Suy Niệm Tin Mừng Lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa 1/1 Bài 51-100: Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm trong lòng -------------------------------
Phúc Âm: Lc 2,16-21: "Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi... và tám ngày sau người ta gọi tên Người là Giêsu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ. - Ðó là Lời Chúa ---------------------------- --------------------------------- Mục Lục:
Đón chào năm mới, chắc chắn có nhiều thái độ khác nhau. Người trẻ vui mừng vì càng thêm tuổi, càng thêm cao lớn. Người già có lẽ đón xuân với nhiều e ngại, dè dặt. E ngại không phải chỉ vì ngày tháng còn lại, nhưng còn vì thấy mái tóc và nét mặt ngày càng biến đổi mau lẹ. Bao nhiêu người đã muốn che dấu nỗi e ngại đó bằng những đợt nhuộm tóc hàng tháng. Người giàu có hơn lại đi căng da mặt mỗi năm. Ít nhất mỗi người đều cố gắng giữ mãi tuổi xuân hay làm cho mình trẻ lại bằng những mỹ phẩm. Ngày nay, thẩm mỹ viện không phải chỉ đón tiếp nữ giới. Cả phái mày râu cũng bước vô đó để sửa cằm, mắt, mũi và ... đổi giống nữa. Ai cũng muốn trẻ đẹp mãi. Nhưng vẻ đẹp đích thực là gì ? Giá trị con người nằm ở chỗ nào ? Nhìn lên Mẹ Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa, chúng ta mới thấy tất cả vẻ đẹp, giá trị và sự sống đích thực của con người. Từ ngày còn ngồi trên gối mẹ, chúng ta đã đọc: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời ...” Trí khôn chúng ta còn quá non nớt và khờ dại, làm sao hiểu được mầu nhiệm cao sâu đó ? Cho tới bây giờ, chúng ta vẫn không thấu hiểu những gì chúng ta vẫn đọc hằng ngày. Vậy mà, Mẹ Maria vẫn ban ơn và cầu bầu cho chúng ta. Mặc dù tội lỗi, chúng ta vẫn được Chúa thương ban cho chúng ta cầu khẩn Mẹ với danh hiệu cực thánh: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời ...” Càng tội lỗi, chúng ta càng đáng được Mẹ đoái thương. Sở dĩ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, vì Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa làm người để cứu chuộc chúng ta. Mẹ đã ban cho Chúa một thân xác để có thể sống và trở nên giống chúng ta hoàn toàn. Bởi thế, khi tuyên xưng Đức Mẹ Thiên Chúa, chúng ta tin chắc chắn về mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Đàng khác, khi cầu nguyện với Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, chúng ta còn tin chắc sẽ được Thiên Chúa cứu độ. Nhận tước hiệu Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ muốn chứng minh cho mọi người biết Con Thiên Chúa có một thân xác đích thực do Thánh Linh tạo dựng trong lòng Mẹ. Đàng khác, Mẹ muốn cứu tất cả nhân loại. Với chức vị Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ chỉ muốn nói thực tế Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa như lời sứ thần truyền tin. Từ giờ phút đó, Mẹ nghiễm nhiên trở thành Đức Mẹ Thiên Chúa. Tín điều này đã được công đồng Êphêsô tuyên tín năm 431. Cả Giáo Hội Đông và Tây đều tôn kính và trân trọng tước vị cao cả đó của Mẹ. Tin như thế, Giáo hội không mù quáng, như nhiều người lầm tưởng. Họ tưởng Đức Mẹ sinh ra bản tính và ngôi vị Thiên Chúa. Nếu thế, Thiên Chúa không còn là nguyên ủy của mọi nguyên ủy nữa. Chẳng lẽ Thiên Chúa còn phải lệ thuộc như vậy ? Đúng ra, chức vị Thánh Mẫu Thiên Chúa chỉ liên hệ tới Ngôi Hai, chứ không bao trùm cả Ngôi Nhất và Ngôi Ba. Cả bản tính Thiên Chúa, Mẹ cũng không đụng chạm tới được. Nhưng vì sinh ra con người Đức Giêsu, gồm Ngôi Lời, Thiên tính và nhân tính, nên Mẹ xứng đáng được tôn phong làm Thánh Mẫu Thiên Chúa. Tước hiệu đó cao trọng vô cùng, nhưng không đủ hấp dẫn Mẹ đến nỗi Mẹ quên tất cả mọi sự. Mẹ không muốn đổi danh dự của một trinh nữ lấy tước hiệu đó. Tới khi được thiên thần bảo đảm Thánh Thần sẽ hành động tất cả, Mẹ mới khiêm tốn thưa lời xin vâng. Cử chỉ đó đã khiến Mẹ được Thiên Chúa quý trọng và nâng cao Mẹ vượt trên các thiên thần và các thánh trên trời. Mẹ quả là một con người biết tự trọng và có trách nhiệm về những việc xảy ra. Chính vì thế, nơi cung lòng Mẹ, đất trời đã gặp gỡ và tấu lên ca khúc bình an. Một cuộc hiệp thông lớn lao đã diễn ra ngay trong lòng Mẹ. Có một nhân vị vô cùng cao trọng đang giang tay nối người anh em nhân loại với Thiên Chúa là Cha. Nếu Mẹ không cương trực và khiêm cung chấp nhận sinh Con Thiên Chúa, làm sao có một nhân vị làm trung gian nối đất trời như vậy ? Từ ngày Chúa Nhập Thể, con người trở thành “trung tâm của hòa bình.” Bởi thế, “tôn trọng con người” là “thăng tiến hòa bình.” (Bênêđictô XVI) Đúng thế, trước khi Chúa làm người, không ai có thể nối kết đất trời và dẫn con người đi vào cuộc hiệp thông và hòa giải với Thiên Chúa và với con người. Trong công cuộc hòa giải lớn lao này, Mẹ Maria đã đóng một vai trò rất quan trọng. Nếu Mẹ không cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa, chắc chắn Mẹ cũng không thể trở thành Thánh Mẫu Thiên Chúa. Nhưng ngay khi Mẹ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ trở thành Nữ Vương Hòa Bình, vì cung lòng Mẹ đã cưu mang Thái Tử Hòa Bình là Con Thiên Chúa. Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã thương cho con nhận biết và tin thật Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thiên Chúa và Nữ Vương Hòa Bình. Xin cho con trung thành và siêng năng kêu cầu “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời” suốt cuộc đời con để hòa bình luôn ngự trị trên khắp hoàn cầu. Amen.
Đức Maria không chỉ ghi nhớ những kỷ niệm vừa mới xảy ra, nhưng còn ghi nhớ tất cả những sự kiện xảy ra cho mình, kể từ ngày sứ thần Chúa đến báo tin Mẹ sẽ cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế. Chín tháng đã trôi qua, biết bao nhiêu điều xảy đến. Sau những khoảnh khắc ngập tràn ánh sáng vì sự can thiệp của Thiên Chúa, đời thường trở lại nhịp sống của mình. Dường như cuộc đời ra khó hiểu hơn. Tòan là một màu xám và một lòng tin trơ trụi. Từ bối cảnh ấy, một câu hỏi bật lên: “Phải chăng Thiên Chúa đã quên ?” Ông Giuse cũng đợi chờ Con Trẻ ra đời. Trong thời gian ấy, để tìm được bình an, ông được phải ánh sáng từ trời chiếu soi mới có thể thóat khỏi cảnh đêm tối đang vây bọc. Nhưng rồi sau đó, chẳng có gì thêm nữa, hết ngày này qua ngày khác trong khi cái bụng của người vợ cứ lớn dần. Tuy nhiên, trong quãng thời gian ấy, thời gian chịu đựng đầy kiên nhẫn, cũng có một tia sáng: những đứa trẻ nhảy mừng trong lòng mẹ, khi xảy ra cuộc gặp gỡ giữa người đàn bà già nua Êlisabet và người phụ nữ trẻ Maria. Một khỏanh khắc ngắn ngủn với những lời tán dương, những sấm ngôn và tâm tình thờ lạy. Rồi tất cả lại trở nên bí ẩn. Ngày vẫn nối tiếp ngày. Trong thời gian đầu của cuộc hôn nhân, ông Giuse và bà Maria đã rất ư bối rối ! Họ đã phải cùng nhau xây dựng cuộc sống chung như một lễ dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa và cho Đức Kitô mà họ được giao nhiệm vụ săn sóc. Lòng kính trọng đối với Con Trẻ sẽ ra đời đem lại cho họ niềm vui lớn lao đến nỗi họ quên hết nhọc nhằn. Họ cảm thấy vui mừng, không chỉ là niềm vui bình thường của một đôi vợ chồng, nhưng là niềm vui linh thánh, niềm vui xuất phát từ Thiên Chúa. Chính với tình yêu này, mà họ quan tâm và chăm sóc lẫn nhau. Ông Giuse rất quan tâm đến bà Maria đôi khi tỏ ra khá mệt mỏi, nhất là trong cuộc du hành bất đắc dĩ này, khi bà Maria sắp đến ngày sinh. Các bà mẹ hẳn hiểu rõ nụ cười có giá trị biết bao trong lúc này. Về phần mình, bà Maria đã cùng với ông Giuse trải qua thử thách này. Bà âm thầm chịu đựng, đồng thời đón nhận những điều xảy đến cho mình với lòng tin tưởng. Sau cùng, đứa trẻ đã ra đời. Đầu tiên, chỉ có hai ông bà thờ lạy Con Trẻ. Chẳng bao lâu sau đó, các mục đồng đã tìm đến nơi. Trong bóng đêm, họ đã nhận được ánh sáng của Thiên Chúa. Người đã soi sáng lòng tin chất phác của họ. Họ đã gặp thấy Con Trẻ vừa ra đời trong nơi tạm trú của súc vật. Cùng với ông Giuse và bà Maria, họ thờ lạy đấng Mêsia, Đấng Cứu Tinh của dân tộc và cả nhân loại. Sau đó, họ lại ra đi và báo cho mọi người biết: Con Trẻ ấy chính là Đức Kitô đã được các ngôn sứ báo trước. Đọc lại trình thuật Tin Mừng này, liệu người Kitô hữu có được cái nhìn sáng suốt như các mục đồng để có thể nhận ra dấu vết của Thiên Chúa trong những cuộc gặp gỡ hằng ngày ? Trong những giờ phút đen tối, họ có biết, cùng với Đức Maria, chia sẻ ánh sáng mà Thiên Chúa đã soi chiếu trong lòng họ, khi ban cho họ Đức Giêsu ? Bức tranh tương phản Xét bề ngoài, Đức Maria chiếm địa vị khákhiêm tốn trong bài Tin Mừng hôm nay, thế nhưng vai trò của Mẹ rất quan trọng. Mẹ quỳ đó, im lặng, trong khi các mục đồng và dân cư vùng Bêlem đứng vòng quanh, như mộr bức tranh tương phản, với vùng sáng và bóng tối. Theo Tin Mừng Luca, có thể nói các mục đồng là những người ồn ào: sứ điệp do các thiên thần loan báo làm cho họ phấn khởi. Còn dân cư vùng Bêlem lại ngạc nhiên và ngỡ ngàng khi nghe câu chuyện các mục đồng thuật lại: họ không nói nên lời. Về phần mình, Đức Maria không có một cử động nào. Mẹ quỳ đó, im lặng, hoàn toàn trái ngược với đám mục đồng cũng như đám dân cư vùng Betlem. Mẹ cũng ngạc nhiên, nhưng không xao động. Mẹ hòan toàn chú tâm vào những điều tai nghe mắt thấy. Mẹ thu lượm tất cả, và cẩn thận ghi nhớ những gì xảy ra, cùng với xác tín rằng: tất cả những điều ấy đều có tính cách quan trọng. Tin Mừng Luca ghi nhận: Mẹ “suy đi nghĩ lại trong lòng”. Theo bối cảnh Kinh Thánh, thành ngữ này có ý nghĩa rõ ràng: khi suy đi nghĩ lại những điều các mục đồng thuật lại, Đức Maria chuẩn bị để sẵn sàng đón nhận tương lai sắp xảy đến (x. Lc 1,66). Tương lai của Con Trẻ đó là điều chắc chắn nhưng cả tương lai của Mẹ nữa: vì Mẹ và Con Trẻ làm sao có thể tách rời nhau được ? chắc chắn rằng Mẹ chỉ hiểu rõ tất cả khi đứng dưới chân thập giá, nhất là sau khi Đức Giêsu đã phục sinh. Đối với người Kitô hữu, đây lại không phải là một đề tài hấp dẫn để suy niệm khi họ bước vào một năm mới, trong đó Thiên Chúa vẫn luôn ở với họ ? Cần phải học để nhận ra điền này. Và cũng phải biết tạ ơn. Cả đời trong im lặng Trong thời khắc linh thiêng này, Đức Maria chia sẻ bằng cách im lặng. Im lặng là tình trạng, là con đường, là cuộc đời của Mẹ. Cuộc đời của Mẹ là im lặng thờ lạy Lời Vĩnh Cửu. Khi cưu mang, khi bồng ẵm Lời đó, Lời ngang hàng với Chúa Cha, Lời trở nên con người yếu ớt, mỏng manh, mẹ lại càng thinh lặng và được biến đổi theo gương Ngôi Lời Nhập Thể cũng chính là Con của Mẹ, và là Thiên Chúa của Mẹ. Như vậy cuộc đời của Mẹ luôn chìm trong thinh lặng: từ thinh lặng để thờ lạy sang thinh lặng vì được biến đổi. Tâm trí Mẹ luôn khao khát và bước đi trong thinh lặng. Mẹ ở trong im lặng, ngây ngất vì sự thinh lặng của Đức Giêsu. Đây là một trong những hiệu quả linh thánh do sự thinh lặng của Đức Giêsu đem lại: Đức Maria hòan tòan im lặng, một sự im lặng đầy khiêm tốn, thánh thiện. Quả vậy, có thể coi như một điều lạ lùng khi thấy trong khung cảnh cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu, mọi người đều lên tiếng trong khi Đức Maria không nói gì cả. Các thiên thần nói với nhau và nói với mục đồng, còn Đức Maria giữ im lặng. Các mục đồng chạy đến và lên tiếng nói ; Đức Maria giữ im lặng. Các vị đạo sĩ từ phương đông đến, họ nói chuyện với nhau và với cả thành, cả đế quốc, với cả Thượng Hội Đồng ở Giuđê, còn Đức Maria sống trong âm thầm và im lặng… Tại đền thờ, ông già Simêon và nữ ngôn sứ Anna lên tiếng nói ; tất cả những ai đang trông đợi ơn cứu độ cho Itraen cũng lên tiếng nói ; trong khi đó Đức Maria im lặng tiến dâng và nhận lại Người Con của mình. Sự yên lặng của Đức Giêsu đã có uy lực và ghi dấu ấn mạnh mẽ trên tâm trí Đức Maria. Sự yên lặng ấy đã chiếm lĩnh Mẹ và làm Mẹ ngây ngất. Trong suốt quãng thời thơ ấu của Đức Giêsu, người ta chỉ nghe thuật lại về thái độ của Đức Maria: “còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Đó là mối bận tâm duy nhất của Đức Trinh Nữ, đó là cuộc sống và hoạt động của Mẹ khi nhìn ngắm Đức Giêsu lúc còn thơ ấu ! (theo Pierre de Bérulle, Opuscule de piété, Aubier LX, trang 233-235).
Đức Maria, Mẹ Giáo hội là danh hiệu Đức Phaolô VI dùng để tôn phong Đức Mẹ ngày 16.12.1964, nhân dịp kết thúc khóa III Công đồng Vaticanô II. ĐGH nói: “Đây là lần đầu tiên một Công đồng đưa ra một tổng hợp sâu rộng về học thuyết công giáo bàn về địa vị của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo hội.” Thực ra, Giáo hội đã dành nhiều danh hiệu xưng tụng Đức Mẹ như Nữ Vương, Trạng Sư, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đầy ơn phúc. Chỉ cần đọc lại kinh cầu Đức Me, chúng ta cũng thấy danh hiệu dành cho Người phong phú biết bao ! Tuy nhiên, theo ĐGH, học thuyết về Đức Mẹ đã được tổng hợp cách tài tình trong danh hiệu Mẹ Giáo hội. Quả vậy, Đức Maria thực là Mẹ Giáo hội, vì Người là Mẹ của Con Thiên Chúa, Đấng đã thành lập Giáo hội. Đức Giêsu đã trao phó Giáo hội cho Đức Me, đồng thời trao phó Tông đồ Gio-an cho Người và gửi gắm Người cho Tông đồ Gio-an. Người là Mẹ Giáo hội. Người đã thực hiện vai trò này bằng lời khuyên, gương lành và lời cầu nguyện cho Giáo hội. Chúng ta có thể dựa vào các sách Tin Mừng, lấy lời khuyên, gương lành và lời cầu của Đức Mẹ để làm chứng tư cách Mẹ hiền của Người đối với Giáo hội. I. LỜI KHUYÊN Trong phép lạ ở tiệc cưới Ca-na, Đức Mẹ đã khuyên các gia nhân làm như lời Chúa Giêsu dạy: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2,5) Điều đáng lưu ý ở đây là thái độ thản nhiên, bình tĩnh của Đức Mẹ. Nếu đọc kỹ câu đối đáp giữa Chúa Giêsu và Đức Mẹ, chúng ta sẽ không khỏi ngạc nhiên, khi nghe giọng nói xa lạ của Chúa Giêsu đối với Mẹ mình: “Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi ? Giờ của tôi chưa đến.” Rồi tiếp theo là lời nhắn bảo ân cần của Đức Mẹ đối với gia nhân. Giữa hai câu nói đó, có một quãng cách, một sự hiểu ngầm nào đó, vì không thấy Đức Mẹ đả động gì đến câu trả lời của Chúa Giêsu. Thật vậy. Nếu chỉ dựa vào văn mạch mà không tìm hiểu dụng ý sâu xa của những lời đó, tất nhiên phải hiểu như trên. Nhưng qua cái vẻ bề ngoài xem ra như lỏng lẻo và không ăn ý đó, có tiềm ẩn một dụng ý sâu xa làm tăng giá trị cho câu nói. Dụng ý đó là sự chấp nhận và tin tưởng mà Đức Mẹ muốn bày tỏ cho chúng ta, vì khi nghe một câu nói xa lạ và có vẻ trách móc như thế giữa mẹ và con, tự nhiên Đức Mẹ có thể cảm thấy bực bội khó chịu. Thế mà ở đây tuyệt nhiên không thấy Đức Mẹ tỏ ra một lời nói, một cử chỉ hay thái độ nào khiến chúng ta có thể hiểu được như vậy. Mà ngược lại, như đã nói, chỉ thấy một sự bình tĩnh lạ lùng dường như không có sự gì xảy ra cả. Thái độ ấy chắc hẳn phải là phản ánh của một tâm hồn tin tưởng sâu xa tuyệt đối. Lòng tin tưởng phi thường ấy làm cho Đức Mẹ chấp nhận tất cả dù chưa hiểu hay không hiểu hết ý Con mình muốn nói gì. Phải có điều gì bí nhiệm trong câu nói đó. Phải hiểu biết về người Con của mình lắm mới giữ được thái độ gương mẫu như vậy. Tựu trung, chính vì Đức Mẹ có đức tin vững mạnh. Đức tin ấy đã đưa Đức Mẹ đến chỗ chấp nhận. Người ta thường nói tin nhận, vì hễ tin thì nhận. Mà nhận ai là ngụ ý tin tưởng người đó. Đức Mẹ tin nên chấp nhận lời Chúa, dù đó là một lời đòi hỏi, trái ý, không thuận tai hay khó hiểu, như khi nghe lòi truyền tin của thiên thần Gáp-ri-en. Chấp nhận như vậy không phải dễ, vì tin là một thử thách. Ở đây Đức Mẹ cũng đã bị thử thách qua câu nói khó hiểu, làm đảo lộn cuộc đời mình. Điều này thật là rõ rệt khi Đức Mẹ bằng lòng thụ thai, dù đã tính giữ mình đồng trinh. Đó là hai điều trái ngược nhau, nhưng Đức Mẹ đã nhận, vì biết Chúa muốn như vậy, dù không hiểu rồi ra sẽ thế nào. Cái thế nào đó là điều hiển nhiên đối với Thiên Chúa, nhưng đối với Đức Mẹ thì vẫn còn là điều chưa sáng tỏ. Xưa kia, tổ phụ Ap-ra-ham đã nhờ hành động như vậy mà được xưng tụng là cha của những người tin. Cũng thế, Đức Mẹ được xưng tụng là người diễm phúc vì nhận mình là nữ tỳ của Thiên Chúa và hoàn toàn vâng theo như lời thiên thần truyền. Đây là một trong những hành động tiêu biểu của Đức Me, khiến chúng ta có thể ví đó như một hạt ngọc bên cạnh những hạt ngọc khác kết thành triều thiên vinh quang cho Người. Nếu nói về lời khuyên của Đức Mẹ thì ngoài lời khuyên ở tiệc cưới Ca-na người ta ít thấy lời nào khác nữa trong Tin Mừng, bởi một lẽ đơn giản là Đức Mẹ ít nói và Tin Mừng cũng ít nói về Người. Người hoàn toàn muốn sống ẩn khuất, đóng vai trò một hiền mẫu kín đáo, không thích xuất hiện mà chỉ sống như một cái bóng vào ngày dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh, ngày trẩy hội lên Giê-ru-sa-lem, lúc gặp con trên đường thọ hình, khi đứng dưới chân thập giá. Đây lại là một nét đẹp tinh thần cao quí của Đức Mẹ nữa. Đức Mẹ đã ít dùng lời nói để khuyên bảo nhưng ngược lại, đã lấy việc làm và đời sống mà khuyên nhủ nhiều lắm. Các vị thánh, các nhà truyền giáo đích thật đã dùng hình thức khuyên bảo này. Nhiều khi các vị chỉ cần đi qua hay sống giữa đám đông cũng đủ để gây thắc mắc cho người ta về những vấn đề trọng đại như sự sống, sự chết, ý nghĩa và mục đích đời người v.v… II. ĐỜI SỐNG GƯƠNG MẪU Cuộc đời của Đức Mẹ đã trở thành gương mẫu cho Giáo hội noi theo. Cuộc đời ấy có thể thu tóm lại trong mấy chữ sau đây: lắng nghe, thông cảm, hợp tác, yêu thương. 1. Lắng nghe Đức Mẹ đã lắng nghe lời Chúa ngay từ những giây phút đầu tiên khi được truyền tin. Đức Mẹ đã đáp lại lời mời làm Mẹ Đấng Cứu Thế và để cho lời Chúa hoạt động nơi mình. Nhiều khi, dù chưa hiểu ý nghĩa của những lời đó, nhưng Đức Mẹ vẫn đón nhận, ghi nhớ và suy gẫm trong lòng (Lc 2,51). Thái độ lắng nghe đó chứng tỏ khả năng tiếp nhận phong phú nơi Người. Suốt đời mình, Đức Mẹ đã nhìn xem và lắng nghe lời Chúa qua người Con của mình và cũng là Con Thiên Chúa, từ lời nói đầu tiên ở tiệc cưới Ca-na cho đến lời nói cuối cùng dưới chân thập giá. Lời Chúa âm vang trong lòng Đức Mẹ như một sức mạnh phi thường, điều khiển và hướng dẫn cuộc Người. Người đã không nao núng và ái ngại trước những lời Con mình nói với tư cách là Con Thiên Chúa, nhưng thật khó nghe và khó chấp nhận theo thói thông thường của người trần gian, như khi người ta báo cho Đức Giêsu có Mẹ đang muốn gặp mà Đức Giêsu lại hỏi: “Ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi” ? (Mt 12, 48) Chắc có người sẽ bảo diễn nghĩa những lời đối đáp trên thành những câu như thế là cố ý tạo ra vẻ sống sượng và chói tai, chứ thực ra Đức Giêsu không có ăn nói như vậy. Vì thế, để tỏ lòng tôn kính đối với Chúa Giêsu, người ta cố chuyển sang tiếng Việt cho thật êm tai lễ phép. Nhưng như thế là không trung thành với nguyên ngữ. Đàng khác cũng không bóc lột được hết vẻ đẹp thâm thúy và niềm tin sâu xa của Đức Mẹ. Đức Giêsu muốn nói như vậy là để phân biệt rõ ràng tư cách con Thiên Chúa với tư cách con Đức Mẹ nơi mình. Đức Mẹ được xưng tụng là người diễm phúc không nguyên vì đã sinh ra và nuôi dạy Đấng Cứu Thế mà chính vì đã nghe và giữ lời Thiên Chúa. 2. Thông cảm, hợp tác, yêu thương Không những Đức Mẹ đã nghe và giữ lời Thiên Chúa mà còn thông cảm, hợp tác, yêu thương để cho lời ấy sinh hoa kết quả dồi dào nơi người trần gian. Chỉ nguyên một câu: “Người bảo gì anh em cứ làm như vậy” cũng đủ cho thấy mối bận tâm của Đức Mẹ đối với lời của Đức Giêsu trong tình cảnh bế tắc của chủ tiệc, và phần đóng góp của Đức Mẹ trong việc khuyên nhủ gia nhân làm theo lời ấy. Ngoài ra, trên đồi Gon-go-tha, Đức Mẹ đã ưng thuận hiến tế Con mình. Người đã kết hợp nỗi đau trong lòng với hy lễ của Con mình đang diễn ra trên thập giá, mà không thốt ra một lời than van rên xiết. Bằng cái chết của mình, Chúa Giêsu đã chuộc tội cho thiên hạ thì nhờ sự chấp nhận những đau khổ theo sau cái chết của Con mình, Đức Mẹ cũng đã góp phần vào việc thanh tẩy nhân loại và sinh ra các con cái thiêng liêng cho Giáo hội nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô. 3. Lời cầu Trở lại tiệc cưới Ca-na, chúng ta thấy Đức Mẹ nói: “Họ hết rượu rồi”. (Ga 2.4). Thoạt nghe thì đó chỉ là nhận xét của Người về một sự kiện. Nhưng nghĩ kỹ thì đó lại là một sự can thiệp và còn hơn thế nữa, một lời cầu xin. Đức Mẹ đã can thiệp xin Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên. Do lời can thiệp và cầu xin này, Chúa Giêsu đi trước giờ Người đã định, nhưng có thể hiểu ngầm là vì Đức Mẹ yêu cầu nên Người cho giờ ấy đến trước thời hạn. Chủ nhà và khách dự tiệc có thể được coi như hình ảnh về Giáo hội. Cầu xin cho chủ nhà và khách dự tiệc là điềm tiên báo Đức Mẹ sẽ cầu xin và can thiệp cho Giáo hội sau này. Sách Công vụ Tông đồ cho hay sau khi Chúa Giêsu về trời, Đức Mẹ cùng cầu nguyện với các Tông dồ: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh anh em của Đức Giêsu.” (Cv 1, 14) Cũng như các sách Tin Mừng, sách Công vụ Tông đồ không nói nhiều về Đức Mẹ. Vai trò của Người trong cộng đoàn các Tông đồ có vẻ mờ nhạt, nhưng không phải vì thế mà kém phần quan trọng, cũng như vai trò của trái tim trong thân xác con người. Bên ngoài, người ta không trông thấy trái tim, nhưng trái tim lại là trung tâm của sự sống; trái tim ngừng là người ta chết. Vai trò của Đức Mẹ cũng có thể ví được như thế. Sách Công vụ Tông đồ không nói rõ Đức Mẹ cầu nguyện thế nào và xin những ơn gì, nhưng chúng ta có thể dựa vào lòng từ mẫu của Người đối với Chúa Giêsu, mà nghĩ rằng Người đã cầu xin cho Giáo hội được vững mạnh và trung thành với sứ mệnh Chúa Giêsu đã giao phó. Sứ mệnh đó là làm chứng cho Chúa Giêsu và đoàn kết yêu thương nhau. Hiện nay Đức Mẹ vẫn còn cầu xin và phù trì cho Giáo hội, qua những ơn lành Người đã chuyển đạt cho Giáo hội trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử, với những phép lạ Người đã làm và còn đang làm ở nơi này nơi khác trên thế giới như Lộ đức, Fatima v.v… Xưng tụng Đức Maria là Mẹ Giáo hội vào thời sau Công đồng Va-ti-ca-nô II thật là thích hợp và ý nghĩa, vì danh hiệu ấy nói lên niềm tin tưởng của Giáo hội đối với Đức Mẹ và ước mong tha thiết được Người che chở và thương mến giữa bao khó khăn và thử thách mà hiện nay Giáo hội đang phải trải qua.
Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã chọn cho Con mình một mái ấm yêu thương. Thật thế, cũng như bao nhiêu người bình thường, Đức Giêsu cũng có một quê hương, một gia đình. Ngài cũng có Cha, có Mẹ, qua chiếc nôi yêu thương của gia đình, Đức Giêsu đã được dưỡng dục để dần lớn khôn và hoàn thành sứ mạng cứu thế. Gia đình của Giêsu được mọi người gọi là gia đình Nagiaret, hay còn được gọi là Thánh gia. Có thể khẳng định, đây là một gia đình KiTô giáo đầu tiên đầy khuôn thước mẫu mực. Trong Gia đình thánh này, mỗi người đều sống thánh thiện. Ba con người, ba địa vị và vai trò khác nhau, nhưng đều hoàn tất chung một mục đích trong tôn trọng và yêu thương nhau. Mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, trong tâm tình lễ Thánh Gia Thất hôm nay. Chúng ta cùng soi lòng nhìn lại tấm gương của một người Mẹ trong cảnh gia đình Nagiaret ngày xưa. Vâng! Sự thánh thiện của Thánh gia được đánh đổi bằng những bậc thang thập tự hằng ngày, mà cụ thể là thân phận của Đức Maria, cũng là môt tạo vật như chúng ta, với thiên chức làm Mẹ, ngoài đức hạnh và lòng kính mến Thiên Chúa, Đức Maria chẳng có gì may mắn, thuận lợi hơn các bà mẹ khác trên đời. Gia đình Mẹ nếm đủ mùi vị thăng trầm cay đắng, mà người lặng lẽ chịu đựng sâu kín nhất, chính là Đức Maria. Người thục nữ chân quê giản dị, hiền lành và dễ xúc động trước mọi biến cố mà Thiên Chúa dồn dập gởi đến, từ khi khiêm tốn nói lời “Xin Vâng” để sống ơn gọi làm Mẹ cho đến cuối cuộc đời. Mẹ đã không tìm cách thoát thân, nhưng ngược lại đã dấn thân, can đảm, khôn ngoan, tế nhị xử sự trong mọi biến cố đau khổ. Bóng tối đã chập chùng trước mắt Mẹ, trong cả giọt nước mắt thầm lặng khi bị chồng nghi ngờ lòng chung thủy. Mẹ chỉ biết nguyện cầu và phó dâng trong tình Chúa quan phòng. Nghĩa cử quên mình, cũng đẹp như chính tâm hồn của Mẹ , khi vượt qua bao núi đồi hiểm trở đem theo tấm lòng trong sáng như ánh bình minh, để đến thăm và phục vụ cho người chị họ xa. Cứ thế cuộc đời Mẹ tiếp nối với bao biến cố dồn dập theo sau. Những bước chân tha hương băn khoăn, nhọc nhằn để sinh con giữa khí trời gió sương rét buốt, trong một hang lừa rơm rác, chơ vơ. Rồi khi sao trời lặn xuống, tiếng Thiên Thần im vắng giữa thinh không, ba nhà Đạo Sĩ ra về, là lúc Mẹ cũng tất tả ôm chặt con vượt núi đồi lên đường tỵ nạn. Di cư rồi lại hồi cư, trở về Nagiarét với hai bàn tay trắng. Mẹ phải tính toán từng ngày cần kiệm sao cho đủ no cơm ấm áo trong gia đình. Từng ngày bóng chiều lại đổ xuống trên đôi bàn tay hiền mẫu in hình thập tự, cũng lúc đó, vang vọng từ xưởng thợ tiếng búa chát chúa đóng trên đinh, Maria nhớ lại lời cụ già Simêon tiên báo “về phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim Bà…” Tim Mẹ lại càng thổn thức gắn bó hơn với thánh ý Chúa, lòng Mẹ càng thâm trầm hơn với sứ mệnh làm Mẹ, với người bạn đời chung công, chung sức gánh vác gia đình. Để rồi Con Trẻ Giêsu ngày càng lớn lên trong thân phận làm người, dưới sự giáo huấn kiên cường, tràn đầy lòng vị tha và gương quên mình của Mẹ. Giêsu thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và nhân đức. Với ơn gọi làm Mẹ, Maria cả một đời luôn gắn bó, cộng tác nhiệt thành vào ơn Chúa. Mẹ đã sinh lợi với số vốn mà Chúa đã trao, dưới hình thức là một hiền mẫu dịu dàng, đảm đang. Là một thiếu nữ giản dị nhân ái, Mẹ đã biến đổi cả bao thế hệ bằng đức hạnh, bằng gương khiêm nhường, và bằng sự quên mình phi thường của Mẹ. Vì vậy triều thiên vinh phúc là những đặc ân cao cả mà Thiên Chúa đã tặng ban cho, mà cao cả nhất là ân sủng làm “Mẹ Thiên Chúa”. Trong Hội Thánh ngày nay, cũng không thiếu những hiền mẫu đang họa lại đời sống của Mẹ, như Thánh nữ Mônica đã ròng rã hơn ba mươi năm đau khổ trong biển nước mắt để dìu dắt cầu nguyện, để biến đổi con mình là Augustino trong biển tình Mẹ. v…v Kính lạy Mẹ Maria, chúng con hiểu rằng hầu hết các thánh nhân, các ơn gọi linh mục, tu sĩ, cũng như các tài năng trong xã hội, đa số đều xuất phát từ những gia đình đạo đức, có cha mẹ gương mẫu. Hạt giống mọc lên ảnh hưởng từ mảnh đất của gia đình, sự cần mẫn chăm sóc của gia chủ, và nhất là của người Mẹ trong gia đình. Xin Mẹ hãy giúp chúng con nhìn ra mẫu gương khiêm nhường, tin, yêu, phó thác của Mẹ, trong ơn gọi làm người đang sống giữa môi trường gia đình hôm nay, trong từng công việc thân quen bình thường, cũng như mọi biến cố vui buồn trong cuộc sống, để gánh đời của mỗi chúng con, sẽ đủ sức chấp nhận hơn, trở nên nhẹ nhàng hơn, bên gánh đời nhân loại mà Mẹ và Con Mẹ đã, đang mang nặng và muốn đưa tất cả về trong cùng đại gia đình thánh yêu thương. Mẹ cũng hãy nhìn xem, còn biết bao người con phung phá đi hoang, cứng lòng lầm lẫn, không nhìn ra ơn cứu chuộc, không hiểu nhân loại có một người Mẹ thánh thiện, nhân ái, trên môi họ chưa một lần diễm phúc gọi Chúa là Cha, gọi Mẹ là Mẹ thật ngọt ngào. Xin tạo điều kiện dẫn đưa họ về cùng trái tim từ mẫu của Mẹ trong năm mới này. Thánh Maria Mẹ Chúa trời Mẹ Giáo Hội, Mẹ từng người chúng con Mẹ thương ban xuống muôn ơn Đoàn con lữ thứ hãy còn lầm than Muôn gia đình cảnh trái ngang Những người con đã hoang đàng hư hao Tim Mẹ từ ái dâng trào Xin thương phụ tử luôn thao thức sầu Cảm thông hiền mẫu đêm thâu Sớm sương chiều nắng dãi dầu vì con Thân cò lặn lội nỉ non Trên đôi quang gánh nợ còn oằn vai Thông chia thập tự đường dài Mẹ thương ban sức đừng ai ngã lòng Tin yêu, phó thác, cậy trông Gương Mẹ sáng giữa long đong biển đời Là sao soi lối mù khơi Họa đời Mẹ sống, ơn trời chứa chan Lạy Mẹ Thiên Chúa cao sang Gia đình con nguyện theo đàng Mẹ đi.
Từ ngàn xưa khởi thủy, bà Eva đã dại dột dẵn dắt loài người trầm luân vào tội nguyên tổ, nhưng hoan hỷ thay, nhờ vào lòng thương xót hải hà vô biên, Thiên Chúa đã ban cho thế gian Đấng Cứu Thế Giêsu, qua lòng dạ cưu mang của Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc, hầu con người có thể thoát khỏi kiếp đọa đầy. Thiên Chúa không chọn thiếu nữ lá ngọc cành vàng, dòng dõi trâm anh thế phiệt. không chọn nữ hào kiệt, không tuyển nữ lưu trí thức, học cao hiểu rộng. Trái lại, Ngài đã chọn một thôn nữ hẻo lánh, đơn sơ, chân chất, đạo hạnh, Mẹ Maria Rất Thánh. Mẹ Maria vô cùng khiêm nhường, tinh tuyền, đã chọn Chúa làm gia nghiệp, làm chủ cuộc đời. Mẹ tin cậy, phó thác hoàn toàn vào tay Chúa Quan Phòng, không hề nghi ngại, khi được sứ thần Gabriel truyền tin. Mẹ sẵn lòng vâng theo Thánh Ý Chúa, mặc dù phải hứng chịu hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, nghèo túng, vất vả và phiêu lưu; cả khi sắp sanh nở mà Mẹ còn bơ vơ, chưa tìm được nơi trú ẩn giữa đêm đông giá lạnh, rét mướt. Khi nghe các mục đồng tường thuật lại những điều sứ thần mách bảo, ai cũng ngạc nhiên. Còn Mẹ Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (Lc 2, 18-19) Mẹ ghi nhớ và suy niệm những biến cố lớn lao vừa xảy ra. Mẹ không ngạc nhiên, mà nhận ra Thánh Ý Chúa đã và đang được thể hiện thật kỳ diệu. Nhất là mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể quá đỗi khiêm hạ, bần cùng và cô đơn. Mẹ vẫn toàn tâm, toàn ý “Xin Vâng” ngay từ khởi đầu, cùng sẽ còn tiếp tục “Xin Vâng” trong suốt hơn 33 năm nữa. Mẹ đã tận tụy phục vụ cho Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Chẳng thế mà Hội Thánh đã tôn vinh Mẹ, như thiên chức Thiên Chúa đã trao ban, như Đóa Hoa Hường Mầu Nhiệm, Gương Nhân Đức, Hòm Bia Thiên Chúa, Cửa Thiên Đàng, Nữ Vương Các Thánh, Nữ Vương Chẳng Hề Mắc tội Tổ Tông, Nữ Vương Hồn Xác Lên Trời, Nữ Vương Truyền Phép Rất Thánh Mân Côi, Nữ Vương Ban Sự Binh An,… . Lạy Mẹ Thiên Chúa, xin cầu bầu cứu giúp, chở che chúng con trước ba thù, và khai hóa lòng trí chúng con biết sống theo gương Mẹ trước ngày tháng năm mới vừa đến. Xin Đức Mẹ dẫn đàng cho chúng con được theo , kẻo phải xiêu chìm sa hỏa ngục vô cùng để chúng con sau này được về hưởng quê Trời với Mẹ muôn đời. Amen.
Nếu bạo lực hay hoà bình đều bắt nguồn từ bên trong, và vì thế, phải gieo vãi và vun trồng hạt 1/1-56
Nếu bạo lực hay hoà bình đều bắt nguồn từ bên trong, và vì thế, phải gieo vãi và vun trồng hạt giống hoà bình trong tâm hồn từ tấm bé, vậy còn nơi nào lý tưởng hơn môi trường gia đình…
1. Đã thành thông lệ, cứ vào ngày đầu năm dương lịch, Đức Giáo hoàng lại ban hành Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới. Điều đặc biệt của Sứ điệp năm 2017: đây là dịp kỷ niệm 50 năm Hội Thánh Công giáo cử hành Ngày Hoà bình Thế giới, và Sứ điệp Hoà bình năm nay là Sứ điệp lần thứ 50.
Năm mươi năm trôi qua nhưng nội dung của Sứ điệp đầu tiên, năm 1967 của Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI, vẫn còn nguyên tính thời sự: “Hoà bình là hướng đi duy nhất đích thực của sự phát triển con người – chứ không phải là những căng thẳng tạo ra do những thứ chủ nghĩa quốc gia đầy tham vọng, cũng như những cuộc chinh phục bằng bạo lực, hoặc những cuộc đàn áp nhân danh trật tự xã hội giả tạo” (Sứ điệp, số 1). Có lẽ được gợi hứng từ khẳng định căn bản này cũng như từ thực tế mà thế giới đang đối diện, chủ đề của Sứ điệp năm 2017 là: Bất bạo động, kiểu mẫu của nền chính trị phục vụ hoà bình.
2. Nói đến bất bạo động, người ta dễ nghĩ đến những khuôn mặt nổi bật như Mahatma Gandhi và Khan Abdul Ghaffar Khan trong công cuộc giải phóng Ấn Độ, hoặc mục sư Martin Luther King trong phong trào chống phân biệt và kỳ thị chủng tộc tại Hoa Kỳ. Đúng thế, nhưng đừng quên rằng chính Đức Giêsu Kitô mới là đấng khơi nguồn cho chủ trương bất bạo động: “Khi Người ngăn cản những kẻ tố cáo định ném đá người phụ nữ bị bắt vì phạm tội ngoại tình (x. Ga 8,1-11), và trong đêm Người bị bắt, khi Người ra lệnh cho Phêrô xỏ gươm vào bao (x. Mt 26,52), Chúa Giêsu đã mở ra con đường bất bạo động. Người đã bước đi trên con đường đó đến cùng, đến tận thập giá, ở đó Người trở thành sự bình an và chấm dứt mọi hận thù (x. Eph 2,14-16)” (Sứ điệp, số 3).
Chính vì thế, tất cả những ai mang danh Kitô hữu phải là người thực hành bất bạo động: “Ngày nay, để là những môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, phải ôm ấp giáo huấn của Chúa về bất bạo động… Với các Kitô hữu, bất bạo động không chỉ là một ứng xử mang tính chiến thuật nhưng là một lối sống, là thái độ của một người xác tín vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa đến nỗi không sợ hãi đối diện với sự ác bằng vũ khí của tình yêu và chân lý mà thôi… Mệnh lệnh ‘Hãy yêu thương kẻ thù’ (x. Lc 6,27) phải được xem như hiến chương của bất bạo động Kitô giáo. Điều đó không có nghĩa là bị khuất phục trước cái ác nhưng là lấy sự lành đáp lại điều ác (x. Rm 12,17-21) và do đó, bẻ gẫy dây chuyền của bất công” (Sứ điệp, số 3).
Cũng vì thế, trong thời điểm hiện nay, khi đang có những cuộc khủng bố được dán nhãn tôn giáo, Đức Giáo hoàng Phanxicô có những khẳng định thật mạnh mẽ trước toàn thế giới: “Không có tôn giáo nào là khủng bố cả”; “Không thể lấy Danh Chúa để biện minh cho bạo lực. Chỉ có hoà bình là thánh thiện. Chỉ có hoà bình mới được gọi là thánh, không có chiến tranh nào là thánh cả!” (Diễn văn tại Assisi, ngày 20-10-2016)
3. Vì Chúa Giêsu là đấng khơi nguồn lối sống bất bạo động, nên để sống tinh thần bất bạo động cách đích thực, hãy lắng nghe giáo huấn và chiêm ngắm cách hành xử của Người. Theo Chúa Giêsu, bạo động hay hoà bình đều bắt nguồn từ trong lòng người: “Chính từ bên trong, từ lòng người, mà những ý định xấu xuất hiện” (Mc 7,21). Thế nên, phải bắt đầu xây dựng hoà bình từ bên trong. Phải gieo vãi và ươm trồng hạt giống hoà bình trong tâm hồn. Những phát minh và tiến bộ kỹ thuật, dù tinh vi đến đâu, cũng chỉ là phương tiện. Cội rễ chiến tranh hay hoà bình là ở trong lòng người: “Thật khó để biết rằng thế giới chúng ta hiện nay có nhiều hay ít bạo lực hơn quá khứ, hoặc những phương tiện truyền thông hiện đại và sự năng động ngày nay có làm cho chúng ta ý thức hơn về bạo lực không, hay ngược lại, còn làm gia tăng bạo lực” (Sứ điệp, số 2). Người ta vẫn nhắc đến câu châm ngôn “Muốn có hoà bình, hãy chuẩn bị chiến tranh”. Sẽ thật tuyệt vời nếu hiểu câu nói này từ góc nhìn nội tâm: hãy chiến đấu và chiến thắng những mầm mống tội lỗi trong tâm hồn, hoà bình sẽ xuất hiện trong mọi tương quan của đời sống xã hội.
Nếu bạo lực hay hoà bình đều bắt nguồn từ bên trong, và vì thế, phải gieo vãi và vun trồng hạt giống hoà bình trong tâm hồn từ tấm bé, vậy còn nơi nào lý tưởng hơn môi trường gia đình để làm công việc này? Vì gia đình là nơi vợ chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em, học biết chia sẻ và quan tâm đến nhau. Gia đình là nơi những va chạm, kể cả xung đột, được giải quyết không phải bằng bạo lực nhưng bằng đối thoại, tôn trọng, thương xót và tha thứ (x. Sứ điệp, số 5). Một khi đã cảm nhận được tình yêu thương, mối quan tâm, lòng quảng đại và sự tha thứ trong bầu khí gia đình, người ta cũng sẽ bước vào đời với tâm hồn rộng mở, biết sẻ chia và nâng đỡ tha nhân hơn là chỉ hành động theo bản năng bạo lực.
Trong suốt ba năm 2017-2019, người Công giáo Việt Nam được mời gọi quan tâm đặc biệt đến đời sống gia đình. Ước gì mỗi gia đình Công giáo thực sự là cái nôi bình an và cống hiến cho đời những sứ giả hoà bình: “Trong gia đình, chúng ta không cần đến bom đạn để hủy hoại hay phục vụ hoà bình – chỉ cần ở với nhau, yêu thương nhau… Và chúng ta sẽ vượt qua mọi cái ác trong thế gian” (Mẹ Têrêxa Calcutta, Diễn văn nhận giải Nobel, 1979).
Tôi muốn dành một thoáng suy tư cho biến cố đức Giê-su chịu cắt bì, như tác giả Lu-ca đã ghi lại: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì…” Cho tới năm 1960, biến cố này vẫn được Giáo Hội Công Giáo mừng kính trong lễ Chúa chịu phép cắt bì vào ngày 01 tháng 01 dương lịch. Cho dầu ngày nay người ta nhấn mạnh nhiều hơn tới phần hai của sự kiện là đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su, và hiện nay lễ được dùng để tôn kính Thánh Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, đồng thời là ngày Thế Giới Hòa Bình, thiết tưởng cái ý nghĩa Tin Mừng của sự kiện này vẫn còn tồn tại và có tầm quan trọng. Việc Trẻ Giê-su chịu phép cắt bì đã từng được Giáo Hội ghi nhận từ các thế kỷ đầu, nhất là sau thời kỳ cấm cách. Công Đồng Tours năm 567 đã đề cập tới cách chính thức. Rất nhiều bức họa và ảnh thánh thời trung cổ đã lấy sự kiện này làm đề tài nghệ thuật. Suy tư thần học truyền thống về biến cố cắt bì thường tập trung vào các điểm sau đây (căn cứ theo cuốn Hoàng Thuyết (Golden Legend) rất phổ biến vào thế kỷ 14): -lần đầu tiên Giê-su đổ máu mình ra để khai mở cả một tiến trình cứu độ nhân loại; -sự kiện chứng tỏ Hài Nhi Giê-su trọn vẹn là con người; -Ngài hoàn toàn vâng phục lề luật Cựu Ước. Các thần học gia thời Trung cổ và Phục hưng đã không ngừng nhấn mạnh trên sự đau đớn mà Hài Nhi phải chịu khi cắt bì như một tiên báo về cuộc khô nạn Thập Giá Ngài chịu sau này. Sách Sáng Thế chương 17 ghi nhận cắt bì là nghi thức căn bản nhất của Giao Ước: “Đây là giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này: mọi đàn ông con trai của các ngươi phải chịu cắt bì… Sinh ra được tám ngày, mọi con trai của các ngươi phải chịu cắt bì nơi bao qui đầu, từ thế hệ này qua thế hệ khác…” (St 17, 10-14; 23-27) Dầu cắt bì, với nhiều lý do và ý nghĩa khác nhau, là một tập tục khá phổ biến trong nhiều dân tộc thời bấy giờ, nhưng đối với tổ phục Áp-ra-ham và hậu duệ ông, chắc chắn nó hàm chứa một ý nghĩa sâu xa hơn, ‘giao ước của Ta ghi dấu trong xác thịt các ngươi’(c.13); Giao Ước với Đức Chúa là một ký kết, không qua các luật lệ được khắc trên bia đá mang tính pháp lý, mà được ghi sâu trong thân thể con người, cụ thể nơi bộ phận sinh dục được coi là cơ bản nhất cho sự sống và truyền sinh. Tự nó cắt bì luôn mang ý nghĩa và nội dung tích cực: hoặc phát huy trọn vẹn nam tính (= nhân tính theo suy nghĩ thời cổ đại)… hoặc phát huy khả năng truyền sinh. Với Áp-ra-ham và Sa-ra trong tình trạng hiếm muộn, Giao Ước này chính là chấp nhận Đức Chúa can thiệp vào chiều kích cơ bản nhất của cuộc sống họ, hay nói cách khác vào toàn bộ cuộc sống (có con cái nối tiếp dòng giống là điều quan trọng hơn hết). Chỉ sau này, khi Giao Ước bị chuyển dần qua nội dung giữ luật Mô-sê, cắt bì mới hàm thêm ý nghĩa đi vào luật lệ. Chính nội dung này mới là điều Phao-lô và Giáo hội sơ khai kịch liệt phản bác (xem Cv 11,3-17; Rm 4,9-12; 1Cr 7,19; Gl 6,15). Là người Do Thái, Hài Nhi Giê-su chịu cắt bì trong nội dung của tổ phụ Ap-ra-ham. Là A-đam mới, Ngài ký giao ước mới với Chúa Cha cũng là để chính mình và nhiều người được sống nhân tính (= nam tính) cách trọn vẹn nhất, và đạt khả năng truyền sinh một dân tộc mới phong phú nhất. Phải chăng đó vẫn còn là ý nghĩa và nội dung Tin Mừng của việc “khi Hài Nhi được đủ tám ngày… phải làm lễ cắt bì”? Nhất là trong thời đại ngày nay, khi phái tính và tính dục đang được nhìn trong ánh sáng mới, với nhiều nét rất tích cực đồng thời cũng hàm chứa nhiều lệch lạc trầm trọng, mầu nhiệm ‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm’ phải soi chiếu và cứu độ cả lãnh vực được coi là rất cơ bản người phàm này. Việc Con Trẻ được đặt tên là Yê-su-a (Đức Chúa cứu độ) đã nhỏ giọt máu đào đầu tiên trên cõi thế nơi chính bộ phận cơ thể cao quí và quan trọng bậc nhất của con người, chắc chắn phải mang một ý nghĩa nào đó rất sâu sắc. Giọt máu đào nhỏ xuống ngày thứ tám khi cắt bì và giọt ‘máu cùng nước chảy ra’ từ cạnh sườn bị đâm thâu trên thập giá chắc phải có liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Trong việc tìm hiểu ý nghĩa này, tôi cũng lại thấy chỉ có một người duy nhất được chứng kiến cả hai giọt máu đó: đức Ma-ri-a trong thái độ ‘hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng’. Và vì vấn đề hàm chứa một nội dung quá ư là trọng đại phong phú, nên Mẹ đồng trinh sẽ phải là người dắt tay tôi. Lạy Hài Nhi Yê-su-a chịu cắt bì, xin cho con hiểu được ơn cứu độ Người mang đến trần gian phải tác động vào cả những ngõ ngách ‘người phàm’ nhất của con người. Xin cho con khám phá ra nội dung và mục tiêu rất cao đẹp của phái tính, vì chính người đã nhỏ giọt máu đầu tiên để cứu độ nó. Xin Mẹ Ma-ri-a dạy con sống thanh khiết trong sự kính trọng và yêu quý tính dục là hồng ân Chúa tặng ban. Amen.
Có thể nói, theo cách nói của người Việt Nam, “Thiên Chúa không thể ngủ yên” khi các tạo vật đang ngậm ngùi rên xiết, đang quằn quại đau thương trong cuộc sống phù du chóng vánh vì hậu quả của tội lỗi nguyên tổ: không tuân lịnh Ngài mà nghe theo lời xúi quẩy của ma quỷ, tự gieo mình vào chỗ diệt vong. Thánh Vịnh 39 như tiếng kêu thấu tới lòng trời: “Con ngậm ngùi rên xiết, mong chờ Chúa cứu độ con. Thân xác con như làn gió thoảng. Đời sống con là kiếp phù du. Ôi con người chỉ như hơi thở, thấp thoáng trên đường tựa bóng câu. Ngàn ngày xa ngược xuôi vất vả, cũng chỉ như là cơn gió qua”. Vâng, Thiên Chúa không thể ngủ yên khi Ngài chưa hoàn thành Lời đã hứa thưở ban sơ chia lìa, tan vỡ: “Một người nữ sẽ đạp giập đầu con rắn, còn con rắn sẽ cắn gót chân nàng” (Stk 3,15). Lòng yêu thương của Ngài luôn thổn thức. Có thể theo cách nói của Diễm Tình Ca là con mắt si tình của Ngài vẫn dõi theo từng bước chân người tình phụ. Và không chỉ dõi theo, Ngài còn đồng hành với con người trên mọi bước đường qua các ngôn sứ mang tin hy vọng, lời chúc lành bình an đến cho con người. Đoạn sách Dân số hôm nay ghi lại thổn thức đầy yêu thương của Thiên Chúa: “Chúa phán cùng Môsê rằng: "Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel; hãy nói với chúng thế này: 'Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con” (Ds 6,22-26). Và lòng tốt của Thiên Chúa luôn hiểu tốt cho dân ngài rằng khi đã nhận được phúc lành của Thiên Chúa, dân Ngài sẽ hiểu được lòng yêu của Ngài và sẽ đặt thêm niềm hy vọng vào Ngài sẽ thực hiện lời hứa: "Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel và Ta sẽ chúc lành cho chúng". (Ds 6, 27). Quả thật lời kêu cầu của dân Chúa đã vang lên đầy niềm tin tưởng và hy vọng: “Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con; xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ” (Tv 66, 2-3) “Ta sẽ chúc lành cho chúng”. Lời Chúc Lành ấy là Lời Bình An, là chính Ngôi Lời mà Ngài sẽ ban cho nhân loại: Chính Con Một của Ngài. Thánh Phaolô đã xác quyết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con”. (Dt 1, 1-2) và Người Con Của Thiên Chúa được sinh ra bởi một Phụ Nữ: “Khi đã tới lúc thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử” (Gl 4, 4). Người Nữ của lời hứa: Mẹ Maria, đã xuất hiện từ buổi Truyền Tin với lời Xin Vâng, và từ nơi Người Con Thiên Chúa được cưu mang và sinh hạ bởi lòng dạ của Nàng, Thiên Chúa đã thiết lập một Giao Ước mới: “Ai tin vào Con của Người sẽ được cứu độ”. (Ga 3,16) Việc “Tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật” vừa là nền tảng cho ơn cứu rỗi của mỗi người, vừa là nền tảng cho tín điều “Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Từ nền tảng ấy, năm 431, Công Đồng Êphêsô đã tuyên tín rằng: “Vì Ngôi Lời nhập thể là một chủ vị duy nhất, cho nên điều gì chúng ta có thể nói về nhân tính của Đức Kitô, thì chúng ta cũng có thể nói về thiên tính của Ngài. Con-Thiên-Chúa đã được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, đã sinh ra bởi Mẹ Maria, đã sống giữa chúng ta và đã chịu chết vì chúng ta. Chính vì thế, theo nghĩa này, chúng ta gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa, bởi Người cũng đã thực sự sinh ra Đấng-Thiên-Chúa-làm-người”. Tin mừng Lễ Mẹ Thiên Chúa thuật lại việc Mẹ Maria đã sinh ra Con Thiên Chúa, và các mục đồng đến thăm. Trong khi thăm gia đình của Chúa, họ chuyện trò với Mẹ Maria và kể lại cho Mẹ những điều họ đã được nghe nói về hài nhi: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ". Có thể họ đã từ ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác khi nhìn thấy một Hài Nhi đẹp đẽ sáng láng mới sinh nằm trên nôi rơm hèn mọn, khi nhìn thấy Mẹ Người là một thiếu nữ hiền hậu đoan trang, khi thấy cha của Người là một chàng trai khôi ngô nhưng chân thành đạo đức, nhưng có thể họ ngạc nhiên nhất khi biết rằng đây là gia đình của Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế đến trong và qua một gia đình, và là một gia đình nghèo khổ như vậy sao? Họ đã vượt qua sự ngạc nhiên, vượt qua bất ngờ của trí hiểu loài người, vượt qua thử thách do suy luận, và họ đã tin tưởng tuyệt đối rằng mình đã gặp Đấng Cứu Thế. Niềm tin tưởng tuyệt đối ấy được thể hiện qua lời kể của thánh Luca: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”. “Vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa”. Họ là những mục đồng nghèo hèn dân dã đang làm nhiệm vụ đối với đàn chiên của mình, họ ngủ bên đàn chiên để bảo vệ đàn chiên, nhưng họ được diễm phúc là những người đầu tiên chầu kính Thiên Chúa làm người, bằng xương bằng thịt thật của một Hài Nhi mới sinh. Lời các thiên sứ rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người lòng ngay” hẳn là dành cho tất cả những ai đơn sơ ngay lành giống như họ: Đơn sơ nhận sứ điệp Tin Mừng. Ngay lành đến thăm viếng. Và chắc chắn họ nhận được ơn an bình. Tin Mừng này: Đấng Cứu Thế và Ơn Bình An, Mẹ Maria đã nhận từ buổi Truyền tin. Đấng Cứu Thế mà các mục đồng hôm nay mới biết đến, thì Mẹ đã cưu mang trong lòng hơn chín tháng. Mẹ đã nhận biết Con Thiên Chúa làm người trong dạ Mẹ. Mẹ đã chấp nhận theo Thánh Ý Thiên Chúa để làm một việc mà trước và sau Mẹ trong loài người này không ai làm. Duy nhất chỉ có Mẹ. Đêm hạ sinh Con Thiên Chúa, lại thêm những khác thường của vũ trụ: tinh tú xôn xao, ánh sáng diệu huyền, ngôi sao sáng, bầu trời vang tiếng hát tung hô… và những gặp gỡ đầu tiên của những mục đồng đã minh chứng cho Mẹ điều Mẹ đã “tin”: Con của lòng Mẹ sinh ra là Thiên Chúa, Mẹ sinh ra Con Thiên Chúa. Nếu là một phụ nữ khác trong thiên hạ, hẳn người ấy sẽ tỏ lộ niềm vui mừng biết bao, hãnh diện biết bao, và còn có thể rất tự hào về danh phận Mẹ Đấng Cứu Thế. Nhưng với Đức Mẹ, thánh Luca cảm nhận với ơn mạc khải để viết rằng: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy niệm trong lòng”. Điều mẹ suy niệm trong lòng, nào ai có thấu được. Nhưng qua cung cách của Mẹ Maria, chúng ta chỉ có thể hiểu là Mẹ rất khiêm tốn đón nhận ân sủng, và chu toàn nhiệm vụ của ân sủng đã bạn: sinh ra cho đời một Đấng ban bình an. Hôm nay lễ Mẹ Thiên Chúa, ngày đầu năm mới, và cũng là ngày cầu cho Hòa Bình thế giới, thật là một ngày đặc biệt cho hai ý nghĩa: Mẹ Thiên Chúa đem ơn Bình An của trời cao xuống cho nhân loại. Ơn bình an các mục đồng nhận được khởi nguồn từ việc nghe lời Thiên sứ báo tin, đến việc thân hành đến gặp Chúa Giêsu, và qua Chúa Giêsu, ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. - Hòa bình thế giới cũng phải khởi đi từ việc lắng nghe Lời Thiên Chúa, gặp được Chúa Giêsu và tin tưởng vào Thiên Chúa. Không thể có hòa bình, nếu không có niềm tin vào Thiên Chúa. Cũng vậy, mỗi gia đình được bình an, phải là mỗi gia đình tha thiết sống Lời Chúa, năng gặp gỡ Chúa qua Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, và tác động của Chúa Giêsu Thánh Thể trong mỗi con người là trở thành những chứng nhân ca tụng tôn vinh tình yêu Thiên Chúa. Lời Chúa hôm nay, gợi cho mọi người, đặc biệt là những người làm Vợ, làm Mẹ, phải là người cưu mang sự bình an, người kiến tạo sự bình an thánh thiện trong gia đình, để mỗi ngày sống phải là một ngày Tết của gia đình sum họp trong yêu thương. Để được ý nghĩa ấy, chúng ta noi gương Mẹ Maria mà luôn vâng thánh ý Chúa trong cuộc đời, sắn sàng đón nhận cưu mang Chúa, cưu mang sự bình an thánh thiện tốt lành của Thiên Chúa trong lòng chúng ta. Chúng ta noi gương Mẹ Maria, người Mẹ Thánh Thể đầu tiên của nhân loại, Mẹ là “hòm bia Thiên Chúa”, là “Nhà Tạm của Thánh Thể Chúa Giêsu lúc Chúa hãy còn là phôi thai”, Mẹ là lời ru ngọt ngào, là giấc ngủ thánh, là hơi thở dịu êm, là nguồn bình an cho hài nhi Giêsu…Mẹ là người đầy ân sủng của Thiên Chúa nhưng cũng là người chịu đựng đau thương, chịu đựng cả lịch sử cứu độ của Thiên Chúa, qua Đức Giêsu con Mẹ … Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót thương, chúng con tin tưởng Mẹ Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ Thiên Chúa và cũng là Mẹ của chúng con. Trong lòng Mẹ luôn đầy ắp thánh ý Thiên Chúa và sự tốt lành, bình an của Thiên Chúa. Xin cho chúng con cũng biết cưu mang Thánh Thể Chúa Giêsu trong lòng, để đời chúng con được bình an và đem lại bình an cho nhiều người. Amen.
Ngày đầu năm mới là một ngày thiêng liêng. Ai cũng mong ước năm mới mọi sự sẽ đổi mới. Sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong cuộc sống. Nhất là được sống bình an. Các bài Sách Thánh đặc biệt bài Tin mừng hôm nay mời gọi ta hãy tìm đổi mới trong Chúa Giêsu. Chính Người sinh ra một nhân loại mới. Đó là nhân loại được chúc phúc, được cứu độ và sống trong an bình. Đó là một nhân loại được chúc phúc. Khi Chúa Giêsu ra đời nhân loại được chúc phúc. Có nhiều dấu hiệu loan báo phúc lành của Chúa. Một làn ánh sáng từ trời soi sáng cánh đồng Bêlem. Xuất hiện muôn vàn thiên sứ hát mừng trên trời cao. Chúa Giêsu đem phúc lành của Thiên Chúa đến cho nhân loại. Chúa Giêsu chính là phúc lành tuyệt hảo của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Mang lấy bản tính nhân loại, Chúa Giêsu làm cho nhân loại được chúc phúc bằng những phúc lành phong phú nhất của Thiên Chúa. Đó là một nhân loại được cứu độ. Con trẻ được đặt tên là Giêsu. Tên Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Chúa Giêsu đi vào tận những tù ngục giam hãm để giải cứu con người. Người sinh ra làm một trẻ thơ để nâng đỡ những con người bé nhỏ. Người sinh trong cảnh thiếu thốn để nâng lên những ai nghèo hèn. Người bị bạo vương Hêrôđê săn đuổi để đứng về phía những người bị áp bức. Người sinh ra trong chuồng súc vật tăm tối để trân trọng những ai bị loại trừ. Người là Con Thiên Chúa xuống thế làm người để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Thật là một cuộc đổi mới không ai có thể ngờ tới. Đó là một nhân loại sống trong hòa bình. Đêm Chúa Giáng Sinh trời đất giao hòa. Trời Bêlem sáng lên. Thiên nhiên trở nên xinh đẹp. Các thiên thần làm đầy không gian bằng những bài ca tuyệt diệu của cõi thiên đàng. Các mục đồng vui tươi hớn hở loan truyền tin vui. Cả một bầu khí hòa bình tỏa ra chung quanh Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến tái lập trật tự. Trật tự đó là con người và vạn vật vâng phục Thiên Chúa. Luật lệ phát xuất từ con người luôn gây ra tranh chấp. Vì con người chỉ nghĩ đến tư lợi hạn hẹp của riêng mình. Mọi luật lệ muốn công bằng và lâu bền phải qui về Thiên Chúa. Thiên Chúa ban hòa bình thực sự. Hòa bình trong công lý. Công lý là những người bé nhỏ, yếu ớt phải được tôn trọng. Chúa Giêsu tự nguyện làm trẻ nhỏ sơ sinh chính là một nền hòa bình trong vâng phục Thiên Chúa và là công lý kêu gọi kính trọng bảo vệ những kẻ yếu hèn. Hòa bình như thế không phải là một trật tự im lìm. Trật tự im lìm chỉ có trong nghĩa địa hay nhà tù. Đó là trật tự chết chóc, tàn lụi. Trái lại hòa bình là một năng động, là một sức sống, là sự phấn đấu không ngừng. Ta hãy chiêm ngắm tấm gương của các mục đồng. Các mục đồng đã biết lắng nghe sứ điệp hòa bình dù giữa đêm hôm mùa đông đang say ngủ. Nghe biết sứ điệp hòa bình rồi, các mục đồng vội vã đi tìm Chúa Giêsu là nguồn mạch hòa bình, dù phải bỏ giấc ngủ, dù phải đi ngoài trời lạnh giá. Sau khi gặp Chúa, các mục đồng ra đi loan truyền sứ địêp hòa bình cho mọi người. Đó chính là những phấn đấu không ngừng cho hòa bình. Chúng ta đặt năm mới này vào tay Đức Mẹ. Xưa Đức Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế mở đầu một nhân loại mới, nay xin Đức Mẹ cũng cho năm mới này được chúc phúc, được cứu độ và được hòa bình. Chúng ta cũng cầu nguyện cho mọi người biết noi gương mục đồng, luôn lắng nghe sứ điệp hòa bình, luôn phấn đấu đi tìm đến nguồn mạch hòa bình và luôn phấn khởi loan tin mừng hòa bình. Lạy Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
Hôm nay các mục đồng vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một con người mới. Đức Mẹ sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà là một thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình. Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá. Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần. Thánh Giuse vâng phục Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng theo lời thiên thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng ngôi sao đến thờ lạy Chúa. Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và Ba Vua quây quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống hoà hợp với Chúa và với nhau. Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên Chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình đáng mong ước. Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình. Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình. Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài hoà với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có một nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái. Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ, Thánh Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng phục Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một nền hoà bình viên mãn. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen. KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG Bạn có mơ ước một thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước? Từ chính bạn hay từ người khác? Thế giới của Đức Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà? Đầu năm mới này, bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?
Giáo Hội Công giáo có một lòng sùng kính Mẹ Maria một cách đặc biệt. Mẹ đã được ca ngợi trong phụng vụ với nhiều tước hiệu khác nhau. Một trong những tước hiệu tuyệt vời nhất, đó là tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu này phát sinh từ niềm tin của Giáo Hội nơi Chúa Giêsu, người con sinh ra từ cung lòng Mẹ, là Con Thiên Chúa làm người. Ngài là người nhưng đồng thời cũng là Thiên Chúa. Đoạn Tin mừng sáng hôm nay ghi lại quang cảnh các mục đồng đã được chứng kiến tại Bêlem trong đêm Chúa Giáng sinh. Một quang cảnh xem ra thật bình thường: Một hài nhi vấn tã đặt nằm trong máng cỏ bên cạnh Mẹ Maria và thánh Giuse. Nhưng đoạn Tin mừng cũng gợi lên một cái gì khác thường khiến cho Mẹ Maria đã phải ghi nhớ và suy niệm trong lòng. Quả thật, Tin mừng đã nhiều lần nói đến mối quan hệ giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh cho thấy mối quan hệ ấy không phải chỉ là mối quan hệ theo huyết thống. Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu không phải chỉ vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu tại hang đá Bêlem, đã bú mớm và nuôi dưỡng Ngài tại Nagiarét, mà hơn thế nữa vì Mẹ chính là người đã lắng nghe và thực hiện lời Chúa. Trước những việc lạ lùng Chúa đã làm và nhất là trước giáo huấn của Ngài, một người phụ nữ đã ca tụng người mẹ đã cưu mang Ngài và đã cho Ngài bú. Nhưng Chúa Giêsu đã mời người phụ nữ ấy đi xa hơn điều bà đang nghĩ. Đối với Chúa Giêsu, sợi dây thắt chặt Ngài với Đức Maria, đó chính là lòng tin, lòng mến được thể hiện một cách cụ thể qua việc lắng nghe và thực hiện lời Chúa. Một lần khác, có người nhắc nhở với Chúa Giêsu là có Mẹ và anh em Ngài tới kiếm Ngài. Chúa Giêsu đã lợi dụng dịp này để cho người ta thấy mối quan hệ Ngài chờ đợi nơi mọi người đó chính là lòng tin, sự đồng tâm nhất trí với hành động và lời giảng dạy của Ngài. Đối với Chúa Giêsu không có sự biệt đãi theo huyết thống, theo nhãn hiệu, theo tước vị hay theo một tiêu chuẩn nào người ta có thể lãnh nhận một cách máy móc. Đã hơn một lần người Do Thái được gọi vào cương vị là con cái Abraham, nhưng Ngài đã thẳng thắn trả lời với họ: Cương vị ấy không hơn gì một hòn đá. Người ta cũng đã nại vào tước vị là dân riêng của Chúa, của giao ước, nhưng Chúa Giêsu cũng đã cho thấy việc nại vào tước vị ấy quả là uổng công. Chẳng phải vì Ngài muốn đi ngược lại với những gì Cha Ngài đã giao ước, mà vì Ngài muốn đi vào cái cốt lõi của giao ước: Thực hiện thánh ý của Thiên Chúa. Mối quan hệ chính yếu Chúa Giêsu muốn thiết lập, đó chính là mối quan hệ của việc thực thi lời Chúa, bất luận người đó là ai, dù là người Samaria mà dân Do Thái vốn coi rẻ, cho là hạng lai căng, lạc đạo, nhưng đã biết chăm sóc cho kẻ bị cướp đánh trọng thương, vứt bỏ bên lề đường, hay đã cho kẻ đói có cái ăn, kẻ khát có cái uống, kẻ trần truồng có cái mặc. Những việc làm nằm trong ý của Chúa thì người đó đã ở trong quan hệ cứu chuộc với Chúa. Mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cũng nhìn lại mối quan hệ của chúng ta đối với Đức Kitô. Bí tích Rửa tội và tất cả những bí tích chúng ta lãnh nhận một cách máy móc không đủ để đặt chúng ta vào trong quan hệ với Đức Kitô. Mang danh hiệu là người Kitô hữu, có tên trong sổ rửa tội mà thôi chưa đủ, bởi vì chúng ta chỉ thực sự gắn bó với Ngài khi lắng nghe và thực thi ý Chúa, bởi vì như lời Chúa đã khẳng định: Chỉ kẻ nào làm theo thánh ý Thiên Chúa, thì mới là mẹ, là anh chị em với Ngài mà thôi.
Có một cô gái, sau khi tham dự một khóa tĩnh tâm, đã kể lại về đời mình như sau: Ngay từ hồi còn bé, tôi đã lâm vào một tình trạng lo âu sợ hãi. Cố gắng lớn lao nhất của tôi hiện nay là vượt thắng nỗi lo âu sợ hãi ấy. Tất cả đều do người mẹ. Phải, ngay từ những thánh năm ấu thơ, không hiểu vì lý do gì, bà luôn đối xử với tôi một cách nghiệt ngã. Hết đánh đập lại đe loi, khiến tôi bị mặc cảm. Và nỗi lo âu sợ hãi cùng với thời gian cứ tăng lên mãi. Cho đến hôm rồi, sau khi nghe một bài giảng, tôi tình cờ bước vào nhà thờ. Ở đó có bức tượng Mẹ Maria, và đó là lần đầu tiên tôi nhìn ngắm bức tượng Mẹ thật kỹ. Thoạt tiên, tôi bực bội, giận dữ muốn bỏ ngay ra ngoài, nhưng rồi một cái gì đó đã lôi kéo tôi đến quỳ dưới chân Mẹ. Úp mặt vào lòng bàn tay và tôi đã khóc. Sau đó, tôi cảm thấy tâm hồn mình nhẹ nhõm và mong ước được làm một đứa trẻ, một người con bé bỏng, đầy tin tưởng và phó thác. Đồng thời tôi cũng cảm nhận được tình yêu mà Mẹ Maria đã dành cho tôi, khiến tôi muốn thực sự tha thứ cho người mẹ ruột của tôi những gì đã xảy ra trong dĩ vãng. Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào tâm tình của ngày lễ kính Mẹ Thiên Chúa và chúng ta sẽ suy nghĩ về hai điểm. Điểm thứ nhất: Đức Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà ngài còn là mẹ thật của mỗi người chúng ta nữa. Từ trời cao, Mẹ luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời. Điểm thứ hai: Đức Maria cũng chính là khuôn mẫu để chúng ta noi theo, nhất là về thái độ tín thác vào Chúa. Thực vậy, khi sứ thần báo tin Mẹ sẽ sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, mặc dù biết rằng việc này có thể làm cho thánh Giuse buồn phiền và lo nghĩ, nhưng Mẹ vẫn vững tin và phó thác vào Chúa. Rồi khi nghe các mục đồng kể lại lời các thiên thần. Mặc dù không hiểu lắm, nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Khi nghe ông già Simeon nói tiên tri: Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu trái tim Bà. Lần này Mẹ Maria cũng chẳng hiểu rõ ý nghĩa lời tiên tri, nhưng Mẹ vẫn phó thác vào Chúa. Rồi khi tìm thấy Chúa và nghe Chúa trả lời: Mẹ không biết con phải lo việc Cha con sao? Một lần nữa Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ vẫn tin tưởng nơi Chúa. Và ngày nay, Mẹ luôn sẵn sàng giúp chúng ta sống tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa. Chẳng hạn là những bậc cha mẹ, chúng ta đã cặn kẽ dạy bảo, ra sức làm gương sáng mà con cái vẫn khô khan nguội lạnh ngang bướng Và như vậy, chỉ còn một phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta làm điều này. Là một thanh niên, chúng ta lo lắng về tương lai, không hiểu những dự tính của mình là gì và sẽ đi về đâu? Chúng ta đã bàn bạc, đã cầu nguyện mà sao vẫn còn mù mịt. Vậy thì hãy tiếp tục cầu nguyện và phó thác, chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta trong việc này. Là một người đang chao đảo về đức tin với bao nhiêu những thắc mắc, những khó hiểu. Mặc dù đã cầu nguyện nhưng chúng ta vẫn hoài nghi liệu có Chúa hay không? Vậy thì hãy cầu nguyện và phó thác Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta thực hiện điều này. Lạy Đức Maria, là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng con, xin hãy giúp con trong mọi cảnh huống của cuộc đời.
Trong một bài giảng, vị linh mục đã nêu lên câu hỏi. - Vậy Đức Maria là ai? Mọi người đều thinh lặng không một ai đã trả lời. Ngài lại hỏi thêm một lần nữa: - Vậy ai có thể nói cho tôi hay Đức Maria là ai? Sau cùng một bà già đã trả lời: - Thưa cha, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Vị linh mục nói: Đúng lắm, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, nhưng tôi muốn biết ngài còn là ai nữa? Tiếp theo là những câu trả lời khác nhau: Mẹ là Nữ vương thiên đàng, là nơi ẩn náu của kẻ tội lỗi… Vị linh mục mỉm cười và bảo: Đúng lắm, tất cả đều đúng nhưng chưa đủ, bởi vì Đức Maria còn là Mẹ tôi nữa. Vâng, Đức Maria là Mẹ chúng ta. Trên thế gian, chúng ta không một ai đã yêu thương chúng ta, không một ai đã sẵn sàng lắng nghe chúng ta kêu cầu, cảm thông và giúp đỡ chúng ta trong mọi hoàn cảnh như Mẹ. Hôm nay, ngày đầu năm dương lịch, chúng ta mừng kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta phó thác năm mới này cho Mẹ để xin Me nâng đỡ chở che. Sở dĩ chúng ta biết Đức Maria là Me Thiên Chúa, bởi vì Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Đồng thời chúng ta cũng tin rằng Chúa Giêsu vừa là người vừa là Thiên Chúa. Bởi đó, một khi đã là Mẹ của Chúa Giêsu, thì Đức Maria cũng là Mẹ của Thiên Chúa làm người. Không ai được nói rằng Đức Maria đã sinh ra thiên tính của Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta chỉ đơn giản tuyên xưng rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng vừa là người lại vừa là Thiên Chúa. Từ đó chúng ta có thể đi tới một kết luận quan trọng như sau: Vì là Mẹ của Thiên Chúa làm người cho nên Đức Maria cũng là Mẹ thật của mỗi người chúng ta. Trong lòng Giáo hội, gia đình của Thiên Chúa thì Đức Kitô là anh cả còn chúng ta là những người em. Một khi Đức Maria đã là Mẹ của Chúa Giêsu thì ngài cũng là Mẹ của chúng ta nữa. Vậy chúng ta phải làm gì để khởi đầu cho năm mới 2008 này? Nếu không có Mẹ Maria thì không có sự sống. Vì thế, ngay cả Chúa Giêsu cũng phải có Mẹ. Nếu cuộc sống con người khởi đầu từ người mẹ, thì mỗi chặng đường đời của chúng ta., chẳng hạn một năm mới, cũng khởi đầu với Đức Maria: Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta. Người mẹ đón nhận con mình mỗi buổi sáng, Đức Maria đón nhận chúng ta ngày đầu năm, Mẹ nghiêng mình trên chúng ta, nuôi dưỡng, bao bọc và chạy chữa chúng ta cùng với biết bao biểu lộ của yêu thương và trìu mến. Người mẹ làm cho ngày mới của đứa con có một ý nghĩa, thì Đức Maria cũng làm cho năm mới của chúng ta có một ý nghĩa. Để kết luận chúng ta hãy xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng ta hôm nay, ngày đầu năm mới và suốt cả những tháng ngày kế tiếp, để trong năm mới nay, chúng ta sẽ sống gắn bó với Chúa và Mẹ. Như thế, năm mới này sẽ là một năm bình an và hạnh phúc. Đó cũng là lời cầu chúc tôi xin gửi đến với anh chị em.
Từ xưa, khi mừng lễ Giáng Sinh, Giáo Hội vẫn chú tâm đến Đức Maria và không ngừng chiêm ngắm khuôn mặt của Đức Mẹ bên cạnh máng cỏ Hài Nhi Giêsu. Nhưng ngày đầu năm dương lịch hôm nay, Giáo Hội mừng kính đặc biệt Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Thưa anh chị em, Nhìn vào hang đá, ai lại không nói rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Và sở dĩ chúng ta chú ý đến máng cỏ là vì Hài Nhi Giêsu nằm đó là chính Thiên Chúa Nhập Thể làm người, là con của Đức Maria. Thiên Chúa hằng hữu, tự mình mà có và không ai sinh ra Ngài. Nhưng nay Thiên Chúa đã sinh làm người, sinh bởi một người nữ, một người mẹ. Đức Maria đã sinh ra Chúa Giêsu, nên Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Giáo Hội luôn kêu cầu Mẹ: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời”. Trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những gì liên hệ đến Con của mình và suy đi nghĩ lại trong lòng. Quả thật, người mẹ nào không tự hỏi về tương lai của con mình? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về các thiên thần hiện ra ban đêm báo tin cho họ? Và Mẹ có thể nào không suy nghĩ về danh “Giêsu” (Chúa Cứu) mà từ nay theo lệnh sứ thần, Mẹ sẽ dùng để gọi Con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi truyền tin: “Bà sẽ gọi Con Trẻ là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu vua Đavít, cha Ngài, và Ngài sẽ cai trị trong nhà Giacob đến muôn đời”. Những lời đó không đơn giản dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng phong phú. Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại trong lòng. Anh chị em thân mến, Chính lúc một người mẹ trần gian gọi Thiên Chúa bằng con, thì trên trời các thiên thần ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho loài người Chúa thương”. Con Thiên Chúa gọi một người nữ bằng mẹ, để tất cả những ai sinh ra bởi người nữ, dù ở địa vị nào, giai cấp nào, đều được gọi Thiên Chúa là Cha và gọi nhau là anh em. Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người để làm “ôTrưởngam giữa một đoàn em đông đúc” (Rm 8,29) và “không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì tất cả chỉ là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28). Trong lòng Trinh Nữ Maria, Thiên Chúa và con người đã gặp lại nhau, và con người đã gặp lại con người. Đó là vinh danh Thiên Chúa trên trời. Đó cũng là hoà bình dưới đất cho loài người. Vì thế, hôm nay được chọn làm ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Hoà Bình. Chủ đề của sứ điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình năm nay (1996) là: “Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình”. Thế giới chúng ta, kể cả thế giới của các tôn giáo, là thế giới của người lớn, của những kẻ thích làm lớn. Thế giới của chúng ta là thế giới mà trẻ thơ bị xua đuổi, bị loại trừ, nhiều khi ngay từ khi chúng mới chỉ là những bào thai, và nếu như không kịp bị huỷ hoại, thì cũng bị bỏ rơi khi mới chào đời. Còn những em nào lớn lên, thì sẽ bị khai thác bóc lột, kể cả khai thác trong cái “kỹ nghệ” tội ác, đó “du lịch tình dục”. Đức Thánh Cha đã viết: “Những gì xảy ra cho Hài Nhi Giêsu ở Bêlem cũng đang xảy ra cho các trẻ em trên khắp thế giới. Có biết bao trẻ em đang là nạn nhân của đói khổ, của chiến tranh, đang bị cha mẹ bỏ rơi, đang sống cảnh màn trời chiếu đất, đang đau khổ vì biết bao hình thức bạo động và xung đột của người lớn”. Để có một vài con số cụ thể, chúng ta chỉ cần lắng nghe báo cáo của tổ chức Nhi Đồng Quốc Tế (UNICEF) về tình trạng trẻ em trên thế giới năm 1995 như sau: “Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 đang có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì chiến tranh, từ 4 đến 5 triệu tật nguyền, hơn 5 triệu sống trong các trại tỵ nạn, trên 12 triệu sống cảnh không nhà không cửa”. Bản báo cáo ước tính cần phải có ít nhất 34 tỷ Mỹ kim mới có thể đảm bảo các nhu cầu về dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục cho các trẻ em trên khắp thế giới. Đức Thánh Cha kêu gọi người lớn chúng ta “Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình”. Tương lai hoà bình của trẻ em phải là một vấn đề chiến lược của thế giới, vấn đề chính sách của quốc gia. Các nhà lãnh đạo thế giới và các nhà cầm quyền quốc gia phải chịu trách nhiệm trước nhân loại và dân tộc mình về thảm trạng của các trẻ em. Tuy nhiên, chính những người Kitô hữu cũng cần phải ý thức rằng, với tư cách là cha mẹ, là anh chị em, là người thân trong gia đình, tất cả chúng ta đều là những người trước tiên có trách nhiệm đối với con em chúng ta. Sống cho con cái, nuôi dưỡng và giáo dục chúng nên người, đó là trách nhiệm hàng đầu của bậc cha mẹ để tạo cho trẻ em một tương lai hoà bình. Anh chị em thân mến, Chúng ta hãy suy nghĩ về tương lai hoà bình của các trẻ em như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng về những gì liên hệ đến Con của Mẹ. Mẹ suy nghĩ về Danh “Giêsu” có nghĩa là “Cứu Thế”. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người trong năm mới, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta thấy mình là anh em với nhau (x. Bđ 2), để sống yêu thương nhau, cùng nhau xây dựng tương lai hoà bình và hạnh phúc cho mọi người anh em.
Đối với Giáo Hội Chính Thống, tước hiệu nổi bật nhất của Mẹ là "Mẹ Thiên Chúa", trong khi đó đối với Giáo Hội Công Giáo, Mẹ Maria trước tiên là Mẹ của loài người. Hai khía cạnh này của Mẹ Maria được làm nổi bật qua phụng vụ và nghệ thuật của hai Giáo Hội. Một bên những bức ảnh Icon của Giáo Hội Chính Thộng làm cho người ta nghĩ đến Đức Mẹ như một vị thần ngự trị trên Thiên Quốc hơn là người phàm. Đàng khác, trong Giáo Hội Công Giáo các bức tranh và tượng ảnh về Mẹ Maria xem ra nhấn mạnh đến khía cạnh nhân loại của Mẹ. Khía cạnh nhân loại này thường được chọn làm chân dung của Đức Mẹ. Như vậy, trong việc tôn kính chính thức của Giáo Hội cũng như trong tâm tình của người bình dân, tính siêu việt lẫn nhân trần của Mẹ Maria đều được nêu bật. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trân trọng cả hai truyền thống tôn kính này đối với Mẹ Maria. Ngài kêu gọi Âu Châu hãy thở bằng hai buồng phổi, một của Đông Phương, một của Tây Phương. Một sự dung hòa như thế mới có thể bảo tồn được sự tôn kính đúng đắn dành cho Mẹ Chúa Giêsu. Trong Phúc Âm thánh Luca, thánh sử nói về các mục đồng như sau: "Họ liền hối hả ra đi, đến nơi họ gặp thấy bà Maria cùng với Giuse và Hài Nhi được bọc trong khăn, đặt trong máng cỏ" (Lc 2,16). Theo các nhà chú giải Kinh Thánh thì đây là một cuộc cách mạng thinh lặng. Thật thế, lần đầu tiên trong Kinh Thánh người ta thấy tên của người Mẹ đặt trước tên của người Cha. Đây không phải là một đoạn tuyệt với truyền thống "trọng nam khinh nữ" của người Do Thái, nhưng tác giả muốn sắp xếp như thế để nói lên tầm quan trọng của người phụ nữ là Mẹ Maria. Trong Phúc Âm (Mc 10,14), thánh sử ghi lại thái độ của Chúa Giêsu đối với trẻ em, Chúa Giêsu nói như sau: "Hãy để trẻ em đến với Ta và đừng xua đuổi chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai nên giống như chúng. Ta bảo các ngươi, ai không đón nhận Nước Trời như một trẻ em thì sẽ không được vào trong Nước ấy". Nhưng nên giống như trẻ em là gì nếu không phải là quay trở lại với Mẹ, tín thác nơi Mẹ. Một số nhà thần bí trong Giáo Hội xem đây như là một lời khuyến dụ kín đáo của Chúa Giêsu. Phải chăng Ngài chẳng muốn chúng ta tìm đến với Đấng vì là Mẹ của Con Người, cũng là Mẹ của tất cả mọi người. Dù sao một trong những nghịch lý lớn nhất mà Tin Mừng đề ra là tiến đến trong đời sống thiêng liêng không phải là luật tiến hóa mà là luật của cải hóa. Các cuộc Đức Mẹ hiện ra của thời hiện đại đã bắt đầu vào năm 1830, tại một cộng đoàn của Dòng Bác Ái Vinh Sơn tại đường Du Bac ở Paris Pháp Quốc, Đức Mẹ đã hiện ra cho thánh nữ Catherine Labouré và ủy thác cho thánh nữ quảng bá việc tôn kính ảnh Đức Mẹ hay làm phép lạ. Lời kinh được truyền phải đọc trong việc tôn kính ảnh Đức Mẹ có nội dung như sau: "Lạy Đức Maria, là Đấng đã được cưu mang mà không vướng mắc tội lỗi, xin cầu cho chúng con là những kẻ có tội chạy đến cùng Mẹ". Nhờ việc này mà giúp cho Giáo Hội định tín về Đức Mẹ Vô Nhiễm vào năm 1854. Thật ra, đây cũng chỉ là một tước hiệu mà Đức Mẹ đã tự xưng khi hiện ra cho Bernadetta ở hang đá Lộ Đức nước Pháp vào năm 1858. Thật thế, nếu Mẹ Maria là tạo vật duy nhất trong nhân loại đã được cưu mang mà không mang tỳ vết của tội lỗi, bởi vì tội nguyên tổ là một thực tế chứ không phải là một huyền thoại. Vào thời ấy, cùng với những khám phá và tiến bộ trong lãnh vực khoa học, con người thời đại xác tín một cách kiêu hãnh rằng: khoa học, văn hóa và kỹ thuật rồi ra sẽ biến thế giới thành một thứ thiên đàng trần gian, như vậy nó sẽ khử trừ mọi ý niệm về tội Nguyên Tổ. Với khả năng vô tận của mình, rồi ra con người sẽ tự cứu lấy mình chứ không cần phải trông chờ có một đấng cứu thế nào cả. Thế nhưng, lịch sử đã diễn ra không như con người của thời đại mơ tưởng, thứ nhân bản chủ nghĩa chối bỏ cái siêu việt của con người đều dẫn đến sự tự hủy cho con người. Hai trận thế chiến là sự hiện hữu hùng hồn nhất về sự hủy hoại con người. Như vậy, sứ điệp mà Đức Mẹ muốn nhắn gởi cho con người thời đại qua các cuộc hiện ra kể từ năm 1830, trước hết là một sứ điệp về chính tội lỗi của con người. Vì thế, việc tôn kính Đức Mẹ có giá trị giải phóng con người. Dù vậy, Giáo Hội không bao giờ áp đặt việc tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa, nhưng để tùy cảm xúc và sáng kiến của mỗi người tín hữu. Dĩ nhiên, Đức Giáo Hoàng, hàng Giáo Phẩm, các tác giả về tu đức có thể khuyên nhủ các giáo hữu chạy đến với Mẹ Thiên Chúa bằng nhiều hình thức tôn kính khác nhau. Dựa trên kinh nghiệm ngàn đời của mình, Giáo Hội khuyên các tín hữu tôn kính Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội không bao giờ buộc phải tôn kính Mẹ Maria, sẽ không bao giờ Giáo Hội buộc tôn kính các lần hiện ra của Đức Mẹ, cho dù Giáo Hội công nhận các việc hiện ra đó. Giáo Hội sẽ không bao giờ áp đặt các việc tôn kính như lần chuỗi, đi hành hương như là việc làm cần thiết cho ơn cứu rỗi. Giáo Hội sẽ không bao giờ xem là lạc đạo hay có tội khi một tín hữu không tham dự cuộc rước kiệu Đức Mẹ, hay một cuộc hành hương đến nơi Đức Mẹ hiện ra. Giáo Hội sẽ không bao giờ chối bỏ ơn cứu rỗi mà các Giáo Hội khác xây dựng trên niềm tin Kitô của họ, như trong các Giáo Hội Tin Lành. Như vậy, việc tôn kính đối với Mẹ Maria không được nhìn theo phạm trù cần thiết mà là theo phạm trù tự do, không thuộc về lề luật mà thuộc về tình yêu. Chính tính cách tự do ấy lại càng làm nổi bật sự thu hút và những ân huệ đặc biệt của lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa xem ra không muốn áp đặt lòng tôn kính dành cho Mẹ, bởi vì Mẹ vốn là người sống âm thầm, Mẹ cất giữ mọi sự và suy niệm trong lòng. Thánh Luca đã hai lần ghi lại như thế trong cùng một chương. Mẹ quả thật nói ít, hay đúng hơn Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ, nhưng nhìn cho kỹ thì chính Mẹ lại là người gợi hứng cho Kinh Thánh. Dĩ nhiên, với sự kín đáo và thinh lặng của Mẹ, các nhà chuyên môn Kinh Thánh đều đồng ý rằng: Các chương nói về đời tư Chúa Giêsu kể từ khi Chúa Giêsu sinh ra thì chính Mẹ là người duy nhất đã biết thời thơ ấu của Chúa Giêsu và kể lại cho cộng đồng tiên khởi. Nhưng vẫn thái độ kín đáo và thinh lặng cố hữu, Mẹ luôn đứng ở đàng sau, chỉ có những ai biết tìm đến và lắng nghe mới có thể nhận ra được sự hiện diện và tầm quan trọng của Mẹ trong Giáo Hội. Đó chính là ý nghĩa của việc tôn kính Mẹ Maria mà các tín hữu Kitô đã dành cho Mẹ ngay từ thời Giáo Hội sơ khai.
Trong ngày đầu năm mới và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria, hòa bình đích thực của chúng ta! Hướng về tất cả anh chị em đang qui tụ nơi đây, đại diện cho mọi dân tộc trên thế giới, đại diện cho Giáo hội Rôma và Giáo hội hoàn vũ, đại diện cho các linh mục và tín hữu, cũng như tất cả mọi người đang hiệp thông với chúng ta qua các phương tiện truyền thanh, truyền hình, tôi muốn lặp lại lời cầu chúc của Cựu Ước: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em (x. Ds 6,26). Dưới ánh sáng Lời Chúa, hôm nay, tôi muốn triển khai đề tài: dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người, đề tài này cống hiến cho chúng ta chìa khóa để giải thích những vấn nạn hòa bình trên thế giới. Trong bài đọc I – trích từ sách Dân số và trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta đã nghe một vài cách diễn tả ẩn dụ về dung mạo của Thiên Chúa: “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em (Ds 6,25); “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 66/67,2-3). Dung mạo diễn tả rõ ràng nhất về con người, qua đó tình cảm, suy nghĩ và những ý định sâu kín trong tâm hồn được bày tỏ. Thiên Chúa vô hình, theo bản tính của Ngài, nhưng Kinh Thánh vẫn ‘gán’ cho Ngài một “dung mạo”. Trong Kinh Thánh, kiểu nói “tỏ dung nhan” diễn tả lòng nhân từ của Thiên Chúa, trong khi cách nói Thiên Chúa “ẩn mặt” ám chỉ Thiên Chúa nổi giận. Sách Xuất Hành nói: “Đức Chúa đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11), Ngài hứa sẽ luôn luôn ở bên ông: “Dung nhan của Ta sẽ đi cùng ngươi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi” (Xh 33,14). Các Thánh Vịnh diễn tả, các tín hữu là những người tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa (x. Tv 26/27,8; 104/105,4). Trong cử hành phượng tự, các Thánh Vịnh diễn tả nỗi khát khao của con người được chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa (Tv 42,3), “người chính trực” sẽ được “chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa” (Tv 10/11,7). Có thể đọc toàn bộ Thánh Kinh như là một quá trình tiệm tiến, qua đó Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài ra cho con người và Ngài đã bày tỏ một cách trọn vẹn trong Chúa Giêsu Kitô. “Khi đến thời viên mãn – trong bài đọc II thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta – Thiên Chúa đã sai Con của Ngài (Gl 4,4) và ngay lập tức thánh Tông Đồ nói thêm “sinh bởi người phụ nữ và sinh dưới chế độ lề luật”. Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria. Vì lý do đó, chúng ta tôn kính Đức Maria với tước hiệu cao trọng nhất “Mẹ Thiên Chúa”. Đức Maria đã gìn giữ trong tâm hồn mầu nhiệm thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và Mẹ là người đầu tiên được chiêm ngưỡng dung mạo Thiên Chúa, Đấng đã trở thành người phàm trong lòng Mẹ. Người mẹ có mối tương quan đặc biệt, duy nhất và đôi khi độc quyền với đứa trẻ mới được sinh ra. Dung mạo đầu tiên mà đứa trẻ nhìn thấy là người mẹ, cái nhìn này quyết định mối tương quan của đứa trẻ với cuộc sống, với chính nó, với người khác và với Thiên Chúa. Cái nhìn này cũng quyết định tại sao đứa trẻ có thể trở thành “người con của hòa bình” (Lc 10,6). Trong truyền thống Bizantinô, giữa nhiều bức họa Đức Trinh Nữ Maria, có một bức họa được gọi là Đức Maria “ngọt ngào, êm dịu”, trong bức họa đó gương mặt của Hài Nhi Giêsu áp sát gương mặt Đức Maria. Hài Nhi Giêsu nhìn Mẹ Maria. Đối với chúng ta, bức họa này qui chiếu về Đức Maria, người đã cầu nguyện liên lỉ và hằng tuân giữ Lời Chúa, qui chiếu về sự “êm ái, ngọt ngào” của Thiên Chúa từ trời cao đã giáng trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm trên tay. Trong bức họa này, chúng ta có thể chiêm ngắm một vài nét phác họa nào đó về chính Thiên Chúa: dấu chỉ tình yêu vô biên, vì tình yêu đó Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16). Nhưng bức họa này cũng cho chúng ta biết, trong Đức Maria, dung mạo của Giáo hội chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Kitô cho chúng ta và cho toàn thế giới; qua Đức Maria, Giáo hội gửi đến mỗi người Tin Mừng: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con cái” (Gl 4,7) – như chúng ta nghe đọc trong thư của thánh Phaolô. Anh em Giám mục, Linh mục, quí vị Đại sứ và các bạn thân mến! Suy tư về mầu nhiệm dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người là con đường ưu tiên dẫn đến hòa bình. Thật vậy, con đường này khởi đầu bằng cái nhìn tôn trọng con người, nhìn nhận phẩm giá của người khác dù người đó thuộc bất cứ mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ hay tôn giáo nào. Nhưng ai, nếu không phải là Thiên Chúa có khả năng bảo đảm một cách “sâu xa nhất” dung mạo của con người? Thật ra, chỉ khi nào chúng ta có Thiên Chúa trong tâm hồn, chúng ta mới có thể đón nhận dung mạo của người anh em xứng hợp với phẩm giá của họ, nghĩa là không phải như phương tiện nhưng như là mục đích, không phải như đối thủ hay kẻ thù nhưng như một “cái tôi” khác của chính tôi, một khía cạnh không cùng của mầu nhiệm con người. Nhận thức của chúng ta về thế giới, đặc biệt về anh chị em đồng loại, căn bản phụ thuộc vào sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta. Đây là một sự “cộng hưởng”: Ai có tâm hồn vô cảm, người ấy không thể nhận ra những giá trị cao cả nơi anh chị em của mình. Trái lại, nếu chúng ta cư ngụ trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Ngài trong thiên nhiên, đặc biệt nơi anh chị em, mặc dù, đôi khi dung mạo của con người đã bị méo mó do sự dữ, do đời sống khó khăn, khiến chúng ta không thể nhận ra sự “hiển dung” của Thiên Chúa nơi dung mạo anh chị em của mình. Hơn nữa, để hiểu nhau và tôn trọng nhau như là anh chị em, chúng ta cần phải liên hệ đến dung mạo của Thiên Chúa, cha chung của tất cả chúng ta, Đấng đã yêu mến tất cả chúng ta ngay cả khi chúng ta còn nhiều sai lỗi và bất toàn. Khi còn nhỏ tuổi, điều quan trọng đối với trẻ em là được giáo dục biết tôn trọng người khác, ngay cả sự khác biệt của họ. Trong các lớp học phổ thông qui tụ trẻ em đến từ nhiều quốc gia, ngay cả trong các lớp học mà các em cùng chung một quốc gia, dung mạo của các em như là một lời tiên báo về viễn ảnh một nhân loại mà chúng ta gọi là: gia đình của mọi gia đình, hay gia đình nhân loại. Những em nhỏ tuổi hơn trong số những em này lại là những em gợi lên trong chúng ta mối tình huynh đệ ngọt ngào, êm dịu nhất dù giữa các em có sự khác biệt, chúng khóc cười như nhau, chúng có nhu cầu như nhau, chúng liên kết với nhau một cách tự nhiên, chúng chơi chung với nhau… Dung mạo của trẻ thơ như là một phản ánh dự phóng của Thiên Chúa đối với thế giới. Tại sao chúng ta làm mất đi nụ cười của chúng? Tại sao chúng ta làm vẩn đục trái tim của chúng? Rất tiếc, bức họa Đức Maria “êm dịu” đang hiện diện giữa hình ảnh của biết bao nhiêu trẻ em cũng như mẹ của các em đang đau khổ vì chiến tranh và bạo lực. Họ bị biến thành những người lưu vong, tị nạn, bị bó buộc phải di cư. Dung mạo của họ bị hủy hoại vì đói khát và bệnh tật, bị biến dạng vì đau khổ và thất vọng. Dung mạo của các trẻ em vô tội là hồi chuông báo động không lời đối với trách nhiệm của chúng ta. Đối diện với hoàn cảnh của trẻ em vô phương tự vệ, tất cả những lý lẽ sai trái biện minh cho chiến tranh và bạo lực không có lý do đứng vững. Chúng ta phải xây dựng hòa bình bằng cách loại bỏ mọi loại vũ khí, cùng nhau xây dựng một thế giới xứng hợp hơn với nhân phẩm con người. Trong sứ điệp của tôi nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ XLIII: “Nếu bạn muốn xây dựng hòa bình, bạn hãy bảo tồn thiên nhiên”, sứ điệp đặt trọng tâm trên phương diện dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người. Thật vậy, chúng ta có thể khẳng định, con người có khả năng tôn trọng thiên nhiên bằng cách thấu hiểu thiên nhiên, nếu không con người sẽ không tôn trọng chính mình và những sự vật chung quanh mình, không tôn trọng môi trường sống và không tôn trọng thiên nhiên. Ai biết nhận ra trong vũ trụ, những phản ánh dung mạo vô hình của Đấng Tạo Hóa, người đó sẽ yêu mến thiên nhiên và nhận ra được những giá trị biểu tượng của chúng. Đặc biệt, trong các Thánh Vịnh, chứa đựng những chứng từ rất phong phú về mối tương quan giữa con người với thiên nhiên: trời đất, biển khơi, núi đồi, sông ngòi, sinh vật….Tác giả thánh vịnh đã thốt lên: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104/103,24). Đặc biệt, phương diện “dung mạo” mời gọi chúng ta dừng lại trên đề tài mà trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới, tôi đã gọi là “môi sinh của nhân loại”. Có một mối liên hệ mật thiết giữa việc tôn trọng con người và bảo tồn thiên nhiên. “Trách nhiệm đối với thiên nhiên bắt nguồn từ trách nhiệm đối với từng người và đối với toàn thể nhân loại” (số 12). Nếu con người không được tôn trọng, môi trường sống của con người cũng không được tôn trọng; nếu văn hóa hướng đến chủ nghĩa hư vô, nếu không đề ra những chương trình cụ hành động cụ thể, nếu như không thực hiện những chương trình đã đề ra, thiên nhiên sẽ bị hủy hoại. Thật vậy, có một mối liên hệ hỗ tương giữa dung mạo của Thiên Chúa và “dung mạo” của môi sinh: “Khi môi sinh của nhân loại được tôn trọng trong đời sống xã hội, môi trường sinh thái được bảo tồn” (nt; Bác Ái Trong Chân Lý, s. 51). Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giáo dục về môi sinh, cũng như thúc đẩy truyền thông một cách sâu rộng hơn về “trách nhiệm đối với môi sinh”, đặt nền tảng trên việc tôn trọng con người, quyền lợi và những nghĩa vụ căn bản của họ. Chỉ có như thế, nỗ lực đối với môi sinh mới có thể thực sự mang lại hòa bình và xây dựng hòa bình. Anh chị em thân mến, trong mùa Giáng sinh, chúng ta nghe một thánh vịnh, giữa nhiều thánh vịnh khác, diễn tả việc Chúa đến đã biến đổi thiên nhiên và khai mở một lễ hội của vũ trụ. Thánh vịnh này khơi mào với lời mời gọi toàn thể vũ trụ hãy dâng lời ca ngợi Chúa: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu” (Tv 95/96,1). Nhưng có một điều chắc chắn, lời kêu gọi này hướng đến niềm vui của toàn thể nhân loại: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ, hỡi cây cối rừng xanh (Tv 95/96,11-12). Ngày lễ của đức tin trở thành ngày lễ của con người và của thiên nhiên. Lễ giáng sinh diễn tả ý nghĩa đó, qua việc trang trí cây cối, đường xá, nhà cửa. Tất cả trở nên rực rỡ vì Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta. Đức Trinh Nữ Maria tỏ Hài Nhi Giêsu cho các mục đồng đang vui mừng, hân hoan ca tụng Thiên Chúa (x. Lc 2,20). Giáo hội tiếp tục giới thiệu mầu nhiệm đó cho con người mọi thời, bày tỏ cho họ dung mạo của Thiên Chúa, với ân phúc của Ngài, họ có thể tiến bước trên con đường hòa bình.
Mỗi khi đọc kinh kính mừng, chúng ta đều thưa lên cùng Mẹ: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Khi chúng ta thưa cùng Mẹ điều đó, là chúng ta ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mình thường hay sa đi ngã lại trong những lầm lỗi tội lỗi. Đồng thời cũng nói lên sự phó thác cậy trông nơi Mẹ, là Mẹ của Thiên Chúa và cũng là Mẹ chúng ta. Vâng, khi nhập thể làm người Chúa Giê-su cũng được sinh ra từ một người mẹ, và suốt cuộc sống của Chúa Giê-su dường như luôn có bóng dáng của mẹ hiện diện để khích lệ, an ủi, nhất là trong lúc chịu đau thương trên thập giá. Mẹ đã ở bên Chúa, cùng hiệp thông trong đau khổ với Chúa để cứu độ trần gian. Có lẽ vì muốn chúng ta được sống trong tình mẫu tử của Mẹ, Chúa Giê-su đã trao ban Đức Mẹ cho chúng ta, khi Chúa nói với Gioan: “Đây là Mẹ của con”, và thánh kinh đã ghi lại: “kể từ lúc đó, người môn đệ Chúa yêu đã đón Mẹ về nhà của mình”. Thánh Gioan đã đại diện cho nhân loại để nhận Mẹ làm Mẹ của chúng sinh. Từ nay Mẹ sẽ tiếp tục nâng đỡ chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục yêu thương chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta để chăm sóc, lo lắng và chở che cuộc đời chúng ta. Chúng ta có thể cảm nghiệm về tình Mẹ Thiên quốc qua hình ảnh người mẹ trần thế. Mẹ trần thế yêu thương con đến nỗi dám đánh mất chính mình cho con được lớn lên thế nào, thì người mẹ thiên quốc cũng lo cái lo của con cái dưới thế, cũng đau vời đau đau của nhân loại, cũng sẵn sàng làm tất cả đế cứu vớt nhân loại lầm than. Có lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc lòng bài ca dao “Con cò ăn đêm” mà các bà mẹ thường hay hát ru con: “Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Ông ơi, ông vớt tôi vào Tôi có lòng nào ông hãy xào măng Có xào thì xào nước trong Đừng xào nước đục đau lòng cò con” Bài thơ thật ngắn gọn nhưng diễn tả về tình yêu của một người mẹ đơn côi, lặn lội nơi bến chợ, bất chấp tất cả khó khăn cực nhọc để kiếm tiền nuôi con, kể cả việc phải đi ăn đêm. Nếu số phận có đun rủi bà phải rơi xuống hố sâu lầm lỗi, bà sẵn sàng chịu mọi sự trừng phạt miễn là ông trời hãy thương lấy đàn con, gìn giữ nó được sống trong danh dự mà đoạn kết đã diễn tả: “Đừng xào nước đục đau lòng cò con”. Nghĩa là người mẹ sẵn sàng chịu mọi oan ức, mọi niềm đắng cay, nhưng miễn sao con của bà đừng bị người đời trừng phạt bởi lầm lỗi của bà, đừng bị người đời khinh chê vì những đoạn trường đắng cay của mẹ. Tình yêu của người mẹ là thế! Bà sẵn sàng hy sinh tất cả miền là đoàn con được hạnh phúc. Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ là Đức Maria, Mẹ của Chúa Giê-su đã được ban cho chúng ta qua thánh Gioan. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết đón Mẹ về nhà cuộc đời chúng ta, để chia sẻ những vui buồn trong gia đình chúng ta. Ước gì chúng ta biết trân trọng gìn giữ Mẹ như bảo ngọc châu báu mà Chúa đã ban cho chúng ta, đừng để mất Mẹ, vì mất Mẹ là mất cả bầu trời. Ước gì mỗi người chúng ta biết tin tưởng phó dâng cuộc sống gia đình của mình cho Mẹ và biết dành một vài giây phút trong ngày để thưa lên cùng Mẹ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa cầu cho chúng con hôm nay và trong giờ lâm tử. Amen
Hình ảnh đẹp nhất về hòa bình là hình ảnh một phụ nữ âu yếm bồng con. Và hình ảnh hung bạo nhất của chiến tranh là hình ảnh một phụ nữ khóc than bên xác của con mình, nạn nhân của bất cứ loại vũ khí nào. Khi Thiên Chúa muốn mặc khải cho chúng ta rằng Ngài đến mặc khải công trình cứu độ mà Ngài thực hiện để “làm cho chúng ta trở thành con cái Ngài”, thì Ngài đã hiến dâng chính mình như một trẻ thơ được bồng ẵm trong tay âu yếm của một phụ nữ, Đức Maria, thân mẫu Ngài. Trong lễ này, ta hãy chiêm ngưỡng Đức Maria thân mẫu Chúa Giêsu, vua hòa bình, như Lời Chúa trình bày cho chúng ta. Tình mẫu tử của Đức Maria. Tin Mừng gợi lên một cách kín đáo nhưng đúng đắn thực tại tình mẫu tử của Đức Maria. Chỉ hai nét đã đủ, trong ấy mọi người phụ nữ làm mẹ sẽ nhận ra được mình: lo lắng cho hài nhi và liên lỉ chú ý đến những biến cố trong cuộc đời của con. Việc Chúa Giêsu sinh ra đã không làm cho Đức Maria ngạc nhiên. Người đã giúp đỡ bà chị họ Êlisabet và có lẽ nhiều người phụ nữ khác trong làng nữa. Người biết phải săn sóc, âu yếm, an ủi trẻ sơ sinh như thế nào. Và, như tất cả những người mẹ chất chứa trong ký ức của lòng mình vô số kỷ niệm từ những đứa con bà đã cưu mang và đã sinh hạ, Đức Maria nhớ tất cả những gì đã xảy ra liên quan đến Chúa Giêsu. Người ta nhìn thấy Mẹ đầy hạnh phúc sâu xa, đầy vinh dự mà tất cả mọi người mẹ đều có. Nhưng tình mẫu tử của Đức Maria khác biệt với tình mẫu tử của những người mẹ khác. Tin Mừng cho ta hiểu điều này qua một chi tiết khiến cho nhiều Kitô hữu đầu tiên và cả chúng ta nữa phải ngạc nhiên: Đức Maria và thánh Giuse đã không tự mình đặt tên cho con trẻ. Trẻ này, mặc dù sinh bởi Đức Maria nhưng là Con Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa khi đặt tên cho con trẻ sinh bởi Đức Maria, đã khẳng định mình là Cha. Đức Maria và thánh Giuse chấp nhận mầu nhiệm lớn lao này liên quan đến Con của mình. Hai đấng tôn trọng Ngài và muốn cho người ta tôn trọng Ngài khi đón tiếp các mục đồng tò mò và phấn khởi tìm đến trước một trẻ sơ sinh trong dòng họ vua Đavít. Thời hòa bình. Thánh Phaolô, người đầu tiên trong Thánh Kinh Tân Ước nói đến Đức Maria, đã khẳng định việc người làm mẹ, việc này chứng tỏ thực tại của ơn cứu độ. Việc Đức Maria làm mẹ khai mạc thời đại mới, thời đại ân sủng. Người phụ nữ đầu tiên sinh con đã khai mạc lịch sử nhân loại. Vào những lúc khác, trong lịch sử Cựu Ước, mỗi giai đoạn mới lại được mở ra bằng một việc sinh con. Mẹ của Môsê sinh ra ông, bà Rút sinh ra tổ tiên của Đavít và của Chúa Giêsu. Bà Anna sinh Samuel, bà Êlisabet sinh Gioan Tẩy Giả. Việc Đức Maria sinh con, công trình của ân sủng chứ không phải của xác thịt, là biến cố mở đầu ơn cứu độ mà Thiên Chúa muốn ban cho loài người. Việc làm mẹ này cũng mang một tính cách đặc biệt. Nó được loan báo bởi tiếng kêu: Hòa bình cho nhân loại! Nó bày tỏ công cuộc hòa bình, bởi vì hết thảy mọi người được mời gọi đến hòa giải với Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu sinh bởi Đức Maria. Cho đến tận thế tính cách làm Mẹ của Đức Maria vẫn là hình ảnh mà Thiên Chúa để lại hầu giúp chúng ta thực hiện công việc hòa bình giữa chúng ta. Kết luận. Khi kết thúc việc cử hành thánh lễ này chúng ta sẽ thưa với Chúa về niềm hãnh diện của chúng ta khi nghĩ đến Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta cũng hiểu rằng chúng ta phải đi đến tận cùng niềm hãnh diện đó; là con cái, chúng ta thưa Lạy Cha với Thiên Chúa, vậy trong năm mới này chúng ta có thể sống bình an với nhau không?
Làm người ai cũng cần có mẹ. Mẹ là người cưu mang, sinh ra và dưỡng nuôi con cho khôn lớn. Khi Con Thiên Chúa làm người, mang lấy trọn phận người, Ngài cũng cần một người mẹ, như bao người khác. Mẹ Maria là thiếu nữ, là trinh nữ được Thiên Chúa tuyển chọn, Để thụ thai và sinh hạ Con Một Thiên Chúa. Khi Công Đồng Êphêsô (năm 431) gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Công Đồng không có ý dạy Đức Mẹ sinh ra Chúa Cha hay Chúa Thánh Thần. Đức Mẹ chỉ sinh ra Đức Giêsu, Mà Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, Nên Mẹ thực sự là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Chắc Mẹ Ma ria không thể hiểu hết và hiểu ngay Màu nhiệm lớn lao mà Mẹ đang cưu mang trong dạ. Khi các mục đồng kể lại những điều huy hoàng họ nghe thấy ở Belem, Mẹ Maria ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong tim mình. Để đi vào mầu nhiệm cách sâu xa, cần ơn soi sáng của Chúa, Nhưng cũng cần thái độ chiêm niệm, nghiền ngẫm trong lặng thinh. Chúng ta thường để ý đến biến cố Truyền Tin và biến cố Giáng Sinh, biến cố Ngôi Lời bắt đầu hiện hữu trong lòng mẹ và biến cố chào đời. Nhưng chúng ta không được quên chín tháng Mẹ cưu mang người Con. Con Thiên Chúa đã lớn lên từ từ trong lòng Mẹ như các thai nhi khác. Muốn sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay, Chúng ta cũng cần nhiều thời gian để cưu mang Ngài trong cuộc đời ta, để Ngài trở nên đủ cứng cáp khi chào đời.Chúng ta cũng phải chấp nhận cả sự đau đớn khi sinh hạ. Bước qua một Năm Mới, mở trang đầu của cuốn lịch mới, Chúng ta mong những điều mới mẻ tốt lành xảy đến cho mình Và muốn tặng cho nhau một câu chúc đầy ý nghĩa: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!”(Ds 6, 26)
Các mục đồng liền vội vã lên đường đi tìm Đấng Cứu Thế theo dấu chỉ thiên sứ vừa cho biết (x Lc 2,12), và họ đã gặp được Hài Nhi mới sinh, cùng với cha mẹ Người là hai ông bà Giu-se và Ma-ri-a (c 16). Sau đó tới ngày thứ tám, là lễ Cắt Bì và Hài Nhi được đặt tên là Giê-su, đúng như lời thiên thần truyền tin cho trinh nữ Ma-ri-a (x Lc 1,31). 3. CHÚ THÍCH: - C 8-9: + Trong vùng ấy có những người chăn chiên...: Sau khi bà Ma-ri-a sinh con trong cảnh khó nghèo tại thành Bê-lem, các mục đồng vốn là những kẻ nghèo hèn sống bên lề xã hội Do thái và luôn bị khinh dể, vì không có điều kiện tuân giữ Luật pháp Mô-sê. Giờ đây họ đã được ưu tiên đón nhận Tin Mừng về Đấng Cứu Thế đã ra đời. - C 10-14: + “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại...”...: Qua đó cho thấy những người nghèo khó, đau khổ và bị bỏ rơi đang bị thua thiệt thì giờ đây lại được Chúa ưu tiên đ loan báo tin vui cứu độ (x Mt 5,3.5.7). - C 16: + “Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”: Ở đây, Lu-ca kể theo thứ tự tư nhiên: Ma-ri-a, Giu-se và Hài Nhi. Nhưng nếu theo thứ tự siêu nhiên thì phải kể: Hài Nhi Giê-su, Ma-ri-a và Giu-se. Vì Hài Nhi là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, rồi đến Đức Ma-ri-a là Đấng thánh được chọn làm Mẹ của Đấng Thiên Sai, nên phải kể ra trước Giu-se. - C 19: + Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng: Ma-ri-a để tâm suy gẫm để tìm ra ý nghĩa của những sự kiện xảy ra trong cuộc đời Chúa Giê-sù, từ đó khám phá ra thánh ý Thiên Chúa muốn Mẹ phải làm gì để đáp lại tình thương cứu độ của Thiên Chúa. - C 21: + Làm lễ Cắt Bì: Cắt bì là cắt một ít da thừa nơi bộ phận sinh dục của bé trai. Luật Mô-sê quy định lễ Cắt Bì phải được thực hiện vào ngày thứ tám sau khi đứa trẻ sinh ra (x Lv 12,3). Người thực hiện phải dùng dao bằng đá (x Gs 5,2). Việc chảy một ít máu tượng trưng “máu giao ước” giữa Đức Chúa với dân Ít-ra-en (x Xh 4,26). Qua nghi lễ này đứa trẻ được chính thức gia nhập vào dân riêng của Đức Chúa và được cha mẹ đặt tên cho, như trình thuật về lễ đặt tên của Gio-an Tẩy Giả (x Lc 1,59-63). - C 21: +Tên gọi Giê-su: Khi hiện ra trong giấc mộng, thiên thần đã lệnh cho Giu-se đặt tên cho con trẻ sắp sinh ra là Giê-su, nghĩa là Đấng Cứu Thế, và lời giải thích ý nghĩa của tên gọi sau đó: “vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội của họ” (Mt 1,25). 4. CÂU HỎI: 1) Người chăn chiên là hạng người nào trong xã hội Do Thái? 2) qua sự kiện các mục đồng nghèo khó được loan báo Tin Mừng trườc tiên, cho thấy tình thương cứu độ của Thiên Chúa như thế nào? 3) Lu-ca kể ra ba nhân vật trong gia đình thánh gia theo thứ tự tự nhiên, đang khi nếu xét về đức tin thì lẽ ra phải kể tên các Đấng theo thứ tự như thế nào mới hợp đức tin? 4) Cắt Bì là gì? Ai được chịu phép Cắt Bì? Được chịu khi nào và nhằm mục đích gì? 5) Tên Hài Nhi Giê-su do ai ra lệnh? Tên ấy nghĩa là gì? Theo Tin Mừng Mat-thêu (x Mt 1,21.25) ai được thiên thần ra lệnh phải đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su? Tên Giê-su có ý nghĩa thế nào? II SỐNG LỜI CHÚA: 1) LỜI CHÚA: Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là Mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,27) 2) CÂU CHUYỆN: MẸ MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG KẺ GẶP NGUY KHỐN Trưa ngày 12 tháng 10 năm 1972, một chiếc phi cơ chở 45 giáo viên và học sinh đi từ Mông-tê-viu đến Săng-chi-a-gô nước Chi-Lê thi đấu thể thao đã bị rớt khi băng qua dãy núi Ăng-đét và vỡ ra nhiều mảnh. Có 28 học sinh còn sống sót. Khi màn đêm buông xuống, 28 học sinh còn sống sót kia ngồi tụm lại bên nhau trong một khoang máy bay. Cũng may, trên phi cơ vẫn còn một số đồ ăn như thịt nguội, bánh mì và rượu vang... và một chiếc ra-đi-ô cát-xét. Nhờ chiếc ra-đi-ô này mà họ có thể theo dõi cuộc cứu hộ đang triển khai tại các quốc gia trong vùng. Sau tám ngày, họ nghe được các đoàn cứu hộ báo cáo không thể tìm ra chiếc máy bay gặp nạn và không hy vọng hành khách nào còn sống sót. Thế là các nạn nhân hiểu rằng: họ có còn sống hay không là do quyết tâm của chính họ. Ít ngày sau, thêm 12 người nữa theo nhau qua đời vì bệnh viêm màng phổi vì không chịu được giá rét khủng khiếp. Đoàn người còn lại 16 người. Bây giờ họ chỉ còn biết trông chờ phép lạ. Thế là cả 16 học sinh này quyết định họp nhau cầu nguyện vào mỗi tối. Vào khoảng 9 giờ tối, khi trăng bắt đầu mọc trên triền núi, thì mọi người ngồi quây quần đọc chung kinh Mân Côi. Giờ kinh được tiếp tục bằng lời cầu tự phát và các bài thánh ca. Cuối cùng kết thúc bằng kinh Hãy Nhớ để nài xin Mẹ Chúa Trời thương cứu giúp. Những buổi cầu nguyện như thế trở thành nguồn động lực lớn lao giúp các học sinh hy vọng sẽ được cứu thoát. Thấm thoát đã sang tuần lễ thứ tám. Thời tiết bắt đầu bớt băng giá. Hai cậu khỏe nhất trong bọn và có kinh nghiệm leo núi quyết định sẽ leo xuống núi cầu cứu. Cuộc hành trình của họ vô cùng khó khăn nguy hiểm. Cũng may họ tìm được một cuộn dây thừng bằng ny-lông và dùng làm dây an toàn để leo xuống vách núi đá trơn trượt. Chỉ cần bất cẩn một chút là cả hai sẽ lao xuống vực thẳm. Mọi người còn lại đều hợp ý cầu xin Mẹ Ma-ri-a nâng đỡ cho hai bạn được an toàn. Chín ngày sau, hai cậu đã xuống được đến một trạm kiểm soát ở dưới chân núi, và vài tiếng đồng hồ sau, đã có hai chiếc trực thăng cứu hộ xuất hiện trên đỉnh núi cao để cứu mười bốn học sinh còn lại. Nhờ sự thành tín kêu cầu Đức Ma-ri-a, mà các học sinh này đã sống được tới 70 ngày trên đỉnh núi cao giá lạnh, đang khi không ai trong các thân nhân của họ dám hy vọng họ còn sống và có ngày trở về nhà. Suốt 70 ngày gian khổ trên núi, 16 cậu học sinh này đã cảm nghiệm được rằng: Đức Ma-ri-a không những là Mẹ Thiên Chúa, mà Người còn là Mẹ của tất cả những ai thành tâm tin cậy cầu xin Ngài cầu bầu. 3. SUY NIỆM: - Đức Ma-ri-a Mẹ Chúa Giê-su và Mẹ của chúng ta: Thánh Phao-lô viết trong thư Ga-la-ta: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Như vậy, khi sinh hạ Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a cũng hạ sinh một nhân loại mới. Vì Người là Mẹ của Chúa Giê-su là đầu nhiệm thể, nên cũng là Mẹ của các tín hữu chúng ta. Hơn nữa, khi đứng dưới chân thập giá, Mẹ Ma-ri-a được Chúa Giê-su trối làm mẹ của Gio-an là đại diện của Hội Thánh, và sau đó Gioan đã rước Mẹ về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Thầy Giê-su (x. Ga 19,26-27). Cuối cùng, Mẹ Ma-ri-a còn là trạng sư cầu bầu đắc lực cho chúng ta trước tòa Chúa Giê-su là Đấng sẽ tái lâm để phán xét chung tòan nhân lọai vào ngày tận thế sau này. - Mẹ đã nêu gương sống đức tin cậy mến: Trong biến cố truyền tin Mẹ đã lắng nghe lời giải thích của sứ thần, tìm hiểu ý nghĩa trong sự đối thoại: “việc ấy sẽ xảy ra cách nào , vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1, 34). Nhờ đối thoại với sứ thần, Mẹ ngày càng khám phá ra mầu nhiệm Ngôi Lời Thiên Chúa xuống thế làm người, để cộng tác bằng việc cưu mang và hạ sinh Đấng Cứu Thế. Mẹ thể hiện niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa bằng thái độ lắng nghe và tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa sẽ được thực hiện như bà Ê-li-sa-bét đã khen ngợi (x Lc 1,45). Khi Chúa giáng sinh, Mẹ đã nghe lời ca khen của các thiên thần, các mục đồng, và các nhà thông thái tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu, Tin Mừng Luca đã ghi lại thái độ của Mẹ như sau: “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2.19.51). Trên núi Sọ, Mẹ đã tận mắt chứng kiến người con yêu chịu treo trên thập giá giữa hai người trộm cướp, lòng Mẹ nát tan như bị lưỡi đòng đâm thấu trái tim (x Lc 2,35). - Vai trò chuyển cầu của Đức Ma-ri-a: Trong tiệc cưới tại Ca-na, chính Mẹ Ma-ri-a đã phát hiện ra tiệc cưới sắp bị hết rượu. Mẹ không đợi đôi tân hôn phải kêu xin, nhưng đã mau mắn đến xin con mình là Đức Giê-su giúp cho đôi tân hôn và dạy các gia nhân phải vâng lời Đức Giê-su truyền. Nhờ sự chuyển cầu của Mẹ, mà dù chưa tới giờ hành động. Đức Giê-su vẫn làm cho nước lã biến thành rượu ngon, giúp cho đôi tân hôn khỏi bị mang tiếng trước mặt các thực khách (x. Ga 2,1-11). Ngày nay ở trên trời, Mẹ Ma-ri-a cũng tiếp tục chuyển cầu cho các đôi vợ chồng có lòng yêu mến tin cậy cầu xin, Mẹ sẽ giúp họ vượt qua những thử thách trong cuộc sống lứa đôi, và sẽ làm cho tình yêu của họ dù có bị lạt như nước lã sau nhiều năm sống chung, sẽ hóa nên nồng thắm như ngày mới cưới. Miễn là họ phải mời Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a vào hiện diện trong gia đình của họ. Cách trưng bày ảnh tượng của Chúa Giê-su và Đức Mẹ trên bàn thờ gia đình sẽ nói lên đức tin của các gia đình tín hữu chúng ta trưởng thành và sáng suốt đến mức độ nào. - Chúng tôi phải làm gì ?: Đức Ma-ri-a trở thành mẫu gương sống đức tin cậy mến cho các tín hữu chúng ta học tập noi gương về cách ứng xử trước các biến cố gặp phải trong cuộc sống đời thường. Nhờ năng đọc Lời Chúa, các tín hữu sẽ học nơi Mẹ Ma-ri-a “luôn ghi nhớ các sự việc ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Hãy năng tìm hiểu ý Chúa và mau mắn “Xin vâng”. Hãy năng dâng lời ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa hằng ngày trong lời kinh “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1,46). Hãy biết chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho những người thân và phục vụ những ai đang cần được trợ giúp như Mẹ đã ở lại ba tháng để phục vụ bà chi họ Ê-li-sa-bét cho tới ngày bà sinh con (x Lc 1,56). Hãy cùng Mẹ can đảm chia sẻ sự đau khổ với Chúa Giê-su trên cây thập giá, sẵn sàng chịu chết đi cho tội lỗi và được sống lại vinh quang với Người sau này. 4. THẢO LUẬN: 1) Môn đệ Gio-an đã rước Đức Ma-ri-a về nhà mình để phụng dưỡng. Còn chúng ta hôm nay phải làm gì để tỏ lòng hiếu kính đối với Mẹ Ma-ri-a và trở nên con cái ngoan ngoãn hiếu thảo của ngài? 2) Ngày nay khi gặp các gian nan thử thách, các đôi vợ chồng tín hữu cần làm gì để được Mẹ Thiên Chúa giúp đỡ? 5. NGUYỆN CẦU: - LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trần gian hôm nay đầy những thú vui hấp dẫn chúng con. Nhưng những đam mê ấy thường bất chính và chỉ mang lại hậu quả tai hại cho phần rồi đời đời của chúng con. Thiên đàng của thế gian là thứ thiên đàng giả tạo và bọt bèo chóng qua. Hôm nay chúng con xác tín rằng: chỉ Chúa mới là lẽ sống cuộc đời chúng con, là mặt trời công chính xua tan bóng đêm tội lỗi. - LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết luôn tìm kiếm Chúa, lắng nghe Lời Chúa và tìm thấy con đường phải đi. Xin cho chúng con mỗi ngày biết siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ trở nên những môn đệ trung tín, luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt mọi người, để họ thấy những việc lành chúng con làm mà ngợi khen Cha trên trời. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Âm vang thân thương ấy, chắc chắn không ai lại không gọi ít hơn một lần. Đó là âm vang, nở tối ngày trên môi miệng của những cháu bé. Hay dù với những người mất mẹ từ sớm, thì cũng không có nghĩa là âm vang đó đã bị thiếu vắng. Nó vẫn được gọi, nhưng là vào những lúc tối trời, những khi sầu buồn, đau khổ. Và với những người có niềm tin Công giáo, thì âm vang ấy lại còn vang lên nhiều hơn nữa, bởi âm vang ấy, không chỉ còn dành riêng để gọi người mẹ đã sinh ra mình, mà còn dùng để gọi một người mẹ mới, thân thương hơn, quyền phép hơn. Ai cũng biết đó là Mẹ Maria. Ngày 1/1 mỗi năm là ngày bắt đầu một năm mới. Giáo hội đã chọn ngày này, là ngày dành riêng cho Đức Maria, với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Ai cũng hiểu rằng: được gọi là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu. Thân xác Chúa, là do máu huyết của Mẹ, còn bản tính của Chúa Giêsu là bản tính Thiên Chúa, mà vì bản tính ấy, lại kết hợp với thân xác, làm thành Con Người Giêsu bằng xương bằng thịt, Con Người Giêsu chính là Thiên Chúa, cho nên, Mẹ cũng là Mẹ Thiên Chúa. Vả lại, chính Mẹ đã được Thiên Chúa dựng nên, chọn lựa để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ nhân loại. Chính từ khi Mẹ gật đầu xin vâng, nhờ trách nhiệm mà Chúa muốn Mẹ thi hành, đã làm cho Mẹ bước lên chức vị cao sang ấy. Thế là niềm vui òa vỡ. Mẹ nhận tước vị cao trọng ấy, không phải cho bản thân mình, mà cho cả nhân loại được nhờ. Được nhờ, bởi quyền uy mà Thiên Chúa trao cho Đức Mẹ, chúng ta có thể được lãnh. Mẹ ơi! Tiếng gọi tha thiết ấy, gọi lên giữa lúc mình bị tấn công, và bao vây bởi ma quỷ cám dỗ, chúng thổi và vẽ lên trong tâm trí chúng ta những hình ảnh vẩn đục dục tình. Thân xác ta thì yếu đuối. Hơn nữa chỉ muốn nội công ưng thuận. Gọi tên Mẹ đi! Một mình ta không chống lại được ma quỷ đâu, Mẹ sẽ dến và chiến đấu giúp ta. Mẹ ơi! Gọi Mẹ to lên, khẩn thiết hơn lên, khi vòng xoáy cuộc đời, phụ bạc của tình người, đẩy ta giữa phong ba chợ đời, làm ta bối rối, hoảng loạn, mù tối chẳng biết lối nào đi. Ngước lên và gọi tên Mẹ. Mẹ sẽ đến bên cạnh, và chỉ lối ta đi. Mẹ ơi! Gọi tên Mẹ đi nhé! Khi ta phân vân trước một quyết định quan trọng đời người. Đi cũng khó lùi càng khó hơn, loay hoay khốn khổ! Kia kìa, có một quyền uy rất lớn, uy tín cùng mình đối với Thiên Chúa toàn năng, Mẹ của bạn đó: Đức Maria, hãy gọi tên đi, Mẹ sẽ mỉm cười, cầm tay và chỉ lối bạn đi. Gợi ý suy niệm: 1- Bạn có yêu mến và cậy tin Mẹ nhiều không? 2- Khi gặp những cơn cám dỗ, bạn có thường kêu tên Mẹ, hay bạn tự đối đầu giải quyết?
Năm 2023 đã khởi đầu. Chúng ta đón năm mới với những vui mừng và âu lo. Vui mừng vì một 1/1-72
Năm 2023 đã khởi đầu. Chúng ta đón năm mới với những vui mừng và âu lo. Vui mừng vì một năm cũ đã qua, với hy vọng năm mới sẽ tốt lành. Âu lo vì tình hình thế giới rất ảm đạm trong mọi lãnh vực, nhất là lãnh vực kinh tế. Đâu đâu cũng nói tới lạm phát, thất nghiệp do hậu quả của dịch bệnh. Trong bối cảnh đầy lo âu này, chúng ta tin vào tình thương của Thiên Chúa, đồng thời chạy đến phó thác nơi Ngài, với xác tín Chúa sẽ chúc phúc cho chúng ta. Trong ngày đầu năm, chúng ta được nghe lời chỉ dẫn của Thiên Chúa, về công thức chúc lành cho dân. Đó là lời cầu nguyện xin Chúa dủ lòng thương, ghé mắt nhìn và ban bình an. Đây là lời cầu chúc đi đôi với lòng tín thác cậy trông Thiên Chúa sẽ ban muôn ơn phúc. Trong những giờ khắc đầu tiên của năm mới chúng ta cũng cầu xin Chúa tươi nét mặt nhìn đến cuộc sống đầy lo âu và bất ổn của chúng ta. Xin Ngài ban cho chúng ta một năm mới mạnh khoẻ, bình an, hạnh phúc và thánh thiện.
Hôm nay là ngày thứ tám sau lễ Giáng sinh. Phụng vụ trước Công đồng Vatican II gọi ngày này là “lễ đặt tên” dựa vào trình thuật của thánh Luca, kể lại việc Thánh Giuse và Đức Maria đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu. Việc đặt tên cho con trẻ mới sinh là một nghi thức trong truyền thống Do Thái giáo, tên đi liền với nghi thức cắt bì, theo luật ông Môisen. Với nghi thức này, trẻ sơ sinh đã thuộc trọn về Chúa và được giới thiệu với họ hàng làng xóm.
Vào ngày đầu năm dương lịch, Giáo Hội công giáo tôn vinh Đức Mẹ, với tước hiệu là “Mẹ Thiên Chúa”. Tước hiệu này đã được Công đồng Ephêsô tuyên tín long trọng vào năm 431, khi kết thúc công đồng bàn về thiên tính (hay còn gọi là thần tính) của Đức Giêsu. Đức Giêsu có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Là Thiên Chúa, Người là Đấng tạo dựng vũ trụ và Cứu độ nhân loại. Là Con Người, Người sinh bởi Đức Trinh nữ Maria. Đức Maria sinh hạ Chúa Giêsu về thể xác, và như thế, Mẹ là Mẹ của Con Đức Chúa Trời. Chúa Giêsu đồng bản thể với Đức Chúa Cha, nên Đức Maria xứng đáng được tôn vinh với tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”. Ngay từ thời Giáo Hội khai sinh, tước hiệu này đã được khẳng định. Thánh Phaolô đã viết trong thư gửi tín hữu Galát, được đọc trong Bài đọc II: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật”.
Trong mùa Giáng sinh, khi đến cầu nguyện bên Hang đá Máng cỏ, chúng ta được chiêm ngưỡng một khung cảnh rất an bình dung dị. Đó là khung cảnh gia đình. Trong Hang đá đơn sơ nghèo nàn, Đức Trinh nữ và Thánh Giuse trầm lắng suy tư tôn thờ Con Chúa làm người. Cầu nguyện bên Hang đá, trước hết chúng ta cảm nhận sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Thiên Chúa cao cả đã hoá thân làm người. Trẻ sơ sinh nằm trong Máng cỏ là Thiên Chúa, Đấng đã có từ trước muôn đời. Đây chính là sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Nếu ở khởi đầu lịch sử, ông Ađam và bà Evà đã muốn phủ nhận thân phận tạo vật của mình để lên ngang hàng với Thiên Chúa, thì nay Thiên Chúa lại tự nguyện từ bỏ ngai trời để mặc lấy thân nhận phàm nhân. Nếu xưa kia nguyên tổ kiêu căng muốn lên bằng Thiên Chúa, thì nay Thiên Chúa lại khiêm hạ muốn trở nên con người. Mầu nhiệm Nhập thể là sự trao đổi kỳ diệu: Thiên Chúa làm người để con người được trở nên con Thiên Chúa. Ngôi Lời đã làm người và ở với chúng ta. Thánh Giuse và Trinh nữ Maria thờ lạy Chúa Hài đồng trong sự thinh lặng cung kính.
Khung cảnh Hang đá cho chúng thấy bầu khí an bình. Nơi đây, trật tự giữa Thiên Chúa với tạo vật và với con người được tái thiết lập. Đó là trật tự ban đầu, khi Thiên Chúa sáng tạo mọi vật mọi loài. Trật tự ấy đã bị mất do tội lỗi của con người. Ngày đầu năm cũng là ngày thế giới cầu nguyện cho hoà bình. Hoà bình là niềm ước vọng của nhân loại ở mọi thời đại. Tuy vậy, con người lại thường xuyên mâu thuẫn với chính mình. Một đàng cầu nguyện cho hoà bình, đàng khác lại không ngừng gây hấn và xung đột. Từ 10 tháng nay, cuộc chiến bùng nổ tại Ucraina và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Biết bao người vô tội đã đổ máu, biết bao công trình văn hoá, tôn giáo đã bị phá huỷ. Thế giới hôm nay ngạc nhiên vì trong một xã hội hiện đại mà con người đối xử với nhau như thời hoang dã. Ngoài cuộc chiến tranh tại Ucraina, còn biết bao cuộc xung đột và bạo lực ở các cấp độ khác nhau: gia đình, cộng đoàn, xã hội. Điều đó cho thấy, chỉ cầu nguyện cho hoà bình thôi thì không đủ. Cần phải nỗ lực hành động trong sự tôn trọng người khác và lòng khiêm tốn chân thành. “Tâm bình thế giới bình”, chỉ khi nào con người cảm nhận được bình an nội tâm thì mới có khả năng cộng tác thiết lập hoà bình trong cuộc sống. Hãy đón nhận Đức Giêsu Kitô, Hoàng tử hoà bình, Đấng đến để thiết lập mối tương quan hài hoà giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau. Những ai chuyên tâm thực thi giáo huấn của Người sẽ tìm thấy bình an thanh thản trong tâm hồn và trong cuộc sống.
Các mục đồng tại Belem năm xưa, sau khi được chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu, trở về vui mừng kể lại những gì đã mắt thấy tai nghe. Những người chăn chiên đơn sơ nghèo nàn ấy đã là những nhà truyền giáo đầu tiên, kể lại câu chuyện Đức Giêsu cho mọi người đương thời. Chứng từ của họ đầy sức thuyết phục, vì họ kể lại trong tâm tình hân hoan và với lời ca tụng Thiên Chúa. “Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa” – đó là lời ca quen thuộc, phác hoạ lời cầu nguyện của Thánh Phanxicô thành Asidi. Người Kitô hữu, khi mừng lễ Giáng sinh, cần phải gặp được Chúa, nhờ đó mới có thể kể cho người khác về những kinh nghiệm thiêng liêng và đem cho họ sự an bình.
“Nguyện xin Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em!”. Đó là lời cầu nguyện của chúng ta và cũng là lời chúc phúc của Thiên Chúa. Giữa những trăn trở ưu tư của cuộc sống, hãy cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”. Liền sau lời khẳng định này, Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta: nếu những người cha trần thế còn tốt lành đối với con cái mình, thì huống chi là Cha trên trời. Ngài luôn lắng nghe, thấu hiểu và ban cho chúng ta những điều tốt nhất theo ý Ngài (x. Lc 11,9-13). Xin Chúa cho chúng ta một năm mới bình an, hạnh phúc, thành đạt và vững vàng trong Đức tin.
“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Lời kinh đơn sơ nhưng đượm tình yêu mến cậy trông. Xin cho lời kinh ấy vang lên hằng ngày nơi môi miệng tín hữu chúng ta. Xin Mẹ là Nữ Vương bình an chúc phúc cho toàn thể thế giới. Amen.
Hạnh phúc hơn hết là những mục tử đang canh thức trong vùng đó. Họ từng vào số những người trông đợi Đấng Cứu Thế và từng hay nói đến Chúa. Nghèo hèn, chất phác, đạo hạnh và chăm chỉ với bổn phận, họ đáng là những người đầu tiên được gọi đến chiêm ngắm Ngôi Lời Nhập Thể. Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel mặc hình người rạng ngời ánh sáng, hiện ra với họ. Thoạt tiên, họ kinh hoàng sợ hãi, nhưng thiên thần trấn an họ và bảo: “Đừng sợ, các bạn; tôi đến báo tin cho các bạn một tin mừng sẽ làm các bạn tràn đầy hoan hỉ. Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các bạn trong thành Đavít. Các bạn sẽ gặp thấy Chúa được bọc trong khăn và nằm trong một máng cỏ.” Sứ thần vừa nói xong, thì bỗng dưng có vô số thiên thần khác đến hát lên lại một lần nữa khúc ca mới: “Sáng danh Thiên Chúa trên các tầng trời cao thẳm, và hoà bình cho những người có lòng ngay lành dưới đất.” Lúc đó vào khoảng canh tư, tức một giờ khuya. Đầy tràn hoan lạc và mến yêu, các mục tử lập tức ra đi đến hang đá lúc còn tinh mơ. Họ nhìn nhận ra ngay Hài Nhi Thiên Chúa dưới gương mặt lộng lẫy và ánh mắt hiền từ. Chúa tăng thêm thánh đức cho họ và soi sáng mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Vì thế, họ hết lòng sùng mộ sấp mình trước nhan Chúa, thờ lạy Chúa là Thiên-Chúa-làm-Người. Mẹ Maria lưu tâm đến tất cả những việc họ làm, và thấu hiểu tâm tình họ. Mẹ hiền từ chỉ dẫn cho họ và thúc giục họ bền vững phụng sự Thiên Chúa. Phần họ, nói cho Mẹ biết nhiều chi tiết về việc sứ thần báo tin mầu nhiệm cho họ. Mẹ suy niệm trong lòng tất cả những việc lạ lùng đó. Sau khi đãi các mục tử hảo tâm ấy một bữa ăn thanh đạm, Mẹ để họ ra về khoảng giữa trưa. Lòng Mẹ ngập đầy an ủi. Họ cũng còn đến viếng bái Hài Nhi Thiên Chúa, Mẹ Maria và Thánh Giuse mấy lần nữa. Dâng cho các ngài một ít tặng vật hợp với cảnh nghèo của họ. Nhưng họ không nói cho ai biết những ơn họ được. Mãi khi Thánh Gia đã đi khỏi rồi, họ mới tiết lộ. ( Văn Hải dịch, Maria Agrêđa, Thần Đô Huyền Nhiệm ). Bà Đáng Kính Maria Agrêđa được Đức Mẹ Maria ưu ái mặc khải riêng về cuộc đời Mẹ, đã tường thuật lại trong tác phẩm Thần Đô Huyền Nhiệm. Trích đoạn trên gần giống và chi tiết hơn trong Tin Mừng theo Thánh Luca ( x. Lc 2, 16-21 ). Hôm nay, Giáo Hội long trọng mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đức Vua Hoà Bình, vào ngày Tân Niên để gửi thông điệp hoà bình đến nhân loại. Con người vốn khao khát hoà bình, ngay từ khi Ađam Và Evà phạm tội kiêu căng, bất kính, phụ bạc Thiên Chúa. Nay Mẹ Maria khiêm hạ, thờ kính, biết ơn, cảm tạ, ca tụng Thiên Chúa, đã góp phần hoá giải sự phân ly. Qua Mẹ, Chúa Hài Đồng, Vua Hoà Bình, đem lại hoà giải giữa Thiên Chúa với nhân loại, đem bình an cho tâm hồn mỗi người, đem hoà hợp đến con người với nhau và với các thụ tạo. Còn những mục đồng đơn sơ, tầm thường, xoàng xĩnh, sống ở ngoại ô Bêlem, thành Vua Đavít, lại là những người đầu tiên được vinh hạnh mời gọi đến chiêm bái Hài Nhi Emmanuel. Tiếng Gọi Những mục đồng nghèo hèn, chất phác, đạo hạnh và chăm chỉ với bổn phận, tuy say giấc nồng sau ngày cật lực, vất vả chăn chiên, lại rất tỉnh thức, sẵn sàng thức dậy, lắng nghe sứ thần báo tin vui giữa đêm khuya giá lạnh. Có lẽ vì họ chẳng được chăn êm, nệm ấm trong những căn phòng sang trọng, tiện nghi, cách âm, cách nhiệt, nên mới nghe được lời mời gọi, và mới thấy được ánh sáng vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh sứ thần. Có lẽ họ cũng chẳng say mê quyền cao chức trọng, cũng chẳng ham hố trọng phú khinh bần, nên mới được chiêm ngưỡng muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần, cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa. Lạ lùng thay, biết bao dân thành Bêlem chẳng hề nghe, hay chẳng nhìn thấy sự lạ trọng đại đang xảy đến, mà chỉ có các mục đồng hèn kém, lại được mời gọi làm chứng nhân Đấng Cứu Thế nhập thể. Người muốn tỉnh thức con người thoát khỏi vòng kiểm toả vật chất, tiền của, để tự do hướng lòng về Nước Trời. “Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức !” ( Lc 12, 37 ). Những mục đồng từng vào số những người trông đợi Đấng Cứu Thế và từng hay nói đến Chúa, nên đã dọn mình sẵn sàng đón tiếp Chúa đến thế gian. Hơn nữa, Chúa cũng chỉ ngự đến những tâm hồn nghèo khó, nhân ái, khiêm nhường và vâng phục, phó thác, như Mẹ Maria và thánh cả Giuse. “Con đừng lấy làm lạ, lúc theo Chúa con nghe tiếng gọi của khoái lạc, của danh vọng, của cả bản thân, cha mẹ, quyến rũ con bỏ đường Chúa. Cứ tiến lên, Chúa đã nói trước: “Ai cầm cày còn ngoảnh mặt lui, không đáng làm môn đệ Ta.” ( Đường Hy Vọng, số 71 ). Vâng phục Không chần chừ, lưỡng lự, nghi ngại, cũng chẳng nề hà sương sa gió lạnh khuya khoắt, các mục đồng mau mắn ra đi, theo như lời sứ thần báo tin. “Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ.” Một niềm tin vững chãi, một hành động dứt khoát, vâng phục, tựa như Mẹ Maria đã thân thưa ngay hai tiếng “Xin Vâng, ” khi nghe sứ thần báo tin được làm Mẹ Thiên Chúa. Vâng phục theo Thánh Ý Chúa là hoàn toàn khước từ ý riêng, từ bỏ mình, mà dấn thân, phó thác. Sẵn sàng phiêu lưu theo Chúa dẫn dắt, hướng dẫn. Hoa trái của vâng phục của họ là được vinh dự chiêm bái Chúa Hài Đồng. Họ nhìn nhận ra ngay Hài Nhi Thiên Chúa dưới gương mặt lộng lẫy và ánh mắt hiền từ. Chúa tăng thêm thánh đức cho họ và soi sáng mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Tâm hồn họ liền tràn đầy hoan lạc, hạnh phúc và bình an, vì được chính Chúa Hài Đồng chúc phúc. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Thần trí họ được khai sáng ngất ngây vì biến cố vô tiền khoáng hậu. “Vâng lời trọng hơn của lễ”, vì của lễ là hoa quả, hương trầm, súc vật, tiền bạc… Khi vâng lời, con lấy chính mình con làm của lễ, giết chết ý riêng của con, tự ái của con, làm của lễ toàn thiêu.” ( Đường Hy Vọng, số 406 ). Cầu nguyện Các mục đồng không ngại làm chứng cho mầu nhiệm Giáng Sinh, công khai loan báo cho mọi người gần xa. Những chứng nhân bình dân đầu tiên hăng say, nhiệt thành làm thiên hạ kinh ngạc, bối rối. “Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.” Không những loan truyền, họ còn lớn tiếng ngợi khen, ca tụng Đấng Cứu Thế cao cả, kỳ diệu, lại khiêm nhường chọn hang đá bò lừa để sinh hạ. “Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.” Ánh sáng Hài Nhi đã biến đổi, canh tân, thánh hoá họ, khiến họ sống tâm tình cầu nguyện thấm đẫm lửa mến, cùng một tâm hồn bình an, hoà hợp, thân tình với mọi người. Riêng Mẹ Maria thì âm thầm cầu nguyện, suy gẫm những kỳ công của Thiên Chúa đã ban cho Mẹ, cũng như cho toàn thể nhân loại Đấng Cứu Thế, mà bao đời mong chờ. “Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng.” “Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con nối liền, kết hợp với Thiên Chúa. Bóng điện sáng nhờ nối liền với máy phát điện." ( Đường Hy Vọng, số 120 ). Lạy Chúa Giêsu, Vua Hoà Bình, ngay đầu Năm Mới, xin Chúa thức tỉnh chúng con khỏi cơn mê thế gian, đang ru ngủ chúng con trong văn hoá sự chết. Xin Chúa rộng rãi chiếu giãi Lòng Thương Xót cho chúng con tỉnh ngộ, mau mắn trở về với Chúa, như xưa các mục đồng đã biết vội vã đến chiêm bái Chúa Hài Đồng. Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa giáng trần, xin dạy chúng con biết thưa “Fiat – Xin Vâng”, quyết tâm từ bỏ mình, từ bỏ thế gian và những cám dỗ phù phiếm, trung kiên trọn đời theo Chúa. Nhân bước vào Năm Mới, xin Mẹ cầu bầu, khuyến khích, nâng đỡ chúng con cố gắng từ bỏ một nết xấu, một thói hư, hay một đam mê trần tục nào đó để cụ thể hoá việc canh tân, đổi mới, xứng đáng đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Amen.
Tám ngày sau Lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu Chúa chúng ta, Hội Thánh mời gọi con cái mình cử hành lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa với tất cả lòng kính trọng và biết ơn, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta. Đức Maria Mẹ của Lòng Thương Xót Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa không ? Vì nếu Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, thì chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Thiên Chúa ? [ ... ] Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, có hồn có xác. Thánh Công Đồng Nicêa dạy, chính Con duy nhất của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và tất cả tồn tại trong Người, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể, làm người, chịu chết, đã sống lại, và Người sẽ lại đến trong vinh quan để phán xét; Công đồng tuyên phán: chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, giống Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi sánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha… Nên Đức Maria vừa được gọi là Mẹ Chúa Kitô, và Mẹ Thiên Chúa nữa. Đức Maria đã được các Giáo Phụ ca ngợi, đặc biệt là Thánh Ambrôsiô thành Milan ( thế kỷ IV ) khi nói: “Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ”. Thánh Ignatiô thành Antiokia ( + 110 ) là người đầu tiên nên tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”. Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã gán cho Đức Maria tước hiệu là “Mẹ Thiên Chúa”, tuyên dương Mẹ là “Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể ”. Như Thánh Grégoire de Nazianze ( 330 – 390 ) đã viết: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”. Vì thế, trong bối cảnh của Năm Thánh Lòng Thương Xót, nếu Chúa Giêsu là Lòng Thương Xót của Chúa Cha, sinh bởi Đức Maria, thì chúng ta cũng có thể gọi mà không sợ sai lầm rằng: Đức Maria là Mẹ của Lòng Thương Xót. Ngày cầu cho hòa bình Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cử hành Lễ Đức Maria rất Thánh, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Lòng Thương Xót với niềm hân hoan vui vẻ, và cầu nguyện cho thế giới được hòa bình. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành lễ Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình ( Is 9, 5 ) sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Hòa Bình đích thực của chúng ta ! Để cầu chúc cho nhau, chúng ta mượn lời sách Dân Số: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” ( x. Ds 6, 26 ). Còn món quà nào cao quý hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Hoà bình là món quà Thiên Chúa ủy thác cho con người. Vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại ( Ga 3, 16 ). Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo thương xót của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria, đến đem bình an cho nhân thế. Thế giới hiện nay, con người ngày càng trở nên vô cảm, không dấn thân và khép kín. Hòa bình bị đe dọa bởi sự thờ ơ trên mọi bình diện của cuộc sống. Con người bị đầu độc bởi các chủ nghĩa tiêu thụ và khoái lạc, bởi sự giàu có và sa hoa, bởi thói tự cao tự đại, con người thường quá tàn nhẫn với nhau, loại trừ nhau bằng nhiều cách Vì muốn mang đến cho nhân loại tình yêu, bình an và hạnh phúc. Thiên Chúa tự trở nên Hài Nhi bé bỏng, giống một em bé sơ sinh. Chính trong sự nhỏ bé, thơ ngây, khiêm nhường và tha thứ ấy, Thiên Chúa đã biểu lộ sức mạnh vô biên. Đó là sức mạnh của Lòng Thương Xót. Lòng Thương Xót sinh ra được bọc trong khăn vải, đặt nằm trong máng cỏ, với ánh mắt ngây thơ, tâm hồn trong trắng, đang giang rộng vòng tay, ở giữa các mục đồng và đoàn súc vật, một khung cảnh hòa bình. Cho thấy con người sống hài hoà với Thiên Chúa, với thiên nhiên vạn vật và với nhau. Mang đến cho nhân loại một kỷ nguyên hòa bình. Lòng Thương Xót là phương thuốc chữa lành vết thương. Là nhịp cầu xây dựng tình người. Là phương án cho thế giới mới bạo lực, chiến tranh và khủng bố. Lòng Thương Xót nhập thể mang lại cho thế giới sự bình an bất tận. Quả thật, sẽ không có hoà bình nếu không có công lý, và sẽ không có hoà bình nếu không có sự tha thứ. Để xây dựng một thế giới hòa bình, chúng ta phải đánh bại sự thờ ơ: đó là vun trồng nền văn hóa liên đới và lòng thương xót. Vì thế, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi cộng đồng quốc tế thực hiện tình huynh đệ cả bên trong gia đình các quốc gia gồm ba điểm: thứ nhất, đừng lôi cuốn các dân tộc khác vào các xung khắc hay chiến tranh; thứ hai, xoá bỏ nợ nần quốc tế cho các nước nghèo hơn và tạo thuận tiện cho một việc quản trị có thể chịu đựng nổi; và thứ ba, áp dụng các đường lối chính trị cộng tác tôn trọng các giá trị của các dân tộc địa phương, và không làm tổn hại quyền của các trẻ em được sinh vào cuộc sống ( x. Sứ điệp Hòa Bình 2016 ). Các Kitô hữu cũng được mời gọi kiến tạo hòa bình bằng cách, khiến cho tình yêu, sự cảm thông, lòng thương xót và tình liên đới biến thành một chương trình đích thật của cuộc sống, một kiểu hành xử trong các tương quan với nhau, nghĩa là thương xót như Thiên Chúa Cha, cải thiện môi trường sống, bắt đầu từ gia đình mình, hàng xóm đến nơi làm việc của mình ( x. Lc 6, 36 ). Lạy Chúa Giêsu, Hoàng Tử Bình An ban cho thế giới được hòa bình và hòa hợp giữa các dân tộc. Nữ Vương Bình An, cầu cho chúng con. Amen.
Hòa bình luôn đối lập với chiến tranh. Hòa bình là trạng thái không có chiến tranh, người ta không dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp trong các mối quan hệ giữa các quốc gia, các dân tộc, các nhóm chính trị xã hội. Trong xã hội có nhiều chính đảng, hòa bình cũng được mô tả bởi mối quan hệ giữa các đảng phái luôn biết tôn trọng lẫn nhau và thực hành theo công lý. Tuy nhiên, hòa bình vẫn thường không liên tục, luôn bị gián đoạn bởi các cuộc chiến tranh – dù nóng hoặc lạnh. Nhà bác học Albert Einstein ( 1879-1955 ) phân tích: “Không thể gìn giữ hòa bình bằng bạo lực, hòa bình chỉ chó thể đạt được bằng sự thông hiểu lẫn nhau”. Văn hào Victor Hugo ( 1802-1885 ) xác định: “Hòa bình là đức hạnh của nhân loại, chiến tranh là tội ác của nhân loại”. Trong bài thánh ca “Nữ Vương Hòa Bình”, cố nhạc sĩ Hải Linh tung hô Đức Mẹ: “Kính mừng Nữ Vương, Nữ Vương Hòa Bình, Nữ Vương Hòa Bình. Đây bao tâm hồn thao thức, dân con Nước Việt nô nức…” Lời ca tụng thật đẹp và được lồng trong giai điệu êm đềm mà vẫn thánh thót, chậm rãi mà vẫn thấy lòng rộn ràng. Ngày 1 tháng 1 là ngày rất đặc biệt đối với thế giới, cả đạo và đời, vì đó là ngày khởi đầu năm mới. Với người Âu Tây, đó là ngày Tết; với quốc tế, đó là ngày Hòa bình Thế giới; với người Công giáo, đó là ngày lễ Mẹ Thiên Chúa – và Giáo Hội cũng mời gọi mọi người cùng tha thiết cầu cho thế giới được hưởng nền hòa bình đích thực. Hòa bình luôn cần thiết trong cuộc sống, riêng hoặc chung, mọi nơi, mọi lúc và mọi thời. Chúng ta mới vừa mừng Lễ Giáng Sinh để tôn vinh Con Thiên Chúa, liền sau đó lại tiếp tục mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để tôn vinh Đức Maria. Giáo Hội tạo một nối kết tuyệt vời để đề cao Thánh Tình Mẫu Tử. Không biết Thiên Chúa có “tiền định” hay không mà các ngôn ngữ đều mở miệng gọi Mẹ bằng một phụ âm với âm bật là mẫu tự M. Thật lạ, cách gọi người sinh ra mình là Mẹ hoặc Má ( tiếng Việt ), Mỵ ( Tiếng dân tộc J'rai, Tây Nguyên Việt Nam ), Mả ( Mama, tiếng Hoa ), Mother ( Mom, Mum – tiếng Anh ), Mère ( Maman – tiếng Pháp ), Mutter ( Mumie – tiếng Đức ), Madre ( Mamá – tiếng Tây Ban Nha ), Madre ( Mamma – tiếng Ý ), Moeder ( Mummie – tiếng Hà Lan ),… Nhưng khi gọi Cha thì các nước không dùng chung âm mở đầu, mỗi nước mỗi khác. Phải chăng đây là “đặc cách” mà Thiên Chúa đã dành cho Đức Mẹ, Mẹ của những người Mẹ, và tất cả những phụ nữ làm Mẹ ? Nói đến mẹ thì luôn liên quan con. Tình Mẫu Tử có gì đó rất kỳ diệu, hầu như chúng ta không thể hiểu hết. Dù người con tật nguyền, không đẹp, thậm chí là hư hỏng, phản bội, nhưng vì “nước mắt luôn chảy xuôi” nên người Mẹ vẫn sẵn sàng tha thứ và vẫn yêu thương hết lòng. Thậm chí có đứa con phạm pháp và bị án tử, nhưng người mẹ vẫn một mực kêu xin giảm án. Người bàng quan có thể trách người Mẹ là nhu nhược, là sợ sệt, nhưng ai đã làm Mẹ mới khả dĩ hiểu thấu. Thế mới là Tình Mẫu Tử đích thực – trong đó Tình Phụ Tử đích thực cũng được “hiểu ngầm”. Không thể chỉ kính trọng Tình Mẹ mà “coi nhẹ” Tình Cha, vì người Mẹ khởi đầu cho con về cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; người Cha khởi đầu về ý chí, niềm tin và sức mạnh. Truyện kể rằng có một loài chim đặc biệt rất thương con đến quên cả bản thân mình. Khi không có mồi cho con ăn, loài chim này lấy chính thịt mình để cho con ăn. Loài vật còn như vậy huống chi con người – loại sinh vật cao cấp nhất. Xin được mở ngoặc: Giữa năm 1974, khi Đức Giám Mục Giuse Lê Văn Ấn ( Giám Mục tiên khởi của Giáo Phận Xuân Lộc ) qua đời, loài chim “lấy thịt mình nuôi con” kia đã đậu trên đỉnh nóc Nhà Thờ Chính Tòa Xuân Lộc từ khi ngài qua đời đến lúc an táng xong. Người ta cho đó là “dấu lạ” vì hợp với khẩu hiệu Giám Mục của Đức Giám Mục Ấn là “Hãy Giết Mà Ăn” ( * ). Sách Dân Số cho biết rằng Đức Chúa đã phán với ông Môsê thế này: “Hãy nói với Aharon và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ítraen, anh chị em hãy nói thế này: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh chị em ! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em ! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em ! Chúc như thế là đặt con cái Ítraen dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta sẽ chúc lành cho chúng” ( Ds 6, 22-27 ). Kinh Thánh luôn rõ ràng và chính xác – từng câu, từng dấu chấm, từng dấu phẩy. Lời Chúa phán có nghĩa là những người làm cha làm mẹ cũng phải thực hiện như vậy – và tất nhiên những “người lớn” có trách nhiệm chăm sóc những “người “nhỏ” cũng phải thực hiện cách tương tự. Cha Mẹ sửa dạy con cái hoặc người trên có sửa dạy người dưới thì phải sửa dạy bằng lòng nhân từ, bằng tình yêu thương, bằng lòng thương xót. Nói về Tình Mẹ, người ta có thể nhớ ngay đến ca khúc Lòng Mẹ, một ca khúc bất hủ của cố nhạc sĩ Y Vân, viết về chính người Mẹ của ông: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào. Lòng mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào. Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng mẹ yêu…” Giai điệu đơn giản mà có hồn, ca từ đẹp và nhẹ nhàng như chất nữ tính dịu dàng của người Mẹ vậy. Còn thi sĩ Hồ Dzếnh lại có mơ ước khác người: Kiếp sau xin lại làm người Để nghe non nước vọng lời mẹ ru Được làm người là niềm hạnh phúc lớn, được nghe lời ru của Mẹ cũng là một niềm vui sướng. Gà con được núp dưới cánh gà mẹ thì không còn sợ diều hâu. Con ở bên Mẹ thì không chỉ an toàn mà còn hạnh phúc, bình an cả tinh thần và thể lý, vì Mẹ là “lá chắn thần đồng” của con. Gà mẹ xòe cánh Để đánh diều hâu Ngọt ngào tình mẹ Thương con dạt dào Một em bé đã hãnh diện minh định: “Mẹ là người tốt nhất”. Em bé này thật may mắn vì em rất hạnh phúc khi có được người Mẹ “số dzách”. Bất kỳ ai sống an toàn dưới “đôi cánh” của Mẹ thì đều được an tâm, được tận hưởng nền hòa bình thực sự. Tình mẹ yêu thương Biển trời lai láng Bên mẹ nép cánh Con sống an vui Thế giới luôn xảy ra những biến cố, hầu như hàng ngày, do đó thế giới luôn khao khát nền hòa bình đích thực để mọi người được an tâm vui sống. Thế giới thiếu hòa bình vì người ta còn tranh giành quyền lợi, địa vị, vật chất,... biết bao dạng Tham-Sân-Si khác nữa. Người Kitô giáo thiếu bình an tâm hồn vì còn hướng chiều tội lỗi, vẫn tranh giành quyền lực, coi trọng cái danh lợi. Người ta muốn được phục vụ chứ không muốn phục vụ theo tinh thần Đức Kitô, muốn sáng danh con chứ chưa thực sự muốn sáng danh Thiên Chúa. “Cái tôi” dù đáng ghét ( như Pascal diễn tả ) nhưng “nó” vẫn trỗi dậy bất kỳ lúc nào khiến cho tính ích kỷ “lớn” hơn tình người, lòng vị tha, luôn muốn chứng tỏ “đẳng cấp” của mình, muốn được Thiên Chúa xót thương nhưng lại không muốn thể hiện Lòng Chúa Thương Xót. Hãy nhớ rằng Chúa rất ghét “những người giả hình” ( x. Mt 23, 1-12 ). Thiếu Tình Chúa và vắng Tình Mẹ thì chắc chắn không thể có hòa bình. Muốn tận hưởng hòa bình thì phải có công lý, đồng thời phải cầu nguyện: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết Ơn Cứu Độ của Ngài” ( Tv 67, 2-3 ). Đức Kitô đã từng xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” ( Ga 15, 5 ). Thánh Vịnh 67 cho biết thêm: “Thiên Chúa cai trị toàn cầu theo lẽ công minh, Ngài cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này” ( Tv 67, 5 ). Ký thác đường đời cho Chúa cũng là tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót. Đó là cách thể hiện đức tin sống động. Còn đời người chỉ là “cát bụi”, chẳng đáng chi cả ! Thế gian ngắn ngủi – nơi sinh ký Thiên quốc vĩnh hằng – chốn tử quy Chân nhận như vậy để khả dĩ chấp nhận bản chất yếu đuối của kiếp người. Con Chúa giáng sinh làm người là dấu hiệu “báo động đỏ” của thời cánh chung. Thật vậy, “khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” ( Gl 4, 4-5 ). Không chỉ vậy, để chứng thực chúng ta là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng chúng ta mà kêu lên: “Abba, Cha ơi !” ( Gl 4, 6 ). Vì thế, chúng ta “không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” ( Gl 4, 7 ). Cách lý giải của Thánh Phaolô rất lôgích. Người ta có thể nhẫn tâm từ bỏ chính con ruột của mình, thế mà Thiên Chúa lại nhận nghịch tử làm con yêu. Nghịch tử đó là ai ? Là chính mỗi chúng ta chứ chẳng ai xa lạ. Chúa quá “ngược đời”, nhưng đó lại là điều kỳ diệu và tuyệt vời vô cùng ! Chúng ta chỉ là những “tử tội khốn kiếp” mà lại được nhận làm con cái. Còn hạnh phúc nào hơn nữa ? Đó vừa là điều kỳ diệu vừa là “ẩn số” của tình Cha, nghĩa Mẹ. Cha mẹ chúng ta là phàm nhân mà chúng ta còn chưa hiểu nổi tình thương của họ dành cho chúng ta thì chúng ta chẳng bao giờ hiểu được Lòng Chúa Thương Xót. Hang đá là cảnh gia đình hạnh phúc, dù đó là cảnh nhà “nghèo nhất thế gian”. Trong “cảnh nghèo” đó có cả Tình Mẹ và Tình Cha. Những người đến thăm “gia đình nghèo” này cũng lại là những người “nghèo rớt mồng tơi”: Các mục đồng. Thánh Luca kể rằng sau khi các mục đồng được thiên sứ báo tin, “họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” ( Lc 2, 16 ). Các mục đồng có phước vì đã vui vẻ ghé thăm “tệ xá” của Thánh Gia. Còn ngày nay, người ta ( cả đời và đạo ) chỉ thích “thăm viếng” các biệt thự, các villa, các nhà cao cửa rộng, các đại gia, những người “thở ra tiền, cười ra bạc, khạc ra vàng, sàng ra đô-la”. Tất nhiên người ta cũng luôn có nhiều cách biện hộ tinh vi lắm: Vì, bởi, nếu,... Chúng ta phải học động thái ít nói và e ấp đầy nữ tính của Đức Maria. Tại sao ? Vì Đức Mẹ nghe mục đồng kể lại điều đã được nói về Hài Nhi, rồi Đức Mẹ “hằng ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” ( x. Lc 2, 17-19 ). Im lặng là sự khôn ngoan cao siêu. Kinh Thánh tường thuật: “Khi ra về, các mục đồng vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” ( x. Lc 2, 20 ). Họ nghèo mà hạnh phúc, họ hạnh phúc vì họ được trực tiếp gặp chính Vua Nghèo Giêsu, thế là họ bình an, nghĩa là họ được hưởng nền hòa bình đích thực. Đúng như ca đoàn thiên thần hát vang trong Đêm Giáng Sinh: Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho người lòng ngay ( Lc 2, 14 ) Chỉ có người lòng ngay mới là người được Chúa thương, chỉ có người thiện tâm mới được tận hưởng nền hòa bình chân chính đúng nghĩa. Người đó là ai ? Là người noi gương sống động của Thánh Nhi Giêsu, Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse. Thôn nữ Maria sinh Con Trẻ, bắt đầu thiên chức làm Thánh Mẫu của Thiên Chúa. Chỉ sau 8 ngày, đến lúc phải làm lễ cắt bì cho Con Trẻ theo luật Do Thái, Hài Nhi được đặt tên là Giêsu, tên mà sứ thần đã đặt cho Em Bé trước khi Em Bé được thụ thai trong lòng Mẹ. Bắt đầu có niềm hạnh phúc làm Mẹ thì cũng là lúc bắt đầu chuỗi ngày gian khổ, lo toan, thậm chí là đẫm nước mắt. Thế nhưng Đức Mẹ vẫn không một lời than thở, chỉ im lặng và hành động, đồng thời luôn trọn niềm tín thác vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa nhân từ. Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn “biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người” theo tinh thần của Thánh Phanxicô Assisi, luôn là “khí cụ bình an của Chúa”, biết bảo vệ công lý để có thể kiến tạo hòa bình đích thực, mọi nơi và mọi lúc. Lạy Thánh Mẫu Maria, Nữ Vương Hòa Bình, xin giúp chúng con biết “nói ít và làm nhiều” như Mẹ, để hàng ngày chúng con có thể vãn hồi hòa bình ngay từ trong gia đình, hội đoàn, giáo xứ, cộng đoàn, xã hội,... Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Nhi Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa hóa thành nhục thể để cứu độ chúng con. Amen. TRẦM THIÊN THU ( * ) Ai đó đã làm hai câu thơ độc đáo này: “Cây XUÂN nảy LỘC đầu Sáu Sáu, Quả ĐỨC thành NHÂN giữa Bảy Tư” – nghĩa là Giáo Phận Xuân Lộc được thành lập đầu năm 1966, Đức Cha Giuse Lê Văn Ấn qua đời giữa năm 1974.
Ngày đầu năm dương lịch, Phụng vụ tôn vinh Đức Trinh nữ Maria với tước hiệu “Mẹ Đức Chúa Trời”. Đây là danh xưng được tuyên tín tại Công đồng Êphêsô, năm 431. Các giáo phụ họp công đồng đã bàn luận, suy tư về thần tính của Đức Giêsu, để đi tới một định tín Người là Thiên Chúa thật và là người thật. Đức Maria, vì đã sinh ra Đức Giêsu, mà Đức Giêsu là Thiên Chúa, nên Mẹ cũng là Mẹ của Thiên Chúa. Đây là một trong bốn đặc ân mà Chúa ban cho Đức Mẹ.
Khi tôn vinh Đức Maria với tước hiệu cao quý là Mẹ Thiên Chúa, bài Tin Mừng lại giới thiệu với chúng ta một phụ nữ rất đơn sơ khiêm nhường hiện diện trong hang đá vào đêm Ngôi Lời hạ sinh. Theo lời chỉ dẫn của sứ thần, những người chăn chiên hối hả đến hang đá, và họ thấy bà Maria. Nơi hang đá, bà Maria cũng giống như biết bao người phụ nữ khác. Trinh nữ thành Nagiarét đơn sơ khiêm nhường, lại được Thiên Chúa chọn để là thân mẫu của Ngôi Lời nhập thể. Thánh Luca cho chúng ta thấy, Đức Mẹ vừa cưu mang Ngôi Lời bằng xương bằng thịt, vừa cưu mang Lời Chúa qua việc ghi nhớ và suy niệm mọi điều có liên quan đến cuộc đời của Đấng Cứu thế, từ khi Người sinh ra cho đến khi Người chịu chết trên thập giá.
Thiên Chúa đã chọn Đức Maria để cưu mang và nuôi dưỡng Con Một của Ngài. Mẹ Maria đã cộng tác với Chúa để trao tặng Đấng Cứu thế cho trần gian. Khi tuyên xưng “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”, chúng ta tuyên xưng Đức tin vào mầu nhiệm Nhập thể, là bằng chứng của tình thương Thiên Chúa Cha đối với nhân loại. Ngài đã yêu thương con người đến nỗi trao ban chính Con của mình cho thế gian, để rồi thế gian độc ác đã lên án tử cho Người như phường phản nghịch. Đức Mẹ vừa cưu mang Ngôi Lời, vừa đồng hành với Ngôi Lời trong mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng. Mẹ luôn hiện diện trong hành trình truyền giáo của Đức Giêsu, để chia sẻ những lo âu của con mình, khi Người bị chống đối và khước từ.
Khi tuyên xưng “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”, chúng ta thể hiện lòng cậy trông phó thác nơi lời cầu bầu hiền mẫu của Đức Mẹ. Phần thứ hai của kinh Kính mừng, là lời cầu nguyện của công đồng Êphêsô và nay đã trở thành lời cầu nguyện thân thuộc của các tín hữu. Với niềm tín thác cậy trông, chúng ta đến với Đức Mẹ để xin Mẹ che chở gìn giữ. Mỗi Kitô hữu là chi thể của thân thể huyền nhiệm Chúa Giêsu. Kitô hữu cũng là người mang danh Chúa Kitô và là những người em có Chúa Kitô là Anh Cả. Như thế, đương nhiên Đức Mẹ sẽ lo toan che chở những người em của Con mình. Nỗi lo của chúng ta cũng là nỗi lo của Đức Mẹ. Niềm vui của chúng ta cũng là niềm vui của Đức Mẹ. Vì vậy, chúng ta xin Đức Mẹ che chở chúng ta khi sống cũng như khi chết, trọn vẹn cả cuộc đời. Tác giả thư Galát khẳng định: người tín hữu là nghĩa tử của Thiên Chúa qua bí tích Thanh tẩy. Nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể thân thưa với Chúa: “Áp-ba”, nghĩa là: ”Cha ơi!”. Ý thức mình là nghĩa tử của Thiên Chúa và là em của Chúa Giêsu làm cho chúng ta trở nên gần gũi thân thiết với Mẹ của Người hơn, vì chúng ta không còn là nô lệ, nhưng là những người đồng thừa kế với Đức Giêsu (Bài đọc II).
Ngày đầu năm dương lịch, cũng là ngày thế giới cầu nguyện cho hòa bình. Chúng ta vừa mừng lễ Giáng sinh, chào đón Đức Giêsu là Hoàng Tử hòa bình. Người đã đến trần gian để lấp đầy khoảng cách giữa Thiên Chúa với con người, thiết lập mối dây hài hòa huynh đệ giữa con người với nhau. Hòa bình Chúa Giêsu đem đến trần gian, không chỉ là yên tiếng súng, nhưng còn là hòa bình trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những ai thiện chí xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Danh xưng này là một vinh dự lớn lao, vì đó cũng chính là danh xưng của Đức Giêsu. Như thế, những ai sống hòa bình và cổ võ hòa bình sẽ nên giống như Đức Giêsu. Đức Maria đã sinh ra Hoàng tử hòa bình, và Mẹ cũng là Nữ vương hòa bình. Đây là một danh hiệu các tín hữu dâng kính Đức Mẹ, đồng thời cũng là lời kêu cầu họ vẫn thường dâng lên để xin Mẹ gìn giữ trong ơn bình an. Đây cũng là lý do các họa sĩ luôn trình bày Đức Mẹ với tà áo khoác mầu thiên thanh, là mầu của bầu trời thanh bình. Màu này đã được gọi là “màu xanh Đức Mẹ”, vì nó tạo cho chúng ta cảm giác thư thái an lành.
Trong sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho hòa bình đầu năm 2017, tức là ngày hôm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi mọi tổ chức, mọi quốc gia và mọi cá nhân hãy cùng chung ta xóa bỏ bạo lực. Một thế giới hòa bình mà chúng ta mơ ước, là thế giới huynh đệ thân thiện. Bạo lực chỉ khắc thêm hận thù và làm cho bạo lực lại tiếp tục chồng chất. Đức Thánh Cha cũng mời gọi các Kitô hữu hãy khởi đi từ việc xây dựng hòa bình từ gia đình. Vì gia đình là nền tảng cho mọi định chế xã hội, là trường học đầu tiên dạy con người những đức tính căn bản để có thể chung sống hòa bình với tha nhân.
Ngày đầu năm, chúng ta thường chúc cho nhau những điều tốt lành. Nội dung Bài đọc thứ nhất là lời cầu chúc của ông Môisen, theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Lời cầu chúc hoàn hảo và ý nghĩa nhất, đó là lời cầu xin Chúa chúc lành và ghé mắt nhìn với tình thương mến. Ước chi đó cũng là lời cầu nguyện đầu năm của chúng ta, với tư cách là người tín hữu.
Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa kính Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Đất nước chúng ta đã thoát khỏi những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn còn có nhiệm vụ phải suy nghĩ về hoà bình. Bởi vì hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, những đổ vỡ về vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là hơi thở của mọi người trên thế giới. Vậy chúng ta đóng góp được gì? Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Ngài suy nghĩ về danh “Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau, để sống hòa thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình. Yêu hòa bình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. hòa bình đòi hỏi phải phấn đấu, phải đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình, nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong ngày cấu nguyện cho Hoà Bình Thế Giới hôm nay và cũng là ngày lễ kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà Bình ban cho bản thân chúng ta, cho gia đình chúng ta, cũng như cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới.
Tước hiệu Đức Maria Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo Hội. Đây là một tước hiệu xứng hợp ơn mọi tước hiệu khi nói về Đức Trinh Nữ Maria. Vào thế kỷ V, Nestôriô đã nổi lên chống đối tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Theo Nestôriô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ của Đức Giêsu Kitô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Một cuộc xung đột lớn đã xảy ra trong Giáo Hội xoay quanh việc Ngôi Hai nhập thể. Thế nên, vào năm 431, Hội Thánh đã triệu tập Công đồng Ephêsô dưới sự chủ toạ của thánh Cyrillô, các nghị phụ trong công đồng này đã tuyên bố cất chức Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của ông ta. Công đồng Ephêsô đã định tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì thực sự Mẹ đã sinh ra Con-Thiên-Chúa-làm-người. Bắt đầu từ công đồng Ephêsô tước hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa đã trở thành tước hiệu chính thức của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là tước hiệu trổi vượt trên mọi tước hiệu mà Giáo Hội đã ca tụng và tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria. Thánh công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Tín lý về Hội Thánh đã viết: “Từ những thời xa xưa, Đức Trinh Nữ đã được tôn kính dưới tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa, và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Người trong mọi cơn gian nan khốn khố”. Đức Giáo Hoàng Piô XI đã viết khi lập thánh lễ kính trọng thể Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa ngày 11.10 nhân dịp kỷ niệm 1500 năm công đồng Ephêsô vào năm 1931: “Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa”. Hôm nay, Giáo Hội dành ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho thế giới hoà bình trùng vào ngày kính trọng thể Đức Maria Mẹ Thiên Chúa như lời Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết trong tông huấn Marialis Cultus, khi người dời thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01.01 mỗi năm như sau: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng Giêng với ngày thứ tám sau lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày thế giới hoà bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hoà bình đã phát sinh trong lòng nhiều người”. Lạy Vua Hoà Bình mới sinh, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hoà Bình, xin ban cho nhân loại và mỗi người chúng con sự hoà bình đích thực và ơn an bình trong mỗi tâm hồn.
Đặt ra cho mình câu hỏi này, tôi không có ý đi vào cuộc tranh luận thần học hay tín lý đâu, đơn giản là vì tôi luôn bị ám ảnh bởi câu khảng định của Đức Giêsu khi có người lên tiếng ca ngợi địa vị dành cho con người nào được diễm phúc làm người mẹ sinh hạ và dưỡng nuôi Ngài: “Đúng ra phải nói rằng: phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:27-28). Và tôi vẫn thường tự hỏi: tại sao lắng nghe và tuân giữ Lời lại quan trọng hơn cả làm Mẹ Thiên Chúa? Hơn nữa có liên quan gì giữa hai điều này xem ra chẳng liên quan gì với nhau? Lời Chúa trong bài Tin Mừng mời gọi tôi trở lại chiêm ngắm cảnh hang Bê-lem, một cảnh tượng quá đơn sơ nhưng có điều gì đó cần phải được khám phá. Trong suốt những ngày này, Maria đã chẳng chỉ suy đi nghĩ lại trong lòng các điều đó là gì? “Đến nơi, các mục đồng gặp bà Maria, ông Giu-se, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Tôi nhận ra cái diễm phúc lớn hơn hết của con người được cái đặc ân cưu mang trong lòng dạ chín tháng, sinh hạ, rồi ôm ẵm trên tay, cho bú mớm và nuôi dưỡng Hài Nhị nhỏ bé này chính là được trở thành nhân vật gần gũi, được chạm tới, được chiêm ngắm trực diện hơn ai hết một Thiên Chúa làm người để cứu độ, một Thiên Chúa đang tỏ hiện lòng từ bi thương xót của Ngài cách quá cụ thể và độc đáo. Không trách gì mà Maria đã “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Phải chăng khi nói ‘nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa’, Đức Giêsu đã muốn ám chỉ điều này? Lời Thiên Chúa chắc hẳn không phải chỉ là một vài giáo điều luân lý hay một học thuyết cao siêu nào đó (như giới luật mến Chúa yêu người chẳng hạn), mà phải là điều mà, qua sự hiện diện trần thế trong hình hài một trẻ sơ sinh cũng như qua cái chết thập giá, Ngài đã và đang không ngừng nói lên: Thiên Chúa yêu thương con người! Rõ ràng là Maria đang ‘nghe’ điều này qua các diễn biến tuần tự xảy ra tại Bê-lem, và nghe cách chăm chú với tất cả cõi lòng của một phụ nữ làm mẹ, nghe với tất cả tâm trí của một nữ tì khiêm hạ, để khi có dịp sẽ cất lên thành bài ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa , Đấng cứu độ tôi… Người đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn…” (Lc 1:46-48) Và Maria cũng đang ‘tuân giữ’, qua việc đón nhận cách trọn vẹn và tham gia cách tích cực, việc Thiên Chúa tỏ hiện lòng thương xót cứu độ của Ngài. Đón nhận nào sâu xa và trọn vẹn cho bằng với trọn cả tâm trì và cõi lòng: tâm trí Maria đã nhảy mừng và lòng dạ Maria đã cưu mang; và có tham gia nào thực tế cho bằng người mẹ đã cưu mang để đem tình thương cứu độ đó trao ban lại cho toàn thể nhân loại? Maria đã làm được điều đó và làm cách xuất sắc hơn hết thảy mọi người trong tư thế một người mẹ. Đức Giêsu có lẽ đã ám chỉ điều này khi Người lên tiếng: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?... Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3:31-35). Được làm Mẹ Thiên Chúa sướng và hạnh phúc thật, nhưng với Giêsu và Maria, đó không phải là một địa vị, một đặc ân, nhưng là một tư thế trước Tin Mừng cứu độ. Và hình như Đức Giêsu cũng muốn mỗi người chúng ta tham gia vào cái ‘vinh dự’ đó thì phải, đơn giản là vì mỗi Kitô hữu đều phải có một tư thế của riêng của mình trước Tin Mừng cứu độ: mỗi người đều phải biết ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ của lòng thương xót theo cách thức của mình. Tôi biết dòng Salêdiêng Don Bosco có tham vọng muốn các hội viên của mình phải trở thành ‘dấu chỉ và người mang tình thương của Chúa đến cho các thanh thiếu niên’. Rõ ràng Tu Hội muốn họ trở thành ‘mẹ’ của các trẻ bị bỏ rơi, đồng thời cũng trở thành mẹ của Thiên Chúa nữa (theo định nghĩa ‘mẹ’ của Đức Giêsu). Có lẽ vì vậy mà nhà dòng muốn họ cùng Mẹ Phù Hộ đồng hành trên con đường ơn gọi chăng; không phải chỉ vì những trợ giúp đỡ nâng bên ngoài, nhưng nhất là trong nội dung của chính ơn gọi họ: cứu vớt các thanh thiếu niên. Và nếu tôi không lầm thì theo nội dung đó, Đức Giêsu còn muốn mọi Kitô hữu chúng ta, trong đó chắc chắn có cả tôi và bạn nữa, cùng trở thành ‘mẹ’ của Người. Phải chăng đó là ‘ý đồ’ của Người, khi trên thập giá Người đã trao phó nhân loại, qua đại diện là Gio-an, cho Maria và muốn chúng ta nhận người làm mẹ mình không? “Thưa bà, đây là con của bà… Đây là mẹ của anh!” (Ga 19:26-27) Lạy Mẹ Maria - Mẹ Thiên Chúa, xin hãy giúp con biết như Mẹ ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ đầy từ tâm. Xin cho con khi mừng kính Mẹ dưới danh hiệu cao đẹp này, cũng được tham gia vào nghĩa vụ trở thành ‘mẹ của Đức Kitô’ cho những ai chưa được biết tới tình yêu thương của Chúa. Và cũng xin cho con trung thành với ơn gọi Kitô hữu và Sa-lê-diêng của con trong tất cả chiều kích sâu sắc nhất của nó. Amen.
Mở lại những trang thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Galát ta bắt gặp tâm tình hết sức dễ thương của Ngài. Mở đầu thư, Thánh Phaolô khẳng định ngay: Tôi là Phaolô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng không phải nhờ một người nào, nhưng bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha, Đấng đã cho Người từ cõi chết trỗi dậy, tôi và mọi anh em đang ở với tôi, kính gửi các Hội Thánh miền Galát. Cuộc đời, ơn gọi Tông Đồ của Phaolô rõ ràng như ta thấy đó, không phải tự loài người hay do loài người nhưng là bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha. Rõ ràng, sinh ra bởi phàm nhân, bởi cha bởi mẹ của Ngài nhưng thánh Phaolô quả quyết như thế bởi vì ngài tin như thế. Và rồi, mở lại những trang Thánh Kinh Cựu Ước, ta không thể nào quên được hình ảnh của Ápraham - cha của những kẻ tin. Ta biết Ápraham có hai người con. Hai người con, một người được sinh ra bởi người mẹ là người nô lệ còn người kia là người tự do. Con của người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự nhiên; còn con của người mẹ tự do thì sinh ra nhờ lời hứa. Câu chuyện đó ngụ ý rằng: hai người đàn bà là hai giao ước. Giao ước thứ nhất tại núi Sinai, thì sinh ra nô lệ: đó là Haga. Haga chỉ núi Sinai trong miền Ảrập, và tương đương với Giêrusalem, thành này cùng với các con đều là nô lệ. Còn Giêrusalem thượng giới thì tự do: đó là mẹ chúng ta. Mẹ của lời hứa được Thiên Chúa tuyển chọn bởi tình thương của Ngài. Con của lời hứa mà Thiên Chúa trong Cựu Ước là là con của Giao Ước cũ. Giao Ước mới là Đấng Cứu Độ trần gian được sinh ra trong cung lòng của một trinh nữ có tên là Maria. Trong trình thuật tin mừng rất ngắn, Thánh Luca thuật lại cho ta rất chi tiết về người trinh nữ có tên là Maria đó: "Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ". (Lc 2, 16) Đích thị rằng Maria chính là Mẹ của Hài Nhi, Mẹ của Đấng Cứu Độ và cũng là Mẹ Thiên Chúa nhờ đặc ân mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Con của Mẹ là Thiên Chúa. Mẹ chỉ là Mẹ trong trật tự sản sinh nhân loại, nhưng Con mà Mẹ thụ thai và hạ sinh là Thiên Chúa, nên Mẹ phải được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Tín lý này đã được thánh Luca minh hoạ rõ ràng trong trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe.. Từ thế kỷ II đã được các thánh Giáo phụ Inhaxiô Antiokia, Irênêô, Cyrillô Alexandria, Augustinô, Epiphanô diễn giải sâu rộng để đối phó với lạc thuyết của các bè rối Gnosticism, Docetism. Thánh Gioan Tông đồ loan báo chứng thực rõ ràng rằng ngài đã từng mắt thấy, tai nghe và đụng chạm tới Chúa Giêsu là Ngôi Lời hằng sống đã xuất hiện. Trong khi đó các bè rối đó vẫn nói Chúa Giêsu chỉ là ảo tượng. Lạc thuyết này muốn phá đổ tự nền tảng công cuộc Cứu chuộc của Chúa Kitô. Vì thế, các Giáo phụ dựa trên tín lý phẩm chức Thiên mẫu của Mẹ Maria để phá tan lạc thuyết này rằng Đức Trinh Nữ không thể là Mẹ nếu không có Con. Và Người không có Con, nếu Chúa Giêsu chỉ là một bóng ma. Giáo phụ Tertulianô bác bỏ Marcion người lạc giáo: "Mục đích phủ nhận thân xác Chúa Kitô, ông chối bỏ việc Người sinh ra. Hay là để chối bỏ việc Người sinh ra, ông phủ nhận thân xác Chúa. Thân xác và sự đản sinh làm chứng lẫn nhau: Không có sự đản sinh thì cũng không có thân xác. Hoặc là không có thân xác thì không có sự đản sinh. Thế kỷ III và thế kỷ IV, các thánh Giáo phụ đều đồng thanh cao rao chúc tụng Mẹ Thiên Chúa. Năm 325, Công đồng Nicêa I lên án lạc giáo Ariô, đồng thời định tín Ngôi Lời đồng bản thể với Đức Chúa Cha, và đặt kinh Tin kính (gọi là kinh Tin kính Nicêa đọc trong thánh lễ). Tín điều này chứng minh Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, cùng với tín lý Mẹ Thiên Chúa của các thánh Giáo phụ sẽ mở đường cho tín điều Mẹ Thiên Chúa của Công đồng Ephêsô sau này. Công đồng Vatican II (1962-1965) dạy: "Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa ... Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô". Nhờ Giáo huấn của Giáo Hội và lời giảng dạy của các Thánh giáo phụ, các Thánh tiến sĩ và các nhà thần học, giáo dân trong khắp Giáo Hội mỗi ngày thêm vững tin tín điều Mẹ Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa là Mẹ của Lời Hứa, Mẹ của Giao Ước mới, Mẹ của Ơn Cứu Độ trần gian mà Thiên Chúa đã hứa, đã trao ban cho con người tự ngàn xưa qua miệng các ngôn sứ, cách riêng qua những khẳng định của các thánh, đặc biệt nơi các thánh tông đồ. Thánh Phao lô đã khẳng định với ta về Giao Ước mới: Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Không chỉ ở đây, trong nhiều đoạn thư, thánh Phaolô cũng đã khẳng định về ơn nghĩa tử mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô”. (Ep 1, 4-5) “Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc”. (Rm 8, 29. 29) Trước khi tạo thành vũ trụ, Cha đã tiền định cho chúng con làm “nghĩa tử”. Nhưng Cha không muốn chúng con chỉ hưởng quyền đồng thừa kế với Đức Giê-su (Rm 8, 17) mà còn muốn chúng con nên giống Cha (Ep 1, 4), nên đồng hình đồng dạng với Người Con Ruột của Cha (Rm 8, 29) "Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô. Để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu”. (Ep 1, 4-6) Ta thấy Thánh Gioan tông đồ cũng đã khẳng định về ân huệ làm con mà Thiên Chúa dành cho chúng ta: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”. (Ga 1, 12.13) “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biêt chúng ta, là vì thế gian đã không biêt Người. Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biêt rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. (1 Ga 3, 1-2). Trước khi có trời đất này Cha đã chọn ta để ta trở nên tinh tuyền thánh thiện. Trước khi ta có mặt trên hành tinh này, Cha đã tiền định cho ta làm con Cha. Cho nên không phải vì ta có công trạng gì mà Cha thương ta. Cha yêu ta chỉ do lòng nhân ái của Cha, chỉ do tình thương nhưng không của Cha, bởi vì Cha là tình yêu. Cha thương ta bởi vì ta ở trong người Con Chí Ái là Đức Kitô. Vì Cha thương ta mà ta trở thành quý giá trước mặt Cha. Ân huệ lớn nhất đời của ta phải chăng đó là được làm con của Mẹ Maria, là em của anh Hai Giêsu ? Theo Gioan, chúng ta được làm con em Chúa Giêsu, là con của Mẹ Maria thì ta phải tin (Ga 1, 12) và phải yêu (1 Ga 4, 7). Nhìn lại cuộc đời của Mẹ Maria ngày hôm nay mà ta tôn kính với đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Mẹ - như Giáo Hội cũng như các môn đệ đã xác tín - chúng ta lại thấy rằng cả cuộc đời của Mẹ vẫn gói ghém trong niềm tin và tình yêu với Thiên Chúa. Mẹ tin yêu Chúa bằng cả cuộc đời, bằng cả tấm lòng, bằng cả con người, bằng cả tâm hồn của mẹ. Trang Tin Mừng rất ngắn Thánh Luca điểm lại cho ta về Mẹ rất độc đáo, rất dễ thương và cũng rất đáng để ta suy nghĩ: còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Và, cả cuộc đời, Mẹ sống trong lắng đọng để Mẹ suy đi nghĩ lại tình yêu, lòng thương xót mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ để Mẹ được ơn là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Đấng Cứu Độ. Ngày hôm nay, Mừng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, ta lại được mời gọi nhìn lại đời ta. Ta được Thiên Chúa trao ban ân huệ làm con của Lời Hứa, của Đấng Cứu Độ trần gian và là em của anh Trưởng Giêsu. Mẹ Maria dù được là Mẹ Thiên Chúa đó nhưng Mẹ "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh". Mẹ Maria khiêm hạ, lắng đọng để tin yêu và phó thác cuộc đời trong tay Chúa dù Mẹ là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Ơn Cứu Độ. Chúng ta là nghĩa tử của anh Trưởng Giêsu, cũng là con của Mẹ Maria. Người ta vẫn thường nói: "Mẹ nào con nấy !". Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của ta đó luôn suy niệm Lời Chúa, suy niệm tình thương mà Thiên Chúa tuôn đổ trên Mẹ. Dù ai nói ngả nói nghiêng và thậm chí chà đạp, phỉ báng Mẹ, chê cười nhưng Mẹ vẫn lặng lẽ để suy đi nghĩ lại tình thương và ân huệ của Chúa dành cho Mẹ. Ta có suy đi nghĩ lại trong lòng ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta hay không ? Khi ta ồn ào náo động, khi ta hơn thua tranh giành, khi ta bấu víu vào thế gian cũng là khi ta không nhận ra Ơn Cứu Độ, không nhận ra Thiên Chúa là Chúa và là Chủ của cuộc đời ta. Khi ấy, ta cũng chẳng là con của Mẹ. Ta vẫn gọi Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, ta vẫn nói Mẹ là Mẹ của ta nhưng để lời gọi, lời nói, lời tuyên tín đó được trọn hảo, được thể hiện bằng cách ta sống tâm tình mà Mẹ đã sống đó là suy đi nghĩ lại ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta. Xin Mẹ thêm ơn cho ta để ta cũng biết sống giữa cuộc đời đầy bon chen, sóng gió này mà lòng vẫn bình tâm để lặng lẽ, để suy đi nghĩ lại ân huệ Chúa ban cho ta như Mẹ.
Một chàng thanh niên nọ có tính khoe khoang. Ngày kia sắm được một chiếc áo mới, từ sáng sớm anh ta đã mặc chiếc áo đó và đứng ở ngã ba đường. Kẻ qua, người lại rất đông, thế nhưng chẳng có ai chú ý đến và khen anh lấy một tiếng. Cuối cùng, có một người đàn ông đến gần anh và bảo: “Anh có thấy con bò của tôi bị lạc chạy qua đây không?" Được dịp có người hỏi đến mình, anh trả lời: “Tôi mặc chiếc áo này từ sáng đến giờ, mà chẳng thấy con bò nào chạy qua đây cả.” Thái độ trên đây của người thanh niên trái hẳn với thái độ của Đức Maria, như bài Tin mừng hôm nay thuật lại: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Đức Maria đã thinh lặng không chỉ lúc này, nhưng trong suốt cuộc đời Người. Được làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng chung quanh Người, chẳng có mấy ai biết đến tước hiệu này. Nếu vinh quang Thiên Chúa xuất hiện và các mục đồng không ngớt lời ngợi khen thì Người chỉ ghi nhớ và suy niệm trong lòng. Tại Cana, Người đã nhẹ nhàng báo cho Chúa Giêsu biết bữa tiệc không còn rượu nữa. Trong cuộc đời công khai của Chúa, Người đã âm thầm theo bước chân con. Và bên Thánh giá, trong nỗi đau đớn tột cùng, Người đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng của con. Có thể nói Người đã sống tâm tình của một nữ tì khiêm tốn, Người chỉ muốn được phục vụ trong âm thầm, còn vinh quang danh dự thì Người xin dành cho người khác. Trong một thế giới có quá nhiều tiếng động: tiếng động của bom đạn, của tranh chấp, của bạo lực, chúng ta hãy bắt chước thái độ thinh lặng và lắng nghe của Đức Maria, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được bình an trong tâm hồn và tạo được hoà khí trong tương quan với tha nhân. Cầu nguyện: Lạy Chúa Hài đồng Giêsu, Chúa có một người Mẹ thật tuyệt vời. Một người Mẹ cho Chúa dòng sữa, cho Chúa tình thương. Một người Mẹ đã nói lời xin vâng bằng cả cuộc đời dấn thân cho chương trình Thiên Chúa Cha được nên trọn. Một người Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa Cha và được mọi ân huệ lớn lao đến nỗi là người có phúc hơn mọi người nữ. Người Mẹ đó Chúa đã tặng ban cho nhân loại chúng con. Qua Môn đệ Gioan, Mẹ Maria đã nhận chúng con là con cái của mẹ. Mẹ đã đi vào trong từng cuộc đời chúng con. Mẹ vẫn đang đồng hành để chia sẻ buồn vui trong kiếp người chúng con. Chúng con xin cám ơn Chúa đã ban Mẹ Maria cho chúng con. Xin cho chúng con luôn chạy đến cùng Mẹ, luôn nương nhờ ơn phước của Mẹ, để nhờ Mẹ chúng con được đón nhận ơn lành của Chúa. Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người có phước hơn mọi người nữ vì mẹ luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Xin Mẹ dạy chúng con biết noi gương Mẹ để sống theo lời Chúa. Xin cho cuộc đời chúng con luôn được ướp mặn bằng những trang tin mừng, để chúng con hiểu được thánh ý Chúa trong từng biến cố cuộc đời. Xin cho các gia đình luôn biết siêng năng đọc lời Chúa và thực thi khởi đi từ chính gia đình chúng con. Xin Mẹ luôn viếng thăm gia đình chúng con để hàn gắn những đổ vỡ, bất hòa đang làm mất đi sự êm ấm của gia đình. Xin Mẹ luôn hiện diện để nâng đỡ gia đình chúng con khi gặp những bất hạnh, rủi ro. Xin vực dậy niềm tin nơi những ai đang thất vọng, giúp họ vượt qua những khó khăn trong niềm tin vào Chúa như Mẹ đã từng bước đi trong niềm tin tuyệt đối vào sự quan phòng Chúa. Lạy Mẹ Maria, hôm nay khởi đầu năm mới, chúng con xin phó dâng gia đình chúng con cho Mẹ, để nhờ lời cầu bầu của Mẹ, xin Chúa nâng đỡ những gia đình đang đổ vỡ. Biết bao nhiêu niềm tin đang bị đánh mất từ những người thân trong gia đình. Cha mẹ thiếu tin tưởng nhau. Con cái đánh mất niềm tin nơi cha mẹ. Vợ chồng bất trung với nhau. Bạn bè bất tín với nhau. Biết bao sự dữ đang tung hoành khắp nơi, khiến nhiều người rơi vào thất vọng, tủi hổ và đắng cay. Xin nhờ Mẹ chuyển cầu để tình thương Chúa gìn giữ các gia đình. Xin nhờ ơn phước của Mẹ ngõ hầu chúng con được nhận lãnh ơn lành của Chúa. Amen.
Tám ngày sau khi sinh, Chúa Giêsu được dâng vào đền thờ, chịu phép cắt bì và được đặt tên theo luật Do thái. Đối với người Do thái, tên là người. Vì thế việc đặt tên có ý nghĩa quan trọng. Giêsu có nghĩa là Thiên-Chúa-cứu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Con người không thể sinh ra Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa tự nguyện làm con loài người. Nhờ đó Đức Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Sinh ra Chúa Giêsu, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới để cứu nhân loại cũ do bà Evà sinh ra, đã hư hỏng vì tội lỗi. Đức Mẹ sinh ra nhân loại mới. Bà Evà sinh ra nhân loại cũ. Nhân loại cũ được sinh ra từ đất thấp. Thiên Chúa muốn nâng con người lên trời cao. Nhưng đất thấp lôi kéo con người chìm xuống. Vì thế con người đã từ địa vị con cái rơi xuống thân phận nô lệ. Trái lại, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới. Nhân loại mới sinh xuống từ trời cao. Chúa Giêsu là Adam mới, từ trời hạ mình xuống để nâng con người lên. Giải thoát khỏi tình trạng nô lệ. Phục hồi địa vị làm con Thiên Chúa. Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc. Bà Evà sinh con do lời chúc dữ. Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã tuyên án cho bà Evà: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con.” (St 3,16). Trái lại, Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc như lời Thiên sứ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng.” Và bà thánh Êlizabeth nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” (Lc 1,42). Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Bà Evà sinh con do xác thịt. Như lời Thiên Chúa nói: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi.” (St 1,16). Trái lại, Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Như lời Thiên thần truyền: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà... vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1,35). Nếu nhân loại cũ được sinh ra theo xác thịt thì nhân loại mới được sinh ra “không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,13). Đức Mẹ quảng đại sinh ra người con quên mình. Bà Evà ích kỷ sinh ra Cain là đứa con ham hố. Vì muốn chiếm vị trí trung tâm, nó đã đẩy em là Abel ra vùng ngoại vi. Loại trừ em. Giết chết em. Trái lại, Đức Mẹ quảng đại sinh ra một người con quên mình. Chúa Giêsu là người anh cả, từ bỏ vị trí trung tâm, đi ra vùng ngoại biên nghèo khổ. Người tự hiến mạng sống, để đưa chúng ta là đàn em trở lại vị trí trung tâm, trong cung lòng Thiên Chúa. Đức Mẹ mở lòng đón nhận sinh ra một thế giới huynh đệ. Bà Evà đóng kín vào bản thân, sinh ra những đứa con chia rẽ bất hoà. Tháp babel khiến cộng đồng nhân loại tan rã. Trái lại, Đức Mẹ mở lòng đón nhận, nên đã sinh ra Chúa Giêsu là nhân loại mới sống chan hòa tình huynh đệ. Đón tiếp mục đồng là những người nghèo khổ. Đón tiếp ba vua là những người xa lạ. Để tất cả trở thành anh em một nhà. Đức Mẹ vâng phục sinh người con hiếu thảo. Bà Evà phản loạn sinh ra những đứa con bất hiếu, chối bỏ Thiên Chúa là Cha. Trái lại, Đức Mẹ vâng phục nên đã sinh Chúa Giêsu là người con hiếu thảo. Nhờ luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu qui tụ người muôn nước sống hài hoà dưới mái nhà Cha chung trên trời. Và nhờ đó ta được hưởng hạnh phúc với Chúa như lời thư Galát: “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cùng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.” Ngày đầu năm ta mong ước những điều mới mẻ. Nhưng thế giới chỉ đổi mới khi có những con người mới. Điều quan trọng là bản thân ta đổi mới. Chính vì thế Giáo hội cầu bình an và đặt năm mới trong bàn tay Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Như xưa Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu, khởi đầu nhân loại mới, nay xin Mẹ cũng sinh lại chúng ta. Để chúng ta trở nên con người mới. Vượt thoát những tầm thường ti tiện của đất thấp, để được sinh lại thanh thoát từ trời cao. Thoát khỏi lời chúc dữ để được sinh lại tràn đầy ân sủng do lời chúc phúc. Thoát khỏi ràng buộc của xác thịt nặng nề để được sinh lại trong Thần Khí tự do. Con người mới theo khuôn mẫu Chúa Kitô sẽ biết quảng đại cho đi. Biết ra đi đến những miền ngoại biên, gặp gỡ những anh em bị loại trừ, đưa con người trở về vị trí trung tâm. Con người mới sẽ biết mở lòng đón nhận mọi anh em dù khác biệt. Xây dựng thế giới thành một gia đình thân thương, biến thế giới thành một mái nhà chung bình an hạnh phúc. Mọi người trở thành anh em con cùng một Cha trên trời. Như thế nhân loại được đặt trong bàn tay Thiên Chúa. Và thế giới được chúc phúc như lời Chúa hứa trong sách Dân Số: “Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.” Đó chính là nhân loại mới. Đó chính là trời mới đất mới. Đó chính là niềm bình an hạnh phúc ta mơ ước. Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Chúa sinh xuống trần để mở ra kỷ nguyên mới. Xin cho con biết sinh lại thành con người mới. Để góp phần xây dựng thế giới an bình hạnh phúc trong tình huynh đệ chân thành. Amen.
Giáo Hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm Dương lịch, cũng là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới như một nhắc nhớ việc chiêm ngưỡng Mẹ là một Tạo Vật mới tinh tuyền của Thiên Chúa, một Evà mới khởi đầu một thời đại mới, một tạo dựng mới. Kỷ nguyên cứu độ đã khởi sự qua việc Chúa Giêsu nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ sau lời xin vâng. Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để bắt đầu kỷ nguyên cứu độ. Nếu Evà cũ đã bất tuân để vùi lấp con người trong khổ đau và sự chết, thì Đức Mẹ với tâm tình xin vâng đã đưa Chúa Giêsu đến với nhân loại mang lại sự sống và tình yêu. Từ đây nhân loại sẽ bước đi trong ánh sáng cứu độ. Chúa Giêsu vị Vua Thái Bình, Hoàng Tử Bình An đã đi vào lòng thế giới, để thiết lập vương quốc Nước Trời qua Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người.” (Marialis Cultus, số 5).Chúa Giêsu được xưng tụng là Hoàng Tử Hòa Bình, đến chuộc tội nhân loại, giao hòa con người với Chúa Cha. Mẹ Maria luôn gắn bó, hợp tác, hiệp công với Con của mình nên đã trở nên Nữ Vương Hòa Bình cho toàn thế giới. Mẹ đã đóng góp cả cuộc đời mình cùng với Chúa Giêsu mà giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi.Chủ đề Sứ điệp Hòa Bình năm nay là “Không còn nô lệ nữa, nhưng chỉ còn tình huynh đệ với nhau”. ĐTC Phanxicô viết: “Việc quay trở về với Đức Kitô, bắt đầu một cuộc sống là người môn đệ trong Đức Kitô, làm nên một sự tái sinh (x. 2Cr 5,17; 1Pt 1,3) vốn tái tạo lại tình huynh đệ như là mối dây nền tảng của đời sống gia đình và đời sống xã hội” (Sứ điệp ngày Thế Giới Hòa Bình 2015). Đức Mẹ khuyên mọi tín hữu siêng năng lần hạt và coi chuỗi kinh Mân Côi như là phương tiện hun đúc hòa bình. Ngày 13 tháng 10 năm 1917 tại Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra để lại lời nhắn nhủ dưới hình thức của huấn lệnh là: cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ. Đây chính là lộ trình nên Thánh bao gồm ba bước tiếp theo nhau và chuỗi Mân Côi được đặt như là một nhịp cầu giữa một bờ là tội lỗi nhân loại và bờ bên kia chính là ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Cũng như việc lần hạt chuyên cần là một phương tiện hiệu quả giúp người ta đạt được hòa bình. Chính trong ý nghĩa này, kinh Mân Côi phải được gọi là Kinh của hòa bình. Ở đâu kinh Mân Côi được cổ võ thì ở đó cũng vang lên lời cầu nguyện tha thiết: “Nữ Vương ban sự bình an cầu cho chúng con”. Lễ Mẹ Thiên Chúa kết thúc tuần Bát Nhật Giáng Sinh làm tỏa sáng vẻ đẹp kỳ diệu của tình yêu cứu độ. Ngôi Hai đã vâng phục nhập thể cứu độ nhân loại. Với tiếng xin vâng, Đức Maria làm Mẹ Ngôi Lời nhập thể và làm Mẹ hết thảy những ai được tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Lạy Mẹ Maria Nữ Vương Hòa Bình, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Xin cho chúng con luôn biết noi gương Mẹ, gắn bó cùng Chúa trọn đời. Amen.
Thế giới đang sống có 7 kỳ quan thế giới. Mỗi kỳ quan đều toát lên vẻ đẹp, nét hùng vĩ và sự tuyệt tác của thiên nhiên. Ấy là những kỳ quan gắn liền với thế giới hữu hình. Người ta còn khám phá ra một kỳ quan trong thế giới vô hình, ấy là lòng mẹ: công đức trời bể, âm thầm, lặng lẽ, vất vả, lao nhọc nhưng toát lên một vai trò, vị trí vô cùng to lớn trong đời sống gia đình. Và người ta gọi đó là kỳ quan thứ 8 của thế giới này. Ngày hôm nay, khởi đầu của một năm mới, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm vai trò và sứ vụ của “kỳ quan thứ 8” của mọi kỳ quan này. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Một mẫu gương về ân phúc và sự mẫu mực trong đời sống hàng ngày. Phúc đức tại mẫu, văn hóa Việt nam chúng ta vẫn luôn đề cao vai trò của người mẹ trong gia đình. Tương lai của đứa con phụ thuộc rất nhiều vào sự giáo dưỡng của người mẹ. Sự chăm chỉ, thầm lặng, hy sinh vì gia đình của người phụ nữ trong đời sống hằng ngày, ấy là một ân phúc cho gia đình. Đức Maria hẳn phải là một ân phúc cho nhân loại chúng ta. Ân phúc vì Mẹ đã được diễm phúc, đặc ân cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa. Ân phúc vì Mẹ đã khiêm nhường, suy đi, ngẫm lại trước hồng ân cao cả này mà trong nhiều “biến cố”, Mẹ muốn như dừng bước, chối từ, thế nhưng Mẹ đã một đời Xin vâng, để đem ân phúc đến cho nhân loại chúng ta. Mẹ đã sống đẹp trong những trắc trở, tận tụy, âm thầm để cộng tác với Thiên Chúa hầu đưa đến cho con người chúng ta ân phúc tuyệt vời cao cả nhất đó chính là Đức Giê-su Ki-tô, Thái Tử Bình An, Đấng Hòa Bình cho nhân thế. Bên cạnh đó, Đức Maria còn là một mẫu gương trong sinh hoạt hàng ngày. Trong đời sống vật chất, gia đình Nagiaret vẫn được coi là biểu tượng của những gia đình nghèo. Thế nhưng, trong đời sống tinh thần, tổ ấm thánh gia vẫn được coi là biểu tượng của sự kính trên nhường dưới, đối nhân xử thế, khéo léo nhẹ nhàng với tương quan lối xóm. Trong những sinh hoạt đời thường đó, hẳn Mẹ Maria phải là một mẫu mực cho chồng cho con. Mẫu mực cho chồng vì Mẹ đã cũng phải gạt đi tự ái, quên đi “sự kiện” mà thánh Giuse muốn âm thầm bỏ đi. Mẫu mực cho con vì tình mẫu tử đã giúp mẹ vượt thắng những thử thách hằng ngày để cộng tác, xây dựng và làm cho Nước Chúa mau trị đến ngay cả “trước lúc khi sinh, trong khi sinh và thậm chí ngay cả sau khi sinh Ngôi Hai Thiên Chúa”. Vượt lên trên những trắc trở đó, Mẹ đã trở nên mẫu mực của sự tin tưởng, phó thác, một mực trung thành tuyệt đối với Thánh Ý Thiên Chúa. Ngày hôm nay, khởi đầu ngày mới của một năm mới, mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng vào lời chuyển cầu của Mẹ cho thế giới chúng ta đang sống luôn được Bình An. Chúng ta cũng không quên từng người mẹ thân yêu của chúng ta. Có thể nói họ cũng là những Maria trong đời sống hàng ngày cho gia đình. Xin cho những người mẹ cũng biết “suy đi ngẫm lại” và “hằng ghi nhớ” mọi giáo huấn của Chúa và Hội thánh để mỗi người mẹ xứng đáng là “ân phúc và mẫu gương” trong và cho gia đình. Amen.
Mẹ Thiên Chúa, đó là phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi đặc ân khác dành cho Mẹ. Công đồng Vaticano II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như sau: - “Không có gì lạ, nếu các giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là “Đầy ơn phườc” (Lc. 1,28). (GH.59). - “Được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ Trinh Vô nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài cách trọn vẹn hơn” (GH.59). - “Đức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm Mẹ... Thật vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu chuộc không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời... Vì thế trong Giáo hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian” (GH.62) Như vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc. Trong buổi Truyền Tin, chính sứ thần Gabriel đã quả quyết: “Người sẽ thụ thai và sinh con... trẻ sẽ sắp sinh sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1,31-35). Được Thánh Thần linh hứng, bà Elisabeth cũng đã lên tiếng: “Bởi đâu tôi được thế này, là mẹ Chúa tôi đến với tôi” (Lc1,43). Niềm tin vào chức phẩm cao quí là Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đã có từ đầu Giáo hội. Chính thánh Phaolô đã viết: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người Nữ” (Gl 4,4). Tiếp tục niềm tin đã có từ đầu, các tín hữu còn xác tín hơn nữa do biến cố dẫn tới những xác quyết chắc chắn của Công đồng chung Ephêsô (năm 413). Nestoriô khi ấy bác bỏ tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, ông chỉ chấp thuận Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, vì Ngài chỉ sinh ra xác thể Chúa Kitô thôi, chống lại lời rao giảng của Giám mục Nestoriô, khoảng hai trăm Giám mục đã họp tại Ephêsô ngày 22.6.431, dưới quyền chủ tọa của Thánh Cyrillô thành Alexandrioa. Công đồng này kết án Nestoriô và tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Toàn thể dân thành đã công khai bày tỏ niềm hân hoan trước thành quả này. Họ tổ chức rước đuốc để mừng các nghị phụ công đồng. Cũng từ công đồng này mà có phần sau của kinh Kính mừng: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”. Hợp với niềm hân hoan của dân Chúa dịp công đồng Êphêsô bế mạc, niềm tôn kính dâng lên Mẹ Thiên Chúa ngày một thêm sâu đậm. Vua Giuse Emmanuel nước Bồ Đáo Nha đã xin ông được đặc ân mừng lễ Mẹ Thiên Chúa. Thánh bộ nghi lễ đã ban bố sắc lệnh thiết lập ngày 22 tháng giêng năm 1751 và ấn định vào Chúa nhật đầu tháng năm. Từ đó nhiều nước cũng được hưởng đặc ân này. Năm 1931, dịp kỷ niệm 1500 năm, công đồng Ephêsô, Đ.G.H Piô XI đã lập lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, kính trọng thể trong khắp Giáo hội vào ngày 11 tháng 10. Chính Đức giáo hoàng Piô XI đã viết: - “Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa (Lux Veritatis 1931). Năm 1962, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã chọn lễ kính Mẹ Thiên Chúa làm ngày khai mạc công đồng Vaticanô II. Đức giáo hoàng Phaolô VI dời ngày lễ vào đầu năm dương lịch, việc dời ngày kính này vào ngày thế giới Hòa Bình, nhấn mạnh thêm ý nghĩa lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa hôm nay. Đức giáo hoàng Phaolô VI viết: - “Khi canh tân mùa Giáng sinh, mọi người phải chú ý đến việc tái lập lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vào ngày 1 tháng giêng, đúng phụng vụ Roma từ xưa, nhằm tôn kính việc Đức Maria góp phần vào mầu nhiệm cứu rỗi và tôn vinh địa vị đặc biệt, khiến cho “Mẹ rất thánh, đáng tiếp nhận Nguồn sống cho chúng tôi”. Lễ này cũng là dịp rất tốt để chúng ta tôn thờ Vua Hòa Bình mới sinh, và nghe lại lời chúc hoà bình của các thiên sứ (Lc 2,14), để cầu Chúa, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hòa Bình, ban cho ta ơn cao cả nhất là Hòa bình. Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 1 tháng giêng với ngày thứ tám giáp Lễ Giáng sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày thế giới hòa bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều Người” (ĐGH Phaolô VI. Marialis Cultus, số 5b)
Đêm 22.06.443 tại thành Êphêsô có một cuộc rước đuốc vĩ đại, đoàn rước muôn người như một vừa đi diễu hành vừa tung hô vang trời: “Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Tại sao có cuộc rước đuốc này? Là vì Nettôriô, giám mục giáo chủ thành Côntăngtinốp chối Đức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa, vì Đức Maria không sinh ra thần tính của Chúa Giêsu mà chỉ sinh ra nhân tính là một dụng cụ của thần tính, nghĩa là Đức Kitô chỉ là một người được phúc tiền định mặc lấy thiên tính, trở nên đền thờ của Ngôi Lời. Như vậy, Nettôriô đã phân tách Ngôi Lời ra khỏi Đức Kitô, và phân chia Ngôi Hai nhập thể thành hai ngôi vị riêng biệt, được lồng vào nhau, rồi ông chủ trương: chỉ nên gọi Đức Maria là Mẹ Đức Kitô chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa. Trước chủ trương của Nettôriô, Công đồng chung được triệu tập tại Êphêsô để giải quyết vấn đề. 160 nghị phụ là các giám mục của Ai Cập, Palestine, Tiểu á và đại diện của Rôma là thánh Xirilô chủ toạ. Sau một ngày hội họp và tranh luận, công đồng đã cách chức Nettôriô và tuyên bố chủ trương của ông là sai lầm, là lạc thuyết, đồng thời Công đồng chấp nhận bản dự thảo của thánh Xirilô và tuyên bố: Đức Kitô tuy có hai bản tính nhưng chỉ là một ngôi, cho nên Đức Maria là Mẹ Đức Kitô thì cũng là Mẹ Thiên Chúa, Công đồng khẳng định dứt khoát: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Sau khi Công đồng đã xác định tước hiệu này, các tín hữu phấn khởi vui mừng kéo nhau ra các đường phố vang lời ngợi khen Đức Mẹ, tung hô các nghị phụ và cầm đuốc sáng dẫn đưa các ngài về nhà. Đồng thời, để mừng kính và đánh dấu thành quả của Công đồng, kinh “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội” đã được sáng tác vào dịp này và được Đức Giáo Hoàng Xêléttin chấp nhận. Như vậy, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, là một tín điều, một chân lý đức tin. Để Đức Maria thực sự được gọi là Mẹ Thiên Chúa thì những điều kiện ắt có và đủ là: ngài phải thực sự sinh một người con, và người con này từ giây phút đầu hiện hữu làm người đã là Con Thiên Chúa hoặc Ngôi Lời, mà thực vậy, Đức Maria thực sự có đủ những điều kiện đó. Nói khác đi, Chúa Giêsu là người thật và cũng là Thiên Chúa thật, bởi thế, nếu Đức Maria là Mẹ thật của Chúa Giêsu, thì ngài cũng là Mẹ thật của Thiên Chúa. Như vậy, vì có mầu nhiệm Đức Kitô mà có mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa. Mầu nhiệm này gắn liền với Con Thiên Chúa làm người. Trong lịch sử Giáo Hội, chỉ sau khi xác định chân tướng Chúa Giêsu Kitô, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, Giáo Hội mới xác định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Nếu Chúa Kitô chỉ là Thiên Chúa thôi thì không làm gì có “Mẹ Thiên Chúa” như một “siêu Thiên Chúa”. Hay nếu Chúa Kitô chỉ là người thôi, cho dù là:siêu nhân” đi nữa, thì Đức Maria càng không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Cho nên, ngày nay chúng ta tuyên xưng đức tin mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa là bởi vì mầu nhiệm ấy gắn liền với mầu nhiệm nhập thể, như trong kinh Tin kính: “Ngài là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật… Ngài đã từ trời xuống thế bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Ngài đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người”. Chúng ta tin nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa chính là vì chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật: Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đức Maria sinh ra Chúa Giêsu, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu cao cả, một đặc ân tuyệt vời mà không ai dám nghĩ tới, kể cả chính Đức Mẹ. Mọi tước hiệu và các đặc ân khác được ban cho Đức Mẹ như vô nhiễm nguyên tội, đồng trinh trọn đời, hồn xác lên trời chỉ là những đòi hỏi bắt buộc phải có, hay là những hiệu quả tất nhiên của chức vụ Mẹ Thiên Chúa độc đáo này. Thánh Bônaventura đã nói: “Chức Mẹ Thiên Chúa là một ơn vĩ đại phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho loài thụ tạo. Ơn ấy Ngài đã ban cho Đức Maria”, “Thiên Chúa có thể mở rộng thêm bầu trời, có thể làm cho trái đất lớn thêm ra, có thể tạo dựng một thế giới vĩ đại hơn, nhưng Thiên Chúa không thể tạo dựng một người Mẹ Thiên Chúa cao sang hơn được nữa, vì muốn vậy phải có một Con Thiên Chúa cao trọng hơn nữa, điều đó không thể nào có được”. Thánh Tôma Tiến sĩ nói thêm: “Tước vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria cao trọng hầu như vô cùng, vì Thiên Chúa không thể cất nhắc ai lên bậc tốt lành và cao sang hơn nữa, chức mẹ Thiên Chúa hầu như đã tới biên giới vô cùng”. Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, Đức Mẹ có uy quyền đáng kính nể, đó là điều thông thường và dễ hiểu, bởi vì một người mẹ nào có con làm lớn và nhiều quyền, thì người mẹ đó cũng có nhiều uy quyền và được mọi người kính nể. Đàng khác, trên đời này chúng ta chỉ trông cậy người nào có thế và có lòng, vì có hai yếu tố đó họ sẽ giúp chúng ta đạt được những điều chúng ta mong muốn. Đức Maria có cả hai yếu tố đó và có một cách tuyệt vời. Đức Mẹ có thế, vì là Mẹ Thiên Chúa, chẳng có sự gì Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta mà không được. Đức Mẹ lại có lòng, tấm lòng của một bà mẹ, hoàn hảo hơn hết người mẹ. Vì thế, chúng ta hãy đến với Đức Mẹ và năng cầu xin mẹ cứu giúp. Hôm nay là ngày tân niên, ngày đầu của một năm mới, chúng ta hãy trao năm mới này, trao con người và cuộc đời chúng ta trong vòng tay từ mẫu của Mẹ, xin Mẹ ban bình an và cho chúng ta thêm tuổi thêm khôn ngoan, thêm nhân đức, thêm sự nghiệp đức tin trước mặt Thiên Chúa và mọi người.
Mỗi một người hiện hữu trên trần gian này, ai lại là người không có mẹ - cha, có điều là người mẹ đó tuyệt vời hay còn có nhiều khuyết điểm. Và nếu được quyền chọn lựa thì ai lại không muốn chọn cho mình một người mẹ tuyệt hảo, nhưng đây là điều ngoài tầm tay của con người. Còn Thiên Chúa thì sao? NGài có quyền tuyển chọn một người người mẹ tuyệt trần nhất để làm Mẹ Chúa cứu thế. Hôm nay ngày đầu năm, Giáo Hội đặt: lễ Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, sao Giáo Hội lại đặt lễ này vào ngày thứ nhất của năm mới để làm gì, nếu không phải là để mọi người và thế giới nhìn vào Đức Maria như là là sự bình an và niềm hy vọng; vì Mẹ đã đêm đến cho nhân loại ông Vua thái bình, mà chúng ta chiêm ngắm tuần trước trong đêm Giáng Sinh. Mẹ là kiểu mẫu của người sống đức tin. Vâng, Đức Maria là một tuyệt tác tuyệt diệu của Thiên Chúa; vì Thiên Chúa cần một người Mẹ như thế để làm Mẹ của Ngôi Hai Đấng cứu thế. Mẹ Maria mà chúng ta cùng với GH hôm nay mừng kính tước hiệu: Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, đó là phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mọi đặc ân khác Chúa đã dành cho Mẹ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, đó là một tín điều được công bố ngày 22- 6- 431 bởi công đồng Êphêsô, dưới quyền chủ tọa của thánh Cyrillô thành Alexandria, cũng từ Công Đồng này mà ta có phần sau của kinh kính mừng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”. Với tước hiệu Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, chắc không khỏi một số người thắc mắc: Thiên Chúa là Đấng quyền năng cao cả, tự hữu, không có ai cao cả hơn Thiên Chúa nữa, thế mà chúng ta lại nói: Đức Maria là mẹ Thiên Chúa, như vậy nghĩa là làm sao? Vâng, như tín lý dạy chúng ta rằng: Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu, xét về bản tính nhân loại thì Ngài lại hiện hữu trong thời gian qua việc Ngài được Đức Mẹ sinh ra. Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật, nên Đức Maria cũng được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta đừng sợ tước hiệu này xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả, vì Ngài đã chấp nhận giáng trần sinh bởi một người nữ để trở nên hoàn toàn như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, thì sao ta lại sợ xúc phạm đến Ngài khi bảo Ngài là con của Mẹ Maria? Ở đây ta có thể chưng ra một thí dụ na ná để chúng ta dễ hiểu: chẳng hạn, ta lấy hình ảnh tổng thống công giáo đầu tiên là ông Kennedy, tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Vào ngày 20-01- 1961, khi ông trở thành tổng thống thì trên phương diện điều hành đất nước, ông là người có chức quyền cao hơn tất cả mọi người dân Hoa Kỳ, kể cả cha mẹ, ông bà nội, ông bà ngoại nữa; thế mà trong mối tương quan máu mủ gia đình thì ông lại là con của ông bà Rose Kennedy. Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, được sinh ra bởi người mẹ, việc sinh nở này do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Và Chúa Giêsu mặc lấy hai bản tính; bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại, hai bản tính này kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong một con người là Đức Giêsu Kitô, mà Chúa Giêsu lại được chính Đức Maria sinh ra. Như vậy Đức Mẹ là mẹ đích thực của Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa và như thế Đức Mẹ cũng là Mẹ Thiên Chúa, như lời của Kinh Thánh ghi lại lời chào của sứ thần Gariel: “Kính chào bà đầy ơn phúc Thiên Chúa ở cùng bà”, rồi lại nữa: “Trẻ mà bà sinh ra được gọi là thánh, là con Thiên Chúa” (Lc 1, 31-35). Rồi trong thơ Galata thánh Phaolo viết: “Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người nữ”. ( Gl 4,4). Bài Tin Mừng của thánh Luca ghi lại: “Các mục đồng vội vã ra đi đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi họ trở về miệng tung hô ca ngợi Thiên Chúa” ( Lc 2,16.21). Mừng lễ Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội lấy ngày lễ này đặt vào ngày đầu năm, ý của Giáo Hội là mong muốn con cái mình đặt trót 365 ngày của năm mới này dưới sự che chở và nâng đỡ của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Ngày đầu năm, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, truyền thống này đã được Đức Giáo Hoàng Phaolo VI muốn, khi mừng lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm thì cũng cầu mong thế giới được hòa bình. Đức Maria là Mẹ của Hoàng Tử bình an nên chi, Giáo Hội nhìn lên Mẹ để cầu xin Mẹ mang Vị Vua Hoà Bình đến cho thế giới, cho mỗi người; nhất là gia đình và thế giới ngày hôm nay có qúa nhiều sự đe doạ, sống trong lo âu, sợ hãi. Cho nên, hơn bao giờ hết, gia đình và thế giới hôm nay cần phải chạy đến với Mẹ, để xin Mẹ mang Chúa của sự bình an đến cho loài người. Anh chị em thân mến, mỗi dịp Giáng Sinh về là dịp giúp chúng ta hơn nữa để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, đồng thời khi chúng ta chiêm ngắm Vị Vua Thái Hoà, thì bên cạnh Vị Vua đó là: Đức Maria, người mẹ nhân từ, hiền dịu, yêu thương. Như vậy, ngày đầu năm chúng ta đến đây để hợp tiếng ca mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ lòng tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Ước gì chúng ta chiêm ngưỡng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và cũng là Mẹ của chúng ta, lòng chúng ta phải luôn hân hoan vui mừng vì Thiên Chúa đã ban đặc ân này cho Mẹ. Mong sao, sau khi dâng thánh lễ, ra về, lòng mỗi người vui mừng phấn khởi như các mục đồng xưa, để loan báo tin mừng, tin vui nước trời đã thực hiện cho loài người nơi Thánh Tử Giêsu con yêu dấu của Mẹ Maria. Tin mừng, tin vui đó phải được thể hiện nơi mỗi người bằng sự niềm nở, vui tươi, tin tưởng, phó thác cuộc đời của mình theo chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa, như Đức Maria luôn tìm và vâng theo thánh ý Chúa, cho dẫu gặp những hoàn cảnh khó khăn, bi đác không thể hiểu được, nhưng Mẹ luôn tín thác vào Thiên Chúa và chương trình của Ngài, qua sự lắng nghe và xin vâng. Xin Mẹ Maria giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn suy gẫm lời Chúa như Mẹ, để lời của Chúa sinh hoa qủa dồi dào trong lòng mỗi người chúng con. Đặc biệt là ngày đầu năm này, chúng con cần phải có tâm tình như Mẹ, sống tin tưởng phó thác tất cả mọi sự cho chương trình của Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng con. Amen.
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Đây là một trong những hồng ân mà 1/1-88
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Đây là một trong những hồng ân mà Thiên Chúa dành cho Đức Maria, Mẹ của chúng ta.
1. Đây là việc của Thiên Chúa, là sáng kiến của Thiên Chúa chứ không phải do công nghiệp gì của Đức Mẹ,
- Ngay từ những trang đầu của sách Sáng Thế Ký: Thiên Chúa đã báo trước cho chúng ta thấy về hình ảnh của một người phụ nữ. "Ta sẽ gây một mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." (St 3,15)
- Trong Isaia 7,10-14 Giavê lại nói với Akhar lần nữa rằng: "Hãy xin với Giavê, Thiên Chúa của ngươi một dấu, sâu nơi đáy thẳm âm phủ hay là cao vời vợi bên trên" - Nhưng Akhar nói: “Tôi đâu dám xin thế, Tôi không muốn thử sức Chúa tôi". Ngài mới nói: "Hỡi nhà Đavid, hãy nghe đây. Phải chăng làm mệt người ta, các ngươi còn cho là quá ít hay sao, mà các ngươi lại còn muốn làm mệt cả Thiên Chúa nữa? Cho nên chính Ta là Đức Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này một cô nương sẽ thụ thai và sinh con và bà sẽ gọi tên Con là Emmanuel".
2. Tuy là sáng kiến của Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa lại muốn con người cộng tác với Người. Đức Maria đã được Thiên Chúa đoái thương đến.
Mẹ đã nói lên lời: "Xin vâng" và từ lời "Xin vâng" đó, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người và trở thành con-của-loài-người (Deus – Homo).
Đức Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu Thiên Chúa làm người cho nên Đức Mẹ trở thành Mẹ của Thiên Chúa.
Rồi trên cây Thánh Giá Chúa đã trối Đức Mẹ cho Thánh Gioan để Đức Mẹ trở thành Mẹ của cả loài người.
Cuộc đời có mẹ hạnh phúc lắm.
Tình thương của mẹ lạ lùng lắm
Luca Durtain có viết nên một huyền thoại này:
Một ngày đẹp trời nọ trên dương gian
Sứ thần Grabriel ngồi nhìn xuống quả địa cầu... Nét mặt ngài đang vui bỗng ngài chau mày lại. Ngài tự lẩm bẩm trong miệng:
- Thật là ghê tởm... Ghê tởm quá!
Vâng quả địa cầu đã trở nên ghê tởm, vì nó tràn ngập tội lỗi, chẳng khác gì thời ông Nôe.
Tên Grabriel có nghĩa là"cánh tay của Thiên Chúa". Ngài liền đến trước ngai vàng phủ phục trước tôn nhan Chúa và thưa:
- Lạy Chúa, xin cho phép con được mượn lưỡi gươm của đồng nghiệp Micae để gọt vỏ quả địa cầu đi, sâu chừng năm bảy dặm như người ta gọt vỏ một củ khoai. Như thế là có thể loại bỏ được hết mọi nhờm gớm nhân gian cho khỏi tôn nhan Chúa.
Chúa trả lời:
- Được lắm! Nhưng nhà ngươi nên nhớ: "Lưỡi gươm đã dùng trong vườn địa đàng ngày trước, bây giờ chỉ có quyền chém phá những gì có quyền chém phá thôi"
Được phép Chúa, sứ thần Grabriel vụt bay xuống trần gian, xăn tay áo, gọt quả địa cầu, bắt đầu từ Bắc cực đi tới...
Mọi sự đều cúi mình san sát trước lưỡi gươm thần. Không ai, không vật gì, từ tảng đá cứng rắn nhất cho đến những ngọn núi cao ngất trời... Tất cả đều cúi đầu vâng theo. Không ai, không có gì cưỡng lại được.
Nhưng rồi một hôm khi lưỡi gươm đi tới một ngôi làng nhỏ nằm ẩn khuất bên một sườn đồi, đột nhiên lưỡi gươm thần như đụng phải một vật gì cứng rắn lạ thường không thể nào đi qua nổi
- Có chuyện gì lạ ở đây chăng?
Và sực nhớ lại Lời Chúa đã dặn trước khi xuất hành, Grabriel xỏ gươm vào vỏ, hạ cánh tay xuống, bước vào trong ngôi nhà nhỏ kia xem có gì lạ chăng.
Ngài đã trông thấy gì ở trong đó?
Một chiếc nôi và bên cạnh một chiếc nôi ấy một người mẹ đang ngồi cặm cụi gọt vỏ khoai giống hệt như ngài đang gọt quả địa cầu.
Đó chính là chướng ngại ngăn cản gươm thần lại không cho đi tới.
Trước cảnh tượng ấy, Grabriel như đột nhiên tỉnh giấc mơ màng... Ngài vội vàng quì sấp mặt xuống đất, vòng hai tay lại:
- Phải rồi! Phải rồi! Hồi xửa hồi xưa đã có một lần ta phụng mệnh Thiên Chúa xuống trần gian, truyền tin hoan hỉ cho một thiếu phụ trong làng Nazareth, tại một căn nhà nhỏ hẹp giống như căn nhà này. Thật ta đang làm một việc hết sức là nông nổi ngông cuồng!
Sau đó Ngài ngẩng đầu lên và nói:
"Hỡi đồng nghiệp Micae, tôi xin hoàn trả lại ngài thanh gươm này. Tôi đã khám phá ra rằng: Ở trên quả địa cầu này ít nhất có hai tạo vật còn mạnh mẽ hơn cả gươm thần sắc bén của ngài. Đó là một đứa trẻ thơ và một bà mẹ hiền."
Vâng chính nhờ hai nhân vật ấy mà quả địa cầu mới đứng vững được cho đến ngày hôm nay.
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường. Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Đài truyền hình Al Arabiya cho hay cô bé Ghina Bou Hemdan, 9 tuổi, là một trong các thí sinh nhí tham 1/1-89
Đài truyền hình Al Arabiya cho hay cô bé Ghina Bou Hemdan, 9 tuổi, là một trong các thí sinh nhí tham gia vòng thử giọng của The Voice Kids, phiên bản Arab đầu tháng Một, 2016. Cô bé vừa cất tiếng hát đã chinh phục được nữ ca sĩ người Lebanon Nancy Ajram và khiến cô ngay lập tức bấm chuông để quay ghế lại. Tuy nhiên, chỉ vài giây sau, Hemdan bất ngờ nức nở rồi ôm mặt khóc. Nhận Tin Mừng “Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi Giêsu mới sinh nằm trong máng cỏ.” Với tâm tình chân thành, đơn sơ, chẳng mảy may cân nhắc, thắc mắc, nghi ngờ, trì hoãn, họ vui vẻ, thành thật, cung kính mở rộng lòng, đón nhận Tin Mừng. Trước đó, Mẹ Maria khiêm hạ, hoàn toàn sẵn sàng đón nhận Tin Mừng, khi nghe sứ thần Gabriel báo tin hồng ân. "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói" ( Lc 1, 38 ). Thoạt tiên, Mẹ thật sự bất ngờ, bối rối trước mầu nhiệm cao cả vĩ đại, là được vinh dự làm Mẹ Thiên Chúa! Mẹ đã nêu tấm gương sáng chói cho nhân loại. Mẹ bạo dạn tuyên xưng Đức Tin và hân hoan đón nhận Tin Mừng, mặc dầu Mẹ biết rằng, bao nhiêu đau khổ, khó khăn, vất vả, thách đố đang chờ đón bủa vây. Sống Tin Mừng “Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.” Không có gì sánh nổi hạnh phúc được chiêm ngắm Hài Nhi Emmanuel giáng thế. Thấy Chúa là đại phúc. Ở gần Chúa là hạnh ngộ. Gặp được Chúa là diễm phúc biến đổi cuộc đời, như Dakêu, như Mátthêu, như người đàn bà tội lỗi, đều được ơn tái sinh, như kẻ mù được sáng, như người phung được lành, như kẻ chết sống lại. Cuộc đời các mục đồng cũng được đổi mới, vì tràn ngập niềm an ủi, bình an và hoan hỷ, nên không ngớt cảm tạ, ca tụng Chúa giáng sinh. Mẹ Maria đã hoàn toàn bỏ mình, để sống theo Tin Mừng, ngay từ khi đón rước Hài Nhi với hai tiếng “Fiat”. Mẹ kiên trung trải bao gian khó, đồng hành với Đức Giêsu đến tận đồi Golgotha. Mẹ Maria đã toàn tâm, toàn ý sống cùng, sống vì, sống với Tin Mừng. Loan Tin Mừng “Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.” Những mục đồng hớn hở ra về, không chịu im lặng, giữ bí mật những điều chiêm ngưỡng, mắt thấy, tai nghe, mà trái lại, nhiệt thành đi loan báo Tin Mừng cho mọi người. Tất nhiên, còn có rất nhiều kẻ bé mọn khác, như nông dân, công nhân lân cận, cũng đều được diễm phúc đến kính bái Hài Nhi Emmanuel. Mẹ Maria nghe tin báo chị họ Elizabeth mang thai cách lạ lùng được sáu tháng, liền tất tả tìm đến chia sẻ Tin Mừng và Thần Khí. “Bà Elisabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được trần đầy Thánh Thần” ( Lc 1, 41 ). Ngay sau đó, Mẹ Maria vô cùng hoan hỷ, cung kính xướng lên bài Magnificat tuyệt diệu, cảm tạ, ngợi khen, tán dương hồng ân vĩ đại Chúa trao ban. Một diễm phúc vô song ban cho “phận nữ tỳ hèn mọn.” “Tình yêu Mẹ như làn gió mát, như hạt sương mai, làm tâm hồn quằn quại khao khát an bình, được êm dịu ủi an” ( Đường Hy Vọng, số 912 ). Lạy Đấng Emmanuel, Đức Chúa Ở Cùng nhân loại, xin thức tỉnh chúng con rằng, Chúa đang đích thân đến dẫn dắt chúng con thoát khỏi chốn tăm tối, đem vào ánh sáng chân lý, sự thật và sự sống, như xưa các mục đồng được thiên thần yêu thương báo tin. Khấn xin Mẹ Hoà Bình luôn cầu bầu, che chở, an ủi chúng con trong chốn lưu đầy gian nan, nguy khó này, để chúng con hằng được bình an, yên vui sống Năm Mới 2017 trong tay Chúa. Amen.
Giáng Sinh đang về khắp muôn lối. Noel gõ cửa từng nhà. Lung linh ánh đèn, rực rỡ sắc màu1/1-90
Giáng Sinh đang về khắp muôn lối. Noel gõ cửa từng nhà. Lung linh ánh đèn, rực rỡ sắc màu, nhộn nhịp thanh âm, chan hòa niềm vui. Nhạc Giáng Sinh rộn ràng ngân vang mùa bình an.
Nhạc sĩ Thông Vi Vu ( Gm. Giuse Vũ Duy Thống ) đã viết hơn 30 ca khúc kể chuyện Giáng Sinh. Những đêm nhạc “Réo Rắt Noel” – “Rộn Ràng Noel” – “Rộn Rã Noel”… đã được tổ chức đó đây vào Mùa Noel. Các đĩa nhạc “Réo Rắt Noel” – “Rộn Ràng Noel” đã được quần chúng đón nhận với tất cả lòng mến yêu ngưỡng mộ. Những ngày này, đi đâu cũng nghe âm vang những bài ca Giáng Sinh, khi cầu nguyện thiết tha, lúc réo rắt câu chuyện kể, khi rộn rã niềm vui. Tôi rất tâm đắc ca khúc “Người khách lạ”. Nhạc sĩ Thông Vi Vu đã dệt nhạc từ câu chuyện giàu ý nghĩa Giáo Lý và Lịch Sử Cứu Độ. Kể chuyện Thánh Kinh bằng ngôn ngữ âm nhạc là một cung cách chuyển tải Tin Mừng vào cuộc đời. Gần gũi dễ hiểu, ai cũng có thể nghe và hát ngâm nga bất cứ ở đâu và lúc nào. “Người khách lạ” là một ca khúc sâu lắng dệt trên âm giai rê thứ như lời tự sự về nỗi lòng của Eva. Giai điệu dìu dặt kể về gánh nặng Nguyên Tổ đã trở nên nhẹ nhàng khi “Người khách lạ” đến Máng Cỏ gặp Chúa Hài Nhi, dâng trao quả táo năm xưa thuở địa đàng. Một quả táo cám dỗ, đau khổ và sự chết tràn vào thế gian. Giờ đây dâng cho Hài Nhi, Đấng xóa tội thế trần, Eva hạnh phúc, đứng thẳng lên lòng ngập tràn niềm vui. “Người khách lạ” được phổ nhạc từ câu chuyện “Người Khách Cuối Cùng” của Jérôme và Jean Tharaud thuộc Hàn Lâm Viện Pháp ( Trích tuyển tập: Những mẩu chuyện Giáng Sinh của các tác giả lừng danh trên thế giới ). Câu chuyện xảy ra tại Bêlem vào lúc hừng đông. Ngôi sao vừa lặn, người hành hương cuối cùng đã rời chuồng bò, Người Trinh Nữ đã vun rơm lại, cuối cùng rồi Hài Nhi cũng sắp ngủ. Nhưng một đêm Giáng Sinh thì có ngủ được chăng ? … Cánh cửa nhè nhẹ hé ra, cứ như là do gió thổi hơn là do một bàn tay đẩy ra, một bà lão xuất hiện nơi ngưỡng cửa, ăn mặc rách rưới; bà già nua và nhăn nheo đến độ miệng bà giống như một lằn nhăn thêm vào bao nét chằng chịt trên gương mặt bà. Nhìn thấy bà, cô Maria hoảng sợ, như có một yêu tinh nào đó bước vào. May thay, Hài Nhi Giêsu vẫn ngủ ! Bò lừa nhai rơm trong bình yên và nhìn người lạ bước vào mà không hề ngạc nhiên gì, cứ như là chúng biết bà từ lâu lắm rồi. Trinh Nữ nhìn bà chằm chặp. Mỗi bước bà đi như kéo dài hàng thế kỷ. Bà lão tiếp tục bước đến, và giờ đây đã ở cạnh máng cỏ. Đội ơn Chúa, Hài Nhi Giêsu vẫn ngủ. Nhưng một đêm Giáng Sinh thì có ngủ được chăng ?… Bất giác, cậu mở mắt ra, và người mẹ nhận ra rằng mắt của người phụ nữ và mắt của con mình giống hệt nhau và long lanh cùng một niềm hy vọng. Thế rồi bà lão cúi mình xuống lớp rơm; bà đưa tay lục lọi trong bộ đồ rách bươm của mình một vật gì mà dường như hàng thế kỷ bà mới tìm ra. Cô Maria vẫn lo lắng dõi mắt nhìn theo. Mấy con thú cũng đưa mắt nhìn, nhưng vẫn không ngạc nhiên gì, cứ như là chúng biết trước chuyện gì sắp xảy ra. Cuối cùng, sau một thời gian thật lâu, bà lão rút ra từ lớp áo mình một vật bà giấu kín trong bàn tay và bà trao cho Hài Nhi. Sau những vàng bạc của Ba Vua và của lễ các mục đồng, giờ đây Chúa nhận được quà gì ? Từ nơi cô Maria đứng, cô không thể nhìn thấy món quà ấy. Cô chỉ thấy chiếc lưng vốn còng xuống vì tuổi tác càng còng thêm khi nghiêng mình bên nôi Hài Nhi. Bò lừa thì nhìn thấy, nhưng chúng cũng chẳng hề ngạc nhiên. Việc này cũng kéo dài lâu thật lâu. Rồi bà lão thẳng người lên, như thể đã trút được gánh thật nặng kéo gập người bà xuống sát đất. Lưng bà không còn còng nữa, đầu bà gần chạm đến mái tranh, gương mặt bà đã trở lại nét tươi trẻ. Khi bà rời chiếc nôi để đi về phía cửa rồi biến đi trong đêm tối, nơi bà đã đến, bấy giờ Maria mới nhìn thấy quà dâng của bà. Eva ( vì bà là bà Eva ) vừa trao cho Hài Nhi một quả táo, cái quả táo gây nên tội lỗi đầu tiên ( và kéo theo bao tội lỗi khác ! ). Và quả táo đỏ lấp lánh trên đôi tay của Hài Nhi như quả địa cầu vừa ra đời cùng lúc với cậu. Câu chuyện đã được chuyển thể âm nhạc thành bài ca tuyệt đẹp gợi những suy niệm về mầu nhiệm Giáng Sinh. Tin Mừng hôm nay Lc 2, 1-20, kể lại một câu chuyện tầm thường nhất nhưng cũng là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. 1. Một biến cố tầm thường nhất Một gia đình nghèo khổ không tìm ra chỗ trọ trong lữ quán. Số người Do Thái trở về Giêrusalem để làm sổ khai sinh quá đông. Hai ông bà Giuse, Maria không có tiền để vào khách sạn, vào các nhà nghỉ đắt tiền. Các quán trọ đã hết chỗ. Mùa tăng giá và bắt chẹt khách hàng. Tăng giá để loại trừ người nghèo. Ở đó không có chỗ trống cho tình người. Hai ông bà đành phải qua đêm ngoài đồng hoang tại Bêlem, trong một hang đá nơi dành riêng cho chiên bò nghỉ ngơi. Đêm đông hôm ấy trong cảnh sương tuyết giá lạnh, Maria đã hạ sinh một con trai. Bà đặt con trẻ trong máng cỏ. Bạn hữu thân nhân chẳng có ai. Chỉ có vài mục đồng đến thăm viếng. Sự kiện chỉ có thế. Thật đơn giản. 2. Một biến cố vĩ đại nhất Thế nhưng, em bé ra đời trong cảnh nghèo hèn đó lại là một vị Thiên Sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần, trước công nguyên và công nguyên, trước và sau ngày giáng sinh của Ngài. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía. Thiên Chúa đã chọn làm một người nghèo, sinh ra trong một gia đình nghèo chứ không phải quyền quý giàu sang. Bởi vậy, biến cố Giáng Sinh hôm nay bên ngoài xem ra thật tầm thường nhưng lại là một biến cố vĩ đại. Quá vĩ đại đến nỗi nhiều người đã không tin. Ngay trong số những người tin có Thiên Chúa cũng đã có người không dám nghĩ rằng Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Tin vào một Thiên Chúa là Đấng thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều tin nhận; nhưng tin vào một Thiên Chúa nhập thể làm người, chấp nhận thân phận con người thì còn rất nhiều tranh luận. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường như được cưu mang, được sinh ra ? “Một sự kiện táo bạo, táo bạo đến độ sững sờ sợ hãi, chẳng phải vì khó tin giật gân cho bằng vì không dám tin vào điều vượt tầm quan niệm. Thiên Chúa Đấng khôn tả của triết học bỗng dưng trở thành diễn tả được, Thiên Chúa Đấng vô hình của tôn giáo đã chọn cho mình một thể thức xuất hiện hữu hình, và Thiên Chúa Đấng cứu độ trước đây chỉ muốn bày tỏ với con người khốn khổ qua trung gian của các thụ tạo được tuyển chọn, giờ đây lại ngõ lời trực tiếp với con người qua Hài Nhi bé bỏng nắm trong máng cỏ. Quả là sự kiện táo bạo” ( Gm. Vũ Duy Thống ). Vậy mà Giáo Hội chúng ta suốt hơn 2.000 năm qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc vào Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là Người thật. Và để khẳng định niềm tin vào một Thiên Chúa nhập thể ấy, Phụng Vụ lễ Giáng Sinh khi đọc Tin Mừng theo thh Gioan 1, 14: “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” thì mọi người đều quỳ gối; và trong Lễ Truyền Tin khi đọc Kinh Tin Kính, mọi người cũng quỳ gối khi đến câu: “Người đã nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người”. Vậy chúng ta tự hỏi: Niềm tin vào Thiên Chúa làm người mang lại cho chúng ta, cho nhân loại điều gì ? Ngôn Sứ Isaia từ ngàn xưa đã nhìn thấy việc Hài Nhi sinh ra cho ta đêm nay như là một luồng ánh sáng mở mắt nhân loại đang bước đi trong bóng tối sự chết. Nhìn vào xã hội Việt Nam, nhìn ra thế giới, ta thấy bóng tối của sự chết, chiến tranh hận thù đang đe dọa sự sống con người: - Bão lụt Miền Trung, thiên tai nhân họa đã gây nên biết bao thiệt hại tài sản, nhân mạng, môi trường, nhiều gia đình mất nhà mất cửa, thiếu thốn lương thực… - Tội ác gia tăng đến mức báo động, sự xuống cấp của đạo đức xã hội, nạn tham nhũng đã thành phổ biến, xì ke ma tuý len lỏi vào các trường học. Nạn phá thai đến mức báo động như lời vị nữ bác sĩ giám đốc bệnh viện phụ sản Từ Dũ: “TP. HCM: tỷ lệ nạo phá thai cao nhất nước !” Trong hai thập niên vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế, có nhiều điều đáng lo ngại cho tiền đồ của dân tộc. Nạn phá thai, ly dị, ma túy, mãi dâm, sự gia tăng cách biệt giầu nghèo, tình trạng bất công, bóc lột, tham nhũng, tàn phá môi sinh… tất cả đang có chiều hướng gia tăng và là những dấu hiệu cụ thể của “nền văn hóa sự chết”. ( Sứ điệp Đại Hội Dân Chúa 2010, số 6 ). - Hơn hai mươi thế kỷ qua, chiến tranh luôn diễn ra khắp nơi. Chưa một ngày nào thế giới hoàn toàn im tiếng súng. Hết chiến tranh thế giới lần 1 đến chiến tranh thế giới lần 2. Hết chiến tranh giữa hai khối tư bản và chủ nghĩa xã hội đến chiến tranh diệt chủng ở Rwanda. Chiến tranh giữa Israel và Palestin, chiến tranh giữa Bosnia và Serbia. Cuộc chiến Afganistan rồi Iraq. Xung đột bán đảo Triều Tiên. Khủng bố toàn cầu hiện nay gieo rắc chết chóc sợ hãi… Những cảnh tượng chết chóc đau thương của thiên tai, của chiến tranh làm chúng ta nhớ đến Chúa Giêsu xuống thế làm người đêm nay. Đêm mà Thánh Gia đã phải sống kiếp bơ vơ không nhà, không cửa. Trẻ thơ Giêsu đã phải nếm mùi giá rét của mùa đông khắc nghiệt. Mùa Giáng Sinh năm ấy, Bêlem loang máu trẻ thơ vô tội, thành Rama vang tiếng khóc của các bà mẹ mất con. Mọi cố gắng xây dựng hoà bình của con người, của các tổ chức quốc tế đều không thể dập tắt hận thù và chiến tranh. Chỉ khi nào tước bỏ khỏi lòng người sự thù hận, tham lam, kiêu căng thì mới có hòa bình. Tổng Thống Hoa Kỳ George H.W. Bush đã tặng cho chủ tịch Liên Xô Gorbachov một viên gạch trơ trụi, không một lời ghi khắc trên đó, ngay sau cuộc họp thượng đỉnh cuối năm 1989 tại đảo Malta. Sao lại là một viên gạch chứ ? không phải là một món quà sang trọng ? Nhiều người tự hỏi. Nó là một viên gạch nhưng khác với tất cả mọi viên gạch, vì ông ta lấy nó từ bức tường ô nhục Berlin sau khi nó bị phá đổ không còn ngăn đôi nước Đức… Là gạch, là đá nhưng nó nói lên nhiều điều quá. Nó nói lên khát vọng sâu lắng của tâm tư: khát vọng hoà bình. Quà trơ trụi, nhưng lòng thì tràn ngập yêu thương. Nó là tiếng vọng công lý của những ai yêu chuộng hoà bình. Gói ghém trong mớ đất sét đã nung thành gạch ấy là tâm tình của những người có tâm hồn không còn khô như gạch, không còn cứng như đá, nhưng đong đầy cảm thông. Đã có một thời, nó là phần tử của bức tường ngạo nghễ vươn cao ngăn cách lòng người. Nay nó sụp xuống dưới đáy cuộc đời để mở lối cho hoà bình bước tới. Rồi người ta dùng nó để trao nhau tâm tình hoà bình. ( Đỗ Thảo Nam, Dòng Tên ). Chỉ khi nào con người nhận ra người khác là anh em con một Cha thì nhân loại mới hết hận thù ghen ghét, không còn chiến tranh giết chóc. Chính Chúa Giêsu đến thế gian để thực hiện điều đó. Ngài đem hoà bình cho nhân loại. Ngài đến để tước bỏ khỏi lòng người sự thù hận. Ngài tỏ cho nhân loại biết: tất cả anh em là con cùng một Cha, Thiên Chúa nhân lành. Giáo Lý quan trọng nhất của Chúa Giêsu là dạy cho mọi người biết Thiên Chúa là Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại là con cái của Người và là anh chị em ruột thịt với nhau. Chỉ có Giáo Lý cao đẹp này, chỉ có Tin Mừng này mới giải thoát nhân loại khỏi chiến tranh để xây dựng hoà bình. Sự sa ngã của người phụ nữ già nua còng lưng Eva đã làm cho tội lỗi vào trần thế gây nên hận thù và sự chết chảy dài trong lịch sử nhân loại. Đêm nay, Con Thiên Chúa làm người, bà lão Eva đã dâng quả táo, quả địa cầu rực nóng cho Hài Nhi. Giờ đây bà thanh thản, lưng đứng thẳng, nét mặt tươi trẻ lại vì đã trút được gánh nặng của năm tháng hối hận chồng chất đè nặng. Quả địa cầu lấp lánh tình thương và hoà bình trên tay Hài Nhi mở ra viễn ảnh an hoà cho nhân loại. Trong đêm hồng phúc này, bên Hài Nhi trong máng cỏ. Chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên thế giới được đón nhận Giáo Lý cao đẹp của Chúa Giêsu. Đó là Tin Mừng dẫn đường soi lối cho nhân loại xây dựng hoà bình trên công lý và tình yêu, cùng nhau kiến tạo nền Văn Hóa Sự Sống và Văn Minh Tình Thương. Bên máng cỏ, nhìn ngắm Đức Mẹ và Thánh Giuse chăm chút nâng niu con trẻ vừa hạ sinh, chúng ta cầu nguyện cho các bậc cha mẹ trong trọng trách nuôi dưỡng dạy dỗ và bảo vệ con cái. Cách riêng trong năm Mục Vụ Gia Đình “Đồng hành với các bạn trẻ đang chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân”, xin cho các bạn trẻ biết chiêm ngưỡng tình yêu từ máng cỏ để đón nhận hành trang xứng đáng cho quyết định quan trọng nhất của đời mình. Lạy Chúa Giêsu Hài Nhi, xin cho con mỗi lần dừng lại bên máng cỏ mùa Noel, con cũng biết dừng lại bên máng cỏ nơi chính lòng mình, để cảm nghiệm rằng có một Đấng Yêu Thương đang cư ngụ trong con. Xin cho đời con cũng là một mùa Giáng Sinh liên lỉ, đón Chúa và đem Chúa đến với anh em trong bình an và ơn thánh. Amen.
Thiên Chúa nhân hậu và khôn ngoan, khi muốn thực hiện công cuộc cứu chuộc thế giới vào thời 1/1-91
Thiên Chúa nhân hậu và khôn ngoan, khi muốn thực hiện công cuộc cứu chuộc thế giới vào thời cuối cùng, Ngài đã sai Con mình tới bằng cách cho Đức Giê-su nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần (x.Lc 1, 26-38). Khi cất lời thưa Xin vâng, Mẹ đã đón nhận Chúa Giêsu vào trong lòng Mẹ. Mẹ Maria chính là Mẹ Chúa Giêsu.
Đức Maria Mẹ Chúa Giêsu
Chúa Giêsu đã được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Belem. Người đã không sinh ra “do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra” (Ga 1,13).
Hôm nay, Giáo hội chiêm ngắm thiên chức làm Mẹ Chúa Giêsu của Đức Maria. Thánh Luca giới thiệu cho chúng một “cuộc gặp gỡ” của mục đồng với “Hài Nhi”, cùng với Đức Maria, Mẹ Người và thánh Giuse. Nghe theo lời loan báo của các thiên thần, “họ đã ra đi vội vã đến thành Belem, và thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh năm trong máng cỏ” (Lc 2, 16).
Nếu không có kinh nghiệm về “gặp gỡ” cá nhân với Thiên Chúa, người ta không thể tin được. Chỉ có “gặp gỡ” cộng thêm là “nhìn thấy tận mắt“, rồi “chạm tới“, các mục đồng mới có thể trở nên những sứ giả của Tin Mừng. “Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ” (Lc 2, 20).
Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Tín điều đầu tiên về Đức Maria mà Giáo hội tuyên bố là Tín Điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa không? Vì nếu Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, thì chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Thiên Chúa? […]
Không có nơi nào trong Thánh kinh sử dụng cụm từ “Mẹ Thiên Chúa”. Nhưng Đức Maria được minh định là “mẹ Chúa Giêsu” (x. Mt 2,13.20; Lc 1,31; 2,34; Cv 1,14) và là mẹ của Con Thiên Chúa (x. Lc 1,35; Gl 4,4). Ngay cả trước khi Chúa Giêsu sinh ra, bà Êlisabét công bố rằng Đức Maria là “thân mẫu của Chúa tôi” (Lc 1,43; x. GLHTCG 495). Thật rõ ràng, xuyên suốt cả Tân ước, Đức Maria được nhận biết trong tư cách là mẹ của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta và là Đấng cứu rỗi chúng ta.
Truyền thống Kitô giáo sơ thời, đã làm chứng cho niềm tin Kitô giáo rằng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Theo lời tuyên xưng cổ kính nhất trong Kinh Tin kính các Tông đồ (x. GLHTCG 194), các tín hữu đã tuyên xưng: “Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Chúa chúng ta, Đấng được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, được sinh ra bởi Đức Trinh nữ Maria”. Một kinh nguyện cổ xưa có niên đại từ thể kỷ thứ ba “Sub tuum praesidium”, gọi Đức Maria cách dứt khoát là “Mẹ Thiên Chúa”.
Thánh Irênê (+202) đã viết: “Đức Trinh nữ Maria, … khi vâng phục lời của Người, đã lãnh nhận từ sứ thần tin mừng rằng mình sẽ cưu mang Thiên Chúa” (x.Thánh Irênê, Chống lạc giáo, 5, 19,1).
Trong Thánh ca Nhập thể đầy thi vị của thánh Ephrem xứ Syria (+373), đã sáng tác như sau: “ Nơi cung lòng Đức Maria, một Trẻ thơ đã nên hình nên dạng… Vì nữ tỳ, công trình Đấng Thượng trí đã trở nên Mẹ Thiên Chúa” (Ibid., 312).
Trong khảo luận về sự Nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa và Chống bè Ariô, thánh Athanasiô (+373) đã viết: “Ngôi Lời, người con được Chúa Cha sinh ra từ trời cao. Đấng vĩnh cửu chính là Đấng được sinh ra trong thời gian dưới trần thế, bởi Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa” (Ibid,340).
Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nêu tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng và viết: “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”.
Thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) khẳng định: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”. Vì thế, nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, sinh bởi Đức Maria, thì chúng ta cũng có thể gọi mà không sợ sai lầm rằng: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Bằng việc tuyên bố rằng Đức Maria là Theotokos của Công đồng Êphêsô, Giáo hội khẳng định rằng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Giáo lý Hội thánh Công giáo (GLHTCG) số 509 tóm tắt giáo huấn ấy như sau: “Đức Maria thực sự là ‘Mẹ Thiên Chúa’ vì là Mẹ của Con Thiên Chúa làm người, người Con hằng hữu ấy cũng chính là Thiên Chúa”.
Ngày cầu cho hòa bình
“Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi… và tám ngày sau được gọi tên là Giêsu” (Lc 2,16-21).
Với đoạn Tin Mừng trên đưa chúng ta về với người mẹ vừa mới sinh con là chính Đức Maria, Nữ Vương Bình An, sinh ra Chúa Giêsu là Thái Tử Hòa Bình. Vì thế, ngày đầu năm, Giáo hội khấn xin Đức Mẹ chuyển cầu cùng Thiên Chúa Cha ban cho thế giới được hòa bình nhân ngày sinh nhật của Con Chúa.
Món quà cao quí nhất là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Hoà bình điều mà thế giới hôm nay đang khao khát.
Khởi đi từ ngày 01 tháng Giêng năm 1968, Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã thiết lập Ngày Thế Giờ Hòa Bình với Lễ Trọng Kính Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình lần thứ 65 năm 2023, có chủ đề: “Không ai có thể được cứu một mình: Cùng nhau chống lại COVID-19, cùng nhau dấn thân trên con đường hòa bình”. Trong Sứ điệp, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bao gồm một đoạn nói về cuộc chiến đang diễn ra ở Ukraine, điều mà ngài mô tả là “một bước thụt lùi đối với toàn thể nhân loại”. Ngài viết: “Vào chính thời điểm mà chúng ta dám hy vọng rằng những giờ phút đen tối nhất của đại dịch COVID-19 đã qua đi, thì một thảm họa khủng khiếp mới lại giáng xuống nhân loại. Chúng ta đã chứng kiến sự tấn công dữ dội của một tai họa khác: một cuộc chiến khác, ở một mức độ nào đó giống như cuộc chiến chống lại COVID-19, nhưng được thúc đẩy bởi những quyết định đáng trách của con người… Rõ ràng, đây không phải là thời kỳ hậu COVID mà chúng ta đã hy vọng hoặc mong đợi”. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng lưu ý: “Mặc dù đã tìm ra vắc-xin cho COVID-19, nhưng các giải pháp phù hợp vẫn chưa được tìm thấy cho cuộc chiến” (x.PHANXICÔ, Sứ điệp Hòa Bình, 2022).
Để cầu chúc cho nhau, chúng ta mượn lời sách Dân Số: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” (x. Ds 6,26).
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Nữ Vương Bình An, thế giới đang khát khao hòa bình hơn bao giờ hết. Xin lôi kéo bình an xuống cho nhân thế Mẹ ơi! Nữ Vương Bình An, cầu cho chúng con. Amen.
Bài Tin Mừng theo thánh Luca thuật lại cảnh Giáng sinh nơi hang đá Belem, một khung cảnh thật 1/1-92
Bài Tin Mừng theo thánh Luca thuật lại cảnh Giáng sinh nơi hang đá Belem, một khung cảnh thật thanh bình và vui tươi. Các mục đồng hớn hở chạy tới hang đá Belem trong niềm vui ngỡ ngàng. Ta có thể hình dung ra một khung cảnh vui tươi nhộn nhịp trong tiếng hát của muôn thiên thần, của các mục đồng đua nhau thuật lại những sự lạ đã đến với họ. Giữa muôn cung điệu đan xen của đất trời ấy, hiện lên một khuôn mặt âm thầm, lặng lẽ. Đó là Đức Nữ Trinh Maria mà hôm nay chúng ta mừng kính Mẹ với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã luôn mở rộng trái tim và khối óc của mình để lắng nghe: lắng nghe những người xung quanh, lắng nghe Giêsu con Mẹ, và trên hết Mẹ luôn lắng nghe tiếng Chúa mời gọi trong cuộc đời Mẹ.
“Còn Bà Maria thì hằng ghi nhớ những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Không chỉ lúc này nhưng trong suốt cuộc đời Mẹ, Mẹ luôn lắng nghe.
Mẹ luôn lắng nghe những người xung quanh
Khi các mục đồng tới hang đá Belem, họ đã kể rất nhiều về những sự lạ họ được chứng kiến khi Hài Nhi Giêsu sinh ra. Thánh Luca cho chúng ta biết mọi người đều ngạc nhiên khi nghe các mục đồng kể. Chắc chắn không ai có thể hiểu rõ hơn Đức Maria về điều đang xảy ra nơi Hài nhi Giêsu, nơi người con Mẹ đã cưu mang. Thế nhưng Mẹ đã âm thầm lắng nghe những tâm sự bộc bạch của những người xung quanh.
Khi dự tiệc cưới tại Cana, Mẹ cũng ở trong tư thế lắng nghe khi mà các bàn tiệc và gia nhân nhốn nháo vì hết rượu. Chính vì Mẹ đã lắng nghe nên Mẹ nhận biết được nhu cầu của họ.
Khi theo con Mẹ trên hành trình rao giảng Nước Trời, Mẹ cũng đã luôn lắng nghe, ngay cả khi mọi người cho rằng con Mẹ bị điên, bị quỷ ám … Dọc theo con đường thập giá, giữa muôn tiếng gào thét kết án con Mẹ, đòi đóng đanh Giêsu, chúng ta vẫn thấy hình ảnh của Maria âm thầm lắng nghe.
Vì luôn lắng nghe những người xung quanh mà Mẹ đã hiểu rõ tâm tư, ước muốn, nhu cầu của họ. Để rồi Mẹ khẩn nài Thiên Chúa cho họ; Mẹ ra tay nâng đỡ họ.
Mẹ luôn lắng nghe Con Mẹ
Từ khi Con Mẹ còn là bào thai cho đến khi chịu chết trên cây thập giá, Mẹ luôn lắng nghe con mình.
Khi mang trong mình Hài nhi Giêsu, khi hạ sinh con nơi khó nghèo, khi tìm được con trong đền thờ, khi đề nghị con giúp đôi tân hôn tại Cana, khi cùng con trên đường rao giảng Nước Trời, Mẹ đã luôn để trí để lòng lắng nghe Giêsu. Trong khi thiên hạ từ chối con Mẹ thì Mẹ luôn giữ lấy và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Nhìn con đau đớn trên hành trình thập giá. Mẹ vẫn lắng nghe con để hiểu con mình hơn. Nhờ đó, Mẹ đã trở nên người Mẹ nhân từ, bình an giữa các môn đệ đang hoang mang ngày Giêsu chịu chết. Mẹ đã nghe được tiếng của con Mẹ. Mẹ đã hiểu được con mình nên Mẹ luôn sống trong sự phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa.
Và trên hết Mẹ luôn lắng nghe Thiên Chúa
Mẹ luôn là người nhạy bén với tiếng Chúa. Trong những khi khốn khó hay vui mừng. Mẹ luôn tìm đến với thánh ý Thiên Chúa. Mẹ đã luôn lắng nghe tiếng Chúa để rồi Mẹ luôn đi trong đường lối của Chúa.
Khi thưa tiếng xin vâng ngày thiên sứ truyền tin Mẹ sẽ mang thai Hài nhi Giêsu, khi sinh con nơi hang đá khó nghèo trong đem lạnh giá, khi dâng con trong đền thờ, khi tìm con bị lạc trong đền thờ, khi theo con bôn ba rao giảng Nước Trời, khi nhìn con bị hành hình … Nếu Mẹ không lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi thì làm sao Mẹ có thể vượt qua được. Trong mọi sự, Mẹ luôn lắng nghe để ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Mẹ Maria là gương mẫu cho mọi người
Nếu mọi thành viên trong gia đình luôn biết lắng nghe như Đức Maria thì gia đình sẽ luôn yên vui và hạnh phúc. Con cái biết lắng nghe cha mẹ; cha mẹ biết lắng nghe con cái; Chồng biết lắng nghe vợ; vợ biết lắng nghe chồng. Mọi thành viên trong gia đình luôn biết lắng nghe nhau mới hiểu nhau được, mới cảm thông và nâng đỡ được nhau.
Nếu mọi thành phần trong xã hội luôn biết lắng nghe nhau thì xã hội mới tốt hơn. Ngày hôm nay người ta tranh nhau nói với đủ mọi âm điệu, cách thức; đủ mọi âm thanh náo nhiệt, đủ mọi hình ảnh phô bày. Nếu mỗi người biết lắng nghe người khác như Đức Maria thì xã hội mới thấy được những tâm hồn đau khổ đang cần được nâng đỡ, thì nhà cầm quyền mới có những phán quyết không bị lạc cung điệu.
Và trên hết, nếu tôi noi gương Đức Maria, luôn biết lắng nghe tiếng Chúa thì sự bình an của Đức Kitô mới thực sự cư ngụ trong sâu thẳm tâm hồn tôi. Thật hạnh phúc khi mọi thành viên trong gia đình ngồi xuống bên nhau cùng lắng nghe Lời Chúa. Mỗi giờ kinh trong gia đình, dù chỉ là ngắn ngủi nhưng luôn là những giây phút đem lại cho gia đình sự gắn bó với nhau, gắn bó với Chúa. Thật đẹp khi mọi người trong xã hội biết ngồi xuống với nhau để cùng lắng nghe Lời Chúa. Chỉ khi tôi biết lắng nghe Chúa, tôi mới quăng đi được sự độc tài độc đoán trong gia đình và trong xã hội, mới dẹp đi được sự kiêu căng, ngạo mạn trong con người, mới cùng nhau hướng về một xã hội phồn vinh và hạnh phúc thực sự mà Chúa đang chờ đón.
Ước mong sao Đức Maria, người Mẹ luôn biết lắng nghe, là gương mẫu cho mỗi người, cho mỗi gia đình. Chỉ khi có được một tâm hồn biết lắng nghe như Mẹ, ta mới có thể đi vào tâm hồn của nhau, đi vào vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Khi ấy hòa bình đích thực mới ngự trị trong tâm hồn con người và trong xã hội.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin Mẹ kéo con ra khỏi sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống hôm nay. Xin Mẹ thủ thỉ bên tai con những điều Con Mẹ muốn nói với con.
Cách đây hơn 15 thế kỷ, dân thành Êphêsô đã có một đêm rước đuốc tưng bừng, đêm 22.06.431 1/1-93
Cách đây hơn 15 thế kỷ, dân thành Êphêsô đã có một đêm rước đuốc tưng bừng, đêm 22.06.431, đêm mà Dân Chúa hân hoan vì sự vinh thắng của đức tin truyền thống về mầu nhiệm Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa được Công Đồng Êphêsô tuyên tín bằng những từ ngữ chắc chắn: “Nếu ai không tuyên xưng Đấng Emmanuel là Thiên Chúa thật, và do đó, Rất Thánh Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ sinh ra xác phàm của Ngôi Lời nhập thể, thì mắc vạ tuyệt thông”.
Kể từ cái “đêm không ngủ rực sáng tưng bừng Êphêsô” ấy, một làn gió xuân tươi mát dịu dàng của “Tình Mẹ”, của “Đấng Đầy ơn phước”, của lời chào thân thương “Ave Maria”…đã men theo dọc bờ Địa Trung hải, đã vượt qua núi rừng Tiểu Á, sa mạc Châu Phi để tràn vào các cộng đoàn Alexandria, Constantinopoli, Antiokia, sang tận Rôma và sau đó lan ra khắp Âu Châu và toàn thể địa cầu. Và rồi, sau hơn 15 thế kỷ từ biến cố Công đồng Êphêsô, tín điều “Mẹ Thiên Chúa”, sau những chặng đường dài được sống, suy tư, cầu nguyện và củng cố trong nhịp sống đức tin của Dân Chúa, cách đây hơn 50 năm, đã được Công Đồng chung Vatican II xác định một cách thâm thúy và nhẹ nhàng hơn trong Hiến chế về hội Thánh: “Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa…Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội…Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Đức Kitô” (GH 61,63).
Quả thật, nếu Giáo Hội không đặt đúng vai trò của Đức Mẹ trong biểu lộ tuyên tín của mình, hay, nếu hình ảnh của Đức Mẹ lu mờ đi trong cuộc hành trình đức tin của Dân Chúa, thì buồn tẻ biết bao, khô khan biết bao, thiếu vắng biết bao. Thật là may mắn! Thật là hạnh phúc! Chúng ta vẫn còn Mẹ, chúng ta là những đứa con vẫn còn “bông bồng cài áo”: “Một bông hồng cho anh, một bông hồng cho em, một bông hồng cho những ai đang còn mẹ…Thì xin em hãy cùng tôi vui sướng lên, hãy cùng tôi vui sướng lên…” (Ca khúc “Bông Hồng cài áo” của Phạm thế Mỹ).
Tuy nhiên, không phải mọi Kitô hữu tin Đấng Emmanuel được sinh ra bởi người trinh nữ Maria đều trân trọng và xác tín rằng “Người Trinh Nữ đó, Đức Maria đó là Mẹ Thiên Chúa”. Vâng, vẫn có người cho rằng vai trò đó không thích hợp, danh hiệu đó không xứng đáng!
Tại sao không?
Khi xuống thế làm người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận mang lấy bản tính của nhân loại. Nếu Ngài đã không từ chối sinh ra trong lòng một dân tộc cứng đầu và phản loạn, đã không chọn cho mình một gia đình quí tộc đế vương, nhưng lại chấp nhận thuộc dòng con cháu Áp-ra-ham mà trong thứ tự gia phả (Mt 1,1-16) đã có ít nhất 4 người phụ nữ không ra gì: Ta-Ma loạn luân (St 38, 1-30), Ra-kháp mãi dâm (Gs 2, 1-21), Rút ngoại đạo (R 3-4), Bát-sê-ba ngoại tình (2 Sm 11,12), thì việc Ngài làm con Đức Maria, một Trinh nữ thánh thiện, không nhiễm tội truyền, có gì là không chấp nhận được!
Cũng thế, nếu Đấng Kitô của Thiên Chúa lại chấp nhận chen lẫn với đoàn người tội lỗi lội xuống dòng sông Gio-đan để Gioan Tẩy Giả thanh tẩy, nếu “Đấng Thánh của Thiên Chúa” sẵn sàng chén thù chén tạc với bọn người thu thuế tội lỗi như Matthêô, Giakêu, không ngại tiếp xúc với những người phụ nữ ố danh tai tiếng …, nếu “Con Chiên vẹn tuyền của Thiên Chúa”, lại chấp nhận bị kết án, bị lột trần, bị đánh tan nát và bị đóng đinh chết giữa hai tên trộm cướp…, thì việc Ngài chấp nhận làm Con của một người Trinh Nữ thánh thiện có gì là bất hợp lý đâu!
Chẳng những đã không bất hợp lý mà lại rất cần thiết ; vì Đức Trinh Nữ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để cọng tác với Ngài trong công cuộc thực hiện chương trình cứu rỗi mà thư thánh Phaolô gởi giáo đoàn Galát vừa khẳng định trong Bài đọc 2: “khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới lề luật, để chuộc những ai sống dưới lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”.
Hơn nữa, việc Đức Trinh nữ làm “Mẹ Thiên Chúa làm người” lại là điều quyết định dứt khoát để chúng ta được “làm con Thiê Chúa” kia mà!
Thật vậy, trước lời đề nghị của thiên sứ Gáp-ri-en “Bà sẽ sinh hạ một con trai…”, nếu Đức Maria cực lực chối từ, thì không biết tương lai nhân loại hôm nay đi về đâu. Thật là may mắn, lời “Xin Vâng” đã được vang lên, và thế là tất cả nhân loại đã được đưa vào quỹ đạo của ơn cứu độ. Nói cách khác, Đức Maria chấp nhận làm Mẹ Thiên Chúa để tất cả chúng ta được diễm phúc làm con Thiên Chúa. Thánh Bênađô đã diển tả giây phút huyền nhiệm buổi truyền tin bằng một bài giảng thâm thúy với tựa đề “cả thế giới chờ đợi câu trả lời của Đức Maria”: “Lạy Đức Trinh nữ xin mau trả lời…Mẹ lưỡng lự làm chi, run sợ làm gì?...Lúc nầy đơn sơ trong trắng mà quên lãng khôn ngoan thì chẳng xứng hợp chút nào. Lạy Đức Trinh nữ khôn ngoan, trong sự việc có một không hai, xin Mẹ đừng sợ phải liều. Mẹ làm thinh vì e ngại, đó là điều đẹp lòng Chúa, nhưng bây giờ Mẹ nói ra vì hiếu thảo thì lại là điều cần thiết hơn. Lạy Đức Trinh Nữ diễm phúc, xin Mẹ mở tâm hồn để tin, mở miệng nói lên lời ưng thuận và mở lòng để đón Đấng Tạo Thành ra Mẹ. Nầy Đấng mọi dân tộc khao khát đang đứng bên ngoài và gõ cửa. Ôi, nếu như Mẹ chần chừ mà Người đi qua mất, thì Mẹ lại phải khổ công tìm kiếm Đấng lòng Mẹ mến yêu! Xin Mẹ chỗi dậy, chạy ra, mở cửa. Xin Mẹ chỗi dậy với lòng tin, chạy ra với lòng mến và mở cửa bằng sự ưng thuận. Đây Mẹ đã nói: Vâng, nầy tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi như lời thần sứ phán”.
Cách riêng, huyền nhiệm “Mẹ Thiên Chúa” đã như một dòng suối tinh tuyền đã tuôn tràn trên “Thân Mình của Đức Kitô”, tức Hội Thánh ; dòng suối mát đã gìn giữ vẽ trẻ trung rạng ngời của Đoàn Dân Mới xuyên qua những dặm dài lịch sử bất kể những thương đau, thách đố, bách hại.
Vâng, Mẹ Maria đã đang và mãi mãi đồng hành với Hiền Thê của Con Mẹ, để làm cho Hội thánh lớn lên và không ngừng tươi trẻ. Từ Lộ Đức tới La Vang, từ Trà Kiệu tới Fatima, từ Măng đen tới Tà Pao…Mẹ luôn dõi theo từng bước chân của Hội Thánh để chăm sóc giữ gìn, để động viên an ủi, để dạy bảo khuyên răn... Nói cách khác, Mẹ không ngừng đem cho Giáo Hội những làn gió mát của Thánh Thần để chiếc sáo Giáo Hội rung lên những giai điệu tuyệt vời hầu chuyển tải sứ điệp Tin Mừng cho muôn dân tộc, như cách diễn tả của thi sĩ Xuấn Diệu, một người ngoại giáo, đã cảm nhận sâu sắc về Mẹ Trà Kiệu qua mấy câu thơ mượt mà thanh thoát:
Nên hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ, Giữa đáy trưa trong lòng Mẹ vô cùng. Con là sáo mẹ là ngàn vạn gió, Mẹ là trời con là hạt sương rung.
Sau hết, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chính là Nữ vương của hòa bình. Phụng vụ lễ Mẹ Thiên Chúa, một ngày lễ vừa để kết thúc Tuần Bát Nhật Giáng Sinh vừa là ngày khai mở một Năm Dương Lịch mới, “nối dài niềm hân hoan kính mừng mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa”, Đấng đã mặc lấy xác phàm và sinh bởi Mẹ Đồng Trinh Maria.
Thế giới hôm nay đúng là đang quay quắt trong một “buổi trưa hè nóng nực” với cái không khí của bạo lực tràn lan, khủng bố, chiến tranh, chết chóc, tội ác lan tràn. Thật đúng lúc và thích hợp khi Đức Maria Mẹ Thiên Chúa được chọn như “Người Mẹ của Hòa Bình” để ngày hôm nay, đầu năm Dương Lịch, cả Hội Thánh dâng lời cầu nguyện cho hòa bình thế giới.
Trong những ngày Giáng Sinh vừa qua, hình ảnh Mẹ Maria bên cạnh hài nhi Giêsu, Hoàng tử Hòa Bình và thánh cả Giuse, người thợ mộc im lặng của làng Na-da-rét, đã cho chúng ta cảm nhận được ý nghĩa đích thực của bốn chữ “bình an dưới thế”:
- Đó là sự bình an của máng cỏ khó nghèo, của những tâm hồn mục đồng đơn sơ chất phác, của những đạo sĩ phương đông khao khát kiếm tìm chân lý, của những tâm hồn khiêm hạ tuân phục thánh ý Thiên Chúa như Maria, như Giuse.
- Đó là sự bình an được gặp gỡ Thiên Chúa, bồng ẵm Chúa trên đôi tay già nua cằn cỗi của mình như cụ già Simêon…
Bài học sâu xa nhất, cụ thể nhất mà chúng ta có thể học được nơi Đức Mẹ để trở nên tác nhân của hòa bình đó chính là biết “Xin vâng”, như lời kinh cầu nguyện cùng Mẹ Maria trong dịp Mừng Năm Thánh 2000 của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, mà nhạc sĩ Trầm Hương đã ghi lại thành điệp khúc của bài hát “Từ lúc Mẹ nói lời xin vâng”:
Mẹ thưa xin vâng, xin vâng trọn thánh ý Chúa Cha. Mẹ thưa xin vâng với tin mừng của Con Chí Thánh. Mẹ thưa xin vâng với tác động của Chúa Thánh Linh. Con muốn theo Mẹ: sống xin vâng với trái tim thảo hiền.
Cùng với tất cả những ý nghĩa và cảm nhận của ngày lễ Mẹ Thiên Chúa, ngày đầu năm mới, ngày hoà bình, chúng ta dâng lên Chúa những ước nguyện và lời chúc tốt đẹp nhất: Xin kính chúc ông bà và anh chị em một năm Mới tràn đầy hồng ân và hạnh phúc… trong sự che chở bảo bọc của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của mỗi người chúng ta. Amen.
Thật bất ngờ thú vị khi ‘các mục đồng đến thăm máng cỏ’ lại là người kể chuyện về Hài Nhi cho 1/1-94
Thật bất ngờ thú vị khi ‘các mục đồng đến thăm máng cỏ’ lại là người kể chuyện về Hài Nhi cho chính cha mẹ của Hài Nhi! Maria và Giuse tuyệt nhiên chẳng nói lời gì trong cảnh này; chỉ có những người chăn chiên hồn nhiên đang kể về “tin mừng” mà họ nhận được, và “cũng là tin mừng cho toàn dân.” Cơ hồ ta có thể nói rằng ở đây khách đang giới thiệu chủ nhà cho… chính chủ nhà! Họ đang giới thiệu em bé trong máng cỏ ấy cho cha mẹ của em: đó là “Đấng Cứu Độ”, là “Đấng Kitô Đức Chúa” (x. Lc 2,10-11). Họ đang kể về kinh nghiệm tuyệt vời, đầy ắp niềm vui, mà họ mới nhận được (từ thần sứ của Chúa) và vẫn đang tiếp tục nhận được ở đây (trong cuộc gặp gỡ em bé này).
Và đó là loan báo Tin Mừng, theo cách nói của chúng ta ngày nay.
Mời Bạn: Theo ngôn ngữ thời nay có thể ví von rằng mấy anh chăn bò đang nói về Chúa Giêsu cho một giám mục hay linh mục đang trân trọng lắng nghe, “ghi nhớ” và “suy đi nghĩ lại trong lòng”.
Ta nhận ra ai cũng có thể loan báo Tin Mừng và ai cũng cần phải biết lắng nghe Tin Mừng, kể cả từ những phía bất ngờ nhất.
Sống Lời Chúa: Quyết tâm sống theo xác tín kép này:
(1) sẵn sàng loan báo Tin Mừng cho anh em bằng cách phù hợp; (2) sẵn sàng lắng nghe Tin Mừng được loan báo cho mình.
Cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã sinh hạ và trao ban Chúa Giêsu cho nhân loại, xin dạy con biết rằng dù con hèn mọn đến mấy, con cũng được mời gọi đón nhận Chúa và giới thiệu Chúa cho mọi người, trong niềm vui.
Có một câu thơ viết rằng: Ta đi trọn kiếp con người. Cũng không qua nổi mấy lời mẹ ru. Người 1/1-95
Có một câu thơ viết rằng:
Ta đi trọn kiếp con người Cũng không qua nổi mấy lời mẹ ru
Người mẹ thật dịu hiền. Lời mẹ ru còn đằm thắm tình yêu thiết tha hơn. Lời ru ấy đã nâng đỡ bước chân con vào đời. Lời ru ấy phảng phất “cánh cò bay lả bay la” với cảnh quê bình dị yên hàn. Giấc ngủ của con thật yên bình trong lời ru à ơi của mẹ.
Hòa quyện trong những lời ru là hình ảnh về một người mẹ. Một người mẹ miền quê chân chất bình dị, dịu dàng nhưng lại ấm áp vô cùng. Một người mẹ hy sinh tất cả vì con. Mẹ chín tháng cưu mang nặng nề đau đớn. Mẹ tần tảo sớm khuya đồng ruộng, chợ hôm. Mẹ chắp cánh cho mọi ước mơ của con đi vào đời. Người mẹ là tặng phẩm quý báu nhất mà Thượng Đế đã ban cho trần gian.
Có một câu chuyện kể rằng: một em bé có tên là Mến Thương. Ở trường, người ta lấy làm lạ vì bàn tay trái của em luôn nắm chặt như cất giữ một cái gì quý lắm. Ai cũng thắc mắc không biết em đang giữ bí mật gì vậy. Cô giáo em gặng mãi, em mới nói: con đang giữ chiếc hôn của mẹ. Mỗi sáng, khi đưa em đến trường, mẹ hôn vào tay em và nhẹ nhàng gấp những ngón tay xinh xắn của em lại rồi mỉm cười nói: Con yêu dấu, con hãy luôn giữ lại mùi hương của tình yêu mẹ trong tay dù con làm bất cứ việc gì con nhé!
Chiếc hôn ấy Mến Thương giữ mãi vì nó chứa đựng cả bóng hình của mẹ thật thân thương trì mến.
Hôm nay khởi đầu cho một năm mới, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta hướng về một người mẹ. Một người Mẹ vẫn thổi tình yêu của mình cho chúng ta. Một người Mẹ vẫn ân cần bảo chúng ta hãy giữ mãi lời ru của Mẹ. Lời ru không có cây đa, giếng nước nhưng lời ru có tình Chúa, tình Mẹ luôn ấp ủ gìn giữ con thơ. Lời ru ấy không có chuyện cổ tích nhưng có biết bao lời giáo huấn của Chúa Giê-su con Mẹ. Lời ru ấy có bóng dáng của Mẹ thật yêu kiều, thật trong sáng, thanh thoát không vương vấn tội truyền.
Thật hạnh phúc cho chúng sinh khi có Mẹ bao bọc chở che. Giữa cuộc đời có quá nhiều cám dỗ, cạm bẫy giăng lối. Chính Mẹ sẽ là người bảo vệ con cái khỏi những hiểm nguy của sự dữ. Giữa những giá băng của tình người cạn kiệt, chính Mẹ sẽ thổi hơi ấm tình thương vào lòng con cái và bảo rằng “hãy giữ mãi nụ hôn cũa Mẹ”. Giữa những đêm tối của lòng người, chính Mẹ sẽ là sao Bắc Đẩu dẫn lối đi trong chân thiện mỹ.
Vâng, là người ky-tô hữu chúng ta tin rằng Mẹ Maria luôn đồng hành với chúng ta. Với Mẹ chúng ta là “cục cưng” của Mẹ. Mẹ sẽ làm hết khả năng để mang lại một bầu trời bình yên cho con cái. Mẹ sẽ canh giữ giấc ngủ cho chúng ta được yên hàn khỏi những phá phách của ma quỷ, sự dữ.
Xin cho chúng ta luôn biết tin tường phó thác nơi Mẹ. Xin cho chúng ta đừng bao giờ lạc xa tình Mẹ. Ước gì chúng ta luôn giữ mãi hơi ấm tình Mẹ khi biết sống theo lời Mẹ dạy bảo là hãy làm theo Lời Chúa Giê-su con Mẹ. Ước gì chúng ta mãi mãi là con của Mẹ khi nói không với tội lỗi và trung thành theo giáo huấn của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Nữ vương trời đất. Mẹ thật quyền thế trước tòa Chúa. Chúng con xin phó dâng cuộc sống cho Mẹ. Xin Mẹ làm chủ cuộc cuộc sống của chúng con. Xin Mẹ dẫn dắt chúng con đi trong tình yêu của Mẹ. Chúng con xin phó dâng một năm mới cho Mẹ. Xin Mẹ hãy chúc lành và ban bình an cho chúng con. Amen.
Ma-ri-a Mẹ Chúa Trời, Hồng ân phúc lộc, tuyệt vời Chúa ban. Con người thụ tạo bụi tan, Phận 1/1-96
Ma-ri-a Mẹ Chúa Trời, Hồng ân phúc lộc, tuyệt vời Chúa ban. Con người thụ tạo bụi tan, Phận hèn tớ nữ, tỏa lan sáng ngời. Xin vâng làm mẹ Chúa Trời, Ngợi khen chúc phúc, ngàn đời quang vinh. Mẹ sinh Con Chúa huyền linh, Nằm trong máng cỏ, thân mình trẻ thơ. Mục đồng chầu lạy kính thờ, Loan tin khắp chốn, vọng chờ đêm thâu. Con dân mong đợi bấy lâu, Giê-su tên gọi, kính tâu Vua Trời. Cung lòng trinh nữ cao vời, Cưu mang Con Chúa, làm người thế nhân. Ma-ri-a Mẹ thần dân, Xứng danh Mẹ Chúa, nhân trần kính tôn.
Ngày đầu năm Dương Lịch, ngày dành riêng để Trọng Kính Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chọn gọi Đức Maria cộng tác vào công trình cứu độ. Maria đã đáp lời Xin Vâng. Qua hiệu qủa công trình cứu độ của Chúa Giêsu, Đức Maria đã được Thiên Chúa gìn giữ vẹn toàn và thánh thiện.
Đức Maria đã sống phó thác hoàn toàn trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Mỗi ngày, Maria sống trong ân sủng vì có Chúa ở cùng. Maria đã trải qua bao gian khó giữa trần đời. Đức Maria không khoe khoang ơn phúc lạ và không than van kêu trách số phận. Maria âm thầm đón nhận thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa với niềm tin tuyệt đối. Đức Maria xứng đáng với danh hiệu là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Giáo Hội và là Mẹ của chúng sinh.
Giáo Hội kính dâng Mẹ ngày đầu tiên của Năm mới. Chúng ta biết nhà có mẹ là nhà có mái ấm và có tình thương. Có mẹ chúng ta có tất cả. Giáo Hội Công Giáo có Mẹ. Giáo Hội mừng kính Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, đây là tín điều đã được tuyên tín. Qua lời xin vâng khi thiên thần truyền tin, Mẹ Maria đã trở thành Mẹ của Con Chúa. Khi Mẹ đến viếng thăm chị họ Isave, bà đã lên tiếng ngợi khen: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm.
Mẹ Maria đã sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuel nghĩa là Chúa ở cùng chúng ta. Người Con có hai bản tính không thể tách rời: Bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu bao gồm trọn vẹn cả hai bản tính. Chúa Giêsu vừa là người, vừa là Chúa, nên Đức Mẹ là Mẹ của Con Chúa.
Ơn làm Mẹ hoàn toàn là hồng ân Thiên Chúa ban cho Mẹ. Không do công lênh của con người, mà do tình yêu của Chúa ban cho con người. Mẹ đã xin vâng theo thánh ý Chúa mọi lúc trong cuộc đời. Thái độ khiêm tốn nơi Mẹ đã trở nên nguồn ân sủng cho mọi người. Mẹ đã trải qua muôn vàn khó khăn từ khi nói lời Xin Vâng cho đến khi đứng dưới chân thập giá nhìn con mình đớn đau trút hơn thở cuối cùng. Mẹ giữ kín và suy niệm tất cả những gì xảy ra trong đời và vâng theo thánh ý Chúa.
Giáo Hội đã biệt kính Đức Mẹ qua các danh hiệu: Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Mẹ Đồng Trinh Trọn Đời, Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời và Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Mỗi năm Giáo Hội dành riêng hai tháng, tháng 5 và tháng 10, để dâng kính Đức Mẹ. Trong năm có 18 lễ kính Đức Mẹ, ngoài ra còn kính nhớ vào các thứ bảy đầu tháng và các việc sùng kính riêng. Giáo Hội đã tôn vinh danh Mẹ qua rất nhiều tước hiệu khác nhau.
Chúng ta có Kinh Cầu Đức Bà và tôn vinh Mẹ trên 70 danh hiệu khác nhau. Đức Mẹ hiện ra nhiều lần với con cái loài người, 39 lần hiện ra chính thức được Giáo Hội chuẩn nhận. Ngoài ra còn rất nhiều lần Đức Mẹ hiện ra riêng tư và ban phát muôn ơn lành qua việc chữa bệnh cả hồn lẫn xác.
Không có đau khổ nào của các bà mẹ trần thế có thể sánh ví được với những khổ đau của Mẹ. Mẹ đã chịu đựng tất cả và mẹ đã trở thành Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, Mẹ sẽ cầu bầu cho chúng ta. Chúng ta cùng Mẹ dâng lời chúc tụng ngợi khen lòng Chúa bao dung. Chúng ta rất vui mừng vì chúng ta có Mẹ ở bên. Xin Mẹ dẫn dắt chúng con đến gần Chúa, để chúng con cùng chia xẻ niềm vui ơn Chúa Cứu Độ.
Theo luật của Do Thái giáo, khi một con trẻ (nam giới) được tám ngày tuổi thì phải đem trẻ tới 1/1-97
Theo luật của Do Thái giáo, khi một con trẻ (nam giới) được tám ngày tuổi thì phải đem trẻ tới Đền Thờ để chịu phép cắt bì và đặt tên. Vì Ngôi Lời Nhập Thể làm người, nên Đức Maria và Thánh Cả Giu-se cũng giữ đúng luật (“Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.” – Lc 2, 21). Sự kiện tôn trọng và giữ đúng Lề Luật đã được Đức Giê-su chính thức ghi nhận khi Người bắt đầu công khai rao giảng Tin Mừng: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn Lề Luật. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” (Mt 5, 17-18). Và Lịch Phụng vụ Giáo hội đã gọi ngày Đức Giê-su chịu phép cắt bì là ngày Lễ Cắt Bì và Đặt Tên. Nhưng vì sao ngày lễ này còn được gọi là lễ Thánh Maria Mẹ Thiên Chúa?
Tước hiệu Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo hội. Ngay từ những thế kỷ đầu tiên, các Ki-tô hữu đã cầu khẩn Đức Maria dưới tước hiệu “Theotokos” (Đức Mẹ Chúa Trời). Tuy nhiên, vào thế kỷ V, giáo chủ Nes-tô-ri-ô (phái Thệ Phản) đã phản kháng, không công nhận tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Ðức Trinh Nữ Maria. Theo Nes-tô-ri-ô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ của Ðức Giê-su Ki-tô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Một cuộc xung đột tư tưởng lớn đã xẩy ra trong Giáo hội xoay quanh việc Ngôi Lời nhập thể và danh xưng Mẹ Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria. Kể cũng kỳ khôi khi một lý luận như vậy cũng có nhiều người a dua theo. Họ quên mất một điều là đã làm tới chức Giáo chủ, tức là Nes-tô-ri-ô đã tin thật Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật giáng trần cứu độ nhân loại. Tin Đức Giê-su là Thiên Chúa mà người sinh ra Đức Giê-su không được gọi là Mẹ Thiên Chúa! Một mâu thuẫn trong lý luận lạ lùng đến ngớ ngẩn!
Có thể họ lập luận như vậy vì cho rằng 2 bản vị Thiên Chúa và loài người không thể cùng tồn tại trong một con người. Nói khác hơn, họ cho rằng Thiên Chúa là Đấng vô hình đã dựng nên nhân loại từ bụi đất. “Cái vỏ bằng đất” Maria không thể sinh ra Thiên Chúa được. Mới thoạt nghe thì thấy cũng có lý, nhưng phải trở lại nguyên ủy của vấn đề: Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng Hằng Hữu chỉ phán một lời là dựng nên cả vũ trụ và con người. Tại sao Người không phán một lời để cứu rỗi nhân loại mà lại phải sai Con Một xuống thế “chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.” (Mt 16, 28; Mc 9, 1; Lc 9, 22)? Ấy cũng bởi vì với “con mắt thịt”, loài người chỉ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) mới tin, nếu chỉ phán một lời thì nhân loại không thấy được nên tất nhiên là họ không tin. Vì thế, rất cần một con người bằng xương bằng thịt thực hiện công trình cứu độ, con người đó tất nhiên là chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret với 2 bản vị (Thiên tính + nhân tính) đã trở nên một: Ngôi Lời Nhập Thể.
Tuy nhiên, vì Thệ phản là một phái có thế lực, nên vào năm 431, Hội Thánh đã triệu tập Công đồng Ê-phê-sô dưới sự chủ tọa của thánh Cy-ril-lô, đại diện Đức Giáo Hoàng. Các nghị phụ trong Công đồng này đã tuyên bố giải nhiệm chức giáo chủ của Nes-tô-ri-ô và phủ nhận hoàn toàn giáo thuyết sai lầm của ông ta. Công đồng Ê-phê-sô đã định tín: “Tuyệt thông cho những ai không tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là Thiên Chúa, và bởi thế, Đức Trinh Nữ là Mẹ của Thiên Chúa (Theotokos) vì Mẹ đã hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thành nhục thể theo xác thịt.” Tín điều này tiên vàn tuyên xưng rằng Đấng Em-ma-nu-en (Thiên Chúa ở cùng chúng ta) đã thực sự giáng trần “ở cùng loài người” để cứu độ nhân loại, nên thực sự Người đã hóa thành nhục thể trong lòng Đức Maria. Nói cách khác, khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Hội Thánh cũng khẳng định rằng Ngôi Lời đã thực sự trở thành con người, do một bà mẹ trần gian sinh ra.
Giáo điều ấy liên tục được các Đức Giáo Hoàng tuyên xưng. Điển hình như: Đức Giáo Hoàng Pi-ô XI, đã ban hành Thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Ê-phê-sô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo hội vào ngày 11/10. Bước sang thế kỷ XX, Đức Thánh Cha Pi-ô XII đã thiết lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng thiên chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ân sủng và đặc sủng của Mẹ Maria. Đặc biệt là Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã dành cả chương VIII trong Hiến chế về Giáo hội “Lumen Gentium”, nói về Mẹ Thiên Chúa. Đồng thời với Hiến chế về Mục Vụ “Gaudium et Spes” (số 22-23), Công Đồng còn khẳng định: “Chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.” Và trong Hiến chế về Phụng vụ “Sacrosanctum Concilium”, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa từ ngày 11/10 sang ngày 01/01 hàng năm (Tết dương lịch).
Gần đây nhất, Đức GH Bê-nê-đic-tô XVI trong Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” (số 20) cũng khẳng định: “Vì Đức Maria hoàn toàn thấm nhuần Lời Chúa, nên ngài có khả năng trở thành Mẹ của Lời Nhập Thể … Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe Lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.”
Như vậy, vì có mầu nhiệm Đức Ki-tô Ngôi Lời nhập thể nên mới có mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa. Mầu nhiệm này gắn liền với Con Thiên Chúa làm người. Trong lịch sử Giáo hội, chỉ sau khi xác định chân tướng Đức Giê-su Ki-tô, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, Giáo hội mới xác định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Nếu Chúa Ki-tô chỉ là Thiên Chúa thôi thì không làm gì có “Mẹ Thiên Chúa”. Hay nếu Chúa Ki-tô chỉ là người thôi, cho dầu là “siêu nhân” đi nữa, thì Đức Maria càng không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Cho nên, ngày nay người tín hữu tuyên xưng đức tin mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa là bởi vì mầu nhiệm ấy gắn liền với mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, như trong kinh Tin Kính đã định tín: “Người là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật… Người đã từ trời xuống thế bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người”. Chúng ta tin nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa chính là vì chúng ta tin Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là người thật.
Đêm Ngôi Lời giáng thế, cả trời đất mừng vui hoan hỷ, tụng ca Thánh danh Thiên Chúa, mừng đón Ngôi Hai giáng trần. Ngày trọng đại đó, toàn thể vũ trụ được chứng kiến bao thiên sứ của Thiên Chúa không ngớt lời tôn vinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Trời đất giao hòa chào mừng kỷ nguyên mới khai sinh. Đấng Cứu độ đến giữa lòng nhân loại để thi ân giáng phúc và đem bình an cho mọi người. Vì thế, đêm Noel là đêm của vui mừng, là đêm của bình an, đêm của hồng phúc đến từ Thiên Chúa. Như vậy thì ngày tôn vinh Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã làm cầu nối đem sứ giả hòa binh là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, cũng tất nhiên là ngày vị Con Trời đem bình an xuống cho nhân loại.
Thật vô cùng ý nghĩa khi Giáo hội đặt ngày cầu nguyện cho Thế giới Hòa bình vào ngày lễ Mẹ Thiên Chúa, lại đúng vào dịp đầu năm, ngày mà bất cứ một người nào – không phân biệt màu da, sắc tộc – cũng hoan hỉ chúc mừng lẫn nhau được bình an hạnh phúc. Khi quyết định dời Thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01/01 mỗi năm, chính Chân phước GH Phao-lô VI đã viết trong Tông huấn Tôn kính Đức Maria “Marialis Cultus” (số 5) như sau: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người.”
Hiểu được ý nghĩa cao vời ngày Lễ kính Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa, cũng là ngày cầu cho thế giới hòa bình, người Ki-tô hữu hãy tin rằng trong Giáo hội, chúng ta là các chi thể của một thân thể duy nhất, hỗ trợ nhau, bởi vì mỗi người được trao ban một ân sủng theo tiêu chuẩn quà tặng của Đức Ki-tô, vì lợi ích chung (1Cr 12, 4-7). Đức Ki-tô đã đến thế gian để mang cho chúng ta ân sủng thần linh, nghĩa là khả năng chia sẻ đời sống trong Người. Điều này đòi hỏi một sự xây dựng một cơ cấu các mối tương quan huynh đệ được đánh dấu bởi mối tương quan hỗ tương, sự tha thứ và sự trao ban trọn vẹn, theo chiều sâu và chiều rộng của tình yêu Thiên Chúa được trao ban cho con người nơi Đấng Cứu Độ, đã chịu chết và sống lại, để lôi cuốn mọi người đến với Người.
Sứ điệp ngày Thế Giới Hòa Bình 2015 (số 6) đã khẳng định: “Đây chính là tin vui đòi hỏi từng người chúng ta thực hiện một bước tiến nữa, thực hành liên lỉ sự cảm thông, lắng nghe những nỗi đau khổ và hy vọng của người khác, thậm chí là những ai ở xa chúng ta nhất và bước đi trên con đường tình yêu ấy, một tình yêu sẽ giúp ta biết phải trao ban thế nào và dùng chính mình cách tự do vì lợi ích của anh chị em mình. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta rằng: “Ngươi đã làm gì em ngươi vậy?” (x. St 4, 9-10). Toàn cầu hóa sự thờ ơ, vốn ngày nay đè nặng trên cuộc sống của nhiều anh chị em của chúng ta, đòi buộc chúng ta phải làm nên một sự toàn cầu hóa tình liên đới và tình huynh đệ, để có thể trao ban lại cho họ niềm hy vọng mới và giúp họ tiếp tục bước đi với sự dũng cảm qua những vấn đề của thời đại chúng ta và những chân trời mới mở ra và được Thiên Chúa đặt để vào tay chúng ta.”
Nguyện xin Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội và là Nữ Vương Hòa Bình, giúp chúng con hiểu và sống mọi ngày tình huynh đệ vốn bắt nguồn từ Thánh tâm chí nhân chí ái Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ, để chúng con có thể mang bình an đến cho mọi người trên trái đất yêu dấu này. Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, ngày Ðức Trinh Nữ Maria sinh hạ Ðấng Cứu Thế, Chúa đã tặng ban cho nhân loại, kho tàng ơn cứu độ muôn đời. Xin cho chúng con được nhờ lời Ðức Mẹ nguyện giúp cầu thay, vì chính nhờ Ðức Mẹ chúng con mới được nhận lãnh nguồn sức sống vĩnh cửu là Ðức Giê-su Ki-tô, Con Chúa, Chúa chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời).
Làm mẹ là một bản năng, đồng thời là một thiên chức kỳ diệu và cao quý trong hai thiên chức đặc 1/1-98
Làm mẹ là một bản năng, đồng thời là một thiên chức kỳ diệu và cao quý trong hai thiên chức đặc thù của nữ giới: Làm vợ và làm mẹ.
Bản chất làm mẹ là nguyên lý nội tại soi rọi mọi lĩnh vực sống người phụ nữ, gắn liền với nữ tính, được hình thành và phát triển theo chiều hướng nữ tính ngay khi sự sống được hình thành trong cung lòng người mẹ. Sau nhiều năm nghiên cứu tâm lý con người – đặc biệt là nữ giới, nhà phân tâm học Helene Deutsch (1884-1982, Ba Lan, đồng nghiệp với Sigmund Freud) đã nhận định: “Nơi con người, không một cấu tố nào đứng biệt lập khỏi cấu tố khác. Chính thế, người là một hữu thể quá phức tạp nhưng đầy hấp dẫn”.
Trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium” (tháng 11-1964) ĐGH Phaolô VI cho biết: “Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thánh, và cùng đau khổ với con mình chết trên thập giá. Đức Maria đã cộng tác rất đặc biệt trong công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, Người thật là Mẹ chúng ta” (số 61).
HẠNH PHÚC CÓ MẸ
Khởi và Kết luôn liên quan lẫn nhau. Năm cũ qua và năm mới tới. Ngày đầu năm dương lịch là ngày Tết, là ngày cầu cho hòa bình thế giới, và đặc biệt là ngày lễ mừng kính Thánh Mẫu Thiên Chúa. Ai cũng có mẹ, và có mẹ là có niềm vui và an toàn đối với con cái. Mẹ là tất cả của con, là “sợi dây” mong manh nhưng vững bền khả dĩ đưa cánh-diều-con bay lên cao vút.
Thật kỳ diệu khi Thiên Chúa tạo nên Người Mẹ, Con Thiên Chúa đã sống trong sự che chở và đùm bọc của Đức Mẹ suốt 30 năm trời, chắc chắn không bao giờ chúng ta hiểu hết Tình Mẫu Tử. Biết bao tác phẩm nghệ thuật diễn tả Tình Mẹ nhưng chẳng bao giờ đầy đủ, không thể trọn vẹn, chỉ có thể diễn tả một phương diện nào đó. Các danh nhân cũng diễn tả Tình Mẹ theo cảm nhận riêng của mỗi người: “Nơi ẩn náu yên ổn nhất là lòng mẹ” (Florian), “Trên môi và trong trái tim đứa con: Mẹ chính là tên của Thượng Đế” (Thackeray), “Tương lai của con là công trình của mẹ” (Napoléon I), “Trái tim người mẹ là kiệt tác của Thượng Đế” (Gretry), “Lòng mẹ là vực sâu mà dưới đáy luôn có sự khoan dung” (Balze).
Mỗi người đều có một vị trí riêng, người cha và người mẹ cũng vậy, nhưng vị trí của mẹ luôn có điều đặc biệt, hầu như không thể thay thế. Có lẽ thấy Tình Mẫu Tử quá đặc biệt và kỳ diệu mà thi sĩ Chế Lan Viên đã xác định: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ; Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con” (thi phẩm “Con Cò”). Con vui thì mẹ mừng, nhưng con đau một thì mẹ đau mười. Còn có mẹ thật hạnh phúc, nhưng thật bất hạnh cho những ai chịu mồ côi: “Mồ côi cha là một lần mồ côi, mồ côi mẹ là bảy lần mồ côi”. Thảo nào tục ngữ Việt Nam phân biệt: “Mất cha ăn cơm với cá, mất mẹ liếm lá đầu đường”. Mồ côi mẹ khổ thật!
Phàm ngôn không thể diễn tả đầy đủ về Tình Mẫu Tử. Có thể nói rằng Tình Mẹ là nốt trầm trong “bản giao hưởng cuộc đời”, nốt trầm ít được lưu ý nhưng lại vô cùng quan trọng, vì đó là nốt làm nền để làm nổi bật những nốt khác, làm nổi bật cả giai điệu. Cố NS Y Vân đã cảm nhận sâu sắc về Tình Mẹ, và ông so sánh: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào, Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…” (Lòng Mẹ).
Từ xa xưa, Đức Chúa đã phán với ông Môsê: “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em! Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6:22-27). Lời chúc bình an luôn được sử dụng nhiều, cả trong tôn giáo lẫn xã hội. Lời chúc lành đẹp nhất chắc hẳn là lời chúc bình an: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2:14). Cuộc sống trần gian luôn thiếu bình an – cả tinh thần và thể lý, thế nên chúng ta luôn tha thiết cầu xin ơn bình an: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin ban bình an cho chúng con”.
Ai cũng khả dĩ biết rằng chiến tranh rất nguy hiểm, vì thế mà hòa bình vô cùng cần thiết, dù hòa bình về phương diện xã hội hoặc tinh thần, nhưng phải là sự hòa bình đích thực. Nền hòa bình trọn vẹn phải được an toàn cả về thể lý lẫn tinh thần. Một đất nước không xảy ra chiến tranh bom đạn được cho là có hòa bình, nhưng rất có thể đó chỉ là sự hòa bình giả tạo, bởi vì nhân dân còn bất an về nhiều phương diện khác, chưa thực sự có công lý nghiêm minh thì không thể có hòa bình đích thực.
Với ý thức đó, Thánh Vịnh gia đã chân thành tha thiết cầu xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Ước nguyện là một dạng cầu chúc, ước cho chính mình và mong cho người khác: “Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài! Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:4-6). Ước nguyện cũng là một dạng cầu nguyện.
Trong suốt Mùa Vọng, chúng ta xin trời cao đổ sương thánh xuống và ngàn mây mưa Đấng Cứu Tinh, và chúng ta đã được thỏa nguyện ngay trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh: “Đất đã sinh ra mùa màng hoa trái: Chúa Trời, Chúa chúng ta, đã ban phúc lộc” (Tv 67:7). Đấng Emmanuel đang ở với chúng ta. Nhưng chúng ta không thể dừng lại ở đó, rồi lo hưởng thụ mà quên cầu nguyện. Chúng ta rất dễ “ngủ quên trong chiến thắng”, vì thế mà chúng ta vẫn phải luôn tỉnh thức và cầu xin không ngừng: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8).
Thật kỳ diệu, tất cả các lời tiên tri đã ứng nghiệm rạch ròi, hai năm rõ mười, hoàn toàn chính xác: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến THỜI SAU HẾT, tức là TRONG NHỮNG NGÀY NÀY, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con” (Dt 1:1-2). “Những ngày này” không chỉ là Tuần Bát Nhật Giáng Sinh hoặc Mùa Giáng Sinh, mà còn là thời đại chúng ta đang sống.
Nhân loại đang sống trong thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học tiến bộ đa dạng, đặc biệt là về Internet, nhưng lại là thời cánh chung, thời viên mãn. Thánh Phaolô cho biết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:4-6). Không gì có thể so sánh với niềm hạnh phúc quá lớn như vậy. Tại sao thế?
Đây là lời giải thích của Thánh Phaolô: “Anh em KHÔNG còn phải là nô lệ nữa, nhưng là CON, mà đã là con thì cũng là NGƯỜI THỪA KẾ, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4:7). Hạnh phúc tăng theo cấp số nhân, vì chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn đáng án tử, thế mà lại được trắng án, đặc biệt hơn nữa là chúng ta được phục hồi nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, được làm con cái của Thiên Chúa và được kế thừa di sản thánh: “Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3:1). Chuyện như không tưởng mà lại là sự thật trăm phần trăm, không hề mơ hồ, cũng chẳng hề ảo tưởng.
PHÚC ĐỨC TẠI MẪU
Chúng ta mất Người Mẹ thứ nhất: Bà Tổ Êva. Thiên Chúa lại ban cho chúng ta Người Mẹ thứ nhì: Đức Maria. Không chỉ vậy, Ngài còn ban cho chúng ta Người Mẹ thứ ba: Mẹ riêng của mỗi người. Kế hoạch của Thiên Chúa kỳ diệu vô cùng! Trong đời thường, người ta xác định: “Phúc đức tại mẫu”. Về tâm linh, ân phúc chúng ta được tận hưởng nhờ lời “xin vâng” của Đức Mẹ: Ngôi Hai nhập thể và khởi đầu công trình cứu độ.
Trình thuật Tin Mừng Lc 2:16-21 đề cập Thánh Mẫu Thiên Chúa, một phụ nữ vốn dĩ là một thôn nữ bình thường, nhưng lại có đức tính nhu mì khác thường.
Thánh sử Luca cho biết rằng khi nghe các thiên thần báo tin lạ, các mục đồng liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp Đức Maria, Đức Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Tận mắt tỏ tường, sự thật minh nhiên chứ không mơ hồ hoặc mộng mị. Chắc chắn lúc đó lũ trẻ chăn chiên léo nhéo nói cười với nhau vì thích thú, và cũng nựng Bé Giêsu nhiều lắm. Thật đáng yêu biết bao!
Các mục đồng là đám dân nghèo, khi thấy hoàn cảnh của Thánh Gia như thế, chắc họ cũng được an ủi và vui sống kiếp nghèo của họ. Vâng, họ chỉ là những người chăn chiên thuê nhưng họ thật diễm phúc vì được trở nên các chứng nhân đầu tiên về sự giáng sinh của Con Thiên Chúa. Vấn đề quan trọng là các mục đồng đã TIN thật lòng, và họ đã tin đúng. Nếu là chúng ta, liệu chúng ta có đủ lòng tin hay còn đắn đo, nghi ngờ? Có lẽ chúng ta muốn “xét lại” lắm đấy!
Sau khi mục sở thị, đám mục đồng liền kể lại điều đã được thiên thần nói về Hài Nhi được “bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Dân Việt có câu: “Đi xa hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Trẻ em hoàn toàn vô tư và đơn sơ, không biết giấu giếm, lọc lừa, cứ có sao nói vậy. Nghe các lũ trẻ chăn chiên thuật “chuyện lạ”, ai cũng ngạc nhiên. Không ngạc nhiên sao được vì chuyện quá lạ lùng, ngoài sức tưởng tượng. Thế nhưng họ cũng đã tin lời kể của lũ trẻ nghèo kia là thật. Thật phúc thay cho họ!
Chỉ riêng Người Mẹ Trẻ Maria có động thái khác lạ: “Hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Rõ ràng Đức Mẹ ít nói lắm, chỉ cười thôi. Hiền quá chừng luôn! Thật vậy, khi hiện ra với cô bé Bernadette ở Lộ Đức (1858), Đức Mẹ cũng hay cười. Bernadette hỏi mãi rồi Đức Mẹ mới xác nhận Mẹ là Mẹ Vô Nhiễm. Sau khi đã tỏ tường, các người chăn chiên ra về, họ vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được thiên thần báo trước với họ.
Và rồi Thánh sử Luca tiếp tục cho biết: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu, đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ”. Mọi điều diễn biến hoàn toàn ứng nghiệm đúng như lời tiên tri đã nói từ xa xưa.
Chắc hẳn ai cũng khả dĩ nhận thấy Người Mẹ rất lạ lùng, và Tình Mẹ rất kỳ diệu. Khi Thiên Chúa muốn Con Một Giêsu giáng sinh làm người, Ngài biết đường đời gian nan lắm nên Ngài đã tiền định cho Con Trẻ Giêsu một Người Mẹ đặc biệt. Chúng ta thật hạnh phúc vì cũng được tiền định làm con cái của Đức Thánh Maria – Thánh Mẫu Thiên Chúa. Hợp cùng Đức Mẹ, chúng ta hãy đồng ca Ân Khúc Magnificat của Đức Mẹ, và cùng dâng lời Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô Assisi, đặc biệt là hôm nay – ngày cầu bình an cho thế giới, cho mọi dân nước và cho Nước Việt yêu dấu của chúng ta.
Đầu năm kính Mẹ Chúa Trời
Hân hoan cảm tạ muôn lời chúc khen
Lạy Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu, xin thương xót những người mồ côi, nhất là các trẻ em, xin giúp chúng con luôn kiên trung tôn thờ một Cha trên trời và chu toàn bổn phận làm con. Xin Ngài cũng giúp chúng con luôn chân thành tôn kính cha mẹ của chúng con cho trọn đạo làm con, biết quý trọng chữ Hiếu với tiền nhân và chữ Tình với anh chị em. Xin Ngài biến đổi chúng con thành khí cụ bình an của Ngài.
Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa và Hiền Mẫu của chúng con, xin an ủi những người mồ côi, xin thương nguyện giúp cầu thay và thúc đẩy chúng con quyết tâm thực hiện đúng lời khuyên của Mẹ, đặc biệt là các Mệnh Lệnh Fatima. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Lời tuyên tín của Giáo Hội Công giáo về Đức Maria là như vậy. Và, quả thật như vậy, Bởi vì 1/1-99
Lời tuyên tín của Giáo Hội Công giáo về Đức Maria là như vậy. Và, quả thật như vậy, Bởi vì, ai tin vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, thì cũng phải xác tín điều ấy. Bởi vì, Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa không thể tách rời Mầu Nhiệm làm Người của Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa Nhập Thể trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Rồi chính Mẹ hạ sinh Người trong máng cỏ Bê-lem, như trong câu 16 của trang Tin Mừng (Lc 2) hôm nay: “ … Đến nơi họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (c 16)
Vâng, hình ảnh nầy cũng là Thánh Gia, cảnh tượng nầy là cảnh tượng của Mầu Nhiệm Nhập Thế của Ngôi Hai Thiên Chúa, Người được gọi là “ CON THIÊN CHÚA’’. Vâng, quả thật Người là Con Thiên Chúa, vì thế, Đấng sinh ra Ngôi Lời bởi sự hữu thể, chính là “MẸ THIÊN CHÚA’’.
Khi xác tín như thế, Giáo Hội Công giáo không thể “đặt” sự tuyên tín nầy trên Thiên Chúa Cha, mà là tuyên tín một chân lý của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Bởi vì, Mầu Nhiệm Cứu Độ không thể tách rời Mầu Nhiệm Nhập Thể được.
Vì chúng ta biết Chúa Giêsu có hai bản tính: Một là bản tính Thiên Chúa, hai là bản tính nhân loại. Bản tính nhân loại không thể không có người mẹ sinh ra, bởi vì, dù là Thiên Chúa, nhưng, Người đã tự nguyện mặc lấy mầu nhiệm làm Người, để cứu độ nhân loại bởi sự hữu hình, theo đó, Người phải chọn cho mình một Mẫu Thân. Vì thế, Mẫu Thân của Chúa Giêsu là Đức Trinh Nữ Maria. Bởi vì, chính Đức Trinh Nữ Maria không thể tự chọn cho mình Thiên Chức làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa được.
Tật cả các mầu nhiệm cứu độ nhân thế đều phát sinh từ mầu nhiệm “ yêu thương “ của Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria cũng vậy, Mẹ được chọn để được cứu độ, Mẹ được gọi để trở nên tình thương của Thiên Chúa được thực hiện trên nhân loại.
Không ai cao cả hơn Thiên Chúa, chính Ngài ở trên cao và chọn kẻ dưới đất thấp, dù chúng nhân có xây dựng cho mình những tòa lâu đài kiên cố, hoặc những dinh thự nguy nga đi chăng nữa, nhưng tất cả mọi thứ ấy đều bị hủy hoại, đều bị bỏ đi. Vì, bộ mặt thế gian sẽ qua đi, nhưng, những chân lý thì không thể hư mất.
Nhân thế được sinh ra trên mặt đất không thể “vĩnh cư” trên mặt đất, công sức con người trên mặt đất chỉ là hư vô, bởi lẽ, con người chẳng biết mình từ đâu và do đâu, nếu như họ phủ nhận Thiên Chúa.
Chúng ta thấy như thế, con người thật đáng thương, dù họ tội lỗi, vì thế, Thiên Chúa là tình yêu, để làm cho nhân thế nhận biết chân lý nơi tình yêu duy nhất từ Thiên Chúa.
Theo đó, không có mầu nhiệm nào lớn hơn ơn Cứu Độ, từ Mầu Nhiệm Cứu Độ nơi Thiên Chúa, Người ban cho tất cả chúng nhân những ân sủng siêu nhiên, trong đó có những mầu nhiệm liên đới., như mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế, Mầu Nhiệm Mẹ Thiên Chúa, Mầu Nhiệm Giáng Sinh, Phục Sinh. v.v…
Trọng trách Mẹ Thiên Chúa nơi Đức Trinh Nữ Maria chỉ là một trọng trách “làm Mẹ” bình thường với trọng trách người mẹ, có nghĩa là Mẹ dâng chúa Giêsun vào đền thờ,thanh tẩy theo luật Môi-sen, tiến dâng làm lễ cắt bì cho Chúa Giêsu, đặt Tên cho Chúa Giêsu, Tên mà sứ thần đã loan báo, nhưng, điểm đáng chú ý nơi Đức Mẹ là, Mẹ hằng suy tưởng những những điều kỳ diệu xảy ra với Chúa Giêsu, dù là Con của Mẹ, nhưng, Mẹ hằng suy đi nghĩ lại trong lòng, có nghĩa là Mẹ luôn chú tâm đến các mầu nhiệm xảy ra với Chúa Giêsu.
Như thế, các mục đồng là những chứng nhân tiên khởi cho mầu nhiệm Giáng Sinh của Con Thiên Chúa làm Người, đồng thời vinh quang nơi Đấng Cứu Thế được tỏ hiện nơi nhân loại.
Như vậy, “GIÊSU” là “Tên” của một Ngôi Vị Thiên Chúa làm Người, để ở giữa nhân loại, chứ Thiên Chúa không có “Danh tính” bởi vì Ngài là Thiên Chúa. Có lần chính Thiên Chúa tỏ cho Môi-sê biết “Danh Ngài” là ADONAI nghĩa là “YEHOWA”, “YAHVE”, nghĩa là Đức Chúa. Danh tính nầy chưa từng tỏ cho ai, kể cả Ápraham, Isaac, và Gia-cóp.
Theo đó, khi nói về Mẹ Thiên Chúa, chính là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Rõ ràng, nơi Đức Mẹ không thể nhận tước hiệu là ”Con Thiên Chúa’’ được. Vì Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu. Như vậy, “GIÊSU” có nghĩa là “Đấng Cứu Độ”. Như vậy, Đức Mẹ được gọi là “ Mẹ Đấng Cứu Chuộc’’, thì chính xác hơn là “Mẹ Đồng Công”.
Chúng ta thấy, mỗi vị Giáo Hoàng có một “đặc ân”, ơn bất khả ngộ của các Đức Giáo Hoàng là riêng biệt, mỗi vị đều nhận được mặc khải riêng tư. Vì thế, chúng ta tôn trọng, vâng lời tuyệt đối các Vị Giáo Hoàng là điều minh chính vậy.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, không có sự thật nào lớn hơn chân lý, cũng không có ân sủng nào lớn hơn tình yêu. Vì thế, Thiên Chúa đã biểu lộ chân lý và tình yêu nơi Đức Giêsu- Kitô, một mặc khải lạ lùng và một ân sủng lớn lao, trong đó Mầu Nhiệm làm Người của Người phải có một Người Mẹ. Vì thế, Đức Trinh Nữ Maria, từ một thụ tạo, được kêu mời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, xin cho chúng con mỗi ngày biết kính tin sùng mộ một mầu nhiệm quá đỗi lớn lao của Mẹ Rất Thánh, hầu phát sinh ân sủng siêu nhiên cho chúng con. Amen.
Sống hiếu sống thảo, từ xa xưa vẫn được con cháu thực thi như một sứ mạng cao cả, xuất phát 1/1-100
Sống hiếu sống thảo, từ xa xưa vẫn được con cháu thực thi như một sứ mạng cao cả, xuất phát bởi công đức sinh thành, hoặc ơn cha nghĩa mẹ. Để nên vợ thành chồng, để có thánh lễ khấn dòng, để các ứng sinh gia nhập hàng giáo sĩ, tất cả đều được thẩm vấn về tình yêu và sự tự do. Giới văn nghệ sĩ thường lấy tình yêu nam nữ làm đối tượng sáng tác nghệ thuật, diễn tả đời người là một bức tranh gia đình sống động: đôi ta như chỉ xe ba, cha mẹ xe ít, đôi ta xe nhiều. Cũng do vị trí của người vợ rất quan trọng nơi gia đình, nên trong ca dao tục ngữ, khi nói về người vợ, tiền nhân chúng ta nói: giầu vì bạn, sang vì vợ ; vợ hiền là trăng rằm sáng soi. Lại vì chữ tình trĩu nặng, nhạc sĩ Y-vân đã diễn tả: “Lòng Mẹ bao la như biển thái bình”, gợi lên nhiều cảm xúc cho những ai sống phận làm con.
Mừng lễ Maria Mẹ Thiên Chúa, không phải là lúc chúng ta bày tỏ lòng cảm kích đối với người làm mẹ, làm vợ, đúng hơn, phận làm con trong gia đình Hội-thánh phải lớn lên về ý thức, phải trưởng thành về nhân cách, hầu tiếp tục truyền thống “cha là núi, mẹ là sông”. Mẹ Thiên Chúa là Mẹ cưu mang Ngôi Lời nhập thế, trước khi được gọi, được chọn, làm Mẹ Đấng Em-ma-nu-el, Mẹ là một thiếu nữ Do-thái đạo hạnh. Sau khi hoàn tất sứ mạng làm Mẹ Đấng cứu độ, đứng dưới chân thập giá, Mẹ đã nhận lãnh sứ vụ làm Mẹ Giáo hội, đồng hành, bầu chữa cho kẻ tội lỗi trước toà Chúa. Tất cả những ai là con đều được sinh ra từ người mẹ, tất cả những ai tin thờ Chúa đều vinh dự được gia nhập Đại gia đình của Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, gọi Đức Giêsu là Đấng cứu độ, gọi Đức Maria là Mẹ từ ái.
Hôm nay đây, ngày cuối cùng tuần bát nhật Giáng Sinh, ngày đầu tháng đầu năm, ngày mà nhân loại đang chào chúc nhau sức khoẻ, niềm vui, phúc lộc dư đầy, cùng ước mong được sống những ngày tháng ở phía trước đầy ý nghĩa. Khi nhắc tới cội nguồn, mọi người đều nghĩ đến công đức sinh thành, khi nói tới lý trí, ý chí, con cháu thường dõi theo người cha, khi nói đến “chữ tình”, chúng ta thường bày tỏ cảm xúc bằng hình ảnh người mẹ. Nơi người mẹ chỉ có tình yêu thương, có trọng trách với con cháu: nuôi con chẳng ngại đến thân, chỗ ướt mẹ nằm chỗ ráo con lăn. Đúng là mẹ theo huyết thống hay mẹ theo đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo-hội, đều mang chung một bận tâm: chia sẻ yêu thương, phục vụ trong tin yêu, “còn Maria thì ghi nhớ tất cả các sự kiện đó và suy niệm trong lòng”.
Hôm nay hay hôm xưa, cách sống hay cách bày tỏ tình cảm của con người rất khác nhau, nhưng tình mẹ thì không thay đổi: tương lai của đứa con, luôn là công trình của người mẹ. (Napoleon). Mẹ Maria được thánh sử Luca nhắc tới nhiều ưu tư về Hài-nhi Giêsu từ thời thơ ấu, rồi một chuỗi dài ngày tháng là lời thưa vâng cho đến khi Đức Giêsu hoàn tất mầu nhiệm cứu độ. Mẹ Maria tiếp tục sứ mạng chăm sóc dưỡng dục, hiệp nhất tâm hồn người thế nên một đoàn chiên duy nhất trong Đức Kitô. Người ta có thể đo được độ sâu, kiểm tra được chiều dài chiều rộng của biển cả, nhưng công đức của bậc sinh thành thì làm sao mà cân đo đong đếm! Giáo hội có thể nói về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, phụng vụ hàng tháng trong năm, đều có những ngày lễ kính nhớ Đức Maria, nhưng liệu Giáo-hội có thể hiểu và chia sẻ đầy đủ nhất về “chữ tình” của Mẹ cho con cháu không?
Các văn sĩ, những thế hệ con cháu, họ có thể nói rất hay về mẹ, có thể tâm phục khẩu phục về tư cách của mẹ mình, mẹ là gương sáng, mẹ từng âm thầm và quyết đoán trong giáo dục đức hạnh cho con cháu: mẹ là người có thể thay thế bất lỳ ai khác, nhưng không ai khác có thể thay thế được mẹ. Hôm nay, phụng vụ đang nói tới Mẹ Thiên Chúa, chúng ta đọc được gì, chúng hiểu gì về tình yêu thương của Mẹ dành cho việc chăm sóc, cộng tác, và đồng công trong mầu nhiệm cứu độ của Đức Giêsu? Mẹ Thiên Chúa hẳn cũng không cần chúng ta nói hay, nói giỏi về cách sống, cách chu toàn sứ mạng Chúa trao cho Mẹ, nhưng là cần mỗi người chúng ta biết sống tình con thảo, biết thực thi lời thưa vâng như Mẹ.
Cha mẹ thương con biển hồ lai láng, kinh nghiệm ấy không phải là lý thuyết mơ hồ, mỗi chúng ta đều có cơ hội để trả lời về công đức sinh thành mà ta đã nhận, mỗi người có thể nói không lưu loát, nhưng sẽ hành động đẹp và hay. Tương lai ở phía trước, cuộc đời là như vậy, ngày nào chưa đi đến điểm cuối, thì chúng ta chưa thể biết ai sẽ là người cùng ta đi hết chặng đường? Niềm tin vẫn đang mách bảo: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” là sự thật. Mẹ Maria sẽ là Đấng theo con cái của Mẹ đến ngày cùng tận, đó là tình thương, đó là sứ mạng mà Mẹ đã nhận dưới chân thập giá năm xưa. Chúng con xin chúc tụng Chúa, tôn vinh Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo-hội, Mẹ của từng tâm hồn chúng con. Amen.