“Ta là mục tử tốt lành”. Đó là một lời trong bài Phúc Âm hôm nay.
Riêng đối với tôi, đây là một lời dịu ngọt nhất mà Chúa đã nói cho tôi. Đây cũng là một chân lý hấp dẫn nhất mà Chúa đã dạy riêng tôi. Và đây cũng là một mô hình thích hợp nhất mà Chúa đã đào tạo tôi từ trước đến giờ. Ngài thường xuyên đào tạo tôi theo mô hình ấy bằng nhiều cách. Hôm nay, tôi xin được chia sẻ những cách mà Thiên Chúa đã đào tạo tôi theo mô hình Đức Kitô nêu lên trong bài Phúc Âm hôm nay: “Ta là mục tử tốt lành”.
Cách thứ nhất Chúa dùng để đào tạo tôi, là cho tôi nghe nhiều về những mục tử tốt lành đã từng theo gương Chúa Kitô đã làm cho con người.
Chẳng hạn, ngay tại đây, từ chiều qua đến bây giờ, tai tôi đã được nghe rất nhiều về tình yêu Thiên Chúa. Anh chị em đã cùng ca tụng, đã cùng tuyên xưng tình yêu Thiên Chúa. Chẳng hạn, ở bài ca nhập lễ hôm nay anh chị em hát: “Gặp gỡ Đức Kitô”, ở bài đáp ca hôm nay anh chị em hát: “Chúa chăn nuôi tôi”.
Ngoài ra, cũng từ chiều qua cho đến giờ, tôi đã được nghe một số anh chị em tâm sự về những gì Chúa đã làm cho bản thân họ, cho gia đình họ, cho cộng đoàn họ.
Đi sâu hơn nữa, Chúa đã cho tôi nghe thấy tiếng Chúa trong lòng tôi.
Tối hôm qua, khi tôi đã cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho họ đạo anh chị em và cho cá nhân tôi, thì tôi nghe tiếng Chúa nói trong lòng tôi rằng: Những việc Cha làm ở đây thực là lớn lao, nhưng tình yêu của Cha còn lớn lao hơn rất nhiều.
Rồi tôi cũng đã xin Chúa tha tội cho tôi, cho anh chị em. Và Chúa cũng nói trong lòng tôi rằng: Tội lỗi chúng con tuy lớn lao nặng nề, nhưng lòng thương xót của Cha còn bao la hơn gấp bội.
Những điều tôi nghe như vậy đã giúp tôi xác tín: Đức Kitô là mục tử tốt lành.
Ngoài sự Đức Kitô cho tai tôi được nghe thấy những điều về tình yêu, thì Chúa còn dùng cách thứ hai, là cho mắt tôi được nhìn thấy những dấu vết của tình yêu Chúa ở chung quanh mình.
Cũng tại đây, tôi đã nhìn thấy vết tích của tình yêu Chúa nơi anh chị em, trên những khuôn mặt thanh thản, trên những nụ cười hồn nhiên, trên những cái nhìn tươi mát, trong những thái độ cởi mở, trong những lời nói chân thành.
Tôi đang nhìn thấy Thiên Chúa ở trong anh chị em. Ngài đang âm thầm biến đổi tâm hồn anh chị em. Tôi đang nhìn thấy nơi anh chị em, cũng như nơi tất cả những người xung quanh đây, Công giáo hay không Công giáo, họ là hình ảnh của Thiên Chúa, họ có thiên thần bản mệnh của Chúa. Vì vậy, lịch sử mỗi người đều có một cái gì được gọi là lịch sử thánh.
Khi tôi nhìn thấy như vậy, tôi có một hình dung về Đức Kitô rất rõ nét về lòng bao dung, về lòng thương xót.
Rồi, ngoài sự Chúa cho tôi được nghe thấy, được nhìn thấy, thì Chúa còn dùng cách thứ ba để đào tạo tôi, làm cho tôi cảm nghiệm được: Chúa thương mình. Chúa thương những người thuộc về mình. Chúa thương tất cả mọi người thuộc về Chúa.
Thực vậy, ngay ở đây thôi, tôi cũng đã cảm thấy một cái gì vừa thiêng liêng, vừa gần gũi. Nó là một cái gì siêu nhiên, nhưng mà rất sát gần chúng ta. Tôi nhìn thấy, tôi cảm thấy Đức Kitô ở giữa chúng ta, ở gần chúng ta, ở bên chúng ta, ở trong chúng ta. Và tôi cảm nghiệm thấy như là một hương vị mới, của một sức sống mới, của một bầu trời mới, của một thế giới mới, như là Nước Trời ở giữa ngay cuộc đời trần thế hôm nay.
Những gì tôi đang cảm nghiệm được chứng tỏ rằng: Đức Kitô là Đấng Cứu Độ. Tôi cần phải trở về với Ngài. Tôi cần phải theo gương Ngài. Tôi cần phải đề cao Ngài: Chỉ có Ngài là Đấng thánh, chỉ có Ngài là Đấng cứu độ, chỉ có Ngài là mục tử tốt lành.
Ngoài sự Chúa giúp tôi nghe thấy, nhìn thấy, cảm nghiệm thấy, thì Chúa còn cho tôi một cách thứ bốn này, để tôi biết đáp ứng lại sự Chúa mời gọi tôi. Khi Chúa cho tôi được nghe thấy, được nhìn thấy, được cảm thấy tình yêu của Chúa chung quanh mình, và trong chính mình, thì Chúa làm cho tôi muốn, và hứng thú đáp ứng lại tình yêu Chúa là mục tử tốt lành. Tôi cần phải cộng tác với Ngài, cộng tác bằng cách nhìn mọi người như Đức Kitô, với con mắt bao dung, với con mắt đầy xót thương, với con mắt chan hoà ơn cứu độ.
Khi gặp một hoàn cảnh nào, hãy như Đức Kitô nhập thể, hoàn toàn hoà mình vào hoàn cảnh đó, trừ tội lỗi, để đồng hành, để có mặt, để chia sẻ, để cứu độ.
Cộng tác với Đức Kitô mục tử tốt lành là ta quyết tâm không phạm tội, kẻo làm mất lòng Ngài, và ta quyết tâm làm tất cả những gì Ngài muốn tôi làm.
Anh chị em thân mến,
Tôi vừa chia sẻ vắn tắt những cách mà Đức Kitô đã dùng để đào tạo tôi từ trước cho đến bây giờ theo mô hình mục tử tốt lành. Tôi nghĩ rằng: Anh chị em cũng đang được Đức Kitô đào tạo một cách nào đó như vậy.
“Ta là mục tử tốt lành”, tuy là một câu không có trong kinh Tin Kính. Nhưng chúng ta cần tuyên xưng, hãy năng tuyên xưng chân lý đó trong lòng ta, trong đời sống của ta. Nhất là khi anh chị em rơi vào một hoàn cảnh khó khăn, như đau bệnh, như túng nghèo, như vấp ngã, hãy tuyên xưng Đức Kitô là Chúa, là mục tử tốt lành.
Và đặc biệt trong giờ lâm chung hấp hối, xin anh chị em hãy tuyên xưng một điều đó với tất cả tấm lòng tin cậy: “Lạy Chúa, con tin Chúa là mục tử tốt lành của con”. Rồi anh chị em sẽ thấy: Đức Kitô mục tử tốt lành sẽ yêu thương anh chị em, hơn anh chị em đáng được. Ngài sẽ cứu độ anh chị em, bằng những cách anh chị em không thể tưởng tượng trước được.
Lạy Đức Kitô là mục tử tốt lành, xin cảm tạ Ngài. Xin Ngài thương xót chúng con. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay có lời Đức Kitô phán: “Kẻ được sai đi sẽ không trọng hơn Đấng đã sai mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành, thì chúng con có phúc”.
Khi nghe lời Đức Kitô dạy trên đây, tôi đã suy nghĩ: Tất cả chúng ta nói chung, và anh chị em họ đạo Cần Thay nói riêng, đều đã được sai đi truyền giáo.
Trên con đường truyền giáo, chúng ta có nhìn nhận Chúa là Đấng cần phải được tôn trọng hay không? Nhất là chúng ta có thể hiện ý thức tôn trọng Thiên Chúa hơn chính mình hay không?
Khi suy đi nghĩ lại, tôi thấy rằng: Tất cả chúng ta đều phải nhìn nhận mình không thể nào trọng hơn Thiên Chúa, Đấng đã sai chúng ta. Chúng ta nhận biết Thiên Chúa là Đấng đáng được tôn trọng, là Đấng rất cần được tôn trọng.
Đó là một ý thức chắc chắn. Đó là một ý thức rõ ràng. Nhưng còn việc chúng ta có thể hiện được cái ý thức đó hay không, thực hiện bằng những việc làm cụ thể nào, thì điều đó thực sự không rõ, không chắc.
Tuy nhiên, khi nhìn quang cảnh buổi lễ hôm nay tưng bừng, hân hoan, sốt sắng, trật tự, tôi có cảm tưởng là họ đạo Cần Thay ở đây, không những đã nhận biết Thiên Chúa cần được tôn vinh, cần phải được tôn trọng, mà còn đã cố gắng thể hiện ý thức đó bằng những việc làm cụ thể, có sức minh chứng những việc có ý nghĩa.
Việc rõ ràng thứ nhất, đó là ngôi thánh đường mới này.
Thực vậy, ngôi thánh đường mới này tuy bé nhỏ khiêm tốn, nhưng trong một mức độ tương đối đã đạt được những điều cần thiết để tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa, Đấng cần phải được tôn trọng, và đã đạt được những điều kiện giúp con người hướng về Thiên Chúa, Đấng đáng được tôn trọng.
Trong Kinh Thánh, nhất là trong Cựu Ước, khi nói về Đền thờ, và khi nói về phụng vụ tế lễ, thì thường nhắc tới một số điều kiện, vừa vật chất, vừa tinh thần, để chứng minh Thiên Chúa là Đấng đáng tôn trọng, và con người phải tôn trọng Thiên Chúa.
Những cái giá trị vật chất mà Kinh Thánh Cựu Ước thường nói đến khi đề cập đến Đền thờ, đó là một vẻ đẹp nào đó mà mắt nhìn thấy được, một điệu nhạc du dương nào đó mà tai nghe thấy được, một cái mùi thơm nào mà mũi ngửi thấy được.
Trong phụng vụ bây giờ, những giá trị ấy vẫn được trân trọng. Bởi vì, có những vẻ đẹp của nhà thờ, của cung thánh, của phụng vụ, có sức giúp cho người ta gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng vô hình. Có những điệu nhạc của thánh ca có thể đi vào lòng người, tận đáy lương tâm, chỗ mà thần học, giáo lý, bài giảng, lời khuyên, không lay động được, thì thánh nhạc có thể lay động được.
Rồi, có những mùi thơm của trầm hương, của bông hoa, của nước, của cây cảnh, của môi trường chung quanh nhà thờ, cũng sẽ giúp cho con người có một bầu khí hiệp nhất, gặp gỡ, hiệp thông.
Rồi, có những sự thinh lặng của môi trường, sự trong lành của môi sinh, cũng có sức giúp cho con người cảm thấy tâm hồn mình thanh thản, để có thể trở về với nội tâm mình, trở về với Thiên Chúa, là Đấng cần phải được tôn trọng.
Ngoài những điều kiện vật chất tôi vừa nói đến, thì còn có những điều kiện về tâm linh mà Kinh Thánh, nhất là Tân Ước, hay nói tới.
Khi đề cập đến nhà thờ, đến lễ nghi, Đức Kitô đã nói: Đừng chỉ nhân danh Ngài, đừng chỉ có hình thức bên ngoài mà thôi, đừng chỉ mến Ngài bằng môi bằng miệng, nhưng lòng thì lại rất xa Ngài. Có nghĩa là Chúa khuyên nhủ: Khi chúng ta xây nhà thờ, khi chúng ta dâng thánh lễ tạ ơn, thì cần phải có một lòng mến chân thành sâu sắc, cần phải có một lòng bác ái chan hoà, đối với những người chung quanh.
Đức Kitô nói: “Khi dâng lễ ở bàn thờ, mà chợt nhớ mình còn bất hoà với ai, hãy đi làm hoà với họ trước, rồi mới đến dâng lễ sau”. Bởi vì, Thiên Chúa trọng lòng nhân hậu, khoan dung, hơn là của lễ. Có nghĩa là, Chúa đòi chúng ta một điều kiện: Khi xây nhà thờ, khi dâng thánh lễ phải có lòng bác ái, phải có sự tha thứ, phải có tinh thần phục vụ, phải biết yêu thương lẫn nhau.
Tất cả những điều tôi vừa tóm tắt ở đây nhằm gợi lên trong chúng ta, một ý thức tương đối cần thiết trong đời sống đạo.
Nếu đem tất cả những tiêu chuẩn đó áp dụng ở đây, tôi có thể đánh giá họ đạo Cần Thay, với nhà thờ mới, với lễ nghi hôm nay, là tương đối tốt.
Một việc khác cũng rõ rệt nói lên sự chúng ta tôn trọng Thiên Chúa, đó là thái độ khiêm tốn của tâm tình biết ơn.
Như Cha phụ trách họ đạo và ông đại diện vừa mới nói: Nếu không có ơn Chúa ban, và nếu thiếu sự nâng đỡ của những ân nhân xa gần, thì sẽ không có ngày hôm nay. Chắc chắn là như vậy. Đó là một sự thật. Nhìn nhận sự thực đó là đương nhiên, là phải lẽ thôi.
Khi chúng ta cảm tạ Thiên Chúa với một thái độ khiêm tốn chân thành như vậy, thì Chúa chấp nhận.
Tôi có cảm tưởng là giờ đây Đức Kitô đang ở giữa chúng ta. Ngài hướng về họ đạo Cần Thay mà nói với Đức Chúa Cha lời xưa Ngài đã nói: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha, vì Cha đã giấu những mầu nhiệm Nước Trời đối những người thông thái, mà lại mạc khải cho những người bé mọn đơn sơ”.
Khi nhìn anh chị em là những tâm hồn bé mọn đơn sơ, trong tinh thần con thảo, trong nét mặt hồn nhiên, tôi nghĩ rằng: Chính cái hồn nhiên đơn sơ khiêm tốn này lại là những lời cảm tạ, và là những lời tôn vinh: “Thiên Chúa là Đấng đáng tôn trọng, là Đấng cần phải tôn trọng vô cùng”.
Anh chị em thân mến,
Thánh đường này tuy hôm nay mới, nhưng rồi sẽ cũ đi. Với thời gian, nó sẽ biến chất. Và biết đâu, có lúc nó sẽ biến mất.
Vì thế, đang khi chúng ta mừng ngôi thánh đường này, chúng ta đừng quên xây dựng những ngôi thánh đường khác bền vững hơn, đó là tâm hồn chúng ta và tâm hồn con em chúng ta.
Phải liệu làm sao, để cho tâm hồn chúng ta toả ra được những vẻ đẹp, những mùi thơm, những điệu nhạc du dương thiêng liêng. Phải liệu làm sao, để tâm hồn chúng ta sẽ là những bông hoa đẹp, sẽ là những bài ca hay, sẽ là một cánh đồng tươi mát thơm tho, để làm chứng Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Đấng đáng tôn trọng, cần được tôn trọng. Chính Người muốn chúng ta tôn trọng, bằng chính đền thờ nội tâm của ta.
Trong giây phút này, xin anh chị em hãy cầu xin Chúa Thánh Linh đến với chúng ta, ở lại trong chúng ta. Nhất là xin Ngài giúp cho con em chúng ta sắp chịu phép Thêm sức, hiểu được Chúa là Đấng cần phải tôn trọng. Và khi được sai đi vào thế gian để truyền giáo, chúng ta cần phải trở nên những đền thờ sống động, đẹp đẽ, nguy nga, thơm tho, làm chứng cho Thiên Chúa, Đấng đáng được tôn trọng.
Lạy Chúa Thánh Linh, xin hãy đến với chúng con, xin hãy ở lại với chúng con, xin hãy biến chúng con thành những đền thờ sống động đẹp lòng Thiên Chúa. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa phán: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Khi đọc câu này, tôi thường sửa từ “ở lại” thành từ “trở lại”. “Hãy trở lại trong tình yêu của Chúa”.
Tôi dùng từ “trở lại”, bởi vì tôi có cảm tưởng là tôi, cũng như hầu hết anh chị em, nhiều khi cũng đã rời xa tình yêu của Chúa, nhiều khi cũng đã bỏ tình yêu của Chúa. Cho nên, cần phải trở lại với tình yêu Thiên Chúa.
Hãy trở lại trong tình yêu của Chúa, đó là điều Chúa nhắn nhủ mỗi người chúng ta hôm nay. Và đó cũng là điều Chúa sai tôi nói với anh chị em hôm nay, tại nhà thờ Cồn Phước này.
Phải làm thế nào để chúng ta trở lại trong tình yêu của Thiên Chúa? Đó là cả một chương trình giáo lý và tu đức. ở đây, tôi chỉ nhắc tới một vài việc cần thiết thôi. Việc thứ nhất là hãy khiêm tốn nhìn vào nội tâm của mình với tinh thần sám hối ăn năn.
Đúng lý ra, nội tâm của ta phải là một đền thờ sạch sẽ, đẹp đẽ, có Chúa ngự, như thánh Phaolô đã nhiều lần nói tới. Nhưng trên thực tế, biết đâu nội tâm của ta đang trở thành một cái chợ ồn ào, rác rưởi, đầy những chuyện thế gian, tiền bạc, buôn bán, cạnh tranh.
Đúng lý ra, nội tâm của ta phải làm một bụi cây bốc lửa, mà Maisen đã thấy Thiên Chúa ngự ở trong đó và đang nói với Maisen. Nhưng trên thực tế, biết đâu nội tâm của ta lúc này lại là một bụi gai ướt át, tăm tối, là nơi các dục vọng trú ẩn và phát triển.
Đúng lý ra, nội tâm của ta phải giống như 5 người trinh nữ khôn ngoan luôn biết tỉnh thức, biết đề phòng, mà Đức Kitô đã khen trong Phúc Âm. Nhưng trên thực tế, biết đâu nội tâm của ta lại giống như 5 người trinh nữ khờ dại, chỉ lo ăn ngủ, tới đâu hay tới đó. Chúa đến, mà không hề hay biết gì, và cũng không kịp chuẩn bị gì để đón tiếp Người.
Rồi, đúng lý ra, nội tâm của ta phải giống như trái tim Đức Mẹ, bốc cháy lửa mến Chúa yêu người, và luôn nói lời “xin vâng” với Thiên Chúa. Nhưng trên thực tế, biết đâu trái tim của ta chỉ là một cái “tôi” lạnh lùng, dửng dưng với Chúa, bất cần với tha nhân.
Hãy nhìn nội tâm của mình với lòng khiêm tốn ăn năn, để rồi cố gắng phấn đấu đổi mới nội tâm của mình. Đổi mới bằng những bước đi nhỏ thường ngày. Chẳng hạn sự cầu nguyện suy gẫm. Ngày nào cũng vậy, chúng ta đừng bỏ cầu nguyện và suy gẫm Phúc Âm. Những việc này không được quá ngắn, và không được chỉ là hình thức máy móc. Nhưng phải làm với tất cả tâm hồn tin, cậy, mến, nhất là khát khao đón nhận Thiên Chúa như một kẻ bần cùng.
Ngoài việc cầu nguyện suy gẫm Phúc Âm, chúng ta còn cần phải có những việc làm tiết độ: Tiết độ trong lời nói, trong thái độ, trong cách ăn uống, trong cách đi đứng, nhất là trong cách dùng thời giờ Chúa ban cho.
Tiết độ là đừng làm phung phí, đừng làm hư hỏng, đừng làm dư thừa. Hãy biết sống tiết độ như một sự hãm mình cần thiết, để đào luyện cái “tôi”, sao cho những dục vọng yếu đi, và sao cho những nhân đức có thể phát triển.
Ngoài việc cầu nguyện, suy gẫm, hãm mình, tiết độ, thì mỗi ngày, chúng ta đừng quên làm những việc phục vụ với tinh thần của Đức Kitô hôm nay, đang ở giữa chúng ta, như một người đầy tớ phục vụ, hiền lành, khiêm nhường. Ngài đang ở giữa chúng ta như một người đầy tớ phục vụ, hiền lành, khiêm nhường, qua biết bao nhiêu ơn huệ Chúa ban cho.
Tất cả những sự tôi vừa nói trên đây, nếu chúng ta biết làm thường ngày một cách kiên trì, sẽ có khả năng mở rộng lòng chúng ta ra để biết đón nhận ơn Chúa. Và nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ trở lại trong tình yêu của Chúa.
Việc làm này, chúng ta phải làm suốt đời mình. Và phải coi sự trở về trong tình yêu Thiên Chúa, là một ơn gọi đi liền với ơn Rửa tội và Thêm sức.
Thời nay, như ông đại diện giáo xứ đã nói: “Đức tin đang gặp nhiều nguy hiểm”. Đúng như vậy, chúng ta đang sống trong một thời điểm cạnh tranh, kinh tế thị trường, khuyến khích tiêu thụ, khuyến khích hưởng thụ. Tất cả sẽ dẫn tới hậu quả sau đây: Coi của cải hơn con người. Coi cái tôi hơn kẻ khác. Và do đó, tinh thần đức tin sẽ bị sao lãng, sẽ bị mai một, và tình yêu của Đức Kitô sẽ bị xếp vào hàng thứ yếu, vì đã không đem lại cái gì hưởng thụ được.
Nếu chúng ta không quyết tâm đổi mới lại nội tâm của mình theo như tôi vừa gợi ý, thì chỉ vài năm nữa thôi, đạo của chúng ta, đạo nơi chính mình ta, nơi họ đạo của ta, nhất là nơi con em của ta, sẽ sa sút thê thảm.
Hãy biết phấn đấu đổi mới lại nội tâm của mình, bằng sự ăn năn sám hối, bằng sự cầu nguyện suy gẫm, bằng sự hãm mình tiết độ và làm việc bác ái. Hãy trở lại trong tình yêu của Chúa. Tôi nhắc lại: Đây là điều Chúa sai tôi đến nói với anh chị em hôm nay. Và đây là một điều quan trọng Chúa gởi cho những người Chúa thương yêu. Tôi đang nhìn thấy trước mặt tôi, trong họ đạo này, những người đã và đang vâng theo lời Chúa kêu gọi. Tôi đang nhìn thấy trong họ đạo Cồn Phước này, có những tâm hồn quảng đại, luôn lắng nghe tiếng Chúa, và luôn phấn đấu từng ngày để trở lại tình yêu Thiên Chúa. Trở lại, rồi ở lại, rồi đi sâu vào tình yêu Thiên Chúa.
Xin Chúa Thánh Thần trong thánh lễ hôm nay đến với chúng ta, giúp cho lời Chúa hôm nay thấm vào tâm hồn ta, giúp cho chúng ta biết thực hành lời Chúa với tất cả tâm hồn. Amen.
Sách Tông Đồ Công Vụ, mà chúng ta vừa nghe, cho thấy: Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các thánh tông đồ.
Người đã không hiện ra dưới một hình dạng cao sang, nhưng dưới một hình dạng đơn sơ bé nhỏ. Đó là hình dạng cái lưỡi, và cái lưỡi đó toàn là lửa. Tôi hiểu lửa đó là lửa tình yêu, lửa bác ái. Bởi vì Chúa Thánh Thần là Tình yêu Thiên Chúa. Nhìn Chúa Thánh Thần trong biểu tượng lưỡi lửa tình yêu Thiên Chúa, tôi cảm thấy trong tôi nảy sinh những lời cầu nguyện có liên quan đến bác ái lời nói. Tôi xin được chia sẻ.
Trước hết, tôi cảm tạ Chúa Thánh Thần đã tích cực hoạt động trong biết bao người, để miệng lưỡi họ không bao giờ nói lời kết án một cách vô trách nhiệm, cho dù ai đó là kẻ tội lỗi công khai. Hơn nữa, Người còn giúp bao người biết nói những lời cởi gỡ khích lệ, giúp kẻ thiện chí đi về phía trước. Như Đức Kitô xưa đã nói với người phụ nữ ngoại tình: “Tôi cũng không kết án chị đâu. Chị hãy về và đừng phạm tội nữa” (Gioan 8,9). Thiết tưởng lời khoan dung đó đã là một kỶ niệm đẹp nhất trong đời người phụ nữ ấy.
Tôi cảm tạ Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn biết bao người, để miệng lưỡi họ không bao giờ nói lời khinh miệt ai, cho dù ai đó bị dư luận đẩy ra lề xã hội. Hơn nữa, Người còn giúp bao người biết chúc lành cho bất cứ ai làm được bất cứ việc tốt nào. Như Chúa Giêsu xưa đã chúc lành cho ông thu thuế Giakêu: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến với nhà này” (Luca 19,1-10). Tôi coi lời chúc lành trên đây đã là một liều thuốc hồi sinh cứu ông khỏi mặc cảm và cuộc đời bất công, ích kỶ.
Tôi cảm tạ Chúa Thánh Thần đã đổi mới biết bao người, để miệng lưỡi họ không bao giờ nói lời hận thù ghen ghét, cho dù có ai đó đã xử tệ với họ. Hơn nữa, Người còn giúp bao người biết nói lời tha thứ. Như Đức Kitô xưa đã cầu xin Đức Chúa Cha cho những kẻ ám hại Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Luca 23,34). Thiết tưởng lời vắn tắt trên đây đã nói nhiều chân lý cứu độ hơn trăm ngàn trang sách. Nếu chúng ta nói lên được lời cầu đó một cách chân thành, chính chúng ta sẽ đón nhận được ơn cứu độ. Bởi vì Chúa đã hứa ai tha thứ sẽ được thứ tha.
Tôi cảm tạ Chúa Thánh Thần đã mở lòng trí biết bao người, để miệng lưỡi họ không bao giờ nói lời tự phụ, coi mình và cộng đoàn mình là đạo đức hơn kẻ khác, cho dù kẻ khác đó là không công-giáo, không đồng quan điểm đạo đức với mình. Hơn nữa, Người còn giúp bao người biết nói những lời cởi mở, hiệp thông, giúp người ta thấy được phần nào hoạt động của Chúa Thánh Thần là rất đa dạng và không ranh giới. Như thánh Phaolô xưa đã viết cho tín hữu Corintô mà chúng ta vừa nghe: “Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều thứ chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa là Đấng làm mọi sự trong mọi người” (ICor. 12,3).
“Thiên Chúa là Đấng làm mọi sự trong mọi người”. Xin anh chị em nhớ câu đó. Đó là chân lý. Chân lý này sẽ an ủi chúng ta, nhất là khi chúng ta đau bệnh.
Sau hết, tôi cầu xin Chúa Thánh Thần thanh tẩy chúng ta khỏi mọi tính hư nết xấu, đặc biệt là khỏi thói quen lỗi bác ái trong lời nói.
Hôm nay, trong thánh lễ này, tôi tưởng nghĩ cách riêng đến những người già cả, đau bệnh. Tôi khẩn khoản xin Chúa Thánh Thần đến an ủi từng người, ban ơn thêm sức cho từng người, để mỗi người, dù ở đâu, dù trong hoàn cảnh nào, đều biết cảm tạ tình yêu Thiên Chúa, đều biết cậy trông vào tình yêu Thiên Chúa, đều biết làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.
Mọi người chúng ta, dù khoẻ mạnh, dù đau yếu, đều được Chúa sai đi truyền giáo. Việc truyền giáo tại địa phương này, trong thời điểm hiện nay, chỉ có thể thực hiện được một cách có hiệu quả, nếu chúng ta có tâm hồn bác ái, những lời nói bác ái, những việc làm và thái độ bác ái. Bác ái thiết thực. Bác ái theo gương Đức Kitô. Bác ái có chiều sâu nội tâm. Bác ái có lửa của Chúa Thánh Thần.
Ba bài sách thánh trong thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy: Thánh Gioan Baotixita là người được Chúa chọn ngay từ trong lòng mẹ.
Ngài không làm phép lạ nào. Nhưng sự sinh ra của Ngài chính là một phép lạ. Và trong cuộc sống của Ngài, những cái nhìn của Ngài cũng giống như phép lạ.
Thực vậy, đang khi mọi người lúc đó, kể cả những vị lãnh đạo tôn giáo, có vẻ an tâm với khuôn khổ nếp sống đạo của mình, thì Ngài nhìn thấy cần thiết phải có sự thay đổi từ bên trong đến bên ngoài. Và đang khi mọi người lúc đó cho rằng sự thay đổi nếp sống tôn giáo sẽ thực hiện được nhờ sự thay đổi chế độ chính trị, thì Ngài nhìn thấy sự thay đổi nếp sống đạo chỉ có thể thực hiện được bằng việc ăn năn sám hối của mỗi người. Và đang khi mọi người lúc đó sống bên cạnh Chúa Giêsu mà vẫn đợi chờ Đấng Cứu Thế, thì Ngài nhìn thấy Đức Giêsu Kitô chính là Đấng Cứu Thế, là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian. Và đang khi mọi người lúc đó quan trọng hoá địa vị và các việc đạo đức của mình, thì Ngài nhìn thấy bản thân mình chẳng là gì, chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, không xứng đáng cởi giây giày cho Đấng Cứu Thế.
Tất cả những cái nhìn trên đây đều mang tính chất tiên tri, và đều mang một vẻ đẹp thiêng liêng, đó là sự khiêm tốn, một sự khiêm tốn phát xuất từ một tâm hồn thinh lặng luôn chú tâm lắng nghe Lời Chúa, một sự khiêm tốn dấn thân rất cần cho mọi phát triển đời sống thiêng liêng của cá nhân và của cộng đoàn, một sự khiêm tốn quên mình luôn luôn là dấu chỉ của những người được Chúa chọn để dọn đường cho Chúa.
Thánh Gioan Baotixita đã được Chúa chọn để dọn đường cho Chúa Cứu Thế, và Ngài đã tích cực cộng tác với ơn Chúa gọi. Tin vào ơn gọi, Ngài luôn đi về phía trước, bất chấp các cản trở, và không cần biết kết quả trước mắt xảy ra cho mình.
Mọi người chúng ta đều được chia sẻ ơn gọi của thánh Gioan Baotixita, kẻ cách này, kẻ cách khác. Trong ơn gọi đó, chúng ta cũng hãy chia sẻ những cái nhìn của Ngài. Nhất là chúng ta cần bắt chước sự khiêm tốn quên mình và dấn thân của Ngài. Thánh Gioan Baotixita là một mẫu gương đẹp. Không phải để chúng ta sao chép, nhưng để chúng ta bắt chước tinh thần của Ngài, với những sáng kiến do Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta. Hội Thánh Việt Nam hôm nay đang cần những người như thế. Chính Chúa đang ước mong mỗi người chúng ta sẽ là một người như thế. Amen.
Gioan B. BÙI TUẦN
Bài giảng lễ Thánh Gioan Baotixita tại nhà thờ Chánh toà Long Xuyên, ngày 24-06-1995
“Phải, tôi đã đau khổ bởi Giáo Hội”, Đức Cha Albert Rouet đã viết như thế. Ngài tiếp: “Đau khổ vì Giáo Hội là vinh quang. Đau khổ bởi Giáo Hội thì phải cực. Giấu giếm làm chi các sự việc đó. Ngay ở điểm này, chúng ta cũng hãy khiêm tốn và rõ ràng. Nói cho đúng hơn, tôi phải đau khổ trong Giáo Hội. Tôi còn nhớ những cuộc gặp gỡ ấy, ba hay bốn lần mỗi tuần, tôi bị rình rập và theo dõi bởi những người chống đối nhiệt thành nhưng ẩn danh. Họ rình bắt chộp một lời nói, một phát biểu khác ý, để lập tức kết án tôi là rối đạo. Tôi đã gặp những tố cáo mật hoặc công khai của những người Kitô hữu chống lại chức linh mục và đức tin của tôi, bằng cả một dẫy dài những bài văn lậu và những trích dẫn bị cắt xén. Tôi thực sự làm chứng về điều này là khi một nhóm người tìm làm áp lực, để kéo Giáo Hội vào quĩ đạo của mình, họ coi mọi phương tiện đều tốt hết. Với những việc làm lặp đi lặp lại, phóng đại và biến thể, họ đã thành công gây nên sự nghi ngờ. Những lời vu khống tìm được những lỗ tai thích thú, đồng tình, ngay cả ở địa vị cao” (Albert Rouet, Au plaisir de croire, Anne Sigier, 1994, trang 131). Đức Cha Albert Rouet, trước đây là Giám mục phụ tá Paris, nay là Giám mục Poitiers, chủ tịch uỶ ban xã hội Hội Đồng Giám Mục Pháp. Ngài đã viết những sự thực trên, dựa theo kinh nghiệm mục vụ của Ngài. Đó chỉ là những chuyện đau lòng nhỏ, do vài nhóm nhỏ, tại một địa phương nhỏ.
Còn có những chuyện đau lòng lớn do những tập thể lớn của Giáo Hội là dân Thiên Chúa toàn cầu. Trong lịch sử Giáo Hội là dân Thiên Chúa, đó đây đã có những lỗi lầm mang qui mô lớn, kéo dài nhiều năm, như những hệ thống nguyên tắc vững bền. Cha Yves M.J. Congar, nhà thần học lừng danh về sự sống Giáo Hội, sau này là Đức Hồng Y Congar, đã nêu lên một số lỗi lầm loại đó. Như cách giữ đạo máy móc theo thói quen, đạo đức giả hình, đạo đức khép kín, tính trì trệ và hẹp hòi, không theo kịp đà tiến của lịch sử, không tỉnh thức đón nhận giờ Chúa đến viếng thăm (Yves M.J. Congar, Vraie et fausse réforme dans l'Eglise, 1950). Những lỗi lầm nặng nề như thế đã làm đau lòng những ai mến yêu và nhiệt thành muốn Giáo Hội phát triển. Họ phải đau khổ trong Giáo Hội và bởi Giáo Hội.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã nhiều lần tỏ vẻ đau lòng vì những lỗi lầm đang xảy ra trong Giáo Hội. Ngài đau lòng trước cảnh sa sút đạo đức, mà Ngài gọi là “Những khó khăn nội bộ” (Thông điệp Sứ Mạng Đấng Cứu Thế, 1991, số 36). Ngài đau lòng trước những hiện tượng tiêu cực luân lý mà Ngài gọi là “Những sai lầm, những hàm hồ, và sự lãng quên” (Thông điệp Chân Lý Sáng Ngời, 1993, số 30-33). Ngài đau lòng trước những phản chứng và những gương mù trong lịch sử Giáo Hội (Thông điệp Thiên Niên Thứ Ba, 1994, số 33-36).
Không phải thời nay mới có chuyện đau khổ bởi Giáo Hội. Ngay thuở ban đầu đã có những chuyện như thế. Các thánh tông đồ, ngay cả thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi, tuy sống với các đoàn sủng Thánh Linh, vẫn mang trong mình những giới hạn, những yếu đuối. Các Ngài đã có những lời nói, những việc làm, và những thiếu sót làm đau lòng Đức Kitô.
Hơn nữa, hầu như cả một tập thể những người có đạo bấy giờ đã làm Đức Kitô đau khổ. Chính họ đã cáo gian bỏ vạ và xỉ vả Người. Chính các vị lãnh đạo tôn giáo của họ đã âm mưu giết Người. Hãy xem thánh lễ đồng tế của Người trên núi Sọ. Thực là cùng cực. Đã có một người ngoại đạo, tên là Simon, vác đỡ thánh giá cho Người, đã có hai người trộm cướp bị đóng đinh hai bên tả hữu Người. Đức Kitô đã đau khổ vì những người có đạo, và bởi chính những người tin thờ Thiên Chúa.
Các sự việc như trên cho thấy: Giáo Hội là dân Thiên Chúa, sẽ chỉ làm chứng được sự thánh thiện của mình bằng thái độ khiêm tốn. Khiêm tốn ăn năn sám hối trở về. Khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ của Đức Kitô bằng đức tin. Khiêm tốn lắng nghe Chúa Thánh Thần soi sáng qua huấn quyền và các thực tại. Khiêm tốn sống Lời Chúa trong đời thường. Khiêm tốn làm chứng cho Tin Mừng bằng đời sống dấn thân từ những việc nhỏ. Khiêm tốn chỉnh đốn lại các mối dây liên hệ hiệp thông trong chân lý và bác ái. Khiêm tốn cởi mở nhìn nhận những giá trị tự nhiên trong lịch sử nhân loại, để từ đó khởi đi việc rao giảng Phúc Âm. Nhất là khiêm tốn từ bỏ cái tôi tự phụ, hẹp hòi, để biết kính trọng người khác với những khác biệt của họ, và để tìm tòi những nhiệt tình mới, những phương cách mới, những diễn tả mới trong việc sống đạo và truyền giáo.
Phải chăng mỗi người và mỗi cộng đoàn trong Giáo Hội Việt Nam đang cần được tân-phúc-âm-hoá chính mình theo hướng đó.
Long Xuyên, ngày 02-07-1995
+ Gioan B. Bùi-Tuần
Để thương nhớ Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, vừa qua đời ngày 01-07-1995
Bài Phúc Âm Chúa nhật thứ XII hôm nay khởi đầu bằng một câu hỏi của Chúa Giêsu. Chúa hỏi các môn đệ xem người ta chung quanh nghĩ gì về Ngài?
Sau khi các môn đệ đã trình bày lên Chúa dư luận chung quanh nghĩ về Thầy mình, thì Đức Kitô lại hỏi thêm một câu nữa. Người hỏi xem chính các môn đệ nghĩ gì về Thầy?
Đây là một câu hỏi đòi các môn đệ phải rất thận trọng. Các môn đệ đã tuyên xưng Thầy mình chính là Đấng Cứu Thế. Sau đó, Đức Kitô mới mạc khải hai chân lý cứu độ quan trọng: Chân lý thứ nhất là về sự Đức Kitô phải bị bắt bớ, phải bị giết đi, rồi sau sẽ sống lại. Chân lý thứ hai là những ai đi theo Đức Kitô cũng sẽ phải bắt chước Thầy mình, từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà đi theo Thầy, thì mới được sự sống đời đời.
Khi suy gẫm bài Phúc Âm Chúa nhật thứ XII này, tôi thấy có những chân lý cứu độ. Chúng ta không tìm được ở dư luận. Chúng ta cũng không đoán được ở nơi chính mình. Mà chúng ta chỉ có thể đón nhận từ chính Chúa mà thôi.
Như chúng ta vừa thấy: Chính Đức Kitô mạc khải về Đấng Cứu Thế phải chết và được sống lại. Chính Đức Kitô mạc khải những kẻ theo Chúa phải từ bỏ mình để có sự sống đời đời. Đó là mạc khải của Đức Kitô.
Chúng ta dừng lại ở chân lý thứ hai này. Bởi vì, nó có liên hệ đến đời sống chúng ta, đến đời sống cộng đoàn chúng ta.
Về việc phải từ bỏ mình, thì Đức Kitô đã nói rất rõ ràng, rất dứt khoát. Có lần Đức Kitô đã nói: “Ai muốn theo Ta mà không từ bỏ cha mình, mẹ mình, con cái mình, vợ mình chồng mình, và của cải của mình, và đi theo Ta, kẻ đó không là môn đệ của Ta”.
Hơn nữa, không phải chỉ là bỏ, không phải chỉ là từ, mà còn phải vác thánh giá mình mỗi ngày. Không vác thánh giá Chúa trao cho thì không xứng đáng là môn đệ của Chúa. Thực là rõ. Và đó là điều kiện Chúa mạc khải.
Suy gẫm lời Chúa dạy trên đây, tôi xác tín rằng: Từ bỏ mình, đó là cách cộng tác vào công việc cứu độ của Đức Kitô. Từ bỏ mình, đó là một bằng chứng tôi muốn yêu mến Chúa Kitô. Từ bỏ mình vì mến Chúa, đó là hai cánh thiêng liêng tôi bay lên tới Chúa. Từ bỏ mình vì mến Chúa, đó là đôi tay thiêng liêng tôi phục vụ các linh hồn. Từ bỏ mình vì mến Chúa, đó mới thực sự là thánh lễ thiêng liêng tôi ca ngợi Thiên Chúa. Từ bỏ mình vì mến Chúa, đó là chìa khoá tôi mở lòng ra, để có thể đón nhận Đức Kitô vào hồn tôi, để Ngài ở trong đó, để Ngài biến đổi tôi nên chính Ngài. “Không phải tôi sống, nhưng chính là Đức Kitô sống trong tôi”. Khi nào tôi nói được một lời như vậy của thánh Phaolô, thì bấy giờ, sau khi từ bỏ hết mọi sự và từ bỏ chính mình, tôi mới thực sự là người thuộc trọn về Chúa.
Chân lý cứu độ này không phải ai cũng hiểu được và không phải ai cũng nhận ra được. Vì thế, chúng ta cần phải xin Chúa Thánh Thần soi sáng. Và chúng ta cũng phải cầu xin trong thinh lặng để đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, vì chân lý từ bỏ mình vác thánh giá mình để theo Đức Kitô, không đơn giản chút nào! Nhưng trái lại, tôi xin quả quyết: Nếu chúng ta biết từ bỏ mình vì mến Chúa, chúng ta sẽ cảm nghiệm được một niềm vui thiêng liêng chan chứa trong lòng chúng ta. Chúng ta sẽ thấy thiên đàng đã bắt đầu trong đời sống trần thế hiện nay của chúng ta. Chúng ta bỏ đi tất cả, nhưng Chúa sẽ ban lại cho chúng ta gấp trăm, gấp ngàn, gấp triệu lần những gì ta từ bỏ vì Chúa.
Anh chị em thân mến,
Họ đạo anh chị em có nhiều điều tốt, nhưng cũng có nhiều điều chưa tốt. Chúng ta cần phải có ơn Chúa Thánh Thần giúp chúng ta từ bỏ mình. Từ bỏ những cái không phải là xấu mà thôi, mà cả những cái tốt, nhưng mà Chúa muốn chúng ta hy sinh để đổi mới lại. Sự từ bỏ mà Chúa đòi chúng ta không phải chỉ là bỏ tội lỗi, tính mê nết xấu, mà còn từ bỏ cả những cái đáng lẽ chúng ta có quyền hưởng. Chúa đòi như vậy, để chứng tỏ chúng ta thực lòng mến Chúa và thực lòng muốn tuân phục thánh ý Chúa.
Họ đạo anh chị em cần phải được phát triển trong nội bộ của mình, và phải mở ra về phía địa phương lương dân. Đã đến lúc chúng ta không phải chỉ là giữ đạo cho mình, mà chúng ta cần phải loan báo Tin Mừng cho anh chị em đồng bào chung quanh chúng ta. Chúng ta chỉ có thể làm được việc đó, khi chúng ta quyết tâm từ bỏ chính mình vì mến Chúa, theo lời Chúa gọi, theo lời Chúa sai đi, theo khả năng, và theo yêu cầu của thời điểm của mình.
Có như vậy chúng ta mới đi đúng con đường mà Chúa đã đặt cho họ đạo chúng ta, một họ đạo giữ một địa vị quan trọng trong địa phận, một họ đạo có một vị trí quan trọng về thành tích lịch sử. Chúng ta hãy đáp ứng lại lời Chúa gọi. Chúng ta hãy quảng đại trước những đòi hỏi yêu cầu của Thiên Chúa. Chúa thương yêu chúng ta. Chúng ta xin vâng phục thánh ý Chúa.
Trong niềm tin ấy, giờ đây chúng ta tuyên xưng đức tin và chúng ta cầu nguyện cách riêng cho con em chúng ta. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay để cập tới những cái đà trong con mắt.
Những cái đà cản trong mắt, đó là những thành kiến, sự hời hợt, sự nông nổi, và nhất là cái tôi đầy lầm lạc. Không những tôi cầu xin Chúa gỡ khỏi mắt tôi những cái đà cản đó, mà còn cầu xin Chúa cho tôi được chia sẻ cái nhìn của Đức Mẹ Vô Nhiễm, bổn mạng của nhà thờ này.
Sau khi cầu nguyện, giờ đây, tôi đang nhìn thấy những sự thực ở họ đạo này, những sự thực mà con mắt thường sẽ không thấy. Tôi đang nhìn thấy Đức Kitô hiện diện giữa anh chị em, để cùng với anh chị em đồng hành trên một cuộc sống đi về Nước Trời. Tôi đang nhìn thấy Đức Kitô âm thầm gõ cửa từng trái tim một, xin mỗi người hãy mở lòng mình ra để đón nhận tình thương cứu độ của Người. Và hơn nữa, Đức Kitô xin mọi người hãy đón nhận chính Người vào lòng mình, và hãy sống mật thiết hơn với Người, để rồi cùng Người ra đi rao giảng Tin Mừng cứu độ các linh hồn.
Tôi cũng đang nhìn thấy Đức Mẹ khuyên nhủ chúng ta: Hãy thực sự gặp gỡ Đức Kitô, hãy thực sự lắng nghe lời Đức Kitô, hãy thực sự hiểu lòng Đức Kitô, hãy thực sự đi theo Đức Kitô.
Và tôi cũng đang nhìn thấy thánh Gioan Baotixita nhắn nhủ chúng ta và chỉ vào Đức Kitô mà nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian... Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài”.
Trong tất cả những cái nhìn mà tôi nắm bắt bây giờ, ngay tại ở đây, trong họ đạo này, tôi thấy điều quan trọng nhất mà chúng ta cần thực hiện, đó là thực sự gặp gỡ Đức Kitô, thực sự đón Người vào trong lòng mình.
Gặp gỡ Đức Kitô, đó là mục đích chính của đời ta, nhất là của cuộc lễ hôm nay.
Lắng nghe Đức Kitô, đó là đỉnh cao nhất của cuộc lễ tạ ơn này. Nếu không, chúng ta chỉ là những người chạy theo những việc bề ngoài mà trong lòng trống rỗng.
Tôi đang nhìn thấy một số anh chị đang cố gắng thực sự gặp gỡ Đức Kitô.
Từ hôm qua đến nay, tôi nhìn thấy cảnh ồn ào vui vẻ của họ đạo anh chị em. Tôi biết cảnh nhộn nhịp có cái hay của nó. Nhưng, chúng ta đừng quên: Hãy trở lại lòng mình, hãy đi vào sự thinh lặng của tâm hồn. Chỉ nơi đó, chúng ta mới gặp được Đức Kitô. Chỉ nơi đó, chúng ta mới có thể lắng nghe được Đức Kitô. Và chỉ nơi đó, chúng ta mới có thể kết hợp mật thiết với Đức Kitô. Và chỉ bằng cách đó, Chúa mới có thể mạc khải được Ngài là Đấng cứu độ của chúng ta.
Tôi thấy ở đây có nhiều tâm hồn quảng đại, đang tìm Chúa, đang lắng nghe tiếng Chúa. Đó là niềm vui lớn lao của tôi và của họ đạo, đó là niềm hy vọng sâu sắc của họ đạo và của tôi. Nếu không có như vậy, tất cả những gì chúng ta xây dựng đều trở nên vô ích, trở nên hư ảo hết. Tâm hồn chúng ta cần phải là nơi Chúa gặp gỡ. Đời sống chúng ta cần phải được biến đổi luôn mới.
Tôi tin rằng, một số người đã cảm nghiệm thấy. Sự cảm nghiệm ấy dễ nhận được, ghi được, qua sự chúng ta thấy lòng mình đổi mới, thấy có một cái nhìn mới về mình khiêm tốn hơn, có một cái nhìn mới về tha nhân kính trọng hơn, có một cái nhìn mới về Thiên Chúa xót thương hơn và có một cái nhìn mới về cuộc sống dấn thân hơn, quảng đại hơn, nghĩa là có một cái gì biến đổi tâm hồn, để chứng tỏ chúng ta thật sự đang gặp gỡ Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta.
Trong thánh lễ này, tôi sẽ cùng với cha xứ và anh chị em, tất cả chúng ta tạ ơn Thiên Chúa. Và với ơn Chúa Thánh Thần, tôi hy vọng họ đạo chúng ta ở nơi đây, sẽ là một chứng từ của sự phát triển Tin Mừng. Tin Mừng là Đức Kitô.
Muốn được như vậy, giờ đây, chúng ta hãy bỏ quên tất cả. Hãy sốt sắng cầu nguyện xin Chúa Thánh Linh ngự đến với chúng ta, mở cửa lòng tâm hồn chúng ta, để đón nhận ơn Đức Kitô đổi mới. Amen. Hòn Đất, ngày 26-06-1995
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa phán: “Các con dùng đấu nào mà đong cho người khác, thì Chúa cũng sẽ dùng đấu đó mà đong lại cho các con”. Tôi thấy lời ấy đang được thực hiện nơi họ đạo Bình Sơn chúng ta.
Thực vậy, anh chị em đã dùng đấu bác ái để đong những tình thương cho những người chung quanh, nên bây giờ Chúa cũng dùng đấu bác ái để đem lại tình thương cho họ đạo anh chị em. Anh chị em đã dùng đấu quảng đại để đong những tâm tình kính trọng phục vụ cho những người chung quanh, thì bây giờ Chúa cũng dùng đấu quảng đại để trả lại cho anh chị em những hồng ân lớn lao phần hồn phần xác. Anh chị em đã dùng đấu chân tình cởi mở để đối xử với những người chung quanh, thì bây giờ Chúa cũng đang dùng đấu chân tình cởi mở để trả lại cho anh chị em gấp trăm, gấp ngàn, những gì anh chị em đã cho đi.
Sự chân tình cởi mở, cũng như sự quảng đại bác ái của anh chị em, không đơn thuần chỉ là do tự nhiên, nhân bản, mà còn là do đức tin. Chúng không phát xuất từ những nhu cầu của những người xung quanh, mà phát xuất từ lòng mến Chúa bên trong. Lòng mến Chúa ấy đã được hun đúc bởi sự năng viếng Mình Thánh, bởi sự năng đi dự thánh lễ, bởi năng suy gẫm lời Chúa.
Tôi được biết là anh chị em đã chuyên cần trong việc học hỏi lời Chúa và siêng năng tham dự thánh lễ. Nhất là để chuẩn bị cho lễ Thêm sức hôm nay, anh chị em đã làm tuần ba ngày, học hỏi Lời Chúa, nhắc nhở nhau đi tham dự thánh lễ thật đông, tích cực lãnh nhận các bí tích để gặp gỡ Đức Kitô.
Với lửa mến Chúa trong lòng, những ngôi đền của Chúa sẽ có được một sự sống mới. Bởi vì, chính Đức Kitô là Đấng ban sự sống. Lời Đức Kitô là lời ban sự sống. Và khi có sự sống của Đức Kitô, những người con của Chúa sẽ rất bén nhạy, sẽ rất tỉnh thức, để nắm bắt thời cơ, để biết tránh né những nguy cơ, và nhất là, để biết đón nhận Thiên Chúa đến với mình.
Tôi vừa đến đây, được trao đổi đôi chút với cha phụ trách và anh chị em, tôi có cảm tưởng là họ đạo Bình Sơn đây đang có một mô hình điển hình cho những nơi truyền giáo, một mô hình mà Chúa Thánh Linh đang hoạt động với những đoàn sủng của Ngài.
Đoàn sủng thứ nhất Chúa ban cho những nơi truyền giáo như ở đây, cho họ đạo nói chung và cho từng người nói riêng, là có những sáng kiến để làm chứng cho Chúa một cách rất có hiệu quả. Người làm chứng cách này, người làm chứng cách khác. Đó là đoàn sủng Chúa ban cho.
Đoàn sủng thứ hai mà tôi thấy là Chúa cũng đang ban cho họ đạo này đó là sự dễ dàng trong việc thiết lập cộng đoàn. Có nhiều nơi muốn thiết lập mà không thành. Nhưng ở đây, qua lời trình bày của ông đại diện, tôi thấy anh chị em từ khắp nơi qui tụ về đây, không những đã thiết lập thành một cộng đoàn lớn, mà còn đã thiết lập được nhiều cộng đoàn nhỏ, nhiều nhóm nhỏ, để trong những cộng đoàn nhỏ đó, anh chị em cùng chia sẻ lời Chúa, cùng chia sẻ cuộc đời tương thân tương ái với nhau, nâng đỡ lẫn nhau trong tinh thần bác ái. Thiết lập cộng đoàn, đó là một đặc ân mà Chúa Thánh Linh đang ban phát nhiều cho địa phận ta và cho nhiều địa điểm truyền giáo như ở đây.
Đoàn sủng thứ ba mà tôi thấy là Chúa Thánh Thần đang ban phát cho ở đây, đó là đoàn sủng soi sáng. Chúa soi sáng cho họ đạo nói chung và cho từng người nói riêng, để biết nhìn thấy ý Chúa qua những sự việc khác nhau, để biết tìm ra con đường Chúa soi sáng, qua những lời Chúa dạy, qua những người mình gặp, qua những thời cơ đang tới. Đoàn sủng soi sáng, đó là một ơn mà Chúa Thánh Linh đang ban cho những nơi truyền giáo, trong đó có họ đạo anh chị em.
Một đoàn sủng khác mà tôi thấy Chúa thấy là Chúa Thánh Linh đang ban cho họ đạo này, đó là đoàn sủng trở lại. Có nhiều nơi, tại những họ đạo lớn già cỗi, không có sự trở lại. Đang khi ở những cộng đoàn nhỏ mới lập, lại có nhiều sự trở lại, cách này, cách kia, không phải do những người đặc biệt, mà là do những người bình dị. Đó là đoàn sủng mà Chúa ban cho họ đạo anh chị em. Vì là địa điểm truyền giáo nên Chúa thương.
Đoàn sủng sau cùng mà tôi thấy Chúa Thánh Thần ban cho họ đạo anh chị em, đó là đoàn sủng tiên tri. Chúa ban đoàn sủng tiên tri là để giúp anh chị em nhìn thấy một phương cách sống làm sao, để họ đạo chúng ta trở thành một nơi sẽ thu hút được nhiều người khác đến với Chúa, sẽ là một nơi cởi mở, sẽ là một nơi hoà nhập, sẽ là một nơi trẻ trung, sẽ là một nơi bình dị. Những nét bình dị, hoà nhập, cởi mở, đó là những nét mang tính chất tiên tri, giúp cho con người xa Chúa biết tìm về với Chúa, biết qui tụ thành những Hội Thánh nhỏ ở các địa phương.
Anh chị em thân mến,
Tôi chỉ nhìn qua, và tôi thấy như vậy. Tôi muốn nói lên những sự anh chị em đang lãnh nhận ở Chúa, để anh chị em vững tin là Chúa vẫn ở với anh chị em. Chúa đang hoạt động nơi anh chị em. Và Chúa muốn anh chị em trở thành những dụng cụ của Chúa. Hãy luôn luôn trẻ trung, với bộ mặt Hội Thánh trẻ trung, với bộ mặt cởi mở bình dị và biết hoà nhập. Đó là những điều mà anh chị em xưa nay đã có. Hãy tiếp tục vun trồng và hãy tích cực cộng tác với đoàn sủng Chúa Thánh Linh.
Giờ phút này, chúng ta tin tưởng vào Chúa và hết sức cầu xin cho họ đạo nói chung, và cho các con em chúng ta nói riêng, được Chúa Thánh Thần ngự đến, ở lại, và luôn luôn hướng dẫn họ đạo chúng ta trên con đường phát triển. Amen. Bình Sơn (Vàm Rầy), ngày 26-06-1995
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa phán: “Tất cả những gì chúng con muốn cho kẻ khác làm cho chúng con, thì chúng con hãy làm những điều đó cho người khác”. Vậy giờ đây, mỗi người chúng ta hãy tự kiểm điểm mình xem, chúng ta muốn người khác làm gì cho chúng ta, nhất là chúng ta muốn Chúa làm gì cho chúng ta. Riêng tôi, tôi xin thành thực nói lên điều tôi mong ước. Tôi mong ước người ta yêu thương tôi, hơn là tôi xứng đáng được yêu thương. Tôi mong ước Chúa yêu thương tôi, hơn là tôi xứng đáng được Chúa yêu thương. Tôi coi mình như một hạt lúa bé nhỏ, tự nó không thể mọc mầm, tự nó không thể lớn lên, tự nó không thể phát triển. Nó phát triển thành cây, trổ bông, là nhờ đất tốt, là nhờ nước tốt, là nhờ người chăm sóc nó. Tôi cũng như vậy.
Nếu như vậy, tôi cần phải được người khác yêu thương tôi, hơn là tôi xứng đáng được yêu thương. Mà nếu đúng như vậy, thì giờ đây, tôi muốn cho mọi người được Chúa yêu thương, hơn là tôi xứng đáng. Và nhất là, tôi mong muốn Chúa yêu thương họ đạo Đức Mẹ lên trời ở đây một cách thiết thực, hơn là họ đạo này xứng đáng được yêu thương.
Khi tôi nói như vậy, là tôi nhắm đề cao sự khiêm tốn của anh chị em họ đạo này. Và đồng thời, tôi cũng muốn đề cao tình thương của những ân nhân xa gần đối với họ đạo này. Đặc biệt, tôi đề cao lòng xót thương vô biên của Thiên Chúa, và lòng nhân hậu hải hà của Đức Mẹ.
Tâm tình tạ ơn có chiều sâu khiêm tốn, đó là đi vào cửa hẹp mà bài Phúc Âm hôm nay đã nhắc nhở chúng ta đi vào.
Đi vào cửa hẹp, tức là đi vào con đường khiêm tốn, nhất là khi chúng ta tạ ơn Thiên Chúa và biết ơn những người ân nhân xa gần.
Trong kinh tạ ơn, Đức Mẹ đã nói: “Linh hồn tôi cảm tạ Chúa, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tôi tớ Chúa”. Đức Mẹ xưng mình là thân phận hèn mọn, nhưng đã được Chúa đoái nhìn.
Họ đạo anh chị em đây, khi cảm tạ Thiên Chúa, cũng cần phải nhận thức thân phận bé bỏng, yếu hèn của mình. Và đồng thời, phải nhìn thấy đôi mắt xót thương của Thiên Chúa dành cho mình. Không những là chúng ta khiêm tốn, mà chúng ta cần phải có một trái tim biết nhìn Thiên Chúa, nhìn cái nhìn của Thiên Chúa đang dành cho chúng ta, một cái nhìn nhân ái, một cái nhìn xót thương, một cái nhìn quảng đại.
Trong tâm tình tạ ơn, không những chúng ta cần phải có sự khiêm tốn và trái tim chan hoà tình mến để gặp gỡ Đức Kitô, mà chúng ta còn cần phải có một quyết tâm dấn thân, chia sẻ Tin Mừng.
Chúa càng cho ai nhiều hơn, thì Chúa càng đòi hỏi họ nhiều hơn việc phải biết chia sẻ Tin Mừng Chúa đã ban cho họ.
Trong mấy ngày nay, tôi có dịp đi thăm mấy giáo điểm vùng sâu. Tôi rất vui mừng nhận thấy tại đó Tin Mừng Phúc Âm được phát triển rất mạnh. Điều tôi vui mừng hơn hết là thấy những tông đồ giáo dân đã hăng say chu toàn bổn phận gia đình, bổn phận giáo xứ, và lại còn thời giờ, còn tìm nhiều dịp để chia sẻ Tin Mừng cho những người xung quanh. Có nơi tôi thấy, những tông đồ truyền giáo ấy lại là những người tân tòng, và có cả những người chưa rửa tội. Họ được ơn Chúa khơi dậy một sự phấn khởi đi tìm Thiên Chúa, và đi chia sẻ Tin Mừng, bằng cách tích cực tham gia những việc từ thiện, đến với những người nghèo khó, đến với những người già cả, đến với những người cô đơn.
Họ chia sẻ Tin Mừng bằng cách tích cực tham gia những việc chung, bằng cách kiên trì khuyên nhủ những người bê trễ đi sai đường trở về với nẻo chính, về với con đường nhân đức. Theo tôi, thì đúng là Chúa yêu thương họ hơn chính họ xứng đáng được yêu. Chúa chọn họ, hơn là họ xứng đáng được chọn. Và trong chiều kích tạ ơn, chúng ta thấy có một chiều kích truyền giáo rất rõ, rất mạnh, được chứng tỏ bằng những việc thiết thực, trong tầm tay, trong khả năng của mình.
Anh chị em đây đã được rất nhiều ơn Chúa, qua Hội Thánh, qua các ân nhân, qua chính quyền, qua các tôn giáo bạn. Anh chị em hãy tạ ơn Chúa, bằng cách quyết tâm dùng ơn ấy để làm sao cho mình và cho những người chung quanh biết sống những giá trị cao cả nhất, biết sống những giá trị truyền thống của dân tộc mình, nhất là biết sống những giá trị cao cả của Phúc Âm.
Lúc nãy, khi bước chân vào nhà thờ này, nhìn lên tượng Chúa, tôi đã nói thầm với Chúa rằng: Chúng con đến đây để tạ ơn Chúa. Và Chúa nói trong lòng tôi: Cha cũng chỉ mong chờ chúng con đến đây, nhưng phải nói thiệt, là có nhiều người đến đây mà không nhìn Cha, không gặp được Cha, và cũng không mở lòng mình ra để đón nhận Cha.
Chúng ta biết rồi, kinh nghiệm đã dạy: Của cải rất mau qua. Những nhà, những của, kể cả mạng sống đều rất mong manh. Nhưng chúng ta có một linh hồn,chúng ta có một thân phận đời này và mãi mãi đời sau. Chúng ta chỉ có thể xây dựng được thân phận đó trên hạnh phúc đời đời, nếu chúng ta gặp gỡ được Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta, ngay bây giờ, trong tâm hồn sâu thẳm nội tâm của mình.
Xin Người mãi mãi ở trong ta, hướng dẫn ta. Và đời sống ta sẽ trở nên bài ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.
Lễ khánh thành nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời kinh Zéro, ngày 27-06-1995
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu cắt nghĩa vắn tắt thế nào là một chứng nhân.
Chứng nhân là người làm chứng. Làm chứng ở đây là làm chứng mình, cộng đoàn mình, tốt nhiều, tốt ít, hay không tốt.
Chúa Giêsu ví mỗi người chúng ta như một cây. Một cây sinh trái tốt thì được đánh giá là cây tốt. Còn trái lại, một cây không sinh trái, hay sinh trái xấu, thì bị đánh giá là cây xấu. Người ta cứ nhìn cây, nhìn hoa, để đánh giá trái sẽ sinh ra.
Và đi xa hơn nữa, người ta cũng căn cứ vào việc làm của chúng ta, vào đời sống của chúng ta, của từng người chúng ta để đánh giá chúng ta, để đánh giá từng người chúng ta.
Bài học Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay như tôi vừa diễn tả vắn tắt, đang gợi lên trong tôi những niềm hy vọng và những nỗi lo âu. Tôi đã đi thăm nhiều giáo điểm, nhiều họ đạo. Và mỗi một nơi thường để lại trong tôi những ấn tượng. Có nơi để lại ấn tượng rất sâu sắc về những việc làm tốt, về những đời sống tốt, chứng tỏ người đó, cộng đoàn đó, đang phát triển theo hướng Phúc Âm.
Tôi thấy có những giáo đoàn tuy nhỏ và nghèo, nhưng đã phát triển về mọi mặt:
Họ phát triển về đời sống, bằng cách mọi người nâng đỡ nhau, giúp nhau vượt được cảnh nghèo, để đi tới cảnh đủ ăn, dư ăn.
Họ phát triển về mặt trí thức, bằng cách bồi dưỡng chính mình về trí thức, và đưa con em mình, đưa những người thuộc về mình càng ngày càng đi cao hơn trong việc học vấn.
Họ phát triển về mặt môi trường, bằng cách sắp xếp nhà cửa, sân vườn chung quanh, sao cho đẹp, cho văn minh, cho hợp vệ sinh. Họ phát triển về mặt tôn giáo, bằng cách tham gia những lớp học hỏi Lời Chúa, tham gia những giờ cầu nguyện chung, và giúp cho họ đạo mình, cho cộng đoàn mình, cho gia đình mình vượt qua được những tiêu cực thường có.
Họ phát triển về mặt truyền giáo, bằng cách đi chia sẻ Tin Mừng cho những người ngoài tôn giáo chung quanh mình.
Trong những ngày qua, tôi đã có dịp chứng kiến: Có những cộng đoàn nghèo lắm, nhỏ lắm, nhưng đã làm được những việc rất tốt về sự phát triển:
Thí dụ, một cộng đoàn nhỏ và nghèo trong vùng sâu, năm nay có 6 em học sinh trúng tuyển kỳ thi trung học cấp ba. Cũng một họ đạo nghèo và nhỏ ở vùng sâu, chỉ trong vòng 2 năm nay, đã đưa được hơn một chục gia đình ngoài Công giáo đi về cộng đoàn Công giáo. Cũng một cộng đoàn nhỏ và nghèo, ngày ngày người ta thi đua nhau đi tham gia những việc từ thiện xã hội. Họ đoàn kết lại, để làm những việc chung, tu sửa nhà thờ, xây dựng phòng học, và đi làm những việc từ thiện bác ái đối với những người nghèo khó túng thiếu, già cả, neo đơn.
Những họ đạo có bầu khí cầu nguyện, bầu khí đoàn kết, bầu khí phấn khởi truyền giáo như vậy, đang chứng tỏ họ là những cây đang sản sinh những hoa thơm, những trái ngọt. Cứ nhìn vào những hoa trái đó thì chúng ta có thể đánh giá được những cá nhân ấy, những gia đình ấy, những khu xóm ấy, những họ đạo ấy, là những cây tốt, có Chúa Thánh Thần đang giúp đỡ.
Nhìn qua những tông đồ giáo dân ấy, tôi như thể nhìn thấy các thánh tông đồ xưa: Thánh Phêrô, thánh Phaolô mà chúng ta sắp mừng ngày mai, những vị tông đồ rất nhiệt tình, rất dấn thân, quên mình, xả thân, vác thánh giá mình, tha thứ nhịn nhục, miễn là Tin Mừng Đức Kitô được rao giảng. Và kết quả, có từng trăm, từng nghìn người, đã trở lại, xin chịu phép rửa tội.
Qua những người tông đồ giáo dân tôi gặp, tôi có cảm tưởng: Họ đã phác hoạ một mô hình tông đồ mới cho sự tân-Phúc-Âm-hoá, mà Đức Thánh Cha đang hô hào: Hãy lo việc tân-Phúc-âm-hoá trong xã hội văn minh hôm nay, bằng những tông đồ mới, với những phong cách mới, với những nhiệt tình mới, với những sáng kiến mới.
Bên cạnh những niềm vui do những điều tôi gặp, thì có những lo âu cũng do những điều tôi gặp.
Thành thực mà nói, tôi đã gặp một số nơi, hình như không có hoa, không có quả thiêng liêng. Có những dấu hiệu cho tôi đoán rằng: Nơi đó đang tụt hậu một cách thê thảm: Tụt hậu về đàng trí thức. Tụt hậu về đàng nhân đức. Tụt hậu về đức bái ái. Tụt hậu về đức tin.
Điều làm tôi lo âu, không phải chỉ là kém cỏi về mặt đạo đức và truyền giáo, mà nhất là, vì lời Chúa răn đe trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa nói: “Cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi, và ném vào lửa”.
Đó là điều tôi lo ngại cho chính tôi. Tôi lo ngại cho anh em linh mục của tôi. Tôi lo ngại cho tất cả anh chị em. Nếu chúng ta không sinh trái tốt, thì sẽ bị cắt đi, và ném vào lửa.
Anh chị em thân mến,
Trong bài chào mừng lúc nãy, ông đại diện giáo xứ có kể ra một số cố gắng của họ đạo anh chị em, nhằm khắc phục những tiêu cực trong họ đạo, và phát triển những điểm tốt. Tôi rất đồng ý. Tôi rất vui mừng với anh chị em, với cha sở, với cha phó, và với toàn thể giáo xứ. Chúng ta cùng nhau ca tụng ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải có một sự khiêm tốn, để nhận rằng: Những việc chúng ta làm mới chỉ là kết quả nhỏ bé thôi, còn cần phải phấn đấu nhiều lắm.
Khi tôi nhìn quang cảnh dự lễ hôm nay, tôi thấy giáo xứ Năng Gù được coi là một giáo xứ lớn, giáo dân lại đông, mà nhà thờ thì tương đối nhỏ. Vậy mà, phần cuối nhà thờ vẫn còn khá nhiều chỗ trống. Tự nhiên tôi lo cho tương lai của giáo xứ. Tôi hiểu: Thời nay, cuộc sống vật chất có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống đạo, đến đời sống đức tin.
Nhưng, 5 năm nữa, 10 năm nữa, khi làn sống vật chất, văn minh hưởng thụ tràn đến đây, thì không biết nhà thờ này có còn người đi lễ đông đảo, ít là bằng hôm nay không? Và lúc ấy, con em chúng ta có còn coi Đức Kitô là Tin Mừng của nó không? Có còn coi Đức Kitô là Đấng cứu độ của mình không?
Đó là điều làm tôi thực sự lo lắng, và tôi có lý do để lo lắng. Cho nên, trong giờ phút này đối diện với Đức Kitô, tôi xin anh chị em hãy sốt sắng cầu nguyện cho chính mình, cho họ đạo của mình, cho con em của mình, luôn luôn là những cây trổ sinh hoa thơm trái ngọt, và luôn luôn biết dấn thân làm tông đồ trong thời đại tân-Phúc-Âm-hoá này, thời đại đầy khó khăn, đầy quyến rũ. Cho nên, cần phải có sáng kiến, cần phải có dấn thân, cần phải chấp nhận vác thánh giá.
Xin Chúa Thánh Linh ngự xuống trên chúng ta, và làm cho tâm hồn chúng ta biết mở ra để đón nhận Đức Kitô, Đấng cứu thế của chúng ta, là Tin Mừng của chúng ta. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa phán: “Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi”.
Lời Chúa phán trên đây đang là một nguồn an ủi lớn cho tôi. Khi tôi càng nhìn nhận mình là con người tội lỗi, tôi càng cảm thấy Chúa đang đến gần tôi. Bởi vì, chính Chúa đã khẳng định: Chúa đến, không phải để kêu gọi người công chính, mà là để kêu gọi người tội lỗi. Vậy, tôi là người tội lỗi, nên tôi có quyền hy vọng Chúa đến với tôi.
Điều này đang là một vấn đề làm cho tôi suy nghĩ. Nhất là từ lúc tôi vào thăm “trạm xá tình thương”. Khi tôi vào thăm những bệnh nhân, tôi đã nhìn thấy tận mắt cảnh đau đớn của từng người. Và đồng thời, tôi cũng đã nhận thấy niềm tin và tinh thần hiến dâng của từng người. Tôi có cảm tưởng là Thiên Chúa sống trong các bệnh nhân.
Khi một người chấp nhận đớn đau trong niềm tin và trong tinh thần dâng hiến, thì người đó đang dâng thánh lễ. Dâng thánh lễ là dâng đời mình, là dâng bản thân mình, hiệp thông với thánh lễ của Đức Kitô. Thánh lễ của họ có giá trị cứu độ cho bản thân mình, cho những người xung quanh, và cho Hội Thánh, cho nhân loại.
Khi nhìn thấy những bệnh nhân, tôi nhìn thấy Đức Kitô đang đến với tôi, và Người nói với tôi rằng: “Hội Thánh của con tại nhiều nơi, cũng giống như một trạm xá, trong đó biết bao nhiêu người bệnh tật đang chờ được chăm sóc chữa trị. Trong trạm xá lớn lao là cả một Hội Thánh hôm nay, có những người bệnh là giáo dân, có những người bệnh là tu sĩ, có những người bệnh là linh mục, có những người bệnh là giám mục. Tất cả chúng con, trước mặt Thiên Chúa Cha toàn năng, đều là những người bệnh tật. Phúc cho những ai vui lòng đi vào trạm xá thiêng liêng, khi nhận biết mình có bệnh tật, cần được chữa trị, và chịu để cho Chúa Thánh Linh chữa trị. Nhưng khốn thay cho những ai không biết mình bệnh, và không chịu để cho Chúa chữa trị!”.
Tôi thấy lời Chúa soi sáng cho tôi lúc này đúng là một sự thực, mà tôi đang nhìn thấy trong Hội Thánh hôm nay:
Có những điều tôi không thể chia sẻ với anh chị em, nhưng là những sự thật đang là mối hiểm hoạ cho tương lại Hội Thánh. Bởi vì, biết bao thành phần của Hội Thánh đang bị bại liệt, đang bị nguội lạnh, đang sống trì trệ, đang sống xa Chúa. Thế nhưng, lại không đón Chúa đến với mình. Bởi vì, họ không nhận biết mình là kẻ tội lỗi, yếu đuối, cần được chữa trị.
Thời điểm hôm nay, Giáo Hội Việt Nam coi như đang bước vào một thời điểm thuận lợi. Nhưng, xin nói thật với anh chị em, không hoàn toàn thuận lợi đâu. Còn biết bao nhiêu khó khăn do chính nội bộ chúng ta gây nên. Nhất là những khó khăn do tội lỗi, do tính mê nết xấu, do những thói quen không tốt, do cái tôi tự phụ, hẹp hòi, và chủ quan. Thiên Chúa đến với chúng ta, nhưng sẽ không thể chữa trị chúng ta, nếu chúng ta không nhận mình là những người tội lỗi, yếu hèn, cần được chữa trị.
Vì thế, chúng ta cần phải có tinh thần khiêm tốn, nhận mình còn rất nhiều thiếu sót, còn rất nhiều lỗi lầm. Và với một tâm hồn khiêm tốn, hãy cậy trông vào quyền năng Chúa Thánh Linh và Đức Kitô sống lại.
Tôi cứ nhìn những người bệnh nằm trong trạm xá, thấy họ cố gắng, nhưng không tự sức mình chữa trị mình được, mà cần phải có sự quảng đại và chuyên môn của người khác, thì tôi liên tưởng đến phần thiêng liêng của chúng ta cũng vậy.
Sự cố gắng của chúng ta, tuy tốt thực, nhưng chúng ta cần phải khiêm tốn nhận mình, không tự cứu mình được, không tự thánh hoá mình được, mà rất cần đến sức mạnh và lòng nhân hậu của Đức Kitô và quyền năng Chúa Thánh Thần.
Xin anh chị em, những con người thiện chí đang có mặt hôm nay, xin anh chị em hãy là những tâm hồn hồn nhiên, luôn sẵn sàng quảng đại, để được Chúa sai đi. Xin anh chị em cầu nguyện nhiều hơn cho Hội Thánh Việt Nam, cho địa phận chúng ta, để mọi người trong chúng ta biết đón nhận Đức Kitô đến với mình, biết đón nhận ơn cứu độ của Đức Kitô. Và muốn được như vậy, chúng ta hãy luôn luôn biết nhìn nhận mình tội lỗi, yếu hèn bất xứng, bất lực.
Trong tinh thần chia sẻ này, giờ đây, chúng ta hướng lòng mình về Thiên Chúa, tuyên xưng đức tin: Chúa là Cha Đức Kitô, là Đấng cứu độ. Chúa Thánh Linh là người đổi mới. Và tất cả Hội Thánh chúng ta đều là những người yếu hèn, đang chờ đợi Chúa đến. Chúng ta tin như vậy, và chúng ta khiêm tốn cầu nguyện đặc biệt cho con em chúng ta, được luôn luôn biết đón nhận Chúa đến với mình.
Trong tinh thần ấy, giờ đây, chúng ta cùng các con em chúng ta đứng lên tuyên xưng đức tin. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về rượu. Người nói rằng: Rượu mới thì cần được để ở trong bình rượu mới. Cũng như vải mới không nên vá vào áo cũ, mà nên dùng để may áo mới.
Với những lời trên đây, Chúa Giêsu ngụ ý nói về việc đổi mới trong tôn giáo lúc bấy giờ. Ngài không muốn những người ta giữ đạo cứ mãi mãi theo đường mòn, cũ kỹ, lâu năm, lỗi thời. Ngài mong muốn cách giữ đạo cần phải được đổi mới. Sự đổi mới mà Đức Kitô mong muốn có thể là về nội dung, và cả về hình thức: Rượu mới, bình mới, vải mới, với model mới.
Sự đổi mới tôn giáo, mà Đức Kitô mong muốn, đã thực sự được Người thực hiện trong đời của Người. Người đưa vào tôn giáo một nội dung mới, với một hình thức mới.
Nội dung mới mà Đức Kitô đưa vào tôn giáo bấy giờ, đó là luật yêu thương: Mến Chúa, yêu người. Và cách giữ đạo, thực thi lề luật, mà Đức Kitô đem vào lúc bấy giờ như một cải cách, đó là tự do: Hãy mến Chúa, hãy yêu người một cách tự nguyện, tự do, tự ý, như con thảo đối với Cha của mình, không bị ép buộc, không bị áp bức.
Sự đổi mới tôn giáo mà Đức Kitô đã thực hiện lúc bấy giờ, vẫn được Hội Thánh luôn luôn, thường xuyên, không ngừng tiếp tục thực hiện trong mọi thời đại. Bởi vì, Hội Thánh là dân Thiên Chúa, thì cũng là một xã hội như mọi xã hội khác, cũng có những cá nhân yếu đuối, cũng có những cộng đoàn lầm lỗi. Cho nên, cần phải thường xuyên đổi mới.
Riêng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II của chúng ta, từ mấy năm nay, đã ý thức điều đó, nên đã đưa ra lời hô hào đổi mới, với cái từ mà Ngài thường hay dùng, đó là “tân Phúc-Âm-hoá”.
Tân Phúc-Âm-Hoá mà Đức Thánh Cha muốn nói ở đây, gồm ba điều kiện chính sau đây: Một là có một nhiệt tình mới. Hai là có những phương cách mới. Ba là có những diễn tả mới, trong việc giữ đạo, trong việc truyền đạo.
Tôi thấy ba việc trên đây đang được thực hiện trong giáo phận Long Xuyên chúng ta đó đây, với những mức độ khác nhau, và với màu sắc khác nhau.
Riêng ở xứ đạo Tân Chu này, tôi cũng đang nhìn thấy ba điểm ấy đang được thực hiện trong một mức độ tương đối:
Tôi nhìn thấy có một nhiệt tình mới. Cái nhiệt tình đây, phải hiểu là cái nhiệt tình không phải đi về phía sau, trở nề nếp cũ, mà là nhiệt tình, muốn đi về phía trước, với những sáng kiến mới. Nhiệt tình tôi thấy ở đây, không phải là nhiệt tình giữ đạo, bảo vệ Hội Thánh mà thôi, mà còn là nhiệt tình mở đạo, mở Hội Thánh, phát triển đức tin. Đây là nhiệt tình, đúng là mới.
Rồi, tôi cũng đang nhìn thấy những phương cách mới. Phương cách mới, đó là chúng ta tập trung vào những điều căn cốt trong đạo, tập trung vào Đức Kitô, tập trung vào Chúa Thánh Linh. Đây là những điều căn bản nhất của Tin Mừng. Thay vì phương cách cũ, là rất đề cao các việc tôn sùng các thánh. Tập trung vào Đức Kitô, tập trung vào Chúa Thánh Thần, chính là sức mạnh đổi mới.
Rồi, phương cách mới mà tôi đang thấy ở đây, đó là chúng ta đề cao nhiều hơn sự học hỏi lời Chúa, thay vì đề cao sự học thuộc lòng giáo lý và các kinh.
Rồi, phương cách mới mà tôi đang nhìn thấy ở đây, đó là cách chúng ta sống đạo mà đồng hành với dân tộc mình. Thay vì trước kia sống đạo, chúng ta chỉ biết có quyền lợi tư riêng của Hội Thánh mình.
Những phương cách này, đúng là mới. Và xứ đạo của chúng ta đã bắt đầu thực thi có hiệu quả.
Rồi, tôi cũng đang nhìn thấy cách diễn tả sống đạo của anh chị em rất là mới:
Như việc tập trung tổ chức những việc phượng tự và mời khách, sao cho trang nghiêm, sốt sắng, trật tự, hoan hỶ, đầy tinh thần hiệp thông. Cũng như trong lễ hôm nay, tôi đang nhìn thấy một bầu khí hiệp thông, một bầu khí trật tự, tràn đầy tình người. Đây cũng là một cách diễn tả đức tin mới, mà những người ngoài công giáo sẽ dễ dàng nắm bắt được đức tin của chúng ta.
Rồi, cách diễn tả nữa cũng mới, đó là chúng ta để ý đến môi trường: Nhà thờ sạch sẽ, đẹp đẽ, khang trang. Công viên có những băng đá giúp nghĩ ngơi thoải mái trước khi vào nhà thờ. Khuôn viên nhà thờ những màu xanh, với những cây xanh, có bóng mát, có hoa tươi. Chung quanh nhà thờ lúc nào cũng sạch sẽ. Đó chính là môi trường. Và môi trường như vậy, chính là cách diễn tả đức tin, diễn tả cách sống đạo, sẽ giúp cho mọi người dễ dàng nâng tâm hồn mình lên cao, để ca ngợi Thiên Chúa, là Đấng Tạo Thành chúng ta.
Rồi, cách diễn tả đức tin bây giờ cũng rất thích hợp, đó là nhân cách, là nhân bản, là văn hoá của chúng ta và của gia đình chúng ta.
Tôi nhìn qua anh chị em, kể cả các em bé, tôi đã thoáng thấy những nét nhân bản dễ thương, và những nét văn hoá tương đối cao. Tôi coi đây là những cách diễn tả đức tin, để qua những nét nhân bản và văn hoá đó, người ta sẽ ca ngợi Thiên Chúa qua nếp sống của những người có đạo chúng ta.
Diễn tả mới, phương cách mới, nhiệt tình mới, đó là ba điều kiện của tân Phúc-Âm-hoá. Chúng ta mới chỉ thực hiện được một phần thôi. Chúng ta còn cần phải bước đi nhiều hơn nữa, với những bước đi xa hơn nữa, theo yêu cầu của thời đại.
Tôi vui mừng, vì những thành công của tân Phúc-Âm-hoá. Nhưng cũng phải nói thực, là tôi cũng lo âu. Và đôi khi phiền muộn, khi thấy những nơi không có dấu chỉ nào về tân Phúc-Âm-hoá: Tôi tìm nhiệt tình mới, nhưng không thấy. Tôi tìm phương cách mới, nhưng không thấy. Tôi tìm cách diễn tả mới, nhưng cũng không thấy.
Tôi có cảm tưởng: Những cộng đoàn đó đang tụt hậu, đang chìm đắm trong những tình cảm mê sảng, đang đi vào tình trạng chết mòn chết dần về tôn giáo.
Làm sao bây giờ? Tôi nghĩ: Cần phải tỉnh thức.
Lúc nãy, khi tôi bước vào nhà thờ, tôi đọc thấy khẩu hiệu: “Xin Ngài đổi mới”. Tôi ý thức ngay rằng: Không phải tôi, không phải các cha, không phải anh chị em, là những người chủ động đổi mới, mà là chính Chúa Thánh Linh. Chính Chúa Thánh Linh là Đấng đổi mới tận căn rễ tâm hồn con người. Chính Ngài mới có thể làm cho chúng ta bỏ đi được nết xấu. Và chính Ngài mới có thể thắp sáng lên được niềm tin, ngay cả trong những tâm hồn nguội lạnh nhất.
Vì thế, tôi xin anh chị em: Hãy sốt sắng và thường xuyên cầu xin Chúa Thánh Thần, giúp cho chúng ta biết đổi mới, có những nhiệt tình mới, có những phương cách mới, có những việc làm mới, để sống đạo, để truyền giáo cho ngày hôm nay, và cho tương lai sau này.
Giờ đây, trong đức tin mà chúng ta cùng chia sẻ, chúng ta hãy hướng về Chúa Thánh Linh. Chúng ta cùng nói lên niềm hy vọng của chúng ta. Amen.
Thánh lễ hôm nay hướng về các đôi hôn nhân. Nhưng, trên thực tế, các đôi hôn nhân cũng như họ đạo, khi nói tới hôn nhân, thường nghĩ ngay tới gia đình. Vì thế giờ đây, đại diện các gia đình trong họ đạo đã tề tựu đông đảo trong nhà thờ này, để tham dự thánh lễ trọng thể. Trong giờ phút gặp gỡ Chúa một cách đặc biệt này, ai nấy đều cầu xin Chúa chúc phúc cho gia đình mình nói riêng, và cho mọi gia đình nói chung.
Tôi tin rằng Chúa sẽ nghe lời chúng ta cầu nguyện. Nhưng có một điều thiết tưởng nên nhắc tới ở đây, vì nó là điều kiện rất cần để đón nhận ơn Chúa. Điều kiện đó là lòng khiêm nhường.
Thực vậy, Kinh thánh cho thấy, những cha mẹ khiêm nhường đã được Chúa chúc lành đặc biệt. Như cha mẹ của tổ phụ Giuse, của tổ phụ Giacob, của ông Samson, của ông Samuel, của thánh Gioan Baotixita, của Đức trinh nữ Maria, và của chính Đức Giêsu Kitô.
Lịch sử truyền giáo cũng cho thấy, đức khiêm nhường của các gia đình có đạo là rất quan trọng, để đức tin mà họ tuyên xưng, được trở thành vẻ đẹp dễ thương, khiến khu xóm xung quanh có cảm tình với đạo.
Kinh nghiệm đời thường cũng cho thấy, gia đình nào sống trong bầu khí khiêm nhường, thường dễ phát triển được những giây liên đới tốt đẹp trong nội bộ gia đình, và cũng dễ giúp nhau vươn lên về mọi mặt.
Môi trường khiêm nhường của gia đình mà tôi nói ở đây, chính là môi trường khiêm tốn Phúc Âm. Nó là một bầu khí thiêng liêng được xây dựng, được bảo trì, và được phát triển bằng những việc làm, những thái độ, những lời nói, những tình cảm, những phản ứng, những ước muốn mang tính chất khiêm nhường, như Đức Kitô đã dạy, đã làm gương trong Phúc Âm.
Phúc Âm còn ghi lại kinh Đức Mẹ tạ ơn Chúa, trong đó có lời này: “Chúa nâng cao những người phận nhỏ, và để người giàu có trở về tay không”. Tôi thường hay đọc đi đọc lại lời đó của Đức Mẹ, để nhắc nhở mình hãy sống bé mọn thiêng liêng.
Giàu hay nghèo, chúng ta luôn phải khiêm tốn, và phải tích cực xây dựng bầu khí khiêm tốn trong gia đình mình. Nhất là bằng việc cảm tạ Chúa hằng ngày, bằng việc tin cậy phó thác nơi Chúa nhân lành, bằng việc xa tránh mọi hình thức khoe khoang tự mãn, khinh chê, kết án kẻ khác, và nhất là bằng việc chân thành nhận biết mình và gia đình mình luôn luôn cần được Chúa cứu độ và luôn luôn cần được ơn trở về.
Môi trường đạo đức của gia đình tất nhiên còn nhiều đòi hỏi. Nhưng khiêm nhường chính là đòi hỏi đầu tiên. Trong một môi trường đạo đức như thế, người ta sẽ nếm được sự bình an thiêng liêng, một sự bình an là ân huệ Chúa ban, kể cả giữa muôn vàn thử thách.
Lạy Chúa Giêsu, vì công nghiệp hai thánh Gioakim và Anna, nhất là nhân danh Đức Trinh Nữ Maria, chúng con xin Chúa cho gia đình chúng con được sống khiêm nhường theo gương Chúa, để gia đình chúng con có một môi trường dễ đón nhận Chúa, được Chúa ở lại, được Chúa yêu thương che chở. Xin tạ ơn Chúa muôn đời. Amen.
Nhà thờ Chánh toà Long Xuyên, lễ hai thánh Gioakim và Anna, ngày 26-07-1995
Đang khi tôi xao xuyến khao khát sự bình an cho tâm hồn, và đang khi tôi thao thức đi tìm ánh sáng cho mục vụ của tôi, qua những biến cố lớn của lịch sử đang xảy ra cho đất nước trong tháng 7 này, thì bài Phúc Âm hôm nay đã cho tôi một chỉ dẫn quý giá. Tôi xin chia sẻ vắn tắt.
Thực vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa dạy tôi: Trong những hoàn cảnh khó khăn phức tạp, Chúa muốn tôi làm hai việc này: Việc thứ nhất là gặp gỡ Đức Kitô. Việc thứ hai là đón nhận Thần Linh của Người.
Trước hết là hãy gặp gỡ Đức Kitô.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa nói: “Ai khát hãy đến cùng Ta”. Đến với Chúa Giêsu không phải là nghĩ tới Người, cũng không phải là suy gẫm về Người, cũng không phải là học hỏi về Người. Đến với Chúa Giêsu là gặp gỡ Người.
Gặp gỡ Chúa bằng lòng tin cậy mến, như là gặp gỡ một người sống động. Tôi gặp gỡ Đức Kitô bây giờ, là tôi nhìn thấy Người đang ở trước mặt tôi. Tôi nhìn thấy Người đang yêu thương tôi. Tôi nhìn thấy Người đang hiểu tôi. Tôi nghe tiếng Người đang gọi tên tôi. Và khi tôi gặp được Đức Kitô, một người sống động như vậy, thì tôi sẽ nhận ra dung mạo của Người.
Khi tôi nhận ra dung mạo của Người là Đấng Cứu Thế như Kinh Thánh đã dạy: “Đấng đã gánh tội cho tôi, Đấng đã xoá tội cho tôi, Đấng đã đền tội cho tôi”, thì tôi tất nhiên sẽ thấy dung mạo của Đức Kitô của tôi rất dễ thương. Và tôi nhớ lại lời Đức Kitô xưa đã nói: “Cha đến đây không phải để gọi những người công chính, mà Cha đến để gọi những người tội lỗi yếu đuối. Vì con nhận mình yếu đuối, vì con nhận mình tội lỗi, nên Cha đến với con”.
Gặp gỡ Đức Kitô, đơn sơ là như vậy. Nhưng đó là tất cả sự sống đạo. Nếu chúng ta học thuộc lòng bao nhiêu giáo lý, mà chúng ta không gặp gỡ được Đức Kitô một cách sống động, thì chúng ta không phải là đã thật sự giữ đạo, một đạo dựa vào niềm tin. Bởi vì niềm tin là một sự gặp gỡ Đức Kitô, Đấng đã sống lại và đang ở bên ta.
Và Đức Kitô mà tôi gặp gỡ bây giờ, hiện đang dạy tôi hãy uống nước hằng sống. Có nghĩa là hãy đón nhận Thánh Linh của Người.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã nói rõ điều đó, là ai gặp được Cha, sẽ uống giòng nước không bao giờ cạn. Giòng nước ấy chính là Chúa Thánh Linh. Khi tôi mở lòng ra uống nước Chúa Thánh Thần, thì Chúa Thánh Thần sẽ như giòng nước tẩy rửa tâm hồn tôi cho khỏi cái tôi hẹp hòi, cái tôi tù mù tăm tối, cái tôi ích kỶ, để giúp cho tôi gắn bó thêm với Đức Kitô, như lời Đức Kitô đã nói: “Con là cành, mà Cha là thân cây. Con phải sống gắn bó với Cha, như cành gắn bó chặt chẽ với thân cây”. Và nhờ Chúa Thánh Linh, linh hồn chúng ta không những gắn bó với Đức Kitô, mà còn để cho Đức Kitô chiếm đoạt, như lời thánh Phaolô nói: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi”.
Khi Chúa Thánh Thần đến hoạt động trong chúng ta, thì chúng ta như được chịu một phép rửa mới, phép rửa mà Đức Kitô đã nói “phép rửa trong Chúa Thánh Thần”. Vì lúc ấy, chúng ta sẽ cảm thấy Đức Kitô là Chúa cứu độ của chúng ta đang sống trong chúng ta. Và khi Đức Kitô sống trong chúng ta, chúng ta sẽ thấy một nhãn quan mới về cuộc đời.
Lúc nãy, ông đại diện có nói tới sự hợp nhất trong giáo xứ và trong địa phận. Đây đúng là đặc điểm của chúng ta. Nhưng, chúng ta hợp nhất không phải là co cụm lại, mà là phải mở ra.
Trong bài hát lúc nãy, khi nói về Chúa Thánh Linh, anh chị em đã hát: “Chúa sai tôi đi loan báo cùng trần gian: Tin Phúc Âm, tin bình an”, thì tôi đã hỏi Chúa Giêsu: Chúa sai con, sai chúng con đi vào trần gian, thì trần gian không phải chỉ có mấy người chúng con thôi. Mà trần gian là những người chưa có đạo, là những người địa phương, là những người xung quanh đây, để tất cả cùng chia sẻ tin Phúc Âm, tin bình an.
Trên con kênh dẫn tôi đến đây, tôi nhìn thấy những chiếc xuồng. Và tôi biết: Những người trong những chiếc xuồng đó, chính là cái trần gian mà Chúa sai chúng ta đến, để loan báo tin mừng, tin Phúc Âm, tin bình an.
Nhưng, trên thực tế, chúng ta có loan báo gì đâu! Chúng ta chỉ biết lo cho những người trong nội bộ của chúng ta. Còn người ngoài, cái lo của chúng ta hãy còn ít quá.
Với biến cố hôm nay (28-07-1995): Việt Nam đang gia nhập Hiệp Hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), chúng ta sẽ thấy Việt Nam đi vào một tương lai rất mới. Và chắc chắn sẽ có nhiều thách thức mới, sẽ có nhiều vấn đề mới, sẽ có nhiều khủng hoảng mới về tôn giáo. Chúng ta cần phải thấy trước, để xin Đức Kitô, với ánh sáng của Chúa Thánh Linh, giúp cho chúng ta tìm được những nhiệt tình mới, những khám phá mới để diễn tả đức tin, với những phương thế mới để đem tin mừng Phúc Âm, tin mừng bình an đến cho mọi người chung quanh.
Tương lai mới này sẽ có thể khó khăn về phương diện nào đó cho đức tin. Vì thế hôm nay, tôi đến với anh chị em, để chia sẻ tâm tư của tôi trong tháng bảy này. Và nhất là, trong chính ngày hôm nay, ngày mở ra một lịch sử mới cho đất nước, và cũng cho Hội Thánh Việt Nam.
Với ơn Chúa Thánh Thần và trong sự gắn bó với Đức Kitô, chúng ta có quyền tin tưởng tương lai sẽ tốt đẹp, miễn là chúng ta biết cậy trông phó thác vào Chúa và làm hết sức của mình, theo hoàn cảnh và khả năng Chúa ban cho chúng ta.
Hãy cầu nguyện thật nhiều cho con em chúng ta. Bởi vì, con em chúng ta sẽ phải đi vào một tương lai rất mới không như quá khứ đã qua, một tương lai khó khăn cho tôn giáo về nhiều mặt.
Lạy Chúa Thánh Linh, xin giúp cho chúng con có được ánh sáng và sức mạnh của Chúa, để khám phá thấy những diễn tả mới, những phương thế mới, với những nhiệt tình mới trong việc truyền giáo và trong cách sống đạo trong tương lai sắp tới. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh để diễn tả Nước Trời: Hình ảnh thứ nhất là hạt cải gieo vào lòng đất, rồi mọc lên thành cây lớn. Hình ảnh thứ hai là tấm men trộn vào bột, để bột đó trở thành bánh ngon.
Với hai hình ảnh trên đây, Chúa Giêsu cho thấy đặc điểm của Nước Trời là sự phát triển những cái đẹp, những cái tốt, những cái lành. Và sự phát triển đó gây được ảnh hưởng tốt cho môi trường chung quanh, biến đổi được môi trường đó nên tốt hơn. Vì thế, người nào, cộng đoàn nào, có những phát triển về những điều tốt, gây ảnh hưởng tốt cho khu xóm chung quanh, biến đổi được người chung quanh nên tốt hơn, thì người đó, nơi đó, cộng đoàn đó, có đặc điểm của Nước Trời.
Với nhãn quan về Nước Trời như vậy, tôi quan sát tình hình địa phương này, từ cá nhân cho đến các gia đình, và các cộng đoàn, công giáo cũng như ngoài công giáo. Và tôi thấy: Có những cá nhân, có những cộng đoàn, đã phát triển rất tốt về nhân bản, về trí thức, về văn hoá, về đạo đức. Tôi cho rằng: Nơi những người đó, nơi những cộng đoàn đó, có đặc điểm của Nước Trời.
Trái lại, tôi cũng đã thấy: Có những cá nhân, có những gia đình, có những cộng đoàn, hầu như không phát triển gì về những mặt tốt, từ nhân bản, từ trí thức, đến văn hoá, đến đạo đức. Tôi cho rằng: Những cá nhân ấy, những cộng đoàn ấy, xem ra không có dấu chỉ của Nước Trời.
Cái thực tại, mà tôi đang thấy ở đây, gợi ý cho tôi nhớ lại lời thánh Augustinô xưa đã nói. Thánh nhân nói: “Có những người thuộc về Hội Thánh, nhưng lại không thuộc về Nước Trời. Trái lại, có những người không thuộc về Nước Trời, nhưng lại thuộc về Hội Thánh”. Thánh nhân đề cao những người, mặc dầu không thuộc về Hội Thánh, nhưng lại thuộc về Nước Trời.
Tới đây, một câu hỏi tất nhiên đặt ra, đó là cái gì là cái tốt lành căn bản, cần phải phát triển, để coi đó là dấu chỉ của Nước Trời?
Tôi xin thưa ngay: Cái lành, cái tốt đó, chính là đức bác ái, chính là thực thi bổn phận liên đới với con người.
Câu trả lời đây dựa trên Phúc Âm: Đến ngày phán xét, Thiên Chúa sẽ đánh giá mỗi người chúng ta, theo tiêu chuẩn bổn phận liên đới của chúng ta đối với những người chung quanh: Người ta đói, có cho người ta ăn không? Người ta khát, có cho người ta uống không? Người ta rách rưới, có cho người ta mặc không? Người ta ở tù, có đến thăm viếng không? Người ta buồn phiền, có đến an ủi người ta không?
Dụ ngôn về ngày phán xét chung rất rõ. Và những tiêu chuẩn Chúa dùng để đánh giá và phân loại chúng ta, hoàn toàn coi như rất đời, nhưng rất đạo, hợp với mọi tín ngưỡng, kể cả đạo làm người. Và Chúa đòi phải phát triển những cái đó, như là một điều kiện căn bản, để đi tới Nước Trời. Và chúng ta thấy: Khi nào chúng ta, gia đình chúng ta, cộng đoàn chúng ta, thực thi bổn phận liên đới với những người chung quanh, thì môi trường nơi đó dần dần sẽ trở nên một môi trường bình an, một môi trường yêu thương, một môi trường hạnh phúc. Và đó là dấu chỉ Nước Trời đang đến.
Phục vụ người khác, thăng tiến người khác, thực thi bổn phận liên đới với người khác, đó là một điều rất quan trọng của đạo chúng ta. Vì thế, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có lần đã xác định: “Con người chính là con đường của hội Thánh”. Có nghĩa là phục vụ con người, thăng tiến con người, đó là con đường mà Hội Thánh phải đi, để làm chứng cho đức tin, để làm chứng đạo Công giáo, đạo mến Chúa, đạo yêu người, đạo làm chứng lòng mến Chúa, bằng sự yêu thương, phục vụ, thăng tiến con người chung quanh.
Mới rồi, một nữ tu nổi tiếng trên thế giới, soeur Emmanuella cũng nói: “Con người, chính là dòng sông, mà Hội Thánh phải đi, để dẫn nhân loại về Nước Trời”.
Vậy, chúng ta hãy tự hỏi mình xem: Chúng ta có đi vào con đường mà Đức Giáo Hoàng đã nói không? Chúng ta có đi theo dòng sông, mà soeur Emmanuella đã nói không? Con đường đó là con đường phục vụ con người, thăng tiến con người, để làm chứng cho đức tin.
Những điều tôi vừa chia sẻ trên đây gợi lên cho chúng ta hai điều này: Khi xét mình, chúng ta hãy đặt nặng vấn đề bổn phận của ta đối với con người chung quanh mà kiểm điểm, mà xét mình. Bởi vì, đó là điều Chúa đặc biệt đòi hỏi trong ngày phán xét. Và một điều nữa ta cũng cần phải đặc biệt quan tâm kiểm điểm, đó là phải xét lại cách sống đạo của chúng ta.
Chúng ta cần phải sống đạo và tuyên xưng đức tin, bằng cách thực thi bác ái. Hãy coi việc chúng ta đối xử tốt với nhau, thăng tiến cho nhau, là những bài ca thờ phượng Thiên Chúa. Khi chúng ta tha thứ cho nhau, giúp đỡ nhau trở nên tốt, và làm cho cuộc đời của những người chung quanh được tốt hơn, thì đó là một cách đền tội tốt nhất. Trong Phúc Âm, Chúa cũng thường hay nhắn nhủ: Hãy ca tụng Chúa, bằng việc làm bác ái. Hãy đền tội mình, bằng những việc bác ái. Hãy tuyên xưng đức tin, bằng những việc bác ái đối với con người.
Địa phương chúng ta là một địa phương có nhiều tín ngưỡng. Và chúng ta đã thấy có những tôn giáo rất mới, nhưng đã phát triển mạnh, phát triển lẹ và sâu rộng. Động cơ phát triển, con đường phát triển, phương thế phát triển, là thực thi các việc từ thiện xã hội.
Đây cũng là một điều nhắc nhở cho chúng ta, nhất là thời buổi hôm nay.
Thời thánh Emmanuel Phụng của chúng ta tử đạo, là thời cần phải làm chứng cho đức tin bằng sự đổ máu mình ra. Còn thời của chúng ta hôm nay, là thời cần phải làm chứng cho đức tin, bằng cách đổ hết nhiệt tình của mình ra, để lo cho người khác.
Chúng ta biết: Thánh Emmanuel Phụng của chúng ta, trước khi đổ máu mình ra làm chứng cho đức tin, thì cũng đã từng đổ hết nhiệt tình của mình ra, để yêu thương, để giúp đỡ mọi người: Giúp đỡ, yêu mến, che chở các cha. Ngài cũng đã yêu thương và giúp đỡ cộng đoàn. Ngài lo lắng cho tất cả mọi người, không phân biệt người lương người giáo. Đó là điều chúng ta, những con cháu của Ngài, cần phải đặc biệt quan tâm trong lúc này, để bắt chước thánh Emmanuel Phụng của chúng ta.
Lúc nãy, khi ca đoàn hát: “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa”. Tôi đã hợp ý với ca đoàn mà nói với Chúa một tâm tư như vậy. Và tôi hỏi Chúa: Con thực thi ý Chúa, nhưng ý Chúa hôm nay thế nào? Chúa đã nhắc lại cho tôi một cách xác định: Ý Chúa hôm nay, là con và cộng đoàn của con, hãy làm chứng cho Cha về đức ái. Hãy làm chứng cho mọi người biết Thiên Chúa của con là Đấng giàu lòng thương xót. Hãy làm chứng cho Hội Thánh Công giáo của con là Hội Thánh của tình yêu thương. Hãy làm chứng cho những người tin theo Đức Kitô hôm nay là những người biết thương yêu nhau và biết thăng tiến những người chung quanh. “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết chúng con là môn đệ Cha, là yêu thương nhau và giúp đỡ mọi người chung quanh”.
Tôi xin Chúa Thánh linh ban cho chúng ta một trái tim đầy tình yêu thương.
Tôi thường nói với Chúa: Hành trang cuộc đời của con, chính là trái tim của Chúa. Chỉ thế thôi. Tiền bạc con không có. Sức khoẻ con rất yếu. Hành trang của con là trái tim Chúa, một trái tim yêu thương, một trái tim cởi mở.
Xin Chúa Thánh Linh, giờ đây, ban cho mọi người chúng ta nói chung, và cho con em chúng ta nói riêng, được lãnh nhận tình thương của Chúa, và quyết tâm làm chứng tình thương của Chúa, qua những việc bác ái của mười bốn mối thương xót mà chúng ta vẫn thường đọc vào các ngày Chúa Nhật: “Thương xác bảy mối, thương hồn bảy mối”. Chỉ thế thôi, ta có thể làm chứng được đức tin của chúng ta. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói tới con cái Nước Trời. Chúa nói: “Con cái Nước Trời giống như những hạt giống tốt”.
Khi nghe lời Chúa phán trên đây, tôi đã tự hỏi: Ai là con cái Nước Trời? Và tự nhiên, tôi muốn thưa rằng: Con cái Nước Trời chính là Con cái Hội Thánh. Nhưng rồi, tôi lại nghĩ tới một lời của thánh Augustinô xưa. Ngài nói: “Có nhiều kẻ thuộc về Hội Thánh, nhưng lại không thuộc về Nước Trời. Và trái lại, có những người thuộc về Nước Trời, lại không thuộc về Hội Thánh”. Vì thế, tôi không dám đồng hoá con cái Hội Thánh với con cái Nước Trời.
Vậy, con cái Nước Trời là ai?
Dựa theo Kinh Thánh và thần học, tôi xin thưa ngay: Con cái Nước Trời là những người có những phát triển tốt về công bình, về hoà bình, về bác ái liên đới, gây được những ảnh hưởng tốt nơi môi trường chung quanh, biến đổi môi trường chung quanh nên tốt hơn.
Với định nghĩa trên đây về con cái Nước Trời, chúng ta thấy: Bất cứ ai có đạo Công giáo hay không có đạo Công giáo, đều có khả năng trở nên con cái Nước Trời, miễn là biết phát triển những cái tốt, cái hay, cái đẹp. Và đặc biệt là phát triển tinh thần liên đới bác ái, tinh thần hoà bình, tinh thần công lý, và giúp cho môi trường chung quanh trở nên tốt hơn.
Thực tế cho chúng ta thấy đúng là như vậy. Nhiều người không thuộc về Công giáo, nhưng đã có những phát triển tốt về con người và xã hội, làm cho con người và xã hội có công bình hơn, có tinh thần bác ái hơn, có tinh thần hoà bình hơn. Họ chính là những con cái của Nước Trời.
Riêng những người Công giáo chúng ta, chúng ta đã được Chúa ban cho một số ơn, đặc biệt là những nguồn ơn để chúng ta phát triển tinh thần của con cái Nước Trời. Những nguồn ơn ấy là Đức Kitô, là Chúa Thánh Linh, là Hội Thánh chúng ta. Với những nguồn ơn này, biết bao gia đình, biết bao cộng đoàn đã phát triển tốt tinh thần công lý, tinh thần hoà bình, tinh thần bác ái liên đới, và đã ảnh hưởng được sang môi trường những người chung quanh, biến đổi họ nên trở tốt hơn.
Như vậy, cách chúng ta làm chứng về Thiên Chúa hôm nay, chính là chúng ta hãy trở nên con cái Nước Trời, bằng cách chúng ta phát triển nơi bản thân mình, nơi gia đình mình, nơi họ đạo chúng ta những tinh thần của con cái Nước Trời, là cố gắng sống hoà bình, công lý và bác ái, gây ảnh hưởng tốt, biến đổi môi trường chung quanh.
Khi tôi nói tới đây, tôi nghĩ tới xứ đạo Mong thọ của anh chị em. Tôi nghĩ là anh chị em đã có nhiều phát triển tốt về các mặt: Như xây dựng cơ sở, làm đẹp môi trường, tổ chức đời sống giáo đoàn cho có trật tự. Tất cả những phát triển đó là tốt.
Nhưng cái làm cho tôi mừng hơn để tạ ơn Chúa nhiều hơn, chính là sự phát triển tinh thần bác ái, tinh thần hoà bình, tinh thần công lý, giữa các gia đình họ đạo với nhau, giữa họ đạo với các tôn giáo bạn chung quanh, với chính quyền, với những người chúng ta chung sống, và với những người không phải là Công giáo.
Tôi vẫn nghĩ rằng: Nơi nào có tinh thần hoà bình, có tinh thần công lý, có tinh thần bác ái, thì ở đó có Nước Trời, và ở đó có Chúa ngự trị. Không phải nhà thờ đẹp mới có Chúa. Cũng không phải là môi trường đẹp mới có Chúa. Nhưng tâm hồn đẹp, gia đình đẹp, họ đạo đẹp chính là nhờ tinh thần bác ái cởi mở, nhờ tinh thần liên đới, giúp đỡ, kính trọng, thăng tiến người ta, và nhờ tinh thần công lý hoà bình trong các liên hệ. Nơi đó, mới là chính nơi Chúa chọn để mà thăm viếng, để mà ở lại, để xây dựng xã hội và Hội Thánh.
Chính vì thế, mỗi lần đi qua họ đạo Mong Thọ, tôi vẫn cảm tạ Chúa vì những công trình Chúa đã làm nơi đây. Không phải là những công trình bề ngoài mà thôi, mà là những công trình như tôi vừa nói về tinh thần.
ở cuối nhà thờ, tôi thấy có một khẩu hiệu: “Lửa đức ái liên kết”. Đúng là như vậy. Đức tin thì chỉ liên kết những người có đạo chúng ta lại. Còn đức ái thì liên kết, không những chỉ những người có đạo lại với nhau, mà còn liên kết tất cả dân tộc chúng ta lại, liên kết tất cả nhân loại lại, để tất cả trở thành Nước Trời, dưới vương quyền của Thiên Chúa, một vương quyền có đặc điểm là tình yêu, là hoà bình, là sự thực, là công lý.
Tôi mong rằng: Anh chị em, dù khi gặp may mắn, cũng hãy cố gắng phát triển tinh thần con cái Nước Trời. Và dù khi gặp rủi ro khó khăn, cũng hãy giữ cho trọn vẹn tinh thần con cái Nước Trời, là giữ sự bình an trong tâm hồn. Đừng để cho bất cứ khó khăn nào xảy tới khuấy động tâm hồn mình, làm mất đi sự bình an. Rồi vô tình, chúng ta lại gieo rắc sự bất bình an, gieo rắc sự bất hoà sang những người chung quanh.
Hãy giữ sự bình an, gieo rắc sự bình an, và xây dựng bác ái, bằng cách kính trọng, thăng tiến con người, bất kỳ lương hay giáo, bất kỳ tín ngưỡng hay không tín ngưỡng. Và hãy cố giữ tinh thần công lý trong mọi trường hợp.
Hãy phát triển những cái đó, để rồi họ đạo chúng ta nói chung, và từng gia đình chúng ta nói riêng, cũng như từng cá nhân, sẽ trở nên khí cụ bình an của Chúa. Tôi nghĩ, nếu sau này, chúng ta có chết đi, mà họ đạo chúng ta, gia đình chúng ta, cá nhân chúng ta, được gọi là khí cụ bình an của Chúa, thì chúng ta đã là hạnh phúc lắm rồi.
Đó là cách chúng ta tuyên xưng đức tin của chúng ta. Đó là cách chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu. Và đó là cách chúng ta phát triển Hội Thánh một cách êm thắm, nhẹ nhàng, và rất hiệu nghiệm.
Là con cái Nước Trời, chúng ta hãy trở nên khí cụ bình an, khí cụ bác ái, khí cụ công bình, để chúng ta là những hạt giống tốt, mà Chúa Giêu nói tới trong Phúc Âm hôm nay.
Xin Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta nói chung, và con em chúng ta nói riêng, được ơn nhìn rõ những đặc điểm của con cái Nước Trời, để rồi cố gắng đi vào hướng đó, nhất là trong hoàn cảnh đất nước Việt Nam chúng ta đang bước vào một giai đoạn mới. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu ví Nước Trời như một nông dân: Khi biết một thửa ruộng có chôn giấu kho tàng quí nông dân đó đã vội vàng tìm mọi cách, kể cả cách bán nhà cửa mình đi, để mua cho được thửa ruộng đó.
Qua dụ ngôn trên đây, Chúa Giêsu dạy: Trong khi chúng ta xây dựng Nước Trời, chúng ta phải phấn đấu. Cũng như phấn đấu của người nông dân trong dụ ngôn, là phải biết xoay sở, là phải biết dấn thân, là phải biết đi lên, là phải biết cam chịu vất vả, thì người lo phát triển Nước Trời, cũng không được quyền nghỉ ngơi, không được quyền bất động, không được quyền thụ động.
Vì Nước Trời, chúng ta phải phấn đấu, phải muốn phấn đấu, phải thích phấn đấu, phải biết cách phấn đấu, và phải kiên trì phấn đấu. Phấn đấu để cho con người được thăng tiến hơn, để cho cuộc sống được dễ chịu hơn, để cho văn hoá được nâng cao hơn, để cho các dây liên hệ có yêu thương hơn, có hoà bình hơn, có công lý hơn.
Bài học phấn đấu, mà Đức Kitô dạy trong dụ ngôn hôm nay, đã và đang được thực hiện trong họ đạo chúng ta.
Khi đến đây, chúng tôi nhận ra ngay họ đạo Tân Lập của anh chị em là một họ đạo đã phấn đấu và đang phấn đấu.
Thực tại là một kết quả. Cách đây đúng 5 năm, như ông đại diện đã nói, bấy giờ tôi đến đây hãy còn là một vùng đồng ruộng mênh mông, nước phèn, chỉ có lác đác một số chòi, và nhà thờ chỉ là một nhà lá chênh vênh, hầu như không có đường đi từ nhà này sang nhà nọ.
Nhưng hôm nay khi tới đây, chúng tôi thấy quang cảnh rất khác xưa: Đường ra đường, nhà ra nhà, ruộng ra ruộng. Và tôi thấy đồng bào có những cách ăn mặc, nhất là trẻ em đã có những sinh hoạt, không mấy thua kém những nơi khác. Tôi thấy sự phấn đấu ở đây có một số điểm khác với những phấn đấu ở những nơi khác:
Trước hết, trong phấn đấu ở đây, tôi nhận thấy có một sự cân đối về nhiều mặt: Vừa phấn đấu trong lĩnh vực vật chất, vừa phấn đấu trong lĩnh vực tinh thần, tăng trưởng về kinh tế và tăng trưởng về văn hoá, tăng trưởng về cuộc sống và tăng trưởng về đạo đức.
Rồi, trong phấn đấu ở đây, tôi nhận thấy có những phần khác nhau: Phần riêng của từng người. Phần chung của Hội Thánh, của xã hội.
Rồi, trong phấn đấu ở đây, tôi nhận thấy động lực thúc đẩy chính là đức tin. Anh chị em đã nói với tôi nhiều lần: Chính vì đức tin và nhờ đức tin, mà anh chị em đã phấn đấu, bên cạnh những động lực trần thế khác, và rất là chính đáng.
Rồi, trong sự phấn đấu ở đây, tôi nhận thấy vai trò của linh mục là rất quan trọng. Từ kinh nghiệm này, tôi cho rằng sự hiên diện của Hội Thánh ở giữa lòng dân tộc, nhất là sự chia sẻ của Hội Thánh với kẻ nghèo, với sự thăng tiến của cuộc đời, nó có một giá trị thiêng liêng, giúp cho những phấn đấu của đồng bào mình được hữu hiệu hơn.
ở đây lúc này, quang cảnh buổi lễ, với sự hiện diện rất tích cực của anh chị em, đang gây cho chúng tôi một ấn tượng mạnh về sự phấn đấu của anh chị em, một sự phấn đấu lâu dài về nhiều mặt, và đã thành công tương đối.
Tôi rất cảm tạ Chúa. Bởi vì, mặc dầu chưa hoàn chỉnh, nhưng những phấn đấu của anh chị em đã có kết quả rất nhiều. Nhất là khi so sánh với những nơi khác.
Cách đây ít tháng, tôi có đến Phi Luật Tân. Tôi đã thấy tận mắt, ngay ở vùng ngoại ô Manila, thủ đô Phi Luật Tân, có rất nhiều người nghèo, ăn ngủ ở trên những đống rác, không nhà, không cửa.
Tôi cũng đã đi nột số địa phận miền Trung. Tôi đã thấy có nhiều cộng đoàn, cả năm mới được một hai thánh lễ mà thôi.
Rồi cách đây ít ngày, tôi cũng đã thấy một người dân thường, có vợ, có con. Nhưng vì thất vọng nghèo túng, không còn nhìn thấy một tia hy vọng, đã phải cầm dao đâm vào cổ tự sát.
Còn ở đây, tôi thấy anh chị em có rất nhiều hy vọng: Có nhà, có cửa, có thánh lễ, có nhà thờ, có linh mục, có tinh thần cộng đoàn, và nhất là có nhiều tiềm năng, để có thể khai thác trong tương lai.
Đây là những điều chúng ta phải nhận đó là kết quả tốt, để chúng ta tự nhủ mình: Chúa thương chúng ta. Chúa rất thương chúng ta. Từ nhận định đó, chúng ta đi vào tương lai với một niềm lạc quan thanh thản.
Tôi cũng nhớ lại lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ: “Thiên Chúa có thể làm những sự coi như không thể làm được”. Cho nên, tôi rất tin vào Thiên Chúa, mặc dù trong những hoàn cảnh coi như bế tắc, coi như không làm gì được, nhưng vẫn tin, vẫn phải tin vào Thiên Chúa, chỉ vì muốn cho danh Người được sáng, chỉ vì muốn có phần rỗi cho linh hồn mình, cho gia đình của mình, cho cộng đoàn của mình. Tin tưởng vào Chúa là Cha nhân lành, là Chúa tình yêu, như là anh chị em đã từng chứng kiến, đã từng cảm nghiệm, chúng ta lại tiếp tục cuộc hành trình phấn đấu trong tương lai. Và khi phấn đấu như vậy, chúng ta sẽ không lẻ loi vì có Chúa ở trong ta, có Chúa ở bên ta, có Chúa ở cùng ta.
Và như vậy, tôi nhớ lời Phúc Âm nói: “Kẻ sau hết, sẽ là kẻ trước hết”. Trước mặt Chúa, cái trật tự đi vào Nước Trời cũng sẽ là như vậy.
Nếu anh chị em phấn đấu với tất cả niềm tin, vì Chúa, vì Nước Trời, thì Chúa sẽ giúp cho anh chị em đi vào Nước Trời theo một trật tự của Người: Bề ngoài anh chị em nghèo túng, nhưng bề trong, Chúa rất thương anh chị em. Và như tôi vừa nói: Kẻ đứng chót, sẽ trở thành kẻ đứng nhất.Xin Thiên Chúa là Cha nhân lành giúp cho chúng ta hôm nay được nhiều ơn Chúa Thánh Thần, không phải chỉ là sự can đảm trong cuộc sống phải phấn đấu, mà còn là một niềm tin vững vàng thanh thản trong bình an yêu thương, trong tinh thần và công lý, để chúng ta góp phần xây dựng Nước Trời, giữa một cánh đồng địa phương rất cần ánh sáng Phúc Âm. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa nói: “Những người am tường về Nước Trời, thì giống như ông chủ kia, biết lợi dụng những cái cũ và những cái mới trong kho của mình”.
Khi suy gẫm lời trên đây của Chúa, tôi thấy Chúa muốn dạy tôi: Khi phát tiển Nước Trời, hãy biết lợi dụng cái cũ và cái mới ở trong kho tàng của mình.
Tôi tự hỏi: Kho tàng của mỗi người chúng ta là những gì? Và tôi thấy kho tàng của mỗi người chúng ta là trái tim, là trí khôn, là trí nhớ, là trí vẽ, là tâm hồn chúng ta.
Khi Chúa đã cho tôi nhìn thấy những gian, những kho, của mỗi người, của tôi, thì tôi dọn lời Chúa vào từng kho một, để xem xét trong từng gian, từng kho đó, xem có những cái gì mới, để mình có thể dùng mà xây dựng và phát triển Nước Trời không?
Tôi tự hỏi xem: Trong những kho trái tim mình, có những nhiệt tình mới không? Trong kho trí khôn mình, có những tư tưởng, có những quan điểm mới, có những cái nhìn mới không? Trong kho trí vẽ, và trí nhớ của mình, có những sáng kiến mới không? Trong kho tâm hồn mình, có được những nhân đức nào mới không? Trong kho ý chí của mình, có quyết tâm mới nào không?
Chẳng lẽ, qua một năm, năm năm, mười năm, mà những cái kho trong mình lại không có gì mới, thì không thể nào hiểu được! Bởi vì, lịch sử vẫn đều đều tiến đi, mà nếu chúng ta không để được trong kho tàng của mình, trong kho trí khôn, trong kho trái tim, trong kho trí nhớ, trong kho ý chí của mình những cái mới, thì rõ ràng chúng ta quá tụt hậu.
Chúng ta nghèo, chắc chắn là do tại chúng ta. Hãy xét mình từng kho một, xem có những gì mới, để rồi trong sinh hoạt của mình, trong thái độ của mình, trong những dự án của mình, xem mình đã phối hợp cái cũ và cái mới như thế nào, để phát triển bản thân, phát triển những người chung quanh, hầu Nước Trời được luôn phát triển một cách tốt đẹp.
Cách đây mấy ngày, tôi gặp một người. Họ tâm sự với tôi về con đường thiêng liêng: Họ đã đi đó đây mấy chục năm nay. Đại khái họ nói rằng: Từ nhiều năm nay, Chúa dẫn con đi về ba đối tượng:
Đối tượng thứ nhất là cuộc sống. Mỗi ngày, con cảm thấy như nghe tiếng Chúa gọi: Hãy đi với Cha, đến những người chung quanh, để đem lại cho họ sự sống, một sự sống dồi dào. Con đi theo Chúa, để giúp cho những người con gặp có sự sống, một sự sống dồi dào hơn. Sự sống này, không phải chỉ là sự sống thể xác, mà còn là sự sống tinh thần, sự sống trí tuệ, sự sống trái tim, sự sống siêu nhiên.
Đối đượng thứ hai Chúa gọi con đi là về sự chết. Hằng ngày Chúa gọi con: Hãy cùng đi với Chúa, đến những nơi có bóng tối sự chết, để cùng với Chúa phục sinh, giúp cho người ta vượt qua được những bóng tối sự chết, hầu có thể vươn tới sự sống lại. Và nếu không vượt qua được, thì ít ra, họ có thể biến bóng tối sự chết ấy thành giá trị cứu độ. Sự chết, đó là sự đói khát, sự dốt nát, những bệnh tật, sự nghèo hèn, trình trạng tội lỗi, vv...
Đối tượng thứ ba Chúa gọi con đi tới, đó là cộng đoàn. Mỗi sáng, Chúa gọi con: Con hãy đi với Cha, đến các cộng đoàn, để cùng Cha xây dựng công đoàn đó, để cộng đoàn đó có tình yêu thương, có hoà bình, có công lý, để những cộng đoàn đó viên mãn trong Nước Trời sắp tới.
Tôi hỏi người đó: Khi con sống với Chúa theo tiếng gọi như vậy, con có thấy cái gì mới? Họ nói: Hầu như ngày nào, con cũng nhận được những điều rất mới. Con thấy Chúa làm nhiều việc lạ lùng trong các tông đồ, mà mỗi ngày mỗi khám phá thêm tình thương và quyền năng Chúa phục sinh rất lạ lùng nơi các tâm hồn. Đó là cái mới, mà hầu như ngày nào, con cũng thấy.
Rồi, cái mới nữa là Chúa làm cho con thấy: Là để đón nhận được những cái mới đó, và để tiếp thu vào kho tàng tâm hồn mình, thì phải có tinh thần bé nhỏ, như lời Đức Kitô đã nói xưa: “Nếu con không trở nên đơn sơ, bé nhỏ như các trẻ em, thì con sẽ không được mạc khải về những mầu nhiệm Nước Trời”.
Chúa bắt con phải rất đơn sơ, phải rất khó nghèo, phải âm thầm, thì mới lãnh nhận được những bài học Chúa ban.
Như vậy, chúng ta thấy: Chúa cũng đang cho chúng ta nhiều cái mới lắm, nếu mỗi ngày chúng ta không nhận được những cái mới, thì đó là lỗi ở tại chúng ta.
Lúc nãy, khi đến họ đạo này, tôi có một cảm tưởng rất mạnh, là ở họ đạo Thánh Linh đã có những bước phát triển mới, đã lợi dụng được cái cũ và cái mới, để diễn tả đức tin của mình.
Đọc qua sơ đồ giáo xứ trong nhà xứ, tôi nhận thấy những bước tiến rõ ràng về lãnh vực văn hoá. Một cộng đoàn không tới một ngàn người lớn nhỏ, trường học thì ở xa, phương tiện đi lại khá khó khăn vất vả, thế mà đã có nhiều học sinh cấp I, cấp II, cấp III, và đã có những sinh viên đại học.
Rồi, tuy là một cộng đoàn nhỏ, nhưng số tân tòng cũng không phải nhỏ.
Rồi, tuy là một cộng đoàn nhỏ, nhưng số đi tu làm linh mục, tu sĩ nam nữ, và những dự tu chủng viện cũng không phải là nhỏ.
Chỉ nhìn qua sơ đồ đó, tôi đã thấy anh chị em ở đây có nhiều cái mới. Và riêng tôi, tôi nhớ lại: Lần đầu tiên đến đây, khi tôi còn là linh mục, để làm lễ ở đây, thì nhà thờ này, tại chỗ này, nơi họ đạo này, rất là thê thảm. Những người lớn chắc còn nhớ.
Cho nên bây giờ, khi tôi nhìn lại cảnh nhà thờ của anh chị em hồi đó, để so sánh với nhà thờ hiện nay, tôi thấy Chúa đang dẫn dắt họ đạo anh chị em qua những bước tiến, nhỏ thôi, chậm thôi, nhưng mà rất rõ ràng, và rất vững mạnh.
Anh chị em hãy nhìn nhận ơn Chúa trong sự phát triển họ đạo anh chị em. Đúng là anh chị em đã biết lợi dụng cái tốt, những cái mới, để làm ra những công trình nơi bản thân mình, nơi họ đạo của mình, để diễn tả được lòng tin và lòng mến Chúa của mình.
Lúc nãy, tôi cũng để ý đến những khẩu hiệu trong nhà xứ và trong nhà thờ này. Đâu đâu cũng có những lời nhắc nhở của Đức Kitô về đức ái. Như vậy cái chọn lựa sống anh chị em là rất đúng.
Tôi mong rằng: Anh chị em hãy tiếp tục đi theo con đường đó. Hãy biết lợi dụng những cái cũ, những cái mới, để diễn tả lòng mến Chúa yêu người, qua những việc nho nhỏ.
ở đây, tôi cũng đã được nghe: Họ đạo đang có nhiều chương trình nhỏ, để giúp công ăn việc làm cho những gia đình nghèo. Đây cũng là một diễn tả đức tin qua đức ái.
Nếu chúng ta cứ tiếp tục đi qua những dự án nhỏ như vậy, để cho đời sống của họ đạo được thăng tiến lên, dễ chịu hơn, văn hoá được năng cao hơn, và nếu chúng ta có tinh thần phấn đấu, để cho phát triển đi vào đúng hướng vừa nói, thì chắc chắn họ đạo của anh chị em sẽ trở thành một món quà tặng của Chúa Thánh Linh, bổn mạng của nhà thờ chúng ta.
Xin Chúa Thánh Linh, Đấng ban ơn đổi mới hôm nay, đến với họ đạo chúng ta, và giúp cho chúng ta có được một sự khôn ngoan, biết nắm bắt những thời cơ, biết đón nhận những ân huệ Chúa ban, có được sự khôn ngoan của Chúa, biết phối hợp cái cũ cái mới, hầu phát triển Nước Trời giữa vùng này. Amen.
Nếu có ai hỏi tôi: “Đạo công giáo là gì?”, thì tôi sẽ căn cứ vào bài Phúc Âm hôm nay mà trả lời. Đại khái như sau:
Thứ nhất: Đạo công giáo là đạo dạy phải phục vụ hết mọi người, không trừ một ai. Hãy xem bằng chứng trong bài Phúc Âm hôm nay: Chúa Giêsu đã ban phát bánh và cá cho hơn năm ngàn người. Trong số năm ngàn ấy, có những người tin, có những người không tin, có những người đạo đức, có những người tội lỗi. Chúa không phân biệt ai cả. Chúa phục vụ mọi người, không trừ một ai.
Thứ hai: Đạo công giáo là đạo dạy hãy biết cần nhờ đến sự giúp đỡ của bất cứ ai. Cứ xem bài Phúc Âm hôm nay thì thấy: Trong đám đông ấy, có một cậu bé bán bánh và cá. Cậu bé đó đến, chắc không phải đi nghe giảng đâu. Thế mà, Chúa Giêsu đã dùng cậu bé đó, như là một dụng cụ cần thiết trong chương trình cứu độ. Có vẻ như Chúa cần đến một phương tiện yếu hèn.
Thứ ba: Đạo công giáo là đạo dạy tin vào Chúa và biết tạ ơn Thiên Chúa, nhưng không ép buộc ai phải tin và phải tạ ơn như vậy. Cứ xem bài Phúc Âm hôm nay thì thấy: Trước khi ban lương thực cho dân, Đức Kitô đã ngước mắt lên trời, tạ ơn Chúa Cha. Ngài làm điều đó trước mặt đám đông. Nhiều người đã thấy. Và chắc nhiều người đã bắt chước. Nhưng, Chúa không ép buộc ai phải làm như vậy. Chúa trọng tự do lương tâm của mỗi người.
Thứ bốn: Đạo công giáo là đạo dạy phải chân thành và quy hướng về sự sống. Cứ xem bài Phúc Âm hôm nay thì thấy: Đức Kitô làm chứng về lòng mến Chúa và lòng yêu người, bằng chính việc làm, bằng chính thái độ, bằng chính trái tim. Nói sao, làm vậy. Ngài lấy lời nói mà báo, nhưng lấy việc làm mà làm chứng.
Thưa anh chị em, nếu một người theo gương Đức Kitô về bốn điểm trên đây, rút ra từ bài Phúc Âm, thì tôi gọi người đó là người có sự đơn sơ Phúc Âm. Người có sự đơn sơ Phúc Âm này làm cho Phúc Âm nên dễ chịu, dễ thương, dễ giữ. Nhiều người đã được Chúa gọi, để sống sự đơn sơ Phúc Âm ấy.
Xưa nay, rất nhiều người đã thực hiện ơn gọi sống ơn đơn sơ Phúc Âm, và đã có được nhiều hiệu quả, để giới thiệu Nước Trời. Tôi có cảm tưởng là cha Bôna của chúng ta cũng ở trong số những người đã được Chúa gọi, để sống ơn đơn sơ Phúc Âm.
Khi mừng lễ Kim Khánh linh mục của cha, tôi đã thử tìm nơi cha một cái nét huy hoàng nào để mà khen. Nhưng thú thực là tôi không tìm thấy. Nhưng tôi tìm thấy nơi cha một nét âm thầm, nhưng căn bản, đó là sống đơn sơ Phúc Âm, với bốn điều tôi vừa nêu lên dựa trên bài Phúc Âm hôm nay. Và chúng ta đã thấy: Với ơn đơn sơ Phúc Âm của cha, nhiều người đã tiếp nhận được Tin Mừng: Bao nhiêu người cùi, bao nhiêu bệnh nhân, bao nhiêu người ngoài Công giáo, kể cả những người không biết đọc biết viết, không biết giáo lý Công giáo là gì. Nhưng, một khi cảm nghiệm được sự đơn sơ Phúc Âm của cha Bona, người ta như được đón nhận một tin mừng thiêng lilêng nào đó, đem lại hy vọng, đem lại hạnh phúc nội tâm cho họ. Và tôi nghĩ rằng: Trong sứ mệnh của một người truyền giáo, thì kết quả như vậy là rất đáng mừng. Theo tôi thấy thì ơn sống đơn sơ Phúc Âm là một đoàn sủng Chúa ban cho người ta, vì ích lợi của cộng đoàn. Bởi vì, cộng đoàn cũng một ơn gọi, để phát triển những đoàn sủng giúp cho họ làm cho Nước Trời đi vào lòng con người.
Vì thế hôm nay, khi tạ ơn Chúa vì đoàn sủng Chúa ban cho cha Bona biết sống đơn sơ Phúc Âm, tôi cũng tạ ơn Chúa, vì ơn đoàn sủng này cũng đã được chia sẻ cho cộng đoàn Phanxicô Cù-Lao-Giêng ở đây, và cho giáo phận Long Xuyên chúng ta.
Tôi cầu xin cho cha, và cầu xin cho mỗi người chúng ta: Biết mở lòng ra, để đón nhận nhiều hơn ơn đoàn sủng sống đơn sơ Phúc Âm. Vì tôi thấy rằng: Cách sống đơn sơ Phúc Âm lúc này là rất quan trọng cho việc tái Phúc-Âm-hóa chính mình, và rất cần cho việc tái Phúc-Âm-hóa các cộng đoàn, và cũng rất cần cho việc truyền bá Tin Mừng tại địa phương chúng ta trong thời điểm mới này.
Hãy đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, bởi vì lễ tạ ơn hôm nay không phải là nhìn về quá khứ, cho bằng nhìn về phía trước. Cha Bona, cũng như chúng ta, phải đi về phía trước, để đón nhận nhiều ơn Chúa Thánh Thần hơn, với một đoàn sủng lớn hơn, hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta cũng phải biết sống quảng đại hơn, khiêm tốn hơn để đón nhận. Xin cho chúng ta biết sử dụng ơn Chúa, và biết cộng tác với Chúa Thánh Thần. Amen.
Tu viện Phanxicô Cù-Lao-Giêng, ngày 07-08-1995 (Lễ Kim Khánh Cha Bônaventura Trần-Văn-Mân)
Thánh lễ hôm nay có lễ nghi khấn trọn, và có nghi thức nhắc lại lời hứa của các chị em mừng Ngân Khánh.
Các chị em của thánh lễ này đã được chuẩn bị kỹ càng, bằng những ngày tĩnh tâm sốt sắng. Giờ đây, trước khi chính thức khấn trọn và tuyên hứa lại, các chị em tiếp tục nghe lời Chúa qua bài Phúc Âm.
Trong bài Phúc Âm vừa nghe, Chúa nhắn gởi một điều tôi cho là rất quan trọng. Điều nhắn gởi đó là hãy tỉnh thức.
Điều nhắn gởi trên đây, tất nhiên là đặc biệt dành riêng cho các chị em của thánh lễ hôm nay, nhưng cũng gởi chung cho mỗi người chúng ta. Bởi vì, mọi người chúng ta đều được Chúa gọi, để giúp Hội Thánh trở nên dấu chỉ và dụng cụ cứu độ giữa thế giới hôm nay.
Vậy, tỉnh thức là thế nào?
Thưa trước hết, “hãy tỉnh thức” có nghĩa là hãy biết điều chỉnh các hoạt động đời mình, về hướng mà Chúa Thánh Linh hiện giờ đang lái con thuyền Hội Thánh giữa dòng lịch sử.
Lịch sử Việt Nam hôm nay đang bước vào một thời điểm mới, một thời điểm được gọi chung là thời điểm phát triển. Trong thời điểm phát triển này, chúng ta được gọi để dấn thân phát triển Nước Trời, bằng tất cả những khả năng của mình.
Nước Trời là vương quyền của Thiên Chúa, gồm một sự sống chan hòa yêu thương, hòa bình và công lý. Phải làm sao cho sự sống đó thấm nhập sâu xa vào trong mỗi người chúng ta, và tràn ra môi trường xã hội, biến đổi các liên đới chung quanh. Làm được như vậy, tức là phát triển Nước Trời.
Muốn được như vậy, chúng ta cần phải tỉnh thức, để biết điều chỉnh lại cuộc đời của mình về hướng, mà tôi gọi là hướng của Chúa Thánh Linh đang dẫn Hội Thánh trong dòng lịch sử bây giờ.
Rồi, “hãy tỉnh thức” có nghĩa là hãy nhạy bén với những phương thế mới, để sống ơn gọi phát triển Nước Trời, trong thời điểm mới này.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, khi hô hào tân Phúc-Âm-hóa, hay tái Phúc-Âm-hóa, Người đã kêu gọi chúng ta, nhất là các người tu, và đặc biệt là những người lãnh đạo cộng đoàn, phải tìm những phương thế mới, hầu có thể phát triển Nước Trời, trong một thời điểm lịch sử rất phức tạp.
Để được như vậy, chúng ta cần phải lắng nghe tiếng Chúa. Chúa nói với ta trong nội tâm. Và Chúa nói với ta qua hệ thống thực tại trần thế, đó là Kinh Thánh, truyền thống, phụng vụ, Hội Thánh, nhân loại và thiên nhiên. Bằng ấy yếu tố thực tại làm nên một hệ thống, qua đó, Chúa thường nhắn gởi chúng ta. Nếu chúng ta có một trái tim tỉnh thức, thì sẽ nắm bắt được tiếng Chúa gọi, qua hệ thống thực tại mà tôi vừa nói.
Đức Hồng Y Congar, dòng Đaminh của chúng ta, cũng đã có một lần viết: “Nếu mỗi người chúng ta, nhất là những người đi tu, một năm tìm được năm lời gọi mới của Thiên Chúa, đó là những chân lý mới, những kinh nghiệm mới, thì cộng đoàn của mình, Hội Thánh của mình, sẽ rất phát triển. Nhưng than ôi, biết bao người sống trong dòng thời gian đầy chuyển biến, mà không thu lượm được cái gì là phương thế mới, để phát triển Nước Trời!”.
Rồi, “hãy tỉnh thức” có nghĩa là hãy biết lợi dụng cái cũ và cái mới, để sáng tạo nên một sự thích hợp cho việc phát triển Nước Trời, hợp với hoàn cảnh, tùy nơi, tùy vùng.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã có lần nói tới những người am hiểu Nước Trời: Họ biết lợi dụng cái tốt và cái mới, để mà tạo dựng nên cái thích hợp.
Tôi nghĩ mỗi người chúng ta, qua cuộc sống mình, và tiếp cận với những thực tại, thì đã có rất nhiều cái mới, để trong kho tàng mỗi người. Kho tàng của mỗi người chúng ta là trí khôn của ta, là trái tim của ta, là trí nhớ của ta, là trí vẽ của ta.
Mỗi một năm, chúng ta có thể để đưa vào trong những kho tàng này những cái mới, những chân lý mới, những kinh nghiệm mới, những cảm nghiệm mới, để rồi có lúc, chúng ta dùng nó mà sáng tạo nên những cách diễn tả mới cho đức tin, phù hợp với thời điểm mới, với những nơi mình phải dấn thân.
Rồi, “hãy tỉnh thức” là hãy biết nắm bắt những nhiệt tình mới, mà Đức Thánh Cha muốn nhắc tới trong những thông điệp của Người.
Những nhiệt tình mới hiện nay, tôi thấy đang phát triển nhiều ở những nhân sự mới, ở những cộng đoàn mới, ở những địa phương mới, và ở cả những vùng sâu của Hội Thánh. Nếu biết nắm bắt tinh thần tỉnh thức Phúc Âm, chúng ta sẽ thấy: Mùa xuân của Hội Thánh sẽ tới từ những nhiệt tình mới đang phát triển, như những tiềm năng vô giá.
Anh chị em thân mến,
Hãy tỉnh thức, để mở rộng Nước Trời.
Tôi nghĩ đây cũng là một đoàn sủng mà Chúa đã ban cho thánh Đaminh, đã ban cho dòng Đaminh nói chung, và đã ban cho dòng Đaminh Lạng Sơn nói riêng. Và đoàn sủng này phải được dùng, để làm lợi cho Hội Thánh. Và khi sống đoàn sủng này, chúng ta chỉ cần để ý một điều, là cần phải mở rộng lòng mình hơn, để đón nhận Chúa Thánh Linh. Vì Chúa Thánh Linh mới là Đấng thánh hóa chúng ta. Chúa Thánh Linh mới là Đấng hướng dẫn lịch sử Hội Thánh và phát triển Nước Trời. Cho nên, khi tuyên hứa trong dòng, chúng ta muốn trung thành với Chúa và luật dòng. Nhưng đừng quên rằng: Cần phải tuyên hứa luôn tỉnh thức với ơn Chúa Thánh Linh.
Chúa Thánh Linh hoạt động theo kế hoạch riêng của Người, mà nhiều khi, Ngài không báo cho ta trước. Chúa Thánh Linh là sự tự do sáng tạo, và luôn luôn tiếp tục sáng tạo. Mình phải tỉnh thức và biết đón nhận, thì mới có thể cộng tác được với Chúa Thánh Linh, khi chúng ta trung thành với lời khấn.
Xin anh chị em trong thánh lễ này, cầu nguyện cho chị em chúng ta nói riêng, và cho tất cả chúng ta nói chung, được ơn tỉnh thức như thánh Đaminh xưa, và như các thánh trong dòng Đaminh xưa và nay, biết tỉnh thức, biết bén nhạy, biết nắm bắt, biết xoay sở, biết lên đường, và biết dấn thân trong những hình thức mới, mà Chúa Thánh Linh khơi dậy trong tâm hồn chúng ta. Amen.
Lễ khấn dòng tại Đaminh Lạng Sơn (Tp. Hồ Chí Minh), ngày 08-08-1995
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói tiên tri về một thời điểm của tương lai. Lúc đó sẽ xảy ra nhiều chuyện đảo ngược hết sức ngỡ ngàng.
Có những người trước đây được biết Chúa, được nghe lời Chúa, lại sẽ bị Chúa ruồng bỏ, đang khi có những kẻ trước đây không được may mắn đó, lại sẽ được Chúa cho vào Nước Trời.
Có những người trước đây ở trong Hội Thánh, lại sẽ bị đuổi ra ngoài Nước Trời, đang khi có những kẻ ở những vùng xa xôi ngoài Hội Thánh, từ đông tây nam bắc lại sẽ được mời vào bàn tiệc Nước Trời.
Có những kẻ trước đây kể như đứng chỗ cao nhất lại sẽ bị hạ xuống chỗ rốt hết, đang khi có những kẻ trước đây ở chỗ rốt hết lại sẽ được nâng lên chỗ cao nhất.
Lời tiên tri trên đây của Chúa nhắm vào ngày phán xét. Nhưng cũng đang thấy ứng nghiệm phần nào trong chính thời điểm hiện nay.
Lý do xảy ra những đảo ngược đó là vì Chúa sẽ phán xét mỗi người theo tiêu chuẩn: Có đi vào cửa hẹp hay không?
Đối với mọi người đi vào cửa hẹp là tuân giữ luật đạo đức, luật lương tâm. Riêng đối với kẻ biết đạo và tin Chúa, thì đi vào cửa hẹp còn là tuân giữ lời Chúa, sống theo gương Chúa.
Đi vào cửa hẹp, là khiêm tốn từ bỏ cái tôi tự mãn của mình để đi vào con đường dấn thân theo Chúa. Đừng tưởng là vì mình đã từng ở trong Hội Thánh, hơn nữa đã từng được nghe lời Chúa, đã thông thuộc giáo lý, được dự bàn tiệc thánh, được tham dự vào những sự thánh, nên tất nhiên mình đạo đức hơn người khác, mình được bảo đảm sẽ được cứu rỗi. Một cái tôi tự mãn như thế sẽ không được coi là có đức tin thực sự. Bởi vì đức tin thực sự là sự gặp gỡ sống động với Đức Kitô nhập thể, khiêm tốn, dấn thân vào việc phục vụ các linh hồn, chỉ vì tình yêu. Con đường dấn thân, theo đòi hỏi Phúc Âm, là con đường mà Chúa Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mà theo Ta”.
Đi vào cửa hẹp là hoan hỉ đi vào con đường bác ái để Chúa dùng mình như khí cụ bình an của Chúa. Kinh Hoà-Bình mà chúng ta thường hát là một bài ca lên đường đi vào cửa hẹp Phúc Âm, nơi dẫn đến sự gặp gỡ Chúa và gặp gỡ con người trong tình yêu thương trong sáng.
Hình ảnh cửa hẹp và lời tiên tri của Chúa trên đây sẽ chỉ dẫn tôi, anh chị em, nhất là các em chịu phép Thêm Sức đường hướng sống đạo phải chọn cho tương lai chúng ta. Cửa hẹp, đó là cửa mà Đức Mẹ đã chọn. Cửa hẹp, đó là cửa các thánh tử đạo Việt Nam đã chọn. Cửa hẹp, đó là cửa chính Đức Kitô đã chọn, đã đi, và đã chỉ cho chúng ta.
Xin Chúa Thánh Thần ban ơn thêm sức cho chúng ta hiểu rõ cửa hẹp đó, biết mến yêu cửa hẹp đó, và nhất là dám dấn thân theo cửa hẹp đó. Amen.
Bài giảng của Đức Cha Gioan Baotixita BÙI-TUẦN, tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 27-08-1995, dịp lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương, bổn mạng nhà thờ.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh rất gợi ý về Nước Trời. Hình ảnh đó là cái cửa. Đại ý Chúa cho biết: Đến một lúc nào đó, cửa ấy sẽ đóng lại về phía một số người có đạo. Hơn nữa, nhiều kẻ có đạo đã lọt được vào trong nhà, sẽ bị đuổi ra ngoài. Nhưng cửa ấy sẽ mở ra rộng rãi, đón nhận đủ thứ người ngoại, từ đông tây nam bắc.
Tôi có cảm tưởng là lời tiên tri trên đây đã bắt đầu thực hiện phần nào ngay tại địa phương ta.
Thực vậy, tôi thấy nhiều người Công giáo và cộng đoàn đức tin đang trong tình trạng cửa đóng. Trí khôn họ đóng lại, không thấy được các sự thật mới mẻ có liên quan đến ơn gọi được sai đi. Trái tim họ đóng lại, không thông cảm được với những khó khăn cay đắng của đồng bào xung quanh. Lương tâm họ đóng lại, không thao thức được với những tiếng gọi Phúc Âm đang vang dội khắp nơi. Ý chí họ đóng lại, không dấn thân được vào những lãnh vực từ thiện, truyền giáo. Hơn nữa, họ như bị mất đi những cái tốt đã có. Họ hao mòn, cằn cỗi.
Bên cạnh tình trạng cửa đóng, tôi thấy nhiều người Công giáo và nhiều cộng đoàn đức tin đang trong tình trạng cửa mở. Trí khôn họ mở ra, tiếp nhận được nhiều sự thật mới, giúp họ thêm ca tụng Chúa và phát triển đạo. Trái tim họ mở ra, cảm thông chân thành và sâu sắc với những khát vọng và khó khăn của đồng bào. Lương tâm họ mở ra, thao thức với những nhu cầu Phúc Âm chồng chất ngay bên cạnh họ. Ý chí họ mở ra, dấn thân đi vào các tuyến đường thăng tiến con người, nhất là đi về phía những người ngoài Công Giáo.
Khi so sánh tình trạng đóng cửa với tình trạng mở cửa trong giáo phận Long Xuyên nhà, tôi thấy tình trạng mở cửa càng ngày càng phát triển. Người nào, nhà nào, cộng đoàn nào đi theo hướng mở, đã và đang tiến về nhiều mặt một cách rõ rệt. Còn người nào, nhà nào, cộng đoàn nào đi theo hướng đóng, đã và đang tụt hậu, tự mình rớt xuống chỗ rốt hết.
Với những gợi ý trên đây, tôi xin anh chị em hãy nhìn lại bản thân mình, gia đình mình, cộng đoàn của mình, xem đang trong tình trạng mở hay đóng.
Để có một hướng mở đúng đắn và phong phú, chúng ta cần gặp gỡ Đức Kitô, cần có những hiểu biết về Người, cần có những cảm nghiệm sống động về Người, cần sống thân mật với Người. Đức Kitô chính là cửa Nước Trời.
Tôi thấy họ đạo chúng ta đang đi theo hướng đó. Đã có một số thành quả tốt, về mặt giáo lý, về mặt tu đức, về mặt truyền giáo, về mặt dấn thân thăng tiến con người, và về mặt làm đẹp môi trường. Cần tiếp tục và cố gắng thêm, nhất là về mặt gặp gỡ Đức Kitô và tham gia các công việc chung của Hội Thánh.
Xin Chúa Thánh Thần đổi mới chúng ta, họ đạo chúng ta. Xin Ngài thương mở trí khôn ta, mở trái tim ta, mở lương tâm ta, mở ý chí ta, để ta biết sống và hoạt động theo thánh ý Người.
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: Thánh Phêrô đã cản ngăn Đức Kitô bước vào cuộc tử nạn nhục nhã, mà Chúa Cha đã dạy Người phải bước vào, để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, và để cứu rỗi các linh hồn.
Tìm hiểu lý do nào thánh Phêrô đã cản ngăn, thì tôi cho rằng: Lý do, là vì thánh Phêrô muốn xây dựng và bảo vệ uy tín cho Thầy mình. Thầy mình phải có uy tín, phải được bảo vệ uy tín. Và uy tín của Thầy mình cần phải được phát triển.
Tôi có cảm tưởng, là ý tưởng trên đây của thánh Phêrô đã ám ảnh tâm hồn Ngài lâu năm, nên đã trở thành động cơ, khiến thánh Phêrô cản ngăn Đức Kitô thi hành thánh ý Chúa Cha. Không phải một lần này đâu, mà đã có nhiều lần rồi.
Chẳng hạn: Khi Đức Kitô quỳ rửa chân cho các môn đệ, thì cũng chính Phêrô cản ngăn. Lý do cũng như vậy: Ngài không muốn cho Thầy mình hạ mình, làm những việc hèn hạ như vậy.
Một lần nữa trong vườn Cây Dầu, khi thấy Thầy mình bị bắt, Phêrô tuốt gươm, chém đứt tai một người đầy tớ thầy cả. Lý do cũng thế: Ngài không chấp nhận Thầy mình bị nhục nhã, bị mất uy tín.
Tư tưởng trên cũng là bình thường do lòng tốt. Nhưng uy tín của Phêrô là uy tín theo nhãn quan loài người, chớ không phải là uy tín, mà thánh ý Chúa muốn.
Đã nhiều lần Đức Kitô cắt nghĩa điều này, nhưng xem ra Phêrô luôn cảm thấy khó hiểu, và cũng không muốn chấp nhận. Sau cùng, khi Phêrô vấp phạm, phạm một tội rất lớn, là chối Chúa ba lần. Mất hết uy tín. Bấy giờ, Phêrô mới mở mắt ra: Thấy uy tín của Đức Kitô, chính là khi biết tỏ lòng xót thương, tha thứ tội lỗi, cam chịu mọi khổ đau, để làm chứng cho tình yêu Chúa Cha, và để cứu rỗi các linh hồn.
Và cũng khi Ngài mất hết uy tín vì lỗi lầm của mình, Ngài mới nhận ra: Uy tín của một môn đệ Đức Kitô, chính là biết bắt chước Thầy mình, biết trở về với Thầy: Thầy làm thế nào, mình cũng phải làm như vậy. Dù phải cam chịu mất mát, để làm chứng tình yêu Thiên Chúa, và để cứu rỗi các linh hồn, thì cũng hãy vâng theo ý Chúa cho trọn, cho đến cùng. Đó mới là uy tín thật sự của người môn đệ Đức Kitô.
Sở dĩ hôm nay nhân bài Phúc Âm, tôi muốn chia sẻ với anh chị em những tư tưởng trên đây, là vì hiện nay, tôi thực sự lo lắng cho tình hình Hội Thánh nói chung, và cho Hội Thánh Việt Nam nói riêng. Bởi vì hiện nay, tôi đang nhìn thấy nhiều nơi, đang rộ lên những phong trào tuyên xưng đức tin, như thánh Phêrô xưa: “Thầy là Con Thiên Chúa”. Nhưng đồng thời, cũng đang xuất hiện những cảnh Phêrô cản ngăn Đức Kitô thi thành kế hoạch cứu độ của Người.
Cảnh mà Phêrô bị Chúa mắng là Satan, thì bây giờ cũng đang xuất hiện khắp nơi: Tuy người ta có tuyên xưng Đức Kitô, nhưng người ta cũng lại cản ngăn Đức Kitô thi hành kế hoạch cứu độ.
Nếu chúng ta để ý, thì chúng ta cũng đang thấy: Hiện nay, nhiều nơi, trong các tầng lớp xã hội và Giáo Hội, sự xây dựng uy tín, phát triển uy tín cho bản thân mình, cho cộng đoàn mình, đã được coi là chuyện bình thường và đã trở thành phổ biến, và được coi là phù hợp với tinh thần của đạo, phù hợp với tinh thần tu trì.
Nhưng, như Đức Kitô hôm nay đã tỏ rõ: Một tinh thần không tuân phục thánh ý Chúa Cha, cản ngăn ơn cứu độ, làm cho Đức Kitô không cứu được các linh hồn, như Phêrô đã làm xưa, cũng sẽ bị Chúa gọi là Satan, do việc họ đã cản ngăn những kế hoạch của Đức Kitô, do đã cố gắng xây dựng uy tín cho mình kiểu Phêrô xưa.
Trên lý, thuyết người ta vẫn cho rằng: Xây dựng uy tín cho mình, cho cộng đoàn mình, chính là phương tiện để mở rộng Nước Trời. Nhưng trong thực tế, ai cũng thấy phương tiện đó dễ trở thành mục đích. Và khi nó đã trở thành mục đích rồi, thì đó là điều hoàn toàn sai trái trước mặt Chúa, và trước mặt người ta. Nó cũng dễ đẩy nhiều người đi xa Hội Thánh và đi xa Đức Kitô.
Tôi lo sợ rằng: Đến một lúc nào đó, nếu những người trong Hội Thánh không ý thức về điều này, nghĩa là cứ cản ngăn Đức Kitô thi hành kế hoạch cứu độ, thì họ sẽ rơi vào tình trạng của Phêrô: Nhiều nơi sẽ bị sa sút trầm trọng. Nhiều người sẽ bị lỗi lầm kinh hoàng. Để rồi từ đó, họ mới thấy mình mất hết uy tín. Hội Thánh mình không còn uy tín. Bấy giờ, họ mới chịu mở mắt ra, để bám vào một Đức Kitô mà thôi. Và bấy giờ, họ mới hiểu: Uy tín của Đức Kitô, uy tín của Hội Thánh, uy tín của những người tin theo Đức Kitô, rất khác với những uy tín thường hiểu, theo quan điểm của nhân loại bây giờ.
Vì thế hôm nay, tôi xin anh chị em hãy cùng chúng tôi cầu Chúa Thánh Thần mở lòng mở trí tất cả mọi người chúng ta ra, để chúng ta hiểu thế nào là thánh ý Chúa, và thế nào là đúng uy tín, mà Chúa muốn chúng ta xây dựng và phát triển, để mở rộng Nước Trời.
Tôi biết là chúng ta yếu đuối lắm. Vì thế, mặc dầu chúng ta có ý thức đúng đi nữa, thì tự sức mình, chúng ta khó có thể chấp nhận được con đường Đức Kitô đã đi, đã cứu độ nhân loại, và thánh hoá Hội Thánh.
Cho nên, chúng ta cần phải có lòng khiêm tốn, cậy trông, xin Chúa Thánh Thần, là sức mạnh, là ánh sáng, giúp cho chúng ta nói riêng, và Hội Thánh Việt Nam nói chung, trong hoàn cảnh rất phức tạp này, biết thực thi thánh ý Chúa, và đừng bao giờ như Phêrô cản ngăn Đức Kitô thực hiện chương trình cứu độ của Người. Người có những chương trình riêng của Người, mà không cần phải xin phép ai trong Hội Thánh, cũng không cần phải hỏi ý kiến chúng ta. Ngược lại, chúng ta phải biết tích cực, tham gia, cộng tác với Chúa, bằng sự khiêm tốn, bằng sự cởi mở, bằng sự quảng đại, dám dấn thân, dám chấp nhận mọi thua thiệt nơi chính mình.
Có như vậy, chúng ta mới thực sự tuyên xưng đức tin một cách sống động, mà Chúa Thánh Linh muốn chúng ta làm, trong tương lai và trong hiện tại. Amen. An Châu (Hoà Bình Thạnh), ngày 10-08-1995
Trong bài Phú Âm hôm nay Chúa Giêsu phán: “Các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng Bùi-Tuần 525
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu phán: “Các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con”.
Tôi nghĩ: Với những lời trên đây, Chúa Giêsu không muốn dạy chúng ta đừng bao giờ sợ, coi cái sợ như là một cái xấu, gây thiệt hại. Bởi vì, sợ là một phản ứng tự nhiên của cảm quan Chúa ban cho con người, để bảo vệ và phát triển cuộc sống.
Có những cái sợ không cần thiết và sinh hại. Nhưng có những cái sợ cần thiết, để giúp chúng ta đi vào đúng đường lối. Nếu có một người nào đó không biết sợ gì cả: Không sợ luật pháp, không sợ cha mẹ, không sợ dư luận, không sợ Chúa, không sợ tội, thì người đó, có lẽ sẽ không ngần ngại phạm bất cứ tội nào: Phá rối trật tự, để rồi tự mình đâm đầu xuống lửa địa ngục.
Vậy Chúa bảo chúng ta đừng sợ, là đừng sợ cái gì? Riêng tôi, khi nghe Chúa bảo: “Con đừng sợ”, có nghĩa là con đừng sợ đời con không có định hướng. Bởi vì, định hướng đời con đã được Cha trên trời xác định rõ. Định hướng đời con là đi về Nước Trời, dù con đang ở Kiên Lương, dù chiều nay con về Long Xuyên, dù sáng mai con đi Sài Gòn, để sáng mốt bay ra Đà Nẵng. Định hướng đời con vẫn là đi về nhà Cha trên trời. Định hướng đó đã được Cha trên trời xác định, và vạch rõ cho con.
Rồi, khi nghe Chúa nói: “Con đừng sợ”, thì tôi hiểu rằng, những sự vất vả, khó khăn, hy sinh tôi chịu, không phải là vô nghĩa. Bởi vì, Chúa sẽ cân đo tất cả, để làm giá cứu chuộc bản thân tôi, và cứu chuộc những người thuộc về tôi. Không có sự gì mà không có giá trị trước mặt Chúa.
Sự anh chị em đang ngồi, đang đứng ở đây, cũng là những việc có ý nghĩa trước mặt Chúa: Mỗi giây phút ta dâng cho Chúa, với tất cả niềm tin yêu, là một giây phút có ý nghĩa. Tôi dâng phút này cho Chúa, để tạ ơn Chúa, để cầu nguyện cho các linh hồn, thì tất cả đều có ý nghĩa hết, đều có giá trị cứu độ. Đừng sợ những việc đó là không ý nghĩa.
Rồi, khi Chúa bảo tôi: “Con đừng sợ”, thì tôi hiểu rằng, việc tôi trở về với Phúc Âm sẽ không tránh được những khó khăn. Bởi vì, những khó khăn ấy trước mặt Chúa sẽ là những bậc thang Chúa gọi tôi bước vào, để mở rộng Nước Trời.
ở đây, tôi nghĩ tới việc Tân-Phúc-Âm-hoá, mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đang hô hào khuyến khích.
Tân-Phúc-Âm-hoá là gì?
Tân-Phúc-Âm-hoá là trở về với Phúc Âm, là tập trung vào Đức Kitô. Đức Kitô chính là Nước Trời. Hãy đón nhận Đức Kitô với lời của Người, với sự sống của Người, với thần linh của Người, và cùng với Đức Kitô xây dựng vương quyền Thiên Chúa trong lòng mình, trong lòng những người xung quanh, và môi trường xã hội, để khắp nơi đều có hoà bình, có yêu thương, có công lý. Nhưng khi đưa ra sơ đồ Tân-Phúc-Âm-hoá như vậy, và đã thực hiện đôi chút, tôi thấy ngay những khó khăn mình phải đụng tới: Nhiều khi những khó khăn đó lại xuất phát từ trong chính Hội Thánh. Bởi vì, biết bao người coi như giữ đạo, nhưng chỉ giữ đạo bề ngoài, mà không bao giờ trở về cái căn cốt của Phúc Âm, không bao giờ coi sự gặp gỡ Đức Kitô là chính đức tin sống động, và chưa bao giờ quyết tâm đi theo Đức Kitô, và sống theo gương Đức Kitô. Có biết bao nhiêu người như vậy. Tân-Phúc-Âm-hoá chính là phải có một nhiệt tình mới, phải sáng tạo ra những phương thế mới, để truyền bá Phúc Âm, và để diễn tả một cách thức mới đức tin của mình. Nhưng trên thực tế, tôi đã thấy biết bao khó khăn: Biết bao nhiêu người trong chính chúng ta vẫn chỉ bám vào những cái cũ. Sợ những cái mới. Phản đối những cái mới. Mà nếu như vậy, thì không thể nào có Tân-Phúc-Âm-hoá được, để trình bày đức tin trong thời điểm mới của Việt Nam hôm nay.
Trước những khó khăn ấy, Chúa bảo tôi: Con đừng sợ. Bởi vì “Cha các con trên trời đã vui lòng ban Nước Trời cho các con”.
Như vậy, vấn đề chính còn lại đối với tôi và anh chị em hôm nay, là đón nhận Nước Trời Chúa ban cho. Nhưng, đây là vấn đề chúng ta cần phải xem xét một cách nghiêm túc. Chúa phán: “Cha đứng ở cửa lòng con, và luôn gõ cửa lòng con, nếu con mở cửa lòng con, Cha sẽ vào và ở lại đó”.
Bây giờ, chúng ta thử hỏi mình xem: Chúng ta có mở cửa lòng ta ra đón nhận Đức Kitô không? Chúng ta có để những dục vọng, sự nguội lạnh, lòng tự mãn, khép cửa lòng ta lại, không cho Đức Kitô đi vào? Hoặc là Đức Kitô đi vào lòng ta rồi, mà ta vẫn xử sự với Ngài như một người khách lạ?
Rồi, bài Phúc Âm hôm nay nói: “Để đón Nước Trời, cần phải tỉnh thức”, có nghĩa là chúng ta cần phải lắng nghe tiếng Chúa gọi, không những trong Phụng Vụ, trong Kinh Thánh, mà trong các thực tại mỗi ngày.
Chúa kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, nhưng chúng ta có thực sự ăn năn sám hối không?
Rồi, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa nói: Để đón Nước Trời là Đức Kitô, ta cần phải làm tốt bổn phận của mình, sử dụng tốt các ơn Chúa ban. Vậy, ta tự hỏi mình xem: Chúa ban cho chúng ta rất nhiều ơn phần hồn phần xác, nhưng chúng ta có làm tốt bổn phận của ta không với những ơn đó: Bổn phận tạ ơn Chúa hàng ngày, bổn phận trở nên tốt hơn hàng ngày, bổn phận làm chứng hiệu nghiệm hơn cho Chúa hàng ngày?
Anh chị em thân mến,
Họ đạo Kiên Lương của anh chị em có thể gọi được là một nơi đã nhận nhiều ơn Chúa, về kinh tế, về văn hoá, và về đức tin. Nếu so sánh Kiên Lương với những họ đạo trong địa phận, tôi thấy ở đây, anh chị em được nhiều ơn, hơn những giáo đoàn khác. Vậy anh chị em hãy chân thành trả lời Chúa: Mình có thật sự phát triển những ơn Chúa ban cho mình không, để đón nhận Nước Trời? Có lẽ anh chị em cũng như tôi, giờ đây cảm thấy mình yếu đuối, có những lầm lỗi, và tự mình muốn vươn lên, mà khó vươn lên. Nhưng chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa dạy hôm nay: “Các con đừng sợ”. Bởi vì nếu chúng ta có thiện chí, có lòng khiêm tốn, có lòng phó thác, và nhất là như lời Chúa dạy hôm nay” Đoàn chiên bé nhỏ, hãy sống bé nhỏ, hãy sống thật sự khiêm tốn, thì ơn Chúa sẽ biến đổi chúng ta. Hãy nhớ lời Chúa nói trong ngày lễ Truyền Tin: “Những gì người ta không làm được, thì Thiên Chúa sẽ làm được”.
Chúng ta tin vào lời Chúa, nghĩa là chúng ta có thiện chí, tin tưởng, phó thác, khiêm tốn, và sống bé nhỏ thiêng liêng trước mặt Chúa. Giờ đây, chúng ta tập trung lòng trí lại, nhìn vào Thiên Chúa, hết lòng khiêm tốn nhận mình yếu đuối, và xin mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa vào lòng ta, và xin sẵn sàng tuân theo bất cứ sự gì Chúa muốn nơi ta.
Chúa chỉ cần có thế thôi. Và rồi Chúa sẽ giúp chúng ta. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu phán: “Nước Trời là của những người giống như trẻ nhỏ”.
Khi nghe lời Chúa phán trên đây, tôi đã hỏi Chúa: “Chúa muốn dạy con điều gì?”. Và Chúa đã soi sáng cho tôi rằng: Cũng như trẻ nhỏ trên con đường phát triển, nó cần lãnh nhận những tình thương mà nó không đáng lãnh nhận, thì trên con đường về Nước Trời, con và tất cả mọi người, cũng cần phải lãnh nhận những tình thương, mà chúng con không đáng lãnh nhận.
Những lời Chúa phán trong lòng tôi trên đây, dẫn đưa tôi tới 3 điều này:
Điều thứ nhất là tôi cần phải có một thái độ cởi mở và biết ơn. Nhìn lại tất cả cuộc đời, anh chị cũng như tôi, tất nhiên đã nhận thấy: Để cho bản thân mình được phát triển về nhân bản, về trí thức , về tinh thần, về đạo lý, chúng ta đã lãnh nhận biết bao tình thương. Và những tình thương ấy, nói đúng ra, chúng ta không đáng lãnh nhận.
Bây giờ và sau này đây, lời đó vẫn còn có giá trị.
Tôi nghĩ rằng: Ngay như hôm nay, chúng ta cũng cần đến tình thương, của những người lối xóm, của địa phương, của Hội Thánh, của các tôn giáo bạn, của dân tộc mình, nghĩa là của tất cả những người đang cùng ta đi trên dòng lịch sử. Nhiều khi chúng ta có cảm tưởng: Mình, Hội Thánh mình, là những người đi ban ơn Tin Mừng. Nhưng thực ra, chúng ta cần phải xác định một cách khiêm tốn: Chúng ta rao giảng Tin Mừng, nhưng đồng thời chúng ta cũng rất cần đón nhận những tình thương của bất cứ ai Chúa gởi đến trên đời ta, kể cả những người xã hội coi là không đạo đức, kể cả những người bị xã hội coi là đứng ngoài lề xã hội. Những ngời ấy cũng vẫn có thể ban cho chúng ta những tình thương, những sự giúp đỡ, mà chúng ta, đáng lẽ không được lãnh nhận.
Một nhận thức như vậy giúp chúng ta có một thái độ khiêm tốn, cởi mở, không loại trừ ai.
Riêng tôi, tôi cảm nhận thấy rõ ràng điều đó: Trên con đường thi hành chức vụ, và trên con đường đi về Nước Trời, tôi đã đón nhận biết bao hồng ân Chúa ban qua Hội Thánh, qua dân tộc, qua bạn bè, và qua cả những người xa lạ, qua cả những người coi như ác cảm đối với đạo. Chúa dùng tất cả, để giúp cho chúng ta có những ơn cần thiết.
Vì thế, thái độ đầu tiên mà Chúa dạy tôi và anh chị em qua bài Phúc Âm hôm nay, là hãy như trẻ nhỏ không đáng lãnh nhận cái gì, nhưng nó cần tất cả mọi tình thương. Nó không chê chối một tình thương nào, dù những tình thương đó là những tình thương xa lạ. Nó cần lãnh nhận, để có thể phát triển bản thân mình. Hãy cởi mở, khiêm tốn và biết ơn.
Điều thứ hai Chúa dạy tôi trong bài Phúc Âm hôm nay, là hãy có một thái độ nhìn lên Thiên Chúa là Cha.
Tình thương lớn nhất mà tôi không đáng lãnh nhận chút nào, đó là tình thương mà Chúa đã dành cho tôi, cũng chính là tình thương Chúa dành cho Con Một Chúa.
Anh chị em cũng vậy. Sự thật này đã được Kinh Thánh dạy, và lát nữa trong lời nguyện Thêm Sức, Hội Thánh sẽ nhắc lại: Thiên Chúa yêu thương chúng ta cũng bằng tình thương Chúa Cha dành cho Con Một Chúa.
Như vậy, chúng ta thấy: Chúng ta không có công trạng nào để đáng lãnh nhận tình thương lớn lao, phong phú, lạ lùng như vậy. Nhưng chúng ta rất cần đón nhận. Và khi biết mình đón nhận tình thương bao la, là tình thương Chúa Cha dành cho Con Một Chúa, là tình thương Ba Ngôi trao đổi với nhau, thì chúng ta nhận biết mình có bổn phận: Phải luôn luôn sống xứng đáng là người con yêu Chúa. Phải làm sao để mình không phải chỉ là đền thờ của Chúa Thánh Linh, mà còn là người con của Cha trên trời, có những ước muốn như Cha muốn, có những tình cảm như Cha có, luôn luôn hướng về Cha, luôn luôn muốn làm trọn ý Cha, là như Đức Kitô, dâng mình làm của lễ, đi trót con đường Chúa chọn cho mình, để sau cùng, được cùng Chúa Cha hưởng phúc trường sinh.
Nếu chúng ta nhận biết điều đó, thì điều quan trọng của đời ta, chính là làm cho bản thân mình, đời mình, trở nên một thánh lễ, không phải thánh lễ trên bàn thờ mà thôi, mà thánh lễ suốt cuộc đời.
Bản thân ta phải luôn như Chúa Kitô, như một tấm bánh được bẻ ra, để dâng cho Chúa Cha và trao cho các linh hồn.
Người con Thiên Chúa phải là như vậy. Và Chúa muốn: Như trẻ nhỏ, chúng ta phải biết đón nhận tình thương bao la của Thiên Chúa trao cho mình, để rồi chúng ta biết phát triển tiềm năng người con Thiên Chúa.
Điều thứ ba Chúa dạy tôi trong bài Phúc Âm hôm nay đó là thái độ biết ở lại trong tình yêu Thiên Chúa.
Chúa Giêsu nhiều lần đã nói: Hãy ở lại trong tình yêu của Cha. Chúa nói: “ở lại”. ở lại không có nghĩa là chỉ nghĩ tới, chỉ lui tới, mà còn ở lại trong căn nhà như một tổ ấm, để mình chan hoà với Chúa, và Chúa chia sẻ sự sống Chúa cho ta, để ta phần nào trở nên giống như Thiên Chúa, nhờ kết hợp với Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Lúc nãy, ông đại diện giáo xứ có kể ra một số thành tựu của giáo xứ đã đạt được: Như những lớp giáo lý, những xây dựng cơ sở, những hoạt động của các hội đoàn. Đây cũng là những thành tựu đáng khen ngợi, nhưng với cái nhìn của tôi, khi suy gẫm bài của Phúc Âm hôm nay, tôi đã hỏi Chúa rằng:
Xứ đạo mà con đang thăm viếng có hội đủ ba điều kiện Chúa soi sáng cho con hôm nay hay không? Xứ đạo này có cởi mở, có khiêm tốn đón nhận những hồng ân, mà họ đã không đáng lãnh nhận không? Xứ đạo này có một thái độ hướng về Thiên Chúa, sống trọn vẹn người con của Chúa không? Và họ đạo này có thật sự ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa không?
Tôi nghĩ: Mỗi người trong anh chị em trong xứ đạo, hãy sớm trả lời với Chúa. Bởi vì, chính đó mới là căn bản cho việc sống đạo, và đi về Nước Trời.
Lúc nãy, ông đại diện cũng xin tôi và các cha cầu nguyện, chúc lành cho đài Đức Mẹ, cho tháp chuông. Tôi đã nói với Chúa rằng: Tất cả những công trình đó đều rất hữu ích, rất cần thiết. Nhưng điều Chúa muốn hơn cả, đó là “hãy gắn bó với Chúa, hãy ở lại trong Tình Yêu Chúa”. Tình yêu Chúa, tuy chúng ta không nhìn thấy được, nhưng chúng ta có thể cảm nghiệm được, khi chúng ta kết hợp với Ngài.
Chúa không ở trên đài. Chúa không ở trên tháp chuông. Nhưng Chúa ở trong phép Thánh Thể, trong lòng chúng ta, trong những con người chung quanh chúng ta, trong Hội Thánh.
Hãy ở lại trong tình thương ấy. Và hãy chăm chú nghe tiếng Chúa gọi trong những thực tại ấy, để trở nên những người con thật sự của Chúa.
Xin Chúa Thánh Thần, không những giúp cho con em thêm sức của chúng ta hôm nay, mà cho tất cả mọi người chúng ta, biết trở nên như trẻ nhỏ: Hồn nhiên, khiêm tốn, và hết sức cậy trông vào tình yêu Thiên Chúa, Đấng nhìn thấy tất cả, thấu suốt tân can mọi người, để trong tương lai, chúng ta đi về Nước Trời, như những trẻ bé nhỏ, cần hết mọi tình thương, mặc dầu mình không xứng đáng với những tình thương ấy. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay đã kết bằng một câu: “Sau khi đặt tay trên chúng, Đức Kitô đã rời khỏi nơi đó”.
Đọc câu này xong, tôi đã hỏi Chúa Giêsu rằng: Với câu Phúc Âm ấy, Chúa muốn gợi ý cho con điều gì? Và Chúa đã soi sáng trong lòng tôi điều này, đó là Hội Thánh của con, con và tất cả kẻ những kẻ theo Cha, phải biết từ bỏ mà ra đi. Ra đi, tức là phải dấn thân, phải lên đường, phải truyền giáo, phải đổi mới.
Với những lời Chúa gợi ý trên đây, tôi thoáng hiểu: Kẻ theo Đức Kitô phải dấn thân, phải truyền giáo, phải đổi mới. Và tôi cũng nhìn thấy một vài đặc điểm sau đây:
Trước hết là phải sẵn sàng “từ bỏ” cái tôi của mình, để mặc lấy Thiên Chúa.
Cái tôi của chúng ta là cái tôi mang nhiều ý riêng, không phải chỉ là tội lỗi, những thái độ không tốt, mà nhiều khi cả những ý hướng coi là lành thánh, nhưng không hợp với ý Chúa.
Chúng ta còn nhớ thánh Phêrô, một lần nào đó, đã ngăn Đức Kitô, đừng đi vào cuộc tử nạn. Đó là một hành vi tốt, nhưng Đức Kitô cảnh cáo Phêrô rằng: “Tư tưởng này của con không phải là do Thiên Chúa, mà là do xác thịt. Satan! Hãy lui ra khỏi nơi đây”.
Như vậy, chúng ta thấy: Ý riêng của ta, nhiều khi có vẻ đạo đức, nhưng vẫn chưa phải là thánh ý Chúa. Cho nên, qua bài Phúc Âm hôm nay, Chúa gợi ý cho chúng ta: Phải biết từ bỏ cái tôi, để đi vào con đường thánh ý Chúa.
Rồi, “từ bỏ” còn là từ bỏ con đường thênh thang, an hưởng, để đi vào con đường hẹp, con đường của giới răn Chúa.
Phúc Âm đã dạy: “Ai muốn theo Đức Kitô, hãy vác thánh giá mình, từ bỏ mình, đi vào con đường hẹp, mà theo Đức Kitô”. Con đường hẹp ở đây, không có nghĩa là tự trói buộc mình, làm cho mình mất tự do. Nhưng là một cách giải thoát ta, giúp ta bẻ xiềng xích nội tâm, làm cho ta có tự do tâm hồn.
Rồi, “từ bỏ và ra đi”, có nghĩa là hãy từ bỏ cách sống đạo bề ngoài, vụ hình thức, để đi vào một cuộc sống đạo có đức tin, có sự gặp gỡ Đức Kitô, biết kết hợp với Đức Kitô, biết ở lại trong tình yêu Đức Kitô.
Nhiều khi tôi nhận thấy: Giáo dân mình giữ đạo coi như sốt sắng sầm uất, nhưng tôi vẫn lo: Sống đạo như vậy, chưa chắc đã là một cuộc sống đạo cởi mở, với một đức tin sâu, và thực sự gặp gỡ Đức Kitô.
Khi chúng ta tin Chúa, thì chúng ta phải đi ra khỏi chính mình, để gặp Đức Kitô sống động ở bên cạnh ta, để ta đón Người vào lòng, để ta sống với Người trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Đó mới là một đức tin sống động. Nhưng, đức tin như vậy đòi ta phải ra khỏi mình, để gặp gỡ Đức Kitô ở bên cạnh ta.
Rồi, “từ bỏ và ra đi” có nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ những quyền lợi, mặc dầu chính đáng, ta được phép hưởng, để đón nhận những hoàn cảnh, có thể sẽ gặp phải những thất vọng, những khó khăn, mà Chúa gởi đến cho ta vì mục đích thanh luyện và cứu độ.
Sách Thánh đã nói về Đức Kitô: “Mặc dầu Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không phấn đấu để ngang hàng với Chúa Cha. Ngài đã tự nguyện huỶ diệt mình đi, để cứu chuộc loài người”.
Nhiều khi chúng ta cũng cần phải như vậy, để góp phần vào việc cứu độ bản thân ta, gia đình ta, Hội Thánh của ta. Sẽ không có sự cứu độ, nếu không có sự cộng tác của ta, cộng tác bằng những khổ đau, bằng những hy sinh, bằng những thiếu thốn tự nguyện.
Rồi, “từ bỏ và ra đi” là chúng ta cũng cần phải từ bỏ cách sống đạo khép kín, để chúng ta ra đi, sang biên giới Hội Thánh hữu hình, để chia sẻ Tin Mừng cho những người ngoài Công Giáo, ngoài ranh giới xứ đạo của ta.
Chúng ta nên nhớ rằng: Đức tin của ta là một kho tàng Chúa ban, không phải chỉ để riêng ta an hưởng, mà để chúng ta chia sẻ sang những người khác. Đồng thời, cũng biết nhận lãnh những tin mừng mà người khác chia sẻ cho ta, đó là bổn phận liên đới.
Liên đới như vậy, đó là đức ái Phúc Âm: Nhận lãnh và cho đi trong sự quảng đại và khiêm tốn chân thành.
Anh chị em thân mến,
nhà thờ này đang trong tình trạng kiến thiết. Và họ đạo Kinh Mười của anh chị em cũng đang trong tình trạng kiến thiết. Cả 2 họ đạo đều có những đổi mới từng bước, về vật chất cũng như tinh thần. Đây là một dấu hiệu đáng mừng.
Nhưng điều mà Chúa muốn anh chị em chú trọng hơn cả, đó là từ bỏ con người cũ của mình, nếp sống cũ của mình, để trở nên con người mới, và sống theo nếp sống mới.
Con người mới của chúng ta theo mô hình Đức Kitô, là một con người cởi mở, biết đón nhận Thánh Linh. Bởi vì, chỉ có Thánh Linh mới là Đấng thánh hoá chúng ta.
Rồi phải mặc lấy nếp sống mới chan hoà tình thương, bác ái. Không phải chỉ nghĩ đến Chúa mà quên con người. Và cũng đừng chỉ nhớ đến con người mà quên đi Thiên Chúa. Hãy mến Chúa, và hãy phục vụ mọi người, để chúng ta trở nên những người làm chứng rằng, chúng ta là con Thiên Chúa và là anh chị em với nhau, trong một tình thương duy nhất, một tình thương được Chúa Ba Ngôi chia sẻ cho. Và chính chúng ta cũng sẽ chia sẻ, trao đổi với những người chung quanh.
Trong thánh lễ này, chúng ta nhận biết mình rất yếu đuối, rất cần Chúa cứu độ, rất cần Chúa đổi mới. Tự sức mình, chúng ta không thể làm gì được. Dù chúng ta ước muốn mấy đi nữa, chúng ta vẫn không làm được. Bởi vì, tôi đã nói: Người đổi mới là Chúa Thánh Linh.
Cho nên, chúng ta phải hết lòng khiêm tốn, cởi mở và phó thác cậy trông vào Chúa Thánh Linh. Người sẽ đến với chúng ta, ban cho ta rất nhiều ơn. Nhưng, chúng ta cần đón nhận và biết để Chúa Thánh Linh thanh luyện, để Chúa Thánh Linh làm thêm phong phú những tiềm năng Chúa đã trao phó cho chúng ta. Lạy Chúa Thánh Thần, xin đến, xin thanh tẩy, xin thánh hoá chúng con. Amen.
Mấy ngày nay, nhất là hôm nay, khắp nơi tại Việt Nam đều hân hoan mừng Quốc Khánh thứ 50 nước Việt Nam độc lập.
Tối hôm qua, trên đài truyền hình Việt Nam, trong mục Những Bông Hoa Nhỏ, đoàn thiếu nhi huyện Thốt Nốt chúng ta đã góp tiếng hát của mình vào chương trình ca ngợi quê hương mến yêu.
Nhìn quê hương trong cảnh tưng bừng này, tôi có cảm tưởng đất nước Việt Nam giống như một “Thánh Đường” rộng lớn, một thánh đường mà nét đẹp cao quí nhất chính là nét Độc Lập. Nét đẹp cao quí này đã được tạo nên, và bảo vệ bằng bao máu xương, bao hy sinh, bao tình yêu nồng thắm. Nét đẹp cao quí này là một giá trị bậc nhất của nền văn hoá dân tộc Việt Nam.
Với nhận định trên đây, tôi nghĩ rằng: Sự hiện diện của Hội Thánh trong thánh đường dân tộc mang nét độc lập này là sự hiện diện mang nhiều ý nghĩa.
Sự hiện diện này là bước đầu cần thiết để sống mầu nhiệm nhập thể, để hội nhập văn hoá, để đồng hành với lịch sử, để phục vụ các linh hồn, để làm chứng cho đức tin và đức ái.
Hôm nay, chúng ta không những chỉ hiện diện, mà còn tích cực tạ ơn Chúa, và biết ơn những người đã góp phần vào việc xây dựng, bảo vệ và làm đẹp thánh đường dân tộc này.
Trong tâm tình biết ơn, tôi nghĩ tới các linh mục thuộc giáo phận Long Xuyên nói chung và thuộc họ Bó Ót nói riêng đã can đảm hiện diện trong hàng ngủ kháng chiến giành độc lập cho quê hương.
Tôi biết các người đi theo kháng chiến, không phải vì động cơ ý-thức-hệ vô thần, mà vì động cơ giúp đỡ các linh hồn, và cùng với mọi người Việt Nam yêu nước, góp phần tranh đấu cho nền độc lập của quê hương.
Sự dấn thân như thế là việc chúng ta hiện nay cũng đang thực hiện một cách bình thường. Bảo vệ nền độc lập, phát huy bản sắc dân tộc, thăng tiến con người và đời sống theo bậc thang giá trị chính đáng, đó là những việc nằm trong định hướng sống đạo và truyền đạo của chúng ta.
Tôi xác tín rằng: Chúng ta sẽ thực hiện tốt những việc đó, nếu chúng ta hết lòng tin cậy mến Chúa, luôn kết hợp mật thiết với Đức Kitô, nhiệt tình trung thành với Hội Thánh, và thật tình gắn bó với dân tộc.
Với những cái nhìn trên đây, tôi rất mong muốn họ đạo Bó Ót phát triển nhiều hơn, mau hơn về các mặt đạo đời. Sự bổ nhiệm về đây một cha sở mới, và một cha phó mới, những người có nhiều khả năng, là một vận hội mới, một thời cơ mới.
Tôi cầu chúc họ đạo Bò Ót một tương lai phát triển, xứng đáng với truyền thống đạo đời của họ đạo, sẽ góp phần đáng kể vào lịch sử phát triển của Hội Thánh Việt Nam và của đất nước Việt Nam.
Bài giảng thánh lễ TẠ ƠN & CẦU BÌNH AN của Đức Cha Gioan B. BÙI-TUẦN, tại Giáo xứ Bò-Ót (Thới Thuận), nhân ngày Quốc Khánh 02-09-1995
Đêm rồi, tôi thức dậy sớm khoảng lúc 2 giờ. Việc đầu tiên tôi làm, là tạ ơn và cầu nguyện cho cha xứ và cho giáo xứ.
Lúc ấy, vùng này đang trong cảnh tối tăm. Nhưng tôi có cảm tưởng nhìn thấy xung quanh tôi, có những đóm lửa đang cháy, đang bốc lên, đang lan ra. Và trong cảm tưởng ấy, tôi biết rằng: Đây là những biểu tượng của một thứ lửa thiêng liêng, mà Chúa Giêsu hôm nay trong Phúc Âm đã nói: “Cha mang lửa xuống thế gian này, và mong muốn lửa ấy phải cháy lên”.
Thứ lửa thiêng liêng mà Chúa thắp sáng trong tâm hồn chúng ta, gây ra trong chúng ta những hiệu quả tốt, nếu chúng ta biết đón nhận. Những hiệu quả tốt này là những dấu chỉ. Tôi có thể căn cứ vào những dấu chỉ ấy, để biết ai có lửa thiêng liêng ấy, và lửa ấy lan rộng, đốt nóng đến chừng nào.
Dấu chỉ thứ nhất, là thái độ sốt sắng biết ơn Chúa và tạ ơn Chúa.
Khi con người có lửa mến Chúa trong lòng do Chúa ban cho, thì dễ nhận ra mọi sự xảy ra cho mình, đều do Chúa mà ra. Tất cả đều bởi Thiên Chúa.
Càng nhìn Thiên Chúa, linh hồn càng thấy Người là Đấng đầy sự tốt lành. Còn chính mình, thì đầy những sự nghèo hèn yếu đuối. Vì thế, càng cảm tạ Chúa bao nhiêu, linh hồn càng cảm thấy thực tế mình nghèo bấy nhiêu. Càng cảm tạ Chúa, càng thấy mình nghèo. Càng thấy mình nghèo, càng biết ơn Chúa. Do vậy, trái tim mình sẽ trở nên một ngọn lửa bốc lên một bài ca tán tụng.
Rồi dấu chỉ thứ hai, là sự khát khao mến Chúa nhiều hơn.
Khi một tâm hồn đã nếm được sự ngọt ngào của tình yêu Chúa, thì luôn luôn khao khát: Mình, mãi mãi và càng ngày, càng mến Chúa nhiều hơn. Vì có như vậy, mình mới có thể trở nên giống Đấng yêu thương mình, mình mới có thể gắn bó hơn với Đấng yêu thương mình, mình mới có thể đi theo sát hơn Đấng đã gọi mình. Và một khi lòng mình khao khát được yêu mến Chúa nhiều hơn, thì sẽ sẵn sàng từ bỏ chính mình, kể cả những quyền lợi chính đáng, để đi vào con đường Chúa chọn, để cho mình được bàn tay Thiên Chúa dẵn dắt, một bàn tay Đức Kitô chịu đóng đinh còn vấy máu. Ngài sẽ dắt mình đi trên con đường thương khó, vì đó là con đường dẫn tới sự sống lại, con đường cứu độ cho mình, và cho những kẻ thuộc về mình. Lúc ấy, trái tim người khát khao yêu mến Chúa cũng sẽ là một ngọn lửa cháy lên, đi tìm Chúa và hướng về Chúa, hướng lên cao mãi mãi không ngừng.
Rồi dấu chỉ thứ ba là thái độ thao thức muốn giúp đỡ mọi người, bởi vì mọi người là anh chị em với mình, là con một của Chúa.
Vì thế, đã mến Chúa thì tất nhiên tình mến Chúa thúc đẩy mình đi tới phục vụ con người, thăng tiến con người, giúp cho mọi người phát triển được những tiềm năng Chúa ban cho mỗi người, để phục vụ anh em. Những người được ơn Chúa trong lòng, rất cần phải có sự quảng đại và tế nhị. Cần có một trái tim với ánh sáng của trí khôn, cần có một trí khôn với sự nồng nàn của trái tim. Và trái tim cùng với trí khôn, phải có sự khôn ngoan tế nhị của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, mới có thể làm cho các linh hồn chung quanh mình trở thành lửa, trở thành ánh sáng, trở thành những bài ca tán tụng Thiên Chúa.
Dấu chỉ thứ bốn, là thái độ tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa.
Những linh hồn đã được Chúa trao ban tình yêu của Người, sẽ dần dần cảm thấy: Một quê hương trên trần thế rồi sẽ qua đi, chỉ có tình yêu Chúa là quê hương vững bền. Và hạnh phúc thế gian này đều sẽ nhạt phai, chỉ có tình yêu Chúa là mãi mãi tồn tại. Tất cả những sự cứu độ trần gian này đều mong manh chóng qua, chỉ có Đức Kitô là Đấng cứu độ tuyệt vời. Vì thế, họ sẽ biết tin tưởng vào Chúa, sẽ biết phó thác vào Chúa. Phó thác vô điều kiện, tin tưởng mà không cần nghĩ tới một hoàn cảnh nào.
Anh chị em thân mến,
Bốn thái độ trên đây, mà tôi vừa trình bày vắn tắt, chính là những dấu chỉ, để tôi căn cứ vào mà xem ai trong anh chị em có lòng mến Chúa, có lửa bên trong:
Tôi thấy rất nhiều anh chị em có lửa đó. Và nhất là, tôi nhìn thấy lửa ấy trong cha xứ của anh chị em, một người Chúa đang gọi về với Chúa qua một cơn bệnh nan y. Từ đêm đến giờ và ngay trước mặt chúng ta đây, có những cơn mây, có những trận mưa, và có thể, có những giông tố. Cảnh này gợi ý cho tôi thấy rằng: Lửa trong lòng ta cũng có thể có những trận mưa, có những giông tố dập vùi, có lúc nó phải tắt đi. Nhưng chúng ta hy vọng nơi Đức Mẹ. Đức Mẹ mà lúc nãy, chúng ta đã cầu nguyện khi làm phép đài. Mẹ sẽ giúp cho ngọn lửa thiêng liêng trong lòng chúng ta cháy mãi, và sẽ che chở cho ngọn lửa ấy, dù mưa, dù bão, vẫn bốc lên để đúng như lời Đức Kitô nói hôm nay: “Ta mang lửa xuống, là để cho lửa ấy bốc lên, và lan ra mãi mãi”.
Lúc nãy, khi nghe anh chị em hát những bài cộng đồng sốt sắng và rất hay, tôi có cảm tưởng rằng: Nếu chẳng may trong anh chị em, có những người sắp mất ngọn lửa Chúa ban, thì cộng đoàn của anh chị em, sẽ là một cộng đoàn lôi kéo họ về với Chúa. Nếu lòng họ không còn là một bài ca tán tụng, thì cộng đoàn giáo xứ, sẽ là một cộng đoàn ca tụng, ca tụng thay cho những người ấy. Và dần dần, những linh hồn đã tắt đi ngọn lửa mến Chúa, sẽ hồi phục lại, và sẽ nhập vào sự sốt sắng của cộng đoàn.
Trong giờ thánh lễ giờ này, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Linh, là chính lửa, mà Đức Kitô hứa mang xuống trần gian, ban cho lòng chúng ta, cho con em chúng ta, cho họ đạo chúng ta, luôn bừng cháy, luôn sáng lên, luôn lan rộng mãi mãi. Amen. Kinh 1B, ngày 20-08-1995
Nỗi buồn thứ nhất của Đức Kitô, là Ngài muốn cho lửa thiêng mến Chúa yêu người được đốt lên trong các tâm hồn. Nhưng trên thực tế, lửa đó đã không đốt lên như lòng Người mong muốn.
Nỗi buồn thứ hai của Dức Kitô, là Ngài chờ đợi một phép rửa thiêng liêng cứu độ các linh hồn, rửa nhân loại khỏi tội lỗi. Nhưng trên thực tế, Đức Kitô vẫn chờ đợi thứ phép rửa thiêng liêng ấy.
Nỗi buồn thứ ba của Đức Kitô, là Ngài muốn đổi mới nhân loại bằng cách đưa nhân loại về căn bản Tin Mừng là đức ái. Nhưng có người theo, có người không theo, có người còn ra mặt chống đối. Đã thế, họ còn chống đối những kẻ theo Đức Kitô. Vì thế, Đức Kitô nói: Trong gia đình cũng chia rẽ: Có thể con cái chống đối cha mẹ, cha mẹ chống đối con cái.
Khi nghe Đức Kitô tâm sự những nỗi buồn của Người, thì tôi cũng đã nói với Đức Kitô những nỗi buồn của tôi. Những nỗi buồn của tôi, cũng tương tự những nỗi buồn của Đức Kitô.
Nỗi buồn thứ nhất, cũng là tôi muốn cho lửa thiêng mến Chúa yêu người, luôn thắp sáng lên trong lòng tôi, trong lòng nhân loại, và nhất là trong tất cả những người của Hội Thánh Chúa. Nhưng trên thực tế, biết bao nhiêu lần lửa thiêng ấy đã bị lụi tàn, hoặc không được đón nhận. Để rồi, thay vào đó, lại đốt lên trong trái tim mình những lửa trần tục, những lửa phù du.
Nỗi buồn thứ hai của tôi, cũng là mong muốn, có một phép rửa thiêng liêng nào đó sẽ rửa tôi, rửa Hội Thánh tôi và nhân loại, khỏi những tính mê nết xấu. Nhưng trên thực tế, tôi đợi chờ mà những nết xấu tính mê trong tôi, trong Hội Thánh vẫn còn đó, chỉ bớt đi phần nào thôi.
Rồi nỗi buồn thứ ba của tôi, là khi tôi loan báo Tin Mừng về sự đổi mới nếp sống đạo, trở về với bác ái Phúc Âm, thì cũng có kẻ theo, cũng có kẻ dửng dưng, thậm chí có kẻ chống đối, và như vậy là sinh ra chia rẽ.
Nhưng, khi tôi tâm sự với Đức Kitô nỗi buồn của tôi, và cũng là nỗi buồn của Đức Kitô xưa, thì Đức Kitô dạy tôi một điều quan trọng. Người dạy tôi rằng: Như xưa, Thầy đã phải khiêm tốn và kiên trì trong sự dẫn đưa con người đi về Nước Trời, thì con và những kẻ theo Thầy, cũng hãy khiêm tốn và kiên trì, biết chấp nhận thực tế phũ phàng và thất bại.
Trong tư tưởng của Đức Kitô, tôi nhận thấy điều này là: Khi mình phải dấn thân vào mầu nhiệm nhập thể, thì mình phải chấp nhận cái thực tại phức tạp của đời sống. Không thể nôn nóng, không thể vội vàng. Chúa không đòi chúng ta làm chứng về những công việc hoàn thành. Mà Chúa chỉ đòi chúng ta: Khi được sai đi để làm chứng, mình phải luôn luôn sẵn sàng đi đến nơi Chúa sai mình đến, và làm những việc Chúa muốn mình làm. Chỉ thế thôi để phục tùng thánh ý Chúa.
Tôi có một câu chuyện nhỏ xin được kể ra đây, hy vọng có thể giúp tôi và anh chị em hiểu được điều đó hơn:
Cách đây hai hôm, tức là thứ sáu vừa qua, tôi đi từ Sài Gòn về Long Xuyên. Quá trưa, xe tôi đi tới Mỹ Tho, thì bể một bánh, phải đợi chờ. Sau khi thay bánh, đi được một lát đến An Hữu, xe lại nổ bánh thứ hai, lại phải đợi chờ. Và vì không có bánh để thay, nên tôi phải đi xe Honda ôm, từ An Hữu về Long Xuyên. Khi đến Cao Lãnh, thì trời tối, đèn Honda lại không cháy. Thế là xe không thể chạy được nữa vì không có đèn. Tôi lại phải bỏ Honda đó, sang một Honda khác. Đang lúc đó thì một mưa bão thổi đến dữ dội. Tôi đành mặc áo mưa và đi trong đêm tối với cơn mưa bão khủng khiếp. Và luôn luôn tôi lại lại thấy có những trở ngại trên con đường mình đi. Đúng là một chuyến đi bão táp.
Rồi hôm qua, vì xe tôi còn đang hư, nên sáng sớm tôi đã nhờ một xe hơi khác chở tôi xuống Cái Sắn, để làm phép Thêm Sức. Quá kinh B, xe lại hư, tôi phải đợi chờ một lúc lâu. Không hy vọng sửa được nữa, nên tôi nhờ một chiếc xe Honda để đi. Trưa hôm nay, từ xứ Thánh Gia kinh 1B, chiếc ghe máy đưa tôi ra lộ cái, để tôi lên xe đi về đây với anh chị em đây, thì giữa đường, chiếc ghe máy lại bị hư. Lại phải đợi chờ.
Qua những chuyến đi này, Chúa dạy tôi rằng: Trên con đường truyền giáo, trên con đường dấn thân, sẽ không bao giờ tìm thấy con đường thênh thang thoải mái dễ chịu như mình mong muốn. Cho nên phải kiên trì, phải đợi chờ, và không được nôn nóng. Hãy biết dâng những sự đợi chờ trong khiêm tốn như là đoá hoa thiêng, dâng lên Thiên Chúa như tâm tình tạ ơn của người con hiếu thảo đối với Thiên Chúa Cha trên trời. Tôi nhắc lại, Chúa không đòi những thành công, mà Chúa chỉ đòi tâm hồn sẵn sàng đi theo Chúa mà thôi, cho dù phải gánh vác những thất bại, những khó khăn, những rủi ro trên con đường theo Chúa.
Anh chị em thân mến,
Với những chia sẻ trên đây, tôi muốn nói với anh chị em xứ đạo Bình Minh rằng: Xứ đạo này tuy nhỏ, và hôm nay, sau một thời gian vắn, với cha sở mới, anh chị em đã có những bước tiến mới đáng mừng. Nhưng phải luôn luôn nhìn thấy trước những khó khăn có thể gặp phải, và nhất là phải giữ một thái độ khiêm tốn, kiên trì, luôn luôn dựa vào sức Chúa mà thôi.
Trên con đường ta đi, đừng trông chờ quá nhiều vào những hiện tượng thế gian. Chúa muốn ta hãy loan tin mừng về Đức Kitô, là Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại, của chúng ta.
Có như vậy, chúng ta sẽ thấy không những họ đạo chúng ta tiến bộ về vật chất và tổ chức bề ngoài, mà cũng sẽ đi sâu vào lòng người, với một đức tin vững vàng và một đức ái chan hoà.
Trong thánh lễ chiều nay, chúng ta cầu xin với Chúa Thánh Linh, giúp cho chúng ta biết sống với những nỗi buồn của Đức Kitô hôm nay, để chúng ta biết sống trưởng thành hơn. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục phê phán những cách sống đạo sai trái. Việc phê phán là việc cũng thường thấy trong Phúc Âm. Chúa Giêsu đã từng phê phán như một cách phải có, để đổi mới tôn giáo, để đổi mới xã hội, để đổi mới các tâm hồn. Chúa Giêsu đã dùng nhiều cách để phê phán.
Cách thứ nhất Chúa dùng để phê phán là dùng lời nói. Như bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dùng lời nói để phê phán cách sống đạo quá mải mê với những sự thường tình mà quên đi những điều căn bản.
Rồi cách thứ hai Chúa dùng để phê phán là lấy việc lành gián tiếp phê phán việc dữ, việc không tốt. Thí dụ: Chúa làm phép lạ trong ngày thứ bảy, là để gián tiếp phê phán những quan điểm của những người Biệt phái chủ trương luật là vì luật, còn Đức Kitô thì chủ trương luật vì con người.
Rồi cách thứ ba Chúa dùng để phê phán là chính đời sống. Một đời sống tốt cũng là một cách gián tiếp phê phán những đời sống không tốt. Thí dụ: Cách sống của Đức Kitô từ lúc nhập thể, sinh ra và chết trên thánh giá, đều là một nếp sống khiêm tốn, âm thầm, hy sinh, chịu đựng, hiền lành. Chính nếp sống ấy cũng gián tiếp phê phán cách sống kiêu căng, độc ác, của những người lãnh đạo thời đó.
Rồi Chúa dùng một cách khác để phê phán, đó là dùng ơn Chúa Thánh Linh đánh động lương tâm từng người, để trong sâu thẳm lương tâm, Chúa sẽ phê phán những việc của mình, phê phán những lời nói của mình, phê phán những thái độ của mình.
Tôi thấy Đức Kitô khi muốn đổi mới một tôn giáo, đổi mới một cộng đoàn, Người đã phải cố làm nhiều cách để phê phán, như dùng lời nói, việc làm tốt, cách sống tốt, và ơn thúc giục bên trong. Ai biết đón nhận những cách phê phán này, sẽ được đổi mới.
Nhưng chúng ta cũng đã thấy: Sự đổi mới này không luôn luôn giống nhau, mà luôn luôn có những khác biệt, tuỳ người, tuỳ nơi, theo thực tế đang có.
Hồi xưa đã như vậy, thời nay cũng như thế, và còn hơn thế. Bởi vì, tôi thấy bây giờ, Chúa đang đổi mới Hội Thánh chúng ta qua những lời phê phán, qua những việc làm phê phán, qua những nếp sống phê phán, và qua những ân sủng phê phán. Nơi nào, cá nhân nào, cộng đoàn nào, biết đón nhận những phê phán ấy, sẽ dễ được đổi mới. Trái lại, nếu thiếu tỉnh thức, nếu thiếu nhạy bén, nếu thiếu khiêm tốn, sẽ không đón nhận được ơn Chúa qua những cách Chúa gởi đến để đổi mới mình.
Riêng trong họ đạo anh chị em, tôi thấy thành quả đổi mới là dễ kiểm chứng được:
Khi tôi tới đây, tôi đã nhận ra sự đổi mới bề ngoài và trong tinh thần. Và tôi biết rằng, sự đổi mới này, là do sự anh chị em biết đón nhận những cách Chúa phê phán anh chị em. Phê phán bằng lời nói qua Kinh Thánh, qua Giáo Hội, qua dư luận. Rồi những lời phê phán qua những việc làm tốt của những người xung quanh, và phê phán qua những nếp sống nếp tốt của những người thiện chí, không phân biệt tôn giáo xa gần. Và nhất là, biết đón nhận ơn Chúa đánh động lương tâm để tự phê phán mình, để tự xem xét mình, để đổi mới chính mình. Một điều nữa tôi cũng nhận thấy trong họ đạo anh chị em, là anh chị em đã biết lợi dụng cái tinh thần cộng đoàn. Chính tinh thần cộng đoàn này, cũng là một yếu tố lớn, có ảnh hưởng đến sự phê phán và có ảnh hưởng đến sự đổi mới chính mình.
Khi nhìn anh chị em dự lễ hôm nay, tôi cảm nghiệm được cái bầu khí của họ đạo. Một bầu khí êm đềm, một bầu khí cộng tác liên đới, một bầu khí khiêm tốn, hồn nhiên. Chính bầu khí này, cũng là một cách Chúa phê phán những ai chưa trở về đàng lành, giúp họ trở về với Chúa sâu hơn, nhiều hơn.
Lúc nãy, từ Long Xuyên đến đây, chúng tôi đã phải thay đổi nhiều phương tiện di chuyển: Lúc thì đi xe hơi, lúc thì qua bắc qua phà, lúc thì đi đò lớn, và vừa rồi, phải đi đò nhỏ, mới có thể lọt qua được con rạch nhỏ.
Sự kiện này gợi ý cho tôi thấy rằng: Trong sự đổi mới, cần phải có sự khôn ngoan, biết lựa chọn những phương tiện thích nghi hợp với nơi, hợp với hoàn cảnh: Có những phương tiện thật tốt, nhưng tốt với nơi khác, mà không thể áp dụng được ở nơi đây, vì ở nơi đây hoàn cảnh lại khác.
Cho nên trong sự đổi mới, chúng ta cần phải có sự khôn ngoan của Chúa Thánh Linh giúp cho mình lựa chọn những cái gì có thể thực hiện được, để từ đó mà tiến thêm lên. Đừng nóng vội, đừng bắt chước bất cứ cái gì nơi khác đã làm. Mà cần phải biết lựa chọn những cái gì chúng ta thấy Chúa muốn chúng ta làm tại nơi đây, trong hoàn cảnh cụ thể này, để có kết quả tốt.
Trong thánh lễ hôm nay, không những chúng ta cầu xin Chúa Thánh Linh ban ơn cho chúng ta biết đón nhận ơn đổi mới, mà chúng ta cũng hãy cảm tạ Chúa, vì những thành quả đổi mới mà Chúa đã ban cho chúng ta tới ngày hôm nay.
Tôi tin rằng, anh chị em đang đi đúng đường, trên con đường đổi mới. Xin anh chị em vững vàng, kiên trì và khôn ngoan, khiêm tốn, rồi Chúa Thánh Linh chính là Đấng đổi mới, sẽ giúp anh chị em. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay (Lc 12,35-40), Chúa Giêsu nói đến một đức tính rất quan trọng của người môn đệ Chúa. Đó là sự tỉnh thức. Sự tỉnh thức mà Chúa muốn, là thái độ đợi chờ Chúa, sẵn sàng đón Chúa, dù Chúa đến một cách bất ngờ.
Điều Chúa dạy trên đây trong bài Phúc Âm đã được thực hiện một cách sống động nơi cha Giuse Đinh Hữu Huynh.
Thật vậy, chứng bệnh ung thư đã là một biến cố bất ngờ xảy đến với cha. Cha đã nhận ra Chúa trong biến cố này. Cha biết mình được Chúa đưa vào một quãng đời, mà cha không hề chọn cho mình. Cha khám phá thấy trong quãng đời đau khổ này một nguồn ơn cứu độ. Ơn cứu độ này sẽ rất lớn lao, sinh lợi lộc thiêng liêng vô vàn cho mình và cho bao người khác.
Cách đây ít ngày, tôi đã sống bên cha. Chúng tôi đã tâm sự với nhau lâu giờ. Qua cuộc tiếp xúc này, tôi nhận thấy tinh thần tỉnh thức của cha rất sâu sắc, tạo nên trong cha một sức sống siêu nhiên khác thường.
Tôi thấy cha khôn ngoan hơn, với những nhận định sáng suốt, phân biệt cái gì là mục đích đời mình, cái gì chỉ là phương tiện mà thôi.
Tôi thấy cha năng động cởi mở hơn, với thiện chí và phấn đấu tối đa, muốn tận dụng từng giây từng phút còn lại của cuộc đời, để mến Chúa hết sức và phục vụ đoàn chiên tận tình.
Tôi thấy cha tiết độ và tự do hơn, với ý chí trật-tự-hoá các khuynh hướng tự nhiên trong con người của mình, để làm sáng lên những giá trị thuộc về Thiên Chúa, về cõi đời đời và về tâm linh.
Tôi có cảm tưởng là trong những tháng vừa qua, cha đã bước từ lý thuyết sang cảm nghiệm. Cha đã cảm nghiệm được sự bình an ngọt ngào do vâng phục thánh ý Chúa. Cha đã cảm nghiệm được sức mạnh cứu độ của thánh giá với cầu nguyện. Cha đã cảm nghiệm được sự phong phú của những mối liên hệ hiệp thông trong Hội Thánh.
Đúng là thái độ tỉnh thức đón nhận Chúa và cộng tác với Chúa đã đóng vai trò rất quan trọng trong suốt thời gian cha bị thử thách, để được thanh luyện.
Trong thánh lễ này, tôi xin anh chị em cùng tôi tạ ơn Chúa đã thương cha Giuse một cách đặc biệt. Chúa đã dùng thời gian cha đau bệnh, để trao gởi cho mọi người chúng ta nói chung và giáo xứ Thánh Gia này nói riêng một bài học tu đức quí giá. Hơn nữa, qua biến cố này, Chúa cũng muốn nhắn bảo chúng ta rằng: Có thể trong tương lai không xa, Chúa sẽ đưa Hội Thánh Việt Nam vào một tình hình mà chúng ta không hề đã chọn và không muốn chọn. Trong bất cứ trường hợp nào Chúa đòi chúng ta phải luôn tỉnh thức, để biết nhận ra ý Chúa, biết nhìn thấy tình yêu Chúa, biết cộng tác với kế hoạch cứu độ của Chúa.
Tỉnh thức như thế sẽ thực hiện được một cách tốt đẹp, nếu chúng ta chịu khó theo dõi tình hình, khiêm tốn lắng nghe các tín hiệu, nhất là nếu thinh lặng cầu nguyện trong tinh thần mến yêu Hội Thánh.
Xin cha Giuse hãy hiệp thông với chúng tôi, như cha giờ đây đang hiệp thông với Chúa, với Đức Mẹ và với các thánh. Chúng tôi cầu nguyện cho cha. Xin cha cũng cầu nguyện cho chúng tôi.
G.B. BÙI TUẦN
Bài giảng thánh lễ an táng cha Giuse Đinh Hữu Huynh, tại nhà thờ giáo xứ Thánh Gia, kinh 1b, Cái Sắn, ngày 27-10-1995
Nhiều người cũng như tôi đã tưởng rằng: Để mừng Chúa Kitô Vua, bài Phúc Âm thánh lễ hôm nay sẽ giới thiệu một Đức Kitô vinh quang đang mở rộng Nước Chúa bằng những phép lạ lẫy lừng, bằng những cuộc đón rước linh đình, bằng những lễ Rửa tội trọng thể cho từng ngàn người trở lại, bằng những dẫy dài các vua chúa và các tầng lớp nhân dân kéo đến tỏ lòng tùng phục.
Thế nhưng, sự thực lại khác hẳn. Bài Phúc Âm thánh lễ hôm nay đã trình bày một Đức Kitô chịu đóng đinh trên thánh giá, bị tước đoạt mọi tự do, bị quyền đời quyền đạo kết án loại trừ, bị nhục nhã và đau đớn đến cùng độ.
Khi nhìn Đức Kitô trong hoàn cảnh cực kỳ bi đát, tôi tự hỏi: Một Đức Kitô như thế này mà lại làm Vua sao? Chúa đã trả lời tôi: Đừng nhìn với con mắt xác phàm. Hãy nhìn với con mắt đức tin. Tôi cầu nguyện, xin Chúa giúp tôi biết nhìn sâu vào sự việc. Và tôi đã gặp thấy Đức Kitô là Vua.
Đức Kitô là Vua, không phải với cung cách một vị nắm quyền thống trị bằng luật pháp, nhưng Người làm Vua, với cung cách một Đấng Cứu Thế, dùng tình thương và hy sinh để giải thoát con người khỏi kiêu căng, hận thù, ích kỶ và các xiềng xích tội lỗi. Người đem lại cho họ bình an tâm hồn, yêu thương và hoan lạc. Người đi vào các tâm hồn bằng tình xót thương và khiêm tốn hy sinh. Người ở lại trong các tâm hồn nghèo khó và cởi mở, biết đón nhận ơn đổi mới của Người. Các tâm hồn như thế chính là Nước Chúa.
Một khi đã nhận ra Đức Kitô là Vua Tình Yêu, và Nước Chúa là các tâm hồn thiện chí đón nhận tình yêu Chúa cứu độ, chúng ta nên ghi nhận một số dấu chỉ, để nhờ đó, chúng ta có thể biết được phần nào tình hình Nước Chúa trong gia đình, trong giáo xứ, trong Hội Thánh, trong quốc gia, trong thế giới, nhất là trong chính bản thân ta. Các dấu chỉ này được rút ra từ bài Phúc Âm hôm nay.
Dấu chỉ thứ nhất là sự chia sẻ thân phận những kẻ khốn cùng, như gương dấn thân của tình yêu Đức Kitô đã thực hiện trên thánh giá.
Dấu chỉ thứ hai là sự tha thứ và cầu nguyện cho những ai làm khổ mình, như gương quảng đại của tình yêu Đức Kitô đã nêu cao trên thánh giá.
Dấu chỉ thứ ba là sự tự do tâm hồn, không để mình bị ràng buộc vào bất cứ tham vọng nào, ích kỶ nào, hận thù ghen ghét nào, thành kiến nào, chỉ lo chu toàn bồn phận mình đúng ý Chúa Cha, còn kết quả ra sao thì dành cho Chúa, như gương phó thác của tình yêu Đức Kitô đã làm trên thánh giá.
Dấu chỉ thứ bốn là sự nhạy bén đón nhận bất cứ thiện chí trở về nào, như gương bao dung của tình yêu Đức Kitô đã thực hiện đối với kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Người.
Với bốn dấu chỉ trên đây, mỗi ngày, khi chúng ta nghe đài, đọc báo, tiếp xúc, chúng ta sẽ biết theo dõi tình hình Nước Chúa chuyển biến ra sao. Nhiều khi tôi rất ngạc nhiên, nhận thấy Nước Chúa phát triển một cách lạ lùng dễ dàng trong nhiều tâm hồn ngoài Công giáo, đang khi đó, Nước Chúa có vẻ như rất khó phát triển, thậm chí còn tàn lụi nơi nhiều tâm hồn người Công giáo.
Tôi hết lòng tạ ơn và ca ngợi Đức Kitô Vua, vì Nước Chúa đang lan rộng trong nhiều tâm hồn. Nhưng tôi rất băn khoăn, vì Nước Chúa tại nhiều gia đình, tại nhiều họ đạo, tại nhiều tâm hồn đang bị yếu đi. Cũng do phần nào tội lỗi của chúng ta, nhất là vì nhiều khi chúng ta đã có những quan niệm sai lầm về Nước Chúa, đã đồng hoá Nước Chúa với Hội Thánh, cũng như đã đồng hoá Hội Thánh với Đức Kitô, hoặc vì chúng ta đã dùng những phương tiện không đúng Phúc Âm cho mục đích gọi là để mở mang Nước Chúa, và làm sáng danh Nước Chúa.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta biết trở thành những cộng tác viên đắc lực của việc mở mang Nước Chúa, trước hết trong chính tâm hồn chúng ta, trong chính gia đình chúng ta, trong chính họ đạo chúng ta. Một Nước Chúa với Đức Kitô là Vua Tình Yêu cứu độ, với những liên hệ chính đáng của tình yêu bao dung, với những phát triển đa dạng hướng về một nền văn minh của tình yêu chia sẻ.
Lạy Đức Kitô Vua, xin Người đến với chúng con, và mãi mãi ở lại giữa chúng con.
Bài giảng lễ Chúa Kitô Vua của Đức Cha Gioan B. BÙI-TUẦN, tại nhà thờ Chánh toà Long Xuyên, ngày 26-11-1995
Trong bài Phúc Âm hôm nay, có một lời Chúa đáng chúng ta phải sợ. Lời đó là: “Khốn cho các ngươi”.
Đọc Phúc Âm, tôi thấy lời ấy đã được Chúa phán ra nhiều lần, và thường hướng về những người đã lãnh nhận ơn Chúa, mặc áo đạo đức, nhưng thực chất thì không đạo đức.
Hôm nay, Chúa cũng phán lời ấy với một số thành trì mà chúa đi qua.
Có một điều để ý là Chúa phán: “Khốn cho ngươi”. Chúa không chỉ nói về cá nhân này cá nhân khác, mà đã hướng về cả một tập đoàn, cả một thành trì, cả một giáo đoàn.
Khi nghe bài Phúc Âm hôm nay, với những tư tưởng trên đây, tôi lo sợ cho tôi, tôi lo sợ cho họ đạo anh chị em, tôi lo sợ cho giáo phận chúng ta, cho Hội Thánh chúng ta. Tôi lo sợ rằng: Biết đâu hôm nay, Chúa cũng chỉ vào chúng ta và nói: “Khốn cho các ngươi”.
Trong tình trạng lo sợ ấy, tôi phải làm gì bây giờ? Tôi xin chia sẻ với anh chị em 3 việc tôi vẫn thường làm, khi tôi lo sợ trước mặt Chúa.
Việc thứ nhất tôi làm là khiêm tốn, nhìn nhận mình và cộng đoàn của mình, có những tội lỗi, có những lỗi lầm, có những sai sót. Nhận mình tội lỗi một cách chân thành.
Ngày nào chúng ta cũng đọc kinh Cáo Mình. Chúng ta đã đọc những gì trong kinh ấy, thì chúng ta cũng hãy nhận thức chân thành những việc đó trong lương tâm ta. Chúng ta chẳng có gì, chúng ta chẳng là gì. Chúng có nhiều tội lỗi. Chúng tanhận nơi Chúa quá nhiều, mà trả đáp chẳng được bao nhiêu.
Chúng ta nhận mình đáng bị khinh bỉ, đáng bị kết án, đáng bị luận phạt. Chúng ta nhận mình như người đui mù, không nhìn thấy ánh sáng siêu nhiên. Chúng ta nhận mình như người điếc, có tai mà không hiểu lời Chúa. Chúng ta nhận mình có một trái tim yêu thương, nhưng lại quá hẹp hòi đối với tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta nhận mình như một người liệt, muốn đứng dậy mà không sao đứng dậy được.
Trong khi nhận mình tội lỗi, chúng ta sẽ cảm thấy một sự cô đơn, lắng đọng và một sự u tối sâu thẳm, để buộc chúng ta phải rất khiêm nhường. Tôi nói rằng cảm nghiệm, chớ không phải là lý thuyết biết suông, mà cảm thấy. Cảm thấy một cách sâu sắc trong tâm hồn mình. Vì thế, chúng ta sẽ không dừng lại ở trong cái cảm nghiệm đau buồn cô đơn ấy, mà chúng ta phải làm một việc thứ hai.
Việc thứ hai đó là bám vào Đức Kitô, Đấng Cứu Độ, đã chịu chết vì tôi, đã sống lại cho tôi. Ta tin và bám vào Chúa bằng tinh thần phó thác, cậy trông. Chúa đã đền tội cho ta. Chúa đã chết cho ta. Chúa đã sống lại cho ta thì ta tin Chúa sắp hồi sinh cho thân phận của ta. Chúa có thể làm cho mắt linh hồn ta đang mù trở nên sáng. Chúa có thể làm cho tai thiêng liêng của ta điếc có thể nghe được tiếng Chúa. Chúa có thể làm cho tâm hồn ta đang tê liệt vì tội lỗi, sẽ sống lại và đứng lên. Cần phải trông cậy và tin vào sự sống lại của Đức Kitô. Đây là việc chính của việc tu đức.
Nếu chúng ta không gặp gỡ Đức Kitô bằng đức tin như vậy, chúng ta sẽ mãi mãi đi trong cái vòng lẩn quẩn là chỉ biết tội mình, mà không biết gỡ ra làm sao.
Khi chúng ta gặp gỡ Đức Kitô bằng niềm tin phó thác cậy trông như vậy, chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy trong ta có một lương tâm mới. Lương tâm mới là của Đức Kitô, lương tâm của người con Thiên Chúa, nghĩa tử của Cha trên trời. Và lúc đó, chúng ta sẽ được chia sẻ sự bình an của Đức Kitô. Dù ta có tội lỗi đến đâu, lương tâm của Đức Kitô là Con Thiên Chúa, sẽ giúp cho chúng ta thấy chính tình yêu Chúa Cha sẽ biến đổi tâm hồn ta, chớ không phải do công nghiệp của ta. Chính vì vậy, còn một việc nữa Đức Kitô đã phải ra đi, đó là việc thứ ba.
Việc thứ ba chúng ta sẽ làm là cùng với Đức Kitô đi về với Cha bằng lời cầu nguyện liên lỉ, bằng việc yêu thương hết tình, và bằng những việc bác ái chan hoà đối với những người chung quanh.
Khi đã trãi qua ba việc trên đây, chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy được một trời mới đất mới, và làm cho tâm hồn của mình trở nên nghĩa tử của Cha trên trời, mọi cái đều nhìn trong cái nhìn của người Con Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Anh chị em thân mến,
Lúc nãy, ông đại diện giáo đoàn có nói với tôi, là các cha cầu xin cho anh chị em nói chung và con em Thêm Sức chúng ta nói riêng, được can đảm làm chứng cho đức tin. Điều đó là đúng. Nhưng riêng tôi, khi nghe câu đó tôi đã nói với Chúa rằng: Con xin Chúa, không phải là sự can đảm, mà là tinh thần cầu nguyện, là tinh thần sám hối, là tinh thần nghĩa tử. Bởi vì, trong kinh nghiệm Giám mục của tôi, tôi thường thấy trong anh chị em: Nhiều người rất nhiệt tình, nhưng thiếu tinh thần cầu nguyện, thiếu tinh thần sám hối, thiếu tinh thần nghĩa tử, là những việc mà Sách Thánh ngày hôm nay đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nếu chúng ta thiếu tinh thần nghĩa tử, tinh thần cầu nguyện, tinh thần sám hối, thì sự can đảm mà thôi, sẽ trở nên cuồng tín chớ, không làm chứng được cho đức tin, chứng thực của Phúc Âm.
Xin Chúa Thánh Thần giúp tôi, giúp cho anh chị em, nhất là cho con em chúng ta thấy được bản thân mình có được tinh thần cầu nguyện, tinh thần nghĩa tử, tinh thần bác ái và sám hối trở về với Chúa. Được như vậy, chúng ta sẽ thấy dù sống giữa thế hệ đầy thù oán, đầy cám dỗ, chúng ta vẫn luôn luôn nhìn về Thiên Chúa là Cha, và giải quyết mọi vấn đề trong tinh thần nghĩa tử của Cha trên trời, là Đấng giàu lòng thương xót. Amen.
Trong lễ mừng Ngân khánh giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm hôm nay, Chúa đã gởi cho chúng ta một sứ điệp. Sứ điệp của Chúa là bài Phúc Âm thánh lễ chúng ta đang cử hành.
Khi nghe bài Phúc Âm này với tâm hồn cầu nguyện, khát khao lắng nghe ý Chúa, chúng ta thấy ý Chúa muốn nhắn gởi chúng ta là hãy tập trung lòng đạo vào Đức Kitô. Đức Kitô mà thánh Gioan Tiền hô giới thiệu chính là Con Thiên Chúa nhập thể, đầy Chúa Thánh Thần, đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng (Luca 3,21). Người đến để xoá tội trần gian (Gioan 1,29). Người ở giữa đám đông như một người thường, thậm chí còn hoà mình vào đám người sám hối xin chịu phép rửa (Gioan 1,26). Người làm chứng cho Tình yêu thương xót của Thiên Chúa Cha.
Khi giới thiệu Đức Kitô như thế, thánh Gioan Tiền hô đã nói lên một sự thực. Bởi vì chính Ngài đã gặp gỡ Đức Kitô, chính Ngài đã cảm nghiệm thấy Đức Kitô là Tin Mừng cứu độ. Do đâu Ngài được như vậy? Thưa vì Ngài được ơn Chúa Thánh Thần và được Chúa sai đi (Gioan 3,34). Ngài kêu gọi mọi người hãy sám hối, bởi vì sám hối là điều kiện đầu tiên, để đón nhận Tin Mừng (Math 3,1).
Với những mạc khải trên đây, những gì thánh Gioan Tiền hô rao giảng đang trở thành một sứ điệp gợi ý, giúp chúng ta biết tạ ơn Chúa trong lễ Ngân khánh giáo xứ này.
Tôi tạ ơn Chúa vì đức tin của anh chị em, một đức tin không chỉ là chấp nhận hệ thống các chân lý mạc khải, mà chủ yếu là gặp gỡ thực sự, sống động với Đức Kitô đang hiện diện ở giữa chúng ta, trong phép Mình Thánh, trong Kinh Thánh, trong Hội Thánh, trong phượng tự, trong lịch sử, trong những người xung quanh, đặc biệt là nơi những kẻ nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Tôi tạ ơn Chúa, vì lý tưởng đạo đức của anh chị em, một lý tưởng đạo đức không chỉ là thực thi đúng các luật của Chúa và của Hội Thánh, mà chủ yếu là cố gắng nên giống Đức Kitô, Đấng đã hết tình phục vụ con người như người đầy tớ, và tuyệt đối phó thác mình cho Tình yêu Chúa Cha.
Tôi tạ ơn Chúa, vì dấu chỉ thuộc về Chúa nơi anh chị em, một dấu chỉ không chỉ là đi lễ, đọc kinh, phát triển và bảo vệ quyền lợi Hội Thánh, mà chủ yếu là đức ái, cố gắng yêu thương tha nhân, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.
Tôi tạ ơn Chúa, vì quá khứ của anh chị em, một quá khứ không chỉ là những thành công, mà chủ yếu là thái độ sẵn sàng đón nhận ý Chúa và cố gắng thực thi ý Chúa, cho dù phải chấp nhận dang dở, thử thách và thất bại khổ đau.
Như vậy, một cái đẹp quan trọng nơi anh chị em, mà tôi để ý mừng và ca ngợi, chính là những tấm lòng của anh chị em. Những tấm lòng khiêm nhường, nhớ ơn và biết ơn. Những tấm lòng cởi mở đón nhận tình yêu Thiên Chúa đầy năng động và sáng tạo, những tấm lòng bao dung biết lãnh nhận và cho đi trong các tương giao đời thường, những tấm lòng thông minh biết đọc những dấu chỉ của thời đại, những tấm lòng nhạy bén biết nghe những khắc khoải của đồng bào, những tấm lòng tỉnh thức và cầu nguyện, biết nắm bắt những tín hiệu của Đức Kitô trong lịch sử Hội Thánh, lịch sử đất nước và lịch sử thế giới. Nói chung, những tấm lòng như thế phản ánh phần nào vẻ đẹp đa dạng của trái tim Đức Kitô.
Thưa anh chị em, đối với lịch sử, tuổi 25 của một giáo xứ là tuổi rất trẻ. Một đặc điểm của tuổi trẻ là nhìn về phía trước. Phía trước của Hội Thánh Việt Nam là thời điểm hội nhập Phúc Âm vào bản sắc dân tộc và giá trị khoa học. Một thời điểm như thế sẽ là một tổng thể gồm Phúc Âm, dân tộc, và hiện đại. Tôi cầu mong giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm đi về phía trước với quyết tâm phấn đấu thực hiện mô hình tổng thể đó một cách tốt đẹp nhất. Tôi tin rằng: nhờ ơn Đức Mẹ Vô Nhiễm phù trợ, giáo xứ sẽ thực hiện được gợi ý đó, để Đức Kitô là trung tâm điểm đời sống đức tin của chúng ta càng sáng lên vẻ đẹp cứu độ và thăng tiến con người Việt Nam hôm nay.
KỶ niệm 25 năm ngày thành lập giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm, quận Bình Thạnh, tp. Hồ Chí Minh, ngày 10-12-1995.
Tôi đã đến xứ Tân Long này từ chiều hôm qua. Tôi đã gặp gỡ nhiều, đã nghe nhiều, đã thấy nhiều và đã suy nghĩ nhiều. Với những nhận xét có giới hạn của tôi, tôi kết luận rằng: Xứ đạo Tân Long đã có nhiều thiện chí đáng mừng, đã có nhiều cố gắng mới đáng phục, và đã có nhiều phát triển mới đáng khen. Tất cả những cái này đang được cụ thể hoá một phần trong ngôi thánh đường mới, một ngôi thánh đường được tu sửa lại, mang những nét mới của khoa học kỹ thuật và của nền văn hoá dân tộc. Tôi xin cùng anh chị em cảm tạ Thiên Chúa.
Tôi biết rằng tâm tình cảm tạ của tôi cũng như của anh chị em hãy còn non yếu lắm, và còn hời hợt lắm. Nhưng tôi đã đến bên Đức Mẹ Mân Côi, xin Đức Mẹ chia sẻ cho tôi những tâm tình cảm tạ của Người. Và Đức Mẹ đã chia sẻ sang tôi tâm tình của Mẹ: Tôi đã cảm nghiệm thấy trong tâm tình cảm tạ của Đức Mẹ có một sự thực, một sự thực tuy rất ẩn giấu, nhưng có giá trị cứu độ và thánh hoá, một sự thực tuy bị người đời cho là tầm thường, nhưng được Chúa đánh giá là một giá trị cao quí.
Vì thấy giá trị này, sự thực này có tầm quan trọng trong việc cứu độ và thánh hoá cũng như trong việc truyền giáo hiện nay, nên tôi cảm thấy có bổn phận chia sẻ phần nào với anh chị em trong thánh lễ trọng thể này.
Sự thực mà Đức Mẹ đã chia sẻ với tôi hôm nay là sự thực nào? Thưa sự thực ấy là đức khiêm nhường.
Đức khiêm nhường là một vẻ đẹp không xa lạ gì với anh chị em đâu. Tôi thấy nó đang phát triển ngay giữa anh chị em.
Thực vậy, giữa anh chị em, tôi đang nhìn thấy đức khiêm nhường vâng phục của Đức Mẹ đang được phản ánh nơi một số người. Họ âm thầm cầu nguyện. Họ lắng nghe tiếng Chúa. Họ nói lời xin vâng tuân phục thánh ý Chúa. Họ trao gởi niềm tin và phó thác cho Chúa trọn vẹn. Nhìn họ, tôi có cảm tưởng: Chúa muốn dùng họ để dạy tôi nhìn ngắm đức khiêm nhường vâng phục của Đức Mẹ ngày lễ truyền tin.
Và giữa anh chị em, tôi đang nhìn thấy đức khiêm nhường hoà nhập của Đức Mẹ đang được phản ánh nơi một số người. Họ âm thần sống trọn vẹn bổn phận của mình trong đời thường. Họ âm thầm xây dựng những liên đới tốt với xóm làng, với người chung quanh. Họ âm thầm làm chứng cho Chúa tình yêu qua đời sống lương thiện, hiền lành, khiêm tốn. Nhìn họ, tôi có cảm tưởng: Chúa đang dùng họ để gọi tôi nhìn về đức khiêm nhường hoà nhập của Đức Mẹ, trong thời gian Thánh Gia sống tại Nagiarét.
Và giữa anh chị em, tôi cũng đang nhìn thấy một đức khiêm nhường thao thức về các linh hồn đang được phản ánh trong các cá nhân, trong các nhóm nhỏ. Nơi họ, tôi thấy: Họ nắm bắt được những thao thức của các linh hồn hôm nay. Họ nắm bắt được những yêu cầu khẩn cấp của Thiên Chúa trong các linh hồn. Và họ đã can đảm, lặng lẽ đáp ứng được tiếng gọi của Chúa trong các linh hồn. Nhìn họ tôi có cảm tưởng là Chúa đang dùng những linh hồn này để gọi tôi nhớ lại đức khiêm nhường thao thức về các linh hồn nơi Đức Mẹ, trong thời gian Đức Mẹ chia sẻ sự rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô, con yêu dấu của mình.
Và giữa anh chị em, tôi cũng đang nhìn thấy một đức khiêm nhường hiến tế đang phản ánh trong nhiều người, trong nhiều gia đình. Tôi thấy: Họ đang âm thầm hiến dâng đời sống mình với những vất vả, với những hy sinh, với những nhẫn nhục, với những dâng hiến đời thường như một thánh lễ dâng lên Chúa hằng ngày. Tôi có cảm tưởng rằng: Chúa đang dùng họ để gọi tôi nhìn về đức khiêm nhường dâng hiến của Đức Mẹ trên núi Canvariô, khi Đức Mẹ đồng tâm cùng Đức Kitô dâng hiến chính mình làm của lễ đền tội cho thiên hạ.
Và giữa anh chị em hôm nay, tôi cũng đang nhìn thấy rất rõ một đức khiêm nhường dấn thân của Đức Mẹ đang được phản ánh nơi rất nhiều người: Họ âm thầm dấn thân lo cho người khác. Họ âm thầm dấn thân đi rao giảng Tin Mừng một cách khiêm tốn cho những người chung quanh. Họ âm thầm dấn thân cộng tác với các Đấng bề trên trong địa phận, trong họ đạo của mình, với các tông đồ giáo dân, để mở mang Nước Chúa. Nhìn họ tôi có cảm tưởng Chúa đang dùng họ để gọi tôi nhìn về đức khiêm nhường của Đức Mẹ trong suốt thời gian Chúa Thánh Linh hiện xuống và Đức Mẹ đã nâng đỡ các tâm hồn, linh hồn tông đồ trong việc mở mang Tin Mừng.
Anh chị em thân mến,
Tôi thấy rằng: Hiện nay Đức Mẹ cũng đang tạ ơn Thiên Chúa và đang dùng rất nhiều dụng cụ giữa chúng ta để mở Nước Trời. Nhưng Người mở Nước Trời và loan báo Tin Mừng bằng chính con đường mà Đức Kitô đã dùng và đã đi. Con đường đó là con đường khiêm tốn.
Hãy nhìn hang đá Bêlem, Đức Kitô khiêm tốn đến mức nào! Hãy nhìn đàng thánh giá và thánh giá, Đức Kitô khiêm tốn đến mức nào! Hãy nhìn phép Mình Thánh trên đây, Đức Kitô hôm nay đang khiêm tốn đến mức nào! Để rồi, chúng ta cũng hãy theo gương Đức Mẹ, theo con đường khiêm tốn của Đức Kitô diễn tả tình yêu Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót.
Chúng ta quá biết sự kiêu căng tự mãn đã làm hư hỏng Luxiphe và biết bao thiên thần. Sự kiêu căng tự mãn đã làm hư hỏng hai tổ tông Evà Ađam và biết bao nhiêu người. Sự kiêu căng tự mãn đã làm hư hỏng bao nhiêu thầy thượng tế, biệt phái, luật sĩ và kỳ lão trong đạo cũ. Sự kiêu căng tự mãn cũng đang là nguy cơ làm hại Hội Thánh chúng ta hôm nay. Nếu chúng ta không tự sức và tự ý muốn mình đi xuống sự khiêm tốn của Đức Kitô thì, vì tương lai, Chúa sẽ làm cho chúng ta phải khiêm tốn. Chúa sẽ gởi đến cho chúng ta những sự nhục nhã, những sự phê bình, những sự thất bại, để chúng ta biết mình chẳng là gì, chẳng làm được gì, để chúng ta luôn luôn khiêm tốn cậy trông vào tình yêu thương xót Chúa.
Trong tháng Mân Côi này và nhất là trong thánh lễ hôm nay kính Đức Mẹ Mân Côi và cũng là lễ tạ ơn Chúa, chúng ta sốt sắng tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho Mẹ chúng ta đức khiêm nhường. Đó là một ơn cao quí Mẹ để lại cho chúng ta.
Chúng ta cũng tạ ơn Thiên Chúa vì Ngôi Lời đã đến với chúng ta, đã cứu chúng ta, đã thánh hoá chúng ta bằng con đường khiêm tốn. Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta, cho Hội Thánh chúng ta biết đón nhận ơn khiêm tốn, biết quí trọng đức khiêm tốn và biết lợi dụng mọi cái xảy ra trong đời sống bình thường để đào sâu đức khiêm tốn. Càng đào sâu lòng khiêm tốn, chúng ta càng dễ đón nhận những ơn Chúa ban cho chúng ta. Hãy hạ mình xuống, hãy cúi thật sâu, để rồi chúng ta có hy vọng được Chúa nâng lên.
Lạy Đức Mẹ xin giúp chúng con biết tạ ơn Chúa bằng lòng khiêm tốn của Đức Mẹ. Amen.
Lễ khánh thành thánh đường Đức Mẹ Mân Côi, giáo xứ Tân Long, kinh 2a, ngày 07-10-1995
Trong bài Phúc Âm hôm nay có lời Chúa dạy: “Khi các con đã làm xong những điều Cha truyền dạy phải làm, thì các con hãy nói: Chúng tôi chỉ là những người đầy tớ vô dụng, bởi vì chúng tôi chỉ làm những việc chúng tôi phải làm”.
Đây là một Tin Mừng và trên cơ sở Tin Mừng, tôi rất vui, khi được nói về mình: Tôi chỉ là người đầy tớ vô dụng, bởi vì tôi chỉ làm những điều Chúa dạy tôi phải làm. Và tôi cũng rất vui khi được nghe các linh mục, tu sĩ, giáo dân nói một cách thật tình: Chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng, bởi vì chúng con chỉ làm những điều Chúa dạy chúng con làm.
Tôi nhớ lại, cha cố Augustinô cũng đã có một lần nói như vậy với tôi. Và hôm nay, khi tôi viếng mộ ngài, tôi có cảm tưởng là ngài cũng nhắc lại câu đó với tôi, và nhắc lại một cách vui mừng. Và tôi cũng cảm thấy rất vui.
Chúng tôi vui mừng, bởi vì niềm vui của chúng tôi xuất phát từ sự cảm thấy mình cởi gỡ được khỏi những tiếng khen phù du, và nhất là cảm thấy mình được gắn bó hơn với Đức Kitô. Chúng tôi chỉ làm sự Chúa dạy chúng tôi phải làm. Chúng tôi mừng, vì chúng tôi nhìn thấy đúng sự thực về mình: Chẳng có gì, chẳng là gì. Những tiếng khen phải qui chiếu về Đấng đã gọi tôi, phải dành lại cho Đấng đã chọn tôi, phải dâng lên cho “Đấng đã làm cho tôi những điều trọng đại”.
Lời Chúa dạy hôm nay trong bài Phúc Âm, đang trở thành một nền tu đức, được thực hiện nơi nhiều người, nơi nhiều nhóm, nơi nhiều cộng đoàn. Nền tu đức này có ba nét chính.
Nét thứ nhất là cố gắng chu toàn bổn phận của mình.
Nét thứ hai là giữ thái độ khiêm tốn từ trong tâm hồn, cho đến lời nói, cử chỉ bề ngoài.
Và nét thứ ba là luôn qui chiếu về Chúa lòng cảm tạ, tâm tình biết ơn: Mọi sự đều bởi Chúa, và qui hướng về Chúa.
Đây cũng là ba dấu chỉ, ba tiêu chuẩn, mà tôi thường dùng để đánh giá một cá nhân, một họ đạo, một cộng đoàn. Tôi dựa vào ba dấu chỉ đó để mà phán đoán.
Dấu chỉ thứ nhất là người ấy, cộng đoàn ấy, có thực sự chu toàn những điều Chúa dạy mình không? Trong những điều Chúa dạy, có những cái rất tầm thường. Thí dụ: Nói thì phải nói cho đúng sự thực, đừng vu khống, đừng nói điều độc ác. Làm, thì làm cho đúng bổn phận trong tâm hồn và bề ngoài. Đúng bổn phận của mình, hết sức nhiệt tình, vì Chúa, vì tha nhân.
Ngoài đặc điểm đó, thì đặc điểm thứ hai cũng rất cần để phân biệt người nào sống Tin Mừng thật, nhất là khiêm tốn nhận mình là đầy tớ vô ích. Đầy tớ vô ích không khoe khoang, không phô trương, không nâng mình lên, không hạ kẻ khác xuống.
Ngoài ra, đặc điểm thứ ba, dấu chỉ thứ ba, để phân biệt kẻ nào sống Tin Mừng, đó là luôn qui chiếu về Thiên Chúa, tán tụng Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa và thao thức làm cho dân Thiên Chúa được yêu mến.
Anh chị em thân mến,
Khi bước tới họ đạo này, tôi cũng đem ba tiêu chuẩn đó để xem họ đạo anh chị em, những người thân của cha cố Augustinô có sống Tin Mừng thực sự hay không? Có phải là những người cố gắng chu toàn bổn phận Chúa trao phó không? Có phải là người giữ thái độ khiêm tốn bề trong, bề ngoài không? Có phải là người luôn qui chiếu tâm tình cảm tạ về Thiên Chúa không? Và tôi vui mừng nhận thấy ba dấu chỉ đó đã có nơi anh chị em người nhiều, người ít. Và tôi kết luận dựa theo lời Đức Kitô “Ai sống lời Chúa thì ở trong Chúa”.
Qua lời phát biểu của ông đại diện, qua những bài thánh ca anh chị em vừa hát, và qua những biểu ngữ treo ở nhà thờ và chung quanh thánh đường, tôi thấy thực sự anh chị em đã hiểu đúng nền tu đức mà tôi nghĩ cha cố Augustinô đã dạy anh chị em: Làm tốt bổn phận của mình từ những sự bé nhỏ, giữ sự khiêm tốn và luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa.
Khi tôi nhìn biểu ngữ trước mặt tôi “Chúa Kitô sống trong tôi”, thì tôi hiểu: tất cả nền tu đức mà cha cố đã dạy anh chị em và tôi yên tâm. Nghĩa là những người cố gắng chu toàn bổn phận, nhưng nhận mình là đầy tớ vô ích, và luôn luôn qui chiếu về một mình Đức Kitô, Người sống trong tôi.
Hôm nay giỗ cha cố Augustinô, người mà lúc này, đang nhìn thấy rõ những nét mà tôi vừa nêu lên trong nền tu đức. Ngài nhìn thấy rất rõ lúc này và ngài rất hợp ý với tôi, để cùng tôi nhắn gởi anh chị em: Hãy tiếp tục sống Lời Chúa, với nền tu đức đơn giản, rút ra từ Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay. Báo hiếu ngài, nhớ ơn ngài là hãy tiếp tục sống Lời Chúa, và sống nền tu đức mà ngài đã làm gương khi ngài còn sống và hãy còn dư âm trong tâm hồn mỗi người chúng ta.
Xin Thiên Chúa nhân lành, giúp cho tâm hồn chúng ta được kế thừa những gì mà cha cố Augustinô đã thực hiện và đã dạy dỗ, để chúng ta cùng người sau này sẽ cảm tạ Thiên Chúa muôn đời, vì chúng ta đã làm tất cả những gì Chúa đã truyền dạy chúng ta phải làm. Amen.
Lễ giỗ 100 ngày Cha Augustinô Nguyễn Đức Chỉnh, giáo xứ Tân Hải kinh C2, ngày 14-11-1995
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói tới những cảnh hãi hùng, rối ren sẽ xảy ra trên thế giới: như cảnh động đất, bão lụt, đói khát, chiến tranh. Thêm vào đó là sự xuất hiện những giáo thuyết mới với những người mạo danh là ngôn sứ mới của Đấng Cứu Thế.
Khi nghe những lời tiên báo trên đây, rồi nhìn vào hiện tại bây giờ, tôi có cảm tưởng là những lời tiên báo xưa của Đức Kitô, tuy có đáng sợ thực, nhưng so với những gì đang xảy ra bây giờ, những lời tiên báo đó chưa thấm vào đâu. Bởi vì trong hiện tại, cũng đang xảy ra những thiên tai hãi hùng, những ôn dịch, những bệnh khó trị lan tràn khắp nơi, những nạn đói khát tàn phá từng triệu người. Thêm vào đó, còn có sự bùng nổ từng ngàn giáo phái, có sự sụp đổ của những hệ thống chính trị lớn, sự sụp đổ của những niềm tin tôn giáo, và nhất là sự huỶ hoại từng loạt những giá trị tâm linh, đạo đức, trên thế giới hiện nay.
Trong một hoàn cảnh như hiện nay, những người tín hữu còn chút thao thức về Thiên Chúa, về Nước Trời, về Hội Thánh, về phần rỗi các linh hồn, sẽ không khỏi băn khoăn, phương chi các linh mục, những người có sứ mạng tiếp tục công cuộc cứu độ của Đức Kitô trong phần vụ mà bề trên trao phó cho mình.
Để chu toàn tốt các sứ vụ đó, các linh mục cần phải có những lựa chọn mục vụ thích hợp. Và đó là vấn đề được coi là ưu tiên trong đời linh mục.
Nhìn các linh mục gần xa quanh tôi, tôi thấy các vị, trong đó có cha Gioan Baotixita, đã giải quyết vấn đề ưu tiên này, với tất cả lương tâm của mình.
Tôi thấy có những vị rất nổi về những lựa chọn giàu tính cách canh thức. Các ngài nhìn xa thấy rộng, nắm bắt tình hình, và phát giác ra những nguy hiểm cho đức tin, nên đã lên tiếng báo động, hô hào người ta ăn năn trở về, sám hối, cầu nguyện.
Có những vị khác rất nổi về những lựa chọn tái Phúc-Âm-hoá con người hôm nay. Các ngài nhìn sâu vào tâm trạng người tín hữu, các ngài có những kinh nghiệm lâu dài về đời sống nội tâm, nên các ngài quan tâm đến việc dạy giáo lý cho những lớp trẻ, quan tâm đến việc đào tạo đức tin cho những lớp người lớn, đem mọi người vào một nền tu đức là sự gặp gỡ Đức Kitô trong tâm hồn mình, trong đời sống của mình.
Có những vị rất nổi về những lựa chọn giàu tính cách hiệp thông. Các ngài ý thức rất rõ nguy cơ đang đe doạ Hội Thánh bây giờ, là sự thiếu đoàn kết, do tinh thần cục bộ, vụ lợi, hẹp hòi, cực đoan gây nên một nguy cơ hận thù, chia rẽ. Nên các ngài để ý xây dựng sự đoàn kết, cổ võ tinh thần bao dung, chấp nhận những khác biệt, khích lệ sự đối thoại, cởi mở đối với những người chung quanh.
Có những vị rất nổi về những lựa chọn giàu tính cách truyền giáo. Đối với các ngài, truyền giáo cho những người chưa biết Chúa cũng quan trọng như ban phép bí tích cho những người công giáo. Vì thế, các ngài mở hoạt động của mình ra phía người lương, bằng những tiếp xúc, bằng những sách báo, bằng những cộng tác hoạt động xã hội, văn hoá, nghệ thuật.
Và tôi thấy một số các linh mục của tôi rất nổi về những lựa chọn giàu tính cách Tám mối phúc thật. Các ngài thấy rõ rằng: Trong tình hình hiện nay, đang bị nền văn minh tục hoá tàn phá những giá trị đạo đức nội tâm, làm cho con người trở nên trống vắng, thì cách tốt nhất để loan báo Tin Mừng, là làm cho bản thân mình, giáo đoàn của mình trở thành một nhà Tám mối, toả sáng ra những hạnh phúc chân thực, làm chứng cho đời sau, một đời sau có hạnh phúc bền vững là tình yêu và bình an. Điều mà tôi muốn nói ở đây và muốn nhấn mạnh ở đây, là tất cả những lựa chọn mục vụ trên đây của các linh mục đều nói lên rằng: Các ngài đã biết lắng nghe, đã biết đón nhận tiếng Chúa, trong Kinh Thánh, trong Truyền thống, trong Huấn quyền, trong lịch sử, và trong các tâm hồn.
Hôm nay, khi mừng Ngân Khánh cha Gioan Baotixita, tôi tạ ơn Chúa vì khả năng biết lắng nghe, vì khả năng biết đón nhận tiếng Chúa. Trong hai mươi lăm năm linh mục, cha đã biết lắng nghe, cha đã biết đón nhận, đó là điều quý nhất cho đời linh mục.
Tôi cũng tạ ơn Chúa vì những chọn lựa mục vụ của cha Gioan Baotixita, tuy còn trong mức độ tương đối, nhưng đã đáp ứng được đúng những nhu cầu thiêng liêng của giáo hội địa phương. Tôi vẫn nghĩ rằng, mục đích của mục vụ nơi linh mục, không phải là xây dựng và phát triển những nhân đức của cá nhân mình, mà là xây dựng Hội Thánh, xây dựng Hội Thánh. Vì thế, tất cả những gì mình làm, những chọn lựa mục vụ của mình, đều mang chiều kích Hội Thánh. Nghĩa là, vì Hội Thánh, trong Hội Thánh, nhờ Hội Thánh, với Hội Thánh.
Vì thế hôm nay, khi mừng lễ Ngân Khánh cha Gioan Baotixita, tất nhiên tôi nhớ tới những thành phần khác của Hội Thánh địa phương, những người đã tích cực cộng tác với cha trong hoạt động mục vụ: Linh mục đoàn, các bạn bè gần xa, những người liên đới ruột thịt và thiêng liêng. Nhất là cộng đoàn giáo xứ ở đây, mỗi người đều là một ngọn đèn cháy lửa đức tin, mỗi người đều là một bông hoa toả hương bác ái, đã giúp cho cha thực hiện được những chọn lựa thích hợp của mục vụ linh mục.
Tới đây, tôi nhớ tới lời Đức Kitô đã dạy chúng tôi: “Khi chúng con đã làm xong bổn phận, chúng con hãy nói với mình: Chúng tôi chỉ là đầy tớ vô ích. Bởi vì “chúng tôi chỉ làm những gì chúng tôi phải làm”. Đây là một sự thực, là một sự thực ngọt ngào, đem lại bình an, hy vọng và hoan lạc cho tâm hồn chúng tôi. Và đây cũng là câu tôi gởi lại cho cha Gioan Baotixita trong lễ hôm nay, để tất cả mọi vinh quang, mọi tạ ơn, mọi hy vọng đều qui chiếu về Thiên Chúa mà thôi.
Lạy Đức Kitô, chúng con tạ ơn Người. Chúng con hứa sẽ đi theo Người mãi mãi. Amen.
Lễ Ngân Khánh Cha Gioan B. Trần Hữu Thịnh tại nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi, giáo xứ Tân Long, kinh 2a, ngày 28-11-1995
Hôm nay, tôi rất vui mừng được gặp lại anh chị em, và được chứng kiến tận mắt những phát triển mau lẹ của họ đạo Hợp Tiến. Điều mới nhất đối với tôi và cũng đang gây nên những ấn tượng mới đối với tôi, chính là quang cảnh này, nơi chúng ta đang tụ họp để dâng thánh lễ. Đây là một nghĩa trang được xây dựng lại, tạo nên một môi trường, vừa có tính cách khoa học, vừa có tính cách đạo đức.
Khi đứng giữa anh chị em và dâng lễ ở môi trường mới này, tôi có chút cảm tưởng nhỏ, xin được chia sẻ với anh chị em.
Thưa anh chị em,
Đặc điểm của nghĩa trang, của nơi những người quá cố an nghỉ, là sự thinh lặng. Những ngôi mộ thinh lặng, những hòm cốt thinh lặng, những hình ảnh thinh lặng. Nhưng với cách thiết kế, tổ chức quy củ đẹp đẽ như thế này, sự thinh lặng của nơi an nghỉ những người quá cố trở thành một tiếng nói rất thực và rất thân thương. Tiếng nói trong thinh lặng này là một tiếng nói thì thầm, gởi vào lương tâm mỗi người chúng ta, để nhắc nhở cho chúng ta: Có những người đã ra đi nhưng vẫn còn ở lại, họ rất xa ta nhưng thực sự rất gần. Họ muốn gần gũi với chúng ta, không phải như một hoài niệm, như một cái gì để nhớ để thương, mà là một sự hiệp thông.
Những người chết rồi ở đây, vẫn hiện diện một cách nào đó, để có thể lãnh nhận và có thể cho đi. Các người thương của chúng ta chết rồi, vẫn có thể nhận được những lời cầu, những việc lành của chúng ta, và vẫn có thể cho lại chúng ta những sự cầu bầu.
Phía chúng ta cũng nhận được những sự giúp đỡ của những người thân đã chết. Và chúng ta vẫn có thể cho đi những gì là thiêng liêng nhất. Chính vì thế mà khi nhìn thấy khu “Tàng cốt đường” này, tôi có cảm tưởng rằng: Với cách tổ chức như thế này, tình nghĩa gia đình của anh chị em sẽ được phát triển tốt, con cháu sẽ dễ nhớ đến công ơn cha mẹ, ông bà tổ tiên. Và tình nghĩa cộng đoàn giáo xứ, giáo họ cũng nhờ cái nghĩa trang bé nhỏ này, được tăng cường lên, để vừa nhìn thấy sự chết, nhưng đồng thời cũng nhìn thấy, ở quê hương trên trời, có những người đang chờ đợi chúng ta.
Ngoài ra, nghĩa trang với tổ chức như thế này, cũng sẽ giúp cho chúng ta nhìn vào chiều sâu, chiều dài của cuộc sống. Chúng ta sống ở trần gian một thời gian bé nhỏ, để rồi chúng ta lại ra đi vào cõi đời đời. Nơi đó, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa, Đấng là nguồn an ủi nguyên thủy và cùng đích của chúng ta, miễn là ở đời này chúng ta cố gắng phượng thờ Người, sống theo luật của Người.
Tôi nghĩ rằng: Với cách tổ chức nghĩa trang đơn sơ, nhưng có tính chất khoa học và đạo đức như thế này, chúng ta sẽ có một bài học sống động về tu đức, về giáo lý, về đức tin. Tôi nghĩ rằng: Nhiều người trong chúng ta sẽ dễ cầu nguyện nơi đây, sẽ dễ suy gẫm nơi đây, và sẽ có một cái nhìn về cuộc đời, về đời sau một cách sâu sắc ở chính tại nơi đây.
Chính vì thế mà tôi càng xác tín rằng: Chăm lo cho người đã chết, quan tâm đến nghĩa trang, đó là một bổn phận không nhỏ của nếp sống đạo trong giáo xứ, trong giáo họ. Một cộng đoàn tín hữu có nhà thờ đẹp, có nhà xứ đẹp, có trường học đẹp, có cầu đường đẹp, nhưng nếu để nghĩa trang của mình bị bỏ rơi, để những người đã chết bị quên lãng, thì cộng đoàn đó vẫn có một thiếu sót lớn.
Vì vậy tôi mừng cho anh chị em đã có một công trình nhiều ý nghĩa.
Tôi tin rằng Thiên Chúa rất hài lòng với công trình anh chị em đã hoàn thành hôm nay. Và tôi cũng tin rằng những người đã chết trong họ đạo cũng rất vui mừng được nhìn thấy con cháu của mình, những người thân của mình, những người quen biết của mình, đã làm được một công trình, hầu sau này, sẽ giúp cho đức tin và đức hiếu thảo của họ đạo được phát triển đúng chiều hướng.
Trong thánh lễ này, tôi xin cùng anh chị em, đặc biệt là các cha và những quí ân nhân, cầu xin Chúa cho tất cả mọi người chúng ta được ý thức về bổn phận đối với những người đã qua đời, đối với nghĩa trang của họ đạo.
Xin Chúa trả công cho tất cả những người đã góp phần vào việc thành hình công trình tốt đẹp là khu “Tàng cốt đường” này. Amen.
Lễ làm phép “Tàng Cốt Đường” tại họ đạo Hợp Tiến, kinh B2, ngày 28-11-1995
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cho biết: Sẽ có lúc, các môn đệ của Người bị gặp những thử thách nặng nề, như là: Sẽ bị trao nộp, bị tra tấn, bị oan ức, bị kết án bất công. Lúc đó, Chúa sẽ ban cho các ngài ơn khôn ngoan để đối phó.
Đối phó khôn ngoan khi bị thử thách, đó là một điều tôi rất quan tâm. Bởi vì các môn đệ, nhất là các linh mục thường gặp những cảnh bị thử thách nặng nề. Trong những hoàn cảnh đó, tự nhiên ai cũng muốn đối phó, ai cũng muốn phản ứng. Nhưng đối phó thế nào, phản ứng thế nào để được gọi là một cách khôn ngoan, như Chúa đã nói trong bài Phúc Âm hôm nay trong Phúc Âm.
Tôi suy nghĩ, tôi tự hỏi mình, tôi cầu xin và tôi hỏi chính Đức Kitô. Đức Kitô đã trả lời tôi, bằng cách Người kêu gọi tôi nhìn vào chính Người, trong những ngày cuối cùng của Tuần Thánh.Tôi đã thấy: Ngày thứ năm, thứ sáu Tuần thánh, Đức Kitô đã bị thử thách rất nặng nề. Ngài bị phê phán. Ngài bị kết án. Ngài bị nguyền rủa. Tôi tưởng rằng: Trong hoàn cảnh như vậy, Ngài sẽ đưa ra những lý luận có sức thuyết phục, để bắt đối phương phải đầu hàng. Hoặc, Ngài sẽ làm nhiều phép lạ lớn lao phi thường, gây ấn tượng mạnh, buộc đối phương và mọi người phải nhận mình sai trái, khi kết án Ngài.
Thế nhưng, Đức Kitô đã phản ứng không như tôi nghĩ: Ngài đã phản ứng bằng sự thinh lặng, bằng sự thinh lặng. Hơn nữa, Ngài còn đi sâu vào cơn thử thách. Đấng mà trước đây đã có lần nói “Ai khát hãy đến với tôi”, thì bây giờ, chính Ngài đã kêu lên “tôi khát”. Đấng mà trước đây đã có lần nói “chúng con đừng sợ”, thì bây giờ chính Ngài lại nói: “Thầy buồn bã đến chết được”. Đấng mà trước đây đã bảo đảm với môn đệ “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”, thì bây giờ chính Ngài lại kêu lên “lạy Cha, sao nỡ bỏ con”.
Ngài thinh lặng như vậy, để chia sẻ những đau đớn, yếu đuối, cay cực của những con chiên sau này đi theo Ngài.
Rồi, ngày thứ bảy tuần thánh, Đức Kitô thấy các môn đệ của Ngài bị xô vào một hoàn cảnh đầy hoang mang: Mỗi người đều trở về lòng mình đầy lo sợ, đầy thắc mắc, đầy cô đơn. Bị dằn vặt với những câu hỏi: Tại sao lại như thế này, và như thế này cho đến bao giờ? Tôi nghĩ rằng trong hoàn cảnh như vậy, Đức Kitô sẽ hiện ra, trấn an các môn đệ, giải thích cho các môn đệ, an ủi các môn đệ. Thế nhưng, Đức Kitô đã không làm như tôi nghĩ. Ngài đã đối phó bằng sự thinh lặng, để cho sự đau khổ đào bới, cày bừa lương tâm các môn đệ, để cho đức tin được ăn rễ sâu hơn trong lòng họ.
Rồi, đến ngày thứ nhất Tuần thánh, các dư luận đều cho rằng: Đời Đức Kitô như thế là chấm dứt. Danh Đức Kitô như thế là bị xóa bỏ. Đời Đức Kitô không còn hy vọng nào. Đức Kitô biết rõ dư luận đó là một thách thức. Tôi tưởng rằng: Ngài sẽ đối phó những thách thức đó bằng cách sẽ sống lại vinh quang, sáng láng, công khai trước mặt từng ngàn người chứng kiến. Thế nhưng Đức Kitô đã không đối phó như vậy theo tôi tưởng. Ngài đã giữ thái độ thinh lặng. Ngài sống lại một cách kín đáo, thinh lặng, và chỉ hiện ra với một đôi người thân thương, dưới hình thức như một người khách lạ.
Qua những gương đối phó ở trên đây của Đức Kitô, tôi nhận thấy rằng, thái độ thinh lặng của Đức Kitô trong những trường hợp đó chính là một thái độ đối phó khôn ngoan.
Tôi tìm hiểu: Tại sao là khôn ngoan được trong sự thinh lặng, thì tôi thấy: Sự khôn ngoan của Đức Kitô trong thái độ đối phó đó, chính là những việc làm nên nguồn ơn cứu độ và thánh hoá. Nó có giá trị một sự từ bỏ bản thân. Nó có giá trị một sự phấn đấu nội tâm. Nó có giá trị một sự găp gỡ Thiên Chúa. Nó có giá trị một sự cứu độ các linh hồn. Nó có giá trị một tình yêu hy sinh. Nó có giá trị một hiến tế đền tội.
Qua những cách suy nghĩ này, tôi nhận rõ: Sự đối phó thinh lặng của các môn đệ Chúa chính là một ơn khôn ngoan Chúa dành cho những môn đệ Chúa thương. Và vì đó có thể nói được rằng: Sự thinh lặng trong cơn thử thách đó là dấu chỉ chắc chắn nhất để nhận ra người môn đệ khôn ngoan của Đức Kitô.
Anh chị em thân mến,
Các linh mục thường bị thử thách, và nhiều khi những thử thách nặng nề nhất lại gây nên do chính những người trong nội bộ mình. Nhưng tôi nghĩ rằng: Cái đẹp, cái làm cho người linh mục được đẹp, không phải là tránh được những thử thách nặng nề, cũng không phải là vượt qua được những thử thách ấy bằng cách ăn thua giành phần thắng cho mình. Mà cái đẹp, cái làm cho đời linh mục được đẹp, chính là biết đón nhận những thử thách Chúa gởi cho mình, trong một đức tin bình thản và trong sáng, biết dùng sự thinh lặng bề ngoài và nội tâm, để đón nhận ơn cứu độ và thánh hóa.
Hôm nay, khi mừng lễ Ngân Khánh của linh mục Đaminh, tôi tạ ơn Chúa vì chức linh mục của người. Nhưng, tôi tạ ơn Chúa cách riêng, vì Chúa đã cho ngài biết đón nhận những thử thách Chúa gởi đến cho mình. Tôi cảm ơn Chúa, vì đã giúp cho ngài biết rút ra những kinh nghiệm bản thân, để cho trái tim linh mục của mình trở thành trái tim Đức Kitô biết xót thương, biết cảm thông với những người đau khổ, với những người bị thử thách, với những người yếu đuối. Tôi tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho ngài biết đối phó bằng thái độ thinh lặng bề ngoài và nội tâm, và qua sự thinh lặng đó như là một nơi gặp gỡ Chúa, như là một nơi hiến tế mình cho Chúa, như là một nơi để ca tụng Chúa.
Trong hai mươi lăm năm làm linh mục trên bàn thờ, cha đã bao lần bẻ tấm bánh thánh ra làm hai, làm ba để rước vào mình, và để trao ban cho người khác.
Hôm nay nếu có một lời nguyện nào tôi cầu cho linh mục Đaminh, thì tôi xin Chúa cho ngài được trở thành một tấm bánh thánh, và để cho Thiên Chúa bẻ tấm bánh đó ra nhiều phần, để ngài biết đi vào con đường thập giá của Đức Kitô trong thinh lặng, trong phó thác, trong niềm tin yêu thương và trong lý tưởng cứu độ và thánh hóa của Đức Kitô.
Tôi có cảm tưởng rằng: Sau này, những thử thách lớn nhất đối với chúng ta, nhất là đối với linh mục, sẽ không phải là những tra tấn, những oan ức, những bất công, mà sẽ là thái độ dửng dưng, sẽ là thái độ bị đẩy ra ngoài xã hội do một nền văn minh thế tục hưởng thụ đang đến.
Trong lúc thử thách như vậy, thì thái độ thinh lặng, cầu nguyện, hy sinh, sẽ là một thái độ cần có, để cứu Giáo Hội, để cầu cho Hội Thánh. Lúc đó những người biết thinh lặng đi sâu vào đời sống nội tâm, đi sâu vào đời sống cầu nguyện, đi sâu vào mầu nhiệm thánh giá của Đức Kitô, sẽ là những người cần thiết để cho Hội Thánh được tham dự vào mầu nhiệm sống lại.
Đó là điều tôi mong ước và muốn chia sẻ với anh chị em, và nhất là với cha Đaminh. Amen.
Lễ Ngân Khánh linh mục của cha Đaminh Cao Quang Ngoạn, tại nhà thờ Thánh Tâm, Kinh B2, ngày 29-11-1995.
Ngày lễ Sinh nhật cũng như những ngày đầu năm, rất nhiều người đã nghĩ đến Đức Kitô, rất nhiều người đã nói về Đức Kitô, rất nhiều người đã trưng bày ảnh tượng Đức Kitô. Những hiện tượng đơn giản này được coi là những bước đầu của hành trình đi gặp gỡ Đức Kitô.
Những bước đầu này, tuy nhỏ, nhưng vẫn mang lại cho chúng ta một vài cảm nghiệm thiêng liêng về Đức Kitô. Qua những cảm nghiệm này, Chúa kêu gọi chúng ta hãy bước thêm nữa, để tới một sự gặp gỡ sống động hơn và thân mật hơn với Đức Kitô. Bước thêm nữa bằng cách nào?
Thưa trước hết bằng cái nhìn trung thực về Đức Kitô. Người chính là Thiên Chúa đã giáng trần để gần gũi với thân phận con người, và để cứu độ chúng ta. Người là Đấng cứu thế (Mt 1,21). Người đến cho người tội lỗi (Lc 5,32). Người đến cho những gì đã hư mất (Mt 9,12). Người là Đấng gánh lấy các yếu đuối và tật nguyền của chúng ta (Mc 17). Người là Đấng xoá tội trần gian (Gioan 1,29).
Một khi đã nhìn Đức Kitô là Đấng cứu thế, chúng ta sẽ hiểu chúng ta phải bước tới Người với tư cách nào. Tất nhiên với tư cách kẻ nghèo nàn, yếu đuối, tội lỗi rất cần được cứu độ. Và thực sự chúng ta là như vậy. Vì thế, chúng ta bước lại gần Đức Kitô còn bằng sự nhìn nhận chân thành về chính mình.
“Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). “Con là người tội lỗi bần tiện” (1Tim 1,15). “Con không đáng gọi là tông đồ Chúa” (1Cor 15,9). “Con đã phạm tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót” (kinh Cáo mình).
Từ sự nhìn nhận trung thực và chân thành như trên, chúng ta tiếp tục bước thêm nữa bằng việc cầu nguyện sám hối, tin tưởng và tạ ơn.
“Lạy Cha, con đã phạm tội đối với Trời và đối với Cha” (Lc 15,18,2). “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể chữa lành con” (Lc 5,12). “Con có thể làm được tất cả trong Đấng là sức mạnh của con” (Philip 4,13). “Linh hồn con chúc tụng Chúa” (Lc 1,46).
Cùng với những việc trên, chúng ta còn bước đến Chúa bằng sự khiêm tốn chu toàn bổn phận thường ngày, đặc biệt là bổn phận công bình bác ái đối với mọi người, như lời Đức Kitô đã dạy và theo gương Người đã sống. “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con thương yêu nhau” (Gioan 13,34). “Đừng kết án, để khỏi bị kết án” (Mt 7,1). “Hãy nhân từ khoan dung như Cha các con ở trên trời” (Lc 6,36). Xót thương giúp đỡ những kẻ khó nghèo cùng khổ là phục vụ chính Chúa. Người yêu thương đến hy sinh mạng sống mình (Gioan 10,10). Yêu thương đến cùng (Gioan 13,1).
Như vậy, mọi cảnh đời, dù nghèo nàn, tội lỗi đều có thể trở thành những dịp thuận lợi, giúp chúng ta bước gần đến Đức Kitô. Xem ra chỉ những người có tinh thần khiêm tốn mới cảm nghiệm được Đức Kitô chính là Tin Mừng đích thực của mình. Và chỉ họ mới nhận ra được dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa trong chính đời thường đầy gian truân của họ.
Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thời điểm phát triển. Nếu không cảnh giác và phấn đấu, thời điểm phát triển này có thể dẫn tới triều đại thống trị của tiền bạc, với những hình thức hưởng thụ, phô trương, và với khả năng làm khánh kiệt những giá trị đạo đức, gây nên sự trống trải nội tâm và ích kỶ trong các tương giao gia đình, xã hội. Cả đến tôn giáo cũng có thể sẽ bị tiền bạc chi phối.
Một viễn tượng như thế càng thúc giục chúng ta hãy nhìn lên Đức Kitô, hãy bước lại gần Người, và hãy gặp Người.
Phải thực sự khiêm tốn nghèo nàn và thanh vắng nội tâm mới nghe được tiếng Người, mới nhận ra Người, mới đón nhận được Người cùng với ơn cứu độ của Người.
Với những nhận thức trên đây, tôi thiết tha cầu nguyện và thân ái cầu chúc anh chị em, có được những bước đi mới trên đường đến gặp gỡ Đức Kitô là Tin Mừng đích thực. Đó cũng là ước vọng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đang trong hướng dẫn Giáo Hội về Năm Thánh năm 2000.
Bài Phúc Âm hôm nay là một bài lịch sử. Bài lịch sử này kể lại một việc từ thiện Đức Kitô đã làm xưa.
Thánh sử Matthêu đã kể lại diễn tiến việc từ thiện Đức Kitô đã làm hôm đó với nhiều chi tiết. Thí dụ như: Làm ở đâu, bao nhiêu người chứng kiến, làm việc gì, làm thế nào, làm rồi đi đâu.
Khi đọc kỹ những chi tiết mà thánh sử Matthêu đã kể ra trong bài lịch sử hôm nay, tôi nhận thấy: Việc từ thiện của Đức Kitô làm hôm nay có 4 đặc điểm đáng nói.
Đặc điểm thứ nhất là chính xác.
Chính xác, nghĩa là, Ngài làm đúng việc. Ngài làm đúng lúc. Ngài phục vụ đúng đối tượng.
Khi Đức Kitô quan tâm phục vụ đến giáo dân nghèo, thì Người phục vụ đúng đối tượng. Khi Người cho họ ăn trong hoàn cảnh họ bế tắt, không còn gì để kiếm ra đồ ăn, thì Đức Kitô đã làm đúng việc trong một hoàn cảnh đúng lúc.
Đặc điểm thứ hai là tính cách kế hoạch.
Kế hoạch ở chỗ: Khi làm phép lạ cho người ta ăn, Đức Kitô đã đòi hỏi những người có mặt phải góp phần tham gia vào việc Ngài làm. Ngài không cho không. Tuy phần đóng góp đó là phần rất nhỏ, như 7 cái bánh, 2 con cá thì có là gì. Nhưng, Đức Kitô buộc họ phải tận dụng cái họ đang có.
Và kế hoạch ở chỗ: Ngài dùng chính những chất liệu tại chỗ có sẵn, không phải tìm nơi xa.
Rồi kế hoạch ở chỗ: Ngài chia đám đông 4.000, 5.000 người ra thành từng nhóm nhỏ. Mỗi một nhóm có một vài người đứng đầu để phân phát cho có trật tự.
Đặc điểm thứ ba là tính cách cộng đoàn.
Tính cách cộng đoàn của Đức Kitô là ở chỗ: Đức Kitô xem ra như cần đến cộng đoàn. Tất nhiên, Ngài có thể làm phép lạ không cần đến ai. Nhưng, trong dịp làm việc từ thiện này , Đức Kitô lại tỏ ra cần đến người khác. Ngài bảo môn đệ: Hãy kiếm cho tôi vài chiếc bánh. Hãy đưa cho tôi mấy con cá. Ngài cần đến sự giúp đỡ của môn đệ, cần đến sự đóng góp của một đứa nhỏ đang bán bánh. Ngài có ý gây một ý thức cộng đoàn. Ngài cứu độ, nhưng Ngài muốn xây dựng một cộng đoàn, người nọ cần đến người kia, nương tựa vào nhau mà sống. Rồi khi tách mọi người ra từng nhóm, Đức Kitô có ý xây dựng tình huynh đệ giữa các người cùng ăn cùng uống. Khi ngồi lại từng nhóm, người ta vừa ăn uống, vừa chia sẻ, vừa quen thân. Và nhờ đó, tình huynh đệ cộng đoàn đã được phát triển.
Đặc điểm sau cùng là tính cách thờ phượng.
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: Trước khi làm phép lạ, Đức Kitô ngước mắt lên trời, tạ ơn Chúa Cha. Và, sau khi đã giải tán dân chúng, Ngài rút vào nơi thanh vắng để cầu nguyện. Như thể Ngài muốn chứng minh rằng: Việc từ thiện tôi làm, phải kể như một việc để thờ phượng Chúa Cha. Và muốn như vậy, tôi cần phải gặp gỡ Chúa Cha. Tôi cần phải tâm sự với Chúa Cha. Nên tôi lui vào nơi thanh vắng để gặp gỡ Chúa Cha.
Anh chị em thân mến,
Trong hành vi làm việc từ thiện trên đây của Đức Kitô, chúng ta thấy có 4 đặc điểm mời gọi chúng ta ca ngợi Đức Kitô.
Tôi ca ngợi Đức Kitô là Đấng khôn ngoan trong cách Ngài làm việc từ thiện: Khôn ngoan trong cách nhìn. Khôn ngoan trong cách Ngài suy nghĩ. Khôn ngoan trong cách Ngài lựa chọn. Và khôn ngoan trong cách Ngài đối xử.
Khôn ngoan, đó là điều kiện để sống. Khôn ngoan càng là điều kiện cần để mà truyền giáo. Thời nào cũng cần khôn ngoan. Thời nay, càng cần phải khôn ngoan: Sống làm sao cho khôn ngoan. Giữ đạo làm sao cho khôn ngoan. Loan báo Tin Mừng làm sao cho khôn ngoan. Bênh vực Thiên Chúa và Hội Thánh làm sao cho khôn ngoan. Truyền giáo lúc này, ở tại địa phương này. Trong hoàn cảnh bây giờ, làm sao cho khôn ngoan. Khôn ngoan có phần tự nhiên, có phần siêu nhiên. Và nhiều khi, khôn ngoan dù là tự nhiên cũng cần phải được Chúa ban ơn cho.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi cầu xin Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta nói chung, và con em chúng ta nói riêng, được ơn khôn ngoan, để chúng nó biết sống trong một thời kỳ phức tạp, có nhiều cạm bẫy, có nhiều cám dỗ và nhiều khi đời sống mất phương hướng. Làm sao cho con em mình được khôn ngoan trong cách giữ đạo, để mà biết đối thoại với xã hội hôm nay, một xã hội hiện đại và giàu tính cách năng động sáng tạo.
Hãy biết khôn ngoan và để được khôn ngoan hãy lắng nghe và khiêm tốn cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Amen.
Khi nhìn ngôi thánh đường lớn này và cuộc lễ khánh thành trọng thể này, tôi nhận thấy có nhiều vẻ đẹp đáng được chú ý. Riêng đối với tôi, cái vẻ đẹp mà tôi cho là quí nhất, đáng để ý nhất, đó là những tấm lòng yêu thương.
Thực vậy, vì yêu thương đồng bào ở vùng này, nên anh chị em đã qui tụ đông đảo ở đây hôm nay, mặc dầu thời tiết đang trở lạnh khác thường. Cũng vì yêu thương cha xứ và họ đạo này, mà anh chị em đã từ xa đã tới đây, mặc dầu những phương tiện giao thông không dễ dàng gì, và phải gác lại những công việc đầy ắp của mình. Rồi cũng vì yêu thương, mà biết bao người đã góp phần tích cực vào việc xây dựng thánh đường này, và vào việc tổ chức ngày lễ Khánh Thành này. Có những góp phần công khai, có những góp phần âm thầm. Có những góp phần vật chất, và có những góp phần tinh thần.
Tôi thấy rằng những tấm lòng yêu thương trên đây rất có giá trị. Và tôi có cảm tưởng rằng: Tạ ơn Chúa bằng những tấm lòng yêu thương trên là cách tạ ơn đẹp nhất. Cũng như cảm ơn nhau bằng những tấm lòng yêu thương chân thành, cũng là cách cảm ơn đẹp nhất.
Sở dĩ tôi nói về vấn đề yêu thương ở đây một cách có tính cách nhấn mạnh, là vì trước đây, từ lâu rồi, cũng tại nơi đây, đã có một ngôi thánh đường bị phá huỶ. Và cũng đã lâu rồi, trước đây, chính tại chỗ này, cũng đã xảy ra một cảnh loạn ly, bất ổn. Nhưng tình hình như thế đã qua rồi. Bây giờ tình hình mới đang phát triển tốt. Hoà bình đang thay thế cho loạn ly, đoàn kết đang thay thế cho chia rẽ, tha thứ đang thay thế cho hận thù, nghi kÿ.
Tất cả những giá trị ấy tự nó đã là cao quí. Nhưng khi được dâng lên Thiên Chúa, hiệp thông với mầu nhiệm cứu độ và phục sinh của Đức Kitô, thì những giá trị tích cực trong cuộc đời đã có một cái gì trường tồn, cứu độ và thánh hoá.
Anh chị em cũng như tôi, đã có ít nhiều kinh nghiệm về tình thương trong cuộc sống. Một trong những kinh nghiệm về tình thương giữa cuộc đời, mà chúng ta thường để ý nhất, đó là: Tính cách phục vụ của tình thương.
Tình thương chính đáng phải là một tình thương phục vụ. Và một tình thương phục vụ bao giờ cũng đòi hỏi phải phấn đấu, phải năng động, phải sáng tạo. Đối với chúng ta, những người có đức tin, thì sự phấn đấu, năng động, sáng tạo, không phải chỉ bằng những phương tiện tự nhiên, mà nhất là còn bằng tinh thần siêu nhiên. Phấn đấu, năng động, sáng tạo bằng đức tin, bằng tâm hồn phó thác, cậy trông như Đức Mẹ, bằng tâm hồn ngây thơ như thánh Têrêxa nhỏ, và nhiều khi, cũng phải bằng tâm hồn chấp nhận thánh giá như Đức Kitô, để phục vụ con người theo thánh ý Chúa Cha.
Anh chị em ở đây đã phấn đấu, đã tỏ ra năng động, đã có nhiều sáng kiến. Và tất cả những sự đó, đã được thực hiện một cách tốt đẹp, có kết quả khả quan, tuy còn giới hạn.
Vì thế, chúng ta trong thánh lễ này, chúng ta cần phải nhìn vào Đức Kitô, nhìn vào Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nhìn vào thánh Têrêxa Hài đồng bổn mạng, để có thêm nhiều nghị lực hơn, thêm ánh sáng hơn, thêm khôn ngoan hơn, trong vấn đề phục vụ.
Khi chúng ta phục vụ tốt, do động lực tình yêu bác ái của Đức Kitô, do Đức Kitô dẫn dắt, thì tinh thần yêu thương phục vụ sẽ là dấu chỉ đích thực của người con Chúa. Ai phục vụ tốt giống Đức Kitô, nhờ Đức Kitô, cho Đức Kitô, sẽ được kể là môn đệ chính thức của Đức Kitô. Muốn được như vậy, tất nhiên chúng ta cần phải cố gắng. Mục đích chúng ta là phục vụ.
Mà như chúng ta đã thấy trong bài Phúc Âm hôm nay, dù mình có hoàn toàn thuộc về Chúa như Đức Mẹ đầy ơn Chúa, và có tinh thần phục vụ tuyệt đối, nhưng, cũng như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: Đức Mẹ vẫn sợ sệt, Đức Mẹ vẫn băn khoăn, Đức Mẹ vẫn lo lắng, chứ không phải là một khi mình có tình yêu phục vụ như Đức Kitô là mình cảm thấy không cần gì phải phấn đấu, và thoát khỏi những lo âu, khoắc khoải.
Đức Mẹ trong bài Phúc Âm hôm nay, đã chia sẻ cho chúng ta thân phận con người làm con Thiên Chúa. Phục vụ, yêu thương, phấn đấu, năng động, sáng tạo, nhưng cũng luôn gặp phải những khó khăn, thử thách, luôn gặp phải những băn khoăn, lo lắng, khoắc khoải.
Vì thế, chúng ta xin Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, chia sẻ, rót vào tâm hồn chúng ta một sự phó thác, một sự bình an tâm hồn, giữa những thử thách, để trong tương lai này, mặc dù chúng ta vẫn tiến trong con đường yêu thương phục vụ đúng hướng, chúng ta vẫn chấp nhận một cách bình an những thử thách sẽ xảy đến trong đời ta, cho dù thử thách đó là sự từ bỏ mình, là thánh giá, là những tủi nhục, là những hiểu lầm, là những nát tan, cả đến những thất bại ê chề.
Hãy nhìn thấy trước như vậy, để chúng ta biết rằng: Kẻ theo Đức Kitô, như Đức Mẹ, thánh Têrêxa hài đồng Giêsu, đều phải chấp nhận như vậy: Yêu thương là luôn luôn phục vụ, và chấp nhận thánh giá của Chúa.
Anh chị em thân mến,
Hãy tạ ơn Chúa bằng yêu thương. Hãy tạ ơn Chúa bằng phục vụ. Hãy tạ ơn Chúa bằng phó thác cậy trông. Amen
Lễ Khánh Thành nhà thờ Họ Têrêxa, Cầu Số 4, ngày 08-12-1995
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa báo trước sẽ có ngày: Cha nộp con, anh nộp em, và các môn đệ Chúa sẽ bị mọi người khinh chê ghét bỏ. Những ngày như vậy, sẽ là một tình hình đầy thử thách cho đức tin. Nhiều người sẽ bị hư đi, nhưng ai bền chí đến cùng sẽ được cứu rỗi.
Tôi đem lời Chúa trên đây để nhìn vào lịch sử Hội Thánh, thì tôi thấy là đúng như lời Chúa đã báo trước.
Có những thời điểm, có những cộng đoàn, có những nơi, đã xảy ra những ngày u ám như vậy: Đạo bị hạn chế, bị bắt bớ, bị cấm cách, và trong nội bộ Hội Thánh, có sự chia rẻ trầm trọng. Nhiều người đã hư đi, nhưng, những người bền chí đã được cứu rỗi, đã đạo đức hơn, đã nên thánh hơn.
Nhưng, có một điều ở đây tôi muốn nói với anh chị em như một chia sẻ, đó là: ở trong lịch sử Hội Thánh, khi tôi nhìn vào nhiều cộng đoàn, nhiều Giáo Hội địa phương, những nơi mà đạo không bị hạn chế, không bị bắt bớ, không bị cấm cách, và xem ra cũng không bị một thử thách nặng nề nào. Trái lại, có rất nhiều tự do, có rất nhiều tiền bạc, có rất nhiều đặc ân. Thế nhưng, tại những nơi đó, không phải là không có những thử thách cho đức tin, mà trái lại, tôi thấy đức tin ở những nơi đó lại bị thử thách nặng nề hơn, và xem ra đức tin ở những nơi đó đã bị yếu đi, lòng đạo lại sút. Bởi vì, những thử thách tại nơi đó, nó có tính cách ngọt ngào, êm dịu, lôi cuốn. Nó khác với những cái thử thách tại những nơi đạo bị bắt bớ, bị bách hại và bị hạn chế. ở đó, những thử thách là thô bạo, gây sợ hãi.
Như vậy, chúng ta thấy rằng: Những thử thách cho đức tin, nó xảy ra khắp nơi, và xảy ra ở mọi thời, dù là trong các thời điểm và trong những nơi đạo cấm cách hạn chế, hoặc là ở những nơi, đã được tự do, nhiều đặc ân. Chỗ nào cũng có thử thách cho đức tin.
Mới rồi, có nhiều người đã đưa ra nhận xét, là ngay tại Việt Nam thôi, có những nơi, trước đây, đạo rất tốt, mặc dầu thời đó có hạn chế. Còn bây giờ, khi đã mở ra, được tự do, thì xem ra đức tin đã xuống dốc, lòng đạo cũng đã giảm đi.
Có nghĩa là, trước đây người ta gắn bó với Hội Thánh, năng đi lễ, năng đọc kinh, năng học giáo lý, năng suy gẫm lời Chúa, và năng xưng tội rước lễ, thì bây giờ, xem ra người ta lỏng lẽo hơn, nhạt lạnh hơn, xa nhà thờ và xa chúa hơn, và ít gắn bó với Hội Thánh, với Chúa. Cả đến gia đình, những giây liên hệ giữa những người thân, cũng lỏng lẽo thêm. Có một cái sự xuống dốc nào đó. Tôi nghĩ rằng, không phải tất cả mọi nơi đã xảy ra như vậy.
Riêng ở đây, giáo xứ của chúng ta, tôi thấy Chúa thương, vẫn giữ được đức tin và lòng đạo. Anh chị em có thể tạ ơn Chúa vì kết quả này.
Nhưng có một điều, anh chị em hãy để ý: Là chúng ta có thể lạc quan về tương lai, nhưng đừng có chủ quan về tương lai. Chúng ta lạc quan về hiện tại bây giờ và ngày mai, nhưng đừng có chủ quan về tương lai xa. Bởi vì, sớm hay muộn, chúng ta sẽ gặp những thử thách về đức tin. Nhất là con em chúng ta sẽ gặp rất nhiều thử thách về đức tin: Danh vọng, tiền bạc, ích kỶ, hưởng thụ, biết bao nhiêu cạm bẫy, biết bao cơn cám dỗ.
Trong tình hình như vậy, chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa dạy hôm nay: “Ai bền vững sẽ được cứu rỗi”.
Bền vững ở điểm nào?
Tóm tắt, là ở chỗ, chúng ta gắn bó với Đức Kitô, bền vững khi vâng lời Đức Kitô, bền vững đi theo bước của Đức Kitô, nhất là ở điểm, sống bác ái như Đức Kitô.
Lúc nãy, trong bài hát đáp ca, anh chị em đã nói đến: Con Chúa, chứng nhân, tình yêu. Tôi nghĩ là, đấy cũng là cái lý tưởng, mà chúng ta cần phải bền vững. Hãy sống bác ái, hãy làm chứng cho tình yêu. Bởi vì, Con Chúa là tình yêu, thì cũng phải làm chứng cho tình yêu.
Xem ra chúng ta hay lỗi và lỗi nhiều về bác ái. Nhưng chúng ta cần phải bền vững cầu xin, để tình yêu Thiên Chúa biến đổi lòng chúng ta trở nên quảng đại hơn, bao dung hơn, bỏ đi sự tranh chấp hẹp hòi, ganh tÿ, và cố gắng làm sao, để lòng ta biết chia sẻ những niềm vui của những người chung quanh, và biết chấp nhận sự phát triển trong cộng đoàn.
Mỗi người, Chúa cho một cách sống, để đi về với Chúa. Nếu người ta chọn cách đó, chúng ta phải chấp nhận. Đừng bắt mọi người phải đi theo đúng con đường mà mình đã chọn. Bởi vì, đó là con đường của riêng mình.
Hơn nữa, chúng ta cần phải tập cách sống, để văn hoá hơn về đức ái, để nhân bản hơn về đức ái, để Phúc Âm hơn về đức ái. Muốn được như vậy, xin anh chị em hãy cố gắng cầu xin Chúa Thánh Thần. Bởi vì Chúa Thánh Thần chính là tình yêu thiên Chúa.
Chúng ta hãy năng cầu xin Chúa Thánh Thần, tinh thần của Đức Kitô hướng dẫn chúng ta, để dù trong hoàn cảnh nào, khi gặp thử thách, do xác thịt yếu đuối, do thế gian cám dỗ, do bất cứ sự gì xảy ra trong đời sống, chúng ta vẫn một mực kiên trì bám lấy Đức Kitô, luôn luôn tin rằng Đức Kitô là gương mẫu cho ta, luôn luôn tin rằng Đức Kitô là sức mạnh cứu độ cho ta, và luôn luôn tin rằng Đức Kitô là tình yêu cứu độ của ta. Dù ta có yếu đuối, dù ta có thế nào đi nữa, hãy bền chí tin vào Đức Kitô, hãy bền chí cầu nguyện với Đức Kitô một cách đơn sơ, hồn nhiên như trẻ thơ, biết đón nhận những ơn Chúa, dù là những ơn trên thánh giá, trên những khổ đau, mà chúa muốn gửi cho chúng ta để thanh luyện.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Người luôn đến, và xin Người giải thoát chúng ta, để chúng ta luôn biết bền chí trong mọi thử thách về đức tin, nhất là trong tương lai sắp tới. Amen.
Thánh lễ hôm nay là một sự kiện hiếm có tại đây. Sự kiện hiếm có này rất đáng vui mừng, vì nhiều lý do khác nhau: Như cảnh tưng bừng, vui tươi, của họ đạo hôm nay, như cảnh nhộn nhịp của khách thập phương có mặt, đến từ nơi xa, như vẻ đẹp trang trọng của nghi lễ phụng tự, trong thánh lễ đồng tế này, và như những vẻ đẹp khang trang, của ngôi nhà thờ mới, với một môi trường thiên nhiên chung quanh nhà thờ mới này.
Tất cả những cảnh đẹp trên đây, đang gây trong mỗi người chúng ta những cảm tưởng riêng, những ấn tượng riêng. Cảnh tượng này, cũng đang gây trong tôi, một số ấn tượng mạnh. Tôi xin chia sẻ vắn tắt.
Ấn tượng mạnh đầu tiên, là ấn tượng về tương quan của chúng ta với Thiên Chúa. Đó là, tương quan của những người con thảo, đối với Cha trên trời.
Qua những lời kinh, qua những tiếng hát, chúng ta đã tuyên xưng Thiên Chúa là Cha. Khi bước vào nhà thờ này, lúc nãy, cộng đoàn đang hát lời: “Thiên Chúa là Cha”. Và tôi đã thầm cầu nguyện, để mọi người chúng ta, khi hát bài đó, hãy tin nhận, và gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của mình.
Rồi, với những lời nói, cử chỉ, thái độ, việc làm, chúng ta thường diễn tả niềm vui, niền tin, niềm hy vọng, của những người con đặt nơi Cha trên trời.
Chúng ta nhận biết tất cả đều ở Cha. Chúng ta đón nhận tất cả do tay Cha. Chúng ta hy vọng tất cả nơi tình thương Cha.
Rồi, chúng ta cũng đã cảm nghiệm được, hoặc trong thánh lễ nào, hoặc trong đời sống chúng ta, tình thương Chúa đã giúp cho chúng ta trở thành những người cộng tác viên với Cha, để trở nên những người sáng tạo, để trở nên những người tạo dựng, để trở nên những người loan báo tin mừng.
Họ đạo Đất Hứa của chúng ta đây, đang là những người Chúa tạo dựng, để loan báo tin mừng của Chúa.
Tin mừng Thiên Chúa là Cha. Khi mà sống được với cái tương quan người con thảo đối với Cha trên trời giàu lòng thương xót, chúng ta sẽ cảm thấy được một hạnh phúc, âm thầm nhưng sâu lắng, át đi tất cả những cái gì là phù du, là tạm gửi, để chúng ta cảm thấy một bề sâu, một bề dài, của cái thân hình, Chúa đã tạo dựng, trong mỗi người chúng ta.
Cái ấn tượng mạnh thứ 2, trong tâm hồn tôi lúc này, là về tương quan giữa chúng ta với nhau. Đó là, tương quan huynh đệ, tương quan của những người làm anh chị em với nhau, cùng Cha trên trời.
Qua những cái nhìn thân thương, qua những thái độ thân tình, qua những lời nói chân thành, chúng ta đang diễn tả ra tâm tình của những người cùng trong một gốc, đó là Cha trên trời. Và qua những sự chúng ta nhận lãnh, và cho đi, chúng ta làm chứng: Chúng ta là những người rất cần đến sự trợ giúp của những người chung quanh, và chúng ta là những người sẵn sàng phục vụ hết mọi người. Bởi vì, chúng ta là anh chị em với nhau, cùng trong một gia đình, cùng một Cha trên trời.
Khi chúng ta sống đích thực mối dây tương quan huynh đệ như vậy, do đức tin, chúng ta mới sẽ cảm thấy một hạnh phúc rất sâu và rất bình an trong tâm hồn. Để rồi, chúng ta có một cái nhìn kính trọng đối với những người chung quanh, dù những người chung quanh của ta có là những người khác tín ngưỡng, khác đường lối, khác khuynh hướng. Chúng ta cũng hãy nhìn họ như là những người được Chúa thương yêu, như là những người mang trong mình một kho tàng ơn thánh, để có thể trở thành những người làm chứng cho Thiên Chúa, là những người có thể trở thành hữu ích cho xã hội, và là những người có khả năng giúp chúng ta nên tốt hơn.
Tương quan huynh đệ, đó là tương quan mà tôi nhìn thấy rất đẹp, ở trong thánh lễ hôm nay, trong họ đạo Đất Hứa này.
Ấn tượng thứ 3, cũng khá mạnh trong tôi lúc này, là về tương quan giữa tiền bạc, của cải, và các giá trị trần thế với chúng ta.
Khi nhìn thấy anh chị em hy sinh thời giờ, sức khoẻ, góp công góp của vào việc xây dựng thánh đường mới này, và để tham gia thánh lễ trọng thể này, tôi thấy anh chị em có một cái cách dùng của cải, dùng những giá trị trần thế, để làm những việc tốt cho xã hội, cho người khác, cho chính bản thân mình.
Anh chị em không nhìn của cải, sức khoẻ, thời giờ, tiền bạc, như những mục đích của mình, mà chỉ là như phương tiện Chúa ban, để mình biết quản lý đúng theo chương trình của Chúa.
Rồi tôi cũng cảm thấy là, khi anh chị em góp phần vào việc làm cho nhà thờ này, cho cuộc lễ này, cho họ đạo này nên tốt, thì anh chị em đã dùng của cải, và các giá trị trần thế, như anh chị em là những người chủ, chứ không phải anh chị em bị khống chế bởi những giá trị đó.
Tương quan này là tương quan tự do, có trách nhiệm, và làm cho chúng ta trở thành những con người thực sự có chiều kích thiêng liêng, đáng kính phục.
Ấn tượng thứ 4, cũng rất mạnh trong tôi lúc này, là về tương quan của mỗi người đối với bản thân mình.
Tôi nhìn thấy trong anh chị em, có một cái gì là hồn nhiên, có một cái gì là đơn sơ, có một cái gì là chân thật, và có một cái gì là phấn đấu, để biết giữ gìn trật tự chung, để biết nhìn nhận cái địa vị bé nhỏ của mình, và biết cố gắng để học hỏi thêm, để tu chỉnh thêm.
Tương quan của chúng ta với chính mình, khi trong sáng như vậy, sẽ làm cho giá trị của chúng ta được tăng lên, được đẹp hơn, được nhiều hy vọng hơn.
Anh chị em thân mến,
Tôi vừa nói về 4 tương quan: Tương quan với Chúa, là tương quan người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Tương quan giữa chúng ta, đó là tương quan huynh đệ anh chị em với nhau. Tương quan của chúng ta đối với của cải trần thế, là tương quan tự do không bị khống chế, là tương quan có trách nhiệm. Và tương quan của bản thân mình với chính mình, là một tương quan trong sáng. Mình bé nhỏ thì mình nhận mình bé nhỏ. Mình hèn yếu thì mình nhận mình là hèn yếu. Mình cần học thêm thì mình phấn đấu học thêm. Tương quan trong sáng.
Bốn tương quan này là những gì cao đẹp, để hôm nay, chúng ta ca tụng Thiên Chúa, để chúng ta tin tưởng vào Chúa, để chúng ta cần biểu dương sức mạnh của Chúa. Bốn tương quan này, cũng là cái gì cao đẹp, để chúng ta biết loan truyền tin mừng Phúc Âm. Chúng ta hãy loan truyền. Những điều tôi vừa nói, đó là những tin mừng đích thực, có ích lợi cho bản thân, cho gia đình, cho họ đạo, cho địa phương, cho đất nước. Và với 4 tương quan trên đây, chúng ta có quyền hy vọng, tiến về tương lai một cách lạc quan.
Lúc nãy, tôi đọc chữ trên biểu ngữ ở cuối nhà thờ: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Và tôi nói với Chúa: Trong quá khứ, Chúa đã trọn tình thương đối với chúng con, con tạ ơn chúa. Trong tương lai, Chúa cũng đang trọn tình thương đối với chúng con, con tạ ơn Chúa. Trong tương lai, con tin rằng: Chúa vẫn mãi mãi trọn tình thương đối với chúng con. Và Chúa trả lời tôi: Cha luôn trọn tình thương đối với chúng con, miễn là chúng con biết đón nhận tình thương của cha. Biết đón nhận là hãy khiêm tốn, hãy đơn sơ, hãy khó nghèo nội tâm.
Khi chúng ta có một tâm tình khiêm tốn khó nghèo như vậy, chúng ta dễ đón nhận tình thương của Chúa, và khi biết đón nhận như vậy, Chúa sẽ được tự do để phát triển Nước Trời trong tâm hồn chúng ta, trong tâm hồn họ đạo, trong tâm hồn đất nước chúng ta.
Với tâm tình này, tôi cầu xin rất nhiều cho anh chị em, một họ đạo mang tên Đất Hứa. Chúa hứa, Chúa sẽ nhậm lời. Chúa hứa, Chúa sẽ thực hiện lời Chúa hứa, miễn là chúng ta biết đón nhận những gì Chúa trao ban.
Xin Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta, nhất là cho con em chúng ta, những tâm hồn đơn sơ, biết trọn tình thương với Chúa, Đấng hứa, sẽ trọn tình thương đối với chúng ta. Amen.
Lễ Khánh Thành nhà thờ và Thêm Sức tại nhà thờ Đất Hứa (Núi Trầu), ngày 27-12-1995.
Là ngày cuối năm 1995, tôi xin được chia sẻ với toàn thể anh chị em nói chung, và với dòng Thánh Gia nói riêng, đôi chút về một niềm vui lớn của tôi trong năm 1995.
Tất nhiên là trong một năm, tôi có nhiều niềm vui lớn. Nhưng một trong những niềm vui lớn, đó là nhìn thấy khuôn mặt mới của Hội Thánh đang được hình thành tại nhiều nơi trong địa phận Long Xuyên của chúng ta. Khuôn mặt mới của Hội thánh này, rất đẹp, mang nét trẻ trung và đầy sức sống.
Nét đẹp trẻ trung đầy sức sống này phát sinh từ yếu tố nào?
Thưa nó phát sinh từ yếu tố xuất hiện và phát triển ơn kêu gọi gia đình tông đồ. Ơn gia đình tông đồ là một ơn gọi, mà nó mang nhiều màu sắc khác nhau: Gia trưởng tông đồ, bà mẹ tông đồ, thanh niên tông đồ, thanh nữ tông đồ, thiếu nhi tông đồ, ca đoàn tông đồ, giáo lý viên tông đồ, khuynh trưởng tông đồ, vv...
Khi quan sát và theo dõi những sinh hoạt của những dạng khác nhau về ơn gọi tông đồ của các gia đình, tôi nhận thấy là ơn gọi này đang hướng con người ta, những người được Chúa kêu gọi, về những hướng sau đây:
Hướng thứ nhất, là tích cực chia sẻ công việc mục vụ.
Khi tôi đến nhiều họ đạo, nhiều cộng đoàn, tôi thấy công việc mục vụ không còn là riêng của linh mục, không còn dành riêng cho linh mục, mà là của chung mọi người trong cộng đoàn, trong họ đạo.
Có những lớp chuyên về giáo lý, có những lớp chuyên chăm lo những người già cả, có những nhóm chuyên về vấn đề hoà giải trong họ đạo, có những nhóm chuyên về vấn đề chia sẻ lời Chúa, có những nhóm chuyên về vấn đề tân tòng.
Nhìn chung, một cộng đoàn, với những dạng thực thi ơn gọi tông đồ như vậy, tôi có cảm tưởng là ở đó, có một bầu khí Hội Thánh hiệp thông, rất năng động, rất trẻ trung, đầy sức sống, chỗ nào cũng hoạt động, chỗ nào cũng Chúa Thánh Linh hướng dẫn, chỗ nào cũng tăng trưởng, chỗ nào cũng tươi tắn, chỗ nào cũng sáng tạo. Một Hội Thánh hiệp thông, chứ không phải, ở một vài nơi, khi tới, chỉ thấy có cha tông đồ mục vụ, còn tất cả đều là thụ động, đều là chậm rãi, đều là vâng lời. Cho nên, hướng đầu tiên tôi nhận thấy về ơn gọi tông đồ giáo dân hiện nay, là tích cực chia sẻ công việc mục vụ, và biến công việc của mình trở thành một dạng mục vụ.
Hướng thứ hai mà tôi nhận thấy về ơn gọi này, là làm cho người ta đưa vào Hội Thánh những cái gì hay, những cái gì tốt về những giá trị trần thế.
Những cái gì tốt, những cái gì hay về nghệ thuật kiến trúc, về nghệ thuật trang trí, về ca nhạc, về những khoa học, về nhân bản, đều được những người tông đồ giáo dân ở ngoài, đưa vào nhà thờ, đưa vào Thánh Lễ, đưa vào cộng đoàn, đưa vào chính bản thân mình, để khi nhìn vào một Thánh Lễ, một cộng đoàn, một nhà thờ, một người tín hữu, người ta có cảm tưởng có một cái gì có giá trị văn minh, có giá trị thời đại, dễ được cảm nhận, dễ được đón nhận.
Khi nhìn hướng đi này ở nhiều họ đạo, ở nhiều cộng đoàn, tôi cảm thấy một bầu khí tạo dựng của Chúa Thánh Linh, luôn có cái gì mới. Mà mới cái đó, không phải là tìm lại trong quá khứ, mà là cái gì mới trong tương lai. Nó báo hiệu cho tương lai. Nó là cái gì mới trong tương lai. Điều đó chứng tỏ Chúa Thánh Linh luôn tạo dựng, luôn làm nên cái gì mới.
Rồi hướng thứ ba của ơn gọi này là làm cho người ta tham gia tích cực vào những việc từ thiện. Chính ngày hôm nay, ngay lúc này, ở một hai địa điểm không xa đây, có một đoàn giáo dân từ thành phố Hồ Chí Minh xuống, gồm 20 người bác sĩ, y sĩ, nha sĩ. Tất cả đều tự nguyện để đến khám bệnh, để đến trị bệnh, để đến phát thuốc cho những người nghèo. Họ làm việc suốt hôm nay, suốt ngày mai. Chỉ vì động lực Tin Mừng.
Còn những người nghèo tại đó, cũng làm việc từ thiện bằng cách phục vụ những người đến đó, qua những việc nhỏ mọn của mình. Khi nhìn qua những ơn gọi này, ơn tham gia việc từ thiện, tôi thấy đúng là một bầu khí tình người, cởi mở, và rất Phúc Âm. Nó có một cái gì mới lạ ở trong Hội Thánh, làm cho những người chung quanh, có đạo, hay không có đạo, dân hay Chính Quyền, đều nhìn vào Hội Thánh, những người có đạo, với một cái nhìn thiện cảm, với một cái nhìn kính phục. Vì họ cho đó là những người mang lại Tin Mừng đích thực.
Rồi hướng thứ tư mà tôi nhìn thấy nơi ơn gọi này, là những người được ơn gọi này sớm chuyển giao Tin Mừng cho con người, trong những lãnh vực, mà Giám mục, linh mục chúng tôi, không thể tới được.
Cách đây hai ngày, tôi gặp hai vợ chồng trẻ, trí thức, từ nơi xa tới. Họ làm việc trong các công sở: Ngoại giao, Kinh tế và Văn hoá.
Qua trao đổi, tôi thấy rằng: Họ làm việc cho Hội Thánh hơn tôi nhiều, hơn các linh mục nhiều. Họ là những vợ chồng trẻ, có con, có việc làm. Nhưng họ làm việc cho Hội Thánh rất nhiều. Mà những việc đó, tôi không làm được, mặc dầu tôi là Giám mục.
Họ chuyển giao Tin Mừng vào những lãnh vực mà các vị có chức thánh không vào được.
Rồi hướng thứ năm mà tôi nhận thấy ở đây, đó là những người có ơn gọi này đã làm chứng cho Nước Trời trong đời thường của mình. Trong gia đình thìa họ sống nề nếp. Trong xón ngõ thì họ sống liên đới với những người xung quanh. Và trong xã hội họ có những đóng góp đáng kể, và đồng hành với đồng bào dân tộc.
Nhìn họ, tôi thấy họ là những người của gia đình Nagiarét. Họ là những người xây dựng Nước Trời một cách âm thầm.
Với những hướng trên đây, tôi thấy những người sống ơn gọi tông đồ bây giờ đang rất là mới, và đang được Chúa Thánh Linh biến đổi họ, thành những người cộng tác đắc lực cho Chúa Kitô, Đấng đã nói: “Tôi đến là để mang sự sống đến, và sự sống ấy dồi dào phong phú hơn.
Mà đúng như vậy. Những người mà tôi gặp đó, bao giờ cũng mang sự sống đến. ở đâu có họ, ở đấy có thêm sự sống. ở đâu có những nhóm nhỏ đó, ở đấy có thêm sự sống, sự sống tự nhiên về nhân bản, về trí thức, về khoa học.
Rồi sự sống siêu nhiên, về Tin, Cậy, Mến, họ cũng đem sự sống đến. Tức là họ trở thành những dụng cụ chuyên chở sự sống của Đức Kitô. “Tôi đến, để mang sự sống đến, và sự sống của tôi thì dồi dào hơn trước”.
Những nhận xét trên đây mà tôi chia sẻ với anh chị em giúp chúng ta nhìn thấy việc Chúa Thánh Linh đang làm việc trong Hội Thánh Việt Nam nói chung, và ở tại Long Xuyên nói riêng.
Khi mà chúng ta nhận thấy rằng: Chúa đang làm việc qua những ơn gọi đó. Chúng ta hãy biết cảm tạ Chúa, và chúng ta hãy biết đi vào hướng đó. Theo tôi, đó là hướng của thời đại bây giờ. Khi mà các ơn kêu gọi đi tu làm linh mục có giảm sút, thì những ơn gọi làm tông đồ giữa đời lại tăng lên. Và tôi nghĩ rằng: Đúng như vậy. Tôi nghĩ rằng: Chúa muốn dùng chính cái ơn gọi làm tông đồ giữa đời, như một dấu chỉ thích hợp nhất, để mở Nước Chúa trong thời điểm bây giờ, một thời điểm ham phát triển về những giá trị trần thế, nhân bản, khoa học, kinh tế, xã hội. Tôi rất vui mừng nhận thấy là tu hội Thánh Gia của chúng ta đã đi vào những hướng đó và đang phát triển những hướng đó.
Tôi cầu chúc làm sao để việc mà chúng ta đi vào hướng đó, sẽ giúp cho những người chung quanh đón nhận được sự sống mới. Và chính chúng ta, là những người đầu tiên, phải có sự sống mới đó, sự sống của Đức Kitô, sự sống của Đấng đã sống lại, sự sống của Đấng ở Nagiarét âm thầm, khiêm tốn, chan hoà, va luôn luôn đồng hành với xã hội mình đang sống.
Xin Thánh Gia giúp chúng ta đi vào những dấu chỉ của thời đại mà Chúa đang tỏ cho chúng ta. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay vừa kể câu chuyện: Các tông đồ cùng Đức Kitô ngồi trên một chiếc ghe, vượt qua biển hồ sang bờ bên kia. Trong đêm tối bỗng bão nổi lên, mưa to đổ xuống, và các tông đồ đã sợ hãi, nhưng Đức Kitô đã trách: Tại sao chúng con sợ, chúng con không có đức tin sao?
Khi nghe câu chuyện này, tôi tự nhiên nghĩ ngay đến thân phận của tôi, và cũng có thể là thân phận của mỗi người anh chị em. Tôi coi thân phận của mình như một người đang vượt biển hồ, biển hồ trần thế, để về nước Chúa. Có những lúc, tôi cảm thấy như có gió bão lớn nổi dậy, mưa to đổ xuống. Mưa bão đó là những gì có khả năng lôi kéo mình đi xa ơn Chúa. Mưa bão đó là những gì có sức nhận chìm đức tin, đức cậy, đức mến của mình. Mưa bão đó là những gì có thể lật đổ kho tàng ơn thánh trong lòng mình, nhất là lật đổ niềm tin của mình.
Nhiều khi mưa bão thiêng liêng đó nhẹ thôi, nhưng cũng có lần mưa bão đó rất mạnh, cũng có khi mưa bão ấy chỉ dài một buổi, một ngày, mà cũng có khi mưa bão đó kéo dài từng tuần, từng tháng, từng năm, không ngừng.
Trong tình hình như vậy, tôi cũng đã nhìn về Đức Kitô. Tôi kêu cầu Ngài, xin thương đến tôi, xin Ngài nói một lời cho bão tố ngưng lại. Nhưng tôi đã thấy: Có lúc bão tố thiêng liêng đã ngưng, nhưng rất nhiều lần bão tố không ngưng. Trong trường hợp bi đát này, tôi hỏi Chúa: Lạy Chúa, Chúa dạy con kêu cầu Chúa, để xin Chúa làm cho biển lặng, sóng ngừng, nhưng tại sao con cầu xin Chúa, con tin vào Chúa mà con vẫn cảm thấy những đợt sóng sợ hãi, những đợt sóng chán chường, những đợt sóng thất vọng, cứ tràn vào tâm hồn con mãi thế này, tại sao như vậy?
Chúa trả lời tôi, bằng cách đem trí khôn của tôi nghĩ đến trường hợp của chính Đức Kitô, đã chịu thử thách trong vườn cây dầu, đêm thứ năm Tuần Thánh.
Đêm đó, ở vườn cây dầu, Đức Kitô cũng như một chiếc thuyền bị thử thách trên biển hồ, bị bão táp. Ngài nhìn thấy cảnh đời bội bạc. Ngài nhìn thấy cảnh Ngài sẽ bị bắt bớ, bị khinh chê, bị kết án, bị tử hình, bị loại trừ. Ngài cảm thấy tâm hồn mình sợ hãi. Ngài cảm thấy những đợt sóng vô hình, tràn vào tâm hồn, vùi dập tâm hồn, sợ hãi, sợ hãi đến nỗi đổ mồ hôi máu ra. Ngài cầu xin Chúa Cha cất gánh nặng sợ hãi cho Ngài, nhưng không được như Ngài muốn. Sau cùng, Ngài chỉ nói: Xin vâng phục thánh ý Cha. Ngài phó thác trong tay thánh ý Chúa Cha, mặc dầu, Ngài vẫn cảm thấy những đợt sóng sợ hãi, vùi dập tâm hồn mình.
Qua sự kiện trên đây, Chúa cho tôi hiểu: Lời trách mà Chúa nhắm vào các tông đồ hôm nay, không phải vì các tông đồ sợ hãi, cho bằng vì các tông đồ thiếu niềm tin. Chính vì thiếu niềm tin, nên Đức Kitô mới trách các tông đồ, chứ không phải vì cảm thấy sợ hãi mà Đức Kitô coi đó là một sự lỗi phạm. Bởi vì, chính Đức Kitô cũng đã rất sợ hãi trước những cảnh bạc bẽo, những tuyệt vọng xảy đến cho Ngài.
Qua những chia sẻ trên đây, tôi muốn nói với anh chị em điều này, là điều chúng ta cần phải nhìn lại trong năm vừa qua, đó là ơn đức tin. Chúng ta thử hỏi mình xem, 12 tháng đã trôi qua, đức tin trong chúng ta đã sống thế nào? Đức tin ấy có thôi thúc chúng ta phó thác mình cho Chúa không? Khi ta gặp vui, ta có cảm tạ Chúa không? Khi ta gặp buồn, lo âu, sợ hãi, ta có biết vì đức tin mà phó thác nơi Chúa giàu lòng thương xót không?
Từ nãy đến giờ, tôi để ý quan sát tình hình họ đạo. Tôi thấy anh chị em có một đức tin sâu xa. Chính đức tin ấy, đã giúp anh chị em trung thành với tiếng gọi của phép Rửa, của phép Thêm Sức, và đã giúp cho anh chị em biết phát triển về tinh thần, về vật chất, về sinh hoạt xã hội, về sinh hoạt tôn giáo, về xây dựng con người, về xây dựng cơ sở. Tôi cũng đã rất biết: Anh chị em trên con đường phát triển vì đức tin, cũng đã gặp nhiều thử thách, cũng đã gặp nhiều sợ hãi, cũng đã gặp nhiều bơ vơ, nhưng anh chị em cũng đã biết tin, phó thác nơi Chúa. Tôi nghĩ rằng: Một ngày cuối năm, nếu có gì cần cảm tạ Chúa hơn hết, thì đó là cảm tạ về ơn đức tin. Nhờ đức tin mà chúng ta gặp nhau hôm nay. Nhờ đức tin mà chúng ta mới có được một chỗ đứng, một ngày vui và một tương lai hứa hẹn như hôm nay.
Lúc nãy, khi tiến vào nhà Chúa, anh chị em đã hát “đi về nhà Chúa”. Tôi cũng đã nói với Chúa rằng: Chúng con đi về nhà Chúa trong niềm cảm tạ. Chúng con không có gì để cảm tạ cả. Chúng con chỉ biết đi từng bước nhỏ như cuộc rước hôm nay. Đi từng bước nhỏ, nhưng mỗi bước nhỏ của chúng con, nặng tình mến Chúa yêu người. Mỗi một bước nhỏ có một bề dày tình yêu, yêu Thiên Chúa tình yêu hết sức mình, yêu tha nhân bên cạnh mình hết sức mình, tha thứ, phục vụ lẫn nhau. Và trong từng bước đi về nhà Chúa như vậy, tôi vẫn nói với Chúa, con cảm tạ Chúa vì Hội Thánh của con.
Sở dĩ con có được một bước đi như vậy, trong đức tin, nhờ đức tin, cũng vì Hội Thánh của con. Hội Thánh là họ đạo. Hội Thánh là địa phận. Hội Thánh là Hội Thánh toàn cầu. Hội Thánh là cảnh phượng tự hôm nay, có đoàn chiên, có chủ chiên, có tất cả các tầng lớp. Chúng ta hiệp thông với nhau và chính sự hiệp thông ấy, làm cho đức tin của chúng ta được vững mạnh. Xin cảm tạ Chúa vì ơn đức tin. Xin cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta ở trong Hội Thánh, đã ban ơn đức tin, nuôi dưỡng đức tin, và phát triển đức tin cho chúng ta.
Trong tinh thần này, xin anh chị em giờ đây, cầu nguyện sốt sắng cho con em mình, để sau này, nếu có gì được để lại cho con em gọi là cái quà đầu xuân quý báu, thì đó là ơn đức tin. Đức tin sẽ giúp cho con em chúng ta, vượt qua được những mưa bão trần gian xảy tới bất ngờ, giúp cho con em chúng ta tới nước thiên đàng, tới hạnh phúc bên quê trời. Amen.
Cách đây mấy ngày, tại Paris, tôi được mời chủ toạ một thánh lễ đồng tế: 08-02-1996 Bùi-Tuần 548
Tĩnh tâm linh mục Long Xuyên-
Cách đây mấy ngày, tại Paris, tôi được mời chủ toạ một thánh lễ đồng tế có chín cộng đoàn nhỏ tham dự. Bài Phúc Âm thánh lễ hôm đó cũng là bài Phúc Âm thánh lễ hôm nay. Chủ đề là: “Hãy trở nên như muối”.
Sau khi nghe bài Phúc Âm xong, chừng hơn chục người đã đứng lên chia sẻ. Có một chia sẻ đã kéo chú ý của tôi. Một người cha gia đình đã chia sẻ đại khái thế này: Lời Chúa hôm nay nói về muối dạy tôi điều tôi phải làm, và cách tôi phải làm. Điều tôi phải làm là hãy yêu thương đến cùng, như muối phục vụ đồ ăn, đến mức độ chịu hy sinh, tan mình ra. Cách tôi phải làm là hãy phục vụ một cách khiêm nhường, như muối lặng lẽ tan ra thấm vào đồ ăn.
Chia sẻ trên đây đã gây cho tôi xúc động mạnh và ấn tượng khác thường. Nó như một giải đáp Chúa gửi cho tôi, đang khi tôi đi tìm. Bởi vì trong suốt cuộc hành trình vừa qua, tôi luôn thao thức với câu hỏi:
Trong một thế giới đầy tục hoá, đầy tranh chấp, đầy hưởng thụ này, tôi phải làm gì trong mục vụ, trong truyền giáo, trong đời thường làm chứng cho Đức Kitô? Nay Chúa dạy tôi: Điều phải làm là việc làm của trái tim. Như lời Đức Kitô đã dạy: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Yêu thương là phục vụ, là thăng tiến, là tha thứ, là xót thương, đến mức độ hy sinh từ bỏ mình.
Và giữa một nhân loại thích phô trương, ưa chỉ trích, tôi phải làm mục vụ, truyền giáo, chứng nhân đức tin bằng cách nào thích hợp nhất? Nay Chúa dạy tôi: cách làm thích hợp nhất là cách khiêm nhường. Như lời Đức Kitô đã dạy: “Hãy cầu nguyện, ăn chay và bố thí một cách kín đáo”.
Điều mà tôi suy nghĩ trên đây trong mấy ngày qua đang trở thành một xác tín. Bởi vì giờ đây, ngay trước mặt tôi, trong thánh lễ đồng tế này, tôi đang thấy nhiều gương sáng, khiến tôi thêm tâm tình tạ ơn Chúa.
Tôi thấy nhiều giáo dân, nhiều linh mục, nhất là những linh mục cao niên, bệnh tật, đặc biệt là Đức Cha già Micae, đang phục vụ cộng đoàn chúng ta, không phải bằng những hoạt động ồn ào lớn lao, nhưng bằng chính trái tim của mình, dạt dào yêu thương, hiền lành và khiêm tốn.
Vì thế, tôi nghĩ rằng, việc quan trọng nhất chúng tôi cần phải làm trong tuần tĩnh tâm là đổi mới tâm hồn, từ đó sẽ phát xuất những thái độ mới, những cách sống mới, những dấn thân mới.
Thái độ tâm hồn, đó là điều Đức Kitô hay nhắc tới trong chương trình đào tạo môn đệ. Thí dụ, khi Người dạy: Đừng xét đoán, kẻo sẽ bị xét đoán, thì đó là Người đào tạo thái độ tâm hồn. Rồi thí dụ, khi Người dạy: Hãy vứt bỏ cái xà trong mắt mình đi hơn là lo tố cáo cái rác trong mắt người khác, thì đó là Người đào tạo thái độ tâm hồn. Rồi thí dụ, khi Người dạy: Nếu trước bàn thờ thấy ai còn bất hoà với mình thì hãy bỏ của lễ đó, về làm hoà với người ta trước đã, rồi sẽ trở lại dâng lễ sau, thì đó là Người đào tạo thái độ tâm hồn.
Thời nay, nhiều người dấn thân vào các hoạt động xã hội, tôn giáo, nhưng chẳng may lại thiếu thái độ tâm hồn hợp với tinh thần Đức Kitô, nên vẫn không có sức cứu độ, để biến đổi được lòng người và xã hội.
Đổi mới tâm hồn, đào tạo thái độ tâm hồn, sao cho đúng tinh thần Đức Kitô, đó là việc rất cần, nhưng rất khó. Tuy nhiên, nhiều người đã làm được, nhờ sức mạnh của Đức Kitô phục sinh. Đức Kitô đã thắng sự chết. Người cũng đã thắng các loại sự chết trong tâm hồn bao người và làm cho họ nên mới.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã và đang dành cho các linh mục ơn đổi mới tâm hồn, đổi mới thái độ và cách sống. Chúng ta nghĩ đến cách riêng các linh mục mừng 60 năm linh mục và 25 năm linh mục. Theo tôi, thành tích đáng mừng nhất của đời linh mục là thường xuyên đổi mới tâm hồn mình và thường xuyên đào tạo những thái độ tâm hồn của cộng đoàn của mình, sao cho hợp với tâm tình Đức Kitô.
Chỉ với những việc làm như thế, chúng ta mới thực sự làm chứng cho Đức Kitô, là Tin Mừng đích thực và cũng là Nước Trời đích thực của chúng ta, một Đức Kitô mà ta gặp gỡ trong sự thâm mật của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi đời đời. Amen.
Tĩnh tâm linh mục, ngày 08-02-1996, tại Long Xuyên.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong những ngày cuối năm, mỗi người chúng ta đều được Chúa kêu mời hãy nhìn lại chính mình trong thời gian một năm qua, và hãy tự đánh giá chính mình.
Nhìn thấy rõ hình ảnh của mình, đó là công việc không dễ. Đánh giá chính mình, đó là công việc càng không dễ. Vì thế, để giúp cho chúng ta biết nhìn rõ chính mình và đánh giá chính mình, tôi đã tâm sự với Chúa Giêsu. Tôi hỏi Người xem: Khi Người nhìn chúng ta thì Người nhìn lãnh vực nào hơn hết, và khi Người đánh giá mỗi người chúng ta thì Người đánh giá theo yếu tố nào hơn hết. Trong Phúc Âm và qua Phúc Âm Chúa đã trả lời tôi: Khi Chúa nhìn một người thì Chúa nhìn trên lãnh vực việc làm là quan trọng hơn hết, và khi Chúa đánh giá một người thì Chúa căn cứ vào việc làm như là một tiêu chuẩn quan trọng hơn hết. Việc làm chớ không phải lý thuyết, đó là điều Chúa nhắn nhủ chúng ta khi chúng ta kiểm điểm lại chính mình.
Quan điểm trên đây, quan điểm nhấn mạnh đến việc làm, việc làm đúng, việc làm tốt là quan điểm rất rõ ràng trong Phúc Âm. Thí dụ như lời Chúa phán: “Ai nghe lời Ta mà tuân giữ lời Ta, thì giống như người xây nhà trên núi. Dù mưa lụt gió lớn, nhà đó sẽ vững vàng. Còn trái lại, người nào nghe lời Ta, hiểu lời Ta nhưng không làm theo lời Ta, thì giống như người xây nhà trên cát, sớm muộn cũng đổ thôi”. Chúa nhấn mạnh đến việc làm, đến thực hành, chớ không phải lý thuyết.
Rồi nơi khác Chúa nói: “Không phải ai tuyên xưng: Lạy Chúa, lạy Chúa Trời tôi, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng chỉ ai thực hiện lời Chúa dạy sẽ được vào Nước Trời”. Nghĩa là Chúa nhấn mạnh đến việc làm.
Nơi khác Chúa nói: “Ai tiếp nhận một đứa nhỏ, người hèn yếu nhất trong các con là tiếp nhận Cha”. Tiếp nhận đó là việc làm. Nghĩa là Chúa nhấn mạnh đến việc làm.
Rồi nhất là ngày phán xét, Chúa nhấn mạnh đến việc làm: “Khi Ta đói, ai đã cho ăn; khi Ta khát, ai đã cho Ta uống. Những người đó hãy lên trời với Ta. Còn khi Ta đói, ai đã không cho Ta ăn, khi Ta khát ai đã không cho Ta uống. Những người đó sẽ phải xuống hoả ngục”. Nghĩa là Chúa nhấn mạnh đến việc làm.
Như vậy rất rõ, quan điểm của Chúa khi nhìn đến một người, đánh giá một người, là để ý đến lãnh vực hành động, là để ý đến việc làm cụ thể.
Rồi khi đưa ra hình ảnh người mục tử, Chúa Giêsu cũng đưa ra những việc làm. Hơn một tuần nay tôi để ý đến hình ảnh người mục tử của Chúa Giêsu qua Phúc Âm. Ngày thứ hai vừa rồi, Phúc Âm nói đến việc Chúa Giêsu tranh luận với những người biệt phái; Phúc Âm ngày thứ ba tả việc Chúa Giêsu hội nhóm nhỏ mười hai để đào luyện việc làm; Phúc Âm ngày thứ tư thì kể việc Chúa chữa bệnh, đi thăm những bệnh nhân. Đó là những việc làm. Rồi tiếp đó, hôm qua, Chúa đi vào các làng mạc, các xóm nhỏ để thăm người ta. Đó là những việc làm. Còn hôm nay, Phúc Âm nói đến việc Chúa qui tụ dân chúng lại. Đó cũng là việc làm. Chúa nhấn mạnh đến việc phải làm. Hình ảnh của một người theo Chúa, hình ảnh của một người môn đệ Chúa là hình ảnh người làm những việc làm tốt.
Qua những lời tôi vừa gợi ý trên đây, anh chị em đã thấy chúng ta phải đánh giá chúng ta trong năm qua bằng những việc chúng ta đã làm. Việc tốt, việc bổn phận, việc cho Chúa, việc cho người khác. Riêng trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa dạy chúng ta làm một việc, mà lát nữa trong kinh Tin Kính chúng ta sẽ tuyên xưng, đó là việc chúng ta phải theo Đức Kitô, phải theo đến cùng, phải theo một cách dứt khoát, dù phải từ bỏ, dù phải vác thánh giá mình, dù bị người ta chê cười, dù phải hy sinh mạng sống. Tất cả chỉ vì coi Đức Kitô là cùng đích, là hạnh phúc, là lẽ sống của mình.
Lúc nãy, ông đại diện giáo dân đã cám ơn cha sở và những người cộng tác với cha sở, vì đã giúp cho con em trong họ đạo hiểu biết giáo lý. Đó cũng là tốt thôi. Nhưng hiểu biết mà thôi không đủ, cái quan trọng là việc làm, là thực hành điều mình hiểu. Chúa nhấn mạnh đến việc làm và phán xét qua việc làm. Chúa đánh giá qua việc làm, chớ không phải đánh giá qua lý thuyết, những gì chúng ta hiểu.
Trong thánh lễ hôm nay chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta, nhất là con em chúng ta được biết làm những việc làm tốt và thực hiện lời Chúa. Chúng ta cũng tạ ơn Chúa vì trong một năm qua chúng ta đã cố gắng làm tốt những điều Chúa dạy.
Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta biết thực hiện những điều Chúa dạy chúng ta trong thánh lễ hôm nay. Amen.
Lễ Thêm Sức, ngày 16-02-1996, tại Ông Chưởng
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Hôm nay là ngày của tuần lễ cuối cùng trong năm, tôi muốn nhân dịp này tâm sự với anh chị em về việc xây dựng Hội Thánh trong một họ đạo, trong một giáo hạt, trong một địa phận. Nhiều người nghĩ rằng để xây dựng Hội Thánh, việc cần hơn cả là xây dựng thánh đường, tổ chức các hội đoàn. Tôi nghĩ những việc đó cũng quan trọng nhưng không phải là việc cần thiết nhất. Mở Phúc Âm ra, nhất là Phúc Âm Thánh Matthêu, tôi thấy Đức Kitô xây dựng Hội Thánh bằng những yếu tố con người. Người để ý đến những thái độ tâm hồn sau đây, Người dùng những tâm hồn đó để xây dựng Hội thánh:
Thái độ thứ nhất đó là thái độ bé nhỏ. Người nói: “Nếu các con không trở nên giống như trẻ nhỏ, các con sẽ không vào được Nước Trời”. Để xây dựng Hội Thánh, Đức Kitô đòi mỗi người chúng ta dù ở chức vị nào, Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân, mọi người đều phải giống như trẻ nhỏ. Tức là phải nhận biết mình nghèo nàn, hèn mọn trước mặt Chúa, và coi nhau như anh em cùng một Cha trên trời, biết cần đến mọi người và biết phục vụ mọi người.
Thái độ thứ hai là thái độ đón nhận. Đức Kitô dạy: “Ai đón nhận kẻ rốt hết đó là đón nhận chính Ta”. Với lời đó, Chúa dạy chúng ta phải biết đón nhận nhau, chấp nhận nhau và đặc biệt phải biết đón nhận những kẻ nghèo hèn, những kẻ yếu đuối, những kẻ dốt nát, những kẻ bị cuộc đời bỏ rơi. Giống như Cha trên trời, yêu thương tất cả, đón nhận tất cả.
Thái độ thứ ba là thái độ tìm kiếm. Đức Kitô nói đến đàn chiên 100 con, nếu chỉ một con đi lạc cũng phải tìm nó trở về, khi đã thấy nó, phải vác nó trên vai, về ăn mừng. Chúa quả quyết, tất cả trên trời đều vui mừng vì có một người đi lạc đã trở về. Đó là thái độ của một người cha giàu lòng thương xót đi tìm con của mình đi lạc.
Thái độ thứ bốn là thái độ sửa lỗi. Đức Kitô dạy: “Nếu trong cộng đoàn có ai sai lỗi thì bắt đầu phải sửa lỗi nhau kín đáo, rồi sao đó sửa nhau trong nhóm. Sau cùng mới đưa ra công khai trong cộng đoàn, nhưng luôn luôn với lòng kính trọng và tế nhị”. Cũng như Đức Kitô bây giờ đây đang nhìn thấy chúng ta, người lỗi này, người tội khác. Nhưng Đức Kitô rất tế nhị, rất kính trọng chúng ta, không làm mất thanh danh chúng ta.
Rồi thái độ thứ năm là thái độ tha thứ. Đức Kitô luôn luôn nhắc đến sự tha thứ: “Khi đến dâng lễ chợt nhớ mình còn bất hoà với ai, hãy trở về làm hoà rồi đến dâng lễ sau”. Không phải tha thứ mỗi ngày bảy lần, mà bảy mươi lần bảy. Nghĩa là vẫn thương xót tha thứ. Đó chính là thái độ xót thương, bao dung của Cha trên trời.
Và sau cùng là thái độ cầu nguyện chung. Đức Kitô nói: “Nếu trong anh chị em có hai người họp nhau cùng cầu nguyện thì Cha ở giữa các con”. Và Chúa hứa: “Cha sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa thương xót những người cậy tin vào Chúa. Và như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, Chúa hứa với những người quyết tâm theo Đức Kitô, chọn Đức Kitô là đường, nhận Đức Kitô là sự sống, là Đấng cứu độ, và dấn thân tuyệt đối cho Đức Kitô, thì những kẻ đó sẽ được Chúa đưa vào Nước Trời.
Với sáu thái độ trên đây, Chúa xây dựng Hội Thánh. Chúa dùng những tâm hồn đó như những dụng cụ để xây dựng Hội Thánh. Chúa dùng những chiều sâu ấy như những dây để ràng buộc Hội Thánh cho bền vững. Tôi nghĩ rằng một họ đạo, một giáo phận cho dù có tự do, cho dù có quyền lực, cho dù có của cải, nhưng nếu thiếu những tâm hồn có chiều sâu và những thái độ tôi vừa kể, thì Hội Thánh được xây dựng sẽ vẫn mong manh. Trái lại, dù ở một địa phương nào thiếu tự do, thiếu tiền bạc, thiếu tổ chức, nhưng nếu Hội Thánh có những tâm hồn mang chiều sâu và những thái độ như tôi vừa nói: bé nhỏ, đón nhận, tha thứ, đi tìm kiếm, cầu nguyện thì Hội Thánh đó sẽ vững bền.
ở trước mặt tôi đây, tôi đang nhìn thấy không những các em sắp chịu phép Thêm Sức, mà tất cả cộng đoàn chúng ta. Chúng ta tất cả là những người rất bé mọn trước mặt Chúa, là những người được Chúa đón nhận, mặc dầu chúng ta yếu đuối lỗi lầm. Chúng ta là những người Chúa đi tìm về, vì nhiều lần chúng ta đã lạc lối. Chúng ta là những người đã được Chúa sửa lỗi bằng những tế nhị, bằng những kính trọng. Chúng ta là những người được Chúa thứ tha rất nhiều lần. Chúng ta là những người được cộng đoàn cầu nguyện cho. Chúng ta hôm nay đã biết nhìn nhau như là những công trình của Chúa. Tôi nghĩ rằng Hội Thánh được xây dựng bởi những tâm hồn bé nhỏ, bởi những người yếu đuối được trở lại, bởi những người làm chứng về sự Chúa yêu thương mình mặc dầu mình không xứng đáng. Đấy mới là những người cộng tác với Chúa để xây dựng Hội Thánh tại một họ đạo, tại một địa phận, tại một Giáo Hội địa phương.
Trong thánh lễ này, chúng ta tạ ơn Chúa vì Chúa đã dùng chúng ta, những người tội lỗi, những người trở lại, những người yếu đuối như là những dụng cụ để xây dựng Hội Thánh và chúng ta quyết tâm trung thành với lời hứa và lời kêu gọi của Chúa. Amen.