xin, cũng là đi xin một hy vọng, nhưng là hy vọng mang nhiều cay đắng.
“Cho nên nếu mỗi ngày, nếu Mẹ mỗi ngày, Mẹ hỏi con muốn xin ơn gì, thì ngày nào con cũng sẽ thưa với Mẹ lời xin này: Xin cho mọi người được niềm hy vọng, một niềm hy vọng giúp họ sống xứng phẩm giá con người, một niềm hy vọng giúp họ tạo được hạnh phúc tương đối đời này, và tới được hạnh phúc tuyệt đối đời sau”.
Tôi nói với Đức Mẹ như thế, và tôi hiểu ý Đức Mẹ trả lời qua bài Phúc Âm hôm nay. Đại ý là: Muốn có hy vọng, thì phải tiếp nhận niềm hy vọng Chúa ban. Muốn giữ hy vọng, thì phải biết cho đi những hy vọng trong khả năng của mình.
Thực thế, bài Phúc Âm vừa nghe cho thấy, bà Elisabeth hôm nay được rất nhiều ơn: Nào là ơn nhận biết Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nào là ơn con mình đang cưu mang được thánh hoá. Vì đâu bà được những ơn ấy? Thưa, vì bà đã biết tiếp nhận niềm hy vọng của Thiên Chúa ban. Niềm hy vọng của Thiên Chúa chính là Đức Mẹ. Gọi Đức Mẹ là niềm hy vọng của Thiên Chúa ban, vì Chúa đặt các ơn của Thiên Chúa muốn ban cho loài người nơi Đức Mẹ, như trong một kho tàng được chọn lựa, như nơi một bàn tay được trao quyền phân phát. Ai tiếp nhận Đức Mẹ là có một hy vọng chắc chắn sẽ được vô vàn ân huệ cần thiết phần hồn, phần xác. Vì là Mẹ Thiên Chúa, Đức Mẹ đã nhận được tất cả. Vì là Mẹ loài người, Đức Mẹ muốn cho đi tất cả.
Điều làm cho thân phận chúng ta đôi khi thành bi đát, là không biết đón nhận nguồn hy vọng thực sự chính đáng và phong phú là Đức Mẹ, không năng cầu nguyện với Người, không năng lui tới với Người, không chứng tỏ lòng mình tha thiết gắn bó với Người.
Nhưng có điều này ta cũng cần lưu ý, đó là cách tiếp nhận. Có nhiều cách tiếp nhận. Cách tiếp nhận đẹp lòng Đức Mẹ, là cách bà Elisabeth đã thực hiện hôm nay. Đó là khiêm tốn. Bà nói: “Bởi đâu tôi được Đức Mẹ đến viếng thăm tôi”. Ta đừng bao giờ ỷ vào công trạng việc lành của ta. Đừng bao giờ nghĩ: Nhờ tôi làm việc lành này, nhờ tôi có nhân đức kia, mà Đức Mẹ đã thương tôi. Đức Mẹ không thích những ý nghĩ như vậy. Mỗi lần tôi lầm lỗi, tôi lại nhìn lên Đức Mẹ, và tôi nghe như Đức Mẹ nói với tôi: “Những khuyết điểm của con giúp con thấy rõ kích thước sự bé nhỏ nghèo nàn của con. Và nếu con vẫn cố gắng, mà vẫn thấy mình còn quá xa lý tưởng, thì con hãy nhớ rằng: Mẹ thương con là vì con như thế đó. Mẹ thương con với những gì là con. Con hãy nhớ lại xưa Mẹ đã nói với Chúa: “Chúa đã đoái nhìn đến thân phận hèn mọn của con nên từ nay muôn thế hệ sẽ khen con là kẻ có phúc”. Ta hãy khiêm tốn, để biết nhìn nhận niềm hy vọng Chúa ban.
Rồi, như tôi đã nói, muốn giữ hy vọng, thì phải biết cho đi những hy vọng trong khả năng mình.
Bài Phúc Âm vừa nghe cho biết: Đức Mẹ vừa được ơn mang thai Chúa Cứu Thế, liền vội vã lên đường đến nhà bà Elisabeth. Đến để thăm bà, đến để mừng bà mới có tin vui, đến để cho bà thấy bà là người đáng kính trọng. Tóm lại, Đức Mẹ đến là để trao tặng bà Elisabeth những hy vọng cao quí. Hy vọng về tương lai bà. Hy vọng về tương lai con bà. Việc Đức Mẹ làm là việc bác ái, là việc Chúa muốn Đức Mẹ thực hiện để nuôi dưỡng và phát triển đặc ân Chúa đã ban cho Đức Mẹ. Qua Đức Mẹ, Chúa ban cho ta Đức Kitô, là Đấng cứu chuộc, Đấng cứu ta khỏi tội. Đấng chuộc ta khỏi hình phạt đời đời. Căn bản ơn cứu độ là bác ái. Muốn giữ ơn đó, thì phải làm việc bác ái. Chứ nếu muốn giữ ơn đó, mà lại không thực hành bác ái, thì Chúa sẽ ra đi với kho tàng hy vọng. Nếu ta hỏi Chúa tại sao thì Chúa sẽ trả lời: Con đọc kinh, ăn chay, nhưng Cha không nhận ra con, vì Cha là tình yêu. Cha chỉ nhận ra con cái Cha ở nét yêu thương bác ái. Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Cha, là chúng con thương yêu nhau.
***
Cách đây vài hôm, một bà đến cho tôi xem một tấm ảnh màu, in một chùm hoa giữa hóc đá. Dưới bức ảnh có câu ngoại ngữ này: “Vinh quang của cuộc đời là một bông hoa chỉ hái được giữa khe đá”. Lời đó làm tôi suy nghĩ tới niềm hy vọng, và tôi nói: “Thành công của niềm hy vọng là một bông hoa chỉ hái được trên sườn núi đá”. Nghĩa là muốn tiếp nhận thành công niềm hy vọng Chúa ban cũng như muốn cho đi thành công niềm hy vọng trong chức năng mình, thì phải phấn đấu, phải vất vả, phải khổ đau, phải vác thánh giá. Tiếp nhận thành công niềm hy vọng Chúa ban, cũng như cho đi thành công niềm hy vọng trong khả năng mình, là phải tiến lên mỗi ngày trên con đường từ bỏ chính mình, là phải trèo lên bậc của chiếc thang thánh ý Chúa.
Thưa anh chị em,
Qua thánh lễ hôm nay, và qua những lời tôi nói hôm nay, nếu anh chị em có bắt gặp được một tia hy vọng nào, thì xin coi đó là một sự Đức Mẹ đến viếng thăm cuộc đời anh chị em. Đức Mẹ đến viếng thăm, như một Nữ Vương quyền thế, như một người mẹ dạt dào tình thương. Hãy tiếp nhận Ngài, hãy gặp Ngài. Và hãy nói với Ngài, với tất cả niềm tin, với tất cả niềm biết ơn, với tất cả niểm hy vọng. Amen.
Nhiều khi tôi nghĩ tới vấn đề làm sao tuổi trẻ lại được đời sống đạo và đời sống tu trì ở những nơi cằn cỗi, tẻ nhạt, vá víu và bệnh hoạn. Tuổi trẻ, nghĩa là có cái gì đơn sơ, nhưng trong sáng và dồi dào sức sống siêu nhiên. Khuôn mặt đời sống đạo và đời sống tu trì tươi trẻ như thế gợi cho tôi nhớ đến đời sống thánh Têrêxa Chúa Giêsu Hài Đồng.
Thánh nữ Têrêxa là một vị thánh tươi trẻ không phải vì Ngài chết mới 24 tuổi, cũng không phải vì tượng ảnh Ngài hay ôm bó hồng tươi, cũng không phải vì Ngài hứa chết rồi Ngài sẽ làm mưa xuống Giáo Hội những trận mưa bông hồng. Nhưng vì đời sống đạo, đời sống tu trì của Ngài thực sự rất đơn sơ, một sự đơn sơ trong sáng và dồi dào sức sống.
Nơi thánh Têrêxa, đơn sơ là tập trung vào những gì căn bản nhất. Căn bản nhất của đạo, của đời tu, là mến Chúa và thương người. Mến Chúa và thương người, đó là hai điểm cốt yếu. Thánh Têrêxa coi hai điểm đó như hai con mắt, như hai lỗ tai, như hai cánh tay, như hai cái chân. Nhìn gì, nghe gì, làm gì, đi đâu, cũng vì mến Chúa, cũng vì thương người. Vì thế, Têrêxa gọi đời sống mình là con đường tình ái.
Con đường tình ái này cũng có nét đơn sơ của nó. Tình yêu của Têrêxa đối với Chúa thực sự đơn sơ, vì nó căn bản nói lên tình con đối với Cha, một tình yêu trung tín tuyệt đối và thiết tha gắn bó, và cố gắng nên giống Chúa.
Têrêxa minh chứng tình đó bằng thái độ việc làm. Thí dụ, khi Ngài quyết định thuộc về Chúa hơn, Ngài đã kiên trì khắc phục mọi khó khăn thử thách đặt ra cho Ngài, như tình cảnh gia đình, bệnh nạn, sự các bề trên trong đạo không muốn nhận Ngài chưa đủ tuổi. Và thí dụ, khi Têrêxa bị thổ huyết mệt mỏi, Têrêxa có đủ lý do để được miễn tham dự các giờ kinh nguyện chung, nhưng Ngài vẫn cố gắng tham dự Tuần Thánh như mọi chị em. Cố gắng như thế, để chia sẻ với Chúa Giêsu yêu dấu của mình.
Tình thương của Têrêxa đối với người chung quanh cũng rất đơn sơ, vì nó căn bản nói lên tính cách vị tha và vì Chúa. Ngài minh chứng tình đó bằng chính cách thương của Ngài. Thí dụ, Ngài phục vụ chị em, nhưng âm thầm kín đáo, không muốn ai biết đến việc mình phục vụ. Tính tự nhiên, Ngài thích chơi thân với những chị hạp tính với Ngài. Nhưng Ngài lại tỏ ra thương yêu hơn, với những chị em khó tính, không hạp với Ngài. Ngài nhìn trong các chị em ấy một Chúa Giêsu Kitô dễ thương đáng kính yêu vô cùng.
Đời sống Têrêxa tóm tắt thế này: Sống là yêu thương. Đi tu là yêu thương nhiều hơn. Yêu thương với chiều hướng căn bản chính đáng của nó. Đơn sơ là như thế. Thiết tưởng bài học đơn sơ này đáng được ta suy nghĩ. Thế giới hôm nay nhiều phức tạp. Con người hôm nay nhiều phức tạp. Có nơi nếp sống đạo và đời tu cũng nhiều phức tạp. Phức tạp với những phụ thuộc, với những trống rỗng. Hãy đơn sơ hơn. Khi đơn sơ là luôn luôn sống mạnh mẽ những gì căn bản nhất, ta sẽ thấy đời sống ta dồi dào nhựa sống, trong sáng, nhẹ nhàng. Đời sống đạo của ta sẽ tươi trẻ lại.
Dòng tu của ta sẽ tươi trẻ lại. Giáo Hội của ta sẽ tươi trẻ lại.
Ngày hôm nay, cũng như ngày hôm qua và cũng như mọi ngày khác chỉ là một thời gian 24 giờ. Nhưng thời gian 24 giờ hôm nay, đối với Giáo Hội nói chung và dòng Phanxicô nói riêng mang nặng ý nghĩa: Ý nghĩa của một quá khứ, vá ý nghĩa của một tương lai. Thánh Phanxicô sinh ra là một việc quá khứ 800 năm rồi. Nhưng thánh Phanxicô vẫn sống. Nên mừng kỷ niệm ngày sinh của Ngài là một cách đem quá khứ sống động của thánh Phanxicô dọi vào hiện tại và tương lai, để tìm một hướng đi cho Giáo Hội, cho nhà dòng, cho các môn đệ Chúa.
Quá khứ phong phú của thánh Phanxicô quả là một thứ ánh sáng tiên tri, giúp ta nhìn thấy hình ảnh đang hình thành của các người được ơn gọi trong hiện tại và những năm sắp tới. Hình ảnh đó thế nào?
Trước hết, đó là hình ảnh của người biết trở về. Trở về đâu? Thưa là cùng với thánh Phanxicô trở về sự đơn sơ trong sáng nguyên thủy của Tin Mừng. Thánh Phanxicô biết Tin Mừng là nội dung Phúc Âm in trong sách và thường nghe đọc trong thánh lễ. Ngài đã cảm nghiệm say sưa tính chất độc đáo của Tin Mừng không phải khi đọc Phúc Âm, khi nghe Phúc Âm, khi học hỏi Phúc Âm, mà là khi Ngài trở về với Chúa một cách quyết liệt hồi 25 tuổi. Ngài trở về để được Chúa hoàn toàn chiếm đoạt và để được Chúa sai đi. Từ đó, đối với thánh Phanxicô, Tin Mừng là chính Chúa Giêsu Kitô được sai đi: “Thánh thần Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu cho tôi, Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó”. Đối với Phanxicô, mang Chúa Giêsu Kitô trong mình mới thực sự là mang Tin Mừng. “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Và như thế, sống Tin Mừng là sống trong Chúa Kitô và với Chúa Kitô, một Chúa Kitô được sai đi cho một mục đích đơn sơ trong sáng, với những giáo lý đơn sơ trong sáng.
Nhìn thấy Phanxicô đó, nghe Phanxicô đó, người ta đụng tới một minh chứng sống động mạnh mẽ về sự tuyệt đối của Thiên Chúa, một Thiên Chúa rất đáng yêu mến tôn thờ. Gặp Phanxicô đó, sống với Phanxicô đó, người ta đụng tới một minh chứng sống động mạnh mẽ về lòng hiếu thảo và vâng phục đối với Hội Thánh của Chúa và của mình, một Hội Thánh có nhiều sự thánh thiện và cũng có nhiều yếu đuối.
Thời đó, rất nhiều người được thu hút bởi Tin Mừng, không phải Tin Mừng theo thánh Matthêu, theo thánh Marcô, theo thánh Luca, theo thánh Gioan, mà là Tin Mừng hiện thân trong Phanxicô, con người đơn sơ chiếu tỏa sự bình an chan hòa sâu sắc.
Những con người trở về với Chúa để sống Tin Mừng và mang Tin Mừng như Phanxicô, rất cần cho thế giới hôm nay và những năm tháng sau này. Thiết tưởng mọi người chúng ta đây đều được Chúa gọi trở về. Điều quan trọng là hãy để Chúa chiếm đoạt và hãy để Chúa sai đi. Nhưng hãy cảnh giác với những ảo tưởng về sự được Chúa chiếm đoạt và được Chúa sai đi. Phanxicô rất rõ rệt về những điểm đó, khi nhận biết mình hèn mọn, sẵn sàng vâng phục những chỉ dẫn của các vị có thẩm quyền trong Giáo Hội.
Ngoài thái độ trở về, hình ảnh đang được hình thành của các người được ơn gọi trong hiện tại và những năm sắp tới còn thấy nơi Phanxicô, đó là hình ảnh của người biết bước xuống.
Bước xuống là gì?
Thưa là bước xuống cuộc đời khiêm tốn chấp nhận nhiều thương đau.
Xem ra Chúa đã muốn dùng Phanxicô để giới thiệu cho thế giới lúc đó hình ảnh sống động của Chúa Cứu Thế. Đấng đã được Kinh Thánh gọi là “Đấng đi xuống” “Người đã từ trời xuống thế”. Phanxicô đã từ cuộc sống giàu sang bước xuống cuộc đời nghèo hèn, đã từ nếp sống hưởng thụ bước xuống thân phận lao lung, đã từ địa vị cao bước xuống chỗ chẳng ai thèm ngó tới, đã từ cuộc sống được phục vụ bước xuống cuộc sống phục vụ những người bệnh tật, túng nghèo, tội lỗi, những người bị xã hội bỏ rơi. Phanxicô đã chịu đói khát, rách rưới, đã bị xỉ nhục khinh chê, đã chịu túng thiếu cùng cực. Về cuối đời, Ngài đã chịu đau đớn triền miên đêm ngày do năm dấu thánh.
Quả thực, Phanxicô đã bước xuống cuộc đời đau đớn, để được nên giống Ngôi Hai Cứu Thế: “Ngài đã nhận lấy trọn vẹn thân phận con người, ngoại trừ tội lỗi”. Phanxicô phải có nhiều tình thương lắm, mới làm cho những bước xuống của mình trở thành gặp gỡ Chúa và gặp gỡ tha nhân.
Thánh Phanxicô đã đi vào lịch sử. Theo Ngài, hiện nay đang có những bước xuống đầy tình thương. Trong những năm sắp tới, những bước giống như thế sẽ càng nhiều hơn. Đó là những bước đưa Giáo Hội tới mùa xuân.
Ở đây, tôi muốn nói lên một nhận xét của tôi. Tôi thấy sự ham chuộng của cải và sự ham muốn danh vọng làm hại cho Hội Thánh hơn bất cứ một ý thức hệ nghịch đạo nào, hơn bất cứ một thứ chính trị hại đạo nào. Bao lâu không vui lòng từ bỏ sự ham muốn đó, người ta sẽ chỉ làm cho Giáo Hội mình, nhà dòng mình, họ đạo của mình nên cằn cỗi, nặng nề, mù mịt.
Anh chị em thân mến,
Trên đây là những cái nhìn mạo muội của tôi về hiện tại và tương lai. Đây là giai đoạn của nhiều tinh thần Phanxicô. Trong cái nhìn đó, tôi cầu mong cho cộng đoàn Phanxicô Cù Lao Giêng và anh em mừng Ngân Khánh nói riêng, được là những hứa hẹn sinh động cho hiện tại và tương lai giáo phận Long Xuyên. Anh em có ít người, nhưng số ít mà nhiều tinh thần thì vẫn làm được cho Niềm Vui và Hy Vọng của Tin Mừng được lan rộng, bén sâu và trổ sinh nhiều bông trái. Với tinh thần đơn sơ khiêm tốn và thực tiễn, anh em sẽ được Chúa dùng như khí cụ bình an của Chúa, góp phần không nhỏ vào việc xây dựng hạnh phúc chân thực cho đồng bào, cho Quê Hương Tổ Quốc, cho Giáo Hội Việt Nam chúng ta. Amen.
Lời đầu tiên tôi muốn nói là tâm tình hoan hỉ của tôi đối với các vị lãnh đạo ấp, xã, huyện, tỉnh, đã chấp thuận cho có cuộc lễ này. Cuộc lễ này nói lên tinh thần đoàn kết giữa đời và đạo. Nó cũng cho thấy sự tự do tín ngưỡng trong khuôn khổ hợp lý hợp tình, khi được mọi người liên hệ cùng ý thức, cảm thông, có thể gây những tác động tốt trong cả hai phạm vi đời, đạo. Tôi nhiệt liệt cảm ơn tất cả những ai, đã góp phần vào việc tổ chức lễ hôm nay. Xin Chúa trả công bội hậu cho từng người.
Ông đại diện họ đạo đã ngỏ lời với tôi. Qua những lời đó, và nhất là qua sự hiện diện đông đảo chăm chú của anh chị em lúc này, tôi hiểu được tâm trạng anh chị em. Tôi hiểu những gì anh chị em vui mừng, những gì anh chị em băn khoăn, những gì anh chị em hy vọng. Tôi tin anh chị em cũng hiểu tôi. Chúng ta hiểu nhau, bởi vì chúng ta không phải là người xa lạ, nhưng là những người cùng một gia đình.
Quả thực, giáo phận là một gia đình Hội Thánh. Gia đình thì có nhiều thành phần, liên kết với nhau trong tình thương và trong trật tự. Trong gia đình, có việc thì con cái làm được. Nhưng có việc chính người cha, người mẹ mới giải quyết được. Trong xã hội cũng thế, có việc ấp, xã giải quyết được, nhưng cũng có việc chỉ có huyện, tỉnh, hay trung ương mới có thẩm quyền. Trong con người cũng thế, có việc chân tay làm được, nhưng cũng có việc chỉ có đầu mới làm được. Tương tự cũng thế, Hội Thánh là một gia đình, là một xã hội, là một thân thể có trật tự, có liên đới.
Trật tự và liên đới là con đường phát huy tình thương, là con đường phát huy tinh thần tập thể, là con đường phát huy tinh thần đoàn kết, là con đường phát huy tinh thần tiến bộ. Tóm lại, trật tự và liên đới hợp lý hợp tình, chính là điểm quan trọng của tinh thần Giáo Hội.
Với tinh thần Giáo Hội, nhân dịp này, tôi kêu gọi anh chị em hãy cố gắng đi lên. Hãy đưa bản thân mình đi lên, hãy đưa gia đình mình đi lên, hãy đưa họ đạo ta đi lên, hãy đưa địa phương ta đi lên.
Đi lên từng bước, để cuộc sống vật chất và tinh thần mỗi ngày mỗi thoải mái hơn. Đi lên từng bước, để cuộc sống văn hoá mỗi ngày mỗi cao hơn. Đi lên từng bước, để cuộc sống đức hạnh mỗi ngày mỗi trong sáng hơn. Đi lên từng bước, để cuộc sống liên hệ với nhau mỗi ngày mỗi có tình người hơn, mỗi ngày mỗi có yêu thương đoàn kết hơn. Đi lên từng bước, để cuộc sống kết hợp với Chúa mỗi ngày mỗi thắm thiết hơn. Đi lên từng bước, để tất cả cuộc sống của ta hàng ngày càng gắn bó với dân tộc càng nhiệt tình với Tổ Quốc hơn.
Trước mắt, chúng ta chỉ có một hướng đi nên chọn và phải chọn, đó là đi lên như tôi vừa diễn tả. Trên đường đi lên chắc là có khó khăn. Điều đó không thể tránh được. Nhưng nếu ta có một tinh thần Giáo Hội đúng đắn, chúng ta sẽ biết dùng nhẫn naị, bác ái và khôn ngoan Chúa Thánh Thần để lợi dụng mọi sự xảy ra cho mục đích làm tốt đời đẹp đạo.
Tôi cầu nguyện cho anh chị em được vững bước đi lên. Xin anh chị em cũng cầu nguyện cho tôi như vậy. Một lần nữa, xin cám ơn anh chị em.
Hồi nãy, trong phát biểu đáp từ trước thánh lễ, tôi có nói là tinh thần Giáo Hội thúc đẩy chúng ta đi lên. Tư tưởng đó, tôi muốn tiếp tục trong bài giảng nầy, bằng sự nhấn mạnh đến hai điểm:
1- Điểm thứ nhất tôi muốn nhấn mạnh, là ta cần đưa trí óc ta đi lên con đường hiểu biết.
Đó là điều Giáo Hội rất mong muốn. Giáo lý bí tích Thêm Sức cũng nói lên điều mong muốn đó, khi mời gọi chúng ta đến với Chúa Thánh Thần, để xin Ngài ơn hiểu biết. Chúa Thánh Thần là Thần dạy chân lý. Chúa Thánh Thần hiện ra dưới hình lưỡi lửa, để biểu hiện khả năng chiếu sáng như lửa, dẫn đường chỉ lối cho con người được hiểu biết điều hay lẽ phải.
Chúng ta nên hiểu biết những gì không sao kể ra hết được. Vì trong phạm vi đời đạo, có vô số vấn đề mời gọi ta tìm hiểu. Nhưng có một điều ai cũng có bổn phận phải biết, có một khả năng ai cũng cần phải xây dựng, đó là biết nhận ra điều phải điều sai, đó là biết phân biệt điều lành điều xấu, đó là biết phán đoán điều đạo đức và điều vô đạo đức. Đơn sơ chỉ có thế thôi.Điều đơn sơ gọi là lương tri, gọi là lương tâm. Đó là nền tảng, làm cho một người nên người.
Tối thứ tư vừa qua, tức 13.10.1982 đài truyền hình Việt Nam Cần Thơ, đã chiếu trên màn ảnh một kịch nói của Bungari có tính cách giáo dục, tựa đề: “Đảm bảo bằng vàng”. Trong một đoạn trao đổi, một nhân vật trong kịch đã phát biểu một nhận xét đáng ta chú ý. Đại khái là: Trước đây, người ta có hai phạm trù một là đạo đức, hai là vô đạo đức. Còn bây giờ, nơi một số người trẻ lại có ba phạm trù một là đạo đức, hai là vô đạo đức, ba là mù quáng, không biết phân biệt cái gì là đạo đức, cái gì là vô đạo đức. Nhận xét trên đây rất đúng. Hiện nay trên thế giới này, có vô số người không còn biết phân biệt cái gì là đạo đức, cái gì là vô đạo đức. Đối với họ, hễ cái gì thích là làm, cái gì lợi cho mình trước mắt là chạy theo. Sống kiểu đó sẽ đi về đâu? Và nếu những người sống kiểu đó, lại chiếm được địa vị trong xã hội đời đạo, thì họ sẽ đưa xã hội của họ đi về đâu?
Lương tri lành mạnh, hiểu biết phải trái không phải là cái gì có sẵn từ lúc sinh ra đâu! “Nhân chi sơ tính bản thiện”, câu đó chỉ đúng cho Adong trước khi phạm tội thôi. Bình thường thì phải qua một quá trình dài giáo dục, con người ta mới có được một lương tâm lành mạnh. Giáo Hội Công Giáo chú trọng đặc biệt đến việc giáo dục đó. Giáo dục bằng các phương tiện tự nhiên: Qua giáo lý, qua các bí tích, qua sự cầu nguyện, qua môi trường nhà thờ, qua môi trường gia đình, qua môi trường họ đạo. Kinh nghiệm cho thấy, tôn giáo đóng góp một phần rất quan trọng trong việc xây dựng lương tri.
Tháng 5/82 tại Mascơva, thủ đô Liên Xô đã có một hội nghị quốc tế qui tụ đông đảo đại diện các tôn giáo thế giới, để bàn về hòa bình, trước nguy cơ chiến tranh hạt nhân. Một vị đại biểu hội nghị đã nói với chúng tôi “Đối với những người có quyền, có của, có vũ khí phá hoại, mà họ lại không còn biết sợ bất cứ ai, bất cứ cái gì, không thèm nghe ai, vâng ai, thì chỉ có Đấng thiêng liêng tối cao mới uốn nắn được lòng họ. Nếu họ còn tin có Đấng Tối Cao trên đầu họ, nếu họ còn tin có đời sau thưởng phạt họ, thì ít ra niềm tin như thế cũng giúp làm cho họ sợ, không dám làm bậy làm liều”.
Phát biểu trên đây là rất thực tế, là rất đúng. Tóm lại, hòa bình trật tự gia đình xã hội, an ninh quốc tế và thế giới cần được bảo vệ tốt và xây dựng đẹp. Muốn được thế, phải có những người có lương tâm. Giáo dục con người có lương tâm là việc mà tôn giáo có khả năng đóng góp rất nhiều.
Tôi nhắc qua như thế, để lưu ý các người làm cha mẹ, ông bà, anh chị và đỡ đầu các em về bổn phận cụ thể này, là tìm mọi cách thích hợp để uốn nắn lương tri con em mìmh, cho nó biết, cho nó hiểu thế nào là phải, thế nào là trái, thế nào đạo đức, thế nào là vô đạo đức. Tiện đây, tôi cũng nói ngay là trong việc giáo dục lương tâm, ta cần chú ý cách riêng đến sự giữ công bình và bác ái.
2.- Do đó, điểm thứ hai tôi muốn nhấn mạnh hôm nay, là ta cần đưa trái tim ta đi lên con đường yêu thương nhân ái.
Đây là điểm Giáo Hội luôn luôn kêu gọi chúng ta. Tại sân nhà thờ Thạnh An đây, có tượng Chúa Giêsu Trái Tim. Tượng đó, đối với chủ đề trái tim cũng chính là một kêu gọi: Hãy sống với Chúa bằng tất cả tình mến chân thành của trái tim mình. Hãy sống với nhau bằng tất cả tình liên đới chân thành của trái tim mình. Hãy sống với Quê Hương Tổ Quốc bằng tất cả tình gắn bó chân thành của trái tim mình.
Cũng trong bản kịch “Đảm bảo bằng vàng” tôi vừa nói ở trên, nhân vật chính đã phát biểu một câu làm nòng cốt vở kịch. Đại khái nói: “Lịch sử được xây dựng không phải bằng những khối óc lớn lao, mà cũng bằng những trái tim lớn lao”. Và để cắt nghĩa câu đó, nhân vật chính đã cho thấy, ai chỉ giỏi về chuyên môn, về chính trị, chỉ làm đúng pháp luật, nhưng lại đối xử cứng cỏi, thô bạo nhỏ nhen như người không có trái tim, vịn vào luật pháp để bắt bẻ, bới móc, làm nhục kẻ khác thì sau cùng, những người như thế dù trí óc có giỏi giang tới đâu, cũng sẽ bị lịch sử đào thải. Nhận xét trên đây là nhận xét đúng có tính cách răn đời, rất đáng chúng ta suy nghĩ. Sống với trái tim to lớn là sống khiêm tốn, nhưng cầu tiến, biết vươn lên những gì cao đẹp hơn. Sống với trái tim to lớn là sống cảnh giác nhưng cởi mở, biết tìm kiếm và biết đón nhận những cái hay của người khác. Sống với trái tim to lớn là sống cho mình, nhưng sống cho Tổ Quốc, cho Thiên Chúa nhiều hơn. Sống với trái tim to lớn là sống nghiêm minh nhiều đối với chính mình, nhưng sống bao dung nhiều hơn đối với người khác.
Sống được như thế không luôn dễ. Sống được như thế cũng là kết quả của một nền giáo dục hướng thượng mà tôn giáo chúng ta luôn chú trọng.
Nói tới đây, tôi tự nhiên nghĩ tới một hiện tượng đang xảy ra tại nhiều nơi, là sự thi đua bị lạm dụng. Sự thi đua tự nó có tính cách thúc đẩy con người đi lên. Nhưng khi bị lạm dụng, khi không được hướng dẫn tốt, sự thi đua trở thành một cách giáo dục khuyến khích con người dùng tôn giáo, dùng dân tộc làm bậc thang leo lên địa vị và quyền lợi riêng cá nhân mình. Sau cùng, tôn giáo, dân tộc, tổ quốc trở thành phương tiện. Bản thân họ mới là đích. Lòng họ được khuyến khích trở nên kiêu căng, phô trương, ghen tị, nhỏ bé. Họ sống và làm, coi như vì tôn giáo, vì dân tộc, nhưng xét kỹ, thì thấy rõ là họ sống và làm vì lợi ích riêng. Đó là một nguy cơ cho tôn giáo, cho dân tộc. Ta phải cảnh giác với những cách giáo dục bị lạm dụng đó.
Thánh Gioan Baotixita nói: “Tôi phải nhỏ bé đi, để Chúa Kitô được lớn lên”. Chỉ có trái tim to lớn như Ngài mới có một chọn lựa vừa khiêm tốn vừa cao cả như thế.
Anh chị em thân mến,
Những điều tôi nói hôm nay, chắc chắn người lớn hiểu nhiều hơn trẻ em. Tôi hy vọng những điều đó sẽ được anh chị em hiểu đúng và thực hiện cho mình và cho con em mình. Nguyện Chúa Thánh Linh là Ánh Sáng hiểu biết, và là Tình Yêu nhân ái thương hướng dẫn chúng ta. Amen.
Được trở lại xứ Thanh Long (Kênh Đ1), tôi rất vui mừng. Đây là nơi tôi đã phục vụ một thời gian vắn, khi cha già cố Phụng còn sống. Thời gian tôi thế Ngài hồi đó tuy vắn, nhưng cũng đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm đẹp. Nhìn hôm nay và nhớ lại hồi đó, tôi thấy Đ1 có tiến triển nhiều. Sự có mặt của họ đạo Thánh Linh tại đây, trong lễ hôm nay, làm cho cuộc lễ được thêm ý nghĩa.
Chúng ta gần xa tới đây, gồm nhiều thành phần, để tập trung vào một thánh lễ Thêm Sức. Lễ Thêm Sức này do đó, đang trình bày hình ảnh Giáo Hội một cách cụ thể. Hình ảnh Giáo Hội được thấy trong phụng vụ thánh lễ Thêm Sức. Trong phụng vụ thánh lễ Thêm Sức ta thấy có phần toàn thể cộng đoàn tín hữu cùng làm chung, có phần dành riêng cho các linh mục, có việc chỉ một mình Đức Giám Mục làm. Nhưng tất cả chúng ta: Giáo dân, linh mục, Giám Mục đều làm những việc đó nhân danh Chúa, và hướng về Chúa. Giữa chúng ta có Chúa hiện diện. Chính Chúa đã thiết lập thánh lễ. Chính Chúa ban quyền cho Giám Mục, linh mục chủ sự các bí tích này. Nếu không có linh mục thì không có thánh lễ. Nếu không có Đức Giám Mục truyền chức thì không có linh mục. Nếu không có sự ban quyền do Đức Giáo Hoàng là đại diện Chúa Kitô, thì không có Giám Mục, hay nếu có thì không phải là Giám Mục chính đáng.
Hiểu như vậy, ta thấy Giáo Hội là một phẩm trật, không phải do người ta sắp xếp mà thành, nhưng phải do chính Chúa trao quyền cho. Những người có chức thánh, không được lạm dụng quyền Chúa trao cho mình. Nhưng bất cứ ai trong Giáo Hội cả dám có những lời nói việc làm có tính cách xúc phạm, hạn chế và xóa bỏ quyền Chúa trong Giáo Hội. Đều phạm trọng tội. Trái lại, bất cứ ai có những lời nói và việc làm có tính bảo vệ và phát huy quyền Chúa trong Giáo Hội, đều được công trước mặt Chúa.
Cũng nên biết rõ điều này: Quyền Chúa trong Giáo Hội là quyền cứu người ta khỏi tội, là quyền dẫn đưa người ta lên thiên đàng, là quyền giúp con người nên người, nên thánh, là quyền giúp cho con người đạt được hạnh phúc ở trần gian, và nhất là ở trên thiên quốc. Thường các quyền đó được thực hiện qua các bí tích và giảng huấn.
Quyền Chúa ban cho Giáo Hội, không miễn cho người Giáo Hội khỏi vâng phục các nhà cầm quyền Nhà Nước. Trái lại, chính tinh thần Giáo Hội thôi thúc các người Giáo Hội phải biết tuân phục kính trọng chính quyền, và tuân hành luật pháp Nhà Nước. Cũng như chính tinh thần Giáo Hội đó thôi thúc các người Giáo Hội phải nhìn rõ bổn phận phải bênh vực quyền Chúa một cách chính đáng và can đảm. Với tinh thần đó, tôi xin cảm ơn anh chị em. xin cảm ơn các vị lãnh đạo Nhà Nước các cấp. Với tinh thần đó, tôi cầu chúc cho xứ đạo Thanh Long và Thánh Linh ơn lành của Chúa.
Nếu ta muốn đoán thử những ai trong nhà thờ này lát nữa sẽ lên lãnh bí tích Thêm Sức thì chẳng có gì là khó cả. Chỉ việc quan sát chỗ ngồi, nhất là quan sát xem những ai có đeo bảng tên trước ngực, thì đoán ra được. Họ có vài khác biệt gọi là dấu chỉ.
Nhưng nếu ta muốn đoán thử ai trong họ đạo Long Xuyên này, sau khi chết sẽ được Chúa chọn lên thiên đàng, thì chắc chắn là khó lắm. Khó lắm! Tuy nhiên, một tác giả uy tín đã viết: Dấu chỉ để phân biệt những kẻ Chúa chọn lên thiên đàng, là lòng cảm tạ biết ơn Chúa. Ngài nói: Một người có thói quen cảm tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh thì như mang một trái tim tỏa sáng. Trái tim tỏa sáng đó là dấu chỉ họ được Chúa chọn. Trái lại, kẻ quen sống vô ơn thì như phủ trên mình một bóng đen lạnh lẽo đó là dấu chỉ họ sẽ bị loại trừ.
Tác giả đó nói rất có lý. Bởi vì trong gia đình và xã hội, sự cảm tạ biết ơn đó là việc sơ đẳng của con người có giáo dục. Phương chi trong liên hệ với Chúa, sự cảm tạ biết ơn Chúa chính là một việc hiếu thảo sơ đẳng, một việc công bình tối thiểu của người được gọi là con Chúa. Hôm nay, để giúp làm tốt bổn phận sơ đẳng và tối thiểu đó của người con Chúa, của người được Thêm Sức, tôi xin lưu ý hai điều.
1.- Điều thứ nhất là nên để ý trong việc cảm tạ biết ơn Chúa, là hãy khiêm tốn nhìn mình và ơn mình được.
Điều đó ta có thể học trong Phúc Âm. Phúc Âm ghi lại: Khi Đức Mẹ tỏ bày cảm tạ biết ơn Chúa, Đức Mẹ đã nói: “Linh hồn tôi chúc tụng Chúa...Vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tôi tớ Chúa”. Đức Mẹ nhìn mình là tôi tớ. Đức Mẹ nhận mình là hèn mọn. Đức Mẹ ý thức ơn mình được không phải do mình có công trạng gì, mà hoàn toàn do tình Chúa đoái thương đến mình. “Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tôi tớ Chúa”. Khiêm tốn như thế là nhìn đúng sự thật. Và cái nhìn như thế làm cho tâm tình cảm tạ biết ơn được đẹp lòng Chúa.
Phúc Âm cũng kể: Một viên chức ngoại giáo, sai người đến xin Chúa Giêsu vui lòng chữa bệnh người giúp việc của ông. Chúa nhận lời. Khi nghe tin Chúa đang trên đường đến nhà ông, viên chức đó vội vã chạy đi đón. Ông quỳ lạy và nói: “Xin cảm tạ Ngài, tôi không xứng được Ngài bước vào nhà tôi”. Mặc dầu ông là cấp lớn, ông nhận mình là bất xứng. Rõ ràng ông nhìn thấy một khoảng cách sâu rộng giữa Chúa và ông. Chính lòng thương xót Chúa chủ động vượt qua khoảng cách đó. Chứ phần ông, ông nhận mình không có quyền gì đòi hỏi cả. Nhìn khiêm tốn như vậy là cái nhìn đúng. Chính nhờ cái nhìn khiêm tốn như thế mà ônh càng được Chúa thương hơn.
Trái lại Phúc Âm cũng ghi lại hậu quả xảy ra cho những người được ơn mà không khiêm tốn. Thí dụ trong chuyện người con phung phá ta thấy người anh gọi là không phung phá đã phiền trách cha mình, vì đã đối xử quá tốt với người em phung phá. Thực sự, thì người anh gọi là không phung phá đó, đã được rất nhiều ơn huệ, nhưng không ngờ anh ta không lo cảm tạ biết ơn, lại coi ơn huệ như là một quyền lợi, anh đã đòi hỏi, thay vì nài xin. Tệ hơn nữa, anh tự cho mình cái quyền phê phán cha mình là thiếu công minh. Chính vì sự kiêu căng đó mà trước đây anh ta được coi là người tốt, nay bị Chúa coi là người xấu.
Rồi thí dụ, chuyện những người được mời đến chăm sóc vườn nho của chủ. Đến lúc ông chủ tặng quà cho tất cả, thì có người trong những kẻ được mời, lên mặt chỉ trích ông chủ vì đối xử quá tốt với kẻ đến sau. Thực sự thì chính người chỉ trích đó đã nhận phần của mình. Nhưng anh ta không lo cảm tạ biết ơn, mà lại coi ơn huệ đó như một cái gì mình có quyền đòi hỏi, và còn muốn đòi hỏi hơn nữa. Hơn nữa, còn dám kết án chính kẻ làm ơn cho mình. Cái nhìn như thế là cái nhìn sai lệch, là cái nhìn kiêu căng.
Những cái nhìn kiêu căng như thế, sẽ làm chết đi tâm tình cảm tạ biết ơn. Nếu sự biết ơn là một vẻ đẹp làm cho một người trở nên dễ thương, thì sự vô ơn là một vết dơ làm cho con người trở nên ghê tởm. Sự vô ơn sẽ làm cho trái tim trở nên cằn cỗi. Rồi từ cằn cỗi, trở nên cô độc. Rồi từ cô độc trở thành cay nghiệt. Và đó là một sự tự sát thành công nhất.
Trái lại, sự khiêm tốn biết ơn sẽ làm cho trái tim trở nên đền thờ của Chúa Thánh Linh. Thánh Thần Chúa ngự trong đó. Ta được cảm thấy sự ngọt ngào của ơn bình an, mà Chúa Thánh Linh dành cho kẻ khiêm tốn biết ơn Chúa.
2.- Điều thứ hai ta nên để ý trong việc cảm tạ biết ơn Chúa, là hãy qui hướng mọi ơn ta được về vinh quang cao cả Chúa.
“Chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa”. Lời đó ta đọc thuộc lòng. Đó là lời trong kinh Vinh Danh. Có nghĩa là: Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được biết ơn vinh quang Chúa. Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được ơn tham dự vào vinh quang Chúa. Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được góp phần vào việc ca tụng vinh quang Chúa. Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được ơn sẽ hưởng vinh quang Chúa. Cảm tạ như thế là một cách phát huy ơn Chúa Thánh Thần.
Đôi khi tôi nhìn vào chiếc áo lễ tôi đang mặc và nghĩ: Nếu sợi chỉ trong chiếc áo lễ này có mắt, có tai, có trí khôn và có trái tim, chắc nó sẽ vui sướng vô vàn. Bởi nó được theo tôi đi biết bao nhiêu nơi, đã được thấy bao cảnh huy hoàng, đã có mặt trong bao cuộc lễ trang trọng đẹp đẽ. Chắc nó sẽ vui sướng vô vàn, nhất là nó được cái may mắn góp phần vào công trình làm nên chiếc áo lễ, để được ở sát bàn thờ bên Mình Thánh, để được dùng trong thánh lễ ca tụng vinh quang cao cả của Chúa. Rồi tôi nghĩ rằng: Tôi cũng giống như một sợi chỉ. Các người khác cũng là những sợi chỉ. Mỗi sợi chỉ có vị trí của nó trong công trình dệt may nên chiếc áo lễ , thì mỗi người cũng có vị trí của mình trong công trình ca tụng vinh quang Thiên Chúa. Mỗi sợi chỉ có màu sắc riêng của nó, để góp phần làm nên vẻ đẹp chung của toàn thể chiếc áo lễ, thì mỗi người cũng có màu sắc riêng của đời sống mình, để góp phần làm nên vẻ đẹp chung của công trình mình, phản ánh vinh quang cao cả của Chúa. Ơn đó quá lớn lao, ta có cảm tạ Chúa đến muôn đời cũng chẳng đủ.
Ở đây, tôi có một nhận xét muốn nói là: Nhiều người, khi được may mắn, thì dễ quên bổn phận phải dùng những may mắn đó để làm vinh danh Chúa. Còn khi gặp điều rủi ro thì lại rất dễ trở thành vô ơn. Tôi nói thiệt là cách ăn ở như thế rất có hại cho chính mình. Thánh Gióp, khi bị mất hết tài sản, khi bị ném vào cảnh nghèo túng bệnh nạn cùng cực, ông vẫn nói: Chúa ban cho, rồi Chúa lại cất đi. Tôi xin cảm tạ Chúa. Tôi vẫn biết ơn Chúa. Chúa thấy lòng ông vẫn trung thành biết ơn, dù trong thử thách đắng cay, nên Chúa càng thương ông, và sau cùng Chúa đã ban cho ông gấp bội những gì ông đã mất.
Anh chị em thân mến,
Mấy ngày nay, khi nghe nói Chúa Nhật này tôi làm lễ ở nhà thờ Long Xuyên, nhiều người xứ khác đã nói một cách tự nhiên: Giáo dân họ đạo Long Xuyên có phước lớn. Bao nơi khác trong địa phận, giáo dân từng trông đợi mấy năm mới được Đức Cha tới một lần. Mà tới rồi cũng chỉ trong mấy tiếng đồng hồ rồi đi, còn họ đạo Long Xuyên thì có hai Đức Cha ở thường xuyên. Bao nơi trong địa phận không có linh mục, không có thầy giúp, còn họ đạo Long Xuyên, thì có nhiều Cha, nhiều thầy. Bao nơi trong địa phận không có thánh lễ, không có nhà thờ, còn họ đạo Long Xuyên thì có nhà thờ lớn đẹp, ngày nào cũng có thánh lễ. Giáo dân Long Xuyên thực có phước. Người ngoài Long Xuyên nhìn giáo dân Long Xuyên là có phước lớn. Còn chính người họ đạo Long Xuyên thì sao.
Xưa Chúa Cứu Thế đã nói với một người chưa biết Chúa rằng: “Chớ chi con biết được ơn Chúa ban cho con”. Lời đó hôm nay, Chúa nói với mọi người đã biết Chúa, với mọi người họ đạo Long Xuyên: “Chớ chi con biết được ơn Chúa ban cho con”.
Noel năm nay là kỷ niệm lần thứ 1982 ngày giáng sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa. Tại sao Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh, thì câu trả lời đã có trong kinh Tin Kính: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi Người đã từ trời xuống”. Hiểu như thế, nên tôi gọi lễ Noel là lễ của niềm vui và của niềm hy vọng.
Đêm đó, tại hang Bêlem, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể sinh ra, đúng như lời các tiên tri đã loan báo từ ngàn năm trước. Những người đầu tiên đã được vui và hy vọng do biến cố Bêlem là Đức Mẹ, thánh Giuse và các mục đồng. Đó là một số người rất nhỏ, Nhưng rồi, niềm vui và hy vọng đó đã lan đi, tới các thành thị, tới các làng mạc, tới các quốc gia. Qua 20 thế kỷ, Noel cho tới hôm nay vẫn là lễ gieo niềm vui và hy vọng.
Niềm vui và hy vọng của lễ Noel rất là phong phú và cao cả. Ở đây, tôi chỉ muốn nói tới một điểm này: Niềm vui của Noel là Chúa Giêsu Kitô. Ngài chính là mẫu người quân bình lý tưởng. Hy vọng của Noel, cũng là Chúa Giêsu Kitô. Ngài chính là điểm tựa vững chắc cho những ai thiện chí muốn nên quân bình.
Theo tôi, cái đẹp nhất của một người là sự quân bình.
Thế nào là một sự quân bình lý tưởng, thì ta thấy nơi Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người. Tuy là Con Thiên Chúa trên trời, Ngài cũng vẫn là con cha mẹ dưới đất. Tuy Ngài rất thiết tha với tình yêu siêu nhiên Thiên Chúa, Ngài cũng vẫn tha thiết với tình thương tự nhiên của gia đình, của những người thân, của đồng bào tổ quốc. Ngài chăm sóc mối liên hệ của Ngài với Cha trên trời, nhưng đồng thời Ngài cũng chăm sóc những mối liên hệ của Ngài với các thành phần nhân loại. Ngài gắn bó với quê hương trên trời, nhưng đồng thời, Ngài cũng gắn bó với quê hương trần thế. Ngài quí mến các giá trị về linh hồn, nhưng không vì thế Ngài coi rẻ các giá trị về thân xác. Ngài coi trọng sự phát triển các nhân đức, nhưng không vì thế Ngài coi thường sự phát triển đời sống vật chất. Ngài tôn trọng quyền đạo, nhưng không quên tôn trọng quyền đời. Ngài lo cho hạnh phúc phần hồn nhân loại, nhưng không quên lo cho hạnh phúc phần xác con người.
Điều nên để ý là sự quân bình nơi Chúa Giêsu Kitô, không ở tại sự phân chia đều đặn chỗ nào là phần hồn, chỗ nào là phần xác, việc nào dành cho Chúa, việc nào dành cho nhân loại, mà ở tại Ngài suốt đời và toàn thể bản thân đều qui hướng về một mục đích “Mến Chúa yêu người”. Hai việc đó đi liền với nhau, cũng như hồn xác tương trợ lẫn nhau, siêu nhiên và tự nhiên hòa trộn sang nhau.
Tôi không nghĩ rằng, những nét trên đây đã đủ ta rõ hình ảnh quân bình nơi Ngôi Hai giáng sinh. Tuy nhiên, mấy nét đó, cũng có thể gợi cho ta thấy Chúa Giêsu là con người tuyệt đẹp do sự Ngài con người tuyệt đối quân bình.
Con người quân bình là con người được ổn định, con người được bình an, không do hoàn cảnh ban cho, mà là do sự trưởng thành nội tâm được hiệp thông với nguồn bình an của Chúa.
Anh chị em và tôi, cũng như tất cả mọi người, có phải là những người thực sự quân bình không. Tôi thiết nghĩ, quân bình tuyệt đối chắc là không. Điều đó không có gì đáng chê, đáng sợ. Điều đáng sợ là không nhận ra những giới giới hạn thân phận con người của mình. Điều đáng sợ nhất là coi sự chênh lệch là quân bình, là đề cao sự mất quân bình nào đó như mẫu mực, như một thần tượng.
Sự quân bình mà Chúa Giêsu đã có ngay từ phút đầu khi mới sinh ra, thì nơi ta chỉ là một hy vọng, một lời mời gọi, một lý tưởng. Ta sẽ đi lên lý tưởng đó bằng cố gắng tự sức mình, bằng sự hỗ trợ của gia đình, của xã hội nhất là sức mạnh thiêng liêng của Chúa Cứu Thế. Chúa Cứu Thế là hy vọng cho tất cả những người thiện chí, thực sự biết mình và thực sự muốn vươn lên. Điều khuyến khích ta đặt hy vọng nhiều nhất vào Chúa Giêsu ở sự Ngài rất giàu lòng thương xót và đủ quyền năng để cứu giúp ta.
Anh chị em thân mến,
Tôi vừa trình bày một lý do khiến tôi gọi lễ Noel là lễ của niềm vui và của niềm hy vọng. Tóm tắt thế này: Ta vui, vì ta có Chúa giáng sinh, là một mẫu người quân bình tốt đẹp, tuyệt đối. Ta hy vọng, vì ta có Thiên Chúa giáng sinh là điểm tựa cho những người thiện chí muốn nên quân bình.
Với nội dung ngắn gọn đó, tôi cầu chúc toàn thể anh chị em một lễ Noel dạt dào niềm vui và hy vọng. Chúng ta cũng cầu nguyện cho đồng bào ta, cho tổ quốc Việt Nam ta, được những niềm vui và những niềm hy vọng tốt đẹp nhất. Amen.
Nếu ai hỏi tôi: Tết năm nay vui không? Tôi sẽ thưa: Vui. Bởi vì dù với cái nhìn tự nhiên, dù với cái nhìn siêu nhiên, tôi thấy thực tại vẫn có vô số cái hay cái đẹp đáng ta mừng, đáng ta vui. Nhất là vì Tết vốn lại là dịp tốt để chúng ta nhớ tới nhau với tâm tình thương mến, biết ơn, tha thứ và cầu chúc.
Nếu ai hỏi tôi: Năm mới, Cha cầu mong sự gì nhất. Tôi sẽ thưa: Điều tôi cầu mong nhất cho những người thuộc về tôi cũng là biết sống.
Biết sống như một cây hoa mùa Xuân. Sở dĩ cây hồng, cây cúc, cây mai, cũng như các cây khác hôm nay trổ bông hoa tươi đẹp, là nhờ ba yếu tố: Yếu tố thứ nhất là thiên nhiên, như đất tốt, nước tốt, ánh sáng ban ngày, sương mát ban đêm. Yếu tố thứ hai là con người, như sự tận tụy và khéo léo của những bàn tay chăm sóc. Yếu tố thứ ba là sức riêng của nó, như khả năng kỳ diệu trong cây hút vào, thải ra, biến chế nhựa sống thành vô số hương vị màu sắc. Ba yếu tố đó là những liên hệ. Liên hệ càng tốt thì cây càng tốt. Tương tự cũng thế đối với con người. Biết sống là sống tốt với Tạo Hóa, sống tốt với tha nhân, và sống tốt với chính mình.
Các bài Sách Thánh hôm nay, cũng có một vài nhắc nhủ theo đường hướng đó. Thí dụ đáp ca nói: “Phúc cho ai tìm nương tựa vào Chúa”. Nương tựa vào Chúa, đó là một cách sống tốt với Chúa. Rồi để sống tốt với tha nhân, thì lời thánh vịnh hôm nay khuyên ta đừng gian ác. Vì gian ác là đường dẫn tới diệt vong. Còn muốn sống tốt với chính mình, thì bài Phúc Âm hôm nay khuyên ta hãy biết dùng thực tại một cách khôn khéo, để có thể đạt tới hậu quả tốt. Thí dụ, thực tại của ta hôm nay là cuộc sống nghèo, thì hãy sống thế nào để mồ hôi ta trở thành giá mua hạnh phúc ngày mai, như lời Chúa hứa: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Còn nếu thực tại của ta hôm nay là cuộc sống nhiều may mắn, có địa vị, có tiền của, có sướng vui, thì hãy sống thế nào, để cuộc sống đó không đưa ta tới bất hạnh, như lời Chúa răn đe: “Khốn cho các ngươi là kẻ hôm nay giàu có tươi cười, vì các ngươi sẽ phải trở thành túng nghèo rên xiết khốn khổ”. Như thế, biết sống không những là một nghệ thuật, mà còn là một kỷ luật đạo đức.
Mấy ngày nay, nhà cửa thì ta lo quét dọn sơn phết, áo quần thì ta lo may sắm giặt ủi, có tính cách giã từ và tiến tới. Giã từ những gì chưa tốt. Tiến tới những gì tốt hơn. Biết sống cũng là như thế. Biết sống là biết giã từ. Biết sống là biết vươn lên.
Hôm qua, tôi gặp một em bé đi nhà thờ. Gặp tôi, em cúi đầu chào, em trao cho tôi một đồng bạc cắc. Em nói là em lượm được ở ngoài đường. Tôi trao lại cho em. Lát sau tôi thấy em đặt đồng bạc cắc đó vào tay một người ăn xin. Đó là một cử chỉ nhỏ đẹp. Những cử chỉ như thế, là những bông hoa làm nên Mùa Xuân con người, với sự thực thà hồn nhiên, với sự khiêm tốn lễ độ, với sự hiền lành phục vụ. Chính từ những cử chỉ nhỏ đẹp đó mà con người biết sống.
Nếu hôm nay người lớn chúng ta lo làm chuyện lớn, mà đánh mất đi những cử chỉ nhỏ đẹp, thì quả là chúng ta biết làm mà không biết sống.
Có những Mùa Xuân ở những chậu bông trước cửa, có Mùa Xuân ở áo quần bảnh bao, mà chính con người, chính trái tim mình không phải là một Mùa Xuân, thì thật là trớ trêu đáng tiếc.
Anh chị em thân mến,
Ngày đầu năm tôi không dám nói dài. Để kết thúc, tôi muốn trao gởi anh chị em một điều tâm sự. Đó là: Dù với tuổi đời đã hơn nửa thế kỷ, tôi bước vào năm mới này với cảm tưởng như bước vào một lớp học mới, để tiếp tục học cho biết sống. Tôi coi mỗi năm là một lớp học. Tôi học với Chúa. Tôi học nơi người chung quanh. Tôi học ở kinh nghiệm đời mình.
Trong việc học cho biết sống, sức mạnh nâng đỡ tôi và hướng dẫn tôi nhiều nhất, chính là sức mạnh tình thương Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế đã sống lại. Tin Ngài, cậy Ngài, gắn bó với Ngài. Đó là bí quyết sống của thánh Phaolô đã nói trong thánh thư lễ hôm nay. Đó là bí quyết sống của tôi, và của tất cả những ai muốn tìm về Mùa Xuân vĩnh cửu. Với bí quyết đó, tôi tin tưởng, chúng ta sẽ biết sống một cuộc sống tốt. Sáng nay, người đầu tiên tôi gặp là Chúa Giêsu. Sáng nay, người đầu tiên tôi đã tâm sự cũng là Chúa Giêsu. Giờ đây, Chúa Giêsu đang ở giữa chúng ta. Trước mặt Chúa và trước mặt anh chị em, tôi cầu chúc và nguyện cho anh chị em, cho Tổ Quốc Việt Nam, cho Hội Thánh Việt Nam, một năm mới bình an, thịnh vượng và hạnh phúc.
Khi suy nghĩ về diễn tiến cuộc tử nạn Chúa Giêsu trong ba ngày Tuần Thánh, tôi thấy rất nhiều chi tiết làm tôi ngạc nhiên. Ở đây, tôi nói lên mấy điều ngạc nhiên lớn nhất. Điều thứ nhất làm tôi ngạc nhiên là sự tự hạ của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, có quyền phép tự cứu mình, nhưng Ngài lại tự ý để cho người ta bắt. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, có quyền phép trừng trị bất cứ ai xúc phạm đến Ngài, nhưng Ngài lại thinh lặng để cho người ta hành hạ xỉ vả, và đóng đinh Ngài vào thập giá giữa hai tên trộm cướp.
Tự hạ đến nỗi chịu mất mạng sống mình, đó là can đảm. Nhưng tự hạ đến nỗi cam chịu nhục nhã, bị coi như mất uy tín danh vọng, đó là một sự khiêm tốn can đảm phi thường. Sự tự hạ như thế thánh Phaolô gọi là một thứ điên rồ đối với người ngoại đạo, và là một gương xấu đối với người có đạo Do Thái.
Nhưng tại sao Chúa Kitô lại tự hạ đến như thế. Thưa bởi vì sự khiêm tốn tự hạ của Chúa Giêsu, chính là của lễ đẹp nhất, mà Đức Chúa Cha muốn, để làm giá cứu độ loài người. Tội Tổ Tông là tội kiêu ngạo. Căn rễ mọi tính xấu tàn phá con người là tính kiêu căng. Kiêu căng được đền bằng khiêm tốn. Khiêm tốn là chặng đường cứu độ. Chúa Giêsu đã đi vào. Kẻ theo Chúa không được phép chọn con đường trái ngược. Theo Chúa cứu độ, mà không theo đường khiêm tốn là điều đáng phải ngạc nhiên ghê gớm.
Điều thứ hai làm tôi ngạc nhiên là sự cứng lòng của quần chúng nói chung và của các người lãnh đạo tôn giáo nói riêng.
Họ biết Kinh Thánh. Họ mến Kinh Thánh. Họ ưa trích dẫn Kinh Thánh. Mà Kinh Thánh thì đã nói trước, nói nhiều về Đấng Cứu Thế sẽ đến. Thế nhưng, khi Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đến họ không tiếp nhận. Tệ hơn nữa, họ đã bắt bớ Ngài, họ đã tìm cách giết Ngài một cách nhục nhã đau đớn nhất.
Thực là cứng lòng, một cứng lòng kiêu kỳ đáng sợ. Chuyện xưa là thế. Nhưng bây giờ, tôi sợ là sợ cho tôi, cho anh chị em, cho Giáo Hội mình, sợ lại lỗi lầm như thế. Chúa trên bàn thờ, Chúa trong giáo lý thì ta luôn tiếp nhận. Nhưng Chúa có mặt trong thực tế cuộc đời hôm nay thì nhiều lúc ta làm ngơ. Cũng như thời đó, bao người chúng ta muốn Chúa cứu độ đến với ta như một Thiên Chúa khải hoàn thống trị, một Thiên Chúa chuyên cứu ta khỏi rủi ro, chuyên ban điều may mắn. Nhưng Ngài không đến như thế, nên hôm nay cũng lại như thời đó, cũng lại vì vinh quang Ngài mà khước từ Ngài.
Thảm kịch cứu độ thường ở điểm đó, một điểm phải ngạc nhiên kinh hoàng.
Điều thứ ba làm tôi ngạc nhiên là sự yếu đuối của mười hai tông đồ.
Chiều thứ năm đó, các ông được Rước Lễ do chính tay Chúa. Các ông được chính Chúa rửa chân. Các ông được nghe chính Chúa khuyên lơn nhắn nhủ. Phải nói là các ông được sống trong những giây phút đặc ân nhất trên đời. Thế nhưng chỉ vài giờ sau, khi Chúa Giêsu bị bắt, tất cả 12 ông đều có những cử chỉ không tốt đối với Thầy mình. Ông thì phản, ông thì trốn, ông thì chối. Thực là yếu đuối, hết sức yếu đuối.
Nhưng chính ở điểm này mà tôi hiểu: Chúa cứu độ ta không hẳn vì ta đã rước lễ, không hẳn vì ta đã nghe giảng. Nhưng Chúa cứu độ ta khi ta khiêm tốn, nhận biết mình yếu đuối, nhận mình tội lỗi, tin vào Chúa cứu độ. Kinh nghiệm bản thân về sự yếu đuối của mình, thường là một bổ túc cần thiết để ta nên khiêm tốn.
Trong chương trình cứu độ, thất bại mà khiêm tốn là một thành công. Thành công mà kiêu căng là một thất bại. Đừng ngạc nhiên về điều đó.
Điều sau cùng làm tôi ngạc nhiên là danh sách những người nâng đỡ Chúa trong cuộc tử nạn.
Ai khuyên Philatô không lên án Chúa. Thưa là bà vợ ông. Bà là người ngoại đạo. Ai là người vác đỡ Thánh Giá Chúa. Thưa là ông Simon Xyrênê. Không chắc ông là người có đạo. Ai là người đã đón đường đưa khăn lau mặt Chúa Giêsu đẫm máu với mồ hôi. Thưa là bà Vêrônica. Bà là một phụ nữ không tên tuổi. Ai là người đã dám nói công khai lúc đó Chúa là người vô tội. Thưa là kẻ trộm bên hữu. Ai là người trong giờ phút bi đát nhất đã đấm ngực ăn năn, và tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Đức Chúa Trời. Thưa là viên sĩ quan ngoại đạo chỉ huy cuộc giết Chúa theo lệnh trên. Ai là người đã liên hệ với Philatô để xin phép đưa xác Chúa xuống. Ai là người đã cho đất, cho mồ, cho vải để an táng Chúa. Thưa là ông Giuse Arimathia. Ông là người có thiện cảm với Chúa, nhưng chưa bao giờ dám tỏ lộ. Ai là người chăm sóc Chúa những giờ sau hết. Thưa ngoài Đức Mẹ và Thánh Gioan, thì chỉ là mấy bà thuộc thành phần rất khiêm tốn trong họ đạo.
Danh sách những người thiện chí trên đây đáng làm cho ta xấu hổ. Bao người ít biết Chúa, mà lại thương Chúa rất nhiều. Bao người được ơn Giáo Hội nhiều, mà lại nâng đỡ Giáo Hội quá ít. Thì ra danh sách các người thiện chí không thể ghi ở bất cứ sổ sách nào, dù là sổ rửa tội. Chỉ biết chắc điều này là, trước mặt Chúa, thiện chí đi liền với khiêm tốn. Thời nào cũng vậy. Chúa ưa chọn những người bé mọn, để đừng ai dám tự phụ, tự cao tự đại, trong việc cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa.
Giờ đây, tôi đi rửa chân cho các tông đồ. Đây không phải chỉ là một cử chỉ tưởng niệm. Đây là một lời cầu nguyện. Tôi cầu nguyện cho tôi, cho anh chị em, cho Giáo Hội chúng ta, để được ơn sống khiêm tốn như Chúa muốn. Khiêm tốn trong tinh thần thờ phượng Chúa, khiêm tốn trong tinh thần phục vụ đồng bào, khiêm tốn trong mọi liên hệ hằng ngày. Có thực sự khiêm tốn mới sám hối được. Có thực sự khiêm tốn mới hòa giải được.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin thương nghe lời con cầu nguyện. Amen.
Khi Chúa Giêsu đã sống lại, những lần đến thăm các tông đồ, Ngài thường chào các vị đó thế này: “Bình an cho các con”. Ngài chào lời đó, chắc vì Ngài biết bình an rất cần cho các môn đệ Ngài. Đêm nay, tưởng niệm Chúa sống lại, tôi xin Chúa nói với tôi, cũng như nói từng người anh chị em lời chào chúc thân tình đó: “Bình an cho cáccon”. Tôi tin Chúa Phục Sinh thực sự muốn nói với lòng ta lời chào chúc đó. Tôi tin Chúa Phục Sinh thực sự sẽ ban ơn bình an rất nhiều cho lòng ta, miễn là ta biết mở lòng mình ra để đón nhận. Mở lòng mình ra cách nào. Muốn dễ phần nào, ta dựa vào gương các nhân vật trong Tin Mừng Phục Sinh.
Trước hết, ta mở lòng ta ra bằng sự khiêm tốn theo gương các tông đồ.
Sau biến cố Chúa tử nạn, các tông đồ hết còn dám cậy mình, hết còn muốn tranh giành địa vị. Trái lại, các Ngài khiêm tốn trở về với bản thân hèn mọn của mình, chấp nhận sống thân phận “từ bỏ mình, vác Thánh Giá mà theo Chúa”, coi Thánh Giá là vinh quang. Coi phục vụ đẹp hơn là được phục vụ, nhận Chúa là điểm tựa tuyệt đối của mình. Lòng khiêm tốn của các Ngài đã là một cửa đẹp đón Chúa Phục Sinh.
Một cửa khác làm đẹp lòng ta ra là sự sám hối theo gương thánh Phêrô.
Thánh Phêrô, sau khi chối Thầy, đã sám hối. Ngài không tìm đổ lỗi cho ai. Ngài không tìm kết án ai. Ngài mhận mình có lỗi với Thầy mình. Ngài nhận mình có lỗi với tập thể của mình. Ngài ăn năn, vì đã làm cho Thầy buồn. Ngài hối hận, vì đã làm gương xấu cho tập thể. Ngài sám hối và tin vào lòng thương xót Chúa. Lòng sám hối của thánh Phêrô đã là một cửa đẹp đón Chúa Phục Sinh.
Một cửa khác để mở lòng ta ra là sự quảng đại theo gương thánh Mađalena.
Trong một cuộc tử nạn, Chúa Giêsu bị rơi vào cảnh cùng cực thê thảm. Đạo đời lên án, mọi người xa tránh, quần chúng khinh chê, sự nghiệp như tan tành. Tất cả như đã chết. Chúa cũng chết. Chính lúc đó, Mađalena can đảm chứng minh tình thương của mình không chết. Không những không chết, mà còn sống mãnh liệt cho Thầy mình. Bà đòi quyền được chăm sóc cho xác Thầy mình, dù là một xác người đang bị muôn vàn nhục nhã. Bà quên mình, bước trên mọi khó khăn để chia sẻ thân phận khổ đau của Thầy mình, dù chỉ được chia sẻ âm thầm qua một nấm mồ bị canh giữ. Lòng quảng đại của Thánh Mađalêna, đã là một cửa đẹp đón Chúa Phục Sinh.
Một cửa khác để mở lòng ta ra là sự vì Chúa phục vụ người khác theo gương Đức Mẹ.
Dưới chân Thánh Giá, Đức Mẹ đã nhận Gioan làm con, và qua Gioan, Đức Mẹ đã nhận mọi người Chúa muốn trao cho. Nhận để thương yêu, nhận để chăm sóc. Chăm sóc bằng những phục vụ âm thầm đầy tình thương mến. Chăm sóc bằng những việc làm thông thường tế nhị, đầy nhẫn nhục và khiêm cung. Tấm lòng phục vụ của Đức Mẹ, đã là một cửa đẹp đón Chúa Phục Sinh.
* * *
Mở lòng ta ra bằng nhiều cửa, ta đón Chúa Phục Sinh, và ta sẽ thấy Ngài đến với ơn bình an của Tin Mừng Phục Sinh, không phải là một sự nghỉ ngơi êm đềm, tránh thoát được mọi khó khăn. Nhưng nó là những bước đi gieo rắc bất cứ những gì là tốt, có khả năng góp phần xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, một cuộc sống thực sự là sống với tất cả ý nghĩa cao đẹp của danh từ sống nơi con người là hình ảnh của Chúa. Và như thế, là ta hiểu “Bình an cho các con” không phải chỉ là một lời chào chúc của Chúa Phục Sinh, nhưng đó là một sứ mệnh tình thương Chúa Phục Sinh muốn trao cho ta.
Lạy Chúa Phục Sinh, xin đến với con, xin ở lại với con. Amen.
Sách Tông Đồ Công Vụ có ghi lại nội dung một lá thư chung của Hội Nghị các tông đồ gởi giáo đoàn Antiochia. Khi công bố quyết định của Hội Nghị, các tông đồ đã viết: “Đức Chúa Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định là...”.
“Chúa Thánh Thần và chúng tôi”. Đó là một câu nói lên rằng: Các tông đồ đã lãnh ý Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã làm việc liên kết với Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cùng hoạt động với các tông đồ trong việc lãnh đạo Hội Thánh “Chúa Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định”. Đó là câu nói đầy uy tín, đem lại sự an tâm hoàn toàn cho giáo đoàn.
Thực sự, nhiều khi tôi cũng muốn dùng một câu tương tự như thế để nói với anh chị em. Nhưng tôi đã không dùng. Bởi vì tôi chẳng có gì phải đưa ra một quyết định, có tầm vóc như của Hội Nghị các tông đồ. Tuy nhiên, tôi vẫn thường xuyên cố gắng sống liên kết với Chúa Thánh Thần.
Như ta đã được nghe trong Kinh Thánh, Chúa Thánh Thần đã đến với các tông đồ, khi các Ngài đang cầu nguyện trong phòng đóng kín, vì sợ người Do Thái. Nhiều khi tôi cũng sợ hãi lắm. Tôi nhớ tới sự sợ hãi cuả các tông đồ. Một sự sợ hãi gây nên tâm trạng cùng cực, cô đơn, trước sự yếu đuối, bất lực của mình. Chỉ còn biết bám víu vào lời Chúa: “Cha không để các con mồ côi. Cha sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chính trong tình trạng sợ hãi như thế, tôi lại thấy mình không sợ nói: “Chúa Thánh Thần và tôi”.
Nhiều khi tôi cũng đóng cửa các hoạt động bề ngoài lại. Tôi lui vào cuộc sống thầm lặng. Ít còn đi lại. Ít còn gặp gỡ. Ít còn giảng giải. Ít còn tổ chức. Tôi đi sâu hơn vào đời sống nội tâm. Chính trong tình trạng thầm lặng như thế, tôi lại thấy mình có thể nói một cách xác tín: “Chúa Thánh Thần và tôi”.
Chúa Thánh Thần đã đến với các tông đồ, khi các Ngài đang cùng nhau cầu nguyện. Rất nhiều khi tôi đã tăng cường cầu nguyện và xin người khác cầu nguyện cho tôi. Có thể Chúa không soi sáng cho tôi trong lúc cầu nguyện. Nhưng tới lúc, tới việc, tôi vẫn cảm thấy ơn Người. Tôi có thể nói: “Chúa Thánh Thần và tôi”.
“Chúa Thánh Thần và tôi”. Đó là một sự sống ngọt ngào. Mặc dầu sự sống đó, không miễn cho chúng ta những thử thách vốn dành cho thân phận con người, nhất là thân phận con người quyết tâm chọn Chúa.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi nghĩ nhiều đến tương lai Hội Thánh Việt Nam, đến tương lai Hội Thánh tại địa phương chúng ta, đến tương lai từng người chúng ta. Càng nghĩ đến tương lai, tôi càng thấy phải gắn bó hơn với Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là sức mạnh tình yêu Thiên Chúa. Trong một thế giới có rất nhiều giới hạn, chúng ta luôn còn rất nhiều tự do để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu đâu có cần phải xin phép để có thể yêu. Cái khó, chính là biết thương yêu thực sự như Chúa đã thương ta. Nhưng nếu chúng ta gắn bó với Chúa Thánh Thần, thì Chúa Thánh Thần và chúng ta sẽ làm được việc đó. Và chúng ta sẽ thấy một lễ Hiện Xuống mới.
Nói về Chúa Ba Ngôi là nói về một mầu nhiệm. Tôi nhớ hồi xưa ở chủng viện, tôi phải qua nhiều năm học Triết, Thần, mới dần dần hiểu thế nào là Ngôi, thế nào là bản tính, để rồi mới lại càng thấy Thiên Chúa Ba Ngôi cùng một bản tính là điều hết sức khó hiểu. Tôi phải nhức đầu, nhức óc lắm mới hiểu được một chút. Dù có hiểu được tới đâu, Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn là một mầu nhiệm.
Tuy nhiên, khi tôi cầu nguyện với Chúa Ba Ngôi, tôi chẳng bao giờ dùng đến những lý thuyết phức tạp đó. Tôi gặp gỡ Chúa Ba Ngôi một cách đơn sơ, theo như một số hình ảnh Chúa Giêsu dùng trong Phúc Âm.
Trong Phúc Âm, khi nói về Thiên Chúa Ngôi Cha, Chúa Giêsu thường gọi Người là Đấng sai đi: “Lời các con nghe không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng sai Thầy”.
Trong Phúc Âm, khi nói về Thiên Chúa Ngôi Ba, Chúa Giêsu thường gọi Người là Đấng được sai đi để Phù Trợ: “Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Chúa Cha sẽ sai đến để nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy các con mọi điều”.
Trong Phúc Âm , khi nói về chính mình là Thiên Chúa Ngôi Hai, Chúa Giêsu thường xưng mình là kẻ được sai đi để cứu độ: “Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống trần, không phải để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Người mà được cứu độ”.
Những quan niệm đơn giản trên đây , tạo nên những hình ảnh đơn giản. Chúa Cha là Tình Yêu vô cùng tạo dựng. Chúa Con là Tình Yêu vô cùng cứu độ. Chúa Thánh Thần là Tình Yêu vô cùng phù trợ. Thiên Chúa là Tình Yêu. Khi đọc kinh “Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”, tôi để mình như chìm vào Tình Yêu vô cùng ấy.
Anh chị em có để ý điều này không: Các kinh Đức Mẹ và các thánh, thường dài và nhiều. Có những ông thánh bà thánh nhỏ, thế mà kinh lại kể lể dài dòng. Chỉ kinh Thiên Chúa Ba Ngôi là đơn giản: “Sánh danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng, và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen”. Đừng tìm hiểu tại sao cả. Đơn sơ vắn tắt là một hình thức dễ nhớ, dễ đọc. Bởi đó là một kinh rất nên đọc. Đọc rất có lợi.
Đọc kinh Sáng Danh, ta tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng ta, đã cứu độ ta, vẫn phù trì ta. Đọc kinh Sáng Danh, ta mong nuốn được Chúa không ngừng tạo dựng những điều tốt nơi ta, được Chúa không ngừng cứu độ ta, được Chúa không ngừng phù trợ ta. Đọc kinh Sánh Danh, ta tìm cách thực hiện ơn Chúa sai ta đi vào lịch sử hôm nay. Sai đi để tạo dựng những gì là tốt trên mọi lãnh vực. Sai đi để cứu độ con người khỏi những tội lỗi, khỏi cơ cực, khỏi mặc cảm, khỏi áp bức bất công. Sai đi để phù trợ Hội Thánh và những kẻ bé mọn nghèo nàn.
Thánh Bernadette kể: Những lần Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức, mỗi khi Đức Mẹ lần chuỗi chung với Bernadette, đến kinh Sáng Danh, Đức Mẹ bao giờ cũng vừa đọc vừa cúi đầu. Hiện nay phụng vụ nhiều nơi vẫn còn giữ thói quen cúi đầu khi đọc kinh Sánh Danh. Cúi đầu để tỏ dấu thờ lạy, cung kính.
Phần tôi, tôi cúi đầu, cũng còn có ý phó thác trọn vẹn bản thân và đời tôi cho Chúa Ba Ngôi, với những yếu đuối vô vàn, với những khó khăn vô kể, với những thiện chí bé mọn. Phó thác trọn vẹn tất cả, vì tôi vững tin vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Dưới sức mạnh vạn năng của tình yêu Thiên Chúa , tất cả đều có thể trở thành Sáng Danh Ba Ngôi Thiên Chúa đời đời. Amen.
Không biết anh chị em có để ý điều này không, đó là một số bí tích thường phải do chính Giám Mục làm, và số tham dự phụng vụ bí tích đó phải có tính cách đại diện cho cộng đoàn dân Chúa.
Điều này, có nhiều ý nghĩa. Hôm nay tôi nhắc đến một ý nghĩa này mà thôi. Đó là lễ nghi các bí tích đó muốn nhắc cho người có đạo thấy một cách cụ thể hình ảnh sống động của Hội Thánh địa phương, mà mình phải gắn bó.
Ta đang thấy đây: Chúng ta đang làm một thánh lễ. Nhưng có phần thì tất cả mọi người cùng làm, có phần chỉ một người giáo dân làm, có phần chỉ linh mục làm, có phần chỉ Giám Mục làm.
Tuy các việc đó khác nhau, nhưng đều ăn khớp với nhau, cùng bổ túc cho nhau. Tuy chúng ta là nhiều người, mang tên khác nhau, chỗ đứng khác nhau, làm việc khác nhau, nhưng chúng ta đang thể hiện một sự sống chung. Cùng sống một đức tin, cùng sống một đức cậy, cùng sống một đức mến. Một sự sống chung có trật tự, có hài hòa, có hiệp nhất.
Ngoài chúng ta đang nhìn thấy nhau đây, thì trong thánh lễ này còn ai nữa không. Thưa còn. Còn một vị rất quan trọng, đặc biệt quan trọng. Nếu thiếu vị đó, thì thánh lễ trở nên trống rỗng. Vị đó là ai. Thưa là chính Chúa. Ta không nhìn thấy Người. Nhưng thật sự Người có mặt ở đây. Chúa ngự trong nhà chầu. Chúa đang ở giữa chúng ta. Chính Chúa mới làm nên sự sống thiêng liêng cho thánh lễ. Chính Chúa mới là sự sống thiêng liêng sẽ còn lại nơi mỗi tâm hồn ta, sau khi thánh lễ kết thúc.
Hôm rồi, tôi hỏi một em nhỏ đi lễ: Con có đạo thì con có cần Chúa và mến Chúa không?. Nó thưa có. Tôi lại hỏi: Con có đạo thì con có cần mấy cha và mến mấy cha nhà thờ con đây không?. Nó thưa có. Tôi hỏi thêm: Con có đạo thì con có cần Đức Cha và mến Đức Cha không?. Nó thưa có. Tôi hỏi tại sao, thì nó đưa ra những lý do thật đơn giản. Nhưng rõ ràng là nó nhận thấy nó cần Chúa, cần linh mục, cần Giám Mục.
Ít là phải như thế. Sống trong Hội Thánh thì phải biết gia đình tôn giáo của mình là những ai, phải biết gắn bó vào đó, phải biết nương tựa vào đó. Mến yêu gìn giữ gia đình tôn giáo của mình cũng chính là mến yêu và gìn giữ lợi ích của chính mình. Anh chị em thân mến,
Linh mục, Giám Mục có thể thiếu đi, nhưng Chúa không bao giờ thiếu. Tuy nhiên, nếu tại lỗi của mình mà phải thiếu linh mục, Giám Mục, thì đó không phải là con đường để gặp được Chúa.
Lạy Đức Mẹ Maria, Mẹ đã lên trời, nhưng Mẹ vẫn nhìn thấy chúng con. Mẹ là Mẹ Hội Thánh. Xin Mẹ luôn phù trợ Hội Thánh tại họ đạo chúng con. Xin Mẹ thương che chở Hội Thánh tại địa phận chúng con.
Đức Mẹ lên trời năm nào thì không ai dám chắc. Chỉ chắc là sau khi Chúa Giêsu lên trời, và sau khi Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, thì Đức Mẹ còn sống bên thánh Gioan nhiều năm.
Khi Đức Mẹ được Chúa đem về trời, thì tình hình Hội Thánh lúc đó rất đơn nghèo, nhưng cũng rất dồi dào sức sống.
Hội Thánh lúc đó phải nhận là rất đơn nghèo. Rất đơn nghèo về mặt nhân sự, bởi vì lúc đó số Giám Mục, Linh Mục rất ít, giáo dân lại rất phức tạp. Hội Thánh lúc đó lại rất đơn nghèo về mặt tổ chức, bởi vì lúc đó chưa có giáo luật, chưa có qui định về phụng vụ, chưa có hội đoàn, chưa có phong trào, chưa có tu hội, liên hệ giữa cộng đoàn này với cộng đoàn khác rất giới hạn. Hơn nữa, Hội Thánh lúc đó cũng rất đơn nghèo về các phương tiện sinh hoạt, bởi vì lúc đó rất thiếu nhà thờ, rất thiếu sách vở, rất thiếu của cải, nhất là thiếu tự do.
Về nhiều mặt, Hội Thánh lúc đó thực là quá đơn nghèo. Nhưng về phương diện đức tin, Hội Thánh lúc đó lại rất dồi dào sức sống. Theo sách Tông Đồ Công Vụ thì lòng tin mến của người có đạo lúc đó rất trong sáng và sâu sắc. Lòng đạo của họ giống như một cái đèn pha bịt kín cả ba mặt, tập trung ánh sáng dọi vào một trọng điểm, nên càng làm cho trọng điểm đó rực sáng khác thường. Giáo lý và lòng đạo của họ không tản mác vào các việc phụ thuộc nhưng tập trung vào Chúa Giêsu Kitô, là Thiên Chúa làm người, Đấng cứu chuộc nhân loại.
Lòng đạo của họ tập trung vào Chúa Kitô, và lòng đạo tập trung đó được nhận thấy qua những nhiệt tình sau đây:
1/- Họ nhiệt tình với giáo huấn của các tông đồ là những môn đệ của Chúa Kitô, và là nhân chứng về Chúa Kitô.
2/- Họ nhiệt tình với các việc thực hành đức yêu thương bác ái là giới răn mới, giới răn quan trọng bậc nhất do Chúa Kitô đã truyền.
3/- Họ nhiệt tình với bí tích Thánh Thể là giao ước mới, và cũng là lương thực Chúa Kitô đã để lại.
4/- Họ nhiệt tình với việc cầu nguyện là việc Chúa Kitô đã làm thường xuyên, và đã khuyên làm.
5/- Sau cùng, họ nhiệt tình với Chúa Thánh Linh, là Đấng mà Chúa Kitô đã hứa sẽ được Chúa Cha sai đến, để phù trợ Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế.
Tất cả những nhiệt tình đó, là những đời sống chuyển ơn Chúa đến lòng họ, thêm sức cho họ, để lòng đạo của họ trở nên vững mạnh.
Lòng đạo của họ vững mạnh sáng suốt đến nỗi họ chịu sống khổ chết khổ vì Chúa, chứ thà không phản bội. Lòng đạo của họ phấn khởi và tin tưởng đến nỗi hồi đó, điều làm cho một người có đạo lấy làm hân hoan hãnh diện, không phải là thấy mình được một cuộc sống đạo dễ dãi cưng chiều, nhưng là thấy mình được chịu sỉ nhục, tù đày, bị hành hạ vì danh Chúa. Lòng đạo của họ quảng đại đến nỗi, mỗi người đều tự nguyện để của riêng mình làm của chung, sống với nhau như một gia đình chan hòa tình thương thắm thiết.
Anh chị em thân mến,
Tình hình Hội Thánh khi Đức Mẹ lên trời có thể tóm tắt là thế. Một Hội Thánh rất đơn nghèo, nhưng đồng thời cũng rất sinh động. Một Hội Thánh nhẹ về hình thức, nặng về thực chất. Một Hội Thánh khiêm tốn, và đồng thời rất dồi dào sức sống.
Những nét trên đây, về tình hình Hội Thánh khi Đức Mẹ lên trời sẽ giúp cho chúng ta nhận ra hướng đi của Hội Thánh tại địa phương ta hiện nay. Điều quan trọng ta cần để ý, là mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hiện hướng đi đó nơi chính bản thân mình. Thí dụ về nhiệt tình cầu nguyện, thì không phải cứ đợi tới nhà thờ mới cầu nguyện, rồi tới nhà thờ lại đợi xướng kinh mới nói với Chúa. Nhưng hãy tập quen cầu nguyện bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Chẳng hạn đang khi đi đường, đang khi làm việc, thỉnh thoảng âm thầm nói với Chúa: Lạy Chúa con tin mến Chúa hết lòng, là Đấng cứu độ con. Như thế cũng là cầu nguyện, vắn tắt, âm thầm, dễ dàng và rất đẹp lòng Chúa. Thí dụ về bác ái, thì không cần đợi có kẻ ăn xin mới nhớ tới bác ái, nhưng hãy thực hiện ngay trong gia đình, xóm ngõ, bằng những việc thông thường, chẳng hạn lễ phép, nhịn nhục, tha thứ, giúp đỡ, chân thành, nhân ái vv...
Lạy Mẹ Maria, Mẹ lên trời, là bổn mạng của họ đạo chúng con. Chúng con hôm nay mừng lễ Mẹ Lên Trời cùng với lễ Thêm Sức. Xin Mẹ thương giúp chúng con biết theo gương Mẹ đi lên trời, bằng những bước âm thầm khiêm tốn, hiệp thông khắng khít với Chúa Kitô và trong sức mạnh sinh động của Chúa Thánh Thần. Amen.
Bí tích Thêm Sức hôm nay được cử hành sau nhiều ngày chờ đợi. Anh chị em chờ đợi. Tôi chờ đợi. Khi suy nghĩ về sự chờ đợi này, tôi thấy có những ý nghĩa tốt về mặt đạo. Ở đây, tôi nêu lên hai ý nghĩa:
Ý nghĩa tốt thứ nhất là giúp cho tinh thần sống đạo được sâu sắc hơn.
Sống đạo là gì? Thưa về mặt nào đó, sống đạo là tìm về và là chờ đợi. Tìm về Chúa, chờ đợi Chúa. Và tìm về con người, chờ đợi con người.
Đọc Phúc Âm, ta thấy Chúa Giêsu đã nên gương sống đạo như thế. Ngài tìm về Thiên Chúa Cha, và chờ đợi đến giờ làm theo ý Chúa Cha. Ngài chờ đợi 30 năm để tới thời kỳ rao giảng. Ngài chờ đợi 33 năm để tới giờ nạp mình chịu chết chuộc tội cho nhân loại. Ngài chờ đợi 3 ngày để tới giờ sống lại. Ngài chờ đợi 40 ngày để tới giờ lên trời. Ngài chờ đợi thêm 10 ngày nữa để sai Chúa Thánh Thần xuống.
Ngoài ra, Chúa Giêsu tìm đến người này, lui tới nơi kia, tìm con người ở hội đường, ở cánh đồng, ở bãi biển, ở sườn núi, ở nhà tư. Ngài chờ đợi con người suy nghĩ, cho con người hối cải, cho con người trở lại đàng lành. Ngài chờ đợi ở lòng người.
Theo giáo lý Phúc Âm, tìm về Chúa và chờ đợi Chúa, tìm về con người và chờ đợi con người, là những việc vất vả và kiên trì, giống như sự tìm kiếm và đợi chờ của người lao động. Điều đó được diễn tả trong dụ ngôn: Nước Trời giống như sự chờ đợi của người làm vườn gieo cải. Phải gieo phải đợi cho mọc mầm, phải chờ cho mầm non nảy rể, nảy lá. Phải đợi cho cây nhỏ bé đó lớn lên dần dần.
Rồi Nước Trời như sự đợi chờ của người nông dân trước cánh đồng. Họ xạ lúa. Họ đợi, họ chờ. Nếu ruộng có cỏ lùn mọc chen vô, thì cũng đợi tới mùa sẽ phân loại. Chính cuộc sống ta cũng là một sự đợi chờ.
Tìm kiếm, đợi chờ. Tìm kiếm Chúa và chờ đợi Chúa. Tìm kiếm con người, chờ đợi con người, mặc dù phải vất vả nhẫn nhục khiêm tốn. Đó là môt thái độ sống đạo đúng Phúc Âm, mà Chúa đang dùng nhiều cách, để huấn luyện ta. Đó cũng là điều thời gian qua, Chúa làm nơi anh chị em. Khi biết dùng hoàn cảnh, khí hậu, quả sẽ tốt.
Ý nghĩa tốt thứ hai là giúp đường hướng mục vụ sống phúc âm giữa lòng dân tộc được minh chứnh rõ rệt.
Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc, đó là đường hướng mục vụ đã được đại hội Giám Mục Việt Nam xác định trong thư chung 1980. Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc là giữ đạo mà hoà mình với dân tộc là giữ đạo mà đặt mình vào luật pháp và các vấn đề chung của đất nước, là giữ đạo mà thích nghi các sinh hoạt tôn giáo sao cho hợp với cuộc sống xã hội chủ nghĩa.
Để hòa mình, ta phải khiêm tốn. Chúa Giêsu ví ta như hạt giống. Hạt giống có thối đi, mới trổ sinh thành cây. Chúa ví ta như men. Men có tan hoà, mới phục vụ được cho bột bánh, cho cơm rượu. Chúa ví ta như muối. Muối có tan hoà, mới phục vụ cho đồ ăn.
Hạt giống thì bé nhỏ. Men cũng bé nhỏ. Muối cũng bé nhỏ, mà phải tan hòa vào cái khác, mới đạt được mục đích phục vụ của mình.
Tôi vừa kể ra hai ý nghĩa tốt cho sự biết dùng thời gian chờ đợi vừa qua. Tôi nghĩ là tương lai sẽ còn nhiều việc tương tự. Nếu ta biết dùng, thì đạo sẽ tốt, đức tin sẽ mạnh hơn. Nhìn tương lai, tôi suy nghĩ nhiều lắm. Càng suy nghĩ, tôi càng thấy là:
- Ta cần phải cầu nguyện nhiều hơn.
- Ta cần phải khiêm tốn nhiều hơn.
- Ta phải cần bác ái nhiều hơn.
Tôi vững tin vào Trái Tim Chúa Giêsu, là Đấng cứu chuộc giàu tình thương xót. Tôi vững tin vào Chúa Thánh Thần, là Đấng phù trợ. Tôi cậy trông Thánh Tâm Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần hằng ở với Hội Thánh, sẽ ban cho ta đúng lúc các ơn cần thiết, như ơn khôn ngoan, ơn can đảm.
Với lòng tin cậy đó, giờ đây nhìn lên Chúa, chúng ta xin Chúa thêm sức thiêng liêng cho con em ta, cho chính mình ta. Nhân dịp này, ta cũng sốt sắng cầu nguyện cho Tổ Quốc được bình an thịnh vượng, cho đồng bào được no ấm, và luôn luôn biết đoàn kết trong tình yêu thương chân thành. Xin cũng cầu nguyện cho chúng tôi rất nhiều. Amen.
Cách đây hơn 40 năm, tôi cũng đã có lần Rước Lễ Lần Đầu, cũng đã có một lần chịu phép Thêm Sức. Bây giờ tôi không còn nhớ, trong các ngày lễ đó tôi đã mặc áo gì, đã dự lễ với những ai. Tôi cũng chẳng còn giữ được một kỷ niệm nào về lễ đó. Tất cả đều qua đi. Không còn những hồi hộp, không còn niềm vui ngây thơ thuở ấy .
Tuy nhiên, bây giờ vẫn còn lại một sự, một sự mà tôi thấy càng ngày càng sâu đậm, đó là sự CHÚA Ở VỚI TÔI. Chúa ở với tôi, đó là một sự thực. Chúa ở với tôi, đó là một điều tôi biết được không phải chỉ do đức tin, mà cũng do kinh nghiệm sống.
Có người hỏi tôi: Chúa ở với Cha, thì Cha cảm thấy thế nào?
Tôi xin thưa: Thực mà khó tả được một cảm nghiệm nội tâm. Nhưng tôi cứ thử diễn tả, may ra cũng nói được phần nào.
Chúa ở với tôi, tôi nhận thấy điều đó ở sự tôi cảm thấy trong tôi có một sức mạnh nhiệm mầu không phải của tôi, nhưng là của một nguồn mạch thiêng liêng nào đó, luôn kéo tôi tin cậy tuyệt đối vào Chúa, một sức mạnh êm dịu luôn thôi thúc tôi tìm gặp Chúa, luôn kêu gọi tôi hãy mến Chúa yêu người hơn.
Chúa ở với tôi, tôi nhận thấy điều đó ở sự tôi cảm thấy trong tôi có một sự sống không phải của tôi, nhưng là của một Đấng nào đó siêu nhiên. Sự sống đó thêm vào sự của tôi, nâng tôi lên một bầu trời mới, cho tôi thấy mình là con Chúa, được hứa hẹn sẽ có ngày về cùng Chúa hưởng hạnh phúc vô biên.
Chúa ở với tôi, tôi nhận thấy điều đó ở sự tôi thấy trong tôi có một tình yêu của tôi, nhưng là của một trái tim nào đó siêu việt, vô cùng nhân ái, luôn đồng hành với tôi trên mọi chặng đường đời sống, để khuyên răn, ủi an, khích lệ và cũng để tha thứ cho tôi.
Chúa ở với tôi, tôi nhận thấy điều đó ở sự tôi cảm thấy trong tôi có một luồng sáng không phải của tôi, nhưng là của một Mặt Trời nào đó cao vời trong sáng, luôn giúp tôi thấy mình nhỏ bé, yếu đuối, có nhiều giới hạn, để tôi càng biết khiêm tốn cậy trông gắn bó với Chúa, là điểm tựa đáng tin cậy nhất của tôi.
Tôi còn có thể kể ra rất nhiều cảm nghiệm khác về sự Chúa ở với tôi. Mỗi người anh chị em, Kẻ nhiều người ít, cũng có một số cảm nghiệm về Chúa. Người ta nhìn ta, chỉ ta mà không thấy Chúa đang ở trong ta. Người ta chụp hình ta, chỉ thấy hình ảnh ta, mà không thấy hình ảnh Chúa trong ta. Điều đó chẳng có gì lạ. có ai nhìn được tình yêu đâu. Có ai chụp được hình ảnh tình yêu trong ta bao giờ. Người khác có nhận ra Chúa ở với ta hay không nhận ra, thì điều đó không quan trọng lắm. Điều quan trọng là chính ta phải biết giá trị của sự Chúa ở với ta. Đó là một kho tàng. Đó là một ân huệ. Ta cần bảo vệ. Ta cần biết ơn.
Cách nào. Theo tôi, Chúa ở với ta có thể là để phục vụ ta, thì để biết ơn Chúa, ta cũng hãy biết sống tinh thần phục vụ. Phục vụ gia đình, phục vụ đồng bào đất nước, phục vụ Hội Thánh. Phục vụ bằng những việc thường ngày, trong khả năng của mình. Chúa ở cùng Đức Mẹ, và Đức Mẹ cũng làm như thế. Đôi khi tôi cảm thấy những đứa trẻ nói là đi học đạo để phục vụ Hội Thánh, nhưng việc gia đình mình thì không lo làm, học hành ở trường thì lại bê trễ, đối xử với người xung quanh thì lại thờ ơ vô lễ. Đó không phải là tinh thần phục vụ phản chiếu sự Chúa ở trong họ. Đó không phải là tinh thần phục vụ của cuộc sống đức tin đích thực.
Anh chị em thân mến,
Trong thánh lễ, chủ tế chào chúc anh chị em: “Chúa ở cùng anh chị em”. Anh chị em đáp: “Và ở cùng Cha”. Đó là một lời chúc rất ý nghĩa. Hôm nay tôi nói lên lời chúc đó với tất cả ý thức và tình thương. Tôi mong một ngày nào đó, mỗi người anh chị em có thể kể lại cho người khác nghe những cảm nghiệm của chính mình về sự Chúa ở với anh chị em thế nào. Xem có giống như tôi mới kể không. Mong là sẽ phong phú hơn, sẽ chi tiết hơn, sẽ thú vị hơn.
Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy. Mẹ đã được Thiên Thần chào khen là “Chúa ở cùng Mẹ” Mẹ biết đó là lời khen đẹp nhất, đó là lời chúc đầy đủ nhất. Xin Mẹ giúp con theo gương Mẹ, càng ngày càng thấu hiểu, càng biết sống đúng lời chúc khen đó. Amen.
So sánh họ đạo Phú An với các họ đạo khác trong họ đạo An Giang,tôi thấy họ đạo Phú An có một vị trí rất tế nhị. Tế nhị, vì các nẻo đường từ tỉnh đến họ đạo này, dù đường sông, đường bộ, đều phức tạp. Tế nhị, vì họ đạo này vừa bé nhỏ, vừa xa cách các họ đạo khác, vừa ở giữa một địa phương không cùng tín ngưỡng. Vị trí tế nhị của họ đạo đã được anh chị em ý thức một cách sâu sắc. Vị trí tế nhị, cũng là một vấn đề đặt ra cho địa phận Long Xuyên chúng ta. Vấn đề đặt ra là: Ở vào một vị trí tế nhị, thì cách sống đạo của ta phải tế nhị thế nào? Tôi không đủ khôn ngoan sáng suốt để đưa ra một giải đáp đầy đủ. Ở đây, tôi chỉ muốn nói lên một số gợi ý, góp vào những kinh nghiệm quí báu của anh chị em.
1.- Trước hết, ở một vị trí tế nhị, thì sống đạo phải rất tế nhị ở chỗ là phải biết “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” một cách sáng suốt.
Năm rồi, dịp lễ Ngân Khánh cha Bổn Sở, tôi đã nhắc đến đường hướng sống đạo được lựa chọn, đó là sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc. Hôm đó, tôi đến Phú An bằng đường sông, nên tôi đã ví Hội Thánh như con đò. Con đò đưa tôi đến đây có lúc gặp nước ngược, có lúc gặp nước xuôi, có đoạn sông có sóng lớn, gió động, có lúc gặp trời nắng, có lúc gặp trời mưa. Nhưng đò đã tới đích. Chính vì con đò biết kiên trì bám vào dòng sông, biết khéo đặt mình vào các loại sông, nhất là biết gắn bó với dòng nước đưa mình đi. Hội Thánh và sống đạo cũng tương tựa phải như thế. Phải biết đặt mình vào hoàn cảnh cuộc sống cụ thể của đất nước, của địa phương, phải chia sẻ các trách nhiệm, các vui buồn của dân tộc, của đồng bào chung quanh. Đối với con đò, thì con sông nó đi là một điểm tựa. Đối với con đò Hội Thánh tại một địa phương thì đất nước nói chung, và địa phương nói riêng, cũng được coi là điểm tựa, vì sống đạo là sống trên dòng sông cụ thể đó. Nhất là sống tế nhị.
2.- Ngoài ra, ở một vị trí tế nhị, thì sống đạo phải rất tế nhị ở chỗ là phải sống Phúc Âm với tinh thần cởi mở một cách đúng đắn.
Sống Phúc Âm với tinh thần cởi mở là sống đạo không đóng khung trong những khuôn khổ cứng nhắc, cố định, nhưng biết phục vụ Chúa và phục vụ con người, bằng những bước đi tuy uyển chuyển về hình thức, nhưng vững vàng và trong sáng về căn bản Phúc Âm. Ta biết lịch sử Hội Thánh là lịch sử những can thiệp của Chúa Thánh Linh. Mà Chúa Thánh Linh thì rất nhiệm mầu. Kinh Thánh ví Chúa Thánh Linh như gió, như hơi thở, như nước, như lửa. Đó là những hình ảnh sinh động uyển chuyển. Thực tế đúng là như thế. Tôi đưa ra một ví dụ: Khi Chúa Giêsu mới từ giã các tông đồ về trời, thì Hội Thánh lúc đó ở một vị trí rất tế nhị. nhiều tín hữu chủ trương một kiểu sống đạo khép kín, đóng khung vào các luật lệ phức tạp. Nhưng Thánh Phaolô lại nghĩ khác. Ngài mở một con đường sống đạo nhẹ nhàng đơn giản hướng về dân ngoại. Bây giờ thì ai cũng phải công nhận con đường cởi mở của Ngài là hợp lý, có đầy ơn Chúa Thánh linh. Nói thế không phải cứ mở mà không cần thận trọng. Muốn mở một cái cửa, ta phải dùng đúng chìa khóa, phải quay đúng chiều, phải xoay đủ vòng, thì mở cửa mới không làm cho cửa hư. Rồi đến, nếu mở cửa vào một lúc chỉ đón bụi bặm thêm, hoặc càng làm cho căn phòng thêm lạnh thêm nóng, hoặc lại mở dịp cho kẻ gian lẻn vào lấy trộm, thì mở cửa như thế đâu phải là việc tốt. Như vậy, có nghĩa là cởi mở trong việc sống đạo phải có trật tự, khôn ngoan và thận trọng. Phải rất tế nhị.
3.- Sau cùng, ở một vị trí tế nhị, thì sống đạo phải rất tế nhị ở chỗ là phải sống Phúc Âm với tinh thần tự chế.
Tự chế là bớt đi, bỏ đi những lợi ích nhỏ, để phục vụ lợi ích cao hơn. Tôi ví dụ : Lễ hôm nay được tiến hành một cách vắn gọn, tiết kiệm, không kèn trống, không rước xách, đó là tự chế, bỏ đi những niềm vui nhỏ không cần thiết, để phục vụ cho lợi ích cao hơn, đó là để tập trung sự cầu nguyện, và để thích hợp hơn với hoàn cảnh thực tế hôm nay. Muốn tự chế tốt, thiết tưởng cũng cần biết nhạy cảm và bác ái, đôi khi cũng phải can đảm. Trong thực tế, họ đạo ta, địa phận ta đã hạn chế đã nhiều sinh hoạt tôn giáo. Do đó, tôi thấy cần lưu ý điều này là chính vì tế nhị, nên khi ta hạn chế những gì không phản bội lại tôn giáo, ta không được phép đưa sự tự hạn chế đến mức độ có thể gây hiểu lầm không tốt cho chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, và có thể gây hại cho mối đoàn kết đạo đời. Theo tôi, thì một cuộc lễ tương đối vui vẻ trong trật tự như lễ hôm nay, mà giúp cho giáo dân thêm tin tưởng vào hướng đi lên của Quê Hương Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, và cũng giúp cho tình đoàn kết đạo đời tại địa phương được tốt đẹp thêm, thì đó là những lợi ích lớn.
Nói đến tinh thần tự chế, tôi thấy cần nói thêm là có một sự chắc chắn nhất ta phải tự hạn chế tối đa, mà không sợ lầm, đó là tội lỗi, và các tính mê nết xấu của ta. Hãy hạn chế tối đa những thói quen xấu, những nghiêng chiều xấu trong ta, đó chính là cách sống đạo tế nhị nhất, ở một vị trí tế nhị.
Trên đây là những chỉ dẫn tôi xin gởi đến anh chị em. Tấm gương đẹp nhất về sống đạo một cách tế nhị là Đức Mẹ. Trong suốt cuộc sống trần gian, Đức Mẹ đã ở một vị trí rất tế nhị và Người đã thực sự sống đạo một cách rất tế nhị. Một con người âm thầm kín đáo và nhiệt tâm cởi mở. Một con người nhân ái khiêm từ, ít nói và hay cứu giúp. Hôm nay mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, nhưng Hội Thánh chẳng biết chắc Đức Mẹ sinh ngày nào, năm nào. Mới rồi mừng lễ Đức Mẹ lên trời, nhưng Hội Thánh cũng chẳng biết Đức Mẹ đã chết năm nào, ngày nào. Đức Mẹ kín đáo khiêm tốn, bỏ đi những chi tiết thuộc về mình, để chỉ nói lên một điều căn bản: “Này là tôi tớ Chúa”.
Lạy Mẹ xin thương giúp chúng con biết theo gương Mẹ, mà sống đạo một cách tế nhị. Xin giúp chúng con biết sống thế nào, để trong mọi hoàn cảnh, chúng con luôn có thể nói với Chúa: Này con là tôi tớ Chúa. Amen.
Nếu được hỏi về họ đạo Kinh Ông Quít, tôi trả lời: Họ đạo Kinh Ông Quít là một họ đạo nghèo. Nhà thờ và khu nhà thờ như thế này, thì không gọi là nghèo sao được. Nhất là nhiều giáo dân họ đạo ta, xưa rày sống cảnh kinh tế gia đình rất eo hẹp, thì không gọi là nghèo sao được.
Đạo không muốn ta nghèo. Đời không muốn ta nghèo. Bản thân ta càng không muốn mình nghèo. Nghèo là một cái gì ta muốn vượt qua. Vượt qua bằng cách nào. Đó là vấn đề luôn ám ảnh đầu óc anh chị em, đầu óc chúng ta. Chân thành mà nói, thì vấn đề này tôi không đủ khả năng giải quyết. Tuy nhiên, ở đây, đứng trên cương vị mục tử, tôi có vài nhắc nhở về vấn đề cam go đó.
Trước hết, để vượt qua cảnh nghèo, ta không được phép dùng những phương cách trái đạo lý. Tôi nói thế, vì tôi nghe nơi này nơi nọ, không biết ở họ đạo ta có không, đã xảy ra nhiều trường hợp làm ăn trái đạo lý, như trộm cắp, bài bạc, đĩ điếm, cho vay ăn lời quá đáng, lường gạt, vv... Giải quyết cảnh nghèo bằng cách đó là giải quyết sai trái. Những việc làm đó, sẽ làm nghèo lương tâm ta, sẽ làm nghèo hy vọng cho số kiếp đời đời của ta. Người thất đức là người nghèo nhất. Thất đức là một thứ nghèo còn tệ hơn là nghèo của cải. Ta đọc kinh: “Lạy Chúa con, con tin thật có một Đức Chúa Trời, là Đấng thưởng phạt vô cùng” thì ta hiểu: Người có đức sẽ được Chúa thưởng, người có tội sẽ bị Chúa phạt. Thưởng phạt không cách này thì cách khác, không đời này thì đời sau. Làm nên của cải bằng hành động bất công thất đức thì cũng như cất nhà trên lửa. Sớm muộn rồi sẽ bị tiêu tan.
Ngoài ra, tôi cũng nghe nói, nơi này nơi nọ, không biết họ đạo ta có không, đã có người muốn giải quyết cảnh nghèo bằng những hành động nặng tính chất mê tín: Như tin vào bói toán, bùa ngải, đồng bóng, vv... Đó là những giải quyết vừa nhảm nhí, vừa vô hiệu, và nhiều khi cũng rất tai hại. Nó làm cho con người trở nên lạc hậu, lệch lạc, đi vào con đường suy thoái. Nó làm nghèo phẩm chất con người. Giáo lý đạo ta không bao giờ chấp nhận mê tín dị đoan dưới bất cứ hình thức nào.
Cảnh nghèo là một thực tế, thì giải quyết nó cũng phải thực tế. Nhắc nhủ thực tế của tôi là thế này: Để góp phần giải quyết cảnh nghèo, ta hãy cố tìm cách làm giàu khối óc của ta, ta hãy cố tìm cách làm giàu đôi tay của ta.
Cái làm giàu khối óc là học vấn, là kiến thức, kiến thức phổ thông và kiến thức chuyên môn. Thực sự là nhiều khi thiếu ăn thiếu mặc đâu phải do thiếu học. Nhưng về lâu về dài, thiếu học có rất ít khả năng vươn lên.
Làm giàu khối óc chưa đủ, còn phải để ý làm giàu tấm lòng của ta. Cái làm giàu tấm lòng của ta là nhân đức, như lương thiện, nhân ái, trung tín, đảm đang. Chớ tưởng nhân đức không ảnh hưởng đến kinh tế. Nhiều nơi kinh tế không sao vươn lên được, chỉ vì thói làm ăn không lương thiện, thiếu tín trung, thiếu nhã nhặn, thiếu cần cù.
Ngoài việc làm giàu khối óc và tấm lòng, ta còn cố gắng làm giàu đôi tay của ta. Cái làm giàu đôi tay ta là tài nghệ. Càng nhiều tài nghệ, càng có nhiều cơ may xoay sở.
Để ý làm giàu ba mặt tôi vừa nói chỉ là một phần giải quyết. Thành công cũng còn tùy thuộc ở hoàn cảnh, ở tài nguyên. Nhưng theo tôi, tài nguyên quan trọng nhất vẫn là con người. Và trong những hoàn cảnh khó nhất. Con người có học, có đức, có tài vẫn là hy vọng mang nhiều bảo đảm nhất.
Thánh lễ Thêm Sức hôm nay, với ơn Chúa, với những lời chúng ta trao đổi, với những tâm tình chúng ta chia sẻ, cũng góp một phần khiêm tốn vào việc làm giàu con người. Như thế, cũng là một cách thực hiện phần nào Tin Mừng. Tin Mừng mà Chúa đã phán xưa: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó”. Chúa Thánh Thần được Giáo Hội gọi là “Cha của kẻ nghèo túng, là nơi nghỉ ngơi của kẻ cơ bần, là Đấng an ủi những ai khóc lóc”. Hôm nay, ngày mai, và mãi mãi, Chúa Thánh Thần vẫn là như thế. Người vẫn gần gũi những ai tin cậy ở Người. Chúng ta xin Người ban cho ta, và cho con em chúng ta biết ơn tin cậy ở Người. Tin cậy vững vàng, tin cậy mãi mãi, tin cậy tuyệt đối. Niềm tin cậy đó sẽ giúp ta sống xứng đáng, để có thể hưởng được lời Chúa đã hứa: “Phúc cho những người nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Amen.
Họ đạo Năng Gù là một họ đạo khá phức tạp. Có những đức tin sống động và cũng có những đức tin đã chết. Có những lòng đạo đi sâu vào căn bản Phúc Âm, và cũng có những lòng đạo chỉ phất phơ với hình thức bề ngoài. Có những thói quen đáng khen và cũng có những tệ đoan không thể không kết án. Có những người dư ăn dư mặc và cũng có những người thiếu cả những gì tối thiểu. Có những người học cao và cũng có nhiều người thất học. Thực tế có nhiều phức tạp. Tôi không bỡ ngỡ. Vì họ đạo Năng Gù là một họ đạo đông người, đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử, nên khó tránh được những tồn tại. Hơn nữa, phức tạp là tình trạng thường đâu cũng có. Nơi nhiều nơi ít. Ngay chính bản thân mỗi người cũng đầy rẫy phức tạp. Biết bao việc không được tốt người ta làm chỉ vì tưởng lầm là phải. Biết bao việc tội người ta phạm chỉ vì yếu đuối. Đến như thánh Phaolô cũng đã phải than về tình trạng phức tạp của bản thân mình: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm”. Nói thế không có nghĩa là: Phức tạp thì cứ để cho phức tạp luôn, trôi đâu thì trôi. Người có lương tri, có tinh thần trách nhiệm không dám nghĩ thế.
Vậy, giữa một thực tế phức tạp, hoặc trong phạm vi bản thân, hoặc trong phạm vi gia đình cộng đoàn họ đạo, do tinh thần trách nhiệm ta không thể không thao thức tìm cách sống sao cho tốt đẹp.
Cách nào? Tôi xin giới thiệu một kinh nghiệm: Đó là hãy vươn lên từng bước nhỏ. Tôi nhấn mạnh ở đây là tôi nói theo kinh nghiệm nhiều hơn là lý thuyết. Khi vươn lên ta luôn nhắm đến cái gì là sự sống thực sự, ta luôn tìm cách phát huy cái gì mang sự sống thực sự. Tôi thí dụ: Tôi thấy bản thân tôi phức tạp do những cái không tốt trong tôi. Tôi muốn sửa lại thì tôi phải cố vươn lên. Đối với tôi, vươn lên là tìm đến chính Đấng là sự sống thực, đó là Đức Kitô, đó chính là Chúa Giêsu Thánh Thể. Tôi năng gặp gỡ Ngài, tôi tìm ở bên Ngài, tôi làm lễ và năng rước lễ thiêng liêng để kết hợp với Ngài. Nhờ đó, sự sống Chúa Kitô chia sẻ sang tôi. Sự sống Chúa Kitô càng nhiều trong tôi, thì những phức tạp kia càng bớt đi. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Chúa là sự sống thực. Chỉ có sự sống mới sinh ra được sự sống.
Một kinh nghiệm khác. Tôi thấy trong một cảnh phức tạp của gia đình, của họ đạo, dù sao cũng có những người thiện chí muốn vươn lên. Vươn lên là tìm tận dụng những nguồn ban sự sống thực sự, như các việc ăn năn thống hối, xưng tội, rước lễ, đọc sách thánh, thực hiện hãm mình, bác ái, khiêm nhường. Nhờ những việc đó, đời sống được dần dần cải thiện, nhân đức được phát huy. Nếu ngược lại, thay vì dẫn vào các nguồn ban sự sống, ta lại quá chú trọng đến những hình thức đạo đức nặng tính chất vui nhộn trình diễn bề ngoài, thì phức tạp càng thêm phức tạp. Bởi vì cái gì không có sự sống thực sự sẽ không thể sinh ra được sự sống thực sự. Trong đêm tối, 1.000 chiếc đèn vẽ trên giấy không bằng một ngọn đèn đang cháy thực sự, dù đó chỉ là một ngọn đèn nhỏ.
Tôi vừa nói ngọn đèn nhỏ, là vì tôi nghĩ tới những ánh sáng nhỏ, những việc làm nhỏ. Đó là những bước đi nhỏ. Nhỏ có nghĩa là nhẹ nhàng, âm thầm, khiêm tốn. Nhỏ có nghĩa là ai cũng làm được, hoàn cảnh nào cũng làm được. Thí dụ: Sáng dậy, ta làm dấu Thánh Giá, âm thầm đọc kinh dâng mình cho Chúa. Đó là việc nhỏ dễ làm, không mất gì, không đụng chạm tới ai. Rồi trong ngày, đang khi làm việc, đang khi đi đường, bất cứ ở đâu, thỉnh thoảng ta âm thầm gặp gỡ Chúa trong lòng, âm thầm nói với Chúa đôi lời tâm sự: Con tin mến Chúa! Con muốn sống đẹp ý Chúa. Đó là một việc nhỏ, dễ làm, không mất giờ, không đụng chạm tới ai. Rồi trong ngày, khi tiếp xúc, ta cố ăn ở nhã nhặn, nhân ái, kính trọng, lịch sự, tế nhị. Đó cũng là một việc nhỏ, dễ làm, chẳng bị ai cấm cản. Rồi tối đến, trước khi ngủ, ta để ra mấy phút lo đọc kinh riêng, ăn năn tội riêng. Đó cũng là những việc nhỏ, dễ làm, được tự do làm. Những việc nhỏ âm thầm đó là những bước đi nhỏ. Nhỏ như việc của trẻ nhỏ, thế mà chắc đó. Nước Trời thuộc về trẻ nhỏ và những ai giống như trẻ nhỏ.
Hôm nay, hầu hết những người chịu phép Thêm Sức đều là trẻ nhỏ. Chúng con đang đi về tương lai của đất nước Việt Nam, của Hội Thánh Việt Nam. Chúng con hãy biết bước đi từng những bước nhỏ. Bước nhỏ là những việc nhỏ, tốt lành đạo đức, việc nhỏ mà làm nhiều lần mỗi ngày. Khi Chúa đến thăm chúng con bất cứ ngày giờ nào, mà thấy chúng con đang bước đi như thế, chắc Chúa sẽ thương chúng con nhiều lắm. Với những bước nhỏ đi lên như thế chúng con sẽ là người Công Giáo tốt và sẽ là người công dân tốt. Đó là điều cha cầu chúc và cầu nguyện thực nhiều cho chúng con. Amen.
Tháng 10 quen gọi là tháng Mân Côi. Tháng Mân Côi là tháng Đức Mẹ. Nhưng cũng có thể gọi là tháng kẻ có tội. Bởi vì trong tháng 10 này, Hội Thánh muốn kinh Mân Côi được đọc kính Đức Mẹ nhiều hơn và sốt sắng hơn. Mà kinh Mân Côi càng được đọc nhiều, thì Đức Mẹ càng được nghe con cái nói: “Chúng con là kẻ có tội”. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội...”. Lời kinh đó ta nhắc đi nhắc lại 10 lần trong một ngắm, và 50 lần trong một chuỗi. Rất nhiều lần trong một ngày.
“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Đó là lời kinh đơn sơ phó thác. Tôi khuyên anh chị em năng đọc. Nếu năng đọc lời kinh đó với tất cả tâm hồn đơn sơ phó thác, ta sẽ cảm thấy dần dần có một cái gì lạ lắm xảy ra trong tâm hồn ta. Đức Mẹ âm thầm đến trong ta. Người mở rộng đức tin của ta ra, để ta nhìn thấy thân phận tội lỗi của ta đang đi về kiếp sau đời đời, với những gì có thể đợi ta ở kiếp đó. Đức Mẹ mở rộng đức cậy của ta ra, để ta bám chắc vào tình thương Đức Mẹ, cho ta bớt lo sợ, cho ta bớt cô đơn, cho ta bớt khổ sở. Đức Mẹ mở rộng đức mến của ta ra, để ta thành thực chọn Chúa một cách dứt khoát tuyệt đối, và để ta dễ sống an hòa hơn với người chung quanh.
“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội...”. Hãy đọc kinh đó với thân phận tội lỗi, nhưng một cách đơn sơ phó thác. Nghĩa là ta đừng quá nhìn vào mình, mà hãy nhìn Đức Mẹ nhiều hơn. Nhìn Đức Mẹ là nhìn thế nào. Thưa nhìn Đức Mẹ là nhìn Đức Mẹ. Thế thôi. Điều cần nhất trong một cái nhìn là phải nhìn, phải nhìn thiệt. Nhìn Đức Mẹ với con mắt tự nhiên và với đức tin. Hãy nhìn Đức Mẹ và hãy nói với Đức Mẹ: “Cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Rồi dần dần ta sẽ gặp được cái nhìn của Đức Mẹ. Đức Mẹ nhìn ta, và đó là khởi sự mọi biến đổi trong ta. Cái nhìn của Đức Mẹ sẽ cho ta thấy Đức Mẹ là thế nào. Ta sẽ thấy Đức Mẹ khác xa bội phần những gì tốt đẹp nhất người ta viết về Đức Mẹ trong sách vở. Cái nhìn của Đức Mẹ sẽ cho ta thấy rõ hơn thân phận tội lỗi của ta. Đức Mẹ nhìn ta. Cái nhìn đó cũng giống như cái nhìn của Chúa Giêsu xưa đã làm cho thánh Phêrô suốt đời ăn năn khóc lóc. Thấy được cái nhìn của Đức Mẹ rồi, ta mới thấy thương kẻ có tội, để rồi ta càng hiểu: Trở về với Chúa chính là trở về đức bác ái.
Cái dở của ta là ít nhìn Đức Mẹ quá. Nhất là khi ta đã lỡ phạm tội và khi ta gặp đắng cay u buồn.
“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội...”. Hãy đọc lời kinh đó và hãy nhìn Đức Mẹ với tâm tình đơn sơ phó thác. Càng cầu nguyện như thế, ta sẽ càng có kinh nghiệm sống động về lời Chúa Giêsu: “Không phải kẻ khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, mà là kẻ bệnh tật”. Và khi thầy thuốc đó lại chính là Đức Mẹ, người Mẹ trên mọi người mẹ, với một trái tim đầy quyền năng và nhân ái, thì phúc cho người bệnh biết bao. Hạnh phúc đó rất êm đềm sâu lắng thanh cao. Không có gì trên trần gian sánh được. Không có gì trên trần gian thay thế được. Nhiều lần tôi đọc lời kinh: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”, tôi nghe như Đức Mẹ nói với tôi lời Chúa Giêsu xưa: “Đây là Mẹ con”. Không thể nào diễn tả được hạnh phúc lúc đó. Tôi cầu chúc anh chị em. Tôi cầu chúc riêng cho những người chịu bí tích Thêm Sức và Rước Lễ hôm nay. Và ta cầu nguyện cho nhau được hạnh phúc đó, khi này và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
Nhà thờ Châu Đốc được nổi tiếng một phần vì tính cách lịch sử, chính tại đây, thánh Quý, thánh Phụng đã bị chém đầu, chết vì danh Chúa, xương hai thánh còn đây, đài hai thánh còn kia.
Suy nghĩ về cái chết của hai thánh Quý, Phụng, tôi thấy một nét nổi bật, đó là sự can đảm chối từ vì một lựa chọn cao quý.
Nhà vua đã truyền lệnh cho các Ngài phải bỏ Chúa. Nhưng các Ngài đã can đảm chối từ lệnh bất công đó.
Các quan đã bắt bỏ tù và đánh đập các Ngài, ép buộc các Ngài phản bội đức tin. Nhưng các Ngài đã can đảm chối từ mưu đồ phản bội đó.
Bạn bè xấu đã dụ dỗ các Ngài giả vờ bỏ đạo để được an thân. Nhưng các Ngài đã can đảm chối từ toan tính hèn nhát đó.
Tính xác thịt tự nhiên muốn các Ngài tạm bỏ đạo bề ngoài để cứu mạng sống. Nhưng các Ngài đã can đảm chối từ ý muốn tội lỗi đó.
Ma quỷ cám dỗ các Ngài nên chọn sống hơn chết, vì sống có thể sẽ làm ích nhiều hơn cho Hội Thánh, mà mua sự sống ấy bằng việc bước qua Thánh Giá thì có sao đâu. Nhưng các Ngài đã can đảm chối từ những cám dỗ tinh quái đó.
Các Ngài chối từ vì muốn trung tín. Các Ngài muốn sự trung tín của các Ngài phải trong sáng, phải trọn vẹn. Lòng trung tín của các Ngài đối với Chúa là tuyệt đối. Các Ngài không muốn đem lòng trung tín ra thương lượng, trả giá. Bởi vì các Ngài tin chắc chắn Chúa là Đấng tạo thành, là Đấng phán xét, là Đấng thưởng phạt, Ngài là Cha của các Ngài. Con không được quyền từ chối cha mình, vật thụ tạo không được chối từ Đấng đã tạo dựng nên mình. Kẻ chịu phán xét không thể chối Đấng có quyền phán xét mình.
Việc chối từ của các Ngài là một việc lành thánh, là một lựa chọn hợp lý hợp tình. Các Ngài được Giáo Hội khen ngợi, và Thiên Chúa thưởng công. Việc chối từ can đảm của các Ngài đã làm ích rất nhiều cho Hội Thánh, cho gia đình, cho bản thân các Ngài.
Anh chị em thân mến,
Trong lễ Thêm Sức, vị chủ tế hỏi: “Các con có từ bỏ ma quỉ, mọi việc và mọi quyến rủ của ma quỷ không?”. Anh chị em thưa: “Chúng con từ bỏ”. Nhưng đó là thưa theo công thức. Hãy từ bỏ thực sự trong lòng. Trong cuộc sống có nhiều sự ta phải can đảm từ bỏ, can đảm chối từ.
Đợt này trong Giáo Hạt Thốt Nốt, có 5 nhà thờ được phép tổ chức lễ Thêm Sức. Để cảm ơn Đức Mẹ, tôi đi chuyến này với chuỗi Mân Côi. Tại mỗi nhà thờ, tôi sẽ suy gẫm vắn tắt một mầu nhiệm. Nhà thờ Hiếu Thuận đây là nhà thờ thứ nhất, với mầu nhiệm thứ nhất mùa vui: “Thiên Thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai”.
Anh chị em thân mến,
Thiên Thần Gabriel kính chào Đức Mẹ bằng câu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà”. Đó là một tin vui rất bất ngờ cho Đức Mẹ. Đức Mẹ đã không bao giờ nghĩ tới.
Rồi Thiên Thần lại báo tin cho Đức Mẹ biết Chúa chọn Đức Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Đó lại là một tin vui hết sức bất ngờ cho Đức Mẹ. Đức Mẹ có bao giờ dám nghĩ tới chuyện đó đâu.
Rồi Thiên Thần lại bảo đảm với Đức Mẹ là Đức Mẹ sẽ chịu thai bởi ơn Chúa Thánh Thần, sẽ sinh con, mà vẫn trọn vẹn khiết trinh. Đó lại là một tin vui hết sức bất ngờ nữa cho Đức Mẹ. Đức Mẹ có bao giờ dám tưởng tượng đến chuyện đó đâu.
Rồi Thiên Thần lại cho Đức Mẹ biết tin bà Isave đã già cả son sẻ, nay đang mang thai. Đó lại thêm một tin vui lạ lùng nữa cho Đức Mẹ. Đức Mẹ có mơ tưởng việc đó bao giờ đâu.
Những sự kiện trên đây dạy cho ta thấy nhiều ơn Chúa vượt quá sự ta mong đợi. Để ta tin rằng, chính Chúa chủ động trong việc gọi ta và chọn ta.
Khi nhìn vào xứ đạo này, tôi cũng thấy như thế. Anh chị em hãy so sánh 8 năm trở lại đây với thời gian trước đó. Thời gian trước đó, tình hình họ đạo đâu được như thế này. Hôm nay Kênh H đã có 2 linh mục phụ trách, đó là một niềm vui bất ngờ. Hôm nay Kênh H đã có 3 nhà thờ và 2 nhà xứ đẹp đẽ, đó là một niềm vui bất ngờ. Hôm nay Kênh H có số giáo dân đông hơn, sốt sắng hơn, đó là một niềm vui bất ngờ.
Tôi nói bất ngờ, bởi vì trong một hoàn cảnh phấn đấu rất nhiều cho cuộc sống, thì sự có một tình hình hơn trước nhiều như thế, đó là những sự vui mừng làm cho nhiều người nhiều nơi phải bỡ ngỡ.
Lễ hôm nay cũng là một niềm vui bất ngờ. Sáng sớm hôm qua 19/11/1983, tôi mới nhận được giấy phép của Chính Quyền tỉnh Hậu Giang ký ngày 18/11. Chiều hôm qua tôi mới được giấy phép đi đường của Chính Quyền tỉnh An Giang. Còn anh chị em thì 10 giờ đêm qua mới được tin. Đây là một niềm vui rất bất ngờ có ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng niềm tin đối với Chúa, và đối với việc xây dựng đoàn kết.
Hồi nãy, khi chiếc đò chở tôi đi ngang qua nhà thờ Hiếu Hiệp, tôi nhìn lên, thấy tượng đài thánh Phaolô tông đồ, tôi nghĩ nhiều tới con người đã là một niềm vui bất ngờ lớn lao cho lịch sử Giáo Hội. Có ai ngờ con người bắt đạo hăng say đó, sau đã trở thành con người bênh đạo và truyền đạo đầy nhiệt tình. Có ai ngờ con người chống đạo đó, sau đã viết về đạo một cách sâu sắc và thâm thúy như thế.
Cuộc đời ta có vô số niềm vui bất ngờ. Đặc biệt nhất là ơn được làm con Chúa, được biết Chúa và được Chúa yêu thương. Sự người ta không ngờ thì Chúa Thánh Linh đã thực hiện. Hãy nhìn những niềm vui bất ngờ để vững vàng tin cậy vào Chúa. Hãy cầu xin và hãy biết giới thiệu đạo Công Giáo là đạo của những niềm vui. Hãy cầu xin và hãy cố gắng đem lại niềm vui cho những kẻ khác. Khi truyền tin, Thiên Thần đã nói với Đức Mẹ lời này: “Đối với Chúa, không có gì là không có thể được”. Anh chị em hãy nhớ kỹ lời đó. Hãy sống đúng lời đó. Hãy tin vững lời đó. Đó là bí quyết làm cho cuộc sống của ta đón nhận được những niềm vui của Chúa, kể cả những niềm vui bất ngờ. Đó cũng là bí quyết giúp ta có thể đem lại cho kẻ khác nhiều niềm vui, kể cả những niềm vui bất ngờ nhất.
Lạy Mẹ Maria,
Mẹ đã tin vào lời Chúa một cách đơn sơ và vững vàng. Xin giúp chúng con được một lòng tin như vậy. Amen.
Sáng sớm hôm nay, tại nhà thờ Hiếu Thuận, tôi đã nói là tôi đi Thêm Sức đợt này với chuỗi Mân Côi. Ngày hôm nay tôi làm lễ tại 3 nhà thờ: Kênh H, Kênh E2 và Kênh F1. Chúa Nhật sau đến lượt Kênh C2 và Kênh G1. Ở kênh H tôi đã suy gẫm mầu nhiệm thứ I Muà Vui. Ở E1 đây, tôi mời anh chị em nhìn vào hình ảnh “Đức Mẹ đi viếng bà thánh Isave”.
Anh chị em thân mến,
Khi Thiên Thần truyền tin báo cho Đức Mẹ biết bà Isave có thai, thì Thiên Thần chỉ nhắc qua sự việc đó, chứ không nói thêm chi tiết gì. Nhưng nhờ trái tim bén nhạy, Đức Mẹ đã thấy được có một cái gì cao cả và quan trọng đang khởi sự nơi bà Isave. Đức Mẹ hiểu ý Chúa, nên đã vội vã đi thăm bà Isave.
Bà Isave, khi nghe Đức Mẹ chào, đã cảm thấy thai nhi cử động, như vui như mừng, chỉ có thế thôi. Nhưng nhờ trái tim bén nhạy, bà Isave đã thấy được có một sự gì lớn lao huyền nhiệm đang được thực hiện nơi Đức Mẹ. Bà Isave hiểu ý Chúa, nên đã nói với Đức Mẹ: “Bà có phúc hơn mọi người nữ, và con bà đang cưu mang gồm phước lạ”.
Bà Isave nói lời đó, và cũng chỉ nói mấy lời còn ghi lại trong Phúc Âm, chứ đâu có những lời tiên tri xa xôi nào. Thế nhưng, nhờ trái tim bén nhạy, Đức Mẹ đã thấy được có một cái gì khác thường đặc biệt sẽ xảy ra cho mình, qua các thế hệ lịch sử sau này. Đức Mẹ hiểu ý Chúa, nên đã cất tiếng ngợi khen bằng những lời bất hủ, mà hiện nay chúng ta gọi là kinh Magnificat: “Linh hồn tôi tung hô Chúa”.
Cả Đức Mẹ, cả bà Isave đều có trái tim bén nhạy. Bén nhạy là nghe một hiểu mười. Bén nhạy là nhìn gần mà thấy xa. Bén nhạy là xem hiện tại mà đón được tương lai. Bén nhạy quan sát thời cuộc mà nghe được ý Chúa. Bén nhạy là thấu hiểu dễ dàng nỗi lòng kẻ khác, là mau lẹ thích ứng với những vấn đề đặt ra.
Khi suy nghĩ về sự bén nhạy của hai trái tim phụ nữ, hai trái tim người mẹ, hai trái tim thánh, tức Đức Mẹ và bà Isave, tôi mong muốn cho tôi và cho anh chị em được phần nào sự bén nhạy đó.
Sự bén nhạy đó là một đức tính rất cần, nhất là trong hoàn cảnh hôm nay, để ta biết sống.
Nếu nhìn tình thế hôm nay, mà ta vẫn khư khư duy trì lối sống đạo quá nặng nề về hình thức, quá rườm rà về luật lệ do tập quán hơn do Phúc Âm, quá phức tạp làm giầu trí nhớ, hơn là giáo dục lương tâm, thì quả là chúng ta thiếu bén nhạy, chưa hiểu ý Chúa, không nhìn thấy trước tương lai.
Nếu nhìn cuộc sống hôm nay, mà ta vẫn bảo vệ não trạng và nếp sống phong kiến, quan liêu, hà hiếp, giả dối, hưởng thụ, coi rẻ kẻ túng nghèo, thì quả là chúng ta thiếu bén nhạy, chưa hiểu ý Chúa, không nhìn thấy trước tương lai.
Nếu nhìn Hội Thánh hôm nay, giám mục hôm nay, linh mục hôm nay, mà ta vẫn không có một băn khoăn thao thức nào, thì quả là ta thiếu bén nhạy, chưa hiểu ý Chúa, không thấy trước tương lai.
Nếu nhìn đất nước hôm nay, mà ta không ý thức trách nhiệm phải tích cực xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam ta, thì quả là ta thiếu bén nhạy, chưa hiểu ý Chúa, không thấy trước tương lai.
Hồi nãy, khi đến đầu kênh F, tôi không thấy có đò đón tôi. Hỏi, thì được biết, đò đón vừa quay trở lại. Lý do người đón nghe ai nói Đức Cha về lối trong. Tôi nghĩ, đó cũng là một phản ứng bén nhạy, do lòng sốt sắng, do lòng nôn nóng. Nhưng cũng là một kinh nghiệm dạy ta: Trong các vấn đề hệ trọng giữa một hoàn cảnh kẻ nói thế này, người nói thế kia, thì bén nhạy đòi phải bình tĩnh thận trọng, và chỉ nghe theo kẻ có thẩm quyền.
Bén nhạy là đức tính rất khó rèn luyện bằng lý thuyết sách vở, nhưng vẫn có thể có được. tôi thấy thế này: Trái tim bén nhạy cũng là trái tim tế nhị biết ơn. Quen biết ơn sẽ quen bén nhạy. Ta hãy tập quen kết hợp với trái tim Đức Mẹ mà cảm tạ Chúa với tinh thần kinh Magnificat. Thói quen đó sẽ uốn nắn ta nên người bén nhạy.
Lạy Mẹ Maria,
Xin đặt trái tim con trong trái tim Đức Mẹ. Con xin đơn giản có thế. Xin cảm tạ Mẹ. Amen.
Chiều qua, khi xong giấy tờ, tôi đã nói với Đức Mẹ: “Ngày mai, xin Đức Mẹ đi với con. Tới một nhà thờ được phép đến, con sẽ để lại một tấm bia thiêng liêng, đó là một mầu nhiệm Mân Côi”. Sáng nay, tại Kênh H, tôi đã nói về mầu nhiệm thứ I Mùa Vui. Trước trưa, tại kênh E, tôi nói về mầu nhiệm thứ II Mùa Vui. Bây giờ tôi nói về mầu nhiệm thứ III Mùa Vui: “Đức Bà sinh Đức Chúa Giêsu trong hang đá”.
Anh chị em thân mến,
Tôi đã có dịp đến thăm Bêlem ở đất thánh, tôi đã may mắn quỳ cầu nguyện ngay chỗ Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu. tôi còn nhớ là tôi rất xúc động. Xúc động nhất là vì thấy Đức Chúa Giêsu của chúng ta rất khiêm nhường.
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, rất cao cả, rất trang trọng, rất quyền phép, thế mà Ngài đã tự hạ, mặc lấy thân phận con người yếu đuối, làm con một phụ nữ nghèo, làm dân nước bé nhỏ.
Chúa Giêsu là Chúa trời đất, thế mà đã đẻ cho Mẹ mình cho người ta chối từ, không cho trọ đêm, phải chịu sinh ra cảnh khó nghèo thê thảm.
Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế. Thế mà khi đến cứu nhân loại, Chúa đã có những lời sự thực là âm thầm, thực là bé mọn: Một Hài Nhi nằm trong máng cỏ.
Khi Chúa khiêm nhường như thế để làm gì. Thưa để cứu độ chúng ta, Chúa dùng sự khiêm nhường để cứu chúng ta. Còn ta, muốn được Chúa cứu, lại không muốn khiêm nhường sao được.
Kinh nghiệm cho thấy: Sự khiêm nhường nơi chúng ta nhiều khi chỉ là một ý muốn suông, cũng có thể là một thiện chí, chứ chưa là nhân đức khiêm nhường, nhiều người đã đọc sách đạo đức, đã nghe giảng, đã suy gẫm. Đó là những cách tốt. Nhưng trong nhiều trường hợp, những cách đó không đủ. Nhiều khi vì thương ta, Chúa đã dùng những cách huấn luyện mạnh, đó chính là thực tế cuộc sống.
Thực vậy, khi suy gẫm về kế hoạch cứu độ của chúa, tôi cảm ơn Chúa vô vàn, vì thấy Chúa đang dùng thực tế hôm nay, để tôi luyện nét hiền từ khiêm tốn của Hội Thánh Chúa trong ta. Thí dụ, hiện nay có sự bớt đi những sinh hoạt tôn giáo có tính cách rầm rộ phô trương bề ngoài. Nếu biết dùng, thì sự bớt đi như thế sẽ là một cách có nhiều khả năng tôi luyện ta nên khiêm tốn. Nó giúp ta cởi gỡ nhiều bận rộn vô bổ. Nó thanh luyện ý hướng ta khỏi những vẩn đục tự ái, ganh tị, phô trương. Nó giúp ta nhẹ nhàng tự do hơn trong tâm hồn để dễ gặp Chúa.
Thí dụ, hôm nay có sự đợi chờ, có những vất vả để được bí tích này, việc đạo kia. Nếu biết dùng, thì những chờ đợi, những vất vả đó sẽ là những cách tôi luyện ta nên khiêm tốn. Nó giúp ta cởi gỡ một não trạng không tốt là thích giữ đạo như giữ một thói quen hưởng thụ an nhàn, muốn cái gì là phải sẵn cái đó. Nó tập cho ta mến Chúa thì phải tìm kiếm Chúa, thương người thì phải tìm đến con người, dù phải chờ đợi, dù phải vất vả.
Rồi thí dụ hôm nay, có nhiều dịp để ta liên hệ gặp gỡ các anh em vô thần và khác tín ngưỡng. Nếu biết dùng, thì những liên hệ gặp gỡ như thế là cách tôi luyện ta nên khiêm tốn. Nó giúp ta chỉnh đốn lại thói quen đóng kín và dễ chủ quan. Nó cho ta có dịp thấy nhiều người không chịu phép rửa, đã nên gương sáng cho ta về nhiều điểm đạo đức. Nó giúp ta nhận ra những giới hạn của mình.
Vừa rồi, trong đáp ca, anh chị em hát: Ai xưng ta ra trước mặt thế gian... Câu đó làm tôi suy nghĩ tới Chúa và Giáo Hội nhiều nơi đang bị hại, đang bị hiểu lầm. Chúa bị bôi nhọ, Giáo Hội bị khinh dễ. nhưng ta vẫn xưng mình là con cái Chúa, là con Giáo Hội. Xưng như thế là khiêm nhường. Nếu cha mẹ tôi làm lớn có chức vị cao, giàu có, được xã hội kính trọng, mà tôi khoe tôi là con, thì việc đó thường quá, ai cũng làm được. Nếu cha mẹ tôi bị người ta làm nhục, bị trở thành rách rưới lọ lem, mà tôi vẫn một mực nhận là cha mẹ tôi với tất cả lòng thành kính, thì đó mới là khiêm tốn, một sự khiêm tốn có nhiều can đảm và hiếu thảo, rất có công với cha mẹ. Do đó, ta hiểu khiêm nhường là do tình thương và thúc đẩy phục vụ. khiêm nhường là tôn trọng sự thực và bênh vực chân lý.
Có khiêm nhường như thế, lòng ta có sự bình an tràn đầy ơn phúc, mà các Thiên Thần đêm Noel đã hát: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Lạy Mẹ Maria,
Đêm giáng sinh, Mẹ đã thinh lặng bên Hài Nhi bé nhỏ Giêsu. Xin giúp con dâng theo ý Chúa, khi Chúa muốn con thinh lặng và bé nhỏ. Amen.
Năm nay, hai xã Thạnh An, Thạnh Thắng có 5 nhà thờ được phép tổ chức Thêm Sức. Tôi muốn đánh dấu đợt đi Thêm Sức này bằng chuỗi Mân Côi Mùa Vui. Lễ sáng nay tại đây là lễ thứ bốn. Nên tôi sẽ nói về mầu nhiệm thứ bốn: “Đức Bà dâng Đức Chúa Giêsu trong đền thánh”.
Anh chị em thân mến,
Đức Mẹ và thánh Giuse thừa biết Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, ở khắp mọi nơi. Thế mà tại sao các Ngài lại vất vả ẳm Hài Nhi Giêsu vào tận đền thờ dâng cho Thiên Chúa. Thưa bởi vì các Ngài biết việt làm đó là dấu chỉ bề ngoài cần thiết Chúa muốn có để làm chứng tâm tình bên trong.
Đức Mẹ và thánh Giuse thừa biết mình giữ đạo là giữ với Chúa. Thế mà tại sao các Ngài lại dâng con qua tay thầy cả. Thưa bởi vì các Ngài biết việt làm đó là dấu chỉ bề ngoài cần thiết Chúa muốn có, để làm chứng tâm tình bên trong.
Đức Mẹ và thánh Giuse thừa biết Chúa đâu có cần đến của lễ vật chất. Thế mà tại sao dịp dâng con, các Ngài đã tặng đền thờ một đôi chim. Thưa bởi vì các Ngài biết, việc làm đó là dấu chỉ bề ngoài cần thiết Chúa muốn có, để làm chứng tâm tình bên trong.
Dấu chỉ bề ngoài là điều hợp lý trong mọi quan hệ. Thí dụ, đứa con nào cũng nói mình thương cha mẹ. Nhưng cha mẹ sẽ biết rõ người con nào thương thiệt, nhờ xem các dấu bề ngoài, như thăm hỏi, mau lẹ giúp đỡ, tận tình bênh vực. Các việc như thế chỉ là dấu bề ngoài, nhưng nếu thiếu, người ta khó chứng minh được tâm tình bên trong của mình.
Cũng thế, trong quan hệ với Chúa, con người phải thực hiện những việc bề ngoài, như những dấu chỉ, để chứng tỏ lòng mình tôn thờ, mến Chúa.
Quá coi nhẹ bề ngoài, nói rằng chỉ cần bên trong, đó là lập trường thiếu quân bình, không chấp nhận được. Nhưng quá coi trọng dấu bề ngoài, còn bề trong thì trống rỗng, đó là thái độ giả hình, không chấp nhận được.
Trong đời sống đạo, có những việc làm, được coi là dấu chỉ quan trọng. Ai làm những việc đó, thường được kẻ như có nhiều hy vọng được rỗi. Thí dụ thói quen sùng kính Đức Mẹ, thói quen gắn bó với Hội Thánh qua sự liên kết chặt chẽ với Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám Mục của mình, thói quen thực hiện tốt tinh thần bác ái trong lời nói, tư tưởng, thái độ, việc làm, nhất là đối với kẻ túng nghèo lầm lỗi.
Phúc Âm và lịch sử Giáo Hội cũng giới thiệu với ta một dấu hiệu đặc sắc, mà Chúa hay gắn vào số phận những người Chúa chọn cộng tác với Cbúa. Dấu hiệu đó là khổ đau.
Khi các tông đồ bị đánh đòn, bị bắt bớ vì Chúa, các Ngài hớn hở vui mừng, vì các Ngài coi những đau khổ đó như dấu chỉ chứng tỏ được phần nào lòng mình trung thành với Chúa. Nếu được phép nói để khoe mình, thì thánh Phaolô đã khoe một điều Ngài cho là đáng khoe nhất, đó là được nếm các đau khổ vì Chúa Giêsu. Như thế, Ngài cho đó là một thứ huân chương cao quí Chúa ban cho Ngài. Như thế, Ngài cho đó là một dấu chỉ đẹp nhất của tình Ngài đối với Chúa.
Khi vẽ ảnh trái tim Đức Mẹ, nhiều ngừơi đã vẽ trái tim Đức Mẹ có mũi đòng đâm thâu qua, máu chảy xuống từng giọt. Đó là dấu chỉ của sự đau đớn, mà ông Simon đã nói với Đức Mẹ, trong ngày Đức Mẹ dâng con. Nhiều khi nhìn trái tim Đức Mẹ, tôi đã nói với Đức Mẹ: Mẹ xưa đã khổ đau nhiều. Mẹ hiểu thân phận kẻ cộng tác với Chúa. Trái tim Hội Thánh hôm nay cũng bị lưỡi đòng đâm thâu qua, cũng có những giọt máu âm thầm rơi xuống. Xin Mẹ giúp cho các con Mẹ hiểu, đó là dấu chỉ tốt.
Lát nữa, tôi sẽ ghi dấu Thánh Giá trên trán các người chịu bí tích Thêm Sức. Thánh Giá là một dấu chỉ. Với dấu Thánh Giá, tôi muốn nhắn nhủ rằng: Nếu con trung thành với Thánh Giá, nếu con can đảm vác Thánh Giá, nếu con bền vững sống mầu nhiệm Thánh Giá, con sẽ được rỗi. Thánh Giá là dấu chỉ cứu độ. Amen.
Tôi vừa tới đây chưa được 2 tiếng đồng hồ. Sau lễ, tôi phải ra đi, không biết bao giờ tôi được trở lại. Ít khi gặp nhau, nhưng tôi không muốn nói dài. Sẽ vắn thôi. Nhưng chắc anh chị em sẽ nhớ. Đây là chặng dừng chân thứ 5 trong chuyến đi đợt này, một chuyến đi dâng cho Đức Mẹ Mân Côi, nên tôi gởi lại anh chị em Kim Hoà một số gợi ý về mầu nhiệm thứ năm: “Đức Bà tìm được Đức Chúa Giêsu trong đền thánh”.
Anh chị em thân mến,
Đức Mẹ và thánh Giuse cứ tưởng con mình sau lễ là về. Vì đó là thói quen bình thường. Nhưng sự việc đã xảy ra không như các Ngài tưởng.
Đức Mẹ và thánh Giuse cứ tưởng con mình đi với nhóm trẻ bà con thân thuộc. Vì đó là thói quen bình thường. Nhưng sự việc đã xảy ra không như các Ngài đã tưởng.
Đức Mẹ và thánh Giuse là những vị rất thánh, mà có những trường hợp, như lần này, cũng bị chới với. Điều các Ngài tưởng là bình thường, là tốt, là hợp lý, do đó phải được thực hiện, thì Chúa lại không để thực hiện. Chúa làm khác đi. Chúa làm khác đi mà chẳng báo trước. Chúa làm khác đi, mà còn đẩy các Ngài một tình huống như bất hạnh, như mất mát, như rủi ro.
Tất cả các sự xảy ra đó, đã làm nổi bật lên chân lý cao cả, đó là sự bỏ mình, để ưu tiên vâng phục thánh ý Chúa Cha: “Ông bà không biết con phải dâng lời Cha con sao?”.
Khi suy nghĩ như thế về mầu nhiệm thứ 5 Mùa Vui, tôi hiểu hơn các sự đang xảy ra cho đời tôi, cho địa phận tôi, cho Giáo Hội tôi.
Nhiều người cứ tưởng chương trình đạo phải thế này, sinh hoạt tôn giáo phải thế kia, mới làm sáng danh Chúa, và chắc Chúa sẽ giúp cho các việc đó được thực hiện. Nhưng sự việc lại xảy ra không hoàn toàn đúng như mình tưởng.
Nhiều người cứ tưởng: Trái tim Đức Mẹ sẽ thắng, có nghĩa là Giáo Hội Công Giáo sẽ thắng kiểu cách thế gian. Nhưng sự việc lại xảy ra không đúng như mình tưởng.
Nhiều người cứ tưởng, sự hạn chế sinh hoạt tôn giáo sẽ làm cho đức tin suy giảm. Nhưng sự việc lại xảy ra trái với sự mình tưởng.
Chúa có đường lối riêng của Chúa. Nhìn đường lối Chúa đang dẫn đưa Giáo Hội đi hôm nay, tôi thấy đường lối đó thật là sáng sủa. Sáng sủa, bởi vì bộ mặt nhân ái, khiêm nhu, thương xót của Chúa càng ngày càng tỏ lộ qua nếp sống Giáo Hội. Sáng sủa, bởi vì càng ngày sự chân thật và sự gian dối càng rỏ nét, để mọi người dễ nhận ra đâu là ánh sáng cứu độ, đâu là bóng tối sự chết.
Trong cuộc sống, nhiều khi Chúa để ta nếm cảnh Đức Mẹ và thánh Giuse lạc mất Chúa. Ta cảm thấy cô đơn, lo lắng, phiền muộn, ray rứt, bồn chồn. Ta cảm thấy như Chúa vắng mặt. Chính những lúc đó, và bằng chính những khổ đau đó, Chúa tôi luyện lòng tin mến của ta. Chúa hun đúc lòng gắn bó của ta đối với Chúa và Hội Thánh Người.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi cầu chúc và tôi cầu nguyện, để mọi người luôn biết nói với mình, nói với mọi người, như Chúa Giêsu đã nói với cha mẹ: “Ông bà không biết tôi phải vâng lời Cha tôi sau?”. Ông bà không biết tôi có bổn phận phải ưu tiên vâng lời Chúa sau?
Người ta thường nghĩ: Chiên không thể sống với sói, bò không thể ngủ chung với gấu, trẻ con không thể chơi đùa với rắn độc. Thế nhưng, sự việc lại có thể xảy ra khác. Trong bài đọc thứ nhất, ta vừa nghe tiên tri Isaia quả quyết: Sẽ có thời sói sống chung với chiên, bò ngủ chung với gấu, trẻ thơ thọc tay vào hang rắn độc mà không sao.
Rồi người ta cũng thường nghĩ: Dân ngoại là dân không biết Chúa, không thể thờ phượng Chúa. Thế nhưng sự việc lại có thể xảy ra khác. Trong bài đọc thứ hai, ta vừa nghe thánh Phaolô nói: Dân ngoại tôn thờ Thiên Chúa, vì lòng nhân hậu Người.
Rồi người ta cũng vẫn nói: Cứng như đá! Kẻ cứng lòng chai đá đâu có trở lại với Chúa. Thế sự việc lại có thể xảy ra khác. Trong bài Phúc Âm, ta vừa nghe thánh Gioan Baotixita nói: Thiên Chúa quyền năng có thể làm cho các hòn đá trở nên con cái Abraham.
Những lời trên đây của thánh Gioan Baotixita, của thánh Phaolô, của Isaia, là những lời tiên tri nói về tương lai. Thời gian đó chưa đến, và có thể đang đến. Những lời tiên tri dạy ta rằng: Sống tinh thần mùa vọng là hãy hướng nhìn về phía trước. Một phía trước rất đẹp, có “Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở” huy hoàng rực rỡ. Hãy tin vào quyền năng và lòng nhân từ Chúa. Chính Chúa chủ động hướng dẫn lịch sử, để hình thành tương lai đó, một tương lai vượt quá mọi ước mong của con người.
Từ đây đến đó, Hội Thánh còn phải bước đi trên con đường không thiếu khó khăn. Hành trình sẽ gian khổ. Để giúp dân Chúa thực hiện tốt cuộc hành trình đó, Chúa kêu gọi những kẻ Chúa chọn để dọn đường như thánh Gioan Baotixita. Hãy biết sống ơn tiên tri một cách sâu sắc. Đọc Phúc Âm, ta thấy một trong những nét làm nổi bật ơn tiên tri của thánh Gioan Baotixita là sự sắc bén của Ngài.
Gioan Baotixita có cái nhìn sắc bén. Nhìn một đám đông, hay tiếp đón những kẻ đến với Ngài, Ngài dễ nhận ra ai là kẻ chân thành, ai thuộc loại giả dối. Ngài nhìn bề ngoài, mà thấu hiểu bên trong. Ngài nhìn xã hội như người sửa đường nhìn đường lộ. Nhìn thấy chỗ nào xấu phải sửa, chỗ nào phải bạt đi, chỗ nào phải nện xuống.
Lời nói của Gioan Baotixita cũng rất sắc bén. Người nói thẳng, nói thật. Với đám đông Ngài khuyên: Hãy ăn năn sám hối. Với biệt phái, Ngài mạnh mẽ răn đe: Hỡi loài rắn độc! Hỡi mồ mả thối tha tô vôi bên ngoài! Với vua Hêrôđê, Ngài thành thực nói: Vua không được lấy vợ anh mình. Gioan Baotixita không có thói quen nói vòng vo, nói lý thuyết, nói trừu tượng. Ngài bám sát thực tế, bắt gặp đúng vấn đề, trà trộn trong cuộc sống phức tạp.
Năm nay là năm 1983. Năm tới là năm 1984. Những con số đó âm thầm nhắc tới Thiên Chúa. Vì đó là số năm tính từ khi Thiên Chúa giáng sinh. Lịch công nguyên, mà quốc tế đang dùng, đã chọn sự kiện Thiên Chúa giáng sinh làm mốc lịch sử để đếm năm và gọi tên năm. Ngay sự việc đó, dù được hiểu cách nào, cũng nói lên rằng, sự kiện lịch sử Thiên Chúa giáng sinh đã và đang phục vụ nhân loại một cách tích cực và đều khắp.
Phục vụ nhân loại, đó chính là mục đích của Thiên Chúa giáng sinh. Chúa Giêsu đã có lần quả quyết: “Tôi đến, không phải để được phục vụ mà là để phục vụ”.
Những việc và những cách Chúa Giêsu phục vụ con người, đã được ghi rõ trong Kinh Thánh, trong sử sách, trong truyền thống Kitô Giáo, trong trái tim triệu triệu kẻ tin theo Ngài. Ở đây, tôi chỉ nhắc tới một cách phục vụ của Thiên Chúa giáng sinh, một cách phục vụ mà ta nên suy nghĩ học hỏi, sao cho thật đúng, sao cho thiết thực. Cách phục vụ đó là hòa mình.
Thực tế, Thiên Chúa giáng sinh, có nghĩa là Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại, hòa mình với thân phận con người, sống như con người, trở nên giống con người về mọi mặt trừ tội lỗi. Con người nói đây, không phải con người từ trời rơi xuống. Nhưng là con người có cha mẹ, có tổ tiên, có đồng bào, có quê hương tổ quốc. Đức Mẹ Maria, mẹ Ngài, là một thôn nữ nghèo. thánh Giuse, cha nuôi Ngài, là một công nhân nghèo. Nơi Ngài sinh ra là chuồng bò lừa ở hang đá. Cái nôi đặt Ngài lúc mới sinh ra là máng cỏ. Những người đầu tiên đến thăm Ngài là nhóm mục đồng. Họ là dân lao động đơn sơ nghèo túng, một cuộc sống như thế đó, thế mà Thiên Chúa toàn năng cao sang quyền phép đã chọn để hòa mình vào. Hòa mình một cách triệt để. Hòa mình một cách chân thành sâu sắc. Ngài hòa mình, để sống trọn vẹn cuộc sống khai phá nhọc nhằn của con người lao động. Ngài hòa mình, để nâng cao con người lên, nâng cao tới địa vị làm con Thiên Chúa, nâng cao tới hạnh phúc Thiên Đàng vĩnh cửu.
Tắt là, Thiên Chúa giáng sinh đã hòa mình, để chứng tỏ tình thương. Thương là phục vụ, thương là chia sẻ, thương là cho đi, thương là thăng tiến. Thiên Chúa giáng sinh cho thấy ngôn ngữ cơ bản của Ngài là tình thương. Và đó là ngôn ngữ mà mọi người thiện chí đều có thể hiểu, đó là điểm hẹn mà những ai chân thành có thể gặp được Ngài và gặp được nhau. Thiên Đàng khởi sự từ gặp gỡ đó.
Anh chị em thân mến,
Giữa chúng ta đây và các cây cột nhà thờ này có một quảng không gian làm nên khoảng cách. Giữa hai người ngồi bên nhau, có những khác biệt tâm lý làm nên khoảng cách. Giữa Thiên Chúa và loài người, có tình trạng bản tính và vô vàn sự làm nên khoảng cách. Có khoảng cách là điều khó tránh. Tuy nhiên, Thiên Chúa giáng sinh, đã vượt qua mọi khoảng cách để đến với con người. Ngài vượt qua bằng tinh thần phục vụ. Ngài vượt qua bằng ý chí hòa mình. Ngài vượt qua bằng trái tim yêu thương quảng đại.
Ta hãy gắng bắt chước Thiên Chúa giáng sinh. Đừng tạo nên khoảng cách khi nhìn nhau. Đừng tạo thêm khoảng cách trong đối xử với nhau. Dùng tình thương mà khắc phục khoảng cách. Đó là cách làm cho đời mình thêm đẹp. Dùng phục vụ mà tạo nên sự gần gũi. Đó là cách xây dựng đoàn kết, và giúp phần nào xây dựng lợi ích chung cho gia đình, cho địa phương, cho dân tộc.
Xưa Ba Vua đã hỏi các thầy cả đạo cũ: “Chúa Cứu Thế sinh ra ở đâu”. Các thầy cả đã dựa vào Kinh Thánh mà thưa: “Chúa Cứu Thế sinh ra ở Bêlem!”.
Hôm nay nếu có ai hỏi tôi: “Hiện nay Chúa Cứu Thế sinh ra ở đâu”. Thì tôi sẽ thưa một cách đơn giản và rất thực tế. Tôi cũng dựa vào Kinh Thánh, dựa vào thần học. Tôi sẽ thưa thế này: Hiện nay, Chúa Cứu Thế sinh ra ở nhiều nơi, nhiều cách, nhưng rõ rệt nhất là ở bất cứ nơi nào có linh mục.
Anh chị em thân mến,
Hồi đó, người sinh ra Chúa Giêsu là Đức Mẹ. Còn hiện nay, người sinh ra Chúa Giêsu hằng ngày chính là linh mục. Linh mục sinh ra Chúa Giêsu qua nhiều tác vụ thánh, như: Khi ban các bí tích, khi rao giảng Lời Chúa, khi cầu nguyện, khi làm việc bác ái. Linh mục sinh ra Chúa Giêsu, không phải rồi đặt ở máng cỏ, nhưng đặt ở tâm hồn con người. Những ai đã có lần được ơn tha tội qua bí tích Giải Tội, những ai đã có lần được rước Mình Thánh Chúa một cách xứng đáng, chắc đã nghiệm thấy trong tâm hồn mình chan hòa một sự bình an nhẹ nhàng, êm dịu. Đó là do Chúa Giêsu sinh ra trong lòng mình qua tác vụ linh mục.
Linh mục có thể sinh ra Chúa Giêsu ở bất cứ nơi nào: Hoặc ở nhà thờ, hoặc ở nhà tư, hoặc ở nhà tù, hoặc với lễ phục, hoặc với bất cứ y phục nào.
Các linh mục sinh ra Chúa Giêsu do chức thánh Chúa trao ban qua tay Đức Giám Mục. Được phong chức linh mục rồi, các ngài vẫn phải liên kết với Đức Giám Mục của mình, để được phép làm các việc thuộc quyền kẻ sinh ra Chúa Cứu Thế.
Vì thế, nơi nào có linh mục, nơi đó Chúa Giêsu được sinh ra . Và nơi đó có thể gọi là nơi có nguồn ơn phước. Nguồn ơn phước nói đây không những hiểu về mặt tôn giáo, mà cũng được hiểu về đời sống xã hội. Vì bản chất linh mục cũng là một nguồn khả năng có thể góp phần vào việc xây dựng hạnh phúc về vật chất và tinh thần cho đồng bào, tổ quốc.
Xưa kia, Ba Vua đến Bêlem, vào hang đá, đã thấy một hài nhi bé mọn trong cảnh sống nghèo, ít ai biết tới. Nhưng đức tin đã cho Ba Vua nhận ra được Chúa ẩn mình trong hài nhi bé mọn với cảnh sống đơn nghèo đó.
Nay, khi ta đến nhà thờ, nhìn Mình Thánh, ta thấy một tấm bánh nhỏ đơn sơ, chẳng đáng giá gì. Nhưng đức tin cho ta nhận ra Chúa Giêsu ẩn mình trong hình bánh nhỏ bé đơn sơ đó.
Cũng thế, khi ta gặp một linh mục, ta cũng chỉ nhìn thấy một con người bình thường, với nhiều giới hạn. Nhưng đức tin cho ta nhận ra kho tàng Thiên Chúa ẩn mình trong con người bình thường đó.
Chỉ đức tin mới nhìn thấy. Mà đức tin là thứ ánh sáng Chúa chỉ thắp lên trong lòng khiêm tốn và thiện chí.
Phúc cho những ai được có ánh sáng đó.
Phúc cho những ai biết quí trọng và bảo vệ những người có quyền sinh ra Chúa Cứu Thế hôm nay.
Anh chị em thân mến,
Số linh mục mỗi ngày mỗi ít đi. Họ đạo nào chẳng may mất linh mục sẽ kể như mất luôn hy vọng được một linh mục khác thay thế.
Tôi nói thế, không phải để ta bi quan. Nhưng để ta thêm quảng đại. Ai quảng đại với Chúa Giêsu, với Hội Thánh, sẽ được Chúa Thánh Thần ban các ơn cần cho phần rỗi. Không thể quảng đại, nếu thiếu yêu thương và hy sinh. Không thể quảng đại với người sinh ra Chúa Cứu Thế, nếu không hiệp thông với tâm tình và cuộc sống Chúa Cứu Thế, là Đấng đã đến không phải để kết án, mà là để cứu độ, không phải để được phục vụ, mà là để phục vụ, không phải để trói buộc, mà là để cởi gỡ. Xin Chúa Thánh Thần ban thêm đức tin cho ta, để ta nhìn thấy rõ hiện nay đâu là nơi Chúa Cứu Thế sinh ra. Amen.
Lễ Hiển Linh quen gọi là lễ Ba Vua. Chuyện Ba Vua được ghi lại trong bài Phúc Âm mà ta vừa được nghe. Chuyện vắn tắt. Nhưng đó là một điển hình của lòng tin mến. Đó là một mẫu người có đạo. Tôi xin giới thiệu vắn tắt.
Trước hết, lòng tin mến của Ba Vua là một hành trình rất vất vả. Vất vả ở chỗ các ngài phải lặn lội đường xa, trắc trở để tìm gặp Chúa. Vất vả nhất là ở chỗ phải dò dẫm, nào là tra cứu trong sách, nào là quan sát dấu chỉ trên trời, nào là hỏi thăm các người thông hiểu.
Các ngài là dân ngoại, nên đã có thể nghĩ rằng: Thiên Chúa giáng sinh là chuyện lớn lắm. Chắc nơi Ngài sinh được rất nhiều người biết. Chắc là cả vùng nô nức tấp nập, quần chúng lũ lượt kẻ đi người về, kéo đến nơi Chúa giáng sinh. Chắc là dư luận rất xôn xao. Vì thế, ai cũng biết dường dẫn tới nơi Ngài giáng sinh.
Thế nhưng, Ba Vua đã thấy khác. Càng đi, càng thấy bình lặng tiếp nối bình lặng. Hỏi đường đến nơi Chúa giáng sinh, thì chẳng được trả lời thỏa đáng. Người thì dửng dưng, người thì tỏ ra xa lạ, người thì trêu chọc, người thì chống đối, cản trở.
Tuy nhiên, Ba Vua vẫn kiên trì, vẫn giữ lòng tin mến ban đầu, vẫn cứ đi tìm thờ lạy Chúa. Niềm tin mến của các ngài quả là một hành trình rất vất vả.
Thế rồi, khi tới Bêlem, thì cuộc hành trình rất vất vả đó đã đưa tới sự gì? Thưa, đã đưa tới một khám phá tuyệt vời.
Trước đó, Ba Vua đã có thể nghĩ rằng: Chắc Thiên Chúa giáng sinh sẽ nằm ở một cái nôi bọc gấm lụa, sẽ đặt trên một cái ngai bằng vàng, sẽ ở trong một cung điện nguy nga, sẽ có vô số người sang trọng hầu hạ.
Thế nhưng, tới Bêlem, Ba Vua đã thấy một hài nhi nằm trong hang đá nghèo nàn, chỉ có một người thôn nữ là mẹ, và một người đàn ông nghèo là cha nuôi chăm sóc. Đối với Ba Vua, thấy cảnh khiêm tốn đó là một khám phá tuyệt vời. Chính những nét khiêm tốn, hiền lành, yêu thương chan hoà của Chúa giáng sinh, đã làm cho Ba Vua càng thêm tin mến Chúa. Vẻ đẹp của Chúa tuyệt vời là ở những nét đó.
Từ đây, đối với Ba Vua, tin mến Chúa, không những là một hành trình vất vả, nhưng còn là một chấp nhận gắn bó với một Chúa nhập thể, sống khiêm tốn, sống chia sẻ với thân phận kẻ nghèo, sống yêu thương và hy sinh cho đồng bào, cho nhân loại.
Thế rồi, tưởng như thế là xong. Nhưng không xong. Khi đã thờ lạy Chúa giáng sinh, Ba Vua tính chuyện trở về. Các ngài định trở về theo lối cũ, sẽ ghé lại triều đình Hêrôđê, sẽ ghé lại các nhà mà chuyến đi mình đã trú trọ. Các ngài muốn ghé lại các điểm đó, để loan tin mừng cho họ. Các ngài nghĩ làm thế sẽ làm vinh danh Chúa, sẽ là việc truyền giáo.
Thế nhưng, Chúa soi bảo Ba Vua đừng đi lối cũ nữa, hãy tiếp tục cuộc hành trình theo con đường mới. Trên con đường mới, Ba Vua sẽ hoà mình với khách bộ hành mà đi, sẽ đi như mọi người thường, đừng om sòm nói về Chúa giáng sinh kẻo gây rắc rối, nhưng hãy làm chứng về Chúa bằng cách sống như Chúa đã tỏ mình ra tại Bêlem, một Chúa hiền lành, khiêm tốn, vâng phục ý Chúa Cha, yêu thương và hy sinh cho đồng bào, cho nhân loại. Thế là cuộc hành trình của Ba Vua đã dược tiếp tục với những bước đi mới.
Anh chị em thân mến,
Tôi vừa diễn tả lòng tin mến của Ba Vua như một hành trình rất vất vả, như một khám phá tuyệt vời về Thiên Chúa hiền lành và khiêm nhường, yêu thương và hy sinh, như một cách làm tông đồ âm thầm, hiện thực. Tôi coi đó là một mẫu sống đạo sẽ được áp dụng cho hiện tại và tương lai.
Như Ba Vua đã phải vất vả nhiều lắm để tới Bêlem, thì sống đạo cũng sẽ phải vất vả nhiều lắm, để có bí tích, để có giáo lý, để có được những giờ phút thờ phượng Chúa tại nhà thờ.
Như Ba Vua đã khám phá thấy Chúa ẩn mình dưới hình thức đơn sơ, nghèo hèn, khiêm tốn, để yêu thương phục vụ, thì sống đạo cũng dần dần khám phá thấy vẻ đẹp và sức mạnh của Chúa ở một Giáo Hội nghèo, ở những nghi lễ đơn sơ, ở tất cả những gì là hiền lành, khiêm mhườmg, âm thầm và can đảm phục vụ.
Như Ba Vua đã tránh đường cũ và rẽ sang lối khác để tiếp tục hành trình, thì sống đạo cũng tránh đường cũ, rẽ sang lối khác. Lối khác đó là âm thầm hơn. Lối khác đó là nhấn mạnh đến bác ái, phục vụ một cách khiêm tốn, và can đảm trong cuộc sống công dân hơn là các sinh hoạt tôn giáo nặng nề tổ chức. Lối khác đó là “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc”.
Mẫu sống đạo như tôi vừa nêu lên sẽ được thực hiện. Nếu ta không tự chọn, thì chính Chúa sẽ bắt ta đi vào.
Xin Chúa Thánh Thần ban ơn cho ta được sống đạo như Chúa muốn. Amen.
Họ đạo Đồng Xúc là một họ đạo bé nhỏ. Bé nhỏ ở số giáo dân. Bé nhỏ ở ngôi nhà thờ. Bé nhỏ ở tình trạng không có linh mục thường trú.
Lễ hôm nay cũng bé nhỏ. Bé nhỏ về số người tham dự. Bé nhỏ về thời gian hành lễ. Bé nhỏ về tiền bạc chi tiêu. Bé nhỏ về hình thức tổ chức.
Tôi muốn nhờ những hình ảnh bé nhỏ đây, để nói lên một đường hướng sống đạo, mà tôi nghĩ là rất hợp với Phúc Âm và cũng rất phù hợp với cuộc sống hiện tại. Đường hướng đó được áp dụng cho mỗi họ đạo đó là: Hãy sống bé nhỏ. Giờ đây, tôi xin nêu lên một vài nét về đường hướng đó.
Anh chị em thân mến,
1.- Trước hết, sống bé nhỏ là nhận biết bản thân mình yếu kém. Yếu kém, đó là một thực sự khách quan. Yếu kém về mọi mặt, nhưng nhất là về mặt đạo đức tôn giáo. Tôi không rõ anh chị em thế nào. Còn tôi, tôi cảm thấy rất thấm thía thân phận yếu kém của mình và của phạm vi trách nhiệm tôn giáo của mình luôn luôn là một tiếng kêu cầu thảm thiết từ vực sâu dâng lên lòng thương xót Chúa. “Xin Chúa thương xót chúng con” Lời cầu đó nói lên lúc nào cũng đúng. Lời cầu đó nói lên ở miệng người tín hữu nào cũng đúng. Lời cầu đó nói lên ở họ đạo nào cũng đúng. Đó là lời chân thành của người bé nhỏ.
Sống bé nhỏ như thế là trút lìa mọi ảo vọng, để nhìn lên phía trước có Chúa Giêsu phục sinh đang đi trước chúng ta. Chúa Giêsu là đường, là sự thực và là sự sống. Chính nhờ Người, với Người và trong Người mà chúng ta được cứu rỗi.
Sống bé nhỏ như thế là cảm nghiệm thấy mình như một số phận lịch sử, để rồi biết kính trọng cảm thương bất cứ ai phạm tội, bất cứ ai bất toàn, do lầm lạc và do bao thứ áp lực tâm sinh lý, gia đình và xã hội.
Sống bé nhỏ như thế là khiêm nhường ăn năn sám hối với tất cả niềm tin đặt vào lòng khoan dung Chúa.
Sống bé nhỏ như thế là tinh thần đạo đức ta có thể vun xới ở bất cứ nơi nào, ở bất cứ lúc nào, một cách tự do, một cách thoải mái. Rất hợp Phúc Âm. Rất hợp với cuộc sống.
2.- Rồi, sống bé nhỏ là còn lo làm những việc tốt lành nho nhỏ.
Sống đạo hôm nay mà mơ tìm những việc lớn là không thích hợp. Thực tế khuyên ta hãy lo làm những việc lành nhỏ. Việc lành nhỏ vừa tầm tay có nhiều thứ lắm. Tôi nhắc tới một ít thứ có thể làm mỗi ngày, thí dụ: Đọc kinh hôm, kinh mai, lần chuỗi, viếng Mình Thánh Chúa. Thí dụ: Bác ái đối với người khác, tránh làm tổn hại tài sản của họ, tránh làm tổn hại thì giờ của họ, tránh làm tổn hại thanh danh của họ, tránh làm tổn hại sự bình an tâm hồn của họ. Hơn nữa, còn để ý làm cho họ nên tốt hơn, được dễ sống hơn. Rồi, việc lành nhỏ cũng là việc bổn phận, cũng là những cố gắng trong lao động, trong học hành, trong cảnh làm ăn sinh sống, việc lành nhỏ là những hy sinh chấp nhận vì lý tưởng.
Trong nhiều hoàn cảnh, có những việc lành dễ trở thành những tai họa, khi ta không hạn chế hình thức nó vào khuôn khổ bé nhỏ, khi ta không chịu hy sinh bớt đi những sự có thể bớt đi để cứu sống chính sự căn bản.
Hồi xưa, Đức Mẹ đâu có làm việc lớn. Người sống cuộc đời bình thường, với những việc làm bình thường, bé nhỏ. Cái đẹp của Mẹ là tâm tình đạo đức của Mẹ. Cái đẹp của Mẹ là cái nhìn hiền dịu, là gương mặt nhân ái, là cách sống thùy mỵ đảm đang hòa mình, là cách đối xử tế nhị, khiêm cung nhã nhặn. Cái đẹp của Mẹ là can đảm chấp nhận những hy sinh âm thầm vì mến Chúa và vì phần rỗi các linh hồn. Đó là cách sống đạo rất hợp với lập trường: “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc”, rất hợp với nếp sống Xã Hội Chủ Nghĩa. Biết bằng lòng với những việc lành bé nhỏ nhiều khi lại chính là dấu chỉ của một tâm hồn lớn.
3.- Sau cùng, tôi xin nói thêm một nét nữa của đường hướng sống bé nhỏ, là hãy biết bám vào điểm tựa.
Bé nhỏ, nên cần tựa. Việc đó là việc tốt, là việc hợp tình hợp lý. Điểm tựa của ta là dân tộc, là nhà nước, là quê hương tổ quốc. Điểm tựa của ta là Hội Thánh, cụ thể là Tòa Thánh, là các Giám Mục của ta, là các Linh Mục xứ đạo của ta, là họ đạo của ta, là các bạn bè cùng tín ngưỡng với ta. Điểm tựa là các thánh. Điểm tựa là Đức Mẹ. Điểm tựa trên hết, nhưng cũng gần nhất và quan trọng nhất chính là Thiên Chúa toàn năng giàu lòng thương xót.
Ở đây, tôi lưu ý điều này là phải cảnh giác, không nên biến một điểm tựa nào ngoài Chúa thành một bức tường cản ngăn ta đến với Chúa. Nếu gần cha rồi xa Chúa, nếu gắn bó với nhà thờ để rồi thờ ơ với Chúa, thì ta đừng lạ nếu có ngày Chúa để không còn cha, không còn nhà thờ nữa.
Anh chị em thân mến,
Tôi vừa nêu lên mấy nét của một đường hướng sống đạo, đó là sống bé nhỏ. Sống bé nhỏ là nhận mình yếu kém, là lo làm những việc lành nhỏ, là biết bám vào điểm tựa. Nếu thực hành đúng ta sẽ thấy sống đạo như thế là một cuộc sống đạo đầy lạc quan, đầy tin tưởng. Đó là một cuộc sống tươi trẻ, tự do, thoải mái.
Lạy Chúa Thánh Thần, là Đấng rất yêu thương những linh hồn nhỏ bé, xin thương xót chúng con. Amen.
Bài Phúc Âm ta vừa nghe đã nhắc tới kẻ nghèo: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã xức dầu cho tôi. Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó”.
Hôm nay, tôi đến đây với cảm nghĩ, mìmh được sai đến với những kẻ nghèo. Chắc anh chị em sẽ chẳng buồn tôi, nếu tôi gọi anh chị em là những kẻ nghèo. Bởi vì, nói cho đúng thì không một ai trong anh chị em đáng được gọi là giàu. Tất cả chúng ta đều nghèo. Cái nghèo của chúng ta là một sự thực khách quan.
Tôi nhận đúng sự thực khách quan đó, và đến với anh chị em nhân danh Thiên Chúa, để loan báo cho anh chị em Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng đó là: Chúa thương chúng ta, Chúa thương kẻ nghèo, Chúa ở giữa cuộc sống chúng ta.
Tình thương Thiên Chúa đối với kẻ nghèo được viết trong Phúc Âm. Phúc Âm có thể gọi là một lá thư dài Chúa gởi cho người nghèo. Nội dung lá thư đó là tình thương. Chúa thương kẻ nghèo, nên đã giáng sinh làm người nghèo, sống cuộc sống nghèo, chia sẻ thân phận người nghèo, sống giữa dân nghèo và đã chết rất nghèo. Chúa thương kẻ nghèo, nên đã chọn 12 người nghèo làm cột trụ Hội Thánh, làm cho họ nên mạnh, đến nỗi bao nhiêu vua chúa quan quyền suốt 20 thế kỷ thi nhau đàn áp mà vẫn không sao thắng được 12 người nghèo đó. Chúa thương kẻ nghèo, nên đã đồng hóa mình với kẻ nghèo. Chúa phán: “Ai cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ rách rưới mặc, thì Ta kể như là làm ơn cho chính Ta”. Chúa thương kẻ nghèo, nên đã cho thấy vô số, vô vàn kẻ nghèo lũ lượt lên Thiên Đàng. Chúa phán: “Phúc cho những kẻ nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn kẻ giàu vào nước Thiên Đàng”.
Tôi ưa đọc Phúc Âm để suy nghĩ về tình thương của Chúa đối với người nghèo. Nhưng thường ngày tôi vẫn thích đọc tình thương ấy viết ở một sách khác. Sách khác đó chính là cuộc sống đồng bào Việt Nam hôm nay.
Trong cuộc sống đồng bào Việt Nam hôm nay có biết bao nhiêu người cha người mẹ rất nghèo túng, đang tần tảo, chịu đựng đủ thứ vất vả nhọc nhằn để nuôi con và giáo dục con. Sự can đảm lặng lẽ kiên trì của họ ngày nọ qua ngày kia, năm này qua năm khác, đó là những công trình tình thương tôi cho là hùng vĩ.
Trong cuộc sống đồng bào Việt Nam hôm nay có biết bao nông dân, công nhân nghèo túng, đang tranh thủ từng phút, chắt chiu từng đồng bạc, dành dụm từng chén gạo, để nuôi sống gia đình đi lên. Lòng quả cảm của họ âm thầm và kiên trì, là những công trình tình thương, tôi cho là hùng vĩ.
Trong cuộc sống đồng bào Việt Nam hôm nay có biết bao nhiêu người phải thức khuya dậy sớm, ăn thiếu dinh dưỡng, mặc không đủ ấm, bệnh không đủ thuốc, nhưng vẫn bám vào niềm tin để sống. Tin vào chính mình, tin vào đồng bào dân tộc, tin vào Thiên Chúa. Sự gắn bó trung thành của họ là những công trình niềm tin tôi cho là hùng vĩ.
Những công trình đó rất nhiều, nhưng âm thầm, lặng lẽ. Chính nét âm thầm lặng lẽ đó càng làm cho công trình hùng vĩ càng thêm đẹp, càng thêm quí giá. Nhìn những công trình sống động đó, tôi tin là Thiên Chúa đang sống với chúng ta, đang sống giữa chúng ta. Tôi càng tin rằng, sức mạnh phục hưng Giáo Hội, phát đi từ những công trình âm thầm nhưng hùng vĩ đó.
Tuy nhiên, có những cuộc sống nghèo mang sức sống xây dựng, mà cũng có những cuộc sống nghèo có khả năng phá hoại, khi không biết tự trọng, khi không biết cố gắng xoay sở, khi không biết thương kẻ khác, khi lạm dụng và phụ bạc. Chính những cái đó ngăn cản tình thương của Chúa.
Anh chị em thân mến,
Nhắc tới lỗi lầm, chắc mỗi người chúng ta đều thấy mình có nhiều điều cần nói riêng với Chúa. Ta hãy nói với Chúa một cách chân thành. Nói như kẻ nghèo, nói như kẻ yếu đuối, nói với tất cả lòng khiêm tốn và tin yêu. Hãy nói như vua Đavít xưa: “Lạy Chúa, xin nhớ đến giao ước của Chúa. Xin Chúa đừng quên những kẻ nghèo của dân Chúa. Xin Chúa đứng lên bênh vực họ. Xin đừng quên lời kêu cầu của những kẻ đang tìm Chúa”. Amen.
“Cha cho chúng con một điều răn mới, là chúng con hãy thương yêu nhau, như Cha đã thương yêu chúng con”. Ta vừa hát lời đó. Ta đã nghe lời đó không biết bao nhiêu lần rồi. Ta biết là Lời Chúa. Bây giờ, nếu hỏi lòng mình, tôi e rằng: Lời đó vẫn chỉ là một lý tưởng đẹp, chứ thực hiện thì ta chưa được bao nhiêu.
Nếu bây giờ, tôi viết Lời Chúa đó dán khắp các nhà thờ trong địa phận, chắc nhiều người sẽ đọc, sẽ thuộc. Nhưng tôi e rằng: Lời đó cũng vẫn chỉ là những hạt giống tốt để trưng bày, để học hỏi, chứ gieo trồng và sinh cây trái thì lại là chuyện khác.
Nếu bây giờ, tôi ra chợ, vào các cơ quan, nói lớn cho mọi người nghe: Chúng ta hãy thương yêu nhau, như Chúa đã yêu thương chúng ta. Chắc sẽ có nhiều người nghe được tiếng tôi. Nhưng tôi e rằng: Thái độ của người ta đối với Chúa sẽ không vì thế mà nên tốt hơn, có thể xấu hơn là đàng khác.
Những sự kiện trên đây cho ta thấy: Lời Chúa là chân lý, rất hay, rất đẹp. Nhưng thực tế, vô số người không biết. Vô số người biết nhưng không tin. Vô số người tin, nhưng không thực hành. Vô số người thực hành, nhưng chẳng tới đâu. Lý do là vì: Bản tính con người yếu đuối. Hiện nay có những triệu chứng cho thấy bản tính vốn đã yếu đuối của con người đang bị thoái hóa mỗi ngày một trầm trọng thêm. Có một sự suy thoái trong bản tính con người. Đó là khó khăn lớn nhất trong việc thực thi Lời Chúa.
Cho nên, khi chúng ta tuyên hứa, chúng ta cần thấy rõ khó khăn đó. Hãy nhìn rõ cái bản tính yếu đuối con người đang bị nguy cơ đẩy xuống đà suy thoái mỗi ngày một sâu hơn. Hãy nhìn bản tính đó nơi chính mình. Hãy nhìn bản tính đó nơi người khác. Cần nhận thức rõ khó khăn đó, để biết khiêm tốn và cố gắng dùng mọi cách siêu nhiên và tự nhiên để cải tạo bản tính đó cho nên quân bình hơn, quảng đại hơn, cương quyết hơn.
Việc cải tạo bản tính con người sẽ sát thực tế hơn, nếu ngoài các việc đạo đức quen làm, ta để ý thêm đến một điểm vừa hợp Phúc Âm, vừa hợp thời cuộc. Đó là tổ chức đời sống theo tinh thần tiết kiệm.
Hiện nay, khắp nơi nói đến tiết kiệm. Ở đây, tôi muốn hiểu tiết kiệm một cách rộng rãi. Thí dụ: Tiết kiệm thời giờ. Thời giờ là vàng. Nhưng nhiều người chưa biết tiết kiệm cho mình và cho người khác thứ vàng quí đó. Thí dụ: Tiết kiệm lời nói. Nói nhiều không tốt, nhất là những lời than trách, phô trương, hàm hồ. Thí dụ: Tiết kiệm nhu cầu và yêu cầu. Cần nhiều không hay. Xin nhiều không đẹp. Thí dụ: Tiết kiệm những chiều chuộng đối với bản thân, từ tư tưởng, cảm tình đến hành động. Sống tiết độ, khổ hạnh, hãm mình vốn là phương pháp cần thiết để rèn luyện bản thân và để đón nhận ơn Chúa.
Thưa anh chị em,
Bản tính con người, sẽ được cải tạo không do những việc lớn, nhưng do những việc nhỏ làm đi làm lại. Mỗi ngày phải bắt đầu, rồi lại bắt đầu. Năm mới sắp đến, tôi có cảm tưởng là Chúa sẽ chủ động cải tạo chúng ta bằng nhiều cách. Tôi nói Chúa chủ động nghĩa là Chúa chọn cách cải tạo, chứ không phải ta chọn. Sẽ có những cách rất khó chịu, ta bó buộc phải chịu, vì chính Chúa chủ động.
Giờ đây tuyên hứa, và những tháng năm sắp tới, ta hãy nhìn vào bản tính của ta cần được cải tạo. Đồng thời cũng nhìn vào Chúa là Đấng cải tạo rất nhân lành. Ta khiêm tốn và cậy trông phó thác. Chúa là Cha, ta là con Ngài. Cha thương con. Con tin cậy tình Cha. Có thế thôi. Rồi ta sẽ thấy sự cải tạo sẽ giúp ta nên tốt hơn, dòng ta nên vững vàng hơn. Giáo Hội ta nên tươi trẻ hơn.
Ngày Tết, ta đi lễ là để gặp Chúa, để gặp nhau, và để gặp lại chính mình. Trong gặp gỡ ngày Tết, chúng ta muốn sống những ngày đẹp nhất. Tết có nhiều cái đẹp. Nhưng đẹp nhất vẫn là những ước mơ, những hy vọng.
Riêng với Chúa, tôi đã nói ước mơ của tôi. Tôi nói với Chúa rằng: Năm mới, cuộc sống của con và của giáo dân con sẽ là một hành trình rất vất vả. Con ước mong Chúa cùng đi với chúng con, chúng con sẽ dễ an tâm, sẽ được an ủi.
Thưa anh chị em,
Nói lên được ước mong đó với Chúa, tôi thấy cũng đã là một an ủi. Ước mong đó dựa trên niềm tin lời Chúa: “Cha là đàng, là sự thực và là sự sống”. Ước mong đó dựa vào niềm tin dân Chúa: “Chúa là hạnh phúc của con, Chúa ơi. Chúa là hoan lạc đời con”.
Thế rồi, có một lúc Chúa đã hỏi tôi: Con xin Cha đồng hành với con. Nhưng nếu Cha đồng hành với con, như xưa Cha đã đồng hành với Đức Mẹ và thánh Giuse, để rồi vì Cha mà các Ngài bị Hêrôđê bắt bớ, săn đuổi, thì con còn muốn Cha đồng hành với con nữa không?
Con xin Cha đồng hành với con.
Nhưng nếu Cha đồng hành với con, như xưa Cha đã đồng hành với dân làng Nazareth trong cuộc sống lao động thầm lặng, để rồi chẳng ai nhận biết Cha là Thiên Chúa, mà chỉ biết Cha là một người lầm than như họ, một người của họ, thì con còn muốn Cha đồng hành với con nữa không?
Con xin Cha đồng hành với con.
Nhưng nếu Cha đồng hành với con, như xưa Cha đã đồng hành với ông Simon trên đường lên Núi Sọ, để rồi chính ông phải vác đỡ Thánh Giá cho Cha trong thân hình tiều tụy, bị tước đoạt hết, kể cả danh dự, thì con còn muốn Cha đồng hành với con nữa không?
Con xin Cha đồng hành với con.
Nhưng nếu Cha đồng hành với con, như xưa Cha đã đồng hành với Mađalena sáng sớm ngày sống lại, để rồi Cha vội biến đi, Madalena tiếp tục sống với Cha bằng niềm tin, chứ không còn bằng giác quan, thì con có còn muốn Cha đồng hành với con nữa không?
Và sau cùng, nếu Cha đồng hành với con, như xưa Cha đã đồng hành với Saulô trên đường Đamas, để rồi chính Cha làm Saulô té ngã, từ đó Saulô nên mới, trở thành kẻ rao giảng Tin Mừng bằng lời nói xác tín, bằng cuộc sống can đảm và bằng cái chết tử đạo, thì con còn muốn Cha đồng hành với con nữa không?
Tất cả những câu hỏi với những hình ảnh trên đây, đã giúp cho tôi hiểu: Chúa đồng hành với ta, không hẳn là chuyện riêng của ta với Chúa, nhưng cũng là chuyện chính ta với bản thân mình và với tha nhân.
Chúa đồng hành với ta là Chúa muốn ta nên người mới, như gương thánh Phaolô. Chúa đồng hành với ta, là Chúa muốn ta nên quảng đại, như gương thánh Mađalêna.
Chúa đồng hành với ta, là Chúa muốn ta nhiệt tâm bênh đỡ những người bị áp bức, như gương ông Simon.
Chúa dồng hành với ta, là Chúa muốn ta tích cực che chở bảo vệ con cái Chúa, như gương Đức Mẹ và thánh Giuse.
Chúa đồng hành với ta, là Chúa muốn ta âm thầm chia sẻ cuộc sống lao động cam go của đồng bào, và tích cực góp phần thăng tiến dân tộc và tổ quốc, như gương Chúa Cứu Thế.
Điều quan trọng nhất Chúa muốn khi đồng hành với ta là ta hãy năng nhìn Ngài, luôn tôn kính Ngài, luôn bám vào Ngài, luôn tin cậy Ngài. Tin cậy một cách khiêm tốn, tin cậy một cách vững vàng. Tin cậy Ngài sẽ giúp ta nên con cái xứng đáng của Ngài.
Thưa anh chị em,
Năm nay, thứ quà Tết nào cũng mắc. Không có nhiều tiền không sao mua được. Nhưng cũng có thứ quà ta không phải mua, mà lại rất có giá trị. Đó là những món quà tinh thần, đó là những ơn lành của Chúa.
Tôi cầu mong hôm nay và suốt năm mới này, anh chị em dược rất nhiều ơn lành của Chúa. Tôi cầu chúc sang năm mới này, mỗi người anh chị em sẽ thấy hành trình cuộc sống của mình là một khám phá lớn. Đó là có Chúa đồng hành với mình, có tình thương cứu độ đồng hành với mình. Amen.
Khi kiểm điểm đời sống nội tâm của tôi, tôi thấy thế này:
Cái đã làm cho tôi thấy Chúa Giêsu dễ thương dễ mến, không phải là sự Ngài hay làm phép lạ, nhưng chính là sự Ngài hiền lành và khiêm nhường.
Cái đã làm cho tôi dễ gần gũi Chúa Giêsu, không phải là sự Ngài luôn dạy dỗ điều hay lẽ phải, nhưng chính là sự Ngài hiền lành và khiêm nhường.
Cái đã làm cho tôi dễ nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, không phải là sự Ngài tỏ uy quyền cao sang, nhưng chính là sự Ngài hiền lành và khiêm nhường.
Những gì xưa Chúa Giêsu đã nói, đã làm, đã chịu trong cuộc khổ nạn, đều nói lên Chúa Giêsu rất hiền lành và rất khiêm nhường. Ngài hiền lành và khiêm nhường trong việc vâng phục thánh ý Chúa Cha. Ngài hiền lành và khiêm nhường trong việc tuân giữ luật pháp Nhà Nước và trọng kính Chính Quyền. Ngài hiền lành và khiêm nhường trong việc yêu thương các tông đồ, yêu đồng bào của Ngài, tổ quốc của Ngài và tất cả nhân loại.
Chúa Giêsu đã hiền lành và khiêm nhường tới mức bị người ta cho là yếu kém. Yếu kém của Chúa Giêsu là một vấp phạm cho nhiều người, nhưng lại là một mầu nhiệm vô cùng đẹp đẽ, và đó cũng chính là một ân huệ cho thân phận con người chúng ta.
Nếu ta thực sự hiền lành, nếu ta thực sự khiêm nhường, ta sẽ gặp được con người đích thực của ta, ta sẽ gặp được Chúa, ta sẽ gặp dược tâm hồn kẻ khác.
Tất nhiên, nói hiền lành là hiền lành với kẻ khác, nói khiêm nhường là khiêm nhường với kẻ khác. Có nghĩa là hiền lành khiêm nhường là dấu chỉ đạo đức của các liên hệ. Nó là những vẻ đẹp của lòng thương yêu. Nó là cái gì tích cực. Nó làm cho những ai gặp ta, nói với ta, sống với ta cảm thấy dễ chịu. Họ thấy sự có mặt của ta làm cho họ vui tươi hơn, hạnh phúc hơn. Sự có mặt của ta, không những không là một bất hạnh cho họ, mà còn là một đóng góp ý nghĩa vào hạnh phúc đời họ. Biết sống như thế chính là sống đạo.
Vì thế, trong những ngày này, ta nên xem xét lại khuôn mặt của ta trong các liên hệ. Thí dụ, trong liên hệ với gia đình, với các người quen thân, ta có luôn hiền lành và khiêm nhường, biết quên mình cho đi, hay ta vốn còn ích kỷ, thích chờ đợi nhận lãnh. Trong liên hệ với đồng bào, ta có luôn hiền lành và khiêm nhường, biết nhiệt tình cống hiến mình vì mọi người, hay ta vốn còn riêng rẽ, chỉ biết đòi hỏi mọi người vì mình. Trong liên hệ với đất nước, ta có luôn hiền lành và khiêm nhường, trung thành yêu mến tổ quốc, tích cực phục vụ xã hội, quảng đại đóng góp vào lợi ích chung, hay ta vốn còn dửng dưng hẹp hòi, làm theo ý riêng mình. Hiền lành và khiêm nhường là sắc đẹp và là hương thơm của tình yêu vị tha, ta có sắc đẹp và hương thơm đó không?
Chúng ta hãy nội tâm hóa lời Chúa Giêsu dạy: “Chúng con hãy học cùng Cha, vì Cha hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Nội tâm hóa là làm cho sự hiền lành khiêm nhường trở thành hết sức chân thành, hết sức tích cực, hết sức tự nhiên, phát xuất tự đáy lòng.
Để được như thế, giờ đây, chúng ta hãy xin Thánh Thần Chúa Giêsu giúp ta thông hiệp với tâm tình của Chúa Cứu Thế khi Ngài rửa chân cho môn đệ, và khi Ngài trối lại: “Cha cho chúng con một điều răn mới, là chúng con hãy thương yêu nhau”. Amen.
Lễ hôm nay dài, nên tôi sẽ nói vắn tắt. Tôi xin nói về một tư tưởng mà Phúc Âm hôm nay nhắc lại hai lần.
Khi mấy bà đạo đức đến mồ Chúa Giêsu, gặp thấy Thiên Thần, thì Thiên Thần nói với các bà rằng: “Yêu cầu các bà về nói lại với các môn đệ Chúa là hãy trở về Galilêa. Ở đó, họ sẽ gặp được Chúa”.
Một lát sau, chính Chúa Giêsu hiện ra với các bà, cũng nói: “Các con về nói với các môn đệ của Cha là hãy trở về Galilêa, rồi họ sẽ được gặp Cha tại đó”.
Chỉ có một điều, mà Chúa nhắn đến hai lần.
Hãy trở về. Đó là lời đầu tiên Chúa truyền cho môn đệ, khi Ngài vừa sống lại.
Trở về đâu? Thì cả Thiên Thần, cả Chúa Giêsu cũng đã xác định: Hãy trở về Galilêa, là quê hương của đất nước mình. Trở về đó có lợi gì? Thì cả Thiên Thần, cả Chúa Giêsu cũng đã xác định: Trở về quê hương đất nước để được gặp Chúa.
Sự trở về mà Chúa Giêsu phục sinh dạy các môn đệ hôm nay có ý nghĩa sâu sắc và thiết thực. Cụ thể, đối với ta, thì lời Chúa kêu gọi ta gắn bó với quê hương Việt Nam của ta, gắn bó với đất nước Việt Nam của ta, gắn bó với dân tộc Việt Nam của ta, gắn bó với Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hôm nay của ta.
Gắn bó với tất cả lòng mến yêu chân thành, với tất cả tinh thần phục vụ chân chính. Gắn bó là hoà mình vào cuộc sống chung của đồng bào mình, là chia sẻ trách nhiệm chung của dân tộc mình, là góp phần vào việc giải quyết các vấn đề chung của địa phương mình, nhằm đem lại cho đồng bào lối xóm cũng như gia đình mình một cuộc sống hạnh phúc hơn.
Trong quá khứ và trong hiện tại, chúng ta vốn đã và đang thực hiện sự gắn bó như thế. Trong tương lai, chúng ta tiếp tục sự gắn bó như thế với nhận thức sâu sắc hơn, với hành động tích cực hơn.
Như thế, ta hiểu: Sống đạo là trở về với con người, yêu thương đồng bào, phục vụ xã hội với tinh thần bác ái trong sáng của Chúa. Chính tại môi trường đó, Chúa hẹn gặp ta, ta sẽ gặp được Chúa.
Nếu chúng ta biết suy nghĩ như thế trong tình mến Chúa thực sự, ta sẽ thấy đời sống đức tin không còn phức tạp, nhưng sẽ là một tình yêu của một đời sống bình thường giữa lòng dân tộc.
Với chiều hướng đó, giờ đây, ta sẽ tuyên xưng lại đức tin. Và cũng trong chiều hướng đó, tôi nguyện chúc tất cả anh chị em một lễ Phục Sinh tốt đẹp nhất. Amen.
Hôm nay là lễ kính Đức Chúa Thánh Thần. Nếu hỏi Đức Chúa Thánh Thần là ai? Thì kinh Tin Kính giúp ta trả lời: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống”.
Sự sống nói đây, phải hiểu là sự sống thiêng liêng, sự sống siêu nhiên, sự sống có ân nghĩa với Chúa. Sự sống mà Chúa Thánh Thần ban cũng được hiểu về mọi sự tốt lành tự nhiên và siêu nhiên giúp ta xây dựng, bảo vệ và phát triển sự sống thiêng liêng.
Một sự sống như thế với tính cách đem lại hạnh phúc toàn diện cho con người. Đó là một sự sống lý tưởng. Một sự sống như thế, tất nhiên là rất muốn.
Nhưng ở đây, vấn đề đúng đắn phải đặt ra không phải là Chúa Thánh Thần có muốn ban sự sống đó cho ta không? Mà vấn đề chính là ta có biết tiếp nhận sự sống Ngài muốn ban cho ta không?
Chúa Thánh Thần muốn ban sự sống cho ta bằng nhiều cách. Các bài Thánh Kinh lễ hôm nay giới thiệu với ta bốn con đường ta có thể tiếp nhận ơn Chúa Thánh Thần.
Trước hết, bài đáp ca gợi ý cho ta về con đường thứ nhất. Đó là các công trình thụ tạo.
Thực vậy, những công trình như công trình khoa học, văn hóa, kỹ thuật vv... nhất là quá trình lịch sử dân tộc là những kho tàng tích lũy trí tuệ và nhân đức, có khả năng giúp ta nên con người tốt về nhiều mặt. Nếu biết khám phá ta sẽ thấy những công trình đó là một nguồn ơn Chúa Thánh Thần rất quý giá.
Liền với bài đáp ca là bài Thánh Thư, trong đó thánh Phaolô gợi ý cho ta thấy con đường thứ hai, đó là các thành phần xã hội. Thực vậy, các tầng lớp nhân dân, dù ở những chức vụ khác nhau, dù làm những công việc khác nhau, dù thuộc những khuynh hướng khác nhau, hoặc tập thể, hoặc cá nhân, đều là những bài học và là những nguồn xây dựng cuộc sống. Nếu biết cởi mở, ta sẽ thấy xã hội là một nguồn ơn Chúa Thánh Thần rất phong phú, rất dồi dào.
Sau đó, bài Phúc Âm gợi ý cho ta thấy con đường thứ ba, đó là Hội Thánh. Thực vậy, những kẻ được Chúa sai đi dùng lời Chúa và bí tích ban ơn thánh cho ta. Nếu biết tiếp nhận, ta sẽ thấy Hội Thánh là một nguồn ơn Chúa Thánh Thần đem lại cho ta muôn vàn ơn cần thiết cho phần rỗi.
Sau cùng, bài Tông Đồ Công Vụ gợi ý cho ta thấy con đường thứ tư. Đó là Chúa Thánh Thần trực tiếp đến với con người, không qua trung gian nào cả. Đó là trường hợp các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần, mà ta kỷ niệm hôm nay. Sự Chúa Thánh Thần đến trực tiếp như thế đã làm nên bao đổi mới, khởi đầu cho muôn vàn triệu cuộc sống thiêng liêng, dẫn tới hạnh phúc trường sinh vô cùng.
Nếu tự xem xét lại đời mình, ta thấy qua bốn con đường trên đây, mỗi người Công Giáo chúng ta, thực sự có nhận được ơn Chúa Thánh Thần. Kẻ nhận được nhiều, kẻ nhận được ít. Kẻ được ơn này, kẻ được ơn khác. Thí dụ: Kẻ thì được ơn thánh thiện, ơn khôn ngoan, ơn thông minh. Kẻ thì được ơn khiêm nhường, ơn nhìn xa thấy rộng, ơn bén nhạy thức thời, ơn yêu thương phục vụ. Tất cả những ơn đó đều làm nên sự sống thiêng liêng, hoặc giúp ích riêng cho bản thân, hoặc giúp ích chung cho Hội Thánh và tổ quốc.
Ta có ơn Chúa Thánh Thần, đó là điều rất tốt. Nhưng điều Chúa muốn hơn thế nữa: Đó là ta hãy có chính Chúa Thánh Thần trong lòng ta.
Tôi không biết ai là người có Chúa Thánh Thần. Tôi chỉ biết rằng: Theo sách Tông Đồ Công Vụ kể lại rằng mà ta mới nghe đầu lễ, thì khi Chúa Thánh Thần ngự vào tâm hồn các tông đồ, lập tức có hai hậu quả thấy ngay trước mắt: Một là các tông đồ đi ra gặp đồng bào mình với thái độ cởi mở, tin tưởng, chia sẻ và hy vọng, khác với thái độ khép kín nghi kỵ và thất vọng trước đó. Hai là các tông đồ nói, mà mọi người đều hiểu được, khác với tình trạng trước đó, các Ngài nói mà rất nhiều người không hiểu.
Hôm nay, tôi cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống lòng ta với ơn như thế, để ta biết xây dựng liên hệ với người chung quanh bằng sự khiêm nhường kính trọng, bằng tình đoàn kết chân thành, bằng sự tuân giữ luật pháp, bằng sự chia sẻ thăng tiến, để ta biết nói với nhau bằng ngôn ngữ mọi người dễ hiểu. Thí dụ như tình người, tế nhị và phục vụ theo thánh ý Chúa.
Thiết tưởng, đó là lời cầu thiết thực, gợi ý cho ta tình cảm và suy nghĩ tốt đời, đẹp đạo. Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự xuống trong lòng con. Amen.
Sáng nay, cũng như mọi ngày, chúng ta đọc kinh Tin, Cậy, Mến. Kinh Tin khởi đầu bằng câu này: “Lạy Chúa con, con tin thật có một Đức Chúa Trời, là Đấng thưởng phạt vô cùng...”. Có một Đức Chúa Trời là Đấng thưởng phạt vô cùng: Đó là những lời đơn sơ, nhưng đó là một chân lý đức tin rất quan trọng. Hôm nay tôi muốn nhắc qua chân lý đó.
Như anh chị em đã biết, một trong những điều Chúa Giêsu đã nói đi nói lại với các môn đệ, đó là: Đời mỗi người đều sẽ có kết thúc sau cùng. Sau cùng, chính Chúa sẽ xét xử thưởng phạt mỗi người về tất cả cuộc đời của họ. Xét xử về mọi việc đã làm, xét xử về mọi lời đã nói, xét xử về mọi tư tưởng tâm tình và mọi thiếu sót. Ai tốt thì được thưởng, ai xấu sẽ bị phạt. Thưởng là được lãnh phúc Thiên Đàng đời đời. Phạt là phải trầm luân Hỏa Ngục muôn kiếp, hoặc phải đền tội trong Luyện Ngục một thời gian.
Chúa Giêsu dạy ta chân lý đó trong các dụ ngôn. Thí dụ, trong dụ ngôn Chúa ví trần gian như thửa ruộng, có lúa tốt và cũng có cỏ xấu. Đến mùa gặt lúa tốt sẽ được đưa vào kho lẫm, cỏ xấu sẽ bị quăng vào lửa. Nghĩa là thế gian rồi sẽ bị phán xét. Kẻ lành sẽ được thưởng, kẻ xấu sẽ bị phạt.
Rồi trong dụ ngôn Chúa ví trần gian như cảnh chênh lệch giàu nghèo. Người phú hộ nọ ăn sướng, mặc sang, nhàn hạ hưởng thụ. Người hành khất tên Lazarô rách rưới, ghẻ lở, lầm than khốn khổ, cực chẳng đã phải đến cổng nhà người phú hộ xin ăn. Nhưng bị người phú hộ khinh khi hất hủi. Đến lúc cả hai người cùng chết. Chúa đưa người ăn xin lên Thiên Đàng, và đuổi người phú hộ xuống Hỏa Ngục.
Rồi trong dụ ngôn Chúa ví trần gian như một tập thể sản xuất. Có người dùng số vốn đã nhận để tăng gia, thu hoạch hiệu quả tốt, được gấp trăm, gấp 50 lần số vốn đầu tư. Nhưng có người lười biếng, nhận bao nhiêu, nạp lại bấy nhiêu. Đến ngày kiểm nhận, người trước được thưởng, người sau bị phạt.
Rồi trong dụ ngôn Chúa ví trần gian như cảnh hai người cầu nguyện ở nhà thờ. Người đứng trước bàn thờ thì vênh váo, tự phụ, tự đắc, khoe mình đạo đức, khinh người đang đứng ở cuối nhà thờ. Còn người đứng ở cuối nhà thờ, thì nhận mình tội lỗi bất xứng, đấm ngực ăn năn. Chúa nhìn thấu suốt lòng cả hai người, nên xua đuổi người kiêu căng. Còn người khiêm tốn tự hạ thì được Chúa chấp nhận.
Với những dụ ngôn trên đây, và vô số lời dạy khác, Chúa muốn ta nhớ rằng: Chúa là Đấng thưởng phạt vô cùng. Vô cùng sáng suốt, vô cùng công minh. Vô cùng cũng là cái thời gian vô tận ở đời sau. Vô cùng cũng là tính cách hữu hiệu của thưởng phạt. Không thể nào tránh được.
Chân lý trên đây quan trọng lắm. Ta đừng quên dạy con em ta chân lý đó. Kinh nghiệm cho thấy, ai sống chân thành, sâu sắc chân lý đó, sẽ cố gắng xa tránh tội lỗi, và nổ lực ăn ở ngay lành. Ta dạy con em ta đơn sơ thôi. Thí dụ, ta năng nhắc nhở con em ta rằng: Con nhớ là Chúa nhìn thấy suốt đời con, tận đáy lòng con. Nếu con thảo kính cha mẹ, biết trọng trên nhường dưới, biết thương yêu đồng bào, tôn trọng an ninh trật tự xã hội, thì Chúa sẽ thương con, sẽ thương con sau này. Trái lại, nếu con bất hiếu, ngỗ nghịch, gian dối, lười biếng, phản dân hại nước, thì con sẽ bị Chúa phạt. Con có thể che dấu tội con trước mặt người khác, nhưng trước mặt Chúa, sẽ chẳng có gì che dấu được. Nếu con không được thưởng hay bị phạt ở đời này, thì chắc chắn là ở đời sau. Những lời như thế đơn sơ lắm, nhưng có sức huấn luyện lương tâm con em chúng ta. Đã hẳn con người như thế rồi cũng vẫn còn có thể phạm tội. Nhưng niềm kính sợ Thiên Chúa thưởng phạt, cũng vẫn là sức thiêng kêu gọi họ sửa mình, vẫn là ánh sáng soi cho họ thấy đời họ là một chuyến đi đầy ý nghĩa.
Anh chị em thân mến,
Tin Thiên Chúa, có nghĩa là gặp gỡ Chúa, là sống với Chúa. Để niềm tin trở thành một sự gặp gỡ, một cuộc sống thực sự, chúng ta cần phải nhờ ơn Chúa. Trong lễ hôm nay, chúng ta cầu nguyện ơn đó cho con em chúng ta, và cho chính chúng ta. Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban ơn cho chúng con được một đức tin trong sáng. Xin cho chúng con, khi tin Chúa thì gặp được Chúa, và sống với Chúa, để nhờ đó, chúng con biết ăn ở theo lương tâm ngay chính, quảng đại theo thánh ý Chúa, góp phần xây dựng bảo vệ, và không ngừng góp phần phát triển hạnh phúc của đồng bào chúng con. Amen.
Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời được dời vào chúa nhật tới 19/8. Nhưng vì Lễ Thêm Sức hôm nay nhằm vào ngày 15/8, tức chính ngày Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời theo lịch phụng vụ chung cho toàn thể Hội Thánh, nên tôi muốn nói ít lời về Đức Mẹ.
Sự kiện Đức Mẹ lên trời cả hồn và xác, là điều rất đáng vui mừng. Nhưng thú thật, đó không phải là điều hấp dẫn tôi nhiều lắm. Một sự nơi Đức Mẹ đã hấp dẫn tôi một cách mãnh liệt, một sự nơi Đức Mẹ đã là sức mạnh chinh phục từng triệu trái tim, sự đó không phải là sự Đức Mẹ lên trời, mà là tấm lòng nhân ái của Đức Mẹ.
Những bức tượng và những tấm ảnh Đức Mẹ có giá trị nhất xưa nay trên thế giới đều đã được nổi tiếng ở điểm diễn tả tới mức độ cao vẻ nhân ái của Đức Mẹ.
Nhân ái là một vẻ đẹp trong sáng, tích tụ lại những gì là hiền dịu, là khoan dung, là yêu thương, là cao thượng. Khi nhìn các ảnh tượng Đức Mẹ, nhất là khi cầu nguyện Đức Mẹ, ta hay cảm thấy cái vẻ đẹp huyền diệu đó tác động trong lòng ta, khiến ta dễ tin mến Đức Mẹ.
Tất nhiên ta ưa thích vẻ đẹp nhân ái của Đức Mẹ, nhưng có bao giờ ta tự hỏi mình xem ta có vẻ đẹp đó không. Tôi nghĩ là anh chị em, ai cũng có nhân ái. Người thì có nhiều, kẻ thì có ít. Nhưng dù nhiều dù ít, lòng nhân ái của ta cần phải được phát huy, và chỉ được phát huy nếu được ta chăm sóc kiên trì và tế nhị.
Suy gẫm đời Đức Mẹ, tôi tìm hiểu xem Đức Mẹ đã chăm sóc tấm lòng nhân ái của mình thế nào. Tôi thấy thế này: Ngoài ơn thiên phú, ngoài việc cầu nguyện, Đức Mẹ đã luôn rèn luyện mình theo một lý tưởng có thể tóm tắt như sau: Tuân theo ý Chúa, nên luôn tìm phục vụ gia đình, thân thuộc, đồng bào, quê hương, nhân loại. Đức Mẹ đã không bao giờ đã nói lên lý tưởng đó thành công thức. Nhưng thực tế, cuộc sống Đức Mẹ đã theo đường hướng đó. Còn chúng ta, chúng ta đã thuộc công thức “Mến Chúa, yêu người”, nhưng thực tế đời sống của ta đâu có luôn đúng đường hướng đó. Do đó, vấn đề đặt ra cho ta ở đây là phải nổ lực rèn luyện bản thân mình.
Nhân ái, vừa là việc của lý trí, vừa là việc của tình cảm. Lý trí phải có nguyên tắc đúng đắn để soi sáng. Nhưng tình cảm thì phải rèn luyện, phải uốn nắn, phải nung phải nấu, phải tập tành. Một đứa nhỏ có thói quen vui chơi bằng cách phá hoại cây cối, bứt xé bông hoa, hành hạ giống vật, trêu chọc người tàn tật, đứa nhỏ đó lớn lên sẽ không tự nhiên có một trái tim dễ rung động trước những đau khổ của người khác. Một thanh niên có một quá trình đời sống luôn may mắn, không hề bị đụng chạm, không hề gặp khó khăn, cái gì cũng thàng công, muốn có cái gì cũng có sẵn sàng như ý, người thanh niên ấy không dễ có một trái tim khiêm tốn, dễ thông cảm với những người chỉ sống nhờ phấn đấu không ngừng, chứ không hề nhờ may mắn.
Như thế, có nghĩa là tình cảm nhân ái là một cái nếp. Phải nhiều lần mới thành nếp. Phải nuôi nhiều tâm tư hiền lành quảng đại. Phải gẫm nhiều gương thương người. Phải tập nói năng hoà nhã. Phải tập xử lý với người khác đúng như cách mình muốn người ta xử lý với mình. Phải tập nhìn người khác bằng con mắt của trái tim tế nhị.
Đã hẳn, nhân ái không có nghĩa là chấp nhận nhu nhược, dung túng, cưng chiều vô lối. Tuy nhiên, kinh ngiệm cho thấy, trong đối xử với bà con, bè bạn, đồng bào, chúng ta dễ lỗi lầm về nhân ái ở điểm hay ích kỷ, hay tự ái, hay kiêu ngạo, hay nhỏ nhen, hay thù hận, chứ ích khi ta lỗi lầm vì quá thương, quá quảng đại. Chính vì thế, mà trong việc rèn luyện mình và giáo dục con em, ta nên để ý tập mở rộng trái tim ta ra, hơn là tập khép kín nó lại.
Mới rồi, tôi đọc cuốn sách tựa đề “Cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam” (tập I, nhà xuất bản Sự Thật, Nà Nội 1976), có bài ông Tổng Bí Thư Lê Duẫn, nói tại ngày hội của trường đại học Sư Phạm Hà Nội, ngày 29-6-1962. Trong bài nói đó, ông Tổng Bí Thư Lê Duẫn đã khẳng định chân lý về nhân ái như sau: “Nói đến rèn luyện con người, trước hết là nói giáo dục lòng nhân ái của con người, vì lòng thương người là đạo lý của cuộc sống, là đạo lý làm người” (trang 175). “Cái gốc của đạo đức, của luân lý là lòng nhân ái” (trang 177). Đó là những lời quí báu. Tôi mong mọi người chúng ta ghi nhớ thực hiện, và dạy lại chân lý đó cho con em chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Trong kinh Tám Mối Phúc, ta đọc: “Ai thương người ấy là phúc thật, vì chưng Nước Đức Chúa Trời là của mình vậy”. Ta đọc câu đó, ta tin câu đó, nên ta phải cố gắng sống niềm tin đó. Trong thánh lễ này, chúng ta xin Chúa Thánh Thần là Cha rất nhân ái, thương ban ơn giúp đỡ chúng ta và con em chúng ta, để tất cả cùng biết sống nhân ái, xứng đáng là người con của Mẹ Maria nhân ái. Amen.
Chúng ta vừa nghe trong bài Phúc Âm những lời Đức Mẹ ngợi khen Chúa. Phụng vụ quen gọi những lời đó là Kinh Ngợi Khen. Kinh này xưa nay, được rất nhiều người khắp nơi trong Hội Thánh đọc lên và hát lên mỗi ngày. Hôm nay, nhân lễ Đức Mẹ, tôi muốn nhắc đến một điểm quan trọng của kinh đó. Điểm đó là: Tinh thần ngợi khen. Tôi sẽ nói rất vắn gọn.
Kinh đó khởi đầu bằng những lời đơn giản như sau: “Linh hồn con ngợi khen Chúa”. Những lời như thế, xét về văn vẻ, thì chẳng có gì đáng nói. Nhưng nó quí ở cái tinh thần thờ phượng sống động trong đó. Nó quí ở những tâm tình dịu ngọt nồng nàn chất chứa trong đó. Nhất là nó quí ở sự nó là một hướng đi của cả một cuộc đời, nó là lời nói tóm tắt cả một cuộc đời. Linh hồn con ngợi khen Chúa. Hôm nay và suốt đời, linh hồn con ngợi khen Chúa. Dù vui, dù buồn, linh hồn con ngợi khen Chúa. Cho đến muôn đời, linh hồn con ngợi khen Chúa.
Đời Đức Mẹ có nhiều niềm vui, như khi Đức Mẹ được chọn làm Mẹ Chúa Cứu Thế, như khi thấy con mình lên trời. Những lúc vui mừng như thế, Đức Mẹ vẫn giữ lòng khiêm tốn, nhìn lên Thiên Chúa, tha thiết ngợi khen Người.
Đời Đức Mẹ có nhiều thử thách, như cảnh túng nghèo, làm ăn vất vả, phải sinh con trong chuồng bò, phải nhìn thấy con bị kẻ dữ giết. Những lúc bị thử thách như thế, Đức Mẹ vẫn giữ vững niềm tin, vẫn nhận ra ơn ích vô vàn trong nước mắt đau thương. Đức Mẹ ngợi khen lòng thương xót Chúa. Đức Mẹ ngợi khen đức khôn ngoan của Chúa.
Có một điều ta nên chú ý ở đây là tinh thần ngợi khen của Đức Mẹ, là một tinh thần luôn mở rộng. Đức Mẹ không chỉ ngợi khen Thiên Chúa mà thôi đâu. Chính lúc ngợi khen Thiên Chúa, Đức Mẹ cũng đã ngợi khen tổ quốc và dân tộc mình. Đọc phần cuối Kinh Ngợi Khen, ta thấy điều đó . Đức Mẹ đã nói lên lòng gắn bó của mình với tổ phụ Abraham, với đồng bào của mình, với quê hương của mình. Cũng như khi gặp bà Isave, Đức Mẹ đã ngợi khen Thiên Chúa, và chính lúc đó, Đức Mẹ cũng đã ngợi khen bà Isave.
Tôi thiết nghĩ, chính cái tinh thần ngợi khen đó, Đức Mẹ đã là một sức mạnh âm thầm, nâng đỡ Chúa Giêsu và thánh Giuse. Chính với cái tinh thần ngợi khen như thế, Đức Mẹ đã là nguồn khích lệ ủi an vô giá cho các tông đồ trong những năm đầu của Hội Thánh Chúa.
Nhìn gương Đức Mẹ, ta nên kiểm điểm lại chính bản thân ta. Tôi phải nói thành thật điều này là: Nơi một số người chúng ta, tinh thần ngợi khen thì có quá ít, mà tinh thần kêu ca thì có quá nhiều. Không dám kêu ca Chúa, nhưng rất dễ dàng kêu ca cuộc sống. Cái gì cũng kêu ca được. Ngày nào cũng kêu ca. Gặp ai cũng kêu ca. Kêu ca riết thành thói quen kêu ca, thành tinh thần kêu ca, thành cái bệnh kêu ca. Cái tinh thần kêu ca như một thứ vi trùng. Nó gây ra bất mãn. Nó tạo nên cô đơn. Nó gieo rắc chia rẽ. Nó pha cay đắng vào cả những gì ngon ngọt nhất của cuộc đời.
Anh chị em thân mến,
Muốn được Đức Mẹ thương, ta hãy bắt chước Đức Mẹ. Bỏ thói quen kêu ca đi, và hãy phát huy tinh thần ngợi khen. Các bậc làm cha, làm mẹ hãy dạy con điều đó. Xin Chúa Thánh Thần ban cho con em chúng ta và cho chúng ta tinh thần ngợi khen, để với tinh thần như thế, chúng ta trở thành những người dễ thương và dễ sống. Amen.
Hôm nay chúng ta mừng trọng thể Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Cái từ “Trời” ở đây không có nghĩa là cái trời vật chất, tức là bầu trời trên đầu ta, với màu xanh xanh, bao la vời vợi, có mây bay, có trăng sao, có mặt trời và muôn tinh tú. Đức Mẹ Lên Trời, tức là Đức Mẹ lên Thiên Đàng. Đức Mẹ bước sang một cõi sống mới, có hạnh phúc trọn vẹn, có chan hoà tình thương và chân lý.
Trời vật chất thuộc phạm vi khoa học. Trời Thiên Đàng thuộc phạm vi mặc khải. Ta tin khoa học. Ta tin mặc khải. Tại sao tin. Đó là vấn đề rất rộng lớn, không thể đặt ra ở đây.
Một tư tưởng có thể đem ra suy nghĩ ở đây một cách vắn tắt. Đó là cách Đức Mẹ đi lên Thiên Đàng. Cách đó là: Mỗi ngày và từng giờ Đức Mẹ đã sống thực mến Chúa, thực yêu người. Tình mến Chúa, tình yêu người đã được Đức Mẹ thực hiện không do những việc lẫy lừng, nhưng do chính cuộc sống thường ngày. Kinh Thánh không thấy kể lại Đức Mẹ đã làm những phép lạ nào, khi Người còn sống. Nhưng theo tôi, thì trái tim Đức Mẹ chính là một phép lạ thường xuyên. Vì trái tim đó đã chịu đựng bao nhiêu đớn đau vì mến Chúa, vì yêu người. Trái tim đó đã chất chứa bao nhiêu tình thương nồng nàn đối với Chúa, đối với gia đình và đồng bào chung quanh. Trái tim đã toả ra qua ánh mắt Đức Mẹ niềm bao dung, trìu mến, có sức nâng đỡ ủi an các tông đồ và Hội Thánh sơ khai. Trái tim đó đã đưa sự ấm áp, sự hiền dịu, sự lương thiện vào từng bước Đức Mẹ đi, vào từng việc Đức Mẹ làm, vào từng nơi Đức Mẹ ở. Nguyên sự có mặt của Đức Mẹ cũng trở thành một niềm vui và hy vọng cho những ai gặp được Người.
Trái tim Đức Mẹ chính là một phép lạ thường xuyên âm thầm. Phục vụ âm thầm. Ảnh hưởng âm thầm. Tác động âm thầm. Âm thầm nhưng sâu sắc. Nhẹ nhàng mà hữu hiệu. Trái tim, đó là điểm lên trời qua Đức Mẹ đã dùng để lên Thiên Đàng.
Còn ta. Tôi tin mỗi người chúng ta điều cố gắng làm việc lành, tránh điều tội lỗi, với mong muốn là nhờ điều đó mình sẽ được rỗi, được lên Thiên Đàng. Vì thế, ta lo học lẽ đạo, ta lo chịu bí tích, nhưng nhiều khi sống tình người thì chẳng thấy lo. Sống tình người là sống với trái tim biết rung động, biết chia sẻ, biết phục vụ. Nếu ta đến với Chúa như một người không có trái tim, chắc chắn Chúa sẽ chẳng cho ta lên Thiên Đàng. Nếu ta gặp gỡ, đối xử với đồng bào như một người không có trái tim, chắc Chúa cũng sẽ không cho ta lên Thiên Đàng. Bởi vì Thiên Chúa chính là tình yêu.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên Chúa ban ơn cho ta được bắt chước Đức Mẹ, lên trời bằng trái tim dạt dào tình thương yêu đối với Chúa, đối với đồng bào, đối với tổ quốc chúng ta.
Trong đạo chúng ta xưa rày có thói quen, gọi Đức Mẹ bằng nhiều danh hiệu khác nhau. Như Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Mẹ Phatima, Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Mân Côi, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp... Những danh hiệu đó hoặc nói lên một điểm lịch sử nào đó của Đức Mẹ, hoặc nói đến một điểm tôn sùng nào đó về Đức Mẹ. Có nhiều danh hiệu dành cho Đức Mẹ, nhưng chỉ có một Đức Mẹ mà thôi. Và Đức Mẹ chỉ có một tên gọi mà thôi. Đó là Maria. Và Đức Mẹ Maria chỉ có một tiểu sử chính thức mà thôi. Đó là tiểu sử đã được ghi trong Kinh Thánh. Hôm nay, tôi muốn nói về một giai đoạn đơn sơ nhất của cuộc sống Đức Mẹ. Tôi sẽ nói vắn gọn.
Giai đoạn cuộc đời Đức Mẹ, mà tôi cho là đơn sơ nhất, khởi sự từ khi Chúa Giêsu ra đi, trối Gioan lại cho Đức Mẹ. Lời trối đó đã đánh dấu một khúc quặt. Vì từ đó trở đi Kinh Thánh hầu như không nói đến Đức Mẹ nữa. Sự thinh lặng của lịch sử phản ánh sự thầm lặng của Đức Mẹ. Suốt thời gian mấy chục năm, Đức Mẹ đã giữ đạo hết sức sốt sắng, nhưng trong khiêm tốn, đơn sơ thầm lặng.
Thời đó, việc thờ phượng Chúa để ý nhiều nhất đến thánh lễ, đến lời Chúa và đến cầu nguyện. Đức Mẹ làm những việc đó cách âm thầm nhiều hơn là cách phô bày, cách đơn sơ hơn là cách trọng thể.
Với tinh thần đó, Đức Mẹ sống kết hợp với Chúa trong trái tim mình như cành với cây, để rồi càng nhiệt tình phục vụ con người. Con người là Gioan, là các tông đồ. Con người là thân thuộc, bè bạn, là hàng xóm. Con người là địa phương của mình, là dân tộc của mình, là nhân loại của mình. Đức Mẹ phục vụ bằng những cách Phúc Âm dạy. Phúc Âm dạy hãy là ngọn đèn, hãy là chút muối. Áp dụng thì đa dạng. Những đồng bạc chia cho kẻ ăn xin, những chén nước, chén cơm tặng cho người đang khát, đang đói, những sự tự chế để không gây phiền hà cho người khác, những tiếp xúc với tâm tình khiêm tốn muốn học cái hay của người và để rèn luyện mình hơn là để dạy người và lợi dụng người, những đóng góp vào ích chung khu xóm, những quan tâm nhiệt tình đến các vấn đề của dân tộc và của nhân loại, những nét mặt hiền hoà nhân ái, những tận tụỵ chu toàn bổn phận theo lương tâm ngay chính vv... Đó là những việc đơn sơ. Nhưng đó là những ngọn đèn nhỏ có thể thắp sáng lên niềm vui và chân lý trong lành cho những trái tim. Đó là những hạt muối có thể làm cho nhiều cuộc đời bớt đi được sự tẻ nhạt và vô vị.
Những việc như thế là thường xuyên nơi Đức Mẹ. Những việc như thế, chẳng ai làm thành thống kê, chẳng ai viết thành lịch sử. Bởi vì, nó quá nhỏ, quá thường, quá lặng lẽ. Nhưng đó chính là đạo đi vào cuộc sống. Đó chính là sống đạo một cách thực tế nhất. Anh chị em thân mến, Đôi khi xét lại, tôi thấy thực tế sống đạo của chúng ta ở nhiều nơi, ở nhiều người chưa đúng với gương Đức Mẹ. Cho đến lúc này, nhiều nơi nhiều người vẫn chưa nhận thấy sự cần thiết phải sống đạo một cách đơn sơ hơn, một cách khiêm tốn hơn, một cách thiết thực hơn. Hoặc có nhận thấy rồi, nhưng vẫn chưa muốn thực hiện, vẫn chưa quen thực hiện. Đã đến lúc, mỗi người Công Giáo chúng ta phải suy nghĩ vấn đề đó một cách nghiêm túc. Vấn đề đó cũng là một đòi hỏi của Phúc Âm.
Chúa Thánh Thần xưa đã hướng dẫn Đức Mẹ sống đức tin một cách rất hợp thời và cũng rất hợp ý Chúa, xin Người hướng dẫn chúng ta. Xin Người cho Hội Thánh hôm nay nhận thấy rõ Đức Mẹ là hình ảnh của Hội Thánh, để biết chấp nhận sự đơn sơ khiêm tốn âm thầm theo gương Đức Mẹ. Amen.
Đối với hầu hết chúng ta, đi lễ Sinh Nhật là một đòi hỏi truyền thống. Không mấy ai còn nhớ mình đã đi lễ Sinh Nhật từ hồi mấy tuổi. Chỉ chắc là, từ khi còn nhỏ mình đã có đi, và rất thích đi. Rồi từ đó đến nay, hàng năm lễ Sinh Nhật vẫn là một niềm vui mình trông đợi.
Quan sát lòng ta, ta thấy niềm vui lễ Sinh Nhật, không phải là một niềm vui có tính cách giải trí, cũng không phải là một niềm vui thoáng qua. Nhưng đây là một niềm vui có một cái gì như linh thiêng huyền diệu, có một cái gì như tham dự vào một sự sống cao xa, xuyên dài qua bao thế kỷ.
Còn niềm vui lễ hôm nay thế nào?
Ta chưa trả lời được trọn vẹn. Bởi vì thánh lễ còn đang tiếp diễn. Tuy nhiên, ngay chính lúc này, sự chúng ta được gặp nhau đông đảo, trong bầu khí trang nghiêm trật tự, để cùng nhau cầu nguyện, thì đây đã là một niềm vui đáng quí. Ngay chính lúc này, sự chúng ta được mừng lễ Sinh Nhật trong tình đoàn kết thắm thiết dân tộc, trong niềm tự hào của đất nước, trong sự bảo vệ của luật pháp Nhà Nước, thì đây đã là một niềm vui rất lớn. Ngay chính lúc này, sự chúng ta được gặp Chúa với tâm tình phụng thờ tạ ơn và yêu mến, thì đây đã là một niềm vui khôn tả.
Gặp Chúa là một niềm vui. Đó là một sự thật. Ai đã có kinh nghiệm nhiều ít về đời sống nội tâm, sẽ chẳng lạ gì sự thực đó. Từ kinh nghiệm chung ấy, ta có thể nhìn thấy con đường Chúa đến với ta, và cũng là con đường ta đi để đến với Chúa trong niềm vui chan hoà.
Nhìn vào hang đá, ta thấy Chúa đến với hình thức một trẻ nhỏ bé mọn. Có nghĩa là Chúa chọn con đường hiền lành khiêm tốn để đến. Vì thế, để dễ gặp Chúa, ta hãy sống hiền lành khiêm tốn.
Chúa đến trong thân phận con người nghèo túng. Có nghĩa là Chúa chọn con đường chia sẻ để đến. Vì thế, để dễ gặp Chúa, ta cũng hãy chia sẻ cuộc sống của dân tộc, nhất là trong những tình hình đòi hỏi phải chấp nhận thiếu thốn.
Chúa đến trong tâm tình tuân phục thánh ý Chúa Cha. Có nghĩa là Chúa chọn con đường vâng phục để đến. Vì thế, để dễ gặp Chúa, ta cũng hãy sống tinh thần vâng phục trong các phạm vi đời đạo.
Chúa đến vì mục đích phục vụ. Có nghĩa là Chúa chọn con đường dấn thân để đến. Vì thế, để dễ gặp Chúa, ta cũng hãy chân thành và tích cực sống tinh thần phục vụ đối với Chúa, đối với tổ quốc và đối với nhân loại.
Chúa đến với lời Thiên Thần chào chúc bình an. Có nghĩa là Chúa chọn con đường bình an để đến. Vì thế, để dễ gặp Chúa, ta cũng hãy yêu mến và góp phần xây dựng hoà bình.
Như thế, sự ta gặp gỡ Chúa gắn liền với sự ta gặp gỡ con người. Cũng như về căn bản, thái độ của ta khi gặp gỡ con người không được trái ngược với thái độ của ta khi gặp gỡ Chúa. Và vì thế, đi lễ, đọc kinh, không phải chỉ để gặp Chúa mà thôi, nhưng để rồi càng được thúc đẩy phục vụ xã hội, càng được thúc đẩy xây dựng và bảo vệ quê hương, bảo vệ hoà bình.
Chính trong tinh thần đó, chúng ta nhìn lên Chúa Giêsu với tất cả niềm tin yêu chân thành. Chúng ta nhìn Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, sinh ra vì chúng ta, giữa chúng ta và cho chúng ta. Người đến để làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa. Người đến để mọi người thiện tâm tìm được ý nghĩa thoả đáng cho cuộc đời mình.
Chúng ta nhìn lên Chúa Giêsu với mọi tình yêu ta có, để gửi qua Ngài những lời cầu tốt đẹp nhất cho các tình yêu ấy.
Lạy Chúa Giêsu, Con cảm tạ Chúa, Vì Chúa đã đến,
Lạy Chúa Giêsu, Xin ở trong con, Hôm nay và mãi mãi muôn đời.Amen.
Giờ phút đầu năm là giờ phút của những thân tình. Chúng ta tới nhà thờ là để gặp Chúa và cũng để gặp nhau. Sự có mặt của mỗi người chúng ta tại đây, trong giờ phút này có ý nghĩa như một sự gắn bó, một sự hiệp thông.
Như chúng ta thấy, Tết năm nay là một Tết đơn giản. Trong hiện tình của đất nước sự đơn giản là một vẻ đẹp, vì đây là một sự chia sẻ hoàn cảnh cuộc sống chung của dân tộc, sự đơn giản này mang nhiều tiềm năng sáng tạo của những con người nhiệt tình phấn đấu để vươn lên.
Vươn lên đỉnh quá cao là không thực tế. Lý tưởng thực tế và cũng đơn giản, mà mỗi người chúng ta mong muốn vươn lên, đó là bản thân mình, càng ngày càng trở thành con người có ích cho gia đình, xã hội, quê hương và Hội Thánh.
Người có ích là người phục vụ, có những cống hiến thiết thực, hoặc trong phạm vi vật chất, hoặc trong phạm vi tinh thần. Càng ngày con người càng phải sống tùy thuộc vào các liên hệ xung quanh xa gần. Ta sống là sống trong xã hội, sống nhờ xã hội, sống với xã hội và sống cho xã hội. Xã hội được nghĩ về đời cũng như được nghĩ về đạo. Đó là một sự thực đơn giản, đòi hỏi mỗi người phải cố gắng trở nên người có ích tối đa.
Tôi nói cố gắng, có nghĩa là ước vọng mà thôi không đủ. Phải làm những việc cụ thể thấy được là có ích. Những lợi ích ta nhận được trong cuộc sống xã hội thường rất cụ thể thí dụ như lương thực, đường xá, cơ sở, an ninh, giáo dục, các bí tích. Những cái đó, đâu phải chỉ là những ước mơ. Thế thì những sự ta phải cho đi, cũng cần thực hiện cụ thể chứ không nên chỉ là nguyện ước suông.
Muốn thực hiện cụ thể cho tốt, ta nên bám vào thực tế, để suy nghĩ tìm tòi, để tưởng tượng sáng tạo, để có những việc làm thích hợp. Kinh nghiệm cho thấy: Với một số vốn nhỏ, có người biết khéo nhân lên để thành vốn lớn, có người chỉ biết trừ, biết chia tới khi lụn bại. Cũng thế, có người khi gặp khó khăn, đã biết lợi dụng để thêm tài, thêm đức, đang khi người khác, khi được dễ dàng thì lại lạm dụng, để rồi trở thành người mất phẩm chất. Vì thế có thể nói, bí quyết đơn giản để được may mắn là chính mình phải có bản lãnh, biết tích cực và khôn khéo tạo nên may mắn, với tất cả tiềm năng của mình.
Tiềm năng của mỗi người chúng ta rất phong phú. Riêng người có đức tin, thì sự thông hiệp với Chúa là một tiềm năng vô giá. Chúa là đàng, là sự thực và là sự sống. Nếu ta thông hiệp với Chúa, trong khi ta nỗ lực góp phần vào việc xây dựng hạnh phúc cho Quê Hương, cho Hội Thánh, cho gia đình và cho bản thân, thì ta sẽ thấy sáng lên nhiều ý nghĩa rất phấn khởi trong các việc ta làm, trong các sự ta chịu, trong các sự ta cậy trông, trong mọi vẻ đơn giản của con người và của nếp sống đời đạo.
Với những tâm tư chân thành đơn giản trên đây, tôi cầu nguyện thiết tha cho mọi người thân, cho địa phương mến yêu, cho Tổ Quốc Việt Nam và cho Hội Thánh chúng ta. Tôi thân ái chúc anh chị em một năm mới tốt đẹp nhất trong Chúa Kitô, nhờ Đức Mẹ Maria, và với tình cảm thắm thiết đại đoàn kết dân tộc. Amen.
Trong các lời kinh thường đọc kính Trái Tim Chúa Giêsu, có một lời tôi ưa đọc đi đọc lại, để nói với Chúa. Lời đó là câu: “Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin làm cho trái tim con nên giống Trái Tim Chúa”. Tôi hay dùng lời kinh đó để tâm sự với Chúa. Tâm sự chỉ bấy nhiêu thôi. Nhưng chẳng bao giờ chán. Trái lại, càng đọc lời kinh đó, tôi càng cảm thấy có một sự bình an ngọt ngào như trái tim Chúa trào vào trong tôi, để biến đổi đời tôi, để làm cho nó nên mới hơn.
Hôm nay, tôi xin được nói lên kinh nghiệm đó, để cảm tạ Chúa và cũng để chia sẻ với anh chị em vài suy nghĩ vắn tắt của tôi về một bí quyết có khả năng dẫn tới ơn cứu độ. Bí quyết đó là thông hiệp với sự hiền lành và khiêm nhường của Đức Kitô.
Chúng ta quá biết, Chúa Giêsu là Thiên Chúa Ngôi Hai. Lịch sử cứu độ của Ngài, được tóm tắt trong mấy câu kinh Tin Kính: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng tôi, chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô. Ngày thứ ba, Người sống lại như lời Thánh Kinh...”
Nếu ta để tâm suy gẫm từng câu những lời kinh Tin Kính đó, ta sẽ thấy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường đến thế nào.
Ngay trong nhà thờ này, khi nhìn lên các ảnh tượng và bàn thờ, ta cũng thấy những bài học về hiền lành và khiêm nhường của Chúa Kitô: Đây là thánh giá, kia là chặng đàng và đó là nhà tạm, tất cả đều nói lên sự hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Trong Phúc Âm, Chúa đã dạy: “Hãy học cùng ta, vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Lời Chúa kêu gọi ta đáng ta suy nghĩ nhiều lắm. Chúa cũng dạy: “Ai muốn vào Nước Thiên Đàng, thì phải qua cửa hẹp”. Cửa hẹp có thể hiểu là sự khiêm nhường, sự hiền lành.
Tôi nghĩ rằng: Hiền lành và khiêm nhường là một vẻ đẹp, là một sức mạnh, là một tài nguyên làm cho con người có khả năng đạt được hạnh phúc đời sau.
Trong lễ Thêm Sức bây giờ, ta xin cho con em ta và cho ta ơn thêm đức tin. Nhưng một cách cụ thể, ta cũng xin ơn biết sống hiền lành và khiêm nhường. Hiền lành và khiêm nhường không phải chỉ đối với Chúa, mà cũng đối với mọi người trong cách nhìn, trong cách đối xử, trong cách phán đoán, trong lời nói và thái độ phục vụ.
“Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin làm cho trái tim con, trở nên giống tim Chúa”.