Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;
2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, Cha Mễn kể chuyện, hoặc linh mục Mễn
3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com
5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
"Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Lúc Mẹ Têrêsa Calcutta ở nước Úc, một hôm Mẹ đến thăm một người nghèo già không ai biết tới.
Căn phòng của ông dơ bẩn, đồ đạc ngổn ngang, lại không cửa sổ, không một bóng đèn.
Mẹ bắt tay vào dọn dẹp, nhưng ông quát lên: "Cứ để yên mọi thứ cho tôi!"
Nhưng Mẹ vẫn tiếp tục dọn dẹp. Khi mọi thứ đã vào ngăn nắp, thì bỗng Mẹ tim thấy một cây đèn dầu ở góc phòng, phù đầy bụi bặm.
Mẹ hỏi: "Hình như đã lâu lắm rồi ông không thấp đèn?"
- "Thắp làm chi? Có ai tới thăm tôi đâu!"
- "Nếu sau này, khi các nữ tu của tôi tới thăm ông, thì ông hứa sẽ thắp đèn lên nhé!"
Ông trả lời cởi mở hơn: "Vâng, tôi sẽ làm như vậy!"
Sau đó, mỗi ngày, các nữ tu đều tới chăm sóc cho ông...
Một hôm ông nói với một chị em: "Bây giờ tôi biết tự dọn dẹp cho mình rồi. Cám ơn các cô. Các cô làm ơn nói lại với Bà nữ tu đầu tiên rằng: Ngọn đèn, mà bà đã thắp lên, nay vẫn tỏa sáng." (Trích "Sợi chỉ đỏ")...
*****
Qua câu chuyện này, ta thấy Mẹ Têrêsa đã thắp lên ngọn đèn dầu cho ông già nghèo. Điều đó đã không vô ích.
Chúa Giêsu muốn thắp lên ngọn đèn tâm hồn trong ta, ta có muốn nó luôn sáng không?
Đây là đề tài chúng ta sẽ cùng nhau suy niệm theo Tin Mừng hôm nay (Mc 1, 14-20).
a. Bài Tin mừng hôm nay có hai vấn nạn ta cần tìm hiểu:
Một: Chúa Giêsu kêu gọi: "Hãy theo Thầy".
Chính khi Chúa kêu gọi, là Người muốn thắp lên ngọn đèn trong tâm hồn chúng ta...
Trong những ngày đầu tiên ra đi rao giảng, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người, khi nói:
"Nước Thiên Chúa đang đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Đangđi dọc theo bờ biển, Chúa thấy hai anh em ông Simon đang thả lưới xuống biển; Chúa gọi họ: "hãy theo Ta...."
Lập tức, họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn gieo vào tâm hồn các môn đệ niềm tin đầu tiên, cũng là hình ảnh Chúa thắp lên trong tâm hồn ngọn đèn niềm tin.
Đó cũng chính là hình ảnh Mẹ Têrêsa thắp lên cho ông già nghèo bị bỏ rơi, ánh đèn dầu, ánh đèn mà bao lâu nay chính ông không buồn thắp lên, cũng không được ai thắp lên cả. Ông hầu như đã bị mất niềm tin nơi mọi người, như hình ảnh cây đèn bị bỏ xó, không ai quan tâm tới nữa. Ông cũng không hi vọng ngọn đèn của mình được sáng lên.
Hai: Các môn đệ bỏ hết mọi sự mà theo Chúa:
Khi bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, chính là các môn đệ muốn giữ chiếc đèn tâm hồn của mình, đã được Chúa thắp lên, để nó được sáng luôn mãi, không tắt nữa.
Thái độ của các môn đệ sẵn sàng bỏ hết mọi sự để theo Chúa, cũng nói lên thái độ tích cực của mình, sẵn sàng theo Chúa, sẵn sàng từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình để nghe lời Chúa, sẵn sàng giữ gìn ngọn đèn cho nó luôn tỏa sáng, như câu chuyện ông già nghèo sẵn sàng nghe lời Mẹ Têrêsa Calcutta, giữ ngọn đèn dầu sáng lên mỗi khi chị em tới thăm.
Chúa Giêsu có nói: Hứa sẽ biến họ thành kẻ lưới người ta nữa, chứ không chỉ là người chài cá.
Lúc đó, các môn đệ có thể chẳng hiểu bao nhiêu.
Ở đây ta chỉ nói đến thái độ sẵn sàng, thái độ của lòng tin.
Chính Chúa là Đấng thắp lên trong họ ngọn đèn lòng tin;
Còn phần họ, họ phải sẵn sàng gìn giữ cho ngọn đèn lòng tin được tỏa sáng...
b. Câu chuyện về Đức Tổng Giám mục Helder Camara của Brasil kể rằng:
"Anh ruột của tôi có rửa tội hồi nhỏ. Lớn lên học trường dòng, nhưng rồi lôi thôi; sau đó lại bỏ đạo luôn.
Sau khi tôi làm linh mục, anh về sống chung với tôi. Mỗi lần tôi đi giảng tỉnh tâm, anh thường hỏi:
Hôm nay, chú sẽ nói về cái gì?
Tôi giải thích cho anh nghe bài giảng của mình.
Tám năm sau, anh bị bệnh hiểm nghèo sắp chết. Biết mình không sống được nữa, anh gọi tôi tới:
Tôi thấy nơi chú, giữa bài giảng và việc làm của chú không có sự cách biệt. Vậy tôi có thể dựa vào lòng tin của chú, mà rước lễ được không?
Tôi nói: Em tin lòng thương xót của Chúa sẽ tha thứ cho anh.
- Nhưng tôi chưa đi xưng tội?
Tôi định tìm một linh mục cho anh, nhưng anh xin xưng tội với tôi...
Sau khi rước lễ xong, anh thều thào: Bây giờ tôi tin Chúa, không phải dựa vào lòng tin của chú, mà thực sự tôi xác tín Chúa thương tôi... Sau đó, anh đã chết cách bình an. (Vietcatholic news 12. 2007).
Đức TGM Brasil đã nói với người anh của mình: "Hãy theo Chúa".
Ngài không nói bằng lời, nhưng nói bằng chính cách sống của mình.
Anh của Ngài đã tin, người anh đã muốn giữ ngọn đèn, mà em của ông thắp lên trong tâm hồn của mình;
Chính vì lẽ đó, mà trong giờ phút cuối cùng, ông đã ăn năn trở lại và đã chết bình an, nghĩa là ông giữ cho chiếc đèn tâm hồn, mà em ông thắp sáng lên, không hề tắt nữa.
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
Câu chuyện trên quá đẹp. Nhưng nó sẽ còn đẹp hơn nhiều, nếu mỗi người kitô hữu chúng ta biết để Chúa Kitô thắp chiếc đèn tâm hồn cho mình, nghĩa là mình sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi: "Hãy theo Thầy".
Ta có nghĩ rằng Chúa Kitô muốn nói với ta: "Hãy theo Thầy".
Ta tin, nhưng ta có sẵn sàng bỏ hết mọi sự mà theo Chúa không?
Lạy Chúa, xin chỉ bảo cho chúng con biết đường lối của Chúa. Xin cho chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa và nhất là biết can đảm, anh dũng dấn thân sống Lời Chúa, để chúng con cũng được Chúa chúc phúc như chính Chúa đã kín đáo chúc khen Mẹ Chúa: "Hạnh phúc hơn nữa cho những ai biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa" (Lc 11:28). Amen.
Khổng Tử có một người cháu tên là Khổng Liệt và một người học trò tên là Bật Thứ Thiên, cả hai ra làm quan cùng một thời.
Một hôm Khổng Tử hỏi người cháu:
- Từ khi ra làm quan đến giờ, ngươi đã được điều gì và mất điều gì?
Khổng Liệt trả lời:
- Từ khi làm quan, tôi chưa được điều gì, mà đã mất ba điều:
+ không có giờ học tập vì thế trình độ vẫn thấp, + lương bổng không đủ giúp người thân, + công việc bề bộn nên không có giờ thăm viếng bạn bè.
Nghe thế, Khổng Tử rất buồn lòng.
Một ngày nọ, Khổng Tử cũng hỏi Bật Thứ Thiên cùng một câu như đã hỏi Khổng Liệt, Bật Thứ Thiên đáp:
- Từ khi ra làm quan, tôi chưa mất điều gì, mà đã được ba điều:
+ Những điều đã học nay đem ra thực hành, vì thế việc học được rõ ràng thêm; + lương bổng tuy ít, nhưng cũng có thể giúp người thân phần nào, do đó mà thân thiện hơn; + công việc tuy nhiều, những cũng bớt chút thời giờ, thăm bạn bè, khiến tình bạn càng thân thiết.
Câu trả lời của Bật Thứ Thiên được Khổng Tử khen là chí lý và thực là câu trả lời của người quân tử.
*****
Câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay (Marcô 3,31-35), thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm, là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình.
Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy".
Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói:
"Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa,người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta".
Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ.
Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.
Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu, trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta luôn biết sống theo thánh ý Chúa, để chúng ta được nối kết trong tình nghĩa với Chúa, với Mẹ và với tất cả mọi người.
Lạy Chúa, xin dạy con biết nhận ra Chúa trong mọi sự và biết nhìn mọi sự trong Chúa, để con xứng đáng là anh em chị em với Chúa. Amen.
Đây là câu chuyện của một linh hồn hiện về từ Lửa Luyện Tội, xin cống hiến bạn đọc, vì Lửa Luyện Tội là có thật.
Bây giờ kính mời bạn đọc theo dõi câu chuyện sau đây:
“Đó là ngày Thứ Hai, năm 1996, trước lễ Noel. Tôi đang ngồi tại văn phòng, soạn lại xấp báo cáo, chợt nhớ ra phải đi xưng tội. Có lẽ đã hơn một tháng rồi tôi chưa tới tòa giải tội. Tôi bắt đầu xét mình và tự hỏi sao kỳ này lại để lâu quá như vậy, vì càng để lâu thì lại càng ngại ngùng và càng khó khăn hơn.
Tôi lấy viết ghi lại những tội đã phạm và coi đi lại co lại vài lần, xem có quên hay bỏ xót tội nào không?
Tôi lái xe tới thánh đường gần đó. Đậu xe ở bãi xe và bước vô nhà thờ, nhưng thật ngạc nhiên khi chỉ thấy chỉ có chừng 25 người ngồi chờ xưng tội mà thôi. Tôi kiếm một chỗ ngồi ở đàng sau và bắt đầu đọc Kinh Ăn Tội. Bất chợt một người đàn ông chạc 70 tuổi đang ngồi trong góc đối diện bật tiếng khóc thật lớn. Tôi nghĩ, chắc có điều gì đau khổ xảy ra cho ông nên ông mới khóc lóc đau đớn như vậy. Tôi lại nghĩ, có lẽ những người ở đây đang cầu nguyện cho ông. Người đàn ông đau khổ kia vẫn cúi gầm mặt khóc không ngừng.
Các linh mục bước vô tòa giải tội. Tôi cũng vô xếp hàng chờ xưng tội. Lúc đó, tôi không có thì giờ để coi lại mảnh giấy kê khai tội lỗi nữa, tôi đành cầm miếng giấy vô tòa cáo giải, bởi vì tôi không muốn quên hay bỏ xót một tội nào. Sau khi xưng tội xong, tôi đọc Kinh Ăn Năn Tội một lần nữa và đọc kinh đền tội. Tôi quì trước nhà tạm để cám ơn Chúa cho sự thứ tha của Ngài. Sau đó ra về, tôi nhận thấy rằng người đàn ông ngồi khóc khi nãy đã ra ngoài trước tôi. Tôi lấy nước thánh làm dấu rồi bước ra cửa nhưng hình như ông ta đang giữ cửa và chờ tôi.
Khi ra khỏi cửa, tôi hỏi ông:
- Ông không có gì chứ?
Ông trả lời, “Không có gì.”
Tôi hỏi tên ông. Ông nói: “Tôi tên John.”
John bước chậm rãi hầu như không có vẻ gì vội vã cả.
Tôi lại hỏi: “Ông ở gần đây không?”
Ông dừng lại trước khi trả lời:
- Không, tôi từ Lửa Luyện Tội tới đây. Trong tíc tắc, tôi đứng lại không bước đi được nữa và nhìn ông sửng sốt:
- Thấy ông giống như những người thường thôi.
Tôi tiếp: “Ồ mà tại sao ông lại lên đây đi nhà thờ?”
Ông dừng lại nói: “Thiên Chúa tốt lành đã cho phép tôi tới đây viếng Chúa Giêsu trong nhà tạm. Khi các người tới dự thánh lễ thì chúng tôi cũng tới dự thánh lễ cùng với các Thiên Thần Bản Mệnh, và thường thì có những ghế trống cho chúng tôi, những chỗ trống đó luôn luôn đầy những linh hồn như chúng tôi, và các Thiên Thần thì bay lơ lửng phía trên đầu chúng tôi, cũng giống như Thiên Thần bản mệnh của các người vậy. Giây phút đó trong nhà thờ đầy kín những vinh quang, huy hoàng của Thiên Chúa.”
- Tại sao ông khóc trong nhà thờ?
Ông trả lời: “Đó là những giọt nước mắt vui mừng lẫn đau khổ. Vui vì chúng tôi được vinh dự chúc tụng Ngài trong Thánh Thể; còn đau khổ vì những gì mình đã xúc phạm tới lòng nhân lành và tình yêu của Thiên Chúa.”
- Ông đau khổ nhiều không?
- Có chứ, nhưng tôi vui mừng vì được đền tội mình, và trông đợi ngày giờ được hưởng nhan Thánh Chúa trên Thiên Đàng. Thiên Thần Bản Mệnh đã giúp tôi trả lời những câu hỏi của ông. Trong Lửa Luyện Tội chúng tôi không có quyền cầu nguyện cho mình nhưng được phép cầu nguyện cho gia đình thân quyến, và cho tất cả những phần tử trong Giáo Hội trên hoàn vũ.
- Lửa Luyện Tội như thế nào?
- Tất cả có 13 tầng. Tầng thứ 13 là tầng chót và gần địa ngục; địa ngục ở giữa trái đất. Đó là nơi được gọi là ‘Phòng giam công lý’. Những tầng dưới trong Lửa Luyện Tội là những tầng vô cùng đau đớn, và những linh hồn ở trong tầng này đều phải đền tội lâu năm mới được lên tới những tầng giữa. Ở tầng giữa, các linh hồn đền tội cho những tội đặc biệt hay bỏ sót. Họ cũng đau khổ rất nhiều nhưng không bằng những tầng dưới. Tôi dã ở dưới Lửa Luyện Tội 15 năm nay và tôi đang trông đợi được lên tầng thứ năm bởi vì Đức Mẹ thường tới thăm các linh hồn trên năm tầng trên. Khi Đức Mẹ tới, tất cả những đau đớn đều ngưng vì sự hiện diện của Mẹ. Tầng trên cùng là tầng các linh hồn không còn đau khổ nữa, họ chỉ cầu nguyện và chờ ngày về Thiên Đàng. Tầng thứ tư, Chúa Giêsu hỏi các linh hồn nếu họ muốn ở lại tầng đó để cứu người thân của họ trên trái đất. Khi họ đã chịu đau khổ đủ, cầu nguyện đủ thì họ về Thiên Đàng thẳng không cần phải đi qua ba tầng trên nữa.
Khi ông đi xưng tội với tấm lòng ăn n ăn đau đớn, Thiên Chúa tha tội cho ông nhưng còn những vết nhơ trong hồn thì phải được tẩy sạch bằng cách ăn chay, cầu nguyện, đền tội, hy sinh, hãm mình. Thật sự những việc này dễ dàng hơn nếu làm được trên trái đất. Trong Lửa Luyện Tội sẽ phải đau đớn hơn nhiều và mất nhiều năm để thanh tẩy. Tôi là một người buôn bán khi còn sống cũng giống như ông vậy. Nghề nghiệp của tôi đã choán hết cuộc sống của tôi nên tôi chểnh mảng về đức tin và sự cầu nguyện, và nếu không phải vì Lòng Thương Xót Chúa; và bằng những lời cầu nguyện, hy sinh, đền tội, hãm mình, thánh lễ của người giúp việc đã làm cho tôi thì tôi đã mất linh hồn từ lâu rồi. Khi tôi chết, bà ta đã xin thánh lễ an táng cho tôi, và xin cho tôi 30 thánh lễ liên tục trong một tháng (Gregorian Masses). Tôi cũng đã có mặt dự trong lễ an táng đó. Phải, Thiên Chúa cho phép các linh hồn được dự các đám tang của họ. Thiên Chúa vô cùng tốt lành nhưng buồn thay, ngày nay con cái không còn nhớ làm lễ an táng cho cha mẹ cũng như những người thân của họ nữa. Họ đã đổ đi biết bao ơn sủng dành cho thân quyến của họ, những ơn sủng vô giá và những an ủi lớn lao đáng lý những người thân của họ được hưởng.
Trong Lửa Luyện Tội, linh hồn con người cũng giống như thân xác, với đầu mình, chân tay…Ông có thể thấy được, ngửi được, và cảm được nóng lạnh, đau đớn còn bén nhậy hơn thân xác nữa. Thiên Thần Bản Mệnh của tôi bảo tôi nói cho ông biết là khi một người đến trước tòa phán xét đối diện với Thiên Chúa, linh hồn đó thấy rõ các tội lỗi mình, những tội mà họ xúc phạm tới Chúa. Lúc đó là lúc Thiên Chúa xét sử công minh. Ngài sẽ lấy những kinh nguyện, thánh lễ người ta dành cho linh hồn đó, và ngay lúc đó linh hồn ấy sẽ biết mình phải đền tội ở tầng nào trong Lửa Luyện Tội.
Những người tự kết liễu đời mình hay nhờ kẻ khác kết liễu đời mình là một sự sai lầm, vì chỉ có Thiên Chúa mói có quyền quyết định mạng sống con người. Kẻ nào cướp quyền Thiên Chúa sẽ phải đau đớn và đền tội rất lâu. Tất cả những đau khổ đời này là một cách đền tội, thanh tẩy linh hồn mình cho cuộc sống đời sau.
Thiên Thần Bản Mệnh bảo tôi nói cho ông biết: “Chúng tôi đến nhà thờ và thấy tất cả những gì xảy ra nơi đây. Mọi người nên ăn mặc cho đàng hoàng đứng đắn trước mặt Thiên Chúa. Thánh Đường là nhà của Chúa, là nơi cầu nguyện, chúng ta phải tỏ vẻ tôn kính đối với Thiên Chúa, không nên nói chuyện, cười cợt trong nhà thờ, tốt nhất khi muốn nói chuyện thì nên ra ngoài. Những cách ăn mặc không đứng đắn hoặc thiếu tôn kính trong nhà thờ cần phải đi xưng tội và đền tội xứng đáng. Những người che kín đầu trước mặt Thiên Chúa sẽ được phần thưởng đời sau.” Chúng tôi đi bộ chừng vài dãy nhà và đến một lối vào của một nghĩa trang Công Giáo. John nói: “Những gì ông học được ngày hôm nay là do Thiên Chúa ban cho ông vì một lý do nào đó. Một trong những lý do đó là Nước Thánh và Chuỗi Mân Côi.” Ông nói xong, bước vô nghĩa trang rồi biến mất trước con mắt của tôi.
Tôi nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho ông, John.”
Tôi đi bộ về lại nhà thờ, bước vô trong và tạ ơn Chúa về những gì vừa xảy ra. Tôi lần hạt để tạ ơn Chúa và đồng thời cầu nguyện cho linh hồn ông.
Khi còn nhỏ, mẹ tôi thường hay dẫn đến nghĩa trang. Bà luôn luôn đem theo nước thánh khi đi thăm mộ những người thân hoặc bạn bè, rồi đọc một Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng và cầu cho kẻ chết. Rồi bà lấy nước thánh rẩy trên mộ phần người quá cố. Bà bảo tôi, những linh hồn trong Lửa Luyện Tội sẽ được an ủi rất nhiều với nước thánh này. Bà cũng thường hay làm vậy ở nhà mỗi tối cho các linh hồn, cách riếng cho những linh hồn người thân của bà. Những năm sau này, trong sự tưởng nhớ mẹ tôi, tôi cũng làm những việc đó như mẹ tôi đã làm, và tôi cũng lần hạt cầu nguyện cho các linh hồn trong Lửa Luyện Tội.
Sau cuộc gặp gỡ lạ lùng này, tôi làm một cái hẹn cới một linh mục và xưng tất cả những tội lỗi tôi đã phạm trong đời để biết chắc rằng tất cả tội lỗi của tôi đều được tha thứ. Sau đó, tôi đi xưng tội mỗi tuần một lần hoặc hai tuần một lần. Tôi viếng Thánh Thể và bắt đầu dâng tất cả những công việc làm, những đớn đau, bệnh tật, buồn bực, chán nản, ngay cả việc lái xe của tôi cho Trái Tim Cực Thánh Cúa Giêsu, với Chúa Giêsu va trong Chúa Giêsu qua Trái Tim Vẹn Sách Mẹ Maria lên Chúa Cha để đền bù tội lỗi mình.
Ngày 3-2-1944, một cụ bà gần 80 tuổi qua đời. Cụ bà đó không ai khác là thân mẫu tôi.
Tôi lặng lẽ chiêm ngắm gương mặt Mẹ dịu hiền nơi nhà nguyện nghĩa trang, trước khi hạ huyệt.
Trong tâm tình con thảo và nhất là, trong tư cách Linh Mục, tôi thì thầm với Mẹ:
“Mẹ à, từ ngày có trí khôn đến giờ, con chưa bao giờ thấy Mẹ lỗi phạm nặng nề một luật nào của Chúa!”
Và tôi hồi tưởng những chặng đường qua của cuộc đời Mẹ:
Mẹ tôi có một đời sống thật gương mẫu. Sở dĩ tôi được làm Linh Mục phần lớn là nhờ công lao của Mẹ hiền.
Mỗi ngày, Mẹ tôi tham dự Thánh Lễ rước lễ, kể cả vào những năm cuối đời, tuổi đã cao, khi đi lễ cũng như lúc về, Mẹ tôi đều cầm tràng hạt trong tay. Mỗi khi rỗi rãnh, Mẹ cũng thường lần hạt, đọc kinh Mân Côi.
Mẹ tôi rất có lòng bác ái, thương người đến độ mất một con mắt, chỉ vì liều mạng cứu sống một người đàn bà nghèo.
Ngày thân phụ tôi qua đời, Mẹ tôi hỏi: “Trong lúc này đây, Mẹ có thể than thở gì với Đức Chúa GIÊSU, để làm đẹp lòng Ngài?”
Tôi trả lời: “Mẹ cứ lập đi lập lại câu: Lạy Chúa, xin cho thánh ý Chúa được thực hiện.”
Trên giường bệnh, Mẹ tôi lãnh các Bí Tích sau cùng với Đức Tin sâu xa.
Mấy giờ trước khi tắt thở, Mẹ tôi đau đớn vô cùng. Nhưng Mẹ không ngừng lập đi lập lại:
“Lạy Đức Chúa GIÊSU, con muốn xin Chúa giảm cơn đau cho con. Tuy nhiên, con không dám áp đặt ý con trên thánh ý Chúa. Trái lại, xin cho thánh ý Chúa được thể hiện.”
Với lời sau cùng này, Mẹ tôi – người phụ nữ đã cưu mang, sinh hạ và dưỡng dục tôi nên người – trút hơi thở cuối cùng.
Sau khi Mẹ tôi qua đời, ai ai cũng nức lời khen ngợi Mẹ, người đàn bà đức hạnh.
Tuy nhiên, tôi không để ý đến lời ca tụng của người đời, cho bằng nghĩ đến sự phán xét công minh của THIÊN CHÚA. Do đó, tôi làm nhiều việc lành, sốt sắng dâng Thánh Lễ và không ngừng cầu nguyện cho Linh Hồn Mẹ sớm tận hưởng Thánh Nhan THIÊN CHÚA.
Ngoài ra, mỗi khi có dịp giảng, tôi đều nhắn nhủ các tín hữu Công Giáo hãy năng nhớ giúp đỡ các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục.
Giúp đỡ bằng nhiều cách: tham dự Thánh Lễ, rước lễ và làm việc lành phước đức, bố thí giúp đỡ người nghèo.
Một hôm, Thiên Chúa Nhân Lành đã cho phép Mẹ tôi hiện về với tôi.
Đúng hai năm rưỡi sau khi qua đời, Mẹ tôi bỗng xuất hiện trong phòng riêng, dưới hình dạng một con người. Mẹ trông thật buồn bã. Mẹ tôi nói:
“Các con đã bỏ quên Mẹ trong Luyện Ngục!”
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
“Ủa, cho tới bây giờ, mà Mẹ vẫn còn ở trong Luyện Ngục hay sao?”
Mẹ tôi đáp:
“Đúng thế! Mẹ vẫn còn ở trong Luyện Ngục. Bóng tối vây phủ Linh Hồn Mẹ, khiến Mẹ không thể trông thấy Ánh Sáng là THIÊN CHÚA... Mẹ đang ở ngưỡng cửa Thiên Đàng, gần nơi an vui vĩnh cửu và Mẹ nồng nhiệt ước muốn được vào, nhưng Mẹ không thể nào vào được! Không biết bao nhiêu lần Mẹ tự nhủ: Nếu các con biết mình đang bị dằn vặt khốn khổ khôn lường, hẳn là chúng đã cấp tốc ra tay cứu giúp mình!”
Tôi hỏi tiếp: “Sao trước đây Mẹ không hiện về báo cho chúng con biết?”
Mẹ tôi buồn bã trả lời: “Mẹ đâu có được phép!”
Tôi lại hỏi: “Vậy Mẹ vẫn chưa được trông thấy THIÊN CHÚA sao?”
Mẹ tôi giải thích: “Khi vừa tắt thở, Mẹ đã được trông thấy Chúa, nhưng chưa được trông thấy trọn Ánh Sáng Vinh Quang của Chúa.”
Tôi hỏi tiếp: “Chúng con có thể làm được gì để giúp Mẹ ra ngay khỏi Luyện Ngục?”
Mẹ tôi nói: “Hiện tại, Mẹ chỉ cần duy nhất một Thánh Lễ. Chúa cho phép Mẹ hiện về, để xin con điều đó.”
Tôi không quên dặn dò Mẹ: “Khi nào được vào Thiên Đàng, Mẹ nhớ hiện về ngay báo tin cho con biết.”
Mẹ tôi trả lời: “Nếu Chúa cho phép Mẹ hiện về .. Ôi Ánh Sáng thật tuyệt đẹp!”
Vừa nói Mẹ tôi vừa biến mất.
Chúng tôi dâng 2 Thánh Lễ cầu cho Linh Hồn Mẹ.
Một ngày sau, Mẹ tôi hiện về nói: “Mẹ đã được vào Thiên Đàng rồi!”
Đây là chứng từ của Cha Giuseppe Tomaselli, người Ý, Dòng Don Bosco.
… ”Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài. Mong đợi Chúa, con hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người. Hồn con trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông. Hơn lính canh mong đợi hừng đông, trông cậy Chúa đi, Israel hỡi, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa. Chính Người sẽ cứu chuộc Israel cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn” (Thánh Vịnh 130).
Cuộc đời cha Piô Năm Dấu Thánh là một trang sử lạ thường, ghi dấu các cuộc hiện ra của Chúa Giêsu, Mẹ Maria, các Thiên Thần, Các Thánh, và Các Đẳng Linh Hồn.
Có thể nói được rằng, Cha thánh Pio sống cùng lúc ở hai thế giới: một hữu hình và một vô hình, thiêng liêng.
Xin thuật hầu quý anh chị em câu chuyện Linh Hồn Luyện Ngục hiện về xin Cha thánh Pio cầu nguyện cho.
Một buổi tối, Cha Pio đang nghỉ ở tầng trệt của Cộng Đoàn, nơi căn phòng dành đón tiếp khách lạ.
Lúc ấy, Cha Pio chỉ có một mình và vừa đặt lưng nằm xuống, thì bất thình lình một người đàn ông xuất hiện, mình trùm kín chiếc áo choàng đen.
Ngạc nhiên, Cha Pio tức khắc đứng bật dậy và hỏi cho biết ông là ai và muốn gì.
Người khách lạ cho biết: Ông là một Linh Hồn nơi Lửa Luyện Tội.
Ông nói: Con là Pietro Di Mauro, tức Nicola và có biệt danh “Precoco”. Con bị chết trong trận hỏa hoạn xảy ra vào đêm 18-9-1908, tại chính Tu Viện này, lúc ấy bị truất hữu và biến thành Viện Tế Bần.
Con bị chết cháy giữa các ngọn lửa, ngay trên tấm nệm rơm, lúc đang ngủ say, trong căn phòng số 4. Con hiện về từ Luyện Ngục. Thiên Chúa Nhân Lành cho phép con đến xin Cha dâng một Thánh Lễ, với ý chỉ cầu cho con vào sáng ngày mai. Nhờ Thánh Lễ này con mới có thể vào được Thiên Đàng.
Cha Pio hứa sẽ dâng Thánh Lễ cầu cho ông.
Chính Cha kể lại như sau:
Phần tôi, tôi muốn đích thân tháp tùng Linh Hồn Luyện Ngục ra tận cửa Tu Viện. Và tôi chỉ ý thức rõ ràng mình đã nói chuyện với Linh Hồn Luyện Ngục, khi ra tới thềm, bởi vì, người đàn ông đang đi bên cạnh tôi bỗng nhiên biến mất.
Tôi thành thật thú nhận: lúc ấy tôi cảm thấy hoảng sợ. Tôi đi thẳng đến phòng Bề Trên là Cha Paolino da Casacalenda.
Cha Bề Trên nhận ra nét kinh hoảng của tôi.
Sau khi nghe tôi giải thích và xin phép dâng Thánh Lễ vào sáng hôm sau cầu cho Linh Hồn Luyện Ngục, Cha Bề Trên hiểu lý do và chấp thuận ngay lời xin.
Vài ngày sau, vì bị tính tò mò thúc đẩy, Cha Bề Trên Paolino muốn làm một cuộc kiểm chứng.
Cha ra tòa thị chính thành phố San Giovanni Rotondo và xin phép xem Cuốn Sổ Tử của thành phố vào năm 1908.
Và đúng như lời tôi kể, trong Sổ Tử tháng 9 năm 1908 có ghi mấy hàng: Ngày 18 tháng 9 năm 1908, trong trận hỏa hoạn Viện Tế Bần, có một người bị chết, mang tên Pietro di Mauro, tức Nicola.
Tại Bảo Tàng Viện Luyện Ngục (Small Purgatory Museum) ở Rôma, có trưng bày nhiều hiện vật bị đốt cháy hoặc những hình ảnh chụp lại những hiện vật bị đốt cháy, do bởi các linh hồn được Thiên Chúa cho về gặp những người đang còn sống, để xin những lời cầu nguyện, những thánh lễ,… để nhờ ơn ích của các việc này, mà các linh hồn mau được hưởng nhan Thánh Chúa.
Được Thánh Giáo Hoàng Piô X động viên, Cha Victor Jouet đã thành lập bảo tàng này, nhằm giúp mọi người tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, và nhờ việc sùng kính này, mà giúp đỡ các linh hồn nơi Luyện hình.
Dưới đây là một vài câu chuyện từ những hiện vật trưng bày tại đây.
1- Ngày 1-11-1731, cố Tu viện trưởng Panzini (Dòng Biển Đức Olivetan ở Mantua, Ý) hiện về với Mẹ Isabella Fomari (Dòng Thánh Clara ở Todi), khi Mẹ đang ngồi ở bàn làm việc.
Tu viện trưởng Panzini nói rằng: ngài đang chịu đau khổ nơi Luyện Hình. Lúc đó, ngài đặt bàn tay đang cháy lên bàn làm việc của Mẹ Isabella và đã in hình bàn tay lên chiếc bàn đó.
Sau đó, ngài dùng ngón tay đang cháy vẽ hình Thánh Giá lên bàn. Ngài cũng chạm tay vào tay áo của Mẹ Isabella và khiến tay của Mẹ Isabella bị phỏng và chảy máu.
Áo và máu của Mẹ Isabella Fomari không có ở bảo tàng viện này, nhưng còn một miếng gỗ của chiếc bàn kia.
Mẹ Isabella đã kể lại cho Lm. Isidoro Gazata nghe chi tiết. Lm. Isidoro đã cho điều tra để xác định vết cháy kia là vết cháy do lửa siêu nhiên.
2- Ngày 5-6-1894, cố Nữ tu Maria Thánh Louis Gonzaga đã hiện về với Nữ tu Margherita và cho biết Chị đang chịu đau khổ nơi Luyện Hình.
Nữ tu Maria là người đạo đức, nhưng khi bị bệnh lao phổi, Chị buồn và cầu xin cho được mau chết, để bớt đau đớn.
Vài ngày sau, Chị qua đời trong vẻ thánh thiện.
Khi hiện về, Nữ tu Maria mặc áo dòng, xung quanh có bóng mờ. Chị nói với Nữ tu Margherita rằng: Chị đang ở trong Luyện Hình, để đền tội vì thiếu kiên nhẫn khi bị bệnh, nên đã cầu xin được chết sớm hơn ý Chúa định, và Chị xin Nữ tu Margherita cầu nguyện cho Chị.
Để chứng tỏ mình đang chịu đau khổ trong Luyện Hình, Chị đã chạm tay vào chiếc gối đầu của Nữ tu Margherita và làm lủng một lỗ.
Sau đó, Chị đã hiện về hai lần, để cảm ơn Nữ tu Margherita đã cầu nguyện cho mình, và cho biết rằng Chị sẽ sớm được cứu thoát khỏi Luyện Hình.
Chị cũng đưa ra vài lời khuyên cho các nữ tu trong cộng đoàn Dòng Thánh Clara….
3- Ngày 5-3-1871, chị Palmira Rastelli hiện về với cô bạn Maria Zaganti, để xin người anh của chị là Lm. Sante Rastelli dâng lễ cầu hồn cho chị. Chị mới qua đời hơn ba tháng, và đang ở trong Luyện Hình.
Chị Palmira đã đặt mấy ngón tay lên sách kinh của Maria và để lại vết cháy của ba ngón tay trên đó.
4- Thánh Catherine Genoa nói về Luyện Hình rằng có sự đau khổ trong lửa, nhưng đồng thời cũng có tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa và sự an ủi, là cuối cùng, thì các linh hồn trong đó cũng sẽ được lên Thiên Đàng.
Chúng ta hãy tha thiết cầu nguyện cho các linh hồn. Họ sẽ không bao giờ quên chúng ta đã cầu nguyện cho họ.
Chúng ta thật hạnh phúc vì được là người Công giáo, biết về sự hiệu quả của ân xá và lời cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện Hình.
Nếu chúng ta giúp đỡ họ, chúng ta sẽ có người khác giúp đỡ chúng ta sau khi chúng ta qua đời.
(Lm. Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ TraditionalCatholicPriest.com)
Khi nói “bao lâu”, là chúng ta nói tới thời gian, theo quan niệm loài người chúng ta đang sinh sống: Hiện tại tới tương lai, tương lai thành hiện tại, hiện tại thành quá khứ. Quá khứ, hiện tại, tương lai cứ nối tiếp nhau hoài hoài.
Nhưng người ta biết rằng: “Có bắt đầu chắc chắn sẽ có kết thúc”, vì đời này, thời gian không phải là vô cùng.
Thời giờ vận chuyển theo ngày tháng, dù tính theo dương lịch hay âm lịch.
Nhưng thời giờ dương lịch hay âm lịch, sẽ trở thành thời gian tâm lí, sẽ như trở nên lâu la hơn, người ta ví:
“Người đi không bực, bằng người chực nồi cơm”.
Chờ chực bao giờ cũng thấy lâu dài, bồn chồn, khó chịu, bực bội.
Thời gian ở đời này khác với thời gian đời sau.
Tv 89 viết:
Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi!
Thánh Phêrô cho biết:
“Anh em thân mến, xin anh em đừng quên, đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày” (2 Pr 3, 8)
Từ đó, “bao lâu” trong Luyện ngục, phải được hiểu là lâu dài lắm
* Thánh Tôma Aquinô viết:
“Sự đau đớn của các linh hồn, tuy cùng một hình phạt giống nhau, nhưng khác nhau về thời gian lâu và mau”.
Lâu, là bởi vì mong ước từng giây được sớm về cùng Chúa. Khi càng mong, thì càng nóng ruột, thời giờ sẽ càng như chậm lại, ngày sẽ dài ra như cả ngàn năm.
* Cha Tôma a Kempis, tác giả sách Gương Chúa Giêsu cũng viết: “Nơi đó, một giờ chịu hành hình, còn dữ dằn hơn cả trăm năm chịu cực hình hung bạo trên dương thế” (Gương Chúa Giêsu, quyển một , chương 24, đoạn 2).
* Thánh Augustinô nói rằng: “Hình khổ Luyện ngục lâu mau, là tùy ở tội lỗi và sự đền bù của mọi người”.
Có thể một ngày, có thể lâu hơn, 10 năm, 20 năm.
Một linh hồn hiện về nói, tôi chịu phạt 3 ngày mà lâu như 3 ngàn năm.
* Bà Đáng kính Frances Thánh Thể kể lại rằng: “Một số bà sơ đạo đức dòng Carmelô chịu khổ 20 năm, 40, 50 năm.
- Một Giám mục chịu khổ 55 năm, bởi thiếu cẩn thận trong một số điều. - Một linh mục bị phạt 40 năm cũng chỉ bởi thiếu cẩn thận trong khi thi hành nhiệm vụ. - Một người giầu bị phạt 55 năm, chỉ bởi quá ham mê tiền bạc”.
* Thánh Antôniô kể lại trong sách Summa của người (Phần 4 tiết 4) câu truyện sau, được trích trong cuốn Niên ký dòng của người năm 1285:
“Có một người đạo đức kia đã chịu đau khổ nhiều năm bởi bệnh tật. Sợ mình chán nản ngã lòng, ông ta xin Chúa cho mình được chết sớm cho bớt khổ. Ông ta không nghĩ rằng: được chịu đau khổ, là do lòng Chúa thương mình, mà chỉ muốn chấm dứt những đau khổ, càng sớm càng tốt.
Đáp lời ông cầu nguyện, Chúa đã sai thiên thần Bản mệnh của ông tới, cho ông chọn lựa một trong hai:
- một là chết ngay và phải vào Luyện ngục 3 ngày, - hai là chịu bệnh một năm nữa rồi chết, và được lên Thiên đàng ngay.
Ông bệnh nhân này không ngần ngại chọn điều thứ nhất, ông muốn chịu đau khổ 3 ngày trong Luyện ngục, hơn là chịu bệnh cả năm nữa trên trần gian.
Sau khi ông chết được một giờ, thiên thần Bản mạnh vào thăm ông trong Luyện ngục.
Thấy thiên thần, ông lên tiếng phàn nàn, coi như đã để ông phải chịu cực hình một thời gian quá lâu, ông lên tiếng:
“Sao thiên thần nói với tôi là có ba ngày, mà để tôi chịu cực hình ở đây quá lâu như vậy?”.
Thiên thần hỏi: “Ông nghĩ lâu, là bao lâu?”.
Ông trả lời: “Ít ra cũng nhiều năm”.
Thiên thần tiếp: “Này, tôi cho ông biết: Ông mới ở trong Luyện ngục một giờ thôi.
Đau khổ ở đây làm cho thời giờ sai biến, một lúc thành một ngày, một giờ thành nhiều năm”.
Linh hồn khẩn khoản:
“Lạy thiên thần, tôi thật ngu dại quá, khi chọn vào chốn này. xin tha thứ cho tôi và cầu Chúa cho tôi được trở lại trần gian. Tôi bằng lòng chịu những bệnh nạn đau đớn nhất, không phải chỉ vài năm, mà bao nhiêu năm tùy Thánh Ý Chúa. Sáu năm chịu cực hình khốn khổ ở trần gian còn hơn một giờ ở trong vực thẳm ghê gớm này” (Purgatory p.63-64).
Là người còn đang sống, ta không có “cảm giác” đau đớn, lâu mau gì ở đời sau trong Luyện ngục, nhưng dù biết một cách chung chung, ta vẫn có thể thương tình cứu giúp các linh hồn đang ở trong tình trạng đó.
Việc ta cứu giúp các linh hồn nơi Luyện Ngục, mau thoát khỏi Luyện ngục, thì khi về bên Chúa, các ngài sẽ không bao giờ quên trả ơn cho chúngta là, là các ân nhân của các ngài. Hãy năng đọc những lởi nguyện này:
“Giêsu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi các linh hồn” “Giêsu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi các linh hồn” “Giêsu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi các linh hồn”
Tháng mười một vẫn được dành riêng cho các linh hồn.
Người Công Giáo nói chung, rất quan tâm đến những ai đã ra đi, mong rằng người thân quá cố của mình được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa tình yêu.
Đây là một ước muốn rất đẹp, rất tình người.
Người Công Giáo được khuyến khích thực hiện những điều thiết thực, ví dụ như xin Lễ, đọc kinh cầu nguyện, làm nhiều việc lành phúc đức,… để “an ủi”, nâng đỡ… những người đã ra đi, mà còn đang vướng mắc một vài trở ngại nào đó, khiến họ chưa hoàn toàn chia sẻ vinh quang và hạnh phúc với Chúa.
Có một vài điều cần được lưu ý khi thực hiện những việc bác ái này.
Thứ nhất, việc xin Lễ không phải để “mua phần rỗi” cho những người đã qua đời.
Thiên Chúa không cần tiền của con người. Vả lại, hãy nghe Chúa Giêsu: “Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin người sao?” (Mt 7:11).
Tấm lòng của Thiên Chúa bao la, đến nỗi không ngôn từ nào có thể diễn tả hết được, làm sao lại có thể chịu thua tấm lòng của con người?!
Những đóng góp vẫn được gọi là “xin Lễ”, là một chia sẻ thiết thực, để các Thừa tác viên trong Hội Thánh có phương tiện để lo mục vụ.
Đó là một nghĩa cử rất đẹp, rất tình người, vì nó diễn tả tình liên đới trong cộng đoàn con cái Chúa và cộng đồng nhân loại.
Thứ hai, “Luyện Ngục”, như cách dịch chữ purgatorium hay purgatories từ Tiếng La Tinh, không phải để chỉ một tình trạng đau khổ, bị hành hạ đau đớn, như có nhiều người vẫn tưởng.
“Luyện Ngục” không phải là một nơi chốn của đau khổ, mà là một tình trạng chưa trọn kết hợp trong vinh quang và hạnh phúc với Thiên Chúa.
Những người trong tình trạng này đã hưởng vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa rồi, nhưng một cách nào đó vẫn chưa được trọn vẹn.
Họ sống trong vui mừng, vì biết chắc chắn rằng: họ sẽ được kết hợp với Chúa trọn vẹn một lúc nào đó.
Thứ ba, về vấn đề “Hoả Ngục”, Giáo Hội Công giáo chưa bao giờ khẳng định có một ai cụ thể đang ở trong Hoả ngục.
Giáo Hội luôn cảnh giác và thúc giục con cái mình sống trong tinh thần tỉnh thức, để lúc nào Chúa đến, thì hân hoan chào đón Người, để Người đem mình vào hạnh phúc viên mãn.
Như vậy, luôn luôn có chỗ cho hy vọng, ngay cả đối với tội nhân xấu xa nhất.
Và như thế, không ai có quyền lên án và kết luận về vận mệnh của người khác. Tiếng nói cuối cùng vẫn thuộc về Thiên Chúa.
Cuối cùng, những ai quan tâm đến “luyện ngục” sẽ thắc mắc:
- Không biết ý nghĩa của Tháng Các Linh Hồn là gì. - Những việc mình đang làm như xin Lễ, cầu nguyện, làm việc bác ái,… sẽ có lợi gì cho những người đã qua đời?
Câu trả lời rất đơn giản:
Nếu tất cả các việc trên được đặt trong chiều kích hiệp thông và nhập thể.
Tất cả công trình tạo dựng của Thiên Chúa hiệp thông sâu xa trong Người.
Đây chính là ý nghĩa rất đẹp, rất tuyệt vời của mối dây liên kết nhân loại, mà Giáo hội vẫn gọi là “mầu nhiệm Các Thánh thông công”.
Tất cả mọi người được nối kết và chia sẻ với nhau trong chính sự sống của Thiên
Chúa nơi cuộc đời của mình và của anh chị em mình.
Cho nên khi người này làm một việc tốt, đóng góp một hy sinh, tất cả mọi người trong cộng đồng hiệp thông ấy, đều được chia sẻ.
Chính Thiên Chúa đã đích thân khẳng định điều ấy qua Ngôi Lời nhập thể là Chúa Giêsu:
“Mỗi lần các ngươi làm [điều tốt] cho một trong những anh chị em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy.”(Mt 25:40)
Ngược lại, khi một ai đó, trong cộng đồng hiệp thông ấy, làm một việc gây tổn thương đến người khác, mọi người đều bị ảnh hưởng ít nhiều.
Cho nên, việc làm thiết thực nhất cho những ai đã qua đời là giúp họ khôi phục lại những gì họ đã làm tổn thương, và giúp họ làm những gì họ chưa làm được khi còn sống ở đời này.
Làm như thế ta sẽ giúp xoa dịu nỗi dằn vặt, nỗi trăn trở họ vẫn còn đang mang vác.
Làm như thế ta sẽ giúp họ đi vào hạnh phúc với bình an trọn vẹn trong Thiên Chúa, Đấng đã dùng phương thế nhập thể để dạy con người về ý nghĩa của hiệp thông.
Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau:
“Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh”.
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe những lời van xin tương tự, phát ra từ môi miệng của những người thân đang hấp hối.
Người sắp chết không hẳn là sợ cô đơn, mà là sợ đối diện với sự phán xét công minh của Thiên Chúa.
Vì vậy, lời van xin của người hấp hối là lời khiêm tốn, từ thẳm sâu tâm hồn:
Nhìn nhận sự bất toàn, yếu đuối của mình, để van xin người còn sống hãy nhớ tới họ.
Theo giáo lý Công Giáo, thì những người đã chết trong Ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa sạch hết mọi tội, và chưa đền tội bằng những hình phạt tạm thời đời này, thì không thể vào thẳng Thiên đàng được, vì chưa xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa.
Thánh Gioan đã cảnh báo trong sách Khải huyền:
“Tất cả những gì ô uế, cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và gian tà, đều không được vào Thành…” (Kh 21, 27).
Tất nhiên, họ phải chờ thanh luyện xong mới vào được Thiên đàng.
Nên, Công đồng Florence (1439) mới định tín có luyện ngục, để thanh luyện các linh hồn.
Giáo Hội kêu gọi chúng ta luôn nhớ cầu nguyện cho những người đã khuất.
Cầu nguyện là góp phần mình. vào mở kho Ân xá, nhường cho linh hồn, mà chúng ta cầu nguyện, vì kẻ đã chết, tức là mất khả năng lập công, để cứu mình. Họ cần lời cầu nguyện của những người còn sống.
Thật ra, không phải cầu cho người “chết”.
Nếu chết là chấm tận, là kết thúc, là hết chuyện, thì cầu làm gì và ích lợi gì?
Nhưng là chúng ta cầu cho họ vượt qua cõi chết, để đi vào cõi sống muôn đời. Cầu cho họ qua đời tạm này, để bước vào đời sống trường sinh, trong tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống mỗi ngày, như là ngày cuối cùng đời con, để con luôn biết yêu thương, giúp đỡ, mọi người với những gì con có thể, nhất là tích cực làm nhiều việc lành phúc đức, giúp các linh hồn nơi Luyện Ngục. Amen.
Câu truyện dưới đây không mang tính cách lịch sử, không được minh chứng bằng những giá trị khoa học.
Tính cách khách quan của nó, chính là vì nó được kể ra, do một vị linh mục, mà nhân vật trong câu truyện lại dính dáng đến thân phụ của ngài. Một người, mà theo vị linh mục này, trước đó ông rất ngạo mạn, coi thường thánh lễ. Nhưng chỉ sau khi được chứng kiến qua hành động, mà ông cho là “phép lạ”, thì lúc đó, ông mới tin và đã trở lại thành một tín hữu sốt sắng, hết lòng yêu mến Thánh Lễ.
Linh mục Stanislaus, thuộc dòng Thánh Tâm Chúa, có người anh, cũng là linh mục thuộc Dòng Tên.
Linh mục đã kể về thân phụ của mình là một đại úy kiểm lâm, trong một thị trấn nhỏ ở Luxembourg như sau:
Thân phụ tôi lúc còn trẻ đã bỏ đạo.
Ông không chỉ bỏ đạo, mà còn ngăn cấm mọi người trong gia đình không một ai được đi tham dự thánh lễ, kể cả Chúa Nhật.
Tuổi thơ của tôi là như thế đó:
Tôi sống trong một gia đình, mà người cha bỏ đạo, khô khan, nguội lạnh, người mẹ vì sợ chồng, nên cũng không quan tâm đến chuyện lễ lậy, mặc dù trong nhà cũng vẫn còn giữ được thói quen đọc kinh, cầu nguyện.
Nhưng tình cờ một hôm, thân phụ của tôi ghé thăm người bạn thân và cũng là chủ một tiệm bán thịt.
Và cái gì tới đã tới. Sự thay đổi quan niệm về Thánh Lễ và đời sống tâm linh của ông đã xẩy ra sau lần gặp gỡ hôm đó.
Hôm đó, trong lúc hai người bạn thân đang trò truyện vui vẻ với nhau, thì tình cờ một bà già nghèo nàn, lọm khọm bước vào trong tiệm:
- Bà muốn gì? Ông chủ hàng thịt hỏi.
-Tôi muốn mua một chút thịt?
- Được. Nhưng bà có tiền để trả không ? Tôi thấy dường như bà thuộc hạng người nghèo…
Không quan tâm đến lời khích bác của ông chủ tiệm, bà nhìn ông rồi chậm dãi trả lời:
- Tôi thì không có tiền, nhưng bù lại, tôi sẽ đi lễ cầu cho ông, coi như trả tiền miếng thịt được không?
- Giá một Thánh Lễ đáng giá bao nhiêu?
Nói xong, cả hai lại nhìn nhau, nhìn bà già và phá lên cười, vì cả thân phụ tôi và ông bạn của ông đều là những người không tin tưởng gì, mà còn rất coi thường Thánh Lễ.
Rồi như một cử chỉ diễu cợt: Ông chủ tiệm cầm lấy miếng giấy, viết nguệch ngoạc mấy chữ, rồi đưa cho bà già:
- Đây là điều tôi muốn bà xin trong Thánh Lễ .
Sau đó, bà về đưa lại tấm giấy này cho tôi, coi xem Thánh Lễ đáng giá bao nhiêu ?
Người đàn bà khiêm tốn bỏ tờ giấy vào túi, ra khỏi hàng thịt và tiến thẳng đến thánh đường tham dự Thánh Lễ buổi sáng hôm đó.
Không biết bà có nhớ đến sự thách đố, nhạo báng của ông chủ hàng thịt hay không?
Và cũng chẳng biết bà đã cầu xin những gì cho ông trong Thánh Lễ .
Chỉ biết là sau Thánh Lễ, bà ghé lại hàng thịt và đưa tấm giấy lại cho ông chủ.
Cầm lấy tờ giấy, ông liền đem để lên bàn cân, cái cân, mà ông vẫn thường dùng để cân thịt.
Thật lạ lùng, tấm giấy mong manh kia đã nhậm chìm cán cân, khiến nó lệch hẳn một bên.
Thấy vậy, ông chủ tiệm liền lấy một cái xương đặt lên đĩa cân bên kia, nhưng miếng xương ấy không làm cho đĩa cân có tờ giấy nhúc nhích.
Tò mò, nhưng cũng cứng cỏi, ông mang một miếng thịt đùi thật to để lên, nhưng đĩa cân có tờ giấy vẫn chúi xuống.
Đến đây thì ông lấy làm sửng sốt và như mất tự chủ. Ông mang nguyên một cái đùi con cừu để lên đĩa cân. Đĩa cân đối diện vẫn không nhúc nhích. Nó vẫn chúi xuống làm lệch cán cân.
Thấy vậy, cả hai ông bèn bàn nhau: Đổi tờ giấy qua đĩa cân bên đối chiều, vì nghĩ là cái cân bị hư. Và kết quả vẫn như vậy. Tấm giấy mà ông ghi lúc đưa cho bà già nghèo nàn, tấm giấy ông xin gì trong đó vẫn nặng hơn cả một đùi cừu.
Thế là cả hai đã bừng tỉnh. Họ không còn cười đùa, chế nhạo bà lão nữa. Họ đã bắt đầu một sự thay đổi:
Ông chủ tiệm đã hết lòng xin lỗi bà lão, và trước mặt thân phụ của tôi, cũng như trước mặt bao nhiêu người tò mò xem chuyện lạ đang đứng chung quanh, ông đã hứa là suốt những ngày còn lại của bà lão, mỗi ngày ông đều cung cấp cho bà một phần thịt.
Chuyện lạ cáng ngày càng được đồn ra ra, khiến những người quanh vùng đổ xô đến tiệm ông, phần tò mò và cũng để mua thịt ở tiệm ông.
Cái lạ nữa ở đây, là thịt ở tiệm ông từ đó trở đi được tiếng là thơm ngon, được mọi người yêu thích. Nhờ đó, việc buôn bán của ông ngày càng trở nên bận rộn, và phát đạt.
Điều đáng ghi nhận ở đây, là nhờ chứng kiến điều được xem như phép lạ tỏ tường ấy, hai ông đã nhận ra rằng: Thánh Lễ thật vô giá.
Và cũng từ hôm đó, người ta thấy hai ông sốt sắng tham dự Thánh Lễ mỗi ngày.
Và gia đình tôi từ đó đã trở nên đạo đức, sốt sắng hơn, nhờ tham dự Thánh Lễ hằng ngày.
Ơn gọi linh mục của hai chúng tôi cũng phát triển và lớn lên từ đó.
Trần Mỹ Duyệt (Theo The Weight of one Holy Mass, The Catholic Lady Modesty and Elegance. Thursday, December 5, 2013.)
Trong một ngôi nhà thờ bên trong tu viện St. Ann & St. Joseph ở Cordoba, Tây Ban Nha, có một thập giá cổ được giáo hữu rất tôn sùng. Đó là tượng thập giá tha tội, tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh có cánh tay phải rời khỏi thập giá và hạ thấp xuống.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau:
Một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều. Tội nhân ra về, lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật ấy, không bao lâu, người đó sa ngã lại. Lần này, sau khi anh xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe dọa: "Ðây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông".
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên dưới cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài trả lời: "Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho ông nữa".
Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân, thì ông bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy như sau: "Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải ngươi".
Từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ấy, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ... #cầunguyện
Không có gì giúp ta hiểu ý nghĩa cuộc sống cho bằng cái chết.
Hãy thừ tưởng tượng rằng: Tôi đang dự đám tang của chính mình:
Tôi nhìn thấy thi hài mình trong quan tài, giữa nến hoa và khói hương nghi ngút.
Cặp mắt tôi dừng lại một chút trên khuôn mặt những người xung quanh. Bấy giờ tôi mới hiểu cuộc sống của họ thật ngắn ngủi biết bao!
Thật tiếc là họ chưa ý thức về điều đó. Lúc này, tâm trí họ đang tập trung vào tôi, chứ không phải vào cái chết của chính họ, hay sự ngắn ngủi của đời người.
Một cảm giác thật lạ: Vì hôm nay là buổi trình diễn cuối cùng của tôi trên mặt đất, lần cuối cùng, mà tôi là trung tâm chú ý của mọi người.
Trên tòa giảng, vị linh mục đang nói về tôi. Tôi vui thích thấy mình được mọi người thương tiếc.
Tôi để lại một khoảng trống đau thương trong tim của người thân và bạn bè. Nhưng cũng thành thực nhận rằng: Trong đám đông kia, cũng có một số người vui mừng, vì sự ra đi của tôi.
Theo đám rước vào nghĩa trang, tôi chen giữa đám đông đứng lặng bên mộ huyệt.
Chương cuối cùng của đời tôi khép lại, khi những lời cầu nguyện sau cùng được cất lên, và cỗ quan tài từ từ chìm sâu vào lòng đất.
Tôi vẫn đứng bên mộ, hồi tưởng lại từng chương của đời mình, trong khi những người khác vội vã về nhà, về với những ước mơ và lo toan thường nhật của họ.
Một năm sau, tôi trở về trái đất.
Những khoảng trống đau thương kia đã được lấp đầy.
Ký ức về tôi vẫn sống trong tim bạn bè, nhưng dần dần họ ít nghĩ về tôi hơn.
Giờ thì những người khác đã trở nên quan trọng hơn trong đời họ.
Và phải thế thôi, vì cuộc sống vẫn phải tiếp tục.
Tôi thăm lại công việc của mình: Có ai đó đang tiếp tục làm. Giờ thì đã có người khác quyết định thay tôi. Tôi tìm lại những đồ dùng tôi yêu thích: Chiếc đồng hồ, dàn vi tính, chiếc xe …, nhiều thứ, mà ngày nay không ai còn dùng nữa, vì đã quá lỗi thời.
30 năm sau tôi trở về lần nữa.
Ngoài một vài bức ảnh mờ nhạt trong album và dòng chữ khắc trên mộ, chẳng có gì còn lại về tôi. Không còn cả những kí ức nơi bạn bè, vì chẳng còn ai sống nữa. Tôi cố tìm những gì còn sót lại. Ánh mắt tôi dừng lại nơi một chút bụi trong quan tài, lòng nghĩ về đời mình thuở trước: Lo toan và niềm vui, tham vọng và mộng mơ, vinh quang và tủi nhục… Những gì đã làm nên đời tôi, tất cả đã cuốn bay theo gió. Chỉ còn lại một chút bụi, như dấu chứng đã từng có tôi trên đời.
Lạy Chúa, đó là thân phận đời người của chúng con. Xin Chúa dạy chúng con biết cách chết, nhờ biết cách sống tốt mỗi ngày trong cuộc sống hôm nay. Amen.
|Nhưng cũng đừng quên: Bạn có các đồng minh bảo vệ !!!
Cuộc đời các thánh chứa đựng những câu chuyện về sự kiên trì và đức hạnh, đặc biệt là trong việc vượt qua những cám dỗ.
Cám dỗ xác thịt là một trong những thử thách sâu xa nhất, mà nhiều vị thánh phải đối mặt, nhưng họ đã chiến thắng nhờ ơn Chúa, nhờ tự chủ và nhờ lời cầu nguyện.
Cuộc sống của họ minh chứng rằng: Sự trong sạch không phải là không có gian nan, mà là một lựa chọn có ý thức và đôi khi đầy khó khăn, vì tình yêu và lòng trung tín với Chúa.
******
1. Thánh Augustinô thành Hippo
Đây là một cuộc Hoán Cải của Một Con Tim Khắc Khoải:
"Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng chúng con cho Chúa. Lòng chúng con khắc khoải mãi cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa."
Hành trình từ đời sống buông thả, đến sự thanh khiết và thánh thiện sâu sắc của thánh Augustinô, là một trong những sự hoán cải đầy kịch tính, trong lịch sử các Thánh của Hội thánh Công giáo.
Sinh ra vào thế kỷ thứ 4, Augustinô là một triết gia lỗi lạc, nhưng lại đắm chìm trong những thú vui xác thịt, sống chung với một người phụ nữ ngoài hôn nhân và có với cô một đứa con.
Dù hưởng thụ nhiều lạc thú, ông vẫn cảm thấy tâm hồn bứt rứt, bất an.
Mẹ của ngài, thánh nữ Monica, đã cầu nguyện không ngừng cho con trai mình được hoán cải.
“Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn, như người đang sống giữa ban ngày: Không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt, mà thỏa mãn các dục vọng.”
Với niềm xác tín mới, ông từ bỏ lối sống cũ, chấp nhận sống đời thanh sạch.
Qua lời cầu nguyện, đời sống bí tích, và học hỏi thần học, Augustinô chuyển hóa lòng đam mê của mình thành, một tình yêu mãnh liệt dành cho Thiên Chúa.
Ông trở thành linh mục, giám mục, và là một trong những nhà tư tưởng Kitô giáo có ảnh hưởng sâu sắc nhất.
Cuốn Tự Thuật ( Confessiones ) của ông là minh chứng mạnh mẽ, về chiến thắng trước cám dỗ xác thịt, nhờ ơn Chúa và sự phó thác.
*****
2. Thánh Maria Ai Cập
- Sự Biến Đổi trong Sa Mạc
Thánh Maria Ai Cập bắt đầu cuộc đời mình một cách buông thả. Sinh ra ở Ai Cập, bà sống trong sự phóng túng và trụy lạc suốt gần 17 năm. Đầy khát vọng tìm kiếm thú vui, bà đến Giêrusalem với hy vọng quyến rũ thêm nhiều người đàn ông.
Tuy nhiên, khi cố gắng bước vào nhà thờ Mộ Thánh, bà cảm thấy một sức mạnh thiêng liêng ngăn cản.
Lúc đó, Maria nhận ra tội lỗi của mình và tràn ngập cảm giác ăn năn.
Bà chạy trốn vào sa mạc, sống trong cô độc và sám hối suốt hàng chục năm.
Qua việc tự kiềm chế nghiêm khắc và cầu nguyện không ngừng, Maria biến đổi tâm hồn mình, đạt được sự thanh khiết tâm linh.
Cuộc đời bà cho thấy rằng: Không ai nằm ngoài vòng tay nhân từ của Chúa, và cả những ai chìm sâu trong tội lỗi, cũng có thể tìm thấy sự tự do đích thực trong Ngài.
*****
3. Thánh Tôma Aquinô
- Sức Mạnh Kháng Cự của Thiên Thần
Được gọi là “Tiến Sĩ Thiên Thần,” thánh Tôma Aquinô dâng mình cho đời sống thanh khiết và sự hiến thân trí thức cho Chúa.
Tuy nhiên, khi còn trẻ, ngài phài đối diện với thử thách lớn: khi gia đình, phản đối việc ngài gia nhập dòng Đa Minh, đã nhốt ngài trong một tòa tháp và sai một cô gái đến quyến rũ ngài.
Người phụ nữ này cố gắng cám dỗ Tôma, nhưng ngài đã kháng cự, cầm lấy một thanh củi cháy để đuổi cô ra khỏi phòng.
Sau đó, Tôma quỳ gối cầu xin ơn thanh khiết.
Theo truyền thuyết, các thiên thần đã xuất hiện và trao cho ngài “dây đai trong sạch,” mà ngài đeo suốt đời.
Từ đó, Tôma nổi tiếng với cam kết thanh khiết vững bền, điều này thấm nhuần vào các công trình thần học của ngài, tập trung vào Thiên Chúa.
*****
4. Thánh Biển Đức
- Chiến Thắng Cám Dỗ qua Khổ Chế.
Thánh Biển Đức (Bênêđictô), cha của đời sống đan tu, đã phải đấu tranh với những cám dỗ mãnh liệt về xác thịt, khi sống đời ẩn tu.
Ma quỷ muốn lôi kéo ngài vào đường lầm lạc, đã dùng ký ức về một người phụ nữ trong quá khứ, để khơi dậy ham muốn.
Biển Đức đã lao mình vào bụi gai, chấp nhận đau đớn thể xác, như một phương tiện để thanh tẩy tâm hồn.
Hành động khổ chế quyết liệt này không chỉ xua tan cám dỗ, mà còn củng cố ý chí của Biển Đức.
Sau đó, ngài thành lập các đan viện và xây dựng Luật Thánh Biển Đức, nhấn mạnh sự thanh khiết, khiêm nhường cùng đời sống cộng đoàn.
*****
5. Thánh Margarita Cortona
- Ôm lấy đời sống Thanh Khiết, sau những đam mê trần tục.
Thánh Margarita Cortona đã sống như một tình nhân của một quý tộc trong nhiều năm, trước khi trải qua sự hoán cải.
Bà có một con ngoài giá thú và sống một cuộc sống đặt nặng vật chất và lạc thú xác thịt.
Tuy nhiên, khi người tình của bà bị sát hại, Margarita trải qua một sự thức tỉnh sâu sắc, cảm thấy hổ thẹn và khao khát tự do tâm linh.
Bà từ bỏ lối sống cũ, trở về quê hương, xưng tội và hiến mình cho sự sám hối và các công việc bác ái.
Margarita gia nhập Dòng Ba Phanxicô, dâng hiến đời mình cho việc cầu nguyện và chăm sóc người bệnh, người nghèo.
Cuộc biến đổi của bà nhấn mạnh rằng: sự thanh khiết có thể là một hành trình chữa lành và ăn năn, có thể dẫn đến sự đổi mới tâm hồn.
*****
6. Thánh An-phong-sô Li-guo-ri
- Cuộc Chiến của Nhà Trí Thức Trước Dục Vọng
Thánh Anphongso Liguori, đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế và là Tiến sĩ Hội Thánh, đã đấu tranh với những cám dỗ xác thịt suốt đời. Là một nhà thần học đạo đức nổi tiếng, Anphongso nhận thức rõ sự yếu đuối của con người và sức mạnh của cám dỗ.
Ngài đối diện những cám dỗ này bằng lời cầu nguyện mãnh liệt và khổ chế, thường dành hàng giờ chiêm niệm trước Thánh Thể.
Anphongso tin tưởng vào sức mạnh của việc xưng tội thường xuyên và Thánh Thể, để củng cố lòng can đảm.
Những tác phẩm của ngài phản ánh sự hiểu biết sâu sắc về tâm hồn con người và đưa ra hướng dẫn thực tiễn, để chiến thắng cám dỗ qua kỷ luật tâm linh.
*****
- Bài học từ cuộc chiến chống lại dục vọng của các thánh:
1. Chúng ta luôn có thể hoán cải mọi lúc.
Các thánh từng đấu tranh với cám dỗ xác thịt, nhắc nhở chúng ta rằng: Sự hoán cải luôn khả thi, bất kể quá khứ của mình.
Thánh Augustinô và Thánh Maria Ai Cập… chứng minh rằng ơn Chúa có thể biến đổi cả những tội nhân mãnh liệt nhất, thành những mẫu gương thánh thiện.
2. Cần thiết phải có những biện pháp quyết liệt
Các thánh, như Thánh Biển Đức, đã sử dụng khổ chế để vượt qua cám dỗ. Dù không phải ai cũng được gọi theo cách này, điều này cho thấy tầm quan trọng của việc loại bỏ, hoặc tránh xa các nguồn cám dỗ khi có thể.
3. Lời cầu nguyện và các bí tích chính là vũ khí.
Các thánh như Thánh Anphongso và Thánh Tôma đã dựa vào cầu nguyện, xưng tội và Thánh Thể, để củng cố lòng thanh sạch. Họ coi đây là áo giáp thiêng liêng cho họ ân sủng cần thiết để chống lại tội lỗi.
4. Sự thanh khiết là cam kết trọn đời
Đối với nhiều vị thánh, đức khiết tịnh không phải là một chiến thắng nhất thời, mà là một cuộc chiến lâu dài.
Cuộc sống của họ khuyến khích chúng ta theo đuổi sự thanh sạch mỗi ngày, ý thức rằng: Điều đó đòi hỏi sự tỉnh thức và một mối quan hệ ngày càng sâu sắc với Chúa.
5. Khiết tịnh là tự do, không phải là giới hạn,
Cuối cùng, các thánh tìm thấy niềm vui và tự do trong cam kết khiết tịnh của mình.
Đời sống của họ minh chứng rằng: Sự thanh sạch dẫn đến tình yêu sâu đậm hơn dành cho Chúa và tha nhân, không bị vướng bận bởi những đam mê ích kỷ.
Các thánh đã từng đối diện với cám dỗ xác thịt nhắc nhở chúng ta về lời mời gọi nên thánh trong cuộc sống của chính mình.
Cuộc chiến và chiến thắng của họ trước dục vọng cho thấy rằng: Với ơn Chúa, chúng ta cũng có thể vượt lên những yếu đuối của mình.
Dù qua lời cầu nguyện, sự ăn năn hay các bí tích, tấm gương của họ hướng dẫn chúng ta đến một đời sống nhân đức, tôn vinh phẩm giá con người và thiên định của chúng ta là con cái Thiên Chúa.
(Clive Fernandes - Mai Anh - Bài trên Trang Hỏi Đáp Tôn Giáo)
Có hai anh bạn đi mua đồ phế thải. Sau khi xem xét một hồi, anh thứ nhất nói:
- Ở đây toàn là đồ “năm vố” không à. (đồ ve chai, đồ linh tinh, không gía trị)
Còn anh kia thì nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ đã han dỉ và nói:
- Thật là khó mà tin được, tôi đã tìm thấy một món đồ quý. Cây thánh giá này được làm bằng chất bạc ngày xưa.
Anh ta mang cây thánh giá về nhà, lau chùi, rồi đưa cho đứa con mới đi học giáo lý về xem. Nó kính cẩn, cầm trong tay, ngắm nghía một hồi rồi bật khóc. Thấy vậy anh liền hỏi:
- Tại sao con khóc.
Nó trả lời:
- Con không thể cầm lòng được, khi nhìn vào Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Và như thế, cả ba người đều nhìn vào cây thập giá, thế mà người thứ nhất chỉ thấy đó là đồ ve chai, mủ bể, phế liệu, người thứ hai thì thấy đó là một đồ vật, có chất liệu rất giá trị. Còn người thứ ba thì nhận ra Chúa Giêsu trên đó.
Cách nhìn cây thập giá trên cũng tương tự như cách chúng ta nhìn Phúc âm.
Tất cả chúng ta đều nghe cùng một đoạn Phúc âm, thế nhưng mỗi người lại hiểu và phản ứng một cách khác nhau.
- Có thể chúng ta chỉ nghe như nghe một câu chuyện bình thường, chẳng có chi đặc sắc.
- Có thể chúng ta đã lắng nghe và tiến thêm một bước nữa, đó là tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện.
- Có thể ngoài việc học hỏi ý nghĩa, chúng ta còn cố gắng áp dụng vào cuộc sống.
Đó là ba bước tiếp nhận Phúc âm: lắng nghe, học hỏi và áp dụng.
Đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay về sự việc Chúa Giêsu chịu phép rửa (Mc 1, 6b-11).
Bước thứ nhất, chúng ta lắng nghe câu chuyện và biết rằng: sau khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì tầng trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống và có tiếng từ trời phán ra. Và cũng chỉ có vậy mà thôi.
Bước thứ hai, chúng ta đi xa hơn một chút, bằng cách cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của những sự kiện trên. Chẳng hạn hình ảnh trời mở ra cho ta thấy Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của dân Ngài và Ngài đang đến để cứu vớt họ.
Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống gợi lên cho chúng ta về một kỷ nguyên mới, vũ trụ này được tái tạo để trở nên tốt đẹp hơn, như ngày xưa, khi tạo dựng trời đất, Thánh Thần Chúa cũng đã bay lượn trên nước.
Còn hình ảnh thứ ba, có tiếng nói từ trời phán ra:
- Đây là con Ta rất yêu dấu.
Những lời này cho thấy Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới của cuộc tạo dựng mới, như lời thánh Phaolô:
- Người thứ nhất tức Adong được tạo dựng là con người sống. Nhưng Adong cuối cùng là Đức Kitô, lại là thần khí ban sự sống.
Adong thứ nhất bởi đất mà ra. Còn Adong thứ hai thì từ trời mà đến. Như chúng ta đã mang ảnh hưởng của con người bởi đất, tức Adong thứ nhất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mang hình tượng con người bởi trời, tức Adong thứ hai là Đức Kitô như vậy.
Ngoài việc lắng nghe, tìm hiểu ý nghĩa, chúng ta còn phải áp dụng ý nghĩa câu chuyện ấy vào cuộc sống chúng ta.
Chẳng hạn, chúng ta có thể nhớ lại rằng: Cuộc sáng tạo mới bắt đầu với phép rửa của Chúa Giêsu và đã trở thành một thực tại gắn bó với mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì một cách nào đó, bầu trời cũng mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa.
Và như thế chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với tước vị cao cả ấy. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã khuyên chúng ta:
- Anh em đã sống lại cùng Đức Kitô, vậy anh em hãy hướng tâm hồn vào những sự trên trời chứ đừng vào những sự vật của trần thế này.
Lạy Chúa, chúng con đã được Rửa tội và được Thêm sức trong Đức Giêsu Kitô và Thánh Thần của Người, để được làm con cái Chúa, xin cho chúng con luôn sống xứng đáng người con yêu quí của Chúa. Amen.
Trong cuốn sách “Aqua Church”, Leonard Sweet đã đưa ra một thống kê như sau:
“Không có nước thì bạn sẽ chết về cả thể lý, lẫn tinh thần. Nếu bạn thiếu 1% số lượng nước trong cơ thể sẽ làm bạn khát nước. Nếu thiếu 5% sẽ gây nên sốt nhẹ. Nếu thiếu 8% sẽ làm cho các tuyến hạch ngưng sản xuất nước miếng và da trên cơ thể sẽ tái ngắt. Một người sẽ không thể bước đi nổi nếu thiếu 10% số lượng nước trong cơ thể, và nếu thiếu tới 12% sẽ chết. Mỗi ngày có khoảng 9.500 trẻ em chết vì thiếu nước uống hay chết vì những bệnh gây ra do nước bị ô nhiễm”.
Nước mang lại sự sống đời này. Chúa Giêsu cũng dùng nước làm biểu tượng mang lại ơn “tái sinh và được đổi mới trong Chúa Thánh Thần”.
Theo linh mục Eugene Laverdiere, trong Phúc âm của Luca và Matthêu, căn tính của Chúa Giêsu được mạc khải qua các biến cố Truyền Tin, Giáng Sinh và các nhà đạo sĩ đến thờ lạy.
Thánh Gioan trình bày là Lời Hằng Sống mặc lấy xác thịt để mạc khải về Thiên Chúa Cha.
Còn thánh Máccô đã dùng phép rửa của Gioan để nhận Chúa Giêsu là ai: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời: Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”.
Theo cha Laverdiere, Chúa Giêsu không phải là người tội lỗi, Ngài không cần phải chịu phép rửa của Gioan. Nhưng vì Ngài muốn kết hợp chính bản thân của mình với nhân loại tội lỗi để cứu rỗi họ.
Phép rửa của Chúa Giêsu đã công bố Ngài, một con người trong sự liên kết với toàn thể loài người, và điều này đã chứng tỏ ý muốn của Ngài mang lấy gánh nặng của tội lỗi chúng ta trên đôi vai vô tội của Ngài.
Trong ý nghĩa này, xin dùng hai hình ảnh cụ thể để minh hoạ cho phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa tội của chúng ta: Cuộc chạy đua marathon và cây nến sáng.
1. Cuộc chạy đua Marathon:
Tháng 7 năm 1996, những cuộc tranh tài thể thao Olympic được tổ chức tại Atlanta, tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Khi nghe tiếng súng khởi sự, 25 vận động viên chạy đua marathon bắt đầu khởi động cho cuộc chạy thi 10 ngàn mét. Mười ngàn mét là 10 cây số, tức 6 dặm.
Trước khi nói về vận động viên Stefano Baldini, tôi xin nói về một chi tiết đáng lưu ý của cuộc thi này như sau.
Trong số 25 vận động viên chạy thi lần này, có 7 người chưa bao giờ hoàn tất được cuộc thi, nghĩa là chưa bao giờ chạy về đến đích cho dù mất bao nhiêu thời gian. Họ bỏ cuộc vì chuột rút bắp vế, vì đau chân, kiệt sức… nên họ có tên là DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.
Stefano Baldini trong cuộc thi này đã cố chạy về tới đích điểm, cho dù hết người này tới người khác vượt qua mặt anh. Họ vượt qua mặt anh không những một vòng chạy mà tới những hai vòng chạy! Một người Ethiopy đã về tới đích trước, đoạt hạng nhất. Rồi người khác về nhì, người về ba. Dần dần tất cả thứ hạng nhất nhì ba đã được công bố, họ đang nghỉ mệt, chúc mừng và sẵn sàng leo lên bệ đài lãnh huy chương. Nhưng anh Stefano Baldini vẫn còn đang chạy. Anh không bỏ cuộc, cứ tiếp tục chạy.
Khi anh về đến đích, xướng ngôn viên của ban tổ chức loan báo cho tất cả hội trường biết rằng anh chỉ về sau người hạng nhất có 2 phút, và tốc độ chạy ở dặm cuối cùng nhanh hơn thời gian anh chạy ở dặm thứ nhất. Khi anh về tới đích thì toàn thể hội trường đều đứng lên vỗ tay chúc mừng và hoan hô anh. Anh đã không chỉ hoàn tất cuộc chạy đua cách can trường, mà còn kết thúc nó một cách xứng đáng.
*****
Qua phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu bắt đầu ba năm mục vụ để rao giảng tình yêu và ơn cứu độ cho tất cả mọi người.
Ngài bắt đầu cuộc chạy đua marathon. Theo thánh Máccô, ngay sau phép rửa, Chúa Giêsu vào sa mạc ăn chay, cầu nguyện và bị ma quỷ cám dỗ. Cuộc hành trình của Ngài là cuộc hành trình gian khổ giống như mọi người. Ngài giảng dạy, chữa lành, kể dụ ngôn, ngay cả khi nhiều người không chịu nghe! Ngài không bao giờ bỏ cuộc.
Đang khi chết trên thập giá, Ngài giống như là kẻ thua cuộc nhất trên thế gian này. Nhưng lại là lúc Ngài chiến thắng. Đó là phần tốt nhất của Ngài trong cuộc đua. Vì sự vinh quang của thập giá, mà bây giờ các Kitô hữu đang vỗ tay hoan hô nhiệt liệt, chúc mừng Ngài là Đấng Cứu Độ Trần Gian.
Đời sống Kitô hữu cũng giống như một cuộc chạy đua marathon. Nó vừa dài, vừa khó khăn, lại vừa đòi hỏi. Phép rửa tội đưa chúng ta vào khởi động. Đang khi chạy, chúng ta dễ bị nản chí, bỏ cuộc, bởi yếu đuối, cám dỗ… mà quên rằng đích điểm của cuộc chạy đua là sự sống đời đời và sự liên hệ với Chúa Giêsu Kitô. Nhiều khi đích điểm đó đã trở nên mờ nhạt! Chúng ta muốn bỏ cuộc, muốn mang tên DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.
Mẹ Têrêsa Calcutta, người đã ăn bánh mì chấm với nước lã, chưa bao giờ cân nặng hơn 100 pounds (45 kg).
Tuy nhiên, hãy nhìn vào cuộc chạy đua marathon Kitô hữu của Mẹ! Vào ngày Mẹ chết, mùng 5 tháng 9, 1997, toàn thể thế giới vỗ tay reo mừng.
Xưa kia, một phóng viên đã hỏi Mẹ, “Thưa Mẹ, làm thế nào Mẹ có thể làm được như vậy? Làm thế nào Mẹ có sức mạnh để tiếp tục sống như vậy?” Mẹ đã trả lời: “Tôi nhìn vào khuôn mặt của người nghèo mà thấy mặt Chúa Giêsu”.
Trong Chúa Giêsu, Mẹ Têrêsa đã tìm thấy sức mạnh để tiếp tục cuộc chạy đua đường trường marathon. Tình yêu mến Chúa Giêsu là động lực để phục vụ tha nhân và sống bác ái.
2. Cây nến sáng.
Một hình ảnh khác cũng mang ý nghĩa sâu xa của đời sống Kitô hữu, đó là cây nến sáng.
Ngày chúng ta chịu phép rửa tội, người đỡ đầu đã đại diện chúng ta đón nhận lấy ánh sáng của Chúa Kitô từ cây nến Phục Sinh. Cây nến Phục Sinh là biểu tượng của Chúa Kitô: “Ta là ánh sáng thế gian”.
Chúng ta chấp nhận bước đi trong ánh sáng của Đức Kitô và làm chứng nhân cho Ngài, nên được gọi là người Kitô hữu. Cây nến sáng là hình ảnh cuộc đời của người Kitô hữu.
Cây nến được làm nên bởi sáp ong. Sáp ong là kết quả công trình làm việc rất kiên nhẫn của những con ong thợ. Chúng bay từ bông hoa này sang bông hoa khác để hút lấy phần tinh túy của nhụy hoa, rồi tiết thành sáp ong. Sáp ong giúp cho ngọn lửa cháy sáng.
Sáp ong cũng là hình ảnh của thân xác con người. Con người là tinh hoa của công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Một tạo vật hoàn hảo và đẹp đẽ nhất trong vũ trụ. Không có thân xác, con người không thể hiện hữu trên trần gian được.
Cây nến cháy sáng lên với ngọn lửa. Ngọn lửa tạo ra ánh sáng và hơi ấm. Anh sáng và hơi ấm làm cho phần sáp ong của cây nến có ý nghĩa và mục đích. Ngọn lửa là hình ảnh của đời sống tinh thần nơi thân xác, là đức tin của người Kitô hữu, là mục đích và ý nghĩa của cuộc đời. Chính đức tin vào Chúa Giêsu Kitô tạo nên ánh sáng hy vọng và hơi ấm tình người trong cuộc đời của người Kitô hữu.
Ngọn lửa luôn cháy thẳng đứng, bất kể cây nến sáp ong ở vào vị trí nào. Dù nghiêng sang bên trái, bên phải, hay ngã đổ xuống, ngọn lửa vẫn luôn cháy thẳng lên.
Đức tin Kitô giáo luôn mang tính cách hướng thượng. Nó phản ảnh lòng khát khao sự sống vĩnh cửu, tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa Toàn Năng. Dù cuộc đời người Kitô hữu có nghiêng ngả, chao đảo, đôi khi đổ ngã, nhưng đức tin và đời sống ân sủng của Chúa Giêsu Kitô vẫn luôn hiện diện.
Ngọn lửa càng cháy sáng và hơi nóng càng ấm áp thì cây nến sáp ong càng bị mất mát, ngắn dần và bị tiêu thụ đi bấy nhiêu. Đời sống đức tin của người Kitô hữu đòi hỏi sự hy sinh, quên mình để làm chứng cho Đức Kitô.
John Ruskin, một văn sĩ người Anh sống vào thế kỷ thứ 18, đã kể lại câu chuyện sau đây.
Khi về già, ông thường đến thăm nhà của một người bạn rất thân, và đứng ở cửa sổ phía trước nhà nhìn xuống mặt đường. Vào mỗi buổi chiều tối, người thắp đèn đường phải đi đốt đèn dọc theo hai bên đường. Từ cửa sổ của một ngôi nhà, một người chỉ có thể nhìn thấy những ánh đèn đã được đốt lên rồi, và ngọn lửa mà người thắp đèn đang mang đi đốt từ cột đèn này tới cột đèn khác. Chính người thắp đèn cũng không thể được ai nhìn thấy.
Nhà văn Ruskin đã lưu ý rằng: người thắp đèn là một hình ảnh rất đúng của người Kitô hữu chân chính.
Con đường của người Kitô hữu bước đi rực sáng ánh đèn mà chính người đó đã thắp lên với ngọn lửa đang cháy sáng trong tay để đốt lên các ngọn đèn khác, mặc dù chính người đó có thể không được ai biết đến hay được ai trông thấy.
Trong cuốn “Như Tiếng Chim Ca” của cha Anthony de Mello, SJ., kể câu chuyện “Thiền Sư Và Kitô Hữu” cũng nói lên lý tưởng của người Kitô hữu như sau:
Một Kitô hữu đến thăm một vị thiền sư và nói: “Xin thầy cho phép tôi đọc thầy nghe Bài Giảng Trên Núi”.
Thiền sư đáp: “Tôi rất thích nghe”. Người Kitô hữu đọc một câu rồi ngước mắt lên nhìn. Thiền sư mỉm cười nói: “Đấng đã phán những lời đó chắc chắn phải là một vị Giác Ngộ”.
Kitô hữu cảm thấy khoái trá. Ông tiếp tục đọc.
Thiền sư ngưng lại rồi nói: “Những lời đó phải phát xuất từ Đấng Cứu Thế của nhân loại”.
Người Kitô hữu cảm thấy thích thú. Ông tiếp tục đọc cho đến hết.
Lúc bấy giờ thiền sư tuyên bố: “Người đã rao giảng như thế phải là Thiên Chúa”.
Nỗi vui mừng của người Kitô hữu thật vô bờ bến. Ông ra về, cương quyết sẽ trở lại một ngày khác để thuyết phục thiền sư trở thành Kitô hữu.
Trên đường về nhà, ông gặp Chúa Giêsu đứng bên vệ đường. Ông đã thưa với Chúa một cách khoái trá: “Lạy Chúa, con đã làm cho người đó xưng ra Chúa là Thiên Chúa!”
Chúa Giêsu mỉm cười và nói: “Con đã làm gì hay đâu, ngoại trừ việc con thổi phồng cái tôi Kitô hữu của con mà thôi?”
Đời sống đức tin của người Kitô hữu là một “chứng nhân không nhân chứng” cho Chúa Kitô, vì họ không phải là Chúa Kitô, nên cũng dễ bị phản chứng.
Đời sống đức tin của người Kitô hữu là một cuộc chạy đua marathon, vì là cuộc chạy đua chưa về tới đích điểm, nên cũng dễ bị mang tên DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, noi gương Mẹ Têrêsa, nếu chúng ta luôn giữ vững niềm tin nơi Chúa Giêsu, chúng ta sẽ hoàn tất cuộc đua. Chúng ta có thể sẽ bị người khác vượt qua. Có thể bị đau chân, chạy cà nhắc vài dặm. Nhưng với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ hoàn tất và có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính”.
Và các thiên thần cùng các thánh sẽ vỗ tay hoan hô ngày chúng ta hoàn tất cuộc đua marathon Kitô hữu về tới đích điểm là Nước Thiên đàng.
Từ trên thánh giá nhìn sang bên phải và bên trái, Chúa Giêsu thấy hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh như Người.
Đó là những kẻ phạm pháp thực sự và xứng đáng bị trừng phạt. Chính một trong hai đã nhìn nhận: “Chúng ta phải chịu thế này là đáng tội”.
Họ cũng như Chúa Giêsu phải vác thập giá của mình leo lên đỉnh đồi Can vê; cũng chịu đóng đinh; và giờ đây cũng đang hấp hối…
Có lẽ họ cũng có mặt trước dinh Philatô, khi Chúa Giêsu bị xét xử, để chờ khi Philatô kết án xong, thì cùng với Người được dẫn đi đóng đinh.
Trên đường vác thập giá, có lẽ họ cũng đã nghe những lời bình phẩm về Chúa Giêsu, được thốt ra từ miệng những người có cảm tình với Người, cũng như những kẻ thù ghét Người.
Trước khi họ bị bắt, có lẽ họ cũng có lần gặp mặt Người.
Tóm lại, họ biết Chúa Giêsu là một nhân vật đặc biệt và đa số dân chúng coi Người là Đấng Thiên Chúa sai đến.
Bây giờ trong giây phút cuối đời, họ lại được gặp Người, ở ngay bên cạnh Người.
Đây là một cuộc gặp gỡ có tính quyết định sống còn.
Nhưng thái độ hai người này rất khác nhau:
- Một người thì sừng sỏ hung dữ. Anh xỉa xói Chúa Giêsu: “Ông có giỏi thì cứu lấy ông và cứu chúng tôi luôn đi”.
Anh này không chấp nhận số phận của mình. Anh chửi rủa lung tung: Chửi rủa những đau đớn của mình, chửi rủa các quan tòa, chửi rủa đám lý hình, chửi rủa dân chúng đứng nhìn… Anh ngụp lặn trong cảm xúc oán hận và trong ước muốn báo thù… Anh khép lòng trong bóng đêm tăm tối…
- Người kia thì trái lại. Trong những giờ phút cuối đời, anh cố gắng làm hồi sinh những tâm tình tốt đẹp.
Anh tự nhủ: “Đây không phải là lúc giận trách Thiên Chúa”.
Anh nói với người kia: “Ít ra chúng ta cũng phải sợ bị Thiên Chúa xét xử chứ! Chúng ta phải chịu thế này là đáng tội rồi. Còn ông Giêsu này, ông không hề làm điều gì sai trái”.
Rồi anh quay sang Chúa Giêsu nói: “Thưa Ngài, khi Ngài về Nước Ngài, xin hãy nhớ đến chúng tôi”.
Anh đã nói “Nước Ngài”, bởi vì nhiều lần anh nghe Chúa Giêsu giảng về Nước Thiên Chúa.
Chúa Giêsu thấy thiện ý của anh, nên Người đáp: “Ngay hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
--------- *** Nguyên bản tiếng Pháp: Ceux que Jésus voyait du haut de la Croix (A-D. Sertillanges)
*****
2. Về chuyện: Từ trên thánh giá, Chúa Giêsu cũng thấy tôi
1. Phải chăng đôi khi tôi giận trách Chúa, vì tôi gặp thất bại trong việc học hành, trong nghề nghiệp… vì tôi không đạt được điều mong muốn, vì tôi gặp điều trái ý… thay vì tôi phải xét mình kỹ xem, những điều ấy có phải tại tôi không: tại tôi lười biếng, tại tôi cẩu thả, tại tôi gây thù chuốc oán trước với người ta…
2. Khi gặp chuyện phiền muộn, phản ứng của tôi thường là khép lòng lại trong tủi hờn, cay đắng, chán nản, bi quan… hay là mở lòng ra với Chúa để cầu nguyện, xin Người an ủi, thêm sức, giúp đỡ…?
3. Khi tôi buồn khổ, bệnh tật… tôi có biết tự nhủ: “Mình sẽ mang nỗi buồn khổ này đi dự thánh lễ, để kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu, hầu cứu giúp những người khốn khổ và tội lỗi” không?
Tôi có tin rằng những đau khổ kết hợp với Thánh Giá Chúa Giêsu sẽ là nguồn ơn cứu rỗi không?
4. Khi một người nào đó nói những lời không tốt đẹp về tôi, nói những lời xúc phạm đến tôi, thì:
- Tại sao tôi không sẵn sàng bỏ qua cho người đó? - Tại sao tôi phải ghét người đó? - Tại sao tôi không chịu tha thứ cho người đó?
Chúa Giêsu đã chịu chết vì những tội lỗi của bạn, Chúa sẵn sàng tha thứ những tội lỗi của bạn, mà tại sao bạn lại không thứ tha cho những người đã xúc phạm đến bạn?
Hôn nhân không chỉ là sự hòa hợp giữa hai con người, mà còn là sự giao thoa của hai tâm hồn, hai thế giới quan, hai hệ giá trị.
Đối với người Ki-tô hữu, hôn nhân không đơn thuần là một giao ước trần thế, mà còn mang ý nghĩa thiêng liêng, là bí tích được Thiên Chúa thánh hóa.
Chính vì thế, khi yêu và kết hôn với một người khác đạo, họ thường ước mong người bạn đời của mình cùng bước vào đức tin Công giáo.
Khát vọng này không phải là sự áp đặt, mà là một lời mời gọi dịu dàng, xuất phát từ niềm tin, tin rằng tình yêu chỉ thực sự trọn vẹn, khi có Chúa hiện diện, hộ phù, chở che và dẫn dắt.
Hôn nhân, tự bản thân nó, là một hành trình không dễ dàng. Đó là sự hòa quyện của hai linh hồn, là bản giao hưởng của yêu thương, trong đó, đức tin đóng vai trò như một giai điệu nền, chi phối nhịp điệu của đời sống vợ chồng.
Khi cả hai cùng chung một đức tin, họ có thể đồng hành trong hành trình tâm linh, cùng nâng đỡ nhau trong cầu nguyện, cùng tìm thấy sức mạnh trong lời Chúa.
Nhưng nếu một người không chia sẻ niềm tin ấy, liệu rằng bản giao hưởng có thể vang lên một cách trọn vẹn không?
Người Ki-tô hữu khao khát bạn đời cùng mình bước đi trên con đường ấy, không phải vì ích kỷ hay độc đoán, mà bởi họ tin rằng: Một tình yêu vững bền, cần có sự hòa hợp, không chỉ trong tâm hồn, mà còn cả trong niềm tin nữa.
Hơn thế nữa, hôn nhân không chỉ là câu chuyện của hai người, mà còn là nền tảng của một gia đình.
Gia đình là chiếc nôi của yêu thương, nơi con cái được nuôi dưỡng, không chỉ bằng cơm áo, mà còn bằng giá trị đạo đức, tinh thần và đức tin.
Một gia đình có cùng đức tin sẽ tránh được những rạn nứt do khác biệt về lối sống, quan điểm.
Khi vợ chồng cùng nhìn về một hướng, cùng tôn thờ một Thiên Chúa, họ dễ dàng đồng thuận, trong cách giáo dục con cái, trong những quyết định quan trọng của cuộc đời.
Người Ki-tô hữu không mong muốn áp đặt bạn đời phải cải đạo, nhưng họ khao khát một gia đình được xây dựng trên cùng một nền tảng tinh thần, nơi mà tình yêu không chỉ là sợi dây liên kết hai người, mà còn là nhịp cầu đưa họ đến gần Thiên Chúa hơn.
Đức tin không phải là xiềng xích, mà là đôi cánh nâng con người lên cao hơn.
Khi một người Ki-tô hữu mong muốn bạn đời của mình gia nhập đạo, đó không phải là sự cưỡng ép, mà là một lời mời gọi yêu thương.
Họ mong muốn người mình yêu cũng có cơ hội cảm nhận sự bình an trong Thiên Chúa, cũng có thể tìm thấy niềm an ủi trong những lúc gian nan.
Đối với họ, không có món quà nào quý giá hơn việc cùng người bạn đời chia sẻ một niềm tin, cùng nhau tiến về sự sống đời đời.
Hơn cả một ước mong cá nhân, việc mong muốn người bạn đời gia nhập đạo còn mang ý nghĩa của một sứ mạng.
Hôn nhân không chỉ là sự kết hợp giữa hai cá nhân, mà còn là một sứ vụ thiêng liêng.
Khi một người ngoài Công giáo gia nhập đạo, họ không chỉ bước vào một mối quan hệ mới với người bạn đời. mà còn mở ra một hành trình tâm linh với Thiên Chúa.
Gia đình trở thành một vườn ươm của đức tin, nơi mà tình yêu và lòng tin tưởng cùng đâm chồi, lớn mạnh.
Người Ki-tô hữu mong muốn bạn đời của mình cùng họ thực hiện sứ vụ ấy, để ánh sáng Tin Mừng không chỉ rạng ngời trong trái tim mỗi người, mà còn lan tỏa trong từng ngõ ngách của cuộc sống.
Khát khao người bạn đời cùng chung đức tin không phải là một yêu cầu cứng nhắc, mà là một ước mong dịu dàng của những người tin vào tình yêu Thiên Chúa. Bởi lẽ, khi hai trái tim cùng chung một nhịp đập, khi hai tâm hồn cùng hướng về một lẽ sống, thì hạnh phúc không còn là điều mong manh, mà là một sự vững bền, một hành trình thiêng liêng mà họ sẽ cùng nhau sánh bước. Và trên con đường ấy, họ không chỉ có nhau, mà còn có Thiên Chúa đồng hành, chúc phúc, và che chở đến muôn đời.
Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nho, (là Giám Ðốc và là Giáo sư Ðại Chủng Viện Sao Biển Nha Trang, nguyên là Giám mục phó Giáo Phận Nha Trang lúc bấy giờ) đã có lần kể một câu chuyện thật vui, thật thú vị như sau:
Khi ra miền Bắc, có lần một người giáo dân đã đặt ra cho Ngài một câu hỏi rất khó:
"Tại sao Chúa Giêsu, khi làm người, đã hội nhập với cuộc sống nhân loại, mà không chịu lập gia đình, vẫn sống cuộc đời độc thân cho đến chết?"
Đang khi Đức Cha đâm chiêu suy nghĩ, để tìm câu trả lời, thì bỗng có một có một người giáo dân giơ tay lên trả lời thay cho Đức Cha.
- Kính thưa Đức Cha:
Khi đọc Kinh Thánh, con còn nhớ có đoạn ghi như sau:
“Xưa kia, khi đi gảng đạo, Chúa Giêsu cũng đã từng đi từ "nàng" này sang "nàng" khác, nhưng các "nàng" đã không tiếp nhận Ngài, nên Ngài đã rời bỏ các "nàng" mà đi nơi khác. Theo con, "đó là lý do tại sao mà Chúa Giêsu đã sống đời độc thân".
Bỗng tất cả mọi người trong cả hội trường đồng loạt phá lên cười thật to tiếng, cười thật thoải mái. Thế là họ đã quên hẳn câu hỏi đã đặt ra cho Đức Cha.
(Thật sự ở miến Bắc, có một số miền quê, người ta đọc chữ “L” thành chữ “N, chữ Làng thành chữ Nàng”)
Gần đây, tôi có dịp trò chuyện với một người bạn là linh mục. Trong lúc tâm sự, ngài cầm điện thoại đưa cho tôi và bảo tôi đọc các tin nhắn.
Tôi lướt qua thì nhận thấy rằng hầu như 75% tin nhắn đều là từ gia đình, bạn bè, và cả những người xa lạ, tất cả đều là những lời xin giúp đỡ tài chính.
Ngài quay sang tôi và hỏi: “Cha Mark, khi cha chịu chức, Đức Giám mục có trao cho cha chìa khóa kho bạc của Giáo phận hay của Tòa Thánh không?”
Tôi bật cười vì câu hỏi đó, nhưng đồng thời cũng suy ngẫm về áp lực, mà người anh em linh mục này đang phải chịu đựng.
Gia đình và những người xung quanh dường như có suy nghĩ rằng: Làm linh mục, nghĩa là có rất nhiều tiền và có thể lo lắng, chu cấp, cho tất cả các nhu cầu của họ.
Sau một chút im lặng, tôi quay sang ngài và nói: “Thưa cha, con nghĩ rằng gia đình, họ hàng, bạn bè và mọi người cần phải hiểu rằng: Chúng ta không thể là trụ cột tài chính cho họ (ATM). Chúng ta có thể giúp đỡ trong mức độ khả năng của mình thôi, nhưng không thể vì áp lực này, mà đánh mất đi ý nghĩa và sứ mạng của thiên chức linh mục.”
*****
Bạn thân mến,
Hãy suy nghĩ về những điều sau đây, khi tiếp cận một linh mục, với mong muốn nhận được sự trợ giúp tài chính:
* Đừng đẩy linh mục vào con đường sai trái: Đừng tạo áp lực, khiến ngài phải lấy quỹ của Giáo xứ, hoặc lạm dụng tiền của Hội Thánh, để đáp ứng các nhu cầu tài chính cá nhân.
* Hãy trân trọng những gì ngài có thể giúp. Những gì linh mục chia sẻ với anh chị em, là từ khoản trợ cấp ít ỏi của ngài. Hãy nhớ rằng, đó không phải là nghĩa vụ, mà là một món quà, từ lòng bác ái của ngài.
* Linh mục là con người, cũng có những yếu đuối. Ngài hiểu rõ sự khốn khó của con người và chắc chắn sẽ làm hết sức để giúp đỡ những hoàn cảnh thực sự khó khăn. Nhưng xin đừng đặt áp lực quá lớn lên ngài.
* Hãy cầu nguyện và nâng đỡ ngài. Thay vì chỉ tìm đến linh mục khi cần tiền, hãy quan tâm đến đời sống của ngài, hỏi han sức khỏe, thăm viếng và dành thời gian chia sẻ với ngài.
* Động viên ngài trung thành với sứ vụ. Hãy khuyến khích ngài sống tận tụy với thiên chức linh mục và sứ mạng mục tử, thay vì bị cuốn vào những lo toan vật chất.
* Đừng vội vàng xét đoán. Khi linh mục không thể giúp đỡ về tài chính, đừng chỉ trích hay phán xét. Hãy nhớ rằng: ngài cũng có những giới hạn riêng của mình.
* Đừng hiểu lầm về cuộc sống của linh mục.
• Chiếc xe ngài đi, không thuộc về ngài, mà có thể là tài sản của giáo xứ, hoặc của ân thân nhân, hoặc là do sự tích cóp mà có.
• Ngôi nhà mà ngài sống là nhà xứ, không phải là của riêng ngài. Nên khi có sự thuyên chuyển, ngài sẽ rời đi với rất ít hoặc thậm chí là không có gì cả.
• Ngài có quyền ăn mặc chỉnh tề, vì ngài là đại diện của Giáo Hội và của Chúa Kitô. Đừng phán xét ngài chỉ vì vẻ ngoài.
• Khi đi nghỉ phép, đi du lịch, hoặc nghỉ dưỡng, hầu hết là nhờ vào sự giúp đỡ của giáo dân, hoặc những người hảo tâm, vì ngài cũng cần được nghỉ ngơi, để tiếp tục phục vụ tốt hơn.
* Đừng đặt áp lực tài chính lên linh mục.
Đáng buồn thay, linh mục sống hoàn toàn nhờ vào sự đóng góp của giáo dân và không tích lũy của cải. Khi qua đời, ngài ra đi mà không để lại tài sản gì cả.
* Linh mục là một ơn gọi, không phải một nghề nghiệp.
Vì vậy, xin hãy nhớ rằng: Ngài là linh mục, không phải một máy rút tiền! (ATM)
Xin anh chị em cầu nguyện cho các linh mục, để họ luôn vững vàng trong ơn gọi và trung thành với sứ mạng Chúa trao ban.
*** Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link trên của sách vào thẻ nhớ, hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. (Chỉ khoảng 24 tờ A4).
*** Bạn cũng có thể đọc trực tiếp các bài này, trên Điện Thoại cảm ứng, khi bạn dùng ngón tay chạm vào đường link trên: https://...
*** Và bạn cũng có thể chép đường link trên: https://... gởi qua Zalo, Messenger, Line, Viber, Tango... làm quà tặng cho các bạn bè, nhiều người được đọc, sẽ có nhiều lợi ích.
---------------------------------
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (10 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng – Sách 4
5. Chuyện “Số Con Rệp” – Sách 5
6. Thiên Chúa là Đấng hay quên – Sách 6
7. Chuyện một người con chọn mẹ để sinh ra – Sách 7
8. Family, một định nghĩa hay về gia đình – Sách 8
9. Hộ Chiếu Nước Trời – Sách 9
10. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng – Sách 10
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (20 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6
7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7
8. Một kiểu sống lại không vui - Sách 8
9. Chuyện con gà trống - Sách 9
10. Kinh cầu các thánh chẳng hề được phong - Sách 10
11. Làm phúc giúp các linh hồn nơi Luyện Ngục - Sách 11
12. Các linh hồn nơi Luyện Ngục sẽ không quên sự giúp đỡ của chúng ta - Sách 12
13. Tình Mẫu Tử trong dịp Lễ Giáng Sinh - Sách 13
14. Năm Thìn, nói chuyện con rồng - Sách 14
15. Nhật ký của một linh hồn sau khi chết - Sách 15
16. Những lời tâm sự của người cận kề cái chết - Sách 16
17. Tội nhân trở thành thánh nhân - Sách 17
18. Chuyện ông Panov gặp Chúa đêm Giáng Sinh - Sách 18
19. Cách hành xử của Chúa luôn là bất ngờ - Sách 19
20. Năm Thánh - Ất Tỵ 2025 - Sách 20
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (31 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16
17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17
18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18
19. Ngày của bố - Sách 19
20. Chuyện 2 cha con hoang đàng - Sách 20
21. Chuyện Kẻ “tự bắc thang lên trời” - Sách 21
22. Chuyện Quỷ Ám là có thật - Sách 22
23. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ - Sách 23
24. Thảm họa: Một Thiên Đường không có Thiên Chúa – Sách 24
25. Nếu Thiên Chúa không có, thì tại sao lại chống Ngài ? – Sách 25
26. Ông già Noel không mặc đồ đỏ – Sách 26
27. Tình yêu có sức mạnh biến đổi – Sách 27
28. Chuyện một mối tình thật đẹp – Sách 28
29. Một kinh ngiệm truyền giáo thật dễ thương – Sách 29
30. Tháng các đẳng linh hồn và những ước nguyện – Sách 30
31. Các Con đã Bỏ Quên Mẹ trong Luyện Ngục – Sách 31
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (7 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4
5. 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần I) – Sách 5
6. 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần II)– Sách 6 7. Tinh hoa và những lời nói sau hết của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu (Phần I)– Sách 7