Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có phúc hơn các người nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Người sẽ vô tận !" Nhưng Maria liền thưa với Thiên Thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam ?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được". Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và Thiên Thần cáo biệt trinh nữ. - Ðó là Lời Chúa.
Một trong những tước hiệu cao quý mà Hội Thánh mừng khen Đức Mẹ Maria, là "Vô nhiễm nguyên 8/12-51
Một trong những tước hiệu cao quý mà Hội Thánh mừng khen Đức Mẹ Maria, là "Vô nhiễm nguyên tội". Lễ kính Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội được cử hành hằng năm vào ngày 8 tháng 12.
Ngày này không xa trước lễ Chúa Giáng sinh. Đó cũng là một lựa chọn khôn ngoan của Phụng vụ. Như thể Phụng vụ muốn nhắc cho mọi thành phần Dân Chúa nhớ: Đức Mẹ là gương cho những ai được Chúa chọn mang Đấng Cứu thế đến các tâm hồn.
Như Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu vào thế gian từ tấm lòng trong sáng thế nào, thì những người muốn mang Chúa Giêsu đến với các linh hồn cũng hãy có lòng trong sáng như vậy.
Gợi ý trên đây nên được chúng ta đón nhận cách đặc biệt.
Thế nào là đón nhận một cách đặc biệt?
Tôi có một vài suy nghĩ về vấn đề này, xin được chia sẻ.
Theo tôi, đón nhận gợi ý mừng lễ Đức Mẹ vô nhiễm một cách đặc biệt là nên hiểu những điểm sau đây:
1. Tình hình hiện nay rất cần những gương trong sáng. 2. Những gương trong sáng thời nay cần một số nét nổi bật. 3. Mỗi người đều có thể đóng góp cho việc nêu gương sáng trong hoàn cảnh hiện nay.
1/ Tình hình hiện nay rất cần những gương sáng
"Chuyển biến, cải cách, đổi mới, thay thế" là những từ được tung ra từ mấy năm nay. Tung ra như những hứa hẹn và khẳng định. Kết quả có tốt, có xấu.
Riêng trong lãnh vực tự do, kết quả của quá nhiều thứ chuyển biến dẫn mỗi người đến thói quen tự chủ, tự chọn, tự quyết, tự tin. Tiếp đến một bước nữa là thay đổi giới hạn niềm tin. Mỗi người xem ra chỉ tin vào một số người nhất định.
Chuyển biến niềm tin diễn ra hằng ngày. Dần dần nó gây nên khủng hoảng niềm tin trong mọi lãnh vực. Từ xã hội, Giáo Hội, đến cơ quan, bạn bè, gia đình. Người nào cũng chỉ muốn an phận, mình biết mình. Vẫn giao tiếp nhưng dè dặt, thận trọng, chừng mực.
Mất niềm tin là một hiện tượng tiêu cực. Nhưng đàng sau điều đáng ngại đó, lại ngầm mọc lên một sự kiện tích cực, đó là khát vọng gặp được những ai mình có thể đặt trọn niềm tin.
Những người như thế thường đẹp ở trong mộng, trước khi gặp được trong thực tế. Họ đẹp nhất ở cái tâm. Cái tâm của họ trong sáng, không bị tội lỗi khống chế, nhưng rạng rỡ tình yêu cứu độ. Cái tâm đó là những gương sáng. Sáng, nhưng không phô trương, bởi vì sáng mà rất khiêm nhường. Sáng, nhưng không khinh thị tối tăm của ai, bởi vì sáng mà rất yêu thương.
Những gương sáng như thế thời nay cần những nét nổi bật nào?
2/ Những nét nổi bật của gương sáng thời nay
Theo tôi, những gương sáng trong đạo thời nay cần nổi về ba điểm sau đây.
Điểm thứ nhất là chiều kích hướng trần.
Tôi tạm gọi chiều kích hướng trần là một tấm lòng rộng mở về phía phát triển các giá trị trần thế để phục vụ con người. Thí dụ, tôi được phân công phục vụ một Hội Thánh địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long, thì cái tâm của tôi phải chia sẻ những lo âu và những hy vọng của địa phương này. Chia sẻ trong mọi khía cạnh của cuộc sống cụ thể của đồng bào tôi. Tôi thực tình chia sẻ theo yêu cầu của cuộc sống và theo khả năng của tôi. Nhất là tôi phải quan tâm nhiều đến những cuộc sống nghèo khổ.
Điểm thứ hai là chiều kích hướng thượng.
Tôi hiểu chiều kích hướng thượng là một tấm lòng khao khát những giá trị đạo đức. Như lòng yêu mến sự thực, lòng chân thành, lòng hiếu thảo, lòng yêu nước, lòng từ thiện, lòng vị tha, lòng sẵn sàng hy sinh cho lợi ích chung, lòng liên đới với số phận những người cùng khổ, lòng mơ tìm một hạnh phúc sau khi chết trong cõi đời sau.
Tại địa phương này, tôi đã nhận được nhiều giá trị đạo đức như trên. Những người đạo đức như thế đã là gương sáng cho tôi.
Tuy nhiên, một gương sáng, mà tôi mơ ước có phần nào theo gương Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, nên bước thêm một bước nữa, đó là tìm đến tận nguồn.
Điểm thứ ba là tìm đến nguồn của hai chiều kích nói trên.
Nguồn chảy ra ơn thánh giúp phát triển hai chiều kích trên là Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Thiên Chúa giàu lòng thương xót được mặc khải trong Đức Kitô. Đức Kitô là Ngôi Lời Nhập thể. Người sống giữa lớp người nghèo khó. Từ sinh ra trong hang đá Bêlem cho đến chết trên thánh giá tại đồi Calvariô, Đức Kitô đã giới thiệu dung mạo thật của Thiên Chúa. Người chỉ là tình yêu. Người chỉ là quà cứu độ ban tặng. Tình yêu ấy là một cuộc chiến đấu cam go với sự ác. Một cuộc chiến mang rất nhiều hy sinh. Hy sinh vì tình yêu.
Khi đã hiểu sơ qua về gương trong sáng Chúa muốn có nơi chúng ta, để chúng ta bắt chước Đức Mẹ, mỗi người chúng ta nên có những đóng góp nào?
3/ Đóng góp của mỗi người chúng ta
Mỗi người có thể và nên đóng góp theo nhu cầu hoàn cảnh và khả năng của mình. Tôi xin phép kể một mẩu chuyện nhỏ:
Ngày nhà giáo, 20 tháng 11 năm nay, tôi được một niềm vui rất bất ngờ. Hôm đó, bất ngờ, tôi được người coi cửa phòng tôi báo cho tôi biết là có một người ngồi xe lăn xin đến thăm tôi. Tôi mời vào. Tôi rất ngạc nhiên nhận ra người ngồi xe lăn chính là một cô giáo bị bệnh từ nhiều năm. Đã từ rất lâu rồi, tôi không gặp cô. Hôm nay cô đến thăm tôi. Quà tặng là một đoá hoa hồng và một tràng hạt bằng cây Ôliu do cháu cô đi Fatima mua gởi về cho cô. Cô nói: Cô thăm tôi vì tôi là thầy giáo của cô. Tôi thưa: Tôi không hề dạy học cô bao giờ. Cô nói: "Đức Cha là thầy của con, vì con học được rất nhiều bài học quý giá Đức Cha viết trên báo Công Giáo và Dân Tộc".
Tôi rất cảm động. Vì cô là người không công giáo, nhưng đã từ rất lâu mỗi ngày, cô vẫn trung thành cầu nguyện Đức Mẹ Maria bằng lần chuỗi Mân côi và năng làm từ thiện.
Tôi coi đây là một đóng góp quý giá Chúa nhắc nhở cho tôi. Dù bệnh tật, dù là người ngoài công giáo, cô vẫn cầu nguyện, làm việc từ thiện và khích lệ tôi hãy cố gắng giúp đời, khi còn có thể.
Từ chuyện nhỏ trên đây, tôi nhận thức điều này: Ai cũng có khả năng làm một số việc lành phúc đức, nhất là cầu nguyện, làm từ thiện, dâng hy sinh cho Chúa, và khích lệ người khác hãy làm điều thiện.
Để kết, tôi xin Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội thương đến mỗi người chúng ta. Xin Mẹ gởi đến Việt Nam nhiều gương sáng đạo đức. Nhất là xin Mẹ thương giúp chính chúng ta trở thành gương sáng. Cho dù chúng ta chỉ làm được những việc lành nhỏ, trong phạm vi nhỏ, âm thầm giữa những tâm hồn bé mọn.
ROME (Zenit.org).- Cha Raniero Canlamessa Dòng Capuchin, người giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích về những bài đọc phụng vụ trong lễ trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
* * *
Lễ trọng Vô Nhiễm nguyên tội
Sáng Thế 3:9-15, 20; Êphêsô 1:3-6, 11-12; Luca 1:26-38
"Được chọn nên Thánh Thiện và Tinh Tuyền."
Chúng ta muốn thấy lễ trọng Vô Nhiễm Nguyên Tôi không chỉ là một sự cử hành những đặc ân của Đức 8/12-52
Chúng ta muốn thấy lễ trọng Vô Nhiễm Nguyên Tôi không chỉ là một sự cử hành những đặc ân của Đức Maria nhưng đánh động đến chúng ta và bao hàm chúng ta một cách sâu xa, chúng ta phải hiểu điều đó trong ánh sáng những lời của Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai: "Trong Đức Giêsu Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người ta trỏ nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người." Do đó, chúng ta được kêu gọi nên tinh tuyền thánh thiện; đó là vận mạng trung thực nhất của chúng ta, đó là đề án của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Sau đó, cũng trong thư gởi tín hữu Ephêsô Thánh Phaolô chiêm ngắm chương trình này của Thiên Chúa, không còn coi điều đó được áp dụng cho từng cá nhân, nhưng áp dụng cho Giáo Hội phổ quát, Phu Nhân của Chúa Kitô: "Chúa Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh như vậy người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tì ố không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền" (Eph 5:25-27).
Một nhân loại thánh thiện và tinh tuyền-đó là mục đích lớn của Thiên Chúa khi dựng nên Giáo Hội. Một nhân loại có thể cuối cùng xuất hiện trước Người, không cần trốn lánh sự hiện diện của Người, vì bộ mặt biến dạng do sự xấu hổ, như Adong và Evà sau khi phạm tội. Một nhân loại mà hơn hết Người có thể yêu và kéo vào sự hiệp thông với Người, nhờ Con của Người trong Chúa Thánh Thần.
Trong bản thiết kế phổ quát này của Thiên Chúa, Sự Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria, mà chúng ta cử hành hôm nay, biểu thị cái gì? Phụng vụ trả lời cho câu hỏi này trong kinh tiền tụng Thánh Lễ hôm nay khi, quay về với Thiên Chúa, Giáo Hội hát: "Chúa chỉ cho chúng con thấy nơi Người là khởi điểm Hội Thánh xinh đẹp, không vết nhăn, là bạn Con Chúa.... Chúa đã chọn Người trong muôn loài tạo vật làm Đấng cầu bàu ân sủng và nên gương thánh thiện cho Dân Chúa."
Vì vậy đó là điều chúng ta cử hành trong Đức Maria hôm nay: khởi điểm của Giáo Hội, sự hoàn thành đầu tiên đề án của Thiên Chúa. Mẹ là người duy nhất, trong Mẹ có một lời hứa và một sự bảo đảm toàn diện chương trình sẽ hoàn tất. "Không gì Thiên Chúa không làm được!" Đức Maria là bằng chứng cho điều này. Nơi Mẹ đã chiếu sáng tất cả ánh sáng tương lai của Giáo Hội, như, trong một buổi mai yên tịnh, diện mạo màu xanh của trời được phản chiếu trong một giọt sương duy nhất. Và cũng vì lẽ này trên hết tất cả mà Đức Maria được gọi là "Mẹ Giáo Hội."
Tuy nhiên, Đức Maria không những là người đứng sau chúng ta, lúc khởi điểm của Giáo Hôi. Mẹ cũng đứng trước chúng ta như "kiểu mẫu sự thánh thiện cho dân Chúa." Chúng ta không được sinh ra vô nhiễm bởi đặc ân Chúa ban như Mẹ; thật vậy, sự dữ đậu lại nơi chúng ta trong mọi sớ và mọi hình thức. Chúng ta đầy những "vết nhăn" cần phải làm cho trơn tru và "những tì ố" cần phải tẩy xoá. Chính trong sự liên hệ với việc thanh tẩy này và việc tái khám phá hình ảnh của Thiên Chúa mà Đức Maria đứng trước chúng ta như một một sự nhắc nhớ đầy quyền lực.
Phụng vụ nói về Mẹ như là một "kiểu mẫu thánh thiện." Hình ảnh là đúng, miễn là chúng ta di chuyển vượt qua những phép loại suy nhân bản. Đức Mẹ chúng ta không như những kiểu mẫu nhân bản, có thể dừng lại và đứng yên để cho một nghệ nhân sơn vẽ. Đức Maria là một kiểu mẫu làm việc với chúng ta và trong chúng ta, hướng dẫn tay chúng ta khi chúng ta phác họa những đường nét của kiểu mẫu tuyệt hảo Chúa Giêsu Kitô, hầu chúng ta có thể "đồng hình đồng dạng với hình ảnh của Người" (Rm 8:29).
Mẹ là "người ủng hộ ân sủng" trước khi Mẹ là kiểu mẫu sự thánh thiện. Sự sùng kính Đức Maria, khi được soi sáng và có tính giáo hội, không thật sự lôi kéo những tín hữu xa Đấng Trung Gian duy nhất, nhưng đem họ lại với Người. Những kẻ đã có một kinh nghiệm thật sự và đích thực về Đức Maria trong đời sống của họ biết rằng kinh nghiệm đó đem họ tới Tin Mừng và tới một sự hiểu biết sâu xa hơn về Thiên Chúa. Mẹ đứng trước mọi người kitô hữu luôn lập lại điều Mẹ đã nói tại Cana: "hãy làm điều gì Thầy dạy anh em. "
Mọi tạo vật đều được tạo thành bởi Thiên Chúa và Đức Maria cũng không phải là ngoại lệ. Cũng như 8/12-53
Mọi tạo vật đều được tạo thành bởi Thiên Chúa và Đức Maria cũng không phải là ngoại lệ. Cũng như mọi người chúng ta, Mẹ cũng được tạo dựng để nên tinh tuyền thánh thiện và ca tụng, vinh danh Thiên Chúa cùng trở nên thánh thiện tinh tuyền (Ep 1,4-12). Bởi đâu Mẹ ca tụng và vinh danh Chúa Cha? Bằng cách trở nên dụng cụ cho Đấng Cứu Chuộc, nơi mà Ngài có thể trở nên con người, nơi không vướng mắc tội nguyên thủy.
Làm sao ta có thể nghĩ tới những điều Đức Maria đã làm để xứng đáng đón nhận ưu quyền không vướng mắc tội tổ tông. Dầu cố gắng suy nghĩ tới đâu chúng ta cũng luôn đi đến kết luận rằng đây là một sự tự do tuyệt đối đặc ân siêu việt của Thiên Chúa cao cả – một đặc ân Mẹ không chiếm được nhưng được Chúa ban cho.
Trong ngày hôm nay chúng ta vinh danh trái tim vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria. Cũng là dịp nhắc nhở chúng ta rằng điều rất tương tự đã tránh cho Mẹ khỏi mắc nguyên tội – những công đức nhờ sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu – cũng đã mang đế cho chúng ta nhờ phép Thánh Tẩy. Khi chúng ta chịu phép Thánh Tẩy, chúng được rửa sạch mọi vết nhơ tội lỗi, và cửa thiên đàng đã mở ra cho chúng ta. Chúa Thánh Thần phủ rợp trên ta và Chúa Giêsu đến sống trong trái tim chúng ta. Chúng ta trở nên xứng đáng vị trí tin yêu Thiên Chúa giống như Mẹ Maria đã làm. Tất cả mọi người chúng ta, một cách nào đó, cũng có thể có được trái tim tinh khiết.
Dĩ nhiên, điều này không phải là đương nhiên. Một vị trí như Mẹ Maria phải được tôi luyện trong ta qua thời gian khi ta biết thống hối và tự đặt mình vào việc phụng sự Thiên Chúa. Mỗi ngày chúng ta cần nuôi dưỡng để gặp gỡ Chúa Giêsu trong các Bí tích và trong cầu nguyện. Mỗi ngày chúng ta cần tăng thêm nỗ lực gặp gỡ Chúa Giêsu trong những người khó nghèo và những người cần đến sự giúp đỡ của ta.
Chúng ta phải cố gắng dẹp bỏ những ý tưởng và khuynh hướng tội lỗi. Chúng ta cũng cần có trái tim hướng về sự vâng phục Thiên Chúa và nhắm tới kế hoạch cứu độ của Ngài. Càng bước theo con đường Chúa Giêsu chỉ dẫn, chúng ta càng trở nên thân mật với Ngài giống như Đức Maria vậy.
Đừng quên những gì mang đến cho chúng ta khi ta đã chịu phép Thánh Tẩy. Đừng quên sức mạnh Thiên Chúa ở trong ta. Một trái tim trong sạch như trái tim Đức Maria cần giữ bền chặt. Khi chúng ta muốn và theo đuổi sự tinh tuyền này,Thiên Chúa Cha sẽ hoàn thiện trong ta.
Lạy Chúa Giêsu, con ngợi khen Ngài! Ngài đã cho con một trái tim mới, chẳng bao giờ tối tăm vì tội lỗi nhưng được thanh tẩy nhờ máu thánh Ngài. Qua Thánh Thần Chúa, xin cho con sức mạnh và can đảm để hiệp nhất với Chúa như Chúa đã đổi mới con giống hình ảnh Ngài.
Đức Ma-ri-a được một ơn hết sức đặc biệt hầu xứng đáng làm Mẹ của đấng Cứu Thế, đó là ơn không 8/12-54
Đức Ma-ri-a được một ơn hết sức đặc biệt hầu xứng đáng làm Mẹ của đấng Cứu Thế, đó là ơn không mắc tội tổ tông. Trong nhân loại, nghĩa là trong tất cả đám con cháu Ađam và Eva, ngoài Đức Giêsu vốn cũng là Thiên Chúa ra, thì chỉ duy nhất một mình Đức Maria được ơn ấy. Chúng ta biết được điều ấy qua giáo huấn của Giáo Hội. Giáo huấn ấy đã được chính Đức Ma-ri-a xác nhận khi hiện ra nhiều lần với cô Bec-na-đét tại Lộ Đức (Pháp) năm 1858. Tuy nhiên, Đức Maria vẫn là con người, vẫn phải chịu những đau khổ, lo lắng, sợ sệt và cũng bị cám dỗ y như chúng ta. Nếu có khác thì chỉ khác chúng ta ở chỗ Ngài không bao giờ phạm tội mà thôi.
2. Tâm hồn trong sạch, một vẻ đẹp trước mặt Thiên Chúa
Việc Thiên Chúa gìn giữ Đức Ma-ri-a không mắc tội tổ tông cho thấy Thiên Chúa rất yêu quí sự trong sạch tâm linh, nghĩa là không bị nhơ bẩn vì tội lỗi, không bị thần ô uế thống trị, không nhượng bộ trước sự ác. Vì thế, để có giá trị trước mặt Thiên Chúa, chúng ta cần giữ tâm hồn mình cho trong sạch. Chúng ta tuy không được ân đặc biệt như Đức Ma-ri-a là không mắc tội tổ tông, nhưng chúng ta đã được rửa tội để xoá bỏ tội ấy. Vấn đề còn lại là chúng ta hãy cố giữ tâm hồn cho trong sạch, không phạm tội trong tư tưởng, lời nói cũng như việc làm, và cả những tội thiếu sót, do không làm những việc mà lương tâm buộc phải làm.
Để giữ cho tâm hồn trong sạch không vướng mắc những tội riêng, Mẹ Ma-ri-a cũng phải cố gắng thắng lướt những cơn cám dỗ, những khuynh hướng tự nhiên có thể lôi kéo con người xa Thiên Chúa. Chẳng hạn khi phải chọn lựa giữa hai điều tốt, bản tính tự nhiên của con người có khuynh hướng chọn lựa điều có lợi cho mình hơn, điều đỡ vất vả khổ cực hơn, điều đỡ gây thiệt hại hơn, thay vì phải chọn lựa điều tốt hơn,
3.Làm sao giữ được tâm hồn trong sạch?
Nếu ta hiểu được tội lỗi là gì, thì ta sẽ hiểu ngay được cách gìn giữ tâm hồn trong sạch, không vướng mắc tội lỗi. Tội lỗi là một cái gì đi ngược lại bản chất của Thiên Chúa, mà bản chất của Thiên Chúa là Tình Yêu (xem 1Ga 4,7-8). Do đó, khi nào chúng ta có tình yêu của Thiên Chúa trong tâm hồn, nghĩa là ta thật sự yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, và sẵn sàng hành động theo sự đòi hỏi của tình yêu ấy, thì tâm hồn ta được kể là trong sạch trước mặt Thiên Chúa. Ngược lại, nếu chúng ta không có tình yêu, chúng ta ích kỷ, đặt nặng cái tôi của mình, thì tâm hồn ta đã có khuynh hướng tội lỗi, và lúc nào sẵn sàng làm điều tội lỗi. Hễ có tình yêu đích thực – nghĩa là yêu Thiên Chúa và tha nhân – thì hành động nào do tình yêu đó thúc đẩy cũng đẹp lòng Thiên Chúa. Vì thế, thánh Âu-Tinh nói: «Cứ yêu đi đã rồi muốn làm gì thì làm» (Ama et fac quod vis).
Tâm hồn của Đức Ma-ri-a luôn luôn trong sạch vì Mẹ luôn luôn yêu mến Thiên Chúa và dành trọn tình yêu cho Thiên Chúa. Người yêu Chúa thật lòng như Mẹ thì không thể phạm tội được. Vậy để giữ tâm hồn mình trong sạch, không gì tích cực và bảo đảm bằng việc củng cố tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và tha nhân. Và đã là tình yêu đích thực thì nó luôn luôn tự biểu lộ thành hành động.
Hỡi Trinh Nữ Maria, Toàn Thể Tạo Vật Được Diễm Phúc Nơi Mẹ
(St. Anselm, bishop, Oratio 52: PL 158, 955-956)
Hỡi Vị Nữ Lưu Diễm Phúc, bầu trời và tinh tú, trái đất và sông ngòi, ngày và đêm – hết mọi sự 8/12-55
Hỡi Vị Nữ Lưu Diễm Phúc, bầu trời và tinh tú, trái đất và sông ngòi, ngày và đêm – hết mọi sự trong khả năng hay thuộc quyền sử dụng của con người – đều hân hoan vui mừng, vì nhờ Người, ở một nghĩa nào đó, chúng đã lấy lại được duyên dáng chúng đã bị mất đi, và được trang điểm bằng một ân sủng khôn lường mới mẻ. Tất cả mọi thụ tạo đã thực sự chết đi, trở thành vô dụng đối với loài người, cũng như vô dụng đối với việc chúc tụng Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên chúng. Bởi hành động của con người đã tôn thờ ngẫu tượng, thế giới đã bị hư hoại và ô nhơ là những gì nghịch lại với định mệnh đích thực của nó. Giờ đây tất cả mọi tạo vật đã lấy lại được sự sống và đang hoan hỉ ở chỗ, chúng đã được quản trị và rạng ngời bởi con người tin tưởng vào Thiên Chúa.
Vũ trụ hoan lạc với niềm trìu mến mới mẻ khôn xiết. Nó chẳng những cảm thấy được sự hiện diện vô hình của chính Thiên Chúa, Đấng Hóa Công của mình, mà còn r ràng thấy rằng Ngài đang hoạt động làm cho chúng nên thánh hảo nữa. Những phúc lành cao trọng này đã xuất phát từ quả phúc của cung lòng Maria.
Nhờ tình trạng đầy ơn phúc Mẹ đã nhận lãnh mà những thứ chết chóc đã được tự do hoan lạc, và những gì trên trời cũng được mừng rỡ trở nên mới mẻ. Nhờ Người Con là hoa trái rạng ngời của cung lòng đồng trinh của Mẹ, linh hồn những kẻ công chính đã chết trước cái chết ban sự sống của Người Con này được mừng rỡ bởi thoát khỏi cảnh tù đầy, và các thần trời sướng vui lấy lại được lãnh giới bị lũng đoạn của mình.
Hỡi Bà, Bà đầy tràn ân sủng, từ nguồn sung mãn của Bà, tất cả mọi tạo vật đã lãnh nhận sự sống mới. Hỡi Trinh Nữ diễm phúc hơn tất cả mọi thụ tạo, nhờ phúc của Bà mà tất cả mọi thụ tạo được chúc phúc, chẳng những tạo vật được phúc bởi Thiên Chúa mà chính Tạo Hóa cũng được phúc bởi tạo vật nữa.
Thiên Chúa đã ban cho Maria Người Con duy nhất của Ngài, Đấng Ngài yêu thương như chính bản thân mình. Nhờ Maria, Thiên Chúa đã biến mình thành một Người Con, một Người Con theo bản tính vừa là Con Thiên Chúa vừa là Con Mẹ Maria. Toàn thể vũ trụ đã được tạo dựng nên bởi Thiên Chúa mà Thiên Chúa lại được sinh ra bởi Maria. Thiên Chúa đã dựng nên tất cả mọi sự và Maria lại sinh ra Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự lại nhờ Maria ban cho mình một hình thể, như thế Ngài đã tạo nên chính bản thân mình. Đấng có thể tạo thành mọi sự từ hư vô lại không tái tạo tạo vật hư hoại của mình mà không có Maria.
Như thế, Thiên Chúa là Cha của một thế giới tạo thành, và Maria là mẹ của một thế giới tân tạo. Thiên Chúa là Cha ban sự sống cho tất cả mọi sự, và Maria là mẹ giúp cho tất cả mọi sự có được sự sống mới. Vì Thiên Chúa đã hạ sinh Người Con, Đấng nhờ Người mọi sự được tạo thành, và Maria sinh hạ Người Con này như một Đấng Cứu Thế. Không có Con Thiên Chúa không một sự gì có thể hiện hữu; không có Con Maria không một sự gì được cứu chuộc.
Chúa thực sự ở cùng Bà, Đấng Chúa muốn rằng tất cả mọi tạo vật phải mắc nợ Bà như mắc nợ với chính Ngài vậy.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 1559-1560)
(Trích Thần Ðô Huyền Nhiệm của Nữ Tu Ðáng Kính Maria D'Agreda do Phạm Duy Lễ dịch)
Theo cách nói của chúng ta: Khi mọi sự đã sẵn sàng để Ngôi Lời xuống thế làm Người, Ba Ngôi Thiên 8/12-56
Theo cách nói của chúng ta: Khi mọi sự đã sẵn sàng để Ngôi Lời xuống thế làm Người, Ba Ngôi Thiên Chúa trao đổi với nhau: "Đã tới thời giờ thực hiện quyết định đời đời của Chúng Ta về việc sáng tạo Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể. Người Mẹ đó phải là một kỳ công do quyền năng vô cùng của Chúng Ta thực hiện, một kiệt tác làm Chúng Ta hài lòng, một hình ảnh hoàn hảo nhất của Thần tính Chúng Ta. Rắn hỏa ngục không thể làm cách nào phun được nọc độc của nó tới Người. Tuyệt đối cần thiết là Người Nữ được sử dụng vào việc Nhập Thể ấy không vương chút bợn nhơ nào... Người Nữ đó phải được trang điểm bằng toàn thể thánh thiện, toàn thể trọn lành. Sự kiện này còn đáng qúy hơn sự kiện Người, Người là Mẹ nữa. Nhưng vì Ngôi-Lời-Làm-Người phải chịu nhục nhã, chịu đau khổ để cứu chuộc thế gian, nên Người Nữ ấy cũng đồng công vào đó hết lòng hết sức.
Chúa Ba Ngôi tỏ cho các Thiên Thần rằng: Người Nữ ngày trước họ thấy mặt trời sắp sửa được sáng tạo để mang Đấng Thủ Lãnh và Cứu Chuộc đến cho thụ tạo. Các Thiên Thần liền phủ phục trước Thiên Chúa, chúc tụng Ngài về định mệnh ấy. Họ tâu lên Thiên Chúa: Xin chúa đoán thương sử dụng chúng con vào việc liên quan đến mầu nhiệm vĩ đại này, vào việc phòng vệ Đức Nữ Ưu Tuyển của Chúa, mặc dầu chúng con không xứng đáng. Xin cho chúng con được nên hoàn thiện hơn nữa để phụng sự Đức Nữ Vương tuyệt diệu của chúng con.
Lúc đó, Thiên Chúa chỉ định những thiên thần, Ngài cho tham dự vào sứ mạng phụng sự Đức Nữ. Trong mỗi cấp, Ngài trọn 100 vị. Thêm vào đó, Ngài tuyển thêm 12 vị khác, mặc hình người phục vụ Mẹ. Các vị này đều mang những dấu hiệu diễn tả việc Cứu Chuộc. Ngoài ra, Ngài lại ra lệnh cho 18 vị khác trong những vị cao cả nhất làm sứ giả cho Ngài bên cạnh Mẹ. Sau cùng, Ngài ủy cho 70 vị luyến thần mỹ lệ nhất nhiệm vụ truyền thông với Đức Nữ Vương như họ vẫn truyền thông cho nhau, và nâng đỡ Đức Nữ Vương trong những cơn thử thách bằng cách làm linh hoạt thêm những ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa nơi trái tim Mẹ.
Như vậy, Mẹ Maria có 1 số Thiên Thần hầu cận là 1000 vị. Đặc ân được làm hầu cận Mẹ đối với mỗi vị là phần thưởng nhiệt tâm hăng hái, họ đã chứng tỏ để ủng hộ Thiên Chúa và Mẹ Ngài trong cuộc đại chiến đánh bại Luxiphe. Thiên Chúa truyền cho tất cả các vị phải tâu lên để Đức Nữ Vương họ biết về các mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc, nhưng không được tiết lộ gì về phần vụ tuyệt cao dành cho Người trong việc chu toàn các mầu nhiệm ấy. Sau cùng, Đức Tổng Thiên Thần Micae được đặt làm thống lãnh tất cả cơ đoàn vinh hiển nói trên. Đó là việc chuẩn bị sau cùng để Mẹ Maria sinh vào trần gian. Cha mẹ Người là ông Gioan Kim và bà Anna.
Ngày thể xác Mẹ Maria được hình thành là ngày Chúa Nhật, tương ứng với ngày đầu tiên trong công cuộc sáng tạo. Thể xác Mẹ chỉ tiếp nhận ân sủng, cho nên, toàn thể đều rất trọn vẹn, rất siêu nhiên. Không bao giờ có 1 xác thể con người nào được hình thành với bấy nhiên hoàn thiện, bấy nhiên tinh tế và bấy nhiêu mỹ lệ. Mặc dầu thể xác Mẹ có thể chịu đau khổ, nhưng không hề có một mầm giống bệnh hoạn chết chóc và hư hoại nào tức những hậu qủa của hình phạt vì tội lỗi Adong.
Ngày Thứ Bảy tiếp đó, một ngày ứng với ngày nghỉ, ngày đại lễ chung kết cho việc sáng tạo Thiên Chúa tạo nên linh hồn Mẹ Maria. Để kỷ niệm biến cố này, Chúa Thánh Linh đã soi sáng cho giáo hội hiến dâng ngày thức bảy trong tuần lễ cho Mẹ Maria. Lúc sáng tạo linh hồn đầy phúc đức hơn hết mọi linh hồn này, Thiên Chúa Ba Ngôi đã tỏ hết tình âu yếm hơn cả trước khi sáng tạo con người đầu tiên. Ngài nói: "Ta hãy sáng tạo Maria giống hình tượng và tương tự ta. Ta hãy làm cho Maria nên Nữ Tỳ thật của Ta, nên Hiền Thê thật của Ta, để Maria xứng đáng làm Con duy nhất cũa Cha hằng hữu". Sau khi sáng tạo linh hồn Mẹ rồi Chúa Ba Ngôi còn kêu lên một cách khoái thú hơn ở điạ đường ngày trước rất nhiều: "Tất cả mọi phương diện nơi Mẹ Maria đều hoàn toàn thiện mỹ".
Thật vậy, không những nguyên tội bị gạt bỏ khỏi linh hồn Mẹ, mà linh hồn Mẹ còn rực rỡ với những ơn cao cả Thiên Chúa ban riêng, tới 1 cao độ tuyệt vời, đến nỗi tất cả các bậc thần thánh hợp một cũng không thể sách lại được, không ngôn ngữ loài người nào có thể diễn tả được. Thoạt khi vừa được sáng tạo, linh hồn Mẹ đã hợp nhất ngay với xác thể đang chờ linh hồn. Đó là sự Đầu Thai Vô Nhiễm.
Lúc đó, Thánh Nữ Anna chìm sâu vào một cơn xuất thần tuyệt vời. Bà tiếp nhận những ánh sánh linh động, hiểu được những mầu nhiệm rất Sâu Xa. Hậu qủa của cơn xuất thần đó kéo dài suốt cuộc sống của Bà. Nhưng trong thời gian bà cưu mang Mẹ Maria, những hiệu qủa đó vĩ đại hơn. Ngoài ra, ơn ngoại thường ấy còn tái hiện nhiều lần. Trong thời gian cưu mang ấy về phần Mẹ Maria, lúc đầu thai, Mẹ được hưởng ơn nhìn thấy Thần Tính Thiên Chúa, một thị kiến vượt cao hơn tất cả các thị kiến, các mặc khải các thánh được, chỉ trừ có phúc thấy Chúa trên Thiên Đàng.
Trí năng và tâm hồn Mẹ đều nên hoàn hảo diệu kỳ, trí năng của Mẹ được trang sức bằng một trí thức Thiên Phú hầu như vô cùng. Mẹ thấu hiểu các Mầu Nhiệm về Thần Tính, về Chúa Ba Ngôi, về ơn Nhập Thể và Cứu Chuộc, về những vẻ tráng lệ của cuộc sáng tạo, về thiên thần và loài người, về lịch sử dân riêng Chúa trọn, lịch sử các tổ phụ, các tiên tri, về thiên đàng, về luyện ngục, về u ngục, và về hỏa ngục; tắt một lời, về tất cả mọi sự vật tự nhiên và siêu nhiên phù hợp với vẻ cao trọng của Thiên Chúa.
Tâm hồn Mẹ được trang điểm bằng những ơn Thánh Linh và tất cả các nhân đức với một mức độ hoàn toàn lạ lùng vì Mẹ vượt trên các Thiên Thần và Loài Người, nên khi vừa Đầu Thai, Mẹ Maria đã thực thi những hành vi nhân đức phù hợp với cấp bậc của Mẹ. Mẹ đã dâng lên Thiên Chúa những niềm tôn thờ ca tụng, tri ân, yêu mến, để phụng sự Ngài và cho vinh quang Ngài. Mẹ cũng đã sấp mình trước Oai Nghi Thiên Chúa để tỏ lòng tôn thờ bề ngoài. Mẹ đã dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin cho loài người mà Mẹ khởi sự bênh đỡ cho, cũng như cầu xin cho Đấng Cứu Chuộc, chóng đến giải thoát loài người khỏi ách nô lệ ma qủy. Một điều rất đáng chú ý là: Ngay bấy giờ, Mẹ đã tuôn châu lệ khóc thương tội lỗi và tai nạn loài người phải chịu. Mẹ cũng không quên song thân mà Mẹ nhận thức được trong Thiên Chúa. Mẹ cầu xin cách riêng cho hai Ngày, và ngay bấy giờ, Mẹ đã chu toàn trách vụ một người con hiếu kính.
Thiên Chúa cũng tỏ cho Mẹ thấy những Thiên Thần Chúa ban để bảo vệ Mẹ, sau khi ân cần niềm nở đón tiếp các vị, Mẹ mời các vị ca tụng Thiên Chúa Tối Cao bằng những ca vị đầy Thánh Đức. Mẹ cũng chỉ vẽ cho họ cả cách chu toàn Thánh Vụ ca tụng mà họ phải cùng với Mẹ chu toàn suốt trong cuộc đời Mẹ ở trần gian. Ngay còn trong thai, Mẹ đã thực hiện tất cả các hành vi ấy, nhất là hành vi về các đức thờ phượng, nên Mẹ đã lập công trạng lớn lao hơn tất cả các Thánh.
Sự thánh thiện cao đẹp của Mẹ Maria được tôn kính là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội giúp chúng ta khám 8/12-57
Sự thánh thiện cao đẹp của Mẹ Maria được tôn kính là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội giúp chúng ta khám phá ra Chúa Kitô hiện diện trong đời sống chúng ta, và liên lỉ mời gọi chúng ta canh tân đời sống của mình. Sự cao đẹp ân sủng của ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội như là phản ánh nét cao đẹp của Thiên Chúa, mẫu gương cho mọi người noi theo để chiến đấu chống lại sự dữ và tội lỗi, hầu được sống lại trong đời sống mới mỗi ngày.
Anh chị em thân mến!
Bước vào tháng Mười Hai, ai trong chúng ta cũng cảm thấy vừa phấn khởi hân hoan vừa lo sợ. Bầu khí chuẩn bị ngày đại lễ Giáng Sinh gợi lại cho chúng ta niềm vui khó tả. Tuy nhiên, bên cạnh niềm vui ấy, canh cánh trong tâm hồn chúng ta vẫn là nỗi lo lắng sự sợ hãi khi đứng trước bao nhiêu khó khăn đang chờ đợi chúng ta. Chính trong tâm tình đó mà hôm nay chúng ta được Giáo Hội mời gọi đi vào niềm vui của Mẹ Maria: “Hãy vui lên. Đừng sợ!”.
Sứ điệp được sứ thần nói với Mẹ Maria xưa, ngày nay cũng được lặp lại cho mỗi người chúng ta. Sứ thần mời gọi Mẹ: “Hãy vui lên và đừng sợ”, bởi vì Mẹ được đầy ơn Thiên Chúa và có Chúa ở cùng. Ngày nay, lời này được ngỏ với chúng ta cũng cùng một lời trấn an như thế: “Hãy vui lên, đừng sợ vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Trong tác phẩm “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Ngài đã giải thích lý do tại sao khi mới được bầu làm Giáo Hoàng, Ngài đã dõng dạc nói lớn tiếng giữa quảng trường Thánh Phêrô rằng: “Đừng sợ”, trong đó có đoạn trích như sau.
Ngày 22.10.1978 khi tôi nói giữa quảng trường thánh Phêrô là “Đừng Sợ ”, tôi vẫn chưa hiểu hoàn toàn những lời đó sẽ đưa tôi và Giáo Hội về đâu. Ý nghĩa của những lời này đến từ Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi được Chúa Giêsu hứa với các môn đệ hơn là từ người đã thốt lên nó.
Tuy nhiên, với tháng năm qua, tôi đã nhắc lại lời này trong nhiều dịp khác nhau. Lời nhắn nhủ “Đừng Sợ” phải được giải thích với một ý nghĩa rộng rãi, và một cách nào đó lời này được ngỏ với tất cả mọi dân tộc. Đây là một lời nhắn nhủ phải vượt thắng sự sợ hãi trong tình trạng thế giới hiện nay, Tây Phương cũng như Đông Phương, Nam bán cầu cũng như Bắc bán cầu. Đừng sợ những gì chính bạn đã tạo ra, đừng sợ những gì con người đã sản xuất ra và đừng sợ mỗi ngày đang đến, sau cùng đừng sợ chính bạn.
Tại sao chúng ta đừng sợ? Bởi vì con người đã được Thiên Chúa cứu rỗi. Khi nói lên những lời đó tại quảng trường thánh Phêrô, họ đã biết rằng thông điệp đầu tiên của tôi và cả thời gian Giáo Hoàng của tôi sẽ gắn liền với chân lý cứu rỗi. Trong ơn cứu rỗi, chúng ta nhìn thấy nền tảng sâu xa nhất cho những lời đừng sợ, bởi vì “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài”. Người Con này luôn hiện diện trong lịch sử nhân loại như Đấng cứu rỗi. Ơn cứu rỗi chạy xuyên suốt qua lịch sử nhân loại và chuẩn bị cho thời cánh chung của nhân loại.
Ơn cứu rỗi chính là ánh sáng chiếu soi trong đêm tối, và đêm tối đã không thắng được ánh sáng quyền lực của Thập giá và sự Phục Sinh của Chúa Kitô, còn vĩ đại hơn bất cứ sự dữ nào mà con người có thể hay phải sợ. Những lời đừng sợ mà Chúa Kitô Phục Sinh đã ngỏ với các môn đệ là một lời vang vọng như chính lời của sứ thần nói với Mẹ Maria. Do đó, không thể hiểu được trọn vẹn ý nghĩa của lời này, nếu không đặt vào tương quan với Mẹ Maria. Bởi vì những lời này đã được ngỏ trước với Mẹ Maria. Chúng ta hiểu tại sao Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chọn cho triều đại của Ngài khẩu hiệu: “Totus tuus”, nghĩa là “toàn thân con thuộc trọn về Mẹ”.
Cũng trong tác phẩm “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”, Ngài đã giải thích khẩu hiệu ấy và lòng sùng kính của Ngài đối với Mẹ Thiên Chúa. Ngài trả lời cho ký giả là người đã giúp Ngài thực hiện cuốn sách như sau: Một lần nữa, chúng ta cần phải trở về với khẩu hiệu “Totus tuus”. Trong một câu hỏi trước, Ngài đã nói đến Mẹ Thiên Chúa và vô số những mạc khải tư đã xảy ra, nhất là trong hai thế kỷ qua. Ngài đã trả lời bằng cách, lòng sùng kính Mẹ Maria được phát triển như thế nào trong cuộc sống của tôi, bắt đầu từ thành phố nơi tôi sinh trưởng đến thành thánh Calvariô.
Ngày 22.10.1978 khi tôi kế nghiệp thánh Phêrô tại Rôma, hơn bất cứ điều gì hết, chính kinh nghiệm và lòng tôn kính Mẹ Maria của tôi tại quê hương và tôi đã mang theo với tôi. “Đừng sợ”, Chúa Kitô đã nói như thế với các tông đồ và nói với những người phụ nữ sau khi Ngài sống lại. Theo Tin Mừng, những lời này không được ngỏ với Mẹ Maria khi Chúa sống lại, nhưng với một niềm tin vững mạnh, Mẹ Maria không sợ hãi. Hơn bất cứ điều gì, qua kinh nghiệm của dân tộc tôi, tôi thấy rõ Mẹ Maria đã tham dự vào cuộc chiến thắng của Chúa Kitô.
Đức Hồng Y Stêphanô đã nói với tôi rằng, trước khi hấp hối vị tiền nhiệm của Ngài đã nói những lời tiên tri như sau: “Nếu có chiến thắng thì chiến thắng sẽ đến qua Mẹ Maria”. Khi còn làm mục vụ tại Ba Lan, tôi đã thấy những lời này đúng. Sau khi được bầu làm Giáo Hoàng, càng lo cho những vấn đề của Giáo Hội hoàn vũ, tôi càng ý thức một cách xác tín rằng, trên bình diện phổ quát do Mẹ Maria mang lại, Chúa Kitô sẽ chinh phục qua Mẹ, vì Ngài muốn rằng những chiến thắng của Giáo Hội hiện nay và trong tương lai đều gắn liền với Mẹ Maria.
Vào những giai đoạn đầu của Thiên Niên Kỷ mới này, hơn bao giờ hết, chúng ta cần có những lời của Chúa Kitô Phục Sinh “Đừng Sợ”. Các dân tộc, các quốc gia trên toàn thế giới cần phải nghe lời đó. Lương tâm của họ cần phải lớn lên trong niềm xác tín rằng, có một Đấng đang hiện hữu, Đấng đang nắm giữ trong tay vận mệnh của trần thế đang qua đi này.
Anh chị em thân mến!
Lắng nghe những lời trên đây của vị cha chung, nhân dịp lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng ta không thể không cảm thấy phấn khởi và tin tưởng vào Mẹ. Vì Mẹ được cưu mang không tì vết tội Nguyên tổ, đó là thể hiện đầu tiên của quyền năng và cuộc chiến thắng của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ qua Mẹ và nhờ Mẹ. Chúng ta cũng tin rằng, Thiên Chúa sẽ tiếp tục chiến thắng qua Mẹ và nhờ Mẹ. Chúng ta cũng tin rằng, niềm tin và sự phấn khởi của các tín hữu Kitô chính là cuộc thể hiện chiến thắng của chính Thiên Chúa. Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta luôn tin vào sự phấn khởi ấy. Amen.
Chúng con ca tụng Chúa vì đã ban cho chúng con Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Chúng con rất 8/12-58
Chúng con ca tụng Chúa vì đã ban cho chúng con Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Chúng con rất vui mừng và cảm kích vì lòng sùng kính Mẹ Vô Nhiễm này đã từng tiến triển tốt đẹp trong nhiều Giáo hội địa phương ngay từ thế kỷ thứ 4, đặc biệt ở Đông phương.
Năm 1830, chính Mẹ đã minh nhiên xưng mình là Đấng Vô Nhiễm khi ban Ảnh vảy Đức Bà cho Thánh nữ Catherine Labouré tại tu viện của Chị, 40 Rue du Bac, Paris.
15 năm sau, ngày 8.12.1845, Giáo hội hân hoan đón nhận Lời tuyên tín long trọng của Đức Piô IX: Rất Thánh Trinh Maria là Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Tại Lộ Đức, ngày 25.3.1858, Mẹ đã xác nhận tín điều này trong lần hiện ra thứ 16 với Chị thánh Bernadette.
Chẳng còn gì phải nghi ngại! Chúng con cám ơn Mẹ!
PHẬN HÈN NHÂN LOẠI
Tất cả chúng con, thân phận con cháu Adong - Eva, ít nhiều đều ở trong tình trạng “nhiễm”. Chúng con đã bị “ô nhiễm” tội nguyên, và rồi tiếp tục đang “nhiễm trùng” bao tội riêng. Cùng với tác giả Thánh vịnh, chúng con từng người thật lòng thú nhận: Con đã được sinh ra trong tội. Mẹ con hoài thai con trong tội. Cũng chính vì thế mà trước mỗi lần tham dự Hy tế cứu độ, chúng con - tất cả đều phải đương nhiên đấm ngực ăn năn: Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm... ĐẶC ÂN MARIA
May mắn thay! Giữa con cái loài người tội lụy chúng con đây, đã có một mình Đức Maria được đặc cách “miễn nhiễm” do ân sủng cứu chuộc diệu kỳ của Chúa Giêsu, Người Con Yêu dành riêng cho Mẹ mình. Chỉ một mình Mẹ không phải đọc những lời như trên, như chúng con. Mẹ được cứu chuộc cách kỳ diệu nhờ công nghiệp Con Mẹ (LG 56). Như thế, trật tự ân sủng nơi Mẹ vẫn tròn đầy, từ khởi thai trong lòng Thánh nữ Anna cho đến mãi muôn đời. Nhan thánh hoàn mỹ ban đầu của Mẹ được giữ gìn trinh vẹn, không hề bị nhăn nheo, vẩn đục, méo mó, rối loạn như chúng con. Trái lại, vẻ đẹp thánh thiện nguyên tuyền nơi “Đấng Đầy Ân Sủng” (Lc 1:28) luôn tỏa sáng tuyệt hảo, làm thỏa lòng Thiên Chúa Ba Ngôi; đến nỗi, để thực hiện công trình cứu độ nhân loại, Ngôi Lời đã hoan hỷ nhập thể và tự tình sinh bởi Trinh dạ Vô Nhiễm Mẹ. Ngài đã thực sự vui lòng lập cư tại đây, và rồi từ đó Ngài sẵn lòng ở lại giữa anh em mình, là loài người chúng con.
MẸ VÔ NHIỄM VÀ MÙA VỌNG
Đâu phải ngẫu nhiên mà theo Lịch phụng vụ, chúng con được mừng Lễ Mẹ Vô Nhiễm ngay giữa Mùa vọng!
Vọng là mong là đợi, là ngóng là trông, là chờ là đón...
Mùa vọng cho chúng con cơ hội tái chuẩn bị tâm hồn để mong đợi, ngóng trôngvà chờ đón Chúa Giáng Sinh.
Mà đã hơn 2000 năm, tiếng kêu lớn trong hoang địa của Vị tiền hô: “Hãy dọn đường cho Chúa” vẫn luôn còn vang vọng và mang tính thời sự.
Nhưng Ngài dậy chúng con phải chuẩn bị điều gì?
Rõ ràng là Ngài không đòi nơi chúng con những hành động lớn lao lạ kỳ. Ngài chỉ khuyên răn mọi người hãy canh tân lối nhìn và đổi mới cách sống.
Ngài hô hào, nhưng tự chúng con, qua bao thế hệ, nào có thể tự mình sửa soạn tâm hồn cho tử tế, cho ra trò, cho xứng đáng đón mừng Vị Thiên Sai đang đến.
Phải có ai đó đủ khả năng giúp chúng con tân trang và đổi đời?
Không ai chuẩn bị đón Tình Yêu Giáng Sinh tuyệt vời cho bằng chính Mẹ Tình Yêu.
Chẳng có ai ngoài Mẹ Vô Nhiễm đã chuẩn bị xứng đáng cho Đấng Thiên Chúa Cứu Độ ngự đến.
Vì thế, chúng con tin tưởng chắc chắn Trái Tim Vô Nhiễm Maria đang sẵn sàng giúp chúng con chỉnh trang và đổi mới tâm hồn, đặc biệt trong Mùa vọng này:
“Núi ghềnh cao ngạo, hãy san cho phẳng...”
Lạy Mẹ Rất Thánh, trí lòng chúng con đầy ắp tự ái và kiêu căng. Trong lòng chúng con, ích kỷ vun cao và chất ngất hận thù. Xin Cung Lòng Vô Nhiễm Mẹ giúp chúng con biết đón Chúa Cứu Chuộc của lòng chúng con bằng chính tâm hồn khiêm hạ chân thành và biết mình thẳm sâu của Mẹ.
“Lũng hào thăm thẳm, hãy lấp cho đầy...”
Lạy Mẹ Rất Thánh, xin Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ lấp đầy lòng trí tối tăm, u muội của chúng con bằng các nhân đức cao quý của Mẹ. Mẹ hãy lấy Tình yêu thanh khiết của Mẹ mà phủ đầy những ánh nhìn đầy dục vọng dơ bẩn và cõi lòng tràn ngập tham sân si của chúng con.
“Đường nẻo cong queo, hãy uốn cho ngay..”.
Lạy Mẹ Rất Thánh, chúng con chân nhận rằng tâm trí chúng con quanh co, dối trá, lừa lọc. Vì vậy chúng con rất cần chiêm ngưỡng Nhan thánh Vô Nhiễm mỹ miều trinh nguyên, đơn sơ tinh tuyền của Mẹ. Gương lành của Mẹ hãy nên Kim chỉ nam hướng dẫn đường đời chúng con đi. Xin uốn lòng chúng con nên ngay thẳng trước Thiên Chúa, trước anh em và trước chính lương tâm con.
Lạy Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, là Mẹ Chúa Trời và là Mẹ chúng con. Là Mẹ xót thương, ngọt ngào cho cuộc sống. Kính chào Lẽ cậy trông. Này con cái Eva, thân phận người lưu lạc. Chúng con ngửa trông Mẹ. Kêu Mẹ mà khóc lóc, than thở với kêu la, trong lũng đầy nước mắt. Mẹ là Nữ trạng sư, nguyện đưa mắt nhân từ, thấy đoàn con đoái lại. Và sau đời khổ ải, xin Mẹ khứng tỏ ra, cho chúng con được thấy Quả phúc bởi lòng Mẹ: Đức Giêsu khả ái. Ôi lượng cả khoan hồng! Ôi tấm lòng xót thương! Ôi dịu hiền nhân hậu! Trinh Nữ Maria. (Salve Regina - Kim Long)
Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội từ thuở đầu thai, nói tắt là "Đức Mẹ vô nhiễm thai". "Thai" nói đầy đủ 8/12-59
Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội từ thuở đầu thai, nói tắt là "Đức Mẹ vô nhiễm thai". "Thai" nói đầy đủ là "thụ thai" (conception). Thụ thai phân biệt ra thụ thai chủ động (active conception) là việc người mẹ hoài thai đứa con, và thụ thai thụ động (passive conception) là việc người con được thụ thai. Do đó, khi nói đến Immaculate Conception là không phải nói đến Thánh Anna thụ thai Đức Trinh Nữ Maria, hay là Đức Trinh Nữ Maria thụ thai Chúa Giêsu, nhưng là nói đến Đức Trinh Nữ Maria "được thụ thai, hay là được dựng thai, hoặc là đầu thai" trong lòng Thánh Anna. Cũng có khi người ta chỉ nói "Đức Mẹ Vô nhiễm" thì hiểu là "Đức Mẹ Vô nhiễm từ thuở đầu thai" hay là "Đức Mẹ đầu thai vô nhiễm" hoặc là "Đức Mẹ Vô nhiễm thai".
Vấn đề "Đức Mẹ Vô nhiễm thai" thoạt tiên là một hạt giống được giấu ẩn trong kho mạc khải Thánh kinh và Thánh truyền, rồi trải qua niềm tin của Giáo hội biến thành Nụ Tín lý. Nhưng Nụ Tín lý trải qua nhiều chông gai, nhiều sương tuyết lạnh lùng, nhờ sự diễn giải của các Thánh Giáo phụ, các nhà thần học và sự phán quyết của Thẩm quyền Giáo hội mới nở tươi thành Tín điều.
Xét về phương diện tiến triển, Tín điều "Đức Mẹ Vô nhiễm thai" đã trải qua một tiến trình rất phức tạp, nhưng được giản lược qua 3 giai đoạn: giai đoạn trầm lặng, giai đoạn tranh luận, và giai đoạn xác nhận.
A. Giai đoạn trầm lặng từ thế kỷ I đến thế kỷ XI
Thánh kinh chỉ có kiểu nói mặc nhiên ẩn tàng về vấn đề Vô nhiễm, nên trong những thế kỷ đầu, Giáo hội chưa khám phá ra. Tuy nhiên, từ thời các Thánh Tông đồ qua thời các Thánh Giáo phụ trong những thế kỷ đầu, một ít tia sáng "Vô nhiễm" đã loé lên, nhưng chỉ trong phạm vi cá nhân. Năm 416 Công đồng Carthage và Công đồng Mileviô ở Bắc Phi lên án Pelagiô và Coelestiô chối tội nguyên tổ, mà không đề cập gì đến trường hợp của Đức Mẹ. Năm 431 Công đồng Êphêsô ở Tiểu Á cùng với Thánh Cyrillô Alexanđria luận phi bè rối Nestoriô, để tuyên tín Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Từ đó, lòng sùng kính Đức Mẹ dâng lên cao và tràn lan ra xa rộng. Giáo hội cũng chỉ xác nhận sự trinh trong tuyệt đối của Mẹ. Khi người ta bàn luận về vấn đề tội lỗi, Thánh Augustinô không muốn liên tưởng đến Đức Mẹ. Tư tưởng tiêu cực này đã nên như qui luật cho các Giáo phụ thời đó. Bên Đông phương, người ta nồng nhiệt sùng kính phúc vinh quang Mẹ Thiên Chúa, mà không xác định rõ. Đến thế kỷ VII, bốn vị Giáo hoàng: Đức Honoriô I, Đức Thánh Martinô I, Đức Thánh Agathô, và Đức Thánh Lêô II làm loé lên một vài tia sáng nhưng vẫn ở trong phạm vi hạn hẹp.
B. Giai đoạn tranh luận từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV
Thế kỷ XII, nhà thần học Eadmer sử gia của Thánh Anselmô tại Canturbury (Anh) viết cuốn "Yếu luận về sự đầu thai thánh thiện của Đức Maria" để minh xác ý nghĩa đặc ân làm nền tảng cho Tín lý Vô nhiễm. Eadmer lý luận sâu sắc về việc Mẹ được đặc ân Vô nhiễm với ba lời có tính cách Cách ngôn: Potuit, Decuit, Fecit, nghĩa là Thiên Chúa có thể làm; nếu Người muốn thì Người đã làm. Cũng thời đó, văn sĩ Osbertô Clare đầu tiên vận động truyền bá giáo thuyết này. Đông phương đã mừng lễ Mẹ đầu thai từ thế kỷ VII, nhưng Tây phương mừng lễ này thế kỷ XII. Dẫu thế, một bức màn đen vẫn trùm phủ vấn đề Vô nhiễm, đến nỗi bốn vị Thánh tiến sĩ Bênađô, Albertô, Bônaventura, Tôma, và hai nhà thần học nổi danh Rupertô và Alexanđrô Halès cho rằng Đức Mẹ cũng mắc luật lưu truyền nguyên tội như mọi người dòng dõi Ađam. Thánh Tôma chỉ nói Đức Maria được thánh hoá trong lòng mẹ. Về sau, các ngài mới bỏ tư kiến để thuận theo sự phán quyết của các Đức Giáo hoàng và niềm tin của Giáo hội.
Hai luồng tư tưởng nghịch và thuận vấn đề Vô nhiễm lan tràn sâu rộng gây nên một cuộc tranh luận sôi nổi giữa hai trường phái Tôma và Scôtô tại Avignon (Pháp) năm 1325. Phe thuận là trường phái Scôtô có luận cứ vững mạnh, nên được Đức Gioan XXII tán thành, và được Đại học Paris yểm trợ. Năm 1346 tại phân khoa Thần học Đại học này, không ai được đậu cử nhân, tiến sĩ, nếu không tuyên thệ phải ủng hộ giáo thuyết Vô nhiễm. Sau này hai Đại học Cologne và Mayence noi gương Đại học Paris cũng có qui chế như thế. Còn một cuộc tranh luận khác không kém gay go về vấn đề Vô nhiễm. Phe chống gây ảnh hưởng sâu rộng nhất là miền Bắc Ý, nhưng sau cũng thuận theo, nhờ thái độ cương quyết của Đức Sixtô IV.
C. Giai đoạn xác nhận từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX
Năm 1377 cuộc Đức Mẹ mạc khải với Thánh Brigitta được Đức Grêgôriô XI thẩm tra và xác nhận là chân thật. Đức Mẹ nói với Thánh Brigitta: "Đúng sự thật là Mẹ đầu thai vô nhiễm. Hỡi ái nữ của Mẹ. Con hãy tin và thấy rằng những ai tin và tuyên xưng Mẹ đã được gìn giữ khỏi vết nhơ tội tổ là họ nghĩ đúng. Ai nghĩ ngược lại là sai, nhất là họ nghĩ càn giỡ". Năm 1431, Công đồng Basel (Thụy sĩ), công bố một sắc lệnh như sau: "Chúng tôi xác định và tuyên ngôn rằng Đức Trinh Nữ Maria, do đặc ân Thiên Chúa giữ gìn, không bao giờ nhiễm lây vết nhơ nguyên tội, nhưng luôn luôn thánh thiện và vô nhiễm".
Đức Sixtô IV là vị Giáo hoàng đầu tiên minh nhiên xác định vấn đề Vô nhiễm bằng cách ban hành mười sáu Hiến chế về Mẹ Maria Vô nhiễm. Trong số đó, mười hai Hiến chế ban ân xá, bốn Hiến chế thiết lập và củng cố lễ Mẹ Vô nhiễm trong khắp Giáo hội.
Năm 1545, Công đồng Trentô do Đức Phaolô III triệu tập, công bố sắc lệnh có ba khoản nói về Mẹ Vô nhiễm:
1. Đức Maria được miễn trừ khỏi luật chung của Nguyên tội.
2. Đức Maria được gọi là Vô nhiễm. Ý nghĩa danh từ này phải được xác định là khỏi mọi vết nhơ, mà vết nhơ là Nguyên tội. Do đó, gọi Mẹ là Vô nhiễm vì Mẹ đầu thai vô nhiễm nguyên tội.
3. Các Hiến chế của Đức Sixtô IV phải được tôn trọng.
Năm 1567 Đức Thánh Piô V ban hành ba văn kiện về Mẹ Vô nhiễm. Văn kiện thứ nhất luận phi những lầm lạc của Baius cho rằng tin Đức Mẹ vô nhiễm thai là rối đạo.
Đức Clêmentê VIII ca ngợi, khích lệ và cho phát hành cuốn giáo lý do Thánh Bellarminô soạn, trong đó có câu:
H. Đầy ơn phúc nghĩa là gì?
T. Đức Mẹ đầy ơn phúc, vì Người không hề mang vết nhơ tội lỗi, dù là Nguyên tội hay hiện tội, tội trọng hay tội hèn.
Đức Grêgôriô XV ban hành sắc lệnh có một điều đáng chú ý:
Những ai phủ nhận Đức Mẹ Vô nhiễm phải tuyệt đối im lặng, vì sinh gương mù và chia rẽ giữa Giáo hội. Mẹ Maria đầu thai mà mắc tội là điều xúc phạm đến niềm tin của tín hữu. Tuy nhiên, được giữ tư kiến cho mình, vì vấn đề chưa được chính thức xác định.
Đức Alexanđrô VII là vị Giáo hoàng quan trọng thứ nhì sau Đức Piô IX trong việc định tín Mẹ Vô nhiễm. Trọng sắc "Sollicitudo Omnium Ecclesianum" của ngài có ba điều quan trọng:
1. Niềm tin Mẹ Maria Vô nhiễm là quan điểm đạo đức (Pia sententia). 2. Sự đầu thai nói về Mẹ Maria có nghĩa là Vô nhiễm.
3. Ngài giải thích các sắc lệnh của các vị tiền nhiệm xác nhận Mẹ Vô nhiễm.
Năm 1830, Đức Mẹ hiện ra ban cho Thánh Catarina Labouré tại Paris lời nguyện vắn tắt: "Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội, xin cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi chạy đến cùng Mẹ".
Đức Grêgôriô XVI, vị tiền nhiệm của Đức Piô IX, đã dọn đường rất gần để tiến tới việc định tín. Ngài ban phép cho 133 giáo phận và hội dòng thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: "Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông, cầu cho chúng con". Sau này Đức Piô IX mới ấn định câu này trong kinh cầu Đức Bà cho khắp Giáo hội. Lòng sùng kính Mẹ Vô nhiễm đặc biệt của ngài ảnh hưởng sâu rộng trong Giáo hội. Từ năm 1840 đến 1844 có 86 đơn thỉnh nguyện xin định tín của các Hồng y, Giám mục nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Đức, và Trung Hoa, và năm 1849 thêm các đơn thỉnh nguyện của Công đồng Baltimore, Hoa kỳ.
Đức Piô IX đã được Thiên Chúa tuyển chọn để định tín Mẹ Vô nhiễm thai, nên lịch sử gọi ngài là Giáo hoàng của Mẹ Vô nhiễm. Từ năm 1846 đến 1849 có thêm 130 đơn thỉnh nguyện, nên ngài quyết tâm tiến hành:
Ngày 1-6-1848 ngài triệu tập Hội đồng Tư vấn gồm các nhà thần học nổi danh, với sứ mệnh thẩm xét vn đề. Hội đồng Tư vấn biểu quyết tâu xin định tín.
Ngày 22-12-1848 một Hội đồng Tiền chuẩn bị gồm tám Hồng y và năm cố vấn họp tại Naples dưới quyền chủ toạ của Đức Hồng y Lambruschini. Hội đồng tâu xin Đức Thánh Cha gửi một thông điệp cho các Giám mục xin cầu nguyện và hỏi ý kiến.
Ngày 2-2-1849 Đức Thánh Cha liền ban hành Thông điệp "Ubi Primum". Ngài nhận được 603 thư hồi âm tâu xin định tín hoặc xin tùy sự quyết định của Đức Thánh Cha. Với đủ yếu tố trong tay, Đức Piô IX họp Cơ mật viện gồm các Hồng y để quyết định lần cuối cùng và ngài viết Thông điệp "Ineffabilis Deus".
D. Tuyên tín
Ngày 8-12-1854, tại đại đền Thánh Phêrô, trước mặt 54 Hồng y, 42 Tổng Giám mục, 92 Giám mục, 300 các viên chức sắc gồm cả ngoại giao đoàn, cùng với chừng 50,000 linh mục, tu sĩ, và giáo dân từ nhiều quốc gia, Đức Piô IX trịnh trọng tuyên bố thông điệp bất hủ "Ineffabilis Deus", và với một giọng cương quyết oai nghiêm, ngài tuyên tín: "Do uy quyền của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và của riêng Ta, Ta xác nhận, tuyên ngôn và định tín rằng: Rất Thánh Trinh Nữ Maria từ phút đầu thai đã được gìn giữ Vô nhiễm khỏi mọi vết nhơ nguyên tội, do đặc ân của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu chuộc nhân thế. Tín lý này đã được Thiên Chúa mạc khải. Do vậy, tất cả mọi tín hữu phải tin kiên vững".
Đức Thánh Cha vừa dứt lời, tức thì bài thánh ca "Te Deum" cùng với âm nhạc và tiếng chuông đại đền thánh Phêrô vang lên trầm hùng, biểu lộ niềm phấn khởi hân hoan từ ngàn vạn con tim dào dạt sung sướng trước bước vinh quang của Mẹ Vô nhiễm. Đồng thời, bên ngoài, từng loạt đại bác tại lâu đài Thiên thần nổ vang trời, nhịp với chuông tất cả các đền thờ thành Rôma đổ hồi ngân vang reo mừng Mẹ. Các lâu đài, dinh thự và tất cả các tư gia đều kéo cờ tưng bừng, và đêm đến thì trưng đèn rực sáng để ghi dấu một biến cố vinh quang cho Mẹ Vô nhiễm và vẻ vang cho toàn thể Giáo hội.
Sau bốn năm, năm 1858, Đức Mẹ hiện ra với Thánh Bernađetta tại Lộ Đức nước Pháp. Mẹ xưng mình "Ta là Đấng Vô nhiễm thai" để xác nhận điều tuyên tín của Đức Piô IX.
Năm 1846 công đồng giáo tỉnh Baltimore cung hiến Giáo hội Hoa Kỳ cho Đức Mẹ Vô nhiễm. Và đền thánh Mẹ Vô nhiễm bổn mạng toàn quốc đã được xây cất tại Washington, D.C. Tại Việt Nam, từ năm 1855 đến năm 1862 dưới triều vua Tự Đức, việc cấm đạo khủng khiếp ác liệt hơn hết. Riêng giáo phận Bùi Chu và Hải Phòng đã có trên 2,000 người chết vì đạo. Bởi vậy, các thừa sai Tây Ban Nha tại Giáo phận Bùi Chu khấn dâng giáo phận cho Đức Mẹ Vô nhiễm và khấn hứa Đức Mẹ ban ơn bình an, giáo phận sẽ dâng kính Đức Mẹ một đền thờ rộng lớn. Quả thật đến năm 1888, phong trào cấm đạo chấm dứt. Nhưng mãi đến năm 1916 Giáo phận Bùi Chu mới khởi công kiến thiết đền thờ Đức Mẹ Vô nhiễm đồ sộ nguy nga kiểu Gothic bậc nhất Đông Dương tại Phú Nhai gần Bùi Chu, tới năm 1923 mới khánh thành, năm 1929 bị bão đổ, và năm 1933 được trùng tu uy hùng cho tới ngày nay.
Trải qua nhiều khó khăn sau bao thế kỷ, và nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Linh qua Thánh kinh và Thánh truyền, Giáo hội đã đính thêm viên bích ngọc "Vô nhiễm" sáng chói trên vương miện Thiên Mẫu của Mẹ Maria. Chúng ta hãy vui mừng cảm tạ Chúa và Giáo hội, cách riêng Đức Sixtô IV và Đức Piô IX. Với hết tình ngoan thảo, chúng ta hãy hoan hỉ ca mừng chúc tụng Mẹ Vô nhiễm, đặc biệt trong dịp lễ tôn vinh Người.
II. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Đông phương đã mừng lễ Mẹ Vô nhiễm từ thế kỷ VII. Bên Tây phương, Osbertô Clare, một văn sĩ và thi sĩ người Anh, tiên phong vận động mừng lễ Mẹ Vô nhiễm tại Anh hồi thế kỷ XII. Từ Anh lễ này lan nhanh sang Normandie và toàn nước Pháp rồi sang Ý. Năm 1215 các giáo phận nước Pháp được Đức Innocentê III ban phép đầu tiên mừng lễ Mẹ đầu thai. Quãng năm 1241 hay 1242, vì lý do chính trị do Vua Philippe II nước Pháp, Đức Bonifaciô VIII dời giáo triều xuống thành Anagni là nguyên quán của ngài và mừng lễ Mẹ đầu thai tại nhà thờ chính toà. Năm 1263, Đại Công hội Dòng Phanxicô tại Pise (Ý) ấn định mừng lễ này trong toàn dòng. Đến đời Đức Clêmentê V, vì ảnh hưởng của Vua Philippe II, ngài đặt giáo đô tại Avignon (Pháp). Cả giáo triều mừng lễ Mẹ đầu thai ngày mồng 8 tháng 12 tại nhà thờ Dòng Carmelô. Từ đây, hằng năm giáo triều mừng lễ Mẹ đầu thai và tiếp tục khi trở về Rôma, các Đức Giáo hoàng cũng đích thân tham dự. Năm 1385, sử gia Bellemer và mấy năm sau sử gia Francis Martin còn thấy Đức Giáo hoàng, các Hồng y, Giám mục mừng lễ Mẹ đầu thai tại nguyện đường trong điện Vaticanô.
Thời đó lễ Mẹ đầu thai chỉ có ý nghĩa suông là Đức Mẹ đầu thai thánh thiện trong lòng Bà Thánh Anna. Vấn đề Vô nhiễm chưa được đưa ra khảo sát, và Toà thánh cũng chưa xét đến điểm tín lý.
Năm 1325 tại Avignon, Đức Gioan XXII chứng giám cuộc tranh luận sôi nổi giữa các linh mục Dòng Phanxicô và Dòng Đaminh về vấn đề Vô nhiễm. Chung cuộc, ngài tuyên bố luận cứ bên Phanxicô đáo lý hơn và có ưu thế hơn, nên ngài truyền dạy mừng lễ Mẹ đầu thai rất trọng thể tại nguyện đường của ngài, nhưng ngài không xác định vấn đề Vô nhiễm. Công đầu tiên thiết lập lễ Mẹ Vô nhiễm là Đức Sixtô IV, một tu sĩ Phanxicô. Năm 1476, ngài dạy Lêonardô Nogarolis soạn kinh lễ với tuần tám. Ngày 27-2-1477, ngài ban hành Trọng sắc "Cum prae-celsa" long trọng thiết lập lễ Đức Mẹ Vô nhiễm. Ngày 4-10-1480, Đức Thánh Cha ban hành Đoản sắc "Libenter" chuẩn nhận Giờ kinh và Bài lễ Mẹ Vô nhiễm do cha Bernadino de Bustis, OFM, soạn thảo.
Năm 1482 và 1483 nổi lên những phản ứng tại miền Lombardy, Bắc Ý, tuyên truyền rằng tin và chủ trương Đức Mẹ Vô nhiễm thai là rối đạo, Đức Sixtô IV ban hành thêm hai Tiền và Hậu đoản sắc "Grave nimis" để chặn đứng luồng tư tưởng lầm lạc đó.
Đức Lêô X tán thành và xác nhận những văn kiện của Đức Sixtô IV. Với Trọng sắc "Sacrosanctae", ngài truyền dạy nước Balan mừng lễ Mẹ đầu thai như ở Rôma, và ban phép Giáo hội Tây Ban Nha tổ chức lễ Mẹ Vô nhiễm nửa đêm ngày 8 tháng 12. Đức Thánh Piô V truyền dạy toàn thể Giáo hội mừng lễ Mẹ đầu thai. Giờ kinh ngày lễ thì lấy giờ kinh lễ Sinh nhật Mẹ, và đặt chữ "Đầu thai" thay chữ "Sinh nhật". Riêng Dòng Phanxicô được dùng giờ kinh Bài lễ của Nogarolis đời Đức Sixtô IV.
Các Đức Giáo hoàng Sixtô V, Grêgôriô XV, Clêmentê IX, Bênêđictô XIV, Clêmentê XIII, Clêmentê XIV, Piô VI, và Đức Piô VII ban phép mừng lễ Mẹ Vô nhiễm cho từng quốc gia, từng giáo phận, từng dòng tu. Riêng Đức Grêgôriô XVI trong vòng mười năm ban phép cho 211 giáo phận và dòng tu mừng lễ Mẹ Vô nhiễm, và thêm danh từ "Vô nhiễm" vào kinh Tiền tụng lễ Mẹ đầu thai. Đức Clêmentê XI, với trọng sắc "Commissioni nobis" năm 1708 truyền dạy lễ Mẹ Vô nhiễm là lễ buộc trong khắp Giáo hội.
Đức Piô IX, ngày 30-9-1847, ngài ký sắc lệnh của Thánh bộ Lễ nghi ban phép đọc Giờ kinh và Bài lễ Mẹ Vô nhiễm cho chính ngày lễ và cả tuần tám, bắt đầu cho giáo phận Rôma và hai năm sau cho toàn thể Giáo hội. Năm 1863 là sau chín năm định tín Mẹ Vô nhiễm, ngài qui định Giờ kinh và Bài lễ Mẹ Vô nhiễm "Gaudens Gaudebo - Tôi sẽ hớn hở vui mừng" như ta thấy ngày nay.
III. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ
Giáo hội đã tuyên tín Mẹ Maria đầu thai vô nhiễm và long trọng mừng lễ Mẹ Vô nhiễm để cảm tạ Chúa Ba Ngôi rất thánh đã tiền định tuyển chọn Mẹ với một đặc ân lạ lùng, chuẩn bị cho phẩm chức và sứ mạng của Mẹ, đồng thời để ngợi khen chúc tụng Mẹ cao sang hơn mọi bậc thần thánh và toàn thể loài người.
Giáo hội long trọng mừng lễ Mẹ Vô nhiễm với năm lý do thần học theo Thánh Tôma:
1. Nếu lúc nào đó mắc tội, Mẹ Maria không xứng đáng là Mẹ Thiên Chúa, vì "cha mẹ là sự hãnh diện của con" (xem Cn 17:6). Do đó, nếu Mẹ mắc nguyên tội, ánh vinh quang của Chúa bị lu mờ trước mặt các thần thánh.
2. Giữa Chúa Giêsu và Mẹ có một mối liên hệ chặt chẽ. Chúa và Mẹ cùng một vinh quang, nên Mẹ cần phải sạch mọi tội lỗi, nhất là nguyên tội.
3. "Cha đã cho con việc xử án" (Ga 5:22). Nếu Mẹ Maria sa phạm tội lỗi hoặc nguyên tội, thì theo đức Công bằng, Chúa phải xử án luận phạt Mẹ. Nhưng có lẽ nào Chúa để Mẹ sa phạm để đoán phạt Người!
4. Thánh Phaolô gọi thân xác chúng ta vì ô nhiễm nguyên tội là thân xác tội lỗi (Rm 6:6). Nếu Mẹ mắc nguyên tội, thân xác Mẹ sẽ là thân xác tội lỗi, thì làm sao xứng với thân xác Chúa Giêsu ngôi hiệp với bản tính Thiên Chúa?
5. Vẻ đẹp của Mẹ "mười phân vẹn mười" luôn luôn và mãi mãi đẹp. Mẹ đẹp từ lúc đầu thai và luôn mãi đẹp. Trước khi sinh ra, sau khi sinh ra, không một tuổi nào, không một lúc nào trong đời Mẹ, mà Mẹ không luôn luôn hoàn toàn đẹp đẽ.
IV. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Sáng thế 3:9-15, 20
Đoạn văn này ám chỉ Mẹ Maria là Tân Evà. Các Thánh Giáo phụ từ Thánh Giustinô nhìn thấy trong thánh truyện Truyền tin sự phản ngược quá trình tội lỗi trong vườn địa đường. Bà Evà là mẹ chúng sinh, vì nghe mưu chước con Rắn hoả ngục đã lỗi phạm giới răn Thiên Chúa ăn trái cấm và trao cho ông Ađam cùng ăn. Tội phạm này đã làm cho ông bà phải khiếp sợ, xấu hổ, và nhận chìm toàn thể loài người xuống hố đoạ trầm. Trái lại, Đức Trinh Nữ Maria là Tân Evà cũng là Mẹ chúng sinh vì nghe theo Thiên sứ, xin vâng lời Thiên Chúa dấn thân vào sứ mạng Đồng công cùng với Chúa Cứu Thế cứu thoát loài người khỏi h đoạ trầm mà được thăng tiến vinh phúc. Như vậy bà Evà đã bị con Rắn ánh thảm bại, thì Tân Evà đã đạp nát đầu Rắn, chiến thắng nó một cách vẻ vang, mà cuộc chiến thắng đầu tiên là được đặc ân Vô nhiễm.
Bài đọc II: Êphêsô 1:3-6, 11-12
Đầu thư này trình bày thánh lệnh muôn đời của Thiên Chúa là mầu nhiệm đã được giấu kín qua các thời đại, rồi được tỏ ra trong Chúa Kitô. Đức Gioan Phaolô II áp dụng tư tưởng này vào Mẹ Maria: "Mầu nhiệm Mẹ Maria chỉ được tỏ rõ trong mầu nhiệm Chúa Kitô" (RM, 4). Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ từ muôn thuở để Mẹ nên thánh thiện và vô tì tích trước mặt Người. Cùng với Đức Gioan Phaolô II, chúng ta có thể thấy rằng ơn thánh đã làm cho toàn thể con người Mẹ Maria nên cao cả xinh đẹp phi thường (RM, 11).
Phúc âm: Luca 1:26-38
Bài Phúc âm này được tuyên đọc ngày lễ Mẹ Vô nhiễm, vì lời thiên sứ "kính chào Bà đầy ơn phước" tỏ ra rằng Đức Trinh Nữ Maria được dư tràn ơn phúc do đặc ân Vô nhiễm như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giải thích: đầy ơn phúc nghĩa là Vô nhiễm (18-12-84). Lời thiên sứ quả quyết "Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ" chứng tỏ Trinh Nữ được đẹp lòng Thiên Chúa, được Thiên Chúa tuyển chọn vào một chức phẩm siêu việt và một sứ mạng cao cả. Trước một ơn thánh cao dầy do lòng Chúa yêu thương và trước một viễn tượng huy hoàng rực rỡ như thế, Trinh Nữ Maria càng hạ mình sâu thẳm, càng trung kiên với đức Đồng trinh, càng được đẹp lòng Thiên Chúa. Do vậy, Thiên Chúa đã thực hiện nơi Người mầu nhiệm Nhập thể Cứu chuộc.
Hỡi các con, Mẹ đã từ Trời ngự xuống và tại Lộ Đức Mẹ đã nhắc lại cho các con chân lý này, chân lý 8/12-60
Hỡi các con, Mẹ đã từ Trời ngự xuống và tại Lộ Đức Mẹ đã nhắc lại cho các con chân lý này, chân lý mà trước đó không lâu Giáo Hội đã chính thức công bố.
Nhờ một đặc ân mà Mẹ đã được thoát khỏi mọi tội lỗi, kể cả tội nguyên tổ, tội mà mỗi người các con đều mắc phải lúc đầu thai.
Mẹ được gìn giữ khỏi tội lỗi, vì nơi Mẹ, một tạo vật thấp hèn, Chúa Ba Ngôi Chí Thánh đã muốn phản chiếu toàn vẹn chương trình sáng láng của Người.
Mẹ được gìn giữ khỏi tội lỗi, đầy ân sủng, bởi vì Mẹ đã được chọn làm Mẹ của Ngôi Lời và được tiền định làm Đấng ban Chúa Giêsu Con Mẹ cho các con. Và Chúa Giêsu Con Mẹ đã ban Mẹ cho mỗi người các con như người Mẹ thật. Vì thế, bổn phận của Mẹ là mặc cho các con sự trong sạch của Mẹ.
Nhất là Mẹ muốn chữa các con khỏi sự xấu xa làm các con quá xấu xí: đó là tội lỗi.
Các con yêu dấu, những Linh mục đã tận hiến cho TTVSM: từ đầu, Mẹ đã được loan báo như là Đấng chiến thắng Satan, nó là cha đẻ và là tác giả của mọi tội lỗi.
Sứ mạng của Mẹ là chiến đấu và chiến thắng Satan để đạp nát đầu nó dưới chân Mẹ. Từ đầu Mẹ đã chiến thắng, vì khi toàn thể nhân loại đã sa vào vòng nô lệ tội lỗi thì Chúa Ba Ngôi đã loan báo Mẹ như dấu chỉ khải hoàn chắc chắn:
'Ta sẽ đặt mối thù giữa mày và Người Nữ, giữa dòng dõi mày và dòng dõi Người Nữ. Bà sẽ nghiền nát đầu mày trong khi mày rình cắn gót chân Bà".
Mẹ đã chiến thắng nó bằng lời 'xin vâng', Ngôi Lời đã ngự xuống mặc xác trong lòng rất trong sạch của Mẹ, và trên núi Canvariô, Chúa Giêsu Con Mẹ đã tự hiến tế trên bàn thờ Thánh Giá.
Chính nơi Người, Đấng đã cứu chuộc hết thảy các con, mà cuộc khải hoàn trọn vẹn của Mẹ đã hoàn tất.
Mẹ đã tiếp tục cuộc chiến trong suốt những năm dài hành hương của Giáo Hội trên mặt đất: vì thế nhũng cuộc chiến thắng lớn lao nhất của Giáo Hội đã là nhờ hành động từ mẫu đặc biệt của Mẹ.
Nhưng trong thế kỷ này, vì Kẻ Thù đã muốn thách thức Mẹ, tung ra một cuộc đấu tranh, và với thuyết vô thần lầm lạc, đã quyến rũ, lừa bịp được toàn thể nhân loại, thì từ Trời Mẹ đã hiện xuống trái đất như Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội để yên ủi các con, bởi vì chính Mẹ có bổn phận phải chiến đấu và chiến thẳng ma quỷ.
TRÁI TIM MẸ SẼ THẮNG
Trong thế kỷ này, khi thuyết vô thần đã tổ chức thành một lực lượng căng thẳng muốn chinh phục toàn thể thế giới, triệt hạ Giáo Hội hoàn toàn. thì Mẹ lại từ Trời hiện xuống để trấn an các con, vì trong cuộc đấu tranh khủng khiếp này, Mẹ sẽ là người chiến thắng: 'Cuối cùng, TT Vẹn Sạch Mẹ sẽ toàn thắng !'
Hỡi các con đáng thương của Mẹ, trong cuộc đấu tranh giữa Mẹ và địch thù của Mẹ, con cựu xà Satan, kẻ dụ dỗ và là tác giả mọi sự đó, các con sẽ là những kẻ bị đánh nhiều nhất.
Vì thế, trước khi loan báo cuộc chiến cho các con, Mẹ đã mời các con hãy tìm nơi trú ẩn chắc chắn trong Mẹ. Các con hãy vào trú ẩn trong Mẹ; hãy tin tưởng hoàn toàn vào TTVSM.
Các con yêu dấu, giờ đây các con mới hiểu tại sao Mẹ là ơn huệ quý báu nhất mà Cha trên trời đã ban cho các con. Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ là nơi trú ẩn an toàn nhất và là phương thế cứu rỗi Chúa ban cho Giáo Hội và nhân loại trong thời đại này. Chính sự can thiệp đặc biệt của TTVSM là công cuộc Mẹ đang thực hiện trong Giáo Hội hầu kêu gọi các Linh mục, những con cái yêu dấu của Mẹ hãy vào trú ẩn trong Mẹ. Các con thấy hiện nay Satan đã xâm nhập vào nội cung Giáo Hội làm sao? Nó lừa bịp, làm hủ hóa, và lôi cuốn biết bao con cái Linh mục đáng thương của Mẹ thế nào?
Vì thế, đây là giờ chính Mẹ sẽ đích thân can thiệp. Mẹ đã kêu gọi các con hãy tin cậy, phó thác hoàn toàn và tận hiến cho TTVS Mẹ. Mẹ đã mạc khai chương trình của Mẹ cho các con. Mẹ đã cho các con biết những khí giới Mẹ đã chọn cho cuộc chiến này.
Hỡi các con, giờ đây, Mẹ lại xác quyết với các con rằng: chỉ có Mẹ là Đấng chiến thắng"
(Trích sách Cùng Các Linh mục Con Cưng Của Mẹ) Số 88 ngày 8-12-1975
Tín điều Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội là một trong những tín điều khó chấp nhận nhất đối với những 8/12-61
Tín điều Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội là một trong những tín điều khó chấp nhận nhất đối với những người ngoài Công Giáo. Tín điều này bị hiểu lầm thường xuyên nhất, và nhiều khi bị lẫn lộn với việc Chúa Giêsu thụ thai đồng trinh. Có một số người coi đó là tôn vinh Ðức Maria lên bậc nữ thần. Những người khác lại cho là đi ngược lại với Thánh Kinh. Lại có người cho đó là học thuyết của loài người, vì ÐTC Piô IX công bố tín điều này gần đây trong năm 1854.
Vô Nhiễm Nguyên Tội
Vì Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tỳ nữ;
Vậy, từ nay, mọi đời sẽ gọi tôi là hồng phúc.
Vì Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại, Danh Người là Thánh!
Luca 1:48-49
Tín điều Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội là một trong những tín điều khó chấp nhận nhất đối với những người ngoài Công Giáo. Tín điều này bị hiểu lầm thường xuyên nhất, và nhiều khi bị lẫn lộn với việc Chúa Giêsu thụ thai đồng trinh. Có một số người coi đó là tôn vinh Ðức Maria lên bậc nữ thần. Những người khác lại cho là đi ngược lại với Thánh Kinh. Lại có người cho đó là học thuyết của loài người, vì ÐTC Piô IX công bố tín điều này gần đây trong năm 1854.
Theo Giáo Lý Công Giáo (GLCG):
"Qua nhiều thế kỷ Hội Thánh càng ngày càng nhận thức rằng Ðức Maria được Thiên Chúa ban cho ‘đầy ơn phúc’ (Lc 1:28), đã được cứu độ ngay từ giây phút Mẹ được thụ thai. Ðó là tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, như Ðức Giáo Hoàng Piô IX công bố năm 1854: ‘Ðức Trinh Nữ Maria, ngay từ giây phút thụ thai đầu tiên, bằng một ân sủng và đặc ân duy nhất của Thiên Chúa Toàn Năng, và nhờ công nghiệp của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ nhân loại, đã được bảo toàn khỏi bị nhiễm mọi vết nhơ của Tội Tổ Tông’" [GLCG 491].
Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên dưỡng tử của Ngài và thông phần vào sự sống đời đời (Rom 8:12-25). Ân sủng là sự trợ giúp nhưng không và vô điều kiện Thiên Chúa ban cho chúng ta để đáp lại lời mời gọi của Ngài (GLCG 1996; 1 Cor 15:10). Ðặc biệt là Ơn Thánh Hóa là một hồng ân Thiên Chúa ban làm cho linh hồn chúng ta nên hoàn thiện để chúng ta có thể ở với Ngài và hoạt động bởi tình yêu Ngài (GLCG 2000; Tit 3:7). Trái lại, tội lỗi, là sự chối bỏ Thiên Chúa và ơn gọi của Ngài qua việc chúng ta cố tình bất phục tùng (GLCG 386; Rom 6:11-23), trong khi đó Tội Tổ tông là sự mất Ơn Thánh Sủng vì tội Ađam (GLCG 396; Rom 5:12-21). Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội là một hồng ân đặc biết Thiên Chúa giữ gìn Mẹ khỏi tội Tổ Tông và khuynh hướng phạm tội. Ðức Mẹ luôn luôn có Ơn Thánh Sủng. Nhờ Ơn Thiên Chúa, suốt đời Mẹ không bao giờ phạm tội riêng (GLCG 439).
Một số Kitô hữu có thể cho rằng tín điều này làm cho Ðức Maria thành nữ thần. Những người này bằng cách nào đó đã lầm lẫn việc không có tội với thần tính. Ađam và Evà là loài người, nhưng không phạm tối gì cả trước khi sa ngã. Mỉa mai thay tội của Ađam là cố trở nên thần thánh (STK 3:5). Các thiên sứ ở trên Thiên Ðàng dù chỉ là tạo vật, nhưng cũng không có tội (2 Phr 2:4). Cũng thế, hồng ân Chúa ban cho Ðức Maria không làm cho Mẹ trở nên thần thánh, nhưng giúp Mẹ luôn đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa.
Có người khác lại cho rằng Ðức Maria, nếu thật sự không phạm tội, thì không cần đến Ðấng Cứu Chuộc. Thật sự trong kinh Ngợi Khen, Ðức Maria thú nhận rằng Thiên Chúa là Ðấng Cứu Ðộ Mẹ (Lc 1:47). Theo tín điều này thì Ðức Maria được cứu chuộc bằng sự áp dụng trước chứ không bằng ơn tha tội. Chúng ta được cứu độ nhờ ơn tha tội, vì chúng ta tội lỗi. Nhưng bằng cách áp dụng trước công nghiệp của Ðức Kitô, Thiên Chúa cứu Ðức Maria trước khi Mẹ sa vào vũng lầy tội lỗi. Thí dụ, một đứa trẻ có thể được cứu khỏi chết đuối sau khi ngã xuống hồ tắm. Nó cũng có thể được cứu khỏi chết đuối bằng cách được giữ lại trước khi rơi xuống hồ. Ơn Cứu Ðộ của chúng ta là "thuốc chữa bệnh," nhưng Ơn Cứu Ðộ của Mẹ giống như "thuốc ngừa." Mẹ luôn luôn được ngăn ngừa khỏi tội lỗi, ngay cả tội nhẹ (GLCG 493). Ðây là cách cứu độ hoàn hảo nhất.
Có người dùng câu "tất cả mọi người đều có tội" trong Roma 3:23 để chống lại tín điều này. "Tất cả" ở đây không nhất thiết phải gồm hết mọi người. Ðương nhiên là không kể Chúa Giêsu (1 Phr 2:22). Nếu không thì Roma 3:24 phải ám chỉ rằng tuyệt đối tất cả đều được nên công chính, kể cả những người không có đức tin, như thế thì Hỏa Ngục bị bỏ trống. Cũng trong đọan đó, Thánh Phaolô viết rằng "không ai công chính, không, không một ai" [Rom 3:10]. Nhưng ở những nơi khác ông Noe, Ðaniel, Gióp (Eze 14:14,20), Dacaria, và Êlidabeth (Lk 1:6) được nói là công chính. Thánh Phaolô không có ý nói rằng "tuyệt đối không có ai" mà nhấn mạnh tính cách phổ quát của tội lỗi cho cả người Do Thái lẫn Dân Ngoại. Dầu câu này áp dụng cho chúng ta, nó không áp dụng cho Chúa Giêsu hay Ðức Maria. Về một vấn đề liên quan đến việc Ðức Maria dâng "Lễ đền tội" trong Luca 2:24 để làm tròn Lề Luật. Nhiệm vụ này không chứng minh rằng Mẹ có tội, nhưng minh chứng đức vâng lời của Mẹ. Tương tự như thế, Chúa Giêsu đã đến nhận "phép rửa sám hối" của Thánh Gioan mặc dầu Người vô tội.
Câu Thánh Kinh chính đề ra giáo điều này là lời chào của Thiên Sứ Gabriel với Ðức Mẹ Maria:
"Kính Chào, Ðấng Ðầy Ơn Phúc (kecharitomene), Chúa ở cùng Bà" [ Luca 1:28].
Chữ Hy Lạp, kecharitomene, là động tính từ quá khứ thể thụ động của động từ charitoo của Hy Lạp, có nghĩa là ân sủng hay ân huệ. Thì quá khứ chỉ một việc đã hoàn thành hay viên mãn. Có thể được dịch là "được ân sủng hoàn toàn" hay "đầy sủng ái." Thánh Giêrônimô ở thế kỷ thứ tư dịch sang La Tinh là gratia plena, hat "đầy ơn phúc." Ngay một số Thánh Kinh Tin Lành dịch là "highly favored one - Ðấng được sủng ái nhất" (NIV &KJV). Trong câu này Thiên Sứ Gabriel thay vì chào Mẹ là "Chào Maria," lại chào là "Kính chào, Ðấng Ðầy Ơn Phúc." Thiên sứ Gabriel dùng động tính từ này như một danh xưng hay tước hiệu để gọi Mẹ. Trong TÐCV 6:8, Thánh Têphanô cũng được nói là "đầy ơn sủng - full of grace" theo bản RSV, nhưng câu này được dùng như một tĩnh từ, chứ không phải một tước hiệu. Ðức Maria được gọi là "Ðấng Ðầy Ơn Phúc," bao gồm cà Ơn Thánh Sủng. Ân sủng ngươc lại với tội lỗi (Rom 5:21). Câu này có thể không chứng minh tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, nhưng phải là một lời chào kỳ lạ. Nơi khác trong Thánh Kinh, bà Êlidabeth, qua sự linh hứng của Thánh Thần, đã tuyên xưng Ðức Maria:
"Em có phúc hơn mọi người nữ, và phúc thay người con em đang cưu mang." [Luca 1:42].
Trong sự song song thi vị này, hồng phúc Thiên Chúa ban co Ðức Maria được so sánh với hồng phúc trên Con Mẹ - người con Mẹ đang cưu mang. Chúa Giêsu có phúc trong bản tính nhân loại bởi không có tội (DT 4:15) ngay từ khi trong lòng Mẹ. Ðức Maria được Thiên Chúa chúc phúc như là Mẹ Con của Ngài và trong việc Mẹ được thoát khỏi tội lỗi.
Tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội được khai triển cách tiệm tiến qua nhiều kỷ nguyên. Có những chân lý của Thiên Chúa phải mất nhiều thời gian chúng ta mới hiểu đươc trọn vẹn. Sự khai triển này có thể được bắt nguồn từ Lời Thiên Chúa nói với con rắn:
"Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ, và giữa miêu duệ mi và miêu duệ bà; Người sẽ đạp giập đầu mi, và mi sẽ làm trầy gót chân Người" [STK 3:15].
Câu này được coi như lời hứa về Ðấng Cứu Ðộ. "Người" và "miêu duệ bà" nói về Ðức Kitô. "Người phụ nữ" chỉ bà Evà, nhưng áp dụng đúng hơn cho Ðức Maria (Ga 19:26). Cảnh Truyền Tin của Thánh Luca (Lc 1:26-38,42) có vẻ để đối chiếu với cảng Evà và con rắn (STK3:1-7): Maria đối lại với Evà, Gabriel đối lại với satan (KH 12:9) như là con rắn. Con trong lòng đối với trái cây. Trong Roma 5:14 và 1 Cor 15:44-49, Thánh Phaolô nhìn thấy Ðức Kitô như một Ađam mới. Cũng một cách ấy, Thánh Justin Tử Ðạo trong năm 155 sau CN đã thấy Ðức Maria như Evà Mới: "Vì Evà, là một trinh nữ không tỳ vết, đã mang thai lời của con rắn, sinh ra sự bất phục tùng và sự chết. Nhưng Trinh Nữ Maria đã nhận được đức tin và niềm vui... và bởi Mẹ, Chúa Giêsu được sinh ra." [Ðối thoại với Tryphô 100]. Thánh Irênê trong năm 190 trước CN đã viết: "Evà đã là ... căn nguyên của sự chết...; cho nên Ðức Maria cũng...trở nên căn nguyên của Ơn Cứu Ðộ, cho chính Mẹ và toàn thể nhân loại... Cái nút bất phục tùng của Evà đã được cởi ra bởi sự phục tùng của Ðức Maria. Bởi vì điều gì mà Evà cột chặt lại vì không tin, thì điều đó Ðức Trinh Nữ Maria đã giải thoát qua đức tin" [Chống Lạc Giáo III, 22:4).
Ðức Chúa Giêsu Kitô như một Ađam mới đã sửa lại tội của Ađam bằng Thánh Giá của Người, trong khi Ðức Maria như Evà Mới đã hủy bỏ tội bất phục tủng của Evà bằng cách xin vâng với Thiên Chúa (Lc 1:38). Khoảng năm 360, Thánh Ephraem người Syrialà người đầu tiên đã viết một cách rõ ràng về sự vô tội của Ðức Maria. Ngài thấy Ðức Maria như là một bản sao của Evà trước khi sa ngã: Mẹ "đã vô tội như Evà trước khi sa ngã, một trinh nữ xa cách nhất khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, thánh thiên hơn cả các Seraphim." Các Giáo Phụ Ðông Phương cũng gọi Ðức Maria là "Ðấng Hoàn Toàn Thánh Thiện" (Panagia) và tuyên xưng Mẹ: "không vướng mắc một vết nhơ tội lỗi nào, như là được tạo thành bởi Chúa Thánh Thần và được thành một tạo vật mới" [GLCG 493]. Tiếc thay có những kẻ đi quá xa như lạc giáo Pelagiô muốn dùng Ðức Maria để chứng minh "quan niệm vô tội"của họ. Ðiều này tạo nên những phản ứng tiêu cực.
Ở Ðông Phương, Lễ Ðức Maria chịu thai đã được cử hành từ thế kỷ thứ bảy. Ðến thế kỷ thứ 12, người ta đã công nhận cách rõ ràng là Ðức Maria, giống như Evà trước khi sa ngã, không vướng mắc tội lỗi, ngay cả trong giây phút đầu tiên của đời Mẹ, tức là khi thụ thai. Lời chào kỳ lạ của Thiên Sứ Gabriel (Lc 1:28) bắt đầu có ý nghĩa nhiều hơn. Thánh Bernađô và Thánh Thôma Aquina có những bất đồng về thần học, nhưng vào thế kỷ thứ 14, Gioan Duns Scôtô đã giải toả những sự bất đồng này. Sau cùng vào năm 1854, ÐTC Piô IX đã chính thức xác nhận niềm tin cổ thời này bằng ngôn từ chính xác.
Ðức Maria không vướng mắc tội lỗi nhờ một ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa chứ không vì Mẹ có công hay có quyền riêng. Dầu chúng ta có ý chí tự do, khuynh hướng tội lỗi làm cho chúng ta dễ phạm tội (Rom 7:15-25), trong khi ân huệ của Ðức Maria làm cho Mẹ hướng về Thiên Chúa. Giống như chúng ta, Mẹ cần Cứu Ðộ, nhưng Thiên Chúa Toàn Năng đã cứu Mẹ ngay khi thụ thai bằng việc áp dụng trước công nghiệp của Con Mẹ. Mẹ không cần phải không có tội vì Chúa Giêsu không có tội. Mẹ của Mẹ cũng không cần phải không có tội. Thiên Chúa Cha đơn thuần ban cho Ðức Maria một đặc ân làm Mẹ Con Một Ngài (Ga 1:14, 18). Ðối với Thiên Chúa không có gì là không thể được (Lc 1:37), Ngài là Ðấng không bị giới hạn bởi thời gian. Như tu sĩ Eadmer, người Anh, lý luận rằng: "Thiên Chúa có thể làm điều ấy; Thiên Chúa nên làm điều ấy; nên Thiên Chúa đã làm điều ấy."
GLV Phaolô Phạm Xuân Khôi
dịch từ: A Catholic Response, Inc., P.O. Box 84272 , Lincoln, NE 68501
Chiều thứ bảy ngày 2 tháng 12 năm 2006, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI chủ sự giờ kinh chiều I Chúa 8/12-62
Chiều thứ bảy ngày 2 tháng 12 năm 2006, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI chủ sự giờ kinh chiều I Chúa Nhật I Mùa Vọng và đã nhắn nhủ các tín hữu: “Mùa Vọng vang lên lời kêu gọi hãy tỉnh thức... Chúng ta bắt đầu Mùa Vọng mới này bằng tâm hồn tỉnh thức chờ đợi Thiên Chúa ngự đến. Trong đợi chờ này, chúng ta hãy để cho Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Thiên Chúa ngự đến, Mẹ của niềm hy vọng hướng dẫn chúng ta. Trong vài ngày nữa chúng ta mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa ban cho chúng ta được ơn sống trong tình trạng thánh thiện và không tỳ ố trong tình yêu, khi Chúa Giêsu, Chúa chúng ta ngự đến.”
Mừng trọng thể lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm vào đầu Mùa Vọng, chúng ta nghe vọng lên lời chào của sứ thần Gabriel: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” “Bà đẹp lòng Thiên Chúa.” (Lc 1:28.30) Lời kính chào “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng” bày tỏ cách thâm sâu mầu nhiệm Vô Nhiễm nơi Đức Mẹ.
Vào năm 1377, Đức Mẹ nói với thánh nữ Brigitta: “Đúng sự thật là Mẹ đầu thai vô nhiễm. Hỡi ái nữ của Mẹ, con hãy tin và thấy rằng những ai tin và tuyên xưng Mẹ đã được gìn giữ khỏi vết nhơ tội tổ là họ nghĩ đúng. Ai nghĩ ngược lại là sai, nhất là họ nghĩ càn rỡ.” Năm 1830, Đúc Mẹ dạy thánh nữ Catarina Labouré lời nguyện vắn tắt: “Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội, xin cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi chạy đến cùng Mẹ.”
Ngày 8 tháng 12 năm 1854, Đức Thánh Cha Piô IX công bố thông điệp “Ineffabilis Deus” và tuyên tín: “Với quyền của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô và của chính chúng tôi, chúng tôi minh xác, công bố và định tín rằng Đức Trinh Nữ hồng phúc Maria, ngay từ giây phút đầu tiên được thụ thai (trong lòng thân mẫu), do một ân sủng đặc biệt của Thiên Chúa dành riêng cho Người, nhờ công đức của Chúa Giêsu Kitô Đấng cứu độ nhân loại, đã được giữ gìn khỏi mọi tì ố của nguyên tội: đó là một giáo lý do Thiên Chúa mặc khải và mọi tín hữu phải tuyên xưng niềm tín ấy.”
Đức Thánh Cha công bố Đức Mẹ ngay từ phút đầu tiên được thụ thai đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ, Đức Mẹ được tràn đầy ân sủng, Mẹ luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa cách hoàn hảo và suốt đời Mẹ không bao giờ có một giây phút nào Mẹ sống xa lìa Chúa.
Sau bốn năm, vào năm 1858, Đức Mẹ hiện ra với thánh nữ Bernadetta ở Lộ Đức, miền nam nước Pháp, Mẹ xưng mình “Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội”, xác nhận điều tuyên tín của Đức Piô IX.
Mầu nhiệm Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội là kết quả tràn đầy viên mãn của ơn cứu độ mà Chúa Kitô mang đến cho Mẹ để Mẹ “làm Mẹ Đấng Cứu Thế.” Hồng ân Vô nhiễm như được tóm tắt trong kinh tiền tụng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm: “Chúa đã gìn giữ Đức Trinh Nữ Maria rất thánh khỏi mọi vết nhơ nguyên tội, để chọn Người đầy ơn phúc xứng đáng làm Mẹ Con Chúa, và chỉ cho chúng ta thấy nơi Người là khởi điểm Hội Thánh xinh đẹp, không vết nhăn, là bạn Con Chúa.”
Lạy Mẹ là kỳ công tuyệt diệu của Thiên Chúa, là thành quả trọng đại công trình sáng tạo của Đấng Toàn Năng. Mẹ tiếp nhận nơi cung lòng trinh khiết rất thánh của Mẹ Con Đấng Tối Cao. Nơi Mẹ, không hề có bóng dáng tội lỗi, Mẹ thật là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội. Ôi Mẹ rất tốt lành, thánh thiện, rất dịu hiền trìu mến, Me không bỏ rơi ai, cho dầu loài người chúng con vô ơn tệ bạc, Mẹ vẫn cầu xin lòng Thương xót của Chúa cho chúng con. Xin chúc tụng và tôn vinh “Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội.” “Ai có thể hiểu được Mẹ Maria ân cần chăm sóc chúng ta thế nào không? Mẹ rộng mở tấm lòng ái tuất ra đón nhận toàn thể nhân loại, trao tặng và cấp phát cho nhân loại tình thương lai láng của Mẹ” (Thánh Antôninô)
Trước tước hiệu cao quý tuyệt vời: Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng ta thường có những 8/12-63
Trước tước hiệu cao quý tuyệt vời: Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng ta thường có những suy tư khá khác nhau.
Cao Rao:
Với Đức Giêsu, hầu hết được khai mở một lối sống đạo, hoặc ngay từ nhỏ ê a những bài giáo lý thuộc lòng, hoặc người lớn chập chững học hỏi để bước vào đời sống đạo Kitô giáo, có lẽ đều được hướng dẫn theo chiều kích tôn thờ kê bệ trên cao, dâng lên những "thành tích" con người phấn đấu thực hiện được để làm đẹp lòng Ngài, cao rao bằng những lời kinh tiếng hát dài hơi khản cổ hơn là... Và cứ như thế đã tạo nên cả một nếp sống đạo, một bầu khí thánh thiêng là tôn thờ, cung kính, khép nép, dâng lên... Như một ông vua ngày xưa, thần dân thấp bé chẳng bao giờ dám nghĩ tới được gặp gỡ, được tiếp cận gần gũi thân tình, mơ cũng chẳng dám... Đời sống đạo có mấy ai dám chìm vào trong thinh lặng để suy niệm về chiều kích thân phận con người của Đức Kitô, một Thiên Chúa làm người. Ngài cũng bị bế tắc, cũng giới hạn, cũng đau khổ, cũng đói khát, cũng mất mát thua thiệt, cũng bị coi thường xua đuổi, bị bêu riếu, trần trụi... rất gần với con người, ở ngay bên, ở trong lòng (Rm 10,8) Để rồi từ đó con người khám phá ra được cái nền tảng mà Thiên Chúa-Người đó thanh thản sống được và vượt qua được. Cái nền tảng đó là Thiên Chúa-Người thật tròn vo nơi Đức Kitô.
Với Mẹ Maria cũng vậy. Những lời kinh, những bài hát, những vần thơ cao rao Mẹ làm cho Mẹ trở thành siêu nhân, rất xa vời cuộc sống con người bình thường. Những lời cao rao không có gì là sai trái cả nhưng có thể vì chỉ lo cao rao nên quên mất chiều kích làm người của Mẹ. Mẹ cũng gặp nhiều khó khăn đau thương, lòng dạ của Mẹ có những lúc cũng tan nát, Mẹ cũng bị giới hạn bế tắc trong thân phận làm người của Mẹ, Mẹ cũng có những chương trình tính toán riêng của Mẹ... Để từ đó, chúng ta nhận ra hành trình chúng ta bước đi không đơn độc một mình mà có Chúa và Mẹ Maria cũng đã đi và đang cùng đi. Hành trình của Mẹ bước đi vững vàng, bởi Chúa với Mẹ hay Mẹ với Chúa cũng "tròn vo".
Bắt Chước:
Thiên Chúa đã hạ sinh mỗi người giống như đã hạ sinh Con Một của Người và mỗi người đều có cái độc đáo riêng, nét riêng mà không ai giống ai. Vậy thì ai phải bắt chước ai cơ chứ ? Đời này họ thích bắt chước nhau, bắt chước các cử chỉ điệu bộ ăn mặc tóc tai của những minh tinh màn bạc, những ca sĩ tên tuổi... nhất là tạo được hình dáng thân mình nét mặt nên giông giống những thần tượng thì thật là diễm phúc. Có người bạo mồm nói rằng nếu chỉ bắt chước rập khuôn y trang thì có gì khác con khỉ đâu ? Nếu chúng ta có đọc thấy trong những bản văn của thánh Phaolô, chúng ta cũng sẽ gặp thấy nhiều câu ngài khuyến khích dân chúng "bắt chước" Đức Kitô hay "bắt chước" ngài như 1 Cr 11,1 ; 4,14 ; Pl 3,17 ; 2 Tx 3,7.... Ở đây, bắt chước Đức Kitô phải hiểu là nên một với Ngài, nên đồng hình đồng dạng với Ngài, tương quan với Ngài... bắt chước thánh Phaolô đó là sống với, sống cùng Đức Kitô y như thánh Phaolô đã sống như vậy.
Do đó những ai đã gặp gỡ, đã sống nên một trong Đức Kitô, đã sống tròn vo với Ngài... thì Đức Kitô đều làm nổi bật lên cái độc đáo cho riêng người ấy. Trong tự nhiên, thì mỗi người cũng có cái độc đáo riêng mình nhưng nếu không khéo thì cái độc đáo đó luôn làm khổ người khác. Như có những ông anh rất thân sống ngay bên cạnh, ông này có cái độc đáo của riêng ông là hay cau có nhăn nhó, kêu ca, phàn nàn, mặc cảm... mở miệng ra là sặc mùi bất mãn ; ông kia thì độc đoán, gặp khác ý là cả vú lấp miệng em, trợn mắt gào thét ầm ĩ để khủng bố tinh thần đối phương !
Khi tôi biết được cái độc đáo của người khác cộng với tình yêu của Đức Kitô trong tôi thì tôi có thể tôn trọng và đón nhận được cái độc đáo ấy. Thí dụ như chị Têrêsa, ngồi bên cạnh một chị trong nhà nguyện, chị ta luôn rung đùi, gõ ghế... nếu người bình thường tự nhiên thì rất khó chịu nhưng chị Têrêsa, trong tình yêu Chúa Kitô, chị đã biến đổi cái độc đáo của chị ngồi bên cạnh thành những tiếng... nhạc du dương. Còn nếu như tôi không nhận ra đó là cái độc đáo của họ thì tôi sẽ rất khó chấp nhặt họ, bắt họ phải sửa đổi ngay, phải từ bỏ tức thì, không thì lúc nào cũng bực mình, gây xung đột, đối kháng họ... Kinh nghiệm cho tôi thấy, trong tự nhiên tôi cũng có cái độc đáo của riêng tôi. Không những độc đáo mà còn là siêu độc đáo nữa cớ đấy ! Nhưng để thay đổi được cái độc đáo của riêng mình thì chẳng dễ dàng chút nào, bởi chẳng bao giờ nhận ra, chẳng biết mình sai trái đâu vì chỉ thấy mình đúng lý và hợp lý thôi. Nếu có ai góp ý cho thì phản ứng trước tiên là đỏ bừng mặt, ngoác mồm ra bênh vực bào chữa mình trước đã và sau là chống chế lại người góp ý cho mình. Nếu trong đời có những giây phút khiêm nhường nhìn nhận ra con người độc đáo của mình rồi bình thường là lấy sức mình ra mà quyết tâm từ bỏ... Thế nhưng kinh nghiệm cho thấy cái quyết tâm đó cũng chẳng bền, bởi một thời gian thôi cũng sẽ cảm thấy mình chẳng khá lên được, rồi đâm ra chán nản và buông xuôi thất vọng với chính mình. Chạy trốn vào cái "ngổng ngang" cố chấp bởi cái tôi độc đáo ấy lúc nào cũng to đùng!
Do đó, cái độc đáo thô kệch của tôi chỉ một mình Đức Kitô, Ngài biến đổi thành cái rất riêng cho cuộc sống, trở thành cái độc đáo của tôi mà tôi không cần phải bắt chước ai. Được như vậy bởi vì Ngài đã làm cho giữa tôi với Ngài, Ngài với tôi trở nên tròn trĩnh.
Thiên Chúa ở với Mẹ:
Đây là nền tảng rất quan trọng bởi một khi con người khám phá ra, tức khắc con người sẽ cảm nhận niềm vui và hạnh phúc thật lớn lao. Trong tuần qua những lời Ngôn sứ Isaia đã nói, đã phác họa một bức tranh tuyệt đẹp. Nào là:
Thứ Nhất "Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến"
Thứ nhì: "Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau..."
Thứ ba: "Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế"
Thứ tư: vân vân và vân vân...
Mặc dù vị ngôn sứ muốn nói về ngày Dân Chúa trở về sau cuộc lưu đày khổ sở, nhưng chỉ đúng thật khi Đấng Cứu Tinh đến gặp gỡ con người và giải thoát con người bằng Tình Yêu độc đáo, thế mà tại sao thế giới con người vẫn chém giết nhau, vẫn hủy hoại nhau bằng súng đạn, vẫn đầy dẫy những bất công....
Hình ảnh ngôn sứ Isaia phác họa lên có phải chỉ có được trong ngày Đức Kitô vinh quang xuất hiện lần thứ hai mà con người bao đời rồi đã phải chờ đợi dài cả cổ ? Không đâu, bởi khi con người sống mùa vọng trong đời, đó là lòng khao khát mong mỏi lên đường kiếm tìm cho đến khi Đức Giêsu được sinh ra (nhận ra) trong đáy thẳm sâu cõi lòng thì tất cả những gì ngôn sứ Isaia đã nói đều được thực hiện nơi người ấy. Và ngày Vinh Quang của Đức Kitô đến lần thứ hai đã bắt đầu từ hôm nay cho người ấy. Vâng, lời chào của Thiên sứ: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà" trong ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, lại nhắc nhở cho tôi thâm tín rằng "Sự hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong Triều Đại Người". Một thế giới hòa bình, yêu thương, vui tươi, hạnh phúc... luôn ở chung quanh Mẹ. Rõ ràng nhất, đó là cuộc viếng thăm bà Elisabét.
Thiên Chúa luôn thực hiện những điều tốt đẹp cho con người và cho từng người, để họ trở nên một tạo vật mới, thật độc đáo. Có đúng vậy không, thưa Mẹ Maria yêu mến của chúng con ?
Từ thế kỷ thứ VIII, bên Giáo hội Đông Phương đã mừng lễ “Thánh Anna thụ thai, mẹ của Theotokos 8/12-64
Từ thế kỷ thứ VIII, bên Giáo hội Đông Phương đã mừng lễ “Thánh Anna thụ thai, mẹ của Theotokos (Mẹ Thiên Chúa)” vào ngày 9 tháng 12 hàng năm. Ý nghĩa lễ này dựa vào Ngụy Thư “Tiền Tin Mừng của thánh Giacôbê”. Bà Anna sau một thời gian dài son sẻ đã được thiên thần báo tin thụ thai như dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa. Ý lễ được lan qua Tây phương nhất là tại Ý, Ái Nhĩ Lan và Anh thành lễ “Đức Maria thụ thai”. Tại thành Naples (Ý) vào thế kỷ thứ IX, ngày lễ được khắc vào lịch bằng đá hoa cương. Và năm 1050, Đức Giáo Hoàng Léon IX huấn dụ các tín hữu mừng kính Đức Trinh nữ thụ thai như Giáo Hội Đông phương đã làm.
Cho đến thế kỷ thứ XII, những vị thánh như Albert Cả, Bonaventura, Tôma d’Aquin cũng cho rằng vì Đức Maria thừa kế di nghiệp Ađam nên vướng mắc nguyên tội, nhưng Mẹ được thánh hóa ngay từ trong thai mẫu.
Tuy vậy, vấn đề vẫn còn gây tranh cãi cho đến thế kỷ XIII. Một thần học gia lỗi lạc dòng Phanxicô là Duns Scott (1308) đã nghĩ ra một lối giải thích độc đáo bênh vực Đức Maria đã được sung mãn ân sủng ngay từ giây phút đầu tiên cuộc đời. Tác giả minh chứng đặc ân vô nhiễm tuyệt đối gìn giữ Đức Maria khỏi mọi tội lỗi kể cả nguyên tội không hề đi trệch ra ngoài trật tự ơn cứu chuộc, mà còn là thành quả vinh quang nhất trong công trình cứu độ của Chúa Kitô.
Đến thời Công đồng họp tại thành Bâle (Thụy sĩ) năm 1439 cũng đồng ý về vấn đề Đức Maria Vô Nhiễm, và mãi tới thời Đức Giáo Hoàng Piô IX, mới công bố ý tưởng Đức Maria Vô Nhiễm nguyên tội thành tín điều vào ngày 8 tháng 12 năm 1854 trong thông điệp Ineffabilis Deus: “Ta tuyên xưng, công bố và xác quyết rằng tín điều này đã được Thiên Chúa mặc khải và vì thế phải được mọi tín hữu tin nhận cách chắc chắn, không được rút lại. Cụ thể, tín điều này xác quyết rằng Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria ngay từ giây phút đầu tiên được tượng thai – nhờ ân ban và đặc sủng vô song Thiên Chúa toàn năng ban cho và nhờ công trạng của Đức Giêsu Kitô – đã được gìn giữ khỏi mọi vương vấn nguyên tội”.
Một người bạn thân của tôi, rất tin tưởng vào Thiên Chúa nhưng dường như không mấy chú ý đến 8/12-65
Một người bạn thân của tôi, rất tin tưởng vào Thiên Chúa nhưng dường như không mấy chú ý đến huấn quyền của Hội Thánh, có lần nói với tôi: “Tại sao lại phải tin Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội? Khi người ta có mẹ, thì dù người mẹ thế nào vẫn là mẹ”. Tôi im lặng không nói gì, vì khi con người đã không tin và không muốn hiểu, nhất là người trí thức, thì việc tranh luận sẽ vô ích. Thật ra, tín điều Mẹ Vô Nhiễm cũng như các tín điều trong Hội Thánh, không phải là gánh nặng để ta phải từ chối hay kịch liệt phản đối. Chỉ nguyên việc suy ngắm mầu nhiệm này, chúng ta cũng đã thấy lòng tràn ngập an vui và hy vọng. Như vậy, các tín điều tự bản chất là hồng ân cho nhân loại.
Trong một xã hội khi mà mọi giá trị luân lý chao đảo và khi người ta muốn tự do tung hoành trong cơn lốc của mọi thứ dễ dãi phù phiếm, người ta dễ dị ứng với những giá trị vĩnh cửu. Đó là lý do tại sao tôn giáo bị từ chối. Thời học sinh, chúng tôi được học giáo lý qua cuốn “Giải Quyết Vấn Đề Nhân Sinh”. Trong ấy có một câu rất hay mà tôi không nhớ của tác giả nào, đại ý rằng đa phần người ta mất đức tin chỉ vì đời sống luân lý buông thả. Và như thế, chúng ta hiểu rằng nếu chúng ta tin và giữ những tín điều, những ràng buộc “nhẹ nhàng và êm ái” (cf. 11,30), thì Hội Thánh thật là gia đình êm ấm và bình an nhất. Trong gia đình ấy, chúng ta có người Mẹ tuyệt hảo. Tôi đồng ý với anh bạn tôi ở chỗ khi ta có mẹ thì đã là hạnh phúc. Dù mẹ đẹp hay xấu, tốt hay không, thì mẹ vẫn là mẹ ta, và ta đã hạnh phúc. Nhưng anh ấy đã quên rằng nếu mẹ đẹp, mẹ tốt, mẹ nhân từ và mẹ tuyệt vời, thì ta bình an hơn, tin tưởng hơn, yêu mến hơn và tự hào hơn nhiều. Mẹ Vô Nhiễm chính là niềm hy vọng cho thế giới đang lung lay, niềm cậy trông cho thế giới nhiều hư hỏng, niềm khích lệ lớn lao cho những tâm hồn đang khó khăn vượt gian khó trên đời để tìm về với Đấng Tạo Thành.
Viết bài này, tôi không có ý định dùng Lời Thánh Kinh để chứng minh Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, vì chắc chắn tôi sẽ không làm cho đầy đủ được. Điều ấy các nhà thần học đã làm và đã thành công, cho nên Giáo Hội mới long trọng công bố tín điều. Thế nhưng, Lời Thiên Chúa phán cùng con rắn trong Vườn Địa Đàng ngày trước không thể nào biến khỏi tâm trí khi tôi suy nghĩ về Mẹ: “Người Phụ Nữ ấy sẽ đạp nát đầu ngươi”. Một lời tuyên hứa và cũng là lời tuyên phạt. Tuyên hứa cho ơn cứu độ và tuyên phạt phường kiêu căng giả dối. Ngày Mẹ hiện ra với thánh nữ Benadette ở hang đá xứ Lourdre năm 1858, Mẹ tự xưng “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”, minh chứng cho tín điều Đức Thánh Cha Piô IX đã long trọng công bố bốn năm trước đó (ngày 8 tháng 12 năm 1854). Nhưng giả sử không đọc Kinh Thánh, giả sử không nghe tuyên bố tín điều, thì có lẽ dân Chúa qua muôn thế hệ cũng sẽ kiên trung tin vững vàng Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, bởi vì Thánh Thần Thiên Chúa luôn là ánh sáng cho tâm trí con người trước những thực tại thần linh. Trần Ngọc Mười Hai, trong tác phẩm “Chuyện Phiếm Đạo Đời II”, trích dẫn lời một thiền sư Phật giáo: “Đạt tới Thiên Chúa ngang qua Đức Thánh Thần của Ngài, bao giờ cũng an toàn hơn đi vào thần học”. Một nhà sư còn hiểu được điều ấy, tại sao? Chính là nhờ sự hoạt động không ngừng nghỉ của Thiên Chúa Ngôi Ba, Đấng đã dùng quyền năng để Ngôi Lời nhập thể.
Nhạc sĩ Hải Linh thật tài tình khi khiến “bao tâm hồn thao thức”, “dân con đất Việt thao thức” khi hoà ca Kính Mừng Nữ Vương, và tất cả đều xúc động khi bản hoà ca chợt trầm và êm dịu lại: “Mẹ chẳng vướng tội truyền. Bông huệ ngát hương thiêng” (Kính Mừng Nữ Vương). Chúng ta dám quả quyết rằng tâm tình thao thức ấy và nao nức ấy sẽ mãi mãi đi cùng con của Mẹ mỗi lần họ ngắm suy hồng ân Mẹ Vô Nhiễm.
Mừng kính Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội là mừng những hồng ân Chúa ban cho Mẹ, và qua Mẹ, Chúa ban cho đoàn dân lữ hành trong sa mạc cuộc đời. Ngày xưa Maisen giương cao con rắn đồng để dân Israel lữ hành được cứu. Ngày nay nhờ Đấng Vô Nhiễm chấp nhận thụ thai, sinh hạ Con Thiên Chúa làm người và chấp nhận dâng chính Con mình mà đoàn dân mới được cứu độ. Trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, không thiếu những con người muốn hạ thấp uy quyền và sự cao sang của Mẹ, không thiếu những con người dù tin Chúa Giêsu vẫn muốn coi Mẹ là người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác. Và khủng khiếp hơn, có nhiều người chống lại Mẹ, xúc phạm đến Mẹ, đập phá tượng ảnh Mẹ… Đối với Mẹ, những điều ấy chẳng làm cho vinh quang của Mẹ vơi đi. Nhưng đối với những kẻ “giơ chân đạp mũi nhọn”, phạm tội khi quân với Nữ Vương của cả trời và đất, thì những hành vi rồ dại và ngông cuồng ấy là sự từ chối rõ ràng những ơn huệ và phúc lộc cho chính họ. Mẹ nhân từ, nhưng sự công thẳng của Thiên Chúa chắc chắn không bỏ qua những hành vi và thái độ của loài hèn kém mà muốn đội vương miện của thần linh. Trái lại, những người con dũng cảm chấp nhận đau khổ và hàm oan trên cõi trần này ngay trong ngày của Mẹ, chắc chắn Mẹ sẽ ra tay nâng đỡ và bênh vực. Có sự nâng đỡ và bênh vực nào tuyệt vời hơn là sự nâng đỡ và bênh vực của Mẹ Chúa Trời?
Lạy Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con ca ngợi Mẹ và cùng Mẹ, chúng con ca ngợi và tạ ơn Chúa vì lòng nhân hậu của Ngài. Xin Mẹ dạy chúng con luôn “làm theo những điều Ngài chỉ bảo” (Ga. 2,5). Và xin Mẹ cứu giúp những anh chị em chúng con đang gặp điều oan trái, đau khổ hôm nay.
Vào tháng 11 năm 1848, các cuộc cách mạng bạo động sôi sục diễn ra trên khắp Âu Châu cuối cùng 8/12-66
Vào tháng 11 năm 1848, các cuộc cách mạng bạo động sôi sục diễn ra trên khắp Âu Châu cuối cùng đã lan tràn tới Rome. Những người quá khích đã ám sát thống đốc tiểu bang và bao vây Toà Thánh. Ðức Thánh Cha Piô 9 phải thoát đi lánh nạn ở Ghêta, thuộc vương quốc Naples.
Ba tháng sau đó, ngay trong khi còn đang phải đi tị nạn, Ðức Piô 9 đã gửi cho tất cả các Giám Mục trên khắp thế giới một bức thư tựa đề Ubi Primum. Điều đáng ngạc nhiên là Đức Piô đã không dùng lá thư để nói đến việc ngài đi tị nạn hoặc những khủng hoảng chính trị và xã hội đang đe dọa Giáo Hội, nhưng là để mời tất cả các Giám Mục cùng cầu nguyện và góp ý với ngài trong việc công bố tín điều Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Chọn thời điểm này để công bố một tín điều quan trọng, Đức Piô 9 đã chứng tỏ rằng Giáo Hội không hề bị lay chuyển bởi những xáo trộn chính trị và những khủng hoảng xã hội.
Nhờ lòng sùng kính Đức Mẹ một cách đặc biệt, ngài đã đem Giáo Hội đi từ những lo âu đến vui mừng.
Đức Thánh Cha Piô 9 viết: "Đức Maria đã luôn luôn che chở các tín hữu khỏi những hoạn nạn lớn lao nhất, khỏi những cạm bẫy và tấn công của kẻ thù, đã cứu vớt họ khỏi mọi đổ vỡ.
Và tương tự như vậy, trong tình hình hiện tại, Đức Mẹ mong muốn ngăn cản và xoá tan mọi bão tố hiểm nguy của ác thần đang chống phá Giáo Hội."
Trải qua nhiều thế hệ, qua nhiều bàn luận có khi rất gay go sôi nổi trong Giáo Hội, niềm tin nơi sự vô nhiễm nguyên tội của Đức Mẹ vào thời gian đó đã trở nên hiển nhiên. Chẳng hạn, trước đó ngay tại Mỹ vào năm 1846, các Đức Giám Mục đã nhận Đức Mẹ Vô Nhiễm là bổn mạng của quốc gia Hoa Kỳ. Vì thế đối với Đức Piô 9, trên phương diện đức tin, thời điểm để công bố tín điều quan trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đã chín mùi.
Trong khi đó tại Âu Châu, các cuộc cách mạng ý thức hệ, các ảnh hưởng gia tăng của chủ thuyết vô thần, sự tôn thờ khoa học và vật chất đã liên tục gây ra những khủng hoảng lớn liên tiếp xảy ra từ Paris qua Frankfurt, Vienna, Budapest và Rome. Do đó tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm đã chẳng được chú ý đến. Tuy nhiên, Đức Piô vững lòng tin nơi một sức mạnh âm thầm nhưng rất mạnh mẽ đang che chở Giáo Hội, dựa vào một sự kiện mà ngài đã biết, là vào năm 1830, một nữ tu trẻ ở Paris đã được diện kiến Đức Maria.
Đức Trinh Nữ hiện ra đầu mang vương miện và mặc áo trắng tuyền, đứng trên quả địa cầu, chân đạp trên đầu con rắn. Một vòng sáng hình bầu dục bao quanh Trinh Nữ, trên đó có hàng chữ "Lạy Mẹ Maria tinh tuyền lúc thụ thai, cầu cho chúng con là những người chạy đến xin Mẹ che chở."
Nữ tu, mà sau này trở thành thánh nữ Catherine Labouré, đã nghe trong lòng một lời chỉ bảo hãy làm mẫu ảnh dựa trên những gì đã được diện kiến.
Đức Piô rất tôn kính mẫu ảnh này và lòng tôn kính đó đã thúc đẩy ngài khi thảo bức thư cho các giám mục như đã nêu trên. Mẫu ảnh đó đúng là một hào quang huy hoàng nổi bật giữa những tăm tối đang đe dọa Giáo Hội.
Đức Maria đã tỏ mình ra ứng nghiệm với tất cả những điều đã được viết về Mẹ trong Kinh Thánh: một Evà mới trong sách Sáng Thế Ký và một Hoàng Hậu trong sách Khải Huyền, nghĩa là từ đầu cho đến cuối của toàn bộ Kinh Thánh.
Đức thánh cha Piô 9 trở lại Rome vào năm 1850 với lòng cảm tạ Đức Mẹ đã che chở Giáo Hội trong những sóng gió vừa qua. Ngài bắt tay ngay vào việc soạn thảo tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, sau khi được các Đức Giám Mục nồng nhiệt phúc đáp thư của ngài. Đã có tổng cộng 603 giám mục ưng thuận và chỉ có 4 vị không đồng ý.
Bốn năm sau đó, vào ngày 8 tháng 12, 1854 cùng với sự hiện diện của các giám mục trên thế giới, Đức Thánh Cha Piô 9 đã chính thức công bố niềm tin của Giáo Hội nơi việc Thiên Chúa đã tạo sinh Đức Mẹ tinh tuyền, vô nhiễm nguyên tội.
Ngày nay giữa một thế giới khủng hoảng lan tràn vì sa đoạ và chiến tranh hận thù, tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội là niềm hy vọng của nhân loại.
Đức cha Fulton Sheen nói: "Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội được công bố vào thời điểm mà thế giới văn minh đang mù quáng chạy theo những thần tượng đối nghịch. Karl Marx cho ra đời chủ thuyết cộng sản vô thần và đấu tranh giai cấp; Darwin phổ biến thuyết tiến hóa, theo đó con người bắt nguồn từ loài vật, và John Stuart Mill chủ trương một quan niệm cực đoan về quyền lợi cá nhân. Những chủ thuyết này có cùng một ước vọng muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi niềm tin của nhân loại, cho rằng con người không cần đến Thiên Chúa. Họ phủ nhận tội tổ tông và cho rằng con người tự mình có khả năng trở nên toàn thiện.
Đức cha Fulton Sheen kết luận rằng: "Nói cách khác, con người tự vỗ ngực cho rằng họ tất cả đều vô nhiễm nguyên tội". Trong những ngày đi tị nạn, Ðức Piô đã thấy trước chiều hướng nguy hiểm này. Do đó khi soạn thảo tín điều Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngài muốn soạn một hiến chương mới cho thế giới, để kháng cự lại những tà thần của thời đại.
Tín điều Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội luôn nhắc nhở chúng ta về sự nguy hiểm của ma quỉ và tội lỗi, đồng thời cũng cho ta một hy vọng, một lời hứa là chúng ta được che chở và bảo vệ.
Tín điều Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đã khởi sự một thế kỷ mới trong việc kính mến và tôn sùng Ðức Trinh Nữ Maria, mà cao điểm là việc công bố tín điều Ðức Mẹ Hồn Xác lên Trời vào năm 1950. Hai tín điều thật quan trọng: tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội khởi đầu và tín điều Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời kết thúc cuộc đời Ðức Mẹ ở trần gian. Qua hai tín điều này Giáo Hội nhắn nhủ chúng ta nhìn vào gương của Ðức Mẹ để nhận ra ý nghĩa và cùng đích của cuộc đời. Nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta được cứu khỏi tội lỗi, được thánh hóa, được ban cho khả năng biết yêu mến và được hứa cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu.
Sau cùng, chính Ðức Mẹ là người đã xác tín với chúng ta về tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội. Ðầu năm 1858, tức là chỉ 4 năm sau khi tín điều được công bố, Bernadette một cô gái quê mùa và thất học tại Lộ Ðức, một làng nhỏ nơi miền núi Pyréné bên Pháp đã được diện kiến Ðức Mẹ. Khi được Bernadette hỏi tên, Ðức Mẹ mỉm cười trả lời: "Ta là Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.”
Khi Đức Mẹ hiện ra lần thứ mười bốn vào ngày 3-3-1858, sau khi lần Chuỗi Mân Côi, Bernadette 8/12-67
Khi Đức Mẹ hiện ra lần thứ mười bốn vào ngày 3-3-1858, sau khi lần Chuỗi Mân Côi, Bernadette thay mặt Lm Peyramale hỏi Đức Mẹ tên gì. Đức Mẹ chỉ tươi cười. Đến ngày 25-3, lễ Truyền Tin, Bernadette cho biết: “Đã ba lần tôi hỏi bà là ai. Bà chỉ mỉm cười thôi. Tôi lại hỏi lần nữa. Lần này Bà ngước mắt lên trời, chắp tay như cầu nguyện, và nói: Ta là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.”
Vô nhiễm Nguyên tội. Danh xưng tuyệt vời biết bao! Bernadette không thể biết rằng “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là tín điều sẽ được ĐGH Piô IX tuyên bố vào 4 năm sau đó! Bernadette cố gắng ghi nhớ từ ngữ “Vô Nhiễm Nguyên Tội” nên cứ lặp đi lặp lại để về nói với Lm Peyramale. Lần này, Lm Peyramale đã tin. Ngài xúc động vì sự giản dị và khiêm nhường của Bernadette. Lm Peyramale nói: “Bụi hoa hồng không trổ bông, nhưng nước đã vọt lên.”
VÔ NHIỄM LÀ GÌ?
Một số học thuyết của Giáo hội Công giáo bị hiểu lầm là tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội. Nhiều người, kể cả người Công giáo, nghĩ rằng học thuyết đó nói đến việc thụ thai Đức Kitô qua tác động của Chúa Thánh Thần trong cung lòng Trinh Nữ Maria. Sự kiện đó được mừng kính trong lễ Truyền Tin (ngày 25-3, trước lễ Giáng Sinh 9 tháng).
Vô Nhiễm nói đến tình trạng Đức Mẹ không mắc Nguyên Tội ngay từ lúc Đức Mẹ được thụ thai trong lòng người mẹ, thánh Anna. Chúng ta mừng lễ Sinh Nhật Đức Mẹ vào ngày 8-9, nghĩa là 9 tháng trước ngày 8-12 (lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm).
LM John Hardon, S.J. (Dòng Tên), trong cuốn Từ điển Công giáo Hiện đại (Modern Catholic Dictionary), ngài nói: “Không phải các Giáo phụ Hy Lạp hoặc Latin dạy rõ ràng về Vô Nhiễm Nguyên Tội, mà các ngài bày tỏ điều đó một cách mặc nhiên.” Phải mất nhiều thế kỷ để Giáo hội Công giáo nhận biết đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội là tín điều, và mãi đến ngày 8-12-1854 ĐGH Piô IX mới tuyên bố đó là tín điều.
Trong Hiến chế “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa bất khả ngộ), ĐGH Piô IX viết: “Chúng tôi công bố và xác nhận rằng tín điều về Đức Maria, ngay lúc được thụ thai, nhờ đặc ân và đặc quyền của Thiên Chúa Toàn năng, vì công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ nhân loại, được giữ không mắc Nguyên Tội, là tín điều được Thiên Chúa mạc khải, và vì thế mỗi tín hữu phải luôn tin vững vàng.”
LM Hardon viết thêm: “Đức Mẹ không mắc Nguyên Tội là một tặng phẩm hoặc một đặc ân của Thiên Chúa, một ngoại trừ hoặc một đặc ân, điều mà không một thụ tạo nào có được.”
KHÁI NIỆM SAI LẦM VỀ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
Một khái niệm sai lầm khác là ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria cần thiết để bảo đảm rằng Nguyên Tội không bị truyền qua Đức Kitô. Điều này không là một phần trong giáo huấn về Vô Nhiễm Nguyên Tội. Hơn nữa, ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội thể hiện Ơn Cứu Độ của Đức Kitô hoạt động nơi Mẹ Maria khi đồng công cứu chuộc nhân loại và trong sự tiên liệu của Thiên Chúa đối với sự chấp nhận Ý Chúa nơi Đức Mẹ.
Nói cách khác, Vô Nhiễm Nguyên Tội không là điều kiện tiên quyết để công cuộc cứu độ của Đức Kitô mà là kết quả của Ơn Cứu Độ. Đó là cách giải thích cụ thể về Tình Yêu Thiên Chúa dành cho Đức Maria, vì Đức Mẹ hiến dâng trọn vẹn, đầy đủ, không chút do dự khi tuân phục Thánh Ý Chúa.
LỊCH SỬ Lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội có dạng cổ xưa nhất, trở lại từ thế kỷ VII, khi các Giáo hội Đông phương bắt đầu mừng lễ Sinh Nhật Đức Mẹ. Nói cách khác, lễ này mừng Đức Mẹ được thụ thai trong lòng Thánh Anna.
Tuy nhiên, lễ Sinh Nhật Đức Mẹ không được hiểu như lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Giáo hội Công giáo ngày nay, dù Giáo hội Chính thống Đông phương vẫn mừng. Lễ này đến Tây phương có lẽ từ thế kỷ XI, lúc đó bắt đầu liên quan việc tranh luận về thần học. Cả Giáo hội Đông phương và Tây phương vẫn cho rằng Đức Mẹ không mắc Nguyên Tội, nhưng có những cách hiểu khác nhau về ý nghĩa.
Đối với giáo lý về Nguyên Tội, một số người ở Tây phương bắt đầu tin rằng Đức Maria không thể vô tội nếu Đức Mẹ không được cứu thoát khỏi Nguyên Tội vào lúc được thụ thai (như vậy làm cho việc thụ thai thành “Vô Nhiễm”). Tuy nhiên, một số thần học gia, kể cả Thánh tiến sĩ Thomas Aquinas, cho rằng Đức Maria không được cứu độ nếu Đức Mẹ không mắc tội – ít nhất là Nguyên Tội.
Để trả lời cách phản đối của Thánh Thomas Aquinas, như Chân phước John Duns Scotus (qua đời năm 1308) đã bày tỏ, đó là Thiên Chúa đã thánh hóa Đức Mẹ ngay lúc Đức Mẹ thụ thai trong sự tiên liệu của Thiên Chúa về việc Đức Mẹ vui nhận mang thai Đức Kitô. Nói cách khác, Đức Mẹ cũng được cứu độ – ơn cứu độ của Đức Mẹ được hoàn tất ngay lúc Đức Mẹ thụ thai, còn các Kitô hữu là lúc lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.
PHÁT TRIỂN LỄ Ở TÂY PHƯƠNG Sau khi Chân phước John Duns Scotus phản đối về Vô Nhiễm Nguyên Tội, lễ này phát triển khắp Tây phương, dù lễ này vẫn thường cử hành vào lễ Thụ Thai của Thánh Anna (tức là Sinh Nhật Đức Mẹ). Tuy nhiên, ngày 28-1-1476, ĐGH Sixtô IV mở rộng lễ này cho toàn Giáo hội Tây phương, và năm 1483 ngài ra vạ tuyệt thông cho những người chống lại tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội. Khoảng giữa thế kỷ XVII, mọi sự chống đối tín điều này đều không còn trong Giáo hội Công giáo.
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ Catholicism.about.com)
Ðời người, có lẽ ai cũng có một lần trải qua một biến cố lớn trong lịch sử thế giới hay dân tộc 8/12-68
Ðời người, có lẽ ai cũng có một lần trải qua một biến cố lớn trong lịch sử thế giới hay dân tộc…
Một ít cụ già hiện còn sống sót có lẽ đã trải qua cuộc đại chiến thứ nhất. Nhiều người đã có thể chứng kiến những tàn phá khốc liệt của thời đệ nhị thế chiến, cộng với nạn đói kinh hoàng ở Bắc Việt năm 1945. Và đa số chúng ta đã trực tiếp hay gián tiếp chứng kiến không biết bao nhiêu đổi thay, bao nhiêu cuộc chiến trong nước cũng như tại các nước khác trong những năm gần đây… Thêm vào đó, còn có biết bao nhiêu thiên tai và tai nạn khủng khiếp đã xảy ra cho con người.
Chiến tranh và sự sa đọa của con người có lẽ mang lại cho chúng ta cái cảm tưởng rằng sự dữ, tội ác đã lan tràn khắp cả mặt đất; thế giới ngày nay không còn biết đến Thiên Chúa nữa. Cùng với tất cả một đoàn người mà Ðức cố Giáo Hoàng Gioan 23 gọi là “các tiên tri chuyên loan báo thảm họa”, có lẽ chúng ta chỉ nhìn vào thế giới bằng đôi mắt của bi quan, thất vọng, chúng ta chỉ nhìn thấy thảm họa, tang tóc… để rồi loan báo ngày tận cùng của thế giới như kề bên.
Thế giới có tội lỗi đó, thế giới có tang thương đó, thế giới có nhiều thảm họa đó, nhưng chúng ta đừng quên rằng chương trình của Thiên Chúa đang được thực hiện dọc theo chiều dài của lịch sử nhân loại. Giữa hai cực: một bên là sự sa ngã ở khởi đầu lịch sử và một bên là ngày tận cùng của thế giới, đã có cuộc nhập thể làm người của Con Thiên Chúa: Ngài đã làm người ngay giữa lòng của một nhân loại tội lỗi của thời đại Ngài…
Thế giới của chúng ta đầy dẫy tội lỗi, Thiên Chúa vẫn yêu thương thế giới ấy. Thay vì chỉ nhìn thấy hận thù, bạo động và sa đọa dưới mọi hình thức, chúng ta hãy cố đọc được những dấu chỉ của thời đại để thấy rằng Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong lịch sử con người, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.
Mừng lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, hôm nay Giáo Hội cũng muốn lập lại với chúng ta chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương con người và không có gì Thiên Chúa không làm được.
Thiên Chúa đã tạo dựng Mẹ và gìn giữ Mẹ khỏi mọi tỳ vết của tội lỗi. Mẹ là nền tảng của niềm hy vọng của chúng ta, Mẹ là bình minh của nhân loại mới, một nhân loại được Thiên Chúa cứu chuộc và ban cho sức mạnh để vươn lên không ngừng.
Chúng ta hãy chiêm ngắm Mẹ với tất cả niềm cậy trông và lạc quan ấy. Qua Mẹ, Thiên Chúa muốn tỏ bày tình yêu không hề lay chuyển của Ngài cho nhân loại và qua Mẹ, Ngài cũng muốn chúng ta bước đi trong vâng phục và yêu mến, cậy trông.
Thân phận yếu hèn của chúng ta được dệt bằng những vấp ngã và chỗi dậy không ngừng. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ không tỳ vết để chúng ta không ngừng ngước mắt nhìn lên. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ luôn “Thưa, xin vâng!” giữa muôn ngàn đớn đau thử thách, để chúng ta tiếp tục chỗi dậy sau những lần vấp ngã.
Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ. Mẹ luôn có đó để giúp chúng ta khỏi vấp ngã và nếu chúng ta có vấp ngã, Mẹ sẽ đỡ chúng ta dậy và giúp chúng ta tiếp tục “Thưa, xin vâng!” với Chúa để chúng ta bước đi theo Chúa Giêsu…
Ðôi khi trong thanh vắng chúng ta nghe lòng mình rộn lên bài hát thật du dương về Mẹ Maria: “Lạy 8/12-69
Ðôi khi trong thanh vắng chúng ta nghe lòng mình rộn lên bài hát thật du dương về Mẹ Maria: “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển thế gian”. Lời văn đã nhân cách hoá Mẹ như một ngôi sao sáng soi giữa cuộc đời tựa như biển đêm đầy rợn rùng, hiểm nguy. Nhưng dù cuộc đời có bao trùm một bóng đêm dầy đặc, ở giữa bầu trời vẫn còn đó đôi bàn tay từ mẫu của Mẹ đang rộng tay ban phát ơn lành, và sẵn lòng nâng đỡ những người con thân yêu đang phải vật lộn với phong ba bão tố cuộc đời.
Ánh sao sáng là Mẹ giữa trời đêm được cha ông ta gọi là sao Bắc Ðẩu. Sao Bắc Ðẩu định hướng cho ngư dân biết đường đến bến bình yên. Sao Bắc Ðẩu còn là điểm báo về thời gian như dân gian có câu: “ Bắc thần đã mọc xê xê, chị em thức dậy lo nghề đi buôn”. Bên cạnh đó, ngôi sao đối với người phương đông còn mang một ý nghĩa là định mệnh của một con người. Người ta cho rằng mỗi người sinh ra trên cuộc đời này đều mang cung mệnh của một vì sao. Cuộc sống thăng trầm cũng theo điềm của mỗi vì sao. Có những vì sao sáng, có những vì sao mờ và có những vì sao tối và đã tắt, nó cũng giống như cuộc đời của con người, có người sống vinh hiển như chòm sao sáng, có những cuộc đời bình thường như những ngôi sao mờ nhạt, và buồn hơn có những cuộc đời lầm lũi như vì sao đã tắt và như vì sao chết. Cuộc đời càng thanh thoát, càng đầy phúc thì ngôi sao chiếu mệnh càng sáng. Ngôi sao sáng trên hết vì sao trên vòm trời là chòm sao Bắc Ðẩu, thế nên người ta gọi Mẹ là ngôi sao Bắc Ðẩu là ánh sao sáng nhất trong muôn loài thọ tạo được Chúa dựng nên.
Tin mừng hôm nay tường thuật lại cuộc gặp gỡ giữa sứ thần và Mẹ Maria. Mẹ là một thôn nữ miền quê, thế nhưng Mẹ đã được tạo dựng trở thành một ngôi sao Bắc Ðẩu cho nhân gian. Tin mừng khởi đầu với lời chào thật kính cẩn của sứ thần: “Kính chào bà đầy ơn sủng”. Ðầy ơn sủng nghĩa là cuộc đời Mẹ đã được bao trùm bằng ân sủng của Chúa ngay từ lúc thụ thai. Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ bằng ân sủng của Ngài để Mẹ không vấn vương tội đời, không tỳ ố trong xác phàm để cung lòng Mẹ xứng đáng là đền thờ cho Chúa Ngôi Hai. Nói như thế, không phải là Mẹ không có công trạng gì, vì cuộc đời Mẹ đã được định đoạt từ ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa chọn Mẹ nhưng Ngài vẫn tôn trọng ý chí và tự do của Mẹ. Mẹ vẫn sống một kiếp người bình thường như bao người khác, có khác chăng là tấm lòng Mẹ luôn thanh khiết, luôn toả sáng bằng việc chọn Chúa hơn là chọn những tạo vật trần gian. Chính vì vậy, mà từ Thiên cung Thiên Chúa đã nhìn thấy ánh sao bắc Ðẩu mà Ngài đã tạo dựng luôn toả sáng giữa bóng đêm tội luỵ. Sứ thần đã nói cùng Mẹ vì “Mẹ hằng đẹp lòng Chúa”. Mẹ đẹp rực rỡ không phải là vẻ đẹp kiêu xa bên ngoài mà là vẻ đẹp của một tâm hồn thanh khiết, sống giữa đời nhưng không hoen ố tội đời, tựa như đoá sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng ta tạ ơn Chúa đã tạo dựng cho nhân loại một ánh sao sáng giữa trời đêm tội lụy là Mẹ Maria. Một ngôi sao Bắc Ðẩu luôn toả sáng để hướng dẫn những ai đang lầm đường lạc lỗi hãy mau quay về với Chúa tình thương. Tạ ơn Chúa đã tặng ban cho đời một ánh sao luôn toả sáng bởi sự trong sạch, bởi tình yêu hiến dâng cho Chúa để phục vụ cho đời. Tạ ơn Chúa và nguyện cầu cùng Mẹ giúp chúng ta biết trở thành một ánh sao soi dẫn bước cho anh chị em của mình.
Thế giới hôm nay rất cần đến ánh sao dẫn đường của Mẹ. Vì có mấy ai không một chút quyến luyến tội lối? Có mấy ai không vương vấn tội đời? Thế giới hôm nay rất cần sự dẫn lối của Mẹ, vì nhiều người còn mải mê với đam mê trần thế mà quên đi hướng đi về trời. Họ sống như thể chỉ ngụp lặn trong thú vui trần thế đến nỗi đánh mất phẩm giá cao qúy của con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Họ quá bận rộn với chuyện cơm áo gạo tiền đến nỗi quên rằng mục đích của đời người là tìm kiếm Nước Thiên Chúa, là trở thành ánh sao cho tha nhân, vì chưng Chúa đã từng mời gọi chúng ta “anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên trời”.
Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội, Mẹ là ngôi sao sáng xin dẫn lối chúng con bước về nẻo chính đường ngay, xin gìn giữ chúng con khỏi sa vòng tội lũy và ban phước lành cho nhân gian chúng con luôn được bình an. Amen.
Sau khi Adong Eva phản bội, Thiên Chúa đã phán với con rắn, tượng trưng cho uy quyền của ma 8/12-70
Sau khi Adong Eva phản bội, Thiên Chúa đã phán với con rắn, tượng trưng cho uy quyền của ma quỷ rằng: Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người phụ nữ. Dòng dõi người phụ nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi thì chỉ rình cắn trộm gót chân Người.
Lời tiên tri này trước hết muốn nói tới Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ đến đập tan uy quyền hoả ngục để cứu độ chúng ta. Nhưng đồng thời cũng giới thiệu với chúng ta, khuôn mặt Đức Trinh Nữ Maria.
Thực vậy, sứ thần Gabriel đã đến viếng thăm Mẹ với lời chào kính lạ lùng: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Trước lời chào kính lạ lùng ấy, Mẹ đã cảm thấy bối rối. Sứ thần Gabriel đã cắt nghĩa, nhưng đồng thời lại đề nghị một tin vui lạ lùng khác nữa: Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên lá Giê su. Ngài sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là con Đấng Tối Cao. Tin vui này khiến cho Mẹ không khỏi băn khoăn nêu lên câu hỏi: Việc đó xảy đến thế nào được vì tôi không biết tới người nam. Thiên thần liền trả lời: Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà. Vì thế con trẻ được sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là con Thiên Chúa. Sau khi biết được thánh ý Thiên Chúa là như thế, Mẹ đã trả lời một cách đơn sơ: Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Qua hình ảnh của sách Sáng Thế Ký cũng như qua câu chuyện của Phúc Âm thánh Luca chúng ta thấy được vai trò của Mẹ Maria đối với nhân loại, đồng thời cũng thấy được đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Mẹ, ít nữa là một cách gián tiếp.
Jean Guitton trong cuốn “Vie de la Vierge Marie”, cuộc đời Đức Trinh Nữ Maria, đã viết: Mẹ như một thửa vườn khép kín, đến nỗi ma quỷ và tội lỗi không thể nào ảnh hưởng và để lại những dấu vết. Cho dù bầu khí tội lỗi đã bao trùm nhân loại ngay từ thuở ban đầu, thì vẫn còn có một nơi không hề bị ô nhiễm. Nơi đó được dành cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Phúc Âm cũng cho thấy: Gioan Tiền Hô mà còn được thánh hoá từ trong lòng mẹ, huống chi nữa Đấng cưu mang Ngôi Lời, Đấng cưu mang chính Thiên Chúa.
Từ những suy tư như thế, người tín hữu đã tin chắc đặc ân vô nhiễm của Mẹ Maria, để rồi cuối cùng Đức Thánh Cha Piô IX, vào năm 1854 đã long trọng công bố và ấn định thành một tín điều phải tin. Sau đó bốn năm tức là vào ngày 25.3.1858, chính Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức và xác quyết với chị Bernadette: Ta là Đấng vô nhiễm nguyên tội. Mừng lễ Vô Nhiễm, chúng ta hãy mang lấy tâm tình vui mừng và hy vọng, bởi vì hiện giờ ở trên trời, chúng ta có được một người mẹ vừa thánh thiện lại vừa quyền năng để bầu cử cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Nhất là chúng ta hãy ra sức khử trừ tội lỗi, để nhờ đó tâm hồn chúng ta được trở nên giống Mẹ, là một cánh sen vô nhiễm, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Đã từ lâu tôi vẫn thích dâng hoa Hồng cho Đức Mẹ. Hoa hồng được tượng trưng cho tình yêu 8/12-71
Đã từ lâu tôi vẫn thích dâng hoa Hồng cho Đức Mẹ. Hoa hồng được tượng trưng cho tình yêu và được nhiều người yêu thích. Nó cũng rất quen thuộc với mỗi con người Việt Nam. Nó là một loài hoa rất giản dị, có rất nhiều màu như màu đỏ, màu hồng, màu cam, màu vàng. Loài hoa này nở quanh năm bốn mùa như thể mùa nào cũng là mùa của tình yêu.
Nguồn gốc của hoa hồng được kể rằng: Nữ thần tình yêu được sinh ra cùng lúc với hoa hồng trắng. Nàng xinh đẹp và trong trắng như đóa hoa thơm ngát tinh khiết đó.
Tuổi ấu thơ trôi qua, cô thiếu nữ như bông hồng ngày một xinh đẹp và trưởng thành hơn, rồi nàng đã yêu một chàng trai và hôn lễ đã cử hành…
Nàng là một người vợ đẹp lại chung thủy hết mức. Yêu chồng còn hơn cả mọi thứ trên đời. Nhưng thật không may chồng nàng lại ra đi trong lúc tuổi còn trẻ, cũng không ai biết chồng nàng chết vì lí do gì…
Trong lễ tang của chàng, nàng do đau khổ quá đã khóc lóc rất nhiều. Cũng do không để ý vô tình nàng đã bị gai của bông hồng đâm vào tay rất sâu, máu ở tay nàng nhỏ xuống thấm vào bông hoa hồng trắng. Vâng, chỉ vài giọt máu thôi mà bông hồng tự nhiên đỏ rực lên rồi càng ngày càng thẫm lại…
Cuộc đời Mẹ Maria cũng tinh khôi vẹn tuyền như đóa hoa hồng trắng. Và trái tim Mẹ cũng nhuộm thắm máu đào để cùng con cứu chuộc nhân gian. Mẹ đã hiệp thông với con yêu trong hiến tế thập giá. Trái tim Mẹ đã đỏ son của tình yêu sắt son thủy chung dành cho con người.
Tình yêu của Mẹ cũng hao mòn theo năm tháng đời con như bao bà mẹ chốn dương gian. Tận tụy hy sinh, mưa nắng không sờn miễn sao con khôn lớn thành tài.
Thế nên, nếu có ngắt bông hồng cho Mẹ ta vẫn thấy một tình yêu bao la luôn dạt dào xuống cho nhân loại chúng ta. Vì mẹ chính là bông hoa đẹp nhất mà tạo hóa đã tạo dựng cho nhân loại chúng con.
Hoa hồng tặng mẹ sớm mai
Cài lên vạt áo, áo phai bạc màu Nắng mưa mẹ chẳng sờn lòng Mong con khôn lớn thỏa lòng mẹ mong.
Phúc âm kể rằng tại thôn làng Nagiaret có một trinh nữ tinh khôi vẹn tuyền. Một thôn nữ tài sắc vẹn tuyền được nồng bởi sự trong trắng, đoan trang hiền thục. Một thôn nữ đạo hạnh mà từ trời cao Thiên Chúa luôn hài lòng về người, nên đã được chọn là Mẹ của Thiên Chúa. Đó là Đức Trinh nữ Maria. Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ làm Mẹ Đấng cứu thế vì tâm hồn Mẹ thanh khiết vẹn toàn lại nồng thêm hương thơm của lòng bác ái bao dung.
Giáo Hội nhìn nhận Mẹ được ơn Vô Nhiễm ngay tứ lúc trinh thai, nhưng điều quan yếu là Mẹ đã giữ được vẻ thanh khiết vẹn toàn giữa thế gian tội lụy. Mẹ đã thắng mọi cám dỗ để có thể toả ngát hương thơm giữa trần đời. Mẹ là người phụ nữ đẹp rạng ngời giữa muôn ngàn người phụ nữ, tựa như bông hồng trinh nguyên luôn tỏa hương thơm dịu dàng. Mẹ hoàn toàn xứng đáng là đóa hoa hồng giữa thảo nguyên nhân gian như câu thơ viết rằng:
Đẹp lắm hoa hồng tận thảo nguyên. Thanh trong ánh nắng dịu trên miền.
Dẫu cuộc đời Mẹ có lắm truân chuyên, gai góc lại càng làm nên vẻ thanh cao nơi con người Mẹ không vấn vương tội truyền.
Nhìn ngắm đóa hồng đời Mẹ mà con cảm thấy nhẹ vơi mọi ưu phiền. Vì từ nơi Mẹ con đã hiểu được hương vị của tình yêu luôn pha chút ngọt đắng
Cát bụi cuồng phong vùi lấp nỗi. Cơn mưa nhẹ rắc phủi tan phiền. Hoa hồng bỗng đẹp chiều đâu hỡi. Lãng tử say nồng mãi chẳng quên.
Chúng con cám ơn Chúa đã ban cho nhân loại chúng con một đóa hồng trinh khiết vẹn tuyền. Cám ơn Mẹ lại nhận chúng con làm con của mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng con biết gìn giữ nét đẹp cao quý nơi phẩm giá làm người và làm con Chúa. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng con luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen
Niềm tin vào sự kiện Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội quả là quan trọng, nhưng nó không hề xa 8/12-72
Niềm tin vào sự kiện Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội quả là quan trọng, nhưng nó không hề xa vời mà gần gũi với Ki-tô hữu chúng ta hơn bất kỳ sự kiện nào khác. Trong niềm tin của tôi, ‘vô nhiễm’ không còn phải là một luật trừ dành riêng cho Đức Ma-ri-a, mà là một định luật phổ quát áp dụng cho hết thảy mọi người, trong đó có cả tôi và bạn nữa. Mời bạn cùng tôi khám phá nguyên lý thâm sâu của đặc ân vĩ đại này.
Lu-ca thuật lại giai thoại truyền tin và nhấn mạnh một điều không thể tin được, nếu chỉ căn cứ vào suy luận tự nhiên: Ma-ri-a thụ thai và sinh con mà vẫn đồng trinh. Và để dẫn chứng điều không thể đó là có thể, thiên sứ đã đưa ra sự kiện một phụ nữ khác là Ê-li-sa-bét hiếm muộn và già nua mà cũng đã thụ thai. Cả hai trường hợp này đều là phản tự nhiên, phản lại với định luật bất di bất dịch của trời đất và con người. Nếu nó có xảy ra được thì âu là có một sức mạnh vô song nào đó mà Đức Chúa muốn tỏ bày. Nhưng tôi tự hỏi: đó là sức mạnh nào? Chẳng lẽ chỉ là một ‘show’ về quyền phép là điều Ngài muốn biểu lộ sao cho con người phải nể phục, tương tự như các tai ương Ngài đã dùng Mô-sê mà giáng họa xuống đất nước Ai-cập xưa? “Đối với Thiên Chúa, không có gì mà không thể làm được!” điều đó là đương nhiên rồi, nhưng một khi thực hiện cái không thể đó Ngài phải có một lý do gì rất chính đáng chứ! Về điều này tôi muốn được nghe chính những nhân vật trong cuộc là Ma-ri-a và Ê-li-sa-bét (hay chồng của bà là Gia-ca-ri-a, người thân thiết và hiểu rõ bà hơn hết) nói về những cảm nghiệm thâm sâu nhất họ có. Đàng sau những sự kiện ‘không thể’ đó chính họ đã nghiệm thấy rõ quyền năng mà Thiên Chúa đang muốn thực hiện thực sự là cái gì.
Ma-ri-a thoáng nhận ra một điều gì đó vô cùng vĩ đại đang xảy đến với mình “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”. Sự vĩ đại này quá đỗi to lớn tới độ con người, hoặc chỉ còn biết câm nín, hoặc bị thôi thúc phải cất tiếng ngợi khen. Đó chính là trường hợp của Ma-ri-a và Da-ca-ri-a khi được loan báo. Nhưng để biết điều vĩ đại họ nghiệm ra cụ thể là gì thì chúng ta hãy lắng nghe các bài ca Magnificat và Benedictus mà họ đã cất lên tự đáy lòng mình:
“Đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót” “Vì Người nhớ lại lòng thương xót… đến muôn đời” “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn…” “Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên”
“Người sẽ nhớ lại lòng thương xót dành cho Ap-ra-ham và con cháu đến muôn đời”
Thì ra lòng thương xót mới chính là quyền năng đứng đàng sau tất cả những gì là ‘không thể’ này. Lòng từ bi thương xót là quyền năng vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đang muốn biểu lộ cho tất cả những ai tin vào Đức Giê-su Ki-tô, khởi đầu là Ma-ri-a, là Da-ca-ri-a … Lòng từ bi thương xót cứu độ đó đã đạt tới cao điểm nhất khi nó làm cho sự sống phục sinh mãnh liệt bừng lên từ nấm mồ chết chóc lạnh lùng và hủy diệt. Sự kiện Phục Sinh cho thấy từ bi thương xót có sức mạnh làm đảo lộn tất cả: nó làm cho thụ thai mà không mất đồng trinh, sinh con trong tuổi già hiếm muộn, được thưởng phúc vinh khi chỉ đáng hình phạt đọa đầy, được làm nghĩa tử khi phản nghịch chống đối, thánh thiện khi tội lỗi, mạnh mẽ khi yếu đuối, vô nhiễm khi là con cháu E-va vướng mắc tội nguyên tổ… Ai chấp nhận cho nổi những điều này? Nó thật phi lý quá, ngoại trừ những kẻ bé mọn mà “Cha Ta muốn mạc khải cho”!
Và như thế, đón nhận lòng Thương Xót của Thiên Chúa chính là điều quan trọng nhất mà con người ta có thể làm. Sự vĩ đại nhất của Ki-tô hữu chúng ta chính là mở rộng cõi lòng đón lấy lòng Nhân Hậu Chúa. Tôi không cần biết Thiên Chúa sẽ hay đã làm cho tôi những ‘điều trọng đại’ nào (…có lẽ cũng nhiều lắm chứ), nhưng quan trọng và vĩ đại nhất trong đời vẫn phải là: trở thành Ki-tô hữu, tức là tôi trở thành một người có khả năng hiểu biết và tiếp nhận lòng thương xót vô biên của Chúa. Ngay cả Mẹ Ma-ri-a cũng chưa chắc đã ý thức mình được Thiên Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên tội, nhưng có một điều chắc chắn là Mẹ đã biết rất rõ và rộng mở cõi lòng đón nhận hơn bất cứ ai khác; đó là Thiên Chúa là Đấng xót thương.
Mừng kính Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, trong khi cất tiếng ca ngợi đặc ân Chúa ban cho Mẹ, tôi có bị thôi thúc cùng Mẹ cất tiếng hát khen “Chúa hằng thương xót… hết đời nọ tới đời kia” không? Và tôi có xác tín rằng chính quyền năng thương xót đó cũng đang đổ tràn trên tôi, và biến đổi số phận thấp hèn của tôi cách sung mãn nhất hay không?
Lạy Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, xin cho con được bắt chước Mẹ, không cần quan tâm nhiều tới bất kỳ đặc ân nào con nhận được, kể cả ơn gọi tu sĩ và linh mục, sự tốt lành đạo đức thánh thiện… nếu có, nhưng tập trung trí lòng để nhận biết Chúa Từ Ái xót thương con vô bờ bến. Con xin chúc mừng Mẹ về đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, nhưng con còn muốn chúc tụng Mẹ nhiều hơn vì Chúa đã xót thương đến phận hèn của Mẹ. Xin cho con được cùng Mẹ Vô Nhiễm ca ngợi lòng Thương Xót Chúa đến muôn đời. A-men.
Trong bài giảng ngày đại lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm và khai mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót (8/12/2015) 8/12-73
Trong bài giảng ngày đại lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm và khai mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót (8/12/2015), ĐTC Phan-xi-cô thuyết giảng: “Trước hết, Đức Maria đã được thôi thúc để vui mừng về tất cả những gì mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ. Ân sủng của Thiên Chúa đã bao phủ Mẹ, và làm cho Mẹ trở nên xứng đáng làm Mẹ Chúa Ki-tô. Đối với Mẹ, khi Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel bước vào nhà Mẹ, một mầu nhiệm thẳm sâu mà nó vượt ra ngoài bất cứ dung lượng nào của trí khôn, cũng đã trở nên nguyên cớ dẫn tới niềm vui, dẫn tới Đức Tin và dẫn tới sự trao hiến trọn vẹn cho Lời vừa được mạc khải cho Mẹ. Sự tràn đầy ân sủng có khả năng biến đổi con tim, và làm cho nó có khả năng thực hiện một bước đi, mà bước đi ấy rất vĩ đại vì nó làm thay đổi lịch sử nhân loại.” (nguồn: Vatican.net). Thử tìm hiểu xem “bước đi làm thay đổi lịch sử nhân loại” là thế nào?
Bài đọc 1 hôm nay (St 3, 9.15-20) trình thuật việc ông bà Nguyên tổ nghe lời con rắn xúi giục đã ăn trái cấm, khiến “Đức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cầy cấy đất đai, từ đó con người đã được lấy ra. Người trục xuất con người và ở phía đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe, để canh giữ đường đến cây trường sinh.” Đến bài Tin Mừng (Lc 1, 26-38), Thánh sử Lu-ca trình thuật sự kiện “Truyền tin cho Đức Maria”. Nghe lời chào và chúc mừng của sứ thần, Đức Mẹ rất bối rối và hỏi lại: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng.” Sau khi được sứ thần giải thích thỏa đáng sự băn khoăn thắc mắc trước việc thụ thai Chúa Giê-su, Đức Maria đã trả lời sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Như vậy, hai bài đọc làm nổi bật hai cuộc đối thoại mà đối tượng chính là hai người phụ nữ, đã làm đảo lộn lịch sử loài người, thay đổi hẳn cục diện thế giới.
Cuộc đối thoại thứ nhất giữa sứ giả của ma quỷ (con rắn) với bà E-và trong vườn địa đàng: Rắn nói với Eva: “Có thật Thiên Chúa bảo: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” Người đàn bà trả lời: “Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: “Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết.” Rắn nói: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” E-và nghe bùi tai, lại “thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn.” Kết quả là: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng; họ mới kết lá vả làm khố che thân.” (St 3, 1-7).
Và hậu quả tất yếu đến cho ông bà Nguyên tổ: “Với người đàn bà, Chúa phán: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi.” Với con người, Chúa phán: “Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: “Ngươi đừng ăn nó”… Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3, 16-19).
Cuộc đối thoại thứ hai giữa sứ giả của Thiên Chúa (sứ thần Gáp-ri-en) với E-và Mới là Đức Maria nơi thành Na-da-ret (miền Ga-li-lê): “Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì? Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-za-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Kết quả là: ”Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 28-38)
So sánh hai cuộc đối thoại, thấy rõ một bên là sứ giả của quỷ dữ (con rắn) đầy ranh ma quỷ quyệt ẩn trong thái độ ngạo mạn coi thường cả Thiên Chúa lẫn đối tượng bị cám dỗ (E-và), còn một bên là sứ giả của Thiên Chúa (sứ thần) chân thành biểu lộ trong thái độ khiêm cung, kính trọng Thiên Chúa và cả người đối diện (Đức Maria). Cả hai đối tác đều gật đầu ưng thuận (Bà E-và thì mau mắn hái trái cây ăn và cón đưa cho chồng cùng ăn; Đức Maria tuy tỏ dấu băn khoăn, nhưng khi được giải thích đã khiêm tốn xưng mình là nữ tì của Thiên Chúa và “xin vâng”). Cái gật đầu mau mắn của E-và đã làm đảo lộn lịch sử loài người: Thay vì được an vui thảnh thơi sống trong vườn địa đàng thì bị đuổi ra ngoài, xa lìa Thiên Chúa, phải tự vật lộn với cuộc mưu sinh và đối mặt với biết bao ác hiểm của kẻ thù muôn kiếp là ma quỷ. Không những chỉ hai ông bà Nguyên tổ mà còn truyền tử lưu tôn tội lỗi tày trời đến thiên thu vạn đại. Còn cái gật đầu ưng thuận của Đức Maria bằng tiếng “xin vâng” thì lại thay đổi hẳn cục diện thế giới, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử loài người: Kỷ nguyên Cứu Độ.
Cũng là gật đầu để đón nhận lương bổng hay ân hụê mà sao kết quả lại trái ngược nhau đến lạ lùng? Ấy cũng bởi vì “Lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Ki-tô Giê-su.” (Rm 6, 23). Có tin thì mới gật đầu ưng thuận. Con người ta sống trên đời cần phải có niềm tin, bởi nếu thiếu nó thì cuộc sống thật vô vị. Có tin thì mới yêu đời, nên hai chữ “tin yêu” luôn đi đôi với nhau thành một từ ghép diễn tả tâm trạng vui sống của con người. Đến ngay cả những kẻ chán đời tìm đến cái chết cũng vẫn có một niềm tin. Họ tin rằng cái chết sẽ giúp họ giải thoát cơn bĩ cực sầu khổ tột cùng. Chính vì thế nên vấn đề đặt ra là lòng tin của người gật đầu đã đặt đúng chỗ chưa? Nên tin vào một vị Thần duy nhất là “Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa” hay là nên tin vào thần sông thần núi, thần cây đa cây đề, thần mưa thần gió, thần sấm thần chớp, thần bếp thần đất …?
Nói đến vấn đề tin vào thần linh là nói đến thái độ cực đoan của những người tin. Họ tôn thờ những đối tượng mà họ tin như một ông chủ và sẵn sàng làm tôi tớ để mua chuộc cảm tình. Ấy cũng bởi vì con người được tự do tuyệt đối chọn cho mình một lối sống, hoặc chạy theo bả vinh hoa vật chất, hoặc sống một cuộc đời công bình chính trực. Nếu chẳng vậy thì vị Vua Công Chính, Vua Tinh Yêu đã chẳng dạy: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt 6, 24). Hoá cho nên chỉ vì một niềm tin đặt không đúng chỗ, vì một cái gật đầu ưng thuận của “một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết” (Rm 5, 12). Nhưng Thiên Chúa cũng không vì thế mà bỏ rơi loài người. Người vẫn thương yêu đàn con cái trầm luân trong tội lỗi nhuốc nhơ, nên đã ban cho nhân loại một Người Nữ đặt niềm tin tuyệt đối vào Đấng Toàn Năng hằng hữu, để từ cái gật đầu khiêm nhường ưng thuận bằng hai tiếng “xin vâng”, đã đón nhận vào cung lòng một Trưởng Tử Thiên Cung nhập thể làm người cứu chuộc nhân thế. Thật đúng là: “Nếu chỉ vì một người duy nhất sa ngã, mà sự chết thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị.” (Rm 5, 17).
Càng suy gẫm càng thấy rõ ràng 2 cái gật đầu của 2 người nữ đã quyết định vận mệnh con người. Chính vì thế nên xin đừng nghi ngờ, phân vân gì nữa, mà hãy mừng vui lên cùng với cái gật đầu thứ hai trong lịch sử loài người của “nữ tì Thiên Chúa”. Ấy cũng bởi vì “một mầu nhiệm thẳm sâu mà nó vượt ra ngoài bất cứ dung lượng nào của trí khôn con người” (Bài giảng của ĐTC Phan-xi-cô như đã dẫn trên). Từ niềm hoan lạc được mạc khải, hãy cất cao giọng vinh tụng ca: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giê-su Ki-tô. Tin Mừng đó mạc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa, nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. A-men.” (Rm 16, 25-27). Người Ki-tô hữu hãy hoan hỉ ngẩng cao đầu cất tiếng ngợi khen, để tiếp liền sau đó khiêm cung cúi đầu “xin vâng” theo Thánh ý Đấng Toàn Năng Hằng Hữu.
Muốn được như vậy, xin hãy chạy đến cùng Đức Mẹ như lời khuyên của ĐTC Phan-xi-cô trong bài giảng ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhễm (–nt–): “Xin hãy chạy đến nép mình trong áo Mẹ, cũng bởi vì ”Dưới áo choàng của Mẹ có chỗ cho tất cả mọi người, vì Mẹ là Mẹ Thương Xót. Trái tim Mẹ đầy dịu dàng đối với mọi con cái của Mẹ: sự dịu dàng của Thiên Chúa, Đấng đã nhận xác thể từ Mẹ, và trở thành người Anh của chúng con, là Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ mọi người nam nữ. Lạy Đức Mẹ Vô Nhiễm, khi nhìn lên Mẹ, chúng con nhận ra chiến thắng của Lòng Chúa Xót Thương trên tội lỗi và mọi hậu quả của nó; trong tâm hồn chúng con bừng lên niềm hy vọng một cuộc sống tốt đẹp hơn, được giải thoát khỏi mọi nô lệ, oán hận và sợ hãi. Lạy Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng con cảm tạ Mẹ vì trong hành trình hòa giải này, Mẹ không để chúng con đi một mình, nhưng tháp tùng chúng con, ở cạnh và nâng đỡ chúng con trong mọi khó khăn. Chúc tụng Mẹ bây giờ và mãi mãi. Amen.”
Ôi! “Lạy Thiên Chúa chí thánh, Chúa đã làm cho Trái Tim Ðức Trinh Nữ Ma-ri-a nên cung điện xứng đáng của Chúa Thánh Thần, vì lời Ðức Trinh Nữ chuyển cầu, xin thương giúp chúng con cũng trở nên đền thờ Chúa ngự. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. (lời nguyện lễ Trái rim Vô nhiễm Đức Mẹ – 8/12)
HỒNG ÂN CAO CẢ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI THÁNH MẪU GIỮ MÌNH TRINH KHIẾT TRỌN ĐỜI
Vô nhiễm là một trong tứ ân đặc biệt mà Thiên Chúa dành riêng cho Đức Mẹ (*), thụ tạo đặc 8/12-74
Vô nhiễm là một trong tứ ân đặc biệt mà Thiên Chúa dành riêng cho Đức Mẹ (*), thụ tạo đặc biệt của Thiên Chúa – Đệ Nhất Thánh Nữ với nhiều thánh hiệu được Giáo hội tôn vinh (x. Kinh Cầu Đức Bà). Theo ngữ nghĩa “nhiễm” là “nhuộm” – nghĩa bóng là lây lan, thấm sang, vương, vướng, dính – nhưng thường được dùng ở thể thụ động và mang nghĩa xấu. Nói ngắn gọn, “vô nhiễm” nghĩa là không bị nhiễm. Qua Tông sắc “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa Bất Khả Ngộ) ban hành ngày 8-12-1854, ĐGH Piô IX đã công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Trong cuộc sống đời thường có nhiều dạng “nhiễm”: Nhiễm khuẩn, nhiễm trùng, nhiễm độc, nhiễm xạ, nhiễm bệnh,… Về thể lý, chắc chắn không ai miễn nhiễm, nghĩa là ai cũng đã từng bị bệnh, bị nhiễm một dạng virus nào đó, với mức độ khác nhau. Vì thế, người ta rất cần bảo vệ hệ miễn nhiễm của cơ thể, đặc biệt là cố gắng làm mạnh sức đề kháng. Thật kỳ diệu là đối với một số người Phi châu, họ miễn nhiễm với HIV (Human Immunodeficiency Virus), người ta gọi là “căn bệnh thế kỷ”, thường nói theo Pháp ngữ là SIDA (Anh ngữ là AIDS – Acquired Immune Deficiency Syndrome), Việt ngữ gọi là “bệnh liệt kháng”. Đó là một dạng thiếu khả năng miễn nhiễm của cơ thể. Tuy nhiên, có một số người Phi châu không bị nhiễm HIV, đúng là dạng “vô nhiễm” rất kỳ lạ!
Theo giáo sử, Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm đã có tại Ðông phương từ giữa thế kỷ VII và VIII. Các vị giảng thuyết đã nói về sự Vô Nhiễm, thai sinh thánh thiện, nhưng không nêu lên vấn đề gì khác. Thời Trung cổ, lễ này được đưa vào Tây phương, rồi nhiều dòng tu ở Ðức và Rôma cũng đã mừng lễ này từ thế kỷ IX.
Các tu sĩ đưa lễ này vào Anh quốc năm 1060, rồi lễ này được lan rộng khắp Âu châu trong thời gian 1127-1128, dù Thánh Bênađô vẫn tỏ ra dè dặt trước “sự mới lạ” đó. Lúc đầu, đó là một phong trào sùng kính sốt sắng nhưng thiếu suy tư, nhất là bị ảnh hưởng những ý kiến mù mờ của thời đó.
Sau đó, cùng với Thánh GM TS Augustinô, người ta cho rằng việc giao hợp vợ chồng là hành động trác táng lưu truyền tội tổ tông. Như vậy, Đức Maria sinh bởi sự giao hợp của cha mẹ thì cũng không thoát khỏi “định luật thông thường” đó. Vả lại, thời đó người ta có quan niệm phi khoa học về việc thai sinh, như thể xác được cưu mang trước rồi linh hồn đến trong khoảng thời gian sau: Linh hồn con trai trước 40 ngày, linh hồn con gái phải lâu hơn mới hợp với thể xác vì bản tính con gái yếu kém. Ui da!
Trong cái “vòng lẩn quẩn” đó, các thần học gia cũng không biết làm sao thoát khỏi với điều này: Chúa Kitô là Ðấng cứu chuộc hết mọi người. Như vậy, nếu nói rằng Ðức Mẹ không vướng mắc tội lỗi, dù chỉ nói đến tội tổ tông, thì Chúa Kitô không còn là Ðấng cứu chuộc toàn thể nhân loại. Các nhà thần học thế kỷ XIII, kể cả Thánh TS Thomas Aquinô, đều cho rằng Ðức Mẹ vẫn có phần lệ thuộc tội lỗi, ít nhất là về thể lý trong thời gian mang thai.
Đến cuối thế kỷ XIII, thần học gia tu sĩ Gioan Duns Scott và tu sĩ William Ware (Dòng Phanxicô) đã có công tìm hiểu và đảo ngược lý luận trên. Chân phước tu sĩ Duns Scott lý luận rằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Mẹ chẳng những không làm tổn thương đến vinh dự Đức Kitô và Công Cuộc Cứu Chuộc của Ngài, nhưng càng làm tỏ rạng sự sung mãn của công cuộc ấy. Nhân loại thực sự được thoát khỏi Nguyên Tội khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Nơi Đức Maria, công việc của Chúa Giêsu có sức ngăn ngừa tội lỗi. Vì Ðấng Cứu Chuộc hoàn hảo phải là Ðấng không chỉ có thể CHỮA LÀNH tội lỗi mà còn NGĂN NGỪA tội lỗi. Lý luận thật tuyệt vời, và Thánh Ý Chúa thật là mầu nhiệm! Thật vậy, vào ngày 25-3-1858, chính Đức Mẹ đã hiện ra với Thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức và xác nhận: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Điều này cho thấy Chúa Thánh Thần thực sự tác động mạnh trong đời sống Giáo hội Lữ hành và minh chứng ơn bất khả ngộ của Đấng kế vị Thánh Phêrô, vì lúc đó Giáo hội mới công bố tín điều Mẹ Vô Nhiễm được gần 4 năm.
Qua trình thuật St 3:9-15, chúng ta thấy đó là một cuộc “xưng tội công khai” của Ông Bà Nguyên Tổ trước Tôn Nhan Thiên Chúa.
Sách Sáng Thế cho biết: Thuở hồng hoang, Đức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?”. Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi: “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?”. Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?”. Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Đức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”.
Lạy Chúa tôi, con người thật chua ngoa và tồi tệ! Đó là một dây-chuyền-tội-lỗi: Ông đổ lỗi cho bà, bà đổ lỗi cho con rắn. Cuộc đời người ta “chết” vì những cái VÌ, BỞI, TẠI, NẾU, GIÁ MÀ, GIẢ DỤ,… và không phục thiện. Thật nguy hiểm vô cùng!
Chàng Adam được Thiên Chúa ban cho “mỹ nhân” (chắc là xinh đẹp và dễ thương lắm) nên chàng Adam nhà ta khoái chí lắm, liền đặt tên cho “vợ yêu” là Eva – tên này có nghĩa là “mẹ của chúng sinh” (St 3:20). Như một chuỗi lô-gích liên quan lẫn nhau, người ta có một câu danh ngôn thú vị thế này: “A-xít làm CHÁY tiền, tiền làm CHÁY tim đàn bà, nước mắt đàn bà làm CHÁY tim đàn ông”. Ôi chao, thú vị mà cay cú, nhưng cũng chí lý đấy chứ!
Người ta gọi phụ nữ là “liễu yếu đào tơ”, nhưng đôi khi quên rằng phụ nữ mềm mà cứng, yếu mà mạnh. Quả thật, chính sự yếu mềm đó lại chính là thế mạnh của họ, nhất là họ vừa trẻ vừa đẹp, ngày nay còn “chân dài” nữa, nó “khoèo” một cái là lũ đàn ông té hàng loạt như bão mạnh thổi tung vậy. Khốn thay! Thật vậy, giọng cô ả chỉ “nhựa” một chút và ẻo lả một chút khi nói “Anh ơi!”, thì hỡi ôi, chàng chợt mềm nhũn như bún thiu ngay thôi. Chẳng thế mà Samson khỏe như voi cũng “chết ngắc” chỉ vì một phụ nữ, đường đường là một quốc vương như Đa-vít mà cũng “tiêu” chỉ vì một phụ nữ, và rồi gã Hê-rô-đê cũng sẵn sàng “làm liều” chỉ vì một phụ nữ, dám “thí” nửa nước như một món đồ chơi vậy. Đúng vậy, chỉ MỘT phụ nữ mà quý ông đã “tiêu diêu miền tình ái” chứ chưa cần nhiều phụ nữ đâu. Thật khủng khiếp quá chừng!
Xưa nay người ta vẫn ví von thế này: “Phụ nữ muốn là trời muốn”. Và người ta cũng so sánh: “Nhất vợ, nhì trời,…”. Trời còn đứng hàng thứ chứ nói gì phàm phu tục tử. Đáng sợ là khoảng giữa “cái có” và “cái không” ở phụ nữ thì dù một sợi tóc cũng không thể lọt vào. Tinh vi quá đỗi! Đàn ông là sóng cồn nhưng đàn bà là sóng ngầm. Sóng ngầm không thấy mà tránh và có sức cuốn mất hút dù trời không hề giông bão.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không làm ngơ. Chỉ vì một phụ nữ tội lỗi mà nhân loại chịu kiếp đọa đày, đó là Bà Cố Tổ Eva; nhưng lại nhờ một phụ nữ thánh thiện, nhu mì và tuân phục, mà nhân loại được giải án tuyên công, người đó chính là Đức Maria. Thật diễm phúc cho phàm nhân chúng ta!
Khi đã thực sự nhận ra “cái may” to lớn như thế thì người ta phải biết tạ ơn chân thành và không ngừng. Thật vậy, Thánh Phaolô đã bày tỏ tâm tình đó: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Ep 1:3). Không chỉ vậy, Thánh Phaolô còn xác định chi tiết: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu”(Ep 1:4-6). Rất rõ ràng, mạch lạc, và dễ hiểu.
Và rồi Thánh Phaolô còn nói thêm: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người” (Ep 1:11-12). Quả thật, hồng ân Thiên Chúa quá bao la, cao vời và khôn ví. Chúng ta chỉ còn biết suốt đời cúi đầu mà cảm tạ liên lỉ từng phút, từng giây, trong suốt cuộc đời này.
Ơn là ơn, ân sủng là ân sủng, hồng ân là hồng ân, chúng ta không thể xác định ơn nào to hay nhỏ – đại ân hoặc tiểu ân. Chỉ có Thiên Chúa mới là người xác định mức độ, vì chỉ một mình Ngài là người thi ân giáng phúc. Đức Mẹ và các thánh chỉ là những người cầu thay nguyện giúp, đại diện cầu xin thay cho chúng ta (vì họ “uy tín” hơn chúng ta), họ là “ống dẫn” để chuyển ơn thánh từ Thiên Chúa tới chúng ta.
Trình thuật Lc 1:26-38 nói về cuộc Truyền Tin, ngày khởi đầu quan trọng đối với công trình cứu độ. Thánh sử Luca kể: Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria.
Vừa gặp Trinh Nữ Maria, Sứ thần liền nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, Cô Maria rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần biết Cô Maria đang lo lắng nên trấn an ngay: “Cô Maria ơi, xin đừng sợ, vì Cô đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây Cô sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
Chu choa, răng mà kỳ vậy hè? Người ta đã khấn giữ đồng trinh mà tự dưng nói chuyện mang thai và sinh sản. Kỳ ghê đi, mắc cỡ thí mồ, ngại hết sức! Thế nên Cô Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Sứ thần liền giải thích cặn kẽ và minh chứng cụ thể: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Thì ra là thế! Nói đến Thiên Chúa thì miễn bàn, vì Cô Maria hết lòng tin kính Ngài. Thế là hai năm rõ mười. Tỏ rõ khúc nhôi. Chắc hẳn Cô Maria nhà ta thở phào nhẹ nhõm. Và rồi Cô Maria dịu dàng nói ngay với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa CỨ LÀM cho tôi như lời sứ thần nói”. Nghe vậy, sứ thần cũng “an tâm” mà từ biệt ra đi…
Alleluia! Thế là “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người”, và ở cùng chúng ta… Ngài chính là Đấng Thiên Sai, mệnh danh Emmanuel (Is 7:14; Mt 1:23). Đức Maria tự nhận là một Nữ Tỳ hèn mọn nhưng lại thật là vĩ đại, đã trở thành Đấng Theotókos (Θεοτόκος – God-Bearer – Người-Mang-Thiên-Chúa). Xin kính chào Đấng Emmanuel, và xin “kính mừng Maria đầy ơn phước”… Tạ ơn Thiên Chúa – Deo gratias!
Lạy Mẹ Maria Đấng Vô nhiễm Nguyên tội Luôn tin yêu tuyệt đối Nơi Thiên Chúa tình yêu Mẹ sáng rực ngàn sao Trắng trong như Bạch Huệ Nêu gương cho hậu duệ Trinh nguyên cả xác hồn
Lạy Thánh Mẫu từ nhân Xin chở che, nâng đỡ Dẫu đời bao sóng gió Vẫn một lòng tin yêu
Lạy Thiên Chúa quan phòng và tiền định, xin làm mạnh hệ miễn nhiễm tâm linh để con đủ sức đề kháng cái xấu. Lạy Thánh Nữ Vô Nhiễm, xin giúp con can đảm khi noi gương Mẹ sống khiêm nhu và tuân phục vô điều kiện. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen. ----------- (*) 1. Thánh Mẫu Thiên Chúa [01-01], 2. Mông Triệu [15-08, Hồn Xác Lên Trời], 3. Đồng Trinh Trọn Đời [22-08, Maria Trinh Vương], 4. Vô nhiễm Nguyên tội [08-12].
Người Công Giao trên khắp thế giới tôn kính Mẹ Maria là điều hiển nhiên rồi. Nhưng, người Hồi 8/12-75
Người Công Giao trên khắp thế giới tôn kính Mẹ Maria là điều hiển nhiên rồi. Nhưng, người Hồi giáo cũng tôn kính Mẹ Maria không thua kém. Như vậy, cùng với hơn một tỷ người Công giáo và Hồi giáo chúng ta hân hoan mừng kính trọng thể Lễ Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Vâng, “Người Nữ đạp nát đầu satan”.
Thưa quý vị, thưa các bạn, Người Phụ Nữ được Thiên Chúa chúc phúc để “đạp nát đầu satan” , đó chính là Đức Trinh Nữ Maria. Vâng, không ai có thể đạp nát đầu satan được, nếu không được Thiên Chúa ban cho cái “quyền “ấy.
Người phụ nữ đầu tiên đã “bị” satan gài bẫy, sự bất lực nơi con người không thể chống lại stan. Nhưng, với ơn Chúa và sự vâng lời của con người, thì con người mới chống lại satan được.
Satan: kẻ phản nghịch. Vậy muốn chống lại satan, con người phải “vâng lời” Thiên Chúa. Vậy, ai là người đầu tiên thực thi được điều ấy. Thưa, đó là ”DỨC TRINH NỮ MARIA”, Lời Thiên Sứ Truyền Tin đứng sau “Lời tiền định” từ Thiên Chúa, Lời mà Thiên Chúa đồng thời lên “án phạt” satan, tức con rắn xưa.
Như vậy, “Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội” được ban cho Đức Trinh Nữ Maria chính là “ngay từ giây phút” Lời Tiền Định từ Thiên Chúa. (St 3, 15) trong Cựu Ứơc. “ … người phụ nữ sẽ đạp nát đầu mi..” Còn trong Tân Ứơc chính là câu:” Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà …” (Lc 1, 35)
Đồng thời lời thưa “ Xin Vâng” của Mẹ nói lên sự “ưng thuận tuyệt đối”, sự tín thác chân thành của thụ tạo, mà Mẹ là người đại diện.
Tiếng “Fiat” của Mẹ là tiếng thưa của cả nhân loại, dâng lên Thiên Chúa là Cha, để đáp lại “Hồng ân của lòng tin “. Để đồng lòng cùng Đấng Tạo Thành lên án satan. Như vậy, Người Phụ Nữ duy nhất ấy phải Thánh Thiện, phải trỗi vượt trên tất cả loài thụ tạo, để Mẹ xứng đáng được đón nhận một “dòng dõi mới” , đó là Tân Ứơc, một Giao Ứơc mới. Một Giao Ứơc mà Thiên Chúa đã “lập ra” dành cho một “Người Mẹ”, để làm Mẹ một dòng dõi mới, dòng dõi Tân Ứơc. Vì, “… Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa ” ( c 35)
Vâng, Đấng Thánh được sinh ra bởi một Người Mẹ, mặc nhiên người Mẹ ấy phải thánh thiện trỗi vượt. Vì, Người Mẹ ấy được gọi là “ MẸ THIÊN CHÚA “.
Như vậy, “Đặc ân vô nhiễm nguyên tội” nơi Đức Mẹ thật là có cơ sở vậy. Bởi vì, “ Từ Nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở nơi Thiên Chúa Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, vì Ngôi Lời là Thiên Chúa” ( Ga 1, 1).
Mặc nhiên, người được Thiên Chúa tiền định để cộng tác vào Mầu Nhiệm Cứu Độ loài người bởi Thiên Chúa, thì Người Phụ Nữ ấy phải là “ Nguyên tuyền thánh thiện” vậy.
Vâng, đó là nguyên lý đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” nơi Đức Trinh Nữ Maria vậy.
Không ai được gọi là “Thánh “ ngoài Thiên Chúa, nhưng chính Đấng Thánh ấy, là Thiên Chúa cực Thánh , Chí Thánh, ngàn trùng Chí Thánh đã muốn “Tiền Định” sự “Thánh Thiện “ ấy cho một thụ tạo, thì ai ngăn cản được.
Xin mượn lời nhạc sĩ để cất lên lời chúc tụng Mẹ: “ Cung chúc Trinh Vương, Mẹ quyền phép khôn lường, vì Mẹ đầy ơn Thiên Chúa, Mẹ khiết trinh trọn đời …”
Lạy Thiên Chúa là Cha, xin chúc tụng ngợi khen Danh Cha, xin cùng Đức Trinh Nữ Maria cảm tạ Cha muôn vàn cao cả, Cha đã ban cho một thụ tạo được trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, để muôn đời nhân thế tôn vinh Cha, vì những kỳ công tuyệt mỹ. Xin Cha thương ban cho mọi loài thọ sinh biết nhận ra tình Cha cao vời, mà phượng thờ cho xứng hợp. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu- Kitô./. Amen.
Thánh Kinh không minh nhiên nói về việc Đức Maria ngay từ thưở ban đầu đã được gìn giữ 8/12-76
Thánh Kinh không minh nhiên nói về việc Đức Maria ngay từ thưở ban đầu đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ, nhưng lòng sùng kính cá nhân hay trong cộng đoàn địa phương đã có từ lâu. Giáo dân với lòng thành thật đã tin rằng Đức Maria đã được ơn vô nhiễm nguyên tội và lòng sùng kính mỗi ngày một tăng thêm.
Về phụng vụ, chúng ta thấy đã có những thánh lễ kính Đức Mẹ vô nhiễm từ thế kỷ thứ 9, bắt đầu từ Constantinople tràn sang miền nam nước Ý. Nhưng rõ nét nhất là thánh Anselmô thành Canterburry đã du nhập Thánh lễ này vào giáo phận của Ngài.
Vào năm 476 Đức Giáo hoàng Sixtô IV xuất thân từ dòng Anh Em Hèn Mọn, đã đem lễ này vào Giáo hội La mã.
Tuy Thánh lễ kính Đức Mẹ Vô nhiễm đã được mừng trọng thể trong toàn Giáo hội, nhưng lòng tin vào đặc sủng này còn bỏ ngỏ để các nhà thần học tự do nghiên cứu và thảo luận.
Riêng Giáo phận Bùi chu, năm 1845 là thời kỳ cấm đạo gay gắt nhất, Đức cha Valentinô Vinh coi sóc Giáo phận đã thay mặt cho giáo phận khấn với Đức Mẹ Vô Nhiễm:”Nếu cơn bách hại tan đi thì Giáo phận sẽ xây dâng kính Đức Mẹ một ngôi thánh đường xứng đáng.”.
Nhờ ơn Đức Mẹ, cơn bắt đạo qua đi, và thánh đường khấn hứa đã bắt đầu được xây cất vào năm 1917 tại làng Phú nhai (Bùi chu) và hoàn thành vào năm 1923. Nhưng mùa hè năm 1929 một cơn bão lớn đánh sập và năm 1938 việc tái thiết được hoàn thành.
Đây là ngôi thánh đường nguy nga đồ sộ, theo kiểu gothique, với chiều dài 83 mét, rộng 28 mét và tháp chuông cao 30 mét. Mới đây thánh đường Phú nhai mới được nâng lên thành “tiểu vương cung thánh đường” dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm.
TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
Sự kiện
Suốt một thời gian dài lòng sùng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm vẫn triển nở. Mãi đến ngày 08/12/1854, cũng trong ngày lễ hôm nay, Đức Giáo hoàng Piô IX, sau khi tham khảo ý kiến các Giám mục trên khắp thế giới, đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên Tội bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus”, trong đó Ngài tuyên bố:”Rất thánh Trinh nữ Maria nhờ Thiên Chúa toàn năng và nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc nhân loại ban cho ân phúc đặc biệt là ngay từ khi thụ thai đã được gìn giữ khỏi hết mọi bợn nhơ của tội nguyên tổ. Đó là tín điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế buộc mọi người phải tin vững vàng mãi mãi”.
Có lẽ Đức Mẹ muốn củng cố cho tín điều mà Đức Giáo hoàng Piô IX mới tuyên bố, thì ngày 11/02/1858 Đức Mẹ đã hiện ra tại hang đá Massabielle ở Lộ đức với một thiếu nữ 14 tuổi quê mùa dốt nát hay đau yếu nhưng đơn sơ trong trắng tên là Bernadette.
Hôm đó, Bernadette đang đi chặt củi với mấy đứa bạn thì một bà lạ mặc áo trắng như tuyết đã hiện ra với em. Bà lạ đó đã hiện ra tất cả 18 lần. Có lần em đã kể với cha sở là bà lạ muốn xây một thánh đường ở đây. Nhưng cha sở đã bảo em rằng hãy hỏi xem bà là ai ? Tên là gì ? Nhiều lần em đã hỏi nhưng bà im lặng. Cuối cùng vào ngày lễ Truyền Tin (25/03), sau khi Bernadette hỏi bà là ai thì bà chắp tay trước ngực, ngước mắt lên trời mỉm cười đáp:”Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Đây là tín điều mà Đức Giáo hoàng Piô IX đã long trọng công bố trước đó gần 4 năm.
Lý do
Tin mừng hôm nay kể lại: Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Trinh nữ Maria biết Thiên Chúa đã chọn Trinh nữ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sứ thần bắt đầu báo tin trọng đại ấy bằng một lời chào có vẻ rất tầm thường, nhưng lại chứa đựng đầu mối của mọi đặc ân nơi Đức Maria.
“Kính chào Trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có phúc ơn mọi phụ nữ”. Lời chào này đã gián tiếp đề cập đến mầu nhiệm và đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria. Bởi vì “đầy ơn phúc” (gratia plena) thì tất nhiên là không có tội. Cũng như một gian phòng, nếu đầy ánh sáng, dĩ nhiên bóng tối không còn có thể xâm nhập vào được nữa.
Chúng ta có thể tóm tắt trình bầy Đức Maria được khỏi tội tổ tông theo Thánh Kinh và thần học để hiểu rõ thêm, dĩ nhiên đây chỉ là suy nghĩ cá nhân, còn các nhà thân học có những suy nghĩ khác.
Theo Thánh Kinh
Sách Sáng thế cho biết: sau vụ rắn quỉ cám dỗ hai tổ tông phạm tội và Thiên Chúa đã ra hình phạt cho cả hai bên, Ngài còn phán tiếp với con rắn quỉ:”Ta sẽ đặt mối thù giữ mi và người đàn bà, giữa miêu duệ mi và miêu diệu người đàn bà, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi”(St 3,15).
Người đàn bà này là ai ? Chắc chắn không phải Evà, vì lẽ Evà đã phạm tội. Và theo Thánh Kinh, kẻ phạm tội thì làm tôi cho sự tội (Ga 8,34). Và kẻ làm tôi sự tội dĩ nhiên làm tôi ma quỉ. Đã làm tôi ma quỉ lại đạp nát đầu ma quỉ thì cả là một sự vô lý, khác nào con ở đánh phạt chủ nhà vậy.
Cho nên, người nữ đây phải hiểu là Đức Maria – người có quyền đạp đầu con rắn quỉ. Nhưng việc Đức Maria đạp đầu rắn quỉ không thể cắt nghĩa được nếu không nhận Ngài có quyền trên rắn quỉ, cũng không cắt nghĩa được nếu không công nhận Đức Maria không mắc tội tổ tông, vì lẽ tội tổ tông mới làm cho rắn quỉ có quyền như thế.
Theo Thần học
“Thiên Chúa ở cùng Trinh nữ”. Thiên Chúa là Đấng thánh vô cùng. Tội lỗi không thể ở chung với Thiên Chúa. Tội lỗi chống lại sự thánh thiện của Thiên Chúa như bóng tối và ánh sáng. Vậy, nếu Thiên Chúa ở cùng Đức Maria, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria làm đền thờ cho Ngài ngự, thì tội lỗi còn ở trong Đức Maria thế nào được ?
Như đã nói Thiên Chúa và tội lỗi xung đột nhau như lửa với nước, như ánh sáng và bóng tối. Nếu Đức Maria mang tội tổ tông trong lòng một trật lại cưu mang Thiên Chúa, hóa ra Người là vật hy sinh chứa đựng hai sự xung đột như trên sao ?
Thứ nữa, Thiên Chúa là Đấng vô tội – và gớm ghét sự tội, nay lại xuống thai trong lòng một người mang tội, thì chẳng ra con người có tiếng là thanh sạch mà lại gieo mình vào đống bùn nhơ sao ?
Đàng khác, Chúa xuống thế gian để kêu mời kẻ có tội (Mc 2,17; Lc 5,32) nghĩa là làm cho kẻ có tội sạch tội và nên thánh thì tại sao lại không làm cho Mẹ mình sạch tội và nên thánh, nếu thật sự Mẹ mình ít nhất là có tội tổ tông ? Do đó phải kết luận rằng Đức Maria được khỏi tội nguyên tổ là một đặc ân Thiên Chúa ban cho để Người cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu chuộc loài người.
Tuy nhiên, đặc ân vô nhiễm nguyên tội này không có lý do nào khác ngoài tình thương Thiên Chúa ban cho Đức Maria vì Thiên Chúa đã chọn Ngài làm Mẹ mình. Ngài làm cho Mẹ mình “có phúc hơn các người nữ”, nghĩa là từ người nữ đầu tiên cho đến người nữ cuối cùng đều thua kém Đức Maria.
Sách Giáo lý Công giáo cũng dạy:”Suốt dòng lịch sử, Hội thánh ý thức rằng Đức Maria vì được Thiên Chúa ban cho “đầy ơn phúc” (Lc 1,28), nên được cứu chuộc ngay từ lúc tượng thai. Đó là nội dung tín điều VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI do Đức Piô IX công bố năm 1854.
Sách Denzinger cũng còn trưng lại:”Đức Trinh nữ diễm phúc Maria đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ ố nguyên tội ngay từ lúc tượng thai, do ân sủng và tình thương đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ loài người”(DS 2803)
III. SỐNG TRONG SẠCH THEO GƯƠNG MẸ MARIA
Đặc ân vô nhiễm nguyên tội đã chuẩn bị cho Đức Maria một sứ mạng cao quí là được làm mẹ Đấng Cứu thế, làm Mẹ Thiên Chúa xuống thế làm người và làm mẹ của tất cả chúng ta.
Ngày nay, qua Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên tội, Chúa Cứu thế đã đến với chúng ta và đã thực hiện ơn cứu độ trong thế giới. Ngài đã trả lại cho con người tình trạng ơn nghĩa đã bị đánh mất vì tội nguyên tổ. Như thế, chúng ta tuy không được đặc ân vô nhiễm nguyên tội như Đức Mẹ nhưng chúng ta đã được khỏi tội nguyên tổ trong bí tích Thánh tẩy. Và khi được rửa sạch tội lỗi trong bí tích Thánh tẩy, chúng ta đã được sự sống mới, sự sống của Chúa và được có “Chúa ở cùng chúng ta” như đã ở cùng Đức trinh nữ Maria. Chúng ta không được làm mẹ Thiên Chúa, nhưng qua bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, làm em của Đức Giêsu Kitô và con của Mẹ Maria.
Trong bí tích Thánh tẩy, chúng ta đã được tha tội tổ tông, nhưng hệ lụy của tội nguyên tổ vẫn còn ảnh hướng xấu đến chúng ta. Con người chúng ta trở nên yếu đuối dễ hướng chiều về tội lỗi. Chúng ta vẫn bị ma quỉ các dỗ nhất là lỗi đức trong sạch. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria mà giữ hồn xác trong sạch, xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa.
Truyện: Bị chém đầu vì bàn tay nhơ nhớp
Người ta kể rằng: một ngư phủ nghèo nàn ở Huế ngày xưa đã rất sung sướng khi anh ta lượm được chiếc sọ của vua Gia Long (1800-1820) nổi lềnh bềnh trên dòng sông Hương (vì lăng tẩm nhà vua bị lấy trộm).
Bác ngư phủ lập tức đi tới Hoàng cung để trình bầy xương sọ của vua Gia Long cho các vị Thượng thư, dĩ nhiên, bác nghĩ rằng mình sẽ được trọng thưởng.
Và bác đã được trọng thưởng thật.
Trọng thưởng thế nào ?
Đầu tiên bác ngư phủ được nâng lên hàng Đại thần. Con cái của bác ta được hoàng gia che chở, tiền nong tha hồ tiêu. Rồi triều đình lập tức cho xây cất một đền thờ ngư phủ, hiện nay vẫn còn ngôi đền này tại Huế.
Tại sao lại phải xây cất đền thờ cho ngư phủ ?
Đó là vì: bác ngư phủ sau các tưởng thưởng kể trên đã bị điệu ra Ngọ môn để chém đầu. Bác ta bị hành quyết vì can tội dùng hai bàn tay nhơ nhớp hèn hạ của mình mà sờ vào hài cốt của một vị vua!
Ôi! Vua Gia Long là gì mà một người nhà quê đụng tới hài cốt lại phải bị chém đầu! Người ta đã quá kính trọng hài cốt của một con người đã chết mà khinh thường mạng sống của một con người. Nhưng dù sao câu chuyện đó cũng để lại cho chúng ta một bài học: đó là chúng ta phải dọn linh hồn chúng ta cho trong sạch để hằng ngày chúng ta xứng đáng rước Chúa ngự vào long.
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta hãy hạ quyết tâm: Hãy tôn sùng Đức Maria với tước hiệu “Vô nhiễm Nguyên Tội”. Hãy lấy Mẹ làm gương, sống trong sạch.
Họa sĩ Fra Angelico, một lần vẽ mặt Đức Mẹ thì suy gẫm và cầu nguyện trước, mặc dầu không bao giờ hài lòng và phải đề thêm vào bức họa: Virgo Maria, non est similis tui ( Trinh nữ Maria, không ai giống được như Mẹ). Ta cố gắng theo gương Mẹ. Mặc dầu sẽ không bao giờ giống Mẹ hoàn toàn, nhưng cũng như Mẹ đã mỉm cười với Fra Angelico, thì cũng sẽ in vào lòng ta một hai nét của các nhân đức Người, nhất là đức trong sạch.
Khi nói đến hoa là người ta nói đến sắc, đến hương. Hương sắc mỗi loài hoa lại khác nhau. Sự 8/12-77
Khi nói đến hoa là người ta nói đến sắc, đến hương. Hương sắc mỗi loài hoa lại khác nhau. Sự khác nhau tạo nên sự phong phú , đa dạng của muôn loài hoa và tạo nên cái riêng của từng loài hoa. Hương sắc càng rạng rỡ càng làm nên vẻ cao sang quyền quý cho loài hoa.
Con người yêu hoa thích hoa vì nó dễ nhìn, dễ gần. Có người thích gần, thích nhìn hoa để tìm sự thanh thản cho tâm hồn. Ngắm nhìn hoa và thưởng thức mùi hoa đề tìm cảm giác dễ chịu đến nỗi quên hết mệt nhọc hay ưu phiền.
Hôm nay chúng ta tôn vinh Mẹ Maria. Chúng ta tôn vinh Mẹ như là một đóa hoa thanh cao nhất được dâng lên Thiên Chúa. Mẹ như loài hoa Sen cũng mang những đặc tính vô nhiễm, thanh lọc, thuần khiết, kiên nhẫn và hương thơm thùy mị vì “gần bùn mà chẳng hôi tành mùi bùn”. Là thu tạo được Thiên Chúa dựng nên, nhưng Mẹ đã trở nên thụ tạo hoàn hảo nhất của Thiên Chúa. Nơi Mẹ không hề vướng mắc tội lỗi. Cuộc đời của Mẹ đã họa lại hình ảnh của Thiên Chúa hoàn toàn trong sạch, hằng yêu thương nâng đỡ mọi người. Mẹ đẹp cách hoàn hảo cả về thân xác và tâm hồn. Mẹ còn toả hương thơm ngào ngạt qua những nhân đức ma Mẹ luôn sống: trong sạch, mến Chúa và yêu người.
Tin mừng hôm nay cho ta thấy sự thanh khiết và nét đẹp trinh trong của Mẹ được bảo toàn bằng ân sủng và tình thương của Thiên Chúa. Tin mừng khởi đầu với lời chào thật kính cẩn của sứ thần: “Kính chào Bà đầy ơn sủng”. Đầy ơn sủng nghĩa là cuộc đời Mẹ đã được bao trùm bằng ân sủng của Chúa ngay từ lúc thụ thai. Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ bằng ân sủng của Ngài để Mẹ không vấn vương tội đời, không tỳ ố trong xác phàm để cung lòng Mẹ xứng đáng là đền thờ cho Con Chúa Trời ngự trị.
Nói như thế, không phải là Mẹ không có công trạng gì, vì cuộc đời Mẹ đã được định đoạt từ ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa chọn Mẹ nhưng Ngài vẫn tôn trọng ý chí và tự do của Mẹ. Mẹ vẫn sống một kiếp người bình thường như bao người khác, có khác chăng là tấm lòng Mẹ luôn thanh khiết, luôn toả sáng bằng việc chọn Chúa hơn là chọn những tạo vật trần gian. Chính vì vậy, mà từ Thiên cung Thiên Chúa đã nhìn thấy Mẹ như đóa hoa đẹp nhất trần gian. Sứ thần đã nói cùng Mẹ vì “Mẹ hằng đẹp lòng Chúa”. Mẹ đẹp rực rỡ không phải là vẻ đẹp kiêu xa bên ngoài mà là vẻ đẹp của một tâm hồn thanh khiết dành trọn vẹn cho Thiên Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng ta tạ ơn Chúa đã tạo dựng cho nhân loại một đóa hoa rạng ngời luôn tỏa hương thơm ngát là Mẹ Maria. Tạ ơn Chúa đã tặng ban cho đời một đóa hoa luôn thanh thoát, cao quý bởi tình yêu hiến dâng cho Chúa để phục vụ cho đời. Tạ ơn Chúa và nguyện cầu cùng Mẹ giúp chúng ta biết trở thành một đóa hoa thơm ngát dâng tặng cho đời và ca tụng Thiên Chúa.
Cuộc đời hôm nay rất cần những bông hoa tô thắm cho trần gian. Hoa bác ái để bớt đi những gai góc cũng tham sân si mù quáng. Hoa yêu thương rải ngập trán lối đi của danh lợi thú đang làm mất tình người. Hoa thủy chung để xây dựng lại những giá trị của gia đình đang mất dần bởi lối sống thực dụng đầy phóng túng.
Đây là những loài hoa mà Chúa đang cần trên trần gian. Ước gì đời sống ky-tô không chỉ nở hoa thơm ngát tô thắm cho trần gian mà còn là những người vun trồng, chăm sóc để dâng hiến cho đời những bông hoa tươi thắm là con cái, là bạn bè, là đồng nghiệp đang sống tốt nhờ gương sáng của chúng ta. Ước gì đời sống của chúng ta cũng luôn nở hoa bác ái yêu thương để từ trời cao Chúa luôn hài lòng về chúng ta.
Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội, Mẹ là đóa hoa đẹp nhất trần gian. Bông hoa đời Mẹ thanh khiết, không tì ô luôn đẹp lòng Chúa. Chúng con xin nương nhờ công đức của Mẹ để ơn Chúa xuống trên gia đình chúng con. Xin Mẹ cũng luôn ban phước lành cho nhân gian chúng con được bình an. Amen.
Hôm nay toàn thể Hội Thánh tôn vinh Mẹ Maria, Ðấng Tuyệt Ðẹp “ Tota Pulchra”, Ðấng đã được 8/12-78
Hôm nay toàn thể Hội Thánh tôn vinh Mẹ Maria, Ðấng Tuyệt Ðẹp “ Tota Pulchra”, Ðấng đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Một Ngài, Đấng được gìn giữ khỏi mắc tội nguyên tổ, là Ðấng đầu tiên đã được Con Mẹ cứu chuộc. Nét đẹp cao cả của Mẹ phản chiếu nét đẹp của Chúa Kitô, là bằng chứng cho tất cả mọi tín hữu về chiến thắng của Ân sủng Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết.
Tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức Chân phước Piô IX Giáo hoàng long trọng tuyên bố bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus” vào ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm, 8/12/1854, rằng: “Để vinh danh Ba Ngôi thánh thiện duy nhất, để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn khởi đức tin Công Giáo và phát triển Kitô Giáo; bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi tuyên xưng, công bố và xác nhận rằng: tín lý cho rằng rất Thánh Nữ Trinh Maria, ngay từ giây phút đầu thai của mình, nhờ ơn sủng cùng với đặc ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc loài người, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của nguyên tội, là điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế, tất cả mọi tín hữu đều phải mạnh mẽ và liên lỉ tin tưởng”. (DS 2803)
Như thế, Mầu nhiệm Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội nhắc nhớ chúng ta hai chân lý căn bản của đức tin, đó là tội nguyên tổ và nhất là sự chiến thắng của ơn thánh Chúa trên tội này, chiến thắng ấy được phản chiếu tuyệt vời nơi Đức Maria chí thánh.
Chúng ta cảm thấy sự hiện diện của tội nguyên tổ quanh chúng ta và nhất là trong chúng ta. Kinh nghiệm về sự ác thật tỏ tường đến độ khơi lên trong ta câu hỏi: sự ác ấy từ đâu mà tới? Các trang đầu tiên của sách Sáng Thế (x. St 1-3) cho ta câu trả lời. Thiên Chúa không tạo nên sự chết, nhưng sự chết đã đi vào thế giới vì sự ghen tương của ma quỉ (x. Kn 1,13-14; 2,23-24). Khi nổi loạn chống lại Thiên Chúa, ma quỉ đã lường gạt và lôi kéo cả con người theo chúng. Thiên Chúa hỏi Ađam: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư? ” Thiên Chúa hỏi Evà: “Tại sao ngươi đã làm điều đó? ” Và Thiên Chúa phán bảo con rắn: “Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi”. (St 3, 9-15. 20). Đó là thảm kịch tự do mà Thiên Chúa chấp nhận đến cùng vì yêu thương, nhưng Ngài hứa sẽ có người con của một phụ nữ đập dập đầu con rắn xưa (St 3,5); “ Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người” (St 3,5).
Nhìn vào Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp cứu độ trần thế: vẻ đẹp của Thiên Chúa chiếu tỏ rạng ngời nơi tôn nhan Chúa Kitô. Nơi Mẹ Maria vẻ đẹp này hoàn toàn tinh tuyền, khiêm tốn, được giải thoát khỏi mọi kiêu căng và tự phụ.
“Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ! ” (Lc 1, 28). Lời của sứ thần Gabriel, chúng ta không ngớt dâng lên Đức Mẹ nhiều lần trong ngày. Hôm nay chúng ta lặp lại với niềm vui không tả, trong ngày lễ Đức Maria Vô nhiễm Nguyên Tội, một mầu nhiệm cao cả, chúng ta trình bày trong Phụng vụ hôm nay! Một mầu nhiệm không ngừng thu hút sự chiêm niệm của các tín hữu và truyền cảm hứng cho sự suy tư của các nhà thần học. “Ðấng đầy ơn phúc”, đây là tên mà Thiên Chúa, qua sứ thần, muốn gọi Đức Trinh Nữ . Đó là cách Thiên Chúa đã nghĩ và nhìn đến từ trước muôn thủa.
Trong bài thánh thi của Thư gửi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô ca ngợi Thiên Chúa Cha vì Ngài “ đã chúc phúc cho chúng ta bằng mọi phúc lộc thiêng liêng ở trên trời trong Đức Kitô” ( 1, 3 ) . Thiên Chúa đã gửi cho Đức Maria phúc lành thiêng liêng ấy! Mẹ là thực sự được chúc phúc hơn các người phụ nữ (x. Lc 1: 42)! Chúa Cha đã chọn Mẹ trong Đức Giêsu Kitô từ trước khi tạo thành vũ trụ, ngõ hầu Mẹ trở nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Người. Trong tình thương, Người đã tiền định cho chúng ta được làm dưỡng tử đối với Người, qua Đức Giêsu Kitô (x. Ep 1 4-5).
Tiền định của Đức Maria, như tất cả chúng ta, trong tương quan với tiền đình của Chúa Con. Chúa Kitô là chổi non mọc lên để đạp dập đầu con rắn xưa, theo sách Sáng Thế (x. St 3 , 15) là Con Chiên không tì vết (x. Xh 12, 5 , 1 P 1 , 19) tự hiến tế để cứu chuộc con người khỏi tội lỗi.
Với tiên đoán về cái chết cứu cứu chuộc của Ngài, Đức Maria đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ và mọi tội lỗi khác. Trong chiến thắng của Adam mới, đó cũng là của Eva mới, mẹ của những người đã được cứu chuộc. Do đó Đức Maria Vô Nhiễm là một dấu chỉ niềm hy vọng cho tất cả chúng sinh, những người đã chiến thắng Sa-tan nhờ máu của Con Chiên (x. Kh 12 , 11).
Hôm nay chúng ta chiêm ngưỡng người thôn nữ khiêm hạ Nazareth thánh thiện và vô nhiễm trước nhan Thiên Chúa trong tình yêu (x. Ep 1: 4), tình yêu mà trong đó suối nguồn là chính Thiên Chúa Ba Ngôi, nhờ đó Đức Maria được Vô Nhiễm Nguyên Tội và làm Mẹ Đấng Cứu Chuộc!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người đầu tiên được cứu chuộc bởi Con Mẹ, được tham gia vào sự viên mãn rất thánh thiện của Con Mẹ, là niềm ước mơ và hy vọng của Hội Thánh, là hình ảnh cánh chung của Giáo Hội. Mẹ là Trạng Sư của chúng con, Mẹ của Vua Hòa Bình, Ðấng đạp đầu con rắn, xin phù giúp chúng con biết chống lại những cám dỗ của sự dữ; Xin Mẹ làm sống lại trong chúng con, đức tin, đức cậy và đức mến, ngõ hầu, trung thành với ơn gọi của mình, chúng con biết sống làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô, bất chấp mọi hy sinh. Và như ngôi sao sáng, xin Mẹ hướng dẫn bước đường chúng con đến gặp Chúa đang ngự đến. Amen.
Ki-tô hữu chúng ta mừng gì trong ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội? Mừng một đặc ân dành 8/12-79
Ki-tô hữu chúng ta mừng gì trong ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội? Mừng một đặc ân dành riêng cho Mẹ? hay để chúc mừng một trường hợp biệt lệ có một không hai mà quyền phép Thiên Chúa đã thực hiện cho một mình Đức Mẹ mà thôi? với mục đích làm vui lòng Mẹ, và nhờ đó sẽ được Mẹ thương ban cho nhiều ân huệ ta cầu xin? Vậy thì lễ Mẹ Vô Nhiễm có liên quan gì tới mỗi chúng ta, hoặc giả ta long trọng mừng lễ để khích lệ mình sống trong sạch và thánh thiện như Mẹ?… Những câu hỏi tương tự như thể đã lởn vởn trong đầu tôi từ lâu lắm rồi, nhưng chỉ ngại công khai nói ra. Thú thực, tôi vẫn né tránh đi tìm một giải đáp thỏa đáng vì sợ đụng chạm tới một tín điều đã từng gây quá nhiều tranh cãi trong lịch sử.
Thế nhưng âm thầm tôi vẫn tin rằng tín điều Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội phải là một gì đó liên quan rất chặt chẽ tới niềm tin của mình. Trong câu chào của Sứ thần: “Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà!” tôi vẫn thấy có một thực tế nào đó đụng chạm tới chính bản thân mình, và tới từng con người sống trên trần gian này. Phải, Đức Ma-ri-a đâu phải là người duy nhất đầy ân sủng, vì đơn giản Thiên Chúa đã cống hiến ân huệ tình yêu tha thứ của Ngài cách sung mãn cho hết thảy mọi người. Đức Chúa đâu chỉ duy nhất ở cùng Đức Maria, vì Ngài “ở cùnganh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Trong thư gửi giáo đoàn Rô-ma, Thánh Phao-lô đã khảng định nhiều lần một tư tưởng rất căn bản: “Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng đồi dào và cho trở nên công chính, thì được sống và được thống trị” (Rm 5, 17, và toàn chương 5). Như vậy, giữa một bên là A-đam phạm tội để mọi người bị nhiễm tội tổ tông, và bên kia là Đức Giê-su Ki-tô cứu chuộc để mọi người được trở nên công chính, ta phải làm nổi bật (highlight) bên nào? Theo Phao-lô thì vế thứ hai phải được nhấn mạnh hơn, vì nó “lớn lao hơn biết mấy”. Không những cần làm nổi bật Giê-su Cứu Chúa hơn là tổ tông A-đam lỗi phạm, mà còn cần phải đề cao “ân sủng … còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” hơn là trên “muôn người phải chết”. Quả thật, theo Phao-lô, “sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa” (Rm 5, 15).
Dưới nhãn quan đó, ta sẽ chiêm ngắm Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội như thế nào? Nếu ta chủ yếu nhìn lên Mẹ như một trường hợp được đặc ân miễn trừ khỏi vế thứ nhất ‘mọi người mắc tội nguyên tổ’, thì dù có cao đẹp tới mấy đi chăng nữa thì ơn cứu độ Đức Ki-tô thực hiện vẫn còn là rất đơn độc và nghèo nàn. Còn nếu ta dùng con mắt Tin Mừng để nhận ra đây là một trường hợp điển hình (prototype chứ không phải unique) của ‘muôn người được trở nên công chính nhờ ân sủng’, thì ta mới thật sự khám phá ra được ‘cái lớn lao’ mà Phao-lô muốn nhắc nhở. Nếu tâm trí chỉ tập trung vào Ma-ri-a như một người nữ con cháu E-va, độc đáo vì không bị vướng mắc tội nguyên tổ, để rồi nhạt nhòa hình ảnh một Giê-su – A-dam mới hoàn lại sự sống, sự công chính cho muôn người cách rất căn cơ và mạnh mẽ, thì đúng là ta đã chọn lấy cái yếu hơn cái mạnh, cái nhỏ mọn hơn cái lớn lao, cái biệt lệ hơn cái phổ quát. Trong Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội, ta tìm thấy có cả hình ảnh một Ma-ri-a Mác-đa-la sám hối, một tên cướp bị án phạt đóng đinh kêu cầu được Chúa xót thương; có cả hình ảnh của tôi khi quì gối ăn năn sám hối, của hết thảy mọi người trong cuộc sống ngụp lặn nơi dương thế… và nói chung của toàn thể nhân loại tội lỗi. Vô Nhiễm Nguyên Tôi không mang một nội dung biệt loại (exclusive: chỉ Ma-ri-a thôi chứ không một ai khác), mà phải mang tính bao hàm (inclusive: Ma-ri-a và mọi tín hữu, trong đó có cả mỗi chúng ta). Vô Nhiễm Nguyên Tôi phải nói được cho tôi rằng: ‘Mừng vui lên, hỡi người được đầy ân sủng, Đức Chúa xót thương và cứu độ luôn ở với bạn!’.
Ma-ri-a Vô Nhiễm phải là đại lễ của tất cả mọi người, vì Mẹ không phải là người duy nhất trên trần gian đã gắn kết cuộc đời mình cách bền chặt với Giê-su Ki-tô, mà cả tôi và mọi Ki-tô hữu cũng đã được gắn kết bền chặt qua bí tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận. Vô Nhiễm không chỉ mang nội dung thụ động ‘không vướng mắc tội nguyên tổ’ mà chứa đựng một nội dung tích cực và động hơn nhiều, đó là ‘mở rộng tâm hồn đón nhận ơn cứu độ’ và ‘nỗ lực gắn kết bền chặt hơn nữa với lòng lân tuất Chúa’, điều mà Đức Ki-tô Giê-su đã giáng thế để mạc khải và thực hiện (xem kinh tiền tụng lễ Mẹ Vô Nhiễm).
Lạy Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin cho con được cùng Mẹ không ngừng cất lời ca tụng Đức Chúa xót thương và cứu độ như Mẹ đã từng cất lên trong bài ca Magnificat. Nếu trinh trong / vô nhiễm đối với Mẹ trước hết là không ngừng rộng mở cõi lòng đón lấy ân sủng hải hà của Thiên Chúa, thì xin cho con cũng được bắt chước Mẹ không ngừng đón nhận và gắn kết bền chặt với lòng thương xót cứu độ đó trong suốt cuộc sống Ki-tô hữu, cho dầu rất yếu hèn và tội lỗi của con. A-men.
Hôm nay, cùng với Giáo hội, chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Vô nhiễm nguyên 8/12-80
Hôm nay, cùng với Giáo hội, chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Vô nhiễm nguyên tội có nghĩa là từ lúc thụ thai trong lòng mẹ là bà thánh An-na Trinh nữ Maria được gìn giữ khỏi tội tổ tông, do một ơn sủng đặc biệt của Thiên Chúa tặng ban. Và cũng từ lúc đó, Đức Maria được tràn đầy ơn phúc của Thiên Chúa, như lời tuyên xưng của Thiên thần khi báo tin được chọn làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa “Kính mừng Maria đầy ơn phúc.”
Chúng ta nhận biết Kinh thánh không ghi rõ việc Đức Maria được thụ thai trong lòng mẹ vô tội, nhưng có ám chỉ trong sách Sáng thế qua việc Thiên Chúa tuyên án phạt con rắn đã cám dỗ ông A dong và bà E-và phạm tội không vâng lời Chúa ăn trái cấm: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người nữ… dòng giống người nữ sẽ đạp vào đầu mi.” Con rắn đó được ám chỉ là ma quỉ, còn người nữ được ám chỉ về Đức Maria.
Lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội được mừng vào đúng chín tháng trước ngày sinh nhật của Mẹ Maria. Tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức giáo hoàng Pi-ô thứ 9 công bố năm 1854 như sau: “Từ lúc thụ thai, trinh nữ Maria được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ nguyên tội do ân sủng và đặc ân siêu việt mà Thiên Chúa ban tặng xét theo công nghiệp Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng cứu chuộc nhân loại.”
Chúng ta biết trước khi Đức giáo hoàng Pi-ô công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội thì Giáo hội đã mừng lễ này vào những thế kỷ trước đó, như vậy, Đức giáo hoàng chỉ tái khẳng định tín điều giáo dân đã tin và mừng kính từ lâu đời, chứ không đơn phương tuyên bố tín điều này mà không tham khảo ý kiến của Giáo hội. Vào năm 1846, Hội dồng Giám mục Hòa kỳ đã xin Tòa thánh nhận Đức Trinh Nữ Maria dưới tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội làm bổn mạng của quốc gia, và vào năm 1847 đã được Đức giáo hoàng Pi-ô thứ 9 phê chuẩn. Khi Đức Maria hiện ra với Bơ-na-đét tại Lộ Đức, nước Pháp, vào ngày 25 tháng 3 năm 1854, nghĩa là vào lần hiện ra thứ 16 trong tổng cộng 19 lần, Đức Maria đã công khai tuyên bố xác nhận: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.” Điều này càng làm cho chúng ta xác tín vào việc Đức Maria không hề mắc tội tổ tông truyền.
Chúng ta có thể tự hỏi: “Tại sao Thiên Chúa phải gìn giữ trinh nữ Maria khỏi mắc tội tổ tông?” Lý do là vì: nếu Thiên Chúa muốn cho Con Thiên Chúa sinh ra làm người trong cung lòng của người đàn bà mắc tội thì đó là điều ô nhục cho Ngôi Hai Thiên Chúa. Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội đã mang thai Đấng Cứu Thế một cách kỳ diệu do quyền phép của Chúa Thánh Thần, vì vậy Mẹ Maria đã đóng một vai trò quan trọng trong công trình cứu chuộc loài người.
Ông bà anh chị em thân mến. Đức Maria là Mẹ của Giáo hội và là Mẹ của tất cả chúng ta. Mẹ đã để lại cho chúng ta những tấm gương sáng cho chúng ta noi theo để chúng ta cũng nhận được ân sủng của Chúa ban như Mẹ. Mẹ đã sống một cuộc sống mật thiết với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện. Mẹ mở rộng tâm hồn để đón nhận Lời Chúa, và trung thành sống theo ý Chúa như lời Mẹ thưa cùng Thiên thần Chúa trong bài Tin mừng hôm nay: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.”
Một nhân đức khác mà chúng ta có thể noi gương và học từ Mẹ là đức khiêm tốn. Trinh nữ Maria không nuôi tham vọng làm mẹ Đấng cứu thế như những bà, cô Do thái bấy giờ. Nhưng nhìn thấy thấy rõ lòng khiếm tốn và đơn sơ nơi trinh nữ Maria, Thiên Chúa đã cất nhắc trinh nữ lên địa vị làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ Maria cũng muốn chúng ta noi gương yêu thương, hy sinh phục vụ giúp đỡ tha nhân và nhất là quảng đại. Sau khi được truyền tin, Mẹ đã mau mắn lên đường để hy sinh giúp đỡ bà Elizabeth, lúc đó cũng đang cứu mang Gioan trong lòng. Và sau khi sinh Con Thiên Chúa, Mẹ đã không giữ cho mình, nhưng đã quảng đại dâng hiến Chúa để chịu chết cứu chuộc nhân loại. Vì thế Mẹ Maria muốn chúng ta là con cái của Mẹ, biết noi gương và sống những nhân đức của Mẹ.
Trong ngày kính Đức Maria Vô Nhiễn Nguyên Tội, chúng ta nhớ lại ơn tái sinh khỏi tội tổ tông trong Bí tích Rửa tội hay Thanh tẩy của chúng ta. Chúng ta nhận biết trong cuộc sống Ki-tô hữu, vì phải đối diện với những thử thách và cám dỗ, chúng ta không gìn giữ được ơn vô nhiễm khỏi tội khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chúng ta cầu xin Đức Maria là Ngôi Sao Sáng dẫn lối và giúp để chúng ta cố gắng phục hồi ơn Chúa bằng cách sống theo thánh y lời Chúa dạy.
Cũng như Mẹ Maria mong đợi Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất trong lịch sử nhân loại, chúng ta đang sống trong mùa Vọng và cũng mong chờ ngày Chúa đến lần thứ hai, ngày cuối cùng của lịch sử nhân loại. Giữa hai cuộc thăm viếng này, Chúa thường đến trong tâm hồn của mỗi người chúng ta bằng ơn thánh. Cùng với Mẹ Maria, chúng ta cầu xin Chúa thánh hóa tâm hồn chúng ta thành nơi xứng đáng cho Chúa đến và ngự trị để chúng ta luôn trung thành và can đảm vâng theo và sống lời Chúa dạy bảo, và trở thành sứ giả đem tin vui mừng của Chúa đến cho những người chung quanh.
Ngôn sứ Samuel đã đặt vấn đề: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích 8/12-81
Ngôn sứ Samuel đã đặt vấn đề: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, VÂNG PHỤC thì TỐT HƠN là DÂNG HY LỄ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu” (1 Sm 15:22). Để dễ nhớ, người ta thường nói ngắn gọn: “Vâng lời trọng hơn của lễ”.
Đức vâng lời đã được tuân thủ tuyệt đối bởi một Nữ Tỳ đặc biệt của Thiên Chúa: Đức Maria, Đấng Vô Nhiễm Nguyên tội.
Động từ “nhiễm” có nghĩa là “nhuộm”. Theo nghĩa bóng, “nhiễm” là lây lan, lan truyền, thấm sang, thường ở thể thụ động và mang nghĩa xấu, Việt ngữ gọi là “lây nhiễm” – nhiễm trùng, nhiễm độc, nhiễm cái xấu,… Vô nhiễm nghĩa là không bị nhiễm.
Có những sinh vật truyền nhiễm – như vi khuẩn, virus, ký sinh, nấm,… Sức đề kháng yếu kém thì cơ thể sẽ dễ bị nhiễm trùng, bị bệnh. Sức đề kháng là khả năng phòng vệ và chống lại các tác nhân xâm nhập vào cơ thể con người. Hệ miễn dịch là một hệ thống gồm các tế bào phức tạp, các tế bào này sẽ giúp bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân gây bệnh. Muốn sống khỏe thì phải bảo vệ hệ miễn nhiễm bằng các hoạt động tốt (vệ sinh, thể dục, ngủ nghỉ,…).
Cuộc sống có nhiều thứ “nhiễm”, nhất là trong cuộc sống ngày nay: Nhiễm trùng, nhiễm độc, nhiễm xạ, nhiễm bệnh,… Về thể lý, chắc chắn không ai miễn nhiễm, nghĩa là ai cũng đã từng bị bệnh, bị nhiễm một dạng virus nào đó. Vì thế, người ta rất cần bảo vệ hệ miễn nhiễm của cơ thể, làm mạnh sức đề kháng. Thật kỳ diệu đối với một số người Phi châu, họ miễn nhiễm với HIV (Human Immunodeficiency Virus), căn bệnh thế kỷ này quen gọi theo Pháp ngữ là SIDA (Anh ngữ là AIDS). Đó là một dạng thiếu khả năng miễn nhiễm của cơ thể. Quả thật, người Phi châu có dạng “vô nhiễm” kỳ lạ biết bao!
Ngày 8-12-1854 là ngày quan trọng, mang tính lịch sử, vì đó là ngày ĐGH Piô IX đã công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội qua Tông sắc “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa Bất Khả Ngộ). Thánh Ý Chúa thật là mầu nhiệm, vì ngày 25-3-1858, chưa đầy 4 năm sau khi Giáo Hội công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, chính Đức Mẹ đã hiện ra xác nhận với Thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội” (Je suis la conception immaculée, I am the immaculate conception, Ego sum immaculata conceptio, Soy la inmaculada concepción). Dĩ nhiên khi đó Bernadette chưa thể hiểu ngay, về sau mới có thể hiểu thế nào là Vô Nhiễm Nguyên Tội. Điều này chứng tỏ Chúa Thánh Thần luôn tác động trong đời sống Giáo hội Lữ hành.
Trong cuộc sống đời thường, khi người ta “có tật” thì cũng dễ bị “giật mình”, và người ta còn thường đổ lỗi cho nhau theo “dây chuyền” bằng nhiều dạng tinh vi: Vì A, tại B, bởi C, nếu D, giá mà E,… Lỗi tại X, lỗi tại Y,… có lẽ hiếm khi dám nhận: “Lỗi tại tôi”. Cái kiểu “đổ rô, đổ trê” thế này thì nguy hại lắm, bởi vì tội lỗi cũng có tính liên đới, xảy ra theo “dây chuyền”.
Kinh Thánh hôm nay (St 3:9-15) cho chúng ta biết lý do “giật mình” của Ông Bà Nguyên Tổ. Lúc đó, Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?”. Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn”. Trước đó thì Ông Bà thường xuyên chuyện vãn với Thiên Chúa, bây giờ thì lủi đi như chim cút, mắt liên láo và không thích gặp mặt Ngài nữa. Và rồi Ngài hỏi: “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?”. Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?”. Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Ngài hỏi không phải là Ngài không biết, mà Ngài muốn tự con người xác nhận, nhưng chẳng ai dám nhận lỗi, Ông đổ lỗi cho Bà, Bà đổ lỗi cho con rắn.
Sau đó, hệ lụy tất yếu đã xảy ra, đó là lúc Thiên Chúa nói thẳng thắn với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”. Đó là cách Thiên Chúa đề cập một phụ nữ vĩ đại nhất trong nữ giới và cả nhân loại này: Trinh Nữ Maria.
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng, sau khi được Thiên Chúa trao cho một mỹ nhân, Chàng Ađam thích lắm, cứ ngỡ mình nằm mơ. Và trong khi phấn khởi khôn tả, Chàng gọi Nàng là Êva, Kinh Thánh giải thích rằng Chàng “đặt tên” cho Nàng như vậy vì Nàng là “mẹ của chúng sinh” (St 3:20).
Người phụ nữ đầu tiên và là người mẹ đầu tiên của nhân loại đã hư hỏng vì thiếu đức vâng lời – bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Thế là nhân loại mất Người Mẹ thứ nhất: Bà Êva, nhưng nhân loại lại được Thiên Chúa ban cho Người Mẹ thứ nhì: Đức Maria. Thật là mầu nhiệm đối với sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cảm thấy hạnh phúc lắm, không thể không cảm tạ Thiên Chúa theo lời mời gọi của tác giả Thánh Vịnh: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người” (Tv 98:1).
Và còn rất nhiều lý do khác để chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa. Đây là một trong các lý do đó: “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân; Người đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ítraen. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 98:2-3). Niềm vui của chúng ta cứ tăng dần, trách nhiệm của chúng ta cũng phải tăng dần, và không thể không chia sẻ với người khác: “Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát” (Tv 98:4).
Từ Cựu Ước tới Tân Ước có vô vàn các kỳ công của Thiên Chúa khiến chúng ta phải tâm phục khẩu phục và không ngừng tạ ơn Ngài. Thánh Phaolô đã lên tiếng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1:3-4).
Dâng lời tạ ơn cũng là một cách cầu nguyện, chứ không phải chỉ là cầu xin, van nài. Để cầu nguyện có hiệu quả và đẹp lòng Thiên Chúa, Thánh Faustina cho biết: “Khi cầu nguyện, chúng ta ĐỪNG NÀI ÉP Chúa ban cho điều chúng ta muốn, mà chúng ta NÊN TUÂN PHỤC Thánh Ý Ngài” (Nhật Ký, số 1525). Nghĩa là có những điều chúng ta xin nhưng không được vì không đúng Thánh ý Chúa. Thánh Phaolô giải thích: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1:5-6). Rõ ràng việc tạ ơn vô cùng quan trọng trong đời sống hằng ngày của chúng ta – những người mệnh danh là Kitô hữu.
Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn trí, nhân từ, yêu thương vô hạn, giàu lòng thương xót, Ngài chỉ muốn những gì tốt lành nhất cho chúng ta, dù đôi khi chúng ta cảm thấy trái ý, không vừa lòng. Thánh Phaolô cho biết: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã TIỀN ĐỊNH cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng THEO KẾ HOẠCH của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người” (Ep 1:11-12).
Không gì ngoài Thánh Ý Chúa, dù chỉ là một sợi tóc nhỏ nhoi cũng được Ngài quan phòng và tiền định rạch ròi (x. Mt 5:36; Mt 10:30; Lc 21:18; Cv 27:34). Trình thuật Lc 1:26-38 nói về việc Sứ thần Gáprien loan báo Hỉ Tín cho Trinh nữ Maria, một Thôn nữ đoan trang, duyên dáng, nết na và thùy mị.
Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một chính nhân là Giuse, thuộc dòng dõi Hoàng tộc Đavít. Đó là trinh nữ Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Vâng, Thôn nữ Maria rất khiêm nhường, thế nên rất ngại khi được người khác đề cao mình, nói mình là người nhân đức.
Lúc đó Sứ thần liền nói: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Cái “vụ” kia đã thấy ngại rồi, cái “vụ” này còn ngại hơn. Ui da, kỳ thí mồ đi! Bụng muốn đánh lô-tô rồi đó.
Thế nên Cô Maria ngạc nhiên lắm, Cô phân trần: “Mèn ơi! Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Nhưng Sứ thần xác định ngay: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Chị. Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa, Cô Êlisabét, người họ hàng với Chị, tuy già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Nghe xong nhẹ cả mình. Vâng Thôn nữ Maria hiền thục và luôn một niềm tín thác nơi Thiên Chúa. Bấy giờ, Trinh nữ Maria không cần đắn đo, nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Thế là hoàn thành sứ vụ, rồi sứ thần từ biệt ra đi…
Chắc hẳn trình thuật Tin Mừng hôm nay như một thước phim hay, chúng ta đã biết rõ và quá quen thuộc, hầu như thuộc lòng, thế mà chúng ta vẫn không cảm thấy nhàm chán. Thật là kỳ diệu quá chừng! Ước gì mỗi chúng ta cũng biết luôn tín thác vào sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa để có thể mau mắn “xin vâng” như Đức Mẹ, vâng lời ngay trong những đoạn đường tối tăm gian khổ nhất của cuộc đời.
Cùng với Đức Mẹ, đặc biệt trong niềm hân hoan kính mừng Đức Mẹ Vô Nhiễm, mỗi chúng ta hãy chân thành thân thưa với Thiên Chúa: “Xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ” (Tv 119:34).
Lạy Thiên Chúa toàn năng và chí ái, chúng con cảm tạ Ngài đã thương ban cho chúng con một Người Mẹ nhân đức tuyệt vời, xin giúp chúng con luôn biết tuân phục Thánh Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Lạy Thánh Mẫu Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin nguyện giúp cầu thay chúng con còn đang lưu lạc nơi thung lũng nước mắt trần gian này, xin bảo vệ chúng con cũng được “miễn nhiễm” với tội lỗi và mọi mưu ma chước quỷ, xin thương cầu bầu cùng Chúa cho chúng con bây giờ và trong giờ lâm tử.
Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Có lẽ không ai xa lạ với Đoạn Lời Chúa ( Lc 1, 26 -38) hôm nay, được Giáo Hội chọn đọc cho 8/12-82
Có lẽ không ai xa lạ với Đoạn Lời Chúa ( Lc 1, 26 -38) hôm nay, được Giáo Hội chọn đọc cho ngày LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI . Điều nầy, một lần nữa Giáo Hội xác tín “Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội”, mà Thiên Chúa ban cho Đức Trinh Nữ Maria qua định tín bởi Đức Thánh cha Piô IX ngày 08/12/1854.
Như chúng ta biết, Tín Điều “VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI” là một trong bốn tín điều cao trọng nhất, mà Thiên Chúa ân ban cho Đức Trinh Nữ Maria.
Một là: Vô Nhiễm Nguyên Tội
Hai là: Trọn Đời Đồng Trinh
Ba là: Hồn Xác về Trời
Bốn là: Mẹ Thiên Chúa
Vâng , hôm nay hiệp cùng muôn vàn thần thánh trên trời, Giáo Hội toàn cầu long trọng một lần nữa tuyên tín và cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho người “ Tỳ Nữ ” của Chúa một đặc ân trọng đại, đó là Đức Trinh Nữ Maria, ĐẤNG VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI.
Vâng , mỗi lần nhắc lại “Định Tín “ trên, là mỗi lần mừng kính trọng thể một đặc ân thật cao trọng mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ.
Vâng, “Bà gồm mọi phước lạ, và GIÊSU, Con lòng Bà gồm phước lạ…”
“Tỳ Nữ” có nghĩa là: “ người tớ gái”, vâng, Đức Mẹ xác tín cách tỏ tường như vậy, mặc nhiên, ngoài Ngôi Hai Nhập Thể ra, thì không một thụ tạo nào có được diễm phúc như Đức Mẹ. Vì sao ? Thưa quý vị. Thưa, vì Đức khiêm nhường thẳm sâu, từ một thụ tạo “thấp hèn “, vâng, Mẹ , thưa như vậy, và quả thật như vậy. Từ đó, “giây phút ” Mẹ nhận Truyền Tin , đồng thời, là “ giấy phút ” Mẹ thưa Tiếng “ XIN VÂNG”, (Fiat) chính là “GIÂY PHÚT NHẬP THỂ” của Ngôi Hai Thiên Chúa làm Người.
Mặc nhiên, “giây phút “ ấy chính là “Giây Phút “ Mẹ nhận được “ Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Vì sao vậy ? Thưa, bởi vì: “Mẹ đã đáp Lời Thiên Chúa” một cách chân thành tuyệt đối, một thụ tạo thấp hèn mặc nhiên, chưa “khỏi tội nguyên tổ ”. Nhưng, Mẹ hoàn toàn tín thác cách trọn vẹn vào Lời “Hứa” ban Đấng Cứu Độ. Tiếng thưa “XIN VÂNG” của Mẹ không phải chỉ lấy lệ, cho qua, mà là một “ kỳ công”, bởi vì, một sự “ lạ lùng” được trao cho một người “thấp hèn” như Mẹ. vì, đây là ”quyền năng ” bởi Thiên Chúa tối cao, chứ không do phàm nhân.
Chúng ta thấy, tâm tình của Mẹ thật xứng hợp, Mẹ không tự hào là: “ Mẹ xứng đáng” lãnh nhận sự trọng đại ấy. Bởi vì, Mẹ cảm nghiệm được ơn Chúa thật bao la, quá đỗi cao cả, Mẹ không hề biết được những gì là “trọng đại”, mà Thiên Chúa sẽ thực hiện, nhưng tâm hồn “thấp hèn” của Mẹ, Mẹ đã “ ưng thuận “. Vâng, sự đồng ý ở đây là , Mẹ muốn cho “công trình” của Thiên Chúa được thực hiện. Điều ấy , có nghĩa là: “Tâm hồn “ thánh kiết vẹn tuyền của Mẹ tuy chưa nhận được đặc ân “ Vô Nhiễm Nguyên Tội” trước lúc thưa tiếng: “ XIN VÂNG ”. Và , ngay khi thưa tiếng “xin vâng”, thì như chúng ta biết, “ mọi sự “ đã trở nên kỳ diệu”, bởi vì ngay “GIÂY PHÚT “ ấy , Ngôi Hai đã “từ trời xuống thế”, Bởi Phép Chúa Thánh Thần. và , mặc nhiên là ” THÁNH THAI “ đã ngự vào cung lòng của Mẹ. Như vậy, Đặc Ân khỏi tội Nguyên Tổ của Mẹ đã nghiễm nhiên trở thành hiện thực. Như vậy, đặc ân “ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI” ngay từ giây phút đó đã dẫn đưa Mẹ đến với ơn “Cứu Độ ”. bởi vì, Mẹ cũng phải được cứu độ bởi Đấng Cứu Thế. Chúng ta đừng “lầm” tưởng rằng: Đức Mẹ được ơn “Vô Nhiễm Nguyên Tội” trước lúc thưa “Tiếng xin vâng”, không phải vậy, bởi vì, Mẹ được lãnh nhận “Đặc Ân” “Vô Nhiễm Trinh Thai” là như vậy, chứ không phải là Mẹ nhận lãnh “ ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội” trước khi thưa “ tiếng Xin Vâng”.
Vì, Đặc Ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” được ban cho Đức Mẹ, là một ơn hoàn toàn nhưng không, hoàn toàn tự do, và như thế, Thiên Chúa không ban cho Đức Mẹ đặc ân “ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI” trước khi Đức Mẹ” tự nguyện “ ưng thuận cộng tác vào ơn Cứu Độ bởi Thiên Chúa.
Vì như vậy, mầu nhiệm Truyền Tin , đồng thời là mầu nhiệm tràn đầy ân sủng dành cho bất cứ “ người nào” có “tâm hồn “ như Mẹ. vì, giả sử Đức Mẹ không thưa “ tiếng xin vâng”, thì Đức Mẹ vẫn có quyền như thế, nhưng, mặc nhiên, ân sủng không đến với Mẹ. Từ đó, suy ra “ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội” nơi Đức Mẹ không có trước “Tiếng Xin Vâng”.
Như vậy, Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận nhận Chúa Cứu Thế, thì mặc nhiên, Mẹ được nhận lãnh: ” Bốn đặc ân “ trên, nhưng, một trong bốn đặc ân đó là: Đặc Ân “ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI “ là đặc ân “dẫn đầu” cao trọng nhất .
Giáo Hội sắp xếp thật phù hợp, lễ kính trọng thể Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Mùa Vọng, là mùa “sám hối” sự sám hối của Mùa Vọng khác với sự sám hối của Mùa Chay. Sự “dọn đường” cho Đấng Cứu Thế đến trong Lễ Giáng Sinh, mặc nhiên phải là một tâm hồn “ vô nhiễm”. Đức Mẹ được nhận lãnh Ơn Vô Nhiễm hoàn toàn là Mẹ đã chuẩn bị “tâm hồn “ để đón Chúa. Một tâm hồn trong trắng, thuần khiết tự nhiên của Mẹ cùng với sự đón nhận “Thánh Thai “là Đấng Cứu Thế là ơn VÔ NHIỄM siêu nhiên, mặc nhiên Mẹ được nhận lãnh đặc ân “ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI” là điều hợp lẽ.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, chúng con xin cảm tạ Thiên Chúa vì Hồng Ân diễm phúc là Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội đã ban cho Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Ngôi Hai Nhập Thể, đồng thời là Mẹ loài người chúng con, xin thương ban cho chúng con, nhờ lời cầu bàu cùa Mẹ, biết noi gương bắt chước tâm tinh của Đức Mẹ mà vâng theo Thánh Ý Chúa trong mọi sự, hầu đáng hưởng phúc Thiên Đàng cùng với Mẹ. Amen.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tôn vinh Mẹ Maria được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu 8/12-83
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tôn vinh Mẹ Maria được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ.
Đặc Ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là bằng chứng về sức mạnh của Ân Sủng trên tội lỗi và sự chết. Phụng vụ đang ở giữa chặng đường Mùa Vọng. Thời gian chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trần gian. Giữa “màu tím đợi chờ và hy vọng” chợt bừng lên “màu trắng tinh tuyền” của ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Ý nghĩa phụng vụ gắn liền với thời điểm quan trọng của lịch sử cứu rỗi. Cánh cửa thiêng liêng mở ra cho Dân Chúa bước tới cử hành mầu nhiệm Nhập Thể.
Trong hai thế kỷ sau cùng của thiên niên kỷ thứ hai, liên tiếp có hai chân lý về Đức Maria đã được Giáo Hội định tín. Đó là: tín điều “Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” (8.12.1854) và tín điều “Đức Maria Hồn Xác Lên Trời” (1.11.1950). Qua hai tín điều này, Giáo Hội tuyên tín và khái quát về toàn bộ chương trình cứu độ của Thiên Chúa ở hai tận cùng của lịch sử. Một khởi đầu sáng tạo với vẽ đẹp “Vô Nhiễm Nguyên Tội”, và cuối cùng, với công trình Nhập Thể – Cứu Chuộc của Chúa Con, toàn thể nhân loại lại được nâng lên trong ánh quang phục sinh như “Đức Maria hồn xác lên trời”.
Lòng sùng kính Đức Maria là cả một cảm nghiệm sâu xa của niềm tin Dân Chúa qua dọc dài lịch sử với nền tảng Thánh Kinh và Thánh Truyền.
Sách Sáng thế kể rằng: con người được tạo dựng trong yêu thương và được ân ban cuộc sống hạnh phúc ngay từ thuở ban đầu. Tuy nhiên, địa đàng hạnh phúc ấy không may đã khép lại với nguyên tổ. Đánh mất địa đàng, con người cũng mất luôn hạnh phúc được chia sẻ sự sống thân mật và vĩnh hằng với Thiên Chúa. Cái chết đã trở thành một bản án chí tử. Thiên Chúa tình yêu đã hé mở chân trời hy vọng: “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó. Người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi”. Đó chính là “Tin Mừng đầu tiên”, Tin Mừng nguyên thủy. Niềm hy vọng trải dài xuyên suốt lịch sử con người từ buổi hồng hoang cho đến ngày Lời hứa được thực hiện.
Từ cuộc “đỗ vỡ ban đầu” của Nguyên tổ, Thiên Chúa đã quyết định thực hiện một chương trình cứu rỗi diệu kỳ. Đức Maria đã được chọn từ muôn thưở: “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ”. Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Người, sinh bởi người nữ, sinh dưới quyền lề luật, để cứu chuộc những kẻ dưới quyền lề luật, ngõ hầu ta được chịu lấy quyền nghĩa tử” (Gl 4,4). Chính người Con đó, Đức Giêsu Kitô, sẽ thực hiện lời hứa “đạp dập đầu con rắn” mà Thiên Chúa đã công bố thuở xưa. Người nữ đó chính là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đấng Cứu Chuộc. Đức Trinh Nữ ấy đã được Đức Piô IX long trọng công bố trong tín điều Vô Nhiễm: “Ta tuyên bố rằng Đức Trinh Nữ rất thánh đã được gìn giữ khỏi mọi tì ố tội tổ tông… ngay từ buổi đầu tượng thai”.
Như thế, rõ ràng mầu nhiệm “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là một lộ trình đức tin của Dân Chúa. Đặc Ân này, huyền nhiệm này nắm giữ một vai trò, một ý nghĩa, một điều kiện có tính quyết định trong con đường dẫn tới hạnh phúc vĩnh hằng của nhân loại. Nói cách khác, Đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” của Đức Trinh Nữ Maria chính là “Tin mừng về cuộc chiến thắng của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa”.
Tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội bắt nguồn từ trong Thánh Kinh và lớn lên trong đức tin đơn thành và bình dân của tín hữu thời Giáo Hội Sơ Khai. Ngay từ thế kỷ thứ II, các Thánh Giáo Phụ Justinô và Irénée de Lyon đã ngợi khen sự thánh thiện của Đức Maria. Giáo Hội Đông Phương đã mừng Lễ Mẹ Vô Nhiễm từ thế kỷ thứ VII. Vào năm 1432, công đồng Bâle đã coi mầu nhiệm này như một tâm điểm của lòng tin.
Vào thế kỷ XIX, sau khi Đức Mẹ hiện ra với Thánh Catherine Labouré tại nguyện đường nhà Dòng Nữ Tử Bác Ai năm 1830, sau đó Đức Thánh Cha Piô IX đã long trọng ban bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội vào ngày 8.12.1854. Bốn năm sau đó, vào ngày 25.3.1858, Đức Mẹ hiện ra tại hang đá Massabielle Lộ Đức, với thánh nữ Bernadette Soubirous. Đức Mẹ đã xác nhận tín điều trên đây khi tự xưng mình là “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”.
Đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” tô thắm vẽ đẹp tuyệt mỹ của Đức Mẹ. Mẹ đầy ơn Chúa. Sứ Thần cung kính thưa với Mẹ rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Ðấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (x.Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 12).
Tước hiệu “Bà đầy ơn phước” xác nhận lòng Đức Mẹ không có chổ dành cho tội lỗi vì luôn được đầy tràn ơn phước của Thiên Chúa.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”: Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó bóng tối của tội lỗi không thể có mặt. Mẹ luôn sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa.
“Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ” vì Mẹ là người duy nhất không vướng mắc tội tổ tông. Mẹ đẹp thánh thiện. Mẹ đẹp cao quý. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là một biểu hiện cụ thể và tròn đầy kết quả viên mãn của ơn cứu độ do Đức Kitô mang lại cho phần tử ưu tú nhất của nhân loại. Đức Maria gắn bó mật thiết với mầu nhiệm “Con Chúa xuống thế làm người” như sách Giáo Lý đã viết: “Để làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria “đã được Chúa ban cho nhiều ơn xứng với nhiệm vụ cao cả ấy”. Những đặc ân của Đức Maria có được là kết quả đi trước nhờ cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, như sách Giáo Lý xác tín: “Mẹ có được sự thánh thiện tuyệt vời, có một không hai “ngay từ lúc tượng thai” hoàn toàn là do Đức Kitô: Mẹ được cứu chuộc cách kỳ diệu nhờ công nghiệp Con của Mẹ” (GLCG # 56). Ngoài ra, Đặc ân Vô Nhiễm cũng còn tiên báo hình ảnh đích thực của Hội Thánh vào ngày cánh chung, ngày mà Dân Chúa sẽ được tác thành như “một trinh nữ vẹn toàn”. Tất cả những nội dung đó đã được tóm kết trong Kinh Tiền Tụng ngày lễ hôm nay:“Chúa đã gìn giữ Đức Trinh Nữ Maria rất thánh khỏi mọi vết nhơ nguyên tội, để chọn Người đầy ơn phúc xứng đáng làm Mẹ Con Chúa, và chỉ cho chúng ta thấy nơi Người là khởi điểm Hội Thánh xinh đẹp, không vết nhăn, là bạn Con Chúa”.
Mẹ Maria chính là thụ tạo đầu tiên hưởng được lời hứa cứu độ mà Thiên Chúa công bố ngay buổi đầu với Nguyên tổ.
Với Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria trở thành một chứng nhân cụ thể cho tình yêu bao la của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại. Chính vì thế, trong ngày lễ hôm nay, Giáo Hội đã mượn lời Thánh Vịnh 97 để cùng hát lên trong hân hoan cảm tạ: “Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới.Vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng…Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân…mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta…”
Với Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria được quyền năng và tình yêu Thiên Chúa đổ tràn. Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng Mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Đặc ân cao trọng này chính là sự thánh thiện tinh tuyền của Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Giáo Hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Mẹ Vô Nhiễm là một dấu chỉ niềm hy vọng cho tất cả nhân loại, những người đã chiến thắng Satan nhờ máu của Con Chiên (x. Kh 12 , 11).
Năm 1492, hơn 500 năm trước đây Colombô đã khám phá ra Châu Mỹ. Ông đã dùng con tàu mang tên: Maria Vô Nhiễm. Colombô đặt tên cho hòn đảo đầu tiên ông đặt bước chân là San Salvador để tôn kính Đấng Cứu Thế. Hòn đảo thứ nhì mang tên Conception, Mẹ Vô Nhiễm để tôn kính Mẹ Chúa Kitô.
Vào năm 1673, hơn 300 năm trước, cha Monquette, một linh mục thám hiểm gan dạ, người đầu tiên tới sông Mississipi, một thác nước khổng lồ chạy dài 3.000 km xuyên qua 10 tiểu bang Hoa Kỳ. Ngài đặt tên cho con sông miền Tây này là “Maria Vô Nhiễm”.
Balboa và Cortez, hai nhà thám hiểm nổi tiếng cũng có lòng tôn sùng Maria Vô Nhiễm.
Giáo dân Việt Nam rất sùng kính Đức Maria Vô Nhiễm. Năm 1960 khi thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam, các Giám mục đã dâng đất nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm.
Cử hành lễ Mẹ Vô Nhiễm giữa Mùa Vọng, cộng đoàn chúng ta được nhắc nhở thêm nữa về thái độ sửa dọn tâm hồn xứng đáng để đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh, nhất là để từng ngày cộng tác với Ân Sủng hầu biến cuộc sống trở thành một mãnh đất tốt để Lời Chúa kết trái đơm hoa, như mãnh đất tâm hồn trong trắng của Đức Maria, tinh hoa của bao ngàn năm mong đợi. Đức Mẹ đã chuẩn bị một lễ Giáng sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng chín tháng cưu mang trong tình yêu.
Xin Mẹ cũng giúp chúng con chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh với tâm tình yêu mến như Mẹ. Amen.
Ca dao tục ngữ có câu: canh suông khéo nấu thì ngon, mẹ già khéo nói thì con đắt chồng. Lại cũng 8/12-84
Ca dao tục ngữ có câu: canh suông khéo nấu thì ngon, mẹ già khéo nói thì con đắt chồng. Lại cũng có câu: con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Đúng là vị trí của người mẹ trong cuộc sống thật quan trọng, mẹ là nải chuối buồng cau, mẹ là ngọn gió đưa êm, mẹ là dòng suối mơ huyền bao la. Cuộc đời đầy người tốt, nhưng tốt hơn cả vẫn là “mẹ”, gian khổ cuộc đời ai cũng có, mà khổ nhất là “mất mẹ”, chẳng thế mà dân gian có câu: mồ côi mẹ liếm lá gặm xương!
Sinh ra làm người, ai cũng có mẹ; sinh ra làm con Chúa, chúng ta còn biết đến người Mẹ thiêng liêng nữa: Mẹ Maria. Mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm, chúng ta lại được nhắc nhớ đến ví trí quan trọng của người mẹ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Người phụ nữ duyên dáng xinh đẹp, thời nào cũng có; nhưng phụ nữ hoàn hảo, đức độ, Thiên Chúa đã gặp nơi Trinh Nữ Maria. Xem ra tiêu chí đẹp toàn diện chưa đủ, Sứ thần của Chúa còn cần thiếu nữ Maria thể hiện được niềm tin, phải tự do nói và sống lời thưa vâng trong suốt cuộc đời trần thế.
Trinh Nữ Maria chính thức làm Mẹ Đấng Cứu Thế, sau lời khiêm tốn thưa vâng. Đức Maria chính thức là Mẹ Hội Thánh, là Mẹ của chúng ta trước khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng trên cây thập giá. Người đời ví von rằng: có cha có mẹ thì hơn, không cha không mẹ như đờn đứt dây. Đức Giêsu thật là hạnh phúc, vì cả cuộc đời của Ngài là có Mẹ có cha, dù các ngài rất âm thầm nơi mái nhà Nagiarét, hoặc đầy lo lắng trong khi thất lạc và tìm thấy trẻ Giêsu ở Giêrusalem.
Để diễn tả tình mẹ con, người xưa nói rằng: dù con lớn vẫn là con của mẹ, đi hết cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con. Khi hay Đức Giêsu có dấu hiệu bất thường, mất trí, Mẹ Maria vội vã tìm gặp Con, rồi trên đường thập giá, đứng dưới chân thập giá, người Mẹ dù tan nát cõi lòng, nhưng không bỏ cuộc. Ở đời vẫn quan niệm: càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan; tương lai càng sáng, cạm bẫy càng nhiều. Với Đức Maria, Sứ thần truyền tin đã chào chúc, đã trấn an: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa cùng Chúa”. Như vậy, phải chăng càng dồi dào ơn Chúa, càng bớt gian khổ ? Hay càng ngập tràn tình Chúa, càng bớt ưu tư sợ hãi ? Mỗi người hãy suy tư và cầu nguyện đi ? Câu trả lời sẽ thuộc về mỗi chúng ta.
Thế giới này, vốn dĩ chứa đựng rất nhiều đau khổ, mỗi người đều phải đối mặt và kinh qua đau khổ, nhất định không ai là ngoại lệ. Về cuộc đời có Mẹ, hẳn Chúa Giêsu là rõ nhất, còn kinh nghiệm có Mẹ Maria, hẳn mỗi tùy mỗi người mỗi khác. Chỉ biết rằng, chân lý đau khổ ở đời này là có thật, dù là người thông thái, hoặc là kẻ khờ dại nhất, không thể có sự khác biệt. Đức Maria dù đã thưa vâng, đã xác tín vào tình yêu Chúa, nhưng không phải không có đau khổ và nước mắt trong ơn gọi làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Hành trình đời người Kitô hữu chúng ta hôm nay thì sao ? đau khổ và hạnh phúc sẽ không phân tách để ta chọn lựa! Thiên Chúa ở cùng Đức Maria và theo Đức Maria suốt hành trình đức tin, dù Maria đã sống lời thưa vâng trọn vẹn nhất, dù tâm trí Đức Maria lúc đó chưa thể hiểu hết thập giá vinh quang là gì. Thiên Chúa có thể làm những điều kỳ diệu nơi mỗi người chúng ta, như đã thực hiện nơi thiếu nữ mang tên Maria, nhưng Ngài luôn tôn trọng tự do của con người. Cuộc đời của chúng ta luôn có Mẹ, nhưng ngoài việc thể hiện niềm tin qua đau khổ thập giá đến vinh quang phục sinh, mỗi người hãy cùng Mẹ Maria nói và sống lời thưa vâng. Amen.
Ngày 25-3-1858 tại Lộ Đức, Đức Mẹ lại hiện ra cho Bernadette, một cô bé mười bốn tuổi, nhà 8/12-85
Ngày 25-3-1858 tại Lộ Đức, Đức Mẹ lại hiện ra cho Bernadette, một cô bé mười bốn tuổi, nhà nghèo, quê mùa.
Vào lần hiện ra thứ mười sáu, khi cô gặng hỏi tên của Bà đẹp, Bà đã trả lời: Que soy era Immaculada Conception, Ta là sự Thụ thai vô nhiễm. Một câu trả lời khó hiểu và khó nhớ đối với một cô bé ít học. Dĩ nhiên cô không hề biết rằng bốn năm trước đó, Đức Piô IX đã công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm nguyên tội. Mừng lễ Đức Maria Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ. Thiên Chúa muốn Con Một của mình làm người trăm phần trăm, nên cần tuyển chọn một phụ nữ để sinh ra người Con ấy. Maria chính là người được chọn, hoàn toàn như một ân huệ. Khi chọn Maria, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ mọi sự tốt đẹp nhất có thể, vì ơn gọi quá vĩ đại là làm Mẹ Con Thiên Chúa. Maria được Thiên Chúa bao bọc và bảo vệ bằng ân sủng tuyệt vời. Ngài cho Mẹ được hưởng trước công nghiệp của Người Con, nên gìn giữ Mẹ khỏi vết nhơ của nguyên tội. Mừng lễ Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ, ngay từ giây phút đầu tiên được thụ thai, đã trọn vẹn và tuyệt đối nằm trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa. Khi nói Mẹ không nhiễm vết nhơ của nguyên tội là chỉ mới nêu lên một khía cạnh có phần tiêu cực. Theo Công Đồng Vaticanô II, từ giây phút hiện diện đầu tiên của cuộc sống, Mẹ đã được rạng ngời một sự thánh thiện hoàn toàn độc nhất vô nhị. Giáo Hội Đông Phương gọi Mẹ là Đấng toàn thánh (panagia). Sự thánh thiện của Mẹ đã được sứ thần Gabrien diễn tả qua lời chào: ”Mừng vui lên, hỡi Đấng được đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà.” Maria được Thiên Chúa ban đầy tràn ân sủng, nghĩa là được Thiên Chúa yêu thương, và được đẹp lòng Thiên Chúa, từ trước khi Mẹ nói tiếng Xin Vâng. Nhưng ân sủng không bóp chết sự tự do và trách nhiệm. Mẹ đã đáp lại tình yêu đó với sự cởi mở không ai sánh bằng. Tiếng Xin Vâng trên môi của cô thiếu nữ Maria là cử chỉ đón lấy Đấng Cứu Độ vào đời mình, vào lòng dạ mình. Maria đã suốt đời trung tín với tiếng Xin Vâng đầu tiên bằng việc nói muôn tiếng Xin Vâng khác cho đến tận thập giá. Những gì Mẹ Maria được hưởng, chúng ta cũng được chung phần. Chúng ta cũng được chọn, được tẩy xóa tội nguyên tổ, được ban ơn. Chúng ta cũng được mời gọi đáp lại bằng những tiếng Xin Vâng nho nhỏ. Sống Mùa Vọng là để cho Con Thiên Chúa đi vào đời mình. Như Đức Maria, chúng ta được mời gọi cưu mang Con Thiên Chúa, làm cho Ngài lớn lên mỗi ngày và sinh Ngài ra thế giới. Chúng ta cũng muốn cưu mang Giêsu với trái tim cuộc đời vô nhiễm. Xin Chúa cho chúng ta được chia sẻ ơn Vô Nhiễm giữa cuộc đời ô nhơ.
Cầu nguyện:
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối. Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền. Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung thành và quảng đại, không quên ơn, không báo oán. Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn, yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác. Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những kẻ vô ơn, không chán nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
Nhà thơ Dương Hoàng một lần trở về con đường cũ , con đường đầy kỷ niệm thời niên thiếu. Con 8/12-86
Nhà thơ Dương Hoàng một lần trở về con đường cũ , con đường đầy kỷ niệm thời niên thiếu. Con đường ấy, lối đi cũ ấy vẫn còn đó, nhưng giờ những yêu thương của ngày xưa đã hết rồi. Và ông đã trải lòng mình qua những vần thơ như sau: Lối đi nhỏ đã phủ đầy màu tím Con đường quen màu kỷ niệm một thời Xưa lối mòn ta đứng ngắm chiều rơi Chờ tia nắng cuối cùng rời mặt đất Nhớ về con đường cũng là nhớ về những người mà ta đã gặp hay đã từng song hành với ta trên con đường đó đến trường hay đến nương rẫy, công trường. . . Con đường cũ lối đi còn in đó Một thuở nào đường lộng gió thương yêu Nhưng hôm nay : Con đường đó giờ trở thành xa lạ Ôi nhớ lắm nơi này đầy kỷ niệm Con đường vẫn thế nhưng con đường ấy không còn lộng gió thương yêu của sự quan tâm, chia sẻ, nâng đỡ nhau mà tất cả đều xa lạ, tất bật, vội vã như những robot vô hồn đi qua cuộc đời nhau. Rồi nhẹ bước trong vô hồn khắc khoải Có nhớ thương ngày ấy cũng xa rồi Cho tím buồn cùng với nỗi đơn côi… Mục đích của con đường là để gần nhau hơn, để gặp gỡ và sống chia sẻ với nhau. Nhưng con đường hôm nay đều mở vì kinh tế, vì đồng tiền nên đường mở to và mở nhiều mà con người lại ít có thể gặp nhau. Dù có song hành cùng nhau nhưng vẫn cô đơn lạc lõng giữa cuộc đời Hôm nay thánh Gioan bảo sửa đường cho Chúa đến. Con đường nào chúng ta cần phải sửa hôm nay? Có lẽ đó là con đường yêu thương, con đường của tình làng nghĩa xóm, con đường gặp gỡ và chia sẻ với nhau trong mọi vui buồn. Gioan nhắc lại lời ngôn sứ Isaia: “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, p hải san cho phẳng (Lc 3,5). Gioan muốn sửa lại con đường của lòng người để có thể đến với nhau. Nếu lòng người còn đầy hố sâu của tham lam ích kỷ thì hãy lấp đầy yêu thương chia sẻ cho nhau. Nếu lòng người còn những lối nghĩ quanh co, lệch lạc phải uốn cho thẳng để sống chân thành ngay chính với nhau. Nếu lòng người còn đầy tính tự kiêu, tự mãn phải san bằng cái tôi của mình để sống hòa hợp, hòa nhã với tha nhân. Nếu cuộc sống còn nhiều những gồ ghề của phe nhóm, của bất công thì hãy bạt đi những lợi ích nhóm để sống hiệp nhất và tôn trọng lẫn nhau. Người ta nói: con đường là do lối mòn đi nhiều sẽ thành. Người ky-tô hữu hãy can đảm mở lối cho mọi người. Hãy mở một con đường tình yêu, lòng cảm thông, quan tâm tới tha nhân. Hãy mở con đường chân thiện mỹ bằng chính đời sống của mình. Qua đó Chúa sẽ đến với tha nhân qua lối mòn yêu thương mà các tín hữu đã tạo ra nên trong cuộc sống hôm nay. Hãy làm chứng cho nhân loại thấy một chân dung đầy yêu thương của Chúa. Hãy mang Chúa đến một cách cụ thể cho những mảnh đời bất hạnh quanh ta. Họ có thể là người nghèo, là người già nua, là người bệnh tật. . . Họ có thể là những người đang cô đơn vì ly dị, hay bị giầy vò lương tâm khi đang sống rối vợ rối chồng . . . Họ có thể là những đứa trẻ đang bị lạm dụng khi phải bươn chải bán vé số, đánh giày, nhặt ve chai . . . Thế nên, mùa vọng mời gọi chúng ta hãy mang Chúa đến để thăm viếng nâng đỡ những người khổ đau. Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em. Xin Chúa gíup chúng ta biết sám hối để chỉnh lại lối mòn ích kỷ và tội lỗi của mình để qua đó chúng ta mới xứng đáng là sứ giả dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với anh em. Amen Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Gio-an là con của hai ông bà Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét (hay I-sa-ve), và đã được hòai thai cách khác thường (x. Lc 1,57-68). Từ nhỏ, ông đã sống khắc khổ chay tịnh trong hoang địa như ngôn sứ Ê-li-a (x. Mc 1,6). Sau đó ông được kêu gọi làm ngôn sứ để loan báo tin mừng Đấng Thiên Sai (x. Lc 1,76). Ông thi hành sứ mệnh tại vùng sông Gio-đan. Chính ông đã làm phép rửa cho Đức Giê-su và đã được chứng kiến cuộc Thần hiện xảy ra sau khi Người chịu phép rửa (x. Mt 3,16-17). Sau đó ông bắt đầu giới thiệu Người là Chiên Thiên Chúa (x. Ga 1,29), và khuyến khích hai đồ đệ bỏ mình đi theo làm môn đệ Người (x. Ga 1,35-37.43). Ông cũng loan báo về Đấng Thiên Sai sắp đến (x. Mc 1,7-8) và khiêm tốn nói rằng: “Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người… Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,28.30). Cuối cùng Gio-an đã kết thúc cuộc đời tiền sứ bằng cái “chết vì lẽ công chính” ở trong nhà ngục (x. Mt 14,3-12), vì đã dám khiển trách tội loạn luân của vua Hê-rô-đê (x. Lc 3,19). Đức Giê-su đã khen Gio-an: “Trong số các phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không ai cao trọng hơn Gio-an” (Lc 7,28).
– HỎI 2: KỶ NGUYÊN CHUNG HAY CÔNG NGUYÊN LÀ GÌ? CÔNG NGUYÊN CÓ TỪ KHI NÀO VÀ DO AI SÁNG LẬP? KỶ NGUYÊN CHUNG DỰA TRÊN MỐC THỜI GIAN LÀ NGÀY SINH CỦA AI? VIỆC TÍNH TOÁN THỜI ĐIỂM ẤY ĐÚNG SAI THẾ NÀO?
ĐÁP:
Công Nguyên, Anno Domini, viết tắt AD, nghĩa là Kỷ nguyên Ki-tô. bắt đầu bằng năm sinh của Chúa Giê-su. Các năm trước đó được gọi là trước Công Nguyên (TCN).
Từ xa xưa, mỗi nước đều sử dụng lịch riêng của nước mình, không có sự thống nhất nên rất khó giao thương với nhau. Do đó các nhà lãnh đạo đều mong muốn có một lịch chung, một kỷ nguyên chung hay cũng gọi là công nguyên cho toàn thế giới.
Vào thế kỷ thứ VI, tu sĩ tên là DI-O-NY-SI-US E-XI-GU-US đã đặt ra Kỷ nguyên chung khi ông tính lịch cho ngày lễ Phục Sinh. Ông đã chọn Đức Giê-su làm nhân vật trung tâm của lịch sử nhân lọai. Dựa vào các thông tin về cuộc đời của Đức Giê-su trong các sách Tin mừng như: Người sinh ra dưới thời Hê-rô-đê Đại vương (x. Mt 2,1); trong lúc Rô-ma đang làm sổ kiểm tra dân số và Qui-ri-nô làm toàn quyền xứ Sy-ri-a (x. Lc 2,2); Khi ra giảng đạo, Đức Giê-su trạc độ 30 tuổi (x. Lc 3,23); Gio-an Tẩy giả thi hành sứ mệnh tiền sứ vào năm thứ 15 triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô (x. Lc 3,1)… Tu sĩ Di-o-ny-si-us đã so sánh các chi tiết trên với lịch sử của đế quốc Rô-ma để tìm ra năm sinh của Đức Giê-su tương ứng với lịch Rô-ma tính từ ngày thành lập thành Rô-ma, và lấy năm sinh của Đức Giê-su là năm thứ nhất của Kỷ Nguyên Chung. Từ đó mọi nước trên thế giới đều thống nhất dùng lịch chung này. Như vậy năm 2018 nghĩa là năm thứ 2018 tính từ năm Chúa Giê-su giáng sinh.
Tuy nhiên, ngày nay người ta đã khám phá ra có sự sai sót trong cách tính của Di-o-ny-si-us. Hầu hết các học giả Kinh Thánh hiện nay cho rằng Di-o-ny-si-us đã tính sai, và rằng trên thực tế Chúa Giê-su sinh trong khoảng năm 748-750 tính từ ngày thành lập thành Rô-ma. Có như vậy sự giáng sinh của Chúa Giê-su mới trùng hợp với cái chết của Hê-rô-đê Đại Đế vào năm 4 trước Công Nguyên (x Mt 2,15).
Nhưng sai sót này không quan trọng và không ảnh hưởng đến lịch chung đang được sử dụng trên thế giới hiện nay.
– HỎI 3: CÓ MẤY THỨ PHÉP RỬA VÀ PHÂN BIỆT VỚI NHAU THẾ NÀO?:
ĐÁP:
Tin mừng Gio-an cho thấy có hai thứ phép rửa: Một là “phép rửa trong nước” của Gio-an Tiền Sứ (x Ga 1,26.31), và hai là “phép rửa trong Thánh Thần” của Đức Giê-su (x Ga 1,.32-34).
Phép rửa của Gio-an chỉ là một nghi lễ, giúp người ta tỏ lòng sám hối để cầu xin Chúa tha tội. Còn phép rửa do Đức Giê-su thiết lập mới đem lại ơn cứu độ cho người lãnh nhận. Ơn cứu độ ấy như sau: Một là họ sẽ được tha tội Tổ Tông Truyền và các tội riêng đã phạm từ khi có trí khôn, nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su. Hai là được tái sinh làm con yêu dấu đẹp lòng Thiên Chúa nhờ ơn Thánh Thần, giống như Đức Giê-su sau khi chịu phép rửa dã được Thánh Thần lấy hình chim câu ngự xuống và được Chúa Cha từ trời cao xác nhận (x. Mt 3,17).
II. SỐNG LỜI CHÚA:
LỜI CHÚA: “Hãy sửa lối cho thẳng để Người đi” (Lc 3,4b). CÂU CHUYỆN: 1) ĐI XA KHÔNG CHUẨN BỊ HÀNH TRANG LÀ NGƯỜI KHỜ DẠI NHẤT?
Kho truyện cổ Tây Phương có kể tích truyện một anh hề trong cung điện nhà vua, được vua trao cho phủ việt, biểu tượng của vương quyền, để giúp nhà vua khỏi ưu phiền. Một hôm nhà vua gọi anh hề lại và truyền cho anh: “Ngươi hãy giữ lấy phủ việt này cho đến khi tìm được người nào ngây ngô khờ dại hơn ngươi thì ngươi hãy trao lại cho người ấy”. Từ đó, mỗi khi có việc thết đãi triều thần, anh hề đều đến với cây phủ việt trên tay, dáng điệu vênh váo, ngông nghênh, cốt mua vui cho nhà vua.
Mấy năm sau, nhà vua lâm bệnh nặng. Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh hề lại và buồn bã nói: “Ta sắp sửa đi du lịch ở một nơi xa lắm”.
– “Đức vua sắp đi đến nơi nào vậy?”, anh hề hỏi. – “Ta cũng chẳng biết nữa”. – “Đức vua đi có lâu không?”. – “Đi mãi mãi không bao giờ trở lại nữa”. – “Đức vua đã chuẩn bị hành trang mang theo chưa?” – “Chưa”.
Bấy giờ anh hề liền cười hóm hỉnh và lễ phép tâu vua: “Vậy xin Đức Vua hãy cầm lấy cây phủ việt này. Thảo dân xin trao lại cho Đức Vua, bởi vì hôm nay thảo dân đã tìm thấy một người ngây ngô khờ dại hơn thảo dân rồi”.
Lời Chúa cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta trong Mùa Vọng này: “Hãy sẵn sàng, vì lúc anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến”. Đừng khờ dại khi sống không mục đích, không biết sẽ có ngày mình phải chết, phải ra đi với hai bàn tay trắng.
2) GIẢI NÔ-BƠN HÒA BÌNH
AN-PHỚT NÔ-BƠN (ALFRED NOBEL) sinh ngày 21 tháng 10 năm 1833 tại SÌ-TỐC-KHÔM (Stockholm) Thụy Điển, là con trai thứ ba của một nhà khoa học. Từ nhỏ Nô-bơn đã theo gia đình đến sinh sống tại Le-nin-grad nước Nga.
Nô-bơn đặc biệt thích văn học, nhưng vâng lời cha, ông theo học ngành khoa học kỹ thuật và nghiên cứu về thuốc súng và thuỷ, địa lôi. Ông đã phát minh ra chất nổ và cũng nhờ bán đi bằng sáng chế này mà ông đã trở thành một nhân vật nổi tiếng giàu có nhất thế giới lúc bấy giờ.
Vào ngày 3 tháng 9 năm 1864, nhà máy Nô-bơn phát nổ, rất nhiều công nhân bị thiệt mạng, trong đó có cả E-mil là em út của Nô-bơn. Khi ấy Nô-bơn bàng hoàng khi hầu hết các tờ báo phát hành ngay từ sáng sớm đều loan tin sai lạc về cái chết của chính ông, người mà họ mô tả là kẻ đã sáng chế ra cốt mìn, một thứ vũ khí giết người hàng loạt. Các bài viết mang những tựa đề lớn như: “Nhà buôn cái chết đã chết” – hoặc: “Tiến sĩ Alfred Nobel, người đã trở nên giàu có sau khi phát minh ra cách thức giết con người nhanh chóng hơn bao giờ hết, đã qua đời vào ngày hôm qua”. Thực ra báo chí đã hiểu lầm về bản chất con người ông. Việc phát minh ra chất nổ của Nô-bơn ban đầu chỉ là công trình khoa học nhằm phục vụ cho nhân loại. Chẳng hạn: Phá đá làm đường hầm xuyên qua núi, hoặc lấy đá làm nguyên liệu xi măng xây dựng đường xá, cầu cống, nhà cửa và các công trình phục vụ công ích. Nhưng về sau khi chiến tranh nổ ra, chính quyền đã lạm dụng phát minh của No-bơn để chế tạo mìn sát thương trái với ý muốn của ông.
Ngay sáng hôm đó, Nô-bơn đã quyết định nhờ luật sư làm di chúc để tình nguyện hiến toàn bộ tài sản to lớn của ông để phục vụ nhân lọai. Đó là nguồn gốc của giải thưởng Nô-bơn được công bố hằng năm ngày nay. Mỗi năm, số tiền lời phát sinh từ tài sản kếch xù ban đầu của Nô-bơn đã được sử dụng làm giải thưởng có giá trị cao cho bất cứ người nào, không phân biệt quốc tịch, có công sáng chế những phát minh phục vụ nhân lọai về năm lãnh vực: vật lý, hoá học, y học, văn học và đấu tranh cho hòa bình.
3) CÁCH ỨNG XỬ BÁC ÁI KHÔN NGOAN CỦA MỘT ÔNG TRÙM HỌ ĐẠO ?
Trong một xóm đạo ở miền quê nọ, các nhà trong xóm đều được xây dựng liền kề nhau, chỉ cách nhau vài ba chục mét. Nhà này thường phân cách nhà kia bằng một hàng phên tre sơ sài. Có nhà nuôi gà nhốt trong chuồng cẩn thận, nhưng cũng có nhà cho gà tự do sang bên nhà hàng xóm đào bới đất kiếm ăn. Một ông trùm họ sống trong xóm có trồng vài luống rau ăn hằng ngày trong khu vườn sau nhà. Tuy nhiên hầu như ngày nào ông cũng mất công đi đuổi lũ gà hàng xóm, chui qua hàng rào vào trong vườn nhà ông đào bới lung tung, làm hư hại các luống rau ông đang quan tâm chăm sóc. Ông trùm đã vài lần sang nói chuyện phải trái với mấy nhà gần bên để yêu cầu họ làm chuồng nhốt gà lại, nhưng họ không mấy quan tâm và chuyện đâu vẫn y như cũ. Vốn là một người sống đạo đức có chiều sâu, ông trùm luôn chủ trương sống Lời Chúa dạy và không muốn chuyện nhỏ biến ra to, nên ông đành im lặng chịu đựng. Một hôm ông đã tìm ra một giải pháp hữu hiệu như sau: Trong nhà ông cũng có nuôi được ít gà mái đang thời đẻ trứng nhốt trong chuồng và ngày nào chúng cũng đẻ được một hai quả trứng. Cứ cách vài ba ngày, ông trùm lại sai con mang mấy quả trứng gà nhà mới đẻ sang trao lại cho bên hàng xóm với lời giải thích: đó là mấy quả trứng do gà nhà ai đó đã đẻ rơi trong vườn nhà mình. Ông làm như thế vài lần thì đã có được kết quả tốt đẹp: các nhà hàng xóm giáp ranh đều đã rào giậu cẩn thận để tránh gà nhà mình sang đẻ rơi bên nhà ông. Thế là chỉ mất một ít trứng gà mà ông trùm đã tránh được tranh chấp có thể gây tranh cãi biến thành chuyện lớn.
Trong những ngày này, để đón Chúa Giáng Sinh, mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để làm hòa với một người thân trong gia đình hay một người quen biết đang có chuyện bất hòa với chúng ta?
4) HÃY MỞ CỬA LÒNG ĐÓN RƯỚC CHÚA ĐẾN VIẾNG THĂM:
Trong một cuộc triển lãm, họa sĩ VANGOG có trưng bày một bức tranh rất đẹp với tựa đề “Chúa đến’”. Ông vẽ Chúa Giê-su đang đứng gõ cửa trước một căn phòng. Một người bạn xem tranh và tấm tắc khen tài nghệ xuất chúng của ông, nhưng sau đó anh chân thành góp ý với họa sĩ: “Này anh Vangog, bức tranh của anh nói chung đã hoàn hảo rồi. Nhưng tôi thấy còn thiếu một chi tiết nhỏ mà có lẽ anh đã không để ý tới là: Căn phòng Chúa đứng gõ cửa còn thiếu một nắm đấm để người đứng bên ngoài có thể mở ra được”. Bấy giờ Vangog liền trả lời: “Không phải thế đâu anh bạn. Chúa đang đứng gõ cửa phòng tâm hồn của mỗi người chúng ta. Còn bạn hay tôi, có sẵn sàng mở cửa lòng mình ra hay không lại do chúng ta quyết định. Nắm đấm mở cửa căn phòng nằm phía trong nhà, chứ không ở phía bên ngoài”.
Trong Mùa Vọng, chúng ta đợi chờ Chúa đến. Người đang đến gõ cửa tâm hồn từng người chúng ta. Cửa phòng có được mở ra hay không, và Chúa có đi vào được căn phòng tâm hồn chúng ta hay không, là tùy mỗi người chúng ta có sẵn sàng mở cửa lòng +ra tiếp đón Người, như Người đã phán trong sách Khải huyền: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa tối với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa tối với Ta” (Kh 3,20).
THẢO LUẬN: Từ câu chuyện trên, bạn rút ra bài học gì để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến trong Mùa Vọng này ?
SUY NIỆM:
1) BÀI HỌC KHIÊM TỐN KIẾN TẠO HÒA BÌNH CỦA NÔ-BƠN: Chính nhờ cái tâm bác ái quảng đại, sẵn sàng hy sinh toàn bộ tài sản phục vụ công ích, cũng như biết ứng xử khôn ngoan, mà No-bơn đang từ một kẻ bị người đời nguyền rủa là tác nhân gây chết chóc… trở thành một nhân vật được cả thế giới ngưỡng mộ, và được công nhận là ân nhân của nhân lọai, vì đã cổ võ hòa bình, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho các dân tộc trên thế giới. Còn bạn, bạn sẽ làm gì trong những ngày này để phục vụ công ích và gây hòa thuận giữa các thành viên trong gia đình, khu xóm và nơi làm việc của bạn?
2) “HÃY SỬA ĐƯỜNG CHÚA CHO NGAY THẲNG”: Trong Mùa Vọng này Giáo Hội mời gọi các tín hữu chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh bằng việc thực hành theo lời Gio-an Tiền Sứ: “Sửa đường cho ngay thẳng để đón Chúa đến” như sau:
* Mọi thung lũng phải lấp cho đầy: Cần lấp đầy tâm hồn bằng sự tha thứ, hoà giải trong tình huynh đệ yêu thương thay cho chia rẽ, thù ghét lẫn nhau…
* Mọi núi đồi phải bạt cho phẳng: Cần tránh thói kiêu căng khoe khoang thành tích, luôn làm việc để tìm tiếng khen. Cần tỏ lòng kính trọng tha nhân bằng lời xưng hô hợp với địa vị mỗi người. Tránh tự cao khi nghĩ mình hơn kẻ khác và khinh thường những ai thua kém mình về trình độ, địa vị, tiền bạc, tài năng….
* Đường quanh co phải uốn cho ngay: Cần tránh những lời nói thiếu trung thực, dối trá, chua cay hay tục tĩu.
* Đường lồi lõm phải san cho bằng: Phải tránh tính nóng giận bằng sự làm chủ bản thân, thay nét mặt cau có bằng nụ cười thân ái. Tránh tranh cãi to tiếng. Tránh thói ganh tị nhỏ nhen, gàn dở cố chấp và ích kỷ hại nhân…
3) HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI: Nội dung chính trong lời kêu gọi của Gio-an Tiền sứ là “Hãy sám hối”. Sám hối bao gồm sự nhìn nhận tội lỗi của mình, hối tiếc vì tội đã phạm, và quyết tâm chừa cải để quay về xin lỗi và làm hòa với Chúa. Thiếu một trong ba yếu tố trên thì không còn là sám hối. Giu-đa biết tội của mình, hối tiếc vì tội đã phạm và lẽ ra phải quay về xin Chúa tha thứ, thì anh ta lại đi treo cổ tự tử ! (x. Mt 27,5) nên đã bị Chúa trách: “Thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (x. Mc 14,21). Còn tông đồ Phê-rô sau khi chối Thầy, đã hồi tâm sám hối (x. Mt 26,75) và trông cậy vào lòng khoan dung của Chúa, nên đã được Chúa tha tội. Cũng nhờ lòng mến Chúa hơn anh em, nên ông đã được Người trao quyền chăn dắt đòan chiên (x. Ga 21,15-17).
NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sám hối không phải là điều dễ thực hiện, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận ra lầm lỗi của mình. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúa là Đấng trong sạch thánh thiện, thế mà Chúa lại tình nguyện xếp hàng, đứng chung hàng ngũ với các tội nhân để xin Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa cho. Tuy vô tội, nhưng Chúa đã muốn trở nên bạn đồng hành của lòai người chúng con, khi mang lấy thân phận mỏng dòn yếu đuối của chúng con. Xin cho chúng con biết điều chỉnh cách suy nghĩ và lối sống: Luôn tỉnh thức để khỏi bị ảo tưởng, thành thật để không tự dối lòng mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con được ơn ăn năn sám hối thực sự. Cho chúng con quyết tâm làm những việc bác ái cụ thể, và can đảm đón nhận những lời phê bình góp ý của tha nhân để tu sửa hầu ngày một nên tốt hơn.
Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay cộng đoàn chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria vô nhiễm 8/12-88
Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay cộng đoàn chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria vô nhiễm nguyên tội. Niềm tin, Mẹ Maria là Đấng vô nhiễm tội, trước tiên là niềm tự hào cho chúng ta. Vì trên thiên quốc, chúng ta đang có một người Mẹ vừa kiều diễm vẻ bề ngoài vừa xinh đẹp trong tâm hồn. Mẹ là hình ảnh của Hội Thánh, Hiền thê của Đức Kitô, xinh đẹp lộng lẫy, không vết nhơ, không tì ố.
Niềm tin, Mẹ Maria là Đấng vô nhiễm tội, còn là động lực rất nhiều giúp chúng ta hướng lòng lên cao, sống noi gương Mẹ vô nhiễm giữa dòng đời vốn có quá nhiều thứ ô nhiễm.
Thực ra, niềm tin vào Đức Mẹ là Đấng Vô nhiễm tội trong truyền thống đã có từ lâu. Ngay từ những thế kỷ đầu, người ta đã tin rằng Đức Maria được ơn vô nhiễm nguyên tội ngay từ lúc thụ thai trong cung lòng bà Cố Anna. Thế nhưng, phải mãi đến năm 1854, Tín điều Đức Maria vô nhiễm tội mới được ĐGH Piô IX tuyên bố rộng rãi trên toàn thế giới. Tín điều ghi rõ: “Rất thánh Trinh nữ Maria nhờ Thiên Chúa toàn năng và nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc nhân loại ban cho ân phúc đặc biệt là ngay từ khi thụ thai đã được gìn giữ khỏi hết mọi bợn nhơ của tội nguyên tổ. Đó là tín điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế buộc mọi người phải tin vững vàng mãi mãi”.
Như để củng cố cho tín điều mà Đức Giáo hoàng Piô IX mới tuyên bố, ngày 11.02.1858, Đức Mẹ đã hiện ra tại Lộ đức với một thiếu nữ 14 tuổi. Mẹ khẳng định: “Ta là Đấng Vô nhiễm nguyên tội”
Ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh, sau khi ông bà Nguyên Tổ phạm tội, Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại Đấng Cứu Thế qua lời Ngài phán bảo với con rắn, còn được coi là lời Tiền Tin Mừng: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ. Giữa dòng giống mi và giòng giống người ấy. Người giòng giống ấy sẽ đạp nát đầu mi. còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người”.
Người nữ ấy là ai vậy? Tất nhiên, sẽ không phải là bà Evà, vì chính bà Evà đã phạm tội, thì làm sao có thể đạp đầu con rắn tượng trưng cho thế lực sự dữ được? Qua dòng lịch sử, Giáo Hội suy ngắm, cân nhắc và dẫn đến xác tín rằng, người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn là thần dữ đó không ai khác, mà chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Tin mừng hôm nay kể lại : Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Trinh nữ Maria biết Thiên Chúa đã chọn Trinh nữ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sứ thần bắt đầu báo tin trọng đại ấy bằng một lời chào có vẻ rất tầm thường, nhưng lại chứa đựng đầu mối của mọi đặc ân nơi Đức Maria.
“Kính chào Trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có phúc ơn mọi phụ nữ”. Lời chào này đã gián tiếp đề cập đến mầu nhiệm và đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria. Bởi vì người được “đầy ơn phúc” và có Thiên Chúa ở cùng thì tất nhiên là không có tội. Cũng như một gian phòng, nếu đầy ánh sáng, dĩ nhiên bóng tối không còn có thể xâm nhập vào được nữa.
Con người ngày nay âu lo vì sống trong môi trường ô nhiễm: ăn rau thì lo dư lượng thuốc trừ sâu, mua trứng thì sợ trứng gà nhân tạo, thậm chí ăn chay với nước tương cũng sợ chất gây ung thư… Nạn ô nhiễm môi trường sinh học cảnh báo một sự ô nhiễm khác đang tàn phá ở tầng sâu hơn của đời sống con người, đó là sự ô nhiễm tinh thần, bị lộ diện qua tình trạng gian dối bất công tràn lan trong môi trường giáo dục, qua tính chất bạo lực và khiêu dâm trong lĩnh vực truyền thông và giải trí…
Phải chăng con người bó tay trước vấn nạn nhức nhối này bởi vì biết bao nhiêu biện pháp khắc phục mà dường như không có hiệu quả? Đức Maria làm chứng và củng cố niềm hy vọng cho chúng ta bằng chính đời sống mẫu gương của Mẹ: sống vô nhiễm ở giữa môi trường ô nhiễm để thanh luyện và thánh hoá nó bởi vì ngài luôn phó thác trong niềm tin tưởng rằng “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Khi mừng lễ Đức Maria vô nhiễm, chúng ta thường lầm tưởng rằng, Đức Mẹ đã vô nhiễm thì không thể phạm tội. Thực ra, Mẹ được ơn vô nhiễm, nhưng vẫn có đủ tự do để lựa chọn phạm tội hay không phạm tội; lựa chọn làm theo ý Chúa hay sống bất tuân luật của Ngài. Bởi vì, ân sủng không phá hỏng tự nhiên. Thế nên, để lựa chọn sống theo thánh ý Thiên Chúa, quả thực Mẹ Maria đã phải chiến đấu rất nhiều.
Khi nói lời xin vâng đối với Sứ Thần Thiên Chúa, Mẹ đâu đã biết Mẹ được ơn vô nhiễm. Có người đã hình dung rằng, lúc đó cả vũ trụ như dừng lại để lắng nghe lời đáp trả của Mẹ. Bởi vì, Mẹ hoàn toàn có thể từ chối lời mời gọi của Sứ Thần.
Khi phải sống trong cảnh đời thường tại Nazaret hay tại Aicập – đất khách quê người – Mẹ đâu có biết rằng mình được ơn vô nhiễm. Thế nên, có thể nói rằng, từng phút từng giây trong đời sống của Mẹ là từng phút giây phải lựa chọn theo thánh ý Chúa.
Đối với chúng ta hôm nay, sống vô nhiễm giữa cuộc sống đầy ô nhiễm này quả là một thách đố không nhỏ. Làm sao tôi không tham ô, giữa một tập thể đều tham ô? Làm sao tôi không lươn lẹo, mánh khóe trong buôn bán, giữa một tập thể toàn người gian lận? Làm sao tôi trung thực trong làm ăn, giữa một tập thể toàn những người thích lừa lọc, dối trá? Làm sao tôi không quay cóp bài, giữa một tập thể toàn người thích quay cóp? v.v..
Mặc dù khó, nhưng đó lại là điều mà Chúa muốn chúng ta thực hiện, bởi vì theo lời Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô hôm nay: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ. Để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền, thánh thiện” (Ep 1,4).
Mừng kính lễ Đức Mẹ vô nhiễm hôm nay, Lời Chúa cũng nhắc nhở chúng ta hãy noi gương của Mẹ. Vì mỗi lần trung ta nghiêm túc trong công việc, đứng đắn trong làm ăn, ngay thẳng trong thi cử, trung thủy trong tình yêu… là mỗi lần chúng ta sống làm chứng cho Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ được ơn vô nhiễm nguyên tội và Mẹ đã sống trọn vẹn ơn phúc ấy trong suốt cuộc đời Mẹ. Xin Mẹ hãy giúp chúng con biết sống như Mẹ, như đóa sen giữa lầy, “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Chỉ có như thế, chúng con mới thực sự là môn đệ của Đức Giêsu Kitô và là con của Mẹ.
Có lẽ không có loài hoa nào vừa bình dị, vừa cao sang, vừa gần gũi lại rất thanh khiết cao quý 8/12-89
Có lẽ không có loài hoa nào vừa bình dị, vừa cao sang, vừa gần gũi lại rất thanh khiết cao quý cho bằng hoa sen Việt Nam. Cây sen tươi đẹp, hoa sen xinh tươi, nhụy sen thơm ngát, thanh tao và rất gần gũi với đời sống người dân Việt Nam. Gần gũi đến nỗi người Việt Nam nào cũng biết nó, cũng yêu quý nó. Gần gũi đến nỗi người ta thi vị nó, nhân cách hoá nó như là tâm hồn của một con người. Một tâm hồn trong sáng, thanh khiết giữa bùn nhơ tội đời.
“Trong đầm gì đẹp bàng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng, bông trắng, lá xanh Gần bùn mà chằng hôi tanh mùi bùn”.
Lời ca dao thật nhẹ nhàng dẫn dắt người nghe về vẻ thanh tao của một loài hoa dân dã, bình dị để gợi mở về hình ảnh người nông dân lam lũ quanh năm nơi đầm lầy nước đọng nhưng tấm lòng lại thanh tao cao nhã.
Tác giả khởi đi từ lời khẳng định:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng”.
Quả thực, ở giữa đầm lầy thì bông sen đẹp nhất. Cây sen vượt trội với những cánh lá xanh nhô lên mặt nước như những cái dù xinh xắn. Bông sen mở cánh trắng muốt sáng lên dưới nắng mặt trời, toả hương ngào ngạt từ nhị hoa vàng. Tất cả tạo lên một bức tranh thôn quê bình dị, yên hàn. Thế nhưng, tác giả dường như không dừng lại ở việc ngắm đoá hoa sen một cách chung chung hay ở đàng xa, mà dường như tác giả nâng niu từng lá sen xanh, chỉ từng bông sen trắng, đếm từng nhụy sen vàng. Có như vậy, tác giả mới có thể nói lên rằng:
“Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Lời kết như muốn lội ngược dòng khi tác giả thi vị hoá cây sen thành nét đẹp của tâm hồn con người. “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Từ đây, cây sen đã trở thành biểu tượng của tâm hồn trong sáng, hiền lành của người nông dân chân lấm tay bùn Việt Nam. “Gần bùn” ở đây chính là môi trường tiếp xúc của sen hay nói đúng hơn chính là xã hội phong kiến bất công bấy giờ có quá nhiều những tham nhũng, dơ bẩn, ô uế. Tuy vậy mà bông sen vẫn rực rỡ, sáng ngời, toả ánh hào quang, không hề dơ bẩn. Ngược lại nhờ những môi trường xung quanh ấy mà sen càng thêm đẹp, làm tăng thêm sự thanh cao.
Bài ca dao trên là một bài thơ hay. Với những câu từ mộc mạc, giản dị nhưng làm nổi bật hình ảnh nên thơ của người nông dân Việt Nam chân lấm tay bùn mà tâm tao nhã rạng ngời. Họ sống giữa bùn nhơ nhưng không để lòng mình vướng bận những tham sân si dòng đời. Họ sống giữa đầm lầy tội lội nhưng không để lòng mình ngụp lặn trong đam mê tội đời.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ Maria chính là một đoá hoa đẹp nhất trần gian. Nhìn vào cuộc đời Mẹ, chúng ta thấy một Maria trong trắng dịu dàng. Một Maria đoan trang mực thước. Một Maria bác ái bao dung. Một nữ tỳ Maria được Chúa yêu thương và chúc phúc. Mẹ luôn giữ lòng thanh khiết giữa bùn nhơ tội đời. Giáo Hội nhìn nhận Mẹ được ơn Vô Nhiễm ngay tứ lúc trinh thai, nhưng điều quan yếu là Mẹ đã giữ được vẻ thanh khiết vẹn toàn đó giữa môi trường đầy những cám dỗ tội lỗi, đầy những thói đời xấu xa. Mẹ đã thắng mọi cám dỗ để có thể toả ngát hương thơm giữa trần đời. Mẹ là người phụ nữ đẹp rạng ngời giữa muôn ngàn người phụ nữ, tựa như bông sen đẹp lộng lẫy giữa đầm lầy. Tâm hồn Mẹ lại càng thanh cao, thanh cao đến nỗi hoàn toàn xứng đáng cho Con Chúa Trời ngự trị. Mẹ hoàn toàn xứng đáng với lời giới thiệu: “Trong đầm gì đẹp bằng sen”. Mẹ xứng đáng là đoá sen không phải là vì nét đẹp kiêu sa mà là vì nét đẹp tâm hồn “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Lạy Mẹ Maria mến yêu, xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng con biết gìn giữ nét đẹp cao quý nơi phẩm giá làm người và làm con Chúa. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng con luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen.
Ngày 8-12-1854, ĐGH Piô IX đã công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội qua Tông sắc 8/12-90
Ngày 8-12-1854, ĐGH Piô IX đã công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội qua Tông sắc “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa Bất Khả Ngộ).
Hệ miễn nhiễm rất quan trọng đối với cơ thể, càng quan trọng hơn đối với hệ miễn nhiễm tâm linh. Nhiễm là “nhuộm”, nghĩa bóng là lây lan, thấm sang, thường ở thể thụ động và mang nghĩa xấu. Vô nhiễm là một dạng miễn nhiễm, là không bị nhiễm những thứ xấu xa, nhất là “miễn nhiễm” tội lỗi.
Có nhiều thứ “nhiễm” trong cuộc sống: Nhiễm trùng, nhiễm độc, nhiễm xạ, nhiễm bệnh,… Về thể lý, chắc chắn không ai miễn nhiễm, nghĩa là ai cũng đã từng bị bệnh, bị nhiễm một dạng virus nào đó. Vì thế, người ta rất cần bảo vệ hệ miễn nhiễm của cơ thể, làm mạnh sức đề kháng. Thật kỳ diệu đối với một số người Phi châu, họ miễn nhiễm với HIV – Human Immunodeficiency Virus, căn bệnh thế kỷ này quen gọi theo Pháp ngữ là SIDA. Đó là một dạng thiếu khả năng miễn nhiễm của cơ thể. Quả thật, người Phi châu có dạng “vô nhiễm” kỳ lạ biết bao!
Lễ Mẹ Vô Nhiễm đã có tại Ðông phương từ giữa thế kỷ VII và VIII. Các vị giảng thuyết đã nói về sự Vô Nhiễm, thai sinh thánh thiện, nhưng không nêu lên vấn đề gì khác. Thời Trung cổ, lễ này được đưa vào Tây phương, rồi nhiều dòng tu ở Ðức và Rôma cũng đã mừng lễ này từ thế kỷ IX.
Năm 1060, các tu sĩ đưa lễ này vào Anh quốc, tới năm 1127-1128, lễ này được lan rộng khắp Âu châu, dù Thánh Bênađô vẫn tỏ ra dè dặt trước “sự mới lạ” ấy. Đầu tiên, đó là một phong trào sùng kính sốt sắng nhưng thiếu suy tư, nhất là bị ảnh hưởng những ý kiến mù mờ của thời đại.
Cùng với Thánh Augustinô, người ta cho rằng việc giao hợp vợ chồng là hành động trác táng lưu truyền tội tổ tông. Như vậy, Đức Maria sinh bởi sự giao hợp của cha mẹ thì cũng không thoát khỏi định luật ấy. Vả lại, người ta có một quan niệm phi khoa học về việc thai sinh, như thể xác được cưu mang trước rồi linh hồn đến trong khoảng cách sau: Linh hồn con trai trước 40 ngày, linh hồn con gái phải lâu hơn mới hợp với thể xác vì bản tính con gái yếu kém (sic!).
Các thần học gia lại không biết làm sao thoát khỏi cái “vòng lẩn quẩn” này: Chúa Kitô là Ðấng cứu chuộc hết mọi người. Nếu nói rằng Ðức Mẹ không vướng mắc tội lỗi, dù chỉ nói đến tội tổ tông, thì Chúa Kitô không còn là Ðấng cứu chuộc toàn thể nhân loại. Các nhà thần học thế kỷ XIII, kể cả Thánh tiến sĩ Thomas Aquinô (1225-1274), đều cho rằng Ðức Mẹ vẫn có phần lệ thuộc tội lỗi, ít là trong thể xác khi thai sinh.
Cuối thế kỷ XIII, thần học gia tu sĩ Gioan Duns Scott cùng với tu sĩ Phanxicô là William Ware đã có công học hỏi và đảo ngược lý luận trên. Chân phước Duns Scott lý luận rằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Mẹ chẳng những không làm tổn thương đến vinh dự Chúa Kitô và Công Cuộc Cứu Chuộc của Ngài, nhưng càng làm tỏ rạng sự sung mãn của công cuộc ấy. Nhân loại được khỏi Nguyên tội khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Ở Đức Maria, công việc của Chúa Giêsu có sức ngăn ngừa tội lỗi. Vì Ðấng Cứu Chuộc hoàn hảo phải là Ðấng không chỉ có thểchữa lành tội lỗi mà còn ngăn ngừa tội lỗi. Lý luận thật tuyệt vời! Thánh Ý Chúa thật là mầu nhiệm! Và rồi, vào ngày 25-3-1858, chính Đức Mẹ đã hiện ra với Thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức và xác nhận: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Điều này cho thấy Chúa Thánh Thần thực sự tác động mạnh trong đời sống Giáo hội Lữ hành, vì lúc đó, Giáo hội mới công bố tín điều Mẹ Vô Nhiễm được gần 4 năm.
Trình thuật St 3:9-15 là một cuộc “xưng tội công khai” của Ông Bà Nguyên Tổ trước Tôn Nhan Thiên Chúa.
Thuở hồng hoang, Đức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?”. Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi: “Ai đã cho ngươi biết làngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?”. Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên conăn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?”. Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Thiên Chúa nói với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dãthú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thùgiữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giốngđó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”.
Đó là hệ lụy tội lỗi, một dạng dây-chuyền-tội-lỗi: Ông đổ lỗi cho bà, bà đổ lỗi cho con rắn. Cuộc đời người ta “chết” vì những cái VÌ, BỞI, TẠI, NẾU, GIÁ MÀ, GIẢ DỤ,… Thật là nguy hiểm!
Được Thiên Chúa ban cho “người đẹp” (chắc là dễ thương lắm) nên ông Adam nhà ta đặt tên cho vợ là Eva, vì nàng là “mẹ của chúng sinh” (St 3:20). Người ta thường ví von: “Vợ ở mô thì thủ đô ở đó”. Đúng là “dữ dằn” à nghen – tính từ “dữ dằn” có thể tùy hoàn cảnh mà hiểu hai nghĩa, tích cực hoặc tiêu cực! Và cũng có một câu danh ngôn hay như thế này: “A-xít làm CHÁY tiền, tiền làm CHÁY tim đàn bà, nước mắt đàn bà làm CHÁY tim đàn ông”. Vừa lô-gích, vừa thú vị, và cũng chí lý thật!
Phụ nữ mềm mà cứng, yếu mà mạnh. Chính sự “liễu yếu đào tơ” lại chính là thế mạnh của họ, nhất là họ vừa trẻ vừa đẹp, ngày nay còn “chân dài” nữa, nó “khoèo” một cái là lũ đàn ông té hàng loạt. Khốn thay! Thật vậy, cô nàng chỉ “nhão” một chút khi ẻo lả nói: “Anh ơi!”, thì ôi thôi, chàng chợt mềm nhũn như bún thiu. Chẳng thế mà Samson khỏe như voi cũng “chết ngắc” chỉ vì một phụ nữ, Đa-vít cũng “tiêu” vì một phụ nữ, và Hê-rô-đê cũng sẵn sàng “làm liều” chỉ vì một phụ nữ. Vâng chỉ MỘT phụ nữ mà quý ông đã “tiêu diêu miền tình ái” chứ chưa cần nhiều phụ nữ đâu. Khiếp thật!
Người ta còn ví von thế này: “Phụ nữ muốn là trời muốn”. Và người ta cũng so sánh: “Nhất vợ, nhì trời,…”. Trời còn đứng hàng thứ chứ nói gì phàm phu tục tử. Đáng sợ là khoảng giữa “cái có” và “cái không” ở phụ nữ thì dù một sợi tóc cũng không đặt vào. Tinh vi quá đỗi! Đàn ông là sóng cồn nhưng đàn bà là sóng ngầm. Sóng ngầm không thấy mà tránh và có sức cuốn trôi mạnh hơn.
Vì một phụ nữ phạm tội mà nhân loại chịu kiếp đọa đày, đó là Bà Cố Tổ Eva; nhưng lại nhờ một phụ nữ thánh thiện, nhu mì và tuân phục, đó là Đức Maria, mà nhân loại được giải án tuyên công. May cho chúng ta lắm!
Nhận ra “cái may” đó thì phải biết không ngừng tạ ơn. Như Thánh Phaolô nói:“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Ep 1:3). Và thánh nhân còn xác định chi tiết: “Trong Đức Kitô, Ngườiđã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1:4-6). Rất rõ ràng, rất mạch lạc, và hoàn toàn dễ hiểu.
Thánh Phaolô nói thêm: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ýmuốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người” (Ep 1:11-12). Quả thật, hồng ân Thiên Chúa quá bao la, cao vời và khôn ví. Chúng ta chỉ còn biết suốt đời cúi đầu mà cảm tạ, từng phút, từng giây.
Ân sủng là ân sủng, hồng ân là hồng ân, chúng ta không thể xác định đại ân hoặc tiểu ân, đại xá hoặc tiểu xá. Chỉ có Thiên Chúa mới là người xác định mức độ, vì chỉ một mình Ngài là người thi ân giáng phúc. Đức Mẹ và các thánh chỉ là người cầu thay nguyện giúp, là “ống dẫn” chuyển ơn phước từ Thiên Chúa tới chúng ta.
Trình thuật Lc 1:26-38 nói về Cuộc Truyền Tin. Thánh sử Luca tường thuật: Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria.
Sứ thần vào và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, Cô Maria rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần trấn an ngay: “Cô Maria ơi, xin đừng sợ, vì Cô đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây Côsẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽđược gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triềuđại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
Chu choa, gì mà kỳ vậy? Người ta đã khấn giữ đồng trinh mà tự dưng nói chuyện mang thai và sinh sản. Kỳ ghê đi, mắc cỡ thí mồ, mặt đỏ bừng và nóng ran luôn! Thế nên Cô Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biếtđến việc vợ chồng!”. Sứ thần liền giải thích cặn kẽ và minh chứng cụ thể: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vìthế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa,không có gì là không thể làm được”.
Nói đến Thiên Chúa thì miễn bàn, không so đo chi cả, vì Cô Maria hết lòng tin kính Ngài. Thế là hai năm rõ mười rồi. Thế là tỏ rõ nguồn cơn. Chắc hẳn Cô Maria lúc đó đã thở phào nhẹ nhõm, không còn phân vân chi nữa. Thế nên Cô Maria dịu dàng nói với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Nghe vậy, sứ thần cũng “an tâm” mà từ biệt ra đi… Thật là tuyệt vời vì lời “xin vâng” của Nữ Tỳ Maria hoàn toàn tuyệt đối.
Và rồi “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người”, và Ngài ở cùng chúng ta. Ngài là Đấng Emmanuel, Đấng Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Đức Maria là một Nữ Tỳ nhưng Vĩ Đại, đã trở thành Đấng Theotokos – “Người Mang Thiên Chúa”. Xin kính chào Đấng Emmanuel. Và xin “kính mừng Maria đầy ơn phước”.
Xin cùng hợp với lời cầu của thi sĩ Paul Claudel (Tác Phẩm Thơ, Gallimard, 1967) để tôn sùng Đức Mẹ:
Trời đúng ngọ, Tôi trông thấy giáo đường rộng mở, Phải bước vào mới được.
Lạy Mẹ Chúa Giêsu Kitô! Con không vào để cầu nguyện, Vì con không có gì để dâng cho Mẹ và cũng chẳng xin Mẹ điều gì. Con chỉ đến để ngắm nhìn Mẹ thôi, ôi lạy Mẹ! Ngắm nhìn Mẹ và khóc lên vì hạnh phúc, Con không nói gì cả, nhưng con chỉ hát thôi, Bởi vì trái tim con tràn ngập tâm tình!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con đủ sức chống lại mọi cái xấu và cương quyết“thà chết chứ không phạm tội” như Thánh “nhí” Saviô, xin cho con được“miễn nhiễm” với bất cứ thứ gì nguy hiểm, đặc biệt là mạnh mẽ hệ miễn nhiễm tâm linh.
Lạy Nữ Tỳ Vô Nhiễm, xin giúp con luôn biết “nói ít và làm nhiều” như Mẹ đãthể hiện, biết sống khiêm nhu và vâng phục tuyệt đối như Mẹ, ở mọi nơi vàmọi lúc, để Ý Chúa nên trọn.
Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Mở lại những trang sách Sáng thế, với vài câu ở trước bài đọc hôm nay, ta đọc thấy: “Thiên Chúa ban 8/12-91
Mở lại những trang sách Sáng thế, với vài câu ở trước bài đọc hôm nay, ta đọc thấy: “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.”.. Liền có như vậy.” Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp …” (St 1, 28-31).
Có hai điểm rất quan trọng mà ta đọc thấy ở đây.
Trước hết, Thiên Chúa Cha ban cho tổ tiên chúng ta quyền thống trị mọi tạo thành. Điều quan trọng là cần nhớ rằng với sự “sa ngã của Ađam”, “kế hoạch của Tạo Hoá, ý nghĩa của các thụ tạo – trong đó có con người, được kêu gọi canh tác và chăm sóc tạo vật – vẫn không thay đổi”.
Kế đến, tác giả sách Sáng thế cho thấy rằng vì bây giờ con người đã được thêm vào tạo thành, không chỉ là tốt… như ánh sáng và bóng tối, biển cả và đất khô, cá, chim và thú vật đã được mô tả… nhưng bây giờ thì tạo thành rất tốt. “Ađam và Evà đã phạm tội.
Ông bà nguyên tổ đã làm tan vỡ mối quan hệ tin tưởng và hòa hợp, cách riêng tình thương với Thiên Chúa mà chính Thiên Chúa đã trao ban cho con người. Cũng chính vì sự ích kỷ của ông bà nguyên tổ đã đã làm cho ông bà quên rằng ông bà đã “nhận mọi sự như quà tặng nhưng không và ông bà vẫn chỉ là thụ tạo chứ không phải là Tạo Hoá.
Nguyên nhân duy nhất và chính nhất là do cám dỗ này: “Ngươi sẽ trở thành Chúa” để rồi Ađam và Eva phạm tội (St 3,5).
Nghe lời ngọt ngào có tình và có lý ấy, ông bà nguyên tổ muốn thống trị tuyệt đối trên mọi sự mà không phải phục tùng ý muốn của Tạo Hoá.
Và, từ lúc đó, đất đai trở nên nghèo nàn, cằn cỗi, thù nghịch một cách tệ hại (x. St 4,12); chỉ khi nào đổ mồ hôi trán, con người mới gặt hái được kết quả (x. St 3,17.19)”.
Thế nhưng, không phải mọi sự đã bị mất hết. Thiên Chúa hứa: “Dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”. Đây là niềm hy vọng của chúng ta.
Tuy nhiên, mối quan hệ tin tưởng và hòa hợp và đặc biệt tình thương của Thiên Chúa với con người được tái lập.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, lời hứa cứu độ mà Thiên Chúa trao ban cho con người được lập đi lập lại. Thiên Chúa muốn nói khẽ vào bên tai của con người rằng Thiên Chúa mãi mãi yêu thương con người.
Những gì đã loan báo đã đến lúc mạc khải kế hoạch Thiên Chúa cứu độ chúng ta.
Trong thư gửi tín hữu Êphêxô, Thánh Phaolô vui mừng vì “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn ta… Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu”.
Ta thấy Thánh Phaolô hiểu rằng mối quan hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại đã được chữa lành bởi và nhờ tình yêu của Thiên Chúa và đặc biệt là ơn làm nghĩa tử mà Thiên Chúa trao ban cho con người được chất chứa nơi Đức Giêsu.
Nhìn vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu, ta ý thức rằng ta đã được đổi mới như những người được Thiên Chúa yêu bởi vì Người đã nhận ta làm nghĩa tử qua Đức Kitô.
Trang Tin Mừng của Thánh Luca, ta nghe những lời quan trọng nhất từng được nói ra. Quan trọng hơn cả những lời của Đức Giêsu trong Phúc âm: “Tội của chị đã được tha rồi… Lòng tin của chị đã cứu chị. Hãy đi bình an” (Lc 7,48-50); hoặc “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14, 22); hoặc “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39); hoặc ngay cả: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha!” (Lc 23,46) hay sao?
Và, ta thấy lịch sử cứu độ sang trang với đáp “xin vâng” của Đức Trinh Nữ Maria khi nghe sứ thần loan báo Lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn nói với nhân loại qua người đại diện là Đức Trinh Nữ Maria.
Lúc nghe lời tuyệt đỉnh của ơn cứu độ, ta thấy Đức Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38), “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và ở giữa chúng tôi” (Ga 1,14).
Lời đáp của Đức Trinh Nữ Maria là lời đáp của lòng tin và sự tín thác. Lòng tin và tín thác của Mẹ đã trở thành hiện thực tại “một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse” (Lc 1,26).
Lời hứa của Thiên Chúa Cha đã được ứng nghiệm.
Chuyện tình cứu độ đi vào khúc quanh đầy kịch tính trong khi mối quan hệ mà trước kia nhân loại đã có đối với Thiên Chúa, bị đánh mất vì tội của Ađam và Evà, đã được làm mới và ta sẽ được cứu.
“Qua lời “xin vâng” đối với kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa (x. Lc 1,38), nhân danh toàn thể nhân loại, Đức Maria trong lịch sử đã chấp nhận Đấng do Chúa Cha gửi tới, Đấng Cứu Chuộc loài người. Trong kinh “Magnificat”, ngài công bố Mầu nhiệm Cứu Độ đến, sự xuất hiện của “Đấng Mêsia của người nghèo” (x. Is 11,4; 61,1).
Thiên Chúa của Giao Ước, mà Đức Trinh Nữ người Nazareth cất tiếng ca trong tinh thần hân hoan, là Đấng lật đổ người quyền thế khỏi ngai vàng và nâng cao kẻ hèn mọn, cho kẻ nghèo đói được no đủ, đuổi người giàu có trở về tay không, đánh tan tác kẻ kiêu ngạo và tỏ lòng thương xót với những ai kính sợ Ngài (x. Lc 1,50-53).
Khi ngước nhìn tâm hồn Đức Maria, ngước nhìn đức tin sâu thẳm của ngài biểu lộ qua kinh “Magnificat”, các môn đệ Đức Kitô được mời gọi hãy làm mới lại một cách đầy đủ hơn “ý thức rằng sự thật về Thiên Chúa cứu độ, sự thật về Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ơn huệ không thể tách rời sự tỏ bày tình thương ưu ái của Người dành người nghèo khó và khiêm tốn, tình thương này, được ca tụng trong kinh Magnificat, về sau được bày tỏ trong lời nói và việc làm của Đức Giêsu”.
Đức Maria hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa và hướng trọn vẹn về Người nhờ sức thúc đẩy của đức tin của ngài. Ngài là “hình ảnh trọn vẹn nhất về sự tự do và giải thoát của nhân loại và vũ trụ”
Đời của Mẹ là như thế còn đời của ta thì sao ? Ta cũng “xin vâng” đấy chứ ! Bây giờ bảo cộng đoàn cùng cất lên bài hát “xin vâng” thêm sự đệm đàn du dương nữa Chúa và Mẹ nghe thấy bùi tai lắm. Đơn giản là vì chúng ta hát hay. Nhưng, thực tại cuộc sống là như thế nào ?
Ta có can đảm sống lời xin vâng mà ta thưa với Chúa như Mẹ hay không ?
Ai ai trong chúng ta cũng sẽ nói là thưa có ạ ! Thế nhưng, cái gọi là thưa có đó nó ở mức nào ?
Trong gia đình, trong cộng đoàn, cách riêng người Việt Nam cũng chúng ta rất hay. Khi họp chung thì ai cũng gật đầu đồng ý và không bao giờ cho ý kiến. Thế nhưng, khi bước ra khỏi cuộc họp của gia đình, cuộc họp của cộng đoàn thì chính là lúc mà ý kiến của ta được đưa ra. Không chỉ là đưa ra nhưng khư khư bắt nó thành toại và thành toàn bởi lẽ ta lúc nào cũng cho ta là nhất và người khác là số 2, số 3, số 4 và thậm chí là con zero trống rỗng.
Giáo xứ ta cũng thế, hội đoàn ta cũng thế, ta có phần trách nhiệm làm chia rẽ, làm cho cộng đoàn thêm tội. Trong gia đình, trong cộng đoàn, trong giáo xứ, ta không thể nào né được tội của ta. Chính sự kiêu ngạo của ta đã làm cho cộng đoàn, cho giáo xứ, cho gia đình chia rẽ.
Xin cho mỗi người chúng ta nhìn lại đời mình và soi vào đời Mẹ để ta thân thưa với Chúa bằng lời xin vâng thật sự. Chính nhờ lời xin vâng thật sự của Mẹ đã cứu con người khỏi tội khiên.
Khởi đi từ sự bất tuân, sự kiêu ngạo của ông bà nguyên tổ đã mang lại cho con người tục lụy và tội lụy. Và khởi đi từ lời xin vâng của Mẹ đã cứu con người khỏi án phạt đời đời.
Nhờ Mẹ và với Mẹ ta được cứu độ, ta cùng tôn kính Mẹ :
Kính Chào Mẹ là Sao Bắc Đẩu Đấng mệnh danh Hiền Mẫu Chúa Trời Chói lòa trinh khiết gương soi, Cửa vào cõi phúc tuyệt vời thiên cung. Khi nhận tiếng “Kính Mừng” vinh dự Gáp-ri-en thần sứ tặng ban, Chữ “E-và” Mẹ đảo vần Thành “A-ve” giữ bình an cho đời. Xin cởi dây trói người tội lỗi, Mở mắt ai tăm tối đui mù, Đuổi xa hoạn nạn rủi ro, Đổ tuôn hồng phúc tựa hồ mưa sa. Xin khứng tỏ Mẹ là Từ Mẫu Chuyển lời cầu đạt tới Hoàng Thiên, Tòa cao Thánh Tử uy quyền, Vua Trời Cứu Thế đã nên người trần. Ôi Trinh Nữ siêu phàm khôn ví, Ôi hiền hòa tuyệt thế Nữ Trinh, Cứu đoàn con khỏi tội tình. Trở nên thanh khiết hiền lành từ đây!
Xin giúp sống chuỗi ngày trong trắng, Mẹ dẫn đường là chẳng phải lo, Mai ngày gặp Chúa Giê-su, Vui mừng hưởng phúc thiên thu chan hòa.
Lạy Thiên Chúa Ngôi Cha từ ái, Lạy Ngôi Con quảng đại vô lường, Thánh Thần trải rộng tình thương Ba Ngôi hiển trị thiên đường quang vinh.
Tin Mừng hôm nay cho ta một câu chuyện trọng đại: Thiên Chúa bắt đầu công trình cứu chuộc nhân 8/12-92
Tin Mừng hôm nay cho ta một câu chuyện trọng đại: Thiên Chúa bắt đầu công trình cứu chuộc nhân loại của Người.
Do tình yêu nhân loại, Thiên Chúa đã thực hiện hai công trình tuyệt tác và vĩ đại nhất đó là: Công trình tạo dựng muôn loài và công trình cứu chuộc nhân loại. Trong công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã dọn cho hai ông bà nguyên tổ một địa đàng sán lạn huy hoàng, tràn trề hạnh phúc. Nhưng vì phạm tội ông bà đã phá vỡ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Nhưng rồi kế hoạch yêu thương nữa lại bắt đầu với lời tuyên phạt con rắn: “Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người đàn bà”. (St 3,15).
Rồi trong những trang Kinh thánh suốt mấy nghìn năm đã thấp thoáng hiện lên những người nữ “hơn các phụ nữ” (Tl 5,15), “Người thiếu nữ mang thai, sinh hạ một con trai…” (Is 7,14). Đến hôm nay sau bao ngàn năm chuẩn bị, người “nữ” đích thực mà Thiên Chúa kén chọn đã tỏ hiện: Đức Trinh Nữ Maria. Để đón nhận Chúa Cứu Thế đến với nhân loại, cung lòng người Trinh Nữ phải trở nên thiên đàng, một “địa đàng mới” không cỏ dại, không bẩn bụi, không một vết “rắn” bò, để cho Chúa Cứu Thế ngự trị.
Vậy giờ đã đến thời viên mãn, sứ thần Gaprien đã được Thiên Chúa sai đến với Trinh Nữ: “Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng”. Lời chào thăm, chúc mừng và truyền lệnh yêu thương của Thiên Chúa: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Sứ thần nhắc lại câu nói của ngôn sứ Isaia trước đấy mấy trăm năm về Chúa Cứu Thế. Nhưng với lòng khiêm nhường, thật thà, đơn sơ, trong trắng và ý chí tự do của người Trinh Nữ, sứ điệp ấy chưa dễ dàng được chấp nhận. Vì Trinh Nữ như yêu đời sống trinh khiết hơn là được làm mẹ Chúa Cứu Thế. Sứ thần phải mất thêm thời gian, lời đôi co trao đổi qua lại nhiều nữa: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa… Vì đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được”.
Rồi Trinh Nữ Maria đã nhận lời: “Vâng tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Là Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã không ra mệnh lệnh, cưỡng bức thực thi ý Chúa, mà tôn trọng sự tự do mà Chúa đã ban cho con người. Sứ thần đã làm cho Mẹ thật sự nhận ra thánh ý Chúa để Mẹ tự nguyện “xin vâng”. Sự tự nguyện ấy mẹ đã suốt đời chiêm niệm “suy đi nghĩ lại trong lòng” mà quyết tâm thực thi ý Chúa. Mẹ Maria đã tự coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ, nên đã trở thành người diễm phúc, xứng đáng làm mẹ Thiên Chúa nhập thể làm người, và làm mẹ của cả loài người chúng ta.
Giờ đây mỗi người chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi cộng tác với Người trong chương trình cứu chuộc nhân loại. Theo gương Đức Maria chúng ta tin vào Lời Chúa, vâng theo thánh ý Chúa là ta đã đóng góp tích cực với Chúa trong chương trình cứu độ ấy. Mẹ Maria đã tạo điều kiện cho Thiên Chúa nhập thể làm con Mẹ, còn mỗi chúng ta có dám đáp trả cho Thiên Chúa để Người có thể tháp nhập và thể hiện tình yêu của Người trong đời sống con người chúng ta không?
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa hết lòng vì đã xuống thế làm người cứu độ chúng con. Xin cho con biết mở lòng để luôn được Chúa ở trong tâm hồn, hầu con được an vui ngay từ nơi trần thế và ngày sau được hưởng tràn trề hạnh phúc cùng Chúa trên quê trời. Amen.
“Chào Trinh Nữ đầy ân sủng, Chúa ở cùng Trinh Nữ” ( Lc 1,28)
Bà Eva đã nghe lời dụ dỗ của con rắn, là Sa-tan, và cùng ông Adam bất tuân lệnh cấm của Thiên 8/12-93
Bà Eva đã nghe lời dụ dỗ của con rắn, là Sa-tan, và cùng ông Adam bất tuân lệnh cấm của Thiên Chúa. Sa-tan đã phá hỏng tuyệt phẩm được Chúa dựng nên giống hình ảnh Người và được ban cho tự do, nhưng không dùng ân huệ tự do ấy mà tuân phục Người. Kết đoạn trích sách sáng thế, có câu: “Và Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh”.
Vâng, Evà là mẹ của chúng sinh, mẹ của loài người đã được sinh ra trong tình trạng mất ân nghĩa với Chúa. Bởi thế, thánh vịnh 51, câu 7 viết: “Mẹ con đã thai con trong tội”. Lời Chúa tuyên chiến với Sa-tan, cũng là lời hứa cứu độ con người từ sau khi con người phạm tội: “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa miêu duệ mi và miêu duệ người phụ nữ”. Nếu đã có một Eva bất tuân Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã chuẩn bị cho một người nữ là Đức Maria tuân phục Thiên Chúa và thực hiện ý muốn cứu rỗi của Thiên Chúa. “Người phụ nữ” ấy là Đức Maria mà Thánh Phao-lô gọi là người nữ đã được ơn tiền định từ khởi thủy. Mẹ Maria đã vâng phục Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa thực hiện ý định cứu rỗi của Người ngang qua cuộc đời Mẹ, là: sinh ra Đức Giê-su Đấng Cứu Thế. Nhờ Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, sinh ra bởi lòng Mẹ Maria, mà chúng ta được phục hồi ơn nghĩa tử của Thiên Chúa. Vì thế thánh Phao-lô nói: “Trong tình thương, Người đã tiền định cho chúng ta được làm dưỡng tử đối với Người, qua Ðức Giêsu Kitô”.
Năm 1858, Đức Maria tỏ bày mình là “Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội” khi hiện ra với cô Bernadette ở Lộ Đức. Đây không chỉ là đặc ân, mà còn là huyền nhiệm Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết tôn vinh, cảm tạ Mẹ Maria, và tha thiết khấn xin Mẹ cho chúng con được trung thành với ơn nghĩa tử của Thiên Chúa. Amen.
Mẹ Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Chúa Giêsu – Con Một Người. Để Mẹ được xứng 8/12-94
Mẹ Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Chúa Giêsu – Con Một Người. Để Mẹ được xứng đáng với thiên chức đó hơn, Mẹ đã được Người ban cho đặc ân “vô nhiễm nguyên tội”. Nhờ đó, Mẹ đã không bị truyền tội tổ tông do Adam và Eva gây ra ngày trước. Tuy nhiên, việc lãnh nhận đặc ân đó không phải ngẫu nhiên mà chính là nhờ hai tiếng “xin vâng”. Chính sự vâng phục Thiên Chúa đã đưa Mẹ rời khỏi hàng tội nhân của tội nguyên tổ và trở thành người diễm phúc nhất trong tất cả phụ nữ.
Quả thật, Mẹ đã tin tưởng hết lòng và vâng phục Thiên Chúa. Niềm tin ấy đã thôi thúc Mẹ nói lên lời “xin vâng” để tuân theo ý Người một cách tuyệt đối. Tuy nghe có vẻ dễ dàng, nhưng nếu thử đặt mình vào hoàn cảnh của Mẹ lúc bấy giờ, ta sẽ thấy niềm tin và sự vâng phục ấy to lớn đến mức nào. Ngày nay, việc có con trước hôn nhân không còn là việc quá khủng khiếp như xưa. Giới trẻ có thể thoải mái chiều theo ý muốn của mình mà không bị lên án nghiêm trọng (miễn là vẫn giữ và dưỡng dục đứa con nên người). Tuy nhiên, vào thời bấy giờ lại không như thế. Một người phụ nữ có con trước khi chính thức về nhà chồng nếu bị phát hiện sẽ bị ném đá đến chết. Không chỉ vậy, họ còn để lại tai tiếng cho gia đình nếu việc đó xảy đến. Do đó, để chấp nhận thi hành ý muốn của Thiên Chúa, Mẹ đã phải phó thác mọi sự trong tay Người.
Mỗi người chúng ta cần phải biết noi gương Mẹ. Dù cuộc sống có nhiều đau thương, khó khăn, dù hiểm nguy luôn rình rập, đe dọa, ta cũng vẫn phải tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa. Mọi thánh giá Người để ta vác đều không vượt quá sức của ta, Người biết điều đó và Người tin ta sẽ đủ khả năng gánh vác. Khó khăn, đau khổ là điều không thể thiếu của đời người, quan trọng là ta đối mặt với nó như thế nào. Ta sẽ đầu hàng trước số phận hay vững tin vào Thiên Chúa?
Mẹ Maria là mẫu gương để chúng ta học tập. Mẹ đã tin tưởng và vâng phục suốt cả cuộc đời, đã đồng hành cùng Chúa Giêsu cho đến phút cuối cùng và tiếp tục đồng hành cùng Hội thánh của Người. Do đó, ngoài việc noi gương Mẹ, ta cũng không quên chạy đến với Mẹ trong những giây phút khó khăn của cuộc sống. Tình yêu của Mẹ sẽ chở che và đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn. Đặc biệt, ta phải ghi nhớ rằng: tin tưởng và vâng phục là chìa khóa quan trọng cần phải có để ta có thể sống đẹp lòng Chúa.
Lạy Chúa, hôm nay là ngày lễ kính Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ, biết trở nên những người con biết tin tưởng và vâng nghe theo ý muốn của Ngài. Để từ đó, chúng con có thể sống xứng đáng với tình yêu Ngài đã dành cho chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm đối mặt với khó khăn, gian khổ và không quên Ngài luôn đồng hành cùng chúng con. Amen.
Năm Thánh Lòng Thương Xót của Giáo hội Công giáo được khai mạc vào ngày 8-12-2015, lễ Đức 8/12-95
Năm Thánh Lòng Thương Xót của Giáo hội Công giáo được khai mạc vào ngày 8-12-2015, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Hôm nay toàn thể Giáo hội tôn vinh Mẹ Maria được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ. Đặc Ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là bằng chứng về sức mạnh của Ân Sủng trên tội lỗi và sự chết. Phụng vụ đang ở giữa chặng đường Mùa Vọng. Thời gian chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trần gian. Giữa “màu tím đợi chờ và hy vọng” chợt bừng lên “màu trắng tinh tuyền” của ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Ý nghĩa phụng vụ gắn liền với thời điểm quan trọng của lịch sử cứu rỗi. Cánh cửa thiêng liêng mở ra cho Dân Chúa bước tới cử hành mầu nhiệm Nhập Thể.
Trong hai thế kỷ sau cùng của thiên niên kỷ thứ hai, liên tiếp có hai chân lý về Đức Maria đã được Giáo Hội định tín. Đó là: tín điều “Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” (8.12.1854) và tín điều “Đức Maria Hồn Xác Lên Trời” (1.11.1950). Qua hai tín điều này, Giáo Hội tuyên tín và khái quát về toàn bộ chương trình cứu độ của Thiên Chúa ở hai tận cùng của lịch sử. Một khởi đầu sáng tạo với vẽ đẹp “Vô Nhiễm Nguyên Tội”, và cuối cùng, với công trình Nhập Thể – Cứu Chuộc của Chúa Con, toàn thể nhân loại lại được nâng lên trong ánh quang phục sinh như “Đức Maria hồn xác lên trời”.
Lòng sùng kính Đức Maria là cả một cảm nghiệm sâu xa của niềm tin Dân Chúa qua dọc dài lịch sử với nền tảng Thánh Kinh và Thánh Truyền.
Sách Sáng thế kể rằng: con người được tạo dựng trong yêu thương và được ân ban cuộc sống hạnh phúc ngay từ thuở ban đầu. Tuy nhiên, địa đàng hạnh phúc ấy không may đã khép lại với nguyên tổ. Đánh mất địa đàng, con người cũng mất luôn hạnh phúc được chia sẻ sự sống thân mật và vĩnh hằng với Thiên Chúa. Cái chết đã trở thành một bản án chí tử. Thiên Chúa tình yêu đã hé mở chân trời hy vọng: “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó. Người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi”. Đó chính là “Tin Mừng đầu tiên”, Tin Mừng nguyên thủy. Niềm hy vọng trải dài xuyên suốt lịch sử con người từ buổi hồng hoang cho đến ngày Lời hứa được thực hiện.
Từ cuộc “đỗ vỡ ban đầu” của Nguyên tổ, Thiên Chúa đã quyết định thực hiện một chương trình cứu rỗi diệu kỳ. Đức Maria đã được chọn từ muôn thưở: “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ”. Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Người, sinh bởi người nữ, sinh dưới quyền lề luật, để cứu chuộc những kẻ dưới quyền lề luật, ngõ hầu ta được chịu lấy quyền nghĩa tử” (Gl 4,4). Chính người Con đó, Đức Giêsu Kitô, sẽ thực hiện lời hứa “đạp dập đầu con rắn” mà Thiên Chúa đã công bố thuở xưa. Người nữ đó chính là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đấng Cứu Chuộc. Đức Trinh Nữ ấy đã được Đức Piô IX long trọng công bố trong tín điều Vô Nhiễm: “Ta tuyên bố rằng Đức Trinh Nữ rất thánh đã được gìn giữ khỏi mọi tì ố tội tổ tông… ngay từ buổi đầu tượng thai”.
Như thế, rõ ràng mầu nhiệm “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là một lộ trình đức tin của Dân Chúa. Đặc Ân này, huyền nhiệm này nắm giữ một vai trò, một ý nghĩa, một điều kiện có tính quyết định trong con đường dẫn tới hạnh phúc vĩnh hằng của nhân loại. Nói cách khác, Đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” của Đức Trinh Nữ Maria chính là “Tin mừng về cuộc chiến thắng của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa”.
Tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội bắt nguồn từ trong Thánh Kinh và lớn lên trong đức tin đơn thành và bình dân của tín hữu thời Giáo Hội Sơ Khai. Ngay từ thế kỷ thứ II, các Thánh Giáo Phụ Justinô và Irénée de Lyon đã ngợi khen sự thánh thiện của Đức Maria. Giáo Hội Đông Phương đã mừng Lễ Mẹ Vô Nhiễm từ thế kỷ thứ VII. Vào năm 1432, công đồng Bâle đã coi mầu nhiệm này như một tâm điểm của lòng tin. Vào thế kỷ XIX, sau khi Đức Mẹ hiện ra với Thánh Catherine Labouré tại nguyện đường nhà Dòng Nữ Tử Bác Ai năm 1830, sau đó Đức Thánh Cha Piô IX đã long trọng ban bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội vào ngày 8.12.1854. Bốn năm sau đó, vào ngày 25.3.1858, Đức Mẹ hiện ra tại hang đá Massabielle Lộ Đức, với thánh nữ Bernadette Soubirous. Đức Mẹ đã xác nhận tín điều trên đây khi tự xưng mình là “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”.
Đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” tô thắm vẽ đẹp tuyệt mỹ của Đức Mẹ. Mẹ đầy ơn Chúa. Sứ Thần cung kính thưa với Mẹ rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Ðấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (x.Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 12).
Tước hiệu “Bà đầy ơn phước” xác nhận lòng Đức Mẹ không có chổ dành cho tội lỗi vì luôn được đầy tràn ơn phước của Thiên Chúa.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”: Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó bóng tối của tội lỗi không thể có mặt. Mẹ luôn sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa.
“Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ” vì Mẹ là người duy nhất không vướng mắc tội tổ tông. Mẹ đẹp thánh thiện. Mẹ đẹp cao quý. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là một biểu hiện cụ thể và tròn đầy kết quả viên mãn của ơn cứu độ do Đức Kitô mang lại cho phần tử ưu tú nhất của nhân loại. Đức Maria gắn bó mật thiết với mầu nhiệm “Con Chúa xuống thế làm người” như sách Giáo Lý đã viết: “Để làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria “đã được Chúa ban cho nhiều ơn xứng với nhiệm vụ cao cả ấy”. Những đặc ân của Đức Maria có được là kết quả đi trước nhờ cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, như sách Giáo Lý xác tín: “Mẹ có được sự thánh thiện tuyệt vời, có một không hai “ngay từ lúc tượng thai” hoàn toàn là do Đức Kitô: Mẹ được cứu chuộc cách kỳ diệu nhờ công nghiệp Con của Mẹ” (GLCG # 56). Ngoài ra, Đặc ân Vô Nhiễm cũng còn tiên báo hình ảnh đích thực của Hội Thánh vào ngày cánh chung, ngày mà Dân Chúa sẽ được tác thành như “một trinh nữ vẹn toàn”. Tất cả những nội dung đó đã được tóm kết trong Kinh Tiền Tụng ngày lễ hôm nay: “Chúa đã gìn giữ Đức Trinh Nữ Maria rất thánh khỏi mọi vết nhơ nguyên tội, để chọn Người đầy ơn phúc xứng đáng làm Mẹ Con Chúa, và chỉ cho chúng ta thấy nơi Người là khởi điểm Hội Thánh xinh đẹp, không vết nhăn, là bạn Con Chúa”.
Mẹ Maria chính là thụ tạo đầu tiên hưởng được lời hứa cứu độ mà Thiên Chúa công bố ngay buổi đầu với Nguyên tổ. Với Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria trở thành một chứng nhân cụ thể cho tình yêu bao la của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại. Chính vì thế, trong ngày lễ hôm nay, Giáo Hội đã mượn lời Thánh Vịnh 97 để cùng hát lên trong hân hoan cảm tạ : “Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới. Vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng…Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân…mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta…”
Với Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria được quyền năng và tình yêu Thiên Chúa đổ tràn.Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng Mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Đặc ân cao trọng này chính là sự thánh thiện tinh tuyền của Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Giáo Hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Mẹ Vô Nhiễm là một dấu chỉ niềm hy vọng cho tất cả nhân loại, những người đã chiến thắng Satan nhờ máu của Con Chiên (x. Kh 12, 11).
Năm 1492, hơn 500 năm trước đây Colombô đã khám phá ra Châu Mỹ. Ông đã dùng con tàu mang tên: Maria Vô Nhiễm. Colombô đặt tên cho hòn đảo đầu tiên ông đặt bước chân là San Salvador để tôn kính Đấng Cứu Thế. Hòn đảo thứ nhì mang tên Conception, Mẹ Vô Nhiễm để tôn kính Mẹ Chúa Kitô.
Vào năm 1673, hơn 300 năm trước, cha Monquette, một linh mục thám hiểm gan dạ, người đầu tiên tới sông Mississipi, một thác nước khổng lồ chạy dài 3.000 km xuyên qua 10 tiểu bang Hoa Kỳ. Ngài đặt tên cho con sông miền Tây này là “Maria Vô Nhiễm”.
Balboa và Cortez, hai nhà thám hiểm nổi tiếng cũng có lòng tôn sùng Maria Vô Nhiễm.
Giáo dân Việt Nam rất sùng kính Đức Maria Vô Nhiễm. Năm 1960 khi thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam, các Giám mục đã dâng đất nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm.
Cử hành lễ Mẹ Vô Nhiễm giữa Mùa Vọng, cộng đoàn chúng ta được nhắc nhở thêm nữa về thái độ sửa dọn tâm hồn xứng đáng để đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh, nhất là để từng ngày cộng tác với Ân Sủng hầu biến cuộc sống trở thành một mãnh đất tốt để Lời Chúa kết trái đơm hoa, như mãnh đất tâm hồn trong trắng của Đức Maria, tinh hoa của bao ngàn năm mong đợi. Đức Mẹ đã chuẩn bị một lễ Giáng sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng chín tháng cưu mang trong tình yêu.
Đặc biệt “Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót” được khai mạc vào ngày lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Thật là ý nghĩa, Mẹ được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn làm Mẹ Chúa Giêsu – hiện thân của Lòng Chúa Thương Xót trong công trình cứu chuộc loài người. Như thế, Mẹ Maria là Mẹ của Lòng Thương Xót. Mẹ là hy vọng của những ai sống bé mọn và tín thác nơi trái tim vô nhiễm đầy tình mẫu tử dịu dàng xót thương của Mẹ.
Lạy Chúa Giêsu, nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, Mẹ của lòng thương xót, xin ban cho chúng con những ơn chúng con đang cầu xin Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen. (Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót).
Tước hiệu VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI dành cho Đức Trinh nữ Maria là một đặc ân và là một 8/12-96
Tước hiệu VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI dành cho Đức Trinh nữ Maria là một đặc ân và là một danh hiệu đã quen thuộc đối với người công giáo vào ngày 08 tháng 12 hằng năm.
Vâng! thật vậy, trên tất cả loài thụ tạo, Đức Maria được kêu mời trở nên công chính một cách đặc biệt,để mở đầu cho công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa, Đấng là tình yêu muôn thuở.
Thiên Chúa dựng nên người phụ nữ, để được phối hợp với người nam thực hiện nhiệm vụ cao quý của Thiên Chúa là tiếp tục công trình tạo dựng loài người. Theo đó,Thiên Chúa tạo nên con người chỉ một lần, người nam và người nữ. Nên chi hôn nhân là việc tiếp nối sự sáng tạo của Thiên Chúa để duy trì sự sống của con người trên mặt đất. Sự sống của con người chính là tình yêu của Thiên Chúa, duy trì sự sống là duy trì tình yêu của Thiên Chúa, nhưng sự sống nguyên tuyền ấy đã bị thế lực satan tác động và chính người nữ đầu tiên được bàn tay Thiên Chúa tạo dựng, đã làm cho sứt mẻ.
Hình phạt lớn nhất dành cho con người,kể từ đó, là sự CHẾT. Chết chính là “tội nguyên tổ”, hệ lụy của tội nguyên tổ, gọi là tội tổ tông hay là nguyên tội, tội chung của loài người. Là sự dữ đầu tiên, mà ta chưa tự phạm. Sau đó lớn dần và hình thành trong con người ta, phát triển ra thành tội riêng. Như vậy tội tổ tông làm cho ta ngụp lặn trong tội, làm cho ta thuộc về tội. Như vậy nguyên nhân của tội là chống lại Thiên Chúa, dù rằng không thế lực nào chống lại nổi với Thiên Chúa, nhưng chống trong thâm tâm, trong tự do ý nghĩ và bởi tác động của một thế lực đầu tiên chống lại Thiên Chúa, đó là satan. Như vậy, satan đã gieo sự chết vào thế gian.
Như vậy, tội nguyên tổ là do giới tính thứ hai, bởi sự xúi giục của satan tạo ra. Đó là phụ nữ và ma quỷ.
Thiên Chúa không nóng giận và hủy diệt theo cách của satan, vì Thiên Chúa đứng trên satan. Cái bẫy của satan không giăng được Thiên Chúa, hay nói cách khác Thiên Chúa không mắc bẫy satan vì Ngài là Thiên Chúa, vì Thiên Chúa chỉ cần phán một Lời. Lời nguyền của Thiên Chúa trên con người và satan là
sự chúc dữ. Án phạt tổ tông muôn đời tồn tại trên trần gian và sự chúc dữ của Thiên Chúa vẫn tồn tại trên con người và ma quỷ cho đến ngày cánh chung.
Mọi dòng giống con người được sinh ra trên trần gian đều hệ lụy. Nhưng Thiên Chúa không bỏ mặc con người dưới quyền sự chết, Thiên Chúa đã ban chính Con Một của Ngài đến trần gian để ban ơn cứu chuộc cho con người trần gian. Thiên Chúa muốn tái tạo một dòng giống mới của con người trần gian, nhưng không phải ở trần gian. Dòng giống mới ấy được sinh ra bởi ơn cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, dòng giống mới ấy phải tinh tuyền, thánh khiết. Muốn vậy, họ phải được tái sinh bởi nước, Máu và Thánh Thần. Đấng cứu chuộc, tuy là Thiên tính, nhưng Người đến với nhân loại Người phải mặc lấy nhân tính, đó là xác phàm. Vì thế, phải có một người Mẹ, người Mẹ ấy được chọn giữa muôn người phụ nữ, người Mẹ ấy khi nhận lời truyền tin của sứ Thần, bày tỏ sự vâng phục và đón nhận Đấng Thiên Sai cho nhân loại. Ngay từ giây phút ấy Mẹ đã không còn thuộc về Mẹ nữa, mà Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Như vậy, Đấng cứu chuộc đã ngự trong lòng Mẹ, Mẹ đã không còn là phàm nhân thuần túy nữa, mà là Mẹ đã trở nên siêu phàm nhờ Thiên tính của Đấng cứu chuộc. Những tước hiệu mà Mẹ đón nhận được đều nhờ bởi Đấng cứu chuộc,vì Mẹ đã được kêu mời cộng tác vào công trình tái tạo nhân loại. Như vậy, Mẹ của Đấng tái sinh một giòng giống mới, thì Mẹ phải được lãnh nhận một đặc ân hợp lẽ đó là không mắc tội nguyên tổ. Mọi tín hữu công giáo, khi muốn được gia nhập vào dòng giống mới của Đức Kitô, thì họ phải đón nhận bí tích Thánh tẩy, để được khỏi tội tổ tông. Phương chi là Đức Trinh nữ Maria, người mà đã mang thai chính Con Một của Thiên Chúa, là Mẹ của một giòng giống mới, mặc nhiên là không vướng tội nguyên tổ.
Như vậy, Eva cũ, (mẹ của chúng sinh cũ), đã qua đi, và Eva mới (Mẹ của chúng sinh mới) đã hiện diện, để cộng tác với Thiên Chúa ban cho nhân loại một giòng giống mới, tất nhiên người Mẹ ấy hoàn toàn hợp lẽ vô nhiễm nguyên tội. Mẹ xứng đáng là Eva mới.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là đấng vô nhiễm nguyên tội, vì Mẹ đã lắng nghe và thực thi Lời Chúa, Mẹ đã cộng tác vào công trình cứu chuộc của Người. Nên chi, Mẹ đã lãnh nhận đặc ân vô nhiễm nguyên tội, để sinh ra một giòng giống mới, xin Mẹ thương ban và cầu bàu cho chúng con xứng đáng noi theo Mẹ để đến với Thiên Chúa. Amen./.
Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ Maria được làm Mẹ của Thiên Chúa. Để chuẩn 8/12-97
Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ Maria được làm Mẹ của Thiên Chúa. Để chuẩn bị cho sứ mạng ấy, Thiên Chúa cho Mẹ đầy ân sủng. Cuộc đời Mẹ luôn có Chúa ở cùng, không một giây phút dính vết nhơ tội lỗi, dù là tội nguyên tổ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con thờ lạy Chúa là Đấng Thánh Thiện tuyệt đối. Vì yêu thương, Chúa không quản ngại làm người mang thân phận yếu đuối mỏng giòn như mọi người. Tuy nhiên, Chúa là Đấng Thánh, Chúa chỉ thực sự hiện diện nơi những tâm hồn trong sạch.
Lạy Chúa, nhân loại ngày xưa có được một Mẹ Maria trong sạch để đón tiếp Chúa. Còn ngày nay nhân loại ngụp lặn trong tội lỗi, có tìm được mấy ai xứng đáng đón tiếp Chúa? Con chẳng được ơn vô nhiễm nguyên tội, nhưng con đã được bí tích Rửa Tội xóa tội tổ tông và thánh hiến hồn xác con nên đền thánh cho Chúa ngự. Nhưng rồi con lại làm hoen ố cung thánh tâm hồn. Con đi xưng tội nhưng rồi lại cứ tái phạm, làm nhơ bẩn chiếc áo trắng Rửa Tội. Và cứ thế, tội lỗi chồng chất lên đời con và lan tràn ảnh hưởng sang người khác.
Con thành tâm thống hối xin Chúa tha thứ và thanh tẩy tội lỗi con. Xin Chúa làm cho con nên trong trắng để xứng đáng đón Chúa mỗi ngày, nhất là trong dịp giáng sinh này. Giữa cuộc đời nhiều cạm bẫy cám dỗ, xin Chúa giúp con can đảm vững vàng trong đường lối Chúa. Xin cho con khôn ngoan tránh xa dịp tội.
Lạy Mẹ Maria, con trao phó hồn xác con cho Mẹ giữ gìn. Xin giúp con sạch tội, để như Mẹ, con được mang Chúa trong mình và ban tặng Chúa cho anh chị em con. Amen.
Ghi nhớ: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai”.
Trong Kinh Thánh không có chỗ nào nói rõ Đức Mẹ được ơn Vô Nhiễm, nhưng qua thời gian 8/12-98
Trong Kinh Thánh không có chỗ nào nói rõ Đức Mẹ được ơn Vô Nhiễm, nhưng qua thời gian, Giáo Hội đã học hỏi Kinh Thánh và dùng quyền người quản lý kho tàng của Thiên Chúa, đã hiểu được rằng: Ngay từ thuở ban đầu, Đức Trinh Nữ Maria, Thân Mẫu của Chúa cứu thế và đồng thời cũng là Thánh Mẫu của Thiên Chúa, đã được giữ gìn khỏi tội nguyên tổ.
Trong bài đọc 1, sách Sáng Thế cho chúng ta thấy Thiên Chúa muốn chia sẻ tình bạn, sự cận thân và lòng yêu mến với con người, nhưng con người đã phản bội. Tuy vậy bản án của Thiên Chúa không phải là lời cuối cùng của Người. Qua lời tuyên phạt con rắn -hình ảnh của Xatan- con người được ân hứa nâng đỡ để chiến thắng ác quỷ, để trở về với Thiên Chúa, với cuộc sống hạnh phúc: “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó; người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi. ” Đó chính là lời hứa chuẩn bị cho Đấng cứu thế ra đời. Đấng cứu thế đó, chính là Con Thiên Chúa giáng sinh làm người.
Nhưng người phụ nữ nào sẽ là bà Evà mới -mẹ của chúng sinh, mẹ của một nhân loại mới- xứng đáng với sự thánh khiết của Ngôi Con Thiên Chúa? Chắc chắn không có người phàm nào ở trần thế này có thể cưu mang Con Đấng Chí Thánh, bởi tất cả đã thuộc giòng giống loài người bất xứng vì tội phạm của Ađam. Cho nên chỉ còn cậy dựa vào tình thương yêu vô hạn của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thừa khả năng và minh trí, thánh thiện để tạo cho Ngôi Con của mình một cung điện xứng đáng. Vì vậy Thiên Chúa đã chuẩn bị cho Đức Trinh Nữ Maria làm người mẹ cưu mang và sinh hạ Chúa Cứu thế. Lời của thiên sứ Gáprien chào kính: “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ”... “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh Nữ và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Trinh Nữ. Vì thế Đấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,28. 35).
Như thế, từ thuở đời đời Trinh Nữ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn và Thiên Chúa đã gìn giữ Người, để Người có đủ điều kiện xứng đáng cho “Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ” cũng như “Trinh Nữ đầy ơn phúc”, nghĩa là trong Trinh Nữ có Thiên Chúa hiện diện, vì Thiên Chúa là nguồn cội của mọi ơn phúc. Trong Chúa Kitô, với Thánh Ý của Thiên Chúa, Đức Maria đã được cứu chuộc một cách siêu việt, nghĩa là Đức Mẹ được Chúa cứu chuộc trước thời gian. Đối với Thiên Chúa, thời gian làm sao có thể cản trở Người? Như thế, vì tính chất phong phú của ơn phúc Con chí ái cứu thế của Thiên Chúa mà Đức Maria đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ.
Ngoài thông điệp của Đức Giáo Hoàng Piô IX tuyên tín về việc Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, Công đồng Vatican II, ngày 24. 11. 1964 đã xác nhận: “Đức Trinh Nữ Maria được gìn giữ tinh sạch khỏi vết tội nguyên tổ và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên trời hưởng vinh quang cả hồn và xác và được Thiên Chúa tôn làm Nữ Vương vũ trụ” (LG 59).
Chúng ta cảm tạ tình yêu Thiên Chúa đã ban ơn Vô Nhiễm nguyên tội cho Đức Mẹ, để nhờ Mẹ mà Đức Kitô được giáng sinh cách thanh khiết, thánh thiện, hầu đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Xin Đức Mẹ phù hộ cho chúng ta sống trong sạch, công chính, đừng bao giờ cố tình sai phạm tội lỗi, để luôn xứng đáng trước mặt Mẹ là Đấng Thánh của Thiên Chúa, và có thể vào hàng ngũ con cái Mẹ ra nghinh đón Chúa Cứu Thế ngự đến.
Ơn Vô Nhiễm Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ Tội Tổ Tông Chúng Con Mắc Bởi Tiền Nhân
Thánh Ý Thiên Chúa nhiệm mầu. Hồng ân Vô Nhiễm Nguyên Tội là một trong bốn đặc ân Thiên 8/12-99
Thánh Ý Thiên Chúa nhiệm mầu. Hồng ân Vô Nhiễm Nguyên Tội là một trong bốn đặc ân Thiên Chúa dành riêng cho Đức Mẹ – người Nữ Tỳ hèn mọn mà cao trọng. Thật vậy, chính Đức Mẹ không thể lặng im nên đã phải thốt lên: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới.” (Lc 1:48a)
Đức Maria là Đấng Vô Nhiễm. Tại Lộ Đức, ngày lịch sử 25-3-1858, chính Đức Mẹ đã xác nhận với Thánh nữ Bernadette: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.” Thật kỳ diệu, vì Đức Mẹ đã chuẩn nhận tín điều mà ĐGH Piô IX đã công bố trước đó, ngày 8-12-1854, qua Tông sắc “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa Bất Khả Ngộ). Điều đó chứng tỏ Chúa Thánh Thần luôn tác động trong đời sống Giáo hội Lữ hành qua người kế vị Thánh Phêrô với đặc ân bất khả ngộ về tín lý.
Trong cơ thể con người, hệ miễn dịch rất quan trọng, luôn cần được bảo vệ để có sức khỏe tốt, nhờ đó mà có thể sống vui, giúp ích cho gia đình, cho xã hội, và cho Giáo Hội. Hằng ngày có nhiều thứ khiến con người dễ bị nhiễm, liên quan vấn đề vệ sinh và môi trường ô nhiễm, nhất là ngày nay: Nhiễm trùng, nhiễm độc, nhiễm xạ, nhiễm bệnh,...
Về thể lý, chắc chắn không ai miễn nhiễm, bởi vì chẳng ai chưa bao giờ bị bệnh hoặc bị nhiễm một dạng virus nào đó, thế nên thể lý rất cần có sức đề kháng mạnh. Tương tự, môi trường tâm linh cũng cần sạch sẽ, không ô nhiễm cái xấu, cái ác, sự dữ,… bởi vì tội lỗi cũng có mức ảnh hưởng theo “dây chuyền” – gọi là tính liên đới.
Trình thuật St 3:9-15 cho biết điều liên quan Ông Bà Nguyên Tổ. Lúc đó, Thiên Chúa hỏi con người đang ở đâu, rồi con người nói rằng vì sợ hãi khi nghe Thiên Chúa gọi, lại thấy mình trần truồng nên lẩn trốn. Trước đó, Ông Bà thường xuyên chuyện vãn với Ngài, thế mà bây giờ lại sợ Ngài, không muốn đối diện với Ngài nữa. Rồi Ngài hỏi tại sao biết mình trần truồng, và nói thẳng: “Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?” Ông đổ tội cho Bà, Bà đổ tội cho con rắn. Ngài hỏi không phải là Ngài không biết, mà Ngài muốn tự con người xác nhận, nhưng chẳng ai dám nhận lỗi, họ cứ đổ lỗi cho nhau, cứ xoay quanh “vòng tội lỗi” như thế... Ngày nay người ta cũng vẫn cứ xoay “đúng cái quy trình vòng tội” như vậy.
Và hệ lụy tất yếu phải xảy ra. Thiên Chúa nguyền rủa con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” Thiên Chúa muốn nói tới một phụ nữ vĩ đại nhất lịch sử nhân loại, đó là Trinh Nữ Maria – Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Bà Êva là “mẹ của chúng sinh” (St 3:20), mẹ của mọi người. Thế nhưng Người Mẹ đầu tiên của nhân loại đã hư hỏng vì không vâng phục Thiên Chúa. Nhân loại mất Người Mẹ thứ nhất là Bà Tổ Êva, nhưng lại được Thiên Chúa ban cho Người Mẹ thứ nhì là Đức Maria. Thật là mầu nhiệm về sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cảm thấy vui mừng lắm, không thể không cảm tạ Ngài, như lời của Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người” (Tv 98:1). Vô số kỳ công Ngài làm để cho chúng ta tận hưởng. Thật là tuyệt vời biết bao!
Không chỉ như vậy, vì còn rất nhiều lý do khác để chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa. Đây là một lý do: “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân; Người đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ítraen. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.” (Tv 98:2-3) Quả thật, niềm vui của chúng ta cứ tăng dần, dĩ nhiên trách nhiệm của chúng ta cũng phải theo tỷ lệ thuận, và không thể im hơi lặng tiếng: “Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát.” (Tv 98:4) Mình vui mừng thì cũng muốn người khác cùng chia vui sẻ mừng theo tinh thần thông hiệp cộng đồng.
Kinh Thánh cho chúng ta biết có vô vàn các kỳ công của Thiên Chúa khiến chúng ta ngạc nhiên và phải biết tạ ơn Ngài không ngừng. Thật vậy, Thánh Phaolô đã lên tiếng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người.” (Ep 1:3-4) Đó là cách giải thích, nhắc nhở, động viên chúng ta không ngừng cố gắng hoàn thiện – mọi nơi và mọi lúc.
Một trong những cách cầu nguyện là dâng lời tạ ơn, chứ không chỉ là van xin, cầu nài. Làm sao cầu nguyện có hiệu quả và đẹp lòng Thiên Chúa? Đây là bí quyết của Thánh nữ Faustina: “Khi cầu nguyện, chúng ta ĐỪNG NÀI ÉP Chúa ban cho điều chúng ta muốn, mà chúng ta NÊN TUÂN PHỤC Thánh Ý Ngài.” (Nhật Ký, số 1525) Có những điều chúng ta cầu xin nhưng không nhận được vì KHÔNG ĐÚNG Thánh ý Chúa. Thánh Phaolô giải thích: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu.” (Ep 1:5-6) Điều đó chứng tỏ tạ ơn là hành động vô cùng quan trọng trong đời sống hằng ngày của mọi tín nhân, những người mang trong mình chính Đức Giêsu Kitô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Là Đấng toàn năng, toàn trí, nhân từ và giàu lòng thương xót, Thiên Chúa chỉ muốn những gì tốt lành nhất cho chúng ta, mặc dù đôi khi chúng ta cảm thấy không vừa lòng, không như ý muốn. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã TIỀN ĐỊNH cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng THEO KẾ HOẠCH của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người.” (Ep 1:11-12) Chắc chắn không gì ngoài Thánh Ý Chúa, dù chỉ là một sợi tóc nhỏ nhoi cũng được Ngài quan phòng và tiền định rạch ròi. (x. Mt 5:36; Mt 10:30; Lc 21:18; Cv 27:34)
Trình thuật Lc 1:26-38 cho biết sự kiện Truyền Tin – Sứ thần Gáprien loan báo Hỉ Tín cho Trinh Nữ Maria. Khi bà Êlidabét có thai được sáu tháng, Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến thành Nadarét, thuộc miền Galilê, gặp một trinh nữ Maria, hôn thê của chính nhân Giuse, thuộc dòng dõi Hoàng tộc Đavít. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Đức Maria là người khiêm nhường nên rất ngại khi được đề cao là người nhân đức.
Biết vậy, sứ thần nói ngay: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” Cái ngại này nối tiếp cái ngại khác. Nữ nhi hiền thục là thế, ngại lắm luôn!
Thế nên Đức Maria vừa ngạc nhiên vừa phân trần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” Sứ thần xác định ngay: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà. Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa, bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai: Bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Thiên Chúa toàn năng, chính Ngài đã tạo tác mọi sự – cả hữu hình và vô hình.
Đức Maria luôn trọn niềm tín thác nơi Thiên Chúa, không cần đắn đo, và liền thưa: “Vâng, tôi đây là NỮ TỲ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Sứ vụ hoàn thành nên sứ thần từ biệt ra đi... Lúc đó hẳn là Đức Maria vô cùng hoan lạc vì tràn đầy ân sủng của Thiên Chúa.
Trình thuật Tin Mừng rất quen thuộc, đã đọc hoặc nghe nhiều lần, thế nhưng vẫn không hề nhàm chán. Ước gì mỗi chúng ta cũng luôn tín thác vào sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa để có thể mau mắn “xin vâng” như Đức Mẹ, vâng lời ngay trong những lúc khó khăn nhất, bởi vì Thiên Chúa luôn ở với mỗi chúng ta. Trong niềm hân hoan kính mừng Thánh Mẫu Vô Nhiễm, chúng ta cùng chân thành thưa với Thiên Chúa: “Xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ.” (Tv 119:34) Chắc chắn Đức Mẹ sẽ dẫn chúng ta đến với Con Yêu của Mẹ – Đức Giêsu Kitô.
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, tạ ơn Ngài đã tặng ban Người Mẹ đầy ơn phúc, xin giúp chúng con luôn mau mắn vâng Thánh Ý Ngài trong mọi hoàn cảnh – lúc vui cũng như lúc buồn. Lạy Mẹ Vô Nhiễm, xin nguyện giúp cầu thay chúng con nơi thung lũng trần gian đầy nước mắt này, xin che chở để chúng con có thể “miễn nhiễm” với tội lỗi và sự dữ, thoát mọi cám dỗ, bây giờ và trong giờ lâm tử. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Kể từ khi A-đam và E-và phạm tội bất tuân với Thiên Chúa, tội lỗi đã xâm nhập vào thế gian 8/12-100
Kể từ khi A-đam và E-và phạm tội bất tuân với Thiên Chúa, tội lỗi đã xâm nhập vào thế gian, khiến cho bất cứ ai sinh ra thì đều mang trong mình hệ lụy của tội. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn có một chương trình nhiệm mầu dành cho kế hoạch cứu độ. Chính vì vậy, Thiên Chúa đã tuyển chọn một người đặc biệt để cộng tác với Người. Người đó chính là Mẹ Maria. Khi được tuyển chọn để tham gia vào kế hoạch yêu thương, Thiên Chúa, đã gìn giữ Mẹ cách tuyệt đối để nên người độc nhất vô nhị không bị vướng mắc tội tổ tông truyền.
Bước vào Mùa Vọng với lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Giáo hội mời gọi con cái mình cử hành với niềm vui vẻ, đồng thời tôn vinh Mẹ là Ðấng Tuyệt Mỹ, vì Mẹ đã được Thiên Chúa Cha – Đấng giầu lòng thương xót – yêu thương và tuyển chọn làm Mẹ Người Con Duy Nhất của Người. Mẹ được gìn giữ khỏi mắc tội nguyên tổ, là Ðấng đầu tiên được chính Người Con của Mẹ cứu chuộc. Nét đẹp cao cả của Mẹ phản chiếu nét đẹp của Chúa Ki-tô, là bằng chứng về chiến thắng của tình thương Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết, khi Người Nữ đạp nát đầu con rắn đã cám dỗ A-đam và E-và phạm tội.
Ngày 8/12/1854, bằng sắc lệnh Thiên Chúa bất khả ngộ “Ineffabilis Deus”, Đức Thánh Cha Pi-ô IX đã long trọng tuyên bố: “Với uy quyền của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô, của hai Thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, cũng như của riêng Ta, Ta công bố, tuyên ngôn và xác nhận tín điều được mạc khải bởi Thiên Chúa buộc mọi tín hữu phải tin vững vàng và trung kiên là “Rất Thánh Trinh Nữ Maria, ngay từ giây phút đầu thai, nhờ đặc ân của Thiên Chúa toàn năng và công nghiệp của Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Thế, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của nguyên tội.” (Sắc lệnh Niềm Tin Ki-tô Giáo “The Christian Faith” – TCF, số 204). Sau đó hơn 3 năm, ngày 25-3-1858, khi hiện ra với chị thánh Bernadette, chính Đức Maria đã công nhận tín điều này khi tự xưng mình là “Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội".
Một câu hỏi được đặt ra: Vì sao lại có Sắc lệnh “Ineffabilis Deus”? Ấy cũng bởi vì không chỉ ở bên ngoài Giáo hội, mà ngay cả bên trong Giáo hội vẫn có những suy nghĩ: “Nguyên tổ loài người đã pham tội, tội đó truyền tử lưu tôn đời đời kiếp kiếp. Đức Maria là con cháu của Nguyên tổ thì làm sao có thể thoát khỏi tội Nguyên tổ cho được?” Lý luận nghe ra có vẻ hợp lý, nhưng đó mới chỉ là những “tư tưởng của loài người, không phải tư tưởng của Thiên Chúa” (Mc 8, 33). Thiên Chúa đã làm những việc vượt quá trí khôn của loài người, nên không thể “suy sự Đức Chúa Trời” như kiểu Thánh Au-gus-ti-nô (1), nếu chưa được Người mạc khải cho biết. Vâng, đối với Thiên Chúa thì mọi sự “không thể” đều trở nên “có thể” (“Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.” – Mt 19, 26). Tất cả đều không ra khỏi sự quan phòng của Đấng Tối Cao, mọi sự đều đã được tiền định từ trước vô cùng.
Khi Nguyên tổ phạm tội bị trục xuất ra khỏi vườn Địa Đàng (Ê-đen), thì vì Tình Yêu vô hạn, Thiên Chúa đã có ngay kế hoạch Cứu Độ. Quả thế, “sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (Rm 5, 15). A-đam xưa đã phạm tội phải xa lìa Thiên Chúa, thì cần phải có một A-đam Mới đem nhân loại trở về với Thiên Chúa. A-đam Mới đó chính là Đức Giê-su Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật. Đã là Thiên Chúa thì tất nhiên không hề có chuyện mắc tội cúa Nguyên tổ loài người, như vậy thì Con Thiên Chúa làm người là Đấng Vô Nhiễm cần phải được sinh ra từ một người Mẹ Vô Nhiễm, và đó chính là E-và Mới Maria Vô Nhiễm Nguyên tội vậy. Sáng tạo cũ dựng nên Nguyên tổ loài người, nhưng A-đam và E-và đã phạm tội, thì E-và Mới hạ sinh A-đam Mới (A-đam cuối cùng) mở ra một kỷ nguyên mới, một sáng tạo mới chan đầy ân sủng của Thiên Chúa toàn năng. Sáng tạo mới không thay thế mà chỉ làm mới lại sáng tạo cũ, nói cách khác, con người được dựng nên bởi sáng tạo cũ đã chết đi thì nay được tái sinh bởi sáng tạo mới.
Như vậy, “Với Đức Maria, người thiếu nữ Sion tuyệt vời sau thời mong đợi đằng đẵng nhờ Thiên Chúa thực hiện lời hứa, thời gian đã nên trọn và nhiệm cục mới được thiết lập.” (Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, điều 489). Quả thực Đức Trinh nữ Maria Vô nhiễm, Mẹ Thiên Chúa, đã được tiền định từ trước vô cùng (Giáo Lý HTCG, điều 488-489). Nếu không là một tiền định bất biến, thì làm sao ngôn sứ I-sai-a biết được (nhờ mạc khải) để tiên báo từ 5 thế kỷ trước khi mầu nhiệm Nhập Thể trở thành hiện thực? (“Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta." – Is 7, 14). Việc tiền định cho Đức Maria được vô nhiễm nguyên tội là điều tất yếu, bởi vì “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người.” (Ep 1, 11).
Hồng ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là một biểu hiện cụ thể và tròn đầy kết quả viên mãn của ơn cứu độ do Đức Ki-tô mang lại cho phần tử ưu tú nhất của nhân loại: Đức Maria vẹn tuyền, tuyệt mỹ. Mẹ đã gắn bó mật thiết với mầu nhiệm “Con Thiên Chúa làm người”, như sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (điều 490) đã viết: “Để làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria “đã được Chúa ban cho nhiều ơn xứng với nhiệm vụ cao cả ấy”. Lời chào của Thiên sứ khi truyền tin cho Đức Mẹ ("Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." – Lc 1, 28) đã nói lên đầy đủ ý nghĩa của mầu nhiệm này. Vâng, “Suốt dọc chiều dài lịch sử, Hội Thánh đã nhận thức rằng Đức Maria, vì được Thiên Chúa ban cho “đầy ơn phúc” (Lc 1, 28), nên được cứu chuộc ngay từ lúc tượng thai. Mẹ đã được hoàn toàn gìn giữ khỏi tỳ ố của nguyên tội và suốt cả đời, Mẹ vẫn luôn tinh tuyền không phạm tội riêng nào.” (Giáo Lý HTCG, điều 508).
Rõ ràng “Mẹ có được sự thánh thiện tuyệt vời, có một không hai ‘ngay từ lúc tượng thai’ hoàn toàn là do Đức Ki-tô: Mẹ được cứu chuộc cách kỳ diệu nhờ công nghiệp Con của Mẹ.” (Giáo Lý HTCG, điều 506). Những đặc ân của “Đấng Đầy Ân Sủng” Maria không những là kết quả đi trước của cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô, mà còn tiên báo hình ảnh đích thực của Hội Thánh vào ngày cánh chung, ngày mà Dân Chúa sẽ được tác thành như “một trinh nữ vẹn toàn”. Tất cả những nội dung đó đã được tóm kết trong kinh Tiền Tụng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội: “Cha đã gìn giữ Ðức Trinh Nữ Maria khỏi mọi vết nhơ nguyên tội. Cha đã cho Người được đầy ơn sủng để Người xứng đáng làm Mẹ của Con Cha. Nơi Người, Cha đã phác hoạ hình ảnh một Hội Thánh rất xinh đẹp, không tỳ ố, không vết nhăn, là Hiền Thê của Ðức Ki-tô…”.
Vì thế, Giáo hội luôn hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (“Bài ca Ngọi Khen – Magnificat” – Lc 1, 46-56). Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm tình của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Hơn thế nữa, “Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe Lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.” (Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, số 20).
Cử hành lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội giữa Mùa Vọng, cộng đoàn Ki-tô hữu hãy cầu xin cho được “tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa trong đức tin” như Đức Maria đã “tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa bằng xương bằng thịt”. Một cách cụ thể là hãy dọn sạch tâm hồn, ngõ hầu xứng đáng đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh, nhất là để từng ngày cộng tác với ân sủng ngõ hầu biến cuộc sống trở thành một mảnh đất tốt để Lời Chúa đơm hoa kết trái, như mảnh đất tâm hồn trinh nguyên vẹn tuyền của Đức Maria, tinh hoa của bao ngàn năm mong đợi. Ước được như vậy. Amen.
----------------------------
Chú thích: (1) –Truyền thuyết Thánh Au-gus-ti-nô (354-430) “suy sự Đức Chúa Trời”: Thánh Au-gus-ti-nô sinh ngày 13/11/354, tại Tagaste (An-giê-ri). Thánh nhân là một thanh niên có học và có tài (làm giáo sư triết học khi mới 19 tuổi), nhưng nhiễm phải giáo lý của giáo phái Ma-ni-kê. Mãi tới năm 33 tuổi, nhờ hiền mẫu Monica, ngài mới trở lại Đạo Chúa, thụ phong linh mục năm 36 tuổi và làm giám mục năm 41 tuổi. Trong quá trình sống và giảng dạy về Thần học và Triết học, Thánh Au-gus-ti-nô được đọc, được nghe, được thấy nhiều điều thật lạ lùng, khó hiểu – nhất là về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Một hôm, thánh nhân đi đi lại lại trên bờ biển để vừa cầu nguyện, vừa cố suy nghĩ xem có cách nào để hiểu và cắt nghĩa được tường tận mọi điều về Thiên Chúa Ba Ngôi cùng những việc Người thực hiện. Đang đăm chiêu bách bộ, chợt ngài thấy có một em bé trông rất khôi ngô tuấn tú, đang dùng một vỏ sò múc nước biển đổ vào một lỗ nhỏ (hang cua, hang cáy) trên bờ biển. Ngạc nhiên, Thánh Au-gus-ti-nô liền dừng lại hỏi em đang muốn làm gì vậy. Em bé mỉm cười trả lời: “Cháu đang muốn tát cạn nước biển”. Thánh Au-gus-ti-nô phì cười: “Sao cháu làm một việc vô ích như vậy. Làm sao cháu có thể dùng cái vỏ sò bé tí để múc nước cả đại dương này đổ hết được vào cái lỗ nhỏ như thế?” Em bé cũng cười rất tươi trả lời: “Thì việc cháu đang làm cũng đâu có gì khác với việc bác đang suy nghĩ?” Với sự đáp trả đầy thông minh hóm hỉnh của em nhỏ, Thánh Au-gus-ti-nô giật mình hiểu ra Thiên Chúa đã thức tỉnh ngài thông qua cậu bé (thiên sứ) này.
Kể từ đó, ngài không dám “suy sự Đức Chúa Trời” theo kiểu triết lý của trần gian nữa. Mặt khác, Thánh nhân luôn cầu nguyện xin ơn soi sáng để Thiên Chúa “vén tấm màn lên” (mạc khải – revelatio) cho ngài thông hiểu những “nền tảng thần học” vô cùng cao siêu, thâm hậu, mà Thiên Chúa đã thực hiện.