Khi mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, có lần tôi đã suy nghĩ trong lòng rằng: Nếu máu của Các Thánh Tử Đạo là hạt giống tốt sinh ra người Công Giáo, thì mình thử xin với Chúa, làm cho nhiều quyền lực thế gian ra tay bắt bớ đạo, thẳng tay cấm cách đạo, hầu tạo điều kiện cho có nhiều vị tử đạo và hy vọng khi đó máu tử đạo tăng lên, thì số hạt giống đức tin cũng tăng lên, sinh sản ra nhiều cánh đồng đức tin tốt đẹp và mở rộng những cánh đồng đức tin.
Tôi suy nghĩ như vậy là để suy nghĩ mà thôi, chứ tôi chẳng xin Chúa điều đó. Bởi vì lời xin như vậy không hợp lý.
Thực đúng là máu Các Thánh Tử Đạo có khả năng làm hạt giống sinh ra người tín hữu. Nhưng theo Kinh Thánh, thực chất làm cho một người, một việc trở thành hạt giống đức tin, đó là lời Chúa và những kẻ sống lời Chúa, vâng theo lời Chúa. Chúa phán: “Lời Ta là lời ban sự sống”. Nếu Các Thánh Tử Đạo Việt Nam có là hạt giống sinh ra người Công Giáo, thì chính những giọt máu ấy đã đổ ra do những người sống lời Chúa. Lời Chúa mới là hạt giống sinh ra người Công Giáo tốt.
Ngoài ra việc bách hại đạo Chúa là một việc xấu. Mà việc xấu thì chẳng bao giờ Chúa khuyến khích.
Khi tôi nhận định như vậy, thì tôi thấy rằng, trong ngày lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, ngoài sự tôi cảm tạ Chúa vì đã ban ơn tử đạo cho Các Thánh Tử Đạo Việt Nam và ban các thánh Việt Nam cho Giáo Hội chúng ta, tôi còn cần phải xin Chúa, vì công nghiệp các thánh ban cho tôi, cho những người thuộc về tôi, cho Giáo Hội tôi, biết cách nào thích hợp nhất, có hiệu quả nhất, để diễn tả đức tin, để truyền bá đức tin trong thời buổi hôm nay.
Thực vậy, mỗi thời có cách diễn tả đức tin và truyền bá theo thời của nó. Nội dung đức tin trước sau vẫn là một. Nhưng cách diễn tả đức tin, cách truyền bá đức tin, phải thay đổi tùy nơi, tùy thời, hợp với tâm lý của con người, hợp với trình độ tiến hoá của từng nơi.
Có nơi, nhất là những nơi bị bách hại, thì cách tốt nhất để diễn tả đức tin và truyền bá đức tin là chấp nhận đổ máu mình ra, chết cho đức tin. Có nơi, có thời không bị bách hại, có nhiều tự do, thì cách tốt nhất để truyền bá đức tin, để diễn tả đức tin là sống đạo cho tốt. Mình sống đạo cho tốt, con cái mình sẽ bắt chước. Mình sống đạo cho tốt, người lương thấy sẽ có cảm tình với Hội Thánh.
Nhưng thế nào là sống đạo tốt. ở đây, tôi chỉ nhắc lại 3 điều này cách vắn tắt:
Điều thứ nhất để sống đạo tốt, chúng ta hãy biết đón nhận Đức Kitô cứu độ.
Tôi nói đón nhận Đức Kitô cứu độ, bởi vì Chúa Kitô đến với ta, hơn là ta đến với Người. Đức Kitô tìm ta, hơn là ta tìm Người. Hãy đón nhận Đức Kitô cứu độ với tâm hồn khiêm tốn, sám hối, như những người phong cùi trong Phúc Âm khiêm nhường, như những người tội lỗi trong Phúc Âm sám hối. Hãy đón nhận Đức Kitô cứu độ. Bởi vì sự cứu độ là một tình thương nhưng không, do chính Chúa chủ động, chứ không phải do công nghiệp của chúng ta. Không phải chúng ta cố gắng, cố gắng rồi sẽ tìm được Chúa mà bổn phận chúng ta là hãy đón nhận Đức Kitô cứu độ đến với mình, bằng tâm hồn khiêm nhường thống hối.
Rồi thái độ khác để đón nhận Đức Kitô cứu độ đến với chúng ta đã được Đức Kitô nhắc lại nhiều lần, đó là tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức và cầu nguyện như 5 người trinh nữ khôn ngoan. Tỉnh thức và cầu nguyện như những người đầy tớ trung tín, luôn nghĩ về Chúa, luôn kết hợp với thánh ý Chúa, luôn thao thức tìm làm đẹp lòng Chúa. Tỉnh thức và cầu nguyện để đón nhận Đức Kitô đến với lòng mình. Đó là việc thứ nhất để sống đạo đức.
Điều thứ hai để sống đạo là thực thi bác ái. Bác ái là điều kiện căn bản của giáo lý Phúc Âm. Chúa Giêsu đã nói: “Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương kẻ khác như chính mình”.
Như chính mình nói lên sự quên mình. Tôi thấy đời sống bác ái của chúng ta cũng có rất nhiều điều hay, nhưng thường thiếu một điều hay nhất, đó là sự quên mình, mà đây là thứ bác ái Chúa Giêsu đòi nơi chúng ta. Hãy nhìn lên thánh giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Vì thương yêu ta, Ngài quên mình. Hãy nhìn Chúa Giêsu trên chặng đường thánh giá. Vì yêu thương ta, vác thánh giá để cứu chuộc ta, Ngài quên mình.
Hãy tập quên mình, trong những công việc bác ái, trong những tình cảm bác ái, và trong những suy nghĩ bác ái. Đó là việc thứ hai để sống đạo tốt.
Điều thứ ba để sống đạo tốt là hãy tích cực xây dựng Hội Thánh.
Hội Thánh trước mặt chúng ta là giáo xứ mình, là địa phận mình. Hội Thánh này ở trong ta, phải do ta xây dựng. Thế nào là xây dựng Hội Thánh? Theo tôi, trong thời buổi này, xây dựng một Hội Thánh địa phương là hãy làm cho Hội Thánh địa phương mình trở thành một đoàn thể, có thiện chí phục vụ, có khả năng phục vụ.
Bây giờ anh chị em biết, người ta đánh giá lãnh đạo, đánh giá cán bộ, đánh giá cá nhân theo thiện chí phục vụ và khả năng phục vụ.
Giáo xứ cũng vậy, địa phận cũng vậy, Giáo Hội cũng thế. Hãy xây dựng một Giáo Hội địa phương có thiện chí phục vụ, có khả năng phục vụ. Phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Hội Thánh, phục vụ đất nước, phục vụ đồng bào, phục vụ lẫn nhau.
Mà nói về khả năng phục vụ trong thời buổi này, ta phải nói về rất nhiều điều kiện, như là có lương tri, như là có lương tâm tốt, lương tâm trách nhiệm, như là phải có một trình độ học vấn cao, học vấn về đạo, học vấn về đời, như là phải có một trình độ khoa học nào đó, để biết tổ chức, để biết sắp xếp.
Khả năng phục vụ là một điều ta cần phải để ý trong việc xây dựng họ đạo mình, để xem trong họ đạo mình những người nào có khả năng phục vụ, và nếu chưa đủ, cần phải chuẩn bị khả năng đó cho tương lai sau này. Bởi vì như tôi vừa nói, người ta đánh giá chúng ta, đánh giá đạo chúng ta, đánh giá giáo xứ chúng ta theo khả năng phục vụ, người ta sẽ coi thường chúng ta, và đạo chúng ta sẽ không có chỗ đứng trong xã hội tương lai này. Xây dựng Giáo Hội là xây dựng cộng đoàn với những cá nhân có thiện chí phục vụ, có khả năng phục vụ cao.
Anh chị em thân mến,
Để sống đạo tốt trong thời buổi này, giáo xứ ta, cá nhân mọi người chúng ta cần phải có chất lượng, không phải chỉ là hình thức bề ngoài là đủ, không phải chỉ là nhà thờ, hay là cung thánh bề ngoài là đủ. Chính chúng ta cần phải có chất lượng. Chất lượng đó là đời sống nội tâm, có Đức Kitô sống trong ta. Chất lượng đó là bác ái đối với tha nhân. Chất lượng đó là khả năng phục vụ. Nếu chúng ta để ý 3 điểm đó, tôi nghĩ, giáo xứ chúng ta sẽ không thua kém ai, và cả chúng ta nhất là con em chúng ta sau này, sẽ trở nên những người hữu ích được kính nể trong Hội Thánh và được kính nể trong xã hội hôm nay.
Xin Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự khôn ngoan, xin giúp chúng ta biết nhìn về tương lai, đọc được những ý nghĩa của các tín hiệu Chúa loan báo cho chúng ta về năm 2.000, về tương lai, để chúng ta chuẩn bị sống đạo cho tốt, để xây dựng Hội Thánh, để mở rộng Hội Thánh theo ngôn từ hữu hiệu nhất, thích hợp nhất trong thời buổi hôm nay. Lạy Chúa Thánh Thần, xin trợ giúp chúng con. Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại kênh A2 Giáo xứ Kitô Vua, ngày 23-11-1991
Khi nói về Chúa Giêsu Vua, nhiều người đã hỏi Chúa Giêsu là vua nước nào? Câu hỏi đó đã được Chúa Giêsu trả lời trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa nói với Philatô rằng: “Nước tôi không thuộc về thế gian. Tôi đến trong thế gian để làm chứng cho công lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi”.
Câu trả lời ấy cho thấy: Đâu không phải là Nước Chúa, và đâu là Nước Chúa? Nước Chúa không thuộc về thế gian, có nghĩa là bất cứ nước nào, bất cứ chế độ nào, với nền văn minh nào, cũng không thể đồng hoá với Nước Chúa. Vậy, Nước Chúa ở đâu?
Thưa, Nước Chúa ở trong các tâm hồn, những tâm hồn khao khát chân lý, tôn trọng chân lý, và nhất là đón nhận chân lý. Như vậy, Nước Chúa gồm tất cả các tâm hồn yêu chuộng chân lý. Do đó, Nước Chúa rộng hơn Hội Thánh, bởi vì ngoài Hội Thánh, vẫn có biết bao nhiêu người yêu chuộng chân lý. Đang khi đó, trong Hội Thánh cũng có thể có nhiều người không thuộc về Nước Chúa, bởi vì họ không yêu chuộng chân lý, không đón nhận chân lý.
Nhưng chân lý là gì? Quan Philatô đã hỏi điều đó với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không đáp lại bằng lời nói, mà bằng chính việc Người đang thực hiện trước quan Philatô. Việc đó là: Thực hiện việc của tình yêu cứu độ. Người vô tội, nhưng vì yêu thương nhân loại, đã cam lòng chịu chết để đền tội cho nhân loại. Chân lý là như thế đó. Đó là chân lý cứu độ. Đó là cái chân lý mà Chúa Giêsu muốn làm chứng, muốn nói tới.
Đọc Phúc Âm, chúng ta nghe lời Chúa, thì thấy căn bản của chân lý cứu độ là như vậy. Và nếu giờ này đây, nhìn chung quanh, trong nhà thờ này, các ảnh tượng Chúa, chúng ta cũng thấy chân lý cứu độ là như vậy. Chúa Giêsu trên cây thánh giá, Chúa Giêsu trong phép Mình Thánh. Chúa Giêsu trong chặng đường thánh giá. Chúa Giêsu trái tim. Tất cả đều nói lên tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy ban cho nhân loại, chỉ cần con người đón nhận tình yêu ấy.
Đón nhận bằng cách nào? Thưa không phải bằng hai tay thu tích các công nghiệp cho riêng mình, mà bằng một tâm hồn khiêm tốn, khao khát tình yêu cứu độ, và bằng tâm hồn mở rộng ra, yêu thương bác ái đối với những người chung quanh. Chân lý cứu độ như vậy, nói lên thì đơn sơ dễ dàng, nhưng thực hiện chân lý cứu độ ấy, thực là phức tạp và khó khăn, nhất là trong thời buổi này.
Khó khăn thứ nhất là cuộc sống hôm nay, một cuộc sống chật vật, đầu tắt mặt tối, đầy lo toan khốn khổ, dễ đẩy con người rơi xuống ích kỷ, khó khăn, thấp hèn.
Khó khăn thứ hai là những tương quan trong xã hội hôm nay.
Ngày xưa con người sống với nhau thì lấy sự nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau làm phương châm. Nhưng bây giờ, ở nhiều nơi, nhiều người, phương châm lại là đấu tranh, lại là lấn lướt, lại là trở tráo, lại là lừa lọc, lại là loại đi, nhiều khi bằng cả những thủ đoạn độc địa thô bỉ.
Khó khăn thứ ba là chính bản thân con người hôm nay, ý chí bị suy yếu, không còn đủ sức sống chân thật những giá trị thiêng liêng mình theo đuổi. Đồng thời, sự khôn ngoan Phúc Âm lại không được coi trọng bằng sự khôn ngoan thế gian. Người ta sùng bái vật chất, và theo đuổi những lợi ích trước mặt.
Ba cái khó khăn ấy làm cho tâm hồn con người trở nên chật chội, trở nên ích kỷ và trở nên khép kín, mệt mỏi, không dễ mở ra về phía tình yêu cứu độ, càng không dễ mở ra về phía con người với những đòi hỏi bác ái Phúc Âm. Tôi có cảm tưởng rằng, trong nhiều tâm hồn chúng ta, vì những khó khăn đó nên đã không tìm được một không gian nội tâm, đủ rộng để thở hít không khí Phúc Âm, nắm bắt tình yêu cứu độ là chân lý và là hương thơm Nước Chúa.
Anh chị em thân mến,
Không biết tâm hồn chúng ta có thuộc loại những tâm hồn đó không? Tôi nghĩ là chúng ta hết thảy là những con người yếu đuối, chịu ảnh hưởng của thời cuộc không ít thì nhiều, cũng thấy tâm hồn mình không đủ khả năng để mở ra đón nhận tình yêu cứu độ như Chúa đã muốn cho chúng ta mở ra.
Trong lễ hôm nay, với nhận thức như vậy, tôi cầu xin cho tôi, cho anh chị em và nhất là các trẻ Rước Lễ Bao Đồng hôm nay, biết đón nhận tình yêu cứu độ của Phúc Âm. Đón nhận bằng tâm hồn khiêm tốn, cảm tạ, khao khát Chúa. Và đón nhận bằng sự quảng đại mở ra về phía những người chung quanh. Đón nhận tình yêu ấy, tức là đón nhận chân lý cứu độ. Và đón nhận chân lý cứu độ như vậy là đón nhận Nước Cha trị đến trong lòng mình.
Lạy Chúa Giêsu là Vua, xin hãy là Vua trong tâm hồn chúng con.
Giảng lễ Bao Đồng dịp lễ Chúa Kitô Vua, tại Long Xuyên, ngày 24-11-1991.
Từ chiều qua đến nay nhiều anh chị em đã kể lại cho tôi những hậu quả của cơn lụt vừa qua. Hậu quả trên đồng lúa, hậu quả trên nhà cửa, hậu quả trên vườn tược, đường xá. Và chính mắt tôi cũng còn trong thấy những tai hại do lũ lụt gây ra. Hình ảnh trên đây gợi ý cho tôi nghĩ tới một cơn lụt khác, một cơn lụt vô hình đang tràn vào Việt Nam nói chung, và con người có đạo nói riêng. Cơn lụt đó là tinh thần thực dụng do nền văn minh vật chất đưa đến.
Công bình mà nói thì nền văn minh vật chất cũng có nhiều giá trị cao quý, cũng có nhiều khả năng tích cực, giúp cho đời sống con người, nhất là nền kinh tế đi lên. Nhưng cũng phải công bình mà nói, thì nền văn minh vật chất cũng mang theo rất nhiều cám dỗ, rất hấp dẫn, có khả năng phá hủy đức tin.
Một trong những nguy cơ đó là tinh thần thực dụng. Tinh thần thực dụng là gì?
Nói một cách bình dân là thói quen đánh giá các sự việc theo cái lợi vật chất trước mắt. Nếu tinh thần thực dụng như vậy tràn vào tâm hồn con người thấm vào lương tâm con người, thống trị não trạng con người thì không sớm thì muộn, các giá trị đức tin sẽ bị yếu đi, sẽ bị tàn phá, sẽ bị xuống cấp. Tôi thí dụ trường hợp Tám Mối Phúc Thật.
Sở dĩ tám cái khó sinh ra Tám Mối Phúc Thật, là vì ta tin vào lời Chúa, và nhờ đức tin mà thấy được hạnh phúc đời sau đàng xa. Nếu bây giờ theo tinh thần thực dụng, chỉ nhìn cái lợi vật chất trước mặt thì không còn gì là Tám Mối Phúc Thật nữa. Đọc lên để mà đọc thôi, như thế là một mớ lý thuyết trên bầu trời lý tưởng xa vời. Còn thực tế, chẳng mấy ai coi cái nhịn nhục, cái nghèo khó, sự hòa thuận, sự bắt bớ vì lẽ ngay là hạnh phúc.
Cũng do tinh thần thực dụng đang tràn lan, tôi thấy nhiều nơi bỏ đi lễ, bỏ học giáo lý, bỏ học ở trường, bỏ tham gia xây dựng họ đạo, là bởi vì, càng mở ra, dễ làm giàu, càng có nhiều cơ hội hưởng thụ, thì vì tinh thần thực dụng tìm cái lợi trước mắt, người ta đã lơ là những bổn phận đức tin.
Trong mấy tuần qua, tôi gặp thấy mấy mẫu tin làm tôi lo buồn: Mẫu tin thứ nhất là tin được loan đi trên đài truyền hình Việt Nam, cho biết theo thống kê thất học năm nay, thì số em bỏ học rất đông nhất là trong những vùng Thiên Chúa Giáo và vùng dân tộc ít người. Sở dĩ có như vậy, tôi nghĩ, cũng là vì tinh thần thực dụng bỏ học, chỉ vì tìm cái lợi trước mắt mà không nhìn cái lợi đàng xa.
Mẫu tin thứ hai đã được loan báo ở một nơi khác, báo Công Giáo, xuất bản tháng vừa rồi, cho biết tình trạng suy đồi của Giáo Hội Ba Lan, một Giáo Hội trước đây phồn thịnh nổi tiếng. Theo điều tra bây giờ, thì dưới thời Cộng Sản, số người Ba Lan đi lễ Chúa nhật có tới 98%. Bây giờ số người đi lễ Chúa nhật chỉ còn có 50%. Cách đây 2 năm, số người Công Giáo ủng hộ, tán thành, hoan nghênh những hoạt động các Đức Giám Mục, các linh mục tại Ba Lan và vấn đề xã hội, cao tới 98%. Bây giờ số người Công Giáo ủng hộ hàng Giám Mục, linh mục xuống còn 28%. Nguyên do, cũng vì cái tinh thần thực dụng, chỉ chạy theo cái lợi của trước mắt, mà không nhìn theo cái nhìn của đức tin.
Mẫu tin thứ ba cũng được loan đi trên một tạp chí khác, Công Giáo và Giáo Hội Brasil (Nam Mỹ) cho biết chỉ trong mấy năm vừa qua, số người Công Giáo bỏ Hội Thánh lên tới gần một triệu, và một số giáo phái lên tới gần 250.
Dịp Đức Thánh Cha thăm Brasil vừa qua, chính quyền cho các trường, các công sở được nghỉ, để đón và tham dự lễ Đức Giáo Hoàng, nhưng người ta lợi dụng phép rộng ấy, để đi tắm biển hơn là đi dự lễ Đức Thánh Cha.
Sự suy đồi ấy chứng tỏ, sức mạnh của tinh thần thực dụng. Người ta chỉ đi tìm cái lợi vật chất trước mắt.
Mẫu tin thứ tư được loan đi ở tạp chí Đại Đoàn Kết tuần vừa rồi cho biết, một địa phương Công Giáo gần thành phố Hồ Chí Minh nổi tiếng là lừa đảo, gian dối, trong vấn đề khai báo lập hồ sơ con lai. Cũng vì tinh thần thực dụng, chỉ ham cái lợi trước mắt, mà không để ý đến cái lợi của đức tin.
Trước tình hình này, tôi nghĩ rằng, những gì đã xảy ra ở các nơi khác, cũng có thể xảy ra ở địa phương ta, ở họ đạo ta.
Để đối phó với nguy cơ làm suy yếu đức tin, tôi xin nhắc nhở anh chị em hai điều này:
Điều thứ nhất tôi xin nhắc nhở là chúng ta hãy sống ơn tiên tri của dân Chúa. Ơn tiên tri của dân Chúa là dùng ơn đức tin, mà nhìn nhận những nguy cơ làm suy yếu đức tin, và nói lên những nguy cơ đó, để những người chung quanh biết mà đề phòng. Trong Cựu Ước, đã có nhiều tiên tri lên tiếng cảnh cáo báo động về nguy cơ sụp đổ lòng đạo. mặc dầu có một số người không tin, và mặc dầu giáo quyền bấy giờ phản đối vì tự ái, nhưng vẫn có một số người đã tin lời tiên tri để ăn năn sám hối, để cầu nguyện ăn chay, nhờ đó mà dân Chúa được cứu độ. Hôm nay, trước một viễn tượng có nguy cơ không phải là tưởng tượng, mà có thực, chúng ta cần phải sống ơn tiên tri của dân Chúa, để nhận rõ những nguy cơ cho đức tin, làm hại cho đức tin, và biết báo động cho người chung quanh, nhất là cho con em của mình.
Chúng ta đừng để cho con em chúng ta, cho những người chung quanh, và cho chính mình trở thành những con thiêu thân, hễ thấy ánh đèn là bay tới, để tự vận đức tin. Hãy có một sự sáng suốt trong đức tin.
Điều thứ hai tôi muốn nhắc nhở anh chị em trong lúc này, là hãy tích cực xây dựng Hội Thánh nói chung và cho giáo xứ của chúng ta nói riêng, bằng cách làm cho cộng đoàn ta, cá nhân ta trở thành những người có thiện chí phục vụ. Phục vụ Hội Thánh và phục vụ đất nước.
Như chúng ta đang thấy, lịch sử bây giờ đánh giá Hội Thánh, đánh giá một cộng đoàn, đánh giá một cá nhân, theo tiêu chuẩn phục vụ. Người tốt là người có thiện chí phục vụ, có khả năng phục vụ.
Muốn có khả năng thiện chí phục vụ, chúng ta cần tập quên mình và biết nhạy bén. Muốn có khả năng phục vụ, chúng ta cần phải mở rộng học thức, đào sâu kiến thức. Muốn có khả năng phục vụ chúng ta cũng cần xây dựng đạo đức.
Và trong việc xây dựng đạo đức, tôi xin nhắc điều này: Là xây dựng một nền đạo đức dựa trên lời Chúa, hơn là dựa trên tập truyền. Một nền đạo đức có cái nhìn đức tin trong sáng, chứ không phải nhìn theo cái cảm tính tự nhiên của mình. Một nền đạo đức, thao thức đón nhận Chúa Kitô, chứ không phải thao thức chấp nhận những giáo lý, hay là những tục lệ xưa, những hình thức rầm rộ bên ngoài.
Anh chị em thân mến,
Khi bước chân vào nhà thờ này lúc nãy, tôi nghe các em hát: “Chúa là hạnh phúc của con, Chúa là hoan lạc đời con”. Khi nghe lời đó, tôi cầu nguyện với Chúa rằng: “Lạy Chúa, nếu Chúa đến với chúng con, trong những điều kiện bắt chúng con phải vác thánh giá theo Chúa, với những điều kiện đòi chúng con phải đóng đinh mình vào bổn phận, với những điều kiện đòi chúng con phải sống đơn sơ bé nhỏ như tấm bánh trong nhà chầu, thì những lúc ấy xin Chúa ban cho chúng con một đức tin rất mạnh, để chúng con vẫn nhìn Chúa là hạnh phúc của con, Chúa là hoan lạc đời con. Vì những lúc ấy, chỉ có một đức tin thật mạnh mới có thể thấy Chúa là hạnh phúc, mới nhìn thấy Chúa là hoan lạc, chứ còn bình thường, theo tinh thần thực dụng bây giờ, người ta chỉ nhìn thấy Chúa trong những hào nhoáng, trong những thành công, trong những đẹp đẽ bề ngoài, chứ không theo đức tin trong sáng, đích thực.
Trong lễ hôm nay, chúng ta xin Chúa Thánh Thần thêm ơn cho chúng ta có một đức tin trong sáng, vững mạnh. Nhờ đức tin ấy mà chúng ta mới có thể nhìn thấy Chúa là hạnh phúc, là hoan lạc, mặc dù cuộc đời có đầy gian truân, có đầy thử thách. Và nhất là cái thử thách ngọt ngào của nền văn minh vật chất, của cái não trạng thực dụng, sẽ là cái thử thách rất nặng, rất cam go, khó mà cưỡng được, nếu không có một đức tin mạnh.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Chúa thương đến trong lòng chúng con. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Châu Long, Kênh F1, ngày 27-11-1991.
Trong các loại lịch treo tường được bày bán đó đây, năm nay có “Lịch Công Giáo năm 1992”. Lịch treo tường này có 6 tờ, khổ lớn, mang 6 bức ảnh Đức Mẹ. Đức Mẹ của 6 bức ảnh này được vẽ theo hình dáng người phụ nữ Việt Nam. Rất nhiều người ưa chuộng những bức ảnh đó. Nhất là những người hâm mộ nghệ thuật. Nhưng cũng không ít người không thích những ảnh tượng đó. Lý do họ đưa ra là những ảnh đó không giống Đức Mẹ.
Khi tôi nghe lý do họ đưa ra như vậy, thì tôi hiểu rằng những bức ảnh Đức Mẹ được vẽ trên giấy đó, nó không hợp với hình ảnh Đức Mẹ trong tâm hồn họ, không hợp với hình ảnh Đức Mẹ đã được giữ trong bộ nhớ của họ, do tập truyền, do thói quen.
Khi nói rằng ảnh Đức Mẹ không giống Đức Mẹ thì có nghĩa là Đức Mẹ ấy không giống như mình nghĩ, chứ không có nghĩa là những bức ảnh đó không giống như Đức Mẹ thật, bằng xương bằng thịt, đã sống ở trần gian xưa, và nay ở trên trời. Bởi vì những người ấy, cũng như tôi, cũng như anh chị em, chẳng ai thấy Đức Mẹ bằng xương bằng thịt bao giờ. Tôi cũng vậy, tôi chưa bao giờ thấy Đức Mẹ thiệt bằng xương bằng thịt, tôi chỉ có hình ảnh Đức Mẹ trong tôi. Và tôi xin chia sẻ với anh chị em hình ảnh Đức Mẹ đó.
Hình ảnh Đức Mẹ trong tôi mà tôi hằng ngày nhìn tới, và nhiều lần trong ngày nhìn tới, đó là hình ảnh Đức Mẹ đang “Cầu cho tôi là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử”. Hình ảnh Đức Mẹ ấy đã đến với tôi rất sớm, thuở bình sinh đời tôi. Khi cha mẹ tôi, gia đình tôi đọc kinh Mân Côi, khi tới kinh Kính Mừng “Thánh Maria”, thì tôi nghĩ đến một hình ảnh một Đức Mẹ đang cầu cho tôi là kẻ có tội. Tôi chỉ nghĩ trống vậy. Và hình ảnh đó là hình ảnh sâu đậm nhất, bởi vì mỗi lần, mỗi ngày đọc kinh Kính Mừng, thì là mỗi lần như tô lại bức ảnh đó trong tôi thêm đậm, như là ghi tạc bức ảnh đó trong tôi cho sâu hơn. Đức Mẹ đang cầu cho tôi là kẻ có tội, đó là bức ảnh trong tôi mà tôi ưa chuộng nhất.
Lý do thứ nhất là vì tôi thấy bức ảnh đó là do chính Hội Thánh trình bày. Những bức ảnh người ta vẽ về Đức Mẹ trên giấy, trên ảnh, trên lịch, thì do các nghệ sĩ vẽ ra, nhưng hình ảnh Đức Mẹ đang “Cầu cho tôi là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử” thì là do chính Hội Thánh trình bày và phổ biến trên khắp năm châu, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Tôi đã đi các nơi trong nước Việt Nam, cũng như bên ngoại quốc, những người văn minh, cũng như những người còn đang mở mang, khắp nơi, đều nhìn vào hình ảnh Hội Thánh đã trình bày đó là hình ảnh Đức Mẹ “Cầu cho chúng ta là kẻ có tội”.
Lý do thứ hai khiến tôi ưa chuộng hình ảnh Đức Mẹ đang “Cầu cho tôi là kẻ có tội”, là chính Chúa Kitô đã gợi ý vẽ nên bức ảnh đó.
Khi Chúa Giêsu trên thánh giá nói với Đức Mẹ: “Đây là con Mẹ”, và nói với thánh Gioan: “Đây là Mẹ con”, thì Chúa Giêsu đã muốn cho chúng ta nhìn Đức Mẹ như là người mẹ đang cầu xin cho các con mình là kẻ có tội. Chúa Giêsu muốn chúng ta nhìn Đức Mẹ như là Đấng đang cộng tác với Chúa Giêsu chịu đóng đinh, để cứu độ nhân loại, trong đó, có chúng ta là kẻ có tội.
Lý do thứ ba khiến tôi ưa chuộng hình ảnh Đức Mẹ “Cầu cho tôi là kẻ có tội” là vì chính Đức Mẹ đã thường đưa ra những hình ảnh đó.
Mỗi lần hiện ra, hoặc là ở La Salette, hoặc là ở Fatima, hoặc là ở Lộ Đức, bao giờ Đức Mẹ cũng nhắn nhủ: “Mẹ cầu nguyện cho kẻ có tội. Chúng con hãy cầu nguyện cho được ơn trở lại. Và chúng con hãy cầu nguyện cho thế giới trở lại”. Như vậy, là Đức Mẹ rất tha thiết với hình ảnh: Đức Mẹ cầu cho chúng ta là kẻ có tội.
Lý do thứ tư khiến tôi rất ưa chuộng hình ảnh đó, là hình ảnh đó hợp với thực tế.
Thực tế rõ ràng nhất, áp đảo nhất, trở thành một chân lý đúng nhất, đó là chúng ta là kẻ có tội. Không cách này thì cách khác, không nhiều thì ít, chúng ta hết thảy đều là kẻ có tội, như mỗi ngày chúng ta đọc kinh Cáo Mình trước thánh lễ.
Và một thực tế khác cũng rất rõ ràng: Đó là chúng ta rất yếu đuối. Chúng ta biết mình tội lỗi, muốn cải thiện để trở nên thánh thiện, nhưng chúng ta không làm được tự sức mình. Chúng ta muốn có một trái tim mới trong trắng, đẹp đẽ, quảng đại, nhưng tự sức mình không đổi được trái tim vốn có của mình. Chúng ta muốn trở nên con người có tính tình khác, đẹp đẽ hơn, dễ chịu hơn, nhưng ta phải gánh chịu tính tình tự nhiên của mình như một thập giá, Chúa đặt trên vai, không đổi được tự sức mình. Cho nên phải cầu xin Đức Mẹ là Đấng đã cầu cho chúng ta là kẻ có tội, bởi vì Đức Mẹ rất yêu thương chúng ta, và rất có quyền thế, uy tín trước mặt Thiên Chúa.
Vậy, nếu hình ảnh Đức Mẹ đang cầu cho ta là kẻ có tội, là một hình ảnh có nền tảng Kinh Thánh, nền tảng Hội Thánh, nền tảng thực tế, thì mỗi khi chúng ta mừng lễ kính Đức Mẹ, bất cứ dưới tước hiệu nào, chúng ta đừng quên đi vào một kết luận là: Hãy nhìn vào Đức Mẹ “Đang cầu cho ta là kẻ có tội”, để rồi xin Đức Mẹ cầu nguyện cho ta đổi mới tâm hồn trở về với Chúa. Chẳng hạn hôm nay, lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng ta có thể suy gẫm ơn vô nhiễm của Đức Mẹ, chúng ta có thể tìm hiểu lý do tại sao Chúa ban ơn vô nhiễm cho Đức Mẹ, nhưng điều cần thiết nhất, điều lợi ích nhất đó là: Hãy xin Đức Mẹ Vô Nhiễm cầu cho ta là kẻ có tội.
Anh chị em thân mến,
Cách đây hai năm cũng trong ngày lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, tôi làm lễ ở hang đá Lộ Đức bên Pháp. Khi tôi đọc bài lễ dành cho bàn thờ trước hang Lộ Đức, tôi thấy bài lễ đó có nội dung kêu gọi người ta trở về với Chúa, bài đọc cũng vậy, Phúc Âm cũng vậy, lời nguyện cũng vậy, thì tôi hiểu rằng, sự trở về với Chúa, sự xin Đức Mẹ cầu bầu cho ta là kẻ có tội được bỏ đàng tội, chính là cách ngợi khen Thiên Chúa tốt nhất, đó là của lễ đẹp nhất chúng ta dâng lên Thiên Chúa, đó là lời tạ ơn tốt nhất chúng ta dâng lên Thiên Chúa, đó là cách truyền giáo có hiệu nghiệm nhất, chúng ta có thể làm trong thời điểm hôm nay.
“Đức Mẹ cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Tôi nghĩ đây là lời nguyện của thế kỷ XX, thế kỷ của chúng ta. Bởi vì, chúng ta đang chứng kiến sự sa sút về đàng đạo đức, trong đạo, ngoài đời. Chúng ta đang chứng kiến những cảnh trong gia đình, ngoài xã hội xào xáo nhau, sống bất hòa với nhau. Chúng ta đang nghe tiếng gọi đau đớn của Đức Giáo Hoàng, trước cảnh những nước có đạo bỏ Hội Thánh ra đi, chạy theo những cái hưởng thụ thế trần. Hãy xin Đức Mẹ cầu cho chúng ta, cầu cho Hội Thánh, cầu cho nhân loại là kẻ có tội. Tôi nói là: Đây là lời cầu của thế kỷ XX, đây là một lời cầu Chúa muốn chúng ta đọc hằng ngày. Và đây là một lời cầu dễ dàng nhất, ai cũng có thể cầu nguyện được.
Trong thánh lễ hôm nay, khi hướng về Đức mẹ, tôi vẫn nhìn thấy hình ảnh Đức Mẹ đang cầu nguyện cho tôi, cho anh chị em, cho Hội Thánh ta, cho đất nước ta, được thoát những tội lỗi và những kết quả của tội lỗi.
Xin Chúa Thánh Thần đổi mới tâm hồn chúng ta và giúp cho chúng ta, từ nay có một quyết tâm trông cậy với Đức Mẹ nhiều hơn, và với một quyết tâm trở về với Chúa một cách thành thực hơn, để tạ ơn Chúa, để làm việc truyền giáo một cách hữu hiệu hơn. Amen.
Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, tại nhà thờ Tham Buôn, ngày 09-12-1991.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, thánh Gioan Baotixita loan báo rằng: “Chúa sẽ đến đầy uy quyền như một người vê lúa, sàng gạo. Lúa gạo tốt thì để vào kho lẫm, rơm, trấu thì bỏ, ném vào lửa”. Đây là những lời tiên tri, những lời tiên tri ấy loan báo cho chúng ta biết, Chúa sẽ đến với từng người, Chúa sẽ gặp mỗi người chúng ta, Chúa sẽ đến phân loại người ta, Chúa phân loại như người vê lúa, sàng gạo. Ai là người lành như hạt lúa tốt, hạt gạo đẹp, thì được để vào kho lẫm, là thiên đàng. Ai là kẻ xấu như cọng rơm, vỏ trấu, thì bị ném vào lửa, lửa hỏa ngục.
Khi đọc những lời tiên tri trên đây, tôi thật sự lo sợ. Tôi lo sợ cho tôi. Tôi lo sợ cho anh chị em. Bởi vì có những điều tôi rất chắc chắn và có những điều tôi không chắc chắn chút nào. Điều tôi chắc chắn là có một ngày, tôi, anh chị em sẽ chết. Tôi chắc chắn điều là khi chúng ta vừa chết, Chúa sẽ đến ngay. Tôi chắc chắn điều nay, là khi Chúa đến gặp chúng ta, ta sẽ nhìn thấy rất rõ suốt cả cuộc đời, với mọi chi tiết, từng tư tưởng từng tình cảm, từng ước muốn, từng lời nói, từng bước đi, từng việc làm, và những giá trị của nó. Đó là điều tôi chắc chắn sẽ xảy ra.
Nhưng có điều tôi không chắc chắn chút nào, đó là tình trạng thực sự của tôi, cuộc đời tôi và những việc làm của tôi. Có thể tôi tưởng bản thân tốt, nhưng trước mặt Chúa, biết đâu lại là không tốt.
Tôi tưởng rằng anh chị em là những hạt lúa tốt, là những hạt gạo đẹp, nhưng biết đâu trước mặt Chúa, chúng ta chỉ là những cọng rơm, những vỏ trấu, có thể bị loại ra, ném vào lửa. Chính những cái không chắc chắn như vậy làm cho tôi rất lo sợ. Nhưng biết lo sợ, chính là ân huệ của Chúa. Chính vì chúng ta biết lo cho số phận đời đời của ta, mà ta thêm tin vào Chúa. Phúc Âm đã kể lại nhiều lần lời Chúa phán: “Đức tin sẽ cứu con”.
Đức tin cứu tôi là đức tin nào? Thưa đức tin cứu độ tôi là đức tin đầy khiêm nhường. Tôi phải nhận thức rằng tôi tội lỗi, tôi yếu đuối, tôi thấp hèn,tôi bất lực, tôi bất xứng.
Đức tin cứu độ tôi là đức tin nào? Thưa là đức tin đầy phó thác, tin tưởng vào Chúa, tin tưởng việc rỗi, tin tưởng trọn vẹn, tin tưởng không điều kiện, tin tưởng vì Chúa là Cha quyền năng, giàu lòng thương xót, chứ không phải tin tưởng vì chúng ta có công trạng gì.
Rồi đức tin cứu độ là đức tin nào? Thưa là đức tin đầy tình bác ái, như Chúa đã thương tôi thế nào, tôi cũng phải thương kẻ khác như vậy.
Đức tin như vậy không phải là sự chấp nhận những giáo điều, cũng không phải là sự tuân giữ các lễ nghi, cũng không phải là sự tuân giữ các giới luật bề ngoài, cũng không phải chỉ là tin có Chúa, mà đức tin như vậy là một đức tin vào Chúa.
Đức tin vào Chúa, có nghĩa là một thái độ bỏ mình, đi ra khỏi mình, để đến với Chúa, để đi vào trái tim Chúa, để đặt mình trong tay Chúa. Một đức tin như vậy đúng là một sự gặp gỡ Chúa. Gặp gỡ Chúa như là một Đấng cứu độ, gặp gỡ Chúa như một Đấng quyền năng giàu lòng thương xót, gặp gỡ Chúa như một Tin Mừng cứu độ.
Như vậy, chúng ta thấy, đức tin mà tôi vừa kể, là một lý tưởng mà chúng ta phải hằng ngày đi tới.
Trong thánh lễ bây giờ, không biết Chúa nhìn đức tin chúng ta thế nào? Nếu chúng ta coi đức tin chỉ là giữ lễ nghi, đọc đủ kinh. Không phải chỉ là đức tin đâu! Nó chỉ là cái bề ngoài rất dễ rơi rụng.
Vì thế, trong lễ hôm nay, điều mà tôi cầu xin cách chung cho tất cả mọi người, trong đó có tôi, và cầu xin cách riêng cho con em chúng ta chịu phép Thêm Sức có được một đức tin sống động, gặp gỡ Chúa, đi vào trái tim Chúa, biết từ bỏ mình, một đức tin khiêm nhượng, phó thác và bác ái.
Anh chị em thân mến,
Hồi nãy trước Phúc Âm, anh chị em đã hát câu: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin đổi mới bộ mặt trái đất”.
Khi tôi nghe anh chị em hát câu đó, tôi nghe tiếng Chúa nói trong lòng tôi: “Hãy xin Chúa Thánh Thần, đổi mới đức tin chúng con”. Cái đó cần hơn, bởi vì đức tin của chúng ta còn hời hợt, còn nông nổi, và trong một thời gian tới sẽ có nhiều thử thách đến với chúng ta. Nếu đức tin chúng ta chỉ là lễ nghi, chỉ là kinh kệ, chỉ là giáo lý, chỉ là tin có Chúa mà không phải là một đức tin có Chúa trong lòng mình và có Chúa là tin mừng tuyệt đối của mình, thì trong thời điểm sắp tới đức tin sẽ dễ bị suy thoái, nhiều người sẽ bỏ đức tin. Trong thánh lễ bây giờ, anh chị em cũng như tôi, sốt sắng nhìn vào Chúa Kitô. Xin Chúa Kitô, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, đổi mới đức tin của chúng ta, ban cho con em chúng ta một đức tin sống động, đầy khiêm nhường, đầy phó thác, đầy bác ái, một đức tin gặp gỡ chính Chúa trong lòng mình. Amen.
Từ khi còn nhỏ, tôi đã thấy có một thói quen trong họ đạo tôi, đó là mỗi ngày tiếng chuông nhà thờ được vang lên ba lần: Buổi sáng, buổi trưa và buổi tối. Mỗi lần nghe tiếng chuông nhà thờ vang lên, tôi thấy mọi người trong gia đình tôi điều làm dấu Thánh Giá, đọc kinh Truyền Tin. Khi lớn lên, tôi nhận thấy thói quen ấy là một thói quen đều khắp họ đạo của tôi. Không phải chỉ riêng gia đình tôi, xóm ngõ tôi mà tất cả họ đạo tôi cùng đọc kinh Truyền Tin, mỗi khi nghe tiếng chuông nhà thờ.
Rồi khi là chủng sinh, là linh mục, là Giám Mục, được đi đây đó, tôi nhận thấy thói quen ấy là một thói quen chung của Hội Thánh. Khắp nơi trong nước Việt Nam và khắp nơi trên khắp thế giới đều làm như vậy. Ngay trong thời gian ở Rôma, gần Đức Giáo Hoàng, tôi thấy tiếng chuông 12g vừa đổ, thì Đức Thánh Cha cũng đọc kinh Truyền Tin y hệt như ta đã làm ở Việt Nam.
Khi đọc kinh Truyền Tin mỗi khi chuông nhà thờ đổ, tôi thường nhớ tới bài Phúc Âm lễ hôm nay, một bài Phúc Âm kể lại rành rọt, đầu đuôi câu chuyện thiên thần hiện đến truyền tin cho Đức Mẹ.
Nhưng có một điều quan trọng mà tôi nhớ cách riêng trong khi đọc kinh Truyền Tin, đó là lời kết của bài Phúc Âm hôm nay, đó là lời Đức Mẹ nói với thiên thần: “Xin vâng như lời thiên thần truyền”. Xin tuân phục thánh ý Chúa. Nếu có một cái chân lý nào gọi là quan trọng nhất của đời Đức Mẹ thì chân lý quan trọng nhất đó là câu: “Xin tuân phục thánh ý Chúa”. Và nếu có một chân lý nào được coi là quan trọng nhất của cuộc đời Chúa Kitô, thì cái chân lý quan trọng ấy cũng là “Con đến để làm theo thánh ý Chúa Cha”.
Nếu Chúa Giêsu, nếu Đức Mẹ đã chọn chân lý cho đời sống mình là vâng phục thánh ý Chúa, thì chân lý ấy cũng phải là một chân lý quan trọng nhất của đời sống đức tin, của đời tu đức của tôi. Và không phải chân lý ấy chỉ dành cho riêng tôi, mà cũng là một chân lý dành cho tất cả mọi người anh chị em.
Do đó, mỗi khi đọc kinh Truyền Tin, khi nghe tiếng chuông nhà thờ, tôi vẫn cảm thấy như tiếng Chúa gọi “Con hãy làm theo thánh ý Chúa”. Và tất nhiên, câu trả lời tôi phải nói lên lúc ấy là: “Này con đến, để làm theo thánh ý Chúa”.
Nhưng thánh ý Chúa là gì? Đối với tôi thánh ý Chúa rõ rệt nhất, chắc chắn nhất, đó là hãy trở về với Chúa hằng ngày. Nếu chưa tốt thì hãy cố gắng tốt hơn. Nếu đã tốt rồi, hãy cố gắng tốt hơn nữa.
Thánh ý Chúa rõ rệt nhất, chắc chắn nhất, còn là hãy chu toàn bổn phận của mình. Mỗi ngày, chúng ta có những bổn phận rõ rệt đối với Chúa, đối với gia đình, những người chung quanh, đối với họ đạo, đối với xã hội, đối với Hội Thánh. Khi tôi hiểu thánh ý Chúa gồm hai điều như vậy thì mỗi khi tôi đọc kinh Truyền Tin, lúc nghe chuông nhà thờ đổ, tôi cảm thấy cần phải xin Chúa ban ơn cho tôi, ơn được trở về hằng ngày với Chúa, ơn được chu toàn bổn phận của mình.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay tôi làm phép hai quả chuông cho nhà thờ họ đạo anh chị em, tôi muốn chia sẻ cho anh chị em những điều suy nghĩ vừa nói. Tôi đọc thấy khẩu hiệu ở cuối nhà thờ “Tiếng chuông là tiếng Chúa gọi”. Tiếng Chúa gọi đối với tôi, như anh chị em vừa nghe, đó là: “Hãy làm theo thánh ý Chúa”. Lời ấy là lời kết quả của bài Phúc Âm hôm nay.
Thánh ý Chúa là muốn chúng ta trở về với Chúa, là muốn chúng ta chu toàn bổn phận của mình, lợi dụng mọi cơ hội Chúa gởi đến hằng ngày để làm sáng danh Chúa, để cứu rỗi các linh hồn. Nếu hôm nay anh chị em chỉ nhớ một điều đó thôi, và nếu anh chị em hôm nay và mãi mãi sau này chỉ thực hiện được một điều đó thôi, thì tiếng chuông nhà thờ anh chị em sẽ trở nên một lời nhắn nhủ, có ý nghĩa quan trọng mà chúng ta cần phải biết ơn Chúa. Và ngày hôm nay, ngày làm phép chuông cho họ đạo, sẽ trở thành kỷ niệm đầy ý nghĩa.
Bởi vì nó nhắc nhở cho chúng ta từ nay, mỗi ngày hãy lắng nghe tiếng Chúa gọi, qua tiếng chuông nhà thờ: “Hãy làm theo thánh ý Chúa”. Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người chúng con, luôn biết làm theo thánh ý Chúa. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay nói rằng: “Đức Maria vội vã lên đường, lên miền núi, vào một thành xứ Giuđêa, rồi vào nhà ông Giacaria để viếng thăm bà Isave”. Khi nghe những lời trên đây của Phúc Âm, tôi đã tưởng tượng ra chuyến đi của Đức Mẹ. Tôi thấy Đức Mẹ lên đường đi bộ. Cũng có thể là Đức Mẹ ngồi trên lưng một con lừa, do ông thánh Giuse dắt đi. Chuyến đi của Đức Mẹ rất vất vả, vì phải đi lên miền núi. Rồi khi lên núi. Đức Mẹ chẳng thấy ai đón mình. Rồi khi vào thành Đức Mẹ cũng chẳng thấy ai đợi mình. Chỉ khi nào vào nhà ông Giacaria, Đức Mẹ mới gặp được niềm vui, đó là được trao đổi với người dì của mình. Nhưng đây cũng chỉ là một niềm vui giữa hai người mà thôi.
Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, là Đấng rất thánh, thế mà chuyến đi của Đức Mẹ đơn sơ như thế. Rồi tôi nghĩ đến chuyến đi của chúng tôi lên giáo xứ Núi Tượng này. Tôi và các cha, so với Đức mẹ chỉ là những người thấp hèn, tội lỗi, thế mà khi tới đây, chúng tôi đã được anh chị em dành cho những vinh dự, những niềm vui khác thường, những vinh dự và những niềm vui, chúng tôi không trông chờ.
Nhưng khi thấy những sự này, tôi hiểu ngay, tất cả những sự anh chị em làm hôm nay cho chúng tôi là vì anh chị em có đức tin, mọi sự chỉ vì đức tin, mọi sự chỉ do đức tin. Vì thế, tôi muốn dùng tinh thần của bà Isave hôm nay, để nói với anh chị em rằng: Phúc cho anh chị em, vì đã tin vào Chúa, vì đã tin lời Chúa.
Trong niềm tin của anh chị em và cũng là niềm tin của chúng tôi, rõ ràng là có sự gặp gỡ Chúa. Vì trong sự chúng ta mừng nhau, có sự chúng ta mừng Chúa, trong sự chúng ta yêu thương nhau có sự chúng ta thương mến Chúa, trong sự chúng ta nhìn nhau, có sự Chúa đang nhìn ta. Chúa đang ở giữa chúng ta. Chúa đang đến với chúng ta. Chúa đang đi vào mỗi lòng người chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Chúa lời cảm tạ, những lời kinh, những tiếng hát, những bông hoa, những hy sinh, những tâm hồn quý mến.
Nhưng chúng ta đừng quên điều này, là lễ vật đẹp lòng Chúa nhất chính là làm theo thánh ý Chúa, như lời thánh thư hôm nay đã nói về Chúa Kitô, khi Ngài đến thế gian. Thánh thư nói: “Chúa không muốn của lễ toàn thiêu, cũng không chấp nhận của lễ đền tội, nên tôi đến và thưa với Chúa Cha: Này con đến để làm theo thánh ý Chúa Cha”. Và cũng như lời đáp ca hôm nay nhắc lại lời Đức Mẹ: “Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Nếu sự làn theo thánh ý Chúa là mục đích duy nhất của Chúa Kitô khi đến trong thế gian, và nếu sự tuân phục thánh ý Chúa là mục đích của Đức Mẹ, khi nhận cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, thì tuân phục thánh ý Chúa cũng phải là mục đích của đời ta. Ta không thể chọn một con đường nào khác được.
Khi suy nghĩ về sự làm theo thánh ý Chúa, tôi thấy có ba điều này rất rõ rệt, rất chắc chắn thuộc về ý Chúa.
Thứ nhất: Ý Chúa muốn chúng ta hãy trở về với Chúa hằng ngày, trở về đường lành, trở nên tốt hơn.
Thứ hai: Ý Chúa muốn là hằng ngày chúng ta chu toàn bổn phận của mình, làm nên những việc phải làm, chịu nên những việc phải chịu. Hằng ngày vác thánh giá mình, là chu toàn bổn phận, và lợi dụng tất cả những sự việc xảy ra cho mình, để làm vinh danh Chúa.
Thứ ba: Ý Chúa muốn là hằng ngày chúng ta làm những việc bác ái cho những người xung quanh. Tối thứ sáu vừa qua, tôi xem đài truyền hình Cần Thơ, thấy một phóng sự tả lại cảnh những người đập đá trên núi Côtô. Anh chị em ở đây, phần đông cũng làm nghề đập đá.
Khi nhìn thấy những cảnh đập đá, tôi nghĩ tới ba việc trên đây, mà tôi vừa nói với anh chị em, thuộc về sự làm theo thánh ý Chúa. Tôi nghĩ rằng, bản thân tôi, bản thân mỗi người chúng ta, có lẽ còn nặng hơn là phiến đá. Làm cho bản thân ấy nên tốt hơn không phải là việc dễ dàng.
Rồi tôi nghĩ rằng, bổn phận hằng ngày của tôi, của anh chị em, nhiều khi cũng trơ trơ như những tảng đá. Chu toàn bổn phận bác ái đối với họ, nhiều khi không phải là chuyện dễ dàng.
Có nghĩa là làm theo thánh ý Chúa không dễ gì. Thế nhưng, Chúa không đòi chúng ta làm cái gì quá sức mình. Chúa chỉ cần chúng ta có thiện tâm, thiện chí. Hãy làm vừa sức mình, và hãy dâng tất cả những cố gắng của ta, cũng như những thất bại của ta, cho Chúa. Sự Chúa đòi không phải là thành công, nhưng sự Chúa đòi là thành tâm.
Anh chị em thân mến,
Trong thánh lễ hôm nay, khi làm phép Thêm Sức, khi cầu nguyện cho anh chị em, khi nhớ tới tân linh mục của anh chị em, tôi chỉ cầu xin điều này là: “Xin Chúa cho mọi người chúng ta, biết làm theo thánh ý Chúa”. Việc lớn, việc nhỏ, ở đây hay nơi khác, luôn luôn ta chỉ nhằm làm theo thánh ý Chúa, luôn trở về với Chúa, luôn cố gắng chu toàn bổn phận của mình, luôn làm hết sức để thực thi bác ái Phúc Âm.
Tuy không dễ dàng nhưng nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta sẽ dâng lên Chúa lời cảm tạ đẹp lòng Chúa nhất: “Cố gắng làm theo thánh ý Chúa Cha”.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban ơn cho chúng con biết nhìn thấy thánh ý Chúa trong mọi ngày, và xin giúp cho chúng con biết luôn luôn tuân phục thánh ý Chúa.
Nhìn quang cảnh lễ Noel, với số người đông đảo trên các nẻo đường, với bao rực rỡ tưng bừng khắp mọi nơi trên đất nước, ai cũng thấy lễ Chúa Giáng Sinh đã trở thành một ngày hội vui của mọi người.
Riêng đối với tôi và những người tin, lễ này không những là ngày của niềm vui, mà còn là ngày của niềm tin. Niềm tin tăng thêm niềm vui.
Thực vậy, còn gì vui bằng được sự đón tiếp Thiên Chúa đến trong thế gian. Khi đến, Ngài đã không chọn địa chỉ nào, ngoài con người. Và khi chọn con người, Ngài đã không chọn một người có những hoàn cảnh giàu sang danh tiếng, nhưng đã chọn thân phận một hài nhi yếu hèn nghèo khó, sinh ra bởi một phụ nữ bình dân, chất phát. Và mặc dầu Thiên chúa là Đấng uy quyền vô cùng, Ngài lại giáng sinh, mặc lấy số kiếp một con người bị hạn chế bởi vô vàn thứ luật, từ luật thiên nhiên, đến luật xã hội, tôn giáo. Những lựa chọn như vậy thực là khó hiểu. Nhưng tôi tin, nên tôi đã hiểu. Tôi hiểu rằng: Chỉ vì yêu thương loài người, chỉ vì muốn cứu chuộc loài người, mà Thiên Chúa đã giáng sinh trong những hoàn cảnh đầy khiêm tốn và đầy hy sinh.
Sự hiểu biết ấy đổi mới niềm tin. Niềm tin tôi không còn chỉ là tin có Chúa, mà là TIN VÀO CHÚA. Tin vào Chúa là tin tưởng ở tình yêu vô biên đầy quyền năng cứu độ của Chúa. Tin vào Chúa là một sự ra đi nội tâm, là một xuất hành thiêng liêng, con người từ bỏ mình để đi vào trái tim Chúa, để đặt mình trong bàn tay cứu độ của Chúa.
Tin vào Chúa là tâm hồn đi vào con đường vâng phục thánh ý Chúa, với tất cả tấm lòng phó thác cậy trông, tin tưởng đồng hành với Chúa Giêsu, Đấng đã đến với nhân loại trong tâm tình hiến dâng mình cho thánh ý Chúa Cha: “Lạy Cha, này Con đây, Con đến để làn theo thánh ý Cha” (Hebr 5,10).
Tin vào Chúa là khỏi cái tôi ích kỷ hẹp hòi, để dấn mình vào kế hoạch cứu độ Thiên Chúa.
Kẻ tin như vậy bao giờ cũng có ý thức về Chúa là tình yêu cứu độ đầy quyền năng, và ý thức về mình là kẻ có tội lỗi yếu đuối cần được cứu độ. Tin vào Thiên Chúa là ném bực thấp hèn của mình vào vực thẳm tình yêu thương xót của Chúa cứu độ.
Tin vào Chúa như vậy là đi vào cõi bình an mà Chúa dành cho kẻ thiện tâm.
Niềm tin vào Chúa mà tôi vừa gợi ý sẽ là một tiếng hát ngọt ngào, mà Chúa muốn nghe, sẽ là một bó hoa thơm đẹp mà Chúa muốn nhận. Vì thế, lời tạ ơn hôm nay tôi dâng lên Chúa là: “Lạy Chúa, xin cho con và mọi người biết luôn luôn tin vào Chúa, nhất là trong những hoàn cảnh ngặt nghèo có nhiều thử thách”.
Với niềm tin trên đây, tôi chân thành cầu chúc mọi người, và mỗi người anh chị em một lễ Giáng Sinh vui vẻ trong tình yêu Chúa Giêsu, Đấng cứu độ loài người.
Bài giảng lễ Giáng Sinh tại Long Xuyên, ngày 24-12-1991.
Đêm Sinh Nhật vừa qua, tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, sau thánh lễ, giữa một đám đông, có một thanh niên lạ đến hỏi Đức Cha D9ng: “Chúa là Đấng có quyền, có phép, Ngài đã giáng sinh gần 2.000 năm nay rồi, thế mà tại sao Ngài không làm được cho tất cả nhân loại nhận biết Ngài, tôn thờ Ngài, trở về với Ngài?”
Đức Cha già trả lời cho người thanh niên đó rằng: “Thưa, vì Thiên Chúa trọng sự tự do của con người”. Câu trả lời ấy cũng là câu trả lời tôi hay dùng để cắt nghĩa những thắc mắc, những cái khó hiểu tương tự, như cái khó hiểu trong bài Phúc Âm hôm nay, đó là: Tại sao Chúa quyền phép vô cùng, lại không ngăn cản vua Hêrôđê, khi ông định giết những trẻ em vô tội? Chúa không ngăn cản vì Chúa trọng sự tự do của vua. Đó là một cách trả lời.
Nhưng tôi cũng vẫn thường hay dùng cách khác nữa, để trả lời cho những trường hợp như vậy. Tôi nói: “ Chúa để xảy ra như vậy, vì Chúa có quyền tự do của Chúa, và cách sử dụng sự tự do của Chúa như vậy sẽ có lợi rất nhiều cho nhân loại, cho chúng ta”.
Thực vậy, nếu chúng ta để ý nhìn mấy chi tiết về sự Chúa Giáng Sinh, cho đến khi Chúa trốn sang Ai Cập mà bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở, thì chúng ta sẽ thấy điều đó. Chúa cao cả vô cùng, Ngài có thể không giáng sinh, Ngài có thể giáng sinh làm con một vì vua, sinh ra trong đền đài, hoặc là làm con một vị thượng tế sinh ra trong đền thờ. Nhưng Chúa đã dùng quyền tự do của Chúa mà chọn giáng sinh làm một hài nhi bé nhỏ, khó nghèo, hầu chứng tỏ rằng: Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta. Chúa đã cam nhận hy sinh tột độ như vậy đó.
Rồi Chúa là Đấng uy quyền vô cùng. Ngài có thể ra tay trừng trị dân thành Bêlem, đã không cho Thánh Gia trú trọ, để đến nỗi Đức Mẹ phải hạ sinh Đức Giêsu trong một hang đá giữa đêm đông giá lạnh, như một kẻ khốn cùng trong xã hội. Nhưng Chúa đã dùng quyền tự do của mình, để chọn lựa sinh ra trong máng cỏ, hầu cho chúng ta thấy rằng: Đấng Cứu Thế đến, không phải để kết án, mà là để tha thứ, mà là để cứu độ.
Rồi Chúa là Đấng có quyền, có phép. Ngài có thể trói tay vua Hêrôđê lại, không cho ông ra lệnh giết các trẻ em vô tội. Nhưng Chúa đã dùng quyền tự do của mình, hầu cho các trẻ em bị giết hôm ấy, trở nên những vị thánh cộng tác vào công việc cứu độ của Chúa Kitô.
Rồi Chúa là Đấng khôn ngoan vô cùng, Ngài có thể ở lại Bêlem mà Hêrôđê không nhận thấy Ngài. Nhưng Ngài đã dùng quyền tự do của mình, để khiến Thánh Gia trốn sang Ai Cập như một kẻ yếu hèn, như một kẻ thua, để chứng minh rằng: Muốn cứu nhân loại, muốn cứu chúng ta, Chúa Kitô đã phải hiến dâng mình làm của lễ, từ bỏ mình, hy sinh mạng sống, trong một quãng đời dài 33 năm, từ hang đá Bêlem cho đến thánh giá trên Núi Sọ.
Rồi khi tôi nhìn gần hơn nữa, tôi thấy rằng, Chúa thông biết mọi sự, Chúa thánh thiện vô cùng, Chúa thừa biết tôi đâu có thánh thiện đạo đức gì, đâu có xứng đáng gì, thế mà Chúa đã dùng quyền tự do của Chúa mà chọn tôi, mà thương yêu tôi, mà nâng đỡ tôi, để tôi, sau cùng nhận ra rằng: Thiên Chúa là Đấng xưa đã dùng bụi đất mà dựng nên ông Adong, thì hôm nay Người vẫn có thể dùng một tạo vật bất xứng để làm nên dụng cụ của Ngài.
Rồi nếu nhìn gần hơn nữa, tôi cũng nhận thấy rằng: “Những ngưòi xa gần, có thể dựa trên lý do này, lý do khác, để có những thái độ lựa chọn không tốt đối với tôi. Nhưng Chúa đã hướng dẫn sự tự do của họ, để họ có những chọn lựa tối đối với tôi, hầu cho tôi thấy rằng, đâu đâu, trong bất cứ sự gì, tôi vần có thể nhận thấy được tín điều của tình yêu Chúa dành cho tôi.
Vậy qua mấy sự việc vừa nêu trên đây, tôi có thể thấy rõ rằng, mọi sự xảy ra trong thế gian này, trong cuộc đời ta, đều do quyền tự do của Chúa cho phép, hầu giúp cho chúng ta được cứu độ. Và nếu chúng ta có đức tin, thì bất cứ sự gì, kể cả những cái bất lợi nhất, cũng có khả năng trở thành giá cứu chuộc ta, trở thành giá cứu chuộc nhân loại.
Đó là cái nhìn của đức tin, đó là cái nhìn do đức tin. mà chúng ta cần phải có để tạ ơn Chúa về mọi ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta trong suốt cuộc đời, dù những sự việc coi như thuận lợi, dù những sự việc coi như bất lợi.
Với cái nhìn đó, tôi thấy rằng, vấn đề quan trọng đặt ra cho mỗi người chúng ta, là phải biết huấn luyện mình, huấn luyện những người thuộc về mình, để biết sử dụng tự do Chúa ban cho mình, theo gương Chúa là Đấng đã sử dụng cái tự do của mình cho phần rỗi chúng ta, dù Ngài phải chấp nhận hy sinh, thua thiệt, đau đớn suốt đời.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi cầu xin Chúa Thánh Thần cho chúng ta có một cái nhìn của đức tin. Và cho chúng ta có một chương trình, biết huấn luyện mình, huấn luyện con người của mình, biết sử dụng sự tự do Chúa ban cho mình, biết cứu độ người khác, biết thăng tiến người khác, biết làm cho người khác nên tốt hơn, như Chúa Giêsu đã làm trong mầu nhiệm giáng sinh, kể cả hôm nay Người trốn sang Ai Cập, để chấp nhận cuộc hiến dâng mình làm của lễ cứu chuộc nhân loại. Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp cho chúng con có một cái nhìn đức tin, và xin Chúa giúp chúng con biết huấn luyện con người chúng con, để chúng con biết sử dụng sự tự do của chúng con trong hướng cứu chuộc những người Chúa đã trao phó cho chúng con . Amen.
Từ chiều hôm qua cho đến bây giờ, tôi được sống giữa anh chị em trong một thời gian ngắn ngủi, tôi nhận thấy có một điều mà tôi cho là rõ ràng nhất, chắc chắn nhất nơi anh chị em, đó là niềm vui, một niềm vui đơn sơ, một niềm vui chân thành, nhưng là một niềm vui sâu sắc.
Thấy vậy, tôi cảm tạ Chúa, đã cho tôi có dịp chia sẻ niềm vui ấy với anh chị em. Tôi suy nghĩ, và tôi tìm hiểu xem nguyên do nào đã gây nên niềm vui nơi anh chị em. Có phải là một nguyên nhân tự nhiên, hay là do những nguyên nhân siêu nhiên.
Khi nghe bài Phúc Âm hôm nay, tôi đã khám phá thấy câu trả lời mà tôi đang tìm kiếm. Câu trả lời đó là: “Niềm vui của anh chị em, là do những nguyên nhân siêu nhiên, hơn là những nguyên nhân tự nhiên”. Thực vậy, nguyên nhân thứ nhất gây nên niềm vui nơi anh chị em hôm nay là vì anh chị em nhận biết Đức Kitô, và biết đón nhận Đức Kitô đến với anh chị em.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, thánh Gioan tông đồ phàn nàn rằng: “Ngôi Lời ở giữa nhân loại, nhưng nhân loại đã không nhận biết Người. Ngôi Lời đã đến nhà các gia nhân của Người, nhưng các gia nhân của Người đã không tiếp nhận Người”.
Sự không nhận biết Đức Kitô và sự không tiếp nhận Đức Kitô, là sự đã xảy ra thời thánh Gioan, và bây giờ còn đang xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới. Nhưng sự âý không xảy ra ở họ đạo chúng ta. Chúng ta nhận biết Đức Kitô, và chúng ta tiếp nhận Đức Kitô thường xuyên, nhất là khi chúng ta chịu các phép bí tích, như trong thánh lễ bây giờ. Đặc biệt, chúng ta đã tiếp nhận Đức Kitô một cách long trọng và đầy hoan lạc trong dịp lễ Noel vừa qua, và trong thánh lễ hôm nay.
Khi tiếp nhận Đức Kitô đến với chúng ta, chúng ta đã nhìn nhận Ngài là Đấng Cứu Thế đầy tình thương xót, đầy quyền năng. Đồng thời, chúng ta cũng nhận biết bản thân chúng ta là những kẻ yếu hèn, tội lỗi, cần được Chúa cứu độ.
Vì thế, chúng ta có một niềm vui, giống như những người đau ốm tật nguyền xưa, đã được Chúa Giêsu cứu khỏi đau ốm bệnh tật, chúng ta cũng được một niềm vui, giống như những người phụ nữ tội lỗi trong Phúc Âm, đã được niềm vui khôn tả, khi được Chúa Giêsu chữa cho khỏi tội lỗi và khỏi mặc cảm.
Chúng ta cũng được một niềm vui giống như các thanh thiếu niên ở thành Giêrusalem, đã ra đón tiếp Đức Kitô. Bởi vì, các thanh thiếu niên ấy, nhìn Đức Kitô như là một người đem lại hy vọng và an ủi cho cuộc đời của họ.
Chúng ta vui mừng thực sự trong lòng, như người trộm lành đã vui khi Đức Kitô hứa cho anh nước thiên đàng.
Niềm vui của chúng ta, đúng là niềm vui siêu nhiên do sự chúng ta biết đón nhận Đức Kitô đến với chúng ta. Đó là nguyên nhân thứ nhất.
Nguyên nhân thứ hai là, vì chúng ta là con Thiên Chúa.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, thánh Gioan nói rằng: “Những ai tiếp nhận Đức Kitô, thì được quyền trở nên con Thiên Chúa”. Là con của Thiên Chúa. Đó là một vinh dự lớn lao, đem lại cho chúng ta biết bao an ủi và những hy vọng tuyệt vời.
Riêng tôi chẳng hạn, khi thấy mình yếu đuối, lỗi lầm, mệt mỏi, tôi thường hay nhìn lên Chúa. Nhìn Ngài là Cha của tôi, và tôi chỉ nói với Ngài một lời đơn sơ: “Lạy Cha, xin thương xót con”. Và khi tôi nói với Chúa như vậy, tôi đã đặt tất cả niềm tin vào Ngài. Ngài là Cha. Cha thì thương con. Lý do để tôi phó thác nơi Ngài, không phải là công nghiệp nơi tôi, mà chỉ là tình yêu người cha đối với ngưòi con, phó thác tuyệt đối. Phó thác trọn vẹn. Phó thác không điều kiện. Bởi vì Chúa là Cha, mình là con của Cha trên trời.
Rồi chẳng hạn, khi tôi muốn làm điều gì theo ý riêng tôi, hay khi tôi không muốn tiếp nhận một cái gì trái ý tôi, thì tôi lại nhìn lên Chúa. Nhìn Ngài là Cha của tôi. Tôi là con của Ngài. Và tôi đã nói với Chúa lời mà Ngôi Lời đã nói với Đức Chúa Cha: “Này Con đây, Con đến để làm theo thánh ý Cha”. Bởi không có một của lễ nào đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng sống và làm theo ý Chúa.
Là con Thiên Chúa, tôi thấy đó là điều an ủi nhất cho chúng ta. Đặc biệt là vì con Chúa thì sẽ được Chúa đem lên thiên đàng, được ở bên Chúa muôn thuở, muôn đời, như lời Chúa Giêsu đã hứa: “Ta ở đâu, thì kẻ tin Ta sẽ ở đấy”.
Anh chị em thân mến,
Trên bàn thờ, có những bông hoa đẹp, có những cây đèn sáng. Tôi liên tưởng đến trái tim anh chị em. Tôi nghĩ rằng, trái tim anh chị em còn đẹp hơn những bông hoa trên bàn thờ, còn sáng hơn những ngọn nến đang cháy trên bàn thờ. Bởi vì trái tim anh chị em có tình mến chân thành của người con Thiên Chúa. Tôi nghĩ rằng Chúa đang nhìn từng trái tim anh chị em. Và Chúa cũng rất vui lòng nhìn những trái tim anh chị em, đơn sơ, hồn nhiên, chấp nhận những gì xảy ra, vui, buồn, trong cuộc sống hằng ngày.
Trong thánh lễ hôm nay, cũng là thánh lễ cuối năm, năm 1991, chúng ta cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta niềm tin, biết đón nhận Đức Kitô, và được làm con Thiên Chúa. Nhìn sang năm 1992, tôi thấy bầu trời không phải luôn sáng sủa. Anh chị em hãy giữ vững niềm tin, hãy luôn nhớ, chúng ta có Đức Kitô là Đấng cứu độ chúng ta. Quê hương chúng ta là ở trên trời.
Mặc dầu bầu trời không luôn sáng sủa, nhưng với đức tin chúng ta nhìn lên Cha trên trời, nhìn vào Đức Kitô cứu độ ở giữa chúng ta, để chúng ta biết sống. Và để một ngày nào đó, chúng ta, con cái chúng ta, thân nhân chúng ta, được tụ hợp trên nhà Cha trên trời. Đó là hạnh phúc lớn lao nhất, là mục đích sau cùng của đời sống chúng ta.
Xin Chúa Thánh Linh mở lòng chúng ta, để chúng ta giờ đây biết đón nhận ơn Chúa Thánh Thần. Amen.
Thánh lễ bây giờ là thánh lễ cuối năm 1991. nghe bài Phúc Âm hôm nay, tôi có ba suy nghĩ để chia sẻ với anh chị em.
Suy nghĩ thứ nhất là hãy chúc tụng Chúa như bà Anna đã làm xưa.
Theo bài Phúc Âm, bà Anna, sau bao nhiêu năm cầu nguyện trông chờ, đã gặp được Đấng Cứu Thế. Bà đã vui mừng khôn xiết, đã hết lời ca tụng Thiên Chúa.
Anh chị em hãy nhìn họ đạo bé nhỏ của anh chị em đây. Về cơ sở vật chất, về sinh hoạt tôn giáo, về nhân sự, mọi cái đều tốt trong năm nay. Và nhất là Chúa đã đến viếng thăm anh chị em qua các bí tích, qua những lời giảng Phúc Âm. Và Chúa đã đến viếng thăm anh chị em tận gia đình, khi con em anh chị em chịu phép Rửa Tội, khi trong gia đình có người chịu phép Hôn Phối, khi trong gia đình có người hấp hối, hoặc tang gia.
Tóm lại, trong suốt năm nay, năm 1991, Chúa đã ban cho anh chị em rất nhiều ơn, phần hồn, phần xác, như là anh chị đã trông chờ, và nhiều trường hợp Chúa ban ơn hơn là anh chị em mong đợi.
Hãy theo gương bà Anna mà ca ngợi Chúa. Ca ngợi bằng lòng mến mộ, lòng khao khát, lòng gắn bó với Chúa nhiều hơn. Và luôn tạ ơn Chúa, bằng sự quyết tâm sau này sống tốt hơn trong lề luật đạo Chúa.
Suy nghĩ thứ hai tôi muốn chia sẻ với anh chị em là hãy theo gương bà Anna, là nói cho nhiều người khác biết về con trẻ Giêsu.
Bài Phúc Âm hôm nay nói rằng: SAu khi gặp Chúa Giêsu rồi, bà Anna ca tụng Thiên Chúa. Rồi gặp ai bà cũng kể về con trẻ Giêsu. Đó là một gợi ý tốt cho tôi. Gợi ý đó là hãy nói cho người khác biết về Chúa Kitô.
Khi tôi đến họ đạo anh chị em, nhìn ngôi thánh đường, nhìn các anh chị em đi lễ, đọc kinh, tôi coi đó là một sự anh chị em nói về Chúa Kitô. Tôi cũng nghĩ rằng, mỗi tối anh chị em đọc kinh trong gia đình, đó cũng là một cách anh chị em nói về Chúa Kitô cho những người trong gia đình mình, cho những người trong xóm ngõ mình. Nhưng chưa đủ.
Hãy nói về Chúa Kitô, bằng đời sống của mình, bằng chính cái gương Chúa Giêsu đã làm, mình làm theo như vậy. Rồi nhất là, cần phải có sự sống Chúa Giêsu trong chính mình ta, để những lời ta nói, những việc ta làm, những thái độ ta có, thảy đều phản ánh tinh thần của Đức Kitô, đến cho những người lương, người giáo xung quanh ta, khi thấy chúng ta sống, khi nghe chúng ta nói, khi xem việc chúng ta làm, thì cảm thấy một Tin Mừng tỏa ra chung quanh chúng ta. Mà Tin Mừng đó chính là Đức Kitô.
Tôi nghĩ rằng, cuộc sống anh chị em giữa vùng đồng bào khác tôn giáo, cần phải có một tinh thần đời sống Đức Kitô. Nếu chúng ta sống tốt, thì đó là một cách truyền giáo tốt nhất, để nói về Đức Kitô, để kể về Đức Kitô.
Suy nghĩ thứ ba tôi muốn chia sẻ với anh chị em, là theo gương hài nhi Giêsu mà lớn lên, đầy sức mạnh, đầy ơn khôn ngoan, và đầy ơn nghĩa với Thiên Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay đã nói về hài nhi Giêsu là: Hài nhi GIêsu càng lớn lên, thì càng đầy sức mạnh, càng đầy ơn khôn ngoan, và càng đầy ơn nghĩa với Chúa. Câu đó là một gợi ý tốt cho tôi trong ngày hôm nay. Gợi ý đó là tôi muốn chúc họ đạo bé nhỏ anh chị em nói chung, và từng anh chị em nói riêng, sang năm mới, năm 1992, hãy lớn lên, đầy sức mạnh, đầy khôn ngoan, và đầy ơn nghĩa Chúa. Lớn lên đây, không phải là lớn lên về thể xác, mà là lớn lên về mọi phương diện, nhất là về phương diện tinh thần.
Khi tôi để ý mấy câu kinh thánh nói về hài nhi Giêsu đầy sự khôn ngoan, đầy ơn nghĩa Chúa và đầy sức mạnh, thì tôi cầu chúc cho anh chị em, mỗi người chúng ta, cũng được như vậy, và mỗi người chúng ta, cũng được như vậy, và mỗi người chúng ta cũng cần được như vậy. Nhất là khi tôi nhìn thấy trước mắt tôi, một thời gian tương lai, sẽ có nhiều thử thách. Thử thách về mặt tinh thần, thử thách về mặt đức tin, thử thách về cuộc sống vật chất. Cần phải có nhiều sức mạnh, cần phải có nhiều khôn ngoan, cần phải có nhiều ơn nghĩa Chúa, để có thể, không những đứng vững trong năm mới này, mà còn có thể phát triển được về nhiều mặt khác nhau. Anh chị em thâm mến,
Trên đây là ba suy nghĩ tôi rút ra từ bài Phúc Âm hôm nay để gởi lại anh chị em: Hãy chúc tụng, hãy cảm tạ Chúa. Hãy nói về Đức Kitô như Đức Kitô là một tin mừng của chúng ta. Và hãy biết lớn lên đầy khôn ngoan, đầy ơn nghĩa Chúa.
Trng thánh lễ này, tôi cầu xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta biết đón nhận ơn khôn ngoan, ơn sức mạnh, và ơn nghĩa Chúa rất cần cho tương lai chúng ta. Như vị đại diện đã nói: “Họ đạo anh chị em bé nhỏ lắm”. Rất bé nhỏ. Cho nên trong một thời gian khó khăn, anh chị em cần phải có sức mạnh thiêng liêng, cần phải có ơn khôn ngoan rất nhiều, cần phải có ơn nghĩa Chúa rất nhiều, để có thể đứng vững trong đức tin, để có thể đưa gia đình mình, đưa cộng đoàn mình đến bến đức tin là thiên đàng mà Chúa mong chờ.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Chúa đến trong lòng mỗi người chúng con. Xin Chúa đến ban phúc lành cho họ đạo chúng con. Amen.
Dịp các Đức Cha sang Toà Thánh, là dịp tốt nhất để có một số liệu tương đối chính xác về số người Công giáo của từng giáo phận. Cộng tất cả, thì tổng số người Công giáo hiện nay tại Việt Nam là vào khoảng 4 triệu người.
Với 4 triệu người trong tổng số 65 triệu dân, Giáo Hội Việt Nam là một thiểu số bé nhỏ. Lượng là thế, còn phẩm thì sao? Dĩ nhiên mình cho là mình tốt, với mức tương đối cao. Nhưng với hơn 60 triệu người đồng bào ngoài Công giáo có đánh giá Giáo Hội Việt Nam ta như ta tự đánh giá không. Còn nếu theo dư luận thu lượm được từ các tiếp xúc thì có khen, có chê, có thiện cảm, và có nhiều dửng dưng bất cần.
Dư luận chung quanh cho rằng: Công giáo Việt Nam rất tốt ở chỗ đông người đi lễ, nhiều người thuộc kinh, và dễ qui tụ theo một nề nếp có sẵn, được tổ chức chặt chẽ, vững vàng. Đang khi đó, Công giáo Việt Nam lại rất bị chỉ trích về tinh thần công bình bác ái. Mà nếu tinh thần công bình bác ái lại được coi là một tín hiệu có sức lôi kéo người ta đến với Đức Kitô, thì ta phải nghĩ sao đến những cộng đoàn dễ an tâm và hãnh diện với thói quen đi lễ đọc kinh đông nhưng lại đứng nhất nhì về chuyện trái đức công bình bác ái? Không thiếu cộng đoàn đúng là như thế, và nếu thói quen suy nghĩ đó đã trở thành một não trạng, một cơ chế, thì còn gì là bản chất đạo Công giáo, và làm sao đạo Công giáo có thể được đồng bào ngoài Hội Thánh nhìn nhận là một ngôi sao dẫn đường về Thiên Chúa được?
Ở đây, tôi nhớ tới một ý của Simone Weil: Người thời nay đánh giá đức tin kẻ có đạo không ở thái độ và lời nói của người đó đối với chúa, mà là thái độ và lời nói của người đó đối với người khác.
Ở đây, tôi cũng nhớ tới một đoạn trong bản Tuyên ngôn của Hội nghị VII Hội đồng các giáo phận Á Châu (CCA): “Tại Á Châu đang nảy sinh một tình trạng mới của tinh thần, đó là sự thức tỉnh của quần chúng. Một lịch sử mới đang được viết ra trong thời đại chúng ta. Những điểm chính của lịch sử không còn là những cuộc chiến thắng và nhờ khám phá của các quyền lực, nhưng là những hoạt động sâu rộng của tinh thần con người, cũng như sự liên đới giữa các người trong dân chúng với nhau”.
Nếu để ý theo dõi tình hình tại Việt Nam, chúng ta cũng phải thấy một sự thức tỉnh của quần chúng đang trở thành một sức mạnh tinh thần mỗi ngày mỗi lớn mạnh. Quần chúng Việt Nam hôm nay đang đọc lịch sử hôm nay với cái nhìn mới.
Theo tôi thấy, thì đồng bào Việt Nam hôm nay cũng rất mong muốn và hoan nghênh những hành động sống tình thương như Đức Kitô, nhưng đâu là những dấu chỉ sống động cộng tác vào ơn mạc khải của Chúa? Hội Thánh phải là dấu chỉ, mỗi cộng đoàn đức tin phải là dấu chỉ. Nhưng trên thực tế, dấu chỉ đó chưa được rõ nét. Tôi không có tham vọng được thấy ở Giáo Hội Việt Nam nhiều dấu chỉ rực sáng như Mẹ Têrêxa Calcutta, nhưng tôi khát mong ít là các giáo sĩ, tu sĩ và các tông đồ giáo dân quyết tâm rèn luyện chính mình và đào tạo những kẻ thuộc về mình theo gương Mẹ Têrêxa. Đó là ngôi sao Phúc Âm đích thực.
Trong bài diễn văn đọc trước Hội đồng Giám mục Việt Nam ngày 29-11-1990, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II quả quyết: “Không ai có thể nghi ngờ rằng người Công giáo không thật sự sẵn sàng hiến thân phục vụ các người nghèo khổ, các người xấu số, các bệnh nhân, trong viễn tượng một xã hội có công lý, tình yêu thương, và nền thịnh vượng”. Lời khẳng định trên đây của Đức Thánh Cha là một lời khen và là một lý tưởng.
Nhưng cách đây ít ngày, tôi đã nghe một số người cả Lương lẫn Giáo phát biểu là họ thật sự nghi ngờ về lòng bác ái công bình của người Công giáo Việt Nam đối với những kẻ mình không ưa, kể cả không ưa chỉ vì lý do khác quan điểm, khác gốc gác, và vì những thành kiến hẹp hòi. Cách trả lời tốt nhất cho những nghi ngờ như thế là hãy tỏ ra mình thực sự công bình bác ái qua những việc làm và thái độ cụ thể.
Một trong những việc cụ thể, mà Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh trong bài diễn văn trên, là việc hoà giải. Ngài nói: “Ước gì các tín hữu luôn luôn hành động cho việc canh tân Giáo Hội và xứ sở họ, trong tinh thần hoà giải giữa các người Công giáo tại những nơi cần đến hoà giải, giữa người Công giáo và những người đồng hương thuộc các tín ngưỡng khác nhau tại những nơi còn có những chống đối gay gắt. Đừng để lại một sự cắn đắng nào giữa anh chị em của một dân tộc. Tất cả mọi người hãy cởi mở tâm hồn tiếp theo giáo huấn mới mẻ của Phúc Âm, và tiến đến hy vọng về một thế giới được hoà giải trong bình an”.
Tôi cảm tạ Đức Thánh Cha đã nói lên ý đó. Đây là những lời nhắc nhở ân cần có liên hệ mật thiết đến mục vụ tại Việt Nam lúc này. Tôi nghĩ rằng đã đến thời điểm mà tinh thần hoà giải sẽ được coi là dấu chỉ của một tín hữu tốt. Đã đến thời điểm, mà một giáo sĩ thiếu tinh thần hoà giải sẽ bị coi là phản chứng, phản lại Phúc Âm và phản lại Hội Thánh.
Sự hoà giải đích thực phải xuất phát từ lòng trung tín trưởng thành đối với Đức Kitô và Phúc Âm Người, và từ lòng trung tín trưởng thành đối với Tổ quốc Việt Nam, cũng như từ lòng trung tín trưởng thành đối với mọi sự thực.
Long Xuyên ngày 2-2-1991 (Trích báo CG&DT, số 802, ngày 14-4-1991).
Nhân ngày lễ thánh Giuse 19-03-1991 là bổn mạng Giáo hội Việt Nam sắp đến, tôi xin nhắc lại mấy ước vọng về Giáo hội Việt Nam mà Đức thánh Cha Gioan-Phaolô đã đưa ra trong diễn văn của Ngài, dịp tiếp các Đức giám Mục Việt Nam ngày 24-11-1990. Theo nguyên văn, thì các ước vọng này được Đức thánh Cha đặt nơi Hội đồng Giám mục Việt Nam, nhưng theo ý nghĩa, thì thiết tưởng các ước vọng ấy cũng được đạt cho Giáo hội Việt Nam nói chung, và cho từng Giáo phận Việt Nam nói riêng, đặc biệt là cho mọi người giáo sĩ chúng ta . Vậy xin tóm lược những ước vọng mà Đức thánh Cha đã nói lên như sau:
1- ƯỚC VỌNG THỨ NHẤT:
Đào sâu những suy tư của mình về các dấu chỉ thời đại, về các nhu cầu của tín hữu, về các linh-hoạt phụng vụ, và về các phương tiện huấn luyện cần được dự phòng.
Đây là những đề tài Đức thánh Cha kêu gọi chúng ta phải suy nghĩ và phải đào sâu những suy nghĩ đó. Tôi thấy ngay các vấn đề gọi là suy tư về dấu chỉ thời đại, mình vẫn chưa làm đúng, chưa làm nhiều. Nếu hỏi chúng ta rằng: Hiện nay, tại Việt Nam, những gì là dấu chỉ thời đại, chưa chắc chúng ta đã nắm bắt được, nói chi đến việc đào sâu suy tư về những dấu chỉ đó.
Rồi Đức thánh Cha ước vọng đào sâu suy tư về những nhu cầu của tín hữu. Chúng ta cũng ít để ý nhu cầu khách quan, nhu cầu chủ quan, từng nơi, từng địa phương, từng thời điểm.
Rồi về các linh-hoạt phụng vụ. Phụng vụ phải làm sao cho đẹp, cho hay, cho có hồn, cho hấp dẫn, từ bài giảng cho đến những lễ nghi. Những cái đó, không biết chúng ta đã để ý, đã đào sâu chưa.
Rồi về những phương tiện huấn luyện cần được dự phòng. Những phương tiện thuộc về cơ cấu, như là các lớp giáo lý, các bài giảng trong nhà thờ, tất nhiên chúng ta phải quan tâm để ý. Nhưng cũng cần phải để ý đến những phương tiện huấn luyện ngoài cơ chế nữa, như là những nhóm cầu nguyện, những nhóm chia sẻ, những nhóm học hỏi Lời Chúa. Không biết chúng ta có để ý đến những vấn đề mà Đức thánh Cha đã gợi lên không. Mà Ngài nói, phải để ý và dự phòng, để khi thời thế mở ra, chúng ta có sẵn những phương tiện và những người để huấn luyện. Đó là ước vọng thứ nhất trong vấn đề đào sâu suy tư.
2- ƯỚC VỌNG THỨ HAI:
Đức thánh Cha mong muốn, là phát triển đời sống bên trong của Giáo hội Việt Nam.
Đời sống bên trong không phải là các kỷ luật mà thôi, cũng không phải chỉ là học những chân lý về thần học, Kinh thánh. Đời sống bên trong mà Đức thánh Cha muốn, thiết nghĩ chính là đời sống Đức Kitô, đời sống của Thiên Chúa, đời sống bắt gặp được những bước đi, những suy tư, những tâm tình của Đức Kitô đối với Đức Chúa Cha, đối với nhân loại. Điều đó, nhiều khi chúng ta vẫn chưa làm đúng, vẫn chưa làm đủ theo nguyện vọng của Đức thánh Cha.
3- ƯỚC VỌNG THỨ BA:
Của Đức thánh Cha về Giáo hội Việt Nam, về từng Giáo phận, về từng giáo đoàn, là hãy hiểu rõ hơn vị trí của Giáo hội địa phương mình trong xã hội mình sống, và biết đặt Giáo hội địa phương của mình đúng chổ của nó trong cuộc sống dân tộc. Thí dụ như bây giờ Tòa giám mục Longxuyên, giáo xứ Longxuyên, giáo xứ Cần Sây,giáo xứ Thới Thạnh vv...Chúng ta cần phải hiểu xem, mình là men, là muối, là ánh sáng, thì địa vị của mình, chỗ đứng của mình trong xã hội hôm nay phải như thế nào, để đúng là men là muối, là ánh sáng. Đức Giáo Hoàng kêu gọi chúng ta phải biết địa vị của mình trong xã hội mà mình được sai đến làm chứng cho Chúa. Không phải chỉ hiểu biết, mà còn phải biết cách đặt cộng đoàn của mình vào đúng vị trí của nó.
4- ƯỚC VỌNG THỨ TƯ:
Mà Đức Giáo Hoàng đặt ra cho chúng ta, là phải góp phần hàn gắn những vết thương quá khứ và xây dựng cuộc sống chung của đất nước. Những vết thương của quá khứ tại Việt Nam nói chung, tại từng địa phương nói riêng thì rất nhiều. Những vết thương ở trong lòng mỗi người, do chiến tranh để lại, do hận thù chia rẽ, nghi kỵ để lại, do những vết thương trên cầu cống, trên đường xá, trên nhà trường vẫn còn đó. Rồi vết thương trong nếp sống, những hủ tục, những thói quen xấu vẫn chưa sửa được. Có nhiều vết thương, mà Đức thánh Cha nói rằng: Giáo hội Việt Nam, chung cũng như từng địa phương, phải nghĩ đến vấn đề góp phần hàn gắn những vết thương đó, xoa dịu những vết thương đó, và phải góp phần xây dựng cuộc sống chung của đất nước Việt Nam hôm nay.
5- ƯỚC VỌNG THỨ NĂM:
Của Đức thánh Cha gởi cho Việt Nam, là hãy làm thế nào để lôi cuốn mọi người vào phong trào cầu nguyện sốt sắng.
Khi nói đến vấn đề cầu nguyện, tôi nghĩ: Đức Giáo Hoàng nghĩ sâu hơn vấn đề đọc kinh bằng môi bằng miệng. Cầu nguyện sốt sắng, thiết tưởng theo ý Đức thánh Cha, là một sự gặp gỡ Thiên Chúa, và mở rộng về phía con người, theo sự cầu nguyện của Đức Kitô, và nếu Đức thánh Cha đã đưa ra vấn đề đó như là một ước vọng, tất nhiên là Đức thánh Cha thấy chúng ta đọc kinh nhiều, nhưng chưa chắc là đã cầu nguyện.
6- VÀ ƯỚC VỌNG SAU CÙNG:
Của Người đặt ra cho Giáo hội Việt Nam chúng ta, là hãy hoạt động cho việc canh tân Giáo hội trong tinh thần hòa giải giữa các người Công giáo với nhau, và giữa các người Công giáo và người đồng hương ngoài Công giáo.
Về vấn đề này, ước vọng của Đức thánh Cha là chính đáng và khẩn cấp. Ngài coi việc hoà giải giữa các người Công giáo với nhau và giữa các người Công giáo và người đồng hương ngoài Công giáo, như là một sự canh tân Giáo hội Việt Nam.
Vậy hôm nay, trong tinh thần muốn đáp lại những ước vọng trên của Đức thánh Cha, tôi xin chia sẻ một vài suy tư của tôi về dấu chỉ thời đại tại Việt Nam lúc này.
Tất cả những ước vọng của Đức thánh Cha mà tôi vừa trình bày, sẽ là chương trình để chúng ta suy nghĩ cả năm nay trong các kỳ cấm phòng tháng. Nhưng hôm nay, tôi bắt đầu bằng sự chia sẻ suy tư của tôi về dấu chỉ thời đại Việt Nam lúc này.
I. DẤU CHỈ THỨ NHẤT.
Theo tôi, là hiện tượng cầu nguyện đang bùng lên khắp nơi trong các người ngoài Công giáo ở Việt Nam. Một hiện tượng đang bùng lên, đang bùng nổ, đang lan ra khắp nơi trong các người Công giáo, và trong các đồng bào ngoài Công giáo. Cách đây mấy ngày, tôi ở thành phố Hồ chí Minh, và nhân dịp rằm tháng giêng (1991), tôi đã được chứng kiến, đúng là một sự bùng nổ về cầu nguyện của người Phật tử. Khắp các chùa chiền đầy ních những người. Khắp các đường phố đầy những người đi lại đến các chùa chiền cầu nguyện. Hiện tượng cầu nguyện của những người ngoài Công giáo được nhận thấy ít lâu nay khắp nơi. Hoặc là tại các nơi thờ tự, hoặc là tại các gia đình, hoặc là tại các nghĩa trang, và trong mọi cơ hội: Như lễ tang, lễ giỗ, lễ cưới, ngày đầu năm.
Những người ngoài Công giáo ở Việt Nam hôm nay cầu nguyện rất nhiều. Họ có thói quen cầu nguyện hằng ngày trong gia đình. Trước “Nhà ma” của tôi, tối nào tôi cũng được thấy cảnh mấy gia đình người Phật giáo cầu nguyện ban chiều. Cứ đến giờ đó, tôi thấy họ thắp nến, thắp nhang, mặc áo dài, và quì lạy đọc kinh, trước mặt mọi người qua lại.
Những người đi chùa cầu nguyện, phần đông lại là giới trẻ. Đây cũng là một hiện tượng có tính cách khác thường. Mà giới trẻ này gồm đủ mọi thành phần: Không thiếu những người văn minh, không thiếu những người giàu sang, không thiếu những người có học. Tâm tình cầu nguyện, cũng đã nhận thấy xuất hiện ở nhiều kịch bản tôi đã xem: Ở tivi, ở nhiều bài thơ, ở nhiều bài hát, và ở nhiều tiểu thuyết hiện nay. Người ta chen vào những nét văn nghệ bây giờ những lời than thở, những lời cầu nguyện hoặc là với trời đất, hoặc là với thần linh nào đó. Những tâm tình cầu nguyện đó đã thấy xuất hiện khắp nơi, nơi những người ngoài Công giáo.
Nói chung, thì việc cầu nguyện được thực hiện một cách tự phát, hồn nhiên, đơn sơ. Trong đạo mình thường cầu nguyện theo công thức, theo những kinh đã thuộc, còn hiện tượng đang bùng nổ trong những người ngoài Công giáo ở Việt Nam thì có tính cách tự phát hồn nhiên, đơn sơ, hoặc là để thề hứa một điều gì, hoặc là để xin một ơn gì, hoặc là để tạ ơn thần linh. Xem ra phần đông người Việt Nam có tính dễ dàng trong vấn đề cầu nguyện với thần thánh. Họ cầu nguyện với bất cứ thần thánh nào, mà họ nghĩ rằng có quyền năng hỗ trợ cho họ, bất cứ thần thánh đó thuộc về tôn giáo nào. Điều này khác với não trạng của người Công giáo.
Trước đây, tại nhiều nơi, việc cầu nguyện bị bài bác. Nhưng hôm nay, việc cầu nguyện xem ra được coi như bình thường và được kính nể. Đấy là tôi vừa nói tất cả những cái đó, gói trọn trong cái từ “Hiện tượng cầu nguyện bùng nổ” như một dấu chỉ thời đại. Hiện tượng cầu nguyện đang lan rộng ra ở các người ngoài Công giáo, đây, phải được coi là một dấu chỉ tốt. Nhìn hiện tượng này, tôi thấy Chúa Thánh thần đang hoạt động mạnh mẽ trong lịch sử. Người làm việc một cách hết sức tự do, ngoài mọi khuôn khổ, ngoài mọi cơ chế. Đức thánh Cha Gioan-Phaolô 2, khi giải thích việc người cầu nguyện chung với các đại diện các tôn giáo tại Assisie năm 1988 cho hòa bình, thì Ngài nói rằng: “Mọi việc cầu nguyện chính đáng, chân thành từ lương tâm, đều do thánh Linh” Và điều đó cũng hợp quan điểm của cộng đồng Vatican 2:” Bất cứ sự gì tốt, đều do Thánh linh mà ra”. Chúa Thánh Thần hoạt động như một luồng gió, muốn thổi đâu thì thổi, để đổi mới con người, theo lương tâm của họ. Vậy đứng trước dấu chỉ thời đại đang bùng nổ tại Việt Nam, đó là hiện tượng cầu nguyện lan tràn, thì chúng ta, các Linh mục, tu sĩ, cần nhạy bén và suy nghĩ trước hiện tượng đó.
Trước hết, qua dấu chỉ hiện tượng cầu nguyện, chúng ta hiểu Chúa muốn chúng ta phải để ý hơn đến việc cầu nguyện của chính chúng ta. Những người ngoài Công giáo đang bắt đầu cầu nguyện nhiều hơn, thì tại sao chúng ta lại lơ là việc cầu nguyện. Họ cầu nguyện tự phát, từ đáy lòng mình, thì tại sao chúng ta lại cầu nguyện bằng môi bằng miệng mà không để tâm hồn vào trong sự cầu nguyện.
Qua dấu chỉ thời đại này, Chúa muốn chúng ta chỉnh đốn lại việc cầu nguyện của chính chúng ta. Cầu nguyện làm sao để trở thành sự gặp gỡ Chúa bằng Đức tin, Đức cậy, Đức mến, bằng sự phó thác đơn sơ. Nhưng đồng thời, cầu nguyện cũng là nâng tâm hồn lên tới Chúa và mở tâm hồn ra về khía cạnh khác. Thường khi cầu nguyện chúng ta chỉ chú ý tới hướng tâm hồn lên tới Chúa. Nhưng suy nghĩ kỹ về cách Chúa Kitô cầu nguyện với Đức Chúa Cha, chúng ta thấy, ngoài việc nâng tâm hồn lên với Chúa Cha, Đức Kitô còn mở tâm hồn mình ra về phía kẻ khác:” Lạy Cha, xin Cha tha tội cho chúng, vì chúng lầm không biết”. Một đàng thì nâng tâm hồn lên với Đức Chúa Cha. Nhưng một đàng mở tâm hồn ra về phía kẻ khác. Phúc âm nói: Chúa Kitô ngước mắt lên trời cầu nguyện:” Lạy Cha, con cầu nguyện cho những người sẽ tin con”.
Qua dấu chỉ cầu nguyện đang bùng nổ nơi những người ngoài Công giáo Việt Nam hôm nay, chúng ta cũng hiểu Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta, hãy lưu ý hơn nữa các tín hữu của ta quan tâm đến việc cầu nguyện. Nhiều người bỏ cầu nguyện, nhiều người cầu nguyện bằng môi bằng miệng, nhiều người chỉ cầu nguyện với Chúa mà quên mở tâm hồn mình ra với con người, nhiều người mở tâm hồn mình ra với con người, nhưng lại quên nâng tâm hồn lên tới Chúa. Chúa kêu gọi chúng ta lưu ý đến tín hữu của ta về việc cầu nguyện.
Tại bên Tây bây giờ, để tái Phúc-âm-hóa những nơi bỏ đạo, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến những nhóm cầu nguyện tự phát. Ngài muốn cho những người tin Chúa hẵy cầu nguyện tự đáy lòng mình. Không phải bỏ những công thức kinh kệ có sẵn thuộc lòng. Nhưng cũng khuyên người ta, ngoài những công tác đó, hãy năng cầu nguyện riêng, cầu nguyện vắn tắt, cầu nguyện khắp nơi, cầu nguyện gắn liền với cuộc sống và nhịp sống, để sự cầu nguyện trở thành lương thực thường xuyên của linh hồn.
Tôi đi nhiều xứ thấy rằng, giáo dân của mình thuộc kinh nhiều, đọc kinh nhiều nhưng hễ rời những công thức đó ra, là không biết cầu nguyện, không biết làm gì khi chưa xướng kinh, chưa “Nhân danh Cha ...” Họ không biết làm gì, là bởi vì họ chưa được huấn luyện đầy đủ về sự cầu nguyện riêng. Họ chỉ biết đọc kinh mà không cầu nguyện.
Đề cập đến việc cầu nguyện, tưởng cũng nên tạo những điều kiện thuận lợi, để nhà thờ chúng ta, để lễ lạy của ta, tượng ảnh của ta, thánh ca của ta có sức hấp dẫn, gúp cho các người ngoài Công giáo dễ cầu nguyện với ta, theo lương tâm của họ.
Tôi đi nhiều nơi và ngay tại chính Longxuyên này, tôi nhận thấy rằng, một số người ngoài Công giáo đã đến dự lễ của ta, cầu nguyện với ta, đa số là thanh niên. Lý do một phần là vì nhà thờ chúng ta có một cái gì hấp dẫn, là vì phụng vụ chúng ta có cái gì hấp dẫn, là vì bài giảng của vị chủ lễ có một cái gì hấp dẫn, là vì ảnh tượng của chúng ta, thánh ca của chúng ta, có một cái gì hấp dẫn. Vậy, hãy tạo ra điều kiện thuận lợi, để những phương tiện cầu nguyện của chúng ta có sức hấp dẫn, lôi cuốn những người ngoài Công giáo, những tâm hồn thích cầu nguyện, để họ cùng với ta mà cầu nguyện theo lương tâm của họ. Và như vậy, dấu chỉ thời đại hôm nay tại Việt Nam, là sự bùng nổ tinh thần cầu nguyện nơi các người ngoài Công giáo sẽ là một thác nước bắt đầu chảy, mà nó chảy do động lực của Chúa Thánh Linh. Chúng ta nhìn dấu chỉ đó, để đồng hành với dòng thác đó, do Chúa Thánh Linh đang khơi dậy trong tâm hồn người Việt Nam hôm nay.
II. DẤU CHỈ THỨ HAI LÀ HIỆN TƯỢNG KHAO KHÁT VƯƠN LÊN VÀ ĐỔI MỚI.
Hầu như mọi người Việt Nam lúc này, dù ở bất cứ cương vị nào, tôn giáo nào, tín ngưỡng nào, đều cảm thấy mình cần được giúp đỡ, cần được nâng lên, cần được đổi mới.
Khi tiếp xúc với các giới trong Hội thánh Công giáo, nhất là giới trẻ, tôi thấy người ta mong muốn cái gì đổi mới, đổi mới cách nào đó trong Hội thánh mình. Họ có một khao khát đổi mới để vươn lên, chứ không phải đổi mới bề ngoài đâu. Họ cũng có một khao khát một sự đổi mới thật sự trong Hội thánh, trong tinh thần bác ái, trong tinh thần công bằng. Họ khao khát thiệt, khao khát được vươn lên, khát khao đổi mới. Khát khao được nâng đỡ ấy, bây giờ, nó tràn lan khắp mọi người Việt Nam.
Tôi thấy tinh thần tự mãn, tự ái, tự phụ, nay đã giảm nhiều. Phần đông đồng bào ta ở bất cứ cương vị nào, tầng lớp nào, cũng đều đang cảm thấy thấm thía những giới hạn của mình, những thiếu thốn lớn lao của mình, những nguy cơ đang đe dọa mình về mặt vật chất, lẫn về mặt tinh thần. Tôi thấy bây giờ đúng như vậy. Chắc các Cha, khi tiếp xúc với đồng bào, có đạo hay không có đạo đều cảm thấy người ta mong nuốn có một sự giúp đỡ nào đó, để họ sống cho ra người, để con em của họ có một tương lai, để đất nước mình tươi sáng hơn lên. Và sự cảm thấy mình cần được giúp đỡ, và mong chắc được giúp đỡ để vươn lên như vậy, đúng là một dấu chỉ thời đại. Đây là một dấu chỉ tốt, bởi vì người ta ước muốn điều tốt thôi, những điều rất tốt. Dấu chỉ này rất thuận lợi cho việc thực thi bác ái và xây dựng tinh thần liên đới.
Lịch sử truyền giáo cho thấy là những hoàn cảnh như thế này, khi biết nắm bắt, đã hỗ trợ rất nhiều cho việc rao giảng Tin mừng cứu độ. Những thời điểm nào mà người ta đang cần đến Giáo hội để chấn hưng đạo đức, người ta đang cần đến Hội thánh, để xây dựng hòa giải, người ta đang cần đến Hội thánh, để xây dựng tình bác ái, tình huynh đệ, tình liên đới, công bằng, những thời điểm đó, nếu không nắm bắt được, nếu không nắm lấy để thực thi, thì chúng ta lỡ một chuyến tàu lịch sử. Nếu sau này, qua thời điểm người ta cần đến mình, thì chúng ta sẽ mất cơ hội để truyền giáo.
Cũng như bên Tây, khi nền văn minh đã cao, người ta cảm thấy không cần đến Hội thánh, không cần đến tôn giáo, bấy giờ việc truyền giáo cũng khó. Còn tại Việt Nam, nhất là lúc này, tôi có thể nói, từ Đảng Cộng sản cho đến người dân thường, ai cũng nhận thấy giới hạn nhất định của mình, ai cũng cảm thấy mình cần được giúp đỡ. Và nơi mà người ta nhìn vào với nhiều hy vọng, chính là đạo Công giáo, Hội thánh Công giáo, các Giám mục, các Linh mục, các cộng đoàn tín hữu. Phải nói như vậy một cách lương thiện.
Vậy, hoàn cảnh này, đúng là một thách đố đặt ra cho Giáo hội Việt Nam nói chung, và cho từng cộng đoàn tín hữu nói riêng. Hoàn cảnh này cũng là một cách trắc nghiệm về thiện chí cứu độ và khả năng cứu độ của Hội thánh chúng ta đối với đất nước, đối với đồng bào.
Trong hoàn cảnh hiện nay, nhất là cách đây mấy năm, nhiều tôn giáo đã nắm bắt những điều kiện trước mắt, để làm chứng chiều hướng cứu độ và khả năng cứu độ của tôn giáo họ. Tôi thấy nhiều nơi, Tin lành và nhiều giáo phái Tin lành cũng như một vài tôn giáo gần chúng ta đây, đã nắm bắt hoàn cảnh hiện nay: Con người khao khát được cứu độ, để họ làm chứng thiện chí cứu độ của đạo họ và làm chứng khả năng cứu độ của tôn giáo họ. Và kết quả có phần tích cực. Họ đã làm chứng được một cách có hiệu quả về khả năng cứu độ và thiện chí cứu độ của tôn giáo họ.
Trái lại, tại một số nơi, Linh mục, tu sĩ, giáo dân chúng ta đã không làm chứng được thiện chí cứu độ và khả năng cứu độ, một phần vì hoàn cảnh, một phần cũng do tại chúng ta. Thiết tưởng chúng ta cần phải suy nghĩ nhiều về dấu chỉ thời đại đang diễn ra trước mắt chúng ta đây, để chúng ta tìm cách đáp ứng những lời Chúa kêu gọi qua dấu chỉ này.
Tôi nhìn dấu chỉ thời đại trước mắt, nhưng tôi đọc kỹ ý nghĩa của nó, là ý Chúa muốn: Chúa muốn gì trong dấu chỉ đó chứ không phải là tìm nguyện vọng của dân, khát vọng của dân, để thỏa mãn, để gây uy tín cho đạo. Không phải. Mà mình hiểu rằng qua dấu chỉ này, Chúa đang muốn mình làm gì, Giáo hội mình cần đáp ứng gì, để đưa họ về với Chúa, để giới thiệu khuôn mặt Đức Kitô và Hội thánh mình. Khi đọc thấy ý muốn của Chúa, là muốn cho chúng ta nghiên cứu và đáp ứng một cách nào đó khát vọng này của dân, chúng ta sẽ cố gắng đem lại cho họ một cách nào đó Tin mừng cứu độ.
Tôi thấy trong địa phận Long Xuyên của ta, nhiều Cha, nhiều Thầy phục vụ ở những địa điểm rất nghèo, bản thân các Cha, các Thầy ấy cũng rất nghèo. Nhưng cũng có nhiều cố gắng đổi mới, nhất là đổi mới cách đối xử, thì các Cha, các Thầy ấy đã giúp đỡ được nhiều người trong địa phương mình, đã góp phần đổi mới được nhiều người, từ não trạng đến nếp sống, và đã giúp cho nhiều người trong địa phương của mình có thiện cảm hơn với Hội thánh. Nhờ đó, mà nhiều đồng bào ngoài Công giáo cũng như trong đạo, đã nhìn thấy được dung mạo thực của Đức Kitô, Đấng hiền lành, khiêm nhường, nhân ái cứu độ. Và cũng nhìn thấy dung mạo thực của Hội thánh. Nhờ đó, hậu quả truyền giáo đã trở thành tích cực lớn lao. Kinh nghiệm cho thấy là những địa điểm đó, các Cha, các Thầy không có tiền bạc nhiều, ít tiền bạc lắm, cũng không có nhiều hoạt động lắm đâu. Thế nhưng, nhờ tấm lòng của mình, cách đối xử của mình, cái hiền lành, khiêm tốn, thông cảm của mình, những người ngoài Công giáo cũng như trong Công giáo, nhìn thấy hương mát trong sáng của đạo. Nhờ đó, việc truyền giáo bắt đầu nở rộ ra như một mùa xuân ở những địa điểm đó.
Đang khi ở những nơi có nhiều tiền, nhiều bạc, xây dựng nhiều cơ sở vật chất, nhưng thiếu tâm tình của Đức Kitô hiền lành khiêm tốn, quảng đại, thông cảm, nên cơ sở vật chất ấy, cũng không lấy lại được tình cảm của người ngoài Công giáo. Vậy, trong ngày lễ thánh Giuse, chúng ta xin thánh cả Giuse giúp cho chúng ta bắt chước Người. Thánh Giuse xưa kia đã tận tình phục vụ Chúa Kitô đến hy sinh, đến quên mình, thì nay xin thánh cả Giuse giúp cho chúng ta biết mở rộng nước Chúa, biết phục vụ Chúa, trong thời điểm này, với tất cả nhiệt tình của mình. Nhất là phục vụ Chúa nơi những người ngoài Công giáo, nơi những người chưa biết Chúa.
(Tóm ý những bài nói chuyện của Đức Cha Gioan B. BÙI-TUẦN với các thầy, dịp tĩnh tâm chuẩn bị lãnh chức phó tế, và linh mục, từ 12-05-1991 đến 22-05-1991 tại Long Xuyên.)
Đây không phải là một bài thuyết trình, hay bài giảng.
Đây chỉ là những kinh nghiệm được chia sẻ, qua 38 năm linh mục của tôi. Nội dung của chúng bởi thế cũng không phải là những suy tư trên lý thuyết, nhưng là những gì đã được trải qua, được sống thực. Chúng không nhằm để công bố trước đám đông, nhưng để trao đổi chân thành giữa nhóm anh em đang chuẩn bị để lãnh các Tác vụ trong Hội Thánh.
Đó là:
1- Những kinh nghiệm về đời sống linh mục.
2- Những kinh nghiệm về hành trình hiểu biết trong đời linh mục.
3- Những kinh nghiệm về hành trình đức ái trong đời linh mục.
4- Những kinh nghiệm về Nước Trời.
5- Những kinh nghiệm về các dấu chỉ thời đại.
6- Những kinh nghiệm về sự phân biệt và chọn lựa trong đời linh mục.
7- Những kinh nghiệm về đức nghèo.
I. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC: NỖI LO SỢ
Tôi không đến với chức linh mục trong tâm tình hăm hở, chờ đợi, nhưng trong trạng thái lo sợ. Nỗi lo sợ liên lỉ trong tôi, trước và sau ngày chịu chức linh mục, nhất là ngày hôm trước khi chịu chức, tôi đã có ý tưởng muốn rút lui. Nó vẫn còn theo tôi cho đến ngày hôm nay. Đây là những lý do:
1. Chức linh mục là một trách nhiệm thuộc chuyên môn rất nguy hiểm: “Chuyên môn”, có nghĩa là không phải ai cũng làm được, mà còn phải có khả năng. Khả năng đó là “Cứu độ”. Cùng với Đức Kitô, tôi phải giới thiệu Thiên Chúa là Đấng Cứu độ. Cùng với Đức Kitô, tôi phải giới thiệu Giáo Hội là Bí Tích của ơn Cứu độ.
Tôi có khả năng làm được chuyện đó hay không?
Thay vì tôi giới thiệu Thiên Chúa là Đấng Cứu độ, tôi sợ có thể nhiều lần tôi đã chỉ cho thấy Thiên Chúa là một ông chủ khắc nghiệt. Thay vì giới thiệu Giáo Hội là Bí Tích của ơn Cứu độ, tôi sợ có thể nhiều lần tôi đã chỉ cho thấy Giáo Hội là một bạo chúa.
Là linh mục mà không có khả năng cứu độ, thay vì làm lợi, tôi sẽ chỉ làm hại cho Chúa, cho Giáo Hội và cho các linh hồn.
2. Trách vụ linh mục, cái đó có giúp tôi dễ giải quyết phần linh hồn của chính tôi hơn không?Để được ngồi vào bàn tiệc Nước Trời, người ta phải có áo cưới Đức tin, và nhất là Đức ái, chứ không cần phải có chức linh mục.
Chức linh mục không cần để được thâu nhận vào Nước Trời. Nó không cao trọng bằng Đức ái.
Chức linh mục chỉ là một công tác, một dịch vụ để phục vụ cộng đoàn (như anh tài công phải phục vụ hành khách trên xe).
Chính Đức ái chứ không phải trách vụ linh mục sẽ đưa tôi đến Nước Trời. Chức linh mục sẽ làm cho phần linh hồn của chính tôi khó hay dễ hơn, là tuỳ như nó có gia tăng Đức ái nơi tôi hay không.
3. Đâu là điểm tựa cho tôi trong trách vụ linh mục?
Càng với tuổi đời, tôi càng thấy mình chẳng có gì đáng tin cậy, đáng là điểm tựa cho tôi trong đời linh mục. Học thức, đạo đức, tài năng... nơi tôi rất giới hạn, chúng chẳng phải là những điểm tựa vững chắc.
Nhìn quanh tôi, cũng chẳng thấy một điểm tựa nào nơi người khác. Tình cảm của họ, lòng tốt của họ, sự giúp đỡ của họ cũng là những gì rất giới hạn, chúng không phải là chỗ để tôi có thể dậy dựa.
4. Với trách vụ linh mục, tôi sẽ phải hội nhập vào giới linh mục:
Hội nhập vào giới linh mục, trong thực tế, là hội nhập vào một giai cấp, một thế giới mới, một xã hội mới. Nó có một bầu khí riêng, một cung cách ăn ở riêng. Tại Việt Nam, nó còn là một giai cấp được coi là quyền lực, vị vọng, trong đó có nhiều cái tốt, nhưng cũng không thiếu cái bị coi là xấu.
Trong giai cấp đó, tôi sẽ bị đồng hoá với những cái mà dư luận cho là xấu của nó, hay tôi phải giữ tư thế biệt lập, dửng dưng xa cách? Hoà nhập vào đó, tôi sẽ bị đưa đẩy tới đâu, đến bến bờ nào?
Vì những lý do trên, nên tôi sợ. Tôi sợ những chức vụ thánh. Tôi thích những chỗ âm thầm, bé nhỏ, vô danh. Tôi vẫn cầu xin cho sự “ra đi” của tôi (kể cả theo nghĩa là cái chết), nếu nó giúp cho phần rỗi các linh hồn và của chính tôi được tốt hơn.
Qua những kinh nghiệm vừa kể, tôi rút ra được những hệ luận sau:
1. Chức linh mục là hoàn toàn do ý Chúa:
Không phải chính tôi chạy chọt, tìm kiếm, nhưng chính Chúa đã chọn tôi, trong lúc tôi hầu như chạy trốn. Người vẫn chọn tôi, mặc dù biết tôi không tốt, và sẽ còn không tốt.
2. Khởi đầu của tu đức và mục vụ phải xuất phát từ sự nghèo khó thiêng liêng:
Biết mình tội lỗi, bất xứng và đầy âu lo, không thể nào và không có gì để tự mãn, tự đắc: Đó là ý thức nền tảng, phải theo tôi trong suốt đời Linh Mục. Ý thức đó phải chi phối mọi chi tiết của trách vụ linh mục của tôi: khi giảng, khi làm việc, khi tiếp xúc, khi ban các Bí Tích... nó sẽ giúp tôi tránh được thái độ cứng cỏi, bất khoan dung, lên án.
3. Hành trang linh mục của tôi là sự cậy trông:
Phải cậy trông Thiên Chúa, các Thánh, Giáo Hội và cộng đoàn. Tư thế nằm phủ phục trong nghi thức phong chức nói lên thái độ nội tâm ấy. Nó gồm hai vế:
a- Ý thức sự bất xứng của mình.
b- Tin vào lòng xót thương của Thiên Chúa.
Người đồng hành với tôi trong suốt đời linh mục chính là Đức Kitô. Người cùng đi bên tôi để cứu tôi, chữa tôi, tha thứ cho tôi, cầm tay tôi. Người là một “Đấng Kitô cứu chuộc”.
4. Đối với con người hôm nay, qua kinh nghiệm bản thân, tôi thấy, đề tài mục vụ quan trọng nhất là sự cậy trông:
Đời sống con người ngày nay có quá nhiều lo âu khắc khoải. Bởi thế, món quà có giá nhất tôi có thể trao tặng cho họ là niềm hy vọng. Đức Kitô chính là Tin Mừng, là niềm hy vọng cho con người. Làm sao để qua tôi, qua cách tôi làm mục vụ, mọi người thấy được một Đức Kitô hiền lành, quảng đại, nhân từ, đem lại cho họ niềm an ủi, nỗi vui mừng, sự đỡ nâng cho cuộc sống vốn đã quá đen tối.
5. Nhiệm vụ linh mục rất nặng nề, đòi phải được chu toàn cách thận trọng:
Vì liên hệ đến nhiều người, vì đụng chạm đến số phận đời đời, nên các công tác của linh mục (giảng dạy, ban Bí Tích, mục vụ...) đòi phải suy nghĩ nhiều, chuẩn bị nhiều. Không thể tuỳ tiện, tắc trách, cẩu thả. Phải biết “lo sợ” mà thi hành chức năng người chăn dắt các linh hồn.
Kinh Thánh nói: “Khởi đầu của sự khôn ngoan là sự lo sợ” (Huấn Ca 1,14).
Con người không biết lo sợ dễ hư hỏng. Biết lo sợ, đó là một ơn huệ của Thiên Chúa.
II. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ HÀNH TRÌNH HIỂU BIẾT TRONG ĐỜI LINH MỤC CủA TÔI.
Vai trò dẫn dắt đòi buộc người linh mục phải trang bị cho mình những hiểu biết cần thiết. Những hiểu biết của linh mục thuộc một lãnh vực riêng: Lãnh vực Cứu độ. Nó gồm 4 loại:
* Loại 1: Những hiểu biết do Thần học:
Đó là những hiểu biết được hệ thống hoá, chúng có tính cách tổng quát. Chúng cần phải được nhấn mạnh vào một số “điểm nóng”, phù hợp với không gian và thời gian mục vụ riêng biệt. Đâu là những điểm nóng ấy? Thần học do Công Đồng Vatican II cho ta câu trả lời: nó làm thành 4 “bánh xe mục vụ” căn bản:
1. Giáo Hội phải tập trung vào Đức Kitô: Đức Kitô là trung tâm của đạo. Mọi sinh hoạt của Giáo Hội (Mục vụ, giáo lý, phụng vụ...) phải cho thấy vị trí trung tâm ấy của Người.
2. Giáo Hội phải coi truyền giáo là bản chất và công tác ưu tiên: Truyền giáo bằng lời rao giảng, truyền giáo bằng sự hiện diện tích cực, và bằng cuộc sống công bình bác ái.
3. Giáo Hội là một dân Thiên Chúa: Giáo Hội phải khiêm tốn hơn, thực tế hơn, thương xót hơn. Giáo Hôi phải kính trọng từng người giáo dân. Giáo Hội không phải là hàng giáo sĩ, bởi thế, hàng giáo sĩ không phải là tuyệt đối. Tất cả chúng ta - giáo sĩ và giáo dân - phải cùng đồng hành hướng về Đức Kitô. Chỉ có Người là tuyệt đối: “Chỉ có Người là Đấng thánh, chỉ có Người là Đấng Tối cao”.
4. Giáo Hội phải dấn thân vào việc phát triển những giá trị trần thế: Những giá trị trần thế có vị trí độc lập, nhưng không xa lạ với Nước Trời. Sứ mạng Phúc Âm hoá buộc Giáo Hội phải kính trọng những giá trị trần thế ấy và phát huy chúng.
* Loại 2: Những hiểu biết do Đức Tin:
Những hiểu biết này không thể tìm thấy trong sách vở, đó là thứ ánh sáng do Đức Tin cung cấp, để tôi đi vào cuộc sống từng ngày, va chạm vào những thực tế của đời thường, và đọc ra từ đó những dấu chỉ thời đại. Thí dụ, những dấu chỉ về tình liên đới, yêu thương, nhân ái.
* Loại 3: Những hiểu biết do ơn tiên tri:
Người dẫn đường là người phải “thấy trước”. Người mục tử là người phải thấy trước bước đường của đàn chiên: Những gì cần tránh, những gì cần chuẩn bị, những đồng cỏ suối nước cần đến.
Bài học của ơn tiên tri chính là lịch sử thánh. Lịch sử thánh là khuôn mẫu cho mọi lịch sử, nó chiếu dọi vào tương lai, tái diễn không ngừng nơi mọi cộng đoàn, và cung cấp những chỉ dẫn cần thiết.
Có cái nhìn tiên tri cũng là biết báo động, cảnh cáo, và kêu gọi sửa sai, khổ chế. Bởi thế, chức năng tiên tri thường bạc bẽo, hẩm hiu: phải chấp nhận như thế.
* Loại 4: Những hiểu biết do đặc sủng Thánh Linh:
Nó gần như một trực giác, để nhìn thấy qua bất cứ một thực tại nào, thấy ngay được thực chất, trọng lượng thật của nó. Người mục tử rất cần đến loại trực giác ấy. Muốn thế cần phải:
1. Học nhiều và đọc nhiều: “Một linh mục tốt ngày nay, là người linh mục đọc Kinh Thánh hằng ngày và đọc báo hằng ngày”. 2. Suy nghĩ nhiều: Nhất là suy nghĩ trên những sự kiện xảy ra. 3. Cầu nguyện nhiều: Nghĩa là đặt mình trong tư thế đối thoại liên miên với Thiên Chúa.
III. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ HÀNH TRÌNH ĐỨC ÁI TRONG ĐỜI LINH MỤC CủA TÔI
Đời linh mục nếu không có đức ái, chẳng khác gì một cây đã cạn hết nhựa sống. Một linh mục tốt là một linh mục phát triển về đức ái (1Cor 13).
Hành trình đức ái trong đời linh mục của tôi, đã trải qua những kinh nghiệm sau:
1. Càng ngày Chúa càng bắt tôi phải lu mờ đi, và vai trò của Chúa càng tỏ hiện hơn:
- Càng đi sâu vào đời linh mục, tôi thấy Chúa càng chủ động hơn trong đức ái. Chúa chủ động đến với tôi, hơn là tôi đến với Người. Tôi như một vực sâu, chính Chúa bước xuống vực sâu của đời tôi để cứu chữa, tha thứ, thánh hoá.
- Càng ngày tôi càng cảm thấy yêu Chúa là chia sẻ tâm tư tình yêu của Chúa, hơn là đòi Chúa phải chia sẻ tâm tư tình cảm của tôi. Yêu Chúa không phải là bắt Người phải thoả mãn những ước vọng của tôi, nhưng là lắng nghe tiếng nói của Chúa: Người bắt tôi phải yêu thương, phải hy sinh như Người.
- Càng ngày tôi càng hiểu ra yêu Chúa là bắt chước Chúa, sống như Chúa, bước theo Chúa. Mà con đường Chúa đã đi là con đường Canvê, mà cuộc sống Chúa đã sống là hy sinh hiến tế.
2. Càng đi sâu vào đời linh mục, Chúa càng làm cho tình yêu cảm xúc bớt đi, và tình yêu hiến tế lớn lên:
Yêu Chúa không phải là những cảm xúc, nhưng là hiến tế chính mình. Yêu Chúa không phải bằng thơ ca mơ mộng, nhưng là bằng máu, mồ hôi, những vất vả triền miên trong đời.
Như Đức Kitô, chính mình là tư tế, chính mình là của lễ, người linh mục cũng phải liên lỉ dâng lên Chúa Cha những đau khổ của mình, của nhân loại. Nếu cần phải xác định một identité cho người linh mục, thì đó là: hiến tế chính mình, hiến tế những khổ đau con người, hợp với của lễ của Đức Kitô.
3. Chúa không muốn tôi an nghỉ ở những nơi ấm cúng mặn nồng, Chúa muốn gửi tôi đến những địa chỉ mà tình yêu cứu độ của Người sai tôi đi:
Chúa không muốn tôi ở lại, nhưng phải lên đường, phải xuất hành đến những nơi khổ đau mà Đức Kitô đã chọn: Những người nghèo, những con chiên lạc, những tội nhân...
Chúa muốn tôi đem tình yêu cứu độ của Người đến những địa chỉ đó: Là Linh Mục có nghĩa là làm sứ giả của tình yêu cứu độ. Chúa Giêsu là Đấng Salvator, linh mục cũng phải là một alter Salvator. Linh mục không được chỉ biết kết tội, lên án, hăm doạ, nhưng phải biết xót thương và cứu chuộc.
4. Trong đời linh mục, tôi nhận ra rằng mình cho đi chẳng bao nhiêu, nhưng nhận vô cùng:
Đừng quan niệm linh mục là kẻ ban phát ơn huệ và đòi mọi người phải biết ơn, đáp nghĩa. Trái lại, kinh nghiệm cho tôi thấy linh mục là kẻ lãnh nhận vô cùng, và bởi thế phải là kẻ biết ơn vô cùng.
Tôi còn thấy mình lãnh nhận phần lớn là từ những kẻ bé nhỏ, hèn kém: những người nghèo, những người vô danh, những bệnh nhân, chứ không phải chỉ từ các bề trên, những bậc vị vọng, những ân nhân tên tuổi... Chính những bàn tay âm thầm nhỏ bé lấm lem có giá trị quyết định trong đời linh mục của tôi. Tắt một lời:
Suốt đời linh mục, chúng ta phải chăm sóc cây Bác Ái trong ta. Làm sao để nếu ta ra đi, thì ấn tượng để lại sẽ không phải là công trình này, cơ sở kia, nhưng là Đức Ái. Vậy, hãy chăm sóc trái tim chúng ta, hãy phát triển trái tim Bác Ái của ta.
IV. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ NƯỚC TRỜI
Đừng đồng hoá Giáo Hội với Nước Trời. Đừng đòi mọi người phải phục vụ Giáo Hội như phục vụ Nước Trời. Nước Trời lớn hơn Giáo Hội. Giáo Hội phải phục vụ Nước Trời.
1. Để xây dựng Nước Trời, tôi cần thực hiện 3 điểm này:
1- Cứu con người khỏi sự dữ, như Đức Kitô đã cứu con người khỏi mọi sự dữ. Sự dữ dưới mọi hình thức nghèo đói, dốt nát, bệnh tật, bất công, tội ác...
2- Xây dựng những tương quan đức ái ở khắp mọi nơi, giữa những con người, giữa các cộng đoàn, như Đức Kitô đã dạy.
3- Loan báo Đức Kitô và Phúc Âm của Người: Bằng lời nói, hành động, cuộc sống... để mọi người trở về với Đức Kitô, với Phúc Âm.
2. Cần tìm ra những “cách” thích hợp để xây dựng Nước Trời:
Trong công trình xây dựng này, thiện chí thôi không đủ, lòng nhiệt thành thôi không đủ. Cần suy nghĩ, cần những phương pháp, cần có khoa học. Phải tìm tòi học hỏi nơi trường đời, nơi cuộc sống, nơi thời đại, để thấy được “cách” tốt nhất.
3. Chúa dùng rất nhiều người thợ khác nhau để xây dựng Nước Trời:
Chúa đang dùng cả những người thợ ngoài hàng giáo sĩ, ngoài cơ chế Giáo Hội để xây dựng Nước Trời. Chúng ta phải biết quí trọng những tay thợ đó, cho dù họ xuất thân từ đâu.
Như thế, chỗ đứng và vai trò người linh mục sẽ thu hẹp lại: Người linh mục phải khiêm tốn hơn.
Để đẩy lui bóng tối sự dữ, thời đại hôm nay đâu còn phải cái gì cũng cần tới Giáo Hội, tới linh mục nữa. Nó có những sinh hoạt, tổ chức độc lập. Vai trò của linh mục chỉ còn là hợp tác, chứ không phải là chủ nhân. Trong hoàn cảnh ấy, linh mục cần phải sắc bén, bám chặt, và đi sâu vào cái chuyên môn của mình: đó là loan báo Đức Kitô, loan báo Phúc Âm, xây dựng đức ái.
4. Hãy khiêm tốn làm công việc của một người gieo:
Trong công việc xây dựng Nước Trời, đừng tham vọng nhiều. Đừng tự mãn cho là xong rồi, cũng đừng bực tức chán nản vì chưa thấy kết quả.
Cứ làm việc hết mình, kết quả để Chúa.
Ta cứ cố gắng gieo vào đời một chút gì đó tươi mát, hứa hẹn của Đức Kitô: Như thế thôi cũng là nhiều rồi.
5. Sẽ không tránh được trở ngại:
Hoặc do những quan điểm, những tâm lý khác nhau. Hoặc do những vụng về của chính mình. Hoặc do những hẹp hòi của lòng người.
Đừng nản lòng, vì đó là đương nhiên. Vì ngay Đức Kitô - Người đã khánh thành Nước Trời trên trần gian - cũng đã không tránh được trở ngại.
Gặp trở ngại, ta đừng chán nản rút lui, đừng có ngoan cố hút đầu vào, nhưng tốt hơn cả, hãy “im lặng” và tìm cách “lách” đường khác.
V. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ CÁC DẤU CHỈ THỜI ĐẠI
Một linh mục làm việc mục vụ phải có khả năng nắm bắt được những dấu chỉ thời đại:
1. Dấu chỉ lớn nhất của thời đại: sự lên ngôi của con người.
- Trước đây, người ta nói tới quốc gia, chủng tộc, nhân loại, Giáo Hội... Ngày nay, người ta chỉ nói đến con người: Phát triển con người, phục vụ con người, thăng tiến con người, quyền con người. Con người là trung tâm, là đối tượng số một. Mục vụ cần để ý đến việc phục vụ con người, phát triển con người toàn diện.
- Xã hội chúng ta hôm nay đang có nguy cơ phá sản con người: Trong mục vụ, chúng ta cần chú ý nâng cao con người, đề cao đạo làm người. Con người ở xã hội Việt Nam là con người đang xuống cấp, con người ích kỷ: mục vụ không cần phải quá cao xa bay bổng, hãy bắt đầu từ việc xây dựng nhân bản.
- Mục vụ hôm nay cũng phải là đồng hành với con người. Con người với những giá trị cao đẹp, cũng như những bóng tối của nó. Người linh mục phải biết đi vào những vấn đề của con người, của cuộc sống.
2. Dấu chỉ thứ hai: Đang chớm nở và lớn mạnh ý thức về dân tộc:
Ngày nay ý thức dân tộc đang phát triển mạnh mẽ trong mọi sinh hoạt của con người: văn hoá, nghệ thuật, kinh tế... Mục vụ phải quan tâm đến những thao thức của dân tộc. Người làm mục vụ phải biết đồng hành với dân tộc, phải tham dự vào những vui mừng và lo âu, những thăng trầm của dân tộc mình.
3. Dấu chỉ thứ 3: Tinh thần đại kết:
- Những ngày cầu nguyện cho hoà bình tại Assisi, cộng đoàn Taizé, những trường dạy Thần học chung cho Công Giáo, Tin Lành và Anh Giáo... đó là những dấu chỉ về sự khao khát muốn đối thoại giữa các tôn giáo, về ý thức đại kết.
- Ngày nay, người ta nhấn mạnh đến hoà giải và hoạt động từ thiện: Sau chiến tranh, xã hội đang cần hàn gắn lại những đổ vỡ bằng tinh thần hoà giải, con người cũng đang phải chịu nhiều vết thương cần phải được xoa dịu, chữa lành bằng những việc từ thiện bác ái. Mục vụ phải đáp ứng được nhu cầu đó.
4. Dấu chỉ thứ 4: Tinh thần khoa học:
Con người ngày nay đề cao tính khoa học. Đã qua rồi cái thời người ta ham thích những phép lạ. Đã qua rồi cái thời tổ chức công việc cách độc đoán, tuỳ tiện. Thời đại hôm nay đòi mọi sự phải rõ ràng, hợp pháp, trọng các nguyên tắc.
5. Dấu chỉ thứ 5: Đề cao vai trò người giáo dân và phụ nữ:
Chỗ đứng của hàng giáo phẩm ngày nay càng thu hẹp lại, nhường chỗ cho vai trò người giáo dân ngày càng chủ động hơn. Phải chấp nhận một thực tế: Chính giáo dân là tác phẩm gây nên những phong trào canh tân mạnh mẽ trong xã hội và Giáo Hội hôm nay.
Vai trò của phụ nữ cũng ngày càng đậm nét hơn trong xã hội và Giáo Hội. Một quốc gia, một chế độ, hay một cộng đồng nào càng đề cao sự đóng góp của phụ nữ, càng chứng tỏ tính nhân bản của mình.
VI. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ SỰ PHÂN BIỆT VÀ CHỌN LỰA TRONG ĐỜI LINH MỤC
Linh mục phải có khả năng phân biệt chính - phụ, phải biết chọn cái cần chọn.
1. Cái chính trong đời sống mục vụ:
Không nên ôm đồm, hỗn tạp, chỉ nên chọn vài điểm chính trong mục vụ, làm hướng đi cho đời linh mục của mình.
Ba chủ điểm cho mục vụ ngày nay là:
1- Cứu con người khỏi mọi sự dữ, bất cứ sự dữ nào.
2- Xây dựng khắp nơi tương quan đức ái.
3- Rao giảng Đức Kitô và ơn Cứu độ của Người.
Từ lời giảng dạy, đến cách tổ chức, và mọi sinh hoạt trong Giáo Hội, phải làm nổi bật ba cái chính đó.
Khi thực hiện, tốt hơn cả nên làm những cái có qui mô nhỏ, trong tầm tay. Đừng tham lam làm qui mô lớn quá, dễ đưa đến ảo tưởng hoặc quá tải.
2. Biết phân biệt cái lỗi thời và hợp thời:
Thời đại chúng ta là thời biến chuyển nhanh chóng. Chúng ta cần xem xét trong công tác mục vụ chúng ta cái gì đã lỗi thời, không áp dụng, vô bổ, ngược đời... để loại bỏ.
Cái lỗi thời là cái không còn là “dấu chỉ” cho người thời đại hôm nay nữa. Có những biểu lộ đức tin, những việc đạo đức, những lối nhìn đã từng là “dấu chỉ” của một thời đại đã qua, nhưng nay không còn nói lên được cái gì nữa, ngoài tác dụng dễ gây ngộ nhận xúc phạm cần được phải đào thải. Thí dụ: Quan niệm về chức linh mục: quan niệm xưa đã lỗi thời: là sự tham dự vào chức tư tế thánh thiện của Đức Kitô; quan niệm ngày nay: đề cao tính phục vụ, tính cứu độ như Chúa Giêsu. Quan niệm về Giáo Hội: quan niệm xưa đã lỗi thời: là giai cấp, phẩm trật; quan niệm ngày nay: Giáo Hội chính là dân Thiên Chúa. Quan niệm về sự thánh thiện: mô hình cũ đã lỗi thời: là tinh thần thánh hiến, pháo đài; mô hình ngày nay: là thái độ chan hoà, hoà giải (điển hình là Têrêxa Calcutta).
3. Phân biệt cái gì lợi thật cho đạo, cái gì lợi giả cho đạo:
Chúng ta phải phân biệt cho rõ điều gì làm sáng danh Chúa thật, điều gì có lợi cho Giáo Hội thật. Bởi vì có bao điều ta tưởng làm tôn vinh Chúa, và xây dựng Giáo Hội, mà thật ra chỉ làm ô danh Chúa và phá đạo. Những cái đó cần phải sáng suốt loại bỏ đi.
4. Phân biệt đâu là thánh ý Chúa, và đâu là ý mình, ý của phe nhóm mình:
Đó là điều không dễ gì thực hiện. Tốt hơn cả chúng ta phải dựa vào Phúc Âm, dựa vào giáo huấn Vatican II.
Chúng ta hãy qui hướng tất cả về Đức Kitô. Hãy tra hỏi Người, hãy phóng vấn Người: “Trong trường hợp này, Chúa xử trí như thế nào?”.
Một tiêu chuẩn khác để nhận ra ý Chúa, đó là ích lợi cho con người. Cái gì gây hạnh phúc cho con người là ý Chúa, là ích lợi của đạo. Chúng ta đừng để cơ chế, sự ổn định, tổ chức đè bẹp đức ái, đè bẹp con người. Chúa không muốn vậy. Một điều cần cảnh giác, nhiều khi chính chúng ta lỗi thời, mà tưởng mình hợp thời, để rồi gây bao điều hại cho đạo, mà không ai dám nói ra, hoặc chẳng muốn nghe ai nói. Để tránh tai hoạ đó, người làm mục vụ phải theo dõi bước tiến của Thần học, xã hội, tâm lý ngày nay. Đồng thời cần khiêm tốn, cởi mở, đừng tự mãn cho mình biết hết, đúng hết.
VIII. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ ĐỨC NGHÈO 1. Thách đố của thời đại hôm nay: Con người của thời đại hôm nay nặng về óc thực nghiệm. Người ta không đánh giá một ý thức hệ, một tôn giáo, một cơ chế, ở chỗ đúng hay sai, nhưng tuỳ vào “Anh có thiện chí và khả năng làm cho con người bớt nghèo, bớt dốt, bớt bệnh tật hay không?”. Đó chính là tiêu chuẩn định đoạt. Nếu không đạt được tiêu chuẩn ấy, dù anh có nói hay đến mấy, sẽ chẳng ai tin anh.
Trong lúc đó, thế giới Công Giáo lại phần lớn là nghèo (Trung Mỹ, Nam Mỹ): đó là một xúc phạm lớn.
Tại Âu Châu: những nước phát triển cao là những nước Bắc Âu, thuộc Tin Lành, những nước nghèo phía nam (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha...) thuộc Công Giáo.
Tại Á Châu, không kể Nhật, Triều Tiên, 4 con rồng nhỏ phát triển lại không phải là những nước Công Giáo, trong khi đó, tại Phi Luật Tân, một nước Công Giáo lại là quốc gia nghèo, xáo trộn, đầy bất công.
Làm sao để chứng minh cho con người ngày nay tin rằng Công Giáo là tôn giáo giải phóng, cứu chuộc con người?
2. Con người hôm nay phát triển về óc phê phán:
Con người hôm nay không còn là đứa trẻ mê muội, tối mặt, họ biết phê phán về các sự kiện. Nếu trong đời sống thực, người linh mục không làm điều mà mình giảng dạy. Nếu linh mục trưởng giả, ích kỷ, xa cách. Nếu họ thấy Giáo Hội không thương người, không quan tâm đến dân nghèo, không sống nghèo như Đức Kitô. Và nếu họ thấy Giáo Hội, các linh mục cũng tham tiền, thu vén, hưởng thụ... họ sẽ chẳng bao giờ tin những gì chúng ta nói.
3. Con người hôm nay có óc phân tích: Họ biết lý luận, đặc vấn đề sâu sắc về Giáo Hội, về sống đạo, về các Linh Mục, tu sĩ. Trình độ ý thức của con người ngày nay không còn để người giáo dân trong trạng thái thụ động, vâng lời, ngoan ngoãn, dễ dạy như thuở nào nữa. Họ biết nhìn, biết phân tích, biết mổ xẻ.
Nếu không ý thức điều đó, người linh mục dễ có thái độ an tâm, tự mãn, dễ trở thành chai cứng, chỉ biết kết tội, thiếu thông cảm.
4. Con người hôm nay biết so sánh:
Con người thời nay biết để ý, quan sát và so sánh: So sánh mức sống của linh mục với mức sống của dân chúng, so sánh linh mục này với linh mục khác, so sánh điều linh mục giảng với điều linh mục làm...
Người giáo dân Việt Nam hôm nay, nói chung, còn kính trọng các linh mục. Họ chấp nhận linh mục có mức sống cao hơn họ, dễ dãi hơn họ. Nhưng cái cao hơn, dễ dãi hơn đó là để phục vụ, chứ không phải để hưởng thụ cho riêng mình. Người dân hôm nay rất nhạy bén, họ phát hiện ra ngày nào linh mục biết sống cho người khác, và linh mục nào chỉ lo cho bản thân mình.
Lời kết:
Chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa của năm 2.000. Vào thời điểm ấy, chúng ta sẽ là nhân chứng của một thời hưng thịnh của Giáo Hội, hay một thời suy tàn của Giáo Hội, tuỳ ở Giáo Hội có biết đến với con người, với dân tộc hay không? Và nhất là có thực sự trở về với Đức Kitô và Phúc Âm của Người không?
Trong số mười tân chức của chúng ta, sẽ có một người được sai đến một địa điểm truyền giáo rất xa, một địa điểm truyền giáo rất nghèo, một địa điểm truyền giáo rất đáng thương, người đó là Cha Vincentê Phạm Thái Hòa.
Khi tôi sai Cha đến địa điểm truyền giáo ấy, tôi biết rằng cha có thiện chí phục vụ, cha có khả năng phục vụ, và cha biết cách phục vụ. Để hỗ trợ cha trên đường truyền giáo, giờ đây tôi muốn chia sẻ với cha, cũng như với tất cả cộng đoàn tham dự lễ mở tay của cha, một vài suy nghĩ của tôi, rút ra từ những bài Thánh Kinh trong thánh lễ hôm nay: Ngày 3 tháng giêng.
Suy nghĩ thứ nhất của tôi là: Chúa muốn chúng ta, nhất là những người truyền giáo, khi đến một vùng có đông người lương dân, hãy biết coi bất cứ ai thực hành sự công chính, đều bởi Đức Kitô mà ra.
Thực vậy, trong thư thứ nhất của Thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe, có một câu Ngài viết rằng: “Các con tin Đức Kitô là Đấng công chính, nên các con biết rằng: Bất cứ ai thực hành sự công chính, đều bởi Đức Kitô mà sinh ra”.
Câu nói trên đây của Thánh Gioan là một chân lý có cơ sở lời Chúa. Chân lý này cho phép tôi có một cái nhìn cởi mở và lạc quan. Bởi vì khi tôi đến những vùng truyền giáo đông người lương dân, tôi gặp thấy không thiếu những người ngoại đạo, có một đời sống công chính tương đối khá cao, nhiều khi còn hơn đời sống người Công Giáo.
Tôi thấy có những người lương có tâm hồn bác ái, làm những việc từ thiện, giống như người ngoại đạo Samaritanô tốt lành, mà Chúa đã khen trong Phúc Âm.
Tôi thấy có những người lương đã đến cầu nguyện với Chúa, bởi một lòng tin rất mạnh, giống như viên sĩ quan ngoại giáo mà Chúa đã khen trong Phúc Âm.
Tôi thấy có những người lương, khi được ơn Chúa đã cảm tạ Chúa, giống như người cùi được Chúa chữa lành, mà Chúa đã khen trong Phúc Âm.
Nếu bất cứ ai thực hành sự công chính, đều bởi Đức Kitô mà ra, như lời Thánh Kinh dạy hôm nay, thì tôi phải kết luận rằng, những người lương xung quanh chúng ta, khi sống tốt đời sống của mình, họ đều bởi Đức Kitô mà ra, họ thuộc về Đức Kitô, mặc dầu họ không hay biết.
Nhận thức trên đây cho chúng ta thấy, nhất là những người truyền giáo nhận thấy: Nước Trời, Nước Thiên Chúa, mà Đức Kitô thường hay nói trong Phúc Âm, là một nước rất bao la. Nước Trời, Nước Thiên Chúa, vượt quá biên giới Hội Thánh hữu hình. Nước Thiên Chúa là ở trong lòng những người thực thi sự công chính, cho dù họ là người lương, họ vẫn có sự hiện diện của Thiên Chúa, vẫn có hoạt động của Chúa. Và những người như vậy đáng cho các nhà truyền giáo coi là những cộng tác viên tốt của Đức Kitô, trên con đường truyền giáo của mình.
Suy nghĩ thứ hai của tôi, là Chúa muốn: Khi chúng ta dạy đạo cho những người tin theo Chúa, hãy cố gắng giúp cho họ nhìn rõ dung nhan thực sự dễ thương của Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.
Thực vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, có lời chép rằng: “Khi Đức Kitô đến với Gioan Baotixita, thì Gioan Baotixita nói với đám đông rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Một câu giới thiệu đơn sơ, vắn gọn, nhưng rất đầy đủ, và có sức mạnh lôi cuốn quần chúng đến với Đức Kitô.
Qua lời giới thiệu của Gioan, chúng ta thấy: Đức Kitô là một con người hiền lành, khiêm tốn, đầy bác ái, Ngài đến trong thế gian là để cứu rỗi nhân loại. Chính Đức Kitô cũng đã xác định: “Tôi đến không để buộc tội ai, mà tôi đến để cứu rỗi những gì đã hư mất”. Không những Chúa Giêsu dùng lời nói để xưng mình là Thiên Chúa cứu độ, mà Ngài còn dùng việc làm, dùng đời sống của mình, và sự hy sinh mạng sống của mình, để cho mọi người thấy: Ngài là Con Thiên Chúa, Tình Yêu cứu độ, và với mục đích cứu con người khỏi tội lỗi, Chúa Kitô đã làm bao nhiêu việc lành, để giúp con người thoát khỏi mọi sự dữ, do tội gây nên, hay những sự dữ dẫn tới tội lỗi. Vì thế, Chúa làm cho người ta có bánh ăn, Chúa cứu người ta khỏi bệnh tật, Chúa giải phóng người ta khỏi mặc cảm tinh thần.
Nếu Chúa Giêsu là Tình Yêu cứu độ, hiền lành, khiêm tốn, đầy bác ái, thì chúng ta những người truyền giáo, không còn cách nào khác để chọn lựa khi giới thiệu Đức Kitô với dân chúng, ngoài cách nói cho đúng: “Đức Kitô là tình yêu cứu độ, đạo của Đức Kitô là đạo của tình yêu cứu độ. Hội Thánh của Đức Kitô là Hội Thánh của những người sống tình yêu cứu độ”. Chỉ có cách đó mới giới thiệu được Đức Kitô, mới giới thiệu được khuôn mặt của Hội Thánh, và mới có sức mạnh thuyết phục những người dân tin vào Đức Kitô, vào Hội Thánh của Người. Tối hôm qua, đài truyền hình Việt Nam có chiếu lên hình ảnh Mẹ Têrêsa với những lời trân trọng mến thương.
Chúng ta biết Mẹ Têrêsa nổi danh về lòng bác ái, từ thiện, khi tôi nhìn thấy Mẹ Têrêsa được đài truyền hình Việt Nam chiếu lên ngày đầu năm 1992, tôi có cảm tưởng đó là tín hiệu Chúa gởi cho tôi, cho các nhà truyền giáo Việt Nam, và nhắn nhủ chúng ta rằng: Cái ngôn từ thích hợp nhất để nói về đạo Công Giáo trong nước Việt Nam hôm nay trong thời điểm này, trong năm 1992 này, chính là đời sống bác ái, yêu thương, đời sống hiền lành khiêm tốn của những người có đạo, của những người truyền đạo.
Suy nghĩ thứ ba của tôi là Chúa muốn cho tất cả những ai muốn nên thánh, và đặc biệt là những người hoạt động truyền giáo, cần phải biết hy vọng, phó thác nơi Đức Kitô.
Thực vậy, trong bài Thánh Kinh chúng ta vừa nghe, thánh Gioan tông đồ nói rằng: “Bất cứ ai hy vọng vào Đức Kitô sẽ tự thánh hóa mình, vì Đức Kitô là Đấng thánh”.
Lòng cậy trông, phó thác, luôn luôn cần cho một tín hữu. Nó càng cần hơn cho một linh mục, tu sĩ. Và nó càng rất cần cho những người truyền giáo.
Bởi vì trong những nơi truyền giáo chẳng hạn, như trong địa điểm cha mới sắp đến, người truyền giáo nhiều khi cảm thấy mình rất cô đơn, không còn tìm được một điểm tựa nào, không tìm được một anh em linh mục nào, để tâm sự, để trao đổi, để bàn hỏi, ngay cả đến xưng tội, cũng không tìm được. Rồi sẽ không tìm được người thân nào để có thể tin được, để mà tâm sự những chuyện riêng ta. Có khi cũng không tìm được một cách nào, để giải quyết những trường hợp bế tắc về vật chất và về tinh thần, về tôn giáo và về xã hội. Chỉ có một con đường duy nhất trước mặt, đó là cậy trông phó thác vào Đức Kitô, như lời thánh Gioan đã dạy: “Phó thác bản thân mình, phó thác trách nhiệm của mình, và hiến dâng cả sự hèn yếu, tội lỗi của mình. Cậy trông tuyệt đối vào Đức Kitô như Đức Mẹ xưa trong khi Ngài nói lời “Fiat” để tuân phục thánh ý Chúa Cha. Cậy trông trọn vẹn, cậy trông không điều kiện, cậy trông mãi mãi. Đó là con đường thánh hóa mà nhà truyền giáo cần phải nắm vững.
Lúc nãy, khi cộng đoàn hát bài “Cậy trông vào Chúa”, tôi thầm cầu nguyện cho cha mới được luôn luôn cậy trông vào Chúa. Vì sẽ có nhiều thử thách đợi chờ, mà chỉ có phương tiện cậy trông vào Chúa, mới có thể giải quyết được mà thôi. Anh chị em thân mến,
Ba suy nghĩ trên đây là những gì chân thành nhất, là những gì thiết thực nhất tôi gởi tới cha mới, tôi gởi tới các anh em linh mục của tôi, và với các anh chị em, những người con cái của tôi. Với những gì chân thành ấy, với những gì thiết thực ấy, tôi tin rằng Đức Kitô đang đến giữa chúng ta, để Ngài đồng hành với chúng ta, nhất là để đồng hành với cha mới trên con đường truyền giáo.
Tôi nghĩ rằng được Chúa Kitô đồng hành với mình, đó là một vinh dự lớn, đó là một an ủi vô bờ, đó là một bảo đảm tuyệt đối để lên đường, để ra đi vì danh Chúa, vì phần rỗi các linh hồn.
Lạy Chúa, này con đây, con ra đi, để thực thi ý Chúa.
Giảng lễ mở tay tân linh mục Vincentê Phạm Thế Hoà, Thạnh An ngày 3-1-1992.
Trong ngày lễ thụ phong linh mục, chúng ta thường có thói quen tình, hân hoan, cảm tạ. Chúng ta cảm tạ hồng ân Thiên Chúa bao la. Chúng ta coi ngày lễ thụ phong hôm nay như một ngày Chúa đã dựng nên, một ngày đáng ghi nhớ muôn đời, một ngày Chúa thưởng dân Người. Sự biểu lộ với tâm tình hân hoan và cảm tạ như vậy, là một việc làm chính đáng.
Tuy nhiên, riêng tôi, khi tôi nhìn linh mục của ngày thụ phong, tôi hay nghĩ tới linh mục của giờ thứ chín.
linh mục của giờ thứ chín là linh mục được Chúa gọi để chia sẻ những đau đớn, những tối tăm của kẻ được sai đi cứu độ loài người.
Xưa trên đồi Golgôtha, Chúa Giêsu bị đóng đinh, có lúc đã thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con”. Phúc Âm nói: Lúc ấy là vào giờ thứ chín.
Rồi xưa thánh Phêrô và Gioan vào đền thờ, gặp một người ăn mày, thánh Phêrô đã chữa rồi ở lại giảng, và sau cùng bị bắt. Kinh Thánh nói: Lúc ấy vào giờ thứ chín.
Tôi nghĩ rằng không phải tất cả mọi linh mục chúng tôi đều được Chúa gọi đi vào trong giờ thứ chín đau thương của Thầy Chí Thánh và của các tông đồ, nhưng tất cả mọi linh mục đều được Chúa gọi đi vào một phần nào giờ thứ chín bi thảm đó. Tất cả các linh mục chúng tôi đã cảm nghiệm sự thật ấy một các thấm thía, và đã sống sự thật ấy, chấp nhận, hân hoan như một ân huệ Chúa ban, để hiến tế mình như một thánh lễ sống động, góp phần cứu chuộc linh hồn mình, và linh hồn con chiên mình.
Giờ đây tân chức của chúng ta sẽ được Chúa gọi lên bàn thờ, và cũng sẽ được Chúa gọi lên Thánh Giá. Chúng ta hãy cầu nguyện cho tân chức chúng ta, khi biết trung thành với ơn gọi bàn thờ, cũng sẽ trung thành với ơn gọi Thánh Giá, suốt đời mình trong niềm tin của Đấng đã gọi mình.
Bây giờ là chín giờ, chúng ta khởi sự thánh lễ. Và để cho Chúa nhậm lời chúng ta, chúng ta chuẩn bị tâm hồn bằng sự ăn năn sám hối.
Lễ Phong Chức linh mục Giuse Trần Đình Thụy, tại giáo xứ Vạn Đồn kinh B1 ngày 04-01-1992.
Khi truyền chức linh mục, tôi rất mừng, nhưng tôi cũng rất lo. Có thể nói là tôi lo nhiều hơn là mừng. Không những tôi lo vì thấy đoàn chiên trao phó cho các linh mục thường không tránh được các thử thách, có khả năng làm suy giảm niềm tin, mà tôi càng rất lo, khi thấy chính các linh mục cũng như bản thân tôi, không tránh được những thử thách có khả năng làm suy giảm tình yêu. Tình yêu đối với Chúa. Tình yêu đối với đoàn chiên.
Nhưng có một điều làm tôi an ủi và hy vọng, đó là thấy tất cả các linh mục của tôi, tất cả đều nhận thức sự yếu đuối bất toàn của mình, và kiên trì cầu nguyện. Riêng tôi, mỗi khi cầu xin lương thực hằng ngày cho tôi và cho đoàn chiên tôi thường nghĩ tới một thứ lương thực thiêng liêng, rất cần thiết. Lương thực hằng ngày rất cần thiết cho tôi và cho đoàn chiên: Đó là tình yêu đối với Chúa, đó là tình yêu đối với Hội Thánh, đó là tình yêu đối với đất nước đồng bào.
Lương thực hằng ngày cần thiết còn là những tha thứ cần được lãnh nhận, và những tha thứ cần phải cho đi.
Lương thực hằng ngày cần thiết cho tôi và cho đoàn chiên, còn là sự quyết tâm trở về với giới luật yêu thương của Người.
Lương thực hằng ngày rất cần thiết cho tôi và cho đoàn chiên, là biết nắm bắt những hy vọng từng ngày, và biết chia sẻ ra những hy vọng của mỗi ngày. Tình yêu, sự tha thứ, sự trở về, những hy vọng, đó là lương thực hằng ngày cần thiết nhất cho các linh mục chúng tôi và cho anh chị em.
Vì thế hôm nay, trong thánh lễ phong chức linh mục, chúng ta cầu nguyện đặc biệt cho ba tân chức của chúng ta có các thứ lương thực thiêng liêng hằng ngày cần thiết ấy, và biết hằng ngày phân phát lương thực cần thiết ấy cho đoàn chiên trao phó cho mình sau này.
Để đáng Chúa nhận lời chúng ta, chúng ta thành tâm ăn năn sám hối tội lỗi của mình. Lễ Phong Chức linh mục cho 3 Thầy Antôn Phạm Đình Chiến, Giuse Hoàng Văn Luyện, Giuse Phạn VănTính, ở Thạnh An ngày 09-01-1992.
Trong lễ phong chức Linh Mục, các người được gọi sẽ lãnh nhận chức Thánh và ơn thánh hóa. Từ ngày đó trở đi, các linh mục sẽ còn tiếp tục là những người đón nhận.
Thực vậy, hằng ngày các Ngài sẽ đón nhận Chúa Giêsu đến trong phép Thánh Thể và các Bí Tích khác.
Hằng ngày, các Ngài sẽ đón nhận sức mạnh và ánh sáng đến từ lời Chúa và Chúa Thánh Linh, như lương thực cần thiết nuôi dưỡng linh hồn mình.
Hằng ngày, các Ngài sẽ đón nhận giáo dân mình và mọi người chung quanh như những anh chị em thật sự, để phục vụ họ, để gắn bó số phận họ vào số phận của mình.
Hằng ngày, các Ngài sẽ đón nhận cách riêng những người nghèo túng khổ đau, như những chi thể đặc biệt của nhiệm thể Chúa, để cùng với họ làm chứng cho Tám Mối Phúc Thật.
Hằng ngày, các Ngài sẽ đón nhận các người tội lỗi, những con chiên Chúa kiếm tìm, để cùng họ ăn năn sám hối, trở về với Chúa.
Hằng ngày, các Ngài sẽ đón nhận những niềm vui và những nỗi buồn, những thành công và những thất bại, như những lễ vật tạ ơn và đền tội, mà các Ngài dâng lên Chúa trên bàn thờ sống động là chính bản thân mình.
Hằng ngày, các Ngài sẽ đón nhận các Thánh Giá đủ loại, nhất là những Thánh Giá không do mình chọn lựa, mà là do Chúa chọn, để các Ngài luôn nhận thức rằng ơn cứu độ đến từ Thánh Giá.
Hằng ngày, các Ngài sẽ đón nhận muôn vàn ơn Chúa dành cho nhũng ai từ bỏ mình vác Thánh Giá mình mà theo Chúa.
Linh mục là người sẽ được lãnh nhận nhiều, và là người sẽ phải lãnh nhận nhiều. Điều quan trọng là những gì được lãnh nhận và phải lãnh nhận đừng trở nên vô ích, nhưng hãy làm cho chúng trở nên giá cứu chuộc mình và cứu chuộc nhiều người khác.
Được như vậy không phải chuyện dễ, nên trong thánh lễ phong chức hôm nay, chúng ta cầu nguyện cho hai tân chức, biết dùng nên những gì đã được lãnh nhận và những gì sẽ phải lãnh nhận trong chức vụ Linh Mục của mình.
Lễ phong chức Linh Mục của thầy Tân và Hòa tại Rạch Giá, ngày 02-01-1992.
Trong cung thánh giờ đây, có trên 150 linh mục đồng tế. Tôi coi con số 150 linh mục đồng tế đây là một con số cần thiết, để làm nên một chuỗi Mân Côi thiêng liêng, mà chúng tôi xin Đức Mẹ dâng lên Thiên Chúa.
Trong trái tim mỗi linh mục có cả trăm, cả ngàn giáo dân, có từng vạn, từng triệu đồng bào Việt Nam. Có nghĩa là, các linh mục chúng tôi là những người chỉ muốn liên kết mọi người trong một sợi dây tình thương, và chỉ muốn đoàn tụ mọi người dưới mái nhà tình yêu, để cùng nhau xây dựng hạnh phúc chung cho đất nước và cho Hội Thánh.
Hôm nay để tăng số những người phục vụ lý tưởng đó, tôi sẽ phong thêm 2 linh mục. Với 2 tân chức này, số linh mục tại Long Xuyên được thụ phong sau giải phóng là 71 vị. Tôi coi đây là một mùa Hồng Ân Chúa ban cho địa phận Long Xuyên.
Trong niềm hân hoan cảm tạ Chúa, chúng ta cầu xin Chúa cho các linh mục nhất là các tân chức của chúng ta, được luôn trung thành với lý tưởng và hồng ân Chúa dành cho các vị.
Để đáng Chúa nhậm lời chúng ta, chúng ta thành thực ăn năn sám hối tội lỗi của mình.
Lễ Phong Chức linh mục cho thầy Giuse Trần Văn Toản và Giuse Nguyễn Văn Quy, tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên ngày 16-01-1992
Hôm nay giáo phận Long Xuyên có thêm 6 linh mục. Với 6 tân chức này, số tân linh mục của địa phận Long Xuyên từ sau giải phóng sẽ là 77 vị.
Tôi coi sự tăng trưởng này là một nhân tố quan trọng, làm nên mùa xuân Giáo Hội tại địa phương ta. Mùa xuân này của Giáo Hội, đã được tạo dựng do Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Tôi xác tín như vậy. Mùa xuân này của Giáo Hội là một bức thư Chúa gởi cho mỗi người chúng ta, để khích lệ chúng ta hãy vững tin vào lòng xót thương Chúa, và khích lệ chúng ta tiếp tục sống hiền lành, khiêm tốn, bác ái, để chứng minh rằng Thiên Chúa là tình yêu, đạo Chúa là đạo tình yêu và linh mục của Chúa là kẻ rao giảng tình mến Chúa, yêu người, phục vụ mọi người trong tình yêu của Thiên Chúa cứu độ. Mùa xuân này của Giáo Hội cũng là một tín hiệu báo cho chúng ta thấy rằng: Mô hình đẹp nhất của mùa xuân Giáo Hội là sự thông hiệp giữa các họ đạo, được tổ chức thành những cộng đoàn nhỏ, các linh mục phục vụ và sống chan hòa tình mến Chúa yêu người, như những gia đình thiêng liêng, để thăng tiến nhau về mọi mặt. Mùa xuân này của Giáo Hội tự nó đã là một bài ca tuyệt vời ca tụng Nước Trời đang đến trong tất cả mọi tấm lòng tốt, không phân biệt lương hay giáo. Những tâm hồn đang khao khát bình an, tình thương và chân lý.
Chúng ta đón nhận mùa xuân này của Giáo Hội, mùa xuân của Nước Trời với tất cả lòng biết ơn và khiêm tốn, khiêm tốn sâu sắc, khiêm tốn chân thành, khiêm tốn được cụ thể hóa bằng sự chúng ta ăn năn sám hối.
Lễ Phong Chức linh mục cho 6 thầy: Phêrô Phan Thanh Điềm, Phêrô Trương Phú Thịnh, Vinh Sơn Lê Văn Bằng, Nicôla Vũ Ngọc Hải, Antôn Nguyễn Văn Triển, Bênêđitô Bùi Đức Hiền tại Long Xuyên ngày 30-01-1992.
Trong 6 tân chức được phong linh mục hôm qua, có một người đã đến từ một cộng đoàn nhỏ, một cộng đoàn nghèo, một cộng đoàn xa xôi hẻo lánh, trắc trở, một cộng đoàn gồm những người giáo cũng như những người lương, người đó là tân chức Nicôla.
Tôi biết cha mới cũng như cha sở ở đây rất gắn bó với cộng đoàn Cồn Én này và tôi cũng biết cộng đoàn Cồn Én rất thương mến cha sở và cha mới. Vì thế, trong dịp vui hiếm hoi hôm nay, tôi đã có mặt, ở giữa anh chị em, để chia sẻ với anh chị em một vài suy nghĩ.
Tuy đây là những suy nghĩ của riêng tôi, nhưng tôi tin rằng cũng là suy nghĩ của nhiều người, nhất là của tân linh mục. Có nghĩa là, tôi sẽ nói về tôi, nhưng có nghĩa là tôi nói về tân linh mục. Suy nghĩ của tôi rút ra từ bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe.
Suy nghĩ thứ nhất của tôi là: Những người đã gieo Nước Trời vào lòng tôi, chính là những kẻ nghèo.
Trong Phúc Âm chúng ta vừa nghe, Chúa đã nói: “Nước Trời ví như người gieo hạt giống xuống đất. Khi hạt giống đã được gieo rồi, thì dù người gieo ngủ hay thức, hạt giống vẫn âm thầm mọc lên”.
Những lời trên đây của Chúa Giêsu làm cho tôi nhớ lại: Biết bao nhiêu kẻ đã gieo vào lòng tôi từ nhỏ cho đến bây giờ những điều hay lẽ phải, những tình thương và những hy vọng, những ánh sáng và những sức mạnh, những nhân đức và những lời khuyên.
Trong biết bao nhiêu kẻ gieo trồng ấy, tôi thấy đại đa số đều thuộc loại kẻ nghèo: Như cha mẹ tôi, gia đình tôi nghèo, làng xóm tôi nghèo, quê hương Việt Nam của tôi nghèo, Giáo Hội của tôi rất nghèo.
Nếu phải nói đến một người chủ yếu đã gieo trồng Nước Trời vào lòng tôi, thì kẻ đó chính là Đức Kitô. Nhưng Đức Kitô lại là kẻ nghèo nhất trên cõi đời này. Hãy xem Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thánh Giá: Có gì đâu? Nghèo lắm. Nghèo nhất. Đúng là Đức Giêsu nghèo. Và những kẻ nghèo Chúa chọn đã là những kẻ gieo trồng Nước Trời trong lòng tôi, và hạt giống Nước Trời cứ âm thầm mọc lên, cho đến một ngày trở thành ánh sáng trong trí khôn tôi, giúp tôi nhận ra Đức Kitô trong kẻ nghèo. Và đến một ngày trổ sinh lửa trong trái tim tôi, để tôi biết yêu mến Chúa Kitô trong những người nghèo.
Suy nghĩ thứ hai của tôi là: Hạt giống Nước Trời được gieo vào lòng tôi, chính là Tám-Mối-Phúc thật có liên hệ mật thiết với thân phận kẻ nghèo.
Trong Phúc Âm hôm nay Chúa nói: “Nước Trời ví như hạt cải, bé nhỏ được gieo xuống đất, nhưng khi thành cây, nó lớn lao xanh tốt”. Lời Chúa phán trên đây làm cho tôi nhớ lại biết bao nhiêu hình ảnh người tốt việc tốt. Thí dụ, như hình ảnh những kẻ nhịn nhục, những kẻ hiền lành, những kẻ bác ái thứ tha, những kẻ phục vụ quên mình, những kẻ giữ đời trong sạch, những kẻ bị bắt bớ vì đạo ngay mà giữ được bình an... Tất cả những hình ảnh ấy, đều có một nét chung bé nhỏ, khó nghèo.
Hình ảnh Tám-Mối-Phúc thật đẹp nhất, đã in sâu đậm nhất vào tâm hồn tôi và thường xuyên ảnh hưởng đến đời sống tôi một cách quyết liệt. Đó là hình ảnh Đức Kitô trong nhà tạm, bé nhỏ, khiêm tốn, hiền lành, quên mình. Và tất cả nhũng hình ảnh ấy, đúng là hạt giống Nước Trời gieo vào lòng tôi.
Với hai suy nghĩ trên đây, tôi thấy rằng, tôi đã nhận lãnh rất nhiều, từ những cảnh nghèo, từ những người nghèo. Kẻ gieo giống trong lòng tôi đã đến từ kẻ nghèo. Hạt giống Nước Trời ở trong lòng tôi, cũng phát xuất từ kẻ nghèo.
Khi tôi hiểu như vậy, tôi càng hiểu hơn lời Chúa dạy các linh mục: “Hãy đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó”, bởi vì chính các Ngài đã lãnh nhận rất nhiều Tin Mừng từ những kẻ nghèo.
Cách đây mấy hôm, có một người tân tòng đến thăm tôi. Người đó nghèo nhưng có chức vụ lớn trong xã hội. Người đó kể cho tôi một sự việc đã xảy ra cho ông cách đây một tuần. Đại khái ông kể: “Ông đang đi xe đạp trên đường Long Xuyên về phía cầu, thì một chiếc xe đò đi ngược chiều tới. Xe đò đụng vào ông. Ông lăn xuống và đầu ông ngã vào lòng đường, ông ngất đi. Khi vừa tỉnh, việc đầu tiên ông đã làm là sờ vào cổ tìm xem ảnh chuộc tội ông đeo ở cổ mình có còn không? Ông nói với tôi rằng: “Lạ lùng, tượng ảnh con đeo đã bị gẫy một phần, nhưng mình con hoàn toàn không bị hề hấn gì”. Áo quần không rách. Thân xác không bị thương chút nào, và tự nhiên trong trí khôn con nghĩ rằng: Chúa đã chết để cứu con khỏi tội. Hôm nay Chúa đã chịu gẫy ảnh của Chúa, để cứu con khỏi nạn. Bấy giờ người tài xế xe bước xuống để vực ông lên. Xin lỗi ông, và xin đền bù vì tai nạn, thì ông ta nói với tôi rằng: Bấy giờ, tự nhiên con nghĩ rằng, Chúa đã tha tội cho mình, Chúa đã cứu mình, thì mình cũng phải tha cho kẻ khác, nên con đã tha hết cho người tài xế, và ông kết luận: Hạt giống Chúa gieo cho con qua lời giảng của các Cha, hôm nay đã nở sinh ra hoa trái. Đúng là một việc trọng đại con không ngờ trước.
Tôi nghĩ hôm nay cũng có một việc trọng đại đã xảy ra cho cha mới. Và việc trọng đại này là kết quả của hạt giống đã được gieo vào lòng cha từ nhỏ, qua nhiều ngày, qua nhiều tháng, qua nhiều năm, để hôm nay trở thành tân linh mục của Chúa. Và sự chăm sóc hạt giống này là một phần lớn đã ở những cộng đoàn nghèo: Các cha Phanxicô khó nghèo. Cồn Én khó nghèo. Và hôm nay cha trở về đây với cộng đoàn nghèo, để tiếp tục rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.
Đó là lời xin của tôi với Chúa, Đức Kitô nghèo, trong một cộng đoàn nghèo, cho một linh mục nghèo. Amen.
Lễ mở tay tân linh mục Nicôlaô Vũ Ngọc Hải tại nhà thờ Cồn Én, ngày 31-01-1992.
Trong các đợt phong chức linh mục vừa qua, tôi thấy rất đông người đã tới từ những cộng đoàn nhỏ, những cộng đoàn nghèo, những cộng đoàn là địa điểm truyền giáo, trong số những tân chức đã đến từ những cộng đoàn như vậy, có thầy Antôn Nguyễn văn Triển.
Tôi biết cha mới, trước khi chịu chức linh mục, đã từng phục vụ nhiều nơi là địa điểm truyền giáo, những nơi có đông người lương dân hơn là giáo dân. Và rồi đây, cha sẽ được sai đi đến những địa điểm như vậy. Nên hôm nay, dù rất bận việc, tôi cũng muốn có mặt tại đây trong thánh lễ Tạ Ơn, để chia sẻ với anh chị em, với cha Antôn, với các tân linh mục, với tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ, với tất cả anh chị em, vài cảm tưởng của tôi về đời truyền giáo. Những cảm tưởng của tôi ở đây, rút ra từ bài Sách Thánh chúng ta vừa nghe.
Cảm tưởng thứ nhất của tôi là: Kẻ được sai đi truyền giáo, hãy ra đi với một đức tin vững mạnh và trong sáng.
Thực vậy, hành trang mà các bài Sách Thánh hôm nay nói đến nơi những người được sai đi, chính là đức tin. Trong thư gởi giáo đoàn Do Thái, thánh Phaolô viết: “Nhờ đức tin, Abraham đã đáp lại lời Chúa gọi, để ra đi. Ông ra đi mà không biết mình sẽ đi đâu. Nhưng vì tin vào Chúa, ông đã ra đi. Và nhờ đức tin, ông đã tới lập cư ở nơi đất Chúa hứa”.
Sau khi tán tụng đức tin của Abraham, Thánh Phaolô nói tới đức tin của bà Sara son sẻ. Ngài viết: “Nhờ đức tin, ngay cả bà Sara son sẻ cũng đã mang thai”. Bởi vì bà tin rằng, Thiên Chúa hứa cho bà, thì Ngài sẽ trung tín giữ lời hứa.
Còn trong bài Phúc Âm. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ rằng: “Tại sao các con sợ, các con không có đức tin sao?”.
Những lời Sách Thánh trên đây đã gợi cho tôi cảm tưởng này là: Hôm nay Chúa nhắn nhủ tôi, Chúa nhắn nhủ cha Antôn và các tân linh mục, cũng như các tông đồ truyền giáo điều này: “Kẻ được sai đi truyền giáo có lúc sẽ thấy được hiện tại và tương lai của mình, như một chân trời mù mịt, giống Abraham, đi mà chẳng biết mình đi đâu. Rồi có lúc, sẽ nhìn thấy hiện tại và tương lai của mình như một vực thẳm tuyệt vọng, giống như bà Sara thấy mình già cả son sẻ, làm sao có con được. Rồi có lúc sẽ nhìn thấy hiện tại và tương lai của mình, như một con thuyền lênh đênh giữa biển khơi, phải chống chọi với sóng gió dập vùi”.
Trong những hoàn cảnh như vậy, kẻ được sai đi truyền giáo hãy vững tin. Hãy có một đức tin vững mạnh và khiêm tốn. Mình chẳng có gì. Mình chẳng là gì. Mình chẳng làm được gì đáng công trước mặt Chúa. Nhưng hãy cậy vào tình thương xót của Chúa quyền năng. Chúa là tất cả. Hãy phó thác tuyệt đối nơi Người. Hãy cậy tin trọn vẹn nơi Người.
Sách Thánh hôm nay nói: “Abraham tin lời Thiên Chúa là Đấng có thể làm cho người chết sống lại”.
Rồi các tông đồ thấy rằng: Thiên Chúa có quyền năng nên đã làm cho gió, sóng yên lặng. Hãy vững tin như vậy. Đó là cảm tưởng thứ nhất của tôi.
Cảm tưởng thứ hai của tôi là: Kẻ được sai đi truyền giáo hãy để ý đến việc tuân theo ý Chúa.
Thực vậy, việc quan trọng mà các bài Sách Thánh hôm nay muốn đề cao nơi các người được sai đi là tuân phục thánh ý Chúa: Trong thư gởi giáo đoàn Do thái, Thánh Phaolô nhấn mạnh đến điều đó: Abraham vâng phục thánh ý Chúa, đến nỗi ra đi, mà không biết mình đi đâu, và đến nỗi, muốn hy sinh chính con một mình là Isaac, mặt dầu biết rằng, giết con là đau đớn lắm, giết con một mình không còn hy vọng gì cho việc kế thừa. Nhưng vì muốn tuân phục thánh ý Chúa, nên Abraham muốn làm một cử chỉ để đặt thánh ý Chúa lên hàng đầu ưu tiên số một.
Rồi trong bài Phúc Âm, thánh Marcô cũng đã đề cao sự tuân phục thánh ý Chúa nơi các môn đệ: Lúc đó là ban chiều, các môn đệ đã mệt mỏi lắm, và trời có nhiều mây, báo hiệu nhiều giông tố đang ào ào thổi đến. Nhưng vì Thầy muốn đưa thuyền sang bờ bên kia, nên các tông đồ, dầu có nhiều nghi vấn, vẫn vâng phục thánh ý Thầy mình, đã ra khơi, chấp nhận sóng gió, chấp nhận nguy hiểm, để tỏ ra vâng phục thánh ý Chúa.
Khi đọc những việc làm trên đây của những kẻ được sai đi, tôi có cảm tưởng là Chúa cũng muốn nhắn nhủ tôi, nhắn nhủ các linh mục, tu sĩ và các tông đồ làm việc truyền giáo: “Hãy biết vâng phục thánh ý Chúa”.
Thánh ý Chúa là hãy đến đúng địa chỉ được sai đi. Địa chỉ được sai đi là những con người, nhất là những kẻ nghèo túng. Chúa Giêsu nói: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó”. Đó là địa chỉ Chúa sai các tông đồ đến.
Rồi thánh ý Chúa là: Khi đến với những địa chỉ đó, hãy để ý phục vụ họ. Chúa phán: “Ta đến, không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và cứu những người đã hư mất”.
Rồi thánh ý Chúa là: Trong việc phục vụ con người, nhất là những con người nghèo khó, hãy giúp cho họ biết yêu thương và hãy làm cho họ được yêu thương. Chúa phán: “Ta chỉ cho chúng con một điều răn mới, là chúng con thương yêu nhau”.
Và thánh ý Chúa là: Cái Tin Mừng đẹp nhất, có lợi ích nhất cho chúng ta và cho đoàn chiên, đó là Đức Kitô, Đấng gánh tội trần gian, Đấng xóa tội trần gian, Đấng tha tội cho chúng ta: “Đây Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian”. Truyền giáo là làm cho người ta gặp được Đức Kitô, Đấng xóa tội, Đấng gánh tội, Đấng đền tội, Đấng tha tội cho chúng ta. Đó là Tin Mừng lớn nhất, cần nhất làm cho mọi người được hứng khởi.
Và thánh ý Chúa là: Trong mọi hoàn cảnh, bất kỳ ở đâu, hãy sống như Chúa Kitô, hiền lành, khiêm nhường và bác ái, như Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”.
Sáng hôm qua, cũng bằng giờ này, tôi đã dự thánh lễ Tạ Ơn của một cha mới ở một địa điểm truyền giáo rất nghèo, thuộc tỉnh An Giang. Tôi thấy trước thánh lễ Tạ Ơn, cha mới đã làm phép Rửa Tội cho một số tân tòng. Rồi trong thánh lễ Tạ Ơn, tôi thấy có nhiều khuôn mặt, những người tân tòng và những người lương dân, những người thuộc tôn giáo bạn “Hòa Hảo”. Cũng như hôm nay, tôi biết trong những người tham dự thánh lễ, cũng có những người lương, những người không Công Giáo. Hoàn cảnh đó gợi ý cho tôi hiểu rằng: Thánh ý Chúa muốn cho những người truyền giáo hôm nay, phải có những sáng tạo, phải có những nhạy bén, phải có sự năng nổ, để biết đồng hành với người lương, người giáo, kẻ giàu, người nghèo. Và khi bén nhạy sáng tạo như vậy, thì Nước Trời mới có thể phát triển ra được.
Anh chị em thân mến,
Với những cảm tưởng trên đây của tôi, tôi muốn nhắn nhủ các cha mới điều này: Là khi được sai đi làm việc truyền giáo đừng quên những khó khăn, đừng sợ những trắc trở. Những cái đó sẽ phải tới thôi, mà nhiều khi khó khăn trắc trở, lại xảy ra trong chính nội bộ cộng đoàn, trong chính họ đạo, trong chính Hội Thánh, trong chính bản thân mình do phải chiến đấu với cái tôi hẹp hòi ích kỷ của mình. Nhưng hãy vững tin vào Chúa, và hãy quyết tâm luôn luôn tuân phục thánh ý Chúa, như Chúa đã muốn trong Phúc Âm, và như Chúa đang soi sáng cho chúng ta trong gương những người truyền giáo trước mắt chúng ta.
Đó là điều hôm nay, tôi muốn cầu chúc cho các cha mới, và tôi cũng nguyện xin Chúa, xin anh em cũng giúp lời cầu nguyện đó để tân linh mục và các cha, luôn luôn biết tin vào Chúa, và luôn luôn biết tuân phục thánh ý Chúa, một cách trọn vẹn. Amen.
Lễ mở tay tân linh mục Antôn Nguyễn Văn Triển kinh H, ngày 01-02-1992 thứ bảy sau Chúa Nhật 3 QN.
Điều trước tiên tôi để ý xem xét khi đến họ đạo này đó là tình hình đức tin của anh chị em.
Đức tin là một nhân đức siêu nhiên. Nó không có hình dáng nên không có thể đo xem nó cao hay thấp. Đức tin không phải là vật chất nên không có thể cân xem nó nặng hay nhẹ. Tuy nhiên, trong lá thư gởi tín hữu Do thái mà chúng ta vừa nghe, thánh tông đồ cho thấy rằng: Muốn xem tình hình một đức tin, thì hãy căn cứ vào những việc làm của đức tin. “Một đức tin không việc làm là một đức tin chết”. Một đức tin có việc làm là đức tin sống động, một đức tin tốt.
Căn cứ vào lời thánh tông đồ dạy hôm nay, tôi đi tìm những việc làm của đức tin anh chị em, và tôi đã thấy như sau:
Việc thứ nhất tôi coi là dấu chỉ tốt của đức tin nơi anh chị em, đó là những việc hiến dâng của anh chị em.
Thực vậy, trong lá thư gởi giáo đoàn Do Thái hôm nay, khi nói về các việc làm của đức tin tốt, thánh tông đồ đã nhắc tới sự hiến dâng của Abraham. Lời đó dạy tôi rằng, mọi sự hiến dâng cho Chúa do đức tin, đều làm chứng rằng: Đức tin của chúng ta sống động, đức tin của chúng ta tốt.
Với nhận thức trên đây, tôi nhìn nếp sống của anh chị em, và tôi thấy rằng anh chị em có nhiều việc hiến dâng rất tốt: “Hiến dâng mình trong phép Rửa Tội. Hiến dâng mình trong phép Thêm Sức. Hiến dâng mình trong lễ Misa. Hiến dâng mình ban sáng, khi vừa thức dậy. Hiến dâng mình ban tối khi sắp đi ngủ”.
Và giờ đây tôi thấy mỗi người chúng ta đều đang hiến dâng lên Chúa tâm tình của mình, tâm tình sám hối, tâm tình tạ ơn, dâng lên Chúa những việc lành của mình và cũng dâng lên Chúa lỗi lầm yếu đuối của mình.
Hồi nãy, tôi nhìn thấy biết bao anh chị em vác ciment, làm đất, với bao nhiêu việc hiến dâng công phúc của mình một cách lặng lẽ, một cách âm thầm. Tôi nhìn thấy tất cả những cái hiến dâng đó: Tinh thần, vật chất, công sức của cải. Cho nên tôi nhận rằng, những công việc hiến dâng ấy làm chứng đức tin nơi anh chị em là tốt, là sống động, là trong sáng.
Việc làm thứ hai mà tôi coi là dấu chỉ một đức tin tốt nơi anh chị em, đó là tinh thần liên đới.
Thực vậy, cũng trong lá thư gởi giáo đoàn Do Thái hôm nay, khi liệt kê những việc làm của đức tin, thánh tông đồ đã nhắc tới việc làm của tình liên đới, đại khái Ngài nói: “Nếu anh chị em có đức tin, mà thấy người không có áo, không có của ăn, không có nhà cửa, mà không chia sẻ sự mình đang có cho họ, thì đức tin anh chị em nào có nghĩa gì?”. Lời dạy của thánh tông đồ hôm nay cho tôi thấy rằng: Mọi sự chúng ta làm cho nhau vì tình liên đới, đều có giá trị một đức tin quảng đại.
Với nhận thức như vậy, tôi nhìn anh chị em và thấy rất nhiều tình liên đới được thực hiện trong anh chị em: Tình liên đới trong gia đình, khi anh chị em yêu thương nâng đỡ nhau. Tình liên đới trong xóm làng, khi anh chị em thông cảm chia sẻ tình người với nhau. Tình liên đới trong dân tộc, giữa nội bộ Công Giáo và với những người ngoài Công Giáo, bằng sự chúng ta có những liên hệ tốt, cộng tác, hợp tác với nhau trong những việc làm tốt.
Ngay trong thánh lễ bây giờ chúng ta nhìn thấy những việc liên đới đang thực hiện một cách nồng thắm trong nhà thờ này: Biết bao nhiêu người không phải họ đạo này, nhưng đã có mặt ở đây, chỉ vì tình liên đới đối với anh chị em. Biết bao nhiêu người sẽ không dùng nhà thờ mới để cầu nguyện nhưng cũng đã góp công, góp của, cũng chỉ vì tình liên đới đối với anh chị em.
Những hình thức liên đới minh chứng rằng: Đức tin của chúng ta mặc dầu chưa toàn vẹn, nhưng vẫn là một đức tin sống động và phát triển.
Việc làm thứ ba mà tôi cũng coi là một dấu chỉ tốt về đức tin của anh chị em, đó là sự chúng ta biết từ bỏ mình, vác Thánh Giá mình mà theo Đức Kitô.
Thực vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, khi Chúa Giêsu nói về dấu chỉ những người theo Chúa, thì Người nói rằng: Họ từ bỏ gia đình mình, họ vác Thánh Giá mình, họ đi theo Chúa. Đó là dấu chỉ của những người tin theo Chúa. Với hiểu biết đó, tôi nhìn anh chị em, và tôi thấy đúng là như vậy. Anh chị em đã có biết bao nhiêu sự bỏ mình, vác Thánh Giá mình mà đi theo Chúa.
ở đây, tôi nghĩ tới cách riêng những sự anh chị em đã chấp nhận, để thăng tiến mình, thăng tiến con em mình, thăng tiến họ đạo mình, để nâng cao cuộc sống, nâng cao trình độ ý thức, để nâng cao trình độ đạo đức. Ngay trong việc xây dựng cơ sở vật chất “Nhà thờ mới”, cũng như việc xây dựng con người chúng ta, chúng ta phải cố gắng rất nhiều, không một cố gắng nào dễ dàng đâu. Để phát triển, phải từ bỏ mình rất nhiều. Để phát triển, phải vác vô vàn Thánh Giá trên vai.
Anh chị em thân mến,
Tối hôm qua, đài truyền hình Cần Thơ, có phát đi chương trình “Những bông hoa nhỏ”. Trong đó có một vai làm xúc động đến rơi nước mắt, đó là hình ảnh một em bé trai, mù hai mắt, cầm chiếc đàn ghita hát bài “Ánh sáng và bóng đêm”. Nội dung bài hát đó là: Thân phận kẻ mù, không còn nhìn thấy đâu là ánh sáng, đâu là bóng đêm. Nhưng đối với em, nhờ bàn tay cha, nhờ bàn tay mẹ, nên đã phân biệt lúc nào là ngày, lúc nào là đêm. Bởi vì ban ngày bàn tay cha đã dẫn em đi chơi nơi này, nơi nọ, và ban đêm bàn tay mẹ ẵm em, ru em ngủ.
Khi nhìn thấy cảnh đó trên tivi, tôi liên tưởng tới những người có đức tin, giàu tinh thần khiêm tốn.
Trước một thế giới siêu nhiên, và trước vô vàn những giá trị cao quý thiêng liêng, nhiều khi chúng ta, dù có đức tin, cũng giống như người mù, không nhìn thấy, không thấy được giá trị cao quý thiêng liêng đó. Nhưng nếu biết mình mù, nghĩa là khiêm tốn biết mình yếu đuối, giới hạn, tội lỗi, thấp hèn và cầm lấy bàn tay Thiên Chúa nhân lành, cậy trông ở Người, phó thác nơi Người, thì bàn tay Thiên Chúa nhân lành sẽ dẫn đưa con người có đức tin đi trên con đường hạnh phúc, một con đường, mà nếu không được Chúa dẫn dắt, người ta sẽ không thể nào nhận thức được. Chẳng hạn, con đường “Tám Mối Phúc Thật”, chẳng hạn con đường Chúa nói hôm nay: “Được mọi sự thế gian, mất linh hồn mình, nào được ích gì”. Một sự thực như vậy, chỉ có một đức tin đầy khiêm tốn, phó thác nơi Chúa, Chúa sẽ mở mắt ta nhìn rõ được chân lý ấy và vẻ đẹp tuyệt vời của chân lý ấy.
Trên đây, là những tư tưởng rút ra từ những bài Kinh Thánh trong lễ hôm nay, tôi chia sẻ với anh chị em, để cùng với anh chị em xây dựng nhà thờ mới. Nhất là xây dựng nhà thờ con người, nhà thờ tâm hồn. Những tư tưởng trên đây rất bé nhỏ, rất thiếu sót, nên chúng ta cần phải xin Chúa Thánh Thần bồi dưỡng cho chúng ta, nhất là trong thánh lễ Thêm Sức hôm nay. Amen
Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ Tràm Chẹt, ngày 21-02-1992
Khi vừa bước chân vào nhà thờ mới này, nhìn lên cung thánh, tôi tự nhiên thấy một cái gì thu hút, một cái gì nổi bật. Đó chính là Nhà Chầu có Mình Thánh, và mầu nhiệm Đức Kitô tử nạn và phục sinh. Qua những biểu tượng nổi bật này, đức tin dạy tôi rằng: Đức Kitô sống động đang đứng trước mắt tôi.
Đức Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa, vì yêu thương nhân loại, thương yêu tôi nên đã giáng sinh làm người. Vì yêu thương nhân loại, thương yêu tôi, nên đã gánh tội, đền tội, tha tội cho nhân loại, cho tôi. Đức Kitô là tình yêu Thiên Chúa cứu độ đã ẩn mình trong phép Mình Thánh để trở nên lương thực nuôi dưỡng các linh hồn. Một Đức Kitô dễ thương như vậy đang đứng trước mặt tôi. Ngài muốn đi vào đời tôi. Ngài muốn đi vào hồn tôi. Tôi cần gặp Ngài. Tôi cần đón Ngài. Tôi cần sống với Ngài, sống cho Ngài.
Trên đây chỉ là một phần của kinh nghiệm nội tâm, và kinh nghiệm nội tâm này cho tôi thấy: Đức tin là một sự gặp gỡ sống động giữa một con người sống động, với Đức Kitô sống động đang yêu thương mình. Một đức tin như vậy, tức là một đức tin gặp gỡ Đức Kitô sống động, một tình yêu cứu độ, quả là một ân huệ vô cùng quí giá.
Về một phương diện nào đó, đức tin ấy có thể ví như muối thiêng liêng, mà Chúa phán trong Phúc Âm hôm nay. Chúa phán: “Chúng con hãy có muối ở trong mình”. Như muối vật chất, làm cho mọi thức ăn trở nên thơm ngon bổ dưỡng, thì tương tự cũng vậy, một đức tin như sự gặp gỡ thân mật với Đức Kitô, cũng là một thứ muối thiêng liêng, làm cho mọi việc chúng ta làm trở nên giá trị thiêng liêng, quí báu.
Trong Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nhắc tới một số việc có liên quan tới đức tin chúng ta cần quan tâm.
Việc đầu tiên Chúa đề cập tới là: Phục vụ kẻ khác vì danh Chúa Kitô.
Chúa phán: “Kẻ nào cho chúng con một ly nước, vì kẻ ấy là môn đệ Thầy thì kẻ ấy không mất phần thưởng đâu”. Có nghĩa là, bất cứ ai, với bất cứ hình thức phục vụ nào, dù khiêm tốn nhỏ bé tới đâu, nếu thực hiện vì danh Đức Kitô, kẻ ấy sẽ được Chúa thưởng công, và phần thưởng trọng hậu nhất đó là được Đức Kitô, sống với Đức Kitô đời này và nhất là đời sau.
Riêng về vấn đề phục vụ đức tin kẻ khác, nếu phục vụ được thì rất tốt, nhưng nếu không phục vụ được, thì chớ làm hại đức tin kẻ khác. Trong Phúc Âm hôm nay, Chúa nói: “Kẻ nào làm cớ vấp phạm, cho một người có lòng tin vào Thầy, thì thà lấy đá cột vào cổ nó, xô xuống biển còn hơn”. Có nghĩa là Chúa không dung thứ cho những ai làm hại đức tin kẻ khác.
Làm hại đức tin kẻ khác thí dụ như: Làm cho đức tin kẻ khác trở nên nguội lạnh, khô khan, bê trễ, làm cho đức tin kẻ khác bị tha hóa, làm cho đức tin kẻ khác trở nên cuồng tín, mê tín, làm cho đức tin kẻ khác bị lụi tàn, lệch lạc, tiêu tan.
Những việc làm hại đức tin kẻ khác như vậy, tự nó sẽ trở nên một khối đá nặng, cột vào lương tâm họ, để kéo họ xuống vực thẳm tối tăm, đầy chúc dữ.
Còn kẻ tin, và đã gặp được Đức Kitô trong đức tin, thì phải sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, dù phải từ bỏ những gì là gắn bó nhất. Trong Phúc Âm hôm nay, Chúa nói: “Nếu tay con, chân con làm cớ vấp phạm cho con, thì hãy chặt nó đi. Nếu mắt con làm cớ vấp phạm cho con, thì hãy móc ra đi, vì thà cụt chân, cụt tay, mù mắt mà được lên Thiên Đàng, còn hơn là đầy đủ chi thể mà phải xuống Hỏa Ngục đời đời.
Rõ ràng là Chúa kêu gọi chúng ta, khi đã nhận biết Đức Kitô và đã tin vào Đức Kitô, là một đặc ân quí giá, là một kho tàng vô tận, thì phải bảo vệ đức tin với mọi hy sinh cần thiết. Nhiều khi kẻ tin Chúa phải có những chọn lựa quyết liệt, dù chọn lựa đó là từ bỏ những gì mình đang gắn bó. Điều này Chúa Giêsu nhắc lại nhiều lần. Thí dụ “Được mọi sự thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì”.
Nhưng những lựa chọn quyết liệt như vậy, không phải là những đòi hỏi xảy ra thường ngày, mà điều thường ngày, thường xảy ra mỗi lúc Chúa đòi chúng ta, chính là xây dựng một cuộc sống yêu thương hòa thuận, đoàn kết. Trong Phúc Âm hôm nay Chúa nói: “Chúng con hãy có muối trong mình và hãy sống hòa thuận với nhau”. Có nghĩa là: Một khi nhờ đức tin gặp được Đức Kitô là tình yêu cứu độ, thì kẻ tin Chúa không còn con đường nào khác, để phiên dịch đức tin của mình bằng ngôn từ tình thương. Chúa đã yêu thương tôi thì tôi chỉ có một cách diễn tả đức tin ấy bằng sự tôi yêu thương kẻ khác.
Anh chị em thân mến, mấy suy nghĩ của tôi rút ra từ bài Phúc Âm hôm nay, là những gì chân thành nhất tôi tặng anh chị em. Với những chia sẻ này, tôi nhìn vào anh chị em hôm nay, tôi thấy anh chị em đang sống lời Chúa, kẻ cách này, người cách khác.
Thực vậy, chính vì nhân danh đức tin, mà anh chị em đã có những phục vụ đối với nhau, nhất là trong việc phục vụ xây dựng thánh đường này, họ đạo này: Phục vụ bằng tình cảm. Phục vụ bằng công sức. Phục vụ bằng của cải.
Rồi cũng nhân danh đức tin, không những anh chị em đã tránh những việc có khả năng làm quy giảm niềm tin kẻ khác, mà trái lại, anh chị em đã làm những việc tích cực, để giúp cho đức tin kẻ khác được trong sáng hơn, sốt sắng hơn, vững mạnh hơn. Cụ thể là sự anh chị em có mặt lúc này, trong thánh lễ này.
Và cũng nhân danh đức tin, anh chị em đã có những lựa chọn tôi cho là quyết liệt trong đời sống vì đức tin. Tôi biết, khi lựa chọn yêu thương kẻ khác, thăng tiến đất nước mình, thăng tiến Hội Thánh mình, giúp đỡ những người nghèo, chọn lựa của chúng ta nhiều khi quyết liệt lắm, bởi vì nó đòi chúng ta phải có nhiều hy sinh. Mà sự ấy anh chị em đã làm.
Rồi nhân danh đức tin, anh chị em cũng đã góp phần xây dựng một cuộc sống hòa thuận, yêu thương, đoàn kết, không phân biệt địa phương, không phân biệt tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt sắc tộc. Tôi thấy nhà thờ chúng ta rất đẹp, nhưng tôi thấy đức tin của chúng ta còn đẹp hơn nhiều, và sẽ còn đẹp hơn nhiều. Và nói cho đúng, thì nhà thờ này chính là thành quả của niềm tin. Hãy phục vụ cho niềm tin, một niềm tin gặp gỡ Đức Kitô cứu độ, một niềm tin có khả năng đổi mới con người, một niềm tin sẽ góp phần vào việc đổi mới đất nước chúng ta, một niềm tin có khả năng thăng tiến đồng bào chúng ta từng bước.
Với những tâm tình trên đây, tôi xin cùng với anh chị em cảm tạ ơn Chúa, và thiết tha cầu xin Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, nhất là những con em chịu phép Thêm Sức hôm nay, để tất cả mọi người chúng ta có được một niềm tin trong sáng, đó là thực sự gặp được Đức Kitô sống động, đang thương yêu mình, đang đứng bên mình, một Đức Kitô sẽ cứu độ mình, một Đức Kitô là Tin Mừng của chúng ta. Amen.
Lễ khánh thành nhà thờ Mông Thọ và Thêm Sức, ngày 25-02-1992
Trong bài Phúc Âm hôm nay có hai lời cầu nguyện mà tôi rất ưa thích. Lời cầu thứ nhất là lời cầu của kẻ trộm lành nói với Đức Kitô. Lời cầu ấy vỏn vẹn chỉ có hai câu: “Lạy Ngài, khi nào Ngài về nước Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi”. Còn lời cầu thứ hai là lời cầu của Đức Kitô nói với Đức Chúa Cha. Lời cầu ấy chỉ vỏn vẹn chỉ có một câu: “Con phó linh hồn con trong tay Cha”.
Sở dĩ, tôi ưa thích hai lời cầu nguyện trên đây, là vì tôi biết những lời cầu nguyện vắn tắt này đã rất đẹp lòng Thiên Chúa, và đã được Thiên Chúa nhậm lời. Đó là một sự thực chắc chắn, rõ ràng. Từ sự thực chắc chắn rõ ràng ấy, tôi suy nghĩ xem, điều gì đã làm cho lời cầu nguyện trở nên đẹp lòng Chúa và được Chúa nhậm lời. Và tôi thấy như sau:
Điều thứ nhất làm cho một lời cầu nguyện được đẹp lòng Chúa, đáng Chúa nhậm lời, đó là: Kẻ cầu nguyện tỏ ra khiêm tốn, nhận biết mình yếu hèn, bất xứng. Đúng như vậy. Khi kẻ trộm lành cầu với Đức Kitô: “Lạy Ngài, khi Ngài về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”, thì kẻ trộm lành nhận thức rõ rệt, mình là kẻ có tội, mình là kẻ bất xứng. Bất xứng đối với người khác. Bất xứng đối với Thiên Chúa.
Do đó, anh đã cho thấy có một khoảng cách rất xa giữa mình với Thiên Chúa. Anh chẳng còn gì, chẳng còn danh dự, chẳng còn của cải, chẳng còn ai thương. Gia tài chỉ còn là cây thập giá. Anh bị đóng vào cây thập giá, như bị đóng vào số phận của đời mình, bị đóng rất chặt, bị đóng rất sâu, không sao gỡ được. Nhưng anh chấp nhận hình phạt ấy, coi như là hình phạt xứng đáng. Tâm tình anh khi nói với Đức Kitô: “Khi Ngài về nước trời, xin Ngài nhớ đến tôi”, là tâm tình khiêm tốn, chấp nhận khoảng cách do hình phạt gây nên.
Rồi trong lời cầu của Đức Kitô nói với Chúa Cha cũng vậy: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”, Chúa Giêsu cũng cho thấy, ngoài cảm nghiệm rõ ràng thân phận kẻ gánh tội thiên hạ. Ngài cảm thấy trên đầu Ngài là một khối dơ bẩn của cả nhân loại mà Ngài phải gánh. Ngài cũng nhận biết thân phận kẻ gánh tội nhân loại, là phải khoác vào mình những rách nát, những hình phạt, những sỉ nhục, những cô đơn. Ngài cam chịu tất cả, như một người tội lỗi nhất trần gian. Ngài chẳng còn gì: Môn đệ bỏ Ngài. Thiên Chúa cũng bỏ Ngài. Chẳng còn gì hết. Gia tài chỉ là cây Thánh Giá, bị đóng chặt vào đó, như trói vào một số kiếp đọa đày, không thể nào gỡ được.
Tâm tình Đức Kitô trên Thánh Giá là một tâm tình khiêm tốn tột bậc, và khi Ngài cầu nguyện, thì tâm tình ấy được thổ lộ ra, rất là sâu sắc, chân thành. Nhưng cả Đức Kitô, cả kẻ trộm lành, khi nhìn thân phận mình là như vậy đó, đã không thất vọng, mà đã nhìn lên Thiên Chúa như một vị cứu tinh, như một niềm hy vọng.
Niềm hy vọng đó thế nào? Đức Kitô và kẻ trộm lành đã nhìn Thiên Chúa làm sao?
Thưa, điều thứ hai làm cho một lời cầu nguyện được đẹp lòng Thiên Chúa, đáng được Thiên Chúa chấp nhận, đó là tin vững vàng vào Thiên Chúa là Cha toàn năng, giàu lòng thương xót.
Thực vậy, khi người trộm lành cầu với Đức Kitô: “Khi nào Ngài về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”, anh đã coi Đức Kitô là điểm tựa duy nhất. Anh thấy Đức Kitô có một trái tim vô cùng nhân ái, có một bàn tay vô cùng quyền năng. Nếu Ngài thương, Ngài có dư sức để cứu anh ta, cách này, cách khác.
Đức tin của kẻ trộm lành là một đức tin vô điều kiện, một niềm tin tuyệt đối.
Rồi, trong lời cầu của Đức Kitô hướng về Chúa Cha cũng vậy: “Lạÿ Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha”, Đức Kitô đã nhìn nhận Đức Chúa Cha là đầu, là mạch mọi sự sống, mọi niềm an ủi, mọi tình yêu thương. Cứ phó thác mình trong tay Đức Chúa Cha, thì dù lúc này mình đau khổ, mình cô đơn, mình mất hết, nhưng Chúa Cha giàu lòng thương xót, quyền năng, sẽ là điểm tựa cứu độ cho mình.
Trên đây là hai điều kiện làm cho một lời nguyện được đẹp lòng Thiên Chúa. Điều kiện thứ nhất là khiêm tốn, biết nhận mình bất xứng, khốn cùng. Điều kiện thứ hai là tin vào Thiên Chúa toàn năng giàu lòng thương xót. Lời cầu nguyện với hai điều kiện kể trên mà nếu thực hiện một cách có xác tín, chân thành, thì đó là lời cầu nguyện gây nên cảm động, thấu vào trái tim Thiên Chúa.
Thí dụ như lời cầu nguyện của Đức Kitô trong vườn Cây Dầu: “Lạy Cha, nếu đẹp lòng Cha, xin cất gánh nặng, cất chén đắng này xa con”. Đây là một lời cầu nguyện có sự khiêm tốn, có lòng tin vững vàng. Và vì xác tín, và vì chân thật nên đúng là một lời cầu nguyện đầy cảm động.
Rồi lời cầu nguyện của Đức Kitô trên Thánh Giá, trước khi chết: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con?” cũng là một lời cầu nguyện, một lời kêu than, phát xuất từ đáy lòng, từ thực tế đau đớn nhất của mình, đầy khiêm tốn và tin tưởng.
Trong Phúc Âm, chúng ta thấy có rất nhiều lời cầu nguyện có tính cách kêu than, hướng về Chúa như vậy. Thí dụ, lời cầu nguyện của người thu thuế đứng cuối nhà thờ: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Cũng vậy, rất khiêm tốn, tin tưởng vào Chúa. Hay lời cầu nguyện của 10 người phong cùi: “Lạy Thầy, xin thương xót thân con”. Hay lời cầu nguyện của người mù, khi thấy Chúa sắp đi qua: “Lạy Thầy, xin thương xót chúng con”. Tất cả những lời kêu cầu van xin này, sở dĩ trở nên cảm động, là vì nó phát xuất từ đáy lòng của mình, từ một hiện tượng thực tế, đớn đau khổ cực, và hướng về Thiên Chúa là tình yêu toàn năng. Như vậy, chúng ta thấy cái sức gây nên cảm động, thấu vào Thiên Chúa, không do trí tuệ, mà là do trái tim người cầu nguyện. Đó là điều chúng ta cần phải nhớ. Một lời cầu nguyện hay, một lời cầu nguyện cảm động, một lời cầu nguyện đáng được Chúa chấp nhận, không do nội dung trí tuệ, mà là do các tâm tình từ trong lòng phát xuất ra. Nó do trái tim của mình.
ở đây, tôi cũng chia sẻ một nhận xét của tôi về Phúc Âm.
Như anh chị em đã biết, Chúa Giêsu rất để ý đến việc cầu nguyện. Ngài làm gương về sự cầu nguyện. Nhưng không bao giờ Chúa đề cao sự đọc kinh nhiều, không bao giờ Chúa đề cao phải học nhiều kinh, mà điều Chúa nhấn mạnh là lời cầu nguyện, dù dài dù ngắn thì cũng phải có tâm tình, phải có cái hồn bên trong. Vì thế, đọc Phúc Âm chúng ta thấy: Pharisêu đọc rất nhiều kinh, đọc nhiều thứ kinh, nhưng Chúa lại không chấp nhận lời kinh của họ, vì không có hồn, vì không khiêm tốn, vì không thực sự tin vào Thiên Chúa.
Trái lại, đọc Phúc Âm chúng ta thấy, những người tội lỗi, những người thu thuế, người đàn bà ngoại tình, người trộm bị đóng đinh... toàn là những người tội lỗi. Họ chỉ cầu nguyện vắn tắt, nhưng lời cầu nguyện của họ có tâm tình, có hồn, có sự khiêm tốn, có lòng tin vững vàng vào Chúa, nên tuy vắn tắt cũng đã được Chúa chấp nhận.
Sở dĩ hôm nay, tôi nói về vấn đề cầu nguyện, là tôi muốn nhắc cho các bậc phụ huynh, hãy để ý giáo dục con em mình, để chúng biết cầu nguyện. Bởi vì tôi thấy nhiều nơi, nhiều người, đọc nhiều kinh, xem nhiều lễ, nhưng tôi có cảm tưởng là họ không bao giờ gặp được Đức Kitô trong tâm hồn mình. Họ vẫn trống rỗng. Đọc kinh mà không cầu nguyện. Xem lễ mà không gặp được Đức Kitô.
Đang khi đó, tôi thấy ở bên Tây, nhiều thanh niên bỏ Hội Thánh, bỏ nhà thờ, nhưng tôi thấy họ không bỏ cầu nguyện. Họ cầu nguyện theo lối của họ, bằng những lời kinh tự phát trong đáy lòng mình. Biết đâu đây cũng là một sự cảnh cáo cho những người quá chú trọng đến sự cầu nguyện bề ngoài mà không chú trọng đến tâm tình bên trong khi cầu nguyện để gặp được Thiên Chúa của mình.
Xin Chúa Thánh Linh là Đấng mà thánh Phaolô đã nói: “Đấng làm cho chúng ta biết cầu nguyện”, hôm nay hãy đến với chúng ta, đến với con em chúng ta, để mỗi khi chúng ta cầu nguyện, Chúa Thánh Linh cầu nguyện trong chúng ta với một tâm hồn khiêm tốn, ăn năn sám hối và với một đức tin trong sáng tuyệt đối và vô điều kiện hướng về Thiên Chúa là tình yêu đầy quyền năng, cứu độ chúng ta. Amen.
Trong thánh lễ sáng nay, chúng ta tưởng nhớ lại việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Truyền Chức Thánh.
Khi so sánh các vị được chính Chúa Giêsu phong chức hôm đó với các vị được phong chức từ đó đến nay, nhiều người đã thắc mắc tự hỏi: Giữa các vị ấy có những gì giống nhau và có những gì khác nhau.
Theo tôi, giữa các tông đồ xưa và nay, cũng như giữa các tông đồ tại các nước khác và tại Việt Nam, thiết tưởng cần có những cái giống nhau, và cũng cần có những cái khác nhau.
Trước hết, cần có những cái giống nhau. Thí dụ mấy điểm sau đây:
Một là mọi tông đồ, dù thuộc địa phương nào và dù thuộc thời điểm nào, đều có nhiệm vụ tập trung tu đức và mục vụ vào Đức Kitô. Một Đức Kitô là Con Thiên Chúa giàu lòng thương xót, vì yêu thương nhân loại, đã xuống thế làm người, đã chịu chết đền tội cho nhân loại, và đã sống lại. Tập trung vào Đức Kitô là hiểu biết Ngài, tin mến Ngài, bắt chước Ngài, sống mật thiết với Ngài, rao giảng về Ngài, làm chứng về Ngài. Bởi vì đối với mọi tông đồ, Đức Kitô chính là Tin Mừng cứu độ duy nhất.
Hai là tất cả mọi tông đồ, dù ở tuổi nào, dù ở chức vị nào đều nhận thức đời tông đồ của mình là một chuyến đi trở về với Chúa. Chuyến đi có lúc phấn khởi, nhưng không thiếu lúc mệt mỏi chán chường, có lúc thành công nhưng không thiếu lúc thất bại, có lúc sáng ngời nhân đức, nhưng không thiếu lúc mịt mù yếu đuối lỗi lầm. Mọi tông đồ đều như vị tông đồ tiên khởi. Từ khi mang tên Simon cho tới lúc mang tên Phêrô, rồi từ khi được thụ phong tại Giêrusalem cho đến lúc chết tại Rôma, cuộc đời là chuyến đi rất dài, đầy những bất ngờ, đầy những khó khăn, nhưng luôn luôn là những bước trở về với Chúa, đầy tin tưởng phó thác nơi Đấng đã thương gọi mình.
Ba là tất cả mọi tông đồ, dù với trình độ nào, dù trong hoàn cảnh nào, đều được Hội Thánh coi là những viên đá sống động xây dựng đền thờ thiêng liêng là Hội Thánh Chúa. Với chức thánh, các Ngài có khả năng phục vụ dân Chúa và nhân loại bằng những việc làm mà không mấy ai thay thế được. Các Ngài trao ban lời Chúa, sự sống của Chúa và chính Chúa là quà tặng vô giá. Các Ngài là dấu chỉ hữu hình về sự hiện diện vô hình của Đức Kitô, Chúa chiên lành.
Bên cạnh những điều giống nhau và cần giống nhau, các tông đồ có những cái khác nhau và cần khác nhau.
Thí dụ tu đức và mục vụ thời điểm 1992 tại Việt Nam phải khác tu đức và mục vụ thời điểm l982. ở chỗ phải có tính cách mở ra. Mở ra về phía Đức Kitô, bằng sự học hỏi nhiều hơn về Ngài, rao giảng nhiều hơn về Ngài. Mở ra về phía xây dựng nhân sự, bằng sự phát triển lượng và phẩm, nâng cao trình độ nhân bản, trí thức, đạo đức, có nhiều khả năng phục vụ Hội Thánh và đất nước trong bất cứ hoàn cảnh nào. Rồi mở ra về phía người nghèo, bằng những hoạt động nhỏ, đa dạng và hữu hiệu.
Rồi thí dụ mục vụ tại một vùng hầu như toàn tòng Công Giáo cần khác mục vụ tại một vùng dân Công Giáo sống giữa các người thuộc tín ngưỡng khác. Mục vụ vùng toàn tòng Công Giáo cần chú trọng đến vấn đề tái truyền giáo, nghĩa là đổi mới lại những nếp suy nghĩ sai, những tập tục xấu, và tăng cường hơn nội dung đức tin, nhất là một đức tin được diễn tả bằng các việc bác ái. Còn mục vụ vùng giữa lương dân cần quan tâm nhiều hơn đến việc mở ra về phía các giá trị tốt đẹp của các tôn giáo bạn, của văn hóa truyền thống dân tộc. Và làm chứng đạo bằng đời sống lương thiện tình người bác ái, tôn trọng chân lý và công bình.
Thưa anh chị em,
Với những suy nghĩ trên đây, tôi rất vui mừng khi nhìn các linh mục của tôi. Tôi coi các ngài là những nhân tố quan trọng đã, đang và sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Hội Thánh, đã, đang và sẽ góp phần không nhỏ vào việc xây dựng hạnh phúc cho đồng bào và đổi mới đất nước Việt Nam.
Cha Gustave Martelet, thần học gia của Công Đồng Vatican II, đã phát biểu trên tạp chí “Lourdes”, số 3, tháng 7, l99l rằng : “Khủng hoảng về tình trạng linh mục là rất trầm trọng. Tôi biết một giáo phận nọ, từ 18 năm nay đã có 241 chết đi, nhưng chỉ có 15 linh mục được phong chức”. Khi đọc phát biểu trên đây, tôi đã nghĩ tới địa phận Long Xuyên. Từ 17 năm nay với những hoàn cảnh không dễ đã có 77 vị được phong chức linh mục. Chỉ con số 77 đó mà thôi cũng đủ để tôi xác tín rằng Chúa đã làm những việc lạ lùng cho giáo phận ta. Tôi cũng tin tưởng rằng các linh mục của chúng ta đều được giáo dân luôn luôn thương mến nâng đỡ, và cộng tác.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ lòng thương xót Chúa đến muôn đời.
Một việc lớn được kỷ niệm trọng thể trong Tuần Thánh đó là việc Chúa Giêsu ban cho mười hai Tông Đồ quyền làm Bí tích Thánh Thể. Việc xảy ra trong bữa Tiệc ly. Nói theo ngôn ngữ thời nay, việc ban quyền ấy gọi là Lễ Phong Chức Thánh.
Phúc Âm cho biết, sau khi ban quyền, Chúa Giêsu đã dẫn mười hai tân chức vào vườn Cây Dầu. Tại đó, Ngài cầu nguyện và lo buồn đến đổ mồ hôi máu ra, đang khi ấy các tân chức vẫn ngủ say. Lúc quân lính xông vào bắt Chúa, các tân chức hoảng sợ, lúng túng bỏ chạy. Một mình Phêrô đi theo, nhưng mấy giờ sau, bị dồn vào thế bí, Phêrô đã chối Thầy.
Khi Chúa Giêsu vác Thánh Giá lên đồi Calvê, mấy người nâng đỡ Chúa lại không phải là tông đồ.
Bao sự việc đau buồn đã xảy ra đột ngột. Các tông đồ không thể không cảm thấy mình quá yếu đuối. Khi Chúa Giêsu sống lại, đến thăm các Ngài, các Ngài mới hiểu rõ thế nào là tình yêu của Thầy. Vì yêu thương, Thầy đã tha thứ. Vì yêu thương, Thầy đã gánh tội, đền tội, xóa tội cho các Ngài và cho nhân loại. Tình yêu Đức Kitô có sức sửa chữa lại những gì đã hư hỏng. Đức Kitô đã sống lại, để các tông đồ và mọi kẻ tin theo Đức Kitô cũng sẽ được sống lại như Ngài. Từ đó, đối với các tông đồ, Tin mừng chính là Đức Kitô.
Nhìn lại các sự việc xảy đến cho các tông đồ trong mấy ngày Tuần Thánh, tôi thấy 4 điểm sau đây:
1- Chúa Giêsu muốn những kẻ được Phong Chức Thánh hãy nhận thức rõ về sự yếu đuối của mình.
Thực vậy, liền sau khi được thụ phong, các tông đồ đã mở tay bằng một chuỗi những việc yếu đuối. Bị rơi vào tình hình bi đát ấy, các Ngài cảm thấy rõ mình là ai. Trong các Ngài vẫn còn trọn vẹn con người yếu đuối, con người cần được tha thứ, con người cần phải trở về, con người cần được cứu độ, con người cần được phục sinh. Con người yếu đuối trong các Ngài cũng là con người yếu đuối của đoàn chiên và của nhân loại. Do đó, các Ngài được kêu mời sống tình liên đới, khiêm nhường, yêu thương, thông cảm với mọi người, nhất là với kẻ yếu đuối, để cũng như các Ngài, họ cũng sẽ gặp được Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
2- Chúa Giêsu muốn những kẻ được Phong Chức Thánh hãy nhận thức rõ về sự tự do của Chúa trong vấn đề dùng nhân sự.
Thực vậy, ngay khi vừa được thụ phong, các tông đồ đã thấy xuất hiện những bộ mặt lạ không có Chức Thánh nhưng đã rất tích cực nâng đỡ Chúa. Ông Simon vác Thánh Giá đỡ cho Chúa. Bà Vêrônica đưa khăn lau mặt Chúa. Mấy bà đi theo an ủi Chúa. Kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa đã tuyên xưng niềm tin vào Chúa. Vị sĩ quan Rôma nói lên sự vô tội của Chúa. Bà Madalenna đến báo tin Chúa sống lại. Họ là những người không có chức vị gì. Có người là dân ngoại. Nhưng ai dám bảo các việc làm cho Chúa là việc xấu.
Các sự việc ấy cho các tông đồ hiểu sự Chúa chọn các Ngài là một ơn huệ, một ơn nhưng không. Ngoài các Ngài, Chúa còn chọn nhiều người khác. Họ không có Chức Thánh, nhưng họ góp phần không nhỏ vào việc mở rộng Nước Trời. Rất nhiều trường hợp họ làm được những việc tốt mà các tông đồ đã không làm, hoặc không làm được. Biết sống tình liên đới cởi mở với mọi người thiện chí, đó là một mời gọi Chúa gởi tới các tông đồ.
3- Chúa Giêsu muốn những kẻ được Phong Chức Thánh hãy nhận thức rõ mình thuộc về Hội Thánh.
Thực vậy, trong mấy ngày Tuần Thánh, dù hoàn cảnh có lúc dày đặc bóng tối thất vọng các tông đồ vẫn nương tựa vào nhau và vẫn hy vọng vào Thầy. Tản mác mỗi người một nơi, các Ngài vẫn nhớ mình thuộc về nhóm 12. Nhóm 12 là khởi điểm Hội Thánh. Các Ngài ý thức rất rõ Hội Thánh lúc đó là chính các Ngài. Một Hội Thánh gồm những con người yếu đuối, những con người cần được tha thứ, những con người cần được cứu độ. Một Hột Thánh sẽ làm chứng cho Đức Kitô bằng đời sống phục vụ yêu thương, như lời Đức Kitô đã trối lại: “Thầy cho chúng con một điều răn mới là chúng con yêu thương nhau”. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”. Sống tình liên đới chan hòa với mọi thành phần Hội Thánh đó là một điều mà các tông đồ đã cảm nghiệm như một nhu cầu cần thiết.
4- Chúa Giêsu muốn những kẻ được Phong Chức thánh hãy nhận thức rõ về sự làm sáng danh Chúa.
Thực vậy, sau khi cảm nghiệm được tình yêu cứu độ của Đức Kitô, các tông đồ xác tín về bổn phận phải sống mật thiết với Đức Kitô. “Thầy là cây nho, các con là ngành “. Nên phải sống nhờ Ngài, sống với Ngài, sống trong Ngài, và sống như Ngài. Con người sống như thế chính là vinh quang Thiên Chúa. Con người sống như thế sẽ có khả năng làm sáng danh Chúa ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ thời điểm nào, với bất cứ hoàn cảnh nào dù với những điều kiện khắc khe nhất. Nhân lên những con người như thế chính là mở rộng vinh quang Thiên Chúa. Sống tình liên đới mật thiết với Đức Kitô, đó là sự sống mà các tông đồ đã ôm ấp.
Trên đây là những dây liên đới rút từ kinh nghiệm các tông đồ, sau ngày thụ phong. Sống tốt các dây liên đới ấy không là chuyện dễ. Bí quyết nằm ở trái tim.
Và thiết tưởng vấn đề giáo dân sống liên đới tốt với hàng giáo sĩ, giáo phẩm cũng tùy thuộc ở trái tim mình.
Bởi vì có những tiếng gọi liên đới, chỉ trái tim thực tình mến Chúa mới nghe thấy được. Có những tín hiệu liên đới, chỉ trái tim tin yêu nhạy bén mới nắm bắt được. Có những nhu cầu liên đới, chỉ trái tim quên mình mới đáp ứng được. Có những bước đi liên đới, chỉ trái tim tỉnh thức cầu nguyện mới nhận ra được. Có những sự thực liên đới chỉ trái tim hiền lành khiêm nhường nhân ái mới đón nhận được.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã gặp muôn vàn khó khăn, và sau cùng Chúa đã bị giết trên con đường Tái-Truyền-Giáo. Mặc dầu vậy, Chúa đã để lại một số nhân sự nòng cốt. Con xin cảm tạ Chúa về nhân sự ấy, và về các nhân sự của Chúa hôm nay. Lạy Chúa, con đội ơn lòng thương xót Chúa đến muôn đời.
Khi tham dự phụng vụ mấy ngày Tuần Thánh, nhất là phụng vụ thánh lễ Phục Sinh, tôi có 2 cảm tưởng sau đây:
Cảm tưởng thứ nhất của tôi về sự tự do của con người.
Tôi thấy sự tự do của con người là một khả năng có thể chọn sự lành và làm sự lành, nhưng cũng có thể chọn điều ác và làm điều ác. Những gì đã xảy ra cho Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn của Người đã cho thấy sự tự do, khi bị lạm dụng, đã trở thành một sức phá hoại ghê gớm. Chúa Giêsu là chân lý, thế mà người ta lạm dụng tự do đã chống lại được chân lý ấy. Chúa Giêsu là tình yêu, thế mà người ta lạm dụng tự do đã giết được tình yêu ấy. Chúa Giêsu là quyền năng, thế mà người ta lợi dụng tự do đã đóng đinh được quyền năng ấy. Tất cả những độc ác bội bạc người ta làm cho Chúa Giêsu trong mấy ngày thương khó chứng tỏ sự tự do của con người là một tiềm năng đa dạng, trong đó có dạng sản xuất ra tội ác. Sự kiện đó giúp tôi càng hiểu rõ hơn tình hình suy thoái đức tin và suy thoái đạo đức đang xảy ra nhiều nơi trên thế giới, và có thể cũng đang xảy ra nhiều ít nơi chính bản thân ta và trong cộng đoàn của ta.
Cảm tưởng thứ hai của tôi là về sự tự do của Chúa. Tôi thấy sự tự do của Chúa luôn là khả năng làm điều tốt lành.
Vì yêu thương, Chúa như người mẹ tốt lành, tự ý đồng hóa với thân phận những đứa con bất hạnh nhất, để chúng dần dần nhận ra tình Chúa vẫn trọn vẹn đối với con cái. Một tình yêu đầy thương xót, một tình yêu luôn tìm cách cứu độ. Tình Chúa như ánh sáng mặt trời. Khi chiếu vào những đứa con tội lỗi, tình yêu Chúa vẫn tỏa ánh tình thương, nhưng với nỗi đau buồn. Khi chiếu vào những đứa con đạo đức, tình yêu Chúa tỏa ánh tình thương, nhưng trong niềm hân hoan vui sướng. Tình yêu Chúa là một sự tự do ban ơn không gì cản được. Chúa Giêsu đã chết vì chúng ta. Cái chết của Ngài chính là cái chết của chúng ta. Để chúng ta hiểu rằng chính chúng ta cũng phải biết sống quên mình, biết đền tội, biết chấp nhận thanh luyện, biết từ bỏ những lạm dụng tự do để đưa lại cho ta niềm hy vọng và niềm hân hoan. Để chúng ta tin rằng: Nếu chúng ta cũng có tinh thần hy sinh như Ngài, ta cũng sẽ được sống lại như Ngài.
Như thế, sự thương khó và sự sống lại của Chúa Giêsu cũng là sự thương khó và sự sống lại của chính chúng ta. Chúa Giêsu tự ý chịu hy sinh. Ta cũng phải tự ý chấp nhận hy sinh. Chúa Giêsu tự ý sống lại. Ta cũng phải thực tình ước muốn sự sống lại, và thực tình tham dự vào sự sống lại của Chúa.
Như vậy, phần rỗi của ta là công trình của hai sự tự do. Chúa ban tình yêu cứu độ cho ta một cách tự do, mà không áp đặt. Ta cần đón nhận tình yêu cứu độ ấy một cách tự do bằng những cộng tác khiêm tốn và chân thành quảng đại.
Với những nhận thức như trên, tôi thiết tha cầu xin Chúa cho tôi và anh chị em biết đón nhận tình yêu cứu độ một cách tự do như ý Chúa muốn. Và với tâm tình cầu nguyện ấy, tôi thân ái gởi tới anh chị em lời chúc Lễ Phục Sinh tốt đẹp nhất.
Lễ Phục Sinh, số người tham dự bao giờ cũng rất đông. Trước lễ, số người chuẩn bị tâm hồn bằng các việc đạo đức như xưng tội, cầu nguyện, suy gẫm, cũng rất đông. Thêm vào đó, số người trở về cũng rất đông, có thể nói, mỗi dịp lễ Phục Sinh về là mỗi dịp có nhiều tâm hồn được sống lại cách thiêng liêng. Họ được trong sạch hơn, được bình an hơn, được can đảm hơn, được gần Chúa hơn. Đó là điều mừng nhất trong lễ Phục Sinh.
Tuy nhiên, bên cạnh những tâm hồn đã được sống lại, vẫn còn vô số tâm hồn chưa được sống lại. Họ vẫn như những xác chết khô, nằm bất động trong những nấm mồ lầm lạc tội lỗi. Tại sao vậy?.
Lý do có thể là người ta không nhận thức được rõ tình trạng bi đát của mình. Họ không thấy mình cần phải sống lại. Họ không nhìn thấy những cái đang làm nên mồ mả vô hình chôn vùi họ.
Lý do cũng có thể là tuy dù người ta rất biết mình đang ở trong mồ, hơn nữa người ta cũng rất muốn ra khỏi mồ, rất muốn sống lại, nhưng người ta không đủ sức bước ra khỏi mồ, không đủ sức sống lại. Tôi thấy loại người trên đây rất đông.
Thực tế cuộc sống cho thấy rõ điều này: Biết bao người muốn làm điều lành, nhưng vì yếu đuối và thiếu điều kiện, nên đã làm điều xấu. Biết bao người muốn trở về đàng lành, nhưng vì không có ai giúp đỡ, không có điều kiện, nên đã không tự sức đứng lên được. Thánh Phêrô là một ví dụ. Ai dám nói là Ngài thiếu quyết tâm trung thành với Thầy. Nhưng do yếu đuối, Ngài đã chối Thầy. Ai dám nói là Ngài, khi đã chối Thầy rồi, đã không muốn trở về ngay với Thầy. Nhưng Ngài đã chỉ trở về được với Thầy, khi Ngài gặp được cái nhìn thương xót ngọt ngào của Thầy nâng đỡ.
Nhưng, sự thực trên đây giúp ta hiểu rằng: Nếu còn vô số tâm hồn chưa sống lại được, và nếu chính tâm hồn ta cũng chưa thực sự sống lại, thì điều cần phải thấy, điều cần phải làm, đó là phải tìm một sức mạnh nào đó có thể phục sinh các tâm hồn. Theo tôi thấy, tình yêu và quyền năng Đức Kitô Phục sinh chính là sức mạnh có khả năng đó. Riêng tôi, tôi không đặt hy vọng nào ngoài tình yêu và quyền năng Đức Kitô Phục sinh.
Trong niền tin ấy, tôi tha thiết cầu nguyện cho tôi, và cho anh chị em được biết đón nhận tình yêu và quyền năng Đức Kitô Phục Sinh, luôn biết cộng tác với sức mạnh Phục Sinh của Người. Luôn biết khiêm tốn trở về với Đức Kitô.
Với những lời cầu như vậy, tôi xin thân ái gởi tới anh chị em lời chúc Lễ Phục Sinh, đầy ơn đổi mới, đầy ơn sống lại, đầy ơn Phục Sinh.
Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu không viết cuốn sách nào. Ngài cũng không để lại một chữ ký nào. Nhưng theo tôi nghĩ những gì Chúa Giêsu đã làm trong bữa Tiệc Ly có thể coi như một chữ ký của Ngài. Để từ đó đến nay, hễ ai mang trên cuộc sống của mình chữ ký ấy, thì được kể là kẻ thuộc về Đức Kitô.
Chữ ký ấy có những đặc điểm như sau:
Đặc điểm thứ nhất là sự khiêm nhường.
Nét khiêm nhường này được tỏ bày trong bữa Tiệc Ly ở việc Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho các môn đệ. Rửa chân cho họ, lau chân cho họ, đó là một việc phục vụ thấp hèn. Không ai yêu cầu Ngài làm. Hơn nữa, ai cũng cho là Ngài không nên làm. Thế nhưng khi tình yêu đến độ tha thiết, thì lại coi việc khiêm tốn ấy là một việc rất đẹp, đẹp do ý nghĩa bên trong, đẹp do những tình cảm dạt dào gởi vào cử chỉ bất ngờ ấy.
Đặc điểm thứ hai là sự quảng đại.
Nét quảng đại này được sáng tỏ ở chỗ Chúa Giêsu rửa chân cho những kẻ mà Ngài biết trước sẽ có những thái độ không tốt đối với Ngài. Có kẻ sẽ nạp Ngài, có kẻ sẽ chối Ngài. Ngài biết trước tất cả. Ngài biết có kẻ muốn loại trừ Ngài. Nhưng tình Ngài không loại trừ ai. Lòng Ngài quảng đại như không có bờ cõi, không có biên giới.
Đặc điểm thứ ba là sự sống nội tâm.
Nét sống nội tâm này được thực hiện bằng việc Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể. Để sự sống của Ngài đi vào từng người, để Ngài sống trong ta, và ta sống trong Ngài. Cuộc sống nội tâm ấy là sự gặp gỡ sống động với Ngài, là một chia sẻ tâm tình và ý nghĩ thao thức của Ngài, nhất là thao thức về sự làm sao cho mọi người được biết đón nhận tình yêu xót thương của Ngài.
Đặc điểm thứ bốn là sự hy sinh quên mình.
Sự hy sinh quên mình này được chứng tỏ ở việc Chúa Giêsu tự ý để cho người ta giết Ngài. Để chứng tỏ rằng: Ngài là tình yêu, và chỉ là tình yêu. Một tình yêu ban tặng, mà không áp đặt. Một tình yêu khi bị đánh đập sẽ không tự vệ. Một tình yêu không có khí giới nào ngoài chính tình yêu. Một tình yêu có thể bị khước từ, bị giết đi. Nhưng sẽ sống lại, và sẽ sống muôn đời.
Trên đây là bốn đặt điểm, mà tôi gọi là những gì làm nên chữ ký của Đức Kitô.
Phải nói thiệt là tôi nhận ra chữ ký ấy trên rất nhiều người anh chị em và rất nhiều người xung quanh đây. Bởi vì những đời sống có sự khiêm nhường, có sự quảng đại, có nét sống nội tâm và có sự hy sinh quên mình. Tôi vui mừng cảm tạ Chúa, khi nhận ra số người mang chữ ký của Chúa Giêsu trên mình ngày càng tăng. Riêng những anh chị em đang sống cuộc đời vất vả, thiếu thốn, khổ cực vì lo cho kẻ khác và lo cho lợi ích chung, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu đang ở bên cạnh anh chị em, đang ở trong anh chị em. Ngài đang ký tên Ngài trên con người anh chị em. Để bao lâu còn sống, anh chị em được kể vào số những kẻ thuộc về Đức Kitô, và khi chết, anh chị em chắc chắn sẽ được cùng Đức Kitô hưởng phúc Thiên Đàng đời đời. Điều quan trọng nên nhớ là ta cần cộng tác với Đức Kitô, trong việc làm cho chữ ký của Ngài được sáng tỏ nơi ta.
Một lần nữa, trong thánh lễ này, nhất là khi tham dự nghi lễ Rửa Chân và Rước Mình Thánh, chúng ta xin Chúa Giêsu đến với ta. Xin Ngài ban ơn thêm sức cho ta biết sống những gì Ngài đã trối lại trong bữa Tiệc Ly. Tôi xác tín rằng: Chúa sẽ không từ chối lời ta cầu nguyện, nhất là khi lời ta cầu nguyện cũng hợp như ý Ngài: Đó là được thuộc về Ngài, được nên giống Ngài. Được yêu mến Ngài hơn.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại chuyến đi của hai môn đệ, từ Giêrusalem đến Emmau. Đối với hai môn đệ, đây là chuyến đi trong hoang mang lo sợ. Nhưng chính trên tuyến đường này Chúa Giêsu đã đến với hai Ngài. Dưới dạng một người thường, Chúa Giêsu đã đồng hành với hai Ngài, đã chia sẻ với hai Ngài. Và khi hai Ngài nhận ra Chúa, thì Chúa vội biến đi.
Khi nhìn lại những gì đã xảy ra cho hai môn đệ trên đường đi Emmau, tôi có cảm tưởng đó cũng là những gì đã và đang xảy ra cho nhiều người chúng ta, trong đó có cha sở Piô và tôi.
Thực vậy, khi nhìn lại đời mình, chúng tôi thấy cuộc đời linh mục, cuộc đời Giám Mục của mình là một chuyến đi thiêng lêng. Chuyến đi này cũng giống như chuyến đi của hai môn đệ trên đường Emmau.
Chúng tôi bước đi, mà lòng trí cứ bị dằn vặt hoài bởi thảm cảnh cuộc tử nạn mà Chúa Giêsu vẫn như đang tiếp tục chịu trong thế giới hôm nay.
Chúng tôi bước đi, mà lòng trí vẫn đợi chờ hoài sự Phục Sinh, mà chúng tôi tin rằng Chúa sẽ thực hiện cho Hội Thánh hôm nay.
Chúng tôi bước đi với nhiều khắc khoải, và những khắc khoải đó xem như rất cô đơn. Nhưng chính khi chúng tôi bước đi trong tâm trạng như thế, thì Chúa Giêsu đã đến với chúng tôi. Ngài đồng hành với chúng tôi. Dưới dạng những người thường. Với những chi tiết rất thường, của những cuộc đời rất thường. Với những soi sáng qua các câu Kinh Thánh rất quen. Nhất là với các Bí Tích, và với Hội Thánh. Chúa có mặt nhưng che dấu mặt. Chúa cùng đi, nhưng lúc ẩn lúc hiện.
Đặc điểm của Chúa đồng hành là Ngài lắng nghe, là Ngài thông cảm, là Ngài sửa chữa, là Ngài khích lệ, là Ngài đốt lên trong lòng chúng tôi những ngọn lửa thiêng. Chúng tôi cảm thấy như hai môn đệ xưa đã cảm thấy: “Lòng chúng tôi đã sốt sắng lên, khi Người đi đường đàm đạo và cắt nghĩa Kinh Thánh cho chúng tôi”.
Khi cảm nghiệm được sự Chúa cùng đi với mình trong cuộc đời, chúng tôi càng hiểu hơn lời Chúa đã phán xưa : “Thầy là đàng đi, không ai đến được với Cha Thầy, mà không qua Thầy”.
Với hiểu biết đó và với xác tín đó, chúng tôi tiếp tục đi về tương lai trên quãng đời còn lại của mình. Chúa Giêsu vẫn mãi là đường đi của chúng tôi. Chúng tôi chỉ đi theo con đường đó mà thôi. Con đường đó không phải chỉ là những giáo huấn của Đức Kitô, mà còn là sự đồng hành với Đức Kitô sống động, luôn ở bên mình, luôn ở trong mình.
Chúng ta hết lòng cảm tạ Chúa vì con đường chắc chắn ấy. Chúng ta cầu nguyện cho nhau, để luôn biết trung thành với con đường chân lý ấy. Chúng ta khiêm tốn xin ơn tha thứ, vì nhiều lần đã không gắn bó đủ với con đường sự sống ấy. Tôi tin rằng, với con đường Đức Kitô chúng ta sẽ góp phần hữu hiệu vào việc giải phóng cuộc sống ta và đồng bào ta khỏi những suy thoái, nhất là suy thoái về đạo đức.
Lạy Đức Kitô, xin mãi mãi ở lại với chúng con. Amen.
Long Xuyên, ngày 30-04-1992. Lễ Bổn mạng và kỷ niệm 40 Linh mục Piô Nguyễn Hữu Mỹ, Cha sở nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên. Kỷ niệm 17 năm thụ phong Giám mục Đức Cha Gioan Baotixita Bùi Tuần.
Khai mạc tuần lễ Đa-Minh tại nhà thờ Ba Chuông, TP. HCM, nhân kỷ niệm 25 năm thành lập Tỉnh Dòng ở Việt Nam.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa phán: “Các con hãy đi rao giảng:
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa phán: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc”. Khi nghe lời Chúa phán đó, tôi đã nói với Chúa Giêsu rằng: “Chúa dạy con đi rao giảng Tin Mừng. Vâng, con đi. Nhưng Tin Mừng mà Chúa muốn con đi rao giảng ở đây, lúc này, hôm nay là Tin Mừng nào? Cái gì sẽ làm cho các linh mục, các tu sĩ nam nữ và giáo dân hiện diện nơi đây cho là Tin Mừng đích thực, mà Chúa muốn con nói bây giờ?”.
Tôi hỏi Chúa Giêsu như vậy, và tôi nghe tiếng Chúa trả lời trong lòng tôi rằng: “Tin Mừng mà Cha muốn nói hôm nay, lúc này, trong nhà thờ này, không phải là Tin Mừng rút ra từ những lý thuyết ghi trong các sách học ở trường lớp, mà là Tin Mừng con đã sống thực, con đã cảm nghiệm trong suốt đời con, nhất là trong đời mục vụ truyền giáo của con”.
Tôi thấy ý Chúa là như thế, cho nên bây giờ, tôi sẽ chia sẻ với anh chị em hai Tin Mừng mà tôi cho là ảnh hưởng lớn nhất trên đời tôi, thường xuyên tác động trong tâm hồn tôi. Tôi sẽ vắn gọn.
Tin Mừng thứ nhất mà tôi cho là quan trọng nhất, thường xuyên nhất, ảnh hưởng lớn nhất trên đời tôi, đó là Thiên Chúa yêu thương tôi.
Thiên Chúa ở bên tôi. Ngài đã kêu gọi tôi. Ngài luôn luôn cứu chuộc tôi. Ngài không ngừng thôi thúc tôi đón nhận Ngài. Ngài không ngừng kêu gọi tôi đón nhận ý muốn của Ngài. Đây là một cảm nghiệm rất thực, thực trên mọi sự thực.
Chút cảm nghiệm nội tâm này đã cho tôi thấy rõ: Đức tin chủ yếu, ít là ban đầu, không phải là sự chấp nhận một hệ thống chân lý, mà chủ yếu là gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng vô hình, đang thương yêu mình. Trong cái gặp gỡ sống động này, tôi thấy rất rõ Thiên Chúa đến với mình, luôn kêu gọi mình. Và đức tin như vậy không phải ảnh hưởng trên tôi và thường xuyên tác động trên đời sống tôi, đã là nguồn mạch sinh ra sự bình an và hạnh phúc thật sự, đó là thánh ý Chúa, đó là vâng phục thánh ý Chúa.
Thánh ý Chúa là gì? Cái gì rõ ràng nhất? Cái gì là Tin Mừng lớn nhất, quan trọng nhất? Thưa là tin theo Đức Kitô, một Đức Kitô đã sống lại.
Rồi khi đọc Phúc Âm, chúng ta đã thấy Đức Kitô đã tỏ ý muốn của Ngài rõ ràng nhất, đó là: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau”. Hay “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
Tình thương của Thiên Chúa xuyên qua Đức Kitô là một tình yêu tuyệt vời, gương mẫu cho tình yêu chúng ta đối với nhau, một tình yêu gánh tội, một tình yêu đền tội, một tình yêu xoá tội, một tình yêu tha tội, một tình yêu nuôi dưỡng, một tình yêu thăng tiến.
Khi tôi vào nhà thờ nào, tôi thường bái chào Mình Thánh, nhìn tượng Chúa Kitô trên Thánh Giá, xem chặng đàng Thánh Giá, để bảo mình rằng: Chúa đã thương tôi như vậy đó, tôi cũng cần phải yêu thương kẻ khác giống như Đức Kitô. Nhưng đó là cái lệnh truyền trên lý thuyết chung chung, còn khi áp dụng cái lệnh truyền yêu thương ấy trong đời sống cụ thể, tôi thấy cần phải biết lắng nghe: Lắng nghe Chúa Thánh Thần soi sáng, trong sự cầu nguyện, suy gẫm lời Chúa và nắm bắt các biến cố xảy ra hằng ngày chung quanh, trên đất nước, tại địa phương, trên thế giới. Bởi vì, lệnh truyền yêu thương nhau cần được áp dụng một cách khoa học sáng suốt, với những mức độ khác nhau, tùy nơi, tùy người, tùy lúc, và chính điều ấy đòi tôi cần phải có một sự bén nhạy, với sự soi sáng của Chúa Thánh Linh.
Anh chị em thân mến.
Trên đây là vắn tắt hai Tin Mừng mà tôi đã nói, đã ảnh hưởng lớn nhất và tác động thường xuyên trên đời của tôi. Có thể nói đây là một bản giáo lý căn bản của đời sống tôi, và đây là cái chìa khóa giúp tôi trên con đường truyền giáo trong một địa phận có nhiều sắc tộc, có nhiều tôn giáo, có nhiều hoàn cảnh rất phức tạp.
Tôi cũng phải nói rằng: Hai Tin Mừng tôi diễn đạt vắn tắt trên đây là những gì tôi đã nhận được trên quãng đường dài, từ các chủng viện, do các Cha Đa- Minh đảm nhận. Và hôm nay khi nói lên hai Tin Mừng đó, tôi muốn hiểu rằng, hạt giống Tin Mừng của thánh Đa-Minh đang trở thành cây trên cánh đồng truyền giáo của Việt Nam hôm nay.
Tôi mong rằng, sau lễ này, mỗi một người chúng ta, sẽ nhận thấy một Tin Mừng nào đó mà thánh Đa-Minh sẽ cầu bầu cho ta sẽ vun đắp trong tâm hồn ta. Tôi thấy rằng, nhờ thánh Đa-Minh, nhờ Đức Mẹ, các thánh Việt Nam, những gì mà chúng ta đón nhận như Tin Mừng của Đức Kitô, sớm muộn, cách này hay cách khác, sẽ nở sinh ra hoa trái, và hoa trái sau cùng chính là gặp được Thiên Chúa ở cuối đời mình. Tuy dầu trong đời sống, có khi ta thành công, có lúc ta thất bại, nhưng ta tin chắc Thiên Chúa là Đấng luôn có mặt ở trong hiện tại tương lai mỗi người. Tôi tin như vậy: Thiên Chúa là Thiên Chúa của tương lai chúng ta. Amen.
Khai mạc tuần lễ Đa-Minh 12-03-1992 tại nhà thờ Ba Chuông, Thành phố Hồ-Chí-Minh, nhân kỷ niệm 25 năm thành lập Tỉnh Dòng ở Việt Nam.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa phán:” Anh chị em chỉ có một người chỉ đạo, người chỉ đạo ấy là Đức Kitô”. Khi nghe lời trên đây, tôi đã hiểu rằng: Sống đức tin, không những chỉ là tin vào Đức Kitô, Đấng chỉ đạo đã sống ở trần gian, đã tử nạn, đã sống lại và lên trời. Mà sống đức tin, còn là chấp nhận, là đón Đức Kitô vào lòng mình, để Ngài chỉ đạo trí khôn ta, sao cho những hiểu biết của ta hợp với thánh ý Chúa, để Ngài chỉ đạo trái tim ta, để mọi tình cảm của ta sao cho hạp thánh ý Chúa, để Ngài chỉ đạo ý muốn của ta sao cho mọi ước vọng của ta hợp với thánh ý Chúa, để Ngài chỉ đạo miệng lưỡi, tay chân của ta, để làm sao mọi lời ta nói, mọi việc ta làm đều hạp thánh ý Chúa.
Khi tôi hiểu phải sống đức tin như vậy, thì tôi thấy có hai vấn đề quan trọng đặt ra cho tôi:
Điều quan trọng thứ nhất: Là phải nắm bắt những gợi ý của Đức Kitô chỉ đạo gởi lên trong ta.
Bởi vì nếu để cho Đức Kitô chỉ đạo thì phải biết ý Đức Kitô. Mà muốn biết thánh ý Đức Kitô chỉ đạo đời sống của mình, thì phải tỉnh thức nhiều lắm, thì phải lắng nghe nhiều lắm. Phải tỉnh thức, lắng nghe những gợi ý của Đức Kitô gửi vào lòng tôi qua Thánh Kinh, qua những lời giảng dạy, qua những tin tức đó đây. Phải lắng nghe các chân lý, từ chân lý khoa học, nghệ thuật, kinh tế, chính trị, cho đến các sự thực về cuộc sống hôm nay.
Rồi phải nhìn xem cuộc sống của những người chung quanh, phải nghe những ý kiến của họ, phải nhìn xem và suy nghĩ những gương sáng chung quanh mình, không riêng gì trong Hội Thánh Công Giáo, mà cả ngoài Công Giáo để nhìn thấy những người tốt việc tốt. Phải lắng nghe rất nhiều, phải nắm bắt rất nhiều.
Rồi phải biết cầu nguyện để phân định cái gì là tốt, mà thích hợp với thời điểm này, cái gì là tốt mà thích hợp với địa phương ta, cái gì là tốt mà hợp với hoàn cảnh bây giờ. Bởi vì, không phải tất cả mọi cái tốt đều là những gợi ý Chúa đòi ta phải làm, mà chỉ những cái tốt mà cần cho ta lúc này, thích hợp cho địa phương ta và Hội Thánh ta trong hoàn cảnh hiện nay mới là gợi ý của Chúa muốn ta làm.
Khi làm như vậy, tôi mới thấy được những gợi ý chắc chắn do thánh ý Đức Kitô chỉ đạo: Thánh ý Chúa là hằng ngày ta hãy trở về với Chúa. Thánh ý Chúa là hằng ngày ta hãy cố gắng chu toàn bổn phận của mình. Thánh ý Chúa là hằng ngày ta cố gắng vác Thánh Giá mình mà theo Chúa, thánh ý Chúa là hằng ngày ta biết lợi dụng những hoàn cảnh, thuận lợi cũng như không thuận lợi để mà mến Chúa, để mà yêu người như Chúa yêu ta. Và thánh ý Chúa là hằng ngày ta làm hết sức mình để cho đời ta và bản thân ta cho đời và cuộc sống những người chung quanh ta trở nên tốt hơn về mọi mặt.
Đó là những hướng dẫn chỉ đạo của Đức Kitô.
Nhưng, riêng đối với Việt Nam ta, đối với địa phương ta, hoàn cảnh hiện nay ta, thì thánh ý Chúa là thế nào? Chúa muốn ta làm cái gì cần hơn?
Qua những bài Sách Thánh trong Mùa Chay, qua cuộc sống hôm nay ta cảm nghiệm, qua những gương sáng chung quanh ta đang có sức lôi kéo người ta về với Chúa, tôi thấy rằng: Thánh ý Chúa muốn cho chúng ta, hôm nay, thời điểm này là hãy tăng cường thêm tinh thần bác ái và tinh thần sống Tám Mối Phúc Thật.
Anh chị em cứ nghiệm mà xem: Cá nhân nào, giáo xứ nào, sống tinh thần bác ái và sống tinh thần Tám Mối Phúc Thật: Hiền lành, khiêm tốn, nhịn nhục, bao dung, thì cá nhân đó, giáo xứ đó sẽ trở nên những vườn hoa, thoát ra mùi hương thơm Phúc-Âm, làm sáng danh đạo, có sức truyền đạo, có sức bênh đạo. Tôi nghĩ đây là thánh ý Chúa do Đức Kitô chỉ đạo và tôi cho là những đường hướng ấy, những chỉ đạo ấy rất rõ ràng, rất chắc chắn, không thể nào sai được, chỉ cần chúng ta nhận thức những đường hướng của Đức Kitô chỉ đạo mà sống cho đúng.
Điều thứ hai tôi cho là rất quan trọng để sống đức tin, đó là một khi mình đã biết sự chỉ đạo của Đức Kitô gửi tới trong lòng mình thì cần phải thực thi sự chỉ đạo ấy.
Tôi phải nói ngay rằng: Nắm bắt được thánh ý Chúa qua các biến cố, không luôn dễ dàng, mà thực thi được thánh ý Chúa chỉ đạo trong đời mình càng không dễ dàng gì. Hiện nay, chúng ta nghe người ta nói nhiều đến đấu tranh chính trị, đến nâng cao kinh tế, đến tự do dân chủ. Người ta quen tất cả những cái đó như nguyên nhân sẽ sinh ra những cái đẹp, cái tốt trong đời sống chúng ta. Tôi nghĩ những cái đó có thể đúng trong một phương diện nào nhất định. Nhưng tâm hồn bác ái, tâm hồn sống Tám mối phúc thật: Hiền lành, khiêm tốn, nhịn nhục, bao dung. Đó mới là những nhân đức, những vẻ đẹp của tâm hồn, có được không phải là do kết quả của những đấu tranh, của nền kinh tế, của tự do, của dân chủ. Mà là kết quả của một nền tu đức, của sự cầu nguyện, của sự hãm mình, của sự từ bỏ cái tôi ích kỷ hẹp hòi. Đó là kết quả của hồng ân Thiên Chúa ban cho và nhất là kết quả của sự chúng ta đón Đức Kitô vào mình, để cho Ngài sống trong ta, để cho Ngài hoạt động trong ta, để cho Ngài chỉ đạo trong ta. Đây là điều tôi muốn nhấn mạnh: Một khi Đức Kitô đến với ta, ở trong lòng ta, sống trong ta, hoạt động trong ta, thì mọi sự trong tâm hồn ta sẽ đổi mới. Chúng ta sẽ nhìn thế giới, nhìn các biến cố xảy ra với một con mắt của Đức Kitô. Bấy giờ chúng ta sẽ thấy thánh ý Chúa khá rỏ rệt. Một khi đã chọn đi theo con đường thánh ý Chúa, thì dù bề ngoài có thành công hay thất bại cũng không sao, miễn là cuối cùng ta được Thiên Chúa là hạnh phúc thật. Điều tôi muốn nhắn nhủ ở đây là chúng ta phải biết mở rộng khả năng đón Đức Kitô vào lòng: Không phải chỉ là đón Đức Kitô trong phép Mình Thánh, mà là khiêm tốn đón Đức Kitô đến bằng bất cứ cách nào. Bởi vì Đức Kitô đến với ta, nhiều khi không qua những chương trình chúng ta dự định trước, cũng không qua những kế hoạch, những cơ chế ổn định, cứng ngắc mà chúng ta đã quen. Đức Kitô có thể đến với ta khi ta thất bại. Ngài có thể đến với ta khi ta cô đơn. Ngài có thể đến với ta qua gương sáng của những người ngoại đạo. Ngài có thể đến với ta qua những tin tức đó đây không phải là Công Giáo, miễn là tâm hồn ta khao khát, khiêm tốn đón nhận Đức Kitô, thì Ngài sẽ đến, sẽ chỉ đạo: Chỉ đạo trí khôn, chỉ đạo ý muốn, chỉ đạo trái tim, chỉ đạo lời ăn tiếng nói, để sao cho hợp với thánh ý Chúa.
Anh chị em thân mến.
Đầu lễ, anh chị em hát:” Xin ban Thánh Linh đổi mới bộ mặt trái đất”. Khi nghe lời hát ấy, tôi nói với Đức Kitô, để đổi mới bộ mặt trái đất, thì ít ra chúng con phải biết đón nhận Đức Kitô chỉ đạo trong chúng con, Bởi vì chỉ có Đức Kitô mới chỉ đạo được cách đổi mới thế gian này, Nếu không nghe Đức Kitô, không đồng hành với Đức Kitô, thì không cách nào đổi mới được bộ mặt trái đất. Đức Kitô là Đấng chỉ đạo cách đổi mới bộ mặt trái đất, nên xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng con biết mở rộng bộ mặt tâm hồn, để đón nhận Đức Kitô vào trong lòng chúng con, để Đức Kitô ở lại trong lòng chúng con mọi ngày cho đến khi chúng con về với Chúa, hầu mỗi ngày Đức Kitô lớn lên trong chúng con, hầu mỗi ngày chúng con thuộc về Đức Kitô nhiều hơn và mỗi ngày Đức Kitô trở nên vị chỉ đạo của chúng con một cách sâu sát. Và chúng con sẽ trở nên những thụ tạo, những dụng cụ đích thật của Đức Kitô. Lạy Chúa Thánh Thần, xin mở rộng trái tim chúng con, để biết đón nhận Đức Kitô vào lòng chúng con, để Đức Kitô chỉ đạo chúng con mãi mãi. Amen.
Lễ Thêm sức tại Kinh Đ1, xứ Thánh Linh, ngày 17-03-1992.
Trong bài Phúc-Âm lễ hôm nay, có một lời đã trở thành danh tiếng, một lời đã trở thành khẩu hiệu, một lời đã trở nên tu đức. Lời đó là “Xin vâng”.
Khi Đức Mẹ nói lời “Xin vâng” thì không những Đức Mẹ có ý “Vâng” điều mà Thiên Chúa mới vừa Truyền Tin cho Đức Mẹ, mà Đức Mẹ còn muốn “Vâng” những gì mà Thiên Chúa sẽ gửi đến sau này. Cái “Xin vâng” của Đức Mẹ là xin vâng bây giờ, trong hiện tại, và là xin vâng sau này trong tương lai.
Xin vâng sau này trong tương lai, đó là điều thiết tưởng chúng ta nên suy nghĩ đôi phút.
Như chúng ta biết, tương lai là cái gì chưa tới. Tương lai cũng là cái gì chưa thấy rõ. Khi Đức Mẹ nói xin vâng về tương lai, Đức Mẹ chỉ nói về tinh thần phó thác, chứ không nói vì thấy rõ nội dung thánh ý Chúa sẽ dành cho mình trong tương lai. Thế rồi thánh ý Chúa đã dần dần với Đức Mẹ. Thánh ý Chúa là một chuỗi thay đổi liên tiếp. Thánh ý Chúa là một chuỗi những sự lạ lùng mới mẻ. Và thánh ý Chúa là những cái gì không ngờ trước, không báo trước, không dự phòng trước.
Thí dụ: Đang khi cuộc sống gia đình Nagiarét, trôi chảy êm đềm tốt đẹp, tưởng đó là hình thức sống đạo, truyền đạo, lý tưởng nhất, không cần phải thay đổi chỉ cần ổn định thì bỗng dưng Chúa Giêsu muốn từ giã Đức Mẹ để đi truyền đạo. Sáng kiến ấy thực là mới mẻ, có vẻ mạo hiểm, có vẻ bấp bênh. Thế nhưng Đức Mẹ không vịnh vào cái đang coi như ổn định, đang coi như lý tưởng, để cản ngăn Chúa Giêsu đừng có những chọn lựa mới mẻ khác. Trái lại trong tinh thần xin vâng tuân phục thánh ý Chúa, Đức Mẹ đã tích cực cộng tác với chọn lựa mới của Chúa Kitô.
Một thí dụ khác: Đang khi cuộc sống giảng đạo của Chúa Giêsu đang tiếp diễn tốt đẹp, thành công. Tưởng đó là một hình thức sống đạo, truyền đạo tốt nhất, không nên thay đổi, mà chỉ cần ổn định và tiếp tục, thì bỗng Chúa Giêsu xin từ giã Đức Mẹ để lên thành Giêrusalem, nạp mình chịu chết đền tội cho nhân loại. Sáng kiến đó thật là một chọn lựa, mạo hiểm đầy bi kịch tính. Thế nhưng Đức Mẹ đã không vịn vào một cái đang được coi như là tốt nhất, để rồi cản ngăn Chúa Giêsu đừng ra đi. Trái lại, với tinh thần xin vâng tuân phục thánh ý Chúa, Đức Mẹ đã tích cực cộng tác với Chúa Giêsu trong cái chọn lựa rất mới ấy.
Như vậy, chúng ta thấy tinh thần xin vâng, tinh thần tuân phục thánh ý Chúa, không có nghĩa là một sự an nghĩ, không có nghĩa là một sự an nhàn, không có nghĩa là một sự an ổn, an thân, mà có nghĩa là một thái độ sẵn sàng dấn thân, bước về tương lai, đồng hành với Thiên Chúa tình yêu, luôn sáng tạo. Mà để biết thi hành thánh ý Chúa như vậy, thì Đức Mẹ, tất nhiên phải biết lắng nghe ý Chúa.
Đức Mẹ lắng nghe ý Chúa qua việc bổn phận của mình, qua những tiếp xúc với Chúa Kitô, trong những lời cầu nguyện và trong sự quan sát những gì xảy ra, những gì là chân lý, những gì là tốt đẹp, những gì là cao thượng, những gì là thích hợp xảy ra hằng ngày trong nhiều phương diện, trong nhiều lãnh vực đạo đời, để rồi sau đó biết phân định: Cái gì là tốt mà thích hợp, cái gì là tốt mà cần thiết để tuân theo thánh ý Chúa.
Đến đây chúng ta thấy rõ rồi: Vâng theo thánh ý Chúa là một thái độ từ bỏ cái tôi của mình, luôn luôn từ bỏ cái tôi ích kỷ, cái tôi hẹp hòi, cái tôi nông cạn, cũ kỹ. Vâng theo thánh ý Chúa, là luôn luôn tăng cường động lực, mến Chúa, yêu người, tha thiết với phần rỗi các linh hồn. Vâng theo thánh ý Chúa là luôn luôn đón nhận những gợi ý của Chúa gửi đến cho mình, qua những sự chung quanh. Tuân theo thánh ý Chúa là sẵn sàng dấn thân với những bước đi mới, với những chất lượng mới, miễn là sáng danh Chúa nhiều hơn, các linh hồn được trở về với Chúa nhiều hơn. Tinh thần xin vâng, tinh thần tuân phục thánh ý Chúa của Đức Mẹ là như vậy đó, và tinh thần ấy là gương mẫu cho chúng ta trong việc sống đạo và truyền đạo.
Tôi nghĩ rằng, cái tháp chúng ta xây nên cũng đã được xây cất trong tinh thần đó, và tôi muốn rằng của lễ tạ ơn chúng ta dâng lên Chúa bây giờ, một của lễ đẹp lòng Chúa nhất, chính là tâm tình xin vâng theo thánh ý Chúa.
Tôi cầu xin Chúa chúc phúc lành cho tất cả ân nhân xa gần, bằng cách ban ơn cho các ân nhân luôn biết đón nhận thánh ý Chúa và luôn luôn biết thực thi thánh ý Chúa.
Tôi cũng cầu xin cho tôi, cho các cha, cho tất cả anh chị em có mặt nơi đây và những người thông công trong lễ này, một ơn thôi, một ơn sẽ là bí quyết cho hạnh phúc đời mình, đó là xin vâng, tuân phục thánh ý Chúa trong mọi hòan cảnh, với lòng khiêm tốn, với sự phó thác cậy trông.
Lạy Mẹ, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn biết xin vâng. Amen.
Lễ khánh thành tháp chuông nhà thờ Thới Thuận (Bò Ót), dịp lễ Truyền Tin ngày 25-03-92.
Trong cuối bài Phúc-âm hôm nay, có lời Chúa Giêsu phán rằng: “Ta không tìm ý riêng Ta, nhưng Ta tìm ý Đấng đă sai Ta.”
Khi đọc lời Chúa Giêsu phán trên đây, tôi đã nói với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Chúa, con cũng tìm thánh ý Chúa. Thực tế là hôm nay, con đến làm lễ tại xứ Bắc Xuyên này, con muốn giảng những gì là ý Chúa mà thôi. Vậy xin Chúa soi sáng cho con biết, ý Chúa muốn con nói những gì?”. Tôi hỏi Chúa như vậy, và Chúa trả lời trong lòng tôi rằng: “Hãy tìm ý Chúa ngay trong nội dung bài Phúc-âm hôm nay”.
Tôi đã vâng lời Chúa, đọc lại bài Phúc-âm và tôi thấy bài Phúc-âm hôm nay nói về công việc tái truyền giáo của Chúa Giêsu cho những người có đạo tại Do Thái xưa. Tái truyền giáo là một công việc mà thánh ý Chúa Cha muốn cho Chúa Con làm. Tái truyền giáo cũng là một công việc mà Chúa muốn cho tôi, cho các cha, các tu sĩ, anh chị em, hãy thực hiện đối với bản thân mình, đối với giáo đoàn của mình hôm nay.
Tái truyền giáo ở những điểm nào ?
Tôi đọc bài Phúc Âm hôm nay tôi thấy: Điểm sai trái cũ kỹ mà Chúa Giêsu nhận thấy ở nếp sống người có đạo, dân Do Thái thời đó:
Một sai trái thứ nhất là: Quan niệm làm sáng danh Chúa.
Theo họ, thì làm sáng danh Chúa là chú trọng nhiều nhất, đến những cái gì là Thánh, ít quan tâm đến cái gì là con người.
Phúc Âm hôm nay kể: Vì Chúa Giêsu làm phép lạ cứu kẻ đau liệt ngày Sabbat là ngày Thánh, nên dân Do Thái kết tội Ngài vào tội phạm đến ngày Thánh.
Rồi Chúa Giêsu vì xưng mình là con Thiên Chúa được sai đến làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, thì bị dân Do Thái kết vào tội phạm đến Danh Thánh.
Trước quan niệm cũ kỹ sai trái ấy, Chúa Giêsu không bác bỏ sự người ta phải quan tâm đến những sự Thánh. Tuy nhiên, Ngài muốn lưu ý dân Do Thái, hãy lưu ý nhiều hơn đến sự làm sáng danh Chúa bằng cách quan tâm lo cho con người hơn.
Vinh quang Thiên Chúa là ở con người, vinh quang Thiên Chúa là khi con người nhận ra Thiên Chúa là tình yêu. Vinh quang Thiên Chúa là khi con người đón nhận được Đức Kitô vào tâm hồn mình. Ngài là con Thiên Chúa đến cứu độ. Vinh quang Thiên Chúa là khi con người chia sẻ được sự sống của Thiên Chúa tình yêu. Vinh quang Thiên Chúa là khi con người biết rao giảng Tin mừng cứu độ cho những người xung quanh mình. Vinh quang Thiên Chúa là khi con người có sự sống Thiên Chúa trong mình, biết thiết lập những dây quan hệ bằng nền văn minh dựa trên tình yêu Thiên Chúa. Vinh quang Thiên Chúa là ở con người.
Quan niệm trên đây đã được Chúa Giêsu đưa ra, để đổi mới quan niệm cũ kỹ của dân Do Thái: Lấy sự Thánh là nơi biểu lộ vinh quang Thiên Chúa. Nhưng vì cái quan niệm cũ ấy đã trở thành nếp suy nghĩ và nếp sống, nên khi Chúa Giêsu giảng khác đi, họ không những không chấp nhận dễ dàng, mà còn chống đối Ngài. Chống đối Ngài vì Ngài đã làm tỏ rõ thêm một cái sai trái khác. Để bênh đạo một cách quyết liệt, sốt sắng, hăng say, nhiệt thành, họ đã loại trừ những ai không quan điểm tôn giáo với họ. Họ loại trừ bằng hận thù, oán ghét. Họ loại trừ bằng sự tìm cách giết đi.
Phúc Âm hôm nay nói: Dân Do Thái không những bực bội với Chúa Giêsu vì Ngài chữa kẻ liệt trong ngày Sabbat, mà họ bực bội với Chúa Giêsu vì xưng mình là con Thiên Chúa, nên họ tìm cách giết Ngài. Chúng ta thấy, chỉ để bênh vực luật giữ chay, kiêng việc ngày Sabbat và chỉ để bênh vực Danh Thánh Chúa mà người ta nghĩ đến cách tìm giết một người lành như Chúa Kitô, mà người ta phải lập mưu để bắt một người thánh thiện như Đức Kitô. Thật là một cách bênh đạo hung hãn độc ác.
Không phải chỉ dân thường chấp nhận, mà cả các thượng tế, linh mục, luật sĩ đều thống nhất trong cách bênh đạo như vậy. Chứng tỏ rằng, nếp sống đạo thời đó suy thoái quá nhiều rồi.
Trước cảnh suy thoái ấy, Chúa Giêsu đưa ra một cách bênh đạo. Đó là khi thấy người ta ghen ghét Ngài, mưu hại Ngài, vì Ngài làm sự lành cho con người. Chúa Giêsu chỉ trình bày sự thật về mình một cách điềm tỉnh, thanh thản với thái độ hiền lành, khiêm tốn, bao dung, không một chút tức giận, không một chút hận thù.
Thưa anh chị em
Với hai quan niệm trên đây, và nhiều quan niệm khác mới mẻ đúng đắn Chúa Giêsu suốt đời đã làm công việc tái truyền giáo cho những người có đạo trên đất Do Thái. Kết quả là có một số người đã tin Chúa Kitô, đã tuân phục những quan niệm đúng đắn mới mẻ đó. Nhưng còn một số người cố chấp, không chịu nghe, và kết quả sau cùng như chúng ta biết: Chúa Giêsu đã bị giết. Chúa Giêsu chết vì tái truyền giáo, chứ không phải chết vì truyền giáo. Chính những người có đạo cổ hủ, đã giết Đức Kitô, khi Ngài đến đổi mới nếp sống đạo suy thoái.
Khi tôi thấy Đức Kitô bị giết vì tái truyền giáo, tôi mới nhận ra điều này: Tái truyền giáo là công việc khó, có khi còn khó hơn là truyền giáo. Mà tôi thấy trong kinh nghiệm có như vậy, đúng như vậy.
Tuy nhiên, mặc dầu khó, và nhất là mặc dầu có nhiều hiểm nguy, bị chống đối, bị ghét bỏ, bị khai trừ. Người được Chúa sai đi vẫn phải kiên trì thực hiện công việc tái truyền giáo, đổi mới lại những quan niệm về tôn giáo, về cách làm sáng danh Chúa, cách bênh đạo, cách giữ đạo sao cho đúng căn bản lời Chúa dạy, chứ không phải theo tập truyền suy thoái của mình.
Tôi thấy công việc tái truyền giáo trong địa phận Long Xuyên chúng ta nói chung và tại xứ đạo chúng ta đây nói riêng, đã có nhiều kết quả tốt.
Tôi biết là ngay tại xứ đạo chúng ta đây, đã có những đổi mới hợp tình hợp lý về Mùa Chay, về cưới hỏi. Đã có những sự sữa chữa trong những tập truyền, cờ bạc, rượu chè v..v...Và dần dần chúng ta bắt đầu sống nội tâm hơn, đi sâu vào đức tin nhiều hơn, bớt đi những sự bề ngoài không cần thiết, để có một sự tự do tâm hồn trong kỷ luật. Đón nhận Đức Kitô vào tâm hồn mình. Sống là sống với Đức Kitô, có Đức Kitô. Kitô hữu là có Đức Kitô trong tâm hồn mình, chứ không phải chỉ tin vào Đức Kitô. Đó là sống đạo, đó là vinh quang của Thiên Chúa.
Khi tôi gặp một người ở chợ, ở phố, ở xe, mà người đó có một tâm hồn phản ánh Đức Kitô, tôi thấy ngay, đó là vinh quang Thiên Chúa, mặc dầu họ không ở trong nhà thờ.
Tôi mong rằng việc tái truyền giáo mà chúng ta đang thực hiện, sẽ được tiếp tục tốt. Công việc như tôi nói là khó khăn, đôi khi nguy hiểm vì có những sự hiểu lầm, những sự chống đối từ phía nội bộ chúng ta, những người cố chấp, những người đã quen nếp sống xưa, những người ít chịu hiểu về thánh ý Chúa, nhưng hãy kiên trì và việc tái truyền giáo phải cố gắng ngay từ bản thân mình.
Hồi nãy, trước Phúc Âm, anh em đã nói với Chúa: “Lạy Chúa xin sai Thánh Thần đến và xin canh tân bộ mặt trái đất”.
Khi nghe câu ấy, tôi nói với Chúa rằng: “Xin sai Thánh Thần đến và xin canh tân đầu tiên tâm hồn con, tâm hồn giáo sĩ, giáo dân của con, để đổi mới lại, để tái truyền giáo lại, để mỗi một người, mỗi một cộng đoàn sống đức tin theo như là Chúa Giêsu đã muốn, chứ không phải là như tập truyền vốn có.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đổi mới chúng con. Amen.
Lễ Thêm Sức, tại giáo xứ Bắc Xuyên ngày 01-04-1992.
Bài Phúc Âm hôm nay tả lại tình hình dân Do Thái không chịu tin vào Đức Kitô.
Theo lời Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay, thì dân Do Thái có thấy những việc Chúa Giêsu làm nhưng họ vẫn không tin Ngài. Họ cũng đã nghe lời Gioan giảng về Đức Kitô, nhưng họ cũng không tin Ngài. Họ tra cứu Kinh Thánh về những dấu chỉ loan báo Ngài sẽ đến, nhưng họ vẫn không tin Ngài. Tại sao vậy ?
Lý do được Chúa Giêsu nêu lên trong câu trả lời sau đây: “Các ngươi không tin Ta, bởi vì các ngươi không yêu mến Thiên Chúa thật sự”.
Lời Chúa phán trên đây cho tôi thấy một điều rất quan trọng.
Đó là, cho dù mắt chúng ta có mở ra để thấy được các công trình của Chúa, và mặc dù tai chúng ta có mở ra để nghe được những lời giảng của Chúa, và cho dù trí khôn ta có mở ra để tiếp thu những giáo lý sâu sắc của Chúa, nhưng nếu trái tim ta không mở ra thì vẫn bế tắc. Ta vẫn không nhận ra Chúa.
Bí quyết để nhận ra Thiên Chúa nằm ở trái tim. Nếu mọi sự trong chúng ta đều mở ra, mà trái tim ta còn khóa chặt, thì đối với đức tin, linh hồn vẫn là kẻ mù, vẫn là kẻ cận thị, không nhận ra Thiên Chúa.
Vậy điều quan trọng đối với sự nhận ra Chúa, chính là phải mở trái tim mình ra.
Nhưng mở bằng cách nào ?
Thưa bằng tình yêu. Đúng như vậy, khi chúng ta yêu mến Chúa thật sự, thì chúng ta nhận ra Chúa. Không phải nhận ra bằng cách chúng ta biết hình dung Chúa bề ngoài thế này. Cũng không phải chúng ta nhận ra Chúa bằng sự chúng ta nhớ lại những bài giáo lý về Chúa. Mà là nhận ra Chúa bằng sự chúng ta thấy Chúa sống động, đang đến với chúng ta. Chúa sống động, đang đi vào lòng chúng ta. Chúa sống động, đang yêu thương chúng ta. Chúa là kẻ thương tôi, Chúa là người tôi thương. Và khi yêu mến Chúa thật sự linh hồn sẽ đón nhận được chiều sâu thăm thẳm của tình yêu Thiên Chúa tràn vào tâm hồn mình.
Chính vì thế mà một điều tôi nghĩ là rất quan trọng, trong khi chúng ta tham dự những sinh hoạt tôn giáo. Nhất là khi nghe giảng, khi cầu nguyện, khi rước lễ, khi đi xưng tội, điều quan trọng đó là nhìn vào trái tim mình, xem xét tình yêu của mình đối với Chúa.
Xem xét tình yêu, đó là việc không dễ dàng chút nào. Tình yêu là một sự sống phức tạp, pha trộn vị kỷ với vị tha, pha trộn ý chí với tình cảm. Ai cũng thế thôi, khi yêu, nhất là khi đánh giá tình yêu của mình, người ta rất dễ chủ quan.
Vì thế, khi nhìn tình yêu của mình đối với Chúa, chúng ta rất dễ lầm. Chỉ có Chúa thấy rõ mình. Tình yêu của ta thật sự mạnh hay yếu, tốt đẹp hay chưa tốt đẹp.
Nhưng có một điều tôi thấy khá rõ để nhận thức được cái thực chất của tình yêu ta đối với Chúa. Đó là dấu chỉ thánh giá: Vác thánh giá mình vì yêu Chúa. Vác thánh giá vì yêu thương.
Vác thánh giá vì yêu thương, tức là chúng ta cố gắng chu toàn bổn phận hằng ngày, trong tinh thần từ bỏ, trong tinh thần hy sinh, chịu đựng những đau khổ âm thầm, những vất vả lặng lẽ vì yêu thương Chúa.
Vác thánh giá vì yêu thương, là chúng ta chấp nhận, những trái ý, những thử thách đến với chúng ta, để tình yêu Chúa được thanh luyện, được chứng minh.
Vác thánh giá vì yêu thương, còn là chấp nhận những yếu đuối của mình, những giới hạn của mình, những vấp váp cả đến tội lỗi của mình, để tình yêu của chúng ta được khiêm tốn hơn, được phó thác cậy trông hơn.
Vác thánh giá vì yêu thương còn là sẵn sàng từ bỏ mọi ý riêng mình, lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi trong tâm hồn và luôn luôn sẵn sàng tuân phục thánh ý Chúa.
Thánh giá là cái căn phúc của tình yêu. Thánh giá là những bông hoa đẹp nhất của tình yêu. Thánh giá là bài ca hay nhất của tình yêu. Nếu xem xét lại trong trái tim mình, tình yêu chúng ta có những hy sinh. Đó là một dấu chúng ta yêu mến Chúa. Nếu bây giờ Chúa mở trái tim chúng ta ra mà thấy tình yêu chúng ta có hình thánh giá giống như tình yêu của Người, thì tôi chắc rằng Chúa sẽ thương chúng ta lắm và Chúa sẽ trở thành phần thưởng muôn đời cho chúng ta.
Lạy Chúa Kitô, xin Chúa mở trái tim chúng con ra, để chúng con sẵn sàng đón Chúa vào lòng, mặc dầu Chúa đến với chúng con với thánh giá của Chúa. Amen.
Lời đầu tiên tôi muốn nói ở đây là lời cám ơn tất cả anh chị em. Cám ơn vì anh chị em đã có mặt ở đây, cám ơn vì những tình cảm tốt lành anh chị em đã dành cho tôi và cho địa phận. Cám ơn vì những đóng góp thân tình và tích cực anh em đã dành cho Hội Thánh nói chung và giáo xứ của mình nói riêng.
Tôi coi cuộc gặp gỡ hôm nay là cuộc gặp gỡ gia đình, một cuộc gặp gỡ hiếm có. Vì thế, tôi muốn lợi dụng cuộc gặp gỡ gia đình này để tâm sự với anh chị em.
Tôi xin chia sẻ một số thao thức của tôi, những thao thức ngày đêm như những hòn than cháy bỏng âm ỉ trong lòng tôi.
1- Thao thức thứ nhất của tôi là công việc xây dựng nhân sự về mặt văn hóa cuộc sống.
Khi nhìn về tương lai, tôi thấy trong những năm sắp tới, cái sẽ nắm quyền chỉ huy con người Việt Nam không còn là ý thức hệ nữa, mà sẽ là văn hóa đời sống. Anh em chỉ cần nhìn qua bầu khí tâm lý lúc này của những người chung quanh và của chính chúng ta, thì sẽ hiểu được điều tôi nói. Cái gì đang điều khiển con em chúng ta? Cái gì đang hướng dẫn những người chunh quanh chúng ta trong những lựa chọn,trong những sắp xếp, trong các chương trình, trong các kế hoạch? Thưa là những gì thấy ở tivi, ở vidéo, những gì nhìn thấy ở những tiệm bày bán, những gì nhìn thấy ở các mẫu mã, những gì nhìn thấy ở trên con người, những gì nhìn thấy ở các đồ vật bày trong mỗi gia đình. Rồi ngoài những cái nhìn thấy như vậy, còn là những gì đọc được trên các sách, các báo, trong các dư luận thu tập được qua những cuộc đối thoại trao đổi. Thêm vào đó còn là những gì nghe được qua đài này, đài nọ.
Tất cả những cái đó đang mở ra một chân trời mới về lãnh vực khoa học, về lãnh vực kỹ thuật, về lãnh vực mỹ thuật, về lãnh vực tư tưởng. Nó cung cấp cho con người bây giờ những giá trị rất mới. Chẳng hạn như giá trị bây giờ người ta cho là rất quan trọng mà trước đây ta không để ý đó là sự chính xác. Đồng hồ tốt là đồng hồ phải chính xác, đúng giờ. Hoạt động tốt là hoạt động phải chính xác, đúng việc, đúng nội dung, đúng thời, đúng nơi. Người tốt là người phải chính xác, nói đúng, làm đúng. Tất cả những giá trị như thế đang dần dần tạo ra một thứ toà nhà vô hình để che chở cuộc sống. Dần dần nó tạo ra một vườn hoa vô hình để làm đẹp cuộc sống. Dần dần nó tạo ra một dòng sông vô hình để phát triển cuộc sống. Cuộc sống nào cũng phải dính vào đó, kể cả cuộc sống đức tin. Ví dụ như cuộc lễ hôm nay, nội dung thuần túy đức tin, nhưng phải dựa vào văn hóa cuộc sống. Nếu hệ thống âm thanh không tốt, thì cuộc lễ hôm nay sẽ không thành công. Nếu không có những vẻ đẹp của cung thánh, vẻ đẹp của những mầu hoa, mầu áo, thì chưa chắc cuộc lễ tôn giáo sẽ thành công. Nếu những bài thánh ca của ca đoàn, của công đoàn không có kỹ thuật, tinh thần dân tộc, thì chưa chắc cuộc lễ sẽ thành công. Rồi nếu thiếu một chút kinh tế, thì chưa chắc cuộc lễ sẽ thành công. Rồi nếu bài giảng của tôi không có tính cách hệ thống rõ ràng, chính xác, cuộc lễ chưa chắc sẽ thành công.
Tôi gọi tất cả những giá trị ấy là văn hóa cuộc sống. Văn hóa cuộc sống chính là trình độ, cái đúng, cái thực, cái hay, cái đẹp, cái thiện trong tư tưởng, trong lời nói, trong việc làm, trong các tương quan.
Văn hóa cuộc sống ví như chiếc xe. Ta phải chuyên chở đức tin nhờ chiếc xe đó. Nếu thiếu văn hóa cuộc sống, đức tin sẽ khó diễn tả được, sẽ khó vận chuyển được, sẽ khó hấp dẫn được.
Văn hóa cuộc sống dần dần trở thành một tiêu chuẩn để đánh giá một con người, đánh giá một họ đạo, đánh giá một Hội Thánh, đánh giá một dân tộc. Nếu người ta đến xứ đạo chúng ta, thấy nhà thờ rất lớn, nhưng khi gặp cha xứ, tu sĩ, hội đồng giáo xứ, giáo dân, người ta thấy cuộc sống văn hóa của ta quá thấp, quá thiếu, tôi e rằng người ta sẽ thất vọng. Hơn nữa, người ta sẽ chê cười.
Nền văn hóa cuộc sống như tôi vừa nói, đang làm nên giá trị của con người, nhất là khi chúng ta nhìn về tương lai, một tương lai sẽ được hướng dẫn bởi văn hóa, chứ không bởi chính trị.
Trên đây là cái nhìn của tôi về năm 2000. Xây dựng nhân sự linh mục, tu sĩ, hội đồng giáo xứ và quảng đại quần chúng Công Giáo là phải để ý xây dựng nền văn hóa cuộc sống. Mỗi người phải nâng cao trình độ tư tưởng lên, trình độ kỹ thuật lên, trình độ khoa học lên, trình độ nhân bản lên.
Nói như vậy để anh em hiểu thiện chí không thôi, chưa đủ. Tôi biết là anh em đầy thiện chí. Nhưng nếu chúng ta không để ý đến vấn đề xây dựng thêm văn hóa cuộc sống, tôi sợ rằng tương lai đang mở ra, nhưng chúng ta sẽ lại lỡ chuyến tàu lịch sử, sẽ lại lỡ chuyến xe lịch sử, vì chúng ta không biết đi vào đúng tuyến đường lịch sử đó là văn hóa.
2- Thao thức thứ hai của tôi là công việc xây dựng nhân sự về mặt nội dung đức tin.
Tôi cũng đang nhìn về năm 2000. Tương lai trước mắt là một thời điểm mở ra. Mà khi mở ra thì các trào lưu văn minh sẽ tràn vào. Cái tốt cũng tràn vào, cái xấu cũng tràn vào, cái tốt cũng hấp dẫn, cái xấu nhiều khi cũng hấp dẫn hơn.
Trong thời điểm mở ra như vậy, đầy hấp dẫn như vậy, nếu đức tin không vững, không sâu, không thực chất, mà chỉ là cái hình thức bên ngoài, thì phong trào văn minh tự do đang tới, sẽ lôi cuốn những cái vỏ đức tin ấy như những chiếc bèo trên sông. Vì thế mà tôi muốn rằng bây giờ còn thời giờ thì phải xây dựng nội dung đức tin cho sâu, cho trúng, cho vững.
Nội dung đức tin mà tôi thấy cần thông báo cho anh em, đó là sự gặp gỡ Đức Kitô sống động. Khi tôi thấy các trẻ đọc giáo lý rất thuộc, tôi vẫn nghĩ rằng thuộc giáo lý chưa phải là đức tin. Đức tin là đón gặp được Đức Kitô sống động. Ngài đến với ta, Ngài ở trong ta, Ngài chia sẻ sự sống của Ngài với ta. Sống đức tin là một cuộc trao đổi tình yêu với Chúa, như trao đổi tình yêu sống động giữa hai người thương nhau.
Rồi sống đức tin là nhận ra dung mạo thực của Chúa. Quen gặp Chúa rồi, ta sẽ nhận ra khuôn mặt của Chúa. Cái đẹp nhất của Ngài là tình yêu. Không phải gặp được ở sách giáo lý, mà do tiếp xúc với Ngài nhiều lần. Sống với Ngài, nên thấy khuôn mặt của Ngài có nét đặc biệt đó là tình yêu thương xót.
Rồi sống mật thiết với Đức Kitô, sẽ dần dần nhận ra chữ ký của Chúa Kitô. Tôi dùng từ đó để anh em hiểu. Khi tôi gặp một người, tôi để ý xem người ấy có chữ ký của Chúa Kitô trên đời sống của họ không. Có những nét của Chúa Kitô rất dễ nhận ra. Thí dụ nét khiêm nhường. Đức Kitô quì xuống rửa chân cho các môn đệ. Đó là sự khiêm nhường trên mọi sự khiêm nhường. Ai có nét đó thì như mang nét chữ ký của Đức Kitô trong đời sống mình. Rồi một nét nữa của Đức Kitô là quên mình. Trên thánh giá, Chúa Giêsu chết mà không lo cho mình, chỉ lo cho người khác. Ngài quên mình vì phục vụ. Rồi một nét khác của Đức Kitô là sự hiền lành yêu thương. Khi nhìn một cuộc sống, khi nhìn một gia đình, khi nhìn một nhà xứ, một nhà tù, nếu tôi cảm thấy có một cái gì là quên mình hy sinh, có một cái gì là khiêm nhường hiền lành, tôi sẽ cho rằng Đức Kitô đã ký trên cuộc sống đó. Cái đó chỉ nhận ra được qua cuộc sống đức tin. Chứ nếu đức tin chỉ là học cho thuộc bài giáo lý thì không thấy được.
Rồi một khi đã quen sống với Đức Kitô, đức tin là gặp gỡ Ngài, sống với Ngài, thì chúng ta cũng dễ nhận ra hương thơm của Đức Kitô. Đó là Tám Mối Phúc Thật. Tám Mối Phúc Thật là một thứ hương thơm thiêng liêng tuyệt vời, chỉ những người sống đức tin sâu sắc, thực sự mới có, và mới cảm thấy được.
Rồi sống đức tin còn là chia sẻ những tâm tình, thao thức của Đức Kitô. Thật sự khi nhìn các sinh hoạt bề ngoài của một số giáo xứ, tôi thấy hoạt động bên ngoài có vẻ rầm rộ. Nhưng tôi vẫn cảm thấy nội dung đức tin chưa sâu. Nhất là khi tôi nhìn những thao thức của họ. Ít người có những thao thức của Chúa Kitô. Thao thức của Chúa Kitô là đi cứu độ mọi anh em, người lương, người giáo. Ngài yêu thương tất cả, cứu độ tất cả. Khi nhìn sinh hoạt dân Chúa tại các giáo xứ, tôi thấy ít có những thao thức đó lắm. Tôi cảm thấy như thể nhiều nơi mắc một chứng bệnh mất máu thiêng liêng. Đức tin nghèo nàn, xanh nhợt, chỉ là cái vỏ thôi. Bởi vì đã không có những thao thức với Đức Kitô. Ngày đêm chỉ thao thức về tiền của, rồi cạnh tranh nhau chuyện này chuyện nọ, chứ không phải là thao thức mhư Đức Kitô suốt ngày suốt đêm, lo phục vụ loài người, đi tìm loài người.
Điều mà tôi rất thao thức đó là xây dựng nhân sự sao cho có một nội dung đức tin cho thực đẹp. Cần phải sống đức tin, nhận ra chữ ký của Đức Kitô, nhìn rõ khuôn mặt thực sự của Đức Kitô, chia sẻ những thao thức của Đức Kitô trong từng thời điểm, nhận ra được những giá trị thực sự mà Đức Kitô muốn đem lại cho Việt Nam hôm nay.
3- Thao thức thứ ba của tôi là công việc xây dựng nhân sự về mặt đổi mới con người theo tinh thần Công đồng Vatican II.
Như tôi vừa nói, tương lai sẽ là một tương lai cởi mở. Nhà nước sẽ cởi trói cho chúng ta, cởi trói về pháp luật. Còn Hội Thánh đã cởi trói cho chúng ta từ lâu rồi, qua Công đồng Vatican II. Thế nhưng, khi nhìn vào các nếp sống đạo, tôi thấy chúng ta tự trói mình nhiều quá. Chúng ta không những là không chịu cởi trói ra, mà lại còn tự trói mình lại.
Trước hết, Công đồng Vatican II mở trói cho chúng ta bằng cách khuyên chúng ta hãy tập trung vào Đức Kitô và Phúc Âm của người. Điều này có nghĩa là đừng trói mình vào các tập tục nghịch với Phúc Âm Đức Kitô. Chúng ta cứ thử nhìn xem các tập tục trong các kênh, các xứ. Nhiều tập tục là những cái dây, những cái xiềng xích trói buộc con người. Mà đó là tự ta trói mình, và trói nhau. Đức Kitô bảo mở ra. Công Đồng nói mở ra. Hãy nhìn Đức Kitô và Phúc Âm của Người. Căn bản cốt cách của đạo là công bình bác ái. Tập trung vào đó thì tự nhiên đạo của ta sẽ mở ra.
Rồi tôi cũng nhìn thấy nhiều nơi vẫn còn trói mình trong các bờ cõi chật hẹp của họ đạo mình. Đang khi đó Công đồng Vatican II đã mở trói cho chúng ta, bảo chúng ta rằng hãy nhìn về phía các nơi truyền giáo, hãy biết nhìn đến những người ngoài Công Giáo, ngoài Hội Thánh chúng ta.
Rồi tôi cũng nhìn thấy nhiều nơi còn trói mình vào một hình ảnh phiếm diện của Hội Thánh. Cứ cho Hội Thánh chỉ là các Đức Cha, các linh mục, đang khi Công Đồng Vatican II nói rằng Hội Thánh là tất cả dân Thiên Chúa. Ai cũng có bổn phận trong Hội Thánh. Ai cũng có quyền trong Hội Thánh. Những cái đó thực sự Công Đồng đã mở ra rồi. Nhưng chúng ta cứ tự trói lại.
Rồi nhìn các giáo xứ, tôi lại thấy nhiều người tự trói mình vào một thói quen hẹp hòi cho rằng: Sống đạo là chỉ cần những việc của tôn giáo, rồi coi thường những giá trị trần thế. Đang khi đó, Công Đồng Vatican II nói rằng: Không những phải lo việc đạo, mà cũng phải dấn thân phát triển những giá trị trần thế, chính trị, khoa học, mỹ thuật, cuộc sống...
Phải mở ra. Hãy cởi trói. Đừng trói mình. Đừng trói nhau. Đó là tinh thần Công Đồng Vatican II mà tôi thấy nhiều nơi chưa hiểu, chưa thấm nhuần. Thưa anh em,
Tôi vừa nói với anh em về ba thao thức của tôi:
Thao thức thứ nhất là công việc xây dựng nhân sự về mặt văn hóa cuộc sống.
Thao thức thứ hai là công việc xây dựng nhân sự về mặt nội dung đức tin.
Thao thức thứ ba là công việc xây dựng nhân sự về tinh thần Công Đồng Vatican II đổi mới.
Xin anh em nhớ ít ra ba thao thức đó, để anh em thông cảm với tôi nhiều hơn, để anh em cùng tôi thống nhất với tôi trong đường lối xây dựng nhân sự, và để anh em biết rằng nếu không đạt được lý tưởng mình mong muốn thì ít ra cũng cố gắng góp phần vào bằng cách cầu nguÿện cho chương trình mà tôi vừa chia sẻ.
Năm 2000 là năm thị trường cạnh tranh mạnh. Cạnh tranh hàng hóa, cạnh tranh người giỏi, cạnh tranh người tài, cạnh tranh người có đức.
Cạnh tranh quan trọng nhất chính là cạnh tranh con người. Nếu chúng ta, gia đình ta có con em tốt, có một nền văn hóa cuộc sống cao, có một nội dung đức tin vững, sâu, có một tinh thần đổi mới của Vatican II, chúng ta đi đâu cũng sẽ được kính trọng. Chúng ta có thể đối thoại với Phật Giáo, với anh em Cộng Sản, với Tin Lành, với bất cứ ai. Còn trái lại, nếu chúng ta kém về văn hoá cuộc sống, nếu chúng ta nông cạn về đời sống đức tin, nếu chúng ta cứ tự trói mình vào nếp sống cũ ngược lại Công Đồng Vatican II, thì tôi sợ rằng: Càng đi vào tương lai năm 2000, chúng ta càng sẽ yếu, chúng ta sẽ tự mình làm nô lệ cho người khác, họ đạo chúng ta sẽ không thể so sánh được với ai, người ta sẽ không kính trọng chúng ta, người ta sẽ không cần chúng ta, người ta sẽ không cộng tác với chúng ta, người ta sẽ coi thường chúng ta. Và như vậy, không những chúng ta thiệt, mà đạo chúng ta cũng thiệt, Hội Thánh chúng ta thiệt, đất nước chúng ta thiệt.
Tóm tắt một lời, vấn đề xây dựng nhân sự là rất quan trọng. Văn hoá cuộc sống, nội dung đức tin và tinh thần Công Đồng Vatican II. Cứ ba hướng đó mà đi, nếu chúng ta biết lo cho con em mình, lo cho họ đạo mình.
Hãy cố gắng. Tôi nghĩ rằng công việc không phải dễ đâu. Nhưng nếu chúng ta có hướng đi, có kế hoạch, có thiện chí. Và nếu chúng ta biết cùng làm với nhau, thì địa phận chúng ta sẽ lên, giáo hạt chúng ta sẽ lên, giáo xứ chúng ta sẽ lên, gia đình chúng ta sẽ lên và bản thân chúng ta sẽ có giá trị, vì tương lai của đất nước đang mở ra.
Xin cám ơn anh em.
Bài nói chuyện của Đức Cha Gioan Baotixita Bùi Tuần tại nhà thờ Thạnh An, ngày 14-04-1992 cho các ban Hành giáo Giáo Hạt Thốt Nốt.
Phúc Âm hôm nay công bố lời kinh tạ ơn của Đức Mẹ. Đức Maria lúc đó là một phụ nữ rất trẻ. Chưa tới 20 tuổi. Một người mà thiên hạ gọi bằng Cô, chứ không dám gọi bằng Bà.
Nhìn người phụ nữ trẻ này nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa, tôi thấy nơi cô có những nét đẹp rất dễ thương. Đối với tôi, nét đẹp dễ thương nhất nơi cô lúc ấy là cái nhìn của cô được Chúa mạc khải.
Thực vậy, được Chúa ban ơn, linh hồn cô đã nhìn thấy Chúa. Cô nhìn thấy Chúa đến với cô, không phải như một Đấng tạo thành, cũng không phải như một Đấng thánh hóa, cũng không phải như một Đấng phán xét. Nhưng cô nhìn thấy Chúa đến như một Đấng cứu độ. Cô nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”. Chúa đến để cứu độ cô. Chúa đến để cứu độ nhân loại.
Khi chưa ai kịp thắc mắc hỏi cô: Đấng cứu độ của cô có đặc tính nào, thì cô đã nói lên đặc tính đó một cách rõ ràng: Đặc tính của Đấng cứu độ là tình yêu giàu lòng thương xót. Maria nhắc đi nhắc lại đặc tính ấy. Cô cho biết Chúa dành lòng thương xót Chúa không phải cho cô mà thôi, nhưng cho tất cả dân Ngài. Cô nói: “Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài”. Hơn nữa,Chúa cũng dành lòng thương xót Chúa cho mọi kẻ kính sợ Ngài. Cô nói: “Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia, dành cho những ai kính sợ Ngài”.
Như ta vừa thấy, Chúa đã mạc khải cho Maria. Theo tôi hiểu, thì Chúa đã không mạc khải cho cô biết những chân-lý-phải-tin. Nhưng Chúa đã mạc khải cho cô thấy chính Ngài là Đấng lòng cô và muôn người đang mơ ước, đang kiếm tìm.
Chúa đã mạc khải cho trái tim cô nhiều hơn là cho trí khôn Cô. Và sự mạc khải ấy đã thắp lên trong lòng cô ngọn lửa tin yêu nồng nàn.
Thực ra, thì nhiều lần trước đây cô đã đón nhận các chân-lý-phải-tin từ các bài giảng ở hội đường. Đón nhận các chân-lý-phải-tin là tiếp thu các chân-lý- phải-tin, để mà tin. Chủ ý là để tin. Sự đón nhận ấy khác với sự đón nhận chính Thiên Chúa tỏ-mình ra. Khi đón nhận Thiên Chúa tỏ-mình ra, Maria cảm thấy như gặp được một Đấng là tất cả cho mình, như tìm được một kho tàng quí giá, như gặp được một tình yêu vô biên, như nhận được một Tin Mừng khôn tả. Đón nhận này không chủ ý để tin, mà là để yêu, để gắn bó, để sống và làm theo ý Đấng đã tỏ mình ra là Đấng cứu độ giàu tình yêu thương xót. Maria đã nhìn Chúa là như vậy, và đã nhìn mối liên hệ giữa Chúa với mình là như vậy. Cái nhìn ấy thực là đẹp. Cái nhìn đẹp ấy có sức lôi kéo các linh hồn hơn từng trăm ngàn sách bàn về các chân lý phải tin.
Khi nhận thấy như trên, tôi tự hỏi: Tu đức của ta, mục vụ của ta, cách sống đạo của ta, có nói lên được vẻ đẹp của cái nhìn về Thiên Chúa không? Qua tu đức của ta, qua mục vụ của ta, qua cách sống đức tin của ta, người đời có nhận ra được vẻ đẹp sống động của một Thiên Chúa tỏ-mình ra là Đấng cứu độ giàu tình yêu thương xót không.
Trên đây là nhưng chia sẻ của tôi gởi anh chị em. Tôi muốn những chia sẻ ấy được gởi riêng cho các anh em dòng Thánh Gia, những người muốn sống theo gương mẫu Thánh Gia trong đó có Đức Mẹ. Tôi cầu chúc cho từng người thuộc dòng Thánh Gia được phần nào vẻ đẹp dễ thương của Đức Mẹ, đó là cái nhìn được Chúa mạc khải về Thiên Chúa cứu độ giàu lòng thương xót.
Cách đây khoảng 20 năm, tôi ghé thăm một họ đạo vùng Hà-Tiên. Trong thánh lễ, Tôi nghe cộng đoàn họ đạo, từ nhỏ tới lớn, sốt sắng cầu nguyện chung bằng một bài hát lạ. Nội dung bài hát khá dài, nhưng rất dễ hiểu. Người ta lập đi lập lại về cái nhìn của Chúa. Đại khái như: Xin Chúa nhìn con, khi con yếu đuối. Xin Chúa nhìn con, khi con sa ngã. Xin Chúa nhìn con, khi con xa Chúa. Xin Chúa nhìn con, khi con sầu muộn. Xin Chúa nhìn con, khi con chán nản. Xin Chúa nhìn con, khi con bệnh tật. Xin Chúa nhìn con, khi con hấp hối, vv...
Bài hát đó ca tụng cái nhìn của Chúa. Bởi vì cái nhìn của Chúa là nguồn mạch ban xuống muôn vàn ơn cứu độ.
Hôm nay tôi lại nghe một người ca tụng cái nhìn của Chúa. Người đó là Đức Mẹ, Thực vậy, trong lời kinh tạ ơn, mà chúng ta vừa nghe qua bài Phúc-Âm hôm nay, Đức Mẹ cho thấy lý do tạ ơn chính là vì Chúa đã đoái nhìn đến Đức Mẹ. Đức Mẹ nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tôi tớ Chúa”.
Đối với tôi lời Đức Mẹ tạ ơn trên đây là một mô hình tu đức. Mô hình này kêu gọi tôi xét lại mối quan hệ giữa tôi với Chúa. Đôi khi tôi nghĩ rằng: Mối quan hệ giữa tôi với Chúa cần được xây dựng bằng các việc lành tôi làm, để dâng kính Chúa. Thí dụ, tôi phải đi lễ, tôi phải cầu nguyện, tôi phải góp phần xây dựng nhà thờ, tôi phải làm các việc từ thiện, tôi phải hãm mình, vv... Rồi tôi sẽ căn cứ vào số lượng và phẩm chất các việc lành tôi làm mà đánh giá mối quan hệ giữa tôi với Chúa.
Nhưng khi đối chiếu với mô hình Đức Mẹ tôi thấy cách xây dựng mối quan hệ kiểu đó là không đúng, và đánh giá mối quan hệ cách đó là không đúng. Bởi vì, theo lời Đức Mẹ nói trong kinh tạ ơn, thì cái có tính cách xây dựng mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa chính là sự con người biết đón nhận ơn Chúa ban cho, hơn là sự con người biết làm các việc lành dâng lên Ngài. Đức Mẹ diễn tả sự Chúa ban ơn cho Đức Mẹ bằng sự Chúa đoái nhìn đến thân phận Đức Mẹ. Theo cách nói đó, bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta là bấy nhiêu cái nhìn yêu thương Chúa dành cho ta. Hằng ngày, biết khám phá ra những cái nhìn yêu thương ấy, và hằng ngày biết đón nhận những cái nhìn yêu thương ấy một cách cung kính, với tâm tình tạ ơn, đó là một cách sống đạo đức, mà Đức Mẹ dạy ta hôm nay.
Tôi thấy có một số người đạo đức hay nhìn vào mình, để ăn năn tội lỗi của mình. Đến nỗi cái nhìn như vậy trở thành ám ảnh. Làm như thế không tốt đâu. Đức Mẹ biết mình yếu hèn, nhưng không phải Đức Mẹ cứ cúi xuống, nhìn hoài cái thân phận yếu đuối của mình. Trái lại, Đức Mẹ nhìn lên Chúa, và đón nhận mọi cái nhìn của Chúa dành cho mình.
Để dễ hiểu, tôi xin đưa ra một hình ảnh. Một người đến nhà thờ cầu nguyện. Trước khi vào nhà thờ, người ấy chùi chân cho sạch đất, sạch bụi. Người ấy có thể chùi đi chùi lại nhiều lần. Nhưng nếu người ấy cứ chùi hoài, hoặc là khi đã vào ghế rồi, người ấy cứ nghĩ hoài đến việc chùi chân cho sạch, rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống, tìm bụi ở chân, thì tôi dám chắc là thái độ đạo đức của người ấy sẽ không được Chúa chấp nhận. Chúa muốn người ấy nhìn lên Chúa, với tất cả trái tim, với tất cả trí khôn, với tất cả tâm tình. Để đón nhận Chúa, để đón nhận thánh ý Chúa, để đón nhận những cái nhìn của Chúa.
Đừng trốn tránh cái nhìn của Chúa, như ông Adong đã trốn tránh, sau khi phạm tội. Bởi vì cái nhìn của Chúa là cái nhìn cứu độ. Đừng tạ ơn Chúa bằng cách kể lể những việc lành mình đã làm, như người thu thuế xưa đã kể lể trước bàn thờ. Bởi vì cách tạ ơn đẹp lòng Chúa nhất chính là biết nói lên các ơn Chúa mà mình đã đón nhận từ cái nhìn xót thương của Chúa, như Đức Mẹ đã làm hôm nay.
Tôi biết là họ đạo anh chị em đã và đang nhận được vô vàn ơn Chúa ban. Đúng là Chúa đã đoái nhìn đến thân phận hèn mọn anh chị em. Tôi nghĩ rằng: Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, họ đạo anh chị em sẽ càng ngày càng trở nên một cộng đoàn tạ ơn, theo tinh thần Đức Mẹ, là quan thầy nhà thờ chúng ta.
Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời tại kinh Ông Quít, ngày 14-08-1992
Đêm vừa qua, tôi thức dậy trước 2 giờ. Tôi vào nhà nguyện để suy gẫm và cầu nguyện. Tôi đã nói với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa đã ra khỏi mồ như bà Mađalêna đã loan báo và như hai thánh Tông Đồ Phêrô, Gioan đã chứng thực. Con tin Chúa đã sống lại trong vinh quang, và con tin Chúa bây giờ đang ở trước mặt con. Xin Chúa hãy nhìn đến con và nhìn đến những kẻ thuộc về con, trong đó có họ đạo Cần Xây của con.
Chúa đang thấy đó: Biết bao nhiêu người, biết bao nhiêu gia đình, biết bao nhiêu cộng đoàn hiện nay, về phương diện nào đó, vẫn còn nằm ở trong những mồ mả vô hình. Những mồ mả vô hình đó, là cảnh túng thiếu, dốt nát. Những mồ mả vô hình đó, là sự nguội lạnh khô khan, là những tính mê nết xấu, là những cách suy nghĩ và những thói quen không tốt. Xin Chúa thương giúp cho chúng con bước ra khỏi những mồ mả thiêng liêng ấy. Xin giúp cho chúng con được sống lại.
Tôi cầu nguyện với Chúa Giêsu như vậy và tôi đợi Chúa trả lời. Chỉ một lát sau, Chúa gửi đến lòng tôi câu trả lời của Chúa bằng cách Chúa soi sáng tâm hồn tôi nhớ tới lời thư của thánh Phaolô, gửi cho tín hữu Côlôsê mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc 2. Đại khái thánh Tông Đồ khuyên chúng ta hãy năng nghĩ đến những sự trên trời và hãy biết ẩn mình trong Đức Kitô, để khi Đức Kitô là sự sống của chúng ta xuất hiện, thì chúng ta cũng được sống lại với Người trong vinh quang.
Lời thư của thánh Phaolô như một lời Chúa trả lời cho tôi. Phải, nếu con muốn cho mọi người của con và chính con được ra khỏi mồ mả thiêng liêng, được sống lại, thì đó cũng là ý muốn của Cha. Và Cha cũng sẽ giúp cho chúng con được ra khỏi mồ, được sống lại. Nhưng, chính chúng con cũng phải tích cực góp phần vào sự sống lại của chúng con, góp phần bằng hai việc sau đây mà thánh Tông Đồ vừa nhắc nhở:
- Việc thứ nhất là hãy năng tìm kiếm những sự trên trời.
- Việc thứ hai là hãy tích cực tham dự vào sự sống của Đức Kitô, bằng những việc tỏ bày lòng mến đối với Đức Kitô, bằng những việc tỏ bày sự tin cậy phó thác vào Đức Kitô, bằng những sự tỏ bày sự ta biết quên mình hy sinh vì bác ái, nhân danh lòng mến đối với Đức Kitô.
Khi hiểu ý Chúa là phải làm hai việc đó, để góp phần vào việc sống lại của mình, thì tôi xem xét lại đời tôi và cũng xem xét lại đời sống anh chị em, cá nhân, gia đình, cộng đoàn, tôi thấy: Chúng ta thực sự có thực hiện hai việc Chúa nhắn gửi, nhưng, thành thực mà nói, chúng ta vẫn còn nhiều thiếu xót. Nhất là thiếu xót trong sự tham dự vào sự sống của Đức Kitô. Trí khôn chúng ta vẫn chưa năng nghĩ tới những sự trên trời. Trái tim chúng ta vẫn chưa yêu mến Chúa như Chúa muốn chúng ta yêu Chúa và thương con người.
Tối hôm qua, khi tôi làm lễ ở nhà thờ Chính Toà Long Xuyên, có một lúc trong phụng vụ, ca đoàn đã hát lên gợi ý ăn năn sám hối: Xin Chúa thứ tha. Khi nghe bài hát ấy, tôi cảm thấy như tất cả Hội Thánh, trong đó có Cần Xây, trong đó có tôi, đang xin Chúa thứ tha tội lỗi, vì đã không năng tìm sự trên trời, vì đã không tham dự tích cực vào sự sống Đức Kitô. Ăn năn sám hối như vậy, cũng là một cách tham dự vào sự sống lại của chính mình.
Sáng nay, trước khi lên đường tới Cần Xây, tôi đã để một bông hoa hồng tươi trước tượng Đức Mẹ và đã nói với Đức Mẹ: Lễ Phục Sinh nầy, con không xin gì cho con, con không xin thêm sức khỏe cho con, con không xin tiền bạc cho con. Con chỉ xin một ơn nầy: Ơn đổi mới, ơn Phục Sinh, ơn sống lại cho những người thuộc về con và cho chính con. Xin Mẹ giúp cho chúng con được sống lại về phần trí khôn, để trí khôn chúng con sống lại với những chân lý của Chúa Kitô đã dạy trong Phúc Âm. Xin Mẹ giúp cho chúng con sống lại về mặt trái tim để mỗi trái tim chúng con được sống lại trong những hy vọng mới, trong những tình yêu mới, đối với Chúa và đối với mọi người.
Khi tới đây, tôi nhìn thấy bao nhiêu cái mới: Khuôn viên nhà thờ mới, đài mới, tháp chuông có những cái mới, cửa nhà mới, bàn thờ cung thánh có những cái mới. Khi nhìn cái mới nầy, tôi cho: Đây là những dấu chỉ bên ngoài, để nói lên những cái mới, những cái Phục Sinh bên trong. Tôi cảm tạ Chúa, vì đây là những dấu chỉ tốt nói lên sự cố gắng lớn của cha sở và anh chị em. Sự hợp nhất yêu thương nhau để nhìn về phía trước xây dựng Nước Trời.
Trong thánh lễ nầy, tôi lại nói lại với Chúa Giêsu và Đức Mẹ: Con chỉ xin ơn đổi mới. Con chỉ xin ơn sống lại. Con chỉ xin ơn Phục Sinh cho con và cho mọi người thuộc về con, để các đức tin sống lại, để các lòng mến hãy sống lại, để những hy vọng hãy sống lại, để những lý tưởng đẹp hãy sống lại và một khi được sống lại do quyền năng của Chúa Phục Sinh. Chúng ta sẽ thấy, phía trước chúng ta là ánh sáng, phía trước chúng ta là con đường đi lên trời. Trên đó Chúa Giêsu Phục Sinh sẽ chia sẻ với chúng ta hạnh phúc muôn đời của Người. Amen.
Lễ Phục Sinh, tại nhà thờ Cần Xây, ngày 19-04-1992.
Như mọi người đã biết, cuộc lễ hôm nay đánh dấu những chặng đường. Chặng đường 100 năm lịch sử của họ đạo Rạch Giá, chặng đường 50 năm và 25 năm hôn phối của một số quý ông bà cao niên, và chặng đường 25 năm linh mục của cha sở Giuse Nguyễn Văn Việt. Những chặng đường trên đây được coi là những chặng đường của đức tin và đức mến. Cùng với những người có liên hệ xa gần với Rạch Giá, tôi đã tạ ơn Chúa nhân lành, vì những chặng đường đầy hoa trái thiêng liêng này.
Trong tâm tình cảm tạ, tôi đã hỏi Chúa xem, Người có muốn dạy tôi điều gì trong lễ tạ ơn này hay không? Tôi đã cầu nguyện, tôi đã suy nghĩ, và sau cùng Chúa đưa trí khôn tôi, nhìn vào một nhân vật Phúc Âm rất nổi tiếng về đức tin và đức mến. Đó là thánh Phêrô Tông Đồ. Rồi Chúa cho tôi thấy rằng: Điều đáng mừng nhất nơi một chủ chăn, điều đáng mừng nhất nơi một người lãnh đạo, điều đáng mừng nhất nơi một cộng đoàn dân Chúa, không phải chỉ là có đức tin mạnh, có đức mến nồng nàn, mà nhất là vì họ biết sống theo thánh ý Chúa như thánh Phêrô Tông Đồ.
Tôi đón nhận lời Chúa dạy tôi trên đây, và tôi nhìn cuộc lễ hôm nay theo chiều hướng đó. Và bây giờ, cũng trong tâm tình chiều hướng đó, tôi muốn chia sẻ với anh chị em, những gì mà tôi thấy là đáng mừng nhất trong cuộc lễ tạ ơn hôm nay.
Anh chị em thân mến.
Điều thứ nhất, tôi cho là đáng mừng nhất trong cuộc lễ tạ ơn hôm nay là vì cha sở, quý ông bà, anh chị em họ đạo Rạch Giá; trên chặng đường tin mến của mình đã như thánh Phêrô Tông Đồ xưa, biết khiêm tốn, uốn nắn tư tưởng của mình, theo tư tưởng của Thiên Chúa.
Thật vậy khi đọc Kinh Thánh và dựa vào kinh nghiệm bản thân, tôi thường rất ngại đối với loại người được gọi là sốt sắng, nhưng thường lại làm theo ý riêng mình, chứ không làm theo ý Thiên Chúa.
Thánh Phêrô Tông Đồ xưa, xem ra có lúc cũng thuộc loại người như vậy: Ngài là một con người rất sốt sắng, đức tin vững như đá, đức mến nóng như lửa và để làm chứng lòng tin mến của mình đối với Thầy, có lúc Ngài đã can Thầy đừng đi chịu nạn chịu chết. Có lúc Ngài đã muốn xin lửa bởi trời xuống đốt những thành không muốn đón nhận Thầy mình. Có lúc Ngài đã rút gươm ra định chém chết người đầy tớ thầy cả trong vườn Giếtsêmani. Có lúc Ngài đã muốn làm ba lều trên núi Tabornê để ở luôn tại đó. Nhưng Chúa Giêsu đã cho Ngài biết những tư tưởng như vậy, bề ngoài trông rất đạo đức, nhưng không hợp thánh ý Chúa. Có lúc Chúa Giêsu đã nói thẳng với Phêrô: “Tư tưởng con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”.
Cái hay của thánh Phêrô là biết tiếp nhận lời giảng của Thầy, từ bỏ ý riêng mà tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Phêrô là như vậy.
Còn cha sở chúng ta, quý ông bà, anh chị em họ đạo, tôi biết là cũng luôn luôn đặt ưu tiên cho thánh ý Chúa. Và vì tuân phục thánh ý Chúa, chúng ta chấp nhận những mất mát thiệt thòi theo ý riêng ta. Mỗi ngày, chúng ta cố gắng thực thi ý Chúa, theo tinh thần xin vâng của Đức Mẹ ngày truyền tin: Mỗi ngày, chúng ta cầu xin được tuân theo ý Chúa như tinh thần xin vâng của Đức Kitô khi Ngài được sai vào thế gian: “Lạy Cha, này Con xin đến để thực thi ý Cha”.
Biết tuân phục thánh ý Chúa, đó là một điều đáng mừng nhất trong các lễ tạ ơn. Điều thứ hai, tôi thấy là đáng mừng trong lễ tạ ơn hôm nay, đó là vì tôi thấy cha sở, quý ông bà, anh chị em trong họ đạo, đã biết sống tinh thần thánh ý Chúa với một sự phó thác tuyệt đối, mặc dầu, có lúc không hiểu thánh ý Chúa tại sao lại như vậy. Đọc Phúc Âm chúng ta thấy, thánh Phêrô Tông Đồ khi Ngài kinh ngạc về cử chỉ của Chúa Kitô, muốn quỳ xuống rửa chân cho môn đệ. Chúa Giêsu trả lời Phêrô rằng: “Điều con bây giờ không hiểu, thì sau này con sẽ hiểu”. Có nghĩa là Chúa Giêsu không cắt nghĩa.
Tôi có cảm tưởng rằng, mỗi người trong chúng ta, cũng đã nhiều lần được nghe lời Chúa phán trong tâm hồn: Sự con bây giờ chưa hiểu, thì sau này con sẽ hiểu. Biết bao sự xảy đến cho ta năm rồi, mười năm về trước, hơn hai mươi năm về trước, ta không hiểu tại sao Chúa lại sắp xếp như vậy. Ta không hiểu tại sao Chúa lại định cho ta như thế. Nhưng, dần dần ta đã hiểu, nhất là nhiều lần ta không hiểu, tại sao Chúa lại gọi ta? Tại sao Chúa lại thương ta? Tại sao Chúa lại sai ta đi? Ta, là những con người yếu đuối, những con người tội lỗi, những con người bé mọn, những con người bất xứng, bất toàn.
Nhưng dần dần ta đã hiểu: Lý do chỉ vì Chúa thương ta vô vàn, chỉ vì Chúa thương ta khi ta chưa biết Người, chỉ vì Chúa thương ta khi ta còn nằm trong tội lỗi, chỉ vì Chúa thương ta vì Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Và vì vậy, mặc dầu không hiểu thánh ý Chúa, ta vẫn tuân phục với lòng phó thác. Phó thác tuyệt đối như thánh Giuse, phó thác đơn sơ như thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Tuân phục thánh ý Chúa với tinh thần phó thác như vậy, đó là một điều rất đáng mừng trong các lễ tạ ơn.
Điều thứ ba, tôi thấy là rất đáng mừng. Trong cuộc lễ tạ ơn hôm nay, là vì tôi thấy cha sở, quí ông bà, anh chị em trong họ đạo biết đón nhận thánh ý Chúa qua trung gian người khác.
Khi đọc Phúc Âm, chúng ta thấy thánh Phêrô trong bữa tiệc ly khi thắc mắc về lời Thầy mình, đã nhờ thánh Gioan hỏi giùm xem Thầy muốn nói về ai, và sau cùng thánh Phêrô đã đón nhận tư tưởng của Thầy qua trung gian thánh Gioan.
Chúng ta cũng vậy, nhìn lại quãng đường tin mến, chúng ta thấy biết bao lần, chúng ta đã đón nhận thánh ý Chúa qua kẻ khác. Kẻ khác có thể là bề trên. Kẻ khác có thể là người ngang hàng. Kẻ khác có thể là người bề dưới. Kẻ khác có thể là những người cộng tác gần mình. Kẻ khác có thể là những người xa lạ với mình. Kẻ khác có thể là Hội Thánh. Kẻ khác có thể là chính cộng đoàn của mình: Như họ đạo, tu viện, gia đình vv...
Khi biết đón nhận như vậy, chúng ta mới thấy tình liên đới, tình hòa hợp, sự cởi mở. Đó là những điều kiện để những tâm hồn sống tin yêu mến Chúa dễ biết đón nhận và thực thi ý Chúa.
Riêng tôi, phải thú nhận rằng: Tôi đã đón nhận rất nhiều sứ điệp quan trọng của Chúa gửi cho tôi, qua những người bé mọn tầm thường. Có nghĩa là: Một tinh thần cởi mở, một tinh thần cộng đoàn, biết xây dựng liên đới với những thành phần dân Chúa và xã hội sẽ giúp cho chúng ta hiểu ý Chúa hơn và dễ thực thi ý Chúa hơn.
Tối hôm qua, khi cha sở giới thiệu với tôi Hội Đồng Giáo Xứ và quí ông bà mừng Kim Khánh, Ngân Khánh hôn phối, Ngài có nói với tôi rằng: “Không có cha sở, nếu không có giáo dân”. Đúng là như vậy. Sự khiêm tốn cởi mở, hòa đồng, hợp tác giữa trên với dưới, giữa các thành phần dân Chúa với nhau, chính là nguồn mạch để biết thực thi ý Chúa. Nhận thức được điều đó, chính là một điều rất đáng mừng trong thánh lễ tạ ơn.
Anh chị em thân mến.
Cách đây một tháng, tôi có đi từ nước Pháp đến nước Đức bằng xe lửa. Đang khi tôi ngồi trên chiếc xe tốc hành đó, thì tôi thấy một người phụ nữ Pháp đến gần tôi và nói với tôi rằng: Bà đi đường mất hết hành lý, nên xin tôi giúp bà một số tiền lẻ để đi đường. Và tôi lại thấy người đó đến nhiều chỗ khác để van xin như vậy.
Khi thấy một người nghèo túng ở trên chuyến đi tốc hành của tôi, tôi nghĩ rằng: Cuộc đời của mình cũng là như vậy. Cuộc đời mình là chuyến đi tốc hành, từ quá khứ đến hiện tại, rồi từ hiện tại đến tương lai. Và trong chuyến đi tốc hành đó, thân phận kẻ nghèo túng vẫn là kẻ đồng hành không thiếu được. Tiếng xin van của người ăn mày vẫn là tiếng gọi đối với những người Chúa thương. Và biết đâu, những người ăn xin đó lại không phải là tiếng Chúa kêu gọi mình sao?
Hôm nay, trong lễ tạ ơn, tư tưởng đó làm sống lại trong tôi. Tôi nhìn chặng đường của cha sở, chặng đường của quý ông bà, chặng đường của họ đạo, tôi coi như chuyến tàu tốc hành, đang bỏ hiện tại đi về tương lai. Và trong chuyến đi tốc hành đó, tiếng những người đau khổ vẫn văng vẳng bên tai chúng ta đang tạ ơn Chúa.
Tôi có cảm tưởng rằng chúng ta hiểu điều đó. Chính vì vậy, cuộc lễ tạ ơn hôm nay được tổ chức đơn giản: Chú trọng nhiều hơn đến tinh thần, chú trọng nhiều hơn đến lời cầu nguyện, chú trọng nhiều hơn đến đức bác ái. Đó là một điều rất đáng khen.
Tôi cầu xin Chúa cho cha sở, cho quý ông bà, cho tất cả anh chị em biết nhìn về tương lai, với tâm tình cảm tạ. Tôi cầu xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta biết tiếp tục sống theo thánh ý Chúa, nhất là về vấn đề truyền giáo và về vấn đề kẻ khó nghèo.
Đêm vừa qua tôi đã thức dậy thật sớm, khoảng 2 giờ sáng. Tôi đã nghĩ tới anh chị em. Tôi đã cầu nguyện nhiều cho anh chị em. Và trong khi cầu nguyện, tôi đã hỏi Chúa rằng: Chúa muốn con nói gì với anh chị em họ đạo Thánh Gia này? Rồi tự nhiên tôi nhớ tới điều mà tôi đã cầu nguyện rất nhiều tại hang Lộ Đức bên Pháp vừa qua. Điều đó là ơn ăn năn thống hối trở về với Chúa.
Khi tự nhiên nghĩ đến điều ấy, tôi cho rằng điều mà Chúa muốn tôi nói với anh chị em hôm nay chính là sự ăn năn thống hối trở về với Chúa.
Trên lý thuyết tôi vẫn tin rằng: Sự ăn năn thống hối, trở về với Chúa là một tin mừng quí giá. Ăn năn thống hối là một mệnh lệnh căn bản mà Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải rao giảng, như bài Phúc Âm hôm nay chúng ta vừa nghe: “Các con hãy đi rao giảng sự thống hối, để được ơn tha tội và ơn bình an”.
Trên thực tế, tôi vẫn thường thực hành sự thống hối mỗi ngày, nhất là khi đọc kinh Cáo Mình trước mọi thánh lễ, và mỗi khi xét mình mỗi tối trước khi ngủ. Tôi nghĩ rằng anh chị em cũng đã làm như tôi. Nhưng điều mà tôi muốn chia sẻ với anh chị em lúc này, chính là về một tình hình đạo đức đang tạo ra một nguy cơ có khả năng đi tới những hậu quả, không lường được.
Trong chuyến đi của tôi tại những nước ngoài tháng trước, tôi thấy tình hình đạo đức ở nhiều nơi có thể gọi là khá bi quan: Đức tin suy thoái, đạo đức suy giảm, nhiều người muốn tin thế nào thì tin, muốn làm bất cứ điều gì là làm, và cho rằng có quyền làm như vậy mà không hề nghĩ tới tội hay phúc. Nhiều nơi, người ta vẫn cho rằng mục đích của đời người không phải là thờ phượng Chúa để lên thiên đàng mà là hưởng thụ tối đa mọi lạc thú, tiền của, giàu sang, tự do, và cho đó là một mục đích chính yếu và chính đáng. Biết bao người sống trong tội lỗi mà vẫn cho là chẳng có gì là tội cả. Biết bao người đầm đìa trong tội lỗi mà vẫn tưởng rằng chẳng có gì phải ăn năn sám hối cả.
Tình hình suy thoái ấy, làm cho tôi lo sợ: Tôi lo sợ tình hình như vậy, có thể tràn vào Việt Nam, gây những ảnh hưởng xấu trong các xứ đạo, nhất là trong giới trẻ đang lớn lên. Tôi càng lo sợ nếu tình hình suy thoái ấy cứ phát triển mãi, thì thế nào cũng dẫn tới những sụp đổ kinh hoàng mà Chúa đã loan báo trong lịch sử nhân loại qua các tiên tri, qua Đức Kitô, qua Đức Mẹ và qua nhiều vị thánh.
Băn khoăn của tôi là trong một tình hình mà người ta mất ý thức về tội lỗi, thì vấn đề ăn năn sám hối trở nên lạc lõng. Vì vậy, tôi nghĩ rằng cần phải năng nhắc lại sự quan trọng của việc ăn năn sám hối.
Trong thánh lễ dâng trước hang đá Lộ Đức vừa rồi, tôi để ý tới nội dung một lời nguyện. Lời nguyện ấy là xin Chúa ban cho mình ơn được ăn năn sám hối. Cầu xin ơn sám hối có nghĩa là nhận thức rằng: Ăn năn sám hối là một ơn cần phải xin với Chúa, để mình biết quan tâm mà thực hiện và phải cầu nguyện để biết cách ăn năn sám hối. Bởi vì, có nhiều khi ta tưởng là ăn năn sám hối, mà thực chất ra không phải là ăn năn sám hối.
Riêng tôi, mỗi khi tôi ăn năn sám hối, tôi thường giục lòng kính mến Chúa. Giục lòng kính mến Chúa với tâm tình khiêm tốn, nhận mình tội lỗi, hèn hạ, bất toàn, bất xứng. Và giục lòng kính mến Chúa với tâm tình phó thác cậy trông. Cậy trông Chúa là Cha giàu lòng thương xót sẽ giúp mình đứng dậy, sẽ giúp mình từ bỏ tội lỗi và ý riêng. Phó thác trọn vẹn, phó thác tuyệt đối. Phó thác không điều kiện.
Lúc nãy, khi bước vào nhà thờ này, tôi thấy thánh đường của anh chị em đã được tu sửa đẹp đẽ, và nhất là từ đầu lễ đến bây giờ cái đẹp nhất chính là tâm hồn sốt sắng của anh chị em dự với lòng tin mến nghiêm trang, sốt sắng và tích cực vào những việc đọc kinh chung, hát chung. Cảnh đó gợi cho tôi thấy rằng: Ăn năn sám hối không phải chỉ là từ bỏ cái cũ, mà là biết xây dựng những cái mới đẹp hơn, làm cho tâm hồn của mình trở nên một đền đài đẹp đẽ trước mặt Thiên Chúa, do những việc lành phúc đức mình làm, nhất là do sự mình hiệp thông với đời sống của Chúa và có nhiều ơn Chúa Thánh Thần.
Anh chị em thân mến.
Ăn năn sám hối đó là điều Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta phải thực hiện. Ăn năn sám hối, đó là điều Đức Mẹ đã nhắn nhủ chúng ta khi Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức và ở Fatima. Ăn năn sám hối, đó cũng là điều mà tình hình hiện nay thúc giục chúng ta, cần phải năng thực hiện. Ăn năn sám hối là điều mà thánh Gioan Baotixita, quan thầy cha sở của anh chị em, suốt đời đã rao giảng.
Tôi nghĩ rằng, điều mà tôi nhắn nhủ anh chị em hôm nay là rất căn bản và rất rõ rệt.
Lúc nãy, chúng ta đọc hợp xướng: “Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy”. Khi đọc lời ấy, Chúa soi sáng cho tôi thấy rằng: Chúng ta chỉ làm chứng cho Chúa, khi chúng ta đổi mới con người của mình. Chúng ta chỉ làm chứng cho Thiên Chúa chúng ta, khi chúng ta ăn năn sám hối, trở nên tốt hơn. Nếu không, mọi sự sẽ chỉ là rất tương đối. Với nhà thờ mới, với quần áo mới, với nếp sống lễ nghi mới, mà nếu con người chúng ta, không đổi mới nên tốt hơn, thì chưa chắc, chúng ta đã làm chứng được cho Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đổi mới chúng con, xin giúp cho chúng con biết thực hiện điều Chúa đã truyền là ăn năn sám hối. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay gợi ý cho tôi nhớ lại thánh nữ Têrêxa
Tháng vừa qua tôi có trở lại Lisieux để viếng thăm những nơi mà thánh nữ Têrêxa đã sinh sống và đã qua đời.
Khi tôi đến thì đã gần trưa, nhưng vì biết tôi là một Giám Mục từ xa tới, nên chị dòng phụ trách nhà nguyện đã dọn lễ ngay và mời tôi dâng lễ.
Bài Phúc Âm mà tôi đọc trong thánh lễ hôm ấy cũng chính là bài Phúc Âm trong thánh lễ hôm nay. Trong bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, có lời Chúa phán: “Nếu chúng con không hoá nên như trẻ nhỏ, chúng con sẽ không được vào Nước Trời”. Lời Chúa phán ấy, đã là một con đường thiêng liêng dẫn đưa thánh Têrêxa.
Không biết tôi có chủ quan không? Nhưng tôi có cảm tưởng rằng: Khắp nơi tại Lisieux, quê hương của thánh nữ Têrêxa, tôi như cảm nghiệm được mùi thơm nhẹ nhàng của sự thánh thiện Têrêxa.
Tại dòng kín, tôi đã nhìn thấy bộ áo dòng màu nâu mà thánh nữ đã mặc xưa: Chiếc lúp Têrêxa đã đội, đôi giày Têrêxa đã đi, xâu chuỗi Têrêxa đã lần, mấy chiếc khăn Têrêxa đã lau mặt, thêm vào đó là cuốn Kinh Thánh nhỏ mà Têrêxa đã quen dùng, rồi những bức thư Têrêxa đã viết. Tôi còn nhìn thấy chính cái chỗ mà ngày xưa Têrêxa đã ngồi chung với chị em để đọc kinh, nhận tội.
Tất cả những kỷ vật ấy là những kỷ vật đơn sơ,tầm thường của một tu sĩ trẻ, trọn đời tu của mình chỉ là một chuỗi ngày mến Chúa yêu người, thực hiện bằng những công việc lành, bé nhỏ, âm thầm, đơn sơ.
Tôi đi viếng xóm Moussonnet, vào thăm nhà thân sinh của thánh nữ Têrêxa. Gian phòng Têrêxa sống xưa trước khi vào dòng còn nguyên vẹn: Cái giường nhỏ, cái bàn nhỏ, cái áo mẹ may cho Têrêxa đi Rước Lễ Lần Đầu, cái áo mẹ mua cho Têrêxa khi chịu phép Thêm Sức, mấy đồ chơi của trẻ nhỏ, chiếc bút, lọ mực, mấy tập viết và cả đến những tập viết hồi tiểu học, trung học. Rồi cả đến những tập sách Têrêxa đã dùng khi đi học. Đặc biệt là trên bàn còn để tượng Đức Mẹ, tượng mà Têrêxa đã cầu xin và đã nhìn thấy tượng mỉm cười, để chữa bệnh cho Têrêxa khi còn nhỏ. Rồi một tượng Thánh Giá, tượng mà Têrêxa viết là đã cầu nguyện trước tượng ấy để cho một tử tội được ăn năn trở lại. Tất cả những kỷ niệm, kỷ vật đó đều rất đơn sơ bình thường của một nữ sinh. Thời gian trước khi đi tu, cũng chỉ là những chuỗi ngày mến Chúa, yêu người, được thực hiện bằng những công việc lành bé nhỏ, đơn sơ, âm thầm.
Rồi tôi ra vườn thì thấy góc vườn, trong một căn nhà bé nhỏ, còn để lại những đồ chơi của Têrêxa, những chiếc xẻng, chiếc cuốc tí ti mà Têrêxa đã dùng để chăm sóc cụm bông, một nồi nhỏ mà Têrêxa đã dùng để nấu nước trà, vài cái chén nhỏ mà Têrêxa đã dùng để rót nước trà cho các chị, mấy tượng thiên thần Têrêxa mua về để đặt ở vườn chơi. Tất cả những kỷ vật ấy cũng rất đơn sơ tầm thường của một đứa bé, mà dù chơi giỡn vẫn thực hiện được lòng mến Chúa, yêu người, bằng những việc làm nho nhỏ, đơn sơ, bé mọn. Thực là dễ thương, nhưng cái dễ thương nhất, chính là tinh thần thánh thiện đạo đức của Têrêxa. Cái đó mới là cái thu hút khách hành hương tại Lisieux.
Tinh thần đạo đức của Têrêxa tóm tắt gom gọn vào hai chữ yêu thương: Yêu Chúa hết lòng, thương người như thể thương thân. Và yêu thương theo tư cách một đứa nhỏ. Yêu, với tâm hồn khiêm tốn, nhận mình chẳng có gì, nhận mình hèn hạ, nhận mình yếu đuối. Yêu thương với tâm tình phó thác cậy trông. Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Mình là con. Tất cả hy vọng đặt vào tâm hồn người cha.
Yêu thương như một trẻ nhỏ, nghĩa là làm những gì như một trẻ nhỏ quen làm: Không cầu kỳ, không tìm những việc to lớn.
Tại khắp nơi ở Lisieux, tôi thấy những bông hồng: Có những bông hồng trên bàn thờ, có những chậu hồng tại những hành lang, có những cụm hồng ở trước nhà, có những dãy hồng ở các khu vườn. Khi nhìn thấy những bông hồng như vậy, tôi có cảm tưởng thánh nữ Têrêsa nói với tôi rằng: “Khắp nơi ở bất cứ chỗ nào, người ta cũng có thể biến những sự mình gặp, biến những sự mình chịu, biến những sự mình làm thành nên những bông hồng thiêng liêng dâng cho Chúa. Không thiếu cách làm việc lành, dù chỉ những việc làm nho nhỏ, âm thầm”.
Còn tôi, khi nhìn thấy, những bông hồng như vậy, tôi đã thầm nói với thánh nữ Têrêsa: “Ước chi mỗi người thuộc về tôi, cũng sẽ trở nên những bông hồng thiêng liêng trước mặt Chúa”. Và tôi có cảm tưởng rằng, thánh nữ Têrêsa đã nghe lời tôi. Bởi vì tôi gặp biết bao nhiêu người của tôi trong đó có các linh mục, tu sĩ, giáo dân, có thể gọi là những bông hồng thiêng liêng trước mặt Chúa, do thực hiện lòng mến Chúa yêu người, bằng những việc bổn phận hằng ngày đơn sơ bé nhỏ. Ngay lúc này đây, trước mắt tôi, khi nhìn thấy các em đeo bông hồng trước ngực. Tôi vẫn nghĩ rằng, đó chỉ là những biểu hiệu của một tâm hồn đang là những bông hồng trước mặt Chúa.
Anh chị em thân mến.
“Nếu các con không trở nên giống như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”. Khi có Chúa Thánh Linh soi sáng, chúng ta sẽ biết từng trường hợp phải giống trẻ nhỏ thế nào, để đẹp lòng Chúa. Và khi có sức mạnh của Chúa Thánh Linh, chúng ta sẽ biết chịu nhận những hình thức trẻ nhỏ trong đời sống nhân đức và trong đời sống xã hội. Dù sao đi nữa, dù dưới hình thức trẻ nhỏ nào, tôi tin rằng, cái vui nhất của chúng ta là sống lời Chúa hôm nay, và cái bảo đảm nhất cho chúng ta là thực hành lời Chúa dạy: “Hãy giống như trẻ nhỏ, để được vào Nước Trời”. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ thánh Giuse, chiều 09-07-1992.
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại lời Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các môn đệ.
Đọc lời nào tôi cũng cảm thấy rất ngọt ngào, nhưng có một câu đã làm cho tôi suy nghĩ, đó là lời Chúa Giêsu nói với Chúa Cha: “Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian”.
Câu ấy làm cho tôi hiểu rằng: Chúa Kitô đã sai tôi vào thế gian. Chúa Kitô cũng đã sai anh chị em vào thế gian. Chúng ta, tất cả được Chúa Kitô sai đi vào thế gian, để làm chứng cho Chúa. Được sai đi để làm chứng cho Chúa, đó là điều chắc rồi, đó là điều rõ rồi. Nhưng có một điều xem ra chưa rõ, có một điều xem ra chưa chắc đối với chúng ta đó là cách làm chứng cho Chúa.
Chúng ta phải làm chứng cho Chúa thế nào đây tại nước Việt Nam hôm nay, tại địa phương chúng ta đang sống? Bởi vì, khi nói đến những cách làm chứng cho Chúa, chúng ta thấy có nhiều cách khác nhau. Thí dụ: Sự chúng ta sốt sắng đi chịu các phép Bí Tích, năng đọc kinh xem lễ. Sự chúng ta góp phần vào việc xây dựng nhà thờ, cơ sở nhà Chúa. Sự chúng ta hợp nhất với nhau, dưới sự lãnh đạo của cha xứ của mình, sự chúng ta biết giúp những người nghèo khó bệnh tật... Những cách đó đúng là làm chứng cho Chúa.
Riêng tôi, tôi còn thấy một cách nữa, có nhiều khả năng làm chứng cho Chúa, mà hiện nay xem ra ít được nhắc tới. Cách đó là thinh lặng để cầu nguyện, thinh lặng để suy gẫm, thinh lặng để học hành, và nhất là thinh lặng để chu toàn công việc bổn phận của mình. Sở dĩ hôm nay tôi nhắc lại cách làm chứng đó, bởi vì cách đó đã lôi cuốn tôi nhiều nhất. Trong chuyến đi các nước ngoài tháng qua, cái đã làm cho tôi xúc động nhiều nhất, cái đã lôi cuốn tâm hồn tôi mạnh nhất, cái còn ghi lại trong tôi sâu đậm nhất, không phải là những cuộc rước linh đình, cũng không phải là những cuộc lễ tưng bừng, mà chính là những hình ảnh của những con người thinh lặng: Thinh lặng cầu nguyện, thinh lặng suy nghĩ, thinh lặng học hành, thinh lặng chu toàn bổn phận của mình.
Tôi còn nhớ rất rõ những đám đông người, đứng thinh lặng trước hang đá Đức Mẹ Lộ Đức. Tôi không thấy họ đọc kinh gì, nhưng mắt họ nhìn lên tượng Đức Mẹ với cái nhìn đăm chiêu suy nghĩ, với một thái độ cầu nguyện.
Tôi còn nhớ rất rõ hình ảnh những người thanh niên, những cô thiếu nữ, tay cầm tràng hạt đứng dựa vào những gốc cây, bên hang đá Lộ Đức và cầu nguyện âm thầm.
Tôi còn nhớ rất rõ hình ảnh những vợ chồng trẻ, quỳ thinh lặng cầu nguyện trước mộ bà thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu.
Tôi còn nhớ rất rõ hình ảnh những giáo dân âm thầm chia sẻ lời Chúa, hợp từng nhóm nhỏ để cầu nguyện chung với nhau trong những căn nhà chật chội vắng vẻ.
Hình ảnh tôi nhớ nhất, là hình ảnh Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong những lần tôi được đồng tế với Ngài tại nhà cầu nguyện riêng. Tuy bao giờ cũng có nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân tham dự, nhưng tôi thấy không bao giờ Đức Thánh Cha đã giảng, mà Ngài cũng chẳng nói lời gì trước lễ, trong thánh lễ và sau lễ. Trái lại, trước lễ, tôi thấy Đức Thánh Cha quỳ thinh lặng rất lâu để suy gẫm. Sau khi đọc Phúc Âm, tôi lại thấy Đức Thánh Cha ngồi và suy gẫm rất lâu. Sau khi rước Mình Máu Thánh rồi, Đức Thánh Cha lại quỳ xuống, cảm ơn Chúa rất lâu trong thinh lặng. Và sau lễ, khi đã cởi y phục thánh lễ, Đức Thánh Cha lại quỳ cám ơn Chúa rất lâu trong thinh lặng.
Sự thinh lặng cầu nguyện và suy gẫm của Đức Thánh Cha, chính là một bài giảng rất hùng hồn. Nó khuyên bảo tôi hãy bắt chước Ngài, để cầu nguyện, để suy nghĩ. Và, đó là một hình ảnh rất đẹp, tôi không bao giờ quên được.
Cũng nhờ những kinh nghiệm bản thân ấy, tôi càng hiểu lý do tại sao trong lịch sử Hội Thánh có những vị đã bỏ thế gian, đi tìm những nơi thanh vắng để cầu nguyện, để học hành. Tuy vậy, biết bao nhiêu ngàn người đã tìm đến các Ngài.
Cũng tháng trước đây, tôi lên núi Casinô bên nước Ý, để viếng mộ thánh Bênêdictô, Đấng sáng lập dòng, những thế kỷ đầu Hội Thánh. Ngài đã bỏ thế gian, tránh xa người ta, tìm lên núi vắng, để cầu nguyện, để tu hành, để học hành, để nghiên cứu về Chúa và về Hội Thánh. Ấy thế, mà biết bao nhiêu ngàn người vẫn tìm đến Ngài, chỉ muốn được nhìn thấy Ngài cầu nguyện, học hành. Và cho đến hôm nay, người ta vẫn tuôn đến nơi đó, để nhìn khuôn mặt của một người sống thinh lặng, một người đã cầu nguyện suốt đời, một người do tâm hồn suy gẫm, cầu nguyện, đã là một nguồn mạch soi sáng hướng dẫn nền văn hóa Âu Châu. Đúng, là hình ảnh người thinh lặng cầu nguyện, suy gẫm, có một vẻ đẹp tuyệt vời, có một sức mạnh hùng hồn, lôi cuốn người ta. Nhất là trong khi tâm hồn người ta khát khao một cái gì sâu thẳm, một cái gì trong sáng, một cái gì linh thiêng mà người ta không gặp được trong cõi trần này.
Cũng qua những kinh nghiệm bản thân đó, và cũng qua những gương lành tôi nhìn thấy đó, mà tôi càng ngày càng hiểu hơn: Vì sao trong Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu, Đức Mẹ, thánh Giuse cũng đã chọn nhiều thời gian thinh lặng như những cách để làm chứng cho Thiên Chúa.
Đọc Phúc Âm chúng ta thấy, thánh Giuse hầu như thinh lặng. Đức Mẹ thì nói rất ít. Còn Chúa Giêsu thì nói không bao nhiêu mà chỉ làm nhiều. Nhất là một số việc mà sau này các sách bàn tới về Chúa Kitô, thì chính Đức Kitô thì không nói gì. Thí dụ: Sự Ngài giáng sinh tại Bêlem. Thí dụ: Sự Ngài sống 30 năm ẩn dật ở Nagiarét. Thí dụ: Sự Ngài chịu nạn, chịu chết trên núi Golgotha. Thí dụ: Sự Ngài sống lại trong thinh lặng...
Như vậy, chúng ta thấy rằng: Có một cách để làm chứng cho Chúa, đẹp lòng Chúa, mà có sức biến đổi nhân loại, đó là sự con người ta biết trở về thinh lặng để cầu nguyện, để suy gẫm, để học hành, để chu toàn bổn phận của mình một cách chu đáo.
Tôi nghĩ rằng, anh chị em cũng đã có kinh nghiệm ấy phần nào: Khi trong thinh lặng, chúng ta cảm thấy tâm hồn mở ra về phía Chúa, dễ gặp được Chúa. Và khi tâm hồn thinh lặng, chúng ta cũng dễ gặp được chính mình. Và khi tâm hồn thinh lặng, chúng ta vẫn gặp được tha nhân một cách trung thực, trong khiêm tốn và trong bác ái quảng đại bao dung.
Anh chị em thân mến.
Khi tôi nhìn thấy họ đạo Hải Châu của anh chị em đây, là một họ đạo tương đối khiêm tốn về nhiều mặt, về tinh thần cũng như về vật chất, thì tôi nghĩ ngay rằng: Anh chị em vẫn có nhiều khả năng làm chứng cho Chúa, vẫn có nhiều khả năng làm đẹp lòng Chúa, vẫn có nhiều khả năng có một sức mạnh truyền giáo, nhất là gây ảnh hưởng tốt cho con em của mình. Đó là, chúng ta biết lợi dụng hoàn cảnh để đi sâu vào đời sống nội tâm: Thinh lặng cầu nguyện, thinh lặng suy gẫm, thinh lặng chu toàn bổn phận của mình một cách chu đáo. Tôi nghĩ rằng, trong một thời buổi có quá nhiều lời, thì sự thinh lặng trong Chúa vẫn là một giá trị rất đáng quý và sẽ là một cách làm chứng rất hùng hồn cho Chúa. Bởi vì, Thiên Chúa là Đấng thinh lặng, nhưng đầy sức sống, nhất là Chúa Thánh Linh, Ngài đến với những linh hồn chuẩn bị trong thinh lặng. Chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới đón nhận được ơn Chúa Thánh Thần.
Chính vì vậy, điều tôi cầu nguyện cho anh chị em hôm nay, nhất là cho các con em chịu phép Thêm Sức bây giờ, là hãy bắt chước gương Chúa Kitô, Đức Mẹ, thánh Giuse, các thánh, Đức Giáo Hoàng, để giữ linh hồn mình thinh lặng, bình an, biết lợi dụng cảnh sống hôm nay, mặt dù có thiếu thốn, để làm cho tâm hồn nội tâm của mình thêm phong phú. Phong phú nhất, quý giá nhất, là nhờ thinh lặng, ta có Chúa trong lòng ta.
Lạy Chúa, xin ở lại với tâm hồn chúng con, xin giữ tâm hồn chúng con được thinh lặng trong thánh ý Chúa. Amen
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Kitô đã nói về Chúa Cha và với Chúa Cha, Ngài gọi Chúa Cha là người cha gìn giữ con cái: “Lạy Cha, xin gìn giữ chúng khỏi mọi sự dữ”. Người gọi Đức Chúa Cha là người cha thánh hóa con cái: “Lạy Cha, xin thánh hóa chúng trong chân lý”.
Đọc Phúc Âm chúng ta thấy: Đức Giêsu nói về Đức Chúa Cha rất nhiều lần, và lần nào cũng nói bằng những lời thật âu yếm. Có lần Đức Kitô gọi Đức Chúa Cha, chỉ vì muốn gọi tên người mình thương mến. “Abba, Cha ơi”. Có lần Đức Kitô nói về Đức Chúa Cha, để tuyên xưng chính Đức Chúa Cha đã sai Người: “Như Cha đã sai Con vào thế gian thế nào, thì Con cũng sai chúng vào thế gian như vậy”. Có lần Đức Kitô nói với Đức Chúa Cha, để đề cao thánh ý Chúa Cha lên hàng đầu: “Lạy Cha, Con xin đến để làm theo ý Cha... Lạy Cha xin đừng làm theo ý Con, mà hãy làm theo ý của Cha”. Rồi có lần Chúa Kitô nói đến sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con: “Lạy Cha, cũng như Cha và Con là một, thì xin cho các môn đệ của Con cũng hợp nhất với chúng ta”. Rồi có lần Đức Kitô nói với Đức Chúa Cha để cảm tạ ơn Cha: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha, vì Cha đã giấu những điều này với những người khôn ngoan, hiền triết, mà chỉ tỏ ra cho những người hèn mọn”.
Ngoài những lời nói về Chúa Cha một cách thân thương, Chúa Kitô còn đưa ra những hình ảnh về Đức Chúa Cha. Thí dụ: Hình ảnh người cha nhân từ, đi đón người con phung phá trở về. Hoặc là người chăn chiên tận tình, đi tìm con chiên lạc, và khi tìm được nó thì vác nó trên vai. Hoặc là hình ảnh người cha trên trời quảng đại, làm mưa xuống, làm mặt trời mọc lên, để phục vụ kẻ tốt cũng như kẻ xấu.
Khi hiểu biết giáo lý về Đức Chúa Cha như vậy, Thánh Phaolô Tông Đồ đã gọi Đức Chúa Cha là người cha giàu lòng nhân ái, giàu lòng thương xót. Và thánh Gioan Tông Đồ đã cắt nghĩa tình yêu thương xót của Chúa Cha thế này: Thương xót ở chỗ Người đã thương chúng ta khi chúng ta chưa nhận biết Người. Thương xót ở chỗ Người đã thương chúng ta khi chúng ta còn chìm trong tội lỗi. Thương xót ở chỗ Người đã sai Con Một mình xuống thế gian, để gánh tội, đền tội, xóa tội cho ta.
Khi tôi hiểu biết như vậy, và nhất là, khi tôi cảm nghiệm được phần nào lòng thương xót của Chúa Cha, tôi bao giờ cũng cậy trông phó thác nơi tình yêu Thiên Chúa là “Cha giàu lòng thương xót”. Cậy trông, phó thác không phải vì mình có công phúc gì, mà chỉ vì Chúa là Cha nhân lành, mà mình là người con, cha thì thương con, con thì cậy vào Cha, và nhất là vì Chúa là Cha nhân từ, quyền năng, rất thương yêu những kẻ bé mọn, yếu đuối. Nên càng ý thức mình yếu đuối, hèn mọn bao nhiêu thì càng phó mình vào tay Thiên Chúa bấy nhiêu. Và tôi phải nói thật với anh chị em điều này, là khi tôi cậy trông, phó thác nơi Chúa như vậy, thì Chúa sẽ làm tất cả và ở trong tất cả đời tôi. Có những vấn đề tôi tưởng rằng không giải quyết được, nhưng rồi Chúa đã giải quyết cho tôi. Có những khó khăn tôi tưởng không bao giờ vượt qua được, nhưng rồi Chúa đã làm cho những khó khăn ấy tan đi một cách dễ dàng. Có những ước vọng tôi tưởng không bao giờ đạt được, nhưng rồi những ước vọng ấy đã đạt được quá sự tôi mong ước.
Đúng là như lời Thiên Thần đã nói với Đức Mẹ: Đối với Chúa, không có gì là không thể được. Và đúng như lời thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói: Người ta chẳng bao giờ quá cậy trông vào Thiên Chúa là Đấng quyền năng và rất nhân từ.
Anh chị em thân mến.
Càng lớn lên, càng nhiều tuổi, chúng ta càng thấy cuộc đời là chuyến đi dài. Trong đó có những chỗ tốt, có những chỗ xấu, có ánh sáng và có bóng tối, có thành công và có thất bại, có nhân đức và có tội lỗi. Nhưng, đối với một người hy vọng vào Chúa, phó thác nơi Chúa, thì sự cậy trông phó thác ấy sẽ là một hành trang quý giá, giúp cho chuyến đi về tới nơi, tới chốn.
Lúc nãy, khi tôi vừa tới bên nhà xứ, tôi nghe văng vẳng có tiếng hát ca tụng lòng thương xót Chúa và yêu cầu mọi người hãy cậy trông vào lòng thương xót Chúa. Đúng lúc ấy, tôi đang suy nghĩ về sự cậy trông Chúa, và tôi nói với Chúa rằng: Ước chi người ta không phải nghe lời cậy trông Chúa qua tiếng loa, hay qua lời con giảng trong nhà thờ, mà mỗi người hôm nay, tự đáy lòng mình, hãy chân thành nói với Chúa rằng: Hôm nay, ngày mai, suốt cả đời con, con tin vào lòng thương xót Chúa. Con hết lòng cậy trông ở lòng thương xót Chúa, con phó thác toàn thân con, trọn đời con ở lòng thương xót Chúa. Và suốt đời, con sẽ ca tụng lòng thương xót Chúa, không phải bằng tiếng ca, bằng đàn cầm, mà bằng tất cả tấm lòng, bằng tất cả trí khôn, bằng tất cả linh hồn con.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi xin Chúa Thánh Linh, ban cho mỗi người trong chúng ta, nhất là các em chịu phép Thêm Sức được ơn từ nay trở đi, biết tin vào lòng thương xót Chúa, biết phó thác mình vào tay nhân lành của Người Cha nhân từ, luôn luôn yêu mến chúng ta, luôn luôn gìn giữ chúng ta, và luôn luôn sẵn sàng cứu chúng ta khỏi tội, và đưa chúng ta tới chỗ bình an. Amen.
Sau khi đọc bài Phúc Âm hôm nay, tôi đã nói với Chúa Giêsu rằng: Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con là hãy sẵn sàng. Bởi vì, trong giờ chúng con không ngờ thì Con Người sẽ đến. Vậy, xin Chúa cho con biết: Con, cũng như những người tham dự thánh lễ hôm nay, có thực sự là đã sẵn sàng chưa?
Tôi hỏi Chúa như vậy, và Chúa trả lời tôi rằng: Để biết chúng con có thực sự sẵn sàng không, thì cứ căn cứ vào những điều Phúc Âm hôm nay dạy mà xét mình.
Tôi đọc lại bài Phúc Âm hôm nay và tôi thấy rằng: Để gọi là sẵn sàng đón Chúa vào lòng mình, thì chúng ta cần có mấy điều sau đây:
Điều thứ nhất tôi cần có là tôi phải khát khao gặp Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay nói về kẻ mong đợi chủ về. Mong đợi chủ, bởi vì chủ là điểm tựa của mình, bởi vì chủ là ân nhân của mình, bởi vì chủ là kẻ mình thương và là kẻ thương mình. Đây là một hình ảnh đẹp nói về linh hồn mong đợi Chúa.
Linh hồn mong đợi Chúa là một linh hồn khát khao gặp Chúa, không phải chỉ vì Chúa là điểm tựa của mình mà thôi, mà còn vì Chúa là lẽ sống của mình. Chúa là một Thiên Chúa tình yêu tác tạo, mà linh hồn cần phải luôn luôn ca ngợi, cảm tạ. Chúa là tình thương cứu độ, không ai thay thế được, vì linh hồn ta luôn luôn cần đến sự tha thứ cứu độ của Người. Ta cần đến Chúa, vì thế ta khát khao gặp Chúa.
Có lần Chúa phán: “Ta là bánh hằng sống, ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời”. Như vậy, ta khát khao gặp Chúa, bởi vì ta đói Chúa, như kẻ đói cơm đói bánh.
Có lần Chúa phán: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”. Như vậy ta khát khao Chúa, bởi vì ta muốn tìm đường mà đi, ta muốn tìm sự thực mà theo, ta muốn có sự sống để mà tồn tại.
Có lần Chúa phán: “Những ai mệt mỏi, hãy đến với Ta, thì Ta sẽ bổ sức cho”. Như vậy, khi chúng ta khát khao gặp Chúa, là bởi vì chúng ta tin rằng: Chỉ Chúa mới có thể làm cho ta bớt mệt mỏi. Mệt mỏi vì thánh giá bổn phận của mình. Mệt mỏi vì những khó khăn đời sống đè nặng trên vai. Mệt mỏi vì những tội lỗi yếu đuối của mình. Kẻ sẵn sàng đón Chúa là kẻ phải khát khao tìm Chúa. Đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai ta cần có, là đang khi chúng ta khát khao mong đợi Chúa đến lòng ta, thì ta phải thắp lên trong lòng ta ngọn đèn tin mến.
Ngọn đèn tin mến, đó là điều mà bài Phúc Âm hôm nay đã nói về kẻ đợi chủ về. Phúc Âm nói: “Người đợi chủ về, phải mang đèn cháy trong tay”. Ban đêm mà thắp đèn lên, thì là dấu chỉ muốn nhìn một cái gì, muốn đọc một cái gì, muốn sao chép một cái gì, muốn làm một cái gì.
Cũng vậy, khi chúng ta thắp đèn tin mến trong lòng chúng ta lên, là vì chúng ta muốn nhìn dung mạo của Thiên Chúa trong lòng ta, là vì chúng ta muốn đọc thấy ý Chúa trong lòng ta, là vì chúng ta muốn ghi tạc thánh ý Chúa trong đời ta, là vì chúng ta muốn Chúa soi sáng cuộc đời của ta.
Thắp trong lòng ta ngọn đèn tin mến, bằng cách nào? Thưa, bằng sự cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin Chúa ở trước mặt con. Lạy Chúa, con tin Chúa thương con. Lạy Chúa con xin Chúa tha tội cho con. Đó là những lời cầu nguyện vắn tắt, nhưng có sức mạnh đốt lên trong lòng ta ngọn đèn tin mến.
Kinh nghiệm cho chúng ta hay: Đốt lên trong lòng mình ngọn đèn tin mến, không phải là chuyện dễ đâu. Vì thế, có lần Chúa Giêsu đã dạy bảo các Tông Đồ cách ân cần khi các Tông Đồ cảm thấy khó mà tin được. Có lần các Tông Đồ đã xin Chúa Giêsu: Xin Thầy giúp cho các con tin.
Cũng vậy, khi chúng ta cảm thấy khô khan nguội lạnh, chúng ta cứ nói đi, nói lại với Chúa: Lạy Chúa, xin giúp cho con tin Chúa. Xin giúp cho con cảm thấy Chúa thương con. Nói đi nói lại nhiều lần, từ đáy lòng mình, với lòng tin đơn sơ như trẻ nhỏ: Tin không điều kiện, tin tuyệt đối, tin hoàn toàn triệt để, tin bởi Chúa là Cha, tin bởi vì ta là con Chúa mà thôi. Hãy thắp lên trong lòng ngọn lửa tin mến. Đó là điều thứ hai để sẵn sàng đón Chúa vào tâm hồn mình.
Điều thứ ba ta cần có: Đó là khi mong đợi Chúa đến ta cần thắt lưng tỉnh thức.
Bài Phúc Âm hôm nay nói về kẻ đợi chủ về, thì thắt lưng lại và tỉnh thức. Thắt lưng là tư thế của người sẵn sàng từ bỏ mình, sẵn sàng làm việc, là người trút bỏ một giấc ngủ ngon để đứng đợi chờ chủ về.
Tư thế ấy cũng là tư thế của một linh hồn trông đợi Chúa đến. Nhất là trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa nói một câu đáng cho chúng ta lo ngại. Chúa nói rằng: Chúa đến trong giờ các con không ngờ đến.
Tôi thí dụ trong thánh lễ hôm nay. Từ đời đời Chúa đã định rằng: Chung chung Chúa sẽ đến với từng người. Nhưng với từng người, Chúa sẽ đến vào giờ khác nhau, với một cách khác nhau. Chẳng hạn, như với người này, Chúa định rằng: Đúng 7g17 phút hôm nay, Chúa đến với họ. Nếu họ không tỉnh thức, không biết đón Chúa vào lòng, thì họ sẽ lỡ một cơ hội, và biết đâu Chúa lại ra đi mà lâu lắm mới trở lại.
Tỉnh thức đợi chờ, vì không biết được giờ nào Chúa đến, có nghĩa là Chúa không phải là một người khách mà chúng ta có quyền định giờ để đón. Chúa không phải là một con mồi mà người ta có quyền gọi đến bất cứ lúc nào thì phải đến. Chúa đến với mỗi người vì Chúa chủ động đến, vì Chúa hẹn giờ đến, vì Chúa chọn cách đến, chứ không phải là hễ chúng ta làm dấu thánh giá gọi Chúa là Chúa phải đến. Chúa đến trong giờ chúng ta không ngờ tới nên chúng ta phải tỉnh thức sẵn sàng.
Anh chị em thân mến,
Trên đây là 3 điều cần, để gọi được là chúng ta sẵn sàng đón nhận Chúa vào lòng:
- Một là chúng ta phải khát khao gặp Chúa, vì chúng ta rất cần đến Chúa. - Hai là chúng ta phải thắp lên trong lòng ngọn lửa tin mến. - Ba là chúng ta phải thắt lưng, hãm mình và tỉnh thức đợi chờ.
Khi căn cứ vào 3 điều trên đây để xét mình, tôi thấy tôi lo ngại cho tôi, và càng lo ngại cho anh chị em. Bởi vì tôi thấy rằng: Rất nhiều khi, kể cả trong những lễ Thêm Sức, chúng ta chuẩn bị rất nhiều điều bề ngoài: Có xưng tội, có dọn mình, có sắp xếp công việc trật tự. Nhưng, biết đâu, chúng ta lơ là trong việc chuẩn bị đời sống bên trong. Không giục lòng khát khao Chúa, không đốt lên trong lòng ngọn lửa tin mến, không thắt lưng và tỉnh thức đợi chờ?.
Tôi lo ngại nhất, là vì như tôi mới nói: Chúa đến với mỗi người, trong giờ chúng ta không ngờ. Vì thế, chúng ta đừng chủ quan, cứ tưởng rằng: Ta muốn Chúa đến lúc nào là Chúa đến lúc ấy. Đừng tưởng rằng chúng ta hoạch định chương trình để đón Chúa thì Chúa phải theo chương trình ấy. Không phải thế đâu! Đó là điều chúng ta nên nhớ để luôn luôn sẵn sàng đón Chúa, do thái độ nội tâm của ta luôn khát khao Chúa, luôn tin Chúa thương yêu, luôn tin Chúa cứu độ và luôn luôn khiêm tốn, cậy trông, tỉnh thức đón chờ.
Trong thánh lễ hôm nay, và nhất là trong giờ phút sắp tới, chúng ta tập trung lòng trí lại, kêu van Chúa Thánh Thần: Xin Chúa đổi mới tâm hồn chúng ta, con em chúng ta, để từ nay tâm hồn chúng ta trở nên khát khao Chúa, biết tin mến Chúa và biết tỉnh thức đợi chờ Chúa đến.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin soi sáng dẫn đường chúng con. Xin đổi mới tâm hồn chúng con. Amen.
Khi suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay, tôi có cảm tưởng đây là một lá thư quý giá Chúa gửi chung cho Hội Thánh, và gửi riêng cho mỗi người chúng ta. Qua lá thư này, Chúa cho chúng ta biết, Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Chúa mong muốn cho mọi người đạt tới cùng đích cuộc đời, đó là được sống trong tình yêu Thiên Chúa, được chia sẻ hạnh phúc đời đời với Chúa. Để đạt tới cùng đích ấy, mỗi người phải sống sao cho tốt.
Nhưng để sống cho tốt, thì ta phải biết chọn lựa đúng.
Chọn lựa thứ nhất mà hôm nay Chúa dạy chúng ta là hãy chọn lựa phần rỗi linh hồn mình, hơn tất cả những lợi ích thế gian này.
Chúa phán: “Nếu được mọi sự thế gian này, mà sau cùng mất linh hồn mình, thì nào được ích gì?”. Lời Chúa phán, thực là rõ ràng: Chúa so sánh một bên là lợi ích cả thế gian, và một bên là phần rỗi linh hồn mình. Bên lợi ích thế gian coi thực là to lớn. Thí dụ: Nếu mọi của cải thế gian này đều nằm trong tay tôi. Nếu mọi người thế gian này đều thuộc quyền tôi. Nếu mọi sung sướng thế gian này đều phục vụ tôi, thì tất nhiên, lợi ích đó là rất to lớn. To lớn không gì sánh được, như bề ngoài chúng ta vẫn thấy.
Tuy nhiên, Chúa dứt khoát khẳng định rằng: Nếu được tất cả những lợi ích thế gian đó mà sau cùng mất linh hồn mình, thì nào có lợi gì đâu. Bởi vì Chúa thấy: Cái lợi do được cứu rỗi linh hồn còn to lớn gấp bội cái lợi của thế gian. Có nghĩa là Chúa dạy: Nếu có một cái lợi ích nào đó, mà thế gian sẽ hoạch trả bằng sự tội, gây hại cho phần rỗi linh hồn, thì ta đừng dại dột chạy theo lợi ích thế gian đó. Bởi vì mất linh hồn sẽ là mất hết và hơn thế nữa, còn sẽ là phải chịu muôn vàn đau đớn, chồng chất, đời đời. Vì thế, Chúa dạy ta: Để đạt tới cùng đích cuộc đời, hãy biết chọn phần rỗi linh hồn mình, hơn tất cả lợi ích thế gian này.
Lựa chọn thứ hai, mà Chúa dạy ta hôm nay là dạy ta chọn con đường thánh giá, hơn những con đường thênh thang buông thả.
Chúa phán: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta”. Khi tôi nói đến con đường thánh giá, tôi biết rằng: Chúng ta, nhất là anh chị em, hằng ngày vẫn đi trên con đường đau khổ. Hằng ngày vẫn phải vác nhiều thánh giá trên vai, và thường xuyên vẫn gặp biết bao nhiêu thánh giá mới mẻ, tức là những đau khổ phần hồn phần xác.
Tôi cũng biết rằng: Khi nói về thánh giá, chúng ta cần bớt đi thánh giá, hơn là thêm lên thánh giá cho mình và cho kẻ khác. Bởi vì có những đau khổ không cần thiết, nhất là có những đau khổ gây hậu quả tiêu cực, hơn là những hậu quả tích cực.
Tuy nhiên, suy gẫm Lời Chúa, tôi thấy rằng: Chúng ta có những thánh giá, không những không thể tránh được, mà còn là những thánh giá cần phải ôm lấy mà vác đi. Bởi vì những thánh giá ấy là nguồn mạch sinh ơn cứu độ cho ta và cho kẻ khác.
Những thánh giá ấy là những thánh giá nào? Tôi thí dụ: Đó là những đau khổ thường xuyên, chúng ta phải phấn đấu để chu toàn bổn phận hằng ngày. thánh giá đó là những vất vả chúng ta phải phấn đấu chịu đựng để thăng tiến mình và thăng tiến người khác. Thăng tiến bao giờ cũng phải vất vả, cũng như chuyến đi bao giờ cũng gánh chịu những mồ hôi, những vất vả, những khó khăn.
Rồi thánh giá, đó là những đau khổ, những vất vả chúng ta phải phấn đấu với ngoại cảnh, với chính mình để góp phần vào sự cứu rỗi người khác và cứu rỗi chính mình. Bởi vì chúng ta không thể không góp phần vào máu Chúa Kitô trên thánh giá, và không thể được rỗi linh hồn. Khi chúng ta không chịu từ bỏ mình, từ bỏ tội lỗi, để đi vào con đường luật Chúa và luật Hội Thánh.
Anh chị em thân mến.
Mặc dầu có biết bao nhiêu khó khăn, tôi thấy anh chị em đã vui lòng chấp nhận, đã can đảm lướt thắng.
Thí dụ: Ngay cuộc lễ hôm nay, trời mưa, đường xấu, bao nhiêu công việc làm ăn, anh chị em vẫn đến nhà thờ đông đảo, sống những giây phút sốt sắng. Đúng là anh chị em đã có những lựa chọn mà Chúa dạy hôm nay. Lựa chọn phần rỗi linh hồn mình hơn tất cả những lợi ích thế gian. Lựa chọn con đường thánh giá hơn tất cả vì những thánh giá ấy sinh ơn cứu độ cho mình, cho con em mình, cho xã hội mình.
Tuy nhiên, chúng ta thừa biết: Chúng ta vẫn còn nhiều tối tăm, chúng ta vẫn còn nhiều yếu đuối. Nhiều khi không nhìn rõ, đâu là lợi, đâu là hại cho phần rỗi linh hồn mình. Và mặc dầu có nhìn thấy, nhiều khi không đủ sức để thực hiện điều mình đã chọn. Vì thế, chúng ta cần cầu nguyện rất nhiều, cầu nguyện với lòng khiêm nhường, cầu nguyện với sự cậy trông.
Xin Chúa Thánh Thần, ban ơn soi sáng cho ta, để trong cuộc đời, với đức tin mạnh, chúng ta nhìn rõ đâu là lợi, đâu là hại cho phần rỗi. Và xin Chúa Thánh Thần ban sức mạnh cho chúng ta, để chúng ta biết can đảm thực hiện những lựa chọn của mình.
Lát nữa đây, chúng ta cùng với con em chúng ta tuyên xưng đức tin, và tuyên bố sự từ bỏ: Từ bỏ tội lỗi, và từ bỏ những con đường không hợp thánh ý Chúa. Chúng ta xin Chúa Thánh Thần, giúp cho chúng ta biết thật sự. Muốn thực hiện những điều chúng ta tuyên bố lát nữa đây. Bởi vì, theo kinh nghiệm, nếu không có ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta hầu như không thực hiện được những lựa chọn của chúng ta: Lựa chọn phần rỗi, lựa chọn con đường thánh giá.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban ơn soi sáng. Xin ban ơn sức mạnh, để mỗi người chúng con trở nên như ngọn đèn sáng, để trái tim chúng con là ngọn lửa hồng, và đời sống chúng con trở nên nhân chứng của tình yêu Chúa. Amen.
Chiều hôm qua tôi ghé lại nhà thờ Thạnh An nầy. Tôi thấy các em và những người phụ trách đang tích cực chuẩn bị cho cuộc lễ Thêm Sức hôm nay. Và từ lúc nãy cho đến bây giờ, tôi thấy công việc chuẩn bị đi vào chiều sâu của tâm hồn.
Chuẩn bị cho lễ Thêm Sức: Đó là việc mà anh chị em đã làm từ nhiều ngày nay, với nhiều nhiệt tình, và bằng nhiều cách. Tất cả những chuẩn bị như vậy đều rất tốt.
Riêng tôi, mỗi khi sắp sửa làm lễ Thêm Sức, tôi cũng chuẩn bị chính bản thân tôi. Tôi muốn nói về sự chuẩn bị tâm hồn mình. Tôi đã chuẩn bị tâm hồn tôi thế nào? Đó là điều tôi muốn chia sẻ với anh chị em hôm nay cách chân tình vắn tắt. Thưa anh chị em.
Tôi phải nói ngay rằng: Sự chuẩn bị của tôi, tập trung vào tâm tình khát khao chờ đợi Chúa đến. Bởi vì tôi quan niệm rằng: Mong chờ Chúa, chờ đợi Chúa, đó là điều căn bản nhất của lời Chúa truyền dạy cho các Tông Đồ để chuẩn bị phép Thêm Sức.
Bài đọc 2 “Tông Đồ Công Vụ” mà chúng ta vừa nghe lúc nãy có kể lại rằng: Trong một bữa ăn, Chúa Giêsu truyền cho các Tông Đồ: “Chớ rời khỏi Giêrusalem nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha hứa ban”.
Rồi bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe cũng ghi lại lời Chúa truyền cho các môn đệ: “Các con hãy chờ đợi Đấng phù trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến với các con, nhân danh Thầy”.
Chờ đợi Chúa Thánh Thần đến, đó là lệnh truyền của Chúa Kitô. Chờ đợi Chúa Thánh Thần đến, đó là thánh ý rõ ràng nhất Chúa Giêsu để lại, giúp cho chúng ta chuẩn bị lễ Thêm Sức.
Đợi chờ Chúa Thánh Thần, không có nghĩa là dửng dưng. Trái lại, đợi chờ là mong mỏi, đợi chờ là khao khát. Các môn đồ Chúa Kitô, khi tụ họp nhau lại trong tuần, đợi chờ Chúa Thánh thần, thì không có ý cùng nhau bàn luận xem cách nào để xây dựng Hội Thánh, cách nào để đi truyền giáo, mà chỉ vâng lời: Tụ họp lại, để chờ đợi Chúa Thánh Thần đến. Các Ngài đã diễn tả sự chờ đợi ấy bằng lời cầu nguyện.
Kinh Thánh không cho chúng ta biết các Tông Đồ đã đọc những kinh gì. Nhưng theo nội dung các điều trước sau ghi trong Kinh Thánh, tôi hiểu rằng: Các Tông Đồ đã diễn tả lòng mong đợi Chúa Thánh Thần đến, bằng cách hướng tâm hồn mình lên Chúa, và nói với Chúa niềm tin của mình.
Hoặc là nói với Chúa niềm tin của mình vào lời Chúa hứa: Lạy Chúa, Chúa đã hứa chắc chắn rằng: Đấng phù trợ sẽ đến. Con tin là như vậy. Xin Chúa giữ lời Chúa hứa. Con tin chắc rằng, sự gì Chúa hứa, Chúa sẽ thực hiện. Lạy Chúa, xin Chúa mau đến.
Hoặc là nói lên niềm tin của mình vào lòng thương xót Chúa: Lạy Chúa, con tin Chúa thương con trước khi con biết Chúa. Con tin Chúa thương con đang khi con còn chìm trong tội lỗi. Xin Chúa đến với con.
Hoặc là các Tông Đồ nói với Chúa niềm tin của mình và những ơn Chúa Thánh Thần sẽ ban cho: Lạy Chúa, Chúa là Đấng dạy dỗ mọi sự, Chúa là Đấng ban sức mạnh, Chúa là Đấng an ủi, Chúa là Đấng soi sáng, chúng con rất cần đến Chúa. Lạy Chúa, xin Chúa mau đến.
Hoặc là các Ngài nói về niềm tin của mình vào ơn Chúa ban cho mình: Lạy Chúa, con tin Chúa là gia nghiệp đời con. Con tin Chúa là hạnh phúc của con. Con tin Chúa là niềm hoan lạc của con. Con cần Chúa sống trong con. Con cần Chúa sống bên con. Nói với Chúa về niềm tin của mình, đó là những lời cầu nguyện tha thiết nhất, chân thành nhất phát xuất từ đáy tâm hồn mình. Cầu nguyện như vậy là việc rất tốt để chuẩn bị đón chờ Chúa Thánh Linh.
Nhưng, các Tông Đồ chưa cho những việc đó là đủ, các Ngài còn diễn tả sự mong chờ Chúa đến bằng cách chia sẻ tâm tình bác ái với nhau. Sách Tông Đồ Công Vụ cũng ghi lại rằng: Khi các môn đệ Chúa tụ họp nhau cầu nguyện, thì các Ngài sống bên nhau, chia sẻ cho nhau hy vọng và lo âu của mình, và cùng hợp tâm hợp ý với nhau, hướng lòng lên đợi chờ Chúa.
Chia sẻ tâm tình bác ái như vậy, là một sự hiệp thông huynh đệ.
Hiệp thông huynh đệ là các Ngài chấp nhận nhau, mặc dù trong các Ngài có những người giàu, có những người nghèo, có những người đạo đức và có những người tội lỗi, khô khan.
Hiệp thông huynh đệ còn là biết tha thứ cho nhau, vì sống bên nhau, tránh sao cho khỏi những va chạm.
Rồi hiệp thông huynh đệ, còn là nâng đỡ nhau, lo lắng cho nhau, quan tâm phục vụ lẫn nhau và chu toàn bổn phận riêng của mình đối với cộng đoàn.
Anh chị em thân mến,
Đợi chờ Chúa Thánh Linh bằng sự khát khao mong mỏi Chúa, cầu nguyện và hiệp thông huynh đệ. Đó là điều tôi thường làm và cố gắng làm mỗi khi tôi làm phép bí tích Thêm Sức.
Lúc nãy, trời đổ mưa lớn. Khi nhìn thấy trời mưa toan phá hủy cuộc rước và những sinh hoạt bề ngoài dự định cho cuộc lễ hôm nay, tôi có cảm tưởng rằng: Chúa muốn xóa đi, bớt đi những cái chuẩn bị bề ngoài, để linh hồn ta trở về chiều sâu hơn bên Chúa, để biết chờ đợi Chúa Thánh Thần một cách chân thành và sâu sắc hơn, bằng sự tăng cường lời cầu nguyện, bằng cách tâm tình nói năng, niềm tin với Chúa và bằng sự hiệp thông huynh đệ với nhau.
Giờ đây, chúng ta cử hành bí tích Thêm Sức, chúng ta cũng hãy khiêm nhường đón chờ Chúa. Chúa Thánh Thần không phải là Đấng mà chúng ta sai lúc nào thì Ngài phải đến lúc đó. Chúa Thánh Thần không phải là một đồ vật mà chúng ta có thể mua được bằng các việc chúng ta làm. Ngài đến giờ phút nào, bằng cách nào, chúng ta không biết.
Nhiệm vụ chúng ta chỉ phải là đợi chờ, cầu nguyện và dọn lòng mình cho bác ái nhiều hơn, để khi Ngài đến, chúng ta biết nhận ra Ngài, đón nhận Ngài.
Vì thế, trong giờ phút trọng đại này, chúng ta tin Chúa Thánh Thần đang gõ cửa lòng chúng ta, chúng ta hãy tăng cường lòng tin, cậy, mến và chúng ta hãy cầu nguyện thầm lặng trong tâm hồn.
Xin Chúa đến. Xin Chúa đến với ta. Xin Chúa đến với con em chúng ta. Xin Chúa đến với tất cả cộng đoàn chúng ta. Amen.
Nhiều người hỏi tôi rằng: Đức Cha mới đi Tây, chắc là Đức Cha đã thấy nhiều điều mới, đã nghe được nhiều điều lạ. Trong những điều mới lạ ấy, sự gì đã gây nơi Đức Cha những ấn tượng sâu sắc nhất?
Tôi xin trả lời: Đúng là tôi đã được nghe, được thấy nhiều điều mới lạ. Trong những cái mới lạ ấy, sự đã gây được nơi tôi những ấn tượng sâu sắc nhất, chính là những nhóm đạo đức mà tôi tạm gọi là những “Cộng đoàn lời Chúa”.
Sở dĩ tôi nói “Những cộng đoàn lời Chúa” trên đây đã gây được nơi tôi những ấn tượng sâu sắc là bởi vì, khi tôi bước vào những cộng đoàn này, thì tự nhiên tôi cảm thấy một bầu không khí thiêng liêng khác thường. Trong bầu không khí thiêng liêng khác thường này, nó có một cái gì siêu nhiên, có một cái gì bình yên, có một cái gì là tự do hồn nhiên, có một cái gì là chân thành đơn sơ, có một cái gì là mến Chúa yêu người.
Khi bước vào những cộng đoàn này, tôi có cảm tưởng là tôi bước vào căn nhà, mà sách Tông Đồ Công Vụ chúng ta vừa nghe lúc nãy đã kể lại: Một căn nhà có luồng gió Chúa Thánh Thần đang thổi. Một căn nhà có những ngọn lửa Chúa Thánh Thần đậu trên đầu từng người. Tôi không thấy gió thổi, nhưng tôi cảm thấy đúng là có luồng gió Chúa Thánh Linh “Tin cậy” đang lùa vào tôi. Tôi không thấy lửa, nhưng tôi cảm thấy rõ ràng: Có một thứ “Lửa mến Chúa, yêu người” đang đốt lên trong lòng những người thuộc cộng đoàn đó.
Cảm nghĩ trên đây của tôi càng được giải thích, khi tôi tham dự những sinh hoạt của cộng đoàn, khi tôi trao đổi trò chuyện với họ, khi tôi sống bên họ lâu giờ.
Một điểm đặc sắc nhất của nhóm lời Chúa, là họ rất tha thiết với lời Chúa. Họ vẫn nhận lời Chúa một cách say mê và bén nhạy. Họ đón nhận bằng cách họ năng thinh lặng đọc lời Chúa, năng thinh lặng lắng nghe lời Chúa, năng thinh lặng suy gẫm lời Chúa, năng thinh lặng cầu nguyện theo nội dung lời Chúa. Họ đón nhận lời Chúa, bằng cách họ hăm hở học Kinh Thánh và thích tra cứu những môn khoa học có liên hệ với Thánh Kinh. Họ đón nhận lời Chúa, bằng cách họ theo dõi những phong trào đạo đức do lời Chúa khơi dậy lên hiện nay, khắp nơi trên thế giới.
Họ tin vào lời Chúa. Họ tin một cách tuyệt đối. Họ tin lời Chúa là lời ban sự sống. Vì thế, họ coi từng lời Chúa còn hơn là cơm ăn, nước uống, còn hơn là một toa thuốc bổ.
Họ tin lời Chúa là lời thánh hóa. Vì thế, họ gắn bó với lời Chúa như một sức mạnh xua đuổi ma quỷ, như một sức mạnh đổi mới tâm hồn, như một sức mạnh mở kho tàng ơn thánh.
Họ tin vào lời Chúa là Tin Mừng cứu độ. Vì thế, họ muốn đi vào thế gian, chia sẻ lời Chúa cho thế gian và cho những người chung quanh.
Khi sống giữa những nhóm người đạo đức này, tôi có cảm tưởng họ là những người mà Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay, khi Chúa đề cập đến những người đã nhận lời Cha, đã tuân giữ lời Cha, đã được thánh hóa bởi lời Cha, bởi lời chân lý. Họ là những người không thuộc về thế gian, nhưng được sai vào thế gian.
Những người trong nhóm lời Chúa đây, khi đi làm chứng cho Chúa, họ thường nói tới Chúa Thánh Thần. Họ kể lại cho tôi, cho những người chung quanh, sự họ đã nhận ra Chúa Thánh Thần đến với họ thế nào. Họ kể lại Chúa Thánh Thần đổi mới họ trong trường hợp nào. Họ kể lại Chúa Thánh Thần hướng dẫn họ ra sao? Họ kể lại Chúa Thánh Thần sai họ đi thế nào? Có nghĩa là: Khi họ làm chứng cho Chúa, họ không trình bày lý thuyết đạo lý suông, mà họ chia sẻ kinh nghiệm sống động của họ. Qua những kinh nghiệm sống động riêng của họ, họ cho thấy Chúa Thánh Thần là một Đấng sống động đã đến với họ, đã can thiệp vào đời họ. Can thiệp như một người đem đến cho họ tình thương, đem đến cho họ niềm an ủi, bình an, đem đến cho họ một chân trời mới. Chúa Thánh Thần đến để soi sáng cho họ cách diễn tả đức tin với một phương pháp mới, với một hứng khởi mới. Chúa Thánh Thần đến với họ, để tẩy rửa con người của họ khỏi cái tôi tầm thường, cái tôi ích kỷ, cái tôi hẹp hòi, kiêu căng.
Khi giao tiếp với những người trong nhóm này, tôi càng hiểu hơn: Cộng đoàn như vậy, đúng là một trung gian. Chúa đến với tôi, đến với người khác, qua trung gian những người đạo đức như họ.
Khi bước vào những cộng đoàn đạo đức ấy, người ta có cảm tưởng là ơn rửa tội sống lại trong mình, như một bóng bình minh, sáng rực lên đầy niềm hy vọng, như một dòng sông tràn đầy sức sống tin yêu, có một sự sống lại trong linh hồn mình.
Anh chị em thân mến,
Sở dĩ hôm nay tôi nói về ấn tượng sâu sắc, tôi đã nhận được từ những cộng đoàn lời Chúa, là vì tôi muốn nói lên với anh chị em một mong muốn của tôi, mong muốn đó là mong muốn có những cộng đoàn như vậy trong địa phận chúng ta. Mỗi họ đạo phải là một cộng đoàn lời Chúa. Mỗi giới hãy là một cộng đoàn lời Chúa. Mỗi nhóm đạo đức hãy sống như là một cộng đoàn lời Chúa. Một cộng đoàn tha thiết với lời Chúa, thinh lặng cầu nguyện theo nội dung lời Chúa, được sai đi bởi Chúa Thánh Linh, làm chứng cho Chúa qua kinh nghiệm mà Chúa Thánh Thần đã làm trong chính bản thân mình.
Sáng hôm nay, trước thánh lễ, tôi đã nghe cha xứ ở đây hướng dẫn cộng đoàn cầu nguyện để cầu xin ơn sống trong lời Chúa, theo lời Chúa, biết mộ mến lời Chúa. Khi tôi nghe hướng dẫn như vậy, tôi rất vui mừng. Và tôi nghĩ rằng sự cầu nguyện như vậy là đúng thánh ý Chúa, và đường hướng mục vụ dựa trên lời Chúa là một đường hướng mục vụ hợp thánh ý Chúa. Tôi mong muốn đường hướng sống đạo theo lời Chúa sẽ được tiếp tục, sẽ được phát triển để mỗi khi những người khác cũng như tôi, bước vào họ đạo anh chị em, được cảm thấy như bước vào một căn nhà đầy Chúa Thánh Linh, có một không khí đạo đức tràn đầy, có một sức hấp dẫn thiêng liêng cuốn hút mình lên, để trong mình chỉ còn là tiếng gọi của Thiên Chúa, và những thao thức về phần rỗi linh hồn.
Trong giờ phút này, tôi cầu xin và xin anh chị em cũng cầu xin, để Chúa Thánh Linh giúp cho họ đạo chúng ta, và cho con em chúng ta biết ý thức tham gia vào những cộng đoàn lời Chúa như vậy. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, có một lời tôi rất ưa thích, có một câu đã là lời ban sự sống thực sự cho tôi, đó là lời Chúa Giêsu cầu nguyện với Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, chúng thuộc về Cha và Cha đã ban chúng cho con và chúng đã tuân giữ lời Cha”.
Qua những lời trên đây Chúa đã dạy tôi: Phải sống đức tin thế nào? Giờ đây tôi muốn chia sẻ vắn tắt với anh chị em những gì Chúa đã đạy tôi trong câu Chúa Giêsu đã cầu nguyện.
Anh chị em thân mến,
Khi Chúa Giêsu cầu nguyện với Đức Chúa Cha: “Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho con”, thì không một ai trong chúng ta đã sinh ra, thế nhưng Chúa Giêsu nhìn thấy trước từng người. Chúa biết chúng ta chẳng là gì. Chúa biết chúng ta chẳng có gì. Hơn nữa, Chúa còn biết chúng ta yếu hèn, tội lỗi. Thế mà Chúa đã nói: Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho con. Có nghĩa là từ đời đời, Chúa đã nhận chúng ta vào số những kẻ thuộc về Chúa.
Đây là một Tin Mừng rất lớn lao đối với chúng ta. Cái niềm vui này, tôi thường nhắc lại với Chúa, mỗi khi cầu nguyện: Lạy Chúa, con đây thuộc về Chúa. Tôi hay nói lời ấy với Chúa. Lời ấy trở nên một lời tôi hay dùng để chào Chúa mỗi khi tôi nhớ tới Chúa. Lạy Chúa, con đây thuộc về Chúa.
Khi nói lời ấy với Chúa, tôi cảm thấy như mắt được mở ra và tôi thấy Chúa đến gần tôi. Tôi thấy Chúa ở trước mặt tôi, tôi thấy Chúa ở bên tôi. Và lúc bấy giờ, tôi cảm thấy rõ ràng: Sống đức tin, chính là gặp gỡ Thiên Chúa.
Chúa Giêsu, Chúa Cha, Chúa Thánh Thần là những Đấng thiêng liêng. Tuy vậy, khi chúng ta nhận biết Ngài là Chúa của chúng ta và ta thuộc về Thiên Chúa, thì tự nhiên chúng ta cảm thấy Chúa thiêng liêng ở gần chúng ta.
Nếu có ai hỏi tôi rằng: Khi gặp gỡ Chúa như vậy thì thấy Chúa thế nào? Tôi xin trả lời ngay rằng: Cảm tưởng đầu tiên của tôi về Chúa là Chúa rất yêu thương chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh đã nói về Chúa: Chúa yêu thương chúng ta trước khi chúng ta biết Chúa. Chúa yêu thương chúng ta đang khi chúng ta còn chìm trong tội lỗi. Và đúng như Chúa Giêsu đã mạc khải: Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi chịu nạn, chịu chết để cứu chuộc chúng ta. Tình yêu của Chúa đến với chúng ta, vì muốn cứu độ chúng ta.
Vì vậy, khi gặp gỡ Chúa tôi cảm thấy rằng, mình càng nhận biết mình tội lỗi, yếu đuối bao nhiêu, thì càng là một lời cầu khẩn, để Chúa đến với mình bấy nhiêu. Có nghĩa là mỗi khi gặp Chúa, tôi cảm thấy Chúa thúc đẩy mình phải trở về với Chúa nhiều hơn. Bởi vì Chúa thương mình. Bởi vì Chúa đến cứu độ mình. Không lẽ để một người thương mình phải luôn buồn bã vì mình. Phải trở về với Chúa. Đó cũng là một cách sống đức tin.
Tôi mới đến Lộ Đức ở bên Pháp, để cầu nguyện với Đức Mẹ. Mỗi khi đến đó, tôi lại có dịp đọc lại lời nhắn nhủ của Đức Mẹ. Đức Mẹ nhắn nhủ loài người ăn năn sám hối trở về. Và mỗi lần đến Lộ Đức, tôi lại có dịp nhìn thấy cảnh bao người ăn năn sám hối bằng sự họ quì xuống đọc kinh, giang tay lên trời, hôn đất, đi xưng tội, rước lễ. Trở về với Chúa như vậy, đúng là một cách sống đức tin. Đó là một cách gặp gỡ Thiên Chúa là tình yêu cứu độ.
Anh chị em thân mến,
Qua những lời cha sở mới nói lúc nãy và qua khung cảnh anh chị em đang dự lễ bây giờ, tôi thấy rằng họ đạo anh chị em, đúng là những người thuộc về Chúa. Đúng là những người đang cố gắng thuộc về Chúa hơn.
Hôm nay, lễ Thêm Sức, lại một lần nữa Chúa nhắn nhủ anh chị em: “Chúng con hãy thuộc về Cha nhiều hơn”. Chúa Thánh Thần sẽ xuống từng người, sẽ ban ơn cần thiết cho từng người, sẽ dạy dỗ chúng ta nhiều điều mà chúng ta chưa biết. Nhất là sẽ giúp cho chúng ta biết yêu mến Chúa nhiều hơn. Biết thương yêu phục vụ con người nhiều hơn. Để chúng ta thuộc về Chúa nhiều hơn.
Lạy Chúa, con đây thuộc về Chúa. Đây là lời vắn tắt mà tôi nhắn gởi anh chị em, để mỗi lần anh chị em nhớ lại ngày hôm nay Thêm Sức, anh chị em sẽ nhớ lời: “Con thuộc về Chúa”. Để nhờ đó mà cầu nguyện, để nhờ đó mà van nài Chúa đến với mình.
Một khi nhận biết mình thuộc về Chúa và Chúa yêu thương ta. Chúng ta sẽ thấy bình an trong tâm hồn. Chúng ta sẽ cảm thấy một sự hứng khởi, để biết tận dụng giây phút hiện tại và những cái có trong tầm tay để mến Chúa, để yêu người, và dùng những cái đó làm những bước đi tiến về phần rỗi đời đời.