Suy Niệm Tin Mừng Lễ Giáng Sinh 25/12 ABC Bài 351-400 Đấng Cứu thế đã sinh ra cho chúng ta -------------------------- Lễ Vọng 24/12 Phúc Âm: Mt 1,1-25 (bài dài) "Dòng dõi Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa; Phares sinh (bởi bà Thamar) và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít. Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon. Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu. - Ðó là Lời Chúa.
Lễ Nửa Ðêm
Phúc Âm: Lc 2,1-14 "Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai. Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán. Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ". Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm". - Ðó là Lời Chúa.
Lễ Rạng Ðông Phúc Âm: Lc 2,15-20 "Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: "Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết". Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. - Ðó là Lời Chúa.
Lễ Ban Ngày (Bài dài) Phúc Âm: Ga 1,1-18 {hoặc 1-5.9-14} "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra. Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi". Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta. - Ðó là Lời Chúa.
(Lễ Giáng sinh 2015 (Lễ ban ngày) – ĐGM. Giuse Nguyễn Năng)
Trung tâm điểm và đồng thời cũng là cao điểm của bài Tin Mừng hôm nay là lời khẳng định của thánh GS-351
Trung tâm điểm và đồng thời cũng là cao điểm của bài Tin Mừng hôm nay là lời khẳng định của thánh Gioan: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Con Thiên Chúa đã trở nên con người và đi vào lịch sử loài người. Con Thiên Chúa nhập thể để làm gì?
1. Thánh Gioan nói trong lời mở đầu của Tin Mừng: Ngôi Lời đến để chiếu sáng thế gian, để tỏ cho thế gian biết Chúa Cha; nhưng đây là thế gian chìm ngập trong bóng tối. Tác giả thư Do Thái (Bài đọc 2) cho thấy Con Thiên Chúa đến trần gian để mạc khải Chúa Cha cho chúng ta, và còn hơn nữa, để chịu chết và đền tội cho chúng ta. Con Thiên Chúa đến trần gian để tẩy trừ tội lỗi, và “sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Con Thiên Chúa lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời”.
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Ngôi Lời làm người để cứu độ nhân loại. Ơn cứu độ trước hết hệ tại ở ơn tha tội. Thiên Chúa tha thứ cho tội lỗi của nhân loại. Chúa Giêsu đã thực sự sống cuộc đời của con người, trải qua những kinh nghiệm của đời người, chỉ trừ tội lỗi, để đền tội cho chúng ta.
2. Ơn cứu độ không phải là một trò ảo thuật. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối tội lỗi cần được Ánh sáng chiếu soi. Nhưng Thiên Chúa không đọc câu thần chú để làm tiêu tan bóng tối. Để chiếu sáng thế gian, Ánh sáng đã đi vào thế gian tăm tối, chứ không chiếu sáng từ bên ngoài. Nhân loại chìm ngập trong tội lỗi cần được tha thứ. Nhưng Thiên Chúa không cứ ở mãi trên trời cao tuyên bố lời tha bổng tội lỗi cho con người. Không, tội lỗi quá nặng nề, nên ơn tha tội không quá rẻ như thế. Thiên Chúa không ở trên toà cao, trái lại, đã cho Con Một mình đi vào đời, làm người để đền tội cho chúng ta.
Có tội thì phải đền tội. Đó là lẽ công bằng, là đòi hỏi của công lý. Nếu không đền tội, thì còn đâu công lý? Nhưng ngược lại, nếu Thiên Chúa cứ đòi hỏi theo luật công bằng thì còn đâu tình yêu thương? Hơn nữa, loài người đâu có gì để đền bù cho cân xứng với sự xúc phạm đến Thiên Chúa.
Trong mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã làm một tổng hợp tuyệt vời, vừa thực thi công lý vừa biểu lộ lòng thương xót. Đúng hơn, công lý của Thiên Chúa lại cũng chính là lòng thương xót, bắt nguồn từ lòng thương xót. Do lòng thương xót, Thiên Chúa ban cho chúng ta có cái gì đó để đền bù tội lỗi cho cân xứng. “Cái gì đó” là chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Người ta kể về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau. Một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một ổ bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “Gia đình tôi đang chết đói”.
Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biện bạch của ông lão, ông thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: “Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải nộp 10 đôla”. Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong túi của mình ra 10 đôla và trao cho người đàn ông khốn khổ.
Đó là phần đầu của câu chuyện. Cùng một lúc, ông thị trưởng vừa thi hành công lý vừa tỏ lòng thương xót đối với kẻ ăn trộm, thi hành công lý bằng cách thương xót.
Thiên Chúa là vị Quan toà tối cao đòi loài người phải đền tội vì đã phạm tội, xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa. Đó là công lý. Nhưng Thiên Chúa lại thi hành công lý bằng cách thực thi lòng thương xót. Vì quá yêu thương thế gian, Thiên Chúa đã ban tặng Con Một cho thế gian, để người Con ấy đền tội thay cho chúng ta. Con Một của Thiên Chúa đã làm người để đền bù tội lỗi thay cho toàn thể nhân loại. Thiên Chúa đi bước trước và biểu lộ lòng thương xót để chúng ta có khả năng thi hành công lý đối với Thiên Chúa.
Công lý là những gì chúng ta nhận được do việc chúng ta làm. Còn lòng thương xót là những gì chúng ta nhận được do việc Thiên Chúa làm. Lòng thương xót của Thiên Chúa bao trùm và vượt trên cả những đòi hỏi của công lý.
Mầu nhiệm Giáng sinh là mầu nhiệm của lòng thương xót. “Thiên Chúa ta đầy lòng thương xót, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta” (Lc 1, 78). Khi mừng mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã ban cho chúng ta người Con Một để người Con ấy đền tội nhân danh toàn thể nhân loại. Mầu nhiệm Giáng sinh là quà tặng của lòng thương xót. Lòng thương xót được biểu lộ hôm nay qua mầu nhiệm Giáng sinh, và sẽ đạt tột đỉnh qua việc Thiên Chúa hy sinh trọn vẹn Con Một mình trong mầu nhiệm Thập giá.
3. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Mầu nhiệm Nhập thể chiếu toả ánh sáng vào thân phận con người để chúng ta nhận ra rằng những anh chị em nghèo hèn đói khổ đang sống bên cạnh chúng ta là chính Chúa. Chúng ta đã được Thiên Chúa thương xót, vì thế hãy thương xót lẫn nhau.
Trở lại với câu chuyện ăn cắp ổ bánh mì.
Sau khi trao cho người ăn cắp 10 đôla để nộp phạt, ông thị trưởng quay xuống cử tọa nói tiếp: “Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp". Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền và trao tất cả cho ông lão. Khi chiếc mũ đã được chuyền một vòng, người ta đếm được 47 đôla 50 xu. Ông thị trưởng trao tất cả cho ông lão. (Trích từ “Lẽ Sống”).
Có bao giờ chúng ta nhận thấy mình cũng có trách nhiệm về những tội ác xảy ra hằng ngày chung quanh chúng ta không? Biết đâu vì chúng ta dửng dưng vô cảm, thiếu liên đới chia sẻ, nên mới xảy ra biết bao tội ác trong xã hội! Không nhiều thì ít, một cách nào đó, trực tiếp hoặc gián tiếp.
Nếu chúng ta ý thức về trách nhiệm liên đới, chia sẻ, thực sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, chúng ta sẽ góp phần giảm bớt cảnh đói khổ, và như thế tội ác trên thế giới cũng sẽ giảm đi. Thế giới không thiếu thực phẩm, không thiếu tài nguyên. Chỉ tại thiếu lòng thương xót.
Chúng ta thực sự có lỗi, có tội, có trách nhiệm, và là lỗi nặng, trách nhiệm nặng, khi không quan tâm đến cảnh đói khổ của tha nhân. Dụ ngôn về ngày phán xét chung (x. Mt 25, 31-46) cho ta hiểu rằng sự dửng dưng vô cảm trước những nỗi đói khổ của người khác là một lỗi nặng đưa chúng ta đến lửa đời đời. Mầu nhiệm Nhập thể nhắc chúng ta nhớ rằng mỗi người sẽ bị xét xử tuỳ theo thái độ của mình đối với người anh chị em nghèo hèn đói khổ, không phải chỉ vì họ là hình ảnh của Chúa, mà hơn nữa, vì khi chúng ta giúp đỡ họ là chúng ta giúp đỡ Chúa, và ngược lại, khi sống vô cảm mà gạt bỏ họ là chúng ta gạt gạt bỏ chính Chúa.
4. Có bao giờ chúng ta tự hỏi: nếu thế giới này không có Chúa Giêsu thì sẽ ra sao? Nếu Thiên Chúa không thương xót nhân loại mà ban tặng Con Một, nhân loại có còn tồn tại đến hôm nay không? Thư Do Thái (Bài đọc 2) trả lời: “Thiên Chúa đã nhờ Con Một mà dựng nên vũ trụ”; hơn nữa, vạn vật được duy trì và tồn tại là nhờ Chúa Giêsu. Còn trong Tin Mừng, thánh Gioan khẳng định: “Từ nguồn sung mãn của (Ngôi Lời làm người), tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”.
Mầu nhiệm Giáng sinh củng cố niềm hy vọng của thế giới. Nhân loại còn sống và tồn tại được là vì có Chúa Giêsu, cuộc đời chúng ta tràn đầy niềm vui và hy vọng là nhờ tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Tương lai của nhân loại tuỳ thuộc thái độ của con người sống lòng thương xót như thế nào, tuỳ thuộc con người có biết đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa và biết thương xót lẫn nhau không. Thế giới này là “nhà” của Chúa Giêsu, nhưng khi “Ngài đến nhà mình, thì người nhà đã không đón nhận”. Qua mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta hiểu rằng nhân loại không thể hưởng bình an và hạnh phúc nếu không có Chúa Giêsu, thế giới này sẽ không có tương lai khi gạt bỏ Chúa Giêsu là hiện thân của lòng thương xót.
Lễ Giáng sinh là khởi đầu cho tương lai tươi sáng của nhân loại. Hãy xây dựng đời mình trên nền tảng chân lý và ân sủng là chính Chúa Giêsu.
Đêm nay "một ánh sáng tuyệt vời" chiếu sáng (Is 9: 1); ánh sáng của Chúa Giêsu giáng sinh tỏa sáng chung quanh tất cả chúng ta. Thật đúng và thời điểm trong những lời của tiên tri Isaia mà chúng ta vừa nghe: “Ngài đã mang lại niềm vui dồi dào và niềm vui lớn lao" (9: 2)! Trái tim chúng ta đã vui mừng trong chờ đợi thời điểm này; bây giờ niềm vui sung mãn và tràn đầy, vì cuối cùng lời hứa đã được thực hiện. Vui mừng hớn hở là dấu chỉ chắc chắn rằng sứ điệp chứa đựng trong mầu nhiệm của đêm này thật sự là từ Thiên Chúa. Không còn nghi ngờ gì nữa; hãy để lại sự nghi ngờ đó cho những người còn bi quan, vì chỉ tìm kiếm lý lẽ không thôi thì không bao giờ tìm ra sự thật. Không có chỗ cho sự thờ ơ đó ngự trị trong trái tim của những người không thể yêu vì sợ mất một cái gì đó. Tất cả nỗi buồn đã bị trục xuất, vì Hài Nhi Giêsu mang lại sự an ủi đích thật cho mọi trái tim.
Hôm nay, Con Thiên Chúa sinh ra, và tất cả mọi thứ thay đổi. Đấng Cứu Thế của thế giới đến để tham dự vào bản tính con người của chúng ta; chúng ta không còn lẻ loi và bị bỏ rơi. Đức Trinh Nữ cho chúng ta Con của Ngài như là sự khởi đầu của một cuộc sống mới. Ánh sáng thật đã đến để soi sáng đời sống chúng ta mà thường xuyên bị bao vây bởi bóng tối của tội lỗi. Hôm nay, chúng ta một lần nữa phát hiện ra chúng ta là ai! Tối nay chúng ta đã được chỉ cho biết con đường để đạt được đoạn kết của cuộc hành trình. Bây giờ chúng ta phải bỏ đi tất cả nỗi sợ hãi, vì ánh sáng cho chúng ta thấy con đường đến Bethlehem. Chúng ta không còn bị bỏ lại đàng sau nữa; chúng ta không được phép đứng nhàn rỗi. Chúng ta phải bước ra đi để xem Đấng Cừu Thế của chúng ta nằm trong máng cỏ. Đây là lý do để vui mừng hớn hở của chúng ta: Hài Nhi này đã được "sinh ra cho chúng ta"; Ngài đã được "ban cho chúng ta", như tiên tri Isaia đã loan báo (9: 5). Biết bao con người qua hai ngàn năm đã đi qua tất cả các con đường của thế giới để loan báo cho mỗi người đàn ông và người phụ nữ hầu chia sẻ niềm vui này mà bây giờ là sứ mệnh của mỗi người chúng ta làm cho vị "Hoàng tử của hòa bình" và trở nên người tôi tớ hiệu quả ở giữa của các quốc gia.
Vì vậy, khi chúng ta nghe về câu chuyện Giáng sinh của Chúa Kitô, chúng ta hãy im lặng và để cho Hài Nhi này nói. Chúng ta hãy đem lời nói của Ngài vào trong tâm hồn trong chiêm niệm say mê về khuôn mặt của Ngài. Nếu chúng ta bồng Ngài trong vòng tay và để cho mình được Ngài ôm, Ngài sẽ đem đến hoà bình vô tận trong trái tim. Hài Nhi này dạy chúng ta những gì là thực sự cần thiết trong cuộc sống của chúng ta. Ngài sinh ra trong sự nghèo đói của thế giới này; không có chỗ trong nhà trọ cho Ngài và gia đình của Ngài. Ngài đã tìm thấy nơi trú ẩn và hỗ trợ trong chuồng chiên và được đặt nằm trong máng cỏ cho gia súc. Chưa hết, từ chỗ hư vô này, ánh sáng vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa. Từ bây giờ, con đường giải thoát đích thực và sự cứu rỗi viên mãn được mở ra cho mỗi người đàn ông và người phụ nữ, những người có trái tim đơn sơ. Hài Nhi này, với khuôn mặt chiếu tỏa sự tốt lành, lòng thương xót và tình yêu của Chúa Cha, huấn luyện cho chúng ta, các môn đệ của Ngài, như Thánh Phaolô nói, "hãy chối bỏ những con đường không có Chúa" và sự phú qúy của thế gian, để sống "tiết độ, công minh, sốt sắng "(Tit 2:12).
Trong một xã hội thường xuyên bị đầu độc do chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa khoái lạc, giàu có và xa hoa, vẻ bề ngoại và tự đại, Hài Nhi này kêu gọi chúng ta phải hành động nghiêm nghị, nói cách khác, trong một cách thế đơn giản, cân bằng, phù hợp, có khả năng thấy và làm những gì cần thiết. Trong một thế giới mà tất cả mà thường là tàn nhẫn với người tội lỗi nhưng nhân nhượng với tội lỗi, chúng ta cần phải nuôi dưỡng một ý thức mạnh mẽ về công lý, để phân biệt và làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Giữa một nền văn hóa của sự thờ ơ mà không phải là không thường xuyên trở thành tàn nhẫn, phong cách sống của chúng ta phải là đạo đức, đầy sự cảm thông, lòng từ bi và lòng thương xót, hàng ngày xuất nguồn từ nguồn cội của sự cầu nguyện.
Giống như những người chăn chiên của Bethlehem, có thể chúng ta cũng vậy, với đôi mắt đầy kinh ngạc và bỡ ngỡ, khi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, Con Thiên Chúa. Và trước sự hiện diện của Ngài, ước chi trái tim của chúng ta oà tung ra trong lời cầu nguyện: "Lậy Chúa, xin chỉ cho chúng con lòng thương xót của Chúa và ban cho chúng con ơn cứu độ" (Tv 85: 8).
Ở thế chiến thứ hai, trên một mặt trận giữa hai nước Pháp và Đức, quân của hai bên giành nhau GS-353
Ở thế chiến thứ hai, trên một mặt trận giữa hai nước Pháp và Đức, quân của hai bên giành nhau từng chiến hào; gây cấn đến độ vô phúc cho người nào sơ ý ló đầu ra khỏi chỗ núp là nát đầu ngay. Đó là tình hình vào những ngày 21, 22, 23 tháng12, 1943. Các sĩ quan hữu trách của cả hai bên đều đề phòng cấm ngặt binh sĩ của họ không được lơ là bỏ vị trí chiến đấu kể cả ngày Noel. Đến chiều 24 tháng 12, vẫn là bầu khí ngột ngạt của tử thần. Không có hưu chiến. Đó là lệnh cấp trên truyền xuống.
Đêm về, trong bầu khí yên lặng căng thẳng đó, bỗng một tiếng hát vọng lên từ một thông hào: “Đêm thanh bình, đêm ơn lành!” (Silent Night), rồi nhiều tiếng hát vọng theo, rồi người ta nghe cả hai phía Pháp Đức đều vang dậy tiếng hát Giáng Sinh; không ai bảo ai, bất chấp quân lệnh, binh sĩ của cả hai bên đều bật dậy, bỏ vị trí chạy lại bên nhau, ôm nhau cười nói, chúc lễ Giáng Sinh cho nhau. Họ trao cho nhau đồ dùng, cùng ăn uống với nhau như thể là những người bạn thân lâu ngày hội ngộ. Trước cảnh đó, các vị chỉ huy đều đồng ý hưu chiến đến hết ngày hôm sau.
Ngày 25-12 năm 1943 là một ngày đáng ghi nhớ cho những người ở trận tuyến đó. Hai bên Đức, Pháp cách đó mấy giờ là tử thù của nhau, bây giờ họ cùng chụp hình, trao kỷ niệm, chơi bóng, ăn chung với nhau như những người anh em rất yêu quí. Noel, ngày lễ Hoà bình.
***
Giáng Sinh là lễ của Hòa Bình. Hàng năm, cứ vào lễ Giáng Sinh, dù chiến trận có sôi sục đến đâu, người ta cũng thường dàn xếp để hai bên có được thời gian mừng lễ. Đó gọi là ngày hưu chiến. Sở dĩ có hưu chiến trong ngày lễ Giáng Sinh vì Ngôi Hai đã xuống thế làm người để giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và loài người. Giao ước cứu chuộc sẽ được ký kết bằng máu của Ngôi Hai là Thiên Chúa và cũng là người thật. Đó là niềm vui vô cùng lớn lao của cả loài người được ơn cứu độ. Từ nay, tội tổ tông đã được tẩy xoá nhờ máu thánh của Con Thiên Chúa. Con người không còn vương vấn tội nhơ thì an bình sẽ ngự trị trong tâm hồn: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”
***
Lạy Chúa, tâm hồn bình an thì không còn hận thù, đố kỵ, ganh ghét, nhưng luôn tin yêu, hy vọng, vui sống. Xin ban cho con sự bình an của Chúa để con luôn là sứ giả của an bình. Chúa đã hứa: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” Xin cho cầu nguyện cảm nếm được sự ngọt ngào của an bình trong tâm hồn và như thế là đủ cho con rồi. Vì có Chúa là đời con bình an. Amen!
Cuộc kiểm tra đầu tiên (Lc 2:1-3): Kinh Thánh Sử Gia Eusebius* (260-340) đã nhắc tới cuộc kiểm GS-354
Cuộc kiểm tra đầu tiên (Lc 2:1-3): Kinh Thánh Sử Gia Eusebius* (260-340) đã nhắc tới cuộc kiểm tra này, và còn nói thêm là người Do Thái thời đó cho rằng việc kiểm tra để bắt dân chúng đóng thuế không khác hơn là Đế Quốc La Mã ra lệnh kiểm tra để đánh thuế sẽ làm cho họ trở thành như những người nô lệ, và đây cũng là khởi điểm để người Do Thái vùng lên chống lại bạo quyền. Xã hội Hoa Kỳ cũng làm kiểm tra 10 năm một lần không phải vì để tìm người đóng thuế nhưng là để phân định lãnh thổ chính trị trong nước và theo tỷ số mà chọn những người đại diện cho dân làm dân biểu trong quốc hội, và di chuyển nguồn lợi từ thuế má để trang trải cho những phí khoản về y tế và trợ giúp người nghèo. Người trong xã hội tự do này tuy dù phải đóng thuế nhưng người ta không phản loạn vì họ nhận thấy việc đóng thuế là một điều đương nhiên trong khi đó ở xã hội cộng sản - như ở Việt Nam - người ta phải đóng thuế, nhưng tiền thuế đó dân không được hưởng; trái lại, những số tiền đó chỉ có làm giầu cho những người thu thuế và những người này cũng phải “chung tiền” lại cho cấp trên… do đó thuế má trong xã hội cộng sản không đem lại lợi ích gì cho công chúng.
Các mục đồng: Họ là những bần cố nông chỉ biết làm lụng để nuôi sống cho mình và gia đình họ; họ bị kềm chế mọi mặt nhất là về thuế má và không có cơ hội để vươn lên; họ là những người ngày đêm lái xe vận tải hay xe đò, những người chỉ biết làm thợ thuyền trong các công xưởng… họ không có tương lai, nhưng giờ đây họ được thiên thần loan tin là một vị cứu tinh sẽ đến để giải thoát họ trong cảnh lầm than này. Họ rất hoan hỷ khi nghe tin đó vì lý do tại sao nữa?
Thành của David (Lc 2:11): Vua Đavid, theo truyền thống, đã được sinh ra ở Be-Lem (nhà của bánh mì), là vị vua đầu tiên mà Thiên Chúa chọn - người tuy dù nhỏ bé nhưng đã đánh chết người lính thuộc dòng giống khổng lồ (David và Goliad) - để lãnh đạo và làm ổn định xã hội của dân Chúa nơi Đất Hứa. Nhà của bánh này cũng có nghĩa là “Bánh Hằng Sống bở trời” để nuôi sống trần gian (Ga 6:26-58)!
Bọc trong khăn vải sô (Lc 2:12): Vua Salomon là con của Vua Đavid đã viết trong Sách Khôn Ngoan rằng chính ông cũng đã được bọc trong khăn vải sô khi ông chào đời (KN 7:3-6); do đó, Vị Cứu Tinh mà thiên thần loan báo thuộc về dòng giõi David sẽ lên ngôi để cứu họ khỏi cảnh lầm than. Thêm vào đó, các mục đồng biết rằng những con chiên mà họ bán để làm con vật tế sinh sẽ phải là những con chiên không tỳ ố và họ thấy những con chiên lành mạnh tốt đẹp thì họ sẽ để riêng ra để chăm sóc thì sau đó họ mới bán dược nhiều tiền… những con chiên đo sẽ được họ gói bó thật kỹ trong những vải sô như Vua Solomon đã được gói trong đó (tấm - không mịn màng như cám - nhưng vẫn còn êm ấm chứ không như vải gai khó chịu)… Chúa Giêsu cũng đã được tẩm liệm khi chết bằng tấm vải sô… Các mục đồng nghe lời các thiên thần và hiểu ngay là đứa trẻ này sẽ là con chiên làm lễ tế sinh cho họ và họ thấy mừng vui cho số phận của mình. Số phận của bạn thế nào thì bạn đã biết… và trong cảnh trầm luân này, bạn có hy vọng gì thì hãy dâng lời nguyện xin để cho mọi ước vọng của bạn được toại nguyện, và biết thêm rằng: chúng ta chỉ biết cậy nhờ vào Thiên Chùa trong mọi sự mà thôi!
Nằm trong máng cỏ (Lc 2:12): Máng cỏ là chỗ để đồ ăn cho bò lừa và dê chiên. Tuy dù là nơi để nuôi thú vật, Đấng Cứu Tinh này nằm trong máng cỏ cũng là biểu tượng của ơn từ Trời để nuôi sống mọi loài trên trần gian; do đó, khi Chúa Giêsu nói: “Ta là Bánh Hằng Sống, là bánh ban phát từ trời…” (Ga 6:26-58), lời này mang ý nghĩa rất sâu đậm mà các mục tử là những kẻ tin đã hiểu ngay về tin vui này và họ đã tấp tốc đi tìm Đấng Cứu Tinh mà thiên thần đã báo cho họ. Xin bạn hãy cùng vui với tôi, và chúng ta đi tìm Chúa Giêsu Đấng cứu Tinh cho đời mình theo lời của thiên thần loan báo.
Nguyện xin lời của thiên thần và chứng nhân của các mục tử sẽ làm cho anh chị em vui mừng khi chúng ta đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh 2013! ---------------------------
Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài GS-355
Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài nhưng rồi tội lỗi đã làm cho tình yêu đó bị vụn vỡ. Thế nhưng, dù con người thế nào đi chăng nữa, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người.
Thuở đầu mới tạo dựng, ánh sáng, tình yêu của Thiên Chúa chan hòa và chiếu tỏa trên con người cách riêng nơi ông bà nguyên tổ Ađam - Eva. Điều đáng tiếc là hai ông bà đã không nhận ra hay nói một cách khác là khước từ tình yêu của Thiên Chúa. Từ giây phút hái trái cấm cũng chính là giây phút khước từ tình yêu Thiên Chúa. Khi, ấy bóng tối của tội lỗi đã bao trùm trần gian. Tội lỗi của hai ông bà không dừng lại ở nơi hai ông bà mà ngay chính con của hai ông bà cũng đã khước từ tình yêu Thiên Chúa bằng cách giết hại chính đứa em mình. Cain đã giết Aben cũng chỉ vì hờn ghen, cũng chỉ vì ganh tỵ.
Bóng tối của tội lỗi cứ lan tràn mặt đất. Nhưng, bên cạnh đó, lời hứa của Thiên Chúa chính là lời hứa cứu độ cũng được gởi đến ngay lúc hai ông bà phạm tội. Thiên Chúa đã phán với con rắn: "Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." (St 3, 14.15).
"Dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi". Dòng giống ấy được tiên báo đó chính là Đức Trinh Nữ Maria. Và, từ Mẹ, Đấng Cứu Độ trần gian được sinh ra như lời đã hứa.
Giữa đêm tối của tội lỗi, giữa bóng tối của kiêu căng có một luồng sáng mới chiếu tỏa, có ơn cứu độ xuất hiện. Ánh sáng, ơn cứu độ đó được Isaia nói trong trang sách hôm nay:
Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian. (Is 9, 1-3)
Và, Isaia cũng loan báo:
Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình. Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó".
Thế đấy ! Cũng chính vì yêu thương, Đức Chúa sẽ thực hiện điều đó cho dân.
Lời hứa cứu độ mà Đức Chúa hứa ở vườn Địa Đàng, lời hứa mà Đức Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia loan báo đó được thực hiện vào thời Đức Trinh Nữ Maria.
Thánh sử Luca ghi lại thời gian, không gian rất rõ ràng: "Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giu-se từ thành Nadarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ". (Lc 2, 1-7).
Hôm nay muôn dân đã được thấy Ánh Sáng của Thiên Chúa. Ánh Sáng của Thiên Chúa không như ánh sáng của thế gian. Ánh Sáng của Thiên Chúa đến nhưng rồi ta lại bắt gặp những con người hết sức đơn sơ nghèo hèn đến gặp Ánh Sáng chính là những mục đồng. Những mục đồng chăn chiên, chúng ta biết rằng cuộc sống và đời của họ như thế nào. Nay đây mai đó, chẳng có gì là ổn định, chẳng có gì là bảo đảm cho cuộc sống của họ cả và rồi nghe tiếng của thiên thần, họ đã đến và tìm gặp Ánh Sáng của Thiên Chúa.
Ánh Sáng của Thiên Chúa đã đến trần gian này hơn hai ngàn năm rồi nhưng Ánh sáng đó vẫn bị khước từ như những chủ quán trọ ngày xưa, như những người Biệt Phái và Luật Sĩ ngày xưa. Họ là những người giữ đạo rất tốt và họ cũng đang mong chờ Đấng Mêsia đến với đời họ nhưng rồi họ không tìm gặp được Đấng mà họ mong đợi bởi lẽ suy nghĩ của họ khác, cái nhìn của họ khác và cung cách sống của họ khác.
Những mục đồng đơn sơ nghèo hèn đã đến và đã thờ lạy Ánh Sáng. Không chỉ dừng ở chỗ đến thờ lạy mà các mục đồng cũng đã đi loan báo tin vui Đấng Cứu Độ đã đến trần gian. Lời loan báo cứu độ có đó nhưng rồi mấy ai đón nhận lời đó.
Thánh Gioan đã nhắc nhớ sự khước từ của lòng người:
Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. (Ga 1, 9-12)
Ai tin và đón nhận Ánh Sáng vào trong đời mình sẽ được trở nên con Thiên Chúa
Khi Ánh Sáng xuống trần gian, ta thấy muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương." Thiên Chúa đã gửi Ánh Sáng xuống trần gian để mang ơn cứu độ đến cho muôn người rồi nhưng liệu rằng người ta có đón nhận Ánh Sáng đó hay không mà thôi.
Mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh không phải là mừng một biến cố, mừng một kỷ niệm để rồi tổ chức lễ nghi linh đình và tiệc tùng hoành tráng. Mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh để nhắc nhớ ta rằng Ánh Sáng đã đến thế gian thật rồi. Hãy mở lòng ra đón nhận Ánh Sáng đó vào trong cuộc đời chúng ta.
Tâm tình Thánh Phaolô trong thư gửi cho Titô thật hay: Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này
Để mừng Đại Lễ Giáng Sinh thật ý nghĩa, chắc có lẽ chúng ta cũng phải nhìn lại cuộc đời của mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày bớt đi lòng đam mê trần tục, sống chừng mực và công chính. Chỉ có như thế Ân Sủng của Ánh Sáng mà Thiên Chúa trao ban mới có thể đến và ở lại trong cuộc đời của ta được.
Bài giảng Lễ Đêm Giáng Sinh 24.12.2015 tại Giáo xứ Hợp An
Tối nay, chúng ta cùng nhau cử hành Lễ Đêm mừng Chúa Giáng Sinh tại giáo xứ Hợp An, chúng ta vui GS-356
1. Tối nay, chúng ta cùng nhau cử hành Lễ Đêm mừng Chúa Giáng Sinh tại giáo xứ Hợp An, chúng ta vui mừng hân hoan đón Chúa đến với chúng ta. Chúng ta muốn suy nghĩ sâu xa hơn về ý nghĩa của việc Chúa đến.
Chúa đến đây làm gì? Chúa đến trần gian để đem Niềm Vui, đem Hạnh Phúc của Chúa đến cho chúng ta. Chúa đến trần gian để đem Ơn Tha Tội đến cho loài người đã sa ngã phạm tội từ thời đại này sang thời đại kia. Chúa đến trần gian để mạc khải Tình Yêu, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha cho loài người chúng ta. Chúa đến để đem Bình An, để hòa giải loài người lại với Thiên Chúa và con người lại với nhau.
2. Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (Lc 2, 1-14) cho chúng ta biết việc Chúa sinh ra ở đời là một sự kiện lịch sử, xảy ra thời Hoàng đế Augustô (x. Lc 2,1). Thánh Giuse và Mẹ Maria từ Nazareth thuộc vùng Galilê đến Bêlem miền Giuđê, quê hương của Vua Đavít, tổ tiên ngài (x. Lc 2,4). Hai ông bà, vì không có tiền thuê quán trọ, đã sinh Chúa Giêsu trong hang bò lừa (x. Lc 2,7). Đó là một sự kiện lịch sử, nhưng cũng là một Biến Cố Siêu Việt, Siêu Lịch Sử. Đấng Sinh Ra là Đấng Thánh, là Đấng Tạo Thành Trời Đất, là Chủ và là Chúa của Lịch Sử. Chính vì thế mà có sứ thần Chúa hiện ra cho các mục đồng đang chăn chiên: “Anh em đừng sợ! Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân.” (Lc 2,10)
3. Theo Thánh Phaolô trong thư gởi Titô (Tt 2,11-14), Đấng Thánh sinh ra cho nhân loại chúng ta, Người Con giáng trần vì chúng ta, là Ân Sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người (x. Tt 2,11). Ân Sủng đó là chính Chúa, dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục (x. Tt 2,12). Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính (x. Tt 2,14).
4. Chúng ta hát lên mừng Chúa một bài ca mới; hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh (x. Tv 96 (95),1-2a). Chúa đã ban cho Dân Chúa chứa chan niềm hoan hỷ, đã tặng thêm nỗi vui mừng (x. Is 9,2a). Họ mừng vui trước Nhan Ngài, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt (x. Is 9,2b). Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một Người Con đã được ban tặng cho ta (x. Is 9,5a). Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh (x. Is 9,6b).
5. Noel năm nay mọi người chúng ta hãy hướng tới Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi cũng như khuyết điểm và chúc phúc cho chúng ta. Chúng ta đã mở cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót tại Nhà Thờ Chính Tòa. Giờ đây chúng ta hãy đón nhận Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vào trong cuộc sống và đưa ra thực hành. Hãy xót thương những người nghèo khổ, những người cô thế cô thân, những người khuyết tật, những người bị bệnh nan y…
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA NƠI MẦU NHIỆM GIÁNG SINH
Đêm nay, chúng ta họp nhau nơi đây để mừng ngày sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Đây là GS-357
Đêm nay, chúng ta họp nhau nơi đây để mừng ngày sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Đây là biến cố vĩ đại, như lời thánh Phaolô (Bài đọc 2), đêm nay “ân sủng của Thiên Chúa được biểu lộ”, Con Thiên Chúa sinh ra trong thế giới của chúng ta để “đem ơn cứu độ đến cho mọi người”. Đây là ngày Thiên Chúa biểu lộ lòng thương xót đối với nhân loại đang sống trong khổ đau, tinh thần và thể xác.
1. Khi bị lưu đày bên Babylon, dân Do Thái sống trong cảnh khổ đau trên bình diện tinh thần và thể xác, cá nhân cũng như quốc gia. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót không nỡ để họ mãi mãi chìm ngập trong khổ đau và thất vọng. Qua lời tiên tri Isaia (Bài đọc 1), chính Thiên Chúa lên tiếng loan báo cho họ ngày giải thoát, ngày Thiên Chúa cứu họ khỏi bàn tay hung dữ độc ác của kẻ thù. Ngài sẽ cho một trẻ thơ chào đời để cứu họ. Người con ấy là Đấng quyền năng, là Thủ lãnh hoà bình, sẽ thiết lập nền hoà bình vô tận, trong một vương quốc được xây dựng trên nền tảng chính trực và công minh. Chính niềm hy vọng này đã nâng đỡ dân Do Thái qua những chặng đường lịch sử. Họ luôn trông đợi sẽ có ngày Thiên Chúa biểu lộ lòng xót thương.
Thế giới của chúng ta hôm nay cũng đầy dẫy những khổ đau. Từ bản thân đến gia đình, từ họ hàng đến làng xóm, từ cá nhân đến xã hội, từ quê hương đất nước đến thế giới toàn cầu, cuộc sống tràn ngập khổ đau. Sự dữ lớn nhất là tội lỗi, tội cá nhân, tội tập thể. Rồi nào là hận thù, áp bức, cướp của, chém giết, xung đột, khủng bố, bạo hành, đang diễn ra từng ngày trên thế giới, ngay trong xã hội, trường học và gia đình của chúng ta. Trầm trọng hơn, nhiều quốc gia vẫn chìm trong khói lửa của chiến tranh loạn lạc. Nhiều nơi khác, nguy cơ chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Chúng ta mong đợi một sự giải thoát, khao khát ấm no hạnh phúc. Có lẽ chúng ta chờ đợi một phép mầu xoá tan mọi đau khổ để khai sinh một thế giới mới bình an và hạnh phúc. Thiên Chúa có thương xót nhân loại nữa chăng? Lòng thương xót của Chúa có đủ quyền năng để giải cứu loài người không?
Với niềm tin Kitô hữu, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương nhân loại, yêu thương từng người chúng ta. Ngài là Chúa của lịch sử, là Đấng quyền năng vô biên. Ngài sẽ cứu thế giới như đã cứu dân Do Thái.
2. Tuy nhiên, lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ giới hạn nơi việc giải thoát dân Do Thái. Lời hứa của Thiên Chúa nhắm đến những thực tại lớn lao và sâu xa hơn. Trong đêm Giáng sinh này, lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ qua việc ban tặng cho nhân loại người Con Một yêu dấu. “Chúa Giêsu Kitô chính là dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha… Vào thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài xuống thế gian, sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria, để biểu lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta một cách quyết liệt… Chúa Giêsu thành Nazareth, qua lời nói, hành động và toàn bộ con người của Ngài, đã thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa” (Dung mạo lòng thương xót, số 1). Con Thiên Chúa đã làm người sống giữa nhân loại. Nhờ mầu nhiệm Nhập thể, loài người được giao hoà với Thiên Chúa, và mọi người trong thế giới được giao hoà với nhau. Đó là sự giải cứu sâu xa và lớn lao đem lại bình an và hạnh phúc đích thực cho nhân loại.
3. Thiên Chúa thương xót chúng ta bằng cách ban tặng Chúa Giêsu để Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và dục vọng. Tội lỗi và dục vọng, phải, mọi đau khổ đều bắt nguồn từ đó. Con người gây ra đau khổ cho nhau là vì trước hết con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa và trở thành kẻ phản loạn phá đổ công trình tạo dựng của Ngài. Một khi loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, thì đồng thời con người cũng loại trừ nhau. Một tâm hồn bất an và bị xâu xé bởi đủ loại dục vọng làm sao có thể sống hài hòa với người khác được?
Do lòng thương xót muốn cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi và dục vọng là căn nguyên của mọi đau khổ, nên đêm nay, Con Thiên Chúa từ trời cao đã đi vào trần gian đi tìm chúng ta. Nhân loại tựa như đoàn chiên lầm đường lạc lối, hôm nay được Chúa Giêsu xuống thế tìm kiếm đưa về Nhà Cha. Vị Mục tử giàu lòng thương xót ôm chúng ta vào lòng và đưa về sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Hoặc có thể dùng một hình ảnh khác, nhân loại tựa như nạn nhân bị cướp đánh nhừ tử và bỏ dở sống dở chết bên đường, hôm nay đã được Chúa Giêsu như người Samari nhân hậu, xuống lừa, xoa dầu, băng bó vết thương và chữa lành. Lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ như thế đó.
Vì thế điều đầu tiên phải làm để được cứu độ là nhìn nhận mình có tội để được Thiên Chúa thương xót thứ tha. Nếu muốn sống khoẻ mạnh, điều kiện đầu tiên là loại trừ bệnh tật. Mang mầm bệnh trong người thì làm sao khoẻ mạnh? Mà muốn khỏi bệnh, phải nhận mình có bệnh. Không nhận mình có bệnh thì làm sao được chữa khỏi bệnh? Cũng thế, hãy nhìn nhận mình cần được Chúa thương xót.
4. Một khi đã được Thiên Chúa thương xót và thứ tha, chúng ta hãy trở thành chứng nhân và sứ giả của lòng thương xót. Chúa Giêsu đã đi vào đời và gieo mầm tin yêu khắp nơi, để đến phiên mình, mỗi người cũng biết thực thi lòng thương xót, để nhờ đó góp phần kiến tạo một thế giới mới, một xã hội mới, được xây dựng trên công lý và tình thương.
Nếu không có lòng bao dung nhân ái và tha thứ, bạo lực sẽ sinh ra bạo lực, hận thù sinh ra hận thù, tựa như vòng xoáy luẩn quẩn ngày càng lan rộng và không bao giờ chấm dứt. Nếu như vậy thì cuộc đời không thể sống nổi. Chỉ có tình yêu mới cứu được thế giới. Chỉ có tình yêu mới đem lại bình an và hạnh phúc đích thực. Đừng gieo rắc hận thù ghen ghét, đừng sử dụng bạo lực nữa. Gia đình hãy thôi cảnh bạo hành. Đừng dạy cho giới trẻ lòng hận thù báo oán, nhưng hãy thông truyền cho họ tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Giới trẻ và học sinh đừng đánh đập chém giết nhau. Thay cho hận thù và bạo lực, hãy đối xử với nhau theo lối sống của nền văn minh tình thương.
Cùng với lòng bao dung tha thứ, trái tim chúng ta cũng mở ra để thương xót những anh chị em nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, những người sống trong hoàn cảnh đau thương, những người bị bỏ rơi, bị loại trừ. Trong đêm Giáng sinh, thánh Giuse và Đức Mẹ không tìm được chỗ trong quán trọ, đã bị xua đuổi và loại trừ, nên Chúa Giêsu phải sinh ra trong hang lừa bò. Ngày nay biết bao người nghèo khổ cũng bị bỏ rơi và quên lãng, bị xua đuổi và loại trừ. Là Kitô hữu, chúng ta không được thờ ơ vô cảm. Trái tim của chúng ta phải nên giống trái tim của Chúa, biết chạnh lòng thương xót, biết động lòng trắc ẩn. Khi chúng ta cảm thông giúp đỡ họ là chúng ta làm cho Chúa; ngược lại, khi lòng chúng ta khép lại, là chúng ta từ chối Chúa. Hãy nhớ rằng “vào lúc cuối đời, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu” (Dung mạo lòng thương xót, số 15).
5. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói: nhân loại được cứu độ không phải là nhờ “các lời hứa hẹn to tát”, nhưng là nhờ “ánh sáng thầm lặng của sự thật, của lòng nhân lành của Thiên Chúa”. Những chủ thuyết, những nhà độc tài, những chính sách chuyên chế, chỉ để lại cho thế giới này một sự“trống rỗng vĩ đại” và một “sự tàn phá khủng khiếp”. Chúa Giêsu đã không làm một “cuộc cách mạng đẫm máu”, “không thay đổi thế giới bằng vũ lực”, nhưng Chúa đã đến “thắp lên bao nhiêu ánh sáng để tạo thành một đại lộ ánh sáng qua suốt bao nhiêu thiên niên kỷ” (Bài giảng tại giáo xứ Maximilianô Kolbê, Roma, ngày 13-12-2010).
Chỉ có tình yêu mới thay đổi được thế giới. Hãy làm cho lòng thương xót thấm vào mọi sinh hoạt hằng ngày, hãy đổi mới xã hội bằng cách đổi mới lối sống của chúng ta. Đó chính là Phúc-Âm-hoá đời sống xã hội. “Sự khả tín của Giáo hội được biểu lộ qua cách thức Giáo hội thực thi lòng thương xót và trắc ẩn” (Dung mạo lòng thương xót, số 10). Nếu biết sống lòng thương xót, chúng ta sẽ chiếu toả vẻ đẹp của Phúc Âm và làm cho lời rao giảng của Giáo hội có sức thuyết phục.
Trong đêm Giáng sinh, các thiên thần hát mừng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người được Thiên Chúa yêu thương”. Lời ca của thiên thần trên trời đã trở thành lời ca của con người ở dưới đất. Đó là lời ca được hát nhiều nhất trên thế giới trong đêm nay, đêm bình an. Xin “Thủ lãnh hòa bình” ban bình an cho thế giới và quê hương Việt Nam; xin cho xã hội, từng gia đình và từng người được sống bình an hạnh phúc trong tình yêu thương. Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng là hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa ban cho chúng ta một trái tim mới.
Chúc anh chị em mừng lễ Giáng Sinh đầy tràn niềm vui, ân sủng và bình an của Chúa Giêsu.
Chúng ta đang long trọng và vui sướng đứng trước một cử hành rất lớn của Giáo hội Công giáo hoàn GS-358
Chúng ta đang long trọng và vui sướng đứng trước một cử hành rất lớn của Giáo hội Công giáo hoàn vũ. Đêm nay, trên tòan thế giới, những anh chị em tin Thiên Chúa, lòng trào dâng những cảm xúc dạt dào vô tận, vì được chiêm ngắm Máng cỏ, Hang đá nơi mà Chùa Hài nhi cất tiếng khóc chào đời, bên cạnh Thánh Giuse, Mẹ Maria.
Thật vậy, mỗi dịp Giáng sinh về, chúng ta cầu chúc cho nhau được an lành hạnh phúc. Những cánh thiệp gởi trao nhau, những món quà cho những người già yếu, một chút bánh kẹo tượng trưng cho các trẻ em, qua hình ảnh ông già noel…Tất cả là biểu cảm của tình yêu thương. Quả vậy, Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại nên Ngài đã hạ mình, nhập thể trong thân xác một con người, một trăm phần trăm là người như chúng ta, để mời gọi anh chị em biết sống và yêu thương nhau. Chỉ tiếc rằng, thế giới hôm nay đang còn quá nhiều thù hận, ghen ghét và đố kỵ. Chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh vẫn xảy ra như cơm bữa. Tình người đang bị xơ cứng và nạn dửng dâng, vô cảm ngày một nhiều. Vừa qua, trên các trang báo Thanh niên, tuổi trẻ đều đồng loạt đưa tin: “Vụ hôi bia ở Biên hòa”, câu chuyện được kể rằng, ngày 4/12/2013 anh tài xế tên là Hồ Kim Hậu lái xe tải chở bia từ Sài gòn ra Huyện Bắc bình Bình thuận thì gặp nạn tại vòng xoay Tam hiệp Biên hòa. Thế là mọi người thay vì giúp tài xế thì họ xông vào hôi của, chở bia đem về nhà mình. Thật đau lòng cho con người Việt Nam ngày hôm nay, và cũng thật vô cùng xấu hổ khi tình yêu thương đồng loại đang ngày một vắng bóng. Chúa Hài nhi mời gọi con người nhìn nhận nhau là anh chị em có cùng Cha chung trên trời. Mừng Chúa Giáng sinh là thông điệp để chúng ta biết bảo vệ sự sống bảo vệ và chăm sóc các trẻ em. Cũng còn đó biết bao nhiêu trẻ thơ không được nhìn nhận và giúp đỡ. Những bào thai vô tội bị bứng ra khỏi lòng mẹ khi chưa kịp cất tiếng khóc chào đời. Những em bé bị chính cha mẹ, người thân, những bảo mẫu hành hạ và giết chết cũng vẫn thường xảy ra. Chúa Hài Nhi Giê-su nhắc nhở mỗi người sứ điệp bảo vệ chân lý chống lại những bất công bạo tàn.
Anh chị em thân mến! năm 2014 sắp đến, năm Phúc âm hóa gia đình, hơn bao giờ hết mẫu gương gia đình Chúa Hài Đồng vẫn là một tấm gương lớn cho chúng ta noi theo và học hỏi. Sống trong một cuộc sống biến động và đổi thay, những bực làm cha mẹ phải biết cho con bú sữa đức tin, dòng sữa ngọt ngào là ân sủng của Thiên Chúa, chứ không chỉ sữa của người mẹ, hay các loại sữa được con người chế biến. Mừng Chúa Giáng sinh anh chị em hãy sống thật tình của lòng yêu thương, sự tha thứ và tinh thần trách nhiệm của những người con cái Chúa. Về trong gia đình, cha mẹ vợ chồng con cái hãy dành cho nhau những lời nói, cử chỉ và tình yêu mà chúng ta đón nhận được từ chính Chúa Hài Đồng. Cầu chúc cho anh chị em tin tưởng và nhận được ơn phúc lành từ Thiên Chúa chúng ta qua con một rất yêu dấu của Ngài là trẻ thơ Giê-su. Anh chị em hãy mời và đón tiếp những anh chị em không cùng tôn giáo đến, để chia sẻ niềm vui Giáng sinh và một năm mới dương lịch sắp đến với mỗi người chúng ta. Amen.
Nhìn vào hang đá Bêlem, quả thực chúng ta thấy được nhiều điều bất ngờ.
Đúng thế, Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt vời thế mà lại sinh ra tại chuồng bò, là một GS-359
Đúng thế, Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt vời thế mà lại sinh ra tại chuồng bò, là một nơi vừa bẩn thỉu lại vừa hôi hám. Là Đấng tạo hoá quyền năng thế mà giờ đây lại nằm giữa đám chiên bò. Là bánh bởi trời thế mà giờ đây lại ngủ yên trên máng cỏ. Ngày xưa, người Do Thái đã thờ lạy con bò vàng và người Ai Cập thì thờ lạy con lừa. Loài người đã quỳ gối trước những con vật và coi những con vật ấy như là thần minh, như là Thiên Chúa, thì giờ đây để sửa lại lỗi phạm ấy, bò và lừa đã có mặt tại hang đá, phả hơi ấm cho Hài nhi Giêsu. Phúc Âm đã ghi lại, vì không tìm được chỗ nơi hàng quán, cho nên Ngài đã sinh ra nơi chuồng bò. Hàng quán là nơi gặp gỡ của mọi hạng người, là nơi trao đổi mọi lập trường, mọi quan điểm, là nơi ăn nhậu và du hí. Trong khi đó chuồng bò chỉ là nơi dành cho những kẻ nghèo túng và thấp kém. Nếu như Ngài đã sinh ra trong lâu đài cung điện thì có lẽ người ta đã đón nhận Ngài. Thế nhưng Ngài đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Hơn thế nữa, Hài nhi Giêsu, Đấng đã cho mặt trời toả chiếu trong vũ trụ, thế mà giờ đây lại nhờ tới hơi thở của bò lừa để được sưởi ấm. Đấng đã tô điểm cho những cánh hoa màu sắc rực rỡ, thế mà giờ đây lại trơ trụi giữa đêm đông giá lạnh. Đấng đã dựng nên cả bầu trời trăng sao, thế mà giờ đây đôi tay bé bỏng đang run lên vì gió rét. Là Ngôi Lời của Thiên Chúa, thế mà giờ đây lại thinh lặng và câm nín. Ngài quả thực cô đơn và nghèo túng. Thế nhưng Ngài đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Với vóc dàng của một hài nhi bé nhỏ, Đấng tạo hoá đã đến thăm những tạo vật, nhưng Ngài lại không được nhận biết. Ngài đã đến thăm những người thân của Ngài, nhưng Ngài đã không được họ đón nhận. Và cho đến ngày hôm nay, Ngài vẫn còn là một kẻ lạ mặt ngay giữa căn nhà, ngay giữa gia đình của Ngài. Và như thế Thiên Chúa đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Và sau cùng nếu để ý, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu sinh ra nơi chuồng bò và chết đi trên thập giá. Hang đá và thập giá chính là hai đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Ngài đã chấp nhận hang đá, vì đã không tìm thấy chỗ nơi hàng quán. Ngài đã chấp nhận thập giá bởi vì con người không muốn Ngài làm vua cai trị. Ngay từ lúc khởi đầu Ngài đã nhìn thấy lúc kết thúc. Hang đá không phải là của Ngài và mộ đá cũng không phải là của Ngài. Nơi hang đá Ngài nằm giữa bò lừa, còn trên thập giá, Ngài nằm giữa hai tên trộm cướp. Thế nhưng cũng chính tại hai nơi bất ngờ này mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho chúng ta.
Trong những hoàn cảnh bất ngờ như thế, thì làm sao chúng ta có thể nhận biết Ngài. Tôi xin thưa, muốn nhận biết Ngài trong những hoàn cảnh không ngờ tới, thì chúng ta cần phải khiêm nhường. Khiêm nhường như Mẹ Maria và Thánh Giuse, khiêm nhường như những mục đồng, bởi vì chỉ có cách quỳ gối và thờ lạy chúng ta mới nhận ra Chúa, nơi hài nhi bé nhỏ trong hang đá Bêlem.
Cách nay hơn hai ngàn năm, vào một đêm đông năm ấy, tại thành Bêlem, miền Giuđê thuộc thành GS-360
Cách nay hơn hai ngàn năm, vào một đêm đông năm ấy, tại thành Bêlem, miền Giuđê thuộc thành vua Đavít, đã xảy ra một biến cố có một không hai trong lịch sử loài người. Biến cố ấy như thế này:
“Hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi”. Trong số những người trở về nguyên quán, có một cặp vợ chồng mới cưới là ông Giuse và bà Maria, từ thành Na-da-rét, miền, Ga-li-lê. “ Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa”, vì không tìm được chỗ trong nhà trọ. Hai ông bà đã phải tìm đến một hang nuôi súc vật. Ơ đó, bà Maria đã sinh con đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt trong mang cỏ”.
Kể ra thì việc bà Maria sinh con vào trường hợp ấy thì cũng có gì đáng nói so với bao cảnh sinh ra nghèo nàn, thiêu thốn khác!
Nhưng chuyện gì đã xảy ra trong cái tầm thường ấy?
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ! Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Bỗng có muôn vàn thiên binh họp với sứ thần cất tiếng ngơi khen Thiên Chúa rằng: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Làm sao một đứa trẻ sinh ra trong cảnh nghèo hèn hạ như thế lại có thể là “một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân!” Lại càng không thể tin được rằng hài nhi sinh ra trong cảnh nghèo hèn túng thiếu đủ mọi thứ thế lại có thể là “ một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa”!
Giả sử tin vui ấy cũng được loan báo cho các chức sắc trong tôn giáo hay cho những người có quyền thế, có điạ vị xã hội, chắc gì họ đã mau mắn tin vào lời loan báo của thiên sứ, dù họ vẫn mong đợi Đấng Mêsia sẽ đến như lời các ngôn sứ đã nói! hay khi nghe tin ấy, sợ đụng chạm đến quyền lợi, điạ vị của mình lại tìm cách triệt hạ như Hêrôđê đã sát hại biết bao nhiêu hài nhi! Và giá như chúng ta cũng sinh sống vào thời đó, khi nghe tin báo như thế, có mấy ai tin đó là sự thật!
Nhưng các mục đồng khi nghe thiên sứ báo tin, họ không phân vân đắn đo thiệt hư thế nào. Họ tin và mau mắn lên đường: Sau khi thiên sứ từ biệt, họ bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bêlem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết”. Đến nơi, họ đã trông thấy cảnh tượng như thiên sứ đã nói, họ thuật lại chuyện đã nghe và thấy. Ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (xem Lc 2, 1-20).
Các mục đồng đã thuật lại chuyện đã nghe và thấy. Ai cũng ngạc nhiên, nhưng chưa chắc người ta đã tin Hài Nhi nằm trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế! Chỉ có “bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.”
Các mục đồng là ai? Họ không phải là những nhà thông thái, cũng không là những vị chức sắc trong tôn giáo, hay những bậc vị vọng trong xã hội.
Họ là những người thấp kém về địa vị xã hội và cả về học vấn. Họ là những người đơn sơ, chất phát, dễ tin. Họ là những người sống lam lũ. Đời sống của họ gắn chặt với đàn súc vật. Nhưng họ lại được diễm phúc đón nhận tin vui cứu độ, được hân hạnh là những người đầu tiên được diện kiến Đấng Cứu Thế. Họ đã nghe tận tai, thấy tận mắt những gì thiên sứ đã nói. Họ là những nhân chứng của biến cố vĩ đại có một không hai ấy cho người đương thời và cho những thế hệ mai sau.
Cách thức Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm của Ngài khác với những suy luận của con người: Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế theo suy luận của con người thì phải sinh ra nơi cung điện sang trọng, thì Hài Nhi lại giáng thế trong cảnh túng thiếu, bần cùng; con người khát vọng giàu sang phú quí, thích có địa vị xã hội, muốn được người ta nể phục.. thì Thiên Chúa lại chúc phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo, cho những ai hiền lành, sầu khổ, cho những ai trở nên như trẻ thơ…Ý muốn của Thiên Chúa trái nghịch với ý muốn khát vọng của con người. Những gì Thiên Chúa muốn và kêu gọi con người sống và hành động để đạt được hạnh phúc, thì con người lại chối bỏ, không tin hoặc không muốn tin vì ý riêng của mình.
Những mục đồng xưa kia trong đêm đông năm ấy đã hành động như thế nào khi được sứ thần loan báo tin mừng trọng đại?
Trong đêm đông lạnh giá, khi mọi người trong thành đang ngủ say, thì họ là những người đang thức. Chính nhờ sự thức tỉnh của họ mà thiên sứ đã đem tin vui đến với họ.
Trong tâm tình tin tưởng, khiêm nhu, đơn sơ, chất phát, không nghi ngờ, thắc mắc, họ đã mau mắn lên đường để nhìn thấy tin vui; và sau khi đã tận mắt thấy nhìn thấy Hài Nhi nằm trong máng lừa, họ đã tin Hài Nhi ấy là: Đấng Cứu Độ . Họ đã tường thuật lại cho mọi người điều họ đã nghe và thấy, và ra về, họ đã ca tụng tôn vinh Thiên Chúa.
Những hành động của các mục đồng vào đêm đông năm ấy: thức tỉnh, nghe, ra đi, thấy, thuật lại, và ca tụng tôn vinh Thiên Chúa cũng là những đòi hỏi hành động đối vơi hết mọi người Kitô hữu, những chứng nhân Đấng Cứu Thế.
Trong cuộc sống Kitô hữu cũng thế, chỉ khi chúng ta có thức tỉnh tâm hồn, cố đi tìm thánh ý Thiên Chúa nơi chính mình, nơi cuộc sống, chúng ta mới có thể nhận ra tin vui cứu độ đến từ Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn đến với chúng ta hằng ngày qua Bí tích Thánh Thể, nhưng chúng ta có thức tỉnh tâm hồn để tìm kiếm Ngài, để được Ngài tỏ hiện như đã tỏ hiện cho các mục đồng xưa kia hay không! Ngài vẫn luôn hiện diện cận kề với chúng ta qua cuộc sống, giữa những công việc chúng ta làm, giữa môi trường chúng ta sinh sống; điều quan trọng là chúng ta có thức tỉnh như các mục đồng để mong tìm gặp Ngài hay không.
Khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng đón nhận tin vui cứu độ, chúng ta cũng được thấy Đấng Cứu thế, nhưng chúng ta đã hành động như thế nào sau khi được gặp gỡ Đức Kitô?
Các mục đồng đã thuật lại cho người khác những gì họ đã nghe, đã thấy; và ra về, họ vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa.
Họ đã thực thi lời vị chủ tế tuyên bố khi kết thúc thánh lễ: Thánh Lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an! Đó cũng là lúc chúng ta ra về để ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, đồng thời mang sứ vụ sống làm chứng và loan báo cho mọi người ơn cứu độ như các mục đồng xưa kia đã làm.
Các mục đồng trở về với cuộc đời thường, nhưng từ biến cố họ đã được chứng kiến, họ đã trở thành những chứng nhân của Đức Kitô. Họ đã có một cái nhìn mới làm thay đổi niềm hy vọng của họ trong cuộc sống.
Ước gì qua sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ của mỗi người Kitô hữu, lời ca tụng và tôn vinh của các thiên thần vào mùa đông năm ấy sẽ mãi mãi còn vang vọng trong tâm tình chúc tụng và tôn vinh tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho loài người:“ Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
(Bài giảng thánh lễ đêm Giáng Sinh 2013 của Lm. Jos. Trương Đình Hiền)
Kính thưa Ông Bà Anh Chị em giáo dân, Kính thưa Quý Vị và các bạn ngoài Kitô giáo,
Trước hết, thay mặt cho bà con giáo dân giáo xứ Quảng Ngãi, giáo hạt Quảng Ngãi, tôi xin được GS-361
Trước hết, thay mặt cho bà con giáo dân giáo xứ Quảng Ngãi, giáo hạt Quảng Ngãi, tôi xin được trân trọng gởi đến quý vị không có chung niềm tin Kitô đang có mặt ở-đây-giờ-nầy lời cám ơn chân tình và lời chúc mừng Giáng Sinh tốt đẹp và trân trọng nhất.
Tôi muốn dành những lời đầu tiên nầy để chia sẻ cùng quý vị không cùng niềm tin với chúng tôi. Chúng tôi cám ơn quý vị, quý bạn đã đến đây để chia sẻ niềm vui Giáng Sinh với chúng tôi, để tham quan ngôi từ đường của đại gia đình kitô hữu Quảng Ngãi, để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, để nghe những bài thánh ca Noel, để lòng lắng đọng trước một đôi gợi ý của Kinh Thánh về huyền nhiệm đức tin Kitô,… và đối với các bạn trẻ hoặc một số người, Giáng Sinh còn mang theo cả một trời kỷ niệm, kỷ niệm của những mối tình đầu thơ mộng, mà bài hát “Hai Mùa No-en” của Ns Nguyên Vũ đã phần nào diễn tả:
Mùa Noel đó chúng ta quen bên giáo đường Mùa Noel đó anh đón em vào tình yêu Quỳ bên hang sâu nghe lời kinh thánh van cầu Nhìn nhau không nói nên câu Vì biết nói nhau gì đâu…
Với chúng tôi, những người Công Giáo của miền Núi Ấn-Sông Trà, quả thật đây là dịp duy nhất trong một năm, chúng tôi được đón tiếp quý vị như những vị khách quý để có thể chia sẻ với quý vị đôi điều về niềm tin của chúng tôi, để giới thiệu đôi nét đan thanh về Chúa Giêsu, mà với niềm xác tín của những người Kiô hữu chúng tôi, là Đấng Cứu Độ duy nhất, một Đấng mà chắc chắn quý vị còn rất mù mờ, có khi được hiểu cách lệch lạc và rất nhiều khi được thông tin với một ý đồ không mấy thiện chí, nếu không muốn nói là xuyên tạc và thù nghịch.
Đặc biệt năm nay, Năm mà Giáo Hội Công Giáo muốn các gia đình đem Tin Mừng hiện thực trong chính mái ấm của mình, tôi xin được chia sẻ cùng cônghj đoàn Kitô hữu và toàn thể quý vị một khía cạnh, một ý nghĩa đặc biệt về Chúa Giêsu và về cuộc Giáng Sinh của Ngài:
Chúa Giáng Sinh: Nụ hôn nồng nàn của Thiên Chúa.
Để minh họa cho ý nghĩa nầy, tôi xin được kể một câu chuyện nhỏ mang tựa đề: NHỮNG NỤ HÔN TRONG CHIẾC HỘP RỖNG.
Gia đình nghèo và việc chi tiêu rất eo hẹp. Nhưng cô bé lại dùng cuộn giấy gói xa xỉ đó chỉ để bọc một cái hộp đặt dưới gốc cây thông Nô-en. Người cha tỏ ra vô cùng giận dữ trước sự phí phạm của con gái. Mặc dù vậy, buổi sáng hôm sau, cô bé vẫn mang hộp quà đó tới trước mặt cha và hớn hở nói: “Cha ơi, con tặng cha món quà Giáng sinh!”. Người cha cảm thấy vô cùng bối rối bởi phản ứng thái quá trước đó của mình: Cô con gái nhỏ dù sao cũng chỉ muốn một hộp quà bọc gói thật đẹp để tặng cha. Nhưng khi mở gói quà ra, nụ cười vừa nở trên môi ông đã tắt lịm. Trước mắt ông chỉ là một chiếc hộp rỗng! Nhìn thẳng vào mắt con gái, người cha quát rất to: “Con không biết điều này hay sao? Khi con tặng quà ai đó, chắc chắn phải có gì đó bên trong gói quà!”. Cô bé nước mắt giàn giụa nhìn cha và nói: “Không, cha ơi. Chiếc hộp con tặng cha có rỗng đâu. Con đã thổi rất nhiều nụ hôn vào đó. Tất cả những nụ hôn đó con dành tặng cha mà.”...
Một thời gian ngắn sau đó, tai nạn xảy ra cướp đi cuộc sống của cô bé dễ thương. Còn người cha vẫn giữ bên mình chiếc hộp bọc giấy vàng tuyệt đẹp nhiều năm sau đó.
Và bất cứ khi nào ông cảm thấy tuyệt vọng, chán nản, ông đều lấy chiếc hộp ra và hình dung đến con gái bé bỏng yêu thương đang ôm và thơm vào má cha – những nụ hôn trong chiếc hộp ngọt ngào...
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Phải chăng, ý nghĩa đầu tiên và sâu sắc nhất của mầu nhiệm Thiên Chúa Giáng Sinh chính là “Chiếc hộp bằng vàng chứa đựng nụ hôn tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta”, đúng như lời khẳng định trong Tin Mừng Thánh Gioan:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Vâng, chúng ta chỉ hiểu được, chỉ chấp nhận được mầu nhiệm Giáng Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU, trong ý nghĩa tình yêu.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa - Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong lịch sử con người. - Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách trọn vẹn và hết mình. - Giáng sinh: đó là cách thế để Thiên Chúa dạy cho con người biết thế nào là yêu thương và phải đáp trả tình yêu dành Ngài và cho nhau phải được thể hiện làm sao. Thi sĩ linh mục Trăng Thập Tự đã cảm nhận sâu xa ý nghĩa nầy trong bài thơ Tại Sao mà xin được trích ra đây đôi dòng tiêu biểu:
Còn Ngài yêu con, Ngài đã làm người Để có thể khóc, để có thể cười, Để có thể chết thay con mà chuộc tội, Và nhờ đó con hiểu thế nào là tội lỗi, Thế nào là lòng Chúa thương yêu. Để con hiểu ra vẽ diễm kiều Khi được làm người, khi được làm con Thiên Chúa. Lạy Đấng Cứu Thế, là Trời, là Tạo Hóa, Chiều nay trên thập giá, Chúa có ân hận đã làm người? Con hỏi và con tự trả lời Khi con đã biết Ngài yêu là yêu cho đến đời đời kiếp kiếp Lạy Thượng Đế làm người, lạy Chúa Giêsu (Trăng Thập tự, “Có ai về Cát Minh”, Bài “Tại Sao”, tr.184-186)
Thiên Chúa vẫn tiếp tục giáng sinh trong thế giới nầy.
Tuy nhiên, trong đêm nay cũng có kẻ sẽ tự nói rằng: Giáng Sinh đó là câu chuyện huyển tưởng của bọn Kitô giáo, có liên hệ gì đến mình đâu.
Không có liên hệ đấy quý vị. Chỉ cần 6 ngày nữa, khi tấm lịch cuối cùng ngày 31 tháng 12 năm 2013 được xé bỏ để bắt đầu tờ lịch mới 1.1.2014, cũng đã nói với quý vị rầng: Ngày sinh của Chúa Giêsu mà hôm nay chúng ta mừng kính đã được chọn làm cột mốc của khởi đầu cho Công lịch. Kể từ năm sinh của Ngài đến hôm nay đã được 2013 năm.
Nhưng điều chúng ta cần dừng lại đó lại là ý nghĩa tâm linh và chiều kích nhân sinh, xã hội mà mầu nhiệm Giáng Sinh mang đến cho con người.
Chúng tại phải trở về với lời Kinh Thánh, đặc biệt sứ điệp Tin Mừng được công bố hôm nay để tìm những chỉ dẫn cho những ý nghía nầy:
Bài Tin mừng Luca, với giọng văn lịch sử mang phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi biến cố Giáng Sinh với những lời và bối cảnh thật ấn tượng: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiện ra loan báo rằng: “Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đa-vít, Đấng Cưứ thế đã giáng sinh…”
Với những lời tiên báo đó, với những sứ điệp vui mừng và hy vọng về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật loài người đã tìm được điều gì nơi Đấng Cứu Thế giáng sinh cách đây 2013 năm ?
Thật trái với mong đợi của bao khát vọng trần tục của loài người.
- Thay vì một hoàng tử sinh ra trong gác tía lầu son, Đấng Cứu Thế lại là một em bé sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
- Thay vì một Đế vương chấp chính oai phong trên ngai vàng lẫm liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha giới thiệu với loài người đang khi chen lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau sám hối bên bờ sông Gio-đan.
- Thay vì công bố giữa triều đình oai nghi những đề cương kinh tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu thế lại rao giảng một Tin Mừng “Tám Mối Phúc Thật” chỉ thích hợp cho những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
- Thay vì chinh phạt với vó ngựa, gươm đao để mở rộng cõi bờ, sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chủ trương “phúc cho ai xây dựng hòa bình, phúc cho ai bị bách hại vì chính đạo...”
- Thay kéo bè kết cánh với những thế lực uy quyền và giàu có, Đấng Cứu thế lại giao du thân mật với những người nghèo, kẻ bất hạnh và chọn lựa những kẻ thất học, dân chài vai u thịt bắp để làm môn sinh và xây dựng. Giáo Hội
- Thay vì đăng quang chấp chánh trên ngai vàng lẫm liệt bắt muôn dân sấp mặt cuối đầu thì Đấng Cứu thế lại chấp nhận một bản án bất công và chịu tử hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho hàng nô lệ, giữa những người tội lỗi…
Và phải chăng, đó chính là ý nghĩa cuối cùng của mùa nhiệm Giáng Sinh, mầu nhiệm EMMANUEL, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Quả thật, sự xuất hiện và cuộc đời của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin nhận, là một huyền nhiệm để chúng ta đi tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây, chúng ta cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh nầy, chúng ta tìm kiếm một “Ông Giêsu” chỉ với mục đích là được no cơm ấm áo, chỉ với một ước nguyện là được tiền tài danh vọng và những bảo đảm vật chất, chỉ với một mưu cầu là đạt được những mưu đồ chính trị…thì có lẽ chúng ta sẽ ra về trong thất vọng.
Bởi vì Tin Mừng Giáng Sinh, Chân lý của Đức Kitô, con đường nhân sinh của Kitô giáo không đề nghị cho chúng ta những giải pháp trần tục đó, những hứa hẹn vật chất chóng tàn đó. Bởi vì Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài tuyệt đối không phải là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một học thuyết chính trị-kinh tế, cho dù đã có không ít đề nghị, chủ trương Ngài là Nhà Cách mạng vô sản, Ngài là lãnh tụ của thành phần dân nghèo đứng lên đòi quyền giả phóng.... Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi duy nhất là Đấng Cứu Độ, là Đấng, như lời kinh thánh “ trong Bài đọc 2 vừa được công bố hôm nay “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (BĐ 2), là Đấng qui tụ nhân loại thành anh em trong gia đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt qua kiếp sống trần gian tiến về hạnh phúc vĩnh hằng.
Tin và đón nhận Đức Ki-tô đó chính là không ngừng khám phá và gặp gỡ chính Ngài đang hiện diện thật sự trong thế giới nầy, trong nhân loại nầy, đặc biệt, Ngài hiện diện trong những con người bé nhỏ khó nghèo, bị chà đạp, bị tổn thương, bị vất bỏ bên vệ đường xã hội…
Câu chuyện trong kho tàng khôn ngoan của Ấn Độ sau đây đã phần nào diễn tả ý nghĩa nầy:
“Có một vị linh sư Ấn giáo và các môn sinh ngồi quây quần bên một bếp lửa hồng. Sức nóng của than hồng và hơi nóng của từng người làm cho căn phòng ấm hẳn ra….Nhưng bổng chốc, vị linh sư già run lập cập, môi ông bập bẹ không nói ra lời. Các môn sinh lo lắng cho sức khỏe của thầy: “Thưa thầy, chắc thầy yếu trong người, chúng con xin phép được cho thêm củi vào lò sưởi”. Trong cơn thổn thức, vị linh sư già cố gắng nói từng tiếng: “Lửa và sức nóng trong căn phòng nầy quá đủ cho ta…Ta cảm thấy lạnh là bởi vì bên ngoài có một người hành khất đang run lập cập”. Quả thật, đúng như lời của vị thầy, các môn sinh đã mở cửa và nhìn ra ngoài, và họ đã tìm thấy một người hành khất đang rét run vì đói và lạnh….Họ đưa ngươi đó vào trong căn phòng, săn sóc cho anh và từ giây phút ấy, vị linh đạo sư cũng trút bớt nổi rét run của mình...”
Kính thưa cộng đoàn và toàn thể ông bà anh chị em,
Trong năm vừa qua, chúng ta đã ghe biết và chứng kiến bao nhiêu đau thương, tệ nạn liên tiếp xảy ra trong các gia đình Việt Nam chúng ta. Từ vụ xác của chị Lê thị Huyền bị bác sĩ thẩm mỹ Cát Tường ném xuống sống Hồng Hà cho đến hành vi chém và đốt xác người yêu tại Đà Nẵng hay sự kiện người bảo mẫu hành hạ đến chết trẻ em được giao chăm sóc…thì quả thật, sứ điệp Giáng Sinh hôm nay quả thật cần thiết biết bao ! Cần thiết biết bao cuộc nhập thể giáng sinh của Ngôi Lời trong mọi cơ cấu của xã hội để hoán cải, để chữa lành, để phục sinh, như chính lời của Đức Thánh Cha Phanxicô đã cắt nghĩa trong bài huấn dụ trước lễ Giáng Sinh ngày 18.12.2013 tại Quảng trường Rôma:
“Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu biểu lộ cho thấy Thiên Chúa đã đứng về phía con người một lần cho tất cả, để cứu vớt chúng ta, để nâng chúng ta dậy từ bụi đất của các nỗi bần cùng, khó khăn và tội lỗi của chúng ta. Từ đó phát xuất ra món quà vĩ đại của Hài Nhi Bếtlehem: một năng lực tinh thần giúp chúng ta không chìm sâu trong các mệt nhọc, thất vọng, buồn sầu của chúng ta; bởi vì nó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi con tim. Thật thế việc sinh ra của Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta một tin vui: đó là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và một cách đặc biệt, và tình yêu này Ngài không chỉ làm cho chúng ta nhận biết, mà còn ban tặng và thông truyền nó cho chúng ta nữa! “
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Trong mùa Giáng Sinh nầy chúng ta đã từng nhận được rất nhiều cánh thiệp chúc mừng Giáng Sinh cùng với những lời chúc tốt đẹp, và chắc chắn ai trong chúng ta cũng ước mơ những lời chúc ấy sẽ trở thành hiện thực. Riêng tôi, tôi ước mong anh chị em phải biến cuộc đời mình, gia đình mình, cộng đoàn mình thành Tin Mừng Giáng Sinh, thành một Quà Tặng Sự sống, quà tặng của sự trung thành và hy sinh trong mái ấm gia đình, quà tặng của yêu thương và phục vụ ở giữa cộng đoàn, quà tặng của bác ái vị tha với mọi người chung quanh, quà tặng của bao dung tha thứ dành cho những người ghét ghen đố kỵ và xúc phạm đến mình. Chắc chắn, khi có được những quà tặng như thế, chúng ta sẽ nhận được “chiếc hộp vàng đựng nụ hôn chúc phúc của Chúa Hài Nhi Giêsu”, nụ hôn của niềm vui và an bình, nụ hôn của tin yêu và hạnh phúc hôm nay để dẫn dắt chúng ta đi trót cuộc hành trình dương thế để nhận được nụ hôn của Ba Ngôi Thiên Chúa trong hạnh phúc vĩnh hằng. Bởi vì, đó chính là lời chúc mà các thiên sứ đã hát lên trong đêm Giáng Sinh đầu tiên ở Bê-lem: ”Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương” ; và đó cũng chính tiêu đích của cuộc Nhập thể - Giáng sinh mà chính Chúa Giêsu đã từng khẳng định: “Ta đến để chúng được sống và sống phong phú”. Amen.
(Suy niệm của Lm Uyên Nguyễn - Lễ đêm Giáng Sinh) ‘Tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, là niềm vui cho toàn dân’.
Trong đời, tưởng chừng không gì bất tử với lòng người nhân loại hay thay đổi. Tuy nhiên vẫn GS-362
Trong đời, tưởng chừng không gì bất tử với lòng người nhân loại hay thay đổi. Tuy nhiên vẫn có những điều trường tồn ngoài sự suy đoán? Lạ lùng hơn là những việc xem ra dưới mức bình thường, trong âm thầm, quạnh quẽ, dần qua thời gian đã nên rạng ngời vinh quang, lưu tồn bất tận. Những sự kiện như vậy thường không là ngẫu nhiên, cũng vì tự tại đầy sức toả sáng, bất tử, huy hoàng giữa nhân loại.
Xem ra không mấy sự lạ lùng được như vậy, ngoại trừ biến cố được gọi là Giáng Sinh hay còn gọi là Noen. Lần theo tường thuật của Luca được GH trích đọc trong đại lễ truyền thống trọng trị tràn ngập hân hoan đêm nay, không thể không nhận ra những gì đã gây nên ấn tượng tôn vinh khó phai trong lòng nhân loại từ sự kiện Giáng Sinh trải qua bao thế hệ!
Điều thứ nhứt, Giáng sinh là ‘con đường’ làm người của Ngôi Con TC. Con đường hiện diện để yêu thương, hiện diện cho nhân loại, cho đời. Để là vậy, Người trải qua con đường chung của bất cứ ai được sinh ra làm người, nghĩa là cũng thụ thai, cũng được sinh hạ. Tuy nhiên quá trinh sinh làm người của con TC được phủ bóng quá giản đơn, phút chốc, có gì đó dưới thấp hèn. Sinh ra trong thời điểm mọi người vâng lệnh hoàng đế Augustô trở về quê hương để tuân hành pháp lệnh kiểm tra dân số. Người mẹ đang đến thời mãn nguyệt khai hoa, không tìm được nơi tá túc giữa lòng Thành Phố chật ních người. Theo đó, Luca tường thuật bằng một chất giọng nao nao tình trong cảm kích trọng thị: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”( c.7).
Luca cố tình dùng những cụm từ quen thuộc gần gũi đời thường: dành cho những người có gia cảnh bé mọn, lãng quên giữa phố chợ phồn hoa. Bà sinh con trai, lấy tã bọc, đặt nằm trong máng cỏ, vì không tìm được chỗ. Luca tự mình tra vấn: là con TC sinh hạ ư? Sao quá giản tiện, đơn hèn, bất đắc dĩ vì hoàn cảnh hay vì thâm ý? Mà Con TC được Tin Mừng Gioan gọi là Lời, Lời của TC Cha. Nếu TC như Gioan định tín: “TC là Tình Yêu”. Vậy Tình Yêu với vai trò diễn tả tình yêu Chúa Cha bằng Lòi tự tỏ bày như thế ư? Quả quyết vậy, chắc cũng không sai, bởi ngạn ngữ nói: “Đầu xuôi đuôi lọt”, cả cuộc đời với vai trò Con TC cứu độ đã theo đuổi cách sống không có gì là rạng rỡ như thế từ khởi sự cho đến trọn 33 năm hoàn tất nhân sinh! Sinh không vinh quang, chết cũng không rõ vinh quang. Tuy nhiên lẽ sinh, lẽ chết, ý nghĩa và hành vi cống hiến cho đời mới là cứu cánh định giá khác biệt để mới có thể gọi là sinh trong cùng đinh để chết đat đỉnh vinh quang tối hậu. Thế mới biết đâu là Lời của TC Cha, Lời vâng phục Chúa Cha, đã vì để trở nên cứu cánh nhân loại phải là thế?!
Điểm thứ hai, một biểu trưng cho một dáng vóc của tột cùng thấp hèn. Trước nhãn giới mang tính thèm khát cao vọng hồn nhiên của con người, Con TC sinh ra như thế được kể là thấp hèn. Thực chất không là thấp hèn mà là một TC tự hạ để sau này trên đường đi loan báo TM, giữa cuộc sống đời trần đầy dẫy ganh ghét, bon chen, dẫm trèo lên nhau, trong chân tình, Người dạy: “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường”( x.11,29). Vậy ở đây chắc chắn không phải là thấp hèn mà phải được nhìn nhận và tôn vinh là khiêm hạ. Con TC khiêm hạ vì Người bằng lòng hoá thân tự hạ để khả thi thực hiện điều được gọi là ‘nhập thể’, nên một giữa khối nhân loại bởi Người mà được tạo thành. Thấy rõ hơn về điều ấy, khi được đọc lại những gì Luca viết nêu giãn dị đôi nét về lai lịch vị trí sinh hạ: “Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật” (c.2,8). Sinh ra trong vùng, giản đơn là nơi nào đó trên cánh đồng chỉ có những người chăn chiên đêm đêm thao láo mắt thức canh đàn vật.
Những người chăn chiên là ai? Phẩm vị họ cao thấp, được tôn trọng hay, trước tâm khảm những ai khác họ, có bị nhìn là những kẻ đáng khinh vì bị liệt vào hàng thấp hèn không ít lần phạm phải hành vi trộm cướp cắp? Dẫu vậy, chính họ là những người mà Luca trong tường thuật, là những kẻ ưu tiên được diễm phúc, ưu tiên đón nhận tin mừng, ưu tiên được loan báo tin vui cho toàn dân, ưu tiên đi xem sự việc, ưu tiên chiêm ngưỡng và thực sự là những nhân chứng tiền thân. Xem ra là vậy! nên có thể hỏi tình thương đích thực mang đến ban phúc, đã thực hiện theo quá trình nào, khởi sự từ cao trọng xuống thấp hay từ thấp hèn lên cao trọng? ở đây xem ra Tình thương con TC làm người mang diễm phúc cho đời không theo quy trình hành xử như người đời mà bằng con đường độc lập của lòng ưu ái TC. Để xác quyết như vậy, qua tường thuật của Luca, sẽ rõ những gì mà nhóm những người này bộc lộ cho nhau:“ Nào chúng ta sang Belem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho chúng ta biết” ( c .2. 15). Luca cũng nói đến những cảm nghĩ của họ, bộc phát từ ơn lành, cho nhau: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng TC, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (c.20). Cảm nghĩ của các kẻ chăn chiên là tin cẩn dấu lạ loan báo, xác tin vào tin vui loan báo, tin vào phúc mà họ bỗng dưng được ban từ trời giữa đêm buồn quạnh quẽ giá rét, lòng họ đầy hân hoan trong trào dâng cảm xúc ca ngợi và cảm tạ TC.
Phần chúng ta cảm nghĩ gì? Có phải Giáng Sinh không là vậy không là Giáng sinh, là Noen! Chắc là vậy vì mọi tình huống ấy đã được công bố từ khơi nguồn do lời và tiếng hát hoà vang nhiệm lạ của các ‘thần thiêng’ trên không trung trong đêm tịch liêu khuya khoắt, công bố cho hiện tại và cho cả mọi thế hệ tương lai! Thế nên điều tưởng chừng không giá, không nghĩa, lại đầy sức mầu khoác cho mình ánh sáng rực rỡ hấp dẫn, bùng lên vẻ vang qua mọi thời. Là như vậy, chỉ có là: Giáng Sinh, Noen. Bởi chính đó là Đấng cứu độ, Đấng mang lửa yêu thương từ trời cao ném vào băng giá trần gian, bằng con đường làm người trong và qua giản đơn, mọn hèn, để như lửa len mình vào mọi chất đốt đủ kích cỡ làm bùng lên cháy rực giữa cõi nhân sinh đang thênh thang chung lộn trên miền băng giá! Noen vậy, rất đáng cảm kích, không thể không huy hoàng rực rỡ ư? và sẽ không vẻ vang hơn như thế cho đến ngày cùng vũ trụ?!
Thân lạy Đấng là Hài nhi mới sinh! Con xin được ngợi khen và tôn vinh Danh Người, nguyện cho Danh Người luôn được cao sang. Xin cho Giáng Sinh bừng cháy lên trong tâm hồn mọi người giữa mọi dân nước. Xin đừng ai chưa hay không đón nhận được tin vui Giáng Sinh: là ơn cứu độ tuyệt hảo dành cho những ai thành tâm cũng cố dời mình đón nhận Giáng Sinh đầy hiệu quả và trọn vẹn!
Nhà văn Hans Christian Andersen, người Đan-mạch, có sáng tác một câu chuyện nổi tiếng khắp thế GS-363
Nhà văn Hans Christian Andersen, người Đan-mạch, có sáng tác một câu chuyện nổi tiếng khắp thế giới mang tựa đề “Cô gái bán diêm”.
Tôi xin lược thuật lại chuyện đó như sau:
Hôm ấy là buổi chiều rét buốt cuối năm. Tuyết không ngừng rơi và đêm đang xuống dần. Một bé gái bán diêm, đôi chân bầm tím vì lạnh, co ro lê bước giữa phố phường giá rét. Suốt ngày qua, em chẳng bán được hộp quẹt nào và cũng chẳng có ai bố thí cho em xu nào.
Em muốn rảo bước về nhà để tránh cơn lạnh cắt da, nhưng nếu chưa bán được hộp diêm nào, chưa được ai thí cho đồng nào mà lê gót về nhà thì sẽ bị mẹ mắng nhiếc thậm tệ và bị ba đánh đập tàn nhẫn.
Em cảm thấy đói khát và mệt lả. Mùi thơm từ những con ngỗng quay toả ra từ tiệm ăn đầu phố làm cho cơn đói dằn vặt em nhiều hơn.
Càng về đêm, trời càng thêm lạnh. Tuyết vẫn rơi đều trên phố và phủ trắng mái tóc vàng óng của em. Đôi chân tê cứng vì lạnh không cho phép em bước xa hơn. Em ngồi xuống, thu mình vào một góc hẹp giữa hai căn phố. Người qua lại chẳng ai để ý đến đứa bé cùng khốn như em.
Khao khát lớn nhất của em bây giờ là được sưởi ấm, nhưng em không dám phí phạm những que diêm. Mất một que diêm có nghĩa là mất đi ít bánh rất cần thiết cho gia đình. Em không được phí phạm. Nhưng rét quá. Hai bàn tay gần như chết cóng rồi. Em chỉ ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm thôi.
Một que diêm được bật lên. Ôi, giữa đêm tối rét buốt, ánh sáng que diêm nhỏ bé kia sao mà tuyệt vời đến thế ! Với trí tưởng tưởng mạnh của trẻ thơ, em nhìn ánh lửa que diêm mà hình dung ra một lò sưởi ấm áp. Em định đưa chân ra để sưởi cho đôi chân bớt cóng thì ngọn lửa đã biến đi và lò sưởi cũng biến theo. Đánh bạo hy sinh thêm một que diêm nữa. Ánh sáng lại bùng lên. Ôi thích quá ! ấm áp quá ! Ánh lửa ấm áp gợi lên trong tâm trí em một phòng ăn ấm cúng, có khăn trải bàn trắng xóa, có bát đĩa bằng pha lê, và tuyệt vời hơn hết là trên bàn có một con ngỗng quay đang tỏa hương thơm phức. Suốt đời mình, chưa từng được thưởng thức một bữa ăn có thịt, nên giờ đây, đang lúc bụng đói cồn cào, em ao ước biết bao ! Thế nhưng ánh lửa diêm lại lụi tàn, phòng ăn biến mất, em lại trở về với thực tại đen tối, đói khát và rét buốt.
Thế rồi, em bị cám dỗ bật thêm que diêm thứ ba. Dưới ánh sáng của que diêm này, tuyệt vời thay, em thấy hình ảnh bà ngoại hiện về. Mừng quá, em gào lên: “Bà ơi, chờ cháu với, cho cháu đi theo bà!” Em sợ diêm tắt và hình ảnh của bà cũng tắt theo, nên em bật thêm que diêm thứ tư, thứ năm và rồi bật hết những que diêm còn lại, bởi vì em khao khát có bà ở lại với mình. Trong trí tưởng tượng phong phú của tuổi thơ, em thấy bà rất đẹp, rất hiền. Bà ôm lấy em và cả hai bà cháu cùng bay lên cõi Thiên đàng, đến nơi chẳng còn lạnh lẽo, chẳng còn đói khát, chẳng còn đau thương.
Qua sáng hôm sau, khi trời hừng sáng, người qua lại phát hiện em bé ngồi trên vỉa hè, đầu nghiêng một bên, trên môi còn nở nụ cười nhưng em đã chết cóng tự bao giờ.
Thân phận đứa bé bán diêm trong câu chuyện trên đây cũng là thân phận của nhân loại hôm nay. Nhiều người trên thế giới hiện nay vẫn đang còn chịu đựng những hình thức đói, rét hết sức thảm hại. Đó là tình trạng đói tình thương, khát hoà bình, rét vì thiếu hơi ấm của tình người và lòng thương xót.
Vì thế, nhân loại đang cần được sưởi ấm bởi một “lò sưởi tình thương”. Tuy nhiên, tình thương trên thế giới nầy chỉ lập lòe như một ngọn lửa diêm, bùng lên giây lát rồi tắt ngúm, không đủ sưởi ấm cõi lòng băng giá của bao người.
Nhân loại đang khát khao một lò sưởi ấm áp như em gái trong chuyện trên đây cần ánh lửa của một que diêm, để sưởi ấm cho đôi tay lạnh cóng của mình.
Phúc thay! Khát vọng của nhân loại đã được Thiên Chúa đáp ứng. Ngài rộng ban cho họ cả một Mặt Trời, cả một Vầng Đông rực rỡ để chiếu soi, để sưởi ấm, như lời Chúa trong Tin Mừng Luca:
“Thiên Chúa Ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông từ trời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và từ trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” (Lc 1, 78-79)
Chúa Giêsu chính là Vừng Đông rực rỡ, là Ánh Thái Dương mà Thiên Chúa ban tặng cho loài người.
Vầng đông đem lại cho loài người hai lợi ích lớn: Một là soi sáng, hai là sưởi ấm cho toàn thể địa cầu.
Chúa Giêsu là Vầng Đông soi sáng tâm hồn
Như ánh sáng của mặt trời xua tan đêm tối che phủ địa cầu để vạn vật được tỏ bày, thì ánh sáng của Đức Giêsu, tức là Tin Mừng của Ngài, sẽ xoá tan bóng tối bao phủ lòng người, giúp mọi người nhận ra Thiên Chúa là Cha của mình, nhận biết Đức Kitô là Đấng cứu độ, nhận ra Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, nhận ra mình có một quê thật trên trời.
Chúa Giêsu Vầng Đông sưởi ấm địa cầu
Như ánh sáng của mặt trời sưởi ấm quả địa cầu này, giúp cho nó khỏi bị chết đông vì băng giá, thì Tin Mừng và quy luật yêu thương của Đức Kitô cũng làm cho mọi người biết nhận ra nhau là anh chị em một nhà, biết sống yêu thương đùm bọc nhau, nhờ đó, nhân loại được ấm lên bởi tình yêu thương huynh đệ.
Lạy Chúa Giêsu,
Trong đêm thánh nầy, đêm tưởng niệm biến cố Chúa là Vầng Đông từ trời đến chiếu soi tâm hồn nhân loại, chúng con cầu xin cho tất cả mọi người biết mở lòng đón nhận ánh sáng của Chúa, để ai nấy đều nhận ra một sự thật tuyệt vời, đó là Thiên Chúa là Cha thật của mình, nhận ra mỗi người chung quanh đều là anh em con cùng một Cha; nhờ đó, mọi người đều yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà; nhờ đó, tất cả đều được sưởi ấm bằng tình yêu thương; tất cả đều được no đầy hạnh phúc vì được làm con của Cha trên trời.
(Lễ Đêm Giáng Sinh 2014 - Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Chúng ta đang cùng với toàn thể Giáo Hội long trọng mừng kỷ niệm một biến cố đặc biệt, biến cố GS-364
Chúng ta đang cùng với toàn thể Giáo Hội long trọng mừng kỷ niệm một biến cố đặc biệt, biến cố Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đi vào trần gian. Tất nhiên, Ngài đi vào trần gian không phải để đi du lịch, hay để đi tham quan một vòng cho biết trần gian; cũng không phải để vi hành như các vua chúa trần gian thường làm. Con Thiên Chúa nhập thể vào trần gian là để làm người và ở với con người.
Con Thiên Chúa đi vào trần gian cũng không phải như một nhân vật thần thoại hóa nhân, hay một siêu nhân hoá kiếp... Ngài đi vào trần gian cũng không phải như là một sản phẩm của trí tưởng tượng con người, đại loại như một thần đồng vươn vai lớn lên như Phù Đổng, mạnh mẽ phi thường như Thiên Vương khiến hùm beo phải sợ. Ngài là một nhân vật lịch sử có phả hệ, có lý lịch hẳn hoi như mọi người; có dòng tộc tổ tiên (gia phả dài), có ông bà cha mẹ, có quê hương đất nước. Thật ra, nếu Thiên Con Thiên Chúa đến trần gian để làm vua hay làm Chúa thì chẳng có gì để nói, bởi vì tự bản tính Ngài là Vua trên các vua, là Chúa trên các chúa. Nhưng Ngài đã làm người như ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi.
Chúa Giêsu đã đi vào gia phả của nhân loại với mục đích nào? Ngài đi vào gia phả của nhân loại để thiết lập tương quan huyết thống với con người. Ngài đi vào gia phả của nhân loại để đưa con người vào phả hệ thần linh của Thiên Chúa. Có điều, Ngài đi vào trần gian, đi vào gia phả nhân loại trong cảnh nghèo hèn khiêm hạ. Tại sao vậy?
Trong nhân loại chúng ta, chẳng ai có quyền được chọn lựa gia đình hay gia cảnh để sinh ra, ngoại trừ Đức Giêsu Kitô, vì Ngài là Thiên Chúa. Vậy tại sao Đức Giêsu lại chọn sinh ra trong cảnh nghèo hèn như thế?
Có lần tôi hỏi các thầy đang học tại Chủng Viện thánh Nicôla, Phan Thiết rằng nếu Chúa Giêsu giáng sinh trong thời đại ngày hôm nay thì Ngài sẽ chọn quốc gia nào và hoàn cảnh nào để sinh ra?
Có thầy bảo: “Theo con Chúa sẽ chọn nước Mỹ để sinh ra vì nước Mỹ hùng mạnh và Chúa Giêsu sẽ có những phương tiện tốt nhất để để loan báo Tin Mừng cho cả thế giới”.
Có thầy cho rằng Chúa Giêsu sẽ chọn một nước ở Phi Châu vì ở đó có nhiều người nghèo đói, hơn nữa Chúa sinh ra làm một người da đen cũng tốt thay vì da trắng. Là da đen, Chúa sẽ gần gũi với người Phi Châu nghèo khổ hơn.
Thầy khác thì bảo rằng Chúa Giêsu sẽ chọn nước Anh, vì ngày nay ngôn ngữ quốc tế thông dụng nhất đó là tiếng Anh. Và lúc đó mọi người sẽ hiểu được những gì Chúa nói khỏi cần thông dịch viên.
Một số thầy khác thì cho rằng Chúa Giêsu sẽ chọn Trung Quốc, bởi vì Trung Quốc là một quốc gia đông dân nhất thế giới, Trung Quốc cũng là nơi có nhiều hàng độc hại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, và Chúa sẽ đổi mới người dân Trung quốc để họ bớt gian dối và rất có thể ngài sẽ biến Trung Quốc thành kinh đô của Kitô giáo. Nhưng thầy này cũng lưu ý Đức Mẹ khi mang thai coi chừng bị người ta bắt phá thai !?
Một số thầy khác nữa thì bảo rằng Chúa Giêsu sẽ chọn Philipin hoặc Việt Nam, vì ở hai quốc gia này quanh năm phải chịu nhiều thiên tai bão lụt. Sinh ra ở đây Chúa Giêsu sẽ đồng cảm với người dân những nước này hơn.
Có thầy lại chọn Nam Cực làm nơi cho Chúa sinh ra, vì ở đó có nhiều gấu và chim cánh cụt rất dễ thương, khí hậu lại trong lành. Chúa Giêsu có thể dùng xe tuyết đi lại an toàn.
Đặc biệt có thầy không chọn một quốc gia nào hết, mà lại chọn trạm không gian. Vì trên trạm không gian không bị ô nhiễm môi trường, nên sẽ tốt cho trẻ sơ sinh và bà mẹ đang cho con bú. Vả lại, sinh ở trên đó, Chúa Giêsu sẽ là của cả trái đất, chứ không phải của một dân tộc nào, khỏi phân bì, v.v…
Tuy nhiên, đại đa số các thầy vẫn cho rằng Chúa Giêsu vẫn sẽ chọn cảnh nghèo để sinh ra và để làm người. Sở dĩ Ngài chọn sinh ra trong cảnh nghèo là để “ở với” con người, để cảm thông với thân phận con người, đặc biệt là thân phận của những người thấp cổ bé miệng, và hơn thế nữa là để chết cho con người, để rồi qua cái chết của Ngài, con người được hưởng ơn cứu độ.
Quả thật, nếu Thiên Chúa sinh ra trong cung điện, trong đền đài vua chúa, hay sinh ra trong một gia đình giàu sang quyền quý, có lẽ những người phận hèn không bao giờ có cơ hội đến được với Ngài, càng không bao giờ dám được làm bạn với Ngài. Thực tế, Thiên Chúa đã đến trần gian để ở với con người và làm bạn với con người. Đó là điều có thật, chứ không phải là giấc mơ nữa.
Vậy thì sứ điệp của ngày lễ hôm nay muốn mời gọi ta điều gì? Mời gọi chúng ta hai điều:
- Thứ nhất: hãy như các mục đồng theo lời mời gọi của các thiên thần đến chiêm ngắm Chúa Hài Nhi trong hang đá bò lừa.
Chiêm ngắm Chúa Hài Đồng nơi hang đá máng cỏ để ta cảm nghiệm ngày một sâu xa hơn tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta mà năng biết dâng lời tạ ơn Chúa. Thật vậy, Hài Nhi Giêsu là Thiên Chúa quyền năng vô tận, nhưng đã chấp nhận mặc lấy thân phận con người,sống như con người, ngoại trừ tội lỗi. Chấp nhận thân phận con người thì cũng chấp nhận sự mỏng dòn, yếu đuối của thân xác: cũng đói, cũng khát, cũng có khi nhức đầu sổ mũi. Thân xác Hài nhi, cũng phải chấp nhận sự lớn lên, sự nuôi dưỡng như mọi người…
Chiêm ngắm Chúa hài Đồng trong hang đá máng cỏ, để chúng ta biết ý thức hơn về phẩm giá và địa vị cao quý của con người, dù còn bé tí hay già nua bệnh tật. Con người có địa vị và phẩm giá cao quý vì con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa, được Con Thiên Chúa đến làm bạn, và hiến ban chính cả mạng sống mình.
Chiêm ngắm Chúa hài Đồng trong hang đá máng cỏ, để chúng ta cũng biết yêu mến anh chị em mình nhiều hơn, nhất là những người bé nhỏ nghèo hèn. Vì họ là hiện thân của chính Chúa.
- Thứ hai: hãy như các nhà đạo sĩ biết quảng đại tiến dâng của lễ đời mình cho Chúa. Của lễ nào?
Khi hỏi các thầy ở Chủng Viện cùng câu hỏi này, tôi nhận được rất nhiều câu trả lời. Có thầy thì nói rằng con cũng không biết dâng gì, vì dạo này toàn hàng Trung Quốc, nên đụng đâu cũng hàng giả. Nếu có dâng thì con dâng tặng Chúa chiếc xe đạp ba bánh để thánh Giuse chở Chúa đi dạo thôi.
Có thầy thì bảo Chúa sinh ra mùa đông lạnh lẽo, nên con sẽ dâng cho Chúa mấy bộ áo em bé để Chúa mặc, và tặng cho Chúa vài thùng sữa Vinamilk hoặc Milô để Chúa uống khi chỉ có thánh Giuse ở nhà.
Có thầy thì bảo con sẽ dâng Chúa hài Nhi một chiếc Attila để thánh Giuse có thể chở Đức Mẹ và Chúa Hài Nhi đi Aicập nhanh hơn. Có thầy thì dâng cho Chúa một visa để Chúa có cơ hội đi du lịch.
Có thầy bảo rằng con sẽ dâng cho Chúa một bình sữa không bao giờ cạn để Mẹ Maria đỡ vất vả. Có thầy bảo rằng nếu con là một trong ba nhà đạo sĩ, con sẽ dâng cho Chúa một cái máy sưởi hiệu Panasonic, loại tốt nhất, để sưởi cho Chúa bớt lạnh. Có thầy khiêm tốn hơn thì bảo rằng con sẽ dâng cho Chúa một cây viết và một cuốn sổ để Chúa viết nhật ký hằng ngày. Nhờ đó mà sau này hậu thế có chữ viết của Chúa và các Tông đồ khỏi vất vả ghi chép.
Có thầy quan tâm hơn đến thời thế thì bảo rằng con sẽ dâng cho Chúa một bộ áo chống đạn và một hộp sữa Trung Quốc nhiễm Melamine. Áo chống đạn để Chúa bình an giữa chiến tranh của Palestine và Israel. Sữa Trung Quốc nhiễm Melamine để Chúa thấy sự tồi tàn của một số doanh nhân Trung Quốc ngỏ hầu Chúa biến đổi họ…
Và rồi có thầy thì rất thực tế, bảo rằng con sẽ dâng Chúa Hài Đồng Vắccin chích ngừa miễn phí tất cả các thứ bệnh, học bổng từ lớp một đến hết đại học, và sau đó là quyền đặc cách vào Chủng Viện Saigon, v.v…
Tóm lại, của lễ dâng Chúa của mỗi thầy mỗi khác. Và có lẽ mỗi người chúng ta cũng thế. Cách chung đối với các em Thiếu nhi và Huynh Trưởng trong giáo xứ trong những ngày qua, của lễ thiết thực đó là thời giờ, và công sức mà các em bỏ ra để đi tập hát, tập múa, tập hoạt cảnh… Còn đối với nhiều người lớn của lễ đó có thể là tiền bạc vật chất. Từ đầu Mùa Vọng đến nay, tôi đã nhận được một số quà dâng Chúa Hài Đồng từ những người lớn: tiền, mì tôm, gạo….
Thực sự Chúa Giêsu Hài Đồng có cần chúng ta trực tiếp cho Chúa của cải hay các tiện nghi vật chất không? Không. Nhưng Chúa cần ta cho Chúa cách gián tiếp qua những người nghèo khổ bệnh tật neo đơn… Họ là hiện thân của Chúa Giêsu Hài Đồng. Vì thế, khi ta giúp đỡ chia sẻ với những kẻ bé mọn là ta đã làm cho chính Chúa.
Thấy Chúa Giêsu năm nào cũng mừng Giáng sinh trong háng đá nghèo hèn, năm nay anh em gia trưởng quyết định làm cho Chúa một “căn nhà” tình thương. Lúc đầu tính làm nhà cấp 3, nhưng thấy không đủ kinh phí, nên thu nhỏ lại thành nhà cấp 4. Làm nhà cấp 4 mà cửa chính cửa sổ vẫn chưa có cánh.
Thiết nghĩ, qua hình ảnh đó, anh chị em được mời gọi hãy chung tay, chung sức làm những căn nhà tình thương cho những Giêsu đang hiện thân nơi những anh chị em nghèo khổ. Ngay trên đất nước Việt Nam này, có rất nhiều Giêsu bằng xương bằng thịt đang cần những “ngôi nhà mơ ước”, tức những ngôi nhà tình thương. Họ đang phải sống tạm bợ nơi những căn nhà chòi, hay nhà lá tạm bợ không đủ che mưa che nắng, chứ chưa nói đến tiện nghi vật chất.
Dù khi không thể làm được nhà cho những người vô gia cư thì ta cũng có thể làm nghĩa cử nào đó cho họ. Đức Thánh cha Phanxicô, trong ngày mừng sinh nhật lần thứ 77, đã quyết định mời 3 người vô gia cư vào ăn trưa với mình. Một nghĩa cử đầy nhân ái làm ấm lòng những người bất hạnh. Âu đó cũng là một cách dâng lễ vật cho Chúa Hài Đồng trong Mùa Giáng Sinh.
Và trên hết, thiết nghĩ có một thứ của lễ mà ai trong chúng ta, dù giàu hay nghèo cũng luôn có sẵn, có sẵn ngay lúc này đây, và đây cũng là của lễ mà Chúa Giêsu luôn chờ đợi, đó chính là con người của chúng ta với cả tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Dâng cho Chúa để làm gì? Để cho Chúa tha thứ, chữa lành và biến đổi nên tốt đẹp hơn. Hãy dâng Chúa của lễ này. Amen.
Nhìn hang đá Belem, tôi thấy nhiều điều nên suy nghĩ. Như sự Chúa giáng sinh tự chọn cảnh nghèo. GS-365
Nhìn hang đá Belem, tôi thấy nhiều điều nên suy nghĩ. Như sự Chúa giáng sinh tự chọn cảnh nghèo. Như sự những người sống đạo ở Belem bấy giờ đã không quan tâm đủ đến kẻ lỡ đường xin trọ. Như những người mục đồng làm thuê làm mướn lại được phúc gặp Chúa Cứu thế sớm nhất.
Nhưng có một điều nho nhỏ nơi hang đá Belem cũng đã lôi cuốn tôi. Điều nho nhỏ đó là tình nghĩa.
Vai trò tình nghĩa trong đời Chúa Giêsu.
Tình nghĩa là bầu khí bao trùm Hài nhi Giêsu. Ngoài Đức Mẹ và Thánh Giuse vây quanh hài nhi, tôi thấy còn có các mục đồng và ba vua. Cả con lừa và mấy con chiên cũng đứng sát vào một cách thân yêu. Những hơi thở, những ánh mắt, những cử chỉ của người và vật đều diễn tả tình nghĩa thân thương đối với Hài Nhi.
Nhìn cảnh này, tôi có cảm tưởng: Đây không phải là một sự tình cờ, nhưng là một điều Chúa muốn. Người muốn tình nghĩa nên được hiểu là một điều tốt. Chúa quý mến tình nghĩa. Tình nghĩa là một nâng đỡ quý giá đồng hành với Chúa Cứu thế từ hang đá Belem đến thánh giá trên núi Sọ.
Thực vậy, căn cứ vào Phúc Âm, tôi thấy Chúa Cứu thế đã có những tình nghĩa mặn nồng nâng đỡ sứ mạng của Người suốt hành trình dài.
Đầu tiên là thánh Gioan Baotixita. Tình nghĩa của Gioan đối với Chúa Giêsu nổi bật ở hai điểm này:
Một là Gioan khiêm tốn, tự nhận mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa Cứu thế.
Hai là Gioan giới thiệu giá trị đích thực của Chúa Giêsu ở tại việc hy sinh gánh tội trần gian, và tự nguyện chịu chết để đền tội cho nhân loại. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian" (Ga 1,29). Lời giới thiệu đó nói lên một tình nghĩa đi vào căn bản.
Sau thánh Gioan Baotixita, tôi thấy tình nghĩa của gia đình chị em Matta, Maria và Ladarô. Gia đình này nâng đỡ Chúa Giêsu về mọi mặt, tinh thần và vật chất, tình cảm và làm chứng. Họ làm chứng về niềm tin Chúa Giêsu là Đấng cứu thế.
Sau cùng là tình nghĩa của các môn đệ Chúa, nhất là thánh Phêrô và thánh Gioan tông đồ.
Tình nghĩa của thánh Phêrô nổi bật ở điểm nhiệt thành, táo bạo trong tuyên xưng đức tin.
Tình nghĩa của thánh Gioan đậm nét ở chỗ được Chúa yêu thương, chia sẻ cho những sự sâu kín nhiệm mầu về đời sống Chúa Ba Ngôi, nhất là ở chỗ được Chúa cho thấu hiểu sâu xa điều răn mới là yêu thương nhau.
Trên đây là những tình nghĩa thường xuyên đậm đà. Cũng còn một vài tình nghĩa vắn, trong các trường hợp đặc biệt. Như trên đường vác thánh giá lên núi Sọ, Chúa được nâng đỡ bởi bà Veronica,một số phụ nữ và ông Simon, người nông dân.
Sau cùng, ở núi Sọ, dưới chân thánh giá, số người nâng đỡ Chúa chỉ còn một số rất nhỏ.
Nói chung, những tình nghĩa đã nâng đỡ Chúa Giêsu khi Người vừa sinh ra ở Belem cho tới khi Người tắt thở trên thánh giá ở núi Sọ, đều rất khiêm tốn, âm thầm. Dầu vậy, những tình nghĩa đó phải được coi là rất quý giá.
Với nhận thức đó, tôi nhìn vào các môn đệ Đức Kitô, xưa và đặc biệt là hôm nay.
Vai trò của tình nghĩa nơi các môn đệ Đức Kitô.
Trên đường bước theo Chúa Cứu thế, môn đệ Chúa cũng gặp được những nâng đỡ. Nếu "đầy tớ không trọng hơn Thầy" (Ga 15,20), thì những nâng đỡ dành cho các ngài cũng rất giới hạn. Tất nhiên nâng đỡ nói đây phải hiểu là nâng đỡ chính đáng.
Cũng vẫn là nâng đỡ của số ít như tại hang đá Belem. Cũng vẫn là nâng đỡ của một số ít làm chứng cho niềm tin hơn là cho cá nhân người môn đệ. Cũng vẫn là nâng đỡ của một số ít như ở Calvariô.
Riêng tôi, tôi coi những tình nghĩa đó là những ơn đặc biệt Chúa ban cho đời tôi.
Kinh Thánh nói: "Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc. Ai gặp được người bạn như thế là gặp được kho tàng. Không gì đổi lấy được một người bạn trung thành, và giá trị của người bạn ấy không cân nào lường được" (Hc 6,14-15).
Trung thành ở đây phải được hiểu là trung thành trong những trường hợp không mấy ai muốn chọn. Như trường hợp sau đây:
Ngày 19 tháng 9 năm 1997, tại một nhà thờ ở Berne, thủ đô Thuỵ Sĩ, có lễ an táng một nữ tu. Nư tu này tên là Rosalba, dòng Tuổi Muội.
Khi còn sống, chị nữ tu này là bạn trung thành của những bệnh nhân mắc bệnh ung thư. Chị thường xuyên thăm họ. Ngoài ra, chị cũng là bạn trung thành của những nữ phạm nhân đã hết hạn tù. Chị thường xuyên liên lạc với họ. Đặc biệt, chị là bạn trung thành của những nữ phạm nhân còn bị giam trong tù. Chị tình nguyện và được phép sống chung với họ trong tù, chịu chế độ tù y như các phạm nhân thực sự. Có chị Rosalba ở trong tù, mỗi phạm nhân như cảm thấy một lễ Noel đến với mình mỗi ngày.
Ngày an táng chị là ngày của những nước mắt. Nước mắt của những người bệnh ung thư, của những nữ tù nhân đã được tha, của những nữ tù nhân còn bị giam giữ. Họ khóc một người bạn trung thành. Chị nữ tu này đã tìm tình nghĩa nơi những người bị loại trừ. Nhiều người nức nở tiễn biệt chị bằng những lời liên quan đến đức tin như: "Thưa chị, nếu thực có thiên đàng, khi lên đó rồi, xin chị vẫn hãy là bạn của em". Những nước mắt trong lễ hôm ấy gieo vào biết bao lòng người những hạt giống khao khát đi tìm dung mạo thực của Thiên Chúa tình yêu, mà chị dòng Tiểu Muội đã giới thiệu chỉ bằng đời sống tình nghĩa của chị đơn sơ, khó nghèo, phục vụ.
Một cái nhìn về tình nghĩa hôm nay.
Tôi đã tìm tình nghĩa với kẻ túng nghèo như ở Belem. Tôi đã tìm tình nghĩa với kẻ bị loại trừ như ở chân thánh giá trên núi Sọ.
Tôi đã thấy. Tôi đã gặp. Tôi hết lòng cảm ơn họ.
Những tình nghĩa ấy đã nâng đỡ tôi. Qua những nâng đỡ đó, tôi cảm nhận được Chúa ở bên tôi. Chúa giáng sinh đến với tôi không phải để tôi bớt khổ, nhưng để chia sẻ nỗi khổ đời tôi.
Người chịu khổ cùng với tôi, chịu nhục cùng với tôi, chịu vất vả cùng với tôi, chịu thử thách cùng với tôi. Tôi cảm nhận được sự thực đó. Tôi coi đó cũng là gương, để tôi biết sống như thế với những người đau khổ.
Trên thực tế hôm nay, cuộc sống đang phơi bày khoảng cách giữa người nghèo và người giàu, giữa người bệnh tật và những khoẻ mạnh, giữa người có quyền chức và người dân thường. Nhiều khoảng cách rất lớn. Nhìn vào, tôi thấy vừa choáng váng và vừa xót xa.
Trong thực tế này, đang nảy sinh những lo âu, những phũ phàng, những ganh tỵ, những tranh giành, những nghi kỵ, những phe nhóm và những mưu lược, những chịu đựng xót lòng. Có đủ thử giả, kể cả tình nghĩa. Cả những tự tử, như bước đường cùng.
Tôi áy náy, không biết Hội Thánh Việt Nam, trong năm truyền giáo này, đã đóng góp được nhiều hay ít trong việc cải thiện thực tế đáng ngại đó, mà ai cũng đang thấy.
Với những cảm nhận như thế, tôi rất mong và rất trân trọng những tình nghĩa. Cho dù đó chỉ nhỏ hẹp khiêm tốn âm thầm như tình nghĩa ở hang đá Belem.
Chớ chi tình nghĩa xưa tại hang đá Belem sẽ là một thời sự của hôm nay. Mong thời sự hôm nay sẽ hứa hẹn một cuộc sống mới, không phải chỉ giàu hơn về văn hoá, nhưng nhất là giàu hơn về tình nghĩa trung thành và tình thương chân thành.
Riêng tôi, trong hoàn cảnh nào, tôi vẫn ghi sâu trong lòng mọi tình nghĩa và tình thương của bất cứ ai dành cho Hài nhi Giêsu luôn hiện diện lặng lẽ trong tôi và cuộc đời tôi.
Con Thiên Chúa làm người, giao hòa Đất với Trời, vinh danh Thiên Chúa.
Tội thế nhân được sạch, đổi mới Hồn và Xác, hạnh phúc loài người. Thiên Chúa tuyên phán: GS-366
Tội thế nhân được sạch, đổi mới Hồn và Xác, hạnh phúc loài người.
Thiên Chúa tuyên phán: “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2:7). Trong Đêm Cực Thánh lung linh muôn ánh sao này, Lời Chúa khiến tất cả chúng ta đều phấn khởi vui mừng, vì Đấng Cứu Độ đã sinh ra trong thế gian. Đó là Tin Mừng của các tin mừng, vì chính từ đêm nay, bình an chân thật đã từ trời đã ban xuống cho chúng ta. Niềm hạnh phúc quá lớn lao và khôn tả!
Không vui mừng sao được khi mà “dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9:1). Thật là một hồng ân cao cả vô cùng, với lý do rất minh nhiên: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm” (Is 9:2).
Chúa đến, không còn bất công và áp bức, công lý được sáng tỏ: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa. Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:3-5). Những Tôn Danh đó vô song, và chỉ có thể dành cho Thiên Chúa, không một người nào hoặc một thần linh nào xứng đáng với các Tôn Danh đó.
Hài Nhi giáng sinh nơi hang đá hèn hạ lại chính là Vua Công Lý, Ngài đến để giải phóng các tội nhân, các tử tù cũng được trắng án: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6).
Đêm nay là Đêm Hồng Ân, Đêm Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa, Đêm Cứu Độ, Đêm Bình An. Niềm vui tào dâng tràn ngập đất trời, chan hòa lòng người. Không ai có thể bất động mà không hân hoan thốt lên: ALLELUIA. Tác giả Thánh Vịnh đã phải mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Không chỉ mời gọi mọi người, tác giả Thánh Vịnh còn kêu gọi cả muôn loài cùng thể hiện niềm vui sướng đó: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ. Hỡi cây cối rừng xanh, hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa, vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian. Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người” (Tv 96:11-13). Niềm vui mừng rộn rã thật chính đáng, vì chính đêm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô Chúa Chúng ta!
Ngài là Ánh Sáng đến phá tan bóng tối, Ngài là Hòa Bình đến dập tắt chiến tranh, Ngài là Công lý đến triệt tiêu áp bức, Ngài là Tình Yêu đến phá bỏ hận thù. Ngài tự hạ để nâng chúng ta lên cao, Ngài chấp nhận nghèo khó để chúng ta giàu có, Ngài chịu bơ vơ để chúng ta sum họp,… Vô cùng tạ ơn Chúa Hài Đồng, phàm phu tục tử chỉ biết nói thế, vì không phàm ngôn nào có thể đủ mức để diễn tả!
Lời hứa từ ngàn xưa đã được thực hiện, mọi lời tiên tri đã ứng nghiệm, tất cả đã được nên trọn: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao phải như vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14).
Vâng, không còn hạnh phúc nào lớn hơn nữa rồi. Nguyện xin tất cả vì vinh danh Chúa mà thôi!
Thánh sử Luca kể ngắn gọn mà đầy đủ Cổ-Tích-Thật-Giáng-Sinh...
Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, Chú Giuse từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít – tức là Belem, miền Giu-đê, vì Chú thuộc Hoàng gia Đa-vít. Chú lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với Chú là Cô Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, Cô Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Cô sinh Con Trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai Cô Chú không tìm được chỗ trong nhà trọ.
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Hãi hùng lá cái chắc, vì các mục đồng là những con nhà nghèo, học hành không nhiều, có lẽ có người cũng chẳng biết chữ, thế nên rất chân chất, mộc mạc, nhưng chân thành. Đang đêm ngon giấc mà họ thấy ánh sáng chiếu sáng chói cả mắt, lại đang ngái ngủ, không hoảng sợ sao được!
Thế nhưng sứ thần trấn an họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Họ nghe nhưng có lẽ chả hiểu ất giáp chia cả đâu, mắt chữ O và miệng chữ A, nhìn chẳng khác gì chú Tàu nghe kèn thôi. Lúc đó, nhìn họ chắc là thấy “tội nghiệp” lắm!
Sứ thần biết họ thật thà nên nói toạc móng heo luôn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Ôi chao, dấu hiệu “lạ” quá chừng. Thế nhưng họ không hề thắc mắc, rồi họ mau mắn kéo nhau đến gặp Trẻ-Sơ-Sinh-Bọc-Trong-Tã ấy. Và họ đã thấy y chang như sứ thần đã bảo. Các mục đồng thật diễm phúc vì là những người đầu tiên được thấy Đấng Cứu Thế!
Xin hợp lời với muôn vàn thiên binh hợp và sứ thần để cùng cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin chiếu tỏa Ánh Sáng Đức Tin dẫn đường chúng con đến với Đức Kitô và những con người hèn mọn nhất, xin giúp chúng con nhận biết Chúa qua mọi người và những gì nhỏ bé nhất, để chúng con trở thành những chứng nhân sống động của Tình Yêu, đồng thời chung tay xây dựng nền Văn Minh Tình Thương và Văn Minh Sự Sống ở mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Con Chúa làm người vì thương xót Phàm nhân hạnh phúc đón Thánh Ân
Ngôn sứ Isaia cho biết: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một người con đã được ban cho chúng ta GS-367
Ngôn sứ Isaia cho biết: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một người con đã được ban cho chúng ta, hài nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9:6). Một sự thật minh nhiên, một chân lý tỏ tường. Đã là sự thật thì không thể chối cãi, vì sự thật mãi mãi là sự thật, và chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32).
Ngôn sứ Isaia vừa thông báo vừa mời gọi: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt” (Is 62:11). Tại sao chỉ nói với thiếu nữ Sion mà không nói với nam giới Sion? Thiết tưởng, nữ giới là phái yếu, thường bị áp bức, bị khinh miệt,… Và họ có thể đại diện cho những người hèn mọn, thấp cổ bé miệng, bị chà đạp nhân phẩm, bị tước đoạt nhân quyền, bị miệt thị nhân vị,… Họ cũng chính là chúng ta, những người bị tội lỗi đè đầu, bị thói hư tật xấu kiểm soát, bị xã hội ruồng bỏ.
Thực sự Đức Chúa đã đến hơn hai ngàn năm qua rồi. Lễ Giáng Sinh chỉ là kỷ niệm đại sự kiện Con Chúa làm người mà thôi. Vấn đề là chúng ta có để Chúa đến trong linh hồn chúng ta hằng ngày, mọi nơi và mọi lúc hay không. Nếu chúng ta “cho phép” Chúa vĩnh cư nơi hang-đá-tâm-hồn thì chúng ta sẽ được gọi là “dân thánh”, là “những người được Đức Chúa cứu chuộc”, được gọi là “cô gái đắt chồng”, là “thành không bị bỏ” (Is 62:12). Như vậy thì thật là đại phúc!
Và nếu được đại phúc đó thì vô cùng vui mừng. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo! Mây u ám bao phủ quanh Người, bệ ngai rồng là công minh chính trực. Ngọn lửa hồng mở lối tiên phong, đốt tiêu tan địch thù tứ phía. Ánh chớp của Người soi sáng thế gian, địa cầu trông thấy mà run sợ; núi tan chảy như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan vị Chúa Tể hoàn cầu. Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người” (Tv 97:1-6). Thiên Chúa có phong cách không hề giống phàm nhân, tất nhiên chúng ta không thể nào hiểu nổi, chỉ còn biết cúi đầu kính phục, thờ lạy và chúc tụng. Nói theo kiểu thời @ ngày nay thì đó là “trên cả tuyệt vời”!
Thiên Chúa công chính nên Ngài muốn mọi thứ cũng phải tỏ tường, nghiêm chỉnh, chính xác, trước sau như một. Và vì thế mà Ngài “bị động” theo kiểu “bất lực”. Thiên Chúa mà “bất lực” ư? Vâng, đúng vậy. Nhưng Ngài “bất lực” cái gì và tại sao? Ngài “bất lực” về sự dối trá, nhẫn tâm, thù hận, nản lòng, thất hứa,… Ngài “bất lực” trong những động thái ác độc vì Ngài là Đấng chí thiện, là sự thật và là sự sống (x. Ga 14:6). Ngài là Đấng Thánh nên Ngài cũng buộc chúng ta phải nên thánh: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). KHÔNG NÊN THÁNH là PHẢN BỘI CHÚA.
Lý do để chúng ta vui mừng rất tỏ tường: “Ánh sáng bừng lên chiếu rọi người công chính, niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng ngay. Trước nhan thánh Chúa, người công chính hãy vui mừng tưởng nhớ Thánh Danh mà dâng lời cảm tạ” (Tv 97:11-12).
Lý do vui mừng càng tỏ tường hơn theo “tầm nhìn” của Thánh Phaolô: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (Tt 3:4-5).
Niềm vui càng tăng lên theo cấp số nhân: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3:6-7). Không còn biết nói gì hơn nữa vì niềm vui đó quá lớn, ngỡ như chỉ có trong mơ, nhưng đó lại là sự thật hiển nhiên. Đúng là đại phúc cho chúng ta!
Các mục đồng nghèo khổ và dốt nát nhưng lại hạnh phúc nhất: Những người đầu tiên được báo Tin Mừng và được trực tiếp diện kiến Chúa Hài Đồng. Họ là những nhân chứng sống động mà chúng ta phải noi gương.
Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Belem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2:15). Thánh Luca cho biết là “họ liền hối hả ra đi”. Mau mắn hành động mà không chút đắn đo, suy tính. Lại một tấm gương sáng về việc “sống đạo” khiến chúng ta phải “giật mình” lắm!
Khi đế nơi phải đến, họ gặp Cô Maria và Chú Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ không ngạc nhiên, và rồi họ không thể im lặng, gặp ai họ cũng liền tíu tít kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Khi nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên vô cùng.
Riêng Cô Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2:19). Phong cách Cô Maria thật “khác người”, đúng là một thục nữ nhu mì và ngoan hiền. Thánh sử Luca cho biết thêm: “Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2:20). Quả thật, mọi điều đã tỏ tường. Kế hoạch của Thiên Chúa thật là mầu nhiệm!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết mau mắn hành động vì Danh Chúa và chứng tỏ lòng thương xót của Ngài, để bất kỳ ai gặp chúng con thì cũng gặp được chính Ngài, qua các động thái yêu thương chân thành nhất. Xin giúp chúng con biết noi gương Đức Maria và Đức Giuse là NÓI ÍT mà LÀM NHIỀU. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển - Lễ Đêm Giáng Sinh 2013)
Cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, trao cho nhau những GS-368
Cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, trao cho nhau những món quà và viết những lời cầu chúc thật ý nghĩa kèm theo những cánh thiệp và những món quà đó, tất cả chỉ mong sao người nhận quà gặp được nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và thành đạt.
Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng Đêm Thánh, Đêm kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Đây là món quà cao quý mà Thiên Chúa Cha đã trao tặng cho nhân loại. Thật vậy, Chúa Giêsu Giáng Sinh đã trở thành niềm vui cho toàn thể thế giới, là nguồn bình an mà muôn dân mong ngóng đợi trông, là Đấng đem lại cho con người hạnh phúc thật.
Lời Chúa trong bài đọc I gợi lại cho chúng ta thấy bối cảnh lịch sử của dân tộc Israel thời bấy giờ. Lúc ấy, họ bị lưu đầy vì quân đội Assyria xâm chiếm và bắt họ phải đi biệt xứ. Khi sống trong cảnh lưu vong như thế, họ nghĩ đến thân phận của họ như là "dân tộc bước đi trong u tối", chốn lưu đày đối với họ chính là "miền thâm u của sự chết", những khổ nhục họ phải chịu là "cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai và roi vọt của kẻ áp bức"… Tuy nhiên, cái đêm âm u, miền thâm u sự chết, những cái ách nặng nề đang đè lên trên họ đã được tiên tri Isaia tiên báo về một trời mới đất mới, họ sẽ được giải thoát: "Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan", miền thâm u sự chết đó sẽ khơi nguồn sự sống, những gông, ách và roi vọt bị bẻ gãy… và được thay vào đó là cái ách của tình thương, lòng bao dung... Bởi vì “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban cho chúng ta, Hài Nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9,6).
Tiên tri Isaia nhấn mạnh hơn khi nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt” (Is 62:11). Cũng vậy, tiên tri Mikêa, sống đồng thời với Isaia, đã thốt lên những lời đầy an ủi: “Hỡi Belem, nhỏ bé trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị Israel, nguồn gốc Ngài có từ xa xưa, từ trước muôn đời, Ngài sẽ cai trị với sức mạnh của Chúa Giavê… Chính Ngài sẽ đem lại cảnh thái bình”(Mk 5,1-4).
Tuy nhiên, để hiểu sâu xa lời tiên báo của tiên tri Isaia và Mikêa cho dân Israel, chúng ta hãy đặt mình vào trong bối cảnh lịch sử của dân Israel đang bị cảnh lưu đầy tha phương, nỗi khổ tột cùng của thân phận nô lệ..., thì mới hiểu được thế nào là sự chờ mong da diết, khôn nguôi Đấng sẽ đến giải thoát mình! Trong khi chờ đợi như thế, những thử thách, tủi nhục, đắng cay đã làm cho họ chịu không nổi, nên đã thốt lên:
“Bên bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn”.
Bởi vì
“Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: Hát đi, hát thử đi xem Xion nhạc thánh điệu quen một bài!"(x. Tv 137 (136), 1-3a. 4).
Và nỗi đau khổ của họ đã thấu tới Trời Cao, đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, vì thế Người đã trao ban Con Một của mình xuống để cứu độ nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Qua mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã xuống thế và trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Từ nay, Ngài là Đấng Emmanuel mà bao đời và muôn dân mong đợi. Đêm nay, đêm Trời Đất giao duyên. Đêm Thiên Chúa và con người gặp nhau, đêm Thiên Chúa trở thành người, để con người được phục hồi nhân vị trong tư cách là con và được gọi Người bằng Áp Ba- Cha ơi, vì thế, "... anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế” (Gl 4, 4-7). Thật vậy, Hài Nhi Giê su đã trở thành "Ngôi Lời Nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga.1,14). Ngài đã trở thành "Một Hài Nhi...một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta" (Is.9,5).
Vì vậy, Đêm nay là Đêm Hồng Ân, Đêm chan hòa Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa giữa trời và đất, Đêm Tình Thương cứu thế, Đêm khơi nguồn Bình An. Ôi niềm vui tràn ngập thế giới! Vì thế, chúng ta không thể không cất cao bài ca: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Thật vậy, việc Ngôi Hai Giáng Sinh là một quà tặng, là niềm vui, bình an, không chỉ riêng cho một thành phần nào trong xã hội loài người, mà là cho toàn thể nhân loại. Lời của Thiên Sứ báo tin cho các mục đồng chứng tỏ điều đó: “Này, tôi mang đến cho anh em một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân: hôm nay, Chúa Kitô, đã Giáng Sinh cho anh em”.
Như thế, chính "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Tuy nhiên, đứng trước hồng ân lớn lao đó, chúng ta không chỉ trầm trồ khen ngợi, hay tạ ơn, mà còn là mở rộng tâm hồn để đón Chúa Giáng Sinh trong lòng chúng ta, trong trái tim, trong lương tâm của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra giá trị thánh thiêng của mầu nhiệm này thì khi đó chúng ta mới an vui và hạnh phúc thật sự. Và, giá trị đích thực là gì, nếu không phải là để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong cung lòng của mỗi chúng ta.
Nếu "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Thì đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em chính Hài Nhi Giêsu, và bản thân của mỗi chúng ta. Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: "Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình". Nếu không hướng tha, tâm hồn chúng ta chẳng khác gì cây không sinh trái, như nước trong ao tù, như một cánh rừng cớm hoặc hoang sơ mà thôi.
Đức Giêsu, trong đêm Giáng Sinh, Ngài đã hòan tất một chặng đường dài qua việc nhập thể và đi vào thế giới con người để tìm gặp con người. Ngài đã trở thành Emmanuel để cư ngụ giữa chúng ta, Ngài đã đồng hành với nhân loại, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian. Ngài vẫn còn tiếp tục như thế cho đến ngày tận cùng của nhân loại qua Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí Tích cực thánh này, Ngài đã trở thành “Bánh bởi trời”, “Bánh hằng sống”,“Lương thực thần linh” để nuôi dưỡng nhân loại và để cho họ được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10).
Noi gương Chúa, và để cho Chúa sống cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta, chúng ta hãy trở nên quà tặng cho mọi người qua một cử chỉ chân thành, một hành động ý nghĩa phát xuất từ niềm tin, một nụ cười thân thiện, một nghĩa cử cảm thông, và đây có lẽ là món quà quý giá nhất mà Hài Nhi Giêsu vui mừng đón nhận, bởi lẽ: “Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm" vì “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (x. Mt 25, 35- 45). Và, như bánh Thánh Thể, được bẻ ra, trao ban cho nhân loại thế nào, thì chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ như vậy.
Ước gì, tất cả những ai tiếp xúc với chúng ta, họ đều nhận ra một vị Thiên Chúa – người, luôn gần gũi, yêu thương và hy sinh cho người khác qua khuôn mặt dễ thương của mỗi chúng ta.
Như vậy, chúng ta đón nhận được món quà vô giá từ nơi Thiên Chúa qua hiện thân của Đức Giêsu, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy chia sẻ ân huệ đó cho người khác, nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ được hưởng niềm vui trọn vẹn của Đại lễ Giáng Sinh đêm nay. Amen.
Sáng hôm nay, chúng ta hân hoan mừng sinh nhật của Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người GS-369
Sáng hôm nay, chúng ta hân hoan mừng sinh nhật của Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Trong Thánh lễ sáng hôm nay, Kinh thánh Lời Chúa dẫn chúng ta đến với Hài Nhi nằm trong máng cỏ và kêu gọi chúng ta suy niệm việc Thiên Chúa giáng sinh làm người. Để đi vào bản chất của mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta phải đi qua câu chuyện và tìm hiểu ý nghĩa việc Thiên Chúa giáng trần.
Trong bài đọc 1, tuy vắn tắt, nhưng tiên tri Isaia muốn thu hút sự chú ý của chúng ta, và kêu gọi chúng ta hãy đặt tâm hồn mình vào tình cảnh chờ đợi hồng ân cứu chuộc của Thiên Chúa đến. Isaia cho chúng ta biết này chân người đem tin mừng đã đến. Chúng ta hãy mở mắt ra nhìn ơn Chúa cứu độ chúng ta. Isaia bấy giờ nói với Giêrusalem trong thời bị bỏ rơi, tiêu điều, xơ xác, và với dân đang chịu cảnh lầm than, khổ sở, mất quyền tự chủ và tự do.
Ông bà anh chị em thân mến. Thành Giê-ru-sa-lem vẫn còn là hình ảnh cuộc đời của tất cả chúng ta, khi chúng ta không làm chủ được bản thân, đời sống và vận mạng của mình, bị vật chất, tiền bạc và các thú vui điều kiển, và khi chúng ta sống trong cảnh sợ hãi, lo âu và sầu khổ. Ai nhận ra và ý thức mình như thế, hãy nghe lời tiên báo của Isaia: đẹp thay bước chân người đem tin mừng, người loan báo hòa bình cứu độ! Chính Chúa đã ra tay trước mặt muôn dân, và khắp chốn đã nhìn thấy Ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Bài đọc 2 cho chúng ta biết xưa kia Thiên Chúa đã nói với dân Do thái qua các tiên tri, nay vào thời sau hết, Thiên Chúa không những hành động, mà còn nói với chúng ta qua Con Một của Người. Như vậy lễ Thiên Chúa Giáng sinh làm người cho chúng ta thấy công việc trọng đại cuối cùng mà Thiên Chúa làm, để bày tỏ lòng yêu thương và dứt khoát cứu độ chúng ta. Không ai còn phải chờ đợi hành động giải thoát nào khác, và mọi công việc trước đây chỉ là tạm thời để chuẩn bị hoặc để tiên báo mà thôi. Không còn tìm ra nguồn sự sống và bình an đích thực nào khác ngoài Con Thiên Chúa giáng trần. Ðể thu hút sự suy nghĩ và kêu gọi chúng ta chú ý vào công việc Thiên Chúa làm, bài đọc 2 còn cho chúng ta thấy ngay các thiên thần trên trời bây giờ cũng quì thờ lạy Con Thiên Chúa giáng trần. Nói cách khác, Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ từ nay trở thành trung tâm điểm của vũ trụ và của lịch sử. Muốn tìm thấy Thiên Chúa, phải chạy đến với Người, muốn biết kế hoạch cứu độ và ân sủng của Thiên Chúa cũng phải tìm hiểu nơi Người Con ấy. Người là mạc khải cuối cùng và toàn vẹn, bao gồm mọi mạc khải từ trước tới nay và mãi mãi đến muôn đời. Chúng ta không thể tìm được sự gì tốt đẹp khác, và chúng ta không thể tìm được hạnh phúc và bình an đích thực ở ngoài Người. Hạnh phúc và ơn cứu độ của chúng ta tùy ở việc tiếp nhận và sống Lời Người và đi theo con đường Người chỉ dạy. Hôm nay Thiên Chúa Cha đã sinh ra làm Người cho chúng ta, để mai ngày cũng chính Thiên Chúa Cha sẽ phán: các ngươi hết thảy hãy nghe Lời Người.
Chúng ta nhận ra rõ ràng thánh Gioan là người hiểu ý nghĩa sâu sa của mầu nhiệm Giáng sinh. Ông không dừng lại ở hiện tượng hay sự kiện đang xảy ra và cũng không mô tả việc Chúa sinh ra. Nhưng đã suy nghĩ và nhìn thấy rõ việc Chúa ra đời là cả một công trình, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa cho chúng ta từ nguyên thủy. Thánh Gioan đã viết nên bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe đọc, và Giáo hội muốn chúng ta suy niệm bài Tin Mừng ấy để đón nhận hồng ơn Chúa Giáng sinh.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta biết không phải hết mọi người nhận ra mầu nhiệm Chúa giáng sinh, và cũng không phải tất cả đều nhận được hồng ân cao cả này. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy những thái độ của loài người trước kế hoạch sáng tạo của Thiên Chúa. Vừa nói đến việc Ngôi Lời là ánh sáng và là sự sống thật đến trong thế gian, Gioan đã phải thốt lên: thế mà thế gian lại không đón nhận Người. Người đến trong nhà của Người, mà người nhà đã không tiếp nhận Người. Chúng ta biết Gioan ám chỉ đến người Do thái, nhưng cũng gián tiếp nói về mọi người, ngày xưa cũng như ngày nay, không đón nhận Ngôi Lời, Đấng Cứu Thế, và sứ điệp cứu độ của Người.
Lẽ ra, nếu là loài thụ tạo do Thiên Chúa dựng nên, ai ai cũng phải đón nhận hồng ân của Thiên Chúa khi Ngài ban Con Một Ngài cho chúng ta. Nhưng biết bao người xưa và nay từ khước, không chấp nhận Chúa Giê-su, Đấng Cứu Thế. Gioan cho chúng ta biết những người cứng lòng sống theo ý riêng của họ và suy nghĩ theo thế tục, có nghĩa là họ muốn tự tạo ra sự cứu độ và tự xây dựng hạnh phúc cho chính mình. Nhưng chúng ta biết sự cứu độ và hạnh phúc này là giả tạo và chóng qua. Họ không thể chấp nhận một Thiên Chúa sinh làm Hài Nhi nơi máng cỏ, trong một khung cảnh quá khó nghèo. Vì vậy, họ từ chối Lời Chúa và từ khước sự hiện diện “Chúa ở cùng chúng ta.” Nói tóm lại, họ ích kỷ, muốn sống theo ý riêng mình, và xây dựng hạnh phúc theo ý họ, chứ không muốn đi chung một con đường của Chúa dẫn tới bình an và hạnh phúc đích thực. Còn những ai tin vào Thiên Chúa và kết hợp với Người Con của Người, thì Gioan cho biết sẽ nhận được khả năng không còn sống theo ý muốn của huyết nhục xác thịt, nhưng theo ý Chúa được tràn đầy ơn sủng và sự thật. Ðó là những người có sự sống và yêu thương của Chúa, Đấng đã sinh ra làm người vì và cho chúng ta.
Như vậy, ông bà anh chị em thân mến, mừng lễ Giáng sinh, đón nhận ơn Chúa ra đời, là tiếp nhận tình yêu, ánh sáng và một sự sống mới mà Chúa Cứu Thế mang đến. Thiên Chúa đã chia sẻ tình yêu và sự sống của Người với chúng ta, bởi vậy, chúng ta được kêu gọi từ bỏ đời sống ích kỷ và tham lam, từ bỏ những ý muốn chỉ tìm hạnh phúc tạm bợ đời này. Và cho được như vậy, chúng ta phải sống thánh ý Chúa, phải sống Lời Chúa, tin vào sự hiện diện của Chúa giữa chúng ta, và đi vào đường lối Người đã đi, mà giờ đây trong Thánh Lễ, Chúa còn khẳng định rõ rệt cho chúng ta biết: “Này là Mình Ta sẽ bị nộp vì các con; này là Máu Ta sẽ đổ ra cho muôn người được khỏi tội.”
Xin Thánh Thể Chúa Ki-tô kết hợp chúng ta vào với Người và kết hợp chúng ta lại với nhau, để không những chúng ta tin mến Chúa hơn mà cũng yêu người nhiều hơn. Thiên Chúa đã xuống thế và đến ở cùng chúng ta, thì đến lượt chúng ta cũng phải đến với và sống cho anh chị em, vì tất cả chúng ta chỉ có một Cha trên trời, Ðấng đã tác tạo lại tất cả trong Người Con duy nhất, là Hài nhi nằm trong máng cỏ, mà Người đã ban cho thế gian trong mầu nhiệm Giáng sinh chúng ta đang cử hành.
Xin kính chúc quí cha, quí thày, quí sơ, quí ông bà anh chị em và gia quyến một mùa Giáng sinh tràn đầy hồng ân của Chúa.
Matthêu mở đầu tin Mừng bằng "Gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con vua Đavít, con Apraham”. Luca thì GS-370
Matthêu mở đầu tin Mừng bằng "Gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con vua Đavít, con Apraham”. Luca thì bắt đầu "trình thuật về những biến cố đã diễn ra giữa chúng ta " (1,1) bằng cách trình bày gẫy gọn một ít giai thoại về đời thơ ấu của Đức Giêsu: những giai thoại này vừa giới thiệu vừa tiên báo về cuộc đời Chúa. Máccô (như ta đã đọc ở Chúa nhật thứ II Mùa Vọng) đặt cho tác phẩm của Ông một tựa đề đầy ý nghĩa: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”.
Về phần Gioan, ông bắt đầu Tin Mừng bằng một Lời Tựa dưới dạng Thánh Thi, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng thánh thi này đã được hát trong cộng đoàn của Gioan, trước khi được đặt vào đầu cuốn Tin Mừng. Cũng giống như khúc mở đầu một bản hoà tấu - hay đúng hơn như đoạn kết, thánh thi này nối kết các đề tài thành một bản tóm tắt đầy sức mạnh.
Alain Marchadour giải thích: "Để mở đầu cho Tin Mừng của mình. Gioan đã chọn một thánh thi. Lời mở đầu này như khúc dạo đầu một bản nhạc, lần lượt kể ra những đề tài lớn của Tin Mừng và nói đến nguồn gốc cũng như nguyên thủy của Đức Giêsu mà Tin Mừng sẽ tường thuật cuộc đời của Ngài khi Ngài sống giữa loài người. Lúc khởi đầu Ngài là Ngôi Lời, thường tình thân thiết với Thiên Chúa đến nỗi thi sĩ quả quyết rằng ngôi là Thiên Chúa. Vai trò của người vượt khỏi ranh giới dân Israel bởi vì Người là Đấng tạo thành, là Sự Sống, là Anh Sáng cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Biến cố nhập thể đánh dấu việc Ngôi Lời xâm nhập lịch sử, cuộc gặp gở định mệnh với loài người và với dân Do Thái, người thì từ chối, kẻ thì đón nhận. Những người đón nhận là cộng đoàn Kitô hữu. Thánh thi này long trọng kể ra cuộc hành trình của Ngôi Lời, từ lúc ở với Thiên Chúa (câu 1-2), rồi đến giũa loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11) rồi nhập thể (14) cho đến ngày trở lại, "Người là Đấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa”, " ("L Evangile de Jean", Centurion 1 992, trang 31).
2. Ca ngợi cuộc hành trình của Ngôi Lời Thiên Chúa Chúng ta hãy theo dõi sự triển khai từng phần một. Nguồn gốc bí nhiệm của Đức Giêsu, Ngôi Lời sáng tạo:
+ Hai từ đầu tiên “Khởi đầu" liên kết việc Đức Giêsu xuống trần với những chương đầu sách Sáng Thế, như thế phải đọc về Đức Giêsu từ giây phút đầu của mạc khải: xuyên suốt Tin Mừng, Người được giới thiệu "như điểm hoàn tất của tất cả mạc khải, như Đấng mạc khải tối cao, như ân huệ tối hậu của Thiên Chúa, như con đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ, và như khuôn mặt của Thiên Chúa giữa loài người" (A.Marchadour, Sđd, trang 34).
+ Trước hết, thánh thi nói đến "Ngôi Lời Thiên Chúa" (danh hiệu của riêng Gioan trong Tân ước) trong hiện hữu vĩnh cửu, tình nghĩa thiết muôn đời với Chúa Cha nhưng khác biệt với Cha: và thiên tính của Người: "Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.
Sau đó thánh thi công bố tính phổ quát của công cuộc tạo thành do Đấng là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa: "Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Đồng thời, Người trao ban sự sống cho vạn vật, Người đem họ vào cuộc sống.
Ngôi Lời của Thiên Chúa, Anh Sáng và Sự Sống loài người.
Ở gần Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ngôi Lời từ nguyên thuỷ đã sống trong tương quan độc nhất với con người: Người
không chỉ là Đấng tạo thành, Người còn là “Sự Sống" và “Ánh Sáng”. Người không chỉ là nguồn gốc của mọi sinh vật, nhưng sự hiện diện của Người ở giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông với sự sống siêu nhiên. Người cũng là Anh Sáng: Không phải là ánh sáng vũ trụ, mà là ánh sáng thần linh và siêu phàm, hướng dẫn con người.
- Chứng tá của Gioan Tẩy Giả.
Trái ngược với vẻ trịnh trọng trong nhưng câu đầu của Lời Tựa, giờ đây Gioan Tẩy Giả bước lên sân khấu: "Có một Người…”
Sự Sáng đến thế gian đã có một nhân chứng đi trước, đó là Gioan, con ông Giacaria. Vẻ cao cả của con người này là ông được Thiên Chúa sai đến, và ông đã đón nhận sứ mệnh làm chứng cho Anh Sáng: với tư cách là Tiền hô, ông hướng dẫn người ta đến với đức tin, tin vào Đấng là Anh Sáng, là Đấng phải chiếm được tất cả địa vị: "ông không phải là Anh Sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”.
- Anh Sáng đã đến trong thế gian.
+ Nhưng khi Anh Sáng đến thế gian thì con người lại từ chối và chống đối. Thế gian mà Ngôi Lời đã tạo thành lại khước từ Anh Sáng, thật là trớ trêu! (vấp phạm): Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.
Còn trớ trêu hơn nữa, là "gia nhân của Người”, dân của Lời hứa, dân của Giao ước, "đã không đón nhận Người”.
+ "Còn những ai đón nhận Người - dù là dân Israel hay dân ngoại thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa?
- Ngôi Lời đã trở nên người phàm.
+ Gioan đã viết "người phàm”, theo đúng chữ là "trở nên xác thịt”; từ "xác thịt" ở đây không có nghĩa đối nghịch với linh hồn, nhưng có ý nói con người dưới chiều kích mỏng giòn, dễ hư nát.
+ "Người cư ngụ giữa chúng ta" ( theo đúng chữ: Người cắm lều của Người giữa chúng ta): độc giả của Gioan đọc cụm từ này liền nghĩ ngay đến "nơi ở" của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Người, được tượng trưng bằng Lều giao ước trong sa mạc, thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, giờ đây thể hiện cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu trở nên người phàm: (Ga 2,19-22: "Chúa nói về Đền thờ thân xác Người").
+ "Chúng tôi được nhìn thấy vinh quang của người" trong con người Giêsu, cộng đoàn của Gioan quả quyết rằng họ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là: một phẩm chất, một vầng hào quang mạc khải Thiên Chúa.
- Đức Giêsu Kitô đã mạc khải Thiên Chúa vô hình.
"Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng vốn hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”.
Jean Perron nhận xét: "Bài Thánh Thi đã khởi đầu từ Ngôi Lời ở nơi cung lòng Chúa Cha cũng kết thúc bằng tư tưởng "Con Một ở nơi cung lòng Chúa Cha": đó chính là dòng chảy cuộc sống của Đức Giêsu, cũng giống như sẽ nhắc lại ở câu kết vào cuối đời Người: "Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa" (Ga 13,3). Nhưng trong "tiến trình đi lên cùng Đấng duy nhất cần nhận biết (không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa, ngay cả đến Môsê ), Người muốn đem ta đi cùng: "Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (14,3). Và còn hơn thế nữa, trong cuộc sống thân mật mà Người đã dẫn ta vào: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy" (14,23)" ("Lire de Bible", số 52, trang 34-35).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Một câu không có "động từ " thì không có nghĩa
("Bible du Dimanche" trang 51 1-512).
(Trong tiếng Pháp, "verbe" vừa nghĩa là động từ, vừa là Lời: một cách chơi chữ ở đây.)
"Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Một từ ngữ, nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm bắt được?
Thiên Chúa đã không sử dụng thuật pháp của tử ngữ, mà đã nói qua một trẻ thơ được bọc trong tã nơi máng cỏ và còn chưa biết nói, đã nói qua một tử tội không còn có thể nói được nằm trên thập giá. Người nói trong yếu đuối và thinh lặng. Sự thinh lặng hùng biện từ nay đã chứng minh cho mọi người rằng Thiên Chúa không im lặng. Lời của Người không còn là một chuỗi tiếng nói mà đã trở nên người phàm.
Từ khi con người trông đợi Thiên Chúa, họ cảm nghiệm sự xa vắng của Người hơn là được hưởng sự hiện diện của Người: "Không ai đã được thấy Thiên Chúa'? Điều đó không ngăn cản họ nói nhiều về Người, tuy Người vẫn vắng bông và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ đến những bậc hiền triết, Môsê, Lề Luật, và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các nhà thông thái. Dù dùng rất nhiều từ cũng không thể có sức thuyết phục bằng một lời nói. Bởi vậy trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa không ngừng nói "Lời cuối cùng” của Người.
Chỉ có Lời ("động từ") này mới làm cho câu có ý nghĩa. Nhờ Người mà những chuỗi từ của con người mới tìm được sự mạch lạc Người không loan báo những chân lý phụ thuộc, nhưng chính Người là Chân lý; Người soi sáng những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ có Người là Anh Sáng.
Tuy nhiên, chỉ có Anh sáng mới khơi dậy bóng tối. Chỉ có chân lý mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của Lời này là bị chống đối và đôi khi bị khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời Chúa đánh động chúng ta và trờ nên hiển nhiên trước mắt chúng ta".
2. Vài câu Kinh Thánh tóm tắt hoàn hảo cả công trình Thiên Chúa đã thực hiện thể cứu-độ nhân loại.
(L. Sintas trong "Parole de diệu pour la méditation ét l'homélte -Năm C", Médiaspaul. trang 20-2).
Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu nổi trọng nhất trong truyền thống bình dân của tội Thánh. Cách đây không lâu, mọi thánh lễ đều kết thúc bàng bản văn này. Trong, các giáo xứ ở Pháp, khi cha mẹ lo lắng về con cái đến xin linh mục cầu nguyện cho chúng, thì họ đưa chúng đến nhà thờ, và linh mục thường đọc những câu Tin Mừng này, trong khi đặt dây stola trên đầu chúng. Đó không chỉ do lòng sùng mộ của một vài người, mà là một thói quen phổ biến trong quần chúng Kitô giáo. Việc chọn những câu Tin Mừng này thật ra rất chính đáng. Bởi vì những câu này là như bản tóm lược tất cả công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại.
- Khởi đầu là xác quyết long trọng về bản tính của Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa. Do Lời, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán... và sự vật liền có. Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Gioan đã cả quyết rằng lúc tạo dựng, dù bóng tối dày đặc, cũng không thể cản được ánh sáng tạo dựng. Anh sáng đã xô đẩy và quét sạch bóng tối để ngự trị.
Trái với quyền lực mạnh mẽ lúc ban đầu của Lời Thiên Chúa, bỗng chốc Lời đó trở nên bất lực. "Ngôi Lời là sự sáng thật. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người”. Đó là xác quyết về mầu nhiệm Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên thế gian không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể, thì cũng cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa, chướng ngại mà chính Thiên Chúa cũng không. thể vượt qua nếu con người không đồng ý.
Con Thiên Chúa "đã đến nơi nhà Người và gia nhân Người không đón nhận Người”. Đó là số phận của Người mới đến giữa nhân loại. Từ khi trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ nạn, chết trên thập giá, Người từ Thiên Chúa mới đến này bị anh em đồng loại của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố cáo, xét xử và hành quyết. Đó là công việc của ý muốn con người khi ý muốn ấy bị chi phối bởi đam mê xác thịt, đam mê trần thế và tính khát máu. Chúng ta gọi tên nó là tội. Khi phạm tội, người ta tìm thoả mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý Chúa và vinh quang của Người. Như vậy, qui ngã là dấu cho thấy con người có thể gây cho Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất, nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất.
Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Chiến thắng không do áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải trong tâm hồn. "Nhưng những ai đón nhận Người, những kẻ tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa”.
Một bức hoạ diễn tả thảm kịch của nhân loại đã được vẽ lên. Nó họa lai sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và ơn cứu độ danh cho những người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự mãn, loài người không thể nào nhận biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người trên thập giá. Chính thập giá lại trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai chấp nhận đóng đinh tính tự mãn của mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó ánh sáng sẽ phủ ngợp con người họ".
3. Tổng hợp sống động giữa hai quy trình xem là trái ngược ("Célébrer" số 264, trang 41-42).
Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi Lời; người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: “Người”, “trong Người”, "nhờ người". Qua việc dùng các động từ khác nhau, người ta lần lượt kể ra mối tương quan của Ngôi Lời với Thiên Chúa, vai trò của Người trong công cuộc tạo dựng, hoạt động của Người ở trần gian, và việc Người đến trong lịch sử nhân loại.
Cách trình bày này có lẽ do thánh thi ở sách Châm Ngôn đoạn 8 và sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách này, Khôn Ngoan tự thuật về đời mình: được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi ý cho Thiên Chúa trong việc tạo dựng, Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn con người và sau vậy sự Khôn ngoan được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải hiểu là kế hoạch mà Thiên Chúa có ở trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu, Người biết rằng một ngày kia Người sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc đến cho loài người. Kế hoạch này đã có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi sự đều nói lên ý nghĩa do Người đặt định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có thể nhận biết Người và giao tiếp với Thiên Chúa...
- Đọc phần thứ hai của Lời Tựa, ta cảm thấy mình ở trong một bối cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh xưng "chúng tôi" để chỉ cộng đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như tiếng reo mừng, biểu lộ một cảm nghiệm ưu tuyển, mà ta cũng thấy ở thời Gioan, chương 1:
"Điều vẫn có ngay từ lúc thời đầu, điều mà chúng tôi đã nghe...? Lần này không còn nói về điều ở trên trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cự thể với Đức Giêsu Nagiarét, một cảm nghiệm không thể quên, được kêu lên trong niềm kinh ngạc và xúc động: phải, chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Cha, phải, chúng tôi đã nhìn thấy sự sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi đã nhìn thấy bóng tối không ngăn cản được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này, chúng ta đi ngược lên tới tận nguồn gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng hợp hai quy trình xem ra trái ngược nhau một cách sống động: giải thích tổng quát lịch sử và cảm nghiệm độc nhất vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi Lời đã trở nên người phàm, có nghĩa cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo thành vũ trụ đã được tỏ lộ qua sự kiện Nhập Thể - đó là dấu chỉ mà Người nhắn gởi đến nhân loại qua mọi thành phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của mọi vật trong trời đất, qua Giao ước tạo lập nên một dân tộc tất cả những điều đó giờ đây đã hình thành và mang khuôn mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất của Chúa Cha, và từ nay mọi người hoàn thành số phận của mình bằng cách trở nên giống Chúa Con".
Cách đây ít năm, một thành phố nước Anh có thanh niên tên là Fred Armstrong. Chàng làm ở bưu GS-371
Cách đây ít năm, một thành phố nước Anh có thanh niên tên là Fred Armstrong. Chàng làm ở bưu điện và người ta gọi chàng là trưởng ban thư chết vì chàng có nhiệm vụ giải quyết những lá thư đề sai địa chỉ hoặc thiếu sót hay khó đọc. Chàng sống trong một ngôi nhà cũ với cô vợ nhỏ nhắn. Một đứa con gái nhỏ và một cậu con trai còn bú sữa. Sau cơm tối, chàng thích phì phèo tẩu xì gà rồi kể cho cả nhà nghe những kỹ thuật mới nhất trong việc khám phá địa chỉ của những cánh thư lạc. Chàng tự coi mình như một người thám tử. Trong khung trời hiền hòa của chàng chẳng có gợn mây mù nào.
Cho đến một sáng kia, cậu con trai của chàng ngã bệnh. Thoạt nhìn thấy đứa bé, bác sĩ có vẻ suy tư. Và chỉ trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ là cục cưng của chàng không còn nữa.
Fred Armstrong buồn bã, tâm hồn chàng tan nát điếng nghẹn. Bà mẹ và cô bé Maria cũng khổ sầu không kém, nhưng họ quyết tự kiềm chế và vui sống với những gì còn lại. Nhưng ông bố thì không vậy. Cuộc đời của chàng bây giờ quả là một cánh thư chết không định hướng. Mỗi sáng đi làm việc như một người mộng du, ai hỏi chàng mới nói, mà nói rất ít. Chàng làm việc trong yên lặng, ăn một mình, ngồi như tượng đá ở bàn cơm, và đi ngủ thật sớm. Nhưng người vợ biết là chàng thức gần trắng đêm, mắt mở thao láo ngó lên trần nhà. Ngày lại ngày, tháng năm qua, tháng chạp đến, chàng càng tỏ ra thờ ơ suy nhược hơn nữa.
Bà vợ cố gắng thuyết phục chồng. Nàng bảo: "Tuyệt vọng như vậy là bất công đối với kẻ chết cũng như với người sống." Nàng sợ thái độ lầm lì đó sẽ đưa chàng tới bệnh viện tâm thần.
Giáng Sinh đã gần tới. Một buổi chiều xám ngắt. Fred đang phân loại thư từ thì thấy có một lá thư dứt khoát là không thể chuyển được. Địa chỉ của người nhận nguệch ngoạc bằng bút chì như sau:
"Kính gởi Ông già Noel Bắc Cực."
Armstrong định xé vất nó vào sọt rác nhưng có một thúc đẩy nào đó khiến chàng mở thư và đọc:
"Ông già Noel thân mến,
Năm nay nhà cháu buồn lắm. Vậy ông khỏi mang quà tới cho cháu nữa. Mùa xuân vừa rồi, thằng cu nhà cháu về trời. Cháu chỉ xin mỗi điều là khi ông tới nhà cháu, ông mang dùm đồ chơi về trời cho em cháu. Cháu để đồ chơi của nó ở gần lò sưởi góc bếp: con ngựa gỗ, cỗ xe lửa và hết mọi thứ khác. Em cháu thích phi ngựa ghê lắm, ông mang hết về cho nó và đừng để gì cho cháu cả. Nhưng xin ông cho ba cháu cái gì để ba cháu giống như hồi trước. Xin ông làm cho ba cháu lại hút xì gà và tiếp tục kể chuyện cho cháu. Cháu nghe ba nói với má là chỉ có "đời đời" mới làm cho ba cháu lành được thôi. Vậy xin ông gởi cho ba cháu một ít cái "đời đời" nhé. Cháu hứa sẽ rất ngoan ngoãn.
Ký tên Marian."
Tối hôm đó, trên những con đường phố sáng rực đèn. Fred Armstrong rảo bước thoăn thoắt. Vào đến sân nhà chàng bật quẹt châm xì gà. Khi vừa mở cửa, chàng xả một hơi thuốc dài. Làn khói giống như một vòng hào quang quanh đầu hai mẹ con Marian đang trố mắt ngạc nhiên. Chàng lại tươi cười như trước.
***
Cuộc sống của mỗi người chúng ta đều phải trải qua những thăng trầm không thể tránh khỏi. Có những tháng ngày xem ra vô vọng không còn thiết sống. Có những lúc mây mù bao phủ khiến chúng ta không còn thấy đâu là lối thoát . Đôi khi qúa tuyệt vọng, chúng ta tự hỏi: tại sao Thiên Chúa để xảy ra nhiều đau khổ và bất công như thế? Thực ra, Thiên Chúa không tạo ra đau khổ, cũng không gây ra bất công, bởi vì Ngài là tình yêu thương và là sự công bằng vô biên.
Nhiều khi chúng ta có cảm tưởng Thiên Chúa không nhận lời mình cầu xin. Nhưng chúng ta quên rằng cầu nguyện không phải là xin Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, mà là tự đặt mình trong tư thế sẵn sàng thực thi ý Chúa. Chương trình của Ngài vượt quá trí hiểu hẹp hòi và cái nhìn thiển cận của chúng ta.
Kitô giáo có một nghịch lý rất lớn, đó là kêu gọi con người nhìn vào Thập giá như biểu tượng của hy vọng, nhìn vào đau khổ và cái chết như khởi đầu của ơn phúc. Chắc chắn, Chúa Giêsu không phải là người rao giảng sự chết chóc.
Kitô giáo không phải là đạo của khổ đau. Đức Kitô cũng không tự mình đi tìm cái chết; mãi mãi cái chết ấy vẫn là một bản án bất công của con người dành cho Thiên Chúa. Ngài cũng không đòi chúng ta phải đi tìm thập giá, Ngài chỉ khuyến khích: "Hãy vác lấy thập giá mình mỗi ngày."
Mà kỳ thực, có cuộc sống nào mà không có đau khổ. Có ai thóat khỏi khổ đau? Từ khi Ngôi Hai giáng sinh và cứu chuộc, thập giá đã biến thành nguồn ơn cứu rỗi, cái chết đã trở thành Tin Mừng. Tin Mừng chính là Thiên Chúa luôn yêu thương dìu dắt con người trong mọi nghịch cảnh của cuộc sống.
Từ đây, thất vọng đã bừng sáng lên niềm hy vọng. Những đau khổ của chúng ta sẽ không đi vào quên lãng, nhưng mang lại cho chúng ta niềm hạnh phúc mai sau.
C. Delavigne đã nói: "Sống là chiến đấu mà phần thưởng ở trên trời." Cervatès còn xác quyết: "Ở đâu có đời sống thì ở đó có niềm hy vọng." Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta nhìn thấy hoa trái của hạt giống mình đã gieo vãi. Bên kia những vất vả, mất mát, thử thách đau khổ, người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhìn thấy những ánh sao của niềm hy vọng, như Ba Vua tìm lại ánh sao sau khi lạc mất.
***
Lạy Chúa Hài Đồng, Chúa đã Giáng Sinh để chia sẻ những khổ đau của nhân loại chúng con. Xin cho con đừng bao giờ thất vọng, ngã lòng vì những đau khổ thử thách, nhưng cho con luôn cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương và được lớn lên trong niềm tin tưởng phó thác. Xin ban thêm cho con niềm hy vọng và nâng đỡ con trong cuộc sống. Xin củng cố trong con niềm tin tưởng, lạc quan, để mỗi khi tiếp xúc với con, mọi người sẽ thấy bừng sáng lên niềm hy vọng vào cuộc sống. Amen!
Merry Christmas, Merry X.mas, những cây thông cao chót vót với những chùm đèn nhấp nháy, rồi GS-372
Merry Christmas, Merry X.mas, những cây thông cao chót vót với những chùm đèn nhấp nháy, rồi những robot hình nhân, mặc áo đỏ mang khuôn mặt ông già Noel nhún nhảy theo điệu nhạc “chuông leng keng”, hoặc ngồi chễm trệ trên chiếc xe, với những giỏ quà, do con tuần lộc kéo. Đó là những hình ảnh đập vào mắt chúng ta, nơi shop thời trang, nơi quán bar, nơi vũ trường, nơi quán nhậu, nói chung là nơi công cộng, trong những ngày qua.
Dường như thế giới ngày nay đón lễ Giáng Sinh chỉ là gói gọn trong việc nhậu nhẹt, ăn uống, mua sắm.
Mừng lễ Giáng Sinh… Vâng, đó là truyền thống đẹp của người Công Giáo nói riêng và Ki-tô hữu nói chung.
Thế nhưng, Giáo Hội Công Giáo không hoan nghênh đón mừng ngày trọng đại này theo “thói đời”, nhuốm màu trần tục…
Tại sao? Thưa, lễ kỷ niệm Chúa Giáng Sinh không thể được gọi là “lễ hội”, lại càng không thể xếp ngang hàng với những lễ hội vớ vẩn nào đó.
Mừng lễ Giáng Sinh là vui mừng trước một biến cố trọng đại. Đó là ngày sứ thần Chúa đã loan báo “Một tin mừng trọng đại… tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em… Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa”.
Nhân chứng sống của biến cố này, chính là “những người chăn chiên”.
**
Vâng, chuyện về “những người chăn chiên” được thánh sử Luca ghi như sau: Chuyện xảy ra vào một đêm nọ. Khi những người chăn chiên đang quây quần ngoài cánh đồng canh giữ bầy gia súc.
Một biến cố thần hiện đã xảy ra. Sứ thần Chúa hiện đến bên họ với vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh. Sự hiện đến quá đỗi bất ngờ khiến họ kinh khiếp hãi hùng.
Trong nỗi hãi hùng, họ nghe tiếng sứ thần Chúa bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David. Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” (x.Lc 2,10-12).
Ô hay! Thật vậy sao! Thật sao, khi mà cùng lúc đó, họ thấy “Có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Như người xưa có nói: “Trăm nghe không bằng mắt thấy”, những người chăn chiên muốn “mắt thấy”, nên bảo nhau: “Nào chúng ta sang Belem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ ra cho ta biết”.
Và rồi, chuyện kể rằng: “Họ hối hả ra đi”.
Nghe theo lời sứ thần loan báo, những người chăn chiên đã đi đến Belem. Khi đến nơi, họ gặp “một Hài Nhi được đặt trong máng cỏ” đúng như lời sứ thần đã loan báo cho họ.
Sau khi thuật lại “điều đã được nói với họ về Hài Nhi” cho bà Maria và ông Giu-se, Tin Mừng thánh Luca ghi tiếp rằng: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”. (Lc 2, 20).
***
Chúng ta vừa mới có một cuộc hành trình về “Belem xưa”.
Vâng, Belem xưa là thế đó.
Là nơi những người chăn chiên với một tâm hồn khiêm hạ, nhìn thấy “vinh quang của Chúa chiếu tỏa”, nghe được tin mừng trọng đại: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra” và đã “gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”.
Là nơi những nhà chiêm tinh “thấy vì sao Ngài xuất hiện bên phương Đông, nên (tìm đến) bái lạy Ngài”.
Belem còn được biết là nơi “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (x.Ga 1, 14).
Thế nên, đừng “tục hóa” Belem nữa. Đừng tục hóa ngày “Đấng Cứu Độ sinh ra” bằng những yến tiệc linh đình, bằng những thú tiêu khiển thâu đêm suốt sáng, bằng những gói quà nặng phần trình diễn v.v… Mà hãy khám phá những “dấu chỉ” về sự hiện diện của “Đấng Cứu Độ”, cũng như lời mời gọi của Người.
Vâng, hôm nay, “dấu chỉ” về sự hiện diện của “Đấng Cứu Độ” không phải là “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”, nhưng là “những người ngồi quanh ta, trán in vết nhăn”, những vết nhăn về thể xác, những vết nhăn về tinh thần, những vết nhăn đó hằn rõ trên vầng trán của họ.
Nhìn, với tất cả lòng thương xót, chúng ta có thể thấy những vết nhăn đó rõ nét của một chiếc “mão gai”, chiếc mão gai Chúa Giê-su đã phải đội trên đầu, năm xưa.
Nói cách khác, dấu chỉ để nhận ra Ngài, đó là “những người đói khát, những kẻ trần truồng (nghèo), những người hoạn nạn, những người đau yếu bệnh tật, những người thấp cổ bé miệng, những người già neo đơn, những trẻ em mồ côi cơ nhỡ” v.v… mà hôm nay vẫn còn nhan nhản khắp nơi, chung quanh chúng ta cũng như trên khắp thế giới này.
Ta sẽ “hối hả” đến với những con người đó! Ta sẽ cho họ ăn, cho họ uống, cho họ mặc! Ta sẽ an ủi họ! Ta sẽ viếng thăm họ!
Hãy nhớ rằng, những con người nêu trên, chính là hiện thân của Đức Giê-su – Đấng Cứu Độ, mà hôm nay chúng ta tôn thờ.
Vâng, chính Ngài đã cho chúng ta biết rõ điều đó, khi cất tiếng mời gọi, rằng: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (x.Mt 25, 40).
“Làm như thế” khó lắm chăng! Không khó đâu, thưa quý Bạn.
Chỉ cần, “rút ngắn” một vài mét sợi dây đèn trang trí trên cây thông (bớt đi một ít chi phí), chúng ta sẽ (dư được một số tiền), và như thế, sẽ tăng được “chiều dài” của tình yêu thương. Kết quả, có phần chắc, sẽ có nhiều người “đói được ăn, khát được uống, rách rưới được mặc”.
Cũng vậy, chỉ cần cho cây thông bốn mươi mét, “thấp xuống” còn hai mươi mét, ai… ai dám phủ nhận chúng ta sẽ “tăng chiều cao” của lòng thương xót!
Riêng tôi, tôi tin chắc, nếu chúng ta “làm như thế”, sẽ có nhiều người bệnh tật, đau yếu, trẻ em cơ nhỡ, mồ côi, người già neo đơn v.v… “được viếng thăm”. Và, chắc chắn những cuộc viếng thăm đó sẽ mang lại cho họ niềm vui và hạnh phúc.
Đừng quên, làm-như-thế, chúng ta đã thể hiện rõ tinh thần Ki-tô giáo, “thương xác bảy mối”.
Mà, thể hiện rõ tinh thần Ki-tô giáo trước người đời, chính là chúng ta tiếp tục đóng vai trò sứ thần của Chúa, loan báo trước bàn dân thiên hạ, rằng: “Tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại. Hôm nay, Đức Giê-su là Cứu Chúa của anh em”.
Cuối cùng, làm-như-thế, cũng chính là chúng ta “hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rằng: Vinh Danh Thiên Chúa trên trời…”
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng lễ kỷ niệm Chúa Giê-su xuống thế làm người. Thưa Bạn, Bạn có vui mừng không! Tất nhiên là vui chứ, phải không, thưa Bạn!
Vâng, chúng ta có quyền biểu lộ niềm vui của mình. Chúng ta tái hiện hang Belem. Chúng ta kết đèn, giăng hoa. Chúng ta tổ chức thánh nhạc Giáng Sinh. Chúng ta cũng có thể làm một bữa “rờ-vê-dông” nho nhỏ mời bạn bè, thân hữu, chiến hữu.
Nhưng, nếu có làm, hãy làm thế nào để việc làm của ta “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời”.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm Lc 2, 14
Cứ mỗi Giáng Sinh về, chúng ta lại cảm nghiệm sâu xa tình thương của Thiên Chúa đối với nhân loại, GS-373
Cứ mỗi Giáng Sinh về, chúng ta lại cảm nghiệm sâu xa tình thương của Thiên Chúa đối với nhân loại, đối với mỗi con người.Con Thiên Chúa làm người, đã sinh ra trong một hoàn cảnh thật tầm thường, giản dị và ít ai có thể ngờ. Một Vị Vua Cứu Tinh nhân loại lại sinh ra nơi hang đá, máng cỏ nghèo nàn, sinh ra nơi cánh đồng hoang vắng và như thế cuộc đản sinh của Chúa Giêsu quả tương phản với những gì con người vẫn thường mơ ước…Chỉ khi các thiên thần với muôn vàn cơ binh hát vang trên không trung trong ánh hào quang sáng ngời của thiên quốc thì tin vui Con Thiên Chúa giáng trần mới được loan báo cho các mục đồng là những trẻ chăn chiên, chăn cừu thất học. Do đó, các mục đồng mới vội vã chạy đi tìm gặp Đấng Cứu Thế Giêsu.Nét tương phản của một Vị Vua Vũ Trụ với một trẻ con tầm thường mới thật rõ nét và nhân loại sẽ từ từ nhận ra rằng đây là một Hài Nhi kỳ diệu, và con nhân loại sẽ hân hoan ca ngợi Thiên Chúa…
Sự kỳ diệu và lạ lùng là Con Thiên Chúa đã giáng sinh làm người trong một hoàn cảnh xem ra rất khác lạ. Bởi vì, các hoàng tử, công chúa được sinh ra trong cung điện nguy nga, trong bầu khí ấm áp và sáng ngời lung linh của các cung điện. Nhưng Vua Giêsu, Con Thiên Chúa làm người lại sinh ra nơi đồng không mông quạnh. Cái lạ lùng và huyền diệu là Hài Đồng Giêsu: Đấng Cứu Độ lại nằm trong một máng cỏ của chiên lừa. Giữa cánh đồng hoang vu, hang lừa nằm cho vơ giữa đồng vắng lạnh : Mẹ Maria và thánh Giuse quỳ gối bái chầu Con Thiên Chúa làm người. Tin Mừng cho hay chỉ có những con bò lừa thổi hơi, sưởi ấm Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Hài Đồng Giêsu được Mẹ Maria sinh ra vào một nơi, một lịch sử rõ rệt. Ngài được sinh ra vào thời kỳ Xêda Augustinô ra lệnh tổng kiểm tra dân số. Việc nhắc đến vai trò của Xêda Augustô có một ý nghĩa đặc biệt vì lúc đó Ông là vị chúa tể thống trị thế giới Địa Trung Hải, trong đó có Pale1ttina. Nhắc lại Ông để nói lên tính cách lịch sử của biến cố Chúa giáng trần, nhưng nó lại còn nêu lên cách biểu tượng : Hoàng đế Roma thần thánh ( Auguttô ) tương phản với Đấng Kitô Đức Chúa ( Lc 2, 11 ).
Như thế, rõ ràng cho thấy Chúa Giêsu, Cứu Chúa duy nhất đã được sinh ra trong một lịch sử rõ rệt, trong một địa phương, một nơi hoàn toàn có trong bản đồ, có trong sổ sách vv…Mẹ Maria và thánh Giuse như bao người dân khác đều phải quy phục cuộc kiểm tra dân số này. Maria và Giuse phải về quê quán của mình sinh ra để đăng ký hộ khẩu. Bêlem là thành nguyên quán của vua Đavít. Giuse thuộc dòng tộc vua Đavít nên đã trở về quê quán của mình để khai lại tên tuổi của mình theo lệnh tổng kiểm tra của Auguttô. Điều này cho thấy việc qui chiếu về Đấng Mêsia mà muôn dân mong đợi có liên hệ tới Bêlem và vua Đavít. Maria mang thai là bởi Chúa Thánh Thần. Việc Mẹ Maria sinh ra nơi hang đá Bêlem là do Thiên Chúa muốn. Chính vì thế, việc Mẹ Maria vấn tã bọc Hài Đồng Giêsu đặt trong máng cỏ để nói lên Chúa chọn sự khó nghèo để khởi sự cuộc hành trình cứu độ của Ngài nơi trần thế. Gia đình thánh đã không tìm được một con đường nào khác, nhưng đã tìm chính hang đá là sự khó nghèo để sinh ra…Thật là diệu kỳ, thật lạ lùng !
Máng cỏ là dấu chỉ của sự khó nghèo, là biểu hiệu của tình thương. Con Thiên Chúa đ nơi trần thế. Gia đình thánh đã không tìm được một con đường nào khác, nhưng đã tìm chính hang đá là sự khó nghèo để sinh ra…Thật là diệu kỳ, thật lạ lùng !
Máng cỏ là dấu chỉ của sự khó nghèo, là biểu hiệu của tình thương. Con Thiên Chúa đa chấp nhận sinh ra trong cảnh khó nghèo để gần gũi với những người nghèo, để cảm thông với nếp sống mong manh của những con người không nhà không cửa, của những con người, Đó là lý do sâu xa của mầu nhiệm Giáng Sinh. Vâng, Đức Giêsu thực sự đã đem lại cho thế giới, cho nhân loại một tin mừng :” Thiên Chúa chính là Cha của chúng ta, còn chúng ta là anh chị em với nhau trong một đại gia đình “.
Và để hiểu được ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Giáng Sinh, một thi sĩ vô danh đã viết những lời sau :
“ Khi bài ca của các thiên thần ngừng bặt, khi ngôi sao trên bầu trời đã đi khỏi, khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà, khi các mục đồng đã cùng đàn súc vật trở về, thì công việc Giáng Sinh mới bắt đầu :
“để tìm lại những gì đã mất để hàn gắn những gì đã gãy, để người đói được ăn no, để tù nhân được giải phóng, để các nước xây dựng lại, để đem lại hòa bình đến với mọi người, để hòa nhạc bằng trái tim “.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin ban cho chúng con niềm vui, sự hạnh phúc và sự an bình vì Chúa đã đến ở giữa nhân loại, ở giữa chúng con. Như thế, sự an bình sẽ đến với chúng ta và hòa bình thật sự sẽ đậu lại nơi mỗi tâm hồn chúng ta. Amen.
Lễ Giáng Sinh luôn mang bầu khí hân hoan tưng bừng. Người tin Chúa thì đi dự thánh lễ để mừng ngày GS-374
Lễ Giáng Sinh luôn mang bầu khí hân hoan tưng bừng. Người tin Chúa thì đi dự thánh lễ để mừng ngày Chúa giáng trần và cầu xin ơn phúc; người lương dân lại đổ ra đường để tham dự một ngày hội vui. Cách nay hơn hai ngàn năm, Con Thiên Chúa đã sinh hạ tại hang đá Belem. Là Thiên Chúa vô thủy vô chung, Người đã đi vào lịch sử nhân loại. Người có một quê hương là đất nước Do Thái, có một gia đình ở Nagiarét. Giáng sinh là một huyền nhiệm. Đây là huyền nhiệm của tình yêu và của lòng thương xót. Người tín hữu thấy nơi lễ Giáng sinh sứ điệp hòa bình, yêu thương; người lương dân lại cảm nhận một khung cảnh thư thái, an bình.
Lễ Giáng sinh là huyền nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Trước hang đá Giáng sinh, ta thường thấy dòng chữ: Ngôi Lời đã làm người. Dòng chữ này đơn sơ ngắn gọn nhưng diễn tả một sự kiện vĩ đại Thiên Chúa đã làm trong lịch sử, đó là sai Con của Ngài xuống trần gian. Thánh Gioan nói với chúng ta: Ngôi Lời có từ ban đầu. Ngôi Lời là Con Thiên Chúa và Ngôi Lời là chính Thiên Chúa (x. Ga, 1,1). Vì yêu thương nhân loại, Chúa Cha đã sai Con của Ngài xuống trần gian và Ngôi Lời đã làm người, có tên gọi là Giêsu. Chúa Giêsu nhập thể không giống như các câu chuyện cổ tích nói về các vị thần đầu thai làm người. Các Kitô hữu khẳng định: Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật. Điều đó có nghĩa, Thiên Chúa cao cả đã trở nên người phàm. Cùng với các nhà thần học, chúng ta tuyên xưng: Chúa Giêsu đồng bản thể với Đức Chúa Cha (Kinh Tin kính). Hài nhi nơi máng cỏ chính là Thiên Chúa làm người. Chúa Giêsu đã đến trần gian để đem cho con người sự ủi an và niềm hy vọng. Người khẳng định, những người nghèo khó, bị bỏ rơi và bị gạt ra bên lề cuộc sống là những người được Chúa yêu thương đặc biệt. Họ không bị Thiên Chúa lãng quên. Hơn nữa, Con Thiên Chúa còn đồng hóa với họ, để rồi ai xúc phạm họ là xúc phạm đến Chúa; ai giúp đỡ họ là giúp đỡ Chúa.
Lễ Giáng sinh là huyền nhiệm của tình yêu. Thánh Gioan đã khẳng định với chúng ta: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin vào Người, thì không bị hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Trải qua dòng lịch sử, Thiên Chúa yêu thương con người và Ngài đã thực hiện những điều lạ lùng kỳ diệu, đem cho con người hạnh phúc. Hài Nhi nơi máng cỏ Belem là bằng chứng hùng hồn cho tình yêu của Thiên Chúa. Nhập thể là sáng kiến của tình yêu. Nhập thể cũng là điều diễn tả tình yêu ở mức hoàn hảo nhất. Ở đời, dù quý mến nhau thế nào, người ta cũng chỉ tặng cho nhau những quà tặng vật chất. Thiên Chúa ban cho con người chính Con Một của Ngài. Việc trao ban này là đỉnh cao của tình yêu. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu khẳng định Thiên Chúa yêu thương con người. Chúa Giêsu đã khởi đầu cuộc đời dương thế tại máng cỏ, trong cảnh cơ hàn, và kết thúc cuộc đời trên thập giá, trong cô đơn thê thảm. Người gánh trên vai tội lỗi của muôn dân để cho con người được hạnh phúc và bình an. Qua sự khó nghèo và nhất là qua cái chết trên thập giá, Người dạy chúng ta hãy sống vì người khác, hãy hy sinh cho tha nhân. Sự hy sinh ấy, dù nhỏ bé đơn sơ, cũng không rơi vào quên lãng và sẽ được đáp đền.
Lễ Giáng sinh là huyền nhiệm của ơn cứu độ. Trong lịch sử, có biết bao vĩ nhân đã sinh ra rồi cũng đã chết đi. Có thể họ để lại cho nhân loại những di sản tinh thần quý giá, những triết lý sống, những tác phẩm nghệ thuật hay văn chương. Đức Giêsu không giống như những vĩ nhân của lịch sử. Người là Đấng Cứu độ trần gian. Người đến trần gian để giải phóng con người khỏi tội lỗi. Ơn cứu độ là sự phục hồi phẩm giá con người, giúp họ thoát khỏi tội lỗi, được ơn thần linh hóa, để rồi, ngay khi sống ở đời này, họ được bình an hạnh phúc, và sau khi chết, họ được hưởng vinh quang bất diệt với Thiên Chúa. Vì Đức Giêsu là Đấng Cứu nhân độ thế, cho nên ngày giáng sinh của Người mới là một biến cố quan trọng đối với nhân loại, nhất là đối với những ai tin vào Người. Giáo huấn của Người vẫn còn giá trị và ý nghĩa đối với nhân loại mọi nơi mọi thời. Chính Người đã sống và thực hiện những điều Người giảng dạy. Người đã hy sinh mạng sống để chứng minh một tình yêu hy sinh đến cùng, và Người mời gọi mọi người hãy noi gương Người để sống vì tha nhân, luôn quan tâm đến lợi ích của người khác.
Lễ Giáng sinh là huyền nhiệm của ánh sáng. Ngày 25-12 xưa kia vốn là ngày lễ kính thần mặt trời, đã trở nên ngày sinh nhật của Chúa Giêsu, Đấng là Mặt Trời Công Chính. Chúa Giêsu hạ sinh như ánh sáng bừng lên trong đêm tối, dẫn lối soi đường cho những người sống trong lầm lạc. Người là “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”. Ánh sáng có tên là Giêsu vừa đưa con người thoát khỏi tối tăm, vừa dẫn đưa họ tới bến bờ của hạnh phúc. Ánh sáng ấy giúp khai quang những nơi ẩn khuất trong lòng con người, giúp họ sống theo sự thật. Ánh sáng này còn đẩy lui quyền lực của ma quỷ, là “cha sự dối trá”, xây dựng một vương quốc an bình. Những người tin Chúa được gọi là “con cái sự sáng”. Chúa Giêsu kêu mời họ trở nên ánh sáng cho đời, tức là tiếp nhận ánh sáng của Người, để rồi đến lượt mình tỏa sáng trong môi trường sống.
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Đó là lời hát của các thiên thần tại cánh đồng quê Belem vào đêm Chúa sinh hạ. Đó cũng là lời cầu chúc từ trời gửi đến cho nhân loại. Vinh danh Thiên Chúa và bình an cho nhân loại, đó cũng là lý tưởng mà chúng ta đang đạt tới. Hãy đến suy tư cầu nguyện bên hang đá máng cỏ, để thấy Chúa yêu thương chúng ta dường nào. Hãy đón nhận Chúa vào cuộc đời chúng ta, để Người soi sáng những góc khuất của tâm hồn, làm bừng lên ánh sáng của tình yêu thương và lòng nhân hậu. Như thế, ngày lễ Giáng sinh sẽ đem lại những hiệu quả thiết thực cho cuộc sống chúng ta.
Lễ Giáng Sinh không nhằm tưởng niệm một biến cố đã qua hơn 2000 năm nay, hoặc GS-375
Lễ Giáng Sinh không nhằm tưởng niệm một biến cố đã qua hơn 2000 năm nay, hoặc để kỷ niệm ngày sinh của một con người siêu vượt, nhưng là một thực tại phát sinh ơn cứu độ cho tất cả nhân loại chúng ta. Đó là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng không chỉ đã nhập thể làm người, sống trọn kiếp người, mà vẫn còn hiện diện cách linh thiêng sống động giữa mọi người, trở nên mô mẫu của việc làm người cho mỗi con người. Để những ai tin vào Ngài và dám sống như Ngài thì đạt đến cùng đích viên mãn của cuộc đời mình.
Cuộc sống tại thế tuy mong manh và giới hạn, nhưng ai cũng có một khát vọng vô hạn là muốn được sống mãi và tồn tại mãi trong hạnh phúc. Nhưng chẳng có một chế độ nào, một tổ chức xã hội hay hệ thống kinh tế nào có thể ban cho chúng ta điều đó. Cũng chẳng có ai hay giáo thuyết nào có thể thỏa đáng khát vọng đó, vì mọi người đều phải chết, và tất cả đều qua đi, chẳng còn lại gì. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng sinh dựng nên chúng ta, đã đặt khát vọng sâu xa đó vào lòng chúng ta mới làm cho chúng ta được toại nguyện hoàn toàn. Vì thế, những ai chỉ lo mê man đi tìm thỏa mãn vật chất, quyền hành, danh vọng… quên mất sự sống chân thật của mình là chính Thiên Chúa, đều là những kẻ dại dột nhất.
Qua việc Thiên Chúa làm người, mặc lấy toàn bộ nhân tính của con người, chúng ta mới nhận ra gốc gác của mình là thần linh. Qua việc làm người, Ngài đã tự trở thành quà tặng cho hết thảy mọi người. Ngài đã trao tặng chính Ngài cho chúng ta. Ngài đã đón nhận nhân tính của chúng ta và rồi trao cho chúng ta thần tính của Ngài. Qua đó, chúng ta nhận ra thiên chức cao cả cùng đích siêu việt của mình.
Dù tin hay không tin, dù nhận biết hay không muốn nhận biết, thì đó vẫn là chân lý, là sự thật lịch sử, nằm trong chương trình tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa. Thật sự, chúng ta đã được sinh dựng nên từ chính sự sống và tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, nên ta sống nhờ chính sự sống và tình yêu của Ngài. Quả thật, chỉ có Thiên Chúa mới đưa chúng ta trở về cội nguồn và đạt đến cùng đích là chính Ngài. Chỉ có Ngài mới ban cho chúng ta khả năng hoàn thành một cuộc sống cao cả, và đạt đến thiên đàng hạnh phúc đã được chuẩn bị từ ngàn đời theo kế hoạch nhiệm mầu của Ngài. Đó mới là ý nghĩa thâm sâu của hai chữ “Thiên mệnh” trong cuộc đời của chúng ta.
Khi chiêm ngắm Mầu Nhiệm Giáng Sinh, ta mới cảm nhận được Thiên Chúa yêu thương mỗi người chúng ta đến mức độ sâu thẳm dường nào. Là Thiên Chúa, Ngài đã trở nên đồng hàng với chúng ta, sống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, để chia sẻ với chúng ta và cho chúng ta chính sự sống của Ngài. Còn sâu nhiệm hơn nữa khi Ngài chọn bước xuống làm người thấp hèn, chọn cha mẹ quê mùa, chọn gia đình vô danh, chọn nơi chốn sinh ra tồi tàn, chọn cuộc sống nghèo nàn, chọn hoàn cảnh bấp bênh, chọn vị thế chênh vênh, chọn một dân tộc cứng đầu cứng cổ, chọn môn đệ yếu kém, chọn con đường thập giá, chọn chén đắng ô nhục, và cuối cùng, chọn cái chết bi thảm vì yêu thương nhân loại chúng ta (x. Pl 2, 6-8).
Có ai được tự do hoàn toàn và quyền thế vô song, mà lại lựa chọn cuộc sống như thế không? Chúa đã lựa chọn như thế để có thể đi vào mọi tình cảnh trái ngang của từng người chúng ta. Chúa đã lựa chọn như thế để nếu chúng ta có rơi vào những nghịch cảnh éo le hay ngặt nghèo thì cũng nhận ra thân phận mình trong thân phận của Chúa. Dù cuộc đời mình có ra sao đi nữa thì cũng là cuộc đời của chính Thiên Chúa đã làm người.
Lạ lùng thay Mầu nhiệm Chúa làm người! và lạ lùng hơn nữa khi Ngài muốn làm người một cách nhỏ bé, đơn sơ, nghèo hèn. Mầu nhiệm Giáng Sinh tuyệt vời chính là ở cách chọn lựa của Chúa, và đó cũng chính là bài toán thần kỳ giải đáp mầu nhiệm của cuộc đời con người, không như là một định mệnh, một sự nhất thiết, mà là một sự tự do, tự nguyện, tự hiến vì yêu thương. Chính cách chọn lựa của Chúa mở ra một cách thế hiện diện hoàn toàn mới trong cuộc sống làm người:
– Trong khi con người muốn chọn sự trổi vượt để bước lên còn Chúa lại chọn sự thấp bé để bước xuống.
– Trong khi con người muốn vượt thoát tình trạng của chính mình, còn Chúa lại chọn đi vào thực trạng của con người.
– Trong khi con người muốn sống khác với những gì mình là và sống trội hơn với những gì mình có, còn Chúa lại chọn thể hiện những gì con người là và sống kém hơn với những gì con người có.
– Trong khi con người muốn làm chủ và sở hữu mọi điều, còn Chúa lại chọn làm tôi tớ và từ bỏ đến mức độ “tự hủy”vì yêu.
– Con người không muốn sống cái “định mệnh” hạn hẹp của mình, còn Chúa lại chọn thể hiện cái “định mệnh” hạn hẹp của con người.
Như vậy những gì con người muốn chọn thì Chúa lại không chọn. Không phải Đức Giêsu muốn sống lập dị với mọi người, hoặc phủ nhận những chọn lựa chính đáng của con người, nhưng Chúa muốn sống tận cùng cái “định mệnh” của kiếp người. Điều này cho ta khám phá ra mầu nhiệm làm người và làm con Thiên Chúa trong Đức Kitô. Chân lý mầu nhiệm đó nhắc nhở ta rằng:
– Chúa đã một lần giáng sinh trong cuộc đời ta, và đã bước xuống lòng ta.
– Ngài đã lặng lẽ ở trong ta và âm thầm sống cuộc đời ta.
– Ngài muốn đảm nhận trọn vẹn cuộc đời ta qua mọi tình trạng và hoàn cảnh.
– Ngài sẵn sàng đón nhận và cùng đau cái nỗi đau của ta qua những vấp váp, thua ngã, hèn kém, trì trệ và thất bại.
– Ngài đang đón đợi và hoàn thiện hoá từng nổ lực kiên trì vươn lên của bản thân ta trong mọi lúc.
Như vậy chính Chúa sống trong ta, và cho ta kinh nghiệm sống trong Chúa:
– Để ta có thể nghe được âm thanh của tình yêu Ngài vang lên trong trái tim mình.
– Để ta có thể thấy được Ngài một cách sống động qua mọi biến cố và hoàn cảnh, và nhất là trên khuôn mặt và tấm lòng của những anh chị em, đặc biệt nơi những người nghèo khổ và bất hạnh.
Chúa đã đến không phải chỉ để cứu vớt những gì đã hư mất, không phải chỉ để tái tạo những gì đã hư hao, nhưng Chúa đến còn để thần hoá con người, để thăng hoa mọi công trình của con người, để hoàn thành khát vọng sâu thẳm của con người. Nhưng tiếc thay, nhiều khi con người lại lựa chọn và ham muốn thoả mãn những khát vọng thấp hèn, làm cho tâm hồn thêm trống rỗng, gây nên điêu đứng cho mình và điêu linh cho đồng loại.
Lễ Giáng Sinh nhắc nhở ta một tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa trên đời sống nhận loại, một tình yêu không lùi bước trước sự khép kín và cố chấp của con người. Cũng từ đó, lễ Giáng Sinh mời gọi và thúc đẩy ta biết mở lòng ra để tiếp nhận Chúa trong mọi nghịch cảnh của đời sống làm người. Ước gì ta có thể nói một cách mạnh mẽ như thánh Phaolô, “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Cho dù là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? (Rm 8, 35).
Hãy để cho Chúa Giêsu được sinh ra và lớn lên trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, bằng cách mặc lấy tấm lòng từ bi nhân hậu của Ngài, bằng cách để cho Lời Ngài thấm nhập và biến đổi cuộc sống chúng ta nên tươi mới. Để từ đó ta có thể trao ban Chúa Giêsu cho người khác bằng chính sự hiện diện của mình, một sự hiện diện đầy yêu thương để đem lại bình an, vui mừng và hy vọng ngay trong cuộc sống hôm nay.
Lời Nguyện:
Ôi! Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, mầu nhiệm yêu thương quá vĩ đại, siêu vượt mọi tâm trí phàm nhân. Chúa là ánh sáng vinh quang ngàn đời đã chiếu soi vào đêm tối trần gian, đem lại cho con hồng ân cứu độ. Con hoan hỉ tôn thờ, chúc tụng và cảm mến Đấng đã tự hạ mình sinh ra trong máng cỏ nghèo hèn, để sống như con, với con và vì con. Trước máng cỏ, Con đối diện với một Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của con người. Nơi máng cỏ, con bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn: Thiên Chúa đã cúi mình trao tặng chính Ngài cho nhân loại. Đấng Vô Hạn đã chấp nhận giới hạn. Đấng Tuyệt Đối đã đón nhận tương đối. Đấng Cao Cả đã hóa nên bé nhỏ. Mầu nhiệm Giáng Sinh là khởi đầu “tiến trình tự hủy” để Thiên Chúa trao ban trọn vẹn chính mình trong mầu nhiệm Thập Giá, và để trao ban liên tục cho con trong mầu nhiệm Thánh Thể. Mầu nhiệm Giáng Sinh là mầu nhiệm “Thiên Chúa ẩn mình” để con tiếp tục khám phá và nhận diện ra Chúa trong cuộc trần. Qua mầu nhiệm Giáng Sinh, Chúa đã đi vào đời con, bước xuống lòng con, ở trong con và âm thầm sống cuộc đời con. Qua mầu nhiệm Giáng Sinh Chúa đã đảm nhận trọn vẹn cuộc sống con trong mọi biến cố vui buồn, sướng khổ. cả những vấp váp và sa ngã trong đời. Lạy Chúa Giêsu! con muốn chọn cách sống Chúa đã chọn; con muốn sống cuộc đời Chúa đã sống; con muốn hoàn thành định mệnh và thân phận của cuộc đời con trong cuộc đời của Chúa. Xin cho con biết ẩn mình trong Chúa, như Chúa đang ẩn mình trong con, để đời sống con sáng lên khuôn mặt và tấm lòng của Chúa giữa cuộc sống hôm nay. Amen.
Mới đây, tạp chí TIME đã bình chọn ông Donald Trump là “Nhân vật của năm 2016”. Đại diện của GS-376 Ephata
Mới đây, tạp chí TIME đã bình chọn ông Donald Trump là “Nhân vật của năm 2016”. Đại diện của tạp chí Time cho biết, việc lựa chọn một nhân vật của năm là truyền thống hàng năm của tạp chí này trong vòng 90 năm qua. Nhân vật được chọn sẽ là nhân vật “có ảnh hưởng nhất trong các sự kiện năm 2016” bất kể có là ảnh hưởng xấu hay tốt.
Năm 2016, để trở thành nhân vật năm 2016 của TIME, tỷ phú người Mỹ đã phải "vượt qua" nhiều “gương mặt quen thuộc” như Tổng Thống Nga Vladimir Putin, Tổng Thống Thổ Nhĩ Kỳ Tayyip Erdogan, người sáng lập Đảng Độc lập Anh ( UKIP ) Nigel Farage, cựu ứng cử viên Tổng Thống Mỹ Hillary Clinton, và nhà sáng lập mạng xã hội Facebook Mark Zuckerberg.
Có lẽ, trong thời gian tới, câu chuyện tỷ phú Donald Trump lên làm Tổng Thống nước Mỹ, hay chuyện ông được TIME chọn là gương mặt của năm vẫn chưa thể khiến dư luận hết xôn xao về điều này. Người đàn ông 70 tuổi, sở hữu một căn penthouse sang trọng trên tòa cao ốc mang tên mình, giờ đây đã trở thành Tổng Thống đắc cử của một cường quốc. Chỉ còn ngót một tháng nữa, ông Trump sẽ chính thức điều hành một lực lượng quân sự mạnh, một nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trợ lý biên tập của TIME, Ben Goldberger cho biết lý do mà TIME chọn ông Trump không chỉ vì ông ấy sắp đảm nhận một vị trí quyền lực cao, mà còn là vì cách mà ông Trump bước lên vị trí ấy.
Theo ông Ben Goldberger, đây là sự lựa chọn không cần phải bàn cãi, rõ ràng ông Trump đã phá vỡ những lối mòn để đến với chiếc ghế Tổng Thống nước Mỹ. Việc ông Trump ngồi vào chiếc ghế quyền lực ấy đã thay đổi và góp phần tạo nên sự thay đổi trong trật tự chính trị hiện nay.
Tổng biên tập TIME, bà Nancy Gibbs nhấn mạnh: “Tôi không nghĩ rằng chúng ta đã từng thấy một người có con đường đi độc đáo như vậy, và có thể gây ảnh hưởng lớn đến các sự kiện của năm đến thế này”. Bà Gibbs cho biết thêm, trong năm nay, ông Trump đã có mặt trên trang bìa của TIME ít nhất 5 lần. Biên tập viên kỳ cựu của TIME nhận định, ông Trump là lựa chọn “quá rõ ràng”. Năm nay, bà và đội ngũ giám khảo không phải tranh cãi quá nhiều về việc lựa chọn ông Trump là “Nhân vật của năm 2016.” ( Internet ).
Thành công của ông Donald Trump dựa trên quần chúng thầm lặng, bất mãn hai nhiệm kỳ Obama yếu kém đối phó với bên ngoài và trì trệ bên trong. Dẫu truyền thông, đảng phái quay lưng lại, ông Trump vẫn được đông đảo dân chúng ủng hộ thông qua lá phiếu cử tri.
Nhưng rồi cũng phải nói ngay: vinh quang sẽ chỉ tồn tại tối đa trong tám năm. Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay tường thuật Sinh Nhật Đức Emmanuel, Nhân Vật không phù phiếm nổi tiếng dăm ba năm, mà vang danh đã hơn hai ngàn năm và sẽ còn vạn tuế muôn năm, tràn đầy tình yêu, khiêm hạ, phục vụ, cứu độ mọi người, nhất là ưu ái những người bé mọn, cô đơn, yếu đuối, thấp kém, bị bỏ rơi.
Yêu thương
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ). Vâng Thánh Ý Chúa Cha, Hài Nhi Giêsu nhập thể giáng sinh tại Bêlem, đem tình yêu đến nhân loại, đang khao khát lòng mến, tình người. Thiếu lòng nhân ái, con người trở nên hung bạo, tàn nhẫn với đồng loại, sẵn sàng tiêu diệt nhau bằng tiếng nói, bằng thái độ thù địch bất nhân, bằng hành động trừ khử lẫn nhau. Hài Nhi đã đến thoả mãn ước nguyện muôn đời con người: Tình Yêu.
Hài Đồng Giêsu không ồn ào chào đời bằng lễ lạc tưng bừng kèn trống, cờ xí, pháo hoa, nhưng âm thầm nơi hang đá chiên bò xoàng xĩnh, vắng vẻ, hoang sơ. Tình yêu chân thành luôn êm ái, lặng lẽ, thân mật, nhè nhẹ bước vào lòng người. Tình yêu chân chính không cần hào nhoáng, kệch cỡm, sôi nổi, phô trương. Yêu thương, Hài Nhi kín đáo đến cứu thế gian, mà con người còn mãi hờ hững vô ơn, vô tâm, vô tình chẳng nhận ra, đến nỗi “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” ( Ga 1, 11 ).
Khiêm hạ
“Bấy giờ trong miền đó có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.” Không có những danh gia thế giá, chẳng có lãnh đạo đạo, đời trân trọng đến chào mừng. Chỉ có những trẻ mục đồng nghèo nàn, thấp kém, được thiên sứ báo tin, kêu gọi thăm Đấng Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng nhân loại.
"Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân.” Tin Mừng tuy dành cho mọi người, nhưng ưu tiên những tâm hồn bé nhỏ, khiêm nhu, đơn sơ, trong sạch và chân thành. Còn người kiêu căng, tự cao tự đại, giả hình, gian manh, dối trá thường luôn khước từ Tin Mừng.
Phục vụ
“Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít.” Thiên thần công bố sứ mạng cao cả của Đức Chúa Ở Cùng, là dấn thân phục vụ, loan báo Tin Mừng, chịu chết và phục sinh, cứu độ nhân loại được sống dồi dào viên mãn.
Đức Giêsu đến thế gian không để thống trị, làm vua chúa lãnh đạo cõi trần, nhưng là Vua Tình Yêu, ban phát nhưng không lòng nhân ái, an ủi, nâng đỡ, cứu giúp những ai khốn khổ, hèn mọn. “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" ( Mc 10, 45 ).
Hơn nữa, Đức Giêsu nhập thể còn đi tìm những tâm hồn lạc loài, hư hỏng, đi hoang, như Người thương yêu nói với viên trưởng ty thuế vụ Dakêu, đã sớm cải hối khi gặp được Người: “Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất” ( Lc 19, 10 ).
Để xứng đáng lãnh nhận hồng ân cứu độ qua mầu nhiệm Giáng Sinh, người Kitô hữu vui vẻ chấp nhận thân phận, dẫu khó khăn, nghèo đói, thiếu thốn, chịu xua đuổi, bị khai trừ, như Thánh Gia Thất từng kiên cường trải qua. Sống khiêm tốn, tự hạ và hy sinh, nhẫn nhục, chấp nhận đau khổ, cùng xác tín với Chúa: “Ơn của Thầy đủ cho con” ( 2Cr 12, 9 ). Cùng yêu thương, đồng cảm, chia sẻ, phục vụ những thân phận khốn khó, thua thiệt, hẩm hiu, lân cận.
“Lời chào của Thiên Thần:"Kính mừng Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà..." và lời chào của Hội Thánh:"Chúa ở cùng anh chị em" có mang một ý nghĩa sâu xa, khả dĩ biến đổi cuộc đời con không ?” ( Đường Hy Vọng, số 238 ).
"Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israen đã viếng thăm cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ phán hứa tự ngàn xưa” ( Lc 1, 68-70 ).
Kính xin Mẹ Maria cầu bầu, giúp đỡ chúng con chuẩn bị đón chào Hài Nhi Giêsu sao cho xứng đáng, như Mẹ đã toàn lực, toàn tâm, toàn ý, trân trọng chào đón Người ngự vào lòng Mẹ. Amen.
Ngày 27.11.1895, tại Paris, ông Alfred Nobel đã ký di chúc, dành toàn bộ tài sản là tiền thưởng tích cóp GS-377
Ngày 27.11.1895, tại Paris, ông Alfred Nobel đã ký di chúc, dành toàn bộ tài sản là tiền thưởng tích cóp cả cuộc đời làm việc, nghiên cứu sáng tạo của ông... để lập ra giải thưởng Nobel mang tên ông. Đến nay, giải Nobel được thừa nhận rộng rãi như là giải thưởng danh giá nhất mà một người có thể nhận được trong lĩnh vực được trao giải.
Giải thưởng quốc tế Nobel được tổ chức thường niên kể từ năm 1901, trao cho những nhóm và hoặc cá nhân có thành tựu xuất sắc trong các lĩnh vực: vật lý, hoá học, y học, văn học, kinh tế và hòa bình. Trong đó, giải Nobel Hoà Bình được trao cho tổ chức hoặc cho cá nhân. Năm 1968, Ngân Hàng Thụy Điển nơi quỹ Nobel đang uỷ thác, đã quyết định trao thêm giải thưởng lĩnh vực "khoa học kinh tế".
Tính đến nay, sau 115 năm lịch sử kể từ lần trao giải đầu tiên năm 1901, thế giới đã có 870 cá nhân và 26 tổ chức vinh dự được nhận giải thưởng danh giá vì những thành tích nghiên cứu, cống hiến xuất sắc cho nhân loại. Mỗi giải thưởng bao gồm: tiền thưởng trị giá 1,1 triệu USD; một huy chương bằng vàng nguyên khối chạm hình Sir Alfred Nobel và một giấy chứng nhận về giải thưởng.
Theo thông lệ, giải Nobel Hòa Bình được trao thưởng ở Oslo, Na Uy; các giải khác được trao ở Stockholm, Thụy Điển. Trong đó, Viện Hàn Lâm Khoa Học Hoàng Gia Thụy Điển trao giải Nobel Vật Lý, Hóa Học và Kinh Tế; Hội Nobel ở Karolinska Institutet trao giải Nobel Sinh Học và Y Học; Viện Hàn Lâm Thụy Điển trao giải Nobel Văn Học. Đặc biệt, giải thưởng Nobel Hòa Bình được Ủy Ban Nobel Na Uy ( gồm 5 thành viên do Quốc Hội Na Uy bầu ra ) trao tặng thay vì một tổ chức của Thụy Điển.
Kể từ năm 1901 khi giải Nobel đầu tiên được trao, đến nay đã có 820 nam giới và 50 phụ nữ được vinh danh.
Độ tuổi trung bình của những người đoạt giải Nobel trên tất cả các lĩnh vực là 59 tuổi.
Người giành giải Nobel cao tuổi nhất là nhà khoa học Mỹ gốc Nga, Leonid Hurwicz. Ông được trao giải Nobel Kinh Tế vào tháng 10 năm 2007, khi đã 90 tuổi. Tám tháng sau ông qua đời.
Năm 2007, nữ tác giả người Anh, Doris Lessing, trở thành người phụ nữ lớn tuổi nhất giành giải Nobel Văn Học, khi bà 87 tuổi. Bà cũng là một tác giả đặc biệt với tuổi thơ bất hạnh ở xứ độc tài Persia ( Iran bây giờ ), lớn lên ở xứ sở nghèo khổ và con người bị chà đạp Southern Rhodesia ( hiện nay là Zimbabwe ), sau 30 tuổi mới chuyển đến Anh sinh sống.
Người trẻ nhất vinh dự nhận giải Nobel là nữ sinh Malala Yousafzai ( 17 tuổi, quốc tịch Pakistan ), giành giải Nobel Hòa Bình vào năm 2014 vì những nỗ lực hoạt động bảo vệ Nữ Quyền và Quyền Trẻ Em.
Nhà khoa học Marie Curie là người phụ nữ duy nhất được trao 2 giải Nobel: Nobel Vật Lý ( 1903 ) và Nobel Hóa Học ( 1911 ).
Có 6 cặp cha và con trai; 1 cặp cha và con gái; cùng 1 cặp mẹ và con gái cùng đoạt giải thưởng Nobel. Bên cạnh đó, có 5 cặp vợ chồng cùng đoạt giải Nobel. Danh hiệu “Gia Đình Nobel” giành giải Nobel Hóa Học thuộc về nhà bà Curie, gồm: vợ chồng Pierre và Marie Curie và con gái Irène Joliot Curie cùng con rể của họ là Frédéric Joliot. Gia đình giành được nhiều giải Nobel nhất hành tinh.
Giải Nobel Hòa Bình năm 2014, trước khi trao cho nữ sinh 17 tuổi người Pakistan, đã nhận được con số đề cử kỷ lục: 278 đề cử.
2. Noel, Tin Mừng cho nhân loại
Noel là một cuộc kết hôn giữa Thiên Chúa sáng tạo và con người là thụ tạo. Chúa Kitô là Thiên Chúa đã giáng sinh làm người, có trái tim để yêu thương, đã mặc khải về Thiên Chúa là Tình Yêu, và thực hiện Lòng Thương Xót của Thiên Chúa muốn cứu rỗi con người. Đây là cuộc kết hôn vượt trên sức tưởng tượng của con người, cuộc kết hôn không “môn đăng hộ đối” giữa đôi bên.
Noel là Tin Mừng cho nhân loại. Noel đã trở thành Festival, lễ hội, một đại lễ của loài người. Noel một lễ hội không biên giới. Dù tin hay không tin vào Chúa Giêsu, mọi người đều hân hoan đón đợi, đều vui tươi mừng lễ.
Noel có lẽ là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang… Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi Nhà Thờ bé nhỏ miền quê hẻo lánh, hay bật sáng trăm ngàn ánh đèn muôn màu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ. Khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương’’ ( Lc 2, 14 )
Đặc biệt, Giáng Sinh là Tin Mừng lớn lao cho những ai tin vào Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa, Đấng Chí Thánh Chí Tôn đã “trở nên người phàm và ở cùng chúng ta”. Đấng Hằng Hữu đã trở nên “người phàm” ( Ga 1, 14 ), làm “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” ( Lc 2, 13 ), tại xứ Palestin, thời Augustô làm hoàng đế Rôma, Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri ( Lc 2, 1-2 ).
Sứ điệp Tin Mừng sứ thần loan báo cho những mục đồng trong Đêm Thánh, được Giáo Hội công bố thành Tin Mừng trong Lễ Đêm Giáng Sinh. Đó là Tin Mừng Giáng Sinh thật đơn sơ nhưng lại là Tin Mừng Cứu độ và mãi mãi là Tin Mừng hiện sinh cho nhân loại.
Tin Mừng đơn sơ
Trong đêm hồng phúc, Hài Nhi Giêsu sinh ra trong một chuồng giành cho bò lừa, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: "Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa" ( Lc 2, 11 ). Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ" ( Lc 2, 12 ).
Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân khẩu, các quán trọ khinh người nghèo hất hủi. Hài Nhi Giêsu chào đời nơi một cái chòi của gia súc. Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm. Chẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng. Tất cả những gì họ thấy chỉ là một hài nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một hài nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ.
Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó. Chỉ bằng con tim, các mục đồng mới có thể thấy nơi hài nhi này sự viên mãn lời hứa của Ngôn Sứ Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai” ( Is 9, 5 ). Dấu chỉ của Thiên Chúa là sự đơn sơ. Dấu chỉ của Thiên Chúa là hài nhi. Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta.
Tin Mừng Cứu Độ
Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và công nguyên. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ chuồng bò chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.
Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao. Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong chuồng bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn. Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt. Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sáng tạo mới. Sáng tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của Đức Tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội ủy thác cho con cái mình như kho tàng quý giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
Tin Mừng hiện sinh
Một Hài Nhi đã sinh ra mang một ý nghĩa hiện sinh sâu sắc: Thiên Chúa làm người và làm một trẻ thơ. Thiên Chúa làm trẻ thơ vì trong thế giới loài người vẫn còn biết bao trẻ thơ không có tuổi thơ. Chiến tranh, thiên tai, nhân tai, đói nghèo khiến bao trẻ thơ không có niềm vui trẻ thơ.
Ngắm nhìn trẻ thơ Giêsu trong máng cỏ nghèo hèn, chúng ta nghĩ tới bao trẻ thơ sinh ra hôm nay đang chịu cảnh đói nghèo thiếu thốn. Thiếu thốn vật chất, thiếu thốn tình thương. Thiếu thốn nhà cửa, thiếu thốn một mái gia đình. Giá lạnh của rét mướt và giá lạnh bởi thiếu vòng tay ôm ấp vỗ về. Hài Nhi Giêsu ấm áp trong tình thương của cha mẹ. Bàn tay nâng niu của Mẹ Maria, ánh mắt âu yếm của Ba Giuse. Đó là bầu khí gia đình đầm ấm. Gia đình là chiếc nôi êm ái vỗ về giấc ngũ trẻ thơ. Gia đình là lương thực bồi bổ, là thành trì bảo vệ tuổi thơ. Không có cảnh nghèo nào khốn cùng hơn cảnh trẻ thơ thiếu tình thương. Không có mái nhà nào rách nát hơn cảnh gia đình tan vỡ. Không có mùa đông nào lạnh giá hơn mùa đông của trái tim.
Hài Nhi nằm trong máng cỏ biểu thị sự yếu đuối của Thiên Chúa. Một sự yếu đuối mà Người đã tự ý chọn lựa. Thiên Chúa trong hình hài một bé thơ. Một Thiên Chúa yếu đuối. Trí khôn con người không thể nào hiểu và chấp nhận nổi. Mọi lý luận đều bất lực trước nghịch lý thần linh này. Thiên Chúa Đấng khôn tả của triết học bỗng dưng trở thành diễn tả được. Thiên Chúa Đấng vô hình của tôn giáo đã chọn cho mình một thể thức xuất hiện hữu hình. Thiên Chúa Đấng cứu độ đã mạc khải qua các Ngôn Sứ giờ đây ngỏ lời trực tiếp với con người qua Hài Nhi bé bỏng nằm trong Máng Cỏ. Tin Mừng Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của Ơn Cứu Độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại tình thương của Người bằng việc yêu mến Người và yêu thương nhau. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ hoà bình
Tiếp nối sứ vụ hòa bình của Chúa Giêsu Kitô, Giáo Hội Công Giáo miệt mài tìm kiếm nền hòa bình đích thực cho nhân loại. Năm 1920, Đức Bênêđitô XV ban hành thông điệp “Hòa Bình của Thiên Chúa”.
Từ năm 1939 đến 1957, qua các sứ điệp Giáng Sinh, Đức Piô XII luôn kêu mời các nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới hãy kiến tạo một nền hòa bình đích thực trên hành tinh này và cùng nhau xây dựng một thế giới liên đới công bằng.
Năm 1963, Đức Gioan XXIII ra thông điệp “Hòa bình trên thế giới” gửi đến tất cả những người thành tâm thiện chí trên thế giới để kêu gọi các quốc gia xây dựng một nền hòa bình chống lại chiến tranh. Năm 1967, Đức Phaolô VI thiết lập Hội đồng Giáo Hoàng “Công lý và Hòa bình”, và từ năm 1968, lập ra ngày “Hòa Bình Thế Giới” cử hành vào ngày 1 tháng 1 hằng năm.
Đức Gioan Phaolô II đã tổ chức những buổi “Cầu nguyện liên tôn” cho hòa bình tại Assisi và đưa ra sáng kiến “Ăn chay vì hòa bình”. Năm 1986, ăn chay để kêu gọi giải trừ vũ khí nguyên tử. Năm 1993 và 1994, ăn chay cho hòa bình tại Bosnia. Năm 2001, ăn chay để cầu nguyện cho hòa bình thế giới sau biến cố 11 tháng 9 tại Hoa Kỳ…
Muốn có được một nền hòa bình đích thực, con người không chỉ dừng lại ở việc chấm dứt chiến tranh, giải trừ quân bị, thực thi công lý, nhưng còn phải đi xa hơn, vươn tới tận nguồn của bình an là tình yêu thương. Hòa bình đích thực là kết quả của tiến trình thanh tẩy và nâng cao về văn hóa, đạo đức, tinh thần, một tiến trình trong đó phẩm giá con người được tôn trọng trọn vẹn.
Sứ điệp Ngày Hoà Bình Thế Giới lần thứ 50 có chủ đề: “Vượt thắng thói vô cảm để có hoà bình”. Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh đến nhiều hình thức khác nhau của thói vô cảm trong xã hội. Trước hết là vô cảm với Thiên Chúa, do đó dẫn đến vô cảm với người lân cận và sau đó vô cảm với môi trường.
Chúng ta được kêu gọi tỏ lòng “cảm thông, yêu thương, thương xót và liên đới” trong các mối tương quan của chúng ta với nhau. Đức Thánh Cha nói thêm rằng chúng ta cần phải “hoán cải tâm hồn” để “mở ra với người khác trong tình liên đới đích thực”. Đức Thánh Cha kêu gọi xây dựng một nền văn hóa của tình liên đới và lòng thương xót để vượt thắng thói vô cảm.
Điều này bắt đầu nơi gia đình, là “nơi đầu tiên mà các giá trị của tình yêu, tình huynh đệ, quy tụ và chia sẻ, quan tâm và chăm sóc người khác được sống và được chuyển giao”. Đức Thánh Cha cũng nói về vai trò của các nhà giáo và những người làm công tác truyền thông. Ngài nói rằng đặc biệt những người làm công tác truyền thông phải quan tâm đến cách thức thu thập và phổ biến thông tin, họ phải luôn dùng những phương pháp “hợp pháp và hợp đạo đức”.
Hoà bình là kết quả của một nền văn hóa của tình liên đới, thương xót và cảm thông. Phải bắt đầu từ nơi gia đình, nơi láng giềng, và nơi làm việc của chúng ta. Và mở rộng đến việc xã hội dân sự chăm sóc những người yếu thế, như các tù nhân, di dân, người thất nghiệp và người khuyết tật.
Tin Mừng Giáng Sinh nâng cao phẩm giá con người ngay từ khi được cưu mang trong dạ mẹ và vừa mới sinh ra. Chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta sẽ học được nhiều bài học về Sự Thật, Tự Do, Công Lý, Hoà Bình và Tình Thương. Hài Nhi Giêsu đã mở ra triều đại của Công Lý Tình Thương trên “nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” ( Is 9, 5–6 ).
Hãy nắm tay nhau, hạnh phúc cùng hát vang lời ca Giáng Sinh chung quanh máng cỏ có Chúa Giêsu Hài Đồng: “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta. Một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.
Lạy Chúa Giêsu, “xin thương ban, xuống những ai lòng đầy thiện chí, ơn an bình”.
(Trong tiếng Pháp, "verbe" vừa nghĩa là động từ, vừa là Lời: một cách chơi chữ ở đây.)
Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm". Một từ ngữ, nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm GS-378
"Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm". Một từ ngữ, nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm bắt được?
Thiên Chúa đã không sử dụng thuật pháp của tử ngữ, mà đã nói qua một trẻ thơ được bọc trong tã nơi máng cỏ và còn chưa biết nói, đã nói qua một tử tội không còn có thể nói được nằm trên thập giá. Người nói trong yếu đuối và thinh lặng. Sự thinh lặng hùng biện từ nay đã chứng minh cho mọi người rằng Thiên Chúa không im lặng. Lời của Người không còn là một chuỗi tiếng nói mà đã trở nên người phàm.
Từ khi con người trông đợi Thiên Chúa, họ cảm nghiệm sự xa vắng của Người hơn là được hưởng sự hiện diện của Người: "Không ai đã được thấy Thiên Chúa'? Điều đó không ngăn cản họ nói nhiều về Người, tuy Người vẫn vắng bông và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ đến những bậc hiền triết, Môsê, Lề Luật, và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các nhà thông thái. Dù dùng rất nhiều từ cũng không thể có sức thuyết phục bằng một lời nói. Bởi vậy trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa không ngừng nói "Lời cuối cùng" của Người.
Chỉ có Lời ("động từ") này mới làm cho câu có ý nghĩa. Nhờ Người mà những chuỗi từ của con người mới tìm được sự mạch lạc Người không loan báo những chân lý phụ thuộc, nhưng chính Người là Chân lý; Người soi sáng những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ có Người là Anh Sáng.
Tuy nhiên, chỉ có Anh sáng mới khơi dậy bóng tối. Chỉ có chân lý mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của Lời này là bị chống đối và đôi khi bị khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời Chúa đánh động chúng ta và trờ nên hiển nhiên trước mắt chúng ta".
(L. Sintas trong "Parole de diệu pour la méditation ét l'homélte -Năm C", Médiaspaul. trang 20-2).
Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu nổi trọng nhất trong truyền thống bình dân GS-379
Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu nổi trọng nhất trong truyền thống bình dân của tội Thánh. Cách đây không lâu, mọi thánh lễ đều kết thúc bàng bản văn này. Trong, các giáo xứ ở Pháp, khi cha mẹ lo lắng về con cái đến xin linh mục cầu nguyện cho chúng, thì họ đưa chúng đến nhà thờ, và linh mục thường đọc những câu Tin Mừng này, trong khi đặt dây stola trên đầu chúng. Đó không chỉ do lòng sùng mộ của một vài người, mà là một thói quen phổ biến trong quần chúng Kitô giáo. Việc chọn những câu Tin Mừng này thật ra rất chính đáng. Bởi vì những câu này là như bản tóm lược tất cả công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại.
- Khởi đầu là xác quyết long trọng về bản tính của Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa. Do Lời, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán... và sự vật liền có. Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành". Gioan đã cả quyết rằng lúc tạo dựng, dù bóng tối dày đặc, cũng không thể cản được ánh sáng tạo dựng. Anh sáng đã xô đẩy và quét sạch bóng tối để ngự trị. Trái với quyền lực mạnh mẽ lúc ban đầu của Lời Thiên Chúa, bỗng chốc Lời đó trở nên bất lực. "Ngôi Lời là sự sáng thật. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người". Đó là xác quyết về mầu nhiệm Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên thế gian không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể, thì cũng cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa, chướng ngại mà chính Thiên Chúa cũng không. thể vượt qua nếu con người không đồng ý. Con Thiên Chúa "đã đến nơi nhà Người và gia nhân Người không đón nhận Người". Đó là số phận của Người mới đến giữa nhân loại. Từ khi trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ nạn, chết trên thập giá, Người từ Thiên Chúa mới đến này bị anh em đồng loại của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố cáo, xét xử và hành quyết. Đó là công việc của ý muốn con người khi ý muốn ấy bị chi phối bởi đam mê xác thịt, đam mê trần thế và tính khát máu. Chúng ta gọi tên nó là tội. Khi phạm tội, người ta tìm thoả mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý Chúa và vinh quang của Người. Như vậy, qui ngã là dấu cho thấy con người có thể gây cho Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất, nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất.
Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Chiến thắng không do áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải trong tâm hồn. "Nhưng những ai đón nhận Người, những kẻ tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa".
Một bức hoạ diễn tả thảm kịch của nhân loại đã được vẽ lên. Nó họa lai sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và ơn cứu độ danh cho những người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự mãn, loài người không thể nào nhận biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người trên thập giá. Chính thập giá lại trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai chấp nhận đóng đinh tính tự mãn của mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó ánh sáng sẽ phủ ngợp con người họ".
Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi Lời; người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: GS-380
Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi Lời; người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: "Người", "trong Người", "nhờ người". Qua việc dùng các động từ khác nhau, người ta lần lượt kể ra mối tương quan của Ngôi Lời với Thiên Chúa, vai trò của Người trong công cuộc tạo dựng, hoạt động của Người ở trần gian, và việc Người đến trong lịch sử nhân loại.
Cách trình bày này có lẽ do thánh thi ở sách Châm Ngôn đoạn 8 và sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách này, Khôn Ngoan tự thuật về đời mình: được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi ý cho Thiên Chúa trong việc tạo dựng, Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn con người và sau vậy sự Khôn ngoan được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải hiểu là kế hoạch mà Thiên Chúa có ở trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu, Người biết rằng một ngày kia Người sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc đến cho loài người. Kế hoạch này đã có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi sự đều nói lên ý nghĩa do Người đặt định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có thể nhận biết Người và giao tiếp với Thiên Chúa...
- Đọc phần thứ hai của Lời Tựa, ta cảm thấy mình ở trong một bối cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh xưng "chúng tôi" để chỉ cộng đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như tiếng reo mừng, biểu lộ một cảm nghiệm ưu tuyển, mà ta cũng thấy ở thời Gioan, chương 1: "Điều vẫn có ngay từ lúc thời đầu, điều mà chúng tôi đã nghe...? Lần này không còn nói về điều ở trên trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cự thể với Đức Giêsu Nagiarét, một cảm nghiệm không thể quên, được kêu lên trong niềm kinh ngạc và xúc động: phải, chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Cha, phải, chúng tôi đã nhìn thấy sự sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi đã nhìn thấy bóng tối không ngăn cản được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này, chúng ta đi ngược lên tới tận nguồn gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng hợp hai quy trình xem ra trái ngược nhau một cách sống động: giải thích tổng quát lịch sử và cảm nghiệm độc nhất vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi Lời đã trở nên người phàm, có nghĩa cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo thành vũ trụ đã được tỏ lộ qua sự kiện Nhập Thể - đó là dấu chỉ mà Người nhắn gởi đến nhân loại qua mọi thành phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của mọi vật trong trời đất, qua Giao ước tạo lập nên một dân tộc tất cả những điều đó giờ đây đã hình thành và mang khuôn mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất của Chúa Cha, và từ nay mọi người hoàn thành số phận của mình bằng cách trở nên giống Chúa Con".
Khi nói về một tác phẩm hay một nhân vật, người ta thường hay nói về hoàn cảnh ra đời của GS-381
Khi nói về một tác phẩm hay một nhân vật, người ta thường hay nói về hoàn cảnh ra đời của nhân vật hay tác phẩm đó.
Đêm nay, khi mừng lễ giáng sinh, một lần nữa, chúng ta được nghe lại bài Tin Mừng theo thánh Luca nói về hoàn cảnh ra đời của Đức Giêsu. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, nhưng phụng vụ Giáo Hội muốn con cái của mình phải tiến xa hơn nữa để khám phá ra đâu là nguyên nhân dẫn đến hoàn cảnh ra đời của Đức Giêsu, đồng thời thấy được sứ điệp mà Thiên Chúa gửi xuống cho nhân loại qua biến cố Ngôi Hai giáng trần! Bối cảnh lịch sử Về bối cảnh lịch sử, đất nước Dothái thời bấy giờ đang bị đô hộ bởi đế quốc Rôma, vì thế, buộc dân chúng phải lệ thuộc cơ cấu tổ chức lãnh đạo của đế quốc.
Theo truyền thống từ nhiều đời, đế quốc Rôma có thói quen: cứ 14 năm một lần, hoàng đế thực hiện một công việc liên quan đến toàn lãnh thổ cũng như các thuộc địa, đó là kiểm tra dân số.
Việc kiểm tra dân số sẽ giúp cho triều đình nắm vững về nhân khẩu để thu thuế và dễ bề tổ chức việc tuyển lính vào quân đội.
Vì thế, khi được lệnh thông báo, ai ai cũng phải về quê quán của mình để khai tên tuổi. Với thánh Giuse, ngài thuộc hoàng tộc vua Đavít, và tổ vương của ngài lại sinh trưởng tại Belem, nên từ Nadarét, Giuse đã phải đưa Maria vợ mình về quê quán để thi hành bổn phận của người công dân đối với lệnh triều đình.
Hành trình trở về Belem của thánh Giuse và Mẹ Maria gặp muôn vàn khó khăn. Khó khăn vì đường xá xa xôi! Các ngài phải vượt qua đoạn đường dài thăm thẳm khoảng 80 dặm, tương đương với 130 km. Gia đình của Giuse và Maria là một gia đình nghèo, vì thế, các ngài di chuyển bằng phương tiện hết sức thô sơ, hơn nữa, Maria lại đang mang thai và sắp đến ngày sinh nở, thế nên, đây là một cuộc hành trình đầy thách đố với các ngài!
Khó khăn chồng chất khó khăn! Tưởng chừng khi đến nơi, các ngài được yên ổn để lo công việc, ai ngờ, tại nơi đây, vợ chồng nghèo này một phần không có đủ tiền để thuê quán trọ, phần khác, nhìn thấy Maria bụng mang dạ chửa, các chủ quán trọ đều cảm thấy ái ngại!
Trong hoàn cảnh ấy, đôi vợ chồng nghèo này phải đành dẫn nhau ra tá túc ngoài đồng cỏ ngoại ô, nơi ở của súc vật. Và, tại nơi đây, Maria đã đến ngày: “Mãn nguyệt khai hoa”, vì thế, không còn lựa chọn nào khác, Maria buộc phải sinh con đầu lòng của mình ngay tại nơi sinh sống của súc vật. Nghịch lý của mầu nhiệm Giáng Sinh
Một cuộc hạ sinh mang đậm nỗi nghèo; một biến cố làm kinh thiên động địa cả nhân loại; một sự kiện lưu dấu muôn ngàn thế hệ; một dấu ấn không bao giờ được phép quên đối với người Công Giáo!
Tại sao vậy? Thưa! Vì đây là một nghịch lý vì yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Giêsu qua cuộc giáng sinh vĩ đại này.
Thật vậy, xét về góc độ con người, nếu chúng ta nhìn dưới cái nhìn tự nhiên, thì cuộc giáng sinh của Con Thiên Chúa là một sự nhục nhã! Nhục nhã vì nghèo nên không được lưu trú một nơi xứng đáng; nhục nhã vì sinh ra trong cảnh màn trời chiếu đất, chốn bò lừa với những mùi hôi hám, dơ bẩn của súc vật!
Thử hỏi nơi chúng ta, những người đang hiện diện trong thánh lễ này, dù nghèo đến đâu, bi đát thế nào, liệu đã có ai phải sinh ra trong hoàn cảnh éo le, tệ hại đến như vậy hay không? Phương chi, đây lại là Hoàng Tử, Con Trời; là Thiên Chúa; Đấng quyền năng; Vua vũ trụ; Chúa các chúa, nhưng lại hạ sinh trong hoàn cảnh có một không hai như vậy? Phải chăng đây là đường lối nhiệm mầu, khôn ngoan của Thiên Chúa!
Thật vậy, với Thiên Chúa, sự giàu có của Người lại được thể hiện qua sự nghèo hèn, thiếu thốn nơi Đức Giêsu – Con Một yêu dấu, và, sự khôn ngoan của Thiên Chúa là con đường tự hủy, đi xuống và trao ban vì tình yêu. Đến lượt Đức Giêsu, Ngài đã thực hiện rõ nét sự điên rồ của Thiên Chúa khi đi sâu vào lòng nhân loại tội lỗi để giao hòa con người với Thiên Chúa; để yêu thương người nghèo và bênh vực những người không có tiếng nói; để bảo vệ công lý; xây dựng lẽ công bằng; làm chứng cho sự thật và cuối cùng là chết như một tử tội trên thập giá. Dưới cái nhìn thông thường thì đó quả là cuộc sống của kẻ điên rồ!
Tuy nhiên, tình yêu Thiên Chúa vượt trên mọi lý luận của con người, nên đã trở thành cớ vấp phạm cho người Dothái, sự điên rồ đối với người Hylạp.
Chính vì điều này, mà toàn dân Dothái, từ bao đời, họ được loan báo và chính họ hằng ngày mong ngóng đợi trông Đấng Cứu Thế, nhưng khi Ngài xuất hiện, họ đã không nhận ra. Ngược lại, Thiên Chúa đã tỏ mình và mạc khải cho những người nghèo, không có tiếng nói, đó là các mục đồng... Tại sao vậy? Thưa! Người có thế giá, được Thiên Chúa yêu mến không phải là quyền cao chức trọng, không phải là giàu sang phú quý... mà là những con người mang trong mình tâm hồn đơn sơ chân thành, sẵn sàng đón nhận chân lý và vui vẻ đón nhận nghịch lý của tình yêu. Quả thật, các mục đồng là những người như thế, nên được đón nhận đặc ân cao quý mà những người hiền triết, khôn ngoan không có được. Sứ điệp Giáng Sinh
Trong xã hội hôm nay, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt. Trong tâm thức của con người hiện đại, họ coi người nghèo là những người đáng bị coi thường, khinh dẻ. Hơn nữa, sẵn có quan niệm kỳ thị, nên người nghèo không có tiếng nói, và lẽ đương nhiên, chân lý làm gì có nơi những con người chân lấm tay bùn!
Dưới cái nhìn chủ quan như thế, họ đã phỏng chiếu Thiên Chúa trong lối suy nghĩ của họ, tức là bắt Thiên Chúa phải theo ý niệm của mình.
Tuy nhiên, khi cử hành và chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng ta khám phá ra nghịch lý của Thiên Chúa, đó là Thiên Chúa muốn cứu chuộc con người bằng con đường tự hủy. Ngài đã chấp nhận đi xuống tận cùng của sự thiếu thốn, nghèo khổ, cơ cực, để trở thành bạn của những ai bé nhỏ nghèo hèn, để nâng đỡ và bảo vệ những ai không có tiếng nói, để bênh vực những ai hiền lành và khiêm nhường. Nhất là để giao hòa con người với Thiên Chúa, trả lại tước vị làm con khi con người đã đánh mất thủa ban đầu. Nói như thánh Phaolô: “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8, 9).
Mong sao, mỗi khi mừng đại lễ giáng sinh, mỗi người chúng ta được ngụp lặn trong ánh sáng khôn ngoan của Thiên Chúa, để hiểu được chân lý ngàn đời nơi mầu nhiệm Giáng sinh là: chỉ có tình yêu đích thực mới đáng được gọi là tình yêu điên rồ. Cuộc sống người Kitô hữu nếu trung thành với lời cam kết của Bí tích Thanh Tẩy sẽ mãi mãi là hành trình đi ngược dòng, và do đó cũng không tránh khỏi nhãn hiệu điên rồ.
Xin Chúa ban cho chúng ta học được bài học nghèo khó, khiêm nhường, tự hủy của Thiên Chúa, để cũng đường lối ấy, chúng ta sống và thi hành trong tư cách là con Thiên Chúa. Amen.
Một câu chuyện đã làm cho Mẹ Têrêsa Calcutta rất cảm động và thường hay được Mẹ kể lại GS-382
Một câu chuyện đã làm cho Mẹ Têrêsa Calcutta rất cảm động và thường hay được Mẹ kể lại cho thính giả khi có cơ hội. Chuyện kể rằng:
Vào một ngày năm 1982, có hai bạn trẻ đến nhà tế bần của Mẹ tại Calcutta và dâng cho Mẹ một số tiền lớn để qua Mẹ cho người nghèo, bởi vì hai bạn trẻ đó biết là hằng ngày, các nữ tu dòng của Mẹ phải lo nấu ăn cho 7 ngàn người và lo phần quà cho người nghèo lên tới 9 ngàn. Thấy họ còn trẻ mà lại có số tiền lớn như vậy, nên Mẹ đã thắc mắc và hỏi xem tại sao họ có số tiền lớn như vậy? Hai bạn trẻ đã trả lời: “Chúng con mới cưới nhau được hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ và bàn bạc với nhau, cuối cùng, cả hai đều đồng ý không may đồ cưới cũng như không tổ chức yến tiệc linh đình. Số tiền ấy chúng con gửi tặng Mẹ để lo cho những người kém may mắn, vì họ không được như chúng con. Đây chính là món quà chúng con dành cho nhau trong ngày cưới khi cả hai cùng chấp nhận hy sinh để khởi đầu một cuộc sống chung”.
Ôi thật là một hành động anh hùng! Bởi vì ở bên Ấn Độ, nếu đám cưới mà không có y phục và yến tiệc thì là một sự nhục nhã lớn lao đối với hai họ và với chính đôi tân hôn.
Tuy nhiên, hai bạn trẻ này đã chấp nhận tất cả, chỉ vì tình yêu của họ dành cho người nghèo. Đây có thể nói là một cuộc tình thiêng liêng giữa họ với những người kém may mắn...
Nhân dịp lễ Giáng Sinh, chúng ta nghe lại câu chuyện trên để gợi nhớ cho mỗi người về một câu chuyện cách đây hơn 2.000 năm nơi một cuộc tình, cuộc tình đó chính là cuộc tình giữa Thiên Chúa và con người. Một vị Thiên Chúa nghèo vì yêu Khởi đi từ một vị Thiên Chúa giàu sang phú quý, toàn trí, toàn hảo, toàn năng, là Chủ Tể trời đất, nhưng Người đã chấp nhận trở thành con người, sinh ra trong cảnh màn trời chiếu đất, rét mướt, âm thầm qua hình hài một Hài Nhi bé bỏng, yếu ớt như bao trẻ em khác... Những người biết đến để tôn thờ không ai khác là chính những mục đồng chăn chiên... đơn sơ, chất phát và cũng nghèo nàn như những người nghèo thời bấy giờ.
Khi Thiên Chúa cho Con của Người xuống trần trong tâm thế như vậy, phải chăng không có lý do gì khác ngoài tình yêu! Quả thật: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban con một mình, để những ai tin vào Ngài thì không hư mất nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3,16).
Khi Con Thiên Chúa sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha để trở thành Ngôi Lời, thì đồng nghĩa với chuyện Ngài chấp nhận trở thành xác phàm và “cắm lều” để cư ngụ giữa nhân loại. Khi Ngài chấp nhận như vậy, ấy là Ngài sẵn sàng đi vào thế giới loài người, để mang nơi mình sự hữu hạn của con người trong kiếp nhân sinh, vì thế: Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế... để cảm nghiệm được cái đói, cái khổ cũng như sự giới hạn do quy luật tự nhiên dành cho con người. Như vậy, qua mầu nhiệm giáng sinh, Thiên Chúa đã mặc khải tấm lòng xót thương vô biên của Người cho nhân loại, đồng thời cũng mời gọi mỗi chúng ta hãy cùng Đức Giêsu đi vào cuộc tình ấy với một tình yêu không biên giới, để giới thiệu cho nhân loại biết: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Sống sứ điệp Lời Chúa qua mầu nhiệm giáng sinh Cuối Tin Mừng hôm nay, sau khi thánh sử Luca đã trình thuật việc Đức Maria sinh hạ Hài Nhi Giêsu, tác giả đã đưa vào đó một cảm nhận thật tuyệt vời khi nói về Đức Maria: "Còn Bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng".
Đây chính là điểm gợi ý cho chúng ta sống mầu nhiệm giáng sinh trong đời sống thường ngày hôm nay. Bởi vì:
Nếu không suy nghĩ và hồi tâm, thì hẳn mỗi dịp lễ giáng sinh đến và qua đi, chúng ta cũng như bao nhiêu người không có niềm tin! Họ mừng lễ giáng sinh như một lễ hội thuần túy, và không chừng, đây còn là cơ hội để họ làm ăn bất chính khi những món quà cho đi và nhận lại không biểu lộ tình yêu cho bằng một sự thực dụng! Nếu không suy nghĩ và hồi tâm, phải chăng chuyện mừng lễ giáng sinh của chúng ta được đánh dấu và dừng lại bằng những chuyện trang trí bề ngoài, mà chúng ta đâu hiểu và sống mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại, qua Đức Giêsu, nơi hang đá, máng cỏ, hay cũng không khám phá ra sứ điệp Ánh Sáng nơi đèn sao lấp lánh bên ngoài!
Nếu không suy nghĩ và hồi tâm, chúng ta cũng đâu khám phá ra việc Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người là vì yêu thương người nghèo, tội lỗi và đến để cứu chuộc những con người như thế, để rồi chúng ta cũng tiếp tục sứ mạng ấy trong đời sống đạo của mình hôm nay!
Mong sao mỗi khi mừng lễ giáng sinh, chúng ta ý thức lại tâm tình đón mừng lễ của mình, để rồi ngang qua những chuện bề ngoài, mỗi người hãy để cho mầu nhiệm tình yêu giáng sinh bén rễ sâu vào trong tâm thức và sinh hoa kết trái nơi hành động của mình với Thiên Chúa và với tha nhân!
Có thế, chúng ta mới hy vọng xứng đáng là con của Thiên Chúa và được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu khi sống mầu nhiệm tình yêu giáng sinh trong cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết cảm nghiệm được tình yêu cứu độ của Chúa dành cho con người. Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con thờ ơ với tình yêu ấy. Xin cho chúng con biết sống sứ điệp tình yêu của Chúa nơi mọi người, nhất là những người nghèo, tội lỗi và kém may mắn hơn chúng con. Amen.
Mỗi khi nói đến lễ Giáng Sinh, người ta đều biết rằng: “Đây là một lễ của Ánh Sáng”. Vì thế GS-383
Mỗi khi nói đến lễ Giáng Sinh, người ta đều biết rằng: “Đây là một lễ của Ánh Sáng”. Vì thế, bề ngoài, người ta trang hoàng lộng lẫy với những đèn sao nhấp nháy, đủ loại, muôn màu...
Tuy nhiên, phụng vụ Giáo Hội luôn mời gọi con cái mình đi xa và tiến sâu hơn để khám phá ý nghĩa của ánh sáng trong tâm tình phụng vụ, tức là biết được giá trị, sứ điệp của ánh sáng trong mầu nhiệm cứu chuộc của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu qua mầu nhiệm giáng sinh. Đức Giêsu là Ánh Sáng
Thánh sử Gioan hôm nay đã trình thuật cho chúng ta biết mầu nhiệm giáng sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa trong tư cách là Ngôi Lời nhập thể, trở thành xác phàm để “cắm lều” ở giữa nhân loại và đem ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa từ trời cao xuống trần gian, nhằm dẫn đường chỉ lối cho con người, ngõ hầu những ai tiến bước trong ánh sáng thì sẽ được cứu chuộc nhờ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Biến cố này đã được ngôn sứ Isaia loan báo: "Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng" (Is 9,1); hay trong Thánh Vịnh 96 có chép: "Ánh sáng bừng lên chiếu rọi người công chính, niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng ngay" (Tv 96, 11).
Thật vậy, từ lúc “Ngôi Lời hóa thành nhục thể” (Ga 1,14), trở thành Đấng “Emmanuel, tức là Thiên Chúa - Người” để ở giữa chúng ta, nhân loại được chan hòa ánh sáng, khiến trời đất giao hòa, vạn vật được thăng hoa và mọi hành vi của con người khi được kết hợp với Đức Giêsu thì sẽ có giá trị cứu độ nhờ ánh sáng của Ngài chiếu soi.
Thánh Gioan diễn tả đặc tính này như sau: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). Tuy nhiên, ánh sáng ấy đã bị bóng tối khước từ: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 10-11).
Khi nói như thế, thánh Gioan ám chỉ trực tiếp tới dân tộc Dothái, nhưng mặt khác, ngài cũng mở rộng để nói đến mọi thành phần, mọi nơi, mọi thời khi khước từ Đức Giêsu bằng việc không tin Ngài cũng như sứ điệp cứu độ mà Ngài đem đến cho nhân loại. Sống sứ điệp Ánh Sáng qua mầu nhiệm Giáng Sinh
Ngày nay, trên thế giới, vẫn không thiếu gì cảnh bóng tối uy hiếp hay chối từ ánh sáng!
Bóng tối đó chính là những âm mưu chống phá Giáo Hội, trối bỏ đức tin, phủ nhận tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Đôi khi những bóng tối đó là những lựa chọn xấu xa, những hành vi bất chính, những gian tham, lọc lừa đến từ phía cá nhân hay tập thể.
Và, bóng tối đó có thể chính chúng ta khi chúng ta sống trong tội lỗi, kiêu ngạo, tự phụ, giả hình, phô trương, ích kỷ, nhỏ nhen, bất nhân, với anh chị em đồng loại.
Như vậy, mỗi khi mừng lễ giáng sinh, chúng ta được mời gọi thuộc về ánh sáng và trở nên nguồn ánh sáng giữa thế gian đầy bóng tối và tội lỗi.
Ước gì, mỗi người Kitô hữu đều hiểu rằng: Đức Giêsu đã trở nên ánh sáng để soi chiếu trần gian, Ngài đã gọi ta ra khỏi bóng đêm của tội lỗi qua Bí tích Rửa Tội, để chúng ta bước đi trong đường lối ánh sáng của Ngài, đồng thời ban cho chúng ta hết ơn này đến ơn khác, thì đến lượt mỗi người, chúng ta cũng phải sống như con cái sự sáng và trở nên ánh sáng soi cho mọi người khi đời sống của chúng ta mang đậm tấm lòng nhân ái, cảm thông, liên đới, chính trực, chân thành, đơn sơ, khiêm tốn...
Lạy Chúa Giêsu, mỗi khi mừng lễ giáng sinh, xin Chúa ban cho chúng con hiểu được ý nghĩa, giá trị của mầu nhiệm ánh sáng mà Chúa mang đến cho nhân loại. Đồng thời, xin cho chúng con hiểu được bổn phận của chúng con là trở nên ánh sáng của Chúa trong cuộc sống hôm nay.
Ước gì ngang qua cuộc sống của chúng con, mọi người nhận ra mầu nhiệm ánh sáng của Chúa và đi theo ánh sáng đó để được cứu chuộc. Amen.
Lời Chúa trong ba thánh lễ: thánh lễ Đêm, thánh lễ Rạng đông và thánh lễ Ban ngày đều nhấn GS-384
Lời Chúa trong ba thánh lễ: thánh lễ Đêm, thánh lễ Rạng đông và thánh lễ Ban ngày đều nhấn mạnh tới chủ đề Niềm vui và an bình. Biến cố Thiên Chúa làm người không chỉ là niềm vui của một nhóm nhỏ những người được chứng kiến, cũng không chỉ là niềm vui của dân tộc Do Thái, là niềm vui của toàn dân (Lc 2,10). Vì thế mà ngôn sứ Isaia muốn hét to lên để loan truyền cho tới tận cùng trái đất rằng ơn cứu độ đang tới. Cảnh hoang tàn sầu khổ và thân đơn goá bụa đã chấm dứt. Không còn nước mắt nữa, bù vào đó sẽ là niềm vui. Niềm vui này lan toả đến mọi tâm hồn, nhất là với những ai thành tâm thiện chí. Không vui sao được, khi được chứng kiến Chúa can thiệp và lật đổ những kẻ quyền thế hùng mạnh, những chiếc áo choàng đẫm máu đào sẽ bị đốt đi (Bài đọc I). Chiến tranh sẽ không còn và thay vào đó là vương quyền của Vua Hoà bình, từ nay sẽ lãnh đạo thế giới bằng tình thương và lòng nhân hậu.
Ngày Chúa đến là ngày hân hoan vui mừng, cũng là ngày khai mở kỷ nguyên hoà bình. Ý tưởng an bình được nhắc tới rải rác trong các bài đọc Thánh Kinh. Trước hết bình an đến từ trời cao, vì Đấng Cứu thế từ trời xuống thế để đem bình an cho nhân loại. Bình an còn đến từ trần thế, nơi những tấm lòng chân thành rộng mở để đón Chúa. Đức Maria, Thánh Giuse, các mục đồng ở Belem, họ là những người trước hết đã góp phần tạo nên đêm bình an kỳ diệu ấy. Hài Nhi mới sinh say sưa trong giấc điệp, Bà Maria và Ông Giuse chiêm ngắm tôn thờ, các mục đồng cung kính suy tôn. Đó là khung cảnh bình an tuyệt diệu, như thiên đàng nơi trần thế. Đất với trời “xe chữ đồng”, cùng gặp gỡ nhau để rồi không bao giờ xa nhau nữa, vì Con Thiên Chúa là trung gian nối kết giữa trời với đất, như chiếc cầu nối hai bờ của một dòng sông để nhờ cây cầu ấy mà mọi người qua lại trong tình thân thiện.
Trong niềm vui và an bình ấy, Phụng vụ mời gọi chúng ta suy tư: Đấng Cứu thế là ai vậy? Thánh Gioan trả lời: Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa (Tin Mừng lễ Ban ngày). Đức Giêsu không chỉ là con người, mà còn là Thiên Chúa. Thánh Gioan đã tìm đến tận nguồn gốc thiên linh của Người. Người là Ngôi Lời hằng hữu, hiện diện bên Chúa Cha từ thời sáng tạo. Người không phải là một tạo vật, nhưng là Thiên Chúa và đồng bản thể với Chúa Cha. Người có từ trước muôn đời. Phụng vụ muốn chúng ta xác tín giáo huấn này, để khi đến chiêm ngưỡng Chúa Hài Đồng tại hang đá máng cỏ, chúng ta vượt lên những dấu chỉ khả giác bề ngoài để tôn thờ Thiên Chúa, Đấng đã xuống đời để cứu chuộc chúng ta.
Con Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người và đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm. Có rất nhiều người đã mở rộng tâm hồn đón Chúa, và họ được ánh sáng của Người chiếu soi. Tuy vậy, suốt bề dày lịch sử, cũng có những người khước từ lời mời gọi đón Chúa, thậm chí phủ nhận sự hiện diện của Người. Thánh Gioan đã nhắc lại một sự thật nghiệt ngã: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Để đón Chúa, mỗi chúng ta phải can đảm vượt lên chính mình, phải để cho ánh sáng của Chúa chiếu soi những góc khuất trong tâm hồn. Đón Chúa đến trong đời cũng như người can đảm chấp nhận uống những liều thuốc đắng, nhưng có thể chữa khỏi mọi bệnh hoạn tật nguyền. Những ai đón nhận Chúa, Người sẽ ban cho họ niềm vui, nhất là được quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ sẽ tìm được sự bình an đích thực, từ trong nội tâm và tồn tại vững bền.
Hơn hai ngàn năm đã qua, biến cố Giáng Sinh vẫn được long trọng cử hành, như điểm mốc khởi đầu của kỷ nguyên mới. Chính Chúa Giêsu là trung gian của lịch sử. Người đến để đem cho con người niềm vui và an bình. Ai đón nhận người sẽ tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời. Nhờ giáo huấn của Người mà con người sẽ trở nên “người” hơn trong mối tương quan với đồng loại. Chúa Giêsu dạy chúng ta: người với người không phải là thù địch hay lang sói, nhưng là anh chị em với nhau và có cùng một Chúa là Cha.
Niềm vui và an bình khởi đi từ Hang Đá Máng Cỏ Belem năm xưa và nay đang được tỏa lan đến mọi miền thế giới, đến với mọi người, mọi nhà. Ước mong mỗi Kitô hữu, khi mừng lễ Giáng Sinh, đều cảm nhận được niềm vui và an bình, như quà tặng mà Con Thiên Chúa mang đến cho trần gian. Không chỉ thế, người tin Chúa còn được mời gọi trở nên những sứ giả đem niềm vui và an bình đến mọi nẻo đường của cuộc sống, để rồi qua lời nói và những nghĩa cử tốt lành, họ làm toả hương thơm của tình Chúa tình người. Đó là những chứng từ mạnh mẽ và hiệu quả về sự hiện diện của Con Thiên Chúa giữa trần gian.Xin Chúa cho chúng ta được hưởng trọn vẹn niềm vui và an bình của ngày lễ Giáng Sinh. Amen.
Có những khổ đau tưởng chừng không vượt qua nổi: vợ chồng ly biệt, cha mẹ đầu bạc tiễn người GS-385
Có những khổ đau tưởng chừng không vượt qua nổi: vợ chồng ly biệt, cha mẹ đầu bạc tiễn người tóc xanh, cho dù họ đã ý thức, sau cơn mưa trời lại nắng. Có những giọt nước mắt tuôn trào vì sung sướng, lại không hiếm gặp những giọt lệ rơi vì tủi thân tủi phận, dẫu biết rằng, cả một đời người sống trong nhung lụa, hoặc ngán ngẩm kiếp nghèo đeo đẳng, kết thúc đời người chỉ là ba tấc đất. Không phải người nghèo, người đau khổ mới chờ mong phép mầu, đâu phải chỉ nơi bệnh viện, trạm xá, mới là nơi lý tưởng để bậc cha mẹ sinh con vàng con ngọc. Đêm đen thì sợ hãi, đêm đông thì lạnh lẽo, đêm cô đơn lại dễ tuyệt vọng, chỉ có đêm an bình, người ta mới đủ cảm nhận đó là phép mầu tình yêu thương.
Nếu có một chút ưu tư, người ta sẽ không khỏi thắc mắc tại sao có sự bất bình đẳng, kẻ ăn không hết người lần không ra ? Vì sao có sự chênh lêch giữa kẻ thông thái uy quyền và người khờ khạo dân đen hay bị phân biệt đối xử ? Cuộc sống có quá nhiều phức tạp, biết bao bế tắc cần được tháo gỡ cho thông thoáng, rất nhiều rạn nứt cần được hàn gắn, biết bao người tính khí hung hăng ích kỷ, cần được biến đổi. Người thận trọng sẽ chờ đợi tướng tài, tướng giỏi, xuất hiện nhằm xua đuổi những khổ đau bất trắc. Người quá tự tin sẽ tự mình tìm cách giải quyết khó khăn. Chỉ những ai đặt niềm tin vào Thiên Chúa, người ấy mới trông chờ quyền năng của phép mầu cứu độ. Phép mầu đêm đông không phải là một tập hợp sức mạnh binh pháp, phép mầu đêm đông sẽ không giống như đôi đũa thần trong truyện cổ tích, họ giải gỡ mọi bí ẩn cuộc đời bằng quyền phép của đũa thần. Phép mầu đêm đông dẫn dắt những tâm hồn thành tâm thiện chí đến bên hang đá Belem, chính phép mầu giúp cho người người bình an, họ xem thấy, họ hiểu tình người giáng sinh là Thiên Chúa ở giữa nhân loại. Đêm hôm nay có khác đêm hôm qua không, khung cảnh và thời gian không giống nhau, được vui hay còn buồn là tuỳ tâm tư của mỗi người đã chuẩn bị, đã cộng tác làm cho phép mầu của đêm đông thực sự có ý nghĩa cho hành trình sống đức tin của mình.
Phép mầu đêm đông đang thực sự ấm lên với nhiều hoạt động khác nhau, nhiều món quà bất ngờ đã đến với người nghèo, nhiều niềm vui xí xoá đi những giận hờn trong tình yêu đôi lứa. Ngay tại ngôi thánh đường của chúng ta đây, không có lệnh kiểm tra dân số, nhưng tiếng loa của các thiên thần vẫn vang lên trong tâm trí, thức tỉnh lòng người cùng hướng tới việc thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Phép mầu đêm đông sẽ còn sống động với những lý lẽ rất linh thánh: tài giỏi chớ khoe khoang, giầu sang đừng kênh kiệu. Các mục đồng là những thành phần lam lũ với đàn súc vật ngoài đồng, ấy vậy họ đã vinh dự được các thiên thần mang đến tin vui, mời gọi họ đến nơi Belem.
Phép mầu đêm đông sẽ mãi mãi chỉ là câu hỏi tại sao, đối với những ai sử dụng tài trí của mình để khám phá tính cao đẹp của tình yêu giáng sinh. Phép mầu đêm đông sẽ toả sáng hơn với tất cả những tâm hồn đã chuẩn bị trong bốn tuần vừa qua, ít nhiều gì thì họ cũng gặp gỡ được niềm vui bình an như các mục đồng rất thành tâm thiện chí. Ngày hôm nay, trong gia đình người mang lại nhiều kinh tế là người nắm giữ quyền lực, ngoài xa hội, người giầu sang địa vị là người có tiếng nói mạnh mẽ hơn, như thế bình đẳng vẫn chỉ là lý htuyết. Nếu như tục ngữ có câu: người tài giỏi khó chơi, người ươn lười khó thuyết phục, thì quả thật, phép mầu đêm đông vẫn đang phải hoạt động hết công suất để phủ lấp cả người tài giỏi, người ương bướng và cả người đặt tin tưởng vào tình yêu Chúa.
Phép mầu đêm đông mà các mục đồng cảm nhận đó là thông điệp yêu thương, niềm vui và chia sẻ. Con Thiên Chúa đến trần gian trong thân phận một em bé, dù người nghèo đến thờ lạy, người mục đồng loan tin vui, nhưng phép mầu đó vẫn giá trị đến khắp mọi miền thế giới. Phép mầu đêm đông mà Hài Nhi Giêsu sẽ còn nói với nhân loại đó là Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế. Người đời mong đợi phép mầu vật chất, phép mầu tinh thần, nhưng người kitô hữu lại mơ ước phép mầu niềm vui ơn cứu độ. Phép mầu đêm đông sẽ còn vang vọng mãi, nhất là khi mỗi người cùng đồng lòng, đồng sức, góp phần xây dựng nền hoà bình yêu thương theo thánh ý Chúa. Amen.
Có rất nhiều người thuộc các tôn giáo bạn thường hay thắc mắc: “Tại sao lễ Giáng Sinh lại được GS-386
Có rất nhiều người thuộc các tôn giáo bạn thường hay thắc mắc: “Tại sao lễ Giáng Sinh lại được cử hành vào ban đêm?” Khi mừng lễ như vậy liệu có tính lịch sử không?”. Thực ra thời khắc Con Thiên Chúa hạ sinh không đề cao ý nghĩa và giá trị lịch sử cho bằng ý nghĩa thần học, thiêng liêng của ngày lễ. Vì thế, khi cử hành lễ Giáng Sinh vào đêm ngày 24, rạng sáng ngày 25, Giáo Hội muốn làm nổi bật lên vai trò và sứ mạng của Đấng Thiên Sai, vì Ngài là: “Ánh Sáng đến để chiếu soi nhân loại”. Ánh sáng tách lìa bóng tối
Khi nói đến ánh sáng trong lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy nó xuất hiện ngay từ thủa nguyên sơ bình minh của nhân loại. Sách Sáng Thế đã cho thấy rõ vai trò của ánh sáng khi ánh sáng xuất hiện trong công cuộc tạo dựng.
Lúc ban đầu, mọi sự còn trong tình trạng hỗn mang, nhưng khi ánh sáng hiện hữu, tức thì một lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối xuất hiện. Nhờ vào ánh sáng, mọi vật được quang hợp và nhờ đó mà có sự sống.
Sau khi sáng tạo trời đất và con người, Thiên Chúa đã dùng ánh sáng để phân biệt ngày và đêm cũng như để cho con người được sống trong ánh sáng.
Như vậy, tác giả sách Sáng Thế cho thấy: ánh sáng được biểu trưng cho sự sống. Còn bóng tối là hình ảnh của sự chết.
Tuy nhiên, vì bóng tối là hình ảnh của sự chết, nên nó đối lập với ánh sáng là biểu tượng của sự sống! Vì vậy, nó đã không ngừng len lỏi vào trong tâm khảm của con người, khiến con người hướng chiều về nó và muốn thoát ra khỏi ánh sáng để mong ước đạt được một cái gì đó tốt đẹp hơn hiện tại!
Chính vì sự yếu đuối và ngộ nhận này mà Nguyên Tổ của chúng ta là Ađam và Evà đã đi theo bóng tối và có một sự khát khao cuồng tín rằng: khi đã thoát ra khỏi ánh sáng thì sẽ được ngang hàng với Đấng Tạo Hóa là nguồn Ánh Sáng.
Nhưng sự hoang tưởng này đã không đem lại cho ông bà như ý muốn, mà cả hai đã nhận một cái kết đầy đắng cay, đó là: bị Thiên Chúa trừng phạt và đẩy lùi về với bóng tối khi Người đập tan ý định kiêu ngạo, phá ta niềm hy vọng hão huyền, và đã đuổi ông bà ra khỏi Vườn Địa Đàng là nơi đầy ánh sáng và bình an. Cũng kể từ đó, ông bà không được hưởng hạnh phúc thủa ban đầu, không còn tình nghĩa với Đấng dựng nên mình và cũng kể từ đó, Thiên Chúa đã đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh (x. St 3,24). Cứ thế, trong suốt giai đoạn Cựu Ước, dân chúng đã lầm lũi bước đi trong bóng tối của sự chết. Đây chính là thảm họa buồn mà nhân loại phải lãnh nhận do Nguyên Tổ loài người gây ra. Trước thực trạng ấy, dân mong chờ ánh sáng biết chừng nào! Họ mong chờ một nguồn ánh sáng đến để giải cứu họ thoát khỏi bóng tối tử thần, thoát khỏi sự đau khổ, chết chóc và thân phận nô lệ đắng cay. Đức Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi thế gian Niền hy vọng của họ đã thấu tới trời cao và đã được Thiên Chúa xót thương khi sai Con của Người xuống thế là Đức Giêsu Kitô. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thực thi sứ vụ Thiên Sai trong vai trò giải thoát và chiếu giãi Ánh Sáng vào trong bóng đêm tội lỗi.
Đây là niềm vui mừng khôn xiết, vì: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”; “Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người, cái gông nằm trên vai, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian” (x. Is 9, 1-3).
Như vậy, khi mừng sinh nhật của Đức Giêsu vào lúc nửa đêm, lúc mà ngày cũ đã chấm dứt và nhường chỗ cho một ngày mới bắt đầu, Giáo Hội muốn làm toát lên ý nghĩa cũng như giới thiệu cho mọi người biết rằng: Đức Giêsu chính là Ngày Mới của Thiên Chúa. Ngày Mới này tràn ngập ánh sáng như thủa ban đầu.
Cuộc hạ sinh của Đức Giêsu cũng được ví như một cuộc tạo dựng mới. Một cuộc tạo dựng hoàn toàn tinh tuyền không vướng nhơ tội lỗi bởi một người Mẹ là Đức Maria đồng trinh, bởi một vị cha nuôi là thánh Giuse – Đấng Công Chính, và trên hết, Đức Giêsu xuất phát từ “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật” (Kinh Tin Kính).
Chính vì lẽ đó mà Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Đón nhận và bước đi trong Ánh Sáng
Đi theo ánh sáng hay sống trong bóng tối? Đây là câu hỏi muôn thủa được đặt ra cho chúng ta. Đây cũng là thách đố đầy cam go và kịch tính mà ai ai cũng phải đối diện trong đời sống thường ngày.
Chính vì thấu hiểu sự giằng co này mà thánh Gioan đã phải thốt lên: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Đây là câu chuyện buồn của hơn 2000 năm qua. Đây cũng là sự giằng co nội tâm của mỗi người chúng ta. Một cuộc nội chiến không ngừng diễn ra ngay trong nội tại của mỗi người.
Chính vì vậy, đã biết bao lần, chúng ta không ngừng chiến đấu để mình thuộc về Ánh Sáng và đẩy lui bóng tối ra khỏi cuộc đời mình. Tuy nhiên, bóng tối bao giờ cũng hấp dẫn và ánh sáng bao giờ cũng là kẻ thù của bóng tối, vì thế, lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối rất mong manh, khiến cho biết bao người đã ngã quỵ trước ma lực của bóng tối.
Đứng trước thách thức đó, thánh Phaolô đã mời gọi chúng ta: “… phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2, 12- 13). Thi hành điều đó, ấy là chúng ta đang đi trong ánh sáng của đường lối cứu chuộc mà Đức Giêsu đã đem lại cho nhân loại. Đồng thời cũng trở thành con người xứng đáng với tước vị làm Con Thiên Chúa (x. Ga 1,12).
Tuy nhiên, tin và bước theo Ánh Sáng không thôi thì chưa đủ, mà phải trở thành ánh sáng soi đường cho người khác để họ cũng được hưởng niềm vui do ánh sáng đem lại như lời Đức Giêsu đã nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”; và: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5, 14.16).
Vậy ánh sáng của chúng ta là gì? Thưa! Ánh sáng của chúng ta chính là một đời sống đạo chân thành; một mối tương quan thật thà thẳng thắn; lương thiện trong công việc; khiêm nhường trong cuộc sống; bác ái, yêu thương, liên đới với người nghèo…. Những đức tính này giúp ta và anh chị em của mình vượt ra khỏi bóng tối là sự ích kỷ, kiêu ngạo, bảo thủ, ghét ghen, dửng dưng, vô cảm, gian dối, thất tín….
Mong sao mỗi khi mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy khao khát cho mình được thuộc về Ánh Sáng để được cứu độ. Đồng thời cũng không ngừng khát khao loan truyền Ánh Sáng sự sống ấy cho mọi người chung quanh bằng chính cuộc sống gương mẫu của mình. Amen.
LỜI CHÚA: “Này tôi báo cho anh em một Tin mừng trọng đại, cũng là Tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đa-vít. Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (Lc 2,10-11).
CÂU CHUYỆN:
1) CHÚA CỨU THẾ ĐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA:
Ở nước Nga thời trung cổ, có một hoàng tử tên là A-lếch-xích (Alexis) có lòng bác ái yêu thương GS-387
Ở nước Nga thời trung cổ, có một hoàng tử tên là A-lếch-xích (Alexis) có lòng bác ái yêu thương những người nghèo khổ bệnh tật. Mỗi ngày hoàng tử dành nhiều thời giờ đến thăm hỏi và sẵn sàng rộng tay giúp đỡ những ai cần được trợ giúp. Có điều lạ là hoàng tử thấy dân chúng lại tỏ vẻ dửng dưng và thờ ơ khi thấy chàng đến thăm. Về sau hoàng tử được biết sở dĩ dân chúng không mấy phấn khởi khi gặp chàng vì chàng không đáp ứng được các nhu cầu thực tế của họ. Từ đó hoàng tử A-lếch-xích tìm cách giúp dân chúng cách thiết thực hơn.
Sau một thời gian, một hôm dân chúng lại thấy một người ăn mặc đơn sơ đến thăm họ. Anh ta thuê một túp lều trong hẻm sâu làm nơi trú ngụ. Hàng ngày anh đến từng nhà và khám bệnh bốc thuốc miễn phí cho các người nghèo. Chẳng bao lâu sau, anh ta gây được thiện cảm của mọi người chung quanh. Uy tín anh ngày một gia tăng khiến nhiều người nghe tiếng đã tìm đến nhờ anh giúp đỡ giải quyết những khó khăn đang gặp phải. Hôm nay anh dàn xếp được một cuộc tranh chấp đất đai giữa hai gia đình. Hôm sau, anh lại làm cho một đôi vợ chồng sắp ly hôn làm hòa với nhau và yêu thương nhau như trước. Anh động viên mọi người tương trợ lẫn nhau và nhờ đó ai cũng yêu mến anh vì anh đã hy sinh tận tình giúp đỡ cho họ.
Thật ra ông thầy lang ấy chính là hoàng tử A-lếch-xít. Hoàng tử đã rời bỏ cung điện phú quí, đến sống giữa đám dân nghèo đói dốt nát, và hòa mình với họ. Về sau khi biết được ông thầy lang chính là hòang tử A-lếch-xít hóa thân thì dân chúng lại càng quý trọng hòang tử gấp bội.
Hoàng tử A-lếch-xít trong câu chuyện trên là hình ảnh của Đức Giê-su Đấng Cứu Thế. Người đã giáng sinh trong cảnh nghèo hèn để chia sẻ cảnh nghèo khổ với lòai người chúng ta. Người đã yêu thương chúng ta và tình nguyện xuống trần gian để ban lại cho chúng ta sự sống đời đời.
2) NGƯỜI VỐN DĨ VÔ TỘI NHƯNG ĐÃ TRỞ THÀNH TỘI NHÂN VÌ CHÚNG TA:
Một vị quan lớn gửi thiệp mời các người thân quen đến dự tiệc mừng sinh nhật thất tuần của ông. Tất cả quan khách đến dự buổi liên hoan đều ăn mặc sang trọng và có xe ngựa sang trọng đưa rước. Một vị quan cao tuổi là bạn chí thân của quan chủ tiệc cũng đến dự. Do già yếu nên khi bước xuống xe, chẳng may ông bị trượt chân té xuống một vũng nước dơ khiến các gia nhân gần đó đều cười ồ lên. Trước tình trạng quần áo bị hoen ố nước dơ, vị quan cảm thấy xấu hổ trước trăm con mắt đang nhạo cười mình và quyết định lên xe ra về. Viên quản gia hiện diện đã đến năn nỉ hết cách mà vị quan kia nhất định không vào trong nhà dự tiệc. Bấy giờ chủ nhà được gia nhân cấp báo liền vội vàng chạy tới. Khi ngang qua vũng nước, ông lại cố tình té ngã vào vũng nước và quần áo ông cũng vấy bẩn không khác vị quan khách kia bao nhiêu. Lần này bọn gia nhân không ai còn dám cười nữa. Sau đó chủ nhà đã nắm tay vị khách quý mời vào phòng dự tiệc, và ông này không còn viện lý do gì để từ chối nữa.
Việc làm của chủ nhà trong câu chuyện trên là hành động tế nhị và đầy tình người, khiến chúng ta hiểu được phần nào lý do tại sao Đức Giê-su vốn là Con Thiên Chúa nhưng lại hạ mình xuống làm một phàm nhân. Người đã trở nên giống như chúng ta để ban ơn cứu độ cho chúng ta. SUY NIỆM:
1) ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG:
– Vào dịp lễ Giáng Sinh, chúng ta lại được nghe những bài hát du dương thánh thót có khả năng lay động lòng người, nhất là bài SAI-LÂN NAI, HÔ-LI NAI (Silent Night, Holy Night), lời Việt là “Đêm Thánh vô cùng, giây phút tưng bừng”. Quả thực, đêm Giáng Sinh thật là một Đêm thiêng liêng, vì là giờ phút linh thiêng, đất trời hòa hợp nhờ việc Con Thiên Chúa giáng sinh làm người. Mùa Vọng là thời gian trông mong Đấng Cứu Thế đến. Hôm nay, Thiên Chúa đã đáp lại sự mong mỏi của nhân loại bằng việc sai Con Một xuống thế làm người, đầu thai trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a, trở thành một con người “giống như chúng ta mọi đàng, chỉ trừ không có tội” (Dt 4,15).
– Làm sao hiểu được chuyện đó ? Làm sao Thiên Chúa lại trở thành một phàm nhân yếu đuối nghèo nàn ? Làm sao Đấng Vô Cùng lại có thể trở thành một con người hữu hạn ? Làm sao Đấng siêu thời gian lại đi vào trong thời gian và chịu sự chi phối của thời gian ? Làm sao Đấng Tạo Hóa hằng sống lại phải trở thành một loài thụ tạo hay chết ? Tóm lại: Tại sao Thiên Chúa lại giáng sinh làm người ? Chúng ta chỉ có thể trả lời rằng: Tất cả là do Tinh Thương.
2) GIÁNG SINH LÀ LỄ CỦA TÌNH THƯƠNG:
– Vì yêu thương loài người chúng ta và vì muốn cứu độ chúng ta, Con Thiên Chúa đã xuống thế để ở cùng chúng ta, để dạy loài người chúng ta nhận biết Đấng tạo dựng nên mình và mở ra cho loài người một con đường sống, để về trời hưởng hạnh phúc với Chúa Cha. Chúa Giê-su đã thể hiện tình thương của Thiên Chúa bằng việc thiết lập một Nước Trời là Hội Thánh, và đã chịu chết trên cây thập giá để đền tội thay cho loài người, rồi sống lại để trả lại sự sống cho loài người. Tóm lại đêm nay kỷ niệm “Con Thiên Chúa giáng trần làm con loài người, để con loài người được nên Con Thiên Chúa”.
– Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của tình thương. Tin mừng trong ngày lễ Giáng Sinh hôm nay công bố sứ điệp: Thiên Chúa yêu thương loài người nên đã sai Con Một xuống thế để công bố cho loài người biết tình thương bao la của Thiên Chúa. Người muốn chúng ta đáp lại tình thương của Ngài bằng việc yêu mến Ngài và yêu thương nhau.
3) DẤU CHỈ NHẬN BIẾT ĐẤNG THIÊN SAI LÀ SỰ NGHÈO KHÓ:
– Chúa Giáng Sinh là một Tin mừng cho mọi người thiện tâm trên trần gian. Dấu chỉ để các mục đồng nhận ra Người là “Một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. – Các mục đồng sau khi được thiên thần báo tin đã lập tức lên đường tìm kiếm Hài Nhi và cuối cùng đã gặp được Người. Rồi họ lại đi loan Tin mừng cho kẻ khác. Đấng Cứu Thế đã chọn mang thân phận nghèo hèn đến với nhân loại, để chia sớt nỗi khổ đau với những người nghèo.
– Trước dấu chỉ nghèo khó này, các chủ quán giàu có ở Bê-lem đã xua đuổi hai ông bà Giu-se Ma-ri-a khỏi nhà trọ của họ đang khi các mục đồng nghèo hèn lại vui mừng đón nhận Tin mừng Giáng Sinh của Người. Còn chúng ta sẽ đối xử thế nào đối với người nghèo là hiện thân của Chúa Giê-su?
– Qua cách ứng xử với tha nhân mà chúng ta biết mình thuộc hạng người nào: Là chủ quán giàu có ở Be-lem khi thiếu lòng từ tâm xua đuổi người nghèo ra đường giữa đêm khuya? Hay là các mục đồng nghèo khó, sẵn sàng đón nhận Tin mừng Chúa Giáng Sinh và đi tìm kiếm Chúa ? Chúng ta sẽ làm gì để giới thiệu Chúa là Tin Mừng Cứu Độ cho tha nhân chung quanh chúng ta ? LỜI CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU, Cách đây hơn 20 thế kỷ, Chúa đã giáng sinh làm người trong âm thầm lặng lẽ giữa đêm khuya, khi người đời đang chìm trong giấc điệp. Chúa đã đến với chúng con để ban ơn cứu độ cho chúng con. Chúa đến để dạy loài người con đường lên trời là đường chật hẹp, gai chông và ít người chịu đi, nhưng lại là đường duy nhất dẫn đến sự sống đời đời. Chúa đến để nối kết mọi người trên trần gian lại với nhau, trở thành anh chị em của nhau vì cùng có chung một Cha trên trời. Hôm nay mùa Giáng Sinh lại đến: Trần gian rực sáng, cờ xí giăng đầy, người người nô nức mừng Chúa giáng sinh trong những bữa tiệc vui vẻ sang trọng, rượu thịt ê hề. Nhưng những khách lữ hành năm xưa vẫn còn đang lỡ bước và đang tiếp tục bị xua đuổi trong đêm nay, vì các chủ quán năm xưa vẫn còn đó: Những ai đi xe hơi và ăn mặc bảnh bao sẽ được chủ nhà ân cần đón tiếp, còn người nghèo khó lại bị đuổi ra lề đường !
– LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết luôn nhìn thấy Chúa đang hiện thân trong những người nghèo khó, những cụ già neo đơn không người chăm sóc, những trẻ em mồ côi bụi đời… để chúng con ân cần thăm hỏi và sẵn sàng khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó chúng con sẽ nên môn đệ đích thực của Chúa.- AMEN.
THÁNH TỬ GIÁNG THẾ YÊU THƯƠNG CỨU ĐỘ NHÂN GIAN HÂN HOAN HẠNH PHÚC BÌNH AN
Đêm nay là đêm cực thánh, đêm ứng nghiệm lời tiên tri từ hàng ngàn năm trước. Lời hứa của GS-388
Đêm nay là đêm cực thánh, đêm ứng nghiệm lời tiên tri từ hàng ngàn năm trước. Lời hứa của Thiên Chúa đã thực sự nên trọn. Cả trời đất hân hoan đồng ca: “Đêm thánh vô cùng, giây phút tưng bừng, đất với trời, xe chữ đồng. Đêm nay Chúa Con thần thánh tôn thờ, canh khuya giáng sinh trong chốn hang lừa…” (Đêm Thánh Vô Cùng – Still Nacht! Heilige Nacht! – Nhạc: Franz Xaver Grüber, lời Việt: Hùng Lân). [1]
Đêm nay Con Thiên Chúa giáng trần, nhập thể và nhập thế – mặc xác phàm và ở với nhân loại. Không còn niềm vui nào hơn nữa. Niềm vui khôn tả khi người dưới được người trên đến thăm; thần dân vô cùng hạnh phúc khi được nhà Vua ghé vào “tệ xá” của mình; dân tình khốn khổ vì thấp cổ bé miệng sẽ trở nên sung sướng khi được tổng thống lưu ý. Thế thì niềm vui sướng tột cùng, hơn mọi niềm vui sướng khác, bởi vì chính Vua của các vua và Chúa của các chúa đích thân vi hành, đích thân đến với chúng ta.
Giáo hội quen dùng tán tụng ca của các thiên thần hát vang trong đêm Con Chúa sinh tại Bêlem: Gloria in excelsis Deo (Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời). Ngôn ngữ loài người không thể đủ để diễn tả niềm hạnh phúc tuyệt đỉnh này! Nhà soạn nhạc Johann Sebastian Bach đã sáng tác bản nhạc tôn giáo “Gloria” vào năm 1733, và khoảng năm 1745, ông viết bản “Gloria in excelsis Deo” [2] cũng theo “phong cách” như bản “Gloria”. Cả hai bản đều được viết ở âm thể Si Trưởng. Bản “Gloria in excelsis Deo” đã được cất tiếng hát vang vào ngày lễ Giáng Sinh năm 1745 để mừng đón hòa bình sau những đợt chiến tranh Salesia giữa Áo quốc và Prussia.
Ngày xưa, ngôn sứ Isaia đã xác định: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy mộtánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sángbừng lên chiếu rọi” (Is 9:1). Tại sao? Ngôn sứ Isaia liệt kê nhiều lý do: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa. Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta” (Is 9:2-5a).
Có hàng ngàn lần một trẻ thơ trở thành một đức vua, nhưng chỉ có một lần một Đức Vua trở thành một Trẻ Thơ. Độc nhất vô nhị. Trẻ Thơ đó chính là Con Thiên Chúa, là Đấng đến giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi và quyền lực của bóng tối. Đêm nay là Đêm Nhiệm Mầu, Đêm Thánh Ân, Đêm Bình An, Đêm Giao Hòa Đất Trời, là Giờ Hạnh Phúc, là Ngày Độc Lập, là Ngày Quốc Khánh Tâm Linh của cả nhân loại chúng ta.
Đấng Cứu Thế đầy uy lực và với nhiều danh hiệu: “Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:5b). Không dừng ở mức đó, mọi sự vẫn không ngừng tiếp diễn: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6).
Ngày Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta chan hòa niềm vui mừng. Niềm vui nối tiếp nỗi mừng kể từ hôm nay, và Ngài chính là Đức Kitô, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng cứu độ các tội nhân chúng ta. Vì thế, chúng ta phải thể hiện niềm vui sướng đó theo cách mà Thánh Vịnh gia đã làm, đó là “reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:2). Chắc hẳn có những người rất muốn biết lý do cho hai năm rõ mười. Và đây là lý do: “Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả, là Đại Vương trổi vượt chư thần, nắm trong tay bao vực sâu lòng đất, giữ chủ quyền muôn ngọn núi vút cao. Đại dương Chúa đã tạo thành là của Chúa, lục địa do tay Người nhào nắn cũng thuộc về Người” (Tv 95:3-5).
Thánh vịnh gia không thể giấu được niềm vui nên đã phải mời gọi mọi người đồng tâm nhất trí: “Hãy vào đây, ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95:6-7). Được tôn thờ Ngài là đại phúc đối với chúng ta. Thật vậy, việc chúng ta ca tụng Ngài chẳng thêm gì cho Ngài, nhưng lại sinh ích lợi và kéo hồng ân xuống cho chính mỗi chúng ta. Một dạng tác động kỳ diệu vô cùng!
Chính Thánh Phaolô đã xác nhận: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người” (Tt 2:11). Tuy nhiên, “ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:12). Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:14). Vấn đề quan yếu là “hăng say làm việc thiện”, vậy mới là sống tích cực, chứ không chỉ sống tiêu cực là “xa điều xấu, tránh điều ác”.
Trình thuật của Thánh sử Luca cho biết: “Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê, lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”.
Lời kể ngắn gọn nhưng súc tích, chất chứa cả một khoảng thời gian dài, khoảng không gian mênh mông và ẩn chứa biết bao nỗi cơ cực trong hành trình đó. Đường sá xa xôi, trời lại tối tăm và giá lạnh, tìm chỗ nghỉ đêm thì bị từ chối thẳng thừng, không được ai bố thí cho chút lòng trắc ẩn – dù chỉ là thương hại. Cứ tưởng tượng cũng thấy gian nan vô cùng. Khổ thật!
Thế nhưng trong cái xui luôn có cái hên. Tại vùng xa xôi hẻo lánh đó có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng dưng sứ thần Chúa đứng ngay bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Bất ngờ và lạ quá, thế thì sợ đến chết đứng như Từ Hải luôn chứ nói chi tới hãi hùng. Đang khi trời tối đen như đêm 30, đen thui như mõm chó, trăng không có, điện đóm cũng không, thế mà bỗng dưng sáng chói lói hơn cả đèn cao áp, đẹp hơn cả “những ánh mắt hỏa châu”, mà họ chỉ là những trẻ mục đồng nghèo hèn và thất học – như Việt Nam gọi là lũ trẻ chăn trâu hoặc chăn bò, thế thì hỏi sao không hốt hoảng cho được? Nhưng đâu còn có đó.
Sứ thần biết họ đang lo sợ nên đã động viên họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Các mục đồng chẳng là gì trước mặt người đời, thế mà họ lại là những người đầu tiên được đón nhận Tin Mừng. Họ quả là đại phúc! Và rồi Thiên Thần “mách nước” cho họ: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một TRẺ SƠ SINH bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Dấu chỉ rất ư bình thường mà lại rất lạ lùng. Và như để củng cố niềm tin cho họ, bỗng dưng muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14). Điệu lý giáng sinh thật tuyệt vời!
Và kìa, hình như văng vẳng tiếng bổng trầm, du dương, êm đềm và nhịp nhàng của Đức Mẹ đang nhẹ ru Hài Nhi Giêsu:
À ơi, Con hãy ngủ ngoan Mai kia khôn lớn hiến thân cứu đời Đêm nay Thánh Tử làm người Danh Chúa rạng ngời, nhân loại bình an
Lạy Thánh Phụ giàu lòng thương xót, chúng con cảm tạ Cha đã ban chính Ngôi Con đến thế gian để cứu độ chúng con. Lạy Chúa Thánh Thần, chúng con cảm tạ Ngài đã dẫn đường chỉ lối và soi sáng để chúng con nhận biết Hài Nhi sinh ra nơi hang lừa là Đấng Cứu Thế.
Lạy Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse, chúng con cảm ơn nhị vị đã vâng lời Thiên Chúa mà chấp nhận mọi gian nan để trao Đấng Cứu Thế cho chúng con. Lạy Thánh Nhi Giêsu, chúng con cảm tạ Ngài đã đến ở với chúng con. Xin thương ban cho dân Việt chúng con được hưởng bình an và tự do đích thực, xin giúp chúng con hưởng trọn Niềm Vui Giáng Sinh và được hưởng Hồng Ân Cứu Độ. Nhờ Thánh Danh Hài Đồng Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Dân Israel là dân riêng của Thiên Chúa, được Người tuyển chọn giữa muôn dân, có nhiệm vụ thay GS-389
Dân Israel là dân riêng của Thiên Chúa, được Người tuyển chọn giữa muôn dân, có nhiệm vụ thay cho nhân loại đón nhận Đấng Cứu Độ mà Người đã hứa, ngay sau khi Nguyên tổ phạm tội (x. St 3,15).
Tuy nhiên, thay vì trung thành với sứ vụ của mình, thì dân Israel đã nhiều lần bất trung. Nhưng dù dân Israel có bất trung, thì Thiên Chúa vẫn luôn tín trung. Người dùng miệng các ngôn sứ mà lặp lại lời hứa cứu độ và làm cho dân Israel nhớ lại lời hứa ấy.
Isaia là một trong những ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến để làm công việc ấy. Ngôn sứ Isaia đã loan báo rằng: “Đoàn dân đang lẫn bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng… Chúa sẽ ban cho họ chứa chan niềm vui mừng, hoan hỉ… Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người là Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. Người sẽ mở rộng quyền bính và lập nền hòa bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít…” (x. Is 9,1-6).
Người con được ban tặng cho nhân loại mà ngôn sứ Isaia loan báo, đó chính là Đức Giê-su. Người là Ngôi Lời vĩnh cửu, là Con Một Chúa Cha, được Chúa Cha sinh ra từ thuở đời đời, muôn vật muôn loài nhờ Người mà được tạo thành…. Nhưng Người cũng là con của Đức Maria và thánh Giuse khi xuống thế làm người và làm Đấng cứu độ, Người được thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, chứ không phải do tác động của nam nhân, Người được sinh ra nơi hang chiên lừa nghèo hèn, giữa trời đêm đông, trong cánh đồng Bê-lêm mà chẳng có ai hay ai biết, chỉ có thần thánh trên trời và các mục đồng mà thôi.
Dù được sinh ra trong hoàn cảnh như vậy, nhưng Người được gọi là ‘Tin mừng trọng đại cho toàn dân, là Đức Ki-tô và là Đức Chúa’. Người đến để làm cho lời hứa cứu độ được nên trọn, khai mở một kỷ nguyên mới cho nhân loại, kỷ nguyên ‘Thiên Chúa ở cùng con người mọi ngày cho đến tận thế’ (x. Mt 28,20), kỷ nguyên Thiên Chúa yêu thương và bảo vệ sự sống con người và giá trị của hôn nhân, gia đình.
Quả thật, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo, Chúa có trăm ngàn cách để cứu độ nhân loại, nhưng Chúa đã chọn cách thế làm người và làm người nghèo hèn nhất trong thế giới loài người, dưới dáng hình của một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ, cần được yêu thương, chăm sóc và bảo vệ.
Giáng sinh trong hoàn cảnh như thế, Chúa muốn dạy con người bài học về giá trị và phẩm giá con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, cần phải được tôn trọng bảo vệ. Sự sống con người là vô giá và linh thánh. Vô giá và linh thánh đến nỗi ‘không có gì trên trần gian này đổi được mạng sống con người’ (x. Mc 8,37), Thiên Chúa đành phải sai Con mình xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết và sống lại, để cho con người ‘được sống và sống dồi dào’ (x. Ga 10,10).
Hơn nữa, khi xuống thế làm người, với quyền uy của mình, Con Thiên Chúa có thể ‘xé trời mà xuống’ (Is 63,19), đâu cần đến gia đình, xã hội và tôn giáo. Nhưng cũng như mọi người, Chúa đã chọn sinh ra trong một gia đình có mẹ có cha (Đức Maria và thánh Giuse) và thuộc về một dân tộc, xã hội và tôn giáo nhất định (dân tộc, xã hội và tôn giáo Do-thái).
Lựa chọn như thế, Chúa có ý tôn trọng và bảo vệ định chế hôn nhân, gia đình và xã hội mà Chúa đã thiết lập, đồng thời Chúa cũng mời gọi mọi người hãy tôn trọng và bảo vệ các giá trị của hôn nhân, gia đình, xã hội và tôn giáo.
Tiếc thay, dù Chúa đã xuống thế làm người hơn hai ngàn năm và hàng năm sứ điệp giáng sinh của Chúa vẫn luôn được nhắc lại ít nhất một lần, nhưng xem ra phần đông nhân loại vẫn khước từ và dửng dưng trước sứ điệp của Người. Khủng bố, bạo lực, vi phạm nhân quyền, xúc phạm nhân phẩm, hủy diệt sự sống, đàn áp tôn giáo, phá vỡ định chế hôn nhân và gia đình vẫn luôn xảy ra khắp nơi trên thế giới.
Riêng ở Việt Nam dường như sự sống con người, nhất là trẻ em và những người nghèo, bị bỏ rơi và phó mặc cho những thế lực đen tối thao túng, khiến người dân phải sống trong cảnh bất an và cơ cực… Đặc biệt trong những ngày gần đây, qua các phương tiện thông tin đại chúng, người dân rúng động bởi những vụ việc ‘bà nội giết cháu ruột ở Thanh Hóa, chồng giết vợ…, vợ giết chồng rồi chặt xác phi tang ở Bình Dương…’ Phải chăng đó là hậu quả của một xã hội và một nền giáo dục được định hướng bởi chủ nghĩa “Tam vô”: vô tổ quốc, vô gia đình và vô tôn giáo ?
Trước một xã hội dửng dưng, vô cảm và đầy bóng tối như thế, người Ki-tô hữu phải sống sứ điệp của Chúa giáng sinh một cách vui tươi và linh động, để làm chứng và biểu lộ tình thương, ân sủng của Chúa đang hiện diện và hoạt động trong chúng ta và trong thế giới này. Nghĩa là ‘chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này’ (x. Tt 2,12), chấp nhận những hy sinh lớn lao, vượt qua mọi khó khăn thử thách để sống trung thành với Chúa, tôn trọng và bảo vệ sự sống con người trong mọi hoàn cảnh, nhiệt thành trong công việc tông đồ và bác ái xã hội, chăm lo cho con cái được giáo dục toàn diện về thể dục, trí dục, cũng như đức dục và tâm linh.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng con, dưới hình hài một trẻ thơ bé nhỏ trong gia đình Thánh Gia, cần được yêu thương, chăm sóc và bảo vệ của xã hội và tôn giáo. Xin cho chúng con và thế giới này biết tận dụng mọi phương thế để tôn trọng nhân phẩm và bảo vệ sự sống con người, bảo vệ định chế hôn nhân và gia đình mà Chúa đã thiết định an bài. Amen.
Tình cờ tôi đọc được câu chuyện hết sức cảm động về tình Cha trên Internet. Câu chuyện được kể GS-390
Tình cờ tôi đọc được câu chuyện hết sức cảm động về tình Cha trên Internet. Câu chuyện được kể lại như sau: Cha mẹ nó lớn tuổi mới cưới nhau. Hồi đó gia đình nghèo khó. Mẹ mất sớm, cha tần tảo nuôi 3 anh em nó nên người. Nhà gần sông, nhưng cha đau yếu, ít khi có được con cá mà ăn. Bữa nào có cá là thịnh soạn lắm với anh em nó rồi.
Mỗi lúc ăn cá, cha thường bảo: “Để tao ăn đầu và xương”.
Nó nhanh nhẩu: “Tại sao hả cha?”
Cha nó nói vẻ mặt nghiêm nghị: “Vì cha già rồi, hay đau đầu, nên ăn đầu thì nó sẽ bớt đau – cái này gọi là ăn óc bổ óc, hiểu không? Xương yếu, ăn xương thì sẽ cứng cáp hơn. Có vậy mà cũng không hiểu hả?”
Nó và hai đứa em đinh ninh là cha nói thật. Đến bữa nó nhanh nhẩu xẻ đầu và xương cho cha, ba anh em tranh nhau phần thịt.
Anh em nó lớn lên, có thể thay cha đi đò, đi sông, mò cua, thả cá, đời sống gia đình nó khấm khá hơn. Chúng đã hiểu và đủ nhận ra cha “nói dối” chuyện ăn đầu và xương cá. Vì thế mà cha nó đã được ăn thịt cá.
Bây giờ nó đã thành đạt, vợ đẹp, con ngoan. Dù cuộc sống hối hả, nhưng nó chẳng bao giờ phải “thích” ăn cái đầu hay miếng xương cá, vì vợ nó bỏ đi, chỉ mang phần thịt lên mâm cơm.
Hôm nay là ngày giỗ lần thứ 10 của cha nó. Nhìn di ảnh ba gầy còm, nở một nụ cười tươi sáng. Nhìn con cá chiên to đùng, vàng tươm mỡ vợ đặt lên bàn thờ, nó chợt bất giác rơi lệ. Một cơn đau từ đâu hiện về nhói lòng vô tận.
Nó phải giấu vợ con, quay mặt lau nước mắt. Nhưng nó không thể xóa đi được hình dáng cha già còm cõi, xiêu vẹo bước đi bên sông. Cha đi thả cá mùa nước nổi, rồi sau đó là những trận thương hàn triền miên hành hạ ông. Nó không thể xóa đi được cái ý nghĩ “nếu cha ăn nhiều thịt hơn, thì đã không già yếu như thế”.
Vừa khấn vái, nó lại bất giác kêu lên những tiếng “cha” từ trong cổ họng.
Đến lúc ra bàn ăn. Nhìn vợ đang xẻ thịt con cá, để bỏ đi phần đầu và xương. Nó giữ tay vợ lại:“Em, để anh ăn đầu, đừng bỏ đi”.
Vợ hiểu, nên bỏ đầu cá qua cho chồng. Chỉ có cô con gái nhỏ là thắc mắc “Sao hôm nay ba lại ăn đầu, nó lắm xương, nó sẽ làm đau ba đấy”.
Nó xoa đầu con gái, nuốt tiếng nấc đang chầu chực nơi cổ họng vào trong, bảo “Dạo này ba hay đau đầu, nên ăn đầu sẽ hết đau con gái à, cái này gọi là ăn đầu bổ đầu đấy con yêu”.
Nó vừa ăn, vừa cố cho những giọt nước mắt không tràn xuống bát cơm.
Là người con trong gia đình, nghe câu chuyện trên không ai mà không mủi lòng, thương cho người cha đã hy sinh hết mình vì con cái. Câu chuyện cũng diễn tả được cảm nhận của người con về tình thương của người cha đối với mình, cho dù sự cảm nhận đó có vẻ hơi muộn màng.
Hôm nay, toàn thể thế giới đang long trọng mừng lễ Giáng sinh, kỷ niệm sinh nhật lần thứ 2017 của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa Giáng sinh làm người. Mầu nhiệm giáng sinh diễn tả tình yêu thương của Đức Giêsu đối với loài người. Tình thương và sự hy sinh của người cha trong câu chuyện trên phần nào phản ảnh tình thương và sự hy sinh của Đức Giêsu đối với loài người chúng ta. Đúng như lời trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế.” Thánh Phaolô cũng diễn tả sự hy sinh đó trong thư Philipphê rằng: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,6-8).
Như vậy, khi chấp nhận làm người, Đức Giêsu chấp nhận những gì thuộc về con người: sinh, bệnh, lão, tử (ngoại trừ tội lỗi). Ngài được cưu mang trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, sinh ra trong đêm đông lạnh lẽo, thiếu thốn. Tin mừng cho biết: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.” (Lc 2, 7). Tiếp đó, Ngài được đặt tên, được cắt bì theo tục lệ Do Thái, được hai ông bà dâng trong đền thánh, phải lánh nạn sang Aicập vì bị vua Hêrôđê lùng bắt, làm thợ mộc và các công việc khác để phụ giúp Đức Mẹ và Thánh Giuse. Sau 30 năm đời sống ẩn dật, Ngài bắt đầu ra đi rao giảng Tin mừng, được dân chúng ủng hộ vì lời giảng dạy của Ngài có uy quyền, và vì đi liền với lời giảng dạy Ngài còn làm nhiều phép lạ. Các phép lạ Ngài làm đều phát xuất từ tình yêu thương: cho kẻ đói ăn, kẻ què đi được, người mù xem thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ chết sống lại…Nhưng cũng có rất nhiều kẻ chống đối Ngài. Đa số những kẻ chống đối đó đến từ nhóm Luật sĩ và Biệt phái. Vì sự chống đối này, nên cuối cùng Ngài đã bị bắt, chịu các nhục hình, vác thập giá, chịu đóng đinh và chết tất tưởi trên thập giá. Trước khi về trời, Ngài đã thiết lập Giáo hội, thiết lập các Bí tích để ở lại với loài người. Không thể kể hết những gì Ngài đã dành cho chúng ta, đã hy sinh vì chúng ta. Tất cả những gì Ngài làm, Ngài chịu là “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta”. Đúng như lời Thiên thần loan báo trong Tin mừng hôm nay: “Đấng Cứu Thế sinh ra cho chúng ta.” (x. Lc 2,11). Đó cũng là tâm tình của Bài đọc 1, trích sách Sứ ngôn Isaia hôm nay: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi…Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta.” (Is 9,1.5).
Trở lại câu chuyện trên đây chúng ta thấy, những đứa con khi lớn lên mới hiểu hết những gì mà người cha dành cho mình, hy sinh cho anh em mình, nên đã thương cha hơn, làm hết sức mình để bù đắp cho người cha. Nhưng khi đã trưởng thành, cuộc sống có điều kiện hơn một chút thì người cha lại không còn trên cõi đời này nữa.
Còn chúng ta thì sao? Đứng trước tình thương và sự hy sinh vô bờ bến của Đức Giêsu, chúng ta phải làm gì?
Chúng ta phải yêu mến Ngài, vì “Tình yêu đáp lại tình yêu”. Nhưng phải yêu mến Ngài như thế nào? Chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự. Nghĩa là phải luôn đặt Chúa lên trên hết: Trên cha mẹ, trên của cải, trên chức quyền danh vọng và mọi thứ ở trần gian này. Yêu mến Chúa là phải tuân giữ các giới răn của Ngài. Đức Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy.”(Ga 14,21). Yêu mến Chúa là phải từ bỏ tội lỗi. Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Phaolô khuyên rằng : Ân sủng của Thiên Chúa dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này (x. Tt 2,12).
Yêu mến Chúa, chúng ta cũng phải yêu thương tha nhân. Thánh Gioan Tông đồ nói: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20). Nhưng yêu thương tha nhân như thế nào?
Đức Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn, thì cũng đừng làm cho người khác). Chắc chắn không ai trong chúng ta muốn người khác nói xấu, vu khống, bỏ vạ, cáo gian hay làm hại mình…thì chúng ta cũng đừng làm những điều đó cho tha nhân. Trong xã hội chúng ta đang sống, người ta thường dùng bạo lực để giải quyết vấn đề. Hằng ngày có biết bao nhiêu câu chuyện đau lòng liên quan đến bạo lực xảy ra đây đó trên đất nước chúng ta. Chẳng hạn: bà giết cháu, cha giết con, vợ giết chồng, bảo mẫu hành hạ trẻ em…Đó là những cách hành xử thiếu vắng tình thương. Là người kitô hữu, là con cái của Chúa, chúng ta không được làm như thế với tha nhân. Trái lại, chúng ta phải lấy tình thương đáp lại tình thương, lấy tình thương đáp lại hận thù. Thánh Phanxicô Assisi dạy chúng ta: “Đem yêu thương vào nơi oán thù. Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục. Ðem an hoà vào nơi tranh chấp. Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm.”
Kinh Thánh dạy: Điều mình muốn người khác làm cho mình thì cũng hãy làm cho người khác (x. Mt 7,12). Chắc chắn chúng ta luôn muốn điều tốt, điều lành, may mắn, hạnh phúc…đến với mình thì cũng hãy làm những điều đó cho tha nhân. Có lẽ cách tốt nhất là chúng ta thực hành lời dạy của Kinh Thương Người Có Mười Bốn Mối: cho kẻ đói ăn; cho kẻ khát uống; cho kẻ rách rưới ăn mặc; viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc; cho khách đỗ nhà; chuộc kẻ làm tôi; chôn xác kẻ chết; lấy lời lành mà khuyên người; mở dậy kẻ mê muội; yên ủi kẻ âu lo; răn bảo kẻ có tội; tha kẻ dể ta; nhịn kẻ mất lòng ta; cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
Nếu chúng ta làm được như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ kéo dài tình thương của đêm Noel đến với mọi người. Nguyện xin Chúa Hài Đồng Giêsu giúp nhân loại hôm nay nhận biết và yêu mến Thiên Chúa và biết sống yêu thương nhau hơn. Amen.
Đêm Giáng Sinh là một Đêm hồng phúc, đêm mà dường như mọi tạo vật sững sờ, ngóng trông, chiêm GS-391
Đêm Giáng Sinh là một Đêm hồng phúc, đêm mà dường như mọi tạo vật sững sờ, ngóng trông, chiêm ngưỡng một kỳ quang, một kỳ quang của Thiên Chúa trao ban cho nhân loại. Đó là “ Cứu Thế Giáng Sinh” như lời tiên tri Isaia đã tiên báo từ ngàn xưa : “ Kìa có một con trẻ sinh ra vì chúng ta, trẻ sinh cho ta đấy!” (Is 9, 6)
Vâng, từ ngàn xưa, Đấng Cứu Thế được loan báo sẽ Giáng Sinh vì nhân thế, vì dân đang sống trong tối tăm, được thấy ánh thiều quang xuất hiện. Như vậy, cảnh hồng phúc ấy khác nào một sự nô lệ được cứu thoát, một cảnh sống lưu đày được trở lại cố hương, một cơn nước biển đỏ nhấn chìm quân Ai-cập để giải thoát dân Israel, một màn đêm bao phủ được kéo xuống.
Nhưng, hôm nay đây, Tin Mừng theo thánh Luca cho chúng ta thấy hoàn cảnh Giáng Sinh của Đấng Cứu Thế như thế nào !?
Tin Mừng theo thánh Luca ( Lc 2, 1-14) : Đức Giêsu Giáng Sinh và những người chăn chiên đến viếng thăm. Theo đó, Tin Mừng hôm nay có thể có hai phần chính : Phần thứ nhất : Hoàn cảnh Giáng Sinh
Từ câu 1 đến câu 7, chúng ta thấy hoàn cảnh ra đời của Đấng Cứu Thế là như thế đó. Trong một bối cảnh ”dầu sôi, lửa bỏng”, hoàn cảnh chính trị đang kiểm soát người dân, ai nấy phải về quê quán để khai sinh, vì đây là cuộc kiểm tra đầu tiên . Nhìn chung, một vị Vua Trời Đất mà ra đời như thế thì thật là quá” bi đát”, nhưng chính là để ứng nghiệm lời tiên tri đã loan báo từ ngàn xưa là : “Đấng Cứu Thế sẽ giáng sinh trong thành vua Đavit”. Từ đó, chúng ta thấy Đấng Cứu Thế giáng sinh trong thời gian và không gian nhất định, có niên lịch chính xác, cụ thể.
Để chu toàn bổn phận công dân, thánh Giuse cùng Đức Maria cũng trở về quê quán, từ thành Nazaret, miền Galile lên thành Bê-lem, miền Giu-đê, là thành Vua Đa-vít. Vì thánh Giuse thuộc hoàng tộc Đa-vít. Như vậy, Đấng Cứu Thế giáng sinh tại thành Bê-lem, miền Giu-đê, vì Bê-lem là thành Vua Đa-vit.
Như vậy, chúng ta thấy hoàn cảnh lịch sử ra đời của Đấng Cứu Thế ứng nghiệm với Lời Thánh Kinh, nhưng nhìn chung thật là một hoàn cảnh quá “ bi đát”, vì hai ông bà không tìm được chổ trọ, lúc ấy Đức Maria đã có thai bởi phép Chúa Thánh Thần qua Mầu Nhiệm Truyền Tin. Thì đến ngày “ mãn nguyệt khai hoa”. “ Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chổ trong nhà trọ” ( c 7)
Theo đó, người ta nói Lễ Giáng Sinh là Lễ của “gia đình”, nhưng Vị Chúa Tể Trời Đất, ra đời để cứu nhận độ thế, nhưng không được sinh ra trong vàng, điện ngọc, mà chọn sinh ra trong máng cỏ, nơi súc vật ăn nghĩ. Tại sao, Chúa Giêsu không sinh ra làm con của vị vua trần thế đương thời, mà chọn sinh ra nơi một người Mẹ nghèo, và một dưỡng phụ không có gia sản. Nhưng, có ai trên trần thế nầy được sinh ra như Đấng Cứu Thế không ?
Như vậy, Thiên Chúa đã gạt bỏ, đã loại trừ những gì mà thế gian cho là “hạnh phúc”, để dạy cho nhân thế một gương tự hạ cao cả đó là “sự vâng lời”, hành trình cứu độ của Đức Kitô mặc lấy sự khiêm hạ tột cùng của kiếp người. Như vậy, Thiên Chúa đã đồng hóa với người nghèo rốt cùng trong xã hội, một sự đồng hóa cao cả, để nâng dậy tất cả những ai bất hạnh, hèn kém.
Thiên Chúa luôn cứu vớt người bất hạnh, yêu thương kẻ bần cùng, phải chăng là bước nền tảng của ơn Cứu Độ, Thiên Chúa từ bò, lột bỏ tất cả trên chính sự nhập thể và nhập thế của Người. Thiên Chúa từ bỏ để không còn gì để từ bỏ nữa. Phải chăng trước khi “chịu treo lên” Thập giá, Chúa Giêsu đã hoàn toàn trút bỏ mọi vinh quang của trần thế.
Thiên Chúa không đề cao sự nghèo, nhưng Thiên Chúa nghiêng mình cứu vớt người nghèo, đồng hóa với kẻ nghèo, để tất cả những ai bước theo Người không thể có tư tưởng nào khác hơn Thầy Chí Thánh Giêsu. Nghèo ở đây có nghĩa là không đặt ngang của cải trần thế với Ân Sủng Nước Trời. Điều đó có nghĩa là : sự hư vô và sự bền vững, sự hữu hạn và sự vĩnh hằng, sự tự nhiên và vô biên. Sự siêu nhiên và trần tục.
Vì thế, Thiên Chúa đã mặc khải cho những người bé mọn, đó là những người chăn chiên. Phần Thứ hai : Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm Giáng Sinh cho những người bé mọn.
Chúng ta thấy hoàn cảnh và điều kiện Giáng Sinh của Đấng Cứu Thế thật đơn sơ, hèn hạ, nếu không muốn nói là “bi đát”. Nhưng, thật phù hợp, vì Người không biểu lộ cho bậc vương giả, phú quý, sang giàu, quyền tước, mà Người biểu lộ cho các mục đồng là những người nghèo khó, chăn thuê súc vật, hoặc có khi chủ của những đàn gia súc. Họ thức đêm canh giữ gia súc ngoài đồng. Và kìa sứ thần hiện đến với họ, một hiện tượng hiếm có, mộ sự kiện lạ lùng, hy hữu, hào quang chiếu tỏa sáng ngời, khiến họ hãi hùng kinh khiếp. Nhưng, sứ thần bảo họ : “ Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân : Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vit, Người là Đấng Kitô, Đức Chúa. Anh em cứ dấu nầy mà nhận ra Người : Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” ( Lc 2, 10 -12)
Như vậy, Thiên Chúa đã Giáng Sinh, tự hạ để làm Người, món quà vĩ đại mà Thiên Chúa dành cho con người là chính một Ngôi Vị Thiên Chúa đã hạ cố xuống trần. Nhân thế luôn mong chờ một kỳ công xuất hiện, thì này đây, Đêm nay, Đêm Cực Thánh nầy, Thiên Chúa đã từ bỏ Ngai Trời tối cao để mặc lấy nhân tính để ở cùng nhân loại.Theo đó, Thiên Chúa ra đời vì nhân loại nhưng ưu tiên cho người nghèo, nghèo vật chất, nhưng phải giàu tâm hồn, nghĩa là người nghèo đó phải có tâm hồn đơn sơ, thuần khiết hiền hậu, chấp nhận nghèo vì của cải vật chất, nhưng tâm hồn cao thượng, biết từ bỏ như Đấng Cứu Thế, vâng, chính là những “tâm hồn mục đồng”, Đấng Cứu Thế vì người nghèo, có nghĩa là người đã từ bỏ trước. Người đã từ Trời xuống thế. Nên không còn gì để có thể cao hơn nữa.
Bài Đọc II, thánh Phao-lô cho chúng ta biết ( Tt 2, 11 -14) :” Ân sủng của Thiên Chúa đem ơn Cứu Độ đến cho mọi người là ân sủng dạy chúng ta phải từ bỏ tất cả đam mê, dục vọng.”
Theo đó, Mầu Nhiệm Giáng Sinh là Mầu Nhiệm từ bỏ mọi vinh quang giả trá, để mặc lấy chính Thiên Chúa mà thôi.
Lời nguyện Lễ Giáng Sinh
Lạy Chúa, Chúa đã sáng tạo con người cách kỳ diệu, lại còn phục hồi phẩm giá con người cách kỳ diệu hơn nữa: xin ban cho chúng con được chia sẻ chức vị làm con Chúa với Đức Kitô là Đấng đã chia sẻ kiếp người với chúng con . Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở, muôn đời./.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã từ trời xuống thế trong cung lòng vẹn sạch Đức Nữ Đồng Trinh, đã sinh ra nơi hang đá Bê-lem, là nơi thấp hèn, để dạy cho nhân thế sự khiêm nhường cao cả. Xin cho chúng con trong Đêm Cực Thánh nầy biết nhận ra và tường tận chân lý Giáng Sinh nơi Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất mà noi theo ./. Amen
Thấm thoát mà đã 2017 lần kỷ niệm ngày Giêsu giáng trần. Mỗi năm mỗi khác, và mỗi nơi cũng GS-392
Thấm thoát mà đã 2017 lần kỷ niệm ngày Giêsu giáng trần. Mỗi năm mỗi khác, và mỗi nơi cũng mỗi khác. Có những năm trời mưa, giông bão, tuyết rơi. Có những năm thanh bình, và cũng có những năm chiến tranh. Nhiều nơi người ta mừng Giáng Sinh một cách nhộn nhịp, tưng bừng. Nào hang đá, bò lừa, nào cây Noel, nhạc hòa vang réo rắt… Người ta ăn chơi và tha hồ mua sắm, tặng quà. Ngược lại, cũng có những nơi, mà phần đông là thế, ở đó cơm không có ăn, áo quần không đủ mặc. Nhiều người phải co ro, run rẩy lần mò trong đêm tối để đến thánh đường. Đối với những con người nghèo hèn như vậy thì Giêsu kể như lỗ, vì họ chẳng có gì mà mừng, mà tặng; ngược lại, Maria, Giuse và Giêsu còn phải móc túi ra để tặng quà cho họ nữa. Đúng ra, Thánh Gia cũng nghèo nên chẳng có quà cáp gì theo cái nghĩa trần thế, ngoại trừ những ơn phước lành mà các Đấng tuôn đổ xuống trên những ai thiện chí như lời thiên sứ đã hát mừng trong đêm đầu tiên Giêsu giáng trần: “Vinh danh Chúa cả trên trời. Bình ăn dưới thế cho người thiện tâm.”
Mỗi lần Giáng Sinh về, gần đến ngày kỷ niệm, Maria và Giuse thường hay ngồi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm đã qua kể từ ngày ấy tại đồng quê Belem. Nghĩ lại mà thấy xót xa cho Hài Nhi, sinh xuống để cứu đời, mà đời đối xử với Ngài quá tệ. Giuse còn nhớ rất kỹ, không một ai, không một nhà trọ nào trong cái thành Giêrusalem đã đón tiếp ông bà ngoại trừ cái chuồng bò bỏ trống ngoài đồng quê Belem. Đêm đó, cũng may mà trong cái chuồng bò đó có cái máng cỏ, và ông đã phải vất vả lau chùi, rửa sạch. Tội nghiệp cho Giêsu, cái máng cỏ như vậy thì sao mà ngủ cho nổi. Vừa tanh, vừa hôi, lại vừa lạnh lẽo nữa. Cũng nhờ mấy con bò, con lừa và bầy chiên do các mục đồng dẫn tới hà hơi sửa ấm, nếu không một trẻ sơ sinh vừa chào đời như vậy cũng phải chết cóng.
Còn Maria thì lần nhớ lại cái cảnh đêm hôm đó. Do linh tính của người mẹ báo cho biết gần đến ngày sinh, nên trên đường theo Giuse về Belem kiểm kê dân số, bà cũng mang theo được mấy tấm khăn, vài ba thước vải làm tã lót. Và đó là chăn ấm, nệm êm của Giêsu với cái nôi có một không hai là chiếc máng bò lừa ăn đã được lau sạch.
Nhưng cái kỷ niệm mà cả Giuse, Maria, và có lẽ Giêsu nữa vẫn nhớ như in, đó là cũng vào giáng sinh năm đó, khi các mục đồng đang sắp sửa ra về, còn ba vua cũng đang nói những lời từ giã với Giuse, thì bỗng nhiên có một bà già từ đâu xuất hiện. Tóc bà bạc phơ, thân hình bà tiều tụy, nét mặt buồn rầu, đáng dấp rất mỏi mệt. Lưng bà gù gập xuống gần sát đất như thể bà đang mang trên người sức nặng ngàn cân. Bà đến Belem.
Bà là ai? Tại sao lại đến đây? Hay bà là một phù thủy ở quanh quẩn đâu đó cạnh Giêrusalem muốn đến để hãm hại Hài Nhi? Trong lúc Maria hồi hộp đưa mắt dõi theo con người ấy, thì Giuse chỉ có chiếc gậy mà ông đã mang theo suốt cuộc hành trình từ Nazareth về Belem. Nhưng chỉ có Giêsu bé thơ thì vẫn nằm im và không tỏ dấu gì hoảng sợ. Maria và Giuse đưa mắt nhìn xem và hỏi ý, thì dường như Hài Nhi muốn được gặp bà.
Thế là bà tiến lại gần bên máng cỏ. Bà khóc. Bà trút tất cả những nỗi niềm chất chứa có lẽ từ rất xa xưa lên tấm thân bé bỏng của Giêsu. Trước con mắt lo sợ của Giuse, của Maria bà thò tay vào túi lấy ra một vật gì như trái táo đưa cho Giêsu. Và như một phép nhiệm mầu, khi Giêsu vừa đưa tay đón lấy nó, bà bỗng trở nên trẻ, đẹp và hạnh phúc lạ thường. Rồi âm thầm như lúc đến, bà đã ra khỏi hang đá và biến mất trong bóng đêm. Mãi đến sau này, khi Giêsu chết treo trên thập giá, lúc ấy Maria mới hiểu rõ hơn về vật mà hôm đó người đàn bà kỳ lạ đã trao cho Người, đó là trái táo, trái táo vườn địa đàng, trái táo Evà đã hái và đưa cho Adong. Hệ quả của nó là sự chết và tội lỗi. Mỗi lần nhớ đến đó, cả Giuse lẫn Maria không ngừng cảm ơn Thiên Chúa, và ghi nhớ mãi giây phút giao hòa đất trời, giây phút con người được Thiên Chúa thương yêu và tha thứ như thế nào.
Giáng Sinh năm nay, cũng một Giáng Sinh như mọi khi nhưng có lẽ lại là một Giáng Sinh rất ý nghĩa thêm vào những kỷ niệm của Maria và Giuse. Hình như lịch sử lập lại.
Lẫn trong đoàn người đến hang Belem năm nay là một cặp vợ chồng. Họ đến từ rất xa, xa lắm. Trông họ rất mệt mỏi, tiều tụy và già nua! Lưng họ gù xuống có lẽ do những gánh nặng của cả tâm hồn lẫn thể xác đang đè nặng trên họ. Cái gì đó như một trái đắng lúc nào cũng đốt nóng và làm quặn đau trong lòng người vợ. Còn người chồng thì có cái gì đó như một cục đá cứ mãi làm cho lòng ông nặng và chìm xuống. Cái khổ của cả hai người là không nói được với nhau, và cũng không kể cho nhau nghe được những khổ lụy của mình để hy vọng nhận được một lời chia sẻ và khích lệ. Và vì thế cả hai đều câm nín và cay đắng!
Họ đến hang đá để làm gì? Họ chắc không phải là vị vua thứ tư đến từ phần đất lạ? Hay họ đến để trút bỏ những khối nặng nề nào đó trong cuộc đời, trong tâm hồn lên Giêsu bé nhỏ? Hoặc cũng có thể họ đến để kể lể và đổ lỗi cho nhau trước mặt Giêsu?! Nếu vậy thì làm phiền giấc ngủ của Hài Nhi quá. Vì những kẻ ra, người vào tấp nập chỉ gây ồn ào và đánh thức giấc ngủ của Ngài. Tuy nghĩ là nghĩ như vậy, nhưng dường như mắt của Maria đã bắt gặp ánh nhìn của người vợ. Bà ta đến để gặp Chúa thật lòng. Không đến để phiền hà, nhưng đến để trao Ngài niềm hy vọng với đức tin đơn sơ, mặc dù vẫn đang mang trong lòng những ưu tư chồng chất. Còn người chồng của bà ta nữa. Âm thầm, lặng lẽ, và rất suy tư. Vầng trán nhăn nheo kia chứng tỏ ông từng đã bị dày vò cả tâm lý lẫn thể lý. Sức ép của công việc, sức chịu đựng với vợ, với con nhiều năm khiến cho ông qụy ngã sau những tháng ngày trong đời sống hôn nhân gia đình. Và cũng như vợ ông, ông trông có vẻ thành khẩn và thật tâm.
Rút ra từ những đắng đót của cuộc đời chính mình, đặc biệt khi bị Giuse hiểu lầm và định bỏ mình để ra đi âm thầm. Cũng rút ra từ kinh nghiệm đắng đót của Giuse vì phải chịu đựng một thử thách quá lớn mà dù được gọi là “công chính”, con người ấy cũng sắp bị qụy ngã nếu như trừ trên cao Thiên Chúa đã không ra tay can thiệp. Kinh nghiệm hôn nhân gia đình ấy, đã khiến Mẹ tại tiệc cưới Cana đánh bạo đòi hỏi cho đôi tân hôn một phép lạ. Ký ức của Maria vừa đến đó cũng là lúc cặp vợ chồng kia đến bên máng cỏ. Một điều trùng hợp, cùng lúc Hài Nhi Giêsu mở mắt mỉm cười với hai vợ chồng đau khổ kia.
Cũng như tổ phụ Evà trong đêm Giáng Sinh đầu tiên đã run run dâng Chúa trái táo mà bà đã hái từ cây táo giữa vườn địa đàng, trái táo oan khiên cho bà, cho ông, và cho toàn thể nhân loại. Cặp vợ chồng này cũng rút ra từ trong túi áo của họ, dâng lên Hài Nhi một trái táo: Trái táo cuộc đời. Trái táo mà họ đã hái cho nhau ăn trong những ngày dong chơi ở khu vườn tình ái. Thời gian đó, khi ăn trái táo ấy họ cảm thấy ngọt lịm bờ môi, chất ngất và xôn xao cõi lòng. Nhưng với thời gian, nó đã trở thành trái đắng tiết ra nhiều độc tố khiến họ bị ngộ độc. Họ không còn khả năng tiêu hóa những vấn đề trong cuộc sống. Hệ thống hô hấp và tuần hoàn bị tắc nghẽn khiến cho hơi thở nhiều lúc nặng nề, hổn hển và không còn mang được những dòng máu nóng của tình yêu chuyển vào trái tim đang ngày càng trở nên cằn cỗi, khô héo. Và nó cũng chặn lại những dòng oxy dẫn đến não bộ, kết quả là những suy tư của họ trở nên đơn điệu, một chiều và rất chủ quan.
Và sau khi ngỏ lời cảm ơn Maria, Giuse, và Hài Nhi, họ lặng lẽ ra về sau màn đêm âm u mà trong lòng cảm thấy nhẹ nhõm.
Đêm nay Chúa Giáng Trần. Ngài đến để mang bình an và giải thoát cho những tâm hồn thiện chí, mà họ là những người lãnh nhận được sự giải thoát và phép lành bình an ấy. Trong đêm thâu, giữa không gian giá lạnh, trên đường trở về họ đi bên nhau, nép vào gần nhau cho đỡ lạnh. Và mỗi người đều cảm thấy nụ cười mà Hài Nhi đã mỉm cười với họ.
Nhìn ngắm Hài Nhi Giêsu dưới dáng dấp của một Hài Nhi đơn sơ nằm trong máng cỏ, quả là một GS-393
Nhìn ngắm Hài Nhi Giêsu dưới dáng dấp của một Hài Nhi đơn sơ nằm trong máng cỏ, quả là một mầu nhiệm cao cả tuyệt vời của đức tin. Sự ra đời của Chúa Giêsu đánh dấu “thời viên mãn” đã tới. Vì tội lỗi của ông bà nguyên tổ, con người mất đi sự hiệp thông với Thiên Chúa. Nhưng nay Thiên Chúa đầy lòng từ bi đã xót thương đến sự buồn tủi của con người mà sai Chúa Con hằng có đời đời, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, làm người để cứu chuộc chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi.
Bằng cách sử dụng các công thức có chiều kích thần học sâu xa, thánh Tông đồ Gioan đã giải thích cho chúng ta : “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1). Gioan gọi ngôi vị thứ hai trong Chúa Ba Ngôi là “Ngôi Lời”, Con Thiên Chúa. Ngài còn thêm: “Và Ngôi Lời đã nhập thể làm người, và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Ngôi Lời đã hóa thành xác thịt nơi cung lòng của Mẹ. Đấng vĩnh cửu đã bước vào thời gian. Thiên Chúa đã đến cắm lều và cư ngụ giữa con người.
Đó chính là lý do ngày hôm nay chúng ta cử hành, và mừng lễ. Thật ngỡ ngàng, khi chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu vừa chào đời. Một Hài Nhi mới sinh ra … nhưng đồng thời Hài Nhi ấy cũng là Thiên Chúa toàn năng. Thiên Chúa làm người và giờ đây đang ở giữa chúng ta.
Con Thiên Chúa đến trên địa cầu để làm cho chúng ta sống trên mặt đất này trở nên con Thiên Chúa. Vì thế, toàn trái đất hãy vui mừng và hải đảo hãy hân hoan, vì ơn cứu độ đã được ban tặng cho thế giới. Như lời thánh Gioan giải thích, “phàm bao nhiêu kẻđã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Trở nên con Thiên Chúa ư! Thật không thể tưởng tượng được, mầu nhiệm cao vời khôn thấu này. Thánh Gioan Kim Khầu nói : “Con Thiên Chúa đã trở nên con của loài người để làm cho con người trở nên con Thiên Chúa“.
Thiên Chúa làm người. Các tác giả Tin Mừng đều chứng minh cho chúng ta thấy điều đó. Thiên Chúa làm người không chỉ là mượn thân xác con người, mà làm một con người thực thụ, như bao con người khác sống trong kiếp nhân sinh, chỉ trừ tội lỗi. Mầu nhiệm này diễn tả mối tương quan gần gũi giữa Thiên Chúa và con người. Sự kiện Giáng sinh không chỉ là một câu chuyện cổ tích, nhưng là sự hiện diện của Thiên Chúa làm người và ở với nhân loại cho đến ngày tận thế.
Chúng ta tìm kiếm Người và khi đã tìm được thì hãy tiếp nhận Người : vì chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới có ơn cứu độ ; chỉ mình Chúa Giêsu mới mang lại cho chúng ta ý nghĩa đầy đủ về cuộc sống và khổ đau. Vì vậy, chúng ta hãy đọc Tin Mừng, chiêm ngắm Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta và cố gắng sống theo lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ thấy sự thật như thế nào khi chúng ta đang nỗ lực làm cho thế giới chúng ta đang sống ngày một tốt đẹp hơn.
Vâng, Noel Thiên Chúa làm người, Thiên Chúa đã đến trần gian, “và những ai đón nhận Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”(Ga 1,12). Bên Hang đá máng cỏ, hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta trở nên những con người đích thực, để rồi nhờ đó mà chúng ta trở nên con của Đấng Tối Cao. Amen.
Mơ ước hạnh phúc luôn là một khát khao thẳm sâu trong trái tim con người. Ai cũng mong hạnh GS-394
Mơ ước hạnh phúc luôn là một khát khao thẳm sâu trong trái tim con người. Ai cũng mong hạnh phúc. Ai cũng chờ hạnh phúc. Ai cũng mơ ước vượt qua cái khổ để được bình an hạnh phúc.
Nhất là trong gia đình niềm khát khao ấy lại càng dâng cao. Ai cũng mong gia đình bình yên. Gia đạo hạnh phúc. Vợ chồng biết thương nhau. Con cái thuận hòa. Nhưng khi nhìn vào cuộc sống chúng ta thấy hạnh phúc sao quá khó đối với chúng ta. Gia đình nào cũng có những trục trặc. Cuộc đời nào cũng có những bể dâu. Theo thống kê số gia đình bất hạnh nhiều hơn số gia đình hạnh phúc. Cuộc sống đã mệt vì cơm áo gạo tiền lại thêm khổ đau vì thiếu tình yêu, thiếu sự cảm thông nơi gia đình lại càng thêm khổ đau.
Hôm nay chúng ta long trọng mừng lễ Chúa giáng sinh. Chúa đi vào trần đời ngang qua một gia đình. Chúa cúi xuống với gia đình để từ nay mọi gia đình có Chúa giáng sinh sẽ có niềm vui và hạnh phúc. Gia đình là nhà của Chúa. Chúa đến thăm gia đình của Chúa và muốn ở lại với gia đình ấy mãi mãi, nhưng theo thánh Gioan:
Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. (Ga 1:11)
Người nhà đã không đón nhận Ngài nên niềm vui có Chúa ở cùng cứ mãi qua đi. Noel này rồi Noel khác, Chúa cứ việc giáng sinh trong hang đá rực rỡ đèn sao lấp lánh, còn tâm hồn người nhà Ngài vẫn cứ mãi mãi mù tôi như thủa nào. Chỉ vì
Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. (Ga 1:5)
Có một cha xứ khi về nhận xứ liền đi thăm giáo dân. Gặp một đôi vợ chồng nghe nói đã bỏ lễ lâu năm. Cha hỏi vợ chồng không đi lễ vậy có đọc kinh chung với nhau không? Họ trả lời vì không có thời giờ do con cái phải đi học thêm hay phải đi làm theo ca. Gia đình vất vả làm ăn mà chẳng khấm khá hơn lấy đâu tinh thần đọc kinh. Bấy giờ cha xứ lại hỏi: “Nếu anh chị biết rằng nhờ đọc kinh mà một đứa con sẽ tránh được một cơn bệnh hiểm nghèo, tránh được một tai nạn; Nhờ đọc kinh tối mà gia đình có công ăn việc làm, con cái thành đạt; Nhờ đọc kinh mà các linh hồn tiên nhân ông bà cha mẹ và những người thân đã chết sẽ sớm được về thiên đàng… thì anh chị có tổ chức đọc kinh gia đình hàng ngày không ?” Họ trả lời rằng: “Có thể chúng con sẽ đọc”. Cha xứ lại hỏi: “Giả như gia đình làm ăn thất bại phải mang nợ tới 100 triệu đồng, khó lòng có thể trả được cả vốn lẫn lãi, mà nếu ngày nào có đọc kinh tối gia đình 15 phút, thì sẽ được chủ nợ trừ bớt số lời 100.000 đồng, thì ông bà có đọc kinh tối chung không ?”.
Bấy giờ ông kia hỏi lại: “Thưa cha, cha hỏi như vậy để làm gì ?” Bấy giờ cha xứ mới ôn tồn trả lời: “Tôi nói như vậy để cho thấy nguyên nhân gia đình ông bà không đọc kinh tối, không phải vì không có thời giờ hay vì bận làm việc, mà lý do chính là vì nghĩ rằng đọc kinh dự lễ hàng ngày là điều không cần thiết, chỉ cần đi lễ Chúa nhật là đủ. Tôi hỏi vậy để cho thấy việc đọc kinh tối cũng quan trọng không kém gì việc giữ gìn sức khỏe và sự an toàn của các người thân trong gia đình, cũng có giá trị như một số tiền thiêng liêng, giúp bớt phần phạt cho người thân là tiên nhân ông bà đã qua đời, và giá trị của việc đọc kinh cũng có thể tương đương với số tiền cần chi dùng hàng ngày”.
Năm nay Giáo hội với chủ đề “đồng hành cùng gia đình” như muốn mời gọi các gia đình hãy mời Chúa Giê-su đến trong gia đình bạn. Hãy để Chúa hiện diện và chúc phúc cho gia đình. Có Chúa chúng ta thêm ơn thánh để sống đẹp lòng Chúa, đẹp lòng nhau. Có Chúa chúng ta sẽ vượt thắng những yếu đuối bản năng để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa.
Cuộc sống hạnh phúc biết bao khi có Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chính Ngài sẽ ban tặng bình an cho con người. Chính Ngài sẽ dẵn dắt con người đi trong chân lý vẹn tuyền. Nhưng tiếc thay, con người vẫn cứ nuôi dưỡng hoài bão tự tạo bình an theo ý mình. Ai cũng đòi theo ý mình nên thế gian thường nổi loạn, chống đối và loại trừ nhau. Con người lấy mình làm trung tâm nên chẳng ai nghe ai, chẳng ai chịu ai dẫn đến một thế giới hỗn độn, cá lớn nuốt cá bé, người người tranh chấp tị hiềm nhau.
Ước gì lời cầu chúc Noel an bình là lời cầu chân thành ước mong cho Thiên Chúa ở cùng nhân loại chúng ta. Cầu cho mọi người trên trái đất đều tin nhận Thiên Chúa. Cầu cho mọi người biết quy phục Thiên Chúa và dành cho Ngài quyền tối thượng dẫn dắt nhân loại đi trong bình an và hạnh phúc.
Ước gì Thiên Chúa là Đấng Emanuel luôn ở cùng chúng ta và ban bình an hạnh phúc cho muôn nhà trong đêm Giáng sinh hôm nay. Amen
Giáng sinh đem lại cho nhân loại, cho thế giới niềm hy vọng, niềm vui lớn lao : ” Thiên Chúa chính GS-395
Giáng sinh đem lại cho nhân loại, cho thế giới niềm hy vọng, niềm vui lớn lao : ” Thiên Chúa chính là người Cha nhân từ, người Cha chạnh lòng thương xót, người Cha luôn mở rộng lòng đón tiếp chúng ta.Tin mừng ngày lễ Giáng sinh còn dạy chúng ta bài học thực tế, bài học hết sức nhân văn, đó là chúng ta bốn bể đều là anh em của nhau.Sứ điệp của Lễ Giáng sinh đó là “ Từ gốc tổ Giêsê sẽ đâm ra một chồi. Khắp mặt đất sẽ tràn ngập vinh quang Chúa và mọi người sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ “ ( Is 11,1 ; 40,5; Lc 3, 6).
Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện sứ thần Gabrien truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria. Chuyện kể về việc truyền tin, gặp gỡ giữa sứ thần của Thiên Chúa với Đức Maria mang một dấu ấn rất ấn tượng và quan trọng. Mẹ Maria với niềm tin đơn sơ, nhưng hoàn toàn phó thác đã khiến cho lịch sử nhân loại được tràn đầy hồng ân và Mẹ đã đem ơn cứu độ, đem chính Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô cho nhân loại.Khi sứ thần Gabrien nói với Đức Maria :” Này bà sẽ thụ thai.Sinh hạ một con trai, Đặt tên là Giêsu” ( Lc 1, 31 ). Mẹ Maria với niềm tin sâu xa, đầy trách nhiệm, đã can đảm cộng tác với Thiên Chúa để cho “ Con của Thiên Chúa được trở thành con người giữa muôn người trong thế giới, trong trần gian. Qua lời thưa xin vâng làm theo thánh ý Chúa, Mẹ Maria đã trở thành khuôn mẫu lý tưởng cho mọi người tin trong Mùa Vọng.
Tin Mừng của Giáng Sinh là Thiên Chúa đã làm người và ở giữa nhân loại, ở giữa chúng ta.Tin Mừng ấy là “ Tất cả chúng ta hãy vui mừng trong Chúa,Vì Đấng cứu độ chúng ta đã sinh xuống gian trần.Hôm nay từ cõi trời cao thẳm, Bình an đích thực đến giữa chúng ta “. Tin Mừng ấy là “ Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta “ ( Is 9,5 ). Thực tế, Chúa đã hóa thân làm người, để con người được trở nên con cái của Chúa.Thánh Gioan viết :” Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm Con Thiên Chúa “ ( Ga 1, 12 ).
Thiên Chúa xuống làm người “ Emmanuen “ nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta “. Quyền năng mà Thiên Chúa đem lại cho mầu nhiệm Giáng sinh gồm hai mặt: một mặt Thiên Chúa là Cha và mặt khác chúng ta đều là anh em của nhau.Quyền năng hay sứ điệp của mầu nhiệm Giáng sinh là món quà quý giá Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta. Thánh Phaolô viết :” Đức Giêsu là quà tặng quý giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người” ( Ga 3, 16 ). Giáng sinh mỗi người chúng ta cũng hãy dâng lên cho Thiên Chúa tấm lòng đơn sơ, chân thành của chúng ta và rồi như món quà vô giá là chính Đức Giêsu, chúng ta đã lãnh nhận nơi Thiên Chúa qua Mẹ Maria.Chúng ta cũng hãy trao tặng, chia sẻ niềm vui, vật chất cho những người nghèo, những kẻ cô đơn, vất vưởng, những kẻ bé nhỏ, khó nghèo. Hài Nhi Giêsu, chắc chắn đang mong chờ chúng ta thực hiện những điều đó.
Chúng ta hãy cùng một thi sĩ vô danh đã viết về Giáng sinh :
” Khi bài ca của các Thiên thần ngừng bặt, khi ngôi sao trên bầu trời đã đi khỏi, khi các Vua Chúa và Hoàng tử đã ở nhà, khi các mục đồng đã cùng đàn súc vật trở về, thì công việc Giáng sinh mới bắt đầu : “để tìm lại những gì đã mất, để hàn gắn những gì đã gẫy, để người đói được ăn no,để tù nhân được giải phóng, để các nước xây dựng lại,để đem lại hòa bình đến với mọi người,để hòa nhạc bằng trái tim “.
“ Lạy Chúa, Chúa đã sai Con một Chúa là nguồn ánh sáng thật đến soi chiếu trần gian làm cho đêm cực thánh này bừng lên rực rỡ. Xin cho chúng con ngày nay ở dưới thế được mầu nhiệm Giáng Sinh soi dẫn, mai sau cũng được cùng Con Một Chúa hưởng vinh phúc trên trời. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời “. Amen ( Lời nguyện nhập lễ thánh lễ ban đêm ).
Năm 1945, quân đội nước Đức do Hitler cầm đầu bị liên quân đồng minh đánh bại thê thảm, nước GS-396
Năm 1945, quân đội nước Đức do Hitler cầm đầu bị liên quân đồng minh đánh bại thê thảm, nước Đức trở nên hoang tàn đổ nát và sau đó, vào năm 1949, nước này bị chia cắt thành 2 quốc gia thù nghịch là Đông và Tây Đức.
Vào ngày 13 tháng 8 năm 1961, nhà cầm quyền Đông Đức cho xây lên một bức tường bê tông cốt thép cao 3,6 m và dài chừng 160 km dọc theo biên giới đôi bên, để ngăn chặn làn sóng người tỵ nạn từ Đông Đức tràn sang Tây Đức.
Ngoài ra, Đông Đức còn cho xây dựng tới 302 tháp canh tại những khu vực trọng yếu dọc bức tường này, gắn thêm nhiều đèn pha, bố trí nhiều lính canh cùng với đàn chó dữ canh phòng cẩn mật. Những người lính canh được lệnh bắn chết bất cứ ai tìm cách vượt qua bức tường này.
Thế là có hơn 170 người Đông Đức đã phải bỏ mạng khi tìm cách vượt qua tường thành này. Ngoài ra, có chừng 75.000 người Đông Đức đã bị tòa án luận tội vì mưu toan vượt tường trốn qua Tây Đức. Những người này có thể lãnh án 8 năm tù. Còn những ai giúp đỡ người chạy trốn còn có thể bị án tù chung thân.
Thế là bức tường ô nhục này đã chia cắt một nước Đức duy nhất thành hai quốc gia đối lập, xô đẩy đồng bào ruột thịt trong cùng một nước trở thành hai lực lượng đối kháng, đồng thời ngăn chặn không cho đồng bào ở 2 bên bức tường thăm viếng, gặp gỡ và chung sống hoà bình với nhau.
Thế rồi giờ phút lịch sử đã đến:
Vào ngày 9 tháng 11 năm 1989, sau khi có thông báo của nhà cầm quyền Đông Đức cho phép người dân Đông Đức có thể đi qua Tây Đức mà không phải xin phép như trước, thế là hàng ngàn, hàng vạn người từ Đông Đức tràn qua Tây Bá Linh ăn kem, uống cà-phê nghe nhạc, đi siêu thị mua sắm và ca hát vang đường. Một số thanh niên leo lên bức tường Bá Linh reo hò. Số người tập trung tại chân tường càng lúc càng đông… Nhiều người dùng búa, xà-beng và đủ các vật dụng khác… đập bỏ nhiều mảng của bức tường, rồi sau đó có cả những xe ủi tham gia phá đổ bức tường.
Thế là bức tường ô nhục chia cắt hai miền đất nước được triệt hạ và nhờ đó, người dân hai miền được chung sống trong hoà bình hạnh phúc.
Sự chia cắt của nước Đức trong suốt 28 năm bởi bức tường Bá Linh phản ánh một sự chia cắt đau thương và trầm trọng hơn rất nhiều, đó là sự chia cắt giữa Thiên Chúa và loài người do tội lỗi gây ra.
Từ ngày nguyên tổ phạm tội, một bức tường vô hình do tội lỗi dựng lên đã tạo nên ngăn cách giữa loài người với Thiên Chúa. Bức tường này tuy vô hình nhưng khả năng chia cắt của nó thật khủng khiếp.
Bức tường vô hình và ô nhục này giống như một con đê lớn, đã ngăn chặn không cho vô vàn hồng phúc của Thiên Chúa tuôn đến với loài người.
Bức tường quái ác này có tác dụng như một con dao sắc bén khổng lồ cắt đứt tình nghĩa giữa con người và Thiên Chúa.
Bức tường ô nhục này đã ngăn chặn không cho loài người trở về với Cha của mình là Thiên Chúa, không cho họ trở về quê thật của mình là cõi phúc thiên đàng, mà buộc họ phải sống lây lất, vất vưởng trên cõi đời ô trọc này trong bất hạnh và cuối cùng phải sa vào hoả ngục là chốn đau thương muôn đời muôn kiếp.
Thiên Chúa là Cha nhân lành không nỡ để cho loài người là con cái Ngài phải sống trong tình trạng khốn cùng này mãi, nên đã lên kế hoạch phá đổ bức tường quái ác này.
Theo kế hoạch này, Thiên Chúa Cha trao ban Người Con một của mình cho nhân loại và Con Một Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận xuống thế làm người,
Để triệt hạ bức tường ô nhục này, Để giao hoà con người với Thiên Chúa, Để cho muôn người được trở về với Thiên Chúa là Cha của mình,
Để cho tình thương và ân sủng của Thiên Chúa được thông ban chứa chan cho nhân loại, Để sự sống thần linh của Thiên Chúa được ban tặng cho muôn người, nhờ đó muôn dân được sống trong hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa trên thiên quốc.
Thế là nhờ biến cố quan trọng này, một trang sử mới được mở ra cho nhân loại, một thời kỳ hồng phúc được khai mở cho cả loài người.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúng con hết lòng cảm tạ, tôn vinh, chúc tụng Chúa đã hạ mình xuống thế làm người phàm hèn như chúng con để triệt hạ bức tường ô nhục ngăn cách chúng con với Thiên Chúa, nhờ đó, muôn vàn hồng ân cao quý của Chúa được tuôn đến với chúng con.
Đây là hồng ân cao quý nhất và là nguồn hạnh phúc vô biên mà Chúa đã dành cho chúng con.
Xin cho chúng con biết chia sẻ hồng phúc này, niềm hạnh phúc vô biên này cho nhiều anh chị em chưa biết Chúa, bằng cách giúp họ nhận biết Chúa là Đấng cứu độ và đặt trọn niềm tin vào Chúa như chúng con. Amen.
Ngày nay, để giới thiệu một nhân vật hoặc một sản phẩm mới, các nhà tổ chức phải tìm mọi cách GS-397
Ngày nay, để giới thiệu một nhân vật hoặc một sản phẩm mới, các nhà tổ chức phải tìm mọi cách để làm nổi bật nhân vật, sản phẩm mà họ muốn giới thiệu qua mọi phương tiện. Để giới thiệu về bản thân cho công chúng, các ca sĩ cũng phải mượn báo chí và các kênh thông tin, kể cả việc tạo ra những vụ lùm xùm để gây sự chú ý của cộng đồng. Trong việc đưa Con Thiên Chúa vào trần gian, Thiên Chúa đã không làm theo kiểu của con người, trái lại, Ngài để cho Con của mình bước vào đời một cách hết sức âm thầm, bình dị đến độ khó tin, khó chấp nhận.
Bài Tin Mừng hôm nay nối tiếp đoạn Tin Mừng chúng ta nghe đêm hôm qua. Thánh Luca thuật lại: Vào đêm Chúa Giêsu giáng sinh, sứ thần của Thiên Chúa đã hiện ra báo tin cho các mục đồng: Đây ta báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành của Đavít, Người là Đấng Kitô. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ thấy một trẻ sơ sinh, được bọc trong khăn, đặt nằm trong máng cỏ. Nghe sứ thần báo tin như thế, các mục đồng đã hối hả tìm tới nơi để gặp Đấng Cứu Thế.
Thiên Chúa có những cách hoàn toàn khác để thực hiện chương trình của Ngài. Những con người đầu tiên được báo tin vui giáng sinh không phải là những nhà báo hoặc giới truyền thông, nhưng lại là những trẻ chăn chiên chăn bò. Các mục đồng là thành phần thấp kém trong xã hội Do Thái, thường là những người nghèo phải đi chăn chiên thuê, họ bị khinh rẻ loại trừ. Thiên Chúa chọn các mục đồng là những người đầu tiên được đón nhận tin vui giáng sinh bởi vì họ là những người thiện tâm. Họ là những người nghèo trước mặt mọi người, nhưng lại giàu lòng yêu mến Thiên Chúa và khát khao đợi chờ Đấng Cứu Thế. Họ bị những người Do Thái khinh thường, nhưng trước mặt Thiên Chúa, không ai bị khinh thường và cũng không ai bị loại ra khỏi tình thương cứu độ của Ngài. Tiên tri Isaia khi tiên báo về ngày Đấng Cứu Độ cũng nhắc đến một thành phần thấp kém trong xã hội bấy giờ được ưu tiên đón nhận tin vui, đó là các thiếu nữ: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ của ngươi đang tới, Ngài mang theo phần thưởng và các chiến lợi phẩm. Những ai đón nhận Đấng Cứu Thế thì được gọi là “dân thánh” là “những người được cứu chuộc”. Thiên Chúa sẽ thay đổi thân phận con người, mang lại cho con người phẩm giá cao quý: Phụ nữ trở nên có giá như cô gái đắt chồng, thành phố thì được yêu mến và không bị bỏ hoang nữa.
Khi đón nhận tin vui giáng sinh, các mục đồng lập tức chỗi dậy, lên đường tìm kiếm Đấng Cứu Thế ngay trong đêm. Họ đi với một tâm trạng hồ hởi vui mừng và mong chờ được gặp Đấng mà các tổ phụ, các tiên tri đã loan báo. Tin Mừng kể lại: Họ hối hả ra đi và gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh đặt nằm trong máng cỏ. Khung cảnh họ nhìn thấy đầu tiên không phải là một tòa nhà sang trọng, mà là một gia đình đơn sơ nghèo nàn, nhưng mỗi thành viên lan tỏa ra sự thánh thiện. Họ cũng đã gặp được Hài Nhi mới sinh, bọc trong khăn và đặt trong máng cỏ như sứ thần đã báo trước. Mặc dù Tin Mừng không nói đến, nhưng chắc chắn các mục đồng đã tin và đã sấp mình thờ lậy trước Hài Nhi bé nhỏ. Các mục đồng sung sướng hạnh phúc vì thấy được một Thiên Chúa giống như họ, đồng cảm và chia sẻ cảnh nghèo khó đơn sơ và bị loại trừ như họ.
Cuộc gặp gỡ của các mục đồng với Hài Nhi Giêsu quả thật là một cuộc gặp gỡ trong đức tin, đòi một bước nhảy dài. Các mục đồng phải vượt qua khung cảnh đơn sơ nghèo khó này, để tin Hài Nhi bé nhỏ yêu ớt kia là một vị Thiên Chúa, Đấng Tạo dựng và điều khiển mọi vật mọi loài. Các mục đồng đã hoàn toàn được biến đổi để trở thành những người tiếp tục loan báo tin vui giáng sinh cho mọi người. Tin Mừng kể tiếp: Họ kể lại cho mọi người những gì họ đã nghe và đã thấy về Hài Nhi. Những kẻ nghe họ kể lại cũng ngạc nhiên về những gì được thuật lại. Các mục đồng ra về,vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa, vì những điều họ đã được tai nghe mắt thấy. Điều đó cho thấy rằng, niềm vui giáng sinh đã thấm sâu vào tâm hồn các mục đồng và lan tỏa qua từng bước chân, từng lời nói của họ.
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người, những kẻ nghèo khó và người có tâm hồn thành tâm thiện chí được Thiên Chúa ưu tiên tỏ mình ra. Thánh Phaolô đã quả quyết như thế và còn nhấn mạnh rằng: Thiên Chúa yêu thương và ban ơn cứu độ cho ta, không phải vì ta đã làm những việc công chính, nhưng chỉ do tình thương của Chúa mà thôi. Nhờ ơn của Bí tích Rửa Tội, Thiên Chúa đã tái sinh chúng ta nên con người mới và Ngài còn ban Chúa Thánh Thần trên chúng ta nhờ Đức Giêsu Kitô. Chính nhờ Đức Giêsu Kitô mà chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời.
Tuần vừa qua, một linh mục thuộc Ủy ban Đòan kết đã lên tiếng xin chính phủ chấp thuận cho ngày lễ Chúa Giáng sinh trở thành ngày nghỉ toàn quốc. Việc thỉnh cầu này nếu được chấp thuận (mặc dù khó), kết quả của nó sẽ đem lại gì cho đời sống đức tin của người tín hữu? Giả dụ lễ Chúa Giáng Sinh trở thành ngày nghỉ, thì sớm muộn cũng sẽ chỉ còn là dịp lễ hội, lễ nghỉ, để mọi người đi chơi, xa hơn là đi lễ. Ngay thời điểm hiện nay, nhiều người tín hữu chỉ hòa mình vào niềm vui bên ngoài mà bỏ quên niềm vui đích thật trong tâm hồn. Nhiều người, nhiều gia đình tổ chức ăn uống, mừng lễ giáng sinh rất to, trang trí rất đẹp, nhưng hình như họ đã quên nhân vật chính và quên ý nghĩa chính của ngày đại lễ Chúa Giáng sinh. Các trang trí giáng sinh chỉ còn là những hình ảnh biểu tượng thế tục, các hình ảnh đơn sơ thánh thiện của hang đá, của Hài nhi và gia đình Thánh Gia, đã trở nên càng ngày càng hiếm. Nhiều người bị cuốn vào lễ hội Noel đường phố giống như ngày lễ của ông già Noel; các tụ điểm vui chơi, gọi là mừng lễ giáng sinh mà không biết ai giáng sinh, tức là một lễ giáng sinh không có Chúa.
Tình trạng lễ Chúa Giáng sinh không có Chúa đang diễn ra không chỉ ở những trang trí và các lễ hội bên ngoài, nó bắt nguồn không chỉ từ phong trào tục hóa, mà từ nơi tâm hồn nhiều tín hữu. Nhiều người trong chúng ta không cảm nhận được tình thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho mình. Nhiều người đã từ chối không tin, không đón nhận Chúa Giêsu là Chúa là Đấng cứu độ của mình. Vì thế đã bao mùa Giáng sinh trôi qua, họ vẫn không chuẩn bị gì cho tâm hồn, để khi mùa Giáng sinh qua đi giống như cây thông, và các đồ trang trí lại được dọn dẹp cất vào một chỗ để năm tới đem ra trưng bày như cũ, không thêm lòng tin, cũng không thêm lòng yêu mến và không biến đổi gì.
Sự tục hóa ngày lễ Chúa Giáng sinh đang ảnh hưởng trực tiếp trên người trẻ. Các thống kê cho thấy, cứ sau mùa lễ Chúa Giáng sinh, các ca nạo phá thai tại các bệnh viện và cơ sở y tế lại tăng mạnh. Lý do là đêm 24/12 trở thành dịp ăn chơi, sa đọa thâu đêm, khiến cho nhiều bạn trẻ không thể dừng lại, để mình bị bản năng, dục vọng điều khiển. Những bạn trẻ này không chỉ xúc phạm đến ngày lễ Chúa Giáng Sinh mà còn xúc phạm nặng nề luật Chúa, làm tổn thương đến cuộc đời mình và tiếp tục gây thêm tội ác giết hại các thai nhi.
Mừng lễ Chúa Giáng sinh, chúng ta cầu xin Chúa cho mình và cho mọi người, cách riêng cho người trẻ biết vui hưởng một mùa Giáng Sinh thật thánh thiện an bình. Xin cho tất cả mọi người chúng ta gặp được Chúa Giêsu Hài Nhi không chỉ trong hang đá, nhưng còn trong Bí Tích Thánh Thể khi ta đón rước Ngài vào tâm hồn. Xin cho chúng ta noi gương các mục đồng, ra về trong hân hoan và nói cho mọi người về những gì mình cảm nhận, đã nghe và đã thấy. Amen.
1. LỜI CHÚA: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người… Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,9.14).
2. CÂU CHUYỆN:
1) NGƯỜI KHÁCH CUỐI CÙNG VIẾNG THĂM HANG ĐÁ:
Sau khi đám mục đồng đến thăm viếng Hài Nhi Giê-su trở về nhà, cánh đồng Be-lem vẫn còn GS-398
Sau khi đám mục đồng đến thăm viếng Hài Nhi Giê-su trở về nhà, cánh đồng Be-lem vẫn còn chìm trong bóng tối và Hài nhi Giê-su đang thiếp ngủ trong máng cỏ. Bỗng cửa hang mở ra và một bà lão xuất hiện. Bà có thân hình gầy guộc với đầu tóc bạc phơ, da mặt nhăn nheo và áo quần cũ rách. Bấy giờ Mẹ Ma-ri-a đang ngồi bên máng cỏ chăm sóc Hài Nhi Giê-su, thấy bà lão xuất hiện, mẹ đưa cặp mắt lo sợ nhìn bà lão bấy giờ đang đến gần máng cỏ nơi Hài Nhi nằm. Con trẻ Giê-su liền mở mắt ra nhìn bà lão và nhoẻn miệng cười thật tươi khiến bà lão cũng mỉm cười theo. Rôi bà lão thò tay vào túi áo lấy ra một vật đặt xuống bên Hài nhi Giê-su. Sau khi ngồi một lúc, bà đứng dậy và ra ngoài cửa hang đi về. Ra đến ngoài, như được tăng thêm sức mạnh, bà trở nên nhanh nhẹn sải bước mau và khuất sau một ngã quẹo. Bấy giờ Mẹ Ma-ri-a mới nhìn vào vật bà lão vừa để lại và kêu lên: ”Ôi, một quả táo vàng!”
Bà lão ấy không ai khác hơn là E-và, nguyên tổ của loài người khi xưa đã phạm tội ăn quả cây trái cấm và mang lại án phạt cho nhân loại. Giờ đây bà đến trao tặng Hài nhi Cứu Thê Giê-su quả táo năm xưa mang hình quả cầu nhỏ, như một lời nhắc nhở Hài Nhi về sứ mạng cứu thế của Người là phải tái tạo một “Trời Mới Đất Mới” nơi đầy tràn tình yêu, công bình và hạnh phúc của Thiên Chúa.
Hài nhi Giê-su chính là A-đam Mới, đến trần gian với sứ mạng xóa bỏ tội lỗi và giải thoát loài người khỏi bị chết, được trở nên con Thiên Chúa và được hưởng sự sống đời đời. Trong lễ Giáng Sinh hôm nay, chúng ta hân hoan vui mừng đón Đấng Cứu Thế đến mở ra một kỷ nguyên vui mừng và hy vọng, thiết lập một Nước Trời tràn đầy sự thật, ân sủng và bình an.
2) ĐÓN MỪNG CHÚA GIÁNG SINH LÀ ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN:
Trong suốt 500 năm, mỗi năm cứ vào đêm Giáng Sinh, dân chúng tại một thành phố kia đều tập trung, không phải để mừng lễ Chúa Giáng Sinh, nhưng để cùng nhau đón chờ Chúa quang lâm. Trước nửa đêm, họ đốt đèn, hát thánh ca, rồi cùng nhau đi rước đến tập trung tại một giáo đường đổ nát. Tại đây, họ dựng nên một hang đá và quỳ gối cầu nguyện xin Chúa đến. Chính những ánh nến trên tay và những bài thánh ca đã có sức mạnh xua đuổi cái lạnh của đêm đông Giáng Sinh. Ngoại trừ một số ít người đau liệt ở nhà, còn hầu như mọi người trong thành đều hiện diện ở đây; Họ đều tin rằng: nếu tất cả mọi người đều thành tín cầu nguyện, thì vào lúc nửa đêm, Đức Ki-tô Giê-su sẽ tái lâm như Người đã hứa trong Tin Mừng. Nhưng rồi trong thực tế, ngày tận thế mọi người mong đợi vẫn chưa khi nào xảy ra. Khi được hỏi: “Bạn có thực sự tin rằng Đức Ki-tô sẽ trở lại vào đêm Giáng Sinh này tại thành phố của bạn không?” thì nhân vật chính của câu chuyện trả lời: “Không, tôi không tin như thế!” Rồi một câu hỏi khác lại được nêu lên: “Vậy, tại sao bạn cứ phải cùng đoàn người đến đây hằng năm vào lễ Giáng Sinh như thế?” Người nầy mỉm cười trả lời: “Tôi cần phải hiện diện mỗi năm, vì có thể các năm vừa qua Chúa Ki-tô chưa đến. Nhưng nếu như năm nay Người đến, thì chẳng lẽ tôi lại là nguời duy nhất vắng mặt ở đây hay sao ?”. 3. SUY NIỆM:
1) Vì yêu thương mà Ngôi Lời đã hóa thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta: Trong hang đá Be-lem, một trẻ mới sinh được đặt nằm trong máng cỏ. Qua đó Thiên Chúa đã muốn nói với chúng ta tình yêu của Ngài bằng ngôn ngữ của loài người. Vì yêu thương Thiên Chúa đã vượt khoảng cách xa ngàn trùng để đến chia sẻ kiếp người với chúng ta. Ngài thể hiện tình thương bằng việc đến cắm lều ở giữa loài người và hiến thân mạng sống vì chúng ta. Thân xác bé thơ hôm nay đang rét run trong làn gió lạnh trong hang đá Be-lem, thì mai ngày sẽ run rẩy dưới những đòn roi, và chết nhục nhã trên cây thập giá. Tất cả đều nói lên tình yêu tột đỉnh của Thiên Chúa đối với chúng ta như lời Chúa phán: Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).
2) Ngôi Lời của Thiên Chúa là Lời ban Ơn Cứu Độ: Tình yêu của Thiên Chúa không chỉ là cảm tính nhất thời, nhưng là một chương trình dài hạn. Lời Thiên Chúa nói với loài người không phải để làm vui tai, nhưng là mang lại ơn cứu độ. Chúa xuống thế làm người chính là chấp nhận nên bé nhỏ để chúng ta được lớn mạnh, chấp nhận nên nghèo khó để chúng ta được giàu có. Chúa nhập thể làm người để chúng ta được làm con Thiên Chúa.
3) Lời của Thiên Chúa là Ánh Sáng chiếu soi vào trần gian u tối: Tội lỗi là bóng tối bao phủ khiến loài người chúng ta bị mất phương hướng, mất ý nghĩa cuộc sống. Lời Thiên Chúa đã xuống thế làm người, mặc lấy xác phàm nhân loại để làm cho cuộc đời chúng ta có ý nghĩa. Ngài đã từ trời xuống thế để mở con đường về trời cho nhân loại chúng ta. Ngài đã chiếu ánh sáng vào đêm tối trần gian để ai đi theo Người sẽ không đi trong tăm tối nhưng có ánh sáng ban sự sống đời đời.
4) Làm gì để chiếu ánh sáng của Chúa trong Mùa Giáng Sinh năm nay?:
– Ánh Sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận Ánh Sáng: Đã hơn 20 thế kỷ nay, Ánh Sáng của Chúa Kitô đã chiếu soi vào trần gian u tối, nhưng hiện vẫn còn biết bao người chưa nhận biết Chúa hay chưa muốn tin nhận Người là Ánh Sáng đích thực từ trời đến ban ơm cứu độ.
– Trong thế giới hôm nay, quyền lực tối tăm của ma quỷ vẫn đang hoành hành. Bao tội lỗi và thói hư vẫn đang tồn tại và gia tăng, làm băng hoại nền luân lý tốt đẹp của nhân loại. Biết bao tín hữu đã đánh mất ý thức về tội: Họ coi việc phá thai, ly hôn, làm hôn thú giả, kết hôn giả… là những việc bình thường mà họ có quyền làm khi cần để đạt được mục đích, không cần biết các việc đó có phù hợp với giới răn của Chúa và lề luật Hội Thánh không ?
– Mỗi người chúng ta cần ý thức về tình thương cứu độ của Thiên Chúa: Thánh Nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su đã nói: “Tất cả đều là Hồng Ân”. Hôm nay Hội Thánh cũng mời gọi các tín hữu chúng ta hãy ý thức về hồng ân của Thiên Chúa là đức tin vào Chúa Giê-su để đón nhân ơn cứu độ. Rồi còn phải chia sẻ đức tin ấy cho những người thân quen chưa nhận biết Chúa nữa.
– Chia sẻ đức tin bằng việc làm bác ái là chiếu sáng tình thương của Chúa cho tha nhân bên cạnh: Mỗi người hãy tự hỏi mình: Trong lễ Giáng Sinh năm nay, tôi đã chia sẻ niềm vui Giáng Sinh được cho những ai ? Ngoài gia đình và bạn bè, tôi đã trao tặng được món quà nào cho những người bệnh tật, đau khổ và bất hạnh là hiện thân của Chúa hay không ?
4. LỜI CẦU:
– Lạy Chúa Giê-su Hài Đồng. Giữa giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt, xin cho con biết đi tìm Chúa đang ở trong những anh chị em nghèo khó không nhà, không cơm ăn áo mặc, phải ở nơi đầu đường xó chợ… để chia sẻ tình thương là sự quan tâm giúp đỡ họ.
– Lạy Chúa Giêsu. Xin cho con biết đón nhận tình thương của Chúa khi gặp những điều may lành như ý và cả khi gặp phải những điều trái ý cực lòng. Để con sẵn sàng cảm thông với những người nghèo khổ là hiện thân của Chúa bị bỏ rơi trên cây thập giá năm xưa, hầu con sẵn sàng thực thi ý Chúa Cha như Chúa đã cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho Con khỏi uống chén nầy. Nhưng xin đừng theo ý riêng Con, một xin vâng theo Thánh Ý Cha” (Lc 22,41).- AMEN
Hang đá Bê-Lem và Chúa Giáng sinh là hai sự kiện luôn gắn liền với nhau. Vì thế, hễ ở đâu có GS-399
Hang đá Bê-Lem và Chúa Giáng sinh là hai sự kiện luôn gắn liền với nhau. Vì thế, hễ ở đâu có người Công Giáo thì ở đó sẽ có hang đá trong dịp lễ Giáng sinh. Người Công Giáo làm hang đá để làm gì? Thưa, để diễn tả lại quang cảnh lúc Chúa Giáng sinh. Trong hang đá thường có nhiều bức tượng nhưng không thể thiếu ba bức tượng sau đây:
Thứ nhất, bức tượng Chúa Hài Đồng Giêsu: Ngài được bọc trong một chiếc khăn trắng và đặt nằm trên những cỏng cỏ khô, nói lên sự thiếu thốn nghèo hèn của ngày Ngài sinh ra. Chiếc khăn trắng báo trước về chiếc khăn liệm xác Ngài sau này.
Thứ hai, bức tượng Đức Maria: Ngài đang chắp tay và đứng bên phải trong hang đá. Tư thế chắp tay nói lên niềm tin của Mẹ vào Hài Nhi Giêsu là Đấng Cứu Thế. Đồng thời, tư thế chắp tay cũng nói lên sự khiêm nhường thẳm sâu của Mẹ. Nhìn kỹ hơn nữa chúng ta sẽ thấy, khuôn mặt của Mẹ không dấu được sự băn khoăn lo lắng và đượm chút buồn sầu: buồn vì sự từ chối của con người để Hài Nhi phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn như vậy; băn khoăn lo lắng vì không biết rồi đây con trẻ lớn lên sẽ ra sao? Nhưng chắc chắn Mẹ vẫn tràn đầy niềm hy vọng phó thác vào Thiên Chúa tình yêu.
Thứ ba, bức tượng Thánh Giuse: Ngài thường được đặt phía bên trái trong hang đá, mặc chiếc áo choàng rộng, là cha nuôi của Hài Nhi, với sứ mạng bảo vệ Hài Nhi và Mẹ Người. Tin mừng cũng cho biết, đang khi Thánh Giuse đưa Đức Maria về quê quán để kê khai hộ khẩu thì Đức Maria đến ngày mãn nguyện khai hoa. Thánh Giuse đã tìm hết cách cho Đức Maria có được một nơi xứng đáng để sinh con, nhưng đều bị con người từ chối. Cuối cùng, Đức Maria đành phải sinh con trong hang đá nghèo hèn như vậy. Sau đó, Thánh Giuse tiếp tục sứ mạng của mình bằng cách chăm sóc bảo vệ Hài Nhi và Đức Maria: Đưa Hài Nhi và Mẹ Maria trốn sang Aicập khỏi sự lùng bắt của vủa Hêrôđê ; Cùng với Đức Mẹ đi tìm trẻ Giêsu khi Người lạc mất trong đền thờ ; Làm thợ mộc để nuôi sống Đức Maria và Chúa Giêsu…
Nhìn vào hang đá, chúng ta không thể không nghĩ đến cảnh nghèo nàn thiếu thốn của Thánh gia, nhưng chúng ta cũng không thể không nghĩ đến sự ấp áp đầy tình Chúa và tình người của Thánh gia. Cụ thể, sự hiện diện của Đức Maria và Thánh Giuse bên cạnh Hài Nhi Giêsu nói lên sự quan tâm chăm sóc của hai Đấng đối với trẻ Giêsu, điều đó muốn dạy cho mỗi người, mỗi gia đình chúng ta hôm nay bài học về sự quan tâm chăm sóc của người cha người mẹ đối với con cái.
Thật vậy, trong thời đại chúng ta đang sống, nhiều gia đình đang thiếu vắng tình thương, thiếu vắng sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ đối với con cái thể hiện một cách cụ thể qua các tình trạng đáng báo động sau đây:
Tình trạng phá thai : Nhiều người cha người mẹ đã khước từ con cái ngay từ khi còn trong bụng mẹ. Theo Vụ Sức khỏe Bà mẹ & Trẻ em – Bộ Y tế cho biết, mỗi năm nước ta có khoảng 250.000 – 300.000 ca phá thai được báo cáo chính thức. Đáng chú ý, tỉ lệ phá thai trên 12 tuần tuổi chiếm tới gần 80%. Trong khi đó, theo số liệu của Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam, 20-30% các ca phá thai là phụ nữ chưa kết hôn và 60-70% là sinh viên, học sinh, chủ yếu ở độ tuổi 15 – 19. (Nguồn: giadinh.net.vn)
Tình trạng trẻ em bị bỏ rơi: Vài năm gần đây, thông tin phát hiện trẻ sơ sinh, trẻ tật nguyền bị bỏ rơi ngày càng nhiều. Đáng quan tâm, không ít trong số đó, khi được phát hiện, có em đã tử vong, còn nhiều em, do bị vứt bỏ ở những nơi hoang vắng, được phát hiện muộn nên đã bị các loại côn trùng, động vật cắn, dẫn đến thương tật suốt đời. (Nguồn: baomoi.com).
Tình trạng trẻ em bị bạo hành trong gia đình và nhà trường: Các hình thức bạo lực đối với trẻ em là: chửi mắng thô tục, làm nhục, dùng đòn roi để trấn áp để lại hậu quả hết sức nặng nề về thể chất và tinh thần của trẻ. Các vụ việc bạo hành mà một số bậc cha mẹ, thầy cô, người thân gây ra cho trẻ em đã được phát hiện và đưa lên báo chí, khiến dư luận xã hội rất căm phẫn, đồng thời xã hội cũng lo ngại về sự xuống cấp của chuẩn mực đạo đức, sự thiếu vắng môi trường văn hoá chuẩn mực của giáo dục. (nguồn: congtacxahoi.net).
Tình trạng trẻ em bị bóc lột sức lao động: Những số liệu gần đây cho thấy, ở nước ta, trẻ em dưới 17 tuổi tham gia vào các hoạt động kinh tế chiếm khoảng trên dưới 30%, khoảng 60% trẻ lao động ở các cơ sở ngoài quốc doanh sống trong điều kiện khó khăn (ăn, ngủ, sức khỏe, vệ sinh không đảm bảo…), tiền công rẻ mạt, cường độ lao động cao; 71,2% trẻ làm việc từ 9 đến 10 giờ/ngày; 72% trẻ làm việc cả ngày Chúa Nhật. Nhóm trẻ độ tuổi 15-17 có tỷ lệ tham gia lao động tương đối cao (63,3% so với độ tuổi). Điều đáng chú ý là có khoảng 15% trẻ em làm thuê, phải làm các nghề với điều kiện nặng nhọc và độc hại như sản xuất gốm, sành sứ, vật liệu xây dựng dân dụng. Không ít trẻ em hiện nay đang nằm trong tình trạng bị lạm dụng sức lao động, thậm chí bị xâm phạm cơ thể và danh dự…(Nguồn: baomoi.com).
Tình trạng trẻ em bị lạm dụng tình dục: Theo số liệu từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, trong 5 năm từ 2011 đến 2015, cả nước có 5.300 vụ xâm hại tình dục trẻ em. Tính trung bình, cứ 8 giờ trôi qua lại có một trẻ em Việt Nam bị xâm hại. Đa số thủ phạm là người quen của nạn nhân. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng con số này chỉ là những vụ việc được báo cáo, còn rất nhiều vụ nạn nhân bị chính kẻ xâm hại dọa dẫm hoặc vì lý do nào đó đã không được thống kê. (Nguồn: news.zing.vn).
Là người kitô hữu, chúng ta hãy nói không với các tình trạng trên. Thay vào đó, chúng ta luôn phải biết tôn trọng sự sống, quan tâm và chăm sóc trẻ em, nhất là những người cha người mẹ hãy quan tâm chăm sóc con cái của mình, không được bỏ rơi chúng.
Bài báo với tựa đề: “Giáng sinh đầu đời không cha mẹ nhưng đầy ắp tình thương của em bé bị bỏ rơi” được đăng trên trang điện tử vietbao.vn đáng chúng ta suy nghĩ. Bài báo viết như sau: Giáng sinh là khoảng thời gian cả gia đình quây quần bên nhau, cùng nhau hưởng trọn cảm giác ấm áp tình yêu thương. Thế nhưng đâu đó vẫn có những đứa trẻ không nhận được hơi ấm gia đình khi bị bố mẹ bỏ lại giữa những ngày tiết trời lạnh xuống. Đó là trường hợp của bé gái chào tại Bệnh viện Từ Dũ (Sài Gòn) ngày 4/12, nặng 2,8 kg, hoàn toàn khỏe mạnh. Bé gái chào đời vào ngày 4/12. Theo chia sẻ từ các bác sĩ, bé gái được sinh tại bệnh viện và xuất viện sau đó. Tuy nhiên, 2 ngày sau bố mẹ em đã mang bé đến bệnh viện nhờ chăm sóc rồi bỏ đi với lý do không thể tiếp tục nuôi em. Mặc dù mọi người cố gắng liên lạc với người thân nhưng không được. Thông tin duy nhất mà các bác sĩ biết được đó là mẹ bé còn khá trẻ, 23 tuổi quê ở Kiên Giang. Bố mẹ bé gái đều còn khá trẻ và đã bỏ lại em khi không đủ khả năng nuôi dưỡng. Thế là hơn 2 tuần qua dưới sự chăm sóc của các bác sĩ nơi đây, đặc biệt là bác sĩ Nguyễn Thị Từ Anh, Trưởng khoa Sơ sinh, bé gái phần nào cảm nhận được tình yêu thương trong những ngày đầu đến với thế giới mới lạ.
Không được bên bố mẹ nhưng em vẫn nhận được đầy đủ tình yêu thương từ các bác sĩ. “Chúng tôi muốn bù đắp phần nào cho con. Khi lớn lên, nhìn lại những bức ảnh này, con gái sẽ vững tin khi biết rằng con không cô đơn trong cuộc đời này”, bác sĩ Từ Anh chia sẻ. Chiếc mũ len Giáng sinh màu đỏ trên đầu bé gái chính là món quà nhỏ xinh mà mọi người nơi đây tự tay cắt may và mua thêm một vài vật liệu trang trí như cây thông Noel để tạo nên bức ảnh đầu đời thật ý nghĩa cho con. (Nguồn: vietbao.vn)
Lạy Chúa Hài Nhi, mặc dầu Chúa phải sinh ra trong hang bò lừa thiếu thốn đủ điều, nhưng thay vào đó Chúa lại được sưởi ấm bằng tình yêu thương của Mẹ Maria và Thánh Giuse. Xin cho các thai nhi và trẻ em hôm nay cũng được bảo vệ bởi những người có trách nhiệm, đặc biệt là người cha người mẹ, để các em được sinh ra, lớn lên xứng đáng là một con người, là con cái Chúa. Amen.
Sinh ra làm người, ai cũng được chăm sóc nuôi dạy để lớn lên, trưởng thành, rồi tiếp đến là GS-400
Sinh ra làm người, ai cũng được chăm sóc nuôi dạy để lớn lên, trưởng thành, rồi tiếp đến là mỗi người tự nhiên biết khao khát kiếm tìm hạnh phúc, tuy quan niệm về hạnh phúc có khác nhau. Không phải các học sinh sinh viên trước khi bước vào kỳ thi họ mới chăm chỉ học tập nghiêm túc. Không phải chỉ những ai hấp hối trên giường bệnh, họ mới là đối tượng cần tỉnh thức hy sinh hãm mình làm việc đền tội. Cũng không phải người lắm tiền nhiều của là họ được xã hội ban tặng cho biệt danh là giầu sang phú quý. Thời gian và cơ hội thì ai cũng có, còn làm việc chăm chỉ và sống nghiêm túc, hầu gặt hái được niềm vui hạnh phúc ra sao, tuỳ tự do của mỗi người.
Sức khoẻ, kiến thức, sách vở, sẽ là người thầy chỉ giúp chúng ta cách kiểm tiền, …đủ sống, còn trường đời, kinh nghiệm, sẽ là bài học giúp ta thực hành và trở nên giầu sang phú quý. Hàng năm, cứ mỗi dịp kỷ niệm Con Thiên Chúa đến trần gian, là người ta gởi thiệp, gởi những lời cầu chúc Giáng Sinh và năm mới anh lành cho nhau. Hàng ngày hàng tuần, mỗi người đang tận dụng thời giờ để làm giầu vật chất tiền của, làm giầu kiến thức xã hội. Nhưng để được giầu sang phú quý theo tinh thần Kitô giáo, nhất thiết tâm hồn chúng ta phải có Chúa, phải biết sống lời tin yêu có Chúa. No đủ về đời sống tâm linh, bình an và vui mừng sẽ không còn là khẩu hiệu, lý thuyết: khôn làm cột cái, dại làm cột con, vì tất cả chúng ta là những môn đệ đang sống hiệp thông trong sự giầu sang phú quý của Thiên Chúa.
Cha ông chúng ta có để lại lời răn dạy: giầu tình giầu nghĩa thì nên, giầu tiền giầu của chẳng cho là giầu. Bài học cụ thể mà các mục đồng năm xưa cho thấy, họ là những người nghèo, đủ ăn đủ sống, song bỗng chốc họ trở nên giầu sang, hạnh phúc, vì họ đã gặp, đã hiểu, đã tuyên xưng Hài Nhi Giêsu là Thiên Chúa làm người. Được hạnh phúc trong an bình khi gặp Chúa giáng sinh, nhưng sau đó các mục đồng trở về với đàn súc vật bằng một tâm hồn hân hoan vui sướng: “họ vừa đi vừa ca hát, chúc tụng Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy”. Tâm tình mà người thời nay không khỏi thắc mắc, người giầu có là ai ? Chúng ta sẽ không khó trả lời, thưa đó là người biết hài lòng với những gì mình đang có, là người mà tâm hồn luôn bình an trong ơn nghĩa Chúa.
Người thời nào cũng hiểu giầu sang phú quý theo quan niệm thế gian là lắm tiền nhiều của, là địa vị chức quyền, là tài giỏi xinh đẹp. Tại hang đá bò lừa năm xưa đã lý giải sự bình an niềm vui tâm hồn, mới đúng thật là người giầu sang trong tình yêu Chúa. Người thông thái là ai ? là người học được tất cả từ mọi tầng lớp: mưu cao trí dầy, hoặc kẻ nghèo hèn ít chữ. Người mạnh mẽ là ai ? là người kiểm soát được niềm đam mê của mình: khuyên ai ăn ở cho lành, kiếp này chưa gặp để dành kiếp sau. Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy: danh vọng, tài sản, có thể rơi xuống từ bầu trời vũ trụ, sự giầu sang phú quý có thể tự tìm đến với ta, nhưng mỗi người phải tự đi tìm sự hiểu biết.
Nếu giầu sang phú quý như các mục đồng, chính là sự bình an tâm hồn. Mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng sẽ được biến đổi để thấy niềm vui hạnh phúc khi có Chúa, khi chúng ta hiểu tiếng hát của các thiên thần: Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Cha ông chúng ta có câu: khôn khéo lấy miệng mà sai, vụng dại lấy vai mà đỡ. Tuy không phải là người khôn khéo, cũng chẳng ai nỡ cho chúng ta danh hiệu là vụng dại, ý thức mình thuộc về Chúa đã là tốt rồi, song vì tình Chúa, tình người đang hoà nhập với ơn gọi nên lời tôn vinh chúc tụng.
Hài Nhi Giêsu tại hang đá đang thinh lặng, mẹ Maria và cha Giuse cũng không ồn ào, hát khen bằng môi miệng, tất cả như một lời mời gọi hãy đến bái thờ, kính viếng, hãy để tiếng hát của Thiên Thần tiếp tục vang lên ngợi khen tôn vinh. Sự giầu sang sẽ mãi là một nhắc nhớ: thành danh, thành người, hệ tại việc chúng ta vượt qua được những khổ đau, thất bại, mà vẫn không mất đi sự quyết tâm tin Chúa, theo Chúa. Xin tình yêu của Hải Nhi Giêsu tiếp tục sưởi ấm tâm hồn và thánh hoá sự giầu sáng phú quý của mỗi chúng ta. Amen.