Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, cho phép tôi tưởng tượng ra quang cảnh Đức Mẹ gặp lại bà Isave: Nơi đó là một căn phòng nhỏ, đơn sơ, bình thường. Lúc đó là lúc vắng vẻ, chỉ có hai người: Một người phụ nữ trẻ có thai từ mấy ngày và một bà lớn tuổi có thai từ sáu tháng. Mỗi bà mang một bào thai. Hai bào thai ấy mới là quan trọng. Nhưng hai bào thai ấy vẫn sống lặng lẽ kín đáo, nhờ sức sống của các bà mẹ của mình. Chính các bà mẹ cũng sống âm thầm, nhờ sự đùm bọc của gia đình và của xóm làng. Đơn sơ quang cảnh là như vậy. Hai người đàn bà. Hai bào thai. Một nơi bé nhỏ. Một lúc vắng vẻ. Ấy thế mà, chính lúc ấy, chính nơi ấy, hai người đàn bà ấy, hai bào thai ấy, đang viết lên những trang đầu của Tân Ước, đang là những nhân tố quan trọng để đổi mới thế gian.
Khi tôi thấy quang cảnh như vậy, tôi mới thấy kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, nhiều khi rất khác với cách suy nghĩ của con người chúng ta.
Đôi khi tôi nghĩ rằng: Để cứu độ thế gian, để truyền giáo, tôi cần phải có những người được đào luyện từ trường lớp, có kiến thức cao, có chức vị lớn. Rồi để truyền giáo, và để cứu độ thế gian, tôi cần có những công trình phát triển rất quy mô dễ nhận thấy, dễ là dấu chỉ, để thiên hạ biết mà ca tụng Chúa. Rồi tôi cũng nghĩ rằng: Để truyền giáo, để cứu độ thế gian, tôi cần phải làm những việc lành lớn, với những bước đi lớn, và cần phải có những nơi lớn, những cảnh ồn ào, những cảnh huy hoàng.
Thế nhưng, khi nhìn lại quang cảnh mà Chúa dùng để đổi mới thế gian được vẽ lên trong bài Phúc Âm hôm nay, tôi thấy rất khác: Chúa đã chọn những người đơn sơ, coi như không có học thức, coi như không được đào luyện ở trường lớp. Bà Isave, Đức Maria là những người rất đơn sơ. Rồi hai bào thai quan trọng, đã sống rất lặng lẽ kín đáo, phát triển từng ngày theo luật tự nhiên không có gì ồn ào.
Rồi Đức Mẹ cũng đi từng bước đến nhà bà Isave, đã có những lời nhẹ nhàng chào hỏi nhau. Nơi hai bà gặp nhau cũng rất đơn sơ, khó nghèo.
Tôi nghĩ rằng, chương trình cứu chuộc trên đây cũng đang thực hiện nơi họ đạo anh chị em nói chung, và nơi từng người anh chị em nói riêng. Họ đạo anh chị em là một họ đạo nghèo, bé nhỏ. Anh chị em cũng sống một đời sống tương đối đơn sơ, khó nghèo. Anh chị em cũng có những bước phát triển, nhưng những bước phát triển ấy phải gọi là khiêm tốn, âm thầm. Anh chị em cũng đã làm những việc lành, nhưng những việc lành ấy, phải gọi là bé nhỏ. Và nơi thờ phượng đây, cũng không phải là một nơi huy hoàng tráng lệ, đồ sộ, nhưng là một chỗ đơn sơ, khiêm tốn, khó nghèo. Nếu quang cảnh họ đạo anh chị em đây, đang nằm trong kế hoạch cứu độ, truyền giáo của Thiên Chúa, thì anh chị em có đủ lý do để mà tạ ơn Thiên Chúa.
Anh chị em biết, trong lời kinh tạ ơn mà Đức Mẹ nói lên trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Mẹ không có nại đến lý do vì được tiền bạc, vì được lợi lộc thế gian, mà chỉ nói lên lý do duy nhất này: Con tạ ơn Chúa, vì con được cứu độ, vì con gặp được Đấng cứu độ con.
Niềm tin gặp được Đấng cứu độ, đó là một niềm tin lớn nhất mà Kinh Thánh đã đề cao. Không có một niềm vui nào lớn hơn, được đề cao hơn trong Kinh Thánh bằng niềm vui được gặp Đấng cứu độ.
Anh chị em cũng như tôi, đã được gặp Đấng cứu độ rồi qua các bí tích, nhất là qua phép Rửa Tội và phép Thánh Thể hằng ngày.
Chúng ta đã gặp được Đức Kitô cứu độ. Nhưng chúng ta có cảm nghiệm được niềm vui lớn lao mà Đức Mẹ đã cảm thấy trong ngày, Ngài tạ ơn Thiên Chúa không? Nếu chúng ta chưa cảm thấy được niềm vui ấy sâu đến thế nào, hứng khởi đến thế nào và hiếm hoi đến thế nào, thì đúng là vì chúng ta chưa có niềm tin sâu sắc đầy đủ, chúng ta chưa có một sự bén nhạy đầy đủ, để tiếp thu Đấng cứu độ đến trong lòng ta.
Kinh Thánh có nói rằng, chính vì Đức Mẹ và bà Isave hôm nay được đầy Chúa Thánh Thần, nên đã cảm thấy vui mừng, nên đã cảm thấy niềm vui gặp được Đấng cứu độ là niềm vui sâu sắc nhất.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta đón nhận ơn Chúa Thánh Thần cho chính mình, cho con em chúng ta, và cho họ đạo chúng ta, thì cũng nhân dịp này, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần, ban ơn cho chúng ta biết niềm vui được nhận ra Thiên Chúa cứu độ, cảm thấy được niềm vui gặp được Đấng cứu độ và luôn luôn biết bảo vệ và làm chứng cho niềm vui được đón nhận Đức Kitô cứu độ.
Theo tôi, nếu giữ được niềm vui ấy, và luôn luôn làm chứng được cho niềm vui ấy, thì đó là chúng ta đạt được sự mà Chúa trao phó cho chúng ta.
Trong ngày lễ Thêm Sức, hãy đi làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Trái Tim, dịp Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, ngày 15-08-1992.
Lời kinh tạ ơn của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Phúc Âm, là một lời kinh rất phổ thông trong Hội Thánh, lời kinh này thường được hát lên trong các sinh hoạt phụng vụ, như anh chị em vừa mới hát lên trước thánh lễ này. Dù với điệu nhạc nào, dù bằng thứ tiếng nào, lời kinh tạ ơn của Đức Mẹ cũng thường gợi lên trong lòng ta tâm tình vui sướng, chính những lời kinh tạ ơn của Đức Mẹ đã là chuỗi những lời nói lên trong niềm vui.
Niềm vui ấy thế nào?
Tôi xin gọi niềm vui ấy là niềm vui tiên tri. Niềm vui tiên tri, bởi vì Đức Mẹ vui do nhìn thấy trước lòng thương xót Chúa, sẽ là quyền năng vô biên, nâng đỡ Đức Mẹ trong tất cả chặng đường đời sống của mình. Niềm vui tiên tri, bởi vì Đức Mẹ vui, do nhìn thấy lòng thương xót Chúa sau cùng sẽ tỏa thắng trên thế giới. Niềm vui tiên tri, bởi vì Đức Mẹ vui, do nhìn thấy trước Nước Trời của lòng thương xót Chúa đang tiến gần và phải tới. Niềm vui tiên tri, bởi vì Đức Mẹ vui, do nhìn thấy một tương lai sắp đến, một tương lai được sắp xếp do lòng thương xót Chúa, như Đức Mẹ đã kể ra trong lời kinh: Trong tương lai ấy, người khiêm nhường sẽ được nâng lên, kẻ nghèo khó sẽ dư đầy ơn phúc. Tương lai ấy chưa đến. Tương lai ấy còn xa. Nhưng Đức Mẹ nhìn thấy tương lai ấy sẽ đến và chắc chắn đến.
Đức Mẹ tin vì 3 lý do:
Một là vì Thiên Chúa đã hứa như vậy với Abraham và các tổ phụ.
Hai là vì chính Chúa đã hứa với Đức Mẹ qua lời Thiên Thần truyền tin. Thiên Thần nói với Đức Mẹ: “Đối với Chúa, không có gì gọi được là không có thể”. Chính vì thế, lúc bấy giờ, mặc dầu ngoài đời quân Rôma thống trị, còn trong đạo thì Pharisêu thao túng, nhưng Đức Mẹ vẫn tin rằng, tương lai huy hoàng của Nước Trời sẽ đến.
Lý do thứ 3 là vì Đức Mẹ thấy chính bản thân mình đang là nơi Thiên Chúa thực hiện những sự quá lạ lùng coi như không thể xảy ra được: Đồng trinh, mà lại sinh con.
Người trần thế, mà lại được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Niềm vui tiên tri như vậy, đang rất cần cho Hội Thánh hôm nay. Nó càng cần hơn cho những người đang cảm thấy trên vai gánh nặng trách nhiệm và lo âu.
Vì thế, tôi đang tìm những niềm vui tiên tri ấy chung quanh tôi. Và phải nói thiệt là tôi đã tìm thấy ở nhiều nơi, ở nhiều người tôi đã gặp biết bao nhiêu người nghèo túng, bệnh tật. Họ sống trong những hoàn cảnh rất bi đát, nhưng tôi thấy tâm hồn họ bình an, một sự bình an đáng gọi là niềm vui. Niềm vui ấy, đúng là niềm vui tiên tri. Bởi vì họ nhìn thấy ơn Chúa trong hiện tại, và hạnh phúc tuyệt vời chờ họ trong tương lai.
Tôi cũng đã gặp rất nhiều người trong các nhóm cầu nguyện và trong các nhóm làm việc từ thiện bác ái. Họ sống và hoạt động trong những điều kiện rất khó khăn, nhưng họ cảm thấy một sự phấn khởi lạ lùng trong tâm hồn. Phấn khởi ấy gọi là niềm vui. Niềm vui ấy đúng là niềm vui tiên tri. Bởi vì họ nhìn thấy lòng thương xót Chúa sống bên họ, nâng đỡ họ. Và lòng thương xót Chúa luôn gọi họ dấn thân vào tương lai phía trước.
Tối cũng đã gặp biết bao nhiêu linh mục, tu sĩ. Các ngài phải sống trong những hoàn cảnh đầy thử thách, nhưng các ngài luôn cảm thấy niềm hy vọng. Niềm hy vọng đó gọi được là niềm vui. Và niềm vui đó, đúng là một niềm vui tiên tri. Bởi vì các ngài vẫn nhìn thấy Thiên Chúa là gia nghiệp đời đời của mình.
Từ hôm qua cho đến bây giờ và trong ngay giây phút này, tôi đã cảm thấy niềm vui tiên tri ở đất Năng Gù, trong nhà thờ này, trong nhà thờ Trái Tim, trên nhà thờ Kinh Quít. Và khi nhận thấy niềm vui tiên tri ấy, đang rải rác trong các gia đình, trong các xóm nghèo, trong những người lãnh đạo tinh thần, tôi tin chắc rằng Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta và Thiên Chúa đang dẫn địa phận chúng ta về tương lai đầy hứa hẹn.
Anh chị em thân mến.
Vừa rồi, chúng ta hát: “Con sẽ nên nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất”. Khi nghe anh chị em hát điều đó, tôi đã cầu xin Chúa Thánh Linh giúp cho anh chị em và tôi nữa, biết làm chứng cho thế gian bằng cách chúng ta sống niềm vui tiên tri, do sự chúng ta nhìn thấy Chúa ở với chúng ta, do sự chúng ta nhìn thấy Chúa sai chúng ta đi, và do sự chúng ta tìm một Thiên Chúa là phần thưởng duy nhất của chúng ta, đời này và đời sau.
Lạy Chúa Thánh Linh, xin hãy ban cho chúng con niềm vui tiên tri mà Chúa đã ban cho Đức Mẹ ngày lễ Đức Mẹ tạ ơn. Amen.
Các năm trước đây, nhiều lần tôi làm lễ Thêm Sức tại đài Đức Mẹ, tôi đã thấy anh chị em phải tới đó để tham dự. Tôi thấy anh chị em đã phải vất vả nhiều lắm: Kẻ lội bộ, người đi xe đạp, người bơi xuồng. Phải đi từ rất sớm. Nhất là nhiều trẻ em, có thể đã thức từ rất khuya. Thấy cảnh như vậy tôi đã nghĩ rằng, anh chị em có nhiều công phúc và sẽ được Chúa trả công.
Hôm nay, tôi được tới đây, sống giữa anh chị em. Tôi đã thấy tận mắt lòng nhiệt thành của anh chị em cho nên tôi càng tin rằng, Chúa sẽ trả công cho anh chị em.
Tôi nghĩ như vậy và xác tín như vậy. Bởi vì tôi tin vào lời Chúa phán trong bài Phúc Âm hôm nay: “Con người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người và cùng với các Thiên Thần của Người, Ngài đẽ trả công cho mỗi người, tùy theo việc họ làm”.
Khi Chúa nói lời đó, thì không phải Chúa nói chung chung, cho mọi người chung chung, mà Chúa muốn nói cho từng người chúng ta. Chúa sẽ trả công cho từng người, tuỳ theo việc họ làm. Có nghĩa là, có những việc ta làm sẽ được Chúa trả công.
Vậy những việc nào Chúa trả công?
Phúc Âm hôm nay xác định rõ, đó là việc vác thánh giá từ bỏ mình mà theo Chúa.
Nhìn tấy như vậy, tôi thấy các việc chúng ta làm thường ngày, kẻ nhiều, người ít, cũng là những việc chúng ta vác thánh giá, từ bỏ mình mà theo Chúa.
Chẳng hạn, khi anh chị em đến nhà thờ xem lễ, đọc kinh, học giáo lý, thì anh chị em chấp nhận vất vả. Và đó chính là vác thánh giá từ bỏ mình mà theo Chúa.
Rồi những khi anh chị em góp công, góp của vào việc xây dựng họ đạo, thánh đường, nhà xứ, công việc chung, thì anh chị em cũng chấp nhận hy sinh. Đó, chính là vác thánh giá mình, từ bỏ mình mà theo Chúa.
Rồi khi anh chị em lo chu toàn bổn phận của mình trong gia đình: Bổn phận người cha người mẹ đối với con cái, bổn phận người con đối với cha mẹ, thì chúng ta cũng chấp nhận hy sinh. Đó chính là từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa.
Rồi khi chúng ta xây dựng hòa khí trong xóm ngõ, trong làng mạc, trong đất nước, thì chúng ta cũng phải chấp nhận rất nhiều hy sinh, và đó là chúng ta vác thánh giá, từ bỏ mình mà theo Chúa.
Khi hiểu như vậy, tôi thấy, mỗi ngày, mỗi người chúng ta có thể làm được rất nhiều sự, đáng được Chúa thưởng công.
Thế nhưng, có một điều chúng ta cần để ý, rất cần để ý. Đó là, không phải bất cứ việc nào ta làm vì mến Chúa, vì yêu người mà sẽ được thưởng công cả đâu.
Thánh Phêrô tuốt gươm, chém tai người đầy tớ thầy cả trong vườn Giếtsêmani, Ngài làm việc ấy vì mến Chúa, nhưng Chúa không chấp nhận. Thánh Phêrô can Thầy đừng đi chịu chết, Ngài làm việc ấy vì mến Thầy, nhưng Chúa Giêsu không chấp nhận. Mấy người đầy tớ xin Chúa Giêsu về chôn táng cha mình, rồi mới trở lại theo Thầy sau, Chúa Giêsu không chấp nhận, mặc dầu việc đó là việc yêu người.
Có nghĩa là, tất cả những việc chúng ta làm từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa, thì cần có điều nầy là: Hợp với ý Chúa.
Phải hợp với ý Chúa. Đây là điều tương đối khó, nếu chúng ta không có ơn Chúa Thánh Thần.
Anh chị em thân mến.
Lúc nãy chúng ta hát: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu cho tôi, Người sai tôi đi loan báo tin mừng, tin bình an, tin Phúc Âm” thì tôi nghĩ trong lòng rằng, muốn được loan báo tin mừng, và loan báo tin mừng cho người khác, chúng ta cần phải biết làm việc đó theo thánh ý Chúa. Và như tôi vừa nói lúc nãy, cần nhất là phải có ơn Chúa Thánh Thần.
Tới đây, tôi nhớ tới thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, một người phụ nữ trẻ, cuộc đời rất vắn, 15 tuổi ở ngoài đời, trong khung cảnh gia đình, 9 năm đi tu trong khung cảnh nhà kín, Têrêxa không làm việc gì lớn cả, chỉ làm bổn phận của mình, lợi dụng tất cả những gì có trong việc làm để yêu Chúa hết tình và để phục vụ tha nhân hết sức. Chỉ có thế thôi. Sau 25 năm sống trần gian, Têrêxa qua đời, và đã được phong thánh, để làm chứng rằng: Bất cứ ai, trong hoàn cảnh nào, dù làm việc lớn, dù làm việc nhỏ, đều có thể làm sáng danh Chúa và truyền giáo được, miễn là công việc chúng ta làm có bề dày của nó, tức là mến Chúa, yêu người, theo thánh ý Chúa.
Trong thánh lễ Thêm Sức hôm nay, cũng là thánh lễ đầu tiên. Thêm Sức tại nhà thờ bé nhỏ này, tôi cầu xin Chúa Thánh Linh giúp cho mỗi người chúng ta, biết lợi dụng giây phút hiện tại của mình, để làm cho mình có một số việc làm, đáng được Chúa thưởng công. Tôi xin nhắc lại: Muốn được như vậy, cần phải có ơn Chúa Thánh Linh trong lòng mình.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đến với chúng con, xin ở lại với chúng con, xin hướng dẫn chúng con. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Tân Bình, Tân Hiệp, ngày 19-08-92.
Mỗi khi ghé thăm một họ đạo, tôi thường nhận được niền vui. Nhưng phải nói thiệt là, niềm vui tôi nhận được từ những họ đạo bé nhỏ, thường gợi lên trong tôi nhiều sức sống thiêng liêng, và những hứng khởi mục vụ, nhiều khi hơn là những niềm vui nhận được từ những họ đạo lớn. Những lúc ấy, tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu đã cầu nguyện trong bài Phúc Âm hôm nay: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì đã giấu những điều này cho những người khôn ngoan hiền triết, mà chỉ tỏ ra cho những kẻ bé mọn, đơn sơ”.
Hôm nay, tôi vẫn muốn nói với Chúa lời nguyện ấy khi đến với anh chị em. Và theo tinh thần lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay, nếu tôi gọi họ đạo anh chị em là một họ đạo bé mọn, thì đó là một lời khen chứ không phải là một lời khinh chê. Điều tôi muốn nói ở đây là cắt nghĩa sự bé mọn mà Chúa khen trong bài Phúc Âm hôm nay, để chúng ta tiếp tục sống tinh thần ấy, bởi vì chúng ta đã được Chúa thương nhờ tinh thần ấy.
Sự bé mọn mà Chúa khen trong bài Phúc Âm hôm nay không hệ tại ở sự ít người, ở sự ít của, ở sự ít tài, mà hệ tại ở sự con người ta nhận biết mình nghèo túng về phần thiêng liêng. Nhận biết mình, không thể tự mình trở nên tốt được, nhận biết mình, không thể nào trở về với Chúa được, nhận biết mình, không thể nào trở nên đạo đức được, xác tín điều đó với tất cả lòng khiêm tốn.
Rồi, từ lòng khiêm tốn ấy, đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa mà thôi, vì Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Lòng khiêm tốn và lòng cậy trông ấy, sẽ là những lời kêu cầu gửi lên Chúa. Và bao giờ Chúa cũng chấp nhận, bởi vì Chúa là Đấng tạo dựng và là Đấng cứu độ. Càng đến với Chúa như một người chẳng có gì, thì Chúa sẽ tạo dựng nên cho có. Càng đến với Chúa như một người khốn cùng, thì Chúa càng cứu độ cho khỏi cảnh cùng khốn. Kết quả đến cho những người khiêm tốn, cậy trông như vậy, thường rất là được quá sự mong đợi của họ.
ở đây, tôi nhớ tới những cảm tưởng mà tôi đã nhận được, trong những ngày tôi cầu nguyện ở Lộ Đức.
Cảm tưởng mạnh nhất đã làm thay đổi lòng tôi, đó là khi nhìn thấy cuộc đời cô bé Becnadecta, tôi đến thăm căn nhà Becnadecta đã ở với cha mẹ trước khi đi tu. Căn nhà còn đó. Đó là một căn nhà mà xã đã tạm cho gia đình Becnadecta mượn. Căn nhà đó là căn nhà tạm giam phạm nhân. Tồi tàn, nghèo túng, lạnh lùng. Bởi vì gia đình quá nghèo, làm ăn lỗ lã. Không còn nhà để ở, cho nên xã phải cấp cho căn nhà tạm đó để mà sống qua ngày.
Rồi tôi tới thăm cái lều Becnadecta đã tạm trú khi chăn chiên trên đồi: Một cái lều thực là nghèo, lạnh lẽo chơ vơ trên đồi xanh. Tôi thấy Becnadecta tựa còn quỳ đó, đơn sơ, ngẩng mặt lên Đức Mẹ. Gia đình Becnadecta khiêm tốn, nghèo nàn. Đời sống Becnadecta nghèo túng, đơn sơ. Chính trình độ học thức của Becnadecta cũng rất giới hạn: Cô ta học không đủ giáo lý để mà Thêm Sức. Ấy thế mà, Chúa đã chọn cô bé ấy để trao cho nhân loại một sứ mạng quan trọng. Đức Mẹ đã chọn cô gái ấy để hiện ra. Và từ đó, nhờ cô ấy, qua cô ấy, từng triệu triệu người, từ người thường cho đến các Đức Giáo Hoàng, đã đến cầu nguyện ở Lộ Đức để xin ơn ăn năn sám hối. Đúng là Chúa đã trao ơn đặc biệt cho kẻ bé mọn, khiêm nhường, chỉ biết nhìn lên Thiên Chúa mà thôi.
Anh chị em thân mến.
Từ đầu lễ đến lúc này, tôi thấy cũng xảy ra một vài sự cố: Có điện đấy, có máy đấy, nhưng âm thanh nhiều khi trục trặc, máy không bắt được lời mìnhnói. Sự kiện này gợi ý cho tôi nhớ lại rằng: Thiên Chúa vẫn nói với chúng ta, nhưng nhiều khi chúng ta không bắt được ý Chúa. Bởi vì lòng chúng ta không mở ra, không sẵn sàng, không khiêm tốn đủ, không lắng nghe đủ. Điều quan trọng mà Chúa muốn, là chúng ta làm theo thánh ý Chúa. Nhận ra thánh ý Chúa, làm theo thánh ý Chúa. Có thế thôi. Mà muốn được như vậy, cần phải hết sức khiêm nhường, hết sức cậy trông, và với tinh thần cầu nguyện, đợi chờ đón nhận thánh ý Chúa và sự viếng thăm của Chúa.
Tôi nhấn mạnh điều này với anh chị em hôm nay bởi vì tôi nhìn thấy trước mắt: Tương lai của chúng ta không đơn giản chút nào, sẽ có nhiều phức tạp, sẽ có nhiều bất ngờ, điều chúng ta cần phải nắm vững, đó là trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta chỉ muốn vâng phục thánh ý Chúa mà thôi. Và một khi chúng ta có một lòng khiêm nhượng, sống bé nhỏ như vậy, Chúa sẽ là điểm tựa của chúng ta. Chúa sẽ là người đồng hành với chúng ta, Chúa sẽ là người chỉ dẫn chốn chúng ta phải đi, hướng chúng ta phải đến. Cần chúng ta phải bé nhỏ.
Xin Chúa Thánh Linh là Đấng phù trợ mà Chúa hứa, sẽ ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, hôm nay lại đến với chúng ta và cho con em chúng ta, để từ giờ phút này, chúng ta biết sống bé nhỏ, với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh và hết lòng cậy trông Chúa Thánh Linh hướng dẫn, để chúng ta biết sống trong tương lai đầy khó khăn này theo thánh ý Chúa. Amen. Lễ Thêm Sức tại Thánh Tâm (kênh 3a), Tân Hiệp, ngày 19-08-1992.
Từ đầu lễ cho đến giây phút này, tôi đã nhận được rất nhiều ơn lành Chúa ban. Tâm hồn tôi được nâng lên với Chúa nhờ nghe được những tiếng ca sốt sắng của ca đoàn và cộng đoàn. Tâm hồn tôi được nâng lên với Chúa, nhờ thấy được thái độ cầu nguyện đầy tin mến của anh chị em. Tâm hồn tôi được nâng lên tới Chúa, nhờ hiệp thông với tinh thần vui mừng hớn hở hồn nhiên của các em sắp được chịu phép Thêm Sức. Và tâm hồn tôi được nâng lên tới Chúa, nhờ hiệp thông với tinh thần tận tụy của các linh mục, hội đồng giáo xứ, phụ huynh, đối với Hội Thánh nói chung, và đối với cuộc lễ hôm nay, nói riêng. Tôi chưa làm gì cả, tôi chỉ đón nhận. Và nhờ biết đón nhận, mà tâm hồn tôi được nâng lên với Chúa.
Kinh nghiệm vắn vỏi này, giúp cho tôi hiểu hơn về bài học đón nhận Nước Trời, mà Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa phán: “Nếu các con không đón nhận Nước Trời như trẻ nhỏ, thì sẽ không được vào nước đó”. Chúa không bảo tôi xây dựng Nước Trời, mà Chúa bảo tôi đón nhận Nước Trời.
Nước Trời là tất cả cái gì tốt, cái gì đẹp, cái gì hay, cái gì đúng do Chúa làm ra. Nước Trời là tất cả các ơn lành Chúa ban cho từ muôn ngàn đời. Nước Trời là chính Đức Kitô, Ngài luôn đến với tôi. Chỉ cần đón nhận. Chỉ cần đón nhận. Nhưng đón nhận bằng cách nào, thì Chúa Giêsu đã đưa ra một mô hình rất rõ. Đón nhận Nước Trời như trẻ nhỏ.
Chúng ta biết: Tuổi thơ là tuổi khó nghèo, nên bất cứ ai cho chúng cái gì quà tặng, nó đều vui sướng đón nhận. Cũng vậy, tâm hồn chúng ta, Chúa muốn cần phải sống khó nghèo, để biết vui sướng đón nhận bất cứ ơn lành nào Chúa ban cho, do bất cứ cách nào, do bất cứ qua ai, do bất cứ lúc nào.
Chúng ta cũng thấy tuổi thơ là tuổi thích cái đẹp, cái vui, cái ăn được, nên dễ cho chúng những cái đó, chúng sẽ đón nhận với tất cả niềm vui hồn nhiên của mình.
Cũng vậy, Chúa muốn linh hồn chúng ta cần phải ham muốn những của ăn thiêng liêng, cần phải bén nhạy với những vẻ đẹp thiên nhiên, cần phải khao khát những niềm vui thiên nhiên và thiêng liêng, để mỗi khi thấy cái đó đến với mình, thì biết đón nhận tất cả. Tôi có cảm tưởng rằng: Chúa ban cho chúng ta rất nhiều ơn. Nhưng nhiều khi chúng ta không đón nhận, bởi vì chúng ta đánh mất tuổi thơ, một tinh thần tươi xanh thích đón nhận. Chúng ta đã trở thành những gốc cây khô, cằn cỗi, cứng cỏi. Chúa đã gởi cho chúng ta rất nhiều ơn, nhưng chúng ta không đón nhận. Bởi vì chúng ta đã mất tinh thần tuổi thơ: Một tinh thần cởi mở, thích đón nhận. Chúng ta trở thành những căn phòng đóng kín, những luồng gió ơn Chúa, những trận mưa ơn Chúa không lọt vào được. Chúa đã ban cho chúng ta rất nhiều ơn, nhưng chúng ta không đón nhận. Bởi vì chúng ta mất tinh thần tuổi thơ: Một tinh thần nghèo khó thích đón nhận. Chúng ta trở thành tự mãn, như những ao hồ tự mãn, vì cái đầy tràn của mình. Nhưng cái đầy tràn ấy lại là cái đầy tràn nước đục, nước dơ. Hãy biết đón nhận Nước Trời như trẻ nhỏ. Đây là một đường hướng sống đạo, đang khởi dậy trong Hội Thánh một khí thế tươi mát, làm cho Hội Thánh được đổi mới.
Cách sống đạo này không đề cao những việc chúng ta làm cho Chúa, mà đề cao sự chúng ta đón nhận những việc Chúa làm cho ta. Tôi nhắc lại: Cách sống đạo này không đề cao những việc chúng ta làm cho Chúa mà đề cao sự chúng ta đón nhận những việc Chúa làm cho ta.
Hồi nãy, khi nghe anh chị em hát: “Thánh Thần Chúa sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng”, thì tôi nghe tiếng Chúa dạy tôi rằng: Tin Mừng mà Chúa muốn con loan báo, không phải là con kể ra những việc con làm cho Chúa, mà Tin Mừng là sự Chúa đã làm cho con, là những cái gì mình đón nhận được từ tay Chúa nhân lành.
Tôi mong rằng, hôm nay cũng sẽ qua đi, nhưng ít ra, Chúa đã dạy chúng ta một điều, một điều quan trọng là biết đón nhận nước Thiên Chúa và nước Thiên Chúa là tất cả ơn lành, những cái đúng, cái đẹp, cái hay, cái tốt do Chúa làm ra, là Đức Kitô đang đến. Nếu chúng ta biết đón nhận Nước Trời như vậy, một cách đơn sơ, khiêm tốn, hồn nhiên, thì Nước Trời sẽ đến với chúng ta, và khi chúng ta loan báo Tin Mừng, thì chúng ta loan báo Tin Mừng ấy. Chính tôi đã cảm nghiệm được ơn Chúa ban cho tôi. Tôi chỉ kể lại thôi. Tin Mừng tôi kể không phải là Tin Mừng trong sách, mà Tin Mừng chính tôi đã cảm được, chính Chúa đã làm nhiều sự lạ lùng trong tôi, và chính Tin Mừng đó mới có tính cách thuyết phục.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy cho chúng con biết đón nhận Nước Trời,như tinh thần tuổi thơ mà Chúa đã dạy. Amen.
Khi dâng thánh lễ tại nhà thờ Cái Đôi, cũng như tại các nhà thờ xung quanh đây, tôi đã gặp rất nhiều tâm hồn chân thành đạo đức. Và qua phụng vụ thánh lễ, cũng như qua những tiếp xúc cá nhân và cộng đoàn, tôi có cảm tưởng nơi đây đang được bao trùm bởi một bầu không khí thiêng liêng, chan hoà Phúc Âm, chan hoà đức tin, đức cậy và đức mến.
Cảm nghiệm trên đây cho phép tôi nghĩ rằng: Nơi đây, lời Chúa đang được thực hiện. Tôi nghĩ tới một lời Chúa phán trong bài Phúc Âm hôm nay. Lời đó thế này: “Chúa cùng hoạt động với các môn đệ của Người”. Nơi đây, tôi nhìn thấy Chúa cùng hoạt động với các linh mục. Tôi đang nhìn thấy Chúa cùng hoạt động với các tu sĩ, các tông đồ giáo dân. Tôi đang nhìn thấy Chúa cùng hoạt động với các phụ huynh, với các người có thiện chí, với các con em, trong gia đình, ngoài đời, trong nhà xứ, trong nhà thờ.
Chúa cùng hoạt động với anh chị em thế nào?
Tôi thấy Chúa cùng hoạt động với anh chị em bằng nhiều cách. ở đây, tôi chỉ nêu lên mấy việc cụ thể mà thôi.
Việc thứ nhất: Chúa đang hoạt động nơi anh chị em và Chúa giúp cho anh chị em đi vào nội tâm.
Thực vậy, những lễ nghi chúng ta đang làm, là những việc bề ngoài, lời kinh ta đọc, lời ca ta hát, cũng là những lời bề ngoài. Nhưng, qua những cái bề ngoài ấy, Chúa đã gieo vào tâm hồn ta những mầm non đức tin, Chúa đang thắp lên trong lòng ta những ngọn đèn hy vọng, Chúa đang nâng tâm hồn ta lên một cõi trời bao la. Nói tắt là, Chúa đang làm cho sức sống thiêng liêng ngấm sâu vào tâm hồn ta. Lời Chúa đang thấm vào ý tưởng của ta, cách suy nghĩ của ta, tâm tình của ta, ước muốn của ta. Sức sống của Thiên Chúa đang đổi mới chiều sâu tâm hồn của ta. Đó là việc thứ nhất tôi thấy Chúa đang hoạt động nơi anh chị em cách mãnh liệt.
Việc thứ hai: Chúa đang hoạt động nơi anh chị em, là giúp cho anh chị em mở rộng tầm nhìn.
Thực vậy, với đôi mắt thể xác, chúng ta chỉ nhìn thấy người ta, cây cối, nhà cửa, dòng sông, cánh đồng, trời xanh. Nhưng với đôi mắt đức tin, chúng ta đang nhìn thấy trời mới, đất mới. Chúng ta đang nhìn thấy trong ta có linh hồn thiêng liêng. Chúng ta đang nhìn thấy bên ta có Thiên Thần bản mệnh, có Đức Mẹ, có thánh Giuse, các thánh. Chúng ta đang nhìn thấy sau ranh giới sự chết có đời sau, có thưởng phạt, có Thiên Đàng, có Hỏa Ngục. Chúng ta đang nhìn thấy sau lớp vỏ công việc bề ngoài, có những giá trị siêu nhiên của nó. Sự vất vả anh chị em chịu đựng để hôm nay đến nhà thờ, bề ngoài, coi rất thường, nó là lớp vỏ, nhưng sau lớp vỏ ấy, có giá trị muôn đời. Chúa cân đo lòng mến của anh chị em, khi anh chị em làm những việc đó vì lòng mến Chúa, vì thương yêu con em của mình.
Rồi những chịu đựng, chúng ta làm để tha thứ cho nhau, để phục vụ lẫn nhau bề ngoài lớp vỏ đó tầm thường, nhưng Chúa đang giúp cho chúng ta thấy sau lớp vỏ đó, biết bao nhiêu là công phúc, nếu chúng ta biết tận dụng những công phúc đó, sẽ tạo nên cho chúng ta Nước trời. Nước trời đang đến, Nước Trời ở trong lòng ta. Và với cái nhìn xa và sâu như vậy, chúng ta mới hiểu lời Chúa phán xưa: “Được mọi sự thế gian này mà mất linh hồn mình, nào được ích gì?”. Bởi vì chúng ta nhìn thấy rất rõ, cái gì là cân bằng nhất, cái gì là đáng đợi chờ nhất.
Việc thứ ba: Chúa đang làm nơi anh chị em, là giúp cho anh chị em khám phá thấy những kho tàng quý báu.
Đối với người thường, kho tàng là vàng, là bạc, là tiền của, là lúa, là những đồ dùng. Nhưng, đối với người tin mến Chúa, kho tàng thiêng liêng nó khác nhiều lắm, kho tàng là lời Chúa, kho tàng là các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Kho tàng là con đường bác ái. Kho tàng là chính giây phút hiện tại. Ngay trong giây phút hiện tại này, đang có một kho tàng lớn lao, nếu biết tận dụng, kho tàng ấy sẽ là cái giá để giúp chúng ta về trời. Và kho tàng quý giá nhất chính là Đức Kitô. Có được Đức Kitô trong lòng mình, là có bình an, là có hạnh phúc, là có tình yêu vĩnh cửu.
Anh chị em thân mến.
Trong cuối bài chào mừng đọc trước thánh lễ hôn nay, vị đại diện của anh chị em đã cầu xin Chúa cho mọi người chúng ta được ơn biết cộng tác với Chúa. Tôi cũng đã hợp ý với anh chị em để xin Chúa cho chúng ta ơn cộng tác. Và Chúa cho tôi thấy rằng: Cách cộng tác mà Chúa muốn: Đó là hãy khiêm nhường và cậy trông, nhất là hãy biết tế nhị, đón nhận những gì Chúa gửi cho. Hãy biết đón nhận ý Chúa. Hãy biết đón nhận ánh sáng của Chúa. Hãy biết đón nhận sức mạnh của Chúa. Và nhất là hãy biết đón nhận Chúa. Mô hình cộng tác với Chúa đang diễn ra trong giây phút này: Các em chúng ta đang sẵn sàng chịu phép Thêm Sức. Hầu như các em không làm gì, ngoài sự đón nhận.
Cũng vậy, phương án cộng tác với Chúa, đó là chúng ta biết khiêm tốn đón nhận các việc Chúa làm cho ta, hơn là ta cố gắng làm các việc cho Chúa. Chúa muốn chúng ta cộng tác bằng cách đó. Hãy biết đón nhận những gì Chúa làm cho ta, nhất là theo gương Đức Mẹ biết đón nhận thánh ý Chúa muốn về ta.
Xin Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng, dẫn đưa và huấn luyện, thánh hóa, ban cho chúng ta hôm nay, biết dùng ơn Chúa ban mà đón nhận ơn Chúa vào lòng mình, để chúng ta biết khám phá thấy những giá trị mới, để chúng ta biết đón nhận trời mới, đất mới, để chúng ta biết sống hoàn toàn theo thánh ý Chúa. Trong giây phút hiện tại, để đúng như lời Chúa phán hôm nay: Chúa đang hoạt động giữa chúng ta. Chúa đang cùng hoạt động với chúng ta. Amen.
Cách đây ít năm, một tạp chí Công Giáo ở Pháp, có tung ra một cuộc thăm dò dư luận, về mô hình đạo đức. Câu hỏi được đặt ra là: Theo ý bạn, thế nào là con người đạo đức. Kết quả cho thấy: Phần đông nghĩ rằng: Con người đạo đức là con người biết sống có ích lợi cho kẻ khác. Con người đạo đức là con người biết cứu giúp kẻ khác một cách có hiệu quả.
Theo cách suy nghĩ trên đây, thì cái thước mà người thời nay dùng để đo lòng đạo đức, chính là tinh thần phục vụ và khả năng phục vụ.
Thiết tưởng cách suy nghĩ trên đây không mới mẻ gì. Ngay thời Chúa Giêsu, người ta cũng đã nghĩ như vậy, và xem ra Chúa cũng đã công nhận cách suy nghĩ đó là đúng đắn. Bằng chứng là bài Phúc Âm hôm nay. Tiệc cưới Cana hôm đó, là một dịp Chúa dùng để giới thiệu Đức Giêsu.
Vậy, Đức Giêsu đã được giới thiệu thế nào?
Thưa, qua phép lạ biến nước thành rượu, Chúa Giêsu được giới thiệu như một người có tinh thần phục vụ, có khả năng phục vụ. Một người biết sống ích lợi cho kẻ khác, một người biết cứu giúp kẻ khác một cách có hiệu quả. Cũng nhờ đức tính ấy mà Đức Kitô được dân chúng mến mộ, coi là một người có đạo đức thực sự, khác với kiểu đạo đức của Pharisêu xưa chỉ nặng về hình thức.
Cũng theo hình ảnh trên đây, Chúa Giêsu đã tự giới thiệu mình trong bài giảng đầu tiên tại hội đường. Người nói: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa lành những người bệnh tật, giải phóng cho các tù nhân, an ủi những kẻ ưu phiền.
Tôi thấy Đức Mẹ cũng suy nghĩ theo hướng ấy: Trong kinh tạ ơn của Đức Mẹ, ta thấy Đức Mẹ hoan hỉ vì được Thiên Chúa cứu độ nhìn đến mình.
Sở dĩ bây giờ, tôi chia sẻ với anh chị em mấy nhận xét trên đây, là vì tôi muốn anh chị em để ý nhiều hơn đến một cách sống đạo vừa hợp Phúc Âm, vừa hợp với tâm lý xã hội thời nay, đó là tinh thần phục vụ, khả năng phục vụ.
Nói đến phục vụ, tôi xin kể ra một vài hình thức mà tôi thấy được ở các họ đạo, trong địa phận chúng ta. Có nơi phục vụ là đổ công, đổ sức vào việc xây dựng các cơ sở như: nhà thờ, tháp chuông, nhà xứ, đài Đức Mẹ, đài các thánh. Có nơi phục vụ là tập trung thời giờ vào việc học giáo lý, đọc kinh, xem lễ. Có nơi phục vụ là góp phần nâng cao trình độ văn hóa và mở mang kinh tế địa phương. Có nơi phục vụ là ưu tiên đào tạo giới trẻ tại trường, tại nhà thờ, tại gia đình, để mỗi họ đạo, mỗi gia đình, có được những người nhiều khả năng phục vụ, giàu tinh thần phục vụ.
Tôi thấy các hình thức trên đây đều có lý do của nó. Nhưng, xét theo tình hình hiện nay của đất nước, thì cách phục vụ sau cùng là cần thiết hơn. Đó là đào tạo con người, đầu tư vào con người, để cho có nhiều người có tinh thần phục vụ, có khả năng phục vụ.
Cách đây mấy ngày, tôi theo dõi chương trình những bông hoa nhỏ trên truyền hình. Chương trình hôm đó là dạy cắm hoa. Tôi thấy rất nhiều hoa đẹp. Nhưng một điều làm tôi ngỡ ngàng đến ngã lòng, là tôi thấy tất cả những người trong lớp học cắm hoa, từ người dạy cho đến những người học, đều có một thái độ cằn cỗi, nghiêm nghị, lạnh lùng. Tôi nhìn khắp lớp mà không tìm được một nụ hoa trên ánh mắt, trên môi miệng, trên nét mặt của những người đang bắt hoa làm đẹp cho mình.
Cảnh tượng đó gợi cho tôi thấy rằng: Tinh thần phục vụ của Đức Kitô là rất đẹp, đẹp hơn tất cả những bông hoa đẹp nhất. Nhưng nếu chỉ đẹp trong sách, trên bàn thờ, trong thánh đường, mà không đi vào nội tâm ta, không thấm được vào tâm hồn ta, thì dù ta làm công việc phục vụ lớn lao đến mấy, chúng ta vẫn thiếu đi một vẻ đẹp sinh ơn cứu độ, có sức truyền giáo.
Vì vậy, điều quan trọng là chúng ta cần phải biết đón nhận tinh thần phục vụ của Đức Kitô. Có tinh thần ấy, dù chúng ta sống trong hoàn cảnh nào, dù chúng ta có tư bề bế tắc, chúng ta vẫn biết phục vụ Chúa, phục vụ các linh hồn, phục vụ Hội Thánh, phục vụ đất nước.
Giờ đây, chúng ta chuẩn bị đón nhận tinh thần của Đức Kitô. Chúng ta đón nhận Thánh Linh vào lòng, bằng sự chúng ta khiêm tốn cậy trông và khao khát đón chờ Thiên Chúa. Xin Đức Mẹ là quan thầy họ đạo chúng ta, dọn lòng chúng ta để chúng ta xứng đáng đón nhận Đức Kitô, Thánh Linh của Ngài. Amen. Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Chánh Tòa Long Xuyên, ngày 23-08-1992.
Sáng nay, trước khi đến Hòa Hưng, tôi đã hỏi thăm cha sở về tình hình họ đạo anh chị em, nhất là về tình hình đạo đức của các gia đình. Cha sở có cho tôi biết là hầu hết, các gia đình anh chị em đều sống trong bầu khí tinh thần gia giáo, sống tốt đối với nhau, sống tốt đối với xóm làng, sống tốt đối với Hội Thánh, sống tốt đối với đất nước. Và tinh thần gia giáo này đang được củng cố và phát triển, nhờ các lớp giáo lý và các bí tích.
Tôi nghĩ là cha sở đã nhận xét đúng. Nhiều cha gần đây cũng cho tôi những nhận xét tương tự. Khi nghe những nhận xét trên đây, tôi rất vui mừng. Và với cái nhìn của bài Phúc Âm hôm nay, tôi coi các gia đình của anh chị em là những cây đèn sáng, là những lượng muối tốt.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa đã mong muốn mọi người tin Ngài: Hãy trở nên cây đèn sáng, hãy trở nên muối tốt. Tôi thật sự vui mừng. Tôi lạc quan. Và tôi hy vọng nhiều trong tương lai của họ đạo.
Nhưng, sáng nay đang khi tôi vui mừng lạc quan và hy vọng, thì trời kéo mây. Thấy có nguy cơ mưa dọc đường nên chúng tôi tìm cách đối phó trước: Thay vì đi đò nhỏ không mui, chúng tôi đã đi đò lớn có mui. Và thực may cho chúng tôi là sau đó trời đổ mưa, gió lớn. Và suốt chặng đường từ Vị Thanh đến Hòa Hưng, xem ra cơn mưa lúc nào cũng theo dõi con đò của chúng tôi. Mặt dầu trong đò có mui, có che, mà nhiều khi mưa vẫn hắt, gió vẫn lùa. Nếu không có một sự chuẩn bị trước, chắc là tất cả chúng tôi đã bị mưa, và một số người sẽ bị bệnh.
Sự kiện tôi vừa nói đây, gợi cho tôi nghĩ rằng: Một tương lai nào đó gần đây, có thể sẽ có những nguy cơ đe dọa và tấn công nền đạo đức gia đình, lúc ấy anh chị em sẽ ra sao? Nếu mỗi gia đình anh chị em được ví như một con đò bơi trên dòng lịch sử, mà trên con dòng lịch sử ấy có những đoạn sông có nhiều giông gió, bấy giờ bao nhiêu con đò sẽ tan vỡ, bao nhiêu con đò sẽ phải chìm sâu, và còn được bao nhiêu con đò tới bến bình an, tới bến hạnh phúc, tới bến Thiên đàng?.
Tôi nói như vậy là vì thực sự nguy cơ tấn công nền đạo đức các gia đình đã xảy ra ở nhiều nước, ở nhiều nơi, và tại Việt Nam ta cũng đã bắt đầu thấy rồi.
Tối hôm qua, tôi đọc một tạp chí của Tòa Thánh mới xuất bản tháng 7 vừa qua. Trong đó có một mẫu tin khá quan trọng về tình hình gia đình của giáo phận Rôma, dưới quyền lãnh đạo của Đức Giáo Hoàng. Mẫu tin đó tóm tắt thế này:
Năm 1991, số hôn nhân chịu phép đạo trong nhà thờ là gần 14.000, còn số hôn nhân chỉ làm phép đời không phép đạo là gần 4.000. Cũng trong một năm số đơn xin ly dị gởi đến tòa đạo là hơn 6.000, và tòa đời mỗi tuần cho phép ly dị 200 đôi, nghĩa là cứ một ngày, tại giáo phận Rôma, tòa đời cho phép ly dị chừng 30 đôi, và như vậy trong một năm có khoảng 10.000 đôi hôn phối được ly dị. Như vậy 14.000 đôi làm phép trong nhà thờ cộng với 4.000 đôi kết hôn ở ngoài đời, không có phép đạo, nhưng số ly dị là 10.000 đôi.
Tôi không phê phán ai cả. Tôi chỉ muốn loan báo tại đây một tin mà chính Tòa Thánh đã loan đi một cách chính thức, để báo động rằng: Nguy cơ tấn công nền đạo đức gia đình là có thiệt. Sức mạnh tàn phá của nó là rất mạnh. Phạm vi tấn công của nó là rất rộng. Và hậu quả tàn phá của nó là rất tai hại.
Tôi nói như vậy, để chúng ta thấy trước mắt nguy cơ đối với nền đạo đức gia đình, nó còn lớn hơn nguy cơ đang đe dọa nền kinh tế chúng ta. Nền kinh tế chúng ta có thể sửa lại, không năm nay, năm tới. Nhưng một nền đạo đức gia đình đã bị tàn phá thì trong một năm, hai năm, mười năm, chưa chắc đã lấy lại được.
Và cái tin tôi vừa loan đi cũng để lưu ý chúng ta rằng: Trước mắt chúng ta, con người có đạo, cần phải nhận thức điều gì là ưu tiên chúng ta cần phải để ý. Chúng ta có thể góp phần vào việc phục vụ đất nước bằng phát triển kinh tế, nhưng khả năng chúng ta rất có hạn. Còn góp phần xây dựng đạo đức cho dân tộc mình là điều mà tôi nghĩ Hội Thánh Việt Nam phải nhận lấy trách nhiệm. Và trách nhiệm đó cần chia ra cho các địa phận, cho các xứ, cho các gia đình.
Tôi vẫn nghĩ rằng, nếu chúng ta nhận thức được sự quan trọng của gia đình, thì chúng ta mới thấy được sự Chúa gọi chúng ta để thánh hóa gia đình và chuẩn bị trước những cách đối phó sự tấn công những nguy cơ đang rình rập chúng ta.
Tôi nghĩ: Chúng ta cần phải khiêm tốn, để nhận thấy rằng, chúng ta chưa làm hết sức mình để phát triển nền đạo đức gia đình. Thánh Phêrô xưa tưởng rằng mình có đức tin mạnh, nên đã quả quyết với Chúa rằng: Những anh em khác, những chỗ khác, có bỏ Chúa thì mặc kệ họ, còn con không bao giờ như vậy. Thế rồi, chỉ mấy giờ sau, Phêrô đã sa ngã.
Chúng ta cũng không nên cho mình có một đức tin mạnh bằng thánh Phêrô. Nên điều chúng ta nên làm, không phải là tuyên hứa cho mạnh, là học cho kỹ, nhưng cần phải biết mình yếu đuối, để nội tâm hóa lời Chúa trong lòng mình, để Chúa sống trong lòng ta, để Chúa Thánh Thần trở nên sức mạnh và là ánh sáng soi đường, chỉ lối phòng khi nguy cơ tấn công đến, chúng ta biết phân biệt cái gì là bóng tối, cái gì là ánh sáng. Và chúng ta có sức mạnh để che chở nền đạo đức cho mình và cho gia đình mình, cho họ đạo của mình. Thánh Mônica mà Hội Thánh kính nhớ hôm nay đã sống như vậy. Nên Ngài đã bảo vệ và phát triển nền đạo đức gia đình. Nhìn lên cung thánh, tôi đã thấy tượng Thánh Gia. Hồi nãy tôi đã cầu xin Thánh Gia giúp cho họ đạo anh chị em biết củng cố và phát triển nền đạo đức gia đình. Bởi vì, tôi nghĩ rằng: Thế nào rồi cũng có thử thách, những thử thách rất lớn, mà nếu chúng ta không vững trong đức tin, mà nếu chúng ta không chọn Chúa làm gia nghiệp, mà nếu chúng ta không thấy Chúa là một Tin Mừng đối với chúng ta, thì khi gặp những chước cám dỗ ngọt ngào, chúng ta sẽ dễ bỏ Chúa, bỏ cha mẹ, bỏ trách nhiệm vợ chồng, con cái, để rồi gia đình tan vỡ, chìm xuống.
Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta được gặp Chúa hôm nay. Và xin Chúa ở lại trong lòng chúng ta, để luôn luôn Chúa là người hướng dẫn nền đạo đức cho chúng ta. Chỉ có Chúa là Đấng xây dựng nền đạo đức, chỉ có Chúa là Đấng thấy trước được một tương lai có nhiều nguy hiểm đang chờ đợi chúng ta.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến với chúng con. Amen.
Đêm vừa qua, tôi đã thức dậy thật sớm, và trong thinh lặng mênh mông của đồng quê, tôi đã tâm sự với Chúa về tình hình địa phương này.
Tôi nhìn vào họ đạo Trảng Tranh. Tôi nhìn về các họ đạo chung quanh. Và tôi thấy một điều này rất rõ: Đó là hoạt động của Chúa Thánh Linh tại địa phương này đang mang tính cách thời sự.
Đây là một bản tin thời sự. Bản tin thời sự có nghĩa là một bản tin không thuộc về chuyện thời xưa đã qua rồi, mà là một bản tin đang xảy ra thời nay, trong những tháng ngày hiện tại. Một bản tin thời sự là một bản tin có thể quan sát được, có thể kiểm chứng được, có thể cảm nghiệm được. Hoạt động của Chúa Thánh Linh trong vùng này, tại đây, đang là một bản tin thời sự. Nó có tính cách thời sự ở những điểm sau đây:
Một là Chúa Thánh Linh đang biến đổi các tâm hồn một cách mạnh mẽ, trong những phương diện khác nhau, và trong một phạm vi rộng lớn.
Tôi nhận thấy sự biến đổi tâm hồn qua thái độ nhiều người đối với Hội Thánh, đối với bí tích, đối với lời Chúa. Thái độ của anh chị em và thái độ của những người trong địa phương này, đối với Hội Thánh, đối với bí tích, đối với lời Chúa, càng ngày càng tích cực hơn, trân trọng hơn, mộ mến hơn.
Tôi cũng nhận thấy sự biến đổi các tâm hồn qua cách anh chị em đánh giá các giá trị. Trước đây, nhiều người coi của cải, quyền lực, là mục đích cuộc sống, nhưng bây giờ, biết bao nhiêu người đã đổi cách suy nghĩ, nhận thấy của cải quyền lực chỉ là những giá trị mong manh, và phải đi xa nữa, đi tới cùng, để nhận thấy hạnh phúc sau cùng là ở kiếp sau, là ở nơi Thiên Chúa.
Rồi tôi cũng nhận thấy thái độ biến đổi tâm hồn của anh chị em, với nhiều người trong địa phương này là ở sự chán nản, với những hình thức bề ngoài trống rỗng, để rồi đi tìm những cái gì là căn cơ nhất, cái gì là mục đích nhất của đời mình. Tâm hồn đang biến đổi sâu sắc, đó là một bản tin thời sự mà Chúa Thánh Thần đang viết ra trong địa phương này, trong họ đạo chúng ta.
Một bản tin khác có tính cách thời sự về Chúa Thánh Linh, là sự Chúa Thánh Linh đang đi vào các tâm hồn qua những ngày khác nhau, do Ngài chủ động, do Ngài sáng kiến.
Trước đây, nhiều người cứ nghĩ rằng: Chúa Thánh Linh đến với con người phải qua con đường này, phải qua con đường khác, nhất định rồi. Nhưng, nay qua kinh nghiệm đời sống, chúng ta thấy Chúa Thánh Linh đi vào các tâm hồn qua những ngã rất khác nhau, một cách bất ngờ.
Thí dụ: Qua một bài hát, Chúa Thánh Linh có thể đi vào một trái tim, để nâng tâm hồn họ lên. Qua gương sáng một người không Công Giáo, Chúa Thánh Linh có thể đi vào một họ đạo, để nhắc nhở những điều răn căn bản nhất cho những người tin theo Chúa. Rồi qua những thất bại, mất mát, Chúa Thánh Linh đi vào con người để giúp họ trưởng thành hơn. Rồi qua những giá trị nhân bản, Chúa Thánh Linh đã đi vào nhiều tâm hồn để họ nhận ra sự tươi mát của nước trời. Và từ đó,họ khát khao gặp được Thiên Chúa tình yêu. Chúa là gió, mà gió thì có thể lách qua bất cứ một khe hở nào. Người ta cũng gọi Chúa Thánh Thần là nước. Nước không nhất định phải trôi qua các dòng sông, những kinh đào, mà có thể thấm được vào bất cứ đâu. Chúa Thánh Thần đang đi vào chiều sâu các tâm hồn, qua những ngã Ngài chủ động, Ngài sáng kiến. Đó là một bản tin thời sự mà Chúa Thánh Thần đang viết ra, trong địa phương chúng ta, trong họ đạo chúng ta.
Một bản tin khác có tính cách thời sự về Chúa Thánh Thần là Chúa Thánh Thần đang loan báo Tin Mừng cho những người nghèo. Và dùng các người nghèo để đánh thức những ai an thân, an phận.
Tôi đã đi nhiều nơi, đã quan sát nhiều họ đạo, thì có thể thấy rằng sự sống Phúc Âm đang nảy sinh phong phú từ những họ đạo bé nhỏ, nghèo hèn. Và những người có lòng tốt, tích cực giúp cho sự phát triển Hội Thánh, phần đông lại là những người nghèo, những người có tinh thần nghèo khó Phúc Âm.
Tối hôm qua, tôi có đọc tiếp một cuốn sách, tác giả là một người đàn bà. Bà có chồng, có con, có cháu. Sách của bà viết ra đang được nhiều người mộ mến, ở bên Pháp và ở Âu châu. Bà đã được mời giảng phòng cho các Giám Mục và linh mục. Tôi đọc sách của bà, thấy bà không nói gì về lý thuyết, mà chỉ kể lại kinh nghiệm nội tâm của mình: Đơn sơ sâu sắc, chân thành mà phong phú.
Khi tôi đọc sách của bà mẹ ấy, tôi nghĩ tới các bà mẹ Việt Nam, các người cha trong gia đình. Những bà mẹ, những người cha này, không viết thành sách nhưng đang viết những trang đạo đức trên đời sống con cháu mình. Và từ đó, tôi thấy đúng là Chúa Thánh Linh đang đến với những con người nghèo khó, và đang dùng những con người có tinh thần nghèo khó Phúc Âm, để đem lại luồng gió mùa xuân thiêng liêng cho Hội Thánh.
Anh chị em thân mến.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã nói: Hạnh phúc cho những con mắt được nhìn thấy những sự chúng con đang thấy. Tôi đang thấy những sự lạ Chúa Thánh Thần làm. Anh chị em cũng đang thấy những sự Chúa Thánh Thần làm trong bản thân mình, trong gia đình mình, trong họ đạo mình, trong địa phương mình. Tôi nghĩ đây là một dịp để cảm tạ Thiên Chúa. Và điều phải kết luận là: Chúng ta phải biết đón nhận những việc Chúa Thánh Linh đang làm cho chúng ta.
Nhiều khi chúng ta tưởng rằng, những việc chúng ta làm cho Chúa là rất quan trọng. Nhưng theo tinh thần những điều tôi vừa nói lúc nãy, điều quan trọng hơn chính là biết đón nhận những việc Chúa đang làm cho ta, chứ không phải những việc ta cố gắng làm cho Chúa. Thái độ nội tâm khiêm tốn khó nghèo như vậy, sẽ là một thửa đất mà Chúa Thánh Thần đang mong muốn nơi ta, để Ngài có thể hoạt động một cách tự do. Từ đó hoạt động của Chúa Thánh Thần sẽ đem lại luồng gió mới, có thể làm cho Hội Thánh Việt nam, đất nước Việt nam, trở thành một lễ Chúa Thánh Thần mới.
Chúng ta chẳng là gì đâu. Công việc của chúng ta cũng chẳng là gì đâu. Nhưng nếu chúng ta để Chúa Thánh Thần làm việc trong bản thân ta, thì kết quả sẽ tuyệt vời. Bởi vì Ngài, là Đấng tạo dựng. Ngài, là Đấng sai ta đi. Ngài, là Đấng làm cho mùa xuân Hội Thánh được thánh hóa theo thánh ý Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Chúa sai chúng con đi trong tinh thần biết vâng phục sự soi sáng hướng dẫn của Chúa, để chúng con biết cộng tác, đón nhận những gì Chúa muốn làm nơi chúng con. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay gọi Chúa Thánh Thần là Đấng sẽ đến.
Chúng ta biết Chúa Thánh Thần đã đến rồi. Ngài đến với Hội Thánh qua các thánh tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần. Sách Tông Đồ Công Vụ đã chép rất rõ. Người ta gọi sự Chúa Thánh Thần đến ngày hôm đó là một biến cố lớn về Chúa Thánh Linh. Biến cố đó có hai nét đặc biệt.
Thứ nhất, cách Chúa Thánh Thần đến là rất bất ngờ. Thứ hai mục đích Chúa Thánh Thần đến là sẽ đổi mới con người. Biến cố đó gọi là biến cố chính, biến cố căn bản, để rồi từ đó những biến cố nào xảy ra mà có hai nét đặc biệt ấy thì sẽ gọi là những biến cố nhỏ về Chúa Thánh Linh.
Những biến cố nhỏ về Chúa Thánh Linh, đã được xảy ra thời các thánh tông đồ:
Chẳng hạn như khi thánh Phêrô và thánh Gioan cầu nguyện, đặt tay trên nhóm người của xứ Samaria, thì Chúa Thánh Thần ngự xuống trên họ.
Rồi thí dụ khi thánh Phaolô cầu nguyện và đặt tay trên nhóm người của thành Êphêsô, thì Chúa Thánh Thần đến với nhóm người đó.
Đặc biệt là trường hợp ông Cornêliô và gia đình ông ở Sésaria. Họ là những người ngoại giáo. Đang khi họ nghe thánh Phêrô giảng, tuy chưa chịu phép Rửa Tội, nhưng Chúa Thánh Thần cũng ngự xuống trên họ.
Trong ba trường hợp trên đây đều có hai nét đặc biệt của Chúa Thánh Linh: Một là Ngài đến một cách bất ngờ. Hai là Ngài đến đổi mới con người.
Sau thời các thánh tông đồ, các biến cố nhỏ về Chúa Thánh Linh vẫn thường xuyên xảy ra trong Hội Thánh: Có nơi, có trường hợp thì âm thầm, khó nhận thấy được. Có nơi, có trường hợp thì tỏ rõ, dễ nhận thấy được.
Riêng tôi, khi theo dõi các họ đạo trong địa phận Long Xuyên chúng ta, thì tôi thấy những biến cố nhỏ về Chúa Thánh Linh, thì rất nhiều và rất rõ. Bởi vì tôi thấy có những đổi mới vừa sâu vừa rộng, sâu là vì có những đổi mới trong các tâm hồn.
Thí dụ: Bây giờ những người tin Chúa quan tâm nhiều hơn đến Đức Kitô là trung tâm đức tin. Bây giờ những người tin Chúa quan tâm nhiều hơn đến Lời Chúa là lương thực sự sống. Bây giờ, những người tin Chúa quan tâm nhiều hơn đến đức bác ái, là điều răn trọng nhất của Phúc Âm. Rồi bây giờ, những người tin Chúa quan tâm nhiều hơn đến việc truyền giáo là nhiệm vụ quan trọng của ơn Thêm Sức và Rửa Tội. Đúng là có những chuyển biến quan trọng, sâu sắc trong tâm hồn những người tin Chúa mà tôi nhận thấy trong các họ đạo.
Ngoài ra, còn có những đổi mới về phạm vi rộng, nghĩa là trong nhiều lãnh vực khác nhau:
Thí dụ, chúng ta quan tâm nhiều hơn, đến những giá trị trần thế, như cái hay cái đẹp trong phụng vụ, trong thánh đường, trong xử thế. Chúng ta quan tâm nhiều hơn đến việc xây dựng tình đoàn kết đời đạo. Chúng ta quan tâm nhiều hơn đến việc nâng cao trình độ văn hóa của con em. Những phương diện, những lãnh vực trước kia, nhiều người cho là không thuộc về đạo, nay chúng ta quan tâm nhiều hơn, để ý nhiều hơn. Đúng là Chúa Thánh Linh, đang đổi mới nhiều lãnh vực.
Lúc nãy khi nghe những gì ông đại diện họ đạo nói lên và theo những gì tôi nhận thấy, thì đúng là họ đạo chúng ta cũng đang đi trên con đường đổi mới vừa sâu vừa rộng. Dựa theo những cách đổi mới ấy, tôi chỉ có thể kết luận được rằng: Chúa Thánh Linh đang đến trong các họ đạo nói chung, và đang đến với họ đạo Vàm Cống chúng ta nói riêng.
Nhưng ở đây có một điều tôi muốn nhấn mạnh trong vấn đề đổi mới. Đó là câu thánh Phaolô nói: Chúng ta được cứu rỗi không nhờ những việc chúng ta đã thực hiện, mà nhờ lòng thương xót Chúa, do sự tái sinh và đổi mới mà Chúa Thánh Linh thực hiện.
Như vậy, có nghĩa là điều quan trọng mà chúng ta cần phải làm, là biết đón nhận ơn Chúa Thánh Linh, để Chúa Thánh Linh tái sinh chúng ta trong ơn thánh và Chúa Thánh Linh đổi mới chúng ta theo thánh ý của Ngài. Chúng ta không nên thánh, không được cứu độ bởi việc chúng ta thực hiện, mà do lòng thương xót Chúa nhờ sự tái sinh và đổi mới mà Chúa Thánh Linh thực hiện.
Anh chị em thân mến.
Với cái nhìn trên đây, tôi nhìn anh chị em là một hy vọng của tôi. Tôi nhìn họ đạo Vàm Cống đây, là một hy vọng của địa phận Long Xuyên. Tôi đặt hy vọng này vào trái tim giàu lòng thương xót Chúa. Chúng ta muốn rất nhiều điều tốt, nhưng khả năng chúng ta rất giới hạn. Chúng ta là những con người yếu đuối. Chúng ta muốn đổi mới họ đạo, đổi mới chính mình. Nhưng, khi nghe lời thánh Phaolô nói, chúng ta mới thấy rằng: Mọi sự phải nhờ vào lòng thương xót Chúa. Xin Chúa Thánh Linh đổi mới và tái sinh chúng ta trong ơn thánh.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin cho chúng ta, cho con em chúng ta được khiêm tốn, được có sự khó nghèo nội tâm, và có sự khát khao ơn Chúa Thánh Thần, để đáng Chúa Thánh Thần đến và đổi mới chúng ta, làm cho lễ hôm nay trở nên một biến cố nhỏ: Đổi mới họ đạo, đổi mới bản thân chúng ta. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Vàm Cống (Cầu Bắc), ngày 30-08-1992
Qua bài Phúc Âm hôm nay, tôi đoán được rằng Đức Mẹ cũng đã bị cám dỗ. Phải nói ngay rằng: Đây là cơn cám dỗ của trái tim người mẹ. Đầu cuối thế này:
Trong thời gian Chúa Giêsu đi giảng, Đức Mẹ không đi theo, nhưng vẫn theo dõi con qua tin tức. Đức Mẹ biết con mình được mộ mến, nhưng cũng bị chống đối.
Điều làm cho Đức Mẹ đau lòng, đó là trong bà con thân thuộc, cũng không thiếu kẻ nghi ngờ con mình. Thánh Gioan tông đồ đã viết: “Các anh em Ngài, cũng không tin Ngài” (Gioan 7,5).
Còn thánh Marcô trong đoạn 3 này, đã kể lại chi tiết sau đây: “Chúa và các môn đệ trở về nhà, dân chúng lại kéo tới, làm Chúa và các môn đệ không thể dùng bữa được. Các thân nhân của Chúa nghe biết, thì đến canh giữ Chúa, vì có kẻ nói với họ rằng: Ngài đã mất trí” (Mc 3,20-21). Cũng trong đoạn 3 này, thánh Marcô còn phản ánh một dư luận tệ hại khác. Đó là có kẻ cho rằng: Đức Kitô bị tà thần ám (Mc 3,30).
Tất cả dư luận trên đều đến tai Đức Mẹ. Là một người mẹ, Đức Maria không thể nào không đau buồn, xót xa, lo lắng. Vì thế, Đức Mẹ cùng với mấy người thân lên đường, đi tìm gặp Chúa Giêsu. Mục đích là để thăm hỏi Ngài, và nhất là để bảo vệ Ngài khỏi kẻ xấu xúc phạm, và cũng để bảo vệ Ngài khỏi những nhiệt tình hăng say có vẻ đang lên quá của chính Ngài.
Như vậy, việc làm của Đức Mẹ là rất trong sáng. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nhìn xa hơn. Ngài hướng về Đức Mẹ và các người thân, mà nói: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, kẻ ấy là anh em Ta và là mẹ Ta” (Mc 3,35).
Với lời trên đây, Đức Kitô đã nhắc cho Đức Mẹ một điều quan trọng nhất của tu đức và của truyền giáo. Ngài xác định rõ: Điều quan trọng không phải chỉ là mến Chúa, cũng không phải chỉ là yêu người, mà chính là mến Chúa yêu người theo thánh ý Thiên Chúa. Phải cố gắng vượt mọi trở ngại trong ngoài, kể cả những tình cảm trong sáng nhất, để tuân theo ý Chúa.
Điều quan trọng ấy đã được Đức Kitô nói cho Đức Mẹ và thánh Giuse rõ tại đền thờ Giêrusalem, lúc Ngài 12 tuổi: “Cha mẹ không biết rằng con phải làm công việc theo ý Cha con sao?” (Luca 2,49).
Điều quan trọng ấy cũng đã được Đức Kitô nhắc lại một lần khác. Khi có người khen Đức Mẹ: Phúc thay lòng dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú, thì Đức Kitô đã đáp lại rằng: “Kẻ nghe lời Thiên Chúa và vâng lời Thiên Chúa sẽ có phúc hơn” (Lc 11,28).
Điều quan trọng ấy cũng đã được chính Đức Mẹ nói lên trong ngày Truyền Tin: “Tôi là tôi tá Thiên Chúa. Tôi xin vâng lời thiên sứ truyền” (Lc 1,38). Tới đây tôi hiểu cái đáng làm cho ta vui mừng không phải là thành công nọ, hy sinh kia, cũng không phải chức vụ này, việc làm kia, nhưng chính là tuân theo thánh ý Chúa.
Tới đây, tôi cũng hiểu rằng cái nhà của một người tu, cái địa điểm của một nhà truyền giáo, không phải là chỗ này, nơi nọ, nhưng chính là thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa là nhà của người tu. Thánh ý Chúa là địa chỉ của người truyền giáo.
Hành trình đời tu, và đời truyền giáo của ta cũng giống hành trình đức tin của Đức Mẹ. Dù tới tuổi nào, người tu, người truyền giáo, vẫn cần được thanh luyện, để đức tin của ta được trưởng thành hơn. Sự thanh luyện không chỉ nhắm vào sự từ bỏ các tội lỗi và các nết xấu, mà còn nhắm vào sự từ bỏ cái tôi cũ kỹ với các ý riêng hẹp hòi, mặc dầu ý riêng đó là để bảo vệ Chúa, là để phục vụ con người. Sự thanh luyện là rất cần trên con đường vâng theo thánh ý Chúa. Nhờ đó, khi tâm hồn ta được tự do đối với các áp lực trong ngoài, ta sẽ dễ dàng để thánh ý Chúa sử dụng ta. Và lúc đó, ta sẽ là một lễ hiến dâng đầy ý nghĩa.
Trong thánh lễ hôm nay, nhiều chị em sẽ nhìn về hành trình đời tu của mình. Có quãng đường đã qua. Có quãng đường đang đi. Có quãng đường sẽ tới. Bất cứ trên quãng đường nào, người tu luôn làm chứng rằng: Vâng theo thánh ý Chúa, đó là bí quyết nên thánh. Vâng theo thánh ý Chúa, đó là nguồn bình an và hạnh phúc. Vâng theo thánh ý Chúa, đó là cách phục vụ con người và mến Chúa một cách hữu hiệu, đẹp lòng Chúa nhất.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì thánh ý Chúa đã và đang thực hiện nơi các nữ tu của Chúa đây. Con cảm tạ Chúa, vì sự chị em vâng phục thánh ý Chúa đang là một luồng sinh khí thiêng liêng giúp thánh hóa nhà dòng và cải thiện thế gian.
Tu Viện Chúa Quan Phòng Cù-Lao-Giêng, ngày 07-09-1992
Đọc Kinh Thánh tôi thấy, trước ngày lễ Ngũ Tuần, Đức Mẹ và các tông đồ đã sống ơn nghĩa của Chúa Thánh Thần.
Có nhiều điều trong Kinh Thánh làm chứng điều đó, chẳng hạn: Sự Đức Mẹ chịu thai Chúa Cứu Thế, thì việc đó là việc do Chúa Thánh Thần làm. Rồi sự thánh Phêrô tuyên xưng Đức Kitô là Chúa Cứu Thế, con Thiên Chúa hằng sống, thì sự tuyên xưng ấy là do Chúa Thánh Thần soi sáng, mà bấy giờ chưa có lễ Ngũ Tuần.
Vậy, nếu Đức Mẹ và các thánh tông đồ đã có ơn Chúa Thánh Linh từ lâu rồi, thì biến cố ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống sau đó, phải hiểu thế nào?
Thưa, theo tôi hiểu, lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần là một biến cố mang tính cách Hội Thánh, nó là một biến cố dành chung cho Hội Thánh, trước khi được chia sẻ cho các thành phần dân Chúa.
Theo sách Tông Đồ Công Vụ mà chúng ta vừa nghe lúc nãy, thì: Đang khi Đức Mẹ và các tông đồ tụ họp nhau trong căn phòng kín, thì Chúa Thánh Thần đến. Bắt đầu, Ngài đến như một luồng gió mạnh, tràn đầy vào căn nhà. Rồi tiếp đó, Chúa Thánh Thần mới hiện xuống trên từng người đang tham dự cầu nguyện trong nhà đó.
Những lời thuật lại trên đây cho phép tôi nghĩ rằng: Hôm đó, Chúa Thánh Thần đến với tính cách thánh hóa Hội Thánh. Ngài tràn đầy căn phòng các tông đồ đang tụ họp. Rồi sau đó, mới chia sẻ ơn của Ngài cho từng người đang có mặt trong căn phòng đó. Tôi nhìn căn phòng, đó là hình ảnh của Hội Thánh nói chung. Hội Thánh nhận được ơn của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần đổ ơn của Ngài vào Hội Thánh, như để trong một kho tàng. Người ta muốn đón nhận một số ơn Chúa Thánh Thần, thì phải đến với kho tàng đó. Hội Thánh là nơi Chúa chờ đợi để ban phát ơn của Ngài. Tôi cũng hiểu căn phòng đó, căn phòng mà các tông đồ tụ họp lại để cầu nguyện, là những cộng đoàn cầu nguyện, như các họ đạo, như các gia đình cầu nguyện, như các cuộc cấm phòng, như các cuộc hội thảo mục vụ. Đó là những tế bào của Hội Thánh. Chúa Thánh Thần ngự đến cách chung, tràn đầy vào bầu khí đó những ơn riêng của Ngài. Ai muốn lãnh nhận một số ơn riêng của Ngài, thì phải đến tham dự, sinh hoạt, những nơi như vậy. Vì đó là nơi mà Ngài đã chọn để ban phát ơn riêng của Ngài.
Những suy nghĩ trên đây của tôi, không phải dựa trên những lý luận tự nhiên mà thôi, nhưng nhất là dựa theo một số kinh nghiệm. Kinh nghiệm cho tôi thấy rằng: Có những ơn tôi chỉ nhận được khi tôi gắn bó tích cực, mật thiết với Hội Thánh. Có những ơn tôi chỉ nhận được, khi tôi tích cực tham dự những cuộc hội thảo chung về mục vụ, khi tôi tích cực và khiêm tốn tham dự, những cuộc cấm phòng chung, khi tôi tích cực và khiêm tốn tham dự những thánh lễ cộng đoàn, những buổi cầu nguyện chung, những tổ chức từ thiện của từng nhóm. Và tôi cũng kinh nghiệm rằng: Chúa thường khước từ một số ơn của Ngài, cho những ai không biết giá trị của Hội Thánh nói chung, và của những tế bào nhỏ của Hội Thánh nói riêng. Đó là sự quy tụ lại, nhân danh Thiên Chúa mà làm việc đạo đức.
Với những nhận xét trên đây, tôi hiểu rằng: Khi chúng ta tụ họp lại để cầu nguyện, để bàn luận về việc mở rộng Nước Chúa, thì bao giờ Chúa cũng đến, cách này hay cách khác. Làm cho bầu khí chung trở nên sốt sắng, để rồi từ đó, phân phát, chia sẻ sang những người tham dự. Có những ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn sức mạnh, ơn hiệp nhất, ơn chữa lành nội tâm, Chúa chỉ ban cho những ai khiêm tốn đến tham dự những buổi cầu nguyện chung như vậy.
Với những nhận xét trên đây, khi nhìn họ đạo anh chị em, tôi thấy nhà thờ này là nơi anh chị em thường xuyên đến tham dự thánh lễ, đến tham dự những buổi cầu nguyện và học hỏi lời Chúa. Chẳng hạn, cuộc lễ hôm nay đầy sốt sắng, trang nghiêm, trật tự, tôi rất vui mừng, vì tôi biết chắc Chúa Thánh Thần đến giữa anh chị em. Và nhà thờ này sẽ trở nên như bầu khí thiêng liêng mang sinh khí có khả năng đổi mới, để rồi bầu khí nhà thờ này sẽ đốt lên những ngọn đèn đức tin, đức mến trong các gia đình họ đạo. Và trở nên một nơi tỏa sáng ra đức tin và uy danh Hội Thánh cho những người lương dân chung quanh. Rồi khi tôi nhìn các gia đình tại họ đạo này, sớm tối đọc kinh chung, thì tôi cũng chắc rằng Chúa Thánh Thần đến với những gia đình đó. Và khi Chúa Thánh Thần ở trong các gia đình đó vì họ đọc kinh chung, thì bầu khí gia đình sẽ được dần dần thánh hóa, đổi mới. Đức tin của cha mẹ sẽ như muối ướp mặn linh hồn con cháu mình, và từ đó nếp sống đạo dần dần được vững chắc, dần dần được đổi mới. Nó đi từ cái chung rồi đến cái riêng.
Vì có những nhận thức như vậy, nên trong thánh lễ hôm nay, tôi cầu xin Chúa cách riêng cho họ đạo anh chị em nói chung, và từng gia đình anh chị em nói riêng, được trở nên những căn nhà, giống như căn nhà mà tông đồ xưa đã tụ họp lại để cầu nguyện. Những căn nhà ấy sẽ được Chúa Thánh Thần, như làn gió mạnh thổi tràn vào, rồi từ đó sẽ chia sẻ ơn của Ngài cho những cá nhân chung quanh.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến trong chúng con. Chúng con có mặt nơi đây là để đón nhận Chúa đến thăm chúng con. Chúng con biết Chúa đến trong Hội Thánh. Chúa đến trong cộng đoàn. Vì thế, chúng con là những cá nhân khiêm tốn, khi tham dự thánh lễ này với tâm hồn khiêm tốn và biết đón nhận mọi ơn Chúa dành cho chúng con. Amen.
Chiều hôm qua, một người rất nghèo, từ xa đến thăm tôi. Tôi biết người đó là một gia đình đông đảo. Người đó đã từ rất lâu sống trong cảnh thiếu thốn cùng cực.
Và tôi cũng biết rằng mọi người trong gia đình ấy, dù trong hoàn cảnh bi đát nhất, vẫn giữ trọn niềm tin đối với Chúa, và luôn giữ được nề nếp đạo đức trong ngoài mẫu mực. Gặp họ, tôi đã cảm tạ Chúa. Và tôi nghĩ rằng, trước mặt Chúa, những người nghèo này có rất nhiều công, và họ sẽ được thưởng công rất lớn.
Cũng chiều hôm qua, tôi đi thăm một cụ già bệnh tật. Cụ sống cô đơn trong một căn nhà tương đối vừa phải, trên một thửa đất tương đối rộng. Khi cụ già bệnh tật này nghe tin nhà thờ chúng tôi cần có một nơi để mở lớp tình thương cho những em thất học, thì cụ đã bán nhà và đất của cụ cho nhà thờ, với một giá tương đối rẻ, như vừa bán, vừa dâng. Gặp cụ, tôi đã cảm tạ Chúa. Và tôi nghĩ rằng, trước mặt Chúa, cụ già bệnh tật này có một trái tim chan hòa Đức Ái, đang gây nên những hậu quả truyền giáo tốt đẹp, mà nhiều người khác đã không làm.
Rồi cũng chiều hôm qua, tôi đến thăm một xóm nghèo. Dân ở đây đều là dân làm ngày nào ăn ngày ấy, nhưng họ có một đời sống tình nghĩa với nhau. Đối với họ, chia sẻ vui buồn là sinh hoạt thường ngày của họ. Gặp họ, tôi đã cảm tạ Chúa, cái nếp sống tình nghĩa chia sẻ của xóm nghèo, nó còn đẹp hơn cảnh văn minh của xóm giầu mà thiếu bác ái.
Như vậy, có nghĩa là tôi đã gặp được phần nào Thiên Chúa trong những người nghèo và trong những bệnh tật ốm đau. Tôi cảm thấy Chúa ở trong họ. Tôi cảm thấy họ là những người không có tiền, không có của để cho, nhưng họ vẫn có khả năng cho đi rất nhiều: Cho đi những cái mà những người giầu nhiều khi không cho được. Họ đã cho đi những giá trị thiêng liêng cao quí. Tôi cảm tạ Chúa, vì họ được Chúa thương rất nhiều.
Hôm nay, giờ đây, tôi đến với anh chị em cũng với một cái nhìn như vậy. Tôi nhìn anh chị em, là những người nghèo. Chưa ai trong anh chị em đáng gọi là người giầu. Tuy anh chị em nghèo của cải, nhưng tôi biết tấm lòng của anh chị em là rất tốt. Cái điều mà tôi cho là tốt nhất nơi anh chị em, không phải là tiền bạc anh chị em đã dâng cúng để làm đài, làm tháp, mua chuông, chỉnh trang nhà thờ, mà cái tốt nhất nơi anh chị em, chính là niềm tin của anh chị em đặt nơi Thiên Chúa. Và cái điều tôi mừng nhất nơi anh chị em, cũng không phải sự là anh chị em hôm nay có đài mới, có chuông mới, có tháp mới, mà là sự anh chị em được Chúa yêu thương. Tôi biết chắc anh chị em là những người được Chúa yêu thương. Cái dấu chỉ đầu tiên đáng mừng nhất nơi những người Chúa yêu thương là Đức Kitô cầu nguyện cho họ.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho chúng ta, cho tôi, cho anh chị em. Chúa nói với Đức Chúa Cha rằng: “Con không cầu xin cho những tông đồ của con mà thôi, mà con còn cầu xin cho tất cả những ai nghe lời các tông đồ của con mà tin vào con”. Đó chính là anh chị em, những người tin vào Chúa. Ai được Chúa Kitô cầu nguyện cho, đó là một ơn phúc lớn lao vô cùng. Mà kẻ Chúa Kitô đã cầu nguyện cho, chắc chắn sẽ được muôn vàn ơn phúc. Bởi vì, Chúa Cha không thể từ chối lời cầu xin của Đức Kitô.
Anh chị em được Chúa yêu thương, bởi vì, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa đã nói: Những kẻ Chúa chọn, thì Chúa đến và ở lại nơi người đó. Chúa nói với Đức Chúa Cha: “Tình Cha thương con sẽ ở nơi chúng, và con cũng sẽ ở nơi chúng nữa”. Có nghĩa là, anh chị em, những người tin vào Chúa, được Chúa chọn làm như nơi Chúa ở lại, làm những việc gì Chúa dừng lại, làm như chốn Chúa tìm được an ủi. Tôi nghĩ đó là niềm vui nhất cho chúng ta.
Và sau cùng, được Chúa yêu thương còn đi tới một cái hạnh phúc lớn lao nữa, mà Chúa đã nói trong bài Phúc Âm hôm nay: “Lạy Cha, con ở đâu thì con muốn những kẻ tin con cũng sẽ ở đó với con”. Có nghĩa là, Chúa Giêsu sẽ đem tất cả chúng ta những người tin vào Chúa, về Thiên Đàng, để cùng với Chúa chiêm ngưỡng vinh quang của Người.
Trên đây là những lời Chúa Giêsu nói. Tôi rất tin vào lời Chúa. Tôi càng rất tin vào lòng thương xót Chúa. Được Chúa yêu thương, đó là đủ cho tôi rồi. Vì thế, khi tạ ơn Chúa. Tôi không hề xin một ơn nào cả. Tôi càng không trình bày, danh sách những ước nguyện của tôi lên Chúa. Bởi vì tôi biết Chúa thương tôi. Bởi vì tôi biết Chúa thương chúng ta. Tôi cảm tạ Chúa là tôi ca ngợi lòng thương xót Chúa. Tôi tạ ơn Chúa, là tôi nghỉ ngơi trong lòng thương xót Chúa. Tôi tạ ơn Chúa, là tôi cậy tin phó thác mọi sự tuyệt đối nơi lòng thương xót Chúa.
Tôi nghĩ rằng, Chúa muốn chúng ta không phải cứ đợi gần chết mới tìm nơi an nghỉ trong Chúa, mà Chúa muốn chúng ta ngay bây giờ, trong giây phút hiện tại, hãy nghỉ ngơi trong Chúa, nghỉ ngơi trong lòng thương xót Chúa.
Anh chị em cũng như tôi, chúng ta biết rằng: Đài kia, cây tháp kia, rồi cũng sẽ cũ đi. Và có một lúc không tồn tại, thì luôn là nơi mới mẻ.
Lúc nãy, ca đoàn hát lên: Con ca ngợi lòng thương xót Chúa. Khi nghe ca đoàn hát câu ấy, tôi đã thầm nói với Chúa rằng: Không phải giờ đây, trong lúc vui mừng, chúng con nói lên lời ca ngợi lòng thương xót Chúa, mà khi con bệnh tật, khi con đau buồn, khi con gặp rủi ro, con cũng sẽ luôn luôn ca ngợi lòng thương xót Chúa.
Lạy Chúa, con ca ngợi lòng thương xót Chúa đến muôn đời. Amen.
Lễ khánh thánh tháp đài Giáo xứ An Sơn, kinh E2, ngày 17-09-1992
Phúc Âm hôm nay cho biết: Khi gặp ông Nathanaen, Chúa Giêsu đã khen ông là “Người không gian dối”. Nghe lời khen ấy, tôi lấy làm lạ. Bởi vì “Không gian dối” là một đức tính nhân bản rất thường, có gì cao cả đâu, mà Chúa lại nêu lên, để khen một người mới gặp Chúa lần đầu.
Tôi đem thắc mắc của tôi trình bày với Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Sau khi cầu nguyện và gẫm suy lời Chúa, tôi thấy Chúa dần dần giải toả thắc mắc cho tôi. Chúa cho tôi hiểu: “Không gian dối", tuy là một đức tính nhân bản rất thường, nhưng lại hết sức quan trọng, không được coi thường.
Thực vậy, thời ấy, các người đồng hương với Đức Kitô đều là kẻ có đạo, hơn nữa, trong số họ, cũng có nhiều người được xếp vào loại đạo đức, thí dụ như các người biệt phái Pharisêu, các luật sĩ.
Nhưng Chúa thấy đời sống đạo của họ đã biến chất, cần phải được tái truyền giáo. Trong việc đổi mới này, Chúa Giêsu đã vạch ra cho họ thấy một đầu mối gây nên biến chất, đó là thiếu sự thực, che giấu sự thực, trốn tránh sự thực, nói tắt là có sự gian dối dưới nhiều hình thức.
Chẳng hạn, hình thức làm việc lành bề ngoài, nhưng bên trong trống vắng đời sống nội tâm. Chúa phán: “Đến ngày phán xét sẽ có nhiều người kêu cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi đã chẳng nhân danh Ngài mà nói tiên tri, nhân danh Ngài mà trừ quỉ, nhân danh Ngài mà làm nhiều sự lạ sao? Bấy giờ, Ta sẽ phán cùng họ rằng: Ta chẳng hề biết các ngươi. Hãy lùi xa khỏi Ta, hởi những kẻ gian dối.” (Math 7,22-23).
Chẳng hạn hình thức làm việc đạo đức dâng cho Chúa, nhưng lại đối xử vô tâm, ác tâm, với những người xung quanh. Cũng trong ngày phán xét, Chúa phán với những kẻ ở bên trái rằng: “Hỡi những kẻ gian ác, khốn nạn, hãy đi khuất mặt Ta mà vào lửa đời đời. Vì Ta đói mà các ngươi không cho ăn, Ta khát các ngươi không cho uống... Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi không làm những sự ấy cho một trong các kẻ hèn mọn là các ngươi đã không làm cho Ta” (Math 25,41-45).
Phúc Âm cho thấy, Chúa không chấp nhận sự gian dối, dù với hình thức nào. Hơn nữa, Chúa còn coi sự gian dối là một đặc tính thuộc về ma quỉ, Chúa phán: “Ma quỉ không ở trong sự thật, vì nó không có sự thật nào nơi mình nó, khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, vì nó là kẻ gian dối và là cha sự gian dối”. (Gioan 8,44).
Mấy chi tiết trên đây trong Phúc Âm cho phép tôi nghĩ rằng: Gian dối là một tinh thần ma quỉ. Tinh thần ma quỉ ấy len lỏi khắp nơi, cả trong nhiều tâm hồn kẻ có đạo. Nó làm suy yếu đạo, nó làm tha hóa đạo. Vì thế, tuy sự không gian dối là một đức tính nhân bản rất thường, nhưng không thể coi thường.
Sự thực đó giúp tôi có một ý nghĩ về lòng kính mến đối với Đức Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, là Đấng chống đánh ma quỉ. Ma quỉ thừa biết chúng ta chống đánh nó, nên với bản tính gian dối của nó, nó xúi ta nghĩ rằng: Nó ở xa, nó ở ngoài Hội Thánh, nó nhập vào các thế lực phá đạo v.v... Đang khi trên thực tế, nó đang hoạt động mạnh trong dân Chúa, trong các tệ đoan, và ngay cả trong một số hình thức nặng vẻ đạo đức bề ngoài.
Với ý thức trên đây, tôi nghĩ rằng, cách mừng kính Đức Tổng Lãnh Micae hợp ý Chúa hơn cả, là nhờ ơn Ngài giúp đõ, chúng ta quyết tâm loại bỏ mọi tinh thần ma quỉ gian dối ra khỏi nếp sống của ta, nhất là bằng cách ta sống gắn bó với Đức Kitô, Đấng là đường, là sự thật và là sự sống, và bằng cách ta ngoan ngoãn vâng phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh là thần Chân Lý, và bằng cách ta theo gương Đức Mẹ khiêm tốn đón nhận mọi thanh luyện để sống đúng theo thánh ý Chúa.
Sau cùng, chúng ta cũng hãy cảm tạ Chúa, vì Đức Cha Micae yêu quí của chúng ta đúng là một mẫu người không gian dối mà Chúa đã khen trong bài Phúc Âm hôm nay. Xin Chúa nhân lành tiếp tục gìn giữ Ngài và thánh hóa Ngài. Amen.
Lễ kính các Tổng Lãnh Thiên Thần Micae-Gabirie-Raphae, Long Xuyên, ngày 29-09-1992
Tôi có giữ một số kỷ niệm về thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Trong số những kỷ niệm đó, có một bông hồng tôi hái trong vườn của dòng kín ở Lisieux. Bông hồng là một vật rất bé nhỏ, nhưng đối với tôi, nó là một kỷ vật thân thương: Tôi kẹp nó trong sách nguyện, để mỗi lần nhìn thấy bông hồng ấy, tôi lại nhớ lại biết bao nhiêu cảnh đẹp, hình đẹp của thánh nữ Têrêxa.
Nhất là đối với riêng tôi, tôi lại còn có một kỷ vật khác của thánh nữ Têrêxa: Đó là sợi tóc của thánh nữ. Đây là một kỷ vật mà Mẹ bề trên dòng kín ở Lisieux đã tặng tôi tháng sáu vừa qua, khi tôi ghé lại dòng kín, để cầu nguyện trước thánh nữ Têrêxa. Một sợi tóc, đó là một vật rất bé nhỏ, nhưng đối với tôi, nó là một kỷ vật rất thân thương. Bởi vì, nó gợi cho tôi nhớ tới con người dễ thương của Têrêxa, nó làm sống lại trong tôi những lời dễ thương của Têrêxa, nó làm sống lại trong tôi con đường nên thánh dễ thương của Têrêxa.
Tuy nhiên, còn có một kỷ vật khác, tôi cho là rất quí mà Têrêxa đã tặng tôi ở Lisieux, cái kỷ vật này nó vô hình, tôi để nó trong trái tim tôi. Kỷ vật đó là ơn trở về mà Têrêxa đã tặng tôi khi tôi cầu nguyện trong nhà nguyện, nơi xưa Têrêxa đã cầu nguyện.
Ơn trở về đây, rút ra từ lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay: “Nếu các con không trở nên bé nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”.
Lời Chúa phán trên đây, mà chúng ta vừa nghe trong bài Phúc Âm, đã được chép khắp nơi tại Lisieux, chỗ nào tôi cũng nhìn thấy, và chính lời Chúa đó đã kéo tôi trở lại với Chúa. Ơn trở lại đó là thế nào?
ở đây tôi muốn chia sẻ đôi chút với anh chị em về ý nghĩa ơn trở lại mà Chúa kêu gọi chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay qua thánh nữ Têrêxa.
Ơn trở lại đây, không có nghĩa là từ bỏ ma quỉ, nết xấu, để đến với Thiên Chúa là Đấng thánh thiện. Trở về đây cũng không phải là chấp nhận những thanh luyện nội tâm, để có thể đi tới Đấng toàn năng trong trắng. Cái trở lại như thế là trở lại thông thường, tôn giáo nào cũng kêu gọi, luân lý nào cũng chủ trương. Trở về đó là tốt, nhưng nó không phải là sự trở về mà Chúa kêu gọi hôm nay.
Sự trở về mà Chúa kêu gọi hôm nay, là hãy trở về với thân phận đứa con bé nhỏ của Cha trên trời.
Trở về thân phận đó có nghĩa là gì?
Thưa trở về địa vị người con bé nhỏ của Cha trên trời, là nhận biết mình chẳng có gì để mà tự hào, chẳng có đâu để mà tựa nương, chỉ có tình yêu Cha trên trời là kho tàng, chỉ có tình yêu của Cha trên trời là nơi mình nương tựa. Chúa Giêsu phán: “Hỡi những ai gồng gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho”. Chúng ta biết: Đối với đứa trẻ bé nhỏ, thì cái gì cũng nặng hết. Cái gì cũng nặng đối với trẻ nhỏ. Đối với chúng ta cũng thế, chúng ta là những đứa bé nhỏ trước mặt Cha trên trời, không có công lênh gì, không có phúc đức gì, chỉ có những bất toàn, chỉ có những yếu đuối. Chúng ta đem gánh nặng đó đến với người Cha giàu lòng thương xót. Cha trên trời sẽ bổ sức cho.
Rồi trở về thân phận người con bé nhỏ của Cha trên trời, có nghĩa là nhận biết Cha trên trời yêu chúng ta, trước khi chúng ta biết yêu Chúa. Thánh Gioan viết: “Tình yêu của Chúa Cha, là Ngài đã thương yêu chúng ta, đang khi chúng ta còn chìm trong tội lỗi”. Trở về với địa vị người con bé nhỏ của Cha trên trời là biết đón nhận Cha. Cha đến với con, không phải vì con tội lỗi, cũng không phải vì con thánh thiện. Cha đến với con vì con bé nhỏ, vì con dại dột, vì con hèn yếu. Cái quan niện đó nó thay đổi cái quan niệm xưa về đạo đức: Cứ tưởng rằng Chúa đến với những người thánh thiện, Chúa đến với những người trong sáng. Không. Sự trở về với người con bé nhỏ chỉ là một sự trở về đón nhận tình xót thương của Chúa mà thôi.
Rồi, trở về với địa vị người con bé nhỏ của Cha trên trời, là biết ca tụng lòng thương xót Chúa. Khi tôi đọc Phúc Âm, tôi thường dừng lại rất lâu trong lời ca tán tụng của Chúa Kitô: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã giấu những điều này với những nhà khôn ngoan hiền triết, mà chỉ tỏ ra cho những kẻ bé mọn đơn sơ”. Tôi coi đó là bài ca của con số không. Bài ca của con số không có nghĩa là, Chúa thương những người bé nhỏ, Chúa dành tình thương cho những kẻ đơn sơ hèn yếu. Càng nhận biết mình là con số không, đó là biết trở về với địa vị người con bé nhỏ. Đây là một tin mừng mà Têrêxa đã loan báo. Không những loan báo bằng lời nói, nhưng nhất là loan báo bằng chính đời sống của Têrêxa.
Têrêxa, một người không có chức thánh, nhưng đã loan báo con đường nên thánh, đang làm nên mùa xuân cho Hội Thánh. Têrêxa, con người không làm lễ trên bàn thờ, nhưng lại là của lễ hiến dâng toàn thiêu trong trái tim Hội Thánh. Têrêxa, con người không làm bí tích, nhưng lại làm những trận mưa hoa hồng trên các tâm hồn. Đó là một tin mừng. Vì thế, khi tôi nghĩ tới các tu sĩ, nói chung, và hai tu sĩ của chúng ta đây nói riêng, những người không có chức thánh, những người không làm bí tích, những người không làm lễ trên bàn thờ, nhưng theo con đường Têrêxa loan báo một tin mừng để đổi mới Hội Thánh, và tiếp tục trở nên những chứng nhân của những người con bé nhỏ đang làm cho Cha trên trời được vinh danh.
Hôm nay, trong thánh lễ này, tôi cảm tạ Chúa vì đã gọi, đã chọn những người con của chúng ta được tiếp tục con đường thánh nữ Têrêxa loan báo tin mừng của những người con bé nhỏ. Tôi cũng cầu xin cho những ơn kêu gọi ấy được tăng triển mãi. Bởi vì tôi thấy rằng: Thời điểm bây giờ, đúng là thời điểm của những tân hồn bé nhỏ như Têrêxa. Bé mọn mà vĩ đại. Âm thầm mà đầy vinh quang.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa.
Thánh lễ Tạ Ơn khấn dòng tại kênh D ngày 01-10-1992.
Tháng năm vừa qua, trong thời gian tôi ở Châu Âu, tôi có ghé lại Cộng Hoà Liên Bang Đức. Dịp này, tôi đã đi thăm một số cộng đoàn Công Giáo Việt Nam. Tôi đã gặp nhiều bậc phụ huynh, nhiều người lớn tuổi. Các ông, các bà Việt Nam Công Giáo, khi gặp tôi đều rất vui mừng, và nhân dịp đó, đã tâm sự với tôi những niềm vui, nỗi buồn. Một trong những nỗi buồn lớn nhất của các ông, các bà, đó là nỗi buồn về con cái mình.
Hầu hết các ông các bà đều than với tôi rằng: Về vật chất và về học vấn, con cái chúng con hơn ở Việt Nam rất nhiều. Nhưng về đạo đức gia đình, đạo đức tôn giáo, con em chúng con thua sút ở Việt Nam rất nhiều.
Cũng trong thời gian ở Châu Âu, tôi gặp một số linh mục Việt Nam từ Mỹ qua thăm tôi. Dịp này tôi cũng hỏi thăm tin mà các báo đăng về những băng cướp, do thanh niên Việt Nam ở Mỹ tổ chức, có thực không? Thì các cha ấy cho rằng: Đúng thực như vậy. Và trong số các băng cướp ấy, cũng có nhiều thanh niên, thiếu niên Việt Nam Công Giáo. Một cha nói với tôi rằng: Chính con mới đi thăm một gia đình Công Giáo Việt Nam. Gia đình này, trước đây ở Việt Nam là giàu sang, là đạo đức. Gia đình có mấy người con trai, bây giờ lớn lên, chúng tổ chức thành bọn cướp. Và mới rồi, khi một đứa đi ăn cướp, bị cảnh sát bắn trọng thương, phải điều trị trong nhà thương. Chính con đã đến thăm, và được anh ta cho biết rằng: Con căm ghét bố con, con căm thù bố con, con đi ăn cướp, giết người là để trả thù bố con. Con không thể nào tha thứ cho bố con được.
Những câu chuyện trên đây, làm cho tôi rất lo ngại về tương lai thanh niên, thiếu niên Việt Nam Công Giáo ở hải ngoại. Lo ngại của tôi là rất lớn.
Nhưng tôi cũng rất lo ngại về thanh niên, thiếu niên Việt Nam Công Giáo ở tại Việt Nam hôm nay. Bởi vì tôi thấy ở nhiều nơi, đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu về sự suy thoái đạo đức, suy thoái nhân bản, suy thoái học hành. Sự suy thoái ấy ở một vài nơi đã đến mức cần phải báo động.
Phải làm thế nào bây giờ để cứu con em chúng ta?
Tôi thiết tưởng, đây là một vấn đề cần có sự cộng tác của nhiều nhân tố: Gia đình, học đường, xã hội, tôn giáo, và chính các đương sự thanh thiếu niên.
Sáng nay, tôi đọc một cuốn sách đạo đức, một tác giả đã đề nghị: Trong việc giáo dục con em, chúng ta đừng quên huấn luyện cho con em chúng ta có lòng kính mến các Thiên Thần Bản Mệnh. Nếu tập cho con em chúng ta có một lòng kính mến các Thiên Thần Bản Mệnh ngay từ khi còn nhỏ: Đọc kinh kính Thiên Thần Bản Mệnh buổi sáng, đọc kinh kính Thiên Thần Bản Mệnh buổi chiều, thì dần dần, con em chúng ta sẽ có một đức tin: Tin rằng, Chúa gửi người nào đó đến che chở, giữ gìn mình, và nó sẽ luôn luôn sống dưới ánh mắt của Thiên Thần, đại diện của Chúa. Rồi dần dần với niềm tin đơn sơ như vậy, nó bớt đi những sự lăng loàn của thế gian, của xác thịt, của bạn bè xấu.
Khi đọc bài Phúc Âm hôm nay thấy Chúa Giêsu đưa ra một mẫu trẻ nhỏ và nói: “Nếu chúng con không trở nên như trẻ nhỏ này, chúng con sẽ không được vào Nước Trời”, thì tôi nghĩ rằng: Bất cứ đứa trẻ nhỏ nào ở Việt Nam bây giờ, và bất cứ đứa trẻ nhỏ nào sinh ra ở bên Tây, bên Mỹ bây giờ, đều đáng là gương mẫu để Chúa nói điều đó. Nhưng khi chúng lớn lên rồi, tôi sợ rằng, không biết có còn đứa nào đáng làm gương mẫu để Chúa nói rằng: Hãy nên giống như thanh niên này, hãy nên giống như thiếu niên này, để được vào Nước Trời. Tôi sợ rằng, Chúa sẽ nói ngược lại: Chớ nên giống như thanh niên này, chớ nên giống như thiếu niên này, kẻo không được vào Nước Trời.
Vì thế, trong thánh lễ kính các Thiên Thần Bản Mệnh hôm nay, tôi xin anh chị em nhớ lại Thiên Thần Bản Mệnh của mình, nhớ lại Thiên Thần Bản Mệnh của con cái mình, năng cầu xin với Thiên Thần mình, năng cầu xin với Thiên Thần con cái mình, để xin Chúa che chở giữ gìn mình, chở che giữ gìn con cái của mình, nhất là trong thời buổi đầy phức tạp, và sẽ còn rất phức tạp sau này.
Lay Chúa, xin che chở giữ gìn chúng con qua Thiên Thần Bản Mệnh, mà Chúa đã gởi đến cho chúng con. Amen.
Cuộc lễ hôm nay đã và đang gợi ý cho tôi suy nghĩ về Hội Thánh của tôi.
Thực vậy, khi nhìn những người đang tham dự thánh lễ hôm nay, tôi thấy trong đó có những người từ xa tới: Linh mục có, tu sĩ có, giáo dân có. Cảnh tượng nầy gợi ý cho tôi nghĩ rằng: Hội Thánh của tôi không phải chỉ là họ đạo Mông Thọ, cũng không phải chỉ là giáo hạt Rạch Giá, cũng không phải chỉ là địa phận Long Xuyên hay Giáo Hội Việt nam. Giáo Hội của tôi lan khắp cõi trần gian này. Giáo Hội của tôi gồm mọi người, thuộc mọi màu sắc, mọi tiếng nói, mọi nền văn minh.
Tóm lại tất cả những ai là con Thiên Chúa, do Chúa tạo dựng, được Chúa chăm sóc, được Chúa cứu chuộc, được Chúa hướng dẫn vào đàng lành, đều thuộc về Hội Thánh của tôi. Hội Thánh của tôi hiệp thông với Thiên Chúa. Những người trong Hội Thánh của tôi hiệp thông với nhau. Sợi dây hiệp thông với Chúa, sợi dây hiệp thông với nhau, là tình yêu thương bác ái. Nét đẹp nhất của Hội Thánh tôi là tình yêu thương bác ái. Mùi hương thơm nhất tỏa ra từ Hội Thánh tôi là mùi hương thơm bác ái. Cái vẻ vinh quang nhất của Hội Thánh tôi chính là yêu thương bác ái. Hội Thánh của tôi có thể gọi tóm tắt là những người yêu thương nhau, những người gọi Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế, Hội Thánh của tôi là một tình yêu không biên giới.
Ngoài ra, khi tôi nhìn cộng đoàn đang tham dự thánh lễ bây giờ, tôi thấy: Ngoài những người thuộc xứ đạo Mông Thọ, và từ nhiều địa phương tới, tôi còn nhìn thấy nhiều vị khác, từ những nơi rất xa tới, đó là các thần thánh trên trời. Đức Mẹ cũng đang ở đây. Các thánh Tử Đạo cũng đang ở đây. Thánh Giuse cũng đang ở đây. Các Thiên Thần cũng đang ở đây.
Cảnh tượng này cho phép tôi nghĩ rằng: Hội Thánh của tôi, ngoài cái bề mặt rộng lớn khắp hoàn cầu, còn có một chiều cao thăm thẳm. Trong cái chiều cao thăm thẳm đó, có các thần thánh, có các thế hệ từ ông Adong bà Evà, cho đến Abraham, từ Maisen cho đến các tiên tri, các tổ phụ, các tông đồ và muôn vàn các thánh từ trước cho đến bây giờ. Thêm vào đó, còn có chín phẩm Thiên Thần. Các ngài đẹp hơn những vì sao. Các thần thánh thì vô kể.
Liên hệ giữa các thần thánh cũng là tình yêu: Các ngài yêu mến Thiên Chúa. Các ngài yêu mến nhau. Và các ngài thương xót chúng ta. Các ngài không phải chỉ là tượng, là ảnh, mà các ngài đúng thực là những trái tim, vẫn theo dõi chúng ta, vẫn cầu bầu cho chúng ta, vẫn thúc giục chúng ta hãy biết mến Chúa, hãy biết thương người.
Cái làm cho các thánh trên trời được hạnh phúc, chính là tình yêu. Cái làm cho các ngài vinh quang chính là kết hợp với Thiên Chúa tình yêu. Như vậy, Hội Thánh của tôi trên mặt bằng thế giới cũng là tình yêu vô biên giới. Mà xét về chiều cao thăm thẳm, cũng vẫn là tình yêu vô tận.
Hơn nữa, khi tôi nhìn những người tham dự thánh lễ bây giờ, không phải tôi chỉ nhìn thấy anh chị em, cũng không phải tôi nhìn thấy các thần thánh, mà tôi cũng nhìn thấy các linh hồn bà con đang bị giam cầm nơi luyện ngục, những người có liên hệ đến xứ đạo Mông Thọ, những người có liên hệ đến gia đình chúng ta, những người có liên hệ cách nào đó đến cá nhân chúng ta. Hội Thánh của tôi như vậy, có một chiều sâu. Ngoài bề mặt, ngoài chiều cao, còn có một chiều sâu tạm thời. Nơi đó, các linh hồn được thanh luyện, để biết đón nhận tình yêu Thiên Chúa trong sáng vẹn toàn. Và nơi luyện ngục, các linh hồn vẫn cầu nguyện cho chúng ta còn sống, để chúng ta biết đón nhận tình yêu, và biết cho đi tình yêu, để sau này đừng phải vào nơi luyện ngục như họ nữa.
Tới đây, tôi có thể tưởng tượng ra thực thể Hội Thánh của tôi, đó là một thực thể có mặt bằng rộng bao la, có một chiều cao thăm thẳm, và có một chiều sâu tạm thời. Tất cả những người trong ba nơi đó, đều thông hiệp với nhau bằng dây tình yêu bác ái. Và tất cả những người trong ba nơi ấy, đều cố gắng loan truyền Thiên Chúa là tình yêu.
Tới đây anh chị em cũng như tôi, chắc đã hiểu nhiệm vụ của con cái Hội Thánh: Một Hội Thánh tình yêu.
Nhiệm vụ đó là gì?
Thưa nếu Hội Thánh của tôi là một Hội Thánh của tình yêu, thờ phượng Thiên Chúa là tình yêu, dấu chỉ của Hội Thánh là tình yêu, thì tất nhiên, nhiệm vụ của tôi, của từng con cái Hội Thánh là hãy làm chứng cho tình yêu thương.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, tôi nghe Chúa bảo tôi rằng: “Con hãy đi làm chứng”. Nhiều khi tôi tự nói với chính mình rằng: Chúa không sai tôi đi xây dựng Hội Thánh, cho bằng sai tôi đi làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Làm chứng rằng dung mạo Thiên Chúa là tình yêu thương. Hội Thánh của Chúa là dụng cụ loan báo tình yêu thương. Con cái của Chúa phải mang dấu chỉ tình yêu để chứng tỏ là thuộc về Chúa.
Trước lễ, trời đổ mưa. Cơn mưa trước lễ hôm nay gợi cho tôi nhớ lại một kỷ niệm không quên: Kỷ niệm tôi đã có ở Lộ Đức bên Pháp tháng 6 vừa qua.
Hôm đó là buổi chiều tối, theo chương trình thì tại Lộ Đức sẽ có một cuộc rước lớn lao, nhưng tự nhiên trời đổ mưa, phải hủy bỏ cuộc rước. Rồi trời cứ mưa hoài. Và gió lạnh thổi lên. Tôi vẫn mặc áo lạnh, và phải mượn thêm 1 cái áo mưa để khoát ngoài. Rồi một tay cầm dù, một tay cầm tràng hạt, tôi đến trước tượng Đức Mẹ ở hang đá Lộ Đức để lần chuỗi. Bấy giờ là khoảng 9 giờ tối. Đang khi lần chuỗi trước tượng Đức Mẹ, tôi thấy một người phụ nữ tay bồng con, đến cạnh bên tôi. Bà ấy nói nhỏ là xin tôi ít tiền để nuôi con. Tôi cho bà ấy một chút tiền. Rồi, bà ấy lẳng lặng đi vào giữa đám đông.
Tôi có cảm tưởng rằng: Người đàn bà ăn mày tối hôm đó là một sứ giả của Đức Mẹ gởi tới cho tôi. Đức Mẹ muốn nói trong lòng tôi rằng: Con đến Lộ Đức, con cầu nguyện, con đã lần chuỗi, con đã chầu Mình Thánh và dâng thánh lễ. Những việc đó là rất tốt. Nhưng còn một việc khác mà Thiên Chúa muốn con làm, và Mẹ cũng muốn con thực hiện, đó là hãy đem Tin Mừng cho những người nghèo khó. Khi con để ý đến những người nghèo khó thì tức là con đem Tin Mừng đến cho họ. Không phải chỉ là Tin Mừng cho người nghèo khó, mà đó cũng là Tin Mừng cho Đức Kitô và cho chính Mẹ. Bởi vì, như con đọc trong Phúc Âm: Bất cứ việc tốt nào con làm cho người nghèo khó, thì được kể như làm cho Đức Kitô, cho chính Mẹ.
Tôi nhớ hoài hình ảnh người phụ nữ ăn mày bên ấy. Và khi trở về Việt Nam, tôi vẫn còn nhớ cái hình ảnh đó, như là một sứ mệnh Đức Mẹ Lộ Đức nhắn gởi tôi: Khi về Việt Nam, con hãy làm chứng cho Tin Mừng Phúc Âm, nhất là Tin Mừng cho người nghèo khó. Bởi vì tại Việt nam, không thiếu người nghèo khó: Nghèo của cải, nghèo tình thương, nghèo kiến thức, nghèo nhân bản. Biết bao nhiêu việc có thể làm để cho danh Chúa được tỏa sáng, để cho Hội Thánh được nhận ra, và để cho Tin Mừng cứu độ được thực hiện giữa đồng bào Việt Nam hôm nay.
Anh chị em thân mến,
Hội Thánh của chúng ta là Hội Thánh làm chứng cho tình yêu. Hội Thánh của chúng ta là một Hội Thánh sống bằng tình yêu và làm chứng cho tình yêu, nhất là làm chứng cho tình yêu của Tin Mừng cho người nghèo khó.
Trong thánh lễ bây giờ, tôi nhìn tất cả Hội Thánh của tôi được thu hẹp trong nhà thờ này: Có những người còn sống, có những thần thánh đang ngồi đây, có các linh hồn luyện ngục đang thông hiệp với chúng ta, nhất là có Đức Mẹ, có các thánh tử đạo Việt Nam... Tất cả các vị ấy đều cũng như Đức Kitô nhắn gởi chúng ta rằng: Hãy làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Đó là mầu nhiệm sau cùng của kinh Mân Côi. Amen.
Trước khi tới nhà thờ Đồng Phú đây, tôi đã nói với Đức Mẹ rằng: “Họ đạo Đồng Phú hôm nay có một niềm vui lớn. Niềm vui đó là lễ Thêm Sức. Tình yêu Thiên Chúa đến với họ đạo. Và những người trong họ đạo đang hiến dâng tình yêu của mình cho Thiên Chúa. Con tạm gọi cuộc lễ hiếm có hôm nay là một tiệc cưới Cana. Con xin Đức Mẹ và Chúa Giêsu cùng đi với con”.
Tôi có cảm tưởng là Đức Mẹ đã nghe lời tôi. Tôi tin là Đức Mẹ đã đi với tôi đến xứ Đồng Phú đây. Đức Mẹ đã thấy những niềm vui của anh chị em. Niềm vui được diễn tả nơi màu áo, nơi tiếng ca, tiếng kèn, trên khuôn mặt. Và trong số người đông đảo được Đức Mẹ chia sẻ niềm vui, tôi thấy Đức Mẹ đang khám phá ra một cảnh thiếu thốn.
Tại tiệc cưới Cana, Đức Mẹ đã nhận thấy cảnh thiếu rượu, còn ở đây tôi có cảm tưởng là Đức Mẹ đang nhìn thấy một tình trạng nhiều thiếu thốn: Thiếu thốn về của cải, thiếu thốn về văn hóa, thiếu thốn về nhân đức và các ơn thiêng.
Khi nhận thấy cảnh thiếu thốn của con cái mình, Đức Mẹ băn khoăn lo âu. Và với niềm lo âu băn khoăn ấy, tôi thấy Đức Mẹ đã nói với Chúa Giêsu: Họ đạo này đang trong cảnh thiếu thốn. Đức Mẹ chỉ nói đơn sơ chừng ấy thôi. ở Cana tôi không nghe Đức Mẹ nói chi tiết thiếu bao nhiêu rượu, cần bao nhiêu rượu. ở đây cũng vậy. Đức Mẹ chỉ trình bày cảnh thiếu thốn của anh chị em với Chúa Kitô.
Lời cầu xin của Đức Mẹ bao giờ cũng đơn sơ, đầy tình phó thác. Tôi không nghe Đức Mẹ và Chúa Giêsu trao đổi với nhau những gì, nhưng rồi Đức Mẹ đã nói với tôi một câu mà Đức Mẹ đã nói với gia đình tiệc cưới Cana: Con hãy nói với mọi người trong lễ hôm nay là Con Mẹ dạy làm gì, thì hãy làm như vậy. Tôi lắng nghe lời Chúa dạy tôi. Tôi đợi chờ câu chuyện của Chúa. Và sau một lúc, Chúa nói trong lòng tôi rằng: Để cho họ đạo Đồng Phú đây nói chung, và từng gia đình ở đây nói riêng trở thành tiệc cưới Cana đầy hạnh phúc, đầy hân hoan, thì chúng con cần một thứ rượu thiêng liêng, một thứ rượu cao quí, rượu ấy là rượu tình yêu bác ái.
Để đáng cho Cha làm phép lạ có thứ rượu ngon ấy trong họ đạo này và trong từng gia đình, thì chúng con phải làm một số việc: Xưa ở Cana Cha truyền cho người trong gia đình tiệc cưới phải đổ đầy nước vào trong các chum. Còn ở đây Cha truyền cho chúng con điều này: Là sự gì chúng con muốn kẻ khác làm cho chúng con, thì chúng con hãy làm việc ấy cho kẻ khác. Còn sự gì chúng con không muốn kẻ khác làm cho chúng con, thì chúng con đừng làm việc ấy cho kẻ khác.
Ngoài ra, chúng con cần phải biết cầu nguyện. Khi chúng con đã làm tất cả những sự đó rồi, họ đạo có đầy các việc đó, gia đình có đầy các việc đó, thì Cha sẽ sai Thánh Linh đến. Thánh Linh là tình yêu Thiên Chúa. Người sẽ biến đổi mọi sự trong họ đạo, trong các gia đình thành một thứ rượu ngon thiêng liêng, xứng đáng là của lễ đền tạ ơn Chúa, xứng đáng là của lễ đền tội cho mình và cho nhân loại, xứng đáng là của lễ xây dựng bình an và hiệp nhất. Và rượu ngon ấy sẽ giúp cho chúng con nếm thử được hạnh phúc tuyệt vời mà Chúa dành cho những kẻ Chúa thương yêu.
Khi nghe những lời Chúa nói trong lương tâm tôi, tôi tự hỏi mình rằng: Không biết chúng ta ở đây có để ý đến những việc Chúa truyền cho chúng ta làm không? Bởi vì, đây là những điều kiện cần để Chúa sai Thánh Linh đến, và ban cho chúng ta thứ rượu ngon cao quí thiêng liêng.
Nếu chúng ta chưa làm, thì chúng ta hãy làm ngay từ bây giờ trong giây phút này, bằng cách hãy bỏ đi tất cả những tâm tình ghen ghét, hận thù. Hãy bỏ đi sự ganh tị hẹp hòi ích kỷ. Hãy bỏ đi thói quen nghi kÿ người khác. Hơn nữa, hãy biết tha thứ. Hãy biết bỏ đi những sầu muộn kẻ khác làm cho chúng ta. Hơn thế nữa, giờ phút này đây, hãy biết cầu xin cho mọi người, đặc biệt là cầu xin ơn lành cho những kẻ làm khổ chúng ta, cho những người không biết Chúa, cho những người bắt bớ Hội Thánh, cho những người làm phiền rầy chúng ta. Tha thứ tất cả. Yêu thương tất cả. Cầu chúc sự lành cho mọi người chung quanh. Cầu chúc mọi sự tốt lành cho dân tộc đất nước. Nếu chúng ta làm như vậy trong giây phút này, và thêm vào đó, chúng ta có một sự khao khát Chúa Thánh Thần, khao khát Người đến, đón ơn thánh của Người, khát ơn thánh của Người, thì tôi tin chắc rằng, trong lễ nghi Thêm Sức hôm nay, Thiên Chúa sẽ sai Thánh Thần Người đến. Và khi Thánh Thần tình yêu Thiên Chúa đến, Người sẽ biến đổi chúng ta, sẽ làm cho gia đình ta, họ đạo ta cảm nghiệm được sự bình an thư thái mà Chúa dành cho những kẻ yêu mến và cậy trông Chúa.
Giờ đây, tôi cảm tạ Đức Mẹ, cảm tạ Đức Kitô, và chờ mong Chúa Thánh Thần đến với chúng ta. Khi Chúa Thánh Thần đến xin Người đừng đi, nhưng ở lại, ở lại mãi trong chúng ta. Ngài hứa, Ngài sẽ đến và Ngài sẽ ở lại, để biến họ đạo chúng ta, biến gia đình chúng ta trở thành tiệc cưới Cana đầy hạnh phúc, đầy hân hoan, vì có rượu tình yêu bác ái. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Đồng Phú, kinh 2b, ngày 07-10-1992 lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Cách đây hai tiếng đồng hồ, chúng tôi đã xuống đò từ giã nhà thờ Đồng Phú. Trên đường đi, chúng tôi đã ghé lại nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời, và sau cùng, chúng tôi đã đến đây.
Chúng tôi đã được anh chị em nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời cũng như tại đây đón tiếp. Cuộc đón tiếp thật tưng bừng. Điều làm cho chúng tôi vui mừng nhất, đó là thấy tấm lòng yêu mến của anh chị em đối với Chúa, được thể hiện dịp chúng tôi đến thăm anh chị em.
Khi tôi được anh chị em đón tiếp, tôi nghĩ tới một cuộc đón tiếp khác, sẽ được thực hiện bây giờ, đó là đón tiếp Chúa Thánh Linh. Cuộc đón tiếp Chúa Thánh Linh, chắc phải rất khác cuộc đón tiếp Đức Giám Mục và các linh mục. Bởi vì, Chúa Thánh Linh rất khác bất cứ ai trong loài người và các thần thánh. Chúng tôi chỉ là những tạo vật bé nhỏ. Còn Chúa Thánh Linh, Đấng sắp đến với chúng ta, là Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài cao cả vô cùng. Quyền năng Ngài vô tận. Tình yêu Ngài vô biên. Chúng tôi chỉ là những dụng cụ bất xứng. Còn Chúa Thánh Linh mới là người thánh hóa chúng ta. Chúa Thánh Linh mới là người thay đổi con người chúng ta.
Như vậy, điều mà tôi chú ý nhiều nhất khi đón tiếp Chúa Thánh Linh là nhận biết Chúa Thánh Linh là ai và tôi là ai? Tôi thường nhìn Chúa Thánh Linh và nhìn tôi bằng những hình ảnh. Thí dụ, tôi nhìn Chúa Thánh Linh như ánh sáng mặt trời, còn tôi như một cây bé nhỏ. Khi một cây đón nhận ánh sáng mặt trời thì cây ấy để cho ánh sáng mặt trời thấu qua cái vỏ của thân cây mình, để cho ánh sáng mặt trời thấu qua cành lá của mình, để cho ánh sáng mặt trời thấu qua thân cây của mình, để cho ánh sáng mang chất dinh dưỡng của mặt trời đi vào tận rễ cây, đi vào tận ruột cây, đi vào tận nhựa cây.
Tương tự cũng vậy, khi tôi đón nhận Chúa Thánh Thần không phải là tôi đón nhận Ngài như một vị khách quí: Tôi mời Ngài ngồi trên cao, để rồi tôi đứng xa xa mà quì lạy. Không phải thế. Mà là tôi mời Ngài đi vào lòng tôi, đi vào tận trái tim tôi, đi vào tận trí khôn tôi, đi vào tận ý thức tâm tư và các ước muốn của tôi, để cho ánh sáng Chúa Thánh Thần mang chất chân lý và tình thương ngấm sâu vào tôi, biến đổi con người của tôi.
Rồi tôi thường nhìn Chúa Thánh Thần như là nước ban sự sống, còn tôi là con người đau bệnh. Con người đau bệnh khi đón nhận nước ban sự sống chữa bệnh mình, thì để cho nước ấy chảy vào tim, tan vào máu, đi vào các thớ thịt, vào các tế bào, tận đến xương, đến tủy, để biến máu mình thành nên máu tốt, biến tim phổi mình thành tim phổi cường tráng, biến thịt của mình trở nên tươi tắn khỏe mạnh.
Tương tự cũng vậy. Khi tôi đón nhận Chúa Thánh Linh là nước ban sự sống, thì không phải tôi đón Ngài vào lòng tôi như đón một thầy thuốc ngồi bên cạnh tôi, hay như đón một thầy dạy chân lý ở bên tôi, mà là đón Ngài như là nguồn sự sống, để nước hằng sống ấy chảy vào cách suy nghĩ của tôi, cách nhìn của tôi, cách chọn lựa của tôi, cách đánh giá của tôi, tình cảm của tôi, để cho nước sự sống ấy làm cho tôi trở lên mới mẻ theo sự sống của Thiên Chúa.
Tới đây, anh chị em đã hiểu phần nào, đón tiếp Chúa Thánh Linh là phải như thế nào? Căn cốt của sự đón Chúa Thánh Linh không phải là thực hiện các lễ nghi cho đúng, cho đẹp, mà là phải có một thái độ tâm hồn thích ứng. Tôi nghĩ rằng, thời các thánh tông đồ, khi đón nhận Chúa Thánh Linh thì như chúng ta đã nghe trong Tông Đồ Công Vụ: Các Ngài chỉ chăm chú cầu nguyện và chia sẻ tình thương cộng đoàn, khát khao Chúa đến, chờ đợi Chúa đến. Và Chúa Thánh Thần đã đến.
Còn chúng ta bây giờ, chúng ta cũng có làm như các thánh tông đồ xưa, nhưng mà tôi thấy nhiều nơi, chúng ta để ý đến sự bề ngoài. Những sự bề ngoài ấy, nhiều khi cũng hữu ích, nhưng nếu chúng ta quá để ý đến những sự bề ngoài, mà coi nhẹ việc dọn dẹp tâm hồn mình, thì tôi sợ, Chúa Thánh Linh sẽ không vào tâm hồn ta được. Bởi vì, chúng ta không chuẩn bị thái độ đón tiếp Ngài.
Ai càng cần Chúa Thánh Linh thì Ngài càng đến và ở lại. Ai càng khát khao Chúa Thánh Linh, thì Chúa Thánh Linh càng chăm sóc và yêu thương. Ai càng thấy mình bé nhỏ nghèo nàn, thì Chúa Thánh Linh càng dễ biến đổi và đổ tràn đầy ơn cho họ. Ai càng khát mong sống yêu thương bác ái, thì càng được Chúa Thánh Linh chia sẻ cho tình yêu Thiên Chúa của Ngài.
Đến đây chúng ta đừng tưởng rằng: Cần phải có một tâm hồn trong sáng thánh thiện mới xứng đáng Chúa Thánh Linh đến. Đôi khi tôi cũng có nghĩ như vậy. Nhưng tôi đã nghe Chúa Thánh Linh bảo tôi rằng: Nếu tâm hồn con như một cánh đồng sình lầy, đầy rác rưởi, thì con càng cần phải đón Cha vào, để giúp cho cánh đồng sình lầy ấy nên tươi tốt. Nếu tâm hồn con giống như một con bịnh nan y, thì càng cần phải đón nhận Cha vào, để Cha chữa chạy cho. Chỉ cần làm sao con mở tâm hồn ra, biết đón nhận, biết khát khao, biết mời gọi, thì Cha sẽ đến.
Lúc nãy, khi bước vào nhà thờ này, tự nhiên tôi nhớ tới lời thánh Gioan đã viết: “Con Thiên Chúa đến trong nhà Ngài, nhưng các người trong nhà ấy không nhận ra Ngài”. Khi nhớ điều ấy, tôi đã nói với Chúa Thánh Linh: “Chúng con có nhiều yếu đuối, chúng con có nhiều sơ suất, xin Chúa thứ tha cho. Xin Chúa hãy đến với chúng con. Xin hãy ở lại với chúng con. Giờ đây, chúng con thực tình khao khát đón Chúa vào lòng. Chúng con thực tình khao khát Chúa như một người đau bịnh khao khát thầy thuốc, như là một đứa con bé nhỏ khao khát cha mẹ mình.
Trong Phúc Âm hôm nay, Chúa gọi Chúa Thánh Linh là Đấng ở lại. Tôi cũng nói với Chúa Thánh Linh: Xin Chúa ở lại trong con và trong các tín hữu hôm nay. Xin Chúa ở lại với chúng con. Xin Chúa ở lại mãi mãi suốt đời chúng con, nhất là trong những thời điểm nào mà chúng con có nguy cơ bỏ xa Chúa.
Lạy Chúa Thánh Linh, xin hãy đến và hãy ở lại với chúng con vì chúng con khát khao Chúa. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Tân long (kinh 2a), ngày 08-10-1992.
Trong bài Phúc Âm vừa nghe, có một câu rất quan trọng đối với tôi. Câu đó là lời Chúa phán. Lời Chúa phán ấy đã đem lại cho tôi những an ủi sâu sắc những khi tôi buồn phiền. Lời Chúa phán ấy đã đem lại cho tôi những niềm hy vọng lớn lao những khi tôi thất vọng. Lời Chúa phán ấy đã đem lại cho tôi sự sống thiêng liêng những khi tôi muốn chìm vào trong sự chết. Lời Chúa phán ấy là lời Chúa nói với kẻ trộm lành: “Hôm nay anh sẽ được lên Thiên Đàng với tôi”. Qua lời phán của Chúa Kitô trên thánh giá, Chúa đã cho chúng ta biết và cho tất cả nhân loại biết rằng: Chúa đã chọn một người xấu xa nhất trên đời làm bạn đồng hành với Chúa, để bước vào Thiên Đàng.
Quả thật người trộm bị đóng đinh bên Chúa là một người rất xấu xa. Anh ta rất xấu xa từ trong tâm hồn cho đến hành động bên ngoài. Anh ta xấu xa đến nỗi pháp luật phải chối từ anh, phải loại trừ anh ra ngoài xã hội. Và hơn thế nữa, phải loại trừ anh ra khỏi cuộc sống. Chính anh trộm ấy cũng đã nhận biết mình là một người xấu xa nên anh đã nói cái tủi nhục anh chịu bây giờ là đích đáng. Và chính anh cũng nhận thấy mình quá xấu xa, nên anh cũng không cầu xin Chúa thứ tha cho mình, mà chỉ xin một điều rất khiêm tốn: “Thưa Ngài, khi Ngài về Nước Trời, xin nhớ đến tôi”. Mà lạ lùng thay, Chúa Giêsu đã nhận lời anh. Hơn thế nữa, Chúa đã cho anh một điều anh không ngờ tới. Chúa phán: “Ngay hôm nay, một lát nữa đây, khi tôi về trời, anh sẽ là bạn đồng hành với tôi”.
Đây là một lời giao ước lạ lùng. Tôi coi đây là một lời giao ước rất lạ lùng, như thể Chúa nói với kẻ trộm rằng: Người ta loại trừ anh ra khỏi mọi quyền lợi, vì anh quá tội lỗi, nhưng tôi, tôi không loại trừ anh ra khỏi quyền làm con Thiên Chúa, vì Thiên Chúa rất khác mọi người cha trên trái đất này. Mặc dù người ta hủy diệt sự sống của anh vì anh xấu xa nguy hiểm, nhưng tôi, không những tôi không hủy diệt sự sống của anh, mà còn cho anh một sự sống mới, đó là sự sống trên Thiên Đàng, vì Thiên Chúa là nguồn mọi sự sống. Mặc dù người ta muốn đem anh đi xử và xử bằng một hình phạt gay gắt nhất, vì anh đáng như vậy. Còn tôi, tôi không xử anh. Mà hơn nữa, tôi còn ban cho anh phúc Thiên Đàng. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng tha tội. Bởi vì Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Khi tôi nhìn Chúa Kitô bước vào Thiên Đàng, mặt mũi, đầu tóc, chân tay, mình mẩy đầy những máu me, đầy những vết thương. Và đi cạnh Chúa Kitô là một người trộm, đầy những vết thương, đầy những xấu xa, tôi rất cảm động. Chúa không chọn một người thánh để đi vào Thiên Đàng với Chúa, mà Chúa lại chọn một người xấu xa nhất trên đời, để làm bạn đồng hành với Chúa, khi bước vào Thiên Đàng. Như thể Chúa nói với tôi, và với từng người chúng ta rằng: Cho dù chúng con có lỗi lầm dại dột đến đâu, chúng con hãy tin tưởng vào lòng thương xót Chúa. Cho dù chúng con có rơi vào hoàn cảnh cực khốn đến đâu, chúng con đừng bao giờ mất niềm tin vào lòng nhân hậu Chúa. Cho dù chúng con đã mất hết mọi sự, chúng con cũng đừng bao giờ mất trông cậy vào trái tim đầy lòng thương xót Chúa.
Anh chị em thân mến,
Khi tôi đang suy nghĩ như vậy về lòng thương xót Chúa đối với kẻ trộm, thì tôi đến giữa anh chị em.
Trước mặt tôi, tôi nhìn thấy anh chị em: Trong số anh chị em, có những người giữ đạo lâu năm, có những người mới trở lại, có những người định cư tại đây, có những người từ xa mà tới, nhưng tất cả, tôi thấy anh chị em đang sống quyết liệt lời giao ước mới của Thiên Chúa.
Chúa giao ước với anh chị em rằng: Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Ai trung tín với tình yêu Chúa thì Chúa sẽ ở lại với người ấy. Bởi vì Chúa phán: “Cha sẽ ở lại với chúng con, ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Chúa giao ước như vậy.
Tôi cũng thấy rằng anh chị em đang sống lời giao ước với Chúa, Đấng đã hứa: “Ta là đường là sự thực và là sự sống”.
Tôi cũng đang thấy anh chị em sống lời giao ước mới của Chúa, Đấng đã nói rằng: “Lạy Cha trên trời, Con ở đâu, xin cho chúng cũng ở đấy với Con”. Nếu chúng ta sống lời giao ước ấy một cách trung tín, một cách chân thành, với lòng tin tưởng, thì tôi chắc rằng: Chúa không bao giờ bỏ chúng ta, mặc dầu hoàn cảnh nhiều khi có gay gắt.
Tôi đang thấy Chúa chia sẻ tình thương cho chúng ta. Và tôi cũng đang thấy anh chị em chia sẻ tình thương đối với nhau. Đó là một giao ước mà Chúa đã ban, đã trao cho chúng ta.
Trong bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe trong thánh lễ: “Chúa thiết lập giao ước mới với dân Người”.
Tôi vẫn hiểu giao ước ấy là một giao ước của một người Cha trên trời giàu lòng thương xót, hứa với những người con chân thành, mặc dầu những người con ấy có tội lỗi, có lầm than, có mất đi tất cả những dịp may, miễn là người con ấy biết tin tưởng, trung tín với Thiên Chúa.
Điểm họ đạo này là một điểm truyền giáo. Và truyền giáo ở đây không có nghĩa là chinh phục người ta về Thiên Chúa Giáo, mà là một điểm chúng ta chia sẻ niềm tin và tình thương, hy vọng đối với nhau, bất cứ là lương hay là giáo. Khi chúng ta hiểu như vậy, và sống như vậy, thì đúng là chúng ta sống lời giao ước với Chúa. Lời giao ước Chúa ban tặng cho chúng ta.
Xin Chúa Thánh Thần, giờ đây xuống trong tâm hồn từng người một, xuống sâu sắc trong trí khôn từng người một, để tâm hồn chúng ta được đổi mới, để chúng ta có một cái nhìn về Chúa là Cha giàu lòng thương xót, đã giao ước với chúng ta, để chúng ta có một cái nhìn chân thành đối với anh em sống bên cạnh chúng ta, để chúng ta chia sẻ tinh thần giao ước với những anh em đó, hầu tất cả mọi người cùng sống trong một tinh thần giao ước mới, tức là tinh thần tình thương xót Chúa. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Vàm Rầy (Rạch Giá), ngày 28-10-1992.
Có lần tôi đã thắc mắc tự nói trong lòng mình rằng: Trong thời Chúa Giêsu còn sống trên trái đất này, tại quê hương Ngài, đồng bào của Ngài, gia đình thân thuộc của Ngài, phần đông đều nghèo túng, thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tiền của, thiếu thuốc thang. Chúa Giêsu thấy rõ cảnh tượng ấy, thế mà tại sao không một lần nào Chúa đã nói với các môn đệ là hãy cố gắng làm giàu. Nhưng thay vào đó, Chúa đã đưa ra một lệnh truyền: “Chúng con hãy thương yêu nhau”. Và lệnh truyền này được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhất là trong bữa Tiệc Ly, như hôm nay, chúng ta vừa nghe Phúc Âm kể lại.
Tôi thắc mắc. Tôi suy nghĩ. Tôi cầu nguyện. Tôi tìm hiểu tại sao Chúa Giêsu lại làm như vậy, lại truyền như vậy? Và Chúa thường giải tỏa thắc mắc của tôi bằng cách giúp cho tôi nhớ lại một số chuyện kể trong Phúc Âm.
Tôi nhớ lại phép lạ Chúa Giêsu đã chữa người mù. Người mù ấy mù lúc sinh ra. Anh ta rất nghèo. Anh ta chuyên ngồi ăn mày ở cổng nhà thờ. Chúa đã làm phép lạ cho anh ta được sáng mắt. Khi được chữa lành, anh ta rất vui mừng. Nhưng khi thấy anh ta được chữa lành, nhiều người đã không mừng cho anh, nhất là giới Pharisêu, giới luật sĩ, giới tư tế. Họ đã kiếm chuyện với anh, đã bắt bẻ và kết án anh, đến nỗi đã trục xuất anh ra khỏi hội đường. Đồng thời cũng vì cái phép lạ ấy, mà họ càng thêm hận thù với Đức Kitô. Họ quyết tâm loại trừ Ngài ra khỏi cuộc sống.
Câu chuyện trên đây cho thấy rằng, cái túng nghèo, cái bệnh tật là một cái xấu cần quan tâm giải quyết. Nhưng cái hận thù, cái ganh tị, nó còn là một cái xấu tệ hại hơn nhiều, càng cần phải quan tâm xóa bỏ. Phép lạ Chúa Giêsu đem lại niềm vui cho một người, nhưng lại là dịp làm bừng lên từng trăm ngọn lửa hận thù trong những người chung quanh.
Rồi tôi lại nhớ tới câu chuyện mười người phong cùi. Họ là người mắc bệnh cùi, túng nghèo. Họ từ xa tới Chúa Kitô, nài van Chúa chữa lành họ. Chúa bảo họ đi trình diện với tư tế. Đang khi họ đi đường, họ được khỏi. Nhưng chỉ có một người trở lại để cám ơn Chúa Giêsu.
Câu chuyện này cho tôi thấy rằng: Bệnh tật là một điều ác, điều xấu, cần quan tâm giải quyết. Nhưng cái sự vô ơn còn là một tật xấu, một cái ác, cần phải quan tâm hơn để diệt trừ, vì nó tệ hại hơn, nguy hiểm hơn nhiều. Phép lạ Chúa đã làm là dịp để cho con người thi thố lòng biết ơn, nhưng chẳng may, lại là dịp để chín người kia tỏ lộ cái lòng vô ơn của mình.
Rồi tôi lại nhớ phép lạ Chúa Giêsu làm để nuôi sống hơn năm nghìn người. Năm nghìn người được ăn no nê. Họ vui mừng tung hô Chúa và muốn tôn Ngài làm Vua. Nhưng ít ngày sau, họ bị kích động, họ trở nên hận thù với Chúa Kitô: Trước dinh Philatô, họ hò la xin giết Chúa Kitô. Đấng đã làm phép lạ nuôi dưỡng họ ít ngày trước đây.
Những câu chuyện trên đây cho tôi thấy rằng: Cái đói là một cái ác, cái xấu, cần phải quan tâm để giải quyết. Nhưng cái sự vu oan, cáo vạ cho người khác, cái sự ganh tị người khác, đó là một cái tệ hại còn nguy hiểm hơn nhiều.
Chúa Giêsu làm phép lạ cho người ta no nê, nhưng không phải vì no nê, mà người ta lại rơi vào sự hận thù ghen ghét.
Tất cả những câu chuyện trên đây đã giúp cho tôi hiểu rằng: Bệnh tật, đói khát, túng nghèo là những cái cần phải quan tâm giải quyết. Nhưng cái cần giải quyết hơn hết, đó là phải yêu thương nhau, đừng chia rẽ nhau, đừng ganh tị nhau, đừng hận thù nhau. Vì thế, Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại trong Phúc Âm: “Chúng con hãy thương yêu nhau”. Còn trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu nói rất rõ: “Thầy truyền cho chúng con một điều răn mới, là chúng con thương yêu nhau”.
Lời truyền này rất cần cho mọi nơi, mọi thời. Và tôi nghĩ rằng càng cần trong thời buổi hôm nay, tại đất nước Việt Nam chúng ta.
Tôi thấy nhiều gia đình, nhiều khu xóm, nhiều địa phương, khi còn nghèo túng thì còn thương yêu nhau, đùm bọc nhau, nâng đỡ nhau. Nhưng khi bắt đầu có của, giầu sang, thì cũng bắt đầu xa tránh nhau, nghi kÿ nhau, ganh tị nhau.
Trong những chuyến đi vừa qua tại nước ngoài, tôi cảm thấy giới luật yêu thương rất cần, phải được chú ý. Bởi vì, người ta có giầu lên, có sang hơn, có văn minh hơn, nhưng mà đang có một sự suy thoái trầm trọng về tình yêu thương, ngay trong gia đình chứ chưa nói đến xã hội.
Thí dụ: Tại Rôma năm rồi, số vợ chồng ly dị nhau là rất cao, tính trung bình, mỗi tuần tại Rôma có chừng 200 đôi ly dị. Nghĩa là, mỗi một ngày có chừng 30 đôi vợ chồng ly dị.
Tôi mới đọc một tờ báo nói rằng: Tại Pháp bây giờ, hơn hai triệu trẻ em sống, hoặc là thiếu cha, hoặc là thiếu mẹ, hoặc là thiếu cả cha lẫn mẹ. Bởi vì chúng thuộc về những gia đình cha mẹ thôi nhau.
Rồi sang bên Tây, tôi cũng đã thấy cảnh cha mẹ già yếu bệnh tật, bị con cháu bỏ rơi, đưa vào các hưu dưỡng đường, mà cả tuần lễ, cả tháng trời, cha mẹ không được con cái hỏi thăm, giúp đỡ.
Tôi vừa nói rằng đấy là những nước giầu, đấy là những nước văn minh, mà tình yêu thương còn bị tan vỡ ngay trong gia đình.
Sở dĩ hôm nay tôi chia sẻ với anh chị em những suy tư trên đây, là vì tôi muốn ca ngợi và cổ võ những công việc mà các cha và anh chị em ở trong vùng này nói chung, và tại xứ Kiên Lương này nói riêng. Các cha cũng như anh chị em đang cố gắng làm các việc từ thiện, đó là việc làm rất tốt.
Nhưng tôi cũng biết các cha và anh chị em càng cố gắng hơn, trong việc huấn luyện trái tim mình, và trái tim những người thuộc về mình, để biết sống đích thực giới luật yêu thương mà Chúa đã dạy, và nhất là như Chúa đã làm gương: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu các con”.
Chúa đã thương yêu chúng ta thế nào? Thưa là tự hạ, phục vụ quên mình tại hang đá Bê Lem. Thưa là tự hạ, phục vụ quên mình, trong phép Thánh Thể. Thưa là tự hạ, phục vụ quên mình, trên cây Thánh Giá.
Chúng ta hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta.
Trên tấm bảng, đặt trên cung thánh, chúng ta đọc thấy 7 ơn Chúa Thánh Thần. Khi tôi đọc 7 ơn Chúa Thánh Thần, tôi nghĩ ngay tới chúng ta cần ơn Chúa Thánh Thần, để biết sống đúng giới luật yêu thương. Để biết yêu thương nhau, cần phải có ơn hiểu biết, cần phải có ơn khôn ngoan, cần phải có ơn can đảm, cần phải biết kính sợ Chúa. Trong giây phút này, tôi cùng với anh chị em xin Chúa Thánh Thần, giúp cho tâm hồn chúng ta biết đón nhận chính sự sống của Thiên Chúa, một sự sống là tình yêu, tình yêu hồn nhiên chân thành quảng đại, để không những hôm nay, mà mãi mãi sau này, chúng ta cũng như con cái chúng ta, biết thương yêu nhau, nhất là trong gia đình xóm ngõ và trong họ đạo.
Riêng tôi, tôi vẫn nghĩ rằng một Giáo Hội giầu không luôn luôn là một Giáo Hội mạnh, nhưng chỉ có Hội Thánh nào biết thương yêu nhau mới là một Hội Thánh mạnh, có sức làm chứng cho Chúa, có sức làm việc truyền giáo.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đốt lửa tình yêu Chúa trong lòng chúng con. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Kiên Lương, ngày 29-10-1992.
Khi tôi đi khắp nơi, trong nước và ngoài nước, tôi nhận thấy: Hiện nay đang xuất hiện những sáng tạo về cách sống đức tin.
Thực ra, không ai có quyền sáng tạo nên đức tin, cũng không ai có quyền sáng tạo nên Hội Thánh. Nhưng mỗi người đều được mời gọi sáng tạo nên cách mình sống đức tin trong Hội Thánh hôm nay, trong thế giới hôm nay. Làm sao trong cách sống đức tin của mình thiết thực hơn, sống động hơn, hấp dẫn hơn.
Khi nghe bài Phúc Âm hôm nay, tôi có cảm tưởng Đức Mẹ và bà thánh Isave, đã sáng tạo nên một cách sống đức tin, một đức tin hướng về tương lai, một đức tin tuyệt đối dựa trên quyền năng đầy tình thương xót Chúa.
Thực vậy, bà Isave ca ngợi Đức Mẹ vì đã tin vào những lời Chúa hứa. Bà nói: “Phúc cho bà vì đã tin rằng: Lời Chúa hứa với bà sẽ được thực hiện”. Còn Đức Mẹ, thì cũng đã ca ngợi Thiên Chúa, vì tin rằng Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ: “Linh hồn tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng Cứu Độ tôi”.
Tôi có cảm tưởng rằng: Cái sáng tạo của hai bà trong bài Phúc Âm hôm nay, là do Chúa Thánh Linh thực hiện, để ca tụng một việc làm rất quan trọng, trong đời sống người theo Chúa: Ca tụng đức tin, chúc tụng kẻ tin, cảm tạ Thiên Chúa ban ơn đức tin. Đó là việc chúng ta cần phải làm, bởi vì đức tin là điều làm cho chúng ta trở nên công chính, và nhờ đó, sẽ chảy tuôn ra các ơn khác. Thánh Phaolô nói: “Nhờ đức tin, mà anh chị em được Chúa làm cho nên người công chính”.
Tuy nhiên, khi nói về niềm tin mà Đức Mẹ và thánh Isave ca ngợi hôm nay, không phải là một đức tin đi một mình, mà là một đức tin đi cùng với việc làm. Thánh Giacôbê đã cắt nghĩa điều đó. Ngài nói: “Ai nói rằng, tôi có đức tin và tự nó trở nên công chính, thì hỏi rằng đức tin không có việc làm có cứu được người đó không?”.
Tổ phụ Abraham đã trở nên công chính, nhờ việc Ngài hiến dâng con mình là Isaac trên bàn thờ. Đức tin của Abraham đi song song với việc làm hiến tế. Đức tin của Abraham trở nên thiết thực nhờ việc làm của mình, là dâng con mình là Isaac. Cũng vậy, hôm nay nghe Phúc Âm, tôi thấy Đức Mẹ và bà Isave có một đức tin rất mạnh, nhưng đức tin ấy đi đôi với việc làm. Cũng như việc làm của Abraham là dâng hiến Isaac con mình trên bàn thờ, thì hai bà trong Phúc Âm hôm nay, cũng có việc làm như vậy: Bà Isave dâng con mình là Gioan Baotixita. Đức Mẹ dâng con mình là Đức Kitô. Hai của lễ này, hai đứa con này, sẽ là lễ vật dâng lên Thiên Chúa. Mà lễ vật này, có những khổ đau, có những nhục nhã, có những từ bỏ, có những mồ hôi, có những máu đào tuôn chảy. Đức Mẹ, thánh Isave, biết như vậy. Thế mà, vẫn cứ ca ngợi đức tin, vẫn coi đức tin là một ân huệ quí giá. Như vậy, tôi hiểu: Sự ca ngợi đức tin nơi Đức Mẹ và thánh Isave, là có ý nêu gương để cho chúng ta một cách sống đức tin, đi đôi với việc làm, và việc làm ấy có sự tuyệt đối hướng về Chúa, và có sự quyết tâm từ bỏ chính mình, chấp nhận những mất mát, những hy sinh.
Những cách suy nghĩ trên đây của tôi, làm cho tôi nhớ những người có liên hệ đến việc xây dựng khu thánh đường này và tổ chức cuộc lễ tạ ơn hôm nay. Tôi biết, khi anh chị em, khi cha sở quyết tâm xây dựng thánh đường này, thì cũng đã sẵn lòng chấp nhận những hy sinh, những đóng góp công sức, tiền bạc... là những cái bề ngoài có một sự mất mát nào đó. Nhưng sự chấp nhận ấy là để đề cao Thiên Chúa của mình. Điều đó nói lên niềm tin của mình... Đó là một sáng tạo để sống đức tin trong thế giới hôm nay. Chính trong thánh lễ, khi quan sát cách tổ chức của anh chị em, tôi cũng đã nhận thấy phần nào sự anh chị em để ý đề cao đức tin: Những bài ca, những ý nguyện, nhất là những cặp mắt, những nét mặt hướng về Chúa, và hướng sự quyết tâm hy sinh thời giờ, hy sinh của cải, hy sinh ý riêng, để mà nói lên niềm tin của mình vào Thiên Chúa hiện tại và tương lai.
Khi nhìn thấy như vậy, tôi hiểu rằng: Lễ tạ ơn hôm nay, chính là lễ tạ ơn, vì Chúa đã cho chúng ta đức tin. Chính đức tin này mà chúng ta có mặt. Vì đức tin ấy mà chúng ta có cuộc lễ hôm nay.
Tiếp theo, tôi cũng thấy rằng: Nhà thờ mới, chuông mới, đó là những kết quả thấy được. Nhưng tôi cũng có cảm tưởng rằng: Trong đời sống chúng ta, nhất là trong tương lai, có thể chúng ta sẽ làm nhiều việc cho đức tin, mà sẽ không thấy kết quả nào. Ngày khánh thành sẽ chỉ được thực hiện, sau khi ta chết. Còn suốt cuộc đời, sống cho đức tin, phải chịu hy sinh, phải chịu mất mát, phải từ bỏ. Mà nếu Chúa chọn chúng ta là một của lễ, như Chúa đã đợi vào bà Isave hôm nay, để sống đức tin một cách trần trụi, quyết liệt như vậy, không có ngày khánh thành trong cuộc đời mình, thì chúng ta cũng hãy quảng đại, chấp nhận để Chúa sáng tạo nơi chúng ta, những cách sống đức tin, để làm chứng cho thế giới vô thần hôm nay thấy rằng: Con của Chúa, những người theo Chúa, là những người sẵn sàng hy sinh tất cả, để làm chứng cho một niềm tin duy nhất: Thiên Chúa là tất cả cho tôi. Người là phần thưởng sau cùng cho tôi. Người là hy vọng, là điểm tựa duy nhất của tôi.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một đức tin vững mạnh. Xin Chúa trả ơn cho tất cả những ân nhân hôm nay, bằng cách Chúa ban cho họ một đức tin vững mạnh, can trường. Amen.
Lễ khánh thành nhà thờ An Dũng, k.G1, ngày 12-11-1992.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, có một câu đã gợi lên trong tôi một phản ứng e ngại. Câu đó là lời Chúa phán: “Nếu thế gian ghét các con, thì các con nên biết rằng: Họ đã ghét Thầy trước”.
Khi nghe lời Chúa phán trên đây, tự nhiên tôi nghĩ trong lòng rằng: Cho dù thiên hạ có ghét Chúa đi nữa, thì Chúa cũng không nên nói điều đó ra. Nói điều đó ra, nhiều người biết được sợ uy tín của Chúa sẽ giảm sút đi. Chi bằng Chúa cứ nói rằng: Tôi đi đâu, cũng được người ta nghênh đón linh đình. Tôi nói lời gì, tôi làm việc gì, đều được mọi người khen ngợi. Nói kiểu tích cực như vậy, thời nay, nhiều người coi là hữu hiệu để truyền giáo, để làm sáng danh Thiên Chúa.
Những suy nghĩ trên đây của tôi, là một phản ứng theo kiểu thế gian, chứ không theo kiểu Phúc Âm. Bởi vì sau đó, Chúa soi sáng cho tôi nhớ lại: Chúa là sự thực. Chúa dạy sự thực. Chúa làm chứng cho sự thực. Nên, Chúa không ngần ngại nói lên những sự thực phủ phàng nhất cho Chúa. Cho dù sự thực ấy là Chúa bị thế gian ghét bỏ, Chúa bị người ta chê cười.
Phúc Âm còn cho thấy, số người ghét Đức Kitô là rất đông, thuộc mọi thành phần. Chẳng hạn, Phúc Âm cho thấy, những vị lãnh đạo tôn giáo thời ấy, cũng như các vị chức sắc thời ấy đã ghét Đức Kitô. Lý do là vì Đức Kitô đã xua đuổi những người buôn bán của họ ra khỏi đền thờ và đã công kích tinh thần câu nệ của họ trong việc giữ luật đạo.
Rồi, Phúc Âm cũng đã cho thấy những người Pharisêu rất ghét Đức Kitô, lý do là vì Đức Kitô đã phê phán những tập truyền cố hũ của họ, nhất là cách sống đạo quá chi li của họ.
Rồi Phúc Âm cũng cho thấy, vua Hêrôđê rất ghét Đức Kitô, lý do là vì ông tưởng Đức Kitô đến để lật đổ chế độ Rôma mà ông đang hưởng lợi.
Rồi, Phúc Âm cũng cho thấy, chính đám đông cũng có lần ghét Đức Kitô, vì họ vẫn tôn Đức Kitô lên làm vua trong một mưu đồ chánh trị, nhưng Đức Kitô đã không làm như vậy, đã trốn lên núi.
Như thế, khi Phúc Âm trình bày những sự thực trên đây thì Phúc Âm cho tôi thấy: Đức Kitô, dù khi được mộ mến, dù khi bị khinh chê, Đức Kitô luôn luôn theo đuổi một mục đích duy nhất này: Đó là, với tinh thần trách nhiệm với thánh ý Chúa Cha, Ngài luôn luôn làm chứng cho tình yêu thương cứu độ, bằng cách chấp nhận những hy sinh làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Có nghĩa là, để làm chứng cho tình yêu cứu độ Thiên Chúa, Đức Kitô đã đề cao tinh thần trách nhiệm và đề cao tinh thần bác ái, chấp nhận hy sinh.
Cuộc đời Đức Kitô là như vậy, và cuộc đời ấy, đã trở thành mẫu gương chung cho mọi người tin theo Đức Kitô. Mọi người tin theo Đức Kitô đều nhìn vào mẫu gương ấy mà học hỏi, mà bắt chước. Nhưng mỗi người sẽ bắt chước mẫu gương ấy theo cách thức thích hợp mà Chúa Thánh Linh sẽ soi dẫn.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã theo mẫu gương Chúa Kitô bằng cách chấp nhận tù đày, chấp nhận tử hình, nhưng là để làm chứng cho tình yêu thương xót Chúa. Các ngài đã đề cao tinh thần trách nhiệm và đề cao tinh thần bác ái hy sinh.
Còn những người khác như chúng ta, cũng đang theo mẫu gương của Đức Kitô. Nhưng thay vì tử đạo, chúng ta cố gắng chu toàn bổn phận hằng ngày của mình, cũng là để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, đề cao tinh thần bác ái hy sinh, đề cao tinh thần trách nhiệm.
Tối hôm qua, đài BBC có loan một tin kỳ lạ: Một thiếu nhi 11 tuổi ở nước Anh, đã nhờ một luật sư làm đơn lên tòa án, để được quyền từ người mẹ đẻ của mình, và để nhận người mẹ nuôi làm mẹ chính thức. Một đứa con đòi quyền từ người mẹ đẻ của mình, đó là một việc quái lạ. Nhưng quái lạ hơn nữa, đó là tòa án cũng đã cho thiếu nhi ấy, được quyền từ người mẹ đẻ của mình để nhận một người khác làm mẹ chính thức.
Khi nghe tin ấy, tôi rất buồn. Tôi nghĩ đến các thiếu nhi Việt Nam, trong đó có các em hôm nay chịu lễ Bao Đồng. Tôi nghĩ rằng: Con cái đòi quyền từ cha, từ mẹ. Con cái được quyền từ mẹ, từ cha. Đó là chuyện bên Tây, bên Mỹ. Còn chúng ta, những người Công Giáo Việt Nam, mang trong mình giòng máu các thánh tử đạo, chúng ta chỉ có một mẫu gương duy nhất đó là: Cuộc sống Đức Kitô.
Đối với chúng ta, sống đức tin có nghĩa là làm chứng cho tình yêu thương xót Chúa, bằng cách đề cao tinh thần bác ái, chấp nhận hy sinh, bằng cách đề cao tinh thần trách nhiệm đối với Thiên Chúa, đối với Hội Thánh, đối với cha mẹ, đối với đồng bào quê hương. Chúng ta không đòi quyền lợi cho chúng ta, nhưng chúng ta làm chứng, chúng ta là những con người có trách nhiệm.
Sống như vậy, chúng ta mới xứng là con cái các thánh tử đạo Việt Nam, và nếu vì thế, chúng ta bị ghét bỏ, thì chúng ta nên nhớ lại lời Đức Kitô đã nói hôm nay: “Nếu thế gian ghét các con, thì chúng con nên nhớ rằng: Họ đã ghét Thầy trước”.
Trong khi tuyên xưng Đức Kitô, các con hãy cầu xin, để biết sống đức tin là làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, đề cao tinh thần bác ái, đề cao tinh thần trách nhiệm. Amen.
Tối hôm qua, đài truyền hình Cần Thơ có phổ biến rộng rãi một thiên phóng sự, tựa đề: “Trẻ em, nỗi lo không chỉ riêng ai”. Nội dung thiên phóng sự ấy là một số hình ảnh và một số ý kiến về tình hình đạo đức trẻ em. Theo nội dung ấy, thì sự suy thoái đạo đức của trẻ em đang là một hiện tượng rõ rệt và trầm trọng tại nhiều nơi của đất nước Việt Nam chúng ta. Trách nhiệm ngăn chặn sự suy thoái đạo đức này và nâng cao trình độ đạo đức của trẻ em lên là học đường, là gia đình, là xã hội.
Khi theo dõi thiên phóng sự này xong, tôi đã tự hỏi mình rằng: Các trẻ em Công Giáo của địa phận Long Xuyên nói chung, và những trẻ em Công Giáo của địa phương Cái Sắn này nói riêng, có đạo đức không? Sức sống đạo đức của chúng đang lên hay đang đi xuống? Và vấn đề giải quyết đạo đức cho trẻ em đang thực hiện các nơi thế nào?
Sau khi suy nghĩ, cân nhắc và phân tích, tôi đi đến một kết luận này: Tình hình đạo đức của trẻ em Công Giáo tại địa phận Long Xuyên nói chung, và đặc biệt tại địa phương chúng ta đây nói riêng là đáng lạc quan.
Kết quả lạc quan này một phần là do học đường, một phần là do gia đình, một phần là do xã hội. Nhưng, công bình mà nói, tôi phải thêm rằng: Kết quả lạc quan này cũng do sự đóng góp tích cực của nhà thờ.
Khi tôi nói nhà thờ, là tôi muốn hiểu các sinh hoạt tôn giáo được thực hiện trong nhà thờ, trong họ đạo. Thí dụ như: Các việc giảng dạy giáo lý, sự đọc kinh, sự xem lễ, sự tham dự các phép bí tích, sự lãnh nhận ơn Chúa qua cộng đoàn, qua Hội Thánh. Tất cả những sinh hoạt tôn giáo trên đây đã đóng góp rất nhiều trong việc xây dựng, phát triển, trau dồi đạo đức cho trẻ em chúng ta.
Cụ thể như thánh lễ Thêm Sức hôm nay, tôi coi thánh lễ này là một đặc ơn Thiên Chúa ban cho chúng ta, để xây dựng nền đạo đức nội tâm, để huấn luyện lương tâm, để soi sáng trí khôn, để giúp cho chúng ta biết cái gì lành, cái gì dữ, để ban ơn cho chúng ta trong sự chiến đấu cho đàng lành và tránh điều xấu. Như vậy, những thánh lễ như hôm nay đang góp phần vào những việc xây dựng đạo đức.
Riêng tôi, tôi rất chú trọng đến việc xây dựng đạo đức cho trẻ em bằng những phương tiện tôn giáo. Vì thế, khi đến đây, tôi để ý đến mấy yếu tố quan trọng có tính cách xây dựng đạo đức cho trẻ em. Nghĩa là, tôi nói với tất cả sự dè dặt và thận trọng. Khi tôi nói rằng, những sinh hoạt tôn giáo góp phần vào việc xây dựng trau dồi đạo đức, thì tôi không có ý nói bất cứ ai tham dự vào sinh hoạt đó, đều trở nên đạo đức cả. Mà tôi phân biệt đạo đức bề ngoài và đạo đức bên trong có chất lượng. Chính những đạo đức bên trong có chất lượng mới là cái đáng quan tâm, đáng tôn trọng.
Trong thánh lễ này, tôi đã thấy những việc có tính chất nội tâm, có chất lượng bên trong, có tính chất xây dựng đời sống đạo đức.
Yếu tố thứ nhất tôi đã để ý trong thánh lễ hôm nay, nơi anh chị em đó là tinh thần cầu nguyện.
Trước thánh lễ, tôi thấy anh chị em đã chuẩn bị bằng sự đọc kinh, cầu nguyện, hát thánh ca, và sự cầu nguyện ấy theo tôi hiểu, không phải chỉ là sự cầu nguyện cá nhân, mà là sự cầu nguyện cộng đoàn. Chúa đã hứa rằng: Khi hai, ba người chúng con tụ hợp nhau cầu nguyện thì Cha ở giữa chúng con. Vì thế, khi thấy anh chị em cầu nguyện chung trước thánh lễ, cũng như bây giờ, tôi tin chắc rằng: Chúa đang ở giữa chúng ta. Chúa hứa điều gì, thì Chúa giữ điều đó. Chúa đang ở giữa chúng ta. Đó là một việc đạo đức có chất lượng bên trong.
Yếu tố thứ hai tôi đã để ý nơi anh chị em hôm nay, đó là tinh thần quí trọng lời Chúa.
Tôi không đọc thấy ở đây những biểu ngữ lớn. Nhưng những biểu ngữ anh chị em nêu lên đều là lời Chúa. Chẳng hạn như trên cung thánh, đó là tóm tắt lời Chúa.
Nói thực là, khi tôi đọc một khẩu hiệu là lời Chúa, tôi có cảm tưởng là tôi được hấp thụ một lương thực thiêng liêng cao quí, mang lại cho tôi sự sống thiêng liêng hơn bất cứ một biểu ngữ nào do con người tạo ra. Chúa phán: Lời Ta là lời hằng sống”. Ai mộ mến lời Chúa, tức nhiên là có sự sống bên trong.
Tôi cũng để ý đến các thánh ca mà anh chị em đã hát. Những thánh ca đó có nội dung lời Chúa. Bao giờ, những thánh ca ấy cũng mang lại lương thực thiêng liêng cho chúng ta, và chuẩn bị để Chúa đến và ở lại trong chúng ta.
Yếu tố thứ ba tôi cũng đã nhận thấy nơi anh chị em ở đây, đó là tinh thần hợp nhất yêu thương.
Anh chị em đã chuẩn bị tâm hồn để rước Chúa Thánh Linh, bằng cuộc sống yêu thương, bác ái, đoàn kết. Các cộng đoàn đạo, đời, các giới, tất cả cùng sống trong một tình thương chan hòa hợp nhất, chia sẻ với nhau. Chúa phán: “Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời”.
Ba yếu tố trên đây cũng là ba yếu tố mà Đức Mẹ, các thánh tông đồ xưa đã thực hiện, khi chuẩn bị đón nhận Chúa Thánh Linh. Kinh Thánh đã kể lại: Các Ngài hợp nhau lại cùng một lòng, cùng một tâm hồn, cùng một ý chí, ôn lại lời Chúa và cầu nguyện thiết tha.
Anh chị em cũng đã bắt chước Đức Mẹ và các tông đồ chuẩn bị đón Chúa Thánh Linh đến trong lòng mình, bằng cách thực hiện việc cầu nguyện, tôn trọng lời Chúa và thực thi bác ái yêu thương.
Tôi hết sức chân thành cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho anh chị em biết sống đạo bằng những việc có chất lượng trên đây, và khi nhìn thấy anh chị em đang làm những việc có chất lượng ấy, tôi tin tưởng rằng Chúa Thánh Linh sẽ đến với anh chị em. Hơn nữa, như trong Phúc Âm đã hứa: Ngài đến và Ngài ở lại với chúng ta như một Thần Chân Lý hướng dẫn sự lành và Người trợ giúp, giúp đỡ và trợ lực cho chúng ta, nhất là trong thời buổi đang phải đấu tranh giữa sự thiện và sự ác. Mà phải nói thực là sức mạnh của sự ác là rất mạnh mẽ. Nếu không có ơn Chúa giúp cách riêng, chúng ta nhất là con em chúng ta, không chắc có đủ đề kháng trước những tấn công của sự ác không? Xin Chúa Thánh Thần đến với lòng chúng ta, đi vào lương tâm chúng ta, đi vào trái tim chúng ta, đi vào trí khôn chúng ta. Lạy Chúa, xin hãy đến. Amen. Lễ Thêm Sức tại An Sơn (kênh E2), ngày 19-11-1992
Lễ an táng cha Antôninô Dương Hữu Soạn hôm nay là một cuộc tiễn đưa, tuy bình thường, nhưng lại khác thường. Khác thường ở chỗ có đông người từ nhiều nơi tới, đặc biệt là từ những vùng sâu, những cộng đoàn nhỏ, những địa điểm truyền giáo. Nét khác thường này trong lễ tiễn đưa, nói lên nét đặc biệt trong cuộc sống bình thường của cha Antôninô.
Thực vậy, cha Antôninô là người đã thực hiện Lời Chúa Giêsu đã được ghi trong Phúc Âm thánh Matthêu, đoạn 14 câu 22 trở đi. Lúc ấy, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ Ngài hãy chèo thuyền sang bờ bên kia là vùng đất hẻo lánh, hầu hết dân cư không biết Tin Mừng Đức Kitô. Các môn đệ Chúa đã vâng lời Ngài, mà sang bờ bên kia để chia sẻ Tin Mừng.
Từ đó đến nay, vẫn có những người được sai đến bờ bên kia, như các môn đệ đầu tiên đó. Cha Antôninô là một trong những người ấy. Phần lớn đời linh mục của cha đều phục vụ ở những địa điểm hẻo lánh, bé nhỏ, nghèo nàn, ít giáo dân, và đường đi trắc trở, hầu hết là những đường sông. Như Tràm Chẹt, Gò Quao, Rọc Lá, Tân Hội, Rạch Sỏi. Những cộng đoàn nhỏ bé này như những hòn đảo chơ vơ giữa một vùng sâu mênh mông. Ngay nhiều linh mục bạn bè của cha Antôninô cũng không hề đặt chân tới. Thế mà, khi được bề trên sai đến những địa điểm này, cha đã không bao giờ tỏ vẻ khó chịu.
Phúc Âm cho biết, các môn đệ Chúa chèo ghe sang bờ bên kia, đã bị thử thách lớn, gió bão thổi tới, sóng nước cuộn lên, ghe bị chao đảo, tưởng như phải chìm. Đó là thân phận kẻ đi truyền giáo. Kinh nghiệm của người truyền giáo là kinh nghiệm về sự bất ổn.
Sang bờ bên kia là phải sẵn sàng bỏ nơi mình đang ở, để tới nơi khác cần đến mình.
Sang bờ bên kia là phải sẵn sàng từ bỏ một nếp sống đạo lỗi thời, để bước sang một nếp sống đạo hợp với thời điểm và địa điểm mình phục vụ.
Sang bờ bên kia là phải sẵn sàng từ bỏ những thành công, để sẵn sàng chấp nhận những thất bại tạm thời.
Sang bờ bên kia là phải sẵn sàng từ bỏ tình trạng khoẻ mạnh, để chấp nhận tình trạng đau yếu, tàn tạ.
Cảm nghiệm những bất ổn trên đây với tinh thần tuân phục thánh ý Chúa. Vì mến Chúa, yêu người, sẽ biến người truyền giáo trở thành lễ vật hiến dâng, góp phần vào kế hoạch cứu độ của Chúa Giêsu.
Tôi nghĩ rằng cha Antôninô đã có những cảm nghiệm quí báu ấy. Và cảm nghiệm lớn nhất của Ngài, thiết tưởng chính là thấy được sự nâng đỡ của Đức Kitô trong mọi thử thách. Xưa, các môn đệ, nhờ sự can thiệp của Đức Kitô, đã vượt qua được thử thách, và đến bờ bên kia một cách bình an. Nay cha Antôninô được Chúa nâng đỡ sau khi đã qua nhiều bờ bến, đã tới bờ sau cùng của dòng sông cuộc đời truyền giáo. Đó là bến Nước Trời, bến Thiên Đàng.
Giờ đây, trong giờ tiễn biệt cha Antôninô, tôi sẽ cùng với anh chị em cảm tạ Chúa vì những ơn Chúa đã ban cho cha.
Và tôi cũng sẽ cùng với anh chị em cầu nguyện rất nhiều cho linh hồn cha, đồng thời cũng xin cha cầu nguyện cho chúng ta, được biết vâng lời Chúa, mà dấn thân cho công cuộc truyền giáo.
Lạy Chúa, xin hãy đến với chúng con, và xin chúc lành cho chúng con.
Lễ an táng cha Antôninô Dương-Hữu-Soạn tại Rạch Giá, ngày 01-12-1992.
Tại nhiều nơi, trong thánh lễ Thêm Sức, người đại diện cộng đoàn đã thường nói với tôi rằng: “Chúng con hứa sẽ trung thành với Hội Thánh”.
Khi nghe tới đó, tôi rất vui mừng. Nhưng tôi tự hỏi trong lòng rằng: “Trung thành với Hội Thánh là thế nào? Có phải trung thành với Hội Thánh là vâng phục luật lệ của Hội Thánh không?” Tôi thiết nghĩ: Cũng có thể là như vậy.
Nhưng đối với tôi: Trung thành với Hội Thánh, trước hết là sống tinh thần Hội Thánh. Mà sống tinh thần Hội Thánh, tức là sống tinh thần hiệp thông. Bởi vì Hội Thánh là hiệp thông. Hiệp thông không phải chỉ là sống liên đới giữa những thành phần trong nội bộ Hội Thánh, mà còn là liên đới giữa Hội Thánh với con người thời đại hôm nay, đối với quê hương, đối với đồng bào không phân biệt tôn giáo.
Trong Hiến Chế “Vui mừng và hy vọng” của Công Đồng Vatican II, có một câu thế này: “Những niềm vui và những hy vọng, những nỗi buồn và những băn khoăn của con người thời đại hôm nay, cũng là chính những niềm vui, hy vọng, nỗi buồn, băn khoăn của các môn đệ Đức Kitô”.
Tôi coi đây là một “Bài ca hiệp thông”. Bài ca hiệp thông này nói lên sự môn đệ Chúa Kitô cảm thông với những thao thức của con người thời đại hôm nay. Bài ca hiệp thông này mở ra một hướng đi mới cho đời sống đức tin. Hướng đi mới này của đời sống đức tin, không còn phải đặt trọng tâm vào sự bảo vệ quyền lợi Hội Thánh, mà là đặt trọng tâm vào sự phát triển con người, xây dựng cuộc sống con người.
Sống đức tin theo hướng mới đó không phải là chinh phục, lôi kéo con người vào Hội Thánh như mục đích chính, mà chính là lo làm sao cho mọi người, không phân biệt ai, có được một hạnh phúc ở trần gian này và ở đời sau.
Khi có một hướng đi để sống đức tin như vậy, môn đệ Đức Kitô sẽ cảm thấy mình không còn phải là một người rúc vào trong pháo đài, để mà tự vệ, để mà chống đỡ. Nhưng trái lại, đức tin của mình sẽ như một con tàu, đi lại thảnh thơi trên dọc bờ sông, suốt con sông dài, để đón người này, để nhận người kia, để nối lại những bến bờ, để phục vụ những người cần đến mình, để mình có thể giúp đỡ họ.
Hướng đi mới này đang được thực hiện khắp nơi, và cụ thể là chính nơi đây.
Thực vậy, mỗi lần các cha phụ trách giáo hạt Rạch Giá nói chung, và các cha phụ trách họ đạo này nói riêng, gặp tôi, thì đều phản ánh lại những niềm vui, nỗi buồn, hy vọng và thao thức của anh chị em, không phân biệt người lương kẻ giáo. Tôi đọc thấy trong trái tim các cha những xót xa, những lo âu, những hy vọng của anh chị em. Và tôi có cảm tưởng rằng, các cha còn cảm thấy sâu sắc hơn anh chị em, về cuộc sống của anh chị em hôm nay, tại địa phương này.
Rồi chính tôi, khi nghe các cha phản ánh về anh chị em, và sau khi được thấy tận mắt cuộc sống anh chị em, tôi cảm thấy trong lòng như được chia sẻ những niềm vui nhỏ, những hy vọng nhỏ, và những nỗi buồn lớn, những khắc khoải lớn của anh chị em.
Thành ra, đời sống đức tin của tôi, của các cha, cũng giống như là một sự hiệp thông sâu sắc, đi vào đời sống của từng gia đình anh chị em. Và lúc ấy, tôi mới thấy rằng: Sống đức tin theo phong cách hiệp thông là một sự cởi mở, là một sự chan hòa tình thương, là một sự cùng nhau gắn bó, nắm tay nhau để xây dựng việc chung.
Hôm qua, khi dự lễ an táng cha Antôniô Dương Hữu Soạn tại nhà thờ Rạch Giá, tôi đứng ở trên bàn thờ nhìn xuống, thấy một nhóm trẻ mặc áo đẹp, dự lễ nghiêm trang, có tinh thần cầu nguyện, và giữ được một thái độ lịch sự với những người chung quanh. Khi hỏi ra, tôi biết đó là đoàn của xứ đạo Phú Hòa của anh chị em. Tôi tự nhủ rằng: Ít ra, nhà thờ họ đạo anh chị em chưa được xây lên, nhưng cụ thể, đây là những đền thờ vinh quang, sống động của Thiên Chúa. Những con người sống lịch sự, những con người sống tinh thần trách nhiệm, những con người sống tinh thần liên đới, đã thực sự là những con người đạo đức, sống Phúc Âm. Chính đó sẽ làm chứng cho Thiên Chúa. Và nhờ đó, mỗi người sẽ là đền thờ vinh quang của Thiên Chúa. Nhà thờ gỗ đá xây lên, sẽ ở chỗ này. Nhưng mỗi người anh chị em, khi được xây dựng lên, dù nghèo, nhưng với tư cách nhân phẩm của mình, đi đâu cũng sẽ là những người làm chứng cho đức tin, qua thái độ nhân bản của mình, qua thái độ đạo đức của mình, nhất là, qua tinh thần liên đới hiệp thông của mình.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi cảm tạ Chúa về tinh thần hiệp thông đang được phát triển trong họ đạo anh chị em, bằng chứng là đây: Bao nhiêu người đang đến, bao nhiêu người đang có mặt, để chia vui sẻ buồn với chúng ta. Và cụ thể là đây: Bao nhiêu công việc đang làm và sẽ làm, từ cơ sở vật chất, cho đến con người cụ thể, đang được xây dựng trong một kế hoạch chung, trong một tinh thần trách nhiệm chung.
Tôi cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn cho tất cả chúng ta, được biết sống tinh thần Hội Thánh, tức là tinh thần hiệp thông, một tinh thần hợp thời hôm nay. Và đối với Việt Nam hôm nay, sẽ là sức mạnh để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu. Bởi vì, nó chỉ là phục vụ chớ không phải là một sự chinh phục. Nó chỉ là tình yêu bác ái, chớ không phải là chủ nghĩa cá nhân, chỉ lo phần rỗi linh hồn cho riêng mình.
Lạy Chúa Thánh Linh, xin hãy đến và biến đổi chúng con, thành đền thờ vinh quang của Chúa. Amen.
Lễ phong chức hôm nay có những nét chung và có những nét riêng. Nét chung là vì lễ hôm nay cũng giống như mọi lễ phong chức khác. Nét riêng là vì lễ hôm nay được tổ chức một cách đơn sơ khiêm tốn.
Đơn sơ khiêm tốn, đó là một vẻ đẹp đặc sắc của các vị truyền giáo đã từng sống và đã chết trên mảnh đất Cù-Lao-Giêng này. Thực vậy, tại đây đã có nhiều vị Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ đã sống cuộc đời đơn sơ khiêm tốn. Các ngài đã qua đời trong sự bình an và được chôn cất một cách đơn sơ khiêm tốn. Mồ mả các ngài còn đó. Rất đơn sơ khiêm tốn.
Đơn sơ khiêm tốn, đó là một vẻ đẹp siêu vời của thánh tử đạo Emmanuel Phụng. Người giáo dân này xưa đã phục vụ Hội Thánh tận tụy với tinh thần đơn sơ khiêm tốn, và đã chết vì đức tin với tấm lòng đơn sơ khiêm tốn.
Đơn sơ khiêm tốn, đó cũng là một đặc điểm đời tu và hoạt động Phúc Âm của những người truyền giáo hiện nay tại chốn này. Dấn thân phục vụ người nghèo, người cùi, người già, lặng lẽ dâng hiến tuổi già, đau yếu khổ cực trên bàn thờ cầu nguyện.
Đơn sơ khiêm tốn là một ơn gọi, để làm chứng cho Tám mối phúc, và cũng là một điều kiện, để hội nhập vào nền đạo đức của văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung, và của nếp sống địa phương này nói riêng.
Tôi mong rằng lễ phong chức hôm nay, với nét đơn sơ khiêm tốn, đặc biệt sẽ gợi cho thầy Phêrô Ngô Xuân Phú một hướng đi, hợp với tinh thần Mùa Vọng, hợp với tinh thần Phanxicô Khó Khăn. Tôi cùng với anh chị em hân hoan cảm tạ Chúa vì cuộc lễ hôm nay. Chúng ta sốt sắng cầu nguyện cho tân chức được trung thành với ơn gọi.
Lễ phong chức linh mục cho thầy Phêrô Ngô Xuân Phú. tại tu viện Dòng Phanxicô Cù-Lao-Giêng, ngày 10-12-1992.
Khi nghe bài Phúc Âm hôm nay, tôi thấy Chúa lôi kéo tâm hồn tôi chú ý đến một lời của Thánh Gioan Tiền Hô. Lời đó là: “Ngài sẽ đến rửa con người trong Thánh Thần và lửa”.
Khi tôi suy nghĩ câu nói đó, tôi đã tự hỏi: Hiện nay, có những ai được rửa trong Thánh Thần và lửa? Tôi cầu nguyện, và một lát sau, Chúa cho tôi nhìn thấy vô số người đang được Chúa Kitô rửa trong Thánh Thần và lửa. Tôi xin đưa ra ví dụ gần đây:
Cách đây ít bữa, tôi gặp một cô giáo, cô là người nghèo túng, thường xuyên đau bệnh, nhưng vẫn cố gắng chu toàn trách nhiệm của mình ở trường và trong gia đình. Ngoài ra, cô còn có giờ để chăm sóc người mẹ già đã đau liệt nhiều năm. Hơn nữa, cô còn kiếm giờ để vẽ áo, thêu áo bán lấy tiền. Và khi gom được số tiền công đó, cô đã gửi cho trường khuyết tật, giúp cho những em mù. Và khi gửi tiền giúp cho trường khuyết tật như vậy, cô đã giấu tên, không cho ai biết mình là chủ nhân số tiền 500.000 đồng ấy.
Khi nhìn một cuộc đời như vậy, đầy tinh thần trách nhiệm, đầy tinh thần bác ái,quên mình khiêm tốn, tôi thấy rằng: Họ đã được rửa trong Thánh Thần và lửa.
Rồi cách đây mấy ngày, tôi cũng gặp một người phụ nữ khác, họ là người bán buôn, không giàu có, phải thức khuya dậy sớm. Khi nghe chúng tôi hô hào giúp những người nghèo, người phụ nữ ấy đã cùng một nhóm người kiếm vải, may quần áo, để gửi đi giúp những người nghèo gần đấy và xa hơn. Khi gửi quần áo đi giúp đỡ các người nghèo, nhóm người này không đợi chờ một lời cám ơn của bất cứ ai. Họ giấu tên.
Khi nhìn những cuộc đời đầy tinh thần vị tha, khiêm tốn, can đảm như vậy, tôi nghĩ rằng, họ đã được rửa trong Thánh Thần và lửa.
Rồi mới cách đây hai ngày, tôi đi thăm một bà già liệt lào từ mấy năm nay, trên suốt bằng ấy thời gian đau bệnh, bà không hề than trách ai, bà không hề đòi hỏi gì cho mình, mà tư tưởng của bà, tâm tình của bà đều hướng về con cháu, hướng về những người xóm làng đầy vị tha, đầy bác ái.
Khi nhìn gương đó, tôi nghĩ rằng: Bà đã được rửa trong Thánh Thần và trong lửa.
Rồi hôm qua, tôi gặp một người, vì yếu đuối, đã có những lầm lỡ trong đời sống mình. Khi ăn năn hối cải, người ấy quyết tâm từ nay, chu toàn trách nhiệm của mình, trong gia đình và trong phận sự.
Khi nhìn gương hối cải như vậy, tôi nghĩ rằng: Họ đã được rửa trong Thánh Thần và trong lửa.
Trên đây chỉ là những ví dụ của vô số người tốt. Họ được rửa trong lửa. Họ được rửa trong những thử thách, những đớn đau, những thất bại, những cay đắng cuộc đời. Và họ được ơn Chúa Thánh Thần ban cho, để tẩy rửa tâm hồn khỏi ích kỷ, khỏi hẹp hòi, khỏi ham muốn những vinh quang giả tạo, để rồi, họ nuôi trong lòng mình sự khát khao đơn sơ của Phúc Âm. Đơn sơ đó là bác ái, là thương người, là chấp nhận hy sinh để phục vụ người khác.
ở đây tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói xưa: “Khi các con làm một điều tốt cho một kẻ bé nhỏ, thì Cha kể việc tốt ấy, như là làm cho chính mình Cha”.
Đây là một nguyên tắc sống, đây là một tiêu chuẩn đức tin. Có nghĩa là, khi chúng ta muốn làm việc tốt dâng cho Thiên Chúa, thì chúng ta hãy làm việc tốt cho những người chung quanh, nhất là cho những người đau khổ, những người bị bỏ rơi, cho những người bé nhỏ. Khi chúng ta trở về với Thiên Chúa, thì có nghĩa là chúng ta trở về với trách nhiệm đối với những người túng nghèo, với những người cô đơn, với những người bị bỏ rơi. Trở về với Thiên Chúa là trở về với trách nhiệm đối với những người khổ đau.
Khi tôi lấy cái đó làm tiêu chuẩn để nhìn đất nước Việt Nam chúng ta nói chung, và địa phương chúng ta nói riêng, tôi thấy rất nhiều người đang làm gương mẫu bác ái, vị tha. Những gương anh hùng ấy, trong Công Giáo có, trong Phật Giáo có, trong các tôn giáo bạn có. Đấy là những gương bác ái, tận tụy, vị tha cho con người, nhất là những người khổ đau, cô đơn, bị bỏ rơi, nói chung là những kẻ bé mọn. “Ai làm việc lành việc tốt cho những kẻ bé mọn, thì Chúa kể việc ấy như là làm cho chính Chúa”.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay mừng 80 năm thành lập nhà thờ này, tôi cùng anh chị em tạ ơn Thiên Chúa. Và riêng tôi, tôi tạ ơn Chúa vì một lý do khác, ngoài nhà thờ chôn chân ở đây, chúng ta còn đang thấy biết bao nhà thờ sống động, di động, đó là con người chúng ta, những con người sống bác ái, những con người sống niềm tin đặt vào những người khác, những con người hy sinh cho kẻ khác. Đó chính là những đền thờ. Đó chính là những ngôi thánh đường vinh quang của Thiên Chúa.
Hôm nay, giờ đây, tôi nhìn lên Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Người chính là thánh đường vinh quang của Thiên Chúa, bởi vì Người giàu lòng bác ái, vị tha. Chúng ta xin Đức Mẹ giúp cho chúng ta trở nên những thánh đường vinh quang của Thiên Chúa, nhờ sự chúng ta biết sống bác ái, và chấp nhận hy sinh vì bác ái. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Núi Sam, ngày 06-12-1992 (CN 2 MV.A)
Dịp lễ kỷ niệm Chúa Giáng Sinh, chúng ta có thói quen làm nhiều việc có tính cách vui mừng, như trang trí nhà thờ, quét dọn nhà ở, mặc đẹp, ca hát, thăm viếng bạn bè. Hầu hết các việc ấy đều hợp tình hợp lý. Tuy nhiên, có một việc cần để ý hơn hết, đó là đón tiếp chính Đức Giêsu Kitô vào tâm hồn ta.
Khi đón tiếp Ngài, ta không nên nhìn Ngài có gì, nhưng hãy nhìn Ngài là gì. Thực sự, Ngài đến tay không. Nhưng Ngài chính là Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, để cứu độ nhân loại.
Cách cứu chuộc hôm nay của Ngài là trở nên trẻ nhỏ. Trở nên trẻ nhỏ, đó là việc đầu tiên Ngài thực hiện, như ta đang thấy. Trở nên như trẻ nhỏ, đó là sứ điệp mà Ngài sẽ tuyên bố như là căn bản của sự trở về Phúc Âm: “Nếu chúng con không trở nên như trẻ nhỏ, chúng con sẽ không được vào Nước Trời” (Math 18,3).
Với sứ điệp này, chúng ta không có con đường nào khác để vào Nước Trời, ngoài sự phải bắt chước Đức Kitô, mà trở nên như trẻ nhỏ.
Như trẻ nhỏ, Đức Kitô hoàn toàn sống lệ thuộc, vâng phục thánh ý Chúa Cha trên trời.
Như trẻ nhỏ, Đức Kitô tuyệt đối hướng tâm hồn mình về trái tim Chúa Cha giàu tình thương xót.
Như trẻ nhỏ, Đức Kitô luôn luôn gắn bó mật thiết với Chúa Cha là Tình Yêu tác tạo.
Khi chúng ta bắt chước Đức Kitô, mà cũng sống tinh thần trẻ nhỏ đối với Thiên Chúa, ta sẽ nhận được muôn vàn lợi ích. Những lợi ích càng sẽ tăng thêm, khi ta không những noi gương Đức Kitô, mà còn đón chính Ngài vào tâm hồn ta, nhất là khi ta đặt nơi Ngài mọi sự, như Chúa Cha đã đặt mọi sự nơi Ngài, theo lời Kinh Thánh nói: “Mọi sự đã được Chúa Cha trao cho Chúa Con” (Luca 10,22).
Lợi ích lớn nhất, mà ta sẽ cảm nghiệm được do việc đón Đức Kitô vào tâm hồn, và do việc đặt mọi sự nơi Ngài, là lãnh nhận được ơn bình an. Ơn bình an này rất sâu sắc, ngọt ngào, như một sự cứu độ, như một sự tha thứ, như một sự bảo đảm về hạnh phúc Nước Trời. Ơn bình an này được cảm thấy ngay trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, cho dù đầy cô đơn, bạc bẽo, khổ đau và ngược đãi. Thiết tưởng đó là sự bình an, mà Chúa chỉ dành cho những ai trở nên bé nhỏ, như lời Ngài đã nói với Đức Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con cảm tạ Cha, vì đã giấu mầu nhiệm Nước Trời cho những người thông thái khôn ngoan, nhưng đã mạc khải cho những kẻ bé mọn” (Luca 10,21).
Anh chị em thân mến,
Hơn bao giờ hết, chúng ta đang rất cần ơn bình an. Bình an cho quê hương, bình an cho Hội Thánh, bình an cho gia đình, bình an cho bản thân. Tôi tin rằng ơn bình an ấy đang được ban cho mỗi người chúng ta do Tình Yêu Thiên Chúa Cứu Độ. Bởi vì tất cả chúng ta đều là những người có thiện chí muốn đón nhận sứ điệp của Ngài và đón nhận chính Ngài.
Với niềm tin ấy, tôi chân thành cầu chúc anh chị em một lễ Giáng Sinh đầy ơn bình an của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Amen.
Thời nay, chuyển biến là chuyện không dành riêng cho lãnh vực nào. Trong khoa-học, văn-hoá, kỹ thuật, kinh-tế, chính trị, tâm lý, xã hội, cả đến tôn giáo, người ta hôm nay thường nói: Không còn như trước nữa. “Tình hình gia đình cũng vậy: Không còn như trước nữa.”
Một vài thí dụ: Theo thống kê của giáo phận Rôma, thì trong năm 1991 có 13.641 đôi hôn phối được ghi vào sổ giáo phận, nhưng đồng thời số đơn xin ly dị cũng trong năm 1991 lên tới con số gần 6.000 (Tuần báo Osservatore Romano, no 27, 1992).
Tại Pháp, mỗi năm có khoảng 120.000 đôi ly dị. Trung bình, khoảng 1-3 cuộc hôn nhân kết thúc bằng ly dị. Cũng tại Pháp, hiện nay có tới 12% tổng số trẻ em sống cảnh mất mát, do cha mẹ ly dị nhau (Les après-divorce, Cahiers Pour croire aujourd'hui, 15 Avril, 1990).
Tại sao đến nông nỗi này?
Ta có thể hiểu được phần nào lý do trong một tài liệu của Uỷ-Ban Toà-Thánh chuyên trách về gia đình: Tài liệu viết:
“Con người và gia đình hiện nay sống trong một xã hội “bị động”, nghĩa là thiếu lý tưởng, muốn làm gì thì làm, bị tục hoá, và là nơi mà sự giải thoát mình được thực hiện bằng nhiều cách, mà một trong những cách đó là dùng ma túy... Thời đại chúng ta đề cao tự do, một thứ tự do không còn được coi là tích cực hướng về sự thiện, mà là thoát ly khỏi mọi điều kiện cản ngăn mỗi người làm theo ý riêng mình... Người ta ca tụng chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa ích kỷ”. (Tập Du désespoir à l'espérance, L.E. Vaticana, 1992).
Trước tình hình gia đình chuyển biến, huấn quyền trong Hội Thánh đã không ngừng nhắc bảo. Chỉ trong vòng 50 năm nay, đã có những văn kiện lớn về gia đình như: Casti Connubii của Đức Piô XI, 1930, Humanae Vitae của Đức Phaolô VI, 1968, Familiaris Consortio của Đức Gioan Phaolô II, 1980, Persona Humana của Bộ Đức Tin, 1976.
Nhưng dưới sức ép của các chủ thuyết thực dụng, khoái lạc, cá nhân, ích kỷ, biết bao người đã không còn đủ tự do để chọn lẽ phải. Gia đình truyền thống đang bị bùng nổ tại nhiều nơi, biến thành nhiều dạng gia đình khác nhau. Loại hôn nhân tự do, không có phép đời, cũng không có phép đạo, càng ngày càng tăng. Tại Pháp, năm 1975 loại hôn nhân tự do là 445.000 trường hợp. Đến năm 1982, loại trường hợp tự do đó đã tăng gấp đôi, tức 809.000 đôi. (Trích Nicolas Pigasse, Lettre d'un jeune à son Eglise, Desclée de Brouwer, 1992, trang 192).
Tại Hoa Kỳ, loại gia đình một cha mẹ càng ngày càng tăng. Tức là hoặc chỉ có người đàn bà là mẹ và đồng thời giữ vai người cha, hoặc chỉ có người đàn ông là cha và đồng thời giữ vai người mẹ. (Individualismes américains, Cahiers Pour croire aujourd hui, 15, juin, 1989). Nhưng khi gia đình vẫn còn giữ vẻ bình thường, thì nay diễn tiến của nó nhiều nơi không còn bình thường. Louis Roussel đưa ra bốn loại gia đình. Tạm gọi bằng những tên như sau:
“Gia đình nối dòng”. Loại gia đình này được xây dựng trên nề nếp truyền thống. Con cái được giáo dục theo quĩ đạo dòng dõi cha mẹ ông bà.
“Gia đình lãng mạn”. Loại gia đình này được xây dựng trên đam mê. Đứa con sẽ được đón nhận nhưng với điều kiện nó đừng quấy rầy bầu khí say đắm của cha mẹ nó. Đam mê tàn thì gia đình tan.
“Gia đình câu lạc bộ”. Loại gia đình này được xây dựng trên những hợp đồng hoặc rõ ràng hoặc hiểu ngầm. Mạnh ai nấy lo. Con cái cũng vậy. Lợi dụng nhau, và chẳng cần phải lo cho nhau.
“Gia đình lập thân”. Loại gia đình này được xây dựng trên ý chí cùng nhau theo đuổi một dự án chung. Con cái sẽ được huấn luyện, để sớm biết tự lập với dự án riêng của nó. (Louis Roussel, La Famille Incertaine, Ed. Odille Jacob, 1989).
Tình hình gia đình tại nhiều nước Âu-Mỹ đang có nhiều chuyển biến, tốt có, xấu có. Theo tôi, thì xấu đang có vẻ lấn lướt. Còn tại Việt Nam? Tôi thấy tại nhiều nơi, “Tình hình gia đình cũng không còn như trước nữa”. Có thêm nhiều rối rắm, có thêm nhiều lục đục.
Thiết tưởng phải vực nền đạo đức gia đình lên. Bằng những lý do khoa học và tôn giáo, nhất là bằng đời sống cầu nguyện, lui tới các bí tích và sự đỡ nâng của cộng đoàn. “Sự đó có thể xảy ra thế nào được?” Và tôi nhớ lại lời Thiên Thần đã trả lời Đức Mẹ: “Không có gì là không có thể được đối với Thiên Chúa” (Luca 1,37). Thánh Gia là gia đình rất hạnh phúc, nhờ sự mỗi người biết sống tình yêu với tinh thần trách nhiệm đối với Thiên Chúa, đối với tha nhân và đối với nhau. Thiên Chúa là tình yêu. Gắn bó với Ngài, gia đình sẽ có hạnh phúc đích thực và bền vững.
Bài Phúc Âm hôm nay nói về 3 nhân vật được Chúa Thánh Thần tác động mạnh mẽ.
Người thứ nhất là bà thánh Isave. Phúc Âm nói “Bà được đầy Chúa Thánh Thần”. Và hậu quả đầu tiên của sự Chúa Thánh Thần tác động nơi bà là bà nhận ra bào thai Đức Mẹ đang mang trong mình chính là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, Đấng cứu chuộc mình. Bà Isave coi sự nhận biết ấy là một tin mừng rất lớn lao. Bà hoan hỉ và cất tiếng khen ngợi Đức Mẹ.
Người thứ hai là thánh Gioan Baotixita vẫn còn là một bào thai trong lòng bà Isave, nhưng khi được Chúa Thánh Thần tác động, Gioan Baotixita đã đón nhận được ơn khỏi tội tổ tông truyền, do sự Đấng Cứu Thế và Đức Mẹ đến thăm mình. Gioan Baotixita đón nhận sự viếng thăm của Chúa Cứu Thế như là một ơn phúc đem lại vui mừng lớn lao nên đã nhảy mừng trong lòng mẹ.
Người thứ ba là Đức Mẹ Maria. Đức Mẹ Maria được đầy Chúa Thánh Thần ngay từ ngày truyền tin. Thiên Thần nói với Đức Mẹ: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với bà". Hôm nay qua lời chào của Isave, Chúa Thánh Thần lại tác động mạnh mẽ một lần nữa nơi Đức Maria, và Đức Maria lại nhận ra một lần nữa Thiên Chúa tình yêu đang đến với mình, Ngài chính là Đấng cứu chuộc mình, nên Đức Mẹ cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc tôi, bởi vì Ngài đã đoái nhìn đến thân phận thấp hèn của tôi tớ Chúa”. Những sự việc xảy ra trên đây đưa tôi tới một nhận xét chung này: Đó là nhờ Chúa Thánh Thần tác động, mà 3 nhân vật của bài Phúc Âm hôm nay, tuy là những người thánh thiện, vẫn cảm thấy mình yếu đuối tội lỗi, bé mọn, cần phải được cứu độ. Và cũng nhờ Chúa Thánh Linh tác động, nên 3 nhân vật này nhận biết rằng Đấng cứu độ chúng tôi chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, tự hạ làm người. Ngài là Đấng đền tội, Ngài là Đấng gánh tội, Ngài là Đấng xóa tội, Ngài là Đấng tha tội cho tôi.
Những nhận xét trên đây, là một con đường trở về đối với tôi. Và thiết tưởng cũng là con đường trở về đối với mọi người.
Đối với tôi, trở về với Chúa trước hết là trở về với ơn Chúa Thánh Linh, là phải biết ngoan ngoãn lắng nghe tác động của Chúa Thánh Linh trong tâm hồn mình, hoặc là qua những lời Sách Thánh, hoặc là qua những gương sáng, hoặc là qua những biến chuyển chung quanh mình.
Trở về, đối với tôi, là luôn luôn nhận rằng: Dù ở tuổi nào, dù ở đâu, dù trong chức vị nào, tôi cũng như mọi người anh chị em, đều cần phải trở về với Chúa, bởi vì lúc nào, chúng ta cũng mang thân phận con người giới hạn. Có những yếu đuối, có những sai lầm, có những vấp váp, có những bóng tối trong mình chúng ta.
Trở về, đối với tôi, còn là tin cậy tuyệt đối vào Đức Kitô. Chỉ có Ngài là Đấng cứu độ tôi. Ngoài Đức Kitô không có một ai cứu độ chúng ta được.
Trở về, là một sứ mạng Chúa gọi chúng ta thực hiện, nhất là trong thời buổi này phải biết ngoan ngoãn đón nhận những soi sáng, những tác động của Chúa Thánh Linh.
Hồi nãy, câu kết thúc bài chào mừng của cha xứ đã làm cho tôi suy nghĩ. Cha kết thúc bằng câu: “Chúng con quyết tâm thực hiện trách nhiệm của ngày hôm nay, bây giờ”. Khi vừa nghe câu đó, Chúa liền soi cho tôi biết ngay: Trách nhiệm hôm nay của Hội Thánh, chính là trách nhiệm sống đời hiệp thông.
Tối hôm qua, tôi đọc những văn kiện mới nhất của Đức Thánh Cha. Có một tư tưởng Ngài rất nhấn mạnh lúc này: Là phải sống tinh thần hiệp thông của Hội Thánh. Hội Thánh là hiệp thông.
Khi tới đây, tôi đã nhận thấy xứ đạo anh chị em đang sống mạnh mẽ tinh thần hiệp thông: Trên cung thánh có nhiều linh mục, có nhiều tu sĩ từ xa tới. Các Ngài tới đây hôm nay chính vì tinh thần hiệp thông với Đức Giám Mục, với cha sở, với anh chị em. Rồi trước mặt tôi đây, tôi nhìn thấy anh chị em, mặc dầu là một quần chúng đông đảo, nhưng mỗi người có một trách nhiệm trong cuộc lễ này. Người thì lo lễ nghi, người thì lo ca đoàn, người thì lo điện, người thì lo thuyền, ghe. Rồi khi tất cả hát lên những bài thánh ca, tôi cảm thấy tinh thần hiệp thông của anh chị em rất là sống động. Ai cũng góp phần của mình vào tinh thần ngợi khen Thiên Chúa. Ai cũng góp phần của mình vào việc làm cho cuộc lễ trở nên sốt sắng trang nghiêm, đẹp đẽ.
Ngoài ra, tinh thần hiệp thông không phải chỉ là giữ tinh thần liên đới trong nội bộ Hội Thánh, mà còn phải biết nhìn sang bờ bên kia của Hội Thánh là những người lương chưa biết đạo.
Trong một thông điệp của Đức Thánh Cha, Ngài nói thế này: “Đang có một nguy cơ trong Hội Thánh, đó là nhiều người, nhiều nơi, cứ loay hoay mãi trong những vấn đề nội bộ của Hội Thánh mà quên đi bổn phận phải có tinh thần liên đới đối với những người ngoài Hội Thánh, đối với thế giới. Có một nguy cơ trong Hội Thánh là nhiều người chỉ mải mê xây dựng những hành rào chung quanh vườn nho của Hội Thánh mà quên đi trách nhiệm đi qua hàng rào đó đến những vùng lương dân, đến những vùng truyền giáo, để rao giảng, để làm chứng cho nước Thiên Chúa.
Khi tôi đọc những đoạn trên đây, tôi thấy có lẽ chúng ta chưa sống tinh thần hiệp thông cho đủ, cho đúng. Bởi vì như Đức Giáo Hoàng nói: Nhiều người chỉ loay hoay mê mẩn trong vấn đề nội bộ của mình, mà không có tinh thần liên đới với những vùng truyền giáo, những vùng lương dân. Tinh thần hiệp thông không dừng lại ở đó.
Lúc nãy, khi rước vào nhà thờ, tôi nhìn lên cung thánh, nhìn lên Đức Kitô, và tự nhiên từ Đức Kitô, tôi nhận được sứ mạng phải nói với anh chị em điều này: “Cha là cây nho, chúng con là cành. Cành nào không hợp nhất với thân nho, sẽ không có hoa trái”. Các việc chúng ta làm đều rất tốt, nhưng nếu thiếu tinh thần hiệp thông với Đức Kitô là cây nho, thì các việc chúng ta làm bề ngoài sẽ không có hiệu quả tinh thần nội tâm.
Hiệp thông trong Hội Thánh là hiệp thông với Đức Kitô, hiệp thông với Hội Thánh là hiệp thông liên đới với trách nhiệm truyền giáo ở vùng dân ngoại. Hiệp thông trong Hội Thánh là cùng nhau làm việc để xây dựng đức tin trong cộng đoàn có ranh giới của mình.
Anh chị em thân mến,
Trở về với Chúa, trước hết là hãy trở về với Chúa Thánh Linh. Mỗi thời, mỗi nơi, Chúa Thánh Linh soi sáng những việc cần phải làm. Thời nay, như tôi vừa nói, trách nhiệm liên đới là rất cần. Qua Đức Thánh Cha, tôi coi Đức Thánh Cha nói là lời kêu gọi của Thiên Chúa, là một trách nhiệm. Lúc này, trách nhiệm chúng ta là sống tinh thần hiệp thông, tinh thần liên đới.
Trong thánh lễ này và trong bầu khí đức tin liên đới sốt sắng này, tôi và anh chị em cầu xin cho con em bé nhỏ của chúng ta, có một tinh thần hiệp thông sống động trong tương lai. Chúng ta lớn, chúng ta phần nào đã được giáo dục trong tinh thần hiệp thông. Còn các em nhỏ của chúng ta, nhiều khi bây giờ, nếu không được hướng dẫn, sẽ đi vào chủ nghĩa ích kỷ, cá nhân mà quên đi tinh thần hiệp thông của Hội Thánh.
Vì thế, trong lễ này, chúng ta cầu xin rất nhiều cho con em của chúng ta được đón nhận ơn Chúa Thánh Linh, làm cho tâm hồn con em chúng ta biết mở ra về phía Đức Kitô, về phía nội bộ Hội Thánh, về phía những người dân ngoại. Và nhờ sự mở ra như vậy, đức tin của chúng ta sẽ lớn mạnh, sẽ được đổi mới và ngày hôm nay, như cha xứ vừa nói, sẽ đánh dấu một giai đoạn mới, một giai đoạn thiêng liêng cho tất cả họ đạo chúng ta, vì chúng ta được nhắc nhở tới tới nhiệm vụ mới là: Tinh thần hiệp thông của Hội Thánh. Amen.
Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe là một bài ca tán tụng Thiên Chúa. Mở đầu bài ca nầy, Đức Mẹ đã nói lên tâm tình hoan hỉ vì được Thiên Chúa đoái nhìn đến phận hèn Đức Mẹ là tôi tớ Chúa. Lời Đức Mẹ tạ ơn trên đây, giúp cho tôi hiểu cách Đức Mẹ tạ ơn Thiên Chúa.
Khi tạ ơn, Đức Mẹ nói lên cái nhìn của Thiên Chúa dành cho Đức Mẹ, hơn là nói lên cái nhìn biết ơn của Đức Mẹ dâng lên Thiên Chúa. Khi tạ ơn, Đức Mẹ đã để ý đến những việc Thiên Chúa đã làm cho Đức Mẹ hơn là để ý đến những việc Đức Mẹ làm cho Thiên Chúa.
Khi tôi theo tinh thần tạ ơn trên đây của Đức Mẹ, tôi mới thấy rằng những việc chúng ta làm cho Thiên Chúa chẳng đáng là gì, và chính bản thân chúng ta cũng chẳng là gì đáng nói. Nhưng, những việc Chúa đã làm cho chúng ta thực là cao cả lớn lao, và chính Thiên Chúa lại là Đấng đầy lòng thương xót, đầy tình yêu cứu độ.
Cũng trong tinh thần tạ ơn Đức Mẹ, tôi đang nhìn thấy Chúa hiện diện giữa anh chị em đây, giữa chúng ta đây. Chúa hiện diện giữa chúng ta như một người Cha đầy tình yêu thương xót, lo lắng cho những người con bé nhỏ. Chúa đang hiện diện giữa chúng ta như một Đấng Cứu Thế đầy tình thương hy sinh, đem tin mừng cứu độ cho những con người sống tinh thần nghèo khó.
Hôm nay, lúc nầy, tôi như đang gặp lại Chúa Kitô và tôi đang nhìn thấy Ngài vẫn giữ được thái độ bao dung, hiền từ, khiêm tốn, như một vị chủ chiên tốt lành. Và khuôn mặt của Đức Kitô hôm nay, gợi lại cho tôi hình ảnh Đức Kitô mà tôi đã gặp chính chỗ nầy.
Hơn 20 năm về trước, một kỷ niệm ghi khắc rất sâu vào tâm hồn tôi và ảnh hưởng rất lớn trong đời linh mục và Giám Mục của tôi cũng từ chỗ nầy, vì tôi đã gặp Đức Kitô, Đấng chăn chiên lành. Tôi xin nhắc lại kỷ niệm ấy.
Cuối thập niên 60 là thời gian chiến tranh còn dữ dội, vùng này hầu như bị cắt đứt hoàn toàn khỏi giáo xứ Rạch Giá, các linh mục không tới đây được và giáo dân ở đây không tới các linh mục được.
Khoảng lễ Noel năm 1969, có hai ngày hưu chiến, cha Tú và tôi, lợi dụng thời gian hưu chiến ấy để mạo hiểm đi vào vùng này, mong gặp được những cộng đoàn Công Giáo mồ côi, để ban các bí tích cần thiết nhất. Chúng tôi bao một chiếc đò, và sau hai giờ đi liên tục trên dòng sông vắng, chúng tôi thấy ở trên bờ phía trái có một ngôi nhà treo ngôi sao sinh nhật và một chiếc áo dài đang phơi. Chúng tôi suy đoán đó là một gia đình Công Giáo. Hai người chúng tôi bước ra khỏi ghe, đứng trên mui. Lúc bấy giờ chúng tôi mặc áo chùng thâm. Người trên bờ thấy hai linh mục dưới ghe liền đứng ra vẫy tay chào. Và chúng tôi hiểu. Đúng rồi, ở đây có người Công Giáo. Đi được một lát sau, chúng tôi lại thấy có nhiều đèn ngôi sao và khi người ở trên bờ thấy người ở dưới ghe liền ùa ra vẫy tay chào và chạy theo ghe của chúng tôi. Đồng bào đã vẫy chúng tôi dừng ghe lại. Chúng tôi lên bờ và chứng kiến một ngôi nhà thờ trong tình trạng suy sụp. Tuy nhiên, anh chị em ở đây cũng đã làm được một hang đá, trang trí đàng hoàng. Chúng tôi gặp được anh chị em. Anh chị em gặp được chúng tôi. Có một sự vui mừng khôn xiết và tôi nhìn thấy Đức Kitô giữa anh chị em. Chúng tôi biết lâu năm rồi không có linh mục tới, nên lập tức, chúng tôi tiến hành các bí tích: Người thì rửa tội, người thì giải tội. Và quá trưa hôm đó, chúng tôi dâng lễ. Sau một bữa cơm thanh đạm, tôi xuống đò, để đi tìm một cộng đoàn mồ côi khác.
Trong dịp gặp được anh chị em ở họ Thứ Chín nầy dự lễ Noel năm ấy, cách đây hơn 20 năm, tôi đã gặp được Đức Kitô rõ ràng là một Đấng chăn chiên lành. Mặc dầu là không có linh mục lui tới, mặc dầu là anh chị em không tới được giáo xứ Rạch Giá để xưng tội rước lễ, anh chị em vẫn giữ được đức tin một cách kiên cường, bằng sự anh chị em đọc kinh chung với nhau trong gia đình, bằng sự anh chị em sống đời bác ái, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và sống tinh thần bao dung đối với nhau.
Rồi từ đó đến nay, tôi vẫn nhìn thấy họ đạo Thứ Chín này, như là một nơi Chúa chọn, để làm chứng Ngài là Đấng chăn chiên lành. Bởi vì, từ đó đến nay, sự sống đức tin ở đây vẫn không ngừng phát triển. Hơn nữa, nó đã trở thành một tiếng gọi truyền giáo phát đi từ chốn này.
Tiếng gọi truyền giáo đó là một tiếng gọi của trách nhiệm. Tiếng gọi truyền giáo đó có nghĩa là con người được Thiên Chúa yêu thương. Tiếng gọi truyền giáo đó là tiếng mời gọi làm chứng về một Thiên Chúa cứu độ, làm chứng Hội Thánh là một tổ chức của Thiên Chúa, là Mình mầu nhiệm của Thiên Chúa, phục vụ và thăng tiến con người.
Đạo Chúa là đạo tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu. Hội Thánh là dấu chỉ tình yêu. Tiếng gọi truyền giáo ấy được tới nhiều tâm hồn gần xa và rất nhiều tâm hồn đã đáp lại. Bằng chứng là ngôi thánh đường nầy, là nhà trường nầy, là Minh Châu, là Thứ Mười và là chính sự hiện diện của bao người có mặt ở đây, đến từ những nơi xa.
Tôi cho rằng Thứ Chín nầy sẽ còn tiếp tục là một tiếng gọi truyền giáo vang lên trong địa phận chúng ta, để làm chứng rằng: Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn đến mấy, nếu chúng ta làm vì vinh danh Thiên Chúa, vì phần rỗi các linh hồn, thì không có gì là không có thể được trước mặt Thiên Chúa tình yêu.
Anh chị em thân mến,
ở đây, tôi nhớ lại lời thánh Phaolô nói: “Nếu không có ơn Chúa Thánh Thần, thì không ai có thể gọi Đức Kitô là Thiên Chúa được”.
Áp dụng vào trường hợp chúng ta, chúng ta làm hết sức của mình với nhiệt tình hăng say vì Chúa, vì phần rỗi các linh hồn. Nhưng chúng ta đừng quên gắn bó với Chúa Thánh Linh và biết nhạy bén đón nhận những soi sáng của Chúa Thánh Linh. Ngài thổi vào các tâm hồn khiêm tốn những ý nguyện của Ngài, hợp với nơi, hợp với thời, hợp với người, chỉ cần chúng ta khiêm tốn đón nhận những tác động của Chúa Thánh Linh.
Nhất là chúng ta cần phải nhờ Chúa Thánh linh, để sống mật thiết với Đức Kitô. Chúa Giêsu phán: “Cha là thân cây nho, chúng con là cành”. Nếu chúng ta là cành, làm được biết bao nhiêu sự, mà không có sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô thì sợ rằng những việc chúng ta làm sẽ mau tan như đã tan ở một số nơi Công Giáo toàn cầu.
Xin Chúa Thánh Linh trong lễ hôm nay ban ơn cho chúng ta biết nhạy bén đón nhận những tác động tâm hồn của Chúa Thánh Linh và nhất là mở tâm hồn ra sống mật thiết với Chúa Kitô, Người là đường, là sự thật và là sự sống. Chính Người là điểm tựa cho mỗi người chúng ta. Chính Người là là điểm tựa cho họ đạo chúng ta, hôm nay và suốt đời mãi mãi. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Thứ Chín, ngày 17-12-1992.
Bài Phúc Âm hôm nay nói về sự Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người.
Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, chính là vị truyền giáo đầu tiên. Để truyền giáo, Ngài đã ra đi, đi từ trời xuống đất, đi rất xa và đến giữa nhân loại, ở giữa nhân loại. Chia sẻ cuộc sống với con người và đón nhận những gì con người tặng cho Ngài. Những điều mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm trong sự xuống thế làm người, gợi ý cho tôi mấy cảm tưởng, và tôi muốn chia sẻ vắn tắt ở đây:
Cảm tưởng thứ nhất của tôi là: Người truyền giáo khi biết ra đi đến với lương dân, chia sẻ cái tốt của mình cho anh chị em, và biết đón nhận những cái tốt của anh chị em mình, thì đã có những bước đầu rất tốt.
Cảm tưởng trên đây của tôi là dựa theo lịch sử của họ đạo Thứ Mười.
Thực vậy, theo những tài liệu để lại, thì năm 1942, cha Lê Uy Phuông và thầy Phêlix từ Rạch Giá và Thứ Chín xuống Thứ Mười này. Ngài đã gặp một số người lương dân, trong đó có ông Chánh Bái. Như chúng ta mới nghe, ông Chánh Bái là một người khác tín ngưỡng. Sau nhiều tiếp xúc thân mật, ông Chánh Bái đã mời thầy Phêlix đến nhà, để nhờ thầy dạy chữ cho hai đứa con nhỏ của ông. Sau một thời gian, ông Chánh Bái nhận thấy, thầy Phêlix là một người có lợi có ích cho gia đình, nên nhiều người chung quanh đã gởi con em đến để nhờ thầy dạy học. Vì không có đủ chỗ trong nhà ông, ông đã nhường một mảnh đất trong vườn ông để cất một ngôi trường nhỏ, hầu có thể để dạy các con em vùng này. Sau đó, là một số người theo đạo Công Giáo. Ông Chánh Bái có lòng tốt, lại hiến thêm một mảnh đất nữa trong vườn, để làm nhà thờ và chính là chỗ này, trước đây.
Sự kiện trên đây, chứng tỏ rằng người truyền giáo biết ra đi, biết có những trao đổi thân tình với những người lương dân, và nhất là biết đón nhận lòng tốt của những anh chị em lương dân của mình, thì Chúa sẽ làm tiếp công việc truyền giáo. Những người mình tiếp xúc, luôn mang trong mình những mầm non tốt, có sẵn trước khi mình đến. Người truyền giáo chỉ là người khơi dậy, còn Chúa Thánh Linh mới là người chủ động trong việc rao giảng Tin Mừng.
Cảm tưởng thứ hai của tôi, đó là: Người truyền giáo, khi biết theo gương Chúa Kitô, biết đem đức tin hội nhập vào nền văn hóa địa phương, trong đó có nền đạo đức truyền thống, thì sẽ dễ gây được sự cảm thông giữa kẻ mới đến và kẻ ở đó sẵn.
Cảm tưởng trên đây của tôi, cũng dựa theo lịch sử của họ đạo chúng ta.
Trước khi các vị truyền giáo đến, đồng bào địa phương chúng ta đã có một nền đạo đức vững mạnh. Thí dụ như lòng hiếu thảo trong gia đình, tình nghĩa xóm làng, sự chân thành, sự công bình, tình tương thân tương ái đối với nhau. Khi người truyền giáo đến, không những họ không phá đổ, hay thay đổi giá trị truyền thống ấy, mà các Ngài còn kính trọng và phát triển thêm những giá trị truyền thống và đạo đức ấy, và do đó, chính đồng bào địa phương, dựa theo nền đạo đức truyền thống của mình, lại nâng đỡ họ đạo, lại nâng đỡ chính vị truyền giáo.
Tôi thấy ngay ở họ đạo này, anh chị em khác tín ngưỡng, nhất là anh chị em Cao Đài và những anh chị em không có tín ngưỡng, vì nền đạo đức truyền thống của mình, nên đã nâng đỡ họ đạo chúng ta, giúp sự phát triển của họ đạo chúng ta. Cụ thể, tôi biết mấy ngày hôm nay, biết bao nhiêu người không phải Công Giáo đã có những nâng đỡ trong cuộc lễ, trong nhà thờ này. Những nâng đỡ chân thành, những nâng đỡ tích cực.
Cảm nghĩ thứ ba của tôi là: Người truyền giáo khi theo gương Đức Kitô, luôn làm sao để nên nhân chứng về Cha trên trời, giàu lòng thương xót. Đức Kitô đã không giảng nhiều bằng lời nói, nhưng đã làm chứng bằng đời sống, bằng việc làm, bằng những việc làm bác ái nhưng không, cho đi mà không cần để ai biết đến, cho đi mà không trông chờ sự đền đáp lại, để làm chứng rằng: Cha trên trời là Cha chung mọi người, đầy lòng thương xót.
Khi một người truyền giáo sống như vậy, thì sẽ có một thái độ cầu nguyện trong nội tâm mình, sẽ có một thái độ gắn bó với một Đấng vô hình bên cạnh mình, và sẽ có một thái độ trọng kính đối với tất cả những người chung quanh, không phân biệt tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, tín ngưỡng này hay tín ngưỡng nọ.
Anh chị em thân mến,
Nhà thờ này được thành hình, là do những vị truyền giáo, là nhờ những vị ân nhân, và nhờ những người tại địa phương này. Tôi phải nói: Đó cũng là những vị ân nhân của họ đạo chúng ta. Thánh đường này sẽ chôn tại đây. Nó không có chân để đi được, nhưng cái quan trọng mà người truyền giáo nhắm tới không phải là nhà thờ, mà là con người, những con người trở thành đền thờ biết đi, những con người trở thành đền thánh biết ca ngợi vinh quang Đấng tối cao, những con người trở thành những tình thương, để chói ra ánh sáng công bình và sự ấm áp của tình yêu thương. Đấy mới là quan trọng, và đấy mới là mục tiêu của sự truyền giáo. Nhà thờ thì đẹp, nhưng đấy chỉ là phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Cứu cánh là chính con người, là hạnh phúc của mỗi người, là phần rỗi của tất cả chúng ta.
Vì thế, trong thánh lễ này, tôi cùng anh chị em cầu nguyện cho tất cả mọi người ân nhân xa gần, và đặc biệt, tôi cầu nguyện cho tất cả đồng bào địa phương, tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, tín ngưỡng này hay tín ngưỡng nọ, đã nâng đỡ họ đạo chúng ta và nhất là tôi cầu nguyện để mỗi người chúng ta gặp được Đấng tối cao toàn năng đầy lòng thương xót. Chính Người, sau cùng, sẽ đón chúng ta ở cuối đường đời. Và khi gặp được Ngài, chúng ta sẽ thấy một cái đền thờ đầy vinh quang, đầy yêu thương, đón nhận tất cả những người thiện chí. Đó là Nước Trời, và Nước Trời chính là Đức Kitô đang đến với chúng ta.
Xin Chúa Thánh Thần đến với chúng ta và giúp cho chúng ta hôm nay đón nhận được Tin Mừng. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay là những lời tiên tri. Đại khái Chúa Giêsu cho chúng ta thấy trước sẽ đến một thời xảy ra nhiều sự việc có tính cách dấu chỉ của một sự tàn phá con người. Lúc ấy, nhiều dân tộc sẽ lo buồn. Lúc ấy, nhiều dân tộc sẽ sợ hãi. Và nguy cơ tàn phá con người cũng sẽ xảy đến cho các môn đệ Chúa. Xảy đến một cách đột ngột. Xảy đến một cách bất ngờ. Để đối phó với nguy cơ ấy, Chúa đã răn các môn đệ: “Đừng có mê mãi những sự phù phiếm, nhưng hãy tập trung vào sự tỉnh thức và cầu nguyện, nhờ đó mà có thể đứng vững trước mặt con người và tránh được những nguy cơ tàn phá con người”.
Thoạt khi nghe những lời tiên tri đây, tôi có cảm tưởng Chúa Giêsu là người bi quan và hơi tiêu cực. Nhưng khi suy nghĩ lại, tôi thấy, khi nói ra những lời tiên tri chúng ta vừa nghe, Chúa đã tỏ ra Người là Đấng yêu thương, khôn ngoan vô cùng. Vì thấy trước những nguy cơ sẽ làm hại con người, nên Chúa cho biết trước những dấu chỉ. Đó là yêu thương. Và vì biết trước cách để đối phó, nên Chúa đã dặn dò, nhắn nhủ. Như thế, Chúa mới là Đấng cứu độ.
Tôi nghĩ rằng, những lời tiên tri Chúa nói với các tông đồ xưa, không phải chỉ dành cho các tông đồ lúc ấy, mà cũng dành cho chúng ta hôm nay. Tôi có cảm tưởng rằng: Những lời trong bài Phúc Âm hôm nay, là Chúa nói với tôi, nói với các linh mục, nói với đồng bào địa phương, nói với các anh chị em giáo dân, nói với Hội Thánh chúng ta hôm nay, tại đất nước Việt Nam này. Tôi có cảm tưởng rằng: Chính lúc này, đang có nhiều nguy cơ là dấu chỉ về sự tàn phá con người, tàn phá về vật chất, về tinh thần, về phần rỗi.
Tại nhiều nơi tôi đi, và qua những thông tin trên màn ảnh, trên báo chí và qua tiếp xúc, tôi thấy biết bao nhiêu nguy cơ tàn phá con người chúng ta, nhất là các trẻ em. Bởi vì tôi thấy, con người không được chăm sóc đủ về của ăn, về áo mặc, về nhà ở, về thuốc thang. Con người không được chăm sóc đủ về mặt giáo dục, không có trường học, không có thầy cô, không có những phương tiện tối thiểu cho con người sống ra con người. Tôi thấy con người đang bị tàn phá vì thiếu những phương tiện tối thiểu và những nhân sự tối thiểu, để giúp họ huấn luyện lương tâm, giữ gìn đạo đức, biết cái gì là phải, cái gì là trái, cái gì là tốt, cái gì là xấu.
Cái nguy cơ lớn nhất mà tôi sợ cho tôi, cho anh chị em, cho Giáo Hội ta, cho đất nước ta, chính là: Nhiều người không nhận thức được những nguy cơ tàn phá con người. Cái mà tôi sợ nhất bây giờ là không những không nhận thức được những nguy cơ tàn phá con người, mà hơn nữa, chính mình lại tích cực cộng tác vào những nguy cơ tàn phá ấy.
Tuy nhiên, trước những nguy cơ đáng lo ngại này, tôi đã nhận thấy rất nhiều người thiện chí, rất nhiều người có lòng tốt đã làm hết sức của mình để dấn thân, giúp cho con người sống ra người, và giúp cản ngăn những nguy cơ đang tàn phá con người.
Trong những người tốt ấy, tôi nhận thấy trong anh chị em, có những người tuy ở trong những hoàn cảnh rất là eo hẹp, nhưng vẫn sống vững niềm tin, vẫn có lòng quảng đại vì lợi ích chung, vì lợi ích cho mọi người, không phân biệt tôn giáo, cố gắng làm hết cách để nâng con người lên, ít ra về mặt lương tâm, về mặt đạo đức tinh thần.
Trong số những người tốt ấy, tôi đang nhìn thấy những linh mục của tôi, các tu sĩ, những người dấn thân, đi vào những vùng sâu để giúp đỡ, nâng đời sống con người lên, và cản ngăn phần nào những nguy cơ tàn phá con người. Chúng tôi biết giới hạn của chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn cương quyết rằng: Sẽ làm hết sức của mình để bớt được phần nào khổ đau cho đồng bào mình, cho đất nước mình, và làm hết sức của mình để giữ cho niềm tin được sống động, và nhất là để cho dân tộc mình, để cho Hội Thánh mình trở nên một mối hy vọng cho thế hệ tương lai.
Khi bước vào khu vực họ đạo này, tôi nhìn thấy cái giếng nước, và giếng nước này gợi ý cho tôi nhớ lại một lời Đức Thánh Cha Gioan 23. Ngài nói rằng: “Cha mong muốn mỗi họ đạo phải trở thành một giếng nước ngọt cho địa phương mình”. Đây là một hình ảnh đơn sơ, nhưng đầy ý nghĩa. Nếu mỗi họ đạo, mỗi cộng đoàn đức tin, mỗi nhà thờ của chúng ta, về mặt tinh thần đạo đức, trở nên một giếng nước cho địa phương, thì chắc chắn Nước Trời đã gần đến. Nước ngọt ở trong họ đạo chúng ta, về mặt thiêng liêng, đó là nền đạo đức, tâm hồn có sự sống của Thiên Chúa chan hoà ra, bằng niềm tin vững vàng cương quyết, bằng lòng cậy sắt đá, và bằng đức mến chan hoà.
Khi theo dõi lịch sử họ đạo này tôi thấy: Họ đạo chúng ta tuy bé nhỏ, nghèo hèn, nhưng đang là một giếng nước ngọt cho con em mình, cho địa phương mình. Chúa biết điều đó. Và chúng ta cũng đang ghi nhận sự phát triển đó.
Trong lễ hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa, vì họ đạo chúng ta, trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, vẫn là một giếng nước ngọt cho chính chúng ta, cho địa phương chúng ta.
Chúng ta cầu xin Chúa, cho giếng nước ngọt họ đạo chúng ta, luôn luôn ngọt mãi, luôn luôn nhiều nước tốt, để giúp cho những người chung quanh, cũng có những hy vọng: Hy vọng về Nước Trời, hy vọng về hạnh phúc đích thực, và hy vọng nhất là về thân phận con người, đúng là hình ảnh Thiên Chúa, có khả năng cản ngăn được phần nào, những nguy cơ đang tàn phá con người.
Lạy Chúa Thánh Linh, xin nhìn đến chúng con, Chúng con hết lòng cậy trông sự phù giúp hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. Người là tình yêu, Người là giếng nước ngọt, xin hãy đổ tràn nước tình yêu xuống trên chúng con. Amen.
Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Minh Châu, ngày 18-12-1992.
Khi vừa bước chân lên khu nhà xứ này, tự nhiên tôi để ý đến cây tháp đang xây. Đây là một công trình tương đối lớn, hứa hẹn sẽ đẹp. Mục đích công trình này theo tôi hiểu, là muốn gởi đi tiếng gọi của ba quả chuông, tới tận khắp giáo xứ, đi vào tận mỗi gia đình, và cũng muốn gợi ý cho mọi người trong giáo xứ, nhớ lại những việc lành phúc đức, nhất là lần chuỗi Mân Côi dâng kính Đức Mẹ, như mô hình triều thiên sẽ được xây trên đỉnh tháp.
Khi nhìn công trình này, tôi thầm cầu nguyện cho mọi người đã, đang và sẽ góp phần vào việc hoàn chỉnh cây tháp. Tôi tin Chúa sẽ nhận lời tôi, sẽ trả ơn bội hậu cho từng người.
Riêng tôi, qua cây tháp đang xây, tôi nghĩ tới những cây tháp vô hình, và những tiếng chuông thiêng liêng đang gởi đi những tâm tình đạo đức khắp nơi chung quanh chúng ta.
Trước hết, tôi nhớ những người mà tôi gặp hôm kia, cũng bằng giờ này, tại một trường dạy trẻ em mù ở thị xã Long Xuyên. Tại đó, tôi gặp 7 người phục vụ các em mù, toàn là người trẻ, họ là các thầy cô, các y sĩ, là bảo vệ, là người hậu cần. Họ tình nguyện ở đêm ngày giữa các em mù, với một đồng lương rất ít ỏi. Để giúp cho các em biết đọc, biết học văn hoá, biết ca hát, biết ngành nghề, biết sống ra kiếp người. Mặc dù các phương tiện rất eo hẹp, nhưng kết quả thực tuyệt vời. Nhờ họ, các em mù đã tìm được niềm vui và hy vọng. Đối với các em mù ấy, niềm vui và hy vọng nhận được, đúng là tin mừng cứu độ: Cứu các em khỏi những mặc cảm, cứu các em khỏi thất vọng.
Tôi coi những người đang phục vụ những người mù ấy, là những người đang xây dựng một cây tháp vô hình, gởi đi những tâm tình đạo đức, như những tiếng chuông thiêng liêng đánh thức bao lương tâm, gởi đi bao tin mừng cho những người chung quanh.
Rồi tôi đang nhớ lại một bác sĩ, mà tôi thăm sáng hôm qua sau thánh lễ. Ông là một Phật Tử, sống rất sùng đạo, sống tương đối nghèo. Thường xuyên, hằng ngày đã nhiều năm, ông đón bệnh nhân tại nhà, chăm sóc tận tình, những bệnh nhân nghèo, ông chăm sóc miễn phí. Đối với những bệnh nhân nghèo, việc làm như vậy của ông, đúng là niềm vui và hy vọng. Niềm vui và hy vọng của họ, đối với họ, đúng là tin mừng cứu độ: Cứu họ khỏi chết, cứu họ khỏi đau đớn, cứu họ khỏi lầm than. Vì thế, tôi coi ông bác sĩ ấy, như là một con người đang dựng xây một cây tháp sống động vô hình, hằng ngày, gởi đi chung quanh xa gần, những tâm tình đạo đức, như những tiếng chuông thiêng liêng, gieo vào lòng con người một sự chấn hưng đạo đức, giữa một thế giới suy tàn.
Rồi tôi cũng đang nhớ lại một bà già đau ốm, mà tôi mới thăm sáng hôm qua. Bà có nhiều con, nhiều cháu, nhiều chắt. Bà bệnh nạn lâu ngày, nằm tê liệt trên giường, nhưng là một niềm vui và hy vọng cho tất cả mọi người trong gia đình. Bởi vì, bà luôn luôn giữ khuôn mặt hiền dịu, không bao giờ đòi hỏi, không bao giờ than trách, bao giờ cũng để ý lo cho từng đứa con, từng đứa cháu, từng đứa chắt. Đối với họ, bà là niềm vui và hy vọng. Bởi vì nhờ bà, mà toàn thể gia đình được thương yêu nhau, hợp nhất với nhau, đùm bọc nhau. Tôi coi đời sống người bệnh ấy, như là một người đang xây dựng một cây tháp thiêng liêng, vô hình, hằng ngày vẫn gởi đi những tín hiệu tình thương, như những tiếng chuông thiêng liêng, gieo vào lòng con cái nhiều thế hệ, tình yêu thương bác ái, và lời ca ngợi Thiên Chúa.
Và bây giờ, tôi cũng đang nhớ lại những giáo lý viên sáng nay tôi gặp, trước khi lên xe tới đây. Họ là bác sĩ. Họ là y sĩ. Họ là nhà buôn. Họ là giáo viên. Nhưng tất cả đều có một tình thương đối với kẻ nghèo. Họ góp tiền, góp vải, rồi may, đợi đến ngày tết, chuyển các áo quần mới ấy, cho những địa phương nghèo. Nhờ họ, mà biết bao nhiêu người nghèo, sẽ tìm lại được niềm vui và hy vọng. Và niềm vui hy vọng ấy, chính là một tin mừng cứu độ cụ thể. Bởi vì, sẽ cứu họ khỏi cảnh đói nghèo, mặc cảm trong ngày tết. Tôi coi những giáo lý viên ấy, là những người đang xây dựng một cây tháp sống động, vô hình, luôn luôn tỏa ra những việc làm mang tâm tình đạo đức, như những tiếng chuông thiêng liêng ca ngợi Thiên Chúa là tình yêu, và gieo vào lòng những người chung quanh một ý thức về sứ điệp tình yêu của Chúa Giáng Sinh.
Trên đây chỉ là mấy trường hợp điển hình, mà tôi gặp trong ba ngày hôm nay. Tất cả những trường hợp trên đây, Chúa muốn nói với tôi rằng: Hôm nay, tại Việt Nam này, trong giáo phận Long Xuyên này, Chúa vẫn đang tiếp tục giáng sinh làm người.
Chúa không giáng sinh trong nhà thờ. Chúa không giáng sinh qua thánh lễ này mà thôi, mà Chúa đang giáng sinh trong những túp lều người nghèo, người mù, người bệnh, những người bị bỏ rơi. Chúa vẫn dùng nhiều người đem tin mừng đến cho họ. Tin mừng ấy là của Chúa. Chúa vẫn sai những tông đồ của Ngài đi, để chia sẻ tình yêu cứu độ. Người ấy là Công Giáo, người ấy là Phật Tử, người ấy là đạo khác. Chúa dùng tất cả để chia sẻ tin mừng.
Chính tôi, khi gặp những trường hợp như vậy, tôi cũng nhận được những tin mừng Chúa gởi cho tôi, qua những tấm gương bác ái ấy. Tin mừng ấy là, qua những người này, Chúa nhắc nhở cho tôi nhớ lại sứ điệp bác ái của Phúc Âm. Sứ điệp này rất cần, vì nó là căn bản của Chúa Cứu Thế, từ lúc Ngài sinh ra cho tới khi Ngài sống lại.
Tôi nhớ lời Thánh Phaolô đã nói: “Nếu tôi có đức tin mạnh, đến nỗi dời được núi non xuống biển, mà tôi không có đức yêu thương, thì cũng bằng không. Nếu tôi có đức tin mạnh, đến nỗi để cho thân xác tôi bị thiêu đốt, nếu tôi không có đức bác ái yêu thương, thì cũng bằng không”.
Rồi tôi nhớ lại lời Kinh Thánh, trong đó Chúa nói về ngày phán xét chung. Chúa lấy đức bác ái yêu thương ra để làm tiêu chuẩn, phân biệt kẻ lành người dữ: Khi ta đói, các con cho ăn, các con sẽ lên thiên đàng. Khi ta đói, đã không cho ta ăn. Vậy phải xuống hỏa ngục. Và Chúa cắt nghĩa: Nếu chúng con không làm những việc lành cho những người chung quanh, thì ta kể như đã chối từ chính ta.
Bác ái là rất quan trọng trong sứ điệp Phúc Âm, trong sứ điệp Giáng Sinh.
Anh chị em thân mến,
Tôi muốn chia sẻ cách thân tình với anh chị em hôm nay, về sứ điệp bác ái yêu thương, qua những gì đã xảy ra trong tôi mấy ngày hôm nay, để anh chị em cùng tôi, chú trọng nhiều hơn đến bác ái yêu thương.
Tôi muốn rằng, cây tháp anh chị em đang xây phải đẹp, phải làm sáng danh Chúa. Nhưng đừng quên xây dựng cây tháp tâm hồn mình và gia đình mình, giáo xứ mình, trở thành những công trình thiêng liêng, tỏa ra bầu khí đạo đức, đầy yêu thương bác ái, để cho dù ở đây, hay cho dù đi xa, anh chị em vẫn làm chứng cho Thiên Chúa là tình yêu.
Khi nhìn một nhà thờ đẹp, một cây tháp cao, tôi mừng, nhưng vẫn ái ngại, vì tôi thấy những công trình ấy sẽ có thể bị hủy hoại, do thời gian, do chiến tranh, do nhiều nguy cơ. Điều mà tôi mong muốn nhất cho mình và cho đoàn chiên của mình, đó là: Hãy trở nên những thánh đường thiêng liêng, những cây tháp thiêng liêng, đầy tình bác ái, mến Chúa yêu người, để dù nhà thờ này, cây tháp này có bị hủy diệt đi nữa, chúng ta vẫn là những đền thờ, vẫn là những cây tháp sống động, để làm sáng danh Chúa hôm nay và mãi mãi đời sau. Amen.
Lễ Thêm Sức tại Thái Hoà (kinh Rivera), ngày 26-12-1992.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại chuyện Thánh Gia di chuyển từ Do Thái sang Ai Cập, rồi từ Ai Cập về Do Thái.
Câu chuyện di chuyển của Thánh Gia hôm nay gợi ý cho tôi những di chuyển đang xảy ra đó đây tại Việt Nam ta và tại chính địa phương chúng ta đây. Có nhiều dạng di chuyển khác nhau. ở đây tôi chỉ kể ra hai dạng di chuyển đáng kể.
Dạng di chuyển thứ nhứt là dạng di chuyển trên tuyến đường làm ăn kinh tế.
Do nhu cầu làm ăn kinh tế, nhiều người đã từ địa phương này đến địa phương khác. Nhiều gia đình ở Sài Gòn chuyển về lập nghiệp nơi đây. Khi đi trên các tuyến đường tại Việt Nam và đi trên các tuyến đường tại Âu Châu, tôi đã gặp được nhiều người ở địa phận Long Xuyên trong đó có nhiều người Cái Sắn, có cả những người kinh 1, do nhu cầu làm ăn kinh tế, vì cuộc sống của mình.
Khi di chuyển như vậy, người ta nhìn thấy nhiều cái mới, được nghe nhiều cái lạ, tiếp cận với nhiều nền văn minh khác. Và từ đó, nảy sinh ra trong đầu óc những suy nghĩ mới, những ước vọng mới, và dần dà tạo ra một nếp sống mới.
Dạng di chuyển thứ hai đáng kể là di chuyển trên những tuyến đường thông tin, quảng cáo. Do nhu cầu giải trí, và do nhu cầu mở rộng tầm nhìn, anh chị em cũng như tôi, ngồi tại nhà, qua đài, qua tivi, nhưng đầu óc của mình vẫn được di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Sáng nay, tôi ngồi nghe đài, tôi ngồi một chỗ, nhưng qua những tuyến đường thông tin, đầu óc của tôi đi từ Việt Nam sang Pháp, sang Đức, sang Anh, sang Mỹ. Rồi mỗi tối, trước màn ảnh nhỏ, tôi ngồi yên trên ghế, nhưng đầu óc của tôi đã được di chuyển bằng hình ảnh đi khắp thế giới.
Những di chuyển ấy làm cho mình tiếp cận với những cái mới, nghe những điều mới và từ đó, cũng nảy sinh ra những cách suy nghĩ mới, có những ham muốn mới, và tạo dần một cách sống mới.
Trên đây, tôi chỉ nói đến hai dạng di chuyển đáng kể mà ngày nào chúng cũng thấy xảy ra. ảnh hưởng của nó rất là quan trọng.
Đêm lễ Noel vừa qua, tôi để ý quan sát, thì thấy: Năm nay, cách ăn mặc của người ta, nhất là giới trẻ, đặc biệt là phái nữ, đã khác Noel năm trước nhiều lắm.
Rồi thái độ tự do, chủ trương tự do được biểu hiện qua hành động đêm lễ Noel, cũng rất khác Noel năm trước nhiều.
Rồi cách giải trí, vui chơi, phương tiện đi lại, thăm viếng bạn bè, quà cáp gửi nhau, năm nay cũng rất khác Noel năm trước.
Tất cả những di chuyển đó là do kinh tế, là do quảng cáo, là do thông tin, là do làm ăn, là do thị trường mở ra. Cái quan trọng là những cái di chuyển ấy, tác động đến đức tin, tác động đến đạo đức.
Vì là người mục tử, tôi có thao thức của người mục tử, tôi đồng hành với dân tộc của tôi, với đoàn chiên của tôi. Tôi bám sát những chuyển biến của từng thời kỳ, của từng địa điểm, để xem những chuyển biến ấy ảnh hưởng tốt hay xấu trên đời sống đạo đức của đoàn chiên tôi. Và mỗi lần cảm thấy có một sự chuyển biến lớn trong tâm lý xã hội, tôi vẫn thường hỏi Chúa Kitô, xem bây giờ đây, con phải làm sao cho đoàn chiên con, để ứng phó với những chuyển biến đang ảnh hưởng rất mạnh, rất mau, đến đời sống đức tin. Và lần nào cũng vậy, Chúa vẫn nhắn nhủ tôi, sự chuyển biến, đó là chuyện bình thường. Ứng phó với những chuyển biến đó không phải là chận lại những chuyển biến, là gò bó lại sự tự do, là không cho phát triển kinh tế, xã hội, chính trị và tôn giáo. Nhưng ứng phó bằng cách huấn luyện đoàn chiên, nhất là giới trẻ, biết sống tự do thế nào cho tốt. Phải huấn luyện, giáo dục sự tự do. Đó là nhu cầu của người có đạo hôm nay, trước cái thời điểm mà sự di chuyển về mọi mặt, đang được phát triển mau lẹ.
Giáo dục sự tự do của con người là thế nào?
Theo tôi, là phải làm sao cho ta, cho gia đình ta, cho con cháu ta, có một hướng đi rất vững, rất rõ và rất mang màu sắc sự sống đức tin. Tôi nói lại: Sống đức tin bây giờ, là cần phải chọn một hướng đi cho rõ, cho đúng Phúc Âm. Đấy là cái đầu tiên.
Rồi phải nâng đỡ hướng đi đó bằng những nguyên tắc thực vững, thực gọn thực rõ, thực sát Phúc Âm và sát thời điểm.
Rồi huấn luyện sự tự do của chúng ta, nhất là con em chúng ta, là hãy tìm cách đưa vào lòng con em chúng ta những ham muốm đạo đức, hợp với Phúc Âm, ích lợi cho dân tộc, cho gia đình mình.
Hướng đi mà tôi chọn, đó là: Vâng phục thánh ý Chúa. Nếu anh chị em theo dõi những bài giảng của tôi. Bao giờ tôi cũng đặt nặng vấn đề vâng phục thánh ý Chúa. Đấy là hướng đi căn bản nhất của tôi, để tôi biết sống làm sao trong một thế giới đa dạng, có muôn vàn hướng đi khác nhau, tôi phải chọn làm sao hướng đi của tôi là vâng phục thánh ý Chúa. Mà thánh ý Chúa rõ ràng nhất, trong mọi lúc, ở mọi nơi, đó là yêu thương, bác ái: “Cha trối cho chúng con 1 điều răn mới, là chúng con yêu thương nhau, như Cha đã yêu thương chúng con”. Đấy là thánh ý Chúa rõ nhất, mà dù ở chỗ này, sang bên Tây, trong nhà thờ, trên xe cộ, ở giữa những người có đạo, ở giữa những người bên lương, yêu thương là thánh ý Chúa rõ nhất.
Hướng đi của tôi là như vậy. Và khi chọn hướng đi yêu thương bác ái, thì tôi tin chắc, đó là hợp với thánh ý Chúa. Và muốn được như vậy, tôi cần phải kết hợp với Thiên Chúa là tình yêu: “Cha là cây nho, chúng con là cành”. Làm sao mỗi ngày, tôi đến với Chúa nhiều lần, nếu không đến được, ít ra gặp Chúa trong lòng mình, để cảm tạ Người, để hỏi han Người, để chia sẻ những thao thức của người chủ chăn “Chúa chiên lành”.
Những nguyên tắc rõ ràng, mà tôi thấy cần cho tôi, cho anh chị em trong lúc mở ra này, đó là những nguyên tắc thuộc về đức bác ái. Tôi vẫn luôn luôn nhìn vào những lời Chúa nói về ngày phán xét. Ngày đó, Chúa chỉ căn cứ vào đức yêu thương bác ái, để phân biệt kẻ dữ, người lành: “Ta đói, các con đã cho Ta ăn”. Đủ rồi, con hãy lên thiên đàng. “Ta khát, con không cho Ta uống”. Đủ rồi, xuống hỏa ngục. Chúa phán xét rất đơn sơ, trên tiêu chuẩn bác ái, yêu thương. Và trên lời Chúa đã khẳng định: “Khi chúng con làm một việc gì, hay không chịu làm một việc gì cho người khác, thì Ta kể như là làm cho chính Ta hoặc là từ chối làm cho chính Ta.
Nguyên tắc rất rõ ràng. Và khi nắm được nguyên tắc ấy, tôi thấy mình an tâm trên con đường mình đi.
Rồi những nguyên tắc khác như: “Con hãy tha thứ cho mọi người, để con được Chúa tha thứ cho con”. Đấy cũng là những nguyên tắc thực rõ, thực vững, thực gọn.
Ngoài ra, tôi thấy, cần phải dạy con em chúng ta, làm sao để chúng có một lý tưởng, một ham muốn thực là Phúc Âm.
Riêng tôi, từ nhỏ, và càng ngày càng thấy có một ham muốm là làm sao mọi người yêu thương nhau, và làm sao thiết lập trên đất nước Việt Nam này, ít ra tại địa phận Long Xuyên chúng ta, một nền văn minh của trái tim. Thương yêu nhau, chấp nhận nhau, chia sẻ với nhau niềm vui, nỗi buồn.
Khi có một ham muốn như vậy, mình thấy thanh thản. Và rồi, dù gặp thành công, dù phải thất bại, mình vẫn nói với Chúa rằng: Con làm theo thánh ý Chúa mà thôi, Chứ không phải làm cho chính mình con.
Anh chị em thân mến,
Thánh Gia ngày xưa sang đất Ai Cập đã tìm được cuộc đời an ổn.
Tôi nghĩ sự an ổn đến với Thánh Gia không phải là lớn tiếng đấu tranh cho quyền lợi đạo của mình. Mà trái lại, Thánh Gia âm thầm khiêm tốn, sống yêu thương bác ái. Chính vì vậy, mà người dân ngoại Ai Cập đã thương yêu Thánh Gia, đã đùm bọc Thánh Gia. Chứ nếu không, khi Thánh Gia ở đó, lại kiêu căng, lại trịch thượng, lại cứ tưởng mình là duy nhất đúng, là duy nhất phải, rồi xua đuổi, rồi khinh chê những người ngoại giáo, thì chắc chắn Thánh Gia đã bị khai trừ ngay tuần đầu tiên trên đất Ai Cập, bởi những người ngoại giáo. Vì thế, tôi cảm tin rằng: Sống Phúc Âm hôm nay, cách rao giảng Phúc Âm hôm nay, là hãy bắt chước Thánh Gia, sống hiền hòa, khiêm tốn, yêu thương.
Khi chúng ta làm như vậy, là chúng ta bắt chước Thánh Gia, quan thầy xứ đạo chúng ta. Chúng ta không cần đến thành công trước mắt. Nhưng phải làm theo thánh ý Chúa. Rồi hạt giống chúng ta, sẽ trổ sinh cây lá tốt lành. Và, trước mặt Chúa, những cây trái ấy sẽ làm vinh danh Thiên Chúa. Vinh danh Thiên Chúa vì Nước Trời đã đến. Và nước Trời là tình yêu, là sự bình an của Chúa Kitô.
Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Thánh Gia (Kênh 1B) ngày 27-12-1992
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại truyện Thánh Gia trốn sang Ai Cập. Trong truyện này có một điều đáng chúng ta suy nghĩ, đó là, để tìm lại sự yên ổn cho Thánh Gia, Thánh Gia đã bỏ một nước có đạo, để trốn sang một nước ngoại đạo, để tránh cho Chúa Hài Đồng khỏi bị bách hại. Thiên Thần đã truyền cho Đức Mẹ và thánh Giuse bỏ cộng đoàn có đạo, để đi tìm trú ngụ nơi những cộng đoàn không có đạo. Và thực sự, tại Ai Cập là một nước không có đạo, Thánh Gia đã tìm được sự yên ổn.
Theo tôi thấy, sự yên ổn mà Thánh Gia đã tìm được ở Ai Cập, nước ngoại đạo, một phần là do lòng tốt những người lương, những người ngoại đạo. Họ không loại trừ những người khác đạo. Họ không khinh miệt những người không cùng tín ngưỡng. Hơn nữa, họ đã vui lòng chấp nhận Thánh Gia là người có đạo Do Thái, và họ đã nâng đỡ Thánh Gia trong những năm tháng Thánh Gia ở giữa họ.
Trên đây là một thái độ đạo đức. Thái độ đạo đức này thuộc nền đạo đức nhân bản, đạo đức truyền thống. Và đây là những giá trị, mà theo tôi hiểu, đã do chính Chúa Thánh Thần ban cho họ. Họ đã biết đón nhận những giá trị đạo đức nhân bản truyền thống và cũng là căn bản của Phúc Âm. Và đã biết bảo trì những giá trị ấy, và đã biết thực hiện những giá trị ấy. Thánh Gia hôm nay đã chọn nơi trú ẩn trong một nước ngoại đạo. Đó là dấu Chúa ban phép lành cho những nền đạo đức căn bản truyền thống của những người không có đạo. Những giá trị đạo đức tại đây của những người ngoại đạo không những được làm chứng trong những năm tháng Ai Cập đón nhận Thánh Gia, mà còn thấy thực hiện đó đây, ngay trên quê hương Việt Nam chúng ta hôm nay. Tôi nghĩ rằng anh chị em, qua những giao tiếp với người lương, đã có nhiều kinh nghiệm. Chính bản thân tôi cũng có một số kinh nghiệm.
Đầu tháng này tôi làm lễ ở họ đạo Núi Sam, thuộc tỉnh An Giang. Trong số những người tham dự ở ghế hàng đầu, tôi thấy có bốn vị thượng tọa, đại đức, và một số phật tử. Tôi biết các vị ấy là những người bạn tốt của họ đạo Núi Sam, năng lui tới, năng nâng đỡ, năng khích lệ những người Công Giáo.
Cũng trong tháng này, tôi làm lễ phong chức linh mục tại tu viện Phanxicô, ở Cù Lao Giêng. Trong thánh lễ này, cũng ghế hàng đầu, tôi thấy hai vị tăng ni tham dự. Đây cũng là những vị sư sãi, bạn tốt của nhà dòng, của cộng đồng đức tin Công Giáo tại địa phương.
Cũng tuần trước đây, tôi làm lễ ở một nhà thờ, trong vùng U Minh Thượng, tôi thấy trong số những người tham dự, có những anh chị em Cao Đài, thuộc hai thánh thất. Các anh chị em Cao Đài ấy là những người bạn tốt của người Công Giáo địa phương, không những hôm ấy đến tham dự thánh lễ, mà trước đó vẫn thường lui tới, góp công, góp của vào việc xây dựng thánh đường Công Giáo.
Và tháng trước đây, khi tôi làm lễ ở các nhà thờ huyện Hà Tiên, Hòn Đất, tôi thấy nhiều người phật tử đã rất tích cực trong vấn đề giúp các cha, các họ đạo làm các việc thuộc về Công Giáo. Có lúc, tôi tưởng ông ấy, bà ấy là trong hội đồng giáo xứ, nhưng không phải, họ là những người phật tử, nhưng có lòng tốt đối với anh chị em Công Giáo tại địa phương. Và nếu không có sự giúp đỡ của họ, sự tồn tại của những cộng đoàn đức tin Công Giáo ấy sẽ bị nguy cơ.
Cách đây mấy tháng, ở hạt Chợ Mới, một linh mục ban chiều đi honda, có một xách tay, trong đó có nhiều đô la, dành để mua vật liệu xây nhà thờ, chẳng may, đường xấu, xách tay rớt, chỉ sáng hôm sau, ủy Ban Nhân Dân xã đến trao cho linh mục xách tay đó, nguyên vẹn số tiền, giấy tờ. Người lượm được là một người ngoài Công Giáo. Họ lượm được và họ đem nạp, để gởi về linh mục.
Đây chỉ là một số trường hợp điển hình của một số danh “Người tốt, việc tốt” mà chúng ta có thể kiểm chứng được thường ngày trong đời sống tiếp cận của chúng ta. Những đức tính nhân bản như: Sự chân thành, đời sống lương thiện, tính bao dung, kính trọng kẻ khác, thương người, giúp đỡ nhau. Đó là những đức tính mà dân Ai Cập đã thực hiện đối với Thánh Gia, trong khi Thánh Gia trốn ở giữa họ. Tôi thấy, đây là những đức tính cần để những người Công Giáo chúng ta hôm nay nhớ lại. Tôi nghĩ rằng, trong những lớp giáo lý của chúng ta, nhiều khi chúng ta quá nhấn mạnh đến những gì cao sâu mầu nhiệm, mà không để ý đủ đến những nhân đức căn bản, nhân bản, những cái đạo đức làm người, những cái đức của nền đạo đức truyền thống.
Đôi khi ngồi lại, trao đổi với các cha, các giáo dân trong địa phận Long Xuyên và nhiều nơi khác, tôi nghe có nhiều vị nói với tôi rằng: Xét về nền đạo đức nhân bản, có nhiều người Công Giáo Việt Nam, kém những người lương: Thiếu chân thành, thiếu lương thiện, thiếu bao dung, thiếu kính trọng người khác, thiếu bác ái, thiếu nâng đỡ nhau. Nếu đúng như vậy là một sự đáng buồn cho chính chúng ta, và là một điều cho chính chúng ta phải suy nghĩ, để chỉnh đốn lại đời sống đạo của chúng ta.
Mới rồi, tôi đọc một tạp chí chuyên về gia đình tại Pháp. Trong số báo đó, có đăng một bài phát biểu vắn tắt của đôi hôn nhân. Người con trai, sau lễ hôn phối, đã phát biểu trước cộng đoàn nhà thờ rằng, đại khái: Người phụ nữ mà tôi chọn làm vợ hôm nay, sẽ là sức mạnh nhất trong mọi nỗi bão táp đời tôi. Chúng tôi sẽ đón nhận con cái Chúa ban và sẽ dạy chúng biết bao dung và kính trọng người khác. Chúng tôi sẽ không còn là chúng tôi nếu chúng tôi không nương tựa vào các bạn. Các bạn là những người Công Giáo. Các bạn là những người Tin Lành. Các bạn là những người không tín ngưỡng. Chúng tôi nương tựa vào các bạn.
Khi đọc lời phát biểu trên đây của người con trai, sau lễ hôn phối, tôi thấy rằng: Họ để ý nhiều đến những nhân đức căn bản của đạo làm người: Biết bao dung, biết trung tín, biết kính trọng nhau, biết đón nhận sự nương dựa của kẻ khác.
Do đọc bài báo đó, tôi liên tưởng những lời chúc mừng và những lời hứa trong các lễ Thêm Sức mà tôi vẫn nghe. Tôi nghe biết bao nhiêu điều tuyên hứa to lớn: Nào là sẽ nên chiến sĩ Phúc Âm, rao giảng Tin Mừng khắp thế gian này. Nào là sẽ làm chứng cho Nước Trời.v.v... Đó là những lời tuyên hứa to lớn. Cái đó hay, cái đó đẹp. Nhưng tôi cũng muốn rằng: Mỗi lần Thêm Sức, chúng ta quyết tâm làm những việc nhỏ, những việc cụ thể, thí dụ như: Sống lương thiện, sống chân thành, sống bao dung, sống kính trọng người khác. Nếu chúng ta chỉ tuyên hứa như vậy và làm được như vậy, thì thiết tưởng, chúng ta sẽ có một vốn liếng cụ thể, có tính chất Phúc Âm, để có thể đối thoại với dân tộc Việt Nam hôm nay, mà đa số không phải là người Công Giáo.
Anh chị em thân mến,
Thánh Gia tìm nương tựa nơi những người không có đạo. Đây là một tin mừng, gởi đến những người lương và đây cũng là một bài học, gởi cho những người có đạo, để chúng ta biết khiêm tốn và để chúng ta biết học hỏi những người khác tín ngưỡng với ta.
Nếu chúng ta nghe Chúa Thánh Thần đánh động lương tâm, để chúng ta có một tầm nhìn mở rộng, sống khoan dung, biết cho đi và đồng thời cũng biết lãnh nhận, biết sự thật về mình và đồng thời cũng trân trọng sự đạo đức của người khác, thì Tin Mừng Phúc Âm sẽ trở nên một dây nối hòa bình, đạo đức, bình an cho quê hương đất nước chúng ta, một quê hương đã đau khổ nhiều vì chia rẽ, vì chiến tranh, vì nghèo đói và vì biết bao nhiêu nghi kÿ.
Hãy biết bao dung như Thánh Gia giữa những người dân ngoại hôm nay, biết đón nhận những cái hay, cái tốt của đồng bào mình. Hãy biết chia sẻ đức tin một cách khiêm tốn, hiền hòa và bác ái. Chỉ thế thôi, thì Chúa Thánh Linh có thể giúp chúng ta làm những việc đạo đức cao hơn mà chúng ta vẫn tuyên hứa trong những lễ Thêm Sức. Amen.
Thêm Sức tại giáo xứ Antôn (kênh 1A), ngày 27-12-92.
Nếu tôi là người chủ trương đối kháng và chủ trương phô trương, thì bài Phúc Âm hôm nay sẽ là một bài tiêu cực. Bởi vì Hêrôđê là một người ác độc, áp bức dân chúng, toan tính sát hại Hài Nhi Giêsu và các trẻ em. Chúa biết điều đó. Chúa biết trước và biết rõ từng chi tiết câu chuyện đó sẽ xảy ra. Thế nhưng Chúa lại sai Thiên Thần báo tin cho Giuse phải trốn đi. Trốn đi âm thầm, trốn đi ban đêm. Trốn đi là một việc của kẻ yếu. Trốn đi là một hành vi coi như là hèn nhát. Trốn đi là một việc tiêu cực.
Nếu là như thế, thì trong câu chuyện này, nhiều vị sẽ là tiêu cực: Thánh Giuse đi trốn là người tiêu cực. Thiên Thần bảo đi trốn cũng là tiêu cực. Và tiêu cực ấy đáng phải kết án. Bởi vì cách suy nghĩ thông thường của chúng ta bây giờ, khi ai biết người nào đó đang toan tính một việc ác độc, làm hại kẻ khác mà không ngăn cản, không tố cáo, thì kể như đồng lõa với tội ác ấy.
Đấy là cách suy nghĩ thông thường hiện nay. Và cách suy nghĩ này được coi như là đạo đức. Thế nhưng, chúng ta thấy Chúa đã không đi theo cái suy nghĩ đạo đức thông thường mà tôi vừa diễn tả.
Thực tế là Chúa bảo thánh Giuse phải trốn đi: Trốn đi âm thầm. Trốn đi ban đêm, như một người yếu, như một người hèn, như một người tiêu cực.
Sự Chúa đã chọn, đã làm hôm nay, tất nhiên là một việc tốt. Mà cái tốt ấy tôi không dám đưa ra cái suy đoán để cắt nghĩa. Nhưng tôi thấy có mốt điều rất chắc để cắt nghĩa sự thánh Giuse đi trốn, là bài Phúc Âm hôm nay.
Bài Phúc Âm hôm nay nói rằng: Sự thánh Giuse đi trốn sang Ai Cập với Đức Mẹ và Hài Nhi Giêsu, đó là việc nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, mà tiên tri đã nói từ ngàn xưa. Như vậy, cái chi tiết đi trốn của thánh Giuse hôm nay phải hiểu trong toàn bộ lịch sử cứu độ. Ý nghĩa của nó chỉ được sáng tỏ khi nhìn toàn bộ lịch sử cứu độ của Thiên Chúa.
Toàn bộ lịch sử cứu độ của Thiên Chúa bao giờ cũng có hai phần: Một bên là bóng tối, một bên là ánh sáng. Bên bóng tối là tội lỗi, lầm lỗi, yếu đuối, những ác độc của con người. Bên ánh sáng là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Những thời gian đầu, tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua các tiên tri, bằng lời rao giảng, bằng những phép lạ, bằng những lời răn đe. Đến thời Con Thiên Chúa giáng trần, thì chính Đức Kitô gánh tội cho nhân loại. Ngài như của lễ đền tội thay cho loài người.
Vì thế, sự Thánh gia đi trốn tại Ai Cập, bề ngoài coi như một hành động yếu, tiêu cực, nhưng phải hiểu đó là chi tiết của Chúa Kitô cứu chuộc, trong toàn bộ chương trình của Ngài. Ngài chịu đau khổ, Ngài chịu nhục nhã để gánh lấy tội nhân loại, để đền tội nhân loại.
Khi chúng ta hiểu như vậy, chúng ta mới thấy cái đạo đức của Đức Kitô rất khác cái đạo đức thông thường mà chúng ta hay suy nghĩ.
Tôi thiết tưởng, nếu bây giờ tôi không giảng đạo đức của Đức Kitô hiền lành, khiêm tốn, nhịn nhục, bao dung. Mà trái lại, tôi giảng đạo đức thông thường của loài người, nghĩa là thấy ai làm điều gì bất chính, phải tố cáo. Thấy ai làm điều gì sai trái, phải đấu tranh cách này, cách khác. Bất cứ người đó là ai. Nếu người làm trái là người nhà nước, phải tố cáo. Nếu người làm trái là người trong đạo, Đức Cha, cha xứ, cũng phải lên tiếng tố cáo. Nếu trong gia đình, cha mẹ mình làm sai, con cái phải tố cáo. Nếu tôi giảng cái thứ đạo đức ấy cho anh chị em, thì sẽ có các thứ địa ngục ở trên thế gian này.
Một họ đạo, cha tố cáo con, con tố cáo cha, người nọ tố cáo người kia. Tất cả sẽ trở thành địa ngục.
Một Hội Thánh mà bề dưới tố cáo bề trên, bề trên trả thù người dưới. Tất cả sẽ trở thành địa ngục.
Một đất nước, người nọ tố cáo người kia, tranh đấu nhau bằng mưu mô xảo quyệt. Tất cả sẽ trở thành địa ngục.
Và nhất là trong gia đình, con cái, cha mẹ tố cáo nhau. Tất cả sẽ trở thành địa ngục.
Và địa ngục sẽ ngay từ trong tâm hồn mỗi người. Nếu bây giờ tôi nghĩ rằng: Có người đang rình rập tố cáo tôi, và tôi cũng phải trả đũa bằng sự tố cáo người khác, thì chính tôi cũng trở nên một địa ngục.
Đó, cái địa ngục ngay ở trần gian này đã đáng sợ rồi, phương chi là cái địa ngục sau này, khi chúng ta chết. Nếu chúng ta theo đạo đức thông thường của loài người, ăn thua đủ với nhau, miếng trả miếng, tố cáo nhau, đấu tranh với nhau bằng mưu mô xảo quyệt, mà không theo đạo lý, đạo đức của Đức Kitô trong Tám Mối Phúc Thật, và trong cái gương thánh Giuse, Thánh Gia hôm nay, nhịn nhục thì tôi sợ rằng: Đời này là địa ngục mà đời sau cũng đúng là địa ngục trước mặt Chúa.
Anh chị em thân mến,
Nhiều khi đọc bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta hay đặt mình vào địa vị của thánh Giuse, Đức Mẹ và Hài Nhi Giêsu. Chúng ta tự cho mình là người bị bắt bớ, bị oan uổng. Nhưng không biết chừng, trước mặt Chúa, chúng ta cũng là Hêrôđê cách nào đó. Bởi vì, trong chúng ta, cũng còn cái máu ích kỷ của Hêrôđê, cũng có cái máu đa nghi của Hêrôđê, cũng có cái máu phô trương quyền lực của Hêrôđê, và nhất là cũng có cái máu trả thù lạm dụng quyền bính của Hêrôđê. Nếu chúng ta bình tĩnh, xét mình trước mặt Chúa, chúng ta thấy, chính chúng ta nhiều khi cũng là một thứ Hêrôđê, làm hại Hội Thánh, làm hại người lành, làm hại ích chung.
Chính vì vậy, mà khi đọc bài Phúc Âm hôm nay, tôi đã âm thầm cầu xin với Chúa: Xin Chúa cứu con. Xin Chúa là tình yêu hãy đối xử với con như một người tội lỗi, như một người cần phải cứu do tình thương Chúa, chứ không phải là một người để trừng phạt do sự công bình của Chúa.
Thánh lễ hôm nay, tôi cũng cầu xin như vậy cho tất cả anh chị em, nhất là cho giới trẻ, cho con em chúng ta, để suốt đời biết sống đạo đức, thứ đạo đức của Đức Kitô: Hiền lành, khiêm tốn, bao dung, nhịn nhục và đầy bác ái, sẵn sàng tha thứ.
Chúng ta đừng tưởng rằng: Thứ đạo đức như vậy, sẽ làm hại Hội Thánh, sẽ làm hại ích chung. Không phải thế đâu. Hêrôđê rồi cũng sẽ chết, và đã chết theo chương trình của Thiên Chúa. Mặc dầu Giuse không làm gì: Không chống đối, không đối kháng, không tố cáo, nhưng đến giờ, chương trình của Chúa, kẻ áp bức sẽ chết. Cho nên, tôi vẫn tin rằng: Nếu chúng ta sống đạo đức, theo kiểu đạo đức của Đức Kitô, thì chính Chúa là Đấng làm lịch sử của Hội Thánh, của địa phận, của họ đạo, của gia đình, của bản thân mỗi người, sẽ xem xét mọi sự cho êm đẹp, đời này, đời sau. Chúng ta chỉ là những dụng cụ bé nhỏ. Cứ theo Đức Kitô mà sống, thì lương tâm chúng ta sẽ được an bình.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin thương đến trong tâm hồn chúng con và ban cho chúng con ơn lành là luôn luôn vâng phục thánh ý Chúa, do mọi sự Chúa dùng để soi sáng chúng con, như Thiên Thần đã soi sáng thánh Giuse, và thánh Giuse đã biết vâng phục Thiên Thần. Vì đó là thánh ý Chúa. Amen.
Thêm Sức tại giáo xứ Hiệp Tâm (Kênh Zéro), ngày 28-12-92.
Tiếp xúc với các bạn trẻ, tôi học được một số kinh nghiệm về tâm-lý giới trẻ. Tâm lý này đang Bùi-Tuần 0339
Tiếp xúc với các bạn trẻ, tôi học được một số kinh nghiệm về tâm-lý giới trẻ. Tâm lý này đang chuyển biến. Những chuyển biến tâm lý giới trẻ sẽ ảnh hưởng nhiều đến tương lai đời đạo, nơi bản thân họ và trên quê hương. Trong cái nhìn đó, tôi xin chia sẻ một vài chi tiết về kinh nghiệm giới trẻ của tôi. Những kinh nghiệm này là những gợi ý khiêm tốn cho giáo dục và mục vụ.
1/ Giới trẻ hôm nay có khuynh hướng quan tâm tìm kiếm những gì có thể giúp họ phát triển con người họ và đời sống họ, hơn là quan tâm xem xét cái gì đúng cái gì sai
Không phải họ coi thường các hệ thống luật lệ đạo đời. Nhưng trên thực tế, họ quan-trọng-hoá tối đa việc phát triển con người họ và đời sống họ. Theo họ, gọi đó là quyền lợi hay là bổn phận cũng được.
Phát triển, để có thể thành công trong cuộc sống, để không thua kém bạn bè, để có hạnh phúc theo sở thích, để đền ơn đáp nghĩa gia đình, đất nước.
Ham muốn phát triển là chính đáng và rất mạnh. Nó là một động lực tâm lý. Từ đó họ muốn bung ra, vươn lên, xoay xở. Bằng đủ cách trong tầm tay. Nhiều khi không phân biệt đúng sai.
Hầu hết nhắm tới thành công, trước khi nghĩ tới thành nhân. Nhiều người lại muốn thành công dễ dàng, sớm sủa.
Có những tham vọng đúng đắn. Không ít trường hợp, ước vọng chỉ là ảo tưởng, đôi khi bệnh hoạn.
Trong việc phát triển, muốn cho cái đúng cái sai đạo đời được giới trẻ chấp nhận và nội-tâm-hoá, tất nhiên phải chứng minh. Nhưng chứng minh bằng lý lẽ mà thôi sẽ không đủ thuyết phục. Họ có khuynh hướng lựa chọn những gì kinh nghiệm xung quanh và bản thân họ cho là đúng.
Nhưng kinh nghiệm vốn có tính chủ quan. Ngay nội dung phát triển và cách phát triển cũng chẳng được mọi người suy nghĩ và cảm nghiệm như nhau. Nơi người này, phát triển có nghĩa là kiếm được nhiều tiền của. Nơi người nọ, phát triển lại có nghĩa là nếm được nhiều lạc thú, là biết nói năng tỏ ra mình quan trọng. Nơi người khác, phát triển phải có nghĩa là có văn hoá hơn, có đạo đức hơn, v.v... Vì thế, trong một thời điểm đề cao phát triển với đủ thứ mời mọc, giới trẻ nếu không được hướng dẫn đúng, sẽ dễ rơi vào lối sống tự do quá trớn, tôn thờ chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa hưởng thụ.
Với một tâm trạng tự hào với lối sống đó, và với những bước đi tự đắc theo một nhịp độ không còn kiểm soát nổi, một số ít người trẻ sẽ mau quay lưng lại quá khứ đời đạo khuôn khổ. Họ muốn tự chọn những gì họ thích. Cả những giá trị truyền thống đã được chọn sẵn cũng bị tương-đối-hoá theo cái nhìn mới.
Chính tại chỗ đó, sẽ xảy ra khủng hoảng về quyền bính. Đồng thời cũng tại nơi đó sẽ xảy ra những khủng hoảng về văn hoá và tôn giáo do các loại phát triển sai trái gây ra.
Tôi có cảm tưởng là hiện nay, nhiều nhà hoạt động tôn giáo đã thấy trước được những khả năng đáng ngại ấy, nên đang để ý nhiều đến việc phát triển con người giới trẻ, với một kế hoạch quân bình, có bề sâu và có chiều cao, có tính Hội Thánh và có tính Dân Tộc, nắm vững những nguyên tắc khách quan và cũng kính trọng những kinh nghiệm chủ quan. Làm thế, không phải để kéo giới trẻ gắn bó với các ngài, nhưng là để họ được chuẩn bị tốt cho việc đón nhận Nước Trời, cho dù các ngài rồi sẽ phải nhỏ đi, như Thánh Gioan Tiền Hô đã nói.
2/ Giới trẻ hôm nay dễ bị thu hút bởi mô hình người dễ thương, hơn là mô hình người thánh, người hùng.
Họ vẫn kính người thánh. Họ vẫn trọng người hùng. Nhưng họ chạy theo những người dễ thương. Người dễ thương của giới trẻ không hẳn phải là thánh, cũng không hẳn phải là hùng. Nhưng nơi họ vẫn có cái gì đó là giấc mơ của giới trẻ. Giấc mơ nhỏ bé thôi, nhưng là giấc mơ đẹp. Đẹp ở nét tươi mát cho cuộc sống đời thường.
Thần tượng của giới trẻ bao giờ cũng phải có nét dễ thương. Họ có nhiều thần tượng. Thần tượng của giới trẻ nông thôn khác thần tượng của giới trẻ thị thành. Thần tượng của nhóm này khác thần tượng của nhóm khác. Có nghĩa là các thần tượng được tạo hình một phần lớn do ảnh hưởng môi trường, và các điều kiện tiếp cận.
Tình hình tiếp cận nay mỗi ngày mỗi tiến bộ. Hằng đêm, qua các đài truyền hình, từng chục hình ảnh dễ thương ung dung đi vào từng gia đình, trong một bầu khí thân mật nhất. Hằng ngày, khắp nơi, qua các sản phẩm và các con người, vẫn sôi nổi những thị trường hình ảnh dễ thương, mới mẻ.
Trong nền văn minh thị trường, người ta cạnh tranh nhau ở cái dễ thương. Khéo tạo nên cái dễ thương, để dễ bán, dễ mua, để mở rộng ảnh hưởng.
Nếu đúng như thế, thì đây sẽ là một vấn đề khó cho việc giáo dục nói chung và cho việc huấn luyện đức tin nói riêng.
Khó ở chỗ phải tìm cách trình bày các chân lý thế nào để cho dễ thương, mà không phản bội nội dung chân lý. Bởi vì có những chân lý Phúc Âm chẳng dễ thương gì lắm theo tính tự nhiên loài người, như mầu nhiệm thánh giá, và các điều kiện của Tám mối phúc.
Rồi khó ở chỗ phải tìm cách huấn luyện giới trẻ, để họ biết đón nhận và thực thi toàn bộ chân lý cứu độ, chứ không chỉ nhận và giữ những gì họ thích và cho là dễ thương.
Rồi còn khó ở chỗ phải làm thế nào, để chính người rao giảng chân lý cứu độ, mặc dầu đã làm hết sức mình để sống dễ thương, cũng sẽ sẵn sàng chấp nhận bị chê là khó thương, để trung thành với sứ mạng bảo vệ chân lý.
Những cái khó tôi vừa kể hiện nay chưa xuất hiện nhiều. Tôi hy vọng tương lai không đến nỗi trầm trọng, nếu vẫn tiếp tục duy trì được não trạng tôn trọng nề nếp như truyền thống.
Hơn nữa, dù trong những hoàn cảnh có nhiều xáo trộn, tôi thấy đa số các bạn trẻ cho tới bây giờ vẫn nhận thức về mô hình người dễ thương một cách thực tế và tương đối đúng đắn. Đối với họ, kẻ dễ thương là kẻ yêu đời. Yêu đời là yêu toàn bộ cuộc đời, với những khía cạnh tươi vui và với cả những khía cạnh bi đát của nó. Yêu đời là yêu mọi người đã góp phần xây dựng đời mình. Yêu đời là yêu Đất Nước này đang có mặt trong máu xương mình. Yêu đời là yêu việc bổn phận mình, là phấn đấu cho đời mình và đời những kẻ thuộc về mình được tốt đẹp hơn. Tôi cho rằng chỉ thế thôi cũng dễ thương lắm rồi, và nếu thực sự trung thành với mô hình dễ thương đó một cách sáng suốt can đảm và kiên trì, người ta cũng đã bước sang mô hình người hùng, người thánh rồi đó.
3/ Giới trẻ hôm nay mang tâm trạng bất ổn hơn là ổn định.
Kẻ ở vùng quê có khuynh hướng bỏ quê ra thị, tỉnh, thành. Kẻ ở thị, tỉnh, thành cũng phải chạy ngược chạy xuôi để tìm chỗ học, và để kiếm công ăn việc làm. Xem ra bất ổn.
Điều đáng nói ở đây là lớp trẻ có nhiều thao thức mới. Họ bén nhạy với những gì là mới. Họ thích mới. Sự kiện đó làm cho họ không yên.
Ở điểm này, họ khác với người lớn tuổi. Người lớn tuổi dễ có khuynh hướng không ưa thay đổi. Vì thích ổn định, và vì lo ngại, nếu thay đổi, lỡ ra sẽ phạm lỗi lầm. Khuynh hướng đó không phải là xấu. Nhưng nếu vì thế cứ khư khư bảo vệ cái ổn định phải là cái cố định, thì làm sao tiến bộ được. Một cuộc đời không chấp nhận tiến bộ và không phấn đấu tiến bộ đã là một lỗi lầm lớn rồi. Còn người trẻ thì khác. Họ dễ nôn nao trước những cái mới nhiều khi một cách quá đáng.
Trên đường đi gặp gỡ những cái mới mẻ, giới trẻ thường không đi một mình. Họ thích đi với những người khác. Họ muốn có những điểm tựa. Điểm tựa của họ là gia đình, nhà trường, các nhóm bè bạn, các đoàn thể xã hội, tôn giáo, những cá nhân mà họ tin tưởng.
Tôi thấy rằng lúc này hơn lúc nào hết, giới trẻ rất muốn tựa nương. Họ muốn có điểm tựa. Họ đi tìm điểm tựa. Ai đáp ứng được khát vọng đó là nắm bắt được hy vọng cho tương lai Tổ Quốc và Hội Thánh.
Điểm tựa ở đây không nhắm mục đích kiểm soát và chế ngự giới trẻ, nhưng nhắm mục đích đồng hành với họ, giúp họ có những bước đi đúng đắn và hữu ích trong một tình hình bất ổn.
Trong tình hình bất ổn, người trẻ thích sáng tạo những giải đáp cho các vấn đề. Nếu không ai giúp họ, họ sẽ tự mình chọn lấy những gì họ sáng tạo. Chính chỗ này cũng đã gợi ý cho chúng ta thấy, ai muốn là điểm tựa của giới trẻ thì phải thế nào để được họ tin tưởng.
Kinh nghiệm cho tôi thấy các điểm tựa được giới trẻ tin tưởng đều là những người đạo đức thông minh và khôn ngoan, có uy tín về những kiến thức cũ mới, cũng như giầu kinh nghiệm đa dạng về cuộc đời.
Người trẻ bây giờ hay suy nghĩ từ các sự kiện, chứ không từ những nguyên tắc bất biến. Các sự kiện mà họ quan tâm là những gì xảy ra trong cuộc sống lúc này, nơi bản thân họ, trên quê hương và trên thế giới. Qua các luồng thông tin hằng ngày, họ biết rất nhiều sự kiện. Từ chuyện Siđa, tham nhũng, tội ác, cho đến chuyện giá cả, tình yêu, thể thao, văn hoá, nghệ thuật. Từ chuyện địa phương, cho đến chuyện Nước và quốc tế. Từ chuyện đời cho đến chuyện đạo. Hằng ngày hằng đêm vẫn có những trận mưa tin tức đổ xuống. Họ phải bơi lội trong những dòng sự kiện thăng trầm phức tạp, để sinh tồn và để phát triển. Có những loại sự kiện dễ trôi đi. Nhưng có những sự kiện cứ ở lỳ đó, như những thách đố, đòi họ phải giải đáp.
Một tình hình như trên không thể không làm cho tâm trạng người trẻ bồn chồn bất ổn. Nhưng nhờ mối tương giao chân thành với các điểm tựa có uy tín, giới trẻ tập sống trưởng thành giữa những bất ổn không sao tránh được. Họ sẽ trưởng thành về mặt sáng suốt lượng giá các sự kiện, không dựa vào dư luận khen chê, nhưng dựa vào lương tâm ngay chính, một lương tâm được huấn luyện thường xuyên sống chiều sâu với các chân lý mạc khải, nhất là một chiều sâu với sự gặp gỡ thân mật chính Đức Kitô là Đấng Cứu Chuộc loài người. Họ sẽ trưởng thành, nhất là về mặt khiêm nhường công bình bác ái, biết hoà mình, thứ tha, bao dung, dấn thân phục vụ, trở thành dụng cụ bình an của Chúa.
Ba kinh nghiệm trên đây giúp tôi hiểu phần nào lý do thành công của nhiều nhà truyền giáo hiện nay trên Đất Nước Việt Nam này. Qua chính cuộc sống thực tế của các ngài, các ngài đã giới thiệu Hội Thánh Công Giáo như một kẻ chuyên lo phát triển con người và đời sống, như một kẻ dễ thương, như một điểm tựa có uy tín. Nếu nhờ vậy mà từng triệu đồng bào Việt Nam ngoài Công Giáo nói chung và bao người trẻ Việt Nam nói riêng đã có một cái nhìn thiện cảm đối với Hội Thánh Công Giáo, thì kết quả đó phải kể là rất lớn, thật đáng mừng cho việc truyền giáo và cho việc xây dựng tình đoàn kết dân tộc. Thiết tưởng đây cũng là một góp phần có ý nghĩa vào hội nghị giới trẻ Công Giáo toàn cầu sẽ diễn ra tại Denver, Colorado, Hoa Kỳ, trung tuần tháng tám năm nay.
Sắp đến ngày kỷ niệm việc Thiên Chúa giáng sinh. Nhiều nơi đã bắt đầu chuẩn bị mừng lễ. Hầu hết là các chuẩn bị đều hợp tình hợp lý. Riêng tôi, tôi chú ý nhiều hơn đến việc chuẩn bị tâm hồn. Tâm hồn mới là nơi Chúa muốn đến viếng thăm và ở lại. Tôi chuẩn bị tâm hồn tôi bằng những việc đơn sơ.
Khiêm Nhường.
Trước hết tôi sẽ nhìn vào sự tự hạ của Ngôi Hai Thiên Chúa. “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”. Không những Ngài đã từ trời xuống thế, mà còn tự hạ tới bậc thang chót của thân phận con người. Sự tự hạ của Ngài vượt quá ranh giới nghèo khó, để đi vào cõi cùng cực. Nghèo khó là thiếu thốn, nhưng trong mức độ còn chịu đựng được. Còn cùng cực là thiếu thốn những gì cần thiết nhất tới mức coi như không chịu đựng nổi. Nhất là khi phải cùng cực, mà danh dự lại bị chối từ. Ngài tự hạ và chấp nhận bị hạ.
Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem là một cảnh hết sức cùng cực. Nằm trong máng cỏ, giữa đàn bò chiên, ở cánh đồng hoang vắng, giữa đêm đông lạnh. Thiếu hết mọi sự. Cơ cực đủ mọi điều. Không ai chịu đón nhận Ngài. Ngài đúng là Đấng cao cả vô cùng, quyền uy vô cùng, thế mà Ngài đã lựa chọn sự tự hạ như thế, khi giáng sinh làm người. Để khởi đầu một cuộc đời hy sinh “làm giá cứu chuộc” cho nhân loại (Mare 10,45).
Ngài tự hạ trong tinh thần tuân phục thánh ý Chúa Cha, vì thế mà Thiên Chúa trên trời được vinh danh. Thánh Phaolô viết: “Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Kitô: Ngài tuy có bản tính Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Ngài đã huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Ngài đã tự hạ mình và vâng lời cho đến chết. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài” (Phil 2,5-10).
Đối với tôi, sự tự hạ như thế của Đức Kitô là một phép lạ đặc biệt, làm chứng Ngài bởi trời mà xuống. Sự tự hạ ấy là một đặc điểm của Chúa Cứu Thế. Các thiên thần đã giới thiệu đặc điểm ấy cho các mục đồng, và các mục đồng đã nhận ra Chúa Cứu Thế qua đặc điểm tự hạ (Lc 2,12).
Sự tự hạ của Chúa Cứu Thế là một lời kêu gọi. Còn sự tự hạ của tôi chính là trở về đúng chỗ của mình. Chỗ của tôi là hàng ngũ kẻ tội lỗi. Bởi vì “Tôi đã phạm tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót”.
Chính khi tôi đứng vào đúng chỗ của mình, thì Chúa Cứu Thế đến với tôi. Bởi vì Ngài không đến cho kẻ khoẻ mạnh, mà đến cho kẻ bệnh tật, yếu đuối. Ngài là “Đấng xoá tội trần gian” (Gioan 1). Ngài là Đấng đã kêu gọi “những ai gồng gánh nặng hãy đến với Ngài, Ngài sẽ làm cho nhẹ gánh đi” (Mt 11,28). “Ngài là Đấng cầu bầu trước mặt Chúa Cha, chính Ngài là hy lễ đền tội chúng ta, không những cho chúng ta mà cũng cho mọi người trên thế gian” (1 Gioan 2,1).
Từ kinh nghiệm trên đây, tôi hiểu phần nào “Vực thẳm của sự giàu có, của sự khôn ngoan và của sự hiểu biết Thiên Chúa. ý định của Ngài thật không thể nào thấu được, và con đường của Ngài không thể nào hiểu được” (Rm 11,33).
Khi tôi nhận biết mình là kẻ tội lỗi mà được Chúa Cứu Thế yêu thương tha thứ, niềm tin tôi đặt vào Ngài sẽ rất sống động. Ngài là Tin Mừng của tôi. Ngài là hy vọng của tôi. Ngài là sự sống của tôi. Tôi tin như vậy.
Trở Về.
Với niềm tin ấy, tôi đón nhận ơn cứu độ. ở đây, tôi nhớ lại lời thánh Phaolô nói: “Nhờ hồng ân Thiên Chúa mà ta được cứu độ, do đức tin. Ơn cứu độ này không phải do ta, mà là một hồng ân của Chúa. Nó không phải là kết quả những cố gắng của ta, và do đó không ai có thể tự phụ” (Eph 2,8-9).
Tôi hiểu đức tin nói đây là một đức tin đi đôi với việc làm. Bởi vì thánh Giacôbê viết: “Nếu ai nói tôi có đức tin, mà lại không có việc làm, thì điều ấy chứng tỏ gì? Đức tin có cứu rỗi người ấy không?... Tổ phụ Ápbraham đã chẳng nên công chính bởi việc làm khi ông tiến dâng con mình là Isaac trên bàn thờ sống ư? Như thế đã rõ là đức tin kết hợp với việc làm của ông, và bởi việc làm thì đức tin của ông nên trọn vẹn” (Giacôbê 2,14-21).
Việc làm của tôi là gì? Thưa là trở về với Chúa. Trở về đó là việc làm quan trọng nhất, mà Chúa Giêsu giáng sinh mong muốn chúng ta thực hiện. Tôi trở về bằng sự từ bỏ những gì phản nghịch với Đức Kitô, để sống theo lời Ngài và mẫu gương của Ngài.
Sẽ không có sự trở về đích thực, nếu thiếu nhận thức đúng về khoảng cách đau buồn giữa hình ảnh Đức Kitô và hình ảnh của ta. Nhận biết sự cách biệt đó là do sự thức tỉnh của trái tim nhiều hơn là do sự học hỏi của trí khôn. Với một trái tim dửng dưng cứng cỏi, khô khan, đóng kín, bao người đã không trở về với Chúa được, mặt dù trí khôn họ chất chứa đầy những chân lý tôn giáo cao sâu. Trái lại, với thái độ tỉnh thức, nhạy bén của trái tim đơn sơ khiêm nhường, bao người đã không những đón nhận được ơn trở về, mà còn phát triển được ơn đó trên suốt cuộc đời đầy thử thách.
Nhận định trên đây vừa dựa trên kinh nghiệm, vừa dựa trên Kinh Thánh. Thánh vương Davít cầu xin: “Con chôn lời Chúa hứa tận đáy lòng con, để con không phạm tội mất lòng Chúa... Con muốn chạy trên con đường giới răn Chúa, vì chính Chúa đã mở trái tim con... Xin hướng lòng con theo thánh ý Chúa” (Tv 119, 11, 32, 36). “Lạy Chúa, xin tạo trong con một quả tim trong sạch...” (Tv 51,12). “Ta sẽ cho con một quả tim mới, Ta sẽ đặt trong con một tinh thần mới, Ta sẽ cất khỏi con trái tim chai đá, và ban cho con một trái tim thịt” (Edekien 36,26).
Trái tim không chai cứng do bản năng, mà do sự suy thoái đạo đức dần dần, vì từng bước xa lìa luật Chúa. Trái tim chai cứng cũng thường do thói quen tự mãn coi mình là đạo đức, để rồi dễ dàng khinh chê kẻ khác, coi họ là kẻ tội lỗi. Có thể nói, người công chính quá tự mãn sẽ dần dần làm cho trái tim mình trở nên chai đá. Họ tái diễn lại bi kịch của phái đạo đức Pharisêu xưa, hồi Chúa giáng sinh. Phá huỷ được sự chai cứng của tấm lòng sẽ không hoàn toàn là kết quả của thiện chí và cố gắng con người, mà còn là việc của ơn thánh.
Một vài chỉ dẫn trên đây cho thấy sự trở về với Chúa sẽ được thực hiện bằng việc ăn năn sám hối, cầu nguyện không ngừng và quyết tâm hy sinh phấn đấu để thực thi ý Chúa. Tôi nói như thế trong tinh thần lời thánh Phaolô sau đây: “Thưa anh chị em, tin vào lòng Chúa xót thương, tôi khuyên anh chị em hãy lấy bản thân mình làm lễ vật sống động, thánh thiện và tốt đẹp mà dâng cho Chúa, như thế là anh chị em thờ phượng Chúa một cách xứng hợp. Anh chị em đừng học đòi thế gian, nhưng hãy thay đổi tâm trí anh chị em nên mới, để có thể hiểu biết ý Chúa và phân biệt điều hay lẽ phải, điều tốt đẹp, điều trọn lành” (Rm 12,1-2).
Cảm tạ và ca ngợi.
Chắc là còn lâu lắm bản thân tôi mới trở thành “lễ tế thánh thiện”. Nhưng có một việc tôi nên làm và có thể làm trên đường trở về, là ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa.
Thật vậy, tôi rất đỗi ngạc nhiên trước những sáng kiến bất ngờ của Thiên Chúa giáng sinh. Thí dụ Ngài đã sinh ra ở cánh đồng chứ không trong đền thờ. Những người đầu tiên được mời gọi đến với Ngài là các mục đồng chứ không phải các vị tư tế, thông luật và chức sắc. Ba Vua được hướng dẫn tới hang đá Bêlem là những vị thuộc dân ngoại xa xôi, chứ không phải các vị có chức quyền đời đạo tại Israel. Đức Maria và thánh Giuse là những người bình dân lao động lặng lẽ, chứ không phải là những người được đào tạo qua trường lớp.
Với những chọn lựa bất ngờ này, Thiên Chúa chứng tỏ Ngài là Đấng hoàn toàn tự do. Ngài đến cứu độ, qua bất cứ con đường nào mà Ngài muốn, bằng bất cứ cách nào mà Ngài định, với bất cứ ai mà Ngài chọn.
Khi ca ngợi sự tự do Chúa, tôi thấy tôi phải rất khiêm tốn và nhạy bén mềm dẻo trong việc đón nhận tình yêu cứu độ. Có khi chúng ta quen bám chặt vào một số khung đạo đức, rồi đinh ninh cho rằng ơn Chúa chỉ đến qua những cửa khẩu cố định đó mà thôi. Nhưng không thiếu trường hợp ơn Chúa đến qua những ngả bất ngờ, nên ta không sẵn sàng đón nhận, ta dửng dưng, thậm chí có khi cũng dám chối từ, hoặc đối kháng.
Tuy nhiên, chính nhờ sự tự do của Chúa mà tôi và bao người đã được Chúa yêu thương. “Tình yêu Thiên Chúa là thế này: Không phải chúng ta mến yêu Chúa trước, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước, và đã sai Con mình xuống thế, hy sinh đền tội cho chúng ta” (1 Gioan 4,8-10).
Dung mạo Thiên Chúa đúng là tình yêu cứu độ giàu lòng thương xót. Có được một cái nhìn như vậy do đức tin, thực là một ân huệ lớn lao, đáng được ta ca ngợi và cảm tạ suốt đời.
Dung mạo Thiên Chúa cứu độ là nguồn hy vọng đem lại sự sống thiêng liêng. Dung mạo ấy không những được in vào tâm hồn tôi một cách quyết liệt do đức tin, mà cũng được thường xuyên trau dồi bởi những gương sáng. Mỗi ngày, nhìn cuộc đời, tôi có cảm tưởng như lễ Giáng sinh là chính hôm nay. Bởi vì tôi đang thấy những nhóm nhỏ đơn sơ như các mục đồng, không biết giảng nghĩa Tin Mừng, mà chỉ biết kể lại những gì họ đã thấy, đã cảm nghiệm về Tin Mừng đã xảy đến với họ. Họ là những tông đồ đến từ đám đông giáo dân chất phát. Họ làm chứng về một Thiên Chúa là Emmanuen: “Đấng ở với chúng tôi”. Tôi cũng đang thấy có những đoàn người như Ba Vua, bén nhạy trước ơn Chúa gọi, thao thức với sứ mạng cứu đời, đang âm thầm chuyển dịch từ cuộc đời hưởng thụ sang cuộc đời dấn thân khiêm tốn như chuyến đi Bêlem. Họ là tông đồ đến từ lương dân, đang làm chứng cho Nước Trời vô biên giới. Tôi cũng đang thấy vô số gia đình lặng lẽ như Thánh gia tại Bêlem, sống vững vàn với niềm tin, trọn vẹn trong giới luật yêu thương. Họ làm chứng cho một trật tự đạo đức được xây dựng trên nền tảng Đức Kitô. Tôi cũng đang thấy nhiều người đang mạnh mẽ sống mầu nhiệm giáng sinh, không giảng về Đức Kitô, nhưng diễn lại cuộc sống Ngài trên chính bản thân mình. Nhất là tôi đang thấy Đức Kitô đang đến với tôi và những kẻ tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn, khó nghèo, dưới nhiều dạng khác nhau, để chia sẻ cho chúng tôi tình yêu cứu độ và rồi cũng đã vui nhận từ chúng tôi tình thương chân thành sám hối và cảm tạ.
Thành ra, mỗi ngày, tại chính nơi đây, tôi vẫn có vô số lý do trước mắt, để hợp cùng các thiên thần dâng lên Chúa lời ca muôn thuở: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Ngày đầu năm, ai muốn cái gì cũng đẹp. Và thực sự, tôi đã thấy nhiều cái đẹp ở mỗi nhà và ở mỗi người.
Theo tôi, cái đẹp nhất, quí nhất lại là cái gì thiêng liêng. Đó là tình thương trong trái tim mỗi người. Chính nhờ tình thương, mà những gặp gỡ và những chúc mừng ngày đầu xuân mới có ý nghĩa. Và cũng nhờ tình thương mà chính cuộc đời mới đẹp và trở thành giá trị.
Tình thương là bó hoa thơm đẹp nhất.
Tình thương là bầu trời êm ả và tươi mát nhất.
Chính vì thế mà điều đầu tiên, tôi nghĩ tới ngày xuân, là cảm tạ Chúa đã yêu thương chúng ta. Và cùng với việc cảm tạ Chúa, tôi cũng cảm ơn mọi người đã mở trái tim mình ra, để tình thương tràn qua những kẻ xa gần, trong đó có tôi.
Tình thương là một sự sống. Nó có thể lớn lên. Vì thế, ngày đầu xuân tôi mong ước tình thương nơi mỗi người sẽ lớn thêm lên. Mô hình tình thương mà tôi nhìn vào chính là tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Suy nghĩ về tình thương Chúa, tôi có cảm tưởng là tuy Chúa hết sức đầy đủ, Chúa vẫn như thiếu niềm vui khi thiếu chúng ta.
Thực vậy, Kinh Thánh nói rằng: Niềm vui của Thiên Chúa là được ở giữa con cái loài người. Như thế, nếu không được ở giữa con cái loài người, Chúa sẽ như thiếu một niềm vui.
Rồi Kinh Thánh nói: Khi một người tội lỗi trở về, thì cả thiên đàng đều mừng rỡ. Như thế, nếu người tội lỗi không trở về, Chúa trên thiên đàng sẽ như còn thiếu một niềm vui.
Rồi Kinh Thánh nói: Chúa như người chăn chiên lành, bỏ 99 con chiên tốt, để đi tìm con chiên lạc. Khi tìm được nó, Ngài vui mừng vác nó trên vai. Như thế, nếu vắng con chiên lạc, Chúa sẽ như còn thiếu một niềm vui.
Tình thương của Chúa là như thế đó. Cho đi mà như thể lãnh nhận. Đầy đủ mà như còn thiếu thốn. Tình thương như vậy có một sự khiêm nhường sâu thẳm, một sự quảng đại tuyệt vời, một sự quên mình cao cả. Với tình thương ấy, Chúa đã yêu thương những kẻ yêu thương Ngài. Hơn nữa, Chúa đã yêu thương những kẻ ghen ghét Ngài, và đặc biệt là Chúa đã quì xuống rửa chân cho kẻ sẽ phản bội Ngài. Sở dĩ hôm nay tôi nói về tình thương Chúa, là vì tôi thấy anh chị em và cả tôi nữa đang rất cần một điểm tựa vững bền trung tín cho mình trên suốt cuộc đời nói chung và trên suốt năm mới nói riêng. Ngoài ra, có một lý do khác thúc đẩy tôi nhắn nhủ anh chị em hãy bắt chước tình thương Chúa, đó là vì tôi thấy lòng người bây giờ càng ngày càng hẹp, càng ngày càng xuống cấp, càng ngày càng thêm ích kỷ. Khủng hoảng về tình thương có vẻ còn nặng hơn khủng hoảng về kinh tế.
Khi tôi tâm sự với anh chị em ngày đầu năm về tình thương, thì tất nhiên tình thương là món quà xuân tôi muốn gởi tới anh chị em.
Tôi cầu chúc anh chị em, sang năm mới, được Chúa yêu thương nhiều hơn.
Tôi cầu chúc anh chị em, sang năm mới được biết yêu thương như Chúa đã yêu thương.
Lạy Chúa, xin Chúa thương xót chúng con.
Bài giảng Mồng Một Tết Nhâm Thân, tại Long Xuyên, ngày 04-02-1992.
Bài Phúc Âm hôm nay đúng là một tin mừng cho tôi và cho những ai đang muốn Phúc Âm hóa chính bản thân mình.
Con người của tôi không phải chỉ là lương tâm tôi, cũng không chỉ là tâm hồn tôi, mà là tất cả hồn xác tôi, với những cấu trúc tâm-sinh-lý mang sẵn định hướng, với những tính tình dự trữ sẵn các tiềm năng tốt xấu, với những thói quen đã thành nếp và với một nhân cách rất là riêng biệt.
Khi tôi lãnh Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Giải Tội, thì lương tâm tôi được sạch tội. Khi tôi học hỏi về Chúa, thì trí khôn tôi được hiểu biết thêm về Chúa. Nhưng không vì thế mà những lớp tiềm thức và vô thức của tôi đều qui phục luật Chúa. Trong tôi vẫn có những vùng sâu tâm-sinh-lý còn dày đặc bóng tối, bao che những lực lượng phản Phúc Âm, sẵn sàng lôi kéo tôi vào đường lầm lạc tội lỗi. Vì thế, tôi cần đẩy mạnh hơn nữa việc Phúc-Âm-hóa chính bản thân tôi. Tôi sẽ đẩy mạnh theo con đường Chúa Giêsu đã đi.
Phúc Âm cho thấy, sau khi chịu Phép Rửa trong sông Giôđan, Chúa Giêsu đã tiếp tục hành trình Phép Rửa trong sa mạc. Sa mạc là vùng bao la hoang vắng, không cây cối, không nhà cửa, không có người, không có vật. Chỗ nào cũng chỉ là trời đất bát ngát mênh mông. Chúa Giêsu đã cầu nguyện và chay tịnh trong sa mạc như thế. Hết sức thanh vắng. Cực kỳ khó nghèo. Với thái độ trút bỏ tối đa, với niềm tin cậy và phó thác tuyệt đối.
40 ngày trong sa mạc như vậy là một hành trình dài. Nếu gọi hành trình này là một thứ Phép Rửa của sa mạc, thì Phép Rửa đó có tính cách bổ túc cho Phép Rửa của nước. Nó thấm sâu, thấm dần vào các tầng lớp của con người. Con người được ngâm lâu trong Phép Rửa của sa mạc, sẽ có những chuẩn bị xứng đáng và thuận lợi hơn để lãnh nhận nhiều ơn Phúc Âm hóa.
Phép Rửa đó thực hữu ích cho tôi. Nhưng tôi không mơ tưởng đến một sa mạc, mà tôi không bao giờ tới được. Điều hợp lý đối với tôi là tôi cần sống tinh thần sa mạc. Thực ra, tôi cũng có đôi chút kinh nghiệm về chuyện này. Bởi vì có lúc tôi bị đẩy vào một sa mạc tinh thần, khi tôi bị cô đơn. Có lúc tôi tự tạo ra một sa mạc tinh thần, khi tôi lùi sâu vào nội tâm. Thời gian trong sa mạc tinh thần là những tháng ngày thuận tiện để suy gẫm cầu nguyện, và trút bỏ tối đa cái tôi cũ kỹ.
Tuy vậy, cho dù nhờ cầu nguyện và chay tịnh trong tinh thần sa mạc mà tôi đã tập được nhiều thói quen tốt, đã uốn nắn lại được nhiều khuynh hướng khó khăn, đã nghĩ tới Chúa nhiều hơn. Bởi vì lúc ấy, quỉ sẽ quan tâm đến tôi hơn trước. Các cơn cám dỗ nó dành cho tôi, tuy vẫn giống như các cám dỗ nó đã đưa ra với Chúa Giêsu trong sa mạc xưa, nhưng sẽ được hiện đại hóa. Kẻ cám dỗ tôi sẽ không phải quỉ dữ, mà là những kẻ có tiếng đạo đức, hoặc là chính lòng nhiệt thành của tôi. Nội dung chước cám dỗ sẽ không phải là những gì phàm tục sống sượng, nhưng lại là những đề nghị có vẻ đạo đức. Mục đích đưa ra không những không thấy ghi trong bản 7 mối tội đầu, mà còn nằm trong cả một chương trình lớn mang màu đạo đức. Chẳng hạn thay vì tôi bị cám dỗ biến đá thành bánh, tôi sẽ được khuyến khích ham muốn một thứ quyền lực kinh tế nào đó, với hy vọng sẽ dễ mở rộng Nước Chúa. Thay vì tôi bị cám dỗ lạy quỉ để nắm trọn quyền cai trị thế giới, tôi sẽ được khuyến khích thỏa hiệp với một thế lực xã hội nào đó, để có được một thứ quyền lực chính trị, với hy vọng sẽ dễ bảo vệ và phát triển quyền lợi Hội Thánh.
Thay vì tôi bị cám dỗ nhảy từ đỉnh cao đền thờ xuống mà không hề hấn gì, nhờ quyền phép thiêng liêng, tôi sẽ được khuyến khích hăng say phô trương quyền lực thần thiêng, với hy vọng xây dựng uy tín cho đạo mình. Tất cả để làm sáng danh Hội Thánh của tôi và Thiên Chúa của tôi.
Trong những trường hợp như vậy, nếu tôi không cầu nguyện và chay tịnh trong tinh thần sa mạc như Chúa Giêsu đã làm xưa, tôi sẽ không dễ dàng nhận ra đâu là những chước cám dỗ, và cách phải đối phó với những cám dỗ ấy.
Để Phúc Âm hóa chính mình, tôi cần sống theo gương Chúa Giêsu đã để lại trong Phúc Âm. Vậy tôi có sống đúng theo gương Chúa Giêsu đã để lại trong bài Phúc Âm hôm nay không?
Đọc xong bài Phúc Âm hôm nay, tôi cảm thấy trong tôi một nỗi tiếc muộn màng. Tôi tiếc là nếu hồi đó, ba môn đệ Chúa có máy quay phim như thời nay, và ghi lại được toàn bộ chuyện Chúa biến hình, thì cuộn băng đó sẽ là một tài liệu rất quí. Người ta sẽ nghe được giọng nói ngọt ngào của Đức Chúa Cha phán ra từ đám mây. Người ta sẽ tha hồ chiêm ngưỡng dung nhan đẹp đẽ, oai hùng của hai tổ phụ Maisen và Êlia. Nếu tài liệu lịch sử đó được phổ biến rộng rãi, chắc từng triệu người sẽ thêm lòng mến Chúa, và những người chưa tin Chúa chắc sẽ không ngần ngại tin theo đạo Chúa.
Nỗi tiếc của tôi đúng là tự phát. Chứ đọc kỹ lại bài Phúc Âm, tôi thấy giả sử ba tông đồ có máy quay phim tối tân đi nữa, chắc chắn Chúa Giêsu chẳng cho phép ghi bất cứ sự gì đã xảy ra hôm đó. Bởi vì ngay sau khi cảnh biến hình vừa dứt, Chúa Giêsu đã truyền cho ba môn đệ phải giữ miệng, không được nói với ai về những gì các ông đã thấy.
Tôi hiểu lệnh truyền đó ngụ ý dạy các môn đệ không nên coi chuyện Chúa biến hình sáng láng vừa được chứng kiến là một Tin mừng quan trọng, mà Ngài muốn loan báo cho nhân loại. Tin mừng quan trọng nhất cần loan báo chính là chuyện sẽ xảy ra ở Giêrusalem, chuyện mà Ngài vừa mới trao đổi với hai tổ phụ, đó là chuyện Ngài tình nguyện nạp mình chịu chết nhục nhã để cứu chuộc nhân loại. Cái tin sẽ làm cho nhân loại mừng, nhất là kẻ tội lỗi càng mừng, đó là Ngài gánh tội cho họ, đền tội cho họ, xóa tội cho họ. Cái tin thực là mừng cho bất cứ ai, đó là họ được Ngài yêu thương, đến nỗi Ngài cam lòng chịu chết khổ nhục để chứng tỏ tình thương ấy.
Đúng là như vậy, thao thức của Chúa Giêsu không phải là phổ biến những vẻ huy hoàng sáng láng của Ngài, mà là minh chứng tình yêu của Ngài. Ngay hôm ấy, trên núi cầu nguyện, khi gặp hai tổ phụ Maisen và Êlia, Ngài vẫn chỉ đàm đạo về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ chịu ở Giêrusalem. Ngài chỉ quan tâm đến chuyện đó. Ngài chỉ nhìn về cảnh khổ nạn sắp tới, như một chứng minh thư của tình yêu, mà Ngài muốn gởi lại cho nhân loại.
Ngài thừa biết cái gì có giá trị đền tội trước mặt Đức Chúa Cha, và có giá trị thuyết phục con người về sự chân thành và cao cả của tình yêu. Cái đó không phải là khoe ra những vinh quang, những đắc thắng, mà là sự hạ mình khiêm tốn, hy sinh từ bỏ mình.
Cũng may là ba môn đệ đã biết vâng lời Chúa Giêsu mà giữ kín khá lâu chuyện Ngài biến hình sáng láng. Chứ nếu chuyện này được tiết lộ sớm, thì Chúa Giêsu chắc sẽ phải chết sớm hơn, và đạo Ngài sẽ sớm bị nguy cơ biến chất. Bởi vì dễ sớm mọc lên phong trào phô trương hình ảnh vinh quang Ngài, làm mờ đi hình ảnh Ngài đền tội và kêu gọi mọi người ăn năn đền tội. Đồng thời cũng sẽ sớm nở ra âm mưu sát hại Ngài, vì ganh ghét vinh quang của Ngài. Chương trình cứu độ của Ngài vì thế sẽ không được rõ nét.
Nghĩ tới việc Chúa Giêsu thích che giấu vẻ đẹp sáng láng của mình, để sống trọn vẹn thân phận kẻ gánh tội, và đền tội cho thiên hạ, tôi hết sức thương Chúa và cảm tạ Ngài. Chúa Giêsu xưa kia, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Con đường Ngài đã đi xưa vẫn là con đường Ngài muốn chọn cho những ai theo Ngài. Mỗi khi tôi nghĩ tới con đường khác, tôi lại nhớ lời Đức Chúa Cha hôm nay dạy tôi về Đức Kitô: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài”. Lời dạy của Đức Chúa Cha rất là vắn gọn, rõ ràng, dứt khoát. Tôi không được chọn con đường nào khác ngoài lời dạy của Đức Kitô. Tôi phải vâng lời Đức Kitô. Lời Đức Kitô là đường đi, là sự thật và là sự sống của tôi. Lời Đức Kitô dạy hôm nay cũng rất vắn gọn, rõ ràng, dứt khoát: “Hãy im lặng, đừng nói với ai chuyện huy hoàng đã thấy”.
Nếu không có lời Chúa Giêsu dạy trên đây, tôi sẽ dễ chạy theo ảo tưởng. Trong tôi và ngoài tôi không thiếu khuynh hướng thích phô trương. Nói là để làm sáng danh Hội Thánh. Có nhiều cách phô trương, nhưng cách phô trương hấp dẫn nhất thường vẫn là cách hai bên cùng có lợi. Thực ra, nhiều khi lợi cho Hội Thánh thì ít, mà lợi cho cá nhân mình thì nhiều. Một khi cách phô trương như thế trở thành bình thường phổ biến, thì không tránh được tinh thần tục hóa. Dần dà, quyền lợi các đầy tớ Chúa lấn át quyền lợi Thiên Chúa và Hội Thánh. Làm chứng trở thành phản chứng.
Tôi cầu xin Đức Kitô giúp tôi biết chia sẻ những thao thức của Ngài về chương trình cứu độ, mặc dầu trong chương trình đó có cuộc khổ nạn của Ngài và cũng có khổ nạn của tôi.
Nghe chuyện mấy nạn nhân tả trong Phúc Âm hôm nay, tôi thấy xót xa. Có người bị quan Philatô giết. Có người bị tháp Sioe đè chết. Những cái chết đó đầy thê thảm. Thế mà đứng trước những cái chết ngập máu và nước mắt như vậy, một số người lại suy diễn xấu cho các nạn nhân, gán cho họ những điều tội lỗi. Họ cho rằng: Những nạn nhân ấy, sở dĩ bị chết một cách ghê gớm đều vì lý do họ có nhiều tội hơn kẻ khác. Ý nghĩ độc ác đó giống như một con dao đâm vào các nạn nhân đã chết rồi. Kẻ đã chết lại bị chết thêm một lần nữa. Thanh danh họ bị đâm. Thân phận họ bị trọng thương đau đớn.
Trước cảnh bất công và bất nhân đó, Chúa Giêsu đã lên tiếng. Ngài khuyên can mọi người đừng tưởng những nạn nhân kia bị chết vì có tội hơn kẻ khác: “Không phải thế đâu”. Tiếp đó, Chúa khuyên nhủ mỗi người hãy ăn năn hối cải, kẻo rồi sẽ bị hủy diệt như vậy.
Với những ý như trên, Chúa Giêsu vừa minh oan cho các nạn nhân, vừa công bố cách Ngài sẽ xét xử sau này, đó là ai xét đoán ác nghiệt cho kẻ khác, sẽ bị xét đoán ác nghiệt như vậy. Kẻ cho rằng các nạn nhân bị chết thê thảm vì có tội hơn kẻ khác, chính họ nếu không sửa mình, cũng sẽ bị hủy diệt như vậy, vì họ đâu có vô tội hơn ai.
Lời Chúa dạy hôm nay khuyên tôi đừng mất giờ lo chuyện suy diễn xấu cho người khác, kẻo gây khổ thêm cho họ, cho người thuộc về họ, và cũng thêm tội và thêm hậu quả xấu cho chính mình tôi. Điều Chúa bảo tôi nên quan tâm, là hãy lo chuyện riêng mình, chuyện cải thiện chính bản thân bằng sự ăn năn hối cải.
Cải thiện chính mình, đó là điều tôi thường xuyên mong muốn. Tôi cố gắng hết sức mình. Nhưng càng cố gắng, tôi càng khám phá thấy sự thực này, đó là tôi không tự sức cải thiện được mình, tôi không tự sức mình ăn năn hối cải được. Phải nhờ ơn Chúa, Chúa ban ơn. Còn tôi, tôi phải biết đón nhận ơn Chúa ban cho tôi.
Bài Phúc Âm hôm nay càng làm tôi xác tín về kinh nghiệm đó. Chúa ví như người trồng cây. Tôi ví như cây vả không có trái. Ngài muốn tôi cải thiện, nên chính Ngài trồng tôi vào vườn nho là Hội Thánh và cuộc sống hồng ân. Rồi cũng chính Ngài chăm sóc tôi như người trồng cây đối với cây vả của mình. Nhưng tôi là một cây vả có trí khôn, có tự do, tôi có thể tiếp thu, hay không tiếp thu vô vàn ơn Chúa đổ xuống dài dài trên cuộc sống nhiều năm tháng của tôi, tôi có thể sinh trái tốt thiêng liêng, hoặc nhiều, hoặc ít, và cũng có thể chẳng được trái tốt nào. Nguyên do sau cùng vẫn là sự tôi có đón nhận ơn Chúa hay không, đón nhận nhiều hay ít.
Nghĩ tới đây, tôi thực tình lo sợ cho số phận của tôi. Tôi biết mình rất yếu đuối. Sự đón nhận ơn Chúa coi như dễ, nhưng nếu Chúa không giúp, tôi vẫn không thực hiện được. Dám có những lúc tôi đã dửng dưng với ơn Chúa. Dám có những lúc tôi đã chối từ ơn Chúa. Tôi ý thức sâu sắc về vực thẳm yếu đuối của tôi. Để rồi tôi càng cậy tin phó thác ở tình xót thương vô cùng của Chúa.
Tâm tình trên đây là khởi đầu sự ăn năn sám hối. Nhưng thường không dừng lại ở đó. Càng chân thành sốt sắng, nó càng dẫn tới việc cầu nguyện và chay tịnh. Kinh Thánh luôn luôn coi hai việc ấy là những việc quan trọng gắn liền với tâm tình sám hối. Ngoài ra, tôi không nên coi thường một việc thứ ba, mà Kinh Thánh cũng hay nhắc đến như một việc đi kèm với ý chí đền tội, đó là việc bác ái, đặc biệt là làm phúc bố thí.
Xét mình, tôi thấy việc ăn năn sám hối của tôi còn rất hời hợt. Điều Chúa mong chờ nơi kẻ ăn năn hối cải không phải chỉ là không còn phạm tội nữa, mà là tích cực làm điều lành, việc lành mới là những trái thiêng liêng mà Chúa là người trồng cây thiêng liêng muốn có. Bài Phúc Âm hôm nay gợi ý cho tôi nghĩ tới những trái thiêng liêng bình thường, nhưng quan trọng, mà Chúa muốn mọi người cần trổ sinh, đó là công bình bác ái đối với kẻ khác. Không những không nên nghĩ xấu về người khác như mấy người Do Thái trong Phúc Âm hôm nay, mà còn hãy tích cực bênh vực nâng đỡ những kẻ bị rủi ro cơ cực, như Chúa Giêsu đã làm khi Ngài công khai tỏ thiện cảm đối với những nạn nhân vừa bị giết oan ức, vừa bị dư luận đàm tiếu bất công.
Tôi xin Chúa giúp tôi biết thực sự ăn năn hối cải, để không ngừng trở về với Chúa. Ngày 22-03-1992.
Đọc xong bài Phúc Âm hôm nay, tôi đã trình với Đức Chúa Cha rằng: Nếu con phải chọn một trong hai anh em được kể lại trong Phúc Âm hôm nay để đi truyền giáo, chắc chắn con sẽ chọn đứa em, tức là người con phung phá đã trở về.
Tôi nghe Chúa hỏi trong lòng tôi lý do tại sao tôi chọn đứa em. Tôi suy nghĩ, và tôi đã trả lời rằng: Con chọn đứa em, bởi vì anh ta có những kinh nghiệm sâu sắc về tin mừng cứu độ, nhờ đó, anh ta có khả năng làm chứng về tin mừng cứu độ. Đối với anh ta, tin mừng cứu độ không phải là một mớ lý thuyết rút ra từ trong các bài học Thánh Kinh, thần học, mà là những sự kiện có thực đã xảy ra cho chính bản thân anh. Chính anh đã nhận ra tiếng gọi âm thầm của cha mình trong các biến cố xảy đến với anh trên đời sống xa cha. Các biến cố ấy là những tín hiệu mang ý nghĩa gửi về anh. Tất cả đều nhắn nhủ anh hãy trở về.
Anh đã trở về trong thái độ khiêm tốn. Anh nhìn nhận mình đã lầm lỗi. Anh nhận mình không xứng đáng gọi là con của cha, không xứng đáng gọi là em của người anh mình. Anh chỉ dám mơ ước một chỗ hèn hạ nhất trong nhà cha. Nếu được là người rốt hết trong số các đầy tớ của nhà cha, anh cảm thấy như thỏa mãn rồi. Và anh hy vọng tin tưởng sẽ được như thế. Hy vọng ấy, tin tưởng ấy là một tin mừng lớn cứu anh khỏi rơi xuống vực thẳm thất vọng.
Tôi trình bày với Chúa những suy nghĩ trên đây của tôi. Và tôi nghe Chúa trả lời tôi trong lòng: Đúng là như thế. Nhưng còn gì nữa là tin mừng cho người con phung phá ấy?
Tôi tiếp tục suy nghĩ, và tôi trình thêm với Chúa những gì tôi thấy trong tâm trí tôi. Lạy Chúa, theo con, thì tin mừng lớn nhất cho người con phung phá ấy là một tin mừng bất ngờ, đã xảy đến với anh ta một cách hết sức lạ lùng, ngoài mọi tưởng tượng, ngoài mọi mơ ước. Đó là khi anh được cha chạy lại ôm anh, đột nhiên anh cảm thấy bản thân anh biến đổi hẳn. Có một cái gì rất mới, rất lạ, rất đẹp, đã thay đổi toàn thể con người của anh. Anh cảm thấy có một sự sống mới như một luồng gió mát, như một dòng nước trong, tràn vào tâm hồn anh, tẩy rửa anh, đổi mới anh. Lương tâm anh đầy sự bình an do ơn tha thứ. Anh thấy cha nhân ái hơn anh tưởng. Anh thấy lòng cha bao la rộng lượng hơn anh đã tưởng. Anh thấy cha gần gũi xót thương kẻ tội lỗi hơn anh đã tưởng. Anh có một cái nhìn rất mới về cha. Cái nhìn mới ấy mở ra trong anh một nguồn tình mến dạt dào tha thiết. Anh cảm thấy gắn bó với cha, cảm thương cha vô vàn. Đúng là kẻ được tha nhiều, thì mến yêu nhiều.
Trong niềm vui khôn tả phơi phới ấy, người con phung phá được tha thứ như nhìn thấy một trời mới, đất mới. Anh nhìn đời với tầm nhìn xa hơn . Anh nhìn kẻ khác với tầm nhìn mở rộng hơn. Anh nhìn lại các bất trung của mình với một khám phá mới. Anh thấy ngay cả những khi xa cha, cha vẫn lặng lẽ đi theo anh, để đưa anh trở về. Anh đã bỏ cha, nhưng cha không bao giờ đã bỏ anh. Tất cả biến đổi nội tâm trên đây là tin mừng tuyệt vời đối với anh. Đúng là tin mừng cứu độ.
Tôi đã trình với Chúa như trên. Và tôi nghe Chúa trả lời tôi trong lòng: Đúng là như vậy. Nhưng còn gì tin mừng cứu độ cho người con phung phá ấy?
Tôi đang lúng túng, thì tôi nghe Chúa phán trong lòng tôi rằng: Tin mừng cứu độ chính là Đức Kitô, Đấng cứu chuộc loài người. Đấng đang dạy con bằng dụ ngôn. Ngài là đàng, là sự thật và là sự sống. Chính Đức Kitô là tin mừng cứu độ. Tin mừng cứu độ tự bản chất. Ngài là Đấng chăn chiên lành thao thức đi tìm con chiên lạc. Ngài được Chúa Cha xức dầu và được Chúa Thánh Thần sai đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó. Vì Ngài là Đấng cứu độ, nên các địa chỉ mà Ngài được sai đến là các tội nhân, các người đau bệnh, các người cơ cực sầu muộn, các người nghèo khổ, các người lầm lạc, các người nhận biết mình cần được cứu độ. Vì Ngài là Đấng cứu độ, nên Ngài hiền lành, khiêm tốn, đầy tình xót thương nhân ái. Ngài không nỡ dập tắt một ngọn đèn còn khói. Ngài không nỡ bẻ gãy một cây sậy đã giập. Ngài gieo vãi tình thương. Ngài muốn mọi người yêu thương nhau, coi luật yêu thương là căn bản nhất. Đừng như đứa anh trong Phúc Âm hôm nay. Anh ta tự nhận mình không bao giờ sai mảy may các lệnh cha truyền. Thế nhưng lệnh tuyền quan trọng nhất là giới luật yêu thương thì anh ta không để ý tuân giữ. Anh ta ganh tÿ em mình, anh ta buồn phiền, vì em mình được nhiều may mắn. Như thế là anh ta đã lỗi luật lớn nhất rồi. Anh ấy không thành thật thương em, và cũng chẳng trung thành mến cha. Con hãy đi truyền giáo với tin mừng cứu độ là Đức Kitô, với bộ mặt thực của Ngài.
Tôi cảm tạ Chúa. Tôi chúc tụng Chúa. Bây giờ thì tôi hiểu Chúa muốn tôi làm gì.
Càng đọc những bài Phúc Âm dẫn tới tuần lễ khổ nạn của Chúa, tôi càng thấy ngột ngạt. Điều làm tôi ngỡ ngàng và đau buồn là Chúa Giêsu trở thành đối tượng thù nghịch của cấp lãnh đạo tôn giáo thời đó. Họ là những người thông luật, những người biệt phái. Họ tự coi là giới đạo đức, có quyền cầm cân nẩy mực trong sinh hoạt tôn giáo. Họ dành quyền tiêu biểu cho cơ chế. Họ bảo vệ cơ chế bằng mọi cách, dù phải thù ghét, cáo gian, bỏ vạ, chém giết. Thời ấy, cơ chế là luật lệ, lễ nghi, thói tục, trong đó nhiều điều đã tha hóa, lỗi thời, thường là những nếp sống bề ngoài có lợi cho họ.
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy thêm một lần nữa não trạng của họ. Họ gài bẫy Chúa Giêsu. Cái bẫy của họ rất sắc bén. Họ điệu đến trước mặt Chúa Giêsu một phụ nữ. Họ nói với Ngài: “Thưa Thầy, người phụ nữ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo luật Maisen, tội nhân phải bị ném đá cho tới chết. Phần Thầy, Thầy nghĩ sao?”. Nếu Chúa Giêsu không đồng ý ném đá chị ta, Ngài sẽ tự tố cáo Ngài chống lại cơ chế. Nếu Ngài đồng ý ném đá chị ta, chính Ngài sẽ phản lại Ngài trước dư luận quần chúng đang khen Ngài là con người nhân ái. Bởi vì Ngài đã tuyên bố là Ngài đến để cứu độ, chứ không đến để kết án. Họ mong lưỡi gươm sẽ chém Ngài chính là câu trả lời của Ngài.
Thấy rõ mưu đồ, Chúa Giêsu không đối thoại trực tiếp vào vấn đề họ đặt ra. Ngài chỉ đưa ra ý kiến này: Ai trong các vị thấy mình trong sạch, hãy cầm đá ném chị này trước đi.
Lời Chúa trở nên như hòn đá ném vào lương tâm mỗi người. Các người tố cáo cảm thấy bị đụng. Đột nhiên, họ thấy nhức nhối trong lòng. Vết thương lòng thầm nhắc cho họ nhớ họ cũng là những kẻ có tội, cần bị kết án. Sự nhận ra được thực trạng tội lỗi của mình đã là một bước đầu tốt. Nếu biết tiếp tục khiêm tốn, họ sẽ được ơn cứu độ sau cùng.
Khi mọi người tố cáo đã rút lui, Chúa Giêsu mới bắt đầu đối thoại với bị cáo. Ngài nói: “Không còn ai tố cáo chị sao? Tôi cũng không kết án chị. Chị về bình an, đừng phạm tội nữa”. Chúa Cứu Thế quả là độ lượng. Ngài coi việc chị đó nhận tội và chịu nhục nhã đã là một cách xưng tội, ăn năn và đền tội, để xứng đáng được ơn tha thứ. Ngài không còn nhắc lời nào đến chuyện cũ của chị. Ngài gợi ý cho chị nhìn về phía trước.
Thái độ của Chúa Giêsu trước sau bao giờ vẫn là thái độ cứu độ. Đứng trước những người đạo đức tự phụ, cứng lòng, Chúa Giêsu thường tránh đối đáp trực tiếp. Nhưng Ngài vẫn tìm lời thích hợp để đánh động tâm hồn họ. Các lời Ngài hướng về họ đều nhằm mục đích này là giúp cho họ thức tỉnh, nhận ra thực chất của mình. Chỉ cần họ biết mình là kẻ tội lỗi, cần được đổi mới, và chỉ cần họ nhận thấy cơ chế mà họ bảo vệ cũng đã tha hóa và lỗi thời, cần được đổi mới. Nhưng những người bảo vệ cơ chế đã tha hóa và lỗi thời ấy lại là những kẻ lợi dụng chính cơ chế ấy để bảo vệ mình. Họ nhờ cơ chế đó mà kiếm lợi. Và cơ chế đó, nhờ họ mà trở thành sức mạnh pháp luật. Hai bên nương tựa vào nhau để tồn tại.
Tới đây, tôi nhìn về tôi là những cơ chế xa gần chung quanh tôi. Tôi tự hỏi: Có cái nào tha hóa và lỗi thời không? Nếu chẳng may có, tôi có bao giờ lợi dụng nó, để hại ai không? Cái cơ chế gần gũi nhất, tôi cần kiểm tra, chính là nếp suy nghĩ và nếp sống của tôi. Có chỗ nào lỗi thời và tha hóa không. Công đồng Vatican II đã đưa bốn phương hướng cho mỗi người trong Hội Thánh.
Một là tập trung lòng đạo vào Đức Kitô. Hai là thao thức với nhiệm vụ truyền giáo. Ba là xây dựng một Hội Thánh là toàn dân Thiên Chúa.
Bốn là cởi mở với cuộc sống xã hội, mà mình được sai đến làm chứng cho Chúa.
Nếu tôi không để ý đổi mới các cơ chế xung quanh tôi và nhất là cơ chế trong tôi theo bốn hướng đó, tôi sẽ dễ trở thành thứ tân biệt phái, tân luật sĩ, để rồi vô tình cũng lại nhân danh cơ chế tha hóa và lỗi thời của mình, mà kết án kẻ khác, kể cả Đức Kitô trong họ.
Tôi đừng vận động ném đá kẻ khác, mặc dầu họ có tội. Kẻ đáng kết án trước mặt Chúa là chính tôi. Bởi vì tôi đã phạm tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót. Tôi mong Chúa nói với tôi: “Cha không kết án con”. Lời ấy rất cần cho tôi, nhất là trong giờ lâm tử. Ngay từ bây giờ, tôi sẽ để ý đến việc đổi mới lòng tôi. Mong sao lòng tôi cũng được phần nào giống Trái Tim Chúa Giêsu, hiền lành và khiêm nhường như đã thấy trong bài Phúc Âm hôm nay.
Bài Phúc Âm hôm nay là một chuỗi diễn biến bất ngờ. Mới chỉ một tuần trước, các vị lãnh đạo tôn giáo còn tỏ vẻ dè dặt với Chúa Giêsu, nay họ ra mặt tố cáo Ngài, đích thân bắt bớ Ngài, công khai kích động quần chúng ghét bỏ Ngài, cương quyết tiêu diệt Ngài. Mới chỉ vài ngày trước, đông đảo dân chúng đã tràn ra đường để đón rước Chúa Giêsu, chúc tụng Ngài là con Vua Đavít. Nay họ rủ nhau kéo vào sân Tổng trấn Philatô, hò hét yêu cầu giết chính Đấng họ mới hoan hô, bây giờ họ coi Ngài còn xấu xa nguy hiểm hơn một tên cướp. Mới chỉ vài giờ trước, 12 vị tông đồ đã được rước lễ bởi chính tay Chúa Giêsu, mới được thụ phong Giám Mục bởi chính Trái Tim Chúa Giêsu, mới được dạy dỗ bởi chính miệng Chúa Giêsu. Bấy giờ tất cả đều thay đổi. Kẻ thì bán Thầy, kẻ thì chối Thầy, kẻ thì bỏ Thầy.
Coi như cả một rừng cây đã đổ xuống. Cá nhân đổ, và tập thể đổ. Cấp dưới đổ và cấp trên cũng đổ. Một sự sụp đổ kinh hoàng đầy bất ngờ. Đang khi đó lại xuất hiện những người tốt mới bất ngờ.
Đâu có ngờ trên quãng đường nặng nhọc nhất, kẻ vác đỡ thánh giá Chúa Giêsu lại là một người đi qua đường. Đâu có ngờ trong giờ phút đen tối nhất, kẻ tuyên xưng Chúa Giêsu và được Ngài hứa phúc thiên đàng, coi như được chính Ngài phong thánh, lại là ông ăn trộm bị đóng đinh bên hữu Ngài. Đâu có ngờ, trong cảnh đổ vỡ của từng ngàn niềm tin, kẻ đã chúc tụng Chúa Giêsu và tin vào sợ công chính của Ngài lại là một sĩ quan ngoại đạo, đã vâng lệnh đóng đinh Ngài. Đâu có ngờ, trong lúc bối rối đầy sợ sệt, kẻ đã ra mặt lo chôn cất Ngài, và dâng cho Ngài ngôi mộ đào sẵn của mình, lại là một nghị viên. Trước đây, tất cả những người ấy kể như xa Chúa, nhưng trong hoàn cảnh bi đát nhất của Chúa, họ đã xuất hiện như những người tốt. Một sự xuất hiện bất ngờ.
Nhưng cái bất ngờ nhất đối với tôi chính là những lựa chọn của Chúa Giêsu. Ngài có thể tránh khỏi cuộc tử nạn, nhưng Ngài đã tự nạp mình. Ngài có thể lợi dụng dịp may đông đảo quần chúng qui tụ với sự hiện diện của các cấp lãnh đạo chính quyền và tôn giáo, để làm một vài phép lạ, gây uy tín cho đạo Ngài, và lấy lại thanh thế cho chính Ngài, nhưng Ngài lặng thinh, Ngài có thể đổi lòng đám đông đang chống đối Ngài một cách điên cuồng, thành làn sóng nhiệt tình ủng hộ Ngài, nhưng Ngài cam lòng chịu đựng cô đơn. Ngài có thể khiến muôn vàn thiên thần từ trời bay xuống, để bênh vực Ngài, nhưng Ngài để mình bị hành hạ xỉ vả và kết án. Ngài như kẻ quá yếu, và yếu một cách ngu dại. Ngài như kẻ bị thua và thua một cách đầy nhục nhã.
Tuy nhiên, tôi thấy Chúa Giêsu đã rất mạnh. Ngài mạnh ở chính thái độ yếu của Ngài, khi Ngài thắng vượt mọi thử thách đớn đau, để luôn trung thành với tình yêu. Dù như bị Đức Chúa Cha bỏ rơi, Ngài vẫn mến yêu cậy tin phó thác, Ngài kêu: “Lạy Cha, Con xin phó thác linh hồn Con trong tay Cha”. Dù bị bao người xỉ vả, hành hạ, Ngài vẫn yêu thương họ. Ngài cầu nguyện: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ lầm không biết”. Tình yêu Ngài đã thắng. Tình yêu Ngài mạnh hơn sự chết. Tình yêu Ngài mạnh hơn tất cả mọi tội lỗi nhân loại. Chính tình yêu ấy đã cứu độ loài người. Tình yêu ấy chính là tình yêu cứu độ của tôi.
Những khi tôi sám hối ăn năn, những khi tôi lo sợ về phần rỗi tôi, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh, và tôi nói với Ngài: “Lạy Chúa, tình yêu Chúa lớn hơn những tội lỗi của con. Con tin ở tình yêu Chúa. Xin thương xót con”. Và đúng như vậy, tôi thấy ai tin vào tình yêu cứu độ sẽ không bao giờ phải thất vọng.
Trong năm vừa qua, Đức Thánh Cha đã thực hiện một chuyến đi mục vụ quan trọng tại Brasil, Nam Mỹ. Chuyến đi này là một trắc nghiệm về lòng đạo của dân công giáo Brasil đối với Đức Thánh Cha. Theo nhận xét của các nhà quan sát, thì chuyến đi lần này của Đức Thánh Cha rất khác với chuyến đi của Ngài năm 1980 tại Brasil. Lần đó, số người đón Đức Thánh Cha giảm sút rõ rệt, tình cảm dành cho Ngài không còn nồng nhiệt như trước, thái độ đón nhận lời Ngài là từ dè dặt đến dửng dưng. Tờ Témoignage Chrétien (Chứng từ kitô giáo) số ra ngày 20-10-1991 tường thuật chuyến đi này với tựa đề: “WOJTYLA không còn là một hấp dẫn nữa. Chuyến đi thăm Brasil lần thứ hai của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gặp thất bại”.
Cũng theo tin ngoại quốc, thì từ chuyến đi trước và chuyến đi này của Đức Thánh Cha, số người công giáo Brasil bỏ Hội Thánh Công giáo là vào khoảng một triệu. Đang khi đó, các giáo phái đua nhau mọc lên tưng bừng. Tính đến nay đã có tới 250 giáo phái đang hoạt động tại Brasil.
Trước tình hình suy thoái trên đây, Đức Thánh Cha cho rằng tại Brasil đã thiếu huấn luyện về tu đức, đức tin đang trở thành trống rỗng, thiếu nội dung.
* Những lời cảnh giác.
Đối với tôi, nhận xét trên đây của Đức Thánh Cha cũng là những lời cảnh giác cho Giáo Hội Việt Nam. Có nghĩa là: Nếu Giáo Hội Việc Nam lơ là với việc huấn luyện tu đức và không chịu đi sâu vào nội dung đức tin, thì sớm muộn đức tin nhiều người sẽ chỉ còn là những cái vỏ rỗng tuếch. Khi làn sóng tự do tràn vào Việt Nam, những cái vỏ như vậy sẽ bị trôi đi dễ dàng.
Sự kiện thứ hai là cuối năm 1991 vừa qua, có một bản tin tôn giáo đã kéo chú ý của tôi một cách đặc biệt, đó là bản tin về tình hình tôn giáo tại Ba Lan.
Ba Lan là một nước hầu như toàn tòng Công giáo, là quê hương của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, là nơi có một hàng Giáo phẩm mạnh, có một đội ngũ linh mục tu sĩ đông đảo, có một Tổng thống Công giáo ngoan đạo, có một cơ chế chính trị tự do trăm hoa đua nở, có sự trợ giúp lớn lao của các cường quốc kinh tế.
Hội Thánh trong một Ba Lan như thế hiện nay ra sao?
Trong tờ “Témoignage Chrétien” số ra ngày 26-10-1991, tác giả Elizabeth Kulakowska, đã mở đầu bài báo của mình như sau: “Thời vàng son của Công giáo Ba Lan đã chấm dứt với sự chấm dứt của chế độ cộng sản tại Ba Lan”. Rồi tác giả đưa ra những chi tiết cụ thể nói lên tình hình suy thoái của Công Giáo Ba Lan hiện nay.
Chẳng hạn, dưới chế độ cộng sản, các giám mục và linh mục là những điểm tựa có uy tín lôi kéo được niềm tin của đông đảo quần chúng. Nay, trong chế độ mới, đứng trước các vấn đề mới của nền văn minh tự do dân chủ, khoa học thực dụng, các vị ấy không còn được dân chúng coi là điểm tựa nữa. Hơn thế, nhiều người Ba Lan bây giờ không ngại coi các vị ấy là một giai cấp độc tài, lạc hậu tôn giáo, thay thế một giai cấp lạc hậu chính trị đã ra đi. Thời chống cộng, số người Công Giáo Ba Lan ủng hộ lập trường xã hội của hàng giáo phẩm giáo sĩ của họ lên tới 98%. Nay số người ủng hộ lập trường xã hội của các ngài tụt xuống, chỉ còn 28%. Mới trong hai năm dưới chế độ mới, tỷ lệ người Công Giáo đi lễ Chúa nhật đã sút giảm nhiều. Trước đây là 90%, nay chỉ còn 50%. Số phá thai hiện nay tại Ba Lan được kể là cao nhất tại Âu Châu. Số linh mục giã từ áo chức cũng tăng lên.
Tình hình tôn giáo suy thoái tại Ba Lan cảnh giác tôi điều này: Nếu Hội Thánh tại Việt Nam không được chuẩn bị kỹ ngay từ bây giờ, thì khi đất nước mở rộng ra, đạo Chúa sẽ không tránh được những suy thoái còn trầm trọng hơn tại Ba Lan nhiều.
Vì lợi ích chung, tôi thấy có bổn phận đưa ra lời cảnh giác đó.
Thời điểm đang tới là thời điểm thị trường. Đời sống xã hội sẽ là một cái chợ bao la. Trong cái bao la ấy sẽ bày bán các mặt hàng kinh tế, sẽ có những cọ sát của nhiều nền văn hoá, sẽ có những so sánh của nhiều tôn giáo.
Thị trường nào cũng đầy quảng cáo, cũng có cạnh tranh, cũng có phê bình, có so sánh. Hàng hoá nào cũng tự quảng cáo là mình tốt. Nền văn hoá nào cũng tự cho là mình đẹp. Tôn giáo nào cũng khẳng định mình là đạo đức. Phải nói rằng: Sẽ có nhiều cái tốt hấp dẫn, và cũng có nhiều cái xấu hấp dẫn hơn những cái tốt.
Trong một tình hình như vậy, sẽ không lạ gì, nếu có người Công Giáo cho rằng họ gặp được nhiều cái hấp dẫn ngoài Hội Thánh hơn là trong Hội Thánh, để rồi dựa vào lý do đó, họ dửng dưng với Hội Thánh, hoặc xa lìa Hội Thánh.
* Để đối phó với nguy cơ.
Như vậy, để đối phó với những nguy cơ dẫn tới suy thoái đức tin, tôi thấy lúc này cần phải chuẩn bị kỹ. Một trong những cách chuẩn bị mà tôi nghĩ tới đầu tiên, đó là cộng đoàn chúng ta và chính chúng ta phải có một đức tin thực chất, và biết diễn tả đức tin ấy bằng các việc làm có chất lượng với phong cách hợp thời.
Trong Phúc Âm có hai trường hợp cho thấy Chúa Giêsu tỏ ra ngạc nhiên. Trường hợp thứ nhất, Ngài ngạc nhiên vì các người đồng hương của Ngài không tin Ngài (Mt 13). Trường hợp thứ hai, Ngài ngạc nhiên vì viên sĩ quan ngoại giáo đã tin vào Ngài (Mt 8). Ta nên nhìn kỹ đức tin của các người đồng hương với Chúa Giêsu và đức tin của viên sĩ quan ngoại giáo, để xem đức tin của người ngoại giáo này có cái gì tốt đẹp hơn đức tin của các người đồng hương với Chúa, khiến Chúa ngạc nhiên vui sướng.
Các người đồng hương của Ngài rất biết Ngài. Họ biết rõ tên tuổi Ngài, lý lịch Ngài, bố mẹ tên gì, bên nội có ai, bên ngoại có ai, nhà ở xóm nào, làm nghề gì. Họ quá quen với giọng nói Ngài, với khuôn mặt sắc da của Ngài, với dáng đi của Ngài. Họ đã nhiều lần tiếp xúc với Ngài. Thời gian quen biết Ngài là từng tháng, từng năm. Một điều chắc chắn là họ đã nhìn thấy Ngài tận mắt, đã nói chuyện với Ngài nhiều lần, đã sống gần Ngài, đã làm việc chung với Ngài nhiều năm. Về mặt đó, họ hơn hẳn người sĩ quan ngoại giáo. Họ còn hơn người sĩ quan ngoại giáo ở chỗ đức tin của họ được trang bị bởi nhiều chân lý tôn giáo. Họ biết những gì phải tin, phải xin, phải chịu, phải giữ. Đức tin của họ khởi đi từ những bài học có sẵn, được bồi dưỡng bằng các lễ lạy, các cuộc họp tại hội đường. Sinh hoạt đức tin của họ là cử hành các nghi lễ, đọc kinh, giữ luật đạo, và học hỏi lẽ đạo.
Không ai dám nói là họ khô khan. Nhưng dù với một nếp sống như thế, và dù với những tiếp xúc với Chúa Giêsu như vậy, họ vẫn không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế mà các tiên tri đã loan báo trên suốt lịch sử từng ngàn năm.
Xem ra có một cái then vô hình đã chặn cửa lòng họ, xem ra có một cái chốt vô hình đã đóng chặt lòng họ, không cho Tình-Yêu-Cứu-Độ của Thiên Chúa đi vào. Cái then đó, cái chốt đó, chính là sự tự mãn. Họ cho rằng sống đức tin như họ sống với những lề luật và các lễ nghi là đủ rồi. Họ không thấy đức tin của mình cần phải được cứu. Và cho dù họ thấy đức tin của mình cũng cần được cứu, họ lại tưởng rằng chỉ cần đánh đuổi quyền lực Đế quốc Rôma ra khỏi bờ cõi là xong. Họ không nghĩ rằng cái cần phải đánh đổ trước hết chính là tính tự mãn của họ. Không những họ không nghĩ tới chuyện đó, mà còn làm nhiều cách để bảo vệ và nuôi dưỡng cái tự mãn truyền thống ấy. Chính vì vậy mà lòng họ không mở ra được. Họ vẫn là người có đức tin, một đức tin vững, nhưng là một đức tin đã trở thành khô cằn, cứng cỏi, khép kín.
Còn viên sĩ quan ngoại đạo, ông rất ít biết về đạo, chỉ nghe nói sơ sơ về Chúa Giêsu. Ông là người ngoại quốc thuộc thành phần quân đội đế quốc Rôma. Ông nắm trong tay một số quyền lực. Ông có thể lợi dụng địa vị của ông để mời công dân Giêsu tới nhà ông. Nhưng ông đã không làm như vậy, ngược lại, tuy là người có địa vị, có quyền lực, ông đã lên đường đi đến với Chúa Giêsu.
Khi nghe tin Chúa Giêsu có nhã ý đến nhà ông, ông đã khiêm tốn nói: “Tôi không đáng Ngài bước chân vào nhà tôi”. Ông không ngại nói lời đó trước mặt nhiều người. Ông nhận biết mình không có gì gọi được là xứng đáng để Chúa đến cả. Ông không là người có đạo. Ông không chịu phép cắt bì. Ông không biết luật đạo. Mặc dầu ông có làm đôi việc lành, nhưng ông không chút tự mãn nào về các việc lành ấy. Ông càng không tự mãn mảy may nào về địa vị của ông. Ông chỉ cậy tin vào quyền năng vô biên của lòng thương xót Chúa mà thôi. Thái độ khiêm tốn của ông vừa sâu sắc trong nội tâm, vừa can đảm trong diễn tả.
Với thái độ khiêm tốn chân thành ấy, ông đã đặt hết niềm cậy trông vào Chúa Giêsu. Niềm cậy trông này không phải chỉ là một tiếng kêu cầu mà còn là một tình nghĩa chân tình gởi tới Chúa Giêsu. Tình nghĩa ấy là một lựa chọn. Bởi vì ông có thể dành tình nghĩa ấy cho kẻ khác. Nhưng ông đã dành tình nghĩa ấy cho Chúa Giêsu. Tình nghĩa ấy không phải chỉ là chung chung, mà là một tình nghĩa đề cao Chúa Giêsu. Việc làm của ông có thể đụng tự ái các thầy cả, các luật sĩ, các biệt phái. Việc làm của ông cũng có thể gây rắc rối cho ông do chính quyền thực dân đế quốc của ông. Thái độ của ông rõ ràng là do sức thúc đẩy của tình mến yêu chấp nhận liều lĩnh. Ông mến thương người đầy tới bệnh hoạn của ông, và cũng rất mến thương Chúa Giêsu. Đức ái nơi ông là rất mạnh.
Niềm cậy tin của ông không diễn tả bằng một công thức giáo lý, mà bằng một tâm tình xuất phát từ đáy lòng.
Niềm cậy tin của ông không phải là sự chấp nhận những giáo điều, mà là sự chấp nhận chính Đấng Kitô, một vị đang sống như một tình yêu cứu độ, như một nhân chứng cho chân lý, bất chấp được khen hay bị chê.
Niềm cậy tin đầy khiêm tốn và chân tình ấy có thể ví như chiếc chìa khoá riêng có sức mở lòng Chúa và Người đã mở lòng ông để đón nhận ơn Chúa.
Người ngoại đạo này không những tin cậy vào bản thân Chúa Giêsu, mà còn đi xa hơn nữa. Ông đã tin vào lời Chúa Giêsu. Ông tin rằng Lời Chúa tự nó có sức mạnh. Ông nói: “Xin Ngài chỉ nói một lời, là đầy tớ của tôi sẽ được mạnh”. Với câu nói khiêm tốn đầy cậy tin đó, ông biểu lộ ý nghĩ của ông, đó là không cần Chúa cầm tay bệnh nhân, cũng không cần Chúa tới gần bệnh nhân, Chúa chỉ nói một lời, thì dù cách xa ngàm dặm, bệnh nhân cũng sẽ được khỏi bệnh.
Một đức tin như vậy không phải chuyện dễ. Nó không phải là kết quả tất nhiên của những giờ học hỏi giáo lý. Kinh Thánh cho thấy để có một đức tin như vậy, người ta phải cầu xin ơn Chúa giúp đỡ. Các tông đồ xưa, mặc dầu sống cạnh Chúa, cũng đã có lần cảm thấy đức tin Chúa đòi là chuyện quá khó, nên đã cầu xin với Chúa rằng: “Lạy Thầy, xin Thầy thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17,5). Người cha đứa bé bị quỷ ám cũng cảm thấy cái khó khăn của đức tin thực là quá lớn, nên đã cầu xin với Chúa rằng: “Lạy Thầy, tôi tin, nhưng xin Thầy giúp tôi tin, vì tôi kém lòng tin” (Mc 9,23).
Đức tin của ta và của giáo đoàn ta có như vậy không? Thực ra, ta đã nhận được đức tin, ngay khi ta lãnh bí tích Rửa tội. Nhưng đó mới là một hạt giống, một cái mầm non. Hạt giống ấy, mầm non ấy sẽ chỉ lớn lên nếu được chăm sóc. Hãy dùng cách chăm sóc truyền thống rút từ Kinh Thánh, đó là chăm chỉ cầu nguyện, phụng vụ Lời Chúa, tham dự bí tích Thánh Thể, và chia sẻ đời sống huynh đệ của cộng đoàn dân Chúa (Công vụ 6,4).
***
Dửng dưng với Hội Thánh và bỏ Hội Thánh, đó là một hiện tượng hiện nay đang trở thành một phong trào có tính cách quần chúng tại các nước Âu Châu. Henri Denis đã bàn về phong trào này trong cuốn Chrétiens sans Église (Giáo hữu không Giáo Hội). Đọc cuốn sách dày 147 trang này, tôi thấy một phong trào như thế có thể thấm nhập vào Giáo Hội Việt Nam trong tương lai. Bởi vì nó có liên hệ mật thiết với các trào lưu văn minh đang đi vào đất nước chúng ta. Thử coi đây. Thời điểm hiện nay là thời điểm tinh thần khoa học đang dâng cao, càng ngày con người càng ưa chuộng những gì là chính xác, là kiểm chứng được, là có hệ thống. Đang khi đó, có thể là người ta lại ít gặp được những tính cách khoa học trong các lời giảng dạy của các đấng bậc Hội Thánh của họ, nên dần dần họ coi thường và dửng dưng.
Thời điểm hiện nay là thời điểm tinh thần thực dụng đang rất mạnh, càng ngày con người càng ưa chuộng những gì là thực tế, là thiết thực, là thực chất, có lợi cho cuộc sống. Đang khi đó có thể là người ta ít gặp được thực chất trong con người các đấng bậc và trong các lời giảng dạy, các luật lệ tôn giáo. Nên dần dần họ xa cách.
Thời điểm hiện nay là thời điểm tinh thần tự do dân chủ đang rất phổ biến, càng ngày con người càng ưa chuộng những gì là tôn trọng tự do, là khích lệ dân chủ. Đang khi đó có thể là người ta lại ít gặp được những tính cách tự do dân chủ trong nếp sống đạo và nếp suy nghĩ của giáo đoàn mình, nên dần dần họ bỏ.
Thời điểm này là thời điểm tinh thần hoài nghi đang len lỏi cùng khắp, càng ngày con người càng nghi ngờ những ai tự xưng mình là tốt. Đang khi đó có thể là người ta thấy Hội Thánh tự xưng mình là tốt, nhưng vô số người trong Hội Thánh lại không tốt. Nên họ hoài nghi chính Hội Thánh.
Tôi nghĩ rằng các lý do người ta vịn vào để dửng dưng với Hội Thánh và bỏ Hội Thánh đều không đủ chính đáng. Tuy nhiên, khi thấy một người bỏ Hội Thánh bất cứ vì lý do nào và bất cứ ở đâu, đều làm tôi đau đớn xót xa. Phương chi khi thấy cả triệu người.
Nếu ta cho rằng trong giáo đoàn của ta chắc chắn sẽ không có ai ra đi như thế, ta cũng không nên vì thế mà tự phụ quá sớm. Thánh Phêrô cũng đã rất tự mãn với đức tin của mình, nhưng rồi ngài đã ngã một cách thê thảm.
Dù sao, cách tốt nhất nên làm để tránh cho giáo đoàn ta khỏi những bước ra đi sau này, là ngay từ bây giờ giáo đoàn ta và chính bản thân ta nên tích cực hơn trong việc chỉnh đốn lại nếp sống đức tin.
***
Tối thứ năm, 9-1-1992, vừa qua, đài truyền hình Cần Thơ chiếu một chương trình phóng sự tựa đề: “Vươn lên từ nỗi bất hạnh”. Nội dung tường thuật những thành công của các trẻ em mồ côi tàn tật, nhờ ý chí phấn đấu và sự giúp đỡ của những người hảo tâm. Khi theo dõi chương trình ấy, tôi đã nghĩ tới các giáo đoàn chúng ta. Với con số 71 linh mục được thụ phong sau giải phóng, nhất là với niềm tin vào Đức Kitô, chúng ta không sống trong nỗi bất hạnh, mà là sống trong một mùa hồng ân Thiên Chúa. Từ mùa hồng ân ấy, chúng ta chỉ có một lựa chọn, đó là phải vươn lên. Nếu không vươn lên, thì đó là nỗi bất hạnh lớn, ta sẽ phải chịu trước mặt Chúa. + GB. BÙI-TUẦN (Trích báo CG&DT, số 842-843, ngày 16-02-1992)
Các lễ nghi, các lời kinh, các lời tuyên hứa đều hướng về đường hướng mục vụ của linh mục. Ðường hướng ấy đại để là PHỤC VỤ.
Ðối tượng phục vụ là đoàn chiên Chúa. Và vì linh mục phải theo gương Ðấng chăn chiên lành, nên một đối tượng khác mà ngài luôn dành cho rất nhiều quan tâm ưu ái, đó là những người chưa thuộc về đoàn chiên Chúa.
Phục vụ của linh mục là Phúc-Âm-hoá mọi đối tượng, là cùng với Chúa Kitô cải đổi con người và xã hội cho nên tốt hơn, chuẩn bị cho họ đón nhận hạnh phúc thực của Nước Thiên Chúa.
Phục vụ như vậy tất nhiên đòi linh mục phải cùng với Chúa Kitô đồng hành với dân tộc mình trên con đường cuộc sống, để sự đồng hành ấy sẽ là cơ hội tốt cho đồng bào mình cảm thấy được tình thương của Chúa Kitô dành cho họ qua Hội Thánh nói chung và qua linh mục nói riêng.
Ðồng hành ở đây là sự có mặt trong đời sống đồng bào, là một đối thoại thân tình giữa ta với Cha và với dân tộc.
Trên con đường cuộc sống hôm nay, tôi thấy đa số đồng bào của tôi đang sống khổ sở trong cảnh nghèo nàn. Tôi nhìn sang Chúa Kitô hỏi Người xem tôi phải làm gì cho đồng bào nghèo khổ của tôi. Và qua Phúc Âm, Chúa trả lời tôi rằng: Trước và bây giờ, Cha luôn là người Samaria tốt lành, tích cực lo cho người nghèo khổ. Cha muốn con và cộng đoàn của con hãy bắt chước Cha như vậy để làm sáng lên hình ảnh người Samaria tốt lành trước đồng bào của con hôm nay.
Trên con đường cuộc sống hôm nay, tôi thấy đồng bào của tôi ai cũng đang tìm những người có thể tin được, đang tìm những trái tim có thể tin được, đang tìm những trí tuệ có thể tin được, đang tìm những lời hứa có thể tin được. Tôi nhìn sang Chúa Kitô hỏi Người xem tôi phải làm gì cho những đồng bào, đang tìm niềm tin như vậy. Và qua Phúc Âm Chúa trả lời tôi rằng: Trước và bây giờ, Cha được các thế hệ tin tưởng, không phải vì những phép lạ, và giáo lý của Cha cho bằng chính cuộc sống của Cha luôn hiền từ khiêm tốn yêu thương, không hề tìm kiếm cho riêng mình một chút danh vọng và của cải nào. Cha muốn con và cộng đoàn của con hãy bắt chước Cha như vậy để thắp sáng lên những chân lý và tình thương sống động mà đồng bào của con hôm nay đang tìm kiếm.
Trên con đường cuộc sống hôm nay, tôi thấy dân tộc tôi đang lo phát triển về nhiều mặt. Tôi nhìn sang Chúa Kitô, hỏi Người xem tôi phải làm gì cho chương trình phát triển ấy. Và qua Phúc Âm, Chúa trả lời tôi rằng: Trước và bây giờ, Cha vẫn ưu tiên cho việc đào tạo môn đệ, xây dựng con người, để những con người được đào tạo tốt sẽ có thể tự phát triển mình và xã hội mình. Cha muốn con và cộng đoàn của con hãy bắt chước Cha như vậy, để những người tốt sẽ là những đốm sáng Tin Mừng được nhân lên mãi, làm nền tảng vững chắc cho mọi phát triển.
Trên đây là một số thí dụ về đồng hành. Theo đó, người linh mục đồng hành với dân tộc là người luôn luôn thao thức với các vấn đề do cuộc sống đặt ra cho Ðồng Bào, và luôn luôn hỏi Chúa trong Phúc Âm, để tìm giải đáp cho các vấn đề ấy. Tôi hiểu “Sống Phúc Âm giữa lòng Dân Tộc” là như vậy.
Ðến ngày 1/5/1990 này là kỷ niệm 10 năm Thư chung mục vụ của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam. Ðây là dịp để mỗi linh mục và mỗi cộng đoàn xem xét lại đường hướng sống đạo và truyền giáo của mình. Có thực sự sống Phúc Âm giữa lòng Dân Tộc không? Có thực sự đồng hành với Dân Tộc không?
Ðể mừng kỷ niệm 10 năm Thư chung mục vụ 1980, trong tháng 5 này, tôi sẽ cử hành lễ tấn phong linh mục cho bốn tân chức. Với bốn linh mục mới ấy, số phong chức linh mục của giáo phận Long Xuyên từ sau giải phóng sẽ là 55. Tôi muốn coi con số 55 ấy như một chuỗi Mân Côi thiêng liêng dâng kính Ðức Mẹ trong tháng hoa này.
Xin anh chị em cầu nguyện cho chúng tôi, cho các linh mục, và cho các thầy đang lên chức linh mục.
Bài giảng thánh lễ Truyền Dầu, Rạch Giá ngày 5/4/1990
Đọc truyện Chúa Giêsu chữa người bệnh cùi trong Phúc Âm hôm nay (Marcô 1,40-45), tôi có cảm tưởng là Chúa Giêsu đã có thành công và đã có thất bại. Ngài thành công ở chỗ Ngài làm cho người cùi được khỏi bệnh. Nhưng xem ra Ngài thất bại ở chỗ Ngài không chữa được cái tính hay nói của người cùi đó đã không hoàn toàn tuân thủ lời Ngài.
Thực vậy, Chúa truyền dạy anh một cách nghiêm nghị là anh không được nói ra với bất cứ ai sự Ngài đã chữa bệnh cho anh. Thế nhưng, anh đã không tuân giữ lời truyền dạy ấy. Anh đã tiết lộ. Anh đã nói ra.
Có thể cho đó là một thất bại của Chúa Kitô. Và trước tiên là một thất bại của chính anh cùi đã khỏi bệnh. Nhưng khi nhìn kỹ lại những gì đã xảy ra sau đó, tôi thấy rằng: Chính từ thất bại ấy đã mọc lên bao sự lạ lùng. Bao người đã truyền miệng nhau tin mừng về Đức Kitô. Bao trái tim đã chia sẻ sang nhau cảm tình ái mộ hướng về Đức Kitô. Bao bàn tay đã dắt nhau đi đến với Đức Kitô. Bao bước chân đã dồn dập đi tìm Đức Kitô. Như thể đó là cả một mùa Xuân Kitô. Hoa nở trên bao môi miệng. Hoa nở trong bao trái tim. Hoa nở trên bao bàn tay. Hoa nở trên bao vết chân.
Từ câu chuyện thất bại hôm nay của người cùi, tôi nghĩ đến thất bại của các môn đệ Chúa. Thất bại của họ là họ có những yếu đuối, họ muốn vượt qua, mà không vượt qua được. Thất bại của họ là họ có những vụng về, họ đâu có lựa chọn, nhưng vẫn xảy ra. Thất bại của họ là họ có những tính tình không tốt, họ muốn sửa lại, mà cứ mãi tồn tại. Đó là những thất bại. Họ đâu có vui gì với những thất bại ấy.
Thế nhưng, từ những thất bại đó, Chúa Kitô đã cho mọc lên vô số những bông hoa thơm đẹp: Hoa khiêm nhường, hoa cậy trông vào Chúa, hoa hiến tế, hoa liên đới với thân phận những người yếu đuối. Những bông hoa như thế mọc lên từ những thất bại, đã là những chứng từ thơm tho về tình yêu thương xót Chúa, Đấng đã phán rằng: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng Ta đến để kêu gọi những người tội lỗi... Người khoẻ mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là những kẻ đau yếu” (Mc 2,16-17).
Anh chị em thân mến,
Trên cung thánh này đang có hai giám mục và 156 linh mục. Nhìn vào mình, chúng tôi không nghĩ rằng chúng tôi là những người khoẻ mạnh về phần thiêng liêng. Trái lại, chúng tôi nhận rằng, chúng tôi có những yếu đuối, lỗi lầm, vụng về. Đó là những thất bại của chúng tôi. Nhưng chúng tôi cũng thấy rất rõ điều này là: Chúng tôi, những “Chiếc bình giòn mỏng”, đã luôn được Chúa yêu thương, đã luôn được Hội Thánh che chở, đã luôn được anh chị em đỡ nâng, nhờ đó Chúa đã cho nở sinh ra bao bông trái thiêng liêng từ những thành công cũng như từ những thất bại. Ngài là Đấng Cứu Chuộc. Ngài là Đấng Sáng Tạo.
Khi nhìn thấy cả một cánh đồng hoa thiêng này, tôi hết lòng cảm tạ ơn Chúa và thêm lòng tin cậy vào lòng thương xót Chúa. Xin anh chị em cùng chúng tôi ca tụng Chúa, vì Chúa là Đấng Nhân Lành, Khoan Dung. Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của chúng ta. Ngài là Đấng vượt qua mọi thử thách. Ngài là Đấng đã sống lại từ cõi chết, chúng ta hết lòng phó thác nơi Ngài.
Thánh Lễ Đồng Tế tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, dịp tĩnh tâm Cấm Phòng năm, ngày thứ năm sau Chúa Nhật I thường niên (14-01-1993).