Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;
2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, Cha Mễn kể chuyện, hoặc linh mục Mễn
3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com
5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
"Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Trong 12 con giáp, theo cung Hoàng đạo của người Việt, con đầu tiên là chuột (Tý), sau đó là trâu (Sửu) và tiếp đến theo thứ tự là hổ (Dần), mèo (Mão), rồng (Thìn), rắn (Tỵ), ngựa (Ngọ), dê (Mùi), khỉ (Thân), gà (Dậu), chó (Tuất) và cuối cùng là lợn (Hợi).
Trong số các con giáp này thì Thìn (con rồng) là con vật thần thoại và Tí, Dần, Tỵ và Thân là những con vật sống hoang dã và thường tránh gặp con người. Bảy con còn lại là những vật nuôi trong nhà. Cứ mỗi chu kỳ 12 năm thì lại mang tên con vật cũ.), rắn là con giáp thứ 6 và có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng và phong tục của dân tộc.
Là loài động vật hoang dã tồn tại trong thiên nhiên, nhưng rắn không tách khỏi đời sống con người.
Từ xa xưa, trong sinh hoạt văn hóa dân gian, rắn rất ít khi vắng mặt. Nhân dịp năm mới Ất Tỵ (2025), xin được kể ra vài điều thú vị về hình ảnh con rắn.
1. Con rắn - sinh vật lạ thường
Rắn không có chân, nhưng lại di chuyển nhanh như chớp.
Những con rắn độc có thân hình tuy bé nhưng nọc độc của nó có thể giết chết một con vật to khỏe trong nháy mắt.
Họ nhà rắn có thể không ăn trong một thời gian dài, nhưng lại có cái dạ dày kinh người. Những đốt xương nối từ đầu đến vòm họng rắn có những sợi dây chằng nối liền nhau, nên nó có thể vận động thoải mái, miệng có thể há rộng sang hai bên, nên nó có thể nuốt chửng những thức ăn lớn hơn đầu nó.
Rắn sinh sản rất mạnh và có sức sống dẻo dai. Cứ cách 2, 3 tháng rắn lại lột xác một lần, sau khi lột xác, thân hình nó dài ra như được tái sinh. Không giống những loài bò sát khác, cách thức lột da của rắn giống như người ta tháo bỏ một chiếc bít tất.
Nó cọ đầu và mũi vào những vật cứng, như đá hoặc cây cối, cho tới khi da rách và bắt đầu lột. Mục đích cơ bản của việc này là để trưởng thành, lột da cũng khiến rắn loại bỏ ký sinh trùng. Sự tái sinh này biểu hiện cho một sự hồi phục. Bởi thế, biểu tượng của y học hiện đại là bức tranh con rắn quấn quanh Rod of Asclepius (cái gậy của Thần Y Thuật).
2. Rắn trong kho tàng dân gian
Trong tâm thức dân gian người Việt, loài rắn có nhiều đặc điểm “tương đồng” với tính cách, hành động của con người:
- Những người tính cách thẳng thắn thường được ví với: “Thẳng như rắn bò”.
- Những kẻ trâng tráo, mắt luôn thao láo liếc ngang, nhìn dọc, thì được xem là: “Thao láo như mắt rắn ráo”.
- Những kẻ hay kêu la: “Oai oái như rắn bắt nhái”. - Người hay gân cổ cãi cọ: “Bạnh cổ như cổ hổ mang”; - có hành động lén lút, sợ sệt: “Len lét như rắn mùng năm”; - kẻ hay bịa đặt, ba hoa quá sự thật: “Vẽ rắn thêm chân”. - Đối với những kẻ phản bội gia đình, Tổ quốc: “Cõng rắn cắn gà nhà”...
Trong đồng dao, ca dao, câu đối của người lao động xưa, cũng có nhiều hình ảnh đề cập đến rắn:
- “Bao giờ cho đến tháng ba, ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng”,
- “Rồng rắn lên cây, có cây núc nác, có nhà hiển vinh”, - “Cây xương rồng, giồng đất rắn, long vẫn hoàn long, Quả dưa chuột, truột một gang, thử ăn thì thử!”.
Rắn cũng đi vào chuyện tình trao đổi giữa trai gái trong lễ hội:
“Con rắn hổ mây nằm cây thục địa Con ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên Phận em là gái thuyền quyên Ai mà đối đặng kết nguyền phu thê”.
Truyện cười dân gian Việt Nam có câu chuyện con rắn vuông để phê phán nạn bốc phét trong xã hội:
Chuyện rằng: Có anh tiều phu kể với vợ rằng, mình đã trông thấy một con rắn bề dài hai mươi thước, bề ngang một trăm hai mươi thước.
Bị vợ cật vấn, anh ta trừ lùi để rồi quả quyết đã trông thấy con rắn dài đúng hai mươi thước, không kém một tấc, một phân nào. Chị vợ bò lăn ra cười, bề ngang hai mươi thước, bề dài hai mươi thước, thế thì là con rắn vuông rồi.
3. Rắn trong bài thơ kỳ lạ của Lê Quý Đôn
Trong văn học sử của ta, Lê Quý Đôn (1726 - 1784) đã sáng tác một bài thơ thất ngôn bát cú, có liên quan đến loài rắn, trong một trường hợp khá ly kỳ như sau:
Thuở nhỏ, cậu bé Lê Danh Phương (tên đầu tiên của Lê Quý Đôn) rất cứng đầu và biếng học.
Cha Phương quở trách, buộc cậu làm một bài thơ trong đó phải có điều gì liên quan đến sự cứng đầu, cứng cổ để tạ tội.
Phương vâng lời và đọc ngay một bài có tên là “rắn đầu”, nghĩa bóng là cứng đầu như sau:
“Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà, Rắn đầu biếng học, chẳng ai tha Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ, Nay thét mai gầm rát cổ cha. Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối, Lằn lưng cam chịu vết roi tra. Từ nay Trâu Lỗ chăm nghề học. Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia”.
Cái hay của bài thơ là bài giảng cho học trò về đạo học, như một bài học về động vật học.
Đây là bài thơ viết theo thể Đường luật vì thế các vế đối phải nghiêm chỉnh, gieo vần đúng luật.
Ông đã khéo léo đưa được các tên loại rắn vào một cách tự nhiên: “Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ, Nay thét mai gầm rát cổ cha”.
Hổ lửa và mai gầm là tên hai loài Rắn, nhưng nội hàm còn có ý nghĩa khác về động thái của con người.
Cặp đôi thẹn đèn - hổ lửa và nay thét Mai gầm nói lên hai cách ứng xử hai tính cách của mẹ và cha.
Mẹ dịu dàng kín đáo, cha mạnh mẽ răn đe, tất cả đều mong muốn con mình “Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia”.
Hai câu thực này của bài thơ vừa có tính so sánh vừa mang tính khách quan thì hai câu luận tiếp theo: “Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối, Lằn lưng cam chịu vết roi tra”, đẩy tình huống trạng thái cảm xúc lên bậc cao hơn như buột ra từ lòng mình. Có chút giận dỗi mắng mỏ, nhưng lại đầy bao dung, nhân ái của ông đồ nho nghiêm khắc, trước đám học trò nhỏ tuổi và nghịch ngợm này.
Bài thơ đến nay vẫn còn ý nghĩa với tác động “khuyến học” của nó.
Và Rắn vẫn mang một vẻ đẹp riêng, không những của uy lực thần linh, mà còn là một vị thuốc y học cổ truyền
Rắn có một vẻ đẹp hoang dã, nhưng rất gần gũi với con người.
Đó cũng là loài động vật sinh ra để cân bằng môi trường sinh thái, diệt những loài động vật gây hại mùa màng...
Theo Âm lịch, năm 2025 là năm Ất Tỵ. Tỵ là con rắn – chiếm giữ vị trí thứ sáu, nằm giữa Thìn và Ngọ. Đây là loài vật có thân hình mềm mại, tượng trưng cho sự linh hoạt, thông minh và khôn ngoan.
Trong hệ thống can chi của người Việt, sự kết hợp giữa can "Ất" thuộc hành Mộc, tượng trưng cho sự sinh sôi, phát triển và địa chi "Tỵ" thuộc hành Hỏa, đại diện cho sự nhiệt tình, năng động tạo nên một năm đầy năng lượng và biến động. Như vậy, con rắn trong năm nay biểu tượng cho những điều tốt đẹp.
Trong văn hóa Việt Nam, hình tượng rắn đại diện cho sự biến đổi và tái sinh.
Người xưa lầm tưởng con rắn là loài bất tử, nên mới có câu “rắn già rắn lột”. Cả Đông lẫn Tây phương đều truyền nhau những câu truyện cổ tích về sự bất tử của con rắn.
Giống như rắn lột xác để tái sinh, con người cũng cần phải không ngừng đổi mới, vượt qua giới hạn của bản thân, để trở nên tốt đẹp hơn.
Do đó, chúng còn được xem là biểu tượng của sự sống lâu, sức khỏe dồi dào và may mắn.
*****
Nhưng cũng theo quan niệm dân gian của người Việt, rắn là con vật hiểm ác, tinh quái và có phần xảo quyệt.
Cứ nhắc tới rắn, bao giờ người ta cũng kèm theo những điều xấu; ví dụ như "miệng hùm nọc rắn", "khẩu Phật tâm xà"....
Rắn được coi là biểu tượng của sự độc ác, ám chỉ những người ranh mãnh, lọc lừa, gian dối, quỷ quyệt, không nên tiếp cận mà phải tránh xa.
Người ta thường dùng thành ngữ “cõng rắn cắn gà nhà” để chỉ những kẻ đưa kẻ thù về làm hại gia đình hoặc tổ quốc mình – tương tự như câu “rước voi về giày mả tổ”.
*****
Trong Kinh Thánh, cả Cựu ước và Tân ước đều nhiều lần nói đến loài rắn.
Kinh Thánh trình bày về rắn với cả hai ý nghĩa tốt - xấu.
Rắn được dùng như là biểu tượng củasự khôn ngoan: ”Hãy khôn ngoan như con rắn!” (Mt 10,16), hay rắn đồng cứu người (x. Ds 21, 4-9).
Rắn còn được đồng hóa với chính Satan, thủ lãnh của ma quỉ cám dỗ ông bà nguyên tổ phạm tội (x. St 3, 1-15).
Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra (St 3,1).
Chính con rắn đặt vấn đề với bà Eva ăn trái cấm, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó cùng ăn, để rồi cả hai ông bà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, “nơi có những cảnh vườn đầy hoa hồng đỏ thắm, không bao giờ tàn héo. Nơi có những lùm cây trổ bông mang màu sắc của mùa Xuân tươi thắm …” (Regula Magistri - Règle du maitre 10, 94-101).
Kể từ đó, con người luôn đau đáu nhớ về một mùa Xuân vĩnh cửu đã mất, với sự ăn năn, sám hối, để hy vọng được Thiên Chúa thứ tha tội lỗi và ban ân sủng.
Trong Năm Thánh đầu tiên vào năm 1.300, Đức Giáo hoàng Bonifacio VIII đã cho phép các tín hữu hành hương từ khắp nơi đến Roma, bước qua Cửa Thánh của các Đền thờ, để nhận được ơn toàn xá, nghĩa là được tha tội và nhận ân sủng Chúa.
Năm Thánh 2025 với chủ đề “Những Người Hành Hương Của Hy Vọng” sẽ là Năm Thánh thường lệ thứ 27 trong lịch sử Giáo hội.
Năm Thánh 2025 là dịp để chúng ta cùng nhau hướng về Thiên Chúa, cầu nguyện cho sự bình an và hy vọng.
Đây cũng là thời điểm để chúng ta cùng nhau thực hiện những hành trình thiêng liêng, khám phá những giá trị đích thực của đức tin và cuộc sống.
Ý nghĩa sâu xa nhất của Năm Thánh luôn luôn là kinh nghiệm về sự tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa, và điều này sẽ càng trở nên quan trọng hơn, khi đứng trước việc loan báo niềm hy vọng.
Trong Năm Thánh, chúng ta không chỉ có niềm hy vọng nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa, mà còn tiến đến niềm hy vọng là gia nghiệp Nước Trời.
Niềm hy vọng trở thành một điều chắc chắn, một kinh nghiệm cụ thể, mà qua đó mỗi người chúng ta có thể chạm tới lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa.
Nghi thức khai mạc Năm Thánh thường đi liền với việc mở Cửa Thánh.
Tại Rôma, có bốn Cửa Thánh, được đặt tại các Đền Thánh chính ở Rôma: Đền thờ thánh Phêrô, Đền thờ thánh Gioan Latêranô, Đền thờ thánh Phaolô ngoại thành, và Đền thờ Đức Bà Cả.
Ngoài Năm Thánh, những cửa này được xây bít kín lại cách kiên cố.
Ngày 24-12-2024 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã long trọng mở Cửa Thánh tại Đền Thờ Thánh Phêrô, khai mạc Năm Thánh 2025.
Tại Tổng giáo phận (TGP) Sài Gòn, Đức Tổng giám mục Giuse Nguyễn Năng cũng đã mở Cửa Thánh tại nhà thờ Chính Toà Đức Bà Sài Gòn và cử hành thánh lễ trọng thể khai mạc Năm Thánh vào lúc 8g30 ngày Chúa nhật lễ Thánh Gia 29-12-2024.
Tại giáo phận Long Xuyên, Đức giám mục Giuse Trần Văn Toản cũng đã mở Cửa Thánh tại nhà thờ Chính Toà Long Xuyên và cử hành thánh lễ trọng thể khai mạc Năm Thánh, vào lúc 8g30, ngày Chúa nhật lễ Thánh Gia 29-12-2024. Có đông đảo các linh mục, có đại diện các giáo xứ, giáo họ và các đoàn thể trong toàn giáo phận về tham dự.
Khi mở Cửa Thánh, Giáo Hội muốn con cái mình, những người đang sống “trong nhà” hãy nhìn lại mình và cố gắng sống tốt hơn, và hãy dang rộng vòng tay đến đón tiếp những người còn “ở xa”, tức là họ còn sống trong lầm lạc, đạo đức khô khan, hay chưa hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội.
Thay vì kết án hoặc xa lánh, người Kitô hữu cần đối thoại, gặp gỡ, và mở cho họ lối về với đường ngay nẻo chính.
Năm Thánh là thời gian cầu nguyện. Nếu thiếu cầu nguyện, sẽ không biết hy vọng. Người giàu có thì tự mãn trong cuộc sống, mà họ tưởng là ổn định bảo đảm, nên không cảm nhận được niềm hy vọng Kitô giáo.
Còn người nghèo và đau khổ, lại dễ rơi vào thất vọng, trong nỗi cùng cực đau thương. Cầu nguyện sẽ giúp nâng tâm hồn lên tới Chúa và cho chúng ta có khả năng nhìn xuyên qua tăm tối của thế giới này, để thấy tương lai phục sinh. (Thư Mục vụ Mùa Vọng và Mùa Giáng sinh 2024 của Đức TGM Giuse Nguyễn Năng)
Hành hương là nền tảng cốt lõi của Năm Thánh, việc hành hương giúp chúng ta tái khám phá giá trị của sự thăng tiến, dấn thân, hy sinh và xây dựng tình bác ái.
Hoặc nói như Đức Giáo Hoàng Phanxicô: “Việc hành hương trong Năm Thánh là một dấu chỉ đặc biệt, vì mang hình ảnh của cuộc hành trình mỗi người chúng ta đang thực hiện trong cuộc sống.
Cuộc đời là một chuyến hành hương, và con người là khách lữ hành, là người hành hương đang tiến bước trên đường đi về đích điểm ước mong.
Lòng thương xót chính là đích điểm phải đạt tới, đòi hỏi phải dấn thân và hy sinh.
Ước gì cuộc hành hương sẽ thúc đẩy sự hoán cải: Khi bước qua Cửa Thánh, chúng ta để cho lòng thương xót của Thiên Chúa phủ kín chúng ta, và nỗ lực thực thi lòng thương xót đối với tha nhân, như Chúa Cha đã thương xót chúng ta.”
Khi thực hiện các cuộc hành hương đến các nơi thánh của Giáo Hội tại Rôma, tại Thánh địa, tại các nhà thờ hoặc những nơi linh thánh do Đức Giám Mục địa phương chỉ định trong Giáo phận của mình và thực hiện những việc đạo đức, các tín hữu có thể được hưởng ơn toàn xá.
Ơn toàn xá là ân sủng đặc biệt trong Năm Thánh, các tín hữu được mời gọi thực tâm sám hối, từ bỏ đam mê tội lỗi, lãnh nhận bí tích Hòa giải và Thánh Thể, hiệp thông cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng.
Cùng với việc cầu nguyện và hành hương để lãnh ơn toàn xá, chúng ta cùng thực thi các việc của lòng thương xót và sám hối.
Có rất nhiều việc dễ thực hiện trong ngày sống, qua đó cũng được ơn toàn xá, như tham dự các khoá tĩnh tâm, học hỏi về Công đồng Vaticanô II; hy sinh hãm mình, thực hành “Thương người có 14 mối”, giúp đỡ những người nghèo khổ, già yếu, bị bỏ rơi, di cư; hoặc hoạt động để bảo vệ sự sống; tránh phân tâm vô ích vì mạng xã hội…
Thực thi các việc của lòng thương xót như thế, cũng chính là thi hành sứ vụ “Cùng nhau loan báo Tin Mừng” như Hội đồng Giám mục Việt Nam mời gọi trong Thư Mục vụ năm 2024.
Chúng ta là Hội Thánh và đồng trách nhiệm về Hội Thánh, là chi thể trong Nhiệm thể Hội Thánh, vì thế ta hãy tích cực thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, tuỳ theo chỗ đứng và hoàn cảnh của mình trong Hội Thánh, với ân sủng và khả năng Chúa ban riêng cho từng người. (Thư Mục vụ Mùa Vọng và Mùa Giáng sinh 2024 đã dẫn)
Mùa Xuân lại đến, trăm hoa đua nở. Đất trời như được choàng lên một tấm áo mới với muôn màu sắc.
Nếu những tháng ngày mùa Đông lạnh lẽo, ảm đạm, khiến cây cối trở nên khô cằn, khẳng khiu, và mất đi sức sống, thì mùa Xuân đến mang lại không khí ấm áp, ôn hòa, tạo ra vẻ đẹp nên thơ và đầy sức sống cho muôn loài muôn vật.
Cảnh vật mùa Xuân, như bức tranh vẽ lại mùa Xuân đầu tiên tại vườn địa đàng, khi Thiên Chúa sáng tạo trời đất và muôn loài thụ tạo tươi đẹp, đến nỗi chính Người đã phải thốt lên: mọi sự quả là rất tốt đẹp! (St 1, 31).
Năm Ất Tỵ 2025 là năm của tin yêu và hy vọng. Sự chan hoà, ấm áp của mùa Xuân khiến lòng người trào dâng bao khát vọng, bao yêu thương và mong muốn một cuộc sống tươi mới, hạnh phúc hơn.
Mùa Xuân là dịp để chúng ta trao cho nhau những lời chúc tốt đẹp và hứa hẹn một năm mới nhiều niềm vui, hạnh phúc và bình an.
Xin chúc cho mọi người “khôn ngoan như con rắn” để đón nhận được ơn tha thứ và ân sủng từ Lòng Chúa Thương Xót, trong cuộc lữ hành đầy hy vọng.
Chúng ta đang sống trong những ngày chào đón năm mới: Năm Ất Tỵ 2025. Thật thú vị khi văn hóa Á Đông nói chung, Việt Nam nói riêng, mỗi năm đều chọn một con vật làm biểu tượng.
Biểu tượng, nghĩa là qua con vật này, chúng ta ước mong một năm với nhiều ý nghĩa trong chính tên của con vật. Cho phép tôi suy tư về biểu tượng của con rắn trong Kinh Thánh. Con rắn không chỉ mang nghĩa văn hóa Việt Nam, như chúng ta thường nghe, nhưng nó còn thể hiện nhiều khía cạnh khác như thần học, luân lý và nhân sinh.
Trong Kinh Thánh, con rắn xuất hiện trong nhiều bối cảnh khác nhau. Con rắn thường ám chỉ đến kẻ cám dỗ, bên cạnh đó còn là biểu tượng của sự cứu độ, đến hình ảnh minh họa cho sự khôn ngoan và chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa. Bài viết này sẽ làm rõ ba ý nghĩa chính của con rắn sau:
1. Con rắn: biểu tượng của sự cám dỗ và tội lỗi
- Hình ảnh con rắn xuất hiện lần đầu trong Sách Sáng Thế (St 3,1-5). Con rắn đến cám dỗ và lừa dối bà Eva trong Vườn Địa Đàng. Kinh Thánh nêu đặc tính của rắn: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng” (St 3,1).
Với sự khôn ngoan tinh ranh, con rắn đã đặt câu hỏi nhằm làm lung lay niềm tin của bà Eva vào Thiên Chúa.
Con rắn nói thế này: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết: Ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần, biết điều thiện điều ác” (St 3,4-5).
Con rắn không chỉ cám dỗ, mà còn gieo rắc hoài nghi và gia tăng lòng kiêu ngạo.
Hậu quả của hành động này là sự sa ngã, khiến con người đánh mất mối quan hệ hài hòa với Thiên Chúa và dẫn đến đau khổ, sự chết chóc trong thế gian.
Sự xuất hiện của con rắn trong câu chuyện trên không phải ngẫu nhiên.
Thuật ngữ “con rắn” trong tiếng Do Thái là “וְהַנָּחָשׁ֙” (nahash).
“Nahash” bắt nguồn từ gốc từ “נח” (nachash), mang nghĩa cơ bản là “lấp lánh, sáng bóng” hoặc “dò xét, tiên đoán”.
Điều này cho thấy: Con rắn còn liên hệ đến cả vẻ đẹp bề ngoài mê hoặc, và khả năng thâm nhập, lừa dối bên trong.
Hiểu theo nghĩa này, chúng ta thấy con rắn phản ánh bản chất của Satan. Từ cổ chí kim, Satan luôn thu hút con người bằng vẻ bề ngoài hấp dẫn, nhưng dẫn đến hậu quả đau thương. Từ đó, con rắn trở thành biểu tượng của Satan trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước.
Chẳng hạn trong Sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: “Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Satan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ” (Kh 12,9).
Trong khi đó, con rắn trong văn hóa phương Đông tuy mang ý nghĩa bí ẩn, khôn ngoan và linh hoạt, nhưng có hướng tích cực hơn.
Rắn được cho là thông minh, nhạy bén, biết quan sát và phân tích tình huống tốt.
Rắn biểu trưng cho sự tư duy logic và khả năng giải quyết vấn đề sáng tạo.
2. Con rắn: dấu chỉ của sự cứu độ
Dù thường được liên kết với sự cám dỗ và tội lỗi, con rắn cũng mang một ý nghĩa cứu độ đặc biệt trong Kinh Thánh.
Sách Dân Số kể lại câu chuyện, khi dân Israel bị rắn độc cắn do sự bất tuân.
Trong cơn đau khổ, họ kêu cầu Thiên Chúa, và Thiên Chúa ra lệnh cho ông Môsê làm một con rắn bằng đồng và treo lên cột và nói:
“Bất kỳ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng đều được sống” (Ds 21,9).
Hình ảnh này mang tính biểu tượng mạnh mẽ, không chỉ là sự chữa lành về thể chất, mà còn là bài học về sự cứu độ qua đức tin.
Con rắn đồng được giương cao giữa sa mạc là dấu chỉ nhắc nhở dân Israel rằng:
Chính Thiên Chúa là Đấng cứu rỗi (Mêsia): “Hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.”
Vậy, qua biểu tượng con rắn này, chẳng nói lên quyền năng cao cả của Thiên Chúa sao?
Dĩ nhiên con rắn đồng không tự có quyền năng chữa lành, nhưng qua đó, Thiên Chúa biểu lộ lòng thương xót.
Thiên Chúa có thể vẽ đường thẳng trên những đường cong là vậy.
Tương tự, thập giá không tự cứu chuộc nhân loại, mà là qua thập giá, Thiên Chúa thực hiện kế hoạch cứu độ qua Chúa Giêsu.
Giống như rắn đồng là con đường duy nhất để dân Israel được cứu khỏi cái chết do rắn độc.
Chúa Giêsu khẳng định: Ngài là con đường duy nhất dẫn đến sự sống đời đời (Ga 14,6).
Tóm lại, rắn đồng là biểu hiện của sự công bằng (hình phạt cho tội lỗi) và lòng thương xót (ơn cứu chuộc).
Tương tự, thập giá của Chúa Giêsu là nơi công lý của Thiên Chúa được hoàn thành và tình yêu của Ngài dành cho nhân loại được tỏ hiện.
Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh con rắn đồng để tiên báo về cái chết cứu chuộc của Ngài:
“Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao, để ai tin vào Người thì được sống đời đời” (Ga 3,14-15).
Ở đây, “giương cao” không chỉ nói về việc treo trên thập giá, mà còn ám chỉ sự tôn vinh của Ngài trong vai trò là Đấng Cứu Thế.
Con rắn đồng trở thành hình bóng của Thập Giá, nơi mọi đau khổ và tội lỗi được gánh lấy, và sự sống đời đời được ban cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài.
Có thể quý độc giả thắc mắc khi đang đọc những dòng này, vì cùng một hình ảnh con rắn, nhưng lại mang hai ý nghĩa. Đúng là có sự mâu thuẫn này, nhưng chúng ta thấy một mặt quyền năng Thiên Chúa thường biến đau khổ thành phương tiện cứu độ.
Mặt khác, Kinh Thánh không phủ nhận bản chất xấu xa của Satan, nhưng chính từ sự đau khổ do tội lỗi gây ra, Thiên Chúa mở ra con đường cứu độ.
Vì vậy, hậu quả của sự sa ngã không vượt quá quyền năng chữa lành của Thiên Chúa.
Chẳng phải đây cũng là kinh nghiệm của thánh Phaolô: “Ở đâu tội lỗi lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan” (Rm 5,20).
3. Con rắn: bài học về sự khôn ngoan
Một khía cạnh khác của con rắn là sự khôn ngoan. Trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ: “Hãy khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10,16).
Câu nói này nhấn mạnh rằng: Người Kitô hữu cần có sự khôn ngoan, để đối phó với những hiểm nguy trong thế gian, đồng thời giữ tâm hồn trong sáng và chân thành.
Sự “khôn ngoan” ở đây không mang nghĩa xảo trá, mà là khả năng nhận biết nguy hiểm và hành động đúng đắn.
Cụ thể, con rắn như là biểu tượng của trí tuệ, khôn ngoan, cẩn trọng, và khả năng tự bảo vệ. Điều này cho thấy con người cần tỉnh táo, nhạy bén để đối mặt với thách thức, nhận thức rõ ràng về môi trường xung quanh và đưa ra quyết định sáng suốt.
Điều này chưa đủ, vì Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta “đơn sơ như bồ câu”, nghĩa là cần hiền lành, trung thực, hòa nhã, chân thành, không gian dối, và cách cư xử hòa ái trong các mối quan hệ.
Để hiểu rõ hơn, tôi xin kể bạn mẩu đối thoại vui này:
Lan: (cười) Này Minh, hôm qua mình nghe cha giảng về câu “Hãy khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu”, mà sao thấy khó hiểu ghê. Làm sao vừa khôn như rắn, mà lại đơn sơ như bồ câu được chứ?
Minh: (gật gù) À, đơn giản mà! Để tớ ví dụ cho cậu nhé. Giả sử cậu đi mua bánh mì, nhưng quán đông quá, cậu làm sao?
Lan: Ờ thì đứng xếp hàng chứ sao! Chẳng lẽ chen lấn?
Minh: Đúng rồi! Đó là “đơn sơ như bồ câu” đấy! Thật thà, ngay thẳng, không tính toán. Nhưng nếu cậu sợ muộn học, cậu sẽ làm gì?
Lan: À... chắc là tớ sẽ nhờ người ta mua giúp, hoặc chọn chỗ bán ít đông hơn!
Minh: Đó! Chính là “khôn như rắn” rồi! Tìm cách giải quyết vấn đề một cách khéo léo, thông minh. Cậu thấy không, mình có thể vừa khôn vừa đơn sơ mà!
Lan: (cười lớn) À há! Vậy tóm lại là phải biết dùng đầu óc khi cần, nhưng đừng quên giữ tâm hồn ngay thẳng đúng không?
Minh: Chính xác! Nếu chỉ khôn thôi, mà không đơn sơ, cậu sẽ dễ thành người mưu mẹo, thiếu chân thật. Còn nếu chỉ đơn sơ mà không khôn, cậu sẽ dễ bị người khác lợi dụng.
Lan: Thế là từ nay mình phải tập làm “rắn bồ câu” rồi! (cười)
Minh: Ừ, nhớ nhé! Vừa thông minh, vừa tốt bụng, đó mới là cách sống đẹp.
*****
Thực tế là những người theo Chúa Giêsu không được tự vệ bằng các hình thức, quyền lực thế gian. Họ phải luôn giữ sự đơn sơ như bồ câu, nhưng cũng phải khôn ngoan như rắn.
Đối diện với một thế giới thường xuyên thay đổi và đầy rẫy cạm bẫy, người Kitô hữu được mời gọi học hỏi từ hình ảnh con rắn, để trở nên khéo léo và sáng suốt.
Sự khôn ngoan sẽ giúp họ tránh gây ra rắc rối một cách không cần thiết hoặc chỉ ra cách để né tránh, mà không làm mất đi sự trung thành.
Rắn thường bị mọi người tấn công và phải sử dụng sự sáng tạo và khôn khéo để sinh tồn. (Chú giải Matthêu 10)
Nói cách khác, khả năng nhận định, phân định đúng sai dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần là điều cần thiết.
Thông minh thôi chưa đủ, lòng khiêm nhường và sự phó thác nơi Thiên Chúa cũng không thể thiếu.
Tóm lại, thông minh sắc bén và khiêm nhường là hai phẩm chất bổ trợ lẫn nhau.
Thông minh giúp chúng ta nhìn thấu vấn đề, đưa ra giải pháp hiệu quả, nhưng nếu thiếu khiêm nhường, sự thông minh dễ trở thành kiêu ngạo, gây xa cách người khác. Ngược lại, khiêm nhường giữ cho tâm hồn luôn mở rộng, biết lắng nghe và học hỏi, giúp trí tuệ phát triển sâu sắc hơn.
Kết luận:
Hình ảnh con rắn trong Kinh Thánh là một biểu tượng đa chiều, vừa mang ý nghĩa tiêu cực của sự cám dỗ và tội lỗi, vừa chứa đựng thông điệp về sự cứu độ và bài học khôn ngoan.
Con rắn nhắc nhở chúng ta về thân phận yếu đuối, đồng thời khơi dậy hy vọng vào ân sủng và sự chiến thắng của Thiên Chúa.
Trong năm Ất Tỵ 2025 này, ước gì mỗi người nhận ra bài học quan trọng về sự tỉnh thức, lòng tin và hành động khôn ngoan trong đời sống đức tin.
Như con rắn đồng trong sa mạc, chúng ta được mời gọi hướng lòng lên Chúa Giêsu, Đấng đã “giương cao” để mang lại sự sống đời đời cho nhân loại. Đó là lời mời gọi để tin tưởng, sống trong sự khôn ngoan và đặt niềm hy vọng vào Đấng Cứu Chuộc duy nhất.
Xin Chúa của Mùa Xuân luôn ngự trị trong tâm hồn mỗi người chúng ta.
Hai con rắn độc đang bò. Một con quay lại hỏi con kia:
- Tụi mình là rắn độc phải không?
- Đúng vậy, rất độc. Con thứ nhất lại hỏi: Tụi mình có đúng là rắn độc thiệt không?
- Thật vậy, chúng ta là rắn độc. Chúng ta là loài rắn cực độc trên thế gian này. À mà sao mày hỏi hoài vậy?
- Tao mới cắn phải lưỡi tao mày ạ.!!!....
*****
2. Lời tỏ tình năm rắn
Một anh chàng tuổi rắn viết thư tỏ tình với bạn gái: "Năm nay là năm rắn, anh cầm tinh con rắn, mong muốn nhận được sự thuận tình của em, để làm đám cưới, hy vọng cuối năm, chúng mình được đón một chú rắn con..."
Thư phúc đáp của cô gái: "Em không muốn làm vợ một người tuổi rắn như anh, bởi anh hay "lươn lẹo, lắt léo" như rắn, anh lười biếng như rắn, vừa đi, vừa bò, anh hay ba hoa "vẽ rắn thêm chân", đi chơi với em thì anh "rắn" đến keo kiệt, không bao giờ dám vào quán, anh nói một đằng làm một nẻo kiểu "đầu rồng, đuôi rắn"...!"
3. Con rắn vuông
Có anh chàng nọ tính tình khoác lác, nói mãi rồi thành thói quen, không bỏ được.
Bữa kia đi chơi về bảo vợ:
- Này mình ạ! Hôm nay tôi đi vào rừng trông thấy một con rắn, chao ôi, to đến là to, dài đến là dài. Bề ngang thì chắc chắn là bốn mươi thước rồi, còn bề dài thì dễ đến hơn trăm thước.
Vợ không tin, nhưng cũng định trêu chồng một mẻ:
- Tôi nghe người ta nói có rắn dài đã nhiều. Nhưng làm gì có giống rắn dài như anh nói thế. Tôi nhất định không tin.
Chồng làm như thật:
- Thật quả có rắn như thế. Dài hơn một trăm thước thì chẳng đến, nhưng tám mươi thì nhất định.
Vợ bĩu môi:
- Cũng chẳng đến!
Chồng cương quyết:
- Tôi chắc chắn là nó dài sáu mươi thước chứ không ngoa.
Vợ vẫn khăng khăng:
- Vẫn không dài đến nước ấy đâu!
Chồng rút lui một lần nữa:
- Lần này tôi nói thật nhé. Con rắn dài đến bốn mươi thước, không kém một phân.
Vợ bò lăn ra cười:
- Con rắn anh thấy, bề ngang đã chắc chắn là bốn mươi thước, bề dài cũng lại đến bốn mươi thước, không kém một phân, thì chẳng hoá ra là con rắn vuông à ?
*****
4. Nỗi đau khổ của con rắn già
Một con rắn già phàn nàn với bác sĩ:
- Dạo này mắt tôi ngày càng mờ.
Bác sĩ khám và đưa cho con rắn một cặp kính, hẹn 2 tuần sau quay trở lại.
Khi tới tái khám, con rắn trông rất chán nản và thất vọng.
- Cặp kính không có tác dụng sao? - Bác sĩ hỏi.
Con rắn trả lời:
- Không, cặp kính tốt lắm. Nhưng tôi vừa phát hiện ra rằng: Suốt 2 năm qua, tôi chung sống với một cái ống nước.
*****
5. Ôm Cổ Rắn
Mùa hạn năm đó, tui đi ăn (săn lùn, tìm kiếm), ong mật sâu trong rừng U Minh. Đến trưa, ngồi dựa lưng vào gốc cây tràm nghỉ mát, tui móc gói thuốc ra ngồi hút. Thấy đằng kia, cách chừng ba công bề đứng, có một cây móp hay cây gì đó chết khô, cành lá rụng rơi đâu hết, chỉ còn lại thân cây trơ trọi.
Cây khô này cao hơn các cây xung quanh. Gốc ngọn nó nứt nẻ, thẳng băng, da đen hơi mốc, trên có cái cháng hai. Một điều kỳ lạ là mỗi khi có con chim nào đậu lên cháng hai đó liền bị mất hút, không thấy bay ra.
Tui cũng không để ý, cứ quảy gùi, xách mác đi ăn. Đến xế qua, mật ong đã đầy gùi, tui định về, bỗng nghe có tiếng lửa cháy ào ào từ phía trên gió. Rừng U Minh này bị lửa cháy vào mùa hạn thì ngọn lửa bốc cao ngất trời, táp tới ầm ầm, như một trận bão.
Đi rừng mà gặp lửa cháy thì phải mau mau đào đất trấp, chui xuống dưới hoặc trèo lên những cây thật cao, chờ lửa cháy ào qua chớ không phương nào chạy kịp.
Lúc đó tui đào đất trấp chui không kịp, phải chạy tìm cây cao mà leo. Tui chạy đến, quăng bỏ gùi mật ong, bỏ cây mác còn lại và tìm được một cây.
Tui ôm cây, trèo lên tuột xuống. Cái cây gì mà trơn chuồi, thót lên ba phóng thì bị tuột trở xuống hết hai. Nhưng lửa cháy đã tới gần, tui phải cố trèo.
Trèo lên vừa tới chỗ cháng hai thì lửa cũng vừa cháy tới, nhưng chổ cháng hai cái cây sao có nhiều mảnh dầm lười xười tách ra đâm tay tôi đau quá. Mặc dù mỏi run tay, nhưng ngó xuống thấy lửa đã cháy tới phía dưới, tui lấy làm khoái chí.
Lửa cháy qua rồi, tui định tụt xuống, nhưng sao nghe cái cây động đậy. Rồi ngay chổ cháng hai lại mọc ra nhánh chà cây quơ qua quơ lại, cào cào vào đầu tui. Tui thụt xuống chút nữa. Cái cây kia cứ ngoéo xuống quét vào đầu tui, vào cổ tui. Nó còn trây vào mình tui một thứ gì nhớt nhợt như nước miếng.
Trời đất! Chổ cháng hai lại có hai cái mu lồi ra láng bóng và rực sáng như đèn xe hơi.
Trời! Khi không hai cây khép lại, mở ra nghe bầm bập... Hồn vía lên mây, tay chân rũ liệt, tui ngã người ra, sút tay rớt luôn xuống đất. Hai lỗ tai nghe vo vo, mắt nhắm híp lại, phú mặc số mạng cho trời đất.
Khi rớt xuống tới đất, tui thấy mình nằm y chổ ngồi hút thuốc hôm qua. "Cái cây" đằng kia bắt đầu bò đi, le lưỡi, thổi hơi phèo phèo.
Trương Tam đang lái xe trên một con đường núi, đang lúc anh ta nhàn nhã thưởng ngoạn cảnh đẹp trên đường, thì tài xế xe tải ở làn đường đối diện bất ngờ hạ cửa sổ xe xuống và hét lên: “Con lợn!”
Trương Tam cũng lập tức hạ cửa kính ô tô của mình, bực bội đáp trả: “Mày mới là đồ con lợn!”
Vừa chửi xong đã đụng phải đàn lợn đang băng qua đường.
*** Bài học rút ra:
Trước khi hiểu rõ căn nguyên, thì đừng dùng ác ý, để phỏng đoán về người khác, rất có thể bạn sẽ hiểu sai ý tốt, khiến bản thân mình sẽ bị rơi vào cảnh bị thiệt hại thê thảm, đồng thời làm bẽ mặt người khác.
Do vậy, khi nguyên do chưa rõ, thì chúng ta phải học cách kiềm chế cảm xúc của mình, và phải kiên nhẫn quan sát tường tận những yếu tố ngoại cảnh chung quanh, để tránh những hành xử nông nổi, thiếu suy nghĩ, sẽ gây ra nhiều hối tiếc lâu dài sau về sau này.
Một người chồng đi làm về, thấy vợ đang đánh con, ông không quan tâm nên bỏ qua. Anh ta tiếp tục đi thẳng vào bếp, thì thấy một nồi hoành thánh đã chín trên bàn nhỏ, thế là vội vàng múc một bát ngồi ăn.
Ăn xong no nê, thấy vợ vẫn còn đang đánh con, anh ta mới lại gần nói:
“Mính giáo dục con cái thì đừng có dùng bạo lực mãi như thế, phải giảng giải đạo lý cho nó chứ!”
Người vợ quát:
“Cả nồi hoành thánh tôi nấu mãi mới xong, nó lại dám nghịch ngợm đi tiểu vào đấy. Không đánh mà được à?”
Người chồng nghe xong liền nói:
“Bà nghỉ ngơi đi, để tôi đánh tiếp!”
*** Bài học rút ra:
Người ở ngoài cuộc thì lúc nào cũng tâm bình khí hòa, nhưng một khi đã nhập cuộc rồi, thì ai còn có thể thong dong?
Vì thế, khi bản thân không phải là đương sự, thì đừng có tùy tiện phán xét bất luận kẻ nào mà không suy xét, bởi đơn giản là vì bạn không thể hiểu được những điều sâu xa mà người ta đã trải qua.
Một giọt mực mà rơi vào trong một ly nước nhỏ trong suốt, thì ly nước lập tức sẽ biến đổi màu, và sẽ không thể uống được nữa.
Nhưng một giọt mực tan vào trong cái ao hồ, thì ao nước vẫn không đổi màu.
Tại sao vậy? Thưa bởi vì dung lượng của hai bên có một khoảng cách quá khác nhau.
Cây lúa còn non thì đứng thẳng vươn mình, và luôn hướng lên cao, nhưng khi cây lúa đã chín, thì lại chúi đầu, luôn hướng xuống đất.
Tại sao vậy? Thưa vì phân lượng của hai bên quá khác nhau.
*** Bài học rút ra:
Để lòng ta luôn được thanh thản nhẹ nhàng mà sống thoải mái, thì hãy biết sống khoan dung, độ lượng với mọi người, luôn biết khiêm tốn hạ mình, buông bỏ, thì đó chính là lúc phân lượng khoảng cách được xóa bỏ, và phẩm chất tốt đẹp của con người sẽ được phát triển một cách hoàn thiện.
Có một đội đãi vàng đang làm việc cật lự giữa sa mạc, mọi người ai cũng lê từng bước đi thật nặng nề, thật khổ sở, mặt mũi thì buồn sầu, ủ rũ. Chỉ duy chỉ có một người làm việc cũng cật lực, nhưng những bước đi của anh ta trong thật nhẹ nhàng, mặt mày lúc nào cũng vui vẻ, ca hát.
Nhiều trông thấy lấy thấy làm lạ, bèn hỏi: “Sao anh cũng cật lực đào vàng như mọi người, mà trông anh có vẻ tươi tỉnh, thoải mái, vui vẻ thế ?”
Anh ta điềm tỉnh trả lời, với một nụ cười thanh thản: “Vì tôi mang theo ít đồ vật nhất, chỉ mang theo những vật dụng tối cần thiết thôi.”
*** Bài học rút ra:
Hóa ra, hạnh phúc cũng rất đơn giản, chỉ cần bớt đi một chút, đừng ôm đồm quá nhiều thứ, những thứ không cần thiết.
Càng nhiều sự lựa chọn thì càng ít hạnh phúc.
Càng nhiều vật sở hữu thì cuộc sống sẽ trở nên cồng kềnh, nặng nề, vất vả, nhiều lo âu, lắm phiền muộn.
Một chiếc ổ khóa rất lớn, có vẻ chắc chắn kiên cố, được treo cửa cổng.
Một thanh sắt rất to và dày, dùng sức chín trâu, hai hổ, miệt mài nỗ lực cả nửa ngày mà vẫn không thể nào cạy tung ổ khóa ra được.
Lúc này, một chiếc chìa khóa mới đến, thân hình thì gầy gò, tứ chi thì mỏng manh, thế nhưng, nó chỉ nhẹ nhàng lọt vào lỗ khóa, sau khi xoay nhẹ một cái, ổ khóa “Tách” một tiếng, dễ dàng mở ra trước mắt mọi người.
Thanh sắt lấy làm lạ, nghĩ mãi không ra nên cất tiếng hỏi:
“Tại sao lúc nãy, tôi dùng sức bao nhiêu cũng không mở được cái cậu ổ khóa đó, mà cậu lại mở nó một cách dễ dàng đến vậy?”
Chìa khóa nói rất nhẹ nhàng:
“Bởi vì tôi hiểu rõ tâm tư của cậu ta nhất.”
*** Bài học rút ra:
Trái tim của mỗi người cũng giống như một cánh cửa bị khóa chặt, dù người ngoài có dùng sắt, thép, bê tông dày đến mấy, sắc bén ra sao, cũng không thể cạy mở được.
Chỉ có sự quan tâm, mới có thể biến bản thân mình thành chiếc chìa khóa thích hợp nhất, tinh tế nhất, để đi vào trái tim và sẽ học được cách thấu hiểu người khác, từ tận trong lòng.
Trong sân vườn, có hai vị hòa thượng ngồi nói chuyện với nhau.
Vị sư già mới hỏi vị sư trẻ:
“Nếu tiến một bước là chết, lùi một bước cũng là chết, vậy con sẽ quyết định tiến hay lùi?”
Vị sư trẻ không chút do dự đáp ngay: “Con ư? Con sẽ bước sang bên cạnh.”
*** Bài học rút ra:
Khi gặp tình huống khó xử, hãy thử suy nghĩ ở một góc độ khác, lúc đó bạn sẽ hiểu ra rằng, bên cạnh đường vẫn còn có ngã rẽ, mỗi ngã rẽ khác nhau sẽ dẫn tới kết quả khác nhau, do đó, không nên tự bó buộc mình vào những cái chỉ thấy trước mắt.
Cá hồi chó sống ở vùng nước sâu trong đại dương bao la.
Cá hồi chó mẹ sau khi đẻ trứng sẽ đợi ở một bên, trứng sau khi nở thành cá con vẫn chưa thể tự kiếm ăn, chỉ có thể dựa vào thịt của mẹ để lớn.
Cá mẹ nhịn đau đớn, không hề kêu ca. Khi cá con lớn lên, cá mẹ chỉ còn lại một đống xương, đó là minh chứng đắt giá nhất cho tình mẹ vĩ đại trên thế giới này.
Cá hồi chó là con cá tượng trưng cho tình mẹ
*****
Con cá thứ hai là cá lóc Tàu
Loài cá này sau khi sinh con sẽ bị mất đi khả năng nhìn, không thể kiếm mồi, mà chỉ có thể nhịn đói.
Khi trứng nở thành hàng ngàn con cá con, đàn cá con không nỡ nhìn mẹ chết, nên từng con, từng con một chút động bơi vào miệng mẹ, để giúp mẹ đỡ đói.
Cá mẹ sống lại, lượng cá con còn tồn tại chẳng đáng là bao, chỉ còn chưa đến 1/10, số còn lại vì mẹ mà hy sinh tấm thân non nớt của mình.
Cá lóc tàu là con cá tượng trưng cho sự hiếu thảo của người làm con, nhiều người trong chúng ta sẽ thấy ngậm ngùi
*****
Con cá thứ ba là cá hồi
Mỗi năm cứ đến mùa sinh sản, cá hồi lại tính trăm phương ngàn kế, để từ đại dương rộng lớn, trở về dòng sông trong đất liền.
Bởi lẽ, loài cá này không sinh nở ở các vùng biển nước mặn, mà phải di cư bơi về dòng suối ngọt, nơi chúng được sinh ra để tiếp tục đẻ trứng.
Cuộc hành trình di cư thật sự vất vả và gian lao, khi chúng phải bơi ngược dòng chảy của tự nhiên, để trở về quê hương. Trên đường trở về phải đối mặt với bao hiểm nguy thách thức, nào là vượt thác, nào là lo bị gấu xám ăn thịt…
Những con cá không vượt được thác, phần lớn sẽ rơi vào bụng gấu. Những con vượt thác thành công cũng sức cùng lực kiệt, vừa phải tiếp tục bơi, vừa phải đề phòng loài ó cá kiếm mồi.
Chỉ có một số ít những con cá may mắn vượt qua mọi khó khăn và sự bủa vây để trở về quê hương, hoàn thành việc quan trọng nhất đời mình, đó là tìm con đực, giao hợp, đẻ trứng và cuối cùng là chết một cách yên bình ở chính nơi mình sinh ra.
Và khi mùa xuân đến, đàn cá con lại trôi theo dòng nước ra biển, bắt đầu hành trình cuộc đời mình.
Cá hồi là loài cá tượng trưng cho tình yêu quê hương xứ sở
*****
Lời bình
Chúng ta hãy thường xuyên nghĩ rằng, trên đời này có ít nhất 3 con cá khiến chúng ta phải cảm động.
Con cá thứ nhất là cha mẹ, người đã cho chúng ta sinh mệnh, luôn dõi theo mọi bước chân ta đi, không trách cứ oán giận, sẵn sàng hi sinh tất cả cho con cái mà không hề đòi hỏi bất cứ điều gì.
Con cái thứ hai là con cái, từ khi oa oa cất tiếng khóc chào đời, con cái đã hoàn toàn tin cậy và ở bên cha mẹ cho đến già.
Con cá thứ ba là cố hương. Bất luận là đi xa đến đâu, cũng sẽ có một ngày chúng ta tìm cách trở về quê nhà.
Trong cuộc sống, ai ai cũng đều phải lao động để mưu sinh, để lo cho bản thân, cho gia đình, và góp phần xây dựng xã hội.
Nhưng đôi khi, ta bị cuốn vào guồng quay cơm áo gạo tiền, làm việc chỉ vì trách nhiệm, vì nghĩa vụ, mà quên mất rằng công việc cũng có thể là một cách để thánh hoá chính mình.
*****
Lao động không chỉ là mưu sinh, mà còn là ơn gọi
Từ thuở ban đầu, Thiên Chúa đã giao cho con người sứ mạng “làm chủ mặt đất” (St 1,28). Nghĩa là lao động không phải là một hình phạt, mà là một phần của cuộc sống, một cách để con người cộng tác với Thiên Chúa trong công trình sáng tạo. Dù bạn là nông dân, công nhân, giáo viên, hay doanh nhân… mỗi công việc đều có giá trị nếu được làm với tình yêu và trách nhiệm.
Làm việc với tinh thần phục vụ
Chúa Giêsu dạy: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ” (Mt 20,28). Khi làm việc, nếu ta chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân, chỉ làm cho xong, thì công việc trở thành gánh nặng. Nhưng nếu ta làm với tinh thần phục vụ, nghĩ đến lợi ích của người khác, ta sẽ tìm thấy niềm vui và ý nghĩa trong công việc.
Thánh hoá công việc bằng lòng trung thực và tình yêu
Xã hội hôm nay đầy rẫy gian dối, tham lam, bất công. Nhưng người Kitô hữu được mời gọi sống khác đi: làm việc bằng cả tâm huyết, trung thực trong từng hành động, và luôn đặt lương tâm ngay thẳng. Không phải cứ làm việc lớn lao mới có giá trị, mà chính những việc nhỏ nhặt nhất cũng có thể trở thành lời cầu nguyện nếu làm với lòng yêu mến.
Mời Chúa vào trong công việc
Một ngày làm việc đầy áp lực, ta dễ quên mất Chúa. Nhưng nếu mỗi sáng ta bắt đầu bằng một lời cầu nguyện đơn sơ: “Lạy Chúa, xin ở với con trong công việc này”, thì dù có mệt mỏi, ta vẫn cảm thấy bình an. Chúa không chỉ ở trong nhà thờ, mà còn ở giữa công việc hằng ngày của ta, nếu ta biết đặt Ngài vào đó. Thánh hoá công ăn việc làm không có nghĩa là phải làm những điều vĩ đại, mà đơn giản là làm tốt bổn phận của mình với tình yêu, lòng trung thực và tinh thần phục vụ. Khi ta lao động với Chúa, vì Chúa, và trong Chúa, thì dù công việc nhỏ bé nhất cũng trở thành một hành động thánh thiện.
*****
Đời là một chặng đường dài, mà đâu phải lúc nào cũng êm ả. Có khi ta hăm hở bước tới, có khi lại mệt nhoài muốn dừng chân.
Đôi lúc, ta ngước mắt lên trời mà hỏi: “Chúa ơi, sao con cầu hoài mà chẳng thấy gì hết vậy?” Rồi ta nản, ta nghi ngờ, ta chực buông xuôi…
Nhưng mà, Chúa đâu có quên ta. Chẳng qua, Ngài có cách của Ngài, có thời gian của Ngài, và có những điều mà ta chưa hiểu được ngay bây giờ.
Khi Chúa bảo: “Anh em đừng mất lòng kiên nhẫn”, không phải Ngài muốn ta ngồi đó chờ sung rụng, mà Ngài muốn ta cứ tiếp tục sống, cứ làm điều tốt, cứ gieo hy vọng.
Như người nông dân trồng lúa, đâu thể sáng gieo chiều gặt, mà phải qua bao nhiêu ngày nắng mưa, mới có mùa vàng.
Đức tin cũng vậy, phải nuôi, phải giữ, phải kiên trì, thì mới vững được.
Có những lúc ta khóc, Chúa thấy. Có những khi ta đau, Chúa biết. Nhưng có thể Ngài đang để ta chờ, không phải để trừng phạt, mà để ta trưởng thành, để ta mạnh mẽ hơn, để khi phước lành đến, ta hiểu mà biết trân quý.
Vậy nên, nếu giờ này anh em đang rã rời, đang chới với giữa dòng đời, thì đừng vội tuyệt vọng. Hãy nhớ rằng Chúa không bỏ rơi anh em đâu. Chỉ cần còn niềm tin, còn lòng kiên nhẫn, thì ắt có ngày ánh sáng sẽ tới.
Cha mẹ yêu con vô điều kiện, điều đó đúng. Nhưng yêu thương không đi kèm dạy dỗ, dễ làm con cảm thấy mình luôn "cao hơn thiên hạ". Lớn lên trong sự chiều chuộng, trẻ không biết lễ phép, không biết tôn trọng ai, kể cả cha mẹ. Từ sự huênh hoang đó, lòng đố kỵ, ích kỷ dần ăn sâu, khiến con quên đi lòng cảm thông và tình thương dành cho gia đình.
2. Vô tâm
Bố mẹ cho đi tất cả, con cái nhận lấy mà không cần phải cho đi lại. Lâu dần, trẻ nghĩ yêu thương của cha mẹ là điều hiển nhiên. Tính bướng bỉnh, không nghe lời cũng bắt đầu từ đó. Đến khi trưởng thành, sự vô tâm biến thành thói quen: không thăm hỏi, không quan tâm. Đau lòng hơn, có những người không coi cha mẹ là điểm tựa khi họ cần, mà chỉ là "gánh nặng".
3. Lêu lổng
Thay vì dành thời gian cho gia đình, nhiều bạn trẻ chỉ muốn tụ tập bạn bè, vui chơi lêu lổng. Cha mẹ ở nhà thì chờ đợi, nhưng con cái lại xem như không tồn tại. Đây là dấu hiệu rõ ràng nhất của sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm đối với gia đình.
4. Vô ơn
Có những người con lớn lên, hưởng thụ mọi thứ từ cha mẹ, nhưng không hề biết ơn. Họ xem tình yêu, công lao cha mẹ, như nghĩa vụ phải có. Khi đã trưởng thành, thay vì phụng dưỡng cha mẹ, họ lại quên mất công lao ấy. Vô ơn là tội đầu tiên dẫn đến bất hiếu.
5. Ích kỷ:
Khi con cái làm ăn thành đạt, nhiều người cho rằng thành công này hoàn toàn do mình tự làm ra. Họ không hề nhớ đến những hy sinh thầm lặng của cha mẹ. Đau hơn, một số còn giữ khư khư tài sản, không muốn cha mẹ được hưởng.
6. Ăn chơi, phóng đãng:
Tiền cha mẹ vất vả kiếm được, con cái đem đi đổ vào ăn chơi, nhậu nhẹt, phá phách. Khi cha mẹ đau yếu, cần sự chăm sóc, chúng chẳng thèm ngó ngàng. Thậm chí, có những đứa con còn bắt cha mẹ già cả, bệnh tật ra đường kiếm tiền nuôi lại mình.
7. Tranh đoạt tài sản, bỏ mặc cha mẹ:
Khi gia đình đông anh em, có những người chỉ biết tranh giành tài sản, không ai muốn gánh trách nhiệm chăm sóc cha mẹ. Kết quả là cha mẹ vừa đau lòng, vừa lo nghĩ đến cạn kiệt sức lực. Con đông chưa chắc đã ấm, bởi sự ích kỷ của con cái là thứ đẩy cha mẹ vào cô đơn cuối đời.
“Các em có biết loài sâu qua sông bằng cách nào không?”
- Một cậu học sinh vô cùng lanh lợi ngay lập tức giơ tay và tự tin trả lời: “Thưa thầy, con sâu đi qua cầu để qua sông ạ”. Thầy giáo vừa cười vừa lắc đầu: “Không có cầu bắc qua sông em à”.
- Một học sinh khác nhanh nhảu tiếp lời: “Em nghĩ con sâu sẽ nằm trên chiếc lá để qua sông”. Thầy giáo đáp: “Chiếc lá sẽ bị dòng nước cuốn trôi đi mất em à”.
- “Thế thì con sâu bị một con chim nuốt vào trong bụng bay qua sông” – một cô bé giơ tay rụt rè phát biểu. “Như vậy con sâu chết mất rồi và việc qua sông đâu còn ý nghĩa gì nữa, đúng không em?”.
Đến lúc này, cả lớp đều im lặng chờ đợi câu trả lời từ thầy giáo.
“Các em có biết không, con sâu nếu muốn qua sông, thì chỉ có một cách, đó là biến thành bươm bướm.
Nhưng từ sâu biến thành bướm là một quá trình vô cùng gian nan, là giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc đời của nó. Nó phải ở trong một cái kén bí bức, chật chội, ban ngày cũng như ban đêm, không ăn không uống. Nỗi khổ này phải trải qua trong một thời gian rất dài”.
*****
Vậy đấy, trên chặng đường của mỗi con người chúng ta, có những lúc giống như con sâu kia, muốn qua sông, nhưng khả năng chưa đủ.
Đối diện với hoàn cảnh ấy, có người lựa chọn bỏ cuộc, chán chường, lãng quên mục tiêu của việc “sang sông”.
Nhưng cũng có những người dũng cảm vượt qua những ngày tháng khó khăn đó, không ngừng thử thách chính mình, không ngừng thay đổi chính mình, để sau đó vươn lên mạnh mẽ, vượt qua dòng sông khổ ải và thỏa sức bay lượn khắp nơi.
Khó khăn và thuận lợi luôn song hành cùng chúng ta trong cuộc sống, giống như bản nhạc có những nốt cao thánh thót và những nốt trầm sâu lắng. Vậy nên, thiếu bất cứ nốt nhạc nào cũng khiến bản nhạc cuộc sống trở nên không hoàn hảo.
Khó khăn mang lại cho ta cơ hội để không ngừng rèn luyện chính mình, vượt qua cái tôi yếu mềm, nhút nhát, tự ti, để ngày càng hoàn thiện.
Thuận lợi, là để chúng ta hiểu rằng: không có khó khăn nào là vĩnh viễn.
Nếu có thể mạnh mẽ và dũng cảm biến mỗi nghịch cảnh thành quà tặng, ta sẽ thấy những gì cuộc sống cho ta đều là cơ hội. (sưu tầm)
Một người cha kia có một cô con gái nhỏ - đó là đứa con yêu quý duy nhất của ông. Ông sống vì con, và cô bé chính là cuộc sống của ông.
Nhưng rồi cô bé bị đau, và căn bệnh cứ ngày càng nặng, mặc cho những gắng sức của các bác sĩ tài giỏi nhất. Người cha trở nên phát cuồng, không còn tự chủ được nữa, ông như muốn lay chuyển trời đất để mong đem lại sự sống cho con. Nhưng mọi nổ lực của ông không có ý nghĩa gì cả, và cô bé qua đời.
Người cha không thể chấp nhận sự thật đó. Ông trở nên cay đắng trong lòng, và ông bắt đầu cách ly mình khỏi cuộc sống, không muốn gặp bạn bè, từ chối tất cả những hoạt động có thể hàn gắn lại vết thương lòng mình, không tham gia bất kỳ việc gì vốn có thể khiến ông trở về với con người bình thường vốn có của mình.
Nhưng rồi một đêm nọ, ông có một giấc mơ. Ông mơ thấy mình ở trên thiên đàng, và đang dự một đám rước lộng lẫy, trang trọng và huy hoàng của tất cả những thiên thần nhỏ. Bọn họ diễu hành đến Ngôi của Tòa Án Trắng trong một hàng ngũ dường như không có điểm cuối...
Mỗi một đứa trẻ thiên thần trong chiếc áo choàng trắng đều cầm trên tay một cây đèn cầy. Và ông nhận thấy trong đám thiên thần đó, có một thiên thần nhỏ cầm trên tay cây đèn cầy đã tắt ngấm. Bất chợt, ông nhận ra thiên thần nhỏ đó chính là con gái yêu dấu của mình. Chạy đến bên con, trong khi đám rước dừng lại một chút, ông ôm chầm lấy con mình trong tay, vuốt ve con nhẹ nhàng, và hỏi:
- "Sao vậy con, sao chỉ có cây đèn cầy của con là không sáng?"
- "Cha ơi, họ vẫn thường xuyên phải thắp lại đèn cho con, nhưng nước mắt của cha luôn làm cho nó tắt ngấm đi". Đến đó, người cha giật mình thức giấc khỏi giấc mơ.
Bài học rất rõ ràng với ông, và nó có tác dụng ngay lập tức. Từ giờ phút đó trở đi, người cha không còn tự cô lập mình nữa, ông lại bắt đầu hòa đồng với những bạn hữu và cộng đồng. Và như vậy, cây đèn cầy của con gái ông cũng sẽ không bị dập tắt bởi những giọt nước mắt đau thương của ông.
Suy ngẫm
Trong cuộc đời chúng ta, có nhiều lúc chúng ta cũng như người cha kia, nuối tiếc về quá khứ vốn tưởng chừng rất tốt đẹp hoặc nghĩ về những gì đã từng là sở hữu của mình, để rồi khi mất đi điều đó, chúng ta sống mãi trong đau thương và tuyệt vọng. Chúng ta không còn có thể nhìn biết sự hiện diện và tể trị của Chúa trên đời sống mình, không còn nhận biết Chúa đang nắm giữ cuộc sống và tương lai ta?
Hãy cẩn thận và tỉnh thức trước những tư tưởng đó, bởi chính những đau thương, tuyệt vọng ấy sẽ ăn mòn đời sống chúng ta, đem chúng ta ra xa khỏi Chúa, và lấy mất đi niềm vui và phước hạnh mà Chúa vốn đã dành sẵn trên đời sống con cái Ngài.
Đó là một triết lý đơn giản nhưng rất hữu hiệu. Nếu một con kiến đang đi về một hướng nào đó, và chúng ta tìm cách chặn đường chúng, Kiến sẽ tức thì tìm cho mình một con đường khác. Chúng trèo qua chướng ngại, chui xuống dưới hoặc chui vòng sang bên hông. Chúng không ngừng tìm kiếm một giải pháp khác để vượt qua chướng ngại vật phía trước. Quả là một triết lý gọn gàng và đơn giản: không ngừng tìm kiếm hết cách này đến cách khác để tiến đến mục tiêu mà chúng ta nhắm tới.
Thứ hai, Kiến luôn chuẩn bị cho mùa đông trong suốt mùa hè.
Đó là một góc nhìn nhận quan trọng. Bạn không thể quá ngây ngô tin rằng nắng ấm sẽ kéo dài mãi mãi. Vì vậy Kiến làm việc chăm chỉ để tích lũy thức ăn cho mùa đông trong mùa hè. Một lời khuyên từ xa xưa đã dạy: “Đừng xây nhà trên cát vào mùa hè!” Tại sao chúng ta lại cần lời khuyên này? Đơn giản là vì chúng ta cần tiên liệu trước. Trong mùa hè nắng ấm, bạn phải tiên liệu được giá lạnh và mưa bão mùa đông!
Thứ ba, Kiến luôn tin vào mùa hè trong suốt mùa đông!
Điều này rất quan trọng. Trong suốt mùa đông giá rét, Kiến tự nhắc mình: “Mọi thứ sẽ sớm qua thôi, và chúng ta sẽ không phải cầm cự quá lâu!”. Và ngày nắng ấm đầu tiên, những con Kiến lại lên đường. Nếu trời lạnh trở lại, chúng sẽ lại chui vào hang, nhưng chúng sẽ quay trở lại ngay khi trời trở ấm! Chúng không thể đợi để lại được làm việc!
Cuối cùng, Kiến sẽ tích lũy bao nhiêu lương thực trong mùa hè để chuẩn bị cho mùa đông? Câu trả lời là “nhiều hết ga có thể”.
*****
Đây là một triết lý tuyệt vời, “nhiều hết ga có thể”! Hãy học hỏi loài Kiến trong lần tiếp theo, nếu bạn tự hỏi mình: Tôi nên đọc bao nhiêu cuốn sách? Tôi nên chạy bao xa? Tôi nên làm việc đến mức nào? Tôi nên yêu thương đến mức nào? Câu trả lời luôn là: “Nhiều hết ga có thể!”
Ngày hôm nay, dù các bạn đang ở trong mùa đông hay mùa hè, đang chiến đấu hay đang dưỡng sức, hãy nhớ về những chú Kiến và thừa hưởng sự khôn ngoan của chúng nhé! Những triết lý rất giản dị đúng không? Thành công cũng giản dị như vậy thôi: Không bỏ cuộc, Tiên liệu trước, Luôn lạc quan và Nhiều hết ga có thể!
Câu nói: "Ðây, tôi xin trả liền cho xe tôi và cho 6 chiếc xe kế tiếp".
Ðó là tiếng một người vang lên cùng lúc với bàn tay giơ ra ngoài cửa xe, trao một nắm tiền cho người ngồi ở trong phòng gác nhỏ, nơi cổng ra xa lộ.
Sáu chiếc xe kế tiếp được hướng dẫn ra khỏi xa lộ với giọng nói từ phòng gác nhỏ làm cho mỗi tài xế đều sửng sốt:
- Ông không cần trả tiền nữa. Người đi trước đã trả thế cho ông rồi.
Tuy bỡ ngỡ, nhưng tài xế của sáu chiếc xe ấy không khỏi lộ niềm vui trên gương mặt. Cử chỉ tốt và âm thầm của người đàn bà kia có thể sẽ mời gọi họ cũng làm như vậy cho bất cứ ai khác.
Người đàn bà ấy là Giu-đích Pho-man. Một lần đến chơi nhà bạn, Giu-đích Pho-man đã bất ngờ đọc được dòng chữ nhỏ dán trên cửa tủ lạnh:
"Thỉnh thoảng bạn nên làm một cử chỉ đẹp".
Những lời đơn sơ này đã đánh động Giu-đích Pho-man. Bà cẩn thận học thuộc lòng hàng chữ ấy, để rồi sau đó, trong mọi lá thư viết cho bạn bè hay người thân, bà luôn luôn ghi vào cuối lá thư lời khuyến khích: "Thỉnh thoảng bạn nên làm một cử chỉ đẹp".
Không những ghi vào cuối các lá thư, mà thỉnh thoảng, tùy hoàn cảnh, tùy lúc, Giu-đích Pho-man thực hiện một vài cử chỉ đẹp, như lần vừa kể trên.
Người đầu được thuyết phục bởi lời lẽ và cử chỉ đẹp của Giu-đích Pho-man là chồng của bà, ông Phrăng Pho-man, một giáo viên của trường trung học trong vùng. Ông ghi lại câu ấy, đem vào lớp, cắt chữ dán ngay trước mặt các học trò lớp sáu.
Người thứ hai được thuyết phục là cậu học trò trong lớp của ông Phrăng. Em về khoe với mẹ sau khi đã làm một việc tốt là giúp chị em lau nhà.
Người thứ ba được thuyết phục là mẹ của cậu học trò vừa kể. Bà làm nghề viết báo. Thế là một bài bình luận xuất hiện trên nhật báo của thành phố, bàn về ý nghĩa thiết thực của câu nói: "Thỉnh thoảng bạn nên làm một cử chỉ đẹp".
Lòng tốt sẽ khơi dậy lòng tốt. Tình cờ đọc bài bình luận, chủ một tiệm ăn cảm kích nên đã dùng lời khuyến khích: "Thỉnh thoảng bạn nên làm một cử chỉ đẹp" để trang hoàng nơi đáng chú ý nhất của cửa tiệm để mọi khách hàng có thể nhìn thấy.
Biết đâu giờ đây không phải chỉ có ba bốn người được khuyến khích, nhưng là có hằng trăm, hằng ngàn, hằng triệu người đã cảm kích và sống theo lời khuyên trên.
Một cử chỉ đẹp, rồi nhiều cử chỉ đẹp sẽ góp phần thay đổi con người và xã hội. Nhận một cử chỉ đẹp người khác làm cho chính mình một lần hay hai lần, thế nào rồi cũng có lúc chính bạn sẽ nhập cuộc.
Xin đừng ai vô tâm để cho chuỗi dài những cử chỉ đẹp bị gián đoạn.
“ThỈnh thoảng bạn nên làm một cử chỉ đẹp cho người khác”.
Lạy Chúa, xin giúp con can đảm thực hiện một cử chỉ đẹp trong ngày hôm nay. Amen.
Hôm nay (Lễ 11/02), trong phụng vụ, chúng ta mừng kính kỷ niệm các lần Đức Trinh nữ Ma-ri-a hiện ra tại Lộ Đức, bắt đầu từ ngày 11 tháng 02 năm 1858. Nhân vật chính trong loạt biến cố này là một cô bé tên Bernadette Soubirous, nay đã được đứng vào hàng ngũ các Thánh. Đức Ma-ri-a đã hiện ra với cô 18 lần, gần một hang đá bên bờ sông Gave.
Những chi tiết về trải nghiệm của Bernadette đã được Ủy ban Giáo phận, được giao nhiệm vụ điều tra sự kiện này, thu thập lại. Qua cuộc điều tra này, chúng ta được biết rằng Bernadette đã ở bên bờ sông cùng với vài cô gái khác khi cô nghe thấy một ‘làn gió thoảng’ từ hang đá vọng ra. Cô tiến lại gần, nhưng nhận thấy những chiếc lá cây không hề lay động. Khi đang cố gắng hiểu chuyện gì đang xảy ra, cô lại nghe thấy một ‘âm thanh’ khác và thấy một hình bóng màu trắng giống hình dáng của một quý bà. Sợ rằng mình đang bị ảo giác, cô dụi mắt, nhưng hình bóng ấy vẫn còn ở đó. Không biết phải làm gì, cô lấy tràng hạt Mân Côi từ túi ra và bắt đầu lần hạt, và Đức Trinh nữ đã cùng cô cầu nguyện. Một trong những cô gái đi cùng Bernadette là em gái cô, và Bernadette đã kể lại điều đã xảy ra. Ngay khi trở về nhà, em gái của cô đã nói với mẹ, và mẹ họ đã cấm không cho trở lại đó. Tin tức lan truyền khắp khu vực, và Bernadette đã cùng một nhóm bạn quay lại địa điểm này vào ngày 14 tháng 02, khi lần hiện ra thứ hai diễn ra.
Lời mời gọi trở lại trong 15 ngày
Một lần hiện ra khác diễn ra vào ngày 18 tháng 02, khi Đức Trinh nữ yêu cầu Bernadette trở lại trong 15 ngày liên tiếp. Vào ngày 25, “Quý Bà” yêu cầu Bernadette ăn một số cây cỏ như một hành động sám hối. Bà cũng chỉ cho cô một nơi để đến và uống nước. Tại đó, Bernadette tìm thấy một vũng nước nhỏ và bắt đầu đào bằng tay cho đến khi đủ nước sạch để uống.
Ta là Đấng Vô nhiễm Nguyên tội
Vào ngày 25 tháng 3, đáp lại yêu cầu của Bernadette, Đức Trinh nữ nói rằng bà là Đấng Vô nhiễm Nguyên tội. Tín điều này đã được Đức Giáo hoàng Piô IX công bố vào ngày 08 tháng 12 năm 1854.
Các lần hiện ra
Các lần hiện ra diễn ra từ ngày 11 tháng 02 đến ngày 16 tháng 7, với những khoảng cách thời gian khác nhau giữa các lần: ngày 11, 14, 18, 19, 20, 21, 23, 24, 25, 27, 28 tháng 02 năm 1858; ngày 01, 02, 03, 04 và 25 tháng 3; ngày 07 tháng 4 và ngày 16 tháng 7. Các lần hiện ra này đã được Đức Giám mục Tarbes chính thức công nhận vào ngày 18 tháng 01 năm 1862.
Đền thánh dành cho bệnh nhân
Lộ Đức không chỉ nổi tiếng nhờ các lần hiện ra, mà còn vì thông điệp hy vọng dành cho tất cả những ai đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần. Từ sau các lần hiện ra, Lộ Đức được biết đến như một nơi đón nhận tất cả những người đau yếu về thể xác hay tinh thần, những ai qua sự chuyển cầu của Đức Trinh nữ Ma-ri-a, Đấng Vô nhiễm Nguyên tội, tìm kiếm sự bình an, sức khỏe và thanh thản tâm hồn. Có 70 trường hợp được chữa lành được công nhận bởi một nhóm bác sĩ độc lập – cũng như vô số sự hoán cải tâm hồn.
Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su. Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giê-su bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.” Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người. (Ga 2,1-12)
Cana và Lộ Đức
Trong viễn cảnh này, có thể hiểu được ý nghĩa của lễ nhớ hôm nay. Cho tới ngày nay, Đức Trinh nữ Ma-ri-a vẫn tiếp tục là Đấng chuyển cầu cho con cái mình, đặc biệt là những người yếu đuối, những người đau khổ về thể xác và tinh thần. Mẹ trao phó họ cho Chúa Giê-su, Chúa chúng ta và Đấng Cứu Độ, Đấng duy nhất có thể biến nước thành rượu, biến mọi khó khăn thành niềm vui, mọi sầu muộn thành hy vọng, và mọi bệnh tật thành niềm tin tưởng mới.
Ngày Thế giới Bệnh nhân
Sứ điệp của tiệc cưới Ca-na và Lộ Đức giúp chúng ta hiểu lý do tại sao vào năm 1992, Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II chọn ngày này làm Ngày Thế giới Bệnh nhân. Lộ Đức dạy chúng ta rằng không một ai đang chịu bệnh tật lại có thể bị gạt ra ngoài lề, nhưng phải được hoàn toàn hòa nhập vào cuộc sống như bất kỳ ai khác.
Một người phụ nữ nọ mở cửa ra khỏi nhà và nhìn thấy ba người đàn ông râu dài bạc trắng, đang ngồi trên băng ghế đá ở sân trước, mà không hề quen ai trong số họ.
Tuy nhiên, vốn là người tốt bụng bà nói: tôi không biết các ông, nhưng chắc là các ông đang rất đói, xin mời các ông vào nhà ăn một chút gì đó.
- Họ hỏi bà: ông chủ có ở nhà không? - Chồng tôi đi làm rồi, bà trả lời. - Họ đáp: thế thì chúng tôi không thể vào được.
Buổi chiều khi người chồng trở về, bà kể lại câu chuyện. Người Chồng muốn biết họ là ai, nên nói bà lại ra mời ba người đàn ông vẫn chờ từ sáng vào nhà.
Họ trả lời: chúng tôi không thể vào nhà bà cùng một lúc được.
- Sao lại thế? Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.
- Một người giải thích, tên tôi là tình yêu. Ông này là giàu sang, còn ông kia là thành công.
Bây giờ hai vợ chồng bà hãy quyết định xem, chọn ai trong chúng tôi sẽ là người được mời vào nhà.
- Người phụ nữ đi vào và kể lại toàn bộ câu chuyện. “Tuyệt thật” _ người chồng vui mừng nói: đúng là một cơ hội tốt. Chúng ta hãy mời Ngài giàu sang, Ngài sẽ ban cho chúng ta thật nhiều tiền bạc và của cải.
Nhưng người vợ không đồng ý. Anh yêu, tại sao chúng ta lại không mời ngài thành công nhỉ? Chúng ta sẽ có quyền cao chức trọng và được mọi người kính nể. Hai vợ chồng tranh cãi một lúc lâu mà vẫn chưa quyết định được.
Cô con gái nãy giờ im lặng, đứng nghe trong góc phòng, bỗng đề nghị: Hay chúng ta nên mời Ngài Tình yêu là tốt hơn cả. Nhà mình sẽ tràn ngập tình yêu thương, ấm áp và ngài sẽ cho chúng ta thật nhiều hạnh phúc.
Có lẽ chúng ta nên nghe lời con gái, người chồng suy nghĩ rồi nói với vợ. Em hãy ra ngoài và mời Ngài tình yêu. đây chính là người khách chúng ta mong muốn.
Người phụ nữ ra ngoài và hỏi ai trong ba vị là tình yêu, rồi xin mời ngài vào và trở thành khách của chúng tôi.
Thần tình yêu đứng dậy và đi vào ngôi nhà: hai vị thần còn lại cũng đứng dậy và đi theo ông ta.
Vô cùng ngạc nhiên người phụ nữ hỏi: “Tôi chỉ mời ngài tình yêu tại sao các ông cùng vào. Các ông đã nói là không thể vào cùng một lúc kia mà?”
- Hai người bèn cùng nhau trả lời: nếu bà mời giàu sang hoặc thành công, thì sẽ chỉ có một mình người được mời đi vào thô. Nhưng vì bà mời tình yêu, nên cả ba chúng tôi sẽ cùng vào, bởi ở đâu có tình yêu thì ở đó sẽ có thành công và giàu sang.
Lễ tình nhân là dịp để mọi người trên thế giới tôn vinh tình yêu đôi lứa, tình yêu giữa những người yêu nhau và rộng ra là tình cảm giữa bạn bè khác phái.
Vào ngày này, người ta thường tặng nhau những món quà như hoa hồng, socola hay những tấm thiệp để làm kỉ niệm và dành tặng nhau những lời chúc ngọt ngào, ý nghĩa.
Thánh Valentine, Vị Thánh Của Tình Yêu
Nhắc đến ngày 14/2, hầu hết mọi người đều nghĩ ngay đến những lời chúc ngọt ngào, hoa hồng, sô-cô-la và những món quà thể hiện tình yêu. Nhưng ít ai biết rằng, ngày Valentine có nguồn gốc từ một nhân vật lịch sử có thật: thánh Valentine – một vị linh mục đã hiến dâng cuộc đời mình để bảo vệ tình yêu và hôn nhân.
1. Thánh Valentine là ai?
Theo các tài liệu lịch sử, thánh Valentine sống vào thế kỷ thứ III, dưới thời hoàng đế La Mã Claudius II. Khi đó, hoàng đế ban hành lệnh cấm các chàng trai trẻ kết hôn, bởi vì ông cho rằng: Những người đàn ông, chưa lập gia đình, thì sẽ là những chiến binh tốt hơn, dám sống chết hết mình.
Bất chấp lệnh cấm này, linh mục Valentine vẫn âm thầm bí mật cử hành các nghi thức hôn phối cho các đôi yêu nhau.
Bời Ngài tin rằng: tình yêu và hôn nhân là điều thiêng liêng, không thể bị ngăn cấm, bởi bất kỳ thế lực nào.
Khi sự việc bị phát hiện, thánh Valentine bị bắt và bị kết án tử hình.
*****
2. Cái chết và di sản của thánh Valentine
Trong thời gian bị giam cầm, thánh Valentine vẫn tiếp tục lan tỏa tình yêu và lòng nhân ái.
Tương truyền rằng, trước khi qua đời, ngài đã viết một bức thư cho con gái của viên cai ngục – một cô gái mù lòa, mà ngài đã giúp chữa lành.
Bức thư kết thúc bằng dòng chữ: “From your Valentine” (Từ Valentine của em), và đây cũng được cho là nguồn gốc của truyền thống trao gửi thiệp tình yêu vào ngày 14/2.
Vào ngày 14/2 năm 269, thánh Valentine bị xử tử.
Sau này, Giáo hội Công giáo đã tôn phong ngài lên hàng hiển thánh và ngày 14/2 trở thành ngày kính nhớ ngài.
*****
3. Thánh Valentine và ý nghĩa của ngày lễ tình yêu
Ngày nay, ngày Valentine đã trở thành một dịp để bày tỏ tình yêu thương, không chỉ trong tình yêu đôi lứa, mà còn trong gia đình, bạn bè và xã hội.
Nhưng nhìn lại cuộc đời thánh Valentine, ta thấy rằng:
Tình yêu không chỉ là sự lãng mạn, mà còn là sự hy sinh, lòng dũng cảm và niềm tin vào điều tốt đẹp.
Tình yêu đích thực không chỉ nằm ở những món quà hay những lời hứa hẹn, mà còn ở sự chung thủy, sự hy sinh và lòng kiên trì.
Như thánh Valentine đã dám đứng lên để bảo vệ tình yêu, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi gìn giữ và trân trọng những mối quan hệ ý nghĩa trong cuộc sống.
Thánh Valentine không chỉ là một biểu tượng của tình yêu lãng mạn, mà còn là một tấm gương về lòng trung thành và sự hy sinh.
Ngày 14/2 không chỉ là ngày để thể hiện tình cảm, mà còn là cơ hội để mỗi người suy ngẫm về ý nghĩa thực sự của tình yêu – một tình yêu biết cho đi, biết hy sinh và luôn hướng về điều tốt đẹp.
Sarah, một cô phục vụ tại một nhà hàng nhỏ ở Mỹ, không bao giờ nghĩ rằng: một hành động nhỏ bé của mình lại có thể thay đổi cuộc đời cô, theo cách kỳ diệu đến vậy.
Hôm đó, một cặp vợ chồng bước vào nhà hàng, với vẻ mặt mệt mỏi và lo lắng. Trước khi nhìn vào thực đơn, họ đã nói với Sarah rằng: họ không có nhiều tiền và nhờ cô giới thiệu hai món ăn rẻ nhất.
Nhìn vào ánh mắt họ, Sarah hiểu rằng: họ đã trải qua những tháng ngày khó khăn. Cô không do dự. Cô đề xuất hai món ăn, họ đồng ý ngay lập tức và ăn vội vàng.
Khi họ gọi tính tiền, Sarah lặng lẽ đặt một tờ giấy nhỏ trên bàn:
"Tôi đã thanh toán hóa đơn của anh chị bằng tiền cá nhân của mình như một món quà. Đây là 100 đô la từ tôi, và đó là điều tôi có thể làm được. Cảm ơn anh chị đã ghé thăm. Trân trọng, Sarah ".
Cặp vợ chồng sững sờ. Họ rời nhà hàng với nước mắt lấp lánh trong mắt và nụ cười hạnh phúc.
Sarah cũng thấy lòng mình nhẹ nhõm, dù cô biết: mình đang phải chật vật dành dụm tiền mua một chiếc máy giặt mới, để thay thế cái cũ đã hỏng hóc suốt một thời gian dài.
Khi cô kể lại câu chuyện này với một người bạn, thay vì nhận được lời động viên, cô bị trách móc:
"Sao mày lại giúp người khác, khi bản thân còn khó khăn?"
Nhưng Sarah không hối hận.
Điều bất ngờ xảy đến, khi mẹ cô gọi điện, giọng đầy xúc động: "Sarah, con đã làm gì thế?"
Sarah giật mình: "Con có làm gì đâu mẹ?"
"Facebook đang tràn ngập lời khen ngợi con! Cặp vợ chồng ấy đã chia sẻ câu chuyện của con, và hàng nghìn người đã lan tỏa nó. Mẹ tự hào về con!"
Ngay sau đó, điện thoại Sarah không ngừng rung lên. Bạn bè gọi đến, báo rằng câu chuyện của cô đã lan truyền khắp các mạng xã hội. Tin nhắn, lời mời phỏng vấn từ các kênh truyền hình, báo chí đổ về.
Ngày hôm sau, Sarah xuất hiện trên một chương trình truyền hình nổi tiếng. Người dẫn chương trình đã tặng cô một chiếc máy giặt hiện đại, một chiếc TV sang trọng và 10.000 đô la tiền mặt. Một công ty điện tử cũng tặng cô phiếu mua hàng trị giá 5.000 đô la. Những món quà tiếp tục đổ về, và tổng số tiền mà mọi người gửi đến để tôn vinh lòng tốt của Sarah đã vượt quá 100.000 đô la.
Một xuất ăn cho 2 người, giá rẻ và 100 đô la đã thay đổi cuộc đời cô.
Lòng tốt thực sự không phải là cho đi thứ ta dư thừa, mà là sẵn sàng chia sẻ ngay cả khi ta cũng cần.
Sự giàu có không nằm ở số tiền ta có, mà ở sự ấm áp trong trái tim.
Có một cậu bé lúc nào cũng vui vẻ và lạc quan. Một ngày nọ, cậu tìm đến một ông lão và hỏi:
"Thưa ông, điều gì là kẻ thù lớn nhất của hạnh phúc?
Cháu luôn vui vẻ, suốt ngày cười nói. Nhưng cháu lo sợ rằng một ngày nào đó, cháu sẽ trở nên buồn bã và đau khổ. Xin ông hãy chỉ cho cháu cách để luôn giữ được niềm vui và sự tích cực mỗi ngày ạ."
Ông lão suy nghĩ một lúc, sau đó gật đầu và nói: "Được thôi, ta sẽ nói cho cháu biết. Nhưng trước tiên, cháu phải đồng ý làm một việc giúp ta."
Cậu bé mỉm cười trước vẻ mặt nghiêm túc của ông lão: "Dạ được, ông cần cháu làm gì ạ?"
Ông lão đáp: "Ở sân sau nhà ta có một cái thùng rỗng. Ta muốn cháu đổ đầy nước vào đó. Ta đã già và yếu quá rồi, không thể tự đi gánh nước từ sông về được. Nếu cháu giúp ta, ta sẽ thưởng cho cháu hai đồng tiền, nhóc con à!"
Nghe đến đây, cậu bé tràn đầy phấn khích và hào hứng, vì cậu rất cần tiền. Cậu lập tức lấy một chiếc xô và nhanh chóng chạy ra sông múc nước. Một lúc sau, cậu quay lại và báo với ông lão rằng mình đã đổ đầy thùng.
Tuy nhiên, ông lão nói: "Ôi, ta quên mất! Trong bếp còn một cái thùng rỗng nữa. Cháu có thể đổ đầy nó giúp ta không? Ta sẽ thưởng thêm cho cháu hai đồng nữa, tổng cộng là bốn đồng! Với số tiền đó, cháu có thể mua được rất nhiều thứ đấy. Bốn đồng, tất cả là của cháu, nhóc con à!"
Cậu bé quyết tâm để có được bốn đồng tiền nên không chần chừ mà vội chạy đi ngay. Chẳng mấy chốc, cậu đã đổ đầy chiếc thùng thứ hai. Nhưng khi quay lại, ông lão lại nói: "Ôi trời ơi, ta đúng là già cả lẩm cẩm! Ta quên mất rằng trong vườn cũng có một cái thùng rỗng nữa. Nếu cháu có thể đổ đầy nó, ta sẽ thưởng thêm hai đồng nữa. Như vậy, cháu sẽ có tất cả sáu đồng. Sáu đồng, tất cả là của cháu, nhóc con à!"
Gương mặt cậu bé sáng bừng lên vì vui sướng. Cậu bắt đầu tưởng tượng ra những thứ mình sẽ mua với số tiền này, không thể kiềm chế được sự háo hức của mình. Cậu lại nhanh chóng chạy đi lấy nước, dù đã thấm mệt. Sau khi đổ đầy chiếc thùng thứ ba, cậu quay lại với vẻ mệt mỏi nhưng đầy mong chờ.
Thế nhưng lần này, thay vì đưa tiền, ông lão lại cau mày và lẩm bẩm:
"Ôi không, ta nghĩ ta là ông già đãng trí nhất thế gian! Ta quên mất rằng ta chẳng có đồng nào cả. Ta nghèo lắm, không thể trả tiền cho cháu được. Ta xin lỗi, nhưng cháu phải về tay trắng thôi! Không có gì cho cháu cả!"
Nghe vậy, nụ cười trên gương mặt cậu bé vụt tắt, thay vào đó là sự bàng hoàng và thất vọng. Niềm vui của cậu hoàn toàn biến mất, thay thế bằng nỗi buồn bực và chán nản.
Bất ngờ, ông lão ôm cậu bé vào lòng một lúc, rồi mỉm cười nói:
"Đừng lo lắng, nhóc con! Sự thật là ta vẫn có tiền cho cháu đây. Nhưng ta đã làm tất cả những điều này để dạy cháu một bài học quý giá về cuộc sống.
Khi cháu hỏi ta điều gì là kẻ thù lớn nhất của hạnh phúc, ta đã nghĩ ra một cách để khiến cháu buồn, để cháu có thể học bài học này một cách thực tế nhất.
Kẻ thù lớn nhất của hạnh phúc chính là SỰ KỲ VỌNG.
Cháu trở nên buồn bã là vì cháu đã kỳ vọng sẽ nhận được sáu đồng tiền từ ta. Khi chúng ta làm điều gì đó cho người khác, chúng ta thường mong đợi được đáp lại một cách tương xứng. Nhưng thực tế, điều đó không phải lúc nào cũng xảy ra.
Chúng ta kỳ vọng rằng ai đó sẽ yêu thương mình chỉ vì mình yêu thương họ.
Chúng ta kỳ vọng rằng người khác sẽ đối xử tốt với mình chỉ vì mình đã đối xử tốt với họ.
Chúng ta luôn mong đợi mọi thứ xảy ra theo ý mình.
Tất cả những điều này có thể dễ dàng dẫn đến thất vọng, chán nản, căng thẳng, tức giận và oán trách.
Tuy nhiên, nếu cháu biết giảm bớt kỳ vọng vào người khác và hiểu rằng họ không phải lúc nào cũng đáp ứng được mong đợi của mình, thì cháu sẽ có thể sống hạnh phúc hơn."
-Food for thought- Theo Life & Lessons TokyoLife chia sẻ
1: Bạn sẽ gặp Thiên Chúa , Mẹ Maria và các Thánh trước khi bạn gặp ma quỷ ! 2: Bạn sẽ gặp Thiên Chúa trước khi bạn đối diện các hoàn cảnh trong cuộc sống ! 3: Bạn trò chuyện tương giao với Thiên Chúa trước khi bạn trò chuyện với người ta 4: Bạn nghe được tin lành từ Trời trước khi phải nghe được tin giật gân dưới đất! 5: Bạn đầu phục Ý Thiên Chúa trước khi bạn phải phục theo ý con người ! 6: Bạn tôn vinh Thiên Chúa trước khi tôn vinh con người ! 7: Bạn nuôi dưỡng tâm linh mình trước khi bạn nuôi dưỡng thể xác mình ! 8: Bạn gọi đến Danh Giesu trước khi bạn gọi đến các danh nhỏ khác ! 9: Bạn nhìn thấy Thiên Chúa , Chúa Giê-su ,Mẹ Maria ,các Thánh trước khi bạn nhìn thấy mình trong gương và mọi người trong cuộc sống ! 10: Bạn dọn dẹp trái tim bạn trước khi bạn dọn dẹp nhà cửa bạn !
*** Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link trên của sách vào thẻ nhớ, hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. (Chỉ khoảng 24 tờ A4).
*** Bạn cũng có thể đọc trực tiếp các bài này, trên Điện Thoại cảm ứng, khi bạn dùng ngón tay chạm vào đường link trên: https://...
*** Và bạn cũng có thể chép đường link trên: https://... gởi qua Zalo, Messenger, Line, Viber, Tango... làm quà tặng cho các bạn bè, nhiều người được đọc, sẽ có nhiều lợi ích.
---------------------------------
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (10 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng – Sách 4
5. Chuyện “Số Con Rệp” – Sách 5
6. Thiên Chúa là Đấng hay quên – Sách 6
7. Chuyện một người con chọn mẹ để sinh ra – Sách 7
8. Family, một định nghĩa hay về gia đình – Sách 8
9. Hộ Chiếu Nước Trời – Sách 9
10. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng – Sách 10
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (20 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6
7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7
8. Một kiểu sống lại không vui - Sách 8
9. Chuyện con gà trống - Sách 9
10. Kinh cầu các thánh chẳng hề được phong - Sách 10
11. Làm phúc giúp các linh hồn nơi Luyện Ngục - Sách 11
12. Các linh hồn nơi Luyện Ngục sẽ không quên sự giúp đỡ của chúng ta - Sách 12
13. Tình Mẫu Tử trong dịp Lễ Giáng Sinh - Sách 13
14. Năm Thìn, nói chuyện con rồng - Sách 14
15. Nhật ký của một linh hồn sau khi chết - Sách 15
16. Những lời tâm sự của người cận kề cái chết - Sách 16
17. Tội nhân trở thành thánh nhân - Sách 17
18. Chuyện ông Panov gặp Chúa đêm Giáng Sinh - Sách 18
19. Cách hành xử của Chúa luôn là bất ngờ - Sách 19
20. Năm Thánh - Ất Tỵ 2025 - Sách 20
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (30 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16
17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17
18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18
19. Ngày của bố - Sách 19
20. Chuyện 2 cha con hoang đàng - Sách 20
21. Chuyện Kẻ “tự bắc thang lên trời” - Sách 21
22. Chuyện Quỷ Ám là có thật - Sách 22
23. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ - Sách 23
24. Thảm họa: Một Thiên Đường không có Thiên Chúa – Sách 24
25. Nếu Thiên Chúa không có, thì tại sao lại chống Ngài ? – Sách 25
26. Ông già Noel không mặc đồ đỏ – Sách 26
27. Tình yêu có sức mạnh biến đổi – Sách 27
28. Chuyện một mối tình thật đẹp – Sách 28
29. Một kinh ngiệm truyền giáo thật dễ thương – Sách 29
30. Tháng các đẳng linh hồn và những ước nguyện – Sách 30
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (7 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4
5. 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần I) – Sách 5
6. 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần II)– Sách 6 7. Tinh hoa và những lời nói sau hết của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu (Phần I)– Sách 7