Bài Phúc Âm hôm nay gợi ý cho tôi nghĩ tới chính bản thân mình.
Tôi nghĩ rằng: Chính tôi, có thể là một người mắc nhiều chứng bệnh nguy hiểm. Tôi rất mong thoát khỏi những chứng bệnh nguy hiểm đó, nhưng không có thuốc nào chữa lành được. Sau cùng, tôi gặp được Đức Kitô. Tôi xin Ngài chữa tôi, như đã chữa 10 người phong cùi xưa. Đức Kitô không cho một vị thuốc nào. Ngài chỉ nói một lời: “Hãy tin vào Ngài”. Tôi tin vào Ngài và đúng như lời Ngài nói, tôi được lành bệnh trong tâm hồn.
Lời Chúa dạy tôi hôm nay trong bài Phúc Âm cho tôi thấy rằng: Bệnh tật, tội lỗi đều có thể trở thành những dịp thuận lợi để Chúa giáo dục đức tin chúng ta. Cả đến những khó khăn, dù lớn mạnh nhất, vẫn có thể lướt thắng được, nếu người ta khiêm tốn, vâng lời Đức Kitô, mà tin tưởng thật vững mạnh vào quyền năng của tình yêu xót thương Thiên Chúa.
Trên đây là những sự thực chắc chắn. Và những sự thực này, không phải chỉ dựa trên lời Chúa, mà còn dựa trên kinh nghiệm của những người đã sống vững mạnh lời Chúa.
Sự thực trên đây dẫn đưa tới một sự thực khác, đó là: Điều đáng buồn nhất, đáng trách nhất, đáng phiền nhất thường xảy ra nơi chúng ta, đó là chúng ta thiếu niềm tin vào quyền năng tình yêu Đức Kitô. Chúng ta không tin đủ, mặc dầu chúng ta có tin. Chúng ta quá tin vào sức mình. Chúng ta quá tin vào kế hoạch của mình. Chúng ta quá tin vào ý riêng của mình, mà không tin đủ vào thánh ý Thiên Chúa, mà không tin đủ vào sức mạnh của Thiên Chúa vượt xa sức mạnh của thế gian.
Thiếu sót về đức tin như vậy, chúng ta đâu có hay xét trong khi ăn năn sám hối. Thế mà, thiếu sót đó lại chính là thiếu sót Chúa muốn chúng ta cần xem xét lại.
Chúa dạy ta rằng: “Không có Cha, con không làm gì được”. Thế nhưng, bao lần, ta làm việc này việc nọ, kể cả những việc coi thường như sáng danh Thiên Chúa, nhưng, ta lại không kết hợp mật thiết với Đức Kitô, ta lại không đoán ý của Ngài, mà ta lại theo ý riêng ta. Ta không dựa vào sức mạnh của Ngài mà ta quá tin vào những phương tiện ta tự chọn lấy. Chúa dạy ta rằng: “Cha sẽ ở với con mọi ngày cho đến tận thế”. Thế nhưng, biết bao lần ta sống như ta không ở bên Đức Kitô, ta vẫn ở xa Ngài, ta vẫn sống cam chịu mồ côi, đang khi thực sự Đức Kitô là tình yêu Thiên Chúa vẫn ở bên ta.
Những thiếu sót như vậy là những thiếu sót thường gây tổn thương rất nhiều cho đời sống đức tin, cho đời sống đạo. Chúng ta cần phải sửa lại. Chúng ta sửa lại bằng những kết luận hợp lý và thực tế, đó là: Chúng ta năng cầu xin Chúa, thêm ơn đức tin cho ta. Chúng ta năng tạ ơn Chúa, vì ơn đức tin đã ban cho chúng ta.
Lúc nãy, chúng ta hát: “Xin ơn Chúa giúp cho chúng ta nên nhân chứng của Chúa đến tận cùng cõi đất”. Khi nghe lời anh em hát lời ấy, tôi cầu xin thực sự cho anh chị em: “Con sẽ nên nhân chứng cho đến tận cùng trái đất”. Nhưng mà chúng ta làm chứng thế nào cho đức tin? Không phải đến tận cùng trái đất, mà ở trong huyện này, ở trong xã này. Tôi nghĩ rằng: Trước hết cần có cái đức tin vững mạnh.
Đức tin tôi nói đây là sự gặp được Đức Kitô, là lòng ta phó thác cậy trông tuyệt đối vào Ngài, là sự ta nắm bắt được thánh ý Ngài, là sự ta quảng đại cộng tác với ơn thánh của Ngài.
Rồi sau đó, tôi hiểu rằng: Làm nhân chứng cho đức tin tại vùng này, xã này, là phải có những giá trị nhân bản, là phải có những giá trị trí thức, là phải có những giá trị đạo đức, để làm chứng rằng Đức Kitô trong ta, xây dựng ta nên một con người mới mẻ, hoàn thiện giống hình ảnh của Thiên Chúa Cha.
Tôi cầu chúc cho anh chị em, nhất là trong thánh lễ Thêm Sức này, được thêm ơn đức tin theo chiều hướng mà tôi vừa gợi ý cho anh chị em: Một đàng đi vào đời sống nội tâm, hết lòng khiêm tốn, cậy trông, phó thác nơi sức mạnh tình yêu cứu độ của Chúa. Và một đàng tỏa sáng ra bề ngoài bằng những giá trị mà tôi vừa nói: Giá trị bản thân, giá trị văn hóa trí thức, giá trị đạo đức xã hội.
Được như vậy: Chúng ta sẽ nên nhân chứng đức tin của Chúa và sẽ giúp cho con em chúng ta biết đi vào tương lai của đất nước này, với một niềm hân hoan, lạc quan đối với người Công Giáo, đối với Hội Thánh, đối với tất cả dân tộc chúng ta.
Lạy Chúa, xin thương đến với chúng con, thêm ơn đức tin cho chúng con. Chúng con tạ ơn Chúa muôn đời. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay, cho thấy Đức Kitô là Vua, nhưng bị rơi vào một cảnh thê thảm cùng cực. Ngài bị đóng đinh trên thập giá. Xung quang Ngài là vô số người. Nhưng các thủ lĩnh thì cười nhạo Ngài. Các quân lính thì chê trách Ngài. Dân chúng thì khinh chê Ngài. Kẻ trộm bên tả Ngài thì chế diễu và xỉ nhục Ngài. Duy chỉ có một người trộm, bị đóng đinh bên hữu Ngài, nhận ra Ngài . Hơn nữa, anh đã xin Ngài: Khi nào đến nước Ngài trị, xin nhớ đến tôi. Và Đức Kitô đã nhận lời anh.
Nhìn cảnh tượng trên đây, tôi thấy điều này, là: Rất nhiều người nhìn thấy Đức Kitô, nhưng số người nhận ra Ngài là Đấng Cứu Chuộc, thì quá ít. Tôi sợ rằng: Cảnh tượng buồn thảm ấy nay vẫn tiếp tục tái diễn trong chúng ta. Đối với tôi, cái buồn thảm nhất, đó là: Nó tái diễn ngay trong họ đạo chúng ta. Nó tái diễn ngay trong gia đình chúng ta. Nó tái diễn ngay trong chính bản thân chúng ta. Bởi vì, chúng ta thiếu khiêm tốn, chúng ta thiếu quảng đại, nhất là chúng ta thiếu ánh sáng đức tin.
Đức tin không phải là chấp nhận những chân lý của kinh Tin Kính và các điều mạc khải, mà còn là tin vào bản thân Đức Kitô.
Đức tin không phải chỉ là tin vào bản thân Đức Kitô trong lịch sử, mà còn phải tin Ngài trong lịch sử hôm nay, lúc này, chỗ này.
Đức tin không phải chỉ là tin vào Đức Kitô đang có mặt hôm nay, lúc này, giữa chúng ta, là Thiên Chúa chúng ta, mà còn phải tin rằng: Ngài là Đấng Cứu Độ chúng ta. Ngài đang cầu bầu cho chúng ta. Ngài là Vua chúng ta. Tất cả chúng ta, từ tinh thần đến vật chất, đều đang ở trong tay Ngài, đều dưới sự hướng dẫn của Ngài, đều thuộc về Ngài.
Một đức tin như vậy sẽ cho chúng ta một cái nhìn rất khiêm tốn, nghèo hèn, về bản thân chúng ta. Đồng thời cũng sẽ cho chúng ta một cái nhìn đầy phó thác nơi Đức Kitô. Với đức tin ấy, chúng ta có thể nói với Đức Kitô lời nguyện của người trộm lành hôm nay: “Xin thương xót con, vì con tội lỗi”.
Lúc nãy, khi làm phép tượng Chúa Giêsu Vua, ở mặt tiền nhà thờ, tôi đã nói Chúa Giêsu rằng: “Xin Chúa đừng là tượng Vua, đứng mãi mãi trên bệ cao ấy. Mà hãy là Đấng Cứu Độ sống động, đi vào từng gia đình, đi vào từng cuộc đời. Và tôi nghe Đức Kitô trả lời trong lòng tôi rằng: “Cha rất muốn làm như vậy, nhưng phải nói thiệt là không thiếu người đã không muốn đón nhận Cha, không thiếu người không muốn đón nhận Cha”.
Câu trả lời của Chúa Giêsu giúp tôi hiểu rằng: Nhiều người trong chúng ta, vẫn chỉ muốn thờ Kitô ở ngoài mình. Chúng ta vẫn xa lạ với Đức Kitô: Đức Kitô của ta vẫn là Đức Kitô trên bệ cao, trên đài, trên bàn thờ, chứ không phải Đức Kitô trong lòng ta.
Chúng ta ngại đón nhận Đức Kitô, bởi vì Đức Kitô là một tình yêu, nên khi tới đâu Ngài sẽ đòi hỏi nhiều điều gay gắt: “Ai muốn theo ta, hãy tự bỏ mình, hãy vác Thánh giá mình mà theo ta”. Đức Kitô Vua, nếu vào lòng ta, chắc chắn Ngài sẽ đòi chúng ta phải tự bỏ nhiều tật xấu mà chúng ta ngại bỏ, chắc Ngài sẽ đòi chúng ta phải làm nhiều việc lành mà chúng ta ngại làm. Vì thế, Ngài vẫn chỉ là Đức Kitô trên bệ cao, chỉ là Đức Kitô trong tượng ảnh, chứ chưa phải là Đức Kitô sống động trong con người chúng ta.
Lúc nãy, cha xứ có nhắc đến nhiều điều Chúa ban cho họ đạo. Tôi cũng hợp ý với Ngài mà tạ ơn Chúa đã ban cho họ đạo chúng ta nhiều điều lạ lùng. Nhưng có một điều lạ lùng nhất mà tôi muốn cầu nguyện với Chúa tha thiết hôm nay, đó là làm cho mỗi người chúng ta biết trở về với Đức Kitô. Mỗi người chúng ta, kể cả tôi, kể cả cha xứ, kể cả các cha, kể cả anh chị em, mỗi người hãy biết trở về với Đức Kitô. Mỗi người hãy biết khiêm tốn đón nhận Đức Kitô vào làm Vua của đời mình, của lòng mình. Bởi vì, có Đức Kitô là Vua trong lòng mình, chúng ta sẽ thấy trời mới, đất mới, rất khác lạ với những cảnh mà chúng ta đang thấy trước mặt, bằng con mắt xác thịt thế gian.
Lạy Đức Kitô là Vua, xin ban ơn cho chúng con được trở về với Ngài. xin Ngài hãy làm Vua mãi mãi của chúng con. Amen.
Lễ Chúa Kitô Vua, tại nhà thờ Kinh A2 ngày 20-11-1993
Bài Phúc Âm của những người đau khổ hôm nay gợi cho chúng ta nhớ tới những người ăn xin, những người thất nghiệp, những người cô đơn, mà tôi đã gặp tại Tây Phương, trong chuyến đi Tây, tháng trước.
Bài Phúc Âm của những người đau khổ hôm nay cũng gợi chúng tôi nhớ tới những người nông dân, nợ nần, lạc hậu, túng nghèo, mà tôi đã gặp ở vùng sâu của giáo phận Long Xuyên chúng ta, trong chuyến đi hôm qua.
Bài Phúc Âm của những người đau khổ hôm nay cũng gợi cho tôi nhớ tới những công nhân viên chức túng nghèo, những người thanh niên, thiếu niên bất ổn, mà tôi đã gặp tại thành phố Hồ Chí Minh sáng nay.
Tôi có cảm tưởng. Đau khổ là thân phận chung của nhân loại hôm nay, và túng nghèo là bộ mặt thực nhưng được che giấu của đa số đồng bào chúng ta. Nhìn cảnh tượng ấy, tôi nói với Chúa Kitô rằng: “Chúa dạy phải cứu giúp những người đau khổ, túng cực, nhưng cảnh khổ đau túng cực bây giờ, mênh mông quá, con phải làm gì đây để cứu giúp những người túng cực khổ đau?”.
Tôi hỏi Chúa Giêsu như vậy và Chúa Giêsu đã trả lời tôi, bằng cách đem trí khôn tôi nhìn vào chính bản thân tôi và vào cuộc đời Đức Kitô. Rồi Chúa nói với tôi trong lòng: “Thời ấy, dân Israel cũng có vô vàn người bệnh, nhưng Cha chỉ làm phép lạ và chữa lành một số bệnh nhân mà thôi. Hồi ấy, trong dân Israel cũng có vô vàn người đói khát túng cực, nhưng Cha cũng chỉ làm phép lạ cứu giúp vài ngàn người thôi, và trước sau cũng chỉ có hai lần. Sau cùng, Cha không làm phép lạ nào nữa, mà chỉ còn cầu nguyện, và dâng chính bản thân mình làm của lễ đền tội cho nhân loại”.
Câu Chúa Giêsu trả lời tôi, cho tôi hiểu rằng: Bổn phận bác ái không phải chỉ là cứu giúp con người về mặt thể xác, bằng một số việc từ thiện bác ái, mà cần phải cứu giúp con người về mặt thiêng liêng, về phần linh hồn, bằng những lời cầu nguyện, bằng những việc hy sinh, nhất là bằng sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô.
Tôi nhìn vào Đức Mẹ, và tôi thấy Đức Mẹ cũng đã sống như vậy: Đức Mẹ cũng đã cứu giúp con người, nhưng chủ yếu là cứu giúp con người về mặt thiêng liêng, về phần linh hồn, qua sự Mẹ cộng tác vào đời sống cứu độ của Đức Kitô.
Tôi nhìn vào gương những vị thánh hôm nay, tôi cũng thấy nhưng vậy: Chúng ta thường nghe nói đến mẹ Têrêxa Calcutta, một vị mà thế giới hôm nay coi là vị thánh sống. Mẹ mới đến thành phố Hồ Chí Minh cách đây mấy ngày. Mẹ gặp biết bao nhiêu cảnh khổ đau, mẹ thấy biết bao nhiêu người nghèo túng. Nhưng mẹ nói, mẹ chưa làm gì hết. Mẹ luôn cầm chuỗi tràng hạt và đọc kinh cầu nguyện.
Như thế có nghĩa là: Đời sống bác ái của chúng ta, đã hẳn phải có những việc từ thiện, bác ái, nhưng đừng quên gắn bó mật thiết với Đức Kitô. Bởi vì, sức mạnh cứu chuộc con người, sức mạnh đổi mới thế giới là từ Đức Kitô Vua, là từ Đức Kitô tình yêu cứu độ. Đó là điều tôi nói với chính mình hôm nay. Đó là điều tôi muốn nói với anh chị em hôm nay. Đó là điều tôi muốn nhắn nhủ đặt biệt các em Rước Lễ Bao Đồng hôm nay: Hãy biết gắn bó với Đức Kitô, để biết sống bác ái, làm đúng việc, làm đúng cách, làm đúng lúc, làm đúng nơi, như Đức Kitô đã làm. Mà muốn có như vậy, chúng ta phải biết nhìn Chúa Giêsu trong đức tin.
Nhìn Chúa Giêsu trong đức tin là gặp được Đức Kitô Vua của chính ta. Ngài là Đấng hướng dẫn đời ta. Ngài là Đấng đổi mới đời ta. Ngài là Đấng mà ta phải quy chiếu tất cả về Ngài: “Không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Ngài chính là Vua, không phải chỉ là Vua vũ trụ, mà còn là vua của chính lòng tôi. Đấy là đức tin mà lát nữa, chúng ta sẽ nói lên trong tâm tình, và lát nữa, các em Rước Lễ Bao Đồng cũng sẽ nói lên đức tin của mình là gặp gỡ Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, là vua của lòng con, xin đến với con, xin ở lại mãi mãi trong con. Amen.
Lễ Bao Đồng Trọng Thể, tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 21-11-93
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa phán: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta”.
Khi nghe lời Chúa phán trên đây, tôi đã hỏi Chúa rằng: “Chúa gọi con đi theo Chúa. Con muốn đi theo, nhưng giờ đây, Chúa đang ở đâu? Đang trên con đường nào?”. Chúa trả lời tôi, bằng cách đem tâm trí tôi nhìn vào Đức Kitô.
Tôi thấy Ngài đang ở Việt Nam, trong chính địa phận Long Xuyên, trên chính vùng Cái Sắn này.
Tôi thấy Đức Kitô, mà hôm nay đang hiện diện nơi đây, cũng vẫn là Đức Kitô trong Phúc Âm gần 2000 năm trước đây tại Israel. Ngài vẫn là một Đấng từ bỏ mình, đặc điểm của Ngài là hoàn toàn từ bỏ mình, triệt để từ bỏ mình. Ngày đêm, Ngài trân trọng phần rỗi các linh hồn. Ngài vẫn là người mang nặng trên vai gánh tội thiên hạ. Ngài vẫn là người đi lại âm thầm trên các nẻo đường truyền giáo. Ngài vẫn là người đang vác thánh giá đi trên con đường lên Núi Sọ. Ngài vẫn là người đang chịu đóng đinh trên thánh giá, vì muốn cứu chuộc loài người, muốn cứu chuộc từng người, không muốn để ai rơi vào tội lỗi, chìm trong sự chết muôn đời.
Khi tôi thấy Đức Kitô hôm nay như vậy, tôi mới nhận ra rằng: Đức Kitô vẫn gần gũi chúng ta. Nhưng, nhiều khi chúng ta lại rất xa Ngài, bởi vì chúng ta thiếu điều kiện quan trọng của người môn đệ Đức Kitô. Ngài quả quyết: “Ai không từ bỏ mình, không đáng là môn đệ ta”.
Sự từ bỏ mà Đức Kitô đòi hỏi nơi chúng ta, không phải chỉ là từ bỏ một vài quyền lợi, một vài sướng vui về mặt tình cảm, về mặt vật chất, về mặt xã hội. Mà là một sự từ bỏ hoàn toàn, triệt để, về mặt tinh thần, thiêng liêng, một sự từ bỏ đụng đến cái “tôi” thầm kín nhất nơi mỗi người chúng ta.
Lúc nãy, khi làm phép thánh đường này, tôi đã thầm nói với Đức Kitô rằng: “Con xin tạ ơn Chúa vì những sự từ bỏ mình, những sự vác thánh giá mình, mà các cha, giáo dân họ đạo này và những ân nhân gần xa đã thực hiện, trong quá trình xây dựng ngôi thánh đường mới này. Con xin cám ơn Chúa vì những sự từ bỏ mình, những sự vác thánh giá mình mà các thánh tử đạo Việt Nam đã thực hiện để góp phần xây dựng Hội Thánh hôm nay”.
Đang khi tôi nói với Chúa như vậy, tôi nhìn thấy trước mặt tôi những đám đông, gồm những kẻ nghèo túng, những kẻ bệnh tật, những kẻ bé mọn, những kẻ cô đơn, những người đau khổ. Họ đang từ bỏ mình, họ đang vác thánh giá mình từng ngày, suốt đêm, suốt tháng, suốt năm, để cùng với Đức Kitô cứu chuộc nhân loại.
Tôi thấy đúng như lời Chúa đã phán xưa: “Có những người rốt hết, trở nên trước hết”. Bởi vì, có những người đáng lẽ phải gần Chúa hơn, nhưng bây giờ lại xa Chúa. Có những người tưởng rằng sẽ vào Nước Trời trước hết, nhưng lại vào sau hết. Bởi vì, đám đông túng nghèo, khổ đau, bệnh tật, cô đơn ấy, đang là những người từ bỏ mình, nên được Đức Kitô chấp nhận làm môn đệ của Ngài.
Lời Chúa phán hôm nay: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta”. Tôi nghĩ đây là một lời, phải là nền móng cho nền tu đức của những người gọi là con cái các thánh tử đạo Việt Nam.
Mới rồi, tôi và một số linh mục đi qua một sân nhà thờ, trên sân ấy có rất đông trẻ em Công Giáo đang chơi. Nhưng thật lạ lùng là không thấy có một em nào trong nhóm đã chào chúng tôi. Đấy là một thiếu sót sơ đẳng nhất, và tôi cho đó là thiếu nền tu đức, thiếu nền văn hóa.
Cho nên dù có đọc kinh nhiều, đi lễ hằng ngày, giáo lý thuộc lào lào, nhưng chỉ thiếu sót như vậy thôi cũng đủ cho thấy là không có sự từ bỏ mình, không vác thánh giá mình, không diễn tả được tinh thần của Đức Kitô.
Tôi mong rằng: Khi chúng ta đang mừng thánh đường mới, chúng ta cũng mừng thánh đường mới trong tâm hồn chúng ta, mà vẻ đẹp của nó là sự từ bỏ mình, mà giá trị của nó là sự vác thánh giá theo Đức Kitô.
Tôi cầu xin Chúa với anh chị em hôm nay, để qua ngôi thánh đường mới mẻ đẹp đẽ này, chúng ta nhìn thấy rõ mô hình thánh đường mới của tâm hồn chúng ta. Tâm hồn của những môn đệ Đức Kitô: Từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa.
Lạy Chúa Kitô, con xin cảm tạ Chúa, vì những sự Chúa đã làm cho chúng con. Nhất là xin Chúa làm cho lời Chúa hôm nay trở nên sức sống, đổi mới thực sự tâm hồn chúng con. Amen.
Lễ Khánh Thành nhà thờ Hợp Tiến (Kinh B2), ngày 24-11-93 (Lễ các thánh tử đạo Việt Nam)
Trong lá thư thứ hai gởi giáo dân Côrintô, thánh Phaolô đã ví giáo đoàn của mình như một chiếc bình bằng đất, bình thường, xấu xí, nhưng bên trong chứa đựng một kho tàng.
Tư tưởng trên đây của thánh Phaolô, cũng gợi ý cho tôi nghĩ tới cộng đoàn Cồn Én của anh chị em đây. So sánh với những cộng đoàn khác, cộng đoàn Cồn Én của anh chị em bé nhỏ, nghèo túng. Bề ngoài, anh chị em tuy giống một cái bình, bình thường bằng đất, nhưng bên trong vẫn đựng một kho tàng.
Kho tàng đó là gì?
Thưa trước hết là những đức tính nhân bản, thí dụ như đơn sơ, khiêm tốn. Đây là một đức tính mà xã hội mến thương và Phúc Âm đề cao.
Tôi nhận thấy đức tính đơn sơ, khiêm tốn nơi anh chị em trong những thái độ, trong những cử chỉ, và nhất là trong tâm hồn dễ đón nhận ơn Chúa và những lời giảng dạy của các bề trên.
Rồi, thí dụ đức tính nhân bản là sự hồn nhiên chân thật. Đây là những vẻ đẹp tâm hồn đang trở nên hiếm hoi trong một xã hội dần dà đi vào một cuộc sống có nhiều giả tạo, có nhiều giả dối, có nhiều giả hình.
Tôi nhận thấy đức tính hồn nhiên, chân thật của anh chị em trong những tình cảm, trong những thái độ giao tiếp.
Rồi, đức tính nhân bản còn là tình liên đới bạn bè, thôn xóm. Đây là một giá trị truyền thống của Việt Nam ta, mà tôi thấy ở những vùng quê hẻo lánh như Cồn Én này, còn đang được bảo trì, trân trọng, nhưng ở thành thị xem ra đang bị phai mờ.
Chỉ bằng ấy đức tính tôi vừa kể, Cồn Én anh chị em, tuy bề ngoài coi như là một cái bình bằng đất, nhưng vẫn chứa đựng những kho tàng quí giá, làm cho anh chị em có tính cách đạo đức, có tính cách văn minh, có tính cách văn hóa.
Ngoài đức tính nhân bản kể trên, anh chị em còn có những kho tàng quý báu hơn, thí dụ như đức tin. Đức tin làm cho chúng ta có một cái nhìn mới, có những triển vọng mới, có những niềm vui mới, có những ước vọng mới. Tất cả những cái mới này, về nhãn quan, về bản thân, về xã hội, làm cho chúng ta trở nên những con người mới. Những con người nhìn về một quê hương trên trời, với biết bao nhiêu hạnh phúc hứa hẹn.
Đức tin ở đây, mà tôi thấy ngay trong buổi lễ này, chính là sự gặp gỡ sống động với Đức Kitô. Tôi nhìn thấy đức tin ấy nơi anh chị em tốt đẹp và đang phát triển.
Rồi đức tính siêu nhiên nữa, thí dụ như sự cảm nghiệm về Hội Thánh. Đây cũng là một đức tính siêu nhiên khiến cho anh chị em gắn bó với Hội Thánh, khiến cho anh chị em có trách nhiệm với họ đạo, với địa phận, khiến cho anh chị em cảm thấy mình có tình cảm mến thương trung tín với các bề trên trong họ đạo, trong địa phận, trong Hội Thánh. Tôi đã nhận thấy rõ ràng cảm tình đó nơi anh chị em đối với Hội Thánh, qua những thái độ đơn sơ, cá nhân cũng như cộng đoàn.
Và đức tính khác siêu nhiên mà tôi cũng nhận thấy ở đây, đó là tinh thần hiến tế. Hiến tế gồm tình yêu và hy sinh cho một lý tưởng: Mến Chúa yêu người. Chúng ta từ bỏ mình, chúng ta từ bỏ ý riêng, chúng ta chấp nhận đau khổ, vất vả, thiệt thòi “Vì mến chúa yêu người”, như lý tưởng chúng ta đọc thấy trên cung thánh này. Đó là một sự hiến tế thiêng liêng mà chỉ có Chúa Thánh Linh mới dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta được.
Với những kho tàng trên đây, anh chị em có thể tự hào là những người hữu ích: Hữu ích bởi vì anh chị em mở ra một triển vọng mới cho vùng đất này, cho gia đình mình, cho cá nhân mình, cho dân tộc mình.
Rồi anh chị em là những người hữu ích bởi vì anh chị em đang là những người phục vụ tốt cho Hội Thánh, cho đất nước, cho gia đình.
Lúc nãy trong bài Phúc Âm chúng ta đã nghe Đức Kitô khen ngợi những kẻ bé mọn. Người nói rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Thiên Chúa đã dạy xưa, kẻ bé mọn được loan báo Tin Mừng”.
Tôi cũng thấy như vậy hôm nay trong họ đạo Cồn Én. Đúng là ứng nghiệm lời Chúa đã hứa xưa: Kẻ bé mọn được rao giảng Tin Mừng, được chia sẻ hạnh phúc, được cảm thấy kho tàng quý giá nơi chính bản thân mình.
Trong thánh lễ này, chúng ta tạ ơn Chúa, vì Chúa đã đặt trong ta những kho tàng quý giá. Chúng ta hãy cầu xin cho bản thân mình, nhất là cho con em chúng ta được luôn luôn bảo tồn, và luôn luôn phát triển những kho tàng mà Chúa đặt nơi chúng ta. Kho tàng là những đức tính nhân bản. Kho tàng là những đức tính siêu nhiên như tôi vừa kể một số làm ví dụ.
Tôi tin rằng, với sức mạnh Chúa Thánh Linh, tuy chúng ta bé nhỏ yếu hèn, Chúa sẽ giúp cho chúng ta phát triển kho tàng ấy. Mặc dù chúng ta chỉ là cái bình bằng đất sét bình thường, xấu xa, nhưng trong đó có kho tàng của Chúa gởi gắm.
Giờ đây, chúng ta cùng với con em chúng ta tuyên xưng đức tin. Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Cồn Én, ngày 25-11-1993
Sáng hôm qua, khi vừa nghe tin cha Augustinô Phan Xuân Trọng từ trần, tôi buột miệng nói: “Thánh lễ đã xong. Chúc cha Trọng ra đi bình an. Tạ ơn Chúa”.
Lời tôi nói trên đây là một phản ứng hồn nhiên, có thể chỉ hiểu được thấu đáo giữa cha Augustinô và tôi. Bởi vì cách đây 2 năm, khi biết cha mắc bệnh ung thư, không nói được nữa, mỗi ngày mỗi thêm đau đớn, tôi đã nói với cha, rồi cũng đã viết cho cha rằng: “Sống ơn gọi Linh mục chủ yếu là sống tinh thần hiến tế của Đức Kitô. Bản thân Đức Kitô là chủ lễ. Bản thân Đức Kitô là bàn thờ. Bản thân Đức Kitô là chính của lễ”.
Khi tôi nói và viết cho cha Augustinô những lời trên, tôi đã có đôi chút kinh nghiệm thế nào là sống với Đức Kitô, thế nào là đi theo Đức Kitô, thế nào là truyền giáo và cứu độ bằng phương tiện Đức Kitô. Đức Kitô đã cứu độ và truyền giáo bằng tình yêu chịu khổ nạn và chịu treo trên thánh giá.
Môn đệ Đức Kitô sẽ phải giống Thầy mình. Phải hiến tế mình. Không thể khác được.
Khi tâm sự với cha Augustinô những nhận định và kinh nghiệm trên, tôi cũng đã hiểu phần nào cuộc đời hiến tế của cha.
Tôi đã chứng kiến cảnh đau khổ tinh thần của cha, khi những oan ức dồn dập đổ trên thân phận cha. Cha đau khổ đến nổi có những ngày đã phát điên lên, như người mất trí.
Tôi đã chứng kiến cảnh đau khổ thiêng liêng của cha, khi những yếu đuối và những gánh nặng trách nhiệm xâu xé lương tâm cha. Cha muốn đến thăm từng gia đình, muốn an ủi nâng đỡ từng người, nhưng không sao được.
Tôi đã chứng kiến cảnh đau khổ thể xác của cha, khi bệnh ung thư hoành hành tàn phá con người của cha. Cha đau khổ vì bệnh nan y, và đau khổ vì thấy nhiều người phải khổ vì cha.
Tôi coi sự cha chịu đau khổ là một thánh lễ hiến tế sống động. Bởi vì cha chịu đau khổ với tinh thần hy sinh, từ bỏ mình và với tình mến Chúa yêu người. Hiến tế mình như thế là chôn vùi mình vào thân phận của lễ khiêm nhường của người đầy tớ Đức Giavê, mà tiên tri Isaia đã tiên báo, và Đức Kitô đã thực hiện.
Phải được chôn vùi mình như thế, mới trở thành hạt giống cứu độ, sẽ trổ sinh ra sự sống mới, như Đức Kitô đã nói.
Với cái nhìn trên đây, tôi dâng lễ này như một lễ tạ ơn. Tôi tạ ơn Chúa đã dùng bản thân cha Augustinô, sự sống và sự chết của cha, để giới thiệu với chúng ta một cách tái-Phúc-Âm-hoá đúng đắn nhất. Sức sống tái-Phúc-Âm-hoá sẽ được khởi đi từ nhũng cuộc đời hiến tế, thực sự hiệp thông với Đức Kitô chịu nạn và chịu chết trên thánh giá. Sức sống tái-Phúc-Âm-hoá sẽ được phát triển từ những con người không quan trọng hoá những việc mình làm cho Chúa; mà chú ý hơn hết đến sự Chúa đã chia sẻ cho mình mầu nhiệm thánh giá cứu độ.
Sáng nay, khi thấy chiếc xe tang chở thi hài cha Augustinô đi qua nhà thờ chánh toà Long Xuyên, tôi đã thầm nói với linh hồn cha rằng: “Bây giờ thì cha đã nhìn thấy rõ những gì là phù du, những gì là phải qua đi, và những gì là cốt yếu cho phần rỗi, cho việc truyền giáo. Xin cha cầu nguyện cho tôi, cho địa phận và cho mọi người cha thương và mọi người thương cha được nhận ra đúng những gì cha đang thấy, nhất là giá trị của đời hiến tế”.
Giờ đây, tôi cũng nhắc lại với cha như vậy. Có nghĩa là cha sẽ cùng cầu nguyện với chúng tôi. Cha sẽ cùng tạ ơn Chúa với chúng tôi.
Bài giảng thánh lễ từ biệt cha Augustinô Phan Xuân Trọng tại Hoà Bình Thạnh, ngày 28-11-1993
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với dư luận con người thời ấy, trong lãnh vực tôn giáo, trong lãnh vực đạo đức.
Thời ấy dư luận hay phán đoán cái này tốt, cái kia xấu, nhưng một cách nông cạn. Người ta phán đoán theo tình cảm hơn là theo nguyên tắc:
Thí dụ Chúa Giêsu đưa ra cái vấn đề ăn uống. Gioan không ăn uống thì bị người ta coi là người bị quỷ ám. Đức Giêsu ăn uống như người thường với những người thu thuế, thì bị dư luận kết án là kẻ ham ăn ham uống, giao du với những người mất nết. Đó là những phán đoán theo cảm tính, đó là những phán đoán theo tùy tiện. Những lời nói như vậy không đáng tin. Chúa Giêsu đã tỏ ra một thái độ từ dửng dưng đến bi quan đối với những lời thiên hạ phê phán như vậy.
Hơn nữa, ngay cả đến lời cầu nguyện Chúa cũng có một thái độ không mấy tin tưởng. Có lần Chúa nói: “Không phải hễ ai nói lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, là kẻ ấy sẽ được vào Nước Trời”. Có nghĩa là Chúa không tin vào những lời người ta cầu nguyện.
Vậy Chúa tin vào sự gì?
Thưa Chúa tin vào việc người ta làm, chứ không tin vào lời người ta nói.
Bài Phúc Âm hôm nay nói rõ sự khôn ngoan được chứng minh bởi những việc người ta làm. Chúa tin vào những việc người ta làm, nhưng không phải tất cả những việc làm đều chứng minh sự khôn ngoan, mà chỉ có những việc làm theo thánh ý Chúa. Chúa phán: “Chỉ những ai làm theo thánh ý Cha Ta mới được vào Nước Trời”.
Như vậy, tôi có hai cái phải sợ: Một là tôi sợ mình nói nhiều, mà không có làm. Hai là tôi sợ tôi làm nhiều việc, mà có nhiều việc lại không phải thánh ý Chúa.
Cách đây mấy hôm tôi nhận được một lá thư của một bác sĩ trẻ. Trong thư, người bác sĩ ấy viết cho tôi rằng: Con biết mọi người phải nên thánh. Nhưng đối với con, con chỉ biết nên thánh bằng các việc con làm thường ngày. Con làm đúng việc của con. Con làm các việc sao cho thực tốt. Con làm với tinh thần bác ái, vị tha, phục vụ. Con làm với tinh thần cầu nguyện.
Tôi thấy nội dung thư bác sĩ trẻ đó là rất đúng bài Phúc Âm hôm nay. Chính việc mình làm mới chứng minh được sự khôn ngoan của Phúc Âm. Và tôi có trả lời bác sĩ trẻ đó rằng: Con làm đúng, nhưng cha khuyên con hãy vừa làm nghề bác sĩ, mà phải học hỏi thêm nữa, để con làm nghề đó một cách tốt hơn, làm sao cho sâu sắc, làm sao cho tốt đẹp, làm sao cho có bác ái, làm sao cho có tâm tình cầu nguyện. Như vậy, các việc con làm thường ngày sẽ là một thánh lễ, sẽ là một bài ca tạ ơn. Đó là một việc truyền giáo. Việc làm sẽ chứng minh được đức tin và sự khôn ngoan của Phúc Âm.
Từ nãy đến giờ, để đánh giá họ đạo anh chị em, tôi không chú ý nhiều đến lời anh chị em nói, mà tôi để ý nhiều đến việc anh chị em làm. Tôi thấy có nhiều điều rất tốt, trong đó có việc anh chị em tham dự thánh lễ bây giờ.
Việc tham dự thánh lễ một cách sốt sắng, nghiêm trang, trật tự, tập trung lòng trí. Đó là một việc làm tôi coi là rất tốt để đón nhận Chúa Thánh Linh. Đó là một việc làm chắc chắn hợp thánh ý Chúa. Và đó là một việc làm có sức thánh hóa cá nhân chúng ta, gia đình chúng ta, họ đạo chúng ta.
Lát nữa đây, khi tôi sẽ hỏi các em Thêm Sức về đức tin. Các em sẽ thưa rất đúng, rất đều. Tôi biết chắc như vậy, bởi vì đã tập trước rồi. Nhưng tôi cũng chắc rằng Chúa không căn cứ vào những lời tuyên xưng bằng lời nói như vậy, mà Chúa sẽ căn cứ vào việc tuyên xưng đức tin mà các em sẽ làm sau này: Đi học, có học đúng bổn phận mình không? ở nhà, có làm đúng bổn phận con cái không? Trong họ đạo, có làm đúng bổn phận thiếu nhi không? Chúa căn cứ vào công việc mình làm, để đánh giá đức tin, chứ không phải qua lễ nghi tuyên xưng cho đúng, cho đều, mặc dầu những cái đó không phải là không tốt.
Khi bước vào nhà thờ này tôi thấy trên bảng có những lời gợi ý: Lạy Chúa Thánh Linh, xin hãy đến. Và tôi đã cầu nguyện cho tôi, cầu nguyện cho anh chị em theo gợi ý đó. Khi tôi cầu nguyện, Chúa trả lời tôi rằng: Cha muốn đến, nhưng nhiều người không đón nhận Cha. Đó là một điều làm tôi rất suy nghĩ. Không phải là Chúa Thánh Thần không đến với chúng ta, nhưng là vì chúng ta không chịu đón Ngài. Bởi vì khi Ngài đến Ngài đòi chúng ta phải từ bỏ mình, phải lột hẳn con người cũ của mình, để trở nên mới như bài hát nhập lễ chúng ta vừa hát: Một trái tim mới. Nhưng mà nhiều khi chúng ta không muốn đổi trái tim của chúng ta, không muốn đổi nếp sống của chúng ta, không muốn đổi tinh thần của ta. Thành ra, khi đến Chúa thấy vậy, Chúa sẽ ra đi, vì chúng ta không đón nhận Ngài.
Vì thế, trong thánh lễ bây giờ, tôi cầu xin và mong anh chị em cũng hãy cầu xin Chúa, cho chúng ta biết lấy việc làm, dù là việc làm của đời thường, để mà đón nhận Chúa, để mà tuyên xưng đức tin, để mà thánh hóa chính mình.
Tương lai gần đây cũng như tương lai còn xa, sẽ có nhiều khó khăn, sẽ có nhiều giông tố, nó làm hư đức tin của ta, của con em chúng ta, nên cần chúng ta phải có những việc làm, những việc làm thông thường thôi: Đọc kinh, cầu nguyện, suy gẫm lời Chúa, thánh lễ Misa, làm việc bác ái. Những việc thông thường thôi, nhưng mà làm cho tốt, làm cho sâu sắc, để cho nền đạo của chúng ta được vững, và đức tin của chúng ta được lan tỏa ra trong vùng đất này, vùng đất mà Chúa đã kêu gọi chúng ta làm người truyền giáo.
Lạy Chúa Thánh Linh, xin hãy đến, mà nếu chúng con có cản trở gì, xin Chúa phá vỡ những cản trở đó, và đến trong chúng con. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Hải Sơn, kinh C2, ngày 10-12-1993
Lễ Chúa Giáng Sinh là một kỷ niệm lớn. Hằng năm lễ này vốn lôi cuốn đông đảo đồng bào tới viếng Chúa Hài Đồng đặt trong hang đá. Số người không công giáo tới viếng Chúa thường vượt xa số người công giáo.
Năm nay cũng sẽ như thế và có thể hơn thế. Bởi vì từ ít lâu nay đang mọc lên khắp nơi tại vùng này một khuynh hướng tâm linh đi tìm những giá trị đạo đức.
Một giá trị đạo đức mà hiện nay con người Việt Nam đang khao khát tìm đến không phải là lời dạy đạo đức, chân lý đạo đức, nhưng là chính con người đạo đức.
Giờ đây, con người đạo đức mà mọi trái tim đều cảm phục, đó là Đức Kitô trong hang đá Bêlem.
Đạo đức của Ngài là sự khiêm tốn lạ lùng. Ngài vô cùng cao sang nhưng đã tự nguyện mặc lấy thân phận hài nhi bé bỏng yếu đuối, khó nghèo, đến với nhân loại như một kẻ phải cần đến sự giúp đỡ của mọi người.
Đạo đức của Ngài là sự hiền lành lạ lùng. Ngài nắm trong tay mọi quyền thưởng phạt, nhưng Ngài không tỏ chút gì là phô trương quyền lực đối với những ai từ chối Ngài trong dịp Ngài Giáng Sinh.
Đạo đức của Ngài là tình thương lạ lùng. Ngài đầy đủ hạnh phúc, nhưng Ngài đã tự ý đi vào cuộc đời gian khổ, và sau này tự ý đón nhận cái chết khổ đau, để chứng tỏ tình thương cứu độ của Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Đạo đức của Ngài là thái độ cởi mở lạ lùng. Ngài chính là sự thánh thiện, sự thông minh. Nhưng Ngài lại dành những ơn gọi cao quí đầu tiên cho những người đơn sơ bé mọn như Đức Mẹ và thánh Giuse, cho những kẻ nghèo khó ít học như các mục đồng, cho những người đạo khác xa xôi như ba vua.
Đạo đức của Ngài là sự vâng phục lạ lùng thánh ý Chúa Cha. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng Ngài nêu gương tự hạ, coi việc làm theo thánh ý Chúa Cha là lương thực hằng ngày của Ngài.
Anh chị em biết thời nay không thiếu những người đạo đức. Nhưng số người đạo đức theo gương Đức Kitô vẫn không nhiều. Đối với tôi, kẻ nào theo tinh thần đạo đức của Đức Kitô, sống đạo đức như Đức Kitô, họ chính là một phép lạ, dù họ không làm phép lạ nào. Họ rất cần cho nhân loại hôm nay.
Vì thế, trong các dịp mừng lễ Chúa Giáng Sinh, tôi thường nói với Chúa rằng: “Con tạ ơn Chúa đã cho con gặp được Chúa. Món quà con xin Chúa cho con và cho mọi người thuộc về con, không phải là sức khoẻ, tiền bạc và các sự may mắn thế gian, nhưng là nếp sống đạo đức. Nếp sống đạo đức mà con xin, không phải là bất cứ thứ đạo đức nào, mà là đạo đức của Đức Kitô, Đấng cứu độ loài người”.
Tôi thường xin Chúa như vậy. Tuy nhiên, càng ngày Chúa càng cho tôi hiểu rằng chúa vẫn sẵn sàng ban ơn đó. Nhưng rất nhiều người đã không đón nhận. Do đó, điều tôi cầu nguyện tha thiết hôm nay là xin ơn giúp tôi và anh chị em biết đón nhận Đức Kitô và nếp sống đạo đức của Đức Kitô.
Trong tinh thần ấy, tôi chân thành kính chúc anh chị em một lễ Giáng Sinh vui vẻ, đón nhận được ơn bình an trong Đức Kitô đang đến với anh chị em.
+ Gioan B. Bùi Tuần Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên
Bài Phúc Âm hôm nay cho phép tôi tưởng tượng ra hình dung thánh Giuse hồi đó.
Tôi thấy một thánh Giuse đẹp, không phải chỉ đẹp vì tuổi còn trẻ, tính tình mau lẹ, kín đáo, mà còn đẹp, và nhất là đẹp, vì thái độ mau mắn đón nhận thánh ý Chúa, và thực thi thánh ý Chúa một cách trọn vẹn.
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: Chúa muốn thánh Giuse chấp nhận Đức Maria và đón nhận Đức Kitô trong lòng trinh nữ Maria và hãy phục vụ hai Đấng bằng cách chu toàn bổn phận của mình. Thánh Giuse đã đón nhận thánh ý Chúa trên đây, và đã thực hiện thánh ý Chúa một cách mau mắn, đơn sơ, khiêm tốn và phó thác.
Rồi bài Phúc Âm hôm nay cũng cho thấy: Chúa muốn Giuse hãy che chở nuôi dưỡng Đức Mẹ và Hài Đồng Giêsu, và hãy đặt tên cho Hài Đồng bằng tên Giêsu nghĩa là “Đấng Cứu Chuộc”. Thánh Giuse đã thực thi ý muốn trên đây của Thiên Chúa một cách khiêm tốn, đơn sơ và phó thác.
Qua những nét trên đây, tôi thấy thánh Giuse có một điểm rất nổi trong đời sống của Ngài. Nét nổi đó là luôn luôn đón nhận thánh ý Chúa, và luôn luôn tìm cách thực thi thánh ý Chúa.
Qua hình ảnh trên đây của thánh Giuse, tôi thấy mọi người Chúa chọn cần phải có vẻ đẹp như thánh Giuse. Cái vẻ đẹp đó không phải là biết nói nhiều về Chúa, cũng không phải là biết phô trương những việc về Chúa, mà là biết đón nhận Chúa vào đời mình, vào lòng mình, và biết chu toàn bổn phận Chúa trao cho mình.
Mỗi người chúng ta cũng ví như một cái giếng. Cái giếng nước nào càng biết đón nhận những nguồn nước từ ngoài chảy vào thì càng là một cái giếng tốt. Còn trái lại, cái giếng nào không có khả năng tiếp nhận được những nguồn nước từ ngoài chảy vào, thì cái giếng đó là cái giếng cạn, cái giếng khô. Mà đã là giếng cạn, giếng khô, thì là sao sinh ích lợi cho những người chung quanh được.
Với những nhận định đó, tôi thường nhìn hình dung các họ đạo trong địa phận ta. Tôi nhìn các gia đình, tôi nhìn thanh niên, tôi nhìn thiếu nhi, tôi nhìn gia trưởng, tôi nhìn Cha Sở. Tôi coi những người ấy, những đơn vị ấy, có phải là những chiếc giếng có khả năng đón nhận những nguồn ơn thiêng liêng từ ngoài vào hay đó chỉ là những giếng khô, giếng cạn. Và từ đó, tôi có thể đoán được, và đánh giá được sức sống thiêng liêng của những nơi đó.
Với cái nhìn trên đây, tôi cũng đang đánh giá họ đạo Kinh Xáng của anh chị em.
Như tôi vừa nói về thánh Giuse: Vẻ đẹp của Ngài là biết đón nhận Thiên Chúa, là biết phục vụ Chúa và nhân loại bằng cách chu toàn bổn phận của mình. Tôi biết họ đạo Kinh Xáng của anh chị em là một cộng đoàn nghèo không có linh mục ở thường xuyên, không có thánh lễ hằng ngày, ít có sinh hoạt tôn giáo.
Tuy nhiên, tôi vẫn thấy anh chị em đã biết đón nhận Chúa và cũng đã biết chu toàn bổn phận của mình, trong cái khả năng khiêm tốn của mình. Tôi biết nhiều gia đình anh chị em đã đón nhận Chúa bằng việc anh chị em tối sáng cùng nhau cầu nguyện trong gia đình. Chúa phán: “Nơi nào có hai ba người cùng nhau cầu nguyện, thì nơi đó có Cha hiện diện”. Tôi tin lời Chúa phán, cho nên mỗi khi anh chị em họp nhau cầu nguyện, dù tại nơi đây, dù trong gia đình, dù ban tối ban sáng, dù trước và sau bữa ăn, dù trước và sau khi đi ngủ. Mỗi khi anh chị em cầu nguyện là mỗi khi anh chị em đón nhận Chúa đến với anh chị em. Chúa đã hứa như vậy thì chắc chắn Chúa sẽ làm cho ta như vậy.
Ngoài ra Chúa cũng đã phán: “Ai làm cho người khác một sự lành, dù bé nhỏ nhất, thì Ta kể là làm cho chính mình Ta”. Tôi biết anh chị em trong gia đình, trong xóm ngõ, vốn thường phục vụ nhau bằng những việc nho nhỏ: Tha thứ cho nhau, nâng đỡ nhau, yêu thương nhau, che chở bao bọc cho nhau. Đấy là những việc chúng ta phục vụ nhau, mà theo lời Chúa phán trên đây: Khi chúng ta phục vụ kẻ khác thì Chúa đến, và Chúa nhận lãnh những việc chúng ta làm cho kẻ khác, như là chính ta làm cho Chúa.
Qua những hình ảnh mà tôi thấy nơi anh chị em, tôi thấy có hình ảnh Đức Kitô đang ngự giữa các gia đình, ngự giữa họ đạo anh chị em. Và nhất là tôi nhìn thấy tâm hồn anh chị em còn nhiều tiềm năng để đón nhận thêm ơn Chúa. Tiềm năng chưa được khơi động, bởi vì chưa có những linh mục ở thường xuyên, chưa có những tông đồ có thời giờ, có khả năng sống chung với anh chị em, để phục vụ anh chị em một cách thường xuyên hơn. Đây cũng là một điều tôi băn khoăn, tôi áy náy và luôn cầu xin làm sao trong tương lai, chúng tôi có thể đáp ứng được những khát vọng của anh chị em.
Tuy nhiên, ngay từ bây giờ, nếu anh chị em làm hết việc của mình, bằng những việc trong tầm tay, như cầu nguyện, như phục vụ, thì mỗi một gia đình, mỗi một cá nhân họ đạo cũng sẽ sáng lên như một ngôi sao sinh nhật. Và rồi Kinh Xáng của anh chị em sẽ là một kinh được sáng lên bởi những ngọn đèn đức tin, bởi những ngọn đèn cầu nguyện, bởi những ngọn đèn bác ái. Sáng, vì có Chúa ở với chúng ta. Vì những tâm hồn thiện chí của chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Đầu lễ, anh chị em đã hát bài “Xin Chúa hãy đến”. Khi nghe anh chị em hát lời đó, tôi cũng đã hợp ý với anh chị em xin Chúa hãy đến. Và khi tôi nói với Chúa lời ấy, Chúa soi sáng cho lòng tôi biết rằng: Chúa đang đến, Chúa sẽ đến. Nhưng cần chúng ta mở lòng ta ra đón nhận Chúa. Điều này Chúa nhấn mạnh trong tôi và cũng nhờ tôi nói lại cho anh chị em: Không phải Chúa không đến. Nhưng, sợ khi đến nhiều người chối từ không đón nhận Chúa. Đó là điều làm ray rứt lòng ta, bởi vì chúng ta không có lòng sùng ái, không có sự nhiệt tình, không có lòng khát khao, không có lòng từ bỏ chính mình để đón nhận Chúa. Vì thế, trong thánh lễ hôm nay, tôi cầu xin cho tôi, cho họ đạo Kinh Xáng, cho các gia đình và từng cá nhân, biết đón nhận Đức Kitô đang đến. Nhưng chúng ta cần phải biết đón nhận Ngài với tất cả những gì Ngài mong muốn chúng ta thực hiện.
Xin Chúa Thánh Linh là tinh thần của Đức Kitô giúp chúng ta hiểu Chúa muốn gì, để chúng ta sống thực sự lời Chúa, sống thực sự ý Chúa. Và một khi chúng ta biết sống như vậy, thì chúng ta sẽ nên những thánh Giuse khác, biết làm sáng danh Chúa bằng cách đón nhận Đức Kitô và thực thi ý muốn của Thiên Chúa, bằng sự chu toàn bổn phận hằng ngày. Amen. Lễ Thêm Sức tại Kinh Xáng, ngày 16-12-93
Trong bài Phúc Âm hôm nay có một từ lạ. Từ đó là “Emmanuel”. Phúc Âm cắt nghĩa từ đó là: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Giờ đây, tôi mong muốn trình bày sự “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nó phát xuất từ đâu, quá trình diễn tiến thế nào trong lịch sử, và ảnh hưởng sự “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nó thế nào trong cuộc sống hôm nay. Tôi chỉ muốn chia sẻ với anh chị em một số những cảm nghiệm của riêng tôi về sự Thiên Chúa ở cùng tôi.
Sự chia sẻ của tôi sẽ giúp cho mỗi người anh chị em nhìn lại chính kinh nghiệm nội tâm của mình, để rồi từ đó chúng ta biết dọn mình đón nhận Đức Kitô đến trong đêm Giáng Sinh, và xin Người ở lại với chúng ta.
Cái cảm nghiệm thứ nhất về sự Chúa ở cùng tôi là tôi cảm thấy có một mối tình thân mật được xây dựng giữa Chúa Ba Ngôi và tôi.
Tôi cảm thấy Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một Đấng xa lạ, mà Ngài ở bên tôi, ở trong tôi. Tôi không nhìn rõ mặt Ngài, nhưng tôi cảm thấy rõ ràng Ngài là tình yêu. Ngài là tình yêu đầy lòng thương xót. Ngài là tình yêu cứu độ. Tôi chỉ là con người bé bỏng, yếu đuối, hèn mọn. Ngài kiếm tôi mọi phút, mọi giây. Ngài tha tội cho tôi từng giây, từng phút. Điều đó làm cho tôi cảm thấy: Giữa Thiên Chúa và tôi có một sự thông hợp mật thiết, sâu sắc. Tôi không bao giờ cảm thấy mình cô đơn. Bởi vì, Ngài là Cha, Ngài là Mẹ, Ngài là tình thương, Ngài là Đấng Cứu Độ. Cho nên, dù trong những hoàn cảnh bi đát nhất, coi như cô đơn nhất, tôi vẫn cảm thấy Thiên Chúa ở trong tôi.
Tôi nghe tiếng Ngài nói với tôi bằng nhiều cách khác nhau, nhất là những gì Ngài đợi chờ nơi tôi. Chúa đợi tôi ở Nhà Chầu trong thánh lễ, Chúa đợi tôi trong những giờ tĩnh tâm thinh lặng. Chúa đợi tôi ở trong sách thánh. Chúa đợi tôi ở trong bổn phận đời thường. Chúa đợi tôi ở trong những khổ đau. Chỗ nào tôi cũng cảm thấy Chúa gọi tôi, Chúa mong chờ tôi. Và tôi nghe rất rõ lời Chúa nói: “Con muốn theo Cha, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Cha”.
Những sự chờ đợi như vậy thường rất rõ ở trong trái tim tôi, và khi cảm thấy tiếng gọi ấy tôi biết Chúa ở trong tôi.
Một cái cảm nghiệm thứ ba là sự Chúa ở với tôi, là tôi cảm thấy có một ánh sáng mới, xuất phát từ Thiên Chúa, chia sẻ sang tôi, giúp tôi nhìn mọi sự vật xảy ra với một ý nghĩa mới.
Có những cuộc lễ rất linh đình, rất đẹp đẽ. Khi tôi không có ơn Chúa, tôi cho đó là những cuộc lễ vinh quang Thiên Chúa. Nhưng khi có Chúa ở trong tôi một cách phong phú, tôi lại nhìn thấy cuộc lễ đó trống vắng. Trái lại, một cuộc lễ nghèo nàn, nghèo như hang đá Bêlem, nghèo như núi Canvariô. Nhưng với ơn Chúa ở trong lòng, tôi lại nhìn đó là những cuộc lễ sinh ơn cứu độ, là vinh quang Thiên Chúa.
Cũng có những bài Phúc Âm khi tôi khô khan, tôi đọc mà chẳng cảm thấy gì. Nó trôi qua, nhưng khi có ơn Chúa ở cùng tôi, bài Phúc Âm ấy tỏa sáng ra, cho tôi nhìn thấy một chân trời mới, giúp tôi hiểu những gì Chúa dạy tôi.
Cái cảm nghiệm thứ bốn về sự Chúa ở với tôi, và tôi cảm thấy một sự an ổn tâm hồn.
Đây là một sự an ổn mà không ai trong thế gian này ban tặng được. Nó là một sự an ổn không dựa trên công nghiệp của mình, không dựa trên một sức mạnh nào cả, mà chỉ dựa vào một nền tảng duy nhất là Đức Kitô cứu độ.
Chỉ có Ngài là nền tảng, là hy vọng, là hạnh phúc của tôi. Và khi dựa trên Ngài, tôi cảm thấy bình an, mặc dù mình thấy vẫn còn vấp váp, vẫn còn lỗi lầm, vẫn còn yếu đuối, vẫn còn tội lỗi.
Anh chị em thân mến,
Những cảm nghiệm trên đây của tôi về sự Chúa ở với tôi, càng ngày càng làm cho tôi xác tín rằng: Muốn làm cho một cá nhân, muốn làm cho một cộng đoàn biết sống đạo, biết phát triển đức tin thì cần phải đi từ nguồn mạch Thiên Chúa ở với họ. Một khi có Thiên Chúa ở với mình, thì chúng ta sẽ có sức mạnh mới, chúng ta sẽ có sáng kiến mới, chúng ta sẽ có mùa xuân mới cho chính mình và cho cộng đoàn của mình.
Lúc nãy, khi tôi vừa bước xuống xe nhìn vào cuối nhà thờ, tôi đọc thấy ở hàng chữ “Thiên Chúa ở với chúng ta”.
Khi tôi đọc hàng chữ đó, tôi đã hỏi Chúa rằng: Đây chỉ là biểu ngữ, hay đây là một sự thực đang xảy ra trong họ đạo Phú vĩnh này. Tôi phân vân, tôi muốn có những chứng từ, thì một lát sau tôi nghe cha phó Phêrô kể cho tôi biết: Trong họ đạo Kinh Xáng của anh chị em đã có nhiều tâm hồn được đổi mới, có nhiều tâm hồn trở về với Chúa, có nhiều người đi lễ đọc kinh, có nhiều người sống bác ái hơn, có nhiều người có tinh thần Hội Thánh, có nhiều người đã biết bỏ công, bỏ của cho những việc chung. Tôi cho những chứng từ đó là những chứng từ làm chứng: Thiên Chúa đang ở với anh chị em thật sự. Và ngay chính lúc này, nhìn thấy anh chị em quy tụ nơi đây, dâng thánh lễ một cách sốt sắng, cầu nguyện bằng lời kinh, bằng thánh ca, bằng tâm hồn sốt sắng thì tôi lại càng tin rằng Chúa đang ở với anh chị em. Đây là một món quà lớn nhất Chúa ban tặng cho họ đạo Phú Vĩnh anh chị em.
Chớ gì ơn quí báu này vẫn tồn tại mãi mãi, vẫn ở với họ đạo Phú Vĩnh mãi mãi, và làm cho họ đạo Phú Vĩnh anh chị em phát triển thêm, mở mãi ra, về đàng thiêng liêng và về phía xã hội.
Trong thánh lễ này anh chị em hãy cùng với tôi, cùng với các Cha, cầu xin Chúa Thánh Linh giúp chúng ta biết đón nhận Đức Kitô và biết sống tốt ơn “Chúa ở cùng chúng ta”.
Đêm rồi, tôi thức dậy rất sớm, khoảng một giờ đêm. Và để chuẩn bị thánh lễ hôm nay, tôi mở Phúc Âm ra đọc đi, đọc lại, và cầu nguyện suy gẫm. Suy gẫn xong tôi nói với Chúa Giêsu rằng: Con tạ ơn Chúa đã đến trong thế gian và đã ở lại trong thế gian. Không những Chúa đã ở lại trong thế gian, mà Chúa còn ở lại trong từng gia đình. Không phải ở lại trong gia đình Đức Mẹ và thánh Giuse, mà ở lại trong tất cả những gia đình biết đón nhận Chúa, trong đó có gia đình con. Chúa đang ở lại trong các họ đạo, không phải chỉ ở lại trong họ đạo Nagiarét, mà cũng còn ở lại trong mọi họ đạo biết đón nhận Chúa, trong đó có họ đạo Thốt Nốt của chúng con.
Tôi nói với Chúa trong lòng như vậy, rồi tôi nghe Chúa nói lại với tôi rằng: Cha ở lại không phải chỉ trong các gia đình, các họ đạo biết đón nhận Cha, nhưng còn ở lại trong từng con người biết đón nhận Cha. Cha ở lại đó không phải như một tấm gương để noi theo mà thôi, nhưng còn ở lại đó như một người chia sẻ.
Nghe lời Chúa nói trong lòng tôi như vậy, tôi hơi bỡ ngỡ. Và đang khi tôi bỡ ngỡ, thì Chúa làm cho tôi cảm thấy Chúa đang chia sẻ thực sự với tôi. Chúa đang chia sẻ thực sự những gánh nặng của tôi. Chúa đang chia sẻ thực sự những khó khăn của tôi: Tôi đang đau bệnh. Tôi đang cảm thấy nhiều bế tắc. Đột nhiên, tôi cảm thấy có một sức mạnh đến nâng đỡ tôi.
Gánh nặng của tôi không phải chỉ là những phức tạp của đời sống, mà chính là sự yếu đuối của mình, những bất lực của mình, cả tội lỗi của mình.
Thánh giá của tôi là những đau khổ, sự túng nghèo, bệnh tật, cô đơn của những đồng bào xung quanh, là những khó khăn của con chiên mình.
Thánh giá đời tôi ở trong trái tim tôi, ở trong trí khôn tôi, ở trong thân xác tôi, và tôi cảm thấy đó là những gánh nặng vô hình, nhưng thực sự có sức đè bẹp tất cả con người của tôi, và muốn đẩy tôi vào hố thẳm tuyệt vọng.
Nhưng đang khi mình cảm thấy như vậy, thì lại cảm thấy có một Đấng Cứu Độ trong tâm hồn mình. Ngài là Đức Kitô, Ngài ở đó để chia sẻ gánh nặng với tôi. Mà Ngài chia sẻ không phải chỉ như một người cha, một người bạn, mà chia sẻ như một Đấng Cứu Độ.
Chia sẻ như một Đấng Cứu Độ đó là một sự thực đầy an ủi. Bởi vì Đấng Cứu Độ, khi chia sẻ thánh giá với chúng ta trong đời sống thường, là Ngài thanh tẩy ta, là Ngài tha thứ cho ta, là Ngài đền tội cho ta, Ngài trở nên niềm hy vọng của ta.
Tôi cảm thấy thấm thía sự thực đó: Đức Kitô ở lại trong tâm hồn tôi như một người chia sẻ cứu độ. Ngài đem lại niềm tin, Ngài đem lại niềm hy vọng, Ngài đem lại sự sáng, con đường và sự sống. Chính vì thế mà tôi cảm thấy rằng: Đức Kitô đang đến với lòng ta, với gia đình ta, với họ đạo của ta, thì bao giờ Ngài cũng là Đấng chia sẻ có tính cách cứu độ.Đối với Đấng Cứu Độ, không có gì là không có thể được. Chúng ta tin điều đó. Có những khó khăn, ta tưởng không vượt qua được, có những bế tắc ta tưởng không thể nào giải quyết được. Nhưng, hãy tin vào Đấng Cứu Độ, bởi vì đối với Ngài, không có gì mà không thể được.
Những kinh nghiệm tôi vừa chia sẻ với anh chị em trên đây, có lẽ cũng là kinh nghiệm mà mỗi người anh chị em đã từng trải qua. Những kinh nghiệm này gợi ý cho ta một sự thực rất quan trọng, đó là hãy biết đón nhận Đức Kitô vào tâm hồn mình. Hãy biết đón nhận Đức Kitô vào gia đình mình. Hãy biết đón nhận Đức Kitô vào họ đạo của mình. Và hãy biết đón rước Ngài, giữ Ngài ở lại với mình.
Nhưng làm cách nào để chúng ta biết đón nhận Đức Kitô, rước Ngài vào, giữ Ngài ở lại. Riêng tôi, tôi làm hai việc này một cách cẩn thận và thường xuyên.
Việc thứ nhất là tôi năng đọc Phúc Âm. Tôi năng suy gẫm Phúc Âm, tôi cầu nguyện theo Phúc Âm. Ngày nào cũng vậy. Đó là lương thực của tôi.
Việc thứ hai là tôi cố gắng chu toàn những việc thường ngày, từ những việc nhỏ cho tới những việc lớn, nhất là các việc phục vụ những người trong gia đình mình một cách khiêm tốn, một cách bao dung, một cách nhiệt tình.
Kinh nghiệm cho tôi thấy rằng khi tôi làm hai việc đó thì tôi đón nhận Đức Kitô vào tâm hồn tôi, và giữ lại Ngài trong đó.
Đây cũng là hai việc tôi muốn khuyên anh chị em làm, cách riêng trong tương lai.
Hôm nay là ngày khai mạc năm gia đình. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã quyết định mở năm gia đình trên khắp Hội Thánh. Ngày khai mạc năm gia đình là chính hôm nay. Và năm gia đình sẽ kéo dài một năm, bế mạc ngày lễ Thánh Gia 1994.
Tôi muốn nhân ngày hôm nay làm lễ khai mạc năm gia đình trong địa phận, tôi muốn nhắn nhủ anh chị em làm hai việc mà tôi vẫn làm, đó là năng đọc Phúc Âm, suy gẫm Phúc Âm, cầu nguyện theo Phúc Âm, và hai là chu toàn bổn phận, nhất là bổn phận phục vụ những người chung quanh.
Lúc nãy, đầu thánh lễ, ông đại diện có nói về những việc bác ái mà họ đạo anh chị em đã làm. Điều đó rất đáng khen. Nhưng tôi cần nhấn mạnh về một điểm mà tôi vừa nói lúc nãy, đó là ngoài việc bác ái, chúng ta cần phải năng đọc Phúc Âm, suy gẫm Phúc Âm, cầu nguyện theo Phúc Âm, riêng một mình mình, chung với gia đình mình, để đón nhận Chúa vào trong tâm hồn mình.
Đây là điều tôi đã có kinh nghiệm rất rõ, bởi vì khi chúng ta làm việc bác ái cũng tốt thôi. Nhưng nếu thiếu Đức Kitô trong tâm hồn, thì nhiều khi việc chúng ta làm sẽ trở nên máy móc, trống vắng. Ngược lại, một khi có Đức Kitô trong lòng mình và Ngài ở lại với chúng ta, trong chúng ta, thì công việc chúng ta làm, dù rất bé nhỏ, sẽ trở nên ngọn đèn sáng, sẽ trở nên một giếng nước có nước hằng sống, sẽ trở nên men, muối, để ướp đời sống những người xung quanh, trong gia đình mình.Anh chị em thân mến.
Trên đây là những chia sẻ chân thành nhất của tôi trong ngày hôm nay, giữa gia đình họ đạo Thốt Nốt khiêm tốn, nhỏ bé, đơn sơ, tượng trưng cho gia đình của Thánh Gia. Chúng ta chia sẻ, để rồi chúng ta cùng nhau cầu nguyện cho chính mình, cho gia đình mình, cho họ đạo mình, cho địa phận mình. Cầu nguyện, nhất là với chủ đề đón nhận Đức Kitô vào trong tâm hồn, trong gia đình, trong họ đạo, trong địa phương ta. Bởi vì, có Ngài, thì mới có sự cứu độ, có Ngài, thì mới có niềm hy vọng thực sự giải quyết toàn bộ đời sống chúng ta. Amen.
Mở đầu thánh lễ này, tôi đã chào chúc anh chị em bằng một công thức của phụng vụ: “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”.
Khi nói lời đó, thực sự lòng tôi hơi áy náy, và tôi có nói với Chúa Giêsu rằng: “Chúa là sự bình an. Nhưng con thấy khi Chúa đến và ở lại trong gia đình Đức Mẹ và thánh Giuse, thì coi như gia đình đó có vẻ mất sự bình an”.
Cũng vì Chúa đến ở lại trong gia đình đó, nên mới có chuyện các hài nhi vùng Bêlem bị giết. Cũng vì Chúa ở lại trong gia đình đó, nên mới có chuyện hai ông bà phải ẵm con đi trốn bên Ai Cập. Rồi cũng vì Chúa ở lại trong gia đình đó, nên hai ông bà phải đi tìm con lận đận ba ngày trong đền thờ. Và tiếp đó, là biết bao chuyện xảy ra cho hai ông bà. Đến tuần thánh là tuần thê thảm nhất, xảy ra cho hai ông bà. Con nghĩ, cũng chỉ vì Chúa đến và Chúa ở lại trong gia đình hai ông bà.
Như vậy Chúa là sự bình an. Nhưng khi đến, Chúa đâu có đem lại sự bình an cho gia đình?
Tôi cứ thành thực nói với Chúa như vậy. Và Chúa đã trả lời tôi. Tôi nghe thấy tiếng Người nói trong lòng tôi rằng: Sự bình an mà Chúa dành cho gia đình Đức Mẹ và thánh Giuse, phải hiểu là sự bình an trong tâm hồn, sự bình an dẫn tới Nước Trời, sự bình an trường cửu, chứ không phải sự bình an theo quan niệm thế gian này. Và sự bình an chỉ ban cho những ai tuân phục trọn vẹn thánh ý Chúa Cha, như Đức Mẹ và thánh Giuse đã từng thực hiện.
Lời Chúa dạy tôi hôm nay giúp tôi hiểu: Sự bình an mà Chúa muốn dành cho tu viện Thánh Gia chúng ta đây, cũng như tất cả những gia đình của chúng ta đây, là hãy trung thành, trọn vẹn sống theo ý Chúa. Và khi thi hành trọn vẹn ý Chúa, thì bấy giờ chúng ta sẽ có sự bình an trong tâm hồn.
Vậy Chúa muốn chúng ta làm gì?
Thánh ý Chúa muốn Thánh Gia phải là men. Thân phận của men là phải chấp nhận tan đi, là phải chấp nhận hy sinh. Cục men vùi trong đống bột là chấp nhận sống âm thầm, trong khiêm tốn, trong kiên trì, để dần dần chất men của mình hoà tan vào trong đống bột. Nếu cục men lại muốn trở thành cục đá, không chịu chấp nhận để tan đi trong đống bột, thì đó không phải là cục men Chúa muốn, vì nó không có chức năng của men.
Rồi thánh ý Chúa là muốn Thánh Gia phải là hạt lúa trong ruộng. Thân phận của hạt lúa trong ruộng là cũng phải chấp nhận để mình bỏ cái vỏ của mình, phải chấp nhận để chính mình thối đi, hầu có thể nẩy sinh ra mầm cây mới.
Cũng vậy, nếu tu viện Thánh Gia chúng ta muốn trở thành một mầm cây, một cây tốt, thì phải chấp nhận những hy sinh, những kiên trì, phải để cho những đớn đau, những thử thách làm tung nổ cái vỏ bên ngoài của mình, để mình có thể trở thành cây mới.
Rồi thánh ý Chúa là muốn Thánh Gia phải trở thành muối. Giá trị của muối là độ mặn. Mà độ mặn được lấy từ nước biển.
Cũng vậy, nếu tu viện Thánh Gia chúng ta muốn trở thành muối mặn, thì phải biết rút chất mặn thiêng liêng từ Thiên Chúa: Chất mặn của tình ái, chất mặn của tình yêu cứu độ. Tách lìa biển bao la là tình yêu Thiên Chúa, chúng ta sẽ không có chất mặn của muối thiêng liêng.
Rồi thánh ý Chúa là muốn Thánh Gia phải trở thành đèn sáng. Giá trị của một chiếc đèn là mức sáng của nó. Mà mức sáng này chỉ có khi thông hiệp với nhà đèn, với nguồn phát ra điện.
Cũng vậy, nếu tu viện Thánh Gia chúng ta muốn trở nên một cái đèn sáng thiêng liêng, thì cần phải hiệp thông mật thiết với nguồn mạch ánh sáng thiêng liêng. Đó là Thiên Chúa.
Những tư tưởng trên đây giúp cho tôi hiểu khi nhìn về tương lai với góc độ nào, với phương hướng nào? Chắc chắn chúng ta đã sống và đang sống theo cái hình ảnh được kêu gọi là men, là hạt lúa, là muối, là đèn. Nhưng trong tương lai, chúng ta cần tăng cường hơn những ơn gọi đó một cách tích cực và cụ thể.
Hôm nay cũng là ngày khai mạc năm gia đình, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã quyết định năm 1994 là năm gia đình. Ngày khai mạc năm gia đình là chính hôm nay, lễ Thánh Gia 1993 và năm gia đình sẽ kết thúc vào lễ Thánh Gia 1994. Vì thế, tôi muốn lợi dụng thánh lễ hôm nay, để gợi lên trong tu viện Thánh Gia một hình ảnh đẹp của năm gia đình để sống ơn gọi là muối, là men, là đèn, là hạt giống, để chúng ta biết đón nhận Đức Kitô vào trong chúng ta.
Theo kinh nghiệm, tôi thấy rằng: Chúng ta chỉ có thể sống một cách đích thực ơn gọi của Thánh Gia, khi chúng ta biết đón nhận Đức Kitô là sự hoà bình của Thiên Chúa trong tâm hồn của chúng ta. Mà muốn được như vậy, tôi thấy không có gì tốt cho bằng chúng ta năng đọc Phúc Âm, năng suy gẫm Phúc Âm, năng cầu nguyện theo Phúc Âm và thêm vào đó, chúng ta năng lui tới Mình Thánh là nguồn mạch sinh ơn bình an cứu độ.
Tôi cũng không quên rằng, một trong những cách để đón nhận Đức Kitô vào trong tâm hồn chúng ta, là chúng ta hãy bắt chước Đức Mẹ và thánh Giuse chu toàn những việc nhỏ mọn thường ngày, nhất là những công việc phục vụ lẫn nhau, bằng một trái tim bao dung khiêm tốn, nhiệt tình.
Anh chị em thân mến,
Trong thánh lễ này, tôi xin Chúa ban cho chúng ta biết đón nhận Đức Kitô vào trong tâm hồn, vào trong tu viện, vào trong gia đình chúng ta. Tôi xin mọi người anh chị em hãy làm những điều tôi vừa gợi ý trong năm gia đình này là:
Một là năng đọc Phúc Âm, suy gẫm Phúc Âm, cầu nguyện theo Phúc Âm, lời Chúa là lời bình an.
Hai là cố gắng chu toàn bổn phận của mình. Trung thành trong những việc nhỏ nhất, là để ý phục vụ lẫn nhau bằng tình thương chân thành, khiêm tốn, bao dung.
Lạy Thánh Gia, xin đến với chúng con, vì chúng con đang muốn đón nhận ơn Thánh Gia hôm nay. Amen.
Lễ Thánh Gia, tại tu viện Thánh Gia Cần Say, ngày 26-12-1993
Trước mắt tôi là hai bài báo trích từ mấy tạp chí xuất bản ở nước ngoài. Một bài của một tôn giáo không phải là Công giáo. Một bài của một giáo phái gốc Thiên Chúa giáo. Cả hai nội dung đều phác hoạ kế hoạch hoạt động tôn giáo tại Việt Nam thời hậu-cấm-vận. Kế hoạch nào cũng nhắm mục đích mở rộng tôn giáo của mình.
Đáng chú ý là những hướng đi mới như:
- Không xây cất cơ sở vật chất, nhưng lặng lẽ đào tạo nhân sự.
- Không mở lễ hội ồn ào, nhưng âm thầm mở rộng màng lưới từ thiện xã hội.
- Không phổ biến tôn giáo trong các nơi thờ tự, nhưng nói chuyện về tôn giáo trong các gia đình và trên sách báo.
- Không giới thiệu tôn giáo như một quyền lực và bằng quyền lực, nhưng như một tình thương và bằng các việc tình thương.
Đọc các kế hoạch đó, tôi thấy có sự nhạy bén nắm bắt tình hình và có sự thông minh chọn lựa cách sử dụng tiền bạc để hoạt động tôn giáo trong một thời điểm rất phức tạp.
Có thể nhiều cộng đoàn tôn giáo khác cũng đã nghĩ tới thời hậu-cấm-vận, và cũng đã có nhiều phương án được phác hoạ. Tôi mong muốn được học hỏi những phương án ấy.
Nơi tôi, mọi phương án mục vụ thời mở ra, đều được thai nghén từ nhận định sau đây:
Sự tự do và tiền bạc có thể trở thành phương tiện tốt cho việc truyền giáo, nếu người truyền giáo có sức khoẻ tâm hồn và sức khoẻ mục vụ.
* Sức khoẻ tâm hồn.
Tôi hiểu sức khoẻ tâm hồn là khả năng tâm hồn đón nhận các giá trị đạo đức, nhất là biết đón nhận sự sống Thiên Chúa, để mình được đổi mới, nên người tốt, có khả năng hiệp thông với Chúa và đoàn kết với tha nhân.
Hình ảnh sau đây giúp dễ hiểu. Cây nho có nhiều cành. Cành nào đón nhận được nhiều nhựa sống từ thân cây, tiếp thu được nhiều chất dinh dưỡng từ môi trường, chia sẻ được dễ dàng với các cành khác, cành đó là cành khoẻ. Cành nào không đón nhận được gì, hoặc đón nhận được ít, hoặc không chia sẻ được sự sống với các cành khác, cành đó là cành bệnh.
Tương tự cũng thế. Các giá trị đạo đức và sự sống Thiên Chúa được ban tặng cho tôi từ trong tôi và từ ngoài tới. Nếu tôi nhận được nhiều, chia sẻ được nhiều, đó là dấu tâm hồn tôi khoẻ mạnh. Nếu ngược lại, đó là dấu tâm hồn tôi bệnh hoạn.
Không bao giờ tôi dám cho mình là khoẻ mạnh tâm hồn. Bởi vì tôi có thể giống như những người thành Nagiarét xưa, ở chỗ không đón nhận được Tin Mừng. Họ thấy Đức Kitô trước mắt, nghe tiếng Đức Kitô bên tai, chạm đến Đức Kitô bằng xương bằng thịt. Thế nhưng, họ không nhận ra Ngài là tin mừng cứu độ.
Họ chứng kiến các việc Ngài làm, thế nhưng họ không nắm bắt được các tín hiệu về Nước Trời trong các việc đó.
Tôi cũng nghĩ rằng: Tôi cũng giống như thánh Phêrô xưa về mặt không đón nhận được ý Chúa. Ngài được chọn làm đầu Hội Thánh, sống bên cạnh Đức Kitô, thế mà có lúc ngài đã không đón nhận nổi kế hoạch cứu độ của Đức Kitô, khiến Đức Kitô phải mắng ngài là “Satan”.
Tôi cũng đã từng kinh nghiệm thấm thía lời thánh Phaolô nói: “Điều tôi muốn thì tôi không làm. Điều tôi không muốn thì tôi lại làm”.
Một hôm, trên chiếc phà Mỹ Thuận, giữa đám đông chen chúc, một người lạ mặt đứng cạnh nói với tôi: Xin lỗi, tôi coi chú có vẻ giống ông cha nhà thờ? Tôi thưa: Phải, tôi là ông cha nhà thờ. Người lạ tiếp: Chú ơi, rồi đây mọi tôn giáo đều sẽ mất, chỉ có ma giáo là còn.
Tôi cho đó là một lời nói đùa. Nhưng lời nói đùa ấy đã gợi cho tôi nhớ tới tên ma giáo số một là Satan. Xưa, Satan đã cám dỗ Đức Kitô trong sa mạc. Nó khôn khéo đề nghị Đức Kitô dùng quyền lực kinh tế, chính trị, thần thánh để làm sáng danh Thiên Chúa. Nhưng Đức Kitô đã từ chối. Ngài đã thắng tên ma giáo Satan.
Nay Satan vẫn tiếp tục cám dỗ các người theo Đức Kitô. Chúng ta có thắng nó không? Phải nhận là không luôn luôn thắng. Hơn nữa nhiều lúc chúng ta không những không thắng mà còn có vẻ mong muốn được thua, nhất là khi kẻ cám dỗ lại là “Thần tài” và “Thần tự do”.
Do đó, tôi nghĩ rằng kẻ ma giáo đáng ngại nhất chính là cái tôi phàm tục vẫn mai phục trong con người mỗi cá nhân chúng ta. Khi nó được hỗ trợ tích cực bởi thần tự do và thần tài, nó sẽ vùng lên rất mạnh. Như Chúa Giêsu đã dạy và đã làm gương, ta chỉ thắng được nó, chỉ huy được nó nếu ta có sức khoẻ tâm hồn, một sức khoẻ được tôi luyện bởi cầu nguyện, chay tịnh và tinh thần sa mạc.
* Sức khoẻ trí khôn.
Tôi hiểu sức khoẻ trí khôn là khả năng trí khôn đón nhận các sự thực bất cứ từ đâu tới, biết tiêu hoá chúng, biết biến đổi chúng thành văn hoá con người.
Xin tạm đưa ra ví dụ con tằm. Con tằm nào ham ăn dâu, mau tiêu hoá, mau nhả tơ, con tằm đó là con tằm khoẻ. Con tằm trái ngược là con tằm yếu.
Với hình ảnh đó, tôi nhớ lại cách rèn luyện trí thức của mấy thầy dạy tôi. Để hướng dẫn tôi làm luận án, các ngài đã hỏi tôi đôi ba điều:
Một là xác định đề tài với một nội dung tự hạn chế rõ. Hai là đệ trình các sách tham khảo, phải ít là trên vài chục tên sách. Ba là phải có những suy nghĩ riêng, độc lập.
Cách làm việc trên đây buộc tôi phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, để có những phân tích và lựa chọn đúng.
Cách làm việc đó nay đang trở nên thông thường đối với trí thức.
Năm rồi, tôi được mời tham dự một cuộc họp của Uỷ ban Mục vụ phụ trách ngoại kiều thuộc Hội đồng Giám mục Pháp. Sau bản thuyết trình, mỗi thành viên tham dự được mời phát biểu. Mỗi phát biểu không dài quá 10 phút. Phần lớn, các phát biểu đều có 3 phần: Một phần kể ra các ý kiến thu tập được từ các sách báo và từ các nguồn thông tin khác về khía cạnh nào đó của vấn đề đang thảo luận. Một phần là những kinh nghiệm riêng. Một phần là kết luận vừa qui chiếu vào các nguyên tắc, vừa dựa trên thực tế các sự kiện phản ánh tâm lý, xã hội, kinh tế, khoa học, chính trị, môi trường. Phải chính xác, mạch lạc, vắn gọn. Cách làm việc trên đây rất khác với một lối làm việc trí thức xưa kia, hay đề cao việc thông hiểu các nguyên tắc, rồi từ đó phán ra, bất cần thực tế các sự kiện hoàn cảnh.
Dựa theo lối làm việc đã được học, để suy nghĩ về vai trò tự do và tiền bạc trong Hội Thánh khắp nơi, tôi tìm đọc các sách báo phản ánh tình hình đạo đức trong các thời điểm, nhất là trong thời điểm gần đây. Các thông tin đó cho thấy tiền bạc và tự do là thuốc bổ cho nhiều hoạt động tôn giáo. Nhưng tại nhiều nơi, chúng đã là thuốc độc làm suy yếu đức tin và làm biến dạng nếp sống đạo đức. Lý do là vì không có sự cân đối giữa các hướng phát triển. Mặt vật chất thì phát triển mạnh và mau. Mặt tinh thần thì phát triển yếu và chậm, nhiều khi lại thụt lùi. Kinh tế thì được đề cao, giáo dục thì bị xếp vào hàng thứ yếu, để rồi văn hoá với các giá trị truyền thống dần dà biến dạng thành một thứ văn hoá đề cao hưởng thụ.
Trong một tình hình như vậy, trí khôn con người không dễ nhận ra đâu là cái đúng, cái phải, đâu là cái sai, cái trái. Giữa sự thực và sự không thực hầu như không còn ranh giới, hay chỉ là những ranh giới tuỳ tiện.
Lúc đó, người truyền giáo phải là người say mê sự thực, biết tôn trọng các sự thực, bén nhạy với các sự thực, biết cởi mở đón nhận các sự thực mới, dù xa lạ đối với mình, và đặc biệt phải là người hăng hái làm chứng cho những gì là sự thực.
Một người có trí khôn ham mộ sự thực và thao thức với nền văn hoá của chân lý như thế sẽ thích dùng tiền bạc và tự do, để nâng cao dân trí, phát triển giáo dục. Họ không là loại người dễ dàng xài tiền bạc và tự do một cách phí phạm, ấu trĩ và tai hại.
* Sức khoẻ mục vụ.
Tôi hiểu sức khoẻ mục vụ là khả năng nhìn xa thấy rộng, biết có những chọn lựa khôn ngoan trong việc chăm sóc đoàn chiên.
Một câu chuyện gợi ý. Hôm đó, thánh Phêrô và thánh Gioan vào thành Giêrusalem, đến cửa tên là Cửa Đẹp, các ngài gặp một người bất toại ăn xin. Thánh Phêrô nói với người đó rằng: Tiền bạc chúng tôi không có. Cái gì chúng tôi có thì chúng tôi cho. Vậy, nhân danh Đức Kitô bạn hãy đứng dậy. Rồi ngài cầm lấy tay người bất toại, nâng anh đứng lên. Anh ta được lành mạnh, tự mình đi lại được, tự mình nhập vào cuộc sống xã hội, tự mình đối thoại được với các thượng tế và pharisêu.
Tôi coi việc làm trên đây của thánh Phêrô là một hình ảnh đẹp của sức khoẻ mục vụ.
Sức khoẻ mục vụ của ngài không phải là tiền bạc, nhưng là niềm tin tuyệt đối vào Đức Kitô, và là tình thương vô biên dành cho kẻ khổ đau.
Sức mạnh mục vụ của ngài không phải là khả năng bao bọc và làm thay cho người bất toại, nhưng là giúp anh đứng lên, rồi tự mình anh bước đi, tự mình anh biết xoay sở ứng phó với từng hoàn cảnh cuộc sống.
Từ gương sức khoẻ mục vụ trên đây của thánh Phêrô, tôi thấy mục vụ của tôi và của nhiều môn đệ Chúa hôm nay còn yếu. Yếu ở chỗ mục vụ của ta còn quá lệ thuộc vào các phương tiện trần thế, như tiền bạc, tự do. Như thể hễ không có tiền bạc và tự do thì mục vụ sẽ hoàn toàn bế tắc. Tôi nghĩ rằng các phương tiện đó là cần thiết ở một mức độ tương đối nào đó. Cái tuyệt đối cần, chính là đức tin. Đức tin mà Chúa đòi nơi ta là một đức tin mạnh của Apbraham, của Đức Mẹ, của thánh Phêrô. Tin tuyệt đối, tin vô điều kiện, tin chắc chắn vững vàng vào lời Chúa, dù trước mắt, xung quanh chỉ toàn là bóng tối, và dù trong bóng tối ấy phải bước trên sóng biển mà đi.
Mục vụ của ta cũng còn yếu ở chỗ hoạt động của ta thường quá tập trung vào cái khung giữ đạo, chứ chưa quan tâm đủ đến việc cầm tay kẻ đau khổ bất lực, giúp họ đứng lên, bước ra khỏi cảnh mặc cảm, cảnh bị loại, cảnh dốt nát, cảnh khốn cùng.
Mục vụ của ta còn yếu, ở chỗ mọi sinh hoạt của ta, không thực sự là hoàn toàn nhân danh Đức Kitô, mà thực sự đôi khi cũng vì mục đích kinh tế, xây dựng uy tín, phô trương quyền lực.
Mục vụ của ta cũng còn yếu, ở chỗ chưa làm cho nhiều người của ta được trưởng thành, tự mình bước đi được một cách hiên ngang giữa cuộc đời đổi mới, chưa tự mình đối thoại được một cách đạo đức và khoa học với xã hội tự do và tiền bạc.
Chăm sóc ba loại sức khoẻ trên đây, đó cũng là điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi trong tông huấn “Pastores dabo vobis”.
Thiết tưởng tông huấn này chính là một tài liệu quí giá giúp chúng ta thực hiện việc tân-phúc-âm-hoá thời hậu-cấm-vận.
+ GB. BÙI-TUẦN (Trích báo CG&DT số 925, ngày 19-9-1993).
Bài Phúc Âm hôm nay kể rằng: Có hai môn đệ Gioan muốn đi theo Đức Kitô. Thấy vậy, Đức Kitô quay lại hỏi: “Các ông đi tìm gì?” Họ thưa: “Thầy ở đâu?” Và Đức Kitô đã trả lời rằng: “Hãy đến mà xem”. Thoạt nghe câu trả lời trên đây của Chúa Kitô, tôi nghĩ trong bụng rằng: Sao mà Chúa thật thà đơn sơ quá vậy! Bảo người ta đến mà xem, mà xem nơi ở của Ngài, thì đó là một cái nhà tranh nghèo nàn, chẳng có tiện nghi, chẳng có tiền bạc. Mà muốn xem cách sống của Ngài, thì đó là một cách sống khổ cực. Hai người đó lại là thanh niên. Nếu họ thấy như vậy, biết đâu họ sẽ vỡ mộng, họ sẽ thất vọng, họ sẽ bỏ Chúa mà đi?
Thế nhưng, hai môn đệ đã đến, đã xem, đã ở lại, và đã xin đi theo Chúa.
Theo tôi, cái động lực đã khiến hai môn đệ dứt khoát, tự nguyện đi theo Đức Kitô, không phải là vì đã nhìn thấy cái nhà của Ngài, cũng không phải là vì đã thấy cách Ngài sống, mà vì đã gặp được chính con người của Ngài. Chính con người của Đức Kitô, với cái nhìn của Đức Kitô, với cái nụ cười của Đức Kitô, với tình thương của Đức Kitô, đã có một cái gì đó lôi cuốn hai môn đệ Gioan.
Trên đây là chuyện xưa đã qua rồi, nhưng tôi nói lại, để gợi ý đến chuyện hôm nay.
Chuyện hôm nay là chuyện của tôi, của anh chị em. Tôi nghĩ rằng mọi người chúng ta đều đã có lần nghe tiếng Chúa gọi: “Hãy đến mà xem”. Và cũng đã nhiều lần chúng ta mơ ước được đến nơi Chúa sinh ra, được đến nơi Chúa giảng dạy, được đến nơi Chúa chịu chết. Chúng ta đã đến nơi ấy bằng tưởng tượng, bằng xem tranh ảnh. Riêng tôi, tôi được may mắn đến tận những nơi ấy. Tôi đã đến Bêlem. Tôi đã đến Galilê. Tôi đã đến Nagiarét. Tôi đã đến Caphanaum. Tất cả những nơi ấy, tuy là những di tích thánh, gợi lên nhiều sự cảm động. Nhưng phải nói thiệt là, nếu chỉ có thế thôi, thì những nơi ấy không đủ lôi cuốn tôi đi theo Đức Kitô.
Cái đã làm tôi dứt khoát đi theo Đức Kitô, cũng như anh chị em đi theo Đức Kitô, chính là con người của Đức Kitô.
Chúng ta đã một lần nào gặp được Đức Kitô trong đời sống này. Chúng ta đã nhìn thấy dung mạo của Ngài. Nhất là chúng ta đã cảm thấy trái tim của Ngài, khi Ngài gọi ta “hãy đến mà xem”, thì không có nghĩa là Ngài mời gọi ta đến Bêlem, đến Nagiarét, đến Caphanaum, mà hãy đến mà xem trái tim của Ngài, một trái tim mà thánh Phaolô mới tả ra trong bài Sách Thánh: “Ngài đã yêu thương tôi, khi tôi còn trong tội lỗi. Ngài đã yêu thương tôi, đến nỗi chết cho tôi”.
Hãy đến mà xem một trái tim như vậy. Để rồi, trong tất cả mọi hoàn cảnh của đời sống, nhất là trong giờ phút u ám đời mình. Chúng ta vẫn tin vào Đức Kitô: Ngài là đá tảng của niềm tin. Ngài là niềm an ủi. Ngài là điểm tựa của chúng ta. Có Có Ngài, chúng ta sẽ vững tâm đi về đời sau.
Anh chị em thân mến,
Lúc nãy, khi đoàn rước đi vào nhà thờ, tôi thấy ở cuối nhà thờ còn nhiều chỗ trống, tôi đã nói với Chúa rằng: Có thể, đời con sẽ có nhiều ngày trống vắng. Có thể, lòng con còn có nhiều nơi trống trải. Nhưng xin Chúa hãy đến mà xem, không lúc nào, không chỗ nào mà con không tin vào lòng thương xót Chúa. Xin Chúa đến mà xem con tin thế nào, vào Chúa, vào tình yêu của Chúa. Và tôi nghe tiếng Chúa nói trong lòng: Chúa chỉ muốn như vậy, để có thể cứu chúng con.
Chính vì thế, mà hôm nay, khi gặp anh chị em trong những ngày đầu năm, tôi chỉ muốn rằng, anh chị em hãy vững lòng tin ở lòng thương xót Chúa. Cho dù anh chị em nguội lạnh, cho dù anh chị em tội lỗi, cho dù anh chị em mắc trắc trở, luôn luôn hãy tin vào lòng thương xót Chúa.
Hồi nãy, cha sở có nói: Các em rất thuộc giáo lý. Khi nghe lời ấy, tôi rất mừng. Nhưng lập tức, tôi xin với Chúa rằng: Có một điều con xin với Chúa cho các em Thêm Sức hôm nay là: Mặc dầu giáo lý, nếu không thuộc, hay thuộc nhưng rồi sẽ quên đi, thì ít ra có một điều đừng để các em quên bao giờ, đó là: Tin vào lòng thương xót Chúa, tin vào Đức Kitô yêu thương các em vô cùng. Chỉ ngần ấy thôi cũng đủ để cứu chúng ta, khi chúng ta quên hết mọi sự, khi tất cả mọi sự đều sẽ qua đi như mây khói trong đời tạm này. Hãy tin vào Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta, Đấng đã chết cho chúng ta.
Trong thánh lễ này, tôi cầu xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta đổi mới được tâm hồn, bằng niềm tin sâu sắc, vững bền ở lòng thương xót Chúa, Đấng cứu độ chúng ta. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Hợp Châu (Kinh 5b), ngày 04-01-1994
Bài Phúc Âm hôm nay vừa kể lại một cuộc trao đổi vắn tắt giữa hai môn đệ Chúa:
Philipphê rủ Nathanael đến Nagiarét. Nghe vậy, Nathanael nói: “ở Nagiarét nào có gì hay đâu?”. Philipphê trả lời: “Hay, hay không hay, cứ đến mà xem!”. Cuộc trao đổi vắn tắt trên đây trong bài Phúc Âm, gợi lại cho tôi nhớ một cuộc trao đổi khác xảy ra mới rồi.
Người ta rủ nhau đến xứ Hợp Châu để dự khánh thành nhà thờ mới. Một người đã nói: ở Hợp Châu, đâu có gì hay đâu? Nhưng người kia đáp lại: Hay, hay không hay, cứ đến mà xem!.
Riêng tôi đã đến đây. Tôi đang xem và cảm tưởng của tôi là vui mừng, là hài lòng. Bởi vì, tôi thấy ở đây, trong nhà thờ mới đã đạt được hai điều kiện căn bản của một nhà thờ, theo quan niệm của Hội Thánh hôm nay.
Điều kiện căn bản thứ nhất của một nhà thờ, là nhà thờ ấy phải được xây cất thế nào, sắp xếp thế nào, để đáng được gọi là nhà Chúa.
Cụ thể có nghĩa là nhà thờ ấy phải có Đức Kitô làm chủ. Sẽ được như vậy, nếu nhà thờ xây cất có những điều kiện giúp cho những người vào nhà thờ cảm thấy nhà thờ ấy là có Đức Kitô đang hiện diện, chính Đức Kitô quy tụ giáo đoàn, chính Đức Kitô chủ toạ giáo đoàn, chính Đức Kitô giảng huấn cho giáo đoàn, chính Đức Kitô nuôi dưỡng giáo đoàn.
Một nhà thờ như vậy phải toả ra một chiều kích thiêng liêng, một bầu khí siêu nhiên, thúc bách người ta muốn tìm gặp Chúa, muốn lắng nghe lời Chúa, muốn tâm sự với Chúa.
Tôi thấy điều kiện căn bản vừa kể trên đã được thực hiện phần nào trong nhà thờ này.
Khi bước vào nhà thờ, tôi bắt gặp ngay tượng Chúa Kitô chịu nạn và sống lại. Tôi hiểu ngay Người đang dạy chúng tôi ý nghĩa cuộc đời. Cuộc đời tôi là phải đi qua thánh giá để được sống lại.
Rồi nhìn lên Nhà Tạm, tôi thấy Đức Kitô trở nên lương thực cho tôi. Nhìn lên bàn thờ, tôi thấy Sách Thánh. Tôi biết Đức Kitô nuôi dưỡng giáo đoàn bằng lời của Ngài, bằng mình của Ngài. Chính Ngài đang giảng huấn cho giáo đoàn Giới Luật Yêu Thương: “Hãy yêu thương nhau như chính Cha đã yêu thương chúng con, đến nỗi đã vác thánh giá mình chịu chết cho chúng con”.
Điều kiện tập trung vào Đức Kitô trên đây đã cho thấy tương đối đạt được trong thánh đường này. Và nhờ vậy, thánh đường này đã tỏ cho thấy đây là nhà Chúa. Đó là điều kiện căn bản thứ nhất.
Điều kiện căn bản thứ hai của một nhà thờ, theo quan niệm của Hội Thánh hôm nay, đó là: Nhà thờ phải được gọi là nhà Hội Thánh.
Cụ thể, nhà thờ nói đây phải có những nét của Hội Thánh, là dấu chỉ và là dụng cụ của sự hợp nhất. Sẽ được như vậy, nếu những người đến nhà thờ, đến khuôn viên nhà thờ cảm thấy mình được kính trọng, thấy mình được đón tiếp, thấy mình được yêu thương, thấy mình được chia sẻ. Một nhà thờ như vậy sẽ toả ra một chiều kích hiệp thông, một bầu khí hiệp thông. Nó thúc đẩy người ta phục vụ lẫn nhau, yêu thương nhau, tha thứ cho nhau, giúp đỡ nhau thăng tiến nhau.
Tôi thấy điều kiện ấy đã đạt được ở đây. Tôi nhìn thấy chiều kích hiệp thông, bầu khí hiệp thông trong nhà thờ này, trong khu nhà thờ này. Bước vào đây, mỗi người thấy mình được kính trọng, có chỗ dành cho mình, một chỗ lịch sự khang trang, ở đâu cũng ngang nhau, cũng được chia sẻ Lời Chúa, cũng được mời gọi hát lên cùng bài thánh ca.
Bước ra ngoài khuôn viên, tôi thấy mặt bằng rộng, với cảnh sinh thái thiên nhiên tươi mát, với những ghế, bàn, tất cả đều gợi lên rằng: Người đến đây được kính trọng, được đón tiếp, được yêu thương chia sẻ.
Hai điều kiện trên đây, giúp cho nhà thờ anh chị em đáng được gọi là nhà Chúa, nhà Hội Thánh. Và cái kết quả mà tôi muốn nhìn vào một cách đặc biệt hôm nay bây giờ, đó chính là hai chiều kích, là hai kết quả tốt đẹp đối với Chúa, đối với Hội Thánh, đáng chúng ta vui mừng, đáng chúng ta cảm ơn Chúa, đáng chúng ta cảm ơn nhau.
Ngày lễ tạ ơn hôm nay, rồi sẽ qua đi thôi, chúng ta cần phải nhìn về phía trước. Phía trước là một tương lai quan trọng. Tương lai ấy phải dành cho việc xây dựng con người. Xây dựng con người sẽ còn khó hơn xây dựng nhà thờ. Xây dựng con người cũng cần phải có một chiều kích thiêng liêng, cũng cần phải có chiều kích hiệp thông. Nếu chúng ta thiếu chiều kích thiêng liêng, nếu chúng ta thiếu chiều kích hiệp thông, thì khi chúng ta giao tiếp với con người, chúng ta sẽ trở nên rất tầm thường, không giới thiệu được Đức Kitô Thiên Chúa của chúng ta.
Hôm qua, trên đường đến đây, tôi ghé thăm họ đạo Láng Sen. Bên cạnh một nhà thờ bé nhỏ nghèo nàn, tôi thấy có một phòng đọc sách. Tôi thấy tại đó, thường xuyên có 6 tờ báo tạp chí hàng tuần, có 500 quyển sách khác nhau. Và mỗi ngày, thanh niên, thiếu niên lai vãng đến đó đọc sách, đông nhất là vào buổi tối, từ 6 giờ đến 9 giờ. Người có đạo cũng như người không có đạo thường hay đến đây để đọc sách báo.
Sự kiện này giúp cho tôi thấy rằng, cái chiều kích thiêng liêng của tôi, của anh chị em, cũng như là cái chiều kích hiệp thông của chúng ta, sẽ không thể xây dựng được, đơn thuần chỉ bằng sinh hoạt bí tích, sinh hoạt giáo lý, sinh hoạt Lời Chúa, mà còn cần phải được xây dựng bằng những sinh hoạt văn hoá. Bởi vì, nhờ những sinh hoạt văn hoá đó, ta mới hiểu được Thiên Chúa đang là Đấng tác tạo trong lịch sử hôm nay, ta mới hiểu được Thiên Chúa hôm nay vẫn đang tiếp tục công việc cứu độ của Người, bằng khoa học, bằng nghệ thuật, bằng chính trị, bằng kinh tế.
Qua những sinh hoạt văn hoá đó, tôi mới có thể nhập cuộc vào lịch sử hôm nay, tôi mới có khả năng đồng hành với dân tộc Việt Nam, tôi mới có thể đối thoại được với tất cả những ai tôi gặp trong cuộc sống.
Như vậy ngoài những sinh hoạt thường xuyên mà chúng ta có trong khuôn viên nhà thờ, tôi nhắc lại, xây dựng cái chiều kích thiêng liêng và thông hiệp hiện nay, đòi chúng ta phải có những sinh hoạt về văn hoá.
Sáng nay trước thánh lễ này, tôi đi thăm giáo điểm Tân Lập gần đây. Đây là một giáo điểm rất nghèo, phần lớn là tân tòng. Họ đạo được mở ra về phía người lương. Họ đạo mà tôi thăm sáng nay giúp tôi nhớ lại lời của một Đức Cha người Pháp nói trong cuốn sách mới xuất bản về cái chiều kích Hội Thánh hôm nay. Ngài nói rằng: Cái chiều kích hiệp thông, cái chiều kích thiêng liêng của con người Hội Thánh hôm nay sẽ không thể nào hoàn hảo được, nếu thiếu mở ra về phía những người không Công Giáo. Bởi vì bản chất Hội Thánh là đi về hướng những người chưa có đạo. Bản chất Hội Thánh là truyền giáo.
Chính vì vậy tôi cũng nghĩ rằng: Việc xây dựng bản thân tôi, việc xây dựng anh chị em sau này, cần phải có một cái nhìn rộng hơn và nhiều khi phức tạp hơn. Tôi nghĩ rằng trong tương lai đến năm 2000, vai trò của những nhà thờ sẽ đứng thứ yếu, còn vai trò quan trọng hơn, ảnh hưởng nhiều hơn, chính là những thánh đường thiêng liêng, những nhà thờ lưu động, đó là bản thân mỗi người chúng ta. Đi đâu, gặp ai, chúng ta sẽ là nhà thờ mang chiều kích thiêng liêng, mang chiều kích hiệp thông. Nhờ đó, địa phận ta, giáo phận ta, xứ đạo ta, con người của ta, sẽ là một lễ Hiển Linh mới. Nhờ đó, Chúa Kitô sẽ được tỏ mình ra, tỏ mình ra nhờ cái chiều kích thiêng liêng và hiệp thông của chính chúng ta. Người không có đạo, người không tín ngưỡng, khi nhìn cái chiều kích siêu nhiên và hiệp thông của chúng ta, họ sẽ nhận ra Đức Kitô, mặc dầu họ không đến nhà thờ.
Anh chị em thân mến,
Trong thánh lễ này, một thánh lễ trọng đầu năm, chúng ta gặp nhau trước Chúa để tạ ơn. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp cho chúng ta trong tương lai, biết xây dựng những thánh đường thiêng liêng, có chiều kích thiêng liêng, có chiều kích hiệp thông, với những giá trị mà Chúa gởi cho chúng ta trong thánh lễ này, để trong tương lai, thế hệ chúng ta sẽ giúp cho con em chúng ta còn nhỏ, biết sống đạo thế nào trong thế kỷ XXI sắp tới, một thế kỷ sẽ có nhiều thử thách, một thế kỷ sẽ có nhiều khó khăn, nếu chúng ta biết sống như vậy hôm nay, dẫn đường cho con cháu mai này, thì tôi nghĩ, Chúa sẽ thương chúng ta. Chúa sẽ thương chúng ta hơn, bởi vì chúng ta là những người giới thiệu Đức Kitô cho con cháu, cho những người chung quanh, không phải chỉ bằng nhà thờ bất động, nhưng bằng nhà thờ thiêng liêng của chúng ta. Amen.
Lễ Khánh Thành nhà thờ Hợp Châu (Kinh 5b), ngày 5-1-1994
Năm rồi, ngày mồng một tết, tôi mở sách kinh ra, mắt tôi bắt gặp ngay câu “Xin Chúa cho con một trái tim mới”. Tôi có cảm tưởng câu trên đúng là một món quà tết Chúa ban cho tôi.
Tôi nghĩ rằng khi Chúa gợi ý cho tôi xin Chúa sự gì, thì tôi được phép tin là Chúa muốn ban sự ấy cho tôi. Vì thế, với niềm tin tưởng, tôi đã xin cho tôi và cho những người thuộc về tôi sang năm mới được trái tim mới.
Hôm nay, sau 12 tháng, nhìn lại cuộc hành trình trái tim trên quãng đường đời, tôi thấy nơi nhiều người, đúng là có trái tim mới.
Tất nhiên, những trái tim mới nói đây vẫn là những trái tim cũ của họ, nhưng nay có những thao thức mới, những hy vọng mới, những vui mừng mới, những giá trị mới. Bởi vì, những trái tim ấy đã biết đón nhận cuộc sống một cách mới mẻ.
Cuộc sống mà họ đón nhận cũng vẫn là cuộc sống đời thường của họ.
Đời thường như một dòng sông. Có lúc nước lên, có lúc nước xuống. Nước tốt nước xấu pha trộn vào nhau chảy không ngừng. Ai khéo khai thác dòng sông của mình, đã thấy dòng sông ấy chuyên chở nhiều sự sống mới.
Đời thường như một cánh đồng. Có những cây lúa và có nhiều loại cỏ. Từ cánh đồng ấy, nhiều người đã thu hoạch được những mùa màng tốt, bởi vì họ đã đón nhận cánh đồng với nhiều chăm sóc.
Nơi nhiều người, nếu so sánh giá trị của họ hôm nay với giá trị của họ cách đây 12 tháng, tôi thấy có một sự khác biệt đáng ngỡ ngàng. Trình độ nhân bản, đạo đức, trí thức, văn hoá của họ đều tăng. Hôm nay họ là người hơn trước, họ có khả năng phục vụ hơn trước, trái tim họ tươi đẹp hơn trước, trí khôn họ toả sáng hơn trước. Bởi vì họ đã biết lợi dụng mọi điều kiện của đời thường, để mà thăng tiến. Mỗi ngày có biết bao chân lý mới, biết bao vẻ đẹp thiêng liêng mới.
Đang khi người dửng dưng hay tự mãn không biết thu lượm, thì họ khiêm tốn ân cần đón nhận với trái tim cởi mở. Họ đón nhận như hái những bông hoa. Một cách tế nhị, yêu thương và trân trọng.
Với những chân lý mới, với những vẻ đẹp mới, họ có những sáng kiến cho bản thân họ, cho những người thân, và cho đồng bào.
Thực ra, những điều họ nói họ làm đều đã qua đi. Nhưng xét cho cùng, sau khi mọi sự đã qua đi rồi, vẫn còn một cái gì sâu lắng tồn tại bền vững. Những cái nhìn đều đã qua đi, những nụ cười đều đã qua đi, những lời nói đều đã qua đi, nhưng tình yêu trong những cái qua đi ấy sẽ không qua đi bao giờ. Tôi muốn nói tới một thứ tình yêu cao đẹp vị tha, mà Đức Kitô đã chỉ rõ: “Thầy cho các con một giới răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Gioan, 15,12).
Như thế là có một đời thường nổi và một đời thường chìm. Đời thường chìm là những sinh hoạt âm thầm trong trái tim. Những sinh hoạt của tình Chúa tình người làm nên một kho tàng có chiều kích thiêng liêng và chiều kích hiệp thông. Ngày nào cũng có những giá trị mới được đưa vào kho tàng ấy. Bởi vì trái tim mến Chúa yêu người không ngừng cầu nguyện và hy sinh.
Những trái tim ấy gợi ý cho tôi nhớ tới trái tim Đức Mẹ Maria. Một trái tim luôn đón nhận thánh ý Chúa Cha, một trái tim biết đón nhận đời mình, một trái tim biết đón nhận những Tin Mừng và những lời tiên tri loan báo tương lai đau đớn, một trái tim biết đón nhận nhân loại yếu đuối, một trái tim biết đón nhận Chúa Thánh Linh hiện xuống và một Hội Thánh bé nhỏ khiêm nhường, một trái tim biết đón nhận nhiệm vụ canh thức cho lịch sử dân Chúa. Trong trái tim Đức Mẹ có một tình yêu luôn được thanh luyện, luôn được hiến tế, để sản sinh ra những niềm tin mới và những niềm hy vọng mới.
Nhìn về phía trước, tôi tin là sẽ có nhiều trái tim mới theo gương trái tim Đức Mẹ: Trái tim bốc lửa và có vòng gai quấn xung quanh. Đó là một trái tim yêu thương biết chấp nhận hy sinh.
Không biết tôi có nên cầu chúc cho ai sang năm mới được một trái tim mới kiểu đó không. Nhưng tôi cầu nguyện cho tôi và cho đồng bào thân yêu của tôi biết đón nhận đời thường của mình với một trái tim mới do sức sống mới của giới răn mới, mà Đức Kitô đã ban tặng. Đó là giới luật yêu thương. (Gioan 15,17).
Đối với lịch sử dân tộc, 150 năm là thời gian ngắn. Nhưng đối với lịch sử Hội Thánh Công Giáo tại Việt Nam, 150 năm là một thời gian rất đáng kể. Vì thế Hội Thánh tại Việt Nam coi năm 1994 này là một kỷ niệm lớn, khi nhìn năm nay là chẵn một thế kỷ rưỡi thành lập địa phận Tây Đàng Trong.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã mở Năm Thánh cho kỷ niệm này. Nhờ đó các cộng đoàn có liên hệ đang mừng kỷ niệm lịch sử này một cách long trọng với nhiều ý nghĩa tốt đẹp.
Riêng tôi, khi mừng kỷ niệm này, tôi đã tập trung vào ba việc sau đây. Xin chân thành chia sẻ.
1. Biết ơn mọi tấm lòng đã góp phần trồng Hội Thánh vào địa phương này.
Xưa địa phương này vốn có chủ, có dân, có tín ngưỡng và có văn hoá. Các vị thừa sai đã đến đây, sống giữa dân, để phục vụ họ, rồi sau đó chia sẻ Tin Mừng cho họ. Những ai tình nguyện đón nhận Tin Mừng dần dần qui tụ lại thành nhóm, để dễ sinh hoạt tôn giáo. Với thời gian, nhiều nhóm như thế làm nên cộng đoàn, có tên riêng, có tổ chức riêng, có cơ sở riêng. Và như vậy, Hội Thánh ăn rễ vào địa phương, gia nhập vào địa phương, trở nên thành phần của địa phương. Tôi gọi tiến trình đó là trồng Hội Thánh vào một địa phương.
Trồng Hội Thánh Công Giáo vào giữa một địa phương khác đạo là việc không dễ chút nào. Thế mà, mặc dầu rất khó, việc trồng Hội Thánh Công Giáo vào địa phương này đã thành công tốt đẹp.
Tất nhiên đó là ơn Chúa và ơn Toà Thánh. Mọi người đã rõ. Tôi miễn nói lại. ở đây tôi chỉ nhắc tới những yếu tố con người.
Trước hết phải đề cao công ơn các vị thừa sai. Để có một hình ảnh về các Ngài, tôi thường đọc đi đọc lại huấn thị Bộ Truyền Giáo gởi cho các Đức Giám Mục đại diện Tông Toà tại Việt Nam năm 1659. Trong đó có đoạn viết: “Điều đòi hỏi các ngài nhất là các ngài phải có một đức bác ái cao và sự khôn ngoan. Các ngài phải là người phong hoá đàng hoàng, lịch thiệp, hiền từ, kiên nhẫn, khiêm nhường, lo làm gương sáng các nhân đức về đức tin Công Giáo, mà các ngài tuyên xưng. Các ngài phải là những người được huấn luyện theo luật đức ái Phúc Âm, biết thích nghi với những phong tục và tính tình kẻ khác...”. (L'Esprit missionnaire de la S.C. de Propaganda Fide d'après les instructions aux vicaires apostoliques des Royaumes du TonKin et du Cochinchine).
Nếu chọn tiêu biểu cho các vị thừa sai đã hoạt động trong 150 năm qua tại địa phương này, tôi phải nghĩ đến Đức Cha Cassaigne. Một vị Giám Mục đã hiến cuối đời mình cho các người cùi. Ngài sống với những người cùi, và chết giữa anh chị em cùi. Các thừa sai đã trồng Hội Thánh vào địa phương một cách như thế đó.
Cùng với các Ngài là dân Chúa người Việt thuộc mọi tầng lớp. Họ sống đức tin một cách mãnh liệt, và phiên dịch đức tin ra đức ái chan hoà. Nhờ các nhân đức xã hội họ gây được thiện cảm với đồng bào khác đạo. Những dây liên hệ đạo đời tốt đẹp chính là cách họ đã dùng để trồng Hội Thánh vào địa phương này.
Sẽ rất thiếu sót, nếu ở đây tôi quên sự giúp đỡ của đồng bào khác đạo. Theo kiểu nói của Đức Gioan Phaolô II, thì trước khi các vị thừa sai đến vùng này, Chúa Thánh Thần đã có mặt tại đây từ rất lâu rồi. Nhờ vậy họ có những giá trị đạo đức tự nhiên, nhiều khi ở mức độ rất cao. Họ bao dung hiền hoà không loại trừ đạo Công Giáo. Hơn nữa, nhiều khi chính họ đã tích cực giúp đỡ để thành lập các giáo đoàn đạo Chúa, mặc dầu họ không theo đạo Chúa. Mục vụ hiện nay tại địa phương này có vô số chứng từ sống động về sự thực ấy.
Vì thế, tâm tình biết ơn cần được cởi mở, để đúng đạo công bình.
2. Xét mình về sự đón nhận Đức Kitô và làm chứng cho Đức Kitô.
Là thành phần của Hội Thánh địa phương này, tôi có bổn phận bảo vệ và phát triển Hội Thánh này của tôi. Bằng nhiều cách. Cách tốt nhất thiết tưởng là biết đón nhận Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng. Tin Mừng có thể chia ra từng mảnh. Nhưng nền tảng phải là Đức Kitô. Đức Kitô chịu nạn và đã phục sinh chính là Tin Mừng căn bản của Hội Thánh tôi.
Sống Tin Mừng trước hết là biết đón nhận Đức Kitô, Thần Linh của Ngài và kế hoạch cứu độ Ngài dành cho tôi.
Đức Kitô đến với tôi mỗi ngày. Qua nhiều ngả khác nhau, như Kinh Thánh, thánh lễ, suy gẫm, cầu nguyện, biến cố, con người, các nguồn thông tin sách báo, các công việc bổn phận.
Ngài đến để nuôi dưỡng tôi, uốn nắn tôi, cứu độ tôi. Nói tắt là để Kitô-hoá bản thân tôi. Bằng muôn vàn cách. Nhưng cách thường xuyên nhất là cách sống thân mật giữa Ngài và tôi. Thân mật khăng khít như thân cây và cành cây.
Nhờ Ngài mở mắt linh hồn, tôi mới hiểu được ý Chúa trong Kinh Thánh. Nhờ Ngài tiếp sức, các việc bé nhỏ hằng ngày của tôi mới trở thành được của lễ đẹp lòng Chúa. Nhờ Ngài soi sáng, tôi mới khám phá được Tin Mừng Phúc Âm trong thời sự của mỗi ngày.
Đôi chút kinh nghiệm trên đây cũng đủ để cảnh giác tôi về một Kitô giáo biến chất, nghĩa là không có Đức Kitô, hoặc có Đức Kitô trên bàn thờ, nhưng không ở trong tâm hồn kẻ tin.
Trong tông huấn Pastores dabo vobis (25-3-1992), Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhắc tới nhiều loại chủ nghĩa đang gây ảnh hưởng xấu trong người Kitô hữu. Chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vô thần thực tế, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tục hoá, chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa tính dục, chủ nghĩa tương đối. Đó là chưa kể đến chủ nghĩa Biệt phái còn khá mạnh trong Hội Thánh.
Tôi thấy các chủ nghĩa này đang có mặt tại Việt Nam, và đang được đón nhận ở nhiều người, ở nhiều nơi. Kết quả thấy được là nhiều người nhiều nơi có đạo nay không còn thao thức đón nhận Đức Kitô và Thần Linh Ngài, nhưng chỉ còn nhớ tới Ngài mà thôi.
Đón nhận được Tin Mừng, tôi có bổn phận phải làm chứng cho Tin Mừng. Thời nay người ta tin người chứng hơn người rao giảng.
Người ta sẽ không tin lời tôi rao giảng về Chúa, nếu họ thấy tôi đọc kinh mà không cầu nguyện, làm lễ mà không gặp gỡ Chúa. Người ta sẽ không tin lời tôi rao giảng về Hội Thánh của tôi là dấu chỉ và là dụng cụ của sự đoàn kết nhân loại, nếu tôi chỉ biết lo cho quyền lợi riêng tư, mà không quan tâm đến hoàn cảnh cuộc sống đồng bào xung quanh.
Nếu tôi cuồng tín rồi coi đó là nhân đức can đảm, nếu tôi ù lỳ rồi coi đó là nhân đức phó thác, nếu tôi hẹp hòi rồi coi đó là nhân đức vâng lời, thì có lúc người ta, nhất là giới trẻ và trí thức, sẽ thấy rõ sự thực, để rồi sẽ không còn tin vào các giá trị tinh thần mà tôi rao giảng.
Xét mình sơ sơ như vậy thôi, tôi cũng đã thấy tôi có nhiều lỗi lầm trong việc đón nhận Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng. Nhận thức đó sẽ giúp tôi ăn năn sám hối. Năm tạ ơn của tôi cũng sẽ là năm tạ tội của tôi.
3. Tân-Phúc-Âm-hoá tương lai bằng việc cầu xin cho được một đức tin của những người xưa trong Kinh Thánh đã được ơn trở về.
Tôi đang nghĩ tới đức tin của ông Giakêu, của bà Mađalêna, của người thu thuế cầu nguyện cuối nhà thờ, của Phêrô, của kẻ trộm lành, của Phaolô.
Những người trên đây đã tin Chúa. Nơi họ, tin Chúa không phải chỉ là tin có Chúa, mà là tin vào Chúa. Đức tin của họ là một cuộc xuất hành. Họ ra khỏi cái tôi hẹp hòi, để phó thác mình cho Chúa quyền năng, giàu lòng thương xót.
Đức tin của họ cho họ thấy rõ Chúa đã yêu thương họ, khi họ còn trong tội lỗi. Chúa đã chủ động đi tìm gặp họ, khi họ vẫn còn xa Chúa.
Đức tin ấy không phải là một công trình do họ xây dựng nên bằng nghiên cứu học hỏi, nhưng là một ân huệ Chúa ban. Họ đón nhận ơn đó với lòng khiêm tốn biết ơn.
Đức tin ấy không phải là một gánh nặng luật lệ áp đặt trên lương tâm họ, nhưng là một giao ước tình yêu, tự do, đơn sơ giữa họ và Chúa.
Đức tin của kẻ trở về là một cuộc gặp gỡ sống động với Chúa. Nó là một bài ca cảm tạ lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa nhân lành.
Đức tin của kẻ trở về chẳng có gì để mà tự phụ. Nếu có cái gì nên khoe ra, thì cái đó là những yếu đuối của mình, nhưng đã được Chúa đoái thương cứu độ.
Đức tin của họ dễ thông cảm bao dung với những kẻ tội lỗi, những người không tin. Bởi vì họ đã có kinh nghiệm. Nguyên nhân cuộc sống tội lỗi và không tin là rất phức tạp. Đôi khi cách sống đạo hời hợt và hẹp hòi của người Công Giáo cũng đã gây ảnh hưởng tiêu cực trên họ.
Một đức tin khiêm tốn, bác ái, cởi mở như thế sẽ rất có lợi cho Hội Thánh địa phương này trong thời điểm mới.
Nói đến việc tân-Phúc-Âm-hoá, nhiều nơi đang thi nhau mở các lớp bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện trí khôn, mở rộng tầm nhìn văn học. Những hoạt động như thế là rất cần. Nhưng tôi vẫn coi việc tu đức và huấn luyện trái tim là cần hơn. Mấy số báo Pháp vừa qua (Témoignage Chrétien, 4 Décembre, 1993; Le Point, 4-10 Décembre, 1993) cho thấy nhiều người Pháp hiện nay muốn bỏ Công Giáo để sang các đạo khác, lý do, theo họ nói là, vì họ dễ tìm được trong Hội Thánh địa phương của họ những thầy dạy giỏi về giáo lý, về thần học, về Kinh Thánh, về giáo luật, nhưng ít tìm được những thầy dạy giỏi về tu đức, về đời sống nội tâm, về đức tin sống động, về việc đổi mới trái tim. Tôi lo hiện tượng đó cũng có thể sẽ xảy ra cho Hội Thánh của tôi tại địa phương này.
***
Với ba việc trên đây, mà tôi vừa chia sẻ, tôi đang kéo dài việc mừng kỷ niệm 150 năm thành lập địa phận Tây Đàng Trong. Chứ không chấm dứt bằng việc lãnh ơn toàn xá của Năm Thánh. Mừng kỷ niệm là nhìn lại quá khứ, là nhìn vào hiện tại, là nhìn tới tương lai.
Long Xuyên, ngày 18 tháng 01 năm 1994. + G.B. BÙI TUẦN Giám mục phó Giáo Phận Long Xuyên
Bài giảng Thánh Lễ Tạ Ơn của Đức Cha Gioan B. BÙI-TUẦN (thứ năm, sau Chúa Nhật thứ III thường niên), mừng kỷ niệm 60 năm linh mục Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ Giám Mục Long Xuyên.
Bài đọc I thánh lễ hôm nay (1 Sam 7,18.19,24-79) thuật lại những lời Thánh Vương Đavít đã nói với Chúa về một ngôi nhà Chúa sẽ ban cho Ngài: “Lạy Chúa, con là ai, và gia đình con là gì mà Chúa đã dẫn dắt con đến nơi này... Hơn nữa Chúa còn nói đến nhà tôi tớ Chúa trong tương lai lâu dài... Chính Chúa xây dựng cho con một ngôi nhà... Xin Chúa chúc phúc cho nhà tôi tớ Chúa đến muôn đời”.
Những lời trên đây thực là tha thiết. Tôi đã mượn những lời đó để nói với Chúa về ngôi nhà thiêng liêng của tôi và của anh chị em. Ngôi nhà thiêng liêng đó là Hội Thánh tại địa phương này, cụ thể đó là giáo phận Long Xuyên chúng ta.
Theo cái nhìn của đức tin, kẻ xây dựng ngôi nhà Hội Thánh chính là Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là những cộng tác viên khiêm tốn của Ngài.
Ngôi nhà này được xây dựng theo một sơ đồ rút ra từ lịch sử cứu độ. Công Đồng Vatican II đã giới thiệu sơ đồ đó với 4 điểm chính như sau:
- Một là Hội Thánh phải tập trung vào Đức Kitô, phải sống nhờ Ngài, với Ngài, trong Ngài và phải đi theo Ngài.
- Hai là Hội Thánh phải mở ra, đi sang các biên giới truyền giáo.
- Ba là Hội Thánh phải hiệp thông, chia sẻ ơn gọi, quyền lợi, trách nhiệm cho mọi thành phần trong Hội Thánh, để Hội Thánh được gọi là dân Thiên Chúa.
- Bốn là Hội Thánh phải dấn thân đi vào đời, để cùng với mọi người xây dựng các giá trị trần thế.Trong ngôi nhà Hội Thánh tại địa phương này, đang được xây dựng theo sơ đồ trên, tôi thấy có một ngọn đèn rất sáng, mà Phúc Âm thánh lễ hôm nay đã ám chỉ (Mc 4,21-25). Một ngọn đèn toả sáng Đức Kitô.
Ngọn đèn rất sáng đó là Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ, vị chủ chăn của giáo phận Long Xuyên chúng ta.
Ngọn đèn này rất hữu ích cho giáo phận, bởi vì đang khi bao người chạy theo gương phát triển đó đây một cách mù quáng, để mình rơi vào lối phát triển lảng phí, phù phiếm, hưởng thụ và tội ác, thì ngọn đèn này vẫn kiên trì nêu gương đức khó nghèo, phát triển các nhân đức để làm người thánh hơn làm người giàu.
Ngọn đèn này rất hữu ích cho giáo phận, bởi vì đang khi bao người bị phong trào tục hoá lôi cuốn dể đi vào một nếp sống đạo hời hợt, phô trương, hướng ngoại, thì ngọn đèn này vẫn kiên trì nêu gương đời sống cầu nguyện, suy gẫm, hướng về nội tâm.
Ngọn đèn này rất hữu ích cho giáo phận, bởi vì đang khi bao người mãi miết thu quén các thứ hạnh phúc trần gian, mà quên phần rỗi linh hồn, thì ngọn đèn này vẫn kiên trì nhắc nhở chân lý ngàn đời rất đáng sợ: “Nếu người ta được mọi sự thế gian, nhưng sau cùng mất linh hồn mình, thì được ích gì?” (Lc 9,25).
Ngọn đèn này đang đốt sang nhiều ngọn đèn khác. Thắp sáng lên ngôi nhà Hội Thánh địa phương.
Trong ánh sáng này, tôi nhìn thấy rất rõ bàn tay Chúa đang ban phúc lành cho địa phương ta.
Phúc lành Chúa ban cho ta là những dây liên hệ tốt giữa đạo và đời, là mối thiện cảm giữa Hội Thánh Công Giáo và các tôn giáo bạn. Những quan hệ tốt này chính là một cuộc đối thoại tình thương giữa đồng bào với nhau, đó cũng là một cách hội nhập vào văn hoá địa phương này rất trọng lòng nhân ái.
Phúc lành Chúa ban cho ta là những phát triển lạ lùng về mặt tôn giáo. Đặc biệt là phát triển về số linh mục và địa điểm truyền giáo. Từ tháng 5-1975 tới giờ, giáo phận ta phong chức thêm được 87 linh mục, và mở thêm được hơn 10 điểm truyền giáo, với nhà thờ mới, với linh mục ở thường xuyên.
Phúc lành Chúa ban cho ta là sự thực hiện được nhiều việc từ thiện, nhiều công việc xã hội, có tính cách thăng tiến con người và nâng cao cuộc sống đồng bào, không phân biệt lương giáo. Chúng ta làm với tinh thần vị tha, mà thánh Phaolô đã nói trong bài đọc II thánh lễ hôm nay: “Tôi cố làm hài lòng mọi người, trong mọi sự, không tìm điều gì lợi ích cho tôi, nhưng tìm điều lợi ích cho nhiều người, để họ được cứu độ” (I Cor 10,30-31).
Phúc lành Chúa ban cho ta là bầu khí đoàn kết, yêu thương, làm chứng “Hội Thánh là dấu chỉ và dụng cụ của sự hợp nhất với Chúa và đoàn kết với nhân loại”, như Công Đồng Vatican đã nói về Hội Thánh.
Phúc lành Chúa ban cho ta là sự trường thọ của Đức Cha Micae, người Cha đạo đức và khôn ngoan của chúng ta.
Phúc lành Chúa ban cho ta là sự chúng ta nhận biết mình yếu đuối, tội lỗi, để không ngừng ăn năn sám hối, trở về với Chúa.
Với cái nhìn sơ qua trên đây, chúng ta nhận biết ơn Chúa. Chúng ta là con cái sẽ cùng với Đức Cha Micae, vị chủ chăn của giáo phận, dâng lời cảm tạ Chúa nhân lành. Chúng ta rất biết ơn Đức Cha Micae. Tâm tình biết ơn của chúng ta đối với vị cha chung sẽ pha trộn vào tâm tình biết ơn của chúng ta đối với Chúa. Được như thế, ngôi nhà Hội Thánh tại địa phương này sẽ “Được chúc phúc đến muôn đời” như lòng chúng ta hằng cầu nguyện. Amen.
+ Gioan B. BÙI-TUẦN ngày 27-01-1994 (thứ năm, sau Chúa Nhật thứ III thường niên)
Tết Giáp Tuất này, chúng ta đang chứng kiến nhiều vẻ đẹp mới. Trong số những vẻ đẹp mới ấy, có một vẻ đẹp đang lôi kéo chú ý của tôi một cách đặc biệt. Bởi vì nó đang gây nhiều ảnh hưởng tốt đến nền đạo đức con người chúng ta.
Vẻ đẹp mới mà tôi muốn nói ở đây, đó là sự nhạy bén của trái tim nơi nhiều người.
Thực vậy, bao người chúng ta đã bén nhạy nhận ra những ơn Chúa ban cho mình. Trong một vòng quay trái đất, ta đã lãnh nhận vô số ơn lành. Mỗi ơn lành được coi như một nén bạc, Chúa trao cho ta để sinh lời (Mt 25,14-17). Nén bạc mà Phúc Âm ám chỉ, không những là những may mắn, mà còn là những rủi ro. Đối với người nhạy bén, may mắn trở nên dịp để thành công, và rủi ro trở nên dịp để thành nhân.
Hôm nay, ta đặt những kết quả ấy trên bàn thờ lòng ta, như một mâm trái đầu xuân nhiều màu sắc, nhiều hương vị, biểu tượng cho sự xum xuê kết tụ, để dâng lên Chúa nhân lành.
Rồi bao người chúng ta cũng đã nhạy bén nhận ra tiếng Đức Kitô giữa cuộc sống xô bồ. Ngài gọi ta từ lương tâm ta, từ những biến cố vui buồn, từ những người xung quanh, từ Giáo Hội, từ các lời Kinh Thánh. Trong suốt 12 tháng qua, hầu như mỗi ngày, Đức Kitô không ngừng nhắc nhở ta nhớ “Ngài là Đàng, là Sự Thực và là Sự Sống” (Gioan 14,6). Qua những nhắc nhở như thế, ta đã nhận ra “Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót” (Lc 6,36) là Đấng chăn chiên tốt lành luôn chăm sóc các con chiên (Gioan 10,11-16).
Trước tình thương bao la ấy, hôm nay ta đặt tâm tình dâng hiến và hy sinh của ta vào lửa mến trái tim ta, như những bó hương cháy toả ngày xuân, biểu tượng cho sự từ bỏ mình, để gắn bó với Chúa là suối nguồn cứu độ.
Rồi, bao người chúng ta cũng đã bén nhạy nhận ra công ơn của các ân nhân xa gần. Ta sống với người khác và nhờ người khác. Người khác là tổ tiên, cha mẹ gia đình, là bạn bè lối xóm, là đồng bào quê hương. Ân nhân vô danh nhiều không kém ân nhân ta biết. Nếu không có họ phục vụ, đỡ nâng, ta sẽ không có mùa xuân hôm nay. Nếu ta là mùa xuân của họ, thì chính họ cũng đã là mùa xuân của ta.
Họ là những người Chúa gởi đến đời ta để làm chứng rằng họ đã thực hiện lời Chúa dạy: “Thầy cho các con một điều răn mới, là các con hãy thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Gioan 15,12).
Trước công ơn của họ, hôm nay ta gởi về họ những bông hoa thiêng liêng, cạnh những chậu hoa xuân, biểu tượng cho tâm tình biết ơn, mến yêu và trân trọng.
Tết này, người ta đang nói nhiều đến sự nhạy bén. Phải nhạy bén trong kinh tế thị trường. Phải nhạy bén trước cảnh làm ăn cạnh tranh thời hậu-cấm-vận. Phải nhạy bén, để không bị hụt hẫng, thua thiệt. Phải nhạy bén, để kịp đà thăng tiến.
Riêng tôi, nhìn về phạm vi đạo đức, tôi cũng thấy rằng: Sang năm mới, phải nhạy bén để bảo vệ đức tin và nền đạo đức. Phải nhạy bén để nắm bắt cơ hội truyền giáo.
Trong thông điệp “Chân lý sáng ngời” (6-8-1993), Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho biết: Nhiều dân tộc trước đây có một đời sống đức tin phong phú, nay đang bỏ đạo. Không những họ mất đức tin, mà họ cũng đang đi xuống trên con đường luân lý (số 106). Sự kiện trên đây do Đức Thánh Cha thông báo, nên được chúng ta đón nhận như một lời báo động, để chúng ta biết nhạy bén hơn trong các vấn đề đức tin và luân lý.
Đó là mong ước của tôi ngày đầu xuân mới. Đó là điều tôi nguyện cầu những ngày đầu năm. Với tâm tình trên đây, tôi xin thân ái chúc anh chị em một năm mới tốt đẹp.
Tuần Thánh là thời gian đặc biệt mời gọi các tín hữu đi vào sa mạc tâm hồn. Tôi đi vào đó, với ước mong đón nhận ơn trở về. Trong thinh lặng nội tâm, tôi nhìn ngắm Đức Kitô, và đi theo Ngài. Ngài gọi tôi trở về.
Trở về với một Đức Kitô chia sẻ thân phận con người đau khổ
Đức Kitô cho thấy Ngài chia sẻ trọn vẹn thân phận con người yếu đuối. Trong đêm cầu nguyện tại vườn Cây Dầu, khi thấy giờ tử nạn sắp tới, Ngài đã rất lo sợ buồn phiền, đến nỗi đổ mồ hôi máu ra, và đến nỗi đã nài xin Đức Chúa Cha, nếu được, hãy cất chén đắng khỏi Ngài. Bóng tối sợ hãi kinh hoàng tràn ngập Ngài từ bên trong. Ngài cảm thấy yếu đuối là không của riêng ai.
Ngài cũng đã chia sẻ trọn vẹn thân phận con người thất thế. Đang là người được trọng vọng vì những phép lạ lẫy lừng, nay Ngài bị bắt, bị điệu đi, bị xỉ vả nhạo báng, bị hành hạ, bị coi là người nguy hiểm hơn một tên cướp, bị kết án tử hình, bị coi là thua cuộc. Bao đợt sóng nhục nhã dơ bẩn thi nhau vùi dập Ngài. Ngài nếm mùi thất bại.
Ngài cũng đã chia sẻ trọn vẹn thân phận con người cô đơn. Dân chúng ruồng bỏ Ngài. Người thân từ chối Ngài. Đức Chúa Cha cũng làm thinh. Ngài chìm xuống vực thẳm cô đơn hãi hùng. Ngài cảm thấy cô đơn là một sự thiếu vắng nặng nề. Ngài cũng đã chia sẻ trọn vẹn thân phận con người có tội. Bị bỏ đói khát, bị đánh, bị tù, bị bêu xấu, bị loại trừ. Ngài bị bầm dập bởi những vết thương tàn khốc trên thể xác và trong tâm hồn. Ngài cảm nghiệm thấm thía số phận thê thảm dành cho người có tội.
Khi thấy Đức Kitô chia sẻ một cách triệt để thân phận con người đau khổ, tôi đã nhận ra Ngài là hy vọng quý báu của tôi. Bởi vì tôi cũng cùng thân phận với những người yếu đuối, thất bại, cô đơn, tội lỗi. Những lúc cảm thấy mình như vậy, tôi tin Đức Kitô ở bên tôi. Ngài chia sẻ với tôi.
Khi biết địa chỉ của Ngài là những kẻ khổ đau, tôi sẽ đi theo Ngài tới địa chỉ đó, để cùng với Ngài, tôi chia sẻ nỗi khổ đau của người khác. Lúc ấy, chia sẻ là thông cảm, là cùng nếm, cùng chịu, cùng nuốt chung nỗi niềm cay đắng. Chia sẻ như thế là việc của trái tim hơn là của trí khôn. Trái tim dửng dưng, cứng cỏi, ích kỷ, tự mãn, không có khả năng chia sẻ. Để có khả năng chia sẻ, tôi phải trở về với trái tim Đức Kitô. Tôi uống tình yêu tận nguồn mạch, từ đó tôi sẽ có sức dấn thân. Đức Kitô không ngừng kêu gọi.
Trở về với một Đức Kitô đón nhận những việc tốt của con người mang thân phận hèn kém.
Tiêu biểu cho con người mang thân phận hèn kém là những ai trong Tuần Thánh?
Thưa là những người sau đây:
Ông Simon, người vô đạo, kẻ đã vác thập giá đỡ cho Đức Kitô. Bà Veronica, người phụ nữ tầm thường, đã lấy khăn lau mặt cho Chúa đang vác thập giá. Nhóm phụ nữ thành Giêrusalem đón đường khóc thương Chúa đến pháp trường. Bà Madalena, người phụ nữ hối cải, đã theo Chúa đến cùng, và đã được Chúa chọn làm người đầu tiên loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Người ăn trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa, đã công khai bênh Chúa và tin Chúa. Ông Giuse Arimathia và ông Nicôdemô, là hai môn đệ ban đêm đã giúp chôn cất Chúa.
Trong số những người trên đây có kẻ thuộc loại bình thường, có kẻ dưới bình thường, có kẻ bị loại trừ. Ấy thế mà trong những giờ phút thê thảm nhất của Đức Kitô, họ đã làm được những việc tốt, đang khi những người được coi là tốt hơn họ lại chẳng làm được gì.
Khi thấy họ xuất hiện trong hoàn cảnh căng thẳng nhất, để làm những việc tốt cho Đức Kitô, tôi càng nhận rõ Đức Kitô là Đấng Cứu Thế. Vinh quang của Đấng Cứu Thế là móc từ hố sâu lên những nắm bùn dơ bẩn, để làm thành những tác phẩm tuyệt vời, tác phẩm của lòng thương xót. Ai ngờ vị thánh đầu tiên do chính Đức Kitô tuyên phong lại là một ông ăn cướp hối cải.
Đối với Đức Kitô, không ai quá tệ đến nỗi không còn hy vọng làm được việc tốt. Cũng như không ai quá vững, đến nỗi không còn cần đến ơn tha thứ. Nhiều khi việc tốt họ làm chỉ là việc tối thiểu, nhưng lại là việc tối cần, để được cứu rỗi. Họ chỉ xót thương kẻ khác, thế là họ được Chúa xót thương, bởi vì Chúa đã hứa như vậy.
Khi tôi trở về với một Đức Kitô giàu tình yêu thương xót như vậy, tôi đã nhận ra đâu là con đường tôi phải chọn, để về Trời và giúp người khác đón nhận Nước Trời.
Nhưng trở về con đường đó không phải chuyện dễ.
Trở về với một Đức Kitô ban ơn trở về
Từ khi Đức Kitô vào thành Giêrusalem cách trọng thể cho đến giờ phút Ngài tắt hơi thở cuối cùng trên núi Golgota, đã có từng vạn người thấy mặt Ngài, gặp gỡ Ngài, nghe tiếng Ngài, theo dõi chuyện của Ngài. Thế nhưng, không phải tất cả những người ấy đã tin mến Ngài. Số trở lại không nhiều. Ngay trong hai người trộm cướp bị đóng đinh hai bên tả hữu Ngài, cũng chỉ có người bên hữu đã trở lại tin Ngài.
Những sự kiện trên đây cho thấy trở lại là một ơn. Phải có ơn trở lại mới trở lại được. Nếu không được ơn trở lại, thì dù học hỏi đầy đủ về đạo, thông hiểu sâu sắc về Chúa, làm được nhiều việc công chính, người ta vẫn cứ trơ trơ, không trở về.
Ơn trở về do Chúa trao ban, con người đón nhận. Nhưng phải biết đón nhận, nghĩa là phải có một thái độ cộng tác với Đức Kitô.
Phải nhận rằng Đức Kitô có một đường lối đạo đức rất khác với đường lối đạo đức của nhiều người. Đạo đức của Ngài là làm chứng cho Thiên Chúa là Cha giàu tình thương xót bằng cách hướng về con người hơn là hướng về đền thờ. Hướng về con người, nhất là những con người đau khổ, hèn kém thì phải khiêm hạ, thì phải nhường nhịn, phải nghèo. Nhịn thì phải nhục. Nghèo thì phải hèn, phải khổ.
Đang khi đó, đạo đức của nhiều người khác là làm chứng cho Thiên Chúa quyền uy bằng cách hướng về đền thờ hơn là hướng về con người để phục vụ. Bám vào đền thờ thì dễ chịu. Bởi vì dễ có lợi lộc vật chất, dễ có uy quyền, dễ sòng phẳng với các bổn phận nghi lễ, kinh kệ.
Chính vì thế mà trở về cộng tác với một Đức Kitô đích thực của Tuần Thánh là điều không thể thực hiện được, nếu không có ơn Chúa.
Ơn trở về chỉ có thể đón nhận được bởi những tâm hồn ăn năn, sám hối thật tình, khiêm tốn, khao khát và tin tưởng vào sức mạnh Phục Sinh của Đức Kitô.
Đời thường có những chuyện khác thường. Trong một số hoàn cảnh, nhiều người tưởng là chìm luôn vào cõi chết, chết về hy vọng, chết về tương lai. Nhưng rồi họ đã thoát ra. Họ như được sống lại.
Sự phục sinh của họ có những bất ngờ. Tôi hiểu được phần nào những bất ngờ ấy, khi tôi tin rằng có bàn tay Đấng-Phục-Sinh can thiệp vào đời họ. Những người như thế là đông vô kể. Trong đó có tôi.
Kinh nghiệm cho tôi thấy sự phục sinh trong đời thường là một ơn Chúa ban. Con người đón nhận ơn đó bằng thái độ cộng tác. Cộng tác cách nào là đúng?
Cộng tác bằng cách vươn lên và vượt qua.
Sống lại đời thường không phải là trốn tránh được những khó khăn đời thường, nhưng là vươn lên được từ những khó khăn luôn tiếp diễn. Sống lại đời thường cũng không phải là xoá đi được một hiện tại phức tạp, nhưng là vượt qua được những phức tạp không bao giờ sẽ chấm dứt.
Vươn lên và vượt qua bằng ý chí mà thôi không đủ, mà còn bằng hy vọng. Hy vọng ở những tình thương xung quanh mình, và nhất là hy vọng ở một sức mạnh thiêng liêng ở trên mình. Một hy vọng như thế là một cái nhìn cậy trông vào một Đấng vô hình giàu tình yêu thương xót. Đấng ấy là Đức Kitô. Chính Ngài đã rơi vào những tình huống khó khăn, phức tạp, bế tắc. Cái chết của Ngài tưởng là tiếng nói sau cùng. Thế nhưng Ngài đã vượt qua. Ngài đã vươn lên. Ngài đã sống lại.
Sự phục sinh của Ngài không phải chỉ là một mẫu gương, mà còn là một nguồn mạch, ban ơn sống lại.
Tôi nghĩ rằng nhiều người, tuy không biết Ngài, nhưng đã được ơn phục sinh của Ngài. Họ đã và đang sống lại về nhiều mặt trong đời thường của họ.
Cách đây vài ngày, tôi đến thăm một họ đạo vùng sâu mới hồi sinh. Những khách mời dự bữa tối với tôi hôm đó khá đông. Phần lớn là những chàng rể ngoại đạo. Họ có vợ Công Giáo. Còn họ thì không đạo, hoặc đạo khác. Khoảng hai chục chàng. Qua chia sẻ tâm tình, tôi nhận thấy Đức Kitô đang ban ơn phục sinh cho từng người chúng tôi. Trước đây có những bức tường vô hình tưởng không thể nào vượt qua được. Nay chúng tôi đang vượt qua. Chúng tôi bám vào nhau và bám vào Ngài. Chúng tôi đang cùng phục sinh. Sự phục sinh của mỗi người có sự phục sinh của nhiều người khác.
Cộng tác bằng cách chuyển đổi ưu tiên.
Sự phục sinh của mỗi người và của tập thể chúng tôi không có nghĩa là trở lại cuộc sống cũ, nhưng là đi vào một cuộc sống mới. Cuộc sống mới này đòi phải thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ, cách đánh giá, cách lựa chọn.
ở đây tôi muốn nói riêng về sự phục sinh sức sống tôn giáo. Một tín hữu hay một cộng đồng đức tin, sẽ rất lầm, nếu tưởng rằng ơn phục sinh sẽ giúp mình trở về với nếp sống đạo hồi xưa, sẽ giúp mình hồi phục những tập tục tôn giáo hồi xưa, sẽ giúp mình thu hồi lại những quyền lợi tôn giáo hồi xưa.
Ơn phục sinh không phải như thế. Ơn phục sinh cho ta sự sống mới, mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II gọi là tân Phúc-Âm-hoá. Đó là một sự sống mới có thực chất Phúc Âm, đồng thời cũng thích hợp với thời điểm mới.
Kinh nghiệm cho thấy ơn phục sinh đó sẽ phát triển tốt nơi những cá nhân và những cộng đoàn đức tin biết nhạy bén chuyển đổi các ưu tiên.
Chẳng hạn, trước đây ưu tiên là trung thành với Hội Thánh, nay ưu tiên là cùng với Hội Thánh trở về với Đức Kitô và trung thành với Phúc Âm của Ngài.
Trước đây làm chứng cho Chúa là ưu tiên lo việc Đền thờ và các lễ lạy nghi thức, nay làm chứng cho Chúa là ưu tiên đào tạo con người, quan tâm thực hiện giới luật mới của Đức Kitô là yêu thương chia sẻ phục vụ con người.
Trước đây, khi giới thiệu dung mạo Đức Kitô và Hội Thánh của Ngài thì ưu tiên nêu lên những nét vinh quang quyền uy, nay ưu tiên nêu lên những nét khiêm tốn, từ bỏ mình để yêu thương sống mầu nhiệm nhập thể.
Trước đây, khi đưa ra hình ảnh Hội Thánh trong thế gian, thì ưu tiên gợi ý đến thái độ đối kháng, nay ưu tiên gợi ý đến thái độ đối thoại.
Trước đây, khi nói đến đối thoại, thì ưu tiên nhấn mạnh đến các lý lẽ, nay ưu tiên nhấn mạnh đến cách sống có thực chất đạo đức và có thực khả năng phục vụ.
Nhờ biết điều chỉnh lại các ưu tiên, đóng về hướng này, mở ra hướng kia, mà nhiều người nhiều nơi đang phát triển ơn phục sinh, với sự sống mới đầy hy vọng.
Tôi thấy nhiều người, nhiều nơi có những khả năng tốt hơn họ tưởng. Chỉ tại họ xài phí vào những hướng đã lỗi thời. Hoặc tại họ không biết khai thác. Hơn nữa chính mình họ lại tự hạn chế mình, tự mình họ trói buộc mình, tự mình họ khoá chặt những khả năng của mình. Thành ra họ không cộng tác được vào ơn phục sinh. Cứ mãi cằn cõi.
Trong các văn kiện mới nhất gởi các linh mục, các gia đình và giới trẻ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chỉ dạy đâu là những ưu tiên, mà các môn đệ Chúa cần nắm vững, để khỏi bị chìm vào các trào lưu sự chết, nhưng sẽ đi vào sự sống mới của tân-Phúc-Âm-hoá. Nhưng mấy ai đã quan tâm vâng theo những lời chỉ dạy của Ngài, dù chỉ là thực hiện những bước đầu.
Cộng tác bằng cách bước những bước nhỏ trên con đường vòng.
Trong đời thường rất ít khi xảy ra những trường hợp phục sinh đột ngột, một lần là hoàn tất. Thường là phục sinh từng bước. Nhiều người mỗi ngày bước những bước nhỏ đi vào nội tâm, và bước những bước nhỏ đi ra dấn thân. Trung thành bước như thế, con người sẽ cộng tác đắc lực vào ơn phục sinh.
Phục sinh đời thường không phải là một đích điểm, nhưng là một khởi điểm của một hành trình dài. Phục sinh đời thường là cả một con đường phải đi. Con đường phục sinh thường không thẳng. Nó vòng vo. Nhưng nên nhớ nhiều đường vòng lại là đường chắc chắn nhất, và có lúc cũng là đường vắn nhất.
Đường phục sinh là đường vòng. Bởi vì ơn phục sinh sẽ ban cho tôi qua nhiều trung gian. Qua Hội Thánh, qua người này, người nọ. Qua biến cố này, sự việc kia. Qua thành công này, qua thất bại nọ.
Đòi hỏi ơn phục sinh phải đầy đủ tức khắc là thiếu khiêm tốn và không thực tế. Khiêm tốn kiên trì sống trọn vẹn kho tàng của giây phút hiện tại một cách âm thần, đó là một cách cộng tác với ơn phục sinh. Một cuộc đời có một vài chân lý sống chân thành mạnh mẽ sẽ góp phần vào việc phục sinh xã hội một cách có ý nghĩa hơn là nhiều cuộc đời có cả một hệ thống chân lý được tuyên xưng long trọng ầm ỉ, nhưng không có sự sống
Long Xuyên, ngày 28 tháng 03 năm 1994
+ Gioan B. BÙI-TUẦN Giám mục phó Giáo phận Long Xuyên.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu giảng đạo cho người Do Thái. Chúa Giêsu giảng một cách trực tiếp, một cách rõ ràng, một cách sốt sắng. Ngài giảng dựa theo Cựu Ước. Khi giảng xong, dân Do Thái nói với Đức Kitô thế này: “Bây giờ chúng tôi mới thấy rõ ông là người bị quỉ ám”.
Đây là một kết quả rất ngỡ ngàng, rất đáng kinh sợ, rất đáng suy nghĩ: Sau một giờ giảng đạo, mà người giảng đạo chính là Đức Kitô, người nghe đã kết luận: Ông chính là người bị quỉ ám.
Nếu trước khi giảng đạo, người ta coi Đức Kitô là một người bình thường thì không có vấn đề. Nhưng khi thấy Ngài rồi, khi nghe Ngài rồi, người ta lại nói ông chính là người bị quỉ ám, thì đó mới là có vấn đề.
Mà vấn đề, đó là dân Do Thái quá tự tín, mang nặng thiên kiến. Họ là người cứng lòng. Vấn đề là như vậy. Nhận xét của họ rất sai lầm. Và từ sai lầm này đến sai lầm khác, từ chỗ cho Ngài là người bị quỉ ám, dân Do Thái toan tính đem Ngài đi ném đá. Một sự sai lầm đem đến độc ác.
Trước hoàn cảnh bi đát như vậy, Đức Kitô đã phản ứng thế nào?
Chúng ta vừa nghe: Ngài không oán giận. Ngài không trừng phạt. Ngài không làm phép lạ để ra tay áp lực họ tin Ngài. Ngài khiêm tốn rút lui, đi vào âm thầm. Rồi sau đó, Ngài lại để cho dân Do Thái đến bắt Ngài, kết án Ngài, treo Ngài lên thập giá.
Phản ứng của Ngài như vậy, là để tỏ rõ lập trường của đạo Ngài: Đạo Ngài giảng là đạo tình yêu. Ngài làm chứng cho tình yêu, một tình yêu nhẫn nhục, một tình yêu khiêm tốn, một tình yêu tha thứ, một tình yêu đợi chờ. Ngài trở nên một tình yêu âm thầm như một hạt giống, cứ ở đấy, đợi có ngày sinh ra cây tốt.
Tình thương của Ngài cũng giống như một tấm men, bé nhỏ thôi, nhưng lan dần, để sau này, biến dân tộc, biến nhân loại, trở thành những người khao khát tình thương và chân lý.
Kết quả của đạo Đức Kitô rao giảng là làm chứng nó sâu sắc, nhưng cần phải có kiên trì, đợi chờ, một năm, nhiều năm, nhiều thế hệ.
Những điều tôi nói trên đây soi sáng cho tôi nhìn Đức Kitô tại họ đạo Hòn Chông này:
Tại đây, tôi đã thấy Đức Kitô cũng đã nhiều lần bị xua đuổi, bị hiểu lầm, bị khai trừ. Đức Kitô trong Hội Thánh tại đây, đã có những thời như hồi xưa, bị khốn khó. Nhưng Đức Kitô tại đây cũng như xưa, đã khiêm tốn rút vào âm thầm, đã phản ứng lại bằng thái độ yêu thương, luôn cầu nguyện cho tất cả mọi người chung quanh, luôn tha thứ cho mọi người làm khổ mình, luôn sẵn sàng làm ơn cho những kẻ gần gũi và cần đến mình.
Tình thương Đức Kitô trong Hội Thánh tại địa phương này cũng đã là một hạt giống, cũng đã là một tấm men. Hạt giống ấy đang mọc lên tươi tốt. Tấm men ấy cũng đang lan rộng trong địa phương này. Kết quả như chúng ta thấy hôm nay.
Họ đạo chúng ta đang phát triển. Và phát triển có nghĩa là đổi mới, đổi mới hầu như hoàn toàn, về tinh thần cũng như về vật chất. Nhất là đổi mới trong bầu khí quan hệ đạo đời, lương giáo, đổi mới trong cái nhận định, trong cái não trạng giữ đạo cho thích hợp với hoàn cảnh hiện nay.
Hồi nãy, khi đi viếng tượng Đức Mẹ, tôi có tạ ơn Đức Mẹ vì sự đổi mới này. Và tôi có hỏi Đức Mẹ trong lòng tôi: Chúng con phải làm gì hôm nay và trong tương lai, để cho hạt giống Phúc Âm tình thương cứu độ được phát triển? Tôi nghe Đức Mẹ trả lời: Hãy làm như Mẹ đứng ở đây trong suốt mấy chục năm nay. Mẹ vẫn đứng đây dưới trời mưa trời nắng, ban ngày ban đêm, bốn mùa, chứng kiến mọi sự, chịu đựng mọi sự, chia sẻ mọi sự, đón nhận mọi sự, gắn bó với con người địa phương này. Đấy là tình thương của người mẹ, đấy là tình thương của Hội Thánh Đức Kitô. Nếu chúng con muốn làm chứng cho tình thương cứu độ của Đức Kitô trong thời điểm mới này, hãy bắt chước Mẹ như một tình thương người Mẹ.
Lúc nãy trước lễ, tôi nghe đọc những lời hướng dẫn về Chúa Thánh Linh. Có một câu làm tôi suy nghĩ. Câu đó là: “Xin Chúa Thánh Linh cho chúng con được can đảm làm chứng cho Chúa”. Khi nghe câu đó, tôi tự nghĩ trong lòng rằng: Cần can đảm, nhưng mà cần khôn ngoan hơn.
Lúc này là lúc cần khôn ngoan. Trong thời gian bắt bớ thì cần can đảm để đừng bỏ đạo. Nhưng trong thời gian phải làm chứng cho Đức Kitô, thì phải khôn ngoan, để biết lựa chọn cách nào hợp hơn với tâm lý, với yêu cầu, với lịch sử của địa phương mình. Khôn ngoan mới là ơn mà trong thánh lễ Thêm Sức hôm nay, mà tôi cầu xin cách riêng cho tôi, cho các cha, cho tất cả anh chị em, để trong nhiều cái mời gọi, trong nhiều dự án, trong nhiều trường hợp, ta biết chọn lựa cái nào thích hợp nhất, hữu hiệu nhất, để làm chứng cho tình yêu cứu độ của Đức Kitô.
Trong tâm tình đó, tôi xin Chúa Thánh Linh, vì công nghiệp Đức Mẹ truyền tin, ban cho chúng ta hết thảy được ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Linh, để chúng ta, một cộng đoàn Hòn Chông bé nhỏ, giữa một địa phương bao la ngoại giáo, biết làm chứng cho Chúa, làm chứng một cách âm thầm, nhưng hữu hiệu, làm chứng như một trái tim người mẹ đứng ở ngoài kia, giữa sương gió của thời gian. Và như vậy, tôi thiết tưởng, lễ hôm nay của chúng ta, cũng sẽ là một cái mốc, để chúng ta nhận định cách sống đạo trong thời điểm mới bây giờ. Amen.
Lễ Truyền Tin gợi ý cho tôi về hình ảnh một Hội Thánh rất trẻ. Bởi vì sự kiện truyền tin đã cho thấy những nhân vật rất trẻ và bầu khí rất trẻ.
Trước hết, thiên thần hiện đến với Trinh Nữ Maria dưới hình dáng một thanh niên rất trẻ. Thiên thần chào Trinh Nữ cũng bằng một lời rất trẻ. Tiếp đến là Trinh Nữ Maria, lúc bấy giờ là một cô gái trẻ. Cái phản ứng của Trinh Nữ Maria đứng trước người thanh niên xuất hiện cũng là một phản ứng rất trẻ.
Rồi Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Trinh Nữ hôm ấy, cũng bào thai bước vào bước đầu của tuổi thời gian rất trẻ.
Các sự kiện lễ Truyền Tin được diễn tiến gọn nhẹ hồn nhiên và trẻ trung.
Như vậy lễ Truyền Tin có thể nói là một lễ của trẻ trung về nhân vật, về bầu khí.
Đối với tôi, đặc điểm của trẻ trung là cởi mở đón nhận những giá trị mới, biết phát triển những giá trị mới, và biết sáng tạo những giá trị mới.
Cái giá trị mới của ngày Truyền Tin hôm nay là gì? Thưa là mầu nhiệm nhập thể, thưa là cách yêu thương của Thiên Chúa rất mới. Ngài yêu thương nhân loại, đến nỗi mặc lấy thân phận con người, trở nên bé bỏng, để ở với con người, để ở giữa con người, để thương con người, để hy sinh cho con người, để xả thân cho con người. Đấy là một sáng kiến quá lạ lùng. Đối với Thiên Chúa hôm nay, thương con người, nhắc con người lên là phải đi xuống, là phải nhìn xuống, là phải hướng xuống, hướng tới những người nghèo hèn, những người đau khổ, những người bé mọn.
Riêng Đức Maria hôm nay, khi được thông báo kế hoạch cứu độ của tình thương Thiên Chúa như vậy, đã hết lòng vâng phục thánh ý Chúa Cha. Lời xin vâng của Đức Mẹ hôm nay là lời xin vâng của một trái tim rất trẻ, yêu thương đến cùng, chấp nhận khiêm tốn đến cùng.
Với những suy nghĩ trên đây, tôi nhìn họ đạo Rạch Đùng anh chị em:
Tôi thấy Rạch Đùng cũng đang là một cộng đoàn Hội Thánh trẻ trung. Trẻ trung, không phải vì tuổi của Hội Thánh ở đây, cũng không phải vì nhân sự trẻ ở đây, cũng không phải vì cái ngôi thánh đường mới tại đây, mà trẻ trung là vì đang sống mầu nhiệm nhập thể một cách sáng tạo và cởi mở. Trước mắt tôi đang có những hình ảnh gợi ý về sự sáng tạo ấy:
Tôi nhìn con đường ngoài kia, con đường mà cha sở và anh chị em đã góp phần tích cực xây dựng nên. Khi nhìn con đường ấy, tôi nghĩ rằng: Cộng đoàn chúng ta nói chung và từng cá nhân chúng ta nói riêng, hãy sống đạo thế nào, để mình có thể trở nên một con đường giúp cho người ta đến với nhau, giúp cho người ta đến với Chúa, giúp cho người ta liên hệ tốt với nhau, giúp cho liên hệ đạo đời đoàn kết tốt đẹp.
Rồi, một hình ảnh khác về sự sáng tạo sống mầu nhiệm nhập thể hôm nay là cái giếng nước ngoài kia. Khi tôi nhìn cái giếng nước ngọt mà cha sở đã làm ở đây cho mọi đồng bào lương giáo, tôi đã nghĩ rằng: Chúng ta phải sống đạo thế nào, sống mầu nhiệm nhập thể thế nào, để bản thân chúng ta cũng giống như một cái giếng nước ngọt, để những người xa gần chung quanh có thể đến đó múc ra những chân lý, múc ra những tình thương.
Rồi, một hình ảnh khác về sự sống đạo trong mầu nhiệm nhập thể hôm nay là ngôi nhà thờ mới này. Nhìn ngôi nhà thờ mới này, tôi tự nói với mình: Chớ chi mỗi người chúng ta trở nên một nhà thờ, để những ai tới gần, sẽ cảm thấy trong chúng ta có một Đấng thiêng liêng thánh thiện đáng tôn thờ.
Anh chị em thân mến,
Với những suy nghĩ trên đây, tôi dâng thánh lễ này cùng với anh chị em không phải chỉ là tạ ơn Chúa vì ngôi nhà thờ mới, mà còn tạ ơn Chúa vì cách sống đạo của chúng ta, một cách sống đạo hướng về con người, phục vụ con người, đến với con người, chia sẻ thân phận và cuộc sống con người.
Nhà thờ mới này chẳng mấy năm nữa rồi sẽ cũ đi, nhưng tình thương không bao giờ sẽ cũ. Nhất là khi tình thương ấy được khơi nguồn từ tình thương của Thiên Chúa bao la, một tình thương đã dấn thân, đã chịu chấp nhận khiêm tốn. Tình thương ấy sẽ trẻ trung mãi. Tôi nghĩ rằng: Nếu chúng ta có làm được gì cho sáng danh Chúa thì không phải là nhà thờ, không phải là những công trình vật chất, mà là chính những công trình của tình thương. Tình thương mới đi vào được lòng người. Tình thương mới kết hợp được lương giáo, đạo đời. Tình thương mới để lại được trong lòng người những hạt giống cứu độ của Nước Trời, mà Ngôi Hai Thiên Chúa hôm nay đã khởi sự trong lòng Trinh Nữ một cách yêu thương, một cách khiêm tốn.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi xin anh chị em cùng với các cha và tôi, cầu xin Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta biết sống đúng mầu nhiệm nhập thể mà Chúa dạy chúng ta trong lễ Truyền Tin. Chỉ có cách đó, chúng ta mới thấy mình là những người đi theo Đức Kitô, làm chứng cho Đức Kitô, đặc biệt trong thời điểm rất phức tạp và đang chuyển biến trong địa phương này, trong đất nước này. Amen.
Thêm Sức và khánh thành nhà thờ Rạch Đùng, ngày 25-03-1994 lễ Truyền Tin
Khi Chúa Giêsu lập phép Truyền Chức Thánh, trong buổi tối sau cùng, Ngài mới ba mươi ba tuổi. Tuổi ba mươi ba là tuổi thanh niên. Con người ba mươi ba tuổi là con người trẻ.
Như chúng ta biết: Sau khi lập phép Truyền Chức Thánh, con người trẻ đẹp Giêsu đã ra đi dấn thân vào một cuộc khổ nạn đớn đau nhục nhã. Lúc ấy Ngài bị coi như một kẻ thất bại, như một kẻ bị xoá tên trong lịch sử. Thế nhưng, từ đó đến nay, từng triệu triệu người vẫn nhớ tới Ngài, vẫn thương mến Ngài, vẫn tin vào Ngài, và nhất là vẫn theo gương Ngài. Bởi vì, với sự Ngài lập phép Truyền Chức Thánh và những sáng tạo lạ lùng của tình yêu nhiệm mầu, Đức Kitô đã trở nên con người gương mẫu lý tưởng, nêu lên những giá trị cao đẹp tuyệt vời. Từ đó Ngài trở nên cùng đích, nên trung tâm của sự sống mới. Ngài trở nên nguồn suối của một sức mạnh thiêng liêng thu hút con người, thu hút các tâm hồn, không phải bằng những vinh quang, mà bằng sự khiêm tốn, bằng tình yêu thương cứu độ, quảng đại, bao dung. Tới đây, tôi xin được phép chia sẻ kinh nghiệm riêng của tôi.
Cách đây hơn ba mươi năm, tôi được tham dự tuần thánh ở Giêrusalem: Đêm thứ năm tuần thánh, tôi cùng với đoàn hành hương, đến làm giờ thánh tại vườn Giếtsêmani. Tôi quỳ cầu nguyện trên chính tảng đá xưa Đức Kitô đã cầu nguyện. Lúc ấy, tôi thấy mình như nhìn thấy Đức Kitô cũng đang cầu nguyện. Tôi thấy Ngài cầu nguyện trong lo sợ, trong khổ đau, trong thổn thức, trong bồi hồi. Thấy Ngài như vậy, tôi thương Ngài và muốn chia sẻ với Ngài.
Ngày hôm sau, thứ sáu tuần thánh, tôi cùng với đoàn hành hương, vác thánh giá từ sân Philatô cũ, cho đến núi Gôngôtha, trên con đường xưa Đức Kitô đã vác thánh giá. Khi đi đàng thánh giá, tôi cũng cảm thấy như mình đang nhìn thấy Đức Kitô gò lưng vác thánh giá giữa chúng tôi. Tôi cảm thấy Người khiêm tốn, đầy yêu thương lặng lẽ hy sinh. Tôi thương Ngài, gắn bó với Ngài.
Rồi ngày thứ bảy tuần thánh, tôi đến cầu nguyện bên mồ đá, nơi xưa đã chôn táng Đức Kitô, tôi cũng như nhìn thấy Ngài còn nằm đó, khiêm tốn, bình an, thinh lặng và đợi chờ ngày sống lại. Và Ngài đã sống lại trong khiêm tốn, trong âm thầm, trong sự bình an của Thiên Chúa.
Nhìn thấy Ngài như vậy, tôi cảm thấy rất thương Ngài và quyết tâm đi theo Ngài.
Như vậy, tôi thấy Đức Kitô đã đi vào tâm hồn tôi bằng những bước khiêm tốn, bằng những hình ảnh đau thương, hơn là bằng những hình ảnh tươi vui, vinh quang, sáng láng. Tôi thấy sức mạnh của Đức Kitô đã chinh phục tôi, đó là sức mạnh của tình yêu trong mầu nhiệm thánh giá.
Tôi nhìn Đức Kitô là một tình yêu có hình thánh giá. Tôi nhìn cuộc đời Đức Kitô là một thánh giá đậm tình yêu, toả sáng tình yêu.
Thưa anh chị em,
Khi tôi nhìn Đức Kitô như vậy, và nhìn thấy Đức Kitô là tình yêu gắn liền với thánh giá, tôi mới cảm thấy rằng: Đời tu đức, đời truyền giáo, đời sống đạo của chúng ta sẽ vô nghĩa, sẽ vô vị, sẽ vô hiệu quả, sẽ vô bổ, nếu chúng ta không chia sẻ với Đức Kitô, chia sẻ tình yêu của Ngài, và đồng thời chia sẻ thánh giá của Ngài.
Giá trị của chúng ta trước mặt Chúa sẽ không được cân đo bằng những công trình, bằng những thành công, mà được cân đo bằng tình yêu, bằng hy sinh.
Sự trẻ trung của chúng ta cũng không được đếm bằng tuổi, nhưng được cân đo bằng tinh thần, tinh thần không mệt mỏi sống lý tưởng của Đức Kitô, yêu đến tận cùng, hy sinh đến tận cùng.
Anh chị em thân mến,
Các linh mục của tôi ở đây hôm nay, mỗi người cũng đã suy nghĩ như tôi, và cũng đã sống theo những điều mình suy nghĩ. Hôm nay, chúng tôi họp lại đây, để một cách long trọng và một cách tập thể, nói lên ý muốn của mình, là muốn chia sẻ với Đức Kitô, chia sẻ tình yêu của Ngài, chia sẻ thánh giá của Ngài.
Đức Kitô đã chia sẻ cho chúng tôi chức thánh của Ngài. Chúng tôi cũng sẽ chia sẻ với Ngài tình yêu trong mầu nhiệm thánh giá. Tôi biết rằng, mỗi cha đã nhận được rất nhiều tình yêu, và đồng thời cũng đã nhận được rất nhiều thánh giá. Tôi cũng biết rằng, trong tương lai, mỗi cha sẽ nhận thêm được nhiều tình yêu, và đồng thời cũng sẽ nhận thêm được nhiều thánh giá, và thánh giá quan trọng nhất có thể chính là bản thân mình, với những yếu đuối, với những bất toàn, với những thất bại. Thánh giá đó mới là thánh giá khó vác nhất, nhưng phải vác vì tình yêu Đức Kitô.
Tôi nghĩ rằng, anh chị em giáo dân, khi tiếp xúc với các linh mục, cũng đã cảm thấy được phần nào tâm tình của các linh mục chúng tôi. Hôm nay, tôi xin anh chị em ý thức rõ tâm tình linh mục chúng tôi, lý tưởng của chúng tôi, ước vọng của chúng tôi, chia sẻ tình yêu Đức Kitô và thánh giá của Ngài, để rồi anh chị em đừng quên cảm tạ Chúa, vì đã cho anh chị em các linh mục. Xin đừng quên bổn phận cầu nguyện thật nhiều cho các linh mục. Đừng quên bổn phận nâng đỡ các linh mục của mình, bằng những cách nâng đỡ tế nhị nhất.
Với tâm tình đó, với cố gắng, tôi mong rằng Hội Thánh tại Việt Nam nói chung, Hội Thánh tại Long Xuyên, Hội Thánh tại mỗi giáo xứ nói riêng sẽ là một Hội Thánh trẻ trung, mãi mãi trẻ trung, do tinh thần chia sẻ với Đức Kitô tình yêu và thánh giá của Người.
Sống trong tinh thần ấy, các linh mục chúng tôi sẽ dần dần trở nên một thứ dầu thiêng liêng, để Chúa dùng mà ban ơn cứu độ cho những người thiện chí. Với thứ dầu thiêng liêng sống động là các linh mục, tôi nghĩ rằng: Chúa sẽ làm nhiều việc lạ lùng trong tâm hồn anh chị em, và những việc lạ lùng ấy sẽ không diễn tiến ở trong nhà thờ, trong các nghi thức, mà trong chính cuộc đời ngoài nhà thờ, trong chính mỗi người chúng ta, trong xã hội chúng ta.
Đó là những lời tôi muốn gởi tới anh chị em, để từ đây, chúng ta biết gắn bó với Đức Kitô trẻ trung, do tình yêu và thánh giá. Đồng thời, cũng biết hợp nhất với các linh mục của mình, những người đang cố gắng chia sẻ với Đức Kitô tình yêu của Ngài, thánh giá của Ngài. Amen.
Lễ Truyền dầu tại Giáo xứ Đài Đức Mẹ. Tân Hiệp, ngày 29-03-1994
Trước thánh lễ hôm nay, tôi đã nói với Đức Kitô rằng: Lạy Đức Kitô yêu mến của con, Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa. Tự đời đời Ngài vẫn ngự trên trời. Trên trời có đầy đủ mọi sự tốt đẹp. Nếu Ngài cứ ở luôn trên đó, Ngài sẽ sung sướng biết bao. Thế nhưng, Ngài đã xuống thế làm người, sinh ra trong cảnh khó nghèo, suốt 33 năm nếm đủ mọi thứ đắng cay của cuộc sống con người, rồi hôm nay kết thúc cuộc đời trần thế bằng những khốn khổ nhục nhã chưa từng có. Tại sao vậy?
Đức Kitô không trả lời trực tiếp câu hỏi của tôi. Nhưng Ngài đã trả lời gián tiếp. Ngài kéo lòng trí tôi tập trung vào một lời Ngài đã nói trong bữa tiệc ly: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Qua lời Chúa phán trên đây, tôi đã nhận ra lý do sau cùng giải thích tất cả mọi sự Chúa đã làm, đã chịu. Lý do đó chính là tình yêu của Ngài đối với chúng ta.
Ngôi Hai Thiên Chúa làm người đã yêu thương ta đến thế nào, thì Phúc Âm hôm nay đang nhắc lại:
Nào là việc Ngài lập phép Thánh Thể. Vì yêu thương, Ngài đã mặc lấy thân phận tấm bánh bé nhỏ, để ở lại giữa loài người.
Nào là việc Ngài quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Vì yêu thương Ngài đã mặc lấy thân phận tôi đòi, để phục vụ con người.
Nào là việc Ngài cầu nguyện ở vườn Cây Dầu trong cô đơn, buồn phiền, lo sợ. Vì yêu thương, Ngài đã mặc lấy thân phận kẻ gánh tội chúng ta, để chúng ta được tha thứ.
Nào là việc Ngài để mình bị bắt, bị cáo gian, bị xỉ vả. Vì yêu thương, Ngài đã mặc lấy thân phận tội nhân, để đánh thức lương tâm ta hãy ý thức về hậu quả của tội lỗi.
Tất cả những sự việc đó, Ngài đã làm, đã chịu vì chúng ta và cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta cũng hãy bắt chước Ngài. Ý muốn đó của Ngài là một lệnh truyền: “Thầy cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”.
Đã gần 2.000 năm rồi, điều răn mới đó vẫn còn mới. Bởi vì rất nhiều người vẫn chưa quan tâm đủ đến giới răn mới đó. Rất nhiều người vẫn chưa hiểu đúng giới răn mới đó. Rất nhiều người vẫn chưa thực hành nghiêm chỉnh giới răn mới đó. Thiết tưởng đó là điều chúng ta cần ăn năn sám hối một cách đặc biệt trong những ngày này.
Hôm nay, khi nhìn vào tình hình điều răn mới trong nhiều gia đình, trong nhiều cộng đoàn, tôi có cảm tưởng bi quan nhiều hơn là lạc quan.
Điều làm tôi bi quan hơn cả là đang có sự suy thoái về những giá trị nhân bản làm nên bản chất đích thực của tình yêu thương, là đang có sự tha hoá về những giá trị Phúc Âm làm nền tảng cho điều răn mới. Những giá trị nhân bản và Phúc Âm mà Đức Kitô đã làm gương về tình yêu thương, đó là sự khiêm tốn, sự nhịn nhục, sự từ bỏ mình, sự biết nhận ra những khả năng tốt nơi người khác, sự tha thứ quảng đại, sự cầu nguyện cho kẻ làm khổ mình, sự nhìn kẻ khác cũng là con cái Cha trên trời, cũng được Cha yêu thương cứu độ. Những giá trị ấy nay đang bị thay thế, nay đang bị lãng quên, nay đang bị hạ thấp.
Tôi nghĩ rằng: Nếu tình hình về điều răn mới này cứ mãi xấu đi, cả trong nội bộ Hội Thánh tại nhiều cộng đoàn, thì sẽ không tránh được một tương lai đen tối cho đạo đức nói chung và cho Hội Thánh nói riêng.
Vì thế, tôi khuyên anh chị em trong những ngày này hãy tâm sự với Chúa Giêsu nhiều hơn về điều răn mới của Ngài. Tôi xác tín rằng: Thực thi điều răn mới này chính là cách tốt nhất để cứu các gia đình, để cứu Hội Thánh. Đó cũng là cách tốt nhất để truyền giáo, để giới thiệu dung mạo đích thực dễ mến của Đức Kitô, Đấng cứu độ loài người.
Lạy Chúa Kitô, con cảm tạ Chúa đang yêu thương con. Xin Chúa thương ban ơn giúp sức cho con, để con biết yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương con.
Đức Kitô đã sống lại. Đó là điều chúng ta phải tin. Riêng tôi, tôi luôn tin điều đó. Tôi không hề thắc mắc gì về điều đó.
Niềm tin của tôi vào Đức Kitô Phục Sinh không những là một sự chấp nhận và tuyên xưng việc Ngài đã sống lại, mà còn là một sự tôi gặp gỡ Ngài.
Tôi tin Đức Kitô Phục Sinh, có nghĩa là tôi đang thấy Ngài sống bên tôi. Tôi tin Đức Kitô Phục Sinh, có nghĩa là tôi biết Ngài đang hoạt động giữa chúng ta.
Sự gặp gỡ với Đức Kitô Phục Sinh gợi lên trong tôi một ước vọng. Tôi ước mong Đức Kitô Phục Sinh giúp tôi và những người thuộc về tôi cũng được phục sinh. Sự phục sinh tôi cầu mong không những là sự sống lại đầy hạnh phúc trong ngày phán xét, mà còn là sự sống lại an vui trong chính cuộc đời hôm nay.
Bởi vì trong cuộc đời này có nhiều sức tiêu diệt giống như sự chết, thí dụ cảnh tội lỗi, cảnh túng nghèo, cảnh cô đơn thất vọng, cảnh nghi kÿ hận thù, cảnh dốt nát lạc hậu. Không để mình bị chìm sâu vào những cảnh chết chóc đó, nhưng thoát ra khỏi những cảnh bi đát đó, chính là một sự phục sinh mà ai cũng muốn
Phải làm gì để có được sự phục sinh như vậy? Tôi hỏi Chúa. Và Chúa đã trả lời tôi, là hãy làm như các bà và các môn đệ Chúa trong ngày Chúa Phục Sinh. Tôi thấy những gì các vị ấy đã làm có thể tóm lại hai việc này, một là cầu nguyện, hai là tỉnh thức (Lc 21,36). Cầu nguyện là hướng lòng lên Chúa với niềm cậy tin vào lời Chúa. Tỉnh thức là nghe ngóng, tìm tòi, xoay xở.
Hôm qua, tối thứ sáu tuần thánh, đài truyền hình Cần Thơ có chiếu một đoạn phim tài liệu về một nữ tu tại Phi Luật Tân. Tôi thấy nữ tu ấy quỳ cầu nguyện trước tượng Chúa chịu đóng đinh. Sau đó chị ra đi, cùng với một số người, hái các loại cỏ, đem về phòng thí nghiệm. Họ nghiên cứu, và chế biến các loại cỏ đó thành các thứ thuốc chữa bệnh. Bằng những việc như thế, chị nữ tu ấy và nhóm của chị đã cứu sống được biết bao người. Họ phục sinh người khác bằng tấm lòng bác ái, bằng khối óc khoa học và bằng những bàn tay cần cù tế nhị.
Đoạn phim tài liệu trên đây gợi ý cho tôi hiểu rằng: Muốn phục sinh trong cuộc đời hôm nay, chúng ta không những phải biết cầu nguyện với Chúa, mà còn phải biết tỉnh thức, nghĩa là biết chịu khó học hỏi, tìm tòi, sáng tạo, biết khôn khéo tận dụng những cái trong tầm tay, những cái tầm thường xung quanh mình, dù đó chỉ là những vốn liếng bé nhỏ như những cây cỏ ngoài ruộng, như những chiếc lá trong vườn.
Rồi cũng mấy ngày nay, nhờ đọc các báo mới xuất bản trong tuần này, tôi thấy Hội Thánh tại Việt Nam đang rơi vào một hoàn cảnh tâm lý ngột ngạt, gây nên do vài vấn đề rất phức tạp. Để tháo gỡ những phức tạp đó, thì không những phải cầu nguyện, mà còn phải tỉnh thức, có nghĩa là phải theo dõi, tìm tòi, suy nghĩ, cân nhắc, nhạy bén, cảnh giác và sáng kiến. Sự phục sinh của ta, của Hội Thánh tại Việt Nam ta, sẽ đến với chúng ta, nếu chúng ta biết cầu nguyện và tỉnh thức, theo nghĩa tôi vừa gợi ý.
Với những tâm tình trên đây, tôi xin cầu chúc anh chị em rất nhiều ơn Chúa Phục Sinh. Đặc biệt tôi cầu chúc mọi người luôn biết tận dụng các ơn phục sinh Chúa đã ban và đang ban.
Khi suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay, tôi có cảm tưởng là Chúa dùng những lời rõ ràng và thân ái, để nhắc cho tôi một chân lý quan trọng nhất, căn bản nhất, nền tảng nhất, giúp cho tôi biết sống đạo, biết tu đức và biết làm mục vụ.
Chúa Giêsu phán trong bài Phúc Âm rằng: “Tất cả những ai tin vào Con Thiên Chúa, Đấng Chúa Cha sai đến trong thế gian để cứu độ nhân loại, họ sẽ không bị hư mất, nhưng được cứu độ”.
Với những lời trên đây, Chúa dạy tôi và dạy anh chị em chân lý quan trọng nhất, đó là tin vào Đức Kitô. Tin vào Đức Kitô đó là niềm tin trung tâm của sống đạo, của tu đức và của mục vụ.
Khi nhìn Đức Kitô, tôi thấy thế nào?
Theo bài Phúc Âm hôm nay, tôi thấy Đức Kitô có hai nét đặc biệt: Một là Ngài luôn vâng phục ý Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài. Hai là Ngài luôn yêu thương nhân loại, cứu độ nhân loại.
Với hai nét trên đây, Đức Kitô luôn ở trước mặt tôi. Đức Kitô luôn ở trong lòng tôi. Tôi trở nên Kitô hữu, tức là người có Đức Kitô trong mình.
Khi nói, tôi tin Đức Kitô thì có nghĩa thế nào?
Thưa có nghĩa là tôi gắn bó với Đức Kitô. Tôi đi theo Đức Kitô. Tôi cố gắng nên giống Đức Kitô về hai nét căn bản: Vâng phục thánh ý Chúa Cha và luôn yêu thương con người. Cho nên khi nói về niềm tin ở Đức Kitô, Đấng cứu độ con người, chúng ta cần phải làm sao để lòng chúng ta kết hợp với Đức Kitô.
Khi tôi nói: Lạy Đức Kitô, con tin Ngài là Đấng cứu độ, thì không phải tôi nói một chân lý, mà là tôi đem lòng trí của tôi kết hợp với Ngài, là tôi mở lòng ra để cho Đức Kitô chia sẻ vào tôi tinh thần phục tùng Chúa Cha và tinh thần yêu thương con người.
Khi chúng ta hiểu chữ tin không có tĩnh, mà có biến động như vậy, chúng ta mới thấy: Tôi tin Đức Kitô là cả một sự dấn thân, là cả một sự hiệp nhất sống động với Đức Kitô vâng phục Chúa Cha, yêu thương con người.
Cách đây mấy hôm, tôi nhận được một tạp chí của một tu hội bên Pháp gởi cho. Đây là số đặc biệt, nói về một cô gái 20 tuổi trong tu hội mới chết được mấy tháng nay. Những người xa gần coi cô như là một vị thánh đang làm phép lạ. Cha mẹ của cô cũng thuộc về một tu hội đời dâng hiến mình đi làm việc truyền giáo. Cô cũng thuộc về tu hội. Sau khi qua tiểu học, trung học, cô lên đại học y khoa ở Paris. Cô gái 20 tuổi cũng giống như các cô gái khác, nhưng có hai điểm này đặc biệt, đó là cô thích cầu nguyện trước Nhà Tạm, trước tượng Chúa chịu đóng đinh. Cô có một lòng yêu thương lạ lùng đối với những người đau khổ. Cô hay đi thăm những trẻ em mồ côi tàn tật, năng đi thăm những người già cô đơn, năng đi chia sẻ với những thanh thiếu niên xì ke, ma tuý. Những người còn sống đã từng quen biết cô, đều làm chứng rằng: Cô bé Clara này không bao giờ nói xấu một ai, không bao giờ gièm pha một ai, không bao giờ nghĩ xấu cho ai. Luôn luôn, cô tỏ ra khiêm tốn, hiền lành. Cô có một đời sống bên trong rất phong phú. Cô không giảng đạo, nhưng ai gặp cô, thấy nụ cười của cô, thấy ánh mắt của cô, thấy nét mặt của cô, là cảm thấy một cái gì thiêng liêng, kêu gọi mình sống trong sáng hơn, hiền lành hơn, khiêm tốn hơn, và cao thượng hơn. Cô chết rồi, người ta đọc lại những trang nhật ký, thì thấy cô luôn luôn có những tư tưởng này, là vâng phục phó thác theo thánh ý Chúa Cha, luôn luôn sẵn sàng làm ích cho những người chung quanh theo gương Đức Kitô.
Đọc tờ đặc san nói về cô gái 20 tuổi này, tôi có cảm tưởng, đây là một chứng từ, là một lá thư Chúa gởi cho nhân loại hôm nay, là hãy sống tập trung vào Đức Kitô, tin vào Đức Kitô. Nhưng là một Đức Kitô phó thác cho Đức Chúa Cha, là một Đức Kitô đi trong lịch sử hôm nay, giữa những người nghèo, giữa những người tội lỗi, giữa những người tàn tật, giữa những người cô đơn, giữa những người đau khổ. Tôi có cảm tưởng, cô là một bài ca chúc tụng Thiên Chúa, cô là một bông hoa không bao giờ tàn, cô là một thánh đường linh động, giúp cho người ta gặp được Thiên Chúa và học được bài thương yêu nhau.
Đến đây, tôi nhìn vào anh chị em, nhìn vào giáo xứ anh chị em. Tôi thấy ở đây có một nếp sống, một thánh đường cũng đang tập trung vào Đức Kitô: Tôi thấy trên cung thánh có Nhà Tạm đẹp đẽ, bên cạnh là Tiệc Ly, bên này là Chúa rửa chân và ở trên là Chúa chịu đóng đinh. Tất cả đều là Đức Kitô phó thác mình cho Đức Chúa Cha, thực hiện thánh ý Chúa Cha: Một đàng, Chúa Cha bắt mình phải chết cho anh em mình. Một đàng, Chúa Cha bắt vẫn phải yêu thương rửa chân cho anh em mình như một người đầy tớ. Một Đức Kitô tập trung như vậy ở giữa anh chị em, đó là một bài học rất tốt cho sống đạo, cho tu đức.
Tôi mừng chúc cho anh chị em, và tôi mến phục cha sở anh chị em đã có sáng kiến xây dựng thánh đường này, tập trung vào Đức Kitô, và đã tổ chức một lớp giáo lý nhằm giúp sống đạo tập trung vào Đức Kitô. Tôi biết rằng: Cha sở xây thánh đường này cũng vì niềm tin, cũng cho niềm tin. Vì thế tôi mong muốn tất cả anh chị em, mỗi người anh chị em, hãy là một chứng từ của một niềm tin tập trung vào Đức Kitô, như Phúc Âm hôm nay nói: “Một Đức Kitô vâng phục Chúa Cha, một Đức Kitô quảng đại bao dung đối với mọi người”.
Anh chị em cũng đã biết, cuộc sống chúng ta mỗi ngày thêm phức tạp. Chúng ta đừng phức-tạp-hoá thêm đời sống đạo của chúng ta. Chúng ta nên đơn sơ trong niềm tin và cách sống đạo: Đơn sơ như cô bé 20 tuổi đã sống, đơn sơ như Đức Thánh Cha đã dạy trong hai thông điệp “Đấng Cứu Thế” và “Chúa Cha giàu lòng thương xót”.
Tôi đọc hai thông điệp của Đức Thánh Cha nhiều lần, và nhất là khi tôi được hân hạnh đồng tế với Đức Thánh Cha, tôi cảm thấy rõ ràng Đức Thánh Cha đang sống niềm tin của mình đối với Đức Kitô một cách thật mãnh liệt.
Năm lần rồi, tôi đứng cạnh Ngài để dâng lễ. Ngài không nói gì trong thánh lễ. Ngài chỉ đọc Lời Chúa. Nhưng mà, khi nhìn thấy Ngài làm lễ, khi nhìn thấy Ngài suy gẫm, tôi biết ngay Ngài đang kết hợp với Đức Kitô và sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha, để rồi hy sinh cho đoàn chiên, cho thế giới hôm nay. Đơn sơ là thế thôi. Nhưng đó là cái gì căn bản nhất, nền tảng nhất cho cuộc sống đức tin hôm nay đầy khó khăn, đầy thử thách.
Trong thánh lễ này, tôi xin anh chị em cùng với chúng tôi cầu xin cho chính mình, nhất là cầu xin cho con em chúng ta, từ nay biết tin vào Đức Kitô. Trước mặt mình luôn có Đức Kitô, trong lòng mình luôn có Đức Kitô, một Đức Kitô trẻ trung, một Đức Kitô đầy tình yêu mến đối với Chúa Cha, đối với con người.
Nếu được như vậy, chúng ta sẽ thấy: Đức tin chính là bảo đảm cứu rỗi như bài Phúc Âm hôm nay đã nói: Ai tin vào Đức Kitô, tức là ai gắn bó với Đức Kitô, ai đi theo Đức Kitô, ai nên giống Đức Kitô, ai có Đức Kitô, người đó không bao giờ hư mất, nhưng sẽ được cứu rỗi đời đời. Amen.
Lễ Thêm Sức tại xứ Thanh Long kinh Đ1, ngày 13-04-1994
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra bằng chứng giúp cho Nicôđêmô dễ nhận ra Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Chúa Giêsu nói: “Đấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, và có Thần Linh khôn lường”.
Với những lời trên đây, Đức Kitô giới thiệu hai đặc điểm của Đấng được Chúa Cha sai đến. Đặc điểm thứ nhất là nói lời của Thiên Chúa. Đặc điểm thứ hai là có Thần Linh khôn lường. Người ta căn cứ vào hai dấu chỉ đó để nhận ra ai là Đấng Thiên Chúa sai đến.
Lời của Thiên Chúa là thế nào?
Thưa là lời chân lý cứu độ. Thưa là những lời đem lại niềm hy vọng cứu độ. Thưa là những lời đem lại tình yêu cứu độ. Thưa là những lời đem lại sự bình an cứu độ. Khi Chúa Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, thì chính Ngài trở nên Lời của Thiên Chúa, chính Ngài là Lời của Thiên Chúa. Mọi việc Người làm, mọi Lời Người nói đều là Lời của Thiên Chúa.
Còn Thần Linh khôn lường là gì?
Thưa tóm tắt là Thần Linh sáng tạo, là Thần Linh biến đổi, giúp con người đi vào con đường về với Chúa, qua thân phận người con Thiên Chúa, qua thân phận con người là anh em với nhau.
Đức Kitô đã làm chứng Ngài có hai đặc điểm ấy: Nói Lời của Thiên Chúa và có Thần Linh khôn lường.
Khi Đức Kitô về trời rồi, các môn đệ của Đức Kitô cũng có hai đặc điểm ấy:
Thứ nhất là các Ngài nói Lời của Thiên Chúa, tức là các Ngài giảng về Đức Kitô. Chính Đức Kitô là Lời của Thiên Chúa. Khi đọc sách Tông Đồ Công Vụ và các thư của các tông đồ, chúng ta thấy các Ngài luôn luôn giảng Đức Kitô, vì Đức Kitô là Lời của Thiên Chúa. Các Ngài không giảng sự gì khác.
Thứ hai là các Ngài có Thần Linh khôn lường, giúp cho các Ngài có một phong cách giảng Phúc Âm, có một phong cách khôn ngoan, biết lúc nào nên làm cái gì, biết lúc nào nên tránh cái gì. Nghĩa là một Thần Linh giúp cho các Ngài biết sáng tạo, để áp dụng kế hoạch cứu độ mà Đức Kitô đã truyền đạt cho các Ngài.
Trong suốt lịch sử Hội Thánh cho đến hôm nay, Hội thánh nói chung và các môn đệ của Hội Thánh nói riêng, đều đi theo Đức Kitô, đều theo gương các tông đồ buổi sơ khai, để sống và làm chứng hai đặc điểm: Đức Kitô là Lời Thiên Chúa, và Hội Thánh có Thần Linh khôn lường.
Nhưng dần dà chúng ta thấy, nhiều nơi, hai đặc điểm ấy bị lu mờ đi. Người ta không còn nói nhiều đến Lời Chúa. Người ta không còn đào sâu Lời Chúa. Người ta không còn là Thần Linh khôn lường của Chúa. Mà người ta sống theo thần tiền, thần danh vọng, thần thế tục.
Ít lây nay tại Việt Nam, tôi thấy xuất hiện một số nhà truyền giáo của các giáo phái. Họ đang cố gắng trình bày là họ có hai đặc điểm của môn đệ Chúa. Họ nói Lời Chúa một cách rất thông thạo, rất sâu sắc, và họ đi về phía dân nghèo như Chúa Kitô xưa, được hướng dẫn theo Thần Linh của Thiên Chúa.
“Thần Linh Chúa ngự trên tôi. Người đã xức dầu cho tôi. Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa lành cho những người bệnh tật, băng bó những tâm hồn đau thương”.
Họ đang làm chứng rằng: Họ có Thần Linh ấy. Họ đang đi đến với những người nghèo khổ, cô đơn, bệnh tật, để mà băng bó, để mà giúp đỡ.
Với hai hoạt động ấy, Lời Chúa và đi tới những người nghèo khổ, họ đã hoạt động khá tích cực và hôm nay phải nói kết quả là rất đáng kể.
Trước hoàn cảnh này Đức thánh Cha Gioan Phaolô II của chúng ta, đã kêu gọi khắp Hội Thánh hãy trở về với Đức Kitô, hãy biết tân-Phúc-Âm-hoá.
Tân-Phúc-Âm-hoá không phải là một cái gì mới, mà là hãy trở về với những Lời Đức Kitô đã giảng dạy: Hãy giảng Lời Chúa. Hãy học Lời Chúa. Hãy đi sâu vào Lời Chúa. Rồi hãy sống Thần Linh của Thiên Chúa, để biết sáng tạo ra những gì thích hợp, giúp cho con người trở về với Thiên Chúa, giúp cho con người biết yêu thương nhau.
Khi nhìn về phía trước, tôi thấy rằng: Việt Nam, Hội Thánh trong Việt Nam, đang đi vào một tình hình phức tạp, có những cạnh tranh tôn giáo, có những sáng tạo về mọi mặt: Kinh tế, văn hoá, tín ngưỡng. Trong hoàn cảnh có nhiều chọn lựa mới này, nếu chúng ta giữ đạo mà không bám vào Lời Chúa, mà không có Thần Linh khôn lường của Chúa soi dẫn, tôi sợ rằng, chúng ta dần dần sẽ mất đạo. Không phải vì chúng ta muốn, nhưng vì chúng ta đã không đi sâu vào những điều căn bản, những điều căn cốt, mà hôm nay Đức Kitô đã nói đặc điểm của người Chúa sai đến: Lời Chúa là Thần Linh khôn lường.
Tôi có cảm tưởng rằng, trong những năm sắp tới, những sinh hoạt tôn giáo nào có chiều sâu Lời Chúa, có chiều sâu Thần Linh của Chúa, sẽ đứng vững, sẽ phát triển. Những giáo dân nào, những giáo xứ nào, những gia đình nào có một đức tin, có chiều sâu Lời Chúa, và có một cách sống đạo theo Thần Linh khôn lường của Chúa, thì sẽ phát triển, sẽ trở nên Tin Mừng cho những người chung quanh, và sẽ cảm thấy có một hạnh phúc khôn lường giữa một thế giới chao đảo. Tôi nói lại, chỉ có một cuộc sống có chiều sâu Phúc Âm, chiều sâu Lời Chúa, và chiều sâu Thần Linh của Chúa, mới có thể giúp cho Hội Thánh vững được và phát triển được, trong những hoàn cảnh sắp tới.
Chính vì vậy, trong thánh lễ Thêm Sức hôm nay, tôi với các cha, cùng với anh chị em, xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta, và nhất là con em chúng ta, biết trọng Lời Chúa, biết đi sâu vào Lời Chúa, và biết đón nhận Thần Linh của Chúa.
Mà muốn được như vậy, chúng ta cần có một tâm hồn đón nhận, đó là tâm hồn cầu nguyện, tâm hồn khiêm tốn, tâm hồn từ bỏ chính mình, thì Lời Chúa mới đi vào được, và Thần Linh của Thiên Chúa mới đi vào được, để biến đổi lòng chúng ta.
Tôi mong rằng, mỗi khi đến làm lễ ở các họ đạo, tôi sẽ cảm thấy một bầu khí đạo đức, thấm nhuần Lời Chúa và Thần Linh của Chúa, giúp cho mọi người, kể cả tôi, cảm thấy rằng: Chúa đang ngự giữa chúng ta. Chúa đang biến đổi chúng ta. Và Chúa đang dùng chúng ta để thành Tin Mừng trong xã hội Việt Nam hôm nay. Amen.
Một người mới hỏi tôi rằng: “Trong chức vụ mục tử của Cha, lời nào của Chúa là lời cần thiết nhất cho Cha?”.
Tôi đã trả lời: Trong đời mục vụ của tôi, Chúa hay nhắc bảo tôi, lúc lời này, lúc lời kia. Nhưng có một lời Chúa nhắc bảo nhiều nhất, đó là “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mt 24,41). Đồng thời tôi được thúc đẩy phải tỉnh thức và cầu nguyện cách riêng trong hai lãnh vực văn hoá và đức tin.
Với tinh thần hiệp thông, tôi xin chia sẻ đôi chút tâm tình về lời Chúa dạy.
Trước hết, tôi coi lãnh vực sự sống văn hoá là địa bàn, mà người mục tử phải rất quan tâm với tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện.
Tôi nói sự sống văn hoá, có nghĩa là nền văn hoá đã trở thành sự sống nơi con người. Sự sống văn hoá là sự sống mang những giá trị cao quí có liên hệ đến chân, thiện, mỹ. Người có sự sống văn hoá là người có những nhận thức đúng, những ước muốn tốt, những tình cảm đẹp, những thái độ tế nhị, những việc làm ngay chính. Sự sống văn hoá như vậy càng ngày càng trở thành bộ mặt xã hội của mỗi người. Nó rất quan trọng.
Bởi vì thời nay, yếu tố mà người ta đang căn cứ vào để đánh giá một người, chính là trình độ văn hoá. Thời nay sức mạnh lớn nhất đang biến đổi cá nhân, gia đình và xã hội, chính là bầu khí văn hoá. Thời nay, phương tiện mà đức tin cần dùng hơn nhất để diễn tả và để đi vào lòng người, chính là các hình thức văn hoá.
Cần có văn hoá trong cách nói năng, đi đứng, ăn mặc. Cần có văn hoá trong cách sử dụng tự do, tiền của, quyền chức và những tiến bộ khoa học, kỹ thuật nghệ thuật. Cần có văn hoá trong cách phản ứng trước những gì xảy ra hợp ý hay trái ý mình. Nhất là cần có văn hoá trong cách đối xử với người khác.
Đọc Phúc Âm, tôi có cảm tưởng Đức Kitô không tách rời đức tin ra khỏi văn hoá. Chẳng hạn, Chúa dạy: “Ai tự tôn sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ sẽ được tôn lên” (Mt 23,12), thì lời đó nhắm vào đạo đức nhân bản. Ai sống lời đó là người có văn hoá, một nền văn hoá được nâng đỡ bởi đức tin và được tập trung vào đức ái, để trở thành một nền văn hoá của tình yêu thương.
Tại Việt Nam hiện nay, sự sống văn hoá đang phát triển rất mạnh, rất mau và rất đa dạng. Có dạng thích hợp và có dạng không thích hợp. Trước tình hình đó, Hội Thánh nói chung và người chủ chăn nói riêng cần phải bén nhạy, để phân định, để chọn lựa, để nắm bắt, để mình không bị thua kém, lạc lõng, nhưng biết thăng tiến kịp thời đúng hướng. Muốn được như vậy, phải “tỉnh thức và cầu nguyện”.
Một lãnh vực khác tất nhiên cần phải dấn thân vào với tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện, đó là lãnh vực sự sống đức tin.
ở đây tôi cũng nói về một sự sống. Sự sống đức tin là sự sống gặp gỡ Đức Kitô, là sự sống nên giống Chúa Kitô, là sự sống đi theo Đức Kitô, là sự sống được Đức Kitô biến đổi, như lời thánh Phaolô nói: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi” (Gal 3,20). Theo quan điểm trên đây, tôi nghĩ rằng: Giá trị đích thực của một sự sống Kitô hữu là biết đón nhận những sự Chúa làm cho mình, hơn là thích tăng thêm những việc mình làm cho Chúa.
Nhiều việc ta nói là ta làm cho Chúa, nhưng thực sự không do động lực sự sống Thiên Chúa và cũng không có sự sống Thiên Chúa ở trong các việc đó. Nhiều khi ta làm theo đòi hỏi của thói quen, đòi hỏi của tư lợi, đòi hỏi của dư luận. Và trong các việc đó, cái tôi vẫn chiếm đoạt hầu hết tâm tình, thiếu sự tự do tâm hồn, thiếu sự từ bỏ mình đích thực, không có sự gặp gỡ Chúa đích thực. Bao sinh hoạt tôn giáo thiếu bầu khí sự sống Đức Kitô. Bao nếp sống tôn giáo thiếu tinh thần Đức Kitô. Chỉ khi tỉnh thức và cầu nguyện, ta mới nhận ra được những thiếu sót đau buồn đó.
Đang khi ấy, Đức Kitô vẫn âm thầm bước đi trong lịch sử và vẫn lặng lẽ gieo vãi hạt giống Tin Mừng trong mọi đời thường. Những ai tỉnh thức và cầu nguyện sẽ nhận ra được bước đi của Người. Những ai tỉnh thức và cầu nguyện, sẽ đón nhận được các hạt giống Tin Mừng trong đời thường của mình.
Cầu nguyện thì trong hoàn cảnh nào thiết tưởng cũng sẽ thực hiện được. Còn tỉnh thức là việc không luôn dễ. Tỉnh thức nói đây có nghĩa là một thái độ khiêm tốn, biết cởi mở, biết theo dõi thời thế, biết học hỏi không ngừng, biết lắng nghe, biết đọc “các dấu chỉ của thời đại”, biết nhận định một cách khôn ngoan. Nếu tỉnh thức là việc phải như thế, thì tôi không thể không lo ngại cho tôi. Nhất là tôi lại nghĩ rằng: Tỉnh thức là bổn phận quan trọng nhất của người mục tử. Tỉnh thức cũng sẽ là điều quan trọng nhất Chúa sẽ phán xét các mục tử. Nguy cơ lớn nhất đối với người mục tử là không còn khả năng nhạy bén với các biến chuyển của sự sống đoàn chiên trong lãnh vực đức tin và văn hoá. Cũng như cơn cám dỗ lớn nhất của người mục tử là bỏ tỉnh thức trước tình hình đức tin và văn hoá, nhất là bỏ tỉnh thức trước sự yếu đuối của chính mình.
Tỉnh thức và cầu nguyện, đó là điều Chúa đã dạy tôi, nhưng tôi còn thiếu sót. Xin Chúa tha tội cho tôi. Xin Hội thánh cầu nguyện cho tôi.
Khi suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay, tôi đã nói với Chúa Giêsu rằng: Lạy Chúa Giêsu, Chúa vừa nói với con, Chúa là Chúa chiên tốt lành. Chúa chiên tốt lành, thích đi tìm những con chiên còn xa Chúa. Vậy lạy Chúa, chính con đây con là một con chiên còn xa Chúa. Con là một con chiên còn nhiều tội lỗi, nhiều tính mê nết xấu, con là một con chiên chưa hoàn toàn tốt theo ý Chúa, xin Chúa hãy thực hiện lời Chúa dạy, lời Chúa hứa mà đến tìm con trở về.
Tôi nói với Chúa như vậy với tất cả tấm lòng chân thành khiêm tốn. Lập tức tôi nghe thấy Chúa trả lời.
Chúa trả lời tôi, bằng sự Người làm cho tôi cảm thấy trong tâm hồn có một sự bình an lạ lùng, bình an sâu thẳm, bình an nhẹ nhàng, một sự bình an không ai trên trần thế có thể đem lại cho tôi. Và qua sự bình an tôi cảm nghiệm thấy, tôi biết Đức Kitô đang đến gần tôi. Ngài đang gặp tôi. Và qua sự bình an này, tôi biết Đức Kitô đang ban cho tôi ơn trở về. Ơn trở về này hệ tại sự tôi gặp được Người, tôi nhận ra Người, nhận ra Người là Chúa Tình Yêu, là Cha giàu lòng thương xót. Quyền năng của Người, không hệ tại ở sự thánh hoá những người đã tốt, mà hệ tại ở sự Ngài cứu độ những kẻ còn chưa tốt, những kẻ còn lầm lạc, những kẻ còn yếu đuối như tôi. Và qua sự bình an tôi cảm thấy trong lòng, tôi tin chắc cái làm cho Thiên Chúa vui, đó là sự chúng ta trở về. Cái làm đẹp lòng Thiên Chúa nhất, làm vinh danh Thiên Chúa nhất, đó là sự chúng ta trở về. Cái có sức truyền giáo, đem người ta về với Thiên Chúa nhất, chính là sự chúng ta trở về với Chúa.
Tôi coi đây là một chân lý cứu độ rất cần cho chúng ta. Chân lý cứu độ này như anh chị em vừa nghe, có thể tóm lại hai điều: Một là nhận biết sự trở về với Chúa là điều làm vinh danh Chúa nhất, là điều làm đẹp lòng Chúa nhất, là điều Chúa muốn hơn nhất. Hai là, để được trở về cần phải có ơn Chúa ban cho. Và Chúa chỉ ban cho những kẻ biết đón nhận với lòng khiêm tốn nhận mình yếu đuối tội lỗi hèn mọn.
Những gì tôi vừa chia sẻ với anh chị em cũng là kinh nghiệm đời Giám Mục của tôi. Chỉ còn mấy ngày nữa là 30 tháng 4. Tôi nhớ ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày tôi thụ phong Giám Mục. Từ ngày đó đến bây giờ, thời gian là 19 năm. Thời gian ấy cũng như phần đông anh chị em đã biết, có nhiều khó khăn, có nhiều thử thách, có lúc thiếu tiền của, có lúc thiếu tự do, có lúc thiếu những phương tiện để phát triển bản thân, gia đình, Hội Thánh và xã hội. Nhưng cũng trong thời gian 19 năm nay, tôi thấy Chúa đã làm rất nhiều điều lạ lùng trong Hội Thánh Việt Nam nói chung, và trong giáo phận chúng ta nói riêng.
Thí dụ, sự phát triển về các cơ sở, sự phát triển số linh mục tu sĩ, nhưng nhất là một sự làm cho tôi ngạc nhiên nhất, đó là sự Chúa làm cho nhiều người trở về với Chúa.
Tôi nhận ra sự kiện này qua những chuyến đi, qua những gặp gỡ, qua những quan sát. Tôi thấy càng ngày người ta càng hướng về Thiên Chúa hơn. Tôi thấy người ta càng ngày càng nhận biết mình yếu đuối hèn mọn, trở nên khiêm tốn. Càng ngày tôi càng thấy người ta có tinh thần phục vụ hơn, người ta trở về với giới luật yêu thương, giới luật căn bản của Đức Kitô, trở về cá nhân, trở về gia đình, trở về tập thể. Và như anh chị em đang thấy, có cả một xã hội Việt Nam lớn lao cũng đang trở về, cũng đang sửa sai, cũng đang nhận lỗi của mình, cũng đang cố gắng làm cho mình tốt hơn về mặt đạo lý. Đó là ơn trở về. Ơn đó làm cho chúng ta cảm thấy phấn khởi, đáng cho chúng ta cảm tạ Chúa hơn hết.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay tới đây, nhìn thấy thánh đường anh chị em đã có công xây dựng lên, tôi thấy đây là một công trình đẹp, có kỹ thuật, nhất là có nhiều công sức, có nhiều thiện chí, có nhiều lòng tốt góp vào, người ở gần, người ở xa. Đây cũng là một dấu chỉ của ơn trở về.
Tôi biết rằng, anh chị em làm ngôi thánh đường này đâu phải cho cá nhân mình, mà làm cho Hội Thánh, cho thế hệ mai sau, cho ích lợi chung. Đó là một ý thức về Hội Thánh mà tôi thấy càng ngày càng phát triển nơi giáo dân địa phận chúng ta hôm nay. Ngay một sự nhiều ân nhân hôm nay có mặt trong thánh lễ này, cũng là một ơn trở về với ý thức Hội Thánh. Hội Thánh là hiệp thông.
Lúc nãy, tôi thấy một số khá đông các em thiếu nhi, cứ lần lượt nối tiếp nhau ra khỏi nhà thờ, và đi sang bên kia sông, qua chiếc cầu trước cửa nhà thờ. Và bây giờ, các em vẫn tiếp tục đi ra, tự nhiên tôi có một cảm tưởng muốn nói với anh chị em, một cảm tưởng mà tôi đã có trong những chuyến đi Âu Châu, đó là chúng ta đang đi vào một cái thời điểm, mà những người lớn tuổi như chúng ta, thì sẽ giữ vững đức tin. Nhưng giới trẻ sẽ bị cám dỗ lìa bỏ Hội Thánh, cũng như lớp trẻ hôm nay, đang bỏ nhà thờ ra đi một cách rất tự do mà không có một sức mạnh nào có thể ngăn cản chúng được.
Đây cũng là một cái dấu chỉ cho tương lai. Khi có nhiều tự do, tự do về xã hội, tự do về kinh tế, tự do về văn minh. Giới trẻ, nếu không được huấn luyện, cũng sẽ dễ đi theo những trào lưu tục hoá, để mất đi những giá trị siêu nhiên của thế hệ trước, để rồi, chỉ còn ở trong Hội Thánh qua cái vỏ của mình, còn tâm hồn thì đã bỏ Hội Thánh.
Tôi nói như vậy với tất cả nỗi băn khoăn của một chủ chiên nhìn về đoàn chiên. Tôi không lo cho anh chị em, những người lớn tuổi, nhưng tôi thật sự lo cho giới trẻ, con em chúng ta. Nó còn non. Nó còn yếu. Xin anh chị em hãy cố làm sao, khi xây dựng thánh đường vật chất đẹp đẽ này, cũng biết xây dựng thánh đường thiêng liêng tâm hồn con cái chúng ta cho thực vững, cho thực đẹp, để dầu có những bão tố nổi lên, tâm hồn chúng nó vẫn đứng vững, vẫn đẹp đẽ, và vẫn tuyên xưng một Thiên Chúa là Cha, Cha Tình Yêu. Và luôn luôn biết trở về với Đức Kitô là chủ chiên tốt lành, chủ chiên duy nhất.
Lạy Đức Kitô xin ban ơn cho chúng con biết trở về. Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp xin gìn giữ họ đạo chúng con. Amen.
Lễ Khánh thành nhà thờ Giáo họ Lạc Điền (kinh Rivera), ngày 24-04-1994
Cuối năm vừa qua, 1990, tôi được may mắn theo đoàn các Ðức Cha Việt Nam sang Vatican.
Chuyến đi này được gọi là chuyến đi Ad Limana. Ðây là dịp thuận lợi để tôi học hỏi thêm. Ðể tài tôi tự chọn cho chuyến đi học hỏi này là Truyền Giáo, cũng gọi là Phúc-Âm-hoá.
Học hỏi trong một chuyến đi là xem, nghe, đọc và suy nghĩ, cầu nguyện trên các dữ kiện. Học hỏi như thế là một hành trình nội tâm, đàng sau cuộc hành trình bên ngoài. Trong dịp Tĩnh tâm này, tôi xin chia sẻ với anh em cuộc hành trình nội tâm đó của tôi. Sự chia sẻ bao giờ cũng thân tình. Tôi sẽ vắn gọn, trên mỗi trường học của tôi.
Trường học thứ nhất của tôi là hai thánh tông đồ Phêrô, Phaolô và một vài vị thánh khác.
Trong tháng 11/1990, tôi đã nhiều lần đến viếng mộ thánh Phêrô, và thánh Phaolô ở Rôma. Tôi đã suy nghĩ về cuộc đời hai Ðấng thánh. Các ngài đã là những con người trở về, và đã làm cho biết bao người trên khắp thế giới trở về.
Ngày 30/11/1990, ngày giỗ Cha Charles de Foucauld, tôi đồng tế tại nhà thờ thánh Augustin ở Paris. Tôi cũng đã suy nghĩ về cuộc đời của thánh Augustin. Ngài đã là con người trở về, và đã giúp cho vô số người trở về.
Tối khuya cùng ngày 30/11/1990, tôi đến viếng chiếc toà giải tội lịch sử còn giữ tại nhà thờ thánh Augustin. Chiếc toà giải tội này rất cũ kỹ, có mang tấm bảng ghi hàng chữ sau đây: “Tại toà giải tội này, Charles de Foucauld đã xưng tội với Cha Huvelin, và đã được ơn trở lại”. Chiếc toà giải tội này đã gợi ý cho tôi suy nghĩ về cuộc đời Cha Charles de Foucauld. Ngài đã là con người trở về và đã lôi kéo được đủ mọi hạng người trở về.
Ngày 1/12/1990, tôi đi Lisieux. Sau khi dâng thánh lễ tại dòng Kín Carmel, tôi đến xóm Buissonnets, vào viếng ngôi nhà mà thánh nữ Têrêsa đã ở, trước khi đi tu. Phòng nào, đồ vật nào tại đây cũng gợi lên sự trong trắng dễ thương của Têrêsa. Vào phòng khách, tôi nhìn qua các tấm ảnh cô bé Têrêsa, và tự nói với chính mình: Ít ra là lần này, tôi được viếng thăm nhà một vị thánh không bao giờ cần trở lại. Nhưng đang khi tôi bước lên cầu thang với những ý nghĩ vẩn vơ như vậy, thì tôi nghe tiếng người dẫn đường nói: “Chính tại đây, một đêm Noel, Têrêsa đã được một ơn lớn lao mà thánh Têrêsa gọi là ơn trở lại. Bởi vì chính khi Têrêsa nhận quà Noel đêm đó, với những lời nhắn nhủ của người cha nhân từ, Têrêsa đã được ơn bước vào giai đoạn mến Chúa một cách trưởng thành hơn".
Qua các cuộc hành hương trên đây, tôi càng nhận thấy rõ các vị thánh của tôi đều là những người trở về. Không phải chỉ trở về một lần, mà là trở về nhiều lần, trở về từng bước, luôn mãi, trên suốt cuộc đời. Ðó là những sự thực chứng minh một sự thực chung. Sự trở về là một tiến trình liên tục, áp dụng cho bất cứ ai.
Thực vậy, trên nguyên tắc, con đường trở về có ba quãng. Quãng một là tình trạng lầy lội u tối của tội lỗi và không tin. Quãng hai là quyết tâm bỏ tội lỗi và tin vào Chúa. Quãng ba là những bước đi sáng sủa tới bậc trọn lành. Nhưng trên thực tế, ba quãng đường này thường chen kẽ nhau. Bởi vì đang khi ta quyết tâm bỏ tội lỗi, và ngay cả khi ta đi tìm sự trọn lành, ta vẫn thường có lúc phạm tội. Hơn nữa, trong ta vẫn còn nhiều vùng sâu dưới quyền các thần tượng chống phá Thiên Chúa. Ðó là các khuynh hướng xấu như đam mê danh vọng, địa vị, tiền bạc, vui thú xác thịt thế gian. Cũng có thể là xem qua, thì toàn thể con người ta đã thuộc về Thiên Chúa, nhưng xem kỹ, thì Thiên Chúa ấy không phải là Thiên Chúa của Phúc Âm, mà là một Thiên Chúa do não trạng của ta nhào nặn ra theo sở thích của mình, một Thiên Chúa kiểu “Idole domestique” hẹp hòi và tính toán. Cũng có thể là xem qua, thì toàn thể con người ta đều có vẻ mang sự sống đức tin, nhưng kiểm tra kỹ, ta thấy nhiều tầng lớp tâm sinh lý trong ta vẫn cực kỳ phản động đối với đức tin. Trong ta, vẫn còn nhiều vùng ngoại đạo, vẫn còn nhiều chỗ chưa được hoàn toàn Phúc Âm hoá.
Có lần thánh Phêrô đã trình với Chúa Giêsu một ý kiến rất đạo đức. Nhưng Chúa Giêsu đã cho biết ý kiến ấy không do ơn Chúa soi sáng, mà do xác thịt đó thôi. Như thế có nghĩa là ngay cả trong lời nói đạo đức, với ý hướng đạo đức, nơi người rất đạo đức như thánh Phêrô, vẫn có thể ẩn tàng những động lực không phải là ý Chúa. Vẫn còn chỗ xa Chúa, cần phải trở về.
Sự trở về đã được các vị thánh của tôi cảm nghiệm như thế nào?
Nhìn sâu vào sự kiện trở về của thánh Phêrô, thánh Phaolô, thánh Augustin, cha Charles de Foucauld và thánh nữ Têrêsa, tôi thấy sự trở về của các ngài đã được các ngài cảm nghiệm như một sự đổ vỡ những gì đã cũ, và bắt đầu mọc lên những gì rất mới.
Những gì đã cũ, đó là não trạng cũ, nếp sống cũ, tình cảm cũ, cách suy nghĩ cũ, cũng có thể là toàn thể cái tội cũ. Trong chốc lát, các vị thánh ấy cảm thấy như tất cả những cái cũ ấy bị sụp đổ tan tành, nhưng đồng thời lại mọc lên những cái mới, cái tôi mới, sự sống mới, hướng đi mới, thao thức mới.
Sự trở về như vậy không hẳn là kết quả của những điều dốc lòng, mà cũng không hẳn là kết quả của những nỗ lực kéo dài, mà rõ ràng là do ơn Chúa. Ơn cứu độ của Chúa tràn vào con người của họ, tác động trên họ, xâm nhập vào các tài năng của họ. Các ngài nhận thấy thực rõ chân lý Phúc Âm này: Không có ơn Chúa sẽ không có sự trở lại.
Những lúc ấy, tình yêu cứu độ được tỏ hiện ra như một sức mạnh tuyệt vời. Sức mạnh này không đi ngược chiều với sự yếu đuối con người. Nó cũng không phải là một sức mạnh chi viện được thêm vào sức mạnh con người sẵn có. Nhưng nó là một sức mạnh trong sáng ngọt ngào mới mẻ, được đổ vào cái hố sâu những yếu đuối con người, để tẩy rửa, để cứu chuộc, để thứ tha, để làm cho con người nên mới. Sự trở về như vậy là bước của tình yêu Chúa đến với con người, hơn là bước của tình yêu con người đến với Chúa.
Tuy nhiên, con người trở lại không phải chỉ là thụ động. Họ phải chuẩn bị để đón ơn Chúa. Theo tôi, thì các chuẩn bị thông thường là dùng một chiếc thang. Chiếc thang này không dùng để leo lên, nhưng là để bước xuống. Chiếc thang đó là chiếc thang khiêm nhường. Càng bước xuống nhiều bậc, bậc thang khiêm nhường người ta càng dễ trở về với Chúa.
Sự khiêm nhường này hệ tại hai điều: Một là nhận biết mình yếu hèn tội lỗi, hai là hết lòng cậy tin ở lòng thương xót Chúa. Sự khiêm nhường như vậy đã được nhắc nhủ nhiều lần trong Kinh Thánh. Thánh Phaolô rất ý thức điều này, nên có lần Ngài đã khoe ra những yếu đuối của mình, để rồi kết luận: “Chính khi tôi yếu, là lúc tôi mạnh”. Nói thế là rất đúng với Phúc Âm. Theo dõi dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện thì rõ. Người biệt phái coi mình là công chính nên đến trước bàn thờ, ngẩng mặt lên, cao giọng tạ ơn Chúa vì bao việc lành mình đã làm. Còn người thu thuế, nhận biết mình là kẻ tội lỗi, chẳng có công phúc gì, nên đứng cuối nhà thờ, cúi mặt xuống, xin Chúa chỉ một ơn thôi, đó là xin thương xót thân phận khốn cùng của mình. Dụ ngôn kết luận thế nào, thì ta đã biết.
Tới đây, tôi nghĩ tới cuốn sách mới của Cha André Louf, tựa đề: “Au gré de sa grâce”. Trong sách này, có một chỗ tác giả nói về les pécheurs endurcis và les justes endurcis, những kẻ tội lỗi cứng lòng và những người công chính cứng lòng. Kẻ tội lỗi cứng lòng thì dễ hiểu rồi. Còn người công chính cứng lòng là những người đạo đức tự mãn. Họ coi mình chẳng có gì cần phải trở lại. Họ không bước xuống bậc thang khiêm nhường. Họ không có kinh nghiệm về tình yêu Chúa cứu độ thương xót tha thứ. Lòng họ trở nên khô khan cứng cỏi, băng giá, không những đối với người khác, và cũng cả đối với Chúa nữa. Vì thế, loại người công chính cứng lòng rất khó trở về.
Trong một phòng khách Ðức Giáo Hoàng, tôi thấy có một tượng thánh Phêrô bằng đồng đen, đặt trên bệ cao. Có lần tôi tò mò lại gần xem, thì thấy tay ông thánh Phêrô cầm một chùm hai chìa khoá. Tôi tự hỏi: Mở cửa thiên đàng thì một chìa đã đủ, sao phải hai chìa? Và, đột nhiên, một ý tưởng thoáng qua trả lời tôi rằng: Chùm khoá này là để mở lòng người. Kẻ tội lỗi cứng lòng thì một chìa đủ mở. Còn người công chính cứng lòng thì hai chìa chưa chắc đã mở được.
Ðọc Phúc Âm, tôi cũng có cảm tưởng như vậy. Ðối với kẻ tội lỗi như Madeleine, người phụ nữ ngoại tình, người thu thuế, kẻ trộm, thì chỉ vài lời nhẹ nhàng của Chúa, hoặc chỉ vài cử chỉ nhân ái của Người cũng đã đủ để đưa họ trở về. Còn những kẻ công chính, như các thượng tế, các luật sĩ, các thầy biệt phái, được nghe bao nhiêu bài giảng, được thấy bao nhiêu phép lạ, cũng cứ vẫn trơ trơ. Họ không trở về, bởi vì họ không nhận mình tội lỗi. Họ mù mà cứ tưởng mình sáng. Có lần Chúa Giêsu đã nói với họ rằng: “Nếu các ông là những người mù, thì các ông sẽ không có tội. Nhưng đằng này, các ông nói: Chúng tôi thấy chứ! Nên tội các ông còn đó”. Với lời trên đây, Chúa cho thấy: Kẻ nhận mình mù, thì cái mù đó sẽ được cứu chữa. Còn kẻ mù mà cho mình là sáng, thì cái mù của họ vẫn cứ mãi tồn tại. Như vậy cái đáng tiếc nghiêm trọng không phải là sự mình có tội, nhưng là có tội mà vẫn cứ tưởng mình đạo đức.
Kẻ tội lỗi mà mù quáng thì thường do sự yếu đuối của họ muốn trốn tránh ánh sáng sự thực. Còn người đạo đức mà mù quáng thì thường do sự tự mãn của họ cố tình ngăn chặn ánh sáng sự thực. Cái mù nào cũng tai hại cả. Nhưng kẻ tội lỗi mù quáng sẽ được xét xử khoan dung hơn kẻ đạo đức mù quáng. Tôi hiểu như thế, khi nghe Chúa Giêsu cảnh giác các người đạo đức tự mãn cứng lòng. Chúa cho họ biết: Sau này, các người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước họ.
Những suy nghĩ trên đây khuyên tôi nên khiêm tốn đứng vào hàng ngũ những tội nhân, cần phải trở về. Tôi nhớ lại lời thánh Phaolô nói: “Chính vị thượng tế cũng mắc phải yếu đuối tư bề, vì thế cũng như ngài, phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì ngài cũng dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5,1-10). Lời thánh tông đồ trở lại là một Tin Mừng gởi tới tôi và cũng gởi tới mọi anh em linh mục.
Ðọc Kinh thánh và lịch sử Giáo hội, tôi thấy vai trò của những người có trình độ hiểu biết là rất quan trọng.
Ðể khởi sự cứu nguy một nơi, một thời, Chúa thường gởi đến nơi đó, thời đó một số người có những hiểu biết thích hợp. Nhờ những hiểu biết ấy, họ loan báo nguy cơ có thể xảy ra, và dạy cách để vượt qua nguy cơ.
Cũng vậy, để chấn hưng nền đạo đức của một thời đại, Chúa thường gởi vào thời đại ấy những nguồn hiểu biết thích hợp. Những nguồn hiểu biết này đã khơi dậy trong lòng thời đại ấy những hứng khởi mới, những sáng kiến đạo đức mới.
Chuyện các Thánh kính trong thánh 8 cũng nhắc nhở tôi điều đó. Từ các Thánh xa xưa như Gioan Baotixita (29/8), Lôrensô (10/8), Augutinh (28/8), Mônica (27/8), Bênadô (20/8), Ðaminh (8/8), Anphongsô (1/8), cho đến các Thánh gần đây như Gioan Maria Vianê (4/8), Piô X (21/8), Maximilien Kôlbê (14/8), đều có một đặc điểm chung, đó là các Ngài có những hiểu biết cứu độ hợp thời, và đã thực hiện những hiểu biết ấy bằng những phương cách hợp thời.
Những hiểu biết ấy rất đa dạng. Ðể dễ nhận dạng, và cũng để giúp nhớ, người ta nêu lên năm loại hiểu biết sau đây:
1/ Những hiểu biết do Thần học
Hiểu biết do Thần học là những hiểu biết do các tài liệu thần học cung cấp. Nó được đúc kết do truyền thống Công Giáo, cộng với những suy tư của các nhà thần học và những hướng dẫn của quyền giáo huấn Hội thánh. Trong thần học có những cái bất biến và có những cái chuyển biến. Thần học thời thánh Augutinh và thần học thời thánh Maximilien Kôlbê rất giống nhau và cũng rất khác nhau, nhất là trong cái nhìn về Hội thánh.
Thời thánh Bênadô, nếu dân Công Giáo, dựa theo những hiểu biết thần học lúc ấy, đã coi việc kéo nhau đi đánh đuổi và tầm nã những kẻ chống đối đạo mình là việc đạo đức, thì một quan điểm như vậy có thể hợp cho thời đó, nhưng không hợp với thời thánh Maximilien Kôlbê. Vị thánh này đã có những hiểu biết mới do thần học thời Ngài, nên đã chọn một cách mới để làm chứng cho Chúa. Cách mới đó là yêu thương con người cho đến cùng.
2/ Những hiểu biết do ơn Ðức tin
Hiểu biết do ơn đức tin là những hiểu biết không do trường lớp hay sách báo nào cung cấp, nhưng do đức tin siêu nhiên. Loại hiểu biết này thường hay gặp nơi những người quen sống thân mật với Chúa bằng niềm tin sống động.
Khi thánh Gioan Baotixita và thánh Gioan Maria Vianê chọn cho mình nếp sống khổ hạnh và cầu nguyện, thì sự lựa chọn ấy, và sự kiên trì trung tín với sự lựa chọn ấy, là do ơn đức tin. Ơn đức tin đã làm cho các Ngài nhìn thấy rõ giá trị vô vàn của việc cầu nguyện và khổ chế. Chỉ có ơn đức tin mới làm cho các Ngài nhìn thấy rõ việc truyền giáo là việc phải giành giật từng linh hồn khỏi tay Satan, và phải giành giật bằng sức mạnh của Ðức Kitô, Ðấng gánh tội, xoá tội, đền tội cho nhân loại.
Những hiểu biết đã hướng dẫn lòng mẹ nơi thánh Mônica cũng là những hiểu biết do ơn đức tin. Ðang khi nhiều bà mẹ tỏ ra lơ là với việc giáo dục đạo đức con cái, cứ thấy con mình học cao, chức lớn, thì hả hê rồi, thì bà Monica không ngừng làm đủ cách để đưa con mình trở về đàng nhân đức. Ðúng là vì có một đức tin rất sâu sắc, nên bà thấy rõ được thực chất lời Chúa phán xưa: “Ðược mọi sự thế gian mà mất linh hồn, nào được ích gì”.
3/Những hiểu biết do ơn Tiên tri
Hiểu biết do ơn tiên tri là những hiểu biết cho thấy trước những gì đang đến và sắp đến về Nước Trời. Những hiểu biết này Chúa thường thông ban cho các người thiện tâm thiện chí, tha thiết muốn đưa mọi người vào đời sống hạnh phúc của chân lý và tình thương.
Khi thánh Gioan Baotixita thấy tình hình tôn giáo thời Ngài đã bị biến chất trầm trọng, do tinh thần Pharisêu câu nệ hình thức luật lệ, đề cao của cải, biến tôn giáo thành quyền lực chính trị, thì Ngài loan báo một sự đổi mới giúp đón nhận Nước Trời, đó là tin theo Ðức Kitô, Ðấng đang ở giữa dân mà dân không biết. “Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá tội trần gian”.
Hiểu biết đó của Gioan là do ơn tiên tri.
Khi thánh Ðaminh nhận thấy cảnh tôn giáo suy đồi đang tràn lan như cơn dịch. Ngài đã khơi lên một luồng gió mới có tính cách thanh luyện, đó là qui tụ một số người thiện chí quyết tâm sống khó nghèo, tinh khiết và vâng lời. Số người này cùng với phép lần hạt Mân côi, đã thắp sáng lên đức ái, giúp mở cổng Nước Trời. Hiểu biết đó của thánh Ðaminh là do ơn tiên tri.
Khi thánh Anphongsô nhận thấy đám đông dân nghèo bị bỏ rơi, Ngài đã tập trung hoạt động mục vụ về hướng đó. Với lòng mộ mến Thánh giá và từ bỏ mình, Ngài hăng say rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó. Rồi nhìn về tương lai, Ngài đã lập dòng Chúa Cứu Thế. Hiểu biết đó của thánh Anphongsô là do ơn tiên tri.
4/ Những hiểu biết do ơn đoàn sủng
Hiểu biết do ơn đoàn sủng là những hiểu biết Thánh Thần ban cho, không vì phần rỗi của cá nhân nào, mà vì lợi ích chung Hội thánh và nhân loại.
Thí dụ, thánh Piô X nhìn thấy trong Giáo hội, có nơi não trạng giáo sĩ bị ô nhiễm bởi tinh thần Modernisme, và có nơi đời sống tôn giáo còn nặng di sản Jansénisme, nên một đàng Ngài buộc các giáo sĩ phải tuyên hứa không chấp nhận Modernisme, và một đàng Ngài cải cách luật rước lễ lần đầu. Việc làm của Ngài, và những hiểu biết trên đây của Ngài, là do ơn đoàn sủng.
Rồi, thí dụ thánh Lôrensô, khi bị vua quan thẩm vấn về tài sản Hội Thánh, Ngài đã chỉ vào đám dân nghèo mà nói: “Ðây là tài sản Hội thánh”. Câu trả lời đó cho thấy tình yêu tha thiết Ngài dành cho con chiên, nhất là kẻ nghèo. Ðối với Ngài, cái vốn quý nhất của Hội Thánh chính là con người. Hiểu biết như thế là do ơn đoàn sủng. Khi sự hiểu biết đó được loan đi, thì mọi người trong cộng đoàn tín hữu đều nức lòng, phấn chấn, và người ngoài Hội thánh đã tỏ lòng thán phục.
Rồi, thí dụ thánh Gioan Maria Vianê, khi muốn đổi mới họ đạo của mình, đã khởi sự từ chính mình, và bằng một nhóm nhỏ năng viếng Mình Thánh, lần chuỗi Mân côi và đọc kinh chiều. Hướng đổi mới đó chứng tỏ Ngài có những hiểu biết do ơn đoàn sủng.
5/ Những hiểu biết do theo dõi tình hình đời đạo
Ðọc các tài liệu của các Thánh kính trong tháng này để lại, như các bài giảng, các sách, các thư từ, người ta thấy được phần nào những gì đã xảy ra trong đạo, ngoài đời, thời các Ngài. Ðúng là các Ngài đã đồng hành với chương trình cứu độ. Các Ngài là những kẻ đánh cá thiêng liêng, không những biết lưới, rành mồi, mà cũng biết nơi nào, lúc nào nên thả lưới, và cũng biết chỗ nào, lúc nào hay xảy ra giông bão. Các Ngài là những kẻ gieo trồng thiêng liêng, không những biết lựa giống mà cũng biết những thửa đất mình sẽ gieo trồng, biết các thời vụ, biết các phân bón, biết các loại sâu rầy và các bệnh phá hoại mùa màng. Có nghĩa là các vị Thánh của chúng ta, không phải là những người chuyên bảo vệ các nguyên tắc lý thuyết ở trong pháo đài, mà là những người luôn lên đường, đến với con người, để phục vụ họ, để cứu độ họ, với những hiểu biết về họ, về hoàn cảnh của họ, về xã hội của họ.
Trên đây là tóm lược các loại hiểu biết đã hướng dẫn các vị Thánh của chúng ta, trên đường tu đức và truyền giáo. Những hiểu biết ấy là những sự thực cần thiết và hữu ích, để soi sáng đường hướng tu trì và mục vụ.
Kinh nghiệm hiện nay cho thấy: Bất cứ cộng đoàn nào, dù đạo dù đời, dù nhỏ dù lớn, nếu cứ lẩn quẩn trong những hiểu biết hẹp hòi, lệch lạc, lỗi thời, sẽ không thể nào tiến lên được. Ðó là một hiểu biết sơ đẳng nhất, nhưng cần có nhất.
Hiểu biết sơ đẳng đó, cũng như bản liệt kê các loại hiểu biết trên đây của các Thánh, thúc giục ta tự kiểm điểm chính mình. Nếu sau khi xét mình, ta thấy ta đã lỗi lầm, và còn nhiều thiếu sót trong phạm vi hiểu biết, thì sự hiểu biết chân thành như vậy về mình, chính là một sự hiểu biết rất đẹp ý Chúa.
Tuy dù các phương diện trau dồi hiểu biết còn bị hạn chế, nhưng
nếu chúng ta biết tận dụng các phương tiện có trong tầm tay, thì kho hiểu biết trong tâm trí ta, sẽ mỗi ngày mỗi phong phú thêm. Cụ thể, tôi muốn nói tới các bài thần học của Cha Thân Văn Tường. Nên đọc đi đọc lại. Những bài như vậy với những suy tư riêng của ta được nội dung các bài đó gợi ý, sẽ dần dần giúp cho ta có được những tư tưởng, và những thao thức có chất lượng hơn, hợp với chức năng của ta hơn.
Nhất là, tôi muốn nói tới một trường lớp quan trọng, có khả năng cho ta rất nhiều hiểu biết quý giá. Trường lớp đó là Chúa Giêsu. Hãy năng sống bên Người, sống thân thiết thường xuyên với Người, rồi sẽ thấy Người thông ban cho ta những hiểu biết mà ta không học được ở bất cứ ai, ở bất cứ sách nào. “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”. Không bao giờ tôi thấy lời Chúa khuyên dạy đó, cần được nhắc đến bằng lúc này.
Thánh lễ hôm nay có một quang cảnh đặc biệt. Bởi vì trong thánh lễ này có sự hiện diện của nhiều cặp hôn nhân. Thánh lễ hôm nay cũng có một ý nghĩa đặc biệt. Bởi vì trong thánh lễ này, tất cả chúng ta sẽ cầu nguyện cho đời sống các gia đình được an vui, hạnh phúc. Đời sống các gia đình bề ngoài, coi như giống nhau, nhưng thực sự rất khác nhau. Mỗi người chúng ta đều đã có những kinh nghiệm riêng. Khi nhìn lại những kinh nghiệm đó với con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy đâu là ơn của Chúa và đâu là hy vọng của những ngày còn lại đời ta.
Riêng tôi, để góp phần vào những kinh nghiệm gia đình của anh chị em hôm nay, tôi xin chia sẻ hai kinh nghiệm mà tôi nhận được trong chuyến đi nước ngoài vừa qua.
Kinh nghiệm thứ nhất là kinh nghiệm về một người chồng, người cha.
Tôi đến Đức ngày thứ bảy, thì hôm sau Chủ Nhật, tại nhà thờ tôi đang tĩnh tâm, có tổ chức một lễ Rửa Tội cho đứa bé. Tham dự thánh lễ giờ ấy chỉ chừng 50 người, nhưng toàn là thân nhân của đứa bé. Sau thánh lễ, là bữa tiệc mừng của gia đình, được tổ chức cách nhà thờ chừng 10 cây số. Cha sở và tôi được mời đến tham dự. Qua trao đổi, truyện vãn với các người trong gia đình, tôi được biết người đứng tổ chức cuộc lễ hôm nay là ông nội đứa bé.
Ông có 5 người con, 4 đứa đã lập gia đình. Tôi thấy tất cả đều rất thuận hoà. Sau bữa ăn, chúng tôi được mời đến một nhà nguyện gần đấy để cầu nguyện. Bắt đầu cha sở đọc Phúc Âm, rồi các người trong gia đình chia sẻ Lời Chúa. Tiếp đó, là gia đình hát những bài thánh ca chúc tụng Thiên Chúa và dâng mình cho Đức Mẹ. Kết thúc là phép lành của Đức Giám Mục hiện diện.
Tôi hỏi ông chủ nhà: “Lý do nào ông tổ chức lễ Rửa Tội cho đứa cháu của mình một cách trang trọng như vậy?”. Ông trả lời tôi: “Con làm như vậy, là để có dịp cho tất cả các con, các cháu, và những người thân có dịp gặp nhau, gắn bó với nhau. Và cũng là dịp để các con, các cháu của con, có dịp liên hệ với cha sở, có dịp gắn bó với họ đạo, và nhất là để gia đình con biết mở ra về phía Chúa, gắn bó với Chúa”.
Tôi hỏi thăm cha sở, thì cha sở cho biết: Gia đình này không giàu có, không có địa vị nào, nhưng rất có lòng đạo, đức tin sâu sắc. Hạnh phúc của họ là thương yêu nhau. Hạnh phúc của họ là tham gia các sinh hoạt trong Hội Thánh và các việc truyền giáo.
Hiện giờ, tôi biết ông ta cùng các con, mỗi tháng trích ra tiền lương của mình, để yểm trợ cho dự án huấn luyện các nữ tu tại một giáo phận ở Phi Châu. Tôi có cảm tưởng là một người giáo dân ấy đang làm tông đồ cho cả một vùng bề ngoài đang dửng dưng với Thiên Chúa. Đó là kinh nghiệm thứ nhất.
Kinh nghiện thứ hai của tôi là kinh nghiệm về một người vợ, một người mẹ mà tôi gặp ở bên Pháp vừa qua.
Bà có một hoàn cảnh rất đau đớn. Bà kết hôn với một người chồng ly dị, chúng ta gọi bà là một người ở trong tình trạng rối rắm. Bà nói với tôi là bà rất đau khổ về tình trạng rối của bà. Mỗi lần thấy người con gái của mình và những người khác lên rước lễ, còn bà thì quỳ ở dưới, bà rất đau khổ. Nhưng bà nói rằng: “Giờ ấy, con cầu nguyện rất sốt sắng, xin Chúa đoái thương đến con, đến những người trong hoàn cảnh khổ đau như con. Con dâng sự đau đón của con cho Chúa. Xin Chúa giúp đỡ giải quyết trường hợp của con”. Bà là một người rối, nhưng lại là một người hay lui tới cầu nguyện trong nhà thờ và dự thánh lễ hơn nhiều người khác. Hơn nữa, bà còn là người rất nổi tiếng, vì đã tham gia tích cực các sinh hoạt họ đạo và Hội Thánh ở vùng đó.
Cha sở nói với tôi về bà thế này: Bà là một dấu chỉ.
Dấu chỉ thứ nhất là sự bà khiêm tốn thẳng thắn, nhận mình có tội, không lên rước lễ. Dấu chỉ ấy nhắc nhở cho những người hay lên rước lễ hãy tự xem xét mình có xứng đáng không?
Dấu chỉ thứ hai là sự bà năng lui tới cầu nguyện, tham dự thánh lễ và tham gia các sinh hoạt tôn giáo, khiến cho những người trong hoàn cảnh như bà thấy rằng: Mình tuy tội lỗi, nhưng vẫn có chỗ đứng trong Hội Thánh, mình đừng tự loại trừ mình ra khỏi Hội Thánh.
Dấu chỉ thứ ba là sự bà thẳng thắn với lương tâm của mình và cố gắng làm việc lành. Tính cách đó đã kêu gọi những người trong họ đạo nên có một thái độ tế nhị đối với bà, và biết mở ra, để biết sống tế nhị kính trọng đối với những người ngoài Công Giáo, đối với những người trong hoàn cảnh rối rắm. Bà tâm sự với tôi: “Con sống trong tình trạng rối, con cầu nguyện và con cảm thấy rất thắm thía lời Chúa phán xưa: “Cha đến không phải cho những người công chính, mà Cha đến cho những người tội lỗi như con”. Và kết quả, là trước đây chồng bà rất ác cảm với Hội Thánh. Bây giờ, ông ta có thiệm cảm với đạo Chúa và còn khích lệ bà tham gia các việc trong họ đạo.
Anh chị em thân mến,
Qua hai kinh nghiệm trên đây, tuy rất khác nhau, nhưng đều nói với tôi điều này, đó là ơn quí nhất của một người nhận được từ Thiên Chúa, không phải là mình đã làm được cái gì, mà chính là đã gặp được Đức Kitô, đã nhìn thấy Đức Kitô là ai đối với mình. Đức Kitô đối với họ, chính là Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót. Họ nhìn thấy Đức Kitô trong nội tâm, trong đời sống của mình. Đó là điều an ủi nhất của họ. Đó là hy vọng lớn nhất của họ. Đó là quà tặng quí giá nhất Chúa gởi cho họ. Đang khi, như bài Phúc Âm hôn nay đã nói: Nhiều người nghe về Thiên Chúa mà không hiểu, nhiều người đến dự thánh lễ mà không gặp được Đức Kitô, thì Chúa lại ban cho một số người gặp được Đức Kitô, hiểu được Đức Kitô, coi Ngài là hy vọng của đời mình, là Đấng Cứu Độ của đời mình.
Tôi thiết tưởng sự thật ấy rất đúng và đang thực hiện nơi anh chị em. Tôi cũng đã gặp nhiều người trong anh chị em có những cái kinh nghiệm như những người tôi mới nói. Và khi đã gặp được Đức Kitô, khi đã nhìn thấy dung mạo của Đức Kitô, anh chị em đã sống trọn vẹn cho niềm tin, để niềm tin ấy giúp cho mình, cho con cháu mình được vững vàng trong bể khổ đời này.
Trong thánh lễ hôm nay, nếu có điều gì ta cần phải tạ ơn Chúa hơn hết, thì điều đó là Chúa đã mạc khải cho ta, cho gia đình ta: Đức Kitô là Đấng Cứu Độ, và ta đã gặp được Đức Kitô là hy vọng đời ta. Rồi nếu có điều gì ta cần cầu nguyện hơn hết trong lễ hôm nay, cho chính mình, cho con cháu của ta, thì điều đó là xin Đức Kitô hãy mở mắt linh hồn ta, để ta nhìn thấy Người, để ta gặp được Người, để ta cảm được tình yêu của Người. Thiết tưởng đó là điều bảo đảm chắc chắn nhất cho hạnh phúc gia đình chúng ta.
Lễ Hấp Hôn tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, dịp lễ thánh Gioakim và Anna, ngày 26-07-1994
Trong bài Phúc Âm hôm nay, có một lời như sau: Chúa Giêsu thấy đám đông, người động lòng xót thương và chữa lành nhiều người bệnh tật trong họ”. Khi đọc lời Chúa trên đây, tôi đã nói với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Chúa Cứu Thế, xưa khi nhìn thấy dân chúng đông đảo, Chúa đã xót thương, và Chúa đã chữa lành nhiều người bệnh tật trong họ. Hôm nay, chúng con là một cộng đoàn đông đảo, xin Chúa xót thương chúng con, và nhất là xin hãy chữa lành những bệnh tật về tâm hồn chúng con. Con tin rằng, Chúa đã chữa lành nhiều bệnh tật phần xác, thì Chúa cũng sẽ có thể chữa lành nhiều bệnh tật về tâm hồn. Chúng con có rất nhiều bệnh tật về tâm hồn, rất nặng, rất khó trị. Xin Chúa thương xót chữa lành chúng con”.
Tôi nói với Chúa như vậy, và Chúa trả lời trong lòng tôi rằng: “Đúng như con nói: Cha có thể chữa lành các bệnh tật phần xác. Cha cũng có thể chữa lành các bệnh tật về phần linh hồn. Nhưng, chỉ những ai biết đón nhận ơn phúc lành chữa bệnh của Cha thì mới khỏi bệnh được”.
Những lời Chúa soi sáng trong lòng tôi đây là một sự thật. Qua lời dạy trên đây, tôi thấy điều quan trọng cho tôi, cho anh chị em, để đón nhận được ơn Chúa chữa lành bệnh tật linh hồn. Đó là phải biết đón nhận, phải biết đón nhận ơn Chúa.
Thế nào là biết đón nhận ơn Chúa chữa lành bệnh tật linh hồn chúng ta?
Hôm nay tôi dựa trên kinh nghiệm những người đã được Chúa chữa lành bệnh tật linh hồn, để nêu ra một vài việc cần thiết nhất gọi là để giúp chúng ta đón nhận ơn Chúa chữa lành chúng ta.
Theo kinh nghiệm của những người đã được ơn Chúa chữa lành về linh hồn, thì bao giờ việc quan trọng nhất họ phải làm, vẫn là phải nhìn lên Chúa. Nhìn lên Chúa với nhận thức rằng: Chúa là Thiên Chúa giàu tình xót thương. Chúa sẽ cải thiện chúng ta không phải bằng áp lực, bằng những đắng cay, nhưng là bằng sự êm đềm của tình thương. Chúa là một tình thương đợi chờ. Chúa là một tình thương kêu gọi. Chúa là một tình thương kiên nhẫn. Ngài đòi chúng ta cần phải có một số chuẩn bị cần thiết. Khi nhìn lên Chúa, chúng ta sẽ thấy Ngài dẫn dắt chúng ta, giúp chúng ta biết làm những việc cần thiết chuẩn bị đón nhận ơn Chúa. Những việc đó như sau:
Việc thứ nhất cần có để chuẩn bị đón nhận ơn Chúa chữa lành tâm hồn là sự khiêm tốn.
Trong quá trình chữa lành tâm hồn, bao giờ Chúa cũng tập cho linh hồn cảm thấy mình bất lực, cảm thấy mình thất bại, cảm thấy mình xấu xa hèn yếu. Kinh nghiệm về chính mình là bất lực, là tội lỗi, sẽ giúp cho linh hồn không còn tin vào mình, mà chỉ còn tin vào một sức mạnh của Thiên Chúa cứu chuộc mà thôi. Linh hồn sẽ dần dần từ bỏ chính mình, không còn tự hào vào kế hoạch này, kế hoạch kia, như là một phương tiện cứu độ, mà khiêm tốn chỉ nhìn vào Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất của mình. Khiêm tốn, đó là việc thứ nhất được Chúa coi là sự chuẩn bị cần thiết, để đón nhận ơn Chúa chữa lành tâm hồn.
Việc thứ hai là Chúa tập cho linh hồn biết vững tin và phó thác.
Trong Kinh Thánh, Chúa dùng miệng tiên tri Isaia mà nói: “Đến thời giờ Ta muốn, Ta sẽ hoạt động rất mau”. Nghĩa là phải chờ đợi thời điểm Chúa muốn. Ta muốn chữa lành tâm hồn ta. Ta muốn chữa lành tâm hồn người khác, nhưng Chúa có thời gian của Chúa, phương cách của Chúa, chúng ta không thể đòi Chúa phải chữa lành chúng ta ngày nào, giờ nào, cách nào. Giờ nào, ngày nào, cách nào Chúa sẽ chữa ta và những người thuộc về ta, thì chỉ một mình Chúa biết. Phần ta, cần phải khiêm tốn tin và phó thác vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa. Thiên Chúa bao giờ cũng rất kiên trì, Ngài không vội vàng hấp tấp và không ai có thể đặt chương trình cho Ngài. Cần phải biết vững tin và phó thác, mặc dầu bề ngoài ta nhìn thấy có những thất bại.
Việc thứ ba Chúa coi là sự chuẩn bị cần thiết, đó là tâm hồn bác ái.
Tôi đã thấy nhiều linh hồn rất vững tin vào Chúa, rất khiêm tốn cậy trông. Nhưng mãi mãi không sao thoát được chứng bệnh tâm hồn của mình. Sau cùng, tôi thấy Chúa đã cho họ nhìn thấy vết thương căn bản của lòng họ. Đó là họ còn thiếu bác ái. Họ chưa tha thứ đủ. Họ chưa tha thứ chân thành. Họ chưa đón nhận sự tha thứ của người khác một cách đơn sơ khiêm tốn. Tha thứ, nhấn mạnh ơn tha thứ, đó là một việc cần thiết để chuẩn bị cho ơn Chúa chữa lành tâm hồn chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Ba việc trên đây có thể được coi là những việc chuẩn bị cần thiết để đón nhận ơn Chúa chữa lành tâm hồn chúng ta và chữa lành tâm hồn của những người thuộc về ta. Cả ba việc ấy cần phải thực hiện đồng thời với cái nhìn của linh hồn hướng về Thiên Chúa tình yêu, không bao giờ rời Thiên Chúa, không bao giờ quên rằng Thiên Chúa là tình yêu cứu độ.
Khi chúng ta nhận thức như vậy, chúng ta mới hiểu rằng lễ Thêm Sức hôm nay chỉ có thể ban ơn thêm sức chữa lành tâm hồn chúng ta bằng những việc chuẩn bị nội tâm. Chúng ta đừng tưởng rằng, Chúa Thánh Thần sẽ xuống trong tâm hồn chúng ta vì chúng ta đứng ngồi nghiêm chỉnh, vì chúng ta giữ lễ nghi đúng đắn, vì chúng ta ăn mặc sạch sẽ, vì chúng ta hát hay. Những cái đó cũng cần, nhưng cái chuẩn bị cần thiết để đón nhận ơn Chúa Thánh Linh chữa lành tâm hồn chúng ta, chính là nhìn lên Chúa, nhìn vào tình yêu của Chúa, với lòng tin, với lòng khiêm tốn, với lòng tha thứ bao dung đối với mọi người.
Giờ đây chúng ta hãy sống những điều mà chúng ta vừa tiếp thu, để cho Chúa Thánh Thần thực sự hôm nay đến đổi mới lòng ta. Tôi nghĩ rằng: Nếu chúng ta có một thiện chí tối thiểu, để biết vâng phục ơn Chúa Thánh Linh thúc giục qua bài giảng hôm nay, qua lễ hôm nay, thì thế nào Chúa cũng sẽ chữa linh hồn chúng ta cách này, cách khác, không những cá nhân mà còn cả gia đình, đoàn thể. Chúng ta chỉ được cứu, khi chúng ta cứu kẻ khác, bằng một đời sống kết hợp và tuân phục thánh ý Chúa, đã được chúng ta tiếp thu ngày hôm nay.
Lạy Chúa Thánh Linh, xin hãy đến và giúp chúng con có những chuẩn bị cần thiết, để đón nhận ơn Chúa chữa lành tâm hồn chúng con. Amen.
Giờ đây, tôi xin chia sẻ với anh chị em một số tâm tư của tôi, khi suy gẫm về một chi tiết nhỏ trong bài Phúc Âm hôm nay. Chi tiết nhỏ đó là: Khi thánh Phêrô cảm thấy mình sắp chìm dưới biển, Ngài kêu cầu Đức Kitô, và Đức Kitô đã đến cầm lấy tay Phêrô, dắt Phêrô đứng lên.
Đây là một hình ảnh gợi ý, giúp cho tôi nhớ tới thân phận của tôi, của anh chị em. Tôi đã nói với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Chúa, con và bao người của con cũng đang ở trong cuộc đời chìm nổi. Xin Chúa hãy đến, cầm lấy tay chúng con, mà dắt đi, để chúng con biết theo đường thánh ý Chúa”.
Tôi nói với Chúa Giêsu như vậy một cách rất thân tình, và Chúa Giêsu trả lời tôi trong lòng: “Đúng như con nói. Con và bao người đang sống trong cuộc đời chìm nổi. Cha sẽ không đưa chúng con ra khỏi cuộc đời này. Nhưng, Cha sẵn sàng cầm tay chúng con, dắt chúng con đi theo con đường thánh ý Chúa, miễn là chúng con biết gặp gỡ Cha, miễn là chúng con biết lắng nghe Cha”.
Qua lời Chúa soi sáng trong lòng tôi, tôi thấy vấn đề trở thành quan trọng đối với tôi, đó là gặp gỡ Chúa, lắng nghe Chúa.
Gặp gỡ Chúa và lắng nghe Chúa thế nào đây?
Theo kinh nghiệm các thánh và những người sống nội tâm, tôi thấy chúng ta có thể gặp gỡ Chúa và lắng nghe Chúa bằng nhiều cách. Nhưng có 3 cách này rất hiệu quả và rất phổ thông.
Cách thứ nhất là hãy đón nhận lời Chúa.
Khi tôi đọc lời Chúa, khi tôi lắng nghe lời Chúa, thì tôi phải đón nhận lời Chúa. Đón nhận thế nào? Thưa là, tay nghe, mắt đọc, nhưng lòng mình nhìn thấy Chúa trước mặt và nhận ra rằng: Chính Chúa đang nói lời ấy với tôi. Rồi cầu xin Chúa Thánh Linh mở lòng ra để ta hiểu được lời Đức Kitô dạy. Bởi vì Chúa Giêsu đã nói: “Chính Thánh Thần sẽ dạy chúng con những điều Thầy đã nói với các con”. Có nghĩa là Đức Kitô nói, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ chúng ta trong lòng.
Khi chúng ta làm như vậy để đón nhận lời Chúa, thì chúng ta sẽ cảm thấy lời Chúa toả ra ánh sáng, tiết ra sự sống và thấm vào tâm hồn ta, vừa dạy dỗ, vừa uốn nắn, vừa thanh luyện để chúng ta cảm thấy chúng ta trở nên mới.
Đón nhận lời Chúa là như vậy, chứ không phải chỉ nghe qua. Khi đón nhận như vậy, chúng ta sẽ thấy bàn tay Thiên Chúa cầm lấy bàn tay ta, để dẫn ta đi theo con đường thánh ý Chúa.
Cách thứ hai là cầu nguyện.
Cầu nguyện là gặp gỡ Chúa, là lắng nghe Chúa. Nhiều người cứ tưởng rằng: Cầu nguyện là nói với Chúa. Cái đó cũng đúng, nhưng không hẳn là đúng. Chủ yếu cầu nguyện là đặt mình trước tôn nhan Chúa, là gặp gỡ Chúa, nhờ Chúa Thánh Linh giúp mình, để nhận ra Chúa là Cha, để nhận ra Đức Kitô là Đấng Cứu Độ. Mà điều này thì thánh Phaolô nói rất rõ: Không ai có thể nói được Đức Kitô là Chúa của mình, nếu không nhờ đến Chúa Thánh Linh. Chính Chúa Thánh Linh đến, làm cho ta thấy mình là con Thiên Chúa, và lúc ấy khi cầu nguyện, con người ta sẽ cảm thấy có một liên hệ mật thiết với Chúa Cha, với Chúa Con, với Chúa Thánh Thần. Và từ đó, cảm thấy một hương vị ngọt ngào của tình yêu Chúa Ba Ngôi. Lúc ấy, con người ta sẽ thấy Thiên Chúa là trên hết, Thiên Chúa là cùng đích. Và bấy giờ, linh hồn cảm thấy như được bàn tay của Chúa dắt dìu để đi đúng thánh ý Chúa.
Cách thứ ba là học hành, tra cứu, tìm hiểu.
Học hành các sự thật tự nhiên, các sự thật tôn giáo. Đó cũng là cách Chúa soi dẫn lương tâm mỗi người. Bởi vì Chúa là chủ các chân lý, những chân lý siêu nhiên cũng như những chân lý tự nhiên. Học về những sự thực con người, học về những chân lý xã hội, học về những chân lý khoa học. Tất cả đều là do Thiên Chúa. Nếu ta học, tra cứu, tìm hiểu với tinh thần làm sáng danh Chúa, mở Nước Chúa, thì Chúa sẽ đến soi sáng lương tâm, để biết chọn lọc cái đúng, cái không đúng, cái nên làm, cái không nên làm. Với sự thực tự nhiên, con người ta nhờ Chúa Thánh Linh, vẫn có thể đạt tới phần rỗi linh hồn.
Anh chị em thân mến,
Sáng nay, đài phát thanh Vatican, có loan đi một nhận xét của một Đức Cha người Ý, từ Việt Nam mới về. Nhận xét đó là: Theo Ngài, nhiều khó khăn của Hội Thánh Việt Nam hôm nay là do nội bộ. Những khó khăn ấy là những khó khăn nội bộ nhiều hơn là những khó khăn ngoại cảnh.
Tôi cho nhận xét đó là đúng. Những khó khăn nội bộ đó là: Tại nhiều nơi trong Việt Nam, người ta không đủ khả năng để ứng phó với những vấn đề mới, với những hoàn cảnh mới, với những thách thức mới. Không đủ khả năng, bởi vì không chuẩn bị kịp, không huấn luyện đúng, không có cán bộ trong tôn giáo từ trên xuống dưới.
Nhiều khi tôi có cảm tưởng rằng: Nhiều cuộc lễ được tổ chức rất trọng thể, đông đảo. Nhưng hình như Chúa vẫn là một bóng mờ. Chúa vẫn vắng mặt. Cộng đoàn vẫn có không bàn tay Thiên Chúa dẫn dắt. Bởi vì thiếu học hành, thiếu tra cứu, thiếu đón nhận lời Chúa, thiếu cầu nguyện. Và những điều kiện ấy hình như đã trở thành thói quen.
Tại Rạch Giá đây, phải nói rằng: Các cha và những người cộng tác của các cha đã giúp cho cộng đoàn của anh chị em đang đi theo con đường thánh ý Chúa. Học hành, đón nhận lời Chúa, và biết cầu nguyện. Tuy nhiên, chúng ta không nên tự mãn về những kết quả nhỏ nhoi đó. Chúng ta cần phải bám vào Thiên Chúa nhiều hơn. Cần phải biết đón nhận, gặp gỡ Chúa nhiều hơn. Cần phải biết lắng nghe Chúa nhiều hơn trong tâm hồn mình, khi đọc lời Chúa, khi cầu nguyện, khi học hành, tiếp xúc, tra cứu, tìm hiểu.
Tương lai trước mặt chúng ta sẽ khó khăn. Tôi nói lại: Tương lai trước mặt chúng ta sẽ rất khó khăn, nhất là về mặt tôn giáo, đức tin.
Vì thế, nếu chúng ta không để cho bàn tay Chúa cầm bàn tay ta dẫn dắt, tôi sợ có ngày chúng ta sẽ mất đức tin, sẽ suy giảm đức tin. Đây là những tâm tình chân thành nhất tôi chia sẻ với anh chị em.
Thánh lễ hôm nay, tôi cầu Chúa Thánh Linh đến với chúng ta, vào trong tâm hồn chúng ta và làm chủ tâm hồn chúng ta. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại một câu chuyện nhỏ: Khi Chúa Giêsu đến miền Tirô và Siđôn, thì một người đàn bà ngoại giáo đến nói với Chúa: “Lạy thầy, xin thương xót con, bởi vì con có một đứa con gái bị quỷ ám, quỷ hành hạ nó khốn cực lắm”. Chúa Giêsu coi như làm thinh. Sau đó, nể lời bà, nhất là vì thấy bà có lòng tin, Chúa đã chữa lành đứa con gái bị quỷ ám.
Khi tôi đem chuyện trên đây áp dụng vào tình hình hiện nay, thì tôi cảm thấy mình lạc quan. Bởi vì tôi thấy hiện nay, số người bị quỷ ám rất ít. Thế nhưng, niềm lạc quan của tôi vừa bùng cháy, thì lập tức bị giảm đi. Bởi vì Chúa cho tôi nhìn thấy, những hình thức mới mà ma quỷ đang ám vào người ta, trong thời đại này.
Xưa, ma quỷ ám con người một cách thô bạo, rất dễ nhận thấy. Còn bây giờ, ma quỷ ám vào con người một cách tinh vi, khó mà nhận thấy được. Trước kia, ma quỷ ám vào con người, rồi hành hạ con người cho thật cực khổ. Còn bây giờ, ma quỷ ám vào con người và làm cho con người cảm thấy mình sung sướng, hạnh phúc. Trước đây ma quỷ ám con người một cách kém văn minh. Bây giờ nó ám con người một cách văn minh.
Những hình thức mới mà ma quỷ ám vào con người hôm nay, đó là tinh thần phản Phúc Âm. Thí dụ như tinh thần ích kỷ, tinh thần kiêu căng, tinh thần hưởng thụ, tinh thần lười biếng bê tha, tinh thần chia rẻ hận thù.
Khi những tinh thần xấu đó ám vào con người, nó sẽ chỉ huy, sai khiến con người, thống trị con người. Lúc bấy giờ, có thể gọi con người ấy là bị quỷ ám, tức là bị tinh thần xấu của ma quỷ cai trị và hoành hành trong lòng. Chỉ có những ai có ơn Chúa Thánh Thần mới có thể phân biệt được, đâu là tinh thần xấu của ma quỷ ám vào con người, và đâu là tinh thần của Đức Kitô hướng dẫn con người.
Phân định được xấu và tốt trong con người hôm nay không phải là chuyện dễ nếu không có ơn phân định của Chúa Thánh Linh. Và trừ được tinh thần xấu của con người hôm nay càng khó hơn. Không phải chỉ là học giáo lý, biết Thánh Kinh là có thể trừ được tinh thần ma quỷ ám vào con người.
Tuy nhiên, mặc dầu tinh thần xấu của ma quỷ hiện nay lộng hành nơi nhiều người, nơi nhiều địa phương, tôi vẫn thấy rằng: Đức Kitô hôm qua trong Phúc Âm, Đấng đã trừ quỷ bằng quyền năng của người, thì hôm nay, vẫn Đức Kitô ấy, vẫn có quyền năng và lòng thương xót, để trừ bất cứ một hình thức xấu xa nào, mà quỷ đang dùng để ám vào con người hôm nay.
Tôi cũng nghĩ rằng: Trong thời bây giờ, cũng không thiếu những người đàn bà, những người đàn ông, dù họ là người công giáo, dù họ là người ngoại giáo như người đàn bà Cana hôm nay, không thiếu những người như vậy, đã có những đức tin hồn nhiên, khiêm tốn, và kiên trì, khiến Đức Kitô phải trọng nể, để rồi Người đã làm phép lạ, để trừ quỷ ra khỏi những người mà họ xin.
Riêng trong họ đạo Rọc Lá này, như anh chị em vừa nghe cha sở nói: “Đức tin đã đến đây, qua những con người đơn sơ, mộc mạc”. Họ đạo chúng ta bắt đầu từ một đức tin mộc mạc của những con người đơn sơ hồn nhiên.
Rồi từ lúc đó cho đến bây giờ, đức tin ấy có lúc chìm, có lúc nổi, có lúc bước vào những khó khăn rắc rối, và có những lúc cởi mở, gỡ ra cho khỏi những rắc rối. Rồi từ đó đến bây giờ, đức tin ấy đã truyền lại cho những người hôm nay, hoặc là qua dòng có đạo, hoặc là qua những dòng người lương không có đạo. Nhưng vẫn có một niềm tin nào đó vào Đức Kitô.
Tôi thấy người đàn bà xứ Cana mà người Do Thái gọi là người lương có một đức tin hồn nhiên, khiêm tốn, kiên trì, đã làm cho Chúa nể, để làm phép lạ hồi xưa, thì nay trong chúng ta, cũng có những người như vậy.
Khi nhìn thấy sự kiện trên đây, tôi cảm tạ Chúa. Và tôi có quyền hy vọng: Họ đạo của chúng ta, tuy rằng vẫn còn nhiều giới hạn, nhưng vẫn không thiếu hy vọng, một hy vọng là quà tặng của chính Thiên Chúa. Ngài tặng cho những tâm hồn đơn sơ chất phác. Ngài tặng cho những người hướng về tạo hoá, hướng về thượng đế như là một cứu cánh, như là một hạnh phúc, như là một điểm tựa của đời mình.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi sẽ cùng với cha sở, cùng với tất cả các cha, cũng như anh chị em, người có đạo cũng như người lương nhưng cùng một đức tin, để chúng ta xin cho địa phương chúng ta, cho con cháu chúng ta được những yếu tố mới. Yếu tố mới đó là, sức mạnh của đức tin, tin vào một Đấng yêu thương chúng ta, tin vào một Đấng sau này sẽ gặp chúng ta khi chúng ta qua đời, tin vào một Đấng luôn luôn nhìn thấy và kiểm điểm từng giây phút, từng hơi thở, từng việc làm của chúng ta, khi chúng ta làm, khi chúng ta sống vì người khác, vì đức tin của chúng ta.
Xin Chúa Thánh Thần đến với chúng ta và ban sức mạnh mới cho chúng ta. Amen. Rọc Lá, ngày 03-08-1994
Đọc bài Phúc Âm hôm nay, tôi để ý nhiều nhất đến đoạn cuối. Đoạn cuối thuật lại một chi tiết sẽ là đề tài tôi chia sẻ hôm nay. Khi Chúa Giêsu cho Phêrô biết Người sẽ bị bắt bớ, bị khổ đau, bị giết, thì thánh Phêrô thưa lại: “Xin Thiên Chúa giúp Thầy tránh khỏi những sự đó. Chắc chắn Thầy sẽ không phải trải qua cơn đau khổ ấy”. Nghe vậy, Chúa Giêsu trách mắng Phêrô: “Satan hãy lui lại, đừng cản Ta theo thánh ý Chúa Cha”.
Đoạn Phúc âm trên đây cho tôi thấy rằng: Thánh Phêrô là một người có thiện chí, chỉ vì thương mến Thầy thiết tha, nên đã phản ứng một cách tự nhiên. Và nội dung lời nói của Phêrô đâu có gì là tội lỗi, chỉ là can Thầy đừng đi nạp mình chịu chết. Có thế thôi, nhưng Đức Kitô coi sự Phêrô không thông hiểu thánh ý Chúa Cha, coi sự Phêrô muốn cản ngăn việc thực thi thánh ý Chúa Cha là một lỗi lầm rất lớn.
Thánh ý Chúa, đó là một đề tài được coi là căn bản của Tin Mừng. Phải tìm hiểu thánh ý Chúa. Phải sống theo thánh ý Chúa. Phải chu toàn thánh ý Chúa. Đây là những mệnh lệnh quan trọng có liên quan đến phần rỗi.
Quan trọng thế nào, tôi chỉ đưa ra một lời chứng của Đức Kitô, khi Ngài nói về ngày phán xét. Đức Kitô nói: “Đến ngày phán xét, có những người sẽ nói với Ta rằng: Thưa Thầy, tôi đã nhân danh mà trừ quỷ. Tôi đã nhân danh Thầy mà làm phép lạ. Tôi đã nhân danh mà chữa lành bệnh tật”. Lúc ấy, Ta sẽ trả lời họ: “Ta không biết ngươi là ai. Hãy đi ra khuất mắt Ta”.
Như vậy, những lời trên đây là rất nghiêm khắc. Chúa từ bỏ những người đã có thời nhân danh Ngài mà làm được phép lạ, mà làm được những sự, như chữa bệnh, nói tiên tri.
Thế nhưng tại sao Chúa từ bỏ họ. Là bởi vì những việc ấy Chúa không muốn họ làm. Không muốn họ làm, hoặc là vì lúc ấy, thuở ấy, nơi ấy, chưa thuận tiện, nhưng họ đã cứ làm. Tội của họ là theo ý riêng mình, là không làm theo thánh ý Chúa. Chỉ có thế thôi mà Chúa kết án họ phải lìa xa Chúa.
Thực thi thánh ý Chúa đó là một điều tâm niệm của chúng ta, mỗi lần chúng ta đọc Kinh Lạy Cha. Đạo đức của chúng ta là thực thi thánh ý Chúa. Sự thánh thiện và sự cứu độ của chúng ta, là thực thi thánh ý Chúa một cách trọn vẹn, và với sự từ bỏ chính mình.
Chúng ta phải tìm thánh ý Chúa ở đâu? ở các điều răn Thiên Chúa và Hội Thánh, ở các bổn phận hàng ngày của mình. Có những điều thánh ý Chúa rất rõ rệt. Có những điều thánh ý Chúa mơ hồ, tìm ẩn trong những nguyên tắc, khi cụ thể hoá cần phải tra cứu, cần phải cầu nguyện, cần phải lắng nghe Chúa nói với lòng mình. Trước đây, tôi thấy nhiều nơi phát động phong trào đổi mới. Hôm nay nhìn lại kết quả, tôi phải nói rằng kết quả phong trào đổi mới tại các xứ đạo chúng ta, nói chung là tốt. Nhưng cũng cần phải nói một điều này là tốt về phương diện bề ngoài, còn phương diện bề trong theo thánh ý Chúa, chưa tốt lắm đâu! Đổi mới mà Chúa muốn theo thánh ý Chúa là trở về với Đức Kitô, là trở về với Phúc Âm, là trở về với ơn gọi của mỗi người.
Có một lần khi tôi sang Pháp, tôi đến xứ Ars để viếng mộ thánh Gioan Vienney là quan thầy các cha sở. Quỳ trước mộ thánh Gioan Vienney, tôi cầu xin Chúa giúp tôi biết đổi mới bản thân, và đổi mới những lãnh vực Chúa trao phó cho. Chúa trả lời tôi: “Không phải con đổi mới, mà con phải nhận định lại, Cha mới là người đổi mới”. Có nghĩa là phải biết gặp gỡ Chúa, phải biết lắng nghe Chúa, để chính Chúa sẽ đổi mới bản thân tôi, để chính Chúa sẽ đổi mới những người thuộc về tôi. Đó là chân lý mà Chúa dạy tôi, khi tôi viếng mộ thánh Gioan Vienney. Hãy gặp gỡ Chúa trong thánh lễ. Hãy gặp gỡ Chúa khi suy gẫm lời Chúa. Hãy gặp gỡ Chúa khi làm việc bổn phận của mình. Hãy lắng nghe Chúa nói trong tâm hồn mình. Có biết bao nhiêu điều Chúa muốn dạy ta, nhưng ta đã không lắng nghe, nhưng ta đã không đón nhận. Bởi vì lòng ta quá xôn xao. Ta thiếu sự im lặng. Ta thiếu sự cầm trí. Ta thiếu sự từ bỏ chính mình.
Vì thế, mỗi lần dâng lễ với các cha và anh chị em, tôi thường xin Chúa giúp tôi và tất cả cộng đoàn, cho chúng ta biết gặp được Đức Kitô, biết lắng nghe Đức Kitô, để chính Đức Kitô đổi mới ta theo thánh ý Chúa. Và tôi thấy rằng: Nơi nào cộng đoàn để ý giữ sự thinh lặng nội tâm, từ bỏ mình để gặp gỡ Đức Kitô, để lắng nghe Đức Kitô, và biết đón nhận ơn Chúa Thánh Thần giúp sức, thì cộng đoàn đó có nhưng bước tiến đáng kể trong sự đổi mới chính mình.
Anh chị em thân mến,
Cuộc sống của chúng ta đang phức tạp. Tương lai của chúng ta rồi sẽ còn nhiều phức tạp, sẽ còn nhiều khó khăn cho đức tin. Nếu hôm nay chúng ta không chuẩn bị kỹ cho ta, cho con em của chúng ta về mặt sống đức tin là gặp gỡ Đức Kitô, là lắng nghe Đức Kitô, là để Chúa Thánh Linh đổi mới bản thân, thì chúng ta khó có hy vọng sau này ứng phó nổi trước những khó khăn mới sẽ đến với chúng ta.
Trong thánh lễ này, tôi xin anh chị em hãy hết sức cầm trí lại, gặp gỡ Đức Kitô, lắng nghe Đức Kitô. Xin Chúa Thánh Linh, mở lòng trí chúng ta ra, để chúng ta nhận biết đâu là phải, đâu là trái, và nhận biết Thiên Chúa là Cha, và nhận biết con đường đi về với Ngài qua con đường thánh ý Chúa.
Lạy Chúa Thánh Linh là Thần Chân Lý, là sức mạnh, xin đến với chúng con. Amen.
Được mọi sự thế gian này mà mất linh hồn mình, thì nào được ích gì!”. Đó là một lời Chúa được ghi trong bài Phúc Âm hôm nay. Tôi đã suy gẫm lời trên đây, và giờ đây tôi chia sẻ vắn tắt với anh chị em.
Khi đọc bài Phúc Âm đến lời đó, tự nhiên tôi cảm thấy như Chúa muốn rót lời đó vào lòng tôi. Lời đó dừng lại và tôi thấy ngay Chúa hiện diện trong lời đó. Và lời đó trở thành một sự gặp gỡ giữa Chúa và tôi. Trong gặp gỡ này tôi hỏi Chúa rằng: “Lạy Chúa, phần rỗi linh hồn là cái gì, đến nỗi Chúa đã đặt nó trên một chỗ rất cao. Cao hơn tất cả mọi lợi lộc thế gian này?”. Chúa đã trả lời tôi, ban đầu bằng một cảm nghiệm nội tâm. Chúa cho tôi cảm thấy, Chúa chính là hạnh phúc của tôi, một hạnh phúc sâu sắc, một hạnh phúc lâu bền, một hạnh phúc cao vượt trên hết mọi thứ hạnh phúc trần gian. Và tôi thấy ngay rằng: Khi được chia sẻ hạnh phúc ấy, thì mình thấy: Phần rỗi linh hồn mình nó là như vậy.
Tiếp đó, Chúa cho tôi nhớ lại một lời Kinh Thánh xưa: “Hãy nếm thử và hãy nhìn xem, Thiên Chúa tốt lành dường bao”. Khi các linh hồn nếm được Chúa tốt lành, khi các linh hồn nhìn thấy Chúa tốt lành, thì tự nhiên cảm thấy rằng: Sự mình được ở lại trong sự tốt lành của Chúa, sự mình được chìm đắm trong sự tốt lành của Chúa, sự mình được hoà vào sự tốt lành của Chúa, đó là chính là hạnh phúc đời đời, đó chính là phần rỗi linh hồn. Khi tôi nhìn thấy phần rỗi linh hồn nó cụ thể là như vậy, tôi mới thấy các thánh đã đi con đường rất đơn sơ để giữ đạo, để nên thánh. Mỗi lần tôi tới Pháp, tôi thường đến viếng thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Tôi thấy bất cứ chỗ nào, Têrêxa cũng là một con người dễ thương. Dễ thương ở chỗ: Chị chỉ nói lên một điều vắn tắt: Thiên Chúa là tình yêu. Hãy sống với Thiên Chúa là tình yêu. Hãy làm chứng Thiên Chúa là tình yêu. Hãy chia sẻ tình yêu Thiên Chúa cho những người chung quanh. Đó là đạo đức, đó là con đường thánh thiện, và đó là con đường đi tới phần rỗi.
Rồi, mỗi khi sang Pháp, tôi vẫn thường đến cầu nguyện ở nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu, nơi kỷ niệm sự Thánh Tâm Chúa được mạc khải cho thánh Magarita. Tôi thấy ở đó, Chúa Giêsu chỉ mạc khải có một điều duy nhất: Thiên Chúa là tình yêu. Hãy nhìn trái tim Cha đầy tình yêu thương. Hãy tin vào trái tim đầy tình thương xót. Hãy sống với tình thương xót của trái tim Thiên Chúa. Hãy chia sẻ tình yêu Thiên Chúa cho mọi người chung quanh. Đó là đạo đức, đó là thánh thiện, đó là phần rỗi.
Với những nhận thức trên đây, khi tôi kiểm điểm lại đời sống bản thân và đời sống cộng đoàn tín hữu trong địa phận, tôi thấy điều này là nhiều chỗ, nhiều người, vẫn loay hoay, vẫn lúng túng với những điều phức tạp, không cần thiết lắm, mà chưa đi vào con đường đơn sơ, con đường ngay chính của căn gốc Phúc Âm, của Tin Mừng. Đó là Thiên Chúa tình yêu. Tôi nghĩ đơn sơ là như vậy.
Vì thế, trong thánh lễ hôm nay, tôi xin anh chị em tập trung lòng trí lại, giục lòng mến Chúa cho hết tình, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn. Xin Chúa đổi mới lại cái nhìn của chúng ta. Hãy nhìn Thiên Chúa thế nào? Thiên Chúa là tình yêu. Hãy đổi mới lại hình ảnh của Hội Thánh thế nào? Hội Thánh là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa. Hãy đổi lại cái nhìn của bầu khí cộng đoàn họ đạo chúng ta thế nào? Bầu khí họ đạo của chúng ta phải là bầu khí yêu thương bác ái, toả sáng ra tình yêu Thiên Chúa, toả sáng ra tình yêu tha nhân. Và cái nhìn của chúng ta về ngày phán xét phải thế này. Chúa sẽ phán xét chúng ta căn cứ vào tình yêu. Đơn sơ như vậy, để chúng ta biết phần rỗi linh hồn hệ tại ở cái gì. Rất đơn sơ: Tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với nhân loại. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói đến việc giúp người trong cộng đoàn sửa mình để nên được tốt: Bắt đầu, hãy nói chuyện riêng với họ. Nếu không có kết quả, hãy nhờ nhóm. Và nếu cũng không có kết quả, thì phải nhờ đến cộng đoàn. Khi nghe lời Chúa trên đây, tôi vừa nghĩ đến những người có lỗi cần được đổi mới. Và tôi cũng vừa nghĩ tới những người có bổn phận, hoặc có thiện chí giúp người khác sửa mình. Tôi thấy công việc của cả hai bên đều rất khó. Tôi coi người có lỗi, có thói hư tật xấu, cũng giống như người có bệnh. Chữa bệnh phần xác, nhiều khi dễ hơn là chữa thói hư tật xấu cho những người chung quanh, hay cho chính bản thân mình.
Bởi vì, tôi thấy rằng: Mỗi người chúng ta là một lịch sử riêng. Mỗi tội, mỗi lỗi của ta, mỗi thói hư nết xấu của ta, đều có cội rễ từ rất xa. Thí dụ, từ tính tình, từ di truyền, từ các nền giáo dục đạo đời, từ tình hình sức khoẻ, từ môi trường bạn bè, từ tình hình kinh tế gia đình. Tất cả những cái đó gom lại, trở thành một sức nặng đè trên con người, khiến con người nhiều khi muốn vươn lên cái tốt mà không sau tự mình vươn tới được. Đây là một sự thực bẽ bàng. Chính thánh Phaolô đã có lần tâm sự: “Những điều tốt tôi muốn làm, thì tôi lại không làm. Mà những điều xấu tôi không muốn làm, thì tôi lại làm”. Đó là một kinh nghiệm mà tất cả mọi người chúng ta thường phải trãi qua.
Tuy nhiên, kinh nghiệm cũng cho thấy, mặc dầu trong con người có những thứ đối nghịch nhau, mà thường khi sự ác mạnh hơn là sự thiện. Nhưng, người ta vẫn có thể đổi mới nên tốt được. Người ta vẫn có thể bỏ được tính mê nết xấu, tội lỗi của mình. Nhờ đâu? Thưa nhờ ơn Chúa. Nhiều khi ơn Chúa ban cho chúng ta qua bạn bè, qua nhóm, qua cộng đoàn, như Chúa Giêsu đã cho thấy trong bài Phúc Âm hôm nay: Cộng đoàn, bạn bè, nhóm, ảnh đã có một hưởng rất lớn đối với người có tội!
Tôi thấy, người ta chỉ có thể giúp người khác sửa mình, bằng cách làm cho họ cảm thấy họ được yêu thương. Cần phải có một sự yêu thương chân thành tế nhị, giống như tình thương của Đức Kitô đối với những người tội lỗi như ta. Tình thương chân thành, tình thương tế nhị, khôn khéo, có sức thuyết phục, và làm quên đi những tội lỗi, những thói hư nết xấu, để thay thế vào đó những nhân đức, những việc lành.
Tôi có hai kinh nghiệm xin được chia sẻ:
Kinh nghiệm thứ nhất: Tôi là người rất hay đau yếu. Đau yếu có thể về thân xác. Đau yếu có thể về tâm hồn. Và tôi chỉ có thể lướt được những đau đớn bằng cách quên đi những lo âu, những phiền muộn. Tôi chỉ có thể quên đi được những cái đó, nhờ những tình thương chân thành của bè bạn, những tế nhị của những người chung quanh, giúp cho tôi lấy lại được sự yên tĩnh, sự quân bình và niềm tin tưởng.
Kinh nghiệm thứ hai: Những khi tôi đi cấm phòng, những khi tôi đi cầu nguyện nơi đám đông, tôi thấy nhờ bầu khí yên tĩnh, nhờ bầu khí yêu thương của những người chung quanh, chân thành với mình, tế nhị với mình, tin tưởng nơi mình, nên mình quên đi được những lỗi lầm của mình, để rồi trở nên người tốt hơn.
Những kinh nghiện trên đây cho phép tôi nghĩ rằng: Những lời Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, mời gọi chúng ta hãy biết giúp nhau sửa mình. Hãy biết giúp cho nhau từ bỏ được những thói hư nết xấu, những lỗi lầm. Mà giúp bằng cách, chúng ta có những tình yêu tế nhị, khôn khéo và kiên trì.
Tôi thấy rằng: Chính những cái đó sẽ giúp cho con người gặp gỡ được Đức Kitô cứu độ. Khi đã gặp được Đức Kitô cứu độ, chúng ta sẽ thấy tình yêu của Ngài lớn hơn bất cứ sự yếu đuối nào của ta. Tình yêu của Đức Kitô cứu độ sẽ xoá mờ tất cả những gì là xấu, là hèn, là thấp kém nơi ta, để cho ta không còn mặc cảm, để cho ta quên đi dĩ vãng xấu xa. Hãy gặp Ngài, qua bầu khí tình thương của cộng đoàn, của bạn bè, của nhóm.
Vì thế, lễ Thêm Sức hôm nay không phải là lễ Thêm Sức cho trẻ em, mà Thêm Sức cho mỗi người. Bởi vì, tình thương cứu độ tế nhị, khôn khéo, chúng ta chỉ nhận được khi chúng ta cần xin Chúa Thánh Linh. Tự sức mình, chúng ta có thể làm được đôi chút, nhưng làm cho có kết quả để giúp người khác sửa chữa tính xấu, thì chúng ta cần phải xin ơn Chúa Thánh Thần.
Giờ đây, tôi xin anh chị em hãy nhớ đến con em của mình. Chúng có nhiều nết xấu. Hôm nay và sau này, chúng vẫn còn nhiều nết xấu cần phải sửa lại. Chúng ta hãy nhớ đến những người trong gia đình, và nhất là hãy nhớ đến chính bản thân mình, cũng có vô số nết xấu, vô số tội lỗi cần phải sửa lại. Và chỉ có một cách như tôi vừa nói: Nhờ bạn bè, nhờ gia đình, nhờ nhóm, nhờ cộng đoàn, những người được ơn Chúa Thánh Linh, giúp ta gặp gỡ được Đức Kitô, để tình yêu Đức Kitô đổi mới lại chúng ta.
Xin Chúa Thánh Thần đến giữa chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta gặp gỡ Đức Kitô. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói rằng: “Nếu hai người trong chúng con họp nhau để cầu xin một ơn gì, thì Cha Thầy ở trên trời sẽ ban cho chúng con ơn đó”.
Khi đọc lời hứa trên đây của Đức Kitô, tôi có một mong muốn, muốn chia sẻ với anh chị em hôm nay. Tôi mong muốn là: Cộng đoàn chúng ta ở đây, hãy hợp ý cầu xin cho mỗi người trong chúng ta được ơn đổi mới, được trở nên một tạo vật mới.
Thế nào là một con người mới theo những lời chỉ dạy của thánh Phaolô? Con người mới là con người mang hình ảnh Đức Kitô. Con người mới là con người biết suy nghĩ giống như Đức Kitô. Con người mới là con người biết tuân phục thánh ý Chúa Cha như Đức Kitô. Con người mới là con người có sự sống của Đức Kitô trong mình. Những đức tính này ở trong con người một cách sâu sắc, đến nỗi người đó có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi”.
Như vậy con người mới là rất mới. Không phải mới ở bên ngoài, mà rất mới từ bên trong, từ trí khôn, từ trái tim, từ ý chí, từ chính sự sống nhắm vào mục đích và ý nghĩa cuộc đời.
Tại sao người ta có thể trở nên một con người mới như vậy? Tôi thấy, theo kinh nghiệm là do ba công việc này:
Một là học hỏi lời Chúa. Hai là thực thi lời Chúa. Ba là cầu nguyện với Chúa.
Mới rồi, tôi đọc thấy trong một tập viết của một em bé, đang học giáo lý để chuẩn bị chịu phép Thêm Sức. Tôi không hiểu các thầy cô, các cha, các tu sĩ đã dạy em cái gì. Nhưng đọc qua tôi thấy:
Mục thứ nhất, mục em ghi lời Chúa: “Chúng con hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Chỉ một lời Chúa đó thôi, mà tôi nghĩ rằng: Khi đưa lời Chúa đó ra, những người giảng dạy phải chuẩn bị cho các em thật kỷ mới có thể cắt nghĩa cho các em hiểu thế nào là yêu thương, theo tinh thần Đức Kitô.
Rồi mục thứ hai, mục em ghi thực thi lời Chúa. Tôi thấy em ghi: Hôm nay, con bớt tiền ăn quà, để giúp cho bà lão ăn mày ở trước cửa trường. Một việc rất cụ thể để áp dụng lời Chúa.
Rồi mục thứ ba, mục cầu nguyện với Chúa. Tôi thấy em ghi: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã thương yêu con. Con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã cứu chuộc con.
Khi tôi đọc những câu đơn sơ như vậy: Học lời Chúa, thực hành lời Chúa, cầu nguyện với Chúa, thì tôi thấy em bé đó đang biến đổi. Và khi tôi dò hỏi trong gia đình: Thì cha nó trước đây vốn khô khan, mẹ nó trước đây vốn có nhiều thất vọng, nay vì đứa con của mình, học lời Chúa, thực hành lời Chúa, cầu xin với Chúa như vậy, nên cha mẹ trở nên sốt sắng hơn. Tối nào gia đình cũng cố gắng đọc kinh chung.
Thành ra, tôi thấy rằng: Con người đổi mới, dù chỉ là đứa bé, cũng đã là nhân chứng của Nước Trời, cũng đã là người đi rao giảng Tin Mừng. Nó đổi mới được gia đình của nó. Và khi ba người trong gia đình, tối đều lo đọc kinh chung, thì bầu khí gia đình dần dần ra khác và bầu khí ra khác. Điều đó chứng minh rằng: Khi hai ba người chúng con họp nhau cầu nguyện thì Cha ở giữa họ. Đúng như vậy, khi cầu nguyện chung thì có Đức Kitô ở giữa.
Những kinh nghiệm trên đây, mời gọi tôi chia sẻ với anh chị em: Chúng ta phải làm thế nào đây để trở nên người mới. Mà người mới tự bên trong sâu thẳm, chứ không phải là người mới bên ngoài. Tôi đi làm lễ Thêm Sức nhiều nơi, và tôi thấy cách chuẩn bị nhiều khi rất là kỹ lưỡng. Nhưng đôi khi tôi có cảm tưởng Đức Kitô vẫn là một bóng mờ. Chúa Thánh Linh vẫn là một người vắng mặt. Bởi vì người ta không quan tâm đến sự cầu nguyện, không quan tâm đến sự mở tâm hồn để đón nhận Đức Kitô, để nhận ơn Chúa Thánh Thần đổi mới từ bên trong.
Tôi mong rằng họ đạo Núi Sam anh chị em đây, bé nhỏ thôi, nhưng đã nhận được rất nhiều ơn Chúa, thì hãy dùng những ơn Chúa đó, để đổi mới con người của mình. Và nhờ sự đổi mới này, anh chị em sẽ trở nên những tông đồ truyền giáo, ngay trong địa phương này. Mà truyền giáo bằng chính đời sống của mình, chứ không phải bởi những việc làm bề ngoài.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta xin Chúa Thánh Thần đến đổi mới tâm hồn chúng ta từ bên trong, để chúng ta sẽ là hình ảnh của Đức Kitô, biết suy tưởng như Đức Kitô, biết phản ứng như Đức Kitô, biết có sự sống của Đức Kitô, để chúng ta trở thành Kitô hữu, có Đức Kitô trong lòng: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay tuy rất vắn, nhưng dạy tôi một điều quan trọng trong việc rao giảng Tin Mừng. Tôi thấy rằng: Sở dĩ các tông đồ xưa, đã quở trách và cản ngăn các trẻ em đến với Đức Kitô, là vì các Ngài cho rằng: Trẻ nhỏ chưa đủ trí khôn, để hiểu những việc Đức Kitô làm và những lời Đức Kitô dạy. Các tông đồ cho sự suy biết của trí khôn, là một tiêu chuẩn về đức tin, có thể như vậy. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không nghĩ như các tông đồ. Ngài bảo các tông đồ hãy để các trẻ em đến với Người. Không những Người đặt tay trên chúng mà còn ôm chúng vào lòng.
Thái độ trên đây của Đức Kitô đề cao sự gì?
Thưa, đề cao sự gặp gỡ Chúa. Đức Kitô muốn nhấn mạnh đến sự gặp gỡ Chúa, là việc quan trọng hơn việc hiểu biết về Chúa. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự gặp gỡ Đức Kitô là tình yêu cứu độ, thì quan trọng hơn là học những giáo lý cao sâu về mầu nhiệm Nước Trời. Khi các trẻ em, tuy còn non nớt đến với Đức Kitô, chúng nhìn thấy đôi mắt hiền hậu của Đức Kitô, chúng cầm được bàn tay nâng đỡ của Đức Kitô, chúng nghe được giọng nói ngọt ngào của Đức Kitô, chúng đứng bên một người mà chúng cảm thấy là người đã bênh vực chúng, là người đã thương yêu chúng, thì bấy giờ, chúng đã nhận ra Đức Kitô là tình yêu, là điểm tựa, là Đấng Cứu Độ, là hy vọng của nó. Nó không dựa trên lý lẽ nào, nó chỉ dựa vào thái độ của Đức Kitô do sự nó gặp gỡ Đức Kitô, để nó nhận ra Đức Kitô là Đấng đã thương yêu chúng nó. Đây là điều căn bản nhất của đức tin.
Nếu chúng ta hiểu tất cả những sự sâu xa của giáo lý, mà chưa lần nào gặp gỡ được Đức Kitô, mà tin rằng Đức Kitô là Đấng thương yêu mình, cứu độ mình bằng tình yêu và lòng thương xót của Người, thì chưa phải là đức tin sống động.
Gặp gỡ Chúa, đó là điều Kinh Thánh nhắc lại nhiều lần. Có nơi Chúa nói: “Hãy đến mà xem”. Có nơi Chúa nói: “Hãy nhìn và hãy nếm thử sự tốt lành của Thiên Chúa bao la thế nào?”. Có nghĩa là cần phải gặp gỡ thôi. Thánh Mađalêna, con người tội lỗi, đã đến với Đức Kitô, đã xem thấy Đức Kitô, đã đứng gần Đức Kitô. Và có thể nói là đã nếm được sự ngọt ngào của tình yêu cứu độ của Đức Kitô. Chỉ thế thôi, Madalene đã trở lại, đã nên người mới, đã có một đức tin sắt đá, để vững tâm theo Đức Kitô đến giây phút cuối cùng.
Những gì Kinh Thánh dạy về sự gặp gỡ Chúa, thì nay cũng đang được thực hiện khắp nơi. Tôi thấy tại nhiều giáo xứ, đang có phong trào dạy giáo lý cho trẻ em. Đang khi dạy giáo lý như vậy, các giảng viên không quên giúp cho trẻ em gặp gỡ Đức Kitô, gặp gỡ qua sự đón nhận lời Chúa, gặp gỡ qua sự thực thi lời Chúa, gặp gỡ qua sự cầu nguyện với Chúa. Phải làm thế nào cho người học giáo lý gặp được Đức Kitô là Đấng cứu độ bằng tình yêu sâu thẳm.
Có một lần, khi tham dự cuộc chia sẻ của những người tĩnh tâm, tôi đặt ra một câu hỏi: “Trên một chuyến xe, tôi gặp một người khách lạ ngoại giáo. Họ hỏi tôi về đạo Công Giáo. Chuyến xe chỉ kéo dài chừng 15 phút. Đặt trong trường hợp đó, tôi phải nói thế nào để có thể thuyết phục được người khách lạ đó về niềm tin của tôi?”.
Trước câu hỏi tôi đặt ra, những người trong nhóm đều nói lên ý nghĩ của mình. Người nói thế này. Nguời nói thế kia, nhưng có một người đã trả lời vắn tắt: Chính con đã gặp trường hợp như vậy. Chuyến xe không phải là 15 phút mà chỉ có 10 phút. Một người đã hỏi con về đạo Công Giáo. Con chỉ thưa đơn sơ thế này: “Chính tôi đã được gặp gỡ Đức Kitô. Đức Kitô thương yêu tôi. Đức Kitô đã làm cho tôi cảm thấy tình thương của Ngài thật bao la. Khi tôi đau yếu, khi tôi tội lỗi, khi tôi cô đơn, tôi cầu nguyện với Đức Kitô. Và Đức Kitô đến với tôi một cách vô hình, nhưng thật sự như là Ngài chạm đến tôi. Tôi không thể nào quên được Đức Kitô là tình yêu của tôi”. Con chỉ nói lại những gì con đã kinh nghiệm về sự gặp gỡ Đức Kitô. Và sau 10 phút, người khách lạ ấy phần nào đã tin vào những gì con đang tin.
Như vậy, có nghĩa là khởi sự bao giờ cũng phải tập trung vào Đức Kitô, phải gặp gỡ Đức Kitô. Gặp gỡ Đức Kitô ví như là tiếng chuông, còn giáo lý cắt nghĩa sau này chỉ là tiếng vang, tiếng ngân của một tiếng chuông đó. Nếu chúng ta chỉ để ý tiếng vang, tiếng ngân, mà không có tiếng chuông, tức là không có sự gặp gỡ Đức Kitô, thì giáo lý chỉ là một mớ kiến thức suông mà thôi.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay tôi chia sẻ với anh chị em mấy điều trên đây, vớ hy vọng anh chị em để ý nhiều hơn đến sự gặp gỡ Đức Kitô.
Xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu và càng ngày càng hiểu hơn sự gặp gỡ Đức Kitô quan trọng thế nào trong việc đổi mới chúng ta và Hội Thánh chúng ta. Amen.
Qua bài Phúc Âm hôm nay, tôi nghĩ tới quang cảnh Đức Kitô qui tụ dân chúng hôm đó. Tôi thấy, có những đoàn lũ đông đảo, từng trăm người kéo đến bên Chúa Giêsu. Chúa Giêsu được bảo vệ, bởi một nhóm nhỏ môn đệ. Nhóm nhỏ này đi lui đi tới, để giữ trật tự và sắp xếp.
Khi thấy các trẻ nhỏ đến, nhóm giữ trật tự này quở mắn và đuổi chúng đi, cũng vì mục đích giữ trật tự. Thấy vậy, Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Đừng xua đuổi trẻ nhỏ, nhưng hãy để chúng lại gần Ta”.
Thái độ trên đây của Chúa Giêsu dạy tôi điều gì?
Tôi thấy Chúa muốn dạy tôi điều này, là trong các cộng đoàn tín hữu nói chung, và trong các cuộc lễ thánh nói riêng, chúng ta đừng quên dành chỗ cho những người bé nhỏ. Những người bé nhỏ nói đây, là các trẻ em, là những người bệnh tật, là những người đau khổ, là những người quê mùa dốt nát. Chúa sẽ không hài lòng với ta, nếu chúng ta trở về với Chúa trên trời, mà quên trở về với Chúa ngự trong những người bé mọn. Chúa sẽ rất hài lòng với ta, khi ta làm chứng cho Thiên Chúa là tình yêu cứu độ, bằng cách chúng ta tỏ ra tế nhị với những người bé mọn xung quanh mình.
Tại Lộ Đức bên Pháp, tôi thường rất xúc động, khi thấy trong thánh lễ trọng, hàng ghế đầu bao giờ cũng dành cho những người bệnh tật. Tôi nhìn thấy Đức Kitô trên bàn thờ thánh lễ bí tích. Tôi nhìn thấy Đức Kitô trong những người bệnh, một thánh lễ đời thường. Chúng ta đừng chia cắt Đức Kitô ra. Không phải Đức Kitô chỉ trong tấm bánh này, trên bàn thờ. Mà Đức Kitô cũng ở trong những người bé nhỏ, những người nghèo túng, những trẻ em, những người quê mùa dốt nát, những người khổ đau bất cứ vì lý do nào.
Tôi thường đánh giá một họ đạo, theo mức độ bác ái mà họ đạo đó dành cho những người bé nhỏ. Một họ đạo nào, coi việc chăm sóc những người bé nhỏ, như là một hoạt động đạo đức hàng đầu, thì họ đạo đó được tôi đánh giá là một họ đạo tốt. Cách đánh giá của tôi, thiết tưởng rất hợp với Lời Chúa.
Chúng ta biết, đến ngày phán xét, Đức Kitô cũng sẽ đánh giá chúng ta theo tiêu chuẩn bác ái, chúng ta dành cho những người bé nhỏ. “Ta đói các con đã cho ăn. Ta khát các con đã cho uống. Ta khổ đau các con đã đi thăm viếng”. Chỉ có thế thôi, và Chúa xếp hạng theo cái tiêu chuẩn bác ái chúng ta dành cho những người bé nhỏ xung quanh.
Nhìn họ đạo này, tôi thấy anh chị em, cũng đang thực hiện, những điều Chúa dạy hôm nay. Và trong sinh hoạt tôn giáo, chúng ta vẫn có những sinh hoạt xã hội, từ thiện, hướng về những người nghèo, những người bé nhỏ.
Hơn nữa, tôi thấy anh chị em, cũng có một sự chia sẻ thật sự, đối với những người khổ đau, những người bị cuộc đời bỏ rơi. Đó là một điểm rất cần để làm chứng cho Hội Thánh công giáo hôm nay. Tôi mong anh chị em kiên trì và can đảm, thực hiện, và phát triển chiều hướng đó.
Xin Chúa Thánh Linh, là Đấng an ủi những người khổ đau, hãy an ủi chúng ta, những người không thiếu khổ đau trong tâm hồn, trong gia đình, trong cuộc sống. Xin Chúa Thánh Linh, cũng giúp cho chúng ta có một sức sống, và một ngọn lửa yêu mến, để biết phần nào an ủi những người khổ đau bên cạnh. Dù chúng ta chẳng có tiền năng, chẳng có của cải, nhưng ít ra, chúng ta có trái tim, có lời nói ngọt ngào, có những đôi mắt thân thương, có những cử chỉ nhân ái, để chia sẻ, để đồng hành với những người khổ đau, nhất là trong thời buổi này, cuộc sống đang gặp nhiều thử thách khó khăn, về nhiều mặt. Chúng ta cần phải tỏ ra chúng ta là con cái Thiên Chúa, Đấng đã dành một chỗ ưu tiên, cho những con người bé nhỏ.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi nghe ca đoàn hát những bài rất hay. Và tôi nói với Chúa rằng: Chớ chi lòng họ đạo của con ở đây, cũng là những tiếng hát của những người nghèo dâng lên Chúa. Không có gì cả, nhưng chỉ có tấm lòng thành yêu mến Chúa, ca ngợi tình thương của Chúa, và tình yêu giữa đồng bào với nhau.
Tôi nghĩ tiếng hát chân thành đó sẽ là một bài ca tán tụng riêng của những người nghèo. Và khi bài ca là của người nghèo, thì Chúa sẽ rất vui mừng. Đó là phần thưởng hôm nay, hứa hẹn cho phần thưởng đời đời mai sau. Amen.
Khi mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tôi không nhìn Đức Mẹ như một Nữ Hoàng, đầy quyền năng vinh quang xa vời. Nhưng tôi nhìn Đức Mẹ như một người mẹ quê, đi trước tôi trên con đường đức tin, để dẫn tôi đi theo.
Nhìn hành trình đức tin của Đức Mẹ, tôi thấy con đường đức tin mà Đức Mẹ đã trải qua, là một con đường nhiều khó khăn, nhiều giông tố. Tôi gọi những thử thách lớn trên con đường đức tin của Đức Mẹ, là những cơn bảo lớn.
Cơn bảo số một, là sự thánh Giuse phải đau khổ, khi thấy Maria thụ thai, mà không biết nguyên do tại đâu. Tình trạng đau khổ của thánh Giuse đã đổ tràn vào trái tim Đức Mẹ, những nghĩ ngợi, những buồn phiền, những tâm tối, mà không biết giải quyết ra sao. Thiên Chúa không có sai thiên thần đến trong lúc đó, để an ủi Maria, và để dạy cho Maria cách nào, để giải quyết cơn khủng hoảng. Maria đâu có muốn như vậy. Nhưng Chúa đã đặt một thử thách lớn như một cơn bảo, tràn vào tâm hồn đức tin Của Đức Mẹ. Maria chỉ biết phó thác nơi quyền năng giàu lòng thương xót của Chúa.
Rồi tiếp đó là cơn bảo số hai, đó là sự Đức Mẹ sinh hạ Đức Kitô nơi hang đá. Là một người người mẹ, nhất là lại nhận thức mình làm mẹ Thiên Chúa. Con mình sắp sinh ra là con Thiên Chúa, thì Đức Mẹ cũng muốn sinh hạ con mình, ở một nơi sạch sẽ, khang trang, đầy đủ tiện nghi. Ai ngờ, Chúa lại đặt tình trạng sinh ra Chúa Kitô, trong một hoàn cảnh đầy nghèo nàn, bi đát. Mẹ đâu muốn như vậy. Nhưng Thánh Ý Chúa Cha lại muốn khác. Thiên thần cũng chẳng hiện ra an ủi Đức Mẹ trong lúc ấy, mà chỉ hiện ra với các mục đồng. Mẹ cảm thấy bơ vơ, nhưng Mẹ vẫn tin vào quyền năng của Thiên Chúa.
Rồi nối tiếp cơn bảo số ba, đó là sự vua Hêrôđê ra lệnh tìm giết Đức Kitô mới sinh ra. Đây là một sự kiện chẳng bao giờ ngờ tới. Không lẽ người ta ác độc với con mình như vậy! Và trong trường hợp khắc nghiệt này, Thiên Chúa cũng chẳng sai thiên thần đến dạy dỗ Mẹ phải làm gì, cũng chẳng sai thiên thần đến an ủi Mẹ. Mẹ phải vâng lời ẵm con đi trốn. Mẹ chỉ tin vào lời Chúa đã hứa. Mẹ chỉ có niềm tin là hành trang.
Rồi tiếp theo cơn bảo số 4, đó là sự hai ông bà để lạc mất con. Cha mẹ nào mà chẳng đau đớn khi lạc mất con mình. Đức Kitô ở lại trong đền thờ mà không báo trước cho cha mẹ. Mẹ đâu có muốn như vậy. Tất cả những sự khó khăn này, đã làm cho đức Mẹ đau đớn. Đây là những thử thách về đức tin.
Và cơn bảo sau cùng đầy ác nghiệt, đầy bi thảm, đó là sự Chúa Kitô chịu tử nạn trên thánh giá. Tôi nghĩ rằng, Đức Mẹ chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện bi thảm đó. Và khi sự kiện xảy ra, Đức Mẹ đã chấp nhận, với tất cả niềm tin phó thác của mình.
Trên đây tôi vừa phát qua, cái con đường đức tin mà Đức Mẹ đã trải qua. Bề ngoài coi như là thất bại. Hết trắc trở này, đến khó khăn khác. Nhưng sau cùng, kết quả như chúng ta đã thấy hôm nay: Chúa thưởng công cho Mẹ, đưa Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác. Đây là một cái bài học về đức tin cho chúng ta. Tôi cũng như anh chị em, phải trải qua một con đường đức tin không thiếu khó khăn.
Hồi nãy cha sở, có nói đến những khó khăn của họ đạo anh chị em. Đó là những khó khăn tôi rất thông cảm. Nhưng tôi cũng thấy rằng, cha sở và anh chị em, đã đối phó trước những khó khăn này, bằng một đức tin của Đức Mẹ: Biết từ bỏ mình. Biết vâng phục Thánh Ý Chúa Cha. Biết đợi chờ như đức Mẹ đã kiên trì. Và biết tin vào lòng thương xót Chúa, chứ không tin vào những phương tiện của riêng mình. Dù đó là tiền bạc, dù đó là tự do, dù đó là sự thông thái. Tất cả những phương tiện đó đều mỏng manh, đều nhân loại. Chỉ tin vào Lời Chúa mà thôi. Chỉ tin vào quyền năng, tin vào tình yêu thương xót Chúa mà thôi. Rồi Chúa sẽ làm, mặc dầu chúng ta coi như thất bại, nghèo túng, yếu hèn.
Lúc nãy trên con đường từ Long Xuyên đến đây, tôi đã cảm thấy phần nào đời sống anh chị em, qua con đường đầy thử thách, và qua một cuộc sống anh em đầy bấp bênh. Nhưng tôi cũng rất tin và hãnh diện, ở đức tin của anh chị em. Một đức tin đã giúp anh chị em vượt bao nhiêu khó khăn. Hiện giờ trước mắt, cũng như cha sở muốn nói: Còn nhiều khó khăn lắm! Đúng như vậy. Nhưng những khó khăn đó đang giúp huấn luyện đức tin của chúng ta, để đức tin của chúng ta trở nên trong sáng, để đức tin của chúng ta giống như đức tin của Đức Mẹ: Một Mẹ nghèo về các phương tiện. Nhưng chỉ giàu đức tin mà thôi. Và khi có đức tin vững mạnh, thì Chúa sẽ giúp.
Trong thánh lễ này, tôi xin Chúa Thánh Linh. Đấng đã hỗ trợ Đức Mẹ về đức tin trong suốt cuộc đời, cũng sẽ hỗ trợ chúng ta, bản thân ta, gia đình ta, cộng đoàn ta, để chúng ta trở nên những người con đi theo con đường đức tin của Đức Mẹ, cho tới khi gặp Mẹ trên trời. Amen.
Phần nổi nhất trong bài Phúc âm hôm nay, là bài ca chúc tụng Thiên Chúa của Đức Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”. Tôi gọi bài ca này là bài ca của Người Mẹ.
Lý do thứ nhất, là bởi vì trong bài ca này, Đức Mẹ đã trình bài thân phận hèn mọn của mình. Ngài coi bản thân mình là bé nhỏ, là nữ tỳ, là người đói khát.
Lý do thứ hai, là vì trong bài ca này, Đức Mẹ không hề có một lời ám chỉ về những công phúc của mình. Trái lại, Đức Mẹ tỏ ra mình tồn tại, chỉ do lòng thương xót Chúa mà thôi.
Lý do thứ ba, là vì trong bài ca này, Đức Mẹ đã dùng một phương tiện nghèo để ca tụng Chúa. Ngài không có một công trình lớn lao nào. Ngài không có tiền bạc. Ngài chỉ ca tụng Chúa bằng niềm tin, niềm tin đơn độc. Chỉ có niềm tin thế thôi. Đó là phương tiện nghèo của một Người Mẹ.
Bài ca hôm nay của Đức Mẹ, chính là bài ca suốt đời của Mẹ sau này. Suốt đời Đức Mẹ, tuy Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng bao giờ, Đức Mẹ cũng vẫn giữ một thái độ, âm thầm, kín đáo, khiêm từ. Đức Mẹ đã không tỏ mình ra là người có chức vị cao hơn mọi người khác. Suốt đời, Đức Mẹ, tuy là người cộng tác đắc lực với Đức Kitô trong chương trình cứu độ. Nhưng, Đức Mẹ không bao giờ nói đến công ơn của mình. Không bao giờ kể ra hy sinh của mình. Không bao giờ kể đến những việc lành của mình, mà chỉ nhấn mạnh đến tình yêu thương xót cứu độ của Chúa mà thôi. Rồi suốt đời, Đức Mẹ, sống nghèo, không dựa vào của cải, không dựa vào sự thông thái, không dựa vào lễ lạc linh đình, không dựa vào công trình lớn lao, để mà ca tụng Thiên Chúa. Mà chỉ ca tụng Thiên Chúa, bởi vì Chúa là Cha, bởi vì Chúa là tình yêu, bởi vì Chúa là lòng thương xót. Phương tiện nghèo của một đức tin mà Đức Mẹ dạy, là đề cao lòng thương xót Chúa, chứ mình chẳng có gì để mà dâng tiến Chúa.
Bài ca của một Người Mẹ, mà hôm nay Đức Mẹ đã nói lên, sẽ là cái mô hình để cho chúng ta biết sống theo gương Đức Mẹ.
Tôi thấy trước mắt tôi, biết bao người đang đi theo Đức Mẹ, hát bài ca người mẹ, để phát triển Hội Thánh. Tôi biết anh chị em, phần đông không có của cải. Tôi biết anh chị em phần đông không phải là những nhà trí thức. Nhưng phần đông anh chị em đang sống nghèo, và dùng những phương tiện nghèo để phát triển Hội Thánh. Phương tiện nghèo của anh chị em, là thánh giá đời thường, là chiều sâu nội tâm, là lòng mến Chúa yêu người kín đáo, là những lời cầu nguyện, một mình. Đó là những phương tiện nghèo, của những người nghèo đi theo Đức Mẹ.
Ngày 25-05-1985, tại công trường thánh Phêrô. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đã trao mũ Hồng Y cho một vị Tổng Giám Mục bất toại, ngồi trên xe lăn. Trong bài giảng hôm đó, Đức Thánh Cha cắt nghĩa tại sao Ngài đã chọn vị Hồng Y bất toại, ngồi trên xe lăn này. Đức Thánh Cha đã có nói: “Tôi biết Đức Tổng Giám Mục Deskur ngồi trên xe lăn này đã giúp tôi rất nhiều, bằng những phương nghèo của Ngài. Đó là sự cầu nguyện, khiêm tốn. Đó là những đau khổ, hy sinh suốt đời. Phương Phương tiện nghèo thôi, nhưng với phương tiện nghèo ấy, Đức Tổng giám Mục Deskur, đã giúp Hội Thánh nói chung, và cá nhân tôi rất nhiều”.
Hôm nay, tôi muốn nói lại điều đó với anh chị em, để anh chị em, những người nghèo, hãy hoan lạc như Đức Mẹ. Và hãy biết ca tụng Thiên Chúa, trong cảnh nghèo của mình.
Lúc nãy, khi nghe ông đại diện giáo xứ, nói đến tình hình họ đạo còn nhiều tiêu cực, tôi đã nói với Chúa rằng: Trong những hoàn cảnh như thế, chúng con sẽ hát bài ca nào để tạ ơn Chúa? Chúa đã trả lời tôi ngay: Con hãy hát bài ca của Người Mẹ, tức là bài ca của những người tội lỗi trở về. Không có gì để ca tụng cha, thì ít là hãy ca tụng bằng tấm lòng ăn năn sám hối, khiêm nhường, nhận lỗi. Đó cũng là một bài ca, mà chúng ta có thể đem ra để hát, để ca tụng Thiên Chúa, khi lòng ta nặng nề tội lỗi.
Anh chị em thân mến,
Biết hoan lạc trong cảnh nghèo của đức tin, đó là một điều Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận thức. Chúa Thánh Thần sẽ mở con mắt linh hồn chúng ta ra, để chúng ta nhìn thấy trong thân phận bé mọn của mình. Trong những phương tiện nghèo hèn của mình, vẫn có đầy dẫy ơn Chúa. Hãy biết ca tụng Chúa. Hãy biết ngợi khen Chúa. Và như Đức Mẹ, lời ca tụng Magnificat, sẽ là khởi đầu cho cuộc sống, hạnh phúc tương đối trần gian, và sẽ dẫn tới cuộc sống hạnh phúc tuyệt đối trên trời. Amen.
Dòng Thánh Gia là một dòng truyền giáo. Truyền giáo bằng những hoạt động thích hợp, mà dòng đã chọn theo tinh thần của dòng. Nhưng trước hết bằng cách làm chứng cho Chúa qua chính con người của mình. Bởi vì làm chứng cho Chúa qua chính con người của mình, đó là điều Đức Thánh Cha Phaolô VI, trong tông huấn “Rao giảng Tin Mừng” đã khẳng định như một nhiệm vụ căn bản, mà các tu sĩ dòng phải thực hiện trong việc truyền giáo.
Thế nào là làm chứng cho Chúa qua chính con người của mình? Thưa tất nhiên không phải bằng tên gọi, bằng áo mặc, bằng chỗ ngồi, nhà ở, mà bằng những gì là nội tâm sâu thẳm được toả ra trong thái độ sống. Tất cả trong ngoài của mình là một dấu chỉ, làm chứng rằng mình tự đặt mình trong dòng chảy của một Hội Thánh luôn tích cực trở về với Thiên Chúa Cha bằng sự sống Đức Kitô, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Một con người là dấu chỉ như vậy tất nhiên phải được thấm nhuần sâu đậm tinh thần của Đức Kitô. Tinh thần của Đức Kitô phải hiện diện trong mọi tâm tình, mọi suy tưởng, mọi phán đoán, mọi chọn lựa, mọi ước muốn. Đến mức có thể nói lời thánh Phaolô xưa: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi”.
Một con người là dấu chỉ như vậy sẽ có thể nhận ra được, và sẽ dễ nhận ra được. Bởi vì ở đâu họ cũng sẽ toả ra bầu khí êm đềm của bác ái, bầu khí thanh thoát của sự từ bỏ mình, bầu khí linh thiêng của sự cầu nguyện, bầu khí tạ ơn của người con Thiên Chúa.
Huấn luyện một người để họ trở thành một dấu chỉ có khả năng làm chứng cho Chúa như vậy là công cuộc rất khó. Công cuộc này đòi nhiều thời gian, nhất là đòi những cách huấn luyện đúng.
Một trong những cách huấn luyện đạo đức nói chung và đạo đức dòng nói riêng, mà hiện nay đang được đề cao, đó là lắng nghe Lời Chúa.
Lắng nghe Lời Chúa trong các kinh nguyện, thánh lễ, lắng nghe Lời Chúa trong các bài thánh ca, lắng nghe Lời Chúa trong các bài suy gẫm. Đâu đâu Lời Chúa cũng là những tiếng gọi. Chính Chúa hiện diện trong Lời Chúa. Do đó, đón nhận Lời Chúa có nghĩa là đón nhận chính Chúa vào hồn ta. ở đó, Chúa soi sáng, Chúa uốn nắn, Chúa đổi mới ta.
Tôi thí dụ: Bài Phúc Âm hôm nay có bài ca chúc tụng Chúa của Đức mẹ. Bài ca đó là cả một hệ thống chân lý đầy sự sống Thiên Chúa. Đức Mẹ đã hát bài ca đó, đã sống bài ca đó, và con người Đức Mẹ đã trở thành dấu chỉ làm chứng cho Chúa. Một dấu chỉ khiêm tốn âm thầm, nhưng lại là tấm men có sức đổi mới biết bao thế hệ.
Xin Đức Mẹ thương giúp chúng ta nói chung, và các tu sĩ dòng Thánh Gia nói riêng, được trở thành những dấu chỉ của Tin Mừng, qua chính con người của mình.
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại sự Đức Kitô hoan lạc trong Chúa Thánh Thần và Người đã ca tụng Thiên Chúa Cha. ở đây, có một chi tiết đã làm tôi chú ý: Đó là Kinh Thánh liên kết sự Đức Kitô hoan lạc trong Chúa Thánh thần với sự Đức Kitô chúc tụng Thiên Chúa Cha.
Sự liên kết này cho phép tôi nghĩ rằng: Chính Chúa Thánh Linh đổ tràn ơn hoan lạc vào Đức Kitô, và trong bầu khí hoan lạc nội tâm ấy, Đức Kitô đã chúc tụng Thiên Chúa Cha.
Sự hoan lạc trong Chúa Thánh Thần và chúc tụng Thiên Chúa, đó là một sự kiện được nhắc đi nhiều lần, nhắc lại nhiều lần trong Kinh Thánh:
Tôi thí dụ, bài Phúc Âm hôm qua, bà thánh Isave được đầy ơn Chúa Thánh Thần, bà đã hoan lạc, và như đã nhìn thấy, như đã gặp được Thiên Chúa toàn năng trong công trình Đức Mẹ, nên đã chúc tụng Thiên Chúa.
Rồi cũng trong bài Phúc Âm hôm qua, Đức Mẹ khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, tâm hồn được mở ra, như gặp được chính bản tính Thiên Chúa tốt lành, và trong bầu khí hoan lạc, Đức Mẹ đã chúc tụng Thiên Chúa: “Linh hồn tôi chúc tụng Thiên Chúa”.
Rồi trong ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ, khi vừa được ơn Chúa Thánh Thần ngự xuống, tâm hồn các Ngài mở ra, như nhìn thấy một chân trời mới đầy hoan lạc, các Ngài đã chúc tụng Thiên Chúa. Và những lời các Ngài chúc tụng Thiên Chúa, đã lôi kéo dân chúng đến. Và chính những lời chúc tụng ấy đã làm cho dân chúng tin vào lời các tông đồ giảng dạy.
Rồi trong sách Tông Đồ Công Vụ kể lại thánh Phaolô và Sila bị giam trong tù. Khi các Ngài được ơn Chúa Thánh Thần, tâm hồn mở ra đầy hoan lạc, các Ngài chúc tụng Chúa. Lời chúc tụng của hai môn đệ vang tới những lính canh. Lính canh đến, quỳ xuống, trở lại với Chúa, cũng vì những lời chúc tụng của hai tông đồ đang bị giam.
Hoan lạc trong Chúa Thánh Thần và chúc tụng Thiên Chúa, đây cũng là một yếu tố đang làm đổi mới nhiều cá nhân, đang làm đổi mới nhiều cộng đoàn.
Tôi có dịp tham dự nhiều thánh lễ, nhiều buổi cầu nguyện, nhiều buổi chia sẻ lời Chúa, trong các nhóm, trong các cộng đoàn nhỏ... Tôi nhận thấy có hai loại cộng đoàn: Một cộng đoàn hay hát và đọc những kinh có tính cách xin xỏ, có những lời ca sầu muộn. Và một loại khác, năng hát những bài ca, năng đọc những lời kinh, có tính cách tạ ơn Thiên Chúa, chúc tụng Thiên Chúa, ngợi khen Thiên Chúa. Khi so sánh thì thấy: Loại cộng đoàn thứ hai được biến đổi nên đạo đức hơn nhiều. Tâm hồn họ thường cởi mở, dễ đón nhận lời Chúa. Họ có sức đổi mới chính mình và tạo nên một bầu khí yêu thương cởi mở, bác ái đối với những người chung quanh, khác với loại người trước, hay đọc kinh xin xỏ, hay hát những bài u buồn, than trách, làm cho tâm hồn của mình hẹp hòi lại, nhỏ nhen lại, và nhiều khi đạo đức như là một thứ đạo đức ích kỷ.
Tất nhiên, khi hát hoặc đọc những kinh tạ ơn Thiên Chúa, thì phải hát hoặc đọc kinh ấy với đức tin: Tin rằng Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên ta. Tin rằng Thiên Chúa là Đấng cứu độ ta. Tin rằng Thiên Chúa đang hiện diện ở với ta. Tin như vậy là một cái nhìn. Sự tin như vậy là một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Và khi nhìn thấy Thiên Chúa, khi gặp được Thiên Chúa là Đấng tốt lành, linh hồn sẽ cảm thấy mình không thể nào không ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa được, vì Người tốt lành vô cùng, vì Người khoan dung vô cùng.
Cả trong những trường hợp đầy khó khăn, những linh hồn quen ngợi khen Thiên Chúa, vẫn cảm thấy nhiều lý do để mà ca ngợi Chúa, hơn là để xin xỏ than trách Chúa. Bởi vì không có gì quý cho bằng được tin vào Thiên Chúa yêu thương mình, không gì quý cho bằng, mình yếu đuối, tội lỗi, hèn hạ, bé mọn, mà lại được Thiên Chúa yêu thương, phù trợ, nâng đỡ. Ơn đó lớn lắm, nên không thể nào mà không ca ngợi Thiên Chúa.
Riêng cộng đoàn anh chị em ở đây, tôi thấy tinh thần ca ngợi, cảm tạ Thiên Chúa cũng rất cao. Tôi đã đến đây nhiều lần, dự những thánh lễ tạ ơn. Và hôm nay, tôi cũng đã nhìn thấy anh chị em trong tinh thần cảm tạ Chúa. Mặc dầu anh chị em đang gặp nhiều khó khăn về đời sống, nhưng qua bài phát biểu của ông đại diện giáo xứ, tôi thấy ngay tinh thần cảm tạ trổi vượt hơn bất cứ tinh thần nào. Anh em vẫn biết cảm tạ Chúa trong cảnh khó khăn. Đây là một điều làm tôi rất mừng. Và không phải tôi mừng, mà chính Thiên Chúa cũng rất mừng, vì anh em đề cao tinh thần cảm tạ Thiên Chúa. Khi anh chị em cảm tạ Thiên Chúa như vậy, thì lòng mình mở ra, thư giãn, và dễ đón nhận những ơn mới mà Chúa muốn ban cho chúng ta.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi có lời khuyên anh chị em: Hãy phát triển thêm tinh thần cảm tạ Thiên Chúa và hãy biết dạy cho con em chúng ta biết cảm tạ Thiên Chúa. Trong thánh lễ hằng ngày, anh chị em đã thuộc câu: Cảm tạ Chúa mọi nơi mọi lúc thực là chính đáng. Mọi nơi, mọi lúc, không trừ lúc nào cả, không trừ nơi nào cả, lúc nào, nơi nào cũng hãy cảm tạ Thiên Chú. Khi đau ốm, khi khoẻ mạnh, khi giàu sang, khi túng thiếu, khi gặp khổ nhục, khi gặp vinh quang, luôn luôn cảm tạ ngợi khen Chúa mọi nơi, mọi lúc. Đó là bổn phận chứ chẳng phải chỉ là một lời khuyên.
Nếu hôm nay chúng ta xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta được ơn đó, và nhất là ban cho con em chúng ta được ơn đó, thì đời chúng ta, đời con em chúng ta được bảo đảm. Bởi vì, tôi đã từng có kinh nghiệm về nhiều người: Khi túng nghèo thì đến với Chúa, khi giàu sang đầy đủ thì quên Chúa, coi rằng chẳng còn gì để mà cảm tạ Thiên Chúa. Đó là điều tôi đã gặp nhiều, nhất là ở bên Tây. Cho nên, tôi sợ rằng: Nếu anh chị em không để ý đến ơn cảm tạ Thiên Chúa, thì một ngày nào đó, hoặc là bản thân ta, hoặc là con em, chúng ta sẽ dần dần xa Chúa.
Xin Chúa Thánh Thần, đến với chúng ta, mở tâm hồn chúng ta ra, để chúng ta nhìn thấy ơn Chúa, để chúng ta gặp được Thiên Chúa tốt lành. Từ đó, chúng ta sẽ hoan lạc và ngợi khen Thiên Chúa. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô một điều rất mới làm ông ngỡ ngàng. Chúa Giêsu nói: “Ông phải sinh lại bởi trời thì mới được vào Nước Trời”. Điều xưa Chúa dạy ông Nicônêmô, nay cũng là điều Chúa dạy chúng ta.
Thế nào là sinh lại bởi trời?
Theo những gì ghi trong Kinh Thánh, thì sinh lại bởi trời gồm 3 việc này:
Việc thứ nhất là tin.
Tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa giáng trần đã chịu chết, đã sống lại và đang được vinh hiển, tin Đức Kitô là Đấng Cứu Độ, tin Đức Kitô là sự sống cứu độ, tin Đức Kitô chính là sự cứu độ của chúng ta. Tin như vậy là một sự gặp gỡ Đức Kitô.
Trong sự gặp gỡ này, chúng ta nhận ra Đức Kitô không phải chỉ là Đấng Cứu Độ chung cho mọi người, mà là Đấng Cứu Độ riêng của tôi, của anh chị em. Người xuống thế không phải chỉ chung cho một người, mà chung cho mỗi người chúng ta. Người cao sang, nhưng Người vẫn yêu thương chúng ta, những kẻ thấp hèn. Người thánh thiện, nhưng Người vẫn đoái đến những người tội lỗi như chúng ta.
Lúc nãy, trong bài đọc 2, thánh Phaolô đã đề cao tình thương cứu độ: Khi ta còn trong tội lỗi, Đức Kitô đã chết cho chúng ta, chết chung cho mọi người, và chết riêng cho từng mỗi người chúng ta. Phải gặp được Đức Kitô là Đấng Cứu Độ của bản thân ta. Như vậy, mới là tin. Tin là một sự gặp gỡ Đức Kitô, giữa Đức Kitô với bản thân mỗi cá nhân chúng ta. Đó là việc thứ nhất để được sinh lại bởi trời. Việc thứ hai là trở về.
Khi gặp được Đức Kitô, chúng ta sẽ thấy Ngài muốn chúng ta bỏ đàng tội lỗi, để trở về đàng lành. Khi gặp được Đức Kitô, chúng ta sẽ thấy Ngài muốn chúng ta bỏ ý riêng mình, để sống theo thánh ý Chúa. Khi gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta sẽ thấy Ngài muốn chúng ta bỏ lối sống tách rời Ngài, mà sống mật thiết gắn bó với Ngài, như cành với cây. Và trong khi gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta mới thấy: Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau, như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Sự trở về như vậy là việc của nội tâm, nhưng cũng đòi chúng ta phải thực hiện bằng những việc cụ thể bên ngoài. Đây là điều khó, nhưng không miễn trừ cho chúng ta phải có ý chí, phải có thiện chí, phải có cố gắng, nhất là phải cậy trông vào ơn Chúa Thánh Linh. Đó là việc thứ hai tôi muốn nói tới.
Việc thứ ba để được sinh lại bởi trời, đó là lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần.
Theo lời Đức Kitô đã dạy: Chúa Thánh Thần sẽ nhắc lại, và sẽ làm cho chúng ta hiểu những lời Đức Kitô đã dạy. Chúng ta có thể thuộc lời Kinh Thánh, thuộc giáo lý. Nhưng nếu không có Chúa Thánh Thần soi sáng bên trong, chúng ta sẽ không hiểu được những gì Đức Kitô muốn dạy.
Hơn nữa, chúng ta muốn có một sự sống dồi dào hơn, trong sáng hơn, đầy đủ hơn, nhưng Đức Kitô nói: Chính Chúa Thánh Thần sẽ ban sự sống đó cho chúng ta. Nếu chúng ta không nhờ ơn Chúa Thánh Thần, sự sống ấy vẫn để ở trong kho tàng, mà không chia được cho chúng ta. Bởi vì chúng ta không cậy đến ơn Chúa Thánh Thần.
Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng đã nói trước: Chúng con phải làm chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất.
Lúc nãy anh chị em đã hát lên lời đó, nhưng làm chứng cách nào cho thích hợp thì phải nhờ Chúa Thánh Linh soi dẫn.
Trước mắt chúng ta có nhiều cách để làm chứng cho Chúa Kitô. Nhưng không phải lúc nào, nơi nào, cũng phải làm như nhau. Bởi vì có nơi hợp với cách này, có lúc hợp với cách kia. Sự lựa chọn cách làm chứng cho Đức Kitô, tuỳ thuộc vào ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn.
Anh chị em thân mến,
Tôi vừa nhắc nhở ba việc cần làm để được tái sinh bởi trời, một điều kiện để vào Nước Trời. Khi xét mình lại, tôi thấy tôi vẫn chưa tới được ý nghĩa đầy đủ của ba việc làm mà Chúa đã dạy. Phương chi những người không biết ba việc đó, thì có thể sẽ chưa đi đúng con đường để tìm được sự sinh lại bởi trời.
Vì thế, hôm nay tôi muốn chia sẻ với anh chị em vắn tắt ba việc đó, để từ nay trở đi, anh chị em bám vào ba việc đó, để có thể đón nhận ơn tái sinh bởi trời.
Hãy tin vào Đức Kitô. Tin là gặp gỡ Đức Kitô. Hãy trở về với Đức Kitô và Phúc Âm của Người. Hãy đón nhận ơn Chúa Thánh Linh, Đấng mang sự sống, Đấng soi sáng, Đấng giúp cho chúng ta biết chọn lựa việc phải làm.
Cầu xin Chúa Thánh Linh hôm nay đến giữa chúng ta, ở mãi với chúng ta, và hướng dẫn đời sống chúng ta. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại những lời xưa Đức Mẹ đã nói để ca tụng Thiên Chúa. Trong những lời ấy, có câu này: “Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại”.
Khi nghe câu đó, tôi đã hỏi Chúa rằng: “Lạy Chúa, hôm nay chúng con có được phép mượn câu nói đó của Đức Mẹ để ca tụng Chúa không?”. Và Chúa đã trả lời tôi trong lòng rằng: “Chắc chắn là được, bởi vì Đấng toàn năng cũng đã làm nhiều sự trọng đại cho chúng con nói chung, và cho con em chúng con nói riêng”.
Thực vậy, khi tôi nghĩ tới những ơn Chúa đã ban cho địa phận, cho họ đạo Long Xuyên, cho chính bản thân tôi, tôi thấy Đấng toàn năng đã làm nhiều sự trọng đại. Hôm nay, bây giờ, tôi chỉ xin kể lại hai sự trọng đại trước mặt chúng ta: Sự trọng đại thứ nhất, là hôm nay, con em chúng ta được gần gũi Chúa hơn. Con em chúng ta đang cảm thấy mình được gần gũi Chúa, được biết Chúa hơn, được hiểu lời Chúa hơn, và cảm thấy được Chúa thương yêu hơn. Một cách nào đó, con em chúng ta hôm nay, đón nhận Chúa đến trong lòng mình, để Chúa đem sự sống mới, sự sống dồi dào cho con em chúng ta. Một cách nào đó, con em chúng ta hôm nay, gặp được Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Một cách nào đó, con em chúng ta hôm nay nhận thấy Đức Kitô là Đấng cứu chuộc của mình, mọi nơi mọi lúc, mãi mãi sau này. Và một cách nào đó con em chúng ta hôm nay nhận thấy mình được nên mới, được biến đổi từ bên trong linh hồn mình và nhìn thấy trong lòng mình một tình thương sẽ là điểm tựa mãi mãi cho mình. Chỉ một sự được gần gũi Chúa hơn trước cũng đã là một sự trọng đại mà chúng ta cần phải ca tụng Thiên Chúa hôm nay.
Sự kiện trọng đại thứ hai đó là hôm nay, con em chúng ta được tích cực hoà mình vào Hội Thánh.
Hình ảnh Hội Thánh bây giờ là quang cảnh cuộc lễ, có đông đảo bà con tín hữu, có các linh mục, có Giám Mục. Tất cả đều trong một bầu khí cầu nguyện, trong một bầu khí thân thương, trong một bầu khí hoan lạc. Hội Thánh này là của con em chúng ta. Con em chúng ta đang tích cực hoà mình vào Hội Thánh này.
Hoà mình vào Hội Thánh này là để đón nhận và để cho đi. Hoà mình vào Hội Thánh này là để mình tập sống tinh thần Giáo Hội, một tinh thần hiệp thông, một tinh thần liên đới, một tinh thần truyền giáo, một tinh thần trách nhiệm. Hoà mình vào Hội Thánh này là để mình có phương tiện phục vụ Chúa hơn, là để mình có cơ hội làm ích cho gia đình và xã hội hơn. Hoà mình vào Hội Thánh này, đó là một ơn huệ trọng đại mà chúng ta cần phải tạ ơn Chúa hôm nay.
Hai sự kiện tôi vừa nói, cùng với nhiều sự kiện trọng đại khác trong đời sống giáo xứ, trong đời sống địa phận, trong đời sống gia đình, đáng là những điều chúng ta phải ca tụng ngợi khen Chúa hôm nay.
Lời ca tụng của chúng ta mỏng manh lắm, yếu hèn lắm. Nhưng Chúa sẽ đoái nhìn lời ca tụng của chúng ta, nếu chúng ta ca tụng Chúa, không những trên bàn thờ đền thánh, mà còn trên bàn thờ tâm hồn, trên bàn thờ đời ta. Nhất là cùng với trái tim Đức Mẹ, Đấng đã ca tụng Chúa suốt đời, “Đấng đã làm cho tôi những sự trọng đại và danh Người là thánh”. Người sẽ là thánh mãi trong hồn ta, trong đời ta. Người sẽ là thánh mãi để thánh hoá chúng ta, thánh hoá con em chúng ta, khởi đi từ việc Rước Lễ, và khởi đi từ việc rước lấy phép Thêm Sức hôm nay.
Bây giờ đây, chúng ta cùng con em chúng ta tuyên xưng đức tin, trong tâm tình cảm tạ Thiên Chúa. Amen.
Lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương, bổn mạng nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 21-08-1994
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức, bởi vì chúng ta không biết ngày Chúa đến, nhưng chỉ biết rằng: Chúa đã đến gần. Những ai không tỉnh thức đón Chúa sẽ bị loại bỏ. Và loại bỏ có nghĩa là không được cứu rỗi.
Khi suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay, tôi nói với Chúa rằng: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì đã nhắc cho con điều quan trọng là phải tỉnh thức đón Chúa đến với con. Xin Chúa dạy con và những người thuộc về con biết tỉnh thức đón Chúa bằng những việc làm”. Và tôi nghe Chúa soi sáng trong lòng rằng: “Hãy biết tỉnh thức đón Cha bằng những việc truyền giáo thích hợp. Tôi cho đây là một câu trả lời rất rõ mà giáo phận Long Xuyên chúng ta nói chung, giáo hạt Chợ Mới cũng như xứ Mỹ Luông này nói riêng, phải hết sức quan tâm.
Hãy tỉnh thức đón Chúa bằng những việc truyền giáo thích hợp. Bởi vì truyền giáo là một bổn phận hàng đầu Chúa đã trao cho mọi người, nhất là những kẻ đại diện Chúa, những người tin vào Chúa.
Truyền giáo là một bổn phận bắt buộc, chứ không phải là một bổn phận ai muốn làm thì làm. Truyền giáo đó là một bổn phận bó buộc, mà Chúa sẽ đưa ra để tra hỏi chúng ta trong ngày phán xét. Khi Chúa đến trong giây phút bất ngờ, Chúa sẽ hỏi ngay công việc hàng đầu Chúa đã trao phó: “Con có nghĩ tới bổn phận truyền giáo không?”. Thao thức về việc truyền giáo, đó là một sự tỉnh thức Chúa đòi chúng ta như một bổn phận. Đi theo với bổn phận tỉnh thức về truyền giáo, là biết tỉnh thức tìm xem những cách truyền giáo thích hợp.
Trao đổi với những người truyền giáo, tôi được biết là có một số việc truyền giáo với những cách được coi là thích hợp nhất trong mọi thời, mọi nơi. Tôi xin chia sẻ vắn tắt ở đây những cách truyền giáo gọi là thích hợp nhất, và quan trọng nhất. Cách truyền giáo thích hợp nhất, bước đầu là sự ăn năn thống hối trở về với Chúa.
Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu, khi truyền giáo bao giờ cũng nói đến: Hãy ăn năn thống hối trở về. Đọc truyện Đức Mẹ hiện ra đó đây, bao giờ chúng ta cũng thấy Đức Mẹ nhấn mạnh: Hãy ăn năn thống hối trở về. Chúng ta là những người có tội. Hội Thánh xét về mặt nhân loại, xét về mặt dân Chúa, cũng là một cộng đoàn, gồm những người tội lỗi. Chúng ta chẳng bao giờ tự mãn cho chúng ta, hay cộng đoàn chúng ta, là những người không có thiếu xót, không có tội lỗi, không có lầm lẫn. Chúng ta khởi sự thánh lễ bằng việc sám hối thế nào đó, thì chúng ta cũng cần phải khởi sự việc truyền giáo bằng thống hối như vậy. Và khi đã cho sự thống hối ăn năn trở về là cách truyền giáo hàng đầu, thì chúng ta sẽ tránh xa những cách truyền giáo đắc thắng, khoe khoan, phô trương bề ngoài, vì nó không hợp với tinh thần ăn năn sám hối trở về. Và một thái độ thật khiêm tốn và chân thành ăn năn sám hối trở về, đó là cách truyền giáo thích hợp trước hết.
Cách truyền giáo thích hợp thứ hai là hãy rao giảng Đức Kitô, tập trung vào Đức Kitô, toả sáng đời sống Đức Kitô, và thực thi truyền vẹn giới răn Đức Kitô truyền lại.
Đọc sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta thấy: Trong Giáo Hội sơ khai, các tông đồ và những kẻ kế vị các tông đồ đều chỉ làm chứng về Đức Kitô. Đức Kitô đã chịu nạn chịu chết, đã sống lại, và đang được hiển vinh trên trời. Chỉ có Đức Kitô là Đấng cứu độ loài người. Muốn được rỗi, hãy đón nhận ơn cứu độ của Ngài bằng niềm tin tuyệt đối, bằng sự trở về, bằng những việc hợp với thánh ý Chúa.
Các tông đồ không rao giảng gì khác. Bây giờ chúng ta cũng phải như vậy. Các tông đồ đã thấy Đức Kitô, còn chúng ta, tuy không thấy Ngài, nhưng vẫn có thể có kinh nghiệm về Ngài.
Khi chúng ta dâng lễ, tham dự thánh lễ, rước lễ, nghe Phúc Âm, nghe đọc bài thánh thư, nếu chúng ta có lòng tin, Chúa sẽ mở con mắt linh hồn ta, để chúng ta gặp được Đức Kitô, một Đức Kitô sống động, một Đức Kitô gần gũi, một Đức Kitô là riêng tư của ta.
Khi gặp được Đức Kitô như vậy, chúng ta có kinh nghiệm về Ngài: Ngài là trung tâm, Ngài Đấng cứu độ. Chúng ta sẽ chia sẻ những kinh nghiệm đó cho những người chung quanh một cách xác tín, chứ không phải chúng ta chỉ đưa ra truyện này, truyện nọ, trong sách này, trong báo kia, như là những chứng từ. Cái đó không phải là vô ích, nhưng cốt yếu, chúng ta phải tập trung vào Đức Kitô sống động mà chúng ta đã gặp gỡ, chúng ta đã có kinh nghiệm về Ngài. Mà điều đó, chúng ta phải nhờ ơn Chúa mở linh hồn ra. Gặp gỡ Đức Kitô, tập trung vào Đức Kitô, thực thi lời Đức Kitô dạy, đó là cách truyền giáo thích hợp thứ hai.
Bây giờ tới cách truyền giáo thích hợp thứ ba, đó là phải biết đón nhận ơn Chúa Thánh Thần.
Đọc sách Tông Đồ Công Vụ, anh chị em còn nhớ các tông đồ biết nhiều điều Chúa Giêsu dạy, xem thấy nhiều việc Đức Kitô làm, nhưng trước khi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, các tông đồ không hiểu rõ lắm, cho tới khi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, các ngài mới thấy ứng nghiệm lời Đức Kitô đã nói xưa: “Cha sẽ sai Thần Linh của Cha xuống. Người sẽ nhắc lại và sẽ cho chúng con hiểu những điều Thầy đã dạy chúng con”. Mặc dầu đã biết lời Chúa, nhưng nếu không có ơn Chúa Thánh Thần, ta không thể hiểu hết. Cũng như trong bài Thánh Thư hồi nãy chúng ta nghe: Không ai có thể nhận ra Đức Kitô là Thiên Chúa và là Đấng cứu độ của mình, nếu không có ơn Chúa Thánh Thần.Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta hiểu và nhìn rõ khuôn mặt của Đức Kitô, đồng thời Ngài sẽ giúp cho chúng ta biết phải nói gì, trong trường hợp nào, Ngài sẽ giúp cho chúng ta biết phải làm gì trong từng trường hợp cụ thể, như các thánh tông đồ xưa đã trao phó việc truyền giáo cho Chúa Thánh Linh, và Chúa Thánh Linh đã hướng dẫn phải đi đâu, nói gì làm chứng cách nào cho Đức Kitô.
Anh chị em thân mến,
Trao đổi với những người tỉnh thức trong việc truyền giáo hôm nay, tôi được biết là: Nhiều tôn giáo bạn và nhiều giáo phái hiện nay đang tích cực truyền giáo theo chiều hướng của họ, và kết quả phải nói là rất đáng kể.
Tôi cũng được các người truyền giáo hôm nay cho biết rằng: Đang có những tài liệu, sách báo phát ra, để bắt bẻ, chê trách Hội Thánh công giáo hiện nay. Kết quả cũng là rất đáng kể.
Rồi qua những người truyền giáo có kinh nghiệm hiện nay, những vị rất có ý thức, các ngài cũng cho biết, nhiều người công giáo hiện nay, mặc dầu còn giữ đạo bề ngoài, nhưng bên trong không có sâu, rất dễ bị ảnh hưởng bởi trào lưu vật chất thực tế.
Qua những kinh nghiệm của những người tỉnh thức trong việc truyền giáo tại Việt Nam hôm nay, tôi thấy rằng: Nếu chúng ta không vâng lời Chúa khuyên dạy hôm nay, là tỉnh thức với tinh thần truyền giáo, nếu chúng ta không vâng lời Chúa khuyên dạy hôm nay là tỉnh thức trong sự tìm ra những cách truyền giáo thích hợp như tôi vừa nêu lên ba điều, thì tôi sợ khi những phong trào vật chất, giàu có, tự do, hưởng thụ, tục hoá tràn vào như nước lũ, nó sẽ kéo trôi hết, sẽ cào bằng hết. Và bấy giờ, đức tin chỉ còn lại trong những người biết ăn năn hối cải thực tình, biết ăn sâu vào Đức Kitô như cành với cây, biết phó thác cậy trông nơi Chúa Thánh Linh là nguồn sống thật sự.
Tôi chia sẻ với anh chị em những điều đó hôm nay để chúng ta nhìn về tương lai với một con mắt tỉnh thức, với một trái tim tỉnh thức, với một lương tri tỉnh thức, để xin Chúa Thánh Linh đốt lên trong lòng ta lửa truyền giáo đích thật, để xin Chúa Thánh Linh cho chúng ta một tâm hồn truyển giáo đích thật, để xin Chúa Thánh Linh cho chúng ta biết chọn lựa nhũng cách truyền giáo hữu hiệu đích thực. Tôi tin rằng, nếu chúng ta thành tâm, Chúa sẽ giúp cho chúng ta. Amen. Mỹ Luông, ngày 25-08-1994
Lễ hôm nay kính nhớ thánh nữ Mônica, mẹ của thánh giám mục Augustinô. Đây là một dịp tốt, để chúng ta suy nghĩ về những vị đã thành công trong bậc làm cha làm mẹ. Những vị đó được nổi danh, thí dụ: Thánh Gioan Kim và bà Anna, Đức Mẹ và thánh Giuse, thánh Mônica, vv...
Các vị đó đúng là những mẩu gương, những mô hình. Nhưng nếu xét cho kỹ và đi vào các chi tiết, tôi thấy các mẩu gương đó mặc dù có sáng chói đến mức nào, cũng vẫn không thể là một lý tưởng hoàn chỉnh có thể áp dụng cho mỗi người chúng ta. Bởi vì, mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau. Hơn nữa, cái nghề làm cha làm mẹ không giống những nghề khác.
Trong những lãnh vực kinh tế, nghệ thuật, khoa học, vv... người ta ta có thể đi theo các trường lớp để leo dần trên cái thang hoàn chỉnh. Người ta được xác nhận trình độ hoàn chỉnh qua bằng cấp, qua chứng chỉ. Còn trong nghề làm cha làm mẹ chẳng có trường lớp nào, chẳng có cuộc thi nào, chẳng có bằng cấp nào, chẳng có chứng chỉ nào xác nhận mức độ hoàn chỉnh của nghề làm cha làm mẹ. Bởi vì, thế nào là hoàn chỉnh trong nghề làm cha làm mẹ? Tuy nhiên qua nghiêng cứu, người ta có thể quả quyết điều này: Những thắng lợi lớn, những thành công lớn của những bậc làm cha làm mẹ đều được tạo dựng bởi những chiến thắng nhỏ. Nhờ những chiến thắng nhỏ mà có những thành công lớn. Qua những chiến thắng nhỏ mà các bậc làm cha làm mẹ đã đạt được những thành công lớn.
Nhưng, thế nào là những chiến thắng nhỏ?
Sau đây, tôi chỉ đưa ra một vài thí dụ thông thường:
Thí dụ: Chiến đấu với chính mình trong việc chấp nhận bản thân mình với những thiếu xót, với những yếu hèn, cũng như chấp nhận những người xung quanh mình, với những cá tính của họ mà mình không ưa. Chấp nhận như vậy đòi nhiều khiêm tốn, đòi nhiều yêu thương, đòi nổ lực phát triển những tiềm năng vốn có sẵn, và nhất là đòi tinh thần cầu nguyện, đòi tinh thần lắng nghe lời Chúa trong lòng. Đáp ứng được những đòi hỏi đó, chính là phấn đấu với mình và phấn đấu mỗi ngày, phấn đấu từng giờ. Phấn đấu mà thắng thì các bậc làm cha làm mẹ sẽ làm gương sáng cho con cái. Và đồng thời, cũng góp phần vào việc tạo dựng của Thiên Chúa, là Đấng hay dùng những vật liệu nghèo nàn, bé nhỏ, hèn hạ, để tạo dựng nên những kỳ công lớn lao tốt đẹp.
Rồi thí dụ: Phấn đấu với chính mình để thực thi bổn phận hằng ngày, để thực thi công bình bác ái đối với những người chung quanh. Thực thi như vậy, đòi phải có sáng kiến, đòi phải có khôn ngoan, nhất là đòi phải có tinh thần gắn bó với Đức Kitô, để không phải tôi làm mà là chính Đức Kitô hoạt động trong tôi. Đáp ứng được những đòi hỏi đó, chính là phấn đấu, phấn đấu mỗi ngày. Nếu phấn đấu như vậy mà thắng, và những chiến thắng đó nhỏ thôi, nhưng xảy ra mỗi ngày, thì những chiến thắng nhỏ đó sẽ đưa tới những thành công lớn. Bởi vì, sẽ nêu gương sáng cho con em mình, và đồng thời cũng góp phần vào công cuộc cứu độ của Đức Kitô.
Rồi thí dụ: Phấn đấu với chính mình trong việc đi tìm Nước Trời trên hết mọi sự, như bài Phúc Âm hôm nay đã dạy. Phấn đấu như vậy, đi tìm Nước Trời như vậy đòi phải có sự hiểu biết, và ơn phân định của Chúa Thánh Linh. Tức là, phải có tinh thần cởi mở đón nhận ơn Chúa Thánh Thần. Và đáp ứng những đòi hỏi đó, chính là phấn đấu. Mà phấn đấu như vậy để chiến thắng, thì chiến thắng đó sẽ làm gương sáng cho con em, đồng thời cũng là một cách góp phần mở rộng Nước Trời, làm chứng cho Nước Chúa giữa trần gian.
Anh chị em thân mến,
Những chiến thắng nhỏ trong đời thường mặc dù rất nhỏ, mặc dù rất khiêm tốn, nhưng nó sẽ đưa tới những thành công lớn.
Trên đây tôi chỉ đưa ra ba hình thức phấn đấu, ba hình thức chiến thắng. Còn trong đời thường, rất nhiều hình thức chiến thắng khác trong các lĩnh vực khác nhau, dưới những hình thức khác nhau. Dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có thể có được những chiến thắng nhỏ trong đời thường chúng ta, trong bậc chúng ta.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi chỉ gợi ý vài điểm đó. Vì đó là một cái bí quyết giúp cho những người làm cha làm mẹ được thành công, nêu gương sáng cho con cái, và đồng thời góp phần vào việc Thiên Chúa tạo dựng, cứu chuộc, và rao giảng Tin Mừng.
Ngay bây giờ đây, chúng ta hãy có một chiến thắng nhỏ trong bản thân ta, đó là chúng ta tập trung lòng trí lại nhất là đức tin, đức cậy, đức mến. Dẹp qua tất cả những lo toan để chúng ta hướng về Chúa, cầu xin Chúa, nhờ lời cầu xin của thánh Mônica giúp cho chúng ta biết có những chiến thắng nhỏ trong đời sống, và cũng giúp cho con em chúng ta biết có những chiến thắng nhỏ trong đời sống của chúng. Amen.
Lễ thánh Mônica tại Nhà Thờ Chính Toà Long Xuyên, ngày 27-08-1994