*** Đọc các bài của Lm. Mễn: 1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71; 2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn 3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com 5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Có một anh đệ tử nọ, sau một thời gian dài học hành tu luyện với một vị đạo sư danh tiếng, đã khao khát thoát ly khỏi cuộc đời ô trọc, muốn vĩnh biệt vợ con yêu quý, để vào nơi thâm sơn cùng cốc, để tìm giác ngộ và giải thoát.
Nhưng khi phải quyết định, thì anh ta rất bịn rịn với vợ con, nên dùng dằng mãi, mà chưa thể dứt bỏ gia đình ra đi được.
Anh trình bày sự việc với vị đạo sư và xin vị nầy chỉ giáo.
Vị đạo sư nói:
"Con đừng lầm tưởng là vợ con trìu mến con lắm, đến độ không thể sống thiếu con. Nếu con muốn, ta sẽ giúp con biết sự thật."
Thế rồi, vị đạo sư dạy cho anh phương pháp Yoga bí truyền, giúp anh có thể chết giả cả mươi tiếng đồng hồ, mà không ai hay biết.
Thế là hôm ấy, người đệ tử đột nhiên lăn ra chết. Vợ con anh gào khóc thảm thiết như trong bất cứ một đám tang bi thảm nào.
Hay tin người học trò thân tín đột ngột qua đời, vị đạo sư vội đến thăm. Chứng kiến sự tiếc xót khôn nguôi của người vợ goá và đàn con côi cút, dành cho chồng, cho cha, vị đạo sư tỏ cho vợ con người chết biết là ông ta có phép thuật cao cường, có thể làm cho người chết kia sống lại, với điều kiện là có người nào đó trong gia đình chịu chết thay cho người xấu số.
Khi ông đề nghị người vợ chết thay cho chồng, thì người vợ nức nở than rằng: "Chị còn cả một gánh nặng gia đình. Nếu chị chết đi thì lấy ai nuôi dạy đàn con thơ dại… Không ai có thể thay thế chị được trong việc chăm sóc gia đình và con cái…" Nói tóm lại, chị cần phải sống, chị không thể chết thay cho anh được!
Đến phiên người con cả thì anh cũng viện đủ mọi lý do để chứng tỏ rằng anh cần cho gia đình, anh cần giúp mẹ để chăm lo cho đàn em. Gia đình không thể thiếu anh. Anh không thể chết thay cho cha được!
Rồi đến lượt đứa con thứ hai, thứ ba… thứ năm được vị đạo sư đề nghị chết thay cho cha, nhưng tất cả đều nêu ra nhiều lý do để minh chứng rằng chúng cần phải sống, không ai có thể chết thay cho người cha được. Thôi thì để cho người cha chết như vậy phải hơn.
*****
Người cha nằm giả chết nghe biết hết sự tình. Anh chợt nhận ra rằng trên đời nầy không có ai chết thay cho anh cả. Dù là người vợ mà anh hết dạ yêu thương, coi như là xương, là thịt của mình; dù là những đứa con ngoan, mà anh đã từng đặt hết hy vọng và tình thương nơi chúng. Không ai chết thay cho anh cả, không ai thực sự hy sinh quên mình cho anh.
Giác ngộ được điều nầy, anh thoát ly gia đình ra đi không còn thương tiếc vấn vương nữa.
Giá như chúng ta có được phép thuật nhiệm mầu để giả chết xem sao. Các ông thử nằm xuống xem người vợ hiền hay những đứa con yêu có dám chết thay cho mình không?
Các bà thử giả chết xem sao? Ai chịu chết cho các bà nào? Chẳng có ai đâu! Chúng ta có thể tin chắc gần như trăm phần trăm là như thế.
Coi chừng biết đâu, có kẻ lại mừng thầm…!!!
*****
Thế nhưng, có một người, chỉ có một người duy nhất trên thế gian nầy đã chết thay cho tôi, cho bạn, cho từng người trong chúng ta. Người đó đã chấp nhận chịu chết rất đau thương, rất tủi nhục, rất bi đát… chịu một cái chết đau đớn khủng khiếp để cho chúng ta được sống. Người đó chính là Chúa Giê-su.
Lạy Chúa Giê-su, chỉ có Ngài mới thực sự là Người yêu thương chúng con. Chỉ có Ngài mới là Người dám hy sinh tất cả vì chúng con. Chỉ có Ngài là Người duy nhất trên cõi đời nầy chết thay cho chúng con mà thôi. Ngoài ra, không còn ai khác!
Vì thế, hôm nay Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng con họp nhau để thờ lạy Chúa, để cảm tạ Chúa, để suy tôn Chúa là Đấng đã tự ý, tự nguyện, nộp mình chịu chết đau thương, tủi nhục trên thập giá vì yêu thương chúng con.
Xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu trời bể của Chúa và biết đền đáp phần nào, bằng cách sống xứng đáng với tình yêu cao vời Chúa dành cho chúng con.
Lạy Chúa Giê-su, chúng con xin tôn thờ và cảm tạ tình yêu của Chúa.
Có một nhà thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan, thông thái, tài trí của mình ra để thuyết phục thiên hạ, mà chẳng thấy có ai chịu theo.
Ông bèn đến than thở với một người bạn rất thân, thì nhận được lời khuyên này:
“Nếu anh muốn người ta theo tôn giáo của anh thì cũng dễ thôi, anh hãy làm thế này:
Tối thứ năm anh mở tiệc ăn mừng, coi như là bữa tiệc kết thúc cuộc đời của mình. Rồi thứ sáu, anh chấp nhận để cho người ta đóng đinh anh vào khổ giá, rồi chôn cất. Chúa nhật anh sống lại ! Làm như thế, chắc chắn người ta sẽ theo anh rất đông?”.
Lời khuyên này quả thật là rất độc đáo. Nhưng độc đáo hơn và lý thú hơn, khi biết tác giả của lời khuyên này chính là của Napôlêon, vua nước Pháp !
*****
Điều mà Napôlêon muốn nhấn mạnh ở đây: Điều có sức lôi cuốn người ta nhất, chính là sự sống lại.
Thực vậy, biến cố Chúa Kitô Phục sinh chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin Kitô giáo chúng ta.
Đấng Phục sinh đã chọn ngày Chúa Nhật, “ngày thứ nhất trong tuần”, để làm ngày gặp gỡ các tông đồ.
Như thế, “Ngày thứ nhất trong tuần” đã trở thành ngày của cộng đoàn, ngày của gặp gỡ, ngày hát mừng niềm vui Phục sinh, và nhất là ngày của cuộc “sáng tạo mới”.
Xin cho mỗi ngày Chúa Nhật cũng trở thành một ngày giúp chúng ta sống thánh thiện, hiệp thông, yêu thương… Để mỗi chúng ta sẽ trở thành một bằng chứng cho sự hiện diện sống động của Đấng Phục sinh trong xã hội hôm nay.
*****
Trong thời đại hôm nay, chúng ta làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh không chỉ bằng lời rao giảng, mà còn phải bằng chính cuộc sống của chúng ta nữa.
Cụ thể là trong xã hội hôm nay, có rất nhiều người, nhất là những người trẻ, họ luôn sống trong lo âu, sợ hãi, do những khủng hoảng mọi thứ trong xã hội, làm cho họ không hiểu được ý nghĩa cuộc sống, nên rồi họ lao vào những tệ nạn xã hội, mà không cách nào có thể thoát ra được.
Trước tình trạng đó, lẽ nào chúng ta những người con Chúa mà ngồi yên chăng ?
Là những con người của thiên niên kỷ mới này, chúng ta phải là những người đi bước trước, để đem sự bình an và đức tin sâu sắc đến giúp họ thoát khỏi những thất vọng, để giúp họ tìm ra ý nghĩa đích thật của cuộc sống.
Mỗi chúng ta cần phải mở rộng tấm lòng, dám đi sâu vào thế giới, để tìm hiểu và đem Chúa Phục sinh vào trong mọi lãnh vực, không được bo bo giữ niềm tin Chúa Phục Sinh trong vỏ ốc, nhưng phải làm loan tỏa ra khắp thế giới.
Lạy Chúa, xin biển đổi con thành chứng nhân tin mừng Chúa Phục Sinh, trong môi trường sống hôm nay của con. Amen. ------------------------------------
Ông Schmitt, thuở còn là thanh niên, đã bán tất cả gia tài, sang Mỹ tìm vàng.
Tìm mãi tìm hoài mà vẫn chẳng thấy. Tiền bạc thì mỗi lúc một cạn, còn đói khổ và cực nhọc thì cứ mỗi ngày một gia tăng. Chịu không nổi, rất nhiều người đã bỏ cuộc.
Trong khi đó, ông ta vẫn miệt mài tìm kiếm và sau cùng ông đã thấy được những dấu vết của vàng trong lòng một ngọn núi. Ông kêu gọi mỏi người góp vốn, nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối. Không thất vọng, ông ta tiếp tục làm việc. Sau ba mươi hai năm vất vả, ông đã trở thành một Đại tỷ phú.
*****
Thất bại trong cuộc sống là một sự kiện bình thường, như ca dao Việt Nam đã nói:
- Cơm sôi cả lửa thì khê, Việc làm hay hỏng, là lẽ thế gian.
Sự thành công có được một phần do kiên trì chịu đựng và cố gắng:
Ai ơi giữ chí cho bền, Dù ai xoay hướng, đổi nghề mặc ai.
Thế nhưng,
kinh nghiệm còn cho chúng ta thấy được một sự thật khác nữa, đó là với sức riêng, khi thì chúng ta thất bại, khi thì chúng ta thành công, Chẳng ai thất bại hoài và cũng chẳng ai thành công mãi.
Tuy nhiên, với ơn Chúa, chúng ta chắc chắn sẽ thành công dù bên ngoài xem ra như không có thể.
Thực vậy, các tông đồ đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào. Thế nhưng, vâng lời Chúa, các ông đã ra khơi thả lưới, và lập tức đã có được một một mẻ cá lạ lùng. Thất bại đã trở nên thành công, khó hóa thành dễ và cái không có thể đã biến thành có thể.
Tin tưởng vào mình đã đành, mà cònhơn thế nữa, chúng ta còn phải tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, bởi vì như lời Chúa đã phán:
- Không có Thầy, các con không thể làm gì được.
Thánh Phaolô đã xác quyết:
- Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho đâm bông kết trái.
Và người Việt Nam chúng ta cũng thường nói:
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể.
- Chẳng hạn khi làm ruộng, chúng ta phải dùng mọi phương thế tự nhiên như cày bừa, gieo xạ, xịt thuốc và bón phân…Tuy nhiên, lúa tốt và trúng còn lệ thuộc vào thời tiết, mưa thuận gió hòa. Việc này thì dường như ngoài tầm tay của chúng ta.
- Chẳng hạn khi buôn bán, chúng ta phải điều nghiên thị trường, hàng tốt, giá cả phải chăng…Tuy nhiên, nếu gặp phải thời buổi loạn lạc, thì chắc hẳn số người đến mua cũng chẳng bao nhiêu.
- Chẳng hạn khi lập gia đình, chúng ta phải tìm hiểu và bàn hỏi… Tuy nhiên, chẳng may sau khi cưới và chung sống với nhau, chúng ta mới thấy người mình yêu không giống với người mình mơ ước vì có quá nhiều khuyết điểm. Lúc đó phải làm sao đây ? Hôn nhân không giống như một chiếc áo, vừa thì mặc, không vừa thì bỏ. Nhờ người này người nọ nhắc nhở bảo ban mà vẫn không chuyển biến. Nếu kéo lê cuộc tình như vậy suốt dọc cuộc đời thì qua là một gánh nặng.
Trong trường hợp như thế, vẫn còn có một phương thế đó là tin tưởng và phó thác cho Chúa, vì Ngài có thể làm được mọi sự, như lời thánh vịnh 126 đã xác quyết:
Ví như Chúa chẳng xây nhà, Thợ nềvất vả chỉ là uổng công. Thành trì Chúa chẳng giữ trông, Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Hay như lời thánh Félix de Nole đã nói:
- Với Chúa, thì màng nhện cũng trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Và chính Chúa cũng đã phán:
- Đối với Thiên Chúa, không việc gì là không có thể.
Tóm lại, trong mọi việc, chúng ta hãy sử dụng sử dụng hai phương tiện trơ giúp cho nhau, đó là tự nhiên và siêu nhiên, đó là sức mình và ơn Chúa, nhờ đó mới bảo đảm được những thành quả tốt đẹp.
Một ngày kia, Chúa Giêsu đã hiện ra cùng thánh Giêrônimô và hỏi:
- Này Giêrônimô, hôm nay con có gì để dâng cho Ta không?
Thánh Giêrônimô đáp:
- Con dâng cho Chúa tất cả những bộ sách mà con đã viết và nhất là bộ Kinh Thánh con vừa mới dịch xong.
Chúa Giêsu mỉm cười chấp nhận, nhưng chưa hoàn toàn thỏa mãn, Ngài hỏi thêm:
- Con còn có gì nữa để dâng cho Ta không?
Thánh Giêrônimô không chút do dự trả lời:
- Con dâng cho Chúa tất cả những hy sinh, khổ cực con gặp thường ngày từ trước tới giờ. Con dâng cho Chúa trọn cả cuộc đời tu trì của con đây.
Chúa Giêsu chấp nhận, nhưng vẫn chưa mãn nguyện, Ngài lại hỏi thêm lần thứ ba:
- Con còn có gì để dâng cho Ta nữa không?
Lần này, thánh Giêrônimô tỏ vẻ phân vân và nhỏ nhẹ thưa cùng Chúa:
- Thì con đã dâng cho Chúa tất cả rồi, còn gì tốt đẹp nữa đâu, mà con có thể dâng cho Chúa được.
Chúa Giêsu nhìn Giêrônimô với đôi mắt nhân từ, tràn đầy yêu thương và phán:
- Giêrônimô, tại sao con không dâng cho Ta những tội lỗi, những tật xấu của con? Con giữ nó làm gì? Ta đã xuống thế, chịu chết trên thập giá là để đền tội lỗi con mà.
Thế là, Thánh Giêrônimô đã dâng cho Chúa tất cả, kể cả những tội lỗi của mình.
*****
Câu chuyện này phần nào diễn tả tất cả tâm hồn tràn đầy yêu thương của Chúa đối với mỗi người chúng ta. Ngài biết rõ chúng ta, như chủ chăn biết rõ từng con chiên. Ngài đến với mỗi người chúng ta và đặt ra cùng một câu hỏi: "Con có gì dâng cho Ta hôm nay không?", ngoài những gì tốt đẹp nhất mà sức hèn con người có thể thực hiện để dâng cho Chúa, chúng ta còn được Chúa âu yếm mời gọi đừng sợ, hãy dâng cho Chúa cả những tội lỗi của mình.
Chúa yêu thương chúng ta, thật khác với mọi lãnh tụ trần gian, chỉ muốn thuộc hạ dâng cho mình điều tốt. Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên nhân lành, vì Chúa là Chúa, nên muốn chúng ta dâng cho Ngài những điều tốt lẫn những điều xấu, vì Ngài có đủ quyền năng để biến đổi những điều xấu, thanh tẩy những tội lỗi chúng ta nếu chúng ta muốn.
Hình ảnh vị chủ chăn nhân lành nhắc nhở chúng ta nhớ lại tình thương yêu, bảo vệ và hướng dẫn của Chúa. Hãy dâng cho Chúa tất cả, kể cả những tội lỗi của chúng ta. "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta". Chúng ta hãy đến dâng cho Chúa tất cả cuộc sống của mình, tất cả những điều tốt đẹp, kể cả những điều xấu, những tội lỗi để cho ân sủng Chúa thanh tẩy mỗi người chúng ta mỗi ngày được nên tốt đẹp hơn.
(Chuyện thánh nữ Maria Goretti, minh họa Tin Mừng Chúa Nhật PS 5-C)
Chắc hẳn nhiều người có biết chuyện thánh nữ Maria Goretti.
Maria Goretti là một thiếu nữ đẹp: Vừa đẹp người, vừa đẹp nết. Nhưng gia đình thì nghèo: Không có nhà riêng để ở, nên phải ở chung nhà với gia đình của anh chàng Alexandre.
Hàng ngày, mẹ và các anh của Goretti ra đồng làm ruộng, Goretti phải ở nhà lo việc nội trợ và giữ em.
Anh chàng Alexandre từ lâu đã đem lòng yêu cô gái Goretti, và cũng đã vài lần dụ dỗ Goretti cùng mình trao đổi những cử chỉ yêu đương, nhưng Goretti luôn từ chối.
Một hôm, Alexandre đang làm ruộng ngoài đồng, nhưng biết Goretti ở nhà một mình, nên lấy cớ đau bụng để trở về nhà.
Về đến nhà, Alexandre giả bộ nhờ Goretti vào phòng hắn lấy cái áo đứt nút đơm lại giùm. Cô gái ngây thơ có tính hay giúp đỡ tưởng thật nên đã đi vào. Alexandre lại một lần nữa đề nghị chuyện ái ân. Goretti vẫn từ chối. Khi ấy vì đam mê đã làm cho lý trí mù quáng. Alexandre dùng dao đâm túi bụi 17 nhát vào mình Goretti và chạy trốn.
Sau đó anh của Goretti sinh nghi, từ ruộng trở về, thấy em gái mình sắp chết, anh thề sẽ trả thù. Nhưng Goretti tha thiết xin anh hãy tha cho hắn. Cuối cùng Goretti chết và Alexandre bị cảnh sát bắt giam.
Một đêm kia, anh thấy Goretti hiện ra với mình và tặng cho mình những cánh hoa mầu trắng và mầu đỏ.
Từ đó alexandre ăn năn sửa mình, nên được khoan hồng, trả tự do trước khi hạn tù chấm dứt.
Alexandre còn được vinh dự tham dự lễ phong thánh cho thánh nữ Maria Goretti.
*****
Có thể xem câu chuyện trên là một câu chuyện tình.
Nhưng trong chuyện ấy có hai thứ tình:
- Tình của Alexandre đối với Goretti là một thứ tình yêu thấp hèn. - Còn tình yêu của Goretti đối với Alexandre là một thứ tình yêu cao đẹp.
Nếu dùng từ ngữ của bài Tin Mừng hôm nay, thì tình yêu của Alexander là tình yêu kiểu cũ, còn tình yêu của Goretti là thứ tình yêu kiểu mới.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta hãy yêu thương nhau.
Thực ra, tình yêu là chuyện vĩnh cửu, kể từ khi có mặt con người trên trái đất này, thì cũng đã có tình yêu. Cho nên, nếu Chúa Giêsu chỉ bảo người ta thương yêu nhau, như người ta đã từng yêu thương nhau từ trước tới giờ, thì lời khuyên dạy của Chúa là thừa và vô ích.
Nhưng lời Chúa không thừa, không vô ích, vì Chúa không dạy người ta thương yêu nhau kiểu cũ, mà là thương yêu nhau kiểu mới.
Thế nào là yêu thương kiểu cũ, và thế nào là yêu thương kiểu mới ?
Tự nhiên, là con người biết thương và biết ghét: Thương người vừa ý mình và ghét kẻ trái ý mình. Đó là yêu thương kiểu cũ.
Sách Lêvi trong bộ Cựu ước dạy một thứ tình yêu thương cao hơn: Đó là đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu thương mọi người như yêu thương chính mình. Đó là yêu thương kiểu khá mới.
Còn trong bài Tin Mừng hôm nay (PS 5-C), Chúa Giêsu dạy một tình yêu thương cao hơn nữa:
Không phải chỉ yêu người như yêu mình, mà phải yêu người như Chúa đã yêu. Đó là yêu thương kiểu mới nhất. Kiểu yêu thương mới nhất là yêu người theo kiểu Chúa đã yêu.
Vậy Chúa đã yêu như thế nào ? Có vài chi tiết trong bài Phúc âm giúp ta hiểu rõ hơn cách yêu thương của Chúa:
- Chi tiết thứ nhất là câu: “Khi Giuđa đi rồi”, Giuđa đi để thực hiện âm mưu bội phản bán Thầy. Lúc đó, lẽ ra Chúa phải chua chát với tình nghĩa thầy trò, thế mà là lúc Ngài chan chứa yêu thương.
- Chi tiết thứ hai là câu: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy”: nếu không yêu thương thì không phải là môn đệ của Chúa.
Qua những chi tiết trên, ta hiểu được rằng, yêu thương như Chúa đã yêu là yêu thương chính lúc người thường không thể yêu. Yêu thương chính cái điều mà người thường không thể yêu. Và yêu thương những người, mà người thường không thể yêu.
Hơn nữa, người môn đệ Chúa bó buộc phải yêu thương như thế thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa.
Ta hãy trở lại chuyện thánh nữ Maria Goretti.
Yêu thương của Alexander là yêu thương kiểu cũ, bởi vì Alexander chỉ yêu thương theo sự thúc đẩy của bản tính, của tính dục. Khi tình dục không được thỏa mãn thì quay ra thù ghét và giết chết Goretti.
Còn yêu thương kiểu Goretti là yêu thương kiểu mới: Yêu thương chính kẻ giết mình, yêu thương chính lúc đau đớn sắp chết, yêu thương để tha thứ và để cứu vớt Alexander.
Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó. Không phải Chúa chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một giới răn: “Thầy ban cho chúng con một giới răn mới”.
Chúng ta sẽ thực hiện giới răn mới ấy ra sao ?
Có một tác giả kia, khi viết bài suy gẫm về bài Phúc âm này, đã đề nghị một số việc như sau: là làm hòa với những kẻ ghét mình, là cầu nguyện cho kẻ ghét mình, là làm tươi hồng môi trường sống của mình, bằng những việc phục vụ, và bằng những lời nói gây đoàn kết yêu thương.
Thiết tưởng, đó là những việc rất cụ thể, mà chúng ta phải cố gắng làm, để thực hiện tình yêu thương kiểu mới, mà Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con, xin uốn nắn chúng con, để cúng con biết yêu như Chúa đã yêu. Cây thánh giá Chúa chính là bài học dạy chúng con thực hành. Xin Chúa giúp chúng con. Amen. ------------------------------
Có người thợ giày ngày ngày vui vẻ ca hát. Lúc nào trẻ con trong xóm cũng đến ca hát với anh.
Đối diện với anh là một ông nhà giàu, suốt đêm lo đếm tiền, đến sáng mới ngủ nhưng không sao ngủ được vì tiếng hát ồn ào của thợ giày và bọn trẻ.
Ông mời ông thợ giày sang nhà, tặng anh một túi đầy tiền vàng. Anh thợ giày mừng quýnh, đem về đếm, đếm cả ngày lẫn đêm một cách vui sướng thích thú. Thấy đám bọn trẻ đến nhìn, anh sợ chúng biết anh có nhiều tiền, nên đuổi chúng đi.
Ban đêm, anh sợ mất túi tiền, không dám ngủ rán thức canh giữ. Mòn mỏi quá, nên anh buộc lòng phải đem giấu. Nhưng cũng không an tâm, cũng vẫn sợ mất, nên có khi đang đêm, anh chỗi dậy đem đi cất giấu ở chỗ khác. Thế là anh không còn ca hát vui vẻ gì được nữa, đám trẻ xa lánh. Ngày qua ngày, tháng qua tháng anh càng gầy ốm xanh xao đến thê thảm!
Thế là anh không thể chịu nổi được nữa, anh bèn mang túi tiền vàng trả lại cho ông nhà giàu. Từ đó, anh lại vui vẻ thoải mái, ca hát với các trẻ hằng ngày. (Theo Wille Hoffsemmer).
Bạn thân mến,
Anh thợ giày, khi dính bén tiền của, ham mê quá đáng, sinh ra rối lòng, từ đó ảnh hưởng đến tâm sinh lý; ăn không ngon, ngủ không yên, mất tất cả niềm vui, mất những thân thuộc, càng ngày càng suy thoái về tinh thần, lẫn thể xác.
May thay, anh đã sớm biết, dốc hết sức can đảm, mà từ bỏ túi tiền vàng, là nguyên nhân đã làm cho anh ra thê thảm bấy lâu nay, để có thể trở về một cuộc sống an lành, bình thường.
*****
Chúa đã nói rằng: “ Nếu tay ngươi làm cho ngươi vấp ngã, hãy chặt nó đi… Nếu chân ngươi làm cho ngươi vấp ngã, hãy chặt nó đi…. Nếu mắt ngươi làm cho ngươi vấp ngã, hãy khoét nó đi… (Mc.9,42-48)
Trong cuộc sống còn quá nhiều điều làm chúng ta mất bình an:
- Tội lỗi sinh ra rối lòng, mất tình yêu với Thiên Chúa, và khi xúc phạm đến tha nhân ta lại lỗi đức ái. Mỗi lần lỗi phạm chúng ta lại phải tái lập sự bình an trong tâm hồn, hoà giải với Thiên Chúa và tha nhân.
- Ngoài tội lỗi ra, những điều làm chúng ta mất bình an đó là đam mê thái quá. Những ham muốn ở đời này, tự nó là tốt, nếu đi trong lề lối của Thiên Chúa. Nhưng ham mê quá độ, đi vượt quá giới răn Chúa, lại là thảm hoạ cho chính mình, cho tha nhân, cho xã hội.
Cũng như anh thợ giày ham mê túi tiền vàng, thì ở đời này còn rất nhiều thứ làm cho người ta hấp dẫn.
Chẳng hạn.
Chúa ban cho loài người có nam có nữ để nâng đỡ nhau, bổ túc cho nhau và để tạo nên một hương thơm tình yêu tuyệt vời, nhưng khi sự hiện diện của chàng hay nàng chiếm đoạt tâm hồn đến ngày tưởng, đêm mơ, nó bắt đầu đi đến phiền toái. Ham quá hoá ra tội lỗi, bệnh tương tư, thủ đoạn chiếm hữu, tệ hại nhất là bất chấp lề luật Chúa, kể cả xung đột, để được theo ý mình.
Những chuyện đại loại như thế vẫn thường xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Ngay cả trong Kinh Thánh, cũng không thiếu những chuyện giống như thế: Quan Pô-ti-pha mua Giuse từ chợ bầy bán nô lệ đem về nhà, thế mà đã lọt vào đôi mắt long lanh của bà vợ ông quan. Nàng dụ dỗ Giuse phạm tội:
Từ xáo trộn nội tâm của nàng, làm rối rắm thêm cho tâm hồn Giuse, kèm theo bao tai hoạ khác nữa.
Trong con người chúng ta còn có rất nhiều đam mê không thể nào kể cho xiết, nếu chúng ta không tự chủ được, nó sẽ đảo lộn tâm hồn, làm mất bình an nội tâm. Chỉ có đường lối Thiên Chúa và ơn thánh của Ngài mới kìm hãm con người yếu đuối của ta được.
Nếu chúng ta đi tìm tình yêu, thì hãy “ở lại trong tình yêu của Chúa” (Ga. 15,9). Nếu chúng ta đi tìm tiền của cũng là để dùng nó để mua chuộc nước trời mà thôi.
Chúa Giêsu xuống thế làm người là để làm lại trật tự cho thế gian, đem bình an cho thế giới. Những trang đầu của sách Tin Mừng đã viết về lời chúc của Sứ thần khi Đấng Cứu Thế vừa mới ra đời:
“Vinh danh Chúa cả trên trời. Bình an dưới thế cho người lòng ngay.” (Lc.2,14)
Nguồn bình an từ đó cứ tiếp tục chan chảy trên địa cầu. Ngài đến để xua đuổi mọi xáo trộn, đem lại niềm vui cho tâm hồn.
Chính Đấng Cứu Thế sẽ đem lại phúc lộc bình an tuyệt vời nhất: “Lúc đó sự công chính nở rộ và bình an lớn lao tới khi mặt trăng khuất bóng”. (Tv. 72,7). Những ai thành tâm tìm kiếm Ngài sẽ tìm được yên vui.
Các thánh Tông đồ là những vị theo sát chân Chúa, nên đã được nếm hưởng nguồn ơn phúc bao la. Bình an của Chúa để lại cho các Tông đồ trước khi Ngài về trời, không phải là lời bình an như phong tục người Do Thái chào chúc nhau mỗi khi từ giã, mà đây là sự trao ban bình an cho các Tông đồ: “Thầy ban cho chúng con sự bình an của Thầy” (Ga.14,27).
Hiệu quả ơn bình an của Chúa Giêsu rất dồi dào, các môn đệ không còn lo âu sợ hãi, dù Thầy mình đã khuất bóng. Trái lại, các môn đệ còn phải vui mừng vì Thầy mình đã hoàn tất sứ vụ Cứu độ ở trần gian, mang hào quang vinh thắng trở về với Chúa Cha.
Hơn nữa các Ngài còn được Chúa Thánh Thần dẫn dắt, nhắc nhở những việc phải làm, ban ơn sức mạnh phi thường để các Ngài hăng say đi vào giữa lòng thế giới, đem Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân. Dù phải túng thiếu, xa xôi, vất vả, hiểm nguy, bắt bớ, đòn đánh, tù ngục, cuối cùng sẵn sàng chịu chết vì Đức Kitô và cho muôn thế hệ mai sau.
Lạy Chúa, trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh, xin cho chúng con biết can đảm sống như một người môn đệ của Chúa, như các tông đồ xưa, để chúng con cũng được xứng đáng hưởng ơn Bình An đích thật của Chúa. Amen.
Có một người đàn ông lượm được một trứng chim đại bàng, khi đốn củi trên rừng, ông đem về cho ấp chung với trứng gà.
Đại bàng con nở ra cùng với đàn gà con. Ngày ngày đại bàng con theo gà mẹ bới đất tìm sâu, như một chú gà con thực thụ.
Một hôm đang bới giun, đại bàng con kinh hãi khi thấy một con chim khổng lồ bay lượn trên không. Đôi cánh hùng vĩ, giang rộng như cánh buồm. Đường bay lượn uy dũng, và trông rất đẹp.
Nó hỏi các anh chị em gà: “Con chim gì mà ghê gớm thế nhỉ”?
Gà mẹ trả lời: “Chim đại bàng đấy. Đại bàng thuộc về trời, còn chúng ta thuộc về đất. Đại bàng bay lượn trên mây, còn chúng ta chỉ biết bới đất tìm giun thôi”.
Đại bàng con không hề biết nó thuộc dòng giống đại bàng. Suốt đời nó sống như loài gà, và sẽ chết như gà.
*****
Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất.
Nhưng không phải thế. Hôm nay, Đức Giê-su lên trời là một bằng chứng cho niềm hi vọng của ta.
Việc Đức Giê-su lên trời bảo cho ta biết rằng: Ngoài đất, còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp, còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua, còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.
Đức Giê-su về trời là niềm hi vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.
Đức Giê-su đã liên kết chúng ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu, thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.
Đức Giê-su dạy cho chúng ta biết rằng: Chúng ta là con của Thiên Chúa, Thiên Chúa là Cha của chúng ta, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời, là điều tự nhiên.
Tuy nhiên Đức Giê-su chỉ về trời, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ, mà Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.
Hôm nay, trước khi về trời, Đức Giê-su uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho chúng ta. Chúng ta phải tiếp nối sứ mạng của Đức Giê-su loan Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hi vọng đến cho kiếp người.
Với niềm hi vọng đó, người Ki-tô hữu chân đạp đất, nhưng lòng vẫn phải luôn hướng về trời cao.
Niềm hi vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất, nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện, sẽ mau chóng qua đi.
Niềm hi vọng đó nâng cuộc sống con người lên, vì từ nay, ta hiểu rằng: Định mệnh loài người không phải như các loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh.
Niềm hi vọng đó làm cho cuộc sống của có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người, không phải để con người tàn lụi đi theo qui luật của vật chất, mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng.
Niềm hi vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn, vì đó chính là sứ mạng Chúa trao phó.
Niềm hi vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện để cho ta được vào Nước Trời.
Lạy Chúa, xin giúp con luôn biết chu toàn nhiệm vụ của con ở trần gian, để sau này con cũng được về trời với Chúa. Amen.
Vào năm 1887, một người Ba Lan tên là Zamenhof, đã tạo ra và đã cổ động cho một thứ ngôn ngữ quốc tế, để cho mọi người trên khắp thế giới đều có thể sử dụng một cách dễ dàng và con người có thể xích lại gần gũi nhau hơn.
Tuy nhiên, thứ ngôn ngữ quốc tế này cho đến nay vẫn giậm chân tại chỗ và thế giới vẫn còn tràn ngập những chia rẽ, hận thù và chiến tranh.
Sở dĩ như vậy là vì người ta không sử dụng thứ ngôn ngữ của tình yêu và không đặt tình yêu làm nền tảng cho mọi mối liên hệ.
*****
Bài Sách Tông đồ Công vụ hôm nay (Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 2,1-11) kể lại rằng: Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội. Lại thấy có hình lưỡi lửa tản ra và đỗ trên từng người. Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.
Trong thời gian mừng lễ Ngũ tuần, có rất nhiều người Do thái, từ khắp các nơi trở về Giêrusalem. Nghe thấy ồn ào, họ liền tuốn đến xem. Và ai nấy đều bỡ ngỡ, vì mỗi người đều nghe các tông đồ nói thứ tiếng của địa phương mình. Họ ngạc nhiên và bàn tán cùng nhau:
- Phải chăng chúng ta đang nghe họ dùng tiếng thổ âm của mình, mà nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa ?
Sở dĩ như vậy là do tác động của Chúa Thánh Thần.
Bởi, qua hình ảnh lưỡi lửa và ơn nói nhiều thứ tiếng nơi các tông đồ, chúng ta thấy Chúa Thánh Thần đã dùng một thứ ngôn ngữ mới, để liên kết mọi người lại, và tạo ra một sự cảm thông, ngôn ngữ đó chính là tình yêu. Nghĩa là nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, hay nói đúng hơn, nhờ tình yêu, mà mọi người có thể hiểu biết nhau, xích lại gần nhau, cảm thông với nhau, để rồi mọi hận thù, chia rẽ, sẽ được loại bỏ.
Tình yêu chân chính, là một thứ ngôn ngữ, mà ai ai cũng đều có thể hiểu được. Nó không phải chỉ được diễn tả bằng tiếng, hay bằng lời nói, mà còn được nói bằng thái độ, bằng cử chỉ, bằng việc làm và bằng cả cuộc sống ngập tràn tình bác ái của mình.
Thực vậy, ai trong chúng ta cũng có thể hiểu được một ánh mắt thông cảm, một cử chỉ thân thiện, hay một việc làm giúp đỡ. Thứ ngôn ngữ tình yêu này không phải chỉ giúp chúng ta hiểu được nhau, mà hơn thế nữa, nó còn có thể giúp chúng ta hiểu được chính Thiên Chúa và có thể tiến lại gần tới Thiên Chúa. Bởi “Thiên Chúa là Tình Yêu” như thánh Gioan đã định nghĩa (1Gioan 4,8).
Và rất nhiều khi, nhờ những hành động bác ái yêu thương, mà những kẻ tội lỗi biết đường ăn năn trở về cùng Chúa.
Trong đời sống gia đình cũng như trong sinh hoạt xã hội, chúng ta cố gắng đừng nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của hận thù, của đấm đá. Đừng nói với nhau bằng ngôn ngữ của chia rẽ, của nghi kị. Nhưng hãy nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của tình yêu, ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần. Bởi ngôn ngữ của tình yêu, chính là ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần, là thứ ngôn ngữ tạo được sự cảm thông và là thứ ngôn ngữ, mà bất cứ ai cũng có thể hiểu được.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa, để chúng con có thể cộng tác với Chúa, trong việc góp phần xây dựng Nước Chúa nơi trần gian này. Amen.
Thánh Augustinô, một hôm đang đi bách bộ trên bờ biển, đang nặn óc, bóp trán, để suy nghĩ về Mầu Nhiệm Một Chúa Ba ngôi.
Bỗng ngài thấy một em bé, với miếng vỏ sò sò trên tay, đi tới đi lui, múc nước biển đổ vào lỗ hang của các con dã tràng trên bãi cát.
Thánh nhân dừng lại xem, thấy em làm việc một các hăng say và rất thích thú. Ngài tò mò, tiến lại hỏi: - Em đang làm gì vậy ?
Em trả lời: - Cháu muốn tát cạn nước biển, bằng việc múc nước biển đổ vào hang các con dã tràng này.
- Sao có thể được ? Biển thì rộng lớn bao la mênh mông, mà lỗ hang của các con dã tràng thì quá nhỏ, làm sao chứa hết nước biển được.
Em trả lời: - Cháu nghĩ: Việc cháu đang làm còn dễ hơn, so với việc mà ngài đang làm, là cố nặn óc, bóp trán, cố hết sức suy tư, để thông suốt Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
Nói xong, cháu bé biến mất.
Sau sự kiện này, thánh Augustinô đã hiểu ra: Chúa đã sai Thiên Thần đến để giúp mình thức tỉnh về việc mình đang làm:
"Tát cạn nước biển, còn dễ hơn việc suy tư cho thông suốt về Chúa Ba ngôi".
Nghĩa là nước biển, tuy mênh mông bao la thật, nhưng vẫn là thứ vật chất, có giới hạn, mà lỗ hang của các con dã tràng đã không thể nào chứa nổi, thì huống chi là Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, thuộc thế giới vô hình, lại rộng lớn mênh mông bao la vô tận, không có giới hạn, thì làm sao khối óc con người quá nhỏ bé, quá giới hạn, lại có thể chứa nổi ?
Và thánh Augustinô đã kết luận: "Thiên Chúa Ba ngôi là một mầu nhiệm, chỉ có thể hiểu đủ, khi ta được đưa về trời".
Tuy nhiên, ngài cũng đã dùng nhiều thí dụ cụ thể, để giúp ta hiểu được phần nào về Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
- Ngài diễn tả sự DUY NHẤT của Thiên Chúa Ba Ngôi như một hình tam giác đều, với đầy đủ mọi đặc tính: như nhau và bằng nhau của toán học.
- Ngài cũng dùng ngọn đèn cầy, để diễn tả TÁC ĐỘNG RIÊNG của mỗi Ngôi Vị: Ngọn lửa nguồn, là chính Chúa Cha, phát sinh ra ánh sáng là Chúa Con, để cứu người ta khỏi ngồi trong bóng tối tội lỗi. Ngọn lửa cũng đem đến hơi ấm là Chúa Thánh Thần, để thánh hóa, để sưởi ấm mọi cõi lỏng cô lạnh. Cả ba hành động tuy khác nhau, nhưng cũng do một nguồn là ngọn lữa.
- Ngài cũng diễn tả sự NHẤT TRÍ và HÒA HỢP của Chúa Ba ngôi trong tư tưởng và hành động như người chơi dương cầm:
Cây đàn là Chúa Cha, hợp với năng khiếu, và tài khéo léo của đôi tay là Chúa Con để dệt lên những cung điệu nhịp nhàng thánh thót là sự sống động của Chúa Thánh thần, làm thỏa lòng người nghe.
Tuy ba hành động khác nhau, nhưng cả ba đều hợp nhất trong hành động, và đều hòa hợp trong việc làm. Chính sự hợp nhất vả hòa đồng ấy, mà Thiên Chúa Ba Ngôi cảm thấy mình hạnh phúc không chi sánh bằng, một hạnh phúc bất tận và miên trường, trong sự trường cửu của Ngài.
Thánh Phaolô đã cảm khoái được sự hợp nhất yêu thương này nơi Thiên Chúa, nên đã khuyên chúng ta:
"Anh chị em hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, hãy hòa thuận với nhau thì Thiên Chúa, nguồn sự bình an hạnh phúc sẽ ở với anh chị em" (2 Cor 13:12).
Gia đình Chúa Ba Ngôi là một gương mẫu yêu thương, hòa thuận và nhất trí.
Chúng ta cũng hãy cố gắng tạo cho gia đình chúng ta nên một gia đình nhất trí trong yêu thương và trong che chở đùm bọc lẫn nhau như vậy.
Chúng ta cũng nên chú ý điều này:
Một trong những ngăn trở, những nguy cơ, có thể phá vỡ hạnh phúc gia đình, đó là sự khó chịu, buồn bực do bạn bè, do chủ hãng, do sở làm, do nhà trường, do hoàn cảnh giao tế xã hội... tạo nên cho mình. Rồi khi về nhà, chúng ta lại không chịu buông bỏ, không chịu để nó ở ngoài cửa, mà đem vào trong nhà, để rồi trút đổ trên con cái, trên vợ chồng. trên những người thân... đã gây nên bao khó khăn cho nhau, làm mất đi bầu khí hạnh phúc gia đình.
Chớ gì, mỗi khi về nhà, chúng ta phải cố gắng buông bỏ những công việc, những nguy cơ ngoài xã hội, để khi về sống với gia đình, chúng ta chỉ biết có gia đình mình, để cố gắng sống bầu khí của gia đình: yêu thương, chia sẻ, nâng đỡ, an ủi nhau.... Đó là hình ảnh của gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa, duy nhất, thánh thiện, nhất trí và yêu thương.
Lạy Thiên Chúa Ba ngôi, xin soi dẫn trí lòng mỗi người trong gia đình chúng con, để mỗi người biết sống đúng địa vị, đúng vai trò của mình trong gia đình, biết hợp lòng, hợp ý, nhất trí với nhau trong tư tưởng, cũng như trong hành động, để chúng con trở nên một gia đình hạnh phúc.
Lúc đó, gia đính của chúng con sẽ là hiện thân của Gia đình Ba ngôi Thiên Chúa ở giữa trần gian này. Lạy Chúa xin giúp con. Amen.
(Chuyện Minh Họa Tin Mừng Lễ Kính Mình MáuThánh Chúa)
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Ar-mê-ni-a thuộc Liên Xô cũ, đã giết chết hằng ngàn người.
Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có 2 mẹ con bà Su-zan-na. Mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ.
Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”.
Bà Su-zan-na không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình máu mủ đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: Bà dã dùng một miếng kính vỡ, cắt đầu ngón tay của mình cho máu chảy ra, và đưa vào miệng đứa con cho nó mút.
Một lúc sau nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay khác nữa. Cứ như thế cho đến khi người ta cứu được 2 mẹ con ra.
Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng:
“Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”
*****
Câu chuyện trên thật cảm động.
Nhưng vẫn không cảm động bằng việc Đức Giêsu tự hiến dâng thịt máu mình cho chúng ta.
Bà Su-zan-na đã lấy máu của mình nuôi con, khi bà biết rằng chắc chắn bà sẽ chết.
Thay vì chết cách vô ích. Bà đã hy sinh dòng máu của mình để cho đứa con được sống. Đó là sự hy sinh trong một tình thế bó buộc.
Còn Đức Giêsu thì không có gì bắt buộc cả:
Ngài đến trần gian là để chết cho loài người. Càng ngày, Ngài càng thấy trước cái chết đang tiến gần.
Tuy nhiên, bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể thoát ra khỏi cái chết ấy. Dù vậy Ngài vẫn cương quyết đi đến cái chết và cương quyết lấy thịt máu mình làm lương thực nuôi sống loài người chúng ta.
Thật đúng là:
“Không có tình yêu nào cao trọng cho bằng tình của người dám chết cho người mình yêu thương”.
Điểm khác biệt thứ hai giữa bà Su-zan-na với Đức Giêsu là: Việc bà Su-zan-na hy sinh máu mình cho đứa con, chỉ xảy ra có một lần; còn việc Đức Giêsu ban thịt máu Ngài cho chúng ta lại xảy ra hằng ngày, như lời Ngài đã truyền dạy: “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy”.
Mỗi lần Giáo hội dâng Thánh lễ, là mỗi lần việc hy sinh của Đức Giêsu được lập lại, lập lại không chỉ như một sự tưởng niệm, mà lập lại với tất cả hiệu quả có nó.
Hiệu quả ấy là như lời Đức Giêsu đã nói:
“Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời”. *****
Câu chuyện bà Su-zan-na giúp chúng ta hiểu phần nào về Bí Tích Thánh Thể.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá, và Ngài muốn máu của Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Trong các nhà thờ, vào dịp lễ Giáng Sinh, thường có những người ngoài Kitô giáo đến dự lễ. Cũng có ít người tò mò lên “ăn bánh thánh”. Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng manh, nhạt nhẽo. Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn nhiều, nếu chúng ta bảo họ:
“Ăn tấm bánh đó là ăn thịt Chúa, uống chén rượu đó là uống máu Chúa”.
Thật là kinh khủng, làm sao có chuyện như vậy?
Đây là mầu nhiệm đức tin, không dễ giải thích cho người ngoài. Tất cả bắt nguồn từ ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu. Ngài muốn nuôi nhân loại, bằng chính con người Ngài. Ngài muốn trở thành thức ăn, thức uống cho nhân loại:
“Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Thày. Các con hãy cầm lấy mà uống, vì này là máu Thày”
Mình và Máu, tượng trưng cho toàn thể con người Đức Giêsu.
Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt mình Ngài, mà rước lấy cả con người của Ngài, dưới dạng tấm bánh.
Rước lễ, chính là gắn bó với một Ngôi vị:
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (câu 56).
Rước lễ không phải là đón nhận một xác chết, nhưng là gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và nay đã phục sinh.
“Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy."(câu 57)
Rước lễ, là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống, cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ. Ngài không hiện diện dưới dạng một con người, nhưng dưới dạng thức ăn, thức uống.
Như thế, cả vật chất bất động, cũng được nâng lên, cả lao công của con người cũng được thánh hiến.
Vật chất, trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh. Vật chất, có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho tình yêu thương của con được thể hiện một cách cụ thể, trong các hoạt động của cuộc sống hằng ngày của con, để cho thế giới vật chất ở quanh con cũng được trở nên thánh.
Lạy Chúa xin giúp con thực hiện được ý nguyện này. Amen.
Nghịch lý của thời đại chúng ta hôm nay, đó là: Đường phố rộng hơn, quan điểm lại hẹp hòi hơn, Chúng ta tranh giành nhiều hơn, nhưng lại có ít hơn, Mua sắm nhiều hơn, nhưng hưởng thụ lại ít hơn, Chúng ta có những tòa nhà đồ sộ hơn, nhưng gia đình lại bé nhỏ hơn. Cuộc sống tiện nghi hơn, nhưng lại ít thời gian nhàn rỗi hơn, Bằng cấp nhiều hơn, nhưng giá trị lại ít hơn, Hiểu biết nhiều hơn, nhưng nhận xét cá nhân lại kém hơn, Nhiều nhân tài hơn, nhưng lại ít sáng tạo hơn, Chúng ta sở hữu nhiều hơn, nhưng nhân cách lại giảm nhiều hơn, Chúng ta nói quá nhiều, nhưng yêu thương thì quá ít và ghen ghét lại nhiều hơn, Chúng ta biết cách mưu sinh, nhưng không biết tạo dựng cuộc sống, Chúng ta sống thọ hơn, nhưng cuộc sống ít ý nghĩa hơn, Chúng ta làm được những điều cao sang, nhưng lại không làm được những điều đơn giản với đồng loại.
*****
Vâng, cuộc sống xem ra tiến bộ hơn, nhưng đáng tiếc là chúng ta lại đang đánh mất nhiều thứ hơn, những thứ rất qua trọng: Mất tình gia đình, mất tình bạn, mất tình làng nghĩa xóm.
Cái mất lớn nhất của thời đại hôm nay, chính là mất niềm vui của sự bình an tâm hồn.
Vì cuộc đời hôm nay có quá nhiều thứ rủi ro, có quá nhiều những căng thẳng, có quá nhiều những bất trắc, khiến con người hôm nay, dù có nhiều tiền, nhiều của, nhiều vật chất, nhưng lại có rất ít những giây phút thư thái bình an.
Cuộc đời lúc nào cũng tràn đầy những lo toan, khiến con người hôm nay luôn phải sống trong cảnh đối phó với những nghịch cảnh muôn mặt, có thể ập tới từ bất cứ lúc nào.
Bên cạnh, còn phải vật lộn với biết bao khó khăn trong cuộc sống, phải bươn chải để tìm miếng cơm manh áo.
Cuộc sống chung quanh lại còn quá nhiều những sự dữ bủa vây, như muốn nhận chìm con người.
Những tệ nạn xã hội như: xì ke, ma tuý, mại dâm,... luôn là những cạm bẫy có thể xâm chiếm và làm mất đi sự bình an nơi các gia đình.
Thực tế, đã có biết bao gia đình khô cạn nước mắt, vì những đứa con đang lao vào con đường xì ke, ma tuý; đã có biết bao gia đình tan nát vì lối sống buông thả, phóng túng của những người chồng thiếu trách nhiệm; đã có biết bao gia đình đang u sầu vì những quan hệ bất chính của những người cha, người mẹ đang làm gương mù, gương xấu cho đàn con.
Sự dữ, dường như đang khống chế con người hôm nay.
Sự dữ, dường như đang làm chủ xã hội hôm nay, khiến con người luôn cảm thấy bất an và lo sợ.
Cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giêsu cũng nhìn thấy sự dữ hoành hành. Sự dữ đang gây nên những đau khổ, đổ vỡ, mất mát cho biết bao con người. Sự dữ luôn làm cho con người lo sợ, bất an.
Chúa Giêsu đã sai các môn đệ ra đi trong tình trạng khẩn trương và cấp bách đó. Cấp bách đến độ không cần chuẩn bị những hành trang bên mình, như giầy, dép, bao bị,...
Chúa muốn các môn đệ hãy ưu tiên cho việc đem Tin Mừng đến cho muôn người.
Tin Mừng mà Chúa muốn các môn đệ đem đến cho nhân trần, chính là đẩy lùi sự dữ và kiến tạo bình an cho các tâm hồn.
Chúa bảo với các môn đệ hãy mang bình an của Chúa đến cho muôn người.
Bình an của những con người thoát khỏi sự thống trị của sự dữ, khi đón nhận tin mừng Nước Trời.
Bình an sẽ được tặng ban khi Triều đại Nước Thiên Chúa thống trị địa cầu.
Lời mời gọi đó dường như vẫn đang cấp bách hơn bao giờ hết trong thời đại hôm nay. Một thời đại có quá nhiều sự dữ. Một thời đại của sự hưởng thụ, ích kỷ, đã biến con người thành sự dữ, đang giết chết bản thân và tha nhân.
Chúa vẫn đang tha thiết mời gọi mỗi người chúng ta: Hãy chung tay góp sức đẩy lùi sự dữ ra khỏi gia đình, khỏi môi trường chúng ta đang sống.
Hãy nói không với tội lỗi.
Hãy tránh xa những cám dỗ của tội lỗi.
Hãy sống ngay lành, để có niềm vui của sự bình an trong tâm hồn, và trao ban bình an cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là hoàng tử bình an, đã đến trần gian, để ban bình an cho mỗi người chúng con, như các thiên thần đã loan báo trong Đêm Giáng Sinh: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Nhờ có bình an đó, mà chúng con có khả năng trao ban bình an cho nhau.
Lạy Chúa, xin hãy biến đổi chúng con thành những khí cụ bình an của Chúa, thành những sứ giả bình an của Chúa cho thế giới hôm nay. Amen.
Ở một thành phố nọ, có một Ông Hoàng sống một cuộc đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ cao, giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng của sự may mắn, và sẽ mang lại hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.
Vào một buổi chiều đầu mùa đông, có một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước từ trên cao rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên chừng vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc. Những giọt nước mắt cứ lăn dài trên đôi má của ông.
Chim én ngạc nhiên và hỏi ông:
- Tại sao ông khóc? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!
- Ông hoàng trả lời: Từ khi ta đứng trên cao nhìn xuống, trông thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá, nên ta không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này, nên không thể nào đi được để giúp họ. Bạn có thể giúp ta được không?
- Không được, tôi phải bay đi ngay bây giờ, để cho kịp theo đàn, đang bay về phương bắc.
- Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.
- Chim én ngập ngừng giây lát rồi nói: Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì?
- Trong một túp lều đàng kia, có một người mẹ đang khóc, vì con của bà đang bệnh nặng, mà bà không có tiền để đến bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta, đem cho bà ấy.
- Chim én dùng mỏ, mổ lấy viên ngọc ra và bay đến, trao cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo chữa trị cho con bà khỏi bệnh.
- Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một thêm đêm nữa để mang viên ngọc khác, đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa, đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì là quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời đã lạnh rất nhiều.
- Một buổi sáng, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi.
Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.
*****
Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta vẫn vô tâm như vậy.
Nhiều người đã được sống hạnh phúc, nhưng họ đâu biết rằng: Hạnh phúc của họ là nhờ sự chắt chiu từng hy sinh âm thầm của biết bao nhiêu người.
Có thể, đó là sự hy sinh không mệt mỏi của cha, của mẹ, từng ngày vất vả trên nương đồng, trên công trường hay công sở xí nghiệp.
Có thể, đó là sự hy sinh nhịn nhục của những người thân, chấp nhận chịu thiệt thòi, để họ được hạnh phúc.
Có thể, đó là sự hy sinh nhường nhịn của bạn bè, để họ được vui hơn trong cuộc sống.
Thế mà, nhiều người vẫn tưởng rằng: Mình lớn lên không cần ai giúp đỡ.
Lối suy nghĩ đó đã dẫn đến một đời sống ích kỷ, hẹp hòi, một lối sống dửng dưng đến xa lạ với đồng loại.
*****
Thực vậy, ở trong cuộc đời này:
- Vẫn còn đó, biết bao người chắt chiu từng hạt gạo, gom góp từng miếng vải, để giúp kẻ cơ hàn.
- Cuộc đời vẫn còn đó, biết bao người hy sinh cả cuộc sống mình, để phục vụ ngày đêm bên các bệnh nhân, nhất là các bệnh nhân nan y.
- Vẫn còn đó, cả hàng triệu người đang đổ mồ hôi vất vã trên công trường, trên nương đồng để làm ra của cải và sản phẩm cho hàng tỉ người trên trái đất hưởng dùng.
- Vâng, cuộc đời vẫn còn đó, biết bao người đã hy sinh vì tha nhân, cố kiến tạo niềm vui trong những giọt mồ hôi lao nhọc, để phục vụ tha nhân.
- Thế nhưng, giòng đời vẫn còn đó, những trái tim khô cằn, những tâm hồn lạnh nhạt đến dửng dưng, với nỗi đau của đồng loại.
Họ đâu có biết rằng: Cuộc đời của họ đang bị cuốn trôi theo một giòng chảy của xã hội.
Họ đã quên, là họ được đón nhận, thì họ cũng phải biết trao ban. Vì chẳng ai có thể giữ mãi cho mình được điều gì mãi mãi. Tất cả những gì mình có, rồi một mai cũng sẽ bị cuốn trôi theo thời gian thôi.
Lời Chúa hôm nay (TN 15-C Luca 10,25-37) mời gọi chúng ta hãy biết dừng lại, để giúp đỡ những ai đang cần đến chúng ta, hãy biết chia sẻ với những khó khăn của tha nhân.
Hình ảnh Thầy Tư tế và Lê vi đã bỏ lại đằng sau tiếng kêu cứu của đồng lại, diễn tả một thế giới, mà con người luôn hối hả, bận rộn, với giòng chảy của cuộc đời.
Họ bị giòng đời cuốn trôi, đến nỗi đã quên rằng: Cuộc sống đích thực là cuộc sống còn có khả năng chia sẻ với tha nhân.
Một cuộc đời có ý nghĩa, là cuộc đời biết dùng thời giờ để sống với tha nhân trong yêu thương và phục vụ.
Và một cuộc đời đã mất, khi không còn khả năng để giúp đỡ anh em.
Ông Hoàng hạnh phúc đã không còn hạnh phúc, khi ông nhận ra mình không còn khả năng để giúp đỡ đồng loại.
Ông cảm thấy bất hạnh, khi mình không còn khả năng để xoa dịu nỗi đau của đồng loại.
Ngược lại, người Samaria nhân hậu đã tìm được niềm vui của cuộc đời phục vụ. Ông đã dừng lại để xoa dịu nỗi đau của kẻ bất hạnh. Cuộc đời ông hạnh phúc biết bao, khi ông băng bó nỗi đau của đồng loại.
Khi ánh mắt của kẻ chịu ơn đang nhìn ông một cách trìu mến thân thương.
Niềm vui của ông càng được nhân lên, khi người mà ông giúp đỡ đã coi ông như anh em. Từ một người xa lạ, nay trở thành kẻ thân thích.
Ông đã biết dùng của cải đời này để mua bạn hữu đời này và cả đời sau.
Đó chính là mẫu người, mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy làm theo như vậy.
Lạy Chúa, Chúa là Đấng đã hết lòng yêu thương và phục vụ con người, cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết một cách đau thương, chết một cách nhục nhã vì yêu thương chúng con, xin cho chúng con cũng học được bài học này, và biết đem ra thực hành, đế chúng con xứng đáng là con Chúa. Amen.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta phân biệt hai loại cần thiết, đó là cần thiết tương đối và cần thiết tuyệt đối.
Vậy thế nào là cần thiết tương đối và thế nào là cần thiết tuyệt đối ?
Cứ chung chung mà nói, thì ai trong chúng ta cũng cần đến tiền bạc, cũng như cơm ăn áo mặc. Vì thiếu nó, chúng ta không thể sống và nếu có sống, thì cũng sống trong cảnh cùng cực túng thiếu, sống không ra người.
Bời đó, ai ai cũng đều chịu khó bươm chải, chạy ngược chạy xuôi, làm lụng vất vả, đổ mồ hôi xôi nước mắt, để tìm tiền kiếm bạc, cáng nhiều càng tốt.
Cơm áo gạo tiền là nỗi lo lắng số một của chúng ta. Và trong bất kỳ phạm vi nào, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng phải là “vấn đề tiền đâu”.
Một khi tiền bạc đã rủng rỉnh, người ta lại mơ ước đến quyền hành và thế lực, nhờ đó mà lên mặt với đời và để lại trong thời gian một chút danh giá, một chút tiếng tăm.
*****
- Ông Đô đốc Byrd là một nhà thám hiểm Nam cực, vì không có đủ tiền, ông đã cho đăng báo và hứa rằng nếu ai giúp đỡ ông về phương diện tiền bạc, thì khi tìm thấy sông hoặc núi, ông sẽ lấy tên người ấy mà đặt cho.
Tức thì nhiều người giàu có đã mang tiền đến giúp, vì họ muốn cho tên tuổi của mình được tồn tại mãi với thời gian.
- Một trường hợp khác, đó là Carnégie, ông vua thép ở Mỹ. Trong việc làm ăn, đã xảy ra một sự cạnh tranh giữa ông và Pullman, nhiều lúc đã đi tới chỗ va chạm và xích mích, thiệt hại cho cả đôi bên.
Ngày kia, Carnégie đến giặp Pullman và nói:
- Tôi nghĩ: Cả hai chúng ta đều điên khùng. \
Vậy tôi xin đề nghị với ông, thay vì cạnh tranh, chúng ta hãy cùng hợp tác với nhau.
Nói rồi, Carnégie kể ra những lợi ích to lớn do sự hợp tác đem lại.
Cuối cùng Pullman chỉ hỏi một câu:
- Vậy ông tính đặt tên cho công ty này là gì ?
- Công ty Pullman chứ sao nữa.
Nghe vậy, Pullman đã mỉm cười, bắt tay và mời Carnégie ở lại dùng cơm tối.
*****
Xem đó, chúng ta thấy đô đốc Byrd và Carnégie đã đánh trúng vào yếu điểm của nhiều người, đó là lòng ham mê danh vọng.
Thế nhưng, tiền bạc và danh vọng có thực sự là điều cần thiết tuyệt đối hay không ? Chắc chắn là không. Vì khi phải đối đầu với cái chết, chúng ta sẽ chẳng mang theo được một chút gì sang thế giới bên kia:
- Vua Ngô sử hữu ba mươi sáu tấn vàng, khi Chết, xuống âm phủ, đã chẳng mang theo được gì.
*****
Đối với chúng ta, những người con Chúa thì khác. Sự cần thiết tuyệt đối chính là phần rỗi linh hồn, như lời Chúa đã phán:
- Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi.
Tự đời đời, Chúa chẳng cần đến chúng ta. Bời nếu không có vũ trụ và loài người, thì Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa. Ngài hoàn toàn đầy đủ và hạnh phúc. Sở dĩ Thiên Chúa dựng nên chúng ta là để chúng ta được chia sẻ phần hạnh phúc với Ngài.
Bởi vậy, nhiệm vụ của chúng ta là phải nhận biết và thờ phượng Ngài, hầu nhờ đó đạt được phần rỗi cho linh hồn.
Đúng thế, chúng ta được sinh ra là nhờ cha mẹ. Nhưng không cha mẹ nào đã dám xác quyết rằng: Tất cả đều là do mình trao ban.
Những sự vật rất tầm thường, như khí trời, cơm gạo, rau quả…. để cho chúng ta được sống là do ai, nếu không phải là do bởi chính Thiên Chúa.
Vì thế, sự cần thiết tuyệt đối đó là nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa. Nếu thiếu sót trong phạm vi này, phải nói là chúng ta đã thiếu sót một chuyện rất quan trọng. Vì chỉ có vấn đề này, mới thực sự là cần thiết.
*****
Cavalière, là một nữ tài tử rất nổi tiếng và gặp rất nhiều may mắn trong sự nghiệp và trong cuộc sống. Thế nhưng, theo lời cô, giữa những lời khen tặng, hoan hô nồng nhiệt của quần chúng hâm mộ, cô vẫn cảm thấy trống vắng, khiến cho nhiều lần cô muốn đi tìm cái chết.
Tự đáy lòng, cô luôn nghe như có tiếng nói:
- Hỡi Cavalière, có phải mi được sinh ra là để cố bám lấy những cái phù du giả tạo đó hay sao ?
Rồi một hôm, người ta không thấy bóng dáng cô ở Thủ đô Paris, kinh thành của ánh sáng nữa. Cô đã lặng lẽ đi tới một miền núi xa xăm, sống âm thầm và cầu nguyện trong một nhà Dòng.
Hai năm trước khi qua đời, Robert de Pierre, một nhà báo, tìm đến nơi cô đang ở. Thấy cuộc sống của cô quá lặng lẽ và quạnh hưu, nên đã nói:
- Sống như thế này thì có chi là sung sướng.
Nhưng cô đã trả lời:
- Sung sướng lắm chứ. Sung sướng gấp trăm ngàn lần ở Paris. Vì nhờ đó, mà tôi có dịp được sống gần Chúa, được sống trong Chúa và được sống với Chúa. Đó chính là niềm hạnh phúc tuyệt vời của tôi hôm nay.
Hãy nhận biết và thờ phượng Chúa, nhờ đó đạt tới cuộc sống vĩnh cửu, đó là sự cần thiết tuyệt đối, mà mỗi người chúng ta cần phải chọn lựa, cần phải thực hiện giữa cuộc đời đầy huyên náo và bon chen này.
Lạy Chúa, hôm nay (TN 16-C) Chúa đã khẳng định thật rõ ràng: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy đi” (Luca 10,42).
Xin cho con hiểu điều Chúa dạy và cố gắng thực hiện trong cuộc sống hằng ngày của con. Amen.
Một câu chuyện có thật, đã xảy ra tại một bệnh viện:
Có một nhà văn vô thần. Ông ta không tin có Thiên Chúa, nên không hề biết gì về Thiên Chúa, cũng không hề biết gì đến đến linh hồn, và cũng không hề biết gì đến sự sống đời sau.
Khi ông ta bị đau nặng, người nhà đưa ông vào bệnh viện và đang ở trong tình trạng đau đớn, hầu như đã kiệt sức.
Nhìn thấy một nữ tu đến giúp đỡ ông, nhưng trên tay lại cầm một cỗ tràng hạt, ông ta bèn lên tiếng hỏi:
- Chị làm gì thế ?
Vị nữ tu trả lời:
- Tôi đang cầu nguyện, để ông được giảm bớt những cơn đau.
- Vậy chị cầu nguyện như thế nào ?
Vị nữ tu bèn đọc thật chậm rãi và sốt sắng lời kinh Chúa dạy:
- Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng,…
Ông ta phát biểu:
- Lời kinh thật đẹp, chị hãy đọc tiếp nữa đi.
- Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Rồi sao nữa:
- Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha, kẻ có nợ chúng con.
Sau khi đã nghe đọc hết kinh Lạy Cha, ông ta nói:
- Tôi muốn chị dạy cho tôi lời kinh tuyện vời này.
Và sau cùng, người vô thần này đã nhận biết Thiên Chúa, nhờ lời kinh Lạy Cha.
******
Kinh LẠY CHA là một lời kinh thật tuyệt vời, bởi đây là lời kinh, có thể nói là lời kinh duy nhất, do chính Chúa Giêsu đã đích thân dạy con người:
1. Trước hết, qua Chúa Giêsu, chúng ta rất vui mừng, phấn khởi và rất hãnh diện, vì chúng ta biết: Mình có một người cha, là Thiên Chúa, Ngài ngự ở Trên Trời.
Cho nên Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, là mỗi khi cầu nguyện, hãy thân thưa với Cha mình, như tâm sự với một người Cha rất yêu thương mình, và như người con rất yêu thương Cha mình: Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Thiên Chúa, là một người Cha tuyệt vời và đúng nghĩa nhất, bởi vì Ngài đã trao ban cho chúng ta sự sống phần xác, ngày chúng ta mở mắt chào đời, và cũng đã trao ban cho chúng ta sự sống phần hồn, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội.
Danh hiệu này, cũng chính là chiếc chìa khóa, để giải quyết vấn đề thân phận con người:
- Chúng ta từ Thiên Chúa mà đến, và rồi chúng ta sẽ trở về cùng Thiên Chúa là Cha của chúng ta, sau những ngày sống ở trần gian này.
2. Tiếp đến, chúng ta hãy chú ý lời dạy của Chúa Giêsu dạy là Lạy Cha chúng con.
Chúa không dạy chúng ta: Lạy Cha con, hay Lạy Cha của con, mà đã dạy: Lạy Cha chúng con.
Như thế, Kinh Lạy Cha tuyệt vời ở chỗ, không phải chỉ nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với Thiên Chúa mà thôi, mà còn nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với nhau nữa.
Thiên Chúa là Cha, cho nên tất cả chúng ta đều là anh em với nhau.
Như thế lời kinh này không phải chỉ tỏ lộ cho chúng ta tình phụ tử, mà còn tỏ lộ cho chúng ta tình huynh đệ.
Mà đã là anh em, thì chúng ta có bổn phận phải yêu thương nhau, phải tha thứ cho nhau, phải hòa giải, phải hòa thuận với nhau trong mọi trường hợp.
Cho nên Chúa Chúa mớ dạy tiếp theo: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha, kẻ có nợ chúng con.
Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta hãy gắn bó mật thiết với Ngài.
Đồng thời, chúng ta là anh em với nhau, cho nên chúng ta phải yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.
Đây chính là sứ điệp, mà Chúa Giêsu muốn gởi đến cho mỗi người chúng ta qua kinh Lạy Cha.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu và thực hành đúng theo những gì mà Chúa đã dạy chúng con hôm nay, trong lời kinh nguyện tuyệt vời này. Amen.
Thánh Philipphê Nêri muốn thuyết phục chàng Phanxicô Spaoãano, một sinh viên Rôma, đã hoàn toàn tin tưởng ở sự hướng dẫn của ngài, về một chân lý ngàn năm, như sau:
Một hôm Phanxicô hớn hở đến báo tin cho ngài biết: Anh ta đã thành công rực rỡ trên đường khoa nghiệp.
Thánh nhân trả lời:
- Khá lắm. Cha xin chúc mừng con. Nhưng rồi con sẽ làm gì? - Con sẽ làm trạng sư, sẽ biện hộ ở tòa án. - Rồi sao nữa? - Con sẽ có nhiều tiền. - Rồi sao nữa? - Con sẽ lập gia đình. - Rồi sao nữa? - Con sẽ sống hạnh phúc. - Rồi sao nữa?
Chàng sinh viên suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Rồi… rồi con cũng sẽ chết như bất cứ ai khác. - Rồi sao nữa?
Chàng sinh viên im lặng bỏ đi, trầm tư và u buồn. Tuy nhiên, câu hỏi của cha cứ nhắc đi nhắc lại mãi trong đầu, cứ ám ảnh anh ta hoài. Và rồi một hôm, anh ta đã từ giã đường trần và khoác áo tu trì.
*****
Khi giải thích dụ ngôn này của Chúa (TN 18-C), thánh Athanasiô đưa ra lời khuyên:
“Ai sống như phải chết mỗi ngày, vì biết rằng cuộc sống này tự nó là tạm bợ, không chắc chắn, thì sẽ không phạm tội, và vì sợ Chúa, nên sẽ dập tắt được phần lớn lòng tham lam; Trái lại, ai nghĩ mình còn sống lâu, thì sẽ dễ dàng để cho dục vọng khống trị mình”.
Trong dụ ngôn này Đức Giêsu đã nói lên sự nguy hiểm của sự giầu sang, và sự tham lam của cải vật chất. Vì vậy, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này để cảnh giác cho hết mọi người, bởi người giầu hay người nghèo cũng đều có tính tham lam, cũng đều thích lo tích trữ của cải cho mình.
Ở đây, Chúa trách người con trưởng tham lam, muốn chiếm đoạt gia tài, mà không chia cho người em. Đồng thời, Ngài cũng trách người em, vì ham mê của cải mà tranh chấp gia tài với anh mình.
Đo đó, các bài đọc của Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta phải duyệt xét lại những gì đang là ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống của ta.
Sách Giảng viên đã nhắc nhở chúng ta:
“Phù vân, quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân.
Điều sách Gảng Viên muốn nói: “Mục đích của đời sống chúng ta là gì?” Chắc chắn không phải là để lo tích lũy của cải. Bởi những sự vật ở trần gian này đều sẽ không bao giờ có thể thỏa mãn được tâm hồn chúng ta. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta hạnh phúc tràn đầy, thứ mà tâm hồn chúng ta luôn khao khát.
Vì thế thánh Phaolô nói: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.
Còn Chúa Giêsu khuyên chúng ta: “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình, mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”.
Cái làm cho chúng ta giầu có trước mặt Thiên Chúa, không phải là chúng ta đang có gì, hoặc đang làm gì, nhưng thực tế chúng ta đang là gì.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu không chỉ nói về những người giầu có, nhưng Ngài muốn nói với tất cả những ai có tính tham lam.
Người nghèo cũng tham lam của cải không thua người giầu đâu.
Thật ra, tham Lam, không nhất thiết là vì có hay không nhiều tiền, nhiều bạc, nhiều của cải, nhưng là tại vì người ta luôn bị ám ảnh bởi tiền bạc, của cải vật chất, những thứ làm cho người ta ra mê muội, không còn biết thế nào là đủ nữa.
Bởi ông bà chúng ta thường nói: Túi tham thì vô đấy, chẳng biết bao nhiêu là vừa.
Người La mã có câu ngạn ngữ:
“Của cải như nước muối, bạn càng uống thì càng khát”.
Chúng ta cũng thường nghe nói: “Tham thì thâm”, mà quả là đúng như vậy.
Trong chuyện ngàn lẻ một đêm có kể lại một câu chuyện khá lý thú như thế này:
Có một anh thanh niên nọ, tình cờ lượm được một đồng tiền bằng bạc trên đường đi. Thế là từ đó, mỗi lần đi đâu, anh ta đều cúi đầu xuống đất, hết sức chú tâm tìm kiếm những đồng tiền rơi vì sợ bỏ sót. Kết quả là sau ba mươi năm, anh ta lượm được 4 đồng tiền bằng bạc, 37 đồng tiền bằng đồng, khoảng 18.500 nút áo đủ cỡ, đủ loại, khoảng 14.400 cây kim may và kim gút đủ lọai.
Nhưng bù lại, anh phải đổi lấy bằng cái tật khòm lưng. Với một tâm trạng bi quan, cộng thêm một tính khí khó thương. Bởi từ lâu, đôi mắt của anh đã không nhìn lên bầu trời, để thấy những vẻ đẹp của thiên nhiên, và cũng bao giờ nhìn thấy vẻ xinh đẹp của hoa lá cỏ cây … Tính ham mê của cải đã “giết chết con người của anh”.
Bí quyết làm cho chúng ta được hạnh phúc là biết chấp nhận. Hạnh phúc không phải là có cái chúng ta mong muốn, nhưng là chấp nhận cái chúng ta đang có. Dù giầu hay nghèo, hạnh phúc là bằng lòng với cái mình đang có, và ngay cả với cái mình không có nữa. Hãy biết chấp nhận mọi sự như chương trình của Thiên Chúa đã sắp đặt với lòng biết ơn, và cũng luôn ý thức rằng: Một khi chúng ta có Thiên Chúa là chúng ta có tất cả mọi sự (Dt 13,5-6).
Rồi chúng ta cũng hãy chú ý sứ điệp mà Đức Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: Hãy dùng của cải đời này mà “làm giầu trước mặt Thiên Chúa”(Lc 12,21). Đó mới chính là nghệ thuật làm giầu đích thực.
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chỉ là những con người nghèo khó. Cho dù có xây bao nhiêu kho lẫm, bao nhiêu két sắt, bao nhiêu tài khoản ngân hàng, cũng chỉ là con số không trước mặt Chúa.
Chúng ta chỉ thực sự giầu có trước mặt Thiên Chúa, khi chúng ta biết quan tâm đến những người nghèo khó, biết mở hầu bao để giúp những kẻ khốn cùng.
Chúa phán: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”(Lc 12,33).
Lạy Chúa, xin giúp con hiểu và cố gắng thực hiện những điều Chúa dạy con hôm nay. Amen.
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn.
Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi:
+ “Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi ?” - “Khoảng 40 năm rồi”
+ “Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?” - “Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi”
+ “Ông có thư từ gì với cụ không ?” – “Không, ông ta bận lắm”
+ “Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ ?” – “Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này”
+ “Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu ?” – “Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân, được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ, lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên”.
*****
Người gia nhân trên đây thật đáng ca tụng:
- Ông làm việc không vì sợ, nhưng vì yêu, không vì mắt chủ mà vì trách nhiệm. Ông coi việc của chủ như việc của mình, nên đã hết lòng.
Thái độ của ông thực là thái độ Chúa muốn mỗi người chúng ta phải có khi làm việc cho Ngài.
Trong huấn dụ về sự tỉnh thức, Chúa đã dạy chúng ta trong bài Tin Mừng (TN 19-C):
“Hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ gõ cửa thì mở ngay cho chủ. Nếu canh hai canh ba chủ trở về mà gặp thấy như vậy thì phúc cho các đầy tớ ấy” (Luca 12,35-40).
Lời dạy của Chúa chúng ta đã nghe nhiều, nghe đi nghe lại, nhưng có lẽ nó chưa rơi vào óc, chưa thấm vào tim chúng ta.
Chúa bảo chúng ta cầm đèn cháy sáng, nhưng đèn chúng ta lại không dầu, chúng ta lại ngủ vùi trong đam mê.
Chúa bảo chúng ta đợi Ngài, nhưng chúng ta lại đợi những gì khác Ngài…
Vậy nếu canh hai, canh ba Ngài về, thì phúc cho chúng ta hay họa cho chúng ta ?
Linh hồn và thân xác chúng ta là tòa lâu đài Chúa trao, vườn hoa chính là nhân đức Chúa đã gieo trồng, rồi ủy thác cho chúng ta chăm sóc.
Hôm nay nhìn lại, tòa lâu đài còn xứng đáng với danh xưng của nó hay đã biến thành nhà hoang, nhà điếm hoặc hang trộm cướp ?
Vườn hoa nhân đức, giờ này còn khởi sắc hay chỉ phơi bày sự úa tàn ?
Trong hoàn cảnh này, nếu Chúa trở về, Ngài sẽ buồn hay vui ? Vui buồn của Ngài cũng là quyết định cho khổ đau hay hạnh phúc của chúng ta.
*****
Suy nghĩ và nhận ra những thiếu sót của mình, chúng ta hãy tức thời tu sửa . Thời gian của vũ trụ thì con dài, nhưng thời gian của đời mình thì thật ngắn ngủi. Sự chấm dứt chẳng biết lúc nào. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ mình còn lâu mới chết: mình còn trẻ, khỏe mạnh, còn lâu mới chết, vì không thiếu gì trường hợp “Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời”.
Ông Lã Phụng Tiên kể một câu chuyện ngụ ngôn: Có một cụ già kia đang cuốc đất trồng cây, có ba chàng thanh niên tình cờ đi qua, thấy vậy các cậu nói: “Cụ ơi, cụ lẩm cẩm quá đi, già rồi mà còn trồng cây làm gì ?. Thôi cụ ơi, việc ấy để tụi cháu, cụ lo dọn mình chết là vừa”.
Cụ già vui vẻ ân cần trả lời: “Chắc gì lão chết trước. Chắc gì các cháu sống lâu hơn lão. Tử thần xưa rày có phân biệt trẻ hay già đâu. Trẻ hay già có khác chi nhau về phương diện đó. Các cháu cứ lo làm cho đàng hoàng công việc của các cháu đi”.
Một thời gian sau, cụ già lần lượt được tin ba chàng thanh niên, vì công việc đều chết cả: người thì chết vì tai nạn xe hơi, người thì chết trận, người thì bị đắm tàu trong một chuyến kinh doanh. Cụ già được tin buồn, khóc thương ba chàng trai trẻ đó.
*****
Giả sử chúng ta cho là mình còn trẻ, còn khỏe mạnh, còn lâu mới chết cũng được đi.
- Nhưng Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải quan tâm và chấp hành nghiêm chỉnh.
- Tỉnh thức không phải là không ngủ, mà là ngủ trong thức tỉnh.
- Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm như thường trong tư thế chờ đợi.
Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng.
Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc lời Chúa nhưng là để lời Chúa chi phối đời sống của mình.
Như vậy, thái độ tỉnh thức của chúng ta không phải là một thái độ tiêu cực, chạy trốn, tránh né bổn phận, không dấn thân trong hiện tại. Nhưng ngược lại, chúng ta vẫn sống tích cực, vẫn chu toàn bổn phận hàng ngày, vẫn liên đới với mọi người… sống và làm việc cách tốt đẹp.
Tóm lại, sự tỉnh thức của chúng ta là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ. Đây chính là ý nghĩa đích thực của sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng.
Chúng ta còn trẻ hay đã già, khỏe mạnh hay đau yếu, điều đó không quan trọng, nhưng quan trọng là chúng ta đang sống thế nào ? Đang tỉnh thức hay ngủ mê ?
Nếu chúng ta đang sống tốt đẹp, chúng ta cứ vui sống.
Có một câu chuyện kể rằng: Một hôm, một số trẻ em đang vui chơi, một giáo sư đi tới hỏi các em: “Nếu bây giờ Chúa gọi các con chết, các con sẽ làm gì ?”.
Nghe hỏi thế, em thì nói: “Con vào nhà thờ cầu nguyện”. Em khác thưa: “Con đi xưng tội”. Có một em hồn nhiên trả lời: “Phần con vẫn vui chơi như thường”.
Vị giáo sư hỏi: “Tại sao con lại vui chơi như thường ?”.
Em trả lời: “Vì con luôn sống tốt đẹp, nên con chẳng có gì phải lo sợ”.
Em bé đó chính là thánh trẻ Bec-man.
Khi đời chúng ta luôn sẵn sàng, khi lương tâm chúng ta không trách cứ chúng ta điều gì, khi mọi nợ nần của chúng ta với Chúa và anh em đều sòng phẳng, chúng ta không có gì phải lo sợ, chúng ta cứ vui sống.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu và thực hành những gì Chúa dạy chúng con hôn nay. Amen.
Có một cha sở nọ, đang chuẩn bị mừng lễ 25 linh mục, thì giáo dân trong họ đạo lại âm thầm mở chiến dịch quyên góp tiền để bồi dưỡng cho cha 1 tháng đi nghỉ hè thoải mái sau cuộc lễ, để giúp cha các chi phí, nào là máy bay, khách sạn, ăn uống, đi lại, và các thứ linh tinh khác trong thời gian nghỉ hè.
Khi biết được ý định trên của giáo dân, cha sở bèn lên tiếng trong nhà thờ, công khai thông báo ý muốn tha thiết của cha như sau:
Tôi biết anh chị em lúc nào cũng quảng đại, cũng tốt đối với tôi. Hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng, anh chị em đã quảng đại đóng góp dâng cúng tiền của cho nhà thờ, cho các công trình chung, và đã nâng đỡ tôi về đời sống vật chất, tinh thần, có thể nói là đủ thứ rồi.
Và hiện nay, tôi lại biết anh chị em đang vận động quyên góp để thưởng công tôi một tháng đi nghỉ hè, dịp tôi mừng lễ 25 linh mục.
Tôi xin hết lòng cám ơn anh chị em.
Nhưng trong dịp mừng Ngân Khánh Linh mục, tôi không tha thiết chuyện đi du lịch, mà tôi lại có một nguyện ước cũng rất tha thiết, một nguyện ước ôm ấp từ lâu trong đời linh mục của tôi, đó là dịp lễ 25 linh mục, tôi muốn anh chị em tích cực động viên những người bê trễ, nguội lạnh, bỏ mùa Phục Sinh… cho họ có dịp ăn năn trở về với Chúa, như là món quà tinh thần, chúng ta cùng nhau dâng lên Thiên Chúa.
Cộng đoàn giáo xứ hiểu ý của Cha sở mình, nên trong Thánh lễ mừng 25 linh mục hôm đó, người ta thấy có một đoàn khoảng 25 người trong Giáo xứ, trong y phục trắng, tiến lên cung thánh, trước mặt Cha sở và cộng đoàn, lần lượt nói lên sự ăn năn thống hối của mình, quyết tâm từ bỏ các tật xấu trong quá khứ, và hứa với Chúa, là sẽ thay đổi cuộc sống, sao cho xứng đáng là con Chúa để được Chúa yêu thương hơn.
Cha sở và cộng đoàn vui mừng với tràng pháo tay, và hứa sẽ tiếp tục cầu nguyện cho các anh em này.
Việc làm này của Cha sở có thể được chúng ta kể như là một phản ánh cho ước nguyện sâu xa của Chúa Giêsu, khi Ngài nói:
“Thầy đã đến là để mang lửa xuống trần gian và không ước ao gì khác hơn là cho lửa ấy bùng cháy lên”. (Luca 12,49b)
Cha sở không mong muốn tiền bạc, của cải vật chất của giáo dân, nhưng Ngài mong muốn giáo dân giúp nhau ăn năn, thống hối, trở về với Chúa, để cùng nhau lãnh nhận được ơn tha thứ và ơn cứu rỗi của Chúa.
Khi Chúa Giêsu nói: “Ta mang lửa xuống trần gian”. Mà lửa trong Kinh thánh có hai ý nghĩa:
Ý nghĩa thứ nhất: Lửa là chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.
Chúng ta nhớ lại biến cố Thiên Chúa hiện ra với ông Môisen trong đám lửa đang cháy giữa bụi gai. Và Chúa đã xác nhận: Đây là nơi thánh, nên đã ra lệnh cho ông Môisen phải cởi bỏ dép ra. Có nghĩa là khi đến với Chúa cần phải có một sự thanh tẩy, cần phải có một sự thanh luyện bản thân cho khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, để trở nên trong sạch mà diện kiến với Chúa.
Ý nghĩa thứ hai của lửa trong Kinh thánh còn có nghĩa là sức mạnh thanh luyện, sức mạnh thanh tẩy con người. Sức mạnh này không phải là sức mạnh của con người, nhưng là sức mạnh của thần thiêng, của Thiên Chúa, của chính ân sủng Thiên Chúa, thanh luyện, thanh tẩy con người cho trong sạch hơn, cho đẹp lòng Thiên Chúa hơn.
Do đó, khi Chúa Giêsu nói: “Ta đến mang lửa xuống trần gian và không ước ao gì khác cho bằng lửa ấy mau cháy lên”.
Nghĩa là Chúa Giêsu muốn nhắc đến sứ mạng cứu rỗi của Ngài. Ngài xuống trần gian là để mang ơn cứu rỗi xuống cho con người và Ngài không ao ước gì khác hơn là cho ơn cứu rỗi đó được mau cháy bừng lên, được thực hiện, được lan tỏa khắp nơi, đến với mỗi người, đến với mọi người, đến với tất cả mọi người, qua mọi thời đại.
Lạy Chúa, chúng con là những người mang danh là Kitô hữu, là những người đã tin nhận Chúa, là những môn đệ của Chúa, xin cho chúng con biết đáp lại lời mong ước của Chúa, để cho lửa tình thương của Chúa, lửa ân sủng của Chúa thay tẩy cuộc đời chúng con, và môi trường sống của chúng con, để tất cả mọi người cũng đều được ơn cứu độ. Xin Chúa giúp chúng con. Amen.
Có một nữ tu già ngồi sau một chiếc xe đạp, rồi có một chiếc xe hơi, trên đó có một số cán bộ chạy lướt qua. Chiếc xe hơi lái hơi ẩu, nên đã chạm vào chiếc xe đạp, làm cho bà sơ già té ngửa xuống đất, đập đầu xuống đường.
Những cán bộ cho dừng xe lại, vội vã bước xuống xe, đỡ bà dậy.
Mặc dầu đau lắm, nhưng bà cố gượng nói: “Không sao đâu các con. Xin Chúa chúc lành cho các con”.
Câu nói đột ngột đó làm cho các ông cán bộ kia, vừa tức cười, vừa nghĩ ngợi:
Tức cười, vì các ông cán bộ đâu có tin Chúa, mà cần tới ơn phúc lành của Chúa.
Nhưng các ông cũng phải nghĩ ngợi, do cái phản ứng quá mau lẹ và rất tự nhiên, đầy bác ái và đầy đạo đức của bà sơ. Bởi chỉ có những người rất quen với việc tha thứ và lúc nào cũng nhớ tới Chúa, thì mới có thể thốt ra được một câu nói hiền hòa và tốt đẹp, nhanh lẹ và tự nhiên đến như vậy.
Sau đó những ông cán bộ này cũng hay tới lui, chăm sóc và thăm viếng vị nữ tu ấy, mà lòng rất ngưỡng mộ, rất mến phục.
*****
Một phản ứng bất ngờ, lẹ làng, và rất tự nhiên, nói lên một điều rất trung thực tự đáy lòng mình. Bởi trước một tình huống bất ngờ xảy ra, trong lòng mình có như thế nào, thì mình sẽ phản ứng đúng y như vậy.
Người nào chỉ có đạo trên danh nghĩa, nhưng không quen đem đạo ra thực hành, không quen sống theo lời Chúa, thì không thể nào có được một sự phản ứng mang tính chất Kitô giáo đích thực.
Như thế, thước đo của lòng đạo của chúng ta, chính là những phản ứng của chúng ta.
Thí dụ:
- Như khi bị trộm, mất đồ, không ít người có đạo đã đi coi thầy, đã đi xem bói, để đoán xem ai đã lấy đồ của mình. Đây rõ ràng là phản ứng của người không có đạo.
- Còn ông Gióp trong Cựu Ước, một người giàu có vào bậc nhất ở Phương Đông lúc bấy giờ (Gióp 1,13-22), khi bỗng dưng nhận tin dồn dập: Nhà cửa bị cháy rụi, các thù vật ngoài đồng hàng ngàn con bị cướp đi, các con cháu đều bị chết hết, ngay chính bản thân ông cũng phát bệnh, mang chứng phong cùi gớm ghiếc, thì ông đã mạnh dạng nói:
“Xưa Chúa đã ban cho, nay Chúa lấy lại, con xin ngợi khen Chúa”.
Không những thế, ông còn khuyên những người khác:
“Mình biết lãnh nhận những ơn lành của Chúa thì sao không biết chịu đựng những thử thách của Chúa”.
Đó mới là phản ứng của một con người có lòng đạo đức đích thực.
*****
Thế nhưng, cũng không thiếu người cho rằng:
Sống giữa một xã hội đầy tráo trở hôm nay, mà lại có những phản ứng theo tinh thần Tin Mừng, thì quả là quát khờ, qua ngu dại.
Nhưng cũng xin được phép hỏi lại:
Thế thì đạo không có ăn nhập gì với cuộc sống sao ? Chả nhẽ con người chúng ta lại có 2 mặt:
- Một con người hiền lành lúc ở nhà thờ, khi đọc kinh, dự lễ.
- Và một con người tráo trở, gian manh, lừa lọc, thủ đoạn, khi cư xử với mọi người, khi sống giữa xã hội.
Người con của Chúa, thì không thể là như vậy được.
Con người chúng ta phải là một: Ở nhà thờ cũng vậy, mà ở giữa chợ đời cũng phải như vậy. Bởi đạo công giáo nhập thể, là đạo vào đời, chứ không phải chỉ là đạo ở nhà thờ.
Qua bài Tin Mừng hôm nay (TN 21-C Luca 13,22-30), Chúa Giêsu muốn nói rằng không phải hễ mang danh nghĩa là người Do thái ngày xưa, hay người Công giáo ngày nay, là đương nhiên được ơn cứu rỗi. Không phải hễ có rửa tội, hễ thường xuyên đến nhà thờ, hễ thường xuyên đọc kinh, xưng tội, rước lễ là đương nhiên được ơn cứu rỗi, được lên Thiên Đàng. Không có như vậy đâu.
Nhưng ơn cứu rỗi chỉ dành cho những ai cố gắng hết mình, để sống theo những điều Chúa dạy và được chứng mình bằng những phản ứng hợp với tinh thần Tin Mừng, trong mọi lúc và trong mọi tình huống của cuộc đời.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống đạo thật sự, biết đem Tin Mừng của Chúa hòa nhập vào trong môi trường và trong cuộc sống của con hôm nay, để nhờ cách sống của con, mà nhiều người chung quanh con, cũng được diễm phúc nhận biết Chúa nữa. Xin Chúa giúp con. Amen.
Bác sĩ Tom Dolay đã ghi lại trong tập nhật ký mình như sau:
Tôi phải tiếp tục thi hành công tác đang làm như một bác sĩ, bao lâu Chúa còn cho tôi thời gian sống ở trần gian này, để thực hiện nó.
Tôi tiếp tục sống dịu hiền, bởi vì để sống hiền dịu, con người phải có can đảm.
Giờ đây, đứng trước “ngọn núi cao nhất của đời tôi”, (tức là chính căn bệnh ung thư mà bác sĩ đang trải qua), tôi còn phải can đảm hơn nữa, mặc dù can đảm, đôi khi chỉ là một bài ca buồn.
Hy vọng vẫn còn và bất cứ nơi nào còn có người can đảm chiến đấu, tôi không có ý định nằm im, để chờ chết trên giường bệnh. Tôi còn rất nhiều việc phải làm trong thế giới này.
*** Vì muốn sống trọn vẹn hơn cho đức tin vào Chúa, bác sĩ Tom Dolay đã từ bỏ gia đình, từ bỏ những tiện nghi của một cuộc sống sung túc an nhàn, để ra đi phục vụ những con người cùng khổ nơi vùng xa và vùng sâu.
Bác sĩ đã thực hiện nơi chính bản thân điều chúng ta vừa đọc trong đoạn Phúc âm hôm nay (TN 23-C): “Ai không bỏ cha mẹ, vợ con anh chị em mà đến với Ta thì không thể làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không thể làm môn đệ Ta”.
Và không phải là vác trong giây lát, trong lúc cần thiết, để biểu diễn cho người khác nhìn thấy, mà phải vác hàng ngày, thường xuyên trong âm thầm, không ai nhìn thấy, chỉ mình Chúa biết mà thôi.
Bác sĩ qua đời lúc mới 34 tuổi, với căn bệnh ung thư. Nhưng vẫn nhiệt tình vui vẻ phục vụ những con người cùng khổ cho đến chết, đúng như ước nguyện làm môn đệ Chúa.
*****
Các tông đồ lần đầu tiên, khi đối diện với thập giá, và trước biến cố Vượt Qua, đã không hiểu được mầu nhiệm thập giá, nên họ đều rất lo sợ. Họ đã không muốn chấp nhận, và còn tìm cách để tránh né.
Việc đó đã xảy ra cho Phêrô, ông đã can ngăn Chúa, là đừng lên Giêrusalem, để khỏi phải chịu chết trên thập giá. \ Phêrô đã bị Chúa trách là không suy nghĩ theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa, mà theo tâm thức thường tình trần tục.
Mà đúng như vậy.
Nếu nhìn theo phương diện trần tục, xưa cũng như nay, thì làm sao con người, mỗi người chúng ta, lại có thể yêu mến thập giá, một hình khổ sỉ nhục, dành cho kẻ bị kết án tử hình, bị tước lột mọi quyền làm người.
Thánh Phêrô từ chối và khuyên Chúa không nên đi vào con đường này, nhưng Chúa Giêsu muốn Phêrô và các môn đệ hãy nâng tâm hồn lên, hãy có cái nhìn của Thiên Chúa trước mầu nhiệm thập giá, trước những khổ đau, những thử thách.
Cần phải nhìn thấy mối liên hệ sâu xa được thực hiện nơi chính Chúa Giêsu trong cuộc Vượt Qua của Người. Mối liên hệ sâu xa giữa thập giá và mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, cần phải nhìn thấy mối liên hệ sâu xa này.
*****
Chúng ta ngày hôm nay, cũng như các đồ đệ của Chúa ngày xưa, một khi đã bước theo Chúa, thì mới có thể hiểu được giá trị của thập giá trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Giá trị của thập giá đó hệ tại nơi mối liên hệ với mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa.
Và chúng ta cần vác thập giá trong sự kết hợp với Chúa Giêsu, với mầu nhiệm Vượt Qua của Người.
Hay nói theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, chúng ta cần đưa thập giá của chúng ta vào mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa:
“Tôi bổ túc nơi thân xác tôi, những gì còn thiếu nơi mầu nhiệm thập giá của Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và chịu chết vì tôi… Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Đây là một quyết định của người can đảm. Theo Chúa cần can đảm, theo Chúa không phải là một việc làm vì nhẹ dạ, vì xu thời, nhưng là việc làm can đảm, sau khi đã đắn đo suy nghĩ thật chín chắn.
Hãy để cho Chúa Kitô vác lấy thập giá với ta trong cuộc sống hằng ngày, và chỉ với tình yêu kết hợp với Chúa, thì mới có thể giúp ta từ bỏ mọi sự để theo Chúa.
Hay đúng hơn, nói cách khác, yêu mến Chúa trên hết mọi sự và trong tình yêu Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta mới có thể yêu mến thực sự cha mẹ, anh chị em, của cải, tất cả mọi sự của ta trong tình yêu của Ngài.
Chúng ta nói là đã từ bỏ mọi sự, nhưng thật sự là chúng ta đang đặt mọi sự vào đúng vị trí của nó, trong tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp mỗi người chúng con được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng con được ơn trung thành cho đến cùng, là đi trọn con đường như Chúa đã đi, đó là con đường thập giá, để chúng con có thể gặp được Chúa ở cuối con đường.
Một văn sĩ nọ đã kể lại câu chuyện ngắn về cậu bé tên là David. Chuyện có tựa đề là: “Người Con Của Ai Đó” như sau:
David đã bỏ nhà ra đi một thời gian. Sau đó, nó hối hận ăn năn về những lỗi lần của nó, muốn trở về nhà để xin lỗi Ba Mẹ, nó mới viết thư về cho mẹ như sau:
Thưa Mẹ, vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà, con sợ cha lắm, nếu cha tha thứ cho con, thì mẹ hãy xin cha cho cột một dây vải trắng, nơi cây xoài trước nhà. Khi nhìn thấy dấu hiệu này, con biết là cha đã tha thứ và con sẽ về lại nhà.
Vài ngày sau, David lấy vé xe lửa về quê. Đường xe lửa đi ngang qua trước nhà, cậu nghĩ, nếu cậu thấy được sợi dây vải trắng cột trên cây xoài, thì cậu sẽ xuống trạm xe kế bên và đi về nhà. Nếu không thì sẽ đi luôn sang nơi khác.
Cậu David rất hồi hộp khi xe chạy gần đến nhà. Sợ mình có thể nhìn lầm hay nhìn không kịp, cậu cũng đã nhờ người ngồi bên cạnh cùng nhìn kỹ giúp. Xe chạy ngay qua địa điểm, không những là cậu, mà cả người bạn cũng đều nhìn thấy. Người bạn ngạc nhiên thắc mắc hỏi cậu:
- Tại sao cây xoài nhà đó lại đầy những tấm vải trắng, treo trên khắp các cành cây như vậy ?
David mỉm cười, không trả lời, cậu muốn giữ lấy ý nghĩa của dấu hiệu đó chỉ cho riêng mình mà thôi và đã hân hoan xuống trạm xe kế tiếp.
*****
Câu chuyện vui trên đây giúp chúng ta hiểu thêm sứ điệp của Phúc âm, mà Chúa gởi đến chúng ta hôm nay (TN 24 C),.
Như cậu David, chúng ta luôn mang nặng ý thức về những lỗi lầm của mình và rồi nghi ngờ tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
David cần được củng cố niềm tin nơi tình thương của người cha, khi nhìn thấy những dấu hiệu cho biết chắc là người cha đã sẵn sàng tha thứ.
Chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa đã thực hiện nhiều dấu chỉ trong cuộc đời chúng ta, để chỉ cho chúng ta thấy tình thương của Ngài. Và dấu chỉ quan trọng nhất hằng ngày chúng ta vẫn thấy, đó là cây thánh giá Chúa Giêsu Kitô. Thánh giá, là dấu chỉ rõ ràng nhất, chắc chắn nhất cho chúng ta thấy được tình thương tha thứ của Thiên Chúa, đối với mỗi người chúng ta, thật bao la vô bờ bến. Bởi như thánh Phaolô nói: Chúa Giêsu đã đã hy sinh mạng sống mình chúng ta, để đền tội thay cho chúng ta, đang khi chúng ta hãy còn là những tội nhân (Roma 5,8).
*****
Bài Phúc âm hôm nay ghi lại ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: Dụ ngôn con chiên bị mất, dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, nhất là dụ ngôn người cha nhân hậu.
Qua bài Phúc âm này, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta dụ ngôn về tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người tội lỗi, của người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, của người đàn bà bị mất một đồng tiền, của người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, một thái độ yêu thương tha thứ vượt quá mức độ bình thường, mà con người có thể tưởng tượng được, và đã phản chiếu được phần nào tình thương tha thứ của Thiên Chúa dành cho con người chúng ta, thật mênh mông, bao la, vô bờ bến.
Theo lệ thường, nếu chúng ta có một trăm con chiên, mà lỡ bị mất đai một con, chúng ta có nhất quyết đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm gặp được mới thôi hay không ? Chắc chắn là không, vì số chín mươi chín con còn lại, không đáng giá hơn một con bị lạc mất hay sao ?
Quan niệm của con người chúng ta, thường là hay căn cứ vào số lượng, và có thể chúng ta cho rằng hành động của người chăn chiên trong dụ ngôn là một hành động khác thường, nếu không muốn nói là điên khùng, theo những suy nghĩ của con người.
Nhưng đối với Thiên Chúa thì không điên khùng chút nào, bởi Ngài không đặt tương quan của Ngài trên căn bản con số, chất lượng, nhiều hay ít, nhiều người hay ít người, nhưng trên căn bản tương quan giữa Ngài với từng cá nhân một:
Mỗi con chiên, mỗi con người, đều có một giá trị riêng, có thể nói là duy nhất đối với Ngài, và do đó nếu bị lạc mất, thì Ngài nhất quyết phải tìm cho bằng được mới thôi.
Rồi hành động của người đàn bà cũng thế, theo thường tình, thì mất một đồng cũng không sao, vì còn lại cả chín đồng nữa kia cơ mà. Nhưng để diễn tả mức độ tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa, thì dù một đồng kia bị mất, cũng đều là hết sức quan trọng, nên Ngài phải cố tìm cho được mới thôi.
Người cha của đứa con đi hoang, theo thường tình, thì cứ bỏ mặc kệ nó, nhưng để diễn tả thái độ tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người, thì người cha kia hằng ngày cứ đứng trông ngóng chờ mong con mình trở về, và ông đã nhìn thấy con mình trở về, trước khi nó nhìn thấy ông. Người cha đã tha thứ cho đứa con, ngay cả trước khi nó mở miệng xin tha. Đã thế, người cha lại còn làm tiệc ăn mừng nữa.
Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người và mỗi người. Ngài muốn tận dụng mọi phương thế có thể, để ban ơn cứu rỗi cho con người.
Vì Ngài yêu thương con người, yêu thương từng người một cách vô cùng.
Nhưng con người có chấp nhận ân sủng và tình thương của Ngài hay không ?
Chúng ta hãy đọc tiềp theo.
*****
Trong bài dụ ngôn về người cha của đứa con hoang đàng, chúng ta quan sát thấy thái độ ganh tị giữa hai anh em. Người anh cả ở nhà với cha, thay vì thông cảm và vui mừng với cha, vì người em mình trở về, thì ngược lại, người anh lại tỏ ra ganh tị, tỏ ra phản đối người cha.
Mặt khác, như trong Cựu ước, chúng ta cũng thấy ông Môisen đã cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ cho dân đã phạm tội xúc phạm đến Ngài, Môisen đã không xin Chúa hủy diệt dân mình, nhưng đã hết lòng van xin Chúa, để Chúa tha thứ cho dân mình.
Cũng thế, chúng ta đừng bắt chước thái độ của người anh cả trong dụ ngôn, đừng ganh tị với anh chị em mình khi được ơn Chúa tha thứ cho, nhưng hãy bắt chước thái độ của Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ tội lỗi cho anh chị em mình và cho cả chính mình nữa.
Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi người chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, đều cần đến lời cầu nguyện của nhau, để được ơn trở lại cùng Chúa và để được ơn trung thành với đức tin.
Lạy Chúa, xin Chúa thương tha thứ các tội lỗi chúng con và xin nâng đỡ những thành tâm thiện chí của mỗi người chúng con.
Xin giúp mỗi người chúng ta biết trở về cùng Chúa, và biết luôn cố gắng hết mình để sống xứng đáng là con cái Cha trên trời. Amen.
Có một giáo sư đại học ở Âu Châu, du lịch sang Mỹ Châu. Ông ta đã đi tham quan rất nhiều nơi, đến nhiều dinh thự, nhiều cao ốc chọc trời, quan sát nhiều nhà máy rộng lớn, đến nhiều Đại học và nhiều bệnh viện…
Khi ông chuẩn bị trở về Âu Châu, có một phóng viên đến phỏng vấn ông:
- “Cái gì đã gây ấn tượng nhiều nhất cho ông về chuyến du lịch này tại nước Mỹ ?”
Không một chút do dự, ông trả lời ngay:
- “Các thùng rác”
Quá ngạc nhiên, người phỏng vấn hỏi tiếp:
- “Các thùng rác ? Các thùng rác đã gây những ấn tượng gì ?”
Vị giáo sư giải thích:
“Các thùng rác của các ông đầy ắp những thức ăn phế bỏ. Các người Mỹ của các ông trong cả nước đã phung phí thức ăn, chỉ tính trong một tuần lễ thôi, thì tôi nghĩ sẽ nhiều hơn thức ăn nuôi các trẻ em khắp cả Âu Châu trong cả tháng trời”.
*****
Tại sao người quản lý trong bài Tin Mừng hôm nay (TN 25-C Luca 16,1-13) bị mất việc ? Vì anh đã hoang phí tài sản của chủ ?”.
Mỗi người chúng ta đều là những người quản lý của Chúa. Nghĩa là mỗi người chúng ta đều phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa về tiền bạc, về của cải, về tài sản, về thời gian, về tài năng và về cả con người của ta nữa. Bởi mọi cái chúng ta đang có đều là của Chúa ban cho ta sử dụng. Nếu ta không biết sử dụng đúng lúc, đúng nơi, đúng người, đúng việc, đúng mức như ý Chúa muốn, thì chúng ta sẽ mắc cái tội hoang phí, sẽ phạm tội bất công, và trở thành những người quản lý bất lương.
Hình như Thiên Chúa đang thức tỉnh chúng ta về tội hoang phí đó, khi Người để cho thế giới hôm nay, đang phải chịu cái cảnh khan hiếm lương thực, khan hiếm dầu khí và khan hiếm năng lượng… như chúng ta thấy. Luôn luôn sẽ có một hình phạt nào đó tiếp theo, như là hậu quả tất yếu, khi con người lỗi cả lề luật của Thiên Chúa và lề luật của thiên nhiên.
Đừng nghĩ rằng: Của ăn là của chúng ta, chúng ta có quyền liệng bỏ, nếu chúng ta muốn thế. Không, nó không phải là của chúng ta, nó là của Thiên Chúa, và Thiên Chúa muốn chúng ta biết chia sẻ cho những người đói khát. Cũng có thể nói được như thế đối với dầu khí, điện năng và giấy mực…
Như các thùng rác ở mé đường, trên gác xép, trong nhà kho chúng ta chất đống những quần áo không bao giờ mặc, những quần áo đó đủ để phân phát cho những người nghèo khổ trần truồng trên thế giới. Có bao nhiêu đồ chơi liệng bỏ trong xó nhà, những đồ chơi đó đủ để cho các em nhỏ nghèo trong khu xóm chúng ta được vui chơi.
Bao hoang phí về tiền bạc dùng vào ma túy, rượu chè ? Bao hoang phí về tài năng ? Con trai, con gái, đàn ông, đàn bà biếng nhác không biết sử dụng trí não và tài năng Chúa ban, để làm những việc hữu ích cho bản thân, cho xã hội.
Có một thứ hoang phí còn tệ hại hơn nữa, đó là hoang phí các ân sủng thiêng liêng, các hồng ân thiêng liêng Chúa ban, những cơ may thuận lợi để khám phá ra Chúa, để đến với Chúa, và để sống hoàn hảo thánh thiện như con Chúa, để được Chúa yêu thương, đời này và đời sau.
Lạy Chúa, những gì con đang có đều là của Chúa ban cho, từ tiền bạc, của cải, tài năng, may mắn, hoàn cảnh thuận lợi và không thuận lợi, đều là cơ hội để Chúa hướng dẫn, giáo dục, huấn luyện con, giúp con phát triển, kể cả thời gian, công sức, sức khỏe và cả mạng sống của con nữa.
Xin cho con biết sử dụng tất cả như một người quản lý khôn ngoan và trung tín, để làm vinh danh Chúa và đem lại lợi ích cho mọi người sống chung quanh con, đời này và đời sau, như Chúa mong muốn. Xin Chúa giúp con. Amen.
Một em thiếu nhi con nhà giàu, học giỏi và đạo đức, đã cầu nguyện với Chúa:
Lạy Chúa, con chúc tụng và tạ ơn Chúa vì đã cho con được sinh ra trong một gia đình đạo đức và rất hạnh phúc.
Nhưng Chúa ơi, sao Chúa lại để cho người bạn thân của con phải cực khổ, sống trong một gia đình nghèo khó: Bố của bạn là lao động chính trong gia đình, nhưng nay lại đang bị đau nặng. Còn anh chị em của bạn thì vừa phải bán vé số, lại vừa bán báo, lại vừa đi học. Nhưng nay, họ đều phải nghỉ học, vì không có đủ tiền đóng học phí.
Chúa không thương bạn của con sao ?
Trong âm thầm, Chúa trả lời:
Con quả thật là một thiếu nhi ngoan, là một người bạn tốt, biết quan tâm đến người khác, biết nghĩ đến người bạn kém may mắn hơn mình.
Nhưng mà này con, con hãy nhớ rõ điều này: là chính vì Cha yêu thương nó, mà Cha đã tạo dựng nên con và cho con nó có cơ hội kết bạn với con.
*****
Đã có lần Chúa Giêsu tuyên bố:
“Người nghèo khó thì luôn luôn ở với các ngươi”.
Bài Tin Mừng hôm nay (TN 26-C Luca 16,19-31) Chúa Giêsu đã đưa ra dụ ngôn về người phú hộ giàu có và anh Lagiarô nghèo khó. Đây chính là một thực tế của cuộc sống, trong xã hội trần gian, và đây cũng sẽ là hệ quả phần nào của Nước Trời mai sau.
Hai hình ảnh trái ngược nhau, lại luôn đi kèm với nhau:
- Một bên là giàu có, sống trên nhung lụa, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn một bên là cùng khổ, ghẻ lác và nghèo đói.
- Một bên là quằn quại trong lửa hỏa ngục, còn một bên là hạnh phúc, ngồi trong lòng Abraham trên thiên đàng.
Nếu chỉ đọc bài Tin Mừng này, với bài đọc I trích sách tiên tri Amos, chúng ta sẽ dễ có những phản ứng sai lạc về những người giàu có và về sự an phận trong sự khốn cùng của người nghèo:
Đừng nghĩ rằng, Nước Trời chỉ dành cho những người nghèo, còn những người giàu phải trầm luân dưới hỏa ngục.
Chúng ta hãy đọc kỹ lại bài đọc II trích thơ thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gởi cho Timôthêô, thì chúng ta mới thấy rõ ý nghĩa của bài Tin Mừng này.
Giàu có chưa phải là hạnh phúc đích thực của con người đâu.
Có biết bao nhiêu người giàu có đã chẳng được bình an đó sao ?
Thậm chí có người phải vào tù, ra khám, có những gia đình phải tan nát đó sao ?
Và cũng đừng nghĩ rằng, người giàu có là đương nhiên bị loại ra khỏi Nước Trời.
Trái lại, thực tế lịch sử đã cho chúng ta thấy: Thánh nữ Elizabeth, hoàng hậu nước Bồ Đào Nha; thánh Lu-y, vua nước Pháp…. Họ là những vua chúa, hoàng hậu, sống trên nhung lụa và đầy quyền lực, vậy mà họ đã nên thánh.
Chúng ta cũng không nên cực đoan một chiều hiểu Nước Trời chỉ dành cho những người nghèo khổ, để rồi chúng ta trở nên những người lười biếng, cứ mãi sống trong sự bần cùng, nghèo đói, khổ đau, mà không cố gắng phấn đấu để vươn lên.
Nhưng Nước Trời và hạnh phúc đích thực như thánh Phaolô đã xác tín, chính là biết kiên vững trong đức tin và sốt sắng trong lòng mến.
Hạnh phúc đích thực hệ tại ở việc lắng nghe Lời Chúa và tuân giữ giới răn của Ngài. Điều này đã được lặp đi lặp lại nhiều lần, bằng nhiều cách, trong các thời đại, qua những ngôn sứ, đặc biệt qua Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng ta.
Chúng ta không thể nào an phận trong khó nghèo, để chờ đợi được như Lazalô ngồi vào lòng Abraham, để nhìn cảnh cực kỳ khổ đau nơi âm phủ.
Chúng ta lại càng không thể như anh em nhà phú hộ trong Tin Mừng, chờ đợi một phép lạ, hay đợi người chết hiện về nói, ta mới chịu tin và mới chịu sống giới răn của Chúa.
Nhưng phải biết đón nhận và tạ ơn những hồng ân Chúa ban, để cuộc sống ta trở nên thánh thiện và công chính hơn.
Thánh thiện chính là tin tưởng vào lòng yêu thương của Thiên Chúa, là biết quan tâm và quảng đại chia sẻ với người khác một cách vô vị lợi, không tính toán, không đòi hỏi, không lợi dụng.
Quả thật, không có cái giàu nào cho bằng cái giàu về tình thương và cũng không có cái nghèo nào cho bằng cái nghèo về tấm lòng.
Tuy nhiên, ơn Chúa không phải lúc nào cũng dễ chịu, nhưng đòi hỏi chúng ta phải biết can đảm mà đón nhận và tạ ơn.
Cũng như thánh thiện, không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chúng ta phải cố gắng kiên trì tập luyện và thi hành. Vì đó chính là con đường đưa chúng ta đến với Chúa và được hành phúc, không những cho đời sau, mà còn cho cả đời này nữa.
Còn có biết bao nhiêu người như Lazarô nghèo khó xung quanh chúng ta, đang chờ đợi chúng ta yêu thương, đón nhận và chia sẻ.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết trở nên người nghèo của Tin Mừng, để chúng con khiêm tốn trước tôn nhan Chúa và để chúng con xứng đáng đón nhận ân sủng và tình thương của Chúa.
Xin cho mỗi người chúng con được trở nên giàu có về lòng nhân ái, để chúng con biết rộng lượng quảng đại, cảm thông, chia sẻ cho những anh chị em sống bên cạnh chúng con, đang rất người cần đến sự nâng đỡ ủi an của chúng con. Amen.
Đầu tháng 10 năm 1962, chiếc phi cơ hàng không Panam (Mỹ), chở mấy trăm Giám mục người Mỹ đi họp Công Đồng chung Vatican II.
Tại cửa lên máy bay, có hai cô tiếp viên hàng không đang chào đón hành khách, thì có một cô kiều diễm thật tuyệt vời.
Đức Cha Fulton Sheen, Tổng Giám Mục giáo phận New York, đồng thời là một nhà văn và một nhà hùng biện nổi tiếng Nước Mỹ, đã lưu ý đến sắc đẹp của cô tiếp viên nầy.
Thế rồi, khi phi cơ hạ cánh, hai cô đứng bên cửa xuống cầu thang chào từ biệt từng người và hành khách đáp lại hai tiếng cám ơn.
Nhưng, đến lượt Đức Cha Fulton Sheen, người ta thấy ngài đưa miệng ghé vào tai cô tiếp viên xinh đẹp kia, mà nói nhỏ một câu gì đó không ai nghe được.
Bốn tháng sau, khi khóa I Công Đồng chung Vatican II kết thúc, các Giám Mục được trở về nước nghỉ.
Một hôm, cô chiêu đãi viên xinh đẹp đó tìm đến gặp Đức Cha Fulton Sheen: “Thưa Đức Cha, Đức Cha còn nhớ con là ai không?”
– “Tôi còn nhớ lắm, Đức Cha còn đáp. Cô là tiếp viên trên chiếc hàng không đưa chúng tôi đến Rôma”.
– “Nhưng Đức Cha có còn nhớ là Đức Cha đã nói gì với con không?”
– “Tôi đã nói: có khi nào cô đã tạ ơn Chúa, vì Ngài đã ban cho cô một sắc đẹp thật tuyệt vời không?”
– “Thưa Đức Cha, chính vì câu hỏi đó, mà hôm nay con đã đến xin hầu chuyện Đức Cha. Vậy theo Đức Cha, con phải làm gì để tạ ơn Chúa?”.
Trước câu hỏi đột ngột quá bất ngờ đó, Đức Cha Fulton Sheen có phần lúng túng, không biết phải trả lời làm sao. Ngài trầm tỉnh một lúc, rồi chấp tay lên ngực, Ngài ngước mắt lên trời, như thể xin ơn soi sáng.
Trong chốc lát, ngài nói: “Cha vừa mới được một tin từ Việt Nam: đó là Đức Cha Jean Cassaigne, một người Pháp, đang là Giám Mục giáo phận Sài Gòn, đã xin từ chức, để đi phục vụ một trại phong cùi ở miền núi Di Linh – Lâm Đồng.
Những người phong cùi ở đó khốn khổ lắm con ạ! Họ đang chờ cái chết đến với họ.
Vậy theo ý cha, cách tạ ơn Chúa, đẹp lòng Ngài hơn cả và có ý nghĩa hơn cả là con hãy hy sinh một thời gian, đem nụ cười xinh tươi, đem tiếng nói dịu dàng, đem duyên sắc mặn mà của con, để đến an ủi họ”.
Mặt cô tiếp viên tái dần đi. Cô đứng lặng yên trong mấy phút. Đột nhiên, cô cúi đầu tạm biệt, và không nói một lời.
Rồi từ đó, không biết hai người có còn gặp nhau hay thư từ liên hệ gì nữa chăng. Nhưng đầu năm 1963, đài phát thanh, cũng như báo chí ở Sài Gòn loan tin: “Một nữ tiếp viên rất xinh đẹp của hãng hàng không Panam tình nguyện đến Di Linh – Lâm Đồng, để sống với những người phong cùi trong sáu tháng”.
*****
Cái nhìn đức tin thúc đẩy chúng ta tạ ơn Chúa là như thế đó. Nhận được ơn thì phải biết chia sẻ cho người khác, để nói với Thiên Chúa và anh em mình rằng: “Tất cả đều là hồng ân”.
Biết bao ơn lành lớn nhỏ Chúa tuôn đổ xuống trên cuộc đời chúng ta, có bao giờ chúng ta nhận ra những hồng ân ấy, để dâng lên những lời cảm tạ mỗi ngày không?
Những điều chúng ta đang có, tưởng rằng tầm thường, nhưng thật ra lại rất phi thường.
Đừng đợi khi mắt mù, tai điếc, cụt tay, què chân, chúng ta mới nhận ra: có thân thể lành lặn là quý giá vô cùng.
Nếu chúng ta biết cám ơn những gì mình đang có, chúng ta sẽ biết cám ơn suốt đời vì tất cả những gì Ngài đã ban cho.
*****
Chúa Giêsu đã hỏi: “Không phải cả mười người được khỏi phong cùi sao? Thế thì chín người kia đâu, sao không trở lại tạ ơn Chúa, mà chỉ có một người ngoại giáo này thôi?”
Đối với người Do Thái, người bị phong cùi được coi như bị Thiên Chúa chúc dữ và còn bị luật coi là người mắc ô uế nhơ bẩn, bị xã hội khai trừ, phải sống biệt lập trong các bãi tha ma, và khi đi tới đâu, nếu trông thấy ai thì phải tự lắc chuông, lên tiếng báo động trước từ xa, để cho người ta biết mà tránh.
Nhưng Chúa Giêsu không xa tránh họ. Họ đã đến với Chúa, như Chúa đến với họ. Vì Ngài là tình thương cứu chữa. Chỉ có tình thương mới tìm đến với những con người bị bỏ rơi, bị loại trừ.
Trên đất nước chúng ta có hàng chục trại phong cùi. Một số trại do các tu sĩ, nữ tu đảm nhận điều hành, chăm sóc các bệnh nhân.
Nếu ở Việt Nam, tên tuổi của Đức Cha Jean Cassaigne gắn liền với trại phong cùi Di Linh, thì danh tiếng của Cha Đamien còn vang vọng giữa hải đảo Milokai – Thái Bình Dương, người mà nhà ái quốc Gandhi đã ca ngợi và nói: “Nên tìm hiểu: đâu là nguyên do phát sinh một cuộc sống anh hùng như vậy”. Nguyên do của cuộc đời hy sinh ấy là tình yêu mến Chúa, như Chúa đã yêu thương chúng ta, yêu cho đến tận cùng.
Vậy khi chúng ta được Chúa ban cho mọi ơn lành hồn xác, thì đừng quên cám ơn Chúa và đừng kiêu hãnh khinh miệt kẻ khác.
Thánh Inhaxiô nói: “Tội lớn lao hơn cả là tội vô ơn”.
Trong nhóm 10 người phong cùi được Chúa chữa lành, chỉ có một người đã trở lại cám ơn Chúa và người đó lại là người ngoại giáo.
Nhiều khi chúng ta được ơn Chúa, nhưng không biết cám ơn Chúa. Khi hoạn nạn thì khấn vái bốn phương, khi được như ý rồi, thì quên lời đã nguyện hứa. Tệ hơn nữa, còn tự kiêu, tự phụ, khinh miệt những người xấu số, bệnh tật, nghèo khó, phong cùi.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết cám ơn Chúa trong mọi nơi, mọi lúc, về tất cả những gì con đã lãnh nhận, ơn phần hồn, ơn phần xác, để con xứng đáng là người con hiếu thảo của Chúa. Amen.
*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (4 cuốn) 1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1 2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2 3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3 4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng– Sách 4
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn) 1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1 2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2 3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3 4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4 5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (15 cuốn) 1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1 2. Đừng bỏ cuộc - sách 2 3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3 4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4 5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5 6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6 7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7 8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8 9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9 10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10 11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11 12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12 13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13 14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14 15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) 1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1 2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2 3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3 4. Căn hầm bí mật - Sách 4 5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5 6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6 7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7 8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (4 cuốn) 1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1 2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2 3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3 4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4