Trước đây, có một thời, tôi vẫn nghĩ rằng: Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa. Và việc nâng tâm hồn lên với Chúa là điều quan trọng duy nhất, và căn bản nhất trong việc cầu nguyện. Nhưng khi suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay, tôi thấy Chúa Giêsu, khi cầu nguyện, ngoài việc tâm hồn Người được nâng lên với Chúa Cha, và việc nâng tâm hồn lên ấy được coi là quan trọng, thì Chúa Kitô còn thực hiện việc quan trọng khác, đó là Ngài mở tâm hồn mình ra về phía kẻ khác.
Như trong lời cầu hiệp nhất hôm nay (bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe), sự Chúa Kitô mở tâm hồn mình về phía kẻ khác, đã tỏ hiện một cách rõ rệt, rất nổi. Chúa Kitô nhớ tới những kẻ đã tin Ngài. Chúa Giêsu xót thương họ. Chúa Giêsu cầu nguyện cho họ được hiệp nhất với nhau. Cũng vậy, khi cầu nguyện trên cây Thánh Giá, Chúa Giêsu, ngoài việc nâng tâm hồn mình lên Chúa Cha, thì Ngài đã mở tâm hồn mình về phía kẻ khác. Sự mở ra ấy cũng rất rõ, rất nổi. Ngài nhớ tới những kẻ làm khổ Ngài. Ngài xót thương họ. Ngài cầu xin ơn tha thứ cho họ: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết.
Rồi khi dạy các tông đồ cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu cũng dạy: Ngoài việc nâng tâm hồn mình lên Thiên Chúa Cha ngự trên trời, thì còn phải mở tâm hồn mình ra về phía kẻ khác, những người chưa biết danh Chúa, những người chưa đón nhận Nước Chúa trị đến, và nhất là hãy mở tâm hồn mình về phía những kẻ bất hòa với mình, những kẻ mình đã làm mất lòng: Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Như vậy, khi cầu nguyện, Đức Kitô đã làm hai việc song song: Một là nâng tâm hồn mình lên Chúa Cha. Hai là mở tâm hồn mình ra về phía kẻ khác. Cả hai việc ấy đều chuyên chở tình yêu: Nâng tâm hồn mình lên Chúa Cha để dâng cho Ngài tâm tình cảm mến, ngợi khen. Còn mở tâm hồn mình về phía kẻ khác, để chia sẻ tâm tình xót thương trìu mến.
Hiện nay trong Hội Thánh, cũng có một khuynh hướng cầu nguyện, bắt chước Đức Kitô, là cầu nguyện vừa nâng tâm hồn mình lên, để thực hiện lòng mến Chúa, và vừa mở tâm hồn mình ra về phía anh em, để thực hiện lòng yêu người. Thí dụ cụ thể nhất trong sự cầu nguyện, với hai chiều hướng ấy là “Kinh Hòa Bình” của thánh Phanxicô mà chúng ta thường hát. Trong suốt chiều dài lời Kinh Hòa Bình, chúng ta thấy có những bước đi nhịp nhàng của trái tim cầu nguyện, vừa nhìn sang Chúa, vừa nhìn về phía anh em. Nhìn về Chúa với lòng tin yêu. Nhìn về phía anh em với tinh thần phục vụ. Hãy cầu nguyện bằng sự nâng tâm hồn lên với Chúa, và đồng thời bằng sự mở tâm hồn mình ra về phía anh em. Đó là lời cầu nguyện thể hiện tinh thần sống đạo, vừa mến Chúa, vừa yêu người, và cũng là cách cầu nguyện thích hợp cho hoàn cảnh hôm nay.
Theo tôi thấy thì hiện nay, Giáo Hội đang trải qua một cơn khủng hoảng về tinh thần cầu nguyện: Có nơi lơ là với sự cầu nguyện. Có người cầu nguyện chỉ bằng môi bằng miệng, không nâng tâm hồn mình lên với Chúa, mà cũng chẳng mở tâm hồn mình ra về phía anh em. Tâm hồn vẫn trơ trơ, ích kỷ, khép kín, mặc dầu đọc kinh, mà vẫn không cầu nguyện. Rồi có những người nâng tâm hồn mình lên với Chúa, nhưng lại khép kín về phía anh em, nhất là những người không thích hợp với mình. Hoặc là có những người cầu nguyện với tâm hồn cởi mở về phía anh em, nhưng lại không nâng tâm hồn mình lên với Chúa. Đó là một tình hình thiếu sót trầm trọng.
Tới đây, tôi nhớ lại một hình ảnh xa xưa, về một thánh lễ ngày thường mà tôi đã nhìn thấy trong nhà thờ cũ của giáo xứ này. Hồi đó là trước giải phóng, tôi nghỉ đêm ở đây. Khoảng 4 giờ sáng có kẻng báo hiệu, rồi nhà thờ mở ra, có linh mục làm lễ, tôi đứng cuối nhà thờ quan sát thấy tối quá sức, vắng vẻ quá sức, mắt tôi chỉ nhìn thấy hai ngọn đèn dầu le lói trên bàn thờ, và tai tôi chỉ nghe được vài tiếng đọc kinh thưa thớt. Tôi chỉ còn cách nhìn Chúa Kitô trên bàn thờ, và nhìn anh chị em trong họ đạo bằng con mắt đức tin, tôi nhìn thấy Chúa Kitô trên bàn thờ vẫn âm thầm thương xót mọi người chúng ta. Chúa Kitô trong nhà tạm vẫn âm thầm chờ đợi mỗi người chúng ta.
Tôi coi đó là những hy vọng, và khi nhìn họ đạo chúng ta với đức tin, tôi vẫn tìm thấy những tâm hồn quảng đại, đang nâng tâm hồn mình lên với Chúa một cách âm thầm, và đang mở tâm hồn mình ra với tha nhân một cách âm thầm. Đó cũng là những hy vọng, và những hy vọng đó dần dần lớn lên, phát triển. Đêm nay, cũng trong bóng tối, cũng trong sự thinh lặng của đêm, tôi cũng chỉ dùng đức tin để nhìn Chúa Kitô trong nhà Chầu, và khi tôi đọc bài Phúc Âm (kinh cầu nguyện hợp nhất), tôi có cảm tưởng là Chúa Kitô trong nhà Chầu, cũng đang cầu nguyện Lời Kinh Hợp Nhất, và Ngài mong muốn có nhiều người chúng ta, cũng cùng với Người cầu xin ơn hiệp nhất. Những kinh nghiệm ấy dạy tôi rằng: Cầu nguyện phải có một đức tin thật mạnh, thật sâu sắc để nhìn thấy Chúa, để đọc được thánh ý Chúa trong những dấu chỉ, và cần có một đức tin làm cho mình thương mến anh em mình.
Anh chị em thân mến, tôi hy vọng rằng, Chúa Kitô đang ở giữa chúng ta, sẽ giúp cho chúng ta thêm đức tin, và giúp cho chúng ta biết cầu nguyện như Ngài đã cầu nguyện xưa: Nâng tâm hồn mình lên với Chúa và mở tâm hồn mình về phía anh em, để biết tha thứ cho nhau, để biết nâng đỡ nhau, để biết phục vụ nhau, để biết cùng nhau xây dựng ích chung của Hội Thánh, của địa phương.
Đó là niềm tin mà nếu mỗi người chúng ta cùng tin như vậy, trong khi nhìn vào Đức Kitô ở giữa chúng ta, thì buổi lễ hôm nay, sẽ là một bước tiến quan trọng trong xứ đạo chúng ta. Chúa rất quảng đại, Chúa rất rộng lượng. Chỉ cần chúng ta khiêm tốn và tin cậy để cầu nguyện.
Trong tâm tình đó, chúng ta tuyên xưng đức tin với con em chúng ta.
Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Kim Hoà, kênh G1, sáng 27.02.1991.
Trong những năm vừa qua, nhất là trong thời gian vừa qua, tôi đã đi nhiều nơi trong địa phận, ngoài địa phận, trong nước và ngoài nước. Tôi nhận thấy một sự kiện này, đó là số người chưa nhận biết Tin Mừng Cứu Độ còn rất đông, và số người biết Tin Mừng Cứu Độ nhưng không sống trọn Tin Mừng Cứu Độ ấy cũng còn rất đông. Thực tế này làm ray rứt lòng tôi.
Đã nhiều lần tôi xin Chúa soi sáng chỉ dạy tôi, để biết cách chia sẻ Tin Mừng Cứu Độ cho những người chưa biết Tin Mừng ấy, và giúp cho những người biết Tin Mừng sẽ trở thành sức mạnh, hy vọng và niềm vui, do Tin Mừng Cứu Độ mang lại. Tôi cầu xin Chúa Thánh Linh, bởi vì tôi thấy Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay hứa với các tông đồ rằng: Sau này, Thần chân lý, Đấng phù trợ, tức Chúa Thánh Thần, sẽ được sai đến nhân danh Đức Kitô. Người sẽ chỉ dạy tất cả mọi điều.
Điều tôi xin Người chỉ dạy, tất nhiên là vinh quang Thiên Chúa, cứu rỗi loài người, nên tôi tin vào lời Chúa hứa, tôi tin vào sức mạnh của Chúa Thánh Linh.
Rồi tự nhiên có một lần, tôi nhớ tới Công Đồng Vatican II, và tự nhiên tôi thấy điều này là Chúa Thánh Thần chỉ dạy điều tôi muốn Người chỉ dạy trong Công Đồng Vatican II : Nếu muốn cho người ta sống trọn vẹn Tin Mừng Cứu Độ, và muốn chia sẻ Tin Mừng Cứu Độ cho những người chưa biết Tin Mừng ấy, thì hãy tuân giữ những điều Thánh Thần đã soi sáng cho Hội Thánh qua Công Đồng Vatican 2. Hôm nay, cũng trong mục đích giúp cho mọi người chúng ta sống trọn vẹn Tin Mừng đã lãnh nhận, và biết chia sẻ Tin Mừng ấy với những người chung quanh, tôi xin nhắc tới bốn điểm chính của Công Đồng Vatican II .
Điều thứ nhất là: Hội Thánh phải mở ra về hướng Đức Kitô là trung tâm điểm của mình. Đức Kitô là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Đức Chúa Cha mà không qua Đức Chúa Giêsu. Người là Đấng cứu độ loài người duy nhất. Vì thế, từ giáo lý phụng vụ, cho đến tâm tình bên trong, chúng ta, những người đã được Tin Mừng, cần phải quy hướng vào Đức Kitô là trung tâm đời sống đạo của chúng ta.
Điều thứ hai là: Hội Thánh cần phải mở rộng ra về hướng tất cả các thành phần dân Chúa. Hội Thánh không chỉ là Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục, các linh mục, các tu sĩ. Hội Thánh là dân Thiên Chúa. Mọi người được Rửa Tội đều được sai đi, đều có quyền lợi và bổn phận trong Hội Thánh.
Điều thứ ba: Hội Thánh cần phải mở rộng ra về phía những người chưa nhận biết Tin Mừng Cứu Độ. Khi ta chịu phép Rửa Tội, chịu phép Thêm Sức, chịu phép Truyền Chức, ta lãnh nhận sứ mạng phải loan báo Tin Mừng, phải chia sẻ Tin Mừng. Công Đồng Vatican nói: Loan báo Tin Mừng, chia sẻ Tin Mừng, đó là bản chất của Hội Thánh. Bỏ bản chất của mình, đời sống đạo của chúng ta sợ rằng không có màu sắc mà Chúa muốn chúng ta phải có đức tin.
Sau cùng, điều thứ tư: Hội Thánh phải mở rộng ra về cuộc sống xã hội mà mình được sai đến làm chứng cho Đức Kitô. Đức tin không tách khỏi cuộc sống xã hội. Đức tin không đi xa, mà phải ở gần trong cuộc sống xã hội. Cuộc sống xã hội hôm nay là những vấn đề nhà ở, là những vấn đề trường học, là những vấn đề mùa màng là vấn đề phát triển văn minh, sức khoẻ. Tất cả những vấn đề cuộc sống xã hội ấy đếu nằm trong sứ mạng phát triển Hội Thánh.
Bốn điều trên đây là bốn đề tài chính của Công Đồng Vatican II. Đó là bốn hướng đi Chúa Thánh Linh kêu gọi chúng ta, những người có đức tin. Từng địa phận, từng giáo xứ, từng tín hữu hãy đi vào để chuyên chở Tin Mừng ra. Đây là bốn tiêu chuẩn để đánh giá các giáo đoàn, các tín hữu. Khi tôi tới một giáo phận nào, tôi thường đánh giá giáo phận ấy, giáo xứ ấy, tín hữu ấy căn cứ vào bốn tiêu chuẩn trên.
Tất nhiên hôm nay, đến giáo xứ anh chị em, tôi cũng căn cứ vào bốn tiêu chuẩn ấy để cân đo, để đánh giá, tôi thấy họ đạo của anh chị em là tốt, bởi vì anh chị em đang đi theo bốn hướng của Công Đồng Vatican II. Trước hết, họ đạo anh chị em tập trung lòng đạo đức vào Đức Kitô. Thứ hai, mọi thành phần trong họ đạo đều tham gia việc chung một cách nhiệt tình. Đúng là dân Thiên Chúa. Thứ ba, họ đạo anh chị em cũng hướng về những người chưa biết Tin Mừng Cứu Độ. Anh chị em sống hoà hợp, sống chia sẻ, sống phục vụ. Đó là cách loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Và thứ tư, họ đạo anh chị em cũng để ý đến hướng nâng cao cuộc sống địa phương và nâng cao đời sống xã hội của gia đình mình, của họ đạo mình. Nâng cao về mọi mặt: Vật chất, tinh thần, gia đình, xã hội. Tôi nghĩ rằng họ đạo anh chị em đang trên đà tiến triển. Tôi hy vọng rằng, anh chị em tiếp tục tiến triển trên đà ấy.
Hồi nãy, anh chị em đã hát lên ước vọng thắp sáng lên lòng mình tình mến Chúa. Tôi cũng mong rằng, mỗi người chúng ta sẽ là chiếc đèn thắp sáng lên lửa hồng, lửa mến Chúa, và lửa ấy luôn mở ra về phía Đức Kitô, về phía mọi thành phần Hội Thánh, về phía những người chưa biết Tin Mừng, về phía cuộc sống xã hội.
Nếu chúng ta làm đúng như những lời Kinh Thánh, và đúng như chiều hướng Công Đồng Vatican II đã vạch ra theo sự hướng dẫn của Thánh Linh, thì tôi chắc rằng, điều mà Chúa Thánh Linh nói hôm nay: “Người sẽ dạy dỗ mọi sự” sẽ thực hiện đúng nơi Hội Thánh địa phương chúng ta. Dần dần từng ngày, từng tháng, từng năm, Chúa Thánh Linh sẽ được sai đến với anh chị em, và Người sẽ dạy bảo những điều cần thiết, miễn là chúng ta biết vâng phục Ngài. Vâng phục sự soi sáng và soi giục của Thánh Linh trong trí khôn ta, trong trái tim ta.
Trong niềm hy vọng đó, chúng ta cùng với các con em chúng ta tuyên xưng đức tin.
Lễ Thêm Sức tại họ đạo Xẻo Dầu, Giồng Riềng, ngày 15-03-1991.
Cách đây một tuần, tức là ngày rằm tháng giêng này, tôi đang ở thành phố Hồ Chí Minh. Trong ngày đó, tôi có nhiều công việc phải di chuyển từ phố này sang phố khác, từ quận này sang quận khác, từ nội thành ra ngoại ô rồi từ ngoại ô trở về nội thành. Trên các đường tôi đi, tôi nhận thấy một sự kiện lạ lùng, đó là rất đông người đi chùa cầu nguyện. Những đám đông chen chút nối đuôi nhau, như một dòng thác người đổ về những nơi thờ tự.
Cảnh đó làm cho tôi nhớ lại hiện tượng cầu nguyện trong những ngày đầu năm. Tôi nhận thấy những người đi cầu nguyện, không phải chỉ là những người lớn tuổi, nghèo túng, mà đa số là giới trẻ có học, có văn minh. Tôi nhận ra, đây là một hiện tượng tâm lý xã hội có ý nghĩa. Và nhất là tôi nhìn hiện tượng cầu nguyện đó, như là một dấu chỉ thời đại, nói lên sự thức tỉnh của lương tâm quần chúng hôm nay. Sự thức tỉnh ấy là tự phát, do yêu cầu nội tâm, do sự khát vọng sâu xa của đáy lòng. Sự thức tỉnh này, có hồn nhiên nhưng đẹp đẽ, nó âm thầm nhưng mạnh mẽ. Sự thức tỉnh của quần chúng Việt Nam hôm nay, về lương tâm Công Giáo, về lương tâm tôn giáo, có thể nói là một hiện tượng sâu sắc, mạng mẽ, một sự bùng nổ mà không ai cản được, bởi vì nó được thúc đẩy bởi một sức mạnh thiêng liêng vô hình.
Đứng trước một cảnh tượng tôi cho là bùng nổ về lương tâm cầu nguyện, tôi sực nhớ tới lời Chúa Giêsu phán trong bài Phúc Âm hôm nay: “Thầy nói thật với các con, nếu Thầy ở lại với các con, thì các con không có lợi cho bằng Thầy đi khỏi các con. Bởi vì, khi Thầy đi rồi, Thầy sẽ sai Thánh Thần đến, và Thánh Thần của Thầy sẽ dạy các con nhiều sự thật”. Sự thật mà Chúa Thánh Thần dạy tôi, qua hiện tượng tự phát của người Việt Nam hôm nay, đó là: Sự cầu nguyện là một việc dễ dàng, đơn giản, sâu đậm, nhưng rất quan trọng, và rất cần thiết cho con người trong chương trình cứu độ.
Nếu tôn giáo được tổ chức đầy đủ, với trên dưới đàng hoàng, với những chương trình giờ giấc khít khao nhất định, với những công thức chặt chẽ nhất định, thì chưa chắc gì, chưa dễ gì đã mọc lên được phong trào quần chúng cầu nguyện tự phát như hôm nay. Mà biết đâu cơ chế ấy lại ngăn cản, dập tắc phong trào cầu nguyện tự phát lương tâm quần chúng. Cầu nguyện như tôi vừa nói là một việc dễ dàng, đơn giản, sâu đậm, nhưng lại là một bước quan trọng để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ do Chúa Thánh Linh làm nên. Vì thế, cần phải để ý đến sự cầu nguyện.
Điếu đó, tôi đọc thấy rõ ràng trong Phúc Âm. Người kẻ trộm bên tả Chúa Kitô, và người kẻ trộm bên hữu Chúa Kitô, Cũng có những hoàn cảnh như nhau nhưng kẻ trộm bên hữu Chúa thì được cứu rỗi, bởi vì ông đã cầu nguyện. Mà chắc chắn, ông ta không phải là loại người thuộc giáo lý, hiểu biết lý thuyết về đạo, nhưng vì ông ta tin, và cầu nguyện với lòng tin tự phát, hồn nhiên, chân thành, khiêm tốn, tự đáy lòng mình, nên ông đã được ơn cứu độ.
Rồi người thu thuế cầu nguyện cuối nhà thờ, mà trong Phúc Âm nói là ông đã được ơn cứu rỗi, thì cũng vậy ông được ơn cứu độ nhờ cầu nguyện. Mà chắc chắn, ông ta không phải là loại người biết đạo nhiều lắm, là những người thuộc giáo lý, là những người hiểu sâu về lý thuyết tôn giáo, nhưng ông là người tin, tin vào lòng thương xót Chúa, và ông ta cầu nguyện, dựa theo niềm tin của mình, tự đáy lòng khiêm tốn, chỉ một lời: Xin Chúa thương xót đến con. Và ông ta đã được cứu rỗi.
Những sự kiện trên đây giúp chúng ta thấy rằng, dù ở trong hoàn cảnh nào, có nhà thờ, hay không có nhà thờ, có cha thầy hay không có cha thầy, có lễ lạc hay không có lễ lạc, việc cầu nguyện là việc đơn giản nhất, sơ đẳng nhất, dễ dàng nhất, ta cần phải làm, dù không thuộc kinh, dù không biết gì giáo lý, nhưng hãy cầu nguyện theo lòng của mình.
Tôi thấy Chúa Kitô trong Phúc Âm đã làm gương cho tôi về sự cầu nguyện hồn nhiên: Ngay khi Ngài cảm thấy đau khổ, Ngài cũng chỉ nói rằng: “Lạy Cha sao Cha bỏ con”. Đơn sơ chỉ có vậy thôi, nhưng đó là lời cầu nguyện tự phát hồn nhiên, khiêm tốn phó thác. Một lời cầu nguyện như vậy, đúng là một sự gặp gỡ Chúa và chính là ơn cứu độ.
Đứng trước phong trào đang bùng nổ về cầu nguyện tràn lan khắp những người ngoài Hội Thánh Công Giáo, chúng ta, những người biết Chúa càng cần phải để ý hơn đến sự cầu nguyện hôm nay. Hãy cầu nguyện với kinh mà chúng ta thuộc, với lễ nghi mà chúng ta dự, với cộng đoàn mà chúng ta thuộc về. Thế nhưng đừng chỉ căn cứ quá vào những thói quen đó, nhưng hãy tập quen cầu nguyện một mình, tự phát với Chúa. Tôi đi đường, không có nhà thờ, không có lễ lạc, tôi vẫn cầu nguyện âm thầm với Chúa. Đi qua cánh đồng tôi nhìn cánh đồng, tôi cầu nguyện cho những người nông dân đang làm ruộng. Tôi đi qua chợ thấy bà con buôn bán, tôi cầu nguyện với Chúa cho họ. Biết bao cảnh gợi ý cho chúng ta cầu nguyện.
Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa, và cầu nguyện là mở tâm hồn mình ra về phía kẻ khác. Cầu nguyện tự phát, đây cũng là điều tôi muốn nhắn nhủ họ đạo anh chị em, trong khi không có cha thầy thường xuyên ở với. Các bậc làm cha mẹ, những người lớn phải tập cho con em mình biết cầu nguyện. Sự cầu nguyện như tôi vừa nói, tôi đoan chắc với anh chị em, là anh chị em sẽ được cứu độ. Nếu anh chị em không được bằng những nơi khác về vấn đề học giáo lý, lui tới bí tích, đi nhà thờ, nhưng nếu anh chị em trung thành với sự cầu nguyện như tôi vừa nói, tôi đoan chắc với anh chị em là anh chị em sẽ được cứu độ. Chúa rất công bằng, Chúa rất thương xót, Ngài chỉ đòi tấm lòng của anh chị em. Anh chị em có thế nào, hãy nói với Chúa như vậy. Khi được may mắn hãy chúc tụng tạ ơn Chúa. Khi đau khổ hãy nói lên cái đau khổ của mình với Chúa. Khi tội lỗi, rối rắm hãy nói lên hoàn cảnh yếu đuối của mình với Chúa. Mình là con, Chúa là Cha, Cha thương con. Hãy tin tưởng như vậy trong sự cầu nguyện, rồi chúng ta sẽ thấy, Chúa là Đấng Cứu Độ, sẽ đem lại bình an cho chúng ta. Sau cùng Chúa là Đấng Cứu Độ sẽ đón chúng ta trong thế giới bên kia, để đem lại hạnh phúc muôn đời cho chúng ta.
Trong niềm hy vọng đó, ngay hôm nay, bây giờ, chúng ta cùng các em tuyên xưng đức tin.
Lễ Thêm Sức tại họ kinh Tràm, Giồng Riềng, ngày 16-03-1991.
Trong mấy ngày nay, tôi có dịp được tiếp xúc với nhiều trẻ nhỏ. Và ngay trong giờ phút này, trước mặt tôi, tôi đang nhìn thấy nhiều trẻ nhỏ. Tôi thích ngắm nhìn trẻ nhỏ và tiếp xúc với trẻ nhỏ. Bởi vì thế giới trẻ nhỏ là một thế giới đơn sơ, và nhất là, tôi muốn vâng lời Chúa Giêsu dạy.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa phán rằng: “Nếu các con không giống như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời!”.
Thú thật lời Chúa dạy trên đây, làm cho tôi bỡ ngỡ. Giả sử Chúa dạy tôi rằng: Nếu con không giống nên như Đức Mẹ, như thánh Giuse, như thánh Gioan Baotixita, hay như thánh Đaminh, Vinhsentê... Con sẽ không được vào Nước Trời, thì chắc là không có thắc mắc gì cả. Nhưng đàng này Chúa lại nói: “Nếu con không giống như trẻ nhỏ, con sẽ không được vào Nước Trời”.
Lý do tôi thắc mắc là: Vì trẻ nhỏ, còn nhiều giới hạn lắm, nó có đức tính ít lắm. Ngoài ra, chúng còn nhiều cái phải nói là chưa tốt: Thích chơi, thích đùa, thích ăn, thích giỡn... nhiều khi thích phá phách thế mà Chúa lại bảo tôi, nếu con không nên như trẻ nhỏ, con sẽ không được vào Nước Trời. Thắc mắc của tôi, được giải tỏa, nhờ sự Chúa xác định rõ điểm mà Chúa muốn tôi phải nên giống như trẻ nhỏ. Điểm đó là sự khiêm tốn, hạ mình xuống. Chúa nói rằng: “Nếu các con không hạ mình xuống như trẻ nhỏ”.
Suy nghĩ cho chính chắn, tôi biết điều Chúa dạy tôi rất là sâu sắc: Như trẻ nhỏ nhận biết mình yếu kém, hèn mọn, bé nhỏ, thì tôi cũng phải nhìn nhận về mình như vậy, đó là hạ mình xuống như trẻ nhỏ. Rồi như trẻ nhỏ nhận biết mình cần phải học hỏi thêm, cần phải được uốn nắn, cần phải được giáo dục, thì tôi cũng cần phải nhận biết mình như vậy, đó là hạ mình xuống như trẻ nhỏ. Và cũng như trẻ nhỏ nhận biết mình cần phải được tha thứ, tôi cũng phải nhận biết điều đó về chính bản thân tôi. Và như vậy là hạ mình xuống như trẻ nhỏ.
Hạ mình xuống như trẻ nhỏ, trong sự nhận biết mình yếu kém, trong sự nhận biết mình cần phải học hành thêm, trong sự nhận biết mình cần được giúp đỡ, thiết tưởng đó là điều mà những ai muốn tiến triển về mặt đời, về mặt đạo, cần phải chú ý và thực hiện.
Tôi đã thấy có những cá nhân và những cộng đoàn xã hội, cộng đoàn tôn giáo... Sở dĩ đã phát triển, là vì đã biết nhận mình yếu kém, đã biết nghiên cứu đào sâu học hỏi, và biết đón nhận những sự giúp đỡ từ mọi phía: Từ Thiên Chúa đến con người, và đã tỏ ra xứng đáng với những sự giúp đỡ đó.
Họ đạo anh chị em sở dĩ đã tiến triển, thiết tưởng cũng vì đã thực hiện được lời Chúa dạy, nhận biết mình còn thiếu sót, cố gắng học hỏi thêm và đón nhận những sự giúp đỡ.
Cách đây vài tuần, tôi đi xức trán ở một họ đạo thuộc Cái Sắn, tôi hỏi thăm về tình hình học vấn trong xứ đạo ấy, thì tôi được biết: Trong xứ đạo có chừng 20.000 dân, thì có đến 40 trẻ em qua lớp 12 và có đến 20 người theo học đại học. Tôi coi tình hình học vấn đó là một tình hình có hy vọng nền tảng để phát triển cho tương lai họ đạo, tương lai đất nước và tương lai Giáo Hội. Cần phải đẩy mạnh học vấn, bởi vì chúng ta yếu kém, và để dễ đón nhận những sự giúp đỡ.
Trong diễn văn Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 đọc ngày 24-11-1990 vừa qua, trước mặt các Đức Giám Mục Việt Nam, khi đề cập đến hàng giáo sĩ, các chủng sinh, các tu sĩ và giáo dân Việt Nam, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh đến việc nâng cao trình độ huấn luyện lên: Huấn luyện về mặt nhân bản, huấn luyện về mặt văn hóa, huấn luyện về mặt giáo lý và huấn luyện về mặt tu đức. Tất nhiên trong vấn đề nâng cao trình độ huấn luyện giáo lý và tu đức, chúng ta cần nâng cao tinh thần cầu nguyện và tinh thần học hỏi Phúc Âm. Trong tinh thần cầu nguyện, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến việc kết hợp với Chúa Kitô và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta nhìn lên Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ, là Thần Chân Lý, xin người dạy dỗ chúng ta, để chúng ta biết nâng cao trình độ huấn luyện bản thân mình, và nâng cao trình độ huấn luyện con em mình lên như Đức Thánh Cha mong muốn. Và chúng ta sẽ tiếp nhận bất cứ một sự giúp đỡ nào, trong vấn đề huấn luyện đó với tinh thần của trẻ nhỏ, hạ mình xuống, và nhất là hạ mình xuống trong niềm tin trung thực, chân thành, khiêm tốn đối với Chúa Kitô và đối với Chúa Thánh Thần, hướng về Đức Chúa Cha.
Trong niềm tin đó, chúng ta cùng với các con em tuyên xưng đức tin.
Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Trảng Tranh, Giồng Riềng, ngày06-03-1991.
Từ Tết đến giờ, tôi đã đi làm lễ Thêm Sức tại nhiều nơi thuộc tỉnh An Giang, tỉnh Kiên Giang và tỉnh Hậu Giang, thuộc Giáo Phận Long Xuyên. Tới họ đạo nào, tôi cũng để ý xem ở nơi đó, đồng bào có đủ ăn không? Nếu có người nghèo ra sao? Nơi đó có trường học không? Có trạm xá không? Có giếng nước ngọt không? Nếu nơi đó là vùng nhiều kinh rạch, thì có cầu để đồng bào đi lại không?
Phải nói thật là chưa nơi nào được gọi là đầy đủ cả. Vẫn còn số đông người đau bịnh không được chăm sóc. Vẫn còn số đông trẻ em không có hoàn cảnh để tiếp tục học. Vẫn còn nhiều việc phải làm, để phát triển xã hội và đời sống.
Trong việc phát triển này, tôi thấy có nhiều cố gắng của đồng bào và chính quyền, tôi cũng thấy nơi nào có cộng đoàn tín hữu, thì nơi đó tinh thần đức tin đã góp phần đáng kể. Và tôi thấy, nơi nào có linh mục thì nơi đó giáo dân được an tâm hơn. Lý do là linh mục giúp giải quyết các nhu cầu nội tâm của họ, và đàng khác, linh mục cũng cộng tác một phần không nhỏ vào việc xây dựng bầu khí bình an trật tự, và nâng cao đời sống cá nhân, gia đình, xã hội.
Chính vì thế, mà đâu đâu tôi cũng nhận thấy đang có một sự khao khát mong ngày càng tăng đối với linh mục. Cộng đoàn giáo dân nào chưa có linh mục đều xin có linh mục. Nhà thờ nào chưa có linh mục đều xin có linh mục. Họ đạo nào đã có linh mục, nhưng linh mục đã già, hoặc đau yếu, hoặc vì số giáo dân tăng, đều xin thêm linh mục. Có nơi, chính quyền địa phương cũng xin tôi gửi linh mục tới. Nhưng tôi không còn đủ linh mục để sai đi. Đang khi đó, số linh mục già yếu đau bệnh mỗi ngày một tăng.
Tôi biết là đối với hầu hết người Công Giáo Việt Nam, linh mục còn hơn là một chiếc cầu, còn hơn là một giếng nước ngọt, còn hơn là một trạm xá. Linh mục là một nhân tố quan trọng làm nên hạnh phúc của họ. Thế nhưng, số linh mục vẫn có giới hạn, và số linh mục có thể làm việc được cũng vẫn có giới hạn. Đứng trước tình hình này, tôi không khỏi lo âu.
Hôm nay, trong Lễ Truyền Dầu, tôi chia sẻ những lo âu đó với anh chị em. Tôi hy vọng rằng, những dầu mà tôi làm phép hôm nay, sẽ tới được nhiều bàn tay linh mục, sẽ đem nhiều an ủi, nâng đỡ đến cho nhiều người chịu phép Rửa Tội, phép Thêm Sức, các bệnh nhân, và các cộng đoàn đức tin.
Ơn thánh là vô hình. Cũng như chức linh mục không có vóc dáng. Nhưng đều là những thực tại có liên hệ mật thiết đến thế giới bên trong của con người. Những thực tại ấy giúp khám phá ra thế giới bên trong của mỗi người, giúp trang hoàng cho thế giới bên trong ấy được đẹp thêm, và giúp cho thế giới bên trong của từng người đạt tới cõi hạnh phúc sâu xa nhất, bền vững nhất.
Xin Cha trên trời giàu lòng thương xót thương nhìn đến hoàn cảnh thiếu thốn ở khắp nơi. Xin Người để dầu thiêng liêng bình an của Người vào mọi lòng người. Xin Người thương đến mỗi người chúng ta, họ đạo chúng ta, Giáo Hội chúng ta, đất nước chúng ta. Amen.
Nhà thờ Chánh Tòa Long Xuyên. Lễ Truyền Dầu 17-3-1991 (Cn V mùa chay).
Thánh lễ chiều nay tưởng niệm giờ phút Chúa Giêsu từ giã những người thân. Ngài biết đã tới giờ Ngài phải đi nạp mình chịu chết. Ngài không có của cải vật chất nào để lại. Ngài chỉ trối lại ba tặng phẩm: Một là bí tích Thánh Thể, hai là chức linh mục, ba là giới luật yêu thương.
Bí tích Thánh Thể là để chính Ngài trở nên lương thực thiêng liêng nuôi các linh hồn.
Chức Linh Mục là để chính Ngài tiếp tục phục vụ nhân loại.
Giới luật yêu thương là để chính Ngài ở giữa những kẻ biết yêu thương nhau.
Đó là ba tặng phẩm đơn sơ. Xét cho cùng thì ba tặng phẩm đơn sơ ấy chỉ là ba hình thức khác nhau của một tặng phẩm đơn sơ duy nhất, đó là trái tim đầy Tình Yêu Cứu Độ của Chúa Giêsu.
Tình yêu cứu độ là tặng phẩm quí giá Ngài đã gởi lại. Địa chỉ mà Ngài gởi tặng phẩm này là một kẻ cần được cứu độ. Trong danh sách các địa chỉ mà Chúa Giêsu đã nhớ tới trong giờ phút chia ly xưa đã có tên chúng ta: Tên từng người chúng ta, tên từng gia đình chúng ta, tên từng cộng đoàn chúng ta. Bởi vì Ngài biết chúng ta cần được cứu độ và muốn được cứu độ.
Thực vậy, chúng ta, dù là cá nhân, dù là tập thể, đều có những yếu đuối, những sai lầm, những hoàn cảnh khó khăn. Trong ta vẫn có phần nào sự phản bội của Giuđa, sự nhát sợ của Phêrô và các môn đệ khác. Trong ta cũng có phần nào máu ganh ghét độc ác của các thượng tế và biệt phái. Trong ta vẫn có phần nào những tính dửng dưng hoặc nông nổi của quần chúng đối với Chúa Giêsu.
Trong ta vẫn có phần nào tính cả nể của Philatô và máu hung dữ của các lý hình đã hành hạ Chúa Giêsu. Và trong ta vẫn có phần nào cảnh cô đơn sầu muộn đau đớn ngặt nghèo của Đức Mẹ Maria trong những ngày Chúa Kitô chịu khổ nạn. Đúng là như vậy, mỗi người chúng ta đều cần được cứu độ.
Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Kitô. Chỉ có Ngài là Đấng Cứu Thế. Ngài gởi tặng phẩm cứu độ tới chúng ta. Tặng phẩm Ngài gởi là Tình Yêu Cứu Độ của Ngài. Ta hãy biết đón nhận tặng phẩm cao quí ấy.
Chỉ cần ta khiêm tốn mở lòng mình ra để tin mến Chúa, và chỉ cần ta quản đại mở lòng mình ra để thứ tha yêu thương bác ái đối với kẻ khác.
Để cứu độ ta, tình yêu Chúa Giêsu đã chấp nhận khiêm nhường như gương Ngài rửa chân cho các môn đệ. Để cứu độ ta, tình yêu Chúa Giêsu đã chấp nhận gánh tội và đền tội, như gương Ngài nạp mình chịu chết trên thánh giá. Để cứu độ ta, tình yêu Chúa Giêsu đã chấp nhận âm thầm bé nhỏ hèn mọn, như gương Ngài ở trong hình bánh hình rượu.
Tất nhiên, ta không thể làm được tất cả như Ngài đã làm. Nhưng ít ra ta cũng phải để ý sống theo gương Ngài. Ngài đã sống thế nào, ta cũng cố sống như vậy. Rồi dần dần ta sẽ thấy tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta, và cứu độ ta.
Riêng trong giờ phút này, ta hãy đến gặp Chúa Giêsu. Hãy nhìn lên Ngài, hãy nói với Ngài. Hãy đón nhận tặng phẩm tình yêu của Ngài và hãy cảm tạ Ngài.
Với tất cả niềm tin, với tất cả lòng cậy trông phó thác. Amen.
Thứ năm Tuần Thánh 28-03-1991, tại nhà thờ Chánh Tòa Long Xuyên.
Trong thánh lễ đêm nay có một cái được đề cao một cách khác thường, đó là cây nến Phục Sinh.
Đầu lễ, giữa bóng tối âm u, duy chỉ có một cây nến Phục Sinh được thắp sáng, rồi được rước lên cung thánh, được xông hương và được đứng ở một chỗ trịnh trọng. Lửa cây nến Phục Sinh đã được dùng để thắp lên các cây nến khác. Mọi ánh lửa trong nhà thờ đêm nay đều phát xuất do một nguồn, một trung tâm, đó là cây nến Phục Sinh.
Với những chi tiết trên đây, cây nến Phục Sinh là hình ảnh Đức Kitô. Giữa muôn vàn khó khăn như bóng tối bao trùm cuộc sống con người, Đức Kitô xuất hiện như ngọn lửa cứu độ. Ngọn lửa cứu độ của Đức Kitô là tình yêu của Ngài.
Tình yêu của Ngài đối với Đức Chúa Cha là ngọn lửa không bao giờ tắt, mặc dầu bị nhiều cơn bão thử thách dập vùi, đến nỗi có lúc Đức Kitô đã cảm thấy như mình bị Đức Chúa Cha bỏ rơi. Tình yêu của Đức Kitô đối với loài người cũng là ngọn lửa không bao giờ tắt, mặc dầu bị biết bao ngọn gió đắng cay lay chuyển, đến nỗi có lúc Đức Kitô đã toát mồ hôi máu.
Với ngọn lửa mến Chúa yêu người thiết tha bền vững, Đức Kitô đã và đang thực sự cứu tôn giáo và con đường về trời khỏi rơi vào tình trạng tha hóa, do sự thích quan trọng hóa các thứ phụ thuộc, mà quên đi bản chất của mình là tình mến Chúa yêu người.
Trong đêm Phục Sinh này, tôi tha thiết cầu xin cho ngọn lửa mến Chúa yêu người của Đức Kitô Cứu Độ được sáng lên trong mỗi người chúng ta, trong Hội Thánh chúng ta, và trong mọi người. Tôi nghĩ rằng chỉ khi nào ngọn lửa tình yêu của Đức Kitô thực sự sáng lên trong chúng ta, thì chúng ta mới đúng là Kitô hữu, nghĩa là kẻ có Đức Kitô trong mình. Tôi cũng nghĩ rằng chỉ khi nào chúng ta thao thức thắp sáng lên ngọn lửa tình yêu của Đức Kitô trong gia đình ta, trong cộng đoàn của ta, trong Hội Thánh của ta, thì ta mới thực sự bước được những bước đầu đúng đắn trong việc loan báo Tin Mừng Cứu Độ.
Đối với tôi, đêm tối bi thảm nhất của một người là những ngày tháng không có tình thương, không có hy vọng, hơn nữa lại đầy ghen ghét hận thù và tuyệt vọng. Xin Chúa Giêsu Phục Sinh thương xót những người trong cảnh tối tăm đó. Xin Chúa Giêsu Phục Sinh thương xót tất cả chúng ta.
Lát nữa, khi rảy nước thánh, khi tuyên xưng đức tin, và nhất là khi rước lễ, ta nhìn lên Đức Kitô sống lại với tất cả niềm tin yêu phó thác. Dù ta thế nào, Đức Kitô sống lại vẫn là niềm hy vọng của ta, bây giờ và mãi mãi. Amen.
Lễ Vọng Phục Sinh ngày 30-03-1991, tại nhà thờ Chánh Tòa Long Xuyên.
Bài Phúc Âm hôm nay là một Tin Mừng rất lớn và là một Tin Mừng rất thực tế. Khi nghe bài Phúc Âm hôm nay, tôi có cảm tưởng là tôi nhận được một bức ảnh của Thiên Chúa do chính tay Thiên Chúa phát họa và gởi tặng tôi. Vì là những bức chân dung của Chúa, do Chúa phát họa, nên bức chân dung đó đúng nhất, duy nhất đúng, đúng hơn tất cả mọi thứ chân dung do bất cứ ai phát họa ra. Vậy bức chân dung Chúa mà Chúa phát họa ra hôm nay, trong bài Phúc Âm, có những vẻ đẹp nào? Thưa có ba vẻ đẹp sau đây:
- Vẻ đẹp thứ nhất: Là sự nhân lành của Đấng chăn chiên.
Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành”. Lời Chúa trên đây đã được người ta diễn tả ra bằng hình ảnh một người thanh niên đang chăn chiên trên một cánh đồng lớn, có những cỏ non xanh, có những dòng suối mát, và người thanh niên ấy vác trên vai mình một con chiên đau bệnh. Sự nhân lành của Chúa Giêsu mục tử đó là một vẻ đẹp có sức hấp dẫn.
- Vẻ đẹp thứ hai của bức chân dung mà Chúa đã phát họa ra trong bài Phúc Âm hôm nay là sự Ngài hy sinh, liều mạng cho đoàn chiên mình.
Chúa phán: “Ta thí mạng sống mình vì đoàn chiên”. Lời Chúa phán trên đây thường được diễn tả bằng hình ảnh con bồ nông mẹ, nhỏ từng hạt máu của mình vào miệng những đứa con non nớt của mình để nuôi dưỡng chúng. Con chim bồ nông mẹ ấy, nuôi các con của mình bằng chính máu, cho đến hạt máu cuối cùng, rồi mẹ lăn ra chết. Mẹ chết để cứu đoàn con. Sự hy sinh của Chúa Giêsu mục tử là một vẻ đẹp có sức đánh động những trái tim khô cứng.
- Vẻ đẹp thứ ba của bức chân dung Chúa, được Chúa phát họa trong bài Phúc Âm hôm nay, là sự Người hiểu biết từng con chiên mình.
Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta”. Ý lời Chúa trên đây đã được diễn tả bằng hình ảnh một người cha, ôm hôn đưa con ngỗ nghịch trở về. Bởi vì, mắt cha nhân từ, hiểu biết sự yếu đuối, dại khờ, nông nổi của đứa con, và hiểu thiện chí tối thiểu của đứa con mình. Đây là một vẻ đẹp, phản ảnh tình yêu cứu độ của Chúa.
Ba vẻ đẹp trên đây, đều nói lên vẻ đẹp duy nhất của Thiên Chúa, đó là tình thương xót. Tình thương xót, đó là chân dung của Chúa. Tình thương xót, đó là dung mạo của Chúa. Tình thương xót, đó là khuôn mặt của Chúa.
Khi tôi gặp Chúa, trong giờ cầu nguyện, tôi vẫn nhìn Chúa với bộ mặt ấy, và chỉ với bộ mặt ấy mà thôi. Chẳng hạn lúc này, trong thánh lễ tôi đang gặp Chúa trước mặt tôi, tôi thấy gương mặt Chúa giải tỏa ánh sáng, chứa chan tình xót thương tha thiết. Tôi nhìn thấy Chúa đang nhìn tôi, và trong ánh mắt của Chúa, tôi nhìn thấy tình thương xót của Chúa như một dòng suối tình yêu dạt dào. Tôi vẫn nhìn Chúa như vậy, khi ăn năn tội, khi cám ơn, nhất là trong những hoàn cảnh đau buồn khó khăn, Chúa là như thế đó. Tôi nghĩ rằng, chúng ta không nên, cũng không thể và không được quyền nhìn Chúa với bộ mặt khác.
Cũng do vậy, mà mỗi khi tôi gặp được ai, có lòng nhân từ thương xót, tự nhiên tôi nhận ra người đó phản ảnh lòng thương xót của Chúa, dù họ có đạo hay không có đạo. Và cũng từ kinh nghiệm ấy, tôi thấy rằng: Ai muốn nên giống Chúa thì phải tập sống nhân lành, thương xót đối với những người chung quanh. Ai muốn nên trọn lành, thì phải tập sống nhân lành thương xót, như chính Chúa là Đấng thương xót. Và ai muốn lôi kéo người ta về với Chúa thì càng phải cố gắng có những cử chỉ và những việc làm thương xót nhân lành.
Tuần trước tôi ở Hà Nội và đi thăm nhiều nơi ngoài Bắc, tôi thấy khắp nơi, từ Nam chí Bắc, trong đạo ngoài đời, đâu đâu bây giờ cũng có rất nhiều người thiếu thốn, đau khổ, neo đơn, thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tình thương. Đâu đâu cũng có những người đang chờ đợi lòng nhân lành thương xót của Chúa và của đồng bào mình. Trước cảnh đó, tôi nghĩ rằng, Chúa muốn chúng ta hãy cùng với Chúa tỏ mình ra là con cái của Đấng giàu lòng thương xót. Thiên Chúa đã thương xót ta biết bao, thì ta hãy biết thương xót kẻ khác, để đáp lại những ơn Chúa ban cho chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Tôi biết là anh chị em làm ăn vất vả lắm, đối với tất cả mọi người chúng ta, bộ mặt cuộc đời hôm nay, là một bộ mặt đầy những vết nhăn nghiệt ngã.
Trong một hoàn cảnh như vậy, chúng ta rất cần chạy đến với Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Hãy đến với Chúa, dù ta thế nào, đạo đức hay tội lỗi, sốt sắng hay nguội lạnh, hãy cứ đến với Chúa. Hãy kêu xin Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Hãy cảm tạ lòng thương xót của Chúa. Hãy cầu xin cho nhiều người nhận ra khuôn mặt đầy tình thương xót của Chúa, và nhất là mỗi ngày, hãy cầu xin Chúa cho chúng ta, để trong giờ hấp hối và trong khi Chúa phán xét, chúng ta sẽ được nhìn thấy Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Tôi nhắc lại, điều này rất cần: Mỗi ngày, hãy cầu xin, để trong giờ ta hấp hối, và trong giờ ta bị Chúa phán xét, ta được nhìn thấy Thiên Chúa là người Cha cứu độ, giàu lòng thương xót.
Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu của Chúa trong lễ hôm nay, ban ơn thêm sức cho chúng ta, nhất là cho con em chúng ta được thêm tin tưởng vào tình xót thương của Chúa. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Kiên Lương, ngày 21-04-1991.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu phán: “Ta là cửa chuồng chiên, ai qua ta mà vào sẽ được cứu rỗi. Kẻ ấy sẽ ra vào và tìm được của nuôi thân!” Với những lời trên đây, Chúa Giêsu đã chỉ rõ cho chúng ta thấy, đâu là cửa đích thực dẫn vào Hội Thánh, và cái gì là quan trọng nhất để thuộc về đoàn chiên của Chúa.
Vậy đâu là cửa đích thực dẫn vào Hội Thánh? Thưa là Chúa Kitô. Và cái gì là quan trọng nhất để được thuộc về đoàn chiên Chúa? Thưa là tin vào Đức Kitô và sống theo Ngài.
Những chân lý trên đây, rất đơn sơ và trong sáng. Trong thời Giáo Hội sơ khai, các môn đệ Chúa đi giảng đạo, thì hầu như chỉ giảng về Đức Kitô. Và điều mà các Ngài thường đòi hỏi những người muốn theo đạo Công Giáo, gia nhập Hội Thánh, cũng chỉ là: Hãy tin vào Đức Kitô, chịu nạn, chịu chết, và đã sống lại. Ai tin vào Đức Kitô, thì kể như đủ, để được rửa tội và được tham gia vào cộng đoàn của Chúa Kitô. Rồi cũng trong thời ấy, những sinh hoạt tôn giáo cũng chỉ tập trung vào Đức Kitô trong ba việc này:
1. Thực hiện lễ nghi bẻ bánh, cũng là thánh lễ Misa.
2. Học hỏi lời Đức Kitô đã giảng dạy.
3. Thực hiện giới luật yêu thương mà Chúa Kitô đã trối lại.
Các tín hữu thời ấy, tuân giữ ba việc đạo đức ấy một cách xác tín và đầy hoan lạc. Nhưng càng xa thời các thánh tông đồ, thì những việc đạo đức ấy càng bị thêm bớt, đến nỗi có nơi, có thời, Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể không còn được để ý cho bằng các lễ nghi bề ngoài, và việc tôn kính các thánh. Sự tôn kính các thánh và giữ lễ nghi được tôn-trọng-hóa một cách quá đáng, đến nỗi Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể bị lu mờ đi. Rồi cũng có thời, có nơi, lời Chúa Giêsu không còn được để ý cho bằng lời kinh, lời đấng nọ, đấng kia, lời Tòa Thánh. Lời các vị ấy được quan trọng hóa một cách quá đáng, làm nhạt nhòa đi giới luật yêu thương.
Tình trạng suy thoái, biến chất như vậy, vẫn còn thấy đó đây trong Hội Thánh hôm nay. Và khi nhìn thấy tình trạng biến chất như vậy xảy ra, tôi thực sự lo sợ. Tôi lo sợ, là lo cho tín hữu của mình, nếu không khéo sẽ rơi vào nguy cơ xa lìa Đức Kitô, nguy cơ không thực sự thuộc về Đức Kitô, nguy cơ không phải là người Kitô hữu thực sự.
Có nhiều lần, tôi thầm nghĩ trong lòng, giả thuyết hôm nay, Chúa Giêsu lại xuống thế một lần nữa, sống như một người thường, đến thăm Tòa Thánh, đến thăm các Tòa Giám Mục, các nhà dòng, các giáo xứ, các gia đình có đạo và từng tín hữu, thì không biết chúng ta có nhận ra Ngài không? Và nhất là, Ngài có nhận ra chúng ta là môn đệ Ngài không? Và Ngài có nhận ra đạo của chúng ta hôm nay là đạo của Ngài không? Tôi sợ có những biến chất mà chúng ta vô tình hay hữu ý, đã làm sai đi những điều căn dặn của Chúa Kitô, bởi vì chúng ta không tập trung vào Đức Kitô, là cửa dẫn vào Hội Thánh.
Riêng đối với anh chị em có mặt ở đây hôm nay, trong họ đạo này, tôi có cảm tưởng rằng: Nếu Chúa đến đây lúc này, có mặt hôm nay, thì không những Chúa nhận ra chúng ta là những người thuộc về Chúa. Mà Chúa còn dành cho chúng ta nhiều cảm tình đặc biệt, bởi vì Chúa biết chúng ta đã có nhiều thiện chí trong việc tôn sùng Mình Thánh, trong việc học hỏi lời Chúa, và trong việc tuân thủ giới luật yêu thương.
Lúc nãy, khi mới vào nhà thờ này, tôi để ý ngay đến cung thánh, có nhà tạm kính phép Mình Thánh, có Phúc Âm đề cao lời Chúa, và tự nhiên, tôi cảm thấy rằng: Họ đạo anh chị em đang đi đúng cửa thực sự dẫn vào Hội Thánh. Đó là tập trung vào Đức Kitô. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng, tất cả những gì chúng ta có hôm nay, không phải là hoa trái sau cùng mà Chúa mong muốn nơi chúng ta. Chúa mong muốn chúng ta có những thiện chí mới, có những cố gắng mới trong việc tôn sùng Mình Thánh, trong việc học hỏi lời Chúa và nhất là trong việc thực thi giới luật yêu thương.
Hiện nay, giới luật yêu thương là một đòi hỏi, là một thách đố có tính cách Phúc Âm hóa, và Phúc Âm hóa có nghĩa là nó có sức truyền giáo và tái truyền giáo. Nếu chúng ta có những xây cất công trình đẹp đẽ, có những công lao tổ chức trong Giáo Hội, có những qui tụ đông đảo, linh đình, mà nếu thiếu bác ái, thì tất cả các việc chúng ta làm, sẽ mất đi rất nhiều ý nghĩa và giá trị cao đẹp, và sẽ không có sức thiêng liêng để huấn luyện chúng ta, trở nên những người con đích thực của Chúa, mang dấu ấn của Chúa và không có đủ sức mạnh thuyết phục được những người không có đạo, trở về với đạo của Chúa chúng ta.
Mỗi người trong chúng ta hãy đi vào cửa của Đức Kitô, mến phép Mình Thánh, hằng ngày học hỏi lời Chúa, và nhất là cố gắng thực thi bác ái đối với nhau. Bác ái là việc khó hơn là đi viếng Mình Thánh, là học lời Chúa. Điều đó anh chị em biết rồi: Chúng ta có thể quỳ từng giờ để viếng Mình Thánh. Chúng ta có thể bỏ từng giờ để học hỏi lời Chúa. Những việc đó tương đối dễ, nhưng thực hiện giới luật yêu thương, biết tha thứ cho nhau, nhịn nhục nhau, đi thăm viếng những người bệnh tật, giúp đỡ những người nghèo túng, neo đơn, khổ đau, để ý đến những người có hoàn cảnh khó khăn. Đó là những công việc rất khó. Nhưng nếu vượt qua được những cái khó đó, ta sẽ trở nên một nhân chứng thực sự của Chúa: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần, là ánh sáng chân lý soi dẫn chúng ta biết đi vào cửa đích thực, dẫn vào Hội Thánh, đó là Đức Kitô, và giúp cho chúng ta có sức mạnh thực hiện điều quan trọng nhất để thuộc về đàn chiên Chúa Kitô, đó là tin mến Đức Kitô, và sống theo Đức Kitô.
Lạy Chúa xin thương xót chúng con. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Hòa Điền, kênh I, ngày 24-04-1991.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, có những lời đã vạch đường soi lối cho tôi, đang chính lúc tôi rất băn khoăn ray rứt. Thú thật là trong mấy ngày nay, tôi rất băn khoăn và ray rứt khi nghĩ tới những ngôi nhà thờ đã bị lâm vào cảnh hoang tàn, đổ nát, ở Hòn Chông, ở Rẫy Mới, ở Rạch Đùng. Tôi băn khoăn tìm xem ai phải chịu trách nhiệm về cảnh hoang tàn, đổ nát của các ngôi thánh đường cũ ấy.
Đang khi tôi băn khoăn như vậy, thì tôi nghĩ tới lời Chúa phán trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa phán: “Ai khinh dễ Ta, thì lời của Ta sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. Còn bây giờ, Ta đến, không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu rỗi thế gian”. Với những lời trên đây, Chúa Giêsu đã dạy tôi rằng: Nếu những ngôi thánh đường đổ nát ấy đã lâm vào cảnh hoang tàn đổ nát, do thái độ khinh suất nào đó, thì thái độ khinh suất ấy sẽ bị xét xử.
Chúa dành quyền xét xử cho mình, sự xét xử ấy sẽ được thực hiện trong ngày sau hết. Còn bây giờ, là thời gian cứu độ.
Lời Chúa dạy tôi trên đây, giúp cho tôi được an tâm: Tôi không còn mất thời giờ đoán xét một ai, nhưng tôi cùng với Chúa Kitô nhìn về phía trước, cố gắng cứu những gì có thể cứu được. Tôi nghĩ rằng, cứu vãn một thánh đường cho khỏi cảnh hoang tàn, đổ nát là góp phần cứu một cộng đoàn đức tin khỏi rơi vào cảnh hoang tàn. Đồng thời, cũng cứu vô số tâm hồn, vô số cuộc đời khỏi rơi vào đổ nát. Như vậy, có nghĩa là sự xây dựng một thánh đường, sự tu bổ một thánh đường có mục đích riêng của nó. Mục đích ấy siêu nhiên nhiều hơn là tự nhiên. Nó nhắm tới sự phục hưng đạo đức. Nó nằm trong kế hoạch phát triển con người toàn diện. Nó gắn liền với việc giữ đạo và truyền đạo. Và nếu chúng ta nhìn kỹ, nhìn sâu, thì chúng ta thấy rằng: Việc tu bổ và xây dựng một thánh đường mới vì những lý do chính đáng, bao giờ cũng là một việc có liên hệ mật thiết đến sự cứu độ của nhiều người và của nhiều thế hệ. Thế hệ chúng ta hôm nay, và thế hệ con em chúng ta sau này.
Khi nhận ra sự liên hệ giữa một thánh đường được đổi mới và phần rỗi của nhiều người, của nhiều thế hệ, tôi mới thấy rằng những thái độ, những cử chỉ của những tấm lòng hảo tâm, quảng đại đối với nhà thờ, mang một ý nghĩa cao đẹp. Ý nghĩa cao đẹp đó là phục vụ cho đức tin. Mà bởi vì đức tin là một con đường thiêng liêng dẫn đến Chúa, cho nên phục vụ con đường thiêng liêng ấy, chính là tham gia vào một hy vọng tràn đầy ánh sáng, như lời Chúa Giêsu hôm nay trong bài Phúc Âm hôm nay đã nói: “Ai tin vào Ta, bất cứ ai tin vào Ta sẽ không phải ở chốn tối tăm”. Với lời hứa đó, Chúa Giêsu hứa với tất cả những ai tin vào Chúa, sẽ không phải ở chốn tối tăm. Có nghĩa là sẽ được Chúa ban thưởng phúc trường sinh vĩnh cửu trên thiên đàng. Chúa đã hứa thì Chúa sẽ giữ lời. Chúa rất trung tín với lời đã hứa. Và tôi, tôi vẫn tin tuyệt đối vào lời Chúa hứa. Khi nghe Chúa hứa như vậy, tôi thấy tất cả những tình cảm tốt, những công, những của, những thiện chí, thiện tâm của anh chị em đối với nhà thờ, là một việc đầu tư quan trọng rất có lợi. Đầu tư ấy là đầu tư cho chính phần rỗi của mình. Kinh nghiệm đã cho chúng ta thấy rằng: Bao nhiêu công trình xây dựng, đều có tuổi thọ của nó. Tuổi thọ có thể dài hay ngắn, nhưng thời gian không cho phép nó luôn luôn tồn tại. Trái lại, phần rỗi sẽ bền vững muôn đời. Đầu tư vào phần rỗi, đó là một việc làm rất có lợi cho chúng ta.
Trong nhà thờ này, có sổ vàng, ghi những người góp công, góp của cho việc xây dựng thánh đường, nhưng tôi nhìn thấy một sổ vàng khác to hơn, dày hơn, đẹp hơn. Sổ vàng ấy ở trên trời. Các thiên thần sẽ ghi rất tỉ mỉ, rất cụ thể, từng thiện cảm, từng thiện tâm, từng thiện chí của anh chị em xa gần, bất cứ ai, đối với việc xây dựng, tu sửa thánh đường. Đó là cuốn sổ của những việc tin, đó là cuốn sổ của những tình mến. Cuốn sổ này sẽ thấu đến lòng xót thương vô bờ của Chúa Cha trên trời.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Ai tin tôi, là tin Đấng đã sai tôi”. Người có ý nói về Đức Chúa Cha. Cho nên ai tin vào lời Chúa hôm nay, thì cũng tin vào lòng thương xót của Đức Chúa Cha trên trời. Và tin vào lòng Chúa Cha, chính là tin vào kho tàng vô tận đối với ta.
Anh chị em thân mến,
Hiện nay có một phong trào tu sửa và xây dựng thánh đường. Tôi nghĩ đó là lý do chính đáng với những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, lúc cần thì phải đặt những bậc thang có ưu tiên, thì ưu tiên số một phải dành cho những thánh đường ở địa điểm truyền giáo. Rạch Đùng đây, là một địa điểm xa xôi hẻo lánh, nghèo nàn, và nó phải vượt qua nhiều sóng gió. Vì thế, tôi kêu gọi mọi người xa gần, hãy cầu nguyện cho Rạch Đùng và hãy cố gắng giúp đỡ cách này, cách khác, để cho ngôi thánh đường ở đây trở nên một công trình giúp đỡ phát triển đức tin cho những người chung quanh.
Xin Chúa Thánh Thần đổi mới nơi đây, đổi mới lòng ta, đổi mới tình hình, đổi mới lòng đạo. Và sau cùng, đổi mới ngôi thánh đường này. Xin Chúa ở giữa chúng ta, và xin Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội cầu bầu và ở bên chúng ta, từ công việc hôm nay cho đến hoàn thành mãi mãi. Amen.
Lễ Thêm Sức và trùng tu nhà thờ mới tại nhà thờ Rạch Đùng, Kiên Giang, ngày 24-04-1991.
Trong bài Phúc Âm hôm nay có lời Chúa nói với các môn đệ: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian”. Đây là một mệnh lệnh truyền giáo, mệnh lệnh này rất rõ ràng và dứt khoát.
Thú thật là mệnh lệnh truyền giáo này thường đã gây trong lòng tôi nhiều thao thức băn khoăn. Và những thao thức băn khoăn ấy có khi dâng cao đến nỗi nghẹn ngào, nhất là khi nhìn thấy những vùng đất mênh mông, dân cư đông đảo mà số người tin thờ Chúa chỉ là một số người nhỏ bé. Kinh nghiệm thường ngày cũng cho tôi thấy, việc truyền giáo không phải là một việc dễ dàng gì. Có nhiều khó khăn, có nhiều trở ngại: Trở ngại khó khăn chủ quan, trở ngại khó khăn khách quan, trở ngại khó khăn ngoài xã hội, trở ngại khó khăn trong nội bộ Hội Thánh, và trở ngại khó khăn trong chính bản thân mình. Những trở ngại khó khăn này như muốn làm tôi nản lòng, và như muốn dụ dỗ tôi đừng dành nhiều quan tâm đến việc truyền giáo. Thế nhưng khi tôi băn khoăn thao thức muốn nản lòng như vậy, thì Chúa lại đến cách này cách khác để khích lệ tôi và để kéo tôi lại vấn đề truyền giáo. Chẳng hạn, Chúa gợi cho tôi các hình ảnh của các tông đồ nói chung, thánh Marcô hôm nay nói riêng. Các Ngài đã sống trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn với nhiều thiếu thốn, với nhiều bắt bớ, với nhiều trở ngại. Thế mà các Ngài lại tìm cách rao giảng Tin Mừng và đã có nhiều hiệu quả tốt. Rồi lại mấy ngày hôm nay, tôi lại nhớ đến cha Madrignac, Ngài đã có công thành lập nhiều cộng đoàn đức tin ở vùng Hà Tiên này. Thời của Ngài sống cũng đầy khó khăn. Vùng Hà Tiên lúc ấy hầu như còn xa lạ với đức tin, Ngài lại là người ngoại quốc, thế mà Ngài đã xây dựng được nhiều họ đạo, với nhiều thánh đường, với nhiều cộng đoàn gắn bó, ở cả những nơi hẻo lánh xa xôi.
Rồi cũng trong mấy ngày này, tôi đã nhìn thấy tận mắt những bước phát triển đáng kính tại những địa điểm truyền giáo ở trong địa phận Long Xuyên này, từ Rạch Giá đến Hà Tiên, tôi đã ghé thăm Vàm Rầy, Kiên Lương, Thổ Sơn, Kinh I, Đất Hứa, Rạch Đùng và tất nhiên Hà Tiên đây.
Tất cả những địa điểm truyền giáo này, đã và đang có những bước tiến rất đáng phục: Có những cơ sở vật chất đẹp hơn trước. Có những con số người Công Giáo đông hơn trước. Có những sinh hoạt tôn giáo sầm uất hơn trước, và nhất là, tôi thấy số tân tòng tăng lên và số người ngoại đạo có thiện cảm với Hội Thánh cũng tăng lên.
Riêng Hà Tiên đây, giáo đoàn tuy nhỏ bé nhưng được ổn định, và có tiềm năng để vươn lên.
Tất cả những hình ảnh xưa và nay, với những thành quả tốt đẹp ấy, giúp cho tôi xác tín điều này, là việc truyền giáo vẫn có thể thực hiện được, bất cứ trong hoàn cảnh nào, dù với những địa điểm khó nào, dù với những thời điểm khó nào.
Điều quan trọng mà tôi nhận thấy trong vùng truyền giáo này là sự nhiệt thành của nhân sự: Có những linh mục, tu sĩ nhiệt tâm quên mình, giàu tinh thần phục vụ. Có những giáo dân giàu tinh thần cộng tác, và có cả những lương dân sẵn sàng giúp đỡ.
Một điều quan trọng khác tôi cũng nhận thấy trong vùng truyền giáo này, là tinh thần liên đới. Kẻ được Chúa sai đi truyền giáo nhận thức rằng: Mình được sai đi với nhiều người khác. Mình được Chúa sai đi, nhưng cũng có nhiều người khác Chúa sai đến với mình. Mình cho đi, nhưng mình cũng lãnh nhận. Mình cho đi Phúc Âm, nhưng mình cũng cần được Phúc Âm hóa. Tinh thần liên đới ấy rất cần cho sự hiệp thông của Hội Thánh truyền giáo.
Một điều quan trọng khác tôi cũng nhận thấy ở vùng truyền giáo này là sự khiêm tốn và phó thác cậy trông của nhân sự: Kẻ sai đi, chính là Đức Kitô. Người được sai đi không trọng hơn Thầy: “Không có Cha, chúng con không làm được việc gì”. Nên dù làm hết sức mình, nhưng vẫn phải gắn bó cậy trông vào Đấng đã sai mình là Đức Kitô. Nói thiệt là khi nhìn địa phận Long Xuyên, nhất là khi đi thăm những vùng truyền giáo như tại đây, tôi rất vui mừng nhận thấy Chúa Thánh Thần đang ở giữa chúng ta. Chúa Thánh Thần đang hoạt động mạnh mẽ trong địa phận chúng ta. Chúa Thánh Thần đang dùng nhiều dụng cụ nhỏ bé của Người, để rao giảng Tin Mừng trong những địa điểm mà Chúa sai đến.
Anh chị em thân mến,
Khuya đêm nay, trong cái thinh lặng của đất trời, tôi nghe thấy những tiếng chuông chùa đâu đó, và những tiếng chuông chùa ấy lại gợi tôi nhớ đến Chúa. Trước mặt Chúa, tôi đã nhớ tới những người đã có công làm nên lịch sử Hà Tiên này. Trước mặt Chúa, tôi đã nhớ tới mọi người đang sống trên đất Hà Tiên này hôm nay. Và trước mặt Chúa, tôi đã cầu nguyện rất nhiều cho tương lai đất Hà Tiên này. Tương lai là điều ta không rõ. Nhưng vẫn có thể có những bất ngờ. Có những bất ngờ dễ chịu và có thể có những bất ngờ khó chịu.
Vì thế, trong thánh lễ này, tôi xin Chúa Thánh Thần đổi mới tâm hồn chúng ta, đổi mới tâm hồn các con em chúng ta chịu phép Thêm Sức, để mỗi người chúng ta trở nên một ngọn đèn sáng đầy tình mến Chúa thương người, để dù trong hoàn cảnh dễ dàng, dù trong hoàn cảnh khó khăn, chúng ta vẫn một niềm trung tín mến Chúa đến cùng, thương yêu mọi người như Chúa đã thương ta.
Tôi tin rằng, nếu chúng ta trung thành với Chúa và với Phúc Âm của Người, thì việc truyền giáo tự nó sẽ phát triển như Chúa đã muốn, như Chúa đã truyền dạy với chúng ta.
Lạy Chúa Kitô, xin Chúa gìn giữ chúng con trong giới luật của Chúa Amen.
Khi đọc xong bài Phúc Âm hôm nay, tôi đã nói với Chúa Giêsu rằng: Lạy Chúa, xưa Chúa đã hứa với các tông đồ Chúa rằng: Chúa đi để dọn chỗ cho các tông đồ, rồi một ngày nào đó, Chúa sẽ trở lại, đem các vị ấy lên ở với Chúa, để Chúa ở đâu thì các tông đồ cũng sẽ được ở đó. Trên đây là lời Chúa hứa với các tông đồ, còn chúng con hôm nay thì sao? Chúng con có được Chúa dọn chỗ cho chúng con trên nhà Cha trên trời không? Chúng con có được Chúa sau này đem chúng con lên đó, để Chúa ở đâu, chúng con cũng sẽ được ở đó với Chúa không? Tôi hỏi Chúa như vậy, khi nghĩ tới tất cả anh chị em hiện diện trong nhà thờ này, và nghĩ tới tất cả mọi người thuộc xứ Trung Thành này.
Tôi hỏi Chúa như vậy, và một lát sau, tôi được Chúa trả lời. Câu trả lời của Chúa cũng nằm trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa trả lời tôi rằng: Tất cả chúng con, giáo dân Trung Thành và mọi người hiện diện trong thánh lễ hôm nay, đều được Cha chọn chỗ trên thiên đàng, rồi một ngày nào đó, Cha sẽ đem chúng con lên trên đó với Cha, nếu chúng con biết đi đúng con đường của Cha, nếu chúng con biết tuân giữ chân lý của Cha, và nếu chúng con hiệp thông sự sống của Cha. Bởi vì, như Cha đã nói trong bài Phúc Âm hôm nay: “Cha là đường, là sự thật và là sự sống”. Với câu trả lời trên đây của Chúa, Chúa dạy cho tôi điều này là hãy tập trung lòng đạo vào Đức Kitô.
Tập trung lòng đạo vào Đức Kitô, đó là điều Chúa muốn, đó là điều Chúa dạy, và đó là như điều kiện để được Chúa đưa lên thiên đàng.
Vậy tập trung lòng đạo vào Đức Kitô là thế nào? Thưa, vắn tắt là, chúng ta hãy luôn luôn cố gắng đi theo con đường của Đức Kitô. Con đường của Đức Kitô đã chọn là con đường cứu độ: Cứu độ các linh hồn và ưu tiên cứu độ các người tội lỗi, những người nghèo túng. Chúa phán: Cha là mục tử tốt lành, Cha không đến để xét xử thế gian, nhưng Cha đến để cứu độ thế gian. Cha không đến cho người công chính, mà đến cho người tội lỗi. Cha đến để rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó. Rồi, tập trung lòng đạo vào Đức Kitô là cố gắng tuân giữ chân lý mà Chúa dạy. Chân lý căn bản nhất mà Chúa Giêsu đã trối lại là giới luật yêu thương: Ta truyền cho các con một điều răn mới là các con thương yêu nhau. Đó là chân lý căn bản, cốt lõi của đạo Chúa Kitô.
Rồi, tập trung vào Đức Kitô là hợp vào sự sống của Đức Kitô. Sự sống của Đức Kitô là sự sống siêu nhiên của Cha giàu lòng thương xót. Chúa phán: “Cha là cây nho, chúng con là cành. Các cành phải kết hợp với thân cây, để có thể trổ sinh hoa trái!”. Phải hợp vào Chúa Kitô một cách chặt chẽ như vậy.
Rồi, tập trung vào Đức Kitô là gắn bó cậy trông, phó thác vào Đức Kitô. Bởi vì, Đức Kitô là trung gian duy nhất của chúng ta. Bài Phúc Âm hôm nay nói rõ: Cha sẽ dọn chỗ cho các con trên trời và chính Cha sẽ đem chúng con lên đúng chỗ đó. Chúa là trung gian.
Như vậy, sự tập trung lòng đạo vào Đức Kitô là điều Chúa Giêsu luôn luôn nhấn mạnh, là điều các tông đồ xưa luôn luôn đề cao trong khi giảng dạy, là điều Công Đồng Vatican II đã trịnh trọng tuyên xưng và nhắc bảo. Sự tập trung lòng đạo vào Đức Kitô cần phải được thực hiện nghiêm túc trong đời sống tôn giáo của chúng ta: Như trong việc cử hành phụng vụ, như trong việc trang trí cung thánh, như trong việc xây dựng thánh đường, và nhất là trong việc dạy đạo, trong việc học đạo, trong việc giữ đạo, trong việc truyền đạo. Khi chúng ta thực hiện chu đáo những lời Chúa Kitô dạy, là tập trung vào Đức Kitô, chúng ta mới hiểu thế nào là trung thành trong Hội Thánh.
Trung thành trong Hội Thánh, là cùng với Hội Thánh gắn bó với Đức Kitô và Phúc Âm của Ngài. Trung thành trong Hội Thánh là luôn luôn trở về với Đức Kitô và Phúc Âm của Người. Trung thành trong Hội Thánh là tuyệt đối vâng phục Đức Kitô và Phúc Âm của Ngài. Tôi đã thấy những cộng đoàn đức tin nào để ý tập trung lòng đạo vào Đức Kitô, qua việc chuyên cần tôn sùng phép Mình Thánh, chuyên cần suy gẫm học hỏi lời Chúa và chuyên cần thực thi giới luật yêu thương, thì xuất hiện một bầu khí đạo đức nhẹ nhàng, vui tươi, siêu nhiên và hấp dẫn. Bầu khí đó khác hẳn bầu khí tôn giáo nặng nề và tục hóa do sự tập trung lòng đạo vào việc giữ những kỷ luật bề ngoài, do sự đề cao những mô hình không phải là Đức Kitô, do sự phô trương những công lao xa lạ với tính hiền lành, khiêm tốn, quảng đại của Đức Kitô.
Anh chị em thân mến,
Ngôi thánh đường của anh chị em đây là một công trình đẹp đẽ vững chắc. Chớ gì ngôi thánh đường đẹp đẽ vững chắc này, nó biểu hiệu cho sự xây dựng những thánh đường thiêng liêng vững chắc, đẹp đẽ, biết tập trung vào Đức Kitô. Tôi chắc rằng: Chúa đánh giá cao những đóng góp của các ân nhân xa gần, đã góp phần trong việc xây dựng công trình thánh đường này, và Chúa nhân lành cũng đánh giá rất cao những đóng góp của bất cứ ai vào việc xây dựng những thánh đường thiêng liêng là các tâm hồn, nhờ sự tin tưởng, tập trung vào Đức Kitô.
Xin Chúa Thánh Thần trong thánh lễ hôm nay, ban ơn thêm sức cho chúng ta, để chúng ta luôn luôn biết đổi mới tâm hồn mình, không phải chỉ là đổi mới thánh đường vật chất, mà luôn luôn đổi mới trái tim mình, đổi mới cách suy nghĩ của mình, đổi mới cách sống của mình để luôn luôn phản ảnh hình ảnh Đức Kitô, luôn luôn phản ảnh giáo lý của Đức Kitô, luôn luôn phản ảnh giáo lý và con đường của Đức Kitô. Xin anh chị em gia tăng lời cầu nguyện, để cho thế hệ con em chúng ta ở đây và nhất là các nơi truyền giáo trong địa phận luôn biết theo con đường mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay: “Tập trung lòng đạo vào Đức Kitô”. Amen.
Lễ khánh thành nhà thờ Trung Thành kinh 8 Chợ, ngày 26-04-1991.
Khi suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay, tôi thực sự băn khoăn về việc phát triển đức tin trên thế giới nói chung, và tại Việt Nam nói riêng. Băn khoăn của tôi xuất phát từ chính lời Chúa. Chính Chúa Giêsu nói với đám đông Do Thái rằng: “Tôi đã nói nhiều với các ông, nhưng các ông không tin lời tôi. Tôi cũng đã làm nhiều việc tốt trước mặt các ông, nhưng các ông cũng không vì thế mà tin tôi”.
Thế mới lạ chứ !
Thực vậy, Chúa Giêsu sống giữa dân Do Thái 33 năm. Bao người đã nhìn thấy Ngài tận mắt. Bao người đã nghe lời Ngài trực tiếp nói với họ. Bao người đã chứng kiến đời sống của Ngài và phép lạ của Ngài. Nhưng số người tin vào Ngài chẳng được bao nhiêu. Và trong số ít ỏi đó lại rất vắng bóng các thầy cả, các luật sư, các kỳ lão và giới đạo đức biệt phái.
Khi suy nghĩ sự kiện trên đây, tôi thấy rằng: Đức tin không phải là kết quả tất nhiên của sự hiểu biết về đạo và của sự xem thấy việc đạo, mặc dầu sự hiểu biết về đạo và sự xem thấy việc đạo là những việc rất hữu ích để chuẩn bị cho đức tin.
Đức tin chính là một ơn siêu nhiên Chúa ban. Ơn này làm cho ta có một quan hệ mật thiết với Chúa, gắn bó với Chúa, hiệp thông vào sự sống của Chúa. ơn này làm cho ta có một cái nhìn mới về thân phận con người và về lịch sử. Đức tin là một sự sống mới, một sự gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống. Ơn này không do ai ban tặng cho ta. Chỉ một mình Chúa là Đấng ban ơn đó. Ngài ban ơn, mà không áp đặt. Người ta có tự do nhận lãnh ơn ban, và cũng có tự do từ chối ơn ban. Việc đón nhận hay từ chối ơn ban một phần cũng chịu ảnh hưởng của bầu khí xã hội và tôn giáo nơi mình đang sống. Chúa gợi ý cho thấy điều đó, khi Chúa nói với các người Do Thái rằng: “Các ông không tin tôi, bởi vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi!”.
Với lời nói đó, Chúa Giêsu cho thấy bầu khí cộng đoàn là một yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến việc đón nhận hay từ chối ơn đức tin. Đoàn chiên Chúa lúc đó là một nhóm người. Họ mến Chúa và họ thương nhau. Tình mến thương làm nên bầu khí cộng đoàn. Bầu khí ấy khích lệ nhau, nâng đỡ nhau, trong tâm tình khiêm tốn, hiền lành, bác ái.
Sự kiện trên đây là một điều đáng ta để ý. Giáo xứ là một đoàn chiên. Nếu một giáo xứ có những gia đình sốt sắng, có những nhóm từ thiện tích cực, có những nhóm cầu nguyện chuyên cần, có những người cộng tác nhiệt tình, khiêm tốn, hăng hái, thì tất cả những người tốt việc tốt ấy đã làm nên một bầu khí cộng đoàn tốt. Ai thuộc về bầu khí cộng đoàn đó, sẽ dễ đón nhận ơn đức tin và bác ái. Trái lại, ai tách mình ra khỏi bầu khí cộng đoàn đó, sẽ dễ từ chối ơn đức ái và đức tin.
Anh chị em thân mến,
Giáo xứ anh chị em là một đoàn chiên tương đối tốt. Nhìn qua các sinh hoạt họ đạo, tôi có cảm tưởng là bầu khí cộng đoàn ở đây thuận lợi cho việc đón nhận và phát triển ơn đức tin và đức ái. Bầu khí này cũng có nhiều khả năng truyền giáo. Xin Chúa Thánh Thần thương ban ơn thêm sức cho ta, để bảo vệ và phát triển bầu khí cộng đoàn càng ngày càng thêm tươi mát do thấm nhuần tinh thần Đức Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta.
Đọc xong bài Phúc Âm hôm nay, tôi thực sự sửng sốt. Tôi sửng sốt bởi vì tôi thấy, những người đồng hương với Chúa Giêsu đã không tin Chúa.
Nhưng suốt mấy chục năm dài, Chúa ở giữa họ. Họ có một cái may mắn được nhìn thấy Chúa. Chính tai họ, nghe lời Chúa dạy. Chính bàn tay họ nhiều lần bắt cầm lấy bàn tay của Chúa. Chính miệng họ đã nhiều lần nói chuyện với Chúa. Họ còn biết rành rọt gia đình của Chúa, tên cha, tên mẹ, tên chú, tên bác của Chúa. Họ còn biết rành rọt nghề nghiệp và nhà cửa của Chúa. Ấy thế, mà họ không tin Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay nói rằng: Họ cứng lòng tin. Tôi rất thắc mắc, không hiểu tại sao, một người đạo đức, trong sáng, dễ thương như Chúa Giêsu mà lại bị những người gần gũi của mình khinh chê coi thường, chống đối như vậy.
Bài Phúc Âm hôm nay nói rằng: Họ, tức là những người đồng hương với Chúa Giêsu, đã lấy làm gai chướng về Người, tức là có một thái độ khinh dễ, coi thường và chống đối nữa. Sự việc xảy ra trên đây đã dạy tôi điều này là: Đức tin không phải là kết quả tất nhiên của sự hiểu biết về Chúa. Mặc dầu sự học biết về Chúa, là điều kiện cần, hữu ích. Nhưng không phải cứ hiểu về Chúa, cứ biết về Chúa cho nhiều, là tức nhiên mình có đức tin. Không phải như vậy.
Đức tin là một ơn siêu nhiên Chúa ban, để chúng ta có thể thiết lập được mối quan hệ mật thiết sống động của Chúa. Điều ấy thì không sách vở nào làm được cho ta ngoài ơn Chúa ra. Đức tin là một ơn siêu nhiên Chúa ban để ta thông hợp vào sự sống của chính Thiên Chúa. Điều ấy cũng không sách vở nào, không một lớp giáo lý nào có thể làm được cho ta. Đức tin là một ơn siêu nhiên Chúa ban, để chúng ta có một cái nhìn mới về Thiên Chúa, về chính mình ta, về cuộc đời ta, về sự sống, sự chết, đời nay, đời sau, về lịch sử, về những biến cố thăng trầm. Những cái nhìn mới ấy, những cái nhìn siêu nhiên ấy, sự đổi mới ấy không sách vở nào ban cho chúng ta được.
Đức tin là một ơn siêu nhiên Chúa ban. Vì thế, những kẻ được ơn siêu nhiên này không nên coi thường ơn Chúa ban. Càng không nên tự mãn cho rằng: Ơn đức tin là do công trạng của mình.
Chúa ban ơn đức tin, nhưng Chúa không áp đặt. Có người lãnh nhận rồi, rồi lại mất đi. Trên thực tế, vô số người đã từ chối ơn đức tin, và vô số người có đức tin rồi, rồi lại mất đức tin.
Tôi mới đọc lại lịch sử Giáo Hội Châu Phi, vùng Bắc, thế kỷ Năm, toàn vùng đó là Công Giáo, với con số Tòa Giám Mục đông đảo: 160. Thế mà, qua một thời gian dài, với nhiều thử thách, với nhiều biến cố, nhất là biến cố Hồi Giáo lan tràn, Công Giáo vùng Bắc Phi đã suy thoái, đã tan dần, đến nỗi thế kỷ 13 chỉ còn 3 Tòa Giám Mục và đến thế kỷ 14, tất cả vùng Bắc Phi hoàn toàn là Hồi Giáo, mất hẳn Công Giáo.
Tôi nhìn thấy tận mắt hiện tượng bỏ đạo, mất đức tin đang xảy ra trầm trọng ở nhiều nước bên Tây. Những hiện tượng ấy là sự thật. Sự thật to lớn, cụ thể. Và những sự thật này làm cho tôi lo lắng nhiều lắm. Tôi lo cho số phận đức tin của Giáo Hội Việt Nam, nhất là cho thế hệ trẻ, những người chưa được huấn luyện đầy đủ vững chắc. Trong hiện tại, nhất là trong tương lai, không thiếu những bão táp, muốn làm rung chuyển đức tin, muốn phá tan đức tin, muốn làm suy thoái đức tin, muốn làm mất bản chất đức tin. Chúng ta phải cảnh giác, và nhận thức rằng: Nguy cơ đó là có thiệt, và nguy cơ đó là trầm trọng. Nhận thức như vậy để chúng ta biết vun trồng ơn đức tin trong chúng ta, trong họ đạo chúng ta, nhất là trong con em chúng ta.
ở đầu lễ, tôi đã nói về ba việc: Hãy cầu nguyện nhiều hơn, hãy suy gẫm lời Chúa nhiều hơn, và hãy thực thi bác ái nhiều hơn. Giờ đây, tôi nhắc lại ba điều đó. Bởi vì, Đức Mẹ, thánh Giuse đã bảo toàn và phát triển ơn đức tin, một phần cũng nhờ đã phát triển ba việc ấy: Cầu nguyện, suy gẫm lời Chúa và thực thi bác ái.
Hôm nay, ngày đầu tháng Đức Mẹ, lại kính thánh Giuse (1-5), chúng ta hiệp thông với tâm tình đức tin Đức Mẹ và thánh Giuse để cảm tạ Chúa vì ơn đức tin chúng ta đã lãnh nhận. Và cũng nhờ Đức Mẹ và thánh Giuse cầu bầu cho chúng ta, nhất là cho con em chúng ta được biết bảo vệ và phát triển đức tin.
Đức Mẹ và thánh Giuse đã có thái độ khiêm nhường, phó thác vào Chúa trong vấn đề bảo vệ đức tin. Và khiêm nhường bảo vệ, phó thác, tức là nhận biết mình yếu đuối, bất lực, hèn kém, nhưng hoàn toàn và tuyệt đối cậy trông nơi Chúa nhân lành.
Chúng ta hãy tập làm như vậy, tập sống bên trong như vậy, và tập cho con cái chúng ta sống như vậy. Cậy tin vào Chúa một cách khiêm nhường, một cách rất phó thác và sẵn sàng từ bỏ tất cả mọi sự, trở nên khó nghèo, miễn là giữ được đức tin tuyệt đối vào Chúa Kitô sống lại.
Tôi xin kính chúc anh chị em, và xin anh chị em cũng cầu nguyện cho chúng tôi: Các Cha, các Đức Cha. Để tất cả chúng ta biết cảm tạ ơn đức tin, biết bảo vệ ơn đức tin, biết vun trồng và phát triển ơn đức tin. Amen.
Nhà thờ Tân Chu kênh 5a (Cha Vũ Đức Thận) ngày 30-04-1991.
Nghe xong bài Phúc Âm hôm nay, tôi đã nói với thánh sử Matthêu rằng: “Bài này viết về Chúa Giêsu hôm nay, có vẻ hơi ảm đạm. ảm đạm ở chổ Ngài thuật lại sự những người đồng hương của Chúa đã khinh dễ coi thường, chống đối Chúa. Những chuyện như vậy, tuy có thật, thiết tưởng cũng không nên viết ra, vì có khả năng làm giảm uy tín của Chúa”.
Tôi nói với thánh sử như vậy. Tôi không thấy thánh sử trả lời tôi trực tiếp, nhưng gián tiếp. Bởi vì, sau ít phút suy gẫm tôi đã thấy rằng: Những dòng mà trước đó tôi cho là ảm đạm, có khả năng làm giảm uy tín Chúa Giêsu, thực ra đã làm cho tôi càng thương mến Chúa Giêsu nhiều hơn, và càng làm cho tôi tin rằng: Chúa Giêsu của tôi đúng là Đấng chăn chiên lành, đúng là Đấng cứu độ giàu lòng thương xót.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã biết và biết rất rõ những kẻ không tin Ngài, những kẻ xa tránh Ngài, những kẻ ác cảm với Ngài. Họ là một số rất đông, nhưng Chúa Giêsu vẫn nhìn họ tất cả, đều thuộc về đoàn chiên của Người một cách nào đó. Chúa thương họ, và hơn nữa Chúa còn dành cho họ một tình thương đầy nhân ái đặc biệt. Tình xót thương này được Chúa nhắc đi nhắc lại nhiều lần: Chẳng hạn Chúa nói: “Không phải những người khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, mà là những người đau bệnh”.
Anh chị em hãy suy gẫm ý nghĩa câu nói này: “Ta muốn lòng thương xót, chứ không phải lễ vật hy sinh”..."Ta đến không cho người công chính, mà đến cho người tội lỗi”.
Tình xót thương ấy quả là lớn lao, quả là lạ lùng. Và tình xót thương ấy không phải là một tình yêu tĩnh, mà là một tình yêu năng động. Cái năng động ấy, được diễn tả một cách cảm động trong dụ ngôn “Người chủ chiên nhân lành bỏ lại 99 con chiên ở nhà, để lặn lội đi tìm một con chiên lạc, và khi đã tìm được, Ngài ưu ái vác con chiên ấy trên vai mình”.
Xa hơn nữa, tình xót thương của Chúa Kitô Đấng chăn chiên lành, được tỏ hiện rõ ràng trong sự Ngài tha thứ, quảng đại. Chúa phán: “Ta đến không phải chỉ xét xử thế gian, nhưng đến để cứu độ thế gian”. Cứu độ trước tiên là tha thứ, và Ngài đã tha thứ quảng đại. Như trong trường hợp tha thứ cho người đàn bà ngoại tình, cho người con phung phá, cho Phêrô phản bội, cho người trộm bên hữu Chúa. Và sự tha đẹp nhất là ở trên cây thánh giá, khi Chúa Giêsu nói lần cuối, hướng về những kẻ bắt hại Người: :Lạy Cha, xin tha tội cho họ, vì họ lầm không biết”.
Tôi không nghĩ rằng: Lòng quảng đại của Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên lành sẽ làm chúng ta coi thường Chúa, và làm suy giảm uy tín của Chúa. Trái lại là đàng khác, như lời Hội Thánh đã nói với Chúa trong kinh nguyện ngày Chủ Nhật 26: “Lạy Chúa, Chúa hãy tỏ uy quyền Chúa ra, nhất là trong sự tha thứ và thương xót”.
Thú thực, đối với tôi, sức mạnh lớn nhất đã lôi cuốn tôi về với Chúa thường xuyên chính là lòng xót thương vô bờ của Chúa. Và đối với tôi, hình ảnh Chúa hấp dẫn nhất, đó là hình ảnh Chúa gánh tội cho tôi, đền tội cho tôi, tha tội cho tôi, xóa tội cho tôi. Cho tôi, cho Hội Thánh của tôi, cho nhân loại của tôi.
Từ kinh nghiệm bản thân của tôi, và dựa trên Kinh Thánh, tôi tha thiết cầu mong cho mọi linh mục của Chúa, được trở thành những địa chỉ tình thương: Tình thương của Chúa chiên lành, tình thương của Chúa Kitô cứu độ, giàu lòng thương xót. Tạo được những địa chỉ tình thương này, người ta sẽ nghe được những lời ca tụng lòng thương xót Chúa: Chúa đã xót thương đoàn chiên, xót thương nhân loại, và xót thương chính bản thân các linh mục. Bởi vì, thật sự hằng ngày, chính Chúa vẫn xót thương, vẫn cứu độ các Ngài, hằng ngày vẫn bênh vực bảo trợ các Ngài.
Và tại những địa chỉ tình thương ấy, người ta sẽ cảm thấy được phần nào sự êm đềm của lòng thông cảm, lòng thông cảm của Đấng chăn chiên lành, như lời thánh Phaolô đã nói về các linh mục: “Các vị thượng tế hãy có lòng thông cảm, với những người tội lỗi lầm lạc. Bởi vì, chính các Ngài cũng lâm vào cảnh yếu đuối tứ bề!”.
Tại những địa chỉ tình thương ấy, người ta sẽ cảm thấy có một sự thu hút nào đó, do lòng thương xót của Chúa Kitô, như lời thánh Phaolô đã viết về mình: “Tôi tự do, nhưng tôi đành làm nô lệ cho mọi người, để thu hút những người nô lệ về với Chúa. Tôi trở nên đau bệnh với những người đau bệnh, để thu hút những người đau bệnh về với Chúa. Tôi trở nên tất cả cho mọi người, tôi làm tất cả vì phần rỗi anh em, vì Phúc Âm”.
Tại những địa chỉ tình thương ấy, người ta sẽ cảm nghiệm được mối tình sâu sắc giữa linh mục và Chúa Kitô, Đấng chăn chiên lành. Một mối tình thân mật, khắng khít, như Chúa Giêsu đã nói: “Chúng con hãy ở trong Thầy, không có Thầy, chúng con không làm gì được... Thầy là cây nho, chúng con là cành. Cành nào kết hiệp mật thiết với thân cây thì sẽ sinh nhiều hoa trái”.
Anh chị em thân mến,
Trước nhà xứ hôm nay, tôi thấy một tấm bảng xanh, mang hàng chữ đỏ: “Hoan hô Chúa chiên lành”. Tấm bảng xanh ấy, hàng chữ đỏ ấy gợi lên trong tôi mối lạc quan và niềm hy vọng. Tôi cho đó là một lý tưởng đẹp.
Chớ gì nhà xứ sẽ là một địa chỉ tình thương. Và Cha linh mục trong nhà xứ ấy, sẽ là địa chỉ tình thương của trái tim Đấng chăn chiên lành. Tôi cầu chúc điều ấy cho Cha Giuse, người mừng Ngân Khánh hôm nay.
Tôi xin mọi người chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả chúng tôi nói chung, và cho linh mục mừng lễ Ngân Khánh hôm nay, được đạt tới lý tưởng đó, trở thành địa chỉ tình thương của trái tim Đấng chăn chiên lành. Địa chỉ tình thương của Chúa Kitô cứu độ, giàu lòng thương xót. Amen.
Nhà thờ Tân Chu, kênh 5a, Tân Hiệp. Lễ Ngân Khánh linh mục cha Giuse Nguyễn Khắc Nghiêm ngày 10-05-1991.
Khi suy nghĩ về hoạt động hiện nay của Chúa Thánh Thần trong nhân loại nói chung, và trong Hội Thánh nói riêng, tôi thường bị lôi cuốn đến một hiện tượng tâm lý xã hội nổi bật của thời nay, đó là sự con người hôm nay khát mong những bàn tay cứu độ.
Hơn bao giờ hết, thời nay, con người, dù trong những hoàn cảnh coi như đầy đủ nhất, vẫn thấy mình không thể thiếu được bàn tay kẻ khác.
Có những lúc cần đến bàn tay kẻ khác cứu mình khỏi cảnh không có của ăn, không có áo mặc, không có nhà ở, không có thuốc uống, không có việc làm.
Có những lúc cần đến bàn tay kẻ khác để cứu mình khỏi cảnh dốt nát, khỏi cảnh bệnh tật, khỏi cảnh hư hỏng, khỏi cảnh cô đơn.
Có những lúc cần đến bàn tay người khác để xoa dịu những cơn đau tâm hồn, để băng bó những vết thương lòng, để rót vào trái tim mình sự an ủi tươi mát và niềm hy vọng bình an.
Hiện tượng khát mong những bàn tay cứu độ đã và đang bùng lên khắp nơi, như những mảng rừng mênh mông lan rộng, đầy những cánh tay giơ lên chờ đợi. Trong số đó, tất nhiên có cánh tay tôi.
Và đây là kinh nghiệm của tôi: Đó là khi tôi khát khao chờ đợi một bàn tay cứu độ, thì bàn tay Đức Kitô đã nắm lấy bàn tay của tôi, và tôi thấy bàn tay Đức Kitô đúng là bàn tay cứu độ.
Trong bàn tay Đức Kitô, tôi thấy mọi sự trong mình và trong đời mình có cái gì đang được đổi mới.
Xưa, bàn tay Đức Kitô đã bị trói, đã bị đóng đinh, để dâng lễ đền tội cho tôi và cho nhân loại, thì nay, bàn tay ấy đang nắm tay tôi, để biến những đau khổ tinh thần và thể xác của tôi trở thành lễ đền tội, hiệp dâng với lễ hiến dâng của Đức Kitô.
Xưa, bàn tay Đức Kitô đã đổ bao mồ hôi, với bao mệt mỏi và bao cố gắng, để nuôi sống mình và cha mẹ mình như một chia sẻ, như một phục vụ, như một bằng chứng của đức ái, thì nay, bàn tay ấy đang nắm tay tôi, để giúp tôi biết nhìn cuộc sống mình như một sự tiếp nối hành trình đức ái của Người trong lịch sử hôm nay.
Xưa, bàn tay Đức Kitô đã cầm tay những người đau bệnh, những người phong cùi, những người chết, những người tội lỗi, để cứu chữa họ, thì nay bàn tay ấy đang nắm tay tôi, để cứu chữa tôi, và qua tôi mà cứu chữa kẻ khác, nhất là bằng ơn tha thứ và niềm hy vọng vào mầu nhiệm Phục Sinh.
Tôi thấy rằng: Những gì tôi cảm thấy trong tôi nhờ sự nắm lấy bàn tay cứu độ của Đức Kitô, thì nhiều người, anh chị em cũng đã cảm thấy. Nhất là những người đau bệnh, những người già cả, những người trong những hoàn cảnh khổ đau. Tôi nhìn thấy rất rõ bàn tay Đức Kitô đang đặt trên các anh chị em. Tôi nhìn thấy rất rõ bàn tay Đức Kitô đang nắm lấy bàn tay anh chị em. Nhờ vậy mà tuổi già, bệnh tật, và những khổ đau tinh thần, thể xác của anh chị em sẽ làm cho anh chị em giống Chúa Kitô hơn, gần Chúa Giêsu hơn, góp phần đáng kể vào sự cứu rỗi con cháu mình, và thế hệ mai sau.
Tôi nghĩ rằng: Cuộc sống nhẫn nhục, hy sinh đầy tinh thần đức tin, đức cậy, đức ái, nơi những vị cao niên, và nơi những người đau bệnh lâu ngày, chính là dòng nước thiêng liêng, tưới cho hạt giống đạo đức nơi lòng con cháu mình được lớn lên tươi tốt vững mạnh.
Khi nhận thức điều đó, các con cháu, những người còn trẻ, và những người khỏe mạnh mới thấy mình có bổn phận biết ơn những người già cả và đau bệnh lâu năm.
Do đó, các tương quan sẽ được đổi mới, cũng như từng cá nhân sẽ được đổi mới. Tất cả là do ơn Chúa Thánh Thần. Xin Chúa Thánh Thần, thương ban ơn thêm sức cho chúng ta, để chúng ta biết nắm lấy bàn tay cứu độ của Chúa Kitô, nhất là trong thời buổi này. Amen.
Lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ngày cầu nguyện cho bệnh nhân và những người già yếu. Long Xuyên, ngày 19-05-1991.
Bài Phúc Âm hôm nay, có một câu đúng là một Tin Mừng lớn cho tôi. Câu đó là lời Chúa hứa: “Cha sẽ ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Chúa nói lời ấy với các tông đồ, và qua các tông đồ, Chúa cũng nói lời đó với tôi, với tất cả anh chị em. Tôi tin rằng sự gì Chúa đã hứa thì Chúa sẽ giữ như vậy.
Đúng như thế: Chúa Giêsu ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúa đang ở giữa chúng ta. Chúa đang ở trước mặt chúng ta. Chúa đang ở bên chúng ta. Chúng ta không thấy Ngài, bởi vì Ngài là Đấng thiêng liêng. Chúng ta không nhìn thấy Ngài, nhưng Ngài nhìn rõ từng người chúng ta. Người biết rõ hoàn cảnh từng người chúng ta.
Chúa ở lại với chúng ta để làm gì?
Thưa là để Chúa sẵn sàng đi vào tâm hồn chúng ta, và ban cho chúng ta hạnh phúc cần thiết. Hạnh phúc cần thiết mà Chúa sẵn sàng ban cho chúng ta, đó là sự bình an trong tâm hồn, ở đời này, và cuộc sống sung mãn ở đời sau. Chúa sẵn sàng ban ơn ấy cho chúng ta, nhưng Chúa không bao giờ áp đặt, ép buộc ai phải nhận ơn Chúa. Chúa chỉ ban ơn cho những ai tự ý mở cửa lòng mình ra để đón nhận ơn của Chúa ban. Nên vấn đề quan trọng là chúng ta có mở cửa lòng chúng ta ra không, để đón nhận Chúa đi vào lòng mình, để đón nhận Chúa ban ơn cho mình.
Vậy, chúng ta mở cửa lòng chúng ta ra bằng cách nào?
Thưa có một cách đơn sơ, đó là hãy mở cửa lòng ra bằng tình yêu thương nhân ái. Tình yêu thương nhân ái đó là chìa khóa để ta mở cửa lòng ta ra. Khi chúng ta yêu thương bác ái đối với người khác, thì lòng ta mở ra, và Chúa sẽ đi vào tâm hồn ta. Tình yêu thương nhân ái, đó là cửa khẩu, mà Chúa đã chọn để đi vào lòng người, để ban ơn cho mỗi người. Tôi nói như vậy là vì dựa vào chính lời Chúa phán: “Ai giữ luật Ta truyền thì kẻ ấy được Ta yêu thương. Kẻ ấy ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy”. Vậy, luật Chúa truyền là yêu thương nhau. Ngày cuối cùng Chúa đã trối lại: “Cha ban cho chúng con một điều răn mới: Là chúng con yêu thương nhau”. Yêu thương nhau, đó là luật căn bản nhất của đạo Công Giáo chúng ta. Thánh Gioan tông đồ hiểu rất rõ điều đó, nên thánh Gioan đã viết rằng: “Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời”.
Tới đây tôi nhớ lại mấy lời Chúa nói về tình bác ái yêu thương. Có lần Chúa nói: “Mỗi lần chúng con làm việc lành cho kẻ khác, thì Ta kể việc lành đó như việc chúng con làm cho chính mình Ta”. Rồi một nơi khác Chúa đã khẳng định rằng: “Đến ngày phán xét, mỗi người chúng ta sẽ được Chúa đánh giá theo tiêu chuẩn: Việc lành, việc dữ ta làm cho kẻ khác. Nếu ta làm việc lành cho kẻ khác, thì Chúa kể việc đó là làm cho chính Chúa, Chúa sẽ đến với họ. Trái lại nếu ai làm điều dữ cho kẻ khác, thì Chúa kể việc dữ ấy như là làm cho chính Chúa, để xua đuổi Chúa đi xa”.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa là tình yêu. Đạo Chúa là tình yêu. Luật căn bản của Chúa là tình yêu. Hãy biết thương yêu nhau, nhất là yêu thương giúp đỡ những người nghèo túng, những người bệnh tật, neo đơn, đau khổ. Đơn sơ chỉ có thế thôi, nhưng nếu chúng ta nhớ được chừng ấy và cố gắng giữ được chừng ấy, thì tôi nghĩ rằng, Chúa sẽ đến với chúng ta, Chúa sẽ ở lại trong chúng ta, dù trong những hoàn cảnh khó khăn, chúng ta không thể đến nhà thờ được, chúng ta không đi lễ được. Hãy nhớ điều này là, mỗi người trước mặt chúng ta, mỗi người bên cạnh chúng ta đều là những con đường chúng ta đến với Chúa, để Chúa gặp được chúng ta. Nếu chúng ta yêu thương họ, nếu chúng ta kính trọng họ, nếu chúng ta thực sự bác ái đối với họ, không phân biệt lương giáo, không phân biệt ác cảm hay thiện cảm, vì danh Chúa, yêu thương bác ái người khác, sẽ dẫn chúng ta đến với Chúa, sẽ mở lòng chúng ta ra để Chúa vào lòng ta, ở lại với chúng ta.
Hôm nay là dịp hiếm hoi, để tôi gặp được anh chị em trên địa điểm này, tôi chắc chắn rằng anh chị em có lòng mến Chúa. Tôi thấy rõ ràng, anh chị em có tinh thần bác ái đối với nhau, yêu thương nhau, kính trọng nhau, giúp đỡ nhau chan hòa. Đó là một điểm tốt, và tôi nghĩ rằng: Đây là những ánh sáng sẽ làm cho đức tin của anh chị em chiếu giải ra và đây là cái nhà của Thiên Chúa ở lại. Thiên Chúa không ở lại nhà thờ này, cho bằng ở lại trong trái tim biết yêu thương nhau. Thiên Chúa cũng ở lại trong nhà thờ này, như muốn chờ đợi những tâm hồn mở ra bằng tình yêu thương bác ái đối với nhau.
Anh chị em, những người lớn, hãy dạy con em của mình, biết sống yêu thương đoàn kết, nhân ái, ngay từ khi còn nhỏ. Tôi nghĩ rằng đây là một điều căn bản nhất cho đạo làm người, cho đạo của Chúa chúng ta: Yêu thương nhau, nhân ái đối với nhau, đoàn kết đối với nhau. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cảm tạ Chúa, không những vì ngôi thánh đường chúng ta làm được mà cũng phải cảm tạ Chúa vì những ngôi thánh đường thiêng liêng, là tâm hồn chúng ta, là tâm hồn con em chúng ta, có những mầm mống của đức bác ái Chúa Kitô mỗi ngày một lớn lên, mỗi ngày một thêm tươi mát, mỗi ngày một lan rộng ra. Tôi tin rằng, nếu chúng ta nắm bắt điều Chúa dạy chúng ta hôm nay: Yêu thương nhau, nhân ái đối với nhau, thì tôi chắc chắn rằng, Chúa sẽ ở lại trong mỗi người chúng ta, Chúa sẽ ở lại trong từng gia đình chúng ta. Và Chúa sẽ ở lại trong họ đạo, trong địa phương chúng ta, để chúng ta có một đời sống an hòa, bình an và tương đối sung túc, chờ một ngày nào, ở đó chúng ta lại được gặp Chúa Ba Ngôi trên trời, đời sau mãi mãi.
Bây giờ, chúng ta và các con em chúng ta tuyên xưng đức tin để chịu phép Thêm Sức.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Khánh Bình, Châu Đốc, ngày 26-05-1991.
Hôm nay, khi dâng thánh lễ ở họ đạo Lộ Đức, Kênh 8 này, tôi tự nhiên nhớ tới hang đá Lộ Đức bên Pháp. Tôi đã tới đó nhiều lắm, và lần sau cùng là tháng 12-1989. Giờ đây, tôi muốn chia sẻ với anh chị em một gợi ý mà tôi đã lãnh nhận khi hành hương hang đá Lộ Đức bên Pháp. Nói cho trúng, thì những gợi ý tôi đã lãnh nhận ở Lộ Đức bên Pháp không phải là ít. Nhưng trong những gợi ý đó, có một gợi ý đã trở thành hiệu lực thiêng liêng thúc đẩy thường xuyên trong tôi rất mạnh. Gợi ý đó là: Hãy trở về với Chúa.
Thật vậy, trong những thánh lễ tôi dâng trước hang đá Lộ Đức tôi thấy những bài Kinh Thánh đều nhấn mạnh đến sự trở về của Chúa, và tôi thấy các kinh trong những thánh lễ ấy đều tập trung vào sự xin ơn trở về với Chúa. Để trở về với Chúa, thì cần phải bước vào một con đường khả năng dẫn ta lên với Chúa. Trong Phúc Âm, thì con đường ấy là sự ăn năn sám hối. ở hang đá Lộ Đức, tôi cũng thấy con đường trở về với Chúa là ăn năn sám hối, nhưng được nhấn mạnh đến khía cạnh khiêm tốn. Tôi nhận thấy sự khiêm tốn ở ba điều kiện sau đây tại hang đá Lộ Đức.
Sự kiện thứ nhất: Dạy tôi bài học khiêm tốn ở hang đá Lộ Đức, là bầu khí cầu nguyện.
Trước hang đá Lộ Đức, người ta cầu nguyện rất nhiều, cầu nguyện từng người, cầu nguyện từng nhóm, cầu nguyện tập thể, và khi cầu nguyện, người ta thường quỳ xuống đất, trong thái độ một người tuyên xưng mình có tội, và thường, người ta giơ hai tay lên trời trong thái độ một người xin ơn tha thứ. Và nhiều khi, người ta sấp mình xuống đất, hôn đất, như thái độ của một người đền tội, cầu nguyện rất lâu, kính cẩn trong một bầu khí thinh lặng, như một thái độ của một người đợi chờ Chúa đến tha tội cho mình. Bầu khí cầu nguyện trước hang đá Lộ Đức, đáng là một bầu khí nói lên sự khiêm tốn.
Sự kiện thứ hai: ở hang đá Lộ Đức đã gợi ý cho tôi bài học khiêm tốn, đó chính là Đức Mẹ.
Nhìn lên tượng Đức Mẹ, tôi thấy Đức Mẹ rất khiêm tốn: Hai tay chấp lại, ngước mắt lên trời. Chỗ mà xưa Đức Mẹ đã đứng để hiện ra với Bernadette, nay còn nguyên trạng là một hang đá nhỏ, có rêu cỏ xanh, có vài cây hoa dại đơn sơ khiêm tốn. Lịch sử kể lại rằng: Mỗi lần Đức Mẹ hiện ra thì Bernadette đều hỏi tên bà là gì? Đức Mẹ không trả lời. Chỉ lần sau chót, Đức Mẹ mới trả lời: “Bà là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Theo như lời kể lại của Bernadette, thì khi nói lời ấy, Đức Mẹ có một thái độ bẽn lẽn, rất khiêm tốn nhường như bắt buộc phải nói lên thôi, chứ tự ý không muốn nói về ơn đặc biệt của mình.
Sự kiện thứ ba: ở Lộ Đức dạy tôi bài học khiêm nhường để trở về với Chúa, đó là chính Chúa.
Sự Chúa ban ơn cho Đức Mẹ được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội. Đó là một việc trọng đại, một việc hết sức lạ lùng, một việc cực kỳ đặt biệt. Với ơn lạ lùng ấy, Đức Mẹ là một kỳ công của Thiên Chúa, thế nhưng Chúa đã không vội nói ra. Qua 100 năm, rồi qua gần 1000 năm, rồi qua gần 19 thế kỷ, sau khi tất cả Giáo Hội mọi tầng lớp, đã tỏ ý muốn thỉnh nguyện, thì ơn Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội mới được long trọng công bố như một tín điều. Chính Thiên Chúa cũng rất khiêm nhường trong những công trình mình đã làm ra.
Ba sự kiện trên đây gợi ý cho tôi thấy là con đường trở về với Chúa chính là con đường khiêm tốn. Sự khiêm tốn không phải là khúm núm, câu nệ, nhưng là đơn sơ, chân thật, hạ mình xuống, coi trọng kẻ khác và quyền lợi kẻ khác hơn chính bản thân và quyền lợi riêng tư.
Tôi nghĩ rằng, sự khiêm tốn là một vẻ đẹp tuyệt vời, tâm lý, tinh thần, thiêng liêng, tự nhiên và siêu nhiên. Khiêm tốn là một bài ca hay nhất để ca tụng Thiên Chúa. Khiêm tốn là một lễ tế đẹp nhất để đền tạ Chúa. Và khiêm tốn là một sợi dây bền nhất, để nối kết chúng ta lại với Chúa, và liên kết chúng ta lại với nhau.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa phán: “Có kẻ trước hết sẽ trở thành rốt hết, và có kẻ rốt hết sẽ trở thành trước hết”. Đó cũng là lời nhắn nhủ, để chúng ta biết sống khiêm nhường. Phải biết bước xuống bậc thang khiêm nhường, rồi sẽ được Chúa dẫn lên với Chúa. Vẻ đẹp khiêm tốn ấy, tôi cũng thấy trước mặt tôi: Tôi thấy vẻ đẹp khiêm tốn ấy nơi các em nhỏ, khi thấy chúng đơn sơ hồn nhiên. Tôi thấy vẻ đẹp khiêm tốn nơi các người lớn, khi thấy các người lớn chân thành, chất phát. Và hôm nay, tôi thấy vẻ đẹp khiêm tốn trong lễ Ngân-Khánh của cha Đaminh đã được tổ chức giản đơn, nhẹ nhàng, kín đáo, giấu trong thánh lễ Thêm Sức hôm nay. Tôi nghĩ rằng: Sự khiêm tốn của chúng ta, của cha Đaminh, của tất cả anh chị em sẽ là một thánh lễ có giá trị nhất, trước mặt Chúa, lâu dài mãi mãi sau này.
Anh chị em thân mến,
Đêm nay tôi thức dậy rất sớm, và khoảng 2 giờ khuya, tôi nghe thấy văng vẳng bên tai tôi những tiếng chuông chùa từ xa vọng lại. Những tiếng chuông chùa đêm khuya ấy gợi ý cho tôi về phương cách truyền giáo trong đất nước Việt Nam hôm nay.
Bản thân chúng ta, hoạt động tôn giáo chúng ta, hãy khiêm tốn như những tiếng chuông thật trầm, đi vào thôn xóm, đi vào gia đình, đi vào từng người.
Bản thân chúng ta, hoạt động tôn giáo của chúng ta, hãy còn rất khiêm tốn như những tiếng chuông đêm khuya, thật trầm và thật chậm, không rộn rã, không hối thúc, nhưng khoan thai rót vào tâm hồn những tín hiệu, những lời khuyên, những niềm hy vọng, những bước đi về một cõi hạnh phúc xa vời.
Bản thân chúng ta, hoạt động tôn giáo của chúng ta, hãy rất khiêm tốn như những tiếng chuông đêm khuya, thật trầm và thật êm đềm, không ồn ào nhưng linh thiêng như những lời kinh nguyện cầu, như những khẩn khoản của tâm hồn, như những thở than của thân phận con người gởi lên tới Chúa.
Tôi nghĩ sự êm đềm, thâm trầm của sự khiêm tốn nơi chúng ta, nơi Hội Thánh chúng ta sẽ rất thích hợp với văn hóa Việt Nam truyền thống, và mới có thể thu hút được những người ngoài trở về với Chúa Giêsu đã đi trên con đường khiêm tốn của thánh giá, của nhà tạm để đến với chúng ta.
Xin Chúa Thánh Thần ban ơn thêm sức cho chúng ta, để chúng ta biết trở về với Chúa, qua những con đường mà Chúa dẫn dắt chúng ta: Khiêm nhường, chân thành, đơn sơ. Và đó là một con đường, nếu chúng ta không biết lựa chọn cho chính mình, thì ít ra cũng hãy biết can đảm đi trên con đường ấy khi Chúa bắt chúng ta vào và bó buộc chúng ta phải đi. Hãy can đảm, bởi vì Chúa Thánh Thần phù trợ chúng ta. Amen.
Bài Phúc Âm lễ hôm nay thuật lại một cuộc đối thoại giữa các vị lãnh đạo tôn giáo và Chúa Giêsu. Vấn đề đối thoại là quyền bính.
Họ hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ông lấy quyền nào mà làm điều đó”. Chúa Giêsu thấy vấn đề “quyền”, họ đặt ra rất nhiêu khê, không do lý thuyết phức tạp cho bằng lòng người rắc rối, nên Chúa đã không trả lời.
Tuy vậy, Chúa đã trả lời bằng các việc Chúa làm, các việc Chúa làm không hề mang tính cách phô trương quyền bính, nhưng luôn luôn mang tính cách cứu độ, đầy vẻ khiêm nhường nhân ái, và từ bỏ mình. Chúa không nhìn đến quyền cứu độ của mình, nhưng để ý đến quyền những người cần được cứu độ.
Tinh thần phục vụ như thế của Chúa Giêsu đã là môi trường sống động đào tạo các tông đồ. Hơn nữa, để các tông đồ khỏi nhiễm lây não trạng quyền bính của các vị lãnh đạo thời ấy, Chúa Giêsu đã nói rõ quan điểm của mình về quyền bính. Chúa phán: “Các con biết các thủ lãnh các dân tộc thì thống trị họ, và những người làm lớn thì thi hành quyền bính trên họ, còn các con thì không được thế, trong các con, ai muốn làm lớn thì hãy phục vụ. Ai muốn đứng đầu thì hãy làm đầy tớ. Cũng như Con Người đến, không để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người!” (MT 20,25-28).
Lời Chúa rất rõ, gương Chúa rất sáng. Nhưng khi Chúa đã về trời, và thời các tông đồ đã đi qua, thì dần dà não trạng quyền bính nơi giáo sĩ đã lại phát triển, có những thời, người ta ưa đề cao giáo sĩ ở các đặc quyền, như quyền tế lễ, quyền tha tội, quyền cai trị, quyền rao giảng lời Chúa. Rồi tự đặc quyền đi tới độc quyền.
Nay, sau Cộng Đồng Vatican II, giáo sĩ được người ta đánh giá theo tinh thần phục vụ, chứ không theo quyền chức. Đúng là đang có một sự trở về với Đức Kitô và Phúc Âm của Người.
ở đây, tôi thấy có một điều thiết tưởng cũng nên lưu ý, đó là tại Việt Nam hôm nay, hình ảnh kẻ có quyền, có chức đang bị lem luốc và hình ảnh kẻ phục vụ cũng đang bị xấu đi. Bởi vì đã có nhiều lạm dụng trong quyền chức, và đã có quá nhiều sai lầm trong phục vụ. Cũng trong tình hình đó, chức quyền và phục vụ của tôn giáo đang gặp nguy cơ tục hóa. Nguy cơ tục hóa đến từ nhiều phía, từ phía xã hội văn minh vật chất, từ phía những người được phục vụ, không ngừng đòi hỏi, từ phía chính chúng ta mang nhiều yếu đuối.
Một tình hình như vậy có thể phát triển rất mau, đưa tôn giáo đến chỗ biến chất, suy tàn. Tôi nghĩ rằng: Một tình hình như vậy không cho phép chúng ta đơn giản hơn chức linh mục. Kinh nghiệm cho thấy chức linh mục càng ngày càng bị tràn ngập bởi vô vàn cái phức tạp, từ những cái phức tạp đúng đắn đến những phức tạp vớ vẩn và nguy hại. Cũng vì quyền bính, cũng vì phục vụ.
Vì thế, tôi mong mỏi thành phần dân Chúa hãy ý thức rõ tình hình như vậy với trách nhiệm cao, để biết nâng đỡ linh mục, để biết giữ gìn cho linh mục.
Riêng tân linh mục Giuse, vì nhận thức được những phức tạp của chức vụ linh mục trong thời buổi này, nên đã chọn cho mình một hướng đi khiêm tốn, đó là hướng đến kẻ nghèo. Lựa chọn này rất tốt. Cái hướng đi tốt ấy xem như đơn giản, nhưng thực sự rất khó khăn và sẽ không tránh được nhiều phức tạp. Tôi biết chắc điều đó, nên tôi tha thiết cầu xin cho tân linh mục Giuse được luôn trung thành gắn bó với Chúa Giêsu. Tôi chỉ cầu xin dường ấy, và tôi mong anh chị em cầu nguyện nhiều cho tân linh mục, trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn luôn luôn trở về với Đức Kitô và Phúc Âm của Người. Amen.
Lễ Mở Tay tân linh mục Giuse Ngô Quang Kiệt, tại kênh 3a, ngày 01-06-1991.
Đọc bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu đã lên án những cái xấu một cách nghiêm khắc. Cái xấu mà Chúa Giêsu đã nêu lên hôm nay là thái độ ác độc của dân chúng nói chung, và của các vị lãnh đạo tôn giáo thời đó nói riêng đối với các tiên tri.
Thiên Chúa đã gởi đến dân Người nhiều tiên tri khác nhau, nhưng những người có đạo, nhất là những vị lãnh đạo tôn giáo thời đó đã từ chối lời các tiên tri. Hơn thế nữa, họ còn thù ghét các tiên tri, và tệ nhất là họ còn tìm giết các tiên tri, chỉ vì các tiên tri đã giảng không đúng ý họ, và đã loan báo một tương lai u ám sẽ xảy tới cho họ, nếu họ không sửa mình. Thái độ phê phán nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với nội bộ tôn giáo như vậy, được nối tiếp bài Phúc Âm ngày mai và liên tiếp trong các bài Phúc Âm suốt tuần này.
Chúa Giêsu sẽ lần lượt kể ra từng chuỗi những cái xấu trong nội bộ tôn giáo thời đó. Chẳng hạn như thói quen giữ đạo bề ngoài, thói quen sống thiếu công bình bác ái với nhau, thói quen đặt chuyện này chuyện nọ để bắt lỗi người lành. Nhưng đang khi Chúa Giêsu đang phê phán nội bộ công giáo của mình một cách nghiêm khắc như vậy, thì Chúa kêu gọi mọi người tin Chúa hãy trở về với cái quan trọng nhất, với cái chính nhất, với cái căn bản nhất của đạo, đó là đức ái.
Bài Phúc Âm ngày thứ năm tuần tới Chúa nêu rõ: Điều răn trọng nhất là mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và điều răn thứ hai là yêu thương kẻ khác như chính mình. Khi đọc bài Phúc Âm hôm nay và những bài Phúc Âm liên tiếp tuần này, tôi thấy Đức Kitô thật là một Tin Mừng, Tin Mừng lớn nhất cho tôi, cho anh chị em và cho tất cả những ai tin theo Người. Chúa Kitô đến để cởi gở khỏi chúng ta những xiềng xích trói buộc tâm hồn. Những xiềng xích đó là những tội lỗi, là những mặc cảm, là những tinh thần xấu, là những não trạng lỗi thời. Chúa Giêsu đến để xóa đi những cái làm cho tôn giáo của Người trở nên nặng nề, vô ích, và trở nên biến chất. Chúa Giêsu đến để giúp cho mọi người nhận thấy rằng: Đạo của Người là đạo của tình yêu, Thiên Chúa của đạo Người là Thiên Chúa Tình Yêu. Luật chính của đạo Người là luật tình yêu.
Tuy nhiên khi tôi thấy Chúa Giêsu phê phán nghiêm khắc nội bộ tôn giáo thời đó và cách riêng phê phán các vị lãnh đạo thời đó, thì tự nhiên tôi lo sợ. Tôi lo sợ cho nội bộ tôn giáo thời nay, và tôi lo sợ cách riêng cho các vị lãnh đạo tôn giáo thời nay, trong đó có tôi.
Điều tôi lo sợ, không phải là sự chúng ta có những cái xấu, mà điều tôi lo sợ là sự chúng ta có những cái xấu mà không nhận biết, cứ khăng khăng cho mình là tốt. Và điều tôi lo sợ là, mặc dầu chúng ta nhận biết mình xấu, nhưng cảm thấy bất lực, không sao sửa mình cho nên tốt được.
Khi tôi đang lo sợ như vậy, tôi nhìn lên trái tim Chúa Giêsu cầu nguyện tha thiết. Và tự nhiên tôi nhớ lại những lời Chúa Giêsu đã phán xưa: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai đang gánh nặng, Ta sẽ bổ sức cho. Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Và lập tức tôi hiểu rằng: Phải biết vác thánh giá của mình, phải nhận biết gánh nặng của mình, những gánh nặng không thể tránh được, gánh nặng đó chính là sự yếu đuối bất lực của mình, gánh nặng đó là sự bất toàn của anh em, gánh nặng đó là những cái xấu, những cái chưa tốt của cộng đoàn mình: “Hỡi những người gồng gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho. Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Chúng ta phải vác những thánh giá Chúa gởi đến trong chức vụ của mình, và Chúa muốn phải vác những thánh giá đó với những tâm hồn hiền lành, khiêm tốn của Đức Kitô. Một khi biết vác thánh giá của mình, gánh nặng của mình với tinh thần hiền lành, khiêm tốn của Đức Kitô, thì chính sự vác thánh giá đó sẽ là giá cứu chuộc cho bản thân mình và cho con chiên cộng đoàn, Hội Thánh của mình.
Trong những nhận thức trên đây, tôi nhìn các tân linh mục của tôi. Tôi cầu xin cho các linh mục tôi vừa phong chức, càng ngày càng hiểu chức linh mục gắn liền với những gánh nặng, với những thánh giá. Nếu hiểu như vậy, trong một tâm hồn hiền từ khiêm tốn, thì mỗi lần dâng lễ, các linh mục sẽ hiểu thấm thía hơn nhiều mầu nhiệm cứu độ được tóm tắt trong lời: “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Đức Kitô là con chiên hiền lành, khiêm tốn của Thiên Chúa. Người sẽ xóa tội trần gian một cách hiền từ khiêm tốn cho những ai trở về với Người trên con đường hiền từ khiêm tốn.
Tôi tin rằng anh chị em hiểu những điều tôi nói hôm nay, để biết nhìn linh mục chúng tôi với con mắt của Đức Kitô hiền từ, khiêm tốn và biết thương mến các linh mục bằng trái tim của Đức Kitô hiền từ khiêm tốn. Một khi nhìn linh mục như vậy và thương linh mục như vậy, thì sẽ thấy linh mục quả là một quà tặng quí giá Chúa gởi đến cho Hội Thánh, cho cộng đoàn, và cho phần rỗi mỗi người, bởi vì linh mục là người chia sẻ thánh giá của Đức Kitô cứu độ.
Hôm nay, chúng ta cầu nguyện cách riêng cho tân linh mục Phêrô của chúng ta, được luôn luôn can đảm vác thánh giá mình với tâm hồn hiền từ khiêm tốn, trong sự gắn bó với Chúa Kitô, là Đấng đã vác thánh giá mình, để dâng lễ trên đồi Golgotha. Amen.
Lễ Mở Tay của tân linh mục Phêrô Lê Trọng Hải, tại nhà thờ Thánh Linh kênh ĐL, ngày 3-6-1991
Khi đọc xong bài Phúc Âm hôm nay, tôi thấy Chúa Giêsu đã đề cao sự thương yêu người ta một cách khác thường. Chúa đề cao ở hai chỗ này:
Một là khi Chúa nói về những hình phạt sẽ dành cho những kẻ có thái độ, lời nói xúc phạm đến kẻ khác. Chúa nói: “Ai phẫn nộ với kẻ khác sẽ bị luận phạt trước tòa án. Ai cho kẻ khác là ngốc sẽ bị luận phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là khùng sẽ bị luận phạt bởi lửa địa ngục”.
Tôi nghĩ: Những tội mà Chúa mới kể ra như phẫn nộ với anh em, như cho người khác là khùng, là ngốc, đều là những tội không đến nỗi quá nặng. Thế mà Chúa Giêsu đã kể ra những hình phạt tôi cho là quá nặng. Đúng là Chúa Giêsu muốn đề cao sự thương yêu đối với kẻ khác.
Rồi tiếp đó, ở một chỗ khác, Chúa Giêsu lại đề cao đức bác ái yêu thương một cách lạ lùng. Chúa nói: “Khi con dâng của lễ nơi bàn thờ, mà còn nhớ mình còn bất hòa với ai, thì con hãy bỏ của lễ trước bàn thờ, trở về làm hòa với kẻ đó, rồi hãy trở lại dâng lễ sau”.
Theo tôi nghĩ thì việc dâng lễ nơi bàn thờ là việc rất trọng làm cho Chúa, thế mà Chúa Giêsu còn coi việc làm hòa với kẻ khác còn quan trọng hơn là dâng của lễ cho Chúa. Đúng là Chúa Giêsu muốn đề cao sự yêu thương bác ái đối với kẻ khác.
Tôi thấy sự đề cao này có vẻ quá đáng. Ấy là theo ý của tôi. Nhưng sự quá đáng này, đúng là một sự lựa chọn của Chúa Giêsu. Nếu không phải Chúa Giêsu đã đưa chủ trương như vậy, nếu chủ trương đó do người khác, hoặc do tôi đưa ra, thì sẽ bị phê phán rất là gay gắt. Nhưng đây là chủ trương của Chúa. Lời Chúa rất rõ. Chủ trương rất rõ, và nó không phải là một lựa chọn lẻ loi. Nó là một sự lựa chọn gắn liền với một chuỗi lựa chọn khác suốt cuộc đời của Chúa Kitô để nói lên con đường mà Chúa Kitô đã chọn và muốn dạy chúng ta.
Thật vậy, để đề cao sự yêu thương bác ái đối với kẻ khác, Chúa Giêsu đã từ giã thiên đàng, và có thể nói: Ngài đã từ giã Chúa Cha, để xuống thế làm người, sống giữa nhân loại.
Rồi để đề cao sự yêu thương bác ái đối với kẻ khác, nhất là đối với những kẻ nghèo túng, Chúa Giêsu đã từ giã Đức Mẹ, từ giã nếp nhà ấm cúng, để đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.
Rồi nhất là, để đề cao đức bác ái đối với người khác, Chúa Giêsu đã từ bỏ chính mạng sống mình như chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ hai: “Khi chúng ta chưa biết Người, chưa mến Người, thì Người đã thương mến chúng ta trước và đã nộp mình chịu chết cho chúng ta”. Đó là một lựa chọn con đường Ngài đi, và là một lựa chọn rất dứt khoát, rất quyết liệt, để dạy chúng ta con đường phải đi.
Con đường chúng ta phải đi là những lời Chúa Giêsu nói về ngày phán xét chung: Chúng ta biết, rồi đến ngày phán xét chung:
Chúa phân biệt kẻ lành người dữ: Kẻ lành đứng bên hữu, kẻ dữ đứng bên tả. Kẻ lành lên thiên đàng, kẻ dữ xuống hỏa ngục. Và Chúa phân bố loại theo tiêu chuẩn đức bác ái đối với kẻ khác: “Xưa Ta đói các con đã cho Ta ăn, nên Ta thưởng công trên thiên đàng. Xưa Ta khát các ngươi đã không cho Ta uống, nay Ta phạt các ngươi xuống hỏa ngục”. Chúa lấy tiêu chuẩn đức bác ái với kẻ khác mà phân loại con người trong ngày tận thế. Đây đúng là một lựa chọn dứt khoát quyết liệt, không mơ hồ tí nào cả.
Những lời Chúa nói trên đây khi đề cao đức bác ái yêu người đối với kẻ khác, rất cần được chúng ta quan tâm. Và một khi quan tâm rồi, chúng ta phải lựa chọn như là con đường sống đạo của chúng ta.
Thánh Antôn mà chúng ta mừng kính hôm nay (13-6-91), đã chọn con đường bác ái yêu thương đối với người khác.
Đọc truyện của Ngài, tôi thấy Ngài rất yêu thương đối với những người chung quanh: Ngài cầu nguyện cho họ, làm phép lạ cho họ hầu như vô điều kiện, chỉ vì họ là con người cần được giúp đỡ. Xứ đạo chúng ta, họ đạo chúng ta, họ đạo Antôn cũng đã chọn con đường bác ái yêu thương đối với kẻ khác như con đường để sống đạo, để truyền đạo.
Rồi tôi cũng có cảm tưởng rằng: Chung quanh chúng ta đây những đồng bào không tôn giáo cũng đã quan tâm rất nhiều đến sự bác ái yêu thương đối với nhau, đối với kẻ khác. Và những đồng bào ấy đã bước được những bước đi vững bền trong sáng.
Như vậy chúng ta cũng nên tự hỏi mình: Con đường sống đạo của chúng ta có thực sự tập trung vào Đức Kitô và tập trung vào con đường bác ái như Chúa đã dạy không?
Tôi nghĩ rằng: Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu đạo về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng sự chúng ta sống trọn vẹn quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Chúng ta không phải là những người thánh trọn lành. Dù chúng ta làm hết sức mình, chúng ta chắc chắn vẫn còn sơ sót lỗi lầm. Nhưng chúng ta phải dốc lòng, phải quyết tâm trở về với Chúa Kitô và con đường của Ngài đã chọn. Người đã chọn con đường bác ái để đến với ta. Người đã chỉ cho chúng ta con đường về trời, đó là bác ái đối với nhau, đối với kẻ khác.
Tôi nghĩ rằng, chúng ta không còn con đường nào khác để lựa chọn. Nhất là hôm nay, nhìn về tương lai, tôi thấy sẽ có nhiều sự bất ngờ. Có những bất ngờ dễ chịu, và sẽ có những bất ngờ rất khó chịu. Cho nên cần phải chuẩn bị lòng mình, cộng đoàn mình bằng chính sự chuẩn bị của Chúa Kitô, là tâm hồm phải rất bác ái yêu thương đối với nhau, đối với những người thương mình, đối với những người không thương mình. chỉ có một con đường đó mới có thể dẫn đưa chúng ta về với Chúa trên thiên đàng, và có thể tỏa sáng Hội Thánh chúng ta giữa dân tộc, đa số ngoài Công Giáo.
Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, đặc biệt là ban ơn bác ái cho chúng ta, đễ khi lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta thêm tình mến Chúa yêu người một cách đơn sơ trung thành, một cách bền vững và một cách quảng đại. Chỉ có tình yêu mới cứu độ chúng ta, bởi vì tình yêu chính là Thiên Chúa cứu độ. Amen.
Lễ thánh Antôn 13-06-1991. Nhà thờ Cồn Trên xã Tấn Mỹ.
Chuyện thánh Gioan Baotixita có thể chia thành ba tập:
Tập một là thời gian từ đời tổ tiên, ông bà, cha mẹ Gioan cho đến ngày Gioan được sinh chào đời. Thời gian này khá dài. Các chi tiết trong thời gian này đều do Chúa sắp sếp. Thí dụ sự Thiên Thần hiện ra báo tin cho ông Giacaria về đứa con muộn màng của ông. Sự ông bị câm từ ngày đó. Sự Đức Mẹ đến thăm bà Isave, làm cho thai trong dạ Isave nhảy mừng. Sự bà Isave sinh con trai đặt tên là Gioan. Sự ông Giacaria hết câm và nói tiên tri về Gioan. Tất cả những chi tiết trên đây đều thuộc về chuyện Gioan. Nhưng không hề do Gioan tự chọn, mà hoàn toàn do Chúa quyết định. Như vậy tập một này là do Chúa viết ra.
Tập hai là từ ngày Gioan sinh ra cho đến ngày Gioan qua đời. Thời gian này rất vắn, khoảng vài chục năm. Trong thời gian này có nhiều việc Gioan tự chọn. Nhưng xét cho cùng thì các tự chọn ấy của Gioan cũng nằm trong sự hướng dẫn quyền phép của Thiên Chúa. Bởi vì ngay trước khi Gioan được thụ thai trong lòng bà Isave, Thiên Thần đã báo trước cho ông Giacaria biết Gioan sẽ đầy Chúa Thánh Thần, sẽ có cái nhìn và sức mạnh của Đấng tiên tri, sẽ đi trước Chúa, để dọn đường cho Người. Những ơn đặt biệt đó, tất nhiên sẽ hướng dẫn Gioan biết nói đúng sự thực, vào đúng thời điểm cần nói, và biết làm đúng việc lành vào đúng thời điểm nên làm. Lựa chọn của Gioan là lựa chọn có tự do. Nhưng sự tự do ấy đã được hướng dẫn bởi ơn khôn ngoan quyền năng Thiên Chúa. Như vậy, có thể nói tập hai này cũng được viết do bàn tay Thiên Chúa.
Tập ba là thời gian từ khi Gioan qua đời cho đến bây giờ và mãi mãi sau này. Trong thời gian này, các lời giảng và việc lành của Gioan như những hạt giống tốt không ngừng sinh sôi nẩy nở. Vinh quang của Gioan cũng không ngừng phát triển. Bản thân của Gioan trên trời không ngừng hưởng hạnh phúc vô biên bất diệt. Như vậy, tập ba này không do Gioan quyết định. Tất cả đều do Chúa chủ động.
Khi suy nghĩ như trên, tôi thấy rằng: Việc quan trọng cần làm trong ngày thánh lễ Gioan là cảm tạ Chúa và ca tụng Chúa vì những sự lạ lùng Chúa đã làm nơi Gioan.
Một sự lạ lùng rất đáng chú ý nơi thánh Gioan là một người tay không đã trở thành một dụng cụ của Chúa, đầy sức mạnh thiêng liêng, lôi cuốn biết bao tâm hồn trở về dân lành. Gioan không có của cải, tiền bạc, cũng không có địa vị, cũng không làm phép lạ. Cũng không giảng điều gì cao siêu. Ngài cũng không màu mè, không sơn phết gì cho bản thân mình. Ngài chỉ chấp nhận và sống trần trụi sự thực về mình và về sứ mệnh của mình. Sự thực đó rất là khiêm tốn, đơn sơ và rõ rệt. Khiêm tốn như tiếng kêu trong sa mạc. Đơn sơ như kẻ dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Rõ rệt như việc ăn năn sám hối và tin vào Đức Kitô.
Thế rồi, khi Đức Kitô xuất hiện, thì Ngài kêu mời mọi người tập trung niềm tin vào Đức Kitô. Còn Ngài thì tự ý lu mờ đi. Thánh Gioan quả là người làm chứng. Ngài làm chứng rằng: Bản thân Ngài chẳng có gì. Chẳng là gì cả. Và Ngài làm chứng rằng: Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng xóa tội trần gian. Cái đẹp và cái mạnh của thánh Gioan là ở sự Ngài chân thành làm chứng về hai sự thực đó. Theo tôi thấy thì làm chứng sự thực về Đức Kitô là điều tuy khó, nhưng không khó cho bằng làm chứng sự thực về mình, mới dám làm chứng cho sự thực ấy.
Tôi nghĩ rằng: Để truyền giáo cho người thời nay, thánh Gioan Baotixita vẫn là tấm gương giá trị. Các cộng đoàn Hội Thánh nói chung và từng người truyền giáo nói riêng cần phải can đảm và khiêm tốn nhận sự thực về bản thân mình, và cần phải mạnh dạn tập trung vào Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Lạy Đức Kitô là Đấng thánh Gioan đã giới thiệu là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần gian, xin Chúa thương xóa tội cho con, cho Hội Thánh của con, cho tất cả nhân loại của con. Amen.
Lễ thánh Gioan Baotixita tại Long Xuyên, ngày 24-06-1991.
Đọc xong bài Phúc Âm lễ hôm nay, tôi đã thưa với Chúa Giêsu rằng: Lạy Chúa, Chúa nói là Chúa mạc khải cho kẻ bé mọn nhiều điều, mà những người hiền triết khôn ngoan không biết. Vậy, ông cố ĐaMinh, có thuộc loại những người bé mọn đó không?
Rồi lạy Chúa, Chúa cũng nói là, những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Chúa, Chúa sẽ bổ sức cho. Hãy học cùng Chúa vì Chúa hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Vậy, ông cố ĐaMinh có thuộc loại người khó nhọc và gánh nặng, đã được Chúa bổ sức, và đã được Chúa dạy sự hiền lành và khiêm nhường không?
Tôi hỏi Chúa Giêsu như vậy, vì tôi đã thấy Chúa thương cố Đaminh nhiều lắm. Tất nhiên, Chúa không trả lời tôi cách trực tiếp nhưng một cách gián tiếp, qua cảm tưởng trong tôi.
Cảm tưởng đó là: Cố Đaminh là một người sống bé mọn, sống khó nhọc, và gồng gánh nặng, đã đến với Chúa, đã được Chúa bổ sức cho, nhất là bằng ơn hiền lành và khiêm nhường.
Tôi nghĩ rằng: Cảm tưởng đó là một cảm tưởng tốt, không sai sự thực. Nó sẽ càng tốt hơn, và hữu ích hơn, nếu nó khơi dậy trong tôi và trong anh chị em những suy nghĩ giúp trở về với các chân lý Chúa dạy trong Phúc Âm hôm nay.
Chân lý mà Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay là Chúa dành tình thương đặt biệt cho những ai bé mọn, hiền từ và khiêm tốn.
Tình thương đặt biệt ấy được thể hiện ở sự Chúa cho họ được hiểu biết những điều mà người thông thái không hiểu. Và ở sự Chúa làm cho họ, đang khi phải gồng gánh nặng nề khó nhọc, thì vẫn cảm thấy được sự bình an, êm ái, nhẹ nhàng.
Nói thực ra, thì những ai sống bé mọn, hiền từ, khiêm tốn, đều phải từ bỏ mình rất nhiều, đều phải chịu đựng nhiều lắm. Nhưng vì tin vào Chúa họ đến với Chúa, nên Chúa bổ sức cho họ, là cho gánh nặng trở thành gánh công gánh phúc. Một người như thế, đúng là một hạt giống tốt Chúa gieo vào Hội Thánh và vào xã hội, để họ góp phần vào việc phát triển nền đạo đức.
Tôi nghĩ rằng: Cố Đaminh là một hạt giống Chúa đã chọn, tuy rất âm thầm và rất bé nhỏ, hạt giống ấy làm chứng, không những cho các đức tính nhân bản, và các đức tính xã hội, mà còn làm chứng cho các nhân đức siêu nhiên. Nhất là làm chứng cho sự lựa chọn quyết liệt của mình về Chúa, đó là hiến con, hiến của, và hiến đời mình cho Hội Thánh. Hạt giống ấy, nay không còn, nhưng sự thực vẫn còn tồn tại và không ngừng phát triển qua các thân nhân của mình, và nhất là qua người con linh mục của mình.
Vì thế, trong thánh lễ hôm nay, tôi xin hợp ý với cha xứ Long Bình, với thân nhân bạn bè, với họ hàng và toàn thể anh chị em, để cảm tạ Chúa vì bao ơn Chúa đã dành cho cố Đaminh, nhất là ơn Chúa chọn cố làm hạt giống tốt gieo vào Hội Thánh.
Với tâm tình cảm tạ ấy, chúng ta cùng cầu nguyện cho cố Đaminh, và cũng xin cố cầu nguyện cho chúng ta.
Lễ phát tang cố Đaminh, thân sinh của cha xứ Long Bình, kênh G2, ngày 17-06-1991.
Bài Phúc Âm hôm nay đã dạy tôi một chân lý quý giá và thiết thực, đó là sự kiên nhẫn.
Theo bài Phúc Âm, tôi hiểu rằng: Có nhiều vị tiên tri và nhiều Đấng công chính đã mong ước bao điều tốt lành cho gia đình mình, cho đất nước mình. Những mong ước ấy đã không được thực hiện trong đời các Ngài, nhưng đã được thực hiện trong những thế hệ sau. Con cháu các Ngài sẽ được thấy nhiều điều mà cha ông mình đã ước mong mà không được thấy.
Cũng vậy, thánh Gioakim và Anna đã mong ước bao điều tốt lành cho gia đình mình, cho đất nước mình. Nhưng những mong ước ấy đã không được thực hiện đời các Ngài, nhưng đã được thực hiện trong đời con cháu các Ngài và mãi mãi về sau. Đức Maria, con các Ngài đã thấy và đã nghe nhiều điều, mà cha mẹ mình xưa ước mong mà không được thấy, không được nghe.
Nghĩ tới đây, tôi đã hỏi Chúa rằng: “Thưa Chúa, chuyện xưa là như vậy, còn nay thì sao? Nhiều người cha người mẹ, nhiều người công chính và không công chính, đang ước ao bao điều tốt đẹp cho gia đình mình, cho đất nước mình. Vậy, những ước mong đó có được Chúa giúp thực hiện không? Nếu không được thực hiện đời họ thì có được thực hiện trong đời con cháu họ không?”.
Tôi hỏi Chúa như vậy. Và Chúa trả lời tôi qua Kinh Thánh, có thể tóm gọn như sau:
Một là các ước mong mà Phúc Âm hôm nay nói là của các tiên tri và các người công chính, dầu là những ước mong có liên quan đến Đấng Cứu Thế, đến ơn cứu độ, đến phần rỗi linh hồn. Những ước vọng như thế là những ước vọng công chính, đã được Chúa giúp thực hiện, theo cách và theo lúc Chúa muốn.
Hôm nay, những ước vọng của bất cứ ai, đều có liên quan đến phần rỗi, nếu quy hướng về ơn cứu độ, có tính cách công chính, chắc chắn sẽ được Chúa giúp thực hiện.
Hai là thái độ mà các người công chính được nói đến trong Phúc Âm hôm nay đã nuôi dưỡng các ước mong của mình, cũng đã góp phần vào việc giúp các ước mong đó trở thành cây tốt, đơm bông, kết quả thời con cháu họ.
Thái độ đó là kiên nhẫn phấn đấu.
Kiên nhẫn phấn đấu như người gieo trồng. Tuy dù vất vả, nhưng không ngừng chăm sóc cái tốt mình gieo, cái tốt mình trồng, kiên nhẫn phấn đấu như người đào kho báu trong ruộng, tuy dù mệt mỏi nhưng không bỏ cuộc, vẫn kiên trì đào cái hay cái tốt. Kiên trì phấn đấu như người canh thức ban đêm, dù bị bóng tối bao trùm, cũng vẫn cố gắng tỉnh thức lắng nghe.
Rồi thái độ đó là kiên nhẫn cậy tin. Cậy tin với lòng khiêm tốn.
Cậy tin với sự phó thác tuyệt đối, như Maisen tay không dẫn dân Israel qua sa mạc. Như Đavit, chân không cầm gậy xông vào tên khổng lồ Goliát, mặc áo giáp và tay vác gươm giáo.
Rồi thái độ đó là kiên nhẫn kềm chế.
Kiềm chế những ước muốn viễn vông, vô bổ, nhất là những ước muốn ích kỷ, như những bụi gai làm nghẹt những ước vọng tốt lành. Kiềm chế tính nóng nảy vội vã, không muốn tôn trọng quy luật tiến triển từ từ của tạo vật, kể cả những chương trình cứu độ và thánh hóa.
Anh chị em thân mến,
Lúc này, xem ra cái gì cũng đang lên giá. Chỉ có đạo đức là xuống giá. Trước tình hình này, tôi nhìn các người là cha mẹ, các phụ huynh, các người có chức năng giáo dục, là những người có nhiều kỳ vọng cao quý. Tôi hy vọng anh chị em luôn có những ước vọng tốt, luôn qui hướng về phần rỗi. Tôi hy vọng anh chị em luôn nuôi dưỡng những ước vọng ấy bằng thái độ kiên nhẫn phấn đấu, kiên nhẫn cậy tin, kiên nhẫn kền chế.
Chúng ta nhìn lên thánh Gioakim và Anna để mà lạc quan.
Lễ thánh Gioakim và Anna, (hấp hôn hàng năm), tại nhà thờ Chánh Tòa Long Xuyên ngày 26-07-1991.
Đêm rồi tôi đã suy nghĩ bài Phúc Âm lễ hôm nay. Sau khi đọc xong bài phúc âm, tôi đã hướng tâm hồn tôi về nhà chầu và hỏi Chúa Giêsu rằng: “Theo bài Phúc Âm lễ hôm nay thuật lại thì có lần Chúa đã cám ơn Đức Chúa Cha vì đã mạc khải nhiều điều tốt lành cao quí cho những người đơn sơ bé mọn. Vậy hôm nay, ở họ đạo Ông Chưởng này, Chúa có mạc khải cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn những điều gọi được là tốt lành cao quí không?”.
Tôi hỏi Chúa như vậy, và tôi thấy Chúa trả lời tôi, bằng cách cho tôi nhìn qua thực tại họ đạo chúng ta từ vật chất đến tinh thần.
Nhìn qua thực tại họ đạo chúng ta, tôi thấy đúng là Chúa đã mạc khải cho anh chị em nhiều điều tốt lành cao quí. Dưới đây tôi chỉ kể ra mấy điều mà thôi.
1. Điều tốt lành cao quí thứ nhất mà Chúa đã mạc khải cho anh chị em trong họ đạo này là sự nhận biết mình bé mọn, thiếu thốn, nên hết lòng cậy trông vào Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Đúng như vậy, tôi đã đi nhiều nơi, và thấy không thiếu những cộng đoàn, những cá nhân tự mãn, tự hào về những công trình xây cất lớn lao của họ, về những thành tích xã hội và tôn giáo huy hoàng của họ. Còn ở đây, mặc dù anh chị em đã đạt tới một số kết quả tốt đẹp, nhưng tôi không thấy có sự tự hào tự mãn nào nơi anh chị em, cá nhân cũng như tập thể. Trái lại, anh chị em có một lòng khiêm tốn, nhận biết mình hèn mọn thiếu thốn. Và từ nhận thức khiêm tốn ấy, anh chị em nhìn vào Chúa, đến với Chúa, gặp gỡ Chúa một cách đơn sơ chân thành.
Thánh lễ hôm nay, với bầu khí trang nghiêm sốt sắng này, với những đoàn trẻ em đang nao nức nghiêm trang đợi được Thêm Sức, đợi được Rước Lễ Lần Đầu, đợi được tuyên hứa Bao Đồng. Đúng là thánh lễ của những con người đơn sơ khiêm tốn, cậy trông nơi Chúa giàu lòng thương xót. Mình chẳng có gì, mình chẳng là gì, nhưng Chúa là tất cả. Hãy cậy trông vào Chúa. Tâm tình như vậy đúng là một sự hiểu biết tốt lành cao quí Chúa đã dành cho anh chị em, những tâm hồn đơn sơ khiêm tốn, mà nhiều người khác đã không có.
2. Điều tốt lành cao quí thứ hai mà Chúa đã cho anh chị em, trong họ đạo này, sự biết nhận ra cái gì là chính yếu trong tôn giáo nói chung và trong thánh lễ nói riêng.
Cách đây ít ngày, tôi đi làm lễ ở một nơi xa, lễ dành cho các em Rước Lễ Lần Đầu. Khi tôi bắt đầu giảng, thì một số em Rước Lễ Lần Đầu, bỏ ghế đứng lên, xếp hàng đi xuống cuối nhà thờ để chuẩn bị dâng lễ vật. Tất nhiên là các em đó không còn để ý nghe giảng, và còn làm dịp cho bao nhiêu người trong nhà thờ lo ra. Thấy cái cảnh như vậy, tôi nghĩ trong lòng rằng: Một lễ vật dâng lên Chúa kiểu này thì còn ý nghĩa gì đâu: Bỏ cái chính là nghe giảng để lo nghi lễ dâng bánh rượu, dâng hoa trái là những cái phụ, thì đúng là không nhận biết cái gì là chính, cái gì là phụ.
Chưa hết đâu. Trước khi lên rước lễ, tôi thấy các em đó lại bắt đầu thắp nến, thắp đèn cầy. Mỗi đứa đều lo làm sao cho đèn cầy của mình khỏi tắt, cầm thế nào cho đẹp để chụp hình. Thấy cảnh như vậy, tôi nghĩ rằng: Giờ phút rước lễ lần đầu là quan trọng nhất đời mình, lần đầu gặp Chúa, lần đầu đón Chúa vào lòng, mà các em không để ý dọn mình, chỉ lo nhìn vào cây đèn cầy, chỉ lo làm sao chụp hình cho đẹp. Nhìn những cảnh trái ngược ấy, tôi lo cho đời sống đạo của các em sau này.
Còn giờ đây, tôi thấy rằng, mặc dù anh chị không coi thường những cái phụ cần thiết, nhưng vẫn biết tập trung lòng trí lại vào những cái chính, đáng được quan trọng hóa.
Tôi thấy anh chị em biết chăm lo cầu nguyện và biết chuẩn bị tâm hồn, tâm hồn các em, để có một sự tập trung vào Đức Kitô, bằng sự sám hối, bằng cách gợi lên lòng tin cậy mến. Những tâm hồn như vậy, đúng là những điều Chúa đã dành cho anh chị em, những con người bé mọn đơn sơ thiếu thốn, mà những con người khác không có.
3. Điều tốt lành cao quí thứ ba mà tôi nhận thấy Chúa đã dành cho anh chị em ở đây, là biết nhận ra tiếng Chúa gọi trong những dấu chỉ bề ngoài hằng ngày.
Đêm rồi, từ nửa đêm cho tới sáng, tôi thỉnh thoảng lắng nghe những tiếng còi văng vẳng. Tôi biết rõ rằng đó là những chiếc còi của những chiếc đò đang đợi, đang chờ, đang gọi khách. Từ cái hình ảnh nho nhỏ ấy, tôi nghĩ tới cái dấu chỉ bề ngoài mang tiếng Chúa gọi, gởi tới anh chị em trong cuộc sống. Những dấu chỉ đó như là: Gương cha mẹ lo lắng cho gia đình con cái, những cái liên hệ trong gia đình với nhau, những người cùng xóm cùng làng chia sẻ với nhau, những tổ chức cá nhân phục vụ những đối tượng nghèo túng khổ đau. Tất cả đều là những dấu chỉ bề ngoài ta thấy được, và những dấu chỉ ấy mang tiếng Chúa gọi, Chúa nhắn nhủ ta, Chúa khuyên dạy ta rằng: Có một chiếc đò dẫn ta lên thiên đàng. Chiếc đò ấy là phục vụ con người.
Hãy phục vụ con người như Đức Kitô đã dạy trong Phúc Âm. Bởi vì sau này, khi đến ngày phán xét, Chúa sẽ căn cứ vào việc phục vụ con người để phân loại. Ai phục vụ con người sẽ được kể là con Chúa đáng được lãnh phần thưởng trên trời. Hãy theo con đò ấy. Hãy bước vào con đò ấy. Hãy phục vụ con người, nhất là những con người nghèo túng khổ đau cô đơn. Chắc chắn con đò ấy cùng với Đức Kitô sẽ dẫn chúng ta tới thiên đàng.
Anh chị em thân mến,
Qua thực tại của họ đạo, tôi đã nhìn thấy sơ qua những hiểu biết tốt lành cao quí mà Chúa đã dành cho anh chị em, vì anh chị em là những người đơn sơ, hèn mọn thiếu thốn. Nhận biết mình khiêm tốn khó nghèo để tin Chúa. Nhận biết cái chính để tập trung vào. Nhận biết phục vụ con người là chiếc đò ở đâu cũng gặp, ngày nào cũng thấy, để đi về với Chúa.
Tôi nghĩ đây là những hiểu biết Chúa đã và đang gởi tới anh chị em trong họ đạo này.
Xin Chúa giúp chúng ta biết đón nhận những nhận biết Chúa gởi cho chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta và con em chúng ta biết khai triển những nhận biết mà Chúa đã dành cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn. Và xin Chúa giúp chúng ta, không những hiểu, không những phát triển những nhận biết, mà còn biết đem ra thực hành bằng đời sống, bằng việc là cụ thể, để cho chúng ta và con em chúng ta có một sự bình an trong nội tâm vì có Chúa trong lòng mình, biết rõ con đường đưa đến thiên đàng, biết rõ những chân lý chắc chắn không thể lay chuyển được, cho chúng ta phần nào được an tâm trong cuộc hành trình phức tạp nguy hiểm đi về thiên đàng.
Trong tinh thần tạ ơn và trong tinh thần cầu xin, chúng ta giờ đây hãy cùng các con em chúng ta đứng lên và tuyên xưng lời hứa.
Thánh lễ Thêm Sức ngày 11-07-1991. Tại nhà thờ Ông Chưởng.
Khi nghe cộng đoàn hát Lời Chúa: “Chúa Cha sẽ sai một Đấng Phù Trợ khác, Người sẽ ở lại với chúng con đến muôn đời”. Và tiếp theo đó là nghe bài Phúc Âm: “Chúa cũng hứa là Chúa Cha sẽ sai Đấng Phù Trợ khác và Người sẽ ở lại với chúng con đến muôn đời”. Nghe xong bài hát và nghe xong bài Phúc Âm, tôi đã thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xưa Chúa đã hứa rằng: Chúa Cha sẽ sai một Đấng Phù Trợ đến và Đấng Phù Trợ ấy sẽ ở lại với chúng con đến muôn đời. Vậy ở đây, tại Châu Đốc này, tại địa phương này, Chúa có sai Đấng Phù Trợ đến không? Và Đấng Phù Trợ có ở với chúng con mỗi ngày cho đến muôn đời không?
Tôi đã thưa với Chúa Giêsu như vậy, tôi không nghe tiếng Người trả lời, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời tôi một cách gián tiếp bằng cách làm cho tôi nhớ lại một đoạn thư của thánh Phaolô gởi cho giáo đoàn Galata. Trong đó, thánh Phaolô kể ra những hoa quả của Đấng Phù Trợ, tức là Chúa Thánh Thần. Những hoa quả đó là yêu thương, vui vẻ, bình an, nhân từ, nhẫn nại, hiền lành, khoan dung, dịu hiền, tiết độ, khiết trinh. Có nghĩa là khi thấy ở một giáo xứ nào, ở một cộng đoàn nào, ở một cá nhân nào có những đức tính kể trên, thì có thể kết luận được rằng: Họ đạo ấy, cộng đoàn ấy, cá nhân ấy có Chúa Thánh Thần.
Vậy, khi nhìn qua họ đạo Châu Đốc này, nhất là nhìn cuộc lễ hôm nay, và nghe cảm nghĩ đơn thành đơn phác của người đại diện họ đạo đã nói lên đầu lễ, tôi có cảm tưởng là anh chị em có một số hoa quả của Chúa Thánh Thần ban cho. Và như vậy, tôi có thể kết luận được rằng: Họ đạo anh chị em, có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Nơi nhiều, nơi ít, kẻ ít, người nhiều. Cái kết quả như vậy cho phép chúng ta lạc quan tương đối. Và sự lạc quan tương đối này trở thành một sức mạnh mới thúc đẩy chúng ta tiến thêm trên con đường đạo đức.
Điều mà tôi muốn gợi ý hôm nay, trong sự tiến lên, tiến thêm trên con đường đạo đức đó là tinh thần nhẫn nại.
Trước hết, hãy nhẫn nại trong sự đổi mới chính mình và đổi mới môi trường của mình.
Đổi mới là bỏ đi những cái xấu xa và đưa vào những cái tốt. Công việc đổi mới như vậy không thể thực hiện một ngày, một tuần, một tháng, một năm, mà phải làm dài dài, liên tục. Nhất là phải khởi đi từ những việc nhỏ. Tôi thấy một căn phòng, một căn nhà, với những cái đẹp nho nhỏ, với những chỉnh trang nho nhỏ, thì dần dần sẽ tạo được bầu khí tươi mát cho cả căn phòng, cho cả căn nhà. Phải khởi sự đi bằng việc làm nho nhỏ, chứ đừng ước vọng suông và cũng đừng mơ tưởng những đổi mới lớn lao.
ồi nhẫn nại là kiên trì trong việc xây dựng con người, nhất là xây dựng con em chúng ta. Xây dựng con người quan trọng hơn xây dựng nhà cửa, cơ sở. Nhà cửa có thể mất đi, nhưng một con người tốt sẽ làm được cơ sở, sẽ xây dựng lại được đất nước của mình. Thiếu xây dựng con người, mà chỉ lo xây dựng nhà cửa, cơ sở, đó là tính sai. Mà sự xây dựng con người, nhất là xây dựng con em thiếu nhi, giới trẻ, đòi chúng ta phải rất kiên trì, nhẫn nại.
Và khởi đi từ những việc nhỏ, từ những đức tín căn bản, như lễ phép, hiếu thảo với cha mẹ, với đất nước, với đồng bào. Rồi đến việc học văn hóa từ lớp nhỏ đến lớp trên, rồi đến việc học đạo, từ học đạo đến giữ đạo. Phải kiên trì từng bước trong những kế hoạch đã được nghiên cứu với những hiểu biết sâu rộng.
Tôi thực sự lo cho tương lai Giáo Hội, lo cho tương lai đất nước Việt Nam chúng ta, và cụ thể lo cho tương lai họ đạo Châu Đốc chúng ta. Tất nhiên phải có nhiều đổi mới. Nhưng không thể đổi mới, nếu không xây dựng con người về mọi mặt. Và những sự xây dựng này, tôi nói lại, cần rất nhiều kiên nhẫn và hiểu biết.
Anh chị em thân mến,
Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ. Phù Trợ chứ không phải là người làm thay cho chúng ta. Chúng ta phải làm hết sức mình, hết khả năng mình. Phải học hỏi, phải nghiên cứu, phải thực hiện hết sức khả năng của mình. Chúa Thánh Thần sẽ phù trợ thiện chí chúng ta. Ngài không bao cấp làm thay chúng ta. Nếu chúng ta không cố gắng đổi mới chính mình, đổi mới môi trường của mình, nếu chỉ cậy trông suông, khoán trắng cho Chúa Thánh Thần, thì Chúa Thánh Thần sẽ không làm thay. Bởi vì, trách nhiệm ấy thuộc về chúng ta, những người Chúa đã trao cho những khả năng để có thể làm được, không nhiều thì ít, không việc lớn thì việc nhỏ, ai cũng có khả năng làm việc tốt.
Xin Chúa Thánh Thần trong ngày hôm nay, khơi dậy trong chúng ta những nguồn sinh lực mới, để chúng ta, từ nguồn sinh lực ấy biết quyết tâm đổi mới chính mình, biết quyết tâm góp phần đổi mới môi trường của mình, và quyết tâm góp phần xây dựng thế hệ trẻ của chúng ta. Sự quyết tâm này chúng ta sẽ gởi gấm nơi Chúa Thánh Thần. Người sẽ ban phép lành cho ta. Người sẽ Phù trợ cho chúng ta thực hiện. Mặc dầu hôm nay chúng ta không thấy kết quả. Nhưng hãy kiên trì nhẫn nại như những người gieo giống. Mùa màng sẽ không thấy ngay, nhưng mùa màng nếu làm đúng, làm với cố gắng, với ơn phù trợ của Chúa Thánh Linh, chắc chắn sẽ phong phú, sẽ trở nên phần thưởng cho chính chúng ta, và nhất là cho sự thành nhân của con cái chúng ta. Amen.
Thánh lễ Thêm Sức tại nhà thờ Châu Đốc, ngày 18-07-1991.
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại sự khác biệt ý kiến giữa Chúa Giêsu và người biệt phái: Người biệt phái lo việc đền thờ, đã quan trọng bàn thờ đến mức quá đáng như tuyệt đối. Còn về Chúa Giêsu thì coi đền thờ cũng quan trọng, nhưng với một mức độ nào đó thôi. Chúa phán: “Có Đấng còn trọng hơn đền thờ”.
Rồi Phúc Âm cũng kể lại: Có một sự khác biệt ý kiến giữa Chúa Giêsu và người biệt phái: Người biệt phái đánh giá kẻ dâng của lễ căn cứ theo giá trị vật chất của của lễ. Còn Chúa Giêsu thì đánh giá người dâng của lễ căn cứ vào tấm lòng bên trong của họ. Chúa phán: “Ta muốn lòng nhân hậu, lòng tốt, chứ không phải hy lễ”.
Khi tôi thấy sự khác biệt này giữa Chúa Giêsu và người biệt phái, tôi đã hỏi Chúa Giêsu rằng: “Chuyện hồi xưa là như vậy đó, còn chuyện hôm nay thì sao?” Hôm nay ở giáo xứ này, ở giáo họ này, ý kiến của chúng con, những người lo xây cất nhà thờ, có hợp với ý kiến của Chúa không? Hay Chúa cũng có ý kiến khác?
Rồi hôm nay tại đây, cách đánh giá của chúng con về những người dâng hiến của cải có hợp với cách đánh giá của Chúa không?
Tôi hỏi Chúa Giêsu như vậy và Chúa Giêsu đã trả lời tôi một cách gián tiếp bằng cách hướng tâm hồn tôi về thực tại cuộc lễ hôm nay.
Nhìn qua thực tại cuộc lễ hôm nay, tôi có hai cảm tưởng:
Cảm tưởng thứ nhất của tôi là thấy anh chị em nhận thức rất rõ là có Đấng trọng hơn nhà thờ.
Đúng như vậy, cái nhận thức ấy được biểu lộ ra bằng lời nói, bằng thái độ, bằng việc làm. Chúng ta đến đây không phải để quan trọng hóa nhà thờ cho bằng gặp chính Chúa. Lời nói của ta, thái độ của ta, việc làm của ta, tuy có liên quan đến nhà thờ, nhưng tất cả đều qui hướng về một Thiên Chúa mà thôi: Một Thiên Chúa ở trong nhà tạm, nhưng cũng ở khắp nơi, nhất là ở trong lòng chúng ta. Một Thiên Chúa làm chủ nhà thờ, nhưng cũng làm chủ của cải, và nhất là làm chủ cuốn sổ ghi chép những người sẽ được lên thiên đàng và những người không được lên thiên đàng. Một Thiên Chúa mà sự thánh thiện sáng chói hơn mặt trời, bao la hơn biển cả. Một Thiên Chúa mà đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta biết Người. Một Thiên Chúa yêu thương chúng ta không phải vì chúng ta tốt lành mà vì chính Người tốt lành.
Một Thiên Chúa như vậy trọng hơn đền thờ. Và chúng ta mến yêu Người, thờ phượng Người, không phải chỉ trong nhà thờ, mà nhất là trong lòng chúng ta. Chúng ta mến yêu và phụng thờ Chúa không phải chỉ trên hy lễ bàn thờ, mà nhất là trong thánh lễ cuộc đời mình, suốt đời mình. Đó là cảm tưởng thứ nhất của tôi: Chúng ta biết có một Đấng trọng hơn đền thờ.
Cảm tưởng thứ hai của tôi là thấy anh chị em nhận thức rất rõ ràng tấm lòng tốt trọng hơn của lễ.
Đúng như vậy. Những gì anh chị em cho nhà thờ: Của cải, công sức, đều cho đi với tất cả tấm lòng của mình, một tấm lòng khiêm tốn, trong sáng, chân thành, vị tha. Của cải thì có hạn, người nhiều, kẻ ít. Công sức cũng có giới hạn, kẻ nhiều khả năng, kẻ ít khả năng. Nhưng tấm lòng thì kể như vô biên giới. Và Chúa nhìn vào nơi sâu thẳm của cõi lòng từng người, cõi lòng vô biên giới ấy, để cân đo những gì là trong sáng, những gì là u tối, những gì là thẳng thắn, những gì là cong queo, để rồi Chúa thưởng công theo cái thẳm sâu trong đáy lòng mỗi người chúng ta. Đúng là chúng ta nhận thức rất rõ tấm lòng trọng hơn của lễ.
Anh chị em thân mến,
Đêm rồi tôi có dịp được thưởng thức một sự êm đềm tĩnh mịch, thanh vắng không bao giờ có nơi thành thị. Nhưng tôi đã thức dậy rất sớm. Tôi thức dậy không phải bởi những tiếng động bên ngoài, mà bởi những tiếng động trong lòng tôi.
Trong lòng tôi, bao giờ cũng có những hình ảnh của những người nghèo túng, những người cơ cực, những người dốt nát, những người cô đơn, những người bỏ Chúa, những người xa Chúa. Hình ảnh những người ấy luôn rên siết trong tôi. Họ không nói gì, nhưng qua họ, tôi nghe tiếng Chúa gọi: Quan tâm xây dựng nhà thờ vật chất, nhưng đừng quên xây dựng con người. Đền thờ sống động là con người, nhất là những tâm hồn nghèo khổ, những tâm hồn xa Chúa, những tâm hồn bỏ Chúa. Đấy là những địa chỉ mà Chúa sai các tông đồ đi tới. Giờ đây, tôi chỉ muốn chuyển đạt lại cho anh chị em lời Chúa kêu gọi tôi, trong lòng tôi. Đơn sơ chỉ có vậy. Và tôi tin rằng: Anh chị em hiểu ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương đến chúng con, xin thương ban phép lành cho việc xây dựng đền thờ này. Và xin giúp chúng con luôn cam tâm chịu khó, kiên trì theo đuổi việc xây dựng những đền thờ sống động là những con người gần đây và xa đây. Tất cả đều thuộc về đoàn chiên của Chúa. Amen.
Lễ đặt viên đá đầu tiên tại nhà thờ Hợp Tiến kênh B2, ngày 19-07-1991.
Khi bước chân vào nhà thờ này, khi nhìn lên cung thánh, tôi để ý ngay tới 3 chữ “CHA YÊU CON” gắn ở chân thánh giá. Đọc 3 chữ đó, tôi đã trả lời Chúa Giêsu rằng: Lạy Chúa, Chúa đã yêu con, con yêu Chúa. Lời “YÊU CHÚA” tuy đơn giản, vắn tắt, nhưng thực hiện không dễ dàng gì. Xin Chúa giúp con và những kẻ thuộc về con biết yêu Chúa. Không phải như chúng con muốn, mà như thực sự Chúa muốn.
Tôi đã nói đi nói lại lời ấy với Chúa Giêsu. Và tự nhiên tôi nhớ lại cuốn sách tôi mới đọc mấy hôm nay về lòng mến Chúa. Cuốn sách do một phụ nữ viết ra, chị Chiara. Chị thuật lại những chặng đường thiêng liêng mà Chúa dẫn dắt chị trải qua.
Hồi đó, chị khoảng chừng 16 tuổi. Chị cảm thấy trong lòng một thao thức, một ước mong bao la, muốn mến Chúa với hết linh hồn mình, hết trí khôn mình, hết sức mình. Cô bé cảm thấy trái tim mình thường xuyên nôn nao, với một thao thức mến Chúa, yêu Chúa. Rồi có một lúc Chiara nghĩ rằng: Chẳng lẽ yêu Chúa chỉ là tình cảm trong lòng thôi, hay tôi phải làm gì thêm nữa? Cô bé không biết giải đáp thế nào, mà cũng không gặp một cha nào, một tu sĩ nào để giải bày tâm sự, vì hồi đó là chiến tranh. Tản mát hết. Cô chỉ biết giữ bên mình cuốn Phúc Âm. Cô bé coi Phúc Âm là người hướng dẫn linh hồn mình, nên Chiara cầu nguyện, rồi mở Phúc Âm ra đọc, thì gặp đoạn Chúa phán rằng: “Ai mến Ta, thì hãy làm theo thánh ý Ta. Ai yêu Ta, thì hãy tuân giữ luật Ta”.
Đọc câu đó rồi, cô bé thấy như có một ơn Chúa đang soi sáng cho riêng mình. Từ nay trở đi, yêu Chúa là phải làm theo thánh ý Chúa. Mến Chúa là thực thi luật Chúa dạy. Rồi Chiara chia sẻ ơn soi sáng ấy cho hai đứa bạn. Cả ba đứa từ đó cầu nguyện và mỗi ngày gặp nhau, bàn hỏi với nhau: Hôm nay mình phải làm cái gì để gọi là làm theo thánh ý Chúa? Hôm nay mình phải thực hiện luật nào gọi là luật Chúa đã truyền dạy cho mình làm hôm nay, lúc này, nơi đây.
Ba đứa ấy sinh hoạt với nhau như vậy một thời, nhưng rồi có ngày tới chỗ bế tắc, ba đứa không biết hôm nay, lúc này, việc gì là việc Chúa muốn rõ rệt. Và luật nào là luật rõ rệt Chúa muốn để chúng thực hiện. Cũng không biết bàn hỏi với ai, ba đứa cầu nguyện, rồi mở Phúc Âm ra đọc, thì thấy có một chỗ Chúa dạy rằng: “Ta trao cho chúng con một điều răn mới là chúng con yêu thương nhau”.
Đọc câu đó ba đứa trẻ hiểu ngay ý Chúa muốn dạy rằng: Luật Chúa dạy, muốn yêu Chúa thì phải tuân giữ luật Chúa. Mà luật Chúa rõ ràng nhất là yêu thương nhau. Yêu thương nhau, đó là việc rõ ràng nhất, hợp với ý Chúa. Thế rồi ba đứa cùng nhau giữ lời Chúa dạy.
Nhưng một ít lâu sau, ba đứa thấy rằng, chẳng lẽ yêu thương nhau chỉ là trong một bộ ba đứa với nhau, cũng cầu nguyện cho nhau, cũng chia sẻ với nhau, cũng nâng đỡ nhau. Chẳng lẽ chỉ có thế thôi? Mình phải làm gì thêm. Rồi ba đứa lại cầu nguyện, lại mở Phúc Âm ra đọc, thì gặp một chỗ Chúa dạy rằng: “Ai làm cho một kẻ bé mọn nhất, một việc lành vì danh Thầy, thì Thầy kể việc ấy như là làm cho chính Thầy”. Rồi một nơi khác, Chúa kể dụ ngôn: Một người bị cướp đánh nằm bên vệ đường, người tư tế đi qua thấy, nhưng làm ngơ. Người luật sĩ đi qua thấy cũng làm ngơ. Chỉ có người ngoại đạo Samaritanô thấy, dừng lại, vực nạn nhân lên ngựa, rồi đưa lên quán trọ, chăm sóc. Và Chúa kết luận: Kẻ thương người là người cứu giúp nạn nhân. Hãy làm như vậy.
Ba đứa trẻ học được trong Phúc Âm cách yêu người là thế nào? Là phục vụ nhau, là cứu giúp nhau, là chia sẻ với nhau. Thế rồi từ đó, ba đứa trẻ bắt đầu sống lời Chúa một cách triệt để, ba đứa đến với những nhà khá giả, xin quần áo cũ, xin đồ ăn thức uống, để đem phân phát cho những người xung quanh, những nạn nhân chiến tranh. Rồi trong thành, nhiều người thấy gương ba đứa nhỏ cũng bắt chước làm theo. Rồi dần dần, trong thành, ngoài thành, và khắp nước Ý nảy ra phong trào bác ái, cầu nguyện như ba đứa trẻ đã làm. Và bây giờ, phong trào bác ái ấy đã trở thành một phong trào quốc tế.
Năm rồi (1990), khi tôi sang Ý, tôi có đến thăm trụ sở của phong trào và tôi biết rằng, chị Chiara hiện nay là một trong những nhân vật được Đức Thánh Cha rất quý mến. Trụ sở của phong trào rộng như một thành phố lớn. Tại đây, hàng tháng, có những khóa tĩnh tâm cho các Giám mục, linh mục, giáo dân. Đây cũng là nơi huấn luyện cho các linh mục, tu sĩ, giáo dân. Từ nơi đây đã gởi đi các nhóm nhỏ trên khắp thế giới, đã gieo rắc Tin Mừng Bác Ái Phúc Âm. Tôi thấy rằng, đây là một mùa xuân tươi mát Chúa gởi vào Giáo Hội, để làm cho Giáo Hội trẻ trung hơn. Đây là một sức mạnh mới Chúa đang dùng để đổi mới gương mặt Hội Thánh, đây là khuôn mặt trẻ, tươi đẹp, nói tiên tri và tương lai Nước Trời. Nước Trời chan hòa tình thương. Đó là yêu thương, đó là mến Chúa.
Những cái gì tôi vừa nói với anh chị em là muốn cắt nghĩa cho anh chị em hiểu câu trả lời với Chúa: Con mến Chúa, mà mến Chúa là thực thi luật Chúa. Mà luật quan trọng của Chúa là yêu thương nhau. Mà yêu thương là phục vụ lẫn nhau, là chia sẻ với nhau, là thông cảm với nhau.
Một khi chúng ta hiểu rõ điều đó, và một khi chúng ta cố gắng sống như chúng ta đã hiểu, chúng ta mới thấy sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, ở trong bất cứ nơi nào, chúng ta không thiếu việc cần phải làm, chúng ta không thiếu việc có thể làm để trả lời với Chúa rằng: Con mến Chúa. Và rồi chúng ta sẽ thấy có nhiều điều mới lạ trong ta, trong Hội Thánh chúng ta, những điều mà Chúa chỉ mạc khải cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn, như chúng ta vừa nghe trong Phúc Âm: “Có những điều Chúa giấu không cho những nhà thông thái, hiền triết biết, mà chỉ mạc khải cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn”.
Đêm vừa rồi, tôi thức sớm để làm việc, và bất chợt, tôi nhìn thấy ở một góc bên khung cửa, có một con nhện đang nhả tơ, đan lưới. Nó làm công việc đó một cách thông minh và bình tĩnh. Nhìn con nhện nhả tơ đan lưới, tôi nghĩ tới những người truyền giáo, những người mến Chúa. Những người ấy cũng phải nhả tơ, cũng phải đan lưới thiêng liêng, tơ tình thương, lưới tình thương. Tuy nó mong manh, tuy nó vô hình, nhưng trong tay Chúa nhân lành và với sức mạnh của trái tim Chúa, những cái lưới tình thương mong manh ấy sẽ kéo được rất nhiều linh hồn về với Chúa.
Tôi cầu nguyện xin Chúa Thánh Linh hôm nay ban cho chúng ta hết thảy, nhất là trong trái tim các con em chúng ta, tình thương biết mến Chúa, biết yêu người, để suốt đời, ở khắp nơi, chúng ta biết nhả tơ thiêng tình thương, chúng ta biết đan lưới tình thương, giúp cho những người xung quanh, giúp cho những người xa Chúa biết qui tụ bên Chúa, trong con đường nhân đức.
Lạy Chúa.
Con yêu mến Chúa. Amen.
Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Du Đức kênh 8b, ngày 23-07-1991.
Trong bài Phúc Âm hôm nay có lời Chúa phán rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, và cứu chữa những cơn sầu muộn trong tâm hồn người ta”.
Khi tôi suy gẫm những lời trên đây của Chúa, tôi thấy rằng có lúc tôi được sai đi để đem Tin Mừng đến cho người khác, và có lúc tôi là kẻ đón nhận Tin Mừng mà những người khác đem lại cho tôi.
Những người đem Tin Mừng lại cho tôi là ai? Thưa họ thuộc rất nhiều loại người. Đối với tôi, phần đông họ là những kẻ bé mọn nghèo khó. Tôi thấy họ mang lại cho tôi Tin Mừng khi tôi thấy họ, hoặc họ đang sống ơn Chúa, hoặc họ đang khao khát ơn Chúa, hoặc họ đang giúp người khác đón nhận ơn Chúa.
Với những suy nghĩ trên đây, hôm nay tôi gặp gỡ anh chị em. Khi tôi nhìn anh chị em, tôi đã tự hỏi mình rằng: Giáo dân họ đạo Bò Ót đây nói chung và những người hiện diện trong thánh lễ này nói riêng, có phải là những người đang đem lại cho tôi Tin Mừng không?
Tôi tự hỏi như vậy, rồi tôi xem xét, và tôi có thể trả lời cho mình rằng: Đúng là anh chị em đang mang lại cho tôi Tin Mừng. Bởi vì trong anh chị em, có nhiều người đang sống ơn Chúa, có nhiều người đang khát khao ơn Chúa, và có nhiều người đang cố gắng giúp người khác đón nhận ơn Chúa.
Sự thật trên đây khiến tôi lạc quan về anh chị em và khiến tôi tạ ơn Thiên Chúa. Và như thế tôi biết rằng, trước khi tôi tới đây, thì Chúa Thánh Thần đã ở trong anh chị em, và đã hoạt động trong anh chị em. Tuy nhiên, tôi được sai đến với anh chị em, để qua trung gian tôi, Chúa Thánh Thần lại thêm ơn cho anh chị em, ơn mà hôm nay tôi cầu xin nhiều nhất, để Chúa Thánh Thần ban đặc biệt cho anh chị em và cho chính tôi là ơn HIỂU BIẾT.
Thứ nhất là hiểu biết cái gì là chính, cái gì là phụ trong đời sống đạo. Để cái gì chính chúng ta tập trung vào và cố gắng thực hiện đến nơi đến chốn.
Thứ hai là hiểu biết cái gì là phải, cái gì là trái, nhất là trong đời sống gia đình và trong đời sống xã hội. Bởi vì hiện nay tôi thấy, có nhiều cái trái, lại được coi là phải, và có nhiều điều phải lại được coi là trái.
Thứ ba là hiểu biết cái gì là thiệt, cái gì là giả. Bởi vì anh chị em cũng như tôi thấy hiện nay xuất hiện rất nhiều cái giả. Giả ở đồ hàng, giả ở lời nói. Trong đạo đức cũng có nhiều cái đạo đức giả.
Thứ bốn là hiểu biết cái gì cần làm trước, cái gì nên làm sau. Bởi vì trong một hoàn cảnh có nhiều giới hạn, không thể làm tất cả được, thì cái gì cần làm trước, cái gì nên làm sau là hiểu biết rất cần.
Trong tình hình đang mở ra thì 4 thứ hiểu biết trên đây rất cần cho chúng ta, nhất là rất cần cho giới trẻ để biết sống đạo. Thiếu những hiểu biết ấy, tôi sợ rằng, chúng ta, nhất là con em chúng ta, sẽ rơi vào hoàn cảnh thiếu khôn ngoan, đi tới lầm lạc, suy thoái và hư hỏng.
Nói tới đây, tôi nhớ tới thánh Gioan Vianney mà Hội Thánh mừng kính ngày mồng 4 tháng 8 hàng năm, tức là ngày lễ hôm nay.
Cha Vianney là cha sở họ Ars, miền nam nước Pháp. Khi đến nhận họ Ars thì tình hình tôn giáo họ đạo này rất là thê thảm. Lịch sử ghi lại rằng: Họ đạo thì không đông lắm. Nhà thờ thì cũng nhỏ thôi. Nhưng ngày Chúa Nhật, nhà thờ vẫn vắng. Trái lại, những quán ăn, những điểm giải trí thì đầy những người. Giáo dân của Ngài bỏ cầu nguyện, bỏ đi lễ, bỏ học giáo lý. Trước tình hình bê bối đó, cha Vianney đã nói: “Bệnh tình họ đạo của tôi rất là nặng. Muốn trị bệnh này cần phải có thuốc mạnh, thuốc tốt”. Và những thứ thuốc mà Ngài cho là mạnh, cho là tốt, đó là cầu nguyện, hãm mình, làm việc bác ái.
Cha Vianney và một số người thiện chí trong họ đạo cầu nguyện hằng ngày, nhất là chầu Mình Thánh Chúa, ăn chay hãm mình, và thường xuyên đi thăm viếng những bệnh nhân, những người già, những người nghèo túng, những người bỏ đạo.
Riêng cha Vianney thì sống một đời khổ hạnh, rất là nghiêm khắc. Thế rồi dần dần, sự sống đạo của họ đạo Ars đã dần dần hồi tỉnh lại. Sau một số năm, những người trong họ đạo đã dần dần trở nên sốt sắng, và những xứ chung quanh cũng bắt chước phục hồi.
Tôi được may mắn đến thăm viếng nhà thờ và nhà xứ Ars 2 lần. Tại đây, tôi còn thấy người ta trưng bày những kỷ vật mà cha Vianney gọi là thuốc thần để trị bệnh thiêng liêng, đó là cái bàn quỳ mà Ngài đã quỳ cầu nguyện nhiều giờ, suốt đêm, nhiều đêm. Đó là cái tòa giải tội mà Ngài đã ngồi nhiều giờ, đó là cái bàn, cái ghế và những cuốn tập mà Ngài đã dùng để soạn bài giảng, bài giáo lý một cách cẩn thận. Và đó là cái giường, quần áo, soong chảo, bát đĩa mà Ngài đã dùng để hãm mình, khổ chế.
Khi nhìn những kỷ vật trên đây, tôi thấy rằng thánh Vianney và giáo dân của Ngài đã có những hiểu biết sâu sắc để biết cái gì cần phải làm cho việc phục hưng đạo đức xứ đạo của mình. Hiện nay, tôi thấy Hội Thánh Việt Nam nói chung và các họ đạo của chúng ta nói riêng, rất cần có những hiểu biết như vậy. Và những hiểu biết này không có tính cách lý thuyết để nhớ suông, để mà trả bài, nhưng là những hiểu biết vững về thực hành, hướng về những việc làm cụ thể. Tôi xin nói lại, trong một tình hình càng mở ra với bao trào lưu thoái hóa, với những cơn cám dỗ ngọt ngào, chúng ta cần phải có những hiểu biết đúng đắn soi sáng cho đời sống đạo chúng ta, và giúp cho tình hình đạo đức không những được vững mà còn được phát triển một cách tốt đẹp.
Xin Chúa Thánh Thần hôm nay ban ơn thêm sức cho chúng ta, để những hiểu biết hôm nay của chúng ta mà Ngài soi sáng không trở thành vô ích.
Lạy Chúa,
Xin thương xót chúng con. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Bò Ót, ngày 04-08-1991 Lễ thánh Maria Vianney.
Trong bài Phúc Âm hôm nay có lời Chúa phán rằng: “Nước Thiên Chúa là của những kẻ giống như trẻ nhỏ. Thầy bảo thực với các con, nếu các con không giống như trẻ nhỏ thì không đáng nhận được Nước Trời”.
Khi tôi nghe những lời Chúa phán trên đây, tôi cho đó là một Tin Mừng cho tôi và cho anh chị em. Bởi vì theo lời Chúa phán trên đây thì Nước Thiên Chúa là một ân huệ Chúa ban tặng. Chúng ta chỉ biết đón nhận. Đây không phải là một phần thưởng chúng ta có quyền đòi hỏi do công phúc của chúng ta.
Ân huệ Nước Trời sẽ ban cho chúng ta với điều kiện nào?
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa nêu rõ điều kiện ấy, đó là hãy giống như trẻ nhỏ. Thái độ giống như trẻ nhỏ mà Chúa nói ở đây là thái độ đơn sơ với 2 yếu tố này:
Một là nhận biết mình bé mọn, hèn yếu, bất xứng, khó nghèo.
Hai là đặt lòng tin tưởng, cậy trông, phó thác nơi tình yêu Cha trên trời giàu lòng thương xót.
Chúng ta bé mọn, chúng ta yếu hèn. Chúng ta bất xứng. Chúng ta khó nghèo thiêng liêng. Đó là một sự thật chúng ta vẫn mang trong mình. Sự thật ấy nằm trong chính bản chất của mỗi người chúng ta. Nhưng rủi là chúng ta không nhận thấy sự thật đó một cách chân thành, một cách đầy đủ, một cách trung thực. Chỉ khi nào chúng ta cảm nghiệm được sự bất xứng khó nghèo tồi tàn của chúng ta như một vực thẳm tăm tối, không thể nào vượt qua được, để rồi chỉ còn biết cậy trông vào lòng thương xót Chúa, thì bấy giờ Chúa sẽ đến với ta, và ta sẽ nhận được ơn Chúa.
Thánh Gioan Vianney, cha sở họ Ars, có một lần đã cầu xin Thiên Chúa ban cho mình được nhìn rõ thân phận yếu đuối của mình. Chúa đã nhậm lời. Và cha đã kể lại rằng: Trong chốc lát, nhờ ơn soi sáng của Chúa, tôi nhìn thấy bản thân tôi rất yếu đuối, rất tàn tệ, rất bất xứng. Đến nỗi, lúc đó, nếu không có ơn Chúa nâng đỡ cách riêng, tôi đã thất vọng hoàn toàn.
Còn thánh Têrêxa Hài Đồng có lần đã nói với các chị em mình: “Các chị đừng tưởng Têrêxa bé nhỏ này luôn luôn bước trên con đường nhân đức một cách hăng say. Không phải thế đâu, Têrêxa này rất yếu đuối! Nhưng Chúa Giêsu dạy em rằng: Hãy như thánh Phaolô tông đồ: “Nếu khoe mình thì chỉ khoe về những yếu đuối của mình”.
Những người thánh thiện như thánh Vianney, như thánh Têrêxa mà còn khám phá thấy rằng: Sự yếu hèn bất xứng của mình thực sự còn thê thảm, nặng nề hơn là mình vốn tưởng. Phương chi chúng ta!
Vì thế, nếu chúng ta có lần nào khám phá được sự bất toàn, nghèo khó, đê hèn của mình, để rồi cậy trông vào Chúa hết lòng, hết sức thì đó là một điều rất tốt. Chúa chỉ chờ thái độ đơn sơ của trẻ nhỏ như vậy để Chúa đến với ta, và để ta có thể đón nhận được ơn Chúa.
Đến đây, tôi nghĩ tới Đức Mẹ. Đức Mẹ đã có một thái độ đơn sơ của trẻ nhỏ, vì thế Đức Mẹ đã đón nhận được Đức Kitô. Thái độ phó thác của Đức Mẹ nhận thấy trong lời phó thác XIN VÂNG. Và tâm tình khiêm tốn của Đức Mẹ được nhận ra trong lời kinh Cảm Tạ (Magnificat): “Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tôi tớ Người”.
Thái độ đơn sơ khiêm nhường phó thác của Đức Mẹ đã tiếp tục kéo dài nhiều năm, và Đức Mẹ đã được phúc thiên đàng. Đức Mẹ đón nhận phúc thiên đàng trên trời cũng trong thái độ đơn sơ khiêm nhường phó thác. Đúng là Đức Mẹ đã hiểu những lời Kinh Thánh. Chúa phán: “Ta chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho kẻ khiêm nhường”. Rồi Chúa lại nói: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Cũng như có lần Chúa phán: “Kìa, kẻ đau khổ cầu cứu và Chúa đã cứu họ khỏi mọi điều tai họa”.
Tất cả những lời Chúa trên đây đều nói lên sự này: Hãy khiêm nhường và hãy cậy tin, phó thác, rồi Chúa sẽ cứu họ khỏi mọi điều tai họa, rồi Chúa sẽ đến ban sự bình an.
Anh chị em thân mến,
Trong lễ Thêm Sức hôm nay, trùng vào những ngày chuẩn bị mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tôi cầu xin cho tôi, cho anh chị em được ơn đổi mới.
Hồi nãy, ca đoàn hát: “Xin Chúa Thánh Thần canh tân bộ mặt trái đất”, và tôi thêm trong lòng: Xin đổi mới chúng con. Ơn đổi mới mà tôi muốn nói ở đây là ơn Chúa ban cho chúng ta biết mình nghèo hèn, bất xứng, yếu đuối, tội lỗi thế này, để rồi chúng ta biết phó thác tuyệt đối nơi tình xót thương Thiên Chúa. Tôi vẫn nghĩ rằng: Có những điều ta không làm được, nhưng Chúa sẽ làm cho chúng ta. Đức Mẹ là một chứng nhân. Thiên Thần đã nói với Đức Mẹ: “Đối với Chúa, không có gì là không thể làm được”. Tôi vẫn tin như vậy, nhưng Chúa bảo tôi: Chúa sẽ làm tất cả cho con, nếu con biết khiêm nhường, nếu con biết phó thác.
Chớ gì hôm nay, Chúa Thánh Thần đến trong lòng ta, đổi mới tâm hồn ta bằng mắt thiêng liêng khôn ngoan của linh hồn, cho chúng ta thấy ơn đổi mới trong sự làm cho chúng ta khiêm tốn hơn, phó thác hơn.
Hôm nay, cộng đoàn tu sĩ Thánh Gia mừng kỷ niệm 60 năm thành lập dòng, và 50 năm khấn dòng của sư huynh Jean. Sự hiện diện đông đảo của các linh mục tu sĩ giáo dân ở đây lúc này, là để chia sẻ niềm vui và hy vọng của nhà dòng.
Cùng với niềm vui và hy vọng chung đó, tôi muốn được chia sẻ thêm đôi chút riêng tư của tôi. Cái riêng tư này chính là cái nhìn của tôi, trong những dịp mừng kỷ niệm chịu chức, khấn dòng, thành lập cộng đoàn đức tin.
Thưa anh chị em, đứng trong một ngày kỷ niệm như hôm nay. Tôi thường nhìn lại quãng đời quá khứ, mà đối tượng của lễ kỷ niệm đã đi qua. Quá khứ của một người tu, của một dòng tu là một chặng đường dài. Khi nhìn lại quãng đường dài đó, tôi để ý đến những con số và những cơ sở bề ngoài. Nhưng điều mà tôi quan tâm nhiều hơn, chính là thanh luyện của họ và những gì đã nảy nở ra do sự thanh luyện đó.
Người tu, dòng tu ví như một cây. Cây khởi sự từ hạt giống. Từ khi còn là hạt giống cho đến lúc trở thành cây, người tu, dòng tu phải được thanh luyện rất nhiều. Thanh luyện là luật của mọi tiến bộ nói chung và của sự đi theo Chúa nói riêng. Chúa phán: “Ai muốn theo Cha, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Cha”. Theo ý nghĩa lời Chúa trên đây, thanh luyện người tu, dòng tu là tẩy rửa, mài cọ bản thân mình bằng mầu nhiệm thánh giá, để cái tôi của mình sạch bớt những ích kỷ tội lỗi, hầu có thể lọt qua cửa hẹp dẫn vào Nước Trời. Sự thanh luyện là thường xuyên, có thể cảm nghiệm được. Người được thanh luyện cảm thấy trong trái tim mình như có cái gì bị cắt đi, bị hủy diệt đi. Và họ hiểu lời Chúa: Hạt giống có thối đi thì mới nảy sinh thành cây được. Kinh nghiệm cũng cho thấy, khi đã thành cây, dù ở tuổi nào, người tu, dòng tu, vẫn không ngừng phải sẵn sàng chịu thanh luyện thêm mãi. Giống như cây không ngừng phải để những lá già rụng xuống, cho những lá non mọc ra, và cũng phải để cho lớp vỏ cũ chịu lột ra, nhường chỗ cho lớp vỏ tươi xanh thay thế.
Như vậy, thanh luyện là để nảy nở. ở điểm này, tôi thấy có người chịu thanh luyện nhiều mà ít nảy nở được gì tốt. Trái lại, có người chịu thanh luyện ít, mà lại nảy nở được nhiều cái tốt. Cái nảy nở tốt đẹp nhất, theo tôi, là sự sống Đức Kitô được lớn mạnh hơn trong họ. Họ có những hiểu biết giống Chúa Giêsu hơn. Họ có những thao thức, những phản ứng, những tâm tình giống Chúa Giêsu hơn. Những cái nảy nở ấy đổi mới con người họ, từ trí khôn, trái tim, đến nhân phẩm nhân cách. Tuy dù sự đổi mới ấy đôi khi chỉ là sự biết sống khiêm nhường hơn, phó thác hơn, nó vẫn thường xuyên tạo ra bầu khí nội tâm khác trước. Bầu khí đó có một cái gì thiêng liêng, siêu thoát, như dấu chỉ một trời mới, đất mới, loan báo Nước Trời. Thưa anh chị em,
Trên đây là sơ lược cái nhìn của tôi về một người tu, một dòng tu, khi họ mừng các kỷ niệm của họ, đó là cái nhìn về những kỷ niệm thiêng liêng trên đường tu. Hôm nay, tôi cũng đang nhìn dòng Thánh Gia nói chung, và cựu bề trên Jean nói riêng bằng cái nhìn đó. Quá khứ dòng Thánh Gia đúng là chặng đường thanh luyện, và từ thanh luyện ấy đã nảy sinh ra nhiều cái tốt. Trong những cái tốt ấy, có những cái là nét chung của mọi người ta, và có những cái là nét riêng của dòng Thánh Gia.
Tôi thiết nghĩ rằng: dòng Thánh Gia, nếu biết phát triển những cái tốt của mình, sẽ giúp được rất nhiều cho việc truyền giáo trong thời gian đang tới. Thời gian đang tới có hai dấu chỉ đáng được quan tâm:
Một là việc rao giảng lời Chúa sẽ trở nên quan trọng hơn việc làm các bí tích. Đây chỉ là sự trở về cách truyền giáo thời các tông đồ và Hội Thánh sơ khai.
Hai là việc rao giảng lời Chúa sẽ gây nhiều kết quả tốt, khi được hổ trợ bởi môi trường gương sáng của những cộng đoàn nhỏ sốt sắng cầu nguyện và sống bác ái đơn sơ chân thành. Đây cũng là sự trở về đường lối truyền giáo thời các tông đồ và Hội Thánh sơ khai.
Cả hai điều trên đây đều thích hợp với dòng Thánh Gia, một tổ chức được xây dựng bởi động lực muốn rao giảng lời Chúa qua việc dạy giáo lý và đời sống bác ái của cộng đoàn nhỏ như Thánh Gia xưa.
Hôm nay, tôi tạ ơn Chúa vì quãng đường cộng đoàn Thánh Gia đã đi qua. Tôi cũng tạ ơn Chúa vì những hướng dẫn dành cho cộng đoàn trong quãng đời đang tới. Tâm tình tạ ơn của chúng ta quá bất xứng, nên ta sẽ cùng Đức Mẹ mà tạ ơn. Vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn của Đức Mẹ và của chúng ta.
Chúng ta chẳng có gì, chẳng là gì, chỉ biết cùng với Đức Mẹ nhìn lên Chúa mà vui mừng và hy vọng.
Bài giảng thánh lễ mừng 60 năm thành lập dòng Thánh Gia và 50 năm khấn dòng của thầy Jean tại nhà dòng Thánh Gia Cần Say, Long Xuyên ngày 15-08-1991
Đọc Phúc Âm, tôi thấy có nhiều người rất bén nhạy với các vấn đề tôn giáo, hễ có chút gì xảy ra liên quan đến tôn giáo, là họ nắm bắt được ngay. Người thì bén nhạy với vấn đề này, người thì bén nhạy với vấn đề kia. Có nhiều thứ bén nhạy khác nhau, nên giá trị của mỗi thứ bén nhạy ấy cũng khác nhau. Thí dụ với Pharisêu nổi tiếng rất bén nhạy trước vấn đề giữ được hình thức như kiêng việc ngày Sabbat, rửa tay trước khi ăn cơm, nạp thuế cho nhà thờ. Hễ ai sơ suất chút gì về việc giữ những luật đó thì họ lên án ngay.
Giới Pharisêu cũng rất nổi tiếng về các bén nhạy của họ trước những cái may mắn của người khác. Họ thấy Chúa Giêsu được người ta kính trọng, họ gặp thấy những bệnh nhân được Chúa chữa khỏi, không những họ không mừng mà họ còn buồn bực. Cách nhạy bén của Pharisêu, mặc dầu mang hình thức tôn giáo, nhưng đúng là một sự nhạy bén hẹp hòi, ích kỷ, cũng may là trong tôn giáo lúc ấy cũng có một sự nhạy bén khác. Tôi muốn nói đến sự bén nhạy nơi Đức Mẹ Maria, mà Phúc Âm hôm nay đã kể lại khi vừa nhận được tin bà Isave đã già mà được chịu thai, Đức Mẹ rất bén nhạy với tin mừng đó, đã lên đường đi viếng bà Isave, ở tại nhà bà ấy ba tháng để giúp đỡ.
Hơn nữa, tuy Đức Mẹ lúc ấy chỉ là một phụ nữ rất trẻ, nhưng rất bén nhạy với hạnh phúc của dân tộc mình. Trong Phúc Âm hôm nay, ta nghe Đức Mẹ nói: “Chúa chăm sóc Israel, tôi tớ Chúa. Bởi nhớ lại lòng thương xót Người, như Chúa đã hứa với tổ phụ chúng tôi Abraham và dòng dõi Người cho đến muôn đời”. Một người phụ nữ trẻ mà đã bén nhạy đến dân tộc mình, từ tổ phụ cho đến tương lai sau này của dân tộc mình. Đúng là một người rất bén nhạy đến hạnh phúc người khác.
Hơn nữa, Đức Mẹ còn rất bén nhạy với hạnh phúc tất cả những người thuộc về Nước Trời. Trong bài Phúc Âm chúng ta nghe Mẹ nói: “Lòng thương xót Chúa trải qua từ đời nọ đến đời kia, dành cho những ai kính sợ Chúa”.
Đến đây, chúng ta lại thấy: Đang khi người Pharisêu bén nhạy trước những vấn đề lặt vặt, hẹp hòi, hình thức, thì Đức Mẹ lại rất bén nhạy với những vấn đề cao hơn, rộng hơn, đó là những hạnh phúc của đồng bào mình, đó là mở mang Nước Trời, đó là sự chia sẻ hạnh phúc với những người thân. Rồi đang khi cách bén nhạy của người Pharisêu làm bực bội trước may mắn của người khác, thì Đức Mẹ lại tỏ ra vui mừng khi thấy dân mình, Nước Trời, bạn bè mình được hạnh phúc.
Như vậy, chúng ta thấy, có những cách bén nhạy tôn giáo khác nhau, tuy mang hình thức tôn giáo, nhưng có thứ bén nhạy tốt có thứ bén nhạy xấu. Lý do tốt là vì bén nhạy ấy mang tinh thần liên đới, có tinh thần trách nhiệm bác ái. Còn thứ bén nhạy xấu, lý do là không có tinh thần liên đới, thiếu tinh thần trách nhiệm bác ái đối với người khác. Điều mà tôi thiết nghĩ phải nhắc lại ở đây, chính là hậu quả sau cùng của cái tốt ấy, của cái xấu ấy.
Hậu quả tốt xấu của sự bén nhạy tôn giáo sẽ thấy trước tòa phán xét. Phúc Âm cho thấy: Chúa Giêsu sẽ căn cứ vào tiêu chuẩn tinh thần liên đới, tinh thần trách nhiệm bác ái mà thưởng, mà phạt. Ai có tinh thần liên đới, tinh thần trách nhiệm bác ái giống như người Samaria năm xưa, đã bén nhạy trước nạn nhân bị cướp đánh, kẻ ấy sẽ được Chúa xếp vào loại tốt, được lên thiên đàng. Còn những ai thiếu tinh thần liên đới, thiếu tinh thần trách nhiệm bác ái giống như người phú hộ trước cảnh đau khổ của người bần cùng ăn mày Lagiarô, kẻ ấy sẽ bị Chúa kết án là xấu, phải sa hỏa ngục. Kẻ nào có tinh thần liên đới, có tinh thần trách nhiệm bác ái, cho kẻ khó ăn, cho kẻ rách mặc, cho kẻ bần cùng được an ủi, thì Chúa xếp vào bên hữu Chúa, được lên thiên đàng. Còn trái lại, kẻ không bén nhạy trước cảnh đau khổ của người khác, vì không có tinh thần liên đới, không có tinh thần trách nhiệm bác ái, kẻ đó bị xếp bên tả phải xuống hỏa ngục. Tôi nghĩ rằng, một trong những lý do đã làm cho Đức Mẹ đáng được Chúa cho hồn xác lên trời, cũng là ở tại Đức Mẹ có tinh thần liên đới, trách nhiệm bác ái bén nhạy với hạnh phúc người khác, của Nước Trời.
Đến đây, tôi muốn nhìn vào chính bản thân mình, muốn nhìn vào họ đạo chúng ta, muốn nhìn vào Hội Thánh Việt Nam chúng ta. Nếu hôm nay Chúa đi tìm những người có tinh thần giống như Pharisêu, cũng rất bén nhạy với một số vấn đề, nhưng cách hẹp hòi, tôi nghĩ Chúa sẽ tìm thấy một cách dễ dàng. Và nếu hôm nay Chúa muốn tìm người có tinh thần bén nhạy như Đức Mẹ, cởi mở, nắm bắt được hạnh phúc của người khác, thao thức với hạnh phúc của dân tộc, của Nước Trời, tôi nghĩ Chúa sẽ tìm thấy một cách dẽ dàng. Có nghĩa là tinh hình tôn giáo của chúng ta vừa có khả năng tốt, mà vừa có khả năng xấu. ở đây, cái gì là xấu chúng ta cố gắng khắc phục và bớt dần đi. Cái gì là tốt chúng ta hãy phát triển thêm.
Có điều này tôi muốn nhấn mạnh ở đây, là trong thời đại bây giờ, trong đạo, ngoài đời, tiêu chuẩn mà người ta căn cứ vào để đánh giá trình độ đạo đức, chính là tinh thần liên đới, tinh thần trách nhiệm bác ái. Vì thế. tôi mong rằng,trong những lớp dạy giáo lý, trong cách giáo dục con em, chúng ta nhấn mạnh hơn đến tinh thần liên đới, đến tinh thần trách nhiệm bác ái. Bộ mặt họ đạo chúng ta, bộ mặt của gia đình chúng ta, và bộ mặt riêng của chúng ta sẽ đẹp hay xấu về mặt tôn giáo là tùy ở sự chúng ta có tinh thần liên đới hay không, có sống với tinh thần trách nhiệm bác ái hay không.
Hôm nay làm lễ Thêm Sức, tôi xin Chúa Thánh Thần đổi mới chúng ta, đổi mới bằng cách giúp cho chúng ta nhận định thật rõ cái gì là đạo đức thật trong tôn giáo, cái gì là cái Chúa sẽ căn cứ vào để đánh giá chúng ta, cái gì là cái sẽ giúp cho chúng ta bắt chước Đức Mẹ để về trời.
Xin Chúa Thánh Thần thương ngự đến tâm hồn chúng ta bằng những ơn hiểu biết, bằng những ơn đổi mới. Amen.
Khi tôi vào một nhà thờ mà thấy có trưng bày nhiều ảnh tượng Đức Mẹ ở những chỗ khác nhau, xa nhau, thì tôi thường đến viếng từng ảnh một, từng tượng một và dừng lại cầu nguyện đôi phút. Nhưng nếu không có thời giờ, thì tôi chỉ lướt qua, rồi tôi nhìn vào Đức Mẹ trong lòng tôi để cầu nguyện.
Đức Mẹ trong lòng tôi là Đức Mẹ âm thầm, Đức Mẹ suy niệm, Đức Mẹ mà Phúc Âm hôm nay đã tả rằng: “Người ghi nhớ tất cả các sự việc xảy ra và suy niệm trong lòng”. Lời Phúc Âm nói hôm nay về Đức Mẹ đã vẽ nên nét tiêu biểu của tâm hồn Đức Mẹ. Nét đó là sự suy niệm.
Thực vậy, từ Đức Mẹ còn là một cô gái, được Thiên Thần truyền tin sẽ làm Mẹ Chúa Cứu Thế cho đến hang đá Bêlem, thời gian là chín tháng. Trong thời gian ấy, Đức Mẹ đã được biết bao nhiêu sự lạ lùng: Sự lạ lùng về bào thai trong lòng mình, sự lạ lùng về bào thai trong lòng bà Isave. Nhưng Đức Mẹ đã không phô trương những việc ấy. Đức Mẹ đã âm thầm suy niệm.
Rồi từ hang đá Bêlem cho đến đồi Canvariô, thời gian là hơn 30 năm, Đức Mẹ đã tham gia vào biết bao nhiêu chuyện vui buồn, vinh nhục của Chúa Kitô con Mẹ. Nhưng khi vui Đức Mẹ không khoe khoang. Khi buồn Đức Mẹ cũng chẳng than trách. Người chỉ âm thầm suy niệm.
Rồi từ khi Đức Chúa Giêsu sống lại cho đến Chúa Thánh Thần hiện xuống, cho đến ngày Đức Mẹ qua đời, thời gian cũng dài mấy chục năm. Trong thời gian ấy, Đức Mẹ đã nghe, đã thấy, đã chia sẻ biết bao nhiêu thăng trầm của các tông đồ, của Hội Thánh sơ khai, nhưng Đức Mẹ vẫn giữ thái độ âm thầm của con người suy niệm.
Rồi từ khi Đức Mẹ lên trời cho đến ngày 1.11.1950 là ngày Đức thánh cha Piô 12 tuyên bố tín điều: “Đức Mẹ Hồn Xác lên trời”. Thời gian dài gần 19 thế kỷ, Đức Mẹ vẫn như kẻ âm thầm suy niệm, không muốn vội nói lên đặc ân Chúa đã dành cho mình được lên trời hồn xác. Đức Mẹ suy niệm là, Đức Mẹ suy ngắm, đào sâu những chân lý mà Thiên Chúa đã tỏ ra cho Đức Mẹ. Đức Mẹ suy niệm là Đức Mẹ để cho mình hòa tan vào tình thương mà Chúa đã dành cho Đức Mẹ.
Với tinh thần tạ ơn phó thác trong suy niệm, thái độ phó thác được Đức Mẹ diễn tả lại trong lời xin vâng ngày truyền tin, thái độ tạ ơn đã được diễn tả trong kinh Magnificat ngày đi viếng bà Isave. Và thái độ nhận biết ơn Chúa và các sự lạ lùng Chúa đã làm, đều đã được diễn tả trong kinh tạ ơn Thiên Chúa. Những thái độ này: Phó thác, tạ ơn trong sự hiểu biết sâu xa, ví như là đôi cánh thiêng liêng đã giúp cho Đức Mẹ bay qua thung lũng đầy nước mắt là cuộc sống gian truân, khổ ải ở thế gian này, để đi tìm Chúa, và Chúa đã đón Đức Mẹ về trời.
Anh chị em thân mến,
Khi tôi nhớ rằng, nhà thờ này của anh chị em đã nhận Đức Mẹ Hồn Xác lên trời làm quan thầy, thì tôi đã cầu nguyện với Chúa một điều, một điều mà thôi: Tôi xin Chúa đừng để ai trong họ đạo này sẽ phải vắng mặt ở trên trời. Tôi tin là Chúa sẽ nhậm lời tôi, miễn là mỗi người anh chị em hãy cố gắng sống giống Đức Mẹ hơn. Họ đạo anh chị em có nhiều người, với nhiều tính tình khác nhau, nhưng tôi biết là tất cả anh chị em ai cũng phó thác trong tay Đức Mẹ, ai cũng có tinh thần tạ ơn đối với Chúa.
Nhưng tôi cảm thấy cần phải thêm một chút nữa, đó là sự suy niệm trong lòng. Khi tôi khuyên anh chị em suy niệm trong lòng thì tôi chỉ muốn anh chị em để ý thực hiện hai điều dễ này thôi:
Một là khi nghe bài sách thánh, khi đọc một kinh, khi hát một bài ca, thì đừng đọc, đừng nghe, đừng hát cho qua đi, mà hãy theo dõi lời, nhất là ý của những bài mình nghe, mình đọc.
Chẳng hạn, như lúc này trong thánh lễ, nếu anh chị em chịu khó suy niệm những điều tôi đang nói với anh chị em và chịu khó suy niệm những điều Kinh Thánh nhắn gởi mình, thì chính những chân lý đó sẽ đổi mới được tận đáy lòng của mình. Không phải là lễ nghi, không phải là bông hoa, không phải là kinh kệ bề ngoài sẽ đổi mới được chúng ta.
Hồi nãy, trong đáp ca, anh chị em hát: “Xin Chúa Thánh Thần đổi mới” nhưng tôi vẫn nghĩ rằng, phải có tinh thần suy niệm thì mới đổi mới được thâm tâm lòng ta, và mới đổi mới được não trạng trí khôn của ta, bằng không, không đổi mới được.
Điều thứ hai: Tôi muốn khuyên anh chị em là mỗi ngày ít ra, trước khi dâng lễ, trước khi chịu lễ và trong khi đi ngủ, ta nên cầm trí lại, nhớ Chúa trước mặt, nhận ra những điều Chúa đã làm cho mình trong ngày đó và những lỗi lầm của mình đã phạm đối với Chúa trong ngày đó, để biết khiêm nhường, để biết tạ ơn, để biết phó thác.
Hai việc trên đây tôi nhắn nhủ anh chị em, đều là những việc đơn sơ, ai cũng làm được. Và nếu làm được hai điều này, thì chắc chắn chúng ta sẽ dần dần đổi mới được con người chúng ta, và dần dần đổi mới được đất nước chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần hôm nay ban ơn thêm sức cho chúng ta nhất là ban cho chúng ta được phần nào nên giống tâm hồn Đức Mẹ ở điểm biết suy niệm trong lòng về những chân lý của Chúa, nhất là về tình thương của Chúa đã dành cho Đức Mẹ.
Lạy Chúa xin hãy đến đổi mới tâm hồn chúng con. Amen.
Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, tại Vàm Cống (Mỹ Thạnh) ngày 16-08-1991.
Hôm nay tới đây, tôi thấy giáo xứ Bình Châu có một số công trình mới: Cung thánh mới và Đức Mẹ mới.
Khi nhìn thấy những công trình mới đẹp này, tôi đã tự hỏi: Còn con người Bình Châu ra sau ? Có mới đẹp không? Tất nhiên tôi muốn hỏi về cái mới này là tinh thần hơn thể xác. Thú thiệt là câu hỏi tôi tự đặt ra cho tôi, đã làm tôi lúng túng. Tôi đã hỏi Chúa và Chúa đã trả lời cách gián tiếp bằng cách đưa trí khôn tôi nhớ lại ý nghĩa, nội dung bài Phúc Âm hôm nay.
Bài Phúc Âm hôm nay nêu rõ nét hài hòa của công việc Chúa Cứu Thế. Các công việc của Chúa Giêsu đã làm cho con người thì rất nhiều: Ngài lo giải cứu con người khỏi cảnh túng nghèo, bệnh tật, Ngài lo giải thoát trí khôn con người khỏi cảnh dốt nát lầm lạc, Ngài lo giải thoát trái tim con Người khỏi tội lỗi và ách thống trị vô hình. Đúng là Chúa Giêsu thăng tiến con người toàn diện.
Có một sự hài hòa trong các việc của Chúa Cứu Thế. Sự hài hòa ấy, tôi thấy hôm nay phần nào trong xứ đạo anh chị em: Tôi thấy anh chị em siêng năng lo việc đạo đức, nhiệt thành với thánh đường, nhưng đồng thời anh chị em cũng biết đẩy mạnh việc học vấn, trao đổi trí thức cho lớp trẻ và tích cực với nhà trường. Đồng thời tôi cũng thấy anh chị em lo xây dựng kinh tế gia đình, xây dựng môi trường xã hội. Đúng là có một sự hài hòa nào đó trong những cố gắng xây dựng và phát triển của anh chị em.
Trong cố gắng xây dựng về mặt thể chất, trong cố gắng xây dựng và phát triển về mặt tinh thần, trong cố gắng phát triển về mặt nhân đức, và trong cố gắng xây dựng và cố gắng phát triển về mặt gia đình và xã hội, tôi thấy kết quả chưa được nhiều lắm, nhưng những kết quả đạt được cũng là những cái mới đẹp, đáng kể, đáng mừng. Kinh nghiệm cho thấy rằng: Giữ được cái hài hòa trong xây dựng và phát triển con người toàn diện là việc không dễ, bởi vì hiện nay, như anh chị em đã biết, đâu đâu cũng lo phát triển kinh tế, nhưng nhiều nơi lơ là với vấn đề phát triển trí thức, học vấn, cũng có nhiều người dửng dưng luôn với vấn đề phát triển trí thức. Kết quả là buồn thảm, bởi vì kinh tế không có học thức, nhất là học thức chuyên môn thì không tiến được, hoặc nếu có tiến thì tiến chậm, và kinh tế thiếu đạo đức sẽ tự hủy, mình hủy mình, rồi đi hủy người khác.
Cái thực trạng ở nhiều nơi cho phép tôi nghĩ rằng: Cái khủng hoảng kinh tế hiện nay có tiền đề của nó. Cái tiền đề khủng hoảng kinh tế hiện nay là khủng hoảng về học vấn, khủng hoảng về đạo đức. Sự kiện này làm cho tôi rất lo lắng về tương lai đất nước Việt Nam.
Trong mấy tháng vừa qua, tôi đi Thêm Sức nhiều nơi, và nhiều nơi đã cho tôi biết rằng, trong các lớp giáo lý Rước Lễ Lần Đầu, có nhiều em chưa biết đọc, biết viết. Trong các lớp giáo lý Thêm Sức, có nhiều em đã từ bỏ nhà trường từ lâu. Tối hôm qua, đài truyền hình Cần Thơ cũng cho biết: Trong số thanh niên nhập ngũ đợt này, có nhiều thanh niên chưa biết đọc, chưa biết viết, tình trạng học vấn đang xuống dốc nhiều nơi.
Còn tình trạng đạo đức thì sao? Anh chị em cũng đã biết nhiều. Nhưng cũng mấy ngày hôm nay đài truyền hình cũng cho biết tin: Hiện tượng cãi vã nhau, lừa gạt nhau, đánh nhau, đâm chém nhau giữa những người trong gia đình, máu mủ đã tăng lên nhiều. Đây là dấu chỉ của một sự suy thoái đạo đức, người trong gia đình đâm chém nhau, lừa gạt nhau.
Tất cả những sự kiện trên đây cho phép chúng ta thấy trước và làm cho chúng ta lo ngại thật sự. Những sự gì đã xảy ra ở nơi khác, có thể rồi đây sẽ xảy ra tới chỗ chúng ta, nếu chúng ta không biết đề phòng.
Mặc dù vậy, tôi vẫn nhìn thấy một tia hy vọng. Hy vọng đó là Đức Mẹ. Đức Mẹ là tấm gương, là Mẹ nhân lành làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy. Hôm nay lễ kính Đức Mẹ Nữ Vương và dịp Thêm Sức. Nên một lần nữa, chúng ta hướng về Đức Mẹ là hy vọng của chúng ta.
Tôi biết anh chị em giáo xứ Bình Châu có lòng kính mến Đức Mẹ cách riêng, Đài Đức Mẹ ở cuối nhà thờ là một bằng chứng. Tôi tin rằng: Mặc dầu những khó khăn trước mắt thì vô vàn, mà sức chúng ta quá nhỏ, không thể giải quyết được, nhưng Đức Mẹ có lòng thương chúng ta và có khả năng giải quyết mọi vấn đề cho chúng ta, kể cả những vấn đề coi như không giải quyết được. Hãy tin cậy Đức Mẹ, Đức Mẹ đã tin vào lời Chúa. Thiên Thần đã nói với Đức Mẹ ngày truyền tin: “Trước mặt Chúa, không có gì là không thể được”.
Hôm nay tôi truyền lại lời ấy trong ngày lễ Đức Mẹ, để anh chị em, mặc dầu nhìn đến hoàn cảnh xã hội, gia đình, cá nhân mình có nhiều thiếu sót, có những thiếu sót, có những yếu đuối, có những giới hạn, nhưng hãy cậy trông, hãy tin vào quyền năng và lòng thương xót Chúa. Chúa là tình yêu như đã thấy xác định trong Sách Thánh chúng ta mới nghe. Thánh Phaolô nói: “Chúa yêu chúng ta, đang khi chúng ta còn là tội nhân”. Đó là một câu nói rất an ủi cho chúng ta.
Chúa thương chúng ta không phải vì chúng ta xứng đáng, nhưng bởi vì Chúa là Đấng nhân lành. Mặc dầu chúng ta yếu đuối tội lỗi, Chúa vẫn thương chúng ta. Hãy tin như vậy để nhìn thấy trước mặt mình, trong tương lai, ánh sáng và hy vọng.
Xin Chúa Thánh Thần hôm nay đổi mới chúng ta. Tôi muốn nói đến cái đổi mới trong tâm hồn là niềm tin. Hãy tin vào Chúa với nhận thức sâu sắc về hoàn cảnh u ám ở xã hội, gia đình, cá nhân. Hãy tin vào quyền năng của Đấng đã yêu thương chúng ta, đang khi chúng ta còn là tội nhân, và tin vào Chúa nhờ vào lời cầu bầu của Đức Mẹ.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin thương xót chúng con. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Giáo Xứ Bình Châu Kênh 8, ngày 21-08-1991.
Hôm nay, cha Bảy về đây để an nghỉ trong lòng đất quê nhà. Sinh thời, cha Bảy rất gắn bó với quê nhà bằng tình sâu nghĩa nặng. Đối với cha Bảy, quê nhà là mái nhà cha mẹ, là đất Cái Đôi, và gia đình ruột thịt và bà con đồng hương không phân biệt tôn giáo. Một nét đậm trong hình ảnh quê nhà nơi cha Bảy là nhà thờ và họ đạo Cái Đôi này.
Đối với cha Bảy, hồn quê là tình là nghĩa, liên hệ với quê nhà là sợi dây tình nghĩa với đời với đạo của mảnh đất Long Xuyên yêu quí.
Tình nghĩa là đặc tính con người cha Bảy. Tình nghĩa là phong cách sống Phúc Âm nơi cha Bảy. Tình nghĩa là ngôn từ truyền giáo của cha Bảy.
Tình nghĩa nơi cha Bảy là một luồng gió tươi mát, tỏa ra một thứ dưỡng khí Phúc Âm. Có vị tha, có chân thành, có khiêm tốn, có niềm tin vào Đức Kitô hòa vào mọi nơi không phân biệt tôn giáo giàu nghèo.
Không phải là cha Bảy không gặp nhiều cay đắng, nhưng cha đã không hề oán thù ai, trả thù ai, dù chỉ bằng những lời nói xấu. Dù trong thời chiến, dù trong thời bình, dù ở Quốc Hội, dù ở giáo xứ, cha Bảy với nhiều liên hệ đầy tình nghĩa chân thành, đã là một cánh cửa mục vụ mở ra về phía anh chị em đồng bào ngoài tôn giáo. Nhờ nhìn qua cửa đó và vào qua cửa đó, biết bao nhiêu đồng bào ngoài công giáo đã thấy được phần nào Tin Mừng mà Hội Thánh Công Giáo loan đi, đó là bác ái và các giá trị thiêng liêng bất diệt. Cũng qua cánh cửa đó người ta đã thấy được phần nào Hội Thánh Công Giáo kính trọng sự tự do của con cái Chúa trong các sáng kiến chia sẻ Tin Mừng. Công bằng mà nói, thì cha Bảy đã góp phần đáng kể vào việc đoàn kết lương giáo, và làm cho từng triệu người ngoài Hội Thánh có một cái nhìn thiện cảm hơn đối với Hội Thánh.
Tình nghĩa trao đi, thiện cảm trao lại, đó là một cuộc đối thoại đời sống, xây dựng hòa bình, hòa hợp, hòa giải, mà cha Phêrô đã gợi ý cho những người đi sau, để cùng nhau đẩy mạnh việc đổi mới đất nước Việt Nam hôm nay. Giờ đây, cha Bảy không còn nói gì nữa! Nhưng khuôn mặt tình nghĩa của cha vẫn gần gũi sống động nơi quê nhà.
Chúng tôi mến cha. Chúng tôi nhớ cha. Chúng tôi cầu nguyện cho cha.
Lễ an táng cha Phêrô Võ Thành Trinh,tại nhà thờ Cái Đôi, Hòa Bình, Chợ Mới, An giang, ngày 25-08-1991
Đêm vừa qua tôi đã thức rất khuya và dậy rất sớm. Tôi không sao ngủ được. Lý do tôi không ngủ được là vì tôi nghĩ tới họ đạo Tân Châu nói riêng và các họ đạo trong vùng này nói chung.
Nhìn chung tôi thấy: Các họ đạo trong vùng này, cách riêng là họ đạo Tân Châu đây, đã có nhiều có gắng tốt, đã có nhiều thiện chí cao. Và chính nhờ đó mà đã vượt qua được nhiều thử thách đủ loại. Tôi cảm tạ Chúa vì những kết quả đó, những kết quả đáng kể, những kết quả đáng mừng.
Nhưng bên cạnh kết quả đáng mừng đó, tôi có nhiều lo âu. Tôi lo âu vì thấy cuộc sống phần đông anh chị em giáo dân còn trong cảnh nghèo túng, học thức thấp. Tôi lo âu vì thấy các nhà thờ trong vùng này đều ở trong tình trạng cần chỉnh trang lại, tu bổ lại, hoặc xây cất lại. Nhất là tôi lo âu về vấn đề nhân sự. Nhân sự ở đây là số linh mục.
Các địa điểm thì ở khác nhau, xa nhau, mà số linh mục phục vụ trong vùng này rất ít. Trong số đó, nhiều vị không đủ sức khỏe, nhiều vị không có đủ thời giờ. Kiếm một linh mục nơi khác tới không phải là chuyện dễ. Mà tìm trong các họ đạo vùng này những thiếu niên, thanh niên hội đủ điều kiện đi tu học sau này làm linh mục cũng không tìm ra. Nếu số giáo dân càng ngày càng đông số linh mục càng ngày càng bớt đi, thì tương lai tôn giáo vùng này sẽ ra sao?
Nhìn viễn tượng ấy, tôi thật sự rất băn khoăn, rất lo lắng. Trong cơn lo lắng băn khoăn như vậy, tôi đã cầu nguyện và tôi đã lấy Phúc Âm ra để cầu nguyện, để suy gẫm. Nội dung tôi suy gẫm bài Phúc Âm lễ hôm nay là lời Đức Kitô cầu nguyện với Chúa Cha: “Không những Con cầu nguyện cho chúng (tức là các tông đồ), mà cũng cầu nguyện cho tất cả những ai mà nhờ lời giảng của chúng mà tin vào Con, để chúng nên một như Cha và Con là một và để chúng nên một như chúng ta, hầu thiên hạ tin rằng Cha đã sai Con”.
Tôi suy gẫm lời kinh nguyện của Đức Kitô, rồi tự nhiên tôi cảm thấy trong lòng những băn khoăn lo lắng giảm bớt dần, nhường chỗ cho một hướng suy nghĩ khác, hướng suy nghĩ đã được lời kinh nguyện hôm nay vạch ra, hướng mà Chúa Giêsu đã cầu xin Đức Chúa Cha trong bữa tiệc ly, đó là để thiên hạ tin vào con, thì xin Chúa để cho các môn đệ của con biết tin vững vào con và biết yêu thương nhau.
Tôi nghĩ: Trong bữa tiệc ly, nếu Chúa Giêsu đã cầu nguyện chỉ chừng ấy thôi, đó tức là những điều quan trọng nhất: Hãy sống đức tin sống động, vững mạnh và biết yêu thương nhau. Đó là hai điều ưu tiên để nhờ đó mà truyền giáo. Theo nội dung lời kinh nguyện hôm nay, Chúa đã nói trong bữa tiệc ly, thì sự truyền đạo, sức mạnh chủ yếu lôi kéo thiên hạ mến đạo, tin đạo, vào đạo, chính là đức tin sống động của các môn đệ Chúa, cộng với đức bác ái yêu thương chân thành giữa họ với nhau.
Khi tôi nhận thức được những điều ấy thì tôi cũng nhận thức được điều này là họ đạo Tân Châu và các họ đạo trong vùng này hãy sống đức tin vững mạnh, sống động và hãy biết yêu thương nhau chân thành, cụ thể và tích cực. Đó là bản chất đức tin. Đức tin là gặp được Chúa, là có Chúa Kitô trong mình, để mình biết tìm ý Chúa hơn ý mình, để mình biết có những cảm tình như Chúa Kitô và sự yêu thương nhau là cho đi, là biết thông cảm, là biết tha thứ, là biết nâng đỡ nhau. Bản chất của đạo, chính là như vậy. Và khi có bản chất ấy rồi, thì các phương tiện khác như nhân sự, linh mục, tu sĩ, như là nhà thờ, nhà chung mới có hiệu nghiệm.
Kinh nghiệm dạy tôi rằng: Nhiều nơi có nhà thờ lớn, đẹp, nhưng tình hình tôn giáo họ đạo rất là bê bối. Có nơi đông linh mục, tu sĩ, giáo dân thì ít, nhưng tình hình tôn giáo thì lại bê trễ, nguội lạnh, bỏ đạo quá nhiều. Trái lại, có những nơi rất khó nghèo, nhà thờ khó nghèo, nhà xứ khó nghèo, giáo dân khó nghèo, nhưng vì đức tin rất mạnh và biết yêu thương nhau, thành ra lương dân chung quanh đều ca ngợi đạo, và giáo đoàn bé nhỏ ấy đã trở thành một ánh sáng huyền diệu, gây ảnh hưởng tốt cho Hội Thánh.
Đây là một điều tôi muốn chia sẻ cùng anh chị em, đang khi chúng ta mong đợi một nhà thờ mới khang trang, có những nhân sự khỏe mạnh, có điều kiện để phục vụ chúng ta, thì mỗi người chúng ta hãy trở nên một thánh đường có Đức Kitô trong lòng, có Đức Kitô yêu mến tha nhân, khổ nhục vì tha nhân, phục vụ tha nhân, nhất là những người tội lỗi, lầm lạc, nghèo túng. Khi mỗi người chúng ta trở nên một thánh đường sống như vậy, Chúa sẽ giúp cho chúng ta những cái chúng ta cần thiết.
Khi tôi suy nghĩ bài Phúc Âm hôm nay và nhìn thấy cha sở ở đây, thấy anh chị em ở đây, các nữ tu ở đây có một lòng yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, có một đức tin sống động mạnh mẽ, tự nhiên tôi cảm thấy được an ủi, và tôi nghĩ rằng: Chúa muốn dùng những khó khăn để càng làm cho đức tin và tinh thần đạo sáng lên.
Tôi đi nhiều nơi, nên xác tín về điều này. Nếu một ngày nào đó chúng ta đầy đủ, chúng ta giàu có, chúng ta quá tự do, lúc ấy đạo sẽ xuống. Còn trái lại, nếu Chúa để cho chúng ta gặp những khó khăn, lúc ấy chính là lúc Chúa kêu gọi lương tâm chúng ta biết khiêm tốn chạy đến với Người, để cho đức tin chúng ta nên vững mạnh, và để chúng ta có dịp an ủi, nâng đỡ, phục vụ lẫn nhau.
Anh chị em thân mến,
Tôi xin Chúa Thánh Thần trong lễ Thêm Sức này, ban ơn cho chúng ta được hiểu biết giá trị, hoàn cảnh thực tế hôm nay, để chúng ta biết tận dụng những gì Chúa nhắn gởi chúng ta qua hoàn cảnh bây giờ. Chúng ta cứ làm hết sức. Chúng ta cứ sống tuyệt đối với phút hiện tại, với số vốn Chúa ban trong tầm tay của mình, rồi mọi sự khác cần thiết, Chúa sẽ ban cho sau. Đối với Chúa, không có gì là không thể được. Hãy tin cậy như vậy, và Chúa đòi chúng ta phải tin như vậy để làm sáng danh Chúa. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Tân Châu, ngày 24-08-1991.
Hôm nay chúng ta mừng trọng thể Đức Maria Trinh Nữ Vương, Quan Thầy nhà thờ Chánh Tòa Long Xuyên. Nhân dịp này, tôi muốn chia sẻ với anh chị em đôi chút riêng tư của tôi về Đức Mẹ, hay nói cho đúng hơn, thì đây là một cuộc đối thoại âm thầm giữa tôi và Đức Mẹ.
Cuộc đối thoại có thể tóm tắt thế này: Tôi có thói quen mỗi lần nhìn lên ảnh tượng Đức Mẹ đặt ở cuối nhà thờ ngoài kia, tôi hay chào Đức Mẹ bằng một lời tự phát. Có một lần tôi nhìn lên tượng Mẹ và chào: “Kính chào Mẹ, Mẹ là hy vọng của con”, thì lập tức tôi nghe tiếng Đức Mẹ nói trong lòng tôi rằng: “Con cũng là hy vọng của Mẹ”. Nghe vậy tôi trả lời: “Con thế này mà là hy vọng của Mẹ được sao? Mẹ không nhìn thấy những yếu đuối, những bất toàn của con sao? Chắc chắn con không thể nào là hy vọng của Mẹ được”. Và Đức Mẹ đã dần dần trả lời tôi bằng cách đưa trí khôn tôi thoáng nhìn lại một số việc trong đời Đức Mẹ.
Tôi nhìn thấy một bà già Isave tuổi tác, son sẻ, già nua, một người chắc chắn không thể có con, thế mà Chúa đã làm cho bà già ấy hạ sinh một người con trai tốt đẹp. Đó là Gioan Baotixita.
Rồi tôi lại nhìn thấy một thiếu nữ xinh đẹp: Maria trọn đời đồng trinh. Đồng trinh chắc chắn không thể có con, thế mà Chúa đã làm cho trinh nữ Maria ấy, nhờ phép Chúa Thánh Thần, được chịu thai làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Rồi tôi nhìn thấy một thanh niên tên Phêrô, gốc dân chài, ít học, quê mùa, tính tình bồng bột, đã mang tội chối Chúa, một người như vậy chắc chắn không thể nào làm được chuyện lớn, thế mà Chúa đã chọn người thanh niên ấy làm đầu Hội Thánh, làm nền tảng Giáo Hội.
Rồi như muốn cắt nghĩa thêm cho tôi, Đức Mẹ lại làm cho tôi nhớ lại những sự kiện đã xảy ra trong tiệc cưới Cana mà bài Phúc Âm hôm nay vừa kể lại. Tôi nhìn thấy 6 cái lu lớn đầy nước, mà đúng là nước lã, lấy từ sông về dùng để rửa mặt và tay chân. Chắc chắn lu nước ấy một trăm phần trăm là nước lã, thế mà Chúa Giêsu trong giây lát đã làm cho nước ấy trở thành rượu ngon.
Sau khi đã cho tôi nhìn thấy tất cả những sự việc ấy, Đức Mẹ nhắc cho tôi lời Thiên Thần đã nói với Đức Mẹ ngày lễ Truyền Tin: “Trước mặt Chúa, không có gì là không thể được”.
Rồi Đức Mẹ nói thêm trong lòng tôi rằng: Không phải chỉ có con mới là niềm hy vọng của Mẹ, mà còn rất nhiều người khác cũng là niềm hy vọng của Mẹ, dù những người ấy bề ngoài coi không có một chút hy vọng nào. Đó mới xứng đáng là công việc quyền năng thương xót Chúa, để làm chứng rằng lòng thương xót Chúa trải qua từ đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa.
Anh chị em thân mến,
Sau khi Đức Mẹ cắt nghĩa cho tôi, thú thật là tôi không hiểu hết, nhưng tôi tin vào lời Đức Mẹ, tôi tin vào Phúc Âm, tôi tin vào lời Chúa, rồi từ niềm tin ấy, mỗi khi gặp ai, dù họ thế nào, tôi vẫn nói với mình tôi rằng: “Người này là hy vọng của Đức Mẹ”. Và đó là một Tin Mừng gởi đến cho tôi, đã đổi mới cái nhìn của tôi đối với mọi người, kể cả những người coi như không có gì là hy vọng.
Hôm nay tôi nghĩ rằng: Đức Mẹ cũng đang nói với từng người chúng ta, và nhất là đang nói với từng em Rước Lễ Lần Đầu, từng em chịu Thêm Sức hôm nay: : “Con là niềm hy vọng của Mẹ”. Tôi nghĩ rằng đây là một lời đầy an ủi cho mỗi người chúng ta. Người mẹ nào cũng muốn nói lời ấy cho người con của mình, phương chi Đức Mẹ, càng muốn nói lời ấy với từng đứa con của Mẹ “Con là niềm hy vọng của Mẹ”.
Xin Chúa Thánh Thần hôm nay giúp chúng ta hiểu được ơn trọng đại là con của Chúa, làm con của Đức Mẹ, để chúng ta trong niềm hy vọng đặt vào nơi Đức Mẹ, và trong niềm hy vọng Đức Mẹ đặt vào chúng ta, chúng ta biết tạ ơn, và nhất là chúng ta biết cố gắng sống xứng đáng là người con mang niềm hy vọng của Mẹ, và mong rằng suốt đời chúng ta hãy bám lấy lòng thương xót Đức Mẹ như người con nhỏ đặt niềm hy vọng vào Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, chúng con là niềm hy vọng của Mẹ bởi vì chính Mẹ là niềm hy vọng của chúng con. Amen.
Lễ Maria Trinh Nữ Vương tại nhà thờ Chánh Tòa Long Xuyên, ngày 25-8-1991.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu gọi Đức Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý. Chân lý có nghĩa là sự thật. Thần Chân Lý là Thần dạy sự thật. Đây là từ ngữ mà Đức Kitô quen dùng để nói về Chúa Thánh linh, vì lời Đức Kitô là lời hằng sống, là bánh ban sự sống nên lời Đức Kitô nói trên đây về Chúa Thánh Linh được tôi coi là bánh hằng sống của tôi. Tôi tin lời Đức Kitô. Tôi cố gắng thực hiện lời Đức Kitô. Hôm nay nhìn lại quá trình thực hiện lời Đức Kitô trên đây về Chúa Thánh Linh, Người là thầy dạy sự thật. Và giờ đây tôi xin chia sẻ với anh chị em vắn tắt đôi chút kinh nghiệm về Chúa Thánh Linh, Đấng dạy sự thật.
Anh chị em thân mến, trong cuộc đời con người nói chung, và trong cuộc đời người truyền giáo nói riêng, tôi thấy có hai loại sự thật, nếu không phải là cần thiết nhất, thì ít ra cũng đáng gọi là hữu ích cho tôi, để cuộc đời của tôi có phần nào kết quả. Loại sự thật thứ nhất tạm gọi là sự thật khách quan, đó là những hiểu biết phản ánh đúng thực tại khách quan bây giờ. Chẳng hạn như bây giờ tôi nói: “Ca đoàn Rạch Sâu hát hay, nhà thờ Rạch Sâu có những ghế đá” thì tôi nói lên sự thật khách quan, bởi vì những hiểu biết của tôi phản ánh đúng sự thật khách quan. Những cái thực tại khách quan này tôi dễ nắm bắt được, tôi dễ hiểu biết được, tôi dễ phản ánh được mà không cần một ơn đặc biệt nào của Thánh Linh. Nhưng, có nhiều thực tại khách quan tôi không thể nắm bắt được một cách dễ dàng nếu không có ơn đặc biệt của Thánh Linh.
Tôi thấy ít là có ba: Trước hết là những sự tốt nơi người khác, hai là những sự xấu nơi bản thân mình, ba là thánh ý Thiên Chúa. Những sự thật tốt lành nơi người khác, tôi khó mà hiểu biết hết được. Có những người rất thánh sống trà trộn giữa muôn người: Chẳng hạn như Đức Mẹ mà những người chung quanh không hiểu biết, không nắm được sự thật khách quan đó. Cả đến thánh Giuse, người gần gũi Đức Mẹ như vậy, cũng không hiểu được cái thực tại khách quan nơi Đức Mẹ. Phải có ơn Chúa Thánh Thần soi sáng cách riêng. Thánh Giuse mới biết được phần nào sự thánh thiện nơi Đức Mẹ.
Tôi nghĩ cũng vậy. Chung quanh tôi, có rất nhiều người thánh thiện, đạo đức, nhưng tôi không nắm bắt được những sự thật khách quan đó. Một phần vì tầm nhìn của tôi hẹp, một phần vì bản tính ích kỷ của tôi không dễ làm cho tôi tin được những tốt lành sâu thẳm nơi người khác. Phải có ơn Chúa Thánh Thần tôi mới nắm bắt được sự thực đó.
Rồi cái xấu nơi bản thân tôi, chắc gì tôi đã thấy được, đã nắm bắt đúng mặc dầu những cái xấu đó to như cái xà nhà như Phúc Âm đã nói. Lý do vì ích kỷ, tự ái đã làm cho tầm nhìn của tôi không trong sáng.
Rồi thánh ý Thiên Chúa trong từng trường hợp cụ thể, cũng là những thực tại khách quan mà tôi đâu có nắm bắt được một cách dễ dàng. Tuy những thực tại khách quan này rất khó nắm được, nên khó có thể nói được rằng tôi có những sự thực khách quan. Nhưng nếu tôi khiêm tốn kiên trì cầu nguyện với Chúa Thánh Linh, thì Chúa Thánh Linh sẽ đến soi sáng, mở lòng, giúp tôi hiểu biết được phần nào sự thực khách quan cần thiết, tuy dầu chỉ tương đối.
Những sự thực khách quan ấy, ít ra cũng làm ta an tâm, vì ta cũng cầu xin để được hiểu biết. Đúng là có những sự thực khách quan ta chỉ có thể có được nhờ ơn đặc biệt của Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh là thầy dạy sự thực.
Còn loại sự thực thứ hai là sự thực tạm gọi là sự thực khôn ngoan của Phúc Âm. Đây là những hiểu biết giúp chọn lựa cái nào thích hợp, cái nào không thích hợp, cái nào lợi, cái nào hại, cái nào cần làm trước, cái nào cần làm sau. Nó không phải là sự thực khách quan, nhưng mà là cái thích hợp hay không thích hợp, lợi hay hại. Sự khôn ngoan tôi nói đây không phải là sự khôn ngoan theo tính toán loài người mà là sự khôn ngoan theo Phúc Âm. Thánh Phêrô đã có lần can gián Chúa Giêsu đừng đi nạp mình chịu chết. Ngài can gián và Ngài tưởng mình khôn ngoan, nhưng cái khôn đó là cái khôn thế gian. Chúa mắng Phêrô: “Điều con vừa nói không phải do Thánh Linh soi sáng, mà là do xác thịt con soi sáng”.
Rõ ràng trong đời sống chúng ta, có những hoàn cảnh éo le phức tạp. Tôi thí dụ: Hiện tình bây giờ, trước cảnh nghèo túng của phần đông đồng bào chúng ta, trước sự đe dọa của lũ lụt, trước cảnh thất học của con em, trước sự chuyển biến về giá cả, mùa màng, trước cảnh lo âu của hầu hết các người lớn tuổi, tôi muốn cấu trúc một cuộc lễ, tôi phải tìm phương án nào cho thích hợp, cho có lợi về phần hồn, về truyền giáo, và đồng thời cũng hợp với cái túng nghèo bây giờ. Có nên rền rang ăn uống tốn phí không ? Có nên rùm beng làm nhục, làm tủi những người đói khát không ?
Đây là những tính toán cân nhắc theo Phúc Âm, mà Phúc Âm đã không một lần nào chỉ rõ: Phải làm thế này, phải làm thế kia. Các trường hợp cụ thể, muốn có một sự khôn ngoan, cần phải hỏi Chúa Thánh Linh. Rồi một thí dụ khác: Tôi sống trong một cảnh nghèo túng, không tiền bạc, không ai giúp đỡ. Tôi sống trong một cảnh nhục nhã bị vu oan, bị xỉ nhục. Tôi khóc đêm, khóc ngày, trong những trường hợp ấy, tôi phải sống thế nào đây, để tám mối phúc thật mà Chúa đã giảng trong Phúc Âm: “Hứa cho người khóc lóc, hứa cho người nghèo túng, hứa cho người khiêm nhường hiền lành” trở nên sự thực cho tôi, để trong một hoàn cảnh túng nghèo, oan ức, tủi nhục, tôi vẫn nhìn thấy Tin Mừng của Chúa trong lòng tôi, tôi vẫn nhìn thấy hy vọng của Chúa trước mặt tôi. Điều đó chúng ta chỉ tìm thấy được sự thực khôn ngoan khi chúng ta cầu xin với Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh là Thầy dạy sự thực, sự thực phản ánh khôn ngoan của Phúc Âm, sự thực phản ánh thực tại khách quan bên ngoài.
Anh chị em thân mến,
Với đôi chút chia sẻ trên đây về Chúa Thánh Linh, tôi hy vọng rằng anh chị em đã hiểu được phần nào, thế nào là Chúa Thánh Linh, Thầy dạy chân lý. Trong suốt cuộc đời, chúng ta hết thảy đều rất cần ơn soi sáng của Chúa Thánh Linh, nhất là trong những hoàn cảnh éo le phức tạp, mà nếu tính toán theo kiểu loài người, sẽ không có giải đáp. Lúc ấy phải thật sự gắn bó với Chúa Thánh Linh với tất cả sự khiêm tốn, phó thác cậy trông, tin vào lời Đức Kitô đã hứa: “Thầy sẽ cho Thánh Thần là Đấng Phù Trợ, là Thần Chân Lý xuống dạy chúng con những điều cần phải biết. Thần Chân Lý sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Ngày vui, ngày buồn, ngày giàu, ngày nghèo, Thần Chân Lý sẽ ở cùng chúng ta mãi mãi, kể cả ngày chúng ta tội lỗi, kể cả ngày chúng ta thấy không còn một hy vọng nào trước mắt chúng ta. Nhưng trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa có nói: Thần Chân Lý sẽ đến, nhưng thế gian thì không đón nhận Ngài! Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta có Chúa Thánh Linh trong lòng. Và giờ đây, Chúa Thánh Linh lại một lần nữa đến với chúng ta cách đặc biệt, đến với con em chúng ta, đến với những người già cả, ốm yếu túng nghèo hôm nay. Xin tạ ơn Chúa. Những người ngoài đức tin đã không đón nhận Người. Ai tin vào Đức Kitô, tin vào Chúa Thánh Linh, tôi chắc chắn Thánh Linh sẽ an ủi, sẽ cho chúng ta hy vọng, cả trong những trường hợp không còn hy vọng. Amen. Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Rạch Sâu, ngày 04-09-1991.
Khi đọc xong bài Phúc Âm hôm nay, tôi đã nhìn lên Đức Mẹ. Đức Mẹ là người trinh nữ khôn ngoan hơn hết mọi người trinh nữ không ngoan. Tôi đã nhìn Đức Mẹ và có những suy nghĩ sau đây: Đức Mẹ là người trinh nữ khôn ngoan, trên hết mọi người trinh nữ khôn ngoan, nên Đức Mẹ không những có một chiếc đèn của mình, mà có nhiều chiếc đèn của mình. Tôi muốn được làm một trong những chiếc đèn của Đức Mẹ. Một khi là chiếc đèn trong tay Đức Mẹ thì tôi chắc thế nào, khi nào Đức Mẹ lên trời, thì tôi cũng sẽ lên trời với Đức Mẹ.
Nhưng có một điều tôi cần phải biết trước: Đó là chiếc đèn vật chất thì để đâu đứng đó, còn những chiếc đèn thiêng liêng có tự do như con người, thì có thể bỏ chỗ mình đang đứng để đến chỗ khác, hoặc có thể rời bỏ tay người đang cầm mình. Vì thế, điều tôi quan tâm trước hết khi muốn là chiếc đèn của Đức Mẹ là phải làm sao luôn luôn ở trong tay Đức Mẹ, luôn ở trong quyền năng sử dụng của Đức Mẹ, để tùy ý Đức Mẹ muốn thắp sáng lên chừng nào, ở chỗ nào, cách nào, hay là muốn tắt đi, là tùy ý Đức Mẹ.
Do đó, điều tôi phải để ý trước hết và luôn luôn thường xuyên, đó là phải gắn bó với Đức Mẹ.
Tôi phải gắn bó với Đức Mẹ bằng cách nào?
Trước hết tôi gắn bó với Đức Mẹ bằng sự tôi tham dự vào tâm tình “Xin vâng” của Đức Mẹ, Đức Mẹ đã nói lên lời xin vâng trong ngày lễ Truyền Tin. Và suốt đời, Đức Mẹ đã sống tinh thần “Xin vâng”. Tôi cũng hãy là chiếc đèn xin vâng bên cạnh Đức Mẹ với tất cả tinh thần khiêm tốn và cậy trông phó thác. Rồi tôi sẽ gắn bó với Đức Mẹ bằng sự tôi tham dự vào tinh thần tạ ơn của Đức Mẹ. Đức Mẹ đã biểu lộ tinh thần tạ ơn trong kinh Tạ Ơn ngày đi viếng bà Isave. Đức Mẹ tạ ơn Chúa không những vì những ơn riêng mình mà còn tạ ơn vì những ơn Chúa ban cho dân tộc mình, cho những người Chúa thương: “Lòng thương xót Chúa trải qua từ đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa”. Tôi cũng hãy là chiếc đèn tạ ơn trong tay Đức Mẹ, đầy chân thành, tha thiết.
Rồi tôi hãy cố gắng gắn bó với Đức Mẹ bằng sự tham dự vào tâm tình suy niệm của Đức Mẹ, trong Kinh Thánh, ta thấy Đức Mẹ đã ghi mọi sự trong lòng để suy niệm. Suốt đời Đức Mẹ là bài suy niệm thường xuyên, và trong suy niệm Đức Mẹ tìm Chúa hơn tìm mình, mến Chúa hơn yêu mình, tìm thánh ý Chúa hơn tìm ý riêng mình. Tôi cũng hãy là chiếc đèn suy niệm trong tay Đức Mẹ đầy nhiệt tình và tập trung vào Đức Kitô.
Rồi tôi hãy gắn bó với Đức Mẹ bằng cách tham dự vào tâm tình hiến dâng của Đức Mẹ. Suốt đời Đức Mẹ là một cuộc hiến dâng, từ bỏ mình, làm mọi sự, chịu mọi sự, để cùng với Đức Kitô gánh tội cho thiên hạ. Tôi cũng hãy cố gắng là chiếc đèn hiến dâng trong tay Đức Mẹ tất cả thiện chí của mình.
Anh chị em thân mến,
Họ đạo anh chị em nhận Đức Mẹ làm quan thầy, và hôm nay Hội Thánh kính sinh nhật Đức Mẹ với niềm hy vọng cậy tin. Mặc dầu mưa gió, mặc dầu trong nhiều cảnh lo âu, anh chị em đã đến dự lễ đông đảo, trang nghiêm, sốt sắng. Điều đó chứng tỏ tinh thần hiến dâng, tinh thần cầu nguyện, tinh thần tạ ơn, tinh thần “Xin vâng” của anh chị em. Tôi nghĩ rằng Đức Mẹ đang nhìn chúng ta. Chúng ta nhận thức rằng, chúng ta chẳng đạo đức gì, chúng ta chẳng thánh thiện gì, nhưng chúng ta có thiện chí, muốn trở thành chiếc đèn trong tay Đức Mẹ và muốn cho con em chúng ta chịu Thêm Sức hôm nay, cũng sẽ là chiếc đèn nhỏ bé trong tay Đức Mẹ. Chúng ta chỉ xin Đức Mẹ chừng ấy thôi ngày sinh nhật Đức Mẹ. Tôi nghĩ Đức Mẹ đang nhìn chúng ta với trái tim đầy tình thương xót. Nếu mỗi người chúng ta chân thành thật sự, tha thiết thật sự, khiêm tốn thật sự, và cầu xin với tất cả tấm lòng cậy trông, chắc chắn Đức Mẹ sẽ nhậm lời chúng ta. Đức Mẹ sẽ làm cho mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta, họ đạo chúng ta trở nên những chiếc đèn của Đức Mẹ. Đức Mẹ sẽ lo cho có đủ dầu: Dầu cầu nguyện, dầu tạ ơn, dầu xin vâng, dầu hiến tế. Và khi thấy thời gian đã mãn, Đức Mẹ sẽ mang những chiếc đèn này về thiên đàng với Đức Mẹ.
Tôi xin Đức Mẹ hôm nay, trong lễ Thêm Sức này, giúp cho chúng ta có một quyết tâm trở nên những chiếc đèn sáng của Đức Mẹ. Mặc dầu chúng ta yếu đuối, tội lỗi, nhưng chúng ta có những quyết tâm và nhờ Đức Mẹ giúp đỡ sẽ trở nên những chiếc đèn đức tin, đức ái, đức hiền lành, đức khiêm tốn, lòng trung thực, lương thiện. Nhờ đó chúng ta sẽ được mở rộng và lòng sùng kính Đức Mẹ sẽ được tỏa lan khắp nơi, việc truyền giáo sẽ được phát triển.
Xin Chúa Thánh Thần đến với chúng ta qua sự bầu cử của Đức Mẹ.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ kinh Ông Quýt, ngày 08-09-1991.
Khi suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay, tôi không để ý nhiều đến người có tay hữu bị tê bại được Chúa chữa lành, nhưng tôi đã để ý nhiều đến những người có chứng tê bại mà không được Chúa chữa lành. Theo bài Phúc Âm hôm nay thì họ là những luật sĩ và biệt phái.
Trước hết họ có một chứng tê bại trong trái tim, bởi vì họ không cảm được nỗi khổ của những người bị tê liệt ở tay, và cũng không cảm được niềm vui của anh ấy khi được chữa khỏi. Đáng lý ra, một trái tim bình thường thì phải biết rung cảm trước niềm vui mới của người chung quanh, nhưng những người biệt phái và luật sĩ đây không như vậy. Đúng là trái tim họ tê bại. Rồi họ mắc chứng tê bại trong trí khôn, vì họ không hiểu được lời Chúa cắt nghĩa, Chúa Giêsu bảo họ rằng: “Trong ngày Sabat, người ta được quyền cứu sống hay để cho người cần được cứu giúp phải chết. Người ta được quyền làm sự lành hay sự dữ”. Hỏi như vậy tức là đã trả lời rồi. Lời Chúa Kitô là chân lý, thật rõ thật đẹp, một trí khôn bình thường thì hiểu ra ngay, nhưng họ không hiểu. Đúng là trí khôn họ mắc chứng tê bại.
Rồi họ còn mắc chứng tê bại trong lương tâm họ. Họ quyết tâm làm hại Chúa Kitô, mà lương tâm của họ không áy náy gì. Đúng lý ra, khi thấy Chúa Kitô nhân lành, cư xử tốt, cứu người bệnh tật thì họ phải vui, phải ca ngợi Chúa nhưng đây thì không. Thấy Chúa Giêsu tốt lành, họ bực tức, và như Phúc Âm nói, họ quyết tâm tìm cớ hại Chúa Kitô. Đúng là lương tâm họ mắc chứng tê bại, tê bại trong trái tim, tê bại trong trí khôn, tê bại trong lương tâm. Đó là những điều tôi rất sợ.
Nhưng cái điều tôi sợ hơn khi suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay là thấy Chúa Giêsu không chữa cho những người mắc chứng tê bại đó. Người tay mặt bị tê bại thì được Chúa chữa lành, còn mấy người biệt phái và luật sĩ rõ ràng là họ tê bại trong tâm hồn, từ trái tim đến trí khôn cho đến lương tâm, nhưng Chúa Giêsu không chữa lành. Họ ra đi tự do. Ra đi để âm mưu giết Chúa. Xem ra họ đã thành công. Chúa Giêsu đã thất bại, và họ càng thành công, thì chứng tê bại càng mạnh hơn, chai lì trong trái tim, chai lì trong trí khôn, chai lì trong lương tâm và điều đó tôi rất sợ.
Khi nhìn đến họ, tôi nhìn lại chính mình và nhìn lại Hội Thánh của tôi, tôi sợ cho tôi. Tôi sợ cho Hội Thánh chúng ta. Tôi sợ rằng khi ta thành công, khi ta thắng, mà nếu vì thế mà ta mất sự nhạy bén đối với ơn soi sáng của Chúa dành cho ta và không còn nhạy bén trước những khổ đau của đồng bào, thì cái thắng, cái thành công của ta sẽ là cái rủi ro lớn cho ta. Vì thế, lúc nãy khi nghe ca đoàn hát, “Những hồng ân Chúa dành cho ta” để ca tụng Chúa, tôi không những nhớ đến thành công Chúa đã dành cho chúng ta, cho cha sở ở đây, cho giáo đoàn Hòn Đất, mà tôi nhớ nhiều nhất đến ơn Chúa ban cho chúng ta, đó là dù trong thành công, dù trong thất bại, chúng ta vẫn giữ được sự nhạy bén trong trái tim, sự nhạy bén trong trí khôn, sự nhạy bén trong lương tâm, để luôn luôn tìm thánh ý Chúa, thực thi thánh ý Chúa, dù trời nắng, dù trời mưa, dù khi khô, dù bão lụt, dù túng, dù giàu, chúng ta luôn luôn bén nhạy, chứ không để bị tê bại trong lương tâm mình, luôn luôn tìm kiếm Chúa, cứu rỗi các linh hồn.
Đó là điều tôi cho là hồng ân lớn nhất Chúa ban cho chúng ta, trong họ đạo chúng ta, cho chúng ta hết thảy.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi xin Chúa vì công nghiệp Đức Mẹ Vô Nhiễm ban cho chúng ta một trái tim bén nhạy, luôn luôn hiểu được ý Chúa và luôn luôn đặt ý Chúa trên ý riêng mình. Và một khi chúng ta có thiện ý như vậy, Chúa sẽ làm phép lành cho ta, để rồi đời nầy qua đi, chúng ta chắc chắn sẽ được Chúa thưởng công vô cùng đời sau với Đức Mẹ. Amen.
Thêm Sức tại Hòn Đất, ngày 09-09-91. Thứ hai sau CN 23 QN.
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy Chúa Giêsu đã chọn 12 tông đồ là một số rất nhỏ. Chúa Giêsu có thể chọn thêm, nhưng Người đã chỉ chọn một số nhỏ 12 người mà thôi. Điều đó chứng tỏ rằng Chúa muốn như vậy, 12 tông đồ làm nên một cộng đoàn đầu tiên của Hội Thánh, và có thể nói 12 tông đồ đây, cộng đoàn nhỏ đây chính là mô hình họ đạo đầu tiên.
Đặc điểm của mô hình họ đầu tiên này là: Tin nhận Đức Kitô, chính là Tin Mừng lớn nhất của mình, và sống bác ái yêu thương chan hòa với nhau như trong một gia đình.
Khi Chúa Giêsu đã về trời, các tông đồ đã xây dựng Hội Thánh ban đầu bằng cách thiết lập một cộng đoàn nhỏ. Mỗi cộng đoàn nhỏ như vậy chừng 100 tới 1000. Họ có một nơi nhỏ, căn nhà nhỏ để qui tụ. Sinh hoạt của họ là tham gia lễ nghi bẻ bánh tức là thánh lễ Misa, học hỏi lời Đức Kitô và cầu nguyện chung theo Kinh Thánh.
Đặc điểm của những cộng đoàn nhỏ này là đề cao tinh thần yêu thương bác ái chan hòa, và tập trung lòng tin mến vào Đức Kitô là Tin Mừng lớn nhất của họ. Sở dĩ Chúa Giêsu cũng như các tông đồ đã chọn hình thức thiết lập các cộng đoàn nhỏ để phát triển và xây dựng Hội Thánh, là bởi vì hình thức cộng đoàn nhỏ dễ thành công hơn, dễ thành công trong vấn đề huấn luyện đức tin. Một cộng đoàn nhỏ vài chục người, mấy trăm người, khi nghe lời Chúa, khi nghe giảng giáo lý dễ tiếp thu hơn, dễ trao đổi hơn, dễ chia sẻ hơn, dễ đóng góp ý kiến hơn, và lời Chúa dễ thấm vào nội tâm mỗi người.
Rồi cộng đoàn nhỏ dễ thành công trong việc xây dựng tinh thần bác ái. Trong bài học lúc nãy, chúng ta đã nghe lời Chúa: “Tình thương yêu là dây ràng buộc những người tin Chúa”. Nhưng để cụ thể hóa tình yêu thương bác ái ấy, thì cộng đoàn nhỏ dễ tổ chức hơn. Một giáo đoàn thì dễ quen biết nhau hơn, dễ nâng đỡ nhau hơn.
Rồi một cộng đoàn nhỏ thì dễ thành công trong việc tổ chức Hội Thánh là dân Thiên Chúa. Ai cũng là người của Hội Thánh thì phải có trách nhiệm liên đới, không thụ động, không có ỷ lại. Trong một cộng đoàn chỉ có mấy trăm người, thì mỗi người đều có bổn phận, tùy theo khả năng chức phận của mình. Chính vì vậy, mà Hội Thánh đầu đã đâm rễ được rất sâu vào các địa phương và đã lan rộng ra khắp nơi như men, như muối.
Hiện nay, Hội Thánh tại nhiều địa phương cũng đang có một khuynh hướng trở về với hình thức cộng đoàn nhỏ ban đầu. Bởi vì với hình thức nầy, nhất là trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, chính trị, văn hóa chuyển biến quá mau lẹ, thì công việc truyền đạo, công việc dạy đạo, công việc giữ đạo trong khuôn khổ nhỏ sẽ dễ thành công hơn.
Khi tôi có khái niệm như trên về cộng đoàn nhỏ, rồi khi tôi tới họ Bình Sơn đây, cũng là một cộng đoàn nhỏ, thì tự nhiên, tôi có thiện cảm đồng thời có nhiều hy vọng hơn trong tôn giáo. Tôi vẫn thích những cộng đoàn nhỏ, nhẹ nhàng, đơn sơ như có chiều sâu, hơn là những cộng đoàn lớn phức tạp rắc rối và quá bận, quá nặng về những tổ chức bề ngoài. Vì thế, lúc nãy khi tôi làm phép ngôi nhà thờ bé nhỏ này, tôi cầu xin Chúa không phải cho sự phát triển, chỉnh trang khu nhà thờ này, mà điều tôi cầu nguyện nhiều nhất đó là phát huy các đặc điểm của một cộng đoàn tín hữu, nhưng tôi vừa nói đó là đề cao tinh thần bác ái yêu thương chan hòa, tập trung lòng tin mến vào Đức Kitô là chính Tin Mừng cứu độ của chúng ta.
Trong thánh lễ tạ ơn hôm nay, tôi muốn cùng với anh chị em cảm tạ Chúa và cầu nguyện cho tất cả mọi ân nhân xa gần, lương cũng như giáo, đã, đang và sẽ góp phần vào việc phát triển xây dựng ngôi thánh đường, khu nhà thờ này, vì ích lợi không những cho giáo đoàn, mà cũng vì ích lợi cho địa phương nói riêng và cho tất cả đồng bào ta nói chung.
Xin thánh Giuse, Đấng đang chứng kiến những hy sinh của chúng ta trong ngày lễ dưới cơn mưa gió này, để cho tinh thần của chúng ta, dù bị thử thách vẫn luôn luôn vững vàng tin vào Đức Kitô, tin vào tình thương của đồng bào mình và sống trong Tin Mừng ấy ở đời này, để đi vào đời sau. A men.
Lễ khánh thành nhà thờ Bình Sơn, Vàm Rày, ngày 10-09-1991.
Trong bài Phúc Âm hôm nay có một câu tôi rất ưa thích, một câu tôi thường dùng để cầu nguyện mỗi ngày và nhiều lần trong ngày. Câu đó là lời Chúa nói trên thánh giá: “Lạy Cha con xin dâng phó linh hồn con trong tay Cha”. Giờ đây tôi muốn chia sẻ với anh chị em vắn tắt đôi điều tôi cảm nghĩ và thấy được khi cầu nguyện lời Chúa trên đây: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”.
Điều thứ nhất tôi đã nhận thấy, đã nhìn thấy, đã cảm nghiệm thấy khi cầu nguyện, với lời Chúa trên đây, đó là thấy Chúa nhìn tôi với tình yêu giàu lòng thương xót của Người.
Tình yêu của Thiên Chúa dành cho tôi, dành cho từng người con cái Chúa, không phải là một tình yêu chung chung, mà là một tình yêu dành cho từng người, một tình yêu đặc biệt, một tình yêu trọn vẹn. Tình yêu của Thiên Chúa không phải là một tình yêu thông thường, mà là một tình yêu giàu lòng thương xót. Giàu lòng thương xót đó là đặc điểm tình yêu Thiên Chúa: Chúa yêu thương tôi, yêu thương anh chị em. Không phải vì chúng ta tốt lành, mà vì Chúa tốt lành, Chúa xót thương ta. Điều tôi vừa nói trên đây phản ảnh ý kiến của thánh Phaolô khi Ngài viết: “Chúa tuyển chọn chúng ta không phải vì chúng ta muốn hay vì những cố gắng của chúng ta, mà hoàn toàn là vì do lòng thương xót Chúa”.
Điều tôi vừa nói trên đây cũng phản ánh quan điểm của thánh Gioan tông đồ khi Ngài viết: “Tình yêu Thiên Chúa là Người thương chúng ta khi chúng ta chưa thương mến Ngài. Hơn nữa, Người thương chúng ta khi chúng ta còn chìm sâu trong tội lỗi. Người thương chúng ta đến nỗi đã sai Con Một Người đến, nộp mình chịu chết đền tội cho ta”. Dung mạo của tình yêu Thiên Chúa giàu lòng thương xót đang nhìn tôi: Đó là điều tôi nhận thấy, cảm nghiệm được mỗi khi tôi nói lời: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”.
Điều thứ hai tôi nhìn thấy được, cảm nghiệm thấy trong tâm hồn mình khi cầu nguyện với lời Chúa trên đây, đó là nhìn thấy thân phận hèn mọn, yếu đuối của mình.
Tôi nhìn thấy thân phận tôi, thân phận của tất cả anh chị em, những người con Chúa, với cái nhìn của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Thánh nữ Têrêsa đã nhìn bản thân mình, yếu đuối, bé mọn, như một hạt cát bé bỏng, hèn hạ dưới gót chân người đi bộ hay bé bỏng như một trẻ thơ đứng dưới cầu thang cố bước lên mà không sao bước được, hay đau khổ như một người đi trong thung lũng đầy gian truân vất vả, khắc khoải, khổ đau. Khi cầu nguyện lời Chúa “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” thì tôi cũng nhìn thấy thân phận của tôi trong những người hèn yếu nhất kể trong Phúc Âm, như hình ảnh người con phung phá trở về được cha nhân từ ra đón với lòng thứ tha, như hình ảnh người thu thuế đứng cuối nhà thờ cầu nguyện khiêm tốn và được Chúa nhân lành thứ tha, như hình ảnh người trộm đóng đinh bên hữu Chúa, đã được Chúa Giêsu hứa nước thiên đàng cho anh.
Thân phận hèn yếu, bé mọn, đó là điều tôi nhìn thấy thật rõ, mỗi khi cầu nguyện với Chúa: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”.
Điều thứ ba tôi đã nhìn thấy rất rõ và cảm nghiệm được một cách sâu sắc khi cầu nguyện với lời Chúa trên đây, đó là: Sự phó thác tuyệt đối vào quyền năng tình yêu Chúa giàu lòng thương xót.
Tôi nhìn quyền năng tình yêu Thiên Chúa giàu lòng thương xót như một dòng sông bao la, như một biển rộng mênh mông, tràn ngập lửa tình yêu vào tâm hồn tôi, để thiêu đốt tội lỗi, để tẩy sạch những vết nhơ tâm hồn. Phó thác tuyệt đối, vô điều kiện, là không phó thác vì nhờ công nghiệp này, nhân đức kia, việc lành nọ của tôi, bởi vì thực sự mình đâu có công trạng gì đáng kể, để phó thác cho Chúa, để dâng cho Chúa, bởi vì Chúa là Cha, bởi vì Chúa là tình yêu, bởi vì Chúa giàu lòng thương xót. Chỉ có thế thôi, trong sự phó thác ấy, tâm hồn tôi nhìn Chúa hơn là nhìn mình, tìm thánh ý Chúa hơn là tìm ý riêng mình, và cố gắng tập trung lòng trí lại, yêu mến Chúa hơn yêu mến chính mình. Phó thác tuyệt đối như một trẻ thơ trong tay mẹ mình, không tính toán, không nghi ngờ.
Trên đây 3 điều tôi vừa nói là 3 điều tôi nhìn thấy và cảm nghiệm được trong khi cầu nguyện với Chúa lời trên thánh giá: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”. Một lời vắn tắt đơn sơ nhưng dễ giúp cho chúng ta gần lại bên Chúa, giúp cho chúng ta kết hợp mật thiết với Chúa, và nhất là trong hoàn cảnh tâm hồn tăm tối, cô đơn tuyệt vọng, tội lỗi, nguội lạnh, mà ta cứ nhắc đi nhắc lại lời cầu nguyện đó với 3 điều tôi vừa nói trên, chúng ta sẽ cảm thấy được một sự bình an đầy hy vọng, đầy tin tưởng. Và nếu một linh hồn nào quen cầu nguyện thường ngày, nhiều lần lời Chúa trên thánh giá “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”, thì đó là một cách tốt nhất để dọn mình chết hằng ngày, dù cái chết sẽ đến cách bình thường, chậm rãi, dù cái chết có đến bất bình thường, đột ngột. Chúng ta biết, mỗi người chúng ta, rồi ai cũng sẽ một lần ra đi vĩnh viễn, nhưng người có đức tin biết nhìn Chúa là Cha giàu lòng thương xót thì sự ra đi vĩnh viễn ấy chính là sự trở về nhà Cha để gặp Đấng mình đã nhìn thấy trước là tình yêu giàu lòng thương xót. Tôi tin rằng cha già cố Đaminh, cũng như em tôi: Thầy Gioan Baotixita cũng đã sống với cái đức tin đơn thuần, mạnh mẽ của câu: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” để rồi sự ra đi vĩnh viễn của cha già cũng như của thầy Gioan là sự trở về với Cha trên trời.
Lúc nãy, ca nhập lễ có nói lên hình ảnh người trở về nhà Chúa. Khi nghe những lời ấy, tôi đã thầm cầu nguyện và nói với Chúa rằng: “Lạy Cha, chúng con hết thảy ở đây đều mong muốn rằng, cuộc sống của chúng con là một sự trở về thường xuyên, trở về nhà Cha, trở về với Cha trên trời, Đấng giàu lòng thương xót”. Và khi tôi cầu nguyện như vậy, tôi lại nghe tiếng Chúa nói trong lòng: “Con hãy trở về thường xuyên hằng ngày với Cha trên trời, bằng cách năng cầu nguyện với lời Chúa trên thánh giá: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha”. Amen.
Lễ đi mồ Thầy Gioan Baotixita Bùi Anh Thái tại Mỹ Vân, Lạc An, tại Biên Hoà ngày 19-09-1991.
Ông Nathanael đến gặp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn ông và khen ông là người không gian dối. Ông cảm động hỏi Chúa. Sao Ngài biết tôi? Chúa Giêsu trả lời: Trước khi Philip đến gọi ông, tôi đã thấy ông ngồi dưới gốc cây vả.
Câu nói đó cho thấy cái nhìn của Chúa có tầm xa khác thường. Ông Nathanael ở xa Chúa, thế mà Chúa vẫn nhìn thấy ông ngồi dưới gốc cây vả. Cái nhìn đó là rất lạ lùng. Tuy nhiên, thú thật, cái nhìn đó chưa đủ mạnh để thuyết phục tôi. Bởi vì, nếu nhìn thấy một người, chỉ có nghĩa là nhìn thấy cái bề ngoài của họ, như họ cao hay thấp, mập hay gầy, đứng hay ngồi v.v... thì có người với khả năng thiên phú tự nhiên, đã nhìn được từ rất xa. Hơn nữa, hiện nay, với khoa học tiến bộ, người ta có thể nhìn thấy một vật nhỏ một cách chính xác từ khoảng cách từng ngàn, từng triệu cây số.
Nhưng cái đã thuyết phục tôi tin kính và yêu mến Chúa chính là cái nhìn của Chúa, không phải chỉ là cái nhìn con người bề ngoài. Chúa nhìn tâm hồn Nathanael, thấu suốt lương tâm ông, thấy rõ đời ông không có gì là gian dối. Điều này khoa học không làm được.
Hơn nữa, cái nhìn của Chúa không phải là cái nhìn phân tích lạnh lùng, mà là cái nhìn yêu thương. Từ xa, Chúa nhìn Nathanael với cái nhìn đầy lôi cuốn. Trong cái nhìn rực cháy đó, có một tia lửa tình yêu thấu vào tim ông, khiến ông như chờ đón một lời gọi, sẵn sàng ra đi, và khi được Philip gọi, ông đã đến với Chúa. Ông thấy Chúa nhìn ông. Ông nhìn Chúa. Chúa nhìn ông. Hai cái nhìn ấy hiểu nhau, như đã hẹn với nhau từ thuở nào rồi.
Từ phút đó, ông Nathanael tin Chúa, yêu mến Chúa, quyết định đi theo Chúa. Ông theo Chúa cách tự do, nhưng do sức mạnh thiêng liêng, cái nhìn yêu thương của Chúa.
Và như để giúp ông càng hiểu hơn cái nhìn Chúa dành cho ông. Chúa đã cho ông biết là ông sẽ còn thấy nhiều sự lạ hơn, thí dụ, ông sẽ thấy trời mở ra, và có vô số thiên thần lũ lượt lên xuống để lo phục vụ Chúa và con người.
Khi suy nghĩ tới đây, tôi đã tự hỏi mình rằng: Hiện nay Chúa có nhìn tôi và nhìn anh chị em với một cái nhìn tương tự như cái nhìn xưa Chúa dành cho ông Nathanael không? Tôi thấy là có. Tôi thấy Chúa vẫn nhìn chúng ta một cách thiêng liêng đầy nhân ái. Điều đó là chắc chắn. Ngoài ra, Chúa còn nhìn chúng ta qua ánh mắt, thái độ và việc làm của bao người tốt. Điều đó cũng rất chắc chắn. Bất cứ ai đã và đang góp phần xây dựng và phát triển đời ta phần xác hay phần hồn, đời hay đạo, gần hay xa, nhỏ hay lớn, đều là những tia mắt tình thương của Chúa. Họ là những sứ giả tình yêu Thiên Chúa. Họ là những dụng cụ mà các thiên thần Chúa dùng để giúp ta.
Suy nghĩ trên đây thúc giục chúng ta hãy biết cảm tạ ngợi khen Chúa.
Suy nghĩ trên cũng đã dẫn tôi tới một thực sự khác, đó là Chúa muốn nhìn kẻ khác bằng mắt của tôi, và bằng mắt của anh chị em, nghĩa là Chúa muốn trong cái nhìn của chúng ta có tình yêu cứu độ của Chúa. Cái nhìn của chúng ta phải là cái nhìn của những sứ giả tình yêu Thiên Chúa. Cái nhìn của chúng ta phải là cái nhìn bình an của những thiên thần Chúa. Những cái nhìn có trái tim, những cái nhìn có cửa thiên đàng mở rộng.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay chúng ta mừng lễ bổn mạng Đức Cha già. Tôi nghĩ rằng Chúa đã và đang nhìn Đức Cha của chúng ta với cái nhìn đầy vẻ yêu thương đặc biệt, và Chúa cũng đang nhìn chúng ta qua đôi mắt nhân ái của Đức Cha chúng ta. Chúng ta hết lòng cảm tạ Chúa và sốt sắng cầu nguyện cho Đức Cha mến yêu của chúng ta.
Xin Đức Tổng Lãnh Thiên Thần Micae phù trợ Ngài và tất cả địa phận Long Xuyên của Ngài.
Lễ kính Tổng Lãnh Thiên Thần: Micae, Raphael và Gabriel. Long Xuyên ngày 29-09-1991.
Bài Phúc Âm hôm nay đúng là một Tin Mừng rất lớn cho tôi. Tin Mừng đó là lời Chúa hứa: “Hãy xin thì sẽ được. Chúa là Cha nhân ái trên trời, sẽ ban những sự lành cho những ai cầu khẩn Chúa”. Lời Chúa phán trên đây là những lời nhắn nhủ gửi tới mọi người. Riêng đối với những người thiếu thốn, yếu hèn, bé mọn, thì lời Chúa phán trên đây chính là một chiếc phao rất tốt. Chúa trao ban để giúp họ dùng mà bơi qua thân phận đầy gian khổ của mình.
Riêng tôi, tôi đã dùng chiếc phao ấy, và mặc dầu với kinh nghiệm hạn hẹp tôi có thể nói được rằng: Chiếc phao Chúa trao ban cho tôi, tức là tin vào sự cầu nguyện, là một chiếc phao cứu cấp, một chiếc phao an toàn, đã giúp tôi rất nhiều. Giờ đây, tôi xin chia sẻ với anh chị em rất vắn tắt đôi chút kinh nghiệm đó.
Anh chị em thân mến,
Nếu ai hỏi tôi về hậu quả của sự cầu nguyện, thì tôi thưa rằng: Cầu nguyện bao giờ cũng dẫn tới hậu quả tốt, bao giờ cũng dẫn tới hậu quả tích cực. Đúng như lời Chúa hứa hôm nay: “Xin thì sẽ được”. Nhưng cần phải chia ra ba thứ hậu quả khác nhau.
Hậu quả thứ nhất của sự cầu nguyện đó là bồi dưỡng linh hồn về mặt thiêng liêng.
Khi tôi cầu nguyện, thì tôi đến với Chúa, tôi gặp gỡ Chúa, tôi nhìn Chúa trước mặt tôi, tôi nói với Chúa. Sự gặp gỡ thiêng liêng này tự nó đã là một bầu khí làm cho tâm hồn tôi thư thái, bình an. Có khi tôi nói với Chúa, có khi tôi xin ơn này, ơn kia với Chúa, mà cũng có nhiều khi tôi không nói gì. Tôi chỉ nhìn Chúa mà thôi khi cầu nguyện, thì sự cầu nguyện ấy vẫn là một cách để tâm hồn tôi lại gần bên Chúa, để cho tâm hồn tôi nắm bắt được những giá trị thiêng liêng cần thiết nuôi dưỡng linh hồn tôi.
Cũng như đứa bé khi nó đang chạy lại với cha, với mẹ của nó, mặc dầu nó không xin gì, nhưng ngay một sự nó được gặp cha, gặp mẹ của nó đã là một niềm vui đối với nó rồi. Cũng vậy, khi chúng ta cầu nguyện, thì sự chúng ta gặp Chúa, nhìn Chúa, thấy Chúa nhìn mình cũng là một niềm an ủi lớn, một niềm hy vọng lớn cho tâm hồn chúng ta. Đó là hậu quả thứ nhất của sự cầu nguyện, và hậu quả này bao giờ cũng có, bao giờ cũng thêm bồi dưỡng tâm hồn ta về mặt thiêng liêng. Hậu quả thứ hai về sự cầu nguyện: Đó là khi ta cầu nguyện thì ta bước đúng hướng lên thiên đàng.
Hướng lên thiên đàng là đi theo Chúa Kitô, Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống. Chúa phán: “Ai tin Ta sẽ không chết đời đời”. Khi chúng ta cầu nguyện là chúng ta tin Chúa. Mà Chúa đã hứa rằng: Ai tin Chúa sẽ không chết đời đời. Và Chúa đã cũng nói rằng: “Tôi ở đâu thì kẻ tin theo Tôi cũng sẽ ở đó”. Chúa ở trên trời, khi chúng ta cầu nguyện bằng niềm tin, thì tức là chúng ta nắm lấy tay của Chúa. Chúa đi lên, ta cũng được Chúa dắt đi lên. Cầu nguyện bao giờ cũng là đi theo Chúa về thiên đàng, bước từ từ, bằng niềm tin: “Ai theo Ta sẽ không chết đời đời”. Hậu quả đó bao giờ cũng có cho những kẻ biết cầu nguyện, không phải bằng môi, bằng miệng, mà bằng tấm lòng tin của mình. Đó là hậu quả thứ hai.
Hậu quả thứ ba của sự cầu nguyện: Đó là được ơn mình xin với Chúa, khi ơn đó hợp với thánh ý Chúa.
Nếu điều kiện tôi xin với Chúa, hợp ý Chúa, thì thế nào, sớm muộn, cách này hay cách khác, Chúa sẽ ban cho. Còn nếu điều tôi xin không hợp ý Chúa, thì Chúa sẽ thay cho ơn khác có lợi cho tôi. Chúa không cho tôi sự tôi xin là vì Chúa thương tôi. Chứ nếu Chúa không thương tôi mà Chúa cho tôi những sự tôi xin tùy ý muốn riêng của mình, thì chắc sẽ có hại cho tôi.
Trong bài Phúc Âm, chúng ta còn nhớ: Một người cha có hai đứa con, trong hai đứa đó, có một đứa con xin cha chia của cho mình để được tự do xài phí, để được tự do hưởng thụ, để được tự do ham chơi. Người cha đó chắc là vì giận con, cho nên đã ưng theo điều người con xin, đã chia của cho nó, và sau cùng, đứa con ấy đã ra hư đốn. Nhiều khi lời thánh Augustino đã nói rất đúng: “Vì thương mà Chúa không nhậm lời con, vì giận lời con mà Chúa nhậm lời con”.
Anh chị em thân mến,
Khi bước vào nhà thờ này, tôi phải qua một cái sân. Nhưng cái sân đó đầy nước ngập lụt, nên tôi phải đi qua một chiếc cầu nhỏ, bắt ngang bằng những tấm ván mong manh. Khi đi trên chiếc cầu mong manh ấy, tôi nghĩ tới chiếc cầu dẫn tôi tới Chúa. Chiếc cầu đó là lời khấn nguyện. Tôi cũng phải cầm trí khi tôi đi trên chiếc cầu mong manh. Chiếc cầu mong manh trước mặt tôi ở sân nhà thờ là một chiếc cầu rất nhỏ. Khi tôi đi qua chiếc cầu dẫn tôi tới Chúa, tôi cũng phải hết sức khiêm tốn, cầm trí. Đó là một chiếc cầu nhỏ, mà tôi phải bỏ đi cái gì nặng nề, cái gì tự ái, cái gì kiêu căng, tôi phải có một sự hãm mình bên trong, từ bỏ mình, ăn năn tội lỗi như một chiếc cầu hẹp để đi về với Chúa. Cửa vào thiên đàng là cửa hẹp. Cầu dẫn tới thiên đàng là cầu hẹp.
Khi cầu nguyện cũng vậy, phải biết từ bỏ mình, ăn năn tội mình, để đi về với Chúa trong tâm hồn khiêm tốn, cậy trông.
Ngày mai, chúng ta mừng lễ thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, thánh nữ Têrêsa cũng giới thiệu với chúng ta một con đường bé nhỏ, con đường hẹp, con đường khiêm tốn và thánh nữ đã khép mình đi trên con đường ấy.
Chúng ta hôm nay, cũng hãy nhìn vào tấm gương đó để mà đi lên với Chúa.
Điều mà hôm nay tôi ngần ngại cho tôi, và cho anh chị em, không phải vì lời Chúa hứa: “Hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở”, mà là: “Khi Cha gọi, con không mở, khi Cha cho, con không nhận”. Đúng là như vậy.
Nhiều khi Chúa gõ cửa lòng ta, ta đâu có mở cửa cho Chúa vào. Nhiều khi Chúa ban ơn cho ta, mà ta đâu có đón nhận ơn Chúa trao ban. Đó là điều tôi sợ nhất hôm nay.
Vì thế, khi chúng ta xin Chúa Thánh Thần ban ơn Thêm Sức cho con em chúng ta và cho chúng ta, chúng ta xin Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta, con em chúng ta biết luôn luôn khiêm tốn đón nhận, chờ đón ơn Chúa ban cho, và biết lắng nghe tiếng Chúa gọi, tiếng Chúa gõ cửa trái tim mình. Nếu suốt đời chúng ta, chúng ta luôn luôn biết lắng nghe tiếng Chúa gõ cửa và suốt đời chúng ta biết giơ tay ra đón nhận ơn Chúa trao ban, thì tôi chắc chắn Chúa sẽ đến với chúng ta. Chúa chỉ cần chúng ta khiêm tốn. Chúa chỉ cần chúng ta khao khát Chúa. Chúa chỉ cần chúng ta phó thác nơi Chúa, chứ còn chúng ta, chẳng có công nghiệp gì.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin thương đến chúng con, những tâm hồn bé mọn. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, có một chi tiết khiến tôi thắc mắc, chi tiết đó là như thế này: “Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: Dư luận quần chúng coi Thầy là ai? Thì có người nói là Êlia, Gioan Tẩy Giả. Rồi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ rằng: Còn các con, các con nghĩ Thầy là ai? Bấy giờ Simon Phêrô thưa: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa”. Câu trả lời đó là rất đúng. Câu trả lời đó là một chân lý mạc khải. Câu trả lời đó tuyên xưng đức tin. Tôi nghĩ rằng một câu trúng như vậy, một câu tuyên xưng đức tin hay như vậy, thì nên để phổ biến càng sớm càng tốt, càng rộng càng hay. Thế nhưng Chúa Giêsu lại không nghĩ như tôi. Phúc Âm thuật lại là Chúa Giêsu cấm các môn đệ không được nói điều ấy với ai. Thật là khó hiểu?
Trường hợp khó hiểu như vậy cũng đã xảy ra nhiều lần trong Phúc Âm. Chẳng hạn khi Chúa Giêsu từ vùng Tirô sang vùng Siđôn, đến gần bờ biển Galilê, vào miền thập tỉnh, người ta đưa đến cho Chúa Giêsu một người câm điếc. Chúa chữa lành anh ta. Anh ta nghe được, nói được. Thấy vậy, dân chúng reo mừng hoan hô Chúa. Tôi nghĩ rằng đây là sự kiện hiếm hoi, làm sáng danh Chúa. Cứ để cho họ nói. Cứ để cho họ tuyên xưng tốt về Chúa, để uy tín của Chúa tăng lên. Đây là một dịp bằng vàng để truyền giáo. Thế nhưng Chúa Giêsu không nghĩ như tôi. Chúa cấm người ta không được loan truyền điều Chúa mới làm: Đó là phép lạ. Thế mới khó hiểu?
Rồi một trường hợp khác, khi Chúa Giêsu chữa lành nhạc mẫu ông Simon cho khỏi cơn sốt rét, thì người ta đưa đến cho Ngài một kẻ quỷ ám. Chúa truyền cho quỷ phải ra khỏi người đó. Quỷ ra và la lên rằng: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Tôi nghĩ rằng lời ma quỷ nói bấy giờ là rất đúng. Mà vì nó rất trúng nên nó sẽ gây uy tín cho Chúa Kitô. Theo tôi cứ để cho nó nói câu đó hoài hoài. Hơn thế nữa, còn phải bắt nó đi nhiều nơi xưng tụng Đức Kitô là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Thế nhưng Chúa Giêsu không nghĩ như tôi. Chúa lại cấm thằng quỷ không được nói rằng: Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Thật là khó hiểu?
Mình có những chân lý tốt đẹp, mình làm những việc lành lớn lao, mình có phép lạ tày trời, tại sao lại không nói ra? Tại sao Chúa lại cấm phổ biến? Khó hiểu quá đi?
Nhưng suy nghĩ lại, tôi mới thấy cái lý do khiến Chúa Giêsu không muốn phổ biến những phép lạ, những chân lý mạc khải bấy giờ, không phải vì Ngài sợ người ta, mà chỉ vì Ngài thấy rằng: Truyền giáo không đúng cách, truyền giáo không đúng lúc, tuyên xưng đức tin không đúng chỗ, thì sẽ có hại cho đạo hơn có lợi cho đạo. Mà tôi thấy là như vậy.
Đọc Phúc Âm tôi thấy Chúa Giêsu khi cấm người ta phổ biến những việc lành Chúa làm, hay tuyên xưng một chân lý mạc khải, thì vì có 3 cái bất lợi này mà Chúa muốn tránh.
Bất lợi thứ nhất đó là sẽ khơi lên những phong trào quần chúng, lôi kéo Ngài vào mục đích chính trị mà Ngài không muốn.
Điều này đã xảy ra trong dịp Chúa Giêsu làm cho bánh và cá hoá ra nhiều, để nuôi 5.000 người. Dân chúng thấy Chúa Giêsu làm phép lạ lớn lao như vậy thì tung hô Người và muốn tôn Người lên làm vua. Chúa Giêsu thấy quần chúng muốn nổi lên làm chính trị lấy danh nghĩa Ngài, nên Chúa tránh. Tránh không làm phép lạ và tránh luôn quần chúng. Đó là cái hại thứ nhất mà Chúa muốn tránh.
Bất lợi thứ hai đó là Chúa Giêsu thấy: Nếu Chúa Giêsu làm phép lạ có nhiều uy tín, thì sợ quân Rôma lấy cớ đó mà tràn sang phá hoại đền thờ, thiêu hủy quê hương của Ngài.
Điều này trong Phúc Âm có nói ra: Khi Chúa Giêsu chữa cho ông Lazarô chết được sống lại, thì các thấy tư tế họp nhau lại và nói với nhau: “Nếu cứ để ông này làm phép lạ hoài như vậy, dân chúng sẽ lũ lượt kéo nhau đi theo Ngài, thì quân Rôma sẽ viện cớ để thiêu hủy thành thánh chúng ta”. Chúa Giêsu biết rõ cái đó và muốn tránh tai họa cho Đền Thánh, cho Tổ Quốc của mình, nên trong nhiều dịp, mặc dầu là truyền giáo đúng là tốt, tuyên xưng đức tin đúng là cần, nhưng Chúa Giêsu cấm đừng có làm trong lúc đó, kẻo hại cho đạo, cho đất nước của mình.
Bất lợi thứ ba: Đó là nếu Chúa Giêsu phổ biến quá sớm uy tín của mình, Ngài sẽ bị trục trặc, sẽ bị bắt sớm, và do đó Ngài không còn thời giờ để huấn luyện các môn đệ của mình.
Trên đây là những lý do khiến Chúa Giêsu không muốn cho người ta phổ biến những chân lý Phúc Âm và những phép lạ của Ngài.
Những suy nghĩ trên đây cho phép tôi nhận định rằng: Tuyên xưng đức tin là việc tốt, truyền giáo là việc tốt, nhưng cần phải làm những việc đó đúng cách đúng thời. Bởi vì nếu không biết đúng cách, đúng thời, thì sợ rằng sẽ có hại cho đạo hơn là có lợi cho đạo. Hay ít ra chúng ta biết truyền giáo đúng lúc đúng cách, thì cũng sẽ tránh được những thiệt hại lớn cho Hội Thánh chúng ta.
Tôi biết anh chị em ở đây, dưới quyền hướng dẫn của cha cố và sự giúp đỡ của cha phó, các thầy, các sơ. Tất cả đều có một tinh thần muốn tuyên xưng đức tin, muốn truyền bá đức tin cho những người ngoài Công Giáo. Thiện chí đó là rất tốt. Nhưng phải làm cách nào đây cho hữu hiệu hơn?
Tôi nghĩ cách tốt nhất là chúng ta hãy sống tốt. Hãy sống tốt với gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với người chung quanh, bất cứ là lương hay giáo. Một cách mà bây giờ tôi nghĩ hữu hiệu nhất để tuyên xưng đức tin, để truyền bá đạo Chúa, đó là có lòng từ thiện và bác ái.
Chiều hôm qua, tôi đọc một số báo và tạp chí, như tờ Thanh Niên, tờ Lao Động, tờ Tuổi Trẻ, thì thấy có những mẫu tin nói về mẹ Têrêsa Calcutta đi Hà Nội, thăm Hà Sơn Bình để tìm đất làm nhà nuôi trẻ mồ côi. Tôi thấy một nữ tu già mà được báo chí Việt Nam trân trọng như vậy, còn hơn là một nhà chính trị. Mà nữ tu Têrêsa chỉ là một người làm từ thiện bác ái, không hề giảng đạo.
Rồi tối hôm qua, khi theo dõi chương trình truyền hình Cần Thơ, tôi thấy có chiếu hình mẹ Têrêsa đang nói chuyện với thủ tướng Campuchia. Bà nữ tu già, còm lưng, gầy ốm, chỉ nói chuyện về những kẻ nghèo, về bác ái, thế mà được chiếu trên truyền hình cả nước, đề cao một tấm gương yêu thương bác ái. Những tin tức, những hình ảnh mà tôi lượm được chiều hôm qua, càng làm cho tôi thêm xác tín rằng: Cách tuyên xưng đức tin hiệu quả nhất thời nay, cách truyền giáo có sức lôi cuốn nhất thời nay, đó là: Hãy có lòng yêu thương bác ái, nhất là đối với những người ngoài Công Giáo, những người nghèo túng, cô đơn, mồ côi, bệnh tật. Tôi mong rằng trong hoàn cảnh của anh chị em, ngoài việc tuyên xưng đức tin trong lễ này, thì trong mọi sinh hoạt họ đạo, chúng ta đừng quên làm những việc từ thiện bác ái, và sống cởi mở với những người lương dân quanh chúng ta, và cả trong nội bộ Giáo Hội chúng ta. Chứ nếu chúng ta chỉ tuyên xưng đức tin một cách trọng thể, trong những lễ lạc của chúng ta, trong nhà thờ của chúng ta, mà chúng ta không có một cử chỉ bác ái đối với người ngoài nhất là người nghèo, thì tôi thấy việc truyền giáo và tuyên xưng đức tin sẽ không có hiệu quả. Hãy sống bác ái. Người có bác ái cũng giống như một bông hoa đẹp. Bông hoa không nói gì cả, bông hoa không tuyên xưng gì cả, nhưng nó là một bông hoa đẹp, tuy không nói, nhưng người ta cũng thấy được cái đẹp của nó, cái hương thơm của nó.
Mỗi người Công Giáo chúng ta, mỗi giáo đoàn Công Giáo chúng ta, hãy là những đóa hoa, hãy là những bó hoa tươi, đẹp, thơm, do tinh thần bác ái cởi mở chan hòa. Và nếu được như vậy, đạo chúng ta sẽ mở ra, và đức tin ấy mới là đức tin truyền giáo thực sự.
Xin Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan cho chúng ta, để chúng ta biết chọn cách mà tuyên xưng đức tin, biết chọn cách để mà truyền giáo trong hoàn cảnh rất phức tạp hiện nay.
Bài Phúc Âm hôm nay nói về sự Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Nghe bài Phúc Âm này, tôi đã nghĩ đến công việc truyền giáo trong địa phận Long Xuyên chúng ta. Nếu tôi không lầm, thì từ sau ngày giải phóng đến hôm nay tình hình rao giảng Tin Mừng trong địa phận Long Xuyên chúng ta đã có nhiều chuyển biến tốt. Số linh mục hoạt động công việc rao giảng Tin Mừng ở các nơi đã tăng lên rất nhiều. Số người ý thức về trách nhiệm chia sẻ Tin Mừng cũng đã tăng lên rất nhiều. Số hoạt động có tính cách rao giảng Tin Mừng tại các nơi cũng đã tăng lên rất nhiều. Số địa điểm truyền giáo cũng đã tăng lên. Như vậy, có nghĩa là nhờ ơn Chúa, về phương diện truyền giáo của địa phận Long Xuyên chúng ta không những không mất mùa, mà còn được mùa, với một số thu hoạch tương đối đáng kể.
Riêng họ đạo Rọc Lá chúng ta đây, cũng đã có nhiều phát triển tốt đẹp. Tôi còn nhớ rất rõ, hình ảnh giáo đoàn Rọc Lá của 20 năm về trước. Lúc đó, tôi không dám nghĩ tới một tương lai tốt đẹp hơn, thế mà hôm nay Rọc Lá đã có được một hình ảnh tương đối tốt đẹp. Từ những cơ sở vật chất cho đến những cơ sở tinh thần, cá nhân và tập thể. Khi tôi làm phép ngôi thánh đường nhỏ bé, xinh xắn này, tôi đã nghĩ tới tất cả những người đã góp phần tích cực vào việc xây dựng và phát triển họ đạo Rọc Lá chúng ta. Tôi thấy có những linh mục. Tôi thấy có những tu sĩ. Tôi thấy có những giáo dân. Và tôi thấy có những người ngoài Công Giáo, có người ở gần, có người ở xa. Đặc biệt, tôi nhớ tới một số người Công Giáo đầu tiên, đã đến địa phương này.
Như anh chị em đã biết, đó chỉ là một vài người Công Giáo từ miền xa đến đây, vì lý do sinh sống. Thế rồi từ mấy người đó, đã sinh sôi nẩy nở. Hôm nay trở thành một giáo đoàn Rọc Lá chúng ta. Tôi nhớ tới những ngày xa xưa ấy, mấy người Công Giáo ấy đã sống đạo và truyền đạo trong một hoàn cảnh rất khó khăn, rất khắc nghiệt, không có những điều kiện như hôm nay. Vì thế, nếu xét về phương diện loan báo Tin Mừng, thì mấy người tổ tiên của Rọc Lá chúng ta, những người giáo dân tầm thường ấy, đáng phải gọi là những người tông đồ đầu tiên, được Chúa sai đi để gieo rắc mầm mống Phúc Âm, nhờ đó mà có chúng ta hôm nay, nhờ đó mà có ngày vinh quang hôm nay.
Khi tôi nhìn thấy những tông đồ đầu tiên giáo hữu như vậy, và cũng nhìn thấy một số người ngoài Công Giáo, đã và đang góp phần tích cực trong việc phát triển Tin Mừng Nước Chúa tại địa phương này, tôi mới khám phá ra rằng: Chúa quan phòng làm nhiều việc rất lạ lùng, rất đẹp đẽ theo con đường và phương pháp riêng của Người. Và tôi hiểu rằng: Hội Thánh loan báo Tin Mừng, cần phải có một cái nhìn nhạy bén, biết hiểu được những tín hiệu Chúa gởi đến qua các sự việc xảy ra, và biết nắm bắt những cơ hội thuận tiện trong lịch sử nói chung và địa phương nói riêng. Ngoài ra Hội Thánh loan báo Tin Mừng cũng cần phải có một tấm lòng khiêm tốn, để nhận ra điều này là: Khi ta loan báo Tin Mừng, khi ta truyền giáo, thì chính chúng ta cũng được thanh luyện, cũng được Phúc Âm hoá, do chính những người mà chúng ta truyền đạo cho.
Tôi thấy cái nhìn nhạy bén và lòng khiêm tốn mà tôi vừa nói, đã và đang có một cách rõ rệt nơi các linh mục làm việc loan báo Tin Mừng ở trong địa phận chúng ta nói chung, và trong hạt Rạch Giá chúng ta nói riêng. Cái nhìn bén nhạy ấy, cái lòng khiêm tốn ấy, thiết nghĩ đã phát ra từ ngọn lửa thiêng liêng do tình mến Chúa nồng nàn, và do tình thương yêu anh chị em mình, không phân biệt lương giáo. Chính lửa ấy đã thắp sáng lên, đã nung nấu lên tinh thần rao giảng Phúc Âm mà chúng ta đang thấy bốc cháy khắp nơi, trong địa phận chúng ta. Tinh thần loan báo Tin Mừng là một đặc điểm của người môn đệ Chúa, là một dấu chỉ của đức ái Phúc Âm, là một thước đo lòng đạo đức Phúc Âm.
Khi tôi nhìn thấy một người nào, một nơi nào có tinh thần loan báo Phúc Âm, tinh thần truyền giáo, thì tôi tự nhiên thấy nơi người ấy, nơi địa phương ấy, nước Thiên Chúa đã đến gần, như bài Phúc Âm hôm nay Chúa đã nói: Khi chúng ta đi loan báo Tin Mừng, đi truyền giáo, thì hãy nói rằng: Nước Thiên Chúa đã đến gần.
Hôm nay, lúc này, khi nhìn thấy anh chị en ở trước mặt tôi, tôi nhìn thấy nước Thiên Chúa đã đến gần. Nước Thiên Chúa là chính Đức Kitô, Đấng cứu độ loài người, giàu lòng thương xót. Ngài đem sự bình an đến. Ngài đem ân sủng đến. Ngài đem sự công chính đến. Ngài đem sự đoàn kết đến. Nước Thiên Chúa đang đến giữa chúng ta.
Vì thế, trong lễ thánh Luca hôm nay, người tông đồ đã viết lại Phúc Âm, tôi cầu xin Chúa cho tất cả chúng ta, mỗi người hãy là những Luca mới. Hay ít ra hãy là một bản Tin Mừng sống động do nếp sống của chúng ta. Tinh thần công bình, tinh thần bác ái, tinh thần hài hoà, tinh thần đoàn kết được thực hiện, nhất là trong địa phận chúng ta, không phân biệt Công Giáo, hay không Công Giáo, không phân biệt tín ngưỡng hay không tín ngưỡng.
Tôi nghĩ rằng, giáo đoàn Rọc Lá chúng ta còn nhiều điều phải làm lắm, nhưng những điều đã làm được cũng đã rất tốt, cần tạ ơn Chúa, cần nhìn đó như một Tin Mừng để mà phấn khởi, để mà lạc quan, để mà biết nhìn về phía trước với hy vọng cậy trông và niềm tin vững chắc.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến với chúng con, với tình yêu, với lòng tha thứ, và với tất cả hy vọng. Xin chúc lành cho chúng con.
Khi nghe có một thánh lễ Ngân Khánh giáo xứ, Ngân Khánh nhà thờ, nhiều người đã ngạc nhiên coi đây là chuyện không bình thường. Riêng tôi, sau khi nghe cha xứ trình bày những lý do tổ chức và cách tổ chức lễ Ngân Khánh, tôi đã vui vẻ đồng ý, Bởi vì, tôi cho đây là một sáng kiến tốt, có khả năng khơi dậy nguồn hứng thú mới cho sinh hoạt giáo xứ, mà cũng có khả năng giáo dục tinh thần biết ơn. Tôi suy nghĩ như vậy, bởi vì tôi nhìn thấy tình hình phức tạp của Hội Thánh Công Giáo trong thế giới hôm nay.
Chắc anh chị em đã thấy trong thế giới hôm nay, nền văn minh vật chất, với các phong trào tự do hưởng thụ càng ngày càng có sức mạnh, đa dạng, và đầy hấp dẫn. Trong thế giới hôm nay, trong não trạng con người, nhất là con người giới trẻ, đang bị lôi cuốn đến một đời sống tự do: Tự do suy nghĩ, tự do tình cảm, tự do hưởng thụ. Trong một tình hình như vậy, nhiều nơi Giáo Hội tuy là đủ mạnh về cơ chế, về tổ chức, về quyền bính, nhưng không đủ mạnh về tinh thần, về sức sống nội tâm, nên đang đi xuống trầm trọng, cam chịu những mất mát to lớn.
Để đưa ra một vài ví dụ tiêu biểu, tôi xin kể ra đây vắn tắt một, hai tình hình suy thoái, rút ra từ một tờ báo Công Giáo Pháp mà tôi mới nhận được chiều hôm qua, và đêm vừa rồi tôi đã đọc rất kỹ.
Tình hình suy thoái thứ nhất về đức tin, lòng đạo là tình hình Giáo Hội Công Giáo tại Ba Lan.
Ba Lan là một nước hầu như toàn tòng Công Giáo. Cách đây hai năm thì đầy uy tín. Nhưng bây giờ, việc giữ đạo đang xuống dốc. Theo thống kê, thì số người Ba Lan bây giờ đi lễ Chúa Nhật chỉ còn 50%. Số những người Ba Lan tán thành với hoạt động của các Đức Giám Mục, linh mục của mình cũng đã giảm xuống. Năm 1989, thời còn đang đấu tranh với chế độ Cộng Sản, thì số người ủng hộ các Giám Mục, linh mục là 90%. Bây giờ, số ủng hộ các đức cha và các cha trong nước chỉ còn 28%.
Hơn nữa, nhiều tệ đoan xã hội đang đua nhau mọc lên: Xì ke, đĩ điếm, chơi bời. Người ta nói rằng: Giáo Hội Ba Lan trong thời chống Cộng thì tỏ ra rất mạnh. Nhưng trong thời tiếp xúc với thế giới tự do, phải đối phó với các vấn đề đặt ra thì lại tỏ ra quá yếu. Vì thế, mà có một sự suy thoái về uy tín. Hội Thánh Công Giáo Ba Lan không còn hấp dẫn nữa. Lý do là vì xã hội chuyển mình sang một nếp sống mới. Còn Hội Thánh vẫn còn loay hoay với cơ chế cũ, với khuôn khổ cũ, với phong cách cũ. Vì thế mà dân chúng bỏ đi. Đó là tình hình suy thoái thứ nhất, tôi đọc được đêm rồi.
Tình hình suy thoái thứ hai cũng rút ra từ tờ báo Công Giáo đó, là tình hình Công Giáo tại Brasil.
Như anh chị em nếu theo dõi cũng đã biết, Brasil là một nước Công Giáo rất lớn tại Nam Mỹ. Thế nhưng, từ lần Đức Giáo Hoàng đến Brasil năm 1980 đến bây giờ, số người Công Giáo bỏ Hội Thánh đã lên tới hơn một triệu, và số các giáo phái đã tăng lên gần tới hai trăm năm mươi. Tờ báo, khi nói về chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Brasil tháng rồi, đã kéo một hàng tít lớn: “Đức Gioan Phaolô II không còn hấp dẫn nữa tại Brasil”. Có nhiều thành phố, người ta dự đoán ước chừng phải có tới một triệu người đến đón Đức Thánh Cha. Nhưng thực tế, chỉ có độ một trăm ngàn người. Tại Brasil, thành phần đón Đức Thánh Cha đông nhất lại là lực lượng cảnh sát trên mười ngàn người.
Khi Đức Thánh Cha đến Brasil, chính quyền địa phương cho các trường học, công sở nghỉ việc, để đi dự lễ, nhưng giáo dân lại lợi dụng ngày nghỉ đó để đi tắm biển hơn là đi dự thánh lễ của Đức Thánh Cha.
Theo tờ báo nói, sở dĩ có một sự suy thoái như vậy về đức tin, về lòng đạo tại Brasil, là vì Giáo Hội chưa đổi được tiếng nói của mình, thành ra quần chúng sinh nghi, mất miền tin và chạy sang các giáo phái khác.
Khi tôi đọc những tin này, tôi đã nghĩ rằng: Những chuyện suy thoái đang xảy ra tại các nước ấy cũng có thể sẽ xảy ra tại Giáo Hội Việt Nam chúng ta. Và tôi có cảm tưởng là đã có bắt đầu xảy ra ở nhiều nơi.
Chỉ mới hai năm nay, khi tình hình cởi mở được thực hiện, thì tôi thấy nhiều nơi đã xuống dốc về tinh thần đạo. Mặc dầu có những tổ chức bên ngoài, nhưng chỉ nặng về cái vỏ, còn bên trong thì rỗng.
Thêm vào đó, nhiều nơi đã phát hiện ra những hiện tượng tiêu cực mà trước đây không có, nhất là nơi giới trẻ: Cờ bạc, say sưa, gian tham, giả dối. Tất cả những cái đó đang báo hiệu cho tôi, và cho những người có trách nhiệm, phải có những sáng kiến chuẩn bị cho Giáo Hội mình. Bởi vì, sớm muộn, chúng ta sẽ đi vào một tình trạng cởi mở, và trong đó, chúng ta sẽ gặp thấy những trào lưu tự do không đi vào đất nước chúng ta bằng những bước đi dè dặt như bây giờ, mà sẽ tràn mạnh vào như thác lũ. Nếu không chuẩn bị để có một tâm hồn đức tin, đức cậy vững chắc, tôi nghĩ khó mà tránh được những mất mát quan trọng.
Nhiều nơi, các cha cũng như anh chị em giáo dân, tu sĩ, đã ý thức điều đó, nên đã có nhiều sáng kiến. Sáng kiến đó có thể là tu sửa nhà thờ, cung thánh, sáng kiến ấy đã đem lại một số kết quả nhất định. Nhưng cái phấn khởi cũng rất mau tan. Qua cuộc lễ, mọi cái dần dần đã đi vào hững hờ.
Rồi có những sáng kiến khác là mở ra là những công việc từ thiện xã hội. Đây cũng là một sáng kiến đem lại nhiều kết quả tốt, nhất là nhờ đó mà xây dựng được liên hệ đoàn kết giữa đời với đạo, giữa Công Giáo và các tôn giáo bạn. Ngay ỏ xứ đạo này, tôi cũng thấy anh chị em đã mở ra về phương diện đó, khi làm những chiếc cầu, khi sửa lại đường đi v.v... Tuy nhiên, phải nói rằng, nếu chúng ta không khôn ngoan, những sáng kiến ấy cũng có thể gây ra một số kết quả bất lợi cho chính mình và cho giáo đoàn của mình.
Rồi cũng có những sáng kiến khác như là học hỏi thánh kinh, mở lớp giáo lý. Đây cũng là những sáng kiến gây nhiều hiệu quả tốt, nhưng nếu không đi vào chiều sâu bằng việc cầu nguyện, làm việc lành kèm theo, thì sự học thánh kinh, học giáo lý chỉ là một mớ lý thuyết suông. Học để nhớ. Nhớ để trả bài. Có thế thôi.
Không biến đổi được tâm hồn mình. Không đổi mới được xã hội mình. Tôi nghĩ rằng cái sáng kiến nên có và cần có lúc này là hãy làm hết sức mình để trở về với Đức Kitô và Phúc Âm Người.
Trở về với Đức Kitô và Phúc Âm Người, là hãy sống với Đức Kitô và trong Đức Kitô. Làm sao Đức Kitô và tinh thần Đức Kitô ở trong chúng ta. Chẳng hạn như chúng ta mừng lễ hôm nay, dâng thánh lễ này để tạ ơn, thì chúng ta kết hợp với đời sống chúng ta, nhất là những đau khổ hy sinh của chúng ta với hy sinh của Chúa Kitô trên bàn thờ. Phó thác, cậy trông, vui lòng vâng theo thánh ý Chúa Cha như Chúa Giêsu đã làm xưa trên thánh giá, để đền tội, để tạ ơn.
Tôi nhớ cách đây một năm hay hai năm không rõ, khi viếng nhà thờ này, tôi có đọc thấy một tấm bảng viết chữ “Trở về với Đức Kitô và Phúc Âm của Người”. Tôi nghĩ rằng cha xứ của anh chị em cũng đã lấy điều đó làm khẩu hiệu, một hướng đi, để tu luyện mình, một khẩu hiệu để giúp nội tâm hoá đời sống đạo của mình. Hôm nay, tôi không còn thấy lời đó trên tấm bảng, nhưng tôi tin rằng câu đó đã in sâu vào anh chị em. Tôi mong rằng cũng nhờ cái khẩu hiệu “Trở về với Đức Kitô và Phúc Âm của Người” mà chúng ta để ý, từ nay hãy đào sâu hơn lòng tin cậy, kính mến, tinh thần công bình bác ái, và đào luyện những tông đồ giáo dân, để mai này, khi tình thế đổi mới tăng lên, số tông đồ giáo dân ấy sẽ biết sống Phúc Âm, sẽ truyền bá Phúc Âm, sẽ bênh vực Phúc Âm với một tinh thần mà tôi gọi là “ Sự khôn ngoan của Chúa Thánh Linh”. Chúng ta thường đề cao đức tin, đức ái, nhưng trong một hoàn cảnh khó khăn phức tạp, chúng ta đừng quên đức khôn ngoan của Chúa Thánh Thần.
Anh chị em thân mến,
Anh chị em sống, buôn bán, làm việc, thì thấy sự khôn ngoan là cần thiết. Cũng vậy, sống đạo bây giờ, truyền giáo bây giờ, cần phải rất khôn ngoan. Và khôn ngoan là khôn ngoan của Phúc Âm, chứ không phải khôn ngoan thế gian, khôn ngoan chính trị.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi hợp ý với cha xứ, các cha, tu sĩ, anh chị em trong xứ và ngoài xứ, các ân nhân xa gần để tạ ơn Chúa và cũng như vài người đại diện đã nói: “Hôm nay không phải là ngày kết thúc, nhưng là ngày mở ra cho một giai đoạn mới”. Một giai đoạn chuẩn bị để đi vào một tương lai đầy phức tạp, trong đó có nhiều thử thách hơn, có nhiều cám dỗ hơn, có nhiều quyến rũ hơn. Cần phải rất mạnh trong tinh thần. Cần phải rất khôn ngoan trong phong cách, để giữ cho Hội Thánh mình, Giáo Hội mình có một chỗ đứng xứng đáng trong quê hương Việt Nam chúng ta. Amen.
Lễ kỷ niệm 25 năm thành lập họ đạo Kênh O, ngày 14-11-1991.
Bài Phúc Âm hôm nay ghi lại lời Chúa Giêsu đã cầu nguyện tạ ơn Chúa Cha. Chúa Giêsu nói: “Con chúc tụng Cha, vì đã giấu nhiều điều tốt lành khỏi những người thông thái, mà chỉ tỏ ra cho những kẻ đơn sơ”.
Khi nghe đọc câu Chúa Giêsu vừa nói, tôi đã thưa với Chúa Giêsu rằng: “Chúa nói: Chúa tỏ ra nhiều điều tốt lành đặc biệt, cho những kẻ đơn sơ bé mọn”. Vậy, Chúa biết họ đạo Láng Sen đây là những tín hiệu đơn sơ bé mọn. Chúa có tỏ ra cho họ những điều đặc biệt tốt lành không?”. Tôi thưa với Chúa Giêsu như vậy, với một tấm lòng tin cậy Chúa và yêu mến anh chị em. Tôi không nghe thấy tiếng Chúa Giêsu trả lời trực tiếp, nhưng tôi nhận thấy lời trả lời của Chúa Giêsu, qua sự tôi nhìn sâu vào đời sống anh chị em.
Khi nhìn sâu vào đời sống anh chị em, tôi thấy thực sự Chúa đã mạc khải cho anh chị em một số điều tốt lành đặc biệt. Và anh chị em cũng đang sống những điều tốt lành đặc biệt ấy.
Điều thứ nhất mà Chúa đã mạc khải với anh chị em một cách đặc biệt, đó là sự tập trung lòng đạo vào Đức Kitô.
Anh chị em biết, Đức Giêsu Kitô là quà tặng tuyệt vời quý báu nhất của Chúa Cha ban cho nhân loại, là tình yêu tuyệt đối, tình yêu tha thứ, tình yêu cứu độ. Chúa Giêsu đến, chỉ vì thương xót chúng ta. Đến để cứu độ, đến để ủi an, đến để dắt dìu, đến để đưa chúng ta đến bến bờ hạnh phúc đời đời. Ngài đến, nhưng đợi chúng ta đón tiếp Ngài.
Anh chị em đã đón nhận Đức Kitô với lòng khiêm tốn và biết ơn. Khi nhìn thấy bầu không khí trật tự, sốt sắng, đông đảo trong thánh đường này, tôi có thể nhìn thấy thái độ khiêm tốn và tha thiết của anh chị em đón nhận Đức Kitô vào tâm hồn mình, để Ngài ban sức thiêng liêng, để Ngài hướng dẫn bước đi, để Ngài ban hy vọng cho mỗi một người. Biết đón nhận Đức Kitô vào tâm hồn mình, là một tình yêu nhưng không, đó là một mạc khải quý giá mà Chúa đã dành cho anh chị em. Và tôi thấy anh chị em đang sống trong mạc khải đó.
Điều tốt lành thứ hai rất quý trọng mà Chúa đã mạc khải cho anh chị em, và tôi thấy anh chị em đang tích cực sống với mạc khải đó. Đó là, anh chị em tích cực xây dựng Hội Thánh và gắn bó với Hội Thánh.
Xây dựng Hội Thánh không phải là xây dựng nhà thờ mà chủ yếu là xây dựng con người, để mỗi con người trở thành đền thờ Chúa Thánh Linh, và liên hệ người này với người kia là liên hệ mến Chúa, yêu người. Đây là một không khí gia đình thiêng liêng báo hiệu Nước Trời sắp đến. Khi nhìn một họ đạo hết lòng mến Chúa, thực tình yêu nhau, tôi thấy đó là dấu chỉ của Nước Trời. Nước Trời đang đến. Mà Nước Trời chỉ là những tâm hồn yêu thương, công bình hoà thuận.
Anh chị em là những người gốc Nam, gốc Trung, gốc Bắc, ở rải rác nhiều nơi, với nhiều trình độ khác nhau, với nhiều sức sống khác nhau, thế mà tôi thấy anh chị em vẫn xây dựng được giữa anh chị em gặp gỡ nhau, trao đổi nhau, thăm hỏi nhau. Đó cũng là một dấu chỉ xây dựng Hội Thánh, và xây dựng ấy rất là quan trọng.
Ngoài ra, tôi cũng biết anh chị em cũng nâng đỡ nhau, chia sẻ với nhau. Hội Thánh gồm những người biết cho đi và lãnh nhận. Không ai chỉ biết cho đi. Không ai chỉ biết lãnh nhận. Ngay khi tôi giảng cho anh chị em, tôi vẫn lãnh nhận nơi anh chị em những lời cầu nguyện, những tình cảm nâng đỡ, những gương sáng tốt lành, những lời khích lệ đối với tôi. Xây dựng Hội Thánh là biết khiêm tốn lãnh nhận và biết quảng đại cho đi, về tinh thần và vật chất, để giáo đoàn của chúng ta trở nên một gia đình đầm ấm, nâng đỡ nhau, yêu thương nhau, muốn cho nhau được sự lành, làm cho nhau được sự tốt.
Điều tốt lành thứ ba mà Chúa đã mạc khải cho anh chị em và anh chị em cũng tích cực sống với lời mạc khải đó, đó là bác ái đối với mọi người.
Suy gẫm Phúc Âm chúng ta thấy: Căn bản đạo Công Giáo là bác ái. Và khi đọc đoạn Phúc Âm nói về ngày phán xét, ta cũng thấy, ngày ấy, Chúa đánh giá mỗi người, phân loại theo tiêu chuẩn bác ái.
Phần rỗi mỗi người chúng ta, không ở tại sự chúng ta thu tích được nhiều công phúc chỉ riêng mình, mà ở tại sự chúng ta biết làm cho người khác được hạnh phúc về tinh thần và vật chất.
Nói như vậy để chúng ta hiểu rằng: Vinh quang Thiên Chúa không chỉ là những lễ nghi bề ngoài, những thánh đường khang trang, mà vinh quang Thiên Chúa chính là con cái Chúa biết bắt chước, lo cho người khác được sự tốt lành, và làm cho hình ảnh của Thiên Chúa nơi mọi người được sáng ra, được đẹp thêm, được hoàn chỉnh về mọi mặt.
Nhìn qua đời sống của anh chị em ở đây tôi thấy: Với sự lãnh đạo của cha cố, anh chị em đã có những thái độ thân thương đối với mọi người, kể cả những người xa lạ đối với anh chị em. Anh chị em đã thực thi bác ái đối với mọi đối tượng cần có.
Ba mạc khải trên đây, tôi cho là ba điều rất tốt lành mà Chúa đã dành cho họ đạo bé nhỏ đơn sơ của anh chị em. Và điều tôi mừng lắm là anh chị em đã sống, đang sống, và đang tích cực cố gắng sống tốt đẹp hơn nữa với 3 điều mạc khải ấy. Một là đón nhận Đức Kitô là sự sống, là Đường, là Chân lý. Hai là xây dựng Hội Thánh, một Hội Thánh loan báo Nước Trời. Ba là thực thi bác ái đối với mọi người.
Tất nhiên, chúng ta chỉ làm những việc đó với khả năng chúng ta, hạn hẹp trong những điều kiện rất khó khăn. và Chúa muốn như vậy để chúng ta nhớ rằng: Chúng ta chỉ là khách hành hương đi về thiên đàng, có ánh sáng đấy, mà cũng có bóng tối đấy, có nhân đức, mà cũng có những tội lỗi đấy. Đừng ngã lòng. Đừng nản chí. Hãy làm vừa sức mình trong tinh thần cậy trông phó thác. Nhất là, họ đạo anh chị em có Đức Mẹ là gương sáng về sự đón nhận Đức Kitô, về sự xây dựng Hội Thánh, về sự thực thi bác ái. Hãy cậy trông Đức Mẹ. Xin Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta biết có những bước đi âm thầm, kiên trì trong việc theo gương Chúa Kitô.
Xin Chúa Thánh Thần hôm nay ban cho mỗi người chúng ta có một quyết tâm mới là sống những điều Chúa đã dạy chúng ta, những điều Chúa dạy cho những người đơn sơ bé mọn, biết đón nhận Đức Kitô vào trong lòng mình, biết tích cực xây dựng giáo đoàn của mình nên một giáo đoàn bác ái, và biết sống bác ái đối với mọi người không phân biệt một ai.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến với chúng con. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Láng Sen, ngày 17-11-1991.
Tôi xin phép được coi các thầy cô là những người trong gia đình. Bầu khí họp mặt đây là bầu khí gia đình. Buổi tọa đàm hôm nay mang tính cách gia đình. Vì thế những lời tôi nói bây giờ không phải là giảng dạy, mà chỉ là chia sẻ.
Tôi chia sẻ một điều mà tôi cho là quan trọng nhất trong đời học vấn của tôi.
Đời học vấn của tôi khá dài. Từ tiểu học lên đại học. Từ trường trong nước đến trường ngoài nước. Trên con đường dài đó, tôi đã học kiến thức, tôi đã học đạo đức, tôi đã học nhân cách. Tất cả những gì tôi học, đã làm nên kho tàng vốn quí, giúp tôi lập thân và tiến thân.
Hôm nay, khi nhìn vào kho tàng vốn quí ấy, tôi thấy nhiều chữ nghĩa tôi học đã rơi rụng đi, nhiều hình ảnh đẹp tôi yêu mến cũng đã phai nhòa rồi. Nhưng cái còn mãi vững bền sống động, đó là lương tri và lương tâm của tôi đã được giáo dục trên con đường học vấn.
Hỏi một cách đơn giản, thì lương tri là khả năng tinh thần và biết lựa chọn điều lành và từ chối điều ác.
Những nhà giáo đầu tiên đã huấn luyện lương tri lương tâm tôi chính là cha mẹ tôi. Tiếp đó là các thầy cô ở trường.
Không thầy cô nào chuyên dạy tôi về lương tri và lương tâm. Như tất cả các giáo viên, giáo sư của tôi, khi dạy các môn khoa học của mình, đều đã uốn nắn lương tri và lương tâm tôi, khi các ngài đề cao điều lành, tôn trọng chân lý, và dấn thân làm điều tốt.
Nhờ có lương tri và lương tâm đã được rèn luyện, tôi mới có thể tự phát triển chính mình theo một lý tưởng đã chọn. Lương tri và lương tâm như hai cánh cửa tâm hồn. Mọi cái vô tâm hồn đều bị kiểm tra qua cửa đó, và được phân loại tốt xấu, phải trái, lành dữ, đúng sai, khôn dại. Cuộc sống là một cuộc chiến đấu triền miên giữa các lực lượng xây dựng và các lực lượng phá hoại trong bản thân và ngoài thế gian, nếu không có lương tri và lương tâm hướng dẫn, con người sẽ dễ đánh mất tự do tâm hồn, trở thành nô lệ những cái sai trái ác độc.
Cũng nhờ có lương tri và lương tâm đã được giáo huấn, tôi mới có thể xây dựng đời sống xã hội của tôi bằng các dây liên hệ hợp lý hợp tình. Sống là sống với. Nhưng người tôi sống với thì đông vô vàn. Họ thuộc các tầng lớp khác nhau, có những địa vị khác nhau, với những tính tình khác nhau. Nhưng điều tôi để ý đầu tiên nơi những người tôi sống với là lương tri và lương tâm của họ. Người có lương tri và lương tâm lành mạnh, bén nhạy là người đáng tin. Mức độ tín nhiệm và hợp tác tùy thuộc ở khâu đó.
Căn cứ vào những hậu quả của lương tri và lương tâm trong đời sống gia đình, xã hội, tôi thấy cái trọng lượng của mỗi người đều xuất phát từ tâm hồn, ở chỗ có lương tri và lương tâm tốt xấu, với trình độ cao thấp. Người có lương tri tốt, là người có thực chất người. Lương tri, lương tâm là những cái thiêng liêng vô hình. Nhưng chính những cái thiêng liêng vô hình ấy làm nên bầu khí văn minh, hòa bình, hạnh phúc các gia đình, quốc gia, quốc tế.
Thiết tưởng, cũng chính cái thiêng liêng vô hình ấy đang làm nên tinh thần nhà giáo Việt Nam, nơi những thầy cô chỉ vì lương tri tốt và lương tâm tốt, mà dấn thân vào nghề dạy học, trong một hoàn cảnh đầy khó khăn đủ thứ.
Cũng vì lương tri và lương tâm giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống cá nhân, gia đình, xã hội, nên tôi muốn nói thêm ở đây một chút kinh nghiệm về quá trình phát triển lương tri và lương tâm, mà tôi đã trải qua.
Ngay từ nhỏ, cha mẹ tôi và thầy giáo trường làng đã in vào tâm hồn tôi chân ý sơ đẳng này: Người tốt là người hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, tổ tiên, thầy dạy, ân nhân, và tạo hóa. Cách đền ơn hay nhất là chu toàn các bổn phận của mình.
Càng học lên, tôi càng thấy rõ có những bổn phận có thể chu toàn một cách tốt đẹp, nhờ điều kiện kiến thức và đạo đức. Người học thức có đạo đức, và người đạo đức có học thức, sẽ làm tốt bổn phận của mình, sinh nhiều kết quả hữu ích.
Trong ba năm học tại các đại học bên Thụy Sĩ và bên Cộng Hòa Liên Bang Đức, tôi thấy các giáo sư của tôi, khi giảng về các hệ thống kiến thức thường nhấn mạnh đến khoa học, và khi giảng về các giá trị đạo đức thường đề cao đức khôn ngoan. Chính đại học Fribourg, Thụy Sĩ cũng đã chọn cho mình khẩu hiệu: “Khoa học và khôn ngoan”. Đó là hướng giáo dục, đó là đặc điểm văn hóa của trường.
Những chặng đường học vấn trên đây đã giúp lương tri và lương tâm tôi phát triển. Kết quả là tôi thích gắn bó với những gì thuộc trách nhiệm của mình, thích mở rộng đào sâu kiến thức xây dựng đạo đức, để làm tốt mọi công việc bổn phận. Cố gắng làm việc bổn phận với tinh thần khoa học và khôn ngoan của người đi tìm chân lý khát khao chân lý và tôn trọng chân lý, nhất là chân lý Phúc Âm, và chân lý sống động chính là Đức Kitô, Đấng là Đường, là Sự thật và là Sự Sống.
Những ưa thích trên đây đã trở thành những xác tín nội tâm, làm nên bầu trời nội tâm, thiết lập một nền văn minh nội tâm, với mục đích phục vụ tốt quê hương và Hội Thánh trong phạm vi trách nhiệm của mình. Từ nội tâm đó, tôi nhận định và chọn lựa những gì có liên quan đến bổn phận sống đời, sống đạo và loan báo Tin Mừng. Nếu gọi đó là những thao thức, thì những thao thức ấy đã phát xuất từ lương tri và lương tâm trách nhiệm đối với Chúa, đối với Hội Thánh, đối với Tổ Quốc đồng bào.
Tôi nghĩ rằng: Nếu sau bao năm học hành, hôm nay tôi chỉ còn giữ lại được bấy nhiêu, thì thiết tưởng đó cũng là một kết quả đáng kể, đền đáp phần nào công ơn các nhà giáo của tôi.
Và nếu sau buổi nói chuyện này, các thầy cô cũng coi sự huấn luyện lương tri và lương tâm là một đòi hỏi cấp bách trong việc chấn hưng nền đạo đức tại Việt Nam hôm nay, thì đó sẽ là điều tôi phải cám ơn các thầy các cô rất nhiều.
Đức Cha GB.Bùi Tuần nói chuyện với các thầy cô nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20-11-1991
Chúng ta đang chứng kiến hậu quả của nạn lụt: Nhiều đồng lúa bị tràn ngập, nhiều nhà cửa bị hư hại, nhiều quãng đường bị lở, lún, nhiều vườn cây ăn trái bị chết khô, chết trụi, chết thối. Cảnh lụt này, gợi cho tôi nhớ tới cảnh lụt khác, một cảnh lụt vô hình đang tràn vào xã hội, đi vào từng thôn xóm, từng gia đình, vào từng cá nhân. Cảnh lụt vô hình ấy là những phong trào xấu của nền văn minh vật chất.
Công bình mà nói, thì nền văn minh vật chất có những giá trị rất tốt, có những khả năng tích cực để giúp cho cuộc sống đi lên, để giúp cho nền kinh tế phát triển. Nhưng cũng công bình mà nói, thì nền văn minh vật chất cũng mang theo nhiều khả năng tiêu cực, với nhiều cám dỗ đầy hấp dẫn lôi cuốn con người đến tội lỗi, đến suy đồi.
Tại nhiều nước trên thế giới, người ta phát triển học thức trước cho thật cao, người ta phát triển nền đạo đức trước cho thật trưởng thành, rồi người ta mới phát triển nền văn minh vật chất. Hoặc là, người ta phát triển nền văn minh vật chất, đồng thời với việc phát triển nền học thức và nền đạo đức. Với cách phát triển như vậy, con người đủ sáng suốt, đủ trưởng thành, đủ mạnh, để điều khiển nền văn minh vật chất, và làm chủ nền văn minh vật chất, không để cho nền văn minh vật chất nô lệ hóa con người.
Còn tại nhiều nơi khác, người ta chỉ quan tâm phát triển nền văn minh vật chất, của cải mà không để ý phát triển nền học thức và nền đạo đức. Với cách phát triển như vậy, con người không đủ sáng suốt để phân biệt cái gì là phải, cái gì là hay, cái gì là trái, cái gì là giỏi. Và nhất là không đủ nền đạo đức mạnh, trưởng thành, để chối bỏ những cái xấu và đón nhận những cái tốt. Tôi lo sợ Việt Nam ta sẽ rơi vào tình trạng tôi vừa nói.
Tôi lo sợ vì nhiều lý do. Một trong những lý do ấy là hiện nay, tình hình học vấn đang xuống cấp, tình trạng đạo đức cũng đang xuống cấp. Đang khi đó thì lại mở ra một cách không tổ chức những phong trào của nền văn minh vật chất. Tôi lo rằng, một ngày nào đó, những phong trào xấu của nền văn minh vật chất như một nạn lụt tràn tới, thấm nhập vào con người, thấm nhập vào nếp sống, sẽ làm cho tòa nhà thiêng liêng của chúng ta sẽ rạn nứt đến chỗ đổ vỡ.
Chúng ta thấy nhà thờ chúng ta, chúng ta thấy nhà xứ chúng ta, mặc dầu đã được xây một cách tương đối kiên cố, nhưng hôm nay đã có biết bao nhiêu rạn nứt. Những rạn nứt có thể không sửa chữa được. Hình ảnh những rạn nứt ấy loan báo cho tôi hình ảnh những tòa nhà Giáo Hội tương lai cũng sẽ bị rạn nứt, nếu hôm nay không được xây dựng trên nền tảng thật chắc thì trong một nạn lụt của nền văn minh vật chất tràn vào, ngấm lâu, chắc chắn sẽ bị rạn nứt.
Tôi thấy nhiều nơi đã ý thức được nguy cơ đó, nên đã chuẩn bị cho giáo đoàn của mình. Thí dụ ở đây, cha xứ cũng như cha phó và anh chị em, đã có nhiều sáng kiến tốt như sinh hoạt bí tích, sinh hoạt giáo lý, sinh hoạt xã hội, sinh hoạt trong toàn thể dân Chúa, sinh hoạt cho từng giới, từng đoàn thể.
Đó là những sáng kiến tốt cần có, nên có, để lời Chúa thấm nhập vào tâm hồn con người, và lời Chúa thấm nhập vào mặt bằng xã hội địa phương.
Tuy nhiên, có một điều tôi thấy cần nhắc tới đây, trong sự chuẩn bị cho tình hình đối phó với nền văn minh vật chất, đó là sự biết quên mình.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nhấn mạnh đề cao sự quên mình: “Ai không từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta, sẽ không xứng đáng làm môn đệ của Ta”. Chúa đòi sự quên mình, như là một điều kiện của người môn đệ Chúa, và Chúa đòi một cách quyết liệt: “Ai không từ bỏ mình, không xứng đáng là môn đệ của Ta”. Điều kiện Phúc Âm này, cần cho mọi hoàn cảnh, và càng cần cho hoàn cảnh sống trong nền văn minh vật chất.
Kinh nghiệm cho thấy rằng, trong nền văn minh vật chất, có những người giàu, có chức vị, có tiền của, có nhiều phương tiện, nhờ có tinh thần từ bỏ mình, quên mình, đã biết lợi dụng những cái đó, để làm ích cho kẻ khác, để xây dựng công ích, để mở nước Chúa. Trái lại cũng trong hoàn cảnh như vậy, kẻ không có tinh thần từ bỏ mình, quên mình, thì đã lợi dụng của cải tiền bạc, tự do, tiện nghi, để hưởng thụ cho chính bản thân mình, đã không làm lợi cho kẻ khác, cho Hội Thánh, cho đồng bào, cho đất nước.
Quên mình là một điều khó. Không phải chỉ đọc kinh nhiều, đi lễ hằng ngày là ta sẽ có tinh thần từ bỏ mình, mà còn phải tập luyện bằng các việc làm cụ thể, nhất là những việc bác ái, những việc từ thiện, những việc thuộc bổn phận mình. Cộng vào đó, là hãy năng suy gẫm lời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu trên cây thánh giá đây, quên mình vì yêu thương. Chúa Giêsu trong nhà nguyện này quên mình vì yêu thương. Một khi chúng ta năng suy gẫm về Chúa như vậy, thì chúng ta mới có thể biết quên mình, trong những trường hợp đầy cám dỗ, đầy hấp dẫn lôi cuốn ta hưởng thụ.
Anh chị em thân mến, nhận thức trên đây cho ta thấy: Hiện nay cái đang làm suy yếu đức tin, và có thể làm cho mất đức tin, không phải là cảnh nghèo, cảnh hạn hẹp về tự do, cảnh bách hại đạo, mà là của cải, mà là sự có quá nhiều tự do, là sự được kính nể trong xã hội.
Tất cả những cạm bẫy gài trong nền văn minh vật chất, nó ngọt ngào lắm, nó hấp dẫn lắm, nó có sức lôi cuốn lắm, chứ nó không phải cay đắng gì, không phải khổ cực gì. Chính những cạm bẫy ấy sẽ làm suy yếu đức tin, sẽ làm hủy bỏ đức tin. Trong một tình hình như vậy, tôi xin anh chị em hãy sáng suốt nhìn vào tương lai bản thân mình, con cháu mình, mà lo luyện tập ngay từ bây giờ, cho đời sống mình có một nền tảng Phúc Âm thật vững.
Nền tảng đạo đức Phúc Âm là mến Chúa hết sức, hết linh hồn mình. Và nền tảng đạo đức Phúc Âm là yêu thương người khác như chính mình. Hãy tập quen điều đó.
Hãy đòi hỏi cho mình điều đó. Hãy tập cho con em mình điều đó. Tôi nhắc lại, nhất là vấn đề bác ái. Chúng ta sẽ bị thử thách rất nhiều về bác ái, trong hoàn cảnh mới của đất nước mình. Nếu chúng ta chỉ đạo đức bên ngoài, đạo đức khuôn khổ, tôi sợ rằng thiếu đạo đức Phúc Âm, chúng ta sẽ bị suy yếu về đức tin, về nền đạo đức.
Xin Chúa Thánh Thần, hôm nay sẽ đến với chúng ta, từng người, đặc biệt là đến với con em chúng ta, ban cho chúng ta được khôn ngoan để nhìn thấy trước hình ảnh tương lai của Giáo Hội, với những cái hay, và với những nguy cơ, với những cách để đối phó với những nguy cơ đó, và phát triển những cơ may sẽ đến. Hãy cậy vào khôn ngoan của Chúa Thánh Linh, và Chúa Thánh Linh chỉ đến với chúng ta, khi chúng ta biết cởi mở, khiêm tốn, cậy trông. Có nhiều điều Chúa chỉ mặc khải cho những kẻ đơn sơ bé mọn, có đời sống nội tâm có đời sống vị tha quên mình.
Lạy Chúa Thánh Linh, xin đến cải thiện đổi mới đời sống tâm hồn chúng con. Amen.
Lễ Thêm Sức ở Tân Thành (kinh 4b), ngày 22-11-1991.