Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 1-A Bài 1-50: Hãy tỉnh thức để sẵn sàng -------------------------------------------- Phúc Âm: Mt 24, 37-44: "Hãy tỉnh thức để sẵn sàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong thời ông Noe xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. Cũng như trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy. Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi. Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. "Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến". - Ðó là lời Chúa.
Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có kể lại một câu chuyện như sau: Bấy giờ vua nước Ngô định đem: MV 1-A1
Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có kể lại một câu chuyện như sau:
Bấy giờ vua nước Ngô định đem quân đánh nước Tề, nhiều người lên tiếng can ngăn, nhưng vua chẳng chịu nghe, lại còn ra lệnh nếu ai nói tới việc đình chiến thì sẽ bị chém đầu.
Một vị quan trẻ tuổi nhưng nổi tiếng khôn ngoan, luôn ba ngày liền cứ sáng sớm mang cung đến khu vườn trong hoàng cung. Không đếm xỉa gì tới sương rơi và nắng gội. Ngày thứ ba, vua gặp và hỏi:
- Khanh là chi đó ?
- Thưa trên ngọn cây cổ thụ này có con ve sầu hút gió, uống sương và kêu ve ve suốt ngày. Tưởng mình yên thân, song đằng sau xa xa có con bọ ngựa đang rình nhảy tới vồ. Trong khi bọ ngựa định tóm cổ ve sầu, thì ở gần đó có con chim sẻ dòm ngó, tính bắt con bọ ngựa. Nhưng chính con chim sẻ này lại không dè dưới gốc cây có người đang nhắm bắn mình. Chính tôi đây đang rình bắn con chim sẻ, thì lại quên rằng sương rơi và nắng gội có thể làm mình bị cảm và chết. Cũng như nhiều người, tôi chỉ nhìn thấy cái lợi nhỏ nhen trước mắt mà quên mất cái hại tày đình sau lưng.
Hiểu vị quan này có ý thức tỉnh mình, vua nước Ngô đã nghĩ lại, đình chỉ việc đem quân xâm lấn nước Tề.
Cũng vậy, những đam mê lo chạy theo tiền tài, danh vọng và lạc thú, đã làm chúng ta quên mất thần chết đang rình rập ở sau lưng. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng biết rằng mình sẽ phải chết và hằng ngày luôn đối đầu với nó. Cái chết ở trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định.
Mặc dù đã ý thức, nhưng chúng ta lại quên, không chịu sống đạo và thu tích cho mình một kho tàng thiêng liêng. Chúng ta mải miết chạy theo tiền tài, danh vọng và lạc thú, như vua nước Ngô đem quân xâm lăng, mở thêm chút bờ cõi, kiếm thêm chút danh vọng, không ngờ rằng một khi mình giàu sang, thì sẽ bị một nước khác nhòm ngó và chiếm đoạt.
Bởi đó, trước hết không được đặt trọng tâm đời mình vào tiền của, bởi vì càng lắm tiền của thì càng nhiều lo âu, càng nhiều bè bạn giả tạo và càng nhiều cám dỗ, để rồi sa chân vào vòng cờ bạc, rượu chè, ma túy và tội lỗi.
Nếu có chút dư thừa, thì hãy biết sử dụng vào những việc bác ái, giúp đỡ những người chung quanh, bởi vì chỉ những cái chúng ta biêt cho đi hôm nay, thì ngày mai mới thuộc về chúng mãi mãi mà thôi.
Tiếp đến không được đặt trọng tâm đời mình vào danh vọng, bởi vì càng cao danh vọng càng dày gian nan và càng lắm kẻ thù. Trèo cao thì ngã đau.
De Girandin là một vị tổng thống, khi nằm trên giường bệnh, được bạn bè tới thăm và nhắc lại những công lao sự nghiệp, thì ông đã trả lời:
- Mấy cái đó nào có ăn thua chi. Hãy cầu nguyện cho tôi thì tốt hơn.
Sau cùng, cũng đừng đặt trong tâm đời mình vào lạc thú vì lạc thú như một thứ rượu nồng, càng uống càng khát, càng tìm kiếm càng thấy mình hèn kém và đáng khinh dễ.
Thánh Alphongsô, một nhà thần học nổi tiếng, đã quả quyết:
- Có tới 90% những người sa xuống hỏa ngục, chỉ vì đã phạm tội này.
Thực tế cho hay: phạm những tội khác, chúng ta dễ dàng sám hối ăn năn, còn phạm tội này, chúng ta ít khi chịu dừng lại, đã phạm một lần, thì thường cứ tiếp tục phạm mãi.
Hãy sẵn sàng vì thần chết luôn rình rập sau lưng. Hãy sẵn sàng vì Chúa sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết.
Hãy chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, là một tâm hồn trong trắng và một đôi tay chất đầy công nghiệp, được kết đọng từ những hành động bác ái yêu thương chúng ta đã thực hiện.
Bằng không, khi Chúa đến vào cuối đoạn đường đời, chúng ta sẽ phải bẽ bàng và cay đáng vì thấy mình trắng tay, vì thấy mình phá sản, vì thấy mình chẳng có gì để đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu.
Vì không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc: MV 1-A2
“Vì không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trần gian chấm dứt, chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Ngài…”. Tỉnh thức có nghĩa là chúng ta phải sống mỗi ngày như là một ngày cuối cùng, “cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi việc”.
Một vị linh mục lớn tuổi đã kể lại câu chuyện sau đây. Xưa kia ở New York, có một bà mẹ sống với một người con trai. Chẳng may đứa con trai bị bệnh nặng. Bà mẹ không còn mong muốn gì hơn là tìm gặp được người thầy thuốc giỏi chữa lành bệnh cho con bà. Bà nghe người ta đồn về một ông bác sĩ rất giỏi từ Vienna, Ao quốc, sẽ ghé thăm thành phố New York, và bà hy vọng sẽ mang đứa con trai đến cho ông chữa bệnh. Vào một buổi tối mùa đông, thời tiết rất xấu, bên ngoài trời mưa lạnh, bà nghe rõ có tiếng gõ cửa. Mở hé cửa ngó ra ngoài bà chỉ nhìn thấy một người đàn ông tóc phủ bờ vai cùng với bộ râu dài và lướt thướt. “Thưa bà, trời đêm tối lạnh lẽo và ướt át, tôi có thể vào nhà bà được không ?” Người đàn ông hỏi. “Rất tiếc,” người đàn bà nói, “tôi không thể đón tiếp ông được !” Rồi bà đóng sầm cánh cửa và khóa kín lại.
Ngày hôm sau, người đàn bà mở tờ nhật báo ra. Ngay trang nhất, bà đọc được hàng chữ lớn in đậm: “Vị Bác Sĩ Nổi Tiếng Từ Vienna Viếng Thăm New York.” Phía dưới hàng chữ là bức hình chụp của ông bác sĩ. Với sự ngạc nhiên và buồn rầu, đây chính là người đàn ông tóc dài với bộ râu lướt thướt đã gõ cửa nhà bà tối hôm qua !
Trái với sự tỉnh thức là ngủ mê. Ngủ mê trong ảo tưởng của tội lỗi, vật chất và trần gian. Thánh Phaolô khuyên dạy dân thành Thêxalônica như sau: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ”.
Vài thập niên vừa qua, thành phố Pittsburgh, nơi có nhiều xưởng thép và những lò luyện kim vĩ đại gây nên những tiếng đập ồn ào suốt ngày đêm. Dân chúng sống chung quanh vùng này đã quen tai với những tiếng búa, tiếng nện đến nỗi họ vẫn ngủ yên an bình. Quả vậy, tiếng động đã ru họ ngủ ngon giấc. Nhưng vào một đêm, bất chợt tai nạn xảy đến làm ngưng trệ một nhà máy lớn. Tiếng nện ồn ào ngưng hẳn. Và mọi người đã tỉnh thức.
Có một điều gì đó giống như vậy cần xảy ra cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Chúng ta đang bị vây hãm bởi sự ồn ào và những cám dỗ chia trí xung quanh. Chỉ có một điều giúp tỉnh tức là sự im lặng. Sự im lặng thực sự của tâm hồn sẽ mang lại an bình và nghe được tiếng Chúa như lời khuyên của thánh Ingatiô Antiôkia: “Lời của Chúa phán ra trong thinh lặng”.
Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Đêm sắp tàn, ngày gần hết. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội, không ăn uống say xưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghen tị, chớ lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt”.
Chúng ta có thể nói gì về những bất ngờ xảy đến khi Đức Giê-su quang lâm? Có thể có những: MV 1-A3
1. Chúng ta có thể nói gì về những bất ngờ xảy đến khi Đức Giê-su quang lâm? Có thể có những bất ngờ nào khác ngoài phương diện thời gian?
2. Sự công minh của Ngài khi xét xử trần gian có siêu việt không? Những kẻ gian ác nhưng biết ngụy trang một cách khéo léo có bị lật tẩy không?
3. Phải tỉnh thức như thế nào trước những bất ngờ của ngày Chúa đến? để vẫn có thể đứng vững trước mặt Thiên Chúa?
Suy niệm
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su cho biết Ngài sẽ trở lại trần gian để xét xử nhân loại và cho biết một số điều về ngày ấy như sau:
1. Ngài đến bất ngờ như kẻ trộm:
Đức Giê-su cho biết: «Chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến» (Mt 24,44; Lc 12,40), «Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm» (1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10). Sự bất ngờ của kẻ trộm có thể về mặt thời gian – nghĩa là không thể xác định được ngày nào, giờ nào – mà cũng có thể bất ngờ về cách thức: không biết được trộm đến theo cách thức nào, vô nhà bằng lối nào, lấy trộm thứ của cải nào, trộm sẽ giả dạng như thế nào, v.v… rất có thể kẻ trộm lại là người rất quen thuộc với ta, thậm chí là người nhà của ta nữa.
Hãy rút ra bài học từ quá khứ. Mặc dù việc Đức Giê-su đến trần gian đã được báo trước cả mấy trăm năm trước, và được toàn dân Ít-ra-en mong đợi, thế mà khi Ngài đến, chẳng mấy ai nhận ra Ngài. Tệ hơn nữa, họ còn kết án và giết chết Ngài một cách tàn ác. Cách Ngài đã đến khác hẳn với cách mà hầu hết mọi người nghĩ tới trước đó. Cách Ngài đến thật bất ngờ mà người thường không ai có thể tưởng tượng ra nổi. Lời Kinh Thánh báo trước cả mấy trăm năm đều được ứng nghiệm, nhưng ứng nghiệm cách khác hẳn với cách giải thích hay cách hiểu truyền thống.
Ngày Chúa đến lần thứ hai để xét xử nhân loại cũng có thể có nhiều điều hết sức bất ngờ mà con người không thể đoán trước được, không chỉ về thời gian, mà còn về nhiều mặt khác nữa. Có như thế, sự công chính hay gian tà mới lộ diện rõ rệt, vì ở thế gian, sự gian tà rất nhiều trường hợp lại được ngụy trang bằng sự công chính, và tội lỗi lại mang những bộ mặt hết sức thánh thiện. Con mắt thế gian không thể nào khám phá được, nhưng không ai qua mặt được Thiên Chúa. Đức Giê-su đã từng nói về «các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi» (Mt 7,15). Thánh Phao-lô đã từng vạch mặt những hạng người ấy: «Những kẻ đó là tông đồ giả, là thợ gian xảo, đội lốt tông đồ của Đức Ki-tô. Lạ gì đâu! Vì chính Xa-tan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công chính. Chung cục, chúng sẽ lãnh nhận hậu quả công việc chúng đã làm» (2 Cr 11,13-15).
2. Cách phán xử của Ngài công minh không ai ngờ trước được
Nếu Đức Giê-su đến để xét xử trần gian mà không vạch mặt được những giả hình gian dối ấy, nếu Ngài cũng bị hạng người này qua mặt như đã từng qua mặt mọi người trần, thì sự phán xử của Ngài còn gì là công minh nữa? Với tư cách là vị phán trần gian, cách xét đoán của Ngài sẽ phải hết sức công minh, công minh vượt hẳn và khác hẳn cách suy đoán của mọi người. Ngày ấy, biết bao điều bị che dấu thật khôn khéo và kỹ lưỡng, đến nỗi chưa hề có ai biết, sẽ bị đưa ra ánh sáng: «Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết» (Lc 12,2), và «những việc tốt thì đã rành rành; mà cả những việc không tốt cũng chẳng che giấu được» (1 Tt 5,25). Chính vì thế mới có những chuyện bất ngờ như: «nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu» (Mc 10,31; x. Mt 20,16; Lc 13,30).
Nhiều kẻ tưởng mình là công chính hoặc được mọi người tưởng là như thế nhưng lại bị Ngài xét là gian ác, ngược lại có nhiều kẻ tưởng mình thuộc loại xấu đáng kết án hoặc bị mọi người tưởng là như thế, nhưng lại được Ngài xét là công chính. Dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14) là một thí dụ điển hình cho sự trái ngược ấy. Còn bao nhiêu chuyện trái ngược như thế được biểu lộ trong Thánh Kinh: «Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8,11-12; nên xem thêm Rm 9,30-32; 10,20). Vì thế, tới lúc ấy, chẳng ai dám tự hào mình công chính, vì càng tự hào thì càng dễ trở nên bất chính do chính sự tự hào ấy: «Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã» (1 Cr 10,12).
Ngày ấy, sẽ có rất nhiều người tưởng mình công chính vì tự thấy mình chưa bao giờ làm một điều gì xấu, lại làm được biết bao việc phúc đức, nhưng lại không được coi là công chính, mà thậm chí ngược lại, vì:
– biết bao nhiêu lần họ đã bỏ qua không làm những việc quan trọng và cần thiết mà đấng bậc họ buộc phải làm
– họ có thói quen thờ ơ trước những đau khổ cùng quẫn của người chung quanh, họ không làm gì cả mà lương tâm chẳng hề cắn rứt
– họ thường xuyên nhắm mắt làm ngơ để mặc bất công hoành hành đang khi mình có khả năng can thiệp hoặc chặn đứng lại được
– họ hay tự hào về những việc tốt lành của mình đồng thời lên mặt khinh chê người khác
Và cũng biết bao người tỏ ra khô khan nguội lạnh nên tưởng mình là bất chính nhưng lại được Chúa xét là công chính, vì:
– đã thực tình sám hối và quyết tâm không bao giờ tái phạm
– khi đụng chuyện cần phải hy sinh cho tha nhân thì đã hy sinh một cách quảng đại, không tính toán, biết quên mình thật sự.
– biết mình yếu đuối, nên luôn luôn tỏ ra khiêm nhường, biết cảm thông với những yếu đuối, sai lầm của mọi người.
3. Số phận con người khi ấy được định đoạt khác nhau
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su cho biết: «Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại». Chúng ta chưa biết ý nghĩa chắc chắn của hai từ «được đem đi» và «bị bỏ lại», nhưng qua đó, ta biết được số phận mỗi người lúc ấy được định đoạt một cách khác nhau: kẻ «bị» người «được», kẻ khổ người sướng. Tất cả đều tùy thuộc vào cách sống, cách cư xử và hành động của mỗi người ở trần gian: Ngài «cứ theo công việc mỗi người mà xét xử» (1 Pr 1,17; Kh 20,12-13), «sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm» (Mt 16,27; x. Rm 2,6). Thánh Gia-cô-bê còn cho biết: «Đừng ham làm thầy thiên hạ, vì anh em sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn» (Gc 3,1).
Đó là ngày của công lý. Những kẻ gây bất công sẽ phải đền tội: «Thiên Chúa sẽ trả báo, nghĩa là bắt những kẻ gây gian truân cho anh em phải chịu gian truân» (2 Tx 1,6), «Ai ăn ở bất công sẽ được trả theo điều bất công mình làm; không có chuyện thiên vị» (Cr 3,25). Còn những kẻ đã phải đau khổ và chịu bất công vì Thiên Chúa, vì tha nhân, sẽ được đền đáp: «Anh em sẽ được coi là xứng đáng tham dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ» (2 Tx 1,5).
4. Cần phải tỉnh thức
Vì không ai biết được ngày quang lâm của Chúa xảy đến lúc nào, và xảy ra thế nào, nhưng có điều chắc chắn là sẽ có nhiều điều rất bất ngờ, không ai dè trước được. Chính vì thế, Đức Giê-su đề nghị với chúng ta một thái độ khôn ngoan, đó là phải tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là phải sống làm sao để dù Chúa đến vào bất kỳ lúc nào, dưới bất kỳ hình thức nào, hoặc xét xử công minh đến đâu, thì ta vẫn có thể đứng vững trước mặt Ngài. Vậy cần phải tỉnh thức cách nào?
Thái độ tốt nhất trước mặt Thiên Chúa là thái độ tự hủy và yêu thương. Tự hủy là coi nhẹ cái tôi của mình, không coi mình là cái gì quan trọng, không tự hào, không tự cho mình hơn ai, không kết án ai, và cũng không coi ý riêng của mình là sáng suốt, khôn ngoan hơn người. Yêu thương là thể hiện tinh thần tự hủy một cách tích cực hơn, ích lợi hơn cho tha nhân: sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích và hạnh phúc của tha nhân. Yêu thương đòi hỏi phải tự hủy như một điều kiện cần thiết. Không thể yêu thương đích thực nếu không tự hủy. Sống tinh thần tự hủy và yêu thương như thế là cầu nguyện đúng nghĩa nhất: cầu nguyện bằng chính cuộc sống, là kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa nơi tha nhân, một sự kết hiệp thực tế và bằng hành động cụ thể. Đó là cách tích cực để ta nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Thiên Chúa xét xử ta khoan hay nghiêm tùy thuộc rất nhiều vào sự khoan nghiêm của ta đối với tha nhân: «Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót. Còn với ai biết thương xót, thì Người chẳng quan tâm đến việc xét xử» (Gc 2,13). Ngài không thể không tha thứ cho những ai luôn luôn tha thứ. Ngài sẽ phải tha thứ vô điều kiện cho những kẻ luôn luôn tha thứ vô điều kiện. Chắc chắn Ngài không thể thua con người về lòng khoan dung. Vả lại chúng ta đã hợp đồng với Chúa như thế khi đọc kinh Lạy Cha, theo sự chỉ dạy của Đức Giê-su: «Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con» (Mt 6,12; x. Lc 11,4). Khốn cho chúng ta nếu đã hợp đồng với Chúa như thế mà lại không biết tha thứ: «Nếu anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như vậy» (Mt 18,35). Như thế, luôn luôn tha thứ cho mọi người một cách vô điều kiện, dù lỗi họ có nặng đến đâu, không cần họ phải hối hận hay xin lỗi, là một bí quyết giúp ta hoàn toàn trắng án trong ngày đó, cho dù tội lỗi ta có nặng đến đâu.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con biết sống yêu thương, quên mình, đồng thời biết cảm thông với những đau khổ cũng như những yếu đuối của tha nhân, để con biết ra tay cứu giúp, biết tha thứ những lầm lỗi của họ. Con nghĩ đó là cách tỉnh thức đón chờ Đức Giê-su đến một cách khôn ngoan nhất. Xin cho con thực hiện được những điều ấy, để ngày ấy Cha sẽ hài lòng về con và ngày ấy cũng sẽ là ngày hạnh phúc nhất của con. Amen.
“Các con phải sẵn sàng” (Mt 24:44) vì “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13:12).
“Hãy bước: đi trong ánh sáng của Chúa” (Is 2:5).
Đó là lời mời gọi cấp thiết khởi đầu cho một năm phụng vụ. Thế là một mùa Vọng lại về. Bao: MV 1-A4
Đó là lời mời gọi cấp thiết khởi đầu cho một năm phụng vụ. Thế là một mùa Vọng lại về. Bao tâm hồn lại nao nức chuẩn bị cho ngày lễ Giáng sinh sắp đến.
“Đêm sắp tàn, ngày gần tới” rồi sao? Nhưng khi nào là đêm và lúc nào là ngày? Làm sao biết được ranh giới giữa ngày và đêm?
Một vị sư phụ đã nêu câu hỏi với các học trò của mình: “Chúng con có biết khi nào đêm chấm dứt và lúc nào ngày bắt đầu?” Một anh nhanh nhẩu: “Thưa thầy, ấy là lúc ta thấy một con vật từ đàng xa và phân biệt được nó là con bê hay con lừa.” Một anh khác, sau lúc suy tư cũng xin góp ý: “Thưa thầy, khi nào ta nhìn thấy người bộ hành và phân biệt được là thù hay bạn.” Nhiều câu trả lời khác cũng được đưa ra nhưng dường như vị sư phụ không thoáng một chút hài lòng. Cuối cùng cả đám nhao nhao xin thầy giải thích. Sau phút trầm ngâm như muốn thấm sâu giòng tư tưởng, vị sư phụ lên tiếng: “Khi nào các con nhìn vào tha nhân và nhận ra đó chính là anh chị em mình thì đêm đã tàn và ngày đã tới.”
Thế ra không phải việc “phân biệt” con vật này hay con vật kia hoặc người này hay người nọ, song là “nhận ra” tha nhân là anh chị em mình, mới làm cho bóng tối ran đi và ánh sáng toả rạng.
Đêm đen sẽ mãi thống trị tâm hồn nếu đời tôi cứ đắm chìm trong hiềm khích, hận thù, bất công, chia rẽ, vô luân, lừa dối. Còn khi để cho yêu thương dẫn lối cuộc sống, ngày mới cuộc đời đã bắt đầu lên ngôi, nhờ ánh quang soi tỏ mọi lối đường.
Nỗi khát mong đợi chờ cho ánh sáng tình yêu thống trị địa cầu đã bắt đầu thành sự khi Đức Giêsu là “Mặt Trời Công Chính” bừng lên và cũng là “Hoàng tử Bình An” ngự đến.
Ấy thế mà dường như nỗi khát mong đợi chờ ấy vẫn không ngừng lập đi lập lại. Phải chăng vì tâm hồn nhân thế cứ bị bóng đêm của thế gian đe dọa chiếm đoạt, nên ước nguyện ánh sáng chân lý chiếu soi vẫn mãi là đặc tính của mùa Vọng hằng năm?
Ngày xưa, theo truyền thuyếg của dân Rôma, tối 24 tháng 12 là ngày sinh của thần mặt trời, để rồi sáng hôm sau vị thần đó vươn mình đứng lên mang lại ánh sáng và sự sống cho nhân gian. Thế nên, khắp cùng đế quốc, người ta mừng lễ Natalis Solis Invicti vào ngày đông chí, tức là ngày 25 tháng 12, khởi đầu thời kỳ thần ánh sáng thắng vượt tối tăm, bước qua giai đoạn ngày dài hơn đêm.
Vào năm 336, Đức Giáo Hoàng Jules I đã ấn định ngày đông chí như ngày kỷ niệm Đức Giêsu – “Mặt Trời Công Chính” – đã giáng sinh cho nhân loại. Thế là ngày lễ ngoại giáo đã được Kitô hoá. Nét truyền thuyết và thần thoại được thay bằng tính chất xác thực của biết cố Nhập thể.
Từ đó trở đi, cứ mỗi lần sắp đến 25 tháng 12, giáo dân khắp nơi nô nức chuẩn bị tâm hồn cho ngày đại lễ Giáng Sinh. Họ không ngừng ăn chay hãm mình, quảng đại thứ tha, đổi mới đời sống, chờ mừng ngày Chúa ngự đến. Dần dần những việc làm đó trở thành đặc tính căn bản của mùa Vọng, mùa trông mong ngày sinh nhật Đấng Cứu thế.
Đã bao mùa Giáng sinh trôi qua, nhưng có lẽ “tính chất căn bản” của mùa Vọng đó đã phai mờ trong lòng nhiều người. Khi xưa, Giáo hội Kitô hóa ngày lễ ngoại giáo thành lễ Giáng sinh để hướng con người đến với nguồn sáng và nguồn sống đích thực. Còn hôm nay, không chừng tôi lại đang tục hóa ngày lễ thiêng liêng kia để rồi lòng mình cứ mãi lắng lo trong bao sự đời.
Ngày xưa mùa Vọng đã trở nên lời nhắc nhở canh tân lối sống, sửa sang tâm hồn, dọn lòng mừng Chúa đến. Còn hôm nay, không chừng tôi chỉ nghĩ đến trang hoàng nhà cửa, giăng thêm đèn màu, mua sắm quà cáp chuẩn bị cho những cuộc liên hoan say sưa, cuồng loạn, có khi... tội lỗi.
Một lần nữa, lời nhắn nhủ trong thơ của Thánh Phaolô lại thức tỉnh hồn tôi: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô, và chớ lo lắng thoả mãn các dục vọng xác thịt”. (Rm 13:12-14)
Thực hành lời khuyên nhủ trên là khởi sự Kitô hoá cuộc đời, là sống trọn vẹn hơn ý nghĩa của mùa Vọng năm nay, và chắc chắn, là bắt đầu cảm nếm niềm vui nhiệm mầu sâu lắng trong lễ Giáng sinh sắp đến.
"Hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến." (Mt 24:42)
Trong một bữa tiệc tất niên với bạn hữu, bà B nói nhỏ với ông A khuyên chồng bà đi xưng tội: MV 1-A5
Trong một bữa tiệc tất niên với bạn hữu, bà B nói nhỏ với ông A khuyên chồng bà đi xưng tội, để chuẩn bị lễ Giáng Sinh cách đặc biệt. Năm nay các con cháu xa gần sẽ quy tụ tại nhà ông bà để mừng lễ Giáng Sinh. Vì con cái nghĩ rằng cha mẹ họ đã già, đến với nhau được năm nào hay năm đó. Biết đâu đây là dịp cuối cùng con cái được quây quần bên cha mẹ để mừng lễ. Ông B trước đây là một người ngoan đạo, sốt mến trong các việc giúp đỡ giáo xứ, nhưng vì một hiểu lầm nào đó ông bỏ lễ luôn! Bạn bè thông cảm và khuyên rằng, nếu bất bình với cha xứ hoặc với ai trong giáo xứ mà bỏ lễ thì không đúng. Chúng tôi không bênh vực ai hết, nhưng mời ông nhìn vào thực tế của đời mình và Thiên Chúa. Đạo là do Chúa ban cho mỗi người qua Giáo Hội. Cùng với Giáo Hội đức tin của chúng ta lớn mạnh và cùng với Giáo Hội chúng ta có bổn phận phát triển nước Chúa.
Tại sao vì giận người trần mà bỏ Thiên Chúa và bỏ môi trường Chúa ban cho ta để sống và nương nhờ nhau. Trong cuộc sống chung, va chạm và hiểu lầm là chuyện thường tình. Chỉ có một điều là đừng quá khích và tự tôn mà xa nhau. Cần có sự quảng đại và thông cảm cho mỗi người trong công việc của họ thì mới xây dựng cộng đoàn dân Chúa được. Xã hội gồm nhiều người có nhiều đặc tính khác nhau, hễ bất mãn là phá, hễ không vừa ý mình là chống thì làm sao mà hòa hợp được. Ông B nghe lời khuyên có lý, nhưng vì tự ái còn âm ỷ trong mình nên trả lời rằng ‘khi gần chết thì tôi sẽ làm hoà lại." Mọi người an lòng khi nghe như vậy, nhưng ai cũng im lặng và suy nghĩ trong lòng rằng ai biết được giờ chết của mình? Ơn hòa giải đến từ Thiên Chúa hay chính mình ban ra? Quyền quyết định về phần rỗi là nơi Thiên Chúa hay chính con người? Thánh Augustinô khi đang còn sống trong tình trạng tội lỗi cũng lý luận, biện minh, và trì hoãn như thế. Ngài nói là xin cho con ơn trở lại, nhưng hãy đợi lúc sắp chết! Trong tác phẩm Confessions của Ngài kể rằng, một hôm tiếng lương tâm thúc dục: chần chờ bao lâu nữa? Ngài dày vò đầu óc tự hứa là ngày mai sẽ trở lại. Lương tâm tiếp tục cảnh cáo rằng tại sao không bây giờ, ngày mai thì không chắc chắn! Liền ngay đó có tiếng nói hai lần: Hãy cầm lấy và đọc. Ngài đi hỏi người bạn tiếng nói ấy có ý nghĩa gì, thì người bạn đưa cho cuốn Thánh Kinh, Ngài mở đúng ngay đọan Rom 13:11-14: hãy biết rằng giờ này là lúc con hãy thức dậy .
Thực Hành: "Đêm sắp tàn, ngày sắp đến ... phần rỗi chúng ta gần đến." (Rom 13:11-12) Trái đất quay chung quanh mặt trời để muôn vật có ánh sáng và sự sống. Chúa ban cho chúng ta có mùa phụng vụ để thay đổi đời mình tốt đẹp hơn và sống gần Chúa hơn. Xin cho con ơn nhạy cảm để đời con không mất đì cơ hội sống đời đời.
Hôm nay, chúng ta bước vào Mùa Vọng, vào một năm phụng vụ mới của Giáo Hội. Giáo hội: MV 1-A6
Hôm nay, chúng ta bước vào Mùa Vọng, vào một năm phụng vụ mới của Giáo Hội. Giáo hội mời gọi chúng ta phải nỗ lực canh tân đời sống đức tin và lòng nhiệt thành truyền giáo để đón Chúa Giêsu xuống thế làm người.
Thật vậy, trong mùa Vọng, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ lại việc Chúa Giêsu đã sinh ra làm người để cứu chuộc nhân loại nơi hang Bêlem, và việc chúng ta phải chuẩn bị để chào đón Người trở lại trong vinh quang để phán xét thế gian. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi phải luôn tỉnh thức để nhận biết và tiếp đón Chúa trong cuộc sống hàng ngày nơi mọi người, mọi vật, mọi biết cố nhỏ to, nhất là nơi Thánh kinh, Thánh Thể và các bí tích của Hột Thánh, để chuẩn bị sẵn sàng gặp gỡ Chúa trong giờ chết, khi Chúa đến đưa chúng ta về bên Người trong cõi vĩnh hằng.
Chúng ta có cảm nghĩ và phản ứng gì khi nhớ đến việc Chúa đã xuống thế làm người 2000 năm trước đây? Chúng ta phải làm gì để chào đón Người trở lại lần thứ hai? Chúng ta đã luôn tỉnh thức để nhận biết và tiếp đón Chúa trong cuộc sống hàng ngày chưa? Chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng để hân hoan đón nhận cái chết ngay giây phút này đây, như một cuộc gặp gỡ mà chúng ta hằng chờ mong để được chiếm hữu Chúa trong cõi vĩnh hằng chưa?
Nếu giờ đây lòng chúng ta không rộn ràng sung sướng vì tin vui Chúa đã giáng trần, nếu hiện nay chúng ta không thao thức mong chờ Chúa đến trong vinh quang, nếu lúc này chúng ta chưa cảm nhận hiện diện đầy quyền năng và tình thương của Chúa trong cuộc sống hàng ngày, nếu bây giờ chúng ta còn sợ chết, thì đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy chúng ta chưa sẵn sàng đón tiếp Chúa. Đó là dấu chúng ta chưa thực sự tin Chúa, chưa thực sự biết Chúa, chưa thực sự yêu Chúa, chưa thực sự thuộc về Chúa. Đó là dấu chúng ta còn đang ngủ, đang mê, đang sống trong bóng đêm tội lỗi.
Trong Tin Mừng của phụng vụ hôm nay, một lần nữa Chúa đang nói với chúng ta một cách khẩn thiết và thân thương như Chúa đã nói với các môn đệ khi xưa: “Hãy tỉnh thức... hãy sẵn sàng...”
Chúa đã nhắc đến việc Nôê đóng tàu để cứu sống ông và gia đình khi đại hồng thủy đến trong khi dân chúng cùng thời với ông tiếp tục sống buông thả theo dục vọng và tội lỗi của họ. Người dạy các môn đệ đừng bắt chước những người đồng thời với Nôê. Những người thời Nôê đã dại dột không biết lắng nghe ông và cố ở lì trong nếp sống sa đọa tội lỗi nên đã bị tru diệt. Chúa muốn các môn đệ của Người noi gương Nôê, biết tỉnh thức làm theo lời Chúa, đóng tàu và lên tàu với hy vọng được cứu sống.
Trong xã hội hôm nay, nhiều ngưởi trong chúng ta còn dại dột hơn những người đồng thời với Nôê bội phần. Vì chúng ta đã thấy đại lụt bắt đầu rồi mà vẫn lì lợm không chịu bước vào con tàu hy vọng Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta. Vì chúng ta đã được chính Chúa Giêwu – Con Thiên Chúa làm người, chứ không phải một người phàm như Nôê – cảnh cáo và kêu gọi phải tỉnh thức và sẵn sàng, nhưng chúng ta vẫn giả điếc làm ngơ.
Hiện nay, trên thế giới có hơn 50 triệu thai nhi bị giết hàng năm một cách hợp pháp tại hầu hết các quốc gia. Đa số các cặp vợ chồng đi ngược lại luật Chúa khi xử dụng các phương thế ngừa thai nhân tạo hay tuyệt sản để tránh bổn phận phục vụ sự sống. Bao gia đình tan rã vì ly dị. Việc ăn chung ở chạ được nhiều người coi là chuyện bình thường. Phim ảnh và sách báo đua nhau khai thác bản năng tính dục của quần chúng. Không ít linh mục và giám mục Công giáo hổ thẹn vì giáo huấn chân thực của Hội thánh về luân lý liên quan đến hôn nhân và tính dục. Nhiều tín hữu dù đã đủ ăn đủ mặc vẫn gian lận trợ cấp xã hội dành cho người cùng khổ. Có những chủ nhân Công giáo bóc lột nhân công cách tàn nhẫn. Có không ít những đố kị ghen ghét bôi lọ nhau diễn ra ngay trong sinh hoạt của các giáo xứ và cộng đoàn Kitô hữu. Đó là chưa kể đến những gương xấu của những người lãnh đạo tên tuổi và những cuộc chém giết bạo động được ghi nhận trên báo chí hàng ngày.
Những sự kiện kinh hoàng trên đây không đủ để làm thành một thứ “văn hóa tử vong” hay một cuộc đại hồng thủy của tội lỗi còn ghê tởm hơn cuộc đại lụt thời Nôê đó ư? Lời kêu gọi thống thiết của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và các vị chủ chăn chính trực của Hội Thánh nhằm ngăn chặn các tội ác chống lại sự sống và phẩm giá con người không phải là sự lập lại lời kêu gọi của ông Nôê hay của chính Chúa Giêsu khi xưa sao?
Nôê và gia đình của ông năm xưa đã được cứu thoát khỏi đại hồng thủy vì đã đóng tàu và vào tàu như lời Chúa truyền dạy. Con tàu Nôê đã là biểu tượng của hy vọng và của ơn cứu độ.
Cũng vậy, ngày nay chúng ta sẽ được cứu thoát khỏi cơn đại lụt của tội lỗi đang dâng tràn trên thế giới, nếu chúng ta biết nổ lực xây dựng và gắn bó với con tàu hy vọng là Hội Thánh Công Giáo – Nhiệm thể Chúa Kitô và sự Hiện diện nối dài của chính Chúa Kitô – và lắng nghe mệnh lệnh của viên thuyền trưởng là chính Chúa Kitô mà Đức thánh Cha là vị đại diện hữu hình của Người.
Trong con tàu hy vọng ấy, chúng ta không những được bảo đảm thoát khỏi hiểm họa của đại lụt của tội lỗi, mà còn được diễm phúc gặp gỡ và kết hợp mật thiết với Chúa Kitô qua Lời Chúa và các bí tích của Hội thánh cũng như các hoạt động bác ái và truyền giáo của Hội thánh.
Những cây đinh, những tấm ván, và những cây cột mà chúng ta dùng để dựng xây con tàu Hội thánh chính là những lời cầu nguyện, những hy sinh hãm mình, những hành động yêu thương và những hoạt động tông đồ mà chúng ta thực hiện trong sự yêu mến, vâng phục và hiệp nhất với Hội thánh.
Chúng ta có tỉnh thức và sẵn sàng để cùng các môn đệ yêu quý của Chúa Kitô qua mọi thời đại bước vào con tàu hy vọng của Hội thánh và nỗ lực góp phần xây dựng Hội thánh chưa?
Một lần nữa, chúng ta hãy nghe thánh Phaolô – một trong những người có công đầu trong việc dựng xây và lèo lái con tàu Hội thánh theo ý Chúa Kitô – mời gọi chúng ta chuẩn bị để bước lên tàu hy vọng với những lời tha thiết như sau:
“Phải như thế, vì anh em biết thời buổi (nào ta đang sống). Đã đến giờ anh em phải tỉnh ngủ thức dậy, vì nay ơn cứu thoát đã gần ta hơn là khi ta mới tin. Đêm hầu tàn, ngày sắp đến. Vậy ta hãy vất bỏ những vật tối tăm và hãy mặc lấy khí giới sự sáng. Như giữa ban ngày, ta hãy sống đoan trang, chứ không phải trong chè chén và say sưa, trong dâm dật và phóng đãng, trong kình địch và ghen tuông. Nhưng anh em hãy mặc lấy Đức Kitô và đừng lo toan về xác thịt, cho thỏa các đam mê.” (Rm 13:11-14)
Lạy Mẹ Maria là nguồn hy vọng và cậy trông của chúng con, xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa Giêsu cho hết thảy chúng con trong năm phụng vụ mới nầy và suốt cả đời chúng con, ơn luôn nhận biết Hội thánh chính là con tàu hy vọng Chúa đã ban cho nhân loại để chúng con được ơn cứu rổi. Xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng con luôn trung thành, yêu mến và vâng phục Hội thánh và Đức thánh cha để luôn được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ. Amen.
Đoạn Tin mừng hôm nay làm cho chúng ta liên tưởng tới cái chết. Dầu vậy, Chúa không muốn: MV 1-A7
Đoạn Tin mừng hôm nay làm cho chúng ta liên tưởng tới cái chết. Dầu vậy, Chúa không muốn cho cuộc đời chúng ta chìm trong một màu tang tóc và một bàu khí nơm nớp lo sợ, nhưng để chúng ta luôn sẵn dàng và nhìn cái chết bằng cặp mắt lạc quan.
Đúng thế, có một câu danh ngôn đã bảo:
- Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết thì lại bấp bênh vô định.
Có một mẩu chuyện cổ tích kể lại rằng: Vào một buổi sáng mùa xuân, thày dòng giữ cửa trong một tu viện, nghe thấy tiếng chim hót véo von. Thày ngước mắt trông xem và nhìn thấy một con chim họa mi rất đẹp, thày liền đuổi theo, con chim cứ bay một quãng rồi lại dừng, làm thày miệt đuổi theo, đến lúc thày lạc vào một khu rừng vắng thì con chim biến mất.
Thày tìm đường trở lại nhà dòng. Mãi tới chiều mới về đến. Cửa nhà dòng đóng chặt, thày nhấn chuông và một người ra mở cổng. Thày ngơ ngác nhìn người lạ mặt và những sự đổi thay trong nhà dòng. Thày tự giới thiệu nhưng không một ai nhận biết. Mãi sau cha bề trên đem sổ sách ra tìm tòi, thì mới thấy một thày canh cổng trùng tên đã mất tích cách đây 100 năm. Một trăm năm trôi qua mà thày cứ tưởng như là một tiếng chim hót.
Thời giờ thấm thoát tựa thoi đưa, vụt đến rồi vụt đi như ngựa hồng qua khung cửa. Và một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại, như người ta thường bảo:
- Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông.
Mới hôm nào tôi còn là một đứa bé, đầu để chỏm ba quả đào, mà hôm nay đã ngoài năm mươi, để rồi bắt đầu bước vào tuổi già.
Những em thiếu nhi đang ngồi đây, nhưng rồi 20 , 30, 40 năm nữa sẽ như thế nào? Nhất là còn bao lâu nữa sẽ đến giây phút trọng đại, giây phút cuối cùng của cuộc đời tôi. Nói như thế, chắc hẳn sẽ có người cho tôi là lẫm cẩm, vì họ nghĩ rằng:
- Đời mình còn dài và cứ dệt nhiều ước mơ, thân xác mình còn đầy tràn nhựa sống và hăng say hoạt động.
Nhưng chúng ta sẽ lầm, cái chết không dành riêng cho một người nào đó. Nó muốn gọi ai, thì người ấy phải bước theo nó, dù là vua chúa quyền uy. Nó không bao giờ phân biệt giai cấp, tuổi tác cũng như ngôn ngữ vàchủng tộc.
Trên mộ bia của của một thanh niên người ta đọc thấy dòng chữ:
- Cái chết thật vô lễ vì nó dám kéo người trai trẻ này đi trước cụ già.
Một làn gió nhẹ, một sơ suất nhỏ bé cũng đủ đưa chúng ta sang thế giới bên kia bất cứ lúc nào. Ý thức được sự mỏng manh, bèo bọt của kiếp sống là như thế, nên thái độ cần phải có, đó là hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Đúng thế, cách đây khá lâu tôi quen một gia đình ở Sài gòn. Mùa hè năm ấy, sau khi cậu con trai đỗ tú tài phần hai, cả gia đình rủ nhau đi Vũng tàu. Buổi sáng Chúa nhật trời trong xanh, giữa lúc mọi người đùa giỡn với sóng biển, thì cậu con trai bơi ra xa, xa hơn một chút và rồi cậu không bao giờ trở lại nữa.
Một xoáy nước nào đó đã cuốn mất cậu, người ta tìm kiếm hoài mà cũng không thấy, mãi sau xác cậu nổi lên và dạt vào bờ.
Thế nhưng, chúng ta có biết được niềm an ủi độc nhất của người cha và người mẹ đáng thương ấy không? Hai ông bà đã nói với tôi rằng:
- Nó mới xưng tội và vẫn còn rước lễ sáng hôm đó.
Thật tốt đẹp nếu chúng ta có một linh hồn được chuẩn bị sẵn sàng, bằng không thì chúng ta sẽ mất cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi, mất cả đời này lẫn đời sau.
Trên mộ bia của những người thời xưa, chúng ta thường thấy ghi háng chữ tuyệt vời:
- Người này đã chết sau nụ hôn của Chúa.
Chúng ta hãy sống thế nào, để dù Chúa có đến vào lúc chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết thì chúng ta vẫn sẵn sàng, vẫn bình an và vui sướng. Vậy mỗi ngày sống, chúng ta có biết chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng này hay không? Trong cơn hấp hối, người ta đã hỏi thánh nữ Marguerite Alacoque rằng:
- Còn cần sự gì nữa chăng ?
Thánh nữ đã trả lời:
- Không, vì tôi đã sẵn sàng.
Cũng vậy trong giờ chơi, một xơ đã hỏi các em nhỏ:
- Nếu như bây giờ được Chúa gọi về, các em sẽ làm gì?
Em thì bảo sẽ giục lòng ăn năn tội cách trọn, em thì bảo sẽ vào nhà thờ đọc kinh cầu nguyện. Thế nhưng có một em đã trả lời:
- Phần con, con vẫn tiếp tục chơi như thường vì con đã sẵn sàng.
Em bé ấy sau này đã trở nên một vị thánh đó là thánh Gioan Berchmans.
Nếu hôm nay tôi phải đến trước tôn nhan Chúa, liệu tôi đã thu xếp xong mọi công việc hay chưa? Tôi đã trả hết những món nợ đối với Chúa và đối với anh em hay chưa? Tôi đã tẩy xóa hết những vết nhơ tội lỗi qua bí tích cáo giải hay chưa?
Nếu chúng ta biết sửa soạn ngay từ ngày hôm nay, nếu mỗi khi chiều xuống chúng ta biết xét mình, tự vấn lương tâm và chỉ ngủ yên khi nào linh hồn mình đã được gột rửa qua tâm tình thống hối, nếu chúng ta giữ được màu trắng của tấm áo ngày rửa tội , nếu chúng ta giữ được ngọn nến đức tin luôn bừng cháy, thì thật là hạnh phúc và giờ chết không còn là giờ kinh hoàng và đáng sợ nữa.
Nếu bây giờ chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng, thì khi Chúa đến, chúng ta sẽ không chết, nhưng chính lúc ấy chúng ta mới bát đầu sống. Cuộc sống nơi trần thế là một chuyến viễn du trong đêm tối hay trên mặt biển dậy sóng. Nhưng ở đằng kia bình minh đang ló dạng và Thiên Chúa đang mở rộng vòng tay chào đón chúng ta nơi bờ bến hạnh phúc.
Hãy sống để chuẩn bị cho cái chết và hãy chết để được sống muôn đời.
Càng ngày các thiên tai càng xảy ra nhiều hơn trên toàn thế giới. Bão tố, lũ lụt, động đất, hạn: MV 1-A8
Càng ngày các thiên tai càng xảy ra nhiều hơn trên toàn thế giới. Bão tố, lũ lụt, động đất, hạn hán…Và sự tàn phá của các thiên tai thật là khủng khiếp. Các bình luận gia cho rằng: Một trong những nguyên nhân đưa đến sự thiệt hại lớn lao về sinh mạng và tài sản do các thiên tai gây ra, đó là vì người ta thiếu cảnh giác và đề phòng. Thực vậy, nếu những nơi nào người ta biết cảnh giác, biết đề phòng thì sẽ tránh được nhiều thiệt hại do thiên tai đem đến.
Tại Việt Nam, các cơn bão, các trận lũ lụt thường xảy ra vào khoảng tháng 11, tháng mà Giáo hội nhắc nhở người Kitô hữu suy nghĩ về sự chết. Thời gian này cũng là những tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ và bắt đầu một năm phụng vụ mới. Các bài đọc Lời Chúa trong các thành lễ của thời gian này nói nhiều về ngày cùng tận của thế giới và về ngày cùng tận của mỗi người. Đó là những biến cố quan trọng mà con người không thể dửng dưng. Trái lại, phải biết cảnh giác, biết đề phòng để khi những biến cố ấy xảy đến, chúng không hủy diệt con người và cuộc sống của mình. Quả là một sự trùng hợp về thời gian rất đáng để chúng ta suy nghĩ.
Tổng kết các thiệt hại chúng ta thấy rằng: Thiên tai thường cất đi mạng sống của nhiều người. Trong số đó có những con người còn rất khỏe mạnh, rất trẻ trung. Có lẽ gia đình và bản thân những người ấy đã không nghĩ rằng họ sẽ chết trong tình trạng sức khỏe và tuổi tác như thế. Vậy mà họ đã chết. Thì ra, sức khỏe và sự trẻ trung không phải là những thế lực có thể thắng được cái chết.
Trong số những người chết vì thiên tai, cũng có những người nắm giữ những chức vụ quan trọng trong xã hội, có những người giàu sang quyền quí, có những người học cao hiểu rộng, thông minh tài trí…Có thể họ là những người cần thiết và hữu ích cho nhân loại, thế nhưng, cái chết vẫn không chừa họ ra.
Các thiên tai cũng phá đổ nhiều công trình kiến trúc, nhiều ngôi nhà cao tầng kiên cố, đã quét sạch tài sản của nhiều người. Những cao ốc và những tài sản này có khi là công sức của nhiều thế hệ mới tạo lập nên được. Người ta đã tưởng chúng sẽ có thể tồn tại lâu dài theo năm tháng và sẽ là điểm tựa, là chỗ ẩn náu vững chắc cho cuộc sống. Vậy mà chỉ trong nháy mắt,tất cả đã biến thành tro bụi.
Thế đấy ! Những gì mà người ta nghĩ rằng không thể đến thì chúng đã đến. Những gì mà người ta nghĩ rằng chúng chưa xảy ra thì chúng đã xảy ra. Và khi sự việc đã xảy ra thì người ta mới tỏ ý hối tiếc. Hối tiếc rằng: Phải chi họ đã cảnh giác đề phòng, đã tiên liệu, thì hậu quả đâu đến nỗi bi đát như vậy. Phải chi đài khí tượng thủy văn đã được trang bị hiện đại hơn để có thể ghi nhận những thay đổi của thời tiết một cách chính xác và mau lẹ hơn. Phải chi hệ thống thông tin đã loan báo tin bão khẩn cấp, tin lũ lụt sớm hơn và kịp thời hơn. Phải chi họ đã di dời nhà cửa trước khi cơn bão lũ xuất hiện. Phải chi họ đã không ra khơi trong những ngày đó. Phải chi các tàu thuyền đã chuẩn bị phao cứu hộ đầy đủ hơn… Có cả hàng trăm câu”phải chi”như vậy.
Tuy nhiên, dù người ta hối tiếc về sự thiếu chuẩn bị, thiếu đề phòng trong những biến cố đã qua, thì người ta vẫn quên hay cố tình quên không chuẩn bị, không cảnh giác đề phòng một biến cố khác sẽ đến. Biến cố này quan trọng hơn cả các thiên tai dữ dội nhất và là biến cố rất quan trọng của một đời người. Biến cố ấy chính là giờ chết của mỗi người. Biết rằng cái chết sẽ đến, nhưng người ta vẫn né tránh không nghĩ tới nó. Lý do có thể là người ta sợ hãi khi nghĩ tới giờ chết, tới cái chết của chính mình. Người ta cũng lo sợ rằng khi nghĩ về giờ chết, về sự chết thì cuộc đời của họ sẽ bị đảo lộn. Thật vậy, khi nghĩ tới giờ chết một cách nghiêm túc, người ta sẽ phải thay đổi đời sống, sẽ phải bỏ đi một lối sống buông thả, một lối sống ươn lười chỉ thích hưởng thụ, sẽ phải bỏ đi những lợi nhuận bất chính, bỏ đi những đam mê thấp hèn, bỏ đi những khoái lạc mang nặng thú tính v.v… Phải bỏ đi những trái cấm ngọt ngào ấy quả là đáng tiếc. Vì thế, người ta ngại nghĩ đến giờ chết của mình. Nhưng dù nghĩ tới hay không thì giờ chết vẫn cứ đến như một thứ định mệnh không thể né tránh. Đối với những ai không chuẩn bị để đón nó, cái chết sẽ như những thiên tai khủng khiếp hủy diệt tất cả.
Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta hãy tỉnh thức, hãy cảnh giác đề phòng. Đề phòng bằng cách đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên để thấy được trời cao lồng lộng ở trên đầu mình chứ không phải chỉ có cuộc tạm gửi này. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên để hướng tới hạnh phúc đích thực và trường cửu chứ không chỉ biết bám vào những thứ hạnh phúc mau qua. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên để vươn tới tầm cao của sự thánh thiện chứ không chỉ biết cúi xuống với những lời mời chào của tội lỗi.
Một người thuộc bộ lạc miền núi cả đời như chưa từng thấy ánh sáng văn minh. Một hôm ông được: MV 1-A9
Một người thuộc bộ lạc miền núi cả đời như chưa từng thấy ánh sáng văn minh. Một hôm ông được đưa xuống thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên, ông giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Sau khi được người chung quanh cho biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hỏa hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Người dân miền núi nhìn ngọn lủa đang bốc cháy tại một góc trời, rồi ông trở lại giường ngủ tiếp.
Trở về làng, ông báo cáo với các chức sắc trong làng như sau: Người dân thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu. Khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe nói thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ các loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hòa hoạn xảy đến trong làng, tất cả dân làng đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa cứ vô tình thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng và thất vọng của mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại diễn tiến cơn hỏa hoạn, một người dân thành thị mới giải thích cho dân làng như sau: Các người thật ngây ngô, các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt được ngọn lửa ư ? Không phải thế đâu. Tại thành phố, người ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy, chứ không ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.
Qua đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà chờ đợi. Để nói lên sự tỉnh thức đích thực, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ đêm ngày trung thành với công việc được chủ trao phó. Sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu kêu mời là một sự tỉnh thức tích cực đòi hỏi lao tác và phấn đấu. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở cho các tín hữu Thessalonica về thái độ tích cực tỉnh thức ấy. Trong những năm đầu của Kitô giáo, một số tín hữu tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trong một sớm một chiều, nên họ ăn không ngồi rồi và dây mình vào chuyện người khác. Thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy tỉnh thức bằng cách hăng say lao động và thực thi bác ái.
Tỉnh thức là thái độ cơ bản của người Kitô hữu. Toàn bộ thánh kinh là một lời mời gọi tỉnh thức, bởi vì Thiên Chúa là đấng đang đến trong từng phút giây cuộc đời, trong từng biến cố và trong mỗi con người. Tỉnh thức để nhận ra Ngài và nhất là đáp trả một cách tích cực tiếng gọi của Ngài, Ước gì cuộc sống đức tin của chúng ta không chỉ là tiếng trống khua inh ỏi trong bốn bức tường nhà thờ, mà phải được thể hiện bằng những gặp gỡ để cảm thông và phục vụ.
Chúng ta bắt đầu mùa vọng với hai đặc tính: vừa chuẩn bị mừng lễ giáng sinh, kính nhớ việc: MV 1-A10
Chúng ta bắt đầu mùa vọng với hai đặc tính: vừa chuẩn bị mừng lễ giáng sinh, kính nhớ việc con Thiên Chúa đến lần thứ nhất, vừa trông đợi Ngài đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì vậy, mùa vọng được coi là mùa sốt sắng và hân hoan trông chờ.
Qua đoạn tin mừng sáng hôm nay chúng ta thấy: Chúa Giêsu nói Ngài sẽ trở lại, nhưng không xác định thời giờ. Vì thế, bổn phận của chúng ta không phải là tìm hiểu xem bao giờ ngày trọng đại ấy sẽ xảy ra, nhưng là chuẩn bị cho mình bằng cách tỉnh thức và săn sàng, bởi vì ngày đó sẽ đến thật hết sức bất ngờ cho những kẻ miệt mài chạy theo vật chất trần gian. Trong câu chuyện ngày xưa, Noe đã chuẩn bị cho mình khi thời tiết còn tốt, hầu sẵn sàng cho trận đại hồng thủy, đang khi ấy, những kẻ còn lại thì mải mê ăn uống, cưới gả, nên đã bị nước lụt cuốn trôi. Vì thế, đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi sống đời đời, đừng quá quan tâm đến thế gian, mà quên rằng có một Thiên Chúa và vấn đề sống hay chết đều nằm ở trong bàn tay của Ngài. Bất kỳ khi nào Ngài gọi, ban sáng, ban trưa, ban chiều hay ban tối, chúng ta đều phải sẵn sàng.
Một tên trộm sẽ không bao giờ gửi thư báo trước mình sẽ viếng thăm nhà nào. Lợi thế của hắn ta chính là sự bất ngờ. Vì vậy chủ nhà lúc nào cĩng phải canh chừng. Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhớ rằng: Chúa cảnh giác chúng ta chứ không chơi khăm chúng ta bằng cách cứ nhắm vào lúc chúng ta sơ hở mà trở lại. Hơnthế nữa, người Kitô hữu không trông chờ trong sợ hãi kinh khiếp, nhưng trông chờ trong hân hoan vui mừng vì Chúa sẽ đến và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta.
Ông thanh tra khi đến thăm một trường tiểu học đã nói với các em học sinh rằng:
-Tôi sẽ trở lại đây. Vậy từ nay cho đến ngày tôi trở lại, em nào giữ được bàn mình sạch gọn thì sẽ được thưởng.
-Vậy bao giờ ông trở lại ?
-Chưa biết hôm nào.
Trong số các học sinh có một cô bé quả quyết rằng mình sẽ chiếm được phần thưởng. Ai nghe cũng phải mỉm cười vì cô bé ấy nổi tiếng là lười biếng. Có người hỏi:
-Bàn của cô có bao giờ sạch đâu mà mong được thưởng ?
-Từ nay, mỗi buổi sáng tôi sẽ thu xếp một lần.
-Nhưng nếu ông thanh tra đến vào buổi chiều hay buổi tối thì sao ?
Cô bé yên lặng một lúc rồi nói:
-Tôi hiểu rồi, như thế thì lúc nào tôi cũng phải giữ bàn của tôi cho được sạch sẽ và gọn ghẽ.
Nếu chúng ta muốn được Chúa ân thưởng thì chúng ta cũng phải tỉnh thức và săn sàng như vậy.
Chúa sẽ đến nhưng bao giờ Ngài đến thì đó là một điều bí ẩn, bởi vì Ngài sẽ đến vào: MV 1-A11
Chúa sẽ đến nhưng bao giờ Ngài đến thì đó là một điều bí ẩn, bởi vì Ngài sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ vào giờ chúng ta không biết. Vì thế phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Đồng thời thái độ nguy hiểm nhất đó là cứ cho rằng mình còn nhiều thời giờ.
Trong một cuộc đại hội của quỉ sứ, chúng bàn bạc và góp ý xem đâu là phương thế hữu hiệu nhất để cám dỗ con người. Tên quỉ thứ nhất nói:
-Tôi sẽ bảo cho loài người biết rằng chẳng có Thiên Chúa .
Tên quỉ thứ hai phát biểu:
-Tôi sẽ bảo cho họ hay rằng chẳng có hỏa ngục.
Satan trả lời:
-Các ngươi sẽ không thể lừa dối được một ai bằng những phương cách đó, bởi vì cho đến ngay hôm nay, loài người vẫn tin rằng có Thiên Chúa và vẫn biết có một hỏa ngục dành cho các tội nhân.
Tên quỉ thứ ba hiến kế:
-Tôi sẽ bảo với loài người rằng còn nhiều thời gian, nên đừng có vội vã làm chi. Satan đáp:
- Hãy đi đi, với phương cách này, chúng ta sẽ làm hại được rất nhiều người.
Ảo tưởng nguy hiểm nhất chính là ảo tưởng cho rằng mình còn nhiều thời giờ. Cái ngày tai hại nhất trong cuộc sống con người chính là khi chúng ta học được hai chữ ngày mai và trì hoãn công việc bởi vì không ai biết ngày mai có còn đến với mình nữa hay không. Bởi đó, có một câu danh ngôn đã khuyên chúng ta: Việc hôm nay chớ để đến ngày mai. Lịch sử còn ghi lai nhiều câu chuyện bi thảm.
Viên pháp quan ở Thebea đang ngồi uống rượu với các dũng sĩ của mình, bỗng có sứ giả bước vào và báo cho ông hay về một âm mưu sát hại ông. Thay vì lên phương án đối phó. Ông nói: để đến mai hãy hay. Thế nhưng ngay đêm hôn đó, ông đã bị giết chết.
Một thiếu nữ Mã lai lấy chồng giàu ở Nữu ước. Ngày kia trên đường từ Cali trở về, cô gặp tai nạn giao thông và bị thương rất nặng. Lúc còn trẻ, cô là người đạo đức. Tuy nhiên cuộc hôn nhân đã đưa cô vào một môi trường khác hẳn. Ở đây không còn một ai nói với cô về Thiên Chúa và cuộc sống vĩnh cửu. Lúc đầu, thái độ và bàu khí dửng dưng về tôn giáo này làm cho cô khó chịu, nhưng dần dần cô tiêm nhiễm sự xa hoa để rồi cuối cùng chính cô cũng không còn lưu tân đến Thiên Chúa và linh hồn nữa. Tai nạn bất ngờ đã kéo cô ra khỏi vùng xoáy của trần gian và ném cô vào vòng tay tử thần. Cô khắc khoải hỏi vị bác sĩ:Tôi sẽ chết ư ? Tôi còn sống được bao lâu nữa ? Chừng một giờ. Nghe vậy toàn thân cô run rẩy. Cô đưa tay che mặt lại và nằm yên không động đậy trong giây lát. Sau đó, hình như cô lấy hết sức còn lại và nói: Xin hãy đưa tôi về Nữu ước. Nhưng vị bác sĩ trả lời:
-Không thể được.
Với vẻ thất vọng, cô nói:
-Tôi đã có thể làm biết bao nhiêu điều tốt lành với tiền bạc của tôi nếu tôi trung thành với đức tin. Thế nhưng tôi chỉ nghĩ đến những cuộc giải trí và trang điểm. tôi chỉ còn sống được một giờ nữa mà thôi. Bây giờ thì đã quá muộn rồi.
Bởi đó, hãy chuẩn bị, hãy tỉnh thức và hãy sẵn sàng, để chúng ta khỏi phải thốt lên trong tuyệt vọng: đã quá muộn rồi.
Khi còn trẻ, ta ấp ủ những hy vọng lớn nhất. Ta tưởng có thể thay đổi được thế giới. Ta hoàn: MV 1-A12
Khi còn trẻ, ta ấp ủ những hy vọng lớn nhất. Ta tưởng có thể thay đổi được thế giới. Ta hoàn toàn tin tưởng vào khả năng của mình, và thấy dường như không gì mà không thực hiện được. Khi đã lớn khôn ta lại thấy khác hẳn. Ta đã gặp thất bại. Ta biết rõ giới hạn của mình và của những kẻ chung quanh mình hơn. Ta đã biết phát hiện rõ hơn những gì trong lòng con người… và trong chính con tim của ta nữa. Lúc đó ta trở thành cụ thể và thực tế, như người ta nói. Ta ngày càng ít ảo tưởng. Có lẽ ta không bỏ hoàn toàn những giấc mơ tuổi trẻ của mình, nhưng ta nhận thấy rằng chúng đã tàn phai. Bốn mươi, năm mươi tuổi, thường là thời kỳ mà người ta trở nên ít nhiệt tình và e ngại trước nhiều sự việc mà trước kia ta cho là chính yếu. Hòa bình thế giới ư? Lý tưởng đẹp đẽ thật; nhưng ta không bao giờ đạt tới được đâu! Công lý cho mọi người, lương thực được phân phát đồng đều khắp nơi ư? Có nhiều không tưởng trong những điều ấy! Nếu thời trẻ say mê tin tưởng sẽ có được như thế, thì điều khôn ngoan là nên dè dặt hơn khi ta đã lớn tuổi. Những tháng năm trôi qua, những biến cố xẩy đến trên thế giới, những kinh nghiệm sống của bản thân, sẽ thử thách niềm hy vọng của chúng ta. Đấy là điều chắc chắn. Vậy cần có thời gian để thức tỉnh, để làm cho niềm hy vọng ấy trở nên mạnh mẽ hơn. Mùa Vọng là thời gian cần thiết đó. Năm này sang năm khác, mùa Vọng công bố lại những lời sấm vĩ đại, nâng đỡ, soi sáng và kích thích tín hữu. Không tưởng đối với loài người… Dự án đối với Thiên Chúa.
Điều làm chúng ta ngạc nhiên trong các bản văn của thánh lễ hôm nay là dáng vẻ phi thực tế của chúng. Đoạn sách ngôn sứ Isaia chúng ta vừa nghe là một thí dụ. Bản văn này loan báo ngày mà tất cả các dân tộc sẽ hướng về Thiên Chúa, sẽ đón nhận và thực thi giáo huấn của Ngài. Lúc đó họ sẽ sống trong hòa bình sâu xa nhất, và trong một tình thương huynh đệ gương mẫu. Các bạn hãy tưởng tượng xem? “Gươm đao sẽ thành cuốc thành cày, và giáo mác thành liềm thành hái. Nước này sẽ không chống nước kia nữa, người ta sẽ thôi học nghề chinh chiến. Hết xung đột tại Trung đông! Hết đấu tranh giữa người da trắng và da đen, người giàu và kẻ nghèo. Hoàn toàn hết chạy đua vũ trang!... Ta tưởng như mình đang mơ. Thiên Chúa ngây thơ đến thế ư? Không đâu! Ngài là Thiên Chúa. Ngài toàn năng. Ngài là chủ tể của cái chưa từng thấy và của cái không thể được. Ngài muốn – và Ngài sẽ thực hiện – một hạnh phúc hoàn toàn cho những con người mà ngài đã tạo dựng nên”. Thiên Chúa đã cho thấy những gì Ngài đã làm cho những kẻ thuộc về Ngài rồi. Nhất là Ngài đã tự tỏ mình ra từ ngày Con Một Ngài là Chúa Giêsu đến ở giữa chúng ta. Ta hãy nhớ! Chúa Giêsu đã làm cho người què đi được, cho kẻ phong cùi được sạch, đã tha thứ cho kẻ có tội. Nhờ Ngài, Nước Thiên Chúa đã đến giữa chúng ta, và mỗi ngày một tiến triển. Đúng là nó tiến triển chậm chạp, và với nhiều khó khăn cản trở. Đôi khi, dường như nó bị mất đất, diều này cũng đúng nữa. Tuy nhiên Thiên Chúa chăm sóc tất cả những gì Ngài đã trồng và khi đến giờ Ngài lựa chọn, theo cách của Ngài, Ngài sẽ biểu dương tất cả sức mạnh của Ngài, tất cả tình thương của Ngài. Ngày mai sẽ tốt đẹp hơn hôm qua, tốt đẹp hơn hôm nay. Bao nhiêu điều gây ngạc nhiên đang chờ đợi chúng ta.
Cụ thể hóa niềm hy vọng
Những gì Thiên Chúa có thể làm và muốn làm, Ngài đều chờ đợi sự đóng góp của chúng ta. Ngài đòi hỏi chúng ta cộng tác vào. Trách nhiệm nặng nề, vì chúng ta có thể hợp tác hoặc chống đối, làm cho nhanh hoặc chậm lại sự tiến triển của Nước Chúa. Để hỗ trợ sự tiến triển này chúng ta phải là những kitô hữu “Tỉnh thức”, luôn luôn chờ đợi, luôn luôn đẩy lui sự dữ và làm nẩy sinh sự thiện. Đó là giáo huấn của thánh Phaolô và của Tin mừng. Chúng ta phải nói với thế giới, như Chúa Giêsu đã làm, rằng mọi cuộc tái sinh đều có thể được, và bóng tối có thể biến thành ánh sáng được. Sứ vụ của kitô hữu chúng ta hôm nay, là nhìn thế giới và những con người sống trong đó với chính cái nhìn của Thiên Chúa: Tức là hành động, bằng những công việc phản ánh những công việc của Chúa Kitô. Sứ vụ của chúng ta là bỏ đi những sự nghi nan và những nỗi thất vọng để trở thành như Chúa Kitô, tức là những con người không bao giờ thất vọng về điều gì cả, bởi vì họ hy vọng mọi sự từ nơi Thiên Chúa, Đấng không ngớt làm chúng ta ngạc nhiên trong những điều chúng ta mong đợi.
Vào năm 1987, người ta cho trình chiếu cuốn phim mang tựa đề: “After day”, nghĩa là “ngày: MV 1-A13
Vào năm 1987, người ta cho trình chiếu cuốn phim mang tựa đề: “After day”, nghĩa là “ngày sau đó” kể lại nghịch cảnh của ít người dân trong thành phố lớn thuộc miền bắc Hoa kỳ còn sống sót sau một trận bom nguyên tử. Vụ nổ bom hạt nhân đã xảy ra vì cái điên loạn của con người khi quyết định dùng vũ khí hạt nhân để hủy diệt sự sống của mọi sinh vật, thuộc mọi đại lục trên thế giới. Ngày tận thế ấy kéo theo cảnh chết chóc, hoang tàn đổ nát, đau khổ và thất vọng của những người đang chờ đến lượt mình phải chết, vì bị nhiễm chất phóng xạ, bị thương tích và bị thiếu đồ ăn thức uống.
Trong cảnh đổ nát hoang tàn và chết chóc ấy, những người còn sống sót đã tàn sát nhau để tranh giành từng miếng bánh, từng chút bột, từng ngụm nước. Trong nháy mắt, thế giới văn minh của loài người biến khỏi mặt đất và con người phải đứng trước cảnh đổ nát với hai bàn tay trắng, bất lực và tuyệt vọng.
Các bài đọc trong Chúa nhật I Mùa Vọng hôm nay cũng nói với chúng ta về ngày tận thế, nhưng không phải là ngày tận thế bị chết chóc, buồn thương, mà là ngày tận thế khởi đầu cho một cuộc sống mới. Đó cuộc sống của tự do và của ơn cứu độ. Muốn được như thế, chúng ta phải sống đẹp lòng Thiên Chúa chứ không phải sống đẹp lòng người ta, dù người ta ấy có là ai đi chăng nữa. Nhưng phải là gì để làm đẹp lòng Thiên Chúa đây? Phải lớn lên, phải trưởng thành, phải sung mãn trong tình yêu thương tha nhân. Thiên Chúa vui sướng hạnh phúc khi thấy chúng ta trưởng thành và lớn lên trong tình yêu thương ấy, tình yêu thương mà Ngài đã trao ban cho chúng ta qua chính con người của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế.
Ngoài ra, mỗi người chúng ta cần phải luôn luôn đón chờ Chúa Giêsu đến trong tâm hồn và trong cuộc đời bằng cách sống thánh thiện và kiên vững chờ đợi Chúa đến. Bởi vì sống thánh thiện tức là sống yêu thương trọn vẹn. Các thánh là những người biết noi gương Chúa Giêsu sống yêu thương trọn vẹn. Càng biết yêu thương tha nhân với một tình yêu vô vị lợi, thì càng trở nên giống Chúa Giêsu bấy nhiêu. Càng giống Chúa Giêsu bao nhiêu, thì chúng ta lại càng giống Thiên Chúa bấy nhiêu. Đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và làm cho Ngài vui sướng hạnh phúc nhất.
Thế giới và xã hội loài người gặp nhiều khổ đau, vì con người không biết yêu thương nhau, hay không yêu thương nhau theo tinh thần Tin mừng của Chúa mà Ngài mời gọi. Như vậy, cách thức đón chờ Chúa Giêsu hữu hiệu nhất là hãy bắt đầu yêu thương nhau. Bởi vì đó là bí quyết vun trồng mầm giống sự sống thần linh và xây dựng trời mới đất mới cách cụ thể và hữu hiệu nhất.
Năm phụng vụ mới được Giáo Hội hội bắt đầu với Chúa nhật thứ nhất mùa vọng. Thế nhưng, mùa: MV 1-A14
Năm phụng vụ mới được Giáo Hội hội bắt đầu với Chúa nhật thứ nhất mùa vọng.
Thế nhưng, mùa vọng không phải chỉ là thời gian để Giáo Hội nhìn về quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã giáng sinh và cử hành biến cố này với lễ Noel. Nghĩa là mùa vọng không phải chỉ là mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Nhưng mùa vọng còn là thời gian hướng con người về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa vọng hướng con người đến với Thiên Chúa, Đấng đang đến trong lịch sử, đang hướng dẫn toàn thể vũ trụ đến sự thành toàn viên mãn cuối cùng. Thiên Chúa đến gặp con người trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và hướng dẫn con người đến sự thành toàn viên mãn, nhưng Ngài không áp đặt con người, vì Ngài tôn trọng tự do của con người. Con người cần lắng nghe lời mời gọi tỉnh thức, canh tân đời sống, đó là sừ điệp mà bài đọc II và Tin mừng Chúa nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta.
Nơi thơ thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma đã khuyên các tín hữu:” Anh em thân mến! Anh em biết rằng đã đến lúc chúng ta phải thức dậy, vì giờ đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn lúc chúng ta mới tin đạo, đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày” (Rm 13,11- 14).
Đó là những lời khuyên vẫn còn thiết thực cho mỗi người tín hữu trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày nay, ngõ hầu sống trong sự sẵn sàng khi Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách thình lình không ai ngờ trước được. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy Chúa Kitô, hãy để cho dung mạo Chúa được chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách thức tốt đẹp nhất để tiếp đón Chúa ngự đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc âm Chúa nhật thứ nhất Mùa vọng diễn tả Ngài đến như kẻ trộm:” Vậy các con cũng phải sẵn sàng vì lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
Chúa đến như kẻ trộm, Ngài đến gặp chúng ta trong chính cảnh sống của mình, trong chính lúc chúng ta chu toàn bổn phận. Tỉnh thức đón Chúa không có nghĩa là chu toàn bổn phận của mình, mà là chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô là hãy mặc lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chu toàn bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì, nhưng trong thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.
Chuyện kể rằng, một thày dòng nọ đọc đâu được trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ mách bảo: MV 1-A15
Chuyện kể rằng, một thày dòng nọ đọc đâu được trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ mách bảo cho biết rằng: “Tận cùng chân trời của trái đất là nơi trời với đất gặp gỡ nhau”.
Phấn khởi vui mừng, thầy lên đường tìm kiếm nơi trời mới đất mới gặp nhau và sẽ không trở về nhà cho tới khi tìm được. Ngày tháng trôi qua, thầy vẫn kiên nhẫn rảo bước khắp nơi với niềm hy vọng mãnh liệt trong tâm hồn, bất chấp mọi khó khăn gian khổ và thử thách, những lần phải chịu đói khát, giá rét và không gì có thể lay chuyển được ý định của thầy.
Trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ ấy có chỉ thêm rằng: “Khi tới chỗ đất với trời gặp nhau sẽ thấy có một cánh cửa, chỉ cần gõ nhẹ cánh cửa sẽ mở ra và người ấy sẽ gặp thấy Thiên Chúa”.
Thật vậy, sau nhiều ngày tháng đi tìm kiếm đó đây khắp mặt đất, cuối cùng thầy dòng đã tới trước cánh cửa. Thầy vui mừng gõ cửa bước vào, lúc đó thầy dòng mới hoảng hồn nhận ra đó là Tu viện cũ của thầy, là cửa của căn phòng mà thầy đã từng sống bao nhiêu năm qua.
Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã hứa với dân chúng rằng: “Ai xin sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa sẽ mở cho”. Đời sống trần thế là thời gian tìm kiếm Chúa với hy vọng vững chắc là sẽ được gặp Ngài, nhưng cần phải tìm kiếm Chúa ở đâu?
Thật sự không cần phải đi tìm kiếm Chúa ở tận nơi xa xôi hoặc mãi nơi chân trời nào cả, Thiên Chúa hiện diện ngay trong tâm hồn mỗi người, cùng đồng hành với mỗi người trong mọi hoàn cảnh vui buồn, sướng khổ của cuộc sống. Vấn đề quan trọng là có biết nhận ra những giờ, những nơi hẹn mà Chúa đang chờ đợi ta hay không?
Chúng ta biết tỉnh táo và chuẩn bị sẵn sàng là thái độ của mỗi người đầy tớ trung tín, chứ không phải là thái độ cần thiết của những người gác cổng mà thôi. Tỉnh thức có nghĩa là các đầy tớ sẽ làm các công việc khác nhau của mình một cách ý thức, là tiến hành công việc mà Thiên Chúa đã ủy thác cho họ thực hiện. Tỉnh thức là biết mình đang làm gì đến nỗi vừa làm việc, vừa có thể nghe được hơi thở của mình. Sự ý thức lựa chọn mà mỗi người làm trong giây phút hiện tại sẽ định đoạt số phận vĩnh hằng của mình sau này.
Giáo Hội như người mẹ hiền nhắc nhở con cái là những người có lòng tin phải sẵn sàng chờ đợi ngày trở lại sau cùng của Chúa Giêsu, ngày trở lại đó ai cũng biết là chắc chắn mặc dù không ai biết trước được khi nào ngày giờ đó sẽ xẩy đến. Cũng là điều tốt cho chúng ta khi không biết chắc chắn lúc Chúa Kitô sẽ trở lại, bởi vì nếu biết thời điểm đích xác chúng ta có thể bị cám dỗ ỷ lại, lười biếng trong công việc của mình cho Chúa Kitô, hoặc tệ hại hơn nữa là tiếp tục ngồi lì trong con đường tội lỗi với hy vọng sẽ trở lại với Chúa trong giờ phút cuối cùng.
Tỉnh thức và sẵn sàng, tức là lúc nào cũng sẵn sàng chuẩn bị để bất cứ lúc nào ông chủ vềbất thình lình, Người vẫn thấy chúng ta có mặt thay vì ngủ nghê hoặc lêu lổng với công việc bổn phận. Để được thế, chúng ta cần luyện tập, làm việc cách trung thành với công việc Chúa đã ban cho chúng ta trong giây phút hiện tại, cũng đừng để cho trí tuệ tinh thần của chúng ta ra u mê, sống buông thả hay sự mù quáng đuổi theo các đam mê điên rồ hoặc để cho các lo âu đời sống đè bẹp, trói buộc chúng ta mãi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán bảo chúng con hãy luôn tỉnh thức kẻo sa chước cám dỗ, xin ban sức mạnh cho chúng con để chúng con luôn bền tâm trong công việc thiện, trong khi chờ ngày Chúa đến. Ước chi mỗi lần Chúa đến gõ cửa nhà tâm hồn chúng con, Chúa sẽ hài lòng thấy chúng con luôn tỉnh thức trong cầu nguyện, vui mừng ca tụng Chúa và nhiệt thành thực thi bác ái với mọi người. Amen.
Theo Phúc âm thánh Matthêu thì việc canh phòng chờ đợi ngày Chúa đến được giải thích bằng: MV 1-A16
Theo Phúc âm thánh Matthêu thì việc canh phòng chờ đợi ngày Chúa đến được giải thích bằng ba dụ ngôn: Dụ ngôn kẻ trộm đến bất ưng ban đêm và người đầy tớ bất trung, người trinh nữ ban đêm chờ đợi chàng rể đến và các nén bạc phải được sinh lời cho chủ.
Lời căn dặn chung của ba dụ ngôn này: “Các con hãy tỉnh thức, bởi vì các con không biết Chúa đến lúc nào”. Nếu dụ ngôn thứ nhất mà chúng ta suy niệm hôm nay không nói rõ việc cảnh phòng ở tại cái gì, thì dụ ngôn thứ hai sẽ giúp chúng ta hiểu ra ngay, đó là việc chu toàn sứ mệnh đã lãnh nhận. Việc Chúa trở lại được loan báo trong các dụ ngôn là điều chắc chắn, nhưng ngày giờ Ngài đến lại không thể biết được. Vì không thể biết trước, nên cần phải tỉnh thức và canh phòng đợi chờ.
Trong nhiều cộng đồng kitô hữu thời các thánh Tông đồ, việc chờ đợi Chúa đến được lưu ý một cách đặc biệt. Chúa đến trong ngày tận thế đã gây nên những phản ứng khác nhau nơi các tín hữu thành Thessalônica, họ thất vọng vì chờ đợi quá lâu, nên họ lãng quên vì công việc làm, vì ham thích thú vui. Chính thánh Phaolô tông đồ đã nhắc tới tình trạng này trong thư gởi tín hữu Thessalônica như sau: “Kẻ thì sống qua ngày không làm lụng gì cả, người thì luôn luôn lo lắng bối rối về nhiều chuyện”.
Sau khi nhắc đi nhắc lại cho các tín hữu biết ngày giờ của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm, thánh Phaolô khuyên họ bằng những lời sau đây: “Thưa anh em, vì mình không ở trong chỗ tối tăm, nên ngày ấy vụt đến với anh em như kẻ trộm. Anh em hết thảy đều là con cái sự sáng, con cái ban ngày không thuộc về ban đêm hoặc bóng tối, nên chúng ta chẳng phải chết như những người khác. Vậy chúng ta hãy tỉnh thức và điều độ”.
Có những người đã dùng những từ ngữ kinh hoàng gây nên sợ hãi về giờ chết và ngày phán xét, nhưng đây không là mục tiêu, là nhân tố thiết yếu của việc canh phòng theo tinh thần Phúc âm. Bởi vì việc chờ ngày Chúa đến không phải là lý do gây nên sợ hãi một cách nô lệ cho những người theo Chúa Kitô. Trái lại, đây là lý do của niềm tin cậy, của ước ao, của khát khao và của nguồn vui chan chứa được gặp Chúa. Ngài có thể đến với chúng ta hôm nay và ngày mai như kẻ trộm đến bất ưng vào ban đêm. Chúng ta không dễ gì nhận ra Ngài và đón tiếp Người, nếu chúng ta không chuẩn bị, không canh phòng và sẵn sàng chờ đợi.
Nhờ đức tin chúng ta biết rằng, Thiên Chúa ở gần chúng ta trong mọi nơi mọi lúc, nhưng đã nhiều lần chúng ta không biết hoặc vô tình quên ngài. Để nhận biết Người, chúng ta phải bỏ qua những gì ngăn cách giữa Ngài với chúng ta, chúng ta phải lắng nghe tiếng Ngài và sống hiệp thông với Ngài. Do đó, sự chờ đợi của chúng ta sẽ được thỏa mãn và được thưởng công: “Hỡi đầy tớ trung tín và tốt lành, hãy vào hưởng sự sung sướng của chủ ngươi”.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con khám phá ra những lần Chúa đến trong lịch sử, trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người chúng con. Chúa đến nơi người anh em chúng con đang sống trong cảnh cùng cực cần sự giúp đỡ, săn sóc và tình yêu thương của chúng con. Chúa đến trong anh em đang đau khổ tinh thần và thể xác, như người bị cướp đánh, bị đả thương bỏ bên lề đường Giêricô. Chúa đến trong những anh em đang tìm Chúa để gặp được Ngài, tôn thờ và yêu mến Chúa như chúng con. Những người anh em này cần đến chúng con, chúng con phải trở nên những người đem Tin mừng của Chúa đến cho họ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết tỉnh thức để nhận ra ngày giờ Chúa đến dưới nhiều hình thức khác nhau, để đón tiếp Chúa với niềm hân hoan: “Phúc cho đầy tớ nào nếu chủ về mà còn đang tỉnh thức”.
Ở thời Đức Giê-su, cũng như ở thời đại này, một số người tin rằng ngày sau hết sắp xảy đến và: MV 1-A17
Ở thời Đức Giê-su, cũng như ở thời đại này, một số người tin rằng ngày sau hết sắp xảy đến và tìm cách đoán ngày đó. Nhưng khi thấy người ta tiên đoán trật họ đâm ra nghi ngờ là không biết sẽ có ngày tận thế hay không. Ở đây Matthêu phân biệt rõ hai vấn đề đó: sẽ có ngày tận thế, nhưng thay vì tìm cách đoán mò, thì hãy chuẩn bị sẵn sàng.
Bài phúc âm hôm nay kể lại ba dụ ngôn về ngày sau hết: nạn lụt, những người đàn ông và đàn bà đang làm việc, và kẻ trộm. Cả ba đều nhấn mạnh rằng sự trở lại lần thứ hai của Chúa Giêsu sẽ bất thình lình và không báo trước. Bài học rút tỉa ở đây là phải canh thức sẵn sàng ngay từ bây giờ.
Những ai phải canh thức sẵn sàng? Không phải chỉ những người tội lỗi mà thôi, nhưng tất cả mọi người đều phải tỉnh thức. Theo lời mô tả của Chúa Giêsu thì trong thời ông Noe, mọi người vẫn làm việc thường ngày (ăn uống, lập gia đình ...). Trong dụ ngôn thứ hai, mọi người đều làm việc một cách chăm chỉ, không có gì khác biệt giữa những người được cứu thoát và những người không được (duy chỉ mình Thiên Chúa biết).
Chúng ta phải tỉnh thức như thế nào? Có thể sẽ phải cần thời giờ để chuẩn bị và khi làm như thế có vẻ ngược đời (giống như ông Noe, trong khi mọi người đang sống bình thường thì ông đóng tàu và gom góp các súc vật lại).
Một Điểm Chính
Tôi phải tỉnh thức, canh chừng và kiểm điểm kỹ cuộc sống của tôi. Mặc dù cuộc sống có vẻ bình thường như mọi người khác, tôi có sẵn sàng chăng?
Suy Niệm
Thật khó để đặt câu hỏi về những gì tôi làm thường xuyên, và khó hơn nữa nếu những điều đó là những điều có vẻ tốt. Chẳng hạn tôi làm việc cực nhọc để nuôi sống gia đình mà tôi yêu mến; tuy nhiên có thể tôi sẽ quên tự hỏi rằng Chúa có muốn tôi làm nhiều qúa như thế chăng, hoặc tôi có làm với tình thương, hoặc tôi có chia sẻ những gì tôi kiếm được với người nghèo khổ trong các xóm lao động mà tôi đi qua mỗi ngày. Tôi có để ra một ít thời giờ hoặc nhờ những cái nhìn khách quan để giúp tôi kiểm điểm cuộc sống chăng?
Nếu tôi sẽ chết tối nay, tôi sẽ làm gì bây giờ?
Liệu thái độ tỉnh thức sẵn sàng của tôi có làm cho người chung quanh của tôi chế diễu chăng?, như ông Noe đã bị xưa kia? Nếu có, thì tôi có dám làm như thế chăng?
Bạn có nghĩ rằng sắp tận thế không? Bạn có biết rằng thời các tông đồ, ngay trước năm 1000 và: MV 1-A18
1. Bạn có nghĩ rằng sắp tận thế không? Bạn có biết rằng thời các tông đồ, ngay trước năm 1000 và 2000, rất nhiều Kitô hữu cũng đã nghĩ «tận thế đến nơi rồi» không? Nhưng cuối cùng thì… tận thế vẫn chưa đến!
2. Giả như tháng sau, tuần sau là tận thế, thì bây giờ bạn làm gì? Bạn chuẩn bị đón Chúa đến như thế nào? Chúa muốn bạn phải chuẩn bị thế nào?
3. Có cách sống đạo nào mang nhiều tính tỉnh thức và sẵn sàng không? Nếu lúc nào cũng tỉnh thức và sẵn sàng, thì có phải lo tận thế không?
Suy tư gợi ý:
1. Nhiều Kitô hữu nghĩ rằng ngày tận thế sắp đến
Hiện nay, rất nhiều Kitô hữu đang quan tâm đến ngày tận thế. Nhiều người đoán rằng ngày ấy gần đến rồi. Thực ra, ngay từ thời các tông đồ, rồi thời gian ngay trước năm 1000, rồi mới đây ngay trước năm 2000, và hiện nay khi thấy chiến tranh thế giới có nguy cơ xảy ra, các Kitô hữu nghĩ ngày tận thế sắp đến ngay tức thời. Vào những thời điểm kể trên, có rất nhiều dấu hiệu phù hợp với những lời tiên tri của Đức Giêsu về ngày tận thế: chiến tranh, thiên tai, động đất, lòng người nguội lạnh, sự ác lan tràn… Những thời điểm ấy, thời điểm nào các Kitô hữu cũng đều thấy rằng từ trước đến lúc ấy, chưa bao giờ những sự kiện được coi là điềm của tận thế lại dồn dập đến như những thời điểm ấy. Nhưng rồi những thời điểm ấy qua đi, và ngày tận thế vẫn chưa tới. Hiện nay, tâm lý người Kitô hữu vẫn y như vậy. Đó cũng là một điều tốt để cảnh tỉnh người Kitô hữu.
2. Coi chừng kẻo bị lường gạt
Đúng ra, khi nghĩ đến tận thế và chuẩn bị cho tận thế, người Kitô hữu phải tỉnh thức như Đức Giêsu khuyên nhủ, bằng cách sống tích cực tinh thần Tin Mừng của Ngài, cụ thể bằng sự yêu thương nhau. Nhưng trong thực tế, thay vì sống tinh thần tỉnh thức, họ bị lôi cuốn vào việc tìm những điềm thiêng dấu lạ, sưu tầm những lời khuyên nhủ mới nhất của đấng này đấng kia hiện ra… Lòng họ vì thế bị chao đảo, sợ hãi: thay vì cứ an tâm sống cho đúng tinh thần Tin Mừng, thì họ lại tìm cách đối phó với ngày ấy, hoặc tìm những phương cách dễ dàng do người này chỉ người kia bảo, những phương cách khôn ngoan kiểu thế gian… miễn sao được cứu rỗi vào ngày đó. Vì thế, họ dễ bị thần khí xấu lường gạt.
Theo tôi, ta nên nghe lời thánh Phaolô: «nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải… quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào» (2Tx 2,2-3). Và cũng nên lưu ý lời thánh Gioan: «Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian» (1Ga 4,1). Thần khí giả thời nay rất khôn khéo, không hề nói điều gì xấu hay sai trái, toàn nói những điều hay lẽ thật, nhưng lại chỉ nhấn mạnh đến những điều tương đối phụ thuộc hầu làm người ta quên đi điều cốt yếu của Tin Mừng. Hoặc cứ nhấn mạnh đến việc sử dụng những phương tiện để làm người ta quên đi mục đích: dùng phương tiện thật hay mà không xác định rõ ràng mục đích phải tới, thì mục đích ấy làm sao đạt được? Mục đích không đạt được thì phương tiện có ích lợi gì? Nhờ khôn khéo như thế, thần khí xấu ấy dối gạt được rất nhiều người (x. Mt 24,11), kể cả những người được chọn (x. Mt 24,24). Chỉ cần làm người ta lạc hướng Tin Mừng như thế là ma quỉ đã thành công lớn rồi! Chính Đức Giêsu cũng đã cảnh báo: «Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính ta đây", và: "Thời kỳ đã đến gần"; anh em chớ có theo họ» (Lc 21,8). Thần khí xấu có thể không xưng mình là Đức Giêsu, vì như thế sống sượng quá, không lừa gạt được ai, mà xưng mình là một nhân vật uy tín nào đó!
Vì thế, thay vì quan tâm sống cho đúng tinh thần của Đức Giêsu, thì nhiều Kitô hữu chuẩn bị đón Chúa đến bằng sự gia tăng đọc kinh cầu nguyện cho nhiều và cho sốt sắng hơn, tham dự các bí tích thường xuyên hơn, đồng thời hối thúc người khác cũng chuẩn bị giống như họ, v.v… Quả thật, tất cả những việc ấy đều rất tốt, rất đáng làm, nhưng lại không phải là việc chính yếu cần phải làm để chuẩn bị ngày Chúa đến. Nhiều người còn nghĩ tới chuyện phải đối phó làm sao với cảnh tối ba ngày ba đêm bằng cách mua thật nhiều đèn cầy rồi đem đến xin linh mục làm phép để đốt trong những ngày ấy! Chỉ cần làm cho người ta quá quan tâm đến việc đối phó với tận thế mà quên đi việc sống đạo hay những bổn phận trước mắt là ma quỉ đã thắng lợi rồi!
3. Hãy chuẩn bị đón Chúa đến một cách khôn ngoan, đúng ý Thiên Chúa muốn
Đúng ra, theo tinh thần bài Tin Mừng trên, thì việc cần làm nhất là tỉnh thức và sẵn sàng, nghĩa là phải từng giây từng phút sống sao cho đúng thánh ý của Thiên Chúa, đúng tinh thần của Đức Giêsu. Cụ thể là:
– yêu mến Thiên Chúa bằng cách sống cho có tình có nghĩa với mọi người chung quanh, nhất là những người gần gũi mình nhất. Chính Đức Giêsu đã dùng tình yêu đối với loài người, được biểu lộ hùng hồn nhất qua cái chết của Ngài, để thờ phượng và thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.
– nhận ra tha nhân là hình ảnh và là hiện thân của Thiên Chúa mà mình phải yêu thương. Làm sao ta dám cho rằng mình yêu mến Thiên Chúa vô hình khi mà những hình ảnh hay hiện thân hữu hình của Ngài thì mình lại chẳng yêu thương?
– thể hiện tình yêu thương ấy bằng hành động cụ thể là sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh thật sự cho họ. Tình yêu không được biểu lộ thành hành động cụ thể chỉ là thứ tình yêu giả dối, ngoài môi miệng.
Cách chuẩn bị cho ngày tận thế hay nhất vẫn là tỉnh thức theo kiểu thánh Louis Gonzaga, một vị thánh chết khi còn rất trẻ tuổi. Một hôm, vào giờ chơi, Louis đang chơi banh ngoài sân, cha linh hướng đến hỏi Louis: «Nếu một lát nữa Chúa gọi con về với Ngài, thì bây giờ con làm gì?» Câu trả lời của Louis làm cha linh hướng rất hài lòng: «Con sẽ tiếp tục chơi, vì bây giờ là giờ chơi, thánh ý của Thiên Chúa đối với con vào giờ này là muốn con chơi». Điều đó cho thấy Louis lúc nào cũng cố gắng sống đúng thánh ý Chúa, đúng theo đòi hỏi của tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, nên Louis có thể sẵn sàng về với Chúa bất kỳ lúc nào.
Nếu ta là Louis lúc đó, chắc hẳn ta sẽ trả lời: «Con sẽ đi gặp một linh mục để xưng tội, và vào nhà thờ cầu nguyện để chết trong khi cầu nguyện». Trả lời như thế chứng tỏ ta không thường xuyên sống trong tình trạng tỉnh thức chuẩn bị Chúa đến, mà đợi «nước đến chân mới nhảy». Như vậy, giả như Thiên Chúa gọi ta về với Ngài ngay lúc này, khiến ta không có một phút nào để kịp ăn năn hay xưng tội, thì số phận ta sẽ thế nào?
Nếu lúc nào ta cũng sống đúng theo thánh ý Thiên Chúa, sống đẹp lòng Thiên Chúa, thì dù Chúa sắp đến hay còn lâu mới đến, ta không có gì phải bận tâm. Đấy là cách chuẩn bị đón Chúa đến hay nhất, cách mà Đức Giêsu muốn ta thực hiện nhất. Nghĩa là lúc nào ta cũng sẵn sàng đến trình diện Chúa như Louis Gonzaga, nên luôn luôn làm mọi việc như bình thường, có vẻ như chẳng chuẩn bị gì cả, cho dù biết Chúa sẽ đến ngay ngày mai, hay chỉ trong chốc lát nữa! Đối với người luôn tỉnh thức và sẵn sàng, Chúa đến lúc nào cũng vậy thôi!
4. Sống giây phút hiện tại như giây phút cuối cùng đời mình
Một danh nhân nọ nói: «Ngày nào tôi cũng tự nhủ: "tôi sống như thể hôm nay là ngày đầu tiên và cũng là ngày cuối cùng cuộc đời tôi». Đó cũng là một cách sống tỉnh thức và sẵn sàng, rất phù hợp với tinh thần bài Tin Mừng hôm nay. Sống như thế, cuộc sống mỗi ngày sẽ trở nên tràn đầy, ý vị, vì không bị những buồn phiền, rắc rối, hối tiếc về quá khứ và những nỗi lo lắng cho tương lai làm bận tâm, làm mất năng lực. Sáng dậy, nếu ta nghĩ như thể ngày hôm nay là ngày duy nhất của cuộc đời ta, coi như không có quá khứ, cũng không có tương lai, chỉ có hiện tại, thì ta dễ tập trung mọi năng lực để sống thật tốt, sống thật đẹp lòng Chúa, để làm cho ngày hôm nay thành một của lễ sống động, thật giá trị dâng lên Thiên Chúa. Cuộc đời ta cứ dệt bằng những ngày như vậy thì cần gì phải lo tận thế! Đừng quan tâm hay thắc mắc bao giờ sẽ tận thế, nhưng hãy sống mỗi ngày như thể cuối ngày đó là tận thế! Cứ sống thử như thế đi, bạn sẽ thấy cuộc đời bạn đổi mới từ đây, với nhiều sức mạnh và hạnh phúc hơn.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin đừng để con vì những dư luận về tận thế mà xao lãng việc sống đúng ý Cha, sống yêu thương tha nhân, quan tâm đến những nhu cầu cấp thiết của những người chung quanh con, chu toàn những bổn phận hằng ngày của con. Xin đừng để con bị lường gạt bởi những thần khí xấu hoặc những ngôn sứ giả, khiến con chú tâm vào những điều phụ thuộc cho dù rất tốt mà quên đi những điều chính yếu trong việc sống đạo. Xin cho con phân biệt rõ ràng đâu là phương tiện, đâu là mục đích, để con đừng lấy phương tiện làm mục đích. Vì một phương tiện rất tốt có thể trở thành một mục đích rất xấu khi nó làm con lạc hướng và quên đi mục đích mà đúng ra phương tiện ấy phải giúp con đạt tới.
Vào một ngày của tháng 10 năm 1992, một số người Nam Hàn tụ tập ở các nhà thờ để chờ ngày: MV 1-A19
Vào một ngày của tháng 10 năm 1992, một số người Nam Hàn tụ tập ở các nhà thờ để chờ ngày tận thế đến vào lúc nửa đêm. Có người đã bán nhà và xin nghỉ việc, nhưng dĩ nhiên đó không phải là ngày tận thế. Kinh Thánh chẳng hề nói tận thế đến vào lúc nào. Đức Giêsu cũng bảo là Ngài không biết (Mt 24,36). Chính vì thế Kitô hữu không tin những lời đồn thổi, nhưng kiên tâm chờ đợi trong hy vọng.
Đây không phải là thứ nơm nớp chờ đợi, khoanh tay, nhưng là thứ chờ đợi bằng cách sống hết mình để chuẩn bị cho trái đất đón Chúa trở lại.
Mùa vọng là thời gian đặc biệt để tập sống chờ đợi. Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh mà nhất là chờ đợi Chúa đến kết thúc dòng lịch sử.
Ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm là một. Đó là một ngày đáng sợ, không phải vì những hiện tượng kinh khủng sẽ xảy ra, nhưng vì là ngày Chúa đến phán xét kẻ sống người chết.
Ngày đó còn là một ngày hội vui: ngày vui của Chúa Giêsu toàn thắng vinh quang, ngày vui của những người được cứu chuộc, ngày vui của cả vũ trụ vật chất được giải phóng.
Tận thế là cánh cửa mở ra trời mới đất mới. Tất cả được đưa vào thế giới vĩnh cửu.
Có lẽ chúng ta hôm nay mong chờ Chúa đến ít hơn các Kitô hữu thuở ban đầu. Chẳng ai thích nghĩ đến ngày tận thế. Tận thế bị coi là chuyện tương lai xa vời. Cuộc sống hiện tại có vô số mối lo âu và hy vọng: ăn uống, cưới vợ, lấy chồng, làm ruộng, xay bột.
Thật ra, nghĩ đến ngày tận thế cũng cần như nghĩ đến cái chết của mình.
Cái chết dạy người ta biết cách sống. Ngày tận thế dạy người ta biết cách xây dựng thế giới trên nền tảng vĩnh cửu, trên những giá trị trường tồn.
Đối với Kitô giáo, ngày tận thế không phải là ngày buồn, ngày của hủy diệt và tang tóc, nhưng là ngày của thân xác được sống lại, ngày khai sinh một thế giới mới không bị hận thù và chết chóc đe dọa.
Ngày tận thế là ngày Chúa quang lâm. Chúng ta phải sẵn sàng ra đón Ngài. Sẵn sàng là cùng với Chúa xây dựng một trái đất đầy tình thương và công lý. Sẵn sàng là biến trái đất thành con đường dẫn tới Thiên đàng.
Ngày Chúa quang lâm là một ngày bất ngờ, nhưng nó sẽ ít bất ngờ đối với những ai biết sẵn sàng chờ đợi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, có sự giằng co giữa đời này và đời sau nơi người Kitô hữu không? Làm sao để mối lo toan về đời này không làm ta sao nhãng đời sau? Làm sao để mối quan tâm về đời sau lại thêm sức cho ta chu toàn bổn phận đối với đời này?
Nếu ngày mai tận thế, hôm nay bạn làm gì?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại
Với Lễ Chúa Kitô Vua được mừng vào hôm Chúa Nhật tuần vừa qua, Giáo Hội Công Giáo kết: MV 1-A20
Với Lễ Chúa Kitô Vua được mừng vào hôm Chúa Nhật tuần vừa qua, Giáo Hội Công Giáo kết thúc năm Phụng vụ theo chu kỳ Năm C và bắt đầu năm mới Phụng vụ theo chu kỳ Năm A bằng Chúa Nhật thứ I Mùa vọng.
Bài đọc thứ nhất được trích trong đoạn quan trọng nhất của sách tiên tri Isaia, ngài là vị ngôn sứ cao cả nhất của thời Cựu Ước. Giáo huấn của ngài vang dội tại Giêrusalem từ khoảng năm 742 cho đến năm 800 trước Chúa Kitô Giáng Sinh. Đây là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân Chúa, vì lãnh thổ bị chia đôi, các bộ lạc miền Bắc qui tụ thành vương quốc Israel, bị đế quốc Assyria chiếm cứ từ năm 772. Các bộ lạc miền Nam qui tụ thành vương quốc Giuđa, càng ngày càng xa lìa Thiên Chúa, sống bất trung với giao ước kết thúc trong đau thương của cuộc lưu đày Babylon.
Chính trong thời kỳ này mà tiên tri Isaia đến công bố cho dân Chúa sứ điệp hy vọng vào sự phục hưng huy hoàng ở tương lai. Mặc cho những bất trung của dân, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời Ngài đã hứa là sẽ qui tụ tất cả mọi dân tộc lại. Thật là hy vọng biết chừng nào khi mà giữa những thử thách hiện tại, những xúc phạm của các dân tộc đối với Thiên Chúa, thì cộng đoàn nhỏ bé Israel còn lại gồm những kẻ trung thành với Thiên Chúa được nghe những lời loan báo Thiên Chúa sẽ ngự đến, sẽ xây nhà Ngài trên đỉnh núi, nghĩa là Ngài sẽ đến ngự giữa loài người và nơi Ngài hiện diện sẽ là trung tâm qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Họ đang chống đối Thiên Chúa, nhục mạ Ngài, nhưng rồi sẽ đến lúc họ trở lại nhìn nhận Ngài. Đó là sứ điệp hy vọng của bài đọc thứ nhất trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng. Các dân nước sẽ đổ về đó, nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: "Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa, Ngài sẽ dạy chúng ta đường lối của Ngài và chúng ta sẽ đi theo thánh ý của Ngài. Và khi các dân tộc nhìn nhận Chúa, giữ các giới răn của Người thì hoà bình sẽ ngự trị giữa họ. Đó là thời điểm. Đó là thời kỳ mà theo lời tiên tri Isaia "các dân các nước sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo mà rèn nên lưỡi liềm", nghĩa là biến các dụng cụ giết hại nhau thành phương tiện tạo nên bánh nuôi sống và nâng đỡ cho cuộc sống con người.
Nơi bài đọc thứ nhất, Isaia loan báo tiếp: "Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa, người ta cũng không còn thao luyện để chiến đấu nữa". 700 năm sau, sau lời tiên báo của Isaia, Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa khi Ngài sai Con Một của Ngài xuống trần gian làm người để cứu chuộc nhân loại, để hòa giải con người với Thiên Chúa.
Những ai lắng nghe và sống lời Ngài được qui tụ lại trong dân mới của Thiên Chúa là Giáo Hội gồm mọi dân nước. Với sự hiện diện và ân sủng của mình, Thiên Chúa đã làm cho Giáo Hội trở thành dấu chỉ và phương tiện để xây dựng sự hiệp nhất hòa bình giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau. Qua đó, chúng ta thấy Giáo Hội của Chúa vẫn kiên trì trung thành với sứ mạng làm trung gian hòa giải này, giúp xây dựng hòa bình giữa con người với nhau trong thế giới ngày nay.
Mùa vọng mới mà Giáo Hội bắt đầu cử hành trong Phụng vụ của mình với Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng, không phải là thời gian để Giáo Hội nhìn lại quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã Giáng Sinh và cử hành biến cố này với Lễ Giáng Sinh. Tắt một lời, Mùa vọng không phải là mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh, nhưng Mùa vọng là thời gian hướng con người về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa vọng hướng con người đến với Thiên Chúa, Đấng đang đến trong lịch sử, đang hướng dẫn toàn thể vũ trụ đến sự thành toàn viên mãn cuối cùng. Thiên Chúa đến gặp con người trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và hướng dẫn con người đến sự thành toàn viên mãn, nhưng Ngài không áp đặt con người, vì Ngài tôn trọng tự do của con người. Con người cần lắng nghe lời mời gọi tỉnh thức, canh tân đời sống, đó là sứ điệp mà bài đọc II và Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta.
Nơi thơ thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma đã khuyên các tín hữu: "Anh em thân mến! Anh em biết rằng đã đến lúc chúng ta phải thức dậy, vì giờ đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn lúc chúng ta mới tin đạo, đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày" (Rm 13, 11-14).
Đó là những lời khuyên vẫn còn thiết thực cho mỗi người tín hữu trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày nay, ngõ hầu sống trong sự sẵn sàng khi Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách thình lình không ai ngờ trước được. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy Chúa Kitô, hãy để cho dung mạo Chúa được chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách thức tốt đẹp nhất để tiếp đón Chúa ngự đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc Âm Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng diễn tả Ngài đến như kẻ trộm: "Vậy các con cũng phải sẵn sàng vì lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến" (Mt 24, 44).
Chúa đến như kẻ trộm, Ngài đến gặp chúng ta trong chính cảnh sống của mình, trong chính lúc chúng ta chu toàn bổn phận. Tỉnh thức đón Chúa không có nghĩa là chu toàn bổn phận của mình, mà là chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô là hãy mặc lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chu toàn bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì, nhưng trong thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.
Tôi vui mừng cùng hoan lạc khi người ta đến nói cùng tôi: “Nào ta lên đền thánh Chúa” (Đáp ca, Tv 122)
Trước năm 1975, tôi được thuyên chuyển vào làm việc tại Phan thiết. Cái cảm giác đầu tiên: MV 1-A21
Trước năm 1975, tôi được thuyên chuyển vào làm việc tại Phan thiết. Cái cảm giác đầu tiên của tôi tại đây là mùi mắm. Mấy ngày đầu, mùi mắm làm tôi rất khó chịu, ngứa ngáy và buồn nôn. Nhưng dần dà sau vài ba tuần lễ, tôi không còn cảm thấy mùi mắm đâu cà. Thì ra mũi tôi đả quen với mùi mắm rồi.
Thành phố Pittsburgh, PA là thành phố luyện thép lớn nhất nước Mỹ. Lúc đầu khi các nhà máy mới hoạt động, những động cơ khổng lồ phát ra những âm thanh làm rêm tai nhức óc. Dân chúng địa phương ăn không được, ngũ không được, họ rất đồi khó chịu vì tiếng động. Nhưng vì sinh kế, người ta ùn ùn kéo đến lập nghiệp, dần dà họ quen với tiếng động và xem đó như là một loại âm nhạc kích động ru ngủ. Họ đã quen với tiếng động. Bỗng một hôm, đang đêm bị cúp điện, các nhà máy im bặt, mọi người đều thức giấc, hoảng hốt chạy tán loạn.
Xã hội càng văn minh, người ta càng xa dần Thiên Chúa, càng làm mất đi cái “Tính Bản Thiện” mà Thiên Chúa đã ban cho khi tạo dựng con người. Người ta đã mất đi cái cảm giác sợ tội.
Trưóc đây, trong xã hôi VN, “không chồng mà chửa thế gian chê cười”. Nhưng ngày nay, ‘single mother’ là chuyện thường. Hai người đàn ông lấy nhau, hai người đàn bà cưới nhau rồi đem nhau ra toà làm hôn thú, chúng ta cho là một việc hết sức quái gở, nhưng xã hội coi đó là chuyện thường. Đồng tính luyến ái, ‘gay marriage’, phá thai, thụ thai nhân tạo, ly dị, tự do luyến ái v. v. đã được luật pháp che chở. Giết người vô tội bằng cách ôm bom tự sát mà họ cho là tử đạo, là thánh chiến.. .
Nhân loại đang đi trong đêm tối. Nhân loại đang trong cơn ngủ mê. Thì đây, tiên tri Isaiah lớn tiếng kêu lên: “Hãy chổi dậy, hởi nhà Gia cóp”. Thánh Phao lồ càng kêu to hơn nữa: “Hãy thức dậy. Đêm đã sắp tàn, ngày đã gần đến. Hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô”. Tiên tri Isaiah còn chỉ cho chúng ta hướng nhìn về tương lai, một vương quốc hoà bình và yêu thương: Gươm giáo biến thành cuốc thành cày, dao mác biến thành liềm thành hái.
Đó là sứ điệp của Mùa vọng, sứ điệp đầu tiên của năm PV chu kỳ A năm 2005, mà giáo hội muốn kêu gọi mọi người hãy tỉnh thức, chuẩn bị chờ ngày Chúa lại đến.
Người lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ cùng. Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại và sự sống đời sau”. (Kinh Tin kính).
Thời ông Noe, trong khi mọi người đang lo dựng vợ gã chồng, đang lo ăn uống say sưa, bình chân như vại, xem như không có Thiên Chúa cũng chẳng có đời sau, thì ông Noe lo đóng tàu, mặc dù trời còn đang nắng hạn. Rồi lụt đại hồng thuỷ thình lình ập đến, nhân loại bị chết chìm, ông và gia đình ông đã được cứu thoát.
Đức Giêsu còn đưa ra hai ví dụ khác: Hai người đàn ông cùng cày ruộng ngoài đồng, hai người đàn bà cùng xay bột trong nhà. Họ cùng sống trong một hoàn cảnh, cùng làm chung một công việc, tại sao có người được cứu có người lại không? Thưa vì một người có chuẩn bị và một người không chuẫn bị. Một người có đức tin và một người không tin. Một người làm việc qua loa để lảnh tiền công, để ăn xài, chơi bời trác táng, người kia cũng lảm việc cũng lãnh lương nhưng lòng quy hướng về đời sau và về Thiên Chúa. Tiền của không làm hoa mắt họ. Mũi họ không bị ô nhiễm bởi mùi hôi tanh của tội lỗi, tiếng động cơ nhà máy không làm lấn át tiếng nói lưong tâm và sự bằng yên trong tâm hồn họ.
Đức Giêsu kết thúc lời cảnh cáo bằng dụ ngôn kẻ trộm vào nhà. Nếu bạn biết đêm nay có kẻ trộm muốn vào nhà lấy báu vật của bạn mà bạn lại không thức mà canh chừng sao? Báu vật ấy là gì? Là kho tàng giấu trong ruộng, là viên ngọc quý người thương gia tìm được (Mt 13: 44 - 46). Ấy chính là Đức Giêsu Kitô mà Thiên Chúa đã trao ban cho loài người qua mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể.
Phụng vụ dùng những lời trên đây để khai mạc Mùa vọng, không chỉ nhằm việc đón mừng lễ Giáng sinh nhưng muốn khơi lại niềm tin về Ngày Chúa lại đến và cũng để nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta chờ đợi và chuẩn bị.
Chúng ta cần làm sống lại Mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể. Thái độ chờ đợi nầy đòi hỏi chúng ta phài có một tâm hồn trong trắng, cầu nguyện và đón nhận. Đó cũng là thái độ mà chúng ta phải có mỗi khi tham dự thánh lễ. Có Chúa ở trong tâm hồn qua bí tích Thánh thể giúp chúng ta có khả năng đón mừng lễ Giáng sinh và sẳn sàng để được Chúa “đem đi” khi Người lại đến.
Sẵn sàng, như 10 cô trinh nữ khôn ngoan, cầm đèn đi đón chàng rể. Tỉnh thức và sẳn sàng khi Người lại đến để đón ta về nhà Cha và miệng chúng ta sẽ không ngừng hát lên bài thánh vịnh: “Tôi vui mùng cùng hoan lạc khi người ta đến nói cùng tôi: “Nào ta lên đền thánh Chúa. Nào ta lên đền thánh Chúa”.
Mùa xuân mới của năm Phụng vụ được khai mở bằng Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng. Năm: MV 1-A22
Mùa xuân mới của năm Phụng vụ được khai mở bằng Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng. Năm Phụng vụ A cũng là năm Giáo hội mời gọi con cái mình bước theo hành trình với Chúa Kytô dưới ánh sáng Tin mừng theo Thánh Mátthêu- một người thu thuế và cũng là một Tông đồ nhiệt thành của Chúa. Mùa xuân mới của Phụng vụ Giáo hội không bắt đầu từ vườn hoa Anh Đào, từ vườn hoa Mai, nơi chờ đón con người đến viễn du thưởng thức mà lại bắt đầu từ mảnh vườn trên núi Ôliu- nơi theo thánh sử Luca, Chúa Giêsu đã hấp hối, bị bắt và lên trời (x. Lc 22,39-52)! Một chân lý trong những điều xem ra “nghịch lý”! Tại nơi đây, giáo huấn của Chúa Giêsu về thời cánh chung được thánh Mátthêu ghi lại khá chi tiết. Tin mừng hôm nay ghi lại một trong những giáo huấn đó.
Giáo huấn của Chúa Giêsu được Giáo hội mời gọi con cái suy chiêm thật rõ ràng, phù hợp không chỉ với với khung cảnh Phụng vụ mà còn thích hợp cho mọi thời đại: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng! Vâng, người Kytô chúng ta sống Mùa Vọng không gì khác hơn là sống tâm tình chờ mong, trông đợi ngày Chúa Kytô giáng lâm lần thứ hai hiển vinh. Thế nhưng, ngày đó là ngày nào? Vấn đề đặt ra không những với các Tông đồ xưa mà còn cho con người ngày nay nữa.
Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi này. Bởi lẽ đó là công việc của Chúa Cha. Tuy nhiên, Người cũng khẳng định chắc chắn rằng ngày giờ đó sẽ phải đến. Vì thế, vấn đề ở chỗ là không phải hỏi khi nào, giờ nào mà là phải luôn luôn ở trong trạng thái sẵn sàng. Lý do đặt chúng ta trong sự chuẩn bị sẵn sàng là vì “chính vào giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Thái độ sẵn sàng được Chúa Giêsu khắc họa qua hai dụ ngôn, câu chuyện của ông Nôe và kẻ trộm ban đêm. Chúng ta nhớ lại vào thời Nôe, đang khi dân chúng vẫn ăn chơi trác táng, dựng vợ lấy chồng, thì Nôe lại sẵn sàng chuẩn bị cho gia đình mình giờ khắc Giavê Thiên Chúa đến. Giờ khắc đó, nhân loại bị nhấn chìm, còn gia đình Nôe được “đem đi” trên chiếc thuyền theo dòng nước ngày một dâng cao. Ông Nôe và gia đình được Thiên Chúa cứu thoát vì đã biết sẵn sàng chờ đón.
Cũng như ngày Giavê Thiên Chúa bất ngờ đến trong trận Hồng thủy, thì việc kẻ trộm âm thầm khoét vách lẻn vào cũng không hề được báo trước như vậy. Vì không được biết trước chính xác ngày giờ, nhưng biết rằng trộm chắc chắn sẽ đến, nên chủ nhà cũng như mọi người trong nhà không thể không cảnh giác, canh thức để bất cứ giờ nào trộm đến, bất cứ động tĩnh gì khác lạ, đều đã được chuẩn bị cách chu đáo.
Người Kytô chúng ta cần phải tỉnh thức và sẵn sàng như thế nào? Chắc chắn đó không phải là thái độ sẵn sàng và tỉnh thức trong sự sợ hãi; không phải là thái độ của những người lo đi mua sắm đèn dầu, lương thực tích trữ như đã từng xảy ra trong năm 2000! Thái độ cần thiết, đó là sự chuẩn bị tâm hồn, sống trong sự thanh thản bình an, sống trong niềm hy vọng, niềm tin mãnh liệt và sự mừng vui hoan hỷ vì Chúa sẽ đến viếng thăm. Chúng ta nên biết trước điều này, rằng ngày tận cùng thế giới sẽ không ai biết được, ngoài Chúa Cha, nhưng ngày “tận thế” của mỗi người, ngày con người đối diện với cái chết, ngày Thiên Chúa đến đem chúng ta đi, là điều chắc chắc không thể tránh khỏi. Chính vì thế, chúng ta cần không ngừng canh tân đời sống, chuẩn bị tâm hồn trong sạch, tránh xa đàng tội lỗi, chuyên chăm cầu nguyện để khi Thiên Chúa đến gõ cửa linh hồn, chúng ta sẵn sàng đón tiếp và bước theo Người.
“Hãy tỉnh thức và sẵn sàng”, lời mời gọi khẩn thiết của Thiên Chúa, của Giáo hội muốn gửi đến mỗi người chúng ta. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta đáp lại lời mời gọi đó để không ngừng canh tân đời sống, chuẩn bị tâm hồn đón chờ ngày Hồng phúc của Thiên Chúa, ngày Con Người Giáng lâm vinh hiển, đến viếng thăm.
Đoạn Tin Mừng hôm nay nói về ngày Chúa quang lâm. Điều quan trọng để đón ngày đó là: MV 1-A23
Đoạn Tin Mừng hôm nay nói về ngày Chúa quang lâm. Điều quan trọng để đón ngày đó là phải luôn sẵn sàng. Chúa Giêsu dùng nhiều hình ảnh để giải thích rõ điều đó:
- Trước hết Ngài dùng chuyện ông Nôê trong Cựu Ước để khuyến cáo các môn đệ mình: người ta dễ bị cuốn hút trong những lo lắng cho cuộc sống vật chất (“ăn uống, cưới vợ lấy chồng). Những lo lắng này không có gì là tội lỗi, nhưng có thể khiến người ta quên mất điều quan trọng là luôn luôn sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Do đó khi Ngày ấy đến một cách nhanh chóng và bất ngờ, thì những kẻ không sẵn sàng sẽ phải hư mất.
- Tiếp theo là một số hình ảnh giúp dễ hiểu: Có những người bề ngoài thì hoàn toàn giống nhau (hai người đàn ông cùng làm ruộng ngoài đồng, hai người đàn bà cùng xay một cối bột) nhưng số phận hoàn toàn khác nhau: kẻ có chuẩn bị sẵn sàng thì được đem đi (đem đi với Thiên Chúa), còn kẻ không chuẩn bị thì bị bỏ lại (bỏ lại trong hư vong).
Kết luận, Chúa khuyên hãy tỉnh thức luôn vì chúng ta không biết lúc nào thì ngày ấy đến.
B.... nẩy mầm.
1. Theo cách viết của Mt, những người thời ông Nôê chẳng làm điều gì có tội, chỉ làm những việc bình thường: “ăn uống, cưới vợ lấy chồng”. Nhưng họ bị chết trong cơn nước lụt. Không phải vì họ làm gì tội, mà vì họ không làm những việc phải làm. Họ làm rất nhiều việc cho cuộc sống thể xác, nhưng không làm việc gì cho cuộc sống linh hồn cả.
2. “Hai người đàn ông đang làm ruộng… hai người đàn bà đang kéo cối xay... thì một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại”: những người bề ngoài hoàn toàn giống nhau, nhưng số phận đời đời khác hẳn nhau. Cái khác biệt là có chuẩn bị cho đời sau hay không.
3. ‘Hãy mài sắc cảnh giác’: (một kiểu nói mà xã hội thường dùng tới). Sự cảnh giác phải thường xuyên mài giũa, nếu không nó sẽ tự động cùn nhụt đi. Giống như trường hợp một con dao bén bằng sắt, nếu ta đem cất đi, chỉ một thời gian sau dù ta không làm điều gì sai quấy, con dao vẫn tự động lụt đi do tác động của không khí làm rỉ sét. Việc trông chờ nước Chúa cũng vậy, cần mài sắc hoài.
4. Tính trì-trệ (inertie) (còn gọi là ỳ-tính, noạ-tính) của vạn vật. Một đồ vật ta để trong phòng nó sẽ cứ nằm ỳ tại đó nếu không có ai đụng tới. Một hòn đá ta ném đi, sẽ tự động ghì lại và rơi xuống khi hết đà. Tinh thần con người cũng không tránh nổi sự trì trệ kiểu đó.
- Sự nguội lạnh, phai lạt: Một ly nước nóng để trên bàn, dù ta không làm gì, nó vẫn từ từ bớt nóng, và trở thành lạnh ngắt. Sự Nhiệt thành của ta đối với nước Trời cũng vậy.
- Sự cạn kiệt: Một chiếc xe Honda chạy mãi mà không được châm thêm, xăng sẽ vơi dần và cạn kiệt. Sự hăng say ban đầu nếu không được bồi bổ thêm bằng ơn Chúa qua sự cầu nguyện… cũng sẽ cạn dần. Người ta thường nói: ‘Quỳ lâu, chầu mỏi’.
5. Elena Frings là một thiếu nữ mới 20 tuổi nhưng đau tim nặng. Các bác sĩ cho biết cô chỉ còn sống được 6 tháng. Cô bỏ việc làm ở sở để đi làm việc xã hội trong một tổ chức thiện nguyện ở Nam Mỹ. Cô làm việc rất đắc lực và có hiệu quả đến nỗi cô được mời đến New York để thuyết trình. Tại New York cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi. Ông này giải phẫu cho cô và chữa cô khỏi bệnh tim. Sau khi khỏi bệnh, cô không quay lại sở làm nhưng quay lại Nam Mỹ với những công việc hàng ngày phục vụ những người khốn khổ, bởi vì điều đã ban cho đời cô có ý nghĩa và đã định hướng cho đời cô không phải là cuộc giải phẫu mà là cảm nghiệm về cái chết gần kề (Christopher Notes).
6. Áp dụng bài học của dụ ngôn tên trộm: ta biết luôn đề cao cảnh giác để bảo vệ tài sản vật chất, sao không làm như thế đối với tài sản thiêng liêng vốn quý giá hơn nhiều.
7. Trách nhiệm: “Con người là tạo vật duy nhất gánh lấy trách nhiệm đối với chính bản thân, đối với tha nhân, đối với thiên nhiên và trước mặt Thiên Chúa” (Chờ đợi Chúa)
8. Một ngôi trường bị nổ. Cả trăm học sinh và giáo viên thiệt mạng. Nhiều gia đình chết 2 hay 3 em. Chính quyền địa phương bí mật sai người đến điều tra nguyên nhân vụ nổ. Trong một cuộc dò hỏi, vợ một công nhân xây dựng ngôi trường đó nói: trước khi thảm kịch xảy ra, chồng bà đã biết là việc xây đường ống dẫn khí đốt ở đó có vấn đề.
- Cái gì ? Chồng bà biết rõ việc đặt đường ống dẫn khí có vấn đề ? - Đúng vậy. - Thế chồng bà có báo cho ai biết việc đó không ? - Không. - Vậy chồng bà phải chịu trách nhiệm về sự cố đó, chồng bà cũng là một tội phạm. (Góp nhặt)
9. Một người dân thuộc một bộ lạc miền núi được đưa đi thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên ông đã giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Người ta cho anh biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hoả hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Chẳng bao lâu cuộc hoả hoạn được dập tắt. Trở về làng, ông đã báo cáo với các chức sắc trong làng như sau: người thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu: khi có hoả hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hoả hoạn xảy đến trong làng, mọi người đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa vô tình cứ thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng thất vọng của mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại, một người dân thành thị giải thích: Các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt ngọn lửa ư ? Không phải thế. Người ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy chứ không phải ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà chờ đợi. ("Mỗi ngày một tin vui")
Chúng ta bắt đầu vào Mùa Vọng: Mùa Vọng có hai đặc tính: “vừa là mùa chuẩn bị mừng lễ: MV 1-A24
Chúng ta bắt đầu vào Mùa Vọng: Mùa Vọng có hai đặc tính: “vừa là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng Giáng Sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người; vừa là mùa mà qua việc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế”. Vì hai lý do này, Mùa Vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi (AC 39).
Chúa đã xuống thế lần thứ nhất và chúng ta đang chuẩn bị NĂM THÁNH mừng kỷ niệm 2000 năm Chúa Cứu Thế giáng trần, đồng thời chúng ta vẫn hướng lòng chờ đợi ngày trở lại trong vinh quang Ngài đã hứa trước khi về trời. Đoạn Kinh Thánh chúng ta vừa nghe là lời Chúa dặn các môn đệ về việc Ngài trở lại, có những sự thật quan trọng cần phải lưu ý:
1. Chúa nói Ngài sẽ trở lại nhưng không xác định thời giờ. Vì thế việc tìm biết ngày giờ Chúa quang lâm là một việc làm phạm thượng, vì làm điều đó là tìm cách chiếm đoạt những bí mật riêng của Thiên Chúa . Phận sự của con người không phải là tìm cách xác định ngày Chúa trở lại nhưng là chuẩn bị chính mình và tỉnh thức đợi chờ ngày đó.
2. Thời giờ sẽ đến hết sức bất ngờ cho những kẻ miệt mài nơi vật chất thế gian. Trong câu truyện ngày xưa, Noê đã chuẩn bị cho mình khi thời tiết còn tốt sẽ sẵn sàng cho cơn nước lụt đến, thì ông đã chuẩn bị, nhưng những người còn lại mải mê ăn uống, cưới gả nên bị nước lụt cuốn đi cách bất ngờ. Những câu này là lời cảnh cáo cho loài người, đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi đời đời, đừng bao giờ quá quan tâm đến việc thế gian, mà quên rằng có một Thiên Chúa và vấn đề sống chết đều nằm trong tay của Ngài. Bất cứ khi nào Ngài gọi, buổi sáng, buổi trưa, hay buổi chiều chúng ta đều phải sẵn sàng.
3. Sự quang lâm của Chúa là lúc phân rẽ và phán xét. Đó là lúc Chúa tập hợp lại những ai thuộc về Ngài.
Nếu ngày giờ Chúa trở lại không ai biết được thì mọi đời sống phải thường xuyên chuẩn bị cho ngày giờ đó. Do đó có những tội lỗi căn bản cần phải tránh:
a) Sống không cảnh giác sẽ rước lấy tai họa: một tên trộm sẽ không bao giờ gởi thư báo trước mình sẽ đến viếng nhà nào. Vũ khí chính của anh ta là sự bất ngờ, vì vậy một chủ nhà có của cải lúc nào cũng phải canh chừng. Tuy nhiên chúng ta cần phải hiểu điều này cho đúng, chúng ta phải luôn nhớ rằng Chúa cảnh giác chứ không nhằm chơi khăm chúng ta, dường như cứ nhằm lúc nào chúng ta sơ hở là Chúa trở lại. Đàng khác, người kitô hữu trông đợi Chúa mình trở lại không phải sống trong sợ hãi kinh khiếp, nhưng đó là một sự trông chờ náo nức ngày vui vẻ vinh quang sắp đến.
b) Thái độ nguy hại nhất là cứ cho rằng mình còn có nhiều thời giờ. Có một chuyện ngụ ngôn về ba con quỷ học việc. Chúng đến trần gian để tập sự. Chúng nói với Satan là chúa quỷ về những kế hoạch cám dỗ loài người. Con quỷ thứ nhất nói: “Tôi sẽ bảo với loài người là không có Thiên Chúa “. Con quỷ thứ hai nói: “Tôi sẽ bảo với họ là không có địa ngục”. Satan trả lời: “Mi sẽ không lừa dối ai được bằng cách đó, ngay đến bây giờ loài người vẫn biết có một địa ngụa dành cho tội nhân”. Con quỷ thứ ba nói: “Tôi sẽ bảo với loài người đừng có vội vã làm gì”. Satan đáp: “Đi đi, mày sẽ làm hại được vô số loài người bằng cách đó”. Ảo tưởng nguy hiểm nhất là ảo tưởng cho rằng mình còn có lắm thời giờ. Cái ngày nguy hiểm nhất trong đời một người là khi người đó học được chữ ngày mai, và trì hoãn vì không ai biết ngày mai có đến với mình nữa không.
Lịch sử còn ghi lại câu truyện bi thảm sau đây: Pháp quan Archais ở Thebea đang ngồi uống rượu với một số đông dũng sĩ của mình, bỗng có một sứ giả bước vào mang cho ông một bức thư báo cáo về một âm mưu sát hại ông. Thay vì mở ngay bao thư ra đọc, ông nhét ngay vào trong túi và nói: “Để mai hễ hay”. Và qua ngày mai thì ông bị giết chết. Trước khi bức thư bị khui ra thì cả chính phủ bị bắt trọn.
Vị pháp quan Archais đã hất sứ điệp ấy qua một bên vì ông nghĩ hãy còn nhiều thời giờ. Quan tổng đốc Phêlít ngày xưa đã run rẩy trước sứ giả của Chúa là Phaolô nhưng vẫn chần chừ nói rằng: “Bây giờ ngươi hãy lui ra, đợi khi nào rảnh, ta sẽ gọi lại”. Nhưng từ chỗ đó chúng ta không thấy chỗ nào nói đến ông ta rảnh cả.
Một thiếu nữ người Mã lấy chồng khá giàu quê ở Nữu Ước. Ngày kia trên đường từ California trở về nhà, cô gặp tai nạn đường sắt, bị thương rất nặng và ít hi vọng sống. Lúc còn trẻ, cô rất đạo đức, vì xuất thân từ một gia đình tốt và có giáo dục. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đã đưa cô vào một môi trường khác hẳn. Ở đây, không còn một ai nói tới Thiên Chúa và vĩnh cửu, không một ai nghĩ đến phần rỗi linh hồn mình. Lúc đầu, thái độ và bầu khí dửng dưng với tôn giáo này làm cho cô khó chịu, nhưng dần dần, cô tiêm nhiễm sự xa hoa và lạc thú, để rồi cuối cùng, chính cô cũng không còn lưu tâm gì đến Thiên Chúa và linh hồn. Và bất ngờ, một tai nạn đã kéo cô ra khỏi vùng xoáy của các lạc thú để ném cô vào vòng tay của Tử thần.
-Tôi sẽ chết ư? Nàng khắc khoải hỏi vị bác sĩ đang đứng bên cạnh. - Thưa bà, tôi cũng lo sợ như thế. - Tôi còn sống được bao lâu nữa? - Có thể một giờ.
Nghe vậy, toàn thân cô rùng mình. Cô đưa tay che mặt lại và nằm yên, không động đậy trong giây lát. Sau đó, hình như cô lấy hết sức còn lại, nói với giọng truyền lệnh: “Hãy đưa tôi về Nữu Ước”.
- Không thể được! Người thầy thuốc nhẹ nhàng trả lời. Cô hãy nằm yên, mọi cử động lúc này đều nguy hại cho cô.
- A, bác sĩ ơi! Tôi đã có thể làm biết bao điều tốt lành, với tiền của tôi, nếu tôi trung thành với đức tin thời thơ bé. Tôi đã có thể làm biết bao điều tốt lành cho những kẻ sống quanh tôi! Nhưng tôi chỉ nghĩ đến những cuộc giải trí và trang điểm. Và bây giờ tôi chỉ còn sống được một giờ nữa thôi! Bây giờ thì quá chậm rồi!
Cô gái đáng thương này thực ra không sống được một giờ như dự đoán, bởi vì sự giao động đã cướp đi mạng sống của cô vài phút sau đó.
Vị bác sĩ sau đó đã tuyên bố rằng ông chưa bao giờ nghe một điều đáng sợ hơn hai tiếng “quá chậm” của người thiếu phụ sắp chết này!
Để đừng rơi vào tình trạng bi thảm của vị pháp quan, của viên tổng trấn, của người thiếu phụ, chúng ta hãy bắt chước em học sinh sau đây: một ông thanh tra học đường khi đến thăm trường tiểu học nói với các em học sinh rằng: “Tôi sẽ trở lại đây. Vậy từ nay cho đến ngày tôi tới, trò nào giữ được bàn mình sạch sẽ, thì sẽ được thưởng.
- Khi nào ông trở lại? Vài học sinh hỏi. - Chưa biết hôm nào! Vị thanh tra trả lời.
Trong số các học sinh trong trường, có một cô bé quả quyết rằng mình sẽ chiếm được phần thưởng. Ai nghe cũng phải cười vì cô gái ấy có tiếng là không chỉnh tề. Có người hỏi:
- Bàn của cô có tề chỉnh bao giờ đâu mà mong được phần thưởng? - Từ nay, mỗi buổi sáng tôi sẽ thu xếp một lần, cô bé đáp. - Nhưng nếu ông thanh tra đến vào buổi chiều hay buổi tối thì sao? Người ấy hỏi lại. Cô gái yên lặng một lúc rồi nói: thôi, tôi hiểu rồi! như thế thì lúc nào tôi cũng phải giữ bàn của tôi cho được tề chỉnh.
Nếu chúng ta muốn được Chúa thưởng ban thì cũng phải tỉnh thức và cầu nguyện như vậy.
Với Chúa Nhật hôm nay, chúng ta bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa dọn câm: MV 1-A25
Với Chúa Nhật hôm nay, chúng ta bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa dọn câm hồn đón mừng Chúa đến trong ngày Giáng sinh, đề Chúa hiện diện và ở giữa chúng ta.
Thật ra Chúa ở giữa chúng ta, nhưng nhiều khi chúng ta không gặp gỡ Chúa, như rằng không có Chúa hiển hiện. Vì thế, Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta (trong bài đọc 2): “Đêm sắp tàn ngày gần đến. Chúng ta từ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng”.
Trước ngày Chúa Ciêsu ra đời, nhân loại đang sống trong đêm tối, đêm tối của lầm lạc, của cội lỗi. Rồi mùa Giáng Sinh đến. Motc vì sao sáng xé ngang màn đêm tối. Anh sáng đã xuất hiện. Thiên Chúa đã xuống giữa chúng ta, bằng xương bằng thịt. Loài người không lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã xuống với nhân loại. Ngài đã giáng sinh làm người và ở giữa chúng ta.
Đó là kỷ niệm chúng ta mừng nay mai, kỷ niệm Chúa xuống tân thứ nhất trong lịch sử.
Qua bài Phúc âm hôm nay, chúng ta được biết, sau ngày Chúa đi vào lịch sử trong âm thầm trầm lặng tại Bê lem, sẽ có một ngày
Chúa lại đến trong vinh quang của ngày phán xét khi niên cùng nguyệt tận. Và nếu có một ngày chung thẩm cho hết mọi người thì cũng có một ngày Chúa đen với mỗi motc người.
Vì vậy, Chúa dạy chúng ta hãy khôn ngoan như người đầy tớ canh thức đón chủ về: "Chúng con hãy tỉnh thức vì chúng con không biết lúc nào chủ nhà trở về". Cái đáng sợ là khi chủ về tới mà đầy tớ đang ngủ sau một đêm trác táng. Có bao nhiêu người sống như không có Chúa, hoặc việc Chúa đến còn thật xa vời, như dân chúng thời ông Noe, có ngờ đâu rằng lụt hồng thủy ụp xuống lôi cuốn họ đi tất cả.
Ai cũng biết ngọn núi lửa Saince Hélene ở tiểu ban Washington. Ngày Chúa nhật 18 tháng 5 năm 1980, có mộc nhà địa chất học còn trẻ tên là David Johnston, với 30 người bạn tổ chức cắm trại cách quan núi 8 cây số. Lúc ấy là 8 giờ 31 phút sáng Chúa nhật, bỗng dưng một tiếng nổ vang trời động đất mạnh bằng 500 quả bom nguyên tử nổ cùng một lúc. Các thành phố xung quanh bị chôn vùi dưới trận mưa cho. Johnston co giò chạy, nhưng một giòng sông lửa đã chận đường anh, chôn vùi anh và các bạn dưới nấm mồ tro hừng cháy.
Lời của Chúa thật đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Chúng con coi chưng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì chúng con biết lúc và giờ nào"
Bài Phúc âm hôm nay kết thúc đoạn văn Chúa phán về ngày tận thế (Mt 24,1-l4). Nhưng trước tiên Chúa ám chỉ ngày tàn của thành phố Giêrusalem sắp xảy ra năm 70, mà bao nhiêu người sẽ là nạn nhân bất ngờ. Trời đất qua đi nhưng lời Chúa không bao giờ sai.
Một vài điển chú giải cuối cùng của Tin Mừng thánh Matthêu. Như thế, Phụng vụ muốn khẳng định: MV 1-A26
- Một vài điển chú giải cuối cùng của Tin Mừng thánh Matthêu. Như thế, Phụng vụ muốn khẳng định ngay rằng, Đấng mà chúng ta đang chờ đón đến với chúng ta dịp lễ Giáng Sinh, chính là Đấng sê trở lại vào ngày tận thế, và cũng là Đấng luôn luôn đến với chúng ta.
Đáp lại lời các môn đệ đang trầm trồ trước vẻ huy hoàng của đền thờ Giêrusalem, Dức Giêsu khiến mọi người sứng sờ khi báo trước rằng, dấu chỉ tuyệt vời của sự hiện diện Thiên Chúa đối với dân Ngài ấy chắc chắn sẽ bị huỷ diệt. Ngài khắng định: Tất cả những gì các con xem thấy, sẽ chẳng còn hòn đá nào h'ên hòn đá nào; tất cả sẽ bị huỷ diệt (24,2).
Trở lại núi Cây Dầu, nơi ta có thể nhìn thấy toàn cảnh Thành Thánh và Đền Thờ, Đức Giêsu ngồi xuống. Lập tức các môn đệ tới tấp đặt câu hỏi: "Xin Tlzầy hãy nói cho chúng cọn biết khi nào diều đó xáy đến. Xin hãy nói cho chúng colẠ dâu sẽ là dấu chl cho biết Thầy đến, và đâu là dấn hiệu cúa lẠgùy Ạận th ế' Ạ24,3).
Đức GẠêsu bỏ qua không trá lời những câu hỏi này, bởi vì theo Ngài, đó là điều bí mật của Chúa Cha (24,36).
2. Một huấn lệnh cần phải tuân giữ ngay lập tức
Nếu Đức Giêsu từ chối không tham dự vào những cuộc tranh luận của các môn đệ - xưa cũng như nay – vễ việc Con Người sẽ trở lại "Khi nào" và Ạthế nào", thì Ngài lại mạnh mẽ khẳng định rằng đó là điều không thể tránh né. Vì thế, Ngài khuyến khích các tín hữu đang sống trong dòng lịch sử, hãy luôn luôn sẵn sàng: "Vậy hãy tẠnh thưc, bởi vì các con không biết khi nào Chúa sẽ đến. Vây các con hãy sẵn sàng: chính vào giờ các con không ngờ mà Con Ngườl đến.
Trong Phúc âm thánh Matthêu, có bốn dụ ngôn minh hoạ lời Ngài dạy. Sau đây là những dụ ngôn được chọn cho Chúa nhật thứ I Mùa Vọng:
* Dụ ngôn về lụt dại hồng thuỷ:
Vào thời Noe, chỉ một mình tổ phụ được "chừa lạiẠ, khi ngài vào trong tàu; chỉ một mình ngài được cứu thoát, bởi vì ngài biết nhìn thấy trước biến cố lụt lội phủ lấp trái đất, ngài đã đọc được những dấu chỉ loan báo việc sắp xảy đến. Những người khác cứ tiếp tục cuộc sống thường ngày, không chút mảy may nghi ngờ, nên đã bị "nuất trửng', không pbải vì hạnh kiểm họ xấu, mà vì không biết phòng xa.
Cũng vậy, khi Con Người đến, Ngài sẽ quyết định dứt khoát mối liên hệ đời thường nhất giữa những người đang sát cánh bê nhau miệt mài trong cùng một công việc, "đang làm ruộng hay "đang xay bột". Một số người biết chuẩn bị tích cực sẽ Ạđược đem đi", nghĩa là "được cứu thoát". Những người khác, cứ sống mà không biết thấy trước ngày sắp đến, sẽ bị "bỏ lại".
* Dụ ngôn kẻ trộm ban đêm:
Con Ngưói đến như lụt đại hồng thuỷ không ai biết tr'ước, như việc tên trộm lẻn dến ban đêm, âm thầm chọc thủng những tấm vách mỏng mang của những mái nhà rách nát xứ Palestine. Vì thế, thái độ duy nhất phải có ìà luôn luôn "tỉnh thức", "sẵn sàng". Không phải trong sợ hãi, mà là trong thanh than ; không phải co rúm tê liệt đi mà là trong niềm khao khát và năng động mong chờ ngày Chúa đến. Bằng cách lành nhận trách nhiệm của chúng ta. Bằng cách chu toàn sử mạng được trao phó (24,45-5 l). Bằng cách đến cứu giúp những anh em nghèo túng.
"vậy người Kitô hĩẠu dấn thân sốngg như là ngày phán xét đã đến. Hiện tại của thế gíơi bị chất vấn bởi tương lai. ước mong rằng người tín hữu luôn trung thành với ơn gọi và sứ mạng dã lãnh nhận" ("Célébrer", n.224 , trang 18).
II . BÀI ĐỌC THÊM
1. “Đức Giêsu đến gặp chúng ta cách bất ngờ, nhưng không phải là không báo trước ”. (Mrg L. Daloz trong “Le règne des cieux s est approche”. DesclÌe de Brouwer 1994, trang 334. .. 336).
Ngày và giờ là bí mật cúa Chúa Cha. Đó không phải là cơn thịnh nộ và sự trừng phạt vào ngày đã định. Nói rằng, chỉ một mình Chúa Cha biết ngày tận thế và việc Con Người trở lại, có nghĩa là đặt thế giới và nhân loại trong tay của Ngài, trong đôi tay nhân từ cua Ngài. Đó ]à đặt chúng ta trong sự thanh thản, an toàn: ai có thể rứt chúng ta l'a khỏi đôi tay của Chúa Cha? Chúng ta còn sợ gì nếu chúng ta được ấp ủ trong tình yêu của Ngài?
Đức Giêsu không mời gọi ta sợ hai, nhưng mời gọi ta tỉnh thức. Ngài so sánh lụt đại hồng thuỷ và ông Noe: Người ta không nghi ngờ gì hết cho đến khi lụt đại hồng thuỷ đến cuốn trôi hết tất cả mọi sự. . Tất cả mọi người mãi lo lắng sự đời: người ta mãi lo ăn uống, cươi vợ gã chồng. Chúng ta cũng vậy, chủng ta mãi lo ìắng sự đời, và đó là điều cần thiết! Chính lúc đó, Chúa đến gặp chúng ta. Nhưng để khỏi bị bất ngờ khi Ngài đến, chúng ta phải chuẩn bị như ông Noe. Cũng gióng như ông, chúng ta có lời Chúa cảnh báo và nhắc nhở chúng ta; Đức Giêsu nói: Đó, Thầy đâ báo trước cho các con. Ngài đến gặp chúng ta một cách bất ngờ, nhưng khôngẠphải là không báo trước. Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra vào lúc tận thế. Cái chết của mỗi người cũng sẽ bất ngờ. Phải chăng cái chết không là ngày tận thế, ngẩy tận thế riêng của mỗi người, lúc mà Đức Giêsu dến gặp riêng mỗi người? ít nhất điều đó đã cảnh báo chúng ta qua ví dụ của Phúc âm: Bấy giờ hai người đàn ông ' trên cánh đồng: một người sẽ được đem đi, ngườì kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang xay bột ở cối xay: một người được đem đi, một người bị bỏ lại.
Quan trọng nhất vẫn là tỉnh thức. Không lo lắng, nhưng chú ý, chú ý vào Chúa Cha, chú ý vào Đửc Gỉêsu Kitô . Nếu chúng ta không biết ngày và giờ, thì điều quan trọng là phải biết Ngài, và phải nhận ra Ngài khi ' Ngài đến với chúng ta. Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại hai lần rằng vì ta không biết nên ta phảí tỉnh thức: Vậy hãy tỉnh thức, bởi vì các con không biết ngày nào Chúa sê dến . . . Để kết thúc, Ngài dùng một ví dụ chỉ cho thấy sự nghiêm trọng của tình thế, và sự gấp 'rút phải Ạỉnh thức. Ví dụ hơi mâu thuẩn, vì nói về một ông chủ nhà tỉnh thức, bởi lẽ ông ta biết giờ kẻ tr'ộm lẻn đến ban đêm. Khi biết, thì dễ chờ đợi hơn! Còn chúng ta, chúng ta thấy thời gían dài, mà chẳng hay biết gì. Không biết là một lý do khiến chúng ta đừng ngủ say. Được hay thua thì điều quan trọng là đừng để tường nhà mình bị chọc thủng. Con Người đến gặp chúng ta. Đừng có ngủ say trong thời gian đó: "Đó là lý do tại sao các con phải tỉnh thức, bởi vào giờ mà các con không ngờ Con Người sẽ đến”
2. “Vì không biết ngày, các con hãy tỉnh thức””
(P.Geoitrain, trong "Assemblèes du . Seigneur", n.5, trang 28).
“'Lời khẳng định cua Đức Giêsu về việc chúng ta không biết ngày, giờ tránh cho chúng ta khỏi mọi tính toán về ngày Chúa đến. Niềm hy vọng Ngài trờ lại luôn luôn còn đó, không phải là một chờ dợi bồn chồn, mà là một chắc chắn về Đấng đã đến, đang dến sống giữa những người thân yêu cuả Ngài, sẽ đem lại ý nghĩa dích thực cho cuộc sống và cho vũ trụ cua chúng ta, Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi người" ( lCr 15,24-28).
Được giải thoát khỏi những vấn nạn "khi nào và thế nào" rồi, người Kitô hữu chI còn lo chú ý vào việc phải sống như là ngày đó đã đến thực sự. Trong ý nghĩa đó, nhưng câu chúng ta vừa đọc mời chúng ta hướng về trời ít hơn là gọi chủng ta quan tâm đến những bổn phận hằng ngày mà Thầy chúng ta đòi hỏi. Sự hnh thức càng quyết liệt hơn khỉ giờ kết thúc vẫn còn chưa điểm. Tiếng kêu của Phúc âm: "Hãy sẵn sàng, hãy tính thức phải vang dội trong tâm hồn của người đang chờ đợi cuộc hội ngộ lớn lao, không phải như một nôi ám ảnh liên hệ đến ơn cứu độ riêng tư của mình, mà như một đòi hỏi trung thành với những sứ mạng Thầy trao phó '
3. “Hãy có một con tim tỉnh thức.
(G.Boucher, "La terre parle au ciel",' trang 5 (tại nhà tác giả: Résidence de Kerampir, 19820 Bohars).
"Thiên Chúa cứu chuộc dân Ngài. Thiên Chúa Ạcứu chuộc nhân loại. Thiên Chúa thức tỉnh ta. Thiên Chúa nlời gọi ta. Tới phiên ta trả lời Ngài.
Nếu ta ngủ mê, quá bận rộn với những công việc vật chất, ta sẽ ớ bên lề biến cố Thiên Chúa tỏ mình ra là Đấng Cứu độ.
Chẳng lẽ mối lo mua bánh hay thu hoạch rau quả không thể nối tiếp những phú suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời . Những phút ta dừng lại để kiểm điểm mốl tương giao với Thiên Chúa? Một tinh thđn nhắc nhở chúng ta đừng quá đầu tư vào cuộc sống vật chất đến nỗi không nhìn ra ơn cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện nơi ta, "ngày tốt đẹp" mà Ngài đã nói với ta hay sao?
Nếu muốn chụp lấy tấm ván cứu độ, ta hãy mớ rộng đôi mắt. Tinh thần minh mẫn. Con tim tỉnh thức. Tâm hồn đợi chờ..
Một năm phụng vụ mới bắt đầu. Năm nay (A), chúng ta sẽ đọc mỗi Chúa nhật một đoạn Tin: MV 1-A27
Một năm phụng vụ mới bắt đầu. Năm nay (A), chúng ta sẽ đọc mỗi Chúa nhật một đoạn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu. (Năm B là năm Tin Mừng Máccô, và năm C là năm Tin Mừng Luca)
Quả thế thời ông No-ê thế nào, thì ngày quang làm Con Người cũng sẽ như vậy.
Đó là Mùa Vọng.
Ta biết từ này bắt nguồn từ tiếng La-tinh adventum, nghĩa là sẽ đến, đã đến đấy là từ đầu tiên của sách Tin Mừng này. Một ai đó. Đức Giêsu không giới thiệu mình cho chúng ta như một người của quá khứ, nhưng như một người của tương lai. Người nói về việc người đến, về việc người quang làm như một biến cố tương lai.
Lễ Giáng sinh sắp đến, đối với chúng ta không phải là một cách làm giả bộ, như chúng ta vui sướng chờ một người đã đến và chúng ta nhớ nhung gợi lại một câu chuyện lạ lùng xưa
Đức Giêsu đã nói với chúng ta Người sắp đến; thời ông No-ê thế nào, thì ngày quang làm Con Người cũng sẽ như vậy.
Này đây Chúa đến! Ta hãy để cho Chúa đi qua! Mỗi buổi sáng Thiên Chúa đều mới mẻ.
Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, cho mãi đến ngày ông No-ê vào tàu.
Những đầu óc nông cạn có lẽ sẽ nói: tại sao lại phải tìm quá xa và đi ngược mãi lên đến thời hồng thủy và Tàu No-ê. Người ta phải làm chi đây? Này! Đức Giêsu, chính Người đang nghĩ ta đang ở "vào thời No-ê". Và Người mô tả về điều người ta lo lắng. Đó chính là bức tranh của xã hội ta đương đại: làm việc, ăn uống, dựng vợ gả chồng. Tất cả những chuyện đó, chẳng có gì tự nhiên hơn?
Trong sách Sáng Thế (16,5-13), con hồng thủy được trình bày như một hình phạt cái tội vô luân của con người thời đó; “Đức Chúa thấy rằng con người quá gian ác trên mặt đất, và lòng họ chỉ toan tính những ý đồ xấu xa suốt ngày". Truyền thống thượng tế khi kéo dài và bi kịch hóa mạc khải Kinh Thánh, đã nghiêm khắc mô tả "sự sa đọa nhục dục của những người đương thời No-ê kéo theo hỗn loạn sang lãnh vực phong tục và cuối cùng đi tới hủy hoại về đạo lý và xã hội đến nỗi loài người tự hủy diệt chính mình mà không còn hy vọng sống xót..." (Chú giải về sách Sáng Thế của Rachi).
Đức Giêsu, trái lại, tuyệt đối không hề nói gì về nạn vô luân. Người không trách móc những người đương thời No-ê, đó chỉ là những đàn ông và đàn bà đang hít thở niềm vui của cuộc sống! Người không trách họ về sự sa đọa của họ. Cuối cùng thì họ chẳng làm chuyện chi xấu xa cả: họ chú tâm đến những nhu cầu hoàn toàn bình thường của cuộc sống, chẳng có một hậu ý gì.
Thế thì họ quấy quá ở chỗ nào? Đức Giêsu có thể trách móc họ điều gì nào?
Họ không hay biết gì cho đến khi nạn hồng thủy tới cuốn đi hết thảy.
Họ không bị khiển trách vì phóng đãng mà cũng chẳng phải vì tội lỗi. Chính vì họ "không biết sợ hãi gì cả!"... không lo đến chuyện chính yếu không có một nhận thực đúng đắn về thực tại.
Họ có vẻ tin là họ bất tử! Mắt họ bị bịt không thấy thân phận con người của mình. Họ phải chịu cái chết "nuốt trôi" để rồi, trong phút chốc, họ khám phá thấy rằng họ không phải là: “những thần linh" và nếu muốn sống thì họ cần đến Chúa?
Chúng ta luôn luôn ở vào "những ngày thời No-ê! " Loài người hôm nay, cũng thế, họ như bị đánh thuốc mê. Tiến bộ vật chất chính nó có xu hướng ru ngủ chúng ta. Người ta tin thế gian này vững vàng, chỗ người ta đã quen sống cho đến ngày đến lúc chợt tỉnh ngộ, thì còn tàn bạo hơn cả trước kia người ta đã vô ý thức quá về mối nguy hiểm. Có một cảnh tượng hiện đại của cơn đại hồng thủy; đấy là cuộc lạm phát tiền tệ quốc tế nhận chìm hết mọi nền kinh tế, đấy là sự tăng giá đột ngột như một cơn sóng triều của dầu khí và những nguyên liệu thiết yếu nhất, đấy là một căn bệnh không tiên đoán được, đấy là một tai nạn... Và tất cả mọi thứ an toàn của chúng ta đều bị cuốn trôi hết!
Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy.
Lần thứ hai, Đức Giêsu dùng đến từ "quang lâm" parousia" trong tiếng Hy Lạp. Thực sự, từ này có nghĩa là sự “hiện diện", "đã đến”: có mặt ở đấy! Xưa người ta dùng từ ấy, trong thế giới Hy-la để chỉ "những cuộc đi thăm chính thức của các hoàng đế".
Chúng ta có xu hướng hơi thái quá đem áp dụng nghĩa "parousia" cho Ngày Tận Cùng Các Thời Đại, khi nghĩ rằng ta có những cơ may là không trông thấy ngày tận thế. Đúng là cách ta đánh giá sai lầm về các sự vật mà Đức Giêsu muốn chúng ta cảnh giác. Thực sự, Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Người đến "thăm chính thức" chúng ta trong lúc ta bận rộn những chuyện thường ngày nhất, tại nơi ta làm việc, tại nhà ta, ở nơi ta ăn uống, trong các quan hệ giữa đàn ông và đàn bà của ta. Lúc nào ta cũng phải sẵn sàng cho Đức Giêsu "ngự đến", "đến cuối cùng", "có mặt ở đó".
Bấy giờ hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cổi xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại...
Đó là cuộc sống hằng ngày. Chính trong những lúc bận rộn rất thường ngày của chúng ta mà Đức Giêsu đến, giữa lúc người nông dân đang làm, người nội trợ đang làm... và ta có thể thêm, nơi văn phòng, ngoài phố, lúc ta đang lái ôtô
Vậy anh em hãy canh thức, bởi vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến.
Đức Giêsu khuyên chúng ta phải "tỉnh thức": Hãy canh thức! Hãy chuẩn bị cho tương lai chúng ta. Bởi lẽ Chúa "đến", Chúa "có mặt" mọi ngày.
Đức Giêsu "đến" tạo ra một cách thế riêng của người. Ở chỗ mà người ta không thấy có gì khác nhau, bởi lẽ không có gì phân biệt giữa hai người này đang cùng làm ruộng, hai người đàn bà cùng kéo cối xay này. Chỉ có chính Chúa mới thấy cái khác nhau: Một người thì sẵn sàng người kia thì không! Bấy giờ một người được ở với Chúa, ở trong ánh sáng, còn người kia không được ở với Chúa, phải ở trong tối tăm. Hiển nhiên là không có vấn đề độc đoán.
Toàn bộ Kinh Thánh nhắc lại rằng Thiên Chúa "cứu độ". Và nếu ta hiểu rõ đoạn nói về nạn hồng thủy, thì phải thấy ở đó có một "hành vi cứu thoát”: Khi con người bấy giờ đang đi tới đại họa, thì mọi chuyến đi theo chiều hướng ngược lại khi Thiên Chúa can thiệp, để làm cho một nhân loại mới xuất hiện. No-ê, chính là người được Thiên Chúa "cứu độ”.
Nhưng, hãy chú ý, tàu đã sẵn sàng, hôm nay, cho nạn hồng thủy của bạn. Đức Kitô Đấng Cứu Độ, đã vào trong biển nước chết chóc, lôi kéo thêm người vào Giáo Hội, trên thuyền của Người, tất cả những ai theo Người. Và khi vào thời No-ê theo nguyên văn Kinh Thánh, loài người đầu tiên thực sự đã biến mất trọn vẹn, thì Đức Giêsu, nói đến 50% những người được cứu độ... một trên hai... năm trinh nữ khôn ngoan, khác với năm trinh nữ dại khờ (Mt 25,12). Và hiển nhiên chúng ta biết rằng đó không phải là những phần trăm theo toán học.
Không hề muốn nói đến một bầu không khí sợ hãi, Đức Giêsu lôi những người "đang đứng", những người "canh thức", những người "đang rình". Cái "liều lĩnh" trong cuộc sống kinh tế xã hội, gia đình, mời gọi ta thấy trước, lo chuẩn bị tỉ mỉ. Ông chủ doanh nghiệp đang “thiêm thiếp ngủ” sẽ kết án chính cái doanh nghiệp của mình. Chàng trai trẻ không lo chuẩn bị tương lai của mình, thì chính mình sẽ chịu trách nhiệm làm hông cuộc đời mình, giống hệt như nhau. Người đàn ông hay đàn bà không bao giờ nghĩ đến Chúa sẽ làm hông cuộc "viếng thăm" của Người.
Vậy anh em hãy canh thức bởi vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến.
Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức...
Đừng làm cho cuộc đời mình cứ ngủ? Hãy tỉnh thức! Sinh vật nào thức tỉnh, con vật đang săn mồi, cuối cùng chính là thứ "được sống". Tỉnh thức không hề có nghĩa là tích lũy cho nhiều hệ thống an ninh", "chắn rào chung quanh nhà để tránh cướp". Không! Tỉnh thức, chính là "sẵn sàng" để đối phó, chính là "được vận động liên tục" để hành động...Tỉnh thức, chính là trái nghịch với "để buông trôi” lo lắng, bất cần.
Không nên nói "giá mà tôi đã biết trước" vì đã quá muộn rồi, bởi lẽ chúng ta đã được cảnh báo trước rồi.
Nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến...
Hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu.
Trong tầm trí chúng ta, hiển nhiên hình ảnh của "người kẻ trộm" gắn liền với sợ hãi. Chắc chắn ta có thể đọc một bài khác về hình ảnh này. Thế thì theo Đức Giêsu, kẻ trộm đến làm gì? Nó "khoét vách nhà" , anh ta đến mở cái gì đang bị đóng lại, bỗng nhiên ta khám phá một ý nghĩa tượng trưng kỳ diệu, qua những lời lẽ chân thực của dụ ngôn: Chúa luôn luôn đến "để mở" thế gian cứ đóng không cho Người vào. Khi Người đến cửa nhà chúng ta, Chúa sẽ vào nhà ai tỉnh thức để mở cho người! Nhưng ai để cho mình phải bất ngờ... coi chừng! Cửa không phải lúc nào cũng mở luôn luôn đâu.
Chúng ta có lỡ không để cửa ngỏ vào thế giới của Thiên Chúa không ?
Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Người Kitô hữu sẽ đứợc giải thoát khỏi cái ngày... luôn luôn sẵn sàng. Vàng! Con Người đến bất cứ lúc nào trong đời. Người đến thường xuyên, đơn giản đến độ có vẻ như luôn luôn không ngờ đến!
Alan Platon là một nhà văn Nam Phi, tác giả một quyển sách nhan đề Cry the Beloved Country: MV 1-A28
Alan Platon là một nhà văn Nam Phi, tác giả một quyển sách nhan đề Cry the Beloved Country trong đó ông mô tả hoàn cảnh khốn khổ của nước Nam Phi với chế độ phân biệt chủng tộc apartheid. Platon có một giấc mơ: ông mơ có một ngày mà mọi người dân trong đất nước của ông đều được đối xử công bình và bình đẳng.
Và để thực hiện giấc mơ ấy, ông đã lao mình vào chính trị , đấu tranh suốt mấy mươi năm để xoá bỏ chế độ apart- heid ấy. Nhiều người cho rằng mơ ước và việc làm của Platon là không thể nào thực hiện được. Nhưng ông vẫn kiên trì vì tin rằng ngày mơ ước ấy sẽ đến. Chỉ tiếc là ông dã chết trước khi thấy được ngày đó, nhưng lịch sử chứng minh rằng ông đã đúng.
Ngôn sứ Isaia còn có một giấc mơ táo bạo hơn nữa: ông mơ tới ngày các nước sẽ không còn tuốt gươm chém giết lẫn nhau nữa, người ta sẽ ấy gươm rèn thành lưỡi cày lấy giáo rèn nên lưỡi liềm, và mọi người sẽ bước đi trong ánh sáng của Chúa. Thật là một giấc mơ tuyệt vời! Có người cho rằng giấc mơ ấy sẽ đến khi Đấng Messia đến. Người khác cho rằng nó chỉ sẽ đến khi Đấng Messia lại đến lần thứ hai. Có kẻ nói nó sẽ chẳng bao giờ đến, đó chỉ là nằm mơ giữa ban ngày. Nhưng vẫn có người tin rằng thế nào nó cũng đến nên miệt mài theo đuổi như Alan Platon trong chuyện trên.
Một chuyện khác: Một người thợ săn nghe nói tới một con chim đặc biệt có đôi cánh rộng màu trắng rực rỡ. Đó là con chim đẹp nhất trong các loài chim trên mặt đất. Vì thế người thợ săn không quản ngại đường xa, trèo đồi vượt suối đi tìm nó hết ngày này sang ngày khác, tháng này đến tháng nọ, năm này đến năm kia.
Một lần anh đã may mắn thấy được bóng dáng nó ở một khoảng cách rất xa. Nhưng chỉ thoáng thấy là nó bay đi mất. Anh vẫn kiên trì đi tìm. Một ngày kia anh nhặt được một cọng lông trắng của nó. Rồi anh chết đi mà không bao giờ bắt được con chim mơ ước của mình.
Cuộc săn tìm của người thợ săn là hình ảnh của loài người tìm kiếm hòa bình. Giấc mơ toàn thế giới vui hưởng thái bình của Isaia có thể không thực hiện được nhưng nó không chỉ đơn thuần là nằm mơ giữa ban ngày, mà giống như một ngọn núi mà ta mơ có ngày sẽ đứng trên đó: Dĩ nhiên muốn thế thì ta không thể cứ ngồi một chỗ mà mơ, hoặc ước chi nó từ trên trời hạ thấp xuống tận chân ta. Ta phải leo, phải có chương trình và kiên trì làm theo chương trình ấy, cho dù có chậm chạp và lâu dài.
Ngay cả khi giấc mơ thái bình ấy sẽ không bao giờ được thực hiện trọn vẹn trên toàn thế giới đi nữa, thì việc theo đuổi giấc mơ ấy cũng có ảnh hưởng tốt trên đời ta. Điều quan trọng không phải là đạt được mục đích mà là sống có mục đích. Nhiều khi có một mục đích tốt cho đời mình thì kể như đủ, miễn là không bao giờ ta bỏ mục đích ấy.
Thế giới ngày nay nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ có thể làm được hầu như mọi điều, nhưng lại bất lực không tạo ra hòa bình được: bất hòa khắp nơi, trên bình diện lớn như nước này với nước nọ, dân này với dân nọ; hoặc trên bình diện nhỏ như nhóm này với nhóm kia, người này với người khác. Mỗi Kitô hữu có thể góp phần mình vào việc thực hiện giấc mơ thái bình của Isaia, bằng những cố gắng xoá bỏ óc kỳ thị, sự đố kỵ, ích kỷ, chia rẻ nhau...; bằng cách gieo rắc hòa thuận, cảm thông, hợp tác...
Chúng ta cũng nên biết rằng chúng ta không cô đơn trong những cố gắng ấy, mà có Chúa giúp ta. Thiên Chúa đã yêu thường chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài đến ở với loài người chúng ta, thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian này, và cùng đồng hành với chúng ta trong nỗ lực leo lên đỉnh núi thái bình.
2. “Đây là lúc chúng ta phải thức dậy”
Lời Thánh Phaolô trong bài đọc II làm cho chúng ta giật mình. Phải chăng chúng ta đang ngủ vùi?
Đúng vậy, dù mắt chúng ta vẫn mở nhưng thực sự chúng ta đang ngủ trong bóng tối mịt mù:
-Chúng ta ngủ vì “những việc làm đen tối” -Chúng ta ngủ vì cứ “chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng” -Chúng ta ngủ vì lòng đầy “tranh chấp đố kỵ” -Chúng ta ngủ vì chỉ “lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt”.
Nhưng Thánh Phaolô nhắc nhở rằng: Đêm sắp tàn, ngày gần đến và “giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo”, vậy “Đây là lúc chúng ta phải thức dậy”.
-“Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày” -Hãy “cầm lấy khí giới của sự sáng” để chiến đấu chống lại những sức mạnh của tối tăm tội lỗi. -Hãy cởi bỏ con người cũ thiên về những dục vọng xác thịt để “mang lấy Đức Giêsu Kitô”.
3. Hai người, hai số phận
Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Đức Giêsu chỉ nói tình trạng như thế thôi chứ không nói rõ lý do tại sao. Tuy nhiên chúng ta có thể biết lý do qua câu chuyện Ngài kể về thời ông Nôe: ông Nôe chính là người được tiếp nhận nhờ ông đã tỉnh táo nghe được Lời Chúa báo sắp có nạn Hồng thuỷ, và ông đã tích cực chuẩn bị đóng tàu. Còn mọi người khác là những kẻ bị bỏ rơi, vì họ chẳng để ý tới việc gì khác ngoài cuộc sống vật chất “ăn uống, dựng vợ gả chồng”. Những bận tâm đó đã chiếm hết tâm trí họ rồi, còn tâm trí đâu mà để ý đến lời Chúa. Giá như ông Nôe có kể lại cho họ nghe lời cảnh báo của Chúa thì họ cũng không tin và còn cho là chuyện viễn vông, không thiết thực như chuyện “ăn uống, dựng vợ gả chồng”. Trong cuộc sống của chúng ta, giữa những bề bộn lo lắng về vật chất, thế tục, Lời Chúa vẫn vang lên để nhắc chúng ta phải biết quan tâm đến nhiều việc khác thuộc phương diện tinh thần, phương diện siêu nhiên, phương diện đời đời... Ai tỉnh táo thì nghe được và sẽ được tiếp nhận, kẻ nào mãi thờ ơ thì như đàn gãy tai trâu, và sẽ bị bỏ lại.
4. Chúa cấm con thất vọng
*Hãy cố gắng, dù yếu đuối ngã sa, con hãy xin Chúa thứ tha và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sĩ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú đấm, bị thương tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đoạt giải vô địch quốc tế (ĐHV 97)
Cha Charles de Foucauld có để lại mấy giòng sau đây. Đọc kỹ, con sẽ thấy phấn khởi tâm hồn và lấy lại được niềm tin, nhất là những lúc hầu như con thất vọng:
-“Dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng về điều đó”.
-“Dù con bội bạc cách mấy, khô khan cách mấy, hèn nhát cách mấy, lợi dụng ơn Chúa cách mấy. Chúa cũng vẫn bắt con phải hy vọng được sống dời đời dưới chân Chúa trong tình thương và sự thánh thiện”.
-“Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nạn của con. Chúa không cho con nói: “Tôi không thể đi tới được, đường lên trời khó khăn quá, tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp”.
-“Trước những sa ngã trở đi trở lại của con, Chúa lại cấm không cho con nói: “Tôi không hề sửa mình được, tôi không có sức để nên thánh, tôi không xứng đáng để vào thiên đàng...”
-“Vậy Chúa muốn con phải trông cậy Chúa luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa (ĐHY NVT, Trên đường lữ hành)
5. Thức dậy
Ở Mêhicô, giáo phận của Đức Cha Samuel Ruiz có tới 80 % giáo dân là người da đỏ bản xứ. Bản thân ngài nổi tiếng là người bênh vực cho dân da đỏ. Nhưng không phải tự nhiên mà ngài làm được việc đó đâu.
Trong một buổi nói chuyện ở Nhà thờ Chính tòa Westminster Mùa chay 996, ngài đã thổ lộ tâm sự như sau: Suốt 20 năm làm giám mục giáo phận này, tôi như một con cá đang ngủ (sleeping fish), nghĩa là, mắt vẫn mở nhưng chẳng thấy gì. Tôi còn hãnh diện vì giáo phận có nhiều nhà thờ và giáo dân đông đúc. Rồi một hôm tôi gặp cảnh một người da đỏ bị trói vào một thân cây và bị ông chủ đùng roi quất túi bụi vì lý do người này không chịu làm thêm 8 giờ phụ trội nữa”. Chính cái biến cố đó đã làm cho Đức Cha Samuel Ruiz thức đậy. Từ đó trở đi, Ngài hăng hái tranh đấu cho quyền lợi người da đỏ.
Chuyện trên cho ta thấy hai điều:
1/ Thiên Chúa có nhiều cách để kêu gọi người ta thức dậy;
2/ Và cũng có nhiều cách thức dậy: thức dậy về thể xác (thôi ngủ), thức dậy về xã hội, thức dậy về đạo đức v.v...
Sáng sớm Chúa nhật 30.6.1974, hơn 100 bạn trẻ khiêu vũ theo điệu nhạc Rock tại nhà hàng: MV 1-A29
Sáng sớm Chúa nhật 30.6.1974, hơn 100 bạn trẻ khiêu vũ theo điệu nhạc Rock tại nhà hàng Gulliver ở Port Chester giữa biên giới New York và Connecticut. Bất thình lình nơi này bốc lửa và đầy khói. Chỉ trong mấy phút đã có 24 người chết vì lửa và khói, và vì chen lấn nhau ở lối ra.
Ong thị trưởng Port Chester cho biết: “Người lãnh đạo các bạn trẻ đã khuyên tất cả nhóm phải rời sàn khiêu vũ ngay khi thấy một ít khói bốc ra, nhưng họ đã không rút đi cho đến lúc khói bốc ra rất mạnh, và người lãnh đạo phải kêu to cho mọi người rút ra ngay lập tức”. Thế là quá chậm đối với nhiều người trong nhóm họ. Nếu họ chú ý đến lời cảnh cáo trước hết thì đã chẳng ai trong nhóm họ phải chết.
Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về hai lời cảnh cáo: một lời cảnh cáo về trận lụt lớn trong thời Noê. Lời cảnh cáo nữa do chính Chúa Kitô về sự tận thế. Chúng ta có thể thấy mối liên lạc giữa hai lời cảnh cáo này.
Việc Chúa Kitô đến trong ngày phán xét cuối cùng sẽ như trận lụt cuốn hết mọi người, trừ những người ở trong tàu Noe. Chúa Kitô cảnh cáo chúng ta: “Vậy các con hãy tỉnh thức vì không biết giờ nào Chúa mình sẽ đến” – Chúa còn nói thêm: “Các con phải sẵn sàng vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Chúa còn nói đi nói lại về ngày tận thế. Ngài bảo chúng ta không biết ngày nào hay giờ nào. Ngài dạy chúng ta phải sẵn sàng.
Nhóm bạn trẻ ở Port Chester và dân chúng thời Noe được cảnh cáo nhưng họ không thi hành. Trận lụt xảy đến đã tiêu diệt thế gian tội lỗi. Không cần biết lý do cuộc hỏa hoạn ở Port Chester. Chúng ta cũng không cần phải suy nghĩ rằng sự tận cùng của thế giới xảy đến như là sự trừng phạt. Bởi vì đối với tất cả chúng ta, sự tận cùng thế giới sẽ xảy ra đến vào lúc kết thúc cuộc đời, giờ chết không phải là sự trừng phạt. Nó có thể và phải là khởi đầu cuộc sống cao cả, tốt đẹp và trong sáng hơn. Nhưng Chúa chúng ta nói rằng sự chết sẽ đến như kẻ trộm trong đêm tối.
Tại sao lại đọc bài Tin Mừng hôm nay khi chúng ta đang chuẩn bị cho một ngày hạnh phúc nhất trong năm: Lễ Giáng sinh: Chúa Giêsu đã bỏ hạnh phúc trên trời mà đến cùng chúng ta trong hình hài trẻ thơ, để lớn lên và nói cho chúng ta về hạnh phúc trên trời, để tỏ cho chúng ta cách thế lên trời và giúp chúng ta về trời. Nghĩ đến lúc chúng ta phải lên trời và giúp chúng ta về trời thì chúng ta phải nghĩ đến cái chết mà chúng ta phải sẵn sàng luôn, không phải trong sự sợ hãi lo âu, nhưng trong tinh thần hy vọng, an vui. Chúng ta hãy chú ý đến lời cầu nguyện mà linh mục đọc ngay sau khi chúng ta đọc kinh “Lạy Cha”, “Nhờ lượng từ bi Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi tội lỗi mà phù trợ chúng con khỏi lo âu, đang khi trong niềm hy vọng hồng phúc, chúng con trông đợi Đấng cứu thế là đức Giêsu Kitô sẽ đến”.
Trong Kinh Nguyện Thánh thể IV chúng ta cũng kêu cầu giống như vậy: “Đang khi mong đợi Người đến trong vinh quang, chúng con dâng lên Chúa Mình và Máu Thánh Người”.
Chúng ta phải sẵn sàng chúng tôi giờ cuối cùng như chúng ta nóng lòng chuẩn bị cho lễ Giáng sinh vĩnh cửu.
Một lần nữa, chúng ta lại bước vào Mùa Vọng. Vọng là hy vọng, là ước mong, là chờ đợi: Cuộc: MV 1-A30
Một lần nữa, chúng ta lại bước vào Mùa Vọng. Vọng là hy vọng, là ước mong, là chờ đợi: Cuộc sống con người từ lúc mở mắt chào đời cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay được thêu dệt bằng những chờ đợi triền Mtên.
Trước năm 1975, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết một ca khúc, trong đó có lời như sau: "Nơi đây tôi chờ, nơi kia anh chờ". Có chờ đợi là có ước mơ. Cách đây hơn XXV thế kỷ, giữa lúc dân Do Thái đang phải sống kiếp đọa đầy nơi đất khách quê người, tiên tri Isaia trong bài đọc I hôm nay đã mơ ước như sau: "Ngày đó họ sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo mà rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa, người ta cũng không còn thao luyện để chiến đấu nữa".
Giấc mơ trên đây của tiên tri Isaia xưa, ngày nay đã trở thành giấc mơ của toàn thể nhân loại. Bởi vì những lời này được ghi ngay trước trụ sở của Liên Hiệp Quốc lại New York bên Hoa Kỳ. Lại Hoa Kỳ, vào khoảng cuối thập NIÊN 60, người ta đã chứng kiến không biết bao nhiêu cảnh ngược đãi mà cộng đồng người da đen phải gánh chịu qua bao thế kỷ. Mục sư Martin người da đen đã nói lên giấc mơ của mình như sau: "Tôi mơ ước một ngày nào đó những đứca con của những người nô lệ da đen sẽ được ngồi ăn đồng bàn với con cái của những chủ nhân người da trắng". Năm 1968, mục sư đã bị mưu sát, nhưng những người đi sau đã biến giấc mơ của ông thành một hiện thực. Đó là ngày nay, con cái của những người nô lệ da đen đã hoàn toàn bình đẳng với con cái của các chủ nhân người da trắng.
Thật vậy, không có gì đẹp cho bằng những giấc mơ trên đây. Tuy nhiên, lịch sử của nhân loại không được viết bằng những giấc mơ đẹp. Vì lịch sử ấy đầy dẫy những ác mộng, những hy vọng hão huyền, những hàng rào kẽm gai, những trại sát sinh, trại tập trung, những trại hỏa lò, những cánh đồng giết người và không biết bao nhiêu hình thức đọa đầy khác nữa.
"Chờ Đợi - Ước Mơ - Hy Vọng", đó là hạt giống bất tử mà Thiên Chúa đã đặt để nơi trái tim con người. Thánh Augustinô đã giải thích một cách tuyệt mỹ niềm ước mơ hy vọng ấy khi ngài thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con. Vì thế tâm hồn con xao xuyến bồi hồi cho đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa ".
Quả thực, chỉ trong Thiên Chúa mới là cùng đích của mọi khát vọng, mọi ước mơ, và chỉ khi nào đạt được mục đích ấy thì con người mới hết chở đợi, hết mơ ước và hết hy vọng. Bao lâu con người còn sống, thì bấy lâu con người còn phải mỏi mòn đợi trông và tìm kiếm.
Lịch sử của dân tộc Israel là điển hình của sự mò mẫm tìm kiếm ấy, nhưng qua dòng lịch sử ấy, Thiên Chúa đã mạc khải cho con người biết đâu là cùng đích của mọi ước mơ và hy vọng. Trong Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã cho niềm hy vọng của con người được thành tựu. Chúa Kitô là điểm đến của lịch sử con người. Tất cả mọi chờ đời, mọi hy vọng, mọi nỗ lực và mọi kiến tạo của con người đều qui hướng về Chúa Kitô. Ngài là Đấng đang hiện diện. Ngài là Đấng đang đến. Ngài là Đấng tác động trong từng biến cố của lịch sử con người. Chỉ có Ngài mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của con người, và chỉ có Ngài mới có thể thoả mãn được mọi ước vọng của con người mà thôi.
Anh chị em thân mến!
Đây chính là trọng tâm của niềm tin Kitô giáo mà hằng năm, mỗi khi Mùa Vọng trở lại, Giáo Hội không ngừng mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa ấy. Mọi ước mơ, mọi chờ đợi và mọi hy vọng của chúng ta chỉ được thành tựu trong Chúa Kitô mà thôi. Ngài là đối tượng của mọi chờ đợi và mọi hy vọng của con người. Ngài đang đến trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta.
Thảm trạng lớn nhất của con người là khước từ Đấng đang đến trong cuộc sống, và như vậy họ cũng đánh mất ý nghĩa của cuộc sống. Ngài đã đến với dân tộc Ngài tuyển chọn, nhưng Họ đã không đón nhận Ngài. Cái chết trên Thập giá của Ngài vừa là biểu trưng, vừa là biểu hiện của mọi thứ khước từ. Sự khước từ ấy vẫn tiếp tục diễn ra mỗi khi con người chối bỏ chính nhân phẩm của mình để sống theo những dục vọng và khuynh hướng thấp hèn của thụ tạo Sự khước từ ấy vẫn tiếp tục diễn ra do con người mù quáng, ích kỷ, chối bỏ và chà đạp phẩm giá của người anh em mình.
Anh chị em thân mến !
Chúa Kitô vẫn tiếp tục đến một cách âm thầm và bất ngờ qua từng biến chuỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta. Ngài vẫn tiếp tục đến một cách bất ngờ trong mỗi người anh em bé mọn nhất của chúng ta. Đó là điều Ngài muốn nói với chúng ta khi dùng hình ảnh của lụt Đại Hồng Thủy hay của kẻ trộm trong Tin Mừng hôm nay. Hãy tỉnh thức để không ngừng đón nhận Ngài trong từng biến cố của cuộc sống, đó là sức điệp mà Mùa Vọng hằng năm nhắc nhớ cho chúng ta.
Một chốc nữa đây, kết quả của công tao khó nhọc nơi con người sẽ được kết hợp với hiến lễ của ChúaKitô trên bàn thờ để biến thành Mình và Máu Chúa Kitô. Đó là sự hiện diện bất ngờ nhất mà Chúa Kitô muốn bày tỏ cho con người. Sự hiện diện này sẽ nhắc nhớ cho chúng ta biết rằng, trong mọi sinh hoạt của con người, Ngài luôn luôn có mặt và tác động bằng một cách thế mà chúng ta không thể ngờ được.
Hãy luôn tỉnh thứ để đón nhận Ngài, đó là ơn cần thiết nhất mà chúng ta phải cầu xin trong suốt Mùa Vọng này. Giờ đây, xin Ngài củng cố đức tin cho chúng ta qua kinh Tin Kính.
Một con tàu đang lênh đênh giữa biển khơi. Trong phòng ăn, mọi thực khách đang say sưa: MV 1-A31
.Một con tàu đang lênh đênh giữa biển khơi. Trong phòng ăn, mọi thực khách đang say sưa ăn uống, nói cười coi như mọi sự đều bình yên vui vẻ. Nhưng trên boong tàu, vẫn có một người đứng đó, đôi mắt dõi nhìn ra xa, chăm chú xem có bất cứ dấu hiệu nào về cơn bão có thể bất ngờ ập tới, để luôn báo kịp thời, cứu nguy cho cả đoàn tàu
S.Kierkegaard đã dùng hình ảnh như thế đó mà diễn tả thái độ sống của người Kitô hữu: tỉnh thức. Canh thức không chỉ cho sự an toàn của chính mình mà còn như trách nhiệm của người Kitô hữu trước cuộc đời, vì tất cả chúng ta - Kitô hữu hay không Kitô hữu đều ở chung trên một con tàu. Tỉnh thức như thế là thái độ của cả cuộc đời, nhưng lời mời gọi ấy được nhắn gửi đặc biệt trong Mùa Vọng. Tỉnh thức bắt nguồn từ chỗ ngày Chúa đến rất bất ngờ. Bất ngờ nên phải tỉnh thức để đón tiếp. Vì thế, suy nghĩ về sự bất ngờ lại là phương thế để sống tỉnh thức.
I. CHÍNH GIỜ PHÚT ANH EM KHÔNG NGỜ, CON NGƯỜI SẼ ĐẾN
Không ai chối cãi được rằng Lời Chúa trong bài Tin Mừng nhấn mạnh rất nhiều đến sự bất ngờ. Và nói đến bất ngờ, lập tức ta nghĩ đến sự bất ngờ về thời gian. Chính Lời Chúa xác nhận điều đó:
"Anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến".
"Nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến"
“Anh em hãy sẵn sàng vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến”.
Rõ ràng những chi tiết trong lời Đức Giêsu đều nhấn mạnh đến sự bất ngờ về thời gian.
Tuy nhiên, tôi muốn nghĩ đến sự bất ngờ khác, sự bất ngờ có lẽ ta ít quan tâm hơn nhưng lại rất can thiết. Đó là sự bất ngờ trong tính cách.
Hãy thử nhìn lại biến cố Lụt Hồng Thủy mà Đức Giêsu đã trưng dẫn làm hình ảnh gợi suy tư: "Trong những ngày trước nạn Hồng Thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noê vào tàu. Họ không hay biết gì". Họ không hay biết gì vì xem ra mọi sự đều thuận buồm xuôi gió: làm ăn phát đạt, kinh tế phát triển, vui chơi thỏa thích. Cứ theo lôgích tự nhiên mà nói, chỉ có dấu hiệu của hạnh phúc chứ không có đấu hiệu gì loan báo tai họa cả. Ai ngờ! Tai họa đã ập đến ngoài cái lôgích bình thường của cuộc sống và của suy nghĩ nhân loại.
Khi Đức Giêsu đến cũng vậy. Thiên Chúa đã đến viếng thăm dân Người, nhưng dân Người lại không nhận biết. Vì Người đã đến trong một cách thế hoàn toàn khác với ước mong và dự định của con người. Người ta đã nuôi sẵn trong đầu óc và tâm tưởng hình ảnh về Đấng phải đến và một khung tư tưởng về cuộc sống của Ngài: giàu sang, quyền qúy, uy ngài, hùng mạnh. Đang khi đó, Ngài lại đến trong cảnh khó nghèo, cơ cực, yếu đuối... từ khi sinh ra đến khi chết. Làm sao có thể nhận ra Ngài cho dẫu Ngài đang ở giữa họ và chung sống với họ.
Thế nên bên cạnh sự bất ngờ về thời gian, còn có sự bất ngờ về tính cách. Nói bằng ngôn ngữ hình ảnh của Tin Mừng, có sự bất ngờ của tên kẻ trộm đến giữa đêm khuya, nhưng cũng có cả sự bất ngờ của tên ăn cướp đến giữa ban ngày, đi xe con, mặc áo veste... vì thế ai cũng tin tưởng qúy mến, nhưng thực chất của hắn vẫn chỉ là tên ăn cướp! Cuộc sống hôm nay đầy dẫy những thứ bất ngờ như thế, và chính sự bất ngờ đó khiến ta phải tỉnh thức nhiều hơn.
II. VẬY ANH EM HÃY TỈNH THỨC
Nếu việc Chúa đến mang tính bất ngờ như thế thì tỉnh thức có nghĩa là làm quen với sự bất ngờ đó, để cái bất ngờ trở thành cái bình thường và quen thuộc.
Làm quen với sự bất ngờ của Chúa bằng cách làm quen với đường lối của Thiên Chúa, Đấng mà "tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi". Đường lối ấy đã được bầy tỏ trọn vẹn trong Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa đã đến và ở giữa loài người. Vì thế, làm quen với đường lối của Thiên Chúa có nghĩa là quen với đường đi của Tin Mừng, và nẻo về của Phúc âm, là "mặc lấy Đức Giêsu Kitô và không chiếu theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng"(Bài đọc II). Khi đó, cuộc sống của ta là cuộc sống "giữa ban ngày" (Rm 13, 13), và đã gọi là ban ngày, cũng có nghĩa là đang thức. Mà đã thức thì đù Chúa đến bất cứ lúc nào, cũng chẳng còn bất ngờ nữa.
Làm quen với đường lối của Thiên Chúa như thế, là nền tảng cho ta đọc được những dự báo về Ngày Chúa đến. Có lần Đức Giêsu nói với đám đông dân chúng: "Khi các ngươi thấy mây kéo lên ở phía tây, các ngươi nói ngay: Mưa đến nơi rồi, và xảy ra đúng như vậy. Khi thấy gió nồm thổi, các ngươi nói: Trời sẽ oi bức, và xảy ra đúng như vậy. Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này sao các ngươi không biết nhận xét" (Lc 12,54-56)
Đúng là "Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy, cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi". Nhưng để có dự báo thời tiết được đúc kết thật đơn sơ mà chính xác đó, người nông phu đã phải làm quen với diện mạo đất trời ngày nãy qua tháng khác, năm này qua năm nọ, có khi thế hệ này sang thế hệ khác. Cũng thế, để có thể đọc được dự báo về Ngày Chúa đến, ta phải tập làm quen với đường lối của Ngài. Thái độ này chỉ có được nhờ việc thường xuyên lắng nghe, suy niệm Lời Chúa và đem Lời ấy vào cuộc sống của mình. Nhờ đó có được cái mà thánh Phaolô gọi là sự biện phản các Thần Khí để có thể nhận ra đường đi nẻo về của Thiên Chúa ngay giữa những sinh hoạt của đời thường.
Cuối cùng, công việc làm quen với đường lối của Thiên Chúa chỉ có thể thực hiện được trong tất động của ơn Chúa. Mỗi khi đọc đoạn văn Kinh Thánh được chọn làm bài đọc II trong Thánh Lễ hôm nay, tôi hay liên tưởng đến thánh Augustinô, bởi vì đó chính là lời thay đổi đời Ngài:"Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiên đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như ngài đang sống giữa ban ngày, không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng" (Rm 13, 12-14). Phải chăng lời đó đã đột ngột xuất hiện và khiến Augustinô thay đổi cách tự động (automatiquement)? Tôi không nghĩ thế. Nhưng từ trước đó, Angustinô đã cảm nhận trong cuộc đời mình nỗi bất an mà tội lỗi mang lại, đồng thời thức rằng mình phải sống khác. Chỉ có điều ý thức là một chuyện, còn biến ý thức ấy hành hành động và cuộc sống thật lại là một chuyện khác. Chính ơn Chúa đã giúp cho ngài vượt qua biên giới hầu như bất khả đối với ý chí. Có lẽ vì thế thánh nhân nhấn mạnh rất nhiều đến ân sủng.
Cũng vậy, không ai trong chúng ta không cảm nhận nỗi khó khăn khi tập bước theo đường lối của Thiên Chúa, vì đường lối ấy hoàn toàn trái ngược với những gì đang xảy ra quanh ta và không ngừng cuốn hút ta. Nhiều khi ta cảm thấy hụt hơi và đuối sức. Chỉ có ơn Chúa mới giúp ta hồi sức để dẫn bước theo Ngài, và dĩ nhiên ơn Chúa không dành cho những tâm hồn lười biếng, nhưng cho những tâm hồn thực sự khát khao và mong muốn phụng sự Ngài.
Lễ Giáng Sinh hiểu như ngày lễ được ấn định hằng năm vào 25 tháng 12, thì chẳng có gì là bất ngờ. Nhưng nếu hiểu Lễ Giáng Sinh như mầu nhiệm Chúa đến thì vẫn luôn luôn bất ngờ. Vì thế, cần tập tỉnh thức bằng cách làm quen với đường lối của Thiên Chúa; nhờ đó đón nhận Chúa đến không phải vào ngày 25 tháng 12, nhưng là từng giây từng phút trong cuộc đời
LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy canh thức và cầu nguyện không ngừng. Trong niềm cậy trông vào Chúa, chúng ta mở rộng lòng hướng tới hết mọi người và tin tưởng cầu xin.
1. Giữa thế giới hôm nay, mải mê tìm kiếm hạnh phúc trần gian, xin Chúa thắp sáng ngọn đèn trong lòng người tín hữu luôn luôn sống như giữa ban ngày hằng tỉnh thức mong chờ ngày Chúa đến.
2. Cái chết của những chiến sĩ hòa bình như ông Rabin ở Giêrusalem thức tỉnh tâm hồn mọi người thiện chí: Xin cho các vị lãnh đạo mọi quốc gia dám tin vào sức mạnh hiệp nhất của tình thương, để dấn thân cho hạnh phúc của dân lành.
3. Cầu cho những anh chị em đang sống không một niềm hy vọng: là những người chè chén say sưa, ăn chơi thả cửa. Xin Chúa cho họ Nghiệm biết Chúa yêu thương và đưa họ ra khỏi ngục tù của vô vọng.
4. Bước vào Mùa Vọng mới chúng ta nguyện cầu cho nhau nhận ra ý nghiã và giá trị của mọi sự trong đời mà xây dựng cuộc sống theo ánh Sáng Phục Sinh.
Lạy Cha là Thiên Chúa chúng con, Cha đã ban cho chúng con Chúa Giêsu Con Cha làm Đấng Cứu Thế. Xin giúp chúng con dọn đường cho Ngài đến trong lòng chúng con và trong cả cuộc đời để hết thảy mọi người được nhìn thấy ơn cứu độ Cha ban. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Có ngờ ngày 11 tháng 9 vừa qua đã để lại một vết đau trong dòng lịch sử nước Mỹ? Trung: MV 1-A32
Có ngờ ngày 11 tháng 9 vừa qua đã để lại một vết đau trong dòng lịch sử nước Mỹ? Trung Tâm Mại Dịch Thế Giới ở Nữu Ước và Ngũ Giáo Đài ở Hoa Thịnh Đốn bị quân khủng bố tàn phá thảm thương. Có ai ngờ khoảng 5,000 người thuộc 67 quốc gia đã thiệt mạng ngay sáng hôm đó? Có ai ngờ nên kinh tế, giao thông của một đại cường quốc bị ảnh hưởng khá nặng – khoảng 80,000 nhân viên thuộc 3 hãng máy bay lớn American Airline, United Airline, và Delta bị mất việc; nếu chính phủ không trợ giúp kịp thời, nhiều hãng máy bay có thể bị phá sản? May thay, mới đây tổng thống Mỹ, George Bush, đã vội đề nghị một ngân khoảng 60-75 tỉ mỹ kim để trợ giúp cho việc tái thiết những thiệt hại này.
Thật, nếu nước Mỹ biết giờ nào quân khủng bố đến, và đến bằng cách nào, thì hẳn họ sẽ canh phòng cẩn thận. Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh mỗi người chúng ta: “Phải sẳn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.” (Mt 24:44).
Nghĩ đến khủng bố và suy ngắm về Lời Chúa hôm nay, chắc hẳn không ai trong chúng ta lại không rục rịch. Khi nghĩ đến rục rịch, tôi liên tưởng đến ngay một trong những chứng bệnh tâm linh mà nhiều người trong chúng ta thường mắc phải. Đó là chứng bệnh tự mãn. Là linh mục, tu sĩ, có lẽ có những lúc chúng ta tự mãn về sự “đạo đức, thánh thiện” của mình – thích “kéo dài kinh kệ”, “may dài tua áo”, “ngồi chỗ trọng nơi tiệc tùng”, và được mọi người chào “cha”, “thầy”. Là những bậc cha mẹ có thể lắm khi chúng ta tự mãn về “khuôn vàng thước ngọc” mà mình đã dầy công thao luyện, và do đó thiếu sự lắng nghe nơi con cái. Những lời nói như: “cái gì mà tao không biết!” hoặc “trứng mà mày đòi không hơn rận à?” không phải là không dễ nghe thấy. Là bậc làm con có thể cũng đầy dẫy những lần đắc chí, huênh hoang, tự mãn về sự “thức thời”, “sành đời”, thông thạo ngôn ngữ của mình và rồi dễ đâm ra khinh khi miệt thị bố mẹ—“Má hiểu cái gì... ba cái thứ đó cứ nói hoài... cổ quá rồi... điếc cái lỗ nhĩ quá nè...” và một thí dụ điển hình ta thấy trong Phúc âm là người con phung phá.
Chúng ta biết tự mãn là con đẻ của kiêu căng. Chúa rất ghét và nhiều lần Chúa trách: “Ta sẽ làm cho nó nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu... để xem chúng còn huênh hoang nữa không...” Nơi khác trong Cựu ước còn nói: “Các người chớ nhiều lời huênh hoang tự đắc, miệng đừng thốt ra điều ngạo mạn, vì Chúa là Thiên Chúa quán thông, mọi hành vi, chính Người xét xử.” (1Sam 2:3)
Chớ tự mãn. Hãy đề phòng. Hãy sẵn sàng. Và đó chính là ý nghĩa của mùa Vọng mà hôm nay phụng vụ Giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta bước vào. Mùa Vọng là mùa dễ thương dễ mến, gồm 4 tuần lễ, khai mạc năm phụng vụ. Mùa Vọng là mùa thơ mộng nhất trong các mùa của năm phụng vụ. Đây là thời điểm chúng ta chuẩn bị dọn mình đón mừng ngày Chúa sinh ra. Từ ngữ mùa Vọng có nghĩa là “đang đến”, tức là sự đang đến của Chúa Kitô Đấng Cứu Thế. Việc Chúa đến có nhiều cách khác nhau. Có người nghĩ rằng mùa Vọng chỉ liên quan đến việc Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem cách đây gần 2,000 năm. Nhưng các kinh nguyện phụng vụ của Giáo hội trong mùa này đề cập việc Chúa đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Một ý nghĩa thứ ba nữa là việc Chúa đến trong tâm hồn mỗi người chúng ta, trong cuộc sống chúng ta, bằng ơn thánh. Nếu chúng ta cố gắng sống điều Chúa Giêsu và Giáo hội dạy, thì chắc chắn mùa Vọng này sẽ đem lại cho chúng ta một cảm nghiệm sâu xa, dẫn chúng ta đến “chính nguồn ơn thánh” trong dịp Giáng sinh này.
Việc Chúa đến Chúa sẽ đến. Nếu chúng ta chuẩn bị sẵn sàng, rộng mở cõi lòng, chắc chắn chúng ta sẽ không ngờ được ân phúc tràn trề Chúa hứa ban. Và chắc chắn chúng ta cũng sẽ không ngờ một sự mất mát lớn lao như thế nào một khi chúng ta không rục rịch.
Năm phụng vụ của Hội Thánh bắt đầu với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng. Ngay từ những giây: MV 1-A33
Năm phụng vụ của Hội Thánh bắt đầu với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng. Ngay từ những giây phút đầu tiên của Năm phụng vụ, Hội Thánh kêu mời tất cả các tín hữu hãy hướng tất cả mọi nỗ lực, hãy mở rộng tâm hồn, hãy thức dậy khỏi giấc ngủ mê man trong tội lỗi, để đón Chúa, vì Ngài sắp đến. Mùa vọng là mùa ngóng đợi Chúa đến, cũng như dân Do Thái xưa đã van xin “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu độ”. Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi đã Giáng Sinh. Tất cả chúng ta đang dọn lòng đón mừng biến cố trọng đại, đêm cực thánh Trời và Đất giao hòa. Đó là một trong những mục đích của Mùa Vọng. Nhưng Hội Thánh còn muốn nhấn mạnh đến hai ý nghĩa khác của Mùa Vọng: ngóng chờ ngày Chúa đến lúc tận cùng thời gian và nhất là giờ vĩnh biệt cõi thế của mỗi người chúng ta.
Chúa phán: “Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến.” Giờ Chúa đến như kẻ trộm, bất thình lình tựa cơn đại hồng thủy chụp xuống trên chúng ta: một tai nạn xe hơi, một cơn gió thoảng qua, một viên đạn nơi chiến trường, một cơn đau tim, một cuộc giải phẫu, bị đặt chất nổ, bị điện giật, hoặc mắc bệnh ung thư... Cái chết đến với mỗi người chúng ta dưới muôn hình vạn trạng. Ở bất cứ chức vụ quan trọng nào, ở bất cứ nơi nào. Mỗi người sẽ phải chết một lần, không ai chết thay cho chúng ta được.
Đối với những người không tin tưởng, chết là tận điểm cuộc sống, chết là hết, chết phá tan sự nghiệp công danh và mọi lạc thú trên đời. Kiếp sống của con người vì thế chỉ là một kiếp bèo bồng, lo hưởng thụ: “chơi xuân kẻo hết xuân đi, cái già sồng sộc nó thì theo sau.” Họ không chờ đón và mong đợi gì sau cuộc sống! Nhưng đối với chúng ta, những người Kitô hữu chết là cuộc gặp gỡ Thiên Chúa. Trong giây phút vĩnh biệt cuộc đời trần thế để về thế giới bên kia, mỗi người chúng ta phải trình diện trước nhan Chúa. Cuộc gặp gỡ quyết định số phận đời đời của mỗi người chúng ta. Nhưng khốn nỗi mấy ai quan tâm, mấy ai đặt cho đúng tầm hệ trọng và tính cách vô cùng khẩn thiết của giây phút lìa đời ấy! Chúng ta như người mê ngủ, từ sớm tinh sương tới chiều tàn, chúng ta bận tâm lo ăn, lo mặc, lo sinh kế, lo công danh, lạc thú... Cuối tuần chúng ta dành thì giờ đi dạo ở đồng quê, leo đồi, leo núi hay tắm biển phơi nắng. Nại vào những bận tâm vật chất ấy, chúng ta lơ là việc thiêng liêng, bỏ rơi cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, bỏ dâng lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc, không chịu các phép Bí tích. Tựu trung, một cuộc đời hoàn toàn vật chất, hiện sinh, sống như là không bao giờ phải chết, sống cuộc đời không có Thiên Chúa.
Mùa Vọng là mùa tỉnh thức để đón chờ Chúa dến vào cuối cuộc đời chúng ta. Chúng ta hãy tỉnh thức dậy khỏi giấc ngủ mê như thánh Phaolô khuyến cáo tín hữu Roma:
“Anh em thân mến, biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy. Vì giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. chúng ta hãy từ bỏ những hàn vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và chớ lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt.”
Thiên Chúa đang đứng bên cửa tâm hồn chúng ta, Ngài gõ cửa, nếu ai tỉnh thức và sẵn sàng, Chúa sẽ đến.
Bắt đầu từ Chúa Nhật hôm nay, người Công giáo bước vào giai đoạn phụng vụ đặc biệt gọi là: MV 1-A34
Bắt đầu từ Chúa Nhật hôm nay, người Công giáo bước vào giai đoạn phụng vụ đặc biệt gọi là Mùa Vọng bao gồm 04 Chúa Nhật, để chuẩn bị tinh thần mừng lễ Noel (25 tháng 12). Vậy thì tại sao Tin Mừng hôm nay lại công bố một biến cố xem ra xa lạ, không trực tiếp hướng tới Thiên Chúa sinh ra làm người? Tại sao Đức Giêsu, theo Tin Mừng thánh Matthêu, lại nói đến những chuyện hết sức bình thường, như ăn uống, cưới vợ lấy chồng, làm ruộng, xay bột, v.v… để rồi bất ngờ khuyến cáo người nghe phải tỉnh thức, vì vào lúc không ngờ, Con Người sẽ đến như kẻ trộm? Mùa Vọng mà khai mở bằng lời cảnh tỉnh như vậy có thể chuẩn bị tinh thần các Kitô hữu chúng ta như thế nào để mừng lễ Noel năm nay?
Quả thật, bài Tin Mừng Chúa Nhật 1 Mùa Vọng giúp Kitô hữu chúng ta đặt mình trước Đức Giêsu như chính Ngài hiện ngỏ lời với ta hôm nay, mà biến cố sinh nhật chỉ là chi tiết nhỏ của cuộc đời trần thế Ngài đã sống. Chắc chắn đó không phải là trọn bản thân của Đấng Thiên Chúa thương yêu loài người, đến nỗi mãi mãi tự hiến cho con người như nguồn hạnh phúc vô tận mà con người không bao giờ khám phá ra hết được.
Độc giả sách Tin Mừng theo thánh Matthêu đều biết nội dung của sách này gồm 05 bài giảng của Đức Giêsu, mà bài thứ năm nói về thời đại mới (eschaton) với tất cả sự viên mãn của nó. Sẽ có những biến cố long trời lở đất xảy ra trước khi thời đại mới đến. Nhưng mục đích chính mà Đức Giêsu nhắm tới, như Matthêu kể lại, là giúp các môn đệ chuẩn bị tinh thần, trong khi chờ đợi Con Người, tức chính Đức Giêsu sẽ đến mang tạo thành tới hồi viên mãn.
Riêng với bài Tin Mừng Mt 24,37-44 này, Đức Giêsu nhấn mạnh rất rõ về sự tỉnh thức mà mọi Kitô hữu phải có, để đón Chúa đến trong thời viên mãn.
+ Một là phải tỉnh thức giữa những công việc rất bình thường ta vẫn làm mỗi ngày. Ở đây Đức Giêsu kể ra các việc bình thường như ăn uống, cưới vợ lấy chồng, làm ruộng, xay bột, v.v... Mỗi Kitô hữu hôm nay đều có thể kể ra những việc chính mình vẫn làm hằng ngày, từ việc nội trợ, gia công, đến việc buôn bán hay nghề nghiệp. Đức Giêsu nhắc đến nạn lụt lớn thời ông Nôê, mà không nói đến sự sa đọa của loài người thời đó. Ngài có ý đặt chúng ta trong bối cảnh bình thường hiện ta đang sống. Chính trong bối cảnh đó ta đón nhận Nước Thiên Chúa đến với ta.
+ Hai là phải luôn sẵn sàng đón Chúa đến bất cứ lúc nào. Chúa dùng một dụ ngôn để nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tỉnh thức. Chúa ví ta như chủ nhà nọ, nếu biết vào canh nào trộm sẽ đến, chắc chắn sẽ canh thức không để nó đào ngạch khoét vách! Chúa đã đụng tới bản năng tự vệ của các thính giả để giúp họ hiểu được sự tỉnh thức tối quan trọng như thế nào đối với sự an toàn của mình. Với của cải vật chất mà đã cần phải tỉnh thức như vậy, phương chi là với chính tính mạng của ta, thì lại càng cần phải tỉnh thức hơn gấp bội! Những hình ảnh về hai người đàn ông làm ruộng mà một người được đem đi, người kia bị bỏ lại; hai người đàn bà xay bột, một người được đem đi, người kia bị bỏ lại, cũng nói lên sự cần thiết rằng phải thường xuyên tỉnh thức. Vì sao? Vì ngay giữa những công việc hết sức bình thường như vậy, vấn đề sống chết luôn được đặt ra cho từng người: Một người được đem đi hiểu là được cứu sống nhờ tàu ông Nôê; kẻ kia bị bỏ lại hiểu là bị bỏ rơi để nước lụt cuốn đi!
+ Nhưng ai sẽ cứu mạng của từng người giữa gia đình nhân loại? Và cứu bằng cách nào? Lễ Noel chỉ mới hé mở cho thấy lời giải đáp: chủ yếu do Thiên Chúa dấn thân vào kiếp sống con người. Đấng Thiên Chúa ấy mang trên thân xác mình tất cả sự yếu hèn và mỏng dòn của con người. Ngài sẽ trải qua trọn kiếp sống làm người giữa bối cảnh lịch sử như đang diễn ra. Đấng Thiên Chúa ấy đã không coi thường bất cứ điều gì được ban cho Ngài như chất liệu để sống giữa gia đình nhân loại. Chất liệu ấy có thể là sự sống rất sơ đẳng chín tháng mười ngày nơi dạ mẹ; cũng có thể là chuỗi ngày long đong trên đất khách quê người để tránh bàn tay khát máu của bạo chúa Hêrôđê. Tất cả chỉ là chất liệu, nhưng vì được Đấng Thiên Chúa làm người ưu ái nhận lấy làm của mình, nên nó có giá trị vô song nhờ ý định đầy yêu thương của Thiên Chúa: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ Con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, Con đến để thực thi Ý Chúa.” (Dt 10,6-7).
+ Nhưng về phía con người muốn được cứu cũng cần phải dấn thân đón nhận tất cả những điều được ban cho để sống cho ra cuộc sống thường ngày của mình. Do đó cần phải tỉnh thức luôn, để nhờ ánh sáng đức tin mà nhận ra giá trị của những điều Chúa hiện ban cho mình rất quí báu. Những điều Chúa ban luôn gồm có trí khôn, lòng mến, nhất là đức tin là ánh sáng có khả năng cho ta thấy Thiên Chúa luôn hiện diện và biến đổi mọi sự thành chất liệu để ta sống sự sống làm Con Thiên Chúa. Chính nhờ ánh sáng đó ta không phải chờ đến giờ chết mới nghinh đón Chúa. Ta sẽ đón Chúa đến trong đời sống mỗi ngày của ta, giữa những công việc thường ngày. Ta sẽ làm mọi việc vì lòng mến Chúa yêu người thì quả thực Chúa đã đến nơi lòng ta, để ta được kết hợp với Ngài ngay trong cõi đời này; phương chi ở cõi đời sau tràn ngập ánh sáng.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Tại sao để chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu sinh ra, Giáo Hội lại kêu gọi ta tỉnh thức để đón Chúa Giêsu đến trong ngày sau hết? Có phải Chúa Giêsu một khi đã sinh ra làm người thì mãi mãi sẽ là người, và không bao giờ cần sinh ra làm người nữa? Và vì Chúa Giêsu làm người ở mỗi chặng đường, đều để giúp ta kết hợp với Ngài, hầu có được sự sống dồi dào Ngài ban, vậy thì tại sao phải nhắm tới ngày Chúa quang lâm mới có được sự sống đó? Có phải sự sống tự bản chât luôn tăng trưởng nhắm tới sự sung mãn? Bạn hiểu thế nào về sự sung mãn của sự sống do Chúa Giêsu khi đọc: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.” (Ga 1,16).
2. Nhưng tại sao Tin Mừng Chúa Nhật 1 Mùa Vọng lại khuyến cáo bạn tỉnh thức để đón Chúa Giêsu đến với bạn ngay giữa những việc hàng ngày bạn vẫn làm? Điều đó có nói lên phần nào về sự sống của Chúa Giêsu đang được viên mãn nơi bạn chăng? Hãy so sánh cũng một việc bạn làm ngày hôm nay: có phải giá trị của việc đó rất khác nhau do tinh thần bạn có thể kết hợp với Chúa Giêsu hay không?
3. Bạn hiểu thế nào về lời Tin Mừng “Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành.” (Ga 1,3)? Như vậy xét cho cùng, không chỉ việc bạn làm vì lòng mến Chúa yêu người là có giá trị, mà chính bạn hiện hữu do tình thương của Chúa đã có giá trị rồi, nếu bạn ưu ái chấp nhận tình thương Chúa dành cho bạn?
4. Bạn nghĩ phương pháp cầu nguyện trong đời sống thường ngày có giúp bạn sống bài Tin Mừng hôm nay chăng? Chính bạn có thể giúp Nhóm Sống Lời Chúa (NSLC) sống tinh thần Mùa Vọng như thế nào? Ngược lại, NSLC cũng có thể giúp bạn sống sự sung mãn của sự sống của Chúa Giêsu trong Mùa Vọng này chăng?
Mùa Vọng Giáng Sinh bởi chữ "Adventus" nguyên gốc La tinh xưa được đọc trại theo lối chuyển: MV 1-A35
Mùa Vọng Giáng Sinh bởi chữ "Adventus" nguyên gốc La tinh xưa được đọc trại theo lối chuyển âm "mùa Ap-ventô", nay chuyển nghĩa thành Mùa Vọng, mùa mong chờ Chúa Giáng Sinh, Chúa đến. Vì Adventus là đến, là Quang Lâm.
Mỗi năm chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh chúng ta tự đặt mình trong tâm trạng đón chờ Chúa sinh ra, nhưng chính thật Chúa không chỉ đến mỗi năm một lần mà Chúa đến luôn, đến hoài, từng giây phút.
Thật vậy Đức Kitô bắt nguồn từ Thiên Chúa đã sinh ra trần thế làm "Con Người", một con người hoàn hảo nhất trong lịch sử loài người. Ngài là (Ngôi) Lời (Verbum) đến với sứ mạng làm cho mỗi người ở thế trần trở nên các "Con Thiên Chúa". "Phàm nhân" mà được làm "Thiên tử" là kết quả của (Ngôi) Lời. Vì vậy lịch sử loài người trở thành là công cuộc sinh thành của "Con Người - Lời Thiên Chúa". Mùa Vọng Giáng Sinh nhắc nhở ta sống: mầu nhiệm Thiên Chúa Ngôi Lời làm người = Nhập Thể; mầu nhiệm Chúa đến trong ta, trong nhân thế = Nhập Thể và nhân loại trong đó có ta được tác tạo càng ngày càng nên giống "con người" kể từ thời gian = Nhập Thời cách đây gần 2000 năm lịch sử. Ngôi Lời Nhập Thời, Nhập Thế, Nhập Thể là biến cố trọng đại ta chuẩn bị = vọng mừng mỗi năm.
Chúa đến phán xét: Phúc Âm nay trình bày Chúa đến như một cuộc phán xét tuyển trạch, nhận người này, bỏ người kia, theo lối viết trong sách Khải Huyền. Những người này tuy cùng làm một thứ việc như nhau: như việc đồng áng, xay lúa giã gạo, ăn uống, gả cưới: Việc thì giống nhau nhưng thân phận mỗi người rất khác nhau trước tòa thẩm phán tùy theo các việc đó thực hiện như thế nào? Theo hướng qui định cho con người rập theo thánh ý Thiên Chúa hay là theo hướng ngược lại. Sự xét xử đến bất chợt. Bởi vì Ngôi Lời đến với ta không ngơi nghỉ mọi khi mọi lúc Ngài tự nguyện đề nghị tác tạo ta và nhập thể vào ta. Tùy theo sự ta đón nhận hay từ chối mà xét quyết.
Như vậy cuộc "Giáng lâm của Đấng Cứu Độ" làm "những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra" (Lc 2,35). Việc Chúa đến trong đời sống ta do đó là việc thử thách nhưng thứ thử thách dẫn đưa vào đường sống Phục Sinh: tái sinh ta trong đời sống mới vậy.
Văn chương bình dân Việt Nam thường ghi lại những câu chuyện đợi chờ như mẹ chờ con đứng: MV 1-A36
Văn chương bình dân Việt Nam thường ghi lại những câu chuyện đợi chờ như mẹ chờ con đứng ngoài đầu ngõ, vợ bồng con chờ chồng đi chinh chiến trở về, người yêu chờ người được yêu đáp trả. Theo cốt chuyện ngụ ngôn thì có người chờ mãi đã biến thành tượng muối, mà người ta quen gọi là hòn vọng phu. Kiên nhẫn chờ đợi vốn là cái đặc tính của người Việt Nam.
Thánh kinh Cựu ước là một câu chuyện đợi chờ. Mùa Vọng là mùa chờ đợi, nhắc lại cho loài người 4 ngàn năm dân Chúa trong Cựu ước mong đợi Đấng Cứu thế. Dân chúng trong Cựu Ước mong đợi Đấng Cứu thế đến lần thứ nhất trong lịch sử loài người. Còn người tín hữu mong đợi Chúa đến lần thứ 2 để kết thúc lịch sử loài người. Và đó là ngày tận thế.
Dân chúng trong CƯ mong đợi Dấng CT đến lần thứ nhất, nhưng không biết ngày giờ nào Chúa đến. Cũng vậy, người tín hữu tin vào việc Chúa đến lần 2, để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Tuy nhiên người tín hữu cũng không biết ngày giờ nào Chúa sẽ đến. Cái ngày cuối hết có thể hiểu theo nghĩa là ngày chấm dứt lịch sử nhân loại, cũng có thể hiểu là ngày tận cùng của mỗi người, cái ngày chấm dứt cuộc sống của mỗi người tại thế. Không ai muốn nghĩ về cái chết. Người ta thường quan niệm cái chết chỉ xẩy đến cho người khác, chứ không xẩy đến cho chính mình. Bao giờ Chúa đến gõ cửa nhà linh hồn mỗi người là một điều bí mật. Điều đó có thể xẩy ra bất thình lình, bất cứ ngày nào hay giờ phút nào. Bao giờ Chúa đến kết thúc lịch sử nhân loại trong ngày tận thế, cũng là điều bí mật.
Trong những ngày cuối cùng cũng như những ngày đầu của năm phụng vụ, Giáo hội dùng những đoạn Thánh kinh khiến người ta liên tưởng đến ngày tận thế với cảnh tàn phá, chết chóc. Giáo hội muốn ghi vào ấn tượng người tín hữu: Chúa Kitô là trung tâm điểm của vũ trụ, là khởi đầu cũng như cùng đích. Trong thời Noe, trận lụt đại hồng thủy đã xẩy ra bất thình lình, làm người ta kinh hoàng. Cái lỗi lầm của dân chúng thời Ông Noe như Phúc âm thuật lại là họ quá bận rộn với công việc hàng ngày. Đang lúc dân chúng mải mê ăn uống, và bận rộn với việc thế sự, thì Ông Noe sửa soạn đóng tàu để đối phó với lụt đại hồng thủy. Chỉ có mình ông lắng nghe lời Chúa cảnh tỉnh. Chỉ có mình ông tỉnh thức và sẳn sàng chờ đợi. Cho đến ngày ông và gia đình cùng với súc vật vào tàu, mà họ cũng không ngờ. Và khi nước lụt đại hồng thủy dâng lên bất chợt, đã cuốn họ vào lòng biển cả.
Cách đây 2001 năm vào cái thời gian khi Chúa xuống thế làm người, thì dân chúng cũng vậy. Họ quá bận rộn không lưu tâm đến việc Chúa đến. Họ quan niệm sai lầm về Đấng CT nên những lời tiên báo về Người, họ để ngoài tai. Hôm nay Chúa dùng dụ ngôn để cảnh giác họ. Hai người đàn ông đang làm việc ngoài đồng, và hai người đàn bà đang xay bột. Dưới cặp mắt thông thường thì 2 người đàn ông có vẻ giống nhau, làm cùng công việc như nhau. Hai người đàn bà cũng giống nhau. Nhưng dưới con mắt Thiên Chúa, họ đều khác nhau. Một trong hai người đàn ông và một trong hai người đàn bà, biết lắng nghe lời cảnh giác của Chúa, và họ được tiếp nhận vào Nước Trời, còn hai người kia bị bỏ rơi.
Dụ ngôn thứ hai, Chúa dùng để cảnh giác họ là cũng như người chủ nhà phải tỉnh thức đề phòng kẻ trộm, người tín hữu cũng phải tỉnh thức chờ ngày Chúa đến. Thánh Phaolô khuyên giáo dân Lamã phải tỉnh thức vì giờ cứu rỗi đã gần. Tuy nhiên trong thực tế, người ta có ở trong cái tư thế sẵn sàng hay không? Có thể người ta đã cố gắng thanh toán nợ nần với chủ nợ, với nhà băng về nhà ở và xe hơi, mà quên không lo thanh toán món nợ tâm hồn với Chúa. Người ta có thể trì hoãn việc họp thức hóa hôn nhân công giáo, vì còn muốn ăn tiền trợ cấp xã hội, dù hai người đã đi làm có tiền. Người ta có thể bận tâm lo việc kinh doanh về của cải vật chất, mà không kinh doanh cho đời sống thiêng liêng. Người ta có thể coi đời này như là cùng đích, là cứu cánh của cuộc sống.
Vì thế mà người ta mải miết lo việc thế sự, mà quên lưu tâm đến đời sống thiêng liêng, không còn thời giờ cho Chúa, không còn thời giờ đọc kinh, cầu nguyện, dự lễ, không còn thời giờ để suy tư về cái thân phận làm người, để kiểm điểm mối liên hệ của mình với Chúa, không còn thời giờ cho cha mẹ, vợ chồng, con cái. Và theo ngày tháng trôi qua, những bận tâm và lo lắng về việc trần thế sẽ lôi kéo người ta xuống, cho tới lúc đức tin của họ trở thành nguội lạnh, không còn nghị lực thiêng liêng để vươn lên.
Cùng với Giáo Hội, chúng ta đã bắt đầu tiến vào một năm phụng vụ mới. Thật vậy, nếu phụng: MV 1-A37
Cùng với Giáo Hội, chúng ta đã bắt đầu tiến vào một năm phụng vụ mới. Thật vậy, nếu phụng vụ là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin, ở chỗ “Lạy Chúa, chúng tôi loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến”, như lời tuyên xưng sau giây phút Thánh Hiến Bánh Rượu trong Thánh Lễ, cũng là việc Giáo Hội trung thành đáp ứng ước nguyện của Đấng Sáng Lập Thần Linh: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19), thì phụng niên chính là lịch trình cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, một mầu nhiệm được mở màn bằng biến cố Người Giáng Sinh, biến cố Người đến thế gian lần thứ nhất, cho tới khi Người lại đến trong vinh quang “để phán xét kẻ sống và kẻ chết”, như chúng ta vừa tưởng niệm vào Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua tuần trước, tuần kết thúc năm phụng vụ cũ để lại trở về với một năm phụng vụ mới ở Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng hôm nay đây. Vẫn biết Mầu Nhiệm Chúa Kitô được mở màn bằng biến cố Giáng Sinh, tuy nhiên, phụng niên lại được bắt đầu từ Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, cho đến hết Chúa Nhật thứ bốn Mùa Vọng. Bởi vì, Mùa Vọng là gì, nếu không phải là thời gian trông đợi Đấng Thiên Sai, Đấng chẳng những thực sự là một Vị Thiên Chúa Nhập Thể mà đồng thời cũng là một Con Người Lịch Sử nữa, Đấng đã được Gioan loan báo “sẽ đến sau tôi song quyền năng hơn tôi … Người sẽ rửa quí vị trong Thánh Thần và bằng lửa”, như được Phúc Âm Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng thuật lại, cũng chính “là Đấng phải đến”, như Gioan Tẩy Giả sai môn đệ đến hỏi Người trong bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng, và là Đấng được Đức Maria “thụ thai bởi Thánh Linh… tên là Giêsu vì Người sẽ cứu dân Người khỏi tội”, như lời thiên thần báo mộng cho dưỡng phụ Giuse của Người, được Phúc Âm Chúa Nhật thứ bốn Mùa Vọng trình thuật.
Chính vì Chúa Kitô là Con Người Lịch Sử, là Đấng Thiên Sai, Đấng đến để “cứu dân mình khỏi tội” như thế mà Dân Do Thái của Người nói riêng, hơn ai hết, đã trông đợi Người tới, như được tỏ hiện rõ ràng hơn hết qua việc họ tuốn đến với Gioan Tẩy Giả, như Phúc Âm theo Thánh Mathêu cho Chúa Nhật thứ hai và thứ ba Mùa Vọng thuật lại, vì họ tưởng Gioan này là Đấng Thiên Sai, như Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy ở đoạn 1 từ câu 19 đến 22. Tuy nhiên, Con Người Lịch Sử Giêsu là Đấng Thiên Sai này, theo dự án cứu độ của Thiên Chúa, không phải chỉ đến để “cứu dân mình khỏi tội”, mà còn cứu cả loài người khỏi tội lỗi và sự chết nữa, vì Người là Đấng Cứu Thế, chứ không phải chỉ là Đấng Cứu Tinh Dân Tộc Do Thái như một vị anh hùng thời thế vẫn xuất hiện trong giòng lịch sử của họ thôi. Đó là lý do vừa mở màn cho phụng niên để cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, hình ảnh nhân loại nói chung đã được Phụng Vụ Lời Chúa nhắc đến rồi, như bài đọc một của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng cho thấy: “Tất cả các dân nước sẽ tuốn về núi của nhà Chúa; nhiều người sẽ tới mà nói: ‘Hãy đến, nào chúng ta hãy leo lên núi Chúa, tới nhà Thiên Chúa Giacóp”, và bài đọc một của Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng cũng cho thấy: “Vào ngày ấy, gốc Jesse mọc lên như một dấu hiệu cho các dân nước thấy, Các Dân Ngoại sẽ tìm kiếm, vì nơi Người cư ngụ sẽ được vinh quang”. Chính Con Người Lịch Sử Giêsu này là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis” đã làm sáng tỏ ý nghĩa của bốn tuần lễ Mùa Vọng, một thời đoạn tượng trưng cho 4 ngàn năm toàn thể nhân loại trông đợi Đấng Thiên Sai, Đấng ngay từ đầu lịch sử thế giới đã được Thiên Chúa Hóa Công hứa ban, như Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 3 câu 15 về giòng dõi người nữ đạp đầu rắn quỉ.
Tuy nhiên, nếu thực sự Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần đã đến rồi, cách đây 2001 năm trước, thì Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng còn cần gì phải cử hành Mùa Vọng để chờ đón Người đến thế gian lần thứ nhất này nữa mà làm gì, còn cần gì phải như Dân Do Thái cho tới bay giờ vẫn đợi trông Đấng Thiên Sai của họ, vì nhân vật Giêsu Nazarét ở giữa họ cách đây 2001 năm, một nhân vật đã hoàn toàn bị họ căm hờn phủ nhận, đến nỗi, họ thà nhận giặc làm vua còn hơn nhìn nhận nhân vật lộng ngôn phạm thượng này (xem Mt 26:65; Jn 19:7), như họ đã tuyên bố thẳng thắn với tổng trấn Philatô: “Chúng tôi không có một vua nào khác ngoài Cêsa” (Jn 19:15)? Thật vậy, theo lịch trình phụng niên, Mầu Nhiệm Chúa Kitô Giáng Sinh và Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phán Xét hoàn toàn khác nhau, ở chỗ, một mầu nhiệm mở màn cho phụng niên và một mầu nhiệm kết thúc phụng niên. Thế nhưng, theo bản chất và ý nghĩa của mình, nếu phụng vụ là việc long trọng cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, cử hành những gì do Vị Thiên Chúa Làm Người đã thực hiện trong lịch sử loài người, như nhập thể, tử giá và phục sinh, những Biến Cố Thần Linh không thể qua đi như mọi biến cố lịch sử trần gian khác, trái lại, chúng sẽ muôn đời tồn tại như chính vị Tác Giả Thần Linh của chúng, với Tác Hiệu Thần Linh phát sinh từ những Biến Cố Thiên Chúa thực hiện này, thì qua việc cử hành phụng vụ, Chúa Kitô quả thực hiện diện nơi phụng vụ và tác động qua phụng vụ một cách mầu nhiệm.
Bởi thế, bởi “Chúa Kitô quả thực hiện diện nơi phụng vụ và tác động qua phụng vụ một cách mầu nhiệm”, mà khi cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô trong Mùa Vọng là thời đoạn trông đợi Người đến lần thứ nhất, Giáo Hội chẳng những muốn hướng con cái mình về biến cố Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà còn muốn con cái mình, nhờ Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể, thực sự cảm nghiệm được việc Chúa Kitô đang hiện diện trong Giáo Hội cho tới tận thế, cho tới khi Người đến lần thứ hai. Như vậy, Kitô hữu chúng ta chỉ thực sự Sống Phụng Vụ nói chung và Sống Mùa Vọng nói riêng, khi chúng ta có được Cảm Nghiệm Thần Linh này, một cảm nghiệm về “Ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới chấp nhận đức tin”, như Thánh Phaolô nhắc nhở một cách sâu xa trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở bài đọc thứ hai hôm nay. Đó là lý do, trong cả ba chu kỳ phụng vụ A, B và C, của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, Giáo Hội bao giờ cũng chọn bài Phúc Âm về lời Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ của Người, (chứ không phải cảnh giác chung dân Do Thái hay cảnh giác riêng nhóm Pharisiêu hoặc cảnh giác thành phần thượng tế và kỳ lão lãnh đạo trong dân), về việc “hãy tỉnh thức” chờ Chúa đến. Bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu Năm A hôm nay đã chứng thực điều này như sau: “Vậy các con hãy tỉnh thức! Các con không biết được ngày nào Chúa của các con đến”.
Đúng vậy, cho dù Chúa Kitô Cứu Thế đã đến với chung loài người và đang ở cùng Giáo Hội của Người cho tới tận thế, tức cho tới khi Người đến lần thứ hai, thế nhưng, nếu xét về con số, thì 4/5 nhân loại, tức đa số loài người vẫn chưa nhận biết Người, trong khi đó, chính thành phần mang danh Kitô hữu, thành phần 1/5 dân số nhân loại hiện nay đã chính thức chấp nhận Người qua Bí Tích Rửa Tội, cũng đã quay ra chối bỏ Người, một thái độ được bộc lộ tỏ tường nơi thế giới Kitô Giáo Âu Mỹ qua hiện tượng phá sản đức tin bằng văn hóa sự chết hiện nay. Như thế, đối với hầu hết nhân loại, kể cả thành phần ngoài lẫn trong Kitô Giáo, Chúa Kitô Cứu Thế đã trở thành vô nghĩa, không có giá trị gì cả, kể như không có, hay có chăng nữa, cùng lắm cũng chỉ là một nhân vật lịch sử thuần túy vậy thôi, giống hệt như các vị sáng lập những đạo giáo khác vậy. Chính vì để tránh khỏi tình trạng như Tiền Hô Gioan đã cảnh giác dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26: “Có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”, một tình trạng chẳng những xẩy ra cho Kitô hữu thời chúng ta, thời 2001 năm sau Chúa Kitô Giáng Sinh, mà còn xẩy ra ngay cho cả Kitô hữu ở vào thời Giáo Hội sơ khai, thời Chúa Kitô vừa mới về trời, Thánh Phaolô đã kêu gọi Giáo Đoàn Rôma rằng: “Anh em biết thời gian chúng ta đang sống đây. Đó là thời giờ anh em phải tỉnh giấc… Đêm qua rồi; ngày gần đến. Chúng ta hãy loại trừ những việc làm tối tăm và hãy mặc lấy khí giới ánh sáng”.
Vâng, đúng thế, chính “những việc làm tối tăm” của Kitô hữu đã khiến cho họ, dù ở bất cứ thời nào, không còn thấy được hay thấy rõ Chúa Kitô “là ánh sáng thế gian” (Jn 8:12) nữa, đúng như Người đã cho Nicôđêmô biết ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 3 câu 19: “Anh sáng đã đến trong thế gian, song con người đã chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều là những việc gian ác”. Mà “những việc làm tối tăm” đây là gì, nếu không phải là những việc liên quan đến đam mê nhục dục, như Chúa Giêsu đã đề cập đến trong Phúc Âm hôm nay khi Người nhắc lại “thời Noe… người ta ăn uống, cưới vợ gả chồng… hoàn toàn không còn để ý gì nữa cho đến khi lụt xẩy đến mà hủy diệt họ”. Trong bài đọc hai hôm nay, Thánh Phaolô cũng khuyên Giáo Đoàn Rôma “anh em hãy loại trừ những việc làm tối tăm” là những việc liên quan đến đam mê nhục dục như sau: “Chúng ta hãy sống một cách đoan chính như giữa ban ngày; đừng chè chén say sưa, đừng dâm ô lăng loàn, đừng cãi lẫy hờn ghen. Trái lại, anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và đừng chiều theo những ước muốn xác thịt”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Để có được Cảm Nghiệm Thần Linh về thực tại Chúa Kitô là Lời đã nhập thể 2001 năm trước đây, cũng như về thực tại Người còn đang mầu nhiệm ở với Giáo Hội của Người cho đến tận thế, trước hết, chúng ta cần phải “tỉnh thức”, bằng cách “loại trừ những việc làm tối tăm”, như ý hướng của Thánh Phaolô trong bài đọc hai cũng như của chính Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay huấn dụ. Phải chăng chính lúc chúng ta “loại trừ những việc làm tối tăm” là lúc chúng ta đang “leo lên núi Chúa”, đang lên cao hơn, đang từ từ được tự do thanh thoát hơn, “cho tới khi được mặc lấy quyền lực từ trên cao” (Lk 24:49), một tầm mức và trạng thái đã được tiên tri Isaia bóng bẩy diễn tả như một “đỉnh núi cao nhất” trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Trong những ngày tới đây, ngọn núi của nhà Chúa sẽ được thiết lập như một đỉnh núi cao nhất, vượt trên các ngọn đồi… Chúng ta hãy leo lên núi Chúa, đến nhà Thiên Chúa của Giacóp”? Phải chăng chỉ khi nào chúng ta leo lên tới ngọn của “đỉnh núi cao nhất” này, tức lúc chúng ta được tràn đầy “quyền lực từ trên cao”, chúng ta mới đến được “nhà Thiên Chúa của Giacóp”, tức mới gặp được “Con Người Giêsu Kitô” (1Tim 2:5), Đấng “đã đến trong xác thịt” (1Jn 4:2), Đấng chính là “Vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1:23)?
Theo các báo cáo của chương trình phòng chống bệnh Sida của Liên Hiệp Quốc, trong năm: MV 1-A38
Theo các báo cáo của chương trình phòng chống bệnh Sida của Liên Hiệp Quốc, trong năm 1999 tổng cộng có khoảng 2.600.000 người chết vì bệnh này.
Bản báo cáo đã được đưa ra hôm thứ ba ngày 23.11.1999, trong khuôn khổ chuẩn bị cho ngày thế giới chống bệnh Sida sẽ diễn ra vào ngày 1.12.1999. Trung bình thế giới cứ 2000 người thì có một người chết vì bệnh Sida. Trong hai thập niên vừa qua kể từ khi căn bệnh này được khám phá đã có tất cả 16.300.000 người qua đời vì bệnh này.
Bản báo cáo của chương trình chống bệnh Sida của Liên Hiệp Quốc đã cho biết, trong năm 1999 đã có thêm 5.600.000 người nhiễm siêu vi gây ra bệnh này, nâng tổng số những người bị lây nhiễm lên đến 33.600.000 người.
Ông Peter Pias Giám đốc chương trình phòng chống bệnh Sida cho biết rằng, siêu vi HIV tiếp tục lan tràn nhiều nơi trên thế giới một cách hầu như không thể chặn đứng được.
Theo các nhà chuyên môn của chương trình phòng chống bệnh Sida của Liên Hiệp Quốc, khi cơn dịch tễ này được phát hiện chỉ có một số tương đối nhỏ những cô gái điếm truyền bệnh cho nam giới, dần đà sự cách biệt giữa hai giống được san bằng. Ngày nay đa số những người nhiễm HIV là những phụ nữ, con số các nạn nhân nữ tuổi từ 15 đến 19 cao gấp năm lần số nạn nhân nam giới cùng lứa tuổi. Điều này chứng tỏ rằng sự lây lan từ nam giới sang nữ giới dễ dàng hơn là ngược lại.
Dĩ nhiên theo các chương trình phòng chống bệnh Sida của Liên Hiệp Quốc, cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục và gia tăng các biện pháp phòng ngừa. Tuy nhiên, như chúng ta đang biết các biện pháp đều có tính cách kỹ thuật hơn là nhằm giáo dục về tinh thần trách nhiệm và cuộc sống lành mạnh.
Ý tưởng của ngày thế mạt có lẽ cũng đến trong tâm tư của nhiều người, ý tưởng ấy càng được bừng dậy khi chúng ta chứng kiến bao nhiêu thiên tai xảy ra trong những tháng gần đây, động đất, lụt lội, bão táp đã liên tục xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới. Phải chăng đó là điềm báo của một ngày tận thế đang đến?
Quả thực trong Kinh thánh, ngày thế mạt đã được loan báo bằng nhiều hình ảnh mà nổi bật nhất là các thiên tai. Thật ra đó chỉ là ngôn ngữ biểu tượng của Kinh thánh, Chúa Giêsu đã nói đến ngày thế mạt nhưng Ngài lại khẳng định rằng không ai biết được ngày giờ.
Chúng ta tin có ngày thế mạt và niềm tin ấy có một ý nghĩa đặc biệt đối với cuộc sống hiện tại của chúng ta. Trời mới đất mới là niềm hy vọng của các tín hữu kitô chúng ta, chính niềm hy vọng ấy hướng dẫn cuộc sống tại thế của chúng ta, thúc đẩy chúng ta sống tích cực và có trách nhiệm.
Thời Giáo Hội tiên khởi, vì chờ ngày thế mạt mà một số tín hữu đã mặc lấy thái độ tiêu cực, trong thư thứ hai gởi giáo đoàn Thessalonikê, thánh Phaolô đã lên án những người đã sống vô kỷ luật, chẳng làm được gì mà việc gì cũng xen vào. Thánh nhân khuyên mọi người hãy làm việc thiện, hãy sống tích cực và có tinh thần trách nhiệm.
Thiên tai, dịch tễ và bao nhiêu tai ương khác không đương nhiên là điềm báo của ngày thế mạt mà là cơ hội để cho con người biết sống có trách nhiệm hơn. Trong những thiệt hại do thiên tai gây ra, con người không nên trách cứ Thiên Chúa, mà phải tự hỏi đâu là tình liên đới của con người trong dịch tể? Con người không nên qui trách cho Thiên Chúa, mà phải tự hỏi đâu là trách nhiệm của con người?
Đầu tháng 11 năm 1999, chính phủ Nhật bản đã đệ trình lên quốc hội một dự luật nhằm khai: MV 1-A39
Đầu tháng 11 năm 1999, chính phủ Nhật bản đã đệ trình lên quốc hội một dự luật nhằm khai trừ giáo phái chân lý tối thượng, tức giáo phái chủ trương vụ phun hơi ngạt Sarim tại một đường xe lửa ngầm ở Tokio, sát hại 12 người và làm bị thương hơn 5000 người vào tháng ba năm 1995. Hiện nay trên khắp nước Nhật, cảnh sát cũng như người dân đang mở chiến dịch bài trừ giáo phái này. Ở đâu có những thành viên giáo phái xuất hiện là ở đó có bóng ma của sự kinh hoàng đe dọa.
Là chân lý tối thượng nhưng sự thờ phượng của giáo phái này lại không xây dựng trên một chân lý cao cả nào, mà chỉ nuôi dưỡng những tham vọng cuồng bạo nhất của con người. Là một trong vô số những tôn giáo mới xuất hiện tại Nhật bản sau thế chiến thứ hai, chân lý tối thượng chỉ mới xuất đầu lộ diện vào giữa thập niên tám mươi mà thôi.
Lúc đó vừa được bốn mươi bốn tuổi, Asahara người lãnh đạo của giáo phái với đôi mắt gần như mù lòa, lại càng mù quáng hơn trong tinh thần, vậy mà chỉ trong thời gian rất ngắn sau khi giáo phái được nhìn nhận, ông đã xây dựng được một vương quốc giàu có với số doanh nghiệp lên đến cả tỷ mỷ kim, gồm các khách sạn và các tiệm buôn máy điện toán. Khởi đầu từ giáo lý của Ấn giáo và Phật giáo, Asahara lại chuyển sang loan báo ngày thế mạt được múc lấy từ kinh thánh của Do thái giáo và Kitô giáo, nhưng không hài lòng với cái nhìn của kitô giáo vào ngày thế mạt, ông lại khai thác khái niệm luân hồi của Tây tạng và tự cho phép mình quyền được sát hại những người xấu, giải phóng người tốt khỏi nghiệp chướng. Không bao lâu ông đã xây dựng được một thứ chính phủ có đủ các thứ bộ mặc cho nhiệm vụ làm cho ngày thế mạt mau đến. Một trong những cách thế để cho ngày thế mạt mau đến là giết người hàng loạt.
Với mục đích đó, khoảng năm 1994 giáo phái bắt đầu sát hại các kẻ thù và sáng chế hơi ngạt Sarim. Biến cố xảy ra trong một đường xe lửa ngầm vào tháng ba năm 1995, chỉ là một cuộc thử nghiệm. Hai tháng sau đó, Asahara và nhiều thành viên của giáo phái đã sa lưới pháp luật. Người lãnh đạo giáo phái có lẽ bị giam giữ trong tù hàng chục năm khi bản án được tuyên đọc, trong khi đó những tín đồ thành viên của giáo phái lại rút lui vào bóng tối và tiếp tục trở thành một bóng ma đe dọa nhiều người dân Nhật hiện nay.
Chúa Giêsu sẽ trở lại trong ngày thế mạt để phán xét kẻ sống và kẻ chết, đó là niềm tin của các tín hữu kitô chúng ta. Chúa Giêsu đã loan báo về ngày thế mạt, nhưng ngày ấy xảy ra như thế nào và lúc nào không ai biết được. Thay cho những hình ảnh khủng khiếp nhất mà trí óc loài người có thể tưởng tượng được, Chúa Giêsu lại nói đến cuộc phán xét cuối cùng, ngày phán xử ấy lại diễn ra một cách vô cùng minh bạch và đơn giản:”Ai đã gặp gỡ và yêu thương Ngài nơi tha nhân người ấy sẽ được gặp gỡ Ngài. Ai khước từ Ngài nơi tha nhân người ấy cũng sẽ bị Ngài khước từ”.
Nếu ngày tận thế diễn ra như một cuộc phán xử thì quả thực con người đã được phán xử ngay từ hiện tại này và ngày thế mạt cũng đang từng diễn ra trong từng giây phút giữa người với người. Mỗi một nghĩa cử yêu thương đối với tha nhân là tiến gần đến vĩnh cửu, và mỗi một hành vi khước từ đối với tha nhân cũng là một bước tiến đến hủy diệt.
Tình yêu quả là chân lý tối thượng trong cuộc sống con người, ở đâu có tình yêu thì ở đó có thiên đàng. Nếu cần có một chuẩn bị cho ngày thế mạt, thì tình yêu là thứ năng lực duy nhất tích lũy để được sống còn.
Mùa vọng là thời điểm dọn mình mừng Chúa Giáng Sinh. Nhưng tại sao Tin mừng nói đến ngày: MV 1-A40
Mùa vọng là thời điểm dọn mình mừng Chúa Giáng Sinh. Nhưng tại sao Tin mừng nói đến ngày quang lâm ?
Quang lâm là gì ? Quang là ánh sáng, lâm là đến, ngụ ý: người trên đưa vinh quang đến cho người dưới. Theo văn hóa Hy lạp, quang lâm (parousia) chỉ sự hiện diện sinh động của vua chúa trong các nghi lễ lớn như phong vương có kèn trống, ca hát, chúc tụng, tiến dâng phẩm vật. Quang lâm còn chỉ sự thần hiện giáng phúc như xưa ta nói: Thánh thượng giáng lâm.
Theo Cựu ước, quang lâm là ngày của Thiên Chúa, ngày vinh quang đầy ánh sáng huy hoàng đến xua đuổi đêm tối rợn rùng bao phủ dân Ngài. Isaia luôn luôn mô tả hai cảnh tương phản đó: “Trời hỡi, đất hỡi hãy lắng nghe Giavê phán: khốn thay nước tội lỗi, dân chất nặng vạ hình nòi giống ác nhân … Xứ sở các ngươi một cảnh điêu tàn, thành thị bị lửa thiêu, đất đai bị nước ngoài ngốn hết, cảnh điêu tàn như thời Sôđôma” (Isaia 1, 4 ... 7). Trước cảnh đen tối khốn cùng đó, Thiên Chúa vẫn đến cứu giúp đem lại vinh phúc cho con người: “Từ Sion thánh chỉ ban ra... Người sẽ phân xử cho muôn dân. Họ đúc gươm đao thành cày cuốc, rèn giáo mác nên liềm hái ; dân này nước nọ không còn vung kiếm chém nhau và thiên hạ thôi học bài chinh chiến. Hỡi nhà Giacóp ta hãy bước đi trong ánh sáng nước trời” (Isaia 2, 3b-5).
Tân ước diễn tả ngày quang lâm đột xuất xẩy đến giữa thời điểm đen tối của con người: “Đêm sắp tàn, trời gần sáng” (Rm. 13, 12). Trong sa mạc Gioan Tẩy giả đã rao giảng: “Hãy hối cải vì nước trời đã gần đến …”. Sa mạc là cảnh khô cằn nóng như lửa đốt, Đấng Cứu thế đến sẽ biến sa mạc thành nước Trời. Nước Trời ví như ngày mùa lúa đầy sân, đầy kho lẫm, hình ảnh này biểu lộ sự vinh quang, hằng sống của nước Trời.
Về cuối đời ở trần thế, Chúa Giêsu mô tả thời cánh chung có hai cảnh tương phản nhau: một cảnh tận diệt khủng khiếp, lừa gạt, giặc giã, chiến tranh, tội ác đầy ứ, bắt bớ chém giết, mặt trời mặt trăng tối sầm, tinh tú sa xuống. Một cảnh quang lâm như một lễ hội rực rỡ đầy quyền năng, vinh quang của Con người tỏ hiện trên mây trời, ngự trên ngai uy nghi có hết thảy thiên thần hầu cận, thổi loa vang dậy, tập họp muôn dân thiên hạ trước mặt Ngài (Mt. 24, 4-31 ; 25, 31-46).
Như vậy ngày quang lâm là ngày chấm dứt thời gian đen tối, mở ra thời đại huy hoàng. Cựu ước mong chờ một ông Vua thái bình, một người Cha muôn thuở. Tân ước loan báo ngày Thánh thượng giáng lâm chúc phúc cho muôn dân đến muôn đời.
Mùa Vọng hội tụ cả hai ý nghĩa Cựu ước và Tân ước. Sống tâm tình Cựu ước, ta đầy tin tưởng vui mừng vì bỉ cực thái lai, đêm qua ngày tới, sau giông tố trời lại sáng, có sa ngã thì có cứu độ, có lưu đầy thì có đất hứa, có Pharaon thì có Maisen, có Adam thì có Đấng Cứu thế. Sống tâm tình Tân ước, ta càng bùng cháy niềm tin yêu dạt dào, tràn đầy niềm vui vì Đấng Cứu thế đã đến rồi, đêm đông đã chan hòa ánh sáng, đồng hoang đã vang dội tiếng muôn thiên thần mừng hát Đấng đã ban ánh sáng chiếu soi cho muôn dân ngồi trong bóng tối tử thần.
Hôm nay cung thánh đượm vẻ u buồn. Bàn thờ đạm bạc không hương hoa. Lễ phục mang màu tím. Màu tím của lặng lẽ hy sinh. Màu tím của âm thầm cầu nguyện. Màu tím của tha thiết đợi chờ. Màu tím ấy nhắc cho ta biết: hôm nay ta đã bước vào mùa Vọng.
Mùa Vọng là mùa đợi chờ. Đợi chờ Chúa đến cứu độ ta. Cuộc đời ta quá nhiều đau khổ, quá nhiều tội lỗi, quá nhiều bế tắc. Chỉ có Chúa mới có thể thay đổi đời ta, giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, đưa ta vào tình trạng thánh thiện của con cái Chúa.
Như thế mùa Vọng cũng là mùa hy vọng. Đợi chờ chính là hy vọng. Như thế trong màu tím buồn chờ đợi đã thấy thấp thoáng màu xanh hy vọng vui tươi. Nhưng làm sao để màu tím biến thành màu xanh? Làm sao nắm bắt được niềm hy vọng? Làm sao gặp được Chúa khi Người ngự đến? Lời Chúa sẽ hướng dẫn ta sống tinh thần mùa Vọng này.
Trong tuần thứ nhất mùa Vọng, Chúa Giêsu khuyên ta noi gương tổ phụ No-e. Tổ phụ No-e đã được cứu thoát khỏi nạn hồng thủy nhờ thái độ sống tích cực trước lời hứa của Chúa. Thái độ tích cực đó gồm hai điểm hỗ tương.
1) Chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào cuộc đời tối tăm hiện tại
Người ta sống nhờ hy vọng. Không có hy vọng, không ai sống nổi ở đời. Cuộc đời phù du mau qua. Cuộc đời tràn ngập đau khổ. Cuộc đời quá nhiều thử thách. Nhờ hy vọng con người mới có thể tiếp tục sống, làm việc, thăng tiến.
Chính vì hy vọng một mùa gặt bội thu mà người nông dân không ngại dầm sương dãi nắng, thức khuya dậy sớm, cần cù cày bừa, gieo vãi và vun tưới.
Chính vì hy vọng đậu đạt mà học sinh, sinh viên không ngại vất vả, ăn uống đơn sơ, giảm bớt vui chơi, đêm đêm chong đèn đọc sách.
Chính niềm hy vọng được cứu thoát đã giúp tổ phụ No-e có đủ can đảm và kiên nhẫn, đầu tư thời giờ và công sức để đóng một con tàu lớn như thế. Niềm hy vọng được nuôi dưỡng bằng lời hứa của Chúa. Tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa, tổ phụ No-e sống tràn đầy niềm hy vọng vào tương lai. Niềm hy vọng đó giúp Ngài vượt qua những khó khăn hiện tại.
2) Sống tích cực giây phút hiện tại để chuẩn bị cho tương lai.
Niềm hy vọng vào tương lai giúp ta thêm can đảm. Nhưng nó không cho phép ta thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Niềm hy vọng tách rời khỏi thực tế sẽ trở thành ảo vọng. Vì thế muốn đạt tới niềm hy vọng tương lai, ta phải tích cực sống phút giây hiện tại. Phải tích cực làm việc cho tương lai.
Người học trò muốn có tương lai tươi sáng không thể chỉ ngồi đó chờ đợi, nhưng phải ngày đêm chăm lo học hành.
Người nông phu muốn có mùa gặt bội thu không thể khoán trắng công việc đồng áng cho trời đất. Nhưng phải cần cù chăm chỉ dầm mưa dãi nắng.
Tổ phụ No-e không ngồi khoanh tay chờ Chúa đến cứu, nhưng đã bắt tay vào việc. Ngài làm việc cật lực, bất chấp những lời dèm pha, dị nghị của những người chung quanh.
Tục ngữ Pháp có câu: Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp. Tổ phụ No-e đã thực hiện đúng như thế. Ngài đã dồn hết công sức vào việc chuẩn bị tương lai. Và Chúa đã cứu Ngài như lời đã hứa.
Đời sống ta là một mùa Vọng kéo dài. Mùa Vọng trần gian muốn phủ ta trong màu tím buồn của những gian nan thử thách, những thất bại, những chán nản, lo âu, nghi ngờ, mệt mỏi. Ta hãy noi gương tổ phụ No-e, tin tưởng vững chắc vào lời Chúa hứa. Lời Chúa sẽ chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào những tăm tối u buồn hiện tại. Như tổ phụ No-e, ta không ngồi khoanh tay chờ đợi, nhưng tích cực làm việc bổn phận trong hiện tại. Làm mọi việc thường ngày với lòng tin tưởng vững chắc. Làm những việc nhỏ mọn với tình mến Chúa yêu người tha thiết. Đó chính là cách ta sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Đó chính là ta tỉnh thức không bị lỡ cơ hội khi Chúa đến.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1) Có nhiều người chỉ quan tâm tới đời sau mà không chịu làm việc hiện tại. Có nhiều người lại chỉ lo làm ăn sinh sống mà không nghĩ đến đời sau. Bạn nghĩ sao về hai thái độ đó?
2) Ta phải sống thế nào để chu toàn nhiệm vụ hiện tại với bản thân, với gia đình mà không quên Chúa, không quên phần linh hồn của mình?
3) Tuần này, bạn sẽ làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến?
Sau khi Ađam Evà chống lại Thiên Chúa, bóng tối bao trùm vũ tru, loài người chìm vào giấc ngụ: MV 1-A42
Sau khi Ađam Evà chống lại Thiên Chúa, bóng tối bao trùm vũ trụ, loài người chìm vào giấc ngủ triền miên. Mãi đến khi Đức Kitô là mặt trời công chính chiếu những tia-sáng-rực-rỡ-thức-tỉnh thì con người mới từ từ thức dậy. Tuy vậy vẫn còn nhiều người say giấc điệp, thích ngủ “nướng”, tiếc nuối một giấc ngủ! Tình trạng đó vẫn tiếp diễn. Đức Kitô mời gọi mọi người tiếp tay đánh thức những người khác: “Các con là ánh sáng thế gian... Hãy giãi sáng...”. Giáo Hội trung thành với sứ mạng đó, nhất là vào những thời điểm đặc biệt thì lời mời gọi tỉnh thức lại vang lên giúp con ngừơi kịp thời chuẩn bị. Vì vậy cuộc sống Kitô hữu gắn chặt với sự tỉnh thức.
Hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Có thể người ta vẫn cưới vợ gả chồng, yến tiệc linh đình mà không tỉnh, không thức. Rất khó mà hành động phù hợp, thoát được hiểm nguy khi bị bất ngờ như “hai người đàn ông đang làm ruộng, hai người đàn bà đang xay bột thì một người bị đem đi, người được để lại” kh6ng biết ất giáp gì. Vậy mà trên đời không thiếu gì bất ngờ nên người đời mới rầu rĩ than: nào ai học được chữ ngờ! Nếu học được thì trong tự điển chẳng có chữ ngờ!
Hiện nay thiên tai vẫn hoành hành khủng khiếp vì con người không lường trước được, nghĩa là vẫn bất ngờ khi nó xảy ra. Dù có dự đoán nhưng cũng chỉ hạn chế được phần nào. Bất ngờ gây cho con người nỗi khiếp sợ. Sự khôn ngoan của con người đã can thiệp để giảm bớt những thiệt hại. Đối với con người tỉnh thức là: sáng suốt canh phòng, phát hiện trước những nguy hiểm để kịp thời chống đỡ, không để nước tới chân mới nhảy... bậy xuống ngay dòng lũ cho nó cuốn đi!!! Con người đề phòng bất ngờ bằng cách lập những vọng canh, thành luỹ, pháo đài... nhưng khi sự nguy hiểm không ở bên ngoài thì tất cả đều vô ích. Chính vì vậy sự tỉnh thức trước tiên phải khởi sự từ chính mình. Không ai tỉnh thức thay cho người khác được.
Với người Kitô hữu tỉnh thức là hãy “lên núi Chúa để Người thương chỉ lối cho ta hầu ta dõi bước theo đường Ngài”, là “hãy đúc gươm đao thành cuốc thành cày; rèn giáo mác nên liềm nên hái; dân này nước nọ chẳng vung kiếm chống lại nhau và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến” nhưng hãy “ôm hôn nhau âu yếm”!.
Tỉnh thức chính là để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Không tỉnh thức sẽ bị bỏ lại bên ngoài như năm cô trinh nữ khờ dại. Hãy tỉnh thức vì ngày cứu độ của Thiên Chúa đã gần đến nhưng chẳng ai biết giờ nào. Nhiều người mong biết giờ đó để đi tắt, bớt đi vất vả!
Hiện giờ người ta ngủ nhiều hơn thức, ngủ trên những đam mê dục vọng, say sưa hưởng thụ. Có được bao nhiêu Kitô hữu tỉnh thức sẵn sàng đón Chúa???
Thúy Duy. Đã hai lần được trao bằng khen cấp quận (Q. Bình Thạnh ) .năm 1997 và 1998: MV 1-A43
Thúy Duy. Đã hai lần được trao bằng khen cấp quận (Q. Bình Thạnh ) .năm 1997 và 1998), và bằng khen cấp thành phố về “Gương người tốt việc tốt” nhưng chị vẫn cho rằng những việc mình làm được cho các học sinh nghèo chẳng là gì. Hiện nay chị Tạ Huỳnh Oanh là giáo viên tiểu học trường Bình Quới Tây (Q. Bình Thạnh) và là giáo dân họ nhánh nhà nguyện La San Mai Thôn (GX. Thanh Đa). Lớp chị dạy có những học sinh nghèo và hoàn cảnh khó khăn. Vì thích những em nghèo mà hiếu học nên chị đã bớt chút tiền bạc và thời gian để giúp các em. Mỗi tháng chị trích 30.000 đồng từ tiền lương để gởi Uỷ ban phường đóng góp vào suất học bổng 300.000 đồng/một năm cho các học sinh nghèo. Trong căn phòng nhỏ bé nhà chị, chị kê hai cái bàn và dành những buổi tối thứ hai, tư, sáu để dạy năm học sinh thuộc lớp phổ cập. Năm em này tuổi đã lớn nên ngại đến các lớp ở trường.
Hàng ngày ngoài việc dạy ở trường và dạy các học sinh phổ cập tại nhà, chị cũng phải lo chu toàn việc của một người vợ có chồng thường làm việc xa nhà, của người mẹ của một đứa con trai. Công việc ép nhựa và làm khăn tay cộng với đồng lương giáo viên cũng chẳng được là bao so với nhu cầu cuộc sống, nhưng chị vẫn thầm lặng đóng góp với chồng lo cho gia đình và với mọi người lo cho xã hội.
Phải chăng tỉnh thức và sẵn sàng ngày hôm nay là nhạy bén, cảm thông trước những nhu cầu và khó khăn của người khác, để sẵn sàng phục vụ trong tinh thần yêu thương và khiêm tốn theo gương Đức Kitô.
Chủ đề: Đêm đã tàn và ngày đang tới. Hãy từ bỏ những hành vi ám muôi và hãy mang lấy vũ khí ánh sáng.
Mark Twain có viết một câu chuyện nhan đề “ The terrible Catastrophe “ ( tai hoạ khủng khiếp): MV 1-A44
Mark Twain có viết một câu chuyện nhan đề “ The terrible Catastrophe “ ( tai hoạ khủng khiếp) mô tả một nhóm người đang lâm vào tình cảnh rất bi đát. Chết đến nơi rồi mà vẫn chưa tìm được lối thoát. Họ đúng là đang nằm trên bờ thảm họa khủng khiếp.
Mark Twain không muốn cho câu chuyện kết thúc bi thảm. Nhưng ông không biết làm cách nào để cứu nhóm người này, tình cảnh họ giống như những kẻ bị kẹt trong chiếc máy bay mà chỉ ít giây nữa là đâm đầu vào một sườn núi. Và vì thế Mark Twain phải kết thúc câu chuyện của ông bằng hai câu sau:” Tôi lỡ đặt các nhân vật này vào một tình cảnh cực kỳ gian truân đến mức tôi không thể nào cứu gỡ được. Ai nghĩ rằng mình có thề cứu gỡ được thì xin vui lòng cứu gỡ dùm”. Xét về một mặt thì đây là một kết cục không hợp lẽ, nhưng xét về một mặt khác thì lại là một kết cục hay ho vì nó buộc ta phải suy nghĩ, phải can dự vào. Chẳng hạn già sử đó là trường hợp liên quan đến một chiếc máy bay sắp sửa va vào sườn núi thì bạn sẽ bảo các hành khách phải cố gắng tự cứu mình ra sao ? Và trong trường hợp bạn là một hành khách trên chiếc máy bay ấy thì bạn sẽ làm gì để tự cứu chính mình ?
Hàng ngàn năm trước đây, nhân loại đã bị rơi vào một tình cảnh bi đát tương tự như thế đó. Tội lỗi đã nhập vào thế gian và lan trànn như đám lửa dại. Nhân loại bị vây khốn không tìm ra được lối thoát chính mình. Giả như Mark Twain sống vào thời đó thì hẳn ông đã mô tả tình cảnh lúc đó y hệt cảnh ngộ của nhân vật trong câu chuyện của ông:”Họ lâm vào tình trạng nguy khốn đến nổi tôi chẳng thể nào cứu gỡ được. Ai nghĩ rằng mình có thể cứu gỡ được, xin vui lòng cứu gỡ dùm “.
Và thiên Chúa Cha đã nhìn thấy tình cảnh bi đát này. Ngài không muốn câu chuyện kết thúc buồn thảm, Ngài quá yêu nhân loại nên không thể để cho kết cục như thế xảy ra, vì thế Ngài đã không nghĩ đến phương cách cứu vớt nhân loại.
Thế là chúa Cha bèn sai người Con duy nhất của mình đến trần gian để trở nên một thành viên của nhân loại. Chúng ta đã biết được Chúa Giêsu đã thực hiện những gì: Ngài đã đặt nền móng cho nước Thiên chúa. Đó là phương cách chúa dùng để cứu nhân loại khỏi tội lỗi và giúp họ bắt đầu lại. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn chưa hoàn tất nước Thiên Chúa, Ngài uỷ thác việc hoàn tất này cho chúng ta.
Cách đây nhiều năm, có một bộ phim hoạt hình chiếu ra gây ấn tượng rất mạnh. Cảnh thứ nhất cho thấy Charlie Brown đang nhìn chàm chằm một hợp đựng dụng cụ và tự nhủ:” Tôi chẳng thể nào làm được ! Tôi chẳng thể nào làm được !” Cảnh thứ hai cho thấy Lucy bước vào và nói với Charlie:” Anh sao vậy Charlie ? hình như anh có vẻ khổ tâm đấy ! “.Trong cảnh cuối cùng, Charlie trả lời với Lucy:” Thật là khổ ! tôi muốn chế ra cái bệ kê để làm việc nhưng lại không có sẵn một cái bệ kê nào để đặt trên đó mà làm cả !”.
Chủ điểm mẫu phim hoạt hình này thật rõ ràng khi chúng ta đem áp dụng nó vào trường hợp của Chúa Giêsu. Ngài đã làm cho chúng ta một “cái bệ kê”. Trên đó chúng ta có thể hoàn tất công việc Ngài đã bắt đầu. Chúa Giêsu anh thợ mộc khiêm tốn làng Nazarét đã không tự mình hoàn tất công việc, Ngài muốn uỷ thác lại công việc ấy cho chúng ta.
Vậy mùa vọng nhắc nhỏ chúng ta nhớ lại tình cảnh bi đát của thế gian trước khi Chúa Giê su đến. Chỉ khi nào đánh giá đúng tình trạng thê lương này chúng ta mới có thể vui mừng về cuộc giáng sinh đầu tiên của Chúa Giêsu một cách đúng mức . Tuy nhiên mùa vọng không phải chỉ có thế. Mùa này còn nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Gie6su sẽ trở lại. Ngài sẽ đích thân xét xử mỗi người chúng ta vê việc chúng ta cộng tác với người trong công việc mà Ngài đã uỷ thác cho chúng ta phải hoàn tất. Anh chị em cũng như tôi đang sống trong khoảng thời gian giữa ánh chớp cuộc giáng sinh đầu tiên của Chúa Giêsu và tiếng sấm báo hiệu sự gia1ntg lâm lần thứ hai của Ngài. Điều mà Thiên Sứ ngõ với chúng ta như thế:”Tại sao các ngươi còn đứng đó mà nhìn trời ? đức Giêsu vừa rời các Người về trời đó cũng sẽ trở lại y hệt như các ngươi đã thấy Ngài về trời vậy “(Cv 1:10-11).
Trong khi chờ đợi Chúa Giêsu trở lại, nhiệm vụ chúng ta trên trái đất này không phải là cứ đứng đó nhìn trời mà không làm gì hết. Ngược lại chúng ta, phải xoắn tay áo lên mà hoàn tất công việc Chúa Giêsu đã giao cho chúng ta. Chúng ta phải sử dụng cái bệ kê mà Chúa Giêsu đã làm chó chúng ta để hoàn tất nước Chúa trên mặt đất này. Chúng ta phải cho kẻ đói ăn, cho kẻ khác uống, cho kẻ trần truồng mặc, đón rước khách lạ vào nhà, phụng sự hoà bình và yêu thương lẫn nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.
Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta kiểm điểm xem bản thân chúng ta đã thực hiện những điều trên như thế nào. Và Mùa Vọng còn là thời gian để chúng ta đặc biệt nhớ rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét chúng ta về những việc chúng ta đã làm và những việc chúng ta đã bỏ sót trong lúc Ngài vắng mặt.
Đức Kitô đã chết. Đức Kitô đã phục sinh. Đức Kitô sẽ trở lại. Trong lúc chờ Ngài trở lại, chúng ta phải bước đi trong ánh sáng và chu toàn, công việc Ngài uỷ thác cho chúng ta. Đó là ý nghĩa tất cả mùa vọng. Mùa Vọng không phải chỉ là thời gian chuẩn bị mừng kính cuộc giáng sinh đầu tiên của Chúa giêsu mà còn là thời gian chuẩn bị đón mừng cuộc giáng lâm lần thứ hai của Ngài nữa.
Thánh Phaolô đã diễn tả điều này trong bài đọc hai hôm nay:” ơn cứu độ của chúng ta đã gần hơn lúc chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày đang tới:Vậy anh chị em hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy chiếc áo bào sự sáng“.
Mùa vọng mời gọi chúng ta tự vấn về ba câu hỏi quan trọng sau đây. Hiện giờ chúng ta đang làm gì để xây dựng nước Chúa trên trần gian ?- Chúng ta cần phải làm gì nagy bây giờ ? Và cuối cùng, chúng ta sẽ bắt đầu làm gì vào Chúa Nhật thứ mùa vọng hôm nay ?
Chúng ta kết thúc với lời cầu nguyện:
Lạy Chúa là Cha chúng con,
Con Cha đã trở thành một người như chúng con.
Ngài đã cứu chúng con khỏi thảm họa khủng khiếp
mà tội lỗi xô đẩy tất cả chúng con vào.
Ngài đã xây cho chúng con một “bệ kê” tức là
Nước Thiên Chúa, trên đó chúng con phải xây dựng một
Thế giới mới,
Thế giới của tình yêu,
Thế giới của hoà bình.
Ngài sẽ tái giáng để phán xét tất cả chúng con về những gì tự thân chúng con phải cố gắng chu toàn, chẳng hạn như cho kẻ đói ăn, cho kẻe khác uống, cho kẻ trần truồng mặc, tiếp đón kháck lạ, phụng sự hoà bình và yêu thương lẫn nhau như Ngài đã yêu thương chúng con.
Đức Giêsu nói với các môn đệ về ngày quang lâm của Người rằng: “Thời ông Nôê, sự việc đã: MV 1-A45
Đức Giêsu nói với các môn đệ về ngày quang lâm của Người rằng: “Thời ông Nôê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì ngày Con Người quang lâm, cũng sẽ xảy ra như vậy. Quả thế, trong những ngày trước nạn Hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới gả, mãi cho đến ngày ông Nôê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn Hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng thế.
Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang xay bột, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.
Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa mình đến. Hẳn anh em đã rõ, nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, chắc ông ta phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình. Cho nên anh em cũng vậy, anh em phải sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
I. DẪN VÀO MÙA VỌNG VÀ BÀI TIN MỪNG
Theo thời tiết người ta chia làm 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Theo thời gian tính dựa vào mặt trời thì có ngày tháng dương lịch, tính theo mặt trăng có âm lịch... Theo Phụng vụ Công giáo, Hội Thánh chia cho chúng ta từng mùa với ý nghĩa thánh hoá tất cả thời gian trong năm dựa trên cuộc đời Chúa Cứu Thế. Và khởi đầu là Mùa Vọng - Mùa Vọng là mùa sống lại sự mong chờ Chúa tới trong mầu nhiệm Giáng Sinh bằng việc lắng nghe những lời loan báo để sửa soạn đón Chúa đến làm người ở với chúng ta và đem Ơn Cứu Độ cho chúng ta - Mùa Vọng là Mùa sống trong mọng đợi, hy vọng và trông chờ Chúa đến - mang lại sự bồn chồn thấp thỏm nhưng rộn ràng, vui vẻ - Bài Tin Mừng năm nay (năm A) được đọc là của thánh Matthêu - và Chúa nhật đầu năm Phụng vụ này là đoạn nói về việc phải tỉnh thức đón chờ Chúa đến trong ngày sau hết của cả nhân loại, ngày tận thế - Muốn nói với chúng ta, tất cả đời sống của chúng ta khởi đi từ niềm hy vọng chắc chắn Chúa sẽ đến, và Chúa đến lần quyết định để đưa chúng ta về với Chúa là lần cuối cùng - ta hãy trung thành và tỉnh thức - Phần Tin Mừng trích từ đoạn 24 đầy phức tạp và khó khăn của thánh Matthêu này, vì vừa nói về việc phá thành Giêrusalem, vừa nói về ngày Cánh Chung (Tận Thế) lẫn lộn nhau, đã được các nhà chuyên về Kinh Thánh phân định rất rõ ràng từng khúc ngắn một: Phần này (Mt 24,37-44) gồm hai khúc:
1. Chúa kêu gọi tỉnh thức và trung thành. 2. Chúa đưa dụ ngôn người chủ nhà tỉnh thức.
II. Ý CHÍNH CỦA BÀI TIN MỪNG
Chắc chắn Chúa sẽ đến nhưng ta lại không biết Chúa đến lúc nào, do đó mà ta phải tỉnh thức bằng cách trung thành với công việc được trao phó như người chủ nhà luôn cảnh giác với kẻ trộm vậy.
III. GIẢI THÍCH
Bày này được Chúa nói với các môn đệ vào thứ ba Tuần Thánh (04 tháng 04 năm 30), trên sườn núi cây Dầu, đối diện với thành thánh Giêrusalem huy hoàng tráng lệ vào một buổi chiều với nhiều ánh dương còn đọng lại trên công trình kiến thiết nguy nga.
- Ông Nôê (c.37): Theo sách Sáng Thế Ký (hay Khởi Nguyên) đoạn 6.6. Thiên Chúa thấy dân tội lỗi quá, muốn thanh tẩy thế giới, chỉ để lại ông Nôê, gia đình ông và các vật cần sống sót, đã truyền ông đóng tàu, và nhờ con tàu này, ông sống và do ông phát sinh một thế giới mới - Đang khi ông đóng tàu thì chẳng có ai để ý gì hết.
- Hai người đàn ông.. hai người đàn bà... (c.40-41): Có ý nói là không kể nam hay nữ, nhưng cái đáng kể là chính tâm tình con người, dù công việc bên ngoài có như nhau.
- Kẻ trộm (c.43): Chúa dùng hình ảnh kẻ trộm để nói lên sự bất ngờ - Chúa không đến theo kiểu kẻ trộm nhưng Chúa đến mà chúng ta không biết.
- Khoét vách nhà mình (c.43): Người Do Thái làm tường nhà bằng vách đất, đất đổ lên phân rồi ép lại nên rất dễ khoét.
- Chúa mình đến (c.42): Muốn nói lên chính Chúa sẽ là Đấng phán xét.
IV. LỜI CHÚA CHO NGÀY HÔM NAY
Giữa cảnh sống của nhiều ngừơi dường như chỉ có ngày hôm nay, sống cho qua ngày. Lời Chúa vẫn nhắc nhở chúng ta hãy sống, hãy làm việc và hãy hy vọng, đừng để mất niềm tin và hy vọng - Nhưng qua tất cả những niềm tin và hy vọng tạm thời, còn có niềm tin và hy vọng vào Chúa và ngày Chúa đến đón nhận chúng ta về sống với Ngài. Hãy lấy niềm tin và hy vọng ấy chiếu rọi vào các biến cố của cuộc sống để mỗi việc dù nhỏ, dù lớn đều là những tín hiệu báo cho ta hãy tỉnh thức, sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
V. GỢI Ý SỐNG VÀ CHIA SẺ
1. Sống Mùa Vọng và sống trong sự trông chờ Chúa đến cứu độ bằng việc ý thức và chu toàn bổn phận hàng ngày như người rất nóng lòng đón người thân, nhưng vẫn không quên cuốn sách đang đọc, lời kinh đang nguyện, bài học đang ôn, chiếc áo đang may... Ta đã tập sống Mùa Vọng trong niềm vui của Mùa xanh hy vọng chưa?
2. Những nhu cầu của cuộc sống hằng ngày nhiều lúc đã làm lu mờ con mắt lỗ tai và cảm giác... Nếu ta khó nhận ra những tín hiệu Chúa đến và gọi chúng ta - Mùa Vọng và bài Tin Mừng nhắc chúng ta “tỉnh táo” đấy, kẻo khi bừng mắt dậy, thấy mình tay không.
3. Việc làm đã quan trọng, nhưng chính thái độ nội tâm của người làm việc mới thực sự quan trọng hay nói kiểu đạo đức, Chúa đánh giá tâm tưởng hơn là cử chỉ bên ngoài. Ta hãy nhắc nhở mình để đừng thành “cái máy” với bất cứ công việc gì, nhất là việc đạo đức, đặc biệt trong Mùa Vọng này. 4. Có ba việc được gọi là tỉnh thức:
a) Sống thánh thiện (tránh tội lỗi, vâng theo ý Chúa và kết hiệp với Ngài).
b) Sống nhân đức (luyện tập các tính tốt).
c) Chu toàn bổn phận và chu toàn theo ý hướng siêu nhiên (làm vì Chúa và theo Chúa dạy). Ta đã thường “tỉnh thức” ở việc nào rồi?
5. Người có lý tưởng thì sống trong hân hoan, vui vẻ, tươi trẻ, mát mẻ và ưa chia sẻ mà rất ít đơn lẻ, sứt mẻ, buồn tẻ nói theo kiểu “định lý đảo": muốn sống cuộc đời màu xanh thì cần tìm cho mình một lý tưởng không dám có màu tím đâu... Ta đã sống cuộc đời mình như thế nào?
VI. LỜI NGUYỆN TRÊN TRANG TIN MỪNG
Chúa ơi trời đã trở lạnh như nhắc con ngày kỷ niệm Chúa Giáng trần sắp tới - Một niềm hy vọng vừa loé lên trong óc con: lại một dịp vui với ước mong của ngày lễ đem lại - và những thứ mơ tưởng đó dễ làm con quên đi cái hiện tại, quên đi những người chung quanh... Thế nhưng Chúa bảo con hãy chu toàn cái trước mắt, hãy nhớ người đồng loại, và hãy dùng chính những ước mơ tốt đẹp của mình để xây dựng một mái nhà tâm hồn cho Chúa đến và rồi chính qua “tổ ấm” ấy, Chúa đón con về với Chúa. Con tin Chúa sẽ đến, dù con chưa thể biết lúc nào Chúa đến, và chính niềm hy vọng Chúa đến sẽ là động lực đẩy con đến gần Chúa, gần với đời sống mình mà không bị đời sống đè bẹp, che khuất. Trong khi chờ Chúa đến dứt khoát, xin hãy đến với con bằng hồng ân thanh tẩy và điểm trang để con đủ sạch, đủ đẹp khi Chúa đến - để con đủ tài, đủ lực làm đẹp môi trường con sống.
VII. CHÂM NGÔN SỐNG
1. Chu toàn nhiệm vụ hằng ngày. 2. Tỉnh táo trong lời ăn tiếng nói kẻo làm mất lòng người chung quanh. 3. Y thức việc đạo đức mình làm. 4. Không chán nản, thất vọng.
Vào buổi sáng nọ, người thợ giầy thức giấc rất sớm. Anh quyết định chuẩn bị căn xưởng nhỏ của anh cho tươm tất rồi vào phòng khách chờ đợi cho bằng được người khách quý. Người khách đó không ai khác hơn là chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ Ngài đã hiện ra và báo cho anh biết Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi chờ đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, anh đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng anh hồi hộp sung sướng. Hẳn là Chúa đến. Anh ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đang đứng trước mặt anh không phải là Chúa, mà là người phát thư. Sáng hôm đó là một ngày cuối đông. Cái lạnh đã khiến mặt mũi tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện run lẩy bẩy ngoài cửa. Anh mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giầy lại vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Anh gọi nó laị hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn, báo cho người khách quý biết mình đã đi ra ngoài. Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà đâu phải là chuyện đơn giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra nhà đứa bé và khi anh về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà, anh đã thấy có người đang đợi anh. Nhưng đó không phải Chúa mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể chợp mắt suốt đêm qua. Nghe thế, người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé. Nửa đêm anh mới về nhà, anh để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà Chúa chưa đến thăm anh. Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe tiếng Chúa nói với anh: “Cám ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà. Cám ơn con đã săn sóc an ủi Ta. Cám ơn con đã tiếp đón Ta ngày hôm nay” (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Theo một câu chuyện cổ tích của người Nhật Bản, ngày xưa, có một đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc bên cạnh một đứa con gái nhỏ. Người chồng là một hiệp sĩ samourai, nhưng anh chỉ sống khiêm tốn trong một khu vườn nhỏ ở đồng quê. Người vợ là một người trầm lặng đến độ nhút nhát. Chị không bao giờ muốn ra khỏi nhà.
Một hôm, nhân dịp lễ đăng quang của Nhật hoàng, với tư cách là một hiệp sĩ, người chồng cảm thấy có bổn phận phải về kinh đô để bái lạy quân vương. Sau khi đã làm xong nghĩa vụ của một hiệp sĩ, anh ghé ra chợ mua quà cho vợ con. Riêng cho người vợ, anh mua một tấm gương soi mặt bằng bạc...
Đón nhận món quà, ngời đàn bà bỡ ngỡ vô cùng: chị chưa bao giờ trông thấy một tấm gương, chị chưa một lần nhìn thấy mặt mình. Do đó, vừa nhìn thấy mặt mình trong gương, người vợ mới ngạc nhiên hỏi chồng: "Người đàn bà này là ai?". Người đàn ông mỉm cười đáp: "Mình không đoán được đó là gương mặt kiều diễm của mình sao?".
Một thời gian sau, người đàn bà lâm bệnh nặng. Trước khi chết, bà cầm tay đứa con gái và nói nhỏ: "Mẹ không còn sống trên mặt đất này nữa. Sáng chiều, con hãy nhìn vào tấm gương này và sẽ thấy mẹ".
Sau khi người mẹ qua đời, sớm tối, lúc nào đứa con gái ngây ngô cũng nhìn vào tấm gương và nói chuyện với chính hình ảnh của nó. Nó nói chuyện với hình trong tấm gương như với chính mẹ nó.
Ngày kia, bắt gặp đứa con gái đáng nói chuyện với chính mình nó trong tấm gương, người cha tra hỏi, đứa con gái mới trả lời: "Ba nhìn kìa, mẹ con không có vẻ mệt mỏi và xanh xao như lúc bị bệnh. Mẹ lúc nào cũng trẻ và cũng mỉm cười với con".
Nghe thế, người đàn ông không cầm nổi nước mắt, nhưng không muốn cho nó biết sự thật, ông nói với nó: "Nếu con nhìn vào gương để thấy mẹ con, thì ba cũng nhìn vào con để thấy mẹ con".
Tha nhân chính là tấm gương phản chiếu gương mặt của chúng ta. Khi chúng ta lạc quan, khi chúng ta vui tươi, khi chúng ta yêu đời, khi chúng ta hòa nhã chúng ta sẽ nhận ra nét đó trên khuôn mặt của những người xung quanh. Trái lại, khi chúng ta cau có, khi chúng ta giận dữ, khi chúng ta buồn phiền, khi chúng ta thất vọng, chúng ta cũng sẽ thấy được những nét ấy trên gương mặt của người khác...
Tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Nếu đứa con có thể nhìn thấy gương mặt khỏe mạnh, vui tươi của người mẹ trong tấm gương, nếu người cha nhìn thấy hình ảnh của người vợ trong đứa con, thì với ánh mắt của tin yêu chúng ta cũng có thể nhìn thấy gương mặt Tình Yêu của Thiên Chúa trong mọi người.
Có Thiên Chúa trong ánh mắt, nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi người, chúng ta sẽ thấy rằng đời có ý nghĩa, tha nhân không phải là hỏa ngục đáng xa lánh...
Chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của tha nhân với nụ cười của trẻ thơ để luôn luôn nhận ra được bộ mặt Tình Yêu của Thiên Chúa trong mọi người.
Hôm nay Giáo Hội bước vào Mùa Vọng – Mùa Vọng là chờ, là mong. Nhưng chúng ta chờ: MV 1-A46
I. Hôm nay Giáo Hội bước vào Mùa Vọng – Mùa Vọng là chờ, là mong. Nhưng chúng ta chờ mong điều gì? Phải chăng là mong chờ Lễ Giáng Sinh ? Thưa không, chúng ta không mong chờ một lễ vui, mà mong chờ chính Chúa sẽ đến với chúng ta. Khi Ngài đến, Ngài sẽ mang cho chúng ta bình an, hạnh phúc. Tuy nhiên, chúng ta hãy hãy nhớ rằng những ơn lành ấy chỉ đến với những ai đã chuẩn bị lòng mình sẵn sàng. Vậy kể từ hôm nay, mỗi người chúng ta hãy tích cực chuẩn bị tâm hồn, vì ơn cứu độ của Chúa đã đến gần.
GỢI Ý SÁM HỐI
- Một năm phụng vụ đã trôi qua, hôm nay bắt đầu một năm phụng vụ mới.phải chăng trong năm phụng vụ vừa qua ta cũng có phần thờ ơ, ươn lười, nhiều lầm lỗi ?
- Xã hội hôm nay đầy dẫy sự xấu. Phải chăng chúng ta cũng có phần tạo nên tình trạng ấy ?
- Chúng ta cũng mong rằng thế giới sẽ tốt hơn, con người sẽ thương yêu nhau hơn. Nhưng chúng ta có làm gì cho tương lai ấy mau đến không?
GỢI Ý GIẢNG
Phải biết nuôi hy vọng
Alan Platon là một nhà văn Nam Phi, tác giả một quyển sách nhan đề Cry the Beloved Country trong đó ông mô tả hòan cảnh khốn khổ của nước Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc aprtheid. Platon có một giấc mơ: ông mơ có một ngày mà mọi người dân trong đất nước của ông đều được đối xử công bình và bình đẳng. Và để được thực hiện giấc mơ ấy, ông đã lao mình vào chính trị, đấu tranh suốt mấy mươi năm để xóa bỏ chế độ apart – heid ấy. Nhiều người cho rằng mơ ứơc và việc làm của Platon là không thể nào thực hiện được. Nhưng ông vẫn kiên trì vì tin rằng ngày mơ ước sẽ đến. Chỉ tiếc là ông đã chết trước khi thấy được ngày đó, nhưng lịch sử chứng minh rằng ông đã đúng.
Ngôn sứ Isaia còn có một giấc mơ táo bạo hơn nữa: Ong mơ tới ngày các nước sẽ không còn tuốt gươm chém giết lẫn nhau nữa, người ta sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm, và mọi người sẽ bước đi trong ánh sáng của Chúa. Thật là một giấc mơ tuyệt vời! Có người cho rằng giấc mơ ấy sẽ đến khi Đấng Mesia lại đến lần thứ hai. Có kẻ nói nó sẽ chẳng bao giờ đến, đó chỉ là nằm mơ giữa ban ngày. Nhưng vẫn có người tin rằng thế nào nó cũng đến nên miệt mài theo đuổi như Alan Platon trong chuyện trên.
Một chuyện khác: Một người thợ săn nghe nói tới một con chim đặc biệt có đôi cánh rộng màu trắng rực rỡ. Đó là con chim đẹp nhất trong các loàichim trên mặt đất. Vì thế người thợ săn không quản ngại đường xa, trèo đồi vượt suối đi tìm nó hết ngày này sang ngày khác, tháng này đến tháng nọ, năm này đến năm kia. Một lần anh đã may mắn thấy được bóng dáng nó ở một khoảng cách rất xa. Nhưng chỉ thóang thấy là nó bay đi mất. Anh vẫn kiên trì đi tìm. Một ngày kia anh nhặt được một cọng lông trắng của nó. Rồi anh chết đi mà không bao giờ bắt được con chim mơ ước của mình.
Cuộc săn tìm của người thợ săn là hình ảnh của lòai người tìm kiếm hòa bình. Giấc mơ tòan thế giới vui hưởng thái bình của Isaia có thể không thực hiện được nhưng nó không chỉ đơn thuần là nằm mơ giữa ban ngày, mà giống như một ngọn núi mà ta mơ có ngày sẽ đứng trên đó. Dĩ nhiên muốn thế thì ta không thể cứ ngồi một chỗ mà mơ, hoặc ước chi nó từ trên trời hạ thấp xuống tận chân ta. Ta phải leo, phải có chương trình và kiên trì làm theo chương trình ấy, cho dù có chậm chạp và lâu dài.
Ngay cả khi giấc mơ thái bình sẽ không bao giờ được thực hiện trọn vẹn trên tòan thế giới đi nữa, thì việc theo đuổi giấc mơ ấy cũng có ảnh hưởng tốt trên đời ta. Điều quan trọng là không phải đạt được mục đích mà là sống có mục đích. Nhiều khi có một mục đích tốt cho đời mình thì kể như đủ, miễn là không bao giờ ta bỏ mục đích ấy.
Thế giới ngày nay nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ có thể làm được hầu như mọi điều, nhưng lại bất lực không tạo ra hòa bình được; bất hòa khắp nơi, trên bình diện lớn lao như nước này với nước nọ, dân này với dân nọ; hoặc trên bình diện như nhóm này với nhóm kia, người này với người khác. Mỗi Kitô hữu có thể góp phần mình vào việc thực hiện giấc mơ thái bình của Isaia, bằng những cố gắng xóa bỏ óc kỳ thị, sự đố kỵ, ích kỷ, chia rẻ nhau…; bằng cách gieo rắc hòa thuận, cảm thông, hợp tác…
Chúng ta cũng nên biết rằng chúng ta không cô đơn trong những cố gắng ấy, mà có Chúa giúp ta: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài đến ở với lòai người chúng ta, thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian này, và cùng đồng hành với chúng ta trong nỗ lực leo lên đỉnh núi thái bình.
“Đây là lúc chúng ta phải thức dậy”
Lời Thánh Phaolô trong bài đọc II làm cho chúng ta giật mình. Phải chăng chúng ta đang ngủ vùi?
Đúng vậy, dù mắt chúng ta vẫn mở nhưng thực sự chúng ta đang ngủ trong bóng tối mịt mù:
Chúng ta ngủ vì lòng “những việc làm đen tối” Chúng ta ngủ vì cứ “chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng” Chúng ta ngủ vì lòng đầy “tranh chấp đố kỵ” Chúng ta ngủ vì chỉ “lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt”
Nhưng thánh Phaolô nhắc nhở rằng: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến” và “Giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo”, vậy “Đây là lúc chúng ta phải thức dậy”
-“ Hãy đi đứng đàng hòang như giữa ban ngày”
Hãy “Cầm lấy khí giới của sự sáng” để chiến đấu chống lại những sức mạnh của tối tăm tội lỗi.
Hãy cởi bỏ con người cũ thiên về những dục vọng xác thịt để “mang lấy Đức Giêsu Kitô
Hai người, hai số phận
“Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi”
Đức Giêsu chỉ nói tình trạng như thế thôi chứ không nói rõ lý do tại sao. Tuy nhiên chúng ta có thể bíêt lý do qua câu chuyện Ngài kể về thời ông Nôe: Ong Noe chính là người được tiếp nhận, nhờ ông đã tỉnh táo nghe được lời Chúa báo sắp có nạn Hồng thủy, và ông đã tích cực chuẩn bị đóng tàu. Còn mọi người khác là những kẻ bị bỏ rơi, vì họ chẳng để ý tới việc gì khác ngoài cuộc sống vật chất, “ăn uống, dựng vợ, gả chồng”. Những bận tâm đó đã chiếm hết tâm trí họ rồi, còn tâm trí đâu mà để ý đến Lời Chúa. Giả như ông Nôe có kể lại cho họ nghe lời cảnh báo của Chúa thì họ cũng không tin và còn cho là chuyện viễn vông, không thiết thực như chuyện “ăn uống, dựng vợ gả chồng”
Trong cuộc sống của chúng ta, giữa những bề bộn lo lắng về vật chất, thế tục, Lời Chúa vẫn vang lên để nhắc chúng ta phải biết quan tâm đến nhiều việc khác thuộc phương diện tinh thần, phương diện siêu nhiên, phương diện đời đời.. Ai tỉnh táo thì nghe được và sẽ “được tiếp nhận”, kẻ nào mãi thờ ơ thì như “đàn gãy tai trâu” và sẽ “bị bỏ lại”
Chúa cấm con thất vọng
* Hãy cố gắng, dù yếu đuối ngã sa, con hãy xin Chúa thứ tha và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sĩ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú đấm, bị thương tích, nhưng cú vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đọat giải vô địch quốc tế (ĐHV 971)
Cha Charles de Foucald có để lại mấy giòng sau đây. Đọc kỹ, con sẽ thấy phấn khởi tâm hồn và lấy lại được niềm tin, nhất là những lúc hầu như con thất vọng:
“ Dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng về điều đó”.
“Dù con bội bạc cách mấy, khô khan cách mấy, hèn nhát cách mấy, lợi dụng ơn Chúa cách mấy. Chúa cũng vẫn bắt con phải hy vọng được sống đời đời dưới chân Chúa trong tình thương và sự thánh thiện"
“Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nạn của con. Chúa không cho con nói “Tôi không thể đi tới được, đường lên trời khó khăn quá, tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp”
“Trước những sa ngã trở đi trở lại của con, Chúa lại cấm không cho con nói: “Tôi không hề sửa mình được, tôi có sức để nên thánh, tôi không xứng đáng để vào thiên đàng…”
“Vậy Chúa muốn con phải trông cậy Chúa luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa” (ĐHY NVT, trên đường lữ hành)
Thức dậy
Ở Mehico, giáo phận của Đức Cha Samuel Ruiz có tới 80% giáo dân là người da đỏ bản xứ. Bản thân ngài nổi tiếng là người bênh vực cho dân da đỏ. Nhưng không phải tự nhiên mà ngài làm được việc đó đâu. Trong một buổi nói chuyện ở Nhà Thờ Chính Tòa Westminster Mùa Chay 1996, ngài đã thố lộ tâm sự như sau: “Suốt 20 năm làm giám mục giáo phận này, tôi như một con cá đang ngủ (sleeping fish), nghĩa là mắt vẫn mở nhưng chẳng thấy gì. Tôi còn hãnh diện vì giáo phận có nhiều nhà thờ và giáo dân đông đúc. Rồi một hôm tôi gặp cảnh một người da đỏ bị trói vào một người này không chịu làm thêm 8 giờ phụ trội nữa”. “Thức dậy”. Từ đó trở đi, Ngài hăng hái tranh đấu cho quyền lợi ngừơi da đỏ.
Chuyện trên cho ta tháy hai điều:
1/ Thiên Chúa có nhiều cách để kêu gọi người ta thức dậy. 2/ Và cũng có nhiều cách thức dậy: thức dậy về thể xác (thôi ngủ), thức dậy về xã hội, thức dậy về đạo đức v..v..
Thế là chúng ta đã sống những tháng ngày đầu tiên của thiên niên kỷ mới, với bao hân hoan: MV 1-A47
Thế là chúng ta đã sống những tháng ngày đầu tiên của thiên niên kỷ mới, với bao hân hoan vui mừng. Trước đó chúng ta đã đợi chờ, lo lắng, không biết điều gì sẽ xảy đến với mình, với toàn thế giới. Năm đầu tiên, năm 2001 đã trôi qua. Hôm nay chúng ta lại bắt đầu Năm Phụng Vụ mới. Mùa Vọng đã lại trở về, mùa của trông đợi. Và Lời Chúa lại vang vọng, thức tỉnh ta: “Con người quang lâm, Con Người sẽ đến”.
Vậy Mùa Vọng năm nay chúng ta cần phải có thái độ nào trước lời loan báo của Chúa ? Những hăm hở, những náo nức cho biến cố ngàn năm mới đã qua rồi, phải chăng chúng ta lại rơi vào ù lỳ, lửng lơ, thờ ơ với cuộc sống, với ơn gọi, với sứ mệnh Chúa đã trao ?
Chúa Giê-su cùng với các môn đệ ra khỏi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Các môn đệ chỉ cho Chúa thấy công trình vĩ đại của Đền Thờ. Nhân đó, Chúa nói tiên tri về số phận Đền Thờ và loan báo Ngày Quang Lâm của Người. Chúa lấy biến cố thời ông Nô-ê để so sánh với ngày Ngài sẽ Quang Lâm.
“Cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy...”
Chúa đến thật bất ngờ. Cũng như trước nạn hồng thủy, thiên hạ hầu như không quan tâm tới điều gì, ngay cả việc ông Nô-ê đang nỗ lực đóng một chiếc tàu khổng lồ trước mắt họ. “Thiên hạ vẫn ăn uống, cuới vợ lấy chồng. Tất cả những điều đó thật tự nhiên, bình thường. Chúa Giê-su đã không kể ra một tội nào của họ. Nhưng thiên hạ thời đó đã “không hay biết gì”... Họ đã không quan tâm gì tới điều cần thiết nhất, đã không chân thành nhận ra đâu là giả, đâu là thật. Thiên hạ thời Nô-ê nghĩ rằng mình sẽ bất tử. Họ nhắm mắt không nhận ra thân phận nhân loại của mình, “cho tới khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy”. Lúc đó họ mới bừng tỉnh để thấy rằng: họ không phải là thần và nếu họ muốn sống, họ cần đến Thiên Chúa. Và đã quá muôn mất rồi...
Chúng ta luôn luôn ở vào thời ông Nô-ê. Nhân loại hôm nay cũng thế, cũng đang mê hoặc vì nền văn minh huy hoàng tráng lệ của mình. Họ đang bị ru ngủ vì những bảo đảm của tiện nghi vật chất hiện đại, của mạng lưới vũ khí bảo vệ tiến tiến nhất, của một nền y học tiến bộ vượt bậc, của những khám phá khoa học diệu kỳ mà bao thế hệ đã qua chưa hề biết đến.
Đùng một cái, tai họa xảy đến phá tan tất cả. Nhân loại mới sực tỉnh cơn mê. Họ mới nhận ra: họ lại trở thành những nạn nhân của tiện nghi vật chất, của những khám phá khoa học do chính họ phát minh. Gậy ông lại đâp lưng ông. Không có gì là bảo đảm an toàn cho mạng sống của họ cả ! Y khoa tiến bộ thì cũng nảy sinh những căn bệnh cực kỳ nguy hiểm, vô phương chữa trị như: bệnh than, AIDS... Tất cả sự an toàn bảo đảm đều bị cuốn đi trong cơn lũ bạo lực của lịch sử hiện đại.
“Cậy trông vào Chúa, Ít-ra-en ơi”
Cuộc Quang Lâm của Con Người cũng sẽ y như vậy. Chúa sẽ đến giữa nhân loại, giữa giòng đời cũng một cách bất ngờ như vậy. Có nghĩa là không có loa đài, báo chí nào có thể báo trước. Con Người đến rất bất ngờ song cũng rất đỗi bình thường, đến ngay giữa những mối bận tâm khát vọng của loài người, ngay giữa những công ăn việc làm, ngay giữa nơi công sở, ngoài đồng ruộng nương rẫy, ở trong nhà, ở ngoài phố, ở những ngõ sâu hẻm tối hay nơi đô thị sa hoa nhộn nhịp.
Con Người đến, Ngài sẽ quyết định dứt khoát số phận con người. Có những số phận khác biệt nhau giữa những con người đang sống trong cùng một hoàn cảnh tưởng chừng như giống nhau: “Cùng đang làm ruộng, cùng xay bột...” Những ai đã chuẩn bị, đã sẵn sàng thì được “đem đi” có nghĩa là được cứu thoát. Những ai chỉ mải mê với công việc mà không nhìn xa trông rộng để biết thời biết buổi sẽ bị “bỏ lại”. Như người chủ hãng mải mê ngủ sẽ làm cho hãng bị phá sản. Như người trẻ không chuẩn bị tương lai, sẽ phải lãnh trách nhiệm trên đời mình. Như người chẳng bao giờ nhớ đến Chúa, sẽ lỡ hẹn khi Ngài viếng thăm
“Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Con Người sẽ đến bất ưng như kẻ trộm. Sẽ không có đài thủy văn báo trước khi mực nước dâng cao gây nên trận hồng thủy. Sẽ không có chuông điện tử báo động khi kẻ trộm đột nhập vào nhà. Sẽ không có mạng lưới Radar tối tân báo hiệu có hỏa tiễn liê lục địa xâm phạm không phận một quốc gia. Sẽ không có các chỉ số xét nghiệm cho thấy một căn bệnh nan y... Con Người đến hoàn toàn bất ngờ.
Vì thế thái độ tích cực duy nhất phải có là “sẵn sàng” và “tỉnh thức”. Phải luôn sẵn sàng để có “tầu cứu hộ” chứ không phải là chỉ có “phao cứu hộ” mà thôi đâu. Phải luôn chong đèn sáng với bình dầu còn đầy, nhất quyết không để kẻ trộm có thể đột nhập vào nhà cách bất ngờ. “Tỉnh thức và sẵn sàng” không phải là quá lo âu sợ hãi đến nỗi tê liệt cả nhịp sống hiện tại. Tỉnh thức không có nghĩa là phải trang bị những hệ thống an toàn đắt tiền, là đào hào đắp lũy cho khỏi bị cướp bóc. Nhưng tỉnh thức là sẵn sàng đối diện với thực tại, là thường xuyên ở trong tư thế hành động tích cực nhất.
"Vậy anh em hãy canh thức...”
Tỉnh thức cũng ngược lại với nới lỏng buông lơi, ngược lại với vô lo tụ thủ bàng quan, với mềm yếu ủy mỵ. Hãy sống sao để đừng phải thốt lên: “Ôi, đã quá trễ rồi !” hoặc “Nếu tôi biết thế...” Chúng ta đã được báo trước rõ ràng lắm rồi cơ mà !
Ki-tô hữu là những người có những cuộc hẹn hò thường xuyên với Thiên Chúa, nên luôn luôn sẵn sàng đón tiếp khách đến bất ngờ. Thật vậy, Con Người đến hàng giây, hàng phút trong đời ta, đến nỗi ta có cảm tưởng cuộc viếng thăm của Ngài là đột ngột, không chờ mà đến. “Anh em hãy sẵn sàng !”
Lạy Chúa Giê-su, chúng con tin vào Lời Chúa phán. Chúa sẽ quang lâm, Chúa sẽ đến lại. Xin cho chúng con luôn biết mở tai để nghe lời Chúa nói, biết bịt tai lại trước những lời mời gọi quyến rũ của trần gian. Xin cho chúng con biết mở mắt để nhìn thấy những dấu chỉ những lần viếng thăm của Chúa. Xin cho chúng con cũng biết quay mặt, đừng nhìn những vinh hoa trần thế để khỏi dán mắt vào những sự chóng qua đời này mà quên mất Chúa. Xin cho chúng con luôn tỉnh thức để mọi nơi mọi lúc, chúng con sẵn sàng đón Chúa Quang Lâm. Maranatha, lạy Chúa, xin mau đến. Amen.
Lời Chúa Chủ Nhật I Mùa Vọng năm A dạy ta điều gì? 2. Để thực thi Lời Chúa chúng ta phải sống: MV 1-A48
1. Lời Chúa Chủ Nhật I Mùa Vọng năm A dạy ta điều gì?
2. Để thực thi Lời Chúa chúng ta phải sống như thề nào?
* Suy tư gợi ý:
1. Giáo huấn của Lời Chúa Chủ Nhật I Mùa Vọng năm A:
a) Ngôn sứ I-sai-a loan báo với dân Ít-ra-en về ngày hoà bình vĩnh cửu của ĐỨC CHÚA. Thánh Phao-lô khuyên dạy tín hữu Ro-ma sống xứng đáng với ơn gọi Ki-tô hữu, với thời cứu độ. Thánh Mát-thêu lặp lại lời Đức Giê-su cảnh báo người Do Thái hãy canh thức và sẵn sàng cho ngày Con Người- là chính Chúa Giê-su Ki-tô- quang lâm. Ta có thể khẳng định: Ba bài Thánh Kinh hôm nay đều có một chủ đề chung là "ngày của Thiên Chúa", ngày Chúa Giê su hoàn thành công cuộc cứu độ và bày tỏ vinh quang và quyền năng của Thiên Chúa.
b) Thật ra thì bài Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu không hẳn đã mang tính đe dọa, mà chủ yếu chỉ mang tính cảnh báo thính/độc gỉa. Thư Thánh Phao-lô cũng chủ yếu nhắc nhở tín hữu Ro-ma điều chỉnh cách sống sao cho phù hợp với tư cách người Ki-tô hữu, với thời đại Ki-tô giáo. Sở dĩ Đức Giê-su và Thánh Phao-lô nhắc nhở như thế là các tín hữu Do Thái và Ro-ma không quan tâm đến việc hoán cải tức điều chỉnh cách sống cho phù hợp với Phúc Am.
c) Ngôn sứ I-sai-a sống ở xứ Giu-đa vào thế kỷ thứ VIII trước Công Nguyên tức thời dân Chúa bị phân chia thành hai nước: Bắc Nam. Sứ mạng của I-sai-a cũng như của các ngôn sứ khác là " vạch cho dân Ít-ra-en thấy lỗi lầm của họ, kêu gọi họ quay về trung thành với giao ước, khuyên bảo, răn đe, loan báo hình phạt và ơn cứu độ." Trong đoạn văn mà Giáo hội đọc trong Phụng vụ hôm nay, I-sai-a kêu gọi dân Chúa hãy chạy đến với Gia-vê "để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ." Nếu mọi người, mọi quốc gia sống theo đường lối của Chúa và nhận Chúa là Đấng phân xử, thì ngày hòa bình đích thực và vĩnh cửu sẽ đến. I-sai-a coi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem là khởi điểm và trung tâm của công trình vĩ đại ấy vì Giu-đa là quốc gia miền nam và Giê-ru-sa-lem là thủ đô và là nơi có Đền Thờ trong đó có Hòm Bia Giao Ước. Nhưng Giu-đa và Giê-ru-sa-lem mang tính tượng trưng hơn là tính địa dư cố định. Giu-đa là dân Chúa và Giê-ru-sa-lem là bất cứ nơi đâu mà người ta thờ phượng, ngợi khen, chúc tụng Chúa và sống theo đường lối của Người.
2. Sống Lời Chúa:
a) Trước tiên là biết thường xuyên chạy đến với Thiên Chúa, với Đức Giê-su Ki-tô "để Người dạy ta biết lối của Người và để ta bước theo đường người chỉ vẽ" Đến với Chúa Giê-su bằng cách đọc, học hỏi, suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa nhất là với bốn Phúc Am- để học với Chúa Giê-su về cách phải sống đẹp lòng Thiên Chúa.
b) Kế đến là điều chỉnh cách sống: luôn sẵn sàng, tỉnh thức như Đức Giêsu đã cảnh tỉnh và mặc lấy Chúa Ki-tô như Thánh Phao-lô đã khuyên. Mặc lấy Chúa Ki-tô có nghĩà là có những tâm tình, suy nghĩ và hành động giống như Người.
c) Sau cùng là đem bình an đến cho những người chung quanh và xây dựng hòa bình giữa giữa các nhóm người và giữa các quốc gia với nhau. Vấn đề đã trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, vì nạn khủng bố và cuộc chiến chống khủng bố đang diễn ra khốc liệt và không biết sẽ đưa nhân loại tới đâu. Con người ở mọi thời và mọi nơi đều khát khao hoà bình, thế nhưng lịch sử loài người là lịch sử của chiến tranh và chém giết! Chúng ta phải làm gì để lời hứa của Thiên Chúa về ngày hòa bình vĩnh cửu (Is 2,4) sớm được thực hiện? Muốn dẹp chiến tranh và xây dựng hoà bình thì chúng ta phải biết xây dựng công lý và tình thương. Xây dựng công lý là trả cho mỗi người, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia cái mà họ xứng đáng được hưởng (cơm ăn, áo mặc, học hành, việc làm, nhà ở, phẩm giá….) vì họ là con người và là con Chúa. Xây dựng tình thương là chăm lo, bù đắp phần còn thiếu cho những người không có khả năng tự lo cho mình được, là san sẻ với người nghèo một phần của cải –vật chất và tinh thần- mà Thiên Chúa đã ban cho ta. Không có công lý và tình thương không thể có hòa bình! Điều đó đúng không chỉ trong phạm vi quốc gia, quốc tế mà còn đúng trong phạm vi nhỏ bé của giáo xứ và của gia đình.
NGUYỆN
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha vì một lần nữa chúng con lại được sống Mùa Vọng. Mùa Vọng nhắc nhở chúng con biến cố Ngôi Lời Thiên Chúa đến trần gian và ban Bình An cho mọi người thiện tâm. Nhưng Cha ơi, chung quanh chúng con bất công, áp bức, bóc lột và chiến tranh hận thù đang ngút ngàn. Xin Cha biến chúng con thành các chiến sĩ phục vụ hoà bình và xin Cha ban sức mạnh Thần Khí cho chúng con để chúng con biết quên mình, từ bỏ và sống yêu thương hài hòa với mọi người. Xin Cha ban sức mạnh Thần Khí cho chúng con để chúng con đủ can đảm tố giác bất công, áp bức, bóc lột, kỳ thị, phân biệt đối xử và chiến tranh và xin Cha ban sức mạnh Thần Khí cho chúng con để chúng con biết kiên quyết đấu tranh chống lại các thế lực đen tối hủy diệt sự sống, xây dựng một cuộc sống nhân bản, yêu thương, hòa bình cho con người, nhất là cho người nghèo và người bị loại trừ. Amen.
Hát Kinh Hòa Bình của Thánh Phan-xi-cô Khó Nghèo.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
CẦU NGUYỆN:
Dẫn vào cầu nguyện: Con Thiên Chúa xuống thế làm người để trở nên người anh em với ta. Ngài hẹn cho ta dự phần vào cuộc xum họp vĩ đại của toàn thể nhân loại được Ngài cứu khi Ngài tái xuất hiện trong ngày sau hết. Vậy ta hãy sốt sắng cầu nguyện.
Từ xa xưa / trong bối cảnh văn hóa Á Châu / người Việt Nam đã coi / mọi người khắp nơi trên thế giới / đều là anh em [1]./ Cho nên hình ảnh / mà ngôn sứ I-sai-a gợi lên / về núi Nhà Đức Chúa / đứng kiên cường vượt các đỉnh non cao / và dân dân lũ lượt đưa nhau tới [2]/ là hình ảnh thân thương và gần gụi. / Đức Chúa qui tụ muôn dân / để hưởng hòa bình vĩnh cửu trong nước Thiên Chúa /: Đó quả là Tin Mừng lớn lao / cần được loan đi. / Ta hãy xin Chúa Thánh Thần / soi sáng và thúc đẩy / để các Ki-tô hữu chúng ta / góp phần vào công trình Tin Mừng hóa thế giới / dọc theo thiên niên kỷ thứ ba này. Chúng con cầu xin Chúa.
Cùng với Giáo Hội hoàn vũ / Giáo Hội tại Châu Á / rất cảm phục mọi kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện / suốt hai mươi thế kỷ qua. / Nếu trong thiên niên kỷ thứ nhất / Thập giá đã được trồng trên đất Âu Châu / rồi ở thiên niên kỷ thứ hai / Thập giá được trồng trên đất Mỹ Châu và Phi Châu, / thì nay / bước sang thiên niên kỷ thứ ba, / ta hãy xin Chúa cho công trình Tin Mừng hóa / tại lục địa Châu Á tràn trề sức sống này / mang lại một mùa gặt bội thu. Chúng con cầu xin Chúa.
Thư chung năm 2001 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam / gởi cộng đồng Dân Chúa / cũng gióng lên lời mời gọi / tiếp nối sứ mạng yêu thương và phục vụ của Chúa Giê-su / “để mọi người được sống và được sống dồi dào.”/ Hôm nay, bước vào Mùa Vọng / ta hãy khiêm tốn xin Chúa / hoán cải lòng các Ki-tô hữu chúng ta / để ta không thờ ơ / với những vấn đề phát triển của Đất Nước / cũng như tình trạng nghèo đói và những tệ nạn xã hội / bởi vì ta là thành viên của cộng đồng dân tộc / với tất cả quyền lợi và nghĩa vụ[3]. Chúng con cầu xin Chúa.
Trong thế giới hôm nay / và trong Giáo Hội toàn cầu / “đối thoại là tên gọi mới của niềm hy vọng ”/ Thư Chung năm 2001 của Hội Đồng Giám mục Việt Nam / vạch cho thấy Nước ta hiện có 54 sắc tộc với nhiều nền văn hóa / nhiều tín ngưỡng và nhiều tôn giáo khác nhau / lại có sự phân hóa giầu nghèo / nông thôn – thành thị / ngày càng sâu đậm / đối thoại trở thành yếu tố quyết định cho tương lai. / Vậy ta hãy xin Chúa Thánh Thần / soi sáng và hướng dẫn ta trên đường đối thoại / nhằm để hiểu biết nhau / chấp nhận nhau / tôn trọng và yêu thương nhau / cùng nhau xây dựng tương lai / và thăng tiến cuộc sống [4]. Chúng con cầu xin Chúa.
Thư Chung của Hội Đồng Giám mục Việt Nam năm 2001 / vạch cho thấy điều mà đối thoại nhắm tới / là hợp tác với mọi người để đẩy lui nền văn hóa sự chết / đẩy lui mọi lối sống gian dối / với những bất công, áp bức, bạo lực, đồng thời phát triển một xã hội tốt đẹp / với lối sống chân thật / công bằng / tôn trọng sự sống và các quyền con người [5]./ Vậy hôm nay bước vào Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng / ta hãy xin Chúa làm mới lại nơi ta / ơn phép rửa với sức mạnh vô song của Chúa Thánh Thần / giúp ta góp phần xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống theo Tin Mừng của Chúa. Chúng con cầu xin Chúa.
Kết thúc: Lạy Chúa là Cha nhân lành, vì yêu thương loài người chúng con, Chúa đã phái Người Con Chí Ái của Chúa xuống thế làm người để nhờ Người chúng con được tự do trở thành con cái Chúa. Xin thương giúp chúng con tận dụng Mùa Vọng này hầu sống xứng đáng hưởng phúc trường sinh Chúa hứa ban. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
Nhóm tác giả “CÙNG NHAU TÌM HIỂU VÀ CHIA SẺ ĐỜI SỐNG TIN MỪNG”
CHỨNG TỪ: NGHĨ VỀ SỰ CHỀT
Nhạc sĩ vĩ đại người Áo thế kỷ thứ 18, Wolfgang Amadeus Mozart ( với chữ tên lót Amadeus có nghĩa là “Người-được-Thiên-Chúa-yêu-mến ) qua đời vào lúc còn rất trẻ, mới có 36 tuổi. Ông đã sáng tác một khối lượng khổng lồ những tác phẩm âm nhạc cổ điển lừng danh, trong đó có tác phẩm Requiem dành cho việc cử hành Tang Lễ. Dưới đây là một đoạn trích từ lá thư đề ngày 4 tháng 4 năm 1786, Mozart gửi cho một người bạn, khi ông vừa nhận được tin thân phụ mình đang hấp hối...
”...Vì Sự Chết, xét cho thấu, là mục đích cuối cùng của cuộc sống, cho nên từ ít năm nay, tôi đã làm quen với Người-Bạn thật tình và trọn hảo nhất ấy của loài người, cho đến nỗi, hình ảnh Sự Chết không những chẳng còn gì đáng khiếp sợ đối với tôi, ngược lại, đó lại là một niềm thanh thản rất an ủi cho tôi. Và tôi cảm ơn Thiên Chúa của tôi, Ngài đã cho tôi cái diễm phúc có được cơ hội để học biết và nhìn nhận Sự Chết như là chìa khóa mở cửa hạnh phúc cho chúng ta...
Tôi không bao giờ đi ngủ mà không nghĩ đến có thể ngày mai đây, mặc dù tôi vẫn còn trẻ trung đấy, tôi cũng sẽ không còn sống nữa ! Ấy vậy mà trong tất cả những ai quen biết tôi, chẳng có ai có thể bảo rằng tôi âu sầu hay buồn chán trong lúc trò chuyện...
Mỗi ngày tôi đều cám ơn Đấng Tạo Hóa của tôi về niềm hạnh phúc ấy, và tôi cũng thành thật mong muốn cho anh em đồng loại của tôi có được diễm phúc này...”
Trích NỐI LỬA CHO ĐỜI số 4
CÂU TRUYỆN
LUÔN LUÔN SẴN SÀNG
Một hôm trong tuần lễ đầu tiên của Mùa Vọng, ngay đầu giờ dạy giáo lý, cha Don Bosco hỏi các em thiếu niên có mặt trong lớp: “Nếu các con đang vui chơi ngoài sân, bất thần Chúa đến và bảo rằng: 10 phút nữa, Chúa sẽ gọi các con về với Chúa, thì các con sẽ làm gì ngay lúc ấy ?” Cả lớp yên lặng suy nghĩ. Cha Bosco gọi em Antonio, em đứng lên ấp úng trả lời: “Dạ thưa cha, con sẽ chạy ngay về nhà để từ giã ba má con, rồi con sẽ quay lại kịp theo Chúa !”
Cha Bosco lại chỉ em Benado, cậu ta vội đáp: “Thưa cha, con sẽ về phân phát hết tủ quần áo của con cho những người ăn mày trong xóm, còn số đồ chơi thì con tặng hết cho lũ trẻ nghèo khổ con cái của họ. Chắc Chúa sẽ hài lòng và ban thưởng cho con nhiều hơn !”
Khi cha gọi đến Camillo, cậu này do dự một chút rồi trả lời, vẻ như vẫn còn bối rối ghê lắm: “Có lẽ con nên vào Nhà Thờ để ngồi cầu nguyện đợi Chúa, thời gian đâu có bao nhiêu, nhỡ Chúa đến sớm hơn một chút thì sao ?”
Tới phiên Stephano, cậu trả lời ngắn gọn: “Con sẽ xin cha cho con xưng tội ngay, chắc chắn con sẽ được vào Nước Trời !”
Cả lớp, từng học sinh một đã dần dần trả lời, nhưng dường như Cha Bosco vẫn chưa tỏ vẻ hài lòng, các cậu bé nhìn nhau thắc mắc hết sức. Còn cha thì đi lui đi tới... Chợt như sực nhớ, cha chỉ tay gọi Dominico Savio, cậu đứng dậy khoanh tay nghe cha hỏi lại câu hỏi: “Thế còn phần con, Savio, nếu như con đang nô đùa vui vẻ với bạn bè ngoài sân chơi mà Chúa đột nhiên đến và gọi con về với Người thì con sẽ làm gì trong thời gian 10 phút ?”
Savio mỉm cười, đơn sơ trả lời: “Thưa cha, con sẽ vẫn tiếp tục vui chơi ạ !” Nghe vừa dứt, Cha Bosco vui mừng chạy tới ôm chầm lấy cậu bé 12 tuổi: “Ôi đúng rồi ! Đó chính là câu trả lời mà cha đã chờ suốt nãy giờ. Savio, con yêu dấu của cha, con thật là xứng đáng ra đón Chúa bất cứ lúc nào trong đời !”
Năm phụng vụ trong thời gian như điệp khúc của một bài hát, cứ đáo hạn lại đến. Điệp khúc mùa: MV 1-A49
Năm phụng vụ trong thời gian như điệp khúc của một bài hát, cứ đáo hạn lại đến. Điệp khúc mùa Vọng lại trở về, khai mạc cho một năm phụng vụ mới. Cũng như các mùa trong năm phụng vụ, mùa Vọng có một chủ đề riêng biệt, chia thành hai phần: tín lý: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến”; luân lý: “Hãy tỉnh thức trong tư thế sẵn sàng”. Ý nghĩa của hai phần này được Chúa Giêsu nhắc lại trong Tin Mừng hôm nay: “Vậy các con hãy sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Hai phần này liên quan với nhau chặt chẽ như hai vế không thể thiếu của một phương trình. Nếu có phần này, không có phần kia, là khập khiểng, là thiếu sót, là chưa trọn vẹn. Sự liên hệ chặt chẽ này không phải do cùng là chủ đề của mùa Vọng, đúng hơn, vì cả hai phần bổ túc cho nhau, ý nghĩa lồng trong nhau, soi sáng và làm thành mục đích hay hiệu quả của nhau.
1. “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”, mượn lại lời của sách Khải huyền, Giáo Hội sống lại tâm tình của người Cựu ước trông chờ Đấng Cứu Thế của lời hứa mà Thiên Chúa trao ban cho họ qua các tổ phụ, các tiên tri. Tuy nhiên, ơn cứu độ mà họ trông chờ, Giáo Hội đã đạt được. Nhưng đó chưa phải là thời kỳ cứu độ toàn thể và chung cuộc. Vì thế, khi sống tâm tình chờ đợi của người Cựu ước, Giáo Hội không dừng lại ở việc sống một kỷ niệm của lòng trông chờ để hướng đến việc mừng lễ Chúa sinh ra làm người, đúng y như người Dothái đã từng trông đợi mà thôi. Nghĩa là sống lại một kỷ niệm, rồi đi tới đỉnh điểm của kỷ niệm ấy là lễ Giáng sinh. Như thế lễ Giáng sinh cũng chỉ là hoàn tất ý nghĩa của việc kỷ niệm.
Nhưng khi cầu nguyện “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”, Giáo Hội đi xa hơn bằng cách cầu xin sự hiện diện của Chúa ở đây, lúc này, giữa thế giới, giữa Giáo Hội và trong cuộc sống của từng người hôm nay. Xin Chúa ở lại để làm cho bộ mặt thế giới đổi mới, làm cho lòng người được thánh hóa. Càng đi xa hơn nữa, Giáo Hội hướng tới tương lai. Đó là hướng về ngày cánh chung, ngày thế giới được biến đổi trong ơn cứu độ toàn thể và trọn vẹn. Vì nếu Chúa đã đến trần gian lần thứ nhất, thì Người sẽ đến lần thứ hai để tổng kết cả một chiều dài ngun ngút của lịch sử nhân loại. Như vậy, Giáo Hội không sống trong quá khứ. Kỷ niệm biến cố Chúa đến lần thứ nhất, Giáo Hội hướng tới việc trông chờ Chúa đến lần thứ hai. Vì thế, Giáo Hội không ngừng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”. Trong ngày Chúa lại đến, những ai trung thành trong đời sống Kitô hữu của mình, sẽ được đón nhận vào nhà Cha và được trao ban sự sống vĩnh hằng. Được như thế họ chính là những người thuộc về Chúa Kitô.
2. Nhưng để thuộc về Chúa Kitô, người Kitô hữu được mời gọi “Hãy tỉnh thức trong tư thế sẵn sàng”. Thói thường, ta rất dửng dưng, cho rằng ngày Chúa đến hoàn tất lịch sử còn xa xôi. Đó là ngày được nói và được nghe rất nhiều nhưng vẫn nằm trong một tương lai mù mịt nào đó, không ai biết được. Thực ra, đó là một viễn ảnh rất gần, vì ta không biết Chúa kết thúc thế giới lúc nào. Nhưng hoàn tất cuộc đời của mỗi người là một hiện thực không hề xa xôi, không hề mù mịt. Ai cũng sẽ chết và chết ở bất cứ lứa tuổi nào. Vì thế, trong khi đợi chờ Chúa đến, ta hãy đợi chờ trong sự tỉnh thức và sẵn sàng. Nghĩa là bạn và tôi hãy cảnh giác mọi nguy cơ có thể làm ta xa Chúa, bị tiêu vong vì đánh mất chính ơn phần rỗi của mình. Do đó, Tỉnh thức và sẵn sàng là thái độ khôn ngoan của người Kitô hữu. Nhờ đó ta thoát mọi sợ hãi, lo âu, hốt hoảng, u mê và luôn có niềm vui của sự chờ đợi, niềm an ủi của hy vọng, sự kiên vững do lòng cậy trông, và bình an bởi tin tưởng. Hiểu được ý nghĩa của mùa Vọng như thế, ta càng hiểu rõ hơn sự tương quan của hai vế trong chủ đề: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” và “Hãy tỉnh thức trong tư thế sẵn sàng”.
Trong ngày Chúa nhật đầu tiên của năm phụng vụ, Chúa Giêsu dạy chúng ta bài học của sự tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách nhắc lại câu chuyện Đại lụt Hồng thủy. Thực ra, trong Tin Mừng, rất nhiều lần Chúa cảnh báo về sự bất ngờ của giờ Chúa đến. Nó bất ngờ như kẻ trộm đến giữa đêm khuya, như chàng rể xuất hiện lúc đang đêm. Cũng vậy, Đại lụt Hồng thủy là một nỗi bất ngờ lớn trong thời Noê. Nó đã cuốn trôi tất cả những gì hiện diện trên mặt đất đang khi cả loài người vẫn mê chìm trong những nếp sống thường nhật đầy thỏa hiệp với tội lỗi của riêng mình. Đó là một nỗi chết chóc kinh hoàng, cần phải nhắc lại để thế giới hôm nay ý thức hơn đời sống và sự tỉnh táo của mình…
Vậy chúng ta hãy nhìn lại một chút ý nghĩa của cơn Hồng thủy thời Noê, để với một thoáng nhìn lại ấy, ta thêm nghị lực cho quyết tâm sống tỉnh thức và sẵn sàng của mình như Chúa muốn: “Vậy các con hãy sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”.
Bạn thân mến, Cũng như nhà nghệ sĩ phô diễn tài năng của mình qua những đường nét nghệ thuật. Vũ trụ xung quanh ta là bằng chứng cho thấy quyền năng của Đấng tạo thành nó. Thế giới tạo thành càng rực rỡ, huy hoàng, được sắp đặt cách kỳ diệu và trật tự cách lạ lùng bao nhiêu, càng là chứng tích hùng hồn về tác giả của nó lộng lẫy, lớn lao, quyền phép bấy nhiêu. Vì thế vũ trụ chính là phản ảnh trung thực về một Thiên Chúa quan phòng, hiểu biết vô biên và toàn năng.
Cùng với vũ trụ huy hoàng, Thiên Chúa đã tạo dựng loài người. Cả một thế giới hoàng hảo ấy được tạo dựng là để phục vụ sự sống loài người. Hơn nữa, Chỉ một mình loài người được Thiên Chúa đặt để hình ảnh của Người và được Người ủy quyền cai quản mọi loài, tham dự vào việc sáng tạo của Thiên Chúa bằng cách không ngừng kiến tạo thế giới. Chỉ có loài người được Chúa ban hạnh phúc viên mãn và sống bằng chính sự sống của Người.
Vô cùng đáng trách cho thái độ sống của chúng ta. Quá cao cả như thế, vậy mà ta chẳng biết gìn giữ, không biết mang ơn Thiên Chúa, lại còn kiêu ngạo, chống lại Thiên Chúa và đẩy Thiên Chúa ra xa khỏi cuộc đời mình. Vì sự hư hỏng thái quá của trần gian, Thiên Chúa quyết định gột rửa sạch tội lỗi trần gian. “Thiên Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày. Thiên Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. Thiên Chúa phán: ‘Ta sẽ xóa bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc…’” (St 6, 6). Lụt Hồng thủy đã xóa sạch mọi dấu vết của tội lỗi, chỉ trừ một mình gia đình Noê và các súc vật đã theo ông vào tàu tránh lụt.
Với lời Kinh Thánh: “Thiên Chúa hối hận”, lần đầu tiên Thánh Kinh cho thấy tình cảm quặn thắt thật đớn đau của Thiên Chúa. Đó là nỗi lòng của Đấng Tạo Hóa thổn thức, đau khổ, giằng co khi đối diện với tội của loài thụ tạo mà Người dành cho một tình yêu trên hết mọi tình yêu. Có hiểu được nỗi lòng của Thiên Chúa, ta mới thấy rằng, câu chuyện lụt Hồng thủy không là câu chuyện về một vị Chúa Tể độc ác giáng họa trên thế giới. Nhưng đó là một câu chuyện cảm động, viết bằng ngôn ngữ của nhân loại, về một Thiên Chúa đầy tình thương, trái tim đau nhói trước cảnh xấu xa do tội ác đã bôi nhọ nét đẹp khôn cùng của thụ tạo.
Lòng nhân lành của Thiên Chúa còn nhân lên cao hơn, khi Thiên Chúa tự nguyện ký kết một giao ước không điều kiện với loài người để tỏ bày niềm thương của mình: “Ta lập giao ước với các ngươi: mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy hủy diệt, và sẽ không còn hồng thủy tàn phá mặt đất nữa… Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất… Nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa…” (St 9, 8-17).
Bởi thế, thật sát đáng khi họa lại hình ảnh của Hồng thủy ngay từ đầu mùa Vọng. Đó là bài học cần thiết và cấp thiết để muôn đời sau học lấy mà sống cả một đời thánh thiện, một đời xứng đáng với tình yêu Thiên Chúa.Nếu ý nghĩa mùa Vọng là chờ đợi Chúa đến, thì cuộc đời mỗi một người cũng là mùa Vọng kéo dài. Chúng ta chờ đợi Chúa viếng thăm trong từng ngày sống hôm nay, trong chính hiện tại này, để lòng có Chúa, cuộc sống của mình tràn đầy và chiếu tỏa ơn Chúa. Ta chờ đợi Chúa đến để bao lao công khó nhọc trong cuộc đời mình, đều bởi ơn Chúa, đều được bao bọc, chở che trong tình thương của Chúa.
Bên cạnh cuộc tái hiện diện hằng ngày trong cuộc đời hôm nay, ta còn mong đợi Chúa đến trong ngày tái hiện diện đỉnh cao của mọi cuộc tái hiện diện, đó là giờ ta xuôi tay lìa đời. Trong cuộc đời mỗi người, không có lúc nào khủng khiếp bằng giờ kinh hoàng ấy. Vì lúc ấy chỉ có mình ta đối diện với Chúa, với sự công thẳng của Người. Nếu biết để Chúa ngự đến trong tâm hồn suốt đời mình, thì trong lần Chúa ngự đến như một sự tổng kết của các lần ngự đến, ta sẽ là người đạt đến hạnh phúc tuyệt đối. Vì nếu trong cuộc trần, ta đã sống với Chúa không ngừng, thì giờ đây cái chết chỉ là một sự biến đổi, nhằm đưa bản thân mình tiếp tục sống với Chúa và sống trong vĩnh cửu.
Bởi vậy, chúng ta hãy vâng Lời Chúa như Chúa Giêsu đã dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Vậy các con hãy sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Chúa vẫn đến và Chúa sẽ đến. Vì thế, bạn và tôi hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để kịp thời đón rước Chúa trong ngày Người viếng thăm mình.
BÀI ĐỌC 1: Isaia 2, 1-5= Thời của Chúa Cứu Thế: Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc./ The Messianic: He shall judge between the nations, and impose terms on many people.
BÀI ĐỌC 2: Roma 13, 11-14= Đêm sắp tàn, ngày gần đến, hãy loại bỏ những việc làm đen tôí, cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu./ The night is far spent; the day draws near. Let us cast of deeds of darkness and put on the armor of light.
TIN MỪNG(Gospel): Mát-thêu 24, 37-44= Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa cuả anh em sẽ đến./ Stay awake, therefore! You cannot know the day your Lord is coming.
A- Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: (Some points of Reflection, live out and share)
Được đem đi, bị bỏ lại: Bài Tin Mừng hôm nay Chúa cho tôi biết ngày quang lâm của Chúa đến như: MV 1-A50
Được đem đi, bị bỏ lại: Bài Tin Mừng hôm nay Chúa cho tôi biết ngày quang lâm của Chúa đến như thời ông Nô-ê, vì trước nạn hồng thủy người ta lo ăn uống, cưới vợ, lấy chồng, chẳng để ý gì cả. Khi nạn hồng thủy tới tràn tới, đã cuốn đi tất cả: “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.” (Mt 24, 40) Đây là hình ảnh cái chết và ngày tận thế sẽ tới bất ngờ, tôi sẽ phải gặp Chúa về những việc lành dữ mình đã làm. Cách sống của tôi hôm nay trước thế giới vật chất này?
2- Phải canh thức, hãy sẵn sàng: Phần cuối bài Tin Mừng, Chúa nhắc đi nhắc lại nhiều lần: Anh em hãy canh thức, anh em không ngờ, anh em hãy sẵn sàng: “Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến.” (Mt 24, 44) Canh thức và sẵn sàng có nhiều cách như: không chè chén say sưa, không tham lam tiền bạc, không chèn ép bóc lột, không cậy mình kiêu ngạo, từ bỏ chính mình, nhẫn nhục và tha thứ…Chia sẻ một việc làm sẵn sàng cuả bạn trong Gia đình?
3- Đêm sắp tàn, ngày gần đến: Thánh Phaolô khuyên moị Tín hữu hãy thức dậy, đừng ngủ mê nữa, đêm sắp tàn, vì Chúa đang đến gần. Hãy loại bỏ những việc làm đen tối đi, hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày, bằng cách: “Hãy mặc lấy Chúa Kitô và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng.”(Rom 13, 14) Đêm đây là xã hội có nhiều xấu xa hiện nay, ngày là sự vinh thắng sắp đến, nên tôi cần phải có đức tin, đức cậy và đức mến. Cho một kinh nghiệm đang chiến đấu cụ thể của tôi?
4- Chúa sẽ quy tụ muôn dân: Ngày Chúa sẽ thưởng công cho mọi người không phân biệt nòi giống, nghèo khó: “Chuá phán: Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc.” (Is 2,4) Chiến tranh và sự hủy diệt cuả bom đạn, bệnh tật sẽ hết, ngày thanh bình sẽ đến. Những ai tin vào Đức Kitô đã hiên ngang tiến bước vì họ đã cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu, để Ngài làm chủ, chiếm đoạt cuộc đời mình, nên họ đã toàn thắng bóng tối và sự chết. Nói về niềm vui của bạn hôm nay được gặp Chúa?
B- Câu Kinh Thánh thúc đẩy Nhóm và tôi chọn Sống tuần này: (The Best God’ Word)
ANH EM HÃY SẴN SÀNG, VÌ CHÍNH GIỜ PHÚT ANH KHÔNG NGỜ THÌ CON NGƯỜI ĐẾN .
You also must be prepared, for at an hour you do not expect, the Son of Man will come. (Mat 24, 44)
C- Ngay bây giờ Nhóm và tôi phải làm gì để Sống canh thức: (So what am I doing / For Action)
Tôi và Nhóm có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
D- Bạn và tôi cùng cầu nguyện với Lời Chúa và Sống cầu nguyện: (I pray and practice / Pray in Action)
Lạy Cha, Đức Kitô đã dạy: Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh không ngờ thì Con Người sẽ đến. Xin giúp con biết loại bỏ những đam mê dục vọng và cầm lấy vũ khí cuả sự sáng là Lời Chúa để chiến đấu.
Hoa thơm cỏ lạ: CHÚA MUỐN CHÚNG TA KHÔN NGOAN VÀ LÀM ĐIỀU CHUẨN BỊ CHO TƯƠNG LAI
God wants us to be wise and to do what we can to prepare for the future