Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;
2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, Cha Mễn kể chuyện, hoặc linh mục Mễn
3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com
5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
"Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10) Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Nhiều cuốn sách nhỏ, chẳng có vẻ gì lôi cuốn hoặc ồn ào, mà tàng chứa dinh dưỡng cho bao thế hệ độc giả. Chẳng hạn cuốn: - Phó Thác cho Chúa Quan Phòng của Jean Pierre de Caussade dòng Tên. - Cái Khôn của một người nghèo do Eloi Leclerc, dòng Phansinh, hoặc cuốn - Tinh Hoa của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu của Cha Victor Sion, dòng Cátminh. Từ nhà xuất bản Lethielleux năm 1956, cuốn sách đã được dịch ra năm ngôn ngữ, và vì nhiều người thất vọng bởi không kiếm được sách này ngoài thị trường, nên phải có lần tái bản 1972 này. Suốt đời, cha Victor đã nghiền ngẫm những tác phẩm của Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Nhan Thánh. Đáy lòng Cha đã thấm nhuần. Từ năm 1940, khi cha còn là giáo tập trẻ trung, tiếp cha tại phòng khách đan viện Lisieux, Mẹ Agnès de Jésus (Chị Pauline) đã trao cha “bửu bối: “Tin tưởng, chỉ có tin tưởng mới dẫn tới Tình yêu...” rồi, sau một phút im lặng, Mẹ thêm: “... bác ái huynh đệ nữa”. Còn chị Geneviève (Chị Céline), đọc bản theo Tinh Hoa xong, đã bảo tác giả: “Cha đúng là Trò Ruột của em con”. Thật nhiều thế hệ Cátminh đã học cha cho biết người ta học Thánh Têrêsa thế nào để sống Phó Thác. Biết bao người đã được giải thoát, đã được cứu khỏi tuyệt vọng hoặc tự tử nhờ gặp cha Victor, mà ngài giúp khám phá ra tình yêu kỳ diệu của CHA - ABBA- và niềm tin tưởng của người con đã được nhận lại, được cứu khỏi thương tích và sợ hãi, được nhìn thẳng vào tương lai. Chính vì cha đã qua đường lối Têrêsa ngoan thảo, bằng cả những chuyện đơn giản của cuộc sống hằng ngày, mà cha Victor có thể giúp hàng ngàn người ngày đêm gõ cửa phòng cha gặp được nguồn sống. Tôi có thể làm chứng điều đó sau mười sáu năm sống huynh đệ Cátminh trong HLM ở phố Camille-Flammarion à la Source (Orléans). Tại đây, chúng tôi đã cùng cầu nguyện, chia sẻ vui buồn, nấu ăn và rửa chén với nhau, với tất cả những ai đến từ những môi trường khác nhau, cả đến những em nhỏ của mọi miền, vẫn chạy theo để được hôn, được chúc lành và được ánh mắt nhân hiền của cha nâng đỡ. Chúng ta hãy cầm lấy, đọc và đọc lại cuốn kinh điển Têrêsa nhỏ bé này. Biết đâu nó chẳng trở thành cuốn thân thương của ta như đã là của bao người. Nó đơn giản, không vì thiếu thốn, mà vì cô đọng. Thế giới phức tạp này rất cần một cuốn như nó. Con người chỉ có thể tìm lại sư nhất quán sâu xa của mình trong thâm tâm tình, nơi Chúa Ba Ngôi ngự. “Nếu bạn biết hồng ân Thiên Chúa...” (Ga 4,10). Thánh Têrêsa tiết lộ với ta rằng: hồng ân này cũng dành cho từng người chúng ta. Dầu chúng ta là ai, bị khai trừ, “bệ rạc”, công giáo bảo thủ, giàu hoặc nghèo, linh mục hoặc giáo dân... Vì tất cà chúng ta đều mang tật, cần được Tình Yêu khoan dung chữa trị. “Tin tưởng, chỉ có tin tưởng mới dẫn tới Tình yêu...” + Giám mục Gp. Meaux Ngày lễ Sinh nhật Đức Mẹ 8.9.1986.
*****
DẪN NHẬP
“Sau cùng, con đã tìm thấy thiên hướng của con! Thiên hướng của con là YÊU! Vâng, con đã thấy chỗ của con trong Giáo Hội, và lạy Chúa, chính Chúa đã cho con chỗ này: Trong trái tim Giáo Hội, Mẹ con, con sẽ Yêu... Như vậy con sẽ là tất cả...” Lời đó được trích dẫn hoài, vẫn không cạn ý. Hiển nhiên nó phát giác một trong những ý định thâm trầm nhất của Têrêsa Hài Đồng, một trong những ánh sáng tinh tuyền nhất Người nhận được từ Chúa. Nhưng những hàng nóng ấm đó không chỉ phản ánh thiên-hướng cát-minh, với vai trò chiêm niệm giữa đời. Những hàng ấy cũng có thể mang lại thật nhiều cho những người đang dấn thân vào những con đường khác, với những nhiệm vụ khác, vì những hàng ấy biểu lộ điểm phổ quát của khám phá và của sứ mạng Têrêsa. Biểu lộ sinh thần mãnh liệt của thánh nữ, mà mọi người con Thiên Chúa đều được mời tham dự. Chúng ta hẳn đồng ý rằng trong khi Thánh Têrêsa lôi cuốn được cả người ngoài Giáo Hội, thì lại có thất bại hoặc chống đối nơi một số người vẫn coi như mình đọc một thứ méo mó, một giáo thuyết hạ giá. Người được giới thiệu với nhiều mẫu thuẫn lạ lùng. Sau cuộc sống có vẻ vô nghĩa và xa vời, Thánh nữ được Đức Piô X ca tụng là “vị thánh vĩ đại nhất của thời này”. Người chiêm niệm, Đức Piô XI cũng không ngại đặt làm Bổn mạng các vùng truyền giáo. Bỏ đi mọi hình thái văn chương, chỉ lưu lại tưởng tượng thơ nhi, Người trình bày một giáo thuyết phong phú lạ lùng. Tiếp xúc tinh thần này, thần học sâu thêm, tu đức học được đổi mới, và cả hai vẫn còn thấy được thêm lợi ích. Những mâu thuẫn kỳ diệu này do đâu? Do điểm này: Cuộc sống Têrêsa đã trải và “đường nhỏ” Người đã mở ra cho các tâm hồn thức chất thần thánh. Mà không gì có vóc dáng đơn giản hơn thần thánh. Đúng hơn, phải nói rằng không gì bằng thần thánh có thể phối hiện bản chất với những thứ tầm thường, vui lòng núp dưới lớp vỏ và sung sướng biểu lộ qua chúng, bằng sức sống thần thiêng thôi. Đành rằng có lúc siêu nhiên cắt đứt phàm trần và toát ra những hiện tượng lạ lùng; nhưng cơ bản, nó vẫn lặng lẽ sinh hoạt với những tầm thường nhất mà cuộc sống hằng ngày dâng tặng. Cuộc sống con người, được Thiên Chúa tạo dựng, Đức Kitô cứu chuộc và Thánh Thần biến đổi, vẫn còn là và phải là cuộc sống của đứa con người ta. Cuộc sống mới này càng thấm nhuần thần lực, càng sâu sắc và đơn thuần nhân bản. Đó là sự thật, là bài học sơ yếu mà kinh nghiệm và giáo huấn của thánh Têrêsa chỉ dạy. Về điều đó, chắc chắn Người rất là tân tiến. Dầu trong tình yêu, trong những đào tìm sâu thẳm, dầu trong những bận bịu hằng ngày. Cô Bé này không hề ngăn cách trời với đất, những điều kiện cụ thể và mong manh trong kiếp lữ hành với những đòi hỏi của thiên-hướng thần thiêng. Hẳn cũng vì trong căng thẳng này, Người biết tìm ra quân bình và thể hiện cuộc sống, nên trở thành cô giáo tâm linh cho người thời nay. Giống như các vĩ nhân trong lịch sử, con người cụ thể và thực tế lại có một bình diện sâu thẳm hơn, mang giá trị biểu tượng. Là một thánh rất lớn, Têrêsa còn là kiểu mẫu của những con người thời đại ta. Không chỉ của một số nhỏ bé được Chúa gọi vào trong nội cấm, nhưng của tất cả những người tìm chỗ mình trong Nhiệm thể và đau khổ vì cảm thấy những ranh giới giữa sức lực mình và những ước muốn vô hạn. Chính nhờ thực hành “lối nhỏ” mà Têrêsa tới lúc nhận ra chỗ mình trong trái tim Giáo Hội và biết giữ chỗ đó cách tuyệt vời. Vậy thì những ai, dầu cảm thấy mình hèn yếu, vẫn muốn thể hiện thiên-hướng mình như Chúa muốn, trong thế giới cuồng loạn này, phải hiểu thấu đáo chiều sâu thần học của lối đi mà Têrêsa đã mở ra cho họ. Để giúp hiểu sứ điệp Têrêsa, tôi không tin phải rút ra một nghiên cứu thần học từ những bài viết của Người, cũng không cần phân tích tỉ mỉ kinh nghiệm tâm linh của Người. Nhiều vị đã thành công trong những việc như thế rồi. Tác phẩm này có tính sư phạm thần học và muốn trình bày tiến trình khám phá cùng công việc thánh Têrêsa chuyển giao lý tưởng của Người hơn là trình bày giáo thuyết đó. Vì trước khi dạy thế giới Lối Đi Nhỏ, Người phải thông truyền ra chung quanh con người sống động của Người. Điều này đã được Đức Piô XI lưu ý ngày 17 tháng 5 năm 1925: “Đường Thơ Ấu này, thánh Têrêsa đã dùng lời và gương mẫu của mình dạy các tập sinh trong đan viện của Người, rồi mới dùng tác phẩm mà mở cho mọi người”. Tôi biên soạn theo đường hướng này: Sau khi phân tích ngắn gọn về môi trường Carmel mà Têrêsa đã sống, bầu khí Người đã tạo ra quanh mình để tiết lộ lối đường yêu thương (ch.1), chúng ta gắng nghiên cứu kinh nghiệm của Người. Thử tìm ra chủ trương hướng dẫn Người kiếm tìm linh đạo (ch.2). Rồi chúng ta sẽ từ từ thấy tất cả những yếu tố trong giáo thuyết của Người (ch.3). Sau đó chúng ta sẽ nghe Người giảng giải và thông truyền kết quả kinh nghiệm nội tâm. Trước hết, Người chỉ ra những đòi hỏi của “Lối nhỏ”, tâm trạng cơ bản phải có để chắc chắn đi vào (ch.4). Rồi tới những tiến trình thiết yếu cho người con Thiên Chúa trên đường về nhà Cha như thánh nữ soi sáng: Tin Yêu, niềm tin yêu như nền tảng của đường thơ ấu (ch.5). Hiến tế cho Tình yêu, là quyết dấn thân trên đường này (ch.6). Tiếp đến, động tác hiến trao phải tập luôn để nộp mình cho Tình yêu (ch.7). Sau cùng, để chấm dứt, chúng ta sẽ tóm gọn những suy tư này quanh ý mà Têrêsa rất thích: Trái tim Giáo Hội, tụ-điểm của muôn vật thọ tạo và tạo thành. Lối Nhỏ đã dẫn Têrêsa tới đó. Chính điểm sống này làm thần lực trổ bông. Trái tim Giáo Hội, Mùa hoa của tư tưởng và yêu thương, những đỉnh cao mà Têrêsa muốn lôi cuốn thật nhiều bạn bè mình tới.
*****
KÝ HIỆU dùng trong tác phẩm:
Ms A, B, C = Thủ bản A,B,C. Thánh nữ viết trong năm 1895, 1896, 1897. CJ = Những trao đổi cuối cùng với Thánh nữ, Mẹ Agnès viết trong Carnet jaune. CSG = Lời khuyên và hoài niệm (Conseils et Souvenirs) do Chị Geneviève (tức Chị Céline) ghi. OCL.1952. DCL = Hồ sơ của Đan viện Cát-m,inh Lisieux. DE = Derniers Entretiens “Những trao đổi cuối cùng này được xuất bản cùng với những Phụ chú, do nhà xuất bản Cerf-DDB năm 1971. Esprit = Tinh thần thánh Têrêsa, do OCL xuất bản 1922. HA = Chuyện một Tâm hồn xuất bản 1955. LT = Các thư của Thánh nữ, Cerf-DDB xuất bản năm 1972. CirM Tr. = Thư của chị Marie de la Trinité 20.2.1944. OCL = Văn phòng trung ương Lisieux. NV= Novissima verba = những lời cuối cùng, xuất bản 1927. P = Thơ của Thánh nữ, xuất bản trong HA. RP = Đạo đức vui trong HA. Sum II = Hồ sơ trong vụ án phong thánh, tại Roma 1920.
Chúng ta quá quen nhìn ngắm Têrêsa Hài Đồng trong việc thăng tiến bản thân, tại gia đình cũng như trong đan viện, mà quên mường tượng Người trong vai trò giáo dục. Thế là quên rằng Người đã qua suốt đời tu tập trong Tập viện, gần chín năm, không kể mấy tháng cuối cùng Người ở bệnh xá để chuẩn bị từ trần. Khoảng bốn năm, Người đã thực tế đảm trách giám tập, tuy không mang danh vị, không dựa trên quyền bính mà Người không được chính thức bổ nhiệm, chỉ nhờ đã thăng tiến bản thân. Hoàn cảnh thật tế nhị và rõ ràng đã làm nổi bật sự thánh thiện cũng như tính kiên cường và gắn bó với sứ mạng của Têrêsa. Trở lại với Têrêsa ở tập viện, tức là bắt gặp được chị đang hứng khởi và chiến đấu. Trước hết, chúng ta nên vắn tắt gợi lại môi trường trong đó Chị đã sống và tiến hoá. Khấn ngày 8.9.1890, bình thường thì sau ba năm, Têrêsa phải lìa tập viện; nhưng hai chị Agnès de Jésus và Marie du Sacré Coeur đã tiến vào Carmel trước Têrêsa rồi. Theo thói quen thời đó, một gia đình không được có hơn hai chị em trong một cộng đoàn Đan viện, nên Têrêsa không được “lên” khỏi nhà tập. Ngày ngày, Người cứ việc nghe Mẹ Marie de Gonzague huấn đức và xin phép Mẹ... mọi thứ như một tập sinh... 20.02.1893 - Têrêsa hai mươi tuổi - Mẹ Agnès de Jésus được bầu làm đan viện trưởng, Marie des Anges tập sư thành Mẹ Nhì; Mẹ cựu Marie de Gonzague làm Quản lý và Tập sự. Tân-tu-viện-trưởng xin em Têrêsa giúp Tập sư trong nhiệm vụ của bà. Sứ mạng thật tế nhị. Phải khôn và khéo lắm, vì Mẹ Marie de Gonzague khó tính và đa nghi. Mặt khác, Têrêsa đâu có được bổ nhiệm chính thức. Trong tập viện, Têrêsa chỉ là “thiên thần” của hai chị “hạng nhì” là nữ tu Marthe de Jésus nhập tu 23.12.1887, hiển nhiên trước Têrêsa, và Marie-Madeleine Thánh Thể, nhập tu 22.07.1892. Chị Têrêsa Hài Đồng phải lo kín đáo đào tạo tâm linh cho hai bạn hơn tuổi mình. Hai năm sau, khi chị Marie de la Trinité vào đan viện, Mẹ bề trên cho chị trọn quyền giải bày với “thiên thần của chị” tất cả mọi khó khăn nội tâm và thực tập. Không mấy bữa, Têrêsa lại được trao hai tập sinh nữ: Chị Geneviève - chính là chị Céline - nhập tu 14.9.1894 và Marie de l’Eucharistie, cô em họ Marie Guérin, nhập tu 15.8.1895. Tình huống đó kéo dài ba năm nhiệm kỳ Mẹ bề trên Agnès de Jésus. Cuộc bầu cử 21.03.1896 lại đưa Mẹ Marie de Gonzague lên đầu cộng đoàn, ngoài nhiệm vụ đó, Mẹ quyết định cứ tiếp tục làm giám tập. Mẹ Agnès kín đáo khuyên Mẹ Marie hết sức dùng chị Têrêsa để giúp các em nhà tập. Vận đánh giá cao Têrêsa, nên Mẹ Marie de Gonzague đã thực tế trút cả công việc nhà tập cho trẻ. Tính hay thay đổi của Mẹ không cho phép Chị có kế hoạch lâu dài tốt đẹp được. Không việc gì bền lâu. Thêm vào những khó khăn đó là tuổi trẻ của Têrêsa, người phải khuyên giải, khích lệ và khi cần phải sửa dạy những tập sinh lớn tuổi hơn mình. Ta thấy ngay những điều kiện nhân bản không thuận lợi cho Chị thi hành nhiệm vụ, mà như vậy suốt đời. Vậy mà chính trong những tình huống đó, Người nên thánh. Ta có thể nói môi trường như tập viện thật là éo le. Hẳn rằng trong cuộc sống hoàn toàn chìm lặng, hoàn toàn tập trung vào cung nội như thế chẳng có chuyện gì phi thường xảy ra: Khi người ta đuổi theo yếu tính, thì những lớp vỏ nhất định mất tầm quan trọng. Đúng là ở đây anh hùng tính phải bảo trì bằng đơn điệu, bằng thành tín thường ngày, và giá trị hành động không ở mức độ phát quang, mà ở đậm đặc yêu thương. Khung cảnh nghèo nàn đòi hỏi nhiều ý chí này giải thích phần nào sự nhạy bén và tinh tế trong quan điểm của Têrêsa về những khuynh hướng của mình và những nhận xét về chị em. Biết thế, mới thấy những gương mẫu Người làm có sức mạnh, dầu coi như vô nghĩa, và cũng chính nhờ biết thế ta dễ hiểu trực giác Người phong phú và Người thấu suốt lòng chị em. Hơn nữa, kinh nghiệm và giáo huấn Người căn cứ trên những thực tế thường ngày, những chuyện tầm phào, nên có thể chuyển sang mọi môi trường xã hội và tâm lý: thành quả của Một Tâm Hồn thu lượm được trên khắp thế giới chứng minh hùng hồn điều đó. Đúng là Têrêsa có thiên tài, không những để trực cảm những quy luật thâm sâu nhất của bản thể con người, mà còn để khám phá ra một phương thế tuyệt vời đơn giản hướng chúng về Thiên Chúa. Tìm ra và đi theo “Lối Nhỏ”, thánh nữ chưa cho là đủ. Người còn lôi cuốn những người khác và làm họ say mê bầu khí Người đã tạo thành quanh mình. Chính Têrêsa cũng nhìn nhận rằng: mình được Thiên Chúa tặng khả năng kỳ diệu để giáo dục tâm linh. Tâm sự với Mẹ Marie de Gonzague, nhắc việc Mẹ đã uỷ thác cho Người sứ mạng đào tạo chị em, dù Người còn quá trẻ. Thánh nữ viết: “Thưa Mẹ, hẳn Mẹ nhớ rằng Chúa ban khôn ngoan cho những người nhỏ bé... Có ngày Mẹ đã không sợ bảo con rằng: Chúa Nhân Lành soi sáng hồn con, rằng Chúa ban cho con cả kinh nghiệm của những bậc cao niên!” Về cách Têrêsa hiểu và thi hành nhiệm vụ của Người, chúng ta có thể hỏi chính Người, qua những chứng từ Người để lại cho chúng ta. Những bản Tự thuật (trước đây thường gọi là Truyện Một Tâm Hồn) thường hà tiện trong những truyện chúng ta muốn tìm kiếm này. Khi đời nghiêng bóng, theo lệnh Mẹ Marie de Gonzague, Têrêsa viết những trang sẽ làm nên bảo thảo cuối cùng của Người. Người đã hỏi Mẹ Agnès: “Mẹ muốn con viết về chuyện gì?”. Người chị cả đáp: “Về Đức Ái, về các tập sinh”. Têrêsa vâng lời. Nhưng trong thực tế, Người đã viết về Đức Ái và cuộc sống tín thác rất nhiều, hơn về các tập sinh. Những mẩu giấy và những thư Người viết cho tập sinh, cũng như những ký ức mà Soeur Geneviève kể, tuyệt quý để hiểu Chị trong hành động. Cả thư luân lưu, Mẹ Angès thảo ra sau khi chị Marie de la Trinité qua đời, năm 1944, cũng cho nhiều chi tiết thích thú. Chúng ta cũng có thể tìm tài liệu trong cuốn Tổng hợp về vụ án phong thánh và trong các bản thảo do Cha Francois de Sainte-Marie xuất bản. Không biết cảm ơn sao cho đủ việc Dòng Kín Lisieux đã cho chúng ta sử dụng các văn bản trên.
I. GIÁO THUYẾT SỐNG
Vậy là thánh Têrêsa tiếp xúc trực tiếp với những người mà Chị có nhiệm vụ đào tạo cuộc sống tu và tinh thần Cát Minh. Không chỉ soi sáng trí óc, nhưng còn khích lệ ý chí; giáo thuyết không thủ, phải truyền thông cả cuộc sống: công cuộc kiên trì, để thời gian cộng tác với Thiên Chúa, để mỗi chi tiết giữ được độ quan trọng của nó, vì mỗi giây phút đều có thể trao tặng hoặc trao nộp Tình Yêu. Chúng ta sẽ thấy, Têrêsa mang lại cho các bạn đường của Chị chính Đức Kitô, nhưng là Đức Kitô thấu suốt con người Chị. Bốn năm sẽ đủ để dẫn chị lên tới đỉnh, bốn năm sống trong quyết tâm tiến tới không ngơi, và các tập sinh của Chị thấy Chị chết vì yêu thương mãnh liệt. Với những phụ nữ này, hẳn chưa kinh nghiệm, nhưng khát khao tuyệt đối, họ nhận thấy chiều sâu thực sự và tình yêu Thiên Chúa nơi người Chị của họ, nhất khi họ là những người tiếp xúc với Chị thường xuyên và thân mật hơn với nữ tu nào hết. Sự triển nở của Thánh Nữ, không do màu sắc nhiệm nhặt bên ngoài, nhưng biểu lộ bằng đơn giản tinh tế, chinh phục họ. Họ muốn noi theo Têrêsa và Người khiêm tốn nhận làm một lý tưởng của họ. Thường khi Chị Giáo Trẻ này còn gợi lên ước muốn này: Người trả lời cho một tập sinh quá ham thích những ân huệ cảm nghiệm được: “Xin được những an ủi!... Vì em muốn giống Chị, nên em phải biết rằng Chị, Chị chỉ nói: Vâng, xin Chúa đừng sợ con đánh thức. Con an tâm chờ tới bến thiên đường!” Một trong các tập sinh của Chị làm chứng: “Em nghĩ Chị có sẵn những điều cần để hướng dẫn chúng em và giúp chúng em nên thánh, người ta thấy Chị làm tất cả những gì Chị chỉ cho chúng em, sự kiện đó cũng giục chúng em noi gương Chị”. Rõ ràng Têrêsa không cần gắng tìm chuyện lạ, đối với những nữ tu này, Chị chỉ cần đơn giản hiệp nhất với Chúa là đủ thành gương mẫu sống động. Hơn nữa, Chị còn trẻ, nhưng sự thánh thiện cho Chị “kinh nghiệm nhiều năm”. Nhờ tác động của Thánh Linh, Têrêsa đã mau chóng trưởng thành trí tuệ và tâm linh; và sức sống mãnh liệt nội tâm, thinh lặng và cô tịch của Người đã cho Người kiến thức sâu thẳm về những đường lối Chúa trong các tâm hồn. Ta thấy Người đã được phú bẩm một nhân cách vững chắc, hài hoà, mà những khả năng tự nhiên được tăng tấp và tinh luyện tuyệt vời nhờ hành động thần linh. Chị em tập sinh nhận rõ rằng, nhờ gần Chúa, người Chị của họ cũng rất gần họ. Họ hồn nhiên tới hưởng kinh nghiệm của Chị; họ sẽ hỏi Chị bí quyết của tính năng động và vững vàng lạ lùng của Chị. Têrêsa dễ dàng đáp ứng nhu cầu của họ; có vấn nạn nào mà Chị đã chẳng tự đặt cho mình và đã không có giải đáp. Những chiến đấu, những dụ dỗ, tất cả “những cảm giác buồn phiền tự nhiên này”, ... mà các tập sinh cảm thấy, Têrêsa đã biết chúng trước họ và đã thắng lướt chúng nhờ ân sủng. Nói vài lời, Người đủ hiểu và còn đoán được nữa; Người giải thích và giải quyết. Người đã viết cho một em tập: “Chị đã hiểu rõ tất cả, hãy biết rằng Chị không cần em trình bày dài”. Đối với các tập sinh, Têrêsa không chỉ là một hướng viên kinh nghiệm; Chị còn mang cho họ một giáo thuyết sống động, cá biệt và sâu sắc, là kết quả của cầu nguyện và hiệp nhất với Chúa. Các em Chị cảm thấy an tâm về lời dạy của Chị. Điều này không phải không quan trọng, vì những người trẻ này cần nhận được bồi dưỡng có phẩm chất cũng như hướng dẫn kinh nghiệm và chắc chắn. Đã có một em trong nhóm họ hỏi Người: “Thế ai dạy Chị Lối Nhỏ Tình Yêu giúp tâm hồn triển nở như thế?” - Chỉ mình Giêsu. Không sách nào, không nhà toán học nào dạy Chị lối đó, tuy thế, Chị cảm thấy tận đáy lòng rằng Chị đang ở trong Sự Thật. Cô bé thêm: - Em tin đến nỗi Đức Giáo Hoàng có bảo em rằng Chị lầm, em không tin Ngài!... Têrêsa la lên: “Ồ, trước hết, phải tin Đức Giáo Hoàng. Nhưng em đừng sợ, vì nếu khi về trời, Chị biết rằng đã hướng dẫn em sai lầm, Chị sẽ hiện ra ngay để bảo các em theo đường lối khác. Nhưng nếu Chị không về, em hãy tin những lời Chị nói đúng thật”. Vậy những đặc điểm chính trong giáo huấn của Chị Giáo Trẻ này là gì? Trước hết, Chị trung thành với tinh thần Dòng. Chính trong tinh thần này và nhờ tinh thần này mà Chị đã sống qua những năm đau khổ và tìm kiếm. Mẹ Agnès làm chứng rằng từ ngày Têrêsa nhập Dòng, Cô Bé thỉnh sinh đã miệt mài học những tác phẩm của Mẹ Têrêsa và thánh Gioan Thánh Giá. Người ta không thể xác minh được Chị đã đọc từng cuốn, trong tất cả các tác phẩm của đan sĩ Cát Minh Avila, tuy thế, Người thường trích dẫn nguyên văn. Ảnh hưởng của thánh Gioan Thánh Giá còn rõ rệt hơn. Khoảng năm 1890-1891 Người gần như chỉ thưởng thức tác phẩm vị thánh này. Nhưng Thánh Kinh, mà ở Cát Minh, người ta phải suy niệm đêm ngày Thánh Kinh là Nguồn chính của Lối Nhỏ. Ngay từ thời nhập tu, Têrêsa đã xúc động sâu xa khi Chị đọc hoặc nghe Lời Chúa. Sẽ tới ngày, Thánh Kinh là đủ cho Chị. Khi đau đớn, nghi ngờ hoặc mong ước, chỉ cần nhìn, hoặc mở sách Isaia, Khôn Ngoan, thánh thư Phaolô hoặc sách Tin Mừng; những sách này liền cho Chị hình ảnh sống động mà Chị đang tìm kiếm, và nhiều khi, còn nói lên chính tư tưởng Chị. Như tái diễn hoài cuộc gặp gỡ tâm linh giữa Têrêsa và Mạc khải. Chị hoàn toàn rung động trong hoà âm với Lời Chúa. Theo truyền thống tinh thần Cát Minh, thì giáo huấn của Têrêsa cũng phải hoàn toàn theo Phúc Âm. Thoát khỏi những quan niệm phàm nhân, những khuôn mẫu quá riêng tư, tinh thần Cát Minh diễn tả vừa trung thành, vừa hết sức thanh thoát theo con đường mà chính Đức Kitô đã mở ra cho các tâm hồn. Chính điểm đó cho giáo huấn của Têrêsa giá trị phổ cập, mà Giáo Hội đã nhìn nhận, và cho giáo huấn này thật cởi mở. Đúng là Lối Nhỏ không tự giới thiệu một phương pháp nghiêm ngặt và đồng nhất cho mọi người. Lối Nhỏ thích ứng với từng người và yêu cầu mỗi người tham dự. Các tập sinh của Têrêsa đã không cảm thấy bị gò ép, hoặc nhân tạo. Để hướng dẫn, an ủi, huấn luyện họ, Chị Giáo của họ chỉ khơi nguồn từ Tân Ước, Thánh vịnh, Ngôn Sứ, Diệu Ca. Có tiến trình nào giúp họ dễ chịu hơn và cho họ an tâm hơn? Têrêsa cũng không dùng quyền bắt họ theo học thuyết của Người, Người biết - phương pháp hữu hiệu hơn - làm cho các tập sinh yêu thương và muốn theo Người. Khuyến khích theo lối đi của mình, Người không muốn thâu hẹp tự do của họ; Người chỉ muốn đặt họ dưới sự hướng dẫn đặc biệt của Thánh Thần, và dẫn họ tới nơi Chúa muốn.
II. BẦU KHÍ TẬP VIỆN
Hướng về Chúa và được Chúa nuôi dưỡng, Têrêsa tạo cho tập viện bầu khí thoáng đãng, mạnh mẽ và vui tươi. Trước hết, Người đặt nhân sự vào bầu khí tin tưởng nhau, cho các tập sinh có thể nương tựa Người. “Người hoàn toàn thân mật nói với các tập sinh về những gì họ đang quan tâm”. Người chủ trương đều có thể hoàn toàn cởi mở: “Mẹ rất thương mến, Mẹ biết rằng các tập sinh của chúng con được phép tất cả, họ phải có thể nói lên điều họ nghĩ, tốt cũng như xấu, không hạn chế.... Với lòng đơn sơ làm con ưa thích, các em nói với con cả những phấn đấu mà con gây cho các em, cả điều các em không ưa nơi con, sau hết, các em không phiền hà nếu đó là chuyện người khác, vì biết các em làm thế con rất vui...”. Thái độ đó không chỉ làm vui lòng khiêm tốn Têrêsa, còn làm dịu lòng các tập sinh, giải thoát họ, cho họ thấy rõ bản thân hơn nhờ việc họ nói lên được cảm nghĩ của mình. Têrêsa nhận xét đúng khi muốn cho các em có thể nói hết, cả những dụ dỗ các em cảm thấy chống đối Chị Giáo. Cởi mở hoàn toàn là biểu hiệu tin tưởng hoàn toàn, điều kiện cần thiết để hướng dẫn thành công. Nhưng Chị Giáo cũng phải khiêm tốn đơn giản biết bao! Mặc khác, khi nghĩ là cần, Têrêsa không ngần ngại chia sẻ cho các em tập sinh chính những chiến đấu của Chị. Khi cần, Têrêsa có những tế nhị để gợi tâm sự: “Khi em đến Chị hướng dẫn mà em có điều mắc mứu, Chị đã dẫn em tới trước tượng phép lạ đã mỉm cười trong tuổi thơ của Chị, và Chị bảo em: Em sắp nói điều mắc mứu đó, không phải với Chị, mà với Mẹ Đồng Trinh. “Em tự bào chữa và bộc bạch và Chị nghe em tâm sự. Tiếp theo, Chị cho em hôn bàn tay Mẹ Maria, cho em ít lời khuyên, và bình an tái sinh trong tâm hồn em”. Một tập sinh khác xác định: “Chị rất kín đáo. Em có thể bộc lộ tất cả với Chị, cả những tư tưởng thầm kín nhất. Em chẳng có gì phải sợ. Chưa bao giờ Chị nhắc lại một lời, ngay cả khi nói chuyện với ba người chị”. Dầu sao, nói hết thì chưa đủ. Làm sao tin tưởng nếu ta không trông được gì ở người khác? Vì Têrêsa chỉ muốn Thiên Chúa, cho mình cũng như cho các em, nên họ cảm thấy họ có thể tin tưởng ở Chị Giáo hơn ở chính mình trong việc tìm Thiên Chúa. Còn Têrêsa, Chị tâm sự với các tập sinh, vì Chị tin ở hành động quyền năng của Đức Kitô trong trái tim họ. Nhận thức kỳ diệu Chị có là nhờ ơn thánh hoạt động trong Chị cho Chị đoán được họ có nhu cầu tuyệt đối về Chúa và những khả năng lạ lùng họ có thể có nhờ Chúa trợ giúp. Trong năm tập, một trong các tập sinh đã cảm thấy bao nhiêu khó khăn đến thất vọng. Rồi một ngày, Têrêsa hỏi em: - Dầu sao, em tin tưởng thành công chớ? - Vâng, em rất xác tín rằng Chúa Nhân Hiền sẽ cho em ân huệ ấy, không gì làm em nghi ngờ được. Chị Giáo quả quyết lập lại: “Hãy giữ lòng tin tưởng. Chúa Nhân Hiền không thể không đáp lời, vì Ngài luôn đo ân huệ bằng mức độ tư tưởng của ta. Nhưng, thú thực với em là nếu Chị đã thấy em yếu tin, hẳn Chị cũng đã nghi ngờ, không hy vọng gì về phía con người nữa”. Tập sinh này tuyên khấn, rất tin tưởng em được ân lộc này nhờ Chị Giáo, ngày đó, Chị cũng tỏ ra sung sướng như em! Thực sự được hướng dẫn siêu nhiên như Têrêsa thì lượng giá ơn gọi tập sinh theo mức độ tin ở Thiên Chúa, không ở chuyện nhất định thành công. Bầu khí trong đó Têrêsa cho các em tập sinh sống không chỉ là tin tưởng hoàn toàn, mà còn quả cảm. Chị rất đòi hỏi. Kín tiếng, nhưng Chị không chịu đồng loã, chập chững, những thứ giữ lại mức tầm thường. Quả đủ rồi, những tinh thần coi đời tu như một che đậy, một ẩn núp cho tính yếu đuối. Têrêsa, nhìn trọn cuộc sống tu, biết trả giá và biết cuộc chiến này đòi những tâm tính quân bình, những tâm hồn khổ luyện. Người dạy các tập sinh đừng tính toán gì, bỏ đi tất cả những gì không phải là Thiên Chúa, và luôn luôn quên bản thân. Chị Geneviève kể: “Người không thể chịu để người ta coi những đau khổ nhỏ nhoi là quan trọng!” Người bảo một chị bạn: “Chị muốn thấy em luôn luôn như một chiến binh hùng dũng, không than nặng nhọc ở mình, luôn thấy vết thương đồng đội là nặng, và coi vết thương mình như trang điểm”. “Lối Nhỏ” không khuyến khích trò trẻ con. Têrêsa thường nhắc rằng các tập sinh là những thiếu-sinh-quân, những thiếu nhi tông đồ, thừa sai và tử vì đạo, do đó, họ phải kiêng những an ủi quá con nít biết chiến đấu trong thao trường, và đừng đổ cho những nguyên nhân vật lý trách nhiệm những lỗi lầm của mình. Lối Nhỏ là lối cho trẻ nhỏ, không phải cho những kẻ tắc trách hoặc ươn lười. Têrêsa giải thích: “Ở đây, phải thực hành những đức tính nhỏ bé; nhiều khi cũng khó, nhưng Chúa Nhân Hiền không bao giờ từ chối ban ơn can đảm để tự thắng. Nếu đáp ứng, tâm hồn liền thấy ở trong ánh sáng. Em luôn quan tâm tới lời ca ngợi bà Judith: “Bà đã hành động với gan dạ nam nhi, nên lòng bà phấn chất!” Trước hết, phải hành động can đảm; rồi trái tim mới phấn chất và chúng ta giành từ chiến thắng này qua chiến thắng khác. Phấn khởi và hùng dũng, như Jeanne d’Arc mà Người thật yêu mến, không bao giờ thử thách hoặc đau khổ có thể đè bẹp được hứng khởi dễ truyền thông của Người. Chúng ta hẳn không thể nhận ra đặc trưng của tập viện này, nếu không lưu ý tới niềm vui tràn ngập nơi đây. Têrêsa không buồn; từ ấu thơ, Người đã khoái tập viết lời này: “Un saint triste est un triste saint = thánh buồn sầu là thánh sầu héo”. Người quý yêu thánh Théophane Venard hơn thánh Louis Gonzague, vì thánh này “nghiêm nghị, cả trong giờ giải trí”, còn vị kia thì “luôn vui vẻ”. Chính Người cũng rất vui trong giờ giải trí. Câu truyện của Người nhẹ nhàng, tâm linh, đôi khi dí dỏm, làm tươi trẻ những lúc sinh hoạt cộng đoàn. Kỳ bệnh cuối cùng, Người tỏ ra vui liên tục, gắng giải trí các Chị vì nỗi buồn em sắp mất. Niềm vui từ Người lan toả, Người muốn có nơi chị em; trên gương mặt, trong ngôn từ, nhất trong tim; Người nhắc cho họ nhớ rằng “thật vô lý khi kéo lê gánh nặng đời tu, mà mình đã công khai tuyên bố ngày khấn hứa rằng mình hoàn toàn chân thành tự nguyện ôm ấp Luật Dòng”. Tư tưởng, hùng dũng, vui tươi: ba tâm trạng này Têrêsa cho rằng phải có trong việc đào tạo. Ba yếu tố tâm lý này như rất ít quan hệ với nhau, đã rõ ràng bổ túc nhau. Cả ba cùng nhau tạo nên bầu khí duy nhất là cởi mở. Trái tim tin tưởng mở ra và tự hiến cho ảnh hưởng của tha nhân. Trái tim hùng dũng, thay vì co quắp lại, biết tự quên và vươn vào tình yêu. Còn niềm vui, vui tươi vừa là biểu hiệu vừa là đường lối thanh thoát. Niềm vui toát ra từ con người đang lúc không nghĩ tới mình; đó là kho báu của trái tim được tình yêu hoàn toàn chinh phục. Tập việc của Têrêsa không phải xã hội đóng kính, giáo thuyết Người cũng không quấn vào mấy trục cứng ngắc. Têrêsa tự nhiên đặt các tập sinh của Chị vào trong những điều kiện tâm lý cần thiết để các em có thể làm tròn được nghĩa vụ: không lẩn quẩn với những vấn đề cá nhân, không chỉ sống cho mình, nhưng tới sống trong một Người khác, bằng sức sống của chính Ngài.
III. TÊRÊSA LÀM VIỆC Ở TẬP VIỆN
Trong cả tác phẩm của Chị Têrêsa, ta chẳng kiếm đâu thấy “phương pháp” hướng dẫn tập viện. Vì Mẹ Agnès yêu, Người nói về nhiệm vụ của mình, chị chỉ diễn tả ý hướng của mình là phụng sự một mình Chúa và bí quyết của Chị là hành động nhờ Chúa thôi. Tiếp theo Chị viết, không thứ tự, về những nhận xét tâm lý và tinh thần, rất giá trị, nhưng không có hệ thống. Têrêsa không tự nhốt vào phương pháp đúng nghĩa của từ này. Phương pháp của Chị là Yêu. Với trực giác tâm linh và nhận thức tận chi tiết, Chị sớm cảm nhận rằng không thể dùng tiêu chuẩn hoá khi chúng ta nói với những cá nhân. Không có lượng giá nào đúng được cho mọi người. Hơn thế, Chị còn ghi chú, như điều kiện tiên quyết để thành công, là từ bỏ hệ thống, mà nhận dị biệt, mềm mỏng trong những phương pháp đào tạo. Người viết: “Con cảm thấy phải tuyệt đối quên đi những hứng thú của mình, những quan niệm riêng tư, để hướng dẫn các tâm hồn theo đường lối Chúa Giêsu vạch cho họ, không gắng bắt họ theo lối riêng của mình... “Thưa Mẹ, con đã thưa Mẹ rằng khi đào tạo người khác, con đã học được nhiều. Trước hết con đã thấy rằng tất cả các tâm hồn đều có những đấu tranh gần như nhau; nhưng mặt khác, họ lại rất khác nhau, nên con đã hiểu được ngay lời cha Pichon: ‘Giữa các tâm hồn còn khác biệt nhiều hơn là những n ét mặt. Do đó không thể hành động cùng một kiểu với tất cả mọi người’”. Tuy không được trang bị tâm lý học hiện đại, Têrêsa đã hiểu biết sâu xa về sự khác biệt tính khí và thói quen, về sự cần thiết phải thích ứng với mỗi người, phải thực sự trở nên “tất cả cho mọi người”. Chị cũng thấy rõ rằng Thiên Chúa tự hiến cho mỗi người theo những cách thích hợp. Suy nghĩ về những bông hoa khác nhau mà Chúa vun trồng trong vườn của Người, Chị đã tìm ra lý do thâm sâu của sự khác biệt này. Chị đã hiểu rằng những khác biệt của họ rồi cũng làm hài lòng Chúa, bởi chúng cùng nhau tạo thành vẻ đẹp và dễ thương. Một khi trở thành người làm vườn tâm hồn, Chị không loại trừ khác biệt, không pha trộn hoa đồng hoang với những bông trong vườn. Chị không muốn săn sóc chúng, cắt tỉa chúng và ngắt chúng cùng một cách. Chị làm cách nào? Theo Thánh Thần, chỉ thao Thánh Thần thôi. Chính vì thế Chị gần như luôn luôn linh hoạt và tự phát. Têrêsa bất chợt. Chị được sáng tạo như chính Chúa sáng tạo. Chị tìm những sáng kiến dễ thương của một chị ưa tủi buồn vv... Chị không ưa đóng khung, tính toán, thực tập. Chị chỉ dùng đến vì bác ái, nên đã không ngại thú nhận với Céline: “Em còn bị bắt buộc dùng một xâu chuỗi để thực tập. Em chỉ làm thế vì bác ái đối với một chị bạn. Em bị rớt vào một cái lưới chẳng thích thú gì...”. Nhưng không cò gì là ngẫu hứng trong thái độ của Têrêsa. Không dùng những phương pháp cố định, không phải là thiếu phương pháp. Chính việc bỏ qua phương pháp cho Chị có kinh nghiệm. Têrêsa thường có những chỉ dẫn rõ ràng trong khi Chị huấn luyện, như chúng ta sẽ thấy sau. Chị quan tâm thích ứng với từng em tập sinh, trước hết vì Chị thấy mỗi người là một nhân vật không thể thay thế, một đối tượng yêu thương đặc biệt của Chúa Giêsu. Khi hướng dẫn tập viện, Têrêsa không chú trọng tới vẻ bề ngoài. Đối tượng chính của Chị là đáy sâu con người, nơi mà Thiên Chúa hoạt động. Không gì phù phiếm bắt Chị ngưng lại được. Chỉ chỉ sửa dáng bên ngoài vì ảnh hưởng đến nội tâm và Chị đi thẳng đến điều cốt yếu. Ngày nay Têrêsa đã được tuyên thánh và tiến sĩ tâm linh thì vai trò cố vấn mà Chị đã đảm nhận khi còn sống và trong những hoàn cảnh khó khăn của đan viện (ít có sự giúp đỡ từ bên ngoài), điều đó không làm ta kinh ngạc. Tuỳ mức độ mà một tập sinh cởi mở với Người, Chị Giáo đều có thể mang lại cho em ân lộc và kinh nghiệm, và hướng dẫn em một cách có hiệu quả để tăng triển đời sống nội tâm và bằng ngàn cách mà Chị đã biết khi tiếp xúc với những thực tế hằng ngày. Tuy thế, xin thêm rằng vẫn còn chỗ cho người khác kiểm tra (linh hướng, cha giảng phòng vv...) mà em tập sinh luôn luôn có quyền tới hỏi cũng như Chị Giáo phải năng bàn hỏi. Đúng là mọi người phải được tự do và không ai được phép ép lòng người khác phải bộc lộ với mình những tâm sự đau đớn. Cũng đúng rằng một Chị Giáo Tập lý tưởng phải đồng thời là người mẹ và người chị mà người ta có thể tin tưởng và vui mừng theo sự hướng dẫn, vì người ta cảm thấy những hướng dẫn này đều do tình yêu sáng suốt nhất: không thể nhốt bác ái ở trong đáy lòng được. Đức Giêsu đã nói: “Không ai thắp đèn để úp trong thùng, nhưng là đặt trên giá để soi chiếu mọi người trong nhà”. Vậy Têrêsa, vì hết sức ngoan ngoãn với Thánh Thần, đã có được một nhận thức tuyệt vời về con người và đời sống tâm linh. Chỉ thoáng nhìn là đủ gạt bỏ được những hiện tượng phức tạp và tối tăm trôi nổi ở đáy lòng người. Vì những chỉ dẫn của Chị sáng suốt và những lời khuyên của Chị thích hợp nên người ta có thể nói: Chị đọc được lòng người như một cuốn sách mở. Các tập sinh thường hỏi Chị: “Chị thường trả lời được hết mọi chuyện, em chắc lần này làm rối được Chị... Chị tìm ở đâu được những điều mà Chị dạy chúng em?” Một trong các em gắng giấu Têrêsa những cảm tình của mình. Chị thấy dễ dàng, Chị nói: “Nhân đức tự nhiên rạng ngời (với Têrêsa thì đúng thế, vì Chị nhìn bằng cặp mắt đã được thanh tẩy) vì thế khi không có nhân đức là em thấy liền”. “Họ còn chân thành tin rằng em đọc thấu tâm hồn họ, vì có khi em nói ra điều họ ôm ấp trước khi bộc lộ”. Chị Giáo trẻ mỉm cười, nhưng Chị từng thú nhận chính Chị cũng “ngạc nhiên vì thấy rõ tâm hồn họ”. Do đâu Chị có cái nhìn sáng tỏ lạ lùng ấy? Hiển nhiên không do uyên bác nhân bản: sức khoẻ Chị mong manh, vào đan viện chưa tròn mười lăm tuổi, nên chưa học xong Trung học. Cũng không vì giao tiếp nhiều với ác vị giàu kinh nghiệm mà được quán triệt: Têrêsa đã giao tiếp ở đời thật ít, nên chưa được học hỏi như thế. Chị tiếp thu kinh nghiệm vì nghiền ngẫm những tác phẩm tu đức? Hiển nhiên, Têrêsa không ngu dốt gì trong lãnh vực này. Cuộc sống tâm linh Chị dựa trên kiến thức chắc chắn của giáo lý Kitô ngay từ nhỏ. Chúng ta đã biết Chị cũng giao tiếp với những tác giả tu đức. Nhưng Chị vận dụng sao mà dễ dàng thê! Chỉ cần đọc những thư, những trang viết của Chị, chỉ cần quan sát Chị tiếp xúc các em... đủ thấy Chị không là con mọt sách và Chị ít thích giáo huấn trừu tượng của các bậc thầy. Hiển nhiên giáo huấn này không phải nguồn quan trọng và chính yếu nhất của Chị về những nẻo đường Thiên Chúa. Vậy là Chị được đặc ân thông hiểu? Cũng không. Chính Chị đã tự bộc bạch: “Em chắc chắn đã không có ân huệ đọc thấu tâm hồn”. Trực giác này chỉ là kết quả bình thường của các ân huệ Thánh Linh mà Chị đã lãnh nhận và trân trọng giữ gìn . Têrêsa càng tin ở những ấn tượng thần linh, ở “thang máy” của Tình Yêu, cảm quan Chị càng bén nhạy, cái nhìn Chị càng thấu vào những gì liên hệ tới cuộc sống ân thánh. Chị có nhìn nhận rằng “khi huấn luyện người khác, mình học biết nhiều” nhưng Chị vẫn xác minh rằng “nhất định chỉ Thiên Chúa mới biết tận đáy lòng người ta”. Tuy nhiên, Chị luôn luôn cầu Chúa nuôi dưỡng các con của Ngài, và hiệp nhất với Ngài, Chị được thoả mãn nhu cầu tham dự vào sự hiểu biết thâm trầm của Ngài về tất cả các thụ tạo của Ngài. “Một tối, có một em nhất định giấu tôi chuyện làm em đau khổ nhiều rồi. Tảng dáng, tôi gặp em, em líu lo với tôi mà diện mạo tươi rói. Tôi, tôi không đáp chuyện em, tôi rành mạch bảo em: ‘Em đang buồn’. Giá tôi khiến mặt trăng rớt liền dưới chân em, hẳn em cũng không nhìn tôi kinh ngạc hơn. Em kinh ngạc tới độ lây sang tôi. Trong chốc lát, nỗi kinh sợ siêu nhiên túm lấy tôi. Tôi chắc chắn rằng tôi không có ân huệ đọc thấu tâm hồn, nên tói quá ngạc nhiên vì đã bắt trúng em. Tôi thấy Chúa thật gần, nên không hiểu ra sao, tôi như một đứa nhỏ đã nói những lời chẳng do tôi, mà do Ngài”. Chị tiết lộ cho mấy em luyện tu đang ngạc nhiên vì thấy Chị đoán đúng tim đen: “Bí quyết của Chị là không bao giờ nhận xét các em mà không cầu xin Đức Mẹ; Chị xin Mẹ mách bảo Chị làm điều gì lợi nhất cho các em, nên chính Chị, Chị cũng thường ngạc nhiên về những điều Chị dạy các em. Nó với các em, Chị chỉ thấy mình không lầm, vì chính Giêsu nói bằng miệng Chị!” Thế là sự hiệp nhất với Thiên Chúa đã cho sư phạm của Têrêsa hiệu năng sư phạm. Hướng dẫn từng chi tiết, không khẳng định, mà làm bung hết các khung quen thuộc. Hơn bất cứ sự tinh tế nào khác, những câu Chị trả lời, những cách Chị hành động và đối phó, thật đáng phân tích từng chi tiết. Chúng ta sẽ chỉ coi lại một số nét thật rõ rệt và đặc biệt quan trọng. Sư phạm Têrêsa vừa vững chắc, vừa uyển chuyển. Không nên tách rời hai tính chất này, vì vững chắc mà không cứng ngắc, uyển chuyển mà không ấm ớ, không mơ hồ. Trước hết, Têrêsa biết mục Tiêu Người tiến tới, mà Người còn biết phải hành động thế nào với từng người để tới được. Chỉ dẫn các em luyện tu tới phỏng vấn, lắng nghe và thực tập theo Thánh Linh. Thế là rõ: Người không hề có ý đề nghị với các em một thứ “trọn lành” tưởng tượng, trá hình của tự tôn và tư ái. Chị không cho các em hướng về lý tưởng mà họ có thể nhào luyện nên, nhưng Chị mời gọi họ từng bước đáp lời Thánh Thần gọi từng người. Chị muốn dạy họ nhận ra ý Chúa trong từng phút hiện tại, để ngoan ngoãn vâng nghe. Chị hướng dẫn thật cụ thể, thực tế và minh bạch. Chị ưa chuộng tự khước từ hơn những tư tưởng phản động; Chị coi khinh những hy sinh to lớn do bản năng do nhân đức đề nghị. Khi chị Geneviève tiếc nuối: “Ôi, còn biết bao điều em phải tập cho được!” thì Têrêsa chỉnh ngay: “Nói ‘phải BỎ ĐI’ thì đúng hơn...” Chị dạy phải coi BỎ ĐI hơn là CHIẾM ĐƯỢC, coi đi xuống tận đáy thung lũng khiêm nhu để tập những đức tính nhỏ bé hơn là gắng lên đỉnh huy hoàng của toàn thiện. Chị không chấp nhận cá biệt, hoặc trau chuốt, hoặc hàm hồ. Đơn giản và chân thực là tâm tính Chị muốn cho tất cả các em có tận đáy lòng, tuy mỗi người mỗi cách. Những khó khăn và những khuynh hướng là tuỳ theo tính khí, nên Têrêsa không đòi mỗi em luyện tu phải cố gắng hoặc tiến bộ như những em khác. Trong mọi trường hợp, Chị vào tận đáy, tận thực trạng, Chị vạch cho thấy những yếu đuối là do bản năng quá dễ dàng quên đi hoặc làm lơ điều cần thiết duy nhất, là ỷ vào sức lực riêng mình, là phức tạo hoá cuộc sống tâm linh. Rồi Chị mới cho bài thuốc trực trị lỗi lầm hoặc lệch lạc, hoặc khổ sở. Không ngần ngại, Chị đụng ngay tới chỗ cần lưu ý và cố gắng. Một em tập sinh tới thưa chị: “Em nản vì không noi theo được Chị trong tình yêu Chúa thật thiết tha”. Chị nhận ran gay, không phải cái vẻ thiện chí là một người quan sát hời hợt có thể bị lầm, nhưng một ganh tị trá hình tinh vi. Chị liền đáp: “Mỗi lần em cảm thấy bị dụ dỗ như thế, em nên cầu Chúa rằng: ‘Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì con đã không có một tình cảm tinh vi, nên coi vui vì thấy có nơi những người khác’”. Rồi Chị khích lệ thêm: “Như thế Chúa suyễn hài lòng hơn là em chẳng bao giờ đáng trách”. Chị Marthe de Jésus thú nhận rằng: “Nếu em theo tánh tự nhiên, thì hẳn em thường bỏ việc xin Tôi Tá Chúa hướng dẫn, vì biết thế nào những sai lỗi của mình cũng bị vạch trần... Nhưng sự thánh thiện của Chị lôi kéo em ngay cả khi em không muốn”. Têrêsa tiếp xúc các tâm hồn không những đúng điểm cần, mà còn đúng cách. Để giúp các em biết tự khước từ, biết trở về với Chúa sau những bất trung, biết cương quyết bám lấy ơn Chúa và chỉ bám vào ơn Chúa thôi... Têrêsa thích thời, để trợ giúp hành động của Chúa chớ không để dẫn lối. Thế là Người chỉ nói khi cần nói và chỉ nói những gì cần. Có khi cứng rắn và nghiêm nghị với những người này, khiêm tốn và êm dịu với những người khác, luôn thẳng và thật, đơn giản và có lúc tươi cười, biết không bao giờ phóng đại hoặc giảm khinh. Ngày nọ, một em tập tụ mới bị la rầy, chán nản chạy tới Chị Giáo và buồn bã thưa: “Em không có ơn gọi!” Nghe tuyên bố trịnh trọng đó, Têrêsa đáp bằng... một chuỗi cười. Ai mang bộ mặt cau có, sầu thảm tới, Têrêsa không cho đóng bi kịch, thế là xao xuyến tan bay. Nếu từ chuyện này đi tới lệch lạc, Chị thường đề phòng chán nản bằng cách hỏi: “Thế ra hôm na em hết ơn gọi rồi đấy!”... Cuộc chiến lại lịm đi như hôm qua. Chị giải thích cho em bị cám dỗ: “Em coi người ta dùng phương pháp nào để chà đồ đồng cho sáng. Họ hoà chất cọ xát với bùn đất và bôi lên, làm dơ bẩn, mà chà thật mạnh, thế là các đồ đồng sáng lên như vàng. Đối với tâm hồn, những cám dỗ cũng như thứ bùn chà xát đó, chúng làm ánh lên trong tâm hồn những nhân đức đối ngược với những cám dỗ kia”. Têrêsa luôn luôn “nói thật”, nhưng bằng tình yêu và dịu hiền của Đức Giêsu. “Những quyết định của Chị bao giờ cũng rõ và đúng” nhưng Chị không dùng quyền mà làm hung. Chị giải thích, Chị khuyên nhủ, săn sóc sửa chữa, chứ không bẻ gẫy. Thời gian Chị Têrêsa bệnh nặng, ít khi các tập sinh được tới thăm. Sr Marie de la Trinité, một người rất yêu mến thánh nữ, kể: “Một ngày, không chịu nổi khổ cực và chiến đấu, em chạy đến bệnh xá, và càm ràm với một nữ tu khác. Tôi Tá Chúa nghiêm khắc la em vì thiếu nhân đức và đuổi em ra. Nhưng chiều tối, Chị nhờ chuyển đến em mẩu thư này: “Em chị thương, chị không muốn em buồn. Em biết chị mong tâm hồn em trọn hảo biết bao, nên chị đã đã nghiêm nghị với em. Chị biết cuộc chiến đấu của em và hẳn chị đã nhẹ nhàng an ủi em, nếu em đừng nói lớn và nếu mỗi lần Chúa Nhân Hiền cho em gặp phải, em đều giữ lại trong lòng. Chị chỉ cần nhắc em nhớ từ nay phải giữ kín tình cảm”. Thế đấy, Têrêsa vẫn hết sức thận trọng tận đáy lòng một ánh nhỏ quảng đại loé lên, một mẩu thiện chí, một ý muốn của Thiên Chúa vẫn bám trụ dưới giông bão, tối tăm và sóng gió trên mặt. Nhắc em tập sinh nhớ lòng yêu Chúa Giêsu, Người cũng đánh thức và thường làm bùng lên nhiệt tâm của chính mình. Có ngày một em đến thưa Chị: Mình sợ những bất trung hằng ngày của mình làm mất các ơn Chúa. Người đáp: “Chúa đầy yêu thương và em đầy thiện chí thế này, thì không phải em mất, mà chính Ngài mất tình yêu!” Câu trả lời lạ lùng như thế cho ta thấy chiều sâu tâm hồn và khoa sư phạm của Người. Với vài lời như thế, Người đã xua đuổi nỗi sợ thường gây tê liệt, hơn nữa, còn kích thích tình yêu thuần khiết nhất, vô vị lợi nhất, Người đổi hướng nhìn từ bản thân về chính Thiên Chúa. Chị Geneviève làm chứng: “Chẳng nói ra, nhưng ai cũng ưa được Têrêsa hướng dẫn. Không vuốt ve hoặc kiều dưỡng, người ta đến với Chị vì cần sự thật”. Trong bầu khí cởi mở và yêu thương trong sáng như thế, với một Chị Giáo hướng dẫn không bao giờ cản trở, mà chỉ muốn làm dụng cụ của Chúa, các tập sinh đạt mức triển nở tối đa của mình. Làm sao họ quên được những bài học sống động ấy? Tin tưởng, vui tươi, tự do: Tất cả hiệp lại giúp họ phát triển hài hoà và biệt loại.
Tất cả các thiên tài và các thánh nhân đều theo đuổi không mệt mỏi một phương án lớn, nó cuốn hút và thống nhất cuộc đời họ. Nơi các thiên tài, ý lực này là thành quả của trực giác cá nhân, thì nơi các thánh lại là một linh hứng thần thánh, mà họ trung thành dõi theo, ngày ngày ngẫm nghĩ và đào sâu. Trực giác nền tảng của mình là gì, thánh Têrêsa không úp mở và hành động của Người cũng chứng minh, Têrêsa chỉ có một ước muốn: YÊU GIÊSU VÀ LÀM CHO NGƯỜI ĐƯỢC YÊU MẾN. Người đã viết cho một nữ tu ở Sài Gòn: “Xin Chị cầu Chúa Giêsu để cả tôi, tôi cũng YÊU Ngài và làm cho Ngài được yêu mến”. “Em muốn yêu Ngài, không chỉ yêu bình thường, mà yêu như các thánh, dám làm những chuyện ngông cuồng cho Ngài”. Thánh nữ cũng viết cho người em là Siméon: “Chị chỉ xin em cầu cho tâm hồn chị YÊU GIÊSU và làm hết sức Chị để Ngài được yêu”. Các thư viết trong những năm cuối đời Người lặp lại hoài điệp khúc ấy. Tâm hướng này ngự trị cả đời Người và ưu tiên trong việc Người giúp các em luyện tu. Nhưng để hiểu rõ hơn sự quan trọng của lãnh vực này trong cuộc đời Têrêsa, đã trở thành Chị Giáo Tập, chúng ta phải nghiên cứu - ít là tổng quát - nguồn gốc và cả tiến trình cuộc sống tâm linh của Chị.
I. TRÓT ĐỜI TÊRÊSA CHỈ TÌM KIẾM “MỘT GIÊSU”
Nhận ra thực chất Têrêsa, người ta không thể chỉ nói đến một điểm nào trong đời Người, mà trước hết không nghiệm ra tính cấp bách và vững chắc. Để khi mới hai chục tuổi đời mà có được tầm vóc thuần tuý quy hướng một mình Thiên Chúa trong nhiệm vụ và trong cuộc sống thường ngày như thế, hẳn thánh nữ đã phải kinh nghiệm sâu thẳm về Chúa. Thực ra kinh nghiệm này Người đã nhận từ tuổi thơ, vẫn ngày ngày tăng triển, bao trùm cả phạm vi hiểu biết, chiếm ngự ý chí và trái tim, cho trọn con người Têrêsa sung sướng như chỉ có Thực Tế và Tình Yêu Thiên Chúa làm được. Bẩm sinh giàu năng khiếu. Têrêsa tự nhiên thích cao cả, tốt đẹp, có óc tinh tế, trực cảm sáng suốt này cho chị đi thẳng vào thâm tâm sự vật, không bị ngoại hình mê hoặc,. Đức tin nhận lãnh trong một gia đình Kitô đặc biệt còn giúp thêm sáng suốt tự nhiên. Chúng ta cũng đã thấy, khi bắt đầu dùng trí khôn thật sớm, cô bé nhận Thiên Chúa là tất cả, còn vạn vật phù phiếm. Bé đã trực cảm chắc chắn điều mà các thánh nhân như Augustin phải trải qua lâu năm và gian khổ: Những gì không phải là Thiên Chúa đều qua đi, những gì qua đi đều hư vô, và nếu ham thích hư vô, tất nhiên rồi lòng ta chỉ còn chán nản. Têrêsa rút tỉa kiến thức này từ những chuyện có vẻ không đâu: mứt “chảy nước”, chú cừu nhỏ chết vv... “Vú không biết được con vật nhỏ này chết đã làm con suy nghĩ biết bao. Vâng, ở đời này, đừng bám cứng vật gì, dù là những vật hết sức vô tội, vì lúc bất ngờ nhất thì ta mất chúng. Ta chỉ hài lòng được với những gì vĩnh cửu”. Với người sống sâu, chút gì cũng đủ suy nghĩ. Têrêsa là thế; những truyện tầm thường thành quan trọng cho Người, vì cái nhìn cao cả Cô Bé đặt trên chúng, và lòng Cô rộng lớn khi giao tiếp chúng. Rút kinh nghiệm trong vũ trụ tí hon của mình, đựng những giới hạn đáng buồn của chúng, Bé khao khát những gì hơn nữa. Trong trái tim mồ côi sầu mộng, Thiên Chúa đến hoạt động, biến cảnh trạng con người khổ cực thành nguồn ân huệ: Bé Têrêsa đã vào trường của Chúa, Ngài dạy Bé khoa học các thánh, bằng cách nói thầm trong lòng Bé hoặc bằng những chi tiết ngang tầm tuổi Bé. Nhắc đến tuổi ấu thơ, trong phòng vắng vẻ, Bé đã “suy nghĩ” về chuyện đời mau qua, về vĩnh hằng, Têrêsa khẳng định: “... Bây giờ em hiểu rằng khi đó em cầu nguyện mà không hay. Chính Chúa Nhân Hiền đã dạy em bí quyết ấy”. Muốn yêu Giêsu và bằng mọi giá, làm cho Ngài được yêu mến. Thiên Chúa là Tất Cả, và những gì tạm bợ thì không đáng lưu luyến. Tuy thế, Người đã cảm nghiệm sự mất giá ghê gớm của thụ tạo trước thực tại của Thiên Chúa, lại không dễ thất vọng sao? Thế là người ta đẩy điều chắc chắn này vào vùng trừu tượng, để thực tế sống như không hề biết nó. Sự thật lại không giữa Toàn Hữu cao cả của Thiên Chúa và sự hư vô của con người, có một liên hệ sinh động, một thực tế và một huyền nhiệm sâu thẳm nhất: TÌNH YÊU. Vì Têrêsa đã nhìn nhận tình yêu Thiên Chúa đối với mình, nên trực cảm đầu tiên của Người trở thành xác tín, bất khả kháng. Ngày Hiệp Lễ lần đầu, Têrêsa cảm nghiệm tình yêu nhất: “A! Ngọt ngào biết bao nụ hôn đầu tiên Giêsu đặt trên hồn em!... Đúng là nụ hôn tình, em cảm thấy mình được yêu...”. Từ đó, từ xúc động duy nhất mà Người BIẾT - Thiên Chúa là Tất Cả, vạn vật hư vô - và CẢM NGHIỆM (tình yêu vô biên dành cho chính Người), chỉ còn hướng về một mình Chúa, tự hiến trọn cho Chúa, chỉ yêu Chúa: “Con yêu Ngài, con tự hiến trọn vẹn cho Ngài mãi mãi”. Từ cuộc biến đổi thâm sâu và mau lẹ này phát sinh ơn gọi hẳn vào dòng Cát Minh. Lời gọi đầu tiên Cô Bé nghe khi chưa đầy hai tuổi rưỡi. Nhưng phải là một ngày trong tháng Chín tháng Mười 1882 mới quyết liệt: “Em cảm thấy Cát Minh cũng chính là hoang mạc, nơi Chúa Nhân Hiền muốn em vào ẩn... Em cảm điều đó mãnh liệt đến không còn chút lòng nào nghi ngại...”. Mà thật Cô Bé tin chắc Lời Gọi này đến độ không ngại nói với Chị Cả và chính đan-viện-mẫu. Rất hợp lý. Lòng Cô Bé vẫn tự nhủ “Mình chỉ là của Giêsu thôi” thì hiển nhiên Bé thấy cuộc sống đan tu thích hợp nhất để thực hiện quyết tâm. Có lẽ cũng chẳng cần gì nữa để chuẩn bị gần xa cho Têrêsa một hồn tông đồ, vì chính Đức Giêsu sẽ cho Cô Bé lòng yêu tha nhân, bởi tình yêu nào cũng từ Thiên Chúa. Thực ra, từ ân lộc Giáng Sinh 1886 Thiên Chúa đã mở trái tim này, trái tim trọn thuộc về Ngài, Ngài mở cho tha nhân, nhưng từ ân lộc tháng Bảy 1887, Thiên Chúa mới công khai mở ra và cho nó chiều hướng Cứu Chuộc. Từ ngày thấy Máu Giêsu đổ ra uổng phí, Têrêsa bốc cháy tình yêu các tội nhân; mà chỉ yêu và muốn họ cho Một Mình Giêsu thôi. Người viết: “Càng cho Ngài uống, tâm hồn khổ sở em càng khát, mà chính Ngài cho em cơn khát cháy bỏng này như thức uống tuyệt ngon của tình yêu...”. Có thể ta ít gặp được cảm nghiệm hoặc diễn tả niềm khắc khoải tông đồ trong quan hệ mật thiết với tình yêu duy nhất dành cho Đức Kitô Cứu Thế như vậy. Tình yêu bốc cháy và dữ dội đó còn lôi Têrêsa hơn nữa. Để giải khát cho Người Yêu, Têrêsa muốn cứu thế: “Chưa phải tâm hồn các linh mục lôi kéo con, nhưng là các đại tội nhân, con khao khát cứu họ khỏi thiêu đốt muôn đời... Con muốn bằng mọi giá, giữ (Pranzini) khỏi rớt vào hoả ngục”. Cô Bé đã nghe biết tên sát nhân lừng danh này đang bị giam. Cô Bé nhất định cầu nguyện và hy sinh cho anh ta thống hối. Trong thực tế, trước lúc bị hành hình, Pranzini đã ba lần hôn tượng chuộc tội, việc mà trước đây anh cự tuyệt. Têrêsa bao giờ cũng nhìn anh như “đứa con đầu lòng” của mình. Thế là Cô Bé bắt đầu thích đau khổ, biến đau khổ thành niềm vui. Ta sẽ thấy suốt đời Chị, Chị hiên ngang chấp nhận những gian khổ ùa tới. Chị luôn muốn thập giá. Chị còn chọn thập giá dưới hình thức trăm ngày hy sinh hằng ngày. Tuy mặc những hình thức nào, đau khổ nơi Chị cũng mang một chiều hướng, một giá trị tông đồ. Tới trước khi tắt thở, Chị có thể kêu lên: “Chưa bao giờ em nghĩ mình có thể chịu đau khổ đến thế!... Em chỉ có thể giải thích việc này bằng những mong muốn cứu các linh hồn”. Vậy là Thánh Nữ, Người biết công trình Chúa hoàn thành trong mình, ngay trên giường hấp hối, đã liên kết đau khổ tràn đầy với nhiệm tâm cuốn hút Chị. Thực là chứng tích hùng hồn! Tông đồ nào cũng có thể cùng Têrêsa xác tín rằng: để chỉ tự do quy về Chúa, người ta phải hiến dâng nhiều, đau khổ nhiều. Trung thành với sứ mạng của mình. Têrêsa giải quyết thế này yêu cầu lưỡng viện: Yêu và làm cho người YÊU GIÊSU? Anh dũng trung thành với sứ mạng mình đã nhận, sâu trong tâm trí cũng như trong thư từ. Trung thành như vậy từng phút. Đúng là phải trung thành như thế mới bảo trì và thăng hoa được hồng ân này, hồng ân mà nhiều tâm hồn thiếu tập trung đã bỏ mất hoặc phản bội. Biết mình được gọi vào Cát Minh, Têrêsa sắp sẵn để vào. Người ý thức tròn đầy rằng ơn gọi của mình là ơn gọi thuần chiêm niệm, và nhiệt tâm tông đồ bừng cháy của mình không những không trở ngại, mà còn thực tế kết hợp với cuộc sống đó. Đúng, dù muốn xả thân trong những công việc tông đồ, Têrêsa theo tiếng gọi thần thánh mà chào biệt tất cả, vì Người tin chắc những lời Chúa hứa: Trung thành với Chúa thì ích lợi cho đời hơn là dấn thân vào hoạt động mà Chúa không muốn Người làm. Nhưng Ngài đâu phải khước từ một trong hai tình yêu. Cả hai đã thực sự hiệp nhất trong lòng Chị đến độ Chị có thể nói không cần phân biệt: “Tôi muốn ẩn mình trong nội cấm để toàn hiến cho Chúa” và “Vĩnh biệt đời, mục tiêu duy nhất của tôi là cứu các linh hồn, nhất những hồn tông đồ”. Chúa không lừa dối Têrêsa và không làm mất gì của Chị. Trái lại, chính vì trung thành với tình yêu thứ nhất mà Người khám phá ra những chiều kích của tình yêu thứ hai: “Càng hiệp nhất với Ngài, tôi càng yêu tất cả chị em tôi”. “Khi một tâm hồn để mình bị cuốn hút do những làn hương say đắm của Ngài, nó không chạy theo một mình, tất cả những người nó yêu đều được cuốn theo; không cưỡng bức, không áp lực, tự nhiên nó cuốn hút về Ngài, thế thôi!” Trung thành theo lý tưởng tông đồ do ơn gọi sâu thẳm của mình, Têrêsa cũng quan tâm đến những phương tiện. Phương tiện thứ nhất, to lớn nhất đối với Người là chu toàn bổn phận. Chị muốn rằng mình không bỏ qua một hy sinh nào do việc tuân theo luật dòng, mà sống trọn đời tu với tất cả những đòi hỏi của cuộc sống này. Trong khi sống từng phút yêu thương như thế, những gì Chị làm, Chị cũng chiếu toả trên mọi tâm hồn gần xa. Chúng ta nhớ rằng, khi đã kiệt sức, Chị vẫn còn “đi dạo cho một vị thừa sai”. Ta thấy Chị chấp nhận cơn thanh luyện ghê gớm về đức tin khi nghĩ tới những người dân ngoại và dâng những đau đớn bệnh tật để cầu cho họ. Trọn cuộc sống và hoạt động của Têrêsa như in đậm tâm tình hiến dâng này. Hơn hết, từng giây phút, Chị trở về với phương pháp bất dịch “cầu nguyện”. Cầu nguyện tràn ngập đời Chị. Vậy là Chị vẫn sống trong lẽ sống duy nhất: Chị chỉ muốn tặng Giêsu cho đời, và tặng mọi người cho một mình Giêsu. Chẳng có phương tiện này, lời nói nào, kết hoạch nào của con người có thể đạt mục tiêu đó. Ta không nối kết được Thiên Chúa, không sắp xếp được Ngài. Nhưng Ngài là Tình Yêu, ta có thể yêu để Ngài muốn hiến thân, Ngài chờ đợi và muốn điểm đó. Phương án của Têrêsa là thế: Người dùng những phương tiện tông đồ tuyệt diệu mà cảnh sống dành cho Người, nên vẫn làm việc tuyệt đối theo Ý Chúa. Làm như thế, Người không ngờ mà chuẩn bị cho sứ mạng đào tạo của Người, vì trước khi trở thành hướng dẫn và điểm tựa cho người khác, thì chính mình phải trọn vẹn cho một mình Giêsu, như Ngài muốn.
II. CHỈ TÌM MỘT GIÊSU TRONG QUAN HỆ VỚI MỌI NGƯỜI
Têrêsa trong cuộc sống cũng chính là Têrêsa trong sứ mạng đào tạo. Làm sao Chị có thể mưu tìm gì khác Giêsu khi giúp đỡ các em? Hơn ở đâu hết, Chị chỉ làm việc để “yêu và làm cho mọi người yêu Ngài”. Chúng ta thử quan sát. Công việc Người cũng ẩn khuất như đời Người. Không sao. Người lặng lẽ và khiêm tốn làm việc để hiệp nhất với Người Nô Bộc đau khổ trùm mặt mà Isaia giới thiệu. Người tự coi như một “cây bút nhỏ” không giá trị gì, một “nô tỳ nhỏ” của các em, một “cái tô nhỏ để dưới đất”. . Chị biết rõ rằng Thiên Chúa chẳng cần phải dùng Chị: “Ăn thua gì tôi, vì Chúa có thể dùng tôi hoặc, bất cứ ai khác để chỉ Lối Nhỏ này cho các tâm hồn. Quan trọng là Lối Ngài chỉ, dụng cụ nào chẳng được!” Với tâm tình siêu thoát đó, Chị là dụng cụ tuyệt hảo. Chị tuỳ thuộc Bề trên trong mọi chuyện, chứng tỏ phục tùng và trọn theo ý Mẹ trong khi thi hành chức vụ. Được thế không phái ít công phu, vì tính khí của Mẹ Marie de Gonzague và Têrêsa rất khác nhau. Cả trong việc này, Têrêsa cũng thấy mình gặp mâu thuẫn và thập giá là điều tốt. Chị hành sử tuyệt vời, nên khi Chị qua đời, Mẹ làm chứng huy hoàng: “Gương mẫu trọn khiêm nhu, phục tùng, bác ái, khôn ngoan, siêu thoát và mực thước, Chị chu toàn đức phục tùng vốn khó khăn của một Chị Giáo Tập với tính sắc bén và toàn hảo chỉ có thể có nhờ Chị yêu mến Chúa”. Cũng có lúc Mẹ hay cộng đoàn la rầy Têrêsa và than vì các em chậm tiến bộ quá. Chị dùng những dịp này để tự thú và đón nhận những lời khuyên mà Chị tin rằng Chúa trao. “Chị không hề rên vất vả và buồn chán... trong những khó khăn, Chị đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa”. Chị xả kỷ trong tình bằng hữu chị em. Chị viết: “Em sẵn sàng hiến thân vì họ (những chiên con), nhưng tình em thanh khiết nên em không muốn họ biết”. Chắc chắn Chị yêu các tập sinh với hiện tình của họ, với những ưu và khuyết điểm của họ, nhưng chính là tình yêu mà Giêsu chuyển vào tim Chị và chính là để thu hút họ về cho Ngài. Chị giữ trái tim mình không chia sẻ, vì đức yêu của Chị đầy âu yếm, thật cô tịch, tự nhiên trào lên từ lòng Chị yêu Giêsu. Các tập sinh, “tận đáy lòng, họ cảm biết Chị yêu họ bằng tình yêu chân chính”, họ chỉ cần được yêu bằng tình yêu duy nhất ấy. Chị cũng chẳng muốn làm cho họ yêu Chị. Nên lưu ý rằng Chị chẳng bao giờ muốn lấy lòng tập sinh bằng cách nhượng bộ theo mánh lời người đời. Chị chỉ tìm cho họ hoàn thiện, Chị gắng chứng minh điều đó, dù có mất mát phần nào thiện cảm. Mẹ Agnès tuyên bố: “Tôi đã cả trăm lần chứng kiến sự trung thành Chị đối với các em theo lương tâm mình”. Sr Marthe de Jésus làm chứng: “Lòng nhiệt thành Chị đối với em cũng như với các tập sinh, thật rất trong sáng và vô vị lợi. Chị không sợ làm chúng em phật ý, do đó giảm mất thiện cảm và thân thương, mà có lẽ Chị đã được nếu cư xử yếu mềm hơn đối với những khuyết điểm của chúng em”. Nhưng nếu tình cảm mang tới Chị mà tinh khiết, Chị không từ khước. Chị biết yếu tố đó cần thiết để hướng dẫn các các tâm hồn. Một trong các “con” của Chị đã viết cho Céline: “Chị tốt, chị rất yêu em”, nhưng Chị luôn miệt mài để thanh tẩy sự lưu luyến và làm vững mạnh trái tim các tập sinh. Chị chủ trương chỉ dẫn các em tới Thiên Chúa và quyền bính đại diện Chúa. “Nhờ ân huệ Đức Giêsu, em chưa hề thử lôi cuốn lòng họ; em hiểu rằng sứ mạng của em là dẫn họ tới Thiên Chúa và làm họ hiểu rằng ở trần gian bây giờ thì, thưa Mẹ, Mẹ là Giêsu hữu hình mà họ phải yêu mến và tôn trọng”. Mặt khác, do chính chứng từ của Chị, người ta cũng biết rằng Chị quan tâm biết mấy để tình yêu các em Chị đối với Bề Trên thực sự được tinh luyện. Chị muốn tặng họ nguyên vẹn cho Chúa. Nhận trách nhiệm đào tạo các nữ tu, những hiền thê của Đức Kitô, Chị hiểu rằng bất trung nếu dành cho mình một chút tình thương tự nhiên của họ. Chị biết thế, vì Chị đã dò những đáy thẳm của thiên chức, những yêu cầu của tình yêu Đức Kitô, cũng như hạnh phúc mà người ta thưởng thức được khi hướng trọn bản thân về Ngài. Chị thuần tuý nhắm Thiên Chúa đến độ không “tìm lợi ích cho các linh hồn”, hoặc làm cho họ hiểu một chuyện gì, hoặc thấy họ tấn tới nhờ Chị săn sóc. Chị hoạt động chỉ vì Chúa và chờ đợi tất cả kết quả từ Chúa. Têrêsa bộc lộ tâm sự hoàn toàn với Chị Geneviève: “Đối với em, thời gian em săn sóc tập viện là chiến tranh, là phấn đấu. Chúa Nhân Hiền làm việc cho em, em làm cho Ngài, và chưa bao giờ tâm hồn em tiến bộ được thế... Em không tìm được thương yêu, em chẳng cần biết người ta nói gì hoặc nghĩ gì về em. Em chỉ nhắm làm bổn phận và làm vui lòng Chúa, không hề mong những cố gắng của mình kết quả. Phải phụng sự Chúa Nhân Hiền, phải yêu mến Ngài, mà không cần biết ra sao. Chúng ta lo công việc, Đức Giêsu lo kết quả. Vì lợi ích của anh chị em, thì đừng bao giờ sợ chiến đấu, tìm yên thân và càng không phải tìm mở mắt các tập sinh cho bằng phụng sự Chúa Nhân Hiền. Hãy luôn làm việc và để mặc Thiên Chúa lo thành quả”. Têrêsa đã đẩy tự thoát quá xa chăng? Mong làm ích lợi đâu phải việc bất chính? Nhiệm vụ Chị không phải để làm thế sao? Hẳn rồi; nhưng Têrêsa không ưu tiên nuôi tham vọng nâng đỡ, soi sáng, đào luyện và an ủi chị em. Têrêsa tận tâm cho các em, nhưng phải để hài lòng mình hoặc để đạt thành công nào. Chị đơn giản muốn chu toàn nhiệm vụ, không màng tư lợi. Thái độ này cho Chị không ngừng làm bổn phận; không hy vọng thành quả, Chị cũng không nản vì thiếu thành quả; không có gì để chán, để nản; không có gì phải liều chọn một bỏ một, làm cho em này hơn em kia. “Nếu gặp một tâm hồn khó chịu, chúng ta đừng thoái lui, đừng bao giờ bỏ mặc. Hãy luôn là ‘gươm Thần Khí’ để sửa những sai lỗi của tâm hồn đó; đừng vì nghỉ ngơi mà ta bỏ qua công việc. Hãy chiến đấu không mệt mỏi, không cả hy vọng chiến thắng nữa. Cần gì thành quả! Ta cứ tiến, bất kể đấu tranh mệt nhọc.. Phải làm xong nhiệm vụ”. Têrêsa sẵn sàng mạo hiểm, sẵn sàng liều thân vì các tâm hồn. Chị hứa: “Dầu sao, Chị vẫn nói thật với em! Chị đành phải bỏ cộng đoàn còn hơn bỏ một tâm hồn trong ngu dốt”. Cầu nguyện và hy sinh là vũ khí chuyên dùng của Chị. Đúng là không dễ dàng gì hành động thẳng thắn như thế khi Chị cảnh giác các em và sửa đổi những lỗi lầm của họ. Chị thú nhận: “Chị cảm thấy điều đó nhất định đòi Chị đau khổ, vì cứ hành động tự nhiên thì không thể nào khiến được người, mà mình muốn cho thấy lỗi đó, nhận ra lỗi của họ. Chị thấy chuyện này cũng như những chuyện khác... Vì thế, khi nói với một em tập tu, Chị gắng hy sinh làm việc đó... Vì Chị thấy rằng người ta chẳng làm được gì khi vị kỷ...” Têrêsa đưa ra những nguyên tắc này vào thực hành kiên trì tới độ Chị Geneviève có thể tuyên bố trong vụ án Phong Thánh rằng: “Điều làm nên tất cả sức mạnh cho Chị Giáo trẻ của chúng con là Chị hoàn toàn bỏ mình, Chị hoàn toàn quên mình và luôn lưu ý hy sinh”. NHờ hy sinh, Têrêsa trong các cuộc tiếp xúc với các em, vẫn giữ được mục tiêu duy nhất về Chúa. Với giá này, Chị làm việc thật chắc chắn và bền vững. Céline không phải người duy nhất làm chứng cho Chị như thế. Tính thẳng thắn trong cuộc sống Têrêsa in ấn tượng trong tất cả các tập sinh. Tới gần Chị, các em đều cảm thấy sự cao cả hùng hồn mà chí hướng kiên cường mang lại cho cuộc đời thánh hiến. Chứng nghiệm điều đó mà ngày nọ có một em quỳ gối trước mặt Chị, chắp tay và cúi đầu. Sr. Marie de la Trinité kêu lên: “Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, cầu cho chúng em!” Chị lùi ra, Têrêsa âu yếm la rầy: “Em con nít lắm! Em chọc Chị đã rồi!”
“Một Giêsu thôi!”: Yêu, làm cho người người yêu, trong lòng trung thành với sứ mạng đời mình, đó là chí hướng dẫn đạo và linh hoạt mọi tâm tư của Têrêsa, Chị Giáo tập. Nhưng làm sao Chị thực hiện được phương án đời mình, luôn luôn nhìn Đức Giêsu? Tắt một lời: Bí quyết nào giúp Chị thành công lạ lùng như thế? Khi Têrêsa trình bày đường lối giúp các em, Chị cũng tìm ra con đường nên thánh của Chị. Chị coi hai con đường đó là một. Một lần nữa, chúng ta lại có thể được lợi ích ở đây, nếu chúng ta muốn hiểu đúng nhà giáo dục Têrêsa, theo Chị từ kinh nghiệm trước tới việc khám phá ra “Lối Nhỏ”.
I. BÍ QUYẾT CỦA TÊRÊSA TRONG ĐỜI SỐNG
Chị Têrêsa xác nhận Chị không bỗng dưng khám phá ra Đường Lối Tin Tưởng và Yêu Thương. Chị đã dò dẫm, tìm kiếm; Chị đã đau khổ, đã cầu nguyện. Suốt đời, Têrêsa lúc nào cũng như luôn gắng sức. Chị đã hiến thân cho Đức Kitô không dè giữ và Chị trung thành với ơn Chúa trọn vẹn như Chị đã xác nhận với một trong các em tập sinh của Chị: “Đúng, từ ba tuổi, Chị đã không từ chối Chúa điều gì”. Không khi nào Chị vì yếu đuối mà không cố gắng. Dầu còn rất nhỏ, Bé Têrêsa đã hoàn toàn tự nguyện đáp ứng mọi đòi hỏi của Thiên Chúa, đáp ứng các đề nghị của Ngài: “Em luôn gắng sống như là em đã khấn (trọn lành hết sức). Mặt khác, em chẳng hiểu một tâm hồn yêu mến Chúa, một đan sĩ Cát Minh, có thể làm khác được, vì đó là bổn phận người được Chúa gọi”. Bé Têrêsa chưa làm được những việc mà Bé gọi là “hành động của các thánh”; nhưng suốt đời, từ tấm bé đến ngày cuối cùng, Têrêsa vẫn từng phút dâng Chúa Giêsu trót khả năng, “một tâm hồn nhỏ xíu chỉ thể dâng Chúa Nhân Hiền những gì nhỏ xíu”. Độc đáo trong các công trình và hy sinh của Người chính là tình yêu tinh tế không bỏ mất gì không dâng. Người đã nói: “Nếu ở đời này em đã không làm hết cách để Chúa vui, thì đến giờ chết, khi gặp Chúa Nhân Hiền rất tốt, muốn âu yếm em muôn đời, mà em hết còn có thể dâng hy sinh để chứng minh tình em... Em chắc không chịu nổi”. Vì thế Ngài đã làm hết sức. Vậy xin đừng làm biến nghĩa và giảm giá “Lối Nhỏ” chỉ vì phạm vi nghiên cứu những hy sinh bên ngoài hạn hẹp, vì không có những hành động phi thường và vì một vài kiểu nói của thánh Têrêsa. Ai nghiền ngẫm “Một Tâm Hồn” sẽ dễ dàng nhận ra những “gai nhọn” mà nhiệt tâm hái hoa hồng của Têrêsa che lấp chúng. Phải nói lên điều đó để đặt Đường Thơ Ấu vào môi trường mà thánh nữ muốn, nghĩa là đối lập với chủ trương yên tịnh biếng lười và tin tưởng ảo. Một em tập tu muốn chỉ Lối Nhỏ cho thân nhân và hằng hữu, Chị Giáo này đã trả lời không úp mở: “Ồ, khi giải thích, em phải lưu ý lắm, vì Lối Nhỏ của chúng ta, mà bị hiểu lầm, sẽ giống với thuyết Yên tịnh hoặc Thông thiên. Đừng tưởng đây là lối nghỉ ngơi”. Têrêsa không để như vậy được. Chính khi gắng chu toàn tất cả để vui lòng Chúa, Chị có kinh nghiệm lưỡng diện: tiêu cực và tích cực. Chị ngày càng nhìn nhận mình thiếu khả năng để hy sinh và làm tròn những gì Chúa muốn. Đồng thời, Chị nghiệm thấy tác động thần linh làm được trong Chị chuyện vượt khả năng đó. Hẳn từ nhỏ, Bé Têrêsa cũng khiêm tốn. Tuy thế, tuy tuỳ thuộc ý Chúa, từ lâu Bé đã cảm thấy thật căng thẳng do những ước vọng cao cả mà thực hiện hằng ngày quá nghèo nàn. Kinh nghiệm yếu hèn này thật đau đớn đối với Chị cũng như với mỗi người chúng ta. Chỉ cần theo dõi đường đời Chị đủ thấy Têrêsa đã phải đau đớn thật nhiều vì thấy mình yếu đuối: thương tật do các chết của thân mẫu (Bé mới 4 tuổi rưỡi), do Chị Pauline (người Mẹ thứ hai “phũ phàng” ra đi vào Cát Minh, do nỗi sợ thầm kín rằng mình nói dối khi kể việc khỏi bệnh lạ lùng ngày 13.5.1883, bệnh bối rối kinh khủng suốt mười bảy tháng, chiến đấu vô vọng với tính mẫm cảm và thói dễ khóc nhè tới mười bốn tuổi. Cứ nhớ rằng Chị đồng thời chịu tất cả những khổ tâm trên, sẽ dễ ước lượng Chị đau khổ chừng nào; nhưng cũng nên hiểu rằng đau khổ này giúp Chị khiêm tốn hơn. Qua mỗi đau khổ vì thất bại hoặc lo ngại, Têrêsa đau khổ nhận mình là hư vô, nhưng Thiên Chúa không để Chị đau đớn vô ích hoặc liên tục. Rồi khi nhận ra duy mình Chúa giải thoát Chị khỏi tất cả những gian lao đó, Chị được nhận chân sâu sắc này: Sau cùng, chính Chúa thực hiện điều chúng ta biết Ngài muốn nơi chúng ta, mà một mình chúng ta cố gắng cũng không sao đạt. Ân lộc đêm Giáng sinh 1886 đặc biệt sinh hoa trái và trấn an: “Việc con gắng mười năm không đạt, Giêsu làm trong tích tắc, vì Ngài hài lòng về thiện chí, mà con chẳng bao giờ thiếu. Thoáng một cái, Chúa Nhân Từ đưa con ra khỏi cái vòng lẩn quẩn, mà con đã quay quắt hoài không thể thoát ra”. Từ lúc đó hơn bao giờ hết, Người tin vững ở Chúa toàn năng khi mình yếu đuối. Tuy thế, Người còn phải đau khổ nhiều nữa để biết được thế nào là mình trọn thuộc về Đức Kitô, vì mình đã được Ngài đặt vững trong lòng tin tưởng và bình an bất biến. Cả khi đã vào Cát Minh, những lo ngại và xao xuyến vẫn còn gặm nhấm Người. . Người kể: “Ngày ấy, lo lắng trong lòng em đủ loại”. Mãi tới năm 1891, sau ba năm sống đời tu, nhờ cha Alexis, Chị mới “hiểu được một cách tuyệt vời”. Vị giáo sĩ này cho Chị biết những lỗi lầm Chị lo ngại đó “chẳng làm phiền Thiên Chúa Nhân Hiền”. Lời đáp như âm vang từ thẳm sâu lòng Chị, tấm lòng “như con thuyền với hai cánh buồm no gió tin tưởng và yêu thương, đã từng cuốn lôi, mà nó đã không dám lao theo”. Được Thiên Chúa hướng dẫn như thế, từ đau khổ qua đau khổ, từ chướng ngại qua chướng ngại, Têrêsa lúc này lao mình hẳn vào tin tưởng, mà lối đi vừa khai thông cho Chị. Từ nay, ai ngăn cản Chị nên “thánh lớn” như Chị muốn. “Được yêu thì không những nó tiến, nó bay”. Nhưng đâu phải mọi chuyện đã dễ dàng, đâu phải cứ tin tưởng là vạn sự đổi thay. Những hàng viết trong tháng 6 năm 1897 đưa ta vào giữa khó khăn đó. “Thưa Mẹ, Mẹ biết con lúc nào cũng muốn nên thánh, nhưng tội nghiệp, mỗi khi so mình với các thánh, con nhận thấy cách biệt giữa các ngài và con như giữa những ngọn núi vươn tới trời mây và hạt cát vô danh chìm dưới chân bộ hành”. Nhận thức khá đúng mà ít khích lệ này, mỗi người chúng ta cũng có lúc gặp. Vậy mà Têrêsa không nản, không đấu trang vô vọng. Chị không tin rằng tập nhân đức thì Chị sẽ nên thánh. Chị cũng không tin rằng ơn thánh sẽ làm tất cả bổ túc, chẳng cần gì Chị. Nắm vững đức tin và ngoan cố, Chị tìm các nên thánh khi Chị vẫn là Chị: Nhỏ bé, bất toàn và thiếu nghị lực. “Em muốn tìm cách lên trời bằng một lối nhỏ thật thẳng, thật ngắn, một lối nhỏ hoàn toàn mới... Em, em còn muốn gặp thang máy đưa em thẳng đến Giêsu, vì em quá nhỏ, sao lên được những bậc thang trọn lành...”. Tin tưởng ở Đấng “không khi nào gieo ước muốn mà Ngài không thể thực hiện”. Têrêsa hướng về Ngài và nghiêng mình trên Thánh Kinh, đọc những lời này từ miệng Minh Triết hằng hữu: “Ai thật nhỏ bé, hãy đến với Ta”. Chị hồi hộp. Lời mời quá rõ. Chúa không đợi những em bé lớn lên mới săn sóc. Ngài mời chúng cứ nhỏ bé như thế mà đến với Ngài. “Thế là con đã đến, đoán rằng mình đã đạt mục tiêu, và lạy Chúa, con muốn biết Chúa làm gì cho em bé đáp lời Ngài mời gọi, nên con tiếp tục tìm kiếm và con đã gặp đây: Như người mẹ âu yếm con mình, Ta sẽ an ủi các con, Ta sẽ bồng các con trên lòng, Và ru các con trên gối của Ta. Têrêsa đã thấy: Không những các trẻ nhỏ có thể tới toàn thiện, mà còn được chính Thiên Chúa gánh chịu cho chúng, Ngài hoàn thành tất cả trong dịu ngọt và từ bi. “A! Chưa hề có lời âu yếm hơn, hoà hợp hơn đến làm tươi mát hồn em. Thang máy nhắc em lên tới trời, chính là đôi tay Ngài, Giêsu ơi!” Vậy đó, Thiên Chúa là Tất Cả cho những người bé nhỏ. Ngài là đích điểm duy nhất; Ngài cũng là đường, là thang máy thần thánh cho họ. Họ chỉ cần để Ngài hành động và thuận theo tác động của Ngài. Têrêsa đã nghiệm ra hành động thần thánh; Chị biết mình không thể tự hy sinh. Phải để Chúa hoạt động trong mình và tin tưởng buông mình vào hoạt động của Ngài. Đây cũng là bước đường tâm linh mà quá ít người chịu làm. Điểm độc đáo của Têrêsa còn hơn thế. Chị có tất cả những táo bạo của em bé biết mình được yêu, Chị còn tế nhị và có một luận lý phân toả. Chị biết Thiên Chúa có thể làm tất cả trong tâm hồn Chị. Qua Thánh Kinh, Chị đoán Ngài muốn làm tất cả trong tâm hồn những người bé mọn; thế là Chị quyết định không những để Thiên Chúa hành động, mà còn thúc đẩy Ngài hành động trong Chị, cho Chị và qua Chị, và hoạt động như thế mãi hoài. Chị định thực hiện phương án đó cách nào? Một là cứ nhỏ bé hoài Têrêsa không sao đạt ý nguyện được, nhưng Chị biết Đức Giêsu có thể. Thế là Chị tuyên bố không úp mở rằng Chị MUỐN cứ nhỏ bé hoài, Chị muốn chẳng bao giờ có thể làm thánh, để Thiên Chúa làm tròn cho Chị. Chị bảo: “Để đạt, em đâu cần lớn; trái lại, em phải nhỏ, phải càng ngày càng nhỏ”. “Ngay trong các gia đình nghèo, người ta cũng thoả mãn mọi nhu cầu cho em bé, nhưng khi nó vừa lớn lên, người cha hết muốn nuôi nữa, nên bảo nó: Bây giờ thì làm việc đi, con có thể tự lo được rồi. Chính để khỏi nghe lời đó mà con không muốn lớn, vì cảm thấy mình không thể tự kiếm sống, cuộc sống vĩnh cửu trên trời. Vậy, con cứ nhỏ bé mãi hoài thôi...”. Chí tính làm thế để bắt Thiên Chúa tự hạ xuống cõi hư vô của Chị. Khi đó, chỉ khi đó trong đời, Têrêsa mới cảm nghiệm được ý vị sự hèn yếu của mình; Chị tình tứ ở lì trong “cõi hư vô” thụ tạo. Túng thiếu là niềm vui, là kế sinh nhai của Chị. Chị dùng nó như cái mồi cho Toàn Năng linh thánh. Têrêsa vẫn cứ nhỏ bé, mà đâu có chịu bỏ những tham vọng nên thánh. Trái lại nữa! Tự nguyện và vui vẻ chấp nhận túng thiếu, Chị đã tìm ra phương pháp duy nhất để thực hiện những ước muốn vô biên: Phương pháp làm cho chính Đấng đã gieo ước vọng trong lòng Chị lại đích thân thực hiện. Bằng cách chịu mình bất toàn và khốn nạn, để duy mình Thiên Chúa là toàn thiện là sức mạnh, là thánh đức trong Chị, Têrêsa tới được nơi mong muốn là “Đỉnh núi Tình yêu”, mà còn tới đó mau lẹ hơn dùng bất cứ đường lối nào. Chị đã thực sự khám phá ra cho Chị và cho chúng ta một Lối Nhỏ “thật ngắn” dẫn tới Lòng Chúa, và mất ít thời gian hơn mọi thứ thang của con người. Đó là số phận đáng thèm của những người thật nhỏ bé: Người lớn có nhiều phương pháp phức tạp để nên hoặc gắng nên toàn thiện. Nhưng em bé chỉ có một phương pháp, nhưng không thể sai lầm, là chính Thiên Chúa duy nhất. Thứ hai là Hiến Thân cho Tình Yêu. Thế là Têrêsa chấp nhận thân phận nhỏ bé và luôn luôn trình lên Chúa, như một lý do để Ngài hành động trong Chị và cho Chị. Chị còn một tiến trình nữa: Hiến thân cho Tình yêu nhân hậu. Tại sao? Thưa vì trong tác phẩm Isaia cũng như toàn Tin Mừng, Tình Yêu biểu lộ đặc biệt hoạt động trong các người bé nhỏ, Tình Yêu mà Chị thấy nghiêng mình trên họ, luôn bao bọc họ. Chị cũng nóng lòng muốn toàn hiến cho Ngài. Nhưng khi khám phá ra bí quyết của mình, Têrêsa cũng táo bạo khám phá ra bí mật của Đức Giêsu, lòng khát mong “để tràn những làn sóng âu yếm vô biên đang bị kiềm toả trong Ngài” cho biết bao tâm hồn nhỏ bé, túng nghèo khả năng phàm nhân, do đó rộng mở cho Ngài hoạt động. Thấy Tình Yêu thần thánh nóng khát tràn ra như thế, và hiểu được phần mình có thể thông dự, Têrêsa cũng ước vọng vô biên; đó là từng phút theo tác động yêu thương, là luôn đón nhận được dòng thánh thiêng bất xả. Chị hiến thân “để sống trong tác động trọn yêu”. Chị năn nỉ Chúa “không ngừng thâu nhận” Chị. Chị mong đồng hoá với Ngài tới độ chia sớt bản thể Ngài. “Em nài xin Giêsu thu hút em vào trong những ngọn lửa tình yêu Ngài, hiệp nhất em với Ngài tới độ Ngài sống và hoạt động trong em”. Chị muốn không phải huỷ diệt, mà muốn Chúa vì yêu thương thâu nhận tất cả tính chất phàm nhân của Chị. Rồi khi cuộc sống về chiều, nghe Mẹ Agnès nói rằng Chị hẳn đã phải chiến đấu nhiều mới đạt mức toàn thiện như hiện thấy. Têrêsa đáp bằng giọng đặc biệt: “Ồ, không phải vậy đâu”. Trong một lời than đó, Người đã toát lược cả bí quyết và tham vọng tâm linh của mình. Tất nhiên, trong cuộc sống, Người đã cố gắng, nhưng chỉ MỘT cố gắng: Hiệp nhất với Đức Kitô, chỉ chờ đợi ở Ngài tất cả. Chính từ cố gắng duy nhất ấy, phát sinh trọn nghị lực, thành quả của Têrêsa, vì cố gắng không bao giờ xông thẳng vào trở ngại, cố gắng chỉ tập trung vào Giêsu cái nhìn tin tưởng. Thay vì bận tâm nên thánh, gắng nên thánh, Têrêsa tập trung vào Thiên Chúa. Người hoàn toàn nhu thuận, chỉ lo giữ lòng mình luôn luôn rộng mở đón Chúa. Hành động nhảy vào Tình Yêu, cố gắng tuyệt đối hướng thần này, quyết tâm này đã cho Thiên Chúa đích thân đảm trách hoạt động của Têrêsa và vượt cả ước mơ của Chị, vì “chính Ngài trở nên nhân đức và sự thánh thiện của Người”. Vì bí quyết của Chị đã không sai lầm, nên “tất cả ước vọng của Chị đều đã được thực hiện”.
II. BÍ QUYẾT CỦA TÊRÊSA TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC EM TẬP SINH
Năm 1893, khi Têrêsa bắt tay vào nghề giáo dục, thì Lối Nhỏ của Người chưa được giải thích như vào năm cuối đời Người. Có thể nói rằng những nhiệm vụ mới, bắt buộc phải quan tâm hết sức, đòi hỏi Người nhắm cho đúng những khám phá tâm linh của mình, để chia sẻ tốt cho các em. Dầu sao, ngay từ khởi đầu sứ mạng của Người, ta thấy Têrêsa đã mang những trực cảm cơ bản của Người vào thực tiễn. Người không bỏ lơ điều gì trong khả năng của mình. Nhưng vì ý thức những yếu kém của mình, Người trông đợi ở một mình Chúa nghị lực để chu toàn bổn phận. Hơn thế, Chị còn ước mong chính Chúa làm việc và làm qua Chị. Têrêsa nghiêm chỉnh đảm trách. Ý thức sự quan trọng của sứ vụ, Chị cẩn thận thi hành, như “cây cọ nhỏ mà Giêsu đã chọn để vẽ ảnh Ngài trong các tâm hồn”. Có thể thêm ở đây một mẩu tâm sự khác. Cùng thời gian đó, Mẹ Angès xin Têrêsa làm chị tinh thần cho một thừa sai tương lai. Chị cũng trung thành như thế: “Em hiểu những nhiệm vụ em đảm nhận, nên em bắt đầu gắng tăng gấp lòng nhiệt thành”. Thực tế thì Chị đã cảnh giác rất mực rồi. “Từ khi em có chỗ trong vòng tay Giêsu, em như người lính canh địch từ trên chòi cao nhất của lâu đời. Không gì qua mắt em được... Không khi nào em học thói người làm công, thấy sói đến liền bỏ đàn chiên mà trốn; em sẵn sàng hiến sinh mạng vì họ”. Suốt ngày, Chị chỉ săn sóc để “dẫn họ vào ăn dưới bóng cây, chỉ cho họ những cỏ tốt và bổ ích nhất, vạch cho họ thấy rõ những loại hoa rực rỡ mà chẳng bao giờ nên đụng tới, mà chỉ nên chà đạp”. Chị Giáo hy sinh trọn vẹn cho chức vụ, với một cố gắng liên tục tới độ các em cho là “nghiêm chỉnh”. Chị vẫn làm việc cho các em lợi ích, dầu tự nhiên Chị khó chịu: “Trước kia, mỗi khi thấy một nữ tu làm gì, con không thích hoặc con cho là lỗi luật, con tự nhủ: ‘A, giá tôi có thể cho chị biết tôi nghĩ gì, cho chị thấy chị sai lỗi, tôi hả lắm!’ Vào nghề được một chút, thì thưa Mẹ, con đoan chắc với Mẹ rằng con đã hoàn toàn thay cảm nghĩ. Khi gặp thấy một nữ tu có hành động coi như bất toàn, con thở ra nhẹ nhàng và tự nhủ: Thật may! Đó không phải là tập sinh, mình không buộc phải sửa lỗi”. Cảm thất thật ngại sửa lỗi các em, nên Têrêsa thấy bào chữa được cho ngôn sứ Jonas, khi ông này trốn Thiên Chúa để khỏi đi loan báo tàn phá Ninivê. Nhưng nhiệt tâm Têrêsa không cho Chị lui bước: “Hơn một lần rồi, con nghe nói: ‘Nếu Chị muốn thành công nơi em, Chị phải dịu với em hơn. Làm hung với em không được gì đâu’. Nhưng con hiểu rằng chẳng ai làm thẩm phán cho mình mà công minh được”. Cuốn “Những lời khuyên và hoài niệm” trình bày Chị luôn phấn đấu. Chị chỉnh một tập sinh rên mệt, muốn tìm được an ủi của Chúa Kitô vì mình mới làm một việc nhân đức hoặc bác ái. Chị dạy các em đừng quá mê say công việc, đừng băn khoăn trong phục vụ, mà phải luôn luôn hành động với tinh thần thanh thoát... Có những lúc Chị an ủi, khích lệ, chỉ cho biết cách tiếp cận ô nhục, hoặc lợi dụng những phân tâm. Chị viết kinh cầu xin ơn này, ơn khác. Những đoản văn Chị soạn ấy cho thấy Chị vừa đầy lòng thương mến, vừa thấu hiểu tâm lý và tâm linh. Dầu chưa đọc xong, Chị sẵn sàng cho một nữ tu mượn cuốn sách mà Chị nghĩ có thể giúp ích. Chị dùng tất cả ánh sáng nội tâm của mình để giúp ích chị em. Sơ phác Têrêsa làm việc như thể đủ để chúng ta khỏi tưởng Người đang chìm trong chiêm niệm mơ hồ, cô liêu và mây phủ. Tình Yêu Chúa đưa Chị vào phục vụ chị em một cách rất thực tế, rất cụ thể, cách này đòi Chị dấn thân từng phút. Hành động, Chị không rối, không vội; nhưng mạnh mẽ và bình thản. Không lúc nào thấy Chị băn khoăn hoặc căng thẳng, trượt khỏi trầm tịnh và suy tư. Đồng hành với một tập sinh, Chị chống việc hoàn toàn tự chủ; khi gặp nguy hiểm trầm trọng như thiêu sống vì bất cẩn, Người vẫn bình thản, đầy tin tưởng, lặng lẽ tự hiến cho Chúa, và bất động. Chính vì Chị không ảo tưởng về ý nghĩa hoặc tầm vóc hoạt động của mình. Ở đây Người khỏi cần chờ kinh nghiệm về sự bất túc của mình; Người tự lượng giá quả đủ trong việc nên thánh rồi. Tự mình không kham nổi mình, thì rõ ràng mình càng không thể sửa dạy người khác. Không những mình thiếu thốn, các em đã thiếu thốn, còn ham dự do nữa. Têrêsa tự nhiên ý thức mình bị hạn chế nhiều. “Vừa khi được phép đi vào cung thánh các tâm hồn, em nhận thấy ngay rằng nhiệm vụ vượt quá sức em”. Người giải thích: “Đứng xa mà nhìn, người ta tưởng làm ngon lành việc giúp ích các tâm hồn, cho họ yêu mến Chúa hơn, đào tạo họ theo những quan điểm và tư tưởng cá nhân mình. Ở gần thì, trái lại... người ta cảm thấy nếu không có Chúa trợ giúp, làm ích cũng như làm mặt trời chiếu dọi ban đêm, không sao được”. Têrêsa nhận ra rằng, một khi mình trao trách nhiệm này cho Chúa, Ngài sẽ hoàn thành công việc thánh thiêng. Chị hiểu rõ Chị có thể và chỉ là một dụng cụ - tuy không bất động - nên phải mềm mỏng và ngoan thảo đối với Ngài. Thế là khỏi có chút ngần ngại nào. Têrêsa bắt tay khám phá và hơn bao giờ hết, lao vào “thang máy của Chị”. Chị viết: “Như một Bé Thơ, em đặt mình vào vòng tay Chúa Nhân Hiền và... em thưa Ngài: ‘Chúa ơi, con quá nhỏ bé, sao nuôi được các con Chúa, nếu Chúa muốn dùng con để cho mỗi người lương thực thích hợp, thì hãy trao đầy tay con đi; con sẽ không rời vòng tay Chúa, không quay đầu lại, con sẽ trao báu vật cho tâm hồn nào tới xin thực phẩm”. Thực dễ dàng tìm ra thực tế dưới những hình ảnh đó. Trong nhiệm vụ Giáo Tập, Têrêsa cũng giữ nguyên chiến lược như trong việc nên thánh; Chị chỉ nhằm hiệp nhất với Chúa, chấp nhận trọn vẹn mình bất lực, sống nhỏ bé và phó thác cho Tình Yêu để chính Ngài phải hành động. “Từ lúc con hiểu rằng mình chẳng thể tự mình làm gì, nhiệm vụ Mẹ trao cho con thấy không khó nữa, con cảm thấy chỉ cần con ngày càng hiệp nhất với Giêsu, còn mọi thứ khác con sẽ được dư thừa. Thực ra, chưa bao giờ hy vọng lừa dối con. Chúa Nhân Hiền vui lòng trao đầy tay con mỗi khi cần nuôi tâm hồn các em con”. Không cho các em gì nếu không phải hồng ân Chúa, mà cho thoải mái những gì mình nhận từ Ngài, không bóp méo hay bỏ phí... ta thấy đó như là tham vọng của Têrêsa đang nép mình trong vòng tay Chúa. Tuy nhiên, lúc dần đương đầu với bổn phận, chỉ lo hiệp nhất nội tâm với Ngài, chúng ta thấy Chị không có ý loại trừ hành động cá nhân và trực tiếp. Đồng thời Chị không tách rời hành động thần thánh khỏi những phương pháp phàm nhân mà Chị rất thành thạo. Nhưng Chị dùng mà hoàn toàn tuỳ thuộc Chúa và chỉ dùng khi thấy như Chúa muốn dùng để tự thông hiệp với các tâm hồn. Thái độ chính đáng của Chị ở đó. Chị đã tìm được quân bình hoàn toàn giữa tâm trạng thiên thần, phớt qua tất cả những gì trần tục, chỉ tin ở giải pháp của Trời... với chủ trương duy hoạt, chỉ tin ở sức làm việc của mình. Vì Chúa muốn Chị trở thành người đồng hành số một của tập sinh, Têrêsa có bổn phận rất thực tế và rất cụ thể phải làm cho các em. Chị không nghĩ rằng Chúa làm tất cả, khỏi cần mình, nhưng Chị tin rằng: dù mình nhỏ bé hoặc chính vì mình nhỏ bé, Chúa đã chọn mình, Ngài phải cho mình dồi dào ánh sáng và những ân thánh cần thiết để chu toàn trách nhiệm. Vì thế Chị muốn trung thành lãnh nhận được tất cả để giúp ích các em tập sinh. Thực tế, Chị làm gì để được thế? Chị đã nói: Chị chẳng làm gì hơn hiệp nhất thường xuyên với Đức Kitô. Chị không nói hoặc bắt tay vào việc gì không tiếp xúc với Ngài, không hỏi tới Đức Mẹ. Một em tập sinh dẫn chứng: “Mình hỏi gì Chị, Chị cũng hồi tâm một chút rồi mới đáp”. ... Sau đó, dầu được linh hứng hay không, Chị cũng tin mình được Chúa giúp. Lệ thuộc Chúa như thế, giúp Têrêsa chìm sâu trong khiêm tốn: “Phần cây cọ vẽ, nó đâu có thể tự hào về kiệt tác do nó. Nó biết rằng các nghệ sĩ không bối rối, mà còn giỡn với những khó khăn và đôi khi dùng những dụng cụ yếu và bất toàn”. Nhưng đồng thời, vì tin rằng Thiên Chúa giúp, nên Chị hoàn toàn cương quyết: “Con trao báu vật của Ngài cho tâm hồn nào tới xin con thực phẩm. Nếu em thấy ngon, con biết rằng em phải biết ơn Ngài, chứ không phải biết ơn con. Trái lại, nếu em than và thấy con cho thực phẩm đắng, con vẫn không mất bình an. Con sẽ gắng khuyên em rằng thực phẩm ấy do Ngài ban và con đâu dám tìm thức ăn khác cho em”. Đối với nhà giáo dục, tính cương quyết này đâu phải không quan trọng bằng khiêm tốn. Chính Têrêsa chỉ ra rằng công việc thành và Chị bình an là nhờ đức tính ấy. Dầu sao, vì Chúa đã chọn Chị làm Giáo tập, nên Ngài thực hiện một phần việc qua Chị, Chị vẫn không quên rằng còn bao phần thầm kín hơn, quan trọng hơn, Ngài muốn làm không cần nhờ Chị trung gian. Chị không tưởng mình là cần thiết. Chị biết tự xoá nhoà và cầu nguyện cho các em, xin Giêsu trực tiếp làm việc trong các em. Chúng ta nghe Chị khẳng định với một em tập sinh: “Tới giờ cầu nguyện rồi, Chị không còn giờ an ủi em. Mặt khác, Chị biết rõ rằng Chị có vất vả cũng vô ích. Lúc này, Chúa Nhân Hiền muốn em một mình đau khổ”. Nhưng không phải Chị bỏ mặc người em, Chị biết cầu nguyện cho em “xin Chúa an ủi em, biến đổi tâm hồn em và cho em biết giá trị của đau khổ”. Chị được nhận lời tức khắc. Sau này, thời Têrêsa nằm liệt, câu chuyện giống như thế tái diễn. Chính em tập tu này, khi được Chúa biến đổi nội tâm nhờ Chị cầu nguyện rồi, trở lại thưa Chị: “Chị đừng lo về em nữa, em hết khổ rồi. Em cảm thấy Chị cầu cho em và những đau khổ của Chị xin được nhiều ơn lắm”. Têrêsa đáp: “Ồ, Chị thật vui, Giêsu thật tử tế khi nghe Chị cầu cho em như thế”. Vậy thì bí quyết của Têrêsa không phải là trút bỏ trách nhiệm tế nhị của mình, mà chính là không bao giờ coi như công việc phàm nhân và cá nhân: trút bỏ thì càng bận tâm hơn, trái lại, phục vụ để bám sát vào Chúa hơn. Chị muốn đảm nhận tất cả các bổn phận của Chị, nhưng chỉ quan tâm tới Tình Yêu. Chị đã anh dũng lướt thắng mọi dao động trong ngoài, Chị biến công việc mình thành của Đức Giêsu. Cà ngàn khó khăn thường ngày, không bao giờ Chị tìm cách một mình giải quyết trên bình diện con người; nhưng, giữ tiếp xúc thường xuyên với Chúa, Chị trao Chúa làm tròn mọi việc qua Chị và thay Chị. Già giặn với kinh nghiệm này và chắc chắn thành công theo phương pháp của mình, vài ngày trước khi qua đời, Têrêsa có thể khẳng định rằng: “Người ta có thể cứ Nhỏ Bé, dầu đảm nhận những trách nhiệm dễ sợ nhất, dầu sống rất thọ. Dầu em có chết vào tuổi tám mươi, dầu đã ở Trung Quốc hoặc đâu đâu, em cảm thấy mình vẫn Nhỏ Bé như bây giờ”. Đã rõ trong nhiệm vụ đào tạo tâm linh, Têrêsa nương tựa vào thánh ý Chúa mà Người đọc thấy nơi tập sinh. Chị làm việc để giải thoát, kiện cường, và để ý Chúa thành toàn vì đạt mục tiêu. Bây giờ chúng ta nắm lại trực cảm đã hướng dẫn giáo huấn của Chị.
GIÁO HUẤN
Để thanh tẩy lòng khát mong Thiên Chúa của các em, mục tiêu thứ nhất của Têrêsa là cho họ xác tín rằng “Những gì không là Thiên Chúa thì chỉ là hư vô”. Tiếp theo, Người gắng cho các em nền tảng vững chắc của đời sống tâm linh, là Tin ở Tình Yêu. Sau chót, để đưa ước muốn tới thành tựu, Người dạy các em hiến thân cho Tình Yêu trong giây phút hiện tại. Chính Tin Mừng chẳng theo trật tự đó sao? Chúng ta chẳng sao chú ý quá được việc thánh Têrêsa tìm lại hạt giống Tin Mừng và nguồn lực mới: “Hãy san phẳng những con đường của Thiên Chúa và sửa những lối đi của Ngài cho thẳng”. Mở đầu công việc thần thánh, vị Tẩy Giả đã la lên thế. “Hãy tin tôi”. Suốt đời, Đức Giêsu yêu cầu điều này, tức là ‘Hãy tin Tình Yêu quá lớn của Thiên Chúa hoàn toàn bộc lộ trong con người tôi’. Sau cùng là lời trối dặn siêu tuyệt cho những đồ đệ trung thành nhất, đang quây quanh Ngài trước khi từ trần: “Hãy ở lại Tình Yêu của tôi”. Têrêsa, tuy không lần lượt, vì cuộc sống không cắt khúc, nhưng đồng thời dựa trên ba điểm, mà chúng ta có thể nói rằng: Ba điểm cố định giáo huấn của Chị: Từ khước vì yêu, tin ở Tình Yêu, hiến thân cho Tình Yêu. Giáo huấn này đưa dẫn con người từ khi bước vào đường lối Chúa tới ngày đầy đặn tầm vóc tâm linh.
Được đào tạo nhiều hay ít, tự thoát để miệt mài với cầu nguyện nhiều hay ít, nếu đúng thực có ơn gọi, thì con người sống đời tu trì đã tha thiết MUỐN Thiên Chúa. Ước muốn này là dấu chỉ đẹp nhất của ơn gọi đích thực; gần như đó là yếu tố duy nhất đủ để cho một người vào tập viện, mà thiếu ước muốn này, thì có ở tập viện cũng là tầm-gởi. Ước muốn này đặc biệt hướng về hiệp nhất yêu thương với Thiên Chúa, trong ơn gọi chiêm niệm, hướng tới phục vụ tình yêu Chúa trong ơn gọi sống đời hoạt động. Nhưng đó là yếu tố không thể thay thế trong cả hai cảnh sống. Vì bản chất hoạt lực của ơn thánh thì đồng nhất trong mọi người đã được thanh tẩy. Kitô hữu nào cũng là người con đang trên đường về với CHA; tâm hồn thánh tẩy nào cũng hướng về Kitô Hôn Phu. Ơn gọi tu trì chỉ là tiếng Thiên Chúa gọi, nó làm cho ước muốn Thiên Chúa thành tha thiết, tuyệt đối, thắng vượt tất cả. Chúa đòi người đáp lời Ngài để mình bị cuốn vào dòng thác từ Ngài phát sinh và cuốn về Ngài. Tựa trên ước muốn Chúa là tự trên chính Thiên Chúa. Thánh Catarina của Sienna đã dạy rằng: Trong ta, chỉ có ước muốn là khả năng đạt Thiên Chúa, vì ước muốn có thể trương nở vô hạn. Bằng gương mẫu thật hấp dẫn của mình, Têrêsa Lisieux làm sáng tỏ giáo huấn thật chắc chắn, mà đã bị quên lãng này. Nơi Chị, ước muốn rõ ràng là rất quan trọng. Khi phục vụ các tâm hồn cũng như trong cuộc sống của chính mình, Chị không ngại dùng giáo thuyết này làm điểm tựa. Chị nói: “Em luôn dựa trên một châm ngôn của Gioan Thánh Giá: ‘Chúa Nhân Hiền không ban ước muốn mà Ngài không thể thực hiện’” Người không để một vị giải tội làm tắt ước muốn yêu đương bùng cháy của Người khi vị này cho là táo bạo. Người khẳng định:”Chúa làm con ước mong điều Chúa muốn cho con”. Mướn mười bốn tuổi, Têrêsa đã được một kinh nghiệm giáo dục, kinh nghiệm này phát giác cho Chị trọn vẹn để thấy Ước Muốn là rất quan trọng. Người ta nhờ Chị trông coi hai em bé giùm ít ngày. Chị muốn tìm một minh triết từ “hai con gái nhỏ của Chị... Chị nói với hai bé về những phần thưởng đời đời”. Cách đó cho Chị thấy một điều lạ lùng đến nỗi hoài niệm còn khiến Chị kinh ngạc: “Bí tích Thánh Tẩy phải đặt sâu trong các tâm hồn mầm các nhân đức hướng thần, những nhân đức này biểu lộ ngay từ trẻ thơ, và chỉ hy vọng hồng phúc mai ngày cũng đủ cho người ta chấp nhận hy sinh”. Ngày đó Têrêsa chỉ lo cho mấy em bé. Nhưng Chị sẽ không thay đổi phương pháp khi đứng trước những người lớn được gọi nên trọn vẹn cho tình yêu. Như đã dựa trên ước muốn phần thưởng tương lai, bây giờ thêm sức mạnh và hợp lý hơn, Chị dựa trên ước muốn Thiên Chúa, Đấng tự hiến mình. Chị nắm lấy các tập sinh, cũng như đã nắm lấy Giêsu, “bằng trái tim”. Chị nói thêm, chứng tỏ Chị coi hành xử này là cốt yếu: “A! Biết bao tâm hồn đã nên thánh, nếu họ được hướng dẫn tốt!” Nhưng ở đầu đời tu, ước muốn Thiên Chúa thường chưa đủ mạnh và trong sáng. Người tập tu mới lìa thế giới. Rất có thể em còn kín đáo vấn vương, hoặc còn bị co quắp bực bội trong cuộc sống tâm linh. Việc đầu tiên của Chị Giáo là dọn chỗ đàng hoàng, giải thoát ước muốn Thiên Chúa khỏi những gì còn bóp nghẹt nó, để nó thành động cơ duy nhất cho mọi hành động. Để làm việc này, Têrêsa kiên trì đặt các em của Chị đối diện với thực tại Thiên Chúa và công trình sáng tạo của Ngài, xin các em đừng ngưng bước giữa đường, mà phải dứt khoát chọn Tất Cả hoặc chọn Hư Vô. Chị nhắc lại: “Chỉ có Giêsu, ngoài Ngài là KHÔNG”. Chắc chắn “Thiên Chúa ưu tiên tuyệt đối” này cũng là nền tảng tinh thần của Chị. Ý thức thực nghiệm của một tâm hồn, cảm giác về tuyệt đối và cái khát đơn giản từ đó phát sinh, làm nên những yếu tố không thể thay thế của ơn gọi Cát Minh. Nhưng nếu Chúa muốn sứ điệp Têrêsa, gốc rễ Cát Minh, phổ biến trong thời đại này, phải chăng vì sứ điệp ấy đáp ứng nhu cầu đặc biệt của con người hôm nay và âm vang nội quan sâu thẳm mà chính Chúa thông ban cho con người về thực tại tuyệt đối của Hiện Hữu Yêu Thương? Kinh nghiệm thường ngày của những người gần gũi giới trẻ có vẻ chứng minh như thế. Ta thấy trong các bạn trẻ vừa ham muốn vô độ những sự vật trần gian, vừa khắc khoải nhớ mong một cái gì khác và, nơi những em thiên tài còn có khả năng ghê gớm để đi thẳng tới cùng, có nhu cầu liều mạng. Nhưng họ cũng cần thí nghiệm để tin và nhất là để có thể dấn thân. Đức Kitô không ngại hiến thân cho yêu sách của họ. Chính vì thế, ta có thể gặp thấy các tập sinh còn đầy khuyết điểm không chối cãi được và cũng đầy hồng ân không chối cãi được. Họ có thể nói như thánh Gioan tông đồ: “Tay chúng tôi đã sờ được Lời của sự sống...”. Dầu có bao nhiêu khuyết điểm, họ cũng đầy ước muốn và những khả năng từ bỏ tất cả vì Người đang lôi cuốn họ.
II. TỰ DO
“Chúa là Tinh Thần. Đâu có Tinh Thần Thiên Chúa, ở đó có tự do”. Chân lý mà Têrêsa rất thân thương này chìm dưới những lời giáo huấn của Chị, mà các em tập sinh còn ghi lại được. Thực ra, tự do và từ khước là hai yêu sách chính biểu hiện qua biết bao đường nét của chúng ta, đã là những âm chính trong giáo huấn của Chị. Nguyên tắc nào giúp Chị xây dựng và bổ túc cho tự do và từ khước, nếu không phải nguyên tắc này: Không là Giêsu thì chỉ là Hư vô; phải thoát ra, để nhường chỗ cho một mình Giêsu. Êm đềm, nhưng kiên trì bất tức, thiếu nữ Cát Minh này gạt bỏ hết những gì có vẻ vướng chân các tập sinh của Cô. Thấy em nào băn khoăn chuyện gì đó, Cô bảo: “Cái đó đâu phải Thiên Chúa”. Cô bảo em khác quá hăng say, quá tự nhiên tìm kiếm: “Không nên làm như thế”. Luôn luôn Cô dặn: “Phải trông, phải mong muốn Chúa, phải để Ngài làm”. Nhưng thật khó cho các em hiểu họ cần tự do tinh thần biết bao! Phải khôn ngoan đến mấy để giúp họ phân biệt được phản diện của lơ là. Phải cương quyết bao nhiêu để cho họ thắng bản thân! Têrêsa nồng nhiệt muốn cho các em biết tước sạch nội tâm, tự do tinh thần, vì chúng tạo vùng trời không trở ngại cho lòng thành thực ước muốn Thiên Chúa. Chính Chị đã kinh nghiệm trong đời mình rằng những đức tính đó cần thiết làm sao. Để theo đường lối Thiên Chúa vạch cho mình, Têrêsa đã phải trút bỏ đa số tư tưởng cố hữu, cũng như những thói quen thịnh hành quanh mình mà không bởi Luật Dòng. Đã có thời Chị tin là tốt, nhưng rồi có ngày Chị phải nhìn nhận rằng những tập tục đó không thuộc luồng ân sủng. Têrêsa biết phải có những điều kiện nào của khiêm tốn, phục tùng và trung tín thì tự do tinh thần mới không là ảo ảnh, nên chúng ta thấy Chị cương quyết duy trì cho các em tập sinh. Dầu việc giải phóng này đòi can đảm lắm, Têrêsa vẫn không ngại làm cho xong, vì Chị biết thành quả của nó. Têrêsa không chấp nhận điều gì đi ngược, hoặc làm mệt hoặc gây rối các em cách vô ích. Chị muốn làm cho các em chỉ còn ước muốn Chúa cách tinh tuyền, chỉ đơn giản nhìn Chúa. Chị đặt nguyên tắc: “Không nên dùng những phương pháp phức tạp cho những tâm hồn đơn sơ”. Chị xua đuổi tất cả những gì gây bất an và căng thẳng trong mọi lãnh vực, để có thể hiệp nhất với Thiên Chúa, cầu nguyện, tìm kiếm toàn thiện và hy sinh nữa. Têrêsa luôn giới thiệu Thiên Chúa và thúc đẩy tới Ngài, không dừng lại ở những phương pháp. Duy Thiên Chúa là mục tiêu, là Tất Cả; các phương pháp chỉ có giá trị và chỉ quan trọng trong mức độ Chúa muốn. Một tập sinh phàn nàn vì không chú ý đủ để minh bạch hướng lòng mình về Thiên Chúa và không biết thưa Chúa làm sao về những gì mình muốn. Chị an ủi: “Đường hướng này không cần thiết cho một tâm hồn đã hoàn toàn phó thác cho Chúa. Tập trung tinh thần hẳn là tốt, nhưng từ từ, vì miễn cưỡng thì không tôn vinh Chúa Nhân Hiền. Ngài biết tất cả những tư tưởng đẹp và những kiểu nói yêu thương mà chúng ta muốn tìm ra để tặng Ngài, và Ngài vui với những ước muốn của chúng ta; Ngài không phải là CHA chúng ta và ta không phải những người CON nhỏ xíu của Ngài sao?” Ngài cũng không làm kinh nguyện thành phức tạp. Têrêsa coi cầu nguyện là “một công vụ yêu thương” “đó là việc cao cả, việc siêu nhiên, mở rộng tâm tư và hiệp nhất với Giêsu”. Đưa về yếu tính như thế, cầu nguyện thật là đơn giản, vì tất cả đều có thể trở thành yêu thương. Một em tập sinh phàn nàn vì những tâm tư phiêu lãng, Chị Giáo cho em thấy nên lợi dụng để cầu cho những người em đang bận tâm đó. Em khác lo ngại vì tưởng tượng của mình không cương toả. Têrêsa đáp: “Chị đón nhận tất cả vì yêu Chúa Nhân Hiền, mọi thứ tư tưởng lang thang cứ việc tới”. Khi người ta xin cầu theo một ý chỉ nào? - Cứ tự do, “Em không thể thưa rằng ‘Chúa ơi, con cầu cho Tổ quốc’ vv... Chúa nhân từ quá biết Ngài phải làm gì; em chỉ dâng Chúa tất cả để Ngài vui lòng. Em thấy mệt khi phải thưa rằng: Kinh này cho Phêrô, kinh này cho Phaolô... Có Chị nào xin thì em chỉ cầu thoáng qua, rồi thôi”. Tự do trong cầu nguyện, tự do cả trong việc tìm tới toàn thiện. Têrêsa muốn giải thoát các em khỏi những quan niệm chật hẹp của họ. Một lần Mẹ Agnès có ý kiến về một số thực hành sùng kính hoặc toàn thiện, tham khảo nhiều tác giả tu đức, mà họ làm nản. Têrêsa đáp: “Em chẳng thấy được gì trong các sách, ngoại trừ sách Tin Mừng. Cuốn này là đủ. Em sung sướng nghe lời này của Giêsu, lời nói cho em tất cả những gì em cần làm: ‘Hãy học tôi, người hiền và khiêm tốn thật lòng’, thế là em bình an”. Têrêsa luôn đấu tranh chống những thực hành - hoặc đúng hơn - chống ấn tượng rằng thánh thiện là do thực hành việc này, việc nọ, do tập được đức này, đức kia. Vì khi đó người ta bám vào những thực tập, chớ không bám vào Thiên Chúa. Như thế, dầu không cảm thấy, người ta cũng chậm bước rất nhiều trên đường về Chúa, Ngài là Duy Nhất cần thiết. Như thế, người ta làm yếu nhược ước muốn Chỉ Một Giêsu, phương tiện duy nhất hữu hiệu để tới Thiên Chúa. Trong cả việc hãm mình, Chị Giáo cũng dạy phải tự do. Têrêsa ưa chuộng một cái nhìn thoải mái lên Thiên Chúa hơn là những gì gò ép trái tim và chiếm đoạt tâm trí. Vì - có cần phải nói không? - không phải để cho các em tập sinh muốn hoặc đòi hỏi tự do thế nào cũng được; cũng không phải tự do chọn điều ít hoàn hảo hơn hoặc dễ chịu hơn. Đây là tự do tinh thần chân chính, tự do theo Thánh Thần, mà chính Chị đã giải thích như sau: “Vì tất cả mọi người đã theo tác động của Thánh Thần nên Chúa đã nói: Hãy nói với người công chính rằng mọi sự đều tốt. Vâng, tất cả đều tốt khi người ta chỉ tìm Thánh Ý”. Mà đâu là thánh ý Chúa, nếu không phải thiết lập giữa Ngài và con người cuộc tiếp xúc thường tồn, cuộc trao đổi tình yêu thực sự? Vậy mục đích mà Têrêsa theo đuổi chính là đào tạo và bảo trì những con người trong trạng thái nội tâm đơn giản và thanh thoát, để họ có thể chạy theo sức hút thần thánh mà không gì ngăn chặn, và cho họ một phạm vi ước muốn để Chúa gieo mầm quý trong họ. Có thể nói rằng Têrêsa liệu cho chính Thiên Chúa tự do lôi cuốn các em tập sinh của Chị một cách mãnh liệt nhất, hoạt động trong họ, không có gì trăng trói họ ngoài chính Ngài. Mặt khác, Chị Giáo tôn trọng Thiên Chúa và công cuộc khôn ngoan của Tình Yêu đến độ Chị muốn giải thoát cả trí óc: “Các em không cần hiểu Chúa Nhân Lành muốn làm gì trong các em, các em bé nhỏ quá mà!” Một ít lời trích ở trên chứng tỏ rằng không nên hiểu lầm thánh Têrêsa về ý nghĩa đích thực của lòng trung thành trong những sự nhỏ mọn. Lòng trung thành này không hệ ở chồng chất lên những thực hành hoặc những việc tôn sùng có tính giam hãm. Trung thành cũng không ở sự quá tỉ mỉ, làm cạn mất sinh lực. Giúp các tập sinh đạt tự do nội tâm, Têrêsa muốn dọn chỗ cho hơi thở của Thánh Thần. Đòi hỏi khiêm tốn trung thành hằng ngày, Chị dạy họ để tâm vào chữ mà chỉ một mình Thánh Thần làm sinh động được.
III. TỪ KHƯỚC
Muốn dọn chỗ cho Chúa, không phải bót nghẹt trái tim, nhưng không phải không cần từ chối những hài lòng tự nhiên. Chính vì thế, song song với tự do nội tâm và để tự do nội tâm khỏi lầm lẫn, Têrêsa đòi các em thật cảnh giác hy sinh. Chị không muốn bẻ gẫy họ, chà đạp nhân vị họ. Khuyến khích họ từ khước, Chị chỉ muốn họ rộng mở đón Chúa, cho phép Tình Yêu triển nơ không giới hạn trong họ. Nhất định Chị Giáo trẻ này rất nghiêm chỉnh đòi hỏi hy sinh, Chị muốn đào tạo các em thật vững ở đây, Chị muốn họ chết đối với tất cả những gì không là Thiên Chúa, nên Chị chỉnh ngay những thiếu sót khi chợt thấy. Chị còn cứng tay sửa phạt nữa, nhưng Chị chỉ làm bằng cách chỉ cho họ thấy diện tích cực: Tình Yêu. Một em tập tu kể: “Một ngày lễ, tại nhà cơm, em bị bỏ quên, không được phần tráng miệng như các chị em khác. Mà em khoái thứ tráng miệng này. Sau khi ăn, em đi tìm Chị Têrêsa và thấy đứng cạnh Chị là chính bạn ngồi cạnh em nên em thẳng thắn cho chị bạn biết đã thiếu quan tâm. Nghe em nói rồi, Chị Têrêsa bắt em đi xin phần tráng miệng từ chị phục vụ; em năn nỉ Chị đừng làm nhục em như thế, Chị nghiêm khắc đáp: ‘Đây là hình phạt cho em. Em không xứng với những hy sinh mà Chúa Nhân Hiền xin em: Chính Ngài đã cho phép quên, em lại đòi, làm Ngài thất vọng’. Em có thể nói rằng suốt đời em, bài học đó vẫn sinh hoa quả”. Ngồi cạnh Chị trong phòng ăn là cô em họ Marie. Chị thường phải nhắc cho cô bé này nhìn xuống: “Em sẽ chẳng bao giờ biết nhìn xuống, nếu em không ghi trên chuỗi thực ập của em mỗi khi em thiếu sót. Chỉ có một phương pháp... Vì yêu Chúa, em không muốn nhìn xuống sao? Cứ nghĩ rằng em làm một hành động yêu thương khi em không ngước mắt lên... Cứ nghĩ rằng em cứu một linh hồn”. Chúng ta quá biết Têrêsa trung thành với các thói quen nho nhỏ, miễn là chúng vẫn hữu ích khi nhấn mạnh tới. Nhưng phải ghi nhận điều quan trọng là Chị không lưu ý vì thói quen bên ngoài, mà chính vì trực tiếp từ lòng Chị. Thực thế, một thói tục chỉ còn hình thức thôi, thì giá trị gì? Không gì hết! Giao tiếp với Thiên Chúa là tất cả. Vậy thì sự khước từ mà Têrêsa đòi hỏi chỉ là để có cái nhìn nội tâm hoàn toàn hướng về Thiên Chúa. Tình Yêu cháy trong Chị, vì thế cái nhìn có vẻ thật sắc bén, thật trung tín trong cả những chuyện nhỏ, thật to lớn và đồng thời thật ít gò bó. Khởi đầu chưa được thế. Nhờ kinh nghiệm, Têrêsa biết rằng phải có thời gian và đào tạo cứng mới tới được mức tập trung thoải mái này. Không đòi toàn hảo ngay, nhưng Chị luôn đề cao lý do sâu xa khiến Chị đòi hỏi. Bởi “hiệp nhất với Chúa là một trong những điều căn dặn đặc biệt của Chị”, nên Chị sửa lỗi một em tập tu khi em hát thánh vịnh cách lơ đãng, một em khác khi ngồi không chỉnh; sau đó, Chị buồn buồn bảo: “... Ồ, thật hiếm thấy những nữ tu không coi thường chuyện ngày chuyện khác vì tự nhủ ‘ai bắt phải như thế’... Không ai bảo đây là lỗi lớn, nhưng Chị mong được như thế... Thật ít có người làm hết sức trong mọi chuyện!” Không lúc nào trong ngày người ta được quyền quên Chúa. Têrêsa kêu gọi Chị Marie de l’Eucharistie quên mình ngay cả trong lúc giải trí: “Em đi giải trí để làm gì? Tìm vui vẻ, dễ chịu? Phải tới đó cũng như tới những hoạt động khác của cộng đoàn. Em vẫn phải trung thành chăm chỉ như thường. Ra khỏi nhà cơm, em phải tới ngay chỗ giải trí, em không được phép ngưng ở chuyện gì, dầu một phút để nói vài câu với một chị... Cả khi giải trí cũng luyện tập nhân đức, hãy dễ thương với mọi người, dù đang ở cạnh ai; vui vì đức tính, chứ không vì bốc đồng. Đang buồn, em hãy tự quên mình đi, mà tỏ ra vui vẻ. Cứ như là giờ chơi thì chỉ tìm vui vẻ, không nhớ tưởng gì tới đức độ và không quan tâm tới Thiên Chúa nữa! Không, đó cũng là một tập luyện sống cộng đoàn như bất cứ việc nào khác. Đừng tha hoá, phải đức độ khi giải trí. Em phải hy sinh: Không kè kè bên những chị em yêu thích. “Đúng, bao giờ em cũng phải là em riêng biệt. Vui trong giải trí thì tốt thôi, nhưng có cách vui của nữ tu, làm khuây khoả người khác. Đôi lúc em vui như điên, em tin rằng thế là làm các chị vui. Phải, họ cười với những trò điên của em, nhưng như thế đâu có xây dựng... Phải bác ái, phải tiên liệu... Trường hợp nào cũng nên phục vụ: một em tập sinh phải luôn phục vụ quá một chút. Vậy mới dễ thương!” Têrêsa đòi các tập sinh để hết tâm vào hành động của họ, vì “không yêu, thì tất cả là không” (thánh Têrêsa Avila). Có thế ít người thấy rằng Chị luôn hoạt động để nâng cao trái tim họ. Chuyện khước từ này không dễ dàng gì! Với tâm lý tinh tế, Chị chú trọng nhất là giúp các em sống vượt trên ngàn tỉ mỉ, mà thành quan trọng trong cuộc sống đều đều và đóng khung. Trong cuộc sống như thế, đôi khi những nhỏ mọn bất ngờ nhất cũng tạo thành cơn lốc trong ly nước, đuổi theo chuyện tầm phào cũng dám nhận chìm lòng ước mong Thiên Chúa. Têrêsa khẩn trương, thí dụ: “đày” các em khỏi vùng nhu cầu thấp kém, rút lui khỏi những gì mình thấy quá thiết thân. Cái đó không phải Chúa! Điều đó không được làm em thoáng quên Ngài! “Em quá vong thân trong hoạt động, em quá băn khoăn về công việc... Lúc này em có quan tâm về những gì đang diễn ra trong các đan viện Cát Minh khác không? Các nữ tu đó bận bịu không? Công việc của họ có ngăn cản việc cầu nguyện của em không? Chứ sao! Em cũng phải tự lưu đày khỏi nhu cầu cá nhân của em, nên ý thức dùng trọn thời gian dành cho công việc, nhưng trái tim thanh thoát. Chỉ nên làm việc một tay, còn tay kia bảo vệ tâm hồn khỏi xao lãng, khỏi trở ngại hiệp nhất với Chúa Nhân Hiền”. Têrêsa còn xuống sâu hơn nữa. Không bằng lòng chỉ kêu gọi các em bỏ những thái độ và bận bịu bên ngoài, Chị còn muốn nhất là các em thoát những cảm giác thanh lọc sai và quá phàm tục. Chị biết công việc này tinh tế, mà cần thiết. Bao nhiêu có thể, phải thanh tẩy đáy lòng và dọn sạch nơi Chúa đến. Có lẽ không phạm vi nào Têrêsa vừa dịu ngọt vừa cương quyết bằng phạm vi này. Cương quyết, không khi nào Chị bỏ qua một vị kỷ mà không chỉnh, dầu nó ngoắt ngoéo và tinh vi đến mấy. Dịu dàng, Chị không trực chiến, không chọc tức, nhưng Chị giải thích, dẫn dụ, đơn giản trình bày tâm tư của Chị để thức tỉnh ước muốn yêu thương. Khi cô em họ, quá lo cho mình, tìm Chị để giãi bày vài thắc mắc, Têrêsa đáp: “Chị xin em, hãy bớt nghĩ về mình, hãy chú tâm yêu Chúa Nhân Hiền và tự buông em ra. Tất cả những bối rối của em đều do tìm mình quá đáng. Bao buồn phiền, khổ sở của em đều về chính em. Thật luẩn quẩn. Đây, Chị xin em: quên mình đi, hãy để tâm cứu các linh hồn!” Chị kêu gọi hy sinh về tình cảm, về phán đoán, về tự ái, và hy sinh không giới hạn, vì Chị chắc chắn rằng nếu chúng ta quá để tâm về mình, nếu chúng ta theo đuổi mọi hướng chiều của mình, chúng ta không có khả năng tìm Chúa và sống với Ngài như Ngài muốn. Têrêsa tập sinh đã bảo chị Marthe, quá lưu luyến Mẹ Bề trên, rằng: “Nếu Chị cứ phải cư xử như vậy hoài, chẳng thà Chị cứ ở giữa đời!” Chỉ mỉm cười trước những tự hào của các em và Chị biết dùng lời chỉnh, để các em thấy tính lệ thuộc của thụ tạo và vô biên của Thiên Chúa. Có ngày một em tập tu hãnh diện vì mình đã chỉnh đốn được tư tưởng, Têrêsa kêu lên: “A! Em đang ‘tiếp thị’ rồi... Em thì em ớn nghề này lắm; em thích cùng Chúa nhắc lại rằng Con không tìm vinh danh Con, người nào khác sẽ lo chuyện đó”. Thấy các em lo hoặc buồn vì người khác phê bình, Chị tỏ ra thông cảm, nhưng vẫn sắc bén: “Phải như thế. Người ta phải thấy các em luôn luôn khuyết điểm, mới lợi ích cho các em... Người ta bảo các em chẳng có đức tính gì, thì các em có mất gì đâu, có nghèo thêm đâu. Chính họ mới mất niềm vui nội tâm, vì không gì êm ngọt bằng nghĩ người bên cạnh tốt”. “Khi chúng ta bị hiểu lầm và phê phán xấu, tự vệ làm gì, giải thích làm gì? Cho qua, đừng nói gì. Để mặc người phê phán, mà mình không nói gì, thì thật thú vị! Trong Tin Mừng, ta đâu thấy thánh Mađalêna giãi bày gì kh chị bị tố cáo vì ngồi miết bên chân Giêsu”. “Phải vươn lên trên những gì các chị nói, những gì các chị làm... Phải ở trong đan viện này như ta chỉ được ở hai ngày thôi”. Bận tâm vô bổ, kiếm tìm phù phiếm, những thứ đó không phải Thiên Chúa, mà Thiên Chúa mới quan trọng! Qua mọi hình sắc, Têrêsa hướng các em thẳng về một mình Ngài. Nhưng Chị cũng không kém lưu ý hướng dẫn các em về tất cả những hoạt động trực thuộc phạm vi tâm linh. Ở đây, và đặc biệt ở đây, Chị muốn ta chỉ liên kết với Chúa, nên khước từ phải rất thành tâm. Một em thích vào “sa mạc” để hưởng chút nghỉ ngơi, Chị bảo: “Em vào để nghỉ ngơi à? Chị thì Chị vào để trọn hiến hơn nữa cho Chúa Nhân Hiền... Em nên nhớ lời rất đúng này của sách Gương Chúa Giêsu ‘khi tự tìm mình, người ta liền ngưng yêu mến’”. Một em khác hỏi Chị về linh hướng. Chị đáp: “Chị nghĩ phải thật lưu ý đừng tự tìm mình, vì như thế trái tim mình sẽ bị thương và có thể nói rằng ‘Bọn lính canh đã giật áo choàng của em và đả thương em... phải qua đó một lát rồi em mới gặp Người Yêu’. Em cho rằng: Nếu tâm hồn khiêm tốn hỏi những người gác cho biết Người Yêu ở đâu, hẳn họ chỉ nơi Người ở, nhưng vì muốn làm dáng với họ, cô đã bị lôi thôi, cô đã mất sự đơn giản của lòng mình!” Têrêsa không ngần ngại lột trần dáng vẻ thánh thiện nhất khi các em tự tìm mình. Một em muốn nhớ từng đoạn Thánh Kinh đã được nghe Chị bảo: “A! Em làm giàu, em có tài sản! Dựa vào đó là dựa vào sắt nung, chỉ để lại vết sẹo nhỏ! Không cần dựa vào gì hết, kể cả điều gì có thể giúp mình thêm đạo đức. ‘Không gì hết’ chính là sự thật, là không ước muốn, không cảm thấy vui. Khi đó sẽ sung sướng. Sách Gương Chúa Giêsu than: Tìm đâu ra người hoàn toàn thoát cái bỉ ổi tự tìm mình!” Chị cũng mang ý chí tinh tuyền này khi lãnh nhận các bí tích: “Em hiến thân cho Giêsu không như người muốn Ngài đến thăm để mình được an ủi, trái lại, chỉ để làm vui Đấng tự hiến cho em”. Chị khuyên các em cũng hành động như thế: Hiệp lễ vì Giêsu thích hiến thân, không vì muốn mình hưởng êm ngọt nào. “Giêsu trong nhà tạm đó rõ ràng vì em, vì một mình em thôi, Ngài tha thiết muốn vào trong trái tim em”. “Đừng buồn gì vì không cảm thấy an ủi nào khi hiệp lễ. Đây là một thanh luyện mình phải chịu bằng yêu thương”. Tự khước từ đến cả những tương quan với Thiên Chúa như thế, Têrêsa chuẩn bị cho các em của Người cuộc sống tâm linh chính thực. Chị chỉ nói đến tự khước trong tương quan hiệp nhất với Thiên Chúa; nhưng phải hiểu đó là điều kiện không thể thiếu để Chúa hoạt động, mà hoạt động Ngài là duy nhất quan trọng. Chị viết: “Chúa chúng ta, Thượng Khách của lòng ta, biết rõ (tự ta, ta chẳng thể làm gì), Ngài đến trong ta chỉ để tìm một chỗ, một lều trống trơn giữa bãi chiến trần gian. Ngài chỉ đòi có thể”, chính Ngài đảm nhận những gì con thiếu. Giáo huấn như thế có âm vang tuyệt đối. Thực thế, Têrêsa đòi các em khổ luyện nội tâm gắt gao hơn hết, gắt hơn bất cứ việc đền tội nào trên thân xác. Dạy họ “tất cả thụ tạo hư vô” để nhường chỗ cho “tự hữu thực tại”. Tập họ quen sống một mình dưới cặp mắt Thiên Chúa, Têrêsa đến tận gốc rễ, việc đào sâu này mang kết quả hiển nhiên. Đào tạo như thế sẽ in đậm nét suốt đời. Bám chặt vào Đấng không thay đổi, các tập sinh sẽ không cảm thấy chao đảo ngày mà họ phải rời bỏ tập viện để vĩnh viễn dấn thân, họ thấy tự nguyện hơn. Cuộc sống và có thể cả những nhiệm vụ mới không đẩy họ cuốn theo chiều gió giáo thuyết hoặc tự co cụm lại, nhưng hùng dũng, ý thức minh bạch về chân giá trị vạn vật, họ có khả năng chỉ hành động vì yêu. Công việc mới sẽ ảnh hưởng gì trên họ? Bề trên mới và có khi cả đan viện mới sẽ ảnh hưởng gì trên họ? (Đây là những hy sinh to lớn thường làm trật đường cả người nữ tu vững vàng). Với ước muốn tự khước từ không giới hạn, với xác tín rằng những phương tiện tốt nhất tự chúng cũng chẳng là gì, họ sẽ trải qua tất cả, vẫn giản đơn và vững mạnh kiếm tìm một mình Thiên Chúa. Đào tạo phương phú, cho con người sức đẩy khởi hành thật mạnh và thật tinh khiết đủ để suốt đường đời vẫn trung thành theo Chúa và đi tới cùng sứ mạng. Đào tạo cao quý chuẩn bị họ cho tất cả những cuộc tấn công của Tình Yêu và những đòi hỏi của tình yêu mai đây. Bởi đây mới chỉ là lối vào đời sống tâm linh.
Têrêsa mãi hoài xin các em nhận định tính tuyệt đối của Thiên Chúa và tính tương đối của muôn vật, để thúc đẩy trong các em ước muốn chân thành yêu Giêsu và chỉ sống cho một mình Ngài. Chị Giáo hẳn rất thân tín rằng không có ước muốn kiên vững và tinh tuyền này thì chẳng làm được gì, mà đã định hướng quảng đại này rồi thì tất cả thực sự bắt đầu. Đã tới lúc phải trao cho các em một Điểm tựa vững chắc, một Dinh Dưỡng thường hằng cho ước muốn này. Vì khi chúng ta đã có những cố gắng cần thiết tự khước từ, thì Thiên Chúa nhập cuộc để thanh luyện chúng ta. Têrêsa thấy các em tập sinh gặp đủ loại khó khăn, qua đó, Chị phái hướng dẫn các em tới hiệp nhất yêu thương vững bền và dứt khoát. Đây là lúc Tin ở tình yêu chủ trì.
I. TÊRÊSA TIN Ở TÌNH YÊU NÀO
Têrêsa miệt mài phát giác Gương mặt Tình Yêu đang nghiêng xuống trên Chị. Chị đã muốn nhận ra Người để luôn mãi yêu Người hơn và làm cho Người được yêu như Người đáng yêu. Tuy Chị không viết sách bàn về tình yêu, nhưng nhận thức của Chị lấp lánh trên những trang Chị viết với những dòng rung động. Qua các thư tín và bản thảo của Chị, thật dễ nhận ra tình yêu mà Chị ôm ấp. Tình yêu đích thực Trước hết, đây là tình yêu của người với người. Thiên Chúa tự Ngài thực tế hơn, cá vị hơn tất cả các nhân vật chúng ta có thể tưởng tượng trong vũ trụ này. Các nhân vật thụ tạo chỉ thành danh nhờ chút xíu giống Đấng tạo thành mình. Vậy mà Thiên Chúa cá vị siêu tuyệt này lại chính là Tình Yêu, Ngài thân mật với chúng ta hơn chính chúng ta! Thành quả của những ân lộc thần bí đầu tiên là mạc khải cho ta Thiên Chúa như một người yêu chúng ta. Đáng tiếc là cuộc sống thường nhật dễ làm tan bay nhận thức quý báu này! Têrêsa đã nồng nhiệt bám vào Thiên Chúa và chúng ta thấy Người sống lòng bên lòng liên lỉ với Chúa: “Em nghĩ rằng không hề có ba phút qua mà em không tưởng tới Chúa Nhân Hiền”. Chị biết rằng Thiên Chúa là Tạo Hoá và CHA, Ngài an nghỉ trong sâu thẳm hiện hữu của Ngài, mà là Đấng Toàn Năng, vô cùng Minh Triết và Tốt Lành, Ngài đặt tất cả quyền năng, Minh Triết và Tốt Lành phục vụ cho tình Ngài yêu Chị. Chị nói về chính Chị: “Dầu chuyện gì đến cho nó, nó chỉ muốn nhìn như bàn tay dịu hiền của Giêsu”. Đối với Têrêsa, Thiên Chúa là Giêsu và Giêsu là Tất Cả của Chị. Chị sống với Ngài hết sức thân mật. Trong âm thầm cầu nguyện, Chị ưa gọi Ngài bằng “Anh” [“TU”]. Chị hiệp nhất vớ thời thơ ấu và nhất là với đau khổ của Ngài. Sống cuộc sống mà Ngài thông ban cho Chị, Chị đi vào cộng đồng thần thánh. Người ta đã nhận ra, trong những năm cuối đời Người, thánh nữ có tâm hướng rất mạnh về Ba Ngôi. Ta cảm thấy Chị sống với những quan hệ riêng biệt với từng Ngôi trong Tam Vị. Đức tin của Chị khi đó thật mãnh liệt nên Chị có thể hiệp nhất cao độ hết sức mơ ước ở đời: “Em không thấy rõ sau khi chết em được gì hơn bây giờ... Em sẽ nhìn thấy Chúa Nhân Hiền, vâng đúng! Còn ở với Ngài, thì ngay trên mặt đất này, em đang ở với Ngài rồi đây”. Nếu Têrêsa yêu Chúa như Tri Kỷ đang sống và rất gần, thì Chị cũng ý thức rằng mình được yêu một cách rất đặc biệt. Trái tìm thần thánh đó đập riêng cho Chị: “Em, em không nhìn Thánh Tâm như mọi người. Em tưởng rằng trái tim Lang Quân của em là của riêng em, như tim em là của riêng Ngài, và như thế em nói với Ngài trong cô tịch của đôi lòng, trong khi đợi ngày diện đối diện ngắm nhìn Ngài”. Những quan hệ giữa Giêsu và Têrêsa thật sống động, đượm tình đôi bên săn sóc Người Yêu, trân trọng hơn hết. “Giêsu của em, có thể chỉ là ảo tưởng, nhưng em thấy như Ngài không thể đổ đầy tình yêu cho lòng ai hơn cho lòng em... Em không thể tưởng có một đại dương yêu thương nào mênh mông hơn tình yêu Ngài tràn lan cho em chẳng cần em xứng hợp chút nào”. Tình yêu vô hạn Thiên Chúa vô biên chỉ thể yêu vô hạn. Những ân lộc Ngài ban thì khác nhau, nhưng tình yêu thúc đẩy Ngài ban ơn thì vẫn là một, vẫn là “sự êm dịu của tình yêu vô biên”. Mà cách tặng hoặc tặng phẩm quan trọng hơn? Một nhân vật có vẻ giàu hoặc nghèo, cao quý hoặc đê nhục trước mắt phàm nhân, Thiên Chúa vẫn yêu thương vô hạn. Têrêsa đinh ninh như thế. “Như mặt trời đồng thời chiếu soi những cây tùng và mỗi bông hoa nhỏ, như thể có mình nó trên mặt đất, Chúa cũng săn sóc riêng từng tâm hồn, như chẳng còn ai giống nó, nên... tất cả phù hợp với lợi ích của từng tâm hồn”. Vậy nên Têrêsa có thể chân thành nói với từng em rằng: “Giêsu dịu hiền yêu em hết lòng”. ... “Ồ, đúng, Giêsu yêu em”. Người còn phát biểu xác tín hơn: “Chúa Nhân Hiền yêu em và đối xử với em ưu ái... Em tưởng thánh Têrêsa đã được nhiều ân lộc hơn em sao?” Tình yêu vô điều kiện Không những vô hạn, tình yêu thần thánh còn tuyệt đối hiến dâng “dầu chúng ta chẳng xứng hợp gì”. Têrêsa nhìn nhận rằng “trong Chị, chẳng có gì đáng được Ngài để mắt tới”. Chị tự hỏi: Làm sao Thiên Chúa có thể yêu thương chúng ta? Ta có gì dâng tặng cho đáng thương? “Thắc mắc đầy huyền bí... Giêsu có lý gì để nói với chúng ta?... Lý của Ngài là vô lý...”. Không gì ép được Ngài yêu thọ tạo, ngoài lý do tự nguyện, vì Thiên Chúa không yêu kiểu phàm nhân. Con người yêu cái đáng yêu mình thấy nơi người kia, Thiên Chúa yêu cái mà Ngài đặt vào ta. Trước mặt Chúa, chúng ta chỉ có cái này là chúng ta được Ngài yêu. Nhưng nếu tình yêu Ngài không tuỳ thuộc sự tầm thường cũng như những lầm lỗi của ta thì ta có thể bình tĩnh tin tưởng biết mấy! Ta hiện hữu là một huyền nhiệm, mà là huyền nhiệm của tình yêu, không nực cười sao khi lượng định tình yêu thần thánh bằng những quy củ phàm nhân? Tuy thế, còn một đặc tính nữa của tình yêu đã lôi cuốn Têrêsa hơn hết và toả sáng cả đời Chị. Tình yêu mà Têrêsa tin, và hướng dẫn các tâm hồn tới, có đặc tính hơn hết là Tình Từ Bi mà chúng ta sẽ nghiên cứu ở chương sau. Tình yêu kêu gọi tình yêu “... Thế là ta yêu mến Thiên Chúa vì Ngài yêu ta trước”. Cũng như thánh Gioan (1Ga 4,19), Têrêsa kết luận thế. Dò tìm trái tim Chúa, Têrêsa khám phá ra yêu sách cơ bản của Tình Yêu. Chị được ân lộc tuyệt vời là hiểu “Giêsu muốn được yêu biết mấy”. Vì Chị đã tin ở Tình Yêu thần thánh đúng bản chất Tình Yêu này, nên Chị càng tin - theo kiểu nói của chúng ta - Chúa khát mong tình yêu của Chị và của mỗi thụ tạo mà vì họ Ngài đã tự hiến. “Giêsu khát tình yêu”. “Chính Ngài mong được chúng ta yêu, Ngài năn nỉ... Có thể nói Ngài chịu tuỳ lòng ta. Ngài không muốn nhận gì mà chúng ta không vui lòng trao tặng, mà tặng chút xíu gì thì Ngài cũng coi như quý lắm...”. Têrêsa chắc chắn mình được yêu, chính là mình được thèm khát vô cùng, Chị biết Giêsu đuổi theo tình Chị, Ngài đòi cho được trọn trái tim Chị. Lời mời mọc nóng bỏng của Tình Yêu vô biên và vô lý này là ánh sáng cuộc đời Têrêsa, cũng tạo thành phương pháp đào tạo hữu hiệu nhất của Chị. Có thể nói rằng Chị tin ở Tình Yêu, thế thôi. Tin Tình Yêu như suối nguồn cuộc sống, như phương pháp toàn thiện, như cây gậy đi đường. Tin Tình Yêu như mục tiêu duy nhất. Trên giường hấp hối, khi Chị nói lời tuyệt diệu này: “Em nói cả rồi... Chỉ Tình Yêu là đáng giá” thì hình như cũng chỉ có lời đó là đáng nghe. Xác tín này cũng thông truyền vào tất cả những ai đến gần Chị.
II. NIỀM TIN Ở TÌNH YÊU
Giúp các tập sinh nhận biết Tình Yêu thần thánh như chính bản chất Tình Yêu này, Têrêsa muốn gợi được nơi các em thái độ thích ứng với hiểu biết. Đó là TIN Ở TÌNH YÊU. Vậy thì trong tâm tư thánh nữ, niềm tin này đóng vai trò gì và có những tính chất nào? Têrêsa chỉ vai trò cơ bản cuộc sống tâm linh cho niềm tin này. Không tin ở Tình Yêu, thì lòng ước muốn Thiên Chúa sẽ khô héo trong tâm hồn, như cây mọc trên đất cạn. Tin sao thì cuộc sống vậy. Nhưng niềm tin ở tình yêu, như Têrêsa diễn tả và cuộc sống tâm linh đòi hỏi, thì vô cùng súc tích và phong phú. Đầu óc chấp nhận những chân lý mạc khải thôi, chưa đủ; phải bằng trọn con người mình tin tình yêu Chúa, tin những đường lối Ngài và những lời Ngài hứa. Phân tích gần hơn, ta thấy thái độ mà Têrêsa đòi hỏi nơi các em không phải một tác động lẻ loi của một nhân đức thần phú lẻ loi tin, cậy, mến; nhưng tác động tin yêu bám chặt Thiên Chúa, chờ đợi tất cả ở Ngài, vì Ngài là Tình Yêu. Niềm tin yêu này - thái độ thiết yếu riêng của tuổi thơ tinh thần, đức tính đầy chất Tin Mừng - chính là một tác động đơn giản của tâm hồn. Nhưng nó phải TUYỆT ĐỐI, cũng như bất cứ đức tính nào mà Têrêsa đòi hỏi. Rõ ràng Chị Giáo muốn xây dựng cuộc sống tâm linh trên đức tin trần trụi, sống động và trọn vẹn. Điểm tựa chân chính và trường tồn của một tâm hồn thèm muốn Thiên Chúa chỉ có thể là niềm tin dựa trên một Thiên Chúa và tình bất biến của Ngài, niềm tin cũng thành bất biến như Ngài. Têrêsa rất biết Thiên Chúa đã cho các em bao nhiêu ngọt ngào, họ hưởng được vì cảm thấy Ngài hiện diện yêu thương. Nhưng Chị cũng biết Chúa tỏ ra rút lui khi Ngài muốn họ vững mạnh, mà chuyện này thường diễn ra ngay khi vừa bước vào trong nội cấm. Bằng kinh nghiệm, Chị biết nghệ thuật thần linh, Chị nương tựa vào những ân lộc đã qua, vào dấu tích mà những ân lộc này lưu lại khi hương vị chúng tan bay. Thánh Gioan đã nói: “Chúng ta đã nhìn biết tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta và chúng ta tin ở tình yêu này”. Những người đã nghe được tiếng thâm tình nhất Chúa Giêsu gọi đi theo Ngài, đều cảm nghiệm được tình yêu Ngài, và ước muốn đáp lời đã dẫn họ tới cuộc sống tu trì. Hôm nay, trong thanh luyện, ước muốn đó như chìm vào đêm tối. Tư tưởng về tính bao la của Thiên Chúa không đủ thắp sáng, mà còn như đè bẹp. Chắc gì Ngài đã gọi. Ý thức mình thiếu thốn đào rỗng thêm và lạc hướng. Những thời khắc mệt mỏi, chán ngán và mịt mù gia tăng. Việc nên toàn thiện mang màu ảo tưởng. Cầu nguyện có lẽ chỉ tốn giờ, hại sức. Đau khổ vo tròn bóp bẹp con người. Lúc đó Têrêsa dấn thân vào nhiệm vụ nâng đỡ không ngơi, giữ tâm trí các em trong tình thương thần thánh luôn hiện diện, vượt trên tất cả mùi vị thơm ngon hoặc chát đắng. Niềm tin của các em, đã một thời dựa trên cảm hứng về tình Chúa, từ này phải tập trung dựa vào những gì họ đã biết về tình yêu. Chị gia cố cho lâu đài tâm linh mà Chúa bắt đầu xây lên. Nhưng ân huệ đã được rất có thể giúp các em giữ được niềm tin tưởng, không nên để cảnh hạn hán hiện giờ làm chao đảo. Têrêsa muốn các em dùng cuộc thanh luyện này để đạt niềm tin và không cần cảm giác nữa. Một niềm tin như niềm tin của Chị thì chân lý là đủ. “Lối Nhỏ của em không đòi nhìn thấy gì hết”. “Ồ, không! Em không muốn nhìn thấy Chúa trên trần gian này. Tuy thế, em vẫn yêu Ngài! Em cũng rất yêu Đức Mẹ và các thánh, mà em cũng không mong nhìn thấy các Ngài” Chị còn khẳng định hơn: “Em không muốn thấy Chúa và các thánh, em muốn cứ ở trong đêm tối của đức tin hơn là những người khác muốn thấy và hiểu”. Têrêsa muốn cho các em xác tín rằng sau khi đã được biết bao ơn Chúa như thế, các em phải sóng vững tin ở Tình Yêu hơn là đòi hỏi những bằng chứng khả giác, chọn bản chất đời sống siêu nhiên hơn là những an ủi. “Thật dễ chịu khi phục vụ Chúa trong đêm tối và thử thách, chúng ta chỉ có đời này để sống đức tin”. Theo học Têrêsa, thì phải tin Chúa trong chính Chúa, ước muốn Chúa vì Chúa, không dừng lại với những gì kém Chúa. Chỉ có ước muốn như thế và niềm tin như thế mới thuộc bình diện thần thánh, Ngài là Tình Yêu vô biên. Đặt để con người trên tất cả những ấn tượng khả giác thì cũng vẫn còn là việc khá tiêu cực. Têrêsa không ngưng tại đó. Từ niềm tin trần trụi này, Chị muốn làm niềm tin sống động; miệt mài lột bỏ, Chị cũng làm việc dưỡng nuôi. Các em Chị đã vào lối đường Chúa bằng chân thành ước muốn yêu Ngài, họ phải xác tín rằng mọi chuyện đến với họ đều do tình yêu; không một biến cố nào, dầu bộ tịch suy thoái hay phản động, có thể ngăn trở tình yêu. Tất cả được trao tặng chúng ta như phương tiện đến với Ngài. “Chúng tôi tin rằng muôn sự đồng quy về lợi ích cho những người yêu Chúa, họ đã được kêu gọi theo phương án của Ngài”. Nếu các tập sinh đứng vững trong niềm tin này, toàn cuộc sống tâm linh họ được bảo đảm; thiếu niềm tin này, không có chân trời nào khác thất vọng, ảo tưởng hoặc tầm thường. “Tất cả là ân lộc”. Các tác giả linh hướng đều cho thấy điểm rất mực quan trọng ở đây, trong giờ quyết định của việc đào tạo. Nhưng không dễ gì làm cho một người vốn quen phán đoán theo giác quan, quen yêu thương dễ dãi, bỗng thấy mình giáp mặt ngay chân lý trần trụi, tách lìa tình cảm và bắt buộc xây dựng trong đêm tối! Vậy mà tài năng của Têrêsa đã điều hành ở đây thật vững. Nhưng những thanh luyện từ đâu ùa vào các tập sinh? Tại sao tối tăm theo liền ánh sáng? Vào mùa xuân cuộc sống tâm linh, các em đã nhận diện Tình Yêu đã yêu các em: Vậy bây giờ các em phải tự biết mình với thực chất của mình. Từ đó phát sinh mọi đau khổ. Tình Yêu đã tự chiếu sáng trên Ngài, giờ đây chiếu vào cảnh nghèo nàn các em. Không biết điều này trước, các em sẽ không chịu đựng nổi khi thấy mình khốn nạn. Khổ nhất là trước đây Ngài tự mạc khải huy hoàng, lúc này Ngài ẩn núp để hiện ra trắng trợn những đáy sâu vị kỷ mà họ rớt xuống. Mặc cho họ không thấy Tình Yêu nữa và tất cả công trình lâm nguy; họ hãy không ngừng dõi theo Ngài, ánh sáng bỗng bừng lên, soi rõ Tình Yêu Từ Ái. Đối với Têrêsa, đây là giáo huấn tuyệt vời.
III. NHỮNG LỜI KHUYÊN CỦA TÊRÊSA
Các em tập sinh phải qua cuộc khủng hoảng. Dự tính của Têrêsa là làm cho thời gian này ngắn nhất và lợi ích nhất. Do đó, thay vì chìm ngụp trong lý thuyết, Chị làm việc cụ thể. Những lời khuyên của Chị minh định và thực hành. Qua các thư và ký ức được bảo tồn, ta thấy phương pháp của Têrêsa rất hợp với những gì Chị nói về Tình Yêu: Nhìn cắm vào Ngài, đồng thời biến vui buồn thành yêu thương. Đó là hai diện tương trợ của một hoạt động duy nhất: Tin ở Tình Yêu. Thái độ thứ nhất quy kết trí óc và ý chí vào Thiên Chúa, có vẻ thích hợp nhất để nâng đỡ đời sống cầu nguyện, thì thái độ thứ hai tốt nhất để sử dụng thụ tạo phục vụ Thiên Chúa. Têrêsa sử dụng cả hai bình diện để vừa củng cố các em trong tin tưởng rằng mình được yêu, vừa chắc chắn rằng Chúa vui thích tình yêu của họ. Đơn giản hoá như thế là việc cần thiết trong giai đoạn tâm linh này, dù trước đây không cần. Không phải lúc nhấn mạnh cho các em về những khuyết điểm nữa, Thiên Chúa là đủ! Phải tránh phức tạp làm mệt các em vô ích. Têrêsa không phủ nhận những khốn nạn các em như ra nơi bản thân, nhưng Chị đặt chúng dưới ánh sáng đức tin, khẳng định rằng cảnh nghèo nàn của họ là một lý do nữa để nhìn Tình Yêu. Chị không phủ nhận họ đau khổ, cũng không bảo đau khổ nhẹ nhàng, nhưng Chị dạy họ yêu Đấng vì yêu mà gởi đau khổ cho họ. Sau cùng, Chị không phủ nhận những khuyết điểm hoặc cách sống của người bên cạnh có thể tạo buồn khổ; nhưng Chị dạy yêu người đó trong thực trạng vì nhìn Đức Kitô trong người và chứng tỏ mình yêu Ngài. 1. Cái nhìn đức tin về Tình Yêu Trong lá thư tuyệt vời gởi Chị Marie, Têrêsa đã tượng trưng cuộc sống đức tin theo quan niệm của Chị; đó là “truyện con chim nhỏ”. Trong truyện, Chị diễn tả thái độ sâu lắng của tâm hồn bám chắc vào niềm tin ở tình yêu và buông theo khát vọng yêu thương dạt dào. “Dù quá nhỏ bé, em dám nhìn cắm vào Mặt Trời thần thánh, Mặt Trời tình yêu, nên tim em cảm thấy trong nó tất cả những khát vọng của phượng hoàng”. Rồi theo cách của Chị, Chị nhìn qua những trở ngại mà các tâm hồn thường gặp trên đường bay về Chúa: Chị thắng vượt tất cả nhờ kiên trì nhìn cắm vào Tình Yêu. Dầu yếu đuối thể chất gây buồn ngủ khi cầu nguyện, dầu bất lực và khốn nạn tinh thần ngăn mình lên với Chúa, dầu những bất trung kéo mình xa Ngài, dầu mọi thứ xao xuyến, thử thách, dụ dỗ, tối tăm trong lãnh vực tâm linh; chỉ có một việc phải làm, như Chị dạy, là tin rằng tất cả không ngăn cản tình yêu vẫn là tình yêu, không bỏ nhìn Ngài, hoặc vừa ý thức rằng mình rời Ngài thì trở lại ngay, hy vọng tất cả ở Tình Yêu này, không gì có thể chống lại Ngài và chúng ta nhận được mọi thứ từ Ngài. “Liều lĩnh táo bạo, (con chim nhỏ) nó muốn nhìn cắm vào Mặt Trời thần thánh của nó; nó chẳng sợ gì gió mưa; mà nếu mây mù che khuất tinh tú tình yêu của nó, con chim nhỏ không đổi hướng, nó biết rằng bên kia mây mù, mặt trời vẫn sáng, ánh mặt trời không thiếu một giây”. Muốn đức tin tự dưỡng và cường tráng qua tất cả những chướng ngại, và bám thật chắc vào Tình Yêu thần thánh mênh mông, Têrêsa muốn củng cố hiện hữu trên tất cả những biến đổi nội tâm và ngoại diện. 2. Biến tất cả thành tình yêu Têrêsa quá biết con người thường hướng cả về mình, thì “ra khỏi mình” là chuyện khó lắm. Chị vẫn gắng thực tế đưa tình yêu vào trung tâm những toan tính của các em, để giúp họ quên mình. Chị bảo họ đại khái thế này: Hãy tin Tình Yêu thương trong bất cứ phiền hà, nặng nhọc, khổ sở nào, vì nguồn gốc chúng đều do Tình Yêu vô hạn mà Giêsu dành cho chúng ta. Cũng phải tin rằng trong chính lúc này, trong thanh luyện, nghi ngờ và cám dỗ, Giêsu đang trông chờ em yêu Ngài. Để cho em gặp gì, Ngài cũng chỉ muốn tặng em cơ hội chứng minh tình yêu mới hơn, lớn hơn và tinh tuyền hơn. Têrêsa muốn các em xác tín rằng Chúa đánh giá cao vô cùng lới đáp của họ và họ đẹp lòng Người Yêu chính khi họ gặp khó khăn, khi khám phá ra mình không sao yêu được, khi nghi ngại vì tình mình quá bạc nhược, câm nín và mong manh. Đêm tối và thử thách làm mình thấy mình yếu kém, chính là lúc thuận lợi để yêu; phải làm lợi ngay, như những “kẻ hà tiện”. Khi tập sinh hoặc các chị em gặp khuyết điểm hoặc yếu kém mà đến than với Chị, Têrêsa khuyến khích họ vững mạnh trong tình yêu. Chị chỉ có câu trả lời duy nhất đó... Một tập sinh thưa: “Em nản vì thấy mình nhát quá!” Chị Giáo đáp: “Em than tiếc về chính điều làm em sung sướng hơn. Còn gì là xứng hợp nếu em chỉ phải chiến đấu khi cảm thấy can đảm? Không thì đã sao nếu em cứ hành động như mình có? Nếu em cảm thấy quá mệt để lượm một sợi chỉ, mà em cứ lượm vì yêu Giêsu, thì em đáng công hơn có hành động hào hùng trong lúc hăng say. Vậy thì, thay vì buồn, em phải vui lên khi thấy mình yếu kém, Giêsu nhân hiền đang cho em cơ hội để cứu nhiều linh hồn hơn’. Têrêsa không ngưng tại đó. Từ chính những khuyết điểm và buồn chán mà các em cảm thấy, Têrêsa muốn các em rút ra tình yêu. Khi Mẹ Agnès de Jésus nói về những ý buồn nản của mình với Têrêsa, Chị khẳng định: “Chị đã không làm như em. Khi em lỡ phạm lỗi làm em buồn, em biết rằng nỗi buồn đó do em thiếu trung thành. Nhưng Chị bảo em cứ buồn hoài à? Ồ không, không thế được! Em vội thưa Chúa Nhân Hiền rằng: Chúa ơi, con biết con đáng buồn; nhưng xin cứ để con dâng nỗi buồn này cho Chúa, như một thanh luyện mà Chúa gởi cho con vì yêu. Con hối lỗi, nhưng con hài lòng vì có đau khổ để hiến dâng”. Hơn bất cứ loại nào, những thanh luyện nội tâm, những cám dỗ được Têrêsa coi như “những cơ hội chứng minh tình mình yêu Giêsu”. Chị biết con người: trong những lúc nghi ngờ và mệt mỏi, khó mà tin thực sự mình yêu Chúa, tin Chúa yêu mình. Một em tập có thể nức nở: “Chúa yêu em, em biết lắm, nhưng chính em lại không yêu Ngài!” Cảm giác không kiểm soát được tình siêu nhiên. Tình đi trước cả khi ân thánh mách bảo lòng chúng ta: Mỗi lần chúng ta muốn yêu, chúng ta đang thực sự yêu đấy. Muốn tin rằng tình yêu không cảm giác làm hài lòng và lôi kéo Chúa thì cũng phải có lòng tin mạnh như tin rằng Chúa yêu chúng ta. Làm cho các em tin vững chắc, vượt mọi ấn tượng, có lẽ là mục tiêu cua Têrêsa hiện nay. Bằng cách đó, Chị trấn an họ và cứu ước muốn yêu vào đúng lúc nó bị tấn công trực tiếp. Dạy các em đừng bao giờ thẩm định mức độ kết hợp với Chúa bằng cảm giác nhiệm thành hoặc khô khan, Chị giục họ cố kết trí lòng với Tình Yêu như Tình Yêu hiện hình trước họ. Chị gắng làm họ hiểu rằng hiệp nhất với Chúa không gì khác hơn hoàn toàn đồng quan điểm, ước mong, ý chí, để rồi hoàn toàn quên chính bản thân vì Người Yêu của mình. Nếu Chúa muốn, trong hiệp nhất thần bí, người ta có thể hưởng được sự hiện diện của Người Yêu và vui vì thân mật với Ngài. Trong hiệp nhất thầm lặng của cuộc sống hằng ngày, người ta vẫn thực sự thuộc về Ngài, trong tình yêu tinh khiết mạnh như sự chết, vẫn sóng nhờ ân lộc của Ngài, tuy không thưởng thức được gì. Nhưng hiệp nhất thường ngày cũng không quá ẩn kín đến nỗi không có lúc mang lại tối thiểu ân lộc thần bí, mách bảo rằng Thiên Chúa vui với tình yêu trầm lặng này: Tâm trí yên vững và thân thương, đáy lòng rung động vì cảm nhận rằng mình được Ngài làm chủ đến tận gốc rễ: “Giêsu núp, nhưng người ta đoán được Ngài”. Khi hiểu được yêu trong niềm tin, ta có ấn tượng rằng Têrêsa đã nhờ ân thánh mà trút hết những phụ thuộc để chỉ còn phần tinh tuý nhất, chân xác nhất của ước muốn yêu đương. Những ghì vô bổ đã rơi rớt hết vì sức mạnh khi bay vút lên Tình Yêu. Ước muốn yêu thương lúc này bừng cháy nên không gì thoả mãn được. Têrêsa có thể viết thay cho tất cả các em: “Hiểu rằng cái khát yêu thương nung nấu Ngài, chúng con muốn có tình yêu vô hạn để giải khát cho Ngài”. Chúng ta sẽ thấy Chị gắng giúp các em làm tròn ước nguyện bằng cách dâng các em cho Tình Yêu. Đó là bước cuối cùng mở ra cho các em cuộc sống tâm linh mãnh liệt nhất và vững bền nhất. *****
Tất nhiên trong thời thanh luyện các em cảm thấy mình khốn nạn, nhưng chân thành thèm muốn yêu Chúa giữ được một niềm tin sống động vào tình yêu. Têrêsa sẽ giúp họ kiên trì trong những quyết tâm này, bằng cách đề nghị họ hiến thân cho Tình Từ Ái. Nhờ hành động này, con người được nắm bắt đến tận những đáy sâu của mình, và cuộc sống tâm linh chân chính bắt đầu. Têrêsa cũng tỏ ra cổ động mỗi người tuỳ sức mình mà mau mau tới đó. Hẳn là không có ước vọng siêu nhiên và chân thành yêu Chúa, thì lời mời gọi hiến thân sẽ trật và bất động; không trọn tin ở tình yêu, thì mời gọi này trống rỗng. Nhưng những điều kiện này lại có thể có ngay ở chặng đầu đời sống tâm linh. Thí dụ ở tội nhân lớn mới quy hồi, nơi một người thật bất toàn, đầy khuyết điểm, đầy khuynh hướng xấu, thậm chí sa ngã nặng nề.
I. TÌNH TỪ ÁI
Bằng việc dâng mình, Têrêsa tự hiến cho Tình Từ Ái, không được người đời biết đến, Chị chủ trương dẫn theo mình “một số lớn những tâm hồn nhỏ”. Để hiến thân, không cần phải là người đã tiến xa trên đường thánh thiện. Việc hiến dâng này có giá trị đào luyện; vì chỉ mình Giêsu phải hướng dẫn chúng ta. Têrêsa muốn người ta tự rộng mở cho Ngài, càng sớm càng tốt. Mới cưu mang dự định dâng mình và được Mẹ Agnès chấp thuận, Chị đã chia sẻ ngay phương án với Céline và mời đồng tiến. Chị không giữ riêng bí mật. Ngày 11.6.1895, Chị đọc bản kinh Dâng mình cho mình và cho Chị Geneviève, mới nhập Cát Minh được mươi tháng. Sau ít lâu, trong mùa cỏ, Têrêsa lại mời Chị Cả, Sr. Marie du Sacré-Coeur, làm theo. Đối với Sr Marie de la Trinité, Chị hành động khôn ngoan hơn. Gần sáu tháng sau, Chị mới cho biết việc dâng mình này. Em tập sinh quảng đại này “liền biểu lộ ước muốn noi gương Chị và định ngày mốt sẽ dâng mình”. Ta quen biết cô bé này nhờ cuốn “Conseils et souvenirs” (Những lời khuyên và ký ức) và nhơ Thư luân lưu. Tính khí mau lẹ và bộc phát, một chút xíu con nít, nhiệt thành mà dễ quỵ, đa cảm và hay nhè quá, khoái được yêu và chuộng, buồn khổ về những thiếu thốn của mình, quá sợ Chúa phán xét, mà cũng quá tin tưởng Têrêsa, hiển nhiên chưa phải nữ tu Cát Minh già giặn. Thời điểm ta nói đó, cô bé có mặt nào tốt? Rất chân thành ước muốn yêu Giêsu và thâm tính về những yếu kém của mình. Têrêsa đoán rằng chỉ cần cho cô biết mình đã tự hiến cho Tình Yêu là đủ cho cô tiến hành giống như mình. Nhưng khi còn một mình và nghĩ lại nỗi bất xứng của mình, em tập sinh này kết luận rằng em cần chuẩn bị lâu ngày hơn nữa cho việc tự hiến quan trọng như thế. Em trở lại tìm Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu, giải thích cho Chị những lý do khiến em hoãn dâng mình, Chị đáp: “Phải, đây là hành động quan trọng nhất chúng ta có thể nghĩ ra. Nhưng em biết việc chuẩn bị duy nhất mà Chúa Nhân Hiền đòi chúng ta làm không? Phải, đó chính là khiêm tốn nhìn nhận mình bất xứng. Mà Chúa đã cho em ơn này rồi, vậy thì em hãy dâng mình cho Ngài, đừng sợ. Sáng mai, sau cám tạ hiệp lễ, Chị sẽ ở lại cạnh em trong nhà nguyện, khi đó sẽ đặt Mình Thánh, trong khi em đọc kinh dâng mình, Chị sẽ dâng em cho Giêsu như một hiến vật nhỏ bé mà Chị đã sửa soạn cho Ngài”. Cứ thế, các tập sinh, mà Têrêsa trao cho Tình Yêu, càng thèm khát Thiên Chúa cách thuần khiết hơn, họ càng ý thức sâu sắc hơn những khuyết điểm của mình. Cả quan niệm này, đôi khi đe doạ việc họ băng mình tới Chúa, cũng được Têrêsa tuyên bố là chính điều kiện hiến thân cho Tình Từ Ái. Thư gởi Chị Marie du Sacré Coeur vang vọng cung giọng đó: “Xin Chị hiểu rằng để yêu Giêsu, để thành hiến lễ tình yêu, thì mình càng yếu kém, không ước vọng hoặc nhân đức (đây hiểu là ước vọng tử vì đạo hoặc làm những chuyện lớn), người ta cách thích hợp với những hoạt động của Tình Yêu thiêu huỷ và biến thể này. Thèm khát thành hiến lễ là đủ, nhưng phải đồng ý cứ nghèo hèn và bất lực; chuyện này lại khó, vì ‘tìm đâu ra người thực sự tinh thần nghèo khó? Phải tìm xa lắm’. Thánh Vịnh đã nói thế”. Tình Từ Ái là gì mà chuẩn bị như thế là thích hợp? Têrêsa có cảm giác sắc bén về lòng từ bi của Chúa, đó là đặc điểm: “Còn em, Ngài cho lòng từ bi vô biên, nên qua chính lòng từ ái này em chiêm ngắm và thờ lạy các toàn hảo thần thánh khác!... Thế là tất cả hiện ra trước mắt em đều lấp lánh tình yêu”. Thiên Chúa yêu chúng ta bằng Tình Từ Ái, nghĩa là dầu chúng ta khốn nạn và khuyết điểm muôn vàn, Ngài vẫn yêu. Ngài đòi chúng ta tuỳ sức chúng ta: “Ngài tính đến những yếu hèn của chúng ta, Ngài hoàn toàn rõ bản tính chúng ta mỏng giòn”. Têrêsa còn đi sâu hơn nữa: Không những Chúa yêu chúng ta, dù biết chúng ta tệ, không những Ngài tính đến, Ngài còn yêu chúng ta chính vì những yếu kém của chúng ta. Như người Cha thương con, Ngài biết rằng chúng ta càng yếu kém, càng cần tình yêu của Ngài hơn. Chị bảo: “Thiên Chúa “thấy những rơm rác khổ của chúng ta, những hành động vô nghĩa của chúng ta luôn luôn đẹp”. Têrêsa thấy lòng từ bi Chúa biểu lộ không chỉ trong việc tha thứ mãi hoài cho chúng ta, mà cả trong lòng Cha săn sóc mọi chuyện cho chúng ta. Rồi vị thánh suốt đời chưa hề phạm tội trọng này cho rằng tội nhân là đối tượng của lòng từ bi, nên khi tội nhân trở lại, là vì Chúa từ ái đã dẹp trước những trở ngại trên đường về. Tình yêu trọn vẹn cho mọi người: Ain tin ở Ngài đều “được tha thứ tất cả”, dù trước hoặc sau sa ngã. Têrêsa hiểu rằng trong quan hệ với chúng ta, Thiên Chúa luôn luôn từ bi. Thực ra, Lòng Từ Bi vẫn là Tình Yêu Thiên Chúa trong cả công trình Ngài đối với chúng ta. Toàn việc cứu chuộc chỉ là tiến trình của Tình Từ Ái, hoặc nói kiểu khác: Tình toàn hiến đến cứu chuộc tội nhân và cứu bằng cách tháp họ vào Đức Kitô, cho họ sống bằng sự sống thần linh. Ta thấy Têrêsa đã thấu hiểu thật sâu tinh thần cứu độ, đúng theo ý nghĩa là thánh Phaolô diễn tả trong thư gởi Rôma. Cũng như thánh Augustinô, Têrêsa hẳn không hạ nhục con người để tôn vinh công trình Thiên Chúa. Đâu cần chứng minh sự khốn nạn của chúng ta. Quá rõ rồi. Têrêsa có kinh nghiệm bản thân và kinh nghiệm các em tập sinh. thánh Phaolô nhấn mạnh đến mục tiêu lề luật là mạc khải tội lỗi chúng ta, cho ta nhìn rõ, chính là để ta trở về vòng tay Thiên Chúa. Nếu thánh tông đồ nói lên hệ luỵ của tội lỗi dọc theo lịch sự như bám cứng trong trái tim phân hoá của chúng ta, chính là để tụng ca việc cứu chuộc. Vì tội lỗi càng bội tăng, ân thánh càng tràn đầy. “Bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta là Con của Ngài đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân”. Têrêsa là tiếng vang của giáo thuyết tuyệt vời này, Người được linh hứng để hướng dẫn tập sinh. Tại sao phải đợi các em không còn khuyết điểm nữa mới dâng hiến cho Tình Từ Ái? Trái lại, dâng các em chính vì các em đầy đớn mạt và không có khả năng tự sửa chữa. Nhưng Chị cũng báo cho các em biết rằng Tình Yêu chỉ hoạt động trong các em với một điều kiện: Các em đồng ý “cứ mãi nghèo nàn và yếu đuối”, các em thích sự bất lực đó và luôn trao nó cho Đấng Cứu Chuộc. Điều kiện Têrêsa đòi để việc dâng mình kết quả chính là điều kiện duy nhất Thiên Chúa đòi để việc cứu chuộc thành công. Đó là nhân bản thực, trong ý thức bản thân, trong Tin, Cậy, Mến.
II. HIẾN LỄ TÌNH YÊU
Mà hiến thân cho Tình Yêu là gì? Một em tập tu hỏi Têrêsa: “Chị tin đọc kinh dâng mình Chị đã soạn là đủ không?” - “Ồ không! - Têrêsa đáp - Lời nói sao đủ được. Để thực là hiến lễ tình yêu, phải tự hiến hoàn toàn. Mình chỉ được Tình Yêu thiêu huỷ theo mức độ mình hiến thân cho Tình Yêu”. Không, dầu lời lẽ có cao siêu cách mấy thì một kinh dâng mình cũng chẳng làm gì! Dựa vào Tân Ước, giáo thuyết Têrêsa cũng đòi hỏi như Tân Ước. Linh đạo của Chị đòi niềm tin sống động vào thực tại ân sủng và kiến thức thực nghiệm về bản tính truỵ lạc của ta. Chúa đã tiếp chính sinh lực Ngài cho chúng ta, Ngài tặng chúng ta tổ chức tâm linh đầy đủ và tinh tế gồm ơn thánh, các nhân đức và các ân lộc, nhưng Têrêsa không nghĩ rằng những khả năng này không sản xuất. Nếu Thánh Thần đích thân làm Thượng Khách của tâm hồn ta, thì Chị không tin Ngài nằm dài bất động trong đó. Trái lại, Chị cảm thấy Ngài vô cùng muốn làm chủ thụ tạo của Ngài, thấy nó để Ngài toàn quyền điều khiển. Đáng tiếc sự sống thánh thiêng có đó rồi, sẵn sàng hiến dâng rồi, vậy mà con người thường khi chối từ ân thánh, vì cảm giác vỡ mộng. Thực trạng suy thoái của chúng ta ít phấn khởi lắm. Hướng chiều về những gì khả giác, con người vẫn mang khuynh hướng ganh tỵ vơ vét cho mình, vẫn vênh váo đòi tự trị. Thế là trong ta cộng sinh hai cuộc sống hoàn toàn khác biệt, nhiều khi đối kháng. Khát khao tuyệt đối, Têrêsa trực cảm cảnh song đấu này, mà nếu chấp nhận thoả thuận, thì tiêu mất sự sống thần linh. Chị đã nghiệm thấy khuynh hướng sâu xa của con người muốn sống cho mình và do mình. Rất tinh khiết và rất trẻ trung, Chị không tự khinh miệt vì thân phận con người chúng ta, hoặc vì sự phân hoá nội tâm mà thánh Phaolô đã phân tích thật sâu: “Tôi không làm việc tốt tôi muốn, mà tôi làm việc xấu tôi không muốn”. Nhưng Chị cũng hiểu lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa, Ngài tới đảm nhận trách nhiệm về trọn thụ tạo của Ngài, nếu ta để Ngài tự do. Vì muốn nên thánh và muốn yêu như điên, Chị chỉ còn cách trao trọn tay lái vào đôi bàn tay Chúa: “Con muốn nên thánh, nhưng con cảm thấy mình không có khả năng, vậy lạy Chúa, xin chính Chúa là sự thánh thiện của con... Con cảm thấy trong tim con những ước vọng mênh mông, vì thế con tin tưởng xin Chúa đến làm chủ tâm hồn con”. Tự hiến trọn vẹn cho Tình Yêu như thế đòi trái tim kiên định trống trơn, sẵn sàng và khát mong, trước sự sung mãn tràn đầy của Thiên Chúa đang hiến thân cho ta. Đó là một trào lưu sâu thẳm và liên tục làm phát sinh tình trạng lệ thuộc hoàn toàn vào Tình Yêu. Vì Từ Bị là Tình Yêu đang hoạt động, hiến thân cho Từ Bi là trao Ngài điều khiển nội tâm, là dọn sạch lòng mình cho sáng kiến thần thánh. Chính là vĩnh viễn đặt Thiên Chúa thay cho bản thân, làm nguyên uỷ mọi hoạt động của ta. Têrêsa đang ở giữa vấn nạn đó. Không phải thắc mắc về hoạt động của những cơ năng tự nhiên này. Kinh nghiệm cho hay chúng vẫn còn đó, mà huỷ chúng đi cũng chẳng làm nên thánh thiện. Thắc mắc là về nguồn gốc thực tế phát sinh lực sống này. Têrêsa đáp ngay: Từ Thiên Chúa. Bao giờ cũng chỉ từ Thiên Chúa thôi. Nhưng biết tự mình không thể bảo đảm chắc chắn được việc đổi nguồn đó, lại biết Chúa muốn và có thể làm việc này, nên Chị mời Chúa đến, Chị tự hiến và phó thác cho Ngài: “Thật sung sướng, em trao lại Ngài ý muốn của em! Vâng, em muốn Ngài tràn vào các cơ năng của em, để em không còn những hoạt động phàm nhân và riêng tư nữa, nhưng chỉ còn hoạt động thần thánh, do Thần Tình Yêu linh hứng và hướng dẫn’. Chị suy diễn lời thánh Phaolô: “Chúng ta chẳng biết xin gì cho phải, nhưng chính Thánh Thần trong ta xin bằng những lời năn nỉ không diễn tả được. Vậy chúng ta chỉ cần trao tâm hồn chúng ta, phó mặc nó cho Thiên Chúa chí đại”. Phải cố gắng để vừa khi ý thức rằng cơ năng tự nhiên hoạt động như trực cảm, quá độc lập, ta liền nhẹ nhàng tóm lấy nó. Hy sinh hoạt động bản năng tự nhiên này bằng một ánh mắt nhìn lên Chúa hoặc Đức Mẹ, bằng một lời cầu nguyện, dù chỉ một phút phù du, bằng luyện lọc tâm ý, thế là đặt mình dưới ảnh hưởng ơn thánh, trao quyền làm chủ tất cả hoạt động nhân bản của mình. Đó cũng là thực hành việc từ khước nội tâm cách tuyệt đối nhất, là thay thế bản ngã cách mau lẹ nhất, vì không phải tấn công vào những cách biểu lộ, mà vào chính đáy sâu, là bứng cả rễ. Tuy bước đầu, việc tự khước từ có những hình thức mang dáng vẻ rõ rệt hơn, thực tế ít đòi hỏi hơn. Đó là một chuỗi hoạt động, chứ tới tình trạng. Từ nay, tự khước trong mọi giây phút, mà lại đơn giản và thanh bình hơn. Chỉ là nội hướng về Tình Yêu, không còn căng thẳng từng hành động nên hoặc không nên. Nội hướng nay liên tục, không rời khỏi dòng yêu thương và sinh lực mà Chúa muốn ban cho con người.
III. CUỘC SỐNG MỚI
Têrêsa đã hứa với các em tập sinh rằng: Trao các em cho Tình Yêu, Chị thoả mãn ước vọng lớn lao của các em là yêu Chúa, và yêu Ngài ngay trong những yếu kém của mình. Thực tế, bản dâng mình cho Tình Yêu đã được soạn theo chú ý nền tảng và minh bạch này: “Để sống trong tác động yêu thương hoàn toàn...”. Không hướng tới yêu hơn,m à sống trong tác động thuần tuý yêu. Ước muốn này có phải tham lam đến điên cuồng và không thể thực hiện? Chị không nghĩ vậy. Đức Kitô đã bảo những người biệt phái đang bực tức vì Ngài làm phép lạ ngày hưu lễ: “Cha Tôi hành động không nghỉ, nên Tôi cũng hoạt động”. Chúa cũng luôn luôn hoạt động trong con người đã được “bình định”, đã tự truất phế hoàn toàn và phó thác cho Ngài. Ngài hành động cả khi người ta, vì yếu đuối, không tiếp tục chú ý vào Ngài, miễn là còn trung thành tự hiến, nghĩa là khi hoạt động, người ta vẫn còn ở lại trong thái độ bình tĩnh lệ thuộc vào hoạt động của Thiên Chúa. Thực ra, nếu con người vẫn phó thác, Tình Yêu quá dễ dàng liên tục thúc đẩy con người, cả khi hắn không biết... Lúc này, người ta không còn yêu Chúa bằng trái tim mình nữa, nhưng bằng nhịp đập của chính Thánh Tâm linh thánh. Têrêsa đã thèm khát Tình Yêu đó, Tình Yêu mà Chị cầu mong cho các em cũng như cho mọi “tâm hồn nhỏ”. “Tình yêu lôi cuốn tình yêu, Giêsu của em, tình em lao về ngài, nó muốn lấy đầy vực thẳng đang lôi cuốn nó, nhưng tội nghiệp! Nó không chỉ là một giọt sương tan biến trong đại dương sao? Để yêu Ngài như Ngài yêu em, em phải mượn chính Tình Yêu của Ngài, chỉ khi đó em mới yên được”. “Ôi lửa hồng Tình Yêu, em biết làm cách nào đến được với Ngài, em đã thấy bí quyết lấy cho mình những ngọn lửa của Ngài!” Tin ở Tình Yêu trở thành tin ở hoạt động liên tục của Tình Yêu. Tới nhận một trái tim, Chúa kín đáo hoàn thành trong đó việc tiêu hao và biến đổi. Không bao giờ là quá, nếu chúng ta nhắc lại rằng Têrêsa không thường xuyên cảm thấy Chúa hành động đâu, nhưng Người luôn tin chắc. Chúa đảm nhận con người cách thâm sâu như thế không gợi lên tình cảm, nhưng Chị vẫn thấy đó là lý tưởng đáng thèm muốn nhất, “là sự thánh thiện thực nhất, thánh nhất”. Người ta vẫn còn yếu kém. Không có toàn thiện đột hiện, sau khi dâng mình, các em tập tu vẫn tự thấy còn yếu kém như trước, nhưng họ phải tiếp tục làm tất cả những gì có thể, mà càng lúc càng trung thành hơn. Thực ra, gắng sức của họ còn vô cùng nhỏ bé, nhưng với một quan niệm mới rồi. Chút vô cùng nhỏ bé này không còn tàn tạ nữa, nhưng đã thành quý giá tuyệt vời, vì đó là tất cả những gì họ có thể để tỏ tình. “Họ ríu rít mà hái những bông hoa hy sinh nhỏ bé, và hái cho Người Yêu”. Không bận tâm, không lo lắng gì nữa, vì họ đâu còn thuộc về mình. Mà những chuyện không đâu, tự nó không giá trị này lại chính là những mời gọi TÌnh Từ Ái đến trong họ. Trung thành với những chuyện đó, họ ngày càng mở ra cho ảnh hưởng thần thánh tự do hướng dẫn sinh hoạt họ. Thế là trái tim tự hiến càng lúc đi sâu vào bản chất sự vật; nó muốn đặt vào mọi hành động tất cả cường lực yêu thương mà Thánh Thần truyền thông cho nó. Nó mong chu toàn bổn phận trong từng phút hiện tại để hiệp nhất hết sức thân mật với Chúa, có Ngài là vui, dầu bổn phận nghiêm chỉnh hoặc vô nghĩa, dễ chịu hoặc dễ ngán, dầu là công cuộc bên ngoài hoặc chiến đấu nội tâm. Dùng tối đa ân lộc Chúa ban, và sinh lời lãi, thái độ như vậy chẳng là thực tế và hiệu quả nhất sao? Không có một giờ uổng phí, một ân lộc trơ trọi, một hành động lững lơ. Dưới bề mặt yên tịnh hoặc xôn xao, sự sống triển nở không ngừng, con người nội tâm cứ lớn lên tới tầm vóc thành toàn của Đức Kitô Giêsu. Tuy thế, không phải ngay từ ngày đầu mà người ta đạt mức trung thành này! Mặc nó. Têrêsa bảo không có những vấp ngã nặng nề trên lối đường này. Con nít té hoài, nhưng chẳng đau mấy và chẳng làm cha mẹ buồn. Chỉ cần chúng biết nhục vì những khuyết điểm của chúng, rồi ơn thánh Chúa mang lại nghị lực liền: “Trong một tác động yêu thương, tất cả được sửa chữa và quá đủ sửa chữa”. Khỏi cần thấy cố gắng mang lại kết quả. Ngoài mặt có thể không thành quả - như tập được nhân đức, hy sinh được như dự tính - vị tất không đạt mục tiêu sâu và thiết yếu. Khiêm tốn nhận thất bại, mà biết nhìn lên Người Yêu, sẽ khiến Tình Từ Ái hoạt động, vì Tình Yêu vẫn nghiêng trên hèn yếu. Chị đã thú nhận với Céline: “Điều đó làm em vui vì mình bất toàn. Hôm nay, Chúa Nhân Hiền cho em những ân lộc lớn: đúng là một ngày hên!” Không cần trèo “bước đầu thang” toàn thiện; chỉ cần “luôn luôn nhấc cái chân nhỏ bé mình lên”. Cử điệu ấy làm xúc động Chúa tình thương, thúc đẩy Ngài bồng đứa bé của Ngài lên và kéo thẳng vào Ngài. Tình yêu xoá liền những gì chưa trong sáng và thiêu tan những gì Ngài không thích. Sau khi dâng mình, Têrêsa viết: “Từ ngày hồng phúc đó, em thấy như tình yêu thấu nhập em và bao trùm em. Từng giây phút, Tình Từ Ái này như đổi mới em, thanh tẩy hồn và không để trong đó dấu vết tội lỗi nào”. Têrêsa từng thấy các em co quắp vào những khuyết điểm, làm chúng không thể sửa chữa, bởi họ muốn làm lại vì tự ái hơn vì đẹp lòng Chúa. Hôm nay, trao cung cách họ cho Tình Yêu, Chị từ từ và khôn ngoan giúp họ khỏi băn khoăn về những khuynh hướng xấu, chỉ đơn giản và quyết liệt chống khi chúng xuất hiện, rồi đặt mình bình an dưới những tia ấm của Tình Từ Ái. Têrêsa xin họ tin không tác động vào giới hạn thanh tẩy này. Vì đảm trách về họ, Chúa sẽ làm xong công việc của Ngài, miễn là họ đừng bao giờ cố ý lấy lại quyền điều khiển. Chính Ngài sẽ là sự thánh thiện của họ. Những thứ khác sẽ cho họ dự thừa. Vậy họ cần nhớ rằng họ chẳng làm chủ nhân đức nào. Tự mình, họ chẳng chiếm hữu được gì. Họ có tập các nhân đức và có hơn những người khác, thì vẫn là thuần tuý ân lộc của Chúa. Cũng phải nói theo một nghĩa nhất định rằng Tình Yêu sẵn sàng tặng vô điều kiện. Họ đừng chú tâm luyện đức mà lơ là với chính Thiên Chúa, họ không thể tự hào đâu. Các nhân đức là thứ “dư thừa” mà Tình Yêu thần thánh tặng tâm hồn chỉ nhìn Ngài và chỉ sống vì Ngài. Tập nhân đức, họ vẫn phải hoàn toàn là của Tình Yêu, nghĩa là đừng bận tâm. Tìm toàn thiện, lo nhân đức, rất thường khi thành cản trở tinh vi, thành thoái hoá! Chị cũng sửa chữa các em, khi họ gắng “dự trữ” nhân đức. Thấy Chị kiên trì trong thái độ bài trừ căn bản này, người ta ngạc nhiên, nên Chị giải thích: “Em đã kiên trì gì đâu! Đây không phải việc em phải kiên trì sao? Em vẫn lầm sao?” Chuyện này thì Chị không lầm. Từng giây phút, chúng ta lãnh nhận tất cả do Tình Từ Ái. Đơn giản phân phát những kho tàng mà Chúa muốn thông ban, vì thấy Người đã hoàn toàn tự khước và trọn vẹn chăm chú về Ngài, Ngài không ngại nó tự kiêu vì những ân lộc của Ngài. Những khuyết điểm hoặc thất bại không trở ngại công việc của Ngài. Chỉ có một thứ có thể làm hư công việc Ngài là thái độ vị kỷ, tìm tư lợi hoặc dựa vào sức riêng mình. Có lẽ đây là ý nghĩa tâm sự xao xuyến nhất mà Têrêsa từng gởi gấm Mẹ Agnès: “Ô! Nếu em đã bất trung, nếu em đã chỉ phạm một bất trung nhỏ, em cảm thấy chắc em phải trả giá bằng những xáo trộn kinh khủng, và em không sao chấp nhận chết được”. - Em muốn nói loại bất trung nào? - Một tuyến tưởng cố tình kiêu hãnh. Chẳng hạn em nói: “Em đã luyện được đức tính nào đó, em chắc có thể tập đức tính đó. Vì như thế là dựa vào sức riêng em. Mà ở điểm đó thì dễ nhào xuống hố thẳm rồi”. Chỉ cần tin cậy tất cả ở Chúa là đủ bảo đảm trung thành sâu xa. Tin tưởng và khiêm tốn, đó là những tâm trạng cơ bản. Tuy thế, trong đường lối rất đơn giản này, đường lối “làm nở cõi lòng” - như các em tập sinh nói - có cần những lo buồn, những đau khổ lớn lao ngoại diện, những cám dỗ gay go nội tâm không? Gương của Têrêsa là câu đáp đầy đủ! Để lay chuyển cô tập sinh quá lỳ, ngày nọ Têrêsa dám bảo: “Hiến thân làm của lễ Tình Yêu là luôn luôn nộp mình cho ý Chúa, là trông chia sớt với Giêsu những ô nhục và chén đắng cay của Người”. Nhưng với một em nhát hơn, Chị bảo: “Tại sao em sợ dâng mình làm lễ vật Tình Từ Ái? Nếu dâng mình cho sự minh chính của Chúa, em có thể sợ. Nhưng Tình Từ Ái sẽ thông cảm em yếu hèn; sẽ đối xử ngọt ngào và từ bi với em”. Chị Marie du Sacré-Coeur sợ giống thế, Têrêsa minh xác: “Dâng mình đâu phải để đau khổ hơn, mà chính là để có thể yêu Chúa hơn, thay cho những người không muốn yêu Ngài”. Chị Céline cho biết thánh nữ còn lặp lại rằng: “Không có gì phải sợ dâng mình cho Tình Yêu từ ái, vì từ Tình Yêu này, chỉ có lòng Tư Bi đến với chúng ta”. Những suy nghĩ này bổ sung và minh hoạ chân lý: Không ai thoát đau khổ và lo lắng, nhưng Chúa gởi tới vì chính Ngài là sức mạnh của con người, và cho con người khả năng chịu được hành động của Ngài. Têrêsa đã khẳng định thật hay về thanh luyện niềm tin Chị chịu đồng thời với những đau đớn thể xác trong những tháng cuối đời: “Mẹ ơi, con chưa bao giờ cảm nhận thấm thía thế này rằng Chúa ngọt ngào và từ bi; Ngài đã chỉ gởi thanh luyện này vào lúc con có sức chịu; sớm hơn, con tin chắc rằng con đã bị ghìm vào chán nản”. Nếu Chị đã ưa vào Cát Minh “để chịu đau khổ nhiều hơn” thì về cuối đời, Chị đã thanh thoát hơn: “Em chẳng muốn đau khổ, chẳng muốn chết nữa, nhưng em vẫn yêu thích cả hai. Ngày nay, em chỉ còn chỉ nam phó thác”. Đau khổ ghê sợ nhất có thể tới, câu đáp vẫn còn đó. Tất cả là yêu thương, ân huệ là ở đó. Chính cái chết cũng sẽ đơn giản. Đó chỉ là một tác động của niềm tin, một bước nhảy về vĩnh cửu trong Tình Từ Ái. Không gì đáng sợ. “Em tưởng như không có phán xét những hiến lễ tình yêu; hẳn Chúa Nhân Hiền sẽ mau lẹ thưởng chính Tình Yêu của Ngài, mà Ngài thấy bừng bừng trong tim họ. Ngài thưởng bằng những sung sướng vĩnh cửu”. Lối Nhỏ là con đời tắt. Những ai thực sự hiến thân, đều đi nhanh. Không phải lối đi cho họ lên thẳng các đỉnh cao, nhưng gạt bỏ những động tác tự nhiên, thường gây rối và làm chậm hành động thần linh, và cho phép họ đi bằng bước đi của Chúa. Chính những thanh luyện cũng không gây khó khăn nữa; không cần ánh sáng, không cần giải thích nào hơn. Vào lúc họ cần, chính Chúa Nhân Hiền sẽ cho các con của Ngài bảo đảm rằng họ không lầm, rằng tình yêu Ngài đang hoạt động trong họ và hướng dẫn họ tới mục tiêu. Têrêsa không lừa dối các em hoặc Thiên Chúa. Khát vọng yêu mà Chị gặp thấy trong các em, Chị đã thực sự giúp cho thoả mãn, ước muốn được yêu mà Chị khám phá ra trong Trái Tim Chúa, Chị cũng hết sức làm vui lòng. Tất cả đều triển nở trong những người đã được trao cho Chị và đã trung thành. Vì khi hiến thân cho Tình Yêu, bản tính chết cho chính mình và tái sinh trong Chúa. Hiến thân, người ta đạt hết tầm cỡ triển nở của mình, hồng ân này Chúa ban, dầu ta không trực tiếp kiếm tìm. Từ từ được giải thoát khỏi những gì trăng trói và bóp nghẹt, các cơ năng được thoải mái, giãn nở, vì người ta chỉ còn hoạt động nhờ ảnh hưởng thánh ân. Dẫn các em theo lối này, Têrêsa đào tạo những nô tỳ vững chắc của Chúa. Họ dấn thân phục vụ Giáo Hội trọn nghĩa và đầy đủ hiệu năng. Chỉ là những tông đồ cầu nguyện và yêu thương, hoặc thêm vào một số hoạt động bên ngoài, điều gì quan trọng để họ thi hành ý Chúa? - “Điểm mà Archimède không thể tìm ra... các thánh đã được tròn đầy. Đấng Toàn Năng đã cho các ngài một điểm tựa: Chính Chúa, duy mình Chúa... Còn đòn bẩy, là cầu nguyện bốc cháy yêu thương... Đó là cách các thánh chiến sĩ đang nâng vũ trụ lên cho tới tận thế, các thánh mai đây cũng sẽ nâng”. Nhờ trọn hiến cuộc đời các Ngài cho Tình Từ Ái, chúng ta biết các ngài mang lợi ích sâu xa cho thế giới này. Cuộc sống như thế noi gương cuộc sống của Mẹ Maria tại Nazareth, Ngài “xin vâng” đầu tiên hiến thân cho Tình Yêu vì công cuộc từ bi cứu thế.
*** Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link trên của sách vào thẻ nhớ, hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. (Chỉ khoảng 24 tờ A4).
*** Bạn cũng có thể đọc trực tiếp các bài này, trên Điện Thoại cảm ứng, khi bạn dùng ngón tay chạm vào đường link trên: https://...
*** Và bạn cũng có thể chép đường link trên: https://... gởi qua Zalo, Messenger, Line, Viber, Tango... làm quà tặng cho các bạn bè, nhiều người được đọc, sẽ có nhiều lợi ích.
---------------------------------
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (10 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng – Sách 4
5. Chuyện “Số Con Rệp” – Sách 5
6. Thiên Chúa là Đấng hay quên – Sách 6
7. Chuyện một người con chọn mẹ để sinh ra – Sách 7
8. Family, một định nghĩa hay về gia đình – Sách 8
9. Hộ Chiếu Nước Trời – Sách 9
10. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng – Sách 10
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (19 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6
7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7
8. Một kiểu sống lại không vui - Sách 8
9. Chuyện con gà trống - Sách 9
10. Kinh cầu các thánh chẳng hề được phong - Sách 10
11. Làm phúc giúp các linh hồn nơi Luyện Ngục - Sách 11
12. Các linh hồn nơi Luyện Ngục sẽ không quên sự giúp đỡ của chúng ta - Sách 12
13. Tình Mẫu Tử trong dịp Lễ Giáng Sinh - Sách 13
14. Năm Thìn, nói chuyện con rồng - Sách 14
15. Nhật ký của một linh hồn sau khi chết - Sách 15
16. Những lời tâm sự của người cận kề cái chết - Sách 16
17. Tội nhân trở thành thánh nhân - Sách 17
18. Chuyện ông Panov gặp Chúa đêm Giáng Sinh - Sách 18
19. Cách hành xử của Chúa luôn là bất ngờ - Sách 19
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (30 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16
17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17
18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18
19. Ngày của bố - Sách 19
20. Chuyện 2 cha con hoang đàng - Sách 20
21. Chuyện Kẻ “tự bắc thang lên trời” - Sách 21
22. Chuyện Quỷ Ám là có thật - Sách 22
23. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ - Sách 23
24. Thảm họa: Một Thiên Đường không có Thiên Chúa – Sách 24
25. Nếu Thiên Chúa không có, thì tại sao lại chống Ngài ? – Sách 25
26. Ông già Noel không mặc đồ đỏ – Sách 26
27. Tình yêu có sức mạnh biến đổi – Sách 27
28. Chuyện một mối tình thật đẹp – Sách 28
29. Một kinh ngiệm truyền giáo thật dễ thương – Sách 29
30. Tháng các đẳng linh hồn và những ước nguyện – Sách 30
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (7 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4
5. 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần I) – Sách 5
6. 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần II)– Sách 6 7. Tinh hoa và những lời nói sau hết của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu (Phần I)– Sách 7