Xuân đang đẹp trong thiên nhiên. Xuân đang đẹp trên đất nước. Nhưng xuân đẹp nhất là xuân trong lòng người. Xuân đẹp trong lòng người, khi lòng người mang những đức tính tốt, không ngừng vươn tới mức độ đẹp hơn, và luôn luôn vươn tới những vẻ đẹp mới.
Những đức tính tốt làm nên mùa xuân tâm hồn đã được Đức Kitô nêu lên trong Phúc Âm, đặc biệt là trong bài giảng về Tám Mối Phúc. Xin kể ra đây những đức tính căn bản: đó là đức bác ái xót thương, đức khiêm nhường đơn sơ, đức hiền từ hoà nhã, đức công chính đầy phấn đấu.
Những đức tính trên đây tự chúng vốn đẹp. Theo cái nhìn của Phúc Âm, chúng chỉ là dấu chỉ sự thắng thế của sức mạnh điều thiện trên điều ác. Hơn nữa, khi nhìn thấy ai có những đức tính tốt đó, người ta có thể nhận ra sự hiện diện của ơn thánh cứu độ. Một cách nào đó, những người mang mùa xuân tâm hồn như thế sẽ là chứng nhân của Nước Trời; một Nước Trời tươi đẹp trong lòng họ.
Sở dĩ với những đức tính đó, họ là chứng nhân của Nước Trời, bởi vì những đức tính ấy mang một chiều kích rất cao, rất sâu. Thí dụ đức tính xót thương, bác ái, công bình, mà Đức Kitô hay nhấn mạnh trong các đức tính làm nên mùa xuân tâm hồn, phải mang tầm vóc can đảm phi thường. Xin nhắc ở đây chỉ vài lời Người đã dạy:
“Anh em hãy biết xót thương, như Cha trên trời là Đấng hay thương xót. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em tha thứ, thì sẽ được Chúa thứ tha” (Lc 6,36-38).
Tóm lại, “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em hãy làm cho người ta” (Mt 7,12).
Nghe những lời Chúa dạy, tôi nghĩ rằng: Mùa xuân tâm hồn là một hồng ân Chúa ban, nhưng đòi sự cộng tác của con người. Nghĩa là chúng ta phải phấn đấu với chính mình, để từ bỏ cái tôi hẹp hòi ích kỶ kiêu căng cứng cỏi của mình, để đón nhận những cái tốt Chúa trao tặng. Phải phấn đấu bằng một nền tu đức quân bình sáng suốt. Đức Kitô dạy: “Anh em hãy bước vào cửa hẹp, vì cửa rộng thênh thang sẽ dẫn đến hư hỏng” (Mt 7,13). Phải phấn đấu bằng sự bỏ ý riêng mình, để tuân phục thánh ý Chúa. Đức Kitô dạy: “Không phải những ai kêu: Lạy Chúa, lạy Chúa, sẽ được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý Cha trên trời” (Mt 7,12).
Như thế, mùa xuân tâm hồn là kết quả của một hành trình nội tâm, luôn vươn lên lý tưởng, phấn đấu với chính mình, hướng về bác ái phục vụ con người. Đồng thời cũng hướng về tuân phục thánh ý Chúa. Một mùa xuân tâm hồn như thế sẽ toả ra hương thơm bình an, yêu thương, công chính.
Nếu “xem quả thì biết cây” là một tiêu chuẩn để đánh giá con người và đánh giá tôn giáo, dân tộc, thì khi gặp được những mùa xuân tâm hồn như tôi vừa phác hoạ, người ta sẽ đánh giá tốt về chúng ta, về đất nước chúng ta, về tôn giáo chúng ta. Và như thế thiết tưởng, đó là cách tốt nhất để làm chứng cho đạo ta, cho dân tộc ta, trong đời thường và trong mọi hoàn cảnh, dù khó khăn nhất.
Với cái nhìn như trên, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một mùa xuân tâm hồn đẹp nhất. Amen.
Mùng Một xuân Bính Tý, tại Long Xuyên.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, hồi xưa Đức Giêsu Kitô bằng xương bằng thịt, sống giữa dân chúng nhiều năm, làm nhiều phép lạ lẫy lừng, dạy nhiều điều giáo lý cao siêu và nhất là nêu gương sáng đời sống cao vời. Dân chúng đó đã được chuẩn bị từng bao nhiêu thế kỶ để có thể nhận ra Đức Kitô. Thế nhưng bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, người ta không nhận ra Đức Kitô, có người gọi Ngài là Gioan Tẩy giả tái sinh, người khác cho là Êlia hay Giêrêmia, cùng lắm Ngài là một tiên tri. Chỉ có thánh Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Nhưng khi vừa nghe lời tuyên xưng ấy, Đức Kitô đã nói ngay: “Điều con vừa tuyên xưng không phải do con, mà do Cha trên trời soi sáng cho con”.
Những chi tiết trên đây cho thấy dư luận quần chúng về Đức Kitô rất đa dạng, rất phức tạp. Nhưng có một điều đáng lấy làm lạ là Đức Kitô biết rõ tình hình như vậy, nhưng Ngài vẫn bình tĩnh, không nôn nóng gì, không làm một cái gì có tính cách gây áp lực, kể cả áp lực tâm lý, hầu giúp cho dân chúng tin nhận Ngài. Trái lại, Ngài vẫn bình tĩnh đồng hành với lịch sử đầy phức tạp, Ngài vẫn yêu thương mọi người trong lịch sử đó, Ngài vẫn phục vụ mọi người trong hoàn cảnh đa dạng đó. Có một điều còn đáng ngạc nhiên hơn, đó là để làm chứng Ngài là Đấng Cha trên trời sai xuống thế gian, Đức Kitô đã không dùng những cách mà người đời quen dùng như là: quyền lực, tiền bạc, phô trương. Trái lại, Ngài dùng một đời sống rất khiêm hạ: Ngài sống bé mọn như một kẻ thấp hèn nhất, Ngài phục vụ con người như kẻ đầy tớ, Ngài sống chan hoà, nghèo khó, khiêm tốn, đầy yêu thương tha thứ.
Tôi có cảm tưởng là mục đích xây dựng Nước Trời của Đức Kitô là để giúp con người thay đổi nếp sống, biết yêu thương nhau, biết sống khiêm nhường, biết sống cởi mở. Và với những đức tính đó, con người sẽ dễ đón nhận Nước Trời và đón nhận sự sống của Thiên Chúa là tình yêu. Và tôi có cảm tưởng rằng Đức Kitô, khi thấy những ai, mặc dầu không nhận biết Ngài vì vô tình, nhưng sống đời sống luân lý tốt đẹp, nhất là khiêm nhường, bác ái, thì Ngài nhận họ như là những kẻ đã thuộc về Ngài, đã ở trong tình thương của Ngài, đã được Ngài cứu độ. Và thực như vậy, Phúc Âm dạy rằng đến ngày phán xét, Đức Kitô sẽ phán xét mọi người, phân biệt kẻ lành kẻ dữ trên tiêu chuẩn bác ái mà thôi.
Với những nhận xét trên đây rút ra từ bài Phúc Âm hôm nay, tôi đang nhìn cuộc lễ khánh thành nhà thờ Nhơn Mỹ. Tôi nhìn thấy nhà thờ này rất đẹp với những nét của nền văn hoá dân tộc. Tôi thấy bộ mặt trẻ trung của họ đạo với những nét mặt trẻ trung, năng động, cởi mở, với những giá trị trần thế chính đáng đem vào nhà thờ, vào cộng đoàn. Nhưng vẻ đẹp nhất, đẹp hơn cả, chính là những đức tính tốt trong lòng anh chị em. Đó là đức tính khiêm hạ, đức tính bác ái, đức tính yêu thương, chan hoà cởi mở. Tôi nghĩ đó là những cái đáng mừng nhất và sẽ tồn đọng bền vững. Đó cũng là những cái đang làm nên mùa xuân thiêng liêng, mùa xuân vĩnh cửu báo hiệu một Nước Trời đang đến trong tâm hồn chúng ta.
Tôi vui mừng một điều khác nữa là cung cách của anh chị em xây dựng cộng đoàn. Xây dựng một cộng đoàn bằng sự phát triển tình bác ái, chia sẻ trong nội bộ. Xây dựng cộng đoàn bằng cách mở cộng đoàn ra về phía địa phương do những liên hệ tốt, bác ái cởi mở. Xây dựng cộng đoàn bằng tinh thần hiệp thông, gắn bó với Đức Giám Mục giáo phận. Xây dựng cộng đoàn bằng cách chia sẻ trách nhiệm kẻ được sai đi với người có trách nhiệm trong giáo phận. Xây dựng cộng đoàn bằng bác ái dấn thân, bác ái chia sẻ, bác ái cởi mở, bác ái hiệp thông. Đó là những cái làm nên cộng đoàn và đó là yếu tố rất cần để làm cho cộng đoàn trở thành những ngọn lửa có sức làm cho sự sống của một họ đạo trở nên sáng, trở nên trẻ trung.
Tôi vui mừng vì lúc nãy, ông đại diện giáo dân đã nói lên nhận thức đó, khi ông nói rằng: Nhà thờ đẹp, nhưng nếu thiếu ánh sáng, thì sẽ thiếu tất cả. Đó là nhận thức rất đúng, sẽ đẩy mạnh việc xây dựng họ đạo trên những tính tốt, trong đó có đức ái là căn bản. Với tâm tình trên đây, tôi xin hợp với anh chị em tạ ơn Thiên Chúa. Tôi xin hợp với anh chị em để cám ơn tất cả những ân nhân xa gần. Tôi xin hợp với anh chị em để nhìn về tương lai. Tôi nghĩ rằng tương lai cần hơn hiện tại lúc bây giờ. Tương lai là ở hướng đi của họ đạo chúng ta biết phát triển đức ái, chia sẻ bao dung, cởi mở và dấn thân hiệp thông.
Xin anh chị em cùng với chúng tôi cầu nguyện thiết tha cho tương lai của họ đạo chúng ta được luôn vững vàng trong tay nhân từ của Đức Kitô và trong bàn tay yêu thương của Đức Mẹ Maria, bổn mạng họ đạo chúng ta. Amen.
Khánh thành Nhà thờ Nhơn Mỹ, ngày 22-02-1996
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Hôm nay, giáo xứ Trảng Tranh tổ chức lễ trọng để mừng thượng thọ những vị bảy mươi tuổi của họ đạo. Trong dịp này, cha sở Đaminh của chúng ta là vai chính, được mọi người nhìn đến một cách trân trọng đặc biệt. Theo tôi, sự đáng mừng nhất nơi người thượng thọ chính là tâm hồn của các ngài: những tâm hồn hiền lành khiêm tốn, những tâm hồn nhân ái, những tâm hồn bao dung, những tâm hồn quảng đại trong cách nhìn và trong cách phục vụ.
Nhưng có một yếu tố của tâm hồn đạo đức, nên để ý và cần ca ngợi cách riêng, yếu tố đó đã được Đức Kitô nhắc nhở trong bài Phúc Âm hôm nay. Yếu tố đó là khả năng tha thứ. Khi Đức Kitô bảo thánh Phêrô phải tha thứ bảy mươi lần bảy, thì Ngài có ý bảo chúng ta rằng khả năng tha thứ không hệ tại ở số lần tha thứ, mà hệ tại ở sự thực tâm tha thứ, cho dù việc tha thứ là rất khó.
Các vị lớn tuổi, nhất là các vị thượng thọ bảy mươi tuổi hôm nay, và đặc biệt là cha sở Đaminh, đều đã có kinh nghiệm về khả năng tha thứ. Nó là một giá trị cao quí không dễ sánh được. Vì thế, đối với những người có đức tin, thì khả năng tha thứ chính là một của lễ quí giá, quí giá hơn tất cả mọi lễ vật vật chất, cho dù quí giá nhất mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa. Khả năng tha thứ chính là liều thuốc có sức thanh luyện và thánh hoá con người, còn hơn là sự ăn chay kiêng thịt.
Khả năng tha thứ chính là một y phục thánh mà Chúa đòi mọi người chúng ta phải mặc vào cách thiêng liêng để tham dự thánh lễ, và nhất là để rước lấy Mình Thánh.
Riêng nơi linh mục, khả năng tha thứ chính là một dấu chỉ về Chúa Kitô là Chúa chiên lành. Nhiều khi tôi nghĩ rằng, nếu cần phải tìm một thành tích chắc chắn nào của một linh mục để mà ca ngợi, thì sẽ không lầm nếu nhìn vào khả năng tha thứ của vị đó. Nếu một vị linh mục cho dù có nhiều khả năng về trí thức, có nhiều khả năng về tổ chức, có nhiều khả năng về hoạt động từ thiện, nhưng chỉ thiếu khả năng tha thứ thì phải kể như còn thiếu quá nhiều những điều kiện để có thể qui tụ dân Chúa, để có thể xây dựng cộng đoàn, nhất là có thể làm chứng cho Thiên Chúa là Cha giàu tình thương xót.
Trái lại, nếu một vị linh mục tuy thiếu rất nhiều khả năng về trí thức, tuy thiếu rất nhiều khả năng về tổ chức, tuy thiếu rất nhiều khả năng về hoạt động từ thiện, nhưng lại có khả năng tha thứ dồi dào thì phải kể linh mục đó đã có rất nhiều điều kiện để xây dựng cộng đoàn, để qui tụ dân Chúa và nhất là để làm chứng cho đạo Thiên Chúa là đạo tình yêu, để làm chứng cho đạo Thiên Chúa là Cha hay thương xót và hay tha thứ. Nhất là khi linh mục đó dễ tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, nhưng lại nghiêm khắc với chính mình khi thấy mình lỗi phạm đến người khác, khi thấy mình phạm đến những bổn phận thiêng liêng Chúa trao cho mình.
Hay tha thứ cho những người lỗi phạm tới mình và biết nghiêm khắc với chính mình, đó là một cái làm nên hào quang cho linh mục. Tôi có cảm tưởng là hào quang đó đang được hình thành cho cha Đaminh. Một hào quang như vậy dễ nhận thấy trong thái độ cầu nguyện và tỉnh thức của cha để đón nhận ý Chúa, như lời Chúa dạy: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện vì chúng ta không biết giờ nào Con Người sẽ đến”. Một hào quang như vậy cũng sẽ dễ nhận thấy trong thái độ dấn thân của cha. Dấn thân để phục vụ những người bé nhỏ, hoà mình vào cộng đoàn những kẻ yếu đuối, tội lỗi, bất toàn như lời Đức Kitô đã hứa: “Bất cứ sự gì chúng con làm cho những kẻ bé mọn nhất của Thầy, thì Thầy kể như là làm cho chính Thầy vậy”. Và hào quang như thế cũng sẽ dễ nhận thấy nơi thái độ phấn đấu của cha với chính mình, từ bỏ chính mình như lời Đức Kitô đã nói: “Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất, còn ai mất sự sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được”.
Hào quang đó sẽ dễ nhận thấy ngay hôm nay, lúc này, ở nơi những tâm tình nồng thắm của con cái, của những bạn bè, của những học trò cũ, của những người thân thương dành cho cha sở. Và những hào quang như vậy cũng dễ nhận thấy nơi bầu khí đạo đức, yêu thương, gắn bó của họ đạo Trảng Tranh này, một họ đạo tuy còn rất non trẻ, tuy ở giữa một môi trường mênh mông, xa xôi, chung quanh đầy những sông rạch nhưng đã có những bước tiến đáng khen ngợi và mang nhiều hy vọng cho việc chia sẻ Tin Mừng trong tương lai.
Hôm nay, với những nhận thức đó, chúng ta cùng nhau cảm tạ Thiên Chúa cho cha sở Đaminh, cho họ đạo Trảng Tranh. Chúng ta sốt sắng cảm tạ Chúa và cầu xin Chúa cho địa phương này, một địa phương đầy những nét dễ mến, dễ thương, đã đón nhận và đã giúp đỡ những cộng đoàn công giáo bé nhỏ của chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và cầu xin cho tình hiệp thông hôm nay được phát triển, được bền vững và được nâng cao lên. Amen.
Lễ Tạ Ơn 40 năm linh mục và lễ thượng thọ của cha Đaminh Nguyễn Quang Thản tại Trảng Tranh, ngày 12-03-1996.
Khi trở lại họ đạo Ong Dèo này, một họ đạo bé nhỏ, xa xôi, nghèo nàn, tôi tự hỏi: Có bao giờ anh chị em buồn, tưởng mình bé nhỏ, xa xôi, nghèo nàn nên chẳng có gì đáng để trân trọng không? Nếu anh chị em tưởng như vậy, thì đó là tưởng lầm. Bởi vì riêng tôi, tôi nhận thấy nơi anh chị em nhiều giá trị đáng trân trọng. Những giá trị đáng trân trọng đó chính là những đức tính tốt của tâm hồn. Những đức tính tốt ấy được thể hiện trong thái độ ân cần, đơn sơ, nhiệt tình khi tiếp xúc, khi đón tiếp, trong thái độ liên đới nồng nàn và chia sẻ, trong những dây liên đới và sống huynh đệ giữa nội bộ và giữa những người trong địa phương. Tôi thấy tất cả những đức tính tốt của tâm hồn anh chị em chính là những giá trị cao đẹp không những trước mặt người ta, mà cũng trước mặt Thiên Chúa.
Bởi vì như chúng ta đã biết, qua bài Phúc Âm hôm nay và qua những bài Phúc Âm khác trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến những đức tính tốt của tâm hồn.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa căn cứ vào thái độ tha thứ của tâm hồn từng người để xét đoán ai sẽ được Chúa tha thứ, và ai không. Trong bài giảng về tám mối phúc, Chúa căn cứ vào những đức tính tốt của tâm hồn từng người như hiền lành, khiêm tốn, xót thương để đánh giá từng người xem ai đáng được hạnh phúc thật. Và trong bài giảng về ngày phán xét chung, Chúa căn cứ vào những đức tính tốt của tâm hồn, nhất là tinh thần bác ái để xem xét ai đáng được vào Nước Trời.
Với những phát triển về đức tính tốt, anh chị em trong những năm qua cũng đã có những phát triển về thăng tiến cuộc sống, về mở rộng những lợi ích chung. Tôi nghĩ đấy cũng là những bước tiến đáng trân trọng cần phải nhìn vào mà tạ ơn Thiên Chúa. Nhưng điều mà tôi tưởng chúng ta cần phải nắm bắt để nhìn về tương lai, không phải chỉ là những việc chúng ta đã làm, đã thành tựu, mà còn là những điều Chúa nhắc nhở phải làm trong tương lai.
Trong bài đọc lúc nãy, Chúa nhắc nhở chúng ta hãy có tâm hồn sám hối và khiêm nhường, tinh thần sám hối và cầu nguyện. Đấy là điều Chúa nhắc nhở nhiều nhất trong những ngày Mùa Chay. Hãy đổi mới tâm hồn, hầu nhờ đó danh Chúa được cả sáng hơn và có thể đổi mới xã hội hôm nay. Hãy sám hối trong tâm hồn khiêm tốn. Hãy sám hối trong tinh thần cầu nguyện. Hãy sám hối trong niềm tin của Đức Kitô: “Cha ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Chúng ta bé nhỏ chẳng là gì, chẳng làm được gì đáng kể, nhưng với Đức Kitô, chúng ta có thể làm được rất nhiều. Thiên Chúa là Đấng làm được những sự mà người đời tưởng rằng không thể làm được. Hãy tin vào Đức Kitô phục sinh, hãy bám lấy Chúa Thánh Thần, hãy gắn bó với Hội thánh. Rồi chúng ta sẽ thấy hy vọng của chúng ta không phải là hy vọng hão huyền. Những điều mong đợi của chúng ta và của Hội Thánh, mặc dầu không thành đạt hôm nay, nhưng với ơn Chúa sẽ có một ngày thành đạt.
Trong tinh thần đó, giờ đây chúng ta cầu nguyện cách riêng cho con em chúng ta được nắm bắt ý Chúa soi sáng cho mình, nhất là được can đảm và khiêm tốn thực thi những gì Chúa soi dạy. Hầu sau này, cuộc đời của mình tuy trong một cộng đoàn bé nhỏ, xa xôi, nghèo nàn, nhưng vẫn là những niềm hy vọng về hạnh phúc không riêng cho mình mà cho tất cả địa phương chúng ta. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Ong Dèo, ngày 12-03-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trước lễ, ông đại diện họ đạo có đọc bài chào mừng, trong đó ông đã nêu lên một vài băn khoăn về họ đạo An Bình chúng ta. Với những băn khoăn này, anh chị em đã có một cái nhìn lương thiện và khiêm tốn về chính mình. Tuy nhiên, những băn khoăn này không làm cho tôi bi quan. Bởi vì, sau khi nghe bài Phúc Âm hôm nay, tôi nắm bắt được những cái gì là căn bản nhất để làm nên một cộng đoàn đức tin. Và sau khi tiếp xúc, quan sát họ đạo, tôi thấy những căn bản đó đang được xây dựng trong họ đạo chúng ta.
Theo bài Phúc Âm hôm nay, thì yếu tố căn bản nhất để làm nên một cộng đoàn đức tin chính là dạy lời Chúa, học lời Chúa và giữ lời Chúa. Tôi thấy những việc này đang thực hiện một cách tương đối nghiêm túc trong họ đạo chúng ta. Tôi nhìn vào những lớp giáo lý, cách đọc sách thánh, cách nghe lời Chúa và sự cố gắng thực thi lời Chúa trong đời sống, thì tôi có cảm tưởng là họ đạo chúng ta đang cố gắng đi từng bước để có được những yếu tố cần làm nên họ đạo. Tuy nhiên, tôi để ý nhiều hơn đến những kết quả của việc dạy lời Chúa, học lời Chúa và giữ lời Chúa. Bởi vì, nếu không có kết quả, thì những việc chúng ta làm để xây dựng cộng đoàn phải kể như vô ích. Có hai kết quả lớn để căn cứ vào đó, chúng ta có thể đánh giá được cộng đoàn nào là được xây dựng vững chắc để trở nên cộng đoàn đức tin.
Kết quả thứ nhất là những người trong cộng đoàn đó biết nói với Chúa và nói về Chúa, thích nói với Chúa và thích nói về Chúa. Có lúc nói với Chúa và nói về Chúa với tâm tình của trẻ thơ, như chúng ta đã hát ở đầu lễ. Tựa như một bông hoa nhỏ, như đi trên con đường nhỏ, tâm sự về những chương trình nhỏ và dâng lên Thiên Chúa những việc lành nhỏ. Rồi có những lúc, nói với Chúa và nói về Chúa với tâm tình của một kẻ tội lỗi cần phải trở về. Và khi trở về như vậy, ta tin chắc Chúa đang đợi chờ ta, ta được Chúa yêu thương, vì Chúa chính là Đấng cứu độ. Rồi có khi nói với Chúa và nói về Chúa với tất cả tâm tình thao thức của kẻ được sai đi, của kẻ đợi chờ Chúa đến và của kẻ canh thức để giữ những gì Chúa đã ban cho. Có lúc nói với Chúa và nói về Chúa với tất cả tâm tình con thảo, hết lòng tin cậy. Có sao nói vậy, không cần căn cứ vào những lời kinh thuộc lòng. Nói với tất cả những gì mình đang có, mình đang làm. Nhìn qua những gì anh chị em đã sắp xếp, đã trang trí: từ sân nhà thờ cho đến trong nhà thờ, cho đến bàn thờ, đọc qua những khẩu hiệu, nghe những bài thánh ca và nhất là quan sát bầu không khí thinh lặng, trật tự trong thánh lễ... tôi có cảm tưởng là họ đạo anh chị em biết nói với Chúa và thích nói về Chúa. Mặc dầu thinh lặng, nhưng chính trong thinh lặng đó, chúng ta đang nói với Chúa. Đó là kết quả thứ nhất làm chứng cộng đoàn chúng ta đang được xây dựng trở nên cộng đoàn đức tin, nghĩa là một cộng đoàn biết nói với Chúa, biết nói về Chúa, thích nói với Chúa, thích nói về Chúa.
Kết quả thứ hai là biết quan tâm đến kẻ khác. Biết quan tâm đến kẻ khác đó là yếu tố rất quan trọng của đạo Công Giáo. Đức Kitô luôn dạy chúng ta hãy biết quan tâm tới kẻ khác với tinh thần bác ái. Tinh thần này không phải chỉ là cho đi mà cũng để lãnh nhận. Không phải của người ban phát, mà cũng là của người đợi chờ, học hỏi, đón nhận, của kẻ đền ơn, biết ơn.
Chúng ta quan tâm đến người khác, vì chúng ta tin họ là địa chỉ Chúa đang đợi chờ. Chúng ta quan tâm tới người khác, vì chúng ta tin rằng, khi chúng ta quan tâm đến họ, thì Chúa kể như chúng ta quan tâm đến chính Chúa. Quan tâm đến người khác để thực hiện mười bốn mối thương xót. Chúng ta quan tâm đến người khác để nhờ đó, chúng ta có thể được Chúa chấp nhận đưa về thiên đàng, vì Chúa muốn đức tin của ta phải phiên dịch ra đức ái và lòng thương xót, bao dung, tha thứ.
Lúc nãy, khi nghe anh chị em hát “Xin dạy con biết lắng nghe”, tôi thấy đây là một lời kinh rất cần cho chúng ta: Xin cho con biết lắng nghe lời Người dạy con. Dạy con trong cuộc đời, dạy con trong các biến cố, dạy qua người khác, nhất là dạy trong Kinh Thánh và dạy trong phép Mình Thánh. Để lắng nghe lời Chúa, chúng ta không những cần cầu xin, hát lên, mà chúng ta cần phải có một thái độ khiêm tốn biết đón nhận, khát khao đón nhận. Tôi thấy mỗi lần chúng ta biết lắng nghe lời Chúa và cố gắng thực thi lời Chúa, thì có một sức biến đổi lạ lùng tràn vào lòng ta. Nhờ đó trái tim chúng ta, tấm lòng chúng ta, cuộc đời chúng ta sẽ được biến đổi.
Cuối nhà thờ có một hàng chữ: “Đổi mới trái tim, đổi mới cuộc đời trong tình thương và trong chân lý”. Tình thương là tình thương của Đức Kitô, chân lý là lời Chúa. Chúng ta phải bám vào đó, phải đi vào đó, thì chúng ta mới trông được sự đổi mới.
Lần này đây, tôi đã thấy anh chị em có hai kết quả mà tôi vừa mô tả. Tôi thấy anh chị em có những quan tâm đến nhau một cách vị tha, với tâm hồn chân thành, đạo đức. Tôi biết anh chị em đã biết nói với Chúa và thích nói về Chúa. Nhưng đây chỉ là những kết quả ban đầu. Anh chị em cần phải phát triển thêm nữa. Hãy cầu nguyện nhiều hơn, hãy thích nói với Chúa nhiều hơn, hãy thích nói về Chúa nhiều hơn. Nghĩa là hãy biết trao đổi với nhau về những gì Chúa muốn chúng ta làm để truyền giáo, để mở Nước Trời. Rồi chúng ta hãy cố gắng mở những liên hệ tốt sang nhau, không những trong nội bộ mà nhất là với những người chung quanh.
Nếu chúng ta biết phát triển hai kết quả mà chúng ta đang có hôm nay, thì tôi nghĩ rằng, trong một thời gian tới, khi tôi trở về lại đây, tôi sẽ thấy họ đạo An Bình, giữa huyện Gò Quao này, sẽ lớn lên, sẽ lớn mạnh, và sẽ trở nên một điểm truyền giáo mang nhiều hy vọng, để biết chia sẻ Tin Mừng cho những người chung quanh. Amen.
Lễ Thêm sức tại An Bình, Gò Quao, ngày 13-03-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Nếu có một sách Phúc Âm mang tên Phúc Âm theo thánh Giuse, thì thiết tưởng sách Phúc Âm đó sẽ có một đặc điểm này là thuật lại những sự việc mà thánh Giuse đã chứng kiến, mang tính cách che giấu uy quyền và vinh quang Thiên Chúa.
Thực vậy, suốt 30 năm trời, thánh Giuse đã đồng hành với Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, và cũng suốt thời gian ấy, thánh Giuse đã thấy Chúa Giêsu sinh sống như một người thường. Mặc dầu là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Kitô vẫn âm thầm, vẫn khiêm tốn. Âm thầm khiêm tốn khi xuống thai trong lòng Đức Mẹ. Âm thầm khiêm tốn khi sinh ra trong hang đá Bêlem. Âm thầm khiêm tốn khi trốn sang Ai Cập. Âm thầm khiêm tốn trong những năm dài sinh sống tại Nagiarét.
Điều đáng lạ, là khi vinh quang và uy quyền Thiên Chúa bị người ta xúc phạm, Thiên Chúa vẫn làm thinh chịu đựng. Nhưng điều đáng lạ hơn nữa, là chính Thiên Chúa cũng chủ trương che giấu uy quyền và vinh quang của mình. Người chủ động làm việc đó, và thánh Giuse cũng đã cộng tác vào việc đó.
Tôi nghĩ rằng: Thánh Giuse quá hiểu tại sao Chúa đã làm như vậy. Thưa tại vì Thiên Chúa giáng trần không phải để làm chứng uy quyền và vinh quang Thiên Chúa, mà để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Điều này thánh Giuse không viết ra, nhưng các tông đồ đã viết thay Ngài. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Gioan 4,8). Vì tình yêu Thiên Chúa là tình yêu người Cha giàu lòng thương xót. “Tình yêu thương ấy thật rõ ràng ở chỗ không phải chúng ta kính mến Chúa trước, mà là Chúa đã yêu thương chúng ta trước, và đã sai Con Chúa xuống thế hy sinh đền tội chúng ta” (1 Gioan 4,10). Và thánh Phaolô quả quyết: “Người đã yêu thương chúng ta một cách đặc biệt ngay khi chúng ta còn đang tội lỗi” (Rôma 5,8).
Làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa với hy vọng loài người nhận ra tình yêu ấy và đáp lại bằng việc mến yêu Thiên Chúa và yêu thương nhau. Đó là tóm tắt lý do giải thích tại sao Chúa Giêsu chọn lựa cách sống vâng phục âm thầm khiêm tốn, xa tránh vinh quang, che giấu uy quyền.
Chọn lựa trên đây của Chúa cũng đã là phong cách sống của thánh Giuse, một Đấng thánh phục vụ âm thầm khiêm tốn, che giấu uy quyền, xa tránh vinh quang, “bao dung tha thứ trong mọi sự, tin kính trong mọi sự, cậy trông trong mọi sự, chịu đựng trong mọi sự” (1 Cor 13,7).
Tôi vui mừng nhận thấy chọn lựa trên đây của Chúa và phong cách sống trên đây của thánh Giuse đã và đang được thực hiện nơi các người mang trọng trách phục vụ Hội Thánh tại địa phương này.
ở đây, tôi đặc biệt nghĩ tới cha Piô Nguyễn Hữu Mỹ, suốt mấy chục năm, ngài đã phục vụ tận tuÿ họ đạo Long Xuyên và giáo phận chúng ta với phong cách âm thầm khiêm tốn. Đây là một lựa chọn trên cơ sở Phúc Âm. Vì sức khoẻ yếu, tuy nay được nghỉ, ngài vẫn phục vụ họ đạo một cách âm thầm. Ngày mốt, tức 21-03-1996 là ngày cha Piô chẵn 75 tuổi, chúng ta nhớ hợp ý với ngài để tạ ơn Chúa.
Người thay thế cha Piô, là cha Giuse Trần Xuân Tiếu. Là cha sở Nhà thờ Chánh Toà, cha Giuse cũng sẽ không có chọn lựa nào khác, ngoài chọn lựa của Chúa và của thánh Giuse.
Chúng ta hãy thông cảm với ngài, hãy nâng đỡ ngài, và hãy cộng tác với ngài trong những chọn lựa mục vụ theo gương Đức Kitô và thánh Giuse.
Xin cảm tạ thánh Giuse đã thương giúp chúng ta nhận biết gương sáng của Người. Nguyện cầu Người giúp chúng ta biết sống theo gương của Người. Amen.
Lễ thánh Giuse tại Nhà thờ Chánh toà Long Xuyên, ngày 19-03-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu phiền trách những người đồng hương đã không tin Ngài, mặc dầu Gioan đã làm chứng về Ngài, mặc dầu những việc Ngài làm làm chứng về Ngài và mặc dầu Đức Chúa Cha làm chứng về Ngài.
Khi suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay, tôi đã hỏi Chúa Giêsu rằng: Xưa Chúa đã phiền trách những người đồng hương vì họ không tin vào Chúa. Hôm nay, Chúa có phiền trách chúng con như vậy không? Và tôi nghe Chúa trả lời trong lòng tôi rằng: Có, Cha rất phiền trách nhiều người Công giáo thời nay. Bởi vì họ tưởng rằng họ tin Cha, nhưng thực sự niềm tin ấy không phải là đức tin thực sự. Đức tin thực sự chính là sự gặp gỡ sống động với Cha, một sự gặp gỡ sống động trong niềm tin tưởng và chân thành sám hối.
Khi suy đi nghĩ lại lời Chúa trong lòng tôi như vậy, tôi thấy đúng là Chúa khiển trách chúng ta. Bởi vì tin vào đức Kitô là phải biết nhìn thấy Người trong cuộc đời mình và trong chính thẳm sâu lương tâm của mình. Tin vào Đức Kitô là biết nhận thấy ý của Người trong lịch sử hôm nay, trong những gì xảy ra bây giờ. và tin vào Đức Kitô là biết chân thành phục vụ anh em mình trong khắp mọi nơi, trong tất cả mọi người. Và tin vào Đức Kitô là biết lắng nghe lời Người, giữ lời Người và dấn thân đi theo Người. Nhưng trên thực tế, đức tin của chúng ta chưa được như thế.
Suy nghĩ như vậy, tôi mới thấy là tin vào Đức Kitô không đơn giản chỉ là chấp nhận những gì mình học trong giáo lý, mà là một sự gặp gỡ thực sự sống động với Đức Kitô, lắng nghe ý Người và giữ lời Người.
Muốn đạt được điều đó, có một điều kiện rất quan trọng chúng ta phải thực hiện, đó là cầu nguyện và tỉnh thức. Bởi vì Đức Kitô mặc dầu hiện diện ở đây trong lòng ta, trong lòng lịch sử, nhưng nếu chúng ta không cầu nguyện và không tỉnh thức, thì không thể nào nắm bắt được ý của Người, không thể nào chúng ta nhìn được dung mạo thực sự của Người. Chúng ta biết rõ Thiên Chúa chỉ nói với các linh hồn khi các linh hồn đó sống trong sự thinh lặng nội tâm, trong một đời tu đức nghiêm khắc, từ bỏ chính mình và trong sự cầu nguyện ca ngợi Thiên Chúa.
Sự tỉnh thức và cầu nguyện, đó là một điều kiện rất cần trong đời sống hôm nay. Đời sống hôm nay có nhiều điều đạo đức, nhưng cũng có những điều làm cho chúng ta đi trật con đường đạo đức. Đời sống hôm nay có Đức Kitô, là ánh sáng chân lý, nhưng bên cạnh đó cũng có những mây mù, những đêm tối của sự sai lạc. Nếu chúng ta không cầu nguyện và tỉnh thức, thì những bóng tối sai lạc đó sẽ dẫn đưa chúng ta đi sai đường. Đời sống hôm nay có Đức Kitô là nguồn mọi sự thiện, nhưng bên cạnh đó cũng vẫn có những nguồn sự ác lôi cuốn chúng ta về đàng ác. Đức Kitô sai thần lành đến giúp chúng ta, nhưng ma quỉ cũng có những thần dữ lôi cuốn chúng ta đi vào đàng tội. Nếu chúng ta không tỉnh thức và cầu nguyện, thì chúng ta không nắm được bàn tay của Thiên Chúa, bàn tay của thần lành, mà sẽ nắm bàn tay của thần dữ đưa chúng ta xa lìa chân lý và đạo đức, rồi đi tới những hạnh phúc giả tạo phù du.
Để hiểu rõ sự tỉnh thức và cầu nguyện quan trọng thế nào, chúng ta nên nhớ lại những điều Đức Kitô đã dạy trong những dụ ngôn quan trọng. Bởi vì, nếu không, chúng ta làm việc mà kết quả sẽ trái ngược với những điều chúng ta muốn.
Dụ ngôn thứ nhất để khuyên chúng ta phải biết cầu nguyện và tỉnh thức, đó là dụ ngôn những kẻ xây nhà. Có những người xây nhà mà khôn ngoan và có những người xây nhà mà khờ dại. Cả hai loại người khi xây xong, đều có những toà nhà đẹp như nhau. Người khôn ngoan cũng xây được những nhà đẹp, và người khờ dại cũng xây được những nhà đẹp. Thế nhưng, khi giông tố đổ xuống, thì chỉ những nhà mà người khôn ngoan xây trên nền đá, sẽ đứng vững; còn những nhà đẹp của người khờ dại xây, sau khi mưa giông đổ tới, sẽ sụp đổ. Bởi vì những nhà đó xây trên nền cát, tức là không xây trên nền tảng Đức Kitô, không xây trên niềm tin, không xây trên một đức ái thực sự vì Chúa.
Rồi dụ ngôn thứ hai là dụ ngôn những người trinh nữ, năm người trinh nữ khôn ngoam và năm người trinh nữ dại khờ. Năm người này cũng là những người trinh nữ đẹp đẽ như năm người kia. Họ cũng là những người giữ mình đồng trinh. Thế nhưng, khi Chúa đến, thì chỉ có năm người khôn ngoan được chọn. Bởi vì những người khờ dại đã trì trệ, đã sống buông thả, đã không sẵn sàng lên đường, đã không có dầu đức ái trong trái tim mình. Họ không tỉnh thức và cầu nguyện, không chuẩn bị tâm hồn của mình.
Rồi một chuyện khác trong Phúc Âm nói về sự tỉnh thức và cầu nguyện đó là những cây vả. Khi Đức Kitô đói, Ngài đến tìm trái nơi những cây vả thì thấy một rặng cây vả, cây nào cũng phát triển cành lá như nhau. Nhưng có một số cây, Chúa Kitô tìm trái mà không có trái, Chúa liền chê trách và ruồng bỏ. Điều Chúa Kitô tìm, không phải là tìm cành tìm lá, mà là tìm trái. Có nghĩa là Đức Kitô muốn chúng ta có một phẩm chất đạo đức, có một đức ái sâu thẳm, quảng đại cởi mở, có một sự công chính về Nước Trời. Chứ nếu đời ta chỉ phát triển bề ngoài, cành lá xun xuê, mà không có trái, thì đó không phải là phát triển theo ý Thiên Chúa.
Hãy cầu nguyện hãy tỉnh thức. Muốn được như vậy, xin nhắc lại là ta phải tạo cho mình một bầu khí nội tâm vắng vẻ và một lòng khao khát để có thể gặp được Đức Kitô và lắng nghe được Đức Kitô. Còn nếu chúng ta sống trong một bầu khí ồn ào và cái tâm của ta cũng quá ồn ào, đầy cái tôi tự phụ, chạy theo tiền bạc, lạc thú ích kỶ, thì không thể nào lắng nghe được tiếng Chúa và gặp được chính Đức Kitô.
Trên đây là những điều tôi suy nghĩ mấy ngày hôm nay, để chuẩn bị làm lễ Thêm Sức và đặt viên đá đầu tiên ở họ đạo này. Tôi nghĩ đây cũng là một sứ điệp Chúa muốn tôi nói với anh chị em công giáo ở Châu Đốc này. Càng ngày chúng ta càng thấy những thách đố của lịch sử. Điều quan trọng nhất mà tôi nghĩ chúng ta phải ý thức, là chúng ta đừng để cho những giá trị cao thiêng của dân tộc mình, của đất nước mình, của tôn giáo mình bị phai nhạt đi, bị đánh mất đi vì chúng ta thiếu đạo đức. Cần phát triển về kinh tế, về khoa học, và cũng rất cần phát triển về phẩm chất đạo đức. Có như vậy, dân tộc ta nói chung và cộng đoàn công giáo chúng ta nói riêng, mới có thể làm đúng chức năng của mình là làm chứng cho đức tin, làm chứng cho đạo đức của dân tộc Việt Nam chúng ta. Amen.
Lễ Thêm Sức và đặt viên đá đầu tiên tại nhà thờ Châu Đốc, ngày 21-03-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong lịch sử công giáo có hai hình ảnh linh mục được đề cao.
Hình ảnh thứ nhất phát xuất từ thần học Công đồng Trentô và nền tu đức suy tôn chức thánh của thế kỶ XVII, đó là hình ảnh linh mục, người tế lễ. Hình ảnh này dựa trên lời Đức Kitô đã phán dạy các tông đồ xưa: “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Hình ảnh thứ hai phát xuất từ thần học Công đồng Vatican II và từ nền tu đức dấn thân hiện nay, đó là hình ảnh linh mục, người truyền giáo. Hình ảnh này dựa trên lời Đức Kitô truyền dạy các tông đồ xưa: “Các con hãy đi giảng cho mọi dân... Hãy dạy cho họ những điều Thầy đã dạy cho các con” (Mt 28,19).
Trong một Giáo Hội coi truyền giáo là bản tính và là ưu tiên số một của mình, thì hình ảnh thứ hai về linh mục đang trở thành một hình ảnh thân thương, trong đó truyền giáo được coi là đặc điểm đáng quan tâm nhất nơi thiên chức linh mục. Cũng từ đó người ta có quyền đánh giá từng linh mục theo nhiệt tình truyền giáo, khả năng truyền giáo, hoạt động truyền giáo, lãnh đạo truyền giáo và kết quả truyền giáo.
Một cái nhìn truyền giáo như thế về Hội thánh nói chung và về linh mục nói riêng sẽ lan sang các lãnh vực khác của tôn giáo, như tu sĩ, giáo dân, phượng tự, giáo lý, thánh đường, sách báo đạo. Tất cả sẽ phải có tính cách truyền giáo. Và vì thế tất cả sẽ phải có khả năng giới thiệu với mọi người cái đúng chân lý Phúc Âm, cái đúng tình yêu Thiên Chúa, cái đúng dung mạo Đức Kitô.
Để những cái đúng ấy được dễ truyền đạt, dễ tiếp thu, dễ được chấp nhận, chúng cần đi đôi với cái đẹp. Cái đẹp của nghệ thuật, cái đẹp của trí thức, cái đẹp của phong cách, cái đẹp của văn hoá, cái đẹp của bản sắc dân tộc, cái đẹp của đạo đức.
Kinh nghiệm cho thấy có những cái đúng khó hiểu, tưởng sẽ khó được chấp nhận, nhưng đã rất được hâm mộ, bởi chúng đã được giới thiệu qua những vẻ đẹp có sức thu hút. Trái lại có những cái đúng dễ hiểu, tưởng sẽ dễ được chấp nhận và thực hiện, nhưng đã bị coi thường và chối bỏ, bởi vì chúng đã được trình bày qua hình thức thiếu những vẻ đẹp cần thiết.
Đối với người thời nay, cái đẹp là một yếu tố quan trọng trong cuộc sống và trong các tương quan. Hình ảnh đẹp thường có sức thu hút hơn tư tưởng đúng. Chúng ta hã nhìn xem nhà thờ này và thánh lễ hôm nay. Biết bao vẻ đẹp đang nâng tâm hồn chúng ta lên. Từ vẻ đẹp về môi trường, về kiến trúc, về nghi thức, về thánh ca, cho đến vẻ đẹp về tinh thần huynh đệ, thái độ trật tự, phong cách cầu nguyện. Nếu việc thờ tự không được thực hiện với những vẻ đẹp, và nếu những chân lý Phúc Âm không được giới thiệu với những vẻ đẹp, thì sức thu hút sẽ rất yếu, sức làm chứng sẽ bị suy giảm, sự gặp gỡ với Chúa và với con người sẽ ít được trân trọng.
Thực tế truyền giáo có nhiều vẻ đẹp. Những vẻ đẹp đáng kể nhất ở đây phải là sự hài hoà giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và sáng tạo, giữa nói và làm, giữa các giá trị đạo đức và các giá trị đời, nhất là giữa lý trí mang chân lý Phúc Âm và trái tim giàu lòng bác ái khiêm nhường. Tất cả những vẻ đẹp này đang hỗ trợ cho việc truyền giáo. Chúng là những phương tiện thích hợp để chuyên chở Tin Mừng vào tâm hồn người thời nay.
Thời nay, nhiều khi nhiều nơi việc truyền giáo đã bị cản trở, hoặc đã không sinh kết quả. Có nhiều căn do khác nhau, trong đó có sự thiếu vẻ đẹp. Biết bao trường hợp, nguyên do chính của sự thất bại không phải vì không nói lên đủ cái đúng, nhưng nói đủ cái đúng mà thiếu vẻ đẹp. Chẳng hạn khi cái đúng tôn giáo lại được tuyên xưng, loan truyền với thái độ tự phụ, hẹp hòi, độc tôn, độc đoán, phô trương quyền lực, chia rẽ cộng đoàn. Tức là thiếu vẻ đẹp đạo đức.
Cái đúng tôn giáo đi đôi với cái đẹp, nhất là cái đẹp đạo đức sẽ tạo nên được những hình ảnh hấp dẫn, những bầu khí lôi cuốn, những môi trường thu hút, để dẫn con người vào Nước Trời, đồng thời cũng để giúp con người sống tốt chính đời sống công dân của mình trong một Quê Hương rất cần những cái đúng và những cái đẹp. Với những nhận thức trên đây, chúng ta cảm tạ Chúa vì những cái đúng và những cái đẹp trong giáo xứ chúng ta, trong Hội Thánh chúng ta, trong Quê Hương chúng ta. Chúng ta cầu nguyện cho đường hướng truyền giáo của chúng ta được luôn đúng mà đẹp.
Lễ Truyền Dầu tại Tân Hiệp, ngày 02-04-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong thánh lễ, khi chủ tế cầm bánh thánh để truyền phép, ngài nói lại lời Chúa Giêsu: “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con”. Tiếp đó khi cầm chén thánh để truyền phép, chủ tế cũng nói lại lời Chúa Giêsu: “Này là chén Máu Thầy... sẽ đổ ra, cho các con và mọi người được tha tội”.
Trong hai câu truyền phép đó, có những lời chúng ta nên chú ý, đó là: “... vì các con... cho các con và mọi người được tha tội”. Qua những lời này, Chúa Giêsu nói rõ: Ngài chết vì ai. Ngài đổ máu ra cho ai, để làm gì. Rõ ràng là vì chúng ta, cho chúng ta, để chúng ta được tha tội.
Với những xác định rõ ràng đó, Chúa Giêsu cho thấy: Ngài là Đấng cứu độ của chúng ta. Chính nhờ Ngài mà chúng ta được ơn tha thứ. Chính nhờ Ngài mà chúng ta được ơn cứu độ.
Ơn cứu độ đã được thể hiện qua một hành trình đầy dấn thân của Đức Kitô. Ngài xuống thế, sống cuộc đời gian khổ, vì chúng ta. Ngài chết nhục nhã trên thánh giá, vì chúng ta, cho chúng ta được tha tội. Cuộc sống của Ngài và cái chết của Ngài là những phục vụ, là những hiến dâng. Đó là những lựa chọn của Ngài, những lựa chọn tự do, vì tình yêu thương xót của Ngài.
Ngài ban tặng ơn cứu độ. Ngài ban tặng tình yêu. Ngài ban tặng chính Ngài. Đó là về phía Ngài.
Còn về phía chúng ta thì sao? Thưa, chúng ta sẽ được cứu độ, nếu chúng ta biết đón nhận những gì Chúa ban tặng, nếu chúng ta biết cộng tác vào những gì Chúa muốn để cứu độ chúng ta. Việc cứu độ là việc gặp gỡ thân tình giữa hai tự do: Tự do của Chúa và tự do của con người. Chúa tự do ban ơn và đưa ra sáng kiến. Con người có tự do đón nhận và cộng tác vào.
Chắc chắn là chúng ta muốn đón nhận ơn Chúa và cộng tác vào ơn Chúa. Muốn, đó là một việc tốt. Nhưng chưa đủ. Cần có những việc làm. ở đây, xin gợi ý về một số việc làm mà Chúa đã nhắc nhở trong bữa tiệc ly.
Việc thứ nhất là việc khiêm tốn. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã tha thiết nêu gương khiêm tốn trong việc Ngài quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Ai khiêm tốn sẽ được Chúa thương. Ai nhận mình là kẻ tội lỗi, sẽ được Chúa cứu. Bởi vì Ngài đến không phải cho người công chính, mà đến cho người tội lỗi.
Việc thứ hai là việc bác ái. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã tha thiết khuyên nhủ các môn đệ hãy yêu thương nhau. Ngài trối lại điều răn mới của Ngài, đó là điều răn bác ái. Ngài coi yêu thương là dấu chỉ chính thức của những kẻ tin theo Ngài.
Việc thứ ba là việc tạ ơn cầu nguyện. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã tha thiết tạ ơn cầu nguyện với tất cả tâm tình phó thác vào Chúa Cha, với tất cả ý chí vâng phục Chúa Cha, với tất cả thiện chí hiến dâng mình trọn vẹn để phục vụ Chúa Cha và phần rỗi mọi người.
Việc thứ bốn là gặp gỡ Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu tha thiết nhắn nhủ các môn đệ hãy cử hành thánh lễ để nhớ đến Ngài. Trong phép Thánh Thể, Chúa Giêsu ở lại với chúng ta, để cứu độ chúng ta, để chia sẻ với chúng ta. Đến với Ngài, chúng ta sẽ cảm nhận được chính Ngài là Đấng cứu độ của ta, một Đấng cứu độ đã hứa sẽ ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Để kết, chúng ta nên quyết tâm:
Trong mọi lời cầu nguyện, trong mọi việc làm, trong mọi hoàn cảnh, trong suốt cuộc đời, chúng ta vững tin: Đức Kitô là Đấng cứu độ của chúng ta. Xin cảm tạ Ngài.
Xin bước theo Ngài. Amen.
Lễ Chiều Thứ Năm Tuần Thánh, tại Long Xuyên, ngày 04-04-1996.
Bài Phúc Âm thánh lễ Phục Sinh có thể gọi là một trang thời sự. Trang thời sự này không nói gì về lý thuyết đạo, mà chỉ kể lại việc đã xảy ra.
Việc đã xảy ra là: Hai bà Madalena và Maria đến thăm mồ Chúa Giêsu, thấy cửa mồ đã mở tung, chỉ còn mồ trống, xác Chúa không còn ở đó. Đang khi ngỡ ngàng bối rối, các bà đã thấy hai thiên thần hiện ra, báo tin Chúa Giêsu đã sống lại. Trên đường về, hai bà đã gặp chính Chúa Giêsu hiện ra, nói chuyện với các bà. Các bà vội chạy đi tìm các tông đồ, và kể lại mọi sự đã xảy ra.
Các bà kể lại những gì đã thấy, đã nghe, đã gặp, đã cảm nghiệm. Tâm hồn và niềm tin các bà như sống lại. Khi nghe các bà kể lại, chính các tông đồ cũng cảm thấy tâm hồn mình và niềm tin của mình như sống lại.
Sự kiện trên đây cho chúng ta thấy người chứng quan trọng thế nào trong đời sống đức tin, và sự kể lại của những người chứng ảnh hưởng thế nào đến tâm trạng người nghe.
Nếu hôm nay mỗi người chúng ta có thể kể lại những sự lạ lùng Chúa đã làm, mà chính mình ta đã thấy, đã gặp, đã lãnh nhận, thì sự kể lại như thế sẽ có khả năng đưa người ta và người khác đến với Chúa hơn là sự thuộc lòng một bài giáo lý.
Nhìn lại thời sự đời mình, chúng ta thấy có biết bao biến cố khiến ta như rơi vào cõi chết, nhưng rồi Chúa đã giúp ta vượt qua, thoát khỏi, như những cuộc sống lại lạ lùng. Có những lúc kể như sống lại, bởi vì đã có những lúc kể như đã chết. Chết và sống lại là những biến cố viết nên lịch sử phần rỗi của bản thân ta, của gia đình ta, của Hội Thánh ta, của Quê Hương ta.
Biết đọc lại những trang lịch sửh đó, biết kể lại những biến cố chết đi và sống lại trong lịch sử đó, chính là một cách sống Tin Mừng Phục Sinh, và từ đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Bởi vì khi biết đọc thời sự đời ta trong ánh sáng thời sự đời Chúa, chúng ta sẽ thấy chuyện chết đi và sống lại của Chúa Giêsu chính là con đường đầy hy vọng. Và những lúc đó, chúng ta sẽ gặp gỡ Chúa Giêsu như người đồng hành và như Đấng cứu độ. Chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy sức mạnh Phục Sinh của Đức Kitô hoạt động một cách rất lạ lùng trong nhân loại, trong Quê Hương, trong Hội Thánh, trong chính bản thân ta. Những lúc đó, chúng ta sẽ là những chứng nhân đích thực của Chúa Phục Sinh, sẽ biết kể lại những việc lạ lùng của Chúa Phục Sinh mà mình đã thấy, sẽ biết ca ngợi tạ ơn Chúa về những đổi mới kỳ diệu mà Chúa Phục Sinh đã và đang thực hiện trong các tâm hồn.
Với cái nhìn như trên, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em được trở thành những nhân chứng trung thực và nhiệt thành của Chúa Phục Sinh. Xin Chúa Phục Sinh ban cho Hội Thánh ta, Quê Hương ta và đồng bào ta những ơn đổi mới từ kho tàng Phục Sinh của Người. Amen
Bài Phúc Âm thánh lễ hôm nay cho thấy: Các môn đệ Chúa Giêsu là những kẻ rất cứng lòng và thực sự yếu đuối.
Thực vậy, họ được bà Madalena báo tin Chúa Giêsu đã sống lại, bà đã thấy, nhưng họ không tin. Tiếp đó, họ được hai môn đệ từ xa về, cũng báo tin Chúa Giêsu đã sống lại, các ông đã thấy, nhưng họ vẫn không tin. Sau cùng, chính Chúa Giêsu đã hiện đến với họ. Chúa mắng trách họ, Chúa gọi họ là những kẻ cứng lòng. Rồi Chúa đã chữa lành bệnh cứng lòng đó. Chúa đã cứu họ khỏi tội lỗi. Chúa đã cho họ được sống lại trong tâm hồn.
Bây giờ thì các môn đệ Chúa cảm nghiệm được thấm thía sự yếu đuối của mình. Bây giờ thì các môn đệ Chúa cảm nghiệm được sâu sắc quyền năng của Chúa Phục Sinh đối với sự yếu đuối của con người. Các ông trở nên khiêm tốn, có khả năng thông cảm với mọi kẻ yếu đuối.
Chính trong tình trạng như thế các ông đã được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Thấy Chúa sai các môn đệ là những người yếu đuối đi loan báo Tin Mừng, tôi nhớ lại lời Ngài đã phán xưa: “Ta đến, không phải để gọi người công chính, nhưng để gọi các người tội lỗi” (Mt 9,13).
Tôi hiểu Chúa Giêsu không kêu gọi những kẻ yếu đuối tội lỗi trở về, mà còn kêu gọi họ đi theo Chúa trên đường truyền giáo.
Các tông đồ xưa đã rất ý thức về sự yếu đuối của mình. Các ngài đã tuyên xưng sự thực đó trước mặt Chúa và trước mặt cộng đoàn. Các ngài không ngại viết ra sự thực đó cho mọi đời sau cũng được biết, để mọi người cùng với các ngài ca ngợi lòng thương xót Chúa.
Tôi thấy thái độ khiêm tốn như vậy chính là một vẻ đẹp Phúc Âm, rất có giá trị.
Vẻ đẹp ấy, giờ đây, tôi đang thấy ở đây, tại họ đạo mới này.
Tôi thấy nhà thờ mới, nhà xứ mới, nhà trường mới, nhà các nữ tu mới, cây cầu mới, con đường mới, bầu khí môi trường mới, các tín hữu mới, các bạn bè mới, tất cả đều là những công trình đẹp, rất đáng khen. Nhưng vẻ đẹp đáng để ý hơn hết, thiết tưởng là tấm lòng khiêm tốn, chân thành.
Khiêm tốn chân thành nhận mình bé nhỏ, yếu đuối, nhưng đã được Chúa đoái thương.
Khiêm tốn chân thành nhận mình bé nhỏ, yếu đuối, nhưng đã được các ân nhân xa gần giúp đỡ.
Khiêm tốn chân thành nhận mình bé nhỏ, yếu đuối, nhưng đã được Chính quyền địa phương, các tôn giáo bạn và các bà con khác đạo xung quanh quan tâm nâng đỡ.
Hôm nay, nhìn hình ảnh một họ đạo mới thành lập với biết bao cái mới tốt đẹp, tôi càng xác tín điều này là: Chúa đoái nhìn đến những kẻ bé mọn, Chúa thương những kẻ khiêm nhường, Chúa kêu gọi những người yếu đuối.
Tôi muốn nói lên điều xác tín trên đây, để cùng với Đức Mẹ và họ đạo tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã làm những sự lạ lùng cho Đức Mẹ và cho họ đạo Tân Hoá này.
Tôi cũng muốn nói lên sự thực trên đây, để cùng với các người hoạt động truyền giáo tại Việt Nam hôm nay nói chung và tại địa phương này nói riêng nhận thức đúng về tầm mức quan trọng của đức khiêm nhường trong việc truyền giáo. Phải khiêm nhường trước mặt Chúa. Phải khiêm nhường trước mặt các tôn giáo bạn. Phải khiêm nhường trước mặt Hội Thánh. Phải khiêm nhường trước mặt đồng bào, dù có ai trong đồng bào mình là những kẻ yếu đuối, hèn mọn. Khiêm nhường thực tình, khiêm nhường sâu sắc.
Nhìn về phía trước, tôi mong đợi họ đạo mới này sẽ tiếp tục đi lên, với những dự án nhỏ, với những bước đi nhỏ.
Xin Chúa Thánh Thần thương hướng dẫn anh chị em, để họ đạo mới này trở thành dấu chỉ của một mô hình truyền giáo, mà Chúa muốn giới thiệu với giáo phận Long Xuyên chúng ta.
Cách đây hai ngày, dịp khánh thành nhà thờ Tân Hoá thuộc tỉnh Kiên Giang, tôi đã được nghe thuật lại về những người tốt, những việc tốt, có liên quan đến công trình xây dựng nhà thờ ở đó. Và tôi cũng nghe kể lại nhiều cuộc đời đã được đổi mới, từ khi khởi công xây dựng nhà thờ mới đó. Rồi chính mắt tôi đã được nhìn thấy tại chỗ, biết bao vẻ đẹp về vật chất lẫn tinh thần, đã xuất hiện ở địa phương đó, từ khi ngôi thánh đường mới được xây dựng, toả ra những việc từ thiện, loan đi những tin mừng về cuộc sống phát triển, về trình độ văn hoá được nâng lên, tình liên đới con người được xây dựng củng cố.
Hôm nay, khi tới xứ Châu Long này, tôi cũng đã được nghe và được thấy nhiều người tốt, nhiều việc tốt như thế, và hơn thế nữa. Tôi biết là trong mấy năm vừa qua, đời sống anh chị em bị ảnh hưởng rất nặng nề, do sự chuyển đổi nghề nghiệp làm ăn. Kinh tế gia đình trở nên eo hẹp, nhưng tấm lòng anh chị em vẫn rộng mở trước việc chung và trước các chương trình truyền giáo.
Qua những điều tôi thấy, tôi nghe, mấy ngày qua và nhất là hôm nay tại chỗ này, tôi có cảm tưởng là tôi đang chứng kiến sự xuất hiện của một luồng gió đổi mới của Chúa Thánh Linh, đang thổi vào giáo phận Long Xuyên nhỏ bé chúng ta, qua nơi này, qua nơi khác. Cảm tưởng này giúp cho tôi hiểu phần nào lời Đức Kitô nói trong bài Phúc Âm thánh lễ hôm nay, khi Ngài ví hoạt động của Chúa Thánh Linh với luồng gió nhẹ. Chúa phán: “Chúng con thấy gió thổi nhưng chúng con không biết thổi từ đâu, và đi về đâu”. Đúng là tôi không biết luồng gió đổi mới của Chúa Thánh Linh đang thổi vào giáo phận chúng ta nói chung, và Châu Long này nói riêng, đã phát xuất từ đâu. Nhưng tôi có ba điều biều biết sơ sơ về luồng gió đổi mới này. Xin được chân thành vắn tắt chia sẻ với anh chị em.
Điều thứ nhất mà tôi biết về luồng gió đổi mới của Chúa Thánh Linh là: Nơi nào, người nào, cộng đoàn nào muốn đón nhận ơn đổi mới của Chúa Thánh Linh, bất cứ về phương diện nào, đều cần phải có thái độ khiêm tốn. Họ phải khiêm tốn nhận mình còn nhiều điều tồi tàn, cũng như một ngôi nhà đang xuống cấp. Họ phải khiêm tốn nhận mình yếu đuối, cũng như người chủ của một ngôi nhà xuống cấp, muốn tu sửa mà không đủ tiền, không đủ tài, không đủ sức. Họ phải khiêm tốn khao khát được trợ giúp, nên hân hoan đón nhận bất cứ một sự giúp đỡ nào, dù bé nhỏ nhất. Chính sự khiêm tốn của tấm lòng sẽ là lời cầu khẩn, sẽ là chỗ đợi chờ để có thể đón nhận được ơn đổi mới của Chúa Thánh Linh. Không phải chỉ là đổi mới thánh đường, nhà xứ, con đường, mà còn đổi mới trong tâm hồn mình, để mình có một cái nhìn mới hơn về quê hương, về đất nước, về lịch sử, về đức tin, về phần rỗi linh hồn.
Điều thứ hai mà tôi biết về ngọn gió đổi mới của Chúa Thánh Linh là: Bất cứ ai góp công, góp của vào chương trình đổi mới của Hội Thánh, đều được kể là những cộng tác viên của Chúa Thánh Thần, miễn là họ có lòng tốt. Gọi là người có lòng tốt, những ai khi làm những việc lành cho sự chung, đã có ý muốn đổi mới chính bản thân mình trước. Họ dùng việc lành để đến với Chúa, để kính trọng và phục vụ người khác, để góp phần mình vào sự từ bỏ chính mình, để đi theo Đức Kitô trên con đường phục vụ nhân loại. Khi có một lòng tốt như vậy, những ân nhân góp của, góp công vào việc đổi mới một giáo xứ sẽ không còn chỉ là người cho đi, mà đã trở nên con người lãnh nhận ơn Chúa.
Điều thứ ba tôi biết về ngọn gió đổi mới của Chúa Thánh Linh là: Công việc đổi mới, hoặc về vật chất hoặc về tinh thần, thường không do một người chủ trương và thực hiện được, mà do nhiều người cộng tác vào để thực hiện. Mỗi người chỉ là viên gạch nhỏ, nhưng tất cả mọi thiện chí đều phải phát xuất do những động lực nhắm về ý hướng chung. Ý hướng chung ở đây, đó là phải đổi mới làm sao, để nếp sống đạo của chúng ta đi sâu hơn vào Phúc Âm. Phải đổi mới làm sao, để nếp sống đạo chúng ta được hội nhập vào nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Phải đổi mới làm sao, để nếp sống đạo của chúng ta được trở nên văn minh hơn. Phải đổi mới làm sao, để nếp sống đạo của chúng ta đáp ứng chương trình truyền giáo của Đức Kitô một cách cụ thể và tích cực hơn. Và như vậy chúng ta thấy công việc đổi mới của tập thể Hội Thánh, lớn hay nhỏ, đều là một công trình của những người yếu đuối, nhưng dựa trên một sức mạnh của lý tưởng cao sâu và dựa vào niềm tin Chúa Thánh Linh, Đấng hướng dẫn chúng ta từng bước.
Với những nhận định vắn tắt trên đây, tôi cầu chúc xứ đạo Châu Long chúng ta, có được những đổi mới thực sự tốt đẹp từ ngoài đến trong, xứng đáng được gọi là một sự tái sinh bởi trời, cụm từ mà Đức Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay đã nói. Tôi hy vọng rằng hai mươi năm sau đây, các em rước lễ lần đầu hôm nay sẽ nói với nhau rằng: Nhà thờ chúng ta được xây dựng hôm đó, tháng đó, năm đó, qua hai mươi năm vẫn còn đẹp, vẫn vững vàng, vẫn là một kỶ niệm sâu sắc trong niềm tin của chúng ta, cho tình liên đới của chúng ta.
Xin thánh Giuse giúp cho những nguyện vọng chúng ta được thành đạt. Amen.
Đặt viên đá đầu tiên tại nhà thờ Châu Long (F1), ngày 15-04-1996
Mấy ngày nay, tôi hay nhìn lại 21 năm qua. Thời gian 21 năm là một chặng đường dài. Đây là một quãng đường rất mới đối với lịch sử Việt Nam.
Cùng với đồng bào cả nước, chúng ta đã đi vào lịch sử mới, với nhiều cố gắng mới, với nhiều hy vọng mới.
Nếu muốn đặt một tên cho chuyến đi 21 năm qua của giáo phận Long Xuyên, tôi xin phép được gọi đó là CHUYẾN ĐI TRUYỀN GIÁO. Sở dĩ đặt tên đó, là vì trong những năm qua, đức tin đã phát triển sâu rộng và tương đối mau, đã có những kết quả lớn lao và bất ngờ, đặc biệt là những gì có liên quan đến các điểm truyền giáo.
Hôm nay, nhìn chung tình hình giáo phận về phương diện phát triển đức tin, tôi dám quả quyết là: Chúa đã làm những sự lạ lùng, qua những dụng cụ bé nhỏ. Đi sâu vào tình hình đạo, tôi thấy có một vấn đề đáng suy nghĩ, một vấn đề đã đặt ra, đang đặt ra và sẽ còn đặt ra cho công cuộc truyền giáo tại địa phương chúng ta. Vấn đề đó là: Trong mọi chuyến đi truyền giáo, cần phải biết khéo léo với những khác biệt.
Tôi xin chia sẻ vắn tắt.
1. Trước hết, phải biết tế nhị trước những khác biệt nơi các người cùng trên con đường truyền giáo.
Tất cả đều có những giới hạn nhất định. Nhưng tất cả đều có những khả năng phục vụ hoặc nhiều hoặc ít, hoặc về mặt này hoặc về mặt nọ. Nên coi những khác biệt đó là một kho tàng phong phú có lợi cho truyền giáo. Kinh nghiệm cho thấy không thiếu người coi như khô khan, nhưng đôi lúc đã được Chúa dùng để làm những việc có lợi cho Nước Trời. Có những lãnh vực các giáo sĩ đi vào được, và có những lãnh vực Hội Thánh phải nhờ giáo dân và những chuyên viên để có thể hiện diện. Hội Thánh là dân Thiên Chúa. Mỗi cá nhân, mỗi nhóm, mỗi cộng đoàn có thể nhận được những đoàn sủng riêng, để phục vụ Nước Trời. Biết lợi dụng những khác biệt để hướng về một mục đích chung, đó là cách vừa phát triển truyền giáo, vừa xây dựng mối hiệp nhất tốt đẹp trong Hội Thánh.
2. Ngoài ra, phải biết cởi mở trước những khác biệt của hoàn cảnh truyền giáo.
Hoàn cảnh mỗi địa phương có những đặc điểm riêng, về phong tục, về văn hoá, về tín ngưỡng. Một điều kiện quan trọng mà chúng ta không được coi thường khi truyền giáo là phải biết kính trọng những khác biệt đó. Tôi thấy nhiều tôn giáo bên cạnh chúng ta rất khác đạo chúng ta, nhưng nhiều tín đồ của các tôn giáo ấy đã nêu những gương sáng về đạo đức, về nhiều giá trị cao cả, mà người Công giáo chúng ta nên bắt chước. Tôi nghĩ rằng quyền năng Chúa Kitô phục sinh, sức mạnh sáng tạo của Chúa Thánh Thần, tình thương của Chúa Cha giàu lòng thương xót không chỉ hoạt động trong ranh giới Hội Thánh bé nhỏ chúng ta. Khi có một cái nhìn khiêm tốn cởi mở như vậy theo Công đồng Vatican II, chúng ta mới thấy việc học hỏi thêm về Thần học, Kinh Thánh và về các tôn giáo khác là điều hữu ích, để có một thái độ cởi mở an tâm trước những khác biệt của từng hoàn cảnh truyền giáo.
3. Sau cùng, phải biết tỉnh táo trước những khác biệt của các phương tiện truyền giáo.
Trong truyền giáo, có những phương tiện truyền thống buộc ta phải thực hiện, như cầu nguyện, bác ái, chia sẻ, v.v..., đồng thời trong truyền giáo cũng có những phương tiện hiện đại, tuy không buộc dùng, nhưng dùng thì có lợi hơn. Thí dụ thời nay, để truyền giáo, Toà Thánh dùng con đường ngoại giao với các Chính phủ, tiếp xúc với các tôn giáo khác, sử dụng các đài phát thanh, sách báo, nghệ thuật thánh, phượng tự, thánh ca. Trong tương lai, những ai nắm bắt được thông tin, sẽ có nhiều khả năng gây được ảnh hưởng. Ý kiến đó đang được chứng minh trên các lãnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá. Tôi có cảm tưởng là ý kiến đó cũng sẽ đúng, ít là phần nào, trên lãnh vực truyền giáo.
Với mấy chia sẻ vắn tắt trên đây, tôi đã trình bày rõ hướng đi của chúng ta là hướng truyền giáo, cái khó chung của chúng ta là phải xử lý khéo những khác biệt, và cái khó riêng của mỗi người chúng ta chính là bản thân chúng ta, những con người yếu đuối, hèn mọn. Riêng tôi, tôi rất ý thức về thực tại yếu đuối của thân phận mình. Nên trên chuyến đi truyền giáo, tôi luôn luôn nhớ tới tinh thần thơ ấu thiêng liêng của Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa là tình yêu, bước đi những bước đi nhỏ, với những việc lành nhỏ, và không ngừng tìm tòi thêm và phấn đấu thêm. Amen.
Tại Long Xuyên, ngày 30-04-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Mấy ngày hôm nay, tôi đã nghĩ nhiều đến anh chị em. Tôi đã có dự kiến nói với anh chị em về một số vấn đề như: Gia đình, hoạt động công giáo tiến hành, văn hoá xã hội. Nhưng trước khi chọn lựa một trong những vấn đề dự kiến, tôi đã hỏi Chúa Giêsu: Còn Chúa, Chúa muốn nói với anh chị em họ đạo Trinh Vương những gì?
Và Chúa bảo tôi: Tất cả những gì con đã dự kiến, hãy bỏ đi. Hãy đọc lại bài Phúc Âm ngày thứ Tư và ngày thứ Năm. Hãy suy gẫm hai bài Phúc Âm đó. Cha muốn nói với họ là những người mà Cha yêu mến qua những bài Phúc Âm đó.
Tôi đã đọc lại Phúc Âm hôm qua và hôm nay. Tôi đã cầu nguyện trên những Lời Chúa. Và Chúa thúc giục tôi hãy nói với anh chị em thay Chúa những điều Chúa muốn nói với anh chị em. Và đây là vắn tắt một vài tư tưởng Chúa thúc giục tôi hãy chia sẻ với anh chị em.
Điều thứ nhất, qua bài Phúc Âm, Chúa đã nói: Chúa Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đi truyền giáo. Hai bài Phúc Âm hôm nay và hôm qua đều nhấn mạnh đến Đức Kitô được sai đi. Chính Đức Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa được sai đi loan báo Tin Mừng. Khi được sai đi như vậy, Ngài muốn dùng một số dụng cụ, một số nhân sự, một số cộng tác viên để cùng với Ngài ra đi loan báo Tin Mừng: Tin Mừng Thiên Chúa là tình yêu, Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa yêu thương tất cả những gì Chúa đã tạo dựng. Nhìn lên Đức Kitô được sai đi truyền giáo, Chúa thúc giục chúng ta hết thảy: Hãy lên đường đi theo Đức Kitô truyền giáo, hãy đi về hướng truyền giáo, hãy có một nhiệt tâm truyền giáo. Khi nhìn lên Đức Kitô - Đấng được sai đi truyền giáo - chúng ta sẽ ý thức mình là dụng cụ của Chúa. Chúng ta chẳng biết làm gì ngoài sự chúng ta bám vào tay Đức Kitô, tin tưởng vào Đức Kitô, hy vọng vào Đức Kitô và làm những gì Đức Kitô soi sáng cho chúng ta, để chúng ta cùng với Người loan báo Tin Mừng của Chúa Cha, Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Không phải chỉ cho những người có đạo, mà cho cả những người chưa biết Chúa. Khi chúng ta có một tâm thức truyền giáo như vậy, chúng ta sẽ thấy rằng: việc giữ đạo, ơn đức tin là phải đi đôi với việc truyền giáo. Nếu chúng ta không truyền giáo, chúng ta không thực hiện đúng ơn gọi làm con Thiên Chúa, làm người đi theo Đức Kitô.
Điều thứ hai tôi muốn nói với anh chị em là trong Phúc Âm, Chúa nói rõ: “Những gì Thầy nói với các con thì không phải Thầy nói, mà chính Đấng sai Thầy dạy Thầy nói với các con”. Có nghĩa là khi chúng ta làm điều gì, chúng ta cố gắng rút điều đó từ thánh ý Chúa, từ Phúc Âm. Tôi thí dụ: Việc chúng ta đang ngồi dự lễ bây giờ, việc tôi chia sẻ bây giờ đều phải qui hướng về sự đón nhận thánh ý Chúa. “Không phải Thầy nói, mà là Đấng đã sai Thầy truyền cho Thầy phải nói”. Khi chúng ta có một sự tiếp cận thân mật với Chúa như vậy trong những lời nói, trong những gặp gỡ, trong những hành động, thì chúng ta mới thấy thần lực của Thiên Chúa ở trong ta và thần lực đó giúp chúng ta đi trên con đường truyền giáo. Chúng ta sẽ không sợ bất cứ một ngăn trở nào, bởi vì chúng ta nói và làm theo thánh ý Đấng đã sai chúng ta.
Điều thứ ba Chúa muốn tôi nói với anh chị em, là theo như Đức Kitô trong hai bài Phúc Âm hôm nay và hôm qua, thái độ của kẻ đi truyền giáo là phải theo Đức Kitô, không phán xét thế gian mà là cứu độ thế gian. Đây là một ánh sáng giúp cho chúng ta có một phong cách giữ đạo. Phong cách giữ đạo này là dấn thân cứu độ, là phong cách chia sẻ, là thái độ quan tâm đến những người thiếu thốn. Khi chúng ta làm như vậy, chúng ta mới thấy việc giữ đạo của chúng ta phải toả ra một tình bác ái vô biên, có tính cách cứu độ.
Và điều thứ bốn Chúa muốn tôi nói với anh chị em, là như Đức Kitô đã nói trong bài Phúc Âm hôm nay và hôm qua. Chúa nói: “Ai thấy Thầy thì thấy Đấng đã sai Thầy”, có nghĩa là Chúa muốn chúng ta giảng về Chúa, làm chứng cho Chúa bằng chính phẩm chất của chúng ta, bằng chính đạo đức của chúng ta, bằng chính con người của chúng ta, chứ không phải bằng nhãn hiệu, bằng những hình thức lễ nghi bề ngoài, mà bằng sự chúng ta có tâm hồn tin-cậy-mến, có lòng yêu thương, có trái tim bao dung, có một tấm lòng cởi mở. Đấy là những phẩm chất để làm chứng cho Đức Kitô, hầu ai nhìn thấy chúng ta thì sẽ dễ nhận ra Thiên Chúa của chúng ta.
Lúc nãy, ông đại diện giáo đoàn có nói là hôm nay kỶ niệm giáo xứ, anh chị em muốn nhìn lại những năm vừa qua để tìm xem một hướng đi cho tương lai xứ đạo. Điều đó rất đúng. Tôi thấy là trong những năm qua, anh chị em dưới sự lãnh đạo của cha xứ đã có nhiều phát triển về mọi mặt. Điều đó rất đáng mừng. Trong tương lai, tôi xin đề nghị với anh chị em: Hướng đi của anh chị em là hướng đi truyền giáo. Cách tổ chức của họ đạo này tương đối là vững, là đẹp: về nhân sự, về hội đoàn. Tôi nhìn qua giáo xứ, tôi thấy vật chất tiến, học vấn tiến, nhân sự tiến, trình độ đạo đức tiến. Đó là những điều đáng khen ngợi, nhưng tất cả những cái đó cần phải hướng về hướng truyền giáo trong tương lai. Làm sao để anh chị em thấy rằng cái vốn Chúa ban cho anh chị em trong cá nhân, trong gia đình, trong xứ đạo là cái vốn phải dùng, phải khai thác để mà truyền giáo.
Tôi mong rằng trong tương lai khi tôi trở lại đây, anh chị em sẽ có thể trình bày với tôi kết quả truyền giáo của anh chị em: Đã được bao nhiêu người rửa tội, bao nhiêu người tân tòng; đã được bao nhiêu việc để khích lệ, ủng hộ những địa điểm truyền giáo; đã có những tổ chức nào để đào tạo huấn luyện những nhân sự, hầu những nhân sự đó sẽ phục vụ trong các lãnh vực của xã hội, để làm chứng cho đức tin. Tôi hy vọng rằng anh chị em có khả năng và có thể thực hiện được những điều tôi vừa gợi ý. Nhìn chung xứ đạo của chúng ta, tôi thấy anh chị em có rất nhiều tiềm năng. Tôi không nói về tiềm năng của cải, nhưng tôi nói về tiềm năng tinh thần: Tấm lòng anh chị em rất tốt, đức tin anh chị em rất mạnh và tinh thần chung của anh chị em rất cao.
Xin anh chị em hãy cùng với cha xứ hướng dẫn, đem tất cả những vốn liếng đó để hết lòng phục vụ cho truyền giáo. Tôi tin rằng Thiên Chúa là tình yêu đã sai Đức Kitô vào thế gian để truyền giáo, thì hôm nay, Đức Kitô sẽ rất vui mừng nhận thấy xứ đạo của anh chị em đi theo Đức Kitô trên con đường truyền giáo. Bởi vì bây giờ chính là thời điểm truyền giáo. Có truyền giáo thì đức tin mới tồn tại tốt đẹp và đức tin mới phát triển phong phú.
Xin Chúa Thánh Thần là Đấng đã sai các tông đồ đi ngày lễ Ngũ Tuần, hôm nay đến với xứ đạo chúng ta. Không phải chỉ đến với các con em Thêm Sức, mà đến với từng người chúng ta và nhất là trong cộng đoàn xứ đạo chúng ta. Amen.
Từ ít tháng nay, tôi được nghe nhiều ý kiến về việc xây cất nhà thờ mới và về việc khánh thành nhà thờ mới. Thí dụ cách đây mấy ngày, một người từ thành phố Sàigòn xuống đây, sau khi viếng một nhà thờ ở gần đây đã nói: “Con chưa bao giờ thấy một ngôi nhà thờ mới mà lại mang hình ảnh kỳ cục như thế này, vừa nặng nề rườm rà, vừa lỗi thời, vừa tốn kém”.
Rồi cũng cách đây mấy tuần, một người từ xa, sau khi dự khánh thành một nhà thờ mới đã nói với tôi: “Nhà thờ mới này đúng là đẹp, khang trang, có thể nói là sang trọng. Nhưng mọc lên ở một địa phương hầu hết là dân ngoại túng nghèo, con sợ rằng sự nổi lên một nhà thờ quá sang như vậy giữa một xóm nghèo, có thể ngăn cản việc truyền giáo và sẽ trở nên phản chứng hơn là nhân chứng”.
Rồi một người khác, sau khi dự lễ khánh thành nhà thờ có nói với tôi: “Con cũng đã dự nhiều lễ khánh thành và con có cảm tưởng là, ít nơi đã có một tâm hồn biết tạ ơn Chúa bằng nơi này. Bởi vì con thấy, nhiều nơi tổ chức khánh thành nhà thờ mà xem ra mục đích chính không phải là tạ ơn Chúa, mà kiếm một cái gì lợi ích về tiền bạc hay về uy tín”.
Chỉ vài phát biểu đó cũng đã làm cho tôi nghĩ ngợi và đau lòng. Nhưng những nghĩ ngợi đó và những đau lòng đó đang được vơi đi, khi tôi đến nhà thờ bé nhỏ này. Tôi thấy nhà thờ bé nhỏ này được xây dựng một cách hợp thời và khiêm tốn, đúng theo nhu cầu của họ đạo. Tôi cũng đang thấy ngày lễ khánh thành nhà thờ bé nhỏ này được tổ chức trong một tinh thần đạo đức. Và điều làm tôi vui nhất là tinh thần đạo đức của anh chị em họ đạo bé nhỏ này đang ở trong bầu không khí mà bài Phúc Âm hôm nay nhấn mạnh. Bài Phúc Âm hôm nay nhấn mạnh đến sự gắn bó với Đức Kitô và tập trung vào Đức Kitô: “Thầy là cây nho, chúng con là ngành”.
Tôi thấy sự gắn bó với Đức Kitô và tập trung vào Đức Kitô đang được thực hiện ở đây bằng nhiều cách. Tôi thấy khi bước vào nhà thờ này, chúng ta dễ được thu hút bởi Đức Kitô trong phép Mình Thánh. Tôi thấy ở đây, khi đọc các biểu ngữ, có những lời của Kinh Thánh. Khi nghe bài chào mừng lúc nãy của ông đại diện, tôi cũng nhận ra tinh thần tập trung vào Đức Kitô. Điểm tôi để ý nhiều nhất chính là tinh thần tham dự lễ đơn giản của anh chị em. Anh chị em đã tỏ ra sốt sắng lắng nghe lời Chúa và như là đang gặp gỡ chính Đức Kitô.
Khi chúng ta có một tinh thần mong muốn gặp gỡ Đức Kitô để gắn bó với Người, để đi theo Người, để bắt chước Người, chúng ta sẽ thấy một Đức Kitô rất khác với một Đức Kitô mà nhiều người thường tưởng tượng. Chúng ta sẽ thấy một Đức Kitô tỏ uy quyền Người ra, không phải trong những nơi, những người quyền thế, mà trong những nơi, những người bé nhỏ, nơi những dụng cụ coi như hèn yếu. Chúng ta sẽ gặp một Đức Kitô đem ánh sáng vào, không phải cho những nơi đầy vinh quang rầm rộ, nhưng cho những nơi coi như đang bị bóng tối dày đặc. Chúng ta sẽ gặp một Đức Kitô tỏ vinh quang Chúa Cha không phải ở nơi những người chiến thắng thành công, nhiều tiền nhiều bạc, nhiều thắng lợi, mà ở những hoàn cảnh coi như bế tắc, coi như thất vọng, coi như tuyệt vọng. Đức Kitô tỏ vinh quang Thiên Chúa Cha ở những nơi đó. Và khi đồng hành với một Đức Kitô như vậy, những người truyền giáo như chúng ta sẽ thấy những kết quả lạ thường trong các tâm hồn. Những tâm hồn nghèo khó sẽ được Tin Mừng, những họ đạo nghèo khó, những cộng đoàn bé nhỏ sẽ được phát triển. Những nơi không có hy vọng phát triển nay được phát triển và chính những cái đó, sẽ là hoa trái làm sáng danh Chúa Cha như bài Phúc Âm hôm nay Chúa đã nói: “Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong kẻ ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều hoa trái và vinh danh Chúa Cha là chúng con sinh được nhiều hoa trái”.
Những thứ hoa trái mà tôi vừa nói tức là kẻ nghèo được loan báo Tin Mừng, những nơi nghèo khó, những nơi tuyệt vọng, những nơi bị bỏ rơi nay được Chúa đến viếng thăm và Tin Mừng phát triển. Đấy là những hoa trái làm vinh danh Chúa Cha như bài Phúc Âm hôm nay đã nói rõ. Khi nhìn họ đạo An Bình ở đây, tôi tự nhiên có cảm tưởng đây là một hình ảnh của Giáo Hội đang đi về thế kỶ XXI. Thế kỶ XXI, Hội thánh sẽ phát triển không phải ở những xứ lớn, không phải ở những nước lớn; mà sẽ phát triển ở những xứ nghèo, những cộng đoàn bé nhỏ, những nơi trước đây không được quan tâm. Và đặc điểm của Hội thánh năm 2000, năm thánh, là các cộng đoàn này trở về với Đức Kitô, gắn bó với Đức Kitô, tập trung vào Đức Kitô, đồng hành với Đức Kitô.
Lúc nãy ông đại diện giáo xứ có nói rằng, họ đạo anh chị em quyết trung thành với Hội Thánh. Tôi muốn cùng với anh chị em nói thêm rằng, chúng ta sẽ cùng với Hội thánh trung thành với Đức Kitô. Chính Hội thánh phải trung thành với Đức Kitô, chính Hội Thánh phải đi về với Đức Kitô và đó là hướng của Hội thánh năm 2000, thế kỷ XXI.
Giáo họ của anh chị em bé nhỏ, anh chị em đã được Chúa thương, qua nhiều thành công thấy được và âm thầm không thấy được. Chúng ta tạ ơn Chúa vì chúng ta là những dụng cụ rất bé nhỏ nhưng đã được Chúa dùng, Chúa thương.
Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa, chúng ta nhìn vào tương lai. Trong quá khứ Chúa đã thương chúng ta, thì trong tương lai chúng ta vẫn có quyền tin rằng Chúa vẫn thương. Lúc nãy chúng ta nghe Bài đọc nói: “Chúa trung thành với lời Chúa hứa, Chúa trung thành với lời giao ước”. Tôi tin rằng những người bé nhỏ như chúng ta khi tin vào Chúa, không bao giờ Chúa để chúng ta thất vọng. Hãy tin tưởng trong tâm tình tạ ơn. Amen.
Lễ Khánh thành nhà thờ An Bình, kinh RIVERA, ngày 08-05-1996
Thánh lễ an táng cụ cố Giuse có nhiều nét đặc biệt. Nhiều linh mục đồng tế. Đông tu sĩ và giáo dân tham dự. Đức Giám mục chủ lễ và giảng. Những người có cảm tình với cụ cố và gia đình không phải chỉ duy số người hiện diện lúc này ở đây, mà còn gồm một số đông vắng mặt vì những lý do khác nhau.
Dịp này, mỗi người có liên hệ với cụ cố thường có một vài suy nghĩ về cụ. Riêng tôi cũng thế. Tóm tắt suy nghĩ của tôi là thế này: Tôi đang tiễn đưa một tông đồ giáo dân, mà bài Phúc Âm hôm nay (Mt 11,25-30) đã ám chỉ.
Thực vậy, cụ cố Giuse là một giáo dân thường. Cụ ít được học về Kinh Thánh, thần học, tu đức. Thế nhưng cụ đã có những hiểu biết sống động về Chúa. Những hiểu biết này không được viết ra, cũng không thường được nói ra, nhưng thấm sâu vào nếp sống đời thường. Nhìn đời thường của cụ, từ cách ăn nói đối xử đến những lo toan, buồn vui và những phản ứng tự nhiên khác nhau, người ta có cảm tưởng là cụ được hướng dẫn bởi những hiểu biết đạo đức chắc chắn rõ ràng.
Những hiểu biết này, nếu đã không đến với cụ từ các sách, các trường lớp, thì theo tôi, đã đến từ những gặp gỡ với Đức Kitô. Gặp gỡ bản thân, gặp gỡ riêng tư, gặp gỡ sống động, gặp gỡ đơn sơ. Trong những giờ phút cầu nguyện, viếng đàng thánh giá, chầu Mình Thánh Chúa, dự lễ, rước lễ, cũng như những khi làm các việc bác ái, việc bổn phận và những tiếp xúc trong tinh thần đạo đức.
Những hiểu biết do gặp gỡ Chúa như thế có sức biến đổi tâm hồn một cách sâu thẳm. Bằng những thanh luyện, bằng những soi sáng, bằng những kết hợp với Thánh ý Chúa.
Khi nhìn qua sự biến đổi nơi tâm hồn cụ cố, tôi nhận thấy cụ cố có những nhận xét đáng ngạc nhiên. Chẳng hạn, có lần đề cập đến tình hình sống đạo ở vài nơi, cụ cố trình bày với tôi ước vọng của cụ là: Cách sống đạo ở những nơi đó cần được đổi mới, sao cho hợp với mong muốn của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể cũng là Chúa Giêsu trên đường thánh giá.
Tôi thấy những ước vọng trên đây thực đơn sơ, nhưng phản ánh một tâm hồn tông đồ mà bài Phúc Âm hôm nay gọi là bé nhỏ, nhưng được Chúa thương yêu và dạy dỗ. Chúng ta hãy nghe lại lời Chúa nói: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy mà đã mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11,25). Theo tôi, lời Chúa phán xưa đã được thực hiện nơi cụ cố Giuse. Tôi xin tạ ơn Chúa. Với tâm tình cảm tạ Chúa, tôi cầu xin Chúa cho những ước vọng và những hiểu biết đạo đức của cụ cố sẽ được nuôi dưỡng, sẽ được thực hiện một cách tốt đẹp nơi các người con, người cháu và những người thân của cụ cố mãi mãi sau này.
Giờ đây, chúng ta nhìn lên Đức Kitô phục sinh, để cảm tạ, để cầu xin và để hy vọng. Nơi Đức Kitô phục sinh chúng ta luôn gặp được cụ cố Giuse. Nơi Đức Kitô phục sinh chúng ta sẽ gặp nhau, đời này và đời sau chẳng cùng. Amen.
Lễ an táng cụ cố Giuse Ngô Văn Kháng, thân phụ cha Giuse Ngô Quang Kiệt, tại nhà thờ Lạng Sơn, kinh 3, ngày 08-05-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Họ đạo Cần Đăng hôm nay khác với họ đạo Cần Đăng những năm trước đây. Tôi nhớ lại các lần trước đây tới thăm họ đạo này. Lần đầu vào năm 1974. Rồi những lần khác trong những năm kế tiếp. Mỗi lần thăm, tôi thấy họ đạo đã có thêm một cái gì mới hơn, đẹp hơn. Thấy thế, tôi có cảm nghĩ là: Họ đạo Cần Đăng rồi sẽ vươn lên. Hôm nay cảm nghĩ đó đã thành sự thực. Tôi đang chứng kiến một sự vươn lên gây ngạc nhiên và cảm mến.
Nhìn nhà thờ mới này, cùng với một cây tháp mới kia, giữa công viên mới, tôi thấy đây là kết quả lớn của những phấn đấu lâu dài và của biết bao tấm lòng hảo tâm xa gần.
Tôi biết những công trình trên đây chỉ là một phần của một chương trình phát triển rộng lớn hơn nhiều. Bởi vì đã và đang có những phát triển về các công việc từ thiện xã hội, văn hoá, giáo lý, bí tích, với những dự án nhỏ nhằm xoá đói giảm nghèo, xoá dốt giảm bệnh. ở đây tôi nghĩ cách riêng tới bầu khí hài hoà thông cảm giữa đồng bào lương giáo, giữa đạo và đời, giữa chính quyền và họ đạo. Đặc biệt tôi nghĩ đến tình nghĩa chia sẻ và gắn bó giữa cộng đoàn họ đạo Cần Đăng với những nhóm anh chị em tín hữu sống trong ruộng đồng, xa đây nhiều cây số, với một cuộc sống đời đạo vất vả.
Nhìn chung, tôi thấy họ đạo Cần Đăng đã có những bước tiến rất đáng khen ngợi. Nhất là vì những bước tiến đó đã thực hiện trong những hoàn cảnh không phải là không có những khó khăn phức tạp.
Trong tâm tình tạ ơn Chúa, tôi tự hỏi mình rằng: Với những kết quả như đang thấy, những người Chúa sai đi truyền giáo có thể cho là đã đủ để an lòng chưa?
Tôi nhìn tình hình. Tôi suy nghĩ. Tôi cầu nguyện. Thế rồi tôi thấy hiện lên trong trí tôi một mô hình hoạt động truyền giáo. Mô hình này không trả lời trực tiếp câu hỏi tôi đã đặt ra. Nhưng gợi ý cho tôi thấy là người truyền giáo tại Việt Nam hôm nay phải tìm tòi, nghiên cứu, phấn đấu, sao cho cộng đoàn của mình, nhất là bản thân của mình, qua hoạt động và đời sống của mình, có thể giới thiệu được với xã hội Việt Nam một chân dung đẹp về Hội Thánh Công giáo Việt Nam. Một chân dung đẹp, của Hội Thánh Việt Nam mà tôi mơ ước, sẽ có 3 yếu tố này: Một là yếu tố Phúc Âm, hai là yếu tố dân tộc, ba là yếu tố hiện đại. Cả 3 yếu tố này đều cần. Nhưng quan trọng nhất là yếu tố Phúc Âm. Cả 3 yếu tố này sẽ phối hợp với nhau trong mọi lãnh vực tôn giáo, như trong kiến trúc, trang trí, thánh ca, phượng tự, nếp sống, v.v...
Tôi thí dụ: Nhìn tổng thể khu thánh đường mới này, tôi đọc thấy yếu tố Phúc Âm ở chỗ biết tập trung vào Đức Kitô; tôi nhận ra yếu tố dân tộc ở một số nét truyền thống phổ biến của các dinh thự cổ kính; tôi nhận ra yếu tố hiện đại ở vẻ thanh thoát tân kỳ của khoa học kỹ thuật và mỹ thuật mới.
Một thí dụ khác: Nhìn nếp sống một họ đạo hay một người Công giáo, tôi dễ nhận thấy nơi họ yếu tố Phúc Âm, ở chỗ họ có tinh thần người con hiếu thảo đối với Cha trên trời và có tinh thần yêu thương huynh đệ đối với mọi người; tôi cũng dễ nhận thấy nơi họ yếu tố dân tộc, ở chỗ họ gắn bó với Đất Nước, đồng hành với dân tộc; tôi cũng dễ nhận thấy nơi họ yếu tố hiện đại, ở chỗ họ phấn đấu để trình độ văn hoá, trí thức của họ và của những người thuộc về họ mỗi ngày một cao hơn, rộng hơn và thứ thời hơn.
Khi một người Công giáo Việt Nam, một cộng đoàn Công giáo Việt Nam, nhất là một người truyền giáo của Hội Thánh Công giáo Việt Nam biết sống với những yếu tố trên, trong tình mến Chúa yêu người thực sự tha thiết chân thành vị tha, họ sẽ có thể làm chứng rằng: Hội Thánh Công giáo Việt Nam là một cộng đồng vươn tới giá trị cao đẹp, có lợi cho dân tộc, làm đẹp cho đất nước.
Thời nào, việc truyền giáo cũng gặp khó khăn, như Chúa Giêsu đã loan báo trong bài Phúc Âm hôm nay. Gặp khó khăn là chuyện bình thường không đáng lạ gì trong bất cứ việc nào của cuộc sống, phương chi việc truyền giáo. Nhưng trong thời nào, việc truyền giáo cũng vẫn thực hiện được. Không cách này thì cách khác. Họ đạo Cần Đăng cũng như nhiều giáo điểm khác trong giáo phận Long Xuyên đang cho thấy sự thực này là: Công việc truyền giáo đã tiến triển hơn trước nhiều. Một phần do những người được sai đi có nhiệt tâm, có thao thức, có kế hoạch, có nghiên cứu, tìm tòi, xoay xở, phấn đấu và dấn thân.
Với những chia sẻ chân thành trên đây, tôi cầu xin Chúa, cho cuộc lễ tạ ơn hôm nay trở thành một lời mời gọi truyền giáo, trong tinh thần Lời Chúa hôm nay: “Như Cha Thầy đã sai Thầy thế nào, Thầy cũng sai chúng con đi như vậy” (x.Ga 17,18). Amen.
Mấy ngày nay, tôi hay nghĩ tới họ đạo Thanh Tâm này. Tôi nhìn về đây với câu hỏi: Đạo đức của cộng đoàn biên giới 2 tỉnh An Giang - Cần Thơ này đang lên hay đang xuống?
Tất nhiên tôi muốn câu trả lời sẽ là “đang lên” chứ không đang xuống. Sau khi quan sát tình hình, so sánh trước sau, xa gần, tôi đã có một câu trả lời tương đối lạc quan. Bởi vì, nếu tôi không lầm, thì trong thời gian qua, họ đạo đã đạt được một số tiến triển trên đường đạo đức. Đáng kể là mấy tiến triển sau đây: - Trước hết, tôi thấy phát triển bầu khí nội bộ bình an trong tinh thần bác ái đối với nhau và hiếu thảo đối với Chúa. Thực vậy, khi phải đánh giá ai, tôi thường dựa vào tiêu chuẩn đầu tiên này là bác ái. Phải thế thôi. Bởi vì bác ái là đặc điểm căn bản của người tin theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã quả quyết như vậy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Tôi đã căn cứ vào tiêu chuẩn đầu tiên đó, để nhận xét về họ đạo Thanh Tâm này, và tôi đã thấy tình hình chung về bác ái là tương đối tốt, với những tiến triển nhỏ về danh tiếng nhưng lớn về thiện chí. Thiện chí của nhiều anh chị em là những hy sinh, những phấn đấu, không phải một ngày, mà là mỗi ngày. Thiện chí đó tuy âm thầm, nhưng thực sự lớn lao.
- Cùng với bác ái nội bộ, tinh thần liên đới với xã hội trong họ đạo cũng đã phát triển. Đây là một điểm xem ra chưa được chú ý đủ tại nhiều họ đạo. Thậm chí nơi nhiều người, nó chưa được kể như một điều kiện đạo đức. Đang khi Công đồng Vatican II đã xác định rõ nó là một đòi hỏi của người môn đệ Chúa. “Những vui mừng và những hy vọng, những buồn sầu và những lo âu của những con người thời nay cũng là những vui mừng, những hy vọng, những buồn sầu và những lo âu của những người môn đệ Chúa” (Gaudium et Spes 1). Riêng nơi họ đạo Thanh Tâm này, tinh thần liên đới với xã hội đang phát triển theo chiều hướng tốt. Sự đồng cảm, sự đồng hành với địa phương trong các vấn đề phát triển cộng đồng đã không được coi như một việc quan trọng của đức bác ái và công bình xã hội. Họ đạo anh chị em đã hiểu đúng điều đó, và cũng đã thực hiện đúng điều đó, theo khả năng của mình. Thiết tưởng đây là một việc đạo đức gây ảnh hưởng tốt, một hướng truyền giáo thích hợp, một cách làm chứng dễ hiểu về Hội Thánh.
- Tiến triển thứ ba mà tôi muốn nêu lên ở đây là lòng ái mộ của anh chị em đối với Lời Chúa và Mình thánh Chúa. Tôi biết là anh chị em siêng năng đi lễ, rước lễ, học hỏi Lời Chúa. Tôi thấy nhiều người trong anh chị em còn làm hơn thế nữa, đó là cố gắng sống thánh lễ và sống Lời Chúa. Những việc làm này sẽ dần dần cho anh chị em những cảm nghiệm sống động về những gì Chúa Giêsu đã cầu nguyện mà bài Phúc Âm hôm nay ghi lại: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng: Con ở đâu chúng cũng được ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang, mà Cha đã ban cho Con” (Ga 17,24). Sống thánh lễ và sống lời Chúa, chúng ta sẽ gặp gỡ Đức Kitô, sẽ được ở trong tình yêu của Người. Đó là một hạnh phúc sẽ làm cho chúng ta nếm được vui mừng và bình an lạ lùng dành riêng cho những con cái Chúa.
Với ba phát triển tôi vừa ghi nhận và nêu lên, họ đạo Thanh Tâm này, tuy bé nhỏ, vẫn có thể làm chứng phần nào cho Nước Trời. Nếu họ đạo tiếp tục đi theo hướng phát triển đó, họ đạo sẽ góp phần không nhỏ vào việc truyền giáo.
Chúng ta hãy quyết tâm đi theo hướng phát triển đó. Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta, nếu chúng ta biết cầu nguyện với Người, không phải chỉ hôm nay, mà mọi ngày mãi mãi. Chúng ta sẽ là một cộng đoàn có Chúa hiện diện, có Chúa hoạt động. Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ hiểu: Để đón nhận Nước Trời không phải chỉ cần phát triển bí tích, xây cất cơ sở, và kiện toàn tổ chức cơ chế, mà còn phải thực hiện nhiều điều kiện rất quan trọng khác, như chúng ta vừa thấy một phần nhỏ.
Xin Chúa Thánh Thần thương đến chúng ta.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Thanh Tâm - Mỹ Thạnh, ngày 23-05-1996.
Bài Tin Mừng thánh lễ hôm nay là những dòng cuối cùng của Phúc Âm thánh Gioan. Trong phần cuối này, thánh Gioan đã thuật lại vắn tắt cuộc đối thoại giữa thánh Phêrô và Chúa Giêsu. Với mong muốn thăm dò ý định của Chúa Giêsu về Gioan, thánh Phêrô đã hỏi Chúa Giêsu rằng: “Còn người này thì sao?” Phản ứng của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không hài lòng về thắc mắc của thánh Phêrô, Ngài nói: “Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy trở lại, thì việc gì đến con”.
Qua sự việc trên đây, Phúc Âm đã cho thấy thánh Phêrô là một người có nhiều giới hạn, về trình độ hiểu biết và cả về cách đối xử. Đây không phải là lần đầu tiên và duy nhất nói lên sự thực đó. Nhiều lần Chúa Giêsu đã vạch ra cho thánh Phêrô thấy những giới hạn của mình. Chính thánh Phêrô cũng đã tự nhận ra giới hạn của mình một cách đau đớn, khi ngài chối Chúa 3 lần. Đó là những vết của lý lịch vị Giáo Hoàng đầu tiên. Các thánh sử đã ghi lại những vết đó một cách trung thực, để các cộng đoàn xa gần đều được rõ.
Suy nghĩ về những chi tiết trên đây, tôi thấy Hội Thánh sơ khai rất khiêm tốn, chân thành, và Chúa Giêsu đã rèn luyện các tông đồ nhiều khi bằng chính những sai phạm của các ngài, để các ngài nên đạo đức hơn. Tôi tạm gọi nét đạo đức đó là đạo đức của những giới hạn.
Đạo đức của những giới hạn là khiêm tốn nhận biết mình có nhiều giới hạn, về mặt đạo đức, trí thức, nhân bản, chuyên môn, v.v...
Đạo đức của những giới hạn là khiêm tốn và kiên trì cố gắng rèn luyện, học hành, dấn thân, tìm tòi, nghiên cứu, để mỗi ngày mỗi nên người có phẩm chất hơn.
Đạo đức của những giới hạn là biết khiêm tốn tế nhị trong cách đối xử nói năng, không tự cho mình là đạo đức hơn người, hiểu biết hơn người.
Đạo đức của những giới hạn là biết khiêm tốn nhận mình chỉ là dụng cụ kém cỏi, sở dĩ Chúa dùng là vì Chúa muốn, chứ không vì mình có tài đức hơn những người khác.
Hội Thánh sơ khai được rèn luyện như thế. Tôi có cảm tưởng là Hội Thánh thời nay cũng đang được Chúa rèn luyện như vậy. Bởi vì qua dư luận và các phương tiện thông tin, chúng ta thấy Hội Thánh chúng ta đang là đối tượng của nhiều phê phán. Các người có chức vị trong Hội Thánh đều được xã hội đánh giá về nhiều mặt, như nhân bản, trí thức, đạo đức, phong cách, tầm nhìn, v.v... Riêng tôi, khi được phê phán, tôi thấy rõ hơn những giới hạn của mình.
Trước một tình hình như thế, tôi nhận ra ý Chúa là chúng ta hãy trở về với hướng đạo đức của những giới hạn. Cụ thể như là:
Đối với chính mình, hãy khiêm tốn nhận thức mình có nhiều giới hạn, còn thua kém nhiều người về nhiều mặt, nên cố gắng phấn đấu tự đào tạo mình thường xuyên, đồng thời ý thức mình chỉ là dụng cụ của Chúa, phải luôn sẵn sàng nhường chỗ, từ bỏ tất cả tư lợi của mình.
Đối với những người khác, hãy tế nhị giúp cho họ thấy họ có nhiều giới hạn cần phải khiêm tốn ghi nhận, và dũng cảm vượt qua, để vươn lên.
Đối với những hoàn cảnh kinh tế, văn hoá, tôn giáo có nhiều giới hạn, hãy khôn khéo tháo gỡ dần những cản trở, phát triển những thuận lợi bằng những dự án nhỏ, những dấn thân nhỏ.
Sở dĩ hôm nay tôi chia sẻ với anh chị em những suy nghĩ trên đây rút ra từ bài Phúc Âm thánh lễ, chính vì tôi biết anh chị em là những người thiện chí, rất ý thức về những giới hạn của mình, nên đã có nhiều cố gắng rất đáng khen ngợi, để vươn lên.
Tôi không buồn chút nào khi thấy người của Hội Thánh có những giới hạn, nhưng luôn phấn đấu sống đạo đức với những giới hạn đó. Trái lại, tôi rất buồn và thực sự lo ngại khi thấy con người Hội Thánh sống tự mãn, không nhận thấy mình có nhiều giới hạn, không nhìn thấy những thua kém của mình, để phấn đấu vươn lên. Tự mãn là con đường chắc nhất để tự huỷ.
Xin Chúa Thánh Thần thương đổi mới họ đạo chúng ta, Hội Thánh Việt Nam chúng ta. Xin Người thương giúp chúng ta nên đạo đức hơn, không chỉ nhờ hiểu biết những nguyên tắc đạo đức, mà còn do cái nhìn sắc bén về những thực tại hôm nay có nhiều giới hạn, và nhờ rèn luyện mình biết sống theo thánh ý Chúa trong hoàn cảnh hôm nay. Một đời sống đạo đức như thế sẽ góp phần quan trọng vào việc truyền giáo tại Việt Nam hôm nay, đồng thời cũng sẽ giúp xây dựng một Hội Thánh hiệp thông, trong đó mọi người đều ý thức mình có nhiều giới hạn, cần phải cùng nhau đi tìm những giá trị cao đẹp, mới mẻ, có khả năng làm chứng cho Nước Trời trong một xã hội đã rất khác xưa.
Lễ Thêm Sức tại họ thánh Giuse, xứ Ninh Cù, kinh Rivera, ngày 25-05-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Thánh lễ hôm nay nhắc nhớ lại việc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã được đổi mới một cách sâu sắc. Với tâm hồn mới, với phong cách mới, các tông đồ đã lên đường truyền giáo. Kết quả thực tuyệt vời. Nhiều dân tộc, nhiều nước đã được nghe Tin Mừng. Nhiều người đã bỏ đàng tà, trở về đàng thiện. Sự ác đã giảm đi. Công bình, bác ái đã tăng lên.
Tìm hiểu lý do tại sao việc truyền giáo đã thành công lạ lùng như thế trong những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi thấy nguyên nhân chính là quyền năng Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Thánh Thần đã không hoạt động đơn độc. Người đã dùng dụng cụ, đó là Hội Thánh. Hội Thánh là cộng tác viên của Chúa Thánh Thần.
Hội Thánh thời đó gồm những cộng đoàn nhỏ. Tất cả đều là những người trở lại. Khi đã nên người tín hữu, họ trở thành những người truyền giáo. Mọi người đều truyền giáo. Mỗi người đều tự hào với niềm vui được truyền giáo, theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Các tông đồ thì đi đây đi đó, để rao giảng Phúc Âm. Các thầy phó tế thì lo việc từ thiện xã hội. Các gia đình thì góp công góp của vào việc chung. Các nhóm nhỏ thì lo chia sẻ Lời Chúa, cầu nguyện và nâng đỡ lẫn nhau. Cơ chế lỏng lẻo, tổ chức đơn sơ. Nhưng các người Công giáo rất gắn bó với nhau bằng đức ái, và toả đức ái ra trong thái độ, lời nói và hoạt động bên ngoài. Cứ thế Tin Mừng được loan đi.
Nếu tìm hiểu sâu hơn tâm hồn những người truyền giáo lúc đó, tôi thấy họ có 3 xác tín này:
Trước hết, họ xác tín Chúa Giêsu chính là Tin Mừng của họ. Bởi vì Người là Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người, để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa cứu độ. Người rất yêu thương nhân loại, nhất là những kẻ yếu hèn, nghèo túng, khổ đau. Người có sức mạnh phục sinh thắng được sự chết và mọi sự giống như sự chết. Trong Người, bất cứ ai có thiện chí đều sẽ có thể được trở nên con cái Thiên Chúa.
Ngoài ra, họ xác tín được Chúa sai truyền giáo. Mỗi người đều được sai đi. Mỗi cộng đoàn đều được sai đi. Toàn thể Hội Thánh đều được sai đi. Tất cả đều tham dự vào sứ mạng được sai đi của Chúa Giêsu, Đấng mà Thiên Chúa Cha đã sai vào thế gian để loan báo Tin Mừng Thiên Chúa là Tình Yêu.
Sau cùng, họ xác tín phương pháp truyền giáo hữu hiệu nhất chính là đời sống cầu nguyện và bác ái. Bởi vì chính họ đã được chinh phục bởi những người toả sáng tinh thần bác ái và cầu nguyện. Bác ái ở đây được hiểu như một sự đồng cảm và chia sẻ của thánh Phaolô tông đồ: “Với những người yếu, tôi đã trở nên như những người yếu” (1Cor 9,22). Còn cầu nguyện ở đây được hiểu như một sự gặp gỡ Chúa Giêsu và kết hợp với Người theo tinh thần lời thánh Phaolô tông đồ nói: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi” (Ga 2,20).
Với những suy nghĩ trên đây, mỗi người chúng ta hôm nay hãy nhìn vào bản thân mình và cộng đoàn của mình. Chúng ta hãy trẻ-trung-hoá lại Hội Thánh của ta, họ đạo của ta, và chính bản thân ta, bằng cách tích cực dấn thân vào công việc truyền giáo. Hội Thánh là cộng đoàn của Chúa Thánh Linh. Toàn thể Hội Thánh là cộng đoàn truyền giáo. Trong Hội Thánh, bất cứ ai cũng có thể góp phần vào việc truyền giáo. Người nghèo, người bệnh, người già, người ít học, người ít tuổi, người không có địa vị nào, tất cả đều có rất nhiều khả năng truyền giáo.
Hôm nay Chúa gởi lời kêu gọi truyền giáo tới mỗi người anh chị em. Xin hãy trả lời cho Chúa. Tôi hy vọng những trả lời của anh chị em sẽ rất quảng đại và cụ thể.
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, tại Long Xuyên, ngày 26-05-1996.
Bà cố Eustelle là một nữ tu cao niên vừa về tuổi đời vừa về tuổi tu. Tất nhiên trong 78 năm tuổi đời và trong hơn 60 năm tuổi tu của bà cố có nhiều điều đáng nói.
Riêng tôi, tôi để ý cách riêng đến thời gian bà cố làm giám tỉnh. Bởi vì thời gian 7 năm đó là những tháng năm có nhiều khó khăn phức tạp chung cho Hội Thánh địa phương và cho riêng Dòng Chúa Quan Phòng tại Việt Nam. Tôi được chứng kiến và tham dự phần nào tình hình đó. Tôi cũng phần nào được chia sẻ những lo âu khắc khoải của những người lãnh đạo Dòng, trong đó có bà cố Eustelle.
Hôm nay, trong giờ phút tiễn biệt bà cố, cựu giám tỉnh Dòng, tôi thiết nghĩ: Đây sẽ là một dịp tạ ơn Chúa với bà cố và với Dòng, nếu tôi chia sẻ ở đây vài nhận xét của tôi rút ra từ những tâm sự mà bà cố đã gởi gắm nơi tôi trong những năm tháng đầy thử thách.
Nhận xét chung cũng là nhận xét quan trọng nhất, đó là: Để giải quyết một tình hình khó khăn phức tạp của một cộng đoàn, thì phải bắt đầu bằng sự chuyển hoá nội tâm.
Chuyển hoá nội tâm là trở về với nội tâm, là đổi mới nội tâm, là tái-phúc-âm-hoá nội tâm, là tái-kitô-hoá nội tâm.
Tôi thấy bà cố Eustelle đã sớm nhận thức điều đó, và đã cố gắng thực hiện điều đó với những cách thức tốt nhất cho cộng đoàn và cho chính bản thân mình.
Những ai từng đi vào đường lối ấy đã có kinh nghiệm về sự chuyển hoá nội tâm dẫn tới sự chuyển hoá cộng đoàn.
Thực vậy, trong sự trầm lặng nội tâm, chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu một cách thân mật, chúng ta đón nhận ơn đổi mới của Chúa Thánh Thần một cách bình an sâu lắng. Lúc đó, chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh đổi mới thực lạ lùng. Nó làm cho tư tưởng của ta đổi mới, nhất là tình yêu của ta được chuyển hoá. Theo tôi, sự chuyển hoá tình yêu đóng vai trò quyết định trong chuyển hoá nội tâm. Khi tình yêu của ta chuyển hoá tốt, thì các khó khăn phức tạp sẽ có cách giải quyết.
Tình yêu chuyển hoá tốt khi tình yêu của chúng ta đối với Chúa trở nên nồng nàn hơn, trong sáng hơn, khi tình yêu của chúng ta đối với Hội Thánh trở nên vô vị lợi hơn, khi tình yêu của chúng ta đối với các linh hồn trở nên dấn thân hơn, khi tình yêu của chúng ta đối với các người xung quanh trở nên bao dung hơn, biết chấp nhận hy sinh nhiều hơn.
Trong vài lần trao đổi thân tình với bà cố Eustelle, tôi thấy chính nơi bà cố sự chuyển hoá nội tâm khởi đi từ sự chuyển hoá tình yêu đã giúp bà cố khám phá được một cách mới mẻ nhiều giá trị cao đẹp và nhiều hy vọng lớn lao ngay trong những thử thách đầy khó khăn phức tạp.
Thì ra con đường thánh giá, tuy đối với nhiều người, vẫn là một dịp vấp phạm, nhưng đối với kẻ tin mến Chúa, vẫn là một nguồn thanh luyện cho việc chuyển hoá nội tâm. Khi đồng hành với Đức Kitô trên đường thánh giá, người tin mến Chúa không những không bao giờ cảm thấy nỗi bất hạnh, mà luôn cảm thấy một cái gì là vĩnh cửu đang đến với mình từ những bóng tối, từ những khổ đau, từ những thử thách.
Giờ đây, bà cố Eustelle đang nhìn thấy rõ ràng những sự thực ngọt ngào của sự chuyển hoá nội tâm. Xin bà cố cầu nguyện cho chúng tôi, những người đang được sai vào những hoàn cảnh không thiếu khó khăn phức tạp. Xin giúp chúng tôi biết dùng cuộc đời còn lại để chuyển hoá nội tâm mình nhiều hơn nữa. Amen.
Lễ An táng nữ tu Eustelle Bùi Thị Hoài, tại tu viện Dòng Chúa Quan Phòng Cù Lao Giêng, ngày 27-05-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Họ đạo Núi Tượng nay đã trở nên sinh động hơn, nhà thờ họ đạo Núi Tượng nay đã trở thành một công trình có tính cách truyền giáo hơn: Đó là những cảm tưởng tôi nghe được từ dư luận đó đây. Tôi thấy những cảm tưởng đó là đúng với thực tại khách quan. Thực vậy, nhìn vào thực tại họ đạo hôm nay, tôi nhận thấy: Đúng là họ đạo đã có những chuyển biến đi lên, đúng là họ đạo đã trở thành tốt đẹp hơn trước. Điều mà tôi suy nghĩ ở đây là tiến trình “trở thành”.
Tiến trình “trở thành” kéo dài nhiều năm. Bắt đầu từ những nhận thức đúng. Nhận thức tình trạng xuống cấp, tình trạng lỗi thời, tình trạng cần phải đáp ứng nhu cầu phát triển của con người, của xã hội, của Hội Thánh trong thời điểm này.
Cùng với những nhận thức đúng về tình hình chung và tình hình riêng, anh chị em đã có những chọn lựa đúng. Chọn lựa những gì phải đổi mới, cái gì cần làm trước, cái gì sẽ làm sau, làm thế nào, làm cách nào, sao cho hợp với nhu cầu, đồng thời cũng hợp với hoàn cảnh địa phương và khả năng của họ đạo.
Sau đó là những hành động đúng để thực hiện những chọn lựa. ở điểm này, anh chị em cũng đã có những hành động đa dạng với các tiếp xúc, xoay xở, vận động, phối hợp và đoàn kết.
Trong tiến trình “trở thành” này có biết bao vất vả, khổ cực, đã có bao phấn đấu, hy sinh. Anh chị em đã vượt qua được, để có ngày hôm nay rạng rỡ trong vui mừng và bình an. Do động lực nào? Vì mục đích nào? Thưa mến Chúa, yêu người. Đó là động tác chính đã thúc đẩy chúng ta. Đó là mục đích sau cùng chúng ta luôn nhắm tới. Động lực đó và mục đích đó sẽ khó có thể được luôn trong sáng, nếu chúng ta không được bồi dưỡng và thanh luyện thường xuyên về đạo đức Phúc Âm trong truyền giáo.
Tôi biết cha sở ở đây đã hiểu cái “nếu” quan trọng đó, và đã cố gắng thực hiện cái “nếu quan trọng” đó cho mình và cho cộng đoàn của mình.
Tôi vừa nói đến đạo đức Phúc Âm trong truyền giáo. ở đây, tôi chỉ xin nhấn mạnh đến điểm này của nền đạo đức đó: Hãy như thánh Gioan Baotixita trong bài Phúc Âm thánh lễ hôm nay (Ga 1,29-34), khiêm tốn tự hạ, để tập trung mọi sự vào việc giới thiệu Đức Kitô là Tin Mừng cứu độ: “Đây là Con Thiên Chúa, đây là Đấng cứu độ trần gian”.
Khoa truyền giáo học khuyên các nhà truyền giáo hãy biết truyền giáo với Đức Kitô và như Đức Kitô. Để được như thế, nhà truyền giáo cần đi sâu vào 6 biến cố quan trọng nhất của kitô học:
Một là sự Đức Kitô nhập thể, với hình ảnh bác ái của Đức Kitô, hoà mình vào đám đông dân nghèo, để chia sẻ thân phận của họ.
Hai là Đức Kitô chịu đóng đinh trên thánh giá, với gợi ý về nhu cầu hy sinh, sám hối, thứ tha.
Ba là sự Chúa Giêsu sống lại, như một sứ điệp hy vọng, vì Chúa Giêsu chiến thắng sự chết và mọi cái giống như sự chết.
Bốn là sự Chúa Giêsu lên trời, để nhắc nhở mọi người con Chúa hướng về Cha trên trời, nơi mình sẽ được chia sẻ vinh quang với Chúa Ba Ngôi.
Năm là sự Chúa Thánh Thần hiện xuống, đúng như Chúa Kitô đã hứa. Đây là một sứ điệp truyền giáo. Mọi tín hữu cần được Chúa Thánh Thần đổi mới, để ra đi làm chứng nhân cho Đức Kitô và quảng đại góp phần xây dựng cộng đoàn đức tin.
Sáu là sự Chúa Kitô trở lại ngày phán xét chung và hiện đang lúc này khi Ngài thiết lập Nước Trời trong những tâm hồn thiện chí ái mộ sự lành, chuyên làm việc lành, nhất là tham gia vào việc xây dựng hoà bình công chính, yêu thương, liên đới giữa nhân loại hôm nay. Cũng như Ngài đang trở lại qua phép Thánh Thể và Lời Chúa.
Như vậy, để trở thành tốt hơn, tốt hơn nữa, hết thảy chúng ta nói chung và họ đạo Núi Tượng nói riêng còn nhiều việc phải làm. Tiến trình “trở thành” đòi chúng ta đi vào nội tâm nhiều hơn, một nội tâm có sự hiện diện của Đức Kitô, có những tâm tình ngợi khen Chúa Cha và Chúa Thánh Thần với Đức Kitô.
Xin Đức Mẹ Maria giúp chúng ta thực hiện tốt tiến trình “trở thành”, mà Chúa mong muốn nơi mỗi người chúng ta. Amen.
Lễ tạ ơn dịp khánh thành nhà thờ Núi Tượng, ngày 30-05-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Hoàn cảnh mới của Hội Thánh Việt Nam đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề “nữ tu”. Theo tôi, nữ tu có thể và nên tham gia phục vụ nhiều hơn trong các lãnh vực tông đồ.
Để có khả năng phục vụ nhiều hơn, việc đào tạo là rất cần. Đào tạo thêm, đào tạo mới, đào tạo định kỳ, đào tạo thường xuyên.
Vì thế, tôi rất khen ngợi việc làm của những người có liên quan đến khoá thần học này: Các người tổ chức, các người giảng bài, các người theo lớp, các bề trên đã gởi người của mình tới tham dự.
Hôm nay, chủ sự thánh lễ bế giảng khoá học này, tôi nhìn các chị em như những kẻ được sai đi. Được sai đi không phải chỉ để dạy lại những gì đã học, nhưng chủ yếu là để làm chứng. Làm chứng về ai? Đó là điều tôi xin gợi ý từ bài Phúc Âm thánh lễ hôm nay, lễ Đức Mẹ đi viếng thăm bà thánh Isave.
Xin thưa ngay: Chị em được sai đi để làm chứng về Đức Kitô là Tin Mừng cứu độ. Suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy rõ Đức Kitô là Tin Mừng cứu độ từ trời xuống. Đức Mẹ đi chia sẻ về Tin Mừng đó. Bà thánh Isave ca ngợi Tin Mừng đó, bào thai Gioan nhảy mừng trước Tin Mừng đó. Tất cả đều hướng về Đức Kitô. Sự qui hướng về Đức Kitô đi đôi với sự khiêm nhường tự hạ. Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Chúa. Bà Isave xưng mình là không xứng đáng được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Gioan Baotixita sau này xưng mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, kẻ dọn đường cho Đức Kitô.
Ba đấng đã gặp gỡ Đức Kitô, đã trực nghiệm những mới lạ tuyệt vời của Đức Kitô. Nên các ngài làm chứng về Đức Kitô một cách hồn nhiên, xác tín, sống động.
Theo gương các ngài, chúng ta hãy làm như thế. Nền tu đức của chúng ta hãy hướng về Đức Kitô một cách sâu xa và năng động hơn. Đức Kitô phải là mô hình, phải là trung tâm điểm của đời tu chúng ta. Chúng ta đã được may mắn học hỏi về Ngài, chúng ta đã được hạnh phúc gặp gỡ Ngài, chúng ta đã quyết tâm đi theo Ngài. Nên bằng mọi cách, chúng ta hãy làm chứng về Ngài. Làm chứng về Đức Kitô là một ơn gọi, là một sứ mệnh.
Từ xác tín trên đây, tôi thấy có mấy điều nên để ý trong việc làm chứng về Đức Kitô.
1. Cần qui chiếu về lời Đức Kitô và những thực hành của Đức Kitô như những mẫu mực. Thí dụ khi ta chọn một cách sống, một hướng hoạt động tông đồ, chúng ta sẽ dựa vào Lời Chúa và những thực hành của Đức Kitô, coi đó là gương mẫu, là chuẩn mực. Tôi làm việc đó, vì Đức Kitô đã dạy làm, vì Đức Kitô đã thực hiện. Qua những lời dạy và những việc làm, Đức Kitô đã cho thấy bậc thang những giá trị, giá trị nào cũng được coi là căn bản buộc phải thực hiện, giá trị nào cũng được coi là quan trọng, khuyên nên làm. Để biết qui chiếu về Đức Kitô, với những giá trị mà Đức Kitô đã nêu lên, chúng ta đừng quên học Kinh Thánh. Văn kiện mới nhất của Toà Thánh (15-04-1993) đòi nhiều khả năng chuyên môn mới này, sự qui chiếu về Đức Kitô bằng những trích dẫn có thể sẽ sai lầm.
2. Cần liên kết lời tuyên xưng của chúng ta với đời sống thực của chúng ta về ý nghĩa của Thiên Chúa và ý nghĩa của con người, về Thiên Chúa và về Nước Trời. Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy Đức Kitô nói sao thì làm đúng như vậy: Mến Chúa thì phải thương người, việc thương người làm chứng cho việc tin mến Chúa. Việc thương người là dấu chỉ của Nước Trời. Và vì thế, phải làm chứng sự thực đó không những trước mặt Chúa mà cũng phải trước mặt mọi người. Nếu không, thì sẽ nên hẹp hòi, giả hình như những người biệt phái Pharisêu.
3. Cần làm chứng cách riêng những gì là mới mẻ nơi lời dạy và đời sống Đức Kitô, và những cái mới mẻ đó đang được thấy nơi chúng ta và cộng đoàn chúng ta. Chính Đức Kitô đã nói rõ những cái mới mẻ đó. Thí dụ giới răn mới: “Thầy cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Rồi thí dụ về thái độ mới đối với kẻ thù. Theo luật cũ, thì răng phải đền răng, nhưng theo luật mới của Đức Kitô, thì hãy tha thứ cho kẻ thù, hơn nữa phải làm ơn và chúc phúc cho họ. Rồi thí dụ: Theo thói xưa, thì Thiên Chúa được coi như chỉ đến với kẻ lành, nhưng theo Đức Kitô, đặc điểm của Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, là tìm đến những kẻ lầm lạc, là đem Tin Mừng đến cho những người nghèo khổ.
Với 3 chi tiết trên, chúng ta hãy đi làm chứng về Đức Kitô. Hiện nay trong Hội Thánh Việt Nam, những làm chứng cũng nhiều, và những phản chứng cũng nhiều. Xin Đức Mẹ Maria thương giúp chúng ta biết cùng với Đức Mẹ, ra đi làm chứng về Đức Kitô trong niềm hân hoan, tin tưởng và trong tinh thần trách nhiệm trưởng thành của kẻ được sai đi.
Thánh lễ dịp bế mạc khoá thần học dành cho nữ tu tại Đại chủng viện thánh Giuse, thành phố Hồ Chí Minh, ngày 31-05-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Bài Phúc Âm thánh lễ hôm nay là một bài học rất quan trọng.
Từ bài Phúc Âm hôm nay, thần học, Kitô học có thể giới thiệu Đức Kitô với một dung mạo rất dễ thương, đầy nhân ái, của một mục tử đi tìm những kẻ yếu đuối lầm lạc.
Từ bài Phúc Âm hôm nay, truyền giáo học có thể nhấn mạnh đến phương pháp tiếp xúc, viếng thăm, xây dựng những tương quan tình người, coi đó là một cách có nhiều khả năng đổi mới con người và xã hội.
Từ bài Phúc Âm hôm nay, Giáo Hội học có thể cho thấy thực tế khiêm tốn của mình là cộng đoàn Hội Thánh gồm nhiều người yếu đuối, tội lỗi. Nhưng giữa họ có Đức Kitô. Chính Đức Kitô đã kêu gọi họ vào cộng đoàn. Chính Đức Kitô đang yêu thương họ. Chính Đức Kitô đang đến với họ. Chính Đức Kitô đang giúp họ đổi mới cuộc đời họ.
Riêng đối với tôi, bài Phúc Âm hôm nay đã gây nơi tôi một ấn tượng đẹp về bầu khí cộng đoàn. Bầu khí của cộng đoàn do Chúa Giêsu hướng dẫn hôm nay có mấy nét đáng kể sau đây:
Một là nét tương giao sinh động, ở chỗ mục tử đi thăm, tiếp xúc và những người trong cộng đoàn tự động đến với mục tử. Tất cả đều tham gia việc chung.
Hai là nét vui vẻ, ở chỗ họ đối thoại hồn nhiên, chia sẻ hồn nhiên, kể cả đồng bàn một cách hồn nhiên, và ở chỗ họ biết nương tựa vào nhau, cùng biết chấp nhận thực tế của nhau.
Ba là nét bao dung nhân ái, ở chỗ họ không câu nệ, hình thức, nhưng sống theo hướng mà Đức Kitô đã nói với họ hôm nay: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải hy lễ”.
Bốn là nét trở về, ở chỗ họ ý thức được tiếng mời gọi của Đức Kitô “Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi”. Hãy trở về đàng nhân đức, đó là điều Đức Kitô muốn nói với họ. Họ hiểu điều đó. Xem ra họ đang đi trên đường trở về.
Với 4 nét vừa kể trên, cộng đoàn biết cộng tác với Chúa Giêsu sẽ tạo ra được một bầu khí đạo đức gây ấn tượng đẹp. Nhờ đó nhiều tâm hồn sẽ có những hứng khởi mới để làm việc lành, nhiều gia đình sẽ mở ra được một hướng tham gia mới, để trở thành hữu ích hơn cho cộng đoàn, nhiều người không biết Chúa sẽ dần dần được lôi cuốn bởi bầu khí đạo đức của cộng đoàn.
Giờ đây, tôi nghĩ tới họ đạo Bò Ót này. Tôi tự hỏi: Cộng đoàn Bò Ót có bầu khí đạo đức không? Bầu khí đạo đức của cộng đoàn Bò Ót có 4 nét tôi vừa nêu lên từ bài Phúc Âm hôm nay không? Tôi tự trả lời cho tôi bằng những cái nhìn tích cực tương đối. Nghĩa là cộng đoàn Bò Ót có bầu khí đạo đức với mức độ tương đối. Bầu khí tương đối đạo đức ở đây có 4 nét tôi vừa nêu lên, cũng với mức độ tương đối. Những mức độ tương đối này là đáng khen và đáng khích lệ, bởi vì trong những mức tương đối này còn có nhiều tiềm năng tốt để vươn lên.
Với cái nhìn lạc quan này, tôi xin gởi tới anh chị em lời thánh tông đồ Phaolô xưa đã viết cho giáo đoàn Côrintô: “Chính bây giờ là thời ân sủng, chính bây giờ là thời cứu độ” (2Cor 6,2). Qua những lời trên đây, Chúa kêu mời chúng ta hãy biết cảm tạ Chúa, hãy biết coi hiện tại của chúng ta đây là một cơ may, hãy biết nhìn cơ may này là một dịp để đón nhận ân sủng cứu độ và đổi mới cuộc đời. Xin đừng bỏ lỡ. Thời ân sủng là lúc bấy giờ, thời cứu độ là chính hôm nay, là chính hoàn cảnh hiện tại.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta nhận ra thánh ý Thiên Chúa từ bài Phúc Âm hôm nay và từ thực tại hoàn cảnh của ta. Nhất là xin Người thương giúp chúng ta biết thực thi thánh ý Chúa về việc xây dựng bầu khí cộng đoàn, sao cho cộng đoàn chúng ta toả ra được hương thơm đạo đức Phúc Âm, báo hiệu Nước Trời đang đến. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Bò Ót, ngày 09-06-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta hãy làm những việc lành có khả năng toả sáng, để người ta thấy mà ngợi khen Cha trên trời.
Lời Chúa dạy trên đây là một nguyên tắc đạo đức. Nguyên tắc đạo đức này rất rõ ràng. Thế nhưng, khi đem nguyên tắc đạo đức này ra áp dụng, chúng ta thấy thực tế lại không rõ ràng. Bởi vì tình thế có rất nhiều phức tạp, chính lòng người, kể cả lòng chúng ta, cũng rất phức tạp. Vì thế, chọn được một việc gọi là việc lành có khả năng toả sáng để người ta thấy mà ngợi khen Cha trên trời là việc không dễ chút nào. Tôi xin đưa ra một thí dụ: Thực tế của nhà Dòng chúng ta hiện nay có 4 loại vấn đề lớn:
Thứ nhất là các vấn đề về sống ba lời khấn, sao cho trung thành, sao cho trong sáng.
Loại vấn đề thứ hai là về đào tạo, phát triển nhân sự nhà Dòng, sao cho tân tiến, sao cho tiến triển.
Loại vấn đề thứ ba là vấn đề tham gia vào các hoạt động mục vụ trong các họ đạo, sao cho có sự hiệp thông với cộng đoàn tín hữu, với các Giám mục, linh mục tại địa phương.
Loại vấn đề thứ bốn là các vấn đề dân sinh tại địa phương mình như là xoá đói giảm nghèo, xoá bệnh giảm dốt, sao cho đức ái của chúng ta toả được hương thơm của Phúc Âm tới những người lương dân, tới đồng bào xung quanh.
Nhận định đúng được các vấn đề trên là việc khó. Nhận định đúng được tình hình các địa phương của các cộng đoàn cũng rất khó. Rồi tìm giải pháp cho các vấn đề đặt ra lại càng khó hơn. Vì thế mà tôi nói: Trên thực tế, khi áp dụng nguyên tắc đạo đức Chúa Giêsu dạy là làm việc lành để người ta thấy mà ngợi khen Cha trên trời sẽ không dễ dàng gì.
Sáng hôm qua, khi có dịp tiếp xúc với một người giáo dân giới nữ ở thành phố, họ cho tôi biết: Tình hình đạo đức ở đây nhìn bề ngoài có vẻ sầm uất, nhưng nhìn bề trong coi như còn thiếu sót. “Con có cảm tưởng đạo đức đang tụt hậu, đang xuống dốc, bởi vì có quá nhiều phô trương, có quá nhiều vụ lợi trong chính các hoạt động tôn giáo”.
Tối hôm qua, cũng trong một cuộc tiếp xúc thân mật với giáo dân, một người nam giới, ông ta cũng cho tôi một cảm tưởng tương tự: “Xin Đức Cha để ý, sao cho đời sống nội tâm, không những của giáo dân, nhưng nhất là của người tu được dồi dào hơn, được có thực chất hơn. Nếu không, tương lai của Hội Thánh Việt Nam không biết sẽ đi về đâu. Trong nhiều hoạt động tôn giáo ồn ào, con tự hỏi: Chúa được bao nhiêu phần trăm, bởi vì quá vụ lợi, quá phô trương”.
Qua những dư luận trên đây, tôi có cảm tưởng là Đức Kitô không những dùng Phúc Âm để gọi tôi, gọi chúng ta, hãy trở về với những việc lành có khả năng toả sáng để người ta nhìn thấy mà ngợi khen Cha trên trời, mà cũng dùng dư luận xung quanh để đánh thức chúng ta. Kinh nghiệm của chúng ta, của tôi, của các cha, của các chị em có lẽ cũng cho ta thấy phần nào về những thái độ hàm hồ trong các việc mà chúng ta gọi là việc lành có khả năng toả sáng. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng: Nếu Chúa gọi chúng ta trở về với những việc lành có khả năng toả sáng, thì chắc chắn Chúa không buộc chúng ta làm những sự chúng ta không thể làm được, nhưng là làm những việc vừa tầm chúng ta. Hãy làm việc vừa tầm chúng ta là những người nhỏ bé, như trong bài ca nhập lễ lúc nãy các chị em đã hát. Là con người nhỏ bé, chúng ta bây giờ hãy dùng cái thân phận nhỏ bé của mình để đến với Đức Kitô.
Hãy khiêm tốn và đơn sơ trở về với Đức Kitô. Hãy tập trung vào Đức Kitô. Hãy biết đón nhận Đức Kitô vào lòng mình. Hãy gặp gỡ Đức Kitô một cách thực sự và sống động. Hãy ở lại với Đức Kitô. Hãy biết lắng nghe Đức Kitô phán dạy trong lòng mình. Hãy để cho Ngài chia sẻ tình thương của Ngài vào trong ta, tình mến của Ngài đối với Cha trên trời, tình thương của Ngài đối với những người dưới thế, nhất là tình thương của Ngài đối với những kẻ lầm lạc tội lỗi, khổ đau túng thiếu. Hãy trở về với Ngài. Hãy ở lại với ngài. Hãy để cho Ngài tự do hoạt động trong chúng ta.
Kinh nghiệm tu đức của các chị em cũng như của tôi cho chúng ta thấy một sự thực này là: Bất cứ trong hoàn cảnh nào, dù khó khăn đến mấy, nếu chúng ta sống mật thiết với Đức Kitô và để cho Đức Kitô hoạt động tự do trong tâm hồn và đời sống chúng ta, thì bao giờ việc của chúng ta cũng sẽ là việc lành toả sáng. Và chính con người của chúng ta, dù thinh lặng, dù nằm trên giường bệnh, dù không nói gì, vẫn là những việc lành toả sáng có thể làm cho người nhìn thấy và ca ngợi Thiên Chúa chúng ta.
Vì thế hôm nay, tôi kêu gọi tất cả mọi người và tôi cũng kêu gọi chính bản thân tôi: Hãy trở về với Đức Kitô. Sống đơn sơ, sống phó thác, sống như người con bé nhỏ, làm những việc lành bé nhỏ, như bông hoa bé nhỏ, như hạt muối bé nhỏ, như cây đèn bé nhỏ, nhưng đầy tình mến Chúa, đầy lòng thương đối với tha nhân. Tôi nghĩ đấy là yếu tố chính để cho các việc làm chúng ta toả sáng, toả hương thơm bác ái, toả hương thơm Chúa Ba Ngôi, có sức kêu gọi lòng người ca ngợi Cha chúng ta trên trời là Tình Yêu. Amen.
Lễ tại Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm (Gò Vấp), ngày 11-06-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nhắc đến vài trường hợp cần thực thi bác ái:
Trường hợp thứ nhất là đừng phẫn nộ với ai.
Trường hợp thứ hai là đừng nói những lời khinh khi, kết án bất cứ ai.
Và trường hợp thứ ba là phải đi làm hoà với những ai bất hoà với chúng ta.
Ba trường hợp trên đây là những trường hợp rất thông thường. Chúa dạy cần phải thực thi bác ái trong những trường hợp thông thường như vậy. Nhưng chúng ta thấy thực thi bác ái, mặc dầu trong những trường hợp thông thường như vậy, có phải việc dễ không? Thưa, không dễ. Tôi thấy như vậy và tôi chắc rằng kinh nghiệm của anh chị em cũng đã thấy như vậy.
Chúa bảo chúng ta đừng phẫn nộ, nhưng cũng đã có nhiều lúc chúng ta phẫn nộ. Chúa bảo chúng ta đừng nói những lời khinh khi, kết án, nhưng cũng đã có nhiều lần chúng ta nói những lời bất kính, bất công đối với những người khác có mặt hay vắng mặt. Chúa bảo chúng ta đi làm hoà với những kẻ bất hoà, nhưng có nhiều lần chúng ta trễ nải trong việc làm hoà, hoặc là chỉ làm hoà bề ngoài mà thôi.
Những yếu đuối trên đây là những sự thực. Nhìn nhận khiêm tốn những sự thực đó là rất cần, để chúng ta thấy rằng trở nên người nhân đức, đặc biệt là nhân đức bác ái ngay trong những trường hợp đời thường cũng cần phải tập luyện. Phải tập nhân đức, phải luyện nhân đức, thì mới có nhân đức. ở đây, tôi chỉ gợi ra một vài điều để chúng ta tập quen với sự tập luyện nhân đức.
Trước hết, chúng ta cần khát khao trở nên người nhân đức, nhất là nhân đức bác ái. Mong ước thật sự, khao khát tha thiết coi lời Chúa kêu gọi trở nên người nhân đức, là một lời mời gọi chúng ta đi vào hạnh phúc. Lời Chúa kêu gọi có lợi cho chúng ta, cần phải để cho lời Chúa nội tâm hoá, thấm vào nội tâm để trở thành động lực.
Cùng với lòng khát khao trở nên người nhân đức, chúng ta hãy sốt sắng cầu xin Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, vì chúng ta rất yếu đuối. Hãy nhìn chính bản thân chúng ta đây, coi vậy, nhưng chúng ta vẫn nguội lạnh, vẫn dửng dưng, vẫn đạo đức bề ngoài, chưa thực sự là những người đi trên con đường đạo đức. Cho nên phải cầu nguyện sốt sắng xin Chúa ban ơn thêm sức cho ta.
Sau đó, chúng ta cần phải tỉnh thức. Tỉnh thức đối với những cám dỗ từ bên ngoài khiến chúng ta dễ nổi nóng, khiến chúng ta dễ ích kỶ, khiến chúng ta dễ phê phán. Rồi tỉnh thức đối với những tính xấu bột phát trong ta, khiến chúng ta mất bình tĩnh, khiến chúng ta dễ theo những tính mê sẵn có nơi mình mà không biết lắng nghe lẽ phải. Rồi hãy biết tỉnh thức nhận ra sự hiện diện của Chúa trong những người xung quanh chúng ta, để chúng ta biết kính trọng, để chúng ta biết yêu thương, để chúng ta biết phục vụ theo gương Đức Kitô.
Và sau cùng, chúng ta cần phải năng kiểm tra chính mình, để xét xem trong một ngày, chúng ta đã lỗi phạm thế nào về đức ái: Có phẫn nộ không? Có nói lời khinh khi, kết án ai không? Có bất hoà với ai không? Nếu không, chúng ta cảm tạ Chúa. Nếu chẳng may vấp ngã, chúng ta sám hối và sửa lại.
Tôi vẫn nghĩ rằng, sự đạo đức, sự thánh thiện ở tại ơn Chúa Thánh Thần thấm sâu vào nội tâm chúng ta trong những vùng sâu thăm thẳm, như trí nhớ, lòng muốn, trí khôn, tình cảm. Việc của chúng ta là phải làm sao cho tất cả những nội tâm đó được sạch cỏ, được chuẩn bị tốt cho ơn Chúa Thánh Thần, được phát triển một cách tự do. Có nghĩa là chúng ta cần phải chuẩn bị bằng sự thanh luyện. Thanh luyện trí nhớ, đừng để trí nhớ chứa những hận thù, cay đắng. Thanh luyện trí khôn, đừng để trí khôn nghĩ tưởng đến những tư tưởng hẹp hòi, ích kỶ. Thanh luyện lòng muốn, đừng để lòng muốn tự do đi tìm những cái vụ lợi, hại cho người khác, lợi cho riêng mình. Thanh luyện ý hướng, đừng để cho mình qui hướng về cái tôi mà phải qui hướng về Chúa, về các linh hồn. Rồi thanh luyện tình cảm và những tương giao, đừng để mình trở thành gánh nặng, tai hoạ cho những người mình thương, cho những người mình có liên hệ.
Thanh luyện như vậy cũng là một cách giúp chúng ta trưởng thành về nhân bản. Khi chúng ta đã chuẩn bị như vậy trong tâm hồn, thì ơn Chúa Thánh Linh sẽ phát triển. Như những hạt giống tốt gặp được đất tốt sẽ phát triển. Bằng nếu không chuẩn bị, tâm hồn chúng ta đầy cỏ rác, đầy ô nhiễm, thì ơn Chúa Thánh Thần không phát triển được và không làm cho chúng ta trở nên những người đạo đức được.
Trưởng thành trong nhân bản, tiến bộ trong nhân đức, hai cái đó đi đôi với nhau.
Khi tới đây, nhìn qua và tiếp xúc đôi chút, tôi có cảm tưởng là họ đạo anh chị em đã có nhiều tiến bộ về sự trưởng thành nhân bản, đã có nhiều tiến bộ về đàng nhân đức thiêng liêng. Tuy vậy, tôi vẫn mong rằng đi đôi với những tiến bộ nhân bản và các nhân đức tin, cậy, chúng ta sẽ tiến bộ nhanh hơn về đức ái, thực thi đúng những gì Đức Kitô khuyên dạy chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay. Vinh quang của ta, vinh quang của gia đình ta, vinh quang xứ đạo chúng ta là đức ái, là đức yêu thương, là bỏ đi những thành kiến, hận thù, cay đắng, những cái gì là hẹp hòi, vụ lợi. Vinh quang của Cha trên trời là thấy con cái của mình giống Cha, đẹp vì là tình yêu. Con nào giống Cha ở nết đó, sẽ đúng là người con Cha trên trời, một người Cha có tên là Tình Yêu.
Tôi mong muốn rằng trong thánh lễ hôm nay, nhờ lời cầu nguyện của thánh quan thầy Antôn, Chúa Thánh Linh sẽ đến với chúng ta và sẽ thanh tẩy chúng ta, sẽ làm cho ơn Thánh Thần thấm nhuần vào nội tâm, giúp cho chúng ta có tinh thần của Đức Kitô: Yêu thương đến hy sinh, yêu thương đến chết, yêu thương đến tha thứ và luôn luôn chấp nhận cái thiệt thòi về chính mình, để cho người khác được làm vinh danh Chúa, để cho Nước Trời được mở rộng. Amen.
Lễ Thêm Sức tại xứ Antôn, kinh 1a, ngày 13-06-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Đọc bài Phúc Âm hôm nay, tôi tự nhiên để ý đến lời Chúa dạy sau đây: “Khi các con cầu nguyện các con đừng nhiều lời”. Tôi coi lời Chúa dạy trên đây là một chân lý đạo đức rất quan trọng. Sở dĩ tôi khẳng định như vậy, không chỉ vì tôi tin rằng những gì Chúa đã dạy đều là chân lý, mà còn vì là tôi đã có những kỶ niệm và những kinh nghiệm chứng minh chân lý đó. ở đây, tôi xin chia sẻ vắn tắt một vài kinh nghiệm, kỶ niệm có liên quan đến lời Chúa dạy: “Khi cầu nguyện chúng con đừng nhiều lời”.
Trong những kỶ niệm gây ấn tượng mạnh nhất trong lòng tôi có liên quan đến lời Chúa dạy hôm nay, có kỶ niệm về những thánh lễ đồng tế tôi đã được thực hiện với Đức Thánh Cha đương kim Gioan Phaolô II. Tôi đã được hân hạnh đồng tế với Ngài không dưới năm lần tại nhà nguyện riêng của Ngài, cùng với những cộng đoàn nhỏ vài chục người. Trong những thánh lễ ấy, tôi nhận thấy Đức thánh Cha không nhiều lời và có thể là không có lời nào của riêng Ngài. Ngài chỉ nghe lời Chúa, cầu nguyện theo kinh Hội Thánh cho phép in trong sách lễ, rồi thinh lặng. Cụ thể thế này:
Đầu lễ, Đức Thánh Cha gợi ý sám hối theo phương thức đã được ghi trong sách lễ. Ngài không thêm bớt gì, rồi Ngài thinh lặng. Sau đó là đọc kinh Cáo Mình chung. Trước các bài đọc, trước Phúc Âm, Ngài không cho phép nói gì cả. Sau bài Phúc Âm, thinh lặng, mọi người ngồi xuống suy gẫm để nghe tiếng Chúa nói trong lòng mình qua bài Phúc Âm vừa nghe. Các kinh nguyện đều hoàn toàn không một chút thêm bớt nào, chỉ đọc lên lời Hội Thánh. Sau rước lễ, Đức Thánh Cha ngồi cám ơn trong thinh lặng. Tất cả chúng tôi cũng thinh lặng cám ơn Chúa, gặp gỡ Đức Kitô, lắng nghe tiếng Chúa, tâm sự với Chúa để Chúa đổi mới nội tâm của mình. Không ai nói gì. Rất thinh lặng.
Tất cả thánh lễ, cầu nguyện đã đúng như lời Đức Kitô dạy: “Khi cầu nguyện chúng con đừng nhiều lời”. Và qua những thánh lễ ấy tôi đã cảm thấy một sự sốt sắng lạ lùng, không có lời của người thế gian nào đã thêm vào. Chỉ có lời Chúa, chỉ có lời Hội Thánh chính thức và sự thinh lặng sâu thẳm. Và chúng tôi cảm thấy có một sự đổi mới nội tâm như thể Chúa hiện xuống trong lòng mình. Đó là những kỶ niệm đẹp, gây ấn tượng đẹp, khiến tôi cho tới bây giờ vẫn muốn theo gương Đức Thánh Cha khi cầu nguyện, nhất là trong thánh lễ, đừng có nhiều lời.
Ngoài ra, tôi còn có những kinh nghiệm bản thân và của bạn bè có liên quan đến lời Chúa dạy hôm nay: “Khi cầu nguyện đừng nhiều lời”. Có những người đã dự thánh lễ, đã đi dự cấm phòng, đã đi dự những cuộc chia sẻ và đã giữ lời Chúa, “Không nhiều lời”, họ đã thấy có những kết quả lạ lùng. Trong thinh lặng với thái độ chăm chú gẫm suy, cầu nguyện để đón nhận Chúa, lời Chúa đã thấm vào tâm hồn, đào lên, bới lên, bừa lên những tầng lớp của nội tâm. Và trong giây lát, linh hồn nhìn thấy rõ những rác rưởi, những sâu bọ, những rắn rết ở trong nội tâm của mình, để rồi mình nhận thức về cái trận địa thiêng liêng của mình. những gì là sức mạnh đưa tới sự chết, những gì là sức mạnh dẫn đến sự sống. Mình nhìn thấy rõ cần có những lựa chọn nào để dấn thân vào những cái tốt, để dứt lìa ruồng bỏ những cái xấu. Trận địa nội tâm chỉ hiện lên rõ, khi lời Chúa vang vọng trong tâm hồn thinh lặng và xa lánh lời người ta.
Từ những lựa chọn có trách nhiệm và sáng suốt do lời Chúa ban cho, con người ta bấy giờ mới biết thanh luyện những tương giao: tương giao với những người trong nhà mình, tương giao với những người xóm ngõ, tương giao với những người nghèo, v.v... Để cho những mối tương giao đó được sáng hơn, chân thành hơn, chân phát hơn, chân thực hơn, chúng ta phải bỏ những bề ngoài câu nệ, giả hình. Khi đã thanh luyện những tương giao đó, linh hồn những người không nói nhiều trong cầu nguyện sẽ làm mới lại giao ước của mình với Chúa: Từ nay con giao ước với Chúa sẽ làm việc lành này, sẽ tránh dịp tội kia một cách cụ thể trong đời thường. Con giao ước với Chúa, ban sáng khi thức dậy con sẽ nghĩ đến Chúa thế nào, ban tối khi sắp ngủ con sẽ xét mình lại những điểm nào. Họ làm mới lại giao ước của mình với Chúa.
Qua những kinh nghiệm trên đây tôi thấy rằng, khi cầu nguyện mà ít lời để biết lắng nghe tiếng Chúa, để biết đón nhận ơn Chúa, chúng ta sẽ thấy có những sự đổi mới lạ lùng trong tâm hồn. Mấy ngày hôm nay tôi nhận được nhiều thư nhân dịp lễ bổn mạng của tôi. Có một số thư các tác giả đã tâm sự về những khát vọng của mình. Họ khát vọng đi đến nhà Dòng, đi đến những nhà nguyện, những nhà thờ có bầu khí thinh lặng, ít lời nói, để họ có thể tâm sự nhiều hơn với Chúa và lắng nghe rõ hơn tiếng Chúa. Họ khát khao tham gia vào những nhóm người làm việc từ thiện bác ái một cách âm thầm, đừng ai thấy mình. Tôi coi những khát vọng đó chính là tiếng gọi của Chúa Thánh Linh gởi đến cho tôi, gởi đến cho cộng đoàn của tôi, trong đó có anh chị em. “Khi cầu nguyện đừng nhiều lời”, nhưng hãy nhiều tình yêu, nhưng hãy nhiều khiêm tốn, nhưng hãy nhiều khát vọng tìm Chúa, nhưng hãy nhiều sức mạnh nội tâm.
Khi bước vào nhà thờ này, tôi đọc thấy hàng chữ trước bàn thờ: “Con hãy làm chứng nhân cho Thầy”. Tôi hỏi Chúa: “Chúng con sẽ làm chứng nhân của Chúa thế nào đây?”. Và Chúa soi sáng cho tôi: Hãy làm chứng nhân lúc này, bằng cách đừng nói nhiều mà hãy sống nội tâm thật nhiều, với tình bác ái sâu hơn, và đức tin thấu triệt hơn.
Lúc nãy trong bài đáp ca, cộng đồng đã hát: “Xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con những lời cao quí”. Và tôi đã cùng với anh chị em cầu nguyện theo bản thánh ca đó. Và Chúa đã trả lời tôi: Đường đi của Chúa, những lời cao quí Chúa dạy hôm nay là bài Phúc Âm: Đừng nói nhiều, đừng nhiều lời, nhưng hãy tập trung vào những thao thức của Chúa trong kinh Lạy Cha. Luôn luôn thao thức về Thiên Chúa, về con người. Hãy có một nội tâm đầy tình mến Chúa yêu người. Hãy thực hiện những thao thức đó bằng chính đời sống của mình, chứ không phải chỉ bằng lời nói mà nội tâm trống rỗng.
Việc làm của tôi hôm nay khi tới đây, là muốn chia sẻ cho anh chị em những điều mà Đức Kitô đã nói trong bài Phúc Âm hôm nay. Nhìn qua quang cảnh nhà thờ này, một quang cảnh cầu nguyện sốt sắng trang nghiêm, ít có lời nói nhưng nhiều nội tâm, tôi vui mừng cảm thấy rằng đây cũng là một dấu cho tôi biết chứng nhân của Chúa trong thời buổi này tại Việt Nam hôm nay, chính là những người không nhiều lời nhưng nhiều sức sống nội tâm.
Tôi cầu xin Chúa cho anh chị em nói chung và các con em chúng ta nhận thức được điều đó. Lời Chúa đơn sơ, vắn tắt. Hãy thực hiện đúng, thực hiện đủ lời Chúa, thì chúng ta sẽ có những nhân chứng trọng lượng có thể làm chứng cho Nước Trời hôm nay. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Long Bình, kinh G2, ngày 20-06-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Lễ khấn dòng này đang diễn tiến tốt đẹp trong bầu khí sốt sắng, trang nghiêm. Được như thế này là vì nhà Dòng đã chuẩn bị kỹ về mọi mặt, nhất là về mặt nội tâm. Vì thế, khi chủ sự thánh lễ này, tôi sẽ không thêm gì cho việc chuẩn bị. Tôi chỉ xin chia sẻ đôi chút những gì, mà bài Phúc Âm hôm nay đã gợi lên trong tôi.
Đối với tôi, bài Phúc Âm hôm nay là một bức tâm thư Chúa gửi cho những người khấn nguyện đi theo Đức Kitô. Suy gẫm nội dung bức tâm thư này, tôi thấy chủ đề bao quát là hãy làm mới lại 3 yếu tố quan trọng thuộc thế giới nội tâm người tu chúng ta.
Trước hết, Chúa kêu gọi chúng ta hãy làm mới lại thao thức ưu tiên, mà Chúa đã nêu rõ trong bài Tin Mừng.
Tôi nói là có một thao thức ưu tiên. Nghĩa là chúng ta có rất nhiều thao thức. Do cuộc sống đặt ra, do Phúc Âm gợi lên, do truyền thống nhà Dòng để lại, do tình thế đòi hỏi. Trên lý thuyết, hầu như tất cả mọi thao thức của chúng ta đều được biện minh bằng những lý do có vẻ chính đáng. Nhưng trên thực tế, nhìn dưới ánh sáng Phúc Âm, chúng ta nhiều khi nhận thấy đã có những lệch lạc trong các thao thức nơi này nơi nọ. Đôi khi mức độ lệch lạc là rất trầm trọng. Lệch lạc ở chỗ thao thức vụ lợi mà lại cho là thao thức mến Chúa yêu người. Lệch lạc nguy hiểm nhất là các thao thức đúng lý chỉ là bèo bọt, chỉ được ở địa vị phụ, lại chiếm địa vị chính, là nhoà nhạt thao thức ưu tiên. Thao thức ưu tiên là thao thức nào? Chúa Giêsu đã nói rất rõ ràng: “Tiên vàn các con hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người”. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người là tinh thần bác ái, công bình, bình an, là nếp sống thuận hoà với những tương giao xây dựng bằng yêu thương, liên đới, bao dung, là chia sẻ sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa có bản tính là Tình Yêu.
Hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy kiểm điểm lại bậc thang các thao thức trong nội tâm ta, trong cộng đoàn của ta. Hãy làm mới lại thao thức ưu tiên, mà chính Người đã nhấn mạnh.
Ngoài ra, Chúa kêu gọi ta hãy làm mới lại cái nhìn đức tin, mà Chúa đã gợi lên trong bài Tin Mừng.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu nhìn các bông huệ tươi nở trước mặt Ngài. Cái nhìn của Ngài không ngừng ở vẻ đẹp bề ngoài, nhưng đã tiến sâu vào một vẻ đẹp đàng sau, đó là tình yêu Thiên Chúa tạo dựng. Chúa Giêsu nói: “Các con hãy ngắm xem các hoa huệ ngoài đồng, coi chúng mọc lên thế nào... Nếu hoa đồng cỏ nội... mà còn được Thiên Chúa mặc cho vẻ đẹp như thế, huống chi là các con”. Cái nhìn của Chúa Giêsu là cái nhìn thấu triệt và khám phá. Ngài nhìn bằng đức tin của người con bé nhỏ luôn đặt trọn niềm phó thác nơi Cha trên trời. Ngài nhìn bằng tấm lòng, bằng trái tim kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Cha giàu tình yêu thương xót.
Chúa muốn chúng ta cũng hãy có những cái nhìn thấu triệt và khám phá như thế. Vâng lời Chúa, hôm nay chúng ta hãy làm mới lại những cái nhìn của mình theo hướng đó.
Sau cùng, Chúa kêu gọi chúng ta cũng hãy làm mới lại giao ước, mà Ngài đã đề cập đến trong bài Tin Mừng.
Chúa phán: “Các con không thể làm tôi hai chủ, vừa phục vụ Thiên Chúa, vừa phục vụ tiền của”. Ý thức về lời Chúa dạy trên đây, chúng ta đã giao ước với Chúa là luôn luôn trung thành với Chúa, và không để tiền của nô lệ hoá chúng ta. Giao ước đó bây giờ ra sao? Chúng ta biết là từ lâu nay tinh thần thực dụng càng ngày càng mạnh, càng ngày càng lan rộng. Nó đang thâm nhập vào nếp sống đạo, cả vào các nhà tu. Trước sức mạnh lớn của chủ nghĩa thực dụng. Tôi đặt nhiều hy vọng vào các Dòng có truyền thống tu đức theo mầu nhiệm thánh giá. Giao ước của những người mến thánh giá phải thực sự dứt khoát và trong sáng theo lời Chúa dạy hôm nay: “Không thể làm tôi hai chủ”. Làm mới lại giao ước bằng sự hân hoan sống đời khó nghèo, từ bỏ, bằng niềm hoan lạc được Chúa gọi, được Chúa chọn, được Chúa yêu thương, được Chúa sai đi làm nhân chứng cho Thiên Chúa là Tình Yêu.
Hãy làm mới lại 3 yếu tố trên đây, không phải hôm nay, mà mỗi ngày, đó là tâm thư Chúa gởi cho chúng ta nói chung và cho những chị khấn Dòng nói riêng. Chúng ta đón nhận tâm thư đó với lòng cảm tạ, và với tâm tình khấn nguyện ơn Chúa xót thương. Amen.
Lễ khấn Dòng tại tu viện Mến Thánh Giá Phát Diệm (Gò Vấp), ngày 22-06-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi nhớ lại tình hình xã hội và tôn giáo tại Israel thời thánh Gioan Tẩy Giả sắp sinh ra.
Thời đó, dân Israel có đức tin mạnh, giữ luật đạo theo truyền thống. Họ năng cầu nguyện, xin Chúa nhiều ơn, như sức khoẻ, của cải, tự do, khỏi ách nô lệ ngoại bang. Chúa thương họ. Nhưng lại ban cho họ một ơn mà họ không trông chờ. Đó là ban cho họ một vị tiên tri, tức Thánh Gioan Tẩy Giả.
Tiên tri Gioan Tẩy Giả sống khắc kỶ, khiêm tốn, rao giảng sự sám hối và chỉ cho thấy Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đang đến, hoà mình giữa dân thường. Hoạt động của Gioan xoay quanh mấy đề đó. Ngài không làm phép lạ nào. Ngài được nhiều người tin theo. Nhưng cũng bị nhiều người chống đối. Ngài bị giết vì dám nói sự thực đụng tới tự ái người khác.
Chỉ thế thôi, Gioan Tẩy Giả đã thực hiện sứ mạng người tiên tri của Đấng Tối Cao, dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Và cũng chỉ thế thôi, Chúa đã ban cho dân Israel một món quà quý giá, vượt trên những giá trị của vàng bạc và tự do xã hội.
Với những kỶ niệm trên đây của một thời xưa, trước hết tôi nhìn vào tình hình xã hội hiện nay tại Việt Nam ta. Tôi thấy hiện nay chúng ta đang cầu mong nhiều điều, như thành đạt về công ăn việc làm, sức khoẻ, học vấn, kinh tế, văn minh. Nhưng thiết tưởng có một điều chúng ta phải cho là cần thiết hơn cả, đó là đất nước chúng ta có được nhiều người tốt, nêu gương đời sống đạo đức, có khả năng nhìn xa thấy rộng, vừa biết đáp ứng được thoả đáng các nhu cầu nhân sinh, vừa bảo tồn và phát triển được những giá trị linh thiêng ngàn đời của dân tộc. Những người như thế là rất cần, rất quý. Có thể nói, những người như thế được tham gia một cách nào đó vào ơn tiên tri, mà Thiên Chúa thường ban cho nhân loại, tuỳ theo chặng đường lịch sử.
Riêng trong Hội Thánh trên toàn cầu nói chung và tại Việt Nam nói riêng, dân Chúa hiện nay rất cần đến những ơn tiên tri, có khả năng giúp dân Chúa biết sám hối, canh tân những nếp sống đạo đã tha hoá, và cải cách những cơ chế nào không còn trong sáng.
Tôi thiết nghĩ trong thời đại chúng ta, Chúa cũng đã gửi vào Hội Thánh nhiều ơn tiên tri. Thí dụ biến cố Công đồng Vatincan II với tinh thần tập trung vào Đức Kitô; biến cố Assisi của Đức Thánh Cha gioan Phaolô II với tinh thần đối thoại cởi mở trọng kính các tôn giáo bạn; hiện tượng Mẹ Têrêxa Calcutta với cuộc đời chiêm niệm, khó nghèo và dấn thân phục vụ người nghèo; hiện tượng các cộng đoàn mới với lý tưởng phục vụ Chúa bằng sự triệt để phúc-âm-hoá cộng đoàn của mình theo ưu tiên đức ái.
Tôi coi những biến cố và những hiện tượng như thế là những ơn tiên tri, kêu gọi những người trong Hội Thánh hãy tự kiểm điểm chính mình, xem mình phải sám hối về những lỗi lầm nào, phải canh tân ở những điểm nào, phải cải cách theo những hướng nào.
Như thế là trong Hội Thánh không thiếu ơn tiên tri. Nhưng vấn đề quan trọng phải đặt ra ở đây là chúng ta có tiếp nhận những ơn tiên tri đó không, có cộng tác vào những ơn tiên tri đó không.
Để tiếp nhận và cộng tác, chúng ta cần khiêm tốn, bé nhỏ, chân thành và có ý chí thanh luyện. Thanh luyện trí nhớ, trí khôn, trí tưởng tượng, lòng muốn, ý hướng, tình yêu, tình cảm và các tương giao. Phải thanh luyện dưới ánh sáng lời Chúa và trên nền tu đức của kẻ đi theo Đức Kitô. Gạt bỏ ra ngoài tất cả những gì là vụ lợi, vị kỶ, thành kiến, hẹp hòi, kỶ niệm cay đắng, ghen tương, phô trương, bất hoà, tự mãn.
Khi biết tiếp nhận và cộng tác vào ơn tiên tri, chúng ta sẽ thấy một mãnh lực lạ lùng từ Thiên Chúa ban xuống với cường độ rất mạnh đưa nhân loại vào một trời mới đất mới.
Nguyện xin Chúa nhân lành, vì lời cầu của thánh Gioan Tẩy Giả, giúp chúng ta biết tỉnh thức tiếp nhận và tích cực cộng tác vào những ơn tiên tri mà Chúa đang gửi vào Hội Thánh một cách dồi dào. Amen.
Lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả tại Long Xuyên, ngày 24-06-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy một tiêu chuẩn Người sẽ dùng để đánh giá chúng ta. Tiêu chuẩn này được diễn tả bằng một hình ảnh quen thuộc, dễ hiểu. Chúa phán: “Cứ xem trái thì biết được cây”. Có nghĩa là trái nào tốt, thì trái đó chứng tỏ cây của nó là cây tốt. Từ liên hệ giữa trái và cây, Chúa Giêsu đưa chúng ta vào liên hệ giữa việc làm với người làm. Hễ việc làm tốt thì chứng tỏ người làm việc đó là tốt. Như vậy, tiêu chuẩn Chúa căn cứ vào để đánh giá mỗi người chúng ta chính là việc làm: Ai làm việc tốt thì được kể là người tốt. Chúng ta hãy nắm vững điều đó. Chúa căn cứ vào việc làm như là trái để đánh giá mỗi người chúng ta.
Vậy những loại việc nào Chúa sẽ căn cứ nhiều hơn hết để xét hỏi chúng ta? Thưa, có ba loại việc làm này:
Loại việc làm thứ nhất là những việc làm chứng tỏ chúng ta đi tìm kiếm nước Thiên Chúa. Chúa phán: “Tiên vàn chúng con hãy đi tìm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, rồi mọi sự khác sẽ ban cho chúng con sau”. Qua lời này, Chúa dạy chúng ta phải thao thức, ưu tiên đi tìm nước Thiên Chúa. Đi tìm nước Thiên Chúa trước hết bằng những việc diễn tả sự sám hối trong lòng. Chúa dạy: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã tới”. Nước Trời đang tới, nhưng muốn đón nhận Nước Trời, ta phải sám hối. Việc làm sám hối là việc làm đón nhận Nước Trời.
Rồi hãy đón nhận Nước Trời, tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng những việc diễn tả sự khiêm tốn. Chúa phán: “nếu chúng con không trở nên giống như trẻ nhỏ, chúng con không được vào Nước Trời”. Những việc khiêm tốn, những việc hạ mình, những việc coi mình là bé nhỏ, chính là những việc tìm kiếm Nước Trời.
Rồi chúng ta sẽ kiếm nước Thiên Chúa bằng sự chúng ta cố gắng thực thi những việc mà chúng ta biết là do thánh ý Chúa. Chúa phán: “Không phải là bất cứ ai kêu: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào nước Thiên Chúa, mà chỉ có những ai thực thi thánh ý Ngài”. thánh ý của Ngài là việc bổn phận hằng ngày của chúng ta. Nếu chúng ta chạy lăng xăng đây đó mà không chăm lo chu toàn việc bổn phận của mình, thì chúng ta không làm trọn thánh ý Chúa. Tức là chúng ta không đi tìm nước Thiên Chúa.
Rồi hãy đi tìm nước Thiên Chúa bằng sự chúng ta làm những việc có tính cách xây dựng sự công bình. Chúa dạy: “Nếu các con chỉ công chính như những người Pharisêu, như những người thu thuế, thì chúng con không được vào Nước Trời”. Sự công chính mà Thiên Chúa nói đây là sự công chính dưới cái nhìn của Thiên Chúa: sâu sắc, thấu triệt và khám phá, để không có một sự bất công trong cách đối xử, trong cách phán đoán.
Trên đây tôi chỉ nói qua một số việc mà chúng ta cần làm để tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Phải để ý đến việc làm của mình. Đấy là loại việc làm thứ nhất: Tìm kiếm nước Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Loại việc làm thứ hai mà Chúa Giêsu sẽ nhấn mạnh để căn cứ vào trong việc phán đoán chúng ta, đó là loại việc làm bác ái. Chúa phán: “Thầy cho chúng con một điều răn mới là chúng con thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu chúng con”. Chúa đòi những việc cụ thể chứ không phải là chỉ là tuyên xưng, chỉ là tuyên hứa. Việc cụ thể đó là, Chúa phán: “Những gì chúng con muốn người ta làm cho chúng con, thì chính chúng con phải làm cho người khác. Những gì chúng con không muốn người ta làm cho chúng con, thì chúng con đừng làm cho bất cứ ai”. Phải làm cụ thể bằng sự chúng ta cứu giúp những người nghèo khó, cùng cực. Chúa phán: “Ta đói chúng con đã cho ăn, Ta khát chúng con đã cho uống”. Ăn, uống, mặc, đi thăm viếng, đó là những việc cụ thể. Phải có việc làm.
Rồi để thực hiện chương trình bác ái. Chúa đòi chúng ta đừng xét đoán. Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán: “Hãy mang cái xà trong mắt chúng con ra khỏi mắt chúng con, chứ đừng lo tìm cái rác nơi con mắt người khác”. Đó là việc làm cần phải thực thi, trong khi chúng ta giữ luật bác ái.
Rồi Chúa lại thêm: “Khi chúng con có sự bất hoà với người chung quanh, đang dâng lễ, hãy bỏ của lễ đó, đi làm hoà với họ rồi hãy trở lại dâng lễ sau”. Đó là việc làm cụ thể. Chúa căn cứ vào việc đó, để đánh giá chúng ta có phải là cây tốt hay cây xấu.
Rồi đẩy xa hơn nữa thái độ với những người không ưa chúng ta, làm khổ chúng ta. Chúa nói: “Thời xưa người ta bảo: hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy dạy chúng con: hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ chúng con”. Đó cũng là những việc mà Chúa đòi để chúng ta thực thi đức ái. Vậy, loại việc thứ hai mà Chúa Giêsu sẽ căn cứ vào để đánh giá vào mỗi người chúng ta, là những việc làm thuộc bác ái.
Loại việc làm thứ ba là những việc có tính cách xây dựng cộng đoàn. Cộng đoàn là gia đình, là họ đạo, là Hội Thánh. Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Đức Chúa Cha: “Xin cho chúng nên một. Xin hợp nhất chúng nên một, như Cha và Con là một”. Nghĩa là Chúa muốn xây dựng cộng đoàn trong mối hiệp nhất. Bằng sự gì? Cũng bằng những việc cụ thể: Trước hết là cầu nguyện. “Khi hai hay ba người chúng con họp nhau để cầu nguyện, thì Thầy ở giữa chúng con”. Hãy cầu nguyện chung để xây dựng sự hợp nhất của cộng đoàn, bởi vì có Đức Kitô ở giữa.
Rồi trong việc xây dựng cộng đoàn, ngoài việc cầu nguyện ra, Chúa còn đòi phải đi tìm những người lầm lỗi. Chúa nói: “Nếu một người có 100 con chiên mà chỉ có một con chiên lạc, người đó sẽ bỏ 99 con chiên tốt để tìm con chiên lạc. Và Thầy quả quyết rằng trên trời sẽ rất vui mừng vì một người tội lỗi trở lại, hơn là 99 người công chính không cần trở lại”. Cộng đoàn phải để ý đến những người tội lỗi, lầm lạc, đi xa cộng đoàn. Hãy tìm cách đưa họ về với Chúa.
Rồi để xây dựng cộng đoàn, Chúa Giêsu cũng nói đến sự tha thứ. Chúa phán: “Không phải mỗi ngày tha 7 lần, mà bảy mươi bảy lần”. Nghĩa là phải sẵn sàng tha thứ cho nhau, phải sẵn sàng giúp đỡ nhau.
Và một việc nữa Chúa nói về sự xây dựng cộng đoàn là sự giúp nhau sửa lỗi. Chúa phán: :Nếu có người lầm lỗi hãy bảo riêng họ, nếu họ không nghe hãy dùng một nhóm người sủa bảo riêng họ, nếu họ cố chấp thì bấy giờ mới đưa ra cộng đoàn để sưœa lỗi”. Như vậy, Chúa muốn chúng ta biết xây dựng cộng đoàn trong đức tin, bằng đức ái.
Tôi chỉ sơ lược một số loại việc làm mà Chúa sẽ căn cứ vào để đánh giá mỗi người chúng ta. Khi tôi nhìn lại chính mình, tôi thấy những việc làm đáng gọi là trái tốt không nhiều lắm. Trong tâm thức ấy, tôi nói với Chúa: Xin đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa. Tôi phải tin cậy vào công nghiệp Hội Thánh trên trời dưới đất, để xin Chúa thứ tha, để xin Chúa chấp nhận tôi. Đó cũng là một việc làm đi đến với Chúa.
Lát nữa đây, con em chúng ta sẽ tuyên xưng đức tin, sẽ tuyên hứa sẽ sống đạo tốt. Nhưng tuyên hứa mà thôi chưa đủ. Chúa căn cứ vào việc làm cụ thể, những việc làm đi tìm nước Thiên Chúa, những việc làm để xây dựng cộng đoàn, những việc làm để diễn tả đức bác ái với người chung quanh, không kể lương giáo. Muốn được như vậy chúng ta cần phải có một sự thông hiệp mật thiết với Thiên Chúa, để sức mạnh của Chúa Thánh Thần thấm vào chúng ta, chia sẻ sang chúng ta, để chúng ta có thể đem giáo lý của chúng ta ra thực hành một cách cụ thể.
Lúc nãy đầu lễ, tôi thấy có điện, có micro, có ampli. Nhưng micro không được bắt điện lớn được. Sự kiện này gợi cho tôi thấy rằng, nhiều khi chúng ta có giáo lý, có Kinh Thánh, có linh mục, có đủ mọi sự. Nhưng ơn Chúa Thánh Thần không tới được linh hồn chúng ta, sự sống của Thiên Chúa không nhập vào được tâm hồn chúng ta, thành ra chúng ta vẫn không đủ sức thực hiện những lời Chúa dạy. Vẫn có một khoảng cách giữa ta với Chúa, vì thiếu ơn Chúa, vì ta không đón nhận được ơn Chúa. Cũng như chiếc Micro hỏng không đón nhận được điện của ampli của dòng điện. Cho nên điều quan trọng mà tôi muốn nói của anh chị em ở đây là: Muốn có việc làm cụ thể theo thánh ý Chúa ta phải biết đón nhận sức sống tinh thần của Chúa Thánh Linh.
Tôi xin cầu chúc anh chị em hôm nay được nhiều ơn Chúa Thánh Linh, để biết đem ra thực hành những lời mình tuyên hứa. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Chợ Mới, ngày 26-06-1996
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trước khi đến khánh thành đền thánh Giuse ở An Bình này, tôi được nghe một người bày tỏ ý kiến về đền thánh như sau: “Nhờ phát triển đức tin, nên mới có một đền thánh xinh đẹp như thế đấy”. Nghe vậy, tôi đã không trả lời gì. Bởi vì suy nghĩ của tôi hơi khác. Suy nghĩ của tôi là thế này: “Nếu ở An Bình không phát triển bác ái, thì chắc không thể nào có được đền thánh Giuse và các công trình khác”.
Thực vậy, 20 năm trước đây, ở đầu kinh F này, đã có vài việc mang tính cách tuyên xưng đức tin, như đặt tượng ở chỗ công khai, đọc kinh xóm. Những việc đó tốt, nhưng chỉ làm chứng được khu này có đức tin công giáo thôi.
Trước một tình hình có nhiều phức tạp, tôi đã thay đổi cách nhìn. Tôi thấy cần phiên dịch đức tin ra đức ái, cần làm chứng cho Chúa bằng các việc từ thiện, cần phụng sự Chúa bằng việc phục vụ đồng bào.
Thời đó, vùng này không có trường. Các em phải đi học xa. Tốn hao sức khoẻ, tốn hao thời giờ, tốn hao tiền bạc. Hoàn cảnh cuộc sống như thế là một vấn đề nhức nhối cho chính quyền địa phương, cho các phụ huynh và cho mọi người yêu nước.
Chính lúc đó, linh mục Phan Đình Sơn được bề trên sai đến đây, để góp phần giải quyết vấn đề. Được phép của chính quyền, linh mục đã mở vài lớp học trong căn nhà thô sơ. Ban đầu trường rất nhỏ. Sau phải mở rộng thêm, vì số học sinh tăng mau lẹ. Đa số các em là nghèo và không công giáo. Cùng với việc phát triển trường lớp là việc mở phòng đọc sách báo, phòng dạy nghề, phòng phát thuốc. Chặng đường từ đó đến nay đúng là chặng đường phát triển bác ái.
Kết quả rất khả quan: Tinh thần liên đới đoàn kết lương giáo đạo đời được mở rộng, cuộc sống nhiều gia đình nghèo được nâng lên, tình hình văn hoá của địa phương có những bước tiến mới. Những kết quả đó là công chung của địa phương, là niềm vui chung của mọi người, là tự hào chung của đời đạo.
Vì thế, tôi coi đền thánh Giuse đây là biểu tượng của bác ái, và tượng thánh Giuse đây là dấu chỉ của tình thương Thiên Chúa ở giữa dân nghèo.
Từ sự kiện này, tôi có cảm tưởng là: Nếu đạo Công Giáo chỉ đề cao đức tin, thì đạo Công Giáo sẽ vẫn là đạo Công Giáo. Nhưng với những phát triển bác ái, đạo Công Giáo mới dễ gây được cảm tình, và mới dễ giúp cho người ngoài công giáo hiểu được Thiên Chúa là tình yêu và đạo Công Giáo là đạo bác ái.
Muốn phát triển bác ái, trước hết phải để ý đến việc huấn luyện tâm hồn, sống sao cho đúng tình người. Muốn nên thánh, cần nên người trước. Và muốn nên người, cần sống nhân ái theo đạo làm người.
Rồi cần phải đi vào linh đạo của bác ái Phúc Âm. Phúc Âm tập trung vào Chúa Giêsu. Và Chúa Giêsu của Phúc Âm là rất cụ thể ở điểm nhập thể. Ngài trở nên bé nhỏ, nghèo khó, yếu hèn. Hãy nhìn Ngài bị treo trên thánh giá. Hãy nhìn Ngài yếu đuối trong hang đá Bêlem. Hãy nhìn Ngài bé mọn trong phép Thánh Thể. Chỉ vì yêu thương. Chính vì bác ái. Nhìn Ngài, để đón nhận Ngài. Nhìn Ngài, để gặp gỡ thân tình với Ngài. Nhìn Ngài, để tập nên giống ngài: Tận tình yêu thương tha nhân trong lửa mến Chúa Cha tuyệt đối.
Nhờ một linh đạo Phúc Âm như thế, các việc bác ái của chúng ta sẽ được trong sáng, tự do, tránh được những cạm bẫy đưa chúng ta đến với vụ lợi, hời hợt và hình thức bề ngoài.
Với những suy nghĩ và tâm tình trên đây, tôi nguyện chúc anh chị em luôn là những người phát triển bác ái theo đúng hướng, không những về sự nâng cao cuộc sống, mà đặc biệt là về sự nâng cao nhân cách, nhân phẩm, nhân ái.
Xin Chúa, vì tình bác ái của thánh Giuse, nhận nơi đây lòng cảm tạ khiêm tốn và những ước nguyện chân thành của chúng ta. Amen.
Lễ khánh thành đền thánh Giuse, tại an Bình, ngày 30-06-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Bài Phúc Âm hôm nay tương đối vắn, nhưng đem lại cho tôi rất nhiều vui mừng, rất nhiều hy vọng. Bởi vì bài Phúc Âm hôm nay là một mạc khải ngọt ngào về tấm lòng của Đức Kitô. Đức Kitô nói: “Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải là hy lễ”. Với lời phán trên đây, Đức Kitô đã mở tấm lòng của Người ra. Và tôi nhìn thấy tấm lòng Đức Kitô có bản chất là nhân ái, toả ra tình xót thương nhân ái, kêu gọi hãy sống nhân ái và Ngài khát khao đợi chờ gặp gỡ những tâm hồn nhân ái.
Tấm lòng nhân từ của Đức Kitô đã được toả ra và làm chứng qua lời Ngài nói, bằng việc Ngài làm. Việc Ngài làm, thí dụ hôm nay, việc Ngài ngồi giữa những người thu thuế và tội lỗi. Việc làm hôm nay như Ngài gọi và chọn Matthêu là một người có một lý lịch đầy vết nhơ. Lời nói của Ngài cũng minh chứng. Thí dụ hôm nay, lời Ngài nói: “Tôi không đến để kêu gọi những người công chính thánh thiện, mà tôi đến để kêu gọi, gặp gỡ những người yếu đuối tội lỗi”. Lời Đức Kitô nói, việc Đức Kitô làm trên đây có một mục đích chứng minh về tình xót thương của Đức Chúa Cha. Có lần Đức Kitô đã nói: “Những gì tôi nói không phải bởi tôi mà là do chính Đấng sai tôi phải nói”. Về việc Người làm, Đức Kitô cũng đã khẳng định: “Tôi không làm gì theo ý của tôi. Tôi thấy Cha trên trời làm sự gì thì tôi cũng làm như vậy”. Như vậy có nghĩa là: việc Đức Kitô làm chứng minh lòng nhân ái, lời Đức Kitô nói toả ra lòng nhân ái, đều dẫn chúng ta đến nguồn mạch sau cùng, đó là Thiên Chúa Cha giàu lòng nhân ái.
Khi nhìn thấy chân dung của Đức Kitô rất nhân từ, khi nhìn thấy Đức Chúa Cha với tình yêu nhân ái vô cùng, tôi cảm thấy một sự bình an và vui mừng. Bình an êm đềm, vui mừng sâu thẳm đem lại cho tôi một hạnh phúc cao quý.
Tôi hạnh phúc bởi vì từ nay tôi có một điểm tựa rất vững chắc, điểm tựa đó là lòng nhân từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu tôi nhận thấy mình tội lỗi, yếu đuối, tôi sẽ không ngã lòng. Bởi vì tôi nhớ lời Đức Kitô dạy tôi hôm nay, một lời rất an ủi: “Tôi đến là để kêu gọi những người tội lỗi. Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc mà người tội lỗi, yếu đuối, bệnh tật mới cần đến thầy thuốc”. Lời đó giúp cho tôi khiêm tốn nhận mình tội lỗi, đứng vào hàng những người tội lỗi và thích đứng ở trong hàng ngũ những người tội lỗi để đón chờ Đức Kitô cứu độ, để tìm Ngài đến với mình, vì Ngài đã hứa sẽ đến với những người tội lỗi, chớ không phải đến với những người công chính do mình tự phong lên.
Rồi hạnh phúc của tôi là từ nay tôi có một đường lối, phong cách mục vụ vững chắc dựa vào lời Đức Kitô. Ngài làm chứng cho Đức Chúa Cha bằng lòng nhân ái. Ngài làm chứng trước mặt mọi người về Thiên Chúa, về Tin Mừng bằng lòng nhân từ. Điều đó giúp cho tôi biết chọn con đường phải theo trong mục vụ, trong truyền giáo. Nếu tôi đứng trước hai con đường: Một là con đường dùng quyền lực cứng cỏi, hai là con đường dùng nhân ái mềm mại, tôi sẽ chọn con đường thứ hai. Bởi vì Đức Kitô đã chọn con đường đó. Bởi vì Đức Kitô đã truyền giáo và làm chứng cho Thiên Chúa bằng con đường đó.
Hạnh phúc của tôi hôm nay giúp cho tôi có một cái nhìn đầy hy vọng khi nhìn vào anh chị em giáo xứ Thánh Gia, kinh Thầy Ký đây. Tôi biết là mấy năm vừa qua, anh chị em đã dồn sức, dồn công, dồn của vào việc xây dựng ngôi thánh đường, một ngôi thánh đường có hạng trong vùng này. Tôi coi như là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa. Nhưng nếu Chúa nói với chúng ta hôm nay rằng: “Ta muốn lòng nhân từ chớ không phải là hy lễ”, thì tôi sẽ trình với Chúa rằng: Trong hy lễ cộng đoàn Thánh Gia dâng lên Chúa qua việc xây cất nhà thờ này, không phải chỉ là tiền của, không phải chỉ là mồ hôi, không phải chỉ là thời giờ, mà còn có tấm lòng của mình. Tấm lòng mến yêu đối với Chúa, tấm lòng mến yêu đối với Hội Thánh, tấm lòng nhân ái đối với những người xung quanh. Cộng đoàn chúng con có hy lễ và trong hy lễ có tình yêu, có lòng nhân ái, nên xin Chúa chấp nhận. Và tôi nghĩ Chúa đã chấp nhận.
Trước thánh lễ, tôi nghe cộng đoàn hát Kinh Chiều với những thánh ca. Tôi có cảm tưởng rằng với những lời các tiên tri, với lời các tông đồ và nhất là với lời Đức Mẹ trong kinh Tạ ơn, chúng ta sẽ dần dần có một tâm tình biết tạ ơn Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Nhất là khi anh chị em đọc kinh Tạ ơn của Đức Mẹ, thì tâm tình của Đức Mẹ rất dồi dào tập trung vào lòng nhân từ của Thiên Chúa. Tôi mong rằng anh chị em hãy tiếp tục cầu nguyện ca ngợi Thiên Chúa bằng những lời thánh ca, những lời thánh vịnh, những lời các tông đồ, nhất là lời kinh Tạ ơn của Đức Mẹ.
Trong thánh lễ hôm nay cộng đoàn đã hát: “Xin làm nhân chứng”. Xin làm nhân chứng và tuyên hứa với Chúa xin đi làm nhân chứng đến tận cùng trái đất. Tôi nghe câu đó và tôi nghe tiếng Chúa nói với tôi qua câu đó, rồi tôi hiểu là hãy làm nhân chứng cho Chúa về lòng nhân từ của Chúa. Tôi muốn nói với anh chị em như vậy để anh chị em cùng tôi tuyên hứa với Chúa sẽ đi làm nhân chứng cho mọi người thấy Chúa nhân từ đối với chúng ta, qua những việc Chúa đã thương chúng ta và Chúa đã bảo vệ cho chúng ta. Không những chúng ta kể lại những điều Chúa đã làm cho chúng ta do lòng nhân từ Chúa, mà chúng ta còn làm chứng cho lòng nhân từ Chúa qua chính thái độ đầy nhân ái của chúng ta đối với những người chung quanh.
Tôi nghĩ rằng kinh Thầy Ký đây có nhiều người đi học xa, có nhiều người đi làm xa. Tôi mừng điều đó và tôi cầu chúc rằng: Dù ở trong kinh, dù đi xa, mỗi người anh chị em hãy làm chứng nhân về lòng nhân từ Chúa, để mọi người nhìn thấy thái độ, phong cách anh chị em đầy lòng nhân ái, sẽ biết ca ngợi lòng nhân ái Chúa. Nhờ đó họ sẽ tin vào Chúa, sẽ mến thương Hội Thánh, và nhờ đó, sự đoàn kết giữa đồng bào chúng ta với nhau sẽ được tiến triển.
Trên đây là một vài chia sẻ gởi đến anh chị em. Chúng ta hãy cầu xin cho con em chúng ta, những người bé nhỏ, sống trong một tương lai đầy chuyển biến, biết làm chứng cho Chúa về lòng nhân ái Chúa qua đời sống đầy tình nhân ái đối với tha nhân. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Xứ Thánh Gia, Kinh Thầy Ký, ngày 05-07-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy thời Chúa Giêsu, trong cộng đồng tôn giáo, có những người đạo đức rất khắt khe trong vấn đề giữ luật đạo. Họ lo giữ luật đạo một cách chặt chẽ chi li sao cho đúng việc, sao cho đúng thời gian, sao cho đúng truyền thống. Đối với họ giữ đạo là giữ lề luật, và đối với họ lề luật chính là những lề luật chủ yếu bề ngoài. Và đối với họ, người đạo đức là người sống giống như gương của họ đã làm.
Những người đạo đức này khi thấy các môn đệ Chúa Giêsu không giữ chay như họ, thì coi đó là một điều thiếu sót đáng trách. Họ đem điều này đến phiền trách với Đức Kitô. Nghe vậy, Đức Kitô đã tỏ quan điểm của mình. Ngài nhờ dịp này để một lần nữa và phần nào nói lên quan điểm của Ngài thế nào là đạo đức. Vậy quan điểm đạo đức của Đức Kitô là thế nào ?
Thưa, thứ nhất, Đức Kitô không bao giờ chủ trương phá huỶ những luật giữ chay. Ngài vẫn coi những việc giữ chay là việc đạo đức. Nhưng Ngài muốn rằng việc giữ chay phải phát xuất từ một yếu tố căn bản và phải diễn tả yếu tố căn bản đó. Nếu không, việc giữ chay sẽ chỉ là việc đạo đức ở bề ngoài, mà bên trong không có thực chất.
Thứ hai, yếu tố căn bản của đạo đức được Đức Kitô diễn tả bằng một hình ảnh, hình ảnh đó là các phù rể đi theo tân lang trên con đường phục vụ. Tân lang đây ám chỉ chính Đức Kitô. Có nghĩa là: Đạo đức thực, là ở sự các người tin Đức Kitô hãy theo Đức Kitô, bắt chước Đức Kitô, chia sẻ tâm tình với Đức Kitô trên con đường phục vụ nhân loại. Trên con đường đó sẽ không thiếu dịp giữ chay và còn nhiều dịp để phải chịu đựng, phải hy sinh nặng nề hơn giữ chay bội phần.
Quan điểm đạo đức của Đức Kitô trên đây đã được Đức Kitô nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhiều cách. Và sau cùng, những ngày cuối đời, trước khi phó mình chịu chết cho nhân loại, Đức Kitô đã gồm tóm lại quan điểm đạo đức của Ngài vào một câu mà anh chị em đã thuộc lòng: “Thầy cho chúng con một điều răn mới là chúng con thương yêu nhau, như Thầy đã thương yêu chúng con”. Đó là yếu tố căn bản nhất. Và Đức Kitô thêm: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau”. Như vậy, dấu chỉ của những người công giáo chính là bác ái yêu thương, yêu thương chấp nhận hy sinh thánh giá. Từ đó thánh giá đã trở nên biểu tượng của người công giáo. Khi đeo thánh giá trên ngực, khi thờ thánh giá trên bàn thờ, khi làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta nhắc nhở cho mình rằng: Tôi theo Đức Kitô, tôi bắt chước Đức Kitô, tôi chia sẻ với Đức Kitô. Đức Kitô ở trong tôi. Tôi đồng hành với Đức Kitô trên con đường làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, một tình yêu chấp nhận hy sinh đến mức chết cho người khác như Đức Kitô. Từ khi thánh giá trở thành biểu tượng của đạo Công giáo, thì nền tu đức của người công giáo hướng về nội tâm nhiều hơn. Là phải đổi mới nội tâm mình, làm sao cho nội tâm mình được chính Đức Kitô chiếm đoạt, ngự trị. Để cho nội tâm mình, tình yêu Đức Kitô phải là chính, còn sự ăn chay, sự kiêng thịt, tốt lắm, nhưng mà nó phải diễn tả tình yêu trong nội tâm của mình.
Với cách dạy chúng ta trên đây, Đức Kitô muốn nhắc nhở chúng ta thế nào là canh tân, thế nào là đổi mới. Đổi mới là đổi mới nội tâm, chứ không phải là thêm việc này bớt việc kia, kẻo rồi như Đức Kitô nói trong bài Phúc Âm hôm nay: chỉ là cái trò đem vải mới vá vào vải cũ, hay là cái trò lấy rượu mới lại cho vào bầu da cũ. Phải đổi mới nội tâm một cách sâu sắc, hoàn toàn mới, trở nên giống Chúa Kitô đầy tình yêu thương. Chấp nhận hy sinh như Đức Kitô để làm chứng Thiên Chúa là Tình yêu. Đạo Công giáo là đạo của yêu thương. Kẻ tin theo Đức Kitô là kẻ đồng hành với Đức Kitô trên con đường phục vụ nhân loại, mặc dầu phải chấp nhận hy sinh.
Lúc nãy, ông đại diện đã nói: Canh tân, đổi mới nội tâm là việc can đảm. Tôi nghĩ là rất đúng. Không những can đảm mà còn phải rất kiên trì. Phải đổi mới nội tâm mỗi ngày cho đến già, cho đến chết. Chớ không phải chỉ là một việc, vài việc, vài ngày, vài tháng.
Trước mặt chúng tôi đây là hơn hai trăm trẻ sắp chịu phép Thêm sức. Hai trăm trẻ ngồi hầu như hết lòng nhà thờ này. Đây là một tín hiệu về tương lai giáo xứ Thạnh An nói riêng và Hội Thánh Việt Nam nói chung. Có nghĩa là tương lai Hội Thánh Việt Nam sẽ mang tính chất trẻ trung, giới trẻ sẽ rất đông. Và như chúng ta biết, giới trẻ bây giờ không dễ thuyết phục bằng những lý thuyết đạo đức, mà dễ lôi cuốn bằng những hình ảnh đạo đức. Vì thế, việc huấn luyện giới trẻ bây giờ, không nên đặt nặng vấn đề lý thuyết, mà hãy đưa ra những gương sáng đạo đức, những hình ảnh đạo đức. Mà hình ảnh đạo đức theo tinh thần tôi vừa diễn tả lúc nãy, là một hình ảnh những người dấn thân theo Đức Kitô trên con đường phục vụ. Vì thế, sẽ không phải là những hình ảnh an nhàn sung sướng, mà là những hình ảnh dấn thân như thánh giá, như những người phải chịu khổ đau vì phục vụ Nước Trời. Hãy đưa ra những hình ảnh sống động của những người đã chết vì lý tưởng Nước Trời. Hãy đưa ra những hình ảnh còn sống của những người xung quanh dấn thân phục vụ Nước Trời, vì mến Chúa, vì thương người.
Tôi nghĩ rằng, nếu chúng ta huấn luyện con em chúng ta bằng những hình ảnh đó, thì chúng ta hy vọng tương lai giáo xứ của chúng ta, tương lai Hội Thánh của chúng ta sẽ rất huy hoàng và sẽ được Đức Kitô coi là một đổi mới toàn diện, từ sâu sắc nội tâm cho đến những dấu chỉ thấy được bề ngoài.
Công việc sẽ khó, nhưng nếu chúng ta cậy vào ơn Chúa Thánh Linh, chúng ta tin tưởng dù khó chúng ta sẽ làm được. Bởi vì chính chúng ta chỉ là những dụng cụ, chỉ là những người đón nhận, còn vai chính trong việc huấn luyện là chính Đức Kitô, là sức mạnh của Thần Linh Đức Kitô, là tình yêu tạo dựng của Chúa Cha giàu lòng thương xót. Nếu chúng ta có một tâm tình như vậy để đổi mới Hội Thánh, để đổi mới chính mình, để đổi mới họ đạo, chúng ta sẽ không phải thất vọng, không phải bi quan. Chúng ta sẽ thấy Nước Trời đến với chúng ta, đến với dân tộc Việt Nam, đến với nhân loại hôm nay. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Giáo Xứ Thạnh An, ngày 06-07-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Hôm nay tôi rất vui mừng được thăm lại họ đạo Minh Châu, một giáo điểm vùng xa vùng sâu, ở tại U Minh này. Tôi càng rất vui mừng hơn khi được chứng kiến tận mắt những phát triển mới ở giáo điểm này. Ngôi nhà trường kia, nhà thờ mới này, sự hiện diện của chính quyền, của các tôn giáo bạn, sự hiện diện của bạn bè, ân nhân xa gần, sự hiện diện của đông đảo cộng đoàn tín hữu trong bầu không khí trang trọng này là những chứng từ đáng khen ngợi.
So với những lần viếng thăm trước, lần này tôi nhận thấy bộ mặt họ đạo Minh Châu xinh đẹp hơn trước, rạng rỡ hơn trước. Trước những chuyển biến tốt đẹp này, tôi đã hỏi Chúa Giêsu xem Ngài muốn tôi nói gì với họ đạo Minh Châu hôm nay. Tôi đã cầu nguyện, tôi đã lắng nghe, và Chúa đã trả lời tôi bằng cách đem trí khôn tôi vào bài Phúc Âm thánh lễ vừa nghe. Trong bài Phúc Âm này có một lời tôi để ý cách riêng, đó là: “Nhìn thấy đám đông dân chúng, Đức Kitô động lòng xót thương họ”. Tự nhiên câu này sáng rực lên trong tâm hồn tôi, và tự nhiên tôi hiểu đó là ý Chúa muốn tôi nhắc lại, nói lại, nhắn lại với cộng đoàn Minh Châu ở đây sứ điệp về lòng xót thương Chúa.
Thực vậy, anh chị em ở đây đã được Chúa yêu thương nhiều lắm. Nhìn lại cuộc đời họ đạo, nhìn lại cuộc đời từng gia đình, anh chị em sẽ thấy đây là một hành trình rất dài: hành trình dài về thời gian, hành trình nặng về đau khổ. Tôi nhớ lại những năm dài xưa, anh chị em sống ở đây không có linh mục, không có thánh lễ, không có nhà thờ. Nhưng anh chị em đã sống đạo, dạy đạo, truyền đạo lại cho nhau một cách hiên ngang, cũng như đồng thời tham gia kháng chiến một cách tự hào, chân tình. Tôi cũng nhớ lại những lần các bà mẹ công giáo ở đây, trong đó có bà mẹ anh hùng Việt Nam, lặn lội đi tới các nơi để vận động có thể xây được ngôi nhà thờ mới này.
Tất cả những cái nhìn thấy được và những cái không nhìn thấy được đều là chứng từ Thiên Chúa ở với anh chị em.
Rồi tới một thời có linh mục lui tới và ở lại thường xuyên. Họ đạo chúng ta đã được tham gia vào vấn đề phục vụ địa phương, dân tộc, đất nước một cách phong phú hơn, đời sống đức tin được trong sáng hơn. Cùng với chính quyền địa phương, đồng bào địa phương, và các tôn giáo bạn, chúng ta đã giúp nhau có được những bước tiến hơn trong cuộc sống, nhất là về trình độ văn hoá. Bầu khí đoàn kết đạo đời được củng cố hơn, và niềm tin tưởng vào tương lai được sáng rõ hơn.
Nhìn qua những hành trình đầy hy sinh và đầy tình mến đó, hôm nay tôi coi nhà thờ mới này như một ngọn đèn phục sinh thắp sáng lên niềm tin, và thắp sáng lên tình mến đối với Chúa, đối với quê hương, đối với đồng bào, đối với địa phương. Qua những gì tôi thấy được hôm nay, tôi nhìn rõ hơn dung mạo Thiên Chúa của tôi, một Thiên Chúa mà Kinh Thánh gọi là: Người Cha trên trời giàu tình thương xót. Đúng là tôi đã nhìn thấy dung mạo đẹp của Thiên Chúa chúng ta, một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Chúng ta có một Cha trên trời giàu tình yêu thương xót. Chúng ta được yêu thương bởi Cha trên trời. Đó là những tin mừng lớn lao, đó là những tin mừng cao quý nhất.
Trong thánh lễ này, nhớ lại những ơn Cha trên trời thương chúng ta qua những việc chúng ta đã nhận ở những người xung quanh, chúng ta chính thức tạ ơn Chúa hôm nay và cũng chính thức cảm ơn những ân nhân xa gần đã dành cho chúng ta tình xót thương chân thành.
Như vậy, lễ hôm nay không phải chỉ là một lễ tạ ơn, mà còn là một lễ được sai đi. Chúa sai chúng ta đi để làm chứng chúng ta là những người con của Người Cha trên trời giàu lòng thương xót.
ở đây, tôi xin chia sẻ một suy nghĩ của những nhà thần học, những nhà truyền giáo, những nhà xã hội học, những nhà tâm lý học, kể cả những nhà hoạt động chính trị. Suy nghĩ đó vắn tắt thế này: Nếu có một vẻ đẹp nào nơi những người sống tôn giáo, hoạt động truyền giáo, nơi những người hoạt động chính trị, xã hội, văn hoá, một vẻ đẹp có khả năng lôi cuốn được người ta, thì vẻ đẹp đó chính là bác ái, xót thương. Nhất là bác ái, xót thương dành cho những người nghèo khổ, những người bị bỏ rơi, những người cùng cực. Và nếu có một chìa khoá thần linh nào mà người hoạt động tôn giáo, mà người hoạt động chính trị, văn hoá, có thể dùng để mở cưœa lòng người ta, thì chìa khoá thần đó chính là bác ái, xót thương, đặc biệt dành cho những người nghèo, những người cùng khổ, những người không có may mắn. Và nếu có một thước đo nào lớn nhất mà dân chúng thường dùng để đo trình độ đạo đức của những người lãnh đạo của họ, trong đạo ngoài đời thì thước đo đó chính là bác ái, xót thương. Ai có lòng bác ái, xót thương, nhất là bác ái, xót thương dành cho những người cùng khổ, thì người đó được đánh giá là người có phẩm chất, là người có đạo đức, là người đáng tín nhiệm.
Như vậy chúng ta thấy rằng, đang khi chúng ta cần phải nâng cao dân trí, chúng ta đừng quên đào sâu nhân tâm. Cái trí là quan trọng, nhưng theo tôi, cái tâm quan trọng hơn. Vì thế trong vấn đề giáo dục đào tạo, nhất là các em thiếu nhi, chúng ta cần phải làm sao giúp đỡ cho cái tâm được sáng, cho cái tâm biết thương xót người khác, biết bác ái với những người chung quanh, biết xót thương dân tộc mình, biết xót thương Hội Thánh mình, biết xót thương đồng bào mình, và biết xót thương chính bản thân mình. Phải làm cách nào bây giờ đây ?
Tối hôm qua, trên màn ảnh truyền hình Việt Nam, trong mục giáo dục thiếu nhi, có đề cập đến vấn đề huấn luyện. Tôi thấy người ta nhắc tới việc phát triển thông tin, để các em nhận thấy, nghe được, và tiếp cận được những việc tốt, người tốt, hầu giúp tâm trí các em mở ra, hầu cho các em nắm được cái giá trị ngàn đời của dân tộc mình là yêu thương, bác ái, liên đới, nhân ái.
Tôi cũng nghĩ như vậy. Chúng ta cần phải đào tạo, huấn luyện những người chung quanh, nhất là con em và đặc biệt là chính mình, để có được một cái tâm bác ái, yêu thương. Mà muốn được như vậy, tôi cũng nghĩ là cần phải mở rộng thêm những nguồn thông tin. Thông tin ở đây đơn giản thôi, hãy nghe nhiều những gương tốt, việc tốt. Hãy thấy nhiều những việc tốt, người tốt. Hãy tiếp cận nhiều những người tốt, việc tốt.
Ngay hôm nay đây, từ sáng đến giờ, khi tôi được may mắn tiếp xúc với anh chị em, chính tôi cũng đã học được những gương bác ái, hy sinh, xót thương của anh chị em đối với họ đạo, đối với dân tộc, đối với họ hàng, đối với con cháu.
Vì thế lúc nãy, khi ông đại diện giáo xứ cám ơn chúng tôi, thì tự nhiên tôi nghĩ rằng tôi cần phải có bổn phận nói lên lời tôi cám ơn anh chị em giáo dân, nhất là những anh chị em giáo dân nghèo. Theo tôi, những người nghèo chính là những ân nhân của đất nước, chính những người nghèo là ân nhân của Hội Thánh Việt Nam. Họ đạo Minh Châu là một chứng từ sống động về điều đó. Cho nên khi tiếp cận, khi mở rộng thông tin và với một lòng biết trân trọng, biết nhận ra những lòng bác ái, xót thương chung quanh mình, chúng ta sẽ thấy trên đất nước Việt Nam, trong giáo phận chúng ta, tại địa phương của chúng ta, không thiếu những người tốt, việc tốt bất cứ ở đâu, trong tôn giáo nào, trong đạo ngoài đời.
Và như vậy, nhìn về tương lai, chúng ta tin tưởng, xác tín rằng đạo cũng như đời, chúng ta sẽ đi lên với một tương lai xán lạn. Bởi vì chúng ta đâu đó, khắp nơi đều là những người giàu bác ái, yêu thương. Amen.
Lễ Khánh Thành Nhà Thờ và Thêm Sức tại Giáo Xứ Minh Châu, ngày 09-07-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Thánh lễ hôm nay có một quang cảnh trang trọng khác thường. Bởi vì thánh lễ này không phải chỉ là dịp để các em chịu phép Thêm sức, mà còn là dịp để mừng kỶ niệm giáo xứ tròn 60 năm. Sở dĩ cha sở và anh chị em đã có sáng kiến mừng 60 thành lập giáo xứ, là vì không phải chỉ để nói lên tuổi giáo xứ của mình, mà nhất là để nhắc nhở lại lịch sử với cội nguồn và những chuyển biến trong họ đạo. Đây là những lý do rất chính đáng.
Khi được chủ sự thánh lễ hôm nay, một thánh lễ mừng kỶ niệm 60 năm thành lập giáo xứ, tôi nhìn giáo xứ Đông Hoà này với một cái nhìn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông huấn Ngài gởi cho Giáo Hội về vấn đề giáo dân và giáo xứ. Trong Tông huấn tựa đề là “NGƯỜI KITÔ HỮU GIÁO DÂN”, Đức Thánh Cha đã đưa ra bốn hình ảnh về giáo xứ. Tôi xin sơ sài phác hoạ bốn hình ảnh trong Tông huấn này, để rồi chúng ta căn cứ vào đó và đối chiếu vào đó, xem giáo xứ của chúng ta sau 60 năm có đúng được phần nào những hình ảnh lý tưởng đó không.
Hình ảnh thứ nhất của giáo xứ là một gia đình của Thiên Chúa chan hoà tình bác ái, huynh đệ. Có nghĩa là một giáo xứ phải tổ chức thế nào để mọi người trong giáo xứ cảm thấy mình được đón tiếp một cách chân tình, được sống trong một bầu khí bác ái, được cảm thấy mình được kính trọng, cảm thấy mình được yêu thương, cảm thấy mình được che chở, và cảm thấy sự mình thuộc về giáo xứ của mình là một danh dự. Bởi vì giáo xứ của mình ưu tiên là một gia đình của Thiên Chúa, mọi người yêu thương nhau, che chở lẫn nhau.
Hình ảnh thứ hai của giáo xứ là một cộng đoàn nuôi dưỡng đức tin. Có nghĩa là trong giáo xứ, mọi người cảm thấy mình được bồi dưỡng đức tin, được kêu gọi sống đức tin, được giúp hiểu các vấn đề về đức tin. Khi bước vào giáo xứ, khi bước vào nhà thờ giáo xứ, người ta cảm thấy mình đi vào một bầu khí hướng về Thiên Chúa, được Lời Chúa và lời Giáo Hội soi sáng, để hiểu biết những biến cố cuộc đời. Một giáo xứ như vậy thường được bố trí bởi những kinh kệ, những giờ phụng vụ, những giờ học hỏi Thánh Kinh, bởi những nhóm cầu nguyện, bởi những nhóm làm việc bác ái vì đức tin.
Hình ảnh thứ ba của một giáo xứ là một cộng đoàn có tổ chức. Có nghĩa là trong một giáo xứ, mọi người cần được sắp xếp trong một hệ thống trật tự, có phân công, có trách nhiệm, có các giới. Tất cả đều liên hệ với nhau trong tinh thần cộng tác, trong tinh thần hiệp thông, nhất là hiệp thông với cha sở của mình, để rồi chính cha sở lại hiệp thông chặt chẽ với Đức Giám mục, bề trên địa phận. Cộng đoàn có tổ chức trong tinh thần hiệp thông và tinh thần trách nhiệm.
Hình ảnh thứ bốn của một giáo xứ là cộng đoàn truyền giáo. Hình ảnh một giáo xứ mà Công đồng Vatican II đề cao nhất, là hình ảnh một cộng đoàn truyền giáo. Truyền giáo có nghĩa là mình đồng hành với xã hội, mình được chuẩn bị để dấn thân vào xã hội, mình được chuẩn bị để đối thoại với xã hội, mình được chuẩn bị cùng với xã hội đưa dân tộc mình, địa phương mình, đến hạnh phúc.
Trên đây là bốn hình ảnh về giáo xứ do Đức Thánh Cha của chúng ta đã nêu lên. Bây giờ chúng ta nhìn giáo xứ Đông Hoà chúng ta, rồi đối chiếu bốn hình ảnh đó, xem giáo xứ của chúng ta có đạt được bốn hình ảnh về giáo xứ đó không. Riêng tôi, thoáng nhìn giáo xứ Đông Hoà anh chị em, tôi đã nhận ra một số nét lớn, một số màu sắc đẹp đáng mừng, đáng khen. Bởi vì nó phản ánh được bốn hình ảnh về giáo xứ.
Chẳng hạn về hình ảnh giáo xứ là một gia đình của Thiên Chúa, chan hoà bác ái, yêu thương, thì tôi nhìn thấy quang cảnh anh chị em gặp gỡ nhau, rồi nhà trẻ, rồi phòng dạy nghề, phòng học tình thương. Một vài chứng từ đó thôi đủ giúp cho tôi hiểu rằng: giáo xứ chúng ta đón nhận mọi người, giáo xứ chúng ta phục vụ mọi người, nhất là những người thiếu thốn, những người cần phải được giúp đỡ. Và sự phục vụ đó, đón tiếp đó, chỉ do tình thương bác ái mà thôi.
Rồi về hình ảnh cộng đoàn đức tin, nuôi dưỡng đức tin, thì tôi cũng nhìn thấy trong giáo xứ này qua lễ hôm nay, qua cách anh chị em tiếp thu Lời Chúa, lắng nghe ý Chúa và hướng về tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Đó là những cách chúng ta nuôi dưỡng đức tin cho chính mình, cho con em của chúng ta.
Rồi về hình ảnh một cộng đoàn có tổ chức thì rất dễ nhìn thấy ở đây, như cha sở vừa nhắc lại về lịch sử thành lập giáo xứ Đông Hoà này: Đức Giám mục có nhiệm vụ của Đức Giám mục, cha sở có nhiệm vụ của cha sở, thầy giảng có nhiệm vụ của thầy giảng, giáo dân có nhiệm vụ của giáo dân, tất cả đều trong trật tự, đều có tổ chức. Riêng trong trường hợp giáo xứ Đông Hoà, vai trò của những tân tòng đầu tiên là rất quan trọng. Mặc dầu quan trọng nhưng vẫn khiêm tốn, và đặt mình ở trong một vị trí mà Hội Thánh đã đặt ra, để cộng đoàn giáo xứ luôn luôn có trật tự, luôn luôn là cộng đoàn có tổ chức. Và trong đó Đức Kitô, Chúa Thánh Linh là Đấng thành lập chính và hướng dẫn chính.
Rồi về hình ảnh một giáo xứ truyền giáo, một cộng đoàn truyền giáo, thì ở đây khỏi nói. Anh chị em cũng đã thấy việc truyền giáo đã có những phát triển, và sự lạ lùng tôi ghi nhận ở đây là sự truyền giáo đã bắt đầu từ những người tân tòng, chứ không phải từ những vị chức sắc trong đạo.
Trên đây là cái nhìn thoáng qua của tôi, để thấy rằng chúng ta có những cơ sở để hôm nay tạ ơn Thiên Chúa. Nhìn giáo xứ Đông Hoà với những nét đẹp, với những màu sắc đẹp hôm nay, tôi chỉ biết rằng quang cảnh này không phải là quang cảnh những năm về trước. Nhưng tôi cũng biết rằng quang cảnh này cũng không phải là quang cảnh sẽ mãi mãi tồn tại cho những năm sau. Vì thế tôi chỉ biết cùng với anh chị em khiêm tốn tạ ơn Thiên Chúa về những gì Chúa đã làm cho chúng ta, và khiêm tốn kiên trì cầu nguyện như bài Phúc Âm hôm nay. Cầu nguyện kiên trì xin Chúa gởi thợ gặt đến với cộng đoàn của chúng ta, và khiêm tốn phó thác mọi sự cho Chúa. Bởi vì tương lai như tôi vừa nói, có lẽ sẽ không giống như bây giờ, sẽ có những chuyển biến và quang cảnh họ đạo biết đâu sẽ khác đi không như hôm nay.
Tóm lại, trong thánh lễ này, chúng ta hãy nhìn vào Thiên Chúa. Chúng ta tin Đấng thành lập giáo đoàn chính là Thiên Chúa. Chúng ta chỉ là những dụng cụ bé nhỏ. Chúng ta chỉ chu toàn trách nhiệm của hôm nay Chúa trao phó. Còn ngoài ra, chúng ta phải khiêm tốn cầu xin Chúa sai nhiều thợ gặt đến với chúng ta, và chúng ta hãy khiêm tốn cộng tác với những thợ gặt đó. Hãy khiêm tốn đón chờ những gì Chúa gởi đến cho ta, và tạ ơn Chúa, dù những cái đó là những cái thành công hay là những cái chưa thành công, để rồi sẽ tìm một cái thành công lớn hơn đó là vinh danh Thiên Chúa. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Giáo Xứ Đông Hoà, ngày 09-07-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong các giáo điểm rải rác tại vùng U Minh này, giáo điểm Thứ Mười đây là một giáo điểm được coi là xa nhất, sâu nhất và bé nhỏ nhất. Đây là một giáo điểm tương đối nghèo và bé nhỏ, được coi như là một sự hiện diện mà thôi. Hiện diện âm thầm như một bông hoa nhỏ bé, như một ngọn đèn nhỏ mọn, như một hơi thở nhỏ nhẹ. Với một hình thức bé nhỏ như thế này, giáo điểm của anh chị em có được Chúa trao phó cho sứ mạng nào không ? Thưa có, và một sứ mạng đây là một sứ mạng đơn sơ.
Thứ nhất, hãy dùng đời sống của mình trở thành một bản tuyên xưng Thiên Chúa là Tình Yêu.
Thứ hai, hãy dùng những tương giao với xã hội và những người chung quanh để kêu mời mọi người hãy đón nhận tình yêu Thiên Chúa.
Để thực hiện sứ mạng này, chúng ta phải làm gì? Thưa, thiết tưởng là hãy bắt chước cách làm của Chúa Giêsu. Một trong những cách mà Chúa Giêsu đã dùng để tuyên xưng Thiên Chúa là Tình yêu và kêu mời mọi người đón nhận tình yêu Thiên Chúa, đó là dùng những nhóm nhỏ.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại Chúa Giêsu đã dùng nhóm mười hai. Chỉ có mười hai người và trong mười hai người đó, cũng có những người tội lỗi trở lại. Ngoài nhóm mười hai, chúng ta còn thấy những nhóm nhỏ hơn nữa, gồm những phụ nữ như Maria Madalena, như Matta. Những phụ nữ này cũng là những người tầm thường và trong đó, có những người tội lỗi trở lại.
Trước khi sai họ đi để chu toàn sứ mạng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, là Tình yêu, và kêu mời người ta đón nhận Nước Trời là sự công chính, là sự bình an, là tình yêu thương, thì Đức Kitô đã đào luyện những nhóm nhỏ này. Ngài đào luyện họ không phải bằng những trường lớp và bằng những bài học lý thuyết xa vời, mà bằng cách đem họ đi theo Ngài. Đi theo Đức Kitô, nhóm nhỏ này dần dần quen cách suy nghĩ của Đức Kitô, dần dần chia sẻ được những thao thức của Đức Kitô, dần dần cảm nghiệm được những rung cảm tế nhị của trái tim Đức Kitô. Rồi từ đó, họ được đổi mới nội tâm, lòng họ đầy lửa mến Chúa yêu người, lòng họ sẵn sàng hy sinh từ bỏ cái tôi của mình, trở nên khiêm tốn bé nhỏ. Và từ đó, họ nên những người cộng tác với Đức Kitô. Họ nghèo túng, họ không có gì là hành trang ngoài những gì Đức Kitô đã chia sẻ vào nội tâm của họ. Chỉ thế thôi, những nhóm nhỏ này đã dấn thân vào đời, đã lôi cuốn được rất nhiều người trở về với Chúa. Nước Trời lan ra từ đó.
Tôi được may mắn gặp một số cộng đoàn nhỏ, còn nhỏ hơn cộng đoàn Thứ Mười ở đây. Tôi thấy trong những cộng đoàn nhỏ đó lại có những nhóm nhỏ, rất nhỏ, năm người, mười người, thanh niên có, thanh nữ có, người già có, người trẻ có. Họ được đào luyện một cách đơn sơ. Ban ngày, họ đi phục vụ những người xung quanh một cách đầy tình người, vị tha, khiêm tốn. Ban tối, họ về đọc Kinh Thánh, và nếu có thể, họ cầu nguyện chung, nhất là viếng Mình Thánh Chúa. Ban sáng trước khi đi làm, họ dâng mình cho Chúa, xin Chúa đổ vào lòng họ tình mến Chúa yêu người tha thiết, rồi họ ra đi. Thỉnh thoảng, họ đến một nhà dòng để linh thao, để nhờ những vị chuyên môn giúp họ gặp được Đức Kitô, đồng hành với Đức Kitô và biết lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần. Chỉ với những nhóm nhỏ này, cộng đoàn giáo xứ, cộng đoàn giáo điểm dần dần đã trở nên nơi truyền giáo rất mạnh. Họ lôi cuốn được những người rối rắm trở về. Họ giúp cho các gia đình sống công bình bác ái. Họ giúp cho những người lương dân nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa là Tình yêu. Chỉ qua những chiếc cầu đơn sơ bắc bằng những tương giao tình người, tình Chúa, mà dần dần những người chung quanh bắt đầu tìm đến với Đức Kitô, với Hội Thánh.
Qua những kinh nghiệm này, tôi thấy những nhóm nhỏ đó tuy không được học nhiều, tuy không có tiền bạc, tuy không có nhiều phương tiện như những người giàu khác, như những cộng đoàn dư ăn, dư mặc, nhưng họ có một tâm hồn rất khiêm tốn, bé nhỏ và được Chúa Thánh Thần đổi mới rất dồi dào sức sống nội tâm. Và vì thế, họ đơn giản hoá cuộc sống đạo, hơn là phức tạp hoá cuộc sống đạo. Họ trẻ trung hoá nếp sống đạo, hơn là làm già nua nếp sống đạo bằng những khuôn khổ cứng nhắc. Họ làm cho nếp sống đạo gần gũi với Đức Kitô và, họ làm cho Đức Kitô đi vào cuộc sống một cách hồn nhiên, một cách nhẹ nhàng, một cách thanh thản. Tôi nghĩ rằng giáo điểm Thứ Mười ở đây cũng có thể làm được như vậy, nhất là những cộng đoàn ở kinh bên, nơi có đông gia đình công giáo sống chung với nhau. Tôi không đòi hỏi nhiều, tôi không đề nghị nhiều. Tôi chỉ xin anh chị em mỗi tối hãy biết đọc kinh chung, mỗi sáng khi thức dậy hãy biết dâng mình cho Chúa và Đức Mẹ, mỗi Chúa nhật hãy chịu khó đi lễ nghe giảng. Và trong đời sống thường ngày, hãy cố gắng làm sao vừa làm việc, vừa cầu nguyện với Chúa trong tâm hồn mình. Khi được vui hãy biết cảm tạ Chúa, khi gặp rủi ro, khốn khổ hãy biết cầu xin, hãy xin Chúa giúp cho mình biết dùng những sự xảy ra trong cuộc sống để nên giống Chúa hơn. Tôi nghĩ rằng với những cách đơn sơ như vậy, Chúa sẽ dùng anh chị em như những nhóm nhỏ được lựa chọn làm nên chiếc cầu thiêng liêng, bắc Hội Thánh và địa phương xã hội liền lại với nhau, để biết sống hài hoà và qua những tương giao tốt đẹp, chúng ta sẽ cộng tác với Thiên Chúa để xây dựng trong lòng người sự bình an, sự vui mừng, sự trong sáng, nhất là sự công bình bác ái.
Đạo Công giáo chúng ta đánh giá cao việc đi lễ, đi nhà thờ, và cũng đánh giá cao sự yêu mến công chính, thực thi bác ái, chấp nhận hy sinh vì người khác, vì dân tộc mình, vì Hội Thánh mình. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau”. Đó mới chính là dấu chỉ của đạo Công giáo, mặc dầu sự đi lễ đọc kinh cũng là một dấu chỉ tốt, nhưng phải đi kèm với lòng bác ái, vị tha, khiêm tốn và công chính.
Lúc nãy, tôi thấy cha sở ở đây giật chuông, tôi nói với Chúa rằng: Con xin Chúa làm sao để không phải chỉ là tiếng chuông kêu gọi, mà hãy có nhiều tâm hồn cầu nguyện, hy sinh như là một tiếng chuông của Chúa đánh thức các tâm hồn. Và chỉ có cách đó, người ta sẽ mở được lòng ra để đón nhận Nước Trời, mà Nước Trời chính là tình yêu Thiên Chúa. Và lúc đó, tự nhiên người ta sẽ không thể ở yên nếu không đi rao truyền Thiên Chúa là Tình yêu. Bởi vì đó là điểm tựa quý giá nhất cho mỗi người chúng ta. Khi có của, khi nghèo túng, khi bệnh tật, khi khoẻ mạnh, Thiên Chúa là Tình yêu sẽ là điểm tựa cho chúng ta. Và sẽ là hạnh phúc vô cùng cho chúng ta, sẽ là một đảm bảo chắc chắn nhất cho chúng ta khi chết, vì Thiên Chúa là Tình yêu. Khi chúng ta tuyên xưng Ngài, khi chúng ta giúp cho người xung quanh nhận biết Ngài, lúc chúng ta chết, Ngài sẽ không bỏ chúng ta, Ngài sẽ nhận chúng ta vào nước của Ngài.
Hôm nay, tôi tâm sự với anh chị em, những gì mà tôi được gợi ý do bài Phúc Âm hôm nay: Hãy sống bé nhỏ, hãy làm những cộng đoàn bé nhỏ đi theo Đức Kitô, hãy là những cộng đoàn khiêm tốn toả ra ánh sáng của đức ái, chan hoà tình người, tình Chúa. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Giáo Xứ Đông Hưng, huyện An Minh, ngày 10-07-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa dạy: “Khi các con vào nhà nào, các con hãy chúc bình an cho nhà đó”. Vâng lời Chúa, lúc nãy khi vừa tới đây, tôi đã chúc bình an cho họ đạo anh chị em. Và đầu lễ, một lần nữa, tôi lại chúc bình an cho anh chị em, cho các cha, cho mọi người hiện diện nơi đây.
Khi cầu chúc bình an cho anh chị em và khi cầu xin ơn bình an cho họ đạo, tôi có hỏi Chúa: Chúng con cần phải làm gì để đón nhận ơn bình an ? Thì Chúa đáp trả lời tôi trong lòng: Để đón nhận ơn bình an, chúng con cần phải thực thi lời Chúa dạy. Tôi lại hỏi: Lời Chúa dạy, lời Chúa mà Chúa muốn chúng con thực thi nhất thời nay, tại đây là lời nào ? Chúa đã trả lời tôi: Lời đó chính là lời đã ghi ở đầu bài Phúc Âm hôm nay: Các con hãy đi rao giảng về Nước Trời.
Đúng như vậy, đây là một sứ mạng được tuyên bố nhiều lần một cách rõ ràng, nhất là trong suốt tuần này, trong các bài Phúc Âm. Chúng ta phải đi rao giảng về Nước Trời. Và khi chúng ta thực thi đúng đắn, nghiêm túc lời dạy trên đây, thì Chúa sẽ ban bình an cho ta, một sự bình an nội tâm sâu thẳm, và mang bình an cho gia đình ta, cho họ đạo ta, cho địa phương ta, cho Giáo Hội ta.
Khi tuyên bố lời này với anh chị em, khi thông báo lại lời này với anh chị em, tôi nghĩ là anh chị em sẽ thắc mắc: Phải rao giảng Nước Trời cho ai và phải rao giảng thế nào ? Những thắc mắc đó là chính đáng, tôi xin giải thích ngay.
Rao giảng Tin Mừng cho ai ? Thưa, cho mọi người xung quanh ta. Đầu tiên là những người trong họ đạo, trong kinh, trong vùng Cái Sắn này, trong địa phận này, rồi sau là những người ngoài công giáo.
Rao giảng Nước Trời thế nào ? Xin thưa, bằng nhiều cách khác nhau, nhưng đặc biệt là bằng tinh thần hiệp thông.
Mấy ngày hôm nay, tôi đã đi thăm mục vụ các giáo điểm ở vùng U Minh, như giáo điểm Minh Châu, Thứ Bảy, rồi cộng đoàn Thứ Chín, rồi giáo điểm Thứ Mười, rồi giáo điểm Rọc Lá và Xẻo Vinh. Khi thấy những nơi đó có những phát triển tốt, tôi đã phân tích các lý do, và sau đó, tôi đã hỏi Chúa: Lý do nào quan trọng nhất để giúp cho các cộng đoàn đức tin có được những phát triển tốt, thực chất, vững bền hôm nay và sau này. Thì Chúa nhấn mạnh trong lòng tôi: Yếu tố hiệp thông. Và đây cũng là điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhắn nhủ.
Trước hết là phải hiệp thông với Đức Kitô. Đức Kitô đã quả quyết điều này: “Thầy là thân cây, các con là cành. Như các cành phải kết hợp gắn bó mật thiết với thân cây thế nào, thì các con cũng phải gắn bó mật thiết với Thầy như vậy. Cành nào kết hợp với thân cây, cành đó sẽ sinh ra được nhiều hoa trái. Các con hãy ở lại trong Thầy và sẽ thấy Thầy giúp chúng con sinh ra nhiều hoa trái thiêng liêng”.
Như vậy là rất rõ, hiệp thông với Đức Kitô là yếu tố rất cần, và sự hiệp thông này phải chặt chẽ, phải mật thiết, phải thường xuyên. Có nghĩa là thường xuyên chúng ta cần phải suy gẫm lời Chúa, thường xuyên chúng ta cần phải ngắm suy đời Chúa, thường xuyên chúng ta cần phải viếng thăm Chúa trong phép Thánh Thể, để cho tâm tình Đức Kitô được chia sẻ sang chúng ta. Chúng ta cần phải đọc lời Chúa, rồi lắng nghe tiếng Chúa nói trong lòng, và nhất là đón nhận tâm tình thao thức của Đức Kitô chia sẻ sang ta, đổi mới lại ta, và giúp cho chúng ta trở thành những dụng cụ và dấu chỉ của Nước Trời.
Tôi thấy ở đây, anh chị em, như vị đại diện cộng đoàn vừa nói, có thói quen năng viếng Mình Thánh Chúa. Đó cũng là một điều tốt để thực thi lời Chúa dạy hôm nay về tinh thần hiệp thông, đặc biệt là hiệp thông với Đức Kitô.
Rồi thêm vào đó cần phải hiệp thông với nhau trong nội bộ Hội Thánh. Mới rồi, cách đây mấy ngày, tôi chủ toạ thánh lễ làm phép nhà nguyện giáo điểm Minh Châu. Trong thánh lễ, tôi nhìn thấy có sự hiện diện của chính quyền địa phương, của những tôn giáo bạn, của những giáo đoàn, của những chùa chiền: Cao Đài có, Phật giáo Khơ-me có, Phật giáo Việt Nam có. Rồi có sự hiện diện của những đoàn thể đại diện từ xa đến, như thành phố Hồ Chí Minh, Phú Cường, Long Xuyên, Cần Thơ vv...
Khi nhìn thấy một hình ảnh hiệp thông mở rộng như vậy, tôi nghĩ đến tình hình hiệp thông trong nội bộ chúng ta, trong kinh này, trong khối Cái Sắn này, trong giáo xứ này. Tôi thấy là sự hiệp thông trong nội bộ cũng đã tốt, nhưng có thể tốt hơn nữa, nếu chúng ta mở tầm nhìn ra, để chúng ta quan tâm nhiều hơn đến những người khác, đến những điểm khác, đến những hoạt động khác. Nhiều khi chúng ta chỉ biết lo quyền lợi nội bộ, cục bộ của mình, mà quên đi bổn phận phải quan tâm đến thành phần khác đang hoạt động cho Nước Trời.
Rồi chúng ta phải hiệp thông một cách đặc biệt với những người nghèo khó, những kẻ khốn cùng, những giáo điểm nghèo, những họ đạo bé nhỏ. Bởi vì đây là địa chỉ mà Đức Kitô sai chúng ta đến, và là những địa chỉ để nhắc nhở cho chúng ta về mầu nhiệm Nhập thể của Đức Kitô. Đức Kitô vì muốn làm chứng cho tình yêu Chúa Cha đối với nhân loại, đã nhập thể vào thân phận những người cùng khốn, những người nghèo túng. Và Người đã hứa: khi chúng ta quan tâm bố thí cho những người nghèo túng, thì Chúa kể như bố thí cho chính Chúa vậy.
Mấy ngày hôm nay, tôi như cảm thấy trong bản thân tôi bị đè nặng bởi khối nặng ưu tư về Hội Thánh Việt Nam, bởi khối nặng những vấn đề khó giải quyết của đất nước Việt Nam, và khối nặng của những mệt mỏi, những yếu đuối bản thân. Trong tình hình như vậy, tôi đã nhận được những sự giúp đỡ khích lệ của những người chung quanh, có cả những người khác đạo, có cả những người nghèo túng, có cả những người không tín ngưỡng. Tôi nhìn thấy trong đó có một sự hiệp thông, giúp cho tôi hiểu hiệp thông phải sống động thế nào. Nó phải cụ thể hoá và phải phát xuất từ một trái tim tế nhị, dạt dào tình người. Có như vậy, thì tình hiệp thông mà Chúa kêu gọi hôm nay mới có thể giúp cho chúng ta xây dựng Nước Trời, giảng về Nước Trời, và nhờ đó, Chúa sẽ ban cho chúng ta được ơn bình an sâu thẳm.
Điều mà tôi nhắc lại hôm nay nhân danh Chúa, là điều chính Đức Kitô đã dạy chúng ta trong bài Phúc Âm: Hãy đi rao giảng về Nước Trời bằng thái độ, bằng đời sống dồi dào tinh thần hiệp thông. Hiệp thông với Đức Kitô, hiệp thông trong nội bộ với nhau và nhất là hiệp thông với những người nghèo khổ. Hãy hiệp thông bằng những việc cụ thể, dù lớn, dù nhỏ, nhưng nhất là phải qua một trái tim tế nhị, một trái tim biết thương, biết cảm, biết rung động như trái tim Chúa Giêsu, mà anh chị em họ đạo đây đã năng cầu xin, như mẫu gương họ đạo.
Xin anh chị em cầu xin Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta, nhất là cho con em chúng ta, khi đi vào tương lai cuộc sống, biết có tinh thân hiệp thông, cởi mở. Thực chất như vậy, thì tương lai của chúng ta, tương lai họ đạo chúng ta sẽ rất bền vững trong ơn bình an của Chúa. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Họ Thánh Tâm, Kinh 3a, ngày 11-07-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Đêm vừa qua, tôi thức dậy lúc 12 giờ rưỡi để chuẩn bị cho chuyến đi Thêm sức hôm nay. Đầu tiên tôi đã nói với Đức Mẹ: Hôm nay là thứ bảy, một ngày riêng cho những người có lòng tôn sùng Mẹ. Hôm nay cũng là ngày 13, một ngày riêng của những người có lòng tôn kính Đức Mẹ, hay nhắc nhớ đến chuỗi ngày 13, Mẹ đã hiện ra ở Fatima. Và chính hôm nay, thứ bảy, 13, con đi làm lễ Thêm sức cho họ đạo, một họ đạo đã nhận Đức Mẹ với tước hiệu Vô Nhiễm làm quan thầy. Xin Đức Mẹ cầu bầu cho họ đạo Vô Nhiễm này.
Thế rồi bên Đức Mẹ, tôi đã mở sách Phúc Âm ra đọc và suy gẫm, đến câu Chúa Giêsu nói: “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt thế gian, thì Thầy cũng sẽ tuyên xưng người đó trước mặt Cha Thầy ở trên trời”, tôi cảm thấy trong mình tôi có một sự thôi thúc do Đức Mẹ hướng dẫn, để chia sẻ lại với anh chị em những gì vang vọng lại trong tâm hồn tôi lúc đó. Và giờ đây, tôi xin vắn tắt chia sẻ.
Tôi vẫn nhìn Đức Kitô là Đấng Cứu độ giàu lòng thương xót. Tôi tin như vậy. Tôi đã nhìn thấy đúng như vậy. Tôi đã có cảm nghiệm như vậy. Tôi xác tín như vậy, nên tôi thường tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ giàu lòng thương xót. Nếu anh chị em theo dõi những bài giảng của tôi đây đó, anh chị em sẽ nhận thấy luôn luôn tôi tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ giàu lòng thương xót. Nhưng có ba cách này tôi thường làm để tuyên xưng điều tôi xác tín.
Việc thứ nhất tôi làm để tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ, đó là gặp gỡ Đức Kitô trong thánh lễ. Chẳng hạn bây giờ đây, trong giờ dâng lễ, chúng ta cần phải nhìn thẳng vào Đức Kitô là Đấng Cứu độ. Chúng ta khao khát gặp Ngài. Chúng ta cần đến Ngài như những người bệnh, như những người yếu đuối cần đến thầy thuốc. Chúng ta chờ đợi Ngài, chúng ta khẩn khoản xin Ngài vào lòng chúng ta. Và muốn được như vậy, trước lễ, chúng ta cần phải cầm lòng cầm trí, giục lòng ăn năn tội, giục lòng tin cậy mến và xác tín rằng: Giờ đây tôi đi gặp một Đấng là Đấng Cứu độ tôi, trọng hơn Đức Cha bội phần, trọng hơn Đức Giáo Hoàng bội phần, nên tôi cố gắng chuẩn bị để gặp gỡ Đức Kitô là Đấng Cứu độ.
Rồi trong thánh lễ, cần phải giữ tâm hồn thinh lặng, nghiêm trang, sốt sắng và phải làm sao xua đuổi ra ngoài những gì chia trí, những gì không thuộc về Đức Kitô. Dự lễ như vậy là một cách tuyên xưng đức tin. Nếu bây giờ có những người không có đức tin thấy anh chị em dự lễ, thấy chúng tôi dâng lễ một cách sốt sắng, thì người ta sẽ thấy chúng ta tuyên xưng Đức Kitô. Bằng không, người ta sẽ chỉ cho chúng ta là làm lễ bề ngoài như là một lễ hội cho vui thôi, chẳng có tuyên xưng gì cả, chẳng có tin gì cả. Chỉ là dấu bề ngoài nông nổi hời hợt, không có bề trong. Cho nên việc thứ nhất tôi thường dùng để tuyên xưng Đức Kitô là phượng tự thánh lễ. Phải sốt sắng, phải trang nghiêm, phải tề chỉnh, phải để ý đến từng lời nói, phải để ý đến từng bước đi, từng cưœ chỉ, để cho người ngoài thấy tôi tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ đang ở trước mặt tôi, đang đến với tôi. Tôi cần đến Ngài, tôi muốn Ngài đến để chữa linh hồn tôi.
Việc thứ hai tôi thường dùng để tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ, đó là đọc Phúc Âm, suy gẫm Phúc Âm, học hỏi Phúc Âm. Tôi thấy ở một vài nơi, có những nhóm giáo dân quen tụ họp lại để đọc Phúc Âm, để chia sẻ Phúc Âm, để suy gẫm Phúc Âm. Và kết quả là những nhóm đó đã đi sâu vào đức tin, lời Chúa thấm vào trong tâm hồn họ. Và khi có ánh sáng của Chúa Thánh Linh mở lòng ra, chúng ta sẽ thấy lời Chúa chính là lời ban sự sống, chính là lời ban ánh sáng làm cho chúng ta nhìn thấy thực trạng tâm hồn chúng ta, làm cho chúng ta thấy ý nghĩa của những thánh giá chúng ta vác hàng ngày, làm cho chúng ta cảm thấy bất cứ sự gì chúng ta làm, chúng ta chịu vì danh Chúa đều có giá cứu chuộc, đều có giá thánh hoá cả.
Vì thế, việc suy gẫm Lời Chúa chính là cách chúng ta tuyên xưng Đức Kitô. Chúng ta tin vào Đức Kitô, chúng ta đi theo Đức Kitô, chúng ta ăn uống ánh sáng và lương thực của lời Đức Kitô. Hãy tuyên xưng Đức Kitô bằng cách đó. Nếu anh chị em chưa làm việc đó, anh chị em hãy làm đi. Rồi sẽ cảm thấy một sự ngọt ngào dịu dàng do Lời Chúa lan toả trong hồn ta, vừa soi sáng, vừa uốn nắn, vừa thanh luyện, vừa thánh hoá.
Việc thứ ba tôi thường dùng để tuyên xưng Đức Kitô là thực thi bác ái phục vụ. Cách đây hai ngày, tôi có đi thăm mục vụ những giáo điểm nhỏ ở vùng U Minh thượng, trong các Miệt Thứ. Tôi nhận thấy rằng ở đó, giữa lương dân, cách tuyên xưng Đức Kitô hiệu nghiệm nhất chính là thực thi bác ái phục vụ. Người ta không để ý đến thánh lễ, người ta cũng chẳng hiểu giáo lý. Nhưng khi người ta nhìn thấy người công giáo, cộng đoàn công giáo sống bác ái, có tinh thần liên đới, có tinh thần cảm thông, có tinh thần kính trọng nhau, có tinh thần bao dung phục vụ, thì người ta hiểu Đức Kitô là Đấng Cứu độ. Và người ta mới hiểu tại sao Đức Kitô nằm trong hang đá Bêlem, người ta mới hiểu tại sao Đức Kitô chịu đóng đinh trên thánh giá. Chỉ có bác ái phục vụ mới cắt nghĩa được những mầu nhiệm đó. Cho nên phải sống bác ái phục vụ để tuyên xưng Đức Kitô Đấng chúng ta tôn thờ.
Tôi vừa chia sẻ vắn tắt nhưng rất rõ ràng ba cách để chúng ta tuyên xưng Đức Kitô, bởi vì trong Phúc Âm hôm nay Chúa hứa: “Ai tuyên xưng Thầy thì sẽ được Thầy tuyên xưng trước mặt Cha Thầy”. Chúng ta tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ, thứ nhất bằng cách chúng ta tham gia thánh lễ một cách sốt sắng, hết lòng khiêm tốn tin tưởng. Thứ hai bằng cách chúng ta năng đọc Sách Thánh suy gẫm Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa với ánh sáng Chúa Thánh Linh. Thứ ba bằng cách chúng ta thực thi bác ái phục vụ.
Thời buổi bây giờ là thời buổi thông tin bùng nổ. Người ta chỉ hiểu được các chân lý qua những hình ảnh thấy được, qua những gì nghe được. Cho nên trong thời buổi này, để chuẩn bị giáo dục cho con em chúng ta, chúng ta phải huấn luyện đức tin và tuyên xưng Đức Kitô không phải bằng những lý thuyết suông, mà bằng những hình ảnh mà con em chúng ta nhìn thấy được.
Chẳng hạn như thánh lễ bây giờ, nếu các em nhìn thấy thánh lễ được tổ chức trang nghiêm sốt sắng, các em sẽ giữ được một ấn tượng rất mạnh rất lâu về sự gặp gỡ Đức Kitô trong ngày lễ Thêm sức.
Và nếu các em nhận thấy những bài đọc thánh lễ hôm nay do những người có đức tin đọc lên một cách có hồn như là gặp gỡ Đức Kitô, thì các em sẽ giữ được ấn tượng đó. Một ấn tượng có sức giúp cho các em tuyên xưng Đức Kitô trong một thế giới tục hoá.
Và nếu hôm nay các em về nhà, trong xóm ngõ, nhìn thấy cha mẹ mình, những người lớn sống bác ái thuận hoà, phục vụ cho nhau, thì các em sẽ học được hình ảnh tuyên xưng Đức Kitô trong xã hội hôm nay.
Phải có hình ảnh, qua hình ảnh để có thể tuyên xưng Đức Kitô. Tuyên xưng Đức Kitô bằng hình ảnh sống động bản thân của mình, bằng thánh lễ sốt sắng, bằng đọc Lời Chúa sốt sắng, bằng bác ái phục vụ chân tình, đó là những hình ảnh tốt đẹp để tuyên xưng Đức Kitô.
Ba đối tượng đó đều có sẵn trước mặt chúng ta, thánh lễ hằng tuần, Kinh Thánh hàng ngày, bác ái phục vụ luôn có dịp. Đó là những cách để huấn luyện đức tin, đó là những dịp để tuyên xưng đức tin, đó là những việc để huấn luyện con em chúng ta.
Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta thấm nhuần được những chân lý đó. Và xin Đức Mẹ Vô Nhiễm giúp cho anh chị em nắm bắt được ý của Đức Mẹ muốn thông truyền cho anh chị em trong thánh lễ đặc biệt này. Để anh chị em bây giờ đây, vâng lời Đức Kitô ra giữa xã hội, tuyên xưng Đức Kitô bằng chính bản thân của mình, với phong cách của một người tin vào Đức Kitô, một người đã nhìn thấy Đức Kitô, một người đã gặp gỡ Đức Kitô là Đấng Cứu độ giàu lòng thương xót. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Giáo Họ Vô Nhiễm Kinh 1a, ngày 13-07-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy Đức Kitô có một số thái độ đạo đức rất đặc biệt:
Một là thái độ khiêm tốn, ở chỗ khi Đức Kitô chữa lành các bệnh nhân, Ngài đã cấm họ đừng nói với ai việc lành Ngài đã làm cho họ.
Hai là thái độ đằm thắm, ở chỗ Đức Kitô giữ thái độ bình tĩnh, không ồn ào, không tranh cãi; đang khi những người biệt phái tìm mưu hại Ngài và cố sức tranh cãi lý luận để giành phần thắng về cho mình.
Ba là thái độ dấn thân bác ái, ở chỗ Đức Kitô đi tìm những bệnh nhân, những tội nhân. Ngài có một thái độ tế nhị với họ, kiên trì với họ, giống như thái độ một người không nỡ tắt một tim đèn còn cháy, hoặc bẻ gãy một cây sậy đã giập.
Với ba thái độ trên đây cùng với nhiều thái độ đạo đức khác, Đức Kitô đã muốn đổi mới cách sống đạo thời đó, một cách sống đạo quen thói phô trương, quen thói tranh cãi ầm ĩ, quen thói ích kỶ không muốn dấn thân làm việc bác ái. Khi suy nghĩ về cách Đức Kitô đổi mới thái độ sống đạo ở đó, tôi nghĩ rằng một sự đổi mới như vậy cũng đang cần thiết cho nhiều nơi tại Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Lý do: vì một đàng cách sống đạo cũ thích phô trương, ích kỶ, ồn ào tranh cãi vẫn còn đang mạnh và lan ra một cách có hệ thống ở nhiều nơi, và một đàng khác tôi thấy tâm lý quần chúng Việt Nam bây giờ không chấp nhận cách sống đạo như vậy. Nếu cứ kéo dài cách sống đạo đó, Hội Thánh Việt Nam sẽ mất ảnh hưởng đối với lương dân, và sẽ mất ảnh hưởng ngay cả đối với nhiều thành phần trong đạo nhất là đối với giới trẻ. Chúng ta thấy bây giờ đây, cái gì cũng cần đổi mới, phương chi cách sống đạo, cần phải noi gương Đức Kitô, tìm ra điểm nào không nên bảo tồn để mà sửa lại.
Tối hôm qua, đài truyền hình Việt Nam có trình chiếu một số hình ảnh có tính cách đổi mới con người một cách thành công ở nhiều nơi trên đất nước này. Thí dụ hình ảnh những em bụi đời được giúp đỡ, nay đang trở thành người tốt; và thí dụ những người mù khi được giúp đỡ, đang trở thành những người tài, có ảnh hưởng; và thí dụ những người nghiện thuốc phiện, xì ke ma tuý, khi được giúp đỡ, đang trở thành những người có thể góp phần tích cực vào việc xây dựng gia đình, xã hội.
Những hình ảnh như đã trình chiếu tối hôm qua, thiết tưởng đã gây được ấn tượng tốt nơi từng chục triệu người Việt Nam khắp nước. Và người ta bây giờ thường căn cứ vào sự đổi mới như vậy để đánh giá tôn giáo, để đánh giá các tổ chức, để đánh giá các cá nhân. Nếu một tôn giáo nào, một tổ chức nào, một cá nhân nào cho dù có đức tin mạnh đến đâu, đi lễ đọc kinh siêng đến đâu, nhưng không có việc làm cụ thể đổi mới con người nên tốt hơn, nên hoàn thiện hơn, thì người ta cho là không có lợi, không có ích, không đủ tin tưởng. Vì thế tôi rất mừng là khi tới đây, tôi thấy anh chị em đã nhận thức được điều cần phải đổi mới.
Trong bài chào mừng lúc nãy, ông đại diện giáo xứ đã nêu lên những khuyết điểm trong họ đạo, và nhìn nhận những khuyết điểm đó một cách khiêm tốn chân thành. Không những nhìn nhận một cách khiêm tốn bằng lời nói, mà cũng đã sống khiêm tốn chân thành ngay trong đời sống. Tôi thấy điều đó nơi cha sở của anh chị em và nơi chính anh chị em. Chân thành khiêm tốn, đó chính là những điều đổi mới trong cách sống đạo hôm nay.
Còn cần một điều nữa mà Đức Kitô đã làm gương hôm nay, đó là diễn tả đức tin ra đức ái phục vụ. Tôi rất mừng là hiện nay trong giáo phận nhà, nhiều nơi đang tổ chức những cuộc huấn luyện hội đồng giáo xứ, giáo lý viên theo chiều hướng đổi mới đó. Chiều hướng đổi mới đó là kết hợp mật thiết với Đức Kitô. Ngài đã dạy thế nào thì mình theo như vậy. Ngài đã sống thế nào thì mình sống như vậy. Ngài đã làm thế nào thì mình làm như thế. Cũng như trong bài Phúc Âm hôm nay, Ngài nêu gương khiêm nhường, Ngài nêu gương đằm thắm, Ngài nêu gương dấn thân bác ái, thì mình như cành cây gắn vào thân cây là Đức Kitô cũng sẽ làm như vậy. Muốn được như vậy chúng ta cần phải có một chương trình đào tạo nội tâm: Năng suy gẫm lời Đức Kitô, năng chiêm ngắm gương Đức Kitô, năng cầu nguyện xin Thánh Linh của Đức Kitô giúp cho chúng ta đổi mới chúng ta.
Lúc nãy khi cùng với anh chị em bước vào nhà thờ, nghe cộng đoàn hát bài “Thắp sáng lên”, tôi đã nói với Chúa rằng: Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa nói về cây đèn còn mờ sáng nhưng Chúa không nỡ tắt đi. Con cũng chỉ là một cây đèn còn mờ sáng, xin Chúa đừng tắt đi. Xin thương thắp sáng lên. Chỉ có Chúa mới thắp sáng được lòng chúng con do tình yêu của Chúa, do mầu nhiệm thánh giá của Chúa, do Thánh Linh của Chúa.
Tôi cầu nguyện như vậy cho tôi, cho anh chị em. Và tôi tin rằng, nếu chúng ta thành tâm khiêm tốn cầu nguyện nhận mình yếu đuối, nhận mình khô khan tội lỗi, và chỉ trông chờ vào tình yêu Chúa, một tình yêu đã được chứng minh bằng thánh giá, thì thế nào Chúa cũng sẽ cứu chúng ta, thế nào Chúa cũng sẽ thánh hoá chúng ta, và thế nào Chúa cũng sẽ làm cho đức tin của chúng ta được sâu, được phiên dịch ra đời sống hằng ngày bằng những nét mà Đức Kitô đã nêu ra trong bài Phúc Âm hôm nay. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Giáo Xứ Đồng Công, Kinh F2, ngày 20-07-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Từ sáng sớm hôm qua cho đến sáng hôm nay, tôi đã gặp nhiều chuyện khiến tôi không vui. Chẳng hạn như sáng hôm qua trên đường từ Long Xuyên đến Châu Đốc, rồi từ Châu Đốc đến Tân Châu, tôi thấy bà con nông dân đã phơi lúa một cách rất vất vả. Có những mớ lúa đã đen, đã mọc mộng. Rồi như chuyện ở Tân Châu sáng hôm qua, tôi nghe nói tại đó giá lúa xuống mười tám ngàn một giạ. Rồi như chuyện sáng hôm qua tại bệnh viện Tân Châu, tôi nhìn thấy cha sở 82 tuổi nằm trên một cái giường khó nghèo, với những cơn đau đớn để dọn mình ra đi. Rồi như chuyện trưa hôm qua tôi được tin, cha sở Martinô 82 tuổi đó đã qua đời. Rồi như chuyện từ hôm qua đến bây giờ mưa vẫn tiếp tục, làm cho chúng ta phải ướt át lầy lội. Rồi như chuyện tôi cảm thấy trong mình sức khoẻ suy yếu, mệt mỏi, căng thẳng.
Tất cả những câu chuyện như vậy trong một ngày khiến tôi không vui. Nhưng khi đến họ đạo này, khi đến gặp anh chị em, tôi cảm thấy vui và những nỗi buồn của tôi được vơi đi. Nhất là vì tôi nhận thấy xứ đạo anh chị em đã có nhiều phát triển về nhiều mặt khác nhau. Nếu muốn nói theo kiểu Đức Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay, thì tôi sẽ nói rằng: Giáo xứ của anh chị em là một thửa ruộng tốt. Có hạt thêm được một trăm, có hạt thêm được ba mươi, có hạt thêm được sáu mươi. Nói chung là tất cả mọi người trong xứ đạo đều đã có nhiều phát triển. Phát triển là vấn đề thời sự nhất hiện nay. Tôi nghĩ phát triển là một đòi hỏi chính đáng của cuộc sống hôm nay. Và tôi xác tín rằng: Phát triển cũng là một điều kiện của cuộc sống đức tin hôm nay. Nhưng phải phát triển thế nào để có thể gọi được là phát triển tốt ? Đó là một vấn đề tôi muốn chia sẻ vắn tắt với anh chị em trong lễ hôm nay.
Theo như quan điểm của những người chuyên môn về phát triển, thì một phát triển tốt bao giờ cũng phải có những điều kiện sau đây:
Điều kiện thứ nhất là các mặt phát triển cần phải cân đối. Có nghĩa là nếu chúng ta phát triển về mặt kinh tế, thì chúng ta cũng đừng quên phát triển về mặt văn hoá, về mặt đạo đức vv... Nếu chúng ta để ý về vấn đề phát triển sức khoẻ thân xác, chúng ta cũng đừng quên phát triển về sức khoẻ linh hồn. Nếu chúng ta để ý phát triển lương thực nuôi dưỡng phần xác, thì chúng ta cũng đừng quên phát triển lương thực nuôi dưỡng tinh thần, và nhất là linh hồn chúng ta. Về điểm này, tôi thấy có những người, có những nơi đã biết phát triển tương đối cân đối. Nhưng trái lại, cũng có những người, cũng có những nơi đã phát triển nhưng không cân đối. Chỉ để ý đến phát triển về mặt vật chất mà quên phát triển về mặt tinh thần, hoặc là phát triển về mặt trí thức văn học mà quên phát triển về mặt tâm linh.
Điều kiện thứ hai là thời gian phát triển càng mau càng tốt. Có nghĩa là trong thời kỳ cạnh tranh, trong thời kỳ đầy biến chuyển, nếu chúng ta trì trệ, nếu chúng ta không linh hoạt, thì vấn đề phát triển của chúng ta sẽ quá chậm, thua kém và tụt hậu. Về điểm này tôi nhận thấy nhiều cá nhân, nhiều họ đạo với một thời gian rất vắn, nhưng đã phát triển tốt. Trái lại có những người, có những họ đạo qua một thời gian rất dài, đã phát triển rất chậm. Đó cũng là một điều cần phải để ý.
Điều kiện thứ ba là vốn liếng để phát triển càng ít càng tốt. Về điểm này, tôi thấy có những người, những họ đạo, những cộng đoàn chỉ dùng một số vốn rất ít, nhưng đã đạt được những thành công lớn về công trình vật chất, về công trình giáo dục đào tạo. Đang khi đó, nhiều cộng đoàn, nhiều người có những vốn lớn, nhưng lại không phát triển được những kết quả đẹp. Giáo dục đào tạo quá thấp, những công trình vật chất tuy có được xây dựng nhưng thiếu nghiên cứu.
Điều kiện thứ bốn là những liên hệ và những mối tương giao do phát triển càng tốt càng nhiều thì càng hay. Về điểm này tôi thấy rằng có những phát triển nhỏ thôi, nhưng mà ảnh hưởng đến nhiều người. Còn trái lại, có những phát triển lớn nhưng chỉ có một số người được hưởng, không ảnh hưởng được đến những người xung quanh, không có ảnh hưởng đến đất nước, không có ảnh hưởng đến vấn đề hiệp thông trong Hội Thánh.
Với bốn điều kiện tôi vừa kể trên đây, mỗi người chúng ta hãy xem xét lại quá trình phát triển của chúng ta trong cá nhân mình, trong họ đạo của mình, trong cộng đoàn của mình, để chúng ta điều chỉnh lại. Làm sao để phát triển của chúng ta có những điều kiện tối thiểu tôi vừa nói, để sự phát triển của chúng ta trở thành những hạt giống tốt mà Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay. Nó sẽ trổ sinh ra nhiều bông trái giúp cho nhiều người, giúp cho nhân loại, giúp cho Hội Thánh.
Hôm qua, khi nhìn thấy một linh mục 82 tuổi hấp hối, tôi nghe như Chúa gọi tôi hãy nghĩ đến sự phát triển những điều căn bản nhất. Hãy đặt mình vào linh mục Martinô đây vài phút nữa sẽ ra đi đến trước toà Chúa, lúc ấy phát triển nào là quan trọng nhất. Và tất nhiên tôi thấy ngay cái phát triển quan trọng nhất mà Chúa sẽ hỏi chúng ta trong giờ phán xét. Đó là phát triển đức tin, phát triển lòng mến, phát triển tự do tâm hồn. Tôi để ý nhiều đến sự tự do tâm hồn, cần làm sao để cho sự tự do tâm hồn chúng ta được phát triển nhiều, đừng vướng mắc, đừng bị tính mê nết xấu điều khiển, đừng bị thành kiến làm cho mình bị chỉ huy bởi những tư tưởng sai trái. Hãy có sự tự do tâm hồn và phát triển sự tự do tâm hồn.
Rồi cần phải phát triển lòng mến, làm sao lòng chúng ta đầy tình mến Chúa, đầy tình yêu thương nhân loại. Đó là những hành trang căn bản nhất mà chúng ta cần phát triển khi chúng ta còn thời giờ, để khi chúng ta ra trước toà Chúa, chúng ta có hy vọng được Chúa chấp nhận. Vì chúng ta đã dùng những hạt giống Chúa ban cho để phát triển, để đi về Nước Trời, để gặp được Thiên Chúa chúng ta.
Trong khi phát triển sự tự do tâm hồn và sự mến Chúa yêu người, chúng ta không tránh được thánh giá, những đau đớn, những sự trái ý. Tất nhiên phải có thôi. Nhưng nếu chúng ta biết nhìn những cái đó với tâm hồn đức tin, thì chúng ta sẽ thấy những thánh giá ấy giúp thanh luyện tâm hồn chúng ta, giúp thổi nóng lên lửa kính mến, và giúp cho chúng ta có được một đức tin chan hoà đức ái, trong sự tự do tâm hồn thanh thản.
Hãy phát triển với những điều kiện quan trọng cần thiết, nhưng ưu tiên hãy biết phát triển đời sống đức tin, đức cậy, đức mến. Nói tắt là đời sống đạo đức, đời sống thánh thiện. Và sự phát triển đó sẽ giúp cho chúng ta gặp được Thiên Chúa không phải trong ngày phán xét, mà chính lúc này, chính bây giờ đây. Ta sẽ thấy Ngài, một Đức Kitô là Đấng Cứu độ mà thánh Phaolô nói: “Tôi thà mất hết mọi sự để được Đức Kitô”, thánh Phaolô nhắm vào sự phát triển tình mến đối với Đức Kitô.
Đó là điều tôi cầu cho anh chị em trong thánh lễ này, và tôi cũng xin anh chị em cầu nguyện điều đó cho con em chúng ta, nhất là trong một tương lai có rất nhiều thử thách về đức tin. Nếu con em chúng ta không phát triển vững, không phát triển mạnh, không phát triển sâu tinh thần tin mến Đức Kitô, thì tôi sợ sẽ đổ vỡ hết. Tất cả rồi sẽ phù du, rồi sẽ tan tành, nếu chúng ta không bám vào Đức Kitô thật sâu, thật mạnh và luôn luôn phát triển theo chiều hướng đó.
Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta sống những tư tưởng mà Ngài vừa truyền đạt cho chúng ta. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Giáo Xứ Thánh Gia, Kinh 7a, ngày 24-7-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Sáng hôm qua, 23-07-96, khi vừa nghe tin Cha Martinô đau nặng, tôi đã vội lên Tân Châu thăm ngài. Tôi thấy ngài rất yếu, nhưng rất tỉnh. Khi từ giã ngài, tôi nghe ngài nói phều phào: “Xin Đức Cha cầu nguyện cho con”. Tôi không ngờ đó là lời cuối cùng ngài gửi lại tôi. Bởi vì khi tôi vừa về tới Long Xuyên, thì được tin ngài đã qua đời.
Khi cầu nguyện cho Cha Martinô, tôi đã mở Sách Thánh ra và đọc bài Phúc Âm ngày hôm nay (Thứ tư, tuần XVI TN: Mt 13, 1-9). Trong bài Phúc Âm này, Chúa Giêsu nói về người gieo lúa. Nhiều hạt đã mọc lên cây, trổ bông, mang lại mùa màng tốt.
Đọc xong, tôi tự hỏi: Còn hạt lúa giống tốt là Cha Martinô đây thì sao ? Tôi thoáng nhìn lại con người của ngài, và tôi đã hỏi Chúa. Câu trả lời đã hiện lên trong lương tâm tôi bằng một cảm tưởng rất tốt.
Tôi thấy chính Cha là một hạt giống tốt, và chính Cha đã góp phần không nhỏ vào việc làm cho các họ đạo của Cha trở thành những thửa ruộng tốt.
Thực vậy, Cha Martinô có nhiều đức tính tốt, trong đó ba đức tính sau đây thường được tôi học hỏi bắt chước.
Đức tính thứ nhất là sự gắn bó mật thiết của Cha với họ đạo. Cha coi họ đạo như một gia đình mà Cha có bổn phận phải gắn bó. Sự gắn bó này được thực hiện không những về mặt tình cảm đằm thắm, và về mặt chăm sóc chu đáo, mà còn về mặt chia sẻ cuộc sống. Tôi nghĩ rằng trong nhiều trường hợp, Cha có quyền tạm bỏ họ đạo để đi nghỉ ít ngày, nhưng Cha thường hy sinh, ở lại họ đạo, sống gần giáo dân, để phục vụ như người cha, người mẹ. Tôi nghĩ rằng với tuổi cao sức yếu, Cha có quyền ở trong một nhà xứ khang trang cao ráo, đầy đủ tiện nghi, nhưng Cha đã vui lòng ở trong một căn nhà đơn sơ khó nghèo. Sự gắn bó của Cha với họ đạo, với dân nghèo là một gương sáng đáng ca ngợi.
Đức tính thứ hai là sự kính trọng của Cha đối với những người ngoài công giáo. Nhiều lần, Cha đã tâm sự với tôi về những người tốt ngoài công giáo, về những thói quen tốt của nhiều gia đình không công giáo. Nghe Cha kể lại, tôi có cảm tưởng là Cha được ơn Chúa ban để nhìn thấy Chúa trong mọi sự, để nhìn thấy dấu chỉ của Nước Trời ở nhiều nơi rộng khắp, để nhìn thấy phần rỗi được trao ban cho nhiều người thiện chí tuy dù không chịu phép Rửa tội, nhưng được liên kết với Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế, một cách nào đó. Tôi cũng có cảm tưởng là Cha được ơn riêng, để nhìn thấy Thiên Chúa là Tình yêu cứu độ luôn kiên nhẫn đợi chờ những người con đi xa, và đón nhận chúng trở về. Đức tính như vậy thực đáng khâm phục.
Đức tính thứ ba là sự khiêm tốn của Cha đối với bề trên và đối với anh em linh mục. Tôi thấy điểm này nơi Cha càng ngày càng tiến hơn, càng rõ hơn. Không nhận mình là có công đức hơn anh em, không chê trách bề trên và anh em, không trốn tránh những gì bề trên và anh em nhờ vả. Trái lại luôn tỏ ra sẵn sàng chia sẻ gánh nặng với bề trên và với anh em một cách âm thầm quảng đại. Nguyên những thái độ như thế cũng đủ để chứng tỏ Cha là con người hiệp thông.
Nhìn ba đức tính trên đây của Cha Martinô, tôi nhớ tới lời Chúa Giêsu dạy: “Thầy là cây nho, các con là ngành. Ngành nào kết hợp cùng cây sẽ sinh nhiều hoa trái.” Đúng là Cha Martinô đã biết kết hợp với Chúa Giêsu, nên Cha đã để lại cho chúng ta những kết quả tốt, những gương sáng đẹp.
Trong thánh lễ này, chúng ta tạ ơn Chúa vì những thành quả tốt Chúa đã ban cho ngài và qua ngài Chúa đã ban cho các họ đạo. Chúng ta xin ngài cầu nguyện cho chúng ta. Tất nhiên chúng ta cũng nài xin Chúa ban cho ngài được ơn mau về hưởng phúc thiên đàng, nếu ngài còn phải thanh luyện.
Lễ An Táng Cha Martinô Nguyễn Ngọc Thạch, tại nhà thờ Tân Châu, ngày 24-07-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu gợi ý đến Nước Trời. Ngài đưa ra hình ảnh người chủ biết lợi dụng những cái mới và những cái cũ trong kho tàng của mình.
Kho tàng của tôi, lúc này trước mắt tôi, là chính anh chị em. Trong kho tàng cụ thể này có nhiều cái tốt, cũ và mới. Trong những cái tốt cũ mới đó, tôi để ý nhất đến 3 giá trị này: một là đức tin, hai là ý chí phát triển, ba là bản sắc văn hoá dân tộc. Tôi thấy 3 giá trị đó là 3 vốn quí đang giúp anh chị em rất nhiều trong hành trình cuộc sống. Thánh lễ hôm nay là một bằng chứng hùng hồn. Nhìn thánh lễ này, mọi người sẽ nhận thấy tính cộng đồng, đặc trưng của nông thôn Việt Nam, dung hợp cách hài hoà một đức tin trẻ trung, một ý chí phát triển mạnh và một bản sắc văn hoá dân tộc đẹp.
Với tư cách người mục tử được sai đi chia sẻ Tin Mừng, tôi nhìn thấy một vấn đề cần được suy nghĩ sâu và thực thi khéo, đó là vấn đề đức tin với phát triển và với bản sắc văn hoá dân tộc.
Theo tôi, đức tin chủ yếu là đơn giản. Đức tin là một ân huệ Chúa ban, để chúng ta gắn bó với Thiên Chúa. Thiên Chúa là ai? Thưa “Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để mọi người tin vào Ngài sẽ không phải hư mất, nhưng sẽ được sự sống đời đời” (Ga 3, 16).
Như vậy, thế gian là đối tượng tôi phải yêu thương, như Chúa đã yêu thương. Tin Chúa thì phải chia sẻ tình yêu thương của Chúa dành cho thế gian. Cụ thể, thế gian là nhân loại. Và gần gũi, thế gian là đồng bào, là địa phương, là gia đình của chúng ta.
Càng gắn bó với Chúa, chúng ta càng phải cộng tác với Chúa trong việc yêu thương quê hương một cách có hiệu quả, cho cuộc sống đời này và cho cuộc sống đời sau.
Khi thấy phát triển và bản sắc văn hoá dân tộc là những yếu tố chính đáng để thăng tiến con người và cuộc sống, chúng ta phải biết trọng dụng những yếu tố đó. Có nghĩa là đức tin của chúng ta cần được phiên dịch ra bác ái, gắn liền với những việc cụ thể phát triển con người và với phong cách của nền văn hoá dân tộc. Phải biết khôn khéo dùng hai yếu tố đó trong việc tuyên xưng đức tin, trong việc cử hành đức tin, trong việc làm chứng cho đức tin, trong việc chia sẻ đức tin. Như thế, đức tin mới dễ được đón nhận như một Tin Mừng.
Thiết tưởng, đây là một cách sống đạo và truyền đạo hợp với Phúc Âm, hợp với Công đồng Vatican II, hợp với tân phúc âm hoá của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, hợp với đường hướng mục vụ của các Hội đồng Giám mục Á Châu và Việt Nam. Tôi mong rằng: Thánh lễ hôm nay, với vài hình ảnh tượng trưng gợi ý, sẽ là một kỶ niệm thân thương gửi tới Đức Cha Franz Kamfaus, Chủ tịch Misereor và phái đoàn theo Ngài, thuộc Giáo Hội Cộng Hoà Liên Bang Đức, đang hiện diện hiệp thông trong thánh lễ này.
Thánh Lễ Chúa Nhật 17 Thường Niên, tại nhà thờ Cần Đăng, ngày 28-07-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về thửa ruộng có lúa tốt nhưng đồng thời cũng có cỏ xấu. Đọc xong, tôi nhìn vào bản thân tôi. Tôi thấy chính tôi là thửa ruộng như thế. Trong thửa ruộng này, tôi nhận thấy cỏ nhiều hơn lúa. Tôi coi đó là một thực tế đúng, nhưng chưa hẳn là hoàn toàn đúng, bởi vì rất có thể những cái tôi cho là lúa, thì trước mặt Chúa, lại là cỏ xấu.
Khám phá trên đây làm tôi lo sợ. Tôi đọc lại bài Phúc Âm một lần nữa. Một câu đã giúp cho tôi bớt sợ. Câu đó là: “Kẻ gieo giống tốt là Con Người”. Đây là Con Người viết hoa, có nghĩa là chính Chúa Giêsu Kitô.
Nhìn lên Chúa Giêsu Kitô, tôi nhớ lại lời Ngài đã nói: “Thầy đến, không phải cho những người công chính, nhưng cho những người tội lỗi”. Tôi cũng nhớ lại lời thánh Gioan Tiền Hô đã giới thiệu Đức Kitô “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”. Và thoáng nhìn lại đời mình, tôi nhớ lại biết bao lần Đức Kitô đã gánh tội cho tôi, đã đền tội cho tôi, đã tha tội cho tôi, đã xoá tội cho tôi, đã cứu tôi khỏi tội.
Những kinh nghiệm như thế và những lời Chúa như thế đã gieo vào lòng tôi những cái nhìn sống động về Đức Kitô. Tôi nhìn thấy dung mạo Ngài là dung mạo một Đấng Cứu thế. Tôi đọc thấy tên Ngài là Đấng Cứu thế. Tôi nhận ra sứ mạng của Ngài là được Chúa Cha sai vào thế gian để cứu thế. Tôi nhìn thấy địa chỉ ưu tiên mà Ngài được sai đến là những kẻ cần được cứu chuộc, đó là những kẻ yếu đuối, tội lỗi.
Những cái nhìn sống động trên đây đã thúc giục tôi đứng vào hàng ngũ những kẻ yếu đuối, tội lỗi. Chính tại vị trí này, tôi đã gặp được Đức Kitô. Ngài đến, để cứu tôi, để ban cho tôi sự sống, một sự sống dồi dào. Ngài đến, để chia sẻ cho tôi tình yêu, một tình yêu tràn đầy xót thương và tha thứ. Tôi nhận thấy quyền năng của Ngài được tỏ lộ một cách thuyết phục qua tình xót thương và tha thứ lạ lùng.
Tất cả những biến cố trên đây và tương tự là những hạt giống tốt Chúa gieo vào lòng tôi, giúp cho đức tin của tôi đi về phía trước với hy vọng và bình an.
Những gì tôi vừa kể đã cho tôi hiểu: Tôi cũng như anh chị em được sai đi, để làm gì ? Thưa thiết tưởng, để làm 3 việc sau đây:
Việc thứ nhất là gieo những hạt giống tốt. Những hạt giống tốt là những lời Chúa, những đức tính có tính cách chuẩn bị cho Nước Trời, như tinh thần khiêm nhường, sám hối, tinh thần bác ái phục vụ quên mình, tinh thần bác ái tha thứ bao dung, tinh thần bác ái trọng kính người khác, tinh thần tôn trọng sự thật. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa phán: “Hạt giống tốt là con cái Nước Trời”. ở đây, tôi nhớ đến một câu đầy cảnh giác, mà nhiều tác giả thần học, kinh thánh và tu đức hiện nay hay nói. Câu đó là: “Nhiều người có vẻ như con cái nhiệt thành của Hội Thánh, nhưng lại không là con cái thực sự của Nước Trời”.
Việc thứ hai là quy tụ những kẻ tốt. Theo tôi, những kẻ tốt là vô số kể. Tất cả mọi người đều được dựng nên bởi Thiên Chúa. Tất cả mọi người đều mang hình ảnh của Thiên Chúa. Tất cả mọi người đều được cứu chuộc bởi tình yêu đầy xót thương của Thiên Chúa. Chúa muốn mọi người được rỗi. Chúa không loại trừ ai. Chỉ có những kẻ tự loại trừ mình.
Việc thứ ba là làm chứng về Đức Kitô là Đấng Cứu thế. Đức Kitô là trung tâm điểm của thần học, của tu đức, của mục vụ, của truyền giáo. Chúng ta sẽ không thể làm chứng về Đức Kitô, nếu ngoài việc học hỏi về Đức Kitô, chúng ta không có kinh nghiệm sống động về Ngài, về Thần Linh của Ngài, về Chúa Cha của Ngài.
Hãy làm chứng, hãy quy tụ, hãy gieo vãi trong tinh thần hiệp thông chặt chẽ với Hội Thánh, một Hội Thánh thực sự là dấu chỉ khiêm tốn và là dụng cụ khiêm tốn của Nước Trời.
Nhất là hãy làm chứng, hãy quy tụ, hãy gieo vãi trong sự linh hoạt của Thần Linh Đức Kitô, và trong sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô, Đấng đã hứa: “Thầy là cây nho, các con là ngành. Ngành nào kết hợp với cây sẽ trổ sinh hoa trái”. Amen. Lễ Bế Mạc Khoá Thần Học kỳ hè, dành cho các Nữ Tu TP. HCM, ngày 30-07-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại một chuyện nhỏ, nhưng mang một ý nghĩa lớn.
Chuyện nhỏ đó là: Vào trưa một ngày thứ bảy, các môn đệ Chúa Giêsu đi qua cánh đồng lúa chín. Lúc đó các ngài cảm thấy kiệt sức rã rời, nên đã bứt lúa để ăn cho đỡ đói.
Việc làm này đã bị nhóm người đạo đức biệt phái kết án. Họ dựa trên luật kiêng việc ngày thứ bảy. Theo họ, ngày thứ bảy là ngày hưu lễ, mọi người đều bị cấm làm việc. Dù làm một việc nhỏ, vì bất cứ lý do gì, cũng bị coi là phạm đến ngày hưu lễ.
Thấy vậy, Chúa Giêsu đã lên tiếng bác bỏ quan điểm hẹp hòi của nhóm đạo đức biệt phái. Ngài cho thấy: bứt lúa để ăn lúc quá đói là do một nhu cầu khẩn cấp chính đáng. Người trọng luật chính đáng nên hiểu: luật là để phục vụ con người, giúp con người có tinh thần nhân ái đối với nhau, chứ không phải luật là để sát phạt con người vì mục đích hy lễ dâng kính Chúa. Chúa Giêsu phán: “Tôi muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ”.
Quan điểm trên đây của Chúa Giêsu mang một ý nghĩa lớn. Chính quan điểm này giúp tôi hiểu trường hợp tham gia kháng chiến của các linh mục, mà chúng ta tưởng nhớ hôm nay.
Tôi nghĩ rằng: sự dấn thân của các ngài là một chọn lựa được thúc đẩy bởi những nhu cầu khẩn cấp thiêng liêng. Các ngài đã nhìn thấy những nhu cầu thiêng liêng khẩn cấp trong một tình hình cụ thể. Các ngài thấy nhiều người sẽ bị đói về phần thiêng liêng, nếu thiếu những phục vụ tôn giáo của linh mục. Các ngài thấy nhiều người sẽ bị đói về hạnh phúc tâm hồn, nếu vắng sự hiện diện chứng từ của linh mục. Vì thế các ngài đã đáp ứng. Thiết tưởng việc đáp ứng đó là việc làm nhân ái, hợp với luật cao trọng nhất của Phúc Âm, đó là bác ái phục vụ con người.
Tôi cũng nghĩ rằng: với những dấn thân như thế, các linh mục đáng kính đó đã nêu lên một mô hình sống đức tin, đó là một đức tin sống động thì phải gắn liền với cuộc sống.
Hôm nay tưởng nhớ tới các ngài, tôi xin nhắc cho mọi người tin Chúa một điều quan trọng: Hãy gắn đức tin vào cuộc sống. Trước đây, nhu cầu cuộc sống là kháng chiến, nên vấn đề phải đặt ra là: đức tin và kháng chiến. Hôm nay, nhu cầu cuộc sống là phát triển, nên vấn đề phải đặt ra là: đức tin và phát triển.
Trong cái nhìn đó, đức tin đòi chúng ta phải có những dấn thân mới. Phải phát triển con người, để con người trở nên người hơn, để xã hội được nên tốt đẹp hơn. Muốn được thế, phát triển cần phải cân đối. ở đây, tôi chỉ xin nhấn mạnh đến việc phát triển đạo đức, phát triển giáo dục, phát triển bản sắc dân tộc. Nếu những phát triển này không được thực thiện đúng và đủ, mạnh và mau, thì tôi rất ái ngại cho tương lai đất nước và Hội Thánh Việt Nam.
Trong thánh lễ này, chúng ta nhìn lại quá khứ và cũng nhìn vào hiện tại và nhìn về tương lai. Trong khi cầu nguyện cho các linh mục đã qua đời, chúng ta cũng cầu xin cho đất nước chúng ta được phát triển, nhất là cầu xin cho chính chúng ta được biết sống đức tin một cách tốt đẹp trong một đất nước đang phát triển. Chớ gì đức tin và phát triển sẽ tạo thành một vẻ đẹp mới, một biểu tượng mới cho Hội Thánh Việt Nam, cho từng cộng đoàn tín hữu, cho từng môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay.
An Bình, ngày 03-08-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến vai trò của đức tin. ở đây, tin không chỉ có nghĩa là tin có Chúa, mà nhất là tin vào Chúa, tin vào quyền năng và lòng thương xót Chúa. Tôi vốn tin như vậy, suốt đời, bây giờ và mãi mãi.
Nếu ai hỏi tôi về đức tin của tôi, tôi sẽ trả lời bằng kinh Tin Kính của Hội Thánh. Ngoài ra, tôi cũng có thể trả lời thêm bằng kinh Tin Kính của riêng tôi, một kinh Tin Kính mang tính cách tu đức phục vụ, dựa trên Lời Chúa. Tôi xin chia sẻ một đoạn.
Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa được sai vào thế gian để phục vụ, với thánh giá và phục sinh. Chúa đã nói: “Thầy đến, không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình, để làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Con tin Chúa đã phục vụ với những hy sinh âm thầm như thân phận hạt lúa. Chúa đã nói: “Nếu hạt lúa rơi xuống đất mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi. Nhưng nếu nó thối đi, nó sẽ trổ sinh nhiều bông hạt”.
Con tin Chúa đã phục vụ với những từ bỏ can đảm như dưới hình ảnh người đầy tớ rửa chân cho các môn đệ. Chúa đã nói: “Ai làm lớn giữa anh em, hãy phục vụ như người đầy tớ”.
Con tin Chúa đã phục vụ với những dấn thân đầy thương xót như người Cha đi tìm con lạc. Chúa đã nói: “Thầy đến, không phải cho người công chính, nhưng cho người tội lỗi yếu hèn”.
Con tin Chúa vốn phục vụ một cách tế nhị như kẻ gõ cửa nhẹ nhàng. Chúa đã nói: “Này, Thầy đến gõ cửa. Ai nghe tiếng và mở cửa, thì Thầy sẽ vào và ở lại dùng bữa với họ”.
Con tin Chúa vẫn phục vụ một cách tự hạ khiêm tốn như kẻ đợi chờ được giúp đỡ. Chúa đã nói: “Mỗi khi các con làm ơn làm phước cho một kẻ bé mọn nhất, thì các con làm cho chính Thầy”.
Con tin Chúa vẫn phục vụ một cách kính trọng kiên trì như Chúa đã làm dưới dạng người khách lạ đồng hành với hai môn đệ Chúa trên đường Emmau.
Con tin Chúa vẫn phục vụ được trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, như khi bị đóng đinh trên thánh giá. Chúa đã phục vụ bằng việc thứ tha cho những lý hình, bằng việc hứa nước Thiên đàng cho kẻ trộm ăn năn, bằng việc trao gởi Đức Mẹ cho thánh Gioan.
Con tin Chúa đã muốn: Phục vụ là phải đáp ứng đúng nhu cầu, đúng đối tượng, đúng việc, đúng lúc, đúng cách, hợp thánh ý Chúa. Chúa đã nói: “Cha đói, các con đã cho Cha ăn, Cha khát, các con đã cho Cha uống”.
Lạy Chúa, con tin Chúa đã thương con, đã gọi con và đã sai con đi, để cùng với Chúa phục vụ con người, trên con đường mà thánh giá và phục sinh đan chen vào nhau, hoà lẫn vào nhau.
Con biết rằng: “Tinh thần thì nhanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối, nên con tin vào Chúa một cách trọn vẹn, tuyệt đối. Xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Chúa mọi đàng”.
Trên đây là những niềm tin của riêng tôi. Trong thánh lễ này là lễ Tạ Ơn và Từ Biệt, tôi xin chia sẻ những niềm tin ấy. Hy vọng chia sẻ này có thể được coi như một lễ vật nhỏ hiệp dâng kính Chúa, và cũng sẽ được coi như một món quà nhỏ gởi tặng các chị em dòng Mến Thánh Giá.
Lễ Bế Mạc Khoá Bồi Dưỡng Dòng Mến Thánh Giá Toàn Quốc, tại Toà Tổng Giám Mục TP. HCM, ngày 10-08-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong những năm gần đây, Đức Mẹ đã hiện ra nhiều lần tại nhiều nơi trên thế giới. Trong những lần hiện ra đó, Đức Mẹ đã không nói gì về những vinh quang Chúa đã ban cho Đức Mẹ. Trái lại Đức Mẹ đã tỏ ra buồn phiền. Có lần Đức Mẹ đã khóc.
Sự Đức Mẹ tỏ ra đau buồn đã được Đức Mẹ giải thích. Lý do duy nhất là vì rất nhiều người hiện nay sống chìm trong tội lỗi. Với nước mắt, Đức Mẹ kêu gọi con cái Mẹ khắp nơi hãy sám hối, hãy đổi mới chính mình, hãy trở về sống xứng đáng người con Chúa Cha, theo gương Chúa Giêsu, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Sở dĩ hôm nay, tôi chia sẻ với anh chị em nói chung, và các tu sĩ dòng Thánh Gia nói riêng, những tâm tình buồn của Đức Mẹ, là vì chính Đức Mẹ đã bảo tôi hãy nói lên sự thực đó trong thánh lễ này, để mọi người chúng ta biết thực hiện đúng đắn sự đổi mới mà Đức Mẹ mong muốn.
Muốn đổi mới một cách đúng đắn thì thứ nhất phải có một thiện chí thực và mạnh. Phải muốn đổi mới thực sự từ bên trong tâm hồn. Phải nhất định đổi mới, dù phải từ bỏ tất cả những gì xưa rầy mình gắn bó. Phải dứt khoát đổi mới từ gốc rễ lòng mình, dù gốc rễ đó là những suy nghĩ đã thành nếp, đã được coi như ổn định, không thể đổi thay.
Thứ hai, phải gắn thiện chí đổi mới với hiểu biết đổi mới. Phải hiểu đổi mới là trở về với Đức Kitô và Phúc Âm của Người. Công đồng Vatican II đã xác định rõ hướng đổi mới đó. Đời sống thiêng liêng là một hành trình đi theo Đức Kitô. Tu đức là hợp tác với ơn Chúa, tu luyện mình nên giống Đức Kitô, để sống hiệp thông với Chúa Ba Ngôi, sống liên đới với nhân loại, trong tình yêu thương vị tha chân thành.
Thứ ba, phải gắn liền thiện chí đổi mới và hiểu biết đổi mới với khôn ngoan đổi mới. Nghĩa là phải đổi mới một cách khôn ngoan. Sự khôn ngoan Phúc Âm là diễn tả tình yêu của Thiên Chúa qua đời sống phục vụ theo gương Đức Kitô. Một phục vụ đúng Phúc Âm là biết đáp ứng đúng nhu cầu chính đáng của con người, bằng đúng việc, vào đúng lúc, với đúng cách, nhằm đúng đối tượng, hợp thánh ý Chúa. Nhu cầu hiện nay của đồng bào ta là phát triển con người và đời sống. Trong phát triển con người và đời sống, chiều kích tâm linh đóng một vai trò rất quan trọng. Những người tin theo Đức Kitô, nhất là những người tu, cần phải diễn tả chiều kích tâm linh đó một cách khôn ngoan trong các hình thức phục vụ của mình.
Sự lựa chọn một chiều kích tâm linh trong đổi mới là điều không dễ được mọi người nhất trí. Khi Chúa Giêsu cho các môn đệ biết Ngài sẽ phải chịu nạn chịu chết một cách nhục nhã, sẽ phải từ bỏ hết, kể cả sự sống, để phục vụ phần rỗi các linh hồn theo thánh ý Chúa Cha, thì các môn đệ đã phản ứng bằng thái độ không đồng tình. Chính Thánh Phêrô đã lên tiếng can ngăn Chúa Giêsu. Khi thánh Phanxicô khó khăn trong ý định đổi mới Hội Thánh, đã chọn lựa một chiều kích tâm linh mới là từ bỏ hết, là sống khó nghèo tuyệt đối theo gương Đức Kitô, thì hầu như mọi người đều chống đối ngài, kể cả những người đạo đức. Những chuyện trên đây chứng tỏ điều này: Sự khôn ngoan Phúc Âm không phải là những lựa chọn hợp theo ý đám đông, mà là những lựa chọn theo ý Chúa, được hướng dẫn bởi ơn Chúa Thánh Thần, mặc dù những lựa chọn đó nhiều khi đơn độc và bị chê trách. Trường hợp thánh Phaolô tông đồ cũng nói lên điều đó. Ngài đã bị coi là kẻ điên rồ, ngu dại, vì ngài đã chọn lối sống từ bỏ, để rao giảng về Đức Kitô chịu đóng đinh trên thánh giá.
Càng ngày con người tu càng được đánh giá theo tiêu chuẩn mô hình Đức Kitô ở nét phục vụ một cách khiêm nhường, yêu thương vị tha và khôn ngoan, với chiều kích tâm linh cao, biết kính trọng sự thực, kính trọng con người, thăng tiến con người, đáp ứng đúng nhu cầu Phúc Âm tại địa phương mình ở, đúng theo vai trò ơn gọi riêng của mình.
Tôi nghĩ rằng: Đổi mới chính mình và cộng đoàn của mình theo hướng gợi ý như trên chính là điều Đức Mẹ muốn.
Chúng ta tạ ơn Chúa về những gì chúng ta đã đổi mới được theo hướng đó. Chúng ta xin Chúa tha thứ cho chúng ta, về sự chúng ta không chịu đổi mới, và về những gì chúng ta đã đổi mới không đúng ý Chúa. Chúng ta xin Chúa, vì lời cầu bầu của Đức Mẹ, ban cho chúng ta được ơn đổi mới, để Đức Mẹ được vui hơn vì con cái Mẹ. Amen.
Lễ Khấn Dòng, tại Tu Viện Thánh Gia, Cần Xay, ngày 15-08-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Họ đạo Trái Tim là một họ đạo nghèo. Nghèo đã từ rất xưa. Nghèo cho đến bây giờ. Như thể nghèo là một đặc điểm của họ đạo.
Trước cảnh nghèo, tôi không chê trách, chỉ cảm thương thôi. Có người đã nói: Nghèo thì khó giữ đạo. Tôi thấy nói vậy là quá đáng. Anh chị em nghèo, nhưng giữ đạo tương đối tốt. Đàng khác, Chúa Giêsu đã có lần nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên đàng”. Lời Chúa trên đây là một cảnh giác. Chứ người giàu người nghèo đều có thể sống đạo tốt, miễn là biết lợi dụng vốn liếng Chúa ban cho mình, để phát triển chính mình và góp phần phát triển xã hội và Hội Thánh.
Tôi mới đi thăm mấy giáo điểm vùng sâu. Đó là những cộng đoàn nghèo. Không có nhà thờ, không có linh mục. Hoàn cảnh kinh tế xã hội rất khó khăn. Thế mà những cộng đoàn đó vẫn phấn đấu để phát triển, để vươn lên. Và họ đã gặt hái được nhiều kết quả tốt. Một số con em trong họ đạo đã đậu tú tài và thi vào đại học. Một số thanh niên đã có tay nghề, được tuyển dụng vào các xí nghiệp. Một số thanh nữ đã trở thành giáo lý viên và ca trưởng, đem lại cho bầu khí họ đạo một sinh khí mới.
Tôi thấy một kết quả đáng kể hơn cả của những cố gắng phát triển tại những cộng đoàn nghèo đó là tinh thần cộng đồng. Đã có những nhóm cầu nguyện chung. Đã có những nhóm chia sẻ Lời Chúa. Đã có những nhóm dấn thân làm việc từ thiện chung. Đã có những nhóm tham gia mục vụ họ đạo, như mục vụ giới trẻ, mục vụ người bệnh, mục vụ phụng vụ thánh lễ.
Những kết quả như trên phải được coi là quý giá. Đúng là họ đã phát triển.
Nếu Chúa Giêsu đến tìm trái thiêng liêng nơi họ, như Chúa đã tìm trái nơi cây vả nói trong Phúc Âm, thì chắc Ngài sẽ rất vui lòng hái được những trái tốt, mặc dầu lá cành của cây có vẻ ít xanh tươi.
Nếu Chúa Giêsu đến tìm lời lãi thiêng liêng nơi họ, như người chủ trong Phúc Âm trao vốn cho các môn đệ, thì chắc Ngài sẽ rất hài lòng thấy được nhiều lời lãi thiêng liêng làm ra được từ vốn Chúa trao cho họ, mặc dầu số vốn được trao là rất ít.
Tôi nghĩ rằng họ đạo Trái Tim có khả năng phát triển được trong những điều kiện khó khăn của thực tế hôm nay. Phát triển nhỏ thôi. Phát triển âm thầm thôi. Phát triển chậm cũng được. Nhưng phải cố gắng phát triển, nhất là về mặt đạo đức, về mặt bác ái, về mặt nhân bản, về mặt cộng đồng. Nên tự hoạch định cho mình những dự án phát triển nhỏ, như là những bước đi nhỏ tiến vào tương lai. Phát triển cho mỗi năm, phát triển cho mỗi giới. Hiện tại là kho tàng có sẵn trong tay. Hãy khai thác kho tàng hiện tại để phát triển. Chờ đợi một vận hội khác, với những dự án quá tầm tay, sẽ là những ảo tưởng tai hại.
Tôi cầu mong họ đạo Trái Tim sẽ trở thành một gương mẫu phát triển, với những bước đi nhỏ và đẹp, tiến về năm 2000. Đức Mẹ sẽ đồng hành với anh chị em trên con đường phát triển đó, miễn là anh chị em hết lòng tin tưởng nơi Mẹ, với tất cả những cố gắng của mình. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Họ Đạo Trái Tim, Năng Gù, ngày 18-08-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Họ đạo Năng Gù là một họ đạo đã có từ lâu đời. Họ đạo Năng Gù là một họ đạo có đông giáo dân. Họ đạo Năng Gù là một họ đạo, quê hương của nhiều linh mục, tu sĩ. Họ đạo Năng Gù là một họ đạo được hân hạnh có một cha sở được phong thánh, đó là thánh Phêrô Đoàn Công Quí. Nhà xứ Năng Gù là nhà xứ xưa có nhiều ruộng, nhiều lúa.
Tất cả những điều nói trên đã làm nên hào quang cho họ đạo Năng Gù trong một thời gian lịch sử. Nhưng nay tình hình xã hội tôn giáo đã đổi. Hiện nay yếu tố quan trọng góp phần làm nên hào quang cho một họ đạo là khả năng đổi mới và kết quả đổi mới. Đổi mới phải hiểu một cách rộng rãi về nhiều mặt.
Nhìn qua họ đạo Năng Gù, tôi thấy họ đạo anh chị em có nhiều đổi mới đáng mừng. Tôi mong việc đổi mới sẽ được tiếp tục và tăng cường hơn. ở đây tôi xin gợi ý đến hai mặt này: Một là bác ái, hai là văn hoá. Cả hai mặt cùng xây dựng nên một thực tại, đó là nền văn hoá của bác ái.
Chính những hoạt động văn hoá và những hoạt động bác ái làm cho bộ mặt của giáo xứ được đẹp, được đáng kính, được dễ thương.
Chính những hoạt động văn hoá và những hoạt động bác ái sẽ góp phần không nhỏ vào việc đào tạo và huấn luyện tinh thần tông đồ giáo dân, nhất là cho giới trẻ.
Chính những hoạt động văn hoá và những hoạt động bác ái sẽ giúp cho giáo dân có khả năng đối thoại với xã hội và có khả năng dấn thân vào xã hội hôm nay.
Cách đây mươi ngày, đài truyền hình Việt Nam có loan đi một bản tin về tình hình học vấn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nói chung, tình hình học vấn tại vùng chúng ta bị đánh giá là kém vào loại nhất nhì, so với các nơi khác trong nước. Báo chí trung ương và địa phương cũng đã đồng loạt lên tiếng báo động về tình hình tụt hậu đó. Anh chị em tại chỗ có thể tự mình thấy được sự thực trong xóm làng mình.
Tôi nghĩ là chúng ta có bổn phận góp phần giải quyết vấn đề được nêu lên. Bằng những dự án nhỏ, bằng những việc nhỏ, bằng những sáng kiến nhỏ. Động lực thúc đẩy chúng ta chính là đức tin. Tôi thấy tại nhiều nơi, chính những dấn thân như vậy, khi được thực hiện một cách siêu nhiên, đã làm cho đức tin được vững mạnh và toả sáng.
Thời nay, chiều kích xã hội không được phép thiếu bên cạnh chiều kích nội tâm. Thời nay, văn hoá và bác ái là những yếu tố làm nên chiều kích xã hội nơi người tín hữu, nơi các cộng đoàn.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần, nhờ lời Đức Mẹ cầu bầu, ban ơn cho chúng ta được biết nhạy bén, khôn ngoan và can đảm đáp ứng nhu cầu Phúc Âm của thời điểm này tại địa phương ta.
Lịch sử đang có những chuyển biến mau lẹ về phát triển. Nếu chúng ta trì trệ, hẹp hòi, thì tương lai không phải của cá nhân chúng ta, mà của gia đình ta, họ đạo ta và của Hội Thánh Việt Nam ta sẽ phải lãnh chịu số phận thua thiệt nặng nề.
Tôi tin rằng giáo xứ Năng Gù với truyền thống đạo đức của mình, đã nhận thức được điều đó. Tôi hy vọng nhận thức đúng đắn đó sẽ đưa họ đạo đến những công việc cụ thể có mục đích đổi mới, tạo nên cho họ đạo một bộ mặt đẹp, đáng kính trọng, nêu gương cho các họ đạo khác. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Năng Gù, ngày 18-08-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong các thánh lễ Thêm sức, cộng đoàn thường hát những bài có nội dung ca tụng ơn đổi mới, và cầu xin ơn đổi mới. Sự kiện này chứng tỏ sự đổi mới là một nhu cầu cần thiết, một vẻ đẹp chính đáng trong cả hai lãnh vực đạo đời.
Hiện nay, trên thực tế, người ta thường dựa vào khả năng đổi mới như một tiêu chuẩn, để đánh giá một cá nhân, một cấp lãnh đạo, một cộng đoàn tôn giáo, một tổ chức xã hội.
Riêng trong Hội Thánh, đổi mới là một mệnh lệnh phát xuất từ bản tính bí tích Rửa tội và Thêm sức. Đổi mới đã trở thành một kêu gọi thúc bách của Công đồng Vatican II, của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong việc tân-phúc-âm hoá. Nói một cách chung chung và dễ hiểu, đổi mới là cố gắng càng ngày càng nên người hơn, cố gắng ngày càng nên giống Chúa Giêsu hơn. Đổi mới như thế là việc phải thực hiện mỗi ngày.
Để đổi mới như thế, chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta ơn trợ giúp. Nhưng ơn Chúa trợ giúp không miễn cho chúng ta khỏi những cố gắng học hành, tập tành, tra cứu. Sự cộng tác của chúng ta là điều kiện cần.
Hôm nay, tôi xin chia sẻ với anh chị em mối quan tâm tha thiết của tôi về một yếu tố quan trọng cần cộng tác với ơn Chúa trong việc đổi mới đời sống đức tin. Yếu tố quan trọng đó là văn hoá.
Trong một tạp chí công giáo quốc tế mang tên “Hiệp Thông” (Communio) số mới nhất, xuất bản tháng 06-1996 vừa qua, một giáo sư thạc sĩ công giáo dạy đại học công giáo tại Pháp, đã đưa ra nhận xét sau đây:
Vào những thế kỶ thứ V trở đi, tại Âu châu, dân chúng ồ ạt theo đạo Công giáo. Sự kiện đó được cắt nghĩa bằng nhiều lý do. Nhưng trong đó có một lý do được coi là ảnh hưởng nhất, đó là trình độ văn hoá cao của các giám mục, linh mục. Thời đó, nhiều vị giáo sĩ rất nổi tiếng về văn hoá đạo đời: như các thánh Ambrôsiô, Augustinô, Hilariô. Thời đó, tại Âu châu và Phi châu, văn hoá công giáo từ Rôma tới hoạt động mạnh. Không có văn hoá nào khác cạnh tranh nổi. Người ta coi văn hoá công giáo là một luồng ánh sáng duy nhất giúp phát triển con người và xã hội trong hiện tại và tương lai.
Đến thế kỶ XVIII, bùng rộ lên nền văn hoá cách mạng Pháp. Tiếp đó là nền văn hoá khoa học thực tiễn của những dân tộc Anglô-xắcxông. Những nền văn hoá này đã đưa lại cho nhân loại nhiều đổi mới hiện đại, tiến bộ, gây được nhiều tin tưởng đẹp, mạnh và rộng. Khi nền văn hoá công giáo giảm sút ảnh hưởng, thì số người công giáo cũng giảm xuống, như hiện nay tại Âu châu.
Nhận xét trên đây có phần khá đúng. Nghĩa là người ta chọn cho mình một nền văn hoá có khả năng phát triển con người và xã hội. Nền văn hoá công giáo, giữa thế giới cạnh tranh này, nếu chứng minh được trên thực tế mình có khả năng đó, thì sẽ được tôn trọng, và Hội Thánh Công giáo sẽ có chỗ đứng xứng đáng.
Tôi muốn chia sẻ với anh chị em nhận xét trên đây, để anh chị em quan tâm nhiều hơn đến việc nâng cao văn hoá. Hãy sống đức tin với phong cách con người có văn hoá, có tinh thần khoa học. Hãy tuyên xưng đức tin và truyền bá đức tin với những vẻ đẹp văn hoá nơi chính bản thân ta, nơi cộng đoàn của ta.
Theo tôi, con người có đức tin và văn hoá được nhận ra qua một số nét đẹp tinh thần, như thái độ tôn trọng sự thật, kính trọng người khác, như những cái nhìn rộng, sâu và đúng, như những thao thức cao thượng, vị tha, như khả năng phục vụ với lương tâm đạo đức.
Họ đạo Long Xuyên chúng ta không thiếu những người như vậy. Cần nhân lên số người như thế. Ngày tựu trường đang tới, chúng ta nên để tâm hơn tới vấn đề đó đối với con em chúng ta. Hãy sống đức tin một cách trong sáng với những vẻ đẹp văn hoá.
Đức Mẹ đã sống đức tin như vậy. Chúng ta xin Chúa Thánh Thần ban ơn giúp sức cho chúng ta được ơn đổi mới về đời sống đức tin với nét đẹp văn hoá, theo gương Đức Mẹ.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 18-08-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, (thứ hai, tuần XX QN, Mt 19, 16-26), Chúa Giêsu phán: “Ai muốn được vào nơi hằng sống, hãy tuân giữ các giới răn ... chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ và yêu thương người khác như chính mình”.
Khi suy gẫm những điều Chúa dạy trên đây và toàn bộ Phúc Âm thánh Matthêu, nhiều nhà thần học đã đưa ra những nhận định sau đây:
Nhận định thứ nhất là: Chúa Giêsu đã trình bày Tin Mừng của Ngài là Tin Mừng của tình yêu chứ không phải Tin Mừng của mầu nhiệm và của chân lý.
Tất nhiên, không có mâu thuẩn giữa mầu nhiệm, chân lý và tình yêu. Nhưng khi loan báo Tin Mừng, Đức Kitô đã cho thấy Tin Mừng của Ngài chủ yếu là tình yêu. Bởi vì bản tính Thiên Chúa là Tình yêu. Chính tình yêu Thiên Chúa đã tạo dựng. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu chuộc. Chính tình yêu Thiên Chúa đã thánh hoá. Đó là chân lý trên mọi chân lý. Trong suốt cuộc đời trần thế, Đức Kitô đã làm chứng cho chân lý tình yêu đó. Khi đào tạo các tông đồ, Đức Kitô đã muốn các ông trở thành chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa, chứ không phải chứng nhân của mầu nhiệm hay của chân lý Thiên Chúa. Vì thế, Ngài ít giảng giải về các mầu nhiệm và các chân lý khó hiểu và không cần thiết. Nhưng Ngài luôn nhấn mạnh đến tình yêu là chân lý dễ hiểu và cần thiết cho phần rỗi. “Hãy thương yêu kẻ khác như chính mình” đó là một chân lý dễ hiểu, nhưng hết sức quan trọng. Ngài vừa giảng chân lý đó, vừa uốn nắn tâm hồn các môn đệ, để họ biết yêu thương như Ngài.
Hiện nay, yêu thương bác ái đã trở thành một giá trị lớn trong tôn giáo và trong xã hội. Chúng ta cứ tự do phô trương mình tin vào mầu nhiệm này, chân lý nọ. Nhưng nếu chúng ta thiếu yêu thương bác ái, thì không những người đời sẽ coi thường chúng ta, mà chính Thiên Chúa cũng sẽ không nhận chúng ta vào nơi hằng sống.
Nhận định thứ hai là: Chúa Giêsu đã trình bày Tin Mừng của Ngài là Tin Mừng do thực hành, chứ không phải Tin Mừng do hiểu biết suông.
Chúa nói rõ: “Ai muốn được vào nơi hằng sống, thì phải tuân giữ các giới răn”. Phải tuân giữ, phải thực hành. Tất nhiên cũng phải hiểu biết. Nhưng hiểu biết để mà tự tôn tự phụ, để rồi cho thế là đủ, thì rõ ràng sai. Chúa sẽ phán xét theo cố gắng thực hành. Chúa căn cứ vào hoa trái để đánh giá cây. Chúa đã nói rõ: “Không phải những ai kêu, lạy Chúa, lạy Chúa, sẽ được vào thiên đàng, nhưng chỉ những ai thực hành thánh ý Thiên Chúa”. Mà thánh ý Chúa rõ ràng nhất chính là hãy yêu thương bác ái. “Hãy yêu thương kẻ khác như chính mình”.
ở đây, tưởng cũng nên nhắc tới nhiều phê phán thường hay hướng vào hoặc các cá nhân, hoặc các cộng đoàn công giáo. Họ phiền trách là có một khoảng cách rất lớn giữa thực hành và giáo lý. Về mặt giáo lý thì có tấn tới. Nhưng về mặt thực hành thì ù lì, cằn cỗi. Đọc kinh nhiều, xem lễ đông, nghi thức đẹp, nhưng không có Tin Mừng, nghĩa là không thực hành yêu thương bác ái. Chính vì thế mà đạo nơi đó mất đi sức hấp dẫn.
Nhận định thứ ba là: Chúa Giêsu trình bày Tin Mừng của Ngài là Tin Mừng dành cho số đông, chứ không chỉ dành cho một thiểu số.
Nghĩa là, nếu xét về mặt thực hành, thì vô số người nghèo túng, dốt nát, bệnh tật, hèn yếu đơn sơ đã thực hành tốt những lời Chúa dạy hôm nay về yêu thương bác ái. Đặc biệt là vô số người ngoài công giáo đã thực hành đúng Tin Mừng bác ái của Đức Kitô. Một cách nào đó, họ đã là chứng nhân của Tin Mừng tình yêu Thiên Chúa. Nhờ tâm hồn rực sáng lửa bác ái và nhờ những việc bác ái chân thành của họ, hình ảnh Thiên Chúa nơi họ được đẹp, được rõ nét hơn. Họ trở thành gương mẫu bác ái cho bao người gần xa. Không lẽ những người như thế, chỉ vì đứng ngoài Hội Thánh Công giáo, lại không được vào nơi hằng sống sao? Công đồng Vatican II đã giải đáp điều đó rõ ràng rồi .
Nếu người công giáo muốn có một cái gì khác đáng phải có trong việc sống bác ái, thì cái khác đáng phải có đó, chính là phong cách của người môn đệ Đức Kitô.
Ba nhận định trên đây thúc giục chúng ta hãy chọn cho mình một hướng sống đạo thiết thực, đơn sơ, hợp Phúc Âm. Hướng đó là đề cao Tin Mừng của tình yêu Thiên Chúa, đề cao bằng những thực hành, và thực hành không phải chỉ về nội dung, mà còn cả đến phong cách nữa.
Nếu chúng ta biết cầu xin với Chúa Thánh Thần, thì Ngài sẽ giúp chúng ta có những sáng tạo thích hợp, để Tin Mừng của tình yêu Thiên Chúa luôn được thực hiện với những vẻ đẹp mới, trẻ trung và đầy ơn cứu độ.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Cái Đôi, ngày 19-08-1996.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.