***** Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;
2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, Cha Mễn kể chuyện, hoặc linh mục Mễn
3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com
5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
“Chỉ những người ít học, mê muội, dốt nát mới tin vào đạo”.
Nghe xong câu kết luận đó, cả lớp học im phăng phắc, còn lòng tôi thì bực tức, mà không nói nên lời.
Sự bực tức này có lẽ một phần, vì nội dung mà vị giáo sư đang giảng dạy, không chỉ đang đụng đến đức tin của người Công giáo như tôi, mà còn xúc phạm đến tất cả những người tin vào Thiên Chúa.
Phần nữa, tôi đau vì mình không có đủ khả năng, để đứng lên bảo vệ Đạo của mình.
Sau khi nghe xong phần trình bày của vị giáo sư đại học, mà tôi nghĩ là ông không có thiện cảm gì với người Công giáo, nên tôi về nhà, cố đi tìm câu trả lời cho riêng mình. Và khi đã tìm hiểu xong, tôi quyết định tìm gặp lại và đối thoại với vị giáo sư này.
Câu hỏi đầu tiên mà tôi đặt ra cho ông, đó là
- “Thưa Thầy, thầy có thể cho biết, đất nước nào hiện nay văn minh, và tiến bộ nhất thế giới”.
Vị giáo sư trả lời ngay:
- “ Nước Mỹ”.
Tôi nói liền:
- “ Vậy, thầy có thể cho em biết hiện nay nước Mỹ có bao nhiêu người tin vào Thiên Chúa?”
Vị Giáo sư nhìn tôi và hỏi:
- “Em hỏi vậy là có mục đích gì?”.
Tôi đáp:
- “Vì Thầy nói: “Chỉ những ai ít học, mê muội, dốt nát, mới tin vào Thiên Chúa”, nên em mới hỏi thầy câu này.
Ông chần chừ một lúc rồi nói:
- “ Nước Mỹ là nước có số người tin vào Thiên Chúa khá đông”.
- “ Đúng vậy. Em được biết tại nước Mỹ, có tới 86% tin vào Thiên Chúa, còn 14% nhận mình là vô thần mà. Chẳng lẽ 86% này cũng là những người mê muội, ít học phải không thầy?”
Hơn nữa, em còn thấy những bác học lừng danh của thế giới như:
Bacon, Isaac Newton, Albert Einstein, Louis Pasteur, Georges Lemaître (1894-1966) Linh mục Công Giáo, người khai phá ra thuyết Big Bang. Max Planck (1858-1947) …
Đoạt giải Nobel về vật lý và là cha đẻ của thuyết Quantum mechanics, Blaise Pascal (1623–1662) Thần đồng toán học, vật lý, và Lý Thuyết, René Descartes (1596–1650) Nhà bác học về Hình học và Những con số bất biến….
Người hướng dẫn cuộc Cách Mạng Khoa học của phương Tây: Roger Bacon (c.1214–1294), người áp dụng phương pháp thực nghiệm và các phương pháp khoa học tân tiến….
Viết về Luật Thiên Nhiên, cơ khí, địa lý và quang học: Johannes Kepler (1571–1630), Nhà vũ trụ học, tính toán sự di chuyển của các thiên hà. -Isaac Newton (1643–1727) Nhà khoa học và toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại và biết bao nhiêu nhà bác học khác đều là những Kitô hữu tốt lành……
Chẳng nhẽ, những nhà bác học này cũng là những người dốt nát và mê tín sao thầy? Em thấy tiền đề thầy đưa ra xem ra không ổn tí nào.
Vị giáo sư như chùng xuống một lúc rồi nói: “ Tôi cũng chỉ nói những gì mà sách vở và bổn phận tôi phải nói. Vì đó là nghề của tôi”.
Tôi đáp lại: “ Vâng, nếu thầy nói vậy, thì em hiểu rồi. Có điều em cảm thấy thầy không có tự do, khi truyền giảng cho sinh viên những kiến thức thực sự của thầy.
Nhưng còn một điều nữa, khiến em cũng đang thắc mắc”.
Ông nhìn tôi và hỏi: “ Em còn muốn hỏi điều gì”.
- “ Vâng, cũng chỉ liên quan đến điều thầy nói ở lớp thôi. Em muốn hỏi thầy: Có cái gì giả dối, mê muội nó tồn tại được lâu không thầy”. Tôi đáp lại.
Người thầy của tôi lúc này thong thả nói: “ Người ta vẫn nói: Sự thật, trước sau gì cũng là sự thật. Sự giả dối, có lừa được một số người, một số lần, rồi sẽ có ngày lộ diện em ạ”.
- “Cám ơn thầy. Thầy nói chí phải. “Thật thà, ma vật không chết” thầy nhỉ. Nếu Đạo Công Giáo mà giả dối, sao nó lại tồn tại lâu quá vậy. Nó không chỉ tồn tại, mà còn phát triển khắp cả thế giới và đứng vững một cách chắc chắn phải không thầy!”.
Người thầy gật đầu và nói với tôi:
“Thầy cảm phục tinh thần của em. Em là người có chính kiến và dám sống cho chính kiến của mình. Thầy tin rằng: Em sẽ làm được những điều tốt lành cho đất nước, cho xã hội. Chỉ tiếc là những người có chứng kiến và bản lãnh như em nơi sinh viên không có nhiều lắm. Chúc em thành công”.
Tạm biệt người thầy, mà tôi đã làm phiền quấy rầy.
Tuy thời gian gặp gỡ không dài, những tôi hiểu được phần nào nỗi đau của nhiều người, nhất là những giáo sư, thầy giáo, dẫu biết được sự thật, mà không dám nói sự thật.
Ước mong sao nơi giảng trường đại học sẽ có những cánh cửa của tự do, để tri thức thật được lên tiếng.
"IN GOD WE TRUST" - ”Chúng tôi tin vào Chúa” - Dòng chữ này hiện diện trên bất kỳ tờ tiền nào của Mỹ (Đô-la)!! (St)
Có một cậu bé sinh ra trong một gia đình nghèo, từ nhỏ đến khi đi học cậu chỉ mang mỗi một đôi giày rách.
Cậu bé nghe nói vào dịp lễ Giáng Sinh, khi đến bất cứ cửa hàng nào, chỉ cần nói với Thượng Đế thứ mình muốn, thì chủ cửa hàng sẽ thỏa mãn yêu cầu của mình.
Vào hôm Giáng Sinh, cậu bé đến một cửa hàng giày và nhìn vào trong, thấy bày bán những đôi giày rất đẹp, nên bé đã bước vào cửa hàng và nói với ông chủ rằng:
“Hôm nay là lễ Giáng Sinh, cháu rất thích đôi giày này, chú có thể giúp cháu nói với Thượng Đế, để Ngài ban cho cháu đôi giày này có được không ạ?”
Ông chủ nhìn xuống chân của cậu bé và hiểu ngay vấn đề. Ông cầm lấy đôi giày rồi nói:
“Được thôi cháu bé, bây giờ để ta vào trong, để nói với Thượng Đế”.
Sau đó, ông ấy cầm đôi giày và đi vào bên trong.
Một lúc sau, ông trở ra, nhưng trên tay ông lại chỉ cầm có mỗi một chiếc giày. Ông cầm chiếc giày đưa cho cậu bé và nói:
“Cháu bé ơi, Thượng Đế nói rằng: Ngài chỉ cho cháu có một chiếc giày thôi, cháu phải tự nghĩ ra cách kiếm tiền, để mua chiếc còn lại.”
Cậu bé hỏi:
“Vậy cháu phải kiếm bao nhiêu tiền nữa, thì mới mua được chiếc giày còn lại?”
Ông chủ nói: “2 đô la.”
Cậu bé lại nói: “Được rồi ạ, cháu sẽ nghĩ cách kiếm tiền, nhưng chú nhất định phải giữ cho cháu chiếc giày còn lại nhé.”
Ông chủ cười nói: “Cháu cứ yên tâm.”
Sau khi về nhà và tiết kiệm được 2 đô la, bằng cách nhặt ve chai bán, cậu bé vui vẻ chạy đến cửa hàng để trả tiền.
Ông chủ đã khen ngợi cậu bé và đưa cho cậu chiếc giày còn lại.
Kể từ đó, cậu bé đã có một đôi giày mới rất đẹp.
*****
Khi lớn lên, cậu bé đã từng làm nhiều nghề, như nhân viên cứu hộ, bình luận viên, phát thanh viên, rồi bước vào giới nghệ thuật và trở thành một ngôi sao nổi tiếng.
Vào năm 1980, cậu bé ấy đã trở thành Tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ, cũng chính là Tổng thống Ronald Reagan.
Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, có một lần ông Ronald Reagan được phóng viên hỏi về việc gì trong quá khứ đã có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự trưởng thành của ông, thì ông đã kể về câu chuyện: “Thượng Đế chỉ cho 1 chiếc giày”, khi ông còn nhỏ.
Ông Reagan cho biết:
“Sau này tôi mới biết được giá gốc của đôi giày đó là 38 đô la, một nửa giá cũng đến 19 đô la, nhưng ông chủ cửa hàng chỉ lấy của tôi 2 đô la, để dạy cho tôi một điều rằng:
“Thượng Đế sẽ không cho bạn tất cả những gì bạn muốn, Ngài chỉ cho bạn một phần mà thôi, bạn phải tự mình nỗ lực để lấy phần còn lại.”
Thượng Đế sẽ không cho bất cứ ai quá nhiều hay quá ít. Ngài cho bạn một phần và bạn phải tự mình nỗ lực để có được phần còn lại.
Báo “Kiến Thức Ngày Nay” số 636, ra ngày 10 tháng 4 năm 2008, trong mục “suy ngẫm”, tác giả Hải Âu đã sưu tầm được một mẩu ngăn ngắn, mà gã xin mượn tạm để trình làng (Gã Siêu):
“Thử nghĩ mà xem, Thượng Đế cấu tạo cơ thể con người một cách rất hợp lý, nhưng sao chúng ta lại không sử dụng nó theo đúng ý của Ngài:
- Ngài đặt hai mắt chúng ta ở đằng trước, vì Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để chúng ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau.
- Ngài đặt hai tai chúng ta ở hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía, cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không phải để chúng ta chỉ nghe từ một phía hoặc chỉ để nghe những lời tâng bốc êm tai.
- Ngài tạo cho chúng ta chỉ một cái miệng và một cái lưỡi mềm mại, vì Ngài muốn chúng ta nói ít nghe nhiều và chỉ nói những lời khôn ngoan, chứ không phải để chúng ta nói nhiều hơn nghe và nói những lời sâu hiểm là tổn thương người khác.
- Ngài đặt bộ não chúng ta trong một hộp sọ vững chãi vì Ngài muốn chúng ta nên tích lũy tri thức, những thứ chẳng ai có thể lấy đi, chứ không phải chỉ chăm lo tích lũy những của cải bên ngoài, những thứ dễ dàng bị mất mát.
- Ngài đặt trái tim chúng ta nằm trong lồng ngực, vì Ngài muốn những tình cảm yêu thương, giữa những con người phải được xuất phát và lưu giữ tận nơi sâu thẳm trong cõi lòng, chứ không phải ở một nơi hời hợt bên ngoài.
Để thực hiện đúng với đề mục “suy ngẫm” mà người sưu tầm đã mong muốn, gã sẽ ngẫm suy về ba cơ quan trên khuôn mặt của mỗi người, đó là mắt, tai và miệng, còn bộ óc và trái tim, xin khất tới một lần khác.
*****
TRƯỚC HẾT LÀ HAI CON MẮT
Đây là một bộ phận thường được phe đờn bà con gái tận tình chiếu cố và ra sức làm đẹp.
Về lông mày, người ta nắn nót tỉa bớt những cọng mọc vô tổ chức, để có được hàng lông mày xinh xinh như chiếc lá liễu.
Có kẻ còn chịu khó nhổ phắt đi, rồi xâm vô đó, để có được hàng lông mày vừa đẹp như ý muốn, lại vừa bền vững với thời gian.
Về lông mi, người ta cũng chịu khó đeo thêm hàng mi giả, để mỗi khi chớp mắt, thì ra dáng con nai vàng ngơ ngác.
Về màu sắc, người ta tô quầng cho thêm phần âm u huyền bí, người ta nhỏ thuốc cho thêm phần ngây thơ mơ mộng.
Ngoài ra, để bảo vệ cũng như để làm đẹp cho cặp mắt, người ta còn tròng thêm cho chúng những cặp kính, đủ mọi kích cỡ, đủ mọi màu sắc: Xanh, xám, hồng… Giống như những thiên kiến, những màu sắc này phần nào ngăn trở, khiến chúng ta không còn nhìn thấy rõ sự thật.
Tuy nhiên, điều quan trọng là công dụng của cặp mắt.
Dĩ nhiên, mắt là để nhìn. Nhưng nhìn cái gì mới là vấn đề.
Thiên hạ thường bảo: Con mắt là cửa sổ của linh hồn. Khung cửa sổ được mở ra để đón nhận những tia nắng hồng cho căn phòng bớt tăm tối và những luồng gió mát cho căn phòng thêm phần thông thoáng và dễ chịu.
Cũng vậy, cặp mắt được mở ra để đón nhận những hình ảnh đẹp, thâu lượm những kiến thức làm giàu cho bản thân và cuộc sống.
Tuy nhiên, như khung cửa sổ phải lập tức đóng lại, khi cuồng phong nổi lên và cơn mưa trút xuống. Chúng ta cũng phải nhắm mắt lại trước những hình ảnh xấu xa, làm vẩn đục tâm hồn và làm nhơ nhớp cuộc sống.
Chính vì thế, một tác giả đã viết: Cặp mắt là mai mối của tội lỗi.
Từ đó gã hiểu được rằng tại sao Đức Kitô lại có một thái độ thật nghiêm khắc: Nếu mắt phải của ngươi làm cớ cho ngươi sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. (Mt 5,29).
Viết tới đây, gã nhớ tới một mẩu truyện trong sách “Cổ Học Tinh Hoa”, đại khái như thế này:
Lư phu nhân, vợ ông Phòng Huyền Linh, là người tuyệt đẹp và có đức hạnh. Khi còn trẻ, ông hàn vi lắm. Lúc lâm bệnh nặng tưởng chừng như đã sắp chết, ông gọi Lư phu nhân đến mà bảo:
- Tôi bị bệnh nguy quá, nàng tuổi còn trẻ, không nên ở vậy, liệu mà ăn ở tử tế với người chồng sau.
Lư thị nghe nói, nức nở khóc. Đoạn vào trong màn khoét một mắt bỏ đi, có ý tỏ cho chồng biết rằng: dù chồng bất hạnh có chết, cũng quyết chí không lấy ai nữa.
Chẳng bao lâu, ông Huyền Linh khỏi bệnh. Sau ông thi đỗ, làm quan đến chức tể tướng. Ông một niềm yêu mến, kính trọng Lư thị vô cùng, không hề lấy một tì thiếp nào nữa. Người ngoài cho thế là tại ông sợ Lư thị có tính hay ghen. Chính vua Đường Thái Tôn cũng muốn thử lòng Lư phu nhân. Một hôm cho hoàng hậu gọi vào bảo:
- Theo phép thường các quan to vẫn có tì thiếp. Quan nhà ta tuổi đã cao, vua muốn ban cho một mỹ nhân.
Lư thị nhất quyết không nghe. Vua nổi giận, mắng rằng:
- Nhà ngươi không ghen thì sống, mà ghen thì chết.
Rồi sai người đưa cho một chén rượu, giả làm chén thuốc độc, phán rằng:
- Đã vậy thì phải uống chén thuốc độc này.
Lư thị không ngần ngại chút nào, cầm chén, uống hết ngay. Vua thấy thế, bèn nói:
- Ta cũng phải sợ, huống nữa là Huyền Linh.
Trở lại với sự an bài của Thượng Đế. Ngài đã đặt cặp mắt chúng ta ở đằng trước, vì Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để chúng ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau.
Kinh nghiệm vốn cho chúng ta thấy: Người già thường sống bằng quá khứ, nên thích ngoái cổ nhìn lại phía sau.
Thực vậy, trong khi ngồi nói chuyện với những người đã mang nặng tí tuổi đời, gã thấy các cụ ta luôn nhắc tới một thời oanh liệt, một dĩ vãng oai hùng và một ngày xưa hoàng thị của mình. Hồi ấy ông thế này, bà thế nọ, chứ đâu như bọn nhãi ranh bây giờ. Khi nhìn lại những sự việc ở phía sau như thế, người ta thường có hai thái độ:
Thái dộ thứ nhất, đó là huênh hoang và tự đắc với những thành công mà mình đã thâu lượm được, để rồi ngủ quên trên chiến thắng của mình lúc nào cũng không hay.
Thái độ thứ hai, đó là bực bội và cay cú với những thất bại mà mình đã gặp phải, để rồi khơi dậy mối hận thù tưởng chừng như đã bị xóa nhòa với thời gian.
Dĩ nhiên, gã không phủ nhận vai trò của dĩ vãng, như người xưa đã nói: Vô cổ bất thành kim. Không có cũ thì làm sao có mới. Nhìn lại dĩ vãng, để rồi chắt lọc ra những bài học, những kinh nghiệm quí giá cho bản thân, là đều đáng trân trọng.
Nhưng nhìn lại dĩ vãng, để rồi thỏa mãn với những chiến thắng, hay hậm hực với những thất bại, mà quên mất hiện tại, thì đó lại là điều bất ổn, cần phải được xem xét lại.
Trong khi đó, người trẻ thường sống bằng tương lai, nên luôn hướng nhìn về phía trước, để rồi đưa ra những sáng kiến, góp phần xây dựng một ngày mai tươi sáng hơn.
Dĩ vãng thì đã qua đi. Có lấy làm vinh dự và hãnh diện hay đắng cay và chua xót, thì cũng không thể nào níu kéo lại được. Hiện tại mới thực sự cần thiết, bởi vì tương lai được bắt đầu từ trong hiện tại và ngày mai đang bắt đầu từ hôm nay.
*****
TIẾP ĐẾN LÀ HAI LỖ TAI
Làm đẹp cho vành tai của mình không còn là phạm vị độc quyền của phe đờn bà con gái, mà cánh đờn ông con giai cũng nhảy vô ăn có.
Qua phim ảnh và sách báo, cũng như khi đi ra ngoài đường, gã đã thấy nhiều anh con giai cũng xỏ lỗ tai, đeo vào đó một chiếc khoen.
Người ta không phải chỉ xỏ một lỗ, mà đôi khi còn xỏ hai ba lỗ trên vành tai của mình, rồi quặc vào đó những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh. Một đôi bông, một chiếc vòng, thậm chí có cả những cây thập giá được treo lủng lẳng, tòng teng và đong đưa. Mục đích của đôi tai là để nghe. Thế nhưng, trong phạm vi này, gã ghi nhận được ít nữa là hai điều bất ổn.
Điều bất ổn thứ nhất, đó là chúng ta chỉ thích nghe những lời khen ngợi và ca tụng, hay những lời có lợi cho chúng ta, thậm chí cả những lời nịnh bợ và tâng bốc.
Những lời nói kiểu này được coi như là… khoái lỗ nhĩ, nên dễ dàng được chấp nhận.
Các linh mục Âu Châu ngày xưa làm việc tại Việt Nam thường được gọi là các Cố Tây. Và một vị cố Tây, khi được nghe những lời ca tụng và nịnh bợ như vậy, đã phát biểu như sau: Mặc dù thầy biết nó “pĩnh” thầy, nhưng thầy vẫn…thích.
Điều bất ổn thứ hai, đó là chúng ta dễ nghe theo những người, mà chúng ta có cảm tình.
Lời của những người chúng ta thương mến xem ra dễ thủng lỗ nhĩ của chúng ta hơn bất cứ ai.
Thực vậy, khi muốn xin xỏ một vị quan ông giúp đỡ việc nọ việc kia, hay ban cho một ơn huệ nào đó. Nếu ngại gặp gỡ trực tiếp. Người ta bèn chạy vòng vòng và đi qua cửa hậu, bằng cách đưa phong bì hay biếu xén, quà cáp cho quan bà và nhờ quan bà nói tiếp. Một lời của quan bà phán ra sẽ có giá trị gấp ngàn vạn lần lời của dân vai nặng, chân trơn.
Cũng theo thể thức ấy, khi có việc phải nhờ cậy cha sở hay một đấng bậc nào đó, chúng ta thường nhờ một vị trung gian bàu cử, chẳng hạn như ông chánh, ông trùm. Những lời của ông chánh hay ông trùm thường được các ngài dễ dàng lắng nghe hơn những lời đường đột của chúng ta.
Thế nhưng, sự an bài của Thương Đế đối với đôi tai thì lại hoàn toàn khác hẳn.
Ngài đặt hai tai chúng ta ở hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía, cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không phải để chúng ta chỉ nghe từ một phía hoặc chỉ để nghe những lời tâng bốc êm tai.
Trước hết, Ngài không phải chỉ muốn chúng ta đón nhận những lời ngợi khen, mà còn phải lắng nghe cả những lời phê bình, chỉ trích, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:
Ai khen ta mà khen phải, thì đó là bạn ta.
Còn ai chê ta mà chê phải, thì đó là thầy ta.
Vũ Hầu nước Ngụy, cùng với quần thần bàn việc nước. Việc gì vua nói cũng phải, quần thần không ai giỏi bằng. Lúc lui chầu, Ngụy Hầu ra dáng hớn hở lắm. Ngô Khởi bèn tiến lên và nói:
- Cận thần ai đã đem chuyện Sở Trang vương nói cho nhà vua nghe chưa?
Vũ Hầu hỏi:
- Chuyện Sở Trang vương là như thế nào?
Ngô Khởi thưa:
- Khi Sở Trang vương mà bàn việc, phải hơn quần thần, thì cho lui chầu.
Có người hỏi: Sao vua lại lo? Sở Trang vương nói: Ta bàn việc mà quần thần không bằng được ta, cho nên ta lại lo.
Cổ nhân có câu: Các vua chư hầu, ai có thầy giỏi thì làm được vương, ai có bạn giỏi thì là được bá, ai có người quyết đoán cho mọi việc ngờ vực thì còn nước, ai bàn việc không còn ai bằng mình thì mất nước. Ta nghĩ ngu như ta, mà quần thần cũng không ai bằng, thì nước ta có lẽ sẽ mất thôi. Bởi thế ta lo… Ấy cũng một việc giống nhau. Sở Trang vương thì lo, mà nhà vua thì lại mừng.
Vũ Hầu nghe vậy, thì áy náy vái tạ và nói:
- Trời sai nhà thầy đến bảo cái lỗi cho ta.
Riêng đối với những lời mời mọc, khả dĩ làm hoen ố cõi lòng và làm vẩn đục tâm can tì phế, chúng ta cần phải can đảm gạt bỏ và dứt khoát nói không.
*****
Đời thượng cổ có ông Hứa Do, là một nhà ẩn dật ở trong chằm Bái trạch.
Vua Nghiêu nghe tiếng là người giỏi, mời ra, xin nhường cả thiên hạ. Hứa Do từ chối, lui về ẩn tại núi Trung Nhạc, phía nam sông Dĩnh Thủy.
Sau vua Nghiêu lại tìm đến, cố mời Hứa Do ra là Tổng trưởng cả chín châu. Hứa Do thấy vậy, không muốn nghe nữa, bèn ra bờ sông Dĩnh Thủy rửa tai. Ngay lúc bấy giờ, Sào Phủ dắt trâu xuống bờ sông gặp Hứa Do và hỏi:
- Vì việc gì mà bác phải rửa tai như vậy?
Hứa Do thuật chuyện.
Sào Phủ bèn gò cổ trâu lại mà nói rằng:
- Ta toan cho trâu uống nước nơi đây, nhưng lại e bẩn cả miệng trâu.
Nói đoạn, dắt trâu lên quãng sông trên, mà cho uống nước.
*****
Ngoài ra, trong những cuộc xích mích hay bất đồng, chúng ta cần phải có thái độ khách quan, nghĩa là lắng nghe cả hai phe, phe ta cũng như phe địch, để có thể nắm vững sự thật, rồi đi tới một sự hòa giải tốt đẹp.
Gã quen một anh bạn chẳng may bị điếc lỗ tai bên trái, thành thử mỗi khi muốn nói với anh ta điều gì, thì phải kề miệng vào lỗ tai bên phải của anh ta mà nói, chứ còn nói vào lỗ tai bên trái, thì anh ta sẽ chẳng hiểu gì cả.
Cũng vậy, mỗi khi muốn nghe điều gì cho thấu đáo, anh ta phải chìa cái lỗ tai bên phải về phía người nói, giống như cái đài ra đa hướng tới nơi phát tín hiệu…
Trong cách cư xử thường ngày, chúng ta luôn bị tình cảm chi phối, làm cho những phán đoán trở nên lệch lạc, bởi vì chúng ta dễ dàng nghe theo phe ta, là những người họ hàng hay bè bạn thân cận, những người mà chúng ta yêu mến.
Đứa bé nghịch ngọm trong giờ giáo lý, bị ông thầy giúp xứ đét cho vài roi. Đứa bé vừa mếu, vừa khóc, chạy thẳng về nhà méc với ông bố. Chẳng cần phải suy nghĩ hỏi han, ông bố liền nổi giận đùng đùng, chạy khắp xóm và chửi đổng ông thầy một chặp:
- Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con nhà người ta như thế à.
*****
SAU CÙNG LÀ CÁI MIỆNG
Nơi cái miệng, bên ngoài là vành môi, bên trong là cái lưỡi. Vành môi cũng là điểm được các bà các cô chăm sóc một cách kỹ lưỡng.
Người ta có thể giải phẫu cho vành môi nhỏ lại. Người ta cũng có thể xâm cho vành môi to ra.
Hơn thế nữa, người ta còn chế tạo biết bao nhiêu thứ son, đủ màu đủ sắc, để trang điểm cho vành môi. Có màu đỏ chói như tiết canh gà. Có màu xám ngắt như thịt trâu ươn…Ai thích chọn màu nào, thì xin tùy hỉ.
Cái miệng có nhiều công dụng khác nhau.
Đối với những người đang ở trong quĩ đạo của tình yêu, thì cái miệng được dùng để hôn.
Đối với những người đang bị kiến bò bụng, thì cái miệng được dùng để ăn.
Và đối với bàn dân thiên hạ, ở mọi nơi và trong mọi lúc, cái miệng được dùng để nói.
Kinh nghiệm cho thấy:
Lời nói, mặc dù là phương tiện chính Chúa đã trao ban để chúng ta chuyển thông tư tưởng và ý muốn cho người khác, hầu tạo được một bầu khí hòa thuận và bắc được một nhịp cầu cảm thông, thế nhưng sai lỗi do lời nói lại là một thứ sai lỗi chúng ta thường vấp phạm hơn cả. Vì với lời nói, chúng ta có thể sai lỗi bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào, bất kỳ với ai và bất kỳ qua đề tài nào.
Tuy nhiên có hai thứ sai lỗi mà chúng ta thường vấp phạm hơn cả.
Sai lỗi thứ nhất, đó là nói dài, nói dẻo, nói dai.
Thực vậy, trong những câu chuyện hằng ngày, gã thấy có những người luôn dành cho mình cái quyền được nói. Họ nói từ đầu đến cuối, không để cho ai chen vào. Họ nói không kịp thở và chỉ nói về mình bằng cách đề cao về những việc mình đã làm, những gì mình đã có, khiến người nghe nhiều lúc vừa khiếp, lại vừa sợ.
Nhất là đối với các chị vợ. Họ thường ca cẩm về tình trạng vật giá leo thang và những khó khăn trong việc giải quyết vấn đề cơm áo gạo tiền. Họ thường chì chiết anh chồng, nếu chẳng may mắc phải một sai lỗi nào đó. Tất cả là như những điệp khúc buồn, được ca đi ca lại suốt ngày, ban sáng cũng như ban chiều, ban tối cũng như ban đêm. Những người nói dài, nói dẻo, nói dai, hình như đã quên mất lời người xưa căn dặn:
- Đa ngôn thì đa quá. - Rượu lạt uống lắm cũng say, - Người khôn nói lắm, dẫu hay cũng nhàm.
Sai lỗi thứ hai, đó là nói gian và nói dối, có nghĩa là nói hành, nói xấu người khác.
Nhiều lúc gặp nhau, chúng ta đã phát ngôn thật bừa bãi, chúng ta xả láng chỉ trích người khác, mà chẳng biết thực hư như thế nào. Chúng ta nói cho khoái cái lỗ miệng. Ai mất danh dự, ai bị vùi xuống bùn đen cũng mặc.
Chính vì thế, Thánh Kinh đã bảo: Số người chết vì cái lưỡi lại nhiều hơn số người ngã gục vì gươm giáo nơi chiến trường.
Và tục ngữ dân Ăng Lê cũng nói: Không nọc nào độc cho bằng cái lưỡi.
Trong khi đó, ý muốn của Thượng Đế không phải là như vậy:
Ngài tạo cho chúng ta chỉ một cái miệng, vì Ngài muốn chúng ta nói ít nghe nhiều và chỉ nói những điều khôn ngoan, chứ không phải để chúng ta nói nhiều và nói những lời sâu hiểm là tổn thương người khác.
Chắc hẳn, có lần chúng ta đã cảm thấy bực bội và tức tối trước những luồng dư luận xuyên tạc, trước những miệng lưỡi thâm độc của người đời.
- Vì dư luận vốn thường luận dư. - Lời đồn thổi bao giờ cũng phóng đại, tô màu, không biết đâu mà lường,
bởi vì: Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.
Một lời nói vô ý thức có thể ví như lon dầu đổ thêm vào lửa, làm bừng lên sự tức giận, thù oán, thiêu rụi hết tình nghĩa ruột thịt, cũng như lối xóm.
Một lời nói vu oan, có thể làm cho người khác mất hết tiền bạc, địa vị, thân bại danh liệt và đi vào chốn lao tù.
Bởi đó, người xưa đã dạy: Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.
Esope là một tên nô lệ da đen, nhưng rất được chủ là ông Santô yêu mến và kính trọng.
Ngày kia có khách đến chơi, ông chủ sai Esope ra chợ mua thức ăn, nhưng không bảo phải mua những gì. Esope mua toàn các thứ lưỡi: nào lưỡi heo, nào lưỡi bò, nào lưỡi ngựa… đem về nấu nướng.
Lạ miệng nên ăn ngon, ông chủ và khách khứa đều hài lòng về tài nấu nướng của Esope.
Lần sau có khách, ông chủ cũng sai Esope đi chợ và cũng không dặn phải mua những gì. Esope lại mua về toàn những lưỡi, chỉ khác ở chỗ là cách nấu nướng và thêm bớt gia vị.
Thấy vậy, ông chủ ngạc nhiên, thì Esope bèn kính cẩn làm một màn lý luận về cái lưỡi.
Ông nói: Ở đời, tốt hay xấu, lợi hay hại đều do việc sử dụng cái lưỡi một cách khéo léo hay vụng về.
Chính nhờ vậy, Esope được chủ quí yêu và giải thoát khỏi kiếp sống nô lệ.
Để kết luận, gã xin ghi lại một tư tưởng như sau:
Lưỡi người khôn ngoan tạo thành danh giá, mồm kẻ ngu dại gây nên đổ vỡ tan hoang.
Ngày kia, trên đường đi dạo trở về, một sinh viên trẻ thoáng trông thấy một Tràng Chuỗi Mân Côi của ai đó bị đánh rơi, nằm bên vệ đường.
Chàng sinh viên lúc nhỏ vẫn thường sốt sắng lần hạt, kính Đức Mẹ Mân Côi. Nhưng khi lớn, chàng đã bỏ quên thói quen lành thánh này. Ngày hôm nay, khi thoáng thấy cỗ Tràng Hạt Mân Côi bị đánh rơi bên vệ đường, chàng định tảng lờ đi, như không nhìn thấy.
Tuy nhiên, bước đi vài bước, thì bỗng lòng kính mến Đức Mẹ MARIA xưa kia của chàng bỗng bừng lên trong lòng. Chàng quay trờ lại, cúi xuống nhặt lên, vừa lau chùi, vừa tự nhủ:
– Nếu không trả lại được cho người đánh mất thì mình sẽ trả lại cho Đức Mẹ MARIA, bởi vì Tràng Chuỗi được làm là để dâng kính Đức Mẹ.
Vậy, mình sẽ để Tràng Hạt Mân Côi nơi bàn thờ Đức Mẹ, trong ngôi thánh đường nào mà mình gặp thấy đầu tiên trên đường đi.
Sau một quãng đường, trông thấy một nhà thờ, chàng sinh viên liền ghé vào và đi thẳng đến bàn thờ có tượng Đức Mẹ MARIA.
Không ngờ, Đức Mẹ đã chọn chính giây phút ấy, để đưa người con hoang trở lại với Hiền Mẫu.
Đức Mẹ gợi ý cho chàng:
– Con hãy lần hạt một chuỗi Mân Côi, trước khi để cỗ tràng hạt trên bàn thờ!
Cảm động, chàng sinh viên quỳ gối xuống, và như thuở xưa vẫn làm, chàng sốt sắng lần trọn một Chuỗi Mân Côi...
Bao nhiêu tư tưởng, bao nhiêu tâm tình ngoan đạo, lại dồn dập trở về trong tâm trí. Chàng như nghe một tiếng nói rõ ràng trong lòng:
– Con hãy trở thành Linh Mục. Con đã bất trung với tiếng gọi của Con Mẹ. Tuy nhiên, không có con đường nào khác ngoài con đường trở thành Linh Mục. Hãy trở về với tình yêu trong thời thơ ấu và hãy bước theo ơn gọi Linh Mục của con.
Tiếng nói như một luồng sáng dọi thẳng vào tận thâm cung tâm hồn, khiến chàng sinh viên kêu lên:
– Vâng, lạy Mẹ, con sẽ trở về với Mẹ và với Đức Chúa Giêsu. Với ơn Mẹ trợ giúp, con sẽ trở thành Linh Mục của Đức Chúa Giêsu Kitô.
Chàng sinh viên trẻ giữ lời thề hứa với Đức Mẹ Maria vào buổi sáng hôm đó.
Chàng xin gia nhập chủng viện và đã trở thành Linh Mục, một Linh Mục rất thánh thiện. Với cỗ Tràng Hạt Mân Côi lượm được, không ngày nào mà vị Linh Mục không sốt sắng lần chuỗi, sốt sắng đọc kinh dâng kính Hiền Mẫu Maria.
Mấy năm sau, THIÊN CHÚA Quan Phòng đưa Cha đến làm Tuyên Úy trong một bệnh viện.
Một ngày, người ta đưa ngài vào nhà thương gặp một bệnh nhân. Người bệnh không ngớt miệng nói:
– Đừng bao giờ nói với tôi về Đạo Công Giáo. Tôi là kẻ cứng lòng và không tin tưởng gì ráo trọi!
Tuy nhiên, vị Linh Mục Tuyên Úy vẫn thường xuyên đến viếng thăm người bệnh.
Một ngày, khi thấy người bệnh giận dữ xua đuổi mình, vị Linh Mục hiền từ nói:
– Không sao, tôi sẽ lần hạt Mân Côi cầu nguyện cho ông bạn!
Người bệnh la lớn:
– Chớ có nói với tôi về Tràng Chuỗi Mân Côi!
Vị Linh Mục hỏi:
– Tại sao thế? Đây là lời kinh chỉ mang lại cho ông bạn điều lành mà?
Ông trả lời:
– Trái lại, tràng hạt là nguyên do cho nỗi bất hạnh của con đó Cha à!
Cha Tuyên Úy tò mò hỏi tiếp:
– Tại sao vậy, ông bạn. Ông bạn muốn nói gì thế?
Con sẽ kể cho Cha nghe, vì Cha muốn biết.
Ngày con còn nhỏ, mỗi ngày, mẹ con đều dạy con lần hạt Mân Côi chung với mẹ. Lớn lên con ra tỉnh học nghề. Nơi đây, bạn bè xấu kéo con vào con đường xấu, sống khinh thị luật Chúa. Đang sống buông thả như thế thì được tin mẹ con đau nặng và gọi con về gấp.
Thấy mẹ hấp hối, con bèn dấu nhẹm mọi sự, không kể gì với mẹ về cuộc sống hiện tại của con. Rồi để mẹ an tâm nhắm mắt, con còn hứa với mẹ là sẽ lần hạt Mân Côi, ít ra mỗi ngày một chục, khi nào có thể ... Mẹ liền trối lại cho con Tràng Chuỗi Mân Côi của mẹ ...
Chôn cất mẹ xong, con lại lên đường ra tỉnh. Trên đường đi, tên quỷ rót vào tai con:
– Hãy tẩy chay tràng chuỗi và vứt nó xuống đất đi cho rãnh!
Con liền nghe theo tên quỷ cám dỗ và khinh bỉ vứt Tràng Chuỗi Mân Côi xuống bên vệ đường.
Nhưng cũng kể từ giây phút đó, con gặp hoạn nạn liên miên và con nghĩ là mình đã bị chúc dữ!
Vị Linh Mục Tuyên Úy cảm động theo dõi câu chuyện. Nghe xong, Cha hỏi:
– Ông bạn có nhớ là vào tháng nào, năm nào, ông đã vứt bỏ cỗ Tràng Hạt không?
Sau khi biết chính xác năm tháng, Cha cho tay vào túi, rút ra cỗ Tràng Hạt Mân Côi, đưa lên trước mặt người bệnh và hỏi:
– Ông bạn có nhận ra Tràng Chuỗi Mân Côi này không?
Người bệnh chỉ biết kêu lên một câu:
– Đây chính là cỗ Tràng Hạt của mẹ con!
Vừa nói ông vừa giơ tay đón lấy Tràng Chuỗi Mân Côi, giơ lên môi âu yếm hôn và hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy dài trên đôi gò má ông..
Im lặng một hồi lâu, vị Linh Mục Tuyên Úy cất tiếng:
– Tràng Chuỗi Mân Côi mà ông cho là nguyên nhân gây nên nỗi bất hạnh của ông, thì trái lại, nó là nguyên nhân mang lại hạnh phúc cho tôi, bởi vì nhờ Tràng Chuỗi này, mà tôi trở thành Linh Mục. Giờ đây, thưa ông bạn, Tràng Chuỗi sẽ là dịp mang hạnh phúc đến cho ông.
Người bệnh trả lời:
– Vâng thưa Cha, đúng thế. Con muốn xưng tội!
Cha Tuyên Úy trả lời:
– Ngày mai, tôi sẽ trở lại ban các bí tích sau cùng cho ông. Trong khi chờ đợi tôi để cho ông Tràng Chuỗi Mân Côi này, để ông đền bù mọi lỗi lầm quá khứ. Sau đó tôi sẽ lấy Tràng Chuỗi lại.
Mấy ngày sau, người bệnh êm ái trút hơi thở cuối cùng, sau khi đã lãnh đủ mọi bí tích sau hết, trong tay vẫn âu yếm nắm chặt Tràng Chuỗi Mân Côi thân yêu của người mẹ hiền ..
Vị Linh Mục Tuyên Úy lấy lại Tràng Chuỗi Mân Côi quý hóa và không bao giờ quên câu chuyện liên quan đến Tràng Chuỗi Mân Côi.
(Albert Pfleger, ”FIORETTI DE LA VIERGE MARIE”, Mambre Editeur-Diffuseur, 1992, trang 118-120) Sr. Jean Berchman. Fb: HoangTuan Joseph Mariae.
Theo Kinh Thánh, trong sách Sáng Thế (1,1-31), khi Chúa muốn tạo ra cá, thì Ngài phán với biển. Khi Chúa muốn tạo ra cây cối, thì Ngài phán với đất. Nhưng khi Chúa muốn tạo ra con người, thì Ngài quay về với chính mình. Sau đó, Chúa phán, "Chúng ta hãy tạo ra con người theo hình ảnh của chúng ta và giống như chúng ta."
Nếu bạn lấy một con cá ra khỏi nước, nó sẽ chết; và khi bạn nhổ một cái cây khỏi đất, nó cũng sẽ chết. Tương tự như vậy, khi con người không kết hiệp với Chúa, con người sẽ chết.
Chúa chính là môi trường tự nhiên của chúng ta. Chúng ta được tạo ra trong sự hiện diện của Ngài. Chúng ta phải kết hiệp với Ngài, vì sự sống chỉ tồn tại trong Ngài.
Chúng ta hãy luôn kết hiệp với Chúa (sống thánh thiện trong ân sủng của Ngài).
Chúng ta nhớ rằng: Nước không có cá vẫn là nước, nhưng cá không có nước thì tiêu, sẽ không là gì cả. Đất không có cây vẫn là đất, nhưng cây không có đất thì tiêu, sẽ không là gì cả.
Chúa không có con người thì vẫn là Chúa, nhưng con người không có Chúa thì tiêu tùng, sẽ không là gì cả (dù có, cũng sẽ mất đi muôn đời).
Những chi tiết nhỏ làm cho nhà thờ trở nên khác biệt và hiệp nhất, những điều mà bạn không nên làm ở đó, nhưng có thể làm ở bất cứ đâu, nếu bạn muốn.
1 – Đừng đi trễ. Hãy nhớ Thiên Chúa luôn chờ đợi bạn, để đong đầy tình yêu của Người trong bạn, để nói với bạn, và để tha thứ cho bạn.
2– Đừng ăn mặc không phù hợp. Hãy ý tứ, vì danh dự của chính mình, và vì tôn trọng cả người khác.
3– Đừng vào nhà thờ mà không chào Chúa. Khi đến nhà thờ, hãy làm dấu Thánh Giá. Thiên Chúa đang thực sự ở đó, Người vui mừng khi gặp bạn. Hãy cảm ơn Người đã mời bạn đến.
4– Đừng cảm thấy uể oải khi phải cúi mình hay bái quỳ. Khi đi ngang trước bàn thờ, hãy cúi chào, vì bàn thờ là hình ảnh của Đức Kitô. Khi đi ngang nhà tạm, hãy bái quỳ, vì Đức Kitô đang hiện diện ở trong đó.
5– Đừng nhai kẹo cao su, ăn hay uống bất cứ gì khi đang trong Thánh lễ. Chỉ nước lã là chấp nhận được, nếu sức khoẻ đòi hỏi.
6– Đừng vươn vai hay ngồi nhoài trên ghế tựa. Tư thế của bạn thể hiện rõ thái độ của bạn trước Chúa.
7– Không cần bổ sung bất cứ “câu phụ thêm” nào vào các bài đọc và thánh vịnh. Nghĩa là, đừng đọc các dòng chữ đỏ, đừng đọc “Bài đọc 1” hay “Thánh vịnh đáp ca.”
8– Đừng làm dấu Thánh giá “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” trước khi nghe Tin Mừng. Chỉ làm ba dấu Thánh giá nhỏ trên trán, trên miệng và trên ngực, để cầu xin Lời Chúa ở lại trong tư tưởng, trong lời nói và trong con tim mình.
9– Tuyệt đối đừng bao giờ ngồi, khi linh mục đang truyền phép. Nếu bạn không quỳ nổi, hãy đứng lên. Cử chỉ và thái độ của bạn khi truyền phép phải thể hiện sự cung kính và tôn thờ của bạn trước Chúa Giêsu đang hiện diện rất thật trong Thánh Thể trên bàn thờ.
10– Hãy cầu nguyện thầm trước Chúa Thánh Thể khi linh mục truyền phép. Nhiều người đọc thành tiếng lời nguyện “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” của Thánh Tôma Tông Đồ. Nhưng ta nên ý tứ đọc thật nhỏ, để khỏi làm phiền người khác.
11– Đừng đọc thành tiếng “Chính nhờ Người, với Người và trong Người” (Kinh nguyện Thánh Thể). Đó là lời kinh chỉ một mình linh mục dâng lễ đọc mà thôi.
12– Đừng rời khỏi chỗ và đi xung quanh để chúc bình an. Hãy chỉ chúc bình an những ai đứng trong cùng bàn với bạn và những người ở trước mặt hay sau lưng thôi.
13– Nếu bạn thật sự chưa nhịn ăn đủ 1 giờ hoặc không sống trong tình trạng ân sủng, đừng rước lễ.
14– Đừng nhất định đòi rước lễ từ tay linh mục mới chịu. Chúa Giêsu hiện diện thật sự và đầy đủ trong mọi Bánh Thánh, không phụ thuộc chuyện người cho rước lễ là linh mục hay một thừa tác viên phụ thêm nào khác được uỷ nhiệm.
15– Sau khi rước lễ, đừng nói chuyện với ai hết. Hãy về chỗ hay đi ra riêng và nói chuyện với một mình Chúa mà thôi. Nếu bạn không lên rước lễ, hãy rước lễ cách thiêng liêng và hãy thưa chuyện với Chúa y như đã rước lễ vậy.
16– Hãy tắt điện thoại. Đừng nhắn tin hay nói chuyện với ai trên điện thoại trong suốt Thánh lễ, điều đó làm phiền chính bạn, lẫn người xung quanh. Hãy chú tâm vào một mình Chúa, Đấng vẫn đang rất chú tâm vào bạn.
17– Hãy giữ con cái bên cạnh bạn, đừng để chạy lung tung. Hãy dạy chúng tận hưởng thời gian ở trong nhà Cha.
18– Đừng rời nhà thờ trước khi hết lễ. Đừng bỏ rơi phép lành cuối lễ, linh mục ban cho bạn nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, để bạn đi làm chứng nhân cho Ba Ngôi Thiên Chúa trong thế giới. Hãy ra khỏi nhà thờ với ý tưởng mới, được Chúa gợi hứng, để xây dựng triều đại tình thương của Người.
Những ngày này tôi đang bất mãn về cuộc hôn nhân của mình:
Người chồng sáng sáng ra khỏi nhà từ lúc tôi chưa ngủ dậy, tối khuya mới trở về, thậm chí nhiều hôm tôi lên giường đi ngủ một mình chẳng cảm nhận được có chồng ngủ bên cạnh…
Vậy nhưng, thu nhập của chồng cũng chẳng khá khẩm gì. Tôi cảm thấy tình cảm vợ chồng giữa hai chúng tôi cứ nhạt dần. Không còn những cái ôm vội vàng, những cái hôn nhanh lên má, không còn khái niệm tặng quà, không còn nỗi hoan hỉ mỗi khi đi làm về…
Khi nghe nỗi niềm tâm sự của tôi, mấy cô bạn gái thân thiết nghiêm túc phân tích vấn về và đưa ra kết luận:
“Sống với nhau nhạt nhẽo như vậy thì nên giải thoát sớm đi”.
*****
Chia tay mấy cô bạn gái đó, trên đường về nhà, tôi đã hạ quyết tâm.
Về đến nhà, nhìn căn phòng mấy năm rồi vẫn đơn giản, không có gì thay đổi, bỗng cảm thấy chán chường khó tả:
- Đón con về, lấy sữa cho nó uống, nó đánh đổ cả sữa xuống sàn nhà. Tôi vội vớ cái giẻ lau sữa dưới sàn, nhận thấy căn phòng quá bề bộn.
Đang vội nấu cơm, thì chuông điện thoại reo: Chồng báo tối nay lại về muộn.
Đang bực mình, tôi thò tay nắm hai quai nồi định bắc xuống bếp thì kêu lên một tiếng, rồi đặt vội xuống. Tay tôi đã bị bỏng rộp lên rồi. Miếng nhựa chống bỏng ở quai nồi đã rụng rã từ lâu, tôi đã nói với chồng năm lần, bảy lượt, nhưng mãi vẫn chưa sửa. Tôi càng thấy ý định ly hôn là đúng đắn.
Tôi tắt bếp, bước ra phòng ngoài, soi vào gương, đôi mắt trong trẻo ngày nào, nay đã mờ nhạt, đầy ấm ức, cuộc sống gia đình thật đáng sợ. Tôi cần phải thoát khỏi cuộc sống vô nghĩa này, nhanh chóng rời xa nơi này.
Hai giờ sau, chồng tôi về, không thấy trên bàn có cơm, chỉ thấy tôi ngồi thừ ra một mình trong bóng tối:
- “Sao, chưa nấu cơm à ?”.
Vừa nói, anh vừa bước vào bếp.
- “Tại sao phải nấu cơm? Bấy lâu nay tôi nấu đủ rồi. Từ nay trở đi, tôi sẽ không nấu nữa. Sống thế này tôi không chịu được. Chúng ta phải ly hôn thôi”.
Trong bếp, chồng tôi đang ra sức rửa một cái chảo bị dính.
Phản ứng đầu tiên của chồng tôi là:
- “Em nói gì anh không nghe rõ?”.
Phản ứng tiếp theo là:
- “Anh nghe nhầm phải không? Em nói lại xem nào!”.
Cuối cùng, anh ta cũng đã hiểu được ý của tôi.
Lúc này con trai tôi bỗng cất tiếng khóc, anh ta chạy vội vào trong phòng bế con ra và cho nó uống sữa, ngạc nhiên hỏi dồn:
- “Sao đang sống tử tế, lại đòi ly hôn?”.
Tôi cười khẩy !!!
*****
Tối đó, tôi cố ý ngủ riêng.
Theo kinh nghiệm của các cô bạn: Ly hôn không đơn giản, nhiều thứ ràng buộc, như tình cảm, tài sản, thói quen. Vì thế, nhất định phải có nghị lực mới làm được.
Để có thể tiến hành thuận lợi, tôi cần thực hiện 3 điều:
1- Thứ nhất, không đi chợ thổi cơm nữa. Tách sinh hoạt của hai người ra. 2- Thứ hai, không ngủ chung. Không cho cơ hội làm lành. 3- Thứ ba, kinh tế riêng rẽ.
Nằm trên ghế sofa mãi, mà không sao ngủ được, tôi bật dậy viết đơn ly hôn.
Tôi nhẩm tính tài sản trong nhà….
Tôi là người Bắc, chồng là người Nam. Cùng nhau đến thành phố biển này, bắt đầu từ hai bàn tay trắng. Nay đã ngoài 30, đã mua được hai căn nhà, đều đứng tên tôi.
Chúng tôi ở căn có 3 phòng, còn căn nhỏ cho thuê mỗi tháng, chồng tôi còn có hai cửa hàng.
Trong đơn ly hôn tôi viết rất rõ ràng: Hai căn nhà và con trai thuộc về tôi, cửa hàng thuộc về anh ta. Như vậy là hợp lý rồi.
Hôm sau, khi đưa cho anh ta tờ đơn ly hôn, tôi đồng thời đặt lên bàn ăn mẩu giấy:
– Tôi muốn tự do !
Anh ta ngây người ra, tôi sốt ruột giục:
– Anh ký đi!
Nnói xong, tôi liền cảm thấy mình có phần hơi quá đáng, liền đổi giọng: Chúng ta kết hôn chưa lâu, nhưng cũng sống với nhau 5, 6 năm rồi. Lẽ nào anh không thấy: Chúng ta là người của hai thế giới? Chia tay tốt cho cả anh, lẫn tôi…
*****
Một tuần sau, anh gọi điện cho tôi, giọng trầm buồn, anh nói:
“Anh ký rồi, chiều nay, chúng ta cùng ăn với nhau một bữa nhé. Vẫn chỗ cũ, anh sẽ đưa đơn cho em”.
Anh gác máy rồi, tôi vẫn ngồi đờ đẫn trên ghế.
Hết giờ làm việc, tôi lấy lại tinh thần, đi đến nhà hàng ven biển, nơi mà chúng tôi thường đến.
Mấy hôm không gặp, anh như gầy đi, ánh mắt ưu tư, râu đã được cạo nom sáng sủa hơn, anh lặng lẽ đẩy cái phong bì đến trước mặt tôi.
Tôi chưa ngồi xuống, đã thấy cay cay mắt. Tôi thật sự sắp phải rời xa người con trai này ư? Tôi bỗng cảm thấy hoang mang, lẽ nào cứ thế này mất anh ấy sao?
– Đã đến rồi thì gọi chút gì ăn nhé, có thể là vì đây là bữa cơm cuối cùng. – anh nhìn tôi khẽ mỉm cười, ánh mắt trong veo và dịu dàng, quay ra gọi người phụ vụ:
“ Cho một suất cơm thịt bò xào ớt, một bát canh ngao”. Đây, đều là những món tôi thích nhất. Tôi ngồi im, anh bỗng nói với tôi:
– Bữa cơm cuối cùng này, em có thể gọi cho anh món anh thích ăn không?
Món anh thích ăn? Tôi bỗng bối rối, tôi chẳng biết anh thích ăn món gì…
– Anh thích món gì? Chẳng phải anh luôn ăn giống em hay sao?
Anh lại mỉm cười, nói chậm rãi:
– Thực ra, ngần ấy năm sống với nhau, anh luôn ăn những món, mà mình không thích. Em quên rồi sao, anh là người miền Nam, anh thích ăn những món ăn chế biến kiểu miền Nam, hơi ngọt ngọt chút.
Nghe anh nói, mặt tôi nóng bừng.
Đúng là ngần ấy năm, tôi chưa từng nghĩ đến việc hỏi anh thích ăn món gì, lần đầu tiên biết anh thích ăn những món ngọt, lại là lúc ly hôn, thật nực cười. Tôi muốn ứa nước mắt, nhưng vẫn cố kìm lại.
– Anh quyết định rồi, nhà, cửa hàng, mọi đồ đạc trong nhà đều thuộc về em, anh chỉ mang theo mấy quyển sách và vài bộ quần áo thôi.
Nghe những lời từ biệt đó, tôi không nén được, mới buột miệng hỏi:
- “Anh định đi đâu?”.
Gần 2.000 ngày đầu kề má ấp, đã từng thề thốt, đã từng yêu nhau, tôi thực sự chưa từng suy nghĩ nghiêm túc cuộc sống không có người đàn ông này sẽ như thế nào…
– Kì thực, trong ngần ấy năm sống ở đây, bố mẹ và bạn bè anh ở miền Nam, luôn giục anh về quê làm ăn. Nhưng do em thích biển, thích lãng mạn, nên anh chiều theo em. Ở đây gió biển, mang mùi tanh của cá, ăn đồ biển anh không thích, công việc cũng chẳng sáng sủa gì, đã làm em thiệt thòi…
– Anh nói gì thế? Em không phải vì những thứ đó. – Tôi không ngăn được nước mắt.
– Ly hôn xong anh sẽ về miền Nam. Sau này em sống một mình, lại nuôi con, em sẽ vất vả. – Anh rít một hơi thuốc, chậm rãi nói tiếp:
– Cho nên, anh để lại tất cả cho em. Tiền cho thuê nhà và cửa hàng, em nên tích lại, đừng tiêu linh tinh, để phòng khi cần có cái mà tiêu.
– Vậy anh thì làm thế nào?
– Anh tính rồi, đàn ông quăng ở đâu chả sống, không như đàn bà con gái, cả tin lương thiện, dễ bị tổn thương.
Nhìn ánh mắt thương cảm của anh đối với tôi, tôi bỗng trào nước mắt.
- “Đừng khóc, em yêu!” – Anh đặt tay lên vai tôi, cử chỉ quen thuộc, tôi thích cái vẻ đàn ông ấy của anh. Vậy mà, không hiểu sao lúc sống bên nhau, tôi lại không hề nhận thấy, thậm chí còn cảm thấy ghét.
– Anh phải đi rồi. Em biết không, mỗi lần gia đình bên em tụ họp, đông vui, anh đều cảm thấy trống trải. Anh cũng rất nhớ bố mẹ, họ cũng già cả rồi…
Những lời đó khiến tôi xúc động vô cùng, tôi thấy mình quá vô tâm, bỗng tôi hiểu ra rằng: Tôi vẫn còn yêu thương anh và không thể xa anh. Đây là người đàn ông tốt. Tôi biết nhiều vụ ly hôn, vợ chồng chửi bới lẫn nhau, trở nên thù ghét nhau vì tài sản. Còn tôi, tôi chưa hề thấy vụ ly hôn nào như thế này:
- Nghi thức chia tay thật dịu dàng, thật thâm trầm, thật độ lượng. Một sự chia tay đầy ắp tình thương và sự lưu luyến.
Đến tận giây phút này, tôi mới biết: Sống với tôi, anh cũng phải che giấu những cảm xúc không vui, những điều không hợp, chỉ vì tôi.
– Như thế, sao anh không nói sớm? – Tôi nắm chặt tay anh, không còn quan tâm đến lòng kiêu hãnh của mình nữa.
– Anh yêu em, anh muốn em sống vui vẻ, không phải bận lòng vì những việc vặt ấy.
Tôi thẫn thờ, một lúc sau tôi nói:
– Anh… Anh có thể không đi không?
Chúng tôi, tay trong tay, bước ra khỏi nhà hàng, bên ngoài gió biển rất mát, tôi ngồi sau xe máy của anh đi về nhà. Tôi ôm chặt lấy anh, cảm thấy thật hạnh phúc.
Sau này, bạn bè hỏi tôi:
- “Đã ly hôn xong chưa?”
Tôi kể cho họ nghe bữa tối hôm đó và nói với họ:
- “Sự việc vừa rồi đã cho tôi một bài học.
Hiện nay, ly hôn ngày càng dễ, nhưng chính vì thế, biết giữ gìn hôn nhân, mới là một việc khó, đòi hỏi phải có lý tính, trí tuệ, độ lượng và nhường nhịn”.
Chuyện Đời Đạo - Sách 18- Bài 375 ---------------------------------
Bạn thân mến,
Người ta không già đi, chỉ vì đã sống quá nhiều năm. Mà chỉ thực sự trở nên cằn cỗi, khi tâm hồn khô héo, khi đánh mất niềm tin và lý tưởng sống của bản thân.
Năm tháng có thể hằn trên gương mặt ta những dấu chân chim, nhưng đừng để nó làm mất đi sự nhiệt tình trong tâm hồn.
Những nỗi lo lắng, nghi ngờ, những cảm giác tự ti, nỗi sợ hãi hay sự tuyệt vọng... tất cả đều có thể chất nặng lên vai ta theo năm tháng, nhưng hãy tự hỏi: Chúng còn là gì, một khi ta trở về với cát bụi ?
Cuộc đời, như một giấc mộng. Ta đến cõi đời, như một cuộc chơi. Giấc mộng rồi sẽ tan biến. Cuộc chơi chỉ duy nhất một lần...
Tại sao ta không mở tâm hồn mình để đón nhận những hương sắc của đời? Dù bảy mươi hay chỉ vừa bước vào tuổi mười bảy chăng nữa, vẫn luôn có những điều kỳ diệu chờ đón ta vào mỗi sớm mai của một ngày mới.
Hãy nhìn xem, vạn vật muôn đời vẫn mang theo vẻ quyến rũ diệu kỳ, những vì sao vẫn lấp lánh trên bầu trời mỗi đêm. Và mặc cho thời gian luân chuyển, biển vẫn một màu xanh mát, nắng vẫn rực rỡ sắc vàng.
Khi nào tâm hồn ta vẫn còn bị lôi cuốn bởi cái đẹp, con người ta vẫn tràn đầy niềm lạc quan, tin yêu, thì khi đó ta vẫn luôn tươi trẻ.
Đó chính là chiếc chìa khóa vạn năng để mỗi người nắm giữ tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc cho mình!..
Chúng ta không già đi theo năm tháng, mà đúng hơn là chúng ta lớn lên qua từng ngày. Emily Dickinson
Có những người có cái nhìn lạc quan về cuộc đời: Họ công nhận cuộc đời có ý nghĩa của nó.
Nhưng có những người nhìn đời bằng con mắt bi quan:
Họ theo cái nhìn của triết học hiện sinh vô thần của J.P Sartre. Họ đặt ra những câu hỏi cụ thể:
- Tại sao tôi sinh ra trong đau khổ, sống trong đau khổ và chết trong đau khổ ?
Họ không tìm ra được giải đáp cho những thắc mắc của họ, nên họ theo chủ trương và kết luận của J.P Satre: Đời là phi lý. Qua chủ trương bi quan này, người ta lao vào cuộc sống hưởng thụ vật chất, hưởng thụ cho nhiều, để rồi ngày mai sẽ kết thúc cuộc đời trong trống rỗng, vì chết là hết mà ! Thi sĩ Tản Đà trước đây, chưa biết gì về triết học hiện sinh, nhưng thấy người ta có những thái độ khác nhau về cuộc sống, nên đã đặt ra câu hỏi: Đời đáng sống hay không đáng sống, Cất chén quỳnh, xin hỏi bạn tri âm ? Câu trả lời tiêu cực. Có những người sống, mà không biết tại sao mình sống, sống để làm gì, rồi sau này sẽ ra sao ?
Họ chỉ biết sống cho qua ngày, để rồi ngày mai chết là trôi vào dĩ vãng, cho nên họ mới kết luận:
Sống bữa nào hay bữa ấy Hơi đâu ngồi nghĩ chuyện đâu đâu.
*****
Nếu họ hiểu được ý nghĩa cao qúi của đời sống như Hội thánh dạy thì họ được yên ủi biết bao, vì đối tượng của cuộc sống là hạnh phúc, một thứ hạnh phúc tròn đầy và bất diệt:
”Ta sống ở đời này để nhận biết, thờ phượng kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và thương yêu mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho ngày sau được hạnh phúc đời đời”(Sách Giao lý Công giáo Tân định, số 1). Những người có đức tin nhìn cuộc đời dưới khía cạnh lạc quan và tích cực.
Họ coi cuộc đời chỉ là một cuộc hành trình về quê trời. Chúng ta chỉ là khách lữ hành nơi trần thế.
Trong cuộc hành trình, họ phải nỗ lực, vừa chịu đựng, vừa vượt qua khó khăn, để đi tới đích.
Họ nhớ lời Chúa đã dặn dò:
”Thầy đi để dọn chỗ cho các con... Thầy sẽ trở lại đón các con...”
Họ cũng tin tưởng và lạc quan với lời thánh Phaolô nói với tín hữu Philipphê:
”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20).
Đồng thời, thánh Phaolô cũng cho tín hữu Corintô biết thêm về ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta ở trên trời:
”Chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1) Những người có lòng tin như thế thì coi đời sống là một cuộc thử thách, đau khổ sẽ qua đi và chính đau khổ sẽ là phương tiện tiến tới vinh quang. Cho đến lúc hồn ta trong hơi thở Vẫn yên vui về cõi chết xa xôi.
Và u buồn là những đoá hoa tươi, Và đau khổ là chiến công rực rỡ. (Chế Lan Viên) Đối với họ:
Giờ chết là giờ về với Chúa,
về nơi Chúa đã dọn sẵn cho mình
(x. Ga 14,1-6).
Nên, ngày đó không phải là ngày sầu thương tang tóc, mà là một ngày vui mừng.
Chính vì thế, Giáo Hội thiờ sơ khai và những giáo dân đầu tiên đã gọi ngày chết là Dies natalis, ngày Sinh nhật trong Nước Trời. Với ý nghĩa đó, ông Walfany Goethe đã gọi:
“Con người chết, là một vì sao lặn, để mọc huy hoàng hơn ở một bán cầu kia”.
Giờ chết là ngày khải hoàn, sau bao năm phải chiến đấu khổ cực ở trần gian. *****
Truyện: Cây hoa “bách niên”.
Cây bách niên (agravé, avila) cứ một trăm năm một lần nở hoa, nhưng hoa đẹp lạ lùng.
Trong 100 năm, cây bách niên đã sửa soạn cho ngày tươi đẹp ấy: Nó dồn sức lực, nó trang điểm, nó làm cho đẹp, bằng công việc kín đáo, không ai trông thấy.
Cả một thế kỷ!!!
Và khi đã hết thời nó nở những cánh hoa trắng muốt, để làm đẹp lòng người đến xem cái phi thường của nó. (T. Toth, Chí khí người thanh niên, tr 182)
*****
CÁI NHÌN ĐÚNG ĐẮN VỀ CUỘC ĐỜI. Chúa thương yêu chúng ta, Ngài dựng nên chúng ta, để được hạnh phúc, chứ không phải đẩy chúng ta vào chốn hư vô.
- Mà hạnh phúc ở đâu ?
Chắc chắn không phải ở trần gian này, vì con người phải trải qua 4 giai đoạn của cuộc sống: Sinh, lão, bệnh, tử.
Sinh ra, lớn lên, bệnh tật rồi chết, đều mang trong mình mầm mống của đau khổ, mà còn đau khổ, thì chưa có hạnh phúc.
Chỉ ở Thiên Đàng thì đau khổ mới hết. Đây chính là nơi chúng ta được chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa nhãn tiền. Chính Chúa là hạnh phúc của chúng ta. Trần gian không phải là quê hương thật của ta, nó chỉ là nợi tạm trú hay nơi dừng chân.
Cuộc hành trình còn phải kéo dài, mà cuộc hành trình nào cũng gặp nhiều trắc trở, gian nan, nhục nhằn, đau khổ.
Vì thế, sống ở trần gian này con người còn phải trải qua đau khổ, phải vượt thắng con người ươn hèn của chúng ta, mới mong đạt tới quê hương: Per crucem ad lucem. Thánh Phaolô còn khuyên chúng ta phải nỗ lực hợn:
”Anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: trong Chúa, sự khó nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích”
Vì thế: Người đời hữu tử hữu sinh Sống lo xứng phận, chết dành tiếng thơm.
*****
Truyện: Cái chết này mới đẹp.
Đôi vợ chồng nọ đã sống với nhau hơn 60 năm. Lúc đau nặng gần chết, ông kêu vợ lại và nói:
- Tôi sắp chết, tôi chết đi, bà sẽ làm gì cho tôi ?
- Khi ông chết, tôi sẽ nằm vật vã bên xác ông, khóc lóc thảm thiết, làm cho ai nấy đều phải cảm động.
- Tôi biết bà thương tôi lắm, nhưng bà khóc lóc khi đó cũng không giúp ích gì cho tôi được. Bởi khi đó. tôi đã không nghe, không thấy được gì nữa.
- Vậy thì tôi sẽ đóng một quan tài thật đẹp, mua hoa thật nhiều, xếp chúng quanh và trên quan tài thật nhiều.
- Tôi cảm ơn bà, nhưng khi đã chết, hoa đối với tôi cũng vô ích thôi, bời vì tôi đâu còn ngửi được mùi hoa thơm của nó nữa đâu.
- Vậy thì tôi sẽ mua đèn sáp, để tràn quanh quan tài ông.
- Cũng vô ích thôi, vì khi đó tôi không còn mắt để xem thấy nữa.
- Vậy thì khi chôn xác ông xuống đất, tôi sẽ ở lại nơi mồ, khóc lóc thảm thiết, cố làm sao cho các giọt nước mắt, thấm xuống đất và thấm vào thân xác ông.
- Cũng vô ích thôi, vì khi đó tôi không còn biết gì nữa.
- Ôi ! Bà vợ kêu lên, cái chết xấu xa và dễ sợ đến chừng nào !
- Nhưng cái chết sẽ thật đẹp đẽ người sắp chết thấy rằng: Trong đời sống, mình đã làm được nhiều việc thiện, nhiều việc lành phúc đức….
- Nói xong, ông tắt thở bình an. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Xưa nay, người ta vẫn thường liên tưởng đến sự chết, như là một giấc ngủ ngàn thu. Vì thế rất nhiều người đã thường viết ba chữ in hoa R.I.P, là chữ tắt của cụm từ “Yên nghỉ trong bình yên”, nghĩa của câu tiếng la-tinh “Requiescat In Pace”, để hướng về người chết và về những nơi chôn cất những người qua đời.
Thực vậy, “Người chết (tiếng la-tinh là defungi) là người đã vĩnh viễn hoàn tất đời mình.
Là người Kitô hữu, chúng ta phải biết đón nhận sự hoàn tất đó với một tâm hồn bình an cao cả, vì mạc khải Kitô giáo đã cho biết rằng cái chết như cánh cổng to lớn mở vào thánh điện an vui vĩnh hằng.
Như thánh Phaolô đã xác định:
Vào ngày cuối cùng, cái hư hoại trong ta sẽ trở nên bất hoại, cái khả tử sẽ nên bất tử (x. 1Cor 15, 53)” (LM Thái Nguyên, bài “Suy gẫm về sự chết”, nguồn simonhoadalat.com).
Thực ra, chết không phải là yên nghỉ, mà là tiếp tục sống. Vì cái chết chính là ngưỡng cửa đi vào đời sống vĩnh cửu.
Với người Ki-tô hữu, “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô Assisi).
Quả thật, với một cái nhìn đầy lạc quan và hy vọng, một sự cảm nhận thâm sâu về thực tại vĩnh cửu ngay bên cạnh giờ phút lâm chung, thi sĩ Tagore đã thốt lên:
“Bởi yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự chết”.
Sách Khải Huyền cũng đã mở ra một viễn ảnh tươi sáng, huy hoàng, huyền diệu về một trời mới đất mới:
“Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất’ ” (Kh 21, 3-4).
1. Lòng tin là thứ mà một khi ta đã mất, thì khó có thể trở lại như ban đầu.
Vì vậy, hãy sống đúng ngay từ đầu, bởi trường học thì có bút xóa, nhưng trường đời thì không.
2. Đừng nghĩ mãi về quá khứ, nếu nó chỉ mang tới những giọt nước mắt.
Đừng nghĩ nhiều về tương lai, nó chỉ mang lại sự lo sợ.
Hãy cố sống ở hiện tại, với nụ cười trên môi như trẻ thơ, nó sẽ mang lại niềm vui cho bạn.
3. Cuộc đời vốn chẳng có thứ gì hoàn hảo, nhưng mỗi người đều có nét đẹp riêng. Thiên tài ở chỗ, là mỗi người tìm ra được nét đẹp của chính mình và hoàn thiện nó.
5. Con người tạo ra để được yêu thương.
Vật chất tạo ra là để sử dụng.
Nhưng vì một lí do nào đó, vật chất lại được yêu thương, còn con người thì lại bị lợi dụng.
6. Đồng xu tuy có hai mặt, nhưng chỉ có một mệnh giá.
Con người chỉ có một mặt, cớ sao lại sống hai lòng.
7. Ngay cả ngõ cụt cũng là điểm xuất phát, nếu bạn biết quay lưng lại.
8. Làm người nhất định phải có lương tâm!
Nhất định không được quên người đã từng giúp đỡ bạn, nếu không bạn sẽ ngày càng ít bạn bè, đường đi sẽ ngày càng hẹp.
9. Có những người quên những lần ta giúp đỡ họ, nhưng họ lại sẽ nhớ mãi một lần ta từ chối họ.
10. Quan tâm nhiều quá thì đồng nghĩa với làm phiền. Yêu thương nhiều quá, thì người ta lại không biết trân trọng!
Có một người phụ nữ tìm đến vị thông thái nhất trong vùng, để xin thọ giáo. Bà nói:
– Thưa ngài, tôi luôn cảm thấy bất an, tâm hồn cứ buồn bã về một chuyện không vui đã xảy ra trong cuộc sống của mình. Mỗi lần nghĩ đến chuyện buồn đó, lòng tôi lại nặng trĩu và tôi không thể nở nụ cười với bất cứ ai, thậm chí là với chính mình.
Nhà thông thái im lặng, lắng nghe những chia sẻ của bà, với tất cả sự đồng cảm, rồi ông nhẹ nhàng nói:
– Hãy nghe tôi kể cho bà câu chuyện vui này.
Rồi ông kể cho bà nghe một câu chuyện cười khá thú vị.
Người phụ nữ cười ngặt nghẽo vì câu chuyện nhà thông thái kể quá hài hước.
Sau khi kể dứt câu chuyện ấy, nhà thông thái lại bắt đầu kể câu chuyện vừa rồi một lần nữa.
Lần này, nghe xong câu chuyện, người phụ nữ chỉ nhoẻn miệng cười.
Và nhà thông thái lại bắt đầu kể lại câu chuyện đó lần thứ ba.
Lần này, người phụ nữ không mấy chú tâm vào câu chuyện và khi nhà thông thái kể xong, gương mặt bà không còn vui vẻ nữa, mà còn có vẻ hơi khó chịu.
Nhà thông thái hỏi:
– Tại sao bà không cười nữa, khi nghe câu chuyện cười của tôi?
Người phụ nữ trả lời:
– Xin lỗi ngài. Tôi đã nghe một câu chuyện đó đến ba lần rồi, thì còn thú vị gì nữa mà cười, thưa ngài?
Nhà thông thái mỉm cười nói:
– Bà không thể cười, khi nghe một câu chuyện cười chỉ có ba lần. Vậy tại sao bà lại cứ mãi đau buồn, vì một câu chuyện buồn đã xảy ra như vậy?
Cuộc sống của bà hiện đang có những điều gì, khiến cho bà mỉm cười, khi nghĩ đến hay không?
Thí dụ như:
- Sức khỏe của bà; những đứa con, đứa cháu đáng yêu và sự thành đạt của chúng?...
- Hay những người hàng xóm thân thiện, người bạn già nào đó sẵn sàng ngồi nghe bà kể lể?
- Hãy thôi nghĩ đến chuyện buồn ấy và hãy nghĩ đến những điều tốt đẹp và đáng yêu khác trong cuộc sống, để lòng bà được thanh thản và tràn đầy niềm vui.
Quan điểm theo tinh thần Công giáo về chọn cách chết của nhà văn Quỳnh Dao:
Sự việc nhà văn Quỳnh Dao chọn cách tự kết thúc cuộc đời, đặt ra nhiều câu hỏi triết lý và nhân sinh. Nhưng từ góc nhìn Kitô giáo, điều này cần được nhìn nhận với sự cẩn trọng và lòng yêu thương.
Công giáo nhấn mạnh rằng:
- Sự sống là món quà vô giá, mà Thiên Chúa ban tặng.
- Và con người được kêu gọi trân trọng, bảo vệ sự sống ấy, từ khi thụ thai, cho đến cái chết tự nhiên.
- Quyền quyết định sự sống và cái chết thuộc về Thiên Chúa, chứ không phải con người. Hành động tự tử, dù có được lý giải bởi sự đau khổ hay mong muốn giải thoát, đều không phù hợp với giáo huấn của Hội Thánh.
Đau khổ và ý nghĩa trong ánh sáng đức tin
Trong Kitô giáo, đau khổ không phải là điều vô nghĩa hay cần phải loại bỏ bằng mọi giá, mà là cơ hội để kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô.
Đức Giêsu đã chịu đau khổ và cái chết trên thập giá, để mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Người dạy chúng ta rằng, ngay cả trong đau khổ lớn nhất, vẫn có ý nghĩa, nếu chúng ta sống trong niềm tin cậy vào Thiên Chúa.
Sự đau khổ, mà bà Quỳnh Dao trải qua, có thể liên quan đến tuổi già, bệnh tật, hoặc cảm giác mất phương hướng, là một thực tế cần được mọi người, đặc biệt là cộng đồng, quan tâm hơn.
Đây cũng là lời nhắc nhở chúng ta: Cần quan tâm chăm sóc, nâng đỡ những người già yếu và cô đơn trong xã hội.
Lời nhắn gửi đến cộng đồng.
Công giáo kêu gọi mỗi tín hữu trở thành nguồn hy vọng và đồng hành, cho những người đang chịu đựng đau khổ, khủng hoảng tinh thần, hay cảm thấy cuộc đời không còn ý nghĩa.
Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh:
"Một Kitô hữu không dám lội ngược dòng thì không phải là Kitô hữu".
Điều này nhấn mạnh rằng: Chúng ta cần mang tình yêu và hy vọng đến với mọi người, nhất là trong thời điểm họ cảm thấy tuyệt vọng.
Lời nhắc nhở trong niềm tin
Cái chết của bà Quỳnh Dao là một bi kịch, nhưng cũng là lời cảnh tỉnh, để chúng ta trân trọng sự sống và thấu hiểu nỗi đau của người khác.
Chúng ta không được phán xét, nhưng cần cầu nguyện cho bà và những ai đang trải qua khủng hoảng tương tự.
Hội Thánh cũng mời gọi mỗi người lắng nghe và hỗ trợ những ai đang chịu đau khổ, giúp họ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời trong ánh sáng của Thiên Chúa.
Chúng ta nên nhớ, sự sống và cái chết, là những điều linh thiêng, thuộc về Thiên Chúa.
Trong niềm tin Kitô giáo, hãy sống trọn vẹn từng ngày, tìm kiếm ý nghĩa trong đau khổ và trao hy vọng cho những người xung quanh.
Chúng ta không cô đơn trong cuộc hành trình này, vì Chúa luôn đồng hành và ban sức mạnh cho chúng ta.
Câu chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ VI, tại thành phố cảng Dade, đảo Chypre.
Trong thành phố này có cặp vợ chồng tên Isidore sinh sống. Hai vợ chồng cùng theo lạc giáo do Sévère khởi xướng chống lại Bí Tích Thánh Thể. Nhóm lạc giáo Sévériens cấm ăn thịt và uống rượu, để có lý do chỉ dùng nước lã thay vì rượu trong Thánh Lễ.
Một ngày, khi trở về nhà, ông Isidore nghe tin vợ đã trở về với Giáo Hội Công Giáo và đang tham dự Thánh Lễ. Tức giận ông ta hớt hơ hớt hải chạy đến nhà thờ, vừa đúng lúc vợ đang rước Mình Thánh Chúa. Ông túm lấy cổ vợ bóp chặt và buộc vợ phải nhả ra Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Bà vợ kinh hoàng nhả ra Bánh Thánh còn đang ngậm trong miệng.
Isidore cầm lấy Mình Thánh Chúa đem ra khỏi nhà thờ, vừa ném tung lên vừa buông lời xúc phạm.
Sau cùng, Mình Thánh Chúa rơi xuống vũng bùn. Kẻ phạm thượng chưa hả cơn giận, vội vàng chạy đến định lấy chân đạp lên Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU. Nhưng cũng chính lúc đó, ông kinh hoàng dừng lại và đứng im như bị trời tròng, bời Isidore trông thấy ánh sáng chói chang, tỏa ra từ Bánh Thánh đã truyền phép và đang treo lơ lửng trên không. Isidore thất kinh hồn vía ôm đầu bỏ chạy một mạch về nhà.
Nhưng Isidore không hề nghĩ đến chuyện ăn năn, cũng như đền bù về tội trọng đã xúc phạm đến Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
Hai ngày sau, bỗng ông trông thấy xuất hiện trước mặt ông một hình thù đen đủi, xấu xa. Ông ta nhe răng nhìn Isidore, với dáng điệu chế nhạo ngăm đe.
Người này nói: “Isidore à, ông và tôi, cả hai chúng ta cùng bị kết án muôn đời chịu chung một hình khổ”.
Tên lạc giáo Isidore run lẩy bẩy hỏi lại: “Ông là ai?”
Người này trả lời: “Tôi là kẻ đã vả vào mặt Đức Chúa GIÊSU, nơi nhà thượng tế Cai-pha, trong cuộc Khổ Nạn của Người”, (Gioan 18,22). Nói xong, người này biến mất.
Câu nói và hình thù kinh tởm của người chết hiện về, đủ để mở mắt tinh thần ông lạc giáo.
Ông Isidore đã nhận ra ngay tội lỗi tầy trời mình đã phạm. Ông thật lòng thống hối và xin ẩn mình vào một đan viện. Nơi đây, ông dành cuộc đời cuộc đời còn lại, để sống Chay tịnh, đền bù tội lỗi của mình.
*****
... Câu chuyện sau đây cũng xảy ra vào thế kỷ thứ VI, tại thành phố Engine, ở Cilicie, miền Nam nước Thổ-nhĩ-kỳ..
Nơi thành phố này cũng có hai người đang sinh sống: Một là tín hữu Công Giáo đạo đức. Một là đồ đệ nhóm lạc giáo Sévère.
Nhóm lạc giáo thì tìm mọi cách để đánh phá niềm tin vào Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể.
Tạm gọi tín hữu Công Giáo là Bartolomeo và tên lạc giáo là Cyrus.
Cyrus không bỏ lỡ cơ hội nào mà không chế nhạo tín hữu Công Giáo.
Ông Bartolomeo thì nhẫn nhục giữ thinh lặng, không hề hé môi đáp lại.
Để chấm dứt một cuộc nhạo báng kéo dài khá lâu, ông Bartolomeo quyết định ra tay hành động:
Ông xin tên Cyrus gởi cho ông mẩu bánh, mà nhóm lạc giáo Sévériens vẫn rước mỗi khi cử hành thánh lễ theo nghi thức của họ.
Tên Cyrus hớn hở chấp nhận, vì nắm chắc phần thắng. Cyrus sai người mang mẩu bánh đến cho ông Bartolomeo.
Trong khi đó, ông Bartolomeo cẩn thận dọn một thùng nước sôi. Khi sứ giả nhóm lạc giáo mang mẩu bánh đến, ông Bartolomeo mạnh tay vứt ngay vào thùng nước. Mẩu bánh tan mất trong nháy mắt trước sự chứng kiến của sứ giả lạc giáo.
Liền ngay sau đó, ông Bartolomeo trang trọng mang Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ ông đang cất giữ và cũng bỏ vào thùng nước sôi.
Trái với hiện tượng trước đó, Mình Thánh Chúa không chìm xuống, nhưng nằm im trên mặt nước, khô ráo. Nước trong thùng cũng đổi từ độ nóng sang độ lạnh.
Trước sự kiện lạ lùng này, ông Bartolomeo dõng dạc nói với các sứ giả lạc giáo:
- Các anh hãy về nói với các ông bạn đồ đệ lạc giáo rằng:
“Chỉ có Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU trong Thánh Lễ do Giáo Hội Công Giáo cử hành mới là Mình Thánh Chúa thật”.
Các anh này đã chứng kiến phép lạ Đức Chúa GIÊSU dùng để đánh bại những kẻ nào cả gan xúc phạm đến Ngài.
(Cha Eugène Couet, “Những phép lạ lịch sử của Bí tích Thánh Thể”, Éditions D.F.T, Tái bản 1998)
Paul Nagai, một bác sĩ người Nhật, từ sau quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, đã trở thành con người bất hủ, vì sự tận tụy và tấm lòng hy sinh vô bờ bến của ông.
Từ vô thần, ông đã trở thành người có niềm tin.
Ông đã giải thích như sau:
"Trong kỳ nghỉ mùa xuân, lúc đó tôi học hết năm thứ hai y khoa, mẹ tôi trúng phong. Tôi hối hả chạy đến đầu giường của người. Trong cơn hấp hối, người nhìn tôi và thở ra. Cái nhìn cuối cùng của cặp mắt người mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương tôi đến cùng, cặp mắt này đã nói với tôi một cách rõ rệt rằng:
Cho dù khuất núi, người vẫn ở bên tôi luôn mãi...
Tôi không tin gì ở sự hiện hữu của linh hồn. Bỗng nhiên, trong ánh mắt của mẹ tôi, tôi đã nhìn thấy linh hồn của người...
Từ đó, con người tôi thay đổi hẳn, tôi tin rằng: Mẹ tôi, người đã sinh ra tôi, đã yêu thương tôi, không thể bị tiêu diệt hoàn toàn sau cái chết".
Trường hợp thánh Ambrosiô Giám mục (Lễ ngày 7/12) là một trong những ơn gọi hết sức đặc biệt, vì khi được đề cử làm giám mục, thánh nhân còn đang là dự tòng.
- Con đường của Thiên Chúa thật là kỳ diệu. - Cách chọn lựa con người của Ngài cũng hết sức diệu kỳ.
*****
Ambrosiô sinh tại Trêve năm 339, trong một gia đình thế giá, làm công chức cao cấp ở đế quốc Roma.
Quả thực, danh vọng, chỗ đứng của Ngài trong xã hội lúc đó quả thực đầy bảo đảm.
Số là ông hoàng Probus thấy Ambrosiô có óc thông minh, cầu tiến, trí khôn hết sức minh mẫn, tính ngay thẳng, cương nghị và có tài hùng biện, ăn nói lưu loát, lợi khẩu, nên đã đề cử Ngài giữ chức tổng đốc hai miền Liguria và Emilia phía bắc nước Ý.
Thiên Chúa luôn có con đường của Ngài.
Điều gì thế gian cho là danh vọng, cho là thế giá, mang lại nhiều lợi nhuận cho bản thân, cho cuộc sống, thì Thiên Chúa lại nghĩ khác hẳn.
Đây là cái đảo lộn của Tin Mừng.
Phúc Âm của Chúa luôn là thách đố cho mọi người muốn theo chân Ngài. Thánh Ambrosiô đang sống trong nhung lụa, thế giá của xã hội ban tặng. Thiên Chúa lại có khúc ngoặt của Ngài.
Số là Đức Giám mục thành Milan qua đời, tòa Giám mục trống ngôi, vì thế hàng giáo phẩm và giáo dân tụ họp để chọn một Giám mục kế vị Đức Cha vừa mới tạ thế.
Tuy nhiên, tất cả từ hàng giáo phẩm, tới giáo dân đều bất đồng ý kiến không sao có thể chọn được vị Giám mục mới.
Giữa lúc hoang mang, lộn xộn, Ambrosiô với tư cách là chính quyền địa phương, đến để hòa giải và tìm cách động viên mọi người chọn vị Giám mục mới.
Trong lúc hỗn độn, có một em bé la to lên:
"Ambrosiô Giám mục ".
Lạ lùng thay tất cả mọi người có mặt đều đồng ý bầu Ngài là Giám mục năm 374.
Ambrosiô sau đó được lãnh nhận bí tích rửa tội, rồi lãnh nhận các chức thánh và rồi lên làm Giám mục thành Milan.
*****
Là mục tử nắm giữ địa phận Milan, củng cố đức tin cho mọi người, thánh Ambrosiô đã thẳng thắn, cương quyết đứng lên chống lại bè rối Ariô và các bè rối khác, bênh vực chân lý và kỷ cương của Giáo Hội.
Với tài hùng biện, sự thánh thiện, khôn ngoan Chúa ban cho, thánh Ambrosiô đã dùng tài giảng thuyết và các văn thư để đưa nhiều người lạc giáo quay trở về với Giáo Hội Chúa Kitô, trong đó có thánh Augustinô.
Một con người đã hiến trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa, thánh Ambrosiô đã làm chứng cho Chúa Cứu Thế bằng chính đời sống gương mẫu của mình.
Trên ngai Giám Mục, thánh Ambrosiô đã sống hết mình vì đoàn chiên, Ngài đã củng cố đức tin cho nhiều người và đưa rất nhiều người trở về với Chúa, với Giáo Hội.
Ngài đã được Chúa gọi về ngày 04/4/397, khi Ngài mới 58 tuổi.
Lạy Chúa, Chúa đã làm cho thánh Ambrosiô Giám mục trở nên một bậc thầy giảng dạy đức tin công giáo và một tông đồ trung kiên mẫu mực. Xin cho Hội Thánh ngày nay được thêm nhiều mục tử vừa ý Chúa, biết khôn ngoan và dũng cảm chăm sóc đoàn chiên ( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Ambrosiô ngày 07/12 ).
Vì sao Chúa cho một số người có cuộc sống thật dễ dàng, còn những người khác thì thật chật vật?
Đôi khi ta có cảm giác: Dường như tình yêu thương của Chúa không đồng đều, thậm chí có thể nói là bất công nữa, vì cuộc sống của một số người dường như luôn được thoải mái hơn người khác, ngay cả khi họ là những người “tội lỗi”.
*****
Nhưng mà này bạn,
1. Tất cả chúng ta, ai ai cũng đều có những khó khăn trong cuộc sống
Thường ta dễ phán xét một người chỉ qua những gì ta thấy được cách hời hợt ở bề ngoài.
Tuy nhiên, mỗi người đều có những góc khuất, mà ta không biết, đó là những tội lỗi, những khó khăn, những đau khổ… Không ai mà không có Thánh giá. Người ngoài thì thấy nó nhẹ, nhưng chỉ những ai vác nó, mới hiểu, mới nếm cảm được thôi.
2. Thánh giá không phụ thuộc vào công phúc của chúng ta.
Tôi vẫn còn nhớ một câu chuyện của Cha xứ giảng trong một Thánh lễ:
Anh chàng nọ than phiền, là Thánh giá mình vác sao nặng quá, nên đã xin Chúa cho anh được đổi Thánh giá với người khác.
Anh đến thử hết Thánh giá này, rồi Thánh giá kia, lựa mãi cho tới khi tìm thấy một Thánh giá có vẻ vừa sức mình.
Bỗng nhìn kỷ lại, anh mới nhận ra đó chính là Thánh giá cũ, mà Chúa vốn đã trao cho anh từ lúc đầu.
Thật vậy, Thánh giá Chúa trao cho ai thì luôn là phù hợp với mỗi người. Đó cũng chính là con đường nên Thánh, mà Chúa dành cho riêng họ và cũng đã ban những ơn thánh phù trợ cần thiết kem theo.
Thánh giá đó không phụ thuộc vào những việc ta thánh thiện ta làm tới mức nào. Nó cũng không phải là do công phúc của chúng ta, mà là do kế hoạch của Chúa đã dành cho mỗi người chúng ta. Chúa hoàn toàn tự do trong mọi việc Ngài làm.
3. Cỏ lùng và lúa tốt
“Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: “Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta” ” (Mt 13, 29-30)
Mùa gặt của ngày sau hết vẫn chưa đến. Cho nên cả cỏ lùng và lúa tốt vẫn được Thiên Chúa cho mọc lên.
Tuy nhiên, tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa.
Vì vậy, ta hãy tuyệt đối tin tường và phó thác vào kế hoạch của Chúa. Và hãy tin rằng: Công tội của mỗi người đều sẽ nhận sự phán xét của Thiên Chúa, là đấng rất công bình vào ngày sau hết.
Những hi sinh, hãm mình, bác ái, hoán cải của chúng ta sẽ không bao giờ vô nghĩa đâu.
Vì vậy, đừng bao giờ chúng ta thoái chí hay nản lòng. Hãy luôn cố gắng bước từng bước theo sự sắp xếp, an bài theo sự quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin dìu dắt và nâng đỡ những cố gắng của chúng con. Amen.
1. Thánh lễ Misa là một thể thức cầu nguyện hoàn hảo nhất. (Giáo Hoàng Phaolô VI)
2. Mỗi Thánh lễ khi dự với sự sốt sắng, khi chết Chúa sẽ sai một vị Thánh xuống an ủi bạn (Lời Chúa tiết lộ với bà Thánh Gertrude)
3. Thế giới có thể tồn tại dễ dàng nếu không có nắng, nhưng không thể không có Thánh lễ Misa. (Lm. Stigmatic Padre Pio)
4. Nếu chúng ta biết giá trị của Thánh lễ, chúng ta có thể chết trong sự vui mừng. (Thánh Jean Vianney)
5. Mỗi Thánh lễ bạn tham dự lúc còn sống, có giá trị hơn cả ngàn Thánh lễ khi bạn qua đời, người ta cầu cho bạn. (Thánh Anselmô)
6. Mỗi Thánh lễ có ích cho bạn lúc còn sống, hơn nhiều Thánh lễ người ta cầu cho bạn khi bạn đã qua đời. (Giáo Hoàng Benedict XV)
7. Có lần Thánh Têrêsa cảm thấy Chúa quá tốt lành, nên hỏi Chúa, làm sao để cảm tạ ơn Chúa. Chúa đáp: “Hãy tham dự Thánh lễ Misa.”
8. Con Ta rất yêu mến những ai tham dự Thánh lễ Misa, nếu cần Người cũng chết cho họ nhiều lần nữa khi thấy họ tham dự Thánh lễ Misa. (Đức Mẹ nói với Alain, đầy tớ trung thành của Mẹ)
Truyện ngắn hay nhứt trong mùa Giáng Sinh, do Leo Tolstoy phóng tác thành văn xuôi, từ vở thoại kịch có tựa đề là ‘Le père Martin’ (Ông Panov) của Ruben Saillens, ngày nay đã có hàng ngàn phiên bản bằng văn, thơ, kịch khác, phổ biến trong văn học thế giới, như một thông điệp về sự nhân ái và hạnh phúc, nhất là trong dịp Lễ Giáng Sinh.
*****
Hôm đó là ngày vọng (trước) Lễ Giáng sinh, mặc dù chỉ mới là xế chiều, thế mà đèn đã được thắp sáng lên khắp nơi, từ nhà ở cho đến các cửa tiệm trong ngôi làng nhỏ của nước Nga này, bởi vì những ngày mùa đông thì ngắn ngủi và rất chóng tàn.
Những đứa bé, vốn lúc nào cũng hớn hở, vui đùa, chạy nhày lon ton ở bên trong nhà khép kín vì trời lạnh. Nhất là hôm nay, lúc này lễ Giáng Sinh gần kề, những cuộc trò chuyện và những tiếng cười đùa đó bỗng lớn hơn, được thoát ra bên ngoài, qua những khung cửa chớp hé mở, như là những âm thanh, giống như đã bị bóp nghẹt từ thuở nào.
Lão Panov, ông thợ giày của làng, bước ra bên ngoài để có một cái nhìn rảo khắp.
Những âm thanh của hạnh phúc, những ánh đèn chớp nháy, rực rỡ, lung tinh và những mùi vị thoang thoảng cùa những món ăn Rê-vei-don (Réveillon) thật ngon của mùa Giáng Sinh, gợi lên những kỷ niệm thời vợ ông còn sống và những đứa con thời vẫn còn bé bỏng.
Bây giờ thì mọi người đều đã đi xa rồi.
Khuôn mặt tươi vui tự nhiên của ông xưa kia, thường đi đôi với một cặp mắt xe lại. Nhưng nay, nụ cười của ông, lại ẩn nấp dưới một khuôn mặt, đầy những vết nhăn của thời gian, sau cặp kính tròn, mà bây giờ trông buồn rời rợi.
Tuy nhiên, ông đã bước vào trong nhà một cách dứt khoát, kéo các cửa chớp xuống và đặt bình cà phê lên bếp than.
Sau đó, với một tiếng thở dài, ông ngả người lên chiếc ghế bành lớn.
Lão Panov thường không đọc sách, nhưng tối nay, ông với lấy cuốn sách Kinh Thánh cũ của gia đình, và từ từ dùng ngón tay trỏ, lân lê theo dòng chữ, ông đọc lại câu chuyện Chúa Giêsu Giáng Sinh.
Ông đọc tới đoạn Bà Maria và Ông Giuse, mệt mỏi, sau cuộc hành trình dài đi Bêlem, không tìm được một chỗ nào nơi nhà trọ, nên phải sinh đứa con nhỏ trong một chuồng bò.
“Trời đất ơi, Trời đất ơi!” Lão Panov kêu lên, “nếu mà họ đến đây! Tôi sẽ nhường chiếc giường của tôi cho họ và tôi bảo đảm sẽ lấy tấm chăn bông của tôi để bao bọc cho đứa bé.”
Khi ông đọc tiếp theo, tới đoạn: Các nhà đạo sĩ (Ba Vua) đến thăm em bé Giêsu, đã tặng cho em nhiều món quà thật tuyệt vời, đắc giá, nào là vàng bạc, nhủ hương và mộc dược, thì sắc mặt của Lão Panov bỗng xụ xuống.
“Tôi chẳng có món quà nào cho em cả”, ông buồn bã nghĩ thế.
Rồi, bỗng một lúc, gương mặt của ông lại tươi lên. Ông bỏ cuốn Kinh Thánh xuống, đứng thẳng dậy và vươn cánh tay dài, với lên một ngăn tủ ở trên cao gần đó. Ông lấy xuống một chiếc hộp nhỏ đã phủ đầy bụi và mở ra. Bên trong là một đôi giày nhỏ bằng da hoàn hảo.
Lão Panov mỉm cười hài lòng.
Vâng, đôi giầy vẫn còn tốt như trước - đôi giày tốt nhất, mà ông từng làm ra.
“Tôi phải cho em đôi giầy này”. Ông định bụng như thế, rồi nhẹ nhàng cất chúng đi và ngồi xuống ghế một lần nữa.
Ông bắt đầu cảm thấy mệt mỏi, và rồi lấy cuốn Kinh Thánh ra đọc tiếp. Nhưng càng đọc thì ông càng buồn ngủ hơn. Những dòng chữ bắt đầu nhảy múa lung tung trước mắt, cho đến khi ông phải nhắm mắt lại, để nghỉ thêm một phút. Nhưng chẳng bao lâu thì Lão Panov đã ngủ vùi.
Trong giấc ngủ, ông thấy một giấc mơ:
Ông nằm mơ thấy một người nào đó đang ở trong phòng của mình và ông nhận biết, giống như mọi người đều nhận biết khi ở trong những giấc mơ của họ. Ông nhận ra ngay người đó là ai, là Chúa Giêsu.
“Panov, nếu con muốn gặp Ta” Chúa nói một cách dịu dàng “thì con hãy tìm Ta vào ngày mai. Đúng ngày Giáng Sinh, Ta sẽ đến thăm con. Nhưng hãy chú ý cẩn thận, Ta sẽ không tỏ cho con biết rõ Ta là ai.”
Cuối cùng thì Lão Panov tỉnh dậy, khi chuông nhà thờ reo vang và một luồng sáng mỏng manh luồn lọc qua khung cửa chớp.
“Chao ôi, vui quá là vui!” Lão Panov reo lên. “Đây là ngày Giáng sinh rồi!”
Ông đứng dậy và duỗi mình thẳng ra, cho qua cơn nhức mỏi. Rồi thì khuôn mặt của ông rực lên một niềm vui hạnh phúc, vì hồi tưởng lại giấc mơ đêm vừa qua. Đây sẽ là một ngày Giáng sinh đặc biệt hơn tất cả, vì Chúa Giêsu đến thăm ông.
Nhưng, Ngài sẽ trông giống như thế nào nhỉ?
Sẽ còn là một em bé như lúc Giáng sinh đầu tiên? Hay, sẽ là một người trưởng thành, một anh thợ mộc, hay là một vị vua huy hoàng, xứng đáng với danh phận là Con Đức Chúa Trời?
Ông tự nghĩ: Phải cẩn thận canh chừng từng giây phút của ngày, để có thể nhận ra Ngài, khi Ngài ngự đến.
Lão Panov pha một bình cà phê thật đặc biệt cho bữa ăn sáng Giáng Sinh, kéo cửa chớp của cửa sổ lên và nhìn ra ngoài.
Đường phố vẫn còn vắng tanh, không thấy có ai cả, ngoại trừ ông già quét đường quen thuộc ở bên kia đường. Ông ta có vẻ khổ sở và bẩn thỉu hơn bao giờ hết, và cũng là đáng kiếp, vì ai mà lại đi làm việc vào ngày Lễ Giáng sinh bao giờ. Và lại, làm việc trong cái lạnh cay đắng của lớp sương muối dày đặc, trong một buổi sáng như thế này chớ.
Lão Panov lại mở cửa ra, một làn khí lạnh mỏng lùa vào nhà.
- “Vào đây!" ông hô to, qua phiá bên kia đường, bằng một giọng vui vẻ: “Vào đây uống một chút cà phê cho ấm bụng, mừng Giáng Sinh!”
Ông quét đường nhìn lên, gần như không tin vào tai mình.
Rõ ràng, ông ta đã quá sức vui mừng, khi được đặt cây chổi xuống và đi vào căn phòng ấm áp.
Quần áo của ông bay phất phới, nhẹ nhàng, trong cái hơi nóng từ cái lò sưởi thoát ra, và ông đã dùng cả hai bàn tay đỏ như gấc vì lạnh, siết chặt vào cái ly, để tìm sự ấm áp và hạnh phúc.
Lão Panov hài lòng nhìn ông ta, nhưng thỉnh thoảng vẫn liếc mắt qua khung cửa sổ. Ông quyết tâm không muốn bỏ lỡ người khách đặc biệt của mình.
- “Anh đợi ai đó?” Ông quét đường hỏi, nên Lão Panov đã kể cho ông ta nghe câu chuyện về giấc mơ của mình.
- “Vâng, tôi hy vọng ông ta sẽ tới, và anh xứng đáng để được như thế," ông quét đường nói, “vì anh cũng vừa tặng cho tôi một chút niềm vui Giáng sinh, mà tôi đã không bao giờ mong đợi hay nghĩ tới. Tôi cũng muốn nói rằng: Đúng lá anh rất xứng đáng để giấc mơ đó trở thành sự thực.” Và ông ta đã mỉm cười một cách thực lòng.
Khi ông ta đi rồi, Lão Panov cắt nhỏ bắp cải đưa vào nồi súp để dọn bữa ăn, sau đó đi ra cửa nữa, quét mắt nhìn quanh đường phố. Ông vẫn không thấy ai. Nhưng trông kìa, từ xa có người đang đi đến.
Cô gái bước đi rất chậm chạp và lặng lẽ, dựa sát vào các bờ tường của các cửa hàng và nhà ở, phải mất một thời gian dài trước khi ông nhận ra cô nàng. Cô ta trông thật mệt mỏi và đang mang một cái gì đó.
Khi cô gái tiến gần ông hơn, ông mới nhận ra rằng 'cái gì đó' là một đứa bé, được bọc trong một chiếc khăn choàng mỏng.
Có một nỗi buồn u uẩn phảng phất trong khuôn mặt của cô gái và trong khuôn mặt bị ép chặt của đứa bé, đến nỗi trái tim của Lão Panov muốn rơi ra vì họ.
- “Xin mời vào nhà” ông bước ra ngoài để gặp họ. “Cô và em bé cần có chút lửa ấm và chút nghỉ ngơi.”
Bà mẹ trẻ để cho ông ta dẫn cô vào nhà và đưa tới gần lò sưởi, với sự thoải mái của chiếc ghế bành. Cô thở dài nhẹ nhõm.
- “Tôi sẽ hâm nóng một chút sữa cho em bé” Lão Panov nói, “Tôi cũng đã từng có con, nên tôi có thể giúp cho con bé bú.”
Ông lấy sữa từ bếp lò và cẩn thận cho đứa con gái nhỏ bú bằng muỗng, đồng thời hơ ấm đôi bàn chân nhỏ của nó lên bếp.
“Con bé cần phải có đôi giày”, ông thợ đóng giày lê tiếng.
Nhưng bà mẹ trẻ trả lời:
“Không, tôi không có tiền mua giày đâu. Tôi không có chồng để lo chu cấp cho chúng tôi. Tôi phải đi đến làng bên cạnh để tìm việc làm đây.”
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong trí của Lão Panov. Ông nhớ lại đôi giày nhỏ ông đã coi lại đêm qua. Nhưng ông muốn giữ đôi giầy ấy cho Chúa Giêsu. Ông nhìn xuống đôi chân lạnh của đưa bé một lần nữa và rồi làm một quyết tâm:
“Thử đôi giầy này cho con bé”. Ông vừa nói, vừa trả đứa bé cho mẹ nó, cùng với đôi giày ông biếu cho.
Đôi giày nhỏ xinh đẹp, mang vào thật vừa vặn với chân bé. Cô gái mỉm cười hạnh phúc và con bé cũng riú rít lên vì vui sướng.
“Ông tốt với chúng tôi quá”. Cô gái vừa nói vừa bế đứa bé lên và đi ra. Co ngoái lại nói: “Chúc tất cả những ước mơ Giáng sinh của ông trở thành sự thật!”
Nhưng đến lúc này, sắp hết này rồi, nên Lão Panov đã bắt đầu nghi ngờ cái ước mơ Giáng sinh đặc biệt của mình, có thể sẽ không trở thành sự thật. Có lẽ ông đã bỏ lỡ người khách của mình rồi chăng?
Ông lo lắng nhìn lên các đường phố, phía trên, lẫn phía dưới. Tuy vẫn còn có nhiều người đi qua lại, nhưng toàn là những gương mặt mà ông từng quen biết.
Có nhiều người hàng xóm đi gọi người nhà về.
Họ gật đầu chào và mỉm cười chúc ông Giáng sinh vui vẻ!
Hoặc những tên hành khất mà Lão Panov vội vã gọi họ vào nhà, để biếu họ một tô súp nóng và một ổ bánh mì kha khá, rồi cũng vội vã chạy ra cửa để đề phòng , không bỏ lỡ Người khách Lạ Mặt Quan Trọng.
Rồi thì chẳng mấy chốc mà cảnh hoàng hôn của mùa đông tối mịt bắt đầu rơi xuống.
Khi Lão Panov đi ra cửa một lần nữa và dù có căng đôi mắt của mình ra đến mấy, ông cũng không còn nhìn thấy một ai trên đường. Mọi người đều đã về nhà.
Ông chậm rãi thất thểu đi vào phòng, đóng các cửa lại, và ngồi xuống một cách mệt mỏi chán chường trên chiếc ghế bành.
Chỉ là một giấc mơ thôi mà. Chúa Giêsu nào có đến đâu.
Nhưng, bỗng nhiên ông thấy có đông người tới, xông nhà. Đây không không phải là một giấc mơ, bởi ông đang hoàn toàn tỉnh táo,
Ông thấy trước mắt một hàng rất dài những người đã đến với ông ngày hôm nay: Đấu tiên la ông già quét đường, đếb người mẹ trẻ cùng đứa con và những người hành khất rất đông mà ông đã cho ăn ngày nay.
Khi họ lần lượt đi qua ông, mỗi đều thì thầm một câu: “Ông không thấy tôi, ông không biết tôi à, ông Panov?”
- “Bạn là ai?” ông Panov kêu lên trong hoang mang.
Lập tức, một giọng nói khác, rất to đã trả lời cho ông, đó là giọng nói của Chúa Giêsu, mà ông đã từng nghe trong giấc mơ đêm qua:
“Vì Ta đã đói, ngươi đã cho Ta ăn. Ta khác, người đã cho ta uống. Ta mình trần ngươi đã cho mặc. Ta lạnh, ngươi đã sưởi ấm cho Ta. Hôm nay Ta đến thăm ngươi qua tất cả những người mà ngươi đã mời vào mà cứu giúp.”
Rồi sau đó, là một sự tĩnh mịch, yên lặng trở lại. Chỉ còn nghe tiếng tíc tắc của chiếc đồng hồ lớn.
Một sự bình an và hạnh phúc lớn lao lấp đầy căn phòng nhỏ, tràn ngập trái tim của Lão Panov, đến nỗi Lão phải phá lên cười, hát vang và nhảy múa trong hân hoan:
“Ngài đã đến thật rồi!”. Ông chỉ nói được như thế mà thôi.
Trần Mạnh Trác dịch 22/12/2014
---------------------------------
Bài 20: Chỉ có Chúa mới biết được lời nguyện cầu nặng bao nhiêu
Chuyện Đời Đạo - Sách 18- Bài 387
Bạn thân mến,
Một phụ nữ bước vào cửa tiệm tạp hóa lớn, cô ngó quanh, dáo dát, rồi đến bên quầy tính tiền nói với ông chủ.
– “Thưa ông, tôi cần mua một ít thức ăn, nhưng tôi không có tiền ngày hôm nay. Ông có thể cho tôi mua chịu được không? Tôi hứa sẽ đem tiền đến trả ngay, sớm nhất có thể“, cô cuối đầu ngượng ngùng nói.
– “Oh, không được đâu. Tôi đâu biết cô là ai? Làm sao tôi có thể bán chịu cho cô, khi cô chưa từng là khách quen ở cửa tiệm tôi?“. Ông chủ lắc đầu.
Nước mắt lưng tròng, người phụ nữ van xin:
– “Chồng tôi bị bệnh nặng, không thể đi làm được. Chúng tôi có 5 đứa con, và chúng đang rất đói. Xin ông hãy rủ lòng thương giúp đỡ cho một lần này thôi. Tôi hứa khi có tiền sẽ đem đến trả ông ngay!“
Ông chủ tiệm chỉ tay ra phía cửa nói:
– “Cô vui lòng lui ra khỏi đây ngay. Đừng cản trở tôi mua bán. Khách đang xếp hàng dài sau lưng cô kia kìa ...“
Từ phía sau người phụ nữ, một người đàn ông nãy giờ đã nghe 2 người đối thoại, bước lên. Ông nói:
– “Hãy để tôi ứng tiền cho cô ấy, ông cứ để cô ấy lấy những gì cô ấy cần.“
Người chủ tiệm nhìn 2 người, lưỡng lự một chút, rồi ông ta chợt nảy ra ý tưởng hay. Ông hỏi người phụ nữ:
– “Cô có biết viết không? Nếu biết thì cô hãy viết những thứ cần giấy đưa cho tôi.“
Người phụ nữ mừng rỡ nói:
– “Vâng, thưa ông. Tôi xin viết ngay đây.“
Nhưng ông chủ tiệm lại tiếp:
– “Viết xong, hãy đưa tờ giấy đó lại cho tôi, tôi sẽ bỏ lên bàn cân này. Nó nặng bao nhiêu thì cô cứ tự nhiên lấy những gì cô cần cho đến khi đủ. Tôi sẽ không tính tiền những gì cô lấy!“.
Ông chủ tiệm cúi xuống gầm, rồi lôi lên bàn một cái cân to tướng, và chỉ vào một phía cân.
Người phụ nữ và ông khách phía sau ngạc nhiên trước thái độ ông chủ, nhưng cô không còn lựa chọn nào khác.
Người phụ nữ lục trong túi xách một mảnh giấy nhàu nát, cô run run viết lên tờ giấy đó ... Rồi cô gấp đôi tờ giấy lại, đưa cho ông ta. Ông ta không thèm mở ra xem, vì dù có ghi cái gì đi nữa, thì miến giấy đó có nặng là bao.
Ông chủ tiệm nhếch mép cười đắc chí, vì cái trò “quảng đại” của mình. Ông bỏ tờ giấy lên một bên cân, và giục cô ta chọn hàng bỏ lên phía bên kia cân.
Nhưng lạ thay, mảnh giấy từ từ chìm xuống cho đến đụng đáy, trước sự ngạc nhiên của 3 người.
Người phụ nữ vội đi gom thức ăn bỏ vào bên thau bên kia, nhưng dù cô có bỏ lên bao nhiêu, phía bên tờ giấy vẫn không nhúc nhích.
Ông chủ tiệm nhìn kỹ 2 bên cân, nhưng rõ ràng nó không có gì khác thường ...
Cho đến khi thau đồ đã đầy, ông chủ tiệm đành để người phụ nữ ôm túi đầy thức ăn bước ra khỏi tiệm, mà không thể tính tiền trước sự ngạc nhiên của người khách lạ.
Ông chủ tiệm lật hẳn cái cân lên coi, thì ra phía dưới một bên cân đã bị gãy.
Ông tức tối nhặt tờ giấy người phụ nữ gấp lại, mở ra để xem cô đã lấy đi những gì cho ông, thì ra cô chẳng hề viết list đồ cô cần mua, mà chỉ vỏn vẹn có một dòng chữ:
« Lạy Chúa, Chúa biết chúng con đang cần gì, con xin phó thác tất cả trong tay Người. »
Ông chủ tiệm nhắm mắt ngước lên trời, giờ thì ông đã hiểu ...
Bạn, xin đừng bao giờ đánh giá thấp một lời cầu nguyện. Chỉ có Chúa mới biết được lời nguyện cầu nặng lá bao nhiêu.
*** Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link trên của sách vào thẻ nhớ, hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. (Chỉ khoảng 24 tờ A4).
*** Bạn cũng có thể đọc trực tiếp các bài này, trên Điện Thoại cảm ứng, khi bạn dùng ngón tay chạm vào đường link trên: https://...
*** Và bạn cũng có thể chép đường link trên: https://... gởi qua Zalo, Messenger, Line, Viber, Tango... làm quà tặng cho các bạn bè, nhiều người được đọc, sẽ có nhiều lợi ích.
---------------------------------
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (10 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/ 1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng – Sách 4
5. Chuyện “Số Con Rệp” – Sách 5
6. Thiên Chúa là Đấng hay quên – Sách 6
7. Chuyện một người con chọn mẹ để sinh ra – Sách 7
8. Family, một định nghĩa hay về gia đình – Sách 8
9. Hộ Chiếu Nước Trời – Sách 9
10. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng – Sách 10
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (18 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6
7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7
8. Một kiểu sống lại không vui - Sách 8
9. Chuyện con gà trống - Sách 9
10. Kinh cầu các thánh chẳng hề được phong - Sách 10
11. Làm phúc giúp các linh hồn nơi Luyện Ngục - Sách 11
12. Các linh hồn nơi Luyện Ngục sẽ không quên sự giúp đỡ của chúng ta - Sách 12 13. Tình Mẫu Tử trong dịp Lễ Giáng Sinh - Sách 13
14. Năm Thìn, nói chuyện con rồng - Sách 14 15. Nhật ký của một linh hồn sau khi chết - Sách 15
16. Những lời tâm sự của người cận kề cái chết - Sách 16
17. Tội nhân trở thành thánh nhân - Sách 17
18. Chuyện ông Panov gặp Chúa đêm Giáng Sinh - Sách 18
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (30 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16
17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17
18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18
19. Ngày của bố - Sách 19
20. Chuyện 2 cha con hoang đàng - Sách 20
21. Chuyện Kẻ “tự bắc thang lên trời” - Sách 21
22. Chuyện Quỷ Ám là có thật - Sách 22
23. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ - Sách 23
24. Thảm họa: Một Thiên Đường không có Thiên Chúa – Sách 24
25. Nếu Thiên Chúa không có, thì tại sao lại chống Ngài ? – Sách 25
26. Ông già Noel không mặc đồ đỏ – Sách 26
27. Tình yêu có sức mạnh biến đổi – Sách 27 28. Chuyện một mối tình thật đẹp – Sách 28
29. Một kinh ngiệm truyền giáo thật dễ thương – Sách 29
30. Tháng các đẳng linh hồn và những ước nguyện – Sách 30
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (6 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4
5 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần I) – Sách 5
6 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần II)– Sách 6